Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
03/08 Tin nhận hay không tin nhận
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Tin nhận hay không tin nhận.
Thứ sáu đầu tháng, tuần 17 thường niên.
"Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?"
Lời Chúa: Mt 13, 54-58
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường, khiến người ta ngạc nhiên và nói rằng: "Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh em ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?" Và họ vấp phạm đến Người.
Nhưng Chúa Giêsu phán cùng họ rằng: "Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ nơi quê quán và nhà mình". Người không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tâm Thức Thời Ðại
Dư luận trong giới trí thức Âu Mỹ hiện nay đang nhắc nhiều đến cuốn sách bàn về tương lai nhân loại với tựa đề: "Ngỡ Ngàng Trước Tương Lai", trong đó tác giả nói về những thay đổi nhanh chóng hiện nay trên đời sống con người khiến ông cảm thấy ngỡ ngàng. Theo tác giả thì tâm lý thường tình của con người thích những khuôn sẵn có cho cuộc sống của mình nhờ đó con người dễ ổn định và dự liệu cho những gì xảy ra. Tắt một lời, dù có khuynh hướng sống thay đổi nhưng tận thâm tâm,con người sống và suy tưởng theo những khung sẵn có, và tệ hại hơn theo điều mà chúng ta gọi là thành kiến.
Tâm thức trên đây giúp chúng ta hiểu phần nào biến cố được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trở về giảng dạy tại quê hương của Ngài là Nazareth, nhưng dân chúng tại đây không tin nhận Chúa, bởi vì họ suy tưởng và hành động theo thói quen, theo thành kiến. Họ đã quen với Chúa Giêsu như là con bác thợ mộc Giuse sống giữa họ từ bao năm nay, do đó giờ đây phải nhìn Chúa và đón nhận giáo huấn của Ngài với một tâm thức mới thì họ bị vấp phạm. Quả thật, như lời cụ già Simêon đã nói trong biến cố dâng Chúa vào Ðền thánh: Chúa Giêsu luôn luôn là dấu gợi lên chống đối; trực diện với Ngài, con người phải chọn lựa hoặc tin nhận, hoặc chối từ.
Chúng ta hãy xét lại xem đức tin của chúng ta hiện nay đối với Chúa Giêsu có còn sống động hay đã trở thành một thói quen khô khan, nguội lạnh, chỉ vì quá quen thuộc như dân làng Nazareth ngày xưa? Phải chăng cuộc sống của chúng ta đã trở thành mù quáng hoặc nô lệ cho những thành kiến đến độ không còn tin nhận Chúa và không còn bén nhạy trước tác động của ơn Chúa?
Xin Chúa tha thứ cho thái độ lạnh nhạt của chúng ta. Xin ban Thánh Thần để chúng ta nhìn thấy những dấu chỉ Chúa thực hiện trong đời sống và trong những biến cố hằng ngày để chúng ta luôn tin nhận Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Nghĩa Vụ Ngôn Sứ (Mt 13,54-58)
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu về sứ vụ ngôn sứ của Chúa Giêsu mà các tín hữu Kitô đều tham dự vào. Sau một thời gian rao giảng làm phép lạ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, khi trở về làng cũ, những người quen biết với Ngài lại chỉ dành cho Ngài một sự tiếp đón lạnh nhạt. Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng là ở chính quê hương mình và gia đình mình. Ðây là lần đầu tiên áp dụng cho mình tước hiệu ngôn sứ; vị ngôn sứ mà Ngài tự đồng hóa là một ngôn sứ bị ngược đãi.
Ý niệm về ngược đãi và ngay cả bị bách hại được Chúa Giêsu nhiều lần nhắc tới trong những cuộc tranh luận với nhóm biệt phái. Nêu bật tư cách bị ngược đãi và bách hại ấy, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ rằng Ngài vẫn tiếp tục truyền thống ngôn sứ trong Cựu Ước. Ðược Thiên Chúa sai đến để thay cho Ngài nói lên sự thật, các ngôn sứ trong Cựu Ước không chỉ nói bằng lời nói mà còn bằng cả cuộc sống của mình. Ðộc đáo nhất hẳn phải là cung cách của một Giêrêmia. Không biết phải dùng lời lẽ nào để tố cáo sự bất trung và phản bội của cả một dân tộc, ông đã đeo một cái gông vào cổ và đi giữa phố chợ. Với cử chỉ ấy, vị ngôn sứ này muốn nói với mọi người rằng chính vì đã xé bỏ giao ước với Thiên Chúa mà họ phải bị xiềng xích trong gông cùm của ngoại bang.
Riêng tiên tri Hôsê thì lại triệt để hơn trong sứ mệnh của mình khi ông đi cưới một cô gái điếm về làm vợ. Với hành động này ông cũng muốn nói với dân Do Thái rằng họ đã bất trung với Thiên Chúa. Không thể chọn lựa thái độ thinh lặng, thỏa hiệp hay sợ hãi, ông đã lên tiếng tố cáo bất công, tội ác hay bạo quyền và hành động của ông đã gây nên phẫn nộ trong dân.
Chính vì thế và cũng như các ngôn sứ trong Cựu Ước; cũng như thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, và nhất là cũng như chính Chúa Giêsu, tất cả những ai dám lên tiếng nói lên sự thật cũng đều được liên kết chung với nhau trong cùng một số phận là bị khinh rẻ, ngược đãi, oán ghét, sỉ vả và khai trừ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Vẫn chỉ có từ chối.
Người về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được nhiều phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Gio-xép, Simon và Giu-đa sao?” (Mt. 13, 54-55)
Người ta không còn cảm thấy giật mình khi nghe tư tưởng này: “Giả như hôm nay Chúa Giêsu trở lại với chúng ta…”
Tôi nghĩ rằng, nếu hôm nay Chúa Giêsu trở lại, thì Người cũng sẽ chẳng có được may mắn hơn với những người đồng hương của Người đâu.
Chẳng có được may mắn đâu.
Giả như hôm nay Người trở lại làm người Do-thái? Liệu Người có được những đồng bào của mình ở Giê-ru-sa-lem hay ở Tel-Aviv lắng nghe không? Liệu Người có được các thành viên Liên Hiệp Quốc hay các nghị viện trong các thượng hạ viện của chúng ta lắng nghe không?
Liệu Người có phải dành một chỗ ở sân thế vận hội để công bố sứ điệp của Người không. Còn chúng ta, những người có đức tin, những người tin vào Chúa Giêsu liệu chúng ta có chấp nhận để cho Người thôi thúc ta, chấp nhận sống triệt để sứ điệp của Người chăng?
Chúa có cần đến một bộ máy tuyên truyền để thu hút quần chúng? Có lẽ Người phải làm những phép lạ hoàn toàn “giật gân” như có người nói. Rồi sau màn “trình diễn” và những phép lạ, người ta có nghe Chúa không?
Bởi vì có lẽ Chúa sẽ nói cho ta hay, dù rằng chúng ta chọn sống chế độ nào: tư bản, dân chủ, độc tài, quân phiệt, thì Người cũng sẽ nói: “Lệnh truyền của tôi là anh em hãy yêu thương nhau” Dù anh em là người Phật Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo, Công Giáo “Anh em hãy yêu thương nhau”
Dù anh em là công nhân của một nghiệp đoàn nào đó, hay dù là ông chủ của xí nghiệp “Anh em hãy yêu thương nhau.” Rồi có lẽ Người sẽ nhắc nhở ta nhớ đến Mười Điều Răn y như Người đã dạy ta vậy.
Giả như Người trở lại.
Người có trở lại không? có lẽ người ta sẽ gọi vấn đề này là một Xì-căng-đan! Ngay trong chúng ta, có nhiều người không tin điều này, họ muốn chúng ta sống trung thực.
Đức Kitô đã chết và đã sống lại, Người đã gửi Thần Khí Người đến với ta để nhắc nhở ta tình yêu Cha Người dành cho ta! Như vậy mà còn không đủ thúc đẩy ta sống yêu thương, thì giả như Chúa Kitô có trở lại, Người cũng chẳng hoán cải nổi chúng ta đâu.
Suy Niệm 4: LOAN BÁO TRONG MỌI HOÀN CẢNH (Mt 13, 54-58)
Xem lại lễ Thánh Giuse Thợ ngày 1/5
“Không ai được tôn trọng ở quê hương của mình”. Đây chính là câu nói nổi tiếng của Đức Giêsu và có tính tiên tri. Thật vậy, trải qua biết bao thế hệ, từ những bậc tiền nhân đến chúng ta, hẳn mọi người đều biết hay đã cảm nghiệm được tính tiên tri của Đức Giêsu qua câu nói trên hoàn toàn ứng nghiệm.
Hôm nay, chính Đức Giêsu cũng đã trải qua sự thật đó khi về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
Khi biết rõ về thân thế, gia cảnh của Đức Giêsu, những người Dothái sinh thời với Ngài đã không thể chấp nhận được, và như một lẽ tất yếu, họ không tin và cũng chẳng tôn trọng Ngài. Vì thế, Đức Giêsu đã không làm được phép lạ nào tại quê hương của mình vì sự cứng lòng tin nơi họ.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhớ cho chúng ta rằng: trong cuộc đời và trên hành trình loan báo Tin Mừng của người môn đệ, chúng ta cũng sẽ gặp phải những khó khăn, thất bại và chống đối, hiểu lầm và cô đơn… Tuy nhiên, hình ảnh Đức Giêsu lướt qua họ khi những người này muốn xô Ngài xuống vực đã dạy cho chúng ta một bài học: bổn phận của chúng ta là loan báo Lời Chúa, nên chúng ta cứ can đảm và sẵn sàng loan báo cho dù có những cản trở, khó khăn đến từ mọi phía…
Chúng ta không bận tâm đến quá nhiều kết quả, vì thành công hay không là việc của Chúa. Chúng ta chỉ là người thợ trong bàn tay Chúa và chỉ biết làm những việc phải làm mà thôi. Có được tâm tình ấy, chúng ta sẽ rao giảng Lời Chúa: “... lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tm 4,2).
Lời Chúa hôm nay còn nhắc cho chúng ta biết: hậu quả của sự thành kiến đã làm chúng ta bỏ lỡ hay cố tình không chấp nhận nhiều việc tốt của người khác. Hoặc nhất định không làm việc hữu ích chỉ vì điều đó được khởi xướng từ một người mà chúng ta không ưa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con vững tin rằng: Chúa là tất cả đời con, nên mọi khó khăn thử thách sẽ không làm cho chúng con chùn chân bước theo Chúa. Xin cho chúng con xóa bỏ thành kiến để công cuộc loan báo Tin Mừng đạt được nhiều kết quả. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Đức Giêsu về quê
Suy niệm :
Sau khi đã chịu phép Rửa, vào hoang địa để cầu nguyện, ăn chay,
có một ngày nào đó, Đức Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên đường.
Lên đường là bỏ lại ngôi làng Nadarét dấu yêu với bao kỷ niệm.
Chính tại đây Ngài đã sống hơn ba mươi năm trong bầu khí gia đình.
Chính tại nơi này, Ngài đã lớn lên quân bình về thân xác, trí tuệ, tâm linh.
Nadarét như một ngôi trường lớn, chuẩn bị cho Ngài chững chạc đi sứ vụ.
Tại đây, Đức Giêsu đã là con bác thợ Giuse (c. 55),
và đã trở thành thợ theo truyền thống cha truyền con nối.
Ngài đã được dạy nghề và hành nghề để kiếm sống cho bản thân và gia đình.
Đức Giêsu là một người thợ tại Nadarét, phục vụ cho nhu cầu dân làng.
Ngài biết đến cái vất vả của công việc chân tay nặng nhọc.
Đức Giêsu không thuộc giới trí thức, thượng lưu, quyền quý.
Lao động làm Ngài gần với người nghèo và thấy sự đơn sơ của tâm hồn họ.
Cũng tại Nadarét, đời sống cầu nguyện của Đức Giêsu được nuôi dưỡng.
Ngài học được lối cầu nguyện một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức Giêsu có khả năng thấy sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự,
nơi một bông hoa, nơi chim trời, nơi ánh nắng và cơn mưa.
Tình thân của Con đối với Cha ngày càng trở nên sâu đậm.
Ngài tìm ý Cha mỗi lúc và để Cha chi phối trọn vẹn đời mình.
Hôm nay Đức Giêsu trở về làng cũ sau một thời gian đi sứ vụ.
Ngài vào lại hội đường quen thuộc, gặp lại những khuôn mặt đồng hương.
Không rõ trước đây có lần nào bác thợ Giêsu được mời giảng ở đây chưa.
Nhưng lần này, khi trở về với tiếng tăm từ những phép lạ làm ở nơi khác,
Đức Giêsu đã khiến dân làng sửng sốt vì sự khôn ngoan trong lời giảng dạy.
Hai lần họ đặt câu hỏi: Bởi đâu ông ta được như thế? (cc. 54. 56).
Một câu hỏi rất hay, nếu được tìm hiểu một cách nghiêm túc.
Câu hỏi này có thể đưa họ đi rất xa, để gặp được căn tính của Đức Giêsu.
Tiếc thay, dân làng Nadarét lại không quên được nghề nghiệp của cha Ngài.
Họ nhớ rất rõ họ hàng gần xa của Ngài là mẹ và các anh chị.
Họ có thể kể tên từng anh chị em của Ngài, vì đều là bà con lối xóm (c. 55).
Đức Giêsu là người mà họ biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm sao con người bình thường, ít học đó lại có thể là một vị ngôn sứ?
Làm sao từ ngôi làng Nadarét vô danh này lại xuất hiện ngôn sứ được?
Và họ vấp ngã vì Đức Giêsu, nghĩa là họ đã không tin vào Ngài.
Cái biết gần gũi của họ về Ngài lại trở nên thành kiến
khiến họ không thể tiến sâu hơn vào mầu nhiệm con người Đức Giêsu.
Người đồng hương của Ngài đã không trả lời được câu hỏi: Bởi đâu…?
Mỗi con người là một mầu nhiệm mà ta phải khám phá mãi.
Có những mầu nhiệm lớn ẩn trong lớp áo tầm thường.
Dân làng Nadarét đã không nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng.
Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi,
để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nadarét đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
02/08 Tự do chọn lựa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Tự do chọn lựa.
Thứ năm đầu tháng, tuần 17 thường niên.
"Người ta lựa cá tốt bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài".
Lời Chúa: Mt 13, 47-53
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Đến ngày tận thế cũng như vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?" Họ thưa: "Có".
Người liền bảo họ: "Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái cũ, mới trong kho mình". Khi Chúa Giêsu phán các dụ ngôn đó xong, thì Người rời khỏi nơi ấy.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Thái Ðộ Bao Dung
Có một Bác sĩ nọ tìm đến với một vị Giám mục cao niên và tuyên bố: "Thưa Ðức Cha, con đến để thông báo cho Ðức Cha biết con đang nghĩ đến chuyện ra khỏi Giáo Hội, Ðức Cha nghĩ sao?".
Vị Giám mục yêu cầu ông cho biết một vài lý do khiến ông có ý định đó. Viên Bác sĩ nhìn thẳng vào mắt vị Giám mục và nói: "Thưa Ðức Cha, Ðức Cha nghĩ coi: Giáo Hội đã có mặt trên trần gian này 2,000 năm nay, thế mà con người có khá hơn không?".
Vị Giám mục bình tĩnh trả lời: "Bác sĩ nói thật chí lý, nhưng Bác sĩ hãy thử nghĩ lại: nước đã xuất hiện trên mặt đất này từ bao nhiêu triệu năm nay, vậy mà ngày nào Bác sĩ cũng như tôi, ai cũng phải rửa tay".
Nghe thế, viên Bác sĩ thinh lặng ra về, ông không còn nghĩ đến chuyện rời bỏ Giáo Hội nữa.
Với bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy có thái độ kiên nhẫn bao dung hơn đối với Giáo Hội của Ngài. Qua hình ảnh chiếc lưới thả xuống biển, kéo lên với đủ loại cá, trong đó người ta giữ lại những con cá tốt và ném đi những con cá xấu, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người chỉ được thực hiện trọn vẹn vào ngày cánh chung mà thôi, trong khi chờ đợi, thì người môn đệ của Ngài cần có thái độ kiên nhẫn, bao dung.
Giáo Hội là Thân Thể của Chúa Kitô. Tự bản chất, Giáo Hội là thánh thiện, như chúng ta vẫn tuyên xưng trong Kinh Tin Kính, nhưng Giáo Hội thánh thiện ấy lại gồm những con người tội lỗi. Ý thức cơ bản và quan trọng nhất của người Kitô hữu chính là luôn nhận biết mình là tội nhân, để từ đó kêu cầu lòng thương xót của Chúa và sự tha thứ của anh em. Thiếu ý thức ấy, người Kitô hữu sẽ rơi vào thái độ kiêu căng giả hình của những người Biệt phái bị Chúa Giêsu lên án gắt gao. Ðồng hành với nhân loại, mang đến cho nhân loại Tin Mừng cứu rỗi, cũng như Chúa Giêsu, Ðấng cứu độ, Giáo Hội chỉ có thể thực thi sứ mệnh của mình với thái độ kiên nhẫn, cảm thông, yêu thương, tha thứ mà thôi. Không ngôn ngữ nào hùng hồn hơn, không sứ điệp nào có tính thuyết phục hơn lòng nhân từ, sự khoan dung và tha thứ. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là tuyệt đỉnh của hành động cứu rỗi của Ngài và lôi kéo mọi người lên với Ngài.
Luôn ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, không ngừng cảm thông với những thiếu sót bất toàn trong Giáo Hội, cố gắng thực thi lòng nhân từ bao dung với mọi người, đó là thách đố đang đặt ra cho người Kitô hữu chúng ta hơn bao giờ hết. Xin Chúa khơi dậy trong tâm hồn chúng ta lòng yêu mến Giáo Hội được thể hiện bằng những cử chỉ cảm thông bao dung, kiên nhẫn mỗi ngày.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Tự do
“Nước Trời còn giống như chuyện một chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các Thiên Thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính. Và quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (Mt. 13, 47-50)
“Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?” Đó là loại câu hỏi chỉ có thể gây bối rối. Khi ta hiểu biết rồi, mà sau đó lại không hành động theo, thì người ta có quyền chất vấn ta. Nếu hiểu biết sao anh lại làm ngược lại điều anh biết? Anh không chữa mình được. Nếu không hiểu biết sao anh không nói ra điều đó? Vì thế hiểu biết là điều quan trọng, chính sự hiểu biết biện minh họăc kết án cho thái độ, hành vi của ta.
Tôi chọn lựa.
Giống như trong các dụ ngôn khác, ta phải lưu ý điều này là ttc không xét xử cũng chẳng kết án: Người nhìn thấy mọi sự, Người biết hết tất cả rồi, và theo thiển ý tôi, “đương nhiên” có sự tách biệt hạt giống tốt với cỏ lùng, thì phải chăng chính sự thể rõ ràng như vậy rồi trước khi ông chủ có ý kiến? Trong mớ cá đủ loại có cá tốt cá xấu. Nhưng không phải Thiên Chúa xét xử và phân loại; cỏ lùng và cây lúa chúng đã khác nhau và phân biệt nhau rồi. Cũng vậy đến ngày tận thế, kẻ xấu sẽ bị tách ra khỏi hàng ngũ những người công chính, thì cũng không phải là do Chúa lên án, là bởi vì chính hành động của con người đã biết sống tự do hay nô lệ cho một chúa tể nào đó mà họ sùng bái.
Chúa hỏi chúng ta: “Anh em có hiểu không?” Hiểu cho rõ để rồi lựa chọn và lựa sự thiện bằng tất cả lòng thành tâm, thiện chí và trung thành. Đó chính là ý nghĩa thực của đời ta!
Tôi hiểu biết.
Chúa kết thúc dụ ngộn với lời: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào được học hỏi về Nước Trời thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ” Cái cũ đó là chủ đề về vương quyền của Thiên Chúa, chủ đề lớn thống lĩng toàn bộ lịch sử của dân Ít-ra-en. Chúa Giêsu đã đến cùng với Tin Mừng của Người làm cho vương quyền của Thiên Chúa nên trọn, đó là cái mới.
Như vậy truyền thống vẫn luôn luôn được sống động, như thường phải được giải thích theo sự am hiểu sâu xa hơn để có thể đạt cái mới đích thực và việc thực hiện luôn được hoàn hảo hơn.
Suy Niệm 3: CHÚA YÊU HẾT MỌI NGƯỜI (Mt 13, 47-53)
“Thiên Chúa là Tình yêu” (1 Ga 4, 8), vì thế, Ngài luôn yêu thương hết mọi người không phân biệt tốt xấu, giàu nghèo hay chức vị cao thấp.
Bản chất đó hôm nay được Đức Giêsu mặc khải qua dụ ngôn “chiếc lưới”.
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói: chiếc lưới như là Nước Trời. Chụp xuống biển là hành động Lời Chúa được trao ban. Bắt được đủ mọi thứ cá chính là mọi người đều được Lời Chúa dạy dỗ. Cá tốt, là những người nghe và thực hành Lời Chúa. Cá xấu là những người không nghe, hay có nghe nhưng Lời Chúa không biến đổi được họ vì sự ích kỷ và kiêu ngạo. Tuy nhiên, cá tốt và cá xấu đều tồn tại! Chỉ khi chiếc lưới chụp xuống và được kéo lên, lúc ấy chúng mới bị phân biệt. Cá tốt thì cho vào giỏ. Cá xấu thì quăng ra ngoài.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy là cá tốt trong chiếc lưới của Ngài. Đồng thời cũng dạy ta bài học về sự kiên nhẫn và sẵn sàng yêu thương hết mọi người. Biết mở lòng để đón nhận sự bất toàn của anh chị em mình, hầu chờ cơ hội để Chúa và cả chúng ta cải hóa anh chị em.
Cuối cùng chúng ta cần xác định quyền xét xử là của Chúa và do Chúa. Bổn phận của chúng ta là tin tưởng, cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tin tưởng, phó thác nơi Chúa, cậy dựa vào ơn Chúa để can đảm biến đổi. Xin cho chúng con được trở thành cá tốt trong ngày sau hết để được Chúa cho vào giỏ của Chúa là Nước Trời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Cá tốt cho vào giỏ
Suy niệm :
Dụ ngôn chiếc lưới được coi là dụ ngôn cuối cùng
trong một chuỗi bảy dụ ngôn của chương 13 theo Tin Mừng Mátthêu.
Dụ ngôn này có nhiều điểm tương đồng với dụ ngôn lúa và cỏ lùng.
Cả hai đều nói đến sự tách biệt kẻ xấu và người tốt vào ngày tận thế,
và kẻ xấu sẽ bị Thiên Chúa luận phạt nghiêm minh (cc. 42. 50).
Đức Giêsu đã dùng những hình ảnh quen thuộc, gần gũi để nói về Nước Trời.
Có khi là hình ảnh nông nghiệp như dụ ngôn người gieo giống,
dụ ngôn lúa và cỏ lùng, hay dụ ngôn hạt cải.
Có khi là hình ảnh về chăn nuôi như dụ ngôn về người mục tử.
Có khi là hình ảnh về ngư nghiệp như trong dụ ngôn chiếc lưới.
Một số môn đệ của Ngài đã sống bằng nghề chài lưới ở hồ Galilê.
Thời xưa việc đánh cá ở hồ này cũng đơn giản như ở quê ta ngày nay.
Những ngư phủ đi trên những chiếc thuyền nhỏ.
Họ quăng lưới vào những nơi thấy dấu hiệu có cá đang đi.
Lưới với những hòn chì nặng sẽ chụp xuống đàn cá và họ chỉ cần kéo vào bờ.
Một chi tiết đáng chú ý ở đây là họ gom được mọi loại cá, cả tốt lẫn xấu.
Hình ảnh này gợi cho ta về việc mọi người, bất luận tốt xấu,
đều được mời gọi tham dự bàn tiệc Nước Trời (Mt 22, 9-10).
Trong Hội Thánh, cũng có sự pha trộn giữa người tốt, kẻ xấu,
như được ám chỉ trong dụ ngôn lúa và cỏ lùng.
Ở các tỉnh ven hồ Galilê, ta dễ thấy cảnh tượng các ngư phủ ngồi trên bờ,
gom cá đánh được trong ngày, giữ lại cá tốt, quăng đi cá xấu.
Chỉ khi lưới đầy, họ mới làm công việc lựa cá như vậy (c. 48).
Tương tự như trên, chỉ khi đến ngày tận thế, các thiên thần mới xuất hiện
để tách biệt kẻ xấu ra khỏi người công chính (c. 49).
Như thế tình trạng hiện nay của Hội Thánh vẫn là chưa hoàn hảo.
Không phải mọi Kitô hữu đều đã sống tinh thần Bài Giảng trên núi.
Có những Kitô hữu không sinh trái, vì hạt giống nhận được đã bị thui chột,
bởi thử thách gian nan hay mối lo toan vật chất (Mt 13, 18-22).
Có những Kitô hữu tuy vẫn kêu Đức Giêsu là Lạy Chúa ! (Mt 7, 21-23),
vẫn nhân danh Ngài mà nói tiên tri, trừ quỷ hay làm phép lạ,
nhưng lại không thi hành ý muốn của Cha trên trời và làm điều gian ác.
Có những Kitô hữu dự tiệc cưới mà không mặc áo cưới (Mt 22, 11-13).
Có những Kitô hữu là muối nhạt, đã trở thành vô dụng (Mt 5, 13).
Như thế gia nhập Hội Thánh không phải là một bảo đảm để được cứu độ.
Còn cần sống hoàn thiện như Cha trên trời (Mt 5, 48).
Thời nay chúng ta không thích nghĩ đến những chuyện bị coi là xa xôi,
như chuyện tận thế, chuyện Thiên Chúa phán xét và luận phạt.
Chúng ta thích sống yên ổn với một Thiên Chúa nhân hậu vô cùng,
đến độ có vẻ như hỏa ngục chỉ là chuyện viển vông để dọa con nít.
Nhưng dù sao cũng không tránh được ngày cỏ lùng bị tách khỏi lúa,
cá xấu bị tách khỏi cá tốt, kẻ bất lương bị tách khỏi người lành.
Cuối cùng Nước Trời sẽ không còn chút bóng dáng của sự dữ,
và Thiên Chúa sẽ là mọi sự cho mọi người (1 Cr 15, 28).
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
01/08 Kho tàng – ngọc quý
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Kho tàng – ngọc quý.
Thứ tư tuần 17 thường niên – Thánh Anphong Maria Ligôri, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó".
* Thánh nhân sinh năm 1696 tại Napôli. Người từ bỏ nghề luật sư để làm linh mục, rồi sau lại nhận trách nhiệm giám mục để loan báo tình yêu của Chúa Kitô. Người đi giảng không mỏi mệt, siêng năng giải tội và rất nhân từ với các hối nhân. Người đã lập Dòng Chúa Cứu Thế nhằm mục đích loan báo Tin Mừng cho dân các miền quê (1732). Người đã giảng dạy luân lý và viết nhiều tác phẩm về đời sống thiêng liêng. Người qua đời năm 1787.
Lời Chúa: Mt 13, 44-46
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy.
Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh trở về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Kho Tàng Quý Giá
Bài thơ "Viên Ngọc Quý Giá Nhất" của thi hào Tagore có nội dung như sau:
Sanathan cầu nguyện đang lúc đi bách bộ dọc theo bờ sông, bỗng có một thanh niên tiến đến và thành khẩn van xin ngài bố thí. Nhà hiền triết đáp: "Ta không có gì cả. Ta đã cho đi tất cả rồi, Ta chỉ còn cái bị ăn mày này thôi".
Người thanh niên tiếp tục nài nỉ: - Thiên Chúa đã cho tôi đến gặp ngài, vì chỉ có ngài mới có thể giúp tôi và làm cho tôi nên giàu có.
Nhà hiền triết mới sực nhớ ngày nọ ông đã cất giấu bên cạnh bờ biển một viên ngọc quý mà ông đã tình cờ tìm được. Ông nghĩ rằng biết đâu viên ngọc này một ngày nào đó sẽ giúp ích cho một ai đó. Ông liền chỉ cho người thanh niên nơi cất giấu viên ngọc.
Người thanh niên ra đi đào bới và đã tìm được viên ngọc quý. Cầm viên ngọc sáng ngời trong tay, người thanh niên ngồi trên bãi biển và suy nghĩ suốt đêm. Khi bình minh vừa ló dạng, anh tìm đến với nhà hiền triết và khẩn khoản nài xin:
- Thưa ngài, xin hãy cho tôi viên ngọc quý hơn mọi viên ngọc quý. Xin hãy cho tôi thứ của cải vượt trên mọi thứ của cải.
Nói xong, anh ném viên ngọc xuống dòng sông và đứng dậy đi theo nhà hiền triết.
Bài thơ trên đây có thể minh họa cho chúng ta cái nghịch lý chạy xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng: mất mát là được lợi lộc, cho là được nhận lãnh, chết là được sống. Ðó là cái nghịch lý mà Chúa Giêsu đã quảng bá và sống cho đến tận cùng: cái chết trên Thập giá và sự Phục sinh vinh hiển của Ngài là một thể hiện của cái nghịch lý ấy.
Trong Tin Mừng hôm nay, với hai dụ ngôn có nội dung gần như nhau, một lần nữa, Chúa Giêsu muốn đề ra cái nghịch lý ấy: vì Nước Trời, con người phải bán đi tất cả, phải chấp nhận mất tất cả. Thế nhưng Nước Trời là gì? Chúa Giêsu xem ra đã không mất giờ và dài dòng trong những lý thuyết khô khan. Với các môn đệ, Ngài nói như một mệnh lệnh: "Hãy theo Ta" và họ đã bỏ mọi sự để đi theo Ngài. Với người thanh niên giàu có, Ngài mời gọi: "Hãy về bán tất cả tài sản, phân phát cho người nghèo, và trở lại đi theo Ta".
Hãy đi theo Ngài, vì Ngài là tất cả. Hãy đánh đổi mọi sự để được sống với Ngài. Chúa Giêsu chính là hiện thân của Nước Trời: nơi Ngài, con người tìm được kho tàng quý giá nhất; nơi Ngài, con người được sống và sống sung mãn. Chính Chúa Giêsu đã nói: "Ta đến để cho chúng được sống và sống dồi dào". Các môn đệ được kêu gọi trước tiên để sống với Ngài. Ðược sống với Ngài, đi theo Ngài, lấy Ngài làm lẽ sống, đó là nội dung đích thực của tư cách làm môn đệ.
Kitô giáo do đó thiết yếu chính là Chúa Giêsu Kitô. Làm Kitô hữu có nghĩa là chọn Chúa làm gia nghiệp và sẵn sàng đánh đổi tất cả để sống cho Ngài và vì Ngài. Làm Kitô hữu có nghĩa là đặt Ngài vào trọng tâm cuộc sống, để dù khi ăn, dù khi uống, dù làm bất cứ việc gì, luôn luôn tôn vinh Ngài. Làm Kitô hữu là sống cho Ngài và sống bằng chính sức sống của Ngài, để có thể thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi". Một cuộc sống như thế chắc chắn đòi hỏi nhiều hy sinh, phấn đấu, mất mát.
Dù sống trong hoàn cảnh nào, bất cứ người môn đệ nào của Chúa Kitô cũng đều cảm nghiệm được lời tiên báo của Ngài: "Vì Danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghét bỏ". Không bị bách hại công khai, thì cũng bị chống đối hay loại trừ, đó là số phận của người Kitô hữu.
Nguyện xin Chúa Kitô, Ðấng chúng ta đã chọn làm gia nghiệp, luôn gìn giữ chúng ta trên bước đường theo Chúa, và củng cố chúng ta trong nghịch lý mà Ngài đã sống: mất mát là lợi lộc, cho là lãnh nhận, chết là được sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Kho Tàng Và Viên Ngọc Quý
Bài dụ ngôn về kho tàng và viên ngọc quý có thể gợi lên cho chúng ta những qui luật về đầu tư hay kinh tế thị trường.
Có một số yếu tố mà kinh tế thị trường cần phải tuân thủ mới mong thành công.
Trước hết và quan trọng hơn cả là động lực và sự hy sinh của con người. Ðây là qui luật cơ bản để cho kinh tế thành công. Thiếu sự cần cù siêng năng của con người, kinh tế không thể nào tiến.
Kế đó là sự thanh liêm và chữ tín của con người. Người đầu tư cũng như công nhân cần phải tôn trọng các khế ước mà họ đã cam kết thi hành.
Yếu tố thứ ba giúp cho kinh tế được thành công là tinh thần kỷ luật. Thời gian và những cố gắng đầu tư vào trong các dự án có khi chỉ được đền đáp trong tương lai.
Nhưng một yếu tố khác không kém phần quan trọng để giúp cho kinh tế được vững mạnh đó là sự cộng tác giữa các công nhân. Dĩ nhiên, chỉ có cộng tác thực sự khi con người biết tôn trọng nhau và lấy sự tử tế mà đối xử với nhau mà thôi.
Cuối cùng, các nhà làm luật phải thông qua luật đầu tư một cách công bình và hợp lý.
Tựu trung, kinh tế thị trường tùy thuộc rất nhiều vào các chuẩn mực đạo đức, các giá trị đạo đức không nằm bên lề của kinh tế mà là linh hồn và nền móng của kinh tế.
Tìm kiếm và xây dựng những giá trị đạo đức là nền tảng cho cuộc sống con người. Gia tài quý giá nhất để lại cho con cái không phải là của cải vật chất mà chính là chuẩn bị cho chúng một vốn liếng tri thức và đạo đức đầy đủ. Với hình ảnh của kho tàng được chôn giấu trong thửa ruộng hay một viên ngọc quý mà người ta phải bán tất cả để mua cho bằng được. Chúa Giêsu muốn nói tới tính cách triệt để của niềm tin. Tin là đầu tư và đầu tư là sẵn sàng hy sinh tất cả. Một nền kinh tế lành mạnh là một nền kinh tế được xây dựng trên chuẩn mực đạo đức. Một niềm tin vững mạnh là một niềm tin đòi hỏi con người phải sẵn sàng hy sinh tất cả những gì mình có.
Sức sống của một Giáo Hội không được đánh giá dựa trên những ngôi thánh đường nguy nga, các cuộc biểu dương rầm rộ hay ngay cả con số đông các linh mục mà Giáo Hội chỉ có thể phong chức nhờ mặc cả bằng quà cáp hay lót đường. Nếu cốt lõi của một nền kinh tế lành mạnh là những giá trị đạo đức thì chắc chắn sức sống đích thực của một Giáo Hội sẽ chẳng bao giờ được đánh giá dựa trên những sự kiện bên ngoài, có khi chỉ là những thỏa hiệp với kết quả của trần đời và những sức mạnh của tăm tối. Sẵn sàng đánh mất tất cả vì Tin Mừng của Chúa Kitô phải chăng đó không là đòi hỏi mà qua bài dụ ngôn về kho báu và viên ngọc quý Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho Giáo Hội và các tín hữu Kitô chúng ta, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Hai Thái Độ
“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thuở ruộng ấy.”
“Nước Trời lại giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.” (Mt. 13, 44-46)
Hai thái độ của con người đối với Nước Trời. trong trường hợp kho báu bị chôn vùi, đó là thái độ của một người tình cờ nhận ra được một giá trị; khá nhiều người có thái độ này đối với Đức Giêsu; họ chẳng mấy bận tâm đến chuyện gặp Chúa Giêsu; họ không đi tìm Người. Thế mà bỗng dưng họ bị Người nắm bắt, cuốn hút dường như bởi một sức mạnh không sao cưỡng lại được. Còn trong dụ ngôn viên ngọc quý, đó chính là tâm trạng của một người đang đi tìm chân lý, giống như phần đông chúng ta, như Đi-cô-đê-mô đi tìm Chúa trong đêm tối.
Hai hạng người.
Không phải chỉ là hai thái độ, hai tâm trạng mà cũng là hai “Hạng” người nữa. Trong con người cày ruộng phát hiện ra được kho báu vùi dấu trong ruộng, chúng ta gặp được hình ảnh con người của sinh hoạt đời thường; đó là con người không thắc mắc đặt vấn đề, con người “nghèo khó” chỉ biết rất ít về Chúa. Tình cờ người ấy khám phá ra Thiên Chúa và có một cái gì làm thay đổi đời sống của người ấy mà người chung quanh không hiểu biết được, người ấy “Vui mừng bán đi tất cả những gì mình có mà mua thuở ruộng ấy.” Ai có thể hay chăng tại sao người ấy lại có cử chỉ như vậy?
Còn người thương gia đi tìm ngọc đẹp gợi nhớ lại hình ảnh một người buôn bán một thứ gì quan trọng lắm, một người buôn đồ nữ trang có một vụ buôn bán quan trọng, người ấy biết đúng giá cả những mặt hàng.
Niềm vui khám phá.
Bao lâu chưa tìm gặp, con người phải mang tâm trạng xao xuyến lo âu. Nhưng khi đã gặp được rồi, thì người ta sẵn lòng cho đi tất cả miễn là dành được sự thiện vô giá ấy. Chính kho báu ấy đòi người ta phải hy sinh tất cả những gì mình có, hy sinh tất cả con người của mình thì mới có được kho báu ấy. Đó phải là một sự dấn thân hoàn toàn, một đòi hỏi triệt để. Chúa Giêsu không nhượng bộ chút nào, nhưng Người cũng tỏ cho thấy sự hấp dẫn lạ lùng của ơn cứu độ, và niềm vui vô biên dành cho người tìm gặp được ơn cứu độ ấy.
Hai dụ ngôn này còn gợi cho ta một suy nghĩ khác. Khi đã tìm được kho báu kia, viên ngọc đẹp ấy, người ta đều cảm nhận được niềm vui vô biên, khôn tả, và chính niềm vui ấy mới khiến người ta dấn thân hết sức, hết mình. Có nghĩa là phải làm tất cả để giữ mãi được niềm vui và phấn khởi của sự khám phá này.
Có được Thiên Chúa là có được tất cả, chỉ mình Chúa là đủ rồi. Người ta có thể hiểu được chân lý này nhờ kinh nghiệm mà thôi.
SUY NIỆM 4: KHO TÀNG VÀ VIÊN NGỌC QUÝ (Mt 13, 44-46)
Xem lại CN 17 TN A
Thánh Phanxicô X. là con một người giàu có. Ngài thuộc thành phần quý tộc. Vì thế, không lạ gì khi còn trai trẻ, thánh nhân ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng trần gian! Tuy nhiên, nhờ người bạn thân của ngài là thánh Inhaxiô Loyola, một hôm đã gieo Lời Chúa vào tai Phanxicô: “... được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16,26).
Nhờ câu Lời Chúa trên mà ngài được ơn biến đổi hoàn toàn. Từ con người ham mê của cải trần thế trở thành một tu sĩ nghèo khó. Từ một người ham mê khoa bảng trần gian trở thành một người chỉ biết rao giảng chân lý Tin Mừng.
Hôm nay, Đức Giêsu muốn mỗi người chúng ta hãy xác định lại căn tính ơn gọi của mình, đó là đi theo Ngài. Đi theo Đức Giêsu là đón nhận Ngài làm gia nghiệp, lấy lời Ngài làm kim chỉ nam hướng dẫn. Sẵn sàng sống những giá trị Tin Mừng ấy trong cuộc đời dù gặp những khó khăn. Quyết tâm từ bỏ những điều bất chính trái với thánh ý Chúa. Làm được điều đó, ấy là lúc chúng ta khôn ngoan như người lái buôn và chàng thanh niên trong Tin Mừng đi tìm “kho tàng” và “viên ngọc quý” hôm nay.
Mong sao mỗi người chúng ta hiểu rằng: Nước Trời là “kho tàng” bền vững và Ðức Giêsu là “viên ngọc quý” đích thực. Đạt được “kho tàng” là Nước Trời; chiếm hữu được “viên ngọc quý” là chính Đức Giêsu thật là điều không dễ! Muốn đạt được điều đó, chúng ta phải đánh đổi bằng những hy sinh, cố gắng và tin tưởng tuyệt đối, ngay cả cái chết.
Lạy Chúa Giêsu, có Chúa là có tất cả, không có Chúa kể như không có gì. Xin cho chúng con hiểu được điều đó, quyết tâm và đánh đổi bằng mọi giá để có Chúa làm gia nghiệp của cuộc đời chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Vui mừng bán tất cả
Suy niệm :
Tất cả bắt đầu từ một sự tình cờ may mắn.
Người nông dân nghèo phải làm thuê cho điền chủ
tình cờ gặp được kho báu chôn trong ruộng.
Người buôn ngọc tình cờ gặp được viên ngọc tuyệt vời,
có giá trị lớn lao mà người bán không hề biết.
Sau đó phản ứng của cả hai rất giống nhau:
ra đi, bán tất cả những gì mình có và mua...
Không thấy có dấu vết của sự nuối tiếc
hay ngần ngại giằng co.
Tất cả diễn ra thật nhanh
và tràn ngập niềm vui thanh thản.
Ai cũng rõ họ hạnh phúc biết chừng nào
khi chiếm được kho báu và viên ngọc.
Cuộc đời họ chuyển sang một giai đoạn mới.
Thái độ của hai người trên được coi là bình thường.
Ở địa vị ta, ta cũng làm như thế.
Kho báu và viên ngọc là những thứ thấy được,
có giá trị hiển nhiên và hết sức hấp dẫn.
Chúng hứa hẹn một sự giàu sang mà ai cũng thèm thuồng,
nên người ta dễ bán tất cả để mua được chúng.
Bị ảnh hưởng bởi não trạng hưởng thụ vật chất,
chúng ta thường coi kho báu duy nhất ở đời này
là tiền bạc, quyền uy và khoái lạc.
Khi nói Nước Trời là kho báu bền vững,
Ðức Giêsu là viên ngọc quý đích thực,
chúng ta lại thấy đó là cái gì mơ hồ,
xa xôi, ít lôi cuốn, thậm chí không có thật.
Chính vì thế chúng ta thường ngần ngại khi từ bỏ,
dè sẻ, nuối tiếc khi phải hy sinh cho Chúa.
Vậy vấn đề là khả năng thấy, nhờ lòng tin.
Bản thân tôi có thấy Ðức Giêsu là viên ngọc quý,
và Nước Trời là kho báu không?
Chỉ ai thấy được những thực tại vô hình
và ngây ngất trước giá trị của chúng,
người ấy mới hồn nhiên và vui tươi
đánh đổi tất cả kho báu phù phiếm của đời này
để lấy kho báu bất diệt trên trời (x. Mt 6,20).
Có khi tình cờ, qua một biến cố, một người bạn,
qua một cuốn sách, một đoạn Lời Chúa, một kỳ tĩnh tâm,
tôi chợt gặp Ðức Giêsu như viên ngọc ngời sáng,
hấp dẫn, mời gọi tôi bay lên khỏi cái tôi tầm thường:
tôi có dám bán nỗi đam mê ích kỷ của mình
để mua lấy tình bạn với Ngài không?
Nếu ta còn ngần ngại khi phải bán đi tất cả
thì chỉ vì ta chưa thấy.
Nhưng nếu ta cứ can đảm bán đi,
ắt ta sẽ thấy.
Niềm vui chỉ đến với người dám bán tất cả.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc càng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
31/07 Bài học kiên nhẫn
- Viết bởi Mt 13, 36-43
Bài học kiên nhẫn.
Thứ ba tuần 17 thường niên - Thánh I-nha-xi-ô Lôi-ô-la. linh mục. Lễ nhớ.
"Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy".
* Sinh năm 1491 tại Lôiôla miền Can-ta-bơ-ri-a. Lúc còn thanh niên, Inhaxiô theo binh nghiệp, phục vụ trong triều đình. Khi đã trở lại, người học thần học ở Pari. Tại đây, cùng với mấy người bạn, người đã sáng lập dòng Chúa Giêsu, thường gọi tắt là Dòng Tên (1534). Nhưng chính tại Rôma, người nỗ lực làm cho dòng lan rộng khắp châu Âu và hăng hái truyền giáo, nêu gương phục vụ Hội Thánh, hết lòng tuân phục Đức Giáo Hoàng. Phương pháp linh thao của người vạch ra một con đường cho ai muốn hiến thân để làm cho vinh quang Thiên Chúa ngày một sáng ngời hơn. Người qua đời ở Rôma năm 1556.
Lời Chúa: Mt 13, 36-43
Khi ấy, sau khi giải tán dân chúng, Chúa Giêsu trở về nhà. Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng: "Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe".
Người đáp lại rằng: "Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần.
Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Bài học kiên nhẫn
Ngày 13/5/1917 Ðức Mẹ hiện ra với ba trẻ mục đồng tại Fatima và cho biết Nước Nga sẽ trở lại. Cũng chính năm đó, Lénine đã thực hiện cuộc cách mạng tháng mười để xóa bỏ mọi bất công của chế độ quân chủ và xây dựng thiên đàng tại thế. 80 năm trước đây, lắng nghe và tin vào những lời tiên báo của ba trẻ Fatima thật là phi lý. Nhưng thời giờ của Thiên Chúa không phải là thời giờ của con người. Lucia, một trong ba trẻ đã được diễm phúc chứng kiến sự ứng nghiệm của lời tiên báo; các bức tường đã sụp đổ, bạo động và máu nhường chỗ cho sự tha thứ, lòng nhân từ, tinh thần hòa giải.
Kiên nhẫn là một trong những bộ mặt của niềm hy vọng Kitô giáo. Con người làm lịch sử, nhưng chính Thiên Chúa mới là Ðấng hướng dẫn mọi nẻo đường về với Ngài. Ðó là bài học mà có lẽ Giáo Hội muốn nhắn gửi chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay.
Dụ ngôn về cỏ lùng thoạt tiên gợi lên cho chúng ta một trong những thảm kịch lớn của nhân loại. Ở thời đại nào cũng có những người muốn thanh tẩy xã hội bằng các cuộc sàng lọc không tiếc xót: từ Tần Thủy Hoàng đến Hitler, Pônpốt qua các cuộc chiến hiện nay. Khi người ta muốn loại bỏ cỏ lùng, thì người ta cũng nhổ đi cả cây lúa tốt tươi.
Qua dụ ngôn cỏ lùng, có lẽ Chúa Giêsu còn muốn nói đến một thảm kịch khác sâu sắc hơn, đó là thảm kịch của lòng người. Trong đáy thẳm tâm hồn, ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm được sự giằng co xâu xé giữa một bên là khả năng hướng thiện và một bên là sức mạnh của tối tăm. Cỏ lùng vẫn cố gắng vươn lên trong cánh đồng tâm hồn chúng ta. Thánh Phaolô đã diễn tả chân lý ấy một cách chính xác khi Ngài nói: "Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, còn sự ác không muốn thì tôi lại làm". Sức mạnh của tội ác, của ma quỷ, của sự dữ trong tâm hồn mỗi người chúng ta là một thực tại không thể chối cãi được. Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đã chẳng dạy chúng ta cầu nguyện: Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ đó sao?
Cảm nghiệm sâu sắc về nỗi yếu hèn và khốn khổ của mình, con người mới cảm thấy cần cảm thông, kiên nhẫn và tha thứ cho người khác hơn. Ðó là bài học thực tiễn mà có lẽ mỗi người chúng ta cần đào sâu, đồng thời cầu xin để mỗi ngày chúng ta phát hiện ra những tia sáng tình thương của Chúa và chia sẻ tình yêu với những người xung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Kiên nhẫn chờ đợi
Sách Xuất Hành chương 33,7-11; 34,5-9 nhắc đến việc ông Môsê nói chuyện trực tiếp với Thiên Chúa như người với người, đó là mẫu gương cho việc cầu nguyện của mọi người Kitô hôm nay. Cầu nguyện là nói chuyện trực tiếp với Chúa. Chúng ta có thể xét mình xem đời sống cầu nguyện của tôi hiện nay ra sao? Cái gì giúp tôi dễ dàng cầu nguyện tiếp xúc với Thiên Chúa?
Một người Kitô mà mất liên lạc với Thiên Chúa thì giống như là sống nơi ngõ hẽm cụt, giống cùng hoàn cảnh như kẻ chối bỏ Thiên Chúa. Hơn nữa, càng cầu nguyện chúng ta càng được biến đổi, trở nên giống như Chúa, nhất là bắt chước được thái độ kiên nhẫn và nhân từ của Thiên Chúa đối với từng tật xấu của anh chị em chung quanh. Thái độ kiên nhẫn nêu gương của Thiên Chúa được Chúa Giêsu mạc khải qua dụ ngôn Cỏ Lùng trong ruộng lúa được kể lại nơi Phúc Âm thánh Mátthêu hôm nay.
Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi cho tới ngày cuối cùng Ngài mới ra tay phán xét phân biệt kẻ lành người dữ trong khi đó thì các tôi tớ không có đủ kiên nhẫn chờ đợi, muốn nhổ bỏ cỏ lùng ngay khi vừa phát hiện ra chúng. Phải, mỗi người chúng ta cần noi gương kiên nhẫn của Thiên Chúa và người Kitô học được sự kiên nhẫn đó nhờ qua việc cầu nguyện.
Lạy Chúa,
Chúng con chúc tụng Chúa là Thiên Chúa nhân từ và kiên nhẫn bởi vì Chúa tuy là Ðấng toàn năng nhưng lại phán xét con người một cách đại độ, nhân từ. Chúa dạy chúng con sống nhân từ, kiên nhẫn như Chúa, lúc nào cũng sẵn sàng yêu thương tha thứ những sơ sót lỗi lầm của anh chị em chung quanh.
Lạy Chúa,
Xin dạy chúng con biết chấp nhận những giới hạn của chính mình cũng như của anh chị em chung quanh như chính Chúa đã chấp nhận chúng con. Xin dạy con biết dấn thân làm việc cho Chúa nhưng đồng thời biết kiên nhẫn chịu đựng chờ đợi tới ngày hạt giống Lời Chúa trổ sinh hoa trái tốt lành nơi chính chúng con và trong xã hội chung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Màn chung cuộc vĩ đại
“Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cò lùng trong ruộng cho chúng con nghe.” Người đáp: “Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần. Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các Thiên Thần. Vậy như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến ngày tận thế thì cũng xảy ra như vậy.” (Mt. 13, 36b. 37-40)
Phúc Âm trình bày cho ta màn chung cuộc vĩ đại của Tấn Tuồng Nhân Loại. Lần cuối cùng người ta được gặp lại Con Người, các người lành và kẻ dữ. Các Thiên Thần được phái xuống ngay để thi hành lệnh chọn lựa!
Tôi mừng vì biết rằng nếu tôi thi hành đúng từng chữ một mà bài học Phúc Âm dạy tôi thì tôi chẳng phải dục lòng tin về thực tại những hình ảnh thánh sử dùng.
Lại nữa tôi không thể sử dụng Phúc Âm mà áp đặt những phạm trù của tôi để phân loại người lành kẻ dữ, làm như vậy có lẽ sẽ gây những ngạc nhiên, vả lại, nhiều nơi trong Phúc Âm, Chúa cũng lưu ý tôi về điều này:
Tôi nhớ hai điều Chúa gợi ý cho chúng ta.
Điều thứ nhất.
Chúa Giêsu nói: “Ai có tai hãy nghe!” không phải là lần đầu, Chúa nhắc nhở chúng ta điều này. Chúng ta có tai nghe để nghe, có mắt để nhìn, có trí khôn để hiểu biết! Chúa ngỏ lời với những người nghèo khó của Nước Trời. Người không để mình chìm đắm trong những suy nghĩ trừu tượng và không và không hiểu nổi. Ta không viện cớ biện minh cho sự ta không biết. Bởi lẽ, hết thảy chúng ta đều biết Chúa đòi hỏi nơi ta điều gì, chúng ta hiểu biết cả đấy. Nhưng ta cũng giống những người Do-thái xưa nói rằng: “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi.” Hoặc giống như những người Co-rin-tô nói với thánh Phao-lô: “Thôi để khi khác chúng tôi sẽ nghe ông nói”
Điều thứ hai.
Chúa Giêsu nói: “Khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã”. Người không sợ hãi gương xấu, không tôn trọng lề luật họ sẽ nhận ra những nỗi khủng khiếp của hành động chối từ tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì làm gương xấu là hành động phản bội tình yêu, đi ngược với sự thật, và ai không tôn trọng luật pháp, người ấy chối bỏ những giới răn của Chúa, những giới răn của tình yêu! Một tình yêu cũng gây tổn thương như tình yêu Đức Kitô đối với ta vậy. Một tình yêu vốn tra vấn ta trong từng giây phút cuộc đời ta. Nếu yêu mến, ta không thể sống lì trong gương xấu làm cớ cho người khác sa ngã; nếu yêu mến Chúa, ta tuân giữ lệnh truyền của Chúa.
SUY NIỆM 4: CÓ NÊN CHĂNG KHI NHỔ CỎ LÙNG SỚM? (Mt 13,36-43)
Ở đời, người ta thường nguyền rủa những người ác độc, bất nhân. Họ cũng không ngừng đặt ra với Chúa những vấn nạn như: “Tại sao ông này bà nọ tội lỗi như vậy mà vẫn được Chúa thương, sao Chúa không phạt quách đi cho rồi?”; Hay “tại sao buôn gian bán lận, ăn trên ngồi trước, tham nhũng, bóc lột mà không gặp phải tai ương, ngược lại, họ vẫn suôn sẻ, chót lọt và thành công? Trong khi mình đạo đức, liêm chính, tốt lành thì lại không được may mắn như thế?”.
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc các môn đệ xin Đức Giêsu giải thích dụ ngôn cỏ lùng cho các ông hiểu thêm.
Trước khi đi vào nội dung của phần giải thích, chúng ta lược qua bản chất của cỏ lùng để thấy được tại sao Đức Giêsu lại kể dụ ngôn trên.
Cỏ lùng là một loại cỏ dại thường mọc chung với lúa. Lúc còn nhỏ, chúng giống và rất khó phát hiện. Đến ngày đơm bông thì chúng mới lộ rõ ra, bởi vì thân chúng thường cao và nhỏ hơn lúa, hạt chúng cũng nhỏ và râu dài hơn. Tuy nhiên, đã nhận ra, nhưng để nhổ cũng khó, vì rễ nó và lúa đã ăn quyện lại với nhau, khi nhổ cỏ lùng, không chừng lúa cũng lên theo. Người ta chỉ có thể tách biệt giữa cỏ lùng và lúa khi thu hoạch. Nhưng lý do tại sao lại phải tách biệt như vậy? Thưa vì hạt cỏ lùng là một loại rất độc, ăn nhiều sẽ gây chóng mặt, đau ốm, nếu nặng sẽ hôn mê.
Khi giải thích dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy khởi đầu là thuần chủng, tốt lành, nhưng sau có sự pha tạp. Lý do là vì kẻ thù phá hoại nên đã gieo trộm cỏ lùng vào ruộng lúa. Điều này cho thấy: Giáo Hội và mỗi người chúng ta luôn gặp phải những chống đối, thù nghịch, thế lực tội lỗi luôn tìm cách để làm hại linh hồn ta.
Mặt khác, dạy cho ta bài học về sự kiên trì, đừng nóng vội. Nếu nóng vội, nhiều khi chúng ta nông nổi và vô tình làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa trên cuộc đời ta và tha nhân.
Sự thật đã nhiều lần chứng minh cho chúng ta thấy: có nhiều người tội lỗi tầy trời, nhưng vào một thời điểm nhất định, họ nhận ta tình thương của Thiên Chúa và tội lỗi của họ quá nhiều. Vì thế, họ đã sẵn sàng thay đổi cuộc đời, nên lối sống của họ đẹp lòng Thiên Chúa. Ngược lại. cũng không thiếu gì nhiều người một thời được mệnh danh là “thánh sống”, nhưng kết cục lại chìm đắm trong tội do bị sa đà và nằm lỳ trong kiêu ngạo.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết quay trở về với Thiên Chúa vì Ngài rất nhân từ và khoan dung, trừ khi chúng ta không đón nhận sự tha thứ của Ngài mà thôi. Mặt khác, Lời Chúa khuyên răn chúng ta hãy bình tĩnh trong việc xét đoán anh chị em mình. Hãy để cho anh chị em ta có cơ hội hoán cải, hầu trở nên con người tốt lành. Cần nhớ rằng: sự phán quyết cuối cùng thuộc về Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn sám hối với chính mình và sự khoan nhân, kiên nhẫn đối với anh chị em chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Chói lọi như mặt trời
Suy niệm :
“Chẳng phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng của ông sao?
Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?” (Mt 13, 27).
Có lẽ một số Kitô hữu trong Hội Thánh sơ khai đã đặt câu hỏi tương tự
khi họ thấy có những phần tử xấu trong cộng đoàn của mình.
“Ông có muốn chúng tôi nhổ đi không?”
Ông có muốn chúng tôi trục xuất họ ra khỏi cộng đoàn không?
Có người tưởng rằng một Hội Thánh phải gồm toàn những thánh nhân.
Hội Thánh không có chỗ cho tội nhân, cho con cái Ác Thần (c. 38).
Lời từ chối của ông chủ ruộng cho thấy sự nhẫn nại của Thiên Chúa.
“Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa.
Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt” (Mt 13, 28-29).
Thiên Chúa chấp nhận cỏ lùng mọc chung với lúa,
con cái Nước Trời sống chung với con cái Ác Thần cho đến tận thế.
Nhẫn nại và bao dung là dấu hiệu của sự thánh thiện đích thực,
sự thánh thiện này biết chờ đợi, biết tôn trọng tự do của con người.
Đôi khi chúng ta cũng có thái độ nóng nảy của Giacôbê và Gioan,
khi đòi đốt cả làng người Samari khi họ không chịu đón Chúa (Lc 9, 54).
Chúng ta vẫn sống trong một thế giới vàng thau lẫn lộn.
Có khi không phân biệt được lúa với cỏ lùng,
vì trong cái tốt vẫn ẩn hiện bóng dáng của cái bất toàn,
và trong cái xấu thi thoảng cũng lóe lên những tia sáng của chân lý.
Một người tốt có thể trở nên cỏ lùng.
Một người xấu có thể trở nên gié lúa trĩu hạt.
Chúng ta chưa thể nói gì về một con người khi người ấy chưa nhắm mắt,
và khi chưa nghe lời phán xử cuối cùng của Thiên Chúa.
Người đầu tiên được bảo đảm vào Nước Trời lại là một tên gian phi.
Nhiều vị thánh hôm nay là những người trước đây đã làm điều gian ác.
Nếu tôi tự đặt câu hỏi: Tôi là lúa hay cỏ lùng?
Tôi sẽ thấy lúng túng khi tìm câu trả lời.
Nơi trái tim tôi, tôi thấy có sự giằng co giữa chọn Chúa và Ác Thần.
Có lúc tôi thấy mình như đã thuộc trọn về Chúa,
có lúc lại thấy thế gian và xác thịt như hoàn toàn thống trị mình.
Ngay trong điều tốt tôi làm, vẫn có điều gì không tuyệt đối trong suốt.
Tôi hiểu rằng cỏ lùng vẫn có chỗ trong thửa ruộng của lòng tôi.
Thiên Chúa vẫn chấp nhận tôi như thế đó.
Nếu Ngài nghiêm phạt tôi thì tôi đâu còn sống đến nay.
Dụ ngôn trên nhắc chúng ta không được tiếm quyền xét xử của Thiên Chúa,
không đòi xóa sạch sự dữ trong một sớm một chiều.
Nhưng chúng ta lại không được để mặc cho sự dữ thao túng.
Chúng ta dám hy sinh mạng sống để xây dựng một thế giới công bình.
Đức Giêsu đã bị sự dữ nuốt chửng, nhưng cuối cùng Ngài đã chiến thắng.
Cuộc đời Kitô hữu là một nỗ lực không ngừng để nhổ cỏ lùng nơi mình,
và khao khát vươn tới sự thánh thiện của chính Thiên Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
inh thần đồng trách nhiệm.
31/07 – Thứ ba tuần 17 thường niên – Thánh Phêrô Đoàn Công Quý và thánh Emmanuel Lê Văn Phụng. Lễ TRỌNG ở Giáo Phận Long Xuyên.
"Ai mất mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống".
* Thánh Phêrô Đoàn Công Quí
Ngài là con của ông Antôn Đoàn Công Miêng và bà Anê Nguyễn Thị Trường, sinh năm 1826, tại họ đạo Búng, Thủ Dầu Một ( Bình Dương).
Ngay từ nhỏ, cậu Phêrô đã có lòng ước ao dâng mình cho Chúa. Sau khi đã nhập vào Đại Chủng Viện Thánh Giuse (Thị Nghè), Thầy Phêrô được gởi đi tu học tại đại chủng viện Thừa Sai Paris ở Pénang (Malaysia), năm 1848; hoàn tất chương trình đào tạo, trở về quê hương vào ngày 11/04/1855. Lúc bấy giờ các vua triều Nguyễn, nhất là vua Tự Đức, đang cấm đạo rất gắt gao. Vào tháng 9 năm 1858, Thầy được chịu chức một cách âm thầm tại Thủ Dầu Một; sau đó, được cử đi phục vụ tại các giáo xứ Lái Thiêu, Gia Định, Kiến Hòa, làm Cha Phó họ đạo Cái Mơn (Vĩnh Long), và là Cha Sở họ đạo Đầu Nước (Cù Lao Giêng, An Giang), từ ngày 27/12/1858, trú ngụ tại nhà ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng.
Cùng với lòng nhiệt thành tông đồ, hăng hái phục vụ bổn đạo, Cha còn có lòng yêu mến Đức Mẹ một cách đặc biệt. Nhờ có tài hát xướng, Cha đã sáng tác những bài thánh ca để phổ biến lòng tôn sùng Đức Mẹ. Ngoài ra, Cha luôn khao khát tử đạo để làm chứng cho Chúa. Bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu, khi có dịp là cha sẵn sàng dâng hiến mạng sống, để làm chứng cho Chúa. Và Cha đã thực hiện được ý nguyện khi được Bề Trên cử về Cù Lao Giêng làm Cha Sở.
Về nhiệm sở mới được 10 ngày, Cha bị bắt cùng với ông Câu Emmanuel Lê Văn Phụng, và 32 giáo dân khác, vào ngày 07/01/1859 và bị giam giữ tại nhà tù Châu Đốc cho đến ngày 31/07/1859.
Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng
Ngài sinh năm 1796, tại họ đạo Đầu Nước (Cù Lao Giêng), làng Tấn Đức, tổng An Bình, tỉnh An Giang, thuộc Trấn Châu Đốc.
Là một gia đình gương mẫu, cùng với vợ là bà Anna Của, ông đã nuôi dạy 9 người con và 2 người con nuôi nên những người đạo đức, tốt lành. Với lòng bác ái cao quý, ông thường chia sẻ, giúp đỡ những người nghèo khổ, túng thiếu,… nhất là trong thời dịch bệnh và ngay cả khi bị giam tù ở Châu Đốc.
Với tinh thần tông đồ cao, ông hăng say hy sinh, phụng sự Chúa và phục vụ anh em. Trong thời gian cấm đạo rất gắt gao, ông vẫn âm thầm dâng đất cất nhà thờ, chủng viện và nhà các dì phước. Trong nhà ông, thường xuyên có các linh mục trú ngụ. Có thời gian, có 5 linh mục cùng một lúc; trong đó có các vị thừa sai nước ngoài (Tây dương đạo trưởng).
Ngoài ra, ông còn có tài ngoại giao rất đặc biệt. Ông có mối quan hệ rất tốt với chính quyền địa phương, cụ thể là Quan Huyện. Nhờ đó, mà giáo dân Cù Lao Giêng vẫn được an bình trong thời điểm cấm đạo rất khó khăn.
Vì có người tố cáo, ngày 07 tháng 01 năm 1859, Ông bị bắt cùng với cha Phêrô Đoàn Công Quí và 32 giáo dân khác. Các ngài bị điệu về Châu Đốc giam giữ.
Gương sáng tử đạo
Trong suốt 7 tháng trời, Tổng trấn và quan quân Triều đình ra sức dụ dỗ Cha Phêrô và ông Emmanuel bỏ đạo, để được thăng quan, tiến chức và tưởng thưởng. Nhưng các ngài vẫn một mực yêu mến Đức Kitô, nhiệt tình với Tin Mừng Phúc âm và trung thành với Giáo Hội.
Không thuyết phục được, Tổng Trấn gởi sớ về triều đình xin án lệnh. Vua Tự Đức châu phê và gởi về Châu Đốc ngày 30/07/1859. Ngày hôm sau, 31/07/1859, tại Bến Chà Và (Bến Cây Mét), các ngài đã hiến dâng mạng sống để làm chứng cho Đức Kitô và Tin Mừng Phúc âm.
Để tuyên dương công trạng, nhân đức và tinh thần tông đồ đầy nhiệt huyết, vào ngày 02/05/1909, Đức Giáo Hoàng Piô X đã tôn phong các ngài lên bậc Chân phước (Á thánh).
Sau đó, vào ngày 19/06/1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng các ngài lên bậc Hiển Thánh cùng với 115 vị tử đạo khác tại Việt Nam.
Các ngài đã nêu gương sáng về Đức Tin kiên vững, Đức Mến nồng nàn, Đức Cậy vững vàng, nhất là lòng nhiệt thành loan báo cho mọi người Tin Mừng tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Đây còn là mẫu gương sống động về tinh thần đồng trách nhiệm giữa linh mục và giáo dân, giữa Cha sở và Hội Đồng mục vụ giáo xứ mọi thời và mọi nơi.
Cũng còn đúng với đường hướng xây dựng giáo phận theo mô hình của một Hội Thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm.
Lời Chúa: Lc 9, 23-26
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng mọi người rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày và theo Ta. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất nó; còn ai mất mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian mà phải thua thiệt và mất mạng sống mình, thì được ích gì? Bởi lẽ kẻ nào hổ thẹn vì Ta và vì lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn khi họ đến trước tôn nhan Ngài, tôn nhan Chúa Cha và các Thiên Thần".
Thánh Phêrô Đoàn Công Quý và Emmanuel Lê Văn Phụng
(Giáo Phận Long Xuyên được mừng trọng thể)
- Thánh Phêrô Đoàn Công Quý sinh năm 1862 tại họ Búng, hạt Thủ Dầu Một, dưới triều Minh Mạng. Cha ngài là ông Antôn Đoàn Công Miêng và mẹ là bà Anrê Nguyễn Thị Trường, vốn dòng quyền quý, nguyên quán ở Đàng Ngoài; nhưng vào cuối đời Gia Long (1802-1820), cả gia đình đã di cư vào Nam và đến lập nghiệp tại họ Búng.
Năm 1847, ngài nhập Chủng Viện thánh Giuse tại Thị Nghè. Sang năm 1848, ngài được gửi học bên Pénang (Mã Lai). Sau bảy năm học tập và tu luyện, ngài trở về quê hương vào năm 1855, giữa lúc vua Tự Đức cấm đạo gắt gao. Ngài lần lượt lãnh nhận các chức, và đến tháng 9/1858, được phong chức linh mục tại nhà thờ Thủ Dầu Một. Sau một thời gian phục vụ tại các họ Lái Thiêu, Gia Định, Kiến Hòa, ngài được cử làm phó sở Cái Mơn (Vĩnh Long). Cuối tháng 12/1858, ngài đổi về họ Đầu Nước, Cù Lao Giêng, họ chính thuộc tỉnh An Giang.
Ngày 07/01/1859, trong một cuộc lùng xét "Tây Dương đạo trưởng", ngài bị bắt cùng với ông Emmanuel Phụng, câu phủ họ Đầu Nước, và 32 giáo hữu khác. Tất cả bị xiềng xích giải về Châu Đốc.
- Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng sinh năm 1796. Lúc cha Phêrô Đoàn Công Quý được cử tới họ Đầu Nước, ngài đang làm câu phủ, rất nhiệt thành việc đạo và quý mến các linh mục. Ngày 07/01/1859, ngài cùng 32 giáo hữu khác cùng bị bắt với cha Phêrô Quý, và bị điệu về giam ở Châu Đốc.
Trong tù hai đấng đã chịu nhiều cực hình với một đức tin sắt đá. Ngày 30/7/1859, án tử hình của các ngài được gửi từ kinh về tới Châu Đốc. Hai ngài đã hiên ngang đổ máu đào để nên chứng nhân nước Trời vào ngày 31/7/1859.
Đức Thánh Cha Piô X đã tôn phong ngài lên bậc Chân Phước ngày 02/5/1909. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong Hiển Thánh ngày 19/6/1988.
Suy Niệm 1: Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng: chứng nhân đời thường của Đức Kitô
Lúc sinh thời, thánh Emmanuel Lê Văn Phụng giữ chức Lý trưởng, là chức thứ nhì trong làng. Vì thế, ngài được gọi là ông Lý Phụng. Đồng thời, ngài coi sóc việc đạo cho cả phủ nội tỉnh An Giang (Châu Đốc), gọi là Câu Phủ; cho nên, người đương thời cũng quen gọi ngài là Ông Câu Phụng. Với những chức vụ đạo, đời khá quan trọng như thế, ngài đã làm việc hết mình để đem lại hạnh phúc cho mọi người. Cuộc đời của thánh nhân có những nét đặc biệt sau đây.
Trước hết, là một tín hữu ngoan đạo, ngài luôn luôn tỏ ra là một gia trưởng gương mẫu. Dù rất bận chuyện làng-xã và họ đạo, thế nhưng, cùng với người vợ rất đảm đang là bà Anna Của, ngài đã nỗ lực sinh dưỡng, dạy dỗ một cách tốt đẹp tất cả 9 người con, năm trai, bốn gái, ngoài ra còn có hai người con nuôi cũng được ngài đùm bọc, cưu mang, giáo dục đầy đủ. Ngài quan tâm đặc biệt đến vấn đề giáo lý, đạo đức, học hành của con cái. Ngài lưu ý chỉ dạy cách ăn nết ở theo luân thường, đạo lý từ ngàn xưa. Thật là gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Điều đó đã được các linh mục lưu trú trong nhà khẳng định và ca ngợi.
Thứ đến, ngài có một tinh thần tông đồ rất nhiệt thành, hăng hái. Với tư cách là người đứng đầu trong họ đạo, ngài luôn luôn sống hết mình với Thiên Chúa, với Hội Thánh và với bà con bổn đạo, ngài rất hăng say trong việc mở mang Nước Chúa, cho dù phải gặp nhiều khó khăn, gian nan, thử thách.
Trong thời gian cấm đạo gắt gao nhất, ngài vẫn âm thầm dâng hiến đất đai, xây dựng nhà thờ, nhà xứ và nhà các nữ tu. Mái ấm của ngài là nơi lưu trú thường xuyên của các linh mục, kể cả các vị thừa sai nước ngoài.. sinh hoạt đạo đức của họ đạo, với các lễ nghi phụng vụ, với các bí tích được trao ban đều đặn, hầu như luôn luôn được diễn biến bình thường, là nhờ ở sự khôn khéo và tài đức của ngài.
Đồng thời, nhờ lòng đạo đức sâu sắc và sự am hiểu giáo lý một cách vững vàng, ngài đã được Bề trên chọn làm giảng viên giáo lý của họ đạo Cù Lao Giêng, và sau đó, của cả tỉnh An Giang. Với vai trò đặc biệt này, ngài ra sức dạy giáo lý cho các thiếu nhi, thanh niên và cả những người lớn tuổi. Ngài thường xuyên thăm hỏi, khuyên nhủ, giải thích và giúp đỡ những người khô khan, nguội lạnh trở về với Chúa. Ngài nhiệt tình lo lắng cho những người hấp hối, nguy tử được lãnh nhận các bí tích sau cùng, chuẩn bị chu đáo trước khi ra trình diện với Chúa.
Ngoài ra, lòng bác ái của ngài cũng là một nhân đức nổi trội. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngài vẫn tỏ ra tâm hồn nhân ái đặc biệt. Gặp thời dịch bệnh hoành hành, ngài đã sắm ghe, mua thuốc, phân phát, cứu giúp những người bệnh, cách riêng là những người nghèo khổ… trong thời gian tù đày, ngài cũng sẵn lòng chia sẻ những gì mình có cho các bạn tù, cho lính canh và cai tù… Ngay cả với kẻ thù, ngài cũng tỏ ra tấm lòng quảng đại, bao dung. Sở dĩ ngài bị bắt và bị giam giữ, cùng với cha sở Phêrô Quí là do hai tên bất lương tố cáo, hãm hại. thế nhưng, khi hai tên này đến xin bà vợ của ngài giúp đỡ tiền bạc, từ trong tù, ngài đã khuyến khích và yêu cầu bà thực hiện… Nhìn vào cung cách sống đó, tất cả mọi người đều thán phục người tông đồ của Chúa.
Sau cùng, với sự khôn khéo, tế nhị đặc biệt, với tinh thần trách nhiệm cao độ của người đứng đầu với những phương tiện vật chất mà Chúa trao ban, ngài đã xây dựng được những mối quan hệ tốt đẹp với tất cả những người chung quanh, kể cả quan quyền lúc bấy giờ. Ngài sẵn sàng hy sinh, dâng hiến những gì mình có để làm sáng danh Chúa, để loan báo Tin Mừng cho mọi người. Nhờ đó, mà ngài đã giúp cho họ đạo được bình yên, ngay cả trong thời buổi khó khăn nhất.
Và như thế, với tình yêu son sắt với Chúa và anh em, với sự trung tín kiên vững của người môn đệ, với niềm xác tín vào ơn cứu độ của thiên chúa, ngài đã hiến dâng mạng sống, để xứng đáng là sứ giả của Chúa Kitô tại quê hương thân yêu của ngài. Ngài đã trở nên một mẫu gương chứng nhân tiêu biểu của Đấng Cứu Thế cho đồng bào của ngài.
Noi gương của Thánh nhân, chúng ta hãy nỗ lực sống tin Mừng mỗi ngày trong cuộc sống đời thường, một cách cụ thể, thiết thực và hiệu quả.
Hãy sống trọn vẹn ơn gọi mà Chúa trao ban trong gia đình. Hãy là những người cha có trách nhiệm, người mẹ đảm đang, người con hiếu thảo để tạo bầu khí yêu thương, hạnh phúc trong mái ấm. những lời nói, cử chỉ, việc làm thắm đượm tình bác ái sẽ giúp đem lại bình an, niềm vui và hy vọng. Sự quan tâm, chăm sóc cho nhau sẽ đan dệt nên những tâm tình yêu thương, liên đới, chia sẻ, hy sinh và phục vụ…
Nên nhớ rằng, qua bí tích rửa tội, mỗi người đã lãnh nhận sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ của Đức Ki-tô cho những anh em chung quanh. Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta có thể chu toàn sứ mạng đó bằng đời sống gương mẫu của chúng ta qua nhữn việc làm cụ thể. Chính nhờ đời sống đầy tình yêu thương bác ái của chúng ta mà người ta có thể nhận ra Chúa, yêu mến Chúa, tin Chúa và đến với Chúa.
Ngoài ra, tinh thần tông đồ cũng mời gọi chúng ta nhiệt tình cộng tác với Đức Giám Mục giáo phận, với các linh mục phụ trách giáo xứ, với các thành phần dân Chúa, để giúp mọi người thăng tiến về mọi mặt, nhất là trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến. Hãy dùng tất cả những phương tiện mà Chúa trao ban, hãy biết chia sẻ những gì mình có, như: tài năng, thời giờ, sức khỏe, công ăn việc làm, tiền của vật chất… để làm vơi nhẹ những khổ đau, đem lại niềm an ủi, nâng đỡ tinh thần, tạo nên sự phấn khởi, lạc quan… cho những người đang gặp khó khăn, thử thách. Không ai nghèo túng đến nỗi không có gì để chia sẻ cho người khác. Một nụ cười tươi tắn, một sự đón tiếp niềm nở, một lời nói động viên hay một lời khen ngợi chân thành, một cái bắt tay thân tình, một sự giúp đỡ nho nhỏ… tất cả đều có một giá trị vô cùng lớn lao và cao quí. Tất cả đều là dấu chỉ chắc chắn loan báo hạnh phúc đích thực, sung mãn và vĩnh viễn của Nước trời. Sống được như thế, chúng ta sẽ là những chứng nhân đời thường của Đức Kitô, theo gương của thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, và sẽ được chung hưởng hạnh phúc viên mãn với ngài, trong vinh quang Thiên Chúa.
Suy Niệm 2: Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng & thánh Phêrô Đoàn Công Quí: Tinh thần đồng trách nhiệm trong sứ mạng của Hội Thánh
(Đức cha Giuse Trần Xuân Tiếu 31-07-2010)
Thật tự hào cho giáo phận Long Xuyên, khi mô hình Hội thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm đã được thực hiện trước công đồng Vaticanô II cả trên 100 năm tại họ Đầu Nước, nay là Cù Lao Giêng, một trong những họ đạo cổ kính và điển hình của giáo phận, do cha sở họ đạo là linh mục Phêrô Đoàn Công Quí, và đại diện giáo dân là ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng.
Thật vậy, cha sở Phêrô và ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm trong sự cộng tác với nhau để điều hành sinh họat của họ Đầu Nước - Cù Lao Giêng. Đặc biệt là ông câu Phụng đã dâng hiến tài sản của gia đình mình cho Giáo Hội, để xây cất cơ sở vật chất như chủng viện, nhà dòng. Hơn nữa, cha sở Phêrô và ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm bằng sự đoàn kết với nhau trong chức linh mục của Chúa Kitô, để mỗi người theo sứ mạng của mình, phục vụ nhiệm thể Chúa Kitô. Riêng ông câu Phụng đã biến gia đình mình trở thành một Hội thánh tại gia, nơi mà trong thời bách hại, hàng giáo sĩ thường lui tới để trú ngụ, để ẩn náu và thi hành tác vụ linh mục, cụ thể là cử hành các bí tích cho giáo dân trong vùng. Nhất là cha sở Phêrô cùng với ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm bằng sự hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô trong cuộc tử đạo của mình. Máu của hai thánh đã hòa trộn với Máu Thánh của Chúa Kitô, cùng thấm đẫm tại phần đất của vùng Châu Đốc, An Giang. Như vậy, sự cộng tác, sự đoàn kết và hiệp thông là những bài học cho giáo phận Long Xuyên, cho hàng giáo sĩ cũng như giáo dân, về tinh thần đồng trách nhiệm được biểu hiện từ cuộc đời và cuộc khổ nạn của hai thánh Quí - Phụng.
Thực ra, không phải là do hai thánh Quí - Phụng, cũng không phải là do công đồng Vaticanô II đưa ra những bài học về tinh thần đồng trách nhiệm trong cộng đoàn Kitô hữu. Chính Chúa Kitô đã sống và đã dạy bài học này cho những người theo Chúa trong bầu khí của cộng đoàn các Tông đồ. Chúa đã muốn các ông cộng tác với nhau và với mọi người nên sai các ông đi từng hai người một. Chúa muốn các ông đoàn kết với nhau và với mọi người nên đề ra chương trình hành động chung là làm chứng và loan báo Tin mừng bình an. Và Chúa muốn các ông hiệp thông với nhau và với mọi người trong lý tưởng của Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.
Chúa Kitô đã dạy bài học tinh thần đồng trách nhiệm. Công đồng Vaticanô II và Liên Hội đồng Giám mục Á Châu trở về nguồn với tinh thần tham gia và hiệp thông. Như vậy, giáo phận Long Xuyên không có con đường nào khác ngoài con đường trở về xây dựng giáo phận thành một Hội thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm.
Sẽ rất hài lòng cho hai thánh tử đạo nếu giữa anh chị em và cha sở đã có những hợp tác chặt chẽ trong mục vụ, và đã có những nỗ lực giải quyết những chia rẽ, những bất hòa, để tránh tình trạng kình chống nhau trong họ đạo. Và ước mơ rằng họ đạo Cù Lao Giêng sẽ là nơi hành hương cấp giáo phận để tinh thần đồng trách nhiệm của hai đấng Thánh được suy tư, chiêm ngưỡng và được tiếp tục học hỏi như bài học cho các cộng đoàn Kitô hữu trong và ngoài giáo phận.
Xin hai thánh tử đạo là cha sở Phêrô và ông câu Phụng chúc lành cho chúng con, và tiếp tục giúp chúng con biết học bài học xây dựng Nước Thiên Chúa bằng tinh thần đồng trách nhiệm. Amen.
30/07 Hạt cải và nắm men
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hạt cải và nắm men.
Thứ hai tuần 17 thường niên – Thánh Phêrô Kim Ngôn, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình”
* Chào đời khoảng năm 380 ở miền I-mô-la, Ê-mi-li-a, cũng tại đó, người đã làm linh mục, rồi khoảng năm 424-431 được chọn làm giám mục Ra-ven-na. Trong tư cách mục tử, người nuôi dưỡng đoàn chiên đặc biệt bằng những bài giảng uyên thâm. Chắc hẳn vì thế mà người được mệnh danh là Kim Ngôn. Khi giảng, người luôn tâm niệm rằng: “Phải giảng cho dân chúng bằng ngôn ngữ của dân chúng”. Người qua đời khoảng năm 450.
