Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
ĐTC Phanxicô: Hãy suy nghĩ xem chúng ta sống đức tin thế nào
Hồng Thủy - Vatican News
Đức Thánh Cha tiếp tục loạt bài giáo lý về thư thánh Phaolô gửi tín hữu Galát. Trong đoạn thư được đọc khi bắt đầu buổi tiếp kiến, thánh Phaolô đã quở trách các tín hữu Galát là những người ngu xuẩn; ngài cảnh báo họ trước nguy hiểm lìa xa đức tin vào Chúa Kitô. Thánh nhân nói với họ: “Ai đã mê hoặc anh em là những người đã được thấy hình ảnh Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá phơi bày ra trước mắt? Tôi muốn anh em cho tôi biết điều này thôi: anh em đã nhận được Thần Khí vì đã làm những gì Luật dạy, hay vì đã tin nhờ được nghe? Anh em ngu xuẩn như thế sao? Anh em đã khởi sự nhờ Thần Khí, nay lại kết thúc nhờ xác thịt sao?
Đức Thánh Cha giải thích với các tín hữu rằng trong thư gửi tín hữu Galát, thánh Phaolô nhấn mạnh đến sự mới mẻ của sự sống trong Chúa Kitô, là điều giúp các Kitô hữu thoát khỏi việc thực hành tôn giáo chỉ dựa trên việc tuân giữ tỉ mỉ các giới luật. Thánh Phaolô nhắc nhở người Galát về ơn cứu độ mà họ nhận được nhờ đức tin vào sứ điệp của Phúc âm về sự chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, và kinh nghiệm của họ về việc được tràn đầy Thần Khí. Thánh nhân cũng trình bày kinh nghiệm cá nhân của ngài về ân sủng và sự tự do do do đức tin vào Chúa Giêsu bị đóng đinh mang lại (Gl 2,20). Đức Thánh Cha bắt đầu bài giáo lý như sau:
Nguy hiểm xa rời con đường đức tin và bị rơi vào chủ nghĩa hình thức
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Trong các bài giáo lý trước, chúng ta đã thấy thánh Tông đồ Phaolô chỉ cho các Kitô hữu đầu tiên của Galát thấy rằng khi rời khỏi con đường họ đã bắt đầu khi đón nhận Phúc Âm thì nguy hiểm thế nào. Thực tế, điều nguy hiểm chính là rơi vào chủ nghĩa hình thức - là một trong những cám dỗ dẫn chúng ta đến thói đạo đức giả, điều mà chúng ta đã nói lần trước - và phủ nhận phẩm giá mới mà họ đã nhận được: phẩm giá của những người được Chúa Kitô cứu chuộc. Đoạn sách Thánh chúng ta vừa nghe bắt đầu phần thứ hai của lá thư: anh chị em hãy đọc nó nếu có thời gian. Cho đến lúc này, thánh Phaolô đã nói về cuộc đời và ơn gọi của ngài: về cách mà ân sủng của Thiên Chúa đã biến đổi cuộc sống của ngài và dành nó hoàn toàn cho sứ vụ loan báo Tin Mừng. Về điểm này, ngài đặt câu hỏi trực tiếp cho các tín hữu Galát: ngài đặt họ trước những lựa chọn mà họ đã chọn và trước tình cảnh hiện tại của họ, điều có thể làm mất đi kinh nghiệm ân sủng họ đã sống.
Và những từ ngữ mà thánh Tông đồ dùng để nói với tín hữu Galát chắc chắn không phải là những lời lịch thiệp: chúng ta đã nghe điều đó. Trong các Thư khác, chúng ta dễ dàng tìm thấy cụm từ “anh chị em” hoặc “anh chị em yêu quý”; ở đây thì không. Bởi vì ngài đang tức giận. Ngài nói một cách chung chung “những người Galát” và hai lần ngài gọi họ là “những kẻ ngu xuẩn”. Ngài làm điều đó không phải vì họ không thông minh, nhưng vì hầu như họ không nhận ra họ có nguy cơ đánh mất niềm tin vào Chúa Kitô mà họ đã nhiệt thành đón nhận. Họ dại dột vì họ không nhận ra rằng điều nguy hiểm là đánh mất kho tàng quý giá, vẻ đẹp, của sự mới mẻ của Chúa Kitô. Rõ ràng thánh Tông đồ rất ngạc nhiên và buồn bã. Không phải là ngài không cảm thấy cay đắng, ngài đã kêu gọi các Kitô hữu đó nhớ lại lời loan báo đầu tiên mà ngài trao cho họ, điều mà qua đó ngài mang lại cho họ cơ hội có được một sự tự do mới, điều cho đến tận lúc này vẫn không có hy vọng
Tình yêu của Chúa Kitô - nguồn ơn cứu độ
Thánh tông đồ hỏi những người Galát một số câu hỏi nhắm lay chuyển lương tâm của họ: đây là lý do tại sao ngài rất mạnh mẽ. Đây là những câu hỏi tu từ, vì người Galát biết rất rõ rằng việc họ đến với đức tin vào Chúa Kitô là kết quả của ân sủng nhận được nhờ lời rao giảng Tin Mừng. Nó đưa họ đến với sự khởi đầu của ơn gọi Kitô hữu. Lời mà họ đã nghe từ thánh Phaolô tập trung vào tình yêu thương của Thiên Chúa, được thể hiện trọn vẹn qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêu. Thánh Phaolô không thể tìm được cách diễn đạt thuyết phục hơn điều mà có lẽ ngài đã lặp lại với họ nhiều lần trong khi rao giảng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20). Thánh Phaolô không muốn biết gì khác ngoài Chúa Kitô chịu đóng đinh (x. 1Cr 2, 2).
Người Galát phải chú ý đến sự kiện này, không để cho mình bị phân tâm bởi những lời loan báo khác. Nói tóm lại, ý định của thánh Phaolô là buộc các Kitô hữu nhận ra vấn đề và không để mình bị mê hoặc bởi tiếng còi muốn dẫn họ đến một thực hành tôn giáo chỉ dựa trên việc tuân thủ tỉ mỉ các giới luật. Bởi vì những nhà truyền giáo mới đến Galát và thuyết phục người Galát rằng họ phải quay trở lại và tuân theo các giới luật, những giới luật đã được tuân giữ và chúng đã đưa họ đến sự hoàn thiện trước khi Chúa Kitô đến, Đấng mang ơn cứu độ cách nhưng không.
Đừng đặt Chúa Thánh Thần ở vị trí thứ yếu
Mặt khác, những người Galát hiểu rất rõ điều mà thánh Tông đồ muốn nói đến. Chắc chắn họ đã cảm nghiệm được tác động của Chúa Thánh Thần trong các cộng đoàn: lòng bác ái và nhiều đặc sủng khác cũng được thể hiện trong các Giáo hội khác cũng như ở giữa họ. Khi bị thúc ép, họ phải trả lời rằng những gì họ đã trải nghiệm là hoa trái của sự mới mẻ của Thần Khí. Do đó, họ bắt đầu đến với đức tin là sáng kiến của Thiên Chúa, chứ không phải của loài người. Chúa Thánh Linh là tác nhân trong kinh nghiệm của họ; giờ đây, đặt Người vào thứ yếu để dành ưu tiên cho các hoạt động của mình - nghĩa là để thực hiện các giới luật của Lề Luật – thật là điều ngu ngốc. Sự thánh thiện đến từ Chúa Thánh Linh và đó là ơn cứu độ được ban nhưng không của Chúa Giêsu: điều này làm cho chúng ta được trở nên công chính.
Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại có vẫn là trung tâm của cuộc sống hàng ngày của tôi không?
Theo cách này, thánh Phaolô cũng mời gọi chúng ta suy tư về cách chúng ta sống đức tin. Tình yêu của Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại có vẫn là trung tâm của cuộc sống hàng ngày của chúng ta như nguồn cứu rỗi, hay chúng ta hài lòng với một số hình thức tôn giáo để cứu vãn lương tâm của chúng ta? Chúng ta sống đức tin như thế nào? Chúng ta có gắn bó với kho tàng quý giá, với vẻ đẹp của sự mới mẻ của Chúa Kitô, hay chúng ta thích điều gì đó thu hút chúng ta vào lúc này nhưng sau đó lại để tâm hồn chúng ta trống vắng? Sự phù du thường gõ cửa vào ban ngày, nhưng đó là một ảo ảnh đáng buồn, khiến chúng ta rơi vào sự hời hợt và ngăn cản chúng ta nhận ra điều gì thực sự đáng để chúng ta sống vì đó. Tuy nhiên, thưa anh chị em, chúng ta hãy vững tin rằng, ngay cả khi chúng ta bị cám dỗ quay lưng, Thiên Chúa vẫn tiếp tục ban tặng các ân sủng của Nguời.
Những điều đã xảy ra với người Galát cũng thường xảy ra trong lịch sử, cũng xảy ra hôm nay. Thậm chí ngày nay, một số người đến rỉ rả vào tai chúng ta: “Không, sự thánh thiện nằm trong những giới luật này, trong những điều này, bạn phải làm điều này và điều này”, và họ đưa ra chúng ta đến việc thực hành tôn giáo cứng nhắc, sự cứng nhắc làm mất đi sự tự do trong Chúa Thánh Linh, Đấng ban cho chúng ta ơn cứu độ của Chúa Kitô. Hãy cẩn thận với sự cứng nhắc mà họ đề xuất với anh chị em: hãy cẩn thận. Bởi vì đằng sau mọi sự cứng nhắc đều có điều gì đó xấu, không có Thánh Thần của Thiên Chúa. Và vì lý do này, Thư này sẽ giúp chúng ta không nghe theo những đề xuất hơi cực đoan, khiến chúng ta bước lùi trong đời sống thiêng liêng của mình, và nó sẽ giúp chúng ta tiến bước trong ơn gọi Phục sinh của Chúa Giêsu.
Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta
Đây là điều mà thánh Tông đồ khẳng định với các tín hữu Galát, khi nhắc lại rằng Chúa Cha “rộng ban Thần Khí cho anh em và thực hiện những phép lạ ở giữa anh em” (3, 5). Ngài dùng thì hiện tại - “cho”, “thực hiện” - không dùng thì quá khứ. Ngài không nói “Chúa Cha đã rộng ban Thần Khí”, chương 3, câu 5. Bởi vì, bất chấp mọi khó khăn mà chúng ta có thể gây ra cho hoạt động của Người, cho dù chúng ta tội lỗi, Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta mà vẫn ở lại với chúng ta bằng tình yêu thương xót của Người. Thiên Chúa luôn gần gũi chúng ta bằng lòng nhân từ của Người. Cũng giống như người cha ngày nào cũng lên sân thượng nhìn xem con mình có trở về: Chúa Cha không mệt mỏi yêu thương chúng ta. Chúng ta hãy xin ơn khôn ngoan để luôn ý thức về thực tại này và loại bỏ những tư tưởng thủ cựu đưa chúng ta đến một cuộc sống khổ hạnh giả tạo, xa rời sự phục sinh của Chúa Kitô. Khổ hạnh là cần thiết, nhưng khổ hạnh cách khôn ngoan, không phải là giả tạo.
Ngày Thế giới cầu nguyện cho việc chăm sóc thụ tạo
Trong lời chào các tín hữu bằng tiếng Ý, Đức Thánh Cha nhắc rằng ngày 1/9 là Ngày Thế giới cầu nguyện cho việc chăm sóc thụ tạo, và bắt đầu “Thời gian của Thụ tạo”, thời gian sẽ kết thúc vào ngày 4/10, lễ thánh Phanxicô Assisi. Đức Thánh Cha nhắc rằng đề tài của Ngày này năm nay là “Một căn nhà cho tất cả? Canh tân Ngôi nhà của Thiên Chúa”. Đức Thánh Cha cho biết ngài cùng với Đức Thượng phụ Bartolomeo của Chính Thống và Đức tổng giám mục Justin Welby của Anh giáo đã viết một Sứ điệp nhân Ngày này. Sứ điệp sẽ được công bố trong những ngày tới đây. Đức Thánh Cha mời gọi: “Cùng với các anh chị em của các Giáo hội Kitô khác, chúng ta hãy cầu nguyện và hành động vì ngôi nhà chung của chúng ta, trong thời gian khủng hoảng của hành tinh này”.
Chị Jeanne và anh Jean Bodet nhận được phép lạ nhờ cầu nguyện với thánh Giuse
Ngọc Yến - Vatican News
Năm 2017, ở tuổi 25 Jeanne và Jean Bodet kết hôn sau 3 năm là bạn học ở trường đại học. Một tháng sau đám cưới, Jeanne mang thai. Cảm giác vui mừng, ngạc nhiên đen xen đến với hai vợ chồng. Thực ra, họ không muốn có con sớm, nhưng xác tín đây là hồng ân của Chúa nên hai vợ chồng chia sẻ tin này cho người thân. Nhưng thai nhi không được khỏe và Jeanne bị sẩy thai. Cả hai đều buồn, nhưng họ không khép kín cõi lòng.
Bảy tháng sau khi sẩy thai, Jeanne lại mang thai. Lần này, hai vợ chồng cố gắng gìn giữ và được bác sĩ theo dõi thường xuyên, nhưng một tháng sau, họ cũng bị mất người con thứ hai. Lần này, đối với họ thật khó khăn khi phải đối diện với sự thật. Những câu hỏi đau lòng bắt đầu đến: “Tại sao lại là chúng tôi? Chúng tôi đã làm tất cả mọi thứ, và không có gì sai cả”.
Lần thứ ba, Jeanne và Jean tiếp tục chào đón sự sống trở lại, nhưng thai này cũng kết thúc. Sự mệt mỏi về thể chất giờ đây lại thêm mệt mỏi về tinh thần, tâm lý. Tuy nhiên, bất chấp mọi thứ, đôi bạn vẫn muốn tiếp tục đón chào sự sống mới.
Vào tháng 5/2020, Jeanne lại mang thai và đau khổ cũng nối tiếp thời gian ngắn sau đó. Bạn bè, người thân an ủi hai vợ chồng. Một trong số đó mời Jeanne và Jean đi hành hương đến Cotignac, nơi có nhà thờ thánh Giuse và theo truyền thống thánh Giuse hiện ra ở đây. Đôi vợ chồng nhận được lời động viên từ người bạn: “Các bạn sẽ có một ngày cuối tuần ở miền Nam và các bạn có thể phó thác những đau khổ cho thánh Giuse”.
Những ngày hành hương đã để lại dấu ấn sâu sắc cho hai vợ chồng. Jean nói: “Trong suốt cuộc hành trình, tôi đã rơi nước mắt, và trút bỏ mọi gánh nặng”. Còn Jeanne thì phong cảnh nơi hành hương đã làm cho cô xúc động. Jeanne nói: “Tôi cảm thấy được an ủi, cảm nhận rằng tôi có thể phó thác tất cả những nỗi đau của tôi cho Đức Mẹ và thánh Giuse”.
Trở về nhà sau cuộc hành hương, cả hai cảm nhận được ơn biến đổi. Hai vợ chồng tự nhủ sẽ tiếp tục phó thác mọi đau khổ, những hiểu lầm cho thánh Giuse. Cả hai chia sẻ: “Chúng tôi lặp đi lặp lại lời cầu nguyện của chúng tôi. Mỗi tối chúng tôi cầu nguyện với chuỗi mân côi, và dâng những ý chỉ. Chúng tôi xin các thánh bổn mạng và tất cả các vị thánh đã đi qua lịch sử cuộc đời chúng tôi chuyển cầu cho chúng tôi”. Họ cũng không quên thêm vào ý chỉ cầu nguyện mỗi ngày: Qua lời bầu cử của thánh Giuse xin Chúa ban cho họ có con.
Vài tuần sau đó, Jeanne mang thai. Mọi người đều vui mừng, nhưng có một câu hỏi nặng nề đến với họ: “Lần này sẽ kéo dài bao lâu?”. Đúng như lo sợ, Jeanne đã có những biểu hiện không tốt trong khi mang thai. Cô phải đến bệnh viện để bác sĩ chăm sóc.
Mùa hè sắp kết thúc và hai vợ chồng trở về ngoại ô Paris. Họ tiếp tục cầu nguyện với thánh Giuse. Jean nói: Chúng tôi đã thay đổi cụm từ trong lời cầu nguyện “xin cho chúng con ơn được cộng tác trong việc trao ban hồng ân sự sống, để nhờ đó chúng con có thể nhìn thấy một sự sống mới chào đời được ban cho chúng con”, bằng cụm từ “xin chỉ cho chúng con phải làm gì trong giây phút hiện tại”.
Do sức khỏe yếu Jeanne không thể đến nhà thờ, nhưng Jean vẫn thường xuyên tham dự Thánh lễ trực tuyến và gia tăng cầu nguyện.
Ở tháng thứ năm, Jeanne phải nhập viện vì nguy cơ sinh non, và bất chấp khoảng cách, hai vợ chồng vẫn hiệp thông cầu nguyện. Tháng 12, lễ Giáng sinh, ngày cuối năm. Cả hai nhớ lại: “Chúng tôi không phải là người sắp xếp mọi thứ: Chúng tôi biết rằng đứa trẻ này thực sự là một món quà của Chúa”.
Jeanne được chuyển đến một khu hộ sinh khác, cô sụt cân nhưng ngày tháng trôi qua và mỗi tháng kết thúc là một sự chiến thắng. Cô được phép về nhà. Ngày 13/3, thai nhi bắt đầu có dấu hiệu chuyển dạ. Và đúng ngày 19/3/2021, lễ thánh Giuse, Suzanne Joséphine chào đời. Nhờ chị gái và mẹ, hai vợ chồng nhận ra rằng ngày 19/6, chính xác là chín tháng trước khi Suzanne chào đời, họ đã gửi lá thư tới Cotignac cho thánh Giuse.
Chúa đã nhậm lời cầu nguyện của hai vợ chồng, và hai vợ chồng xác tín rằng: “Chúng tôi đã lãnh nhận hồng ân và một sứ vụ, đó là làm cho điều kỳ diệu này đơm hoa kết trái. Chúng tôi không sở hữu hồng ân này. Đó là lịch sử của chúng tôi, nhưng trên hết là lịch sử của Chúa, về hành động của Người trong cuộc sống của chúng tôi, và cho tất cả mọi người. Chạm đến mọi người, chỉ đơn giản là vào những dịp khác nhau”.
Đức Phanxicô sau khi phẫu thuật: “Tôi không bao giờ nghĩ đến việc từ chức” (2/2)
Bài phỏng vấn với nhà báo Carlos Herrera trên Đài phát thanh Tây Ban Nha COPE, phần 2.
Đức Phanxicô, nhà báo Carlos Herrera và bà Eva Fernández trong cuộc phỏng vấn tại Nhà Thánh Marta
Trả lời phỏng vấn với nhà báo Carlos Herrera trên Đài phát thanh Tây Ban Nha COPE. Lần đầu tiên, Đức Phanxicô nói về cuộc phẫu thuật tháng 7 vừa qua, về Afghanistan, về Trung Quốc, an tử và cải cách giáo triều la-mã.
vaticannews.va, Carlos Herrera, 2021-09-01
Về sinh thái
Nhà báo Carlos Herrera: Cách đây một thời gian, cũng vài năm, cha thừa nhận cha không quan tâm lắm đến vấn đề sinh thái. Bây giờ cha theo dõi, cha là một trong các nhà lãnh đạo thế giới lên tiếng nhiều nhất về vấn đề này, về các lạm dụng chống lại Trái đất. Sự lựa chọn sinh thái có làm cha có thêm kẻ thù không? Cha sẽ có đi Glasgow cho cuộc họp COP26 không?
Đức Phanxicô: Tôi thử nhớ lại: Đại hội lần thứ năm của Hội đồng Giám mục Châu Mỹ La Tinh, CELAM năm 2007 tại Aparecida, nếu tôi nhớ không lầm. Ở đó, tôi nghe các giám mục Brazil nói về việc bảo tồn thiên nhiên, vấn đề sinh thái, bảo vệ Amazon… Họ nhấn mạnh, nhấn mạnh, nhấn mạnh và tôi tự hỏi điều này có liên quan gì đến việc truyền giáo. Đó là những gì tôi cảm nhận. Tôi không có một khái niệm nào. Tôi đang nói về năm 2007. Những gì tôi nghe làm tôi sốc. Khi về lại Buenos Aires, tôi bắt đầu quan tâm, và dần dần tôi hiểu có một cái gì đó. Đã ở đây rồi ư? Tôi bắt đầu hoán cải và tôi đã hiểu nhiều hơn. Bằng cách này cách kia, tôi nhận ra mình phải làm một cái gì, và rồi tôi có ý tưởng viết một cái gì đó như huấn quyền vì Giáo hội đứng trước vấn đề này… Tôi như người u mê, người ngu ngốc không hiểu gì chuyện này, có nhiều người thiện chí không hiểu… Vì vậy, để đưa ra một số giáo huấn về điều này, tôi triệu tập một nhóm các khoa học gia để họ giải thích cho chúng tôi nghe những vấn đề thực sự; không phải là giả thuyết, nhưng là sự thật. Họ đã lên một danh mục chính đáng cho tôi. Tôi chuyển cho các nhà thần học để họ suy nghĩ về vấn đề này. Và đó là cách Thông điệp Chúc tụng Chúa Laudato Si’ ra đời.
Có một giai thoại hay: khi tôi đến Strasbourg, Tổng thống Pháp François Hollande cử Bộ trưởng Môi trường lúc đó là bà Ségolène Royal đến đón và tiễn tôi. Trong cuộc nói chuyện giữa tôi và bà, bà hỏi tôi, “Có phải cha đang viết cái gì đó phải không?”, Bộ trưởng Bộ Môi trường đã hiểu. Và tôi nói, “Đúng, tôi đang viết.” “Xin cha vui lòng công bố trước khi Hội nghị thượng đỉnh ở Paris họp, vì chúng tôi cần sự xác nhận.” Trở về, tôi làm nhanh. Và thông điệp được đưa ra trước cuộc họp ở Paris. Đối với tôi, cuộc họp ở Paris là cuộc họp thượng đỉnh của ý thức toàn cầu. Sau đó, chuyện gì xảy ra? Nỗi sợ hãi bắt đầu xuất hiện. Và dần dần, trong những lần gặp gỡ sau đó, họ đi trở lại. Tôi hy vọng bây giờ ở Glasgow sẽ nâng cao tầm nhìn một chút và đưa chúng ta đi đúng hướng.
Cha sẽ đến đó không?
Có, theo chương trình tôi sẽ đi. Tất cả tùy thuộc tình trạng sức khỏe của tôi lúc đó. Nhưng bây giờ bài phát biểu của tôi đã được chuẩn bị, và kế hoạch là sẽ có.
Về Trung quốc
Chúng ta nói về Trung quốc nếu cha muốn… Trong hàng ngũ của cha, có người không muốn cha gia hạn thỏa thuận mà Vatican đã ký với Trung quốc vì nó tạo nguy hiểm cho thẩm quyền đạo đức của cha. Cha có cảm giác có nhiều người muốn vạch con đường cho giáo hoàng không?
Khi tôi còn là giáo dân và linh mục, tôi thích chỉ đường cho giám mục; đó là một cám dỗ mà tôi thấy là hợp pháp nếu mình làm với thiện chí. Trung Quốc không dễ dàng gì nhưng tôi tin chắc chúng ta không nên từ bỏ đối thoại. Chúng ta có thể bị lừa dối trong đối thoại, chúng ta có thể mắc sai lầm, nhưng tất cả là như vậy… Tư duy khép kín không bao giờ là con đường. Những gì đã đạt được cho đến nay ở Trung Quốc, ít nhất là đã đối thoại… một số việc cụ thể như việc bổ nhiệm các giám mục mới, từ từ … Nhưng đó là những bước có thể còn thảo luận và kết quả tùy thuộc bên này bên kia. Với tôi, nhân vật chủ chốt đã giúp tôi là hồng y Casaroli. Hồng y Casaroli là người được Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII giao nhiệm vụ xây dựng cây cầu với Trung Âu. Ngài có một quyển sách rất hay, quyển “Tử đạo của lòng kiên nhẫn” (‘The Martyrdom of Patience), ngài kể câu chuyện của ngài ở đó. Hoặc kinh nghiệm của ngài được một người tổng hợp lại. Và đó là từng bước nhỏ đã tạo nên cây cầu. Đôi khi chúng ta phải nói ngoài trời hoặc mở vòi nước trong những lúc khó khăn. Từ từ, chầm chậm ngài đã có các mối quan hệ ngoại giao mà cuối cùng là bổ nhiệm các giám mục mới và chăm sóc tín hữu Chúa. Ngày nay, bằng cách nào đó, chúng ta phải bước đi từng bước một theo con đường đối thoại này trong những tình huống khó hiểu nhất. Chẳng hạn kinh nghiệm đối thoại của tôi với Đại giáo sĩ hồi giáo Al-Tayyeb là rất tích cực, tôi rất biết ơn ông. Kinh nghiệm này là mầm của Thông điệp Tất cả anh em Fratelli tutti sau này. Nhưng đối thoại, luôn đối thoại hoặc muốn đối thoại. Lần cuối Thánh Gioan-Phaolô II gặp hồng y Casaroli, ngài đã đến để thông báo diễn tiến các sự việc… (Mỗi cuối tuần, hồng y Casaroli đến một nhà tù dành cho trẻ vị thành niên. Tôi nghĩ đó là Casal del Marmo, tôi không chắc. Ngài ở với các trẻ vị thành niên và mặc áo chùng như một linh mục. Không ai biết… Một số không biết ngài là ai). Khi hai người chào tạm biệt và hồng y Casaroli đã ở cửa, Thánh Gioan-Phaolô II gọi hồng y và nói: “Anh còn đi gặp các cậu bé đó không?” “Dạ còn, dạ còn.” “Đừng bao giờ bỏ các em.” Minh chứng của một giáo hoàng thánh thiện cho một nhà ngoại giao dày dặn: “Tiếp tục con đường ngoại giao nhưng đừng quên mình là linh mục, như cách cha đang làm.” Điều này đối với tôi là đầy cảm hứng.
Về an tử
An tử đã được hợp pháp hóa ở Tây Ban Nha, trên cơ sở cái được gọi là “quyền được chết chính đáng”. Nhưng đó là chủ nghĩa ngụy biện, vì Giáo hội không bênh vực đau khổ nhập thể, mà bảo vệ nhân phẩm cho đến cùng. Con người có quyền lực thực sự đối với cuộc sống của mình đến mức nào? Cha nghĩ gì?
Chúng ta đang ở trong một nền văn hóa vứt bỏ. Cái gì vô ích thì bỏ đi. Người già là vật dụng dùng một lần: họ gieo phiền toái. Không phải tất cả, nhưng trong vô thức tập thể của văn hóa vứt bỏ, người già… nhất là những người ở giai đoạn cuối; các em bé không được mong muốn cũng vậy, các em bị bỏ đi trước khi sinh ra… Nói cách khác, có loại văn hóa này.
Sau đó, chúng ta hãy nhìn vào các vùng ngoại vi, chúng ta hãy nghĩ đến các vùng ngoại vi lớn của châu Á, để đi xa và đừng nghĩ rằng chúng ta chỉ nói về những điều ở đây. Một sự vứt bỏ toàn bộ các dân tộc. Chúng ta nghĩ đến những người Duy Ngô Nhĩ, những người du mục bị bỏ rơi trên khắp thế giới. Những chuyện quá đau buồn. Nói cách khác, họ bị loại bỏ. Họ không tốt, họ không phù hợp, họ không tốt.
Nền văn hóa vứt bỏ mang dấu ấn mạnh với chúng ta. Nó đánh dấu mạnh nơi người trẻ và người lớn tuổi. Nó có ảnh hưởng mạnh đến các thảm kịch văn hóa Âu châu ngày nay. Ở Ý, độ tuổi trung bình là 47 tuổi. Ở Tây Ban Nha, tôi nghĩ lớn hơn, có nghĩa kim tự tháp đã đổi ngược. Đó là mùa đông nhân khẩu sinh sản, khi có nhiều trường hợp phá thai hơn. Văn hóa nhân khẩu thua lỗ vì chúng ta nhìn vào lợi nhuận. Họ quay lưng với người trước mặt… và đôi khi họ nói với giọng thương cảm: “Để người này không khổ trong trường hợp…” Điều Giáo hội đòi hỏi là giúp mọi người được chết với phẩm giá. Điều này đã luôn được thực hiện.
Liên quan đến trường hợp phá thai, tôi không muốn đi vào con đường thảo luận về việc liệu có khả thể hay không khả thể, đến mức này mức kia không, nhưng tôi nói thế này: bất kỳ sách chỉ dẫn nào về phôi thai dạy cho sinh viên y khoa đều nói, kể từ tuần thứ ba của quá trình thụ thai, đôi khi còn trước cả khi người mẹ biết mình đang mang thai, tất cả cơ quan trong phôi thai đã được tượng hình, kể cả DNA. Đó là sự sống. Đó là con người. Một số người nói: “Đó không phải là con người. Nhưng, đó là con người! Vậy đứng trước một con người, tôi tự đặt hai câu hỏi: có hợp pháp để loại một đời sống nhằm giải quyết một vấn đề, có chính đáng để loại một đời sống nhằm giải quyết một vấn đề hay không? Câu hỏi thứ hai: Có chính đáng để thuê một người giết mướn để giải quyết một vấn đề không? Với hai câu hỏi này, có còn trường hợp loại bỏ con người – bên này hay bên kia – vì họ là gánh nặng cho xã hội không?”