Lời Chúa: Mt 13, 31-35
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".
Người lại nói với họ một dụ ngôn khác nữa mà rằng: "Nước trời giống như nắm men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men".
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: "Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn: Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Hạt Cải, Nắm Men
Dụ ngôn hạt cải và nắm men trong Tin Mừng hôm nay đều nhấn mạnh đến sự bất tương xứng của thời kỳ đầu của Nước Trời và của thời kỳ kết thúc. Dụ ngôn hạt cải nói đến sự tăng trưởng của Nước Trời theo chiều rộng, còn dụ ngôn nắm men trong bột ám chỉ chiều sâu, tức là sự biến đổi bên trong. Cũng như cây cải nhỏ bé thường thấy ở miền giáp hồ Tibêria có thể cao tới ba thước, Nước Trời cũng bắt đầu hiện diện từ thời kỳ truyền giáo của Chúa Giêsu và của Giáo Hội tiên khởi trong sự khó nghèo và thiếu thốn. Và đó là giáo huấn nền tảng của dụ ngôn hạt cải và nắm men.
Dựa vào những hình ảnh này, Chúa Giêsu cho thấy kiểu cách truyền giáo của Ngài không phù hợp với những chờ đợi của người Do thái, nghĩa là Nước Trời đến trong thầm lặng, như Chúa Giêsu đã nói: "Nước Thiên Chúa ở giữa các ngươi". Bởi vì thánh sử viết Phúc Âm sau thời kỳ truyền giáo của Chúa Giêsu trên đất Palestin, chúng ta có thể thấy ngay sự bành trướng đầu của Nước Trời và của Tin Mừng nơi các cộng đoàn Kitô tiên khởi. Thánh sử nói rõ: trên cành cây cải, chim trời có thể đến trú ngụ, điều này ám chỉ các dân ngoại được kết nạp vào Giáo Hội do Chúa Giêsu sáng lập.
Dụ ngôn men trong bột, một nắm men có thể làm dậy cả khối bột. Ý nghĩa và bài học của dụ ngôn này đi song song với dụ ngôn hạt cải. Men Nước Trời tức ơn thánh, dù ngấm ngầm, nhưng hiệu nghiệm nơi tâm hồn con người và trong sứ điệp của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã nói rõ về sức mạnh của men Nước Trời. Ngài không đến theo kiểu cách lôi kéo sự chú ý của con người. "Nước Thiên Chúa ở giữa các ngươi". Trong cử hành Thánh Lễ, Lời Chúa và Mình Chúa như men có sức làm lớn lên và biến đổi tâm hồn con người. Ai biết lãnh nhận với tâm hồn ngay thẳng, người đó sẽ được biến đổi nên giống Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy cầu xin cho Dân Chúa tức là Giáo Hội trở nên dấu chỉ của hạt giống và men của Nước Trời trong thế gian này, cho tới ngày Nước Chúa được hoàn tất trong vinh quang.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Một thân thể có tầm vóc Thiên Chúa.
Đức Giêsu còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác. Người nói: “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo vào ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được.” (Mt. 13, 31-33)
Hai dụ ngôn này (dụ ngôn hạt cải và nắm men) tóm tắt tất cả lịch sử cuộc đời và sứ điệp Đức Giêsu! sẽ là lầm lạc khi kêu gào cho chủ nghĩa chiến thắng, hoặc hiểu rằng dụ ngôn này chỉ áp dụng cho đời sống thiêng liêng của ta thôi. Khi nói về “Nước Thiên Chúa” Chúa Giêsu không nghĩ đến cá nhân nào, mà chỉ nhìn thân thể mầu nhiệm của Người trong tất cả quá trình khổ nạn và phục sinh, một thân thể ấy không ngừng lớn lên và phát triển.
Thân thể mầu nhiệm.
Thân thể ấy sẽ trải qua những cơn khủng hoảng, tất cả những cơn khủng hoảng của sự phát triển như những nổi loạn để tỏ tính độc lập tự chủ, những cơn bừng dậy của tuổi trưởng thành mà lại phủ nhận mình trưởng thành, không dám nhận trách nhiệm, từ chối cả những niềm vui của tuổi ấy.
Một thoáng nhớ lại lịch sử Giáo hội như thế, cho ta thấy rõ rằng tất cả chúng ta là Nước Thiên Chúa. Khi khẳng định như vậy, thiết tưởng ta không nên kết án lời cự tuyệt mạnh mẽ của những người khác, là tự kiêu tự đại về ưu thế, về chủng tộc được tuyển chọn của họ. Có lẽ đó chỉ là thái độ của một số cá nhân thôi, chứ không phải là giáo huấn của Chúa Giêsu.
Cây mà “Chim trời tới làm tổ trên cành được” Cây ấy đón nhận mọi loài chim chóc, không hề có sự phân biệt, vì cây không loại trừ một con chim nào, nhưng che chở tất cả, là nơi có muôn mầu muôn vẻ thanh bình.
Hạt giống Phúc Âm ấy, nắm men bé nhỏ kia là Đức Kitô và Nước Trời chính là lẽ sống của ta, là nguyên lý cho ta tìm được hạnh phúc và tình yêu.
Hãy làm thành những tế bào của con người.
Một người hoàn toàn hiến thân cho Nước Thiên Chúa, để cho Nước ấy biến đổi, tái tạo mình, thì đúng là tấm men vùi trong môi trường người ấy sống và ảnh hưởng tốt đến môi trường ấy. Sức sống nơi người ấy tác động đến tất cả những người chung quanh. Không phải những biến cố lịch sử lớn lao mới có tác động mạnh mẽ đến đời sống con người, nhưng cả đến những sinh hoạt rất đời thường vẫn diễn ra hằng ngày cũng khiến chúng ta cảm nhận được sức sống này. Khi một người có trái tim đầy tràn yêu thương thì tình yêu của người ấy luôn bộc lộ và tỏa làn sang người khác vậy.
SUY NIỆM 3: HÃY LÀ MEN CHO ĐỜI (Mt 13, 31-35)
Xem lại CN 16 TNA, CN 11 TN B
Ở đời, người ta thường xem nhẹ những điều nhỏ mọn và coi đó như là chuyện không cần quan tâm!
Tuy nhiên, những điều tưởng chừng như bé nhỏ ấy lại là nguyên nhân cần thiết để trở thành những điều lớn lao.
Thật vậy, trong nhà Phật có câu:
“Hãy nhìn một em bé
Xin người chớ xem thường
Trong em có chất liệu
Của một bậc đế vương”
Hay;
“Hãy nhìn một đốm lửa
Xin người chớ xem thường
Dù nhỏ bằng đầu đũa
Đốt cả rừng lẫn nương”.
Hôm nay, Đức Giêsu muốn dùng dụ ngôn“men trong bột” để ám chỉ Nước Trời. Thật vậy, được khởi đi từ những gì là nhỏ bé, đơn sơ, âm thầm trong sự khiêm tốn. Nhưng một khi đã hội đủ những cơ hội thuận tiện, Nước ấy sẽ lớn mạnh và lan rộng khắp nơi, khiến cho quyền lực của thế gian và ma quỷ có mạnh đến đâu cũng không thể thắng nổi.
Qua hình ảnh này, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta rằng: hãy bắt đầu hành trình đi tìm và sống những giá trị Tin Mừng trong sự khiêm tốn và âm thầm, chúng ta sẽ gặp được chân lý. Nước Trời chỉ đến với những người thực sự đơn sơ, chân thành.
Mỗi người Kitô hữu, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều được mời gọi trở nên chứng tá của Tin Mừng thông qua đời sống gương sáng của mình.
Mong sao mỗi chúng ta ý thức điều đó và thi hành cách xuất sắc như “men” được trộn vào trong bột và làm cho bột dậy men.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết mau mắn đón nhận thánh ý Chúa và sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng, nhờ đó, chính chúng con được biến đổi và những ai gặp chúng con cũng được biến đổi theo. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 4: Tất cả bột dậy men
Suy niệm:
Hội nhập văn hóa là việc mà nhà truyền giáo thời nay quan tâm.
Làm sao đưa Tin Mừng vào nền văn hóa của người bản xứ?
Làm sao đưa những nét đẹp của nền văn hóa bản xứ vào việc sống Tin Mừng?
Làm sao để Kitô giáo vừa mang nét mới mẻ của ơn cứu độ có tính phổ quát,
vừa mang tinh túy của từng vùng, từng nền văn hóa, tôn giáo, xã hội?
Đó là một nỗ lực đòi hỏi nhiều thời gian, trí tuệ và tình yêu.
Nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày qua đời của cha Matteo Ricci (1552-1610),
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã đề cao gương của vị tu sĩ Dòng Tên này.
Với thiện cảm sâu xa đối với văn hóa và tôn giáo của người Trung Hoa,
cha Matteo đã đem Tin Mừng đến để bổ sung những truyền thống tốt đẹp.
Cha hiểu biết về Khổng giáo như một nho gia uyên thâm,
và chấp nhận việc cúi mình để tôn kính Khổng Tử và các bậc tổ tiên.
Dùng kiến thức về khoa học của mình để phục vụ,
Cha là người vẽ bản đồ thế giới đầu tiên với nước Trung Hoa nằm ở giữa.
Mười năm cuối đời sống ở Bắc Kinh, cha viết sách biện giáo,
quen biết với nhiều học giả trong triều đình và đưa họ vào Kitô giáo.
Cách truyền giáo của cha Matteo khiến ta nghĩ đến dụ ngôn men và bột.
Người phụ nữ đã trộn men vào một lượng bột rất lớn.
Ba đấu bột bằng khoảng 50 ký bột, làm bánh đủ cho cả trăm người ăn.
Điều đáng ta để ý ở đây là chuyện trộn men vào bột.
Một lượng men nhỏ được người phụ nữ trộn đều với khối bột lớn.
Đây là một công việc vất vả, làm bằng tay.
Khi được trộn nhuyễn, ta không còn phân biệt được men với bột
Qui trình lên men đòi hỏi thời gian.
Men phát huy sức mạnh tiềm ẩn của nó, khi làm cả khối bột lên men, nở ra.
Bấy giờ ta mới nhận ra sự hiện diện ẩn dấu và tác động của men trong bột.
Khi ăn những tấm bánh thơm, chẳng ai thấy men, vì men đã thành bánh rồi.
Nhưng không có men thì cũng chẳng có bánh.
Đức Giêsu dùng dụ ngôn này để nói về Nước Trời.
Khởi đầu chỉ là một số lượng nhỏ bé,
nhưng với thời gian sẽ gây được một ảnh hưởng lớn lao và tốt lành.
Tỷ lệ người Công giáo tại Việt Nam không đông, một lượng men nhỏ.
Nhưng nếu chúng ta khiêm tốn có mặt và phục vụ giữa lòng dân tộc,
tôn trọng những giá trị văn hóa và tâm linh của đồng bào,
chúng ta có hy vọng làm cho khuôn mặt của Công giáo
trở nên phong phú hơn, dễ mến hơn và hấp dẫn hơn.
Phải chấp nhận như men bị chôn vùi, biến mất trong đống bột.
Phải có mặt ở mọi nơi, mọi ngành nghề, mọi lãnh vực nghiên cứu.
Nhưng cũng phải kiên nhẫn chờ men phát huy tác dụng.
Nếu chúng ta chẳng làm cho đất nước này thành tấm bánh thơm ngon,
nếu môi trường chúng ta đang sống, đang làm việc chẳng có gì tiến bộ,
chẳng công bằng hơn, huynh đệ hơn, hạnh phúc hơn, trong sạch hơn…
thì có khi chúng ta phải tự hỏi xem mình có còn là thứ men tốt không.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối,
và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian
một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến ru bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui
của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
29/07 Năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá
- Viết bởi Ga 6, 1-15
Năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá.
Chúa Nhật tuần 17 Thường Niên năm B.
"Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích".
Lời Chúa: Ga 6, 1-15
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật.
Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?" Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm.
Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút". Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người". Chúa Giêsu nói: "Cứ bảo người ta ngồi xuống". Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn.
Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích.
Khi họ đã ăn no nê, Người bảo các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi". Họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.
Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: "Thật ông này là Đấng tiên tri phải đến trong thế gian". Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: 2V. 4, 42-44; Ep. 4, 1-6; Ga. 6, 1-15
1. Bánh hóa nhiều
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe tôi ghi nhận hai thái độ để chúng ta suy nghĩ, đó là thái độ của các tông đồ và thái độ của dân chúng.
Thực vậy, Chúa Giêsu thương xót dân chúng vì đã ba ngày trời họ đi theo Ngài mà không có lấy một hột cơm bỏ vào bụng. Ngài biết mình sẽ giải quyết như thế nào. Có ông đề nghị: Thôi hãy giải tán mỗi người mỗi đường để họ tự lo lấy. Có ông đưa ra một giải pháp không thể thực hiện được: dẫu có đến 200 đồng bạc cũng không mua đủ thức ăn. Có ông đưa ra giải pháp tưởng như vô lý: ở đây chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá làm sao nuôi đủ đám đông. Các tông đồ của Chúa Giêsu đã thực thi bác ái như thế đấy. Phải chăng vì các ông không có tình yêu nên không làm phép lạ được.
Còn chúng ta, những tông đồ của Chúa trong ngày hôm nay, chúng ta sẽ nghĩ gì? Chắc chắn chúng ta không có hũ gạo như tiên tri Elia, phân phát hoài mà không hết. Chúng ta cũng chẳng có túi tiền không bao giờ cạn. Nhưng có lẽ vì không có tình yêu nên không làm được phép lạ nào cả. Một lời nói, một cử chỉ cũng có thể hoá nên phép lạ để người khác được ấm bụng, được an lòng.
Còn đối với đám đông dân chúng theo Chúa Giêsu, họ đang đói bụng, đang dao động, đang băn khoăn, đang lo âu, thế mà Chúa Giêsu lại bảo họ: Các con hãy ngồi xuống. Như thế, Ngài đòi hỏi dân chúng một điều khó khăn nhất, đắt giá nhất, đó là điều họ không muốn làm là phải ngồi xuống. Vì bao lâu họ còn đứng, còn đi lại được, họ còn có cơ may hy vọng kiếm chút gì để ăn. Một vài người, bằng hành vi phó thác đã bắt chước làm theo. Họ ngồi xuống tức là họ đã từ bỏ mình, từ bỏ ý riêng để cùng nhau làm một hành vi đức tin và đức mến. Chính vì họ mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ tình yêu, cho bánh hoá ra nhiều để nuôi sống họ giữa chốn hoang vu.
Có tình yêu mới phát sinh ra phép lạ. Bánh được chuyền tay nhau. Phép lạ đã xảy ra và mọi người được ăn no nê.
2. Chia sẻ
Quan đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy em nhỏ mà Philipphê giới thiệu đã nhường cho Chúa Giêsu 5 chiếc bánh và 2 con cái, để rồi từ chút lương thực khiêm tốn này, Chúa Giêsu đã làm phép lạ nuôi sống một đám đông cả ngàn người nơi hoang địa. Chúng ta ca ngợi thái độ của em nhỏ vì đó là thái độ chia sẻ, thắm tình bác ái và yêu thương, bởi vì nếu em nhỏ ấy vì ích kỷ, bo bo gữ lấy khẩu phẩn của mình, thì chưa chắc là phép lạ đã xảy ra.
Từ ý tưởng này, chúng ta đi vào bí tích Thánh Thể. Chúng ta có thể nói bí tích Thánh Thể chính là bí tích của sự chia sẻ, chính là bí tích của tình bác ái yêu thương. Thực vậy, khi lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ: Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là mình Thầy. Các con hãy cầm lấy mà uống, vì này là chén máu Thầy. Như vậy khi lên rước lễ, chúng ta cùng chia sẻ một của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn, đó là Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Hay như lời thánh Phaolô đã viết: Chúng ta tuy nhiều nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và trở nên một thân thể Đức Kitô.
Tinh thần chia sẻ và yêu thương này được biểu lộ một cách rõ ràng hơn qua nghi thức bẻ bánh, tức là bí tích Thánh Thể của những thế kỷ đầu. Thời ấy mỗi khi đi tham dự Thánh lễ, người ta đem theo bánh rượu và lương thực. Một phần được dùng để cử hành nghi thức, một phần được dùng để nuôi sống những người phục vụ bàn thờ, còn một phần được dùng để làm phúc bố thí cho kẻ nghèo. Rồi trong đời sống, người ta gom góp mọi sự làm của chung và phân phối cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của mình.
Mặc dù hình thức ấy ngày nay không còn nữa, nhưng tinh thần chia sẻ và yêu thương vẫn còn là điều chúng ta phải thực hiện mỗi khi chúng ta lãnh nhận bí tích Thánh Thể. Tinh thần ấy không phải chỉ được biểu lộ trong nhà thờ, khi chúng ta lên rước lễ, khi chúng ta chia sẻ Mình Thánh Đức Kitô, mà còn phải được biểu lộ trong đời sống bằng những hành động nhường cơm sẻ áo, kích lệ và nâng đỡ những người chung quanh, cho dù sự chia sẻ và nâng đỡ ấy chỉ là nhỏ bé như tục ngữ đã bảo: Miếng khi đói bằng gói khi no. Lá lành đùm lá rách. Vậy chúng ta đã thực hiện cái tinh thần ấy như thế nào.
Nhiều khi ở trong nhà thờ chúng ta rất đạo đức và sốt sắng, nhưng khi bước xuống lòng cuộc đời, chúng ta không chịu chia sẻ và giúp đỡ người khác, trái lại còn bóc lột, hà hiếp người khác bằng những hành động gian tham và bất công, bằng những cách đối xử tệ bạc và hận thù. Bởi đó, từ hình ảnh em nhỏ dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và 2 con cái, chúng ta hãy kiểm điểm xem chúng ta đã thực hiện được tinh thần chia sẻ và yêu thương mà bí tích Thánh Thể đòi buộc chúng ta hay chưa?
3. Cộng tác với Chúa.
Hãy cộng tác với ơn Chúa.
Thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta, Ngài cần chúng ta đồng ý và cộng tác với Ngài, bởi vì Ngài sẽ không thể cứu độ những ai không muốn. Và như thế, sự cộng tác của chúng ta dường như là một điều kiện cần thiết luôn đòi buộc mỗi người.
Hẳn chúng ta còn nhớ, trong hoang địa, ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu: Hãy làm cho những hòn đá này trở nên bánh mà ăn. Thế nhưng qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã không hành động như vậy. Ngài đã làm phép lạ từ năm chiếc bánh và hai con cá của một em nhỏ, hay nói đúng hơn từ một khẩu phần khiêm tốn mà một bà mẹ khôn ngoan và đầy tình thương đã đặt vào tay em, trước khi em lên đường. Sự góp phần của em tuy nhỏ bé nhưng Chúa đã làm cho trở nên to lớn, khả dĩ hàng ngàn người được no đủ giữa một nơi hoang vắng. Đó cũng là cách thức Chúa thường làm trong dòng lịch sử.
Thực vậy, trong Cựu Ước Đavít chỉ là một cậu bé chăn chiên tầm thường, nhưng cộng tác với Chúa, cậu đã đánh thắng tước Goliat và trở nên một vị vua nổi tiếng của dân Do Thái. Cũng vậy, Giêrêmia chỉ là một cậu bé còn nói cà lăm, nhưng vâng lệnh Chúa, đã trở nên một tiên tri sáng chói.
Bước sang Tân Ước, chúng ta cũng thấy được một lề lối, một cách thức hành động như thế. Mẹ Maria chỉ là một cô thôn nữ âm thầm bé nhỏ, không được ai biết đến. Nhưng sau lời xin vâng, cộng tác với Chúa, Mẹ đã trở nên Mẹ của Đức Kitô, Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của chính Thiên Chúa.
Mười hai tông đồ cũng vậy. Các ông phần đông chỉ là những ngư phủ quê mùa và dốt nát, đơn sơ và chất phác. Thế nhưng, một khi đã đáp trả lại tiếng gọi của Chúa, thì Chúa đã biến đổi để các ông trở thành những sứ giả Tin Mừng, những chứng nhân của tình thương và chân lý. Tiếng nói của các ông đã vang vọng khắp nơi và ảnh hưởng của các ông trải dài trong dòng thời gian.
Nhìn vào lịch sử Giáo Hội, chúng ta cũng nhận thấy biết bao nhiêu kẻ tội lỗi, biết bao nhiêu kẻ tầm thường, nhưng một khi quay trở về cùng Chúa và nhất là cộng tác tích cực với Chúa, đã làm nên những việc trọng đại và kỳ diệu.
Rất có thể phần cộng tác của chúng ta thì nhỏ bé và tầm thường, nhưng dưới tác động của Chúa, nó sẽ trở nên to lớn và có một giá trị đáng kể dưới mắt Chúa. Một giọt nước lã, thì chẳng có gì đáng kể, nhưng nếu giọt nước lã ấy được hoà tan trong chén rượu, và sau lời truyền phép của vị linh mục, cũng sẽ trở nên máu thánh Đức Kitô.
Bởi đó điều quan trọng là chúng ta đã thực sự sống theo những hướng dẫn của Chúa hay chưa? Chúng ta đã thực sự cộng tác với Ngài trong việc thánh hoá bản thân cũng như cải tạo môi trường xã hội hay chưa?
4. Sống quảng đại
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu này được thể hiện rõ nhất và cụ thể nhất nơi con người Đức Giêsu. Thế nên, đến trong thế trần Đức Giêsu vừa rao giảng Nước Trời, vừa làm nhiều phép lạ chữa mọi thứ tật bệnh cho dân chúng. Không những Ngài quan tâm đến phần rỗi nhân loại mà Ngài còn quan tâm đến thân xác con người. Ngài đem lại ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác. Và hôm nay Ngài làm phép lạ để cho dân chúng ăn no nê. Ngài đã cho các môn đệ cộng tác trong phần của mình để có phép lạ xảy ra.
Con người cần sống liên đới trong tình thương. Từ phép lạ này, Thánh Gioan trình bày cho chúng ta biết các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông cũng có lòng thương nhưng chỉ ở mức "tội nghiệp" họ nên thưa với Chúa: "Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn". Đó là thứ yêu thương bình thường. Nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, vì thế, Chúa Giêsu muốn các môn đệ đi xa hơn, thể hiện tình thương bằng việc làm cụ thể, liên đới với tha nhân trong đó có phần của các ông đóng góp tích cực, có phần các ông cộng tác "các con hãy cho họ ăn".
Thực tế, có tấm lòng thương người khác là một điều tốt rồi nhưng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, thực sự. Chúa Giêsu thể hiện và Ngài muốn chúng ta làm như thế. Như vậy, có lòng trắc ẩn, cảm thông là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất là biết chia sẻ, biết san sẻ, giúp đỡ một cách cụ thể. Chúa không đòi chúng ta phải làm quá sức mình, hay những việc ngoài khả năng nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, giúp đỡ, phải biết làm những gì có thể làm được trong tầm tay, trong khả năng của mình, phần còn lại Chúa sẽ tiếp tay thực hiện. Điều khác cũng quan trọng không kém là không phải cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra người khác cũng là con Thiên Chúa, là anh em của chúng ta.
Hơn nữa, chúng ta hãy biết cộng tác. Thật thế, nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng ngàn người ăn no nê, thoải mái. Có thể nói cũng vậy, nếu không có bánh, Chúa Giêsu vẫn có thể làm được phép lạ. Nói tóm lại, một mình Chúa có thể làm được mọi sự, không cần ai cộng tác, không cần vật liệu nào cả, với quyền năng vô biên, bởi vì theo Thánh kinh, từ thuở ban đầu Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ từ trong hư vô (Stk 1, 1 - 24) Chúa chỉ cần phán một lời là tức khắc có ngay, tức khắc có dư thừa bánh cho mọi người ăn. Tuy nhiên ở đây Chúa muốn cho các môn đệ và tất cả chúng ta thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, dù rất nhỏ của một em bé. Em đã trao tất cả cho Chúa và Ngài dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Vì thế, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm phép lạ.
Như vậy, Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh, nên Chúa bảo các ông: "Anh em hãy cho họ ăn", nên chúng ta thấy khi các môn đệ tìm được năm chiếc bánh và hai con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta là Chúa cần có sự cộng tác của mỗi người trong chương trình của Thiên Chúa. Đối với chúng ta, bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng hy sinh, không phải chỉ trong đời thường thôi, nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Augustinô nói: "Thiên Chúa tạo dựng con, Ngài không cần hỏi ý kiến con, nhưng để cứu chuộc con, Ngài cần có sự cộng tác của con".
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa Giêsu bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng chúng ta để Ngài sử dụng theo ý Ngài muốn? Nói rộng hơn, chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi khả năng của mình như người đàn ông trong bài đọc thứ nhất và như cậu bé trong bài Phúc Âm hôm nay đã làm chưa? Chúa Giêsu đang ngỏ lời với chúng ta "Ta cần lòng quảng đại của các con". Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh Thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì. Chẳng hạn như thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta. Ngài sẽ sử dụng nó để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã biến đổi những ổ bánh và hai con cá trong bài Phúc Âm hôm nay vậy. Đấy chính là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta trong những bài đọc hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa cho chúng con biết quảng đại bằng cách cộng tác với nhau và nhất là cộng tác với ơn Chúa để làm cho cuộc đời này lan tràn tình thương của Chúa và phép lạ được tiếp tục thể hiện.
5. Cơm bánh hằng ngày
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Cơm bánh ai cũng cần mỗi ngày để sống. Lời Chúa cho thấy tiên tri Elisha cho dân bánh ăn, nhưng lần tới cội nguồn thì chính Thiên Chúa mới là Đấng cho dân bánh ăn. Thiên Chúa nuôi nấng và dưỡng dục dân Người. Thiên Chúa cũng mời gọi mỗi người hãy giúp người khác sống.
I. Tiên tri cho dân ăn theo lệnh của Đức Chúa
Để có một chén cơm miếng bánh, con người đã phải tốn bao công lao. Từ mảnh đất khô cằn, con người đã phải cày xới, gieo hạt, vun trồng; một khi hạt lúa chín, con người tốn công lao sức lực để thu lượm, làm ra hạt, phơi nắng để có hạt lúa đạt yêu cầu. Để đến được với người dùng, bao người đã phải làm công tác chuyên chở; và rồi nhờ người nghiền bột hay nấu cơm, với bao tâm sức và tình yêu, mới có miếng cơm tấm bánh cho con người ăn và bồi bổ sức lực. Với bao công sức và tình yêu của tha nhân, tôi mới có cơm bánh để sống mỗi ngày.
Tiên tri Elisha cho dân ăn bánh theo lệnh của Đức Chúa, tuy chỉ có hai mươi ổ bánh nhưng cả trăm người ăn mà còn dư. Đây là dấu lạ tiên tri Elisha đã làm. Lịch sử dân Do Thái cho thấy, ngay thời dân ra khỏi Aicập, khi họ lang thang trong hoang địa không nước uống không bánh ăn, Thiên Chúa cũng đã ban Manna để nuôi sống dân. Đức Giêsu trong một lần đối đáp với người Do Thái, đã nói: không phải Môsê ban bánh bởi trời nhưng chính Cha Ta ở trên trời đã ban bánh nuôi cha ông các ngươi (Ga.6, 32).
“Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề khó nhọc cũng là uổng công; thành kia mà Chúa không gìn giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm” (Tv.127, 1). Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho cây hạt nẩy mầm, đơm bông kết trái. Con cái được cha mẹ thương yêu, được nuôi nấng giáo dục; nhưng truy tới ngọn nguồn, chính Thiên Chúa là cha là mẹ, chính Thiên Chúa là Đấng yêu thương và nuôi dưỡng con người qua cha mẹ mỗi người.
II. Đức Giêsu là bánh nuôi sống con người
Đức Giêsu cũng hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn. Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều vì Ngài thương cảm dân chúng đói khát. Khi dân chúng nhận ra Ngài là một tiên tri và muốn tôn Ngài làm vua, Ngài đã trốn lên núi một mình cầu nguyện. Chính vì thương dân chúng, nên Ngài đã cho dân ăn. Đức Giêsu chỉ hóa bánh ra nhiều cho một số rất ít người ăn; và đây là dấu chỉ cho điều gì tuyệt vời hơn Ngài sẽ làm sau này.
Đức Giêsu không chỉ hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng, nhưng Ngài đã ban chính thân mình Ngài làm của ăn của uống nuôi sống con người. Đức Giêsu đã là tấm bánh bẻ ra cho con người, để con người được sống. Bàn tiệc Mình Máu Thánh Đức Giêsu Kitô quy tụ Kitô hữu, nuôi sống đời sống đức tin của mỗi Kitô hữu, và cùng trong bàn tiệc Thánh Thể dân Chúa được Lời Chúa dạy dỗ mỗi ngày.
Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa thành người. Chính vì yêu con người mà Lời Thiên Chúa đã thành người. Ngài thành người để nên mẫu gương sống cho mọi con người. Ngài vẫn luôn kết hiệp với Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, Ngài cũng phải đói phải khát, Ngài cũng sống những nặng nề của thân xác con người. Ngài là một người trọn vẹn như bao người trên trần gian này, như mỗi người chúng ta. Ai cảm thấy gì, Ngài cũng cảm thấy như vậy. Ngài chỉ khác hầu hết người ta trong việc sử dụng tự do: không bao giờ Ngài phạm tội. Không bao giờ Ngài làm điều gì mà Ngài thấy không được phép làm. Hơn nữa, Ngài sẵn sàng hủy bỏ chính mình, để ích lợi cho con người, những người mà Ngài chấp nhận như anh em mình.
III. Mỗi người được mời gọi để trở nên tấm bánh giúp tha nhân sống
Một người đói khi được cho ăn “nhưng không” sẽ dễ dàng cảm nhận tình yêu được trao ban qua miếng cơm tấm bánh hơn một người sung túc đầy đủ cơm bánh hằng ngày. Một người nghèo đói mà có cơm bánh, sẽ dễ dàng rung động và hạnh phúc trước tình yêu của Thiên Chúa và ân nhân hơn là những người giầu có sung túc. Dưới khía cạnh này, nghèo là một mối phúc vì nó giúp con người cảm nhận tình yêu và hạnh phúc.
Mỗi người được mời gọi để trở thành tấm bánh cho người khác, để giúp người khác sống và sống triển nở hạnh phúc. Để có thể trở thành tấm bánh giúp nuôi sống người khác, mỗi người cũng phải hy sinh công sức thời gian như một người làm nông vất vả, như một người nội trợ làm bánh, như một người dọn bàn, như một người phục vụ, để trở thành dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa cho tha nhân.
Mỗi Kitô hữu được gọi để trở nên một Giêsu khác, nên giống thầy Giêsu chí thánh, sống vì mọi người và cho mọi người. Một người làm cha làm mẹ được mời gọi trở nên tấm bánh cho con cái mình; những mục tử được mời gọi trở nên tấm bánh cho đoàn chiên, để đoàn chiên có thể được sống, sống triển nở và hạnh phúc. Mỗi người là con cái Thiên Chúa, có Thiên Chúa là Cha mình, và Thiên Chúa mời gọi mỗi người trong cách sống cách cư xử hãy trở nên giống Thiên Chúa, trở nên giống Đức Giêsu. Khi mỗi người nên giống Đức Giêsu, cuộc sống của họ và của những người sống với họ sẽ bình an và hạnh phúc hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Một người nói: “Qua miếng cơm tấm bánh con người có thể nhận ra Thiên Chúa hiện diện và yêu thương”. Theo bạn, người nói câu này có là người thực tế không? Tại sao?
2. Lời mời gọi trở nên tấm bánh cho tha nhân, là gánh nặng hay vinh dự cho bạn? Tại sao?
6. Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)
CHÚA GIÊSU CẦM LẤY BÁNH TẠ ƠN
VÀ PHÂN PHÁT CHO HỌ ĂN NO NÊ
Từ ngày 18 tháng 06 đến ngày 18 tháng 07 năm 1994, màn hình ti vi thế giới chiếu hai cảnh trái ngược nhau. Một cảnh hàng triệu người Rwanda tị nạn, đói khổ, đang chạy trốn cuộc tàn sát chủng tộc đẫm máu. Một cảnh hơn ba triệu rưỡi người kéo nhau đi xem 52 trận đấu bóng đá cúp thế giới tại nước Mỹ, họ tiêu xài cả chục tỷ dollars. Hai phần ba nhân loại đói khổ vì tầng lớp cường quyền tham vọng gây ra cảnh chiến tranh, đàn áp, bóc lột. Một phần ba giàu có, không biết chia sẻ cho người nghèo, mà chỉ lo ăn chơi phung phí. Họ lấy đâu ra tiền của đó? Không phải lấy ở loài người vì người ta sinh ra trần trụi như ông Gióp nói: “Tôi sinh ra trần truồng”. Không phải moi của trời đất, vì trời đất vô tri vô giác, biết gì mà cho. Phải nói như Kinh Thư của tổ tiên các dân tộc phương Đông rằng: “Thiên sinh chư dân hữu vật, hữu tắc” – Trời sinh muôn dân, cho có muôn vật, phép tắc. Người Việt Nam cũng nói: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Như vậy, tất cả của cải trong trời đất đều do Thiên Chúa ban. Thế mà họ dư tiền của, họ không biết chia sẻ cho đồng loại nghèo đói. Họ sẽ bị Thiên Chúa đòi đến mà bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, Ta đã tha hết nợ cho ngươi … thì ngươi, ngươi cũng phải thương xót đồng loại như chính Ta đã thương xót ngươi chứ?” (Mt. 18, 32-33). Họ chẳng khác gì như những tá điền sát nhân, giết người cướp vườn nho của chủ (Mt. 21, 33-41). Họ sống trái ngược với Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy đám dân chúng đói khát, Người liền hỏi môn đệ Philip: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?” Philip đã cố gắng đáp với giọng bất lực: “Dạ, dù có mua đến hai trăm đồng bánh cũng không đủ cho mỗi người một chút”.
Thời đó hai trăm đồng có thể mua được 4.000 chiếc bánh như ngày nay. Nhưng Thầy và môn đệ lấy đâu ra số tiền lớn đó. Dù có tiền, thì ở nơi đồi núi hoang vu, lấy đâu ra bánh cho họ ăn, vì chỉ kể số đàn ông đã tới năm ngàn.
Anrê còn bồi thêm một câu tuyệt vọng nữa: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá”. Cho thấy đám dân chúng quá nghèo. Họ theo Chúa chỉ có hai bàn tay trắng. Họ lấy đâu ra ăn. Tin mừng nói: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ ăn”. Người đã dâng lời tạ ơn Chúa Cha. Người biết Chúa Cha giàu lòng thương yêu dân chúng. Người đã cầu xin Chúa Cha nhìn đến nỗi khổ của dân chúng. Nhờ đó, họ muốn ăn bao nhiêu tùy ý. Họ được ăn no nê thỏa thích, nên ào ào chạy đến tôn vinh Chúa Giêsu làm vua.
Chúa Giêsu lánh mặt, đi lên núi một mình, vì đó là thói tôn vinh thế gian. Trước kia, Người đã thẳng tay đuổi tướng quỷ đem bả vinh hoa cai trị cả thiên hạ ra cám dỗ Người.
Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho họ ăn, không phải để được tôn vinh, mà để cho họ thấy tình thương của Thiên Chúa hằng nuôi sống loài người từ khi tạo thành vũ trụ vạn vật, như Thánh vịnh 144, 16: “Chúa thương mở tay ra và thi ân cho mọi sinh vật được no nê”. Suốt chiều dài lịch sử loài người hoàn toàn sống nhờ vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa không dựng nên vũ trụ vạn vật, như một kho tàng vô tận, con người phải tự lực cánh sinh thì có lẽ chỉ năm mười phút, cả loài người đều bị tiêu diệt. Thật vậy, những thứ con người cần thiết nhất, cần nhiều nhất, như không khí, nước uống, ánh sáng, nhiệt lượng, môi sinh v.v… thì con người hoàn toàn hưởng không, không phải làm gì. Thiên Chúa chỉ muốn con người cộng tác một chút xíu, như cày cấy, chăm bón, gặt hái, biến chế cho có lương thực ăn uống và đồ dùng tạm bợ. Sự cộng tác đó quá bé nhỏ, như em bé chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá dâng lên Chúa Giêsu để Người làm phép lạ cho hơn chục ngàn người ăn, nếu kể cả nữ giới và thiếu nhi.
Nhưng một chút đóng góp đó thôi cũng đủ cho Thiên Chúa hài lòng để Ngài ban cho những phép lạ vô cùng lớn lao hơn nữa như phép lạ, phép Thánh Thể. Không phải vô tình mà thánh Gioan viết: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua”. Nói đến lễ Vượt qua là nói đến cuộc giải phóng dân Do thái thoát ách nô lệ Ai cập, nói đến cuộc phục sinh cả một dân tộc chết trong nơi lưu đầy, chết trong thờ tà thần. Thánh Gioan nói đến lễ Vượt qua, chính là để cho mọi Kitô hữu nhớ đến Đức Giêsu đã vượt qua cái chết để sống lại, và tín hữu muốn vượt qua cái chết để sống lại vinh hiển với Đức Giêsu thì phải ăn bánh hằng sống, “chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga. 6, 51).
Lạy Chúa, Chúa không ngừng kêu gọi con như hiền triết Diogène đã khuyên: “Đừng bao giờ sung sướng được làm con heo vỗ béo”. Đừng bao giờ quên rằng Đức Giêsu đã cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho họ ăn no nê. Xin cho con biết dâng lên Chúa hằng ngày một chút bánh như em bé có năm chiếc bánh và hai con cá để Chúa làm phép lạ nuôi sống muôn người.
7. Những người thiện nguyện – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Hàng năm, cứ vào ngày 5-12 toàn thế giới mừng ngày "Những Người Thiện Nguyện Quốc Tế". Đây là ngày dành để tri ân những con người hiến thân phục vụ không công cho đồng loại, và cũng là ngày mời gọi mọi người dấn thân phục vụ tha nhân.
Được thành lập từ năm 1986, đến nay tổ chức đã có khoảng 35 cơ quan thiện nguyện chiêu mộ và gửi người đi khắp nơi để phục vụ mọi tầng lớp trong xã hội.
Từ một thanh niên làm việc tại các nước nghèo cho đến chuyên viên tổ chức các cuộc lạc quyên. Từ một cán sự y tế phục vụ thổ dân Châu Phi cho đến các chuyên gia phục vụ dự án phát triển các nước thuộc Thế giới thứ ba. Tất cả đều được thúc đẩy bởi một tinh thần phục vụ yêu thương, một tấm lòng nhân ái vị tha.
Ngày Quốc Tế Những Người Thiện Nguyện là bài ca dành cho một nhân loại đang nỗ lực vươn tới một thế giới đầy tình nhân ái.
***
Đức Giêsu chính là mẫu gương sáng ngời của những con người thiện nguyện. Người không chỉ sống nghèo, mà còn sống cho người nghèo. Người không chỉ rao giảng Nước Trời, mà còn chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người đem ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Hôm nay, Người "nuôi năm ngàn người ăn no". Người biết lòng họ rất vui khi nghe giảng, nhưng Người cũng biết bụng họ rất đói, Người muốn tặng họ một bữa ăn đơn giản, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời. Bữa ăn tràn đầy niềm vui.
Nhưng niềm vui chỉ được trọn vẹn khi có những con người thiện nguyện: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?" (Ga.6,5). Đức Giêsu đặt các tông đồ vào nỗi bận tâm của Người. Người cần sự cộng tác của họ. Người cần những con người thiện nguyện. Người cần một Anrê giới thiệu một bé trai. Người cần một bé trai dâng tặng bữa ăn trưa của mình. Người cần các tông đồ ổn định chỗ ngồi. Chính nhờ những con người thiện nguyện ấy, mà phép lạ được thực hiện.
Năm 1999 Giải Nobel Hòa Bình đặc biệt dành cho tập thể những con người thiện nguyện. Đó là "Tổ Chức Các Thầy Thuốc Không Biên Giới". Những con người này suốt đời hiến thân cho tha nhân không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị. 980.000 đôla tiền thưởng của họ cũng sẽ được dành cho những con người bất hạnh trên toàn trái đất.
Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giàu sang phú quí. Vậy cái đói trên thân xác vẫn còn làm quay quắt con người thời nay. Có biết bao tâm hồn thiện nguyện xót xa trước cảnh đói nghèo đã bắt tay vào cuộc với niềm tin: dù chỉ với "năm chiếc bánh và hai con cá". Thiên Chúa cũng sẽ làm cho con người được no nê ân phúc. Người sẽ biến đổi gương mặt thế giới trở nên nhân bản hơn. Người sẽ tô điểm cho bộ mặt trái đất trở nên tươi tốt hơn.
Thế giới này cần những con người thiện nguyện dám sống chết cho tha nhân. Thế giới này cần các tín hữu Kitô dám đưa những bàn tay ra để chia sẻ nâng đỡ. Thế giới này cần có những Phanxicô Assisi, Mahatma Gandhi, Albert Shcweitzer, Têrêxa Calcutta… để ra đi phục vụ muôn người khốn khổ bất hạnh.
****
Lạy Chúa, Chúa không ngừng khơi dậy trong chúng con những tâm hồn quảng đại, những con tim hiến thân cho đồng loại. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng góp phần bé nhỏ của mình trong công việc phục vụ anh em nghèo đói chung quanh chúng con. Amen.
8. Ước mơ bình thường được đáp đền đặc biệt
Hạnh phúc đâu chỉ có cơm ngon và áo đẹp! Khi đời sống con người ngày càng không đơn giản, quan niệm về hạnh phúc cũng lắm phức tạp. Khi nhu cầu mỗi ngày một cao thì quan niệm về hạnh phúc cũng dần dần đổi khác. Người sống trong đói nghèo hạnh phúc chỉ là bữa cơm no. Người sống trong binh biến, hạnh phúc là nỗi khát mong xoá bỏ hận thù, im bặt tiếng súng. Nhưng khi mọi nhu cầu thường ngày được đáp ứng người ta lại hướng về những ước vọng cao hơn, xa hơn: nhu cầu chiếm hữu, nhu cầu muốn trổi vượt hay chinh phục vũ trụ thiên nhiên.
Ngày 20.7.2009 vừa qua thế giới kỷ niệm 40 năm lần đầu tiên con người đặt chân lên cung trăng ngày 20.7.1969. Hai tên tuổi được nhắc đến là Amstrong và Buzz Aldrin là những người khai màu cho những ước mơ lớn và đã trở thành hiện thực. Con người đã làm được điều mình ước mơ.
Nhìn đoàn dân đi theo Chúa Giêsu mỗi người mang một ước mơ khác nhau. Người theo vì sự hiếu kỳ muốn chứng kiến điềm lạ. Người theo kiểu "phong trào" để giống với bao nhiêu người khác. Người theo với hy vọng đổi đời theo nghĩa trần thế. Người theo với ý hướng tôn giáo như Tin Mừng mời gọi: Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần. Phép lạ hoá bánh ra nhiều hôm nay là dấu hiệu đáp đền cho những ước vọng dân chúng. Đây là bữa ăn đặc biệt vì có nhiều điểm đặc biệt.
Đặc biệt vì không mất "tiền"
Nói đến bữa ăn không mất tiền không mang ý nghĩa tính toán thiệt hơn, lời lỗ cho bằng nhắc nhớ đây là ân ban của Thiên Chúa. Một ân ban mà con người có được không tốn một đồng xu. Ân ban vừa đáp ứng nhu cầu tâm linh vừa lắp đầy cả nhu cầu vật chất.
Những ai bước đi theo Chúa, cách này cách khác đều có quà tặng của Người. Có những bệnh nhân được chữa khỏi dọc đường. Có kẻ tội lỗi được kêu mời hoán cải. Khi thấy họ còn khắc khoải về phận người thì Chúa Giêsu nói cho họ về Tám Mối phúc thật.
Nhu cầu tâm linh đã được chú ý nhưng nhu cầu vật chất cũng được quan tâm. Chúa Giêsu đã thấy được cái đói rã rời, mệt lã và cả cái đói khắc khoải, lo âu. Nhiều cái đói hoà trộn với nhau làm choán ngợp phận người. Có cái đói có tiền mới thoát khỏi, có cái đói có tiền cũng chẳng ăn thua. Chính Chúa xuất hiện đã làm tan biến mọi điều mà không cần con người phải vay trả trả vay.
Đặc biệt vì cần đến "tình"
Tình thương Thiên Chúa luôn dạt dào nhưng công việc của Ngài không làm cách đơn phương. Ngài muốn con người có phần cộng tác. Dù đóng góp nhỏ nhoi nhưng đó là dấu hiệu của lòng thành. Chữ "tình" muốn nói đến ở đây đó là tình thương chia sẻ, tình thương quan tâm đến người. Quan tâm bằng cái nhìn thấu hiểu, chia sẻ bằng những gì sẵn có trong tay.
Theo William Barclay, năm chiếc bánh lúa mạch của bé trai là loại bánh rẽ tiền. Bánh lúa mạch là loại bánh bị khinh chê, vì lúa mạch là lương thực của gia súc. Do đó bánh lúa mạch là bánh của người nghèo. Còn cá cũng vậy, kẻ nghèo đâu được ăn cá tươi. Cá đứa bé chỉ là thứ cá thường, được ngâm muối, bắt lên từ biển Galilê. Đây là thức ăn phổ thông mà người trong vùng thường sử dụng.
Chúa không khinh chê sự đóng góp nho nhỏ của con người. Năm chiếc bánh cho năm ngàn người, tỉ lệ một phần ngàn thấm tháp vào đâu. Phải thừa nhận của cho ở đây không đáng giá nhưng cái tình thì quý biết bao. Tình của người quan tâm đóng góp, tình dân chúng quay quần trong bữa ăn, tình của Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót họ.
Đặc biệt vì cần đến "tin"
Phép là sẽ là niềm vui thoáng qua nếu nhiều người xem Chúa Giêsu như một ông Bụt trong chuyện cổ tích. Ông Bụt thường xuất hiện để ban bố khi con người cầu xin. Niềm tin đưa con người nhận ra Chúa Giêsu còn vượt xa ông Bụt nhiều. Từ bữa ăn trên thảm cỏ hôm nay Ngài mời gọi họ đến một bữa ăn ấm cúng trên Nước trời. Thức ăn bánh và cá sẽ được đổi bằng Thịt Máu Ngài.
Đức tin giúp con người thấy được sự thánh thiêng trong những gì thuần vật chất, thấy được phục vụ là niềm vui, thấy được cho có phúc hơn nhận. Phân phát bánh có vẻ vui hơn, chứ thu lại những mãnh vụn thì chẳng thích thú gì. Trong đức tin ta mới tìm thấy niềm vui trong phục vụ. Tình nhiều khi không cũng có nhưng đức tin cần có sự góp nhặt ân ban từng ngày mới có kinh nghiệm đức tin và sống đức tin.
Từ bữa ăn đặc biệt Chúa Giêsu muốn hình thành nơi mỗi người chúng ta một cách sống đặc biệt. "Chúng con sống giữa thế gian nhưng chúng con không thuộc về thế gian". Sự phục vụ vô vị lợi, giúp người không tính toán, sống với nhau trọn chữ tình, sống với Chúa trong cậy tin đó là dấu hiệu đặc biệt chứng nhận ta thuộc về Đức Kitô. Ước mơ lớn nhất của chúng ta là được tham dự trong tiệc vui Nước Chúa. Bữa ăn đặc biệt cần có những con người đặc biệt.
9. Hãy cảm tạ ơn Chúa
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CMC)
Ông Tâm là một nông gia. Ngày kia, sau khi bán hết nông phẩn chở từ Cái Sắn lên thành phố Hồ Chí Minh, ông ghé vào tiệm để ăn một bữa trước khi trở về. Ông ngồi gần bàn một nhóm cán bộ đang hạch hỏi làm khó dễ người chủ tiệm và chọc ghẹo cô chiêu đãi viên. Khi món ăn đã đem đến cho ông, ông nghiêm trang làm Dấu Thánh Giá và cúi đầu thầm thĩ đọc kinh trước khi dùng bữa như thường quen. Thấy thái độ đạo đức của ông, bọn cán bộ tỏ vẻ tức tối khó chịu muốn gây sự với ông, thế là một tên trong bọn quát thật lớn như muốn cho mọi người trong tiệm ăn đều có thể nghe được: "Này bác già nhà quê kia ơi, bác từ đâu tới vậy? Trong thời buổi văn minh Xã Hội Chủ Nghĩa này mà còn kinh với kệ như vậy sao?" Rất bình thản, ông Tâm quay lại, với giọng ngọt ngào nhưng trịnh trọng cũng nói lớn tiếng, cốt ý cho mọi người có thể nghe được: "Thưa đồng chí cán bộ, tôi thiết tưởng, chỉ có bày heo, bày chó mới không đọc kinh cảm tạ ơn Chúa như vậy trước khi dùng bữa thôi!"
Mẩu truyện trên đây xảy ra giữa một Xã Hội Chủ Nghĩa mà kẻ thống trị đang ở thế mạnh, thì thật là một điều nguy hiểm đáng sợ. Không biết rồi ra số phận ông nông gia sẽ đi về đâu. Nhưng dầu sao, thái độ can đảm của ông cũng nêu cho chúng ta một mẫu gương đức tin sống động và lòng biết ơn Thiên Chúa, khiến chúng ta phải suy nghĩ và hết lòng cảm phục.
I. NHÂN LOẠI ĐANG ĐÓI KHÁT
Bài sách Các Vua chúng ta vừa nghe, thuật lại mối cảm thương của nhà tiên tri trước cảnh đói khát của hàng trăm người đang chờ đợi ông, nên khi vừa nhận được lễ vật là 20 chiếc bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa do một người từ Baal Salisa đem đến dâng, người của Thiên Chúa đã truyền ngay cho các đệ tử ngài phân phát cho dân chúng ăn. Chỉ có 20 chiếc bánh mà hàng trăm người ăn no mà vẫn còn dư đúng như lời Chúa đã phán trước.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng tường thuật một phép lạ vĩ đại, Chúa đã dùng 5 cái bánh lúa mạch và 2 con cá, nuôi 5000 người đang đói, ăn no thỏa thích mà phần còn dư thu lại được đầy 12 thúng. Thấu tỏ nỗi thống khổ của nhân loại đang đói khát, không phải họ chỉ đói khát cơm bánh mà thôi, mà còn đói khát lương thực thiêng liêng, đói khát Chân Lý và Lời Hằng Sống, nên Chúa rất động lòng thương phán với các môn đệ: "Thầy thương xót đám dân đông đảo này, vì họ bơ vơ như Đoàn Chiên không người chăn dắt".
Ngày nay, thảm cảnh đói khát ấy vẫn còn đang diễn ra khắp đó đây trên thế giới. Cảnh đói khát cơm bánh thuốc thang và những nhu cầu vật chất tại các nước nghèo nàn chậm tiến đã khiến hằng năm có từng triệu, từng triệu người bị chết đói, nhất là ở Ấn Độ, Phi Châu hoặc nơi các nước thuộc quyền đảng cộng sản thống trị, như các nước Nga Sô, Trung Cộng, Việt Nam chẳng hạn, lại càng thảm khốc hơn nhiều. Nhưng còn một cơn đói khát thảm khốc hơn bội phần, đó là cơn đói khát lương thực thiêng liêng, đói khát chân lý, đói khát tình thương yêu, đói khát sự công bình xã hội, đói khát quyền tự do nhân bản... Cơn đói khát này đã làm cho con người phải héo hắt mòn mỏi, đến nỗi nhiều người đã trở nên điên khùng, và vì quá khổ đau, quá căng thẳng khiến họ bị quẩn trí, đến phải quyên sinh, tự vẫn cách tất tưởi.
II. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA THẾ NÀO
Chúng ta phải chân thành thú nhận rằng: Chúa ban cho chúng ta được may mắn hơn nhiều người, được thoát ách cộng sản độc tài, đến mảnh đất tự do này. Chúng ta được đầy đủ về mọi phương diện cả tinh thần lẫn vật chất hơn biết bao người khác. Ngoài những nhu cầu vật chất, cơm ăn, áo mặc, đồ dùng, nhà cửa, xe cộ... Chúng ta còn được hưởng tình thương yêu, đức công bình xã hội, sự tự do: Tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do cư trú... Chúng ta không bị chèn ép, bị đe dọa, bị nhòm ngó rình rập như số phận của đồng bào chúng ta đang phải chịu bên quê nhà.
Đành rằng, có một số người trong chúng ta cũng phải chịu cảnh thiệt thòi đôi chút, vì thời vàng son không còn nữa, chức vị Tướng Tá, Bộ Trưởng, Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng... không còn nữa. Nhưng bù lại, con em chúng ta lại có nhiều cơ hội tiến thân, được hội nhập vào xã hội văn minh tân tiến, mở mang kiến thức, trau dồi nghệ thuật, thăng tiến cuộc sống, để trong tương lai khi được trở về quê hương, xây dựng đất nước, làm nở mặt rạng danh cha mẹ; con em chúng ta sẽ thay thế chúng ta tất cả những gì chúng ta chưa thể làm cho dân tộc như lòng chúng ta mong muốn.
Nhiều người trong số đồng bào Việt Nam chúng ta ở hải ngoại này chưa nhìn nhận ra ơn Chúa ban, họ chỉ biết phàn nàn trách móc thời cuộc, trách móc người lãnh đạo, trách móc cả Thiên Chúa nữa... Còn chúng ta, là con cái Chúa, chúng ta cần có thái độ nào trước những ơn phúc Chúa đã ban cho chúng ta? Trong khi chúng ta được may mắn, hưởng biết bao ơn lành Chúa ban, mà đồng bào và thân nhân chúng ta ở bên quê nhà, cũng như biết bao người nghèo đói thiếu thốn khổ cực trên thế giới không được hưởng, họ thèm khát số phận của chúng ta mà không được.
Thiết tưởng, không gì hơn, chúng ta hãy noi gương Chúa, động lòng trắc ẩn trước cảnh đói khát, trước nỗi khổ đau của nhân loại, nhất là của đồng bào và thân nhân nghèo khổ của chúng ta còn ở bên quê nhà, mà rộng tay quảng đại cứu giúp họ, bằng bất cứ cách nào có thể vừa tầm tay của chúng ta.
Thứ đến, chúng ta hãy cảm tạ ơn Chúa vì những ơn Chúa đã ban cho chúng ta, nhất là chúng ta hãy lo sống đạo, thánh hóa cuộc sống, tìm Nước Thiên Chúa và sự Công Chính của Người trước hết; đồng thời, chúng ta hãy hoàn toàn đặt niềm tin tưởng nơi lòng nhân từ quảng đại của Thiên Chúa, luôn thuần phục thánh ý Người trong mọi cảnh huống của cuộc đời, Người sẽ định liệu và ban cho chúng ta những ơn cần thiết, miễn sao lợi ích cho linh hồn chúng ta theo sự khôn ngoan quan phòng của Người.
Kết Luận
Trước mỗi lần Chúa Kitô làm một phép lạ thương giúp nỗi khốn cùng của người nào, hoặc mỗi khi Chúa dọn bữa cho dân chúng ăn, như trường hợp Chúa làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều nuôi dân chúng, Chúa luôn dâng lời ngợi khen chúc tụng lên Thiên Chúa Cha để tạ ơn Người và xin Người rộng tay ban ơn giáng phúc cho nhân loại những nhu cầu cần thiết.
Chúng ta cũng hãy cố giữ thói quen đạo đức này và tập cho con em chúng ta duy trì việc dâng lời ngợi khen và cảm tạ Chúa trước sau bữa ăn; cũng như dâng lời ngợi khen cảm tạ Chúa vì muôn ơn lành Chúa ban cho chúng ta trong cả cuộc sống; đồng thời, biết can đảm làm chứng nhân cho Chúa như ông nông gia trong câu truyện trên, cho dù sẽ phải trả một giá đắt mấy đi nữa, miễn sao Chúa được nhận biết, được tôn thờ, được phụng sự và yêu mến.
10. Chính anh em hãy dọn cho họ ăn
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sống trong một thế giới khoa học phát triển tột bậc mệnh danh là thời hậu @, con người đã đạt được những bước tiến vĩ đại với những công trình táo bạo, vượt quá sức tưởng tượng như thám hiểm sao Hỏa, tiếp cận sao Diêm Vương, rất tự hào về sự dư dật của cải và lương thực. Báo chí ngày nay cũng cho biết, chưa bao giờ con người có nhiều của cải như thế. Ông Billgate, tỷ phú người Mỹ gốc Do thái, người chuyên bán phần mềm của vi tính, có tài khoản tại các ngân hàng trên thế giới tương đương với thu nhập quốc dân của 40 nước nghèo. Một tên lửa được Mỹ bắn lên đốt cháy hàng bao tỷ đô la. Chiến tranh tại Irắc, Syria và nhiều nơi trên thế giới tiêu huỷ biết bao tiền của, giết chết bao sinh mạng con người. Ấy vậy mà, chưa bao giờ có nhiều người nghèo đói như ngày nay. Tại sao có sự chênh lệch giầu nghèo trên thế giới như thế?
Thời Êlia, đứng trước đám đông dân chúng đói khát, Êlisê người của Thiên Chúa nói: "Xin dọn cho dân chúng ăn" (2V 4, 42). Đầy tớ của người trả lời: "Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao?" (2V 4, 43) Đến thời Chúa Giêsu, các môn đệ Chúa khi được yêu cầu lo cho đám dân chúng ăn, họ thưa: "Bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người". Êlisê ra lệnh: "Cứ dọn cho dân chúng ăn " (2V 4, 44). Còn Chúa Giêsu thì bảo các môn đệ mình: "Cứ bảo người ta ngồi xuống"… Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích" (Ga 6, 10-12).
Chúa Giêsu thấy đám đông đến với Người, từ ánh mắt đến trái tim, Người nhìn họ không phải với ánh mắt loài người, nhưng với cái nhìn Mục Tử Nhân Lành đầy lòng từ bi và thương xót, chứa đầy cảm xúc nảy sinh ước muốn nuôi dưỡng đám đông. Họ theo Chúa vì họ thấy Người từ Thiên Chúa mà đến. Đám đông không chạnh lòng thương Chúa Giêsu, nhưng Chúa Giêsu chạnh lòng thương họ. Chúa thấy dân chúng đói khổ, đang cầu cứu, với gánh nặng mỗi ngày, ốm đau bệnh tật và đang chạy vạy. Chúa Giêsu "Chạnh lòng thương" đám đông, tình yêu và lòng thương xót của Đấng Cứu Thế trào dâng. Người đã mời gọi các môn đệ cộng tác với Người vào công trình cứu chuộc và yêu thương ấy, ngày nay Người vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta.
Đối diện với nhu cầu của biết bao người anh em nghèo đói, thiếu thốn chung quanh ta và rộng lớn hơn là trên thế giới, chúng ta có thể nói: không thể nào đương đầu với những tình trạng như vậy, và thế là sự co cụm, thiếu tình liên đới, nhất là tuyệt vọng bắt đầu xâm chiếm tâm hồn chúng ta. Một lần nữa sứ điệp Lời Chúa nói với chúng ta rằng: "Cứ dọn cho dân chúng ăn!" (2V 4, 42)
Lời mời gọi trên vẫn đang vang vọng mạnh mẽ và cấp bách đối với chúng ta. Thiên Chúa tiếp tục yêu cầu chúng ta: "Cứ dọn cho dân chúng ăn!" (2V 4, 42) Chúa Giêsu không chấp nhận sự thoái thác khi nói: "Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao?" (2V 4, 43) hay: "Bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người" (Ga 6, 9).
Lệnh Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải làm ngay lập tức. Chúa không cần những phép tính vĩ mô. Năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh? Những tính toán lớn lao là không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá" (Ga 6, 9). Thật là ít ỏi, nghèo nàn, Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn ấy. Có ít hãy đóng góp ít.
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy nhìn những người chung quanh bằng cái nhìn của tình liên đới, đừng dửng dưng, vô cảm. Hãy nhìn anh em nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ, hãy an ủi họ, đừng có thờ ơ. Triệu chứng của sự thờ ơ xuất hiện, gặp người có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn mà không thấy xót xa, thương cảm, không muốn ra tay giúp đỡ dù có điều kiện; đứng trước sự bất công, xấu xa, gian dối mà không thấy phẫn nộ, nhức nhối; thấy những điều tốt đẹp, cao thượng mà không ngưỡng mộ, cảm phục. Dù là thờ ơ, dửng dưng, hay mặc kệ, bất cần đều là vô cảm (x. Sứ Điệp Mùa Chay 2015).
Chúa muốn loại bỏ sự vô trách nhiệm, phủi tay nơi các môn đệ. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ, nhưng đã đồng cảm thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn bàn tay làm việc. Chính Chúa Giêsu đã nêu gương và chỉ đường cho chúng ta. "Người cầm lấy cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích" (Ga 6, 11). Đó chính là con đường phép lạ. Chắc chắn đây không phải là ma thuật. Qua các hành động ấy, Chúa Giêsu đã biến đổi được căn bệnh vô cảm, thoái thác trách nhiệm của con người đối với đồng loại.
Phép lạ Chúa Giêsu làm là để thể hiện tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Vì yêu thương, Chúa chữa lành các bệnh nhân, cho kẻ chết sống lại, nuôi sống đám đông dân chúng. Cũng vì yêu thương, Chúa đến cứu giúp con người: phục hồi sự sống, sức khỏe và phẩm giá con người cho họ. Các phép lạ Chúa Giêsu làm minh chứng lòng thiện hảo của Thiên Chúa. Chúa đầy tràn sự sống, ánh sáng và tình yêu! Hết thảy mọi người đều ăn no nê, nếu mọi người quan tâm đến nhau.
Trong một lá thư mục vụ mùa chay của Đức cố Hồng y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng, ngài viết: "Hãy mở mắt ra mà nhìn, mở lòng ra mà thương, rộng tay mà chia sẻ với 5 chiếc bánh và hai con cá mà Chúa đã đặt vào tay ta". 5 chiếc bánh và hai con cá ấy là sức khoẻ, là tuổi trẻ, là con đàn cháu đống, là điều kiện hơn người…" Ngài viết tiếp "vì Đạo của chúng ta là Đạo của tình thương, về khoa học chúng ta vụng về, về văn hoá chúng ta thấp kém, về văn minh chúng ta quê mùa. Chúng ta có thể thua họ nhiều điều, nhưng Đạo không cho phép chúng ta thua họ về Tình Thương...".
Noi gương bé trai trong Tin Mừng hôm nay, dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và 2 con cá mà ta đang có, Chúa sẽ thực hiện những điều kinh ngạc. Ước gì mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực hành lời Chúa dạy, sống bác ái yêu thương, cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh tình thương như lòng Chúa mong ước. Amen.
11. Tham gia xây dựng phúc lợi cộng đồng
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
"Năm 1997, nhân dân Hàn Quốc (Korea) và Mã Lai (Malaysia) đã cùng nhà nước kiềm chế lạm phát bằng việc chủ động tiêu dùng hàng nội, hạn chế tối đa dùng hàng xa xỉ từ nước ngoài. Hơn thế nữa, rất nhiều phụ nữ của hai quốc gia nầy còn ủng hộ nhà nước những đồ trang sức quý giá như vàng bạc, kim cương... để cứu vãn nền kinh tế.
Những việc làm thể hiện lòng yêu nước sâu sắc với ý chí tự cường mạnh mẽ nầy đã góp phần tích cực giúp Hàn Quốc và Malaysia sớm vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng".
Sau khi nghe bản tin nầy, người bạn của tôi bình luận: "Ở xứ người, khi gặp lạm phát, người dân ủng hộ vàng bạc, kim cương và những đồ trang sức quý giá để cứu vãn quốc gia; còn tại xứ mình, khi đất nước gặp lạm phát, việc đầu tiên của nhiều người là đổ xô mua vàng, mua đô để thủ thân làm cho tình hình kinh tế thêm tồi tệ. Chủ trương của một số đồng bào ta là "sống chết mặc bây, tao no trước đã". Nếu não trạng nầy không được thay đổi, thì không bao giờ đất nước chúng ta theo kịp các lân bang."
Chúa Giêsu hiến thân xây dựng phúc lợi cộng đồng
Mang lại phúc lợi cho cộng đồng nhân loại là ưu tiên hàng đầu của Chúa Giêsu. Do đó, Người đã hạ mình xuống thế, hóa thân làm người để phục vụ nhân loại và hiến ban cả mạng sống mình cho muôn người được sống.
Trong ba năm bôn ba rao giảng Nước Trời, Chúa Giêsu luôn sống vì mọi người và cho mọi người: "cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kể điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng" (Lc 7, 22)
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng đặc biệt lưu tâm đến phúc lợi cộng đồng. Người không dừng lại ở việc trao ban những lời đem lại hạnh phúc và sự sống đời đời cho đoàn dân đông đảo đang theo Người mà còn chăm lo cho cả cái bao tử trống không của họ nữa.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tham gia xây dựng phúc lợi cộng đồng.
Xây dựng phúc lợi cộng đồng là sự nghiệp chung của mọi người, thế nên Chúa Giêsu không thực hiện một mình mà còn kêu mời các môn đệ cùng tham gia vào việc nuôi ăn đoàn dân đông đảo đang theo Người ngày hôm ấy.
Trước hết Chúa hỏi Phi-líp-phê, để mời gọi ông cùng chung lo với Người: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?"
Ông Phi-líp-phê đáp: "Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút."
Bấy giờ môn đệ thứ hai là An-rê vào cuộc: "Thưa Thầy, ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu! "
Thế là đứa bé sở hữu số thực phẩm nầy được đưa đến với Chúa Giêsu. Người đã thuyết phục em chịu hy sinh phần ăn quý hóa của mình cho tập thể. Thế là ngay cả trẻ con cũng được Chúa Giêsu mời gọi góp phần cho phúc lợi của cộng đồng.
Có lẽ đây là điều không dễ vì khi đói, miếng bánh còn quý hơn vàng và thói đời vẫn cho rằng: "sống chết mặc bây, tao no trước đã." Vậy mà em bé nầy đã quảng đại trao năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ vào tay Chúa Giêsu.
Sau khi có sự tham gia của các môn đệ và đứa bé, "Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy".
Thế là phép lạ xảy ra: bánh và cá liên tiếp được trao tay từ người nầy qua người khác, mọi người được ăn no nê, "ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý."
Số phận cá nhân tùy thuộc vào số phận cộng đồng
Số phận của mỗi tế bào trong cơ thể tùy thuộc vào số phận của toàn thân. Khi thân thể lâm trọng bệnh thì các tế bào cũng bị ảnh hưởng nặng nề và khi thân thể chết đi thì các tế bào không thể nào tồn tại.
Cá nhân là những tế bào tạo thành xã hội nên số phận của từng cá nhân hoàn toàn tùy thuộc vào số phận chung của xã hội, của cộng đồng.
Khi các cá nhân góp công góp sức xây dựng cộng đồng hưng thịnh hơn thì sẽ được hưởng nhiều phúc lợi do cộng đồng mang lại.
Chính vì thế, "hiện nay các chiến lược gia của các công ty lớn đều nhìn nhận rằng nghĩa vụ đóng góp cho phúc lợi xã hội phải là một mục tiêu cốt lõi của công ty mình" (theo lời Tiến sĩ Nguyễn Công Phú, Tổng Giám Đốc Cty Apave Việt Nam & Đông Nam Á)
Ngồi chờ xã hội mang đến nhiều phúc lợi cho mình mà không tham gia cống hiến cho cộng đồng xã hội sẽ bị chê trách là ký sinh.
Ai biết hy sinh quyền lợi riêng để lo cho lợi ích của tập thể là người có tầm và có tâm. Người biết vượt ra ngoài vòng lợi ích cá nhân và gia đình để chăm lo cho phúc lợi cộng đồng là người có nhân cách cao đẹp.
Và đó cũng là mẫu người mà Chúa Giêsu muốn đào tạo qua nội dung Tin Mừng hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin dạy chúng con biết noi gương Chúa, học với Chúa để trở nên người biết chăm lo cho phúc lợi của anh chị em chung quanh mình. Amen.
12. Anh em hãy cho họ ăn.
(Suy niệm của Lm. GB. Văn Hào SDB)
Hai mươi năm trước, báo chí thế giới đăng tải một bức hình chụp khá nổi tiếng, đã từng đoạt giải Pulitzer. Bức ảnh nói về thảm trạng nạn đói ở Somalia năm 1994. Trong bức ảnh, một chàng thanh niên gầy gò đang ôm xác đứa con trai duy nhất của mình đem đi chôn. Đứa bé gầy trơ xương vì nhiều tháng qua nó không có gì để ăn. Nó đã chết vì đói. Người thanh niên, bố của đứa bé, với khuôn mặt đau khổ hốc hác cũng đang đói. Phía sau là một con quạ đen đậu gần đó. Nó chờ khi người cha vùi xác đứa con trong cát, sẽ bới lên tìm cái gì để ăn vì nó cũng đói. Cả người và vật đều đói. Cái đói lộ rõ trên khuôn mặt trơ xương của ông bố. Cái đói hằn sâu trên thân thể còm cõi của đứa trẻ, và cái đói cũng lồ lộ nơi cặp mắt hau háu của con quạ. Cái đói luôn là một tai họa khủng khiếp đè nặng trên thân phận hiện sinh của con người.
1. Cái đói trong phận người
Mọi người chúng ta ít nhiều đều kinh qua cái đói. Các cụ lớn tuổi đã từng có kinh nghiệm về cơn đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945. Những tháng ngày sau biến cố năm 1975, nhiều gia đình đã từng phải ăn độn hoặc đi vay mượn ít gạo để cầm cự sống qua ngày. Những trải nghiệm về cái đói luôn là một ám ảnh sợ hãi nơi cuộc sống chúng ta.
Khi mang thân phận làm người, Đức Giêsu cũng từng nếm trải cơn đói. Sau 40 ngày chay tịnh trong hoang mạc, Chúa đói. Ma quỷ đến tấn công vào bao tử xẹp lép của Ngài. “Nếu ông là con Thiên Chúa, hãy truyền cho những hòn đá này biến thành bánh đi” (Mt 4,3). Vì thế, trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chạnh lòng cảm thương thực sự khi đối diện trước một đám đông khổng lồ đang vật vã trong cơn đói. Phép lạ đã xảy ra, và 5000 người đã được ăn no nê. Phép lạ không nhằm phô diễn một kỳ tích để thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người. Nhưng trong cái nhìn thần học của thánh Gioan, phép lạ mang chở những dấu chỉ nhằm khải thị một thực tại sâu xa hơn. Thánh Gioan muốn chúng ta chiêm ngắm dung mạo của một Thiên Chúa làm người luôn diễn bày tình yêu mục tử của Ngài cho đoàn chiên. Phép lạ nhân bánh ra nhiều khởi dẫn chúng ta đi đến một chân trời rộng lớn hơn: Đó là chân trời ơn cứu độ được thể hiện qua cái chết của Đức Giêsu trên Thập giá. Mầu nhiệm Thập giá chính là cách diễn bày tình yêu của Thiên Chúa cách tròn đầy nhất.
2. Sự cộng tác của con người.
Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện trong tin mừng hôm nay cũng được phác vẽ trước qua phép lạ của tiên tri Elisêu mà chúng ta sẽ nghe trong bài đọc thứ nhất. Vị ngôn sứ nhận 20 chiếc bánh từ tay một người hảo tâm dâng tặng. Với 20 chiếc bánh, Êlisêu đã phân phát đủ cho cả trăm người. Quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện qua vị tiên tri. Cũng vậy, sức mạnh và tình yêu của Thiên Chúa cũng được diễn bày nơi Đức Giêsu, vị “ngôn sứ đặc thù” của Chúa Cha. Cả hai phép lạ đều hàm ngậm những sứ điệp quan trọng mời gọi chúng ta suy gẫm và thực hành.
Trước hết, đó là bài học về sự cộng tác của con người. Chúng ta có thể mạnh dạn nói rằng, Đức Giêsu đã không làm phép lạ nuôi sống 5000 người ăn no, nếu đã không có lòng quảng đại của một đứa bé. Em nhỏ đã trao cho Chúa 5 cái bánh và 2 con cá, là khẩu phần lương thực ít ỏi nó mang theo. Cũng thế, với 20 chiếc bánh do một người tốt bụng dâng tặng, Elisêu đã phân chia đủ cho cả trăm người. Thiên Chúa có thể thực hiện những điều kỳ diệu bắt đầu từ sự cộng tác nhỏ nhoi khiêm tốn của con người. Trong cuốn ‘Confessio’, Thánh Augustinô ghi lại lời cầu nguyện mà Ngài đã thưa với Chúa “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con, không cần có con. Nhưng để cứu rỗi con, Chúa lại cần có con cộng tác”. Con người chúng ta vẫn được Thiên Chúa mời gọi cộng tác để hoàn thiện công trình sáng tạo và cả công trình cứu chuộc mà Ngài đã khởi sự.
Trong một bài giảng, Cha Gioan Maria Vianney có kể một câu chuyện. Một buổi chiều nọ, Chúa Giêsu và Thánh Phêrô cùng rảo bước trên con đường làng. Hai Ngài gặp một người nông dân đang đánh chiếc xe bò cũ kĩ. Chiếc xe chở nặng và bị mắc lầy. Người nông dân này khá đạo đức. Ông ta bước xuống, sấp mình sát đất và xì sụp cầu nguyện xin Chúa đến giúp. Ông cứ sụp lạy và cầu khẩn mãi, nhưng chẳng ai đến giúp ông ta. Còn chính ông cũng chẳng buồn đụng tay vào để lôi chiếc xe lên. Chúa nói với Phêrô “Thôi hãy đi và mặc kệ hắn”. Đi đến cuối làng, hai Ngài cũng gặp một tình huống tương tự. Gã đánh xe bò là một thanh niên trông nét mặt khá bặm trợn. Khi chiếc xe bị lầy, anh ta bước xuống, mồ hôi nhễ nhãi, miệng thì văng tục nhưng cố gắng hết sức để đẩy chiếc xe lên. Chúa nói với Phêrô “Nào hãy đến phụ anh ta một tay”. Cuối cùng, chàng thanh niên đã kéo được chiếc xe ra khỏi vũng bùn. Về đến nhà, Phêrô hỏi Chúa tại sao Chúa lại hành xử như thế. Chúa trả lời: “Ta không giúp những ai lười biếng. Phải cố gắng, rồi ta sẽ giúp”. Phải tự giúp mình trước, rồi Chúa sẽ đến giúp đỡ chúng ta sau (Aide-toi, le ciel t’aidera).
Chúa cũng đã nói với Phaolô: “Ơn Ta thì đủ cho ngươi”. Ơn Chúa luôn đủ và dư tràn trên mọi người, nhưng nếu chúng ta lười biếng, không mở lòng ra để cộng tác, Chúa cũng chịu thua. Mặc dầu sức lực con người yếu đuối, khả năng chúng ta giới hạn, nhưng Chúa vẫn luôn cần chúng ta cố gắng vươn lên để cộng tác với Ngài. Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, một khẩu phần quá ít ỏi và chẳng đáng gì, nhưng Đức Giêsu đã làm phép lạ nhân bánh và cá lên gấp cả ngàn lần. Đó là bài học rất thực tế cho mỗi người chúng ta về nỗ lực cũng như sự cộng tác của con người.
3. Chúng con hãy cho họ ăn.
Báo cáo của Liên Hiệp Quốc cho thấy, mỗi năm trên thế giới có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì đói. Hàng chục triệu trẻ em sống vất vưởng đầu đường xó chợ, không được cắp sách đến trường. Chúng đói về thức ăn vật chất, nhưng cũng đói cả về tình thương. Nói theo thuật ngữ của Đức Thánh Cha Phanxicô, đây là những con người ở tận vùng ven, những con người đang bị xã hội gạt bỏ ra bên ngoài. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng luôn nghe vang vọng bên tai lời thét gào não nùng của Chúa Giêsu trên Thánh Giá trước khi Ngài tắt thở: “Ta khát”. Đức Giêsu ngày nay vẫn còn đang đói, đang khát, giống như đám đông năm ngàn người sau những ngày lang thang đi theo Chúa. Chúa nói với các tông đồ: “Anh em hãy cho họ ăn”. Lời cầu ngỏ đó vẫn đang được lặp lại và gởi trao đến mỗi người. Một vị Thánh nọ sau một ngày đi bách bộ qua nhiều dãy phố, thấy quá nhiều người đói nghèo, quần áo tả tơi, ngồi ăn xin bên vệ đường. Buổi tối về nhà, Ngài cầu nguyện và hỏi Chúa “Tại sao trên thế giới này còn nhiều người đau khổ như thế? Chúa không làm gì hay sao?” Chúa trả lời “Có chứ, Ta đã làm. Điều Ta đã làm là dựng nên con. Ta dựng nên con với đôi bàn tay để biết trao ban, với một trái tim rung cảm để biết yêu thương và dâng tặng.
Kết luận: Phép lạ nhân bánh ra nhiều mà Chúa đã thực hiện 2000 năm trước là dấu chỉ tiên báo phép lạ vĩ đại Chúa đang thực hiện ngay ngày hôm nay nơi bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta được mời tới tham dự. 5000 người ngày xưa Chúa cho ăn bánh no nê, nhưng họ vẫn còn đói, vẫn chưa no thỏa thực sự. Còn nơi bàn tiệc hôm nay, Chúa xác quyết rằng: “Tôi là Bánh Hằng sống, ai ăn bánh này sẽ không còn đói, ai uống chén này sẽ không còn khát”. Đó là bữa tiệc thịnh soạn nhất diễn bày tình yêu bất tận của Thiên Chúa. Một nhà tu đức đã diễn tả có vẻ hơi cường điệu nhưng rất chính xác: “Thiên Chúa đã thực hiện một giấc mơ rất điên rồ là phân thây xẻ thịt chính con một yêu quý của Ngài để thiết đãi chúng ta”. Đó quả là một sự điên rồ và táo bạo. Chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được sự điên rồ ấy khi đi vào quỹ đạo tình yêu sâu xa của Thiên Chúa. Muốn nếm cảm tình yêu này, chúng ta phải có cảm thức đức tin. Trước khi làm phép lạ, Chúa nói với các môn đệ “Anh em hãy bảo họ ngồi xuống”. Đám đông phải ngồi xuống để có thể lắng nghe và lãnh nhận. “Ngồi xuống” là một hình tượng diễn bày đức tin, tín thác vào tình yêu Thiên Chúa. Xin Chúa khơi dậy lòng tin yếu kém nơi chúng ta để chúng ta có thể lãnh nhận quà tặng tình yêu, và để chúng ta cũng biết chia sẻ tình yêu đó cho mọi người.
13. Hãy cho họ ăn
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Vào một đêm nọ, có một người đàn ông đến nhà chúng tôi và nói: “Có một gia đình với tám đứa con. Họ đã chẳng có gì ăn suốt mấy ngày nay.” Tôi đem theo môt ít thức ăn và ra đi. Khi tôi đến gia đình đó, tôi thấy khuôn mặt của những đứa bé méo xệch đi vì đói. Không có một nỗi buồn đau nào trên những gương mặt ấy, chỉ có vết hằn sâu của sự đói khát. Tôi đưa gạo cho người mẹ. Bà chia túi gạo ra làm hai, rồi đi ra ngoài, mang theo một nửa. Khi trở lại, tôi hỏi: “Chị đi đâu vậy?” Bà bình thản trả lời: “Sang những người hàng xóm của tôi, họ cũng đang đói!” Tôi không ngạc nhiên vì bà đã san sẻ số gạo ấy, vì quả thực những người nghèo rất hào phóng. Tôi chỉ ngạc nhiên là bà ấy biết họ đang đói. Vì một lẽ tự nhiên, khi chúng ta chịu đựng một nỗi thống khổ nào đó, chúng ta có xu hướng quá tập trung vào bản thân mình, đến nỗi chẳng có thời gian cho người khác.
Cách đây một thời gian, tôi đã có một chuyến đi đến Ethiopia. Các chị em chúng tôi đã làm việc ở đó suốt mùa hạn kinh khủng năm ấy. Khi sắp rời đi, tôi nhận thấy có rất nhiều trẻ em vây quanh mình. Mỗi em đều cầm trên tay một thứ gì đó, nói: “Hãy đem thứ này về cho các em! Hãy đem thứ này về cho các em!” Chúng có nhiều món quà muốn gửi đến người nghèo của chúng tôi. Rồi một đứa bé, vốn dĩ lần đầu tiên trong đời có được một thỏi sôcôla, đã đến bên tôi nói: “Con không muốn ăn nó, Mẹ hãy đem nó về cho các bạn.” Đứa bé ấy đã cho thật nhiều, vì miếng kẹo ấy là tất cả những gì quý giá mà em có.
Một bữa nọ, tôi nhận được mười lăm đô la từ tay một người đàn ông đã bị bại liệt trong hai mươi năm. Căn bệnh quái ác đã khiến ông chỉ còn dùng được tay phải của mình. Bầu bạn duy nhất của ông là thuốc lá. Ông nói với tôi: “Tôi đã ngưng hút thuốc lá một tuần nay. Tôi gửi cho Mẹ số tiền mà tôi tiết kiệm được nhờ không mua thuốc.” Đó hẳn phải là một hy sinh vô bờ bến của ông ta. Tôi mua bánh mì bằng tiền của ông, đem cho những người đang đói. Thế là cả người cho và người nhận đều có được niềm vui.
Trao tặng là chia sẻ. Tôi không muốn bạn cho tôi thứ mà bạn đã bỏ đi, mà cho đi thứ bạn muốn, thứ bạn cần. Tôi muốn bạn cho đi bản thân mình. Tình yêu mà bạn đặt vào sự ban tặng là điều quan trọng nhất. Cơ hội chia sẻ tình yêu của chúng ta với người khác chính là một món quà của Chúa. (Bích Nga, Ngọc Sáu, Hoa Phượng, Mẹ Têrêsa, Trên Cả Tình Yêu)
Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay thuật lại Đức Giêsu làm phép lạ năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người đàn ông ăn no dư thừa, chưa kể phụ nữ và trẻ em, còn dư mười hai thúng. Đôi bờ đói no của nhân loại hôm nay vẫn còn xa cách vời vợi hơn bao giờ. Nên năm chiếc bánh và hai con cá của cậu bé dâng hiến hẳn âm thầm gửi đến Kitô hữu nhiều thông điệp sâu xa thấm thía.
Chiếc bánh thứ nhất: Yêu thương
Vừa gặp lại các Tông Đồ trở về sau một hành trình Đi Gieo, Đức Giêsu vui mừng thân thương nhắc nhở các ông vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi. Nhưng thấy đám người đông lũ lượt tìm đến, thì Người chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. (Mc 6, 34) Tình yêu tha nhân, lòng thương xót của Đức Giêsu, vô cùng mãnh liệt, ưu tiên trổi vượt, lấn át và vô hiệu hóa những chương trình, dự tính, ý muốn riêng tư của ngay chính Người.
Chiếc bánh thứ hai: Trách nhiệm
Đức Giêsu hăng say giảng dạy dân chúng cho đến nhá nhem tối mới tạm ngừng. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?"Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm.“(Ga 6, 5) Thánh Maccô ghi lại chi tiết khá minh bạch: Vì bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Người và thưa: “Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm, làng mạc chung quanh mà mua gì ăn.” Người đáp: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi.” (Mc 6, 35-37) Tuy câu nói của Đức Giêsu qua hai thánh sử khác nhau về hình thức, nhưng cùng chung một ý tưởng. Đó là thay vì để các môn đệ tránh né bổn phận chăm sóc cộng đoàn, thì Đức Giêsu trao trách nhiệm chính thức cho các ông phải quan tâm giải quyết những nhu cầu chính đáng, cấp bách của cộng đoàn, không thể vịn cớ gì lạnh lùng lảng tránh, từ chối.
Chiếc bánh thứ ba: Quảng đại
“Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người."(Ga 6, 9) Đây là điều Đức Giêsu đang trông chờ ngay từ đầu vụ việc. Tuy Chúa quyền năng vô song, tác tạo và biến hóa mọi sự, nhưng Chúa luôn đòi hỏi, cần có sự đồng điệu, hợp tác, dâng hiến của con người, vì Người tôn trọng sự tự do, không ép buộc bất cứ ai.
Cậu bé rộng rãi, quảng đại, nhân ái, đã không ích kỷ giữ bánh và cá cho riêng mình, mà với cả tấm lòng thành, hoàn toàn dâng hiến tất cả, chia sẻ, cho đi mọi sự cho Chúa. Người luôn chờ đợi một tấm lòng hiến dâng trọn vẹn như thế. “Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu. “(Hs 6, 6) Chính Đức Giêsu cũng tái xác nhận: “Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế.” (Mt 9, 13)
“Kitô giáo là cho đi.” Chúng ta phải cho đi, dù phải đến mức đau đớn nhất. Để trở thành một tình yêu thương thật, thì tình yêu thương phải có cái giá của nó. Đối với Chúa Giêsu, cái giá đó là tình yêu chúng ta. Ngay cả Thiên Chúa cũng có cái giá của tình yêu: Ngài đã trao ban con một Ngài cho chúng ta.” (Mẹ Têrêsa Calcutta)
Chiếc bánh thứ tư: Nhân hậu
“Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích.” (Ga 6, 11) Từ năm chiếc bánh và hai con cá dâng hiến của cậu bé, Đức Giêsu đã biến ra nhiều cho cả vạn người ăn dư thừa. Sự cho đi dẫu nhỏ bé, chẳng đáng kể, lại được tình yêu hồi đáp bằng đại lượng kỳ diệu. Lòng nhân hậu của Chúa khôn lường vô cùng. Người tiếp tục chạnh lòng thương dân chúng đói khát, làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều thêm lần thứ hai.(Mc 8, 1-10) Bởi vì “Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không nỡ với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta.” (Tv 103, 8-10)
Đức Giêsu giảng dạy và hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng hôm nay, là dấu chỉ Người sẽ còn tận tình chiêu đãi dân chúng bữa tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh thể sau này. Các Tông đồ sau khi tham dự sứ mạng rao giảng, cũng được Đức Giêsu trao phó công việc chăm sóc và nuôi dưỡng đoàn chiên.
Chiếc bánh thứ năm: Công bình
“Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích.” Không phân biệt nam nữ, già trẻ, giầu nghèo, chức tước, địa vị, Đức Giêsu phân phát bánh và cá tùy theo nhu cầu mỗi người. Hết thảy đều no đầy phúc đức. Hồng ân Thiên Chúa luôn phổ quát, công bình và phong phú cho mọi người, như hạt giống gieo vãi, như mưa sa, nắng ấm. Bởi vì“Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5. 45)
Con cá thứ nhất: Thanh bần
Trong tinh thần nghẻo khó, thanh bần, Đức Giêsu không muốn hoang phí bỏ đi bánh và cá dư thừa, vì còn bao kẻ đói khát đang còn mong chờ được trao tặng lương thực. “Khi họ đã ăn no nê, Người bảo các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi". Họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.” Tần tiện, tiết kiệm để chia sẻ với người cơ nhỡ, cũng như trân trọng dành dụm của ngọc thực để tích cốc phòng cơ, đó chính là một khía cạnh của đức thanh bần.
“Đừng rộng rãi với của người ta, đừng keo kiệt với của riêng con, đừng phung phí với của công cộng.” (Đường Hy Vọng, số 412)
Con cá thứ hai: Thiên Quốc
“Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: “Thật ông này là Đấng tiên tri phải đến trong thế gian.” Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.“ (Ga 6, 15) Hưởng phúc lợi tràn trề, được chữa bệnh, được cho ăn no nê, dân chúng hăm hở muốn tôn vinh Đức Giêsu làm hoàng đế, vì thấy Người đúng là Đấng Messia mà họ hằng mong đợi, sẽ giải thoát dân Do Thái khỏi ách đô hộ của La Mã. Đó cũng là cơn cám dỗ thứ ba của Đức Giêsu trong hoang mạc, quyền lực thế gian.
Lúc này, Đức Giêsu nhìn thấy rõ tà tâm trong lòng dân chúng háo lợi, thực dụng, chỉ muốn người lãnh đạo cung phụng cho họ, theo ý muốn thấp hèn của họ mà thôi. "Các ông đi tìm tôi, không phải vì các ông đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê" (Ga 6, 26). Trong khi Nước Chúa đâu lệ thuộc vào thế gian phù phiếm, mau biến đổi và hư nát. Bơi chưng,“Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc Trong Thánh Thần.” (Rm 14, 17)
“Với năm cái bánh và hai con cá của em bé, Chúa đã làm phép lạ nuôi năm ngàn người. Chúa vẫn toàn năng, nhưng Chúa yêu thương thiện chí của con.” (Đường Hy Vọng, số 824)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường thiếu lòng quảng đại, không dám cho đi những gì chúng con đang có, chỉ vì sợ mất mát, thua thiệt, chì vì thiếu Tình Yêu, thiếu niềm tin và thiếu lòng cậy trông vào Chúa Quan Phòng. Xin Chúa mở lòng trí chúng con, thấu hiểu ý nghĩa cao trọng của phép lạ hóa bánh ra nhiều, để chúng con sẵn sàng cho đi mọi sự, kể cả bản thân, với tình yêu tha thiết chân tình, như cậu bé dâng hiến tất cả bánh và cá cho Chúa dưỡng nuôi tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã dâng hiến trọn đời cho Chúa, xin cầu bầu, dạy bảo, hướng dẫn chúng con noi theo Mẹ, hiến dâng lên Chúa tất cả mọi sự, từ thân xác, tâm hồn đến linh hồn, để có thể phục vụ hữu ích cho tha nhân. Amen.
14. Quà mọn
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Trận động đất kinh hoàng 8.9 Ritcher xảy ra tại Nhật Bản vào ngày 11, tháng 3, năm 2011, tiếp theo sau là những cơn sóng thần đã quét đi những làng ven biển. Ngày hôm sau, tại Fukushima, cách nhà máy điện nguyên tử khoảng 25 km, một cảnh sát Nhật, gốc Việt, gặp cháu bé 9 tuổi, học lớp 3, đang đứng cuối cùng hàng người rồng rắn, chờ phát chẩn. Em mất cả cha lẫn mẹ và em trong thiên tai.
Thấy em co ro áo thun, quần đùi, anh cảnh sát thương tình cởi áo khoác, trùm lên em. Vô tình làm rơi gói lương khô, khầu phần ăn tối của anh. Nhặt lên, anh đưa cho bé: "Đợi tới phiên của con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói."
Tưởng em bé sẽ ngấu nghiến ăn ngay. Nào ngờ em ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm, và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát, rồi lại quay lại xếp hàng. Ngạc nhiên vô cùng, anh cảnh sát hỏi em, tại sao không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Em trả lời: "Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ".
Câu chuyện cảm động của cháu bé Nhật Bản 9 tuổi, gợi lại hình ảnh chú bé trong Tin Mừng, có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá khô, sẵn sàng hiến dâng cho Chúa Giêsu.
Trong trích đoạn Tin Mừng hôm nay, có ba thái độ khác nhau trước yêu cầu của Chúa Giêsu, muốn cho dân chúng được ăn.
1. Thái độ thoái thác
Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?"… Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút." (Ga 6, 5, 7)
Tông đồ Philipphê chân thành thưa với Chúa như vậy, không có gì sai trái, mà trái lại còn quá chính xác, rất thực tế, rất thuyết phục. Nhưng vô tình biểu lộ một thái độ có vẻ như buông xuôi, tránh né, thoái thác trách nhiệm với cộng đoàn. Thay vì trả lời trực tiếp câu hỏi của Chúa: “Mua bánh ở đâu?” thì ông đáp lại bằng một câu phủ định khá tiêu cực. Một cách từ chối mệnh lệnh rất khéo léo.
2. Thái độ hoài nghi
Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người."(Ga 6, 8-9).
Tông đồ Anrê có vẻ tích cực hơn, gần gũi hơn với cộng đoàn, mới phát hiện một em bé có mang theo 5 chiếc bánh và 2 con cá. Tuy ông cũng thành thật, cũng suy luận rất thực tế, nhưng lại bộc lộ thái độ có vẻ hoài nghi, thiếu tin cậy vào quyền năng Chúa. Ông cũng không chịu giải quyết thấu đáo đề nghị của Chúa. Mặc dù thừa hiểu Chúa muốn gì, nhưng cũng như Tông đồ Philipphê, ông đã chọn cách đối đáp bằng một câu khẳng định ẩn ý nghi hoặc.
3. Thái độ dâng hiến.
Tương tự cậu bé Nhật Bản nói trên, em bé trai ở đây có thái độ rất hồn nhiên, nhân hậu, phó dâng và tín thác hoàn toàn. Em bé đã mau mắn dâng hiến món quà mọn của mình cho Chúa. Dù em nghèo, chỉ vỏn vẹn có bấy nhiêu để làm của ăn đi đường, em vẫn chân thành dâng lên Chúa tất cả, không mảy may tính toán, giữ lại chút nào cho riêng mình. Chính từ tấm lòng trong sáng, phó thác, tin cậy, nhân từ, cùng tinh thần hợp tác chặt chẽ này, Chúa Giêsu đã vui vẻ đón nhận bánh và cá, để đáp ứng lại gấp vạn lần.
“Con trẻ không giữ gì riêng, ai cho gì nó cũng giao cho cha mẹ. Con hãy phó thác cho Chúa và Đức Mẹ, con sẽ được an toàn hạnh phúc.” (ĐHV, số 731)
Trong tâm tình đó, Đức Đáng Kính Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã dâng lên Chúa món quà nhỏ mọn, 13 năm ngục tù, với tự truyện vắn tắt “Năm Chiếc Bánh Và Hai Con Cá,” chan hòa tình yêu và hy vọng.
Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn trẻ thơ, luôn phó thác trông cậy vào Chúa, không so đo hơn thiệt, không tránh né tránh nhiệm, để con tìm thấy Chúa trong mọi người.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con sống đơn sơ, hồn nhiên, biết dâng lên Chúa tất cả những gì mình có, dù nhỏ mọn, bất xứng, để được Chúa thánh hóa cuộc đời. Amen.
15. Hãy xót thương người
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong cuộc thi viết chuyện dưới 100 chữ, có câu chuyện kể rằng: Hai đứa trẻ nghèo đói đang bới móc đống rác ở ven đô thị. Mắt hai đứa sáng rực lên khi nhìn thấy miếng bánh kem thơm ngon của một đứa bé ngồi trên xe hơi vất xuống lề đường. Thằng anh chạy vội đến nhặt, nhưng bánh quá lấm láp bởi đất bụi. Đứa con gái nuốt nước miếng bảo thằng con trai rằng: "Anh hai thổi sạch rồi mình ăn". Thằng anh phùng má thổi. Bụi đời đã dính chẳng chịu đi cho. Đứa em sốt ruột cũng ghé miệng thổi tiếp. Chính cái miệng háu đói của nó làm bánh rơi tõm xuống cống rãnh hôi hám và chìm hẳn. Con bé thút thít: "Ai biểu anh hai thổi chi cho mạnh". Thằng anh ngậm ngùi: "Ừ, tại anh! Nhưng kem còn dính tay nè. Cho em ba ngón, anh chỉ liếm hai ngón thôi!"
Chuyện quá ngắn mà lòng quặn đau. Chuyện không biết thực hư đến đâu? Nhưng cảnh đời người thừa thải đổ đi. Kẻ nghèo bòn nhặt lấy mà ăn thì vẫn còn quá nhiều ở xung quanh chúng ta. Là người môn đệ của Chúa, chúng ta phải làm gì trong hoàn cảnh hôm nay?
Năm xưa Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót đám dân theo Ngài. Họ nghèo đói tinh thần lẫn vật chất. Họ đói cơm và đói cả tình thương. Thiếu cơm thì không có bữa ăn ngon. Thiếu tình thương thì bữa ăn mất ngon và cuộc sống chỉ là những tháng ngày buồn chán và thất vọng. Hai vấn đề nhưng chung quy vẫn là một. Không có tình thương sẽ không có chia sẻ. Khi có tình thương thì "bánh ngon bẻ đôi", "chị ngã em nâng", người ta sẽ sống đùm bọc lẫn nhau đến mức độ "tối lửa tắt đèn có nhau" và ngay cả khi nghèo đói họ vẫn có thể chia sẻ cho nhau, vì "lá lành đùm lá rách".
Chúa Giêsu đã khéo léo gợi lên trong lòng các môn đệ một vấn nạn lương tâm: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?". Dường như các môn đệ đã lặng thinh trước vấn nạn Thầy Giêsu đặt ra. Họ im lặng vì "lực bất tòng tâm". Họ im lặng vì chưa cảm thấy trách nhiệm liên đới với người khổ đau. Philipphê đã nhanh trí thoái thác trách nhiệm khi ông nói: "Thưa Thầy, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.". Môn đệ Anrê cũng ủng hộ lập trường của bạn ông: "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!"
Khi người ta không cảm thấy liên đới, người ta sẽ tìm trăm ngàn lý do để né tránh, để an phận thủ thường, để bình an lương tâm. Các môn đệ muốn nại vào khó khăn để biện minh cho sự thờ ơ của mình. Nhưng Chúa đã tận dụng chính khó khăn đó để dạy các ông: hãy bắt đầu bằng nỗ lực của bản thân và chính Thiên Chúa sẽ hoàn tất mọi sự trong tình yêu quan phòng của Ngài. Vì "mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên".
Thực vậy, sau khi đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá từ lòng quảng đại của một em bé. Chúa Giêsu đã có thể nhân rộng ra thành hàng trăm, hàng ngàn tấm bánh. Với quyền năng của một vì Thiên Chúa có thể tạo dựng mọi sự từ hư vô. Ngài có thể làm tất cả nhưng Thiên Chúa lại muốn hành động ngang qua con người. Bởi vì con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa. Ngài muốn con người tiếp tục thay Ngài gieo yêu thương vào trong thế gian. Hay nói cách khác, con người được tạo dựng để yêu thương. Do đó, ai không yêu thương là vong thân, là đang chết dần trong ích kỷ và cô đơn. Người ta sống để yêu, mà không còn khả năng yêu thương, tức là con người đã mất giá trị đích thực của đời người.
Có lẽ nhân loại hôm nay không chết đói cho bằng chết vì thiếu tình thương. Những người đang chờ chết cũng là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương, san sẻ của đồng loại. Con người cần cơm bánh để sống. Nhưng con người lại rất cần tình thương để tồn tại. Thật là một bất hạnh cho con người, nếu hai chữ tình yêu không còn có ở trên đời. Và cũng thật bất hạnh cho những ai không có ai đó để thương, để nhớ. Tình yêu là lẽ sống còn của con người. Con người không có tình yêu sẽ đầy đoạ mình và làm khổ anh em.
Lịch sử còn đó những cuộc tương tàn huynh đệ. Bởi thiếu tình yêu người ta đã đối xử bất khoan dung với nhau. Hằng ngày trên thế giới vẫn còn đó hàng ngàn người chết vì chiến tranh và nghèo đói. Họ đã chết bởi sự vô tâm đến tàn nhẫn mà con người dành cho nhau. Chính trong giờ phút này, trên thế giới vẫn có biết bao trẻ em chết vì đói, biết bao em bé sinh ra suy dinh dưỡng đang khi đó hàng tấn lương thực dư thừa của người giầu, của các nước giầu đang đổ ra biển khơi. Theo thống kê thì nhân loại hôm nay kinh tế đã phát triển không ngừng. Của ăn của để luôn thừa mứa. Trung bình cứ 6 người đủ ăn thì có một người nghèo đói. Nhưng đáng tiếc, 6 người lại không đùm bọc được một người. Người đói vẫn van xin, vẫn đợi chờ lòng thương xót, vẫn rã rời vì thiếu tình thương của đồng loại. Kẻ đói vẫn sống lây lất. Người giầu sang vẫn dư thừa đổ đi.
Lời Chúa hôm nay dường như đang chất vấn bạn và tôi về những thiếu sót của chúng ta trước sự khốn cùng của tha nhân. Chúng ta hãy hành động nhân danh Chúa để bánh và cá tiếp tục được nhân rộng đến cho mọi người, để tình yêu đem lại hạnh phúc cho con người hôm nay.
Xin Chúa giúp chúng con luôn giầu lòng quảng đại để có thể trao ban niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân trong đời sống bác ái yêu thương. Amen.
16. Đừng bỏ lỡ cơ hội – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Thiên Chúa là tình yêu. Con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa. Con người cũng phải trở nên dấu chỉ của tình yêu Chúa giữa thế gian. Thế gian cần có tình yêu để tồn tại. Không có tình yêu, thế gian sẽ là một kiếp đoạ đầy.
Thật là một bất hạnh cho con người, nếu hai chữ tình yêu không còn có ở trên đời. Và cũng thật bất hạnh cho những ai không có ai đó để thương, để nhớ. Tình yêu là lẽ sống còn của con người. Con người không có tình yêu sẽ đầy đoạ mình và làm khổ anh em.
Tình yêu sẽ giúp cho con người nhớ đến nhau, quan tâm đến nhau và hy sinh cho nhau. Tình yêu sẽ khiến người ta chạnh lòng thương với những mảnh đời bất hạnh chung quanh. Không có tình yêu người ta sẽ dửng dưng vô cảm với nhau. Nhưng nhờ tình yêu người ta sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để thi thố tình yêu.
Em bé trong tin mừng hôm nay đã không bỏ lỡ cơ hội giúp người. Có thể em không nghĩ rằng mình sẽ giúp được cho hơn 5000 người có bánh và cá ăn. Em chỉ trao ban một phần nhỏ của em cho ai đó đang quặn đau vì đói. Em đã dâng cho Chúa một cách vô vị lợi, không toan tính thiệt hơn. Em đã làm tất cả vì tình yêu đối với đồng loại của mình. Chính lòng quảng đại của em đã được Chúa làm phép lạ nhân rộng bánh và cá cho hơn năm ngàn người ăn.
Thế nhưng, trong cuộc sống chúng ta thường bỏ lỡ cơ hội giúp người. Đôi khi chúng ta cũng áy láy vì từ chối giúp người ăn xin, người cơ nhỡ. Đôi khi chúng ta cũng tiếc nuối vì việc thiện chúng ta đã bỏ qua. Và đôi khi chúng ta cũng ân hận vì sự vô tâm của mình mà ai đó đã chết dần vì chúng ta.
Người ta kể rằng: vào một đêm đông gió tuyết lạnh lùng. Một ông lão đến gõ cửa nhà phú hộ. Người phú hộ trông thấy ông lão đang co ro trong chiếc áo rách tả tơi. Ông biết ông lão rất lạnh, nhưng ông nghĩ để ông ấy đi thì hơn. Vì nhà mình sạch, ông lão thì bẩn và hôi hám, chi bằng cho ít tiền để ông lão ra đi. Người phú hộ đã quyết định như thế và đã cho ông lão vài đồng xu để ra đi.
Mấy ngày sau, một thi thể đã được phát hiện ở đầu làng, bị chôn vùi dưới tuyết. Người bị chết cóng chính là ông lão ăn xin trong làng. Người phú hộ nghe tin cảm thấy tiếc nuối vì mình bỏ lỡ cơ hội cứu sống một mạng người.
Vâng, bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện là một thiếu sót của chúng ta. Đôi khi vì đó mà chúng ta ân hận cả đời. Thiên Chúa luôn tạo cho chúng ta biết bao cơ hội để trao ban những nghĩa cử cao đẹp cho tha nhân, để thi thố tình thương đến với những anh em bất hạnh. Có thể là những cơ hội cứu sống người khác. Có thể là những cơ hội mang lại niềm vui cho tha nhân. Có thể chỉ là những cơ hội nhỏ nhoi khi chúng ta biết chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau từ ngay chính gia đình của mình. Thiên Chúa muốn chúng ta vào được nước trời phải biết lập công qua việc giúp đỡ tha nhân. Tha nhân là hiện thân của Chúa. Ai giúp đỡ tha nhân là giúp đỡ Chúa. Vì thế, hãy thi thố tình thương trong khả năng, trong hoàn cảnh của mình. Đừng đánh mất cơ hội vào Nước trời khi bỏ rơi đồng loại và sống dửng dưng với những bất hạnh của tha nhân.
Thế nhưng, chúng ta vẫn đang bỏ đi biết bao cơ hội giúp người. Biết bao người già đã chết trong sự cô đơn vì con cháu bỏ rơi. Biết bao người chồng, người vợ đang bị đối xử bằng những đòn roi, những lời thoá mạ, làm nhục lẫn nhau. Biết bao lần chúng ta đã ngoảnh mặt làm ngơ khi ai đó van nài chúng ta. Biết bao lần chúng ta bước qua những mảnh đời bất hạnh mà không hề xót thương.
Chúa Giêsu Ngài luôn chạnh lòng thương với những mảnh đời bất hạnh. Ngài không bỏ lỡ cơ hội giúp người. Từ mọi thành phần. Từ mọi tầng lớp. Ngài đều thi ân giáng phúc. Hôm nay, Ngài cũng nhắc nhở các môn sinh: “chính anh em hãy cho họ ăn”. Cho dù các ông nại vào lý do số đông để từ chối, để nói rằng: “lực bất tòng tâm”. Nhưng Chúa muốn các ông phải bắt đầu. Bắt đầu từ việc thu gom một phần bánh nhỏ bé. Mọi việc dù nhỏ, dù lớn cũng phải được bắt đầu. Bắt đầu không nhất thiết phải hoành tráng, phải đánh trống khua chiêng. Bắt đầu từ những việc nhỏ bé âm thầm nhưng với thời gian, với ơn Chúa sẽ trở thành những việc phi thường.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết bắt đầu việc thiện từ những việc nhỏ bé tầm thường, và để Chúa sẽ kiện toàn những điều tốt đẹp đó theo ý Ngài. Xin cho chúng ta đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện cứu đời, nhưng luôn biết tận dụng mọi cơ hội lớn nhỏ để dâng cho Chúa như những chiếc bánh, con cá hầu mang lại niềm vui cho mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả những hy sinh, những nghĩa cử bác ái mà chúng ta đã làm cho Chúa và cho tha nhân. Amen.
17. Bánh Hằng Sống – Cố Lm. Hồng Phúc
Hai bài đọc Chúa Nhật hôm nay chú trọng đến việc bánh được biến hóa ra nhiều, để nuôi dân chúng ăn no nê. Xứ Do thái là xứ lúa mì, đến nỗi có những nhà vạn vật học cho rằng xứ Palestine là thủy tổ lúa mì. Bài đọc thứ nhất trích ở truyện Tiên tri Êlisê làm cho 20 chiếc bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa, biến hóa ra nhiều cho dân chúng ăn no nê mà lại còn dư nữa. Đó là dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa đối với con cái Người, và hứa hẹn những ngày sung túc khi Đấng muôn dân mong đợi đến.
Hôm nay, Thánh Gioan thuật lại việc Chúa làm cho 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá, biến hóa ra nhiều cho năm ngàn người ăn, không kể đàn bà và trẻ con, và còn dư 12 thúng bánh vụn.
Đây là một phép lạ, một trong những phép lạ cả thể mà Chúa Giêsu đã làm. Tất cả bốn nhà Thánh Sử đều ghi lại. Các nhà chú giải vô thần tìm cách giải thích bằng những phương pháp tự nhiên nhưng lập luận của họ đều không đứng vững. Đối với Gioan, đây là một dấu chỉ, danh từ mà Gioan hay dùng và chúng ta thấy rõ Ngài muốn hướng dẫn chúng ta về Chúa Giêsu và phép Thánh Thể.
Vậy trong câu truyện, Chúa Giêsu là vai chính, là trung tâm điểm. Việc Chúa biến hóa bánh ra nhiều và bài giảng sau đó, có mục đích bạch lộ con người của Chúa Giêsu. Ngài là Đấng quyền năng và rộng rãi. Mỗi người muốn dùng bao nhiêu tùy ý. Ngày xưa dưới sự hướng dẫn của Môsê, trong cuộc lưu lạc lâu ngày lâu tháng trong sa mạc, dân chúng chỉ được nhận số manna cần dùng (Xh. 15, 4. 16-18). Trái lại, ở đây thật là thừa thãi dư dật, cũng như trong tiệc cưới Cana, để nói rằng với Chúa Giêsu thời viên mãn đã đến, Đấng Messia đã xuất hiện. Các môn đệ, vâng lời Thầy, còn “thu lượm được 12 thúng bánh vụn”. Con số 12 theo Thánh Kinh là con số ám chỉ sự đầy đủ: Gioan muốn ám chỉ rằng phép lạ hóa bánh ra nhiều để dân chúng được ăn no nê, sẽ còn tiếp diễn.
Nhất là, như rượu Cana, như bánh biến hóa, không phải chỉ để nuôi năm ngàn người, mà để nuôi cả nhân loại qua mọi thế hệ. Như vậy phép lạ là dấu chỉ phép Thánh Thể. Bánh ấy là bánh ban sự sống, quần chúng đông đảo vô số kể, đó là Giáo hội qua các thời đại. Chúa Giêsu hiện diện trong Giáo hội sẽ thực hiện lại phép lạ mà Ngài làm hôm nay là biến bánh rượu nên Thịt và Máu để nuôi linh hồn chúng ta. Và nhân danh Ngài, “các thủ hạ của Đức kitô và những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” còn tiếp tục ban phát Bánh hằng sống cho nhân loại (ICor. 4, 1).
Sau khi phép lạ xảy ra, “Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Ngài để tôn lên làm Vua, nên Ngài lại trốn trên núi một mình”.
Lại tái diễn ảo mộng một Đấng Messia chính trị đến để cứu vãn quốc gia! Không. Ngài đến để cứu vãn con người. Ngài là Vua, nhưng là Vua các tâm hồn. Ngài hằng kêu gọi một cuộc trở lại với Thiên Chúa. Nước Ngài là nước tự do, hòa bình và bác ái, như đã được vang vọng giữa sao trời đêm Ngài xuống thế.
Chúa là Bánh hằng sống, là của nuôi tâm hồn đau khổ nhưng “đói” Chúa. Một tù nhân cải tạo viết: “năm 1986, từ khi trại chúng tôi có một linh mục tuyên úy, hoạt động tôn giáo có đều đặn và tổ chức hơn, được xưng tội và rước Mình Thánh mỗi ngày Chúa nhật, được suy niệm bài Phúc Âm bằng… một hai câu thơ lục bát tóm gọn truyền miệng cho nhau. Mình Thánh Chúa được bỏ trong các hộp dầu cù là, rượu được đưa vào trại qua các ve dầu Nhị Thiên Đường, còn bánh lễ là các rẻo bánh. Hàng tuần cha PVL dâng Thánh lễ ban đêm một mình trong mùng ngủ, chuyển Mình Thánh trong hộp dầu cù là cho một người gần nhất và chuyển tiếp ra các đội khác trong toàn trại. Chúng tôi đã được Chúa bổ dưỡng và ban ơn sức mạnh trong những ngày sống trong đau khổ”.
“Lạy Chúa, Chúa mở rộng bàn tay ra và thi ân cho chúng tôi được no nê” (Tv. 144, 16 – Đáp ca).
18. Chúa nuôi dưỡng dân Ngài
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều. Có lẽ chúng ta ao ước phải chi mình là người cùng thời với Đức Giêsu để cũng được ăn bánh no nê như dân Do Thái xưa. Thực ra phép lạ này ngày nay vẫn được tái diễn trong Thánh Lễ. Dự Thánh lễ là quy tụ quanh Đức Giêsu như dân Do Thái này xưa, Rước lễ là được ăn thứ lương thực kỳ diệu quý hơn cả manna của dân Do Thái.
Chúng ta hãy tham dự Thánh lễ này trong tâm tình sốt mến tạ ơn.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta lười biếng tham dự Thánh lễ.
Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta rước lễ không xứng đáng.
Xin Chúa tha thứ vì chúng ta ích kỷ không chia sẻ với anh chị em chúng ta.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (2 V 4,42-44)
Ngôn sứ Êlisê đã làm phép lạ 20 chiếc bánh lúa mạch hóa nên nhiều cho 100 người ăn no nê.
2. Đáp ca (Tv 144)
Tv này mô tả Thiên Chúa như một vị vua lý tưởng. Một vị Vua tốt luôn chăm lo đến đời sống của thần dân mình, nhờ đó mọi người đều có thức ăn đúng giờ và luôn no nê. "Chúa mở rộng bàn tay và thi ân cho chúng tôi được no nê".
3. Tin Mừng (Ga 6,1-15)
Phép lạ hóa bánh ra nhiều theo cách tường thuật của Thánh Gioan có một số chi tiết mang ý nghĩa đặc biệt:
Phép lạ này diễn ra trong thời gian lễ Vượt Qua. Chi tiết này nhằm cho thấy thứ lương thực mà Đức Giêsu ban cho dân chúng trổi vượt thứ manna mà dân Do Thái được ăn trong thời gian ở sa mạc.
Không phải dân chúng xin Đức Giêsu, cũng không phải các môn đệ can thiệp, mà chính Đức Giêsu thấy dân chúng đói và chính Ngài gợi ý tìm thức ăn cho họ.
Đức Giêsu làm phép lạ này từ phần đóng góp 5 chiếc bánh và hai con cá của một em bé.
Lương thực được phân phát qua trung gian của các tông đồ.
4. Bài đọc II (Êp 4,1-6)
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Êphêxô sống hòa thuận hiệp nhất với nhau.
Lời kêu gọi này rất tha thiết, bởi vì lúc đó Phaolô đang ngồi tù mà vẫn phải băn khoăn lo lắng cho họ.
Muốn hòa thuận hiệp nhất thì phải khiêm tốn, hiền hòa, nhẫn nại và chịu đựng nhau.
Lý do phải hoà thuận và hiệp nhất là vì mọi người cùng một thân thể, một tinh thần, một niềm hy vọng, một phép rửa, một đức tin và một Thiên Chúa là Cha.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Lòng rộng rãi của Chúa
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là hình bóng của bí tích Thánh Thể. Nhưng trước khi là hình bóng đó, tự nó, phép lạ này cũng có một ý nghĩa được nhiên, nó biểu lộ tấm lòng rộng rãi của Chúa đối với loài người.
Thánh Gioan ghi lại rất nhiều chi tiết về lòng rộng rãi ấy:
Trước đó Đức Giêsu đã chữa cho rất nhiều người bệnh tật.
Chính Đức Giêsu ngước mắt nhìn dân chúng và Ngài biết họ đói, chính Ngài nẩy ra ý định kiếm cái gì cho họ ăn.
Chẳng những Ngài lo cho họ ăn no, mà còn thừa thải.
Chi tiết Đức Giêsu bảo họ ngồi xuống trên thảm cỏ là một so sánh kín đáo Đức Giêsu với người mục tử nhân lành nuôi dưỡng đoàn chiên mình.
Trong Tin Mừng, đây không phải là chỗ duy nhất nói đến lòng rộng rãi của Chúa. Ở chương 6 Tin Mừng Mt, Đức Giêsu cũng bảo chúng ta đừng bận tâm lo lắng đến những nhu cầu vật chất của cuộc sống này, vì Cha trên trời đã biết chúng ta cần những thứ đó và đã lo sẵn tất cả cho chúng ta.
Tài nguyên của trái đất này vẫn còn dư thừa đối với những nhu cầu của nhân loại. Ngoài ra còn rất nhiều nguồn tài nguyên chưa khai thác hết. Sở dĩ ở miền này miền nọ có những dân tộc còn đói, và sở dĩ trong cùng một miền có những người còn đói, đó là vì còn nhiều người chưa đủ tin tưởng vào lòng rộng rãi của Chúa: họ sợ thiếu, nên họ dành giật và tích trữ.
Em bé trong đoạn Tin Mừng này đã không sợ như thế nên em đã dám chia sẻ 5 chiếc bánh và hai con cá của em. Kết quả: chẳng những bản thân em mà tất cả hàng mấy ngàn người đều no nê thừa thải.
Chúa rất rộng rãi, nhưng con người lại hẹp hòi. Đó là lý do của thảm cảnh nhân loại hiện nay.
* 2. Phép lạ hóa bánh ra nhiều
Đây là một phép lạ lớn: Đức Giêsu đã làm cho có lương thực cho một số đông người ăn no nê thừa thải: đàn ông là 5000, nếu cộng thêm độ 5000 đàn bà và khoảng 2000 trẻ em mà thánh Gioan không kể ra, thì con số lên tới khoảng 12.000. 12.000 người ăn no nê và dư lại 12 thúng đầy. Quả là một phép lạ to lớn.
Nhưng có một điều chúng ta phải lưu ý, đó là Chúa muốn cho phép lạ lớn lao này có sự góp phần của loài người:
Chúa đã làm phép lạ từ 5 cái bánh và 2 con cá của một em nhỏ.
Khi bánh và cá đã hóa ra nhiều rồi, Chúa nhờ các tông đồ đi phân phát cho dân chúng.
Dĩ nhiên, với quyền phép vô biên, Chúa có thể một mình làm được phép lạ này, nhưng Chúa đã cố ý dành phần cho con người góp tay hợp tác vào.
Đây là lề lối hành xử hầu như thường xuyên của Chúa:
Phép lạ đầu tiên Chúa làm ở Cana biến nước thành rượu: Chúa cũng nhờ các gia nhân xách nước đổ sẵn vào các lu.
Các phép lạ khác cũng vậy, Chúa đều đòi người ta hợp tác, hợp tác ít ra cũng bằng một thái độ tin tưởng vào Chúa. Thường trước khi làm một phép lạ, Chúa hỏi "Con có tin không?", và sau khi làm phép lạ, Chúa nói "Đức tin của con đã cứu con".
Công cuộc lớn lao nhất của Chúa là cứu chuộc loài người. Chúa cũng đòi loài người hợp tác. Cho nên thánh Augustinô nói "Khi tạo dựng con Chúa không cần hỏi ý con, nhưng khi cứu chuộc con Chúa cần con phải góp phần vào đó".
Phần Chúa thì mặc dù có quyền phép vô biên, muốn làm gì cho loài người chúng ta cũng được, nhưng Chúa muốn chúng ta góp phần của chúng ta vào. Còn về phần chúng ta thì thường chúng ta quên ý muốn đó của Chúa. Khi chúng ta muốn Chúa giúp chúng ta điều gì, chúng ta thường chỉ biết cầu xin, cầu xin rồi chờ Chúa ban ơn chứ không chịu khó góp phần cố gắng của chúng ta vào. Thậm chí phần hợp tác tối thiểu là tin tưởng trọn vẹn vào Chúa thì ta cũng có khi không tin mấy nữa, có người vừa cầu xin với Chúa vừa chạy tới các thầy bói thầy bùa giúp sức. Có lẽ chính vì thế nghĩa là vì ta không góp phần và không tin cho đủ nên nhiều khi những lời cầu xin của chúng ta đã không đem lại kết quả như ta mong muốn.
Ơn Chúa lúc nào cũng sẵn sàng ban, kể cả phép lạ Chúa cũng sẵn sàng làm. Nhưng biết bao lần chúng ta đã không chịu hưởng nhờ, là vì ta đã không góp phần của ta với ơn Chúa, hoặc ta không tin đủ vào ơn Chúa.
Cụ thể:
Nếu chúng ta xin Chúa giúp cho gia đình chúng ta được hoà thuận, thì đừng có cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa có những cố gắng làm hoà lại với nhau như cặp vợ chồng trong câu chuyện vừa kể trên.
Nếu chúng ta xin Chúa giúp gia đình chúng ta thoát cơn túng thiếu, thì cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa cố gắng dẹp bỏ những nguyên nhân gây cảnh túng thiếu ấy như ăn xài hoang phí, rượu chè, cờ bạc... và đồng thời cần cù làm ăn, tiêu xài cố suy tính cân nhắc cẩn thận...
Nếu chúng ta xin Chúa hoán cải tâm hồn của một đứa con hoang đàng, chúng ta cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin, vừa tìm cách tách nó khỏi những bạn bè xấu, những môi trường xấu và làm nhiều gương tốt trước mặt nó.
* 3. Phép lạ của lòng quảng đại
Một vị linh mục kia đã giảng rằng: phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của lòng quảng đại. Trước hết là lòng quảng đại của em bé đã hiến năm chiếc bánh và hai con cá cho Đức Giêsu. Số bánh và cá đó không nhiều. Nhưng với em bé thì nó nhiều lắm vì đó là tất cả những gì em có. Có rất nhiều người sẵn sàng cho đi từ cái có nhiều của mình, nhưng rất ít người chịu cho đi từ cái có ít của họ. Vì thế, việc em bé cho hết năm chiếc bánh và hai con cá là một phép lạ của lòng quãng đại. Kế đến là lòng quảng đại của Đức Giêsu. Chẳng những Ngài cho mọi người được ăn, mà còn muốn ăn bao nhiều tuỳ thích, rồi còn dư lại 12 thúng nữa.
Giảng xong, vị linh mục rất hài lòng, nghĩ rằng mình đã giảng một bài rất hay. Khi vị linh mục vào phòng áo, một bà cụ già cũng vào và hỏi xem có ai thấy cái túi xách của bà để quên trong nhà thờ không. Cậu bé giúp lễ trả lời là không ai thấy cả. Vị linh mục cứ tưởng bà sẽ mỉa mai, đại khái như "Cái hạng người đã đến nhà Chúa mà còn ăn cắp thì hết nước nói". Nhưng bà cụ không nói thế, bà chỉ nhỏ nhẹ: "Chắc là người lấy cái túi đó cần đến nó hơn tôi". Vị linh mục hỏi tiếp: "Thế trong túi có gì vậy?". Bà đáp: "Chỉ có hai chiếc bánh".
Câu trả lời khiến vị linh mục vui vui vì thấy câu chuyện hơi trùng hợp với bài giảng của mình. Nhưng đồng thời ngài cũng thấy xấu hổ, vì nếu ở vào hoàn cảnh của bà thì chắc ngài không thể quảng đại như vậy. Ngài cũng còn xấu hổ khi nghĩ rằng ngài chỉ giảng bằng miệng, còn bà cụ thì thực hành điều ngài giảng. Quả thực bà rất có lòng quảng đại.
Quảng đại phải là một nhân đức của người kitô hữu. Nhân đức này lại có nhiều dịp thể hiện, vì hằng ngày ta gặp biết bao người và bao nhiêu dịp để thể hiện nó. Và chúng ta có thể thể hiện quảng đại bằng nhiều cách: cho đi tiền bạc, cho đi của cải, cho đi thời giờ, cho đi công sức, cho đi sự quan tâm, cho đi lòng thương mến v.v.
Và quảng đại cũng trổ sinh niềm vui. Ít khi ta gặp một người nào quảng đại mà buồn. Cũng như ít khi ta gặp người nào bủn xỉn mà vui. (Viết theo Flor McCarthy)
* 4. Những người thiện nguyện
Hàng năm, cứ vào ngày 5-12 toàn thế giới mừng ngày "Những Người Thiện Nguyện Quốc Tế". Đây là ngày dành để tri ân những con người hiến thân phục vụ không công cho đồng loại, và cũng là ngày mời gọi mọi người dấn thân phục vụ tha nhân.
Được thành lập từ năm 1986, đến nay tổ chức đã có khoảng 35 cơ quan thiện nguyện chiêu mộ và gửi người đi khắp nơi để phục vụ mọi tầng lớp trong xã hội.
Từ một thanh niên làm việc tại các nước nghèo cho đến chuyên viên tổ chức các cuộc lạc quyên. Từ một cán sự y tế phục vụ thổ dân Châu Phi cho đến các chuyên gia phục vụ dự án phát triển các nước thuộc Thế giới thứ ba. Tất cả đều được thúc đẩy bởi một tinh thần phục vụ yêu thương, một tấm lòng nhân ái vị tha.
Ngày Quốc Tế Những Người Thiện Nguyện là bài ca dành cho một nhân loại đang nỗ lực vươn tới một thế giới đầy tình nhân ái.
***
Đức Giêsu chính là mẫu gương sáng ngời của những con người thiện nguyện. Người không chỉ sống nghèo, mà còn sống cho người nghèo. Người không chỉ rao giảng Nước Trời, mà còn chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người đem ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Hôm nay, Người "nuôi năm ngàn người ăn no". Người biết lòng họ rất vui khi nghe giảng, nhưng Người cũng biết bụng họ rất đói, Người muốn tặng họ một bữa ăn đơn giản, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời. Bữa ăn tràn đầy niềm vui.
Nhưng niềm vui chỉ được trọn vẹn khi có những con người thiện nguyện: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?" (Ga.6,5). Đức Giêsu đặt các tông đồ vào nỗi bận tâm của Người. Người cần sự cộng tác của họ. Người cần những con người thiện nguyện. Người cần một Anrê giới thiệu một bé trai. Người cần một bé trai dâng tặng bữa ăn trưa của mình. Người cần các tông đồ ổn định chỗ ngồi. Chính nhờ những con người thiện nguyện ấy, mà phép lạ được thực hiện.
Năm 1999 Giải Nobel Hòa Bình đặc biệt dành cho tập thể những con người thiện nguyện. Đó là "Tổ Chức Các Thầy Thuốc Không Biên Giới". Những con người này suốt đời hiến thân cho tha nhân không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị. 980.000 đôla tiền thưởng của họ cũng sẽ được dành cho những con người bất hạnh trên toàn trái đất.
Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giàu sang phú quí. Vậy cái đói trên thân xác vẫn còn làm quay quắt con người thời nay. Có biết bao tâm hồn thiện nguyện xót xa trước cảnh đói nghèo đã bắt tay vào cuộc với niềm tin: dù chỉ với "năm chiếc bánh và hai con cá". Thiên Chúa cũng sẽ làm cho con người được no nê ân phúc. Người sẽ biến đổi gương mặt thế giới trở nên nhân bản hơn. Người sẽ tô điểm cho bộ mặt trái đất trở nên tươi tốt hơn.
Thế giới này cần những con người thiện nguyện dám sống chết cho tha nhân. Thế giới này cần các tín hữu Kitô dám đưa những bàn tay ra để chia sẻ nâng đỡ. Thế giới này cần có những Phanxicô Assisi, Mahatma Gandhi, Albert Shcweitzer, Têrêxa Calcutta… để ra đi phục vụ muôn người khốn khổ bất hạnh.
***
Lạy Chúa, Chúa không ngừng khơi dậy trong chúng con những tâm hồn quảng đại, những con tim hiến thân cho đồng loại. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng góp phần bé nhỏ của mình trong công việc phục vụ anh em nghèo đói chung quanh chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. "Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn"
Tạ ơn Chúa trước khi ăn là một thói quen tốt, bắt chước việc Đức Giêsu đã làm ngày xưa: "Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn".
Một gia đình nọ cũng có thói quen tốt ấy. Khi mọi người đã ngồi vào bàn, ai nấy cúi đầu, đứa con gái út đọc lời cầu nguyện "Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì ơn lành Chúa đã ban cho chúng con. Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con có bữa ăn ngon này".
Mỗi lần như thế, người cha đều sung sướng trong lòng. Nhưng một hôm, lời cầu nguyện của đứa con lại khiến ông ray rứt. Hôm đó, sau khi nghe con cầu nguyện, ông chợt nghĩ tới bài báo ông vừa đọc: trên thế giới có tới 40 triệu người đói, và một phần ba trẻ con Châu Phi bị suy dinh dưỡng. Ông suy nghĩ: Bởi đâu mà gia đình ông no đủ đang khi biết bao người khác phải đói rách? Phải chăng gia đình ông tốt hơn hay xứng đáng hơn những người ấy? Phải chăng gia đình ông có ăn vì gia đình ông được Chúa thương hơn những người khác? Hôm đó, những câu hỏi như thế cứ ám ảnh tâm trí ông khiến ông ăn mà chẳng thấy ngon miệng tí nào.
Tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài ban cho ta thì chưa đủ, việc tạ ơn này phải đi kèm với ý thức về trách nhiệm mà ơn lành Chúa đã trao phó cho ta nữa. Nói cách khác, ta không thể tạ ơn Chúa đã ban cho ta có cơm ăn hằng ngày mà không nghĩ đến trách nhiệm của ta đối với những người đói khát; ta không thể tạ ơn Chúa đã cho ban cho ta có tiền bạc, công ăn việc làm mà không nghĩ đến trách nhiệm đối với những người nghèo túng và thất nghiệp.
Chúng ta không thể làm phép lạ hóa bánh ra nhiều như Đức Giêsu đã làm, nhưng chúng ta có thể chia bánh của ta cho nhiều người khác, hoặc lấy tiền mua bánh cho nhiều người khác. Đức Giêsu vẫn còn tiếp tục hỏi ta như đã hỏi Philíp ngày xưa: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?"
* 6. Phải biết thế nào là đói
Dưới triều vua Salomon, ở Giêrusalem có một người tên là Simeon rất giàu nhưng rất keo kiệt. Hắn đối xử rất tệ với các đầy tớ, bắt họ làm việc thật vất vả nhưng chỉ cung cấp lương thực ở mức tối thiểu. Bởi đó con cái họ thường đói.
Thế rồi trong nước xảy ra nạn đói. Những người nhà giàu khác mở kho lúa của mình phân phát cho người nghèo. Nhưng Simeon thì không, hắn còn lấy thêm khóa để khóa chặt các kho lúa của hắn.
Việc làm của Simeon đến tai vua Salomon. Nhà vua nghĩ ra một diệu kế: ngài sai sứ giả đi mời Simeon đến dùng bữa với ngài tối hôm sau. Hắn rất hãnh diện. Và để có thể ăn uống no nê những thức ăn hoàng gia, cả ngày hôm sau hắn nhịn không ăn vì cả nên đói rát cả ruột. Đến tối hắn vội vàng vào cung. Một người hầu mời hắn vào phòng khách và thông báo một vài quy định: thứ nhất không được xin nhà vua hoặc các người hầu bất cứ điều gì cả; thứ hai không được hỏi cũng không được than phiền một câu nào cả; thứ ba, nếu nhà vua có hỏi ăn ngon không thì phải trả lời là ngon vô cùng. Sau khi giải thích rõ 3 điều đó rồi, người hầu hỏi: "Ông có đồng ý những điều kiện ấy không?". Hắn đáp "Đồng ý". Người hầu nói: "Vậy thì ông hãy ngồi đợi ở đây. Khi tới giờ ăn thì tôi sẽ gọi ông".
Trong khi hắn ngồi đợi, mùi thức ăn thơm phức từ nhà bếp bay lên khiến hắn đang đói lại càng đói thêm, đến nỗi chảy cả nước miếng. Và rồi giờ ăn cũng đến. Vua Salomon bảo hắn: "Hãy ngồi xuống và muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý". Simeon ngồi xuống. Một người hầu mang đến cho nhà vua một con cá chiên đựng trong một đĩa bằng vàng. Nhà vua vừa ăn vừa nói "Món cá này ngon tuyệt". Sau khi vua ăn xong, người hầu mang đến cho Simeon một đĩa cá y như vậy. Nhưng hắn chưa kịp đưa tay ra thì người hầu đã vội vàng rút đĩa cá lại mang xuống bếp. Simeon tức quá định phản đối, nhưng nhớ lại những quy định mà mình đã đồng ý nên phải ngậm miệng.
Tiếp đến, người hầu mang tới cho nhà vua một tô canh thơm phức. Nhà vua uống cách rất ngon lành. Sau khi vua uống xong, người ta cũng mang cho Simeon một tô y như thế, và cũng vội vàng rút lại mang xuống nhà bếp y như thế. Khi đến món tráng miệng, sự việc lại tiếp tục giống như vậy. Simeon ức vô cùng nhưng cũng chẳng dám làm gì.
Cuối bữa ăn, vua Salomon hỏi: "Hy vọng là ông đã ăn ngon miệng". Tên nhà giàu vội vàng đáp: "Vâng tâu bệ hạ, ngon vô cùng". Và hắn vội vàng đứng dậy cáo từ để sớm về nhà giải quyết cơn đói đang cồn cào trong bụng. Nhưng nhà vua ngăn lại: "Còn sớm chán mà. Hãy ở lại nghe các nhạc công của trẫm. Họ muốn trình diễn cho ông thưởng thức". Buổi hòa nhạc kéo dài tới mấy tiếng đồng hồ. Hắn lại đứng dậy định ra về, nhưng nhà vua lại bảo "Đã khuya quá rồi ông bạn ạ. Ta cho phép ngươi ngủ lại đêm nay trong hoàng cung". Chẳng thể làm cách nào khác, tên nhà giàu keo kiệt đành phải ở lại.
Nằm trên giường mà bụng đói cồn cào, hắn không tài nào ngủ được. Hắn cứ suy nghĩ: "Sao nhà vua mời mình dùng bữa mà lại chẳng cho mình ăn cái gì cả?" Và hắn đã tự tìm được câu trả lời: Nhà vua muốn hắn có dịp cảm thấy đói thì khổ như thế nào. Từ đó, Simêon quyết định sẽ không bao giờ để các đầy tớ của mình bị đói nữa. (Viết theo Flor McCarthy)
* 7. Chứng từ về chia xẻ
"Để an ủi gia đình chị Tuyết góa bụa trong cảnh thiếu thốn, trong một dịp lễ, gia đình tôi làm thịt thỏ có dành cho gia đình chị Tuyết vài ký thịt đã nấu sẵn, gọi là để khuyến khích 3 cháu nhà chị ấy đang phải học hành vất vả để thi cuối năm. Chính trong dịp mang thịt thỏ biếu gia đình chị Tuyết, gia đình chúng tôi cảm động được biết thêm về hoàn cảnh đặc biệt của chị Tuyết. Chúng tôi hết lòng tạ ơn Chúa đã an bài để luôn có người tới giúp đỡ gia đình chị Tuyết.
Ba năm về trước: Dịp xin tiền trợ cấp cho 3 cháu nhỏ nhà chị Tuyết đi học, gia đình chúng tôi có cử người đến thăm gia đình chị Tuyết và được biết:
Thứ nhất, nhà chị Tuyết đúng là một túp lều tranh, không có sự an toàn tối thiểu để khỏi mất ngay cả cái chậu hay cái nồi trong nhà. Chưa nói đến tình trạng thiếu bàn ghế để mời khách ngồi.
Thứ hai, chồng chị Tuyết là thương phế binh chế độ cũ, từ lâu không có khả năng đảm đang lo cho kinh tế gia đình.
Thứ ba, các cháu ở cỡ tuổi 11, 14 và 16 còn cần phải đi học.
Thêm vào đó là một bầu khí tự ti mặc cảm do người gia trưởng là thương phế binh chế độ cũ. Cả việc hợp thức hoá hôn nhân nơi xã ấp cũng gây ngại ngùng nên không được thực hiện.
Ba năm về sau: - Ba năm về sau khi gia đình chúng tôi mang thịt tới biếu, gia đình chị Tuyết vẫn túng thiếu, nhưng ít nhất về nhà ở đã được cải thiện. Điều quan trọng là có những người thân quen gần xa góp phần giúp đỡ chị Tuyết. Chúng tôi chỉ có thể nêu một số những giúp đỡ cụ thể.
+ Nhà mới xây 5m x 13m với cửa kiếng và nền lát gạch tầu tráng men. Điều quan trọng là người đảm đang việc xây cất đã cho thấy lòng tốt trước sau như một với gia đình chị Tuyết. Ông Dương chỉ thân quen với chồng chị Tuyết, không những đã lo hết giấy tờ để chị Tuyết có thể đưa xác chồng về mai táng sau cái chết đột ngột nơi bệnh viện (rắc rối một phần do hôn nhân chưa được hợp thức hoá), mà còn xây cho gia đình chị Tuyết căn nhà nói trên như ông đã hứa với chồng chị Tuyết khi mua nền nhà cũ của gia đình chị Tuyết.
Tay phải làm tay trái chẳng biết
+ Tay phải làm tay trái chẳng biết: - Được biết dịp an táng chồng chị Tuyết, tiền phúng điếu gia đình, nhà hiếu nhận được trên 10 triệu đồng, một phần do các bạn học của chồng chị Tuyết ở trường Đồng Công xưa. Khi người gia đình chúng tôi mang thịt thỏ tới biếu, thì một cô giáo viên mẫu giáo cũng vừa bước vào. Cô này vẫn hay lui tới, khi mang nải chuối, lúc mang ký thịt, lúc khác mang theo tấm vải để chị Tuyết may áo quần cho các cháu. Tất cả những quà tặng đó đều theo tinh thần Tin Mừng tay phải làm tay trái chẳng biết. Sau cô giáo là chính bà Dương đưa tặng chị Tuyết cái chạn bằng nhựa có đựng bát đĩa mới. Được biết trước đó, ông bà Dương đã tặng các cháu nhà chị Tuyết máy TV đen trắng để coi. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, dân chúng xưa đói khát, cả tâm hồn lẫn thể xác, và Đức Giêsu đã rộng lòng để thỏa mãn họ cả xác hồn. Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Người:
1. Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn sống hiệp thông với Chúa nhờ Bí tích Thánh Thể / để có thể quan tâm chia sẻ cho những người đang đói khát về tinh thần cũng như vật chất.
2. Xin cho các chính quyền trên thế giới / biết tận tâm lo thỏa mãn các nhu cầu vật chất như cơm ăn, áo mặc, nhà cửa / và các nhu cầu tinh thần như tự do, hòa bình, văn hóa, tôn giáo / để mọi người dân sống đúng phẩm giá con người hơn.
3. Xin cho những người đang là nạn nhân của chậm tiến, đói nghèo và dốt nát / được nhiều người khá giả hơn quan tâm giúp đỡ / để sớm thoát khỏi cảnh lầm than cơ cực.
4. Xin cho mọi người trong cộng đồng xứ đạo chúng ta biết giúp đỡ và chia sẻ cho nhau / noi gương cộng đồng các tín hữu đầu tiên / để không còn ai trong cộng đồng chúng ta còn dốt nát và đói nghèo.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, chúng con họp nhau dâng lễ tạ ơn Chúa, vì đã quan tâm nuôi dưỡng cả xác hồn chúng con. Xin cho chúng con biết chia sẻ những hồng ân đã lãnh nhận cho mọi người chung quanh chúng ta. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị...
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi chúng ta cầu xin cho có "lương thực hằng ngày", một mặt chúng ta xin Chúa quan tâm đến những nhu cầu đời sống chúng ta, nhưng mặt khác chúng ta cũng hãy xin cho mình biết phó thác cuộc sống trong tay Chúa quan phòng.
- Trước Rước lễ: Mình Thánh Chúa mà chúng ta sắp rước còn quý giá gấp bội so với những chiếc bánh và những con cá mà dân Do Thái ngày xưa được ăn. Chúng ta hãy rước lễ trong tâm tình yêu mến và tạ ơn sốt sắng.
VII. GIẢI TÁN
Chúa đã nuôi dưỡng chúng ta trong Thánh lễ này và hằng nuôi dưỡng chúng ta mãi mãi. Chúng ta cũng hãy rộng rãi chia xẻ với anh chị em chúng ta.
19. Được ăn no nê
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Hầu hết các nhà Thánh Kinh học đều cho rằng chương sáu của sách Tin Mừng thứ tư là diễn từ về đề tài ‘Bánh Trường Sinh’, mà phép lạ Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều chỉ là phần dẫn nhập, hay là dịp để Người đề cập tới đề tài quan trọng này. Đúng là Đức Giêsu đã tự giới thiệu mình là ‘Bánh bởi trời, bánh trường sinh, bánh làm no thỏa…’, thế nhưng - tôi vẫn thườnng tự hỏi - chủ đề đích thực của bài thuyết pháp quan trọng này của Ráp-bi Giêsu có phải là để chứng minh ‘bánh vật thể’ trở thành một ‘Ki-tô hữu thể’, hay chỉ đơn giản là một ‘lời mời ăn Bánh’, tức là chủ đề của bài diễn từ nhằm diễn tả mối quan tâm, tình yêu chăm sóc của Thiên Chúa dành cho con người?
Phối hợp với tường thuật của Phúc Âm Mác-cô, cũng chương sáu, ta có thể thấy trình tự vấn đề được tác giả Gioan đặt ra như sau: - Đức Giêsu tỏ rõ mối quan tâm chăm sóc các tông đồ nhọc mệt trở về sau cuộc hành trình truyền giáo; mối quan tâm của Người sau đó còn rộng mở cho đám dân chúng, khi Người ‘chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn’ (Mc 6:34). Phép lạ làm bánh hóa nhiều để cho dân chúng ăn no chẳng qua là dấu hiệu cụ thể của mối bận tâm từ ái đó; chính vì vậy mà khi nhận thấy đám đông dừng lại ở việc được ăn bánh thỏa thích, Đức Giêsu đã phải cất công giải thích, chỉ cho họ thấy được sự chăm sóc từ nhân của Thiên Chúa mới chính là điều họ cần tìm kiếm. Phần mình, khi tự đồng hóa với ‘bánh trường sinh’, điều duy nhất Người muốn nhấn mạnh đó là: sự quan tâm chăm sóc của Thiên Chúa đối với loài người đã lên tới đỉnh điểm… “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Từ một biểu lộ chăm sóc được cụ thể hóa qua phép lạ hóa bánh ra nhiều để đám đông dân chúng được ăn no thỏa, Đức Giêsu rõ ràng muốn họ nhận ra rằng họ đang được Thiên Chúa từ ái yêu thương chăm sóc tới mức nào. Chính Đức Ki-tô, và toàn bộ sự hiện diện của Người nơi trần gian, là một thứ ‘Bánh bởi trời’, nhưng không phải là thứ ‘Thánh Thể’ để người ta phải khúm núm tôn thờ, cho bằng là của ăn nuôi sống để làm cho họ được no thỏa; và so sánh này chỉ đạt ý một khi qua đó nhân loại nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ hết tình.
Từ kinh nghiệm cụ thể được ăn bánh, các môn đệ và nhiều người Do Thái thành tâm lẽ ra phải khám phá ra chân lý vĩ đại: Thiên Chúa là Người Cha đầy yêu thương, hằng quan tâm tới con cái, và ra tay chăm sóc chúng (xem Mt 7:11; Lc 11:13). Nội dung này chính là cuộc hành trình đức tin mà mọi Ki-tô hữu chúng ta cần làm. Tiến trình này phải đưa chúng ta tới việc tin nhận Đức Ki-tô Giêsu – Bánh hằng sống như một biểu hiện tột đỉnh của tình yêu chăm sóc của Chúa Cha. Tiến trình này quả thực đầy thách đố đối với các tông đồ nói riêng và người Do Thái nói chung, đơn giản là vì khái niệm Thiên Chúa như là người Cha yêu thương chăm sóc còn rất lu mờ và khá xa lạ đối với cách suy nghĩ của Cựu Ước.
Thế còn đối với Ki-tô hữu chúng ta ngày nay thì sao? Cảm nghiệm thiêng liêng nền tảng này của Tân Ước có lẽ lại bị chúng ta đảo ngược trái chiều chăng?
Ít nhất về khái niệm, Ki-tô hữu đã quá quen thuộc với việc gọi Thiên Chúa là Cha. Cả ngàn lần họ kêu lên ‘Lạy Cha chúng con ở trên trời!’ Thế nhưng khái niệm này đa phần vẫn còn nằm trên mặt lý thuyết trừu tượng như một công thức; cũng thế, ý tưởng ‘Đức Ki-tô - bánh trường sinh’ vẫn chỉ là một khái niệm thần học mang tính suy luận (speculative). Cái cảm nghiệm thực tế rằng, với việc trao ban ‘Bánh trường sinh’, Thiên Chúa đã thực sự đặt tôi trong sự no thỏa của tình yêu Người, rằng Người là cha nhân ái hằng chăm sóc tới từng chi tiết đời sống con người, chăm sóc tới độ gần như thừa bứa ‘thu những miếng thừa của năm chiếc bánh người ta ăn còn lại… cũng chất đầy được mười hai thúng’; đó chính là cảm giác đã từng được Phao-lô diễn đạt như sau: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng ban tất cả cho chúng ta” (Rm 8:32). Cảm giác này có lẽ còn quá xa lạ đối với phần đa Ki-tô hữu chúng ta ngày nay; thay vì chỉ ngưỡng mộ Thiên Chúa là Cha cách chung chung, tôi thiết nghĩ, mỗi Ki-tô hữu nên cụ thể có những giây phút nhìn sâu vào đời sống mình để nhận ra, đàng sau mọi thành công hay may nắm lớn nhỏ, kể cả đàng sau những thất bại ê chề hay đại họa, đều có cả một dàn xếp tinh vi và tế nhị của một ‘Ai Đó’ đầy từ tâm và nhân ái. Đó mới chính là chiều sâu đức tin của Ki-tô hữu chúng ta, một chiều sâu đích thị mang lại vui mừng và hy vọng, bình an và phó thác trong mọi tình huống cuộc đời. Trọn đời người Ki-tô hữu, nếu được đặt trên nền tảng vững chắc này, thì kể cả trong các thử thách gian truân của cuộc sống thường ngày, sẽ luôn phải là an bình và vui tươi (xem Rm 8:38-39).
Phải chăng đó mới đích thực là niềm tin sống động và trưởng thành mà mọi Ki-tô hữu chúng ta cần cất công vun đắp hàng ngày, nhất là trong thế giới và xã hội hiện đại?
Lạy Chúa! Lúc được ăn, con cần hiểu bàn tay nào đang cho con ăn, cõi lòng nào đang nuôi nấng con. Mỗi khi rước lễ, xin cho con không chỉ nghĩ tới thứ bánh nào con đang được ăn (dầu đó là bánh trường sinh Thánh Thể đi nữa), nhưng ngày càng nghiệm ra rõ hơn cõi lòng nhân ái của Cha trên trời đang âu yếm dưỡng nuôi con bằng chính Người Con Chí Thánh. Xin cho việc cử hành Thánh Thể sẽ gia tăng niềm tin tưởng phó thác nơi con mỗi ngày. Amen.
20. Bánh hóa nhiều – Phêrô Trần Đình Phan Tiến
Phép lạ bánh hóa nhiều (I) mà Chúa Giêsu (Ga 6,1-15) đã thực hiện, không phải là một sự thách thức đối với Người. Vì nguyên mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Người là một phép lạ vĩ đại rồi, cũng là phép lạ duy nhất mà Thiên Chúa đã ban cho loài người. Đó là một sự mặc khải lớn lao và là một quà tặng duy nhất mà Thiên Chúa đã ban cho loài người. Vì ngoài Đấng cứu độ,Thiên Chúa không còn món quà nào lớn hơn như thế nữa.
Nhưng tiếc thay! nhãn quan của loài người thì luôn đối nghịch với nhãn quan Nước Trời, để hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai phải chu tất sứ mạng của Người. Đó là mầu nhiệm cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện. Vì vậy, sự xung đột giữa nhãn quan trần thế và nhãn quan Nước Trời là điều tất yếu. Bởi vì, nếu nhãn quan trần thế có cùng một điểm chung với nhãn quan Nước Trời, thì Thiên Chúa đã không dùng Thập gía để cứu độ nhân trần.
Nên chi Thiên Chúa luôn nhượng bộ trần thế, với một lý do duy nhất đó là, vì Ngài là Thiên Chúa. một Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương, dù nhãn quan bất đồng.
Còn ngược lại đối với nhân thế, Thiên Chúa càng yêu thương thì họ càng phản nghịch, bởi vì họ là nhân thế. Nhân thế thì luôn luôn nhìn đời bằng nhãn quan thế trần. Nhãn quan thế trần thì không thể nhìn ra Đức Kitô Giêsu, vì thế họ không tin Người từ Thiên Chúa mà đến. Suốt cuộc đời Chúa Cứu Thế là suốt một hành trình bị "chối từ". Mặc dù Người không bị mắc lừa, không bị kích động để làm phép lạ, nhưng Khi cần thiết Người vẫn biểu hiện những dấu lạ đúng lúc, đúng nơi, đúng thời điểm. Dù vậy, họ nhiều lần chứng kiến quyền năng Thiên Chúa thể hiên nơi Người, nhưng họ cũng không tin Người là "CON THIÊN CHÚA". Bởi vì sự đối nghịch giữa trần thế và Thiên Chúa, mặc nhiên họ không dám chống lại Thiên Chúa, nhưng nhãn quan trần thế của họ không đón nhận nhãn quan thiên quốc, đó là Đấng Thiên Sai. Dù Thiên Chúa đã mặc khải chính Đấng Thiên Sai cho họ,nhưng Thiên Chúa đã mặc khải một cách phổ quát, phần còn lại khi Đấng Thiên Sai xuất hiện thì họ phải biết đón nhận Người, như nhu cầu "đói" ăn của thân xác họ. Nhưng tiếc thay! điều nầy đã không xảy ra, vì họ chỉ biết tiếp nhận nhu cầu của trần thế là lương thực phải tiêu hao. Rõ ràng họ biết mở lòng để đón nhận nhu cầu thể xác là bánh, nhưng họ không mở lòng để đón nhận nhãn quan Nước Trời là Chính Đấng Cứu Thế.
Như vậy, sự mâu thuẫn ở nơi họ là quá rõ ràng, họ đòi hỏi nơi Đấng Thiên Sai một sự nghịch lý là Người phải cung cấp lương thực thân xác cho họ. Rõ ràng họ không mở lòng để đón nhận nhãn quan Nước Trời, thì Thiên Chúa không thể nào ban ơn cứu độ cho họ được.
Nhìn lại kẻ có nhãn quan Nước Trời là thiểu số, số ít mà thôi, chỉ có số ít đi theo Chúa Giêsu và tin Người là Đấng Thiên Sai. Những người ấy, ngay cả cùng thời với Chúa Giêsu, hay bây giờ và về sau nầy nữa, mãi mãi cũng là thiểu số. Vì "kẻ được gọi thì nhiều, mà kẻ được chọn thì ít". Như vậy kẻ được chọn là kẻ có nhãn quan Nước Trời, vì kẻ có nhãn quan Nước Trời thì họ mới đón nhận Đấng Cứu Thế và tin vào Người là "GIÊSU"! Vì Những ai không tin vào "GIÊSU" thì làm sao họ tin Người là "BÁNH HẰNG SỐNG". Nhưng chính Người đã nói: "CHÍNH TÔI LÀ BÁNH HẰNG SỐNG"(Ga 6, 35). Khi và chỉ khi, người nào có nhãn quan Nước Trời thì họ mới tin vào "Lời" của Chúa Giêsu.
Như vậy, muốn có nhãn quan Nước Trời, nhân thế phải biết mở lòng ra để đón nhận, dù là Thiên Chúa đã mặc khải, nhưng nhân thế không hợp tác với Ngài, thì ơn ích thiêng liêng là ân sũng của Thiên Chúa cũng không thể xảy ra được. Phép lạ Bánh hóa nhiều là một minh chứng cụ thể về việc nầy. TIN vào Đức Kitô, đồng thời là nhãn quan Nước trời, là một ân sủng của Thiên Chúa dành cho nhân thế, nhưng đòi hỏi sự hợp tác của nhân thế như: "năm chiếc bánh và hai con cá của em bé" trong đoạn Tin Mừng (Ga 6,1-15) hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tin vào Chúa là chúng con đã mở lòng ra để đón nhận nhãn quan Nước trời, trong mọi, nơi mọi lúc xin ban cho chúng con biết chu toàn phận sự chứng nhân cho Chúa ở trần thế nầy. Amen.
21. Ăn bao nhiêu tùy ý – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy niệm:
Có người coi tôn giáo như một thứ duy tâm, duy linh,
chỉ để ý đến chuyện linh hồn, chuyện đời sau,
mà hững hờ với cái đói cái no của thân xác, với chuyện áo cơm thường nhật.
Kitô giáo hẳn không phải là thế.
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã khai mở Nước Thiên Chúa trên trần gian
không phải chỉ bằng việc rao giảng như một thầy dạy,
mà còn bằng việc chữa bệnh thân xác như một thầy thuốc.
Ơn cứu độ do Ngài mang lại có tính toàn diện, cả xác lẫn hồn,
và ơn cứu độ ấy đã bắt đầu ngay từ đời này rồi.
Trong Mùa Phục sinh, Giáo hội cho ta nghe đọc chương 6 của Tin Mừng Gioan,
bởi lẽ chương này nói về Đức Giêsu là Bánh hằng sống, Bánh ban sự sống.
Chương này khởi đầu bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Phép lạ diễn ra ở bên kia hồ Galilê, vào mùa xuân, cỏ mọc xanh mướt.
Đám đông đến với Đức Giêsu đang ở trên núi với các môn đệ.
Tất cả bắt đầu bằng câu hỏi bất ngờ của Thầy Giêsu:
“Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Các câu trả lời của hai ông Philípphê và Anrê thật đáng thất vọng.
Hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút (c. 7).
Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá khô thì thấm vào đâu (c. 9).
Nhưng Đức Giêsu lại cần năm cái bánh và hai con cá đó.
Ngài đón nhận sự đóng góp của con người, dù là rất nhỏ mọn.
Nhỏ mọn nhưng là tất cả những gì tìm được ở chốn hoang vu này.
Không có sự đóng góp của một em bé, không chắc phép lạ đã xảy ra.
Khi mọi người đã ngồi xuống trên cỏ theo lệnh các tông đồ,
Đức Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ.
Chắc các tông đồ đã giúp Ngài phân phát đến tay dân.
Chính khi bẻ ra để phân phát thì bánh và cá hóa nhiều.
Chúng ta không hiểu được điều gì đang diễn ra.
Mầu nhiệm chia sẻ vẫn làm chúng ta ngỡ ngàng, sửng sốt.
Chia sẻ là biến điều ít ỏi ta đang có trở thành kho báu vô tận cho mọi người.
Chia sẻ làm chúng ta chẳng vơi đi, nhưng còn mãi.
Hơn năm ngàn con người đã được ăn tùy ý, được no nê, được dư thừa.
Gần một tỷ con người sống trên trái đất hôm nay cũng mong được như vậy.
Đức Thánh Cha coi việc liên đới chia sẻ
như một cách thức để thoát ra khỏi nạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Ước gì việc chúng ta chia sẻ Tấm Bánh thánh trong nhà thờ
giúp chúng ta tiếp tục chia sẻ những tấm bánh vật chất ngoài cuộc sống.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.
22. Bánh và cá – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Suốt cuộc lữ hành của dân Do-thái trong hoang địa, Thiên Chúa đã ban Manna từ trời rơi xuống để dân chúng thu lượm lại làm bánh nuôi sống. Bánh trở thành dấu chỉ hồng ân Thiên Chúa ban cho con người. Sách Các Vua nói đến một người từ Baal-Salisa đến dâng của đầu mùa là bánh mạch nha và lúa mì. Thiên Chúa đã chúc lành cho bánh này được dư đầy và cả trăm người ăn mà còn dư.Nhưng tiểu đồng hỏi ông: "Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được? " Ông bảo: "Cứ phát cho người ta ăn! Vì Thiên Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư (2 Vua 4, 43). Bánh trở thành biểu tượng của sự dâng hiến và hợp nhất. Muôn ngàn hạt lúa miến làm thành một tấm bánh.
Từ rất sớm, con người đã biết dùng khả năng để biến đổi hoa trái và hạt miến, lúa mì thành cơm bánh để nuôi thân. Con người cần có thực phẩm nuôi sống. Thiên Chúa đã quan phòng mọi sự trong vũ trụ để con người và súc vật có thực phẩm mà dùng. Mọi nguồn trong thiên nhiên đều có công dụng tương trợ nuôi sống lẫn nhau. Thiên Chúa không tạo dựng bất cứ loài nào một cách thừa thãi và vô dụng. Trật tự lạ lùng sinh sống trong vũ trụ là cả một sự hài hòa hỗ tương giúp muôn vật được tồn tại. Không có một loài nào bị dư thừa loại bỏ. Chỉ vì khả năng của con người còn giới hạn chưa thể khám phá ra hết những nhiệm mầu ẩn tàng nơi các sự vật chung quanh.
Chúa biến 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá ra thật nhiều để nuôi hơn 5 ngàn người. Chúa nhân bánh và cá lên gấp bội cho nhiều người được ăn thỏa thuê. Biết rằng Chúa không làm phép lạ hóa bánh thường xuyên để nuôi sống mỗi ngày. Chúa đã trao ban cho con người có thân xác khỏe mạnh, có trí khôn, có khả năng và có môi trường để lao động. Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen, để cày cấy và canh giữ đất đai (Stk. 2, 15). Chúa muốn con người cộng tác vào công trình sáng tạo với Chúa để làm cho trái đất thêm trù phú và phì nhiêu. Con người phải lao động với sức mình để nuôi thân. Chúng ta không thể ngồi đó chỉ để xin xỏ khấn vái mà phải xả thân lao động. Sau khi tổ tông trái lệnh Chúa, ông bà nguyên tổ đã nhận được lời truyền:Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất. (Stk. 3,19).
Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh nuôi nhiều ngàn người ăn no nê. Đây là dấu chỉ lòng thương xót và sự quan tâm đặc biệt của Thiên Chúa đối với các loài thụ tạo, nhất là loài người. Đã có lần Chúa đã nói về sự quan phòng rằng:Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao (Mt. 6,26). Chúa Giêsu có quyền năng trên mọi tạo vật. Ngài có quyền tác tạo và biến đổi mọi sự vượt trên tiến trình tự nhiên. Mọi sự vật trong vũ trụ cần có thời gian để sinh nở, phát triển và chín mùi. Với uy quyền trong ý tưởng, lời nói và hành động, Chúa Giêsu rút bớt thời gian để có hiệu qủa ngay tức khắc. Đó là các phép lạ.
Chúng ta quan sát mọi loài từ thực vật cho đến các loài động vật, tạo hóa đã đặt để trong mỗi loài một sự truyền sinh giống nòi tùy theo nhu cầu của cuộc sống. Có những cây trổ sinh hoa trái theo mùi vị khác nhau: Chua, cay, mặn, ngọt, đắng, chát và nồng. Một cây lúa miến sinh hằng trăm hạt. Một giàn nho trổ sinh muôn ngàn trái. Một con cá lóc dẫn theo cả mấy trăm con rồng rồng. Một con cua ôm cả ngàn con. Một con nhền nhện ôm bầu trứng cả ngàn con… Các con vật sinh xôi nẩy nở gấp trăm gấp ngàn tùy theo giống loại. Theo tiến trình tự nhiên, với thời gian được ấn định, mọi loài đều có cơ hội sinh hoa kết qủa. Ngay từ thuở sơ khai, con người biết dùng khả năng mình để trồng cấy và biến đổi hạt lúa thành cơm bánh nuôi thân.
Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều hai lần. Chúa đã dùng bánh trong bữa tiệc ly để biến đổi thành Mình Thánh Chúa nuôi hồn:Cũng trong bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy (Mt 26, 26). Manna là bánh ban xuống bởi trời nhưng tổ tiên đã ăn và đã chết. Giờ đây Thiên Chúa sẽ ban cho họ bánh trường sinh, ai ăn sẽ được sống đời đời:Đức Giêsu bảo họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ (Ga 6, 35). Chúa Giêsu là bánh trường sinh từ trời xuống để nuôi dưỡng hồn xác chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể.
Chúng ta được kết hợp với Chúa Giêsu qua sự hiện diện nhiệm mầu trong Bí Tích. Chúng ta tôn thờ, kính viếng, kết hợp và nhận lãnh Thánh Thể làm của ăn. Chúng ta trở nên một trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một, cùng chia sẻ chung một tấm bánh và uống chung một chén rượu. Thánh Phaolô đã xác tín rằng: Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa (Eph 4, 4-5). Trong Chúa Kitô, chúng ta không còn phân biệt nam nữ, giầu nghèo và tự do hay nô lệ. Chúng ta không chỉ thuộc về Hội này hay Hội nọ, mà chỉ có một hội, đó là Hội Thánh Chúa:Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người (Eph 4, 6).
Ngày nay, Chúa vẫn có thể tiếp tục làm các phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Chúa cần 5 chiếc bánh nhỏ và 2 con cá. Ai trong chúng ta cũng có thể dâng cho Chúa chút ít tấm bánh và vài con cá nhỏ. Chúa sẽ chấp nhận, chúc tụng, tạ ơn và đem ra phân phát cho nhiều người. Mỗi năm Tổng Giáo Phận Nữu Ước đều có cuộc vận động gây quỹ cho Đức Hồng Y để giúp các nhu cầu cần thiết trong Giáo Phận. Tuy dù cuộc sống khó khăn và kinh tế đang xuống dốc, nhưng lòng quảng đại của con người không giảm. Từ những đồng xu của các bà góa nghèo tới những tấm lòng rộng lượng bao la, mỗi năm một tăng, số tiền dâng cúng năm nay 2012 của Tổng Giáo Phận đã lên tới 19 triệu 30 ngàn đôla.
Chúa sẽ nhận những lễ dâng nho nhỏ hằng ngày của mỗi người như đã nhận 5 tấm bánh và 2 con cá của một bé trai dâng cúng. Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta:Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy (Mt 10, 8). Chúng ta biết rằng góp gió thành bão. Của lễ dâng cho dù có ít ỏi vẫn có thể sinh ra nhiều hoa trái bông hạt. Chỉ cần 50 xu hay một đồng đô cũng có thể nuôi sống một trẻ mồ côi, một em khuyết tật, một người phong cùi hay một cụ già neo đơn trong một ngày tại quê hương nghèo ở Việt Nam. Ai cho đi thì sẽ được ban thêm: Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi (Mt 25, 29).