Tôi nhớ đến một chuyện tôi được kể khi ở nhà. Về một gia đình rất tốt có nhiều con, và người ông sống với họ, ông đã lớn tuổi, khi ngồi ăn ông thường chảy nước miếng. Người cha không dám mời khách vì xấu hổ. Vì thế ông đặt một cái bàn rất đẹp trong bếp và giải thích với gia đình, bắt đầu từ ngày mai ông nội sẽ ăn trong bếp để gia đình có thể mời khách. Và ông đã làm như vậy. Một tuần sau, khi về nhà ông thấy người con trai 8-9 tuổi của ông đang chơi với gỗ, đinh, búa, ông hỏi: “Con đang làm gì vậy?” “Con đóng cái bàn cha ạ.” “Con đóng cho ai?” “Con đóng cho cha khi cha già.” Nói cách khác, gieo rác sẽ gặt rác sau này.
Về người di dân
Chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa chủ quyền đã gieo vào Âu châu những cái chết và những người nhập cư. Và tôi xin hỏi cha: đối diện với việc di cư gây do nhiều hiện tượng khác nhau mà chúng ta đang ngập chìm bây giờ, chúng ta nên có quan điểm nào? Điều gì sẽ xảy ra khi số người xin nhập cư vượt quá khả năng tiếp nhận của một quốc gia? Có nên không có biên giới? Mọi người có thể ở bất cứ đâu, ở nơi nào họ muốn không? Các Quốc gia có quyền đặt ra các quy tắc cứng nhắc hoặc ít cứng nhắc hơn không?
Câu trả lời của tôi là: thứ nhất, đối với người di cư, cần có bốn thái độ: chào đón, bảo vệ, cổ động và hội nhập. Và với câu hỏi cuối cùng: nếu bạn đón họ và để lỏng lẻo không hội nhập, họ là mối nguy hiểm, vì họ cảm thấy họ là người ngoài. Chúng ta hãy suy nghĩ về thảm kịch Zaventem.
Những kẻ gieo khủng bố này là những người Bỉ, con cái người nhập cư không được hội nhập, ở khu biệt cư ghetto.
Tôi phải làm sao để người nhập cư được hội nhập, vì thế không chỉ là đón nhận, nhưng phải bảo vệ, cổ động, giáo dục v.v. Điều thứ hai, còn hơn câu hỏi của ông: các quốc gia phải rất trung thực với chính họ, liệu xem mình đón nhận được bao nhiêu và tối đa là bao nhiêu, ở đây, đối thoại giữa các quốc gia là quan trọng. Ngày nay, vấn đề di cư không thể chỉ một mình một quốc gia giải quyết và điều quan trọng là phải đối thoại và xem “tôi có thể đi xa đến mức này…”, “tôi có nhiều khả năng hơn” hay không, “các cấu trúc hội nhập có hợp lệ hay không” v.v.. Tôi đang nghĩ đến một đất nước mà một vài ngày sau khi đến, người di cư nhận trợ cấp để đi học ngôn ngữ, sau đó họ kiếm được việc làm và hòa nhập. Đó là thời kỳ hội nhập của các chế độ độc tài quân sự ở Nam Mỹ: Argentina, Chile, Uruguay. Tôi đang nói về Thụy Điển. Thụy Điển là một ví dụ trong bốn bước chào đón, bảo vệ, cổ động và hội nhập này.
Và rồi một thực tế khác khi đối diện với người nhập cư mà tôi đã nêu ra, nhưng tôi lặp lại: thực tế mùa đông nhân khẩu học. Ở Ý có những ngôi làng gần như trống không.
Ở Tây Ban Nha cũng vậy.
“Ồ, người ta đang chuẩn bị.” Bạn chờ gì, không còn ai sao? Đó là một thực tế. Nói cách khác, di cư là một trợ giúp miễn là các bước hội nhập của chúng ta được hoàn thiện. Đó là quan điểm của tôi. Nhưng dĩ nhiên, một nước phải trung thực để nói: “Tôi có thể đi xa đến đâu”.
Về các chuyến tông du
Năm tới sẽ là năm đánh dấu kỷ niệm lần thứ 50 bài diễn văn của Thánh Gioan Phaolô II về bản sắc châu Âu. Tôi muốn hỏi cha về những nơi mà cha có thể đi nếu sức khỏe cho phép. Có thể là Haiti, là Argentina, là Santiago de Compostela.
Trước đây Thánh Gioan-Phaolô II đã nói: “Hãy tìm về với chính mình, hãy là chính mình, khám phá nguồn gốc của mình. Có thể là một điều hay để kỷ niệm Năm Thánh Jacobean…
Tôi đã nói với chủ tịch của Xunta de Galicia, tôi sẽ suy nghĩ về vấn đề này. Có nghĩa là tôi đã không rút nó ra khỏi lịch trình cuối cùng.
Theo tôi sự thống nhất của châu Âu vào lúc này là một thách thức. Hoặc là châu Âu tiếp tục hoàn thiện và cải thiện trong Liên minh châu Âu, hoặc là tan rã. Liên hiệp Âu châu là tầm nhìn của những vĩ nhân – Schumann, Adenauer … – những người đã nhìn thấy nó. Tôi đã có sáu bài phát biểu về sự thống nhất của châu Âu. Hai ở Strasbourg, một khi tôi được trao Giải Carlo Magno và một trong bài phát biểu của thị trưởng Aachen, tôi đề nghị, vì đó là một bài diễn văn tuyệt vời về vấn đề Liên hiệp Âu châu. Nhưng chúng ta không thể bỏ cuộc. Một trong những giây phút hạnh phúc nhất tôi có được là khi tôi đọc bài diễn văn trước các nguyên thủ quốc gia và các vị đứng đầu chính phủ từ Liên hiệp Âu châu đến. Không thiếu ai và chúng tôi đã chụp một bức hình chung ở Nhà nguyện Sistine. Tôi không bao giờ quên chuyện này. Chúng ta không thể đi lui. Đó là thời điểm khủng hoảng và Liên hiệp Âu châu đã phản ứng đúng với khủng hoảng. Dù có các cuộc tranh luận, Liên hiệp đã phản ứng tốt. Chúng ta phải làm những gì có thể để cứu lấy di sản đó. Đó là di sản và cũng là nghĩa vụ.
Nếu tôi không hỏi cha khi nào cha sẽ đi Tây Ban Nha thì người ta sẽ nói “vì sao ông không hỏi giáo hoàng…” Tôi xin đề nghị với cha, cha sẽ không biết về Tuần Thánh nếu cha không đến Seville vào một ngày Thứ Ba Tuần Thánh để gặp Đức Trinh Nữ Candelaria. Cha không hiếu kỳ để biết sao?
Rất nhiều. Rất nhiều. Nhưng lựa chọn của tôi cho đến nay là chỉ đi những nước nhỏ ở Âu châu. Đầu tiên đó là Albania và sau đó là tất cả các quốc gia nhỏ. Giờ đây, Slovakia nằm trong chương trình này, sau đó là Síp, Hy Lạp và Malta. Tôi có lựa chọn: ưu tiên các nước nhỏ. Tôi đã đến Strasbourg nhưng không đến Pháp. Tôi đến Strasbourg vì Liên hiệp Âu châu. Và nếu tôi đi Santiago là vì Santiago, chứ không phải Tây Ban Nha, chúng ta hãy rõ ràng chuyện này.
Đến Âu châu.
Chuyện này vẫn chưa quyết định.
Về tâm sự gia đình
Ngoài đại dịch, trong năm vừa qua có điều gì làm cha khóc hoặc giáo hoàng không dễ khóc?
Tôi không phải là người dễ khóc, nhưng thỉnh thoảng tôi buồn trước một số chuyện và tôi cẩn thận để không nhầm với nỗi buồn man mác như thi sĩ Pháp Paul Verlaine nói: “Những nức nở lê thê của mùa thu làm tôi ấm lòng”. Không, không. Tôi không muốn bị nhầm với chuyện này. Đôi khi, nhìn một số chuyện chạm đến tâm hồn tôi… và đôi khi tôi cũng khóc…
Cha được gọi là “Giáo hoàng nhạc pop” hoặc “Giáo hoàng siêu nhân”, tôi biết cha không thích. Nhưng thật sự Phanxicô là người như thế nào, cha muốn được nhớ đến là người như thế nào?
Với con người thật của tôi: người có tội cố gắng làm điều tốt.
Vậy thì chúng ta là hai người có tội ngồi ở bàn này…
Hai chúng ta là.
Nhưng cha có được bàn tay trên cao giúp đỡ. [Cười] Tôi luôn ấn tượng bởi mối quan hệ của cha với nhà văn Jorge Luis Borges. Vì sao ông ấy lại chú ý đến tu sĩ dòng Tên trẻ tuổi khi đó?
Tôi không biết vì sao. Tôi gần với văn sĩ vì tôi rất thân với thư ký của ông. Và sau đó là thân thiện… Tôi chưa là linh mục khi tôi gặp ông. Tôi mới 25, 26 tuổi và tôi đang dạy ở Santa Fe trong tư cách là tu sĩ Dòng Tên, trong ba năm tôi dạy ở đây, tôi đã mời ông đến nói chuyện với các sinh viên lớp văn của tôi. Và ông đến, ông có giờ dạy của ông… Tôi không biết vì sao. Nhưng ông là người rất tốt. Một người rất tốt.