Lạy Chúa, Chúa hóa bánh ra nhiều cho dân chúng được ăn no thỏa. Xin cho tấm bánh được tiếp tục bẻ ra phân phát cho những người túng đói. Chúa đã ban cho chúng con lương thực hằng ngày đầy đủ, xin cho chúng con cùng biết chia sẻ những miếng bánh vụn từ bàn rớt xuống cho những người đang đói khổ. Xin cho chúng con biết nghĩ đến người khác, xin đừng để chúng con phí phạm của ăn thức uống hằng ngày. Xin Chúa chúc lành cho chúng con.
23. Bánh hóa nhiều.
Ngày kia có một phụ nữ trung niên đến với những người nghèo khổ tại Ấn Độ. Nhìn thấy tình cảnh bi đát của họ, bà tự nhủ: Mình phải làm một điều gì đó mới được. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn dơ dáy. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm đám con nít đem về dạy dỗ chúng. Bà dùng căn nhà cũ ấy làm phòng học dù không có lấy một chiếc bàn, một chiếc ghế. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết. Đó là phương thế bà đã sử dụng để chiến đấu chống lại sự nghèo dốt. Và đó cũng là câu trả lời cảm động nhất mà bà có thể thực hiện. Thế rồi điều gì đã xảy ra cho người phụ nữ và công việc của bà? Hiện nay, bà đã có tám mươi trường học được trang bị đầy đủ. Năm trăm nhà phát chẩn lưu động hiện đại. Bảy mươi bệnh viện cho người cùi. Ba mươi nhà chăm sóc kẻ hấp hối. Ba mươi viện chăm sóc những trẻ em bị bỏ rơi và hơn bốn mươi ngàn người người tình nguyện trên khắp thế giới sẵn sáng giúp đỡ bà. Người phụ nữ đó không ai khác hơn là chính mẹ Têrêxa thành Calcutta.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay và chúng ta thấy: Cậu bé nọ có năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa đã yêu cầu cậu mang đến để Ngài thiết đãi đám đông dân chúng. Cậu bé liền trao bánh và cá cho Chúa để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Cuối cùng, hơn năm ngàn người đã được no nê. Đó cũng là điều mẹ Têrêxa đã làm. Bà trao cho Chúa bánh và cá của bà để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Thế là Chúa đã nhân chúng lên gấp bội vượt mọi điều mơ ước của bà.
Cũng trong chiều hướng đó, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phát biểu: Nếu phải một mình đối đầu với những thách đố khó khăn của cuộc sống, chúng ta sẽ cảm thấy mình không đủ khả năng và lo sợ trước viễn cảnh tương lai. Nhưng tôi xin nói điều này: Hãy đặt cuộc đời chúng ta trong bàn tay của Chúa. Ngài sẽ chấp nhận và chúc lành cho chúng ta cũng như biến đổi cuộc đời chúng ta một cách tốt đẹp, vượt trên điều chúng ta có thể mơ ước. Giờ đây chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đã đặt vào bàn tay của Chúa bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng của chúng ta để cho Ngài xử dụng theo ý Ngài muốn. Chúng ta có dâng hiến chính bản thân và mọi năng lực của mình như mẹ Têrêxa, như cậu bé trong đoạn Tin Mừng hôm nay hay chưa? Có lẽ lúc này Chúa cũng muốn nói với chúng ta ngày hôm nay Thầy cần đôi chân, đôi tay và môi miệng của các con. Vì ngày hôm nay, Thầy chỉ biết nhờ đôi chân các con để mang Thầy đến với những kẻ bất hạnh. Thầy chỉ biết nhờ đôi tay các con để vươn tới những kẻ yếu đuối. Thầy chỉ biết nhờ miệng lưỡi các con để nói cho mọi người về tình thương của Thầy.
Tóm lại, Ngài mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài để thực hiện những phép lạ, y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Phúc âm. Bất cứ chúng ta trao tặng Ngài điều gì, Ngài sẽ sử dụng nó để đem lại những kết quả to lớn vượt qua sự mong ước của chúng ta.
24. Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Có người cho rằng Kitô giáo là một thứ duy tâm, chỉ biết có đời sau, chỉ lo cho linh hồn.
Khi đọc Tin Mừng, ta thấy một điều khác hẳn. Đức Giêsu vừa rao giảng Nước Trời, vừa chữa mọi thứ tật bệnh cho dân chúng. Ngài quan tâm đến thân xác con người. Ngài đem lại ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Đức Giêsu đã từng nếm cái đói trong hoang địa, cái khát bên bờ giếng, cái mệt khiến Ngài ngủ vùi, cái lạnh của những đêm không chỗ trọ, Ngài biết con người có thân xác và là thân xác.
Khi thấy đám đông kiên trì theo Ngài, Đức Giêsu biết lòng họ rất vui, nhưng bụng họ thì đói. Ngài muốn tặng họ một bữa ăn đơn sơ, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời, trên thảm cỏ xanh tươi sau những trận mưa xuân. Bữa ăn khiến niềm vui được trọn vẹn.
"Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?"
Đức Giêsu đưa các môn đệ đi vào nỗi bận tâm của Ngài. Ngài cần sự cộng tác của họ. Nhưng câu hỏi trên lại là một bài toán khó. Nó giúp các môn đệ nhận ra sự bất lực của mình. Dù có một số tiền lớn cũng chẳng thấm vào đâu.
Khi con người bất lực thì Thiên Chúa bày tỏ quyền năng. Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ, từ tay một cậu bé con đến tay Đức Giêsu, đã trở nên lương thực nuôi năm ngàn người.
Thế giới tiến bộ hôm nay vẫn là một thế giới đói. Đừng vội nói đến cái đói tinh thần. Cái đói trên thân xác vẫn làm con người quay quắt. Đói cơm ăn áo mặc, đói nhà ở, đói thuốc men, đói chút nước sạch, rau sạch để dùng, đói an toàn và bảo hộ khi lao động, đói một bầu khí trong lành và yên tĩnh để nghỉ ngơi...
Có bao Kitô hữu đã xót xa trước cảnh đói, và đã bắt tay vào cuộc với niềm tin, dù họ chỉ có năm cái bánh và hai con cá.
Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người đều là việc thánh thiêng, việc của Chúa. Khi thân xác con người được sống xứng hợp, tâm hồn con người dễ vươn lên các giá trị tinh thần.
Thiên Chúa đã ban một trái đất đủ nuôi sống mọi người. Đừng trách Thiên Chúa đã tạo ra nghèo khổ. Chỉ nên nhận rằng bất công nằm ngay nơi lòng mình. Xã hội còn nhiều người nghèo đói vì tôi không dám chia sẻ cả điều mình dư thừa, vì tôi bị hút vào cơn lốc của thời trang và mua sắm, vì tôi xa lạ với những Giêsu quanh tôi đang đói khát, không nhà, trần trụi và đau yếu. Ước gì tôi biết yêu mến con người như Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có nghĩ rằng cái đói của thân xác dễ dẫn đến những hư hỏng và sa đọa không? Theo ý bạn, đâu là những điều kiện sống tối thiểu để sống cho ra người?
Bạn nghĩ gì về sự chênh lệch quá mức giữa người giàu và người nghèo, nước giàu và nước nghèo? Đó có phải là sự bất công không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước không còn những La-da-rô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.
Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.
25. Đào tạo trái tim – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Đài VTV1 đã chiếu lại bộ phim truyền hình nhiều tập “Bản Tin Sớm”. Nhân vật chính trong phim là Gary Hopson, một người thường xuyên theo dõi tin tức hằng ngày qua tờ báo “Chicago”. Khi đọc tin tức, anh thường chú ý tới những người đang gặp nạn. Mỗi khi thấy có người bị nạn, anh luôn băn khoăn tự hỏi xem mình phải làm gì để giúp đỡ nạn nhân. Và lập tức, bất kể những khó khăn, anh lên đường tìm giúp người bị nạn.
Tâm hồn người thanh niên dũng cảm và quảng đại ấy có những nét giống với tâm hồn của Đức Giêsu. Mỗi khi nhìn thấy những cảnh khổ ở đời, Đức Giêsu không sao cầm được lòng thương. Hôm nay, nhìn thấy đám đông đói khát, Người không thể để mặc họ ra về. Người cảm thấy có trách nhiệm phải lo cho họ ăn uống đầy đủ. Dù giữa nơi hoang vu không có hàng quán. Mà nếu có hàng quán cũng chẳng ai đủ tiền mua cơm bánh cho hàng chục nghìn người đang đói khát. Nên người đã làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân. Qua phép lạ lớn lao này, Đức Giêsu hé mở cho ta thấy trái tim đầy tình thương xót của Người, quyền năng cao cả của Người. Nhưng đồng thời Người cũng nhân dịp này đào tạo trái tim con người.
Bài học thứ nhất mà Người muốn dạy ta, đó là lòng cảm thương phải biến thành việc làm cụ thể. Lòng cảm thương là một tình cảm tốt. Nhưng cảm thương suông thì chưa đủ. Thiếu việc làm cụ thể, lòng cảm thương nhiều khi trở thành hình thức, giả dối. Lòng cảm thương ai cũng có. Nhưng số người thực sự ra tay hành động vì lòng cảm thương lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu thốn phương tiện. Các tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động. Nhưng Đức Giêsu bắt họ vào cuộc. Đã thấy việc tốt thì cố gắng làm. Dù khó khăn cách mấy cũng phải vượt qua. Chỉ có việc làm cụ thể mới minh chứng một lòng cảm thương đích thực. Thế là các môn đệ phải đi tìm bánh và cá mang đến cho Chúa. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người. Các ông đi thu lượm những mẩu bánh còn dư. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Bài học thứ hai mà Người muốn dạy ta, đó là hãy cộng tác vào công trình của Chúa. Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng Người muốn ta cộng tác vào chương trình của Người. Người có thể biến đá thành bánh. Nhưng Người vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc. Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ Pháp có câu: “Hãy tự giúp mình, rồi trời sẽ giúp bạn”. Sự cộng tác của ta nói lên nhu cầu thật sự bức thiết. Sự cộng tác tích cực nói lên lòng ta tha thiết mong muốn. Nỗ lực của con người là khởi đầu phải có. Rồi Chúa sẽ làm nốt phần còn lại. Ở đây ta phải ghi nhận lòng quảng đại của em bé. Có lẽ em đi bán bánh. Giữa nơi hoang vu vắng vẻ, trước một đoàn người đói khát, em có thể lợi dụng thời cơ nâng giá bánh để tìm lợi nhuận. Nhưng em đã quảng đại dâng hết cho Chúa. Chính sự quảng đại của em đã góp phần làm nên phép lạ nuôi sống hàng vạn người.
Bài học thứ ba mà Người muốn dạy ta, đó là hãy biết tiết kiệm. Đói khát và thừa mứa. Thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái ngược hiện nay trên thế giới. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh dư thừa. Đức Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh thừa. Chúa dậy cho mọi người hãy biết tiết kiệm. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Tiết kiệm để chia sẻ. Tiết kiệm vì công bình. Tiết kiệm vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Thế giới còn những người đói nghèo không phải là vì thiếu tài nguyên, nhưng vì phân phối chưa đồng đều, vì những người giầu có tiêu xài phí phạm.
Bài học thứ bốn mà Người muốn dạy ta, đó là phải tìm lương thực thiêng liêng. Vật chất là cần thiết cho đời sống hiện tại. Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con người sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời. Về lâu về dài, muốn con người phát triển, cần phải giải quyết các nạn đói khác. Đó là nạn đói văn hóa. Đó là nạn đói đạo đức. Và trên hết, đó là nạn đói lương thực thiêng liêng. Nhu cầu tâm linh của con người ngày càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện. Chúa bỏ trốn, không chịu để được tôn làm vua, vì Người muốn những kẻ tìm Người tỉnh ngộ, vượt thoát khỏi vòng nô lệ vật chất, vươn lên những giá trị tâm linh.
Với những bài học kèm theo việc hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu muốn đào tạo trái tim chúng ta. Người muốn trái tim ta hãy mở ra để cảm thương anh em đồng loại. Người muốn lòng cảm thương ấy đi đến cùng bằng những việc làm cụ thể, bằng sự cộng tác quảng đại, bằng sự tiết kiệm để giúp ích cho nhiều anh em. Người muốn trái tim ta vươn lên khao khát những chân trời cao thượng của đời sống tâm linh. Người muốn đào tạo ta nên những con người phát triển toàn diện xứng đáng là những người con của Thiên Chúa. Người muốn nuôi dưỡng không chỉ thân xác nhưng nhất là linh hồn ta.
Lạy Chúa, xin nâng tâm hồn con lên tới Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể lại những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua bài Tin Mừng hôm nay.
2) Bạn có thể góp phần phát triển xã hội bằng cách tiết kiệm. Bạn có thấy việc đó là cần thiết không?
3) Nhiều lần bạn đã xin Chúa cho được cơm no áo ấm. Nhưng có bao giờ bạn xin Chúa cho được nên người tốt, biết sống đạo đức hơn không?
4) Lòng cảm thương của bạn có đi đến những việc làm cụ thể không?
26. Nuôi đám đông
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Khi tổ chức tiệc chúng ta thường phải chuẩn bị nhiều thứ. Tiệc càng đông người việc chuẩn bị càng nhiều và nếu có người phụ giúp gánh nặng sẽ giảm bớt nhiều nhưng nhiệm vụ của người quản tiệc vẫn đòi hỏi nhiều tính toán, chuẩn bị, nhờ đúng người, đúng việc.
Đám đông lắng nghe Đức Kitô hầu như cả ngày, thích thú đến độ không cần ăn uống. Các môn đệ xin Ngài giải tán đám đông để họ đi tìm chỗ ăn uống, nghỉ ngơi vì ngày đã gần tàn. Đức Kitô đáp các anh hãy lo cho họ ăn. Các ông la hoảng, tìm đâu ra của ăn nuôi năm ngàn người ở nơi quạnh hưu này, hàng quán thì không có, mà nếu có thì đào đâu ra tiền mua thức ăn. Một trong số các vị mạnh dạn thưa. Em bé kia có dăm cái bánh và hai con cá nhưng bằng đó thì thấm vào đâu cho số người khổng lồ này? Các môn đệ theo Thầy đã lâu nhưng vẫn không thể tưởng tượng, chưa nói đến hiểu, quyền phép Thiên Chúa. Các ông không biết Chúa có thể hoá ít ra nhiều bằng một lời nguyện cùng Chúa Cha. Các ông không biết Chúa chọn kẻ bé nhỏ nhất, hèn mọn nhất là em bé với hộp đồ ăn trưa để nuôi năm ngàn người lớn ăn no, số bánh dư, vất vương vãi trên cỏ thu lại thành nhiều thúng đầy. Không phải các môn đệ làm sự lạ cả thể mà chính Đức Kitô. Cũng không phải vì lời cầu xin của các ông mà Đức Kitô làm phép lạ mà chính là do tình thương mến Đức Kitô dành cho đám đông. Khi nghe Đức Kitô bảo các ông hãy nuôi đám đông, các ông sửng sốt đến ngạc nhiên tự hỏi không biết mình có nghe sai không? Nhưng khi nghe Đức Kitô bảo hãy nói với dân chúng ngồi xuống từng đám năm mươi lúc đó thì không còn nghi ngờ gì nữa. Các môn đệ vâng lời Đức Kitô nhưng không hiểu việc Thầy làm. Dù không hiểu nhưng vẫn vâng lời đó là điều Kitô cần suy gẫm khi cuộc sống gặp gian nan, khi đức tin gặp hoàn cảnh khó xử bởi việc Chúa làm không thể hiểu, ngoài mức hiểu của con người nhưng ai vâng lời sẽ kinh ngạc trước những việc Chúa làm. Họ sẽ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, từ trầm trồ này đến trầm trồ nọ vì sức mạnh tình thương cao cả Chúa.
Giảng cho năm ngàn người nơi bãi biển mà không cần khí cụ khuyếch đại âm thanh, khi tiếng sóng vỗ ầm ầm, tiếng gió hú vù vù bên tai, Đức Kitô có thể làm cho mọi người nghe và hiểu điều Ngài muốn nói, yêu mến lời Ngài giảng dậy là một phép lạ. Họ nghe đến quên thời gian, quên ngay cả đói khát, quên đau lưng, chồn chân, mỏi gối. Tất cả những điều đó là những phép lạ phụ, tuy nhỏ nhưng rất thực tế dẫn đến phép lạ vĩ đại cuối ngày. Phép lạ cả thể là dùng bữa ăn trưa của em nhỏ nuôi năm ngàn người lớn. Phép lạ cuối ngày dẫn chúng ta liên tưởng đến bữa Tiệc Li Đức Kitô dùng với các môn đệ và trong bữa tiệc này Chúa lập Bí Tích ngày nay chúng ta hiểu là Bí TíchThánh Thể. Với quyền năng cao vời Chúa hoá ít bánh ra nhiều bằng một lời cảm tạ Chúa Cha. Kitô hữu không nên và cũng không cần thắc mắc sự việc Chúa làm, làm sao sau khi truyền phép bánh thường trở thành Thịt Máu Đức Kitô. Nếu có thắc mắc thì nên đặt câu hỏi làm thế nào để cám ơn tình thương Chúa cho được. Có lẽ cách hữu hiệu nhất, thích hợp nhất và làm đẹp lòng Chúa nhất để đáp lại tình thương Chúa là với lòng chân thành, yêu mến chúng ta hãy chia sớt trong khả năng mỗi người để Chúa biến những vật chất giới hạn của ta thành tình yêu vô biên của Chúa cho tha nhân. Đó là cách thực hành tinh thần bác ái Kitô, thực hành tinh thần người quản lí tốt lành trong Giáo Hội Chúa.
27. Vụn bánh
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Phúc Âm đọc trong lễ Chúa Nhật năm B thường trích từ thánh Marcô. Tuần này và bốn Chúa Nhật kế tiếp có sự thay đổi đột ngột. Chúng ta nghe đọc Phúc Âm thánh Gioan, chương sáu, nói về Đức Kitô, Đấng ban Bánh Hằng Sống, là chính Máu và Thịt Ngài làm của ăn nuôi linh hồn ta. Bánh Hằng Sống vì Đức Kitô phán
Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời Gn 6,51
Chỉ có hai con cá và năm cái bánh, Đức Kitô làm phép lạ, dư bánh nuôi năm ngàn người. Phép lạ nuôi đám đông còn huyền diệu hơn, trường cửu hơn, khi Ngài dùng chính Mình và Máu Thánh Ngài để nuôi muôn dân. Không phải một lần mà nhiều lần, vô tận. Mình, Máu Chúa ban không giới hạn thời gian, kéo dài từ đời nọ đến đời kia, thế hệ này sang thế hệ nọ. Vô tận. Bao lâu còn người kêu cầu Danh Thánh dâng lễ tế; bấy lâu còn Mình Máu Thánh.
Tất cả vì yêu
Đức Kitô ban bánh hằng sống vì Ngài yêu ta. Tình yêu Ngài không chỉ giới hạn riêng cho linh hồn. Tình yêu Ngài thể hiện tài tình qua các phép lạ chữa lành bệnh thân xác. Ngài diễn tả tình yêu cao vời bằng nhiều cách, vượt thời gian, không gian. Mọi cử chỉ, lời nói, việc làm, lời giảng cũng như phép lạ đều phục vụ một mục đích duy nhất. Diễn tả tình Chúa yêu ta.
Đức Kitô xuống thế nhận thân phận làm người, chung sống với nhân loại. Sống gần kề con người. Ngài đến để cảm thông nỗi đau khổ, vất vả của con người và mở đường dẫn con người về cùng Chúa Cha, Đấng trọn tốt, trọn lành vô cùng.
Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Gn 14,6
Là con người, Đức Kitô trải qua vui buồn, sướng, khổ như chúng ta. Qua kinh nghiệm bản thân, Ngài an ủi kẻ sầu khổ, hạnh phúc cho kẻ bất an, hy vọng cho người tuyệt vọng. Kẻ mù mừng vui thấy ánh sáng, vẻ đẹp thiên nhiên của Đấng Hóa công. Ngài chữa lành mọi ốm đau, bệnh tật. Người điếc reo hò chân nhảy điệu nhạc vui. Kẻ câm cất tiếng hát vang lời cảm tạ. Người què vất nạng xó bếp, chân bước đều, đồng hành cùng mọi người. Đức Kitô diễn tả tình yêu Chúa cao vời, vượt trên trí hiểu biết con người. Khôn ngoan, trí óc tưởng tượng không nổi, nói chi đến giải thích, phân tích. Để tạm hiểu tình yêu Chúa, có một cách duy nhất: dùng tình yêu đáp trả tình yêu. Ngoài cách này ra, không còn cách nào khác.
Tình yêu cao vời
Ngoài cách diễn tả tình yêu gần gũi, bình thường như chữa bệnh, và các dấu lạ. Đức Kitô còn diễn tả tình yêu Chúa một cách lạ thường. Ngài cho người chết sống lại. Ban ơn tha tội cho những ai thống hối. Bênh vực kẻ nghèo hèn. Ngài xin Chúa Cha coi sóc và thánh hiến kẻ tin vào Ngài. Xin Chúa Cha tha cho kẻ phản bội, giết Ngài. Ban ơn tha thứ cho kẻ trộm ăn năn, thống hối. Vì yêu ta Đức Kitô hi sinh chết thay cho ta đuợc sống. Thánh Phaolô nói chết thay cho người công chính đã hiếm, Chúa chết thay cho kẻ tội lỗi, còn ban Bí Tích nâng đỡ, ban ân sủng, sức mạnh giúp người đó an tâm trở về.
Cao vời khôn ví
Ngoài trí tưởng tượng của ta. Tình Chúa cao vời khôn ví. Chúa lập phép Thánh Thể, hiện diện trong hình bánh nhỏ, trong giọt rượu nho, trong lời kinh, để gần người yêu.
Tình Ngài bất biến
Ngoài mối tình gia đình. Chúng ta yêu nhau có điều kiện, hoặc là hợp tính nết, cùng lứa tuổi, chung sở thích, gặp nhau do cách nói chuyện, thân thiết vì cùng kiến thức. Tình Chúa yêu ta không thay đổi theo thời gian. Trước sau luôn như một. Từ muôn thuở Chúa đã yêu ta bằng mối tình yêu không biên giới. Vì yêu mà chúng ta có mặt trên đời. Vì yêu Chúa cùng đồng hành với ta trong mọi biến cố lớn nhỏ của cuộc sống. Vì yêu Chúa không chọn người đẹp; chê người xấu. Chúa đón nhận và mong mỏi ngự vào mọi tấm lòng. Dù tấm lòng đó luôn thay đổi lúc trắng, lúc đen. Khi trung thành, lúc bất trung. Khi thương mến, lúc giận hờn. Khi sốt sắng đón chào, lúc khác lại xua đuổi. Lúc đuổi Ngài lúc đuổi anh chị em Kitô hữu tôn thờ Ngài. Đức Kitô đón nhận mọi tâm hồn khi tâm hồn đó có dấu chỉ thống hối. Tất cả vì Chúa yêu ta.
Phép lạ bánh ít hoá nhiều, con người xịa của, ăn dư vất đầy sân cỏ. Các môn đệ thu được mười hai thúng đầy. Ngày nay, trong một số trường hợp, người ta vẫn đối xử với Chúa như miếng bánh rơi sân cỏ năm xưa. Đón nhận Mình Máu Thánh một cách ơ hờ, thiếu chuẩn bị, thất kính. Chúa không chấp, vẫn một mực yêu thương. Nếu có thất kính là bất kính với người đồng đạo hơn là bất kính với Chúa.
Tự hào
Con người tự hào vì biết vẽ chân dung để nhớ lại người thân quá cố. Tài giỏi hơn nữa là chế tạo máy chụp chân dung người thân, lộng kiếng treo trong phòng. Tân tiến hơn là quay hình ảnh sống động các sinh hoạt của từng người, trong các biến cố cuộc sống. Tất cả đều là những hình ảnh không cảm giác, không sự sống. Tương lai còn chế tạo những gì chưa ai rõ. Điều rõ ràng, chắc chắn là trước khi con người biết vẽ, chế tạo máy chụp hình lưu niệm và máy quay phim hình ảnh di chuyển. Thiên Chúa, ngay lúc khởi nguyên, đã đi trước con người hàng triệu thế kỉ. Ngài sáng chế ra hình ảnh sống động, biết cảm xúc, biết yêu thương. Đó là sự hiện hữu của mỗi chúng ta. Chúa tạo dựng ta theo hình ảnh Chúa để qua ta Chúa nhìn thấy chính Chúa.
Xin ban ơn giúp con nhìn ra chân dung Chúa nơi mọi người.
28. Có thực mới vực được đạo
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Trọng Khẩn)
Lịch sử dân Chúa thời Cựu ước đã được ăn no nê bánh manna từ trời rơi xuống. Bánh đó tượng trưng cho ân huệ Thiên Chúa thương dân Người. Ngài không muốn họ phải chết đói chết khát.
Hôm nay và mãi mãi Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương chăm sóc cuộc đời chúng ta. Ngài không bỏ rơi con người. Ngài chăm sóc chúng ta từng chi tiết nhỏ mọn như một người mẹ hiền thương con và còn hơn thế nữa. Chúa Giêsu chính là hiện thân tình thương ấy của Thiên Chúa Cha.
Các bản văn Kinh Thánh CN 17 TN đều thuật lại việc Thiên Chúa chăm sóc son người một cách cụ thể liên quan đến miếng cơm manh áo. Bài đọc 1 sách các vua quyển thứ 2 kể lại việc hồi ấy có nạn đói lớn trong miền, người ta đem biếu ông Êlisa người của Thiên Chúa 20 chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông bảo ‘phát cho người ta ăn’. Nhưng tiểu đồng hỏi ông: ‘Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?’ Ông bảo: ‘Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: họ sẽ ăn mà vẫn còn dư’. Tiểu đồng phát cho người ta. Họ đã ăn, mà vẫn còn dư, như lời Đức Chúa phán (x. 2 V 4,42-44). “Chúa thương rộng mở tay ban, đoàn con hết thảy muôn vàn thoả thuê” (Tv 144). Bài Tin Mừng Thánh Gioan thuật lại phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều từ phần đóng góp phần ăn của một cháu bé so với đám đông mấy ngàn người cũng chẳng thấm vào đâu; nhưng kết quả diễn ra thật lạ lùng.
Trước khi cho chúng ta ăn no phần xác Chúa phải cho ăn phần hồn. Họ phải hy sinh vất vả theo Chúa để nghe Lời Chúa trước đã rồi Chúa mới làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho họ ăn. Chúa biết 'có thực mới vực được đạo'. Chúa bồi dưỡng, cứu độ con người cả hồn lẫn xác; chăm lo cả cuộc sống chúng ta.
Đám đông dân chúng, một khối người khổng lồ vây quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng. Chúa đã nuôi họ bằng Lời hằng sống. Chúa còn muốn nuôi họ bằng lương thực vật chất nữa. Chúa biết kinh nghiệm khi đói khát, người ta dễ cáu gắt, khó chịu, bực bội; thậm chí vì miếng ăn có thể chém giết nhau. Chúa Giêsu biết rõ điều ấy nên không nỡ để đám đông sau khi nghe Chúa giảng dạy lâu giờ mà phải ra về khi bụng còn đói. Rất có thể họ sẽ phê bình, chỉ trích, nổi cáu, đả đảo Chúa vì đói quá thì sao!
Nhưng cũng không phải là ‘theo đạo lấy gạo mà ăn’. Đám đông dân chúng và các môn đệ đâu có biết sau đó Chúa làm phép lạ cho họ ăn no nê. Họ chỉ biết theo Chúa để nghe giảng thôi. Mà ở địa bàn lúc bấy giờ là nơi hoang vắng cũng chẳng có quán ăn nào.
Phép lạ có được là nhờ sự quảng đại của một em bé đã dám bỏ phần ăn của mình là 5 chiếc bánh và 2 con cá (x. Ga 6,1-15). Phép lạ đòi hỏi có sự cộng tác, chia sẻ. Phép lạ đòi có sự quảng đại, hy sinh. Chúng ta luôn có đủ khả năng để giúp đỡ người khác cách này cách nọ. Đừng sợ mình cho đi ít quá hay không có gì để cho. Chỉ cần vài miếng ăn của đứa bé thế là có một phép lạ vĩ đại mà chúng ta không tin sao?
Thời đại chúng ta, vấn đề ăn uống có lẽ ít còn là chuyện ăn cho no, vì thóc gạo lương thực không đến nỗi thiếu thốn như ngày xưa, nên phải tìm kiếm ăn sao cho ngon. Vì thế, có nhiều nghệ thuật ăn uống, mỹ thuật trình bày món ăn sao cho hấp dẫn nữa. Ấy thế mà lại thiếu trầm trọng bữa ăn mang tính huynh đệ, bác ái thực sự. Thành thử ra, ngay cả khi không đói khát, người ta vẫn tranh giành nhau từng miếng ăn nhỏ nhen, bất chấp tương quan anh chị em, cha mẹ con cái... Thực tế trong con người chúng ta vẫn có khuynh hướng xấu ấy. Hôm nay Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để dạy chúng ta về sự chia sẻ trong tình liên đới. Bằng chứng là một em bé đã dám bỏ ra 5 chiếc bánh và 2 con cá của mình để đưa cho Chúa phân phát cho đám đông là một điều hơi lạ, vì đối với trẻ em, chuyện này là hơi khó. Chúa Giêsu đã biến từ một sở hữu cá nhân, sự tham lam ích kỷ của con người thành sự chia sẻ, cho đi và hưởng dùng cho cả cộng đồng, tập thể lớn.
Thiên Chúa đã dựng nên thế giới này rất phong phú, dồi dào tài nguyên khoáng sản không những nuôi sống mấy tỉ người mà nuôi sống cả muôn loài muôn thú nữa. Chỉ cần người ta đừng lãng phí, đừng ích kỷ, tham lam độc ác; nhưng biết cộng tác, chia sẻ thì ai cũng sẽ được hưởng cao lương mỹ vị. Chẳng hạn như Mẹ Têrêxa hằng ngày nuôi 9.000 người nghèo ở Calcutta. Nhưng một nghiên cứu có tính quốc tế cho biết: mỗi 1 giờ đồng hồ có khoảng 1.500 trẻ em chết vì đói khát, bệnh tật; nửa triệu dân số thế giới không được cung cấp đủ nước sạch; 450 triệu người mỗi đêm phải đi ngủ mà bụng vẫn đói meo!
Thế giới vẫn còn nghèo đói, lạc hậu, dốt nát do chiến tranh và các tệ nạn xã hội. Đức Giêsu luôn cần những con người cộng tác để trẻ em được dạy dỗ, người nghèo được nuôi nấng, người ốm đau được chăm sóc. Vì thế, một cá nhân có thể trở thành dụng cụ cho phép lạ, nếu chúng ta biết chia sẻ điều mình có với Chúa như là của cải, sức khoẻ, tài năng, thời giờ, tình yêu, địa vị, quyền hành. Chúa sẽ biến thành kết quả khôn lường. Một ông giám đốc, một nhà khoa học, một thầy giáo, một diễn viên, một linh mục, tu sĩ hay giáo dân có thể giúp ích, nuôi sống bao nhiêu người. Một chương trình nghệ thuật hay quảng cáo thu được rất nhiều tiền do sự đóng góp của nhiều người, sau đó người ta có thể dành cho những mục tiêu cao đẹp, chính đáng nào đó chẳng hạn. Như giúp người nghèo đói, bệnh tật. Chúng ta hãy cộng tác với những tổ chức từ thiện bác ái trong đạo ngoài đời để làm nên những phép lạ hằng ngày. Với niềm xác tín rằng “nếu chúng ta dâng cho Chúa một tia lửa Chúa sẽ biến thành ngọn lửa. Nếu chúng ta dâng cho Chúa một sợi dây Chúa sẽ biến nó thành cây đàn. Nếu chúng ta dâng cho Chúa một giọt nước Chúa sẽ biến nó thành một dòng suối...”.
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, 5 chiếc bánh và 2 con cá là con số tuợng trưng cho 7 bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, là nguồn lương thực Chúa nuôi dưỡng chúng ta mãi cho đến ngày tận thế, không bao giờ cạn kiệt. Chúa chăm lo cho chúng ta cả hồn lẫn xác. Chúng ta hãy để cho Lời Chúa và các bí tích của Chúa hướng dẫn và nuôi sống chúng ta, chắc chắn sẽ có những phép lạ thường xuyên xảy ra.
Cử chỉ Chúa làm khi hoá bánh ra nhiều cũng giống như cử chỉ khi Chúa lập Bí tích Thánh Thể. Rõ ràng Chúa Giêsu là tấm bánh như chính Ngài đã nói “Ta là bánh hằng sống”, đã dám bẻ cuộc đời mình ra cho nhân loại chia nhau ăn để họ được sống muôn đời. Quả thật, nhân loại sẽ còn đói khát Chúa Giêsu mãi. Đói khát Lời Ngài, Thịt Máu Ngài. Hôm nay Chúa vẫn đang cần những con người cộng tác trao ban Lời Ngài, bẻ bánh trao cho nhân loại để họ hết đói khát. Những người cộng tác không ai khác là các môn đệ, là Kitô hữu chúng ta, hãy hiến thân để phục vụ anh chị em đồng loại đang đói khát vật chất, tinh thần, đức tin. Chúng ta hãy cho họ ăn để họ được sống dồi dào cả hồn lẫn xác như Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta.
29. Dịp may bỏ lỡ – Maurice Brouard.
Từ vài năm nay, những chiến sĩ của một đảng chính trị đã bỏ nhiều công sức cho chiến lược của họ: Thăm dò, họp báo, quảng cáo không ngừng, chẳng thiếu gì cả. Họ thu hút được dư luận: Càng ngày người ta càng nói đến người sẽ là vị lãnh đạo của đảng. Mặc dù có những sự thối lui trong cuộc thăm dò, nhưng cơn sốt vẫn lên cao. Và này đây một cơ hội bất ngờ: Quần chúng náo nức, họ yêu cầu người ấy làm lãnh đạo của đảng. Đến phút chót, người ấy từ chối. Các đảng viên chua xót và thất vọng vì quần chúng đã không biết nắm lấy thời cơ.
Qua dụ ngôn trên đây, tôi muốn hình dung cách mà các bạn hữu của Chúa Giêsu đã phản ứng trước sự từ chối của Ngài. Thực ra Chúa Giêsu cứ luôn luôn bỏ lỡ những cơ hội đưa Ngài tới thành công: Ngài lẩn trốn. Quả thật Ngài không sinh ra để làm chính trị.
Sự lẩn tránh của Chúa Giêsu.
Sau bữa ăn no nê ở giữa thiên nhiên, đám đông không ngớt ngạc nhiên về phép lạ mà qua đó họ nhận ra dấu chỉ đáp ứng sự chờ mong sâu xa của họ. Chúng ta biết rằng người Do Thái chờ đợi sự tái diễn phép lạ manna vào ngày tận thế – vào thời Mêsia. Họ chờ đợi một Môisê mới, một vị ngôn sứ, sẽ tái diễn phép lạ manna. Vì vậy, phản ứng của đám đông là chuyện bình thường. Nhìn thấy dấu lạ Chúa Giêsu vừa mới làm, họ nói: ông này thật sự là ngôn sứ, kẻ sẽ đến trong thế gian. Nhưng Chúa Giêsu biết họ sẽ bắt Ngài để tôn lên làm vua, vì thế Ngài lại rút lui lên núi một mình.
Tại sao phải lẩn tránh?
Tại sao Chúa Giêsu lại tránh làm vua? Bởi vì quần chúng chỉ nghĩ đến bánh, còn Ngài lại quan tâm mặc khải cho họ Thiên Chúa thật. Ngài sẽ không cho họ nhận ra được Ngài là ai: Đấng Chúa Cha sai đến mang sự sống mới cho nhân loại. Đây sẽ là bi kịch của đời Ngài. Trong diễn từ vĩnh biệt đêm tiệc ly, Chúa Giêsu tâm sự với những kẻ thân thích của Ngài: “Người Do Thái đã không nhận biết Chúa Cha và cũng không nhận biết Thầy” (16,3). Trong lời cầu nguyện với Chúa Cha, Ngài nói: “Lạy Cha Chí Thánh, thế gian không nhận biết Cha” (17,25). Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần đã không được nhìn nhận. Quần chúng chỉ quan tâm đến phép lạ, phép lạ, đến những ân huệ hoàn toàn vật chất mà thôi. Đối với Chúa Giêsu, điều chính yếu là loài người được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, và như vậy, họ sẽ cởi mở đối với Thiên Chúa, đối với niềm hy vọng về một thế giới sắp đến. Điều chính yếu trước hết là những kẻ nghi ngờ, tuyệt vọng không thấu hiểu được mầu nhiệm của đau khổ, sự dữ, sự tội và sự chết, tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha của họ. Điều chính yếu, là họ kết hợp với Thiên Chúa và cộng tác với Ngài để xây dựng một thế giới dễ thở hơn. Họ sẽ làm được điều này khi nỗ lực giải phóng anh em mình khỏi tất cả những sự dữ đang giam cầm họ trong sự nô lệ, và khỏi mọi ngẫu tượng: Tiền bạc, tiện nghi, quyền thế.
Câu hỏi.
Chúng ta tin vào Chúa Giêsu có phải là tin vào vị ngôn sứ cao cả, Đấng giải phóng đến trong trần gian để thỏa mãn những ước vọng sâu xa nhất của chúng ta (ước vọng được cứu rỗi, được sống vĩnh cửu, được hiệp thông với Thiên Chúa) và để lôi cuốn chúng ta giải phóng những người anh em đang phải nô lệ cho sự bất công, thù ghét và cho các ngẫu tượng không?
Lời Chúa và Thánh Thể.
Thánh Thể là bữa tiệc được Chúa Giêsu thiết lập để nuôi dưỡng ước muốn hiệp thông của chúng ta với Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, và để tăng cường ý chí chúng ta muốn phục vụ hết thảy mọi người.
30. Để phép lạ được tiếp tục – Lm. Nguyễn Nguyên
Thiên Chúa là Tình Yêu, đó là một định nghĩa thật chính xác về Thiên Chúa của Kitô giáo chúng ta. Tình yêu ấy bao trùm toàn thể vũ trụ này. Không một thụ tạo nào có thể sống và tồn tại nếu không nằm trong quỹ đạo yêu thương của Ngài. Là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, nên khi đến trần gian, trong những ngày tháng công khai rao giảng, Chúa Giêsu đã thể hiện tình yêu ấy một cách cụ thể như trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thật thế, nhằm đáp ứng nhu cầu khát khao chân lý của dân chúng, Chúa sẵn sàng dạy dỗ họ nhiều điều. Rồi khi thấy đám đông đi theo mãi mê nghe Chúa giảng dạy mà quên cả ăn, khiến Ngài không đành lòng để họ ra về giữa cơn đói cồn cào. Nên Chúa đã hỏi: “Philipphê, ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Câu hỏi làm toát lên một sự quan tâm, lo lắng được xuất phát từ tình yêu chân thành. Dù rằng, chính Tông đồ Philipphê, khi được hỏi đã thú nhận sự bất lực của mình khi trả lời Chúa Giêsu: “Đến hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”. Khi nói “hai trăm bạc bánh”, Philipphê muốn nói rằng cho dù có một số tiền lớn tương đương với tiền công 200 ngày của một người Do Thái lúc bấy giờ hoặc tính theo giá trị của hôm nay là 100.000 đồng/công, số tiền này lên đến 20 triệu đồng, thì “cũng chẳng đủ cho mỗi người được một chút”.
Tuy nhiên, tất cả những khó khăn đó không cản trở được tình yêu, lòng thương xót của Chúa Giêsu đối với đám đông đang mệt lả vì đói. Ngài đã vượt qua tất cả mọi trở ngại, để thực hiện một phép lạ thật tuyệt vời. Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé, Ngài đã làm ra số lương thực đủ cho cả đám đông đang bị cơn đói hành hạ, hơn nữa còn dư lại 12 thúng đầy. Điều con người không thể tưởng, không thể nghĩ, không thể làm được, thì Chúa Giêsu với tình thương Ngài đã thực hiện cách dễ dàng. Nhưng chúng ta cũng lập tức nhận ra rằng Chúa đã thực hiện phép lạ không phải từ số không, nhưng từ chất liệu của con người, đó là bánh và cá. Chúa Giêsu không dùng lời quyền năng để biến từ không ra có, mà phép lạ được khởi đi từ một khẩu phần ăn ít ỏi của một em bé. Vậy là đã quá rõ Chúa muốn qua phép lạ hôm nay nói với mọi người chúng ta rằng: Chúa muốn dùng tình thương của con người, để qua đó Ngài thi thố tình thương của Thiên Chúa cho con người gấp bội. Cũng như sự quảng đại của em bé đã làm cho nhiều người được no nê, những đóng góp của biết bao người thiện chí, dù là ít ỏi, giới hạn, chẳng đáng là bao nhưng thực hiện với lòng yêu thương, sẽ khiến Thiên Chúa làm cho sự quảng đại này được nhân lên, nhân lên mãi trong cuộc sống.
Thế nên, lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem, chúng ta đang đặt trong tay Chúa bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng để Ngài sử dụng theo như ý Ngài muốn? Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm xưa. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì - chẳng hạn thời gian, tài năng, tiền của, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta - Ngài sẽ sử dụng tất cả để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng vượt lên trên mọi niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã bội nhân 5 chiếc bánh và 2 con cá của cậu bé trong Tin Mừng. Có lẽ đây là điều không dễ vì khi đói, miếng bánh còn quý hơn vàng, và thói đời thường cho rằng “sống chết mặc bây, tao no trước đã”. Nhưng cậu bé sau khi đã quảng đại, sẵn sàng trao khẩu phần ăn của mình cho Chúa, em không chỉ được ăn no nê, mà còn nhận lại được niềm sung sướng khi thấy món quà nhỏ mọn của mình đã đem lại niềm vui bất ngờ cho biết bao người khác.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn giàu lòng quảng đại để có thể trao ban niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân trong đời sống bác ái yêu thương. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được toả lan rộng rãi khắp nơi. Amen.
31. Phúc Âm đã phản ánh trong Thánh Lễ.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” – Charles E. Miller)
Thời gian thánh Gioan đã viết Phúc Âm của Ngài vào khoảng sau mười năm sau cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, việc cử hành bí tích Thánh Thể vào Chúa Nhật đã được hình thành và thiết lập như một sự diễn tả những gì có nghĩa là một môn đồ của Đức Kitô. Thánh Gioan đã viết chương sáu của ngài theo cách để cho những người đọc mường tượng thấy ngày Chúa Nhật của họ khi suy niệm Phúc Âm của ngài. Hầu như hai mươi thế kỷ sau chúng ta vẫn còn thể thấy rõ được thực tại này.
Chương thứ sáu mở ra bằng việc kể lại sự kỳ diệu Chúa Giêsu nuôi năm ngàn người với năm chiếc bánh và hai con cá. Theo những lời của Thánh Gioan, đó là một đám đông khổng lồ. Thánh Lễ không phải là một việc sùng kính riêng, hoặc là một cuộc hành hương với một vài người. Đó là một việc cử hành với một đám đông người, xuyên qua khắp thế giới là những dân của Thiên Chúa.
Thánh Gioan đã chú ý đến lễ Vượt Qua của người Do thái thì gần đến. Đó không phải là một sự tình cờ mà là một thời gian trong năm đã được đề cập đến như là ý nghĩa của bí tích Thánh Thể. Hy tế Tạ ơn là một cuộc Vượt Qua của người Kitô giáo chúng ta, việc cử hành hy tế này đã ban cho chúng ta như môt dân của Thiên Chúa. Trong kinh nguyện thứ bốn chúng ta kêu lên rằng: “Lạy Chúa bởi thánh giá và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng con, Ngài là Đấng cứu độ thế gian.”
Thánh Gioan đã tiếp tục quan sát khi diễn ra việc nuôi sống đám đông, một cậu bé đã hiến dâng năm chiếc bánh và hai con cá cho Chúa Giêsu. Điều đó có vẻ như là không có gì khi so sánh với nhu cầu của một số đông người như thế. Trong cùng cách đó nơi Thánh Lễ, một số người đã mang rượu và bánh để bắt đầu chuẩn bị những của lễ. Họ là cậu bé của Phúc Âm và những của lễ dâng cho vị linh mục thì không ý nghĩa gì khi so sánh với những gì chúng sẽ trở thành.
Trong câu chuyện về những chiếc bánh mà Chúa Giêsu đã thực hiện những hành động hy tế. Chúa Giêsu đã cầm lấy những chiếc bánh và dâng lời tạ ơn. “Từ Eucharist có nghĩa là dâng lời tạ ơn”. Ở điểm này, thánh Matthêu trong Phúc Âm của ngài đã kể lại cho chúng ta một chi tiết rất quan trọng. Ngài kể rằng sau khi Chúa Giêsu nhìn lên trời, dâng lời tạ ơn, Ngài cầm lấy bánh bẻ ra và trao cho các môn đệ để phân phát cho dân chúng. Cái nhìn này chính xác giống như những gì đã xảy ra nơi Thánh Lễ khi vị linh mục được trợ giúp bởi một vị thừa tác viên Thánh Thể đặc biệt.
Còn cá thì thế nào? Chúng không phải là một phần trong bữa ăn hy tế của chúng ta nhưng cá là một dấu hiệu rất cổ xưa mà nay vẫn còn lưu hành, biểu tượng của người Kitô hữu. Những chữ đầu trong tiếng Hy lạp là Giêsu Kitô: “Giêsu Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ”. Là những mẫu tự đầu vẫn được đánh vần bởi tiếng Hy lạp của chữ cá: “ICHTHUS.” Vì thế mọi người đều rất thích với ý nghĩa dấu hiệu này, họ chú ý đến cá là cho họ nhớ rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài đã ban Con duy nhất của Ngài, để cứu độ chúng ta qua hy tế mà Ngài đã dâng chính mình Ngài trên thánh giá. Hy tế Thánh Thể là một tưởng nhớ sống động của lễ hy sinh này. Trong lúc cử hành hy lễ chúng ta tuyên xưng cùng Đức Kitô: “Chính bằng sự chết Ngài đã phá huỷ sự chết của chúng ta, bằng sự sống lại, Ngài đã phục hồi sự sống của chúng ta”.
Vì Chúa Nhật thứ bốn kế đó chúng ta sẽ nghe tiếp chương thứ sáu của thánh Gioan, và mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta lại càng đi sâu hơn vào hy tế Thánh Thể.
32. Chúng ta đợi gì nơi Tin Mừng?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Phép lạ bánh hóa nhiều mà thánh Gioan kể lại trường hợp với phép lạ thứ nhất bánh hóa nhiều trong các Phúc âm nhất lãm. Xem Hc 6,30-43. Các Phúc âm Nhất lãm – nhấn mạnh đến lòng Chúa Giêsu thương xót dân chúng. Thánh Gioan lưu ý đến giá trị dấu chỉ chứa đựng trong biến cố.
Đàng khác, chúng ta thấy ở đây Chúa Giêsu sử dụng một phương pháp tâm lý. Chúa Giêsu biết rõ điều Ngài sẽ làm, nhưng Ngài làm như không biết, và Ngài đặt một vấn đề. Đặt vấn đề là một cách thức tốt để khơi dậy sự chú ý. Làm thế nào để dân chúng hỏi về đói lả? Làm sao kiếm thức ăn cho họ? Những dự kiến của vấn đề rất đơn giản người ta chỉ có 5 cái bánh mà người ăn có đến từng ngàn. Sự chênh lệch quá lớn lao. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh sự chênh lệch vô giới hạn giữa các phương thế hành động với sự đói lả của đám đông – Những phương tiện nhân loại càng quá ít ỏi, sự can thiệp của Chúa sẽ tỏ ra thật cảm kích xét về thành quả.
Biến cố sẽ đánh động mạnh mẽ các môn đệ và đám đông. Dân chúng, sau một lúc hân hoan cảm kích, sẽ mau lẹ trở về với đời sống vất vả thường xuyên của họ. Các môn đệ ghi nhận phép lạ nhưng lòng trí chưa hiểu ngay tất cả ý nghĩa, nhưng đó sẽ là một yếu tố quan trọng trong việc giáo dục của Chúa Giêsu đối với họ. Cho được như vậy, phải đợi Chúa sống lại. Nhưng phép lạ ấy cũng đã gây ra nơi họ một ấn tượng sâu xa giúp họ trung thành với Chúa, mặc dầu những thử thách lớn họ sẽ gặp sau này.
Bài tường thuật của thánh Gioan tỏ cho thấy hai điều quan trọng:
1) Từ một trường hợp cụ thể, Chúa Giêsu đòi các Tông đồ một niềm tin tuân phục, lương tri buộc Philipphe hỏi Chúa: ‘Chúng con phải mua bánh ở đâu để có họ ăn? Chúa Giêsu đáp: ‘Hãy bảo họ ngồi xuống’. Các Tông đồ vâng lệnh Thầy và có lẽ tự hỏi sự gì sẽ xảy ra. Họ nghĩ rằng có lẽ với Thày họ, không được tìm hiểu. Chuyện kể lại: Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ. Chắc chắn là Chúa Giêsu dùng các Tông đồ để phát cho dân chúng’ (Mc 6, 41). Điều gì xảy ra nếu các tông đồ trước sự không thể được, đã chống lại Chúa Giêsu? Chắc là họ sẽkhông phải là những người cộng tác với công việc của Chúa.
Đó là kết quả của niềm tin vâng phục. Nó làm cho kẻ tin trở nên người cộng tác với Thiên Chúa để làm những việc ấy vượt qua những phương tiện nhân loại.
Chúng ta có biết vâng lời để thi hành những nhiệm vụ mà Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta, nhất là lúc những việc ấy vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta?
2) Niềm tin vâng phục phải được sống thực sự.
Tình trạng tâm lý của các tông đồ ngay lúc đó không cho phép họ hiểu được đúng đắn dấu chỉ mà Chúa Giêsu ban cho họ.
Chúa Giêsu muốn ban cho họ một khởi điểm cho niềm tin phục sinh sau này. Còn họ, ngay lúc đó, họ phản ứng theo niềm hy vọng ấp ủ trong lòng. Họ hy vọng một Đấng Cứu thế sẽ lập lại vương quốc Israel. Một cách chân thành, nhưng cũng sai lầm, họ thấy trong phép lạ một cơ hội để tôn Chúa Giêsu lên làm vua. Ngày nay chúng ta đang sống niềm tin vào Chúa Giêsu sống lại. Nhưng chúng ta hiểu niềm tin chúng ta theo chiều hướng những tư tưởng nào, quyền lợi nào và nguyện vọng nào?
Chúng ta đợi gì nơi Chúa Giêsu và Tin Mừng?
33. Góp phần làm nên phép lạ.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Jay Kesler trong tác phẩm mang tựa đề “Những vùng đang phát triển” (Growing places) có kể một câu chuyện: Một đêm nọ ông từ máy bay bước xuống một phi trường ở Ấn Độ. Ngay khi máy bay vừa chạm đất, ông nhận thấy những bóng người đang nằm ngủ xếp lớp hai bên đường bay. Jay Kesler liền hỏi người bên cạnh thì được anh ta trả lời: đó là những kẻ sống vô gia cư. Suốt ngày đường bay hấp thụ sức nóng để về đêm trở thành máy sưởi ấm cho đám người ấy đỡ lạnh. Rời khỏi máy bay, Jay Kesler đi nhận hành lý và lên xe buýt về thành phố lân cận. Sau nửa đêm xe buýt mới đến nơi. Khi bước xuống con phố hoang vắng dẫn đến khách sạn, ông nhận thấy chung quanh ông toàn là lũ dân nghèo khổ. Thế rồi thình lình ông nghe có tiếng động kỳ lạ vang lên: Lịch kịch, lịch kịch, lịch kịch… ông liền quay lại và thấy một thằng bé có cặp giò bị cưa hầu như lên tới tận háng. Thằng bé đang cố trườn mình tới trên hai chiếc nạng bé tí. Khi đến gần Jay Kesler, thằng bé chìa tay ra xin. Jay Kesler liền cho nó tất cả số tiền lẻ trong người rồi tiếp tục đi về khách sạn. Vừa đi được thêm quãng mười bước, ông lại nghe một âm thanh kỳ lạ khác. Ông quay đầy lại nhìn thì nhận ra một vài thằng ăn xin khác đang đánh thằng bé hồi nãy bằng chính đôi nạng của nó. Chúng đang cưỡng bức thằng bé bắt nó phải trao lại cho chúng những đồng tiền mới xin được. Jay Kesler nói rằng suốt đêm ông không hề chợp mắt ngủ được.
Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến với lũ người nghèo khổ, hung dữ này. Nhìn thấy tình trạng bị đát trước mắt, bà tự nhủ lòng: “Tôi phải làm một điều gì mới được”. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ bẩn. Tuy căn nhà không khang trang lắm, nhưng có thể ở được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm lũ con trẻ đem về dạy dỗ chúng. Bà dùng căn nhà cũ kỹ làm phòng học, dù không có lấy một chiếc bàn, một chiếc ghế. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết phấn, bà dùng tấm vải rách nát cũ kỹ lau sạch nền rồi viết lên trên đó cho lũ trẻ học. Đó là phương cách bà dùng để chiến đấu sự nghèo dốt và hung dữ chung quanh bà và là câu trả lời gây cảm động nhất mà bà có thể thực hiện.
Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện chăm sóc người hấp hối, 30 viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000 nhân viên thiện nguyện khắp thế giới sẵn lòng giúp đỡ bà. Người phụ nữ đó không ai khác, chính là Mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng lập Dòng Thừa Sai Bác Ái.
Thưa anh chị em,
Tôi cho rằng không có câu chuyện nào hay hơn để làm sáng tỏ chủ đề của bài đọc 1 và bài Tin Mừng hôm nay: 20 cái bánh của một nông dân góp phần cho Ngôn Sứ Êlizê nhân lên để dọn cho 100 người ăn mà còn dư thừa. Năm cái bánh và hai con cá của cậu bé góp phần cho Chúa Giêsu thực hiện phép lạ cho 5000 người ăn no nê mà còn dư đến 12 thúng.
Đó cũng là điều Mẹ Têrêxa đã làm. Bà đã trao cho Chúa khẩu phần “bánh và cá” của bà để Chúa Giêsu thực hiện điều kế tiếp. Thế là Chúa đã nhân chúng lên gấp bội vượt mọi niềm mơ ước của bà. Đó cũng là điều Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II ngỏ cùng các bạn trẻ tại Edingburgh trong lần Ngài đến thăm Scotland vào năm 1982: “Giờ đây Cha xin nhấn mạnh chủ đề này: Cậu bé trong Tin Mừng đã trao cho Chúa tất cả khả năng cậu có thể rồi Chúa Giêsu thiết đãi đám đông 5000 người ăn no nê một cách lạ lùng và vẫn còn dư. Đời sống của các bạn cũng y hệt như thế. Nếu phải một mình đối đầu với những thách đố khó khăn của cuộc sống, các viễn cảnh tương lai. Nhưng cha xin nói với các bạn điều này: hãy đặt cuộc đời các bạn trong tay Chúa Giêsu. Ngài sẽ chấp nhận và sẽ chúc lành cho các bạn và sẽ biến đổi cuộc đời các bạn một cách tốt đẹp hơn, vượt mọi kỳ vọng lớn lao nhất của các bạn”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa Giêsu bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng chúng ta để Chúa sử dụng ý Ngài muốn? Nói rộng hơn, chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi năng lực của mình như mẹ Têrêxa Calcutta, như người nông dân trong bài đọc 1 và như cậu bé trong Tin Mừng hôm nay đã làm chưa? Hôm nay Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta: “Tôi cần tài năng của anh chị em, tôi cần lòng quảng đại của anh chị em, nói chung, tôi cần đến anh chị em: cần đôi chân, đôi tay, môi miệng của anh chị em. Vì hôm nay tôi chỉ biết nhờ đôi chân của anh chị em để mang tôi đến các khu xóm tồi tàn, các xưởng thợ và phòng làm việc ở các thành phố của anh chị em. Tôi chỉ biết nhờ đôi tay của anh chị em để vươn tới những người yếu đuối bơ vơ, những người trẻ em đường phố, những người không cửa không nhà và đang lâm và tình trạng tuyện vọng. Tôi chỉ biết nhờ vào miệng lưỡi anh chị em để nói cho các anh chị em tôi lý do tôi đã đến trên trái đất này, đã mang thân phận con người, đã chịu đau khổ và chịu chết cho mọi người”.
Tóm lại, thưa anh chị em, hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh Thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì – chẳng hạn thời gian, tài năng, tiền của, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta – Ngài sẽ sử dụng tất cả để đem lại kết quả vượt mọi kì vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã bội nhân năm cái bánh và hai con cá của cậu bé trong Tin Mừng hôm nay. Cậu bé vì quảng đại, đã sẵn sàng trao khẩu phần trưa của em cho Chúa thì lại được ăn no nê, hơn nữa lại được sung sướng nhận thấy món quà nhỏ mọn của mình đã đem lại những thích thú bất ngờ cho bao nhiêu người khác. Cha Mckarns nói: “Tôi tưởng chừng như sau đó Chúa Giêsu sẽ bảo các Tông Đồ gởi về nhà cậu bé ấy vài thùng bánh còn dư để tỏ lòng biết ơn”.
Anh chị em thân mến,
Cậu bé chính là anh chị em, là chúng ta, là tất cả các Kitô hữu. Trước nỗi thống khổ của biết bao người, chúng ta thường nghĩ rằng tài sản của chúng ta chẳng thấm thía gì, quá ít. Điều đó đúng. Thế nhưng, nếu chúng ta trao tặng tài sản đó, thì như một số vốn, lòng quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại, sự chia sẻ sẽ thúc đẩy sự chia sẻ, tình yêu sẽ khơi dậy tình yêu… Làm như vậy, chúng ta đặt nền móng cho Nước Trời, Nước của những người quảng đại biết yêu thương chia sẻ cho nhau.
Như thế, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chia sẻ tình yêu để chuẩn bị cho Nước Trời là tình yêu vĩnh cửu; hãy chia sẻ với lời cảm tạ để bánh trần gian được Đức Kitô biến đổi thành Bánh Bởi Trời, thành chình Ngài: Bánh ban sự sống muôn đời.
34. Cám ơn – Arthur Tone.
Một nông dân chở lúa mì đến kho lúa ở thành phố kế cận. Anh dừng xe lại một quán ăn và đến ngồi gần một nhóm bạn trẻ đang quậy phá, la ó người đầu bếp, chất vấn cô bồi bàn. Khi bữa ăn dọn ra trước mặt, người nông dân cúi đầu dâng lời cầu nguyện.
Một kẻ ngạo nghễ trong bọn nghĩ rằng y sẽ chọc quê bác nông dân, nên y la lớn để mọi người nghe được: Ê, Bố! Ở quê bố ai cũng làm vậy sao?”.
Bác nông dân bình tĩnh quay về phía gã thanh niên và lớn tiếng đáp lại: “Không, con ơi, những con heo không biết làm như vậy!”.
Câu chuyện này có thể chạm tự ái những ai không đọc kinh trước khi dùng bữa. Nhưng nó có thể khởi đầu cho tất cả chúng ta nghĩ đến việc cám ơn Chúa vì Chúa ban của ăn. Nghĩ đến bao lợi ích, bao ơn huệ, đặc ân để dâng một lời cảm tạ khi chúng ta ngồi vào bàn ăn.
Đức Giêsu cho chúng ta một tấm gương hoàn hảo trong câu chuyện hôm nay về việc Chúa nuôi năm ngàn người ăn no vời 5 tấm bánh và 2 con cá. “Đức Giêsu cầm lấy bánh và sau khi đã tạ ơn. Người phân chia cho họ”… Chúa chúng ta cũng cảm tạ trong bữa ăn tối sau cùng. Như chúng ta nhắc lại trong lời Truyền phép mỗi Thánh Lễ.
Khi chúng ta noi gương Chúa Kitô dâng lời cầu nguyện trước bữa ăn. Chúng ta sẽ thấy rõ lòng nhân hậu của Chúa đã làm cho chúng ta có của ăn và đồng thời cũng giúp chúng ta thấy rõ sự khổ sở vì đói bụng. Cũng thế, chúng ta phải biết ơn Chúa vì của ăn thiêng liêng là chân lý của Chúa. Và bánh của Chúa. Sự rước lễ giúp ta thấy rõ lòng quảng đại của Chúa.
Năm 1976, Đại Hội Thánh Thể thế giới ở Philadelphia. Đề tài trong 8 ngày đại hội là: “Những cái đói trong gia đình nhân loại”.
Nhiều người thuộc mọi quốc tịch đã hội thảo về cái đói của con người: Đói Chúa, đói bánh, đói tự do, đói công lý, đói hòa bình và chân lý. Nhất là đói Đức Giêsu, bánh ban sự sống. Ít người trong chúng ta có thể đến Philadelphia, nhưng mọi người chúng ta có thể nghĩ, cầu nguyện và giải quyết những cái đói của trái tim con người.
Việc biết ơn Chúa tại bàn ăn có thể là một bước đầu: Tôi có đủ đồ ăn và có dư nữa trong khi hàng triệu người đói lả. Tôi thật may mắn, họ thật bất hạnh. Tôi muốn hỏi câu hỏi Đức Giêsu hỏi trong bài Tin Mừng hôm nay: “Chúng ta phải mua bánh cho họ ăn làm sao?”. Chúng ta sẽ ý thức rằng chúng ta phải mua bánh chia sẻ, phải tránh hoang phí. Chúng ta phải khuyến khích, nâng đỡ những tổ chức trợ cấp người nghèo đói như Thánh bộ truyền bá đức tin, cơ quan viện trợ Công giáo hải ngoại. Chúng ta sẽ xin chính phủ nuôi người đói khát bằng mọi giá.
Còn quan trọng hơn nữa tôi phải biết ơn Chúa trong Thánh Lễ khi tôi rước Mình, Máu Chúa Kitô. Hàng triệu người không biết gì về của ăn này. Bạn có biết danh từ “tạ ơn” được dùng bao nhiêu lần trong Thánh Lễ. Hợp ý trong lời cầu nguyện đó và bạn sẽ khao khát chia sẻ bánh ban sự sống với những ai chưa có. Hợp ý với Đại Hội Thánh Thể bằng cách đọc kinh trước bữa ăn và đặc biệt bằng lời nguyện tạ ơn trong bàn tiệc Thánh Thể.
Xin Chúa chúc lành bạn.
35. Mua đâu ra bánh cho những người này ăn.
(Suy niệm của Noel Quesson)
Một toán du khách đi thăm dấu vết của trại Đa-sô (Dachau), một trại giam nổi tiếng của phát xít Đức thời Hitler. Người hướng dẫn khách du lịch hôm đó là một cựu tù nhân của Đa-sô xưa, ông đã bị nhốt lâu năm và may mắn thoát chết. Hôm đó là Chúa nhật, nhiều toán du lịch khách đến thăm di tích lịch sử này. Khắp nơi vương vãi những rác rưởi lẫn với đồ ăn thức uống. Gặp một mẩu bánh mì nằm bên lề đường, người hướng dẫn toán du lịch nhào tới lượm lên, ông nói giọng run run: “Một mẩu bánh mì! Tôi không thể chịu được khi thấy một mẩu bánh mì bị bỏ phí. Mấy năm thoi thóp trong tù, đối với tôi mẩu bánh mì đồng nghĩa với sự sống. Nó là ranh giới giữa sống và chết”.
Trong các bản năng Chúa trao ban cho con người, có lẽ bản năng sinh tồn là tha thiết nhất. Bất cứ ai đã có lần bị xâu xé trong cơn đói thì sẽ ghi nhớ suốt đời. Chắc Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm trong bốn mươi ngày đêm ăn chay nơi sa mạc, nên người rất cảm thương những người bị đói. Đám dân lũ lượt đi theo Chúa vào sa mạc, có những người vì tin tưởng muốn nghe lời Chúa, nhưng cũng có người chỉ vì tò mò, vui chân theo bạn bè, họ cứ đi mà không nghĩ đến ăn uống. Giờ này, Chúa biết họ đói bụng, và Chúa nghĩ phải kiếm gì cho họ ăn. Và có lẽ qua niềm cảm thông với tình cảnh đói khát của con người như vậy, Chúa đã nghĩ tới việc lập Bí Tích Thánh Thể. Qua Bí Tích này, Chúa ở lại gần gũi với nhân loại hơn. Đồng thời cũng là để thỏa mãn phần nào sự đói khát tâm linh của tín hữu. Từ lương thực no đủ cho thân xác, con người nghĩ về Chúa như một nhu cầu thiết yếu của linh hồn mình. Chúa đã mở rộng cõi lòng và cái nhìn của ta để ta dễ tiếp nhận mầu nhiệm Thánh Thể bằng một phép lạ vĩ đại: Bánh hóa nhiều. Chúa làm cho 5 ổ bánh hóa nhiều để nuôi 5 ngàn người, cốt cho chúng ta nhớ tới Chúa là bánh thật, bánh trường sinh, là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta. Sự đói khát Chúa khó cảm thấy, nhưng cũng gây mệt mỏi cho con người như đói cơm bánh vậy.
Tại sao Chúa phải hỏi Philipphê về việc mua bánh? Ngài có thể phán một lời là có ngay nhiều bánh nhiều cá. Tuy nhiên Chúa muốn thực hiện một phép lạ với sự cộng tác của Tông đồ và thiện chí của một em bé. Đó cũng là một qui luật tự nhiên mà Chúa hằng tôn trọng: do lòng tin mà có phép lạ. Chúng ta còn nhớ phép lạ trong tiệc cưới Cana. Chúa có thể từ không mà làm ra rượu, nhưng Chúa đã đợi người ta đổ nước lã đầy các chum. Những người giúp việc đang mệt mỏi mà phải đi múc nước từ giếng sâu, cũng là một cố gắng, có thể nói được là một hành động biểu lộ đức tin.
Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban lời Chúa và Thánh Thể làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng con. Xin giúp chúng con hiểu và tin những mầu nhiệm Chúa muốn mạc khải cho chúng con. Chúng con xin tạ ơn Ngài.
36. Tặng phẩm trong tay Chúa
(Suy niệm của Lm. J.B. Nguyễn Minh Hùng)
Đọc câu chuyện Chúa làm phép lạ hoá nên nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá làm lương thực nuôi, chỉ với số lượng đàn ông thôi, đã có đến 5.000 người, người ta hay chú ý đến: sự động lòng yêu thương của Chúa Giêsu, nên ban lương thực cho đám đông đang đói; hay lời của thánh Anrê giới thiệu một em bé có trong tay bánh và cá; hay sự cộng tác của con người khi trao bánh và cá để Chúa làm phép lạ; hay Chúa đưa các môn đi vào mối bận tâm của Chúa khi hỏi: “Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”…
Nhưng ít có ai nói đến chính sự tự hiến mình của năm chiếc bánh và của hai con cá để, nhờ chúng mà phép lạ diễn ra. Đành rằng, sự hiến dâng, cũng chính là sự hy sinh của em bé đã góp phần làm nên phép lạ. Nhưng chính bánh và cá mới thực là chất thể của phép lạ. Bánh và cá (chứ không phải bản thân em bé) mới thực sự làm cho phép lạ nên hiện thực.
Trong quyển “Năm chiếc bánh và hai con cá” (xuất bản năm 1998), Đức cố Hồng y Phanxicô Saviê Nguyễn Văn Thuận đã không nhìn phép lạ của Chúa Giêsu nuôi hơn 5.000 người ăn chỉ là phép lạ của quá khứ. Bằng tất cả nỗ lực thánh hoá mọi giây phút sống, mọi biến cố, mọi hoàn cảnh… xảy ra trong đời mình, Đức Hồng y nhìn thấy phép lạ của Chúa trên chính cuộc đời và trong chính sự sống, trong từng nhịp thở của bản thân mình. Bằng tất cả sự hiến dâng mọi giây phút sống, mọi biến cố, mọi hoàn cảnh… Đức Hồng y đã biến mình thành một thứ “bánh” và “cá” trong tay Chúa. Và cũng vì thế, Đức Hồng y nhìn thấy cuộc đời mình là một cuộc đời phép lạ. Bằng cách thánh hiến mọi giây phút sống, mọi biến cố, mọi hoàn cảnh…, Đức Hồng y đã nhận ra sự cao cả trong tình yêu của Chúa khôn xiết: vừa lạ lùng bởi không thể hiểu nổi, nhưng cũng quá đỗi thân quen bởi nó chạm đến chính mình; vừa nhiệm mầu bởi biết rằng nó đến từ Chúa, nhưng cũng gần gũi quá đỗi bởi cũng cảm nhận nó là chính mình… Đức Hồng y đã thấy Chúa thăng hoa đời mình chẳng khác gì “năm chiếc bánh và hai con cá” trong tay Chúa năm xưa: rất ít nhưng lại hoá nên rất nhiều.
Vì sao nhìn lại chính mình, Đức Hồng y lại có thể thấy phép lạ của Chúa? Bởi Đức Hồng y đã hoàn toàn đặt mình trong tay Chúa: ngài chính là tặng phẩm chính mình dâng lên Chúa, tặng phẩm chính mình dành cho Chúa. Đối với người được tặng quà, một khi đã có tặng phẩm trong tay mình, người chủ của món quà ấy sẽ thể hiện ý mình, thể hiện cách sử dụng của mình trên món quà. Nếu cuộc đời, sự sống và tình yêu của Đức Hồng y đã là của Chúa Giêsu, đã là quà tặng dành cho Chúa Giêsu, đã thuộc về Chúa Giêsu, đã nằm trong bàn tay Chúa Giêsu, thì Chúa Giêsu có quyền có mọi sáng kiến trên tặng phẩm ấy. Và sáng kiến của Chúa Giêsu được thể hiện nơi tặng phẩm của chính Người, một tặng phẩm mang tên Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, đó là:
- Tất cả ân ban ôm trọn cuộc đời Đức Hồng y.
- Tất cả tình thương kỳ diệu, tình thương vừa nhiệm mầu, nhưng cũng vừa cụ thể mà Đức Hồng y cảm nghiệm trên tất cả mọi thử thách, dẫu những thử thách ấy rát buốt nhất, thương đau nhất trong suốt đời mình.
- Tất cả niềm hy vọng sáng chói vọt lên giữa cảnh đời đen bạc, giữa những hận thù, những tăm tối và ác độc nhất của lòng người…
- Tất cả niềm tin vào Đấng đã khởi sự tốt đẹp, thì Người sẽ hoàn tất tốt đẹp giữa cái vô lý cực độ của một tù nhân không bản án, hay những năm tháng lưu vong, hay chính nỗi niềm xót xa vô hạn về sự vắng mặt của mình trong vai trò là mục tử giữa đàn chiên mà mình được trao phó.
- Tất cả lòng tha thứ, không gợn một chút oán hận nào trong trái tim của một con người chất chứa đầy tâm tư, trăn trở, nghĩ ngợi. Nhất là những tâm tư, trăn trở, nghĩ ngợi đó không phải vì chính mình, mà vì trách nhiệm, vì đoàn chiên, vì lòng yêu mến cả những người đang ngày đêm thù hằn và cư xử độc ác với mình.
- Tất cả sự chiến thắng trên chính hoàn cảnh. Dẫu đó là hoàn cảnh bế tắt nhất, mất hy vọng nhất, để sống cách tuyệt hảo phút hiện tại mà Chúa ban và nỗ lực làm việc không mệt mỏi, không để cho sự bị giam cầm có thể giam cầm tâm trí, giam cầm nhiệt huyết, giam cầm ý chí. Nhưng luôn vươn tới, luôn biến mình thành người tự do để hoàn thành cách xuất sắc nhất giây phút hiện tại mà Chúa ban.
- Tất cả hồng ân của hy tế thập giá trong từng thánh lễ. Nhất là những thánh lễ được cử hành với ba giọt rượu và một giọt nước, cùng với Mình Thánh Chúa là những chiếc bánh lễ được xé nhỏ nằm gọn trong chiếc túi nylon nhỏ xíu. Những hy tế hằng ngày được hiến dâng ấy đã tạo nên sức mạnh vô song để cây thập giá đời mình tháp nhập vào thánh giá Chúa Kitô tuyệt đẹp.
- Tất cả niềm hoan hỉ lớn lao khi Mình Thánh Chúa được kiệu khắp nơi giam cầm, trên chính ngực áo của những con người tưởng chừng mất tự do, và những giờ Thánh trong đêm tối tĩnh mịch để cùng nhau nhận lãnh Phép Lành Mình Thánh Chúa. Chúa Giêsu trở nên người bạn sớt chia nỗi nhục nhằn của những con người đau khổ. Ôi, niềm vui Chúa ban sao quá thiêng liêng nhưng lại ấm áp cách lạ thường! Hồng Ân Thánh Thể làm nên nghị lực quật cường nơi những con người tưởng chừng đã bị tiêu diệt tận cùng.
- Tất cả niềm bình an lớn lao trong những giây phút chìm đắm cầu nguyện. Không phải bằng lời, nhưng bằng đời cầu nguyện. Cầu nguyện giữa những hoang mang trong thương đau, lẫn niềm vui trong trách nhiệm mà Hội Thánh đặt lên vai mình. Đó là sáng kiến ngoạn mục mà Chúa Giêsu tạo nên trong lòng một con người. Con người đó là con người của niềm hy vọng và bình an.
- Tất cả sự khải hoàn của một tâm hồn rao giảng Tin Mừng ở mọi nơi mọi lúc. Nhất là những lúc đưa được những anh em đồng đạo và đang đồng phận khổ đau với mình thoát khỏi tình trạng đức tin nguội lạnh; hay những lúc rửa tội lén lút cho những anh em lương dân để họ trở về với Chúa Kitô; hoặc hoán cải lòng những anh em đối nghịch với mình, những anh em canh gác mình, những anh em nghi ngờ mình… để họ nhận biết Hội Thánh là Hội Thánh của Chúa Kitô, luôn tha thứ cho tất cả mọi người, tha thứ cho cả những kẻ bách hại mình.
- Tất cả lòng yêu mến đối với Đức Trinh Nữ cách tuyệt diệu. Với một tràng chuỗi Mân Côi trong túi, để lên đường vác thánh giá trong chính ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Người Con của Đức Mẹ đã trở thành dáng đứng kiêu sa và tấm gương soi chiếu trên tất cả Hội Thánh, để giữa những cùng khốn nhất, những người con của Hội Thánh cũng hãy biết để Đức Mẹ đứng cạnh mình, như xưa Đức Mẹ đã từng đứng cạnh Thánh Giá Chúa Giêsu trong giờ Người lâm tử.
- Tất cả tình yêu thông hiệp với Hội Thánh Chúa Kitô. Đó là tấm lòng canh cánh nặng trĩu với sứ mạng giám mục mà đoàn chiên đang trông chờ giữa thời buổi khó khăn gay gắt. Đó là lời cầu nguyện liên lỉ cho Đức Thánh Cha. Đó là niềm ý thức không bao giờ phai: mình là Giám mục của Hội Thánh Chúa Kitô. Đó là sự sốt sắng cầu nguyện bằng Lời Chúa, bằng các nhạc phẩm của Hội Thánh. Đó là những cử hành thánh lễ theo ý hướng của Hội Thánh…
Nhiều lắm những sáng kiến mà Chúa đã tạo nên nơi tặng phẩm của Người. Chắc chúng ta không thể kể hết trong một vài con chữ. Tuy nhiên, bấy nhiêu cũng đủ để chứng minh rằng, chỉ cần chúng ta hiến dâng chính mình như “con cá”, như “tấm bánh” trong tay Chúa Giêsu, để nên tặng phẩm của Người, thì Người sẽ có những sáng kiến độc đáo, những sáng kiến có một không hai trên chính cuộc đời của ta, đến mức ta không thể hiểu hết, không thể ngờ nổi…
Hiến dâng Chúa đời mình như những chiếc bánh, như những chú cá năm xưa, Đức Hồng y đã nằm gọn trong tay Chúa, để Chúa bẻ mình ra phân phát, trao ban cho con người, cho nhân loại mọi thời, mọi nơi.
Cuộc “bẻ mình” nào mà không đau đớn, không để lại những dấu tích của thánh giá?! Chúa Giêsu tự hiến chính mình, Người trở thành tấm bánh bẻ ra cho muôn người, thì cuộc hiến tế chính mình để thành tấm bánh bẻ ra, cũng đã đòi Chúa Giêsu phải chấp nhận hy sinh, chấp nhận nát tan, chấp nhận mọi đớn đau, chấp nhận cả cái chết đầy tủi nhục. “Hai chữ ‘thập giá’ đã gợi lên, cho mọi người thời Chúa Giêsu, một cây khổ giá trần trụi với hình ảnh một người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn và nhục nhã ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, giữa sống và chết, trước những cái nhìn thù ghét và khinh bỉ, trước những con mắt tò mò và dửng dưng. Thế mà, Đức Kitô, con Thiên Chúa, đã chọn "thập giá” để hiến thân trọn vẹn, ban chính mạng sống mình đến tận cùng cho đến độ chịu đóng đinh trên thập giá, nơi đó Ngài gánh tất cả tội lỗi của trần gian. Mặc dù "vô tội” (Mt 27,4), là "người công chính” (1 Pr 3,18), Ngài đã chấp nhận trở nên giống như người tội lỗi” (Hà Minh Thảo, Kính nhớ Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Radio Veritas Asia, Philippines).
Làm tặng phẩm cho Chúa để tuỳ nghi Chúa sử dụng, Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận biến mình trở thành “tấm bánh”, thành “con cá” mang lại sự hữu ích cho sáng danh Chúa và mở rộng Nước Trời. Sự “bẻ mình” trong tay Chúa của Đức Hồng y đã giúp Đức Hồng y cả một đời làm giám mục, bước theo Chúa đến mức vẹn toàn, đến trọn con đường thập giá. Con đường thập giá đó chính là một đời với một dòng họ quyền quý, nhưng sau đó đã vội tan tác. Con đường thập giá đó cũng là một định mệnh nghiệt ngã đã đưa Đức Hồng y qua mọi thăng - trầm, được - mất, sống - chết, bình an - tủi nhục, hạnh phúc - cô đơn, hy vọng - đau khổ, sức khoẻ - bệnh tật…
Chính tặng phẩm là hiến tế đời mình mà Đức Hồng y dâng lên Chúa như 5 chiếc bánh và 2 con cá trong tay Chúa, đã thổi bùng lên một linh đạo mà tất cả chúng ta đều có thể bước theo, có thể noi gương. Vậy chúng ta cũng hãy bắt chước mà sống theo linh đạo của Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: hiến tế đời mình qua từng ngày sống, thành tặng phẩm dâng lên Chúa, để tuỳ sáng kiến mà Chúa muốn thực hiện đúng theo thánh ý của Người trên chính cuộc đời và sự sống của ta. Tặng phẩm như những chiếc bánh, những con cá trong tay Chúa:
- Chiếc bánh thứ nhất: Sống phút hiện tại. Sử dụng cách tối đa giây phút mà tôi đang có đây để làm được bất cứ điều gì cho sáng danh Chúa, cho tình yêu Hội Thánh, cho Nước Trời, tôi dẽ thực hành ngay, không chần chừ.
- Chiếc bánh thứ hai: Phân biệt giữa Chúa và việc của Chúa. Chúng ta hay bị cám dỗ lao vào công việc. Lắm lúc mất ăn, mất ngủ vì công việc. Đến khi phải chuyển công tác, ta lại cảm thấy thất vọng, muốn buông xuôi. Sự năng động ấy tốt, nhưng đó không phải chính Chúa. Thậm chí, nhiều lúc lao vào công ciệc, dễ làm ta kiêu ngạo. Ví thế, điều quan trọng trong đời ta là vâng theo Thánh ý Chúa. Ta cần tìm chính Chúa, khám phá Chúa trong mọi hoàn cảnh, mọi thái độ vâng phục của mình. Chúa muốn ta tìm chính Chúa chứ không phải tìm việc của Chúa.
- Chiếc bánh thứ ba: Một bí quyết: Cầu nguyện. Hãy cầu nguyện. hãy chuyện trò với Chúa để Chúa soi sáng, Chúa dạy dỗ từ trong nội tâm. Cầu nguyện sẽ mang lại một niềm bình an vô song, sẽ bù đắp tất cả những gì thiếu thốn nơi con người mỏng dòn của ta.
- Chiếc bánh thứ tư: Sức mạnh duy nhất: Phép Thánh Thể. Sống và kết hợp với Thánh Thể Chúa phải là một việc đạo đức hàng đầu, không bao giờ quên. Thánh Thể Chúa sẽ là sức mạnh huyền diệu giúp ta vững vàng trong mọi nguy biến. Thánh Thể Chúa sẽ tăng lực để ta đạp dưới chân mình mọi đá sỏi gai góc nhất. Thánh Thể Chúa là liều thuốc cực mạnh đưa ta đến bến bờ bình an.
- Chiếc bánh thứ năm: Yêu thương đến hiệp nhất. Chúc thư Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu yêu thương hết mọi người, chúng ta yêu thương không phân biệt bất cứ người ngay, kẻ gian. Như Chúa Giêsu tha thứ cho hết mọi người, chúng ta tha thứ cho cả những địch thù, cả những kẻ sát hại ta. Như Chúa Giêsu cầu nguyện cho hết mọi người. Chúng ta cầu nguyện cho cả những người không thiện cảm với mình. Như Chúa Giêsu hiến mình cho hết mọi người. Chúng ta không chối từ hy sinh, nếu hy sinh ấy cứu được linh hồn hay sự sống của đồng loại quanh mình… Tình yêu sẽ là sợi dây siết chặt mọi trái tim con người. Tình yêu sẽ biến đổi thù hận thành bạn bè. Tình yêu sẽ mang lại tươi vui, bình an. Tình yêu sẽ làm cho cuộc đời này đáng sống, đáng phục vụ.
- Con cá thứ nhất: Mối tình đầu của tôi: Mẹ Maria vô nhiễm. Đức Mẹ đã từng hạnh phúc và đau khổ khi đồng hành cùng thánh ý Chúa trong cuộc đời. Hạnh phúc và đau khổ đan xen suốt cuộc đời Đức Mẹ từ khi Người được Chúa Chọn làm mẹ của Chúa, trải dài trong Mầu nhiệm Giáng Sinh, Mầu nhiệm Ẩn Dật, Mầu nhiệm Công Khai, Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa, đến tận cùng cuộc đời dương thế của Đức Mẹ. Đức Mẹ hiểu chúng ta. Trong vui - buồn - sướng - khổ của đời mình, hãy chạy đến cùng Đức Mẹ để được Đức Mẹ cùng đồng hành, cùng sớt chia, cùng hiến dâng và cùng chấp nhận.
- Con cá thứ hai: Tôi chọn Chúa. Chúa là giá trị độc nhất vô nhị trong đời tôi. Chỉ có Chúa và chỉ vì Chúa mà tôi yêu; tôi hoạt động; tôi thao thức; tôi suy tư; tôi cảm thông; tôi vui; tôi làm việc; tôi có tương quan với mọi người, với thiên nhiên, với muôn vật, với mọi cảnh huống…; tôi cầu nguyện cho tôi, cho con người, cho sự vật…; tôi học tập; tôi rao giảng; tôi truyền giáo… Chúa là khởi và đích của tôi, để trong tất cả, tôi ra đi từ Chúa và quay về với Chúa.
Bạn thân mến,
Với hình ảnh “5 chiếc bánh và 2 con cá” trong trình thuật Tin Mừng của Thánh Gioan (Ga 6,1-15), qua tấm gương và những gợi ý của Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, chúng ta cùng nhau bước theo Chúa Giêsu, dâng chính đời mình trong tay Chúa. Xin Chúa làm cho chúng ta như đã làm cho “5 chiếc bánh và 2 con cá” sinh lợi ích cho chính Chúa, cho Hội Thánh của Chúa, cho linh hồn mỗi người chúng ta và cho cả vũ trụ này.
Con người chúng ta - bánh và cá mới: tặng phẩm mới đáng yêu trong tay Chúa!!
37. Tình thương.
Trước đám đông đói mệt nơi hoang địa, Chúa Giêsu đã phán:
- Ta thương dân này.
Qua Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ lãnh đạm trước những khổ đau của con người. Ngài đã xót thương người đàn bà góa, theo sau chiếc quan tài chôn táng đứa con duy nhất nơi cổng thành Naim. Ngài đã thổn thức trước nấm mồ Lagiarô. Ngài muốn chia sẻ nỗi đớn đau với hai chị em Matta và Maria.
Hôm nay, khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, Ngài muốn tỏ ra rằng Ngài lo lắng đến con người chúng ta, cả hồn lẫn xác.
Thực vậy, trong kinh Lạy Cha, lời kinh tuyệt vời do Ngài truyền dạy, Ngài đã bảo chúng ta cầu xin với Chúa Cha ban cho lương thực hằng ngày, trước cả lời cầu xin tha thứ tội lỗi. Và như thế, Kitô giáo không phải là một tôn giáo yếm thế, chán đời, chê ghét những thực tại trần gian.
Không phải chúng ta chỉ cầu xin cho những nhu cầu tinh thần, mà còn phải cầu xin cho những nhu cầu vật chất, vì chúng ta không phải là những thiên thần, như một câu danh ngôn đã bảo:
- Ai tưởng rằng mình là thiên thần, thì sẽ trở thành một con vật.
Trong Phúc âm Chúa Giêsu thường bảo:
- Ta nêu gương cho các con để các con cũng làm như Ta đã làm cho các con.
Ngài đã xót thương những người đói khổ và rồi đã xoa dịu và an ủi họ. Bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải xót thương những kẻ khổ đau chung quanh chúng ta. Cầu nguyện cho họ mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải giúp đỡ họ tùy theo khả năng chúng ta. Tiền bạc của cải chúng ta đang có là do Chúa ban và chúng ta chỉ là những người quản lý.
Bởi đó, hãy lắng tai nghe và hãy mở mắt nhìn, nhờ đó chúng ta ghi nhận được những khổ đau của những người chung quanh, rồi ra sức an ủi, khích lệ và giúp đỡ. Thật là đáng buồn, nếu trong ngày sau hết, chúng ta tiến đến cùng Chúa với hai bàn tay trống rỗng không một chút công nghiệp, và với một cuộc đời cũng trống rỗng, không một hành vi bác ái.
Thế nhưng, Chúa Giêsu không phải chỉ dừng lại ở sự túng thiếu và đói khát thể xác, mà Ngài còn tiến tới một sự túng thiếu và đói khát tâm hồn.
Phúc âm đã kể lại: ngày hôm sau, những người Do Thái đã hăng hái tìm gặp Chúa Giêsu. Cái ấn tượng của phép lạ bánh hóa nhiều còn ghi lại một cách sâu đậm trong tâm hồn họ, thế nhưng Chúa Giêsu đã phán với họ:
- Ta là bánh hằng sống, cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Bánh ta ban là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ không phải chết. Ta là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Bánh Ta sẽ ban là thịt Ta cho thế gian được sống.
Khi thấy những người Do Thái bàn tán xôn xao về những lời ấy, Chúa Giêsu còn quả quyết một cách mạnh mẽ hơn:
- Quả thật, quả thật Ta nói với các ngươi, ai không ăn thịt Ta và không uống máu Ta thì sẽ không có sự sống trong mình.
Và như thế, chúng ta đã thấy, nếu chúng ta muốn sống sự sống thần linh, chúng ta phải siêng năng rước lễ. Có siêng năng rước lễ và rước lễ một cách sốt sắng, chúng ta mới có được sự sống của Chúa trong tâm hồn.
Đồng thời khi tiến tới bàn thánh Chúa, chúng ta mới cảm thấy mình thực sự là bè bạn, là anh em với nhau cũng như cùng là chi thể trong nhiệm thể Đức Kitô.
Từ bàn thánh trở về giữa lòng cuộc đời, chúng ta hãy yêu thương giúp đỡ nhau, như các tín hữu sơ khai xứng đáng với lời khen:
- Kìa xem họ thương nhau biết chừng nào.
38. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Ăn là nhu cầu của sự sống. Sự sống thể xác được duy trì và phát triển là nhờ ăn uống. Cũng vậy, đời sống thiêng liêng cần những của ăn tinh thần. Thiên Chúa ban cho ta thức ăn nuôi dưỡng thể xác thì Người cũng ban cho ta Lời của Người (Đnl 8:3) để dưỡng nuôi linh hồn. Hai phép lạ được thuật lại trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay về việc làm cho bánh hóa nhiều có những điều để ta suy nghĩ về Chúa cũng như về bản thân ta.
1. Nghĩ về lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa dành cho ta (bài đọc Cựu Ước – 2 Vua 4:42-44)
Ta bắt đầu với câu truyện ngôn sứ Ê-li-sa lấy hai mươi chiếc bánh lúa mạch và một bị cốm mà nuôi hằng trăm người đang khốn khổ vì nạn đói. Điều khiến ta không thể không chú ý chính là câu trả lời của vị ngôn sứ khi tiểu đồng hỏi ông phải làm thế nào trước tình trạng bánh quá ít mà số người cần ăn lại quá đông. Ông nói: “Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Nói như thế, ngôn sứ Ê-li-sa đã cảm nhận được tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa.
Bối cảnh câu truyện là nạn đói đang hoành hành tại miền Ghin-gan. Giữa lúc bao người lâm cảnh khốn cùng, ngôn sứ Ê-li-sa là người may mắn vì “có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa: hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị”. Nhưng ông không giữ lại để lo cho mình, mà bảo tiểu đồng đem phân phát cho những người đang thiếu thốn đói ăn. Ông cảm nhận Thiên Chúa đã đặc biệt thương và chăm sóc ông giữa cơn khốn cùng khi ông nhận lấy những chiếc bánh và bị cốm người ta đem biếu ông. Tuy nhiên tình thương của Chúa dành cho ông không thể bị giới hạn, mà cần được lan tỏa tới những người chung quanh. Những chiếc bánh lúa mạch và bị cốm là hình ảnh nói lên tình thương ấy đã được đem chia sẻ với mọi người. Bao nhiêu người ăn mà chúng vẫn còn dư thừa. Cũng vậy, lòng thương yêu chăm sóc của Thiên Chúa dành cho ta chan hòa và bao bọc ta trong bàn tay quan phòng của Người. Lòng yêu thương của Thiên Chúa là đề tài cho tác giả Thánh Vịnh viết thành bao lời chúc tụng tôn vinh. Đó cũng là đề tài rao giảng của Chúa Giêsu khi Người khai triển những giáo lý của Tám Mối Phúc, nói về tình yêu quan phòng của Thiên Chúa Cha (Mt 6:25-34; Lc 12:22-31).
Ngôn sứ Ê-li-sa chính là hình ảnh báo trước vị Ngôn Sứ vĩ đại Thiên Chúa sẽ sai đến với nhân loại, là Chúa Giêsu Ki-tô. Người là chính Tình Yêu Thiên Chúa nhập thể để tỏ ra cho nhân loại biết Thiên Chúa yêu thương họ biết chừng nào (Ga 3:16). Câu truyện Tin Mừng hôm nay nói với ta về việc biểu lộ tình yêu thương của Thiên Chúa.
2. Chúa Giêsu cho ta thấy tình yêu chăm sóc của Thiên Chúa qua phép lạ hóa bánh ra nhiều (bài Tin Mừng – Gio-an 6:1-15)
Trong hành trình rao giảng của Chúa Giêsu, dân chúng thường đến tụ họp quanh Người để lắng nghe những lời dạy dỗ. Nhưng mỗi lần Người di chuyển từ nơi này tới nơi khác, họ cũng không ngại đi theo Người vì họ đã say mê giáo lý của Người và luôn cảm thấy đói khát lời Người. Thánh Gio-an kể lại là “Chúa Giêsu sang bên kia biển hồ Ga-li-lê” và “có đông đảo dân chúng đi theo”. Tới nơi, nhìn cảnh dân chúng đói khát, Người làm phép lạ hóa năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều để họ được ăn no nê. Sau phép lạ, khi chiều đến, các môn đệ Chúa xuống thuyền đi sang phía Ca-phác-na-um, còn Chúa Giêsu thì “lánh mặt, đi lên núi một mình” để cầu nguyện, vì “biết dân chúng sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua”. Tiếp đến, thánh sử kể việc Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến gặp các môn đệ trên thuyền, gợi lại biến cố Thiên Chúa đưa dân Người vượt qua Biển Đỏ. Đó là những gì xảy ra chung quanh phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Quả thực thánh Gio-an đã sắp đặt câu truyện như thế, mục đích để nói lên hình ảnh Chúa Giêsu là Thiên Chúa yêu thương chăm sóc ta. Thiên Chúa đã đưa dân Ít-ra-en vượt qua Biển Đỏ và nuôi dưỡng họ trên đường về đất hứa. Cũng thế, Chúa Giêsu là Tình Yêu Thiên Chúa xuống thế làm người để nuôi dưỡng ta và dẫn ta vượt biển trần gian trên đường về quê trời. Ta hãy hiện diện trong khung cảnh Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để chiêm ngưỡng cung cách của Người. Từ ánh mắt cho đến lời nói của Chúa, hết thảy đều nói lên nỗi lo lắng thương yêu Người dành cho đám dân chúng đang mệt nhọc vì đói khát. Người không chỉ nhìn thấy một đám đông lũ lượt theo Người vì ngưỡng mộ, nhưng là một đám đông khao khát được biết phải làm gì để sống cho đúng với ước mong của Cha trên trời. Người cũng lợi dụng chính cơ hội này để dạy các môn đệ bài học yêu thương chăm sóc anh chị em. Vì thế, Người đã gợi ý cho ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Nói như vậy là vì Người mời gọi các môn đệ hãy mở lòng nhận ra những nhu cầu và thiếu thốn của người khác. Trước gợi ý của Chúa, mỗi môn đệ có một sáng kiến riêng. Ông Phi-líp-phê thì thực tế tính toán, để cuối cùng đi tới câu trả lời là đành bó tay. Nhưng thật là may mắn, vì ông An-rê đưa ra một giải quyết của lòng tin khi ông nói với Chúa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”. Rồi ông cũng làm một bài toán giống như ông Phi-líp-phê: “Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” Chắc là ông An-rê tin rằng việc còn lại phải làm là thuộc quyền năng của Chúa Giêsu. Đúng vậy, Chúa Giêsu đã nhập cuộc và làm phần thuộc về Người. Phép lạ hóa bánh ra nhiều là do quyền năng của Thiên Chúa, nhưng Người cũng muốn bàn tay con người của ta góp phần vào phép lạ của tình Chúa chăm sóc yêu thương.
Cũng giống như trong phép lạ ngôn sứ Ê-li-sa, dân chúng ăn no nê mà bánh vẫn còn dư. Bánh còn dư nói lên sự phong phú đầy tràn của tình yêu Thiên Chúa chăm sóc ta. Chúa Giêsu dạy các môn đệ hãy thu nhặt những miếng thừa “kẻo phí đi”. Tình yêu Thiên Chúa ta nhận lãnh là để sinh ích lợi cho ta và cho những người khác, chứ không phải để phung phí đi một cách vô ích. Về điểm này, chắc chắn mỗi người đều phải xét mình. Ta lãnh nhận tình yêu và sự chăm sóc của Chúa nhiều không kể xiết, từ vật chất cho đến tinh thần. Nhưng ta cũng phải thú nhận rằng mình đã phung phí những ơn lành của Chúa một cách vô bổ. Ta đã phí phạm thì giờ, tiền bạc, đồ ăn thức uống quá đáng. Một thí dụ, mỗi lần đi ăn tiệc cưới ở Hoa-kỳ, ta thấy những người hầu bàn đổ đi bao nhiêu đồ ăn đắt tiền vào thùng rác. Nhưng liệu ta có tự hỏi: Nếu như những người nghèo đói có được những đồ ăn dư thừa kia thì họ sung sướng biết mấy? Chính vì thế, Chúa Giêsu cũng muốn nhắc nhở ta hãy chia sẻ tình thương của Chúa với anh chị em, kẻo phí đi tình thương Người đã dành cho ta.
3. Sống tình yêu thương chăm sóc lẫn nhau (bài đọc Tân Ước – Ê-phê-xô 4:1-6)
Bài học Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải biết nhận ra những nhu cầu của anh chị em và giúp đỡ họ đã được thánh Phao-lô lập lại và ngài xin anh chị em tín hữu Ê-phê-xô hãy thực hành trong đời sống cộng đoàn. Trước hết, ngài khuyên họ hãy sống theo “ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ”. Đúng vậy, Thiên Chúa đã kêu gọi họ bỏ lối sống của thế gian để sống lối sống Ki-tô, tức là sống “khiêm tốn, hiền từ, nhẫn nại, lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau, duy trì sự hiệp nhất bằng cách thuận hòa gắn bó với nhau”. Nói tóm lại, Thiên Chúa kêu gọi họ hãy sống theo gương Chúa Ki-tô mà yêu thương chăm sóc cho anh chị em.
Lý do tại sao ta phải sống như vậy là vì ta là thân thể Chúa Ki-tô, chia sẻ cùng một niềm tin và một niềm hy vọng, hành động theo cùng một Thần Khí là tinh thần của Chúa Ki-tô và làm con cùng một Cha trên trời. Chúa Giêsu là người Anh Trưởng đã sống yêu thương chăm sóc cho các em thế nào, ta cũng phải theo gương Người mà sống như vậy. Ta bắt chước Người, ngước mắt lên để nhìn thấy anh chị em chung quanh đang thiếu thốn, chứ không chỉ nhìn vào mình để nuôi thêm tính ích kỷ và để thấy ta là trên hết. Ta không phí tình yêu Chúa dành cho ta, nhưng sử dụng nó để phục vụ, giúp đỡ anh chị em. Một cái bánh lúa mạch hay một con cá nhỏ, đối với ta có lẽ chẳng đáng là bao, nhưng đối với anh chị em thiếu thốn lại có giá trị hết sức lớn lao. Chúa sử dụng những hy sinh, chia sẻ nhỏ bé ấy của ta để Người thực hiện những phép lạ phi thường. Phép lạ bánh và cá hóa nhiều cần phải được tiếp diễn ở ngay tại nơi và ngày giờ ta đang sinh sống, nếu ta nhận biết mình là một chi thể đích thực của Nhiệm Thể Chúa Ki-tô.
4. Sống Lời Chúa
Bài học ngôn sứ Ê-li-sa dạy cho tiểu đồng của ông cũng như bài học Chúa Giêsu dạy các môn đệ yêu thương và chăm sóc dân chúng đã cho ta cơ hội nhìn lại thái độ của ta đối với những người anh chị em thiếu thốn cùng khổ đang cần đến sự giúp đỡ của ta. Tình yêu thương của Chúa thật bao la vô bờ. Nhưng tình yêu ấy cần phải được chuyên chở qua chúng ta là những người làm môn đệ Chúa Ki-tô. Ta đem tình thương của Chúa đến cho anh chị em, không chỉ qua những giúp đỡ vật chất, nhưng còn là những an ủi, khích lệ hay nâng đỡ tinh thần và tâm lý nữa. Trái tim yêu thương và nhậy cảm của Chúa Giêsu trước đám dân chúng thiếu thốn và đói khát cũng phải là trái tim của ta, những Ki-tô hữu đích thực hôm nay vậy.
Suy nghĩ: Thánh Phao-lô khuyên tín hữu Ê-phê-xô “hãy sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban”. Vậy “ơn gọi” Thiên Chúa đã ban cho tôi là gì? Và tôi đã sống thế nào theo ơn gọi ấy?
Cầu nguyện: Lạy Chúa là sức mạnh và là niềm trông cậy của chúng con, không có Chúa, chẳng có chi vững bền, không có chi thánh thiện; xin mở lòng nhân hậu hướng dẫn chúng con, để khi biết cách dùng những của cải chóng qua đời này, chúng con được gắn bó với của cải muôn đời tồn tại. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 17 mùa Thường niên).
39. Hóa bánh.
Việc hóa năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều đã gây ra một tác động mạnh trên mọi môn đệ. Vì thế, biến cố này được cả bốn vị thánh sử: Matthêu, Máccô, Luca và Gioan thuật lại.
Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Gioan có ghi lại những chi tiết mang ý nghĩa thần học. Ngài phác họa một đám đông giống như đám dân Israen trong sa mạc ngày xưa. Rồi ngài nói Chúa Giêsu đi lên núi, chi tiết này giống như ông Môsê đi lên núi để lãnh nhận từ Thiên Chúa một sinh lực quan trọng cho đời sống tôn giáo của dân Israen. Chúa Giêsu cũng thực hiện một dấu chỉ tiên trưng cho phép Thánh thể, một bí tích ban sức sống cho cuộc đời của chúng ta. Chỉ có thánh Gioan tường thuật phép lạ trong bối cảnh của lễ Vượt Qua: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái”. Hơn thế nữa, ngài còn viết: “Chỗ ấy có nhiều cỏ”. Quang cảnh này chỉ có thể xảy ra vào mùa xuân, thời gian cử hành lễ Vượt Qua. Phần sau của chương này sẽ nói đến Bánh Hằng Sống, tức là bí tích Thánh Thể, và chỉ có thánh Gioan dùng động từ “eucharistêsas”, tạ ơn (câu 11). Người gợi lên ý tưởng cho cả đám đông dân chúng ăn, là chính Chúa Giêsu. Người hỏi ông Philip: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây”. Cũng như bí tích Thánh Thể sau này là sáng kiến của Chúa Giêsu. Đối với thánh Gioan. Việc hóa bánh ra nhiều là hình ảnh tiên trưng cho bí tích Thánh Thể. Trong bí tích này, Chúa Giêsu ban chính thịt máu của Người làm của ăn, của uống cho nhiều người.
Một chi tiết nữa cũng của riêng thánh Gioan, ngài nói rõ đó là bánh lúa mạch, thứ bánh của người nghèo. Chi tiết này gợi lên sự nghèo hèn, hơn nữa cũng chỉ có năm chiếc bánh thôi, số lượng ít ỏi như thế càng làm nổi bật sự bất lực của tài sức con người. Nhưng Thiên Chúa lại sử dụng sự yếu hèn như thế để thực hiện một kỳ công tuyệt diệu, vượt quá mọi sự tưởng tượng của con người. Với thứ bánh của người nghèo và chỉ có năm cái thôi, Chúa Giêsu đã cho năm ngàn người đàn ông ăn no, và số phụ nữ cùng với các trẻ em còn nhiều hơn nữa. Tương tự như vậy, Chúa Giêsu dùng bánh và rượu là những sản phẩm vật chất của con người để biến nên Thịt và Máu của Chúa, trở nên lương thực thiêng liêng cho nhiều người. Trong các bí tích khác cũng vậy, Chúa dùng các dấu chỉ vật chất để ban những hiệu quả thiêng liêng cho các linh hồn. Chúa Giêsu bảo các môn đệ thu lại những miếng thừa, và họ thu lại được mười hai thúng đầy. Chi tiết này cho thấy từ những yếu hèn của chúng ta, Chúa có thể tạo nên một sự phong phú tràn đầy.
Phép lạ làm cho người ta nhớ đến lời tiên báo của ông Môsê trong Đệ Nhị Luật 18: 15-18. Thiên Chúa sẽ ban cho anh em một vị ngôn sứ giống như tôi. Vì ông Môsê nuôi dân trong sa mạc bằng Manna, còn Chúa Giêsu bây giờ nuôi dân từ năm chiếc bánh lúa mạch. Sự kiện đúng như lời tiên báo của Môsê. Quả thực, Chúa Giêsu là chính Đấng mà Môsê loan báo. Nhưng Chúa Giêsu không phải là một thủ lãnh chính trị như suy nghĩ của dân chúng. Dân chúng không hiểu đúng vai trò của Đấng Mêsia. Chúa Giêsu cũng không muốn quan niệm sai lầm của họ làm cho Người đi lệch ra khỏi đường lối mà Chúa Cha muốn Người phải đi. Nếu Chúa nhượng bộ theo ý muốn của dân chúng, thì phép Thánh thể sẽ không được thiết lập, và phép lạ tiên trưng này sẽ chẳng còn ý nghĩa gì. Chúa Giêsu thích trở nên Bánh Hằng Sống nuôi dưỡng chúng ta hơn.
Lạy Chúa, xin ban lương thực hàng ngày cho những người nghèo khổ trong đất nước của chúng con. Xin Chúa cũng ban cho chúng con biết nuôi dưỡng tâm hồn mình bằng Bánh Hằng Sống là Lời Chúa và Mình Máu Chúa.
40. Cộng tác.
Có người cho rằng phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh hóa ra nhiều kể lại trong Tin Mừng là chuyện không có thực mà chỉ là tác dụng tâm lý, nghĩa là họ cho rằng: em bé có năm chiếc bánh và hai con cá đã chia phần ăn của mình cho người bên cạnh, và thế là theo gương em bé này, mọi người chia phần ăn của mình cho nhau, nên ai cũng đủ bánh ăn.
Nhưng sự thật không phải như vậy, vì Tin Mừng đã kể lại những chi tiết rất rõ ràng và cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại, đây là một phép lạ thực sự của Chúa Giêsu. Các nhà chú giải Kinh Thánh đã quả quyết: “Phải chối bỏ cả Tin Mừng thì mới có thể loại bỏ khỏi Tin Mừng sự kiện hóa bánh ra nhiều”. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là tìm hiểu phép lạ này có thực hay không mà là tìm hiểu xem Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì khi làm phép lạ này. Có nhiều điều lắm, chúng ta hãy ghi nhận và suy nghĩ hai điều.
Điều thứ nhất Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về lòng thương xót.
Trong bối cảnh của phép lạ này, chúng ta thấy có hai thứ thương xót. Các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ và đã thưa với Chúa: “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn”. Đó là thứ thương xót như thế, thứ thương xót nhập đề, lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, vì thế, Chúa muốn các môn đệ bước qua thứ thương xót khởi điểm đó, đem thứ thương xót nhập đề vào thứ thương xót thứ hai, thứ thương xót nhập cuộc: “Anh em hãy cho họ ăn”.
Quả thực, có tấm lòng thương xót người khác là một điều tốt rồi nhưng chưa đủ, có những lời nói thương xót người khác cũng là một điều tốt rồi nhưng cũng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, cần phải có hành động thương xót thực sự nữa. Chúa Giêsu đã thể hiện như thế và Ngài dạy chúng ta hãy sống như thế. Cũng vậy, có lòng trắc ẩn hay những lời nói an ủi, khích lệ, cảm thông là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là biết chia sẻ, biết san sẻ giúp đỡ. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì trong tầm tay, trong khả năng của mình, phần còn lại chúng ta sẽ được Chúa tiếp tay thực hiện. Điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra những người khác cũng là con Thiên Chúa, cũng là anh em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết động lòng trắc ẩn trước những đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi hơn.
Điều thứ hai Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta qua phép lạ hóa bánh này là sự cộng tác.
Trước hết, chúng ta phải xác nhận chắc chắn rằng: nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng ngàn người ăn no nê, thoải mái. Cũng vậy, không cần có sự cộng tác của các môn đệ trong việc đi tìm bánh, Chúa Giêsu vẫn có thể làm được phép lạ dễ dàng. Nói tóm lại, một mình Chúa có thể làm được mọi sự, không cần ai cộng tác, không cần vật liệu nào cả, với quyền năng vô biên, Chúa chỉ cần phán một lời là tức khắc có ngay, tức khắc có dư thừa bánh cho mọi người ăn. Nhưng ở đây Chúa muốn cho mọi người thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một em bé. Em có thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay cho những người thân quen. Làm như thế thì chỉ một mình em hay một vài người được ăn, nhưng em đã trao tất cả cho Chúa và Ngài đã dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Như vậy, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm phép lạ.
Cũng vậy, Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh, nên Chúa bảo các ông: “Anh em hãy cho họ ăn”, nên chúng ta thấy khi các môn đệ tìm được năm chiếc bánh và hai con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết: cần có sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa đối với chúng ta, nghĩa là bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng kiên nhẫn, bằng hy sinh, không phải chỉ trong đời thường thôi, nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”.
Trong cuộc sống, chúng ta hãy cộng tác với nhau và nhất là cộng tác với ơn Chúa để hoàn thành trách nhiệm đời mình và cùng nhau xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
41. Sự biến đổi lạ lùng.
Cách đây khá lâu, Earnest Gordon thuộc trường đại học Princeton University đã viết một bài báo với tựa đề: "Nó xảy ra bên dòng sông Kwai". Bài báo tả lại một kỷ niệm của ông trong khi ông là một tù nhân tại Thái Lan bên dòng sông Kwai. Dòng sông này sau này đã trở nên một bối cảnh cho một cuốn phim nổi tiếng tên "Bridge Over The River Kwai" (Chiếc Cầu Trên Dòng Sông Kwai).
Gordon bị bắt làm việc để làm một đường rầy xe lửa dài 250 miles, gọi là "Đường Rầy của Sự Chết" do người Nhật xây. Gordon đã diễn tả: "Chúng tôi làm việc từ rạng đông đến mặt trời lặn... chúng tôi lao công với đầu trần và chân không dưới ánh nắng gắt đến 120 độ. Nhiều người lính phải lảo đảo vì những cơn bệnh sốt mà vẫn phải làm công việc của mình. Những người này khi ngã qụy thì phẳi nằm luôn ở chỗ đó và cho đến khi mặt trời lặn mới được bạn đồng nghiệp khiêng về trại tù. Nhưng, Gordon kể rằng, kẻ thù số một không phải là người Nhật hoặc là cuộc sống khó khăn, nhưng chính là những tù nhân. Các tù nhân đã bị mắc chứng bệnh hoang tưởng do sự sợ hãi quá sức đối với người Nhật. Họ đã sống bằng luật rừng. Họ đã ăn cắp đồ của nhau. Họ không còn tin tưởng nhau. Và để lấy một chút thiện ý của người Nhật, họ đã tố cáo nhau. Những người lính Nhật đã té ra cười khi họ nhìn thấy các tù nhân cắn xé lẫn nhau.
Nhuệ khí của các tù nhân đã đi đến chỗ kiệt quệ. Họ cần phải làm một điều gì đó để lấy lại nhuệ khí đó, nhưng họ có thể làm gì trong cảnh khó khăn như thế này? Sau cùng, đã có hai người, được coi là còn giữ được niềm tin vào Thiên Chúa, đứng lên và cố gắng làm một việc gì. Họ có được một cuốn Thánh Kinh và tổ chức nhóm cầu nguyện vào mỗi tối. Nhóm cầu nguyện được phát triển từ mười hai người lên đến con số một trăm.
Qua những bài đọc và chia sẻ, họ đã dần dần biết Chúa Giêsu một cách sâu xa. Những khó khăn trong cuộc đời của họ cũng giống như những khó khăn mà Chúa Giêsu đã từng trải qua. Chúa Giêsu cũng đã trải qua những lúc đói bụng, mệt mỏi, bị phản bội, và những lằn roi đau đớn in vào sau lưng. Tất cả những gì về Chúa Giêsu, việc Ngài làm, điều Ngài nói, Con Người của Ngài, trở nên ý nghĩa và sống động. Các tù nhân đã từ từ không còn nghĩ rằng mình là những nạn nhân trong một hoàn cảnh tàn bạo nữa. Họ ngừng tố cáo và giết chết lẫn nhau. Từ đó, cuộc sống của họ được biến đổi hoàn toàn thấy rõ. Họ bắt đầu cầu nguyện không cho chính bản thân cho bằng cầu nguyện cho người khác. Và khi họ cầu nguyện cho chính họ thì chẳng phải là để lãnh một ơn gì nhưng là để xin cho mình được biết chia sẽ những gì mình lãnh nhận được.
Họ tụ họp hát Thánh Vịnh. Những bài Thánh Vịnh đã làm cho đêm tối trở nên sống động và hy vọng. Cái khác biệt giữa những tiếng vui hân hoan và những ngày tháng thinh lặng ngột ngạt chính là giữa cái chết và sống.
Câu truyện của hai người lính tiền phong đã biến đổi cả một doanh trại tù nhân mang một ý nghĩa rất đặc sắc dẫn vào bài đọc Phúc Âm hôm nay.
Cũng giống như hai người lính xung phong đã làm gì mình có thể, em bé trong bài Phúc Âm cũng đã làm điều mình có thể. Em đã dâng cho Chúa Giêsu những gì mình có và để cho Chúa Giêsu làm tất cả.
Trong hoàn cảnh của em bé, Chúa Giêsu đã biến đổi vài chiếc bánh đơn sơ của em thành rất nhiều phần ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Trong hoàn cảnh của hai người lính xung phong ở trên, Chúa Giêsu đã lấy danh dự và niềm tin nhỏ bé của họ để làm nên những việc lạ lùng không ai nghĩ đến.
Điều mà Chúa Giêsu đã làm cho đám đông trong bài Phúc Âm hôm nay, và những gì Ngài đã làm cho những người tù nhân trong thời thế chiến, thì cũng là điều mà Chúa Giêsu muốn làm cho chúng ta hôm nay. Ngài muốn nuôi sống hàng triệu người đang đói khổ trên thế giới. Ngài muốn biến đổi hàng triệu người đang sống trong cảnh thù hận. Nhưng Chúa Giêsu cần đến em bé để đưa cho Ngài mấy chiếc bánh đơn sơ và những con cá cỏn con. Ngài cần có những người giống như quí vị và tôi để cho Ngài những chiếc bánh và những con cá nho nhỏ. Ngài cần chúng ta cho Ngài những tài năng, những lời cầu nguyện hằng ngày, và những hy sinh chúng ta kiếm được.
Nếu chúng ta biết dâng những điều này cho Chúa Giêsu, thì Ngài sẽ lãnh nhận và chúc lành cho chúng ngoài sự tưởng tượng của chúng ta.
42. Đi bước trước
Ngày nọ, có một anh thanh niên chở vợ cùng đứa con 5 tuổi đi trên một chiếc xe Honđa, từ Bến Tre đi Thành Phố Hồ Chí Minh. Đang chạy ngon trớn bỗng nhiên chiếc xe của anh bị nổ bánh xe trước. Do tốc độ hơi cao nên anh đã không làm chủ được tay lái để xe của mình đâm vào một chiếc xe tải cùng chiều. Sau khi đâm vào xe tải thì cả hai vợ chồng đã chết tại chỗ còn lại đứa con của họ may mắn được cứu sống.
Điều đáng nói là đứa nhỏ này giờ đây bơ vơ không ai chăm sóc. Cùng lúc đó có một bác gái thấy vậy nên đã nhận đem về nuôi dưỡng như con của mình. Đúng là đứa nhỏ này thật may mắn. May mắn vì chính bác gái tốt bụng này đã đi bước trước đến với em. Nhờ đó em được lớn lên trong sự chăm sóc đầy tình thương của bác ấy.
Đoạn Tin mừng hôm nay nói về phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều nuôi hơn năm ngàn người ăn no nê. Đây là một phép lạ quan trọng nên đã được cả bốn Thánh sử ghi lại. Nếu đem so sánh bản văn Tin mừng của Thánh Gioan hôm nay với bản văn của Thánh Matthêu chúng ta sẽ thấy có sáu chi tiết khác nhau.
Trong sáu chi tiết khác nhau có hai chi tiết cho thấy Chúa Giêsu thật sự đã đi bước trước đến với dân chúng. Chi tiết thứ nhất là trong Tin mừng Matthêu khi thấy dân chúng đói thì các Tông đồ đã đề nghị với Chúa Giêsu (Mt 14, 15), còn ở đây chính Chúa Giêsu gợi ý (Ga 6, 5b). Chi tiết thứ hai là trong Tin mừng Matthêu sau khi làm phép lạ xong Chúa Giêsu đã bảo các Tông đồ đem phân phát cho dân chúng (Mt 14, 19), còn ở đây chính Chúa Giêsu đem phân phát cho dân chúng (Ga 6, 10).
Đi theo Chúa Giêsu được nghe giảng dạy quả là điều hết sức cao quý cho người Do thái thời ấy. Điều cao quý ấy lại càng được tăng lên gấp bội khi họ được Chúa Giêsu quan tâm lo cho ăn no nê về phần xác. Nhớ lại tuần trước, khi các Tông đồ về trình diện cũng chính Chúa Giêsu đã lên tiếng kêu các ông đi nghỉ ngơi (Mc 6, 31)
Thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta được làm con của Chúa. Chúa luôn ban cho chúng ta những ơn lành cần thiết trước khi chúng ta cầu xin hay chẳng dám cầu xin. Qua Bí tích Hòa giải Chúa đã sẵn sàng tha thứ cho trước khi chúng ta xưng thú. Vậy còn chần chừ gì nữa mà chúng ta không mau mắn đến với Tòa giải tội mỗi khi lỡ phạm tội.
Đồng thời, chúng ta cũng hãy biết đi bước trước để tha thứ cho anh chị em mỗi khi họ lỡ xúc phạm đến mình.
43. Cho kẻ đói ăn – Lm. Gioan Nguyễn
Tin Mừng chủ nhật tuần qua, chúng ta thấy Chúa Giêsu chạnh lòng thương đến dân chúng, vì họ giống như đàn chiên bơ vơ không có người chăn dắt, còn Lời Chúa hôm nay chúng ta lại được nhìn thấy Chúa Giêsu thương đến đoàn người đang đói ăn, khi họ đi theo Ngài. Điều đó cho thấy rằng, Chúa Giêsu không chỉ cho người ta ăn của ăn tinh thần mà còn là thức ăn của thể xác.
Trong khung cảnh buổi chiều tàn hoang vắng, khi mọi người đã mệt mỏi và đói khát, Chúa Giêsu quan tâm đến nhu cầu của họ, vì họ cần được ăn. Ngài hỏi ông Philipphê có gì cho họ ăn không. Ngài thừa biết việc gì sẽ xảy ra khi nhìn thấy đoàn người đang đói. Và sau đó phép lạ đã xảy ra, Ngài hoá bánh ra cho khoảng 5.000 người đàn ông ăn no nê, còn dư lại 12 thúng đầy, không tính trẻ con và đàn bà, từ 2 con cá và 5 chiếc bánh của một cậu bé. Chúa Giêsu thết đãi một bữa tiệc lớn cho đoàn người đông đảo trong ngày hôm đó.
Từ biến cố vĩ đại này, chúng ta rút ra được điều gì cho đời sống đức tin hôm nay khi nghĩ đến sự chêch lệch giữa người giàu và kẻ nghèo vẫn đang diễn ra trong thế giới này. Có hàng triệu người không có miếng ăn, chết vì nghèo đói, bệnh tật; có kẻ lại quá dư thừa hoang phí. Phải chăng phép lạ hoá bánh không còn nữa cho những người đang đói ăn! Đây cũng là vấn nạn mà con người thường đặt ra và tìm câu trả lời.
Vào một ngày mùa đông, một người đàn ông đi ngang qua cây cầu, ông ta nhìn thấy một em bé đang ngồi xin ăn, nó đang bị cảm lạnh vì rét và cần được có cái gì đó ăn cho đỡ đói. Khi nhìn thấy cậu bé đáng thương này, ông ta đã tức giận và hỏi Chúa: Lạy Chúa, tại sao Chúa không làm cái gì đó cho đứa bé này? Và Chúa trả lời: Ta đã làm nhiều điều cho cậu bé này, con không thấy sao? Người đàn ông ấy ngạc nhiên nói rằng ông ta không thấy Chúa làm gì cho nó cả. Chúa nói: Ta đã dẫn con đến với đứa bé này, nhưng con vẫn làm ngơ.
Trở lại với Tin Mừng của Thánh Gioan hôm nay, chúng ta lại thấy phép lạ được xảy ra khởi đi từ 5 chiếc của một cậu bé. Khi Chúa Giêsu cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng, thì bánh đã hoá ra nhiều. Như vậy, bánh được hoá ra nhiều là có nhờ sự cộng tác của bàn tay con người. Điều đó cho ta thấy rằng, Chúa cần cộng tác và chia sẻ của con người. Mỗi khi linh mục dâng lễ vật lên Thiên Chúa, ngài đọc: “Lạy Chúa là Chúa Tể trời đất, chúc tụng đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa màu ruộng đất và công lao của con người…”. Rồi các tông đồ đem đi và phân phát cho dân chúng ăn và còn dư lại 12 thúng đầy.
Theo Kinh Thánh, con số 12 là biểu tượng của 12 chi tộc Itrael, 12 vị Tông đồ và đồng thời nó cũng ám chỉ đến tất cả mọi người chúng ta. Như vậy, ơn thánh của Chúa không chỉ dành cho các dân tộc, cho đám đông đi theo Ngài, mà là cho tất cả chúng ta hôm nay. Chúa Giêsu không trực tiếp ban phép lạ hoá bánh bằng của ăn vật chất, nhưng Ngài vẫn ban phát cho chúng ta của ăn thiêng liêng bằng chính Thịt và Máu của Ngài cho nhân loại, đó là Bí tích Thánh thể và là dấu tích tình yêu của Thiên Chúa ban cho con người.
Lạy Chúa, khi gặp đau khổ, hoạn nạn, thử thách, chúng con thường rơi vào tâm trạng của kẻ phẫn nộ, than van, oán trách…, và cũng giống như người đàn ông kia nhìn thấy đứa bé cần cái ăn, cần áo ấm, cần một chút lòng hảo tâm, ông ta lại bảo Chúa không làm gì cho đứa bé. Và chúng con cũng làm như vậy, chúng con không biết tự hỏi mình đã làm gì cho Chúa và cho tha nhân. Chúng con vẫn thờ ơ, lạnh lùng và khép kín khi nhìn những người đau khổ, kẻo đói ăn đang sống chung quanh. Chúng con có đôi mắt để nhìn, nhưng không thấy; có đôi tai để nghe, nhưng đã bị điếc; có đôi tay để làm, nhưng đã bị tê liệt; có trái tim để yêu thương và chạnh lòng, nhưng đã bị chai sạn và khô cứng.
Xin Chúa cho chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy: “Vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta tù đày các người đã viếng thăm…”.
44. Đức Giêsu hoá bánh ra nhiều – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Giêsu có quan tâm và dấn thân cho những nhu cầu cụ thể - như ăn uống, sức khỏe, sự thoải mái thể chất - của dân chúng không? Nếu không quan tâm đến những nhu cầu cụ thể ấy, Ngài có thể loan báo Tin Mừng một cách hiệu quả không? dân chúng có chịu đến để nghe Ngài dạy dỗ không?
2. Trong một xã hội đầy bất công, áp bức, nhiều tệ nạn xã hội, người dân phải chịu đựng nhiều đau khổ, mà người tông đồ lại chỉ quan tâm đến nhu cầu tâm linh của họ, không đếm xỉa gì đến những đau khổ, những nhu cầu cụ thể và cấp bách của họ, thì việc tông đồ ấy có kết quả không? Tại sao?
3. Trong những xã hội đầy bất công như thế, nhu cầu cụ thể và cấp bách của dân chúng là gì? Chúng ta chỉ cần xoa dịu những đau khổ cho dân chúng hay cũng cần giải quyết tận gốc những đau khổ ấy?
CHIA SẺ
1. Đức Giêsu quan tâm tới cả nhu cầu thể chất của dân chúng
Bị cám dỗ sau khi ăn chay 40 ngày, Đức Giêsu nói với Satan: «Người ta sống không nguyên bởi bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra» (Mt 4,4). Nghĩa là con người không chỉ sống bằng thể chất, mà còn sống bằng tinh thần. Hành động của Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay dường như muốn nói một câu đồng nghĩa như vậy, nhưng theo chiều ngược lại: Người ta sống không nguyên bởi Lời Chúa, mà còn sống bởi bánh nữa. Nghĩa là con người không chỉ sống bằng tinh thần, mà còn sống bằng thể chất. Vì con người không chỉ thuần túy là tinh thần hay thần khí, cũng không chỉ là thể chất, mà là cả hai. Nên con người vừa có nhu cầu tinh thần, vừa có nhu cầu thể chất. Đức Giêsu quan tâm tới con người toàn diện, nghĩa là quan tâm tới cả nhu cầu tinh thần lẫn thể chất.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy điều ấy. Mặc dù sứ mạng của Ngài là cứu độ nhân loại khỏi nô lệ tội lỗi, nghĩa là chủ yếu về mặt tâm linh, nhưng không vì thế mà Ngài quên đi nhu cầu thể chất của con người. Thật vậy, khi «nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình», Ngài liền hỏi môn đệ: «Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?» Thật ra, Ngài có thể để mặc họ trở về nhà với cái bụng lép xẹp, và chắc chắn chẳng ai lên tiếng trách móc Ngài vì đã để mặc họ như vậy. Nhưng Ngài không làm như vậy. Tình thương và sự nhạy cảm đối với đau khổ và hạnh phúc của con người đã thúc đẩy Ngài đáp ứng nhu cầu của họ. Họ cần nghe Ngài rao giảng, nhưng để có thể nghe Ngài, họ cũng cần phải no bụng.
Chính vì Ngài tỏ ra yêu thương họ, quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của họ, mà họ đến với Ngài, sẵn sàng nghe Ngài dạy dỗ. Nếu Ngài không làm như vậy, sẽ có nhiều người chẳng đến với Ngài và chẳng nghe Ngài dạy bảo. Ở Việt Nam, nhiều người truyền đạo trong các tôn giáo khác cũng phần nào làm tương tự như Đức Giêsu: họ mở phòng thuốc, khám bệnh, chữa bệnh và cho thuốc miễn phí, và khi thuận tiện thì nói về đạo pháp cho những ai muốn nghe.
Như vậy, Đức Giêsu không chỉ lo phần rỗi đời sau cho con người, mà còn lo cả những gì cần thiết cho đời sống hiện tại của họ nữa. Ngài cũng ra lệnh cho các môn đệ ngoài việc rao giảng Tin Mừng, còn phải giải quyết những nhu cầu thể chất và cấp bách của họ: «Anh em hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ» (Mt 10-7-8). Lo cho người ta về thể chất chính là cách biểu lộ tình thương đối với họ, đó là tạo điều kiện để lo cho họ một cách hữu hiệu về tâm linh.
2. Tình yêu đòi buộc ta phải ưu tiên đáp ứng những nhu cầu bức thiết nhất của người chung quanh ta
Nếu ta thật sự yêu thương những người chung quanh ta, ta sẽ hành xử với họ giống như ta vẫn hành xử với những người ta yêu thương. Yêu thương ai, ta sẽ đáp ứng đúng nhu cầu của họ. Cho dù ta là một thầy giáo, một giáo sư đại học, một linh mục hay giám mục, không khi nào ta thấy người thân của ta đói, khát, hoặc bị một ai đó ức hiếp, đánh đập mà ta lại tặng họ một cuốn sách hay một cuốn Thánh Kinh, cho dù những thứ đó cũng rất cần thiết cho họ. Nếu ta hành xử như vậy, mọi người sẽ nghĩ ta là người mất trí. Trường hợp đó, trước tiên, ta phải cho họ ăn, uống, hoặc nhảy vào can thiệp để người thân ta khỏi bị đánh đập đau đớn. Thế nhưng hiện nay, có biết bao người mang danh hiến thân phục vụ con người, lại chỉ biết lo cho họ về mặt tâm linh, chẳng đếm xỉa gì đến nhu cầu hết sức cụ thể, bức thiết và trước mắt của họ. Thế mà lúc nào những người ấy cũng vẫn tự hào mình đang hiến thân cho một sứ mạng cao cả là phục vụ con người.
Quả thật, trong xã hội và Giáo Hội vẫn luôn luôn có những con người «cao cả» theo kiểu đó, nghĩa là cao cả một cách phi thực tế. Họ có thể «bình tâm như vại» trước những đau khổ, thiếu thốn, trước những cảnh bất công, áp bức mà những người chung quanh mình phải chịu, trước những bàn tay giơ lên xin họ cứu giúp một cách khẩn thiết và tuyệt vọng. Nhưng những người «cao cả» này vẫn cảm thấy mình không cần phải làm gì cho những người khốn khổ ấy khác hơn là những việc gọi là tâm linh. Và một khi quan tâm lo những chuyện về tâm linh ấy, họ cảm thấy lương tâm mình bình an vì mình đã làm được những việc bác ái rất cao cả. Ngay cả khi làm những việc được gọi là bác ái cao cả ấy, có nhiều vị còn đòi hỏi đối tượng mình phục vụ phải bù đắp lại cho mình một cách cụ thể như những điều kiện phải có, nếu không thì họ sẽ chẳng làm. Nói cách khác, phải được bù đắp cụ thể họ mới chịu làm những việc «cao cả» ấy.
3. Nhu cầu bức thiết của con người trong những xã hội lầm than, nghèo khổ, đầy dẫy bất công áp bức
Trong những xã hội hay đất nước nghèo khổ, đầy dẫy những tệ nạn xã hội, những bất công áp bức, thì nhu cầu bức thiết của người dân rất là cụ thể. Là những người theo Chúa, tuy ta đặt rất nặng mặt tâm linh - đó là điều hợp lý - nhưng ta không thể hoàn toàn lãnh đạm hoặc không biết đến những nhu cầu khẩn thiết và cụ thể của người dân chung quanh ta. Thiết tưởng sống trong một đất nước càng nghèo khổ, càng đầy dẫy sự bất công áp bức, càng lan tràn những tệ nạn xã hội, thì người theo Chúa càng phải quan tâm và dấn thân nhiều hơn cho những vấn đề ấy. Nói cách khác, người theo Chúa đúng nghĩa phải quan tâm đến sự phát triển của con người, sự công bằng của xã hội, và sự tiến bộ của thế giới. Đó là một chiều kích nhân bản không thể thiếu trong việc nên thánh, hay việc nên giống Chúa Giêsu, Đấng «muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ» (Hs 6,6; Mt 9,13). Lại càng không thể thiếu trong việc tông đồ, trong việc mở mang Nước Trời.
Tông huấn Giáo Hội tại châu Á viết: «Không thể cắt đứt việc thờ phượng Thiên Chúa với việc chăm sóc người yếu kém, được Kinh Thánh mô tả một cách điển hình là “cô nhi, quả phụ và ngoại kiều” (x. Xh 22,21-22; Đnl 10,18; 27,19), là những người dễ bị tổn thương nhất khi có bất công đe dọa» (số 41§2). Thánh Gioan Kim Khẩu viết: «Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ thứ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói “Đây là mình Thầy” cũng chính là Đấng đã nói "Các ngươi thấy ta đói mà không cho ăn"… Có ích gì khi bàn tiệc Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!» (Tông huấn GHTCA trích dẫn, số 41§2).
Chính vì để ta dễ dấn thân cho anh em đồng loại của ta hơn, đặc biệt trong những hoàn cảnh nguy hiểm của những xã hội đầy áp bức bất công mà Đức Giêsu đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải từ bỏ nhiều thứ thế gian hằng gắn bó. Thật đáng hổ thẹn cho những người tông đồ đã từng cam kết từ bỏ mọi thứ mà lại dấn thân cho anh em không bằng những người không hề cam kết! Thật là mỉa mai khi người tông đồ chủ trương sống độc thân để dễ dàng dấn thân cho đồng loại hơn, lại không thể dấn thân mạnh dạn bằng những người có gia đình! Rất có thể tại vì họ đang sợ mất đi những gì mà họ đã từng cam kết từ bỏ khi dấn thân làm tông đồ!
Cầu nguyện
Lạy Cha, chúng con theo Đức Giêsu nhưng lại chẳng làm theo gương Ngài. Ngài dùng tình thương để đến với mọi người hầu dẫn họ về với Cha. Còn chúng con, chúng con chỉ muốn dẫn họ về với Cha mà không thèm đến với họ, không cần tỏ ra yêu thương và quan tâm đến những nhu cầu cụ thể bức thiết của họ. Phải chăng chúng con đang làm một chuyện vô ích? và công sức của chúng con đổ ra sẽ chỉ là «công dã tràng»? Xin giúp chúng con noi gương Đức Giêsu, biết yêu thương và quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của đồng loại trước khi muốn dẫn họ về với Cha.
45. Tiết kiệm.
Sau khi đã làm phép lạ, từ năm chiếc bánh và hai con cá, nuôi sống hàng ngàn người giữa nơi hoang vắng, Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh vụn, đừng để nó vương vãi phí hoài.
Từ lệnh truyền đơn sơ vắn vỏi này, tôi muốn chia sẻ một vài ý tưởng về sự tiết kiệm, một nhân đức rất cần thiết trong hoàn cảnh kinh tế gia đình chúng ta đang gặp phải nhiều khó khăn.
Tại sao gia đình chúng ta lại lâm vào cảnh nghèo túng? Dĩ nhiên có nhiều lý do, vì thế này, vì thế kia. Nhưng một nguyên nhân chính tạo nên cảnh nghèo túng, đó là sự thiếu cần kiệm.
Thực vậy, tục ngữ đã bảo:
- Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa,
Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày.
Nhiều khi chúng ta tiêu xài một cách hoang phí, theo kiểu con nhà lính, tính nhà quan, bóc ngắn cắn dài, mua sắm và ăn nhậu một cách quá lố, khiến cho công nợ chồng chất, lãi mẹ đẻ ra lãi con, lãi con đẻ ra lãi cháu, không biết đến bao giờ mới trả cho hết nợ.
Trong khi đó, sự tiết kiệm lại là một điều kiện cần thiết để ổn định đời sống vật chất trong gia đình, đem lại nếu không phải sự giàu sang thì cũng là sự ấm no. Bởi vì, tiền bạc như núi, ăn hoài thì cũng phải hết. Do đó từ ngàn xưa người ta đã đưa ra những lời khuyên bảo:
- Tích tiểu thành đại.
- Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn.
- Nhiều dòng nước nhỏ sẽ tạo nên con sông lớn.
- Đại phú do thiên, tiểu phú do cần.
Dân Ý Đại Lợi thì nói:
- Sự sung túc có được do hai bàn tay. Bàn tay này, đó là tài năng, Còn bàn tay kia, đó là sự tiết kiệm.
Trong khi đó người Thổ Nhĩ Kỳ thì bảo:
- Sở dĩ người ta trở nên giàu có, một là do cần cùlao động, hai là do tiết kiệm trong việc chi tiêu.
Tại nơi mở chương mục tiết kiệm ở các ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái ấp quả trứng vàng, có ý muốn nói những đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó sẽ sinh nhiều lợi lộc, sẽ đem lại cho chủ nhân những trái trứng bằng vàng.
Lafontaine có kể lại một câu chuyện ngụ ngôn như thế này:
Con ve sầu suốt mùa hè chỉ biết ca hát, cho nên khi mùa đông trở về và gió bấc thổi tới, liền bị chết đói. Trong khi đó giòng họ nhà kiến, suốt ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt gạo, dù có mưa bão hay lạnh giá, đời sống vẫn được bảo đảm an toàn.
Sự tiết kiệm, như người xưa diễn tả có ba cái lợi chính:
Thứ nhất, tự mình an phận không cần đến kẻ khác là giữ lấy chữ liêm. Thứ hai giảm việc phụng dưỡng cho bản thân để cấp đỡ người khác là mở cái đức. Thứ ba nhịn cái không đủ trước mắt, hầu lưu chỗ còn thừa cho tương lai, là lo đến việc phòng thân.
Có một thanh niên tới một ngân hàng xin việc, lúc đầu ông Giám đốc đã từ chối, nhưng khi chàng đi ra, ông Giám đốc thấy chàng cúi xuống nhặt một chiếc kim gút bị rơi trên đất, liền gọi lại và thâu nhận chàng, vì ông Giám đốc đánh giá chàng là một người tiết kiệm, sẽ không làm hao tốn tài sản của ngân hàng sau này.
Để kết luận tôi xin đưa ra một nguyên tắc trong việc tiêu dùng như thế này: Đối với những việc cần thiết và hữu ích, dù có phải tốn bao nhiêu cũng không xót, trái lại đối với những việc xa xỉ và thừa thãi thì một đồng, một cắc cũng không.
Đừng tiêu xài một cách hoang phí. Bởi vì, cái hôm nay không cần, biết đâu ngày mai sẽ cần. Cái chúng ta bỏ đi biết đâu lại là cái lợi ích cho người khác.
46. Chia sẻ.
Có một lần phát biểu trước quốc hội, ông Ma-ha-mát-Gan-đi, vị anh hùng dân tộc của An Độ, đã kêu gọi nhân dân dùng chính sách bất bạo động chống lại quân Anh, giành độc lập cho đất nước, đã nói: “Theo quan niệm của tôi, về một ý nghĩa nào đó, bất cứ người nào trong chúng ta đều có thể là tên ăn cắp. Bởi vì chúng ta có quá nhiều vật dư thừa, trong khi những người khác thiếu thốn những cái tối thiểu. Chúng ta có một vật nào đó không cần thiết, thì vật đó chính là của ăn cắp mà chúng ta lấy từ những nghèo khó cần đến nó”.
Những lời phát biểu trên đây có thể giúp chúng ta hiểu và sống Lời Chúa hôm nay. Bởi vì nếu muốn rút ra một câu làm lẽ sống cho ngày hôm nay, thiết nghĩ chúng ta phải chọn câu Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Các con hãy cho họ ăn”. Lời đề nghị này đã đánh tan não trạng của các môn đệ muốn giải quyết vấn đề cơm bánh cho những người nghèo đói một cách dễ dàng, là cho họ về để họ đi vào các làng mua thức ăn. Hành vi giải tán đám đông là một hành vi lẩn tránh, vì giải tán thì quá dễ, Chúa và các môn đệ không còn phải bận tâm gì nữa. Nhưng Chúa không chấp nhận thái độ lánh mặt làm ngơ, bưng tai giả điếc.
Chúa muốn cho các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh. Các ông đã tích cực cộng tác và kết quả là mọi người được no nê và phấn khởi. Đây là hình ảnh tiêu biểu cho việc Chúa ân cần dìu dắt dưỡng nuôi dân mới và sự dìu dắt ấy thành công nhờ có sự cộng tác nhiệt thành của nhóm cộng sự viên. Chính vì thế, điều này cũng nhắc nhở chúng ta đặc biệt nhớ đến các mục tử trong Giáo Hội để cầu nguyện cho các ngài; để cảm tạ Chúa đang tin tưởng vào sự cộng tác của con người trong việc dẫn dắt Giáo Hội.
Tuy nhiên, trong Đức Kitô, mọi tín hữu đều tham dự vào chức linh mục, nghĩa là mọi người đều được mời gọi để sống cho tha nhân. Chúng ta hãy góp phần của mình, dù chỉ ít oi, nhỏ bé, không đáng kể, nhưng sự đóng góp của chúng ta sẽ là những xúc tác cần thiết để Thiên Chúa tiếp tục thực hiện các phép lạ. Nói rõ hơn: chỉ cần một chút quảng đại và góp phần của con người là đủ để Thiên Chúa thực hiện những phép lạ.
Vì thế, qua phép lạ hóa bánh này, chúng ta có thể suy diễn rằng: Em bé có năm chiếc bánh và hai con cá hoặc tông đồ Anrê hay các tông đồ khác chính là bạn, là tôi, là chúng ta, là tất cả các Kitô hữu. Nhưng chúng ta đã thường có những thái độ thế nào trước những nỗi đau của con người; trước những túng thiếu của người anh em? Đành rằng ngoảnh mặt làm ngơ là thái độ dễ thực hiện hơn. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay yêu cầu chúng ta suy nghĩ.
Hoặc là chúng ta có thể biện minh: làm sao tôi có thể giải quyết được những hoàn cảnh nghèo khó, đen tối đầy dẫy trong xã hội? Làm sao tôi có khả năng để xóa đói giảm nghèo? Điều đó vượt ngoài tầm tay của tôi. Những lời biện minh đó hay những lời biện minh khác thì cũng giống như lời biện minh xưa kia của các tông đồ: “Làm sao có đủ bánh cho từng ấy người ăn?”.
Qua phép lạ hóa bánh, một lần nữa, Chúa Giêsu giải thích cho chúng ta hiểu mỗi người phải làm gì. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì nằm trong tầm tay, nằm trong khả năng của mình. Phần còn lại, chúng ta sẽ được Chúa tiếp tục thực hiện. Hiểu như thế chúng ta mới thấy rằng: dù nghèo hèn đến đâu, ai cũng có một cái gì đó để chia sẻ. Và giá trị của quà tặng không tùy thuộc ở số lượng của vật chất mà chính là ở tấm lòng của con người. Một nụ cười thân ái, một lời nói cảm thông, một cữ chỉ tha thứ… có giá trị hơn những của cải vật chất mà một người giàu có bỏ ra như của bố thí.
Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi người cứ cố gắng thể hiện lòng quảng đại của mình, phần còn lại Chúa sẽ làm tiếp, nghĩa là lòng quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại; sự chia sẻ sẽ thúc đẩy sự chia sẻ; tình yêu sẽ khơi dậy tình yêu. Làm như vậy là chúng ta đã đặt nền móng cho nước trời, nước của những con người quảng đại biết yêu thương chia sẻ cho nhau.
Điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra những người khác cũng là con cái Thiên Chúa, cũng là anh chị em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết động lòng trắc ẩn trước những nỗi đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi.
47. Lương thực.
Trong các bài đọc chúng ta thấy Thiên Chúa lo cho người đói. Trong bài đọc 1, chúng ta thấy ông Elisa đã gạt bỏ những thói tục rườm rà và nhấn mạnh rằng bánh phải được phát cho dân, mặc dù bánh ấy làm từ hoa mầu đầu vụ dành để dâng cho Thiên Chúa. Và trong Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu phân phát bánh cho dân, họ đã đi theo Người vào nơi hoang địa.
Lương thực là nhu cầu đầu tiên của đời sống. Không có lương thực, không thể có đời sống, kể cả một đời sống cao hơn. Cho kẻ đói ăn là mối đầu tiên của việc thương yêu phần xác con người. Vào ngày phán xét sau cùng, Đức Giêsu sẽ nói: “Khi Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn” hoặc “Khi Ta đói, các ngươi đã không cho Ta ăn”.
Khi Đức Giêsu gặp dân đang đói. Người cho họ lương thực, và khi làm thế, Người biểu lộ lòng quảng đại cao cả của Người – mọi người ăn no nê và còn dư mười hai thúng đầy.
Đức Giêsu cầm năm cái bánh và dâng lời tạ ơn, chúng ta cũng phải dâng lời tạ ơn khi chúng ta ăn. Trong một thế giới có hàng triệu người đang đói, chúng ta không thể coi lương thực ta dùng là chuyện đương nhiên.
Mỗi ổ bánh (có thể dùng một ổ bánh thật cho cộng đoàn nhìn thấy) cũng là cả một phép lạ như những ổ bánh Đức Giêsu đã ban cho dân. Nó được làm nên bởi bàn tay của nhiều người và bàn tay của Thiên Chúa. Điều này được diễn tả rất đẹp trong lời nguyện dâng bánh trong thánh lễ “Lạy Chúa, chúng con chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của mọi loài thụ tạo. Nhờ lòng nhân hậu của Chúa chúng con có được bánh này để tiến dâng. Được làm bởi hoa màu của đất và lao công của con người, nó sẽ trở thành bánh sự sống cho chúng con”.
Thiên Chúa làm cùng một phép lạ qua thời tiết bốn mùa và thời vụ. Trong cánh đồng, Người nhân lên nhiều không phải bánh mà là những hạt ngũ cốc, đến nỗi nếu chúng ta góp phần của mình sẽ có đủ cho mọi người. Chỉ một hạt lúa mì có thể sinh ra bảy mươi hạt khác.
Ngày nay, người ta có mối bận tâm về lương thực nhưng vấn đề rất khác nhau tùy từng khu vực của thế giới.
Trong thế giới phát triển, chúng ta có quá nhiều lương thực. Lo lắng chính của nhiều người là làm thế nào giảm bớt phần ăn để được giảm cân. Nhưng những người cứ mãi lo lắng bận tâm về mình với vấn đề đó, không còn có chỗ dành cho yêu thương. Còn trong thế giới thứ ba, vấn đề là làm sao có được cái ăn cho mọi người.
Phép lạ của Đức Giêsu phải làm cho chúng ta biết ơn Thiên Chúa về lương thực mà chúng ta có được và cẩn thận không hoang phí nó. Phép lạ ấy cũng phải làm cho chúng ta tích cực quan tâm đến những người không có lương thực. Người ta biết rằng có hơn 700 triệu người trên thế giới ngày nay không đủ ăn. Một phần ba trẻ em Châu Phi bị suy dinh dưỡng.
Phải làm gì với lương thực dư thừa là một vấn đề gây bối rối cho các Kitô hữu. Một câu trả lời là dự trữ lương thực. Nhưng chắc chắn việc dự trữ lương thực dư thừa cũng gây ra sự phẫn nộ lớn như dự trữ các vũ khí hạt nhân. Một câu trả lời khác là giảm số lượng lương thực sản xuất. Nhưng điều này dẫn đến sự phẫn nộ của các nông dân được trả tiền để bỏ không đất đai mầu mỡ. Hầu hết nông dân không hài lòng với sự dàn xếp ấy.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của lòng quảng đại. Chúng ta cảm nghiệm sự quảng đại ấy mỗi lần chúng ta ngồi xuống dùng bữa và đặc biệt khi chúng ta tiếp nhận Thánh Thể. Kinh nghiệm của lòng quảng đại phải là kết quả của việc mở rộng tâm hồn, và ước muốn quảng đại với những người khác, những người không may mắn như chúng ta.
48. Quảng đại.
Một linh mục cử hành thánh lễ trong một giáo xứ ở Dublin và giảng bài Tin Mừng hôm nay, đã cho rằng phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều là một phép lạ của lòng quảng đại. Và cũng dễ hiểu được tại sao.
Trước hết có lòng quảng đại lạ lùng của một cậu bé đã cho năm cái bánh và hai con cá, làm cho phép lạ có thể được thực hiện. Quà tặng ấy tuy nhỏ, nhưng đối với cậu bé là một vật to lớn bởi vì đó là tất cả những gì cậu bé có. Nhiều người muốn đóng góp cho sự sung túc của người thân, nhưng không muốn cho khi không có họ.
Rồi đến sự quảng đại lạ lùng của Đức Giêsu. Người không chỉ nuôi tất cả mọi người, nhưng Người còn cho họ muốn ăn bao nhiêu tùy ý, và vẫn còn dư lại mười hai thúng đầy.
Vị linh mục rời bàn thờ vào cuối thánh lễ, lòng sung sướng vì nghĩ rằng mình đã giảng một bài giảng hay. Khi ông đang cởi áo lễ trong phòng áo thì một bà đứng tuổi đến hỏi xem có người nào đã để lại một bao mua hàng ở đó không. Bà nói bà đã mang nó vào nhà thờ, nhưng giờ đây bà không tìm thấy nó. Cậu bé giúp lễ đưa cho bà một cái bao mới: không ai để lại một cái bao nào trong phòng áo.
Linh mục đang chờ đợi bà nói một câu như sau: “Hạng người nào mà lại ăn cắp đồ của người khác trong nhà của Chúa” hoặc đại loại như thế. Nhưng bà không nói như thế. Không có một vẻ gì tức giận hay cay cú, bà nói đơn giản: “Có lẽ người ấy cần nó hơn tôi”.
“Trong bao có gì?” Linh mục hỏi.
“Hai ổ bánh mì” bà đáp.
Câu trả lời của bà làm vị linh mục thích thú. Nhưng cũng làm cho ông cảm thấy phải khiêm nhường, bởi vì ông biết rằng ở địa vị của bà, chắc là ông không quảng đại như thế. Ông cũng phải khiêm nhường vì một lý do khác. Ông đã rao giảng lòng quảng đại và người phụ nữ này đã thực hành nó. Lòng quảng đại của bà xuất phát từ tâm hồn.
Chúa nuôi dưỡng chúng ta ở đây trong bữa tiệc Thánh Thể vừa chắc chắn, vừa quảng đại như khi Người nuôi dân trong hoang địa. Người nuôi dưỡng chúng ta nhiều đến nỗi khi chúng ta ra đi, chúng ta có thể nuôi dưỡng những người khác.
Lòng quảng đại phải có vị trí trung tâm trong đời sống của mỗi Kitô hữu, và chúng ta mỗi ngày cố tìm những cơ hội để thực hành lòng quảng đại với một người khác. Không chỉ bằng việc cho tặng những đồ vật, nhưng đặc biệt hơn bằng việc cống hiến – thời gian, năng lực và sự yêu thương của chính mình.
Niềm vui là một hoa trái yêu thương của lòng quảng đại. Bạn hiếm khi gặp một người quảng đại mà xấu xa. Bạn cũng sẽ không bao giờ gặp một người keo kiệt mà hạnh phúc.
49. Nhân hậu.
Việc đọc lời cảm ơn trước mỗi bữa ăn là một điều rất tốt. Khi mô tả phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều, các thánh sử nói với chúng ta rằng “Đức Giêsu cầm lấy bánh và dâng lời tạ ơn”. Chúng ta cũng phải dâng lời cảm tạ khi chúng ta ăn. Trong một thế giới mà hàng triệu người đang đói, chúng ta không nên dùng bữa mà coi đó là chuyện đương nhiên.
Một buổi tối nọ, một người đàn ông ngồi xuống cùng với gia đình trước một bàn đầy thức ăn, ông và vợ ông cúi đầu trong lúc con gái họ đọc lời cảm tạ: “Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì lòng nhân hậu của Chúa đối với chúng con. Đặc biệt chúng con cám ơn Chúa đã cho chúng con nhiều lương thực. Amen”
Bình thường, nghi thức nhỏ này đem lại niềm vui to lớn cho người cha. Nhưng tối nay vì những lý do kỳ lạ, ông cảm thấy khó chịu. Ông nhận thức rằng chúng ta đang sống trong một thế giới phát triển và có quá nhiều lương thực, trong lúc những người sống trong thế giới thứ ba lại có quá nhiều thiếu thốn. Vừa rồi, ông có đọc trên báo rằng hàng năm có khoảng bốn mươi triệu người chết vì đói và những bệnh tật có liên quan và một phần trẻ em Châu Phi bị suy dinh dưỡng. Và ông tự hỏi: “Tại sao chúng ta là những người được Thiên Chúa ban cho nhiều quà tặng như thế? Phải chăng chúng ta xứng đáng được nhiều lương thực hơn những người khác đêm nay sẽ đói, và thay vì cám ơn Thiên Chúa, họ sẽ vào giường với tấm lòng cay đắng?”
Ông đưa ra một câu hỏi sâu xa đầy phiền nhiễu ấy, làm ông không còn thấy ngon miệng nữa. Phải chăng việc chúng ta có lương thực để ăn có nghĩa là chúng ta được hưởng ân huệ đặc biệt trước mặt Thiên Chúa? Phải chăng điều đó có nghĩa là Người nuôi sống những con cái mà Người ưa thích và để những kẻ bất xứng phải đói? Xin Thiên Chúa giữ gìn để chúng ta không chấp nhận một quan điểm như thế. Tốt hơn, xin Người hướng dẫn để chúng ta có một nhận thức đúng về lòng nhân hậu của Người.
Lòng nhân hậu của Thiên Chúa trở thành một lời báng bổ nếu nó khiến cho chúng ta có những ý nghĩ như thế và nếu chúng ta cám ơn Thiên Chúa vì lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta mà không ý thức về trách nhiệm mà lòng nhân hậu ấy đòi buộc chúng ta.
Để hiểu được lòng nhân hậu của Thiên Chúa trong việc Người ban ơn, chúng ta phải suy nghĩ với niềm tin rằng Thiên Chúa ban cho anh chị em của chúng ta. Vì thế không một ai được nói rằng: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa đã chúc lành cho con với tiền bạc và của cải”, để rồi cứ tiếp tục sống như thể chỉ có một mình ta ở thế gian. Đến một lúc nào đó, người ấy nhận ra mình đã tôn thờ ngẫu tượng là của cải và tính ích kỷ của mình. Của cải dĩ nhiên là dấu chỉ sự chúc lành của Thiên Chúa và lòng nhân hậu của Người, nhưng của cải cũng là những cơ hội để phục vụ mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta.
Chúng ta không thể nhân lương thực lên nhiều như Đức Giêsu đã làm. Nhưng chúng ta cũng không bắt buộc phải làm thế. Tất cả điều chúng ta phải làm là chia sẻ lương thực hoặc tiền bạc. Đức Giêsu tiếp tục hỏi chúng ta như đã hỏi Philipphê:”Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?”.
Trong ánh sáng đó, còn gì thích hợp hơn một lời cảm tạ trước mỗi bữa ăn? Đại khái như lời cảm tạ sau đây: “Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì lòng nhân hậu của Chúa đối với chúng con, và đặc biệt vì lương thực dồi dào này. Xin cho chúng con biết sử dụng quà tặng của Chúa sao cho những người khác cũng biết lòng nhân hậu của Chúa và cảm tạ Chúa như chúng con”.
50. Phép lạ.
Đây là một phép lạ lớn: Đức Giêsu đã làm cho có lương thực cho một số đông người ăn no nê thừa thãi: đàn ông là 5000, nếu cộng thêm độ 5000 đàn bà và khoảng 2000 trẻ em mà thánh Gioan không kể ra, thì con số lên tới khoảng 12.000. 12.000 người ăn no nê và dư lại 12 thúng đầy. Quả là một phép lạ to lớn.
Nhưng có một điều chúng ta phải lưu ý, đó là Chúa muốn cho phép lạ lớn lao này có sự góp phần của loài người:
. Chúa đã làm phép lạ từ 5 cái bánh và 2 con cá của một em nhỏ.
. Khi bánh và cá đã hóa ra nhiều rồi, Chúa nhờ các tông đồ đi phân phát cho dân chúng.
Dĩ nhiên, với quyền phép vô biên, Chúa có thể một mình làm được phép lạ này, nhưng Chúa đã cố ý dành phần cho con người góp tay hợp tác vào.
Đây là lề lối hành sử hầu như thường xuyên của Chúa
. Phép lạ đầu tiên Chúa làm ở Cana biến nước thành rượu: Chúa cũng nhờ các gia nhân xách nước đổ sẵn vào các lu.
. Các phép lạ khác cũng vậy, Chúa đều đòi người ta hợp tác, hợp tác ít ra cũng bằng một thái độ tin tưởng vào Chúa. Thường trước khi làm một phép lạ, Chúa hỏi “Con có tin không?”, và sau khi làm phép lạ, Chúa nói “Đức tin của con đã cứu chữa con”.
. Công cuộc lớn lao nhất của Chúa là cứu chuộc loài người. Chúa cũng đòi loài người hợp tác. Cho nên thánh Augustinô nói “Khi tạo dựng con Chúa không cần hỏi ý kiến con, nhưng khi cứu chuộc con Chúa cần con phải góp phần vào đó”.
Phần Chúa thì mặc dù có quyền phép vô biên, muốn làm gì cho loài người chúng ta cũng được, nhưng Chúa muốn chúng ta góp phần của chúng ta vào. Còn về phần chúng ta thì thường chúng ta quên ý muốn đó của Chúa. Khi chúng ta muốn Chúa giúp chúng ta điều gì, chúng ta thường chỉ biết cầu xin, cầu xin rồi nhờ Chúa ban ơn chứ không chịu khó góp phần cố gắng của chúng ta vào. Thậm chí phần hợp tác tối thiểu là tin tưởng trọn vẹn vào Chúa thì ta cũng có khi không tin mấy nữa, có người vừa cầu xin với Chúa vừa chạy tới các thầy bói thầy bùa giúp sức. Có lẽ chính vì thế (nghĩa là vì ta không góp phần và không tin cho đủ), nên nhiều khi những lời cầu xin của chúng ta đã không đem lại kết quả như ta mong muốn.
Ơn Chúa lúc nào cũng sẵn sàng ban, kể cả phép lạ Chúa cũng sẵn sàng làm. Nhưng biết bao lần chúng ta đã không chịu hưởng nhờ, là vì ta đã không góp phần của ta với ơn Chúa, hoặc ta không tin đủ vào ơn Chúa.
Cụ thể:
. Nếu chúng ta xin Chúa giúp cho gia đình chúng ta được hòa thuận, thì đừng có cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa có những cố gắng làm hòa lại với nhau như cặp vợ chồng trong câu chuyện vừa kể trên.
. Nếu chúng ta xin Chúa giúp gia đình chúng ta thoát cơn túng thiếu, thì cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa cố gắng dẹp bỏ những nguyên nhân gây cảnh túng thiếu ấy như ăn xài hoang phí, rượu chè, cờ bạc… và đồng thời cần cù làm ăn, tiêu xài có suy tính cân nhắc cẩn thận…
. Nếu chúng ta xin Chúa hoán cải tâm hồn của một đứa con hoang đàng, chúng ta cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin, vừa tìm cách tách nó khỏi những bạn bè xấu, những môi trường xấu và làm nhiều gương tốt trước mặt nó.
51. Yêu quý mảnh bánh vụn.
(Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Hữu An)
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt. 14,13-21; Mc. 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm Chúa làm phép lạ lần thứ hai nữa (Mt 15,32-38;Mc 8,1-10).
Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Họ đói khát, nghèo khổ, bệnh tật, bơ vơ. Họ đi tìm Chúa để được chữa lành, được an ủi, được dạy dỗ. Chúa đã yêu thương họ và muốn tặng cho họ một bữa tiệc đơn sơ bất ngờ ở ngoài trời. Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây? Chúa muốn đưa các môn đệ đi vào mối bận tâm của Ngài, cần sự cộng tác. Các môn đệ thất vọng vì chỉ có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhỏ. Phản ứng các môn đệ được ghi lại trong 4 phúc âm: - Matthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá thôi. - Marcô: Thế chúng tôi phải đi mua 200đ bạc bánh mà cho họ ăn sao? - Luca: Chúng tôi không có hơn 5 chiếc bánh và 2 con cá, hoạ chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này - Gioan: Philipphê thưa: Có mua hết 200đ bạc bánh cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ. Anrê nói: Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!
Phản ứng của các môn đệ là bế tắc, muốn thoái thác phủi tay. “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15) Đó là giải pháp hợp lý. Lo cho hàng ngàn người ăn là ngoài khả năng các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng, ai lo phần nấy, tự đi mua lấy thức ăn. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa Giêsu chấp nhận. Chúa muốn các môn đệ nhận lấy trách nhiệm: Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn đi.
Đức Giêsu cầm 5 chiếc bánh và 2 con cá hướng nhìn về trời cao, đọc lời chúc tụng thì những bế tắc âu lo của các môn đệ đã được giải toả. Đám đông ăn no nê.
Phép lạ xảy ra do quyền năng Thiên Chúa và sự cộng tác của con người. Chúa không làm phép lạ ngay tức khắc biến bánh và cá thành một núi thức ăn để người ta tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ.Các môn đệ trao cho mọi người. Mọi người trao cho nhau. Đó là bài học lớn lao của phép lạ hoá bánh. Khi mọi người chia sẻ cho nhau, quan tâm giúp đỡ nhau trong tình thương, biết bẻ ra, trao đi thì Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nhiều.
Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi. Với 5000 người không để đàn bà con nít, vậy số người rất đông, cả một rừng người. Có cả ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy tại sao Chúa lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mảnh vụn?
Chắc chắn nguyên nhân của phép lạ hoá bánh ra nhiều là “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32). Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ của Chúa. Nó là tình thương, là ơn sủng, là ơn cứu độ của Chúa trao ban. Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời thành trăm ngàn vụn nhỏ thì càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ nó trở thành nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh. Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra, vóc dáng Người sụp xuống thì cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra chảy tràn kín vũ trụ.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn, Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sức khoẻ, thời gian, tài năng, trí tuệ đều là ân huệ được ban tặng, cần trân trọng nâng niu gìn giữ. Trong ơn sủng của Chúa không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường.
Đức Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên thánh, con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con”(ĐHV 814). “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816). “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy-mã-lạp-sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày mới đạt được đích họ hy vọng” (ĐHV 817).
52. Bài học tiết kiệm
(Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Hữu An)
Phép lạ “Hóa bánh ra nhiều” có nội dung phong phú về Thần học và Giáo lý Bí Tích Thánh Thể, đồng thời cũng chứa đựng rất nhiều bài học về Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, tình liên đới, sự cộng tác...
Hôm nay xin được chia sẽ về bài học Tiết Kiệm.
1. Chúa dạy bài học tiết kiệm
Phép lạ hoá bánh ra nhiều, được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm lần thứ hai Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).
Lần thứ nhất, Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; cả ba thánh sử Mátthêu, Máccô, và Luca đều ghi nhận: sau khi dân chúng được ăn bánh no nê, người ta đã không bỏ phí những mẫu bánh còn dư thừa nhưng “đã thu lại tất cả được mười hai thúng đầy” (Mt 14, 20; Mc 6,43; Lc 9, 17). Riêng thánh Gioan nhấn mạnh, chính Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các môn đệ: "Anh em (hãy đi) thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” (Ga 6,1-12). “Họ liền đi thu những miếng thừa…và được mười hai thúng đầy”.
Lần thứ hai, Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, người ta cũng thu lượm lại tất cả những mẫu bánh thừa, tất cả “được bảy thúng đầy” (Mt 15,37; Mc 8,8).
Năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà con nít. Số người phải là đông lắm. Hơn cả chục ngàn người. Có ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy, tại sao Chúa Giêsu lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mãnh vụn: “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi”?.
Chắc chắn nguyên nhân của phép lạ hoá bánh ra nhiều là: “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32).
Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ Chúa đã làm. Những phép lạ là tình thương, là ơn sủng, là ơn cứu độ của Chúa trao ban.Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời tạo thành trăm ngàn vụn nhỏ càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ, bánh thánh nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh. Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra, vóc dáng Chúa Cứu Thế sụp xuống, đó cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra, chảy tràn kín vũ trụ.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo thu lại để dạy các môn đệ và chúng ta bài học tiết kiệm.