Chúng tôi đã nghe cha kể nhiều về bà nội Rosa của cha, chúng tôi ít nghe cha kể về mẹ của cha, hoặc có lẽ chúng tôi chỉ đơn giản là chưa nghe cha kể về bà…
Có hai yếu tố ở đây. Chúng tôi có năm anh chị em, tất cả đều rất thân thiết với ông bà. Chúa đã gìn giữ ông bà cho đến khi chúng tôi lớn lên. Tôi mất người ông sớm nhất khi tôi mới 16 tuổi, và người bà cuối cùng khi tôi là giám tỉnh Dòng Tên. Vì vậy, ông bà luôn ở bên cạnh chúng tôi. Chúng tôi có truyền thống gia đình; bốn cháu lớn nghỉ hè ở nhà ông bà nội ngoại để cha mẹ có thể nghỉ ngơi một chút; người em nhỏ nhất ở nhà vì còn rất nhỏ, sau chúng tôi sáu năm. chúng tôi rất vui khi ở nhà ông bà, có nhiều thứ để chơi ở đó. Còn về bà nội Rosa thì vẫn các giai thoại tôi đã kể. Có nhiều chuyện rất buồn cười. Còn bà ngoại, tôi cũng có kể các giai thoại, như bài học bà dạy tôi trong ngày nhạc sĩ Prokofiev qua đời, về cố gắng trong cuộc đời của ông khi tôi hỏi vì sao ông có thể làm được như vậy. Lúc đó tôi ở tuổi vị thành niên. Tôi cũng nhớ nhiều chuyện về mẹ tôi và tôi cũng có kể… Nhưng có thể nhiều hơn với bà nội vì tôi nhắc lại những chuyện hiếu kỳ về bà, những chuyện không thể lặp lại qua thư, qua các chương trình radio… một số câu nói đã dạy chúng tôi rất nhiều. Nhưng, ngoài việc chúng tôi rất thương ông bà, mỗi ngày chúa nhật chúng tôi đến nhà ông bà để xem đội bóng San Lorenzo. Ông bà đã có ảnh hưởng rất lớn trên đời sống của chúng tôi.
Cha không về lại để xem đội bóng San Lorenzo vì cha không muốn xem truyền hình từ rất lâu…
Đúng vậy. Ngày 16 tháng 7 năm 1990 tôi đã hứa. Tôi cảm thấy Chúa đang đòi hỏi tôi làm như vậy, vì chúng tôi đang ở trong cộng đoàn và xem một thứ gì đó mà cuối cùng thành tục tĩu, khó chịu, xấu xa. Tôi cảm thấy xấu xa. Đó là đêm 15 tháng 7. Và ngày hôm sau, trong lời cầu nguyện, tôi đã hứa với Chúa là không xem truyền hình nữa. Tất nhiên, khi một tổng thống nhậm chức, khi có máy bay rớt, tôi xem… nhưng tôi không nghiện nó.
Cha có xem Cúp Copa America?
Hoàn toàn không.
Có một truyền thuyết cổ nói rằng giáo hoàng đã thoát khỏi Vatican. Cha có thoát đi mà cho đến bây giờ chưa ai biết không?
Không. Người từng đi trượt tuyết là Thánh Gioan-Phaolô II, ngài có máu trượt tuyết trong người. Cách Rôma một giờ có đồi trượt tuyết. Ngài đi mà không ai biết. Có một ngày khi ngài đang xếp hàng thì một cậu bé nói: “Giáo hoàng!” tôi không biết làm sao em bé lại phát hiện ra. Ngài về ngay lập tức, và cố gắng cẩn thận hơn. Theo tôi nhớ, tôi có đi thăm ba nhà: nhà như một nửa tu viện của các Nữ tu Têrêxa, tôi muốn đến thăm giáo sư Mara, đã 90 tuổi, một phụ nữ cao cả từng dạy học ở Đại học La Sapienza và sau đó dạy ở Viện Augustinianum, tôi muốn dâng thánh lễ cho giáo sư. Lần thứ nhì tôi đến chia buồn với người bạn thân, một nhà báo người Ý. Và lần thứ ba tôi đến thăm bà Edith Bruck, năm nay bà 90 tuổi, bà đã ở trại tập trung do thái. Bà là người Hungary – Do Thái. Đó là vào đầu năm nay hay năm ngoái, tôi không nhớ nổi. Đó là ba ngôi nhà duy nhất tôi kín đáo đến thăm rồi về. Tôi thích đi bộ xuống phố, tôi rất thích, nhưng tôi không đi được vì tôi không thể đi được mười mét.
Cha có bao giờ bị cám dỗ mặc áo dân sự không?
Không, hoàn toàn không.
… Với chiếc mũ và cặp kiếng?
[Cười] Không, không, không hề.
Làm thế nào để cha chống chỏi với nỗi nhớ, với hương vị thức ăn có mùi hồi cha ăn sáng ở La Puerto Rico?
Tôi cố gắng không để nỗi buồn man mác buổi sáng mùa thu làm tôi buồn, dù mùa thu ở Buenos Aires là tuyệt vời, những ngày nhiều mây, nhiều sương mù, mình không thể thấy quá mười mét qua cửa sổ và nghe tango của Piazzola. Tôi có nhớ chuyện này một chút nhưng Rôma cũng có những ngày sương mù. Không hoài niệm, không. Nhưng muốn đi bộ từ giáo xứ này qua giáo xứ khác thì có; nhưng không phải là nhớ.
Về từ nhiệm
Cha có những ngày đau đầu vì những lời nói hoặc những lời quy kết đã đi quá xa, để lại những hậu quả mà cha không thể đếm xuể được?
Nguy hiểm luôn ở đó. Một từ có thể được hiểu theo cách này hay cách khác, phải không? Đó là điều đã xảy ra. Và những gì tôi biết… Tuần trước tôi không biết báo chí lấy từ đâu ra tin tôi sẽ từ chức! Họ hiểu từ gì ở đất nước tôi? Và tin tức từ đó thoát ra. Họ nói đó là giao động, thậm chí chuyện này còn không đến trong tâm trí tôi. Khi có những diễn giải hơi méo mó về một số từ ngữ của tôi, tôi giữ im lặng, vì cố gắng làm cho rõ thì còn tệ hơn.
Về bóng đá
Ở Nhà Thánh Marta mọi người có nói nhiều đến đá banh không?
Có, rất nhiều về bóng đá Ý. Tôi bắt đầu biết một chút, họ bàn rất nhiều.
Cha là cầu thủ nào trong đội bóng đá?
Tôi có bàn chân vững, họ gọi tôi là ‘el pata dura’, nên họ luôn đặt tôi vào khung thành, ở đó, ít nhiều tôi được bảo vệ.
Trong chương trình thể thao ‘Tiempo de juego’, các đồng nghiệp khi biết tôi sẽ đi gặp giáo hoàng, họ nói “làm ơn hỏi ngài nghĩ gì về việc Lionel Mesi ký hợp đồng với đội tuyển Pháp”. Cha nghĩ gì về thế giới túc cầu, cha có theo dõi kỹ không?
Tôi đã viết một bài về mục vụ thể thao. Một mục vụ không phải là mục vụ. Trong hai bước. Đầu tiên là bài báo được đăng trên Gazzetta dello Sport vào ngày 2 tháng 1 năm nay. Một bài báo phỏng vấn. Tôi chỉ nói điều này: để trở thành một cầu thủ bóng đá giỏi, bạn phải có hai điều: biết làm việc với tập thể và không “cắn bóng”, thành ngữ chúng tôi nói ở Buenos Aires, luôn ở trong đội. Thứ nhì, không đánh mất tinh thần nghiệp dư. Vì khi thể thao mất tinh thần nghiệp dư này thì nó sẽ thành thương mại hóa. Và có những người đã không để mình bị vấy bẩn vì những điều này, họ cống hiến thu nhập và mọi thứ cho các hiệp hội và các việc tốt lành. Nhưng nhất là làm việc theo nhóm, trường học của tinh thần đồng đội, và không đánh mất tinh thần nghiệp dư.
Trọng kính cha, tôi xin cám ơn cha rất nhiều về những giây phút khó quên cha cống hiến cho thính giả đài phát thanh COPE.
Tôi xin trân trọng chào những người nghe chương trình và xin cầu nguyện để Chúa tiếp tục bảo vệ và chăm sóc tôi, bởi vì nếu Ngài để tôi yên thì tôi sẽ mất trật tự.
Bình thường thì cha sẽ nói với chúng tôi điều này, nhưng hôm nay chỉ có hai người: Xin Chúa phù hộ cha.
Và với tất cả các bạn. Xin Chúa phù hộ cho ông. Xin cám ơn.
Xin cám ơn,
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Khai mạc Đại hội Thánh Thể Quốc tế ở Budapest
Lúc 3 giờ chiều, Chúa nhật 05/9/2021 này, Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 52 sẽ khởi sự với thánh lễ tại Quảng trường Các Anh Hùng ở thủ đô Budapest, do Đức Hồng y Angelo Bagnasco, nguyên Tổng giám mục giáo phận Genova, bắc Italia, và hiện là Chủ tịch Liên Hội đồng Giám mục Âu châu, chủ sự.
Chủ đề của Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần này là: “Tất cả những nguồn mạch của con ở nơi Chúa”.
Tham dự thánh lễ khai mạc, tại Quảng trường Các Anh Hùng ở trung tâm thủ đô, ngoài các giám mục và tín hữu Công giáo, còn có các vị khách mời thuộc các Giáo hội Kitô anh em. Đặc biệt có 1.000 em bé được rước lễ lần đầu.
Từ hôm sau đó, mùng 06 đến 10/9, các sinh hoạt diễn ra tại khu vực triển lãm ở Budapest, bắt đầu với kinh ngợi khen ban sáng dài 45 phút, tiếp đó từ 9 đến 10 giờ là phần giáo lý do các vị hồng y và giám mục trình bày. Sau đó là một 1 giờ chứng từ. Từ 11 giờ 30 đến 12 giờ 30 là thánh lễ. Ban chiều có các buổi hội thảo, thuyết trình. Ban tối từ 7 giờ đến 9 giờ 30 là phần văn nghệ, văn hóa.
Tổng cộng có 70 vị giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đến từ các nước năm châu, được mời đảm trách các bài giáo lý, hội thảo, thuyết trình. Từ Á châu, có Đức Hồng y Charles Maung Bo, Tổng Giám mục Yangon bên Myanmar, Chủ tịch Liên Hội đồng Giám mục Á châu, Đức Thượng phụ Sako, Giáo chủ Công giáo Canđê Irak, Đức Hồng y Anrê Liêm Thủ Chánh, Tổng giám mục Hán Thành, Hàn Quốc, cha Gerard Timoner, người Philippines, Bề trên Tổng quyền dòng Đa Minh, và Đức cha Joseph Pamplany, người Ấn Độ.
Thứ Bảy 11/9, từ 10 giờ đến 15 giờ có lễ hội gia đình ở đảo Margarita, trên sông Danube, và lúc 5 giờ chiều có thánh lễ và cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa, tại Quảng trường Kossuth, do Đức Hồng y Peter Erdoe, Tổng giám mục giáo phận Esztergom Budapest, chủ sự. Hiện diện đặc biệt trong dịp này sẽ có Đức Thượng phụ Bartolomaios, Giáo chủ Chính thống Constantinople. Hồi năm 2000, ngài đã phong thánh cho Vua Stephano cùng với Đức giám mục Hierotheos, là vị hồi thế kỷ thứ X được gửi từ Constantinople đến Hungary để truyền giảng Tin mừng. Thánh vương Stephano của Hungary qua đời năm 1038, khi Giáo hội Đông phương và Tây phương còn hiệp nhất với nhau.
Sau cùng, lúc 11 giờ 30 sáng Chúa nhật 12/9, Đức Thánh cha Phanxicô sẽ chủ sự thánh lễ tại Quảng trường Các Anh Hùng để bế mạc đại hội.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Sir của Hội đồng Giám mục Italia, hôm 03/9, Đức Hồng y Peter Erdoe cho biết ngoài việc nói về Chúa Kitô Thánh Thể, có thể Đức Thánh cha cũng sẽ nói về trách nhiệm làm việc để tái sinh Giáo hội và tạo nên những hình thức huynh đệ sống thực, dưới ánh sáng những thách đố mới. Đức Hồng y nói: “Tôi tin rằng Đức Thánh cha có thể mang lại một khích lệ lớn trong chiều hướng này”.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Một giám mục Đức đề nghị một văn bản khác với “Con đường Công nghị”
Hôm 03/9/2021 vừa qua, Đức cha Rudolf Voderholzer, Giám mục giáo phận Regensburg ở miền nam Đức, đề nghị một văn bản khác với “Con đường Công nghị”, vì có những đường hướng không hợp với đạo lý Hội thánh và gây nhiều tranh luận.
“Con đường Công nghị” do nhiều giám mục và Ủy ban trung ương giáo dân Công giáo Đức cùng tổ chức, với mục đích cải tổ Giáo hội sau những gương mù giáo sĩ lạm dụng tính dục: tiến trình này diễn ra trong 4 lãnh vực cũng là 4 diễn đàn của công nghị: cải tổ việc thực thi quyền bính trong Giáo hội, cụ thể là dân chủ hóa; vai trò của phụ nữ trong Giáo hội, trong đó có việc cho phụ nữ chịu thánh chức, cải tổ luân lý tính dục của Giáo hội cho hợp thời và sau cùng là thay đổi luật độc thân giáo sĩ. Khóa họp toàn thể của Công nghị có 230 đại biểu, đa số là giáo dân. Ban đầu, Công nghị dự kiến sẽ kết thúc vào tháng Mười năm nay (2021), nhưng vì đại dịch nên có thể sẽ kết thúc vào tháng Hai năm tới 2022. Khóa họp toàn thể thứ hai của Con đường này sẽ tiến hành từ ngày 30 tháng Chín đến mùng 2 tháng Mười tới đây, tại thành phố Frankfurt-am-Main.
Đức cha Voderholzer, năm nay 62 tuổi (1959) nguyên là một giáo sư thần học tín lý, đã nhiều lần phê bình hướng đi của Con đường này và nay ngài lập một trang mạng mới, với hướng đi khác. Trong lời giới thiệu trang mạng, Đức cha viết: “Chúng tôi tham gia Con đường công nghị, nhưng càng ngày chúng tôi càng xác tín rằng tiến trình này sẽ không đạt được mục tiêu của nó, nếu cứ tiếp tục theo con đường đã đi cho đến nay. Chúng tôi xác tín rằng chỉ có một Con đường công nghị cùng đi với toàn thể Giáo hội, mới có thể là tốt đẹp và đạt được mục tiêu. Toàn thể Giáo hội không phải chỉ là Giáo hội trên toàn thế giới, nhưng còn là Giáo hội sơ khai và Giáo hội của các thánh đã đạt tới đích của mình. Nền tảng của Giáo hội chính là Chúa Giêsu Kitô Thiên Chúa làm người, Đấng thực sự hiện diện trong Thánh Thể và từ đó Giáo hội được xây dựng nên”.
Trên trang mạng, Đức cha Vorderholzer đã phổ biến một văn kiện dài 45 trang, với tựa đề: “Quyền bính và trách nhiệm”, với sự cộng tác của 4 học giả khác, cống hiến một Văn bản thay cho Văn bản được các thành viên “Con đường Công nghị”, thông qua trong diễn đàn thứ nhất, với tựa đề: “Quyền bính và phân chia Quyền bính” nói về cách thực thi quyền bính trong Giáo hội theo tinh thần dân chủ.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài phát thanh Cope của Công giáo Tây Ban Nha, phổ biến hôm 01/9 vừa qua, Đức Thánh cha cho biết ngài đã gửi một thư cho Con đường Công nghị ở Đức: thư do chính ngài viết: “Tôi đã dành một tháng để viết, trong sự cầu nguyện và suy tư... Công nghị này là ước mong về mục vụ, nhưng Công nghị Đức có lẽ không để ý đến những điều mà tôi giải thích trong lá thư ấy, cần phải để ý đến lá thư đó”.
Trong thư, Đức Thánh cha kêu gọi các tham dự viên Công nghị ở Đức hãy quan tâm nhiều hơn tới việc rao giảng Tin mừng trong bối cảnh xã hội bị tục hóa thay vì chỉ chú trọng đến việc thay đổi cơ cấu của Giáo hội.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Liên Hội đồng Giám mục Âu châu nhóm họp tại Roma kỷ niệm 50 năm thành lập
Từ ngày 23 đến 26/9/2021 tới đây, Liên Hội đồng Giám mục Âu châu sẽ nhóm khóa họp toàn thể, tại Roma, nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập, và có chủ đề là: “Liên Hội đồng Giám mục Âu châu, 50 năm phục vụ Âu châu, ký ức và các viễn tượng trong chân trời của Thông điệp “Fratelli tutti”.
Liên Hội đồng Giám mục Âu châu được thành lập hồi tháng Ba năm 1971 và được Đức Giáo hoàng Phaolô VI phê chuẩn. Tham dự khóa họp, có tất cả 34 vị Chủ tịch Hội đồng Giám mục Âu châu. Các vị sẽ suy tư về nghĩa vụ đầu tiên của tổ chức này, tức là “Thăng tiến việc thực thi đoàn thể tính của hàng giám mục trong tình hiệp thông phẩm trật với và dưới Đức Giáo hoàng; tạo điều kiện dễ dàng cho sự cộng tác giữa các giám mục và các Hội đồng Giám mục để hướng dẫn công cuộc tái truyền giảng Tin mừng; góp phần vào việc đối thoại đại kết để tiến tới sự hiệp nhất các tín hữu Kitô; cống hiến một chứng tá Giáo hội trong xã hội Âu châu”.
Trong thông cáo, “Liên Hội đồng Giám mục Âu châu” cho biết đề tài được chọn cho khóa họp sắp tới, sẽ là cơ hội để phân tích tình hình Âu châu, nhận ra những yếu tố ý nghĩa nhất ảnh hưởng tới Giáo hội và xã hội, tại đại lục Âu châu và tưởng niệm sinh động những căn cội Kitô trong lịch sử của đại lục này”. Sự dấn thân của các giám mục có một vai trò quan trọng trong việc xây dựng Âu châu, một sự dấn thân được sự gợi hứng từ những lời Đức Thánh cha Phanxicô trong sứ điệp ngài gửi “Liên Hội đồng Giám mục Âu châu”, tại đại hội hồi tháng Mười năm 2019, đó là: nỗ lực hoạt động cho một “thuyết nhân bản mới của Âu châu, có khả năng đối thoại, hội nhập và sáng tạo” để Âu châu có thể tăng trưởng như một gia đình các dân tộc, miền đất hòa bình và hy vọng”. Theo chương trình, Đức Thánh cha sẽ chủ sự thánh lễ với các giám mục, chiều thứ Năm 23/9 tại Đền thờ thánh Phêrô, các vị sẽ viếng mộ các vị Giáo hoàng bên dưới Đền thờ, và ngoài ra các giám mục cũng gặp gỡ Tổng thống Italia, ông Sergio Mattarella, tại dinh Quirinale.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Từ Đại hội Thánh Thể ở Pháp đến Đại hội Thánh Thể Quốc tế tại Budapest
Lẽ ra Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 52 đã diễn ra trong năm 2020, theo thường lệ bốn năm sau lần tổ chức trước đó tại Cebu, Philippines nhưng do đại dịch nên được dời lại đến tháng 9/2021.
Hungary đã chờ đợi gần một thế kỷ để có thể một lần nữa tổ chức sự kiện quan trọng này. Lần đầu tiên quốc gia đứng ra tổ chức Đại hội Thánh Thể Quốc tế là vào năm 1938, dịp đất nước kỷ niệm 900 năm ngày qua đời của vua thánh Stephen, vị sáng lập quốc gia và Giáo hội Hungary.