Những người vừa trải qua cơn đói, nay được một bữa no nê. Họ vất bỏ những mẫu bánh dư thừa. Khi dư giả, người ta dễ phung phí. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẫu bánh thừa. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Tiết kiệm thể hiện sự quý trọng kết quả lao động của bản thân và của người khác.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sự sống, sức khoẻ, thời gian, tài năng, trí tuệ, tài nguyên đều là ân huệ được ban tặng, cần trân trọng nâng niu gìn giữ. Trong ơn sủng của Chúa, không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường. Đức Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên Thánh,con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con” (ĐHV 814); “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước, nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816); “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy Mã Lạp Sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày, mới đạt được đích họ hy vọng” (ĐHV 817).
2. Tiết kiệm và lãng phí
Tác giả Gã Siêu viết:
Muốn phát triển, phải cần kiệm. Đó là qui luật của muôn đời. Các nước văn minh đã sống qui luật này một cách nghiêm ngặt và chặt chẽ.
Ở bên Mỹ, trong các trường tiểu học, người ta đã dạy cho con nít biết: Muốn có một đồng thì phải bắt đầu từ một xu; Muốn có một triệu thì phải bắt đầu từ một đồng. Ở bên Nhật cũng vậy. Trong các gia đình, người ta luôn nhắc nhở con cái sống theo phương châm: Mua gì ăn nấy; Ăn đâu hết nấy; Không để thừa mứa, lãng phí. Ở bên Israel cũng thế. Vào các nhà hàng, khách sạn, người ta không thấy đồ ăn thức uống để dư. Ngay tại các bến xe, bến tàu đều có những khẩu hiệu:Hãy tiết kiệm điện; Hãy tiết kiệm nước… Tại các công sở và xí nghiệp, để trừ khử thói lề mề, người ta trừ ngay vào lương những ai đến làm việc chậm trễ.
Thấy người mà nhớ tới ta.
Trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, tác giả Phạm đình Nghiệp đã đưa ra một vài trường hợp lãng phí điển hình.
Trước hết, đó là việc lãng phí sức người, được thể hiện dưới nhiều dạng vẻ khác nhau: thất nghiệp, lao động trái ngành, chéo nghề được đào tạo, sử dụng nhân lực bất hợp lý, nhân tài không được trọng dụng, chảy máu chất xám… Tiếp đến là việc lãng phí tài sản, tiền bạc của dân và của nước. Người ta sẵn sàng tiêu phí hàng chục triệu đồng “của chùa” cho một đêm liên hoan gặp gỡ hay chia tay nào đó.
Việt Nam chúng ta là một đất nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người vào loại thấp nhất, nhưng đã “hội tụ” được đủ mặt các loại bia ngon nhất.Trong nhiều cuộc “bù khú” nhậu nhẹt, người ta thi nhau không phải uống bia, mà là “gội bia”, “tắm bia” với hàng chục, thậm chí hàng trăm lít.
Hằng ngày, chúng ta đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh lãng phí tiền bạc, làm nghèo cho dân cho nước. Cơ quan nào, xí nghiệp nào cũng cố xây cho mình những cơ sở bề thế và lộng lẫy.
Hễ có chức một tí là vội sắm cho mình những chiếc xe đời mới đắt tiền, trang bị cho mình điện thoại di động đúng với “mô đen” thời thượng mà nghênh ngang với đời.
Mới đây, trên báo “Tuổi trẻ cười”, có một bài mang tựa đề “hình như là lãng phí”, tác giả đưa ra một sự kiện… rất bình thường, nhưng lại rất xót xa. Đó là bộ giáo dục năm nào cũng đổi mới, năm nào cũng cải cách, nên năm nào, số sách giáo khoa mới in ra cũng được tha hồ đem bán ký.
Tác giả viết:“Ai ngờ đâu, tôi bỗng trở thành người thu gom giấy phế liệu để kiếm sống và đến nay tôi đã cân cả tấn sách giáo khoa còn thơm mùi giấy mới. Ở đủ mọi lớp, thuộc đủ loại môn học. “Vốn dòng họ “tiếc”, mỗi khi gặp loại sách mới này (mà gặp hoài), tôi đều lấy mẫu về cho con tôi, nhưng chúng lại bảo: Không phải loại sách của trường con (dù đúng cấp, đúng lớp của chúng). Nhìn lại bìa thì thấy là của bộ Giáo dục và năm xuất bản, mới cách đó một hai năm mà thôi!!!
“Tôi nhớ ngày xưa, khi anh tôi vào lớp 12, tôi vẫn xài sách lớp 7 của ảnh để lại. Và khi tôi lên lớp 12, tôi vẫn xài sách ảnh đã xài mà không có trở ngại gì và vẫn “anh dũng” thi đậu, cha mẹ vui mừng khỏe re…Ôi sao mà dễ dàng tiện lợi và đỡ tốn kém quá cho cho mẹ và lớp học sinh thập niên 60, 70.
“Tôi đã qua cái cảnh ba ngày ròng đi tìm một cuốn sách học cho đứa cháu mới lớp 4. Nhiều lần nhịn ăn nhịn uống để dành tiền mua sách học cho con và bây giờ đứng trước hằng trăm ký sách giáo khoa chưa có tay người lật mà đành cân ký làm giấy gói đồ, hỏi sao không xót cho học sinh, phụ huynh đất nước?
“Tôi cũng rất ngạc nhiên phát hiện ra chỉ một môn học ở lớp 3, lớp 4, mà có đến ba, bốn thứ sách. Nào là quyển bài giải, bài mẫu … rồi quyển cho giáo viên … tất cả còn mới nguyên mà đem cân ký, không biết vì lý do gì và có lãng phí không?
“Năm nào, đọc báo cũng thấy bộ giáo dục than thiếu tiền, thiếu giấy in, thiếu sách cho học sinh đến độ có những cuộc phỏng vấn tùm lum về vấn đề này. Ấy thế mà năm nào, tôi cũng có dịp cân hết trăm ký lô này đến trăm ký lô khác sách giáo khoa … lòng tôi không khỏi cảm thấy bùi ngùi”.
Trên đây là những chuyện lãng phí của quí vị có chức, tai to mặt lớn. Còn trong phạm vi cá nhân, gã cũng nghiệm ra còn có nhiều loại lãng phí khác nữa, mà chính bản thân gã cũng đã từng mắc phải. Gã chỉ xin đưa ra một thí dụ điển hình mà thôi, đó là lãng phí thời gian.
Người Tây thì bảo: Le temps, c’est l’argent. Thời giờ là bạc. Còn người Tàu thì nói: Nhất thốn quang âm nhất thốn kim. Một tấc thời gian là một tấc vàng.
Thế nhưng, lắm lúc người ta đã không ý thức được sự quí giá của thời gian nên đã lãng phí nó một cách lãng xẹt.
Nơi gã đang cắm dùi là một thị trấn chỉ nhỏ bằng chiếc móng tay, thế mà có đến mấy chục quán cà phê. Đường nào cũng có, góc phố nào cũng có. Bất kể sáng, trưa, chiều và tối, hễ đặt chân ra đường hay xuống phố, đều thấy quí vị thanh niên ngồi thiền ở trong những quán ấy. Đáng lẽ ra: Đâu cần, thanh niên có; đâu khó, có thanh niên. Thế nhưng, quí vị này lại chẳng biết làm gì cả, ngoài việc giết thời giờ trong quán, nhấm nháp vị đắng cà phê và đốt những điếu thuốc, lim dim thả hồn theo khói, ra dáng siêu nhân hay người cõi trên chi đó.
Tiếp đến là quán nhậu. Mỗi bữa nhậu kéo dài hai ba tiếng đồng hồ, quả là lãng phí. Hồi xưa, thấy một kẻ say xỉn ngoài đường phố, quả là chuyện họa hiếm, còn hôm nay lại là chuyện thường ngày ở huyện.(Nguồn: dunglac.org).
La Fontaine kể câu chuyện ngụ ngôn. Con ve sầu suốt mùa hè, chỉ biết ca hát, khi mùa đông trở về, gió bấc thổi tới, nó bị chết đói. Trong khi đó, dòng họ nhà kiến, suốt ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt gạo, dù có mưa bão hay lạnh giá, đời sống vẫn được bảo đảm an toàn.
3. Cần phải tiết kiệm
Linh mục Nguyễn Hồng Giáo viết:
Ý thức về tiết kiệm (một hình thức của sống nghèo) nói chung, còn kém nơi tu sĩ, chủng sinh và linh mục ngày nay. Có vẻ như nhiều người không coi đó là chuyện quan trọng, được nhắc nhở thì để ý, xong rồi lại đâu vào đó, rất khó “đưa vào bộ nhớ”. Trời không lấy gì làm nóng, nhưng hễ vào phòng là mở quạt máy. Nhiều khi tập vở viết chưa hết, cái áo, cái quần, đôi dép cũ còn dùng tốt được, nhưng đã bị phung phí vất đi. Cả một chồng sách báo cũ có thể để cho người thu mua đồ vụn hay ít nhất đưa cho nhà bếp làm mồi lửa, vẫn đem đốt một cách “vô tư”. Từ xưa, tục ngữ Việt Nam có câu: xài của chùa. Nghĩa là xài mà không phải trả tiền, nên cứ việc thoải mái, khỏi cần chừng mực, tiết kiệm. Và cha chung, không ai khóc, của chung, không ai quan tâm. Tâm lý đó không chỉ phổ biến nơi cán bộ công chức (như được phản ánh trên Tuổi Trẻ) mà cả nơi quần chúng nhân dân và … trong các tập thể Giáo Hội ta nữa. Trong nội bộ chúng ta, cũng có những lãng phí rất quen thuộc. Như khi làm thiệp báo tin một lễ mừng nào đó, người ta thích in thật hoành tráng (giấy sang, in hai ba màu…) dù biết rằng người nhận coi xong là bỏ.
Thật tế nhị, nhưng tôi xin nói tới tiệc tùng trong giới Công giáo ta. Tiệc quá to, rất tốn kém và thường là thừa thãi. Nước ta xưa kia rất nghèo, người dân ăn không no, mặc không ấm, nên rất chú trọng chuyện ăn uống. Tuy thế, hay chính vì thế mà lại có tâm lý coi miếng ăn là miếng nhục (muốn ăn lắm, nhưng phải làm ra vẻ không cần để tránh làm cho người khác đánh giá mình vì chuyện ăn uống…). Tây phương thì khác. Họ giàu, nên các tiệc tùng của họ thường rất đơn giản, chỉ dọn vừa đủ ăn. Ăn uống, chỉ là một phần của cuộc họp mặt. Ở nước ta, dù đã bắt đầu có thay đổi, nhưng tâm lý chung của người Việt vẫn còn thích phô trương, thích giữ thể diện bằng vẻ hào nhoáng bên ngoài, đặc biệt trong tổ chức tiệc tùng, phải mâm cao, cỗ đầy, càng nhiều món, càng sang, cho dù biết trước là sẽ thừa mứa. Và tục lệ xã hội vẫn còn gây áp lực nặng nề. Có những lễ tạ ơn tân linh mục, dọn bảy, tám chục mâm, thậm chí cả trăm và hơn nữa.
Thời nay, việc truyền chức linh mục trở thành chuyện bình thường, có nên bình thường hoá việc ăn mừng không? Thay đổi một tục lệ xã hội là rất khó. Có khi chính người trong cuộc cũng rất ngại, rất lo khi phải tổ chức linh đình tốn kém, nhưng họ khó có thể làm “cách mạng” …! Tôi nghĩ nếu có một chủ trương chung nào đó từ trên xuống, - dòng tu, giáo xứ, địa phận - thì người giáo dân chắc sẽ chấp nhận. Đây mới chỉ nói tới tạ ơn tân linh mục, nhưng khấn dòng, lễ vàng, lễ bạc, các lễ kỷ niệm này nọ, và lễ cưới cũng thuộc diện này. Giáo Hội Việt Nam có nên đi trước xã hội trong vấn đề này không? Nhờ cơ cấu tổ chức rất chặt chẽ và uy tín rất lớn của hàng giáo sĩ đối với giáo dân, thiết nghĩ nếu Giáo Hội quyết tâm và quyết liệt, cơ may thành công sẽ rất lớn. Đây cũng là nhiệm vụ giáo dục con người của Giáo Hội có thể làm ngay, không cần đợi đến khi được phép chính thức mở trường mở lớp. (Nguồn: nguoitinhuu.com).
Tiết kiệm khác với hà tiện, keo kiệt, bủn xỉn.
Tiết kiệm là biết sử dụng một cách hợp lý, đúng mức của cải vật chất, thời gian, sức lực của mình và của người khác. Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm tiền của.
Người Ý nói: Sự sung túc có được do hai bàn tay. Bàn tay này là tài năng, bàn tay kia là tiết kiệm. Người Thổ Nhĩ Kỳ bảo: Người ta trở nên giàu có, đó là do cần cù lao động và biết tiết kiệm trong chi tiêu. Tại nơi mở trương mục tiết kiệm ở các ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái ấp quả trứng vàng, có ý muốn nói những đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó, sẽ sinh nhiều lợi lộc, sẽ đem lại cho chủ nhân những trái trứng bằng vàng.
Tiết kiệm đi chung với giản dị.
Sống giản dị là sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội. Người giản dị thì không xa hoa, không lãng phí, không chạy theo những nhu cầu vật chất và hình thức bề ngoài. Sống giản dị, sẽ tiết kiệm được thời gian, tiền của, công sức để làm những việc có ích cho bản thân, cho gia đình và xã hội. Người tiết kiệm sẽ biết sống giản dị phù hợp với hoàn cảnh bản thân, gia đình, xã hội.
Việc nhỏ mà mỗi người chúng ta có thể thực hiện dễ dàng trong cuộc sống thường nhật, đó là sử dụng điện, nước, của cải vật chất một cách hợp lý, biết dùng thời gian vào những việc có ích và biết gìn giữ của công.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.
Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen. (Mana).
53. Chúa Giêsu cầm lấy bánh,
tạ ơn và phân phát cho họ ăn no nê
Từ ngày 18 tháng 06 đến ngày 18 tháng 07 năm 1994, màn hình ti vi thế giới chiếu hai cảnh trái ngược nhau. Một cảnh hàng triệu người Rwanda tị nạn, đói khổ, đang chạy trốn cuộc tàn sát chủng tộc đẫm máu. Một cảnh hơn ba triệu rưỡi người kéo nhau đi xem 52 trận đấu bóng đá cúp thế giới tại nước Mỹ, họ tiêu xài cả chục tỷ dollars. Hai phần ba nhân loại đói khổ vì tầng lớp cường quyền tham vọng gây ra cảnh chiến tranh, đàn áp, bóc lột. Một phần ba giàu có, không biết chia sẻ cho người nghèo, mà chỉ lo ăn chơi phung phí. Họ lấy đâu ra tiền của đó? Không phải lấy ở loài người vì người ta sinh ra trần trụi như ông Gióp nói: “Tôi sinh ra trần truồng”. Không phải moi của trời đất, vì trời đất vô tri vô giác, biết gì mà cho. Phải nói như Kinh Thư của tổ tiên các dân tộc phương Đông rằng: “Thiên sinh chư dân hữu vật, hữu tắc” – Trời sinh muôn dân, cho có muôn vật, phép tắc. Người Việt Nam cũng nói: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Như vậy, tất cả của cải trong trời đất đều do Thiên Chúa ban. Thế mà họ dư tiền của, họ không biết chia sẻ cho đồng loại nghèo đói. Họ sẽ bị Thiên Chúa đòi đến mà bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, Ta đã tha hết nợ cho ngươi … thì ngươi, ngươi cũng phải thương xót đồng loại như chính Ta đã thương xót ngươi chứ?” (Mt. 18, 32-33). Họ chẳng khác gì như những tá điền sát nhân, giết người cướp vườn nho của chủ (Mt. 21, 33-41). Họ sống trái ngược với Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy đám dân chúng đói khát, Người liền hỏi môn đệ Philip: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?” Philip đã cố gắng đáp với giọng bất lực: “Dạ, dù có mua đến hai trăm đồng bánh cũng không đủ cho mỗi người một chút”.
Thời đó hai trăm đồng có thể mua được 4.000 chiếc bánh như ngày nay. Nhưng Thầy và môn đệ lấy đâu ra số tiền lớn đó. Dù có tiền, thì ở nơi đồi núi hoang vu, lấy đâu ra bánh cho họ ăn, vì chỉ kể số đàn ông đã tới năm ngàn.
Anrê còn bồi thêm một câu tuyệt vọng nữa: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá”. Cho thấy đám dân chúng quá nghèo. Họ theo Chúa chỉ có hai bàn tay trắng. Họ lấy đâu ra ăn. Tin mừng nói: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ ăn”. Người đã dâng lời tạ ơn Chúa Cha. Người biết Chúa Cha giàu lòng thương yêu dân chúng. Người đã cầu xin Chúa Cha nhìn đến nỗi khổ của dân chúng. Nhờ đó, họ muốn ăn bao nhiêu tùy ý. Họ được ăn no nê thỏa thích, nên ào ào chạy đến tôn vinh Chúa Giêsu làm vua.
Chúa Giêsu lánh mặt, đi lên núi một mình, vì đó là thói tôn vinh thế gian. Trước kia, Người đã thẳng tay đuổi tướng quỷ đem bả vinh hoa cai trị cả thiên hạ ra cám dỗ Người.
Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho họ ăn, không phải để được tôn vinh, mà để cho họ thấy tình thương của Thiên Chúa hằng nuôi sống loài người từ khi tạo thành vũ trụ vạn vật, như Thánh vịnh 144, 16: “Chúa thương mở tay ra và thi ân cho mọi sinh vật được no nê”. Suốt chiều dài lịch sử loài người hoàn toàn sống nhờ vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa không dựng nên vũ trụ vạn vật, như một kho tàng vô tận, con người phải tự lực cánh sinh thì có lẽ chỉ năm mười phút, cả loài người đều bị tiêu diệt. Thật vậy, những thứ con người cần thiết nhất, cần nhiều nhất, như không khí, nước uống, ánh sáng, nhiệt lượng, môi sinh v.v… thì con người hoàn toàn hưởng không, không phải làm gì. Thiên Chúa chỉ muốn con người cộng tác một chút xíu, như cày cấy, chăm bón, gặt hái, biến chế cho có lương thực ăn uống và đồ dùng tạm bợ. Sự cộng tác đó quá bé nhỏ, như em bé chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá dâng lên Chúa Giêsu để Người làm phép lạ cho hơn chục ngàn người ăn, nếu kể cả nữ giới và thiếu nhi.
Nhưng một chút đóng góp đó thôi cũng đủ cho Thiên Chúa hài lòng để Ngài ban cho những phép lạ vô cùng lớn lao hơn nữa như phép lạ, phép Thánh Thể. Không phải vô tình mà thánh Gioan viết: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua”. Nói đến lễ Vượt qua là nói đến cuộc giải phóng dân Do thái thoát ách nô lệ Ai cập, nói đến cuộc phục sinh cả một dân tộc chết trong nơi lưu đầy, chết trong thờ tà thần. Thánh Gioan nói đến lễ Vượt qua, chính là để cho mọi Kitô hữu nhớ đến Đức Giêsu đã vượt qua cái chết để sống lại, và tín hữu muốn vượt qua cái chết để sống lại vinh hiển với Đức Giêsu thì phải ăn bánh hằng sống, “chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga. 6, 51).
Lạy Chúa, Chúa không ngừng kêu gọi con như hiền triết Diogène đã khuyên: “Đừng bao giờ sung sướng được làm con heo vỗ béo”. Đừng bao giờ quên rằng Đức Giêsu đã cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho họ ăn no nê. Xin cho con biết dâng lên Chúa hằng ngày một chút bánh như em bé có năm chiếc bánh và hai con cá để Chúa làm phép lạ nuôi sống muôn người.
54. Bánh và cá – Lm. Mark Link.
Chủ đề: "Chỉ cần chúng ta trao phó cho Chúa Giêsu phần ít ỏi của mình, Ngài sẽ biến phần ít ỏi ấy thành bội phần vượt quá những kỳ vọng lớn lao nhất của chúng ta"
Jay Keler có viết một quyển sách nhan đề Growing Places (Những vùng đang phát triển), trong đó ông kể: Một đêm nọ, ông từ máy bay bước xuống một phi trường ở Ấn Độ. Ngay khi máy bay vừa chạm đất, ông nhận thấy những bóng người đang nằm ngủ xếp lớp hai bên lề đường bay. Jay liền hỏi người ngồi bên cạnh thì anh ta trả lời: Đấy là những kẻ sống vô gia cư. Suốt ngày đường bay hấp thụ sức nóng để về đêm trở thành máy sưởi ấm cho đám người ấy đỡ lạnh. Rời khỏi máy bay, Jay đi nhận hành lý và lên xe buýt về một thành phố lân cận. Sau nửa đêm xe buýt mới đến nơi. Khi bước xuống con phố hoang vắng dẫn đến khách sạnh, ông nhận thấy chung quanh ông toàn là lũ dân nghèo khổ. Thế rồi thình lình ông nghe có tiếng động kỳ lạ vang lên: Lịch kịch, lịch kịch, lịch kịch, ông liền quay lại và thấy một thằng bé có cặp giò bị cưa hầu như lên tận háng. Thằng bé đang cố trườn mình đi tới trên hai chiếc nạng bé tí. Khi đến gần Jay, thằng bé chìa tay ra xin: Jay liền cho nó tất cả số tiền lẻ trong người rồi tiếp tục đi về khách sạn. Vừa đi được một quãng mười bước, ông lại nghe âm thanh kỳ lạ khác. Ông quay đầu lại nhìn thì nhận ra một thằng ăn xin khác đang đánh thằng bé hồi nãy bằng chính đôi nạng của nó. Chúng đang cưỡng bức thằng bé nọ giao cho chúng những đồng tiền xu mới xin được. Jay nói rằng suốt đêm ấy ông không hề chợp mắt ngủ được.
Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến với lũ người nghèo khó, hung dữ này. Nhìn thấy tình trạng bi đát trước mắt, bà tự nhủ lòng: "Ta phải làm một điều gì mới được", thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ dáy bẩn thỉu. Tuy căn nhà không khang trang lắm nhưng có thể dùng được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm lũ con nít đem về để dạy dỗ chúng. Bà dùng căn nhà cũ kỹ làm phòng học, dù không có lấy một chiếc bàn giấy, một chiếc ghế hoặc một cái bàn. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết phấn, bà dùng một tấm vải rách nát cũ kỹ lau sạch nền rồi viết lên trên đó cho lũ trẻ học. Đấy là phương cách bà dùng để chiến đấu sự nghèo dốt và hung dữ chung quanh bà. Nó là câu trả lời gây cảm động nhất mà bà có thể thực hiện.
Thế rồi điều gì đã xảy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà ấy? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại. 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện chăm sóc người hấp hối, 30 mươi viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40,000 tình nguyện viên khắp thế giới sẵn lòng giúp đỡ bà. Người phụ nữ đó không ai khác chính là Mẹ Têrêsa.
Tôi cho rằng không có câu chuyện nào hay hơn để làm sáng tỏ chủ điểm của bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm hôm nay. Ta hãy suy gẫm bài Tin Mừng hôm nay; cậu bé nọ có 5 ổ bánh và 2 con cá, Chúa Giêsu đã yêu cầu cậu mang đến để Ngài thiết đãi đám đông dân chúng. Cậu bé liền giao bánh và cá cho Chúa Giêsu để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Cuối cùng Ngài đã thết đãi hơn 5000 người no nê.
Đấy cũng chính là điều Mẹ Têrêsa đã làm. Bà giao cho Chúa "Bánh và Cá' của bà để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Thế là Ngài đã nhân chúng lên gấp bội vượt mọi điều mơ ước của bà. Câu chuyện Mẹ Têrêsa, câu chuyện người đàn ông trong bài đọc thứ nhất hôm nay cũng như câu chuyện Phúc Âm hôm nay đều nêu lên cùng một chủ điểm giống nhau. Đó cũng là chủ điểm bài phát biểu của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II với các thanh niên tại Edinburg trong lần Ngài đến thăm Scotland vào năm 1982. Đức Giáo Hoàng nói với họ: "Giờ đây tôi xin nhấn mạnh chủ điểm này: cậu bé trong Phúc Âm đã trao cho Chúa tất cả khả năng cậu có để rồi Chúa Giêsu thết đãi đám dân 5000 người no nê một cách thật lạ lùng và đồ ăn vẫn còn dư. Đời sống của các bạn cũng y hệt như thế. Nếu phải một mình đối đầu với những thách đố khó khăn của cuộc sống, các bạn sẽ cảm thấy mình không đủ khả năng và lo sợ trước viễn cảnh tương lai. Nhưng tôi xin nói với các bạn điều này: 'Hãy đặt cuộc đời các bạn trong tay Chúa Giêsu. Ngài sẽ chấp nhận và sẽ chúc lành cho các bạn và sẽ biến đổi cuộc đời các bạn một cách tốt đẹp hơn, vượt mọi kỳ vọng lớn lao nhất của các bạn'."
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa Giêsu bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng chúng ta để Ngài sử dụng theo ý Ngài muốn? Nói rộng hơn, chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi khả năng của mình như Mẹ Têrêsa, như người đàn ông trong bài đọc thứ nhất và như cậu bé trong bài Phúc Âm hôm nay đã làm chưa? Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta, "Tôi cần tài năng các anh, tôi cần lòng quảng đại của các anh, tóm lại tôi cần các anh, cần đôi chân, đôi tay, môi miệng các anh. Vì hôm nay tôi chỉ biết nhờ đôi chân các anh để mang tôi đến các khu xóm tồi tàn, các xưởng thợ và phòng làm việc ở các phố thị của các anh. Tôi chỉ biết nhờ đôi tay các anh để vươn tới những người yếu đuối bơ vơ, những người vô gia cư và lâm vào tình trạng tuyệt vọng. Tôi chỉ biết nhờ miệng lưỡi các anh để nói cho các anh chị em tôi lý do tôi đã đến trên trái đất này, đã chịu đau khổ và chịu chết cho họ"
Tóm lại trong sứ điệp Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh Thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì: chẳng hạn thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta- Ngài sẽ sử dụng nó để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã biến đổi những ổ bánh và 2 con cá trong bài Phúc Âm hôm nay vậy. Đấy chính là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta trong những bài đọc hôm nay.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời Kinh nguyện rất được Thánh Ignatiô de Loyola yêu chuộng. Xin mời yên lặng hiệp ý cùng tôi:
"Lay Chúa, xin hãy nhận lấy tự do, trí nhớ, sự hiểu biết và toàn bộ ý chí của con. Xin hãy nhận lấy toàn thân con và tất cả sở hữu của con. Ngài đã ban tặng cho con, giờ đây con xin hiến tặng hết cho Ngài để Ngài tùy nghi sử dụng. Chỉ xin ban cho con tình yêu và ân sủng như thế là đủ cho con rồi và con không còn mong muốn điều chi khác nữa."
55. Minh họa Lời Chúa
CHÚA DƯỠNG NUÔI HỒN XÁC LOÀI NGƯỜI
1. Thống kê của cơ quan lương thực
Thống kê của cơ quan lương thực Liên Hiệp quốc cho biết:
“Mỗi ngày có khoảng 400 triệu người đi ngủ với bụng đói, và 15 ngàn người chết vì đói khát.”
Thế giới văn minh với khoa học kỹ thuật tân tiến này vẫn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải đang nằm trong tay 20% người giàu có.
Thế giới nghèo đói không phải vì thiếu tài nguyên, nhưng vì tài nguyên bị cất giấu trong túi những người ích kỷ, những kẻ tham lam!...
***
Tin mừng hôm nay nói đến cả 5000 người đàn ông, không kể đàn bà trẻ em chẳng có gì ăn. Nếu không có 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em nhỏ, làm sao Chúa nhân thêm đủ nuôi sống họ mà còn dư? Phải chăng em nhỏ này có lòng rộng lượng hơn người lớn. Một tâm hồn đơn sơ không nghĩ riêng mình, chẳng ích kỷ tham lam, hy sinh đóng góp cho Chúa vào việc nuôi sống con người, mặc dầu chỉ đóng góp một phần nhỏ nhoi thôi.
“Chúng con hãy lo cho họ ăn”. Đó là mệnh lệnh của Chúa Giêsu đã truyền cho các tông đồ, và cũng là mệnh lệnh của Chúa cho mỗi Kitô hữu chúng ta. Chúng ta phải hoàn thành trách nhiệm, không thể chạy trốn, không thể phủi tay đổ trách nhiệm cho người khác. Phải biết đóng góp những gì mình có với Chúa, để Người nhân lên thêm nuôi sống đồng bào đồng loại.
Thánh Gioan hôm nay mô tả phép lạ của Chúa Giêsu giống như việc Người thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc ly: “Người cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn…” Bí tích Thánh thể được gọi là “Bữa tiệc bẻ bánh, là bữa tiệc chia sẽ tình thương”. Chúa Giêsu thông ban tình thương của Người cho chúng ta, để chúng ta bẻ chia cho anh chị em, nhất là những anh chị em nghèo đói tình thương, nghèo đói cơm bánh xung quanh chúng ta. (Theo “Lẽ sống”, 2).
2. Vương quốc của ta đã suy đồi
Một vị vua đang cai trị vương quốc của mình. Một hôm vua rảnh rỗi nên nói với các quan cận thần:
- Hôm nay ta rảnh rỗi, ta muốn thử lòng dân xem họ quảng đại hay ích kỷ thế nào. Ta sẽ cải trang thành người ăn mày nghèo khổ đi khắp nơi. Ai có lòng quảng đại, ta sẽ thưởng bội hậu.
Thế là nhà vua cải trang đi khắp nơi, nhưng không ai chú ý trợ giúp. Buồn bã trở về cung điện, nhà vua tâm sự với các quan:
- Vương quốc ta đã đến lúc suy đồi, vì thần dân đối xử với nhau tệ bạc quá, không biết thương yêu giúp đỡ nhau. Ai có tiền thì trọng vọng, kẻ không tiền bị khinh rẻ bỏ bê!...
***
Nếu Chúa Giêsu đến thăm viếng chúng ta trong dung mạo một người bần cùng nghèo khổ, chúng ta có tiếp đón Người không?
Là môn đệ Chúa, chúng ta biết rõ Lời Người đã mạc khải cho chúng ta; Người đồng hóa với anh chị em nghèo đói đau khổ xung quanh chúng ta: “Ta đói, các con đã cho ăn. Ta khát, các con đã cho uống… Bấy giờ các người công chính thưa: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống… Ta bảo thật các con, mỗi lần các con làm như thế cho một trong những an hem bé nhỏ nhất của Ta là các con đã làm cho chính Ta” (Mt.25,35-40).
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều nhờ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé, để cho dân chúng đói khát ăn no. Đó là dấu chỉ người cần nhờ chúng ta cộng tác với Người, để đem lại niềm an vui hạnh phúc cho anh chị em chúng ta, nhất là những anh chị em nghèo đói bất hạnh. Người không đòi hỏi chúng ta phải làm những công việc to lớn, nhưng chỉ những điều nhỏ bé đơn sơ, như 5 chiếc bánh và 2 con cá, như một nụ cười, một lời thông cảm, một miếng khi đói… (Theo “Ánh sáng thế gian”).
3. Bánh và cá
Trong tác phẩm “Những vùng đang phát triển”, tác giả Jay Kesler kể:
Đêm nọ ông từ máy bay đang bước xuống một phi trường ở Ấn độ. Ông thấy nhiều người nằm ngủ dọc theo đường bay, hỏi ra ông mới biết họ là những người vô gia cư. Đi được một lúc, ông nghe sau lưng có tiếng động. Quay lại, ông thấy một chú bé cụt chân đang đi tới với hai cái nạng. Nó chìa tay ra trước mặt. Ông liên cho nó số tiền lẻ còn trong túi rồi đi đến khách sạn. Đi khoảng mười bước, ông lại nghe có tiếng động kỳ lạ khác. Ông quay nhìn lại thì thấy một đám trẻ ăn mày khác đang đánh thằng bé lúc nãy bằng những chiếc nạng của nó. Chúng bắt thằng bé phải giao số tiền xin được cho chúng… Và suốt đêm đó ông không sao ngủ được vì thảm cảnh đó!
Nhưng rồi một ngày nọ có một người nữ trung niên đến với đám trẻ nghèo khổ hung dữ đó. Bà dồn hết tiền bạc của bà thuê một căn nhà cũ để dạy dỗ chúng. Và hiện nay bà đã có 80 trường trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện chăm sóc kẻ hấp hối, 30 viện chăm sóc trẻ bị bỏ rơi và 40.000 tình nguyện viên giúp đỡ bà lo cho người nghèo đói bệnh tật trên khắp thế giới. Người nữ đó không ai khác hơn là mẹ Têrêsa Calcutta.
***
Tin mừng hôm nay thuật lại một chú bé dâng cho Chúa Giêsu 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá, để Người thực hiện việc Người muốn làm: cả 5000 người ăn no nê mà còn dư 12 thúng bánh vụn.
Đấy cũng là điều Mẹ Têrêsa đã làm. Bà giao cho Chúa “bánh và cá” của bà, để Người nhân lên gấp bội.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại mình và tự vấn: chúng ta đã đặt vào tay Chúa được gì? Bao nhiêu? Để Người nhân lên giúp đỡ anh chị em nghèo đói bất hạnh xung quanh chúng ta. Chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi năng lực của mình như mẹ Têrêsa, như người đàn ông trong bài đọc thứ nhất và như em bé trong Tin mừng hôm nay chưa?
Chúa Giêsu luôn cần đôi tay, đôi chân, môi miệng chúng ta. Người cần nhờ đôi chân chúng ta để đến với những kẻ nghèo đói bệnh tật, Người cần đôi tay chúng ta để trao ban cho họ: Người cần nhờ môi miệng chúng ta để nói cho họ biết tình thương vô cùng của Người. (Theo “Sunday Homilies”).
4. Nhà truyền giáo ăn mày
“Hàng giám mục chúng tôi không xấu hổ khi phải ngửa tay xin anh chị em giúp đỡ cho công cuộc truyền giáo. Đức Giêsu, Thầy của chúng ta đã từng mượn thuyền của ông Simon để ngồi giảng, mượn con lừa ở Bếtphagê để vào thành Giêrusalem, căn nhà của bà Maria để làm phòng Tiệc ly. Và cuối cùng đã được an táng trong ngôi mộ của một người bạn” (Đức Giáo hoàng Phaolô VI).
Kế hoạch hành khất để phát triển công tác truyền giáo tại Năm Căn đang sôi sục trong tim. Mình nghĩ ngay đến một ông giám đốc ở đầu đường P. Sáng nay mình đi thẳng tới đó. Trước mắt mình là một tòa nhà nhiều tầng, ông giám đốc đang đứng nói chuyện với ai đó ở một góc sân. Ông cao lớn và lực lưỡng. Cả con người của ông toát ra uy quyền và giàu sang. Mình không quen ông, nhưng biết rất nhiều về ông, qua bạn bè của ông. Mình đon đả đón chào:
- Chào ông bảy.
- Cha có chuyện gì thế?
- Con đi truyền giáo ở Năm Căn thiếu thốn về mọi phương diện. Con đến xin ông Bảy giúp đỡ.
- Cha muốn tôi giúp cái gì.
Giáo điểm của chúng ta chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm cần có xuồng để di chuyển. vậy ông Bảy giúp chúng con một cái máy Kohler 7.
Ông giám đốc nhún vai một cái theo kiểu Tây phương, rồi đi vào hành lang và biến mất trong tòa nhà đồ sộ. Còn mình thì đứng trơ ra đó. Hụt hẫng!…
***
Thế là nhà truyền giáo lủi thủi về nhà viết thư tâm sự với thầy cũ của mình:
Thầy kính mến,
Hôm nay noi gương Đức Phao lô VI, con hiên ngang chìa tay xin tiền bố thí để làm công tác truyền giáo. Nhưng con bị “nhún vai” một cách tàn nhẫn. Chính vì thế mà con nhớ lời Thầy đã dạy chúng con, khi chúng con còn mài đũng quần trên ghế Chủng viện. Thầy dạy rằng: “Các giáo xứ giàu phải chia tài nguyên cho các giáo xứ nghèo. Nhưng trong thực tế người giàu ít khi nào chịu mở hầu bao. Người giàu luôn luôn từ chối một cách khéo léo rằng; “Sông to thì gió cả”, nghĩa là kẻ giàu thì có trăm công nghìn việc phải làm…
Đúng thế, cái ông giám đốc của tòa nhà đồ sộ kia đang có trăm công nghìn việc phải làm. Việc của ông là những việc lớn. Cái máy Kohler nhỏ mọn của giáo điểm truyền giáo chỉ làm rày chuyện lớn của ông. (Trích “Nhật ký truyền giáo”).
5. Đây là cậu học sinh dễ thương
Một thương gia Mỹ, kể lại:
Lúc nhỏ tôi học rất kém, đội sổ mãi đến khi vào trung học.
Ngày nọ nhân một lớp học nhảy, cô giáo tôi có mời người chị đến tham dự. Vừa bước vào phòng nhảy, cô giáo dẫn người chị đi thẳng đến chỗ tôi, đặt tay trên vai tôi giới thiệu:
- Đây là cậu học sinh có nụ cười dễ thương nhất.
Cô đã không nói: “Đây là cậu học sinh dở nhất lớp…”, mà cô lại bảo: “Đây là cậu học sinh có nụ cười dễ thương nhất”. Lời đó đã biến đổi hoàn toàn cuộc sống của tôi. Từ đó tôi đạt được nhiều thành tích khả quan: tốt nghiệp cao học, làm giáo sư, và nay đang phát đạt trong lãnh vực kinh doanh. Tất cả đều nhờ cô giáo đó. Cô cho tôi biết tôi là người có giá trị, tôi cũng có thể trao ban cho người khác cái gì đó, chẳng hạn một nụ cười dễ thương…
***
Trong cái nhìn đức tin, mỗi người sinh ra trên cõi đời này là một giá trị độc nhất vô nhị. Vì mỗi người là hình ảnh Thiên Chúa. Giàu sang, nghèo hèn, thông minh hay đần độn cũng bình đẳng trong phẩm giá con người. Và giá trị đích thực của con người không hệ tại những gì họ có mà ở những gì họ trao ban. Chân lý này đã được Chúa Giêsu minh chứng trong toàn bộ cuộc sống của Người, mà cao điểm là cái chết của Người trên khổ giá vì phần rỗi nhân loại.
Đặc biệt Người đã trao ban lương thực cho những kẻ theo Người trong Tin mừng hôm nay. Và lương thực nuôi phần xác này tiên báo lương thực thiêng liêng Người sẽ trao ban, đó là Người lấy Thịt Máu Thánh Người làm của ăn nuôi linh hồn con cái Người.
Câu chuyện của cậu học sinh trên đây còn minh họa tuyệt vời cho phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều. Nhờ một lời khen đơn sơ mà cậu học sinh dở nhất lớp đã thành tài. Nhờ 5 chiếc bánh và 2 con cá mà Chúa cho cả mấy ngàn người ăn no nê và còn dư. Như thế, nhờ một trao ban nhỏ bé, Chúa nhân lên gấp bội.
Hiểu được như thế, chúng ta mới thấy: dù nghèo hèn đến đâu, ai cũng có cái gì đó để trao ban. Và với ơn Chúa, trao ban nhỏ bé của chúng ta sẽ có giá trị vô cùng, sẽ nhân lên to lớn, sẽ đem lại niềm an vui hạnh phúc cho đồng loại.
(Theo “Như lòng Chúa khoan dung”).
56. Bánh người nghèo.
Tưởng tượng tại một nơi nào đó trên thế giới, có một nhân vật tài ba có thể làm cho quần chúng dân nghèo hết đói khổ. Nhờ phép mầu của ông mà dân chúng sống an vui ca hát, không còn phải lo cái ăn cái mặc nữa. Chắc chắc nhân vật ấy sẽ được tôn vinh lên tận mây xanh.
Sau khi được Chúa đãi một bữa ăn no nê với những tấm bánh thơm và những con cá ngon vào một buổi chiều muộn trên bãi cỏ xanh ven hồ, dân chúng cũng đã trầm trồ thán phục và nói với nhau một cách rất thành thật rằng: "Ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!".
Đã đành một vị ngôn sứ có thể dùng phép mầu để giúp dân qua cơn túng quẫn như ngôn sứ Êlia đã làm cho một quả phụ, nhưng chỉ trông chờ vào phép màu để được cứu thì là điều Chúa không muốn. Chúa không muốn người dân lệ thuộc vào tài phép của Ngài. Ngài muốn hơn thế nữa. Có thể Chúa sẽ giải thích cho dân chúng rõ ý Ngài như thế này: "Các bạn bảo tôi là ngôn sứ và muốn tôi làm vua. Các bạn muốn lật đổ chính quyền và lên nắm quyền lực. Tôi hiểu. Đất nước ta đang gặp cơn bĩ cực. Bọn ngoại bang đang giày xéo đất nước ta về quân sự và kinh tế. Tôi biết, các bạn nghèo khổ lắm. Nhiều người không có việc làm. Nhiều tầng lớp dân chúng chỉ được chia nhau những mảnh bánh vụn rơi rớt từ bàn ăn người giàu. Nhưng tôi đến không phải để làm thay cho các bạn, cho dù tôi có thể làm cho bánh và cá có nhiều mãi mãi. Tôi đến để mang lại cho các bạn thứ bánh khác, được kêu là "bánh từ trời", tức là bánh tình thương chia sẻ. Ăn thứ bánh này, các bạn sẽ có sức vóc, sẽ tự đứng lên bằng đôi chân của mình. Các bạn sẽ đoàn kết lại và cùng nhau giải quyết các vấn đề đói nghèo trong xã hội".
Chúa không muốn mình là một người phát chẩn, một nhà từ thiện. Nên Chúa đã lánh lên núi. Là ngôn sứ, Chúa cảnh giác với cạm bẫy của vinh quang và quyền lực mà dân chúng đang muốn khoác cho Ngài. Chúa chỉ muốn dành cho dân chúng những chiếc bánh tình thương chia sẻ và những con cá của tự do và giải thoát. Thánh Gioan đã nhắc chúng ta điều đó khi ông thuật lại bối cảnh thời gian của phép lạ: "Lúc ấy sắp gần đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái". Người Do Thái mừng đại lễ Vượt qua để kỷ niệm cuộc xuất hành đi tìm tự do, kỷ niệm sự giải thoát của dân tộc họ.
Những cử chỉ của Đức Giêsu: "Cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn và phân phát cho những người ngồi đó" nhắc chúng ta đến bí tích tạ ơn, bí tích Thánh Thể, trong đó Chúa phân phát thân mình Ngài cho mọi người.
Biểu tượng 12 thúng đầy nhắc chúng ta đến mười hai chi họ Israel và nhắc chúng ta nhớ rằng ân huệ của Chúa luôn luôn tràn đầy dư dật cho dân tộc Israel mới là các Kitô hữu, những người theo Chúa. Chính trong mười hai thúng đầy ơn điển này, chúng ta nhận được tình thương không bao giờ cạn. Nhất là khi chúng ta đến gần bàn thờ dự tiệc Thánh Thể.
57. Suy niệm của Lm. Thu Băng.
Chủ đề: Chỉ cần chúng ta trao cho Chúa phần nhỏ nhoi của mình, Ngài sẽ biến phần ít ỏi ấy thành bội phần vượt quá những kỳ vọng lớn lao nhất của chúng ta.
Ai cũng biết Martin Porre là đứa con rơi của một người nô lệ da đen, sống cái kiếp sống bần dân trong xã hội, nhưng cậu có một tâm hồn rộng mở, ai xin gì cũng cho, ai nhờ vả gì cậu cũng không từ chối. Cậu có một tấm lòng quảng đại đến độ bớt xén số tiền mẹ sai đi mua đồ ăn, để giúp người nghèo khổ. Cậu đã cố gắng học nghề thầy thuốc để có dịp phục vụ đồng loại. Vì hành động quảng đại đó mà Chúa đã làm bao điều trọng đại nơi con người hèn mọn đó.
Đức cha Cassese, một vị thừa sai có tâm hồn rộng mở, đến nỗi đang làm Giám Mục Sàigòn (1957), nhân một dịp đi thăm và tiếp xúc với người thượng ở Lâm Đồng, ngài đã quyết định xin Tòa Thánh từ chức Giám Mục, để đi giúp dân nghèo thiểu số không nhà không cửa, giúp những người cùi người hủi trên cao nguyên Di Linh, Đà Lạt. Nhờ việc làm bé nhỏ của Ngài mà Chúa đã làm biết bao sự lạ lùng nơi dân tộc thiểu số.
Ngày nọ, một phụ nữ trung niên Ấn Độ đã có một tâm hồn rộng mở khi đi thăm một khu phố nghèo, sống chui rúc bẩn thỉu. Bà đã nảy ra ý định phải làm một cái gì để giúp họ. Thế rồi bà dành dụm được một số tiền vừa đủ để mua một căn nhà cũ, sửa sang cho khang trang, rồi bà đi khắp các nơi đưa về những trẻ em mồ côi nơi hè phố để dạy dỗ, để nuôi nấng. Nhà không có lấy một cái bàn, cái ghế. Bà đã cho lấy sàn nhà làm bảng viết dạy lũ trẻ. Đây là câu trả lời gây cảm động nhất mà bà có thể thực hiện.
Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà? Ngày nay bà đã có hàng 100 trường học trang bị đầy đủ. 300 nhà phát thuộc lưu động, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện săn sóc cho người hấp hối, 30 viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000 người trên thế giới tình nguyện theo chí hướng và giúp đỡ bà. Người thiếu nữ đó không ai khác ngoài Mẹ Terêsa Calcuta.
Một điều lạ nữa ngay trước mắt mà chúng ta nhận thấy: Một Linh Mục gầy ốm, khẳng khiu, Ngài có một tâm hồn rộng mở, Ngài đã nghĩ đến cách lập Dòng bản quốc để giúp họ nên thánh. Nhờ ý nghĩ nhỏ nhoi đó, mà Chúa đã làm cho phần ít đó nên đầy dẫy những người có chí hướng nên thánh. Đó là Cha Quorum Primus, người sáng lập nên Hội Dòng Đồng Công của chúng ta.
Và không có câu chuyện nào hay hơn để làm sáng tỏ chủ điểm của bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm hôm nay. Ta hãy suy gẫm bài Tim Mừng ấy: Một cậu bé nọ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, người ta đã yêu cầu cậu đem đến cho Chúa để Ngài thiết đãi dân chúng. Cậu liền trao bánh và cá cho Chúa để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Cuối cùng Ngài đã thiết đãi hơn 5000 người ăn no nê và còn dư được 12 thúng đầy.
Đấy cũng là điều Mẹ Têrêsa đã làm. Mẹ trao phó cho Chúa "công việc nhỏ mọn của Mẹ ", để Ngài thực hiện kế tiếp. Ngài đã nhân chúng lên gấp bội vượt quá ước mơ của Mẹ. Câu chuyện của thánh Martin, của Cha Bề Trên sáng lập Dòng Đồng Công, hay của người đàn ông trong bài đọc thứ nhất hôm nay, cũng như câu chuyện Phúc Âm, đều nêu lên cùng một chủ điểm giống nhau: Nếu một mình đối đầu với những thách đố khó khăn, và lo sợ, trước viễn cảnh tương lai, thì thật là rùng rợn. Nhưng nếu: "Đặt cả cuộc đời mình vào trong tay Chúa Giêsu thì Ngài sẽ tiếp nhận, và sẽ chúc lành cho nó, sẽ biến đổi cuộc đời chúng ta nên tốt đẹp hơn, vượt mọi kỳ vọng lớn lao nhất của chúng ta".
Bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình, và tự vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa bao nhiêu phần trăm: Cuộc sống và khả năng của chúng ta, để Ngài sử dụng theo thánh ý Ngài?
Nói rộng hơn, chúng ta đã dâng hiến chính mình và mọi năng lực của mình, như Mẹ Têrêsa, như thánh Martin, như Cha Bề Trên sáng lập, như cậu bé trong bài Phúc Âm hôm nay cho Thiên Chúa chưa?
Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta, "Cha cần khả năng của anh chị em, Cha cần lòng quảng đại của anh chị em. Cha muốn anh chị em hiến cho Cha đôi bàn tay vạm vỡ, đôi chân dẻo dai. Hiến cho Cha môi miệng ngọt ngào, hiến cho Cha trí năng sắc sảo và tâm hồn quảng đại... để Cha thực hiện những điều lớn lao và cần thiết gấp bội, cho thế nhân, cho các linh hồn đang cần đến sự hy sinh và lòng quảng đại của anh chị em".
Tóm lại, trong sứ điệp Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài, để Ngài thực hiện những phép lạ cả thể. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì, - chẳng hạn thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, mọi việc làm, sự hy sinh và nguồn sinh lực của chúng ta - Ngài sẽ sử dụng nó, để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên, vượt khỏi niềm mơ ước của chúng ta, giống như Ngài biến đổi 5 tấm bánh và 2 con cá. Đấy mới chính là lời mời gọi Chúa ngỏ với chúng ta qua bài đọc hôm nay.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời kinh nguyện rất được thánh Ignatio de Loyola yêu chuộng. "Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tất cả tự do, trí nhớ, sự hiểu biết, và toàn bộ ý chí của con. Xin hãy nhận lấy toàn thân con, và tất cả sở hữu của con. Ngài đã ban tặng cho con, giờ đây con xin hiến tặng hết cho Ngài, để Ngài tùy ý sử dụng, như thế là đủ cho con rồi và con không còn mong muốn điều chi khác nữa".
58. Phần đóng góp của tôi
(Suy niệm của Lm. Louis Kim Nguyen)
Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, Đức Giêsu đã làm một phép lạ cho hơn năm ngàn người no thỏa cơn đói của thể lý; hơn nữa, người ta còn thu lại được 12 thúng bánh dư. Phép lạ kỳ diệu ấy đã thực sự xảy ra qua bàn tay quyền năng của Thiên Chúa.
Trước hết là sự ân cần thương yêu, chăm lo cho đoàn dân của Thiên Chúa được thể hiện qua cái nhìn của Đức Giêsu, ở lúc khởi đầu của phép lạ. Thánh sử Gioan viết: “Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với Ngài”. Chính từ cái nhìn đó Đức Giêsu hiểu những nhu cầu cần thiết của họ, Ngài cảm thông với họ và Ngài hiểu rõ họ cần gì, họ muốn gì. Họ đã đi theo Ngài, lắng nghe Ngài. Ngài đã làm họ no thỏa nơi đời sống tinh thần qua những lời giảng dạy. Giờ là lúc Ngài chăm lo cho đời sống thể lý của họ. Chúng ta thấy lòng nhân từ và sự thương xót của Thiên Chúa được thể hiện qua Đức Giêsu thật sâu sắc như thế nào. Đây là lúc chúng ta nhận thức được chân lý Thiên Chúa luôn ưu ái, yêu thương, chăm sóc dân Ngài, từ vật chất lẫn tinh thần.
Có khá nhiều chi tiết thú vị trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Nhưng chúng ta sẽ chỉ dừng lại ở hai hình ảnh: việc Anrê tiến cử một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá, và việc em đã quảng đại trao ban phần mình đang có để Đức Giêsu thực hiện phép lạ vĩ đại ấy. Chúng ta dừng lại để suy nghĩ thêm về sự đóng góp, dâng hiến của mình cho Thiên Chúa để Ngài tiếp tục thực hiện những phép lạ cả thể trong cuộc sống hiện tại.
Đức Giêsu biết chắc các môn đệ không có tiền để mua bánh khoản đãi toàn dân nhưng Ngài vẫn hỏi, một câu hỏi thật tế nhị: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” và với cách đặt vấn đề này, Ngài mời gọi các ông mở lòng để cộng tác với Ngài trong việc thực thi phép lạ. Các môn đệ, cụ thể là Anrê đã tiến cử cho Ngài một em bé với 5 chiếc bánh và 2 con cá. Đức Giêsu đã đón nhận và từ đó, qua tay Ngài, chúng đã làm thỏa mãn cơn đói thể lý của đoàn dân.
5 chiếc bánh và 2 con cá thì chẳng có giá trị gì nhiều, chỉ là khẩu phần ăn cho vài người. Tuy nhiên, chính từ những chất liệu ít ỏi ấy, Đức Giêsu đã làm một việc cả thể cho toàn dân, chỉ tính riêng đàn ông thôi cũng đã là năm ngàn người. Tông đồ Anrê hay chính xác hơn là em bé đã trao cho Ngài những gì họ có. Họ
đã không giữ lại cho riêng mình. Họ đã trao ban mà không một chút hoài nghi Ngài sẽ làm gì. Họ đã trao ban chỉ vì họ tin tưởng nơi Ngài, và họ biết rằng trong tay Ngài chúng sẽ hữu ích cho toàn dân.
Phép lạ đã thực sự xảy ra. Dân chúng đã được no thỏa cơn đói của thể lý và còn thu lượm được 12 thúng bánh dư. Người ta đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, từ bất ngờ này đến bất ngờ kia. Họ bắt đầu nhận ra “…hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian”. Nói cách khác, họ có ý nói hẳn vị này mới làm chúng ta mãn nguyện về những thiếu thốn của đời sống tâm linh và thể lý, chỉ trong Ngài chúng ta mới được an lòng, no thỏa.
Phép lạ vẫn xảy ra trong cuộc sống của chúng ta hôm nay. Với con mắt đức tin, chúng ta có thể nhận ra được điều ấy bởi rõ một điều là Thiên Chúa không ngừng yêu thương nhân loại và vẫn âm thầm thực thi lòng thương xót của Ngài cho nhân loại. Phép lạ vẫn xảy nếu chúng ta biết quảng đại dâng hiến và cộng tác với Ngài trong việc thi ân giáng phúc.
Khi tôi chia sẻ quỹ thời gian của tôi qua việc phục vụ cộng đoàn và tha nhân chung quanh, tôi đang đóng góp phần sức của mình trong việc xây dựng và làm thay đổi cuộc sống sinh hoạt của cộng đoàn mà tôi thuộc về. Chúng chẳng là bao, đôi khi chỉ vài tiếng đồng hồ nhưng vô cùng hữu dụng.
Khi tôi dâng cúng những đồng tiền tiết kiệm hay hy sinh một chút ít lợi tức của riêng mình cho người nghèo; khi tôi làm những nghĩa cử bác ái yêu thương, nâng đỡ, giúp phần an ủi, xoa dịu những nỗi thống khổ của anh em chung quanh, tôi đang như em bé trong bài Tin Mừng, dâng cúng phần bánh ít ỏi của mình để Thiên Chúa làm nên những phép lạ lớn lao. Phần đóng góp, dâng cúng của tôi chẳng nhiều gì, có khi chỉ là một vài trăm bạc nhưng chắn hẳn chúng có giá trị lớn lao trước mặt Thiên Chúa và trong tay Thiên Chúa.
Khi tôi hy sinh thời gian thăm viếng những người đau ốm, những người đang gặp đau khổ, thử thách trong cuộc sống hẳn cũng có giá trị ít nhiều. Qua những lần thăm viếng ấy, tôi chia sẻ đức tin, tôi động viên, tôi khích lệ họ tin tưởng và phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa. Sự hiện diện của tôi là dấu chứng của sự hiệp nhất, của tình huynh đệ và chắc hẳn Thiên Chúa muốn dùng sự hiện diện ấy để chúc lành và nâng đỡ họ trong đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng.
Chúng ta vẫn cầu nguyện hằng ngày và chúng ta vẫn thường xin cho mình được nhiều ơn lành, bình an, mạnh khỏe và hạnh phúc. Chúng ta xin cho mình và chúng ta mong đợi những sự kỳ diệu xảy ra, điều mà chúng ta vẫn hay gọi là phép lạ. Phép lạ vẫn xảy ra nếu chúng ta có lòng tin vào lòng nhân từ hay thương xót của Thiên Chúa, và nếu chúng ta biết cộng tác với Chúa chứ không khoán trắng tất cả mọi sự cho Ngài, không ngồi yên một chỗ đợi chờ phép lạ xảy ra, không áp đặt Ngài chiều theo ý chúng ta.
Nếu chúng ta trao dâng cho Ngài phần đóng góp nhỏ bé của mình. Chúng có thể là thời gian, là nhiệt huyết, là tình yêu, là những hy sinh vật chất, là tài năng, là công sức thì chắc chắn từ đó Ngài sẽ làm nên những điều kỳ diệu vượt quá trí hiểu của chúng ta.
Chúng ta được mời gọi trở nên như Anrê, người đã giới thiệu cho Chúa em bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá, và như em bé đã quảng đại dâng cho Chúa những gì thuộc về em. Chúng ta cũng được mời gọi dâng hiến cho Thiên Chúa thời gian, công sức, của cải vật chất và những gì thuộc về mình để Ngài tiếp tục thi ân lòng nhân từ của mình.
Thiết nghĩ đó là lời mời gọi của Đức Giêsu, của Lời Chúa mà chúng ta nghe trong bài Tin Mừng hôm nay. Vậy hãy xin cho mình ơn quảng đại để đừng tiếc nuối gì với Chúa, để cộng tác với Chúa trong việc thi ân giáng phúc cho mọi người trong xã hội hôm nay, một xã hội vốn có quá nhiều đau khổ, có quá nhiều thiếu thốn và đói khát về tinh thần lẫn thể xác, một xã hội còn có quá nhiều sự thiếu thốn về tình thương và lòng nhân ái. Phần đóng góp của chúng ta chẳng là gì nhưng Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thích tấm lòng hơn hy lễ, chính Ngài sẽ nhận lấy và làm những phép lạ sinh ích cho muôn người.
59. Bánh cho đám đông
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Từ chút đóng góp nhỏ nhoi
Chương 6 của Tin Mừng Gio-an được trích đọc trong mấy Chúa nhật liên tiếp, khởi đầu với trình thuật phép lạ hoá bánh ra nhiều, tiếp đó là những lời giải thích về đề tài Bánh Trường Sinh.
Trong phần sau này, Đức Giêsu tuyên bố rõ ràng: "Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời" (6,51). Lời tuyên bố này là chìa khoá để giải thích phép lạ hôm nay: việc hoá bánh ra nhiều là sự kiện báo trước về bí tích Thánh Thể.
Các môn đệ của Đức Giêsu cũng tham gia vào việc chuẩn bị bữa ăn. Quanh Đức Giêsu, có các ông Phi-líp-phê, An-rê là anh ông Phê-rô, và có lẽ cả các môn đệ khác nữa. Ngoài ra, lẫn trong đám đông, còn một cậu bé có mang theo năm chiếc bánh và hai con cá; ông An-rê đã giới thiệu cậu bé với Đức Giêsu.
Chắc chắn rằng, nếu không có những chiếc bánh và mấy con cá của cậu bé, Đức Giêsu cũng có thể làm phép lạ để nuôi sống đám đông. Thế nhưng, Đức Giêsu muốn cho thấy một khía cạnh đặc biệt: phép lạ luôn là lời đáp trả trước một đề nghị hay một lời mời.
Như thế, Đức Giêsu muốn tôn trọng trật tự của sự việc: việc hoá bánh ra nhiều không xuất phát từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một cậu bé. Ai mong muốn chính mình trở thành phúc lành cho người khác, thì phải đem đến cho Đức Giêsu điều mình có. Người không yêu cầu người ta điều họ không có, nhưng trong đôi tay thánh thiện và nhân ái của Người, điều người ta chia sẻ sẽ trở thành phép lạ, dư tràn và phong phú.
Về phần mình, cậu bé có thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay những người thân quen. Làm như thế, cậu chỉ nuôi sống một vài người, chứ không góp phần làm cho việc hoá nhiều được dễ dàng. Trong hoang địa, một nơi ở xa các làng mạc, thì phần thức ăn dù nhỏ nhoi của cậu cũng là một điều rất quý giá, giúp cậu vượt qua cơn đói. Nhưng cậu đã trao tất cả cho Đức Giêsu, và Người đã dùng quyền năng mà làm cho bánh và cá hoá ra nhiều để nuôi cả đám đông. Không phải chỉ một mình cậu được nuôi sống, mà tất cả mọi người đều được ăn no...
"Có mua đến hai trăm đồng bạc bánh, cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút" (Ga 6,9). Một đồng bạc là tiền công của một ngày làm việc, thế mà có bỏ ra một số rất lớn cũng chẳng đủ chia cho mỗi người... Năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá "với bằng ấy người thì thấm vào đâu!" Như thế, theo cái nhìn con người, tình trạng này quả là bất lực, không thể nào giải quyết nỗi. Điều này làm rõ lên một chủ đề lớn trong Tin Mừng thứ tư: chỉ có Thiên Chúa mới có khả năng nuôi sống một đám đông như vậy. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể đem lại cho mỗi người phần của họ, làm cho họ được no nê, thoả mãn.
Thiên Chúa có thể làm những điều kỳ diệu, lớn lao, nhưng Người lại muốn nhân loại đóng góp phần của mình. Chính từ phần đóng góp ít ỏi ấy, Thiên Chúa lại ban cho họ những hồng ân khác, nhất là sự sống.
Người không muốn làm vua
Những người chứng kiến phép lạ Đức Giêsu đều nhận ra đây là một điều hết sức kỳ diệu. Mọi người đều nhìn nhận Đức Ki-tô có uy quyền của Thiên Chúa: Người đã bày tỏ uy quyền qua việc hoá bánh ra nhiều. Sự kiện này làm cho người ta nhớ ngay đến những kỷ niệm thời xuất hành: ông Mô-sê đã can thiệp và Thiên Chúa đã ban cho dân Do-thái có bánh ăn trong hoang địa. Do đó, dân chúng nghĩ rằng thời gian cứu độ đã đến và Đức Giêsu là "vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian". Họ tính bắt Người để tôn làm vua, nhưng "Người lánh mặt, đi lên núi một mình".
Những kỷ niệm thời Xuất Hành
Người ta có thể so sánh ngôn sứ Ê-li-sê trong bài đọc 1 với Đức Giêsu. Tuy nhiên, những chi tiết trong trình thuật Tin Mừng hôm nay có vẻ gần gũi hơn với những biến cố thời xuất hành. Từ bờ bên này sang bờ bên kia - đi qua Biển Đỏ; xa khỏi làng mạc; - không còn những của ăn của đất Ai-cập; ông Phi-líp-phê bị thử thách - dân Do-thái bị thử thách; Đức Giêsu cho đám đông ăn no - Thiên Chúa nuôi dân bằng man-na.
Xưa kia, dân Do-thái đã trải qua những biến cố này để tiến đến giao ước; đối với các độc giả đã được nghe nói về mầu nhiệm Phục Sinh, thánh Gio-an nhấn mạnh rằng sự kiện này xảy ra ít lâu trước lễ Vượt Qua. Rõ ràng tác giả muốn các độc giả hiểu rằng dấu chỉ của giao ước chính là bí tích Thánh Thể. Như vậy, con người sẽ trở thành hòm bia, thành căn lều để Thiên Chúa cư ngụ.
Ngôn sứ hay vua
Trong hoang địa, dân Do-thái nhìn nhận ông Mô-sê là thủ lãnh của mình. Họ đi theo ông vì họ đã chứng kiến những dấu lạ ông làm. Giờ đây, đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu, vì họ đã thấy Đức Giêsu chữa lành các bệnh nhân và làm nhiều dấu lạ khác. Hôm nay, Đức Giêsu không chỉ chữa lành, Người còn nuôi sống họ. Trước mắt họ, Đức Giêsu là "Vị Ngôn Sứ, là Đấng phải đến thế gian".
Thế nhưng, thay vì tiếp tục đi theo Đức Giêsu trên con đường Người muốn họ đi - con đường đi đến cái chết và sự phục sinh -, đám đông lại muốn thu nhỏ con người thiên sai này, bằng cách đưa Người vào trong cơ chế của họ. Họ muốn tôn Người làm vua.
Biết được điều đó, Đức Giêsu đã lánh đi. Người là Vua, là Vua ngay từ khi mới sinh (x. Mt 2,2), nhưng Vương quyền của Người phát xuất từ thập giá chứ không do ý thích của người phàm. Con đường của Người vẫn còn dài ở phía trước, chứ không phải là kết quả của những việc đã làm, nên Người đã lánh đi, đã từ chối, như trước đây Người đã từ chối với Xa-tan, và sau này, với Phi-la-tô. Mỗi lần một người hay một thể chế muốn nắm lấy Đức Giêsu để phục vụ những chương trình riêng của mình, Người cương quyết khước từ.
Tôn Đức Giêsu lên làm vua, đó là một sự cắt đứt, bởi vì việc hoá bánh ra nhiều là một dự báo về Nước Trời, nhưng là Nước của Thiên Chúa, chứ không phải nước của loài người đang muốn tái lập quyền lực chính trị của mình.
Do đó, Đức Giêsu đã lên núi một mình...
Hãy đóng góp phần của mình
"Một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá".
Cậu bé đó chính là bạn, là chúng ta, là tất cả các Ki-tô hữu. Trước nỗi thống khỗ của biết bao người, chúng ta thường nghĩ rằng tài sản của chúng ta chẳng thấm thía gì, quá ít. Điều đó đúng. Thế nhưng, nếu ta trao tặng tài sản đó, thì như một số vốn, lòng quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại, sự chia sẻ sẽ thúc đẩy sự chia sẻ, tình yêu sẽ khơi dậy tình yêu. Làm như vậy, ta đã đặt nền móng cho Nước Trời.
Đàng khác, bạn thấy đó, trước khi phân phát bánh, Đức Ki-tô đã dâng lời tạ ơn - tiếng hy-lạp là Eucharistia. Người tạ ơn ai, nếu không phải là Chúa Cha, như Người vẫn quen làm. Nhờ lời tạ ơn của Đức Giêsu, năm chiếc bánh và hai con cá trở thành lương thực nuôi sống cả đám đông, lại còn dư mười hai thúng đầy. Nhờ lời tạ ơn của Đức Giêsu, phần đóng góp nhỏ nhoi của cậu bé trở thành nguồn mạch dồi dào.
Như thế, trình thuật Tin Mừng mời gọi chúng ta: hãy chia sẻ tình yêu để chuẩn bị cho Nước Trời là Tình yêu vĩnh cửu; hãy chia sẻ với lời cảm tạ để bánh trần gian được Đức Ki-tô biến đổi thành bánh bởi trời, thành bánh là chính Người, bánh ban sự sống muôn đời.
"Ngày nay, Thiên Chúa đòi chúng ta làm tăng thêm cho chính chúng ta cũng như người khác những tấm bánh đem lại sự sống, những tấm bánh bao trùm mọi hình thức của cuộc sống, những tấm bánh tròn, những tấm bánh dài, cả những tấm bánh có hình dáng lạ kỳ. Theo nghĩa này, chiếc bánh không chỉ là cung cấp năng lượng cần thiết để sống, nhưng còn là những chiếc bánh tràn đầy Thần Khí, tràn đầy niềm vui.
"Cho dù con người thời nay không diễn tả rõ, nhưng chắc chắn, người ta không chỉ cần bánh ăn, mà cả hoa hồng nữa.
"Chúng ta được dựng nên để hưởng hạnh phúc, để được sung mãn, nhưng chúng ta cũng phải biết rằng hạnh phúc luôn ở bên kia hạnh phúc. Hạnh phúc không phải là một mục đích, nhưng là một chân trời để hướng tới. Bạn có muốn đi xa hơn nữa không?..." (theo P.Talec.)
60. Cộng tác
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Có người cho rằng phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh hóa ra nhiều kể lại trong Tin Mừng là chuyện không có thực mà chỉ là tác dụng tâm lý, nghĩa là họ cho rằng: em bé có năm chiếc bánh và hai con cá đã chia phần ăn của mình cho người bên cạnh, và thế là theo gương em bé này, mọi người chia phần ăn của mình cho nhau, nên ai cũng đủ bánh ăn.
Nhưng sự thật không phải như vậy, vì Tin Mừng đã kể lại những chi tiết rất rõ ràng và cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại, đây là một phép lạ thực sự của Chúa Giêsu. Các nhà chú giải Kinh Thánh đã quả quyết: “Phải chối bỏ cả Tin Mừng thì mới có thể loại bỏ khỏi Tin Mừng sự kiện hóa bánh ra nhiều”. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là tìm hiểu phép lạ này có thực hay không mà là tìm hiểu xem Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì khi làm phép lạ này. Có nhiều điều lắm, chúng ta hãy ghi nhận và suy nghĩ hai điều.
Điều thứ nhất Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về lòng thương xót. Trong bối cảnh của phép lạ này, chúng ta thấy có hai thứ thương xót. Các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ và đã thưa với Chúa: “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn”. Đó là thứ thương xót thứ nhất, thứ thương xót nhập đề, lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, vì thế, Chúa muốn các môn đệ bước qua thứ thương xót khởi điểm đó, đem thứ thương xót nhập đề vào thứ thương xót thứ hai, thứ thương xót nhập cuộc: “Anh em hãy cho họ ăn”.
Quả thực, có tấm lòng thương xót người khác là một điều tốt rồi nhưng chưa đủ, có những lời nói thương xót người khác cũng là một điều tốt rồi nhưng cũng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, cần phải có hành động thương xót thực sự nữa. Chúa Giêsu đã thể hiện như thế và Ngài dạy chúng ta hãy sống như thế. Cũng vậy, có lòng trắc ẩn hay những lời nói an ủi, khích lệ, cảm thông là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là biết chia sẻ, biết san sẻ giúp đỡ. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì trong tầm tay, trong khả năng của mình, phần còn lại chúng ta sẽ được Chúa tiếp tay thực hiện. Điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra những người khác cũng là con Thiên Chúa, cũng là anh em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết động lòng trắc ẩn trước những đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi hơn.
Điều thứ hai Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta qua phép lạ hóa bánh này là sự cộng tác. Trước hết, chúng ta phải xác nhận chắc chắn rằng: nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng người ăn no nê, thoải mái. Cũng vậy, không cần có sự cộng tác của các môn đệ trong việc đi tìm bánh, Chúa Giêsu vẫn có thể làm được phép lạ dễ dàng. Nói tóm lại, một mình Chúa có thể làm được mọi sự, không cần ai cộng tác, không cần vật liệu nào cả, với quyền năng vô biên, Chúa chỉ cần phán một lời là tức khắc có ngay, tức khắc có dư thừa bánh cho mọi người ăn. Nhưng ở đây Chúa muốn cho mọi người thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một em bé. Em có thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay cho những người thân quen. Làm như thế thì chỉ một mình em hay một vài người được ăn, nhưng em đã trao tất cả cho Chúa và Ngài đã dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Như vậy, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm phép lạ.
Cũng vậy, Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh, nên Chúa bảo các ông: “Anh em hãy cho họ ăn”, nên chúng ta thấy khi các môn đệ tìm được năm chiếc bánh và hai con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết: cần có sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa đối với chúng ta, nghĩa là bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng kiên nhẫn, bằng hy sinh, không phải chỉ trong đời thường thôi, nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”.
Trong cuộc sống, chúng ta hãy cộng tác với nhau và nhất là cộng tác với ơn Chúa để hoàn thành trách nhiệm đời mình và cùng nhau xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
61. Ngôn Sứ Vĩ Đại
(Suy niệm của Như Hạ, OP)
Sau bao nhiêu thập niên chờ đợi, cuối cùng mọi người đã thấy tất cả sự thật về bí mật Fatima. Đức Mẹ đã đóng vai ngôn sứ của thế kỷ 20. Mẹ đã đóng vai ngôn sứ tuyệt vời vì Mẹ đã học nơi Đức Giêsu Con Mẹ khi còn sống trên trần gian. Lời Mẹ vang vọng cả một nguồn mạc khải đã được Đức Giêsu truyền đạt cho nhân loại. Kitô hữu vui sướng lắng nghe. Cũng như Mẹ, họ mong trở thành ngôn sứ cho thời đại.
NHẬN DIỆN VỊ NGÔN SỨ
Sau khi chứng kiến "dấu lạ Đức Giêsu làm", dân chúng kháo láo: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!" (Ga 6:14). Dấu lạ đó chính là một hành vi bác ái phát xuất từ một quả tim biết động lòng trắc ẩn trước những nhu cầu quần chúng. Người là một vị ngôn sứ đến thế gian, không phải để "cứu rỗi các linh hồn" mà thôi. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa không làm những dấu lạ thiêng liêng, nhưng toàn là "những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm" (Ga 6:3) và cho hàng ngàn người "no nê" cá và bánh. Dĩ nhiên Chúa không dừng lại ở các dấu lạ đó, nhưng hướng tới một mục đích cao hơn. Không dừng lại không có nghĩa là không quan trọng. Trái lại, thân xác giữ một vai trò tất yếu. Nếu không có thân xác không thể đọc ý nghĩa dấu lạ. Nếu không cần thân xác, Chúa đã không mất nhiều thời giờ đi đây đó tìm kiếm những người đau ốm và đói khát. Cứ để hết thời giờ vào việc suy tư cầu nguyện có lẽ sẽ cứu rỗi nhiều linh hồn hơn. Nhưng có lẽ sẽ chỉ làm vui tai mấy nhà trí thức kinh viện mà thôi.
Đức Giêsu không xuống trần gian để cứu rỗi các linh hồn. Đúng hơn, Người đến cứu con người toàn diện. Thứ tự không phải đi từ trên xuống dưới, nhưng từ thấp lên cao. Thực tế, có thực mới vực được đạo. Nếu bỏ tất cả những dấu lạ trong Tin Mừng, chắc chắn Đức Giêsu không thể qui tụ nhiều người và tạo được một thế đứng lớn lao trong lịch sử cứu độ như thế. Dân chúng đã đánh giá Đức Giêsu như "vị ngôn sứ" chỉ vì đã thấy được hành vi bác ái rất cụ thể của Người. Như vậy, đức ái có tính ngôn sứ. Thánh Gioan khẳng quyết: "Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau yếu." (Ga 6:3)
Người làm được những dấu lạ đó không phải từ hư vô, nhưng từ những chiếc bánh và con cá có sẵn. Những cái có sẵn đó chỉ là một số lượng ít ỏi. Nhưng đó là sự đóng góp của con người. Rất cần thiết. Rất quan trọng. Nhưng phần cần thiết, quan trọng và chính yếu hơn chính là Thiên Chúa. Bởi thế, sau khi các môn đệ gom được "năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá" (Ga 6:9) từ chiếc giỏ của một em bé, "Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn" (Ga 6:11) Thiên Chúa Cha. Nhờ đó thần lực đã hoạt động mãnh liệt và cấp thời, biến số lượng bánh và cá nhỏ nhoi đó thành những thúng bánh khổng lồ nuôi sống muôn dân giữa cơn đói khát. Thật là ngoài sức tưởng tượng của các môn đệ và dân chúng. Trong cái tính toán bình thường, trước một đám đông dân chúng, các ông chỉ có thể suy nghĩ: "Có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút," (Ga 6:7) hay "ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!" (Ga 6:9) Đúng là tính toán của con người! Nhưng Thiên Chúa có những tính toán khác hẳn. Người không bị lệ thuộc bất cứ hoàn cảnh nào, vì Người toàn năng. Tin chắc như thế, nên "Đức Giêsu nói: 'Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi'." (Ga 6:9) Việc gì phải đến đã đến. Người đã làm được tất cả những gì Người muốn.
Từ một nhu cầu tầm thường vật chất, Người đã có thể hướng người ta về một điểm cao hơn. Tự lòng đầy khâm phục Chúa, dân chúng đã phải thốt lên: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!" (Ga 6:15) Thấy Đức Giêsu tài tình như thế, họ tìm cách "tôn làm vua." (Ga 6:15) Tôn làm vua không phải vì Người, nhưng vì chính tương lai của họ. Mặc dầu đầu óc còn trần tục khi muốn tôn phong Đức Giêsu làm vua, nhưng ít nhất dân chúng cũng thấy nơi Người dấu chỉ về lòng Chúa xót thương. Chỉ cần được hướng dẫn một chút, tâm trí họ có thể bay cao hơn để nhận ra Người chính là "Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!" (Mt 21:9) Nếu Người được tôn làm vua, còn đâu vai trò ngôn sứ?! Bởi thế, Người đã "lánh mặt, đi lên núi một mình" (Ga 6:15) để trọn vẹn sống ơn gọi làm ngôn sứ. Ngôn sứ đã ở một vị trí thật đẹp: trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Một vị trí như thế không thể lệ thuộc vào bất cứ cơ chế hay vinh hoa trần gian nào. Có thế, ngôn sứ mới có thể nhân danh Thiên Chúa (Đnl 18:22) nói với những người đang sống bám vào cơ cấu. Chính vì thế thân phận ngôn sứ luôn bị cơ chế bách hại. Cuộc đời Đức Giêsu chứng minh tất cả sự thật về thân phận ngôn sứ.
CHIỀU KÍCH NGÔN SỨ
Đức Giêsu đã không làm dấu lạ một mình. Chung quanh Người có các môn đệ, những người trực tiếp góp phần vào việc tạo thành dấu lạ đó. Cảnh tượng dân chúng ồn ào vì hành trình mệt mỏi khiến Thày trò xốn xang. Các môn đệ lo ra mặt khi Thày đề nghị: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?" (Ga 6:5) Ông Philipphê đi xục xạo khắp nơi để tìm bánh và cá cho Thày. Cuối cùng các ông cũng tìm được với niềm thất vọng trước nhu cầu lớn lao của quần chúng. "Chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!" (Ga 6:9) Tất cả chỉ có thế. Đó lại là phần đóng góp của "một em bé."(Ga 6:9) Em bé đã sẵn sàng dâng cho Chúa, mặc dầu cũng đang đói khát như mọi người xung quanh. Không ai từ chối đóng góp vào việc tạo dấu lạ cho muôn dân nhận ra Đức Kitô là Ngôn sứ. Dĩ nhiên Chúa chẳng cần đến chất liệu cũng như con người để tạo nên những dấu lạ đó, vì Người là Đấng Toàn Năng. Nhưng Người muốn cho mọi người cùng tham gia vào công cuộc cứu độ. Người muốn mọi người "đều là ngôn sứ." (Ds 11:27)
Nếu đức bác ái mang tính ngôn sứ, thì không ai có thể từ chối trở thành ngôn sứ. Mỗi hành vi bác ái, dù nhỏ bé nhất, đều là một dấu lạ, là một phương tiện cần thiết để "sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban."(Ep 4:1) Nếu không sống bác ái, dù có mọi nhân đức khác, chúng ta không thể hiệp nhất với Thiên Chúa, vì "chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người." (Ep 4:5-6) Chính trong sự hiệp nhất với Chúa Kitô và với anh em, chúng ta sẽ làm được những dấu lạ mang tính ngôn sứ, và làm cho mọi người nghe được tiếng nói Thiên Chúa. Có hiệp nhất mới có hi vọng. Bởi thế, thánh Phaolô khuyên: "Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau. Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hi vọng." (Ep 4:3-4) Thần Khí là Đấng "đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy." (Kinh Tin Kính) Người cũng đang tiếp tục phán dạy muôn dân qua những hành vi hiệp nhất đầy tính ngôn sứ của các Kitô hữu.
Sức mạnh hiệp nhất các Kitô hữu chính là Thánh Thể, tấm bánh bẻ ra cho muôn dân. Thánh Thể chính là dấu lạ Chúa đã thiết lập để duy trì và phát triển cộng đoàn Kitô hữu. Chỉ có Kitô hữu mới nhìn ra ý nghĩa và hình bóng dấu lạ này nơi dấu lạ hóa bánh. Nếu dấu lạ hóa bánh đã qui tụ được dân chúng, chắc chắn Thánh Thể còn hiệp nhất được muôn dân hơn nữa, vì nơi Thánh Thể, sức mạnh Thiên Chúa đang hoạt động để thực hiện giao ước đối với nhân loại. Nơi đây cũng thể hiện sự hiệp nhất với đầu là Đức Kitô và với tất cả những ai là chi thể của Người (Fink 1990:439). Nhờ đó Thiên Chúa được hoàn toàn vinh quang và con người được nên thánh. Dấu lạ tìm kiếm dấu lạ. Dấu lạ Thánh Thể đang kêu mời những dấu lạ tình yêu nơi các Kitô hữu. Bạn có muốn trở thành dấu lạ giữa muôn dân như Thánh Thể đang ở giữa chúng ta không?
62. Suy niệm của Giuse Đỗ Huy Hoàng, OP
CHÚA LÀM PHÉP LẠ HOÁ BÁNH RA NHIỀU ĐỂ NUÔI DÂN ĐÓI KHỔ
Trình thuật tin mừng theo thánh Gioan, kể lại việc Chúa làm dấu lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Khởi đầu, tác giả miêu tả toàn cảnh trên bãi biển miền Ga-li-lê-a. Ở đó có rất đông dân chúng từ các làng mạc và các vùng phụ cận đi theo Đức Giêsu và nghe Người giảng dạy. Trong khi nghe Chúa nói, họ không cảm thấy mệt mỏi và đói khát, họ không nghĩ đến việc thiếu lương thực và không thể mua khi chung quanh không có làng mạc.
Với tấm lòng của người mục tử nhân lành, Người đã quan tâm đến nhu cầu vật chất của những người đang nghe Người giảng đây, bởi Người đã từng trải qua cái đói khi ở trong hoang địa, cái khát bên bờ giếng. Người muốn cho họ ăn. Vì thế, Người quay lại hỏi ông Phi-líp-phê: “chúng ta có thể mua bánh ở đâu cho họ ăn đây?” (Ga 6,5) Điều Ngài muốn các môn đệ cùng chia sẻ nỗi bận tâm và ưu tư của Ngài.
Có lẽ, đây là bài toán khó đối với các môn đệ, trong khi họ ở cách xa làng mạc. Qua đó, giúp các ông nhận ra giới của con người như cách ông Phi-líp-phê trả lời Đức Giêsu: “thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6,7).
Ngay lúc con người bất lực là lúc Thiên Chúa tỏ lộ quyền năng của Người. Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, người đã nuôi sống hơn 5000 người. Qua dấu lạ này, Người muốn nhắn giử thông điệp tình yêu đến mỗi người chúng ta, và ẩn sâu trong đó, Chúa mời gọi con người cùng cộng tác, cùng cho đi, cùng chia sẻ những gì mình đang có.
Lạy Chúa Giêsu thánh thể, ngày hôm nay, chúng con đang sống trong thế giới mà con người không chỉ đói khát lương thực nhưng còn đói khát tinh thần. Cái đói đã làm cho bao người đánh mất chính mình, vì thế họ đã bán rẻ lương tâm để có cái ăn, cái mặc.
Họ quay quắt với cái đói ăn, đói thuốc men để chữa bệnh, đói nước sạch để dùng và đói cả một bầu khí trong lành để nghỉ ngơi. Tất cả đều diễn ra trước mắt con, con đã làm ngơ và coi như không thấy. Con đã khoanh tay, khi gặp một người anh em vấp ngã bên đường cần con nâng đỡ, và con đã …
Chúa đã cho chúng con thấy tấm lòng quảng đại của Người. Nhưng đôi khi chúng con trách Người tại sao đã tạo ra nghèo khổ, và có lẽ chúng con nên tự trách mình, bởi bất công đang nằm ngay nơi lòng mình, vì thế, xã hội còn nhiều người nghèo đói, bất công… do chúng con không dám chia sẻ những của cải dư thừa. Con biết, Người không cần chúng con chia sẻ cho mọi người những gì vượt quá khả năng, nhưng chỉ những gì chúng con có. Và có thể thế giới này sẽ khác, nếu chúng con dám chạy đến chia sẻ cho người anh em những gì chúng con có?
Lạy Chúa! xin cho con nhận thức rằng, khi con có thực phẩm để ăn, có quần áo để mặc, có một mái nhà để che đầu và một nơi nghỉ qua đêm là con đã giàu có hơn 75% thế giới.
Khi con có dư thừa vật chất, của cải để chia sẻ với mọi người là con thuộc 8% những người giàu nhất thế giới.
Khi con chưa phải trải qua nguy hiểm của chiến tranh, cô đơn của tù tội hay vật vã của đói khát là con hạnh phúc hơn 500 triệu người trên thế giới.[1]
Và lạy Chúa, xin cho con nhận thức được tất cả những gì chúng con có là do hồng ân Chúa thương ban, chứ không phải do tài năng và công trạng của mình. Vì vậy, chúng con phải mau mắn chia sẻ với mọi người để thế giới bớt nghèo đói và đau khổ. Amen.
63. Mua đâu ra bánh cho những người này ăn
(Suy niệm của Noel Quesson)
Một toán du khách đi thăm dấu vết của trại Đa-sô (Dachau), một trại giam nổi tiếng của phát xít Đức thời Hitler. Người hướng dẫn khách du lịch hôm đó là một cựu tù nhân của Đa-sô xưa, ông đã bị nhốt lâu năm và may mắn thoát chết. Hôm đó là Chúa nhật, nhiều toán khách du lịch đến thăm di tích lịch sử này. Khắp nơi vương vãi những rác rưởi lẫn với đồ ăn thức uống. Gặp một mẩu bánh mì nằm bên lề đường, người hướng dẫn toán du lịch nhào tới lượm lên, ông nói giọng run run: “Một mẩu bánh mì! Tôi không thể chịu được khi thấy một mẩu bánh mì bị bỏ phí. Mấy năm thoi thóp trong tù, đối với tôi mẩu bánh mì đồng nghĩa với sự sống. Nó là ranh giới giữa sống và chết”.
Trong các bản năng Chúa trao ban cho con người, có lẽ bản năng sinh tồn là tha thiết nhất. Bất cứ ai đã có lần bị xâu xé trong cơn đói thì sẽ ghi nhớ suốt đời. Chắc Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm trong bốn mươi ngày đêm ăn chay nơi sa mạc, nên người rất cảm thương những người bị đói. Đám dân lũ lượt đi theo Chúa vào sa mạc, có những người vì tin tưởng muốn nghe lời Chúa, nhưng cũng có người chỉ vì tò mò, vui chân theo bạn bè, họ cứ đi mà không nghĩ đến ăn uống. Giờ này, Chúa biết họ đói bụng, và Chúa nghĩ phải kiếm gì cho họ ăn. Và có lẽ qua niềm cảm thông với tình cảnh đói khát của con người như vậy, Chúa đã nghĩ tới việc lập Bí Tích Thánh Thể. Qua Bí Tích này, Chúa ở lại gần gũi với nhân loại hơn. Đồng thời cũng là để thỏa mãn phần nào sự đói khát tâm linh của tín hữu. Từ lương thực no đủ cho thân xác, con người nghĩ về Chúa như một nhu cầu thiết yếu của linh hồn mình. Chúa đã mở rộng cõi lòng và cái nhìn của ta để ta dễ tiếp nhận mầu nhiệm Thánh Thể bằng một phép lạ vĩ đại: Bánh hóa nhiều. Chúa làm cho 5 ổ bánh hóa nhiều để nuôi 5 ngàn người, cốt cho chúng ta nhớ tới Chúa là bánh thật, bánh trường sinh, là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta. Sự đói khát Chúa khó cảm thấy, nhưng cũng gây mệt mỏi cho con người như đói cơm bánh vậy.
Tại sao Chúa phải hỏi Philipphê về việc mua bánh? Ngài có thể phán một lời là có ngay nhiều bánh nhiều cá. Tuy nhiên Chúa muốn thực hiện một phép lạ với sự cộng tác của Tông đồ và thiện chí của một em bé. Đó cũng là một qui luật tự nhiên mà Chúa hằng tôn trọng: do lòng tin mà có phép lạ. Chúng ta còn nhớ phép lạ trong tiệc cưới Cana. Chúa có thể từ không mà làm ra rượu, nhưng Chúa đã đợi người ta đổ nước lã đầy các chum. Những người giúp việc đang mệt mỏi mà phải đi múc nước từ giếng sâu, cũng là một cố gắng, có thể nói được là một hành động biểu lộ đức tin.
Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban lời Chúa và Thánh Thể làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng con. Xin giúp chúng con hiểu và tin những mầu nhiệm Chúa muốn mạc khải cho chúng con. Chúng con xin tạ ơn Ngài.
64. Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Truyền thống Tin Mừng rõ ràng đã gán một tầm quan trọng đặc biệt cho phép lạ hóa bánh ra nhiều, bởi vì đây là phép lạ duy nhất được cả bốn Tin Mừng ghi lại. Đàng khác, bài tường thuật về biến cố này chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong mỗi Tin Mừng: có thể nói bài này là một đỉnh cao trong chương trình của Đức Giêsu nhằm bày tỏ quyền năng thiên sai của Người và cũng là khoảnh khắc các thính giả phải quyết định tin vào Người. Riêng trong TM IV, chương 6 là một tổng hợp sứ vụ của Đức Giêsu tại Galilê, là một trong những mạc khải sâu sắc nhất về Đức Giêsu và cho thấy cách rõ nét nhất chọn lựa đức tin mà con người phải thực hiện là như thế nào.
Tuy nhiên, nhìn vào chi tiết, ta thấy bản văn TM Ga khác với các bản văn TMNL ở nhiều điểm. Điểm khác biệt đầu tiên và chính yếu nằm nơi cách giải thích câu truyện (xem bài diễn từ của Ga 6, từ c. 26). Sự cố xảy ra được TM IV xác định bằng những chi tiết chính xác hơn: “bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria” (c. 1); “có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm” (c. 2; x. 2,23: tương đương với Mc 6,31-33; Mt 14,13-14 và 15,30-31); đám đông không có đức tin chân thật (sau 2,23 cũng như về cuối truyện ch. 6); khái niệm “dấu lạ” (c. 14) để gọi “phép lạ” đặc biệt của TM IV, với ý nghĩa là “đặc tính hiện tượng bên ngoài cần vượt quá để nắm được ý nghĩa đích thực” (dân chúng chỉ quan tâm tới chuyện lạ lùng thôi: x. cc. 14-15.26).
“Sách các Dấu lạ” của TM Ga là từ ch. 2 đến hết ch. 12. Chương nói về “Bánh trường sinh” (6,1-71) nằm trong phân đoạn có bố cục sau đây:
Các công việc, các dấu lạ và các cuộc tranh luận của Đức Giêsu (dịp các đại lễ Do Thái) (5,1–10,42)
B (5,1-47): Công việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, chữa người nằm liệt (vào một ngày sa-bát)
C (6,1-71): Dấu lạ nuôi năm ngàn người ăn no do bánh hằng sống (trước lễ Vượt Qua)
D (7,1–8,59): Đức Giêsu, nguồn nước hằng sống và ánh sáng cho trần gian (dịp lễ Lều)
D’(9,1-41): Hành vi ban khả năng nhìn cho một người mù bởi ánh sáng của trần gian (vào một ngày sa-bát)
C’ (10,1-21): Các dụ ngôn về đàn chiên, cửa, việc trao ban mạng sống và người mục tử nhân lành
B’(10,22-42): Các công việc và chân tính của Đức Giêsu, Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (dịp lễ Cung hiến).
Có thể xác định bố cục tổng quát của chương 6 theo một lược đồ đồng tâm như sau:
a) cc. 1-15: Cảnh với các môn đệ, được nhắc đích danh
b) cc. 16-21: Cảnh với Đức Giêsu và các môn đệ
c) cc. 22-59: Diễn từ của Đức Giêsu
b’) cc. 60-65: Cảnh với Đức Giêsu và các môn đệ
a’) cc. 66-71: Cảnh với các môn đệ, được nhắc đích danh
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh (6,1-4);
2) Dấu lạ bánh hóa nhiều (6,5-13);
3) Phản ứng của dân chúng và của Đức Giêsu (6,14-15).
3.- Vài điểm chú giải
- Đức Giêsu lên núi (3.15): Quả núi này không có trên bản đồ, nhưng được dùng thường xuyên trong Kinh Thánh và các Tin Mừng (x. Mc 9,2; Mt 5,1; 15,29; 28,16) như là khung cảnh cho một mạc khải.
- và ngồi đó (3): Đây là tư thế của người cai trị và giảng dạy.
- quan tiền (6): Một quan tiền là lương của một ngày làm công.
- thu lại (12): Đây không phải chỉ là “nhặt lại” (như trong Mc 6,43 và các bản văn song song) mà là “quy tụ” (synagein) các miếng vụn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh (1-4)
Các chi tiết tác giả cung cấp khiến ta có cảm tưởng đây là một bài tường thuật chính xác. Tuy nhiên, chúng ta sẽ gặp nhiều yếu tố gợi tới một quá khứ, hoặc mang tính biểu tượng: giống như Môsê, có một đám đông đi theo Đức Giêsu; đám đông đi theo Người vì cùng lý do như dân Israel khi họ theo Môsê: những dấu lạ lớn lao Người đã làm; Đức Giêsu lên núi và ngồi xuống, tương tự Môsê lên núi để dạy dỗ dân chúng. Ngoài ra, chi tiết “lễ Vượt Qua” vừa kín đáo gợi đến cái chết của Đức Giêsu (là lúc Đức Giêsu ban mình Người làm bánh đích thực ban sự sống), vừa gợi lại việc Môsê đưa con cái Israel ra khỏi Ai Cập và phép lạ man-na. Điều này không phải là gán ghép, vì tác giả TM IV thích tháp các mạc khải của Đức Giêsu vào trong khung các đại lễ như Vượt Qua, Lều, Cung hiến. Đức Giêsu vừa hoàn tất vừa vượt quá tất cả những gì các đại lễ của Israel nhắm tới và loan báo. Người là Môsê mới sẽ dẫn đưa dân Người trong một cuộc xuất hành mối để đi từ kiếp nô lệ sang tự do.
* Dấu lạ bánh hóa nhiều (5-13)
Trong các TMNL, chính các tông đồ lưu ý Đức Giêsu rằng đám đông không có gì ăn cả. Còn ở đây sáng kiến lại phát xuất từ Đức Giêsu: “Người đã biết mình sắp làm gì rồi” (c. 6). Trong các TMNL, các tông đồ chỉ được nhắc đến như một nhóm; ở đây, ta có Philípphê, rồi Anrê. Đức Giêsu hỏi Philípphê một câu đơn giản: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6,5). Rồi trong một lời bình luận riêng (c. 6), tác giả TM IV giải thích rằng Đức Giêsu hỏi vậy không phải là ngẫu nhiên. Câu hỏi được nêu ra là để thử (peirazô) Philípphê về đức tin của ông, còn Người thì Người biết Người sắp làm gì. Động từ này khiến ta nhớ tới biến cố Xuất Hành, trong đó Thiên Chúa “thử” dân Ngài: Rõ ràng tác giả giải thích truyền thống Đức Giêsu nuôi đám đông dưới ánh sáng của truyền thống Kinh Thánh nói về Đức Chúa (Yhwh) ban man-na cho dân Ngài ăn trong thời Xuất Hành (x. Ga 6,25-40). Sách Đnl giải thích các biến cố Xuất Hành vừa như là dấu chỉ vừa như là những thử thách (x. Đnl 4,34; 7,19; 29,2; so sánh với 8,16; 13,4; x. Xh 16,4; 15,25; 20,20). Theo cùng một cách như thế, tác giả tuy rõ ràng thấy việc nuôi đám đông là một dấu chỉ (sêmeion, Ga 6,26.30), ở đây lại công bố rằng việc này cũng là một thử thách.
Mẩu đối thoại với Philípphê cho thấy thật rõ là con người không có khả năng hiểu được và giải quyết được vấn đề. Riêng Đức Giêsu thì đang làm chủ tình thế (như ở các dịp khác: 10,18; 11,6-15; 13,1; 18,4; 19,28). Nếu câu hỏi được đặt ra cho Philípphê thì chắc là vì các sự việc đã xảy ra như thế. Còn nếu Philípphê và Anrê được nhắc tới đích danh ở đây hẳn là vì các ông là người Bétxaiđa, tức thuộc vùng Biển Hồ, nơi Đức Giêsu đang hiện diện, nên các ông biết rõ là vào lúc này, khó mong tìm được lương thực ở vùng này.
Sự can thiệp của Anrê cũng nhắm cho thấy rằng hoàn cảnh này không có lối thoát về phương diện con người; như vậy, ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa. Ngoài ra, có nhiều chi tiết nhắc lại Cựu Ước: từ ngữ “em bé” (paidarion) và cụm từ “năm chiếc bánh lúa mạch” đưa ta trở về với 2 V 4,42-44: Êlisa hóa bánh ra nhiều; “cá nhỏ” (opsaria) nhắc đến Ds 11,22: nêu bật sự yếu đuối của loài người và quyền năng của Thiên Chúa.
Trong các TMNL, các môn đệ phân phát bánh và cá; ở đây, chính Đức Giêsu phân phát (c. 11). Đây là cách tác giả TM IV tập trung chú ý vào Đức Giêsu. So sánh với các TMNL, chúng ta thấy rõ điểm này. Trong khi các TMNL quan tâm đến Nước Thiên Chúa và lời rao giảng của Thầy chí thánh, TM IV lại chủ yếu nhắm đến “con người” Đức Giêsu, và điều này đã xuất hiện ngay ở những dòng đầu tiên của TM: tác giả chỉ nói qua về phép rửa, nhưng nói rõ Đức Giêsu là ai (Ga 1,29-34); nhân tiện nói đến các môn đệ đầu tiên, thì nói cho biết Đức Giêsu là ai và Người có thể cống hiến điều gì (1,35-51); và khi nói về các điều kiện để trở thành môn đệ, thì ngài nêu bật tình yêu đối với Đức Kitô (phải đi tìm Đức Kitô, phải khao khát Người).
Có nhiều chi tiết khiến bài tường thuật có một màu sắc Thánh Thể. Trước tiên, cử chỉ Đức Giêsu cầm lấy bánh và phân phát (c. 11) dường như gợi nhắc đến bữa tối cuối cùng. Quả thật tác giả TM IV không kể lại việc thiết lập Bí tíchThánh Thể, nhưng cả ngài lẫn nguồn của ngài không thể không biết đến biến cố này. Động từ “phân phát” (diadidonai) có thể đã được vay mượn từ nghi thức Thánh Thể. Công thức “tạ ơn” (eucharistein: c. 11) cũng thế. Cuối cùng, cc. 12-13 có chứa hai yếu tố độc đáo là động từ “thu lại” (synagein) và danh từ “các miếng thừa” (klasmata) thuộc về nghi thức Thánh Thể và ta thấy có trong sách Điđakhê (9,4). Còn công thức “kẻo phí đi” (c. 12b) khiến ta nghĩ tới sự cẩn thận của Hội Thánh khi thu lại các mẩu Mình thánh Chúa.
Khi dùng động từ “thu lại” theo nghĩa “quy tụ” (khác với Mc 6,43 và các bản song song dùng động từ “nhặt lại”), hẳn tác giả TM IV muốn nhắc đến Bí tíchThánh Thể có mục đích tưởng niệm cái chết của Đức Giêsu “để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,52).
Ở đây chúng ta thấy TM IV muốn gợi lại phép lạ man-na trong sa mạc cho đoàn dân bước đi dưới sự lãnh đạo của Môsê. Nhưng Đức Giêsu không chỉ là Môsê tái hiện, Người là Môsê chân chính cao trọng hơn Môsê ngày xưa. Trong sa mạc, người ta chỉ có thể lượm được lượng man-na cần thiết (Xh 16,4.16-18). Ở đây, lượng bánh được ban dồi dào: thu lại được mười hai thúng cũng dồi dào như lượng rượu tại Cana, nhằm chứng tỏ Đức Giêsu là đích điểm của nỗi niềm chờ mong của Israel. Mười hai là con số hoàn hảo: phép lạ bánh nuôi no nê đám đông, có thể làm no thỏa các thế hệ sẽ đến.
Phép lạ bánh này còn nhắc nhớ đến việc Êlisa cho một đám đông ăn no, vì ở hai nơi đều có các bánh lúa mạch, em bé trai, vấn nạn về số lương thực quá ít so với nhu cầu, sự no nê lạ lùng. Như thế là sự nối tiếp từ Cựu Ước sang Tân Ước, từ Êlisa sang Đức Giêsu, như từ hành trình đến đích điểm.
* Phản ứng của dân chúng và của Đức Giêsu (14-15)
Người Do Thái vẫn chờ đợi là vào thời đại thiên sai, phép lạ man-na được tái diễn. Do đó, khi Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều, đám đông cho rằng Người “là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian” (c. 14; x. Đnl 18,15; Ga 1,21). Họ muốn “tôn Người làm vua”, nhưng Đức Giêsu “lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (c. 15). Chi tiết này hoàn toàn có thể mang tính lịch sử. Tại Paléttina vào thời ấy, do niềm hy vọng vào Đấng Mêsia, thường xuyên xảy ra những cuộc nổi loạn về chính trị, những cuộc bạo loạn thường xuyên bị người Rôma đàn áp tàn bạo. Đức Giêsu muốn tránh thứ hiểu lầm này.
Tuy nhiên, tác giả TM IV ghi lại sự cố này không chỉ vì quan tâm đến lịch sử, nhưng còn muốn nêu bật tính phù phiếm của lòng nhiệt thành của đám đông. Lẽ ra bánh vật chất phải giúp họ hiểu Đức Kitô là ai. Họ không thấy phép lạ là một “dấu chỉ” chứng thực Đức Giêsu là Đấng Mêsia chân chính, nhưng là một xác nhận định kiến sai lầm của họ về Đấng Mêsia. Họ chỉ quan tâm đến bánh, chứ không quan tâm đến Đấng Mêsia ban bánh. Họ đã “đọc” dấu chỉ theo lược đồ riêng của họ, nên không nắm được ý nghĩa đích thật của dấu chỉ. Do đó, Đức Giêsu lánh mặt. Người muốn cho dân chúng hiểu rằng tư cách Mêsia của Người thuộc về một bình diện khác. Tuy nhiên, vị Thiên Chúa đi trốn sự chờ đợi của loài người đó lại có mặt ngay để giải thoát các môn đệ khỏi sợ hãi (x. 6,12.21).
+ Kết luận
Dấu chỉ giới thiệu Đấng Mêsia không phải chỉ có phép lạ hóa bánh ra nhiều, nhưng là toàn bộ các sự kiện: phép lạ, niềm hứng khởi của đám đông và việc Đức Giêsu đi trốn. Muốn hiểu Đức Giêsu là ai, phải hiểu được sự tương phản giữa ý nghĩa của việc hóa bánh ra nhiều theo cách hiểu của đám đông và ý nghĩa theo cách hiểu của Đức Giêsu. Ngoài ra, chúng ta phải hiểu mục tiêu Đức Giêsu nhắm khi làm “dấu lạ” này: tấm bánh thuộc về một người phải trở thành lương thực cho tất cả mọi người. Chúng ta chỉ có thể có một thế giới mới, khi người ta từ khước tính ích kỷ, và chấp nhận đề nghị của Đức Giêsu là chia sẻ của cải của mình cho những người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Con số những người theo Đức Giêsu đạt tới đỉnh cao với việc làm cho bánh hóa nhiều: khoảng năm ngàn người đàn ông. Nhưng sau Bài giảng về bánh ban sự sống từ trời xuống, chỉ còn lại Nhóm Mười Hai (Ga 6,67). Chính Đức Giêsu hướng dẫn một tiến trình làm sáng tỏ. Người khẳng định rõ ràng những gì Người phải làm, chứ không làm một vài chuyện thỏa hiệp tùy theo sự chờ đợi của dân chúng. Tiêu chuẩn Người nhắm không phải là con số các kẻ đi theo Người, nhưng là sứ mạng đã được Chúa Cha giao phó. Nếu chúng ta đặt nơi Người những chờ đợi sai lầm, chúng ta sẽ thất vọng về Người. Nếu ngược lại, chúng ta lắng nghe Người và đón nhận các ân huệ Người ban, Người sẽ đưa chúng ta đến sự sống viên mãn.
2. Mọi sự bắt đầu nơi Đức Giêsu. Không ai yêu cầu Người cung cấp lương thực cho đám đông ấy. Trong thời gian hoạt động công khai, Đức Giêsu luôn cho người ta thấy như vậy: Người tự mình mà đến, không cần lệnh hoặc lời cầu xin, theo trách nhiệm Chúa Cha giao. Người hành động theo sáng kiến riêng, phù hợp với ý muốn của Chúa Cha. Người quyết định cho đám đông ăn; Người truyền lệnh và các môn đệ mời dân chúng ngồi xuống. Bánh thì chưa có, thế mà người ta đã phải ngồi xuống, có thứ tự và gần nhau, để được phục vụ, như trong một bữa tiệc. Kế đó Đức Giêsu đã cư xử như một người cha gia đình khi bắt đầu bữa ăn: cầm lấy bánh, đọc lời kinh chúc tụng, tạ ơn, rồi phân phát bánh. Từ số tài nguyên nghèo nàn, Người cho đám đông ăn no nê. Sau đó, Người ra lệnh cho các môn đệ thu gom các mẩu thừa. Mỗi việc đều được Người bố trí và quyết định và đều diễn tả sứ mạng của Người.
3. Đức Giêsu đã chứng tỏ khả năng giúp đỡ của Người là một khả năng không giới hạn: không chỉ có thể phục vụ các cá nhân hay các nhóm nhỏ, mà còn có thể đáp ứng nhu cầu của một một đoàn người rất đông. Không một trở ngại nào có thể giới hạn quyền lực của Người. Phần Người, Người có thể quy tụ tất cả mọi người lại quanh Người và cho mọi người được no thỏa; Người không loại trừ một ai, Người có đủ cho mọi người. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra cho loài người là: họ có biết trân trọng và muốn chấp nhận những gì Người sẵn sàng ban cho không?
4. Đám đông đã muốn tôn Đức Giêsu làm vua. Bởi vì Người đã xử sự một cách uy quyền và tự khả năng riêng, Người không chấp nhận để cho người ta áp đặt cho Người một vai trò trong đó họ có thể trục lợi theo ý riêng của họ. Các việc quyền lực Người thực hiện càng to lớn, các hiểu lầm của dân chúng càng trầm trọng. Đức Giêsu tránh khỏi đám đông. Trong Bài giảng về bánh hằng sống, Người sẽ giải thích dấu lạ bánh hóa nhiều. Rõ ràng chúng ta không được quy định cho Người điều Người phải ban cho chúng ta. Chúng ta không được cư xử y như thể chúng ta biết rõ hơn Người điều gì tốt cho chúng ta. Đứng trước Đức Giêsu, Đấng uy quyền và tốt lành đến thế, chúng ta chỉ có thể bày tỏ hai thái độ, là cởi mở và tin tưởng.
65. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.
HÓA BÁNH RA NHIỀU
Tương quan với sách Nhất Lãm
Bài trần thuật này là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng thuật lại. Rất có thể Gioan có trước mắt một truyền khẩu rất cổ xưa, song song với truyền khẩu của các sách Nhất Lãm, đặc biệt với các phần sau đây: hoá bánh ra nhiều, đi qua biển hồ, ông Phêrô tuyên xưng đưc tin (x. Mc 8). Tuy nhiên Gioan vẫn ghi dấu ấn riêng của mình.
Dẫn nhập (cc. 1-4)
Bài trần thuật được dẫn nhập bởi một công thức mập mờ “chung chung”, quen thuộc với Gioan: “sau đó” (từ gặp công thức này trong 3,22; 5,1.14; 6,1; 7,1; 19,38; 21,1). Chúa Giêsu, các môn đệ, dân chúng (“đông đảo dân chúng”, dụng ngữ bất thường nơi Gioan), ngọn lửa bên kia Biển Hồ, thời điểm lễ Vượt Qua: các nhân vật, hoàn cảnh, địa điểm và thời gian được xác định ngay từ đầu. Đồng thời chủ đề “đi theo Chúa Giêsu” cũng được dẫn nhập vào; chủ đề này sẽ được lặp đi lặp lại trong suốt chương này. Việc sắp đến lễ Vượt Qua, việc xác định địa điểm ở trên núi, việc nhắc lại các dấu lạ (chữa lành những kẻ đau ốm), tất cả đều tạo cho các độc giả thân quen một sự gần gũi (ngày càng sẽ trở nên rõ ràng hơn) với biến cố Xuất hành và với ông Môsê.
Dấu lạ (cc. 5-13)
Ngay từ đầu, bài trần thuật tập trung vào Chúa Giêsu. Người là nhân vật điều hành mọi sự: Người nhìn thấy đám đông, hỏi ông Philipphê khi biết rõ mình sắp làm gì. Người ra lệnh cho ngồi xuống. Chính Người cũng khởi đầu việc phân phát bánh. Luôn luôn được sự thông hiểu của mình hướng dẫn, “Người biết họ sắp tôn mình làm vua” (c. 15), nên lánh mặt đi lên núi một mình.
Có hai ẩn ý liên quan đến Kinh Thánh: trước hết liên tưởng đến Elisê (2V 4,42-44), hoá bánh lúa mạch ra nhiều đến nỗi “ăn xong hãy còn dư như lời Chúa phán”, nhất là so chiếu với manna mà Thiên Chúa ban cho dân Người theo số lượng quy định. Khác hẳn với thời kỳ Xuất hành, ở đây không có định lượng (còn lại được mười hai thúng bánh), mà có sự kỳ diệu (cỏ tươi xanh tốt nhắc đến những đồng cỏ xanh tươi của Tv 23,1-2 nơi mục tử thời Mêsia sẽ chăn dắt đoàn chiên của mình. Thời kỳ Xuất hành, mà người Do Thái mong đợi cho thời cuối cùng, được lặp lại; vị ngôn sứ đang ở kia và dân chúng muốn tôn Người làm vua.
Chúng ta cũng nên thêm rằng, trong khi được biến cố Xuất hành làm sáng tỏ, bài trần thuật này thường khiến ta nghĩ đến bí tích Thánh Thể: từ ngữ này là thứ từ ngữ mà các Kitô hữu thuộc cộng đoàn của Gioan có thói quen nghe được qua việc cử hành Thánh Thể, “Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn” (c. 11). Đúng là Gioan không sử dụng công thức truyền thống mà ta gặp thấy trong các sách Nhất Lãm và quả thiếu dụng ngữ (“Người bẻ bánh ra”). Tuy nhiên nơi thánh Giuttinô ta cũng bắt gặp chính công thức đó và cũng thấy thiếu dụng ngữ đó. Cũng giống như vào buổi chiều bữa tiệc ly, chính Chúa Giêsu phân phát bánh (chứ không phải các môn đệ như trong các bản văn Nhất Lãm). “Đừng để gì phải phí đi” (c. 12): ghi chú này bộc lộ nỗi niềm lo lắng vượt quá thời kỳ lịch sử của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu trao ban dư dật (2,6) hầu cho Giáo Hội hưởng nhận ân huệ của Người. Chúa Giêsu đến “để mọi người được sống và sống dồi dào” (10,10). Cần phải có đầy đủ ân huệ cho mọi thế hệ Kitô giáo.
Bài trần thuật kết thúc bằng một sự hiểu lầm. Qua dấu lạ, Chúa Giêsu đã bày tỏ điều gì đó về căn tính của mình và về sự ăn rễ sâu của mình trong lịch sử thánh: Là ngôn sứ, Người cũng là Đấng Mêsia (4, 19.26). Gioan là người duy nhất trong các thánh sử thuật lại cho chúng ta phản ứng của dân chúng trước dấu lạ. Dân chúng đồng hoá Chúa Giêsu với vị ngôn sứ mà ông Môsê loan báo trong Đnl 18,15: “Ngay trong dân tộc mình, giữa đồng bào ngươi, Chúa sẽ gây dựng cho ngươi một tiên tri như ta: người phải theo người”. Tuy nhiên người Do Thái vào thời của Chúa Giêsu lại không thống nhất về vai trò chính xác của vị ngôn sứ này. Bởi vậy cho nên Chúa Giêsu trốn đi, vì lẽ Người không phải là vị ngôn sứ như dân chúng cầu mong trong sự đợi trông một Đấng Mêsia trần thế.
Từ bài trần thuật đầu tiên này, chúng ta ghi nhận có ba thời kỳ khác biệt được khéo léo đan xen vào nhau: thời kỳ Xuất hành lúc bắt đầu cuộc thăng trầm của Israel, cuộc gặp gỡ lịch sử với Chúa Giêsu tạo nên tiến trình của bài trần thuật và thời kỳ của Giáo Hội. Điều đó muốn nói lên rằng qua ba cảnh huống lịch sử khác nhau này, tồn tại một câu hỏi căn bản: làm cách nào để tin vào Thiên Chúa trong sa mạc (bánh manna)? Qua việc nhập thể (Chúa Giêsu)? Trong Giáo Hội (Thánh Thể)?
Mục tiêu của Chúa Giêsu trong Gioan nhằm tỏ lòng thương xót dân chúng thiếu thốn lương thực ít hơn là tỏ lộ căn tính đích thực của Người; thực hiện điều này, Gioan đặt để các môn đệ ra sau để tập trung toàn bộ bài trần thuật vào nhân cách đầy uy quyền của Chúa Giêsu, đưa dẫn đến mọi biến cố và giải thích chúng. Bài trần thuật kết thúc bằng một thất bại, thế nhưng phần tiếp theo cố gắng làm cho sự mặc khải được thành công bằng cách đào sâu biểu tượng bánh đã hiện rõ trong dấu lạ. Như vậy ta sẽ hiểu rằng Đấng ban bánh, chính Người là bánh trao ban cho mọi người.
66. Chú giải của Noel Quesson.
Trong suốt 5 Chúa nhật mùa hạ, chúng ta gián đoạn việc đọc Tin Mừng theo Thánh Maccô, để đọc chúng 6 nổi tiếng của Thánh Gioan. Đó là trình thuật về Bánh Hằng Sống: Bắt đầu bằng “sự hóa bánh ra nhiều" và tiếp tục bằng "bài giảng về Bánh hằng sống”. Gioan cho chúng ta một suy niệm về Bí tích Thánh Thể và về đức tin do chính Đức Giêsu diễn giải.
Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia biển hồ Galilê cũng gọi là biển hồ Tibêria. Có đông đảo dân chúng theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm và chữa lành kẻ đau ốm.
Đoạn cuối của câu chuyện này (Ga 6,66) cho chúng ta thấy rõ đám đông đang ham muốn xem phép lạ, là một đám đông "không tin": Họ từ chối theo Đức Giêsu trong đức tin.
Ngày nay chúng ta cũng vẫn thích "những sự lạ" như đám đông ở Galilê. Những phép lạ của Đục Giêsu, có thể trở thành một cái bẫy, một con đường sai lạc đối với đức tin chân chính. Lạy Chúa, xin giúp chúng con theo Chúa đến cùng, ngay trong đời thường và trong những cái tầm thường, không có gì lạ lùng qua cuộc sống hằng ngày. Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được "ý nghĩa" thâm sâu những phép lạ của Chúa, vượt trên những ấn tượng trước mắt.
Lúc ấy sắp đến lễ Vượt qua là đại lễ của người Do Thái.
Ở đây ám chỉ đến công cuộc vượt qua của Chúa đã tới gần, cũng như lời chúc lành trên bánh mà lát nữa Chúa sẽ dùng ("Eucharistèsas" trong tiếng Hy Lạp) đã mang “ý nghĩa" mà Thánh Gioan muốn nói lên trong việc hóa bánh ra nhiều: Hiển nhiên Người nghĩ đến Bí tích Thánh Thể. Khi viết trình thuật này, Thánh Gioan đã cử hành Bí tích Thánh Thể, lễ Vượt qua của Kitô hữu, từ 40 hay 50 năm rồi nghĩa là từ khi Đức Giêsu đã sống Bữa tiệc Ly như một bữa ăn vượt qua.
Ngước mắt lên Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?" Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết là mình sắp làm gì rồi.
Thiên Chúa là tình yêu, Đức Giêsu giới thiệu Thiên Chúa cho chúng ta biết. Ngài thấy nhu cầu của nhân loại.
Phép lạ Người sẽ thực hiện là một nghĩa cử yêu thương. Việc trao ban Thánh Thể là một tác động yêu thương. Chúng ta hãy nghe câu hỏi của Người. Câu hỏi này luôn mang tính thời sự. Vâng, lạy Chúa, Chúa yêu cầu chúng con hãy nhìn xem con người đang đói khát, với những nhu cầu tự nhiên nhất. Chúa nói: "Hãy cho họ có cái ăn"... cho ăn, đơn giản thế thôi! Còn chúng ta, lại thường nghĩ tưởng đến một Thiên Chúa xa xôi trên các tầng mây. Chính Chúa đã đem chúng con trở về với cuộc sống "thường nhật" với lương thực hằng ngày. Đó là chúng ta phải khiêm tốn phục vụ.
Ông Philípphê đáp: "Dạ có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút". Một trong các môn đệ là ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, thưa với Người: "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu!".
Trước những vấn đề lớn của nhân loại: "đói khát", “hòa bình", "công lý", chúng ta thường trả lời: "Chúng ta có thể làm gì được? Việc này quá sức chúng ta". Quả thật, một mình tôi không thể giải quyết toàn bộ vấn đề. Nhưng có vì thế mà tôi được miễn khỏi phải làm một việc nhỏ cần thiết để giải quyết vấn đề không? Tôi có được miễn khỏi phải tiếp tay với các nhóm, các hiệp hội đã hoạt động để giải quyết các vấn đề trên không?
Dù sao đi nữa, điều đáng chú ý là vào ngày hôm ấy, Đức Giêsu đã không muốn làm một hành vi sáng tạo "từ không mà có" (Người cũng có thể làm thế được lắm chứ!). Người đã dùng những thức ăn do loài người chế biến. Điều này nhắc chúng ta rằng: Thông thường Thiên Chúa không thay thế chúng ta. Vả lại còn một điều kiện cần thiết khác nữa cho việc hóa bánh ra nhiều là cậu bé đó chấp thuận cho những gì cậu đã có thể dành riêng cho cậu từ khi cậu lên đường.
Qua những chi tiết đó, ngày nay Thiên Chúa của Đức Kitô cũng kêu gọi chúng ta. Con người thường kết tội Chúa, vì để hai phần ba nhân loại phải đói khát. Chúa trao trách nhiệm đó cho chúng ta. Bình thường Thiên Chúa không thay thế cho tạo vật. Chúng ta đang thuộc về thế giới phương Tây, nơi những siêu thị đầy ắp thức ăn. Và chúng ta tiếp tục dự trữ, thu góp rồi than phiền. Chúng ta tiếp tục đòi hỏi không cùng để thêm tiện nghi, gia tăng lợi tức, lợi nhuận. Chúng ta từ chối giảm bậc lương để bớt tài sản những người giàu và tăng tài sản cho những người kém may mắn. Chúng ta có thể tán rộng trình thuật Tin Mừng này: "Thuở xưa có một cậu bé có năm chiếc bánh và hai con cá, trong khi đó 5.000 người đã không có gì ăn. Cậu ta giữ cho mình năm ổ bánh đó và đi xa khỏi đám đông để ăn bánh đó một mình, một cách vụng trộm.
Điều tệ hại là chúng ta không ăn cách vụng trộm. Ngày nay, những người bị đói trên thế giới biết chúng ta không bao giờ bị đói.
Đức Giêsu nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi". Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoản năm ngàn. Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá, Người cũng phân phát như vậy ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý.
Theo sự khôn ngoan tự nhiên, ông An rê nói: “Với bằng ấy thì thấm vào đâu?". Trước lý trí con người, Chúa vẫn đòi hỏi thái độ vượt lên của đức tin: Đó là thái độ mạo hiểm cao đẹp, mãnh liệt tin cậy đối với một người khác. Người "tín hữu” trở thành người cộng tác với Chúa, trong những hành động vượt xa phương tiện của con người.
Đức Giêsu đã "tạ ơn" (Euchanstèsas). Người đang ở trong âm vực của đức tin, trong tương quan mật thiết với Chúa Cha. Đó là cảm tưởng của Người trong lúc đó. Diễn từ “Bánh hằng sống" tiếp theo, sẽ cho thấy Người đã nghĩ đến mầu nhiệm vô biên của bữa ăn vượt qua mà một ngày kia Người sẽ trao ban cho loài người qua mọi thời đại. Đức Giêsu không coi thường "cơn đói của thể xác" nhưng Người nghĩ đến "cơn đói Thiên Chúa" mà dưới cái nhìn của Người, còn trầm trọng hơn.
Khi họ đã ăn no nê rồi, Người bảo các môn đệ: Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi".
Đây không phải là một chi tiết phụ. Sự dư thừa này đã từng xảy ra ở tiệc cưới Cana: Đức Giêsu đã hóa ra nhiều. Hóa "bánh" và "rượu” ra nhiều? Quả thật, Đức Giêsu đã nhìn xa hơn đám đông những người Galilê hay những thực khách ở tiệc cưới Cana. Bánh và rượu của Thiên Chúa dành cho mọi người. Nhưng ai là người thực sự đói và khát? Người ta thu lại những miếng thừa. Tôi tưởng tượng những giỏ đầy (12 giỏ). Ai đã có thể có mặt ở đó để ăn những giỏ bánh này, và ai đã không có ở đấy?
Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian".
Con người ở mọi thời đại vẫn mong chờ một người “được Chúa sai đến", chờ một "giải pháp lạ lùng" có thể miễn trách nhiệm cho họ. Trong thâm tâm, chúng ta vẫn còn tư tưởng của những người thời sơ khai, hy vọng rằng những "công thức ma thuật" sẽ giải quyết khó khăn của chúng ta. Người ta không còn thi hành những nghi lễ hủ tục nhưng lại là nạn nhân của nhưng khẩu hiệu, những lời hứa điên rồ những ý thức hệ mang tính ma thuật của “tiến bộ", của "ngày mai vui tưới". Chúng ta hãy đổi cơ cấu và tất cả sẽ được giải quyết Những nhà ma thuật nói như vậy Chúa thì bảo: "Hãy thay đổi lòng dạ các ngươi ". Lúc bấy giờ những sự thay đổi cơ cấu sẽ là một cái gì khác hơn là một sự thay đổi chế độ nô lệ.
Nhưng, Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm Vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Cơn cám dỗ "chính trị" của những người đồng thời với Chúa không có gì là không hợp thời. Nó không phải là một hiện tượng thuộc quá khứ. Biết đến bao giờ chúng ta mới hết những cơn sốt mong đợi Đấng Mêsia giả? Bao giờ chúng mới hiểu rằng, Chúa đã luôn luôn từ chối không để cho người ta "đóng khung" Người trong những quan điểm trần thế? Không phải vì những việc trần thế không có giá trị, nhưng người ta không thể giảm thiểu con người trong chiều kích đó. Chúa vẫn không ngừng kêu lên, như triết gia Diogène, rằng: "Các người sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu chỉ là những con heo được ăn no bụng". Cái đói cơ bản của con người không phải là đói lương thực. Các bạn đừng bỏ bê công việc trần thế, hay những quyết định chính trị, xã hội, kinh tế mà các bạn phải thể hiện. Nhưng xin làm ăn đừng quên rằng phẩm giá cao quý nhất của con người là khả năng kỳ diệu mở rộng lòng hướng tới siêu việt hướng đến Thiên Chúa. Chúa nói: Xin làm ơn cho Ta đóng vai của Ta, vai trò mà chỉ có Ta mới đóng được để “giúp các con", để xóa cơn đói cho các con. Chúa khước từ kế đồ "giải phóng" chính trị mà không người đương thời với Chúa đã muốn lôi kéo Chúa vào. Bên bờ vinh quang và thành công, "Người lui vào thanh vắng một mình", Người nghĩ về vai trò khác mà Người sẽ phải làm tròn. Sáng mai cũng với đám đông này, Người sẽ cố gắng giúp cho họ hiểu "Người là ai", là Bánh ban sự sống đích thực. Nhưng ai "đói Thiên Chúa"? Chương VI của Thánh Gioan sẽ kết thúc với nỗi cô đơn bi thiết của Chúa trước nhóm Mười Hai (Ga 6,66-71).
67. Chú giải của William Barclay.
BÁNH VÀ CÁ
Có những lúc Chúa Giêsu muốn tránh khỏi đám đông. Ngài bị căng thẳng liên tục nên cần được nghỉ ngơi. Hơn nữa, đôi lúc Ngài cần ở riêng với các môn đệ để hướng dẫn họ hiểu biết sâu nhiệm hơn về chính Ngài. Ngài cũng cần có thì giờ để cầu nguyện. Trong cơ hội đặc biệt này, tốt nhất là tránh đi xa trước khi xảy ra sự va chạm với các người cầm quyền, vì thời điểm xung đột cuối cùng vẫn chưa đến.
Chúa Giêsu xuống thuyền và ra đi. Từ Caphacnaum qua bên kia bờ biển Galilê cách chừng bốn dặm. Dân chúng đã chứng kiến những điều lạ lùng Ngài làm, nên họ vội vã chạy vòng theo dọc bờ qua mé bên kia, vì rất dễ thấy hướng thuyền Chúa đi. Sông Giođan chảy vào mạn bắc biển hồ Galilê. Cách đó hai dặm về phía thượng lưu, có chỗ cạn. Gần chỗ cạn này, có một làng, gọi là Bétxaiđa để phân biệt với làng Bétxaiđa khác ở Galilê, và Chúa Giêsu đang nhắm đi đến điểm ấy (Lc 9,10). Gần Bétxaiđa có một cách đồng nhỏ cạnh bờ biển, lúc nào cũng có cỏ xanh, tên là Enbatigia. Đó là nơi phép lạ này xảy ra.
Thoạt tiên Chúa Giêsu đi lên ngọn đồi phía sau cánh đồng và ngồi với các môn đệ. Đám đông bắt đầu xuất hiện. Họ đã đi thật nhanh, vượt qua chín dặm đường vòng lên phía trên biển hồ, qua chỗ sông cạn mới đến nơi. Gioan cho biết lúc ấy đã gần đến Lễ Vượt Qua, nên các nẻo đường chắc có đông người bình thường. Có thể là nhiều người đang theo con đường ấy lên thành Giêrusalem. Nhiều khách hành hương từ Galilê lên phía bắc, vượt chỗ sông cạn, qua Bêrê đi xuống phía nam, rồi trở lại bên này sông Giođan gần Giêricô để đến Giêrusalem. Con đường đó dài hơn, nhưng tránh được vùng đất của dân Samari mà họ rất ghét. Dường như đám đông này càng ngày càng đông thêm, do số khách hành hương đang trên đường đi dự Lễ Vượt Qua.
Khi thấy đoàn người đông đảo ấy, Chúa Giêsu động lòng thương xót. Họ đang đói và mệt, phải cho họ ăn. Ngài quay sang Philipphê là điều tự nhiên, vì quê ông ở Bétxaiđa (Ga 1,44), ông biết rõ địa phương này. Ngài hỏi ông có thể đi tìm thức ăn ở đâu. Câu trả lời của ông đầy thất vọng, ông bảo cho dù có đi tìm được thức ăn đi nữa cùng phải tốn hơn hai trăm đồng mới đủ cho đám đông đó, mỗi người một ít. Một đồng là tiền lương một ngày của một công nhân. Theo tính toán của ông, phải có hơn sáu tháng lương của một công nhân mới dám nghĩ đến chuyện cho một đám đông như thế ăn mỗi người một chút.
Bấy giờ, Anrê xuất hiện. Ông đã phát hiện được một cậu bé có năm chiếc bánh lúa mạch với hai con cá. Chắc cậu bé đi chơi và mang theo các món ấy để ăn. Rồi như mọi trẻ nhỏ, cậu bị lôi cuốn nhập theo đám đông. Anrê có tính tốt là thường đưa người khác đến giới thiệu với Chúa.
Thức ăn cậu bé mang theo chẳng bao nhiêu. Bánh lúa mạch là loại bánh rẻ tiền nhất, bị coi thường. Trong kinh Mishnah có một điều về lễ vật mà một người đàn bà phạm tội ngoại tình phải dâng. Dĩ nhiên, người đó phải dâng lễ chuộc tội. Thêm vào đó là lễ chay gồm bột, rượu và dầu trộn lẫn với nhau. Thông thường bột dùng là bột mì, nhưng theo luật định cho trường hợp dâng lễ vật vì tội ngoại tình, thì bột có thể là bột lúa mạch, là thức ăn gia súc, và tội ngoại tình của người đàn bà là tội của súc vật. Bánh lúa mạch là bánh của người thật nghèo.
Còn cá chắc chẳng lớn hơn cá nục. Cá muối xứ Galilê vốn nổi tiếng khắp Roma. Vào thời đó, cá tươi là xa xỉ phẩm, ít có, vì không có phương tiện chuyên chở đi xa và khó bảo quản tươi được. Những loại cá nhỏ như cá nục thì nhiều vô kể trong biển Galilê. Người ta đánh bắt, sau đó đem muối. Cậu bé cũng có cá muối nhỏ để nuốt cho trôi khẩu phần bánh lúa mạch khô khan.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ cho đám đông ngồi xuống. Ngài cầm lấy bánh và Ngài chúc phúc. Khi hành động như thế là Ngài đã làm như một người cha trong gia đình. Lời tạ ơn mà Ngài dâng lên là câu thông thường vẫn được người Do Thái sử dụng trong mỗi nhà: “Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, chúng con tạ ơn Ngài, Đấng đã khiến đất sinh ra bánh”. Đám đông được ăn no nê. Ngay đến từ no nê cũng rất gợi ý. Theo nguyên văn tiếng Hy Lạp cổ, chữ đó chỉ việc cho súc vật ăn rơm, và khi dùng cho người có nghĩa là ăn no đến ngán.
Khi dân chúng đã no rồi, Chúa Giêsu dạy các môn đệ thu nhặt những mẩu bánh vụn còn thừa. Tại sao lại có các mẩu bánh vụn? Theo phong tục Do Thái, khi ăn tiệc người ta có thói quen để lại chút gì đó cho các đầy tớ giúp việc. Phần thừa đó được gọi là Peah, chắc đám đông đó đã để lại phần thường lệ cho số người đã phục vụ họ trong bữa ăn.
Số thức ăn còn dư thừa, người ta đã lượm được mười hai giỏ đầy. Chắc mỗi môn đệ đều có một giỏ (kophinos). Các giỏ ở đây có hình giống cái chai, người Do Thái luôn đem theo cái giỏ này khi đi đường. Sách Juvenal (3,14; 6,542) hai lần nói về “người Do Thái với cái giỏ và cuộn rơm” (gói cỏ khô dùng làm đệm nằm, vì rất nhiều người Do Thái sống đời du mục). Người Do Thái với chiếc giỏ bất ly thân là một hình ảnh rất đặc trưng. Một mặt vì cá tính hay thu nhặt, mặt khác vì họ phải đem theo khẩu phần của mình để giữ đúng luật Do Thái về vấn đề tinh sạch và không tinh sạch. Với các thức ăn còn thừa, mỗi môn đệ đều nhặt đầy giỏ mình. Thế là cả đám đông đã được ăn no nê, dư dật.
Ý NGHĨA CỦA MỘT PHÉP LẠ
Có ba cách người ta nhìn và giải thích phép lạ này.
1. Chúng ta có thể xem phép lạ này là một việc có thực, xảy ra đúng như nghĩa đen là Chúa Giêsu đã làm cho bánh và cá của em bé tăng lên cho hơn năm ngàn người ăn và còn dư đến mười hai giỏ. Câu 5 cho biết khi nhìn thấy đoàn dân đông đảo đến cùng mình, Chúa Giêsu đặt vấn đề thức ăn cho họ với Philipphê ngay. Phần tường thuật trong Phúc Âm Mc 6,34-38 ghi lại: Chúa động lòng thương “vì họ như chiên không có người chăn”. Ngài dạy dỗ, lo cho họ thức ăn tâm linh xong, lại truyền cho các môn đệ “anh em cứ bảo người ta ngồi xuống”. Lòng trắc ẩn sâu xa trong Chúa Kitô không thể chối từ hay lơ là một nhu cầu thể chất và tâm linh lớn lao của đoàn dân lúc bấy giờ. Do đó phép lạ này xảy ra như dân chúng đã chứng kiến, và Gioan ghi lại trong câu 14.
Tuy nhiên, có người cũng đặt câu hỏi, tại sao Chúa Giêsu từ chối hóa đá thành bánh trong lúc ma quỷ cám dỗ (Mt 4,3-4). Thật ra, Chúa Giêsu làm phép lạ để bày tỏ vinh hiển và quyền năng Thiên Chúa, và đáp ứng nhu cầu đích thực của một người hoặc một đám đông dân chúng. Chúa không ích kỷ để chỉ thấy lợi riêng. Ngài đang bị đói sau 40 ngày không ăn. Đây là điều mà mỗi chúng ta cần bén nhạy, nhìn thấy rõ vấn đề, khi làm bất cứ công tác hoặc chương trình gì: (a) Công tác đó có tôn vinh, làm sáng danh Chúa không? (b) Nhằm thỏa đáng nhu cầu lớn lao của công việc nhà Chúa, của cộng đoàn, hay chỉ vì lợi ích riêng của cá nhân, của đoàn thể mình, hoặc chỉ làm “để điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa”. Từ câu hỏi trên, chúng ta cũng có thể giải thích hai cách khác nhau sau đây:
2. Đây có thể là bữa Tiệc Thánh. Vì trong phần kế tiếp lúc nói về ăn Thịt và uống Máu Ngài, ngôn ngữ Chúa dùng đúng là ngôn ngữ của bữa Tiệc Thánh. Có thể trong bữa ăn này, mỗi người chỉ nhận một mẩu bánh nhỏ như bánh của Tiệc Thánh, và sự cảm xúc về sự hiện diện của Chúa Giêsu cùng sự thực hữu của Thiên Chúa đã biến những miếng bánh thành thức ăn bổ dưỡng cho tấm lòng và linh hồn của họ, như trong Tiệc Thánh chúng ta ngày nay.
3. Cũng có một lối giải thích thật dễ thương khác như sau. Khó có thể nghĩ rằng đám người theo Chúa suốt mười lăm cây số mà không chuẩn bị lương thực gì. Nếu có thêm những người hành hương nữa thì chắc chắn họ phải có đem theo bánh để ăn riêng, chẳng ai muốn đưa bánh mình ra. Lúc ấy Chúa Giêsu với nụ cười trên môi, đưa số bánh của Ngài và các môn đệ ra, Ngài tạ ơn Thiên Chúa rồi bẻ ra phân chia cho mọi người. Đám đông thấy thế cảm động, ai nấy đều đưa thức ăn của mình ra. Cuối cùng thì mọi người đều được ăn no nê và còn dư nữa. Có thể đây là phép lạ trong đó sự hiện diện của Chúa Giêsu đã biến đám động ích kỷ thành một tập thể những người biết chia sẻ cho nhau. Câu chuyện này tượng trưng cho một phép lạ lớn hơn, đó là phép lạ thay đổi lòng người.
Dù hiểu thế nào đi nữa thì cũng cần phải lưu ý đến một số nhân vật.
a. Anrê: có sự tương phản giữa Anrê và Philipphê. Philipphê nói: “Hoàn cảnh thật là tuyệt vọng, chẳng có thể làm gì được cả. “Anrê thì nói: “Để tôi coi có thể làm gì, và phần còn lại tôi trao cho Thầy mình làm”. Chính Anrê đã đưa cậu bé đến Chúa Giêsu. Chúng ta không thể biết được sẽ có gì xảy ra khi đưa một người nào đó đến với Chúa Giêsu. Nếu cha mẹ giáo dục con cái mình trong sự nhận biết, yêu thương, kính sợ Chúa, biết đâu một ngày nào đó đứa con sẽ có thể làm được những việc lớn lao cho Thiên Chúa và loài người. Khi một giáo lý viên đem một em bé đến với Chúa Giêsu, không ai biết được một ngày kia, em bé ấy sẽ làm được gì cho Chúa Giêsu và Hội Thánh. Có một câu chuyện kể rằng, một giáo lý viên người Đức mỗi sáng bước vào lớp học của mình đều trịnh trọng ngả mũ chào cả lớp. Có người hỏi tại sao ông làm như thế, ông đáp: “Có ai biết được một ngày nào đó, một trong các em đây sẽ làm nên công trạng”. Ông đã nói đúng.
b. Cậu bé: Cậu bé chẳng có gì nhiều để dâng cho Chúa. Nhưng với lễ vật đơn sơ của cậu, Chúa Giêsu đã có chất liệu để thực hiện phép lạ. Nếu cậu cứ giữ lại bánh và cá cho riêng mình, thì sao?
Chúa Giêsu cần những gì chúng ta đem đến cho Ngài. Ngài không cần mỗi chúng ta mang đến thật nhiều, nhưng cần những gì chúng ta đang có. Có thể là thế giới đã không nhận được phép lạ này đến phép lạ khác, chiến thắng này để chiến thắng khác, chỉ vì chúng ta đã không chịu đem đến cho Chúa những gì mình có, không chịu đến với Chúa bằng chính con người hiện tại của mình. Nếu chúng ta bằng lòng dâng chính mình trên bàn thờ để phục vụ Chúa Giêsu thì Ngài dùng chúng ta. Có thể chúng ta hối tiếc và hổ thẹn vì mình không có gì nhiều để dâng, hối tiếc và hổ thẹn như vậy là đúng. Nhưng chúng ta không có lý do gì để từ chối dâng cho Ngài những gì mình có. Dù ít, bao giờ cũng thành nhiều trong tay Chúa.
ĐÁP ỨNG CỦA ĐÁM ĐÔNG
Đến đây, chúng ta thấy phản ứng của đám đông. Dân Do Thái đang trông chờ vị ngôn sứ mà Môsê đã hứa. “Từ giữa anh em ngươi, Đức Chúa và là Thiên Chúa ngươi sẽ lập nên một Đấng ngôn sứ như ta, các ngươi hãy theo Đấng ấy”. (Đnl 18,15). Dân Do Thái đang trông đợi Đấng Mêsia, Đấng được chọn của Thiên Chúa. Qua cả lịch sử, họ đã chờ đợi và đến bây giờ vẫn còn chờ đợi. Lúc ấy tại Bétxaiđa Giulia, họ đã sẵn sàng thừa nhận Chúa Giêsu là ngôn sứ đã được hứa ban, và biểu tình tung hô, tôn Ngài lên nắm chính quyền. Nhưng chẳng bao lâu sau, một đám đông khác lại reo hò: “Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!” Tại sao lúc đó đám đông lại hoan hô Chúa Giêsu?
Họ nhiệt tình ủng hộ Chúa Giêsu vì Ngài đã ban điều họ muốn. Ngài đã chữa bệnh tật, đã cho ăn no nê nên họ muốn tôn Ngài lên làm lãnh tụ. Ngài ta có thể mua được lòng trung thành theo cách đó, một sự trung thành lệ thuộc vào ân huệ, tặng vật, hay nói rõ hơn là bằng của hối lộ. Người ta có thể mua được tình thương theo cách đó, một tình thương bởi thức ăn thức uống. Trong những giây phút cay cú nhất, tiến sĩ Johnson đã định nghĩa lòng biết ơn là “một cảm thức sinh động về những ân huệ mà người ta hy vọng sẽ còn được nhận thêm”.
Thái độ của đám đông làm chúng ta ghê tởm. Nhưng chúng ta có hơn họ? Mỗi chúng ta muốn được an ủi khi đau buồn, muốn có sức mạnh khi gặp khó khăn, muốn được bình an trong cơn xáo trộn, muốn được sự trợ giúp lúc đời mình xuống dốc, thì chẳng hề có ai kỳ diệu bằng Chúa Giêsu, và chúng ta đến nói chuyện với Ngài, đi cùng Ngài, mở lòng mình ra cho Ngài. Nhưng khi Ngài đến cùng chúng ta với một đòi hỏi hy sinh, với một thách thức nỗ lực, với đề nghị vác thập giá, thì bấy giờ chúng ta chẳng muốn liên hệ gì với ngài. Nếu tự xét lòng mình, chúng ta sẽ thấy mình cũng chỉ yêu mến Chúa Giêsu vì những gì mình nhận được từ Ngài, còn khi Ngài đến với chúng ta bằng những thách thức, những đòi hỏi quan trọng, chúng ta lờ đi, có khi còn tỏ ra oán ghét, chống lại sự quấy rầy và đòi hỏi của Ngài.
Một lý do nữa để họ tung hô Chúa Giêsu là vì họ muốn lợi dụng Ngài cho mục đích riêng của họ, uốn nắn Ngài theo các ước mơ của họ. Họ đang trông chờ Đấng Mêsia theo ý riêng của họ. Họ tìm một Đấng Mêsia để làm vua và làm nhà chinh phục. Đấng đó sẽ đặt chân lên cổ chim phương hoàng và đánh đuổi người Roma khỏi xứ Palestine, sẽ thay đổi tình thế của Israel từ một nước bị trị thành một cường quốc thế giới, sẽ giải phóng họ khỏi số phận bị chiếm đóng để nâng lên thành một dân tộc đi chiếm đóng nhiều xứ khác. Họ đã chứng kiến những gì Chúa Giêsu làm và họ nghĩ: “Người này có quyền phép kỳ diệu lạ lùng. Nếu chúng ta ép được ông theo các giấc mơ, kế hoạch của chúng ta thì mọi sự sẽ bắt đầu xảy ra theo như điều chúng ta muốn”. Nếu thành thật, chắc họ đã phải thú nhận họ muốn lợi dụng Chúa Giêsu.
Một lần nữa, chúng ta có gì khác họ chăng? Khi chúng ta kêu cầu Chúa, có phải là để được sức lực tiếp tục thực hiện các mưu đồ, ý định của mình không? Hay là để có sự khiêm nhường, vâng phục, chấp nhận các chương trình, ý muốn của Ngài? Lời cầu nguyện của chúng ta là: “Lạy Chúa, xin ban cho con năng lực để thực hiện những điều Ngài muốn con làm” hay “Lạy Chúa, xin ban cho con năng lực để thực hiện điều con muốn làm?”.
Đám đông dân chúng theo Chúa lúc đó vì Ngài đã ban điều họ muốn, và họ ao ước sử dụng Ngài theo mục đích riêng của họ. Thái độ ấy ngày nay vẫn còn. Chúng ta muốn các tặng vật của Chúa mà không muốn thập giá, chúng ta muốn sử dụng Chúa thay vì để Ngài sử dụng chúng ta.
68. Chuyện ăn uống
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
“Xin Cha cho chúng con hôm nay LƯƠNG THỰC hằng ngày…”. Đó là một trong những điều thiết yếu trong lời cầu nguyện mà chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta qua Kinh Lạy Cha (Mt 6:9-13; Lc 11:2-4).
Người ta thường nói: “Có thực mới vực được đạo”. Điều đó cho thấy chuyện ăn uống là điều cần thiết và cơ bản nhất để con người khả dĩ duy trì sự sống. Trước tiên, người ta cần ăn no và mặc ấm; sau đó mới có thể phấn đấu để ăn ngon và mặc đẹp. Vả lại, chuyện ăn uống được người ta coi là “đệ nhất khoái” trong “tứ khoái” của một con người bình thường. Trong bốn thứ cần học khi vào đời, ăn uống là thứ cần phải học đầu tiên: Học ăn, học nói, học gói, học mở.
Ăn uống cũng được chú ý khi người ta có “văn hóa ẩm thực”. Tuy nhiên, cái gì cũng có hai mặt, như con dao hai lưỡi vậy. Miếng ăn thực sự cần thiết nhưng cũng có thể là vinh hoặc nhục: “Người trí quý cái sức, kẻ dại quý cái ăn”. Ăn không lượng thì hại sức khỏe, ngủ không cân thì hại trí tuệ. Tục ngữ có câu: “Ăn được, ngủ được là tiên; không ăn, không ngủ, mất tiền, đâm lo!”. Ăn để có sức khỏe, có sức khỏe thì an tâm sống: “Sức khỏe là vàng”.
Chúa Giêsu cũng rất thực tế. Ngài chăm lo những gì cần thiết và cơ bản nhất: Ăn uống. Ngài luôn quan tâm người nghèo, tại nhà ông Si-môn Cùi ở Bêtania, khi có một phụ nữ xức dầu chân Ngài bằng dầu thơm cam tùng hảo hạng, Chúa Giêsu đã xác định: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Ga 12:8; Mt 26:11; Mc 14:7). Và rồi Thánh Giacôbê cũng khuyên chúng ta “phải kính trọng người nghèo” (Thư Thánh Giacôbê, chương 2).
Người khổ chưa chắc là người nghèo. Nhưng người nghèo thì chắc chắn là người khổ – thậm chí còn hóa khốn, vì luôn bị người đời khinh miệt, nhìn bằng nửa con mắt, bị xa lánh vì sợ “hãm tài”. Vả lại, đáng quan ngại là vì “lý lẽ của người nghèo không được ai nghe thấy” (Sử gia Thomas Fuller, 1608-1661). Có lẽ vì vậy mà người Việt thường “ghép đôi” hai tình trạng này thành một: Nghèo khổ. Quả thật, “sự nghèo đói là hình thức bạo lực tồi tệ nhất” (Mahatma Gandhi, 1869-1948).
Tuy nhiên, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi người nghèo, vì thế họ luôn tin tưởng và nhủ thầm: “Có Thiên Chúa phù trì, thân con đây, Chúa hằng nâng đỡ” (Tv 54:6). Đồng thời họ luôn tâm niệm: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo, vì Chúa giải thoát con khỏi mọi gian nguy, và con đã dám nghênh bọn địch thù” (Tv 54:8-9).
Chuyện ăn uống rất bình thường mà lại quan trọng. Thật vậy, chuyện ăn uống còn liên quan vấn đề kinh tế và chính trị, đồng thời cũng là vấn đề cơ bản trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo.
Hiền triết Trang Tử (Zhuang Zhou hoặc Zhuangzi, 365-290 trước công nguyên) đã nhận định: “Cản trở con người sống vui vẻ, tước đoạt khả năng dệt vải, may mặc, cày cấy, ăn uống, mà lại tô vẽ nó như là nhân nghĩa, đó là tội ác của thánh nhân”. Đó là một dạng giả nhân giả nghĩa, Chúa Giêsu rất ghét loại người này và Ngài đã 8 lần nguyền rủa họ là “đồ khốn” (Mt 23:13-29) và còn gọi họ là “đồ ngu si mù quáng”. Nhức óc quá chừng!
Trình thuật 2 V 4:42-44 đề cập chuyện ăn uống. Đó là chuyện về “nồi cháo độc”. Đã đói meo mà lại gặp loại chao này thì… chết sớm! Kinh Thánh cho biết: Khi ông Ê-li-sa trở về Ghin-gan, nạn đói đang xảy ra trong xứ. Lúc anh em ngôn sứ đang ngồi trước mặt ông, ông nói với tiểu đồng bắc nồi lớn lên bếp và nấu cháo cho anh em ngôn sứ. Một người trong nhóm ra đồng hái rau, tìm thấy một thứ cây giống như nho dại thì hái trái dưa đắng ấy đầy một vạt áo, rồi về nhà, thái nhỏ ra, bỏ vào nồi nấu cháo, vì họ không biết đó là thứ gì. Sau đó, họ múc ra cho mọi người ăn. Vừa ăn chút cháo, họ kêu lên: “Người của Thiên Chúa ơi, thần chết ở trong nồi!”. Thế là họ không thể ăn được nữa. Nhưng ông Ê-li-sa bảo cứ đem bột đến cho ông. Ông bỏ bột vào và bảo múc ra cho mọi người ăn. Lạ thay, trong nồi không còn chất độc nữa. Phép lạ nhãn tiền!
Tiếp theo là “phép lạ hoá bánh ra nhiều”. Kinh Thánh kể rằng có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Thiên Chúa. Đó là 20 chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Ê-li-sa bảo đem phát cho người ta ăn. Tiểu đồng nói chỉ có chừng nấy thì không thể đủ cho cả trăm người ăn được. Nhưng ông bảo cứ phát cho người ta ăn, vì Đức Chúa đã phán: “Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Tiểu đồng vâng lời đem phát cho người ta. Họ đã ăn mà vẫn còn dư, đúng như lời Đức Chúa đã tuyên phán. Lại một phép lạ nhãn tiền nữa. Kỳ diệu quá!
Đối với Thiên Chúa, “không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37), Ngài có thể làm cho những hòn đá trở nên con cháu ông Áp-ra-ham kia mà (Mt 3:9). Vâng, với Thiên Chúa, tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”. Tác giả Thánh Vịnh đã tin nhận như vậy nên đã dâng lời xưng tụng: “Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng” (Tv 145:10-11).
Thiên Chúa biết rõ phàm nhân cần có cái ăn để duy trì sự sống, thế nên Ngài luôn tạo cơ hội làm việc để con người mưu sinh. Không có Ngài thì chúng ta chẳng làm được gì, chắc chắn như vậy. Với kinh nghiệm sống, tác giả Thánh Vịnh chia sẻ với chúng ta qua lời cầu nguyện chân thành: “Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê. Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người” (Tv 145:15-18). Thiên Chúa chẳng chấp lách gì đối với những cái đầu nhỏ mọn, thiển cận và nông cạn của phàm nhân chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta biết khiêm nhường và chân thành cầu xin thì mọi sự đều đâu vào đó. Mà có làm vậy cũng chỉ lợi ích cho chúng ta mà thôi, chứ điều đó cũng chẳng thêm gì cho Ngài.
Với kinh nghiệm đầy mình, nhưng là kinh nghiệm “xương máu”, Thánh Phaolô chia sẻ: “Tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4:1-2). Những lời lẽ rất chân thành, nhưng NGHE là một chuyện, BIẾT là một chuyện, LÀM lại là chuyện khác. Những khoảng cách rất gần mà cũng rất xa!
Thánh Phaolô động viên thêm: “Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. Chỉ có MỘT thân thể, MỘT Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có MỘT Chúa, MỘT niềm tin, MỘT phép rửa. Chỉ có MỘT Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4:3-6). Những cái “một” rất kỳ diệu, đòi buộc chúng ta phải NÊN MỘT, vì thế mà không thể ba bè, năm nhóm hoặc bảy phe, không thể tiêu cực như chúng ta vẫn có “xu hướng” ngay trong các gia đình, các hội đoàn, các cộng đoàn, các giáo xứ,… Chắc chắn kiểu phe nhóm như vậy là đối lập với Thiên Chúa! Tại sao? Vì chúng ta cùng ĂN MỘT TẤM BÁNH – Thánh Thể của Đức Kitô.
Trình thuật Ga 6:1-15 nói về phép lạ hoá bánh ra nhiều mà Đức Giêsu đã làm (Mt 14:13-21; Mc 6:30-44; Lc 9:10-17). Trong phép lạ này có sự hiệp nhất: Đủ loại người đồng tâm nhất trí tụ họp nhau theo Chúa để cùng NÊN MỘT và được nghe lời khôn ngoan của Ngài. Thế nên Ngài thương họ lắm, thương biết sao cho vừa!
Địa danh là bên Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Hôm đó có đông đảo dân chúng đi theo Chúa Giêsu, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Ngài đã làm cho những kẻ đau ốm. Ngài lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Thời gian đó sắp đến lễ Vượt Qua, đại lễ của người Do-thái. Ngước mắt lên, Ngài nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Ngài không bất ngờ mà Ngài thấy thương họ. Ngài hỏi ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”. Ngài nói thế là để thử ông, chứ Ngài đã biết mình sắp làm gì rồi.
Nghe vậy, ông Phi-líp-phê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Các ông vừa gãi đầu vừa nghĩ bụng: “Mèn ơi! Phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh cho họ ăn sao? Tiền đâu mà mua chứ!”. Hai trăm quan tiền là số tiền lớn, dù chưa bằng số tiền giá chiếc bình dầu thơm mà người phụ nữ tội lỗi xức chân Chúa Giêsu tại nhà ông Simôn Cùi ở làng Bêtania: Ba trăm quan tiền (Mt 26:6-13; Mc 14:3-9; Ga 12:1-8), nhưng lại gấp nhiều lần số tiền ông Giuđa đã bán Thầy trong đêm định mệnh năm xưa: Ba mươi đồng (Mt 26:15).
Lúc đó, không biết ông Phêrô nhanh tay lẹ mắt thế nào mà ông liền thưa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!”. Đức Giêsu cười: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”. Chả biết Thầy tính mần chi, nhưng các ông cũng vâng lời Thầy, bảo người ta ngồi xuống cỏ, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Tính cả phụ nữ và trẻ em có thể lên tới cả chục ngàn người.
Mọi người đã yên vị, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho họ. Cá nhỏ, Ngài cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Khi họ đã no nê rồi, Ngài bảo các môn đệthu lại những miếng thừa kẻo phí. Chúa Giêsu rất tiết kiệm, không hề lãng phí, điều này nhắc chúng ta phải biết quý miếng ăn, biết nghĩ đến những người đang đói khổ.
Các môn đệ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. Phần dư còn nhiều hơn phần gốc. Quá đỗi kỳ diệu! Thế nên mọi người rỉ tai nhau: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!”. Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Ngài lại lánh mặt, đi lên núi một mình. Lại một bài học đắt giá nữa: Đừng coi trọng danh vọng, đừng tự tôn, đừng thấy người ta khen mà tưởng mình “ngon” hơn hoặc tài giỏi hơn người khác. Quan nhất thời, dân vạn đại. Tất cả sẽ qua đi, ngay cả những gì mình sở hữu cũng không thuộc về mình. Cuộc đời cũng chỉ còn lại tình yêu thương nhờ biết thương xót, ba nhân đức đối thần cũng “cô đọng” chỉ còn Đức Mến (Đức Ái) mà thôi.
Việc Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều là “dấu chỉ” báo trước về Bí tích Thánh Thể, đồng thời cho chúng ta biết rằng nhu cầu ăn uống liên quan chuyện sinh tồn – cả thể lý và tâm linh. Biết chăm lo cho mình thì cũng phải biết chăm lo cho người khác: Yêu người như yêu mình. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải biết chạnh lòng thương mà quan tâm nhu cầu thiết yếu của người khác. Vâng, quả thật là “có thực mới vực được đạo”. Thể lý yếu đuối có thể ảnh hưởng tinh thần, trí tuệ và tâm linh. Thể xác cần ăn uống để sống khỏe mạnh thì linh hồn cũng cần nuôi dưỡng để sinh tồn.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, con không dám xin Ngài ban cho con những điều con muốn, mà con xin được can đảm chấp nhận và mau mắn thay đổi theo đúng Thánh Ý Ngài. Xin ban cho mọi người có đủ lương thực hàng ngày, để nhờ đó mà họ có thể sống xứng đáng kiếp làm người, đồng thời họ có thể an tâm phụng sự Ngài hết linh hồn và hết sức lực. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
THỎA THUÊ
(CN XVII TN-B – Tv 145:15-18; Ep 4:1-6; Ga 6:1-15)
Muôn loài ngước mắt trông lên
Chúa thương lo liệu cho ăn đúng giờ
Khi Ngài rộng lượng ban cho
Mọi sinh vật được thoả thuê muôn vàn
Lối đường Thiên Chúa chí nhân
Mọi việc Người làm đầy ắp yêu thương
Những ai đau khổ đoạn trường
Chúa luôn gần gũi đỡ nâng đêm ngày
Kiên tâm cầu khẩn Chúa hoài
Ngài không nỡ để lạc loài mãi đâu
Hãy luôn khiêm tốn trước, sau
Hiền từ, nhẫn nại, thương yêu hết lòng
Quyết tâm chịu đựng, chờ mong
Sẽ được no lòng, thỏa khát tâm linh
Hằng ngày có Bánh Ân Tình
Thánh Thể tốt lành, đừng có quên ăn!
Chúa Giêsu vẫn ân cần
Muốn cho ai cũng được luôn no lòng
TRẦM THIÊN THU
69. Có mấy chiếc bánh?
(Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Hữu An)
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm Chúa làm phép lạ lần thứ hai nữa (Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).
Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Họ đói khát, nghèo khổ, bệnh tật, bơ vơ. Họ đi tìm Chúa để được chữa lành, được an ủi, được dạy dỗ. Chúa đã yêu thương họ và muốn tặng cho họ một bữa tiệc đơn sơ bất ngờ ở ngoài trời. “Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây?”. Chúa muốn đưa các môn đệ đi vào mối bận tâm của Ngài, cần sự cộng tác. Các môn đệ thất vọng vì chỉ có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhỏ. Phản ứng các môn đệ được ghi lại trong 4 phúc âm:
- Matthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá thôi.
- Marcô: Thế chúng tôi phải đi mua 200đ bạc bánh mà cho họ ăn sao?
- Luca: Chúng tôi không có hơn 5 chiếc bánh và 2 con cá, hoạ chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này.
- Gioan: Philipphê thưa: Có mua hết 200đ bạc bánh cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ. Anrê nói: Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!
Phản ứng của các môn đệ là bế tắc, muốn thoái thác phủi tay. “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15). Đó là giải pháp hợp lý. Lo cho hàng ngàn người ăn là ngoài khả năng các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng, ai lo phần nấy, tự đi mua lấy thức ăn. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa Giêsu chấp nhận. Chúa muốn các môn đệ nhận lấy trách nhiệm: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn đi”.
Đức Giêsu cầm 5 chiếc bánh và 2 con cá hướng nhìn về trời cao, đọc lời chúc tụng thì những bế tắc âu lo của các môn đệ đã được giải toả. Đám đông ăn no nê và còn dư dả.
Phép lạ xảy ra do quyền năng Thiên Chúa và sự cộng tác của con người. Chúa không làm phép lạ ngay tức khắc biến bánh và cá thành một núi thức ăn để người ta tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ.Các môn đệ trao cho mọi người. Mọi người trao cho nhau. Đó là bài học lớn lao của phép lạ hoá bánh. Khi mọi người chia sẻ cho nhau, quan tâm giúp đỡ nhau trong tình thương, biết bẻ ra, trao đi thì Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nhiều.
Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm loá mắt thiên hạ bằng sự lạ lùng. Khi chống lại sự cám dỗ của Satan trong sa mạc, Chúa không làm ảo thuật ngoạn mục là khiến đá biến thành bánh trong nháy mắt hay gieo mình xuống từ nóc đền thờ.
Chúa Giêsu làm phép lạ chỉ để cứu giúp người khác và từ sự cộng tác của họ. Tại Cana, Chúa không khiến cho sáu chum đầy rượu tức khắc mà lại bảo các gia nhân: “Hãy đổ nước đầy các chum!”(Ga 2, 7). Các môn đệ sau một đêm vất vả chẳng bắt được con cá nào, Chúa không truyền lệnh cho cá đầy thuyền mà bảo Simon “ra khơi mà thả lưới đánh cá” (Lc 5, 4 -7). Trong phép lạ hoá bánh ra nhiều cũng vậy, Chúa hỏi: “Các anh có mấy chiếc bánh?” (Mc 6,38). Và Chúa đã làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé. Như thế, Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều với mục đích là đào tạo lòng tin của các môn đệ. Chúa tỏ ra cho các môn đệ thấy lòng xót thương của Người đối với dân chúng “vì họ như cừu chiên không người chăn giữ”. Chúa chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân chứng tỏ Người là vị Mục tử mà ngôn sứ Edêkien đã nói đến (Ed 34). Chúa muốn các môn đệ nhận ra Người là Chúa Chiên, là Mục tử nhân lành. Phép lạ hoá bánh là cả một bài dạy bằng thực hành về người chăn chiên tốt lành. Chính các môn đệ còn được “tập sự” chia sẽ công việc của chủ chăn. Họ phải đi kiếm bánh, phân phát cho dân chúng và thu lượm những gì còn sót lại. Phép lạ hoá bánh là dấu chỉ báo trước Thánh Thể “Người cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời,dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ” (Mt 14,20). Trong Tiệc Ly “Ngài cấm lấy bánh,chúc tụng” (Mc 14,22).Cử chỉ Bẻ Bánh đã trở thành nét đặc trưng của Chúa Giêsu (Lc 24,30) và của Giáo hội (Cv 2,42).
Được bánh ăn no nê, dân chúng muốn “bắt lấy Người tôn lên làm vua” (Ga 6,15).Họ tiếp nối Satan cám dỗ Người lần nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở họ rằng “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”; “Hãy ra công làm việc, đừng vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ngươi” (Ga 6,27). Họ xin cho được ăn mãi thứ bánh ấy và Chúa đã bảo họ: “Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với ta không hề phải đói, ai tin vào ta,chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35). Chóp đỉnh của mạc khải về Bánh Hằng Sống chính là “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”(Ga 6,54). Ăn thịt, uống máu nhấn mạnh đến cái chết trên thập giá của Chúa.
“Bánh ta sẽ ban” hướng về cái chết của Chúa Giêsu và gợi đến Tiệc Thánh Thể lưu niệm vĩnh viễn Hy tế Thập giá. Giá trị cứu rỗi của của hiến lễ Golgôtha được hiện tại hoá lụôn mãi trong Tiệc Tạ Ơn của Giáo Hội. Người tín hữu được sống dồi dào khi ăn uống Mình Máu Chúa Giêsu.
Chúa vẫn tiếp tục đồng hành cùng Giáo hội, thực hiện công trình cứu độ trong Giáo hội, qua Giáo hội và với Giáo hội.
”Các anh có mấy chiếc bánh?” (Mc 6,38). Đó vẫn mãi mãi vừa là câu hỏi,vừa là lời mời gọi khẩn thiết của Chúa Kitô.Trao cho chúng ta Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể, Chúa mời gọi chúng ta bẻ ra và trao cho anh em mình.