Mục đích của Đại hội Thánh Thể
Mục đích của Đại hội Thánh Thể là thúc đẩy nhận thức về vai trò trung tâm của Bí tích Thánh Thể trong đời sống và sứ vụ của Giáo hội Công giáo. Và cũng là dịp giúp tín hữu chú ý đến chiều kích xã hội của Bí tích Thánh Thể. Trong buổi tiếp kiến các tham dự viên khóa họp toàn thể của Ủy ban Tòa Thánh về các Đại hội Thánh Thể, năm 2018, Đức Thánh Cha còn nhấn mạnh ba ý nghĩa đặc biệt của các Đại hội Thánh Thể trong bối xã hội tân tiến, bị tục hóa và cần được tái truyền giảng Tin Mừng, đó là: tăng cường tình hiệp thông với Chúa Kitô Thánh Thể, sống trong Chúa và cùng với Chúa trong bác ái và trong sứ vụ.
Bài ca chủ đề, Huy hiệu và Thánh Giá của Đại hội Thánh Thể
Huy hiệu Đại hội Thánh Thể quốc tế Budapest: trên cùng là Thánh Giá từ đó chảy xuống những nguồn suối ân phúc. Huy hiệu này được trưng bày tại nơi cử hành Đại hội. Đức Hồng y Péter Erdo, Tổng Giám mục của Esztergom-Budapest giải thích về huy hiệu này: “Nơi Thánh Giá Truyền giáo trên huy hiệu, chúng tôi đã gắn các xương thánh, các chân phước và các vị tử đạo của thế kỷ 20 thuộc nhiều dân tộc, tất cả trong cùng một Thánh Giá, nghĩa là trong cùng đức tin nơi Chúa Kitô là một và duy nhất. Đó là một giáo huấn quan trọng. Các giáo xứ ở Budapest, nơi có trưng Thánh Giá ấy, đã thu hút đông đảo các tu sĩ và giáo dân, cả những người từ nước ngoài, không phải là người Hungary”.
Bài ca chủ đề: Nội dung bài hát là sự kết hợp giữa “cũ và mới”, vì đây là phiên bản cập nhật bài hát gốc được viết cho Đại hội Thánh Thể năm 1938, lần sau cùng Budapest tổ chức sự kiện quan trọng này. Tại Đại hội lần đó, Đức Hồng y Eugenio Pacelli, Giáo hoàng Piô XII tương lai, đã tham dự với tư cách là vị Đại diện Giáo hoàng. Đại hội đã diễn ra trong bầu khí căng thẳng và sợ hãi do Thế chiến thứ hai. Vì thế, bài hát có nội dung khẩn cầu cho hòa bình và sự thống nhất của các dân tộc. Bài hát đã trở nên rất phổ biến đối với người Công giáo Hungary và hơn thế nữa, còn được hát trong Thánh lễ do Đức Thánh Cha chủ sự, vào ngày 01/6/2019, tại Đền thánh Đức Mẹ Sumuleu Ciuc, trong chuyến tông du của Đức Thánh Cha đến Rumani.
Đại hội Thánh Thể đầu tiên
Đại hội Thánh Thể đầu tiên được tổ chức vào năm 1881 ở Lille, miền bắc nước Pháp. Trong lần đầu tiên đó có 8 ngàn người đến từ các nước châu Âu, Mỹ và châu Á, đã tham dự Đại Hội này, trong đó có hơn 4 ngàn người đã dự cuộc rước Thánh Thể. Nhân dịp đó, Đức Giáo Hoàng Leo XIII đã công bố một văn kiện đặc biệt ca ngợi sáng kiến này và khích lệ tái diễn. Sau đó trong một thế kỷ rưỡi, phong trào Thánh Thể này đã lan rộng khắp thế giới. Tuần cử hành này được diễn ra với các sự kiện: hội nghị, Thánh lễ, các hoạt động văn hóa tinh thần, mục đích nhằm đào sâu sự hiểu biết và tôn sùng Thánh Thể, kho tàng quý giá của đức tin Kitô giáo.
Ngay từ đầu, các vị Giáo Hoàng đã quan tâm và nhiệt thành theo dõi các Đại hội Thánh Thể quốc tế, khích lệ và hướng dẫn. Trong số 25 Đại hội đầu tiên từ 1881 đến 1914, có 11 Đại hội diễn ra tại Pháp, 5 tại Bỉ và 1 lần tại các nước: Thụy Sĩ, Ý, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Áo, Malta, Canada và Giêrusalem năm 1893. Chính tại đây, lần đầu tiên Đức Giáo Hoàng cử một vị Hồng y đặc sứ đến chủ tọa. Trong 25 Đại hội đầu tiên đó, khía cạnh Hội nghị được nhấn mạnh nhiều hơn, nhưng có kèm theo các buổi cử hành như chầu đền tạ Thánh Thể, dưới nhiều hình thức khác nhau.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tham gia Đại hội Thánh Thể được tổ chức vào năm 2000 tại Roma, trong khuôn khổ của Năm Thánh. Ngoài ra, chuyến đi quốc tế cuối cùng của một giám mục Roma cho dịp này bắt đầu từ năm 1997, cũng với Thánh Gioan Phaolô II, đến Wroclaw ở Ba Lan.
Từ sáng kiến cá nhân đến tầm mức quốc tế
Nhà sử học Christian Sorrel, chuyên gia về Công giáo tại Đại học Lyon II, thành viên của Ủy ban Tòa Thánh về Khoa học Lịch sử, đã theo dõi những tiến triển của các Đại hội Thánh Thể kể từ nguồn gốc cách đây 140 năm.
Trong một cuộc phỏng vấn của Vatican News, Giáo sư Christian Sorrel cho biết những chi tiết liên quan đến Đại hội Thánh Thể Quốc tế này.
Thưa giáo sư, Đại hội Thánh Thể là gì?
Đây là một hành động suy tư và tôn thờ. Trong dịp này, chúng ta nói về Thánh Thể, hiểu chỗ đứng của Thánh Thể trong xã hội hiện nay, đồng thời thể hiện việc tôn thờ qua cử hành Thánh lễ và rước kiệu Thánh Thể, một tâm tình sùng kính Thánh Thể.
Đại hội Thánh Thể có từ khi nào? Sứ vụ ban đầu của Đại hội là gì?
Đây là ý tưởng của một phụ nữ trẻ người Pháp, Émilie Tamisier, trong những năm 1870-1880. Theo thời gian, Đại hội Thánh Thể đã được canh tân như thêm vào cuộc hành hương là các buổi làm việc và suy tư. Từ năm 1870-1880, là thời kỳ khủng hoảng, sau chiến tranh Pháp-Đức, và rộng hơn là hậu quả của cuộc Cách mạng Pháp. Đối với Émilie Tamisier, vấn đề đặt ra là khôi phục lại việc tôn thờ Thánh Thể để cứu và bảo vệ xã hội khỏi những tệ nạn kéo theo từ cuộc Cách mạng.
Nhưng làm thế nào mà Đại hội nhanh chóng trở thành sự kiện mang tầm quốc tế?
Ngay từ đầu, sự kiện đã chứng tỏ tầm mức quốc tế. Khi diễn ra lần đầu tiên vào năm 1881, ở Lille, những người Công giáo ở miền bắc nước Pháp khi đó đã rất năng động. Nhưng quan điểm quốc tế này đã được công bố nhiều hơn thực tế. Trong 20 năm đầu tiên, ở các đại hội, các tham dự viên chủ yếu đến từ Pháp, Bỉ hoặc Thụy Sĩ. Vào đầu thế kỷ XX, chiều kích quốc tế được khẳng định. Năm 1905 được cử hành tại Roma, năm sau đó Đức Giáo hoàng đã bổ nhiệm một vị phụ trách một cách có hệ thống sự kiện này ở các thủ đô lớn của châu Âu, không nhất thiết phải là thủ đô Công giáo, như London. Sau đó băng qua các đại dương, năm 1910, Đại hội được tổ chức ở Montréal. Chiến tranh thế giới thứ nhất tạm dừng, và sau đó năm 1920, phong trào Đại hội Thánh Thể đã được lan rộng toàn cầu.
Vậy những lần tổ chức Đại hội Thánh Thể có phải là những cuộc tụ họp đầu tiên đông đảo của người Công giáo không?
Không phải, bởi vì các cuộc hành hương ở thế kỷ XIX đã quy tụ một số lượng người đáng kể, nhưng các cuộc tập hợp này là một hình thức mới, hiện đại và người tham gia tích cực hơn. Ngay từ đầu, ngoài các buổi làm việc, một mục tiêu đã được nêu ra, đó là: quan tâm thực sự đối với xã hội. Hơn nữa, trọng tâm của các Đại hội Thánh Thể là những luận đề về vương quyền xã hội của Chúa Kitô, điều sẽ đưa đến thời Đức Piô XI thiết lập lễ Chúa Kitô Vua.
Ngoài Carthage vào năm 1930, không có Đại hội Thánh Thể nào trên lục địa châu Phi. Tại sao?
Đại hội diễn ra tại Carthage đã được thảo luận nhiều vì sự kiện được tổ chức trong vùng đất Hồi giáo và thuộc địa. Vào thời điểm đó, hai điều này có thể tạo ra căng thẳng ở các quốc gia mới nổi. Nhưng châu Phi không được tổ chức Đại hội Thánh Thể, phần lớn là vì các lý do kinh tế và hậu cần.
Các Giáo hoàng bắt đầu tham dự Đại hội Thánh Thể từ khi nào?
Từ năm 1906, ở mỗi Đại hội có một đặc sứ của Đức Giáo hoàng. Năm 1964, Đại hội Thánh Thể tại Bombay, Ấn Độ, lần đầu tiên một vị Giáo hoàng tham dự, là Thánh Giáo hoàng Phaolô VI. Bối cảnh diễn ra Đại hội rất đặc biệt: Công đồng đang diễn ra. Các Đại hội trước đó năm 1950 và 1960, với số người tham dự lên đến 1 triệu, bị cho là không phù hợp vì tỏ ra một Giáo hội lạc lõng với thực tế. Vì thế Đại hội tại Bombay bao gồm nhiều thách đố, đặc biệt tại vùng đất mà nạn đói đứng đầu trong thế giới thứ ba.
Từ năm 1964, trừ một số ngoại lệ hiếm hoi, tại Đại hội Thánh Thể các Giáo hoàng đều tham dự. Sự hiện diện của vị cha chung là sự khích lệ mạnh mẽ cho các Đại hội, tự nguồn gốc vốn là sáng kiến của cá nhân, dần dần phát triển thành sáng kiến được Tòa Thánh ủng hộ.
Ngày nay, Đại hội Thánh Thể được đón nhận như thế nào?
Đương nhiên đứng về phương diện truyền thông, sự kiện này ít quan trọng. Nhưng so với trước đây có sự khác biệt, Đại hội Thánh Thể có sự liên kết với bối cảnh xã hội. Wroclaw năm 1997 ở Ba Lan không có tiếng vang như ở Dublin năm 2012 trong một Giáo hội đang gặp khủng hoảng. Thách đố là suy tư vai trò của Công giáo trong các xã hội châu Âu tục hóa, bị bất ổn do các phong trào di cư, dân tuý. Trong những ngày này, người Công giáo sẽ gặp nhau ở Budapest của Hungary không thể bỏ qua những bối cảnh chính trị và xã hội này, cũng như những người Công giáo năm 1881 không thể bỏ qua bối cảnh của xã hội thời đó.
Ngọc Yến - Vatican News
Bầu khí mong đợi tại Đại hội Thánh Thể Quốc tế
Đại hội Thánh Thể Quốc tế bắt đầu từ Chúa nhật 05 đến 12/9, quy tụ đại diện của tất cả các Giáo hội trên thế giới, ngay cả các quốc gia đang có xung đột. Trong một tuần các tín hữu gặp gỡ, cầu nguyện và chia sẻ kinh nghiệm.
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Hồng y Péter Erdo cho biết tại Budapest, mọi người đang rất mong đợi những ngày này, bởi vì sự kiện này đã được chuẩn bị trong nhiều năm và đã bị hoãn lại do đại dịch. Ngài nói, sứ điệp mà Đại hội Thánh Thể muốn gửi đến các tín hữu là: “Chúng ta không đơn độc. Chúa nhìn thế giới với tình yêu vô biên”. Đức Hồng y nói thêm: “Một sứ điệp khác mà Đại hội muốn gửi đến các tín hữu là: Nhân loại có một mục đích và sống có ý nghĩa. Thiên Chúa có kế hoạch nhân từ cho mỗi người và cho tất cả. Chúa muốn chúng ta hạnh phúc. Chúng ta được tạo dựng cho đời sống vĩnh cửu và hạnh phúc. Trong cuộc hành trình xuyên suốt lịch sử và cả trong đời sống cá nhân, Chúa Giêsu ở với chúng ta. Và điều này, đối với người Công giáo, chúng ta biểu lộ một cách tỏ tường trong việc thờ lạy và cử hành Thánh Thể”.
Theo Đức Hồng y, Đại hội Thánh Thể diễn ra ở trung tâm của một châu Âu đang bị tục hóa mạnh mẽ. Vì thế, mọi người khao khát cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. Điều này thấy rõ trong thời đại dịch, các cử hành phụng vụ bị hạn chế. Chính trong Chúa Giêsu chúng ta có thể được tái sinh một cách trọn vẹn. Chúa Giêsu luôn trẻ trung. Chính Người làm cho chúng ta nên tươi trẻ trong một cộng đoàn hoặc Giáo hội. Chúng ta không lo sợ nếu trong một giai đoạn lịch sử nào đó, chúng ta trở nên yếu đuối về thể chất. Với ơn Chúa, sự tái sinh là điều có thể. Nhưng chúng ta cũng phải có trách nhiệm. Vì vậy chúng ta cầu xin sức mạnh để ứng phó với những thử thách”.
Liên quan đến việc Đức Thánh Cha sẽ đến chủ sự Thánh lễ bế mạc Đại hội, Đức Hồng y tin rằng Đức Thánh Cha sẽ mang đến sự khích lệ, “Sự tái sinh của Giáo hội và các hình thức sống của tình huynh đệ”. Theo Đức Hồng y, Đức Thánh Cha sẽ nói về Chúa Kitô Thánh Thể, mầu nhiệm trung tâm của đức tin và cuộc sống chúng ta. Ngài cũng sẽ nói về trách nhiệm làm việc cho sự tái sinh của Giáo hội và sẵn sàng trao ban sự sống cho các hình thức của tình huynh đệ.
Ngọc Yến - Vatican News
ĐHY Turkson được tuyên dương vì sự dấn thân cho công bằng, hòa bình và liên đới toàn cầu
Millennium Excellence Foundation là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập vào năm 1998 bởi doanh nhân kiêm kiến trúc sư chuyên nghiệp Ashim Morton, người đã sống vài năm ở Hoa Kỳ và sau đó trở về Ghana để đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Chứng kiến những điều tiêu cực và sự quản trị yếu kém không chỉ ở Ghana mà trên khắp lục địa châu Phi, ông Morton đã quyết định kể về các doanh nghiệp thành công và đề cao những cá nhân hoạt động cách vô vị lợi, mang lại những thay đổi tích cực tại Ghana và trên toàn châu Phi. Giải thưởng Millennium Excellence được trao 5 năm một lần cho các tổ chức hoặc cá nhân có đóng góp cho sự phát triển của quốc gia.
Tự do và công bằng
Phát biểu trong dịp này Đức Hồng y Turkson bắt đầu bằng hai từ quan trọng mà không phải ngẫu nhiên lại có trong châm ngôn quốc gia của Ghana, đó là tự do và công bằng. Đức Hồng y nói: “Để hiểu rõ những khái niệm này, đất nước phải đảm bảo việc thăng tiến phẩm giá con người cho tất cả công dân của mình”. Ngài giải thích, tự do “cho phép mọi người sống một cuộc sống có phẩm giá, trong khi công bằng mời gọi mọi người sống cách ý thức rằng chúng ta là những sinh vật có liên hệ với nhau”. Do đó, theo ngài, nhu cầu của người khác phải được “tôn trọng, vì điều này làm cho một người trở nên công bằng”.
Ích lợi của quốc gia
Đồng thời, Đức Hồng y kêu gọi người dân Ghana đừng quên công ích của đất nước. Ngài nói rằng hình thức công bằng cao nhất chính là xem xét thăng tiến tự do để ủng hộ người khác, tôn trọng đầy đủ các nhu cầu của họ. Cuối cùng, ngài kêu gọi mọi người tránh những tai họa như tham nhũng và gian lận, để mang lại công bằng cho nhau. (CSR_5923_2021)
Hồng Thủy - Vatican News
ĐTC tiếp phái đoàn của “Tổ chức các nhà Lãnh đạo vì Hòa bình”
Ngỏ lời với phái đoàn, sau khi nhắc lại bối cảnh hiện tại với những hậu quả của đại dịch về kinh tế và xã hội, đặc biệt đối với người nghèo; nó không chỉ làm nghèo gia đình nhân loại qua nhiều thế hệ nhưng còn gieo rắc nhiều hoang vắng và gia tăng căng thẳng, Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Đối mặt với sự tồi tệ của nhiều cuộc khủng hoảng chính trị và môi trường hợp lại - nạn đói, khí hậu, vũ khí hạt nhân, và một số khác – sự dấn thân của quý vị cho hòa bình chưa bao giờ cần thiết và cấp bách như hiện nay”.
Vai trò xây dựng
Theo Đức Thánh Cha, thách đố được đưa ra là giúp các nhà cầm quyền và công dân đối mặt với các vấn đề quan trọng như một cơ hội. Và trong sự năng động chính trị xã hội này, các thành viên của tổ chức có thể đóng một vai trò xây dựng, chủ yếu bằng cách bồi dưỡng kiến thức tốt về các vấn đề và nguyên nhân gốc rễ của chúng.
Sự tham gia của các thể chế và cá nhân
Đức Thánh Cha nhận định rằng để xây dựng hòa bình, cần cả sự tổ chức của các thể chế khác nhau của xã hội và việc thực hiện của tất cả mọi người, ngay cả những lĩnh vực thường bị loại trừ hoặc vô hình. Do đó, theo Đức Thánh Cha, cần phải làm việc trên cả hai cấp độ văn hóa và thể chế.
Văn hóa gặp gỡ
Trước hết cần cổ võ văn hóa của các gương mặt, đặt trọng tâm trên nhân phẩm, tôn trọng lịch sử của họ, đặc biệt là lịch sử bị thương tổn và bị gạt ra bên lề. “Đó cũng là một nền văn hóa gặp gỡ, trong đó chúng ta lắng nghe và chào đón anh chị em của chúng ta, với “sự tin tưởng vào những điều tốt đẹp có trong lòng con người”.
Hợp tác và đối thoại
Ở cấp độ thể chế cần phải khuyến khích đối thoại và hợp tác đa phương, bởi vì các hiệp định đa phương đảm bảo tốt hơn các hiệp định song phương việc “chăm lo cho công ích thực sự của toàn cầu và bảo vệ các quốc gia yếu nhất” (Fratelli Tutti 174 ). Đức Thánh Cha mời gọi: Trong mọi trường hợp, “chúng ta đừng dừng lại trên các cuộc thảo luận lý thuyết, chúng ta hãy tiếp xúc với những vết thương, hãy chạm vào da thịt của những người chịu tổn thương” (Fratelli Tutti 261). (CSR_5935_2021)
Hồng Thủy - Vatican News