Bánh Lời Chúa
Các con có mấy chiếc Bánh Lời Chúa để trao cho anh em? Chúa vẫn luôn hỏi chúng ta điều ấy mỗi ngày. Bởi đó cần trau dồi Lời Thiên Chúa. Vì người được sai đi để công bố Lời Thiên Chúa chứ không phải lời của thế gian. Cho dẫu lời ấy có khôn ngoan đến đâu chăng nữa. Đồng thời cũng phải trau dồi lời con người,là khả năng nói, loan báo,kỹ năng diễn đạt tư tưởng và rao giảng để Lời Chúa chinh phục các tâm hồn. Công bố Lời Chúa vừa là một hồng ân vừa là một trách nhiệm. Là hồng ân vì con người tầm thường được Thiên Chúa mời gọi làm ngôn sứ. Là trách nhiệm vì phải nổ lực để chu toàn sứ vụ.
Bánh Thánh Thể Bánh và rượu tương trưng đầy đủ chính con người chúng ta. Bánh là kết quả công lao khó nhọc của con người. Người ta thường nói: “Đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có mà ăn”. Bánh như thế tượng trưng công lao khó nhọc của con người và chính sự sống con người. Bên cạnh đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần. Vì thế cùng với bánh chúng ta dâng rượu. Rượu tượng trưng cho mọi nỗi vui buồn sướng khổ của đời người: khi vui ta uống chén rươụ mừng nhưng khi buồn ta uống chén rượu giải khuây. Dâng lên Chúa bánh và rượu là là chúng ta dâng lên tất cả đời sống với mọi nỗi vui buồn sướng khổ. Tất cả dệt nên cuộc sống hiện tại của chúng ta.
Đến Nhà Thờ dâng lễ, mỗi tín hữu mang lễ vật riêng là chính đời sống của mình. Khi dâng lễ, đời sống riêng tư được thu hợp lại thành lễ vật chung của cộng đoàn dâng lên Chúa.Tấm bánh được hình thành bởi trăm ngàn hạt lúa miến đã được xay nát ra và hoà trộn với nhau. Ly rượu là kết quả của nhiều trái nho được ép ra và hoà tan với nhau. Cả hai tượng trưng đầy đủ ý nghĩa cộng đồng cho lễ vật mỗi người cũng như lễ vật toàn thể cộng đoàn. Qua Lời Truyền Phép của Linh mục, Chúa Kitô làm cho bánh rượu trở thành Thịt Máu của Người. Đồng thời Người cũng biến đổi những hy sinh, những hạnh phúc đau khổ, những trách nhiệm của cộng đoàn trong hiến lễ để rồi khi mỗi người rước lễ họ đón nhận Mình và Máu Chúa Giêsu là đón nhận lại của lễ mình dâng lên mà giờ đây đã được thánh hiến.
Người tín hữu được lớn lên trong đức tin, trong lòng mến nhờ ân sủng của Thánh Thể Chúa Kitô “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói;ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35); “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51). Thánh Thể như thế là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người; là quà tặng Thiên Chúa trao ban cho nhân loại. Thánh Thể là lương thực thiêng liêng, bảo đảm hạnh phúc trường cửu của chúng ta.
Tham dự thánh lễ cách đầy đủ tích cực trọn vẹn với tất cả con người là cách tốt nhất đáp lại tình thương của Chúa và nhiệt thành cộng tác với ơn Chúa.
Chúa Giêsu vẫn luôn vẫn hỏi chúng ta mỗi ngày “Các anh có mấy chiếc bánh” để trao cho tha nhân?
28/07 Lúa và cỏ lùng
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Lúa và cỏ lùng.
Thứ bảy tuần 16 thường niên.
"Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt".
Lời Chúa: Mt 13, 24-30
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: Nước trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất.
Khi lúa lớn lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng lộ ra. Đầy tớ chủ nhà đến nói với ông rằng: "Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có?" Ông đáp: "Người thù của ta đã làm như thế". Đầy tớ nói với chủ: "Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ". Chủ nhà đáp: "Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Cỏ lùng và lúa
Chứng kiến những tiêu cực trong Giáo Hội xét như là một cơ cấu, nhiều người trong chúng ta dễ rơi vào cơn cám dỗ nổi loạn và tìm những giải pháp cực đoan. Chúng ta muốn rời bỏ Giáo Hội, vì chúng ta không muốn thấy những tệ đoan trong Giáo Hội. Như dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay gợi lên, chúng ta không muốn để cho cỏ lùng được mọc lên bên cạnh lúa tốt, chúng ta muốn phân cách rạch ròi người lành với kẻ dữ.
Truyện thánh Jean d'Arc vào thế kỷ 15 có thể đem lại cho chúng ta bài học thích đáng. Cảm nhận được tiếng gọi đặc biệt của Chúa, cô gái quê 13 tuổi đã đứng lên lãnh đạo quân đội Pháp chống lại cuộc xâm lăng của nước Anh. Nhưng cô bị người Anh bắt giữ và đem ra xử tử như một người lạc giáo. Các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó cấu kết với thế quyền để tiêu diệt cô; họ tìm đủ cách để đe dọa và thị oai cô gái; họ buộc cô phải đặt tay trên Phúc Âm và thề rằng cô chỉ nói sự thật mà thôi. Một viên thẩm phán của tòa án tôn giáo lúc bấy giờ đặt câu hỏi: "Cô có nghĩ rằng cô đang ở trong tình trạng sạch tội không?". Cô gái trả lời: "Nếu tôi không ở trong tình trạng ân sủng, thì xin Chúa cho tôi được sạch tội; còn nếu tôi đang ở trong tình trạng ân sủng, thì xin Chúa giữ tôi luôn ở trong tình trạng ấy".
Không bắt bẻ được cô gái, các viên chức của tòa án tôn giáo gồm 1 Hồng y, 6 Giám mục, trên 30 nhà thần học, 7 bác sĩ, hàng trăm nguyên cáo cảm thấy tức tối vô cùng. Họ bảo rằng họ là Giáo Hội, còn cô chỉ là một thứ cỏ lùng. Jean d'Arc trả lời: "Ðối với tôi, ở đâu có Chúa Kitô, thì ở đó có Giáo Hội, không thể có mâu thuẫn giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài".
Tuy không chứng minh được sự lạc giáo của cô gái, tòa án tôn giáo lúc bấy giờ vẫn kết án tử hình cô và ra lệnh thiêu sống cô. Hai mươi lăm năm sau, một tòa án của Giáo Hội đã đảo lộn phán quyết của tòa án tôn giáo nói trên, và năm 1920, Jean d'Arc đã được Giáo Hội tôn phong hiển thánh và được đặt làm quan thày của Nước Pháp. Thánh nữ Jean d'Arc đã hiểu được thế nào là cỏ lùng trong cánh đồng Giáo Hội.
Giáo Hội vốn không phải là một xã hội hoàn hảo. Giáo Hội tự bản chất là thánh thiện, nhưng lại gồm những con người tội lỗi, đó là ý nghĩa của dụ ngôn mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe và suy niệm hôm nay. Chúng ta có một Giáo Hội gồm nhiều vị thánh, nhưng cũng có vô số tội nhân. Những tội nhân vẫn có thể trở thành các thánh trong giây phút, còn các vị thánh thì trở nên thánh thiện hơn; các tội nhân cần sự tha thứ của chúng ta; còn các thánh thì khơi dậy sự cảm phục và quyết tâm cải hóa của chúng ta. Người Pháp thường nói: "Ðể hiểu mọi sự, thì cần phải tha thứ mọi sự". Chúng ta luôn được mời gọi để nhìn Giáo Hội như một đoàn người đang lữ hành, trong đoàn người này, có người đang cố gắng tiến đến gần Chúa, có kẻ lại xa rời Ngài.
Làm người Kitô hữu chính là nhập cuộc vào đoàn người lữ hành ấy với cố gắng, với thiện cảm và nhất là với cảm thông. Những kẻ cuồng tín cũng giống như một vụ cháy rừng. Lửa bốc cháy và tiêu diệt cả những mầm non: lửa cần thiết cho cuộc sống, nhưng lửa cần phải được làm chủ và sử dụng vào mục đích. Yêu mến Giáo Hội là luôn thức tỉnh để nhận ra những tiêu cực và tệ đoan trong Giáo Hội. Ðó là sự thức tỉnh của thánh Phanxicô Assisiô thời Trung cổ. Thế nhưng, con đường canh tân mà thánh nhân đã chọn không phải là nổi loạn hoặc lìa bỏ Giáo Hội, mà là canh tân chính bản thân bằng cuộc sống hy sinh, từ bỏ, và nhất là cảm thông. Ðó là cách thế tốt nhất để đương đầu với cỏ lùng chen lẫn lúa tốt trong cánh đồng Giáo Hội.
Nguyện xin Chúa hướng dẫn chúng ta trên đường của các thánh, đó là con đường của yêu thương, cảm thông và tha thứ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Rửa Sạch Tội Lỗi (Mt 13,24-30)
Qua Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã thực hiện tất cả những gì có thể cứu chuộc con người, nhưng ơn cứu độ đó không thể phát sinh hiệu năng, nếu mỗi chúng ta không mở lòng ra để đón nhận. Chúa Giêsu đã đến và giải thoát con người, Ngài cũng ban cho con người biết bao phương thức để con người duy trì và thăng hoa tình trạng ân sủng của mình. Vậy, tại sao tội lỗi vẫn ngập tràn? Thưa, đó là tự do của con người, chúng ta không thể trách Chúa là không cứu con người khỏi tình trạng tội lỗi, nhưng hãy tự trách mình sao không muốn đứng dậy để đưa tay cho Chúa và Chúa sẽ dẫn ta thoát ra khỏi vũng bùn đen của tội lỗi.
Thế giới quanh ta có biết bao những cơ hội, phương tiện giúp chúng ta sống và thăng tiến, nhưng nếu chúng ta không muốn thì cơ hội vẫn chỉ là cơ hội như một chuyện tình cờ, một biến cố chợt đến và chợt đi, mọi sự vẫn hoàn nguyên. Cần phải có nỗ lực của bản thân thì mới thoát khỏi những gì là xấu xa, hèn kém, khi đó mọi vật, mọi sự trên thế giới quanh ta mới phát huy tính năng của nó, để giúp ta thăng tiến bản thân cũng như cuộc sống của mình và anh chị em chung quanh. Chúng ta hãy dùng sức mạnh và tình yêu của Chúa để rửa sạch tội lỗi, sự thánh thiêng sẽ lộ rõ trên khuôn mặt tràn đầy ân sủng. Như hạt giống đức tin đã được gieo vãi trong lòng con người cứ âm thầm mọc lên, nó không thể trổ hoa và kết hạt tốt nếu chúng ta không để ý chăm sóc vun trồng.
Nhìn lại tình trạng tội lỗi của con người dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta không thể không thốt ra lời tạ ơn vì tình thương và lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với con người. Ngài luôn kiên nhẫn, chờ đợi và mời gọi con người hãy trở về với Ngài để sống sung mãn trong ân sủng, cho dẫu con người cứ giả điếc làm ngơ. Thiên Chúa luôn ở với con người. Tiếng gọi thì thầm của Ngài sẽ có lúc vọng lên nơi thẳm sâu tâm hồn của mỗi người, khơi dậy và làm bừng lên ngọn lửa yêu mến Ngài đã gieo trong lòng ta. Ðó là ước mơ và thao thức của Ngài. Chớ gì đừng có một ai trong chúng ta tạo ra bất cứ một ranh giới cản trở hay khó khăn nào để chôn chặt Lời Chúa. "Hãy để cho cả hai mọc lên", với sự tin tưởng và sức mạnh của Lời Chúa, chúng ta hãy để cho Lời Người thấm nhập và hoán cải tâm hồn mình và thế giới chúng ta đang sống, và đừng hỏi vì sao thế giới vẫn ngập tràn tội ác, nhưng hãy tự hỏi: Tôi có thể làm gì với những điều tôi đang có tại đây và ngay trong lúc này, để ơn cứu độ và tình thương của Chúa được lan rộng và lớn lên trong tâm hồn tôi cũng như anh chị em quanh tôi?
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con luôn hân hoan ra đi gieo rắc Lời Chúa một cách quảng đại như Chúa đã nêu gương.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Bao giờ mới hết sự ác.
Đức Giêsu trình bày cho dân chúng nghe một dụ ngôn khác: “Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất.” (Mt. 13, 24-25)
Ông chủ và các người đầy tớ đã không cảnh giác chăng? Nhưng, ngay cả thời buổi này, ai đòi phải tính đến chuyện canh chừng cho thuở ruộng vừa mới gieo vãi chăng? Chẳng có gì để cho người ta ăn trộm cả… Khi lúa mọc lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng xuất hiện, mọc chung, lớn lên cùng lúc với cây lúa, nhưng không làm cho lúa chết. “Thế thì cỏ lùng ở đâu ra vậy?” Cứ sự thường người ta đều muốn phải nhổ cỏ, phải diệt cỏ xấu để bảo vệ cho lúa tốt. Nhưng ông chủ lại bảo “Đừng, sợ rằng khi nhặt cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt.” Phải biết kiên nhẫn và đợi chờ…
Sự ác
Một khi điều xấu được gieo rắc rồi, thì người xấu không phải ở đó mà chờ đợi. Thực vậy, điều xấu sẽ mau chóng phổ biến. Thực vậy điều xấu sẽ chẳng giấu mặt ẩn mình, ai nấy sẽ dễ dàng nhận ra được cái xấu. Một cách nào đó, sự xấu còn dương dương tự đắc là sẽ thắng thế, nên sẽ trà trộn với cái tốt.
Còn sự thiện …
Ông chủ biết rõ rằng điều tốt ông gieo cũng sẽ lớn lên. Ông có cả một thời gian là quá trình lịch sử nhân loại để thực hiện điều này. Điều ta cần lưu ý là trong dụ ngôn, Chúa không bảo sự ác sẽ lấn lướt và thay thế cho sự thiện. Trái lại, đến ngày tận thế kẻ lành, điều tốt sẽ nắm phần chiến thắng.
Thế nhưng chẳng lễ ta sẽ phải đợi cho đến ngày tận thế, ngày chấm dứt cuộc sống này thì sự ác mới không xuất hiện, và những sự xấu xa của nhân loại mới chấm dứt chăng?
Không, thời gian này cũng chính là thời kỳ gặt lúa rồi đó. Chúng ta đang sống trong những thời điểm cuối cùng, không phải cuối cùng của trần gian, mà theo ngôn ngữ của thơ gởi tín hữu Do-thái, thì đó là thời điểm của Phục Sinh.
Nếu mỗi ngày và trải dài cuộc sống ta đều nhìn thấy sự ác, điều xấu và dễ dàng nhận ra điều tốt, điềuxấu, thì bổn phận của mỗi người chúng ta phải góp nhặt lấy cho thật nhiều điều tốt việc lành, chứ không phải là những điều xấu việc xấu. Ta đừng viện cớ mình không biết hoặc đổ lỗi cho những tập tục của xã hội hay nhún vai phân bua! tôi biết làm sao hơn? quyền chọn lựa là của ta. Ta chọn sự thiện hay sự ác, chọn làm người lành hay kẻ dữ.
J.M
Suy Niệm 4: LÚA VÀ CỎ LÙNG MỌC CÙNG LÚC (Mt 13, 36-43)
Xem lại CN 16 TN A
Sự bất nhân và không bao dung đã là cha đẻ sinh ra tính ích kỷ, óc bè phái nơi con người. Thật thế, con người luôn tìm dịp để trả thù nhau... Chính vì sự hẹp hòi này mà cái ác đã thắng cái thiện, sự tội đã thắng lẽ công chính! Vì thế, dù đối phương có tốt thế nào, thì trước con mắt của những kẻ muốn trả thù, họ đều là xấu xa.
Quan điểm này hoàn toàn ngược lại ý hướng và mục đích của Thiên Chúa qua hình ảnh ông chủ trong dụ ngôn cỏ lùng hôm nay.
Câu chuyện khởi đi từ việc gia nhân thắc mắc xem tại sao có cỏ lùng trong ruộng??? Tuy nhiên, ông chủ đã khẳng định rõ rằng: đó là do kẻ thù gieo trộm vào nên mới có! Sau đó, gia nhân đã không kiên trì nổi, nên xin ông chủ cho họ đi nhổ cỏ lùng kẻo nó lấn át lúa! Tuy nhiên, ông chủ đã không đồng ý và đưa ra lý do: "Đừng! Sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi".
Qua dụ ngôn trên, chúng ta thấy toát lên lòng nhân từ, bao dung và kiên nhẫn của Thiên Chúa. Ngài luôn yêu thương người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Vì thế, đã có lần chính Đức Giêsu tuyên bố: “Ngài đến để cứu chuộc những người tội lỗi chứ không phải những người công chính”.
Trong cuộc sống hôm nay, nhiều khi chúng ta nóng vội và bất nhân khi chỉ nghĩ đến lỗi người khác và mong muốn loại trừ họ. Sẵn sàng làm mất thanh danh, tiếng tốt nơi anh chị em mình bằng những lời chửi bới hay dèm pha... chỉ vì họ không làm theo ý chúng ta.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy kiên nhẫn chờ đợi như ông chủ. Hãy tạo cơ hội cho anh chị em mình làm lại cuộc đời. Nếu họ không trở lại mà sám hối ăn năm thì hậu quả ắt sẽ đến với họ là bị quăng vào lửa không hề tắt... Đồng thời, cần xác tín rằng: ai cũng là kẻ có tội, vì thế, chính bản thân mỗi người hãy khiêm tốn để trở về với Chúa khi còn có thể. Nếu không, số phận của cỏ lùng trong ngày sau hết cũng là số phận của mỗi chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết yêu thương, nâng đỡ nhau trong cuộc sống, để mọi người được hưởng ơn cứu chuộc của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Đừng nhổ cỏ lùng
Suy niệm :
Cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?
Cỏ lùng trong ruộng khiến các đầy tớ ngỡ ngàng.
Thửa ruộng vốn chỉ được gieo giống tốt.
Vậy mà khi lúa mọc lên và trổ bông.
cỏ lùng lại xuất đầu lộ diện.
Bởi đâu mà có cỏ lùng, có người xấu?
Bởi đâu mà ở nơi ta tưởng là trong ngần
lại bất ngờ có dấu hiệu của sự vẩn đục?
Có tác động xấu xa nào của Thần Dữ đẩy đưa?
Có sự ưng thuận chiều theo nào của con người?
Ông có muốn chúng tôi nhổ đi không?
Chúa có muốn chúng tôi tiêu diệt mọi kẻ xấu không?
Ngài có muốn chúng tôi xây dựng một Giáo Hội toàn bích,
một xã hội chỉ gồm toàn những người tốt không?
Lắm khi chúng ta nóng nảy như Gioan và Giacôbê,
đòi đốt cả làng người Samari, vì họ không tiếp Chúa.
Ðừng, sợ rằng khi nhổ cỏ lùng, lại làm hư rễ lúa.
Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt.
Như thế Thiên Chúa để cho cỏ mọc chung với lúa.
Ngài chấp nhận tình trạng vàng thau lẫn lộn.
Ngài nhẫn nại với tội nhân, với cỏ lùng.
Cỏ lùng chẳng bao giờ thành lúa được.
Nhưng người xấu có thể hoán cải nên người tốt.
Chính vì thế Thiên Chúa cứ kiên tâm chờ đợi.
Chờ đợi vì tin vào sự hoán cải của con người.
Chờ đợi vì tôn trọng tự do lựa chọn của họ.
Chờ đợi vì nuôi một niềm hy vọng lớn lao.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa ở nơi sự chờ đợi.
Ngài còn chờ đợi cho đến ngày tận thế.
Trong thế giới và Giáo Hội không có hai hạng người:
hạng cỏ lùng và hạng lúa tốt.
Cỏ lùng và lúa tốt nằm ở nơi tim mỗi người.
Mỗi người đong đưa giữa cỏ lùng và lúa tốt,
giữa cái thiện và cái ác, giữa thiên thần và Satan.
Ngay trong những hành vi tốt đẹp nhất của tôi,
tôi vẫn thấy có chút vị kỷ, chiếm đoạt.
Thiên Chúa vẫn chấp nhận cỏ lùng ở trong tôi.
Ngài chờ tôi được thanh luyện dần dần,
để rồi mọi sự trong tôi thành lúa tốt.
Kitô hữu không dung túng sự dữ,
họ dám hy sinh để xây dựng một thế giới yêu thương.
Nhưng họ không dùng bạo lực để chống lại ác nhân.
Họ nhẫn nại biến đổi trái tim kẻ thù,
vì họ tin vào sức mạnh của tình yêu,
tin vào Ðức Giêsu, Ðấng đã bị sự dữ nuốt chửng
nhưng cuối cùng là Ðấng toàn thắng.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa,
xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn
sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và với tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
27/07 Hạt được một trăm, hạt được ba mươi...
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hạt được một trăm, hạt được ba mươi...
Thứ sáu tuần 16 thường niên.
"Kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả".
Lời Chúa: Mt 13, 18-23
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Vậy các con hãy nghe dụ ngôn về người gieo giống: Kẻ nào nghe lời giảng về Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp lấy điều đã gieo trong lòng nó: đó là kẻ thuộc hạng gieo dọc đường.
Hạt rơi trên đá sỏi là kẻ khi nghe lời giảng, thì tức khắc vui lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu trong lòng nó: đó là kẻ nông nổi nhất thời, nên khi cuộc bách hại, gian nan xảy đến vì lời Chúa, thì lập tức nó vấp ngã.
Hạt rơi vào bụi gai, là kẻ nghe lời giảng, nhưng lòng lo lắng việc đời, ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết ngạt mà không sinh hoa kết quả được.
Hạt gieo trên đất tốt, là kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả, đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tinh thần lạc quan
Sự gieo trồng nào cũng mang niềm hy vọng. Chúa Giêsu đã đọc được tinh thần lạc quan ấy của nhà nông, cho nên Ngài đã mượn hình ảnh gieo trồng để nói lên mầu nhiệm Nước Trời. Nhưng xem chừng những hình ảnh gieo trồng mà Chúa Giêsu dùng trong Tin Mừng hôm nay không giống với kỹ thuật canh tác hiện nay. Thật thế, vào thời Chúa Giêsu, đất Palestin vốn khô cằn, người nông dân thời Chúa Giêsu không cày bừa dọn đất trước khi gieo trồng, nhưng gieo vãi trước, rồi sau đó mới cày đất xới bón. Thành ra, có hạt rơi xuống đất tốt, có hạt rơi trên vệ đường, có hạt rơi vào bụi gai. Dù kỹ thuật có khác, dù tiến trình canh tác có khác, người nông dân ở bất cứ thời đại nào cũng giống nhau ở chỗ họ có tinh thần lạc quan. Ðất đai có tươi tốt hay khô cằn, thiên nhiên có ngược đãi hay thuận lợi, mùa gặt tươi tốt vẫn luôn là niềm hy vọng của kẻ gieo trồng.
Chúa Giêsu dường như muốn gieo chính niềm lạc quan ấy vào tâm hồn các môn đệ khi đưa ra dụ ngôn người gieo giống: có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá sỏi, có hạt rơi vào bụi gai, nhưng kết quả của mùa gặt vẫn gấp trăm, gấp ngàn. Qua muôn thế hệ, hạt giống Nước Trời vẫn được gieo vãi: có hạt rơi vào vệ đường, sỏi đá, bụi gai của những chống đối và bách hại, hạt giống ấy vẫn nẩy mầm tươi tốt sinh nhiều bông hạt. Người môn đệ Chúa Giêsu luôn tiếp tục gieo vãi hạt giống Lời Chúa, họ luôn được mời gọi đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa và kiên trì, dù thành công hay thất bại. Trong thư 1Cor. thánh Phaolô đã diễn tả đúng tinh thần lạc quan và kiên trì của người gieo giống: "Tôi trồng, Apollô tưới, nhưng Thiên Chúa cho mọc lên".
Vệ đường, sỏi đá, bụi gai vẫn tiếp tục cản trở công việc gieo trồng, nhưng người nông dân của Nước Trời không vì thế mà bỏ cuộc. Có những gieo vãi qui mô ồ ạt, nhưng cũng có những gieo vãi âm thầm: âm thầm trong thinh lặng hằng ngày, âm thầm trong những khước từ, âm thầm trong những bách hại dưới mọi hình thức, nhưng đó vẫn là sự âm thầm cơ bản nhất trong bất cứ sự gieo vãi nào, hay nói theo Ðức Phaolô VI trong Tông huấn Loan Báo Tin Mừng: đó là một sự công bố thinh lặng Tin Mừng, nhưng rất hiệu nghiệm.
Ước gì Lời Chúa hôm nay đem lại niềm tin và lạc quan hy vọng cho chúng ta. Xin cho Lời Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín rằng những gì chúng ta gieo trong đau thương và nước mắt sẽ được trổ bông chín vàng trong mùa gặt của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Biến đổi tâm hồn
Những lời giải thích của Chúa Giêsu thức tỉnh những đồ đệ của Chúa mọi thời đại. Có bốn thái độ đối với Lời Chúa: thái độ của mảnh đất bên vệ đường, thái độ của mảnh đất sỏi đá, thái độ của mảnh đất có bụi gai, thái độ của mảnh đất tốt đón nhận hạt giống để cho hại giống sinh hoa kết quả gấp trăm, gấp sáu mươi, gấp ba mươi.
Hôm nay Thiên Chúa vẫn còn gieo vãi hạt giống Ngài xuống trần gian trong nhiều cảnh huống khác nhau. Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa đến với mỗi người chúng ta trong nhiều hoàn cảnh và Chúa gặp phải nhiều phản ứng khác nhau, Giáo Hội không ngừng mang Lời Chúa đến với con người mọi thời đại, nhưng con người đáp lại như thế nào và chính mỗi người chúng ta đây đáp lại như thế nào?
Thần dữ có thể cám dỗ làm ta lạc hướng; những thử thách, những khó khăn có thể làm ta thối chí ngã lòng; những bận tâm lo lắng chuyện trần tục, những ham muốn hưởng thụ làm cho ta quên mất Chúa và Lời Ngài. Mỗi người chúng ta cần xin Chúa biến đổi tâm hồn trở thành như đất tốt, một tâm hồn khiêm tốn quảng đại sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa và yêu mến Lời Chúa. Càng được yêu mến thì Lời Chúa mới trở nên tác động và trở nên hữu hiệu làm cho cuộc sống trở nên những hoa trái tốt.
Lạy Chúa, Ngày hôm nay Chúa vẫn còn nói với mỗi người chúng con, ngày hôm nay Chúa đến với chúng con qua chính Lời Chúa, qua lời rao giảng của Giáo Hội và qua những tiếng kêu cầu trợ giúp của anh chị em. Xin cho chúng con đừng nhắm mắt làm ngơ, đừng bịt tai giả điếc, đừng đóng kín con tim, nhưng khiêm tốn lắng nghe và quảng đại đáp trả.
Lạy Chúa, Này con đây xin hãy phán và con xin lắng nghe.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Người gieo và hạt giống
Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ đã được gieo bên vệ đường.
Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục.” (Mt. 13, 19-23)
Chúa giảng về dụ ngôn người gieo giống, nhưng hầu như chỉ chú ý đến hạt giống, dẫu rằng người gieo giống ở đây đúng là “Con Người”. Chúa đã giải thích cho biết hạt giống là Lời Chúa; Lời mặc khải những mầu nhiệm “Nước Trời”, khi con người đón nhận và gắn bó với Lời Người, thì lời thiết lập Nước Trời giữa mọi người.
Ta không áp dụng trực tiếp cho chính lời Chúa, nhưng áp dụng cho những người nghe qua hình ảnh những mảnh đất khác nhau mà hạt giống được vãi xuống. Điểm nổi cộm của dụ ngôn là những mảnh đất khác nhau: Người gieo và hạt giống không thay đổi, nhưng đất gieo không cống hiến những thành công như nhau. Tóm lại lời Chúa phải chịu số phận rủi ro, đó mới là đối tượng thực sự của dụ ngôn. Chúa đã chỉ có thể nói giản dị rằng: Hạt giống tốt và người gieo hào phóng; còn anh em, hãy làm phần còn lại là mảnh đất gieo để có chắc được mùa lúa tốt.
Nước Trời.
Vì hay nói và nói quá nhiều về Nước Trời, nên người ta không còn thấy bận tâm về chuyện này nữa. Nước Trời trở thành một sáo ngữ đạo đức, trống rỗng. Thế nhưng, chúng ta hiện là những người có trách nhiệm đối với Nước Trời. một Nước Trời không thuộc thế gian này, điều mà ta hằng nhắc nhở mình, để không làm việc luống công, hoặc không thoái thác công việc, vì Giáo Hội chúng ta là của những người nghèo.
Đúng là khi ta nói về Nước Trời, lời ấy dù vẫn là một mà đã được hiểu một cách rất khác nhau tùy như ta quan niệm này hay ta quan niệm kia, bênh vực cho nhóm này hay nhóm kia mà ta hiểu lời Chúa (Nói) về Nước Trời một cách khác nhau. Điều quan trọng ta cần biết không phải là xem chúng ta hoặc người khác thuộc về nhóm nào, mà là cách ta đón nhận Lời Chúa trong đời sống của ta ra sao.
Lời Chúa cho tất cả mọi người, và mọi người phải sống Lời Chúa.
Cùng một Lời Chúa ấy được nói cho hết thảy mọi người. Lời ấy là sức sống, là tình yêu phải được mọi người đón nhận để mà sống. Khi ta có những thái độ kỳ thị loại trừ, hoặc từ chối gieo lời Chúa trong mảnh đất này hay mảnh đất kia, chúng ta không làm giống như Đức Giêsu là người gieo yêu thương chỉ những mảnh đất phì nhiêu, nhưng trên cả những mảnh đất sỏi đá gai góc. Làm như vậy là chúng ta không muốn, không để cho Lời Chúa được nảy nở và triển vậy.
J.M
Suy Niệm 4: TRỞ NÊN THỬA ĐẤT NÀO CHO HẠT GIỐNG? (Mt 13,18-23)
Xem lại CN 15 TN A
Đức Giêsu thường dùng dụ ngôn để giảng dạy một chân lý nào đó. Tuy nhiên, dụ ngôn người gieo giống hôm nay không những được Đức Giêsu kể, mà chính Ngài còn đích thân giải thích ý nghĩa của nó. Khi giải thích dụ ngôn, Đức Giêsu nhắm vào trọng tâm các đối tượng trong việc lắng nghe Lời Chúa.
Đức Giêsu đã dùng hình ảnh các thứ đất và số phận của những hạt giống, để nói lên sứ điệp cho các môn đệ và những người nghe giảng cũng như cho mỗi chúng ta hôm nay.
Hạt giống rơi bên vệ đường, chính là ám chỉ đến những người nghe mà chẳng hiểu, hay dửng dưng với Lời Chúa, hoặc tách biệt Lời Chúa ra khỏi cuộc sống.
Hạt giống rơi vào sỏi đá là dấu hiệu của một tâm hồn nông nổi, rất vui vẻ, sẵn sàng đón nhận Lời. Nhưng không có chiều sâu nội tâm, nên khi ra khỏi nơi chốn, vị trí hay với thời gian là quên hết, họ không quan tâm lưu giữ và thực hành Lời Chúa.
Hạt rơi vào bụi gai chính là những người có quan tâm đến Lời Chúa. Nhưng họ đã để cho sự đời chèn ép, chiếm thế. Nền kinh tế thị trường đã làm cho họ không còn chú trọng đến Lời Chúa, vì Lời Chúa làm cho họ phải đi ngược dòng với con người và xã hội.
Cuối cùng là hạt rơi vào đất tốt. Ấy là những người có lựa chọn ưu tiên cho Lời Chúa chiếm vị trí quan trọng trong mọi chiều kích của cuộc đời họ. Họ để cho Lời Chúa trở thành kim chỉ nam hướng dẫn mọi hành vi, vì thế, hệ quả chính là được một vụ mùa bội thu...
Mong sao, Lời Chúa hôm nay là dịp để chúng ta xác định lại chiều kích sống đạo của mình, nhằm hiệu chỉnh trong cuộc sống. Đừng vì hình thức, vụ luật như hạt rơi bên vệ đường. Hay hời hợt, giỗng tuếch như hạt rơi vào sỏi đá. Hoặc đừng để những lợi lộc trần gian, ăn chơi trác táng mà quên phần thưởng Nước Trời như hạt rơi vào bụi gai. Nhưng hãy như thửa đất tốt để Lời Chúa trở nên phong phú và đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Sinh hoa kết quả
Suy niệm :
Dụ ngôn người gieo giống của Đức Giêsu là một dụ ngôn đầy nét hy vọng.
Nếu có một lúc nào đó người môn đệ chán nản
vì thấy có bao hạt giống được gieo vãi mà chẳng thu lại được gì,
bao điều cản trở sự lớn lên của Nước Thiên Chúa,
thì dụ ngôn này nhắc cho họ thấy rằng có những hạt lúa được bội thu.
Kết quả của những hạt lúa bội thu thì gấp nhiều hơn số lúa đã gieo vãi.
Bài Tin Mừng hôm nay là một lời giải thích dụ ngôn trên của Đức Giêsu.
“Anh em hãy nghe dụ ngôn người gieo giống” (c. 18).
Đức Giêsu mời gọi như thế với các môn đệ của thời Ngài và của mọi thời đại.
Cả bốn hạng môn đệ sắp được Ngài kể ra đều là những người đã nghe Lời.
Lời đây là lời Tin Mừng, lời giảng dạy của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa.
Lời này được ví như hạt giống mà Đức Giêsu gieo vãi trong tim môn đệ (c. 19).
Trái tim người môn đệ là một thửa đất nhận hạt giống ấy.
Chỉ có một loại hạt giống như nhau, cũng như chỉ có một người gieo.
Kết quả khác nhau là tùy vào chất lượng của đất, chất lượng của trái tim.
Có bốn loại đất, bốn loại môn đệ với tâm hồn khác nhau.
Loại đất vệ đường, đất cứng, khiến hạt giống chỉ nằm ở bên trên.
Lời Chúa chỉ được nghe suông ngoài tai, nhưng không được đón nhận vào tim.
Chính vì thế loại môn đệ này được coi là không hiểu (c. 19).
Không hiểu không phải vì trí khôn kém cỏi hay vì người truyền đạt yếu.
Không hiểu chỉ vì không muốn hiểu, lòng không muốn đón nhận.
Khi lòng không ưng thì quỷ đến và cướp mất hạt giống đã gieo.
Loại đất sỏi đá là loại đất chỉ có một lớp đất mỏng thôi.
Hạt giống được gieo thì mọc lên ngay,
nhưng vì không có rễ sâu nên chỉ sống được một thời gian ngắn (c. 21).
Loại môn đệ thứ hai này chẳng những nghe mà còn vui vẻ đón nhận ngay (c. 20).
Nhưng sự đón nhận vội vã này rất hời hợt, và niềm vui cũng không sâu.
Họ tưởng làm môn đệ chỉ gặp toàn niềm vui và an bình.
Chính vì thế khi phải trả giá để sống Lời Chúa, thì họ vấp ngã ngay và bỏ cuộc.
Loại đất có bụi gai là đất có thể làm hạt giống lớn lên thành cây,
nhưng cây lại bị gai lấn át làm chết ngạt (c. 22).
Bụi gai của loại môn đệ này là nỗi lo lắng chuyện đời và lòng ham mê giàu có.
Bụi gai nằm ngay giữa thửa đất trái tim, lớn mạnh đến nỗi làm cây lúa úa vàng.
Cuối cùng là đất tốt, đất chẳng như vệ đường, chẳng có sỏi đá hay bụi gai.
Hạt giống gặp đất tốt này thì sinh hạt, hạt được một trăm, sáu chục hay ba chục.
Loại môn đệ cuối này khác hẳn với loại thứ nhất vì nghe và hiểu Lời Chúa (c. 23).
Tuy nhiên, kết quả đem lại nhiều hay ít còn tùy mức độ mở ra của từng người.
Lời Chúa hôm nay mời ta nhìn lại thửa đất của trái tim mình.
Những cứng cỏi, những hời hợt thiếu rễ sâu, những chi phối của đam mê vật chất.
Bao hạt giống được gieo mà chưa sinh hoa trái.
Xin Chúa giúp ta dọn dẹp, cải tạo lại thửa đất của tâm hồn
để tim ta có ít chỗ cho thế gian và nhiều chỗ hơn cho Thiên Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
26/07 Ðền thờ tâm hồn
- Viết bởi Mt 13, 16-17
Ðền thờ tâm hồn.
Thứ năm tuần 16 thường niên – Thánh Gioakim và thánh Anna. Lễ nhớ.
"Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy".
* Theo một truyền thống cổ xưa, có thể vào thế kỷ 2. Thánh Gioakim và thánh Anna là song thân của Đức Trinh Nữ Maria. Lòng sùng kính thánh Anna được phổ biến ở phương Đông vào thế kỷ 6, và ở phương Tây vào thế kỷ 10.
Còn thánh Gioakim cũng được tôn kính như thế, nhưng muộn hơn, lối thế kỷ 17.
Lời Chúa: Mt 13, 16-17
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Cha Mẹ Đức Maria: Thánh Gioakim Và Anna
Trong Tin Mừng không thấy tên các Ngài. Truyền thống cho chúng ta biết cha mẹ Đức Ma-ri-a gọi tên là Gioakim và Anna.
Thánh Gioakim không được sùng kính, nhưng thánh Anna thì khác.
Sùng kính quảng đại quần chúng.
Lòng sùng kính thánh Anna rất phổ thông trên đất Mỹ Châu ngay thời kỳ di dân. Lòng sùng kính Thánh Anna có từ lâu đời ở Bretagne. Với số nhà thờ kể không xiết.
Với niềm tin mạnh mẽ, đơn sơ, đẹp đẽ của chúng ta. Chúng ta tin rằng Thánh Anna là mẹ Đức Ma-ri-a. Niềm tin đó càng dễ dàng, mạnh mẽ đón nhận vì Đức Ma-ri-a được sinh ra bởi một người cha và một bà mẹ như bao nhiêu xác phàm khác.
Đôi cha mẹ.
Dù cha mẹ Ngài có tên này hay tên khác, không cần bàn đến. Chúng ta tôn kính các Ngài chỉ vì các Ngài đã ban cho chúng ta Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Đó là lần độc nhất trong lịch sử các thánh mà chúng ta tôn kính các Ngài. Dù các Ngài không có tên trong danh sách chính thức các thánh. Công phúc độc nhất của các Ngài mà không thánh nào có được là các Ngài làm cha làm mẹ Đức Ma-ri-a.
Thật là mầu nhiệm đức tin! Thánh Anna và Gioakim không hồ nghi gì về con các Ngài lớn lên là tôi tớ khiêm nhường của Thiên Chúa, Mẹ Thiên Chúa ! các Ngài không thể đoán biết danh tiếng các Ngài sẽ vượt mọi biên giới thời gian, nhưng danh đó như hoa nở, vì các Ngài đã gieo hạt hoa hồng mầu nhiệm, gieo hạt hoa huệ tinh tuyền.
“Lạy Chúa, chúc tụng Ngài đã vinh thăng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a”.
SUY NIỆM 2: Cha mẹ tuyệt vời
(Suy niệm của Lm Nguyễn Hưng Lợi)
Cây thấy xanh tươi chưa chắc là đã tốt, nhưng phải là cây cho sinh nhiều hoa trái xinh tươi. Mẹ Maria là hoa trái quí hóa, tuyệt vời của ông bà thánh Gio-a-kim và Anna…
Dù rằng Tin Mừng không ghi lại điều gì về cha mẹ của Đức Trinh Nữ Maria, nhưng thánh truyền đã đề cập đến vai trò của hai ông bà Gio-a-kim và Anna. Ta đi ngược dòng lịch sử cứu độ để hiểu hơn vai trò của thánh Gio-a-kim và thánh Anna. Thánh Gio-a-kim và thánh Anna có thể là cầu nối giữa Cựu Ước và Tân ước, giữa Israen cũ và Israen mới. Hai vị thánh này đã được Thiên Chúa tuyển chọn, chúc phúc và ban nhiều ân huệ quí giá, qua đó, các Ngài sinh ra Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Đức Giêsu…
Tin Mừng trong thánh lễ hôm nay đề cập đến người gieo giống. Gieo giống là dấu hiệu của hy vọng. Nước Trời như mầm non đang chồi lên từ mặt đất khắp đó đây mà hạt giống ở dưới đất ta đâu có thấy được chúng, ta đâu có nghe được tiếng khi chúng đang tí tách vươn mình lên khỏi đất. Đức Hồng y Etchaygaray đã nói một câu rất chí lý:” Người ta dễ nghe tiếng cây đổ, nhưng có hàng triệu triệu hạt mầm đang tí tách vươn mình khỏi đất, nào ta có nghe được tiếng kêu. Thánh Gio-akim và thánh Anna là những cây tươi tốt, đã từng là những hạt giống tốt xinh, đã hiện diện ở cuộc đời này và sinh ra hoa trái rất tốt tươi là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Con Thiên Chúa. Quả thực, chính hạt giống là hai thánh Gio-a-kim và Anna đã chịu thối đi trong lòng đất, nên đã sinh ra hoa trái xinh tươi là Đức Giêsu Kitô.
Thánh Gio-a-kim tượng trưng cho người gia trưởng mẫu mực đạo đức, thánh thiện và luôn sẵn sàng bảo vệ, nâng đỡ bà thánh Anna, còn bà thánh Anna được tôn sùng như mẫu gương của các bà mẹ, đồng thời Hội Thánh tặng cho bà danh hiệu Mẹ của Đức Trinh Nữ Maria. Sách ngụy thư của thánh Giacôbê có ghi: “ Hai ông bà đã già mà không có con, đây là một thử thách lớn lao của hai ông bà, nhưng cuối cùng thiên thần Chúa đã hiện ra loan báo cho hai ông bà một tin vui mừng: bà sẽ thụ thai và sinh ra Đức Trinh Nữ Maria và hai ông bà đã dâng Đức Mẹ trong đền thờ cho Thiên Chúa “.
Hội Thánh đã chọn ngày 26/7 hằng năm kính nhớ hai thánh Gio-a-kim và Anna. Lòng sùng hai vị thánh này đã có từ cổ xưa và ngày nay đã lan tràn khắp thế giới.
« Lạy thánh Gioakim và thánh Anna, đôi bạn hạnh phúc, tất cả mọi tạo vật đều mang ơn các Ngài, vì nhờ các Ngài mà tạo vật đã dâng lên cho Đấng Hóa Công một lễ vật cao trọng, đó chính là Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa “ (lời cầu của thánh Đamascênô).
Xin cho mỗi người chúng con luôn noi gương bắt chứoc hai thánh Gioakim và thánh Anna luôn hết lòng tôn vinh tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa. Amen.
SUY NIỆM 3: Thánh Gioakim và Thánh Anna, Song Thân Đức Maria
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hưng Lợi)
Gia đình là nền tảng của xã hội, là Hội Thánh thu hẹp trong đó đức tin được toả sáng khắp nơi. Chính vì hiểu rõ vai trò của đời sống gia đình. Chúa Giêsu khi tới trần gian theo ý Đức Chúa Cha, Ngài cũng chọn một gia đình để sinh ra. Khi có một gia đình, có cha có mẹ, Chúa Giêsu muốn nâng cao phẩm giá của gia đình... Ngài chỉ ra rằng gia đình luôn có vai trò đặc biệt trong lịch sử cứu rỗi. Mẹ của Chúa Giêsu là Maria và Cha của Ngài là thánh Giuse. Maria cũng đã xuất thân trong một gia đình đạo đức, thánh thiện. Cha của Người là thánh Gio-a-kim và Mẹ của Người là bà thánh An-na. Hai ông bà Gioakim và Anna đã một mực tuân theo ý Chúa, một mực làm mọi sự theo khuôn mẫu của Chúa.
THÁNH GIO-A-KIM VÀ THÁNH AN-NA LUÔN TRUNG TÍN VỚI CHÚA:
Đức Maria là hoa quả của hai thánh Gioakim và thánh Anna. Cây tốt sinh trái tốt. Cha mẹ hiền lành để đức cho con. Xem quả biết cây. Tất cả những điều ấy muốn nói lên rằng Chúa luôn yêu thương những người biết tin tưởng, phó thác, cậy trông vào Ngài. Đọc lại Kinh Thánh, ta không thấy Thánh Kinh thuật lại lai lịch, và cuộc sống của hai thánh Gioakim va Anna là song thân của Mẹ Maria. Nhưng các Thánh Truyền cho ta hiểu rõ rằng hai ông bà Gioakim và Anna luôn phó thác, cậy trông và tin tưởng vào Chúa. Hai ông bà đã già nua tuổi tác mà vẫn không có con, nhưng Thiên Chúa đã yêu thương, chấp nhận lời khẩn nguyện, cầu xin của hai ông bà và cho hai ông bà cưu mang, hạ sinh người con yêu quý là Maria. Đây là hồng ân cao cả Thiên Chúa dành cho ông bà Gioakim và Anna. Cái phúc mà song thân của mẹ Maria đã lãnh nhận từ Thiên Chúa biến đổi cả cuộc đời của hai ông bà như lời Tv 23, 5 đã viết:” Các Ngài được Chúa ban phúc lành, và được Thiên Chúa cứu độ hằng xót thương”. Thiên Chúa đã chúc phúc cho hai ông bà bằng tình yêu vĩnh cửu, tình yêu không bao giờ tàn lụi, phai mờ, tình yêu hiến trọn cho người khác. Vì luôn trung tín với Thiên Chúa, hai ông bà được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt và Maria là con hai ông bà đã được Thiên Chúa cất nhắc, để ý và tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Chính nhờ phúc lành Hai ông bà lãnh nhận nơi Thiên Chúa, qua các Ngài, phúc lành ấy cũng được đổ xuống cho muôn dân, muôn nước và từng người.
NHÂN LOẠI ĐƯỢC HẠNH PHÚC:
Ngay trong ca nhập lễ, lễ hai thánh Gioakim và thánh Anna, Hội Thánh đã ca rằng: ”Chúng ta hãy ngợi khen thánh Gioakim và thánh Anna nơi con cháu các Ngài, vì qua các Ngài, Chúa đã ban phúc lành cho muôn dân“. Hai thánh Gioakim và Anna đã cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa: “Phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con, vì được nghe. Quả thực Thầy bảo các con: nhiều vị ngôn sứ và nhiều Đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe (Mt 13, 16-17). Thánh Gioakim và thánh Anna đã có phúc thật sự, các Ngài đã lãnh nhận biến cố làm Cha làm Mẹ của Đức Trinh nữ Maria như một ân sủng tuyệt vời và các Ngài đã biến giây phút ân sủng ấy như một hồng ân cứu độ mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng cho các Ngài và qua các Ngài trao ban cho nhân loại. Các Ngài hạnh phúc vì đã xem thấy những điều và đón nhận điều quí trọng vô giá mà không người nào trên trần gian đã có thể lãnh nhận: hồng ân làm mẹ làm cha của người nữ tử Sion: Maria.
Mừng lễ hai thánh Gioakim và thánh Anna, nhân loại phải biết ơn các Ngài vì qua hai Ngài mà nhân loại lãnh nhận được ơn cứu độ qua cháu của hai Ngài là Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế mà muôn dân hằng mong đợi.
Lạy Thiên Chúa là Đấng tổ phụ chúng con tôn thờ, Chúa đã ban cho thánh Gioakim và thánh Anna được diễm phúc sinh hạ Đức Maria là Thánh mẫu của Đức Kitô, Con Chúa nhập thể. Xin nhận lời hai thánh chuyển cầu cho chúng con được hưởng ơn cứu độ, Chúa đã hứa ban cho dân riêng của Chúa” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Gioakim và Anna song thân Đức Maria).
SUY NIỆM 4: Thánh Gioakim và Thánh Anna, Song Thân Đức Maria
Truyền thống cổ xưa từ thế kỷ II kể rằng song thân của Đức Trinh Nữ Maria là thánh Gioakim và thánh nữ Anna. Lòng sùng kính hai vị là hiệu quả tất yếu của lòng đạo đức các tín hữu vẫn dành cho ái nữ của các vị là Đức Maria. Đức Lêô XIII đã thiết lập một lễ kính chung thánh Gioakim và thánh nữ Anna, vì trước kia hai ngài được kính riêng, cho đến khi có cuộc canh tân phụng vụ mới đây.
Mái nhà song thân Đức Trinh Nữ.
Phúc thay thánh Gioakim và thánh nữ Anna vì người con các ngài đã sinh ra. Chúa đã ban cho các ngài phúc lành của mọi quốc gia.
Truyền thống rất cổ xưa đã lưu truyền cho chúng ta quí danh của song thân Đức Maria. Trong thời đại và những hoàn cảnh lịch sử, các ngài đã là tảng đá nền quí báu trong việc hoàn tất chương trình cứu độ nhân loại. Qua hai ngài, phúc lành Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Abraham và dòng dõi đã truyền đến chúng ta, và chúng ta được tiếp nhận Đấng Cứu Thế nhờ sự cộng tác của các ngài.
Thánh Gioan Damascene đã khẳng định chúng ta nhận biết hai đấng thánh diễm phúc này qua hoa quả của các ngài: Đức Trinh Nữ Maria là hoa quả tuyệt vời các ngài đã trao cho nhân loại. Thánh Anna cưu mang Đức Maria rất tinh tuyền vô nhiễm trong cung lòng. Ôi hài nhi rất xinh đẹp, rất khả ái! – Thánh Tiến Sĩ đã reo lên – Ôi, nữ tử của Ađam và Mẹ Thiên Chúa, phúc thay lòng đã cưu mang Mẹ! Và phúc thay cánh tay đã bồng ẵm Mẹ, đôi môi đã được đặc ân hôn yêu Mẹ… Thánh Gioakim và thánh nữ Anna đã được đặc ân chăm sóc Mẹ Thiên Chúa trong mái nhà của các ngài. Thiên Chúa chắc chắn đã trào đổ nhiều ân sủng xuống cho các ngài trong suốt thời kỳ ấy.
Thánh nữ Têrêxa Avila thường đặt các đan viện ngài thành lập dưới sự bảo trợ của thánh Giuse và thánh Anna, vì lý luận rằng: Lòng nhân lành Thiên Chúa rất lớn lao đến độ Người nhất định sẽ ưu đãi những ngôi nhà của bà ngoại tôn quí của Người. Chúng ta biết Chúa Giêsu đã xuống thế trực tiếp từ họ ngoại.
Chúng ta có thể giao phó cho song thân Mẹ Maria tất cả những nhu cầu, nhất là những nhu cầu liên quan đến đời sống thánh trong gia đình chúng ta. Chúng ta cầu nguyện trong phụng vụ thánh lễ hôm nay, Lạy Chúa là Thiên Chúa các tổ phụ của chúng con, Chúa đã ban cho hai thánh Gioakim và Anna đặc ân làm song thân của Đức Maria, Thánh Mẫu Con Nhập Thể của Chúa. Ước chi những lời cầu xin của các ngài giúp chúng con đạt được phần rỗi mà Chúa đã hứa ban cho dân Chúa. Xin giúp chúng con biết tỉnh thức vì lợi ích của những người Chúa đã ủy thác cho chúng con chăm sóc. Xin dạy chúng con biết tạo lập một sắc thái nhân đạo và siêu nhiên trong những môi trường của chúng con, những nơi chúng con dễ dàng tìm thấy Chúa, vì Chúa là mục tiêu tối hậu, là kho tàng của chúng con.
Đời sống Kitô hữu.
Theo Đức Gioan Phaolô II, thánh Gioakim và thánh nữ Anna là một cảm hứng bất tận cho cuộc sống gia đình và xã hội thường nhật. Đức Thánh Cha kêu gọi: Hãy loan truyền cho nhau, từ thế hệ này sang thế hệ khác, toàn bộ gia sản tinh thần của đời sống Kitô Giáo, gồm cả việc cầu nguyện. Đức Maria tiếp nhận từ song thân của Mẹ những gia sản truyền thống của nhà Đavít, một di sản đã được truyền tụng qua nhiều thế hệ. Ở đó, Mẹ học biết thân thưa cùng Thiên Chúa Cha bằng thái độ cung kính sâu xa. Cũng tại mái nhà ấy, Mẹ đã học biết những lời tiên tri nói về ngày đến của Đức Messiah – về nơi sinh của Con Mẹ…
Khi đến giờ phải tạo lập một mái nhà riêng cho Chúa Giêsu sinh ra đời, Đức Maria chắc chắn đã nhớ lại mái nhà của song thân. Và rồi Chúa Giêsu cũng học biết từ nơi Mẹ những cách thế để thân thưa và những lời đầy khôn ngoan mà sau đó Người đã sử dụng trong thời kỳ rao giảng. Hài nhi Giêsu đã thảo hiếu lắng nghe từ môi miệng Đức Maria những lời cầu nguyện đầu tiên, giống như những con trẻ Do Thái ngay khi vừa bập bẹ biết nói đã được nghe cha mẹ dạy cho. Đức Maria chắc hẳn là một người thầy rất mực tốt lành! Mẹ đã phản chiếu sự phong phú nơi linh hồn đầy ân sủng của Mẹ một cách dịu hiền. Chúng ta được tiếp nhận tặng ân đức tin vô giá và vô số tập tục tốt lành từ tổ tiên, những người đã giữ gìn và truyền lại cho chúng ta kho tàng quí giá ấy. Đồng thời, chúng ta cũng có bổn phận phải bảo tồn gia sản sinh động này để truyền lại cho người khác.
Hiện nay có những cuộc tấn công mãnh liệt đang chống lại các gia đình, chúng ta phải can đảm để bảo tồn di sản chúng ta đã được lãnh nhận. Chúng ta được mời gọi để làm giàu thêm những di sản ấy bằng đức tin và sự chiến đấu để sống các nhân đức nhân bản. Bổn phận chúng ta là phải làm cho Thiên Chúa hiện diện trong mái nhà của chúng ta bằng những phương thế truyền thống Kitô Giáo, chẳng hạn đọc kinh trước và sau khi dùng bữa, đọc kinh tối trong gia đình…, đọc Lời Chúa với người cao niên, đọc một lời kinh ngắn cho những người qua đời, nhắc nhớ những ý nguyện của gia đình và của Đức Thánh Cha, cùng tham dự thánh lễ Chúa Nhật, cùng lần chuỗi Mân Côi, kinh nguyện được các Đức Thánh Cha thường xuyên cổ võ cho các gia đình. Kinh Mân Côi rất phù hợp với thời biểu gia đình, kể cả những chuyến du lịch… Không cần dồn nén quá nhiều việc đạo đức trong các gia đình, tuy nhiên, phải có một số nào đó. Các bậc cha mẹ cùng cầu nguyện với con cái sẽ dễ dàng tìm thấy con đường để hiểu biết tâm hồn chúng. Hơn nữa, những người trẻ sẽ không bao giờ quên được gương sáng của cha mẹ vì đã giúp họ cầu nguyện và đến với Đức Mẹ trong những nhu cầu cần thiết. Chúng ta mang ơn cha mẹ vì các ngài đã đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu Thánh Thể… Chắc chắn, những bài học này là di sản lớn lao mà chúng ta được thừa hưởng.
Những hoàn cảnh xã hội hiện nay đòi các gia đình phải gắn bó với những niềm tin và quảng đại trong cách sống. Việc chúng ta khẳng định quyết tâm của mình sẽ rất đẹp lòng Đức Mẹ. Chúng ta quyết tâm trở nên những khí cụ liên kết các thành phần trong gia đình, nhất là qua các hành động phục vụ vui tươi và những hy sinh nhỏ mọn hằng ngày để giúp đỡ người khác. Một quyết tâm như thế sẽ đưa chúng ta đến việc cầu nguyện cho thành phần nào cần được cầu nguyện nhiều nhất trong gia đình, giúp đỡ thành viên nào yếu đuối hoặc thành viên nào đang sa sút, và đặc biệt là sống yêu thương đối với thành viên nào đang yếu bệnh hoặc gặp gian truân.
Giáo dục con cái. Việc cầu nguyện trong gia đình.
Chắc chắn hai thánh Gioakim và Anna luôn ý thức Thiên Chúa đang yêu sách ái nữ của các ngài một điều gì đó thật vĩ đại, bởi vì trẻ Maria đã biểu lộ những đặc ân tuyệt vời trên phương diện nhân bản cũng như siêu nhiên. Các ngài đã dâng ái nữ cho Thiên Chúa, như những bậc cha mẹ Do Thái thường làm. Các bậc cha mẹ củng cố tình yêu cho nhau bằng việc cầu nguyện sẽ biết tôn trọng thánh ý Thiên Chúa đối với con cái của họ. Tình yêu giữa cha mẹ càng được củng cố hơn nữa nếu như con cái họ được ơn tận hiến cho Thiên Chúa. Các bậc cha mẹ thường ước ao và kêu xin Thiên Chúa ơn này, bởi vì như thánh Josemaría Escrivá nói: Dâng con cái để phụng sự Chúa không phải là một hy sinh: đó là một vinh dự và một niềm vui, một vinh dự cao cả và một niềm vui lớn lao. Con cái sẽ nghiệm thấy vẻ đẹp của hành vi hiến dâng những năng lực của chúng cho Nước Chúa, bởi vì bằng nhiều cách, chúng đã học biết thực hiện điều ấy ngay trong nếp sống ở gia đình.
Tình yêu dẫn đến hôn nhân cũng là một con đường thánh thiện, một ơn gọi, một con đường để hiến dâng toàn diện cho Thiên Chúa. Tình yêu này phải hiệu quả và hoạt động nơi hoa trái, tức là con cái. Tình yêu chân thực sẽ biểu hiện trong việc nỗ lực dạy dỗ con cái biết sống chuyên cần, tiết độ, và có giáo dục, theo đúng ý nghĩa của từ ngữ… và trở nên những tín hữu tốt lành. Ước chi các nhân đức nhân bản được phát triển nơi gia đình: nhân cách mạnh mẽ, điều độ trong việc sử dụng vật chất, có tinh thần trách nhiệm, quảng đại, siêng năng… và ước chi mọi người đều biết tiêu dùng một cách kiệm ước, luôn nhớ đến nhiều người trên thế giới vẫn còn đang túng thiếu.
Tình yêu thương con cái đích thực sẽ đưa cha mẹ đến chỗ quan tâm chọn trường học cho con cái, bởi vì điều này ảnh hưởng đến phần rỗi của chúng. Cũng tình yêu ấy sẽ thúc đẩy cha mẹ lo tìm nơi nghỉ ngơi và giải trí lành mạnh cho con cái – thường họ phải hy sinh sở thích và quyền lợi khi tránh những môi trường có thể làm cho việc sống đạo trở nên khó khăn. Cha mẹ đừng bao giờ quên rằng mình là người quản lý một kho tàng quí báu của Thiên Chúa. Là những tín hữu, họ phải tạo lập một gia đình, nơi có Chúa Kitô hiện diện.
Hôm nay, chúng ta nài xin hai thánh Gioakim và Anna giúp chúng ta làm cho mái nhà của chúng ta trở thành một nơi dễ dàng gặp được Thiên Chúa. Chúng ta hãy cậy nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ. Đức Gioan Phaolô II đã khuyến khích: Hợp nhất cùng nhau, chúng ta hãy hướng tâm hồn về Mẹ Maria. Xin Mẹ hãy tỏ ra là Từ Mẫu của chúng ta hết thảy. Xin Mẹ hãy dâng lời cầu nguyện của chúng ta lên Chúa Kitô, Đấng đã trở nên Con của Mẹ, để Người thương tình chấp nhận.
Suy Niệm 5: Thánh Gioakim và Anna
(tgpsaigon.net)
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Thánh Gioakim và Anna, thân sinh và thân mẫu của Đức Mẹ Maria.... nói rõ và xa hơn một chút là ông ngoại bà ngoại của Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta.
Về phương diện Lịch sử, chúng ta không có một chỉ dẫn nào cụ thể, chính xác về đời sống của các Ngài. Tuy nhiên theo một ít tài liệu cổ thì chúng ta cũng thấy có một vài thông tin, tuy rất vắn nhưng cũng đủ để cho chúng ta có được những suy nghĩ liên quan đến cuộc đời của các ngài. Trong cuốn Tự Điển Các Thánh mới được ấn hành gần đây tôi đọc được những thông tin:
Trong cuốn Ngụy kinh của thánh Giacôbê người ta đọc được những lời như thế này về Thánh Anna: "Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con. Đây là một thử thách lớn cho bà và chồng bà là Gioakim. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái tên là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa".
Những chỉ dẫn này đã nói với chúng ta điều gì?
Đọc trong Cựu Ước, qua cuộc đời của những tổ phụ hay một số những bậc công chính, chúng ta có thể thấy rất rõ điều này: Hầu hết các ngài là những người bị thử thách nặng nề, nhưng các Ngài vẫn trung kiên trong thử thách, và hơn nữa các Ngài còn biết nhận ra tình thương của Chúa qua những thử thách đó, để rồi biết dâng lời cám tạ Thiên Chúa.
Chúng ta hãy nhớ lại một chút cuộc đời của Tổ phụ Abraham, tổ phụ Isaac, tổ phụ Giacob và nhất là của Giob.....rồi sau này đến bà Anna mẹ của ngôn sứ Samuen, bà Elizabeth mẹ của Gioan Baotixita vv.. tất cả đều phải trải qua những chặng đường như thế. Tôi tưởng Thánh Gioakim và Thánh Anna cũng không đi ra ngoài con đường đó. Vậy có nên chăng khi chúng ta gọi con đường này là linh đạo Chúa hướng dẫn các con cái yêu quí của Người thời xa xưa?
Đọc lại Cựu Ước chúng ta thấy quả thực chính nhờ bước vào con đường này mà các ngài đã trở thành công chính trước mặt Thiên Chúa và loài người.
Nhìn lại một chút cuộc đời của Ông Giaokim và bà Anna chúng ta cũng thấy một nét tương tự như thế. “Ông Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con” Đây là một thử thách lớn cho ông bà. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái tên là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa".
Vâng Ông Gioakim và bà Anna đã phải trải qua nhiều thử thách nhưng những thử thách đó đã không làm cho các ngài mất đi niềm tin vào Tình Thương của Thiên Chúa.
Để kết thúc một vài suy tư hôm nay tôi xin gửi đến anh chị em một câu chuyện. Câu này do Văn sĩ Marie Noel viết:
Hôm đó là ngày cuối năm, từ trời cao Thiên Chúa nhìn xuống dân gian, mắt Ngài dừng lại tại một nhà thờ đang tập trung để hát bài "Kinh Tạ Ơn". Nhà thờ không còn tháp chuông. Vị linh mục phải dùng hết sức mình khua vào tường, gõ lên mái nhà để giục giã dân chúng đến nhà thờ. Tuy là ngày mưa lạnh, thế mà nhà thờ vẫn chật ních.
Thiên Chúa nhận ra bà Têrêsa mà ngôi nhà của bà vừa bị thiêu rụi và giờ đây đang phải trú đỡ trong một túp lều lạnh lẽo. Đáng chú ý hơn là nàng Madalena mà người chồng mới bị giết trước mắt mình. Bên cạnh bà là Rosa có ba người con trai đang bị cầm tù. Kia là ông Thêôđôre mà người vợ và hai con bị chôn sống. Đây là cô Magarita trong lúc trốn chạy đã lạc mất đứa con thơ. Kia là ông Pierre, một thương binh từ mặt trận mới trở về.
Tất cả đều liên kết với nhau trong cùng một tâm tình tạ ơn vì mọi hồng ân Chúa ban xuống trong năm qua.
Từ trời cao, Thiên Chúa rất đỗi thán phục, Ngài nói với các Thiên thần:
"Thật Ta bảo thật các ngươi là những tạo vật thánh thiện. Các ngươi hãy nhìn xuống đám dân đáng thương kia. Mười hai tháng qua, họ đã phó thác cho Ta, thế mà Ta chỉ giáng xuống cho họ tai họa và kinh hoàng. Họ đã kêu xin hòa bình, vậy mà Ta đã gửi xuống chiến tranh. Họ đã xin lương thực hằng ngày, vậy mà Ta đã gửi đói khổ. Họ đã tin tưởng ký thác tổ quốc và gia đình trong tay Ta, nhưng Ta lại để cho gia đình và tổ quốc họ ra điêu linh".
Dĩ nhiên, Ta có lý do của Ta, mà những kẻ bên ngoài không thể hiểu thấu được. Loài người không thể hiểu được. Loài người không thể hiểu được những gì Ta làm. Họ phải gánh chịu mọi hậu quả, vậy mà họ vẫn ca ngợi tạ ơn như thể Ta bao bọc họ theo lời họ cầu xin. Quả thực niềm tin của họ thực lớn lao. Hỡi các thiên thần và các thánh, hãy hát lớn lên, hát để ca tụng những con người trong cơn hoạn nạn mà vẫn tiếp tục ngợi khen"
Nói xong Thiên Chúa liền cất lên: “Hỡi loài người, chúng tôi ca ngợi các ngươi”.
Và các thiên thần cùng hòa tiếng ca tụng loài người.
Lạy Chúa, xin củng cố trong chúng con niềm hy vọng. Xin cho chúng con biết kiên trì trong mọi thử thách, gian nan, đau khổ. Và giữa những vất vả lao nhọc của cuộc đời, xin cho chúng con tìm thấy được niềm vui và nhận ra được thánh ý của Chúa để lúc nào môi miệng chúng con cũng tràn ngập những lời ca tụng tạ ơn. Lạy Thánh Gioakim và thánh Anna xin phù trợ chúng con. Amen.
25/07 Chén đắng theo Chúa
- Viết bởi Mt 20, 20-28
Chén đắng theo Chúa.
Thứ tư tuần 16 thường niên – THÁNH GIACÔBÊ, TÔNG ĐỒ. Lễ kính.
"Các con sẽ uống chén của Ta".
* Giacôbê là con ông Dêbêđê, là anh của thánh Gioan và là bạn của thánh Phêrô. Đây là những người dân chài ở hồ Ghen-nê-xa-rét đã đi theo tiếng gọi của ông Gioan Tẩy Giả trước khi theo Đức Giêsu, làm môn đệ của Người. Thánh Giacôbê đã có mặt trong hầu hết các phép lạ Chúa Giêsu làm, nhất là khi Chúa hiển dung trên núi và khi Người hấp hối ở vườn Cây Dầu. Vua Hêrôđê Ácríppa I cho chém đầu thánh nhân khoảng năm 43 hoặc 44. Thánh nhân được đặc biệt tôn kính ở Compốttela (Tây Ban Nha), nơi có một thánh đường danh tiếng kính người.
Lời Chúa: Mt 20, 20-28
Khi ấy, bà mẹ các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Chúa Giêsu. Bà sấp mình xuống lạy Người, có ý xin Người điều chi đó. Người hỏi: "Bà muốn gì?" Bà ta thưa lại: "Xin Ngài hãy truyền cho hai con tôi đây được ngồi một đứa bên hữu, một đứa bên tả Ngài, trong Nước Ngài".
Chúa Giêsu đáp lại: "Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén mà ít nữa đây ta sắp uống chăng?" Họ nói với Người: "Thưa được". Người bảo họ: "Vậy các ngươi sẽ uống chén của Ta, còn việc ngồi bên hữu hay bên tả, thì không thuộc quyền Ta ban, nhưng Cha Ta đã chuẩn bị cho ai thì người ấy mới được". Nghe vậy, mười người kia tỏ ra bất bình với hai anh em.
Chúa Giêsu gọi họ lại mà bảo: "Các con biết thủ lãnh của các dân tộc thì thống trị họ và những người làm lớn thì hành quyền trên họ. Giữa các con thì không được thế. Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Hạt giống rơi xuống đất có thối đi...
Giacôbê, vị thánh mà Giáo Hội kính nhớ hôm nay là con ông Giêbêđê và bà Salomê và là anh của thánh Gioan tông đồ. Người ta quen gọi thánh Giacôbê Tiền để phân biệt với thánh Giacôbê, giám mục đầu tiên của Giêrusalem, được gọi là Giacôbê Hậu, kính ngày 03/5 cùng với thánh Philipphê.
Giacôbê và Gioan là hai anh em được Chúa Giêsu kêu gọi sau khi Ngài đã chiêu mộ hai anh em Phêrô và Anrê. Phúc Âm thánh Matthêu thuật lại: Hai anh em ông được Chúa gọi ở bờ hồ Genezareth, trong lúc đang ở trong thuyền vá lưới với cha. Ðược Chúa gọi, hai ông bỏ thuyền và người cha để theo Chúa ngay lập tức. Ðiều này chứng tỏ lòng hăng hái nhiệt thành của hai anh em, nên hai người được Ngài cho biệt hiệu là "con cái của sấm chớp" như chúng ta thấy xảy ra ít là trong hai trường hợp sau đây:
Trường hợp thứ nhất khi người xứ Samaria ngăn cản không cho Chúa Giêsu và đoàn môn đệ đi qua lãnh thổ của họ để tiến về Giêrusalem, hai anh em Giacôbê đã hỏi Thầy: "Thưa Thầy, Thầy có bằng lòng để chúng tôi khiến lửa trên trời xuống thiêu hủy họ không?".
Sau đó, trong chuyến đi Giêrusalem lần cuối cùng, cả hai đã đến xin ngồi bên phải và bên trái Thầy, khi Chúa Giêsu sẽ thống trị trong vinh quang. Và khi không hiểu hoàn toàn ý nghĩa câu hỏi của Chúa: "Anh em có uống được chén Ta sẽ uống không?", hai ông đã nhất quyết thưa: "Chúng tôi uống được". Vì thế, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, như các môn đệ khác, Giacôbê cũng can đảm làm chứng những điều mắt thấy tai nghe về Thầy Giêsu, dầu bị cầm tù, đòn vọt, nhưng đã vui mừng vì được đau khổ vì Chúa Giêsu.
Năm 42, vua Hêrôđê, cháu của Hêrôđê cả, người đã âm mưu giết con trẻ Giêsu, đã bách hại một số thủ lĩnh của các tín hữu Kitô, trong số đó có cả thánh Giacôbê, như sách Tông Ðồ Công Vụ ghi: "Cùng thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay bắt bớ và làm khổ mấy người trong Giáo Hội, vua đã truyền chém ông Giacôbê, anh của ông Gioan. Thấy điều này làm vừa lòng người Do Thái, ông lại bắt cả ông Phêrô nữa".
Với nguồn tin này, chúng ta biết thánh Giacôbê là vị tông đồ đầu tiên đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin của mình.
Trong thời nội chiến 1936-1939 tại Tây Ban Nha, các quân phiến loạn đốt nhà thờ, nhà thương, tu viện và giết hại nhiều linh mục cũng như nữ tu. Ngày nọ, một vị linh mục già nua bị phiến quân bắt và bị kết án tử hình. Khi bị trói và dẫn đến trước mặt đội lính hành quyết, cha nói với tên trưởng toán: "Xin anh làm ơn cắt dây trói này, để tôi có thể giơ tay chúc lành cho anh và xin Thiên Chúa cũng tha thứ và chúc lành cho các anh".
Lịch sử ghi nhận đa số các tông đồ đã kết thúc cuộc đời chứng tá cho niềm tn bằng những cái chết đau thương, khởi đầu cho những lớp người chứng tá khác trải qua bao thế hệ. Và cũng như vị linh mục trong câu chuyện trên, hàng trăm, hàng ngàn chứng nhân của niềm tin vẫn còn đang bị giam cầm, tra vấn, đày đọa vì niềm tin. Họ chấp nhận những khổ hình một cách bình thản, không oán hận, trái lại, noi gương Chúa Giêsu, họ sẵn sàng tha thứ cho những ngươi làm khổ họ.
"Hạt giống rơi xuống đất có mục nát và chết đi, mới nảy mầm và phát sinh hoa trái". Không gì minh chứng hùng hồn cho lời tuyên bố này của Chúa Giêsu bằng những cuộc sống chứng tá của các tín hữu Kitô đang chịu đau khổ, giam cầm và tử hình vì niềm tin.
Tử đạo là một ơn gọi đặc biệt, nhưng mọi tín hữu Kitô đều được kêu gọi dâng những ốm đau, bệnh tật, những hy sinh nho nhỏ hằng ngày để cầu cho Nước Cha được trị đến.
SUY NIỆM 2: Thánh Giacôbê Tông Đồ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Đọc lại ơn gọi của các thánh tông đồ, nhân loại không khỏi ngạc nhiên vì tính cách huyền nhiệm và diệu kỳ của Thiên Chúa trên từng con người, trên từng cá nhân. Tin Mừng của thánh Matthêu viết: ”Đang đi dọc theo biển hồ Galilê, Chúa Giêsu thấy ông Giacôbê, con ông Dê-bê-đê, và ngươi em là ông Gio-an, cả hai đang vá lưới” (Mt 4,18.21).
ƠN GỌI CỦA THÁNH GIACÔBÊ:
Chúa muốn gọi ai là tùy ý Chúa, không ai có quyền buộc Chúa phải làm thế này, phải làm thế khác. Ơn gọi là một ơn huệ nhưng không của Chúa. Thánh Giacôbê là anh của thánh Gioan, con của ông Dêbêđê. Thánh nhân là bạn đồng nghiệp với thánh Phêrô và thánh Anrê, tất cả đều làm nghề chài lưới và là những tay chài thiện nghệ. Các Ngài đã làm nghề cổ truyền này từ đời cha ông và nay họ vẫn tiếp tục sống bằng nghề đánh cá ở biển hồ Giênêsarét. Thánh Matthêu đã tường thuật lại việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên như sau:” Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simon, cũng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: ”Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo người. Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4,18-22). Tin Mừng nói: Chúa gọi và lập tức họ bỏ tất cả mà theo Chúa Giêsu. Đó là một sự lạ lùng vì chỉ một tiếng gọi, các môn đệ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Giacôbê dù rằng có bị mang tiếng vì bà mẹ của hai người con ông Dêbêđê đã suy nghĩ theo ý trần gian xin cho một ông ngồi bên tả, một ông ngồi bên hữu Chúa trong vương quốc của Ngài, nhưng với sự tác động của Chúa Thánh Thần và với sự thay đổi của ơn Chúa, thánh Giacôbê và thánh Gioan đã hy sinh đến giọt máu cuối cùng để làm chứng cho Chúa.
THÁNH GIACÔBÊ TRỞ THÀNH NGƯỜI THÂN THIẾT CỦA CHÚA:
Được Chúa yêu thương, cải hóa, biến đổi, thánh Giacôbê đã trở nên người thân cận của Chúa, cùng với thánh Phêrô và thánh Gioan. Thánh nhân đã được chứng kiến con ông Zairô Chúa làm cho sống lại, việc chúa biến hình trên núi Tabôrê, và cơn hấp hối của Chúa Giêsu trong vườn cây dầu. Tất cả những điều đó nói lên con người đặc biệt và vô cùng thân tín của Ngài đối với Chúa Giêsu. Chính vì được yêu mến tin tưởng, thánh Giacôbê đã được phước trở thành người tử đạo tông đồ đầu tiên đã đổ máu ra để minh chứng cho Chúa Giêsu phục sinh dưới thời vua Hêrôđê Agrippa I năm 43 hoặc 44 trước lễ phục sinh. Chúa đã trao chén đắng cho Ngài và Ngài đã chấp nhận uống chén đắng Thầy trao. Chúa đã thưởng công và trao mũ triều thiên cho Ngài. Thánh nhân đã được tôn kính đặc biệt trên thế giới từ thế kỷ IX và lòng tôn kính thánh nhân toả lan khắp thế giới.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã ban cho thánh Giacôbê vinh dự là tông đồ đầu tiên đã chết để làm chứng cho Tin Mừng. Xin cho Hội Thánh tìm được sức mạnh nhờ gương tử đạo của thánh nhân, và nhờ Người cầu thay nguyện giúp, Hội Thánh được luôn nâng đỡ phù trì (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Giacô-bê tông đồ).
SUY NIỆM 3: Không được như vậy
Suy niệm :
Xem ra chức quyền vẫn là nỗi thèm thuồng của con người.
Từ những cuộc xung đột giữa con người sống bầy đàn thời nguyên thủy,
đến cảnh chiếu trên, chiếu dưới ở làng xã
và cảnh chạy chức chạy quyền thời bây giờ.
Ngay các môn đệ thân cận của Thầy Giêsu là Nhóm Mười Hai
cũng không thoát khỏi sức hút của quyền lực.
Họ đã từng cãi nhau xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời (Mt 18, 1).
Bây giờ, ngay sau khi Thầy Giêsu loan báo lần thứ ba về cuộc Khổ Nạn,
họ lại có chuyện xích mích với nhau cũng về chuyện chức quyền.
Hai con ông Dêbêđê là hai môn đệ được Đức Giêsu yêu quý hơn.
Chẳng rõ có phải vì thế mà họ nuôi tham vọng
chiếm được chỗ hai bên tả hữu của Thầy trong Nước Thầy (x. Mt 19, 28).
Họ khéo léo nhờ mẹ của mình xin Thầy Giêsu ban cho ơn lớn đó (cc. 20-21).
Đức Giêsu chắc không vui vì môn đệ vẫn chưa được giải thoát khỏi cái trần tục,
“Các người không biết các người xin gì !” (c. 22).
Các môn đệ quá xa lạ với nẻo đường Thầy sắp đi,
dù Thầy vừa mới cho họ biết con đường ấy,
con đường bị chế diễu, bị đánh đòn và bị đóng đinh cho đến chết (Mt 20, 18-19).
Trong khi hai môn đệ thân tín còn loay hoay với những tham vọng thế gian
thì Ngài kéo họ vào hiệp thông với cuộc Khổ nạn gần đến của mình.
Thầy Giêsu mời họ chia sẻ với Thầy cùng một chén đắng:
“Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” (c. 22).
“Thưa uống nổi”, đó là câu trả lời đầy tự tin và mạnh dạn của Giacôbê,
Và ông đã thực hiện lời hứa này bằng cái chết (x. Cv 12, 2).
Nhưng Thầy cũng khiêm tốn cho biết Cha mới có quyền sắp chỗ ngồi (c. 23).
Sự bực tức của mười môn đệ kia khi câu chuyện vỡ lở
cho thấy họ cũng thích được ngồi hai bên tả hữu, tuy không tiện nói ra (c. 24).
Thầy Giêsu cho thấy cách sử dụng quyền lực của các nhà lãnh đạo ngoài đời.
Quyền lực là để thống trị người dân, tìm cách bành trướng cái tôi của mình.
Thầy Giêsu khẳng định dứt khoát không có chuyện đó trong Giáo hội của Thầy.
“Giữa anh em thì không được làm như vậy” (c. 26).
Quyền lực và phẩm trật trong Giáo hội là để phục vụ dân Thiên Chúa.
Những người làm lớn, làm đầu trong Giáo hội
lại là người hầu bàn, người tôi tớ, noi gương Đức Giêsu, Người Tôi Trung.
Chính Ngài đã đưa việc phục vụ đến mức cao nhất là hy sinh tính mạng (c. 28).
Cơn cám dỗ về quyền uy, chức tước là cám dỗ muôn thuở cho mọi người.
Các cộng đoàn Kitô hữu cứ phải xét mình mãi
để khỏi rơi vào thói đời mà Đức Giêsu đã long trọng cảnh báo.
Cầu nguyện :
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 3: Thánh Giacôbê Tông Đồ
(Phụng vụ chư Thánh)
1. Thân thế của Giacôbê:
Giacôbê là con của ông Dêbêđê và bà Salômê, anh của thánh Gioan Tông Đồ; sống nghề chài lưới ở biển Giênêgiaréth, bạn chài với Phêrô và Andrê. Tin Mừng thường nhắc đến hai anh em Giacôbê và Gioan Tông Đồ nhiều lần.
Họ thuộc nhóm những môn đệ tâm giao của Chúa Giêsu (cùng với Phêrô và Gioan). Các ngài được chứng kiến: Việc Chúa cho con gái ông Giairô sống lại // Sự hiển dung của Chúa ở đồi Thabor // Lúc Chúa cầu nguyện ở vườn Cây Dầu.
Giacôbê là người đầu tiên trong Nhóm Mười Hai đã lấy máu đào của mình làm chứng cho Chúa Giêsu: vua Hêrôđê Antipa đã ra lệnh chặt đầu ngài vào năm 44 (Cv 12,2; Mt 20,22-23). Như thế ứng nghiệm lời Chúa tiên báo cho ông: “ông đã thông chia chén của Chúa”.
2. Tính tình của Giacôbê: Giacôbê được gọi là vị Tông Đồ cao vọng (Mt 20,20).
Giacôbê được Chúa gọi là “con của thiên lôi”, điều này cho thấy rằng ông là con người nóng nảy và cuồng nhiệt đến thế nào. Quả vậy, phản ứng của ông đối với các dân thành Samaria đã giải thích điều đó. Khi Chúa qua con đường Samaria để về Giêrusalem, dọc đường những người Samaria đã từ chối không đón tiếp Chúa, Giacôbê đã đế nghị với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống mà tiêu diệt chúng không?” (Lc 9,54).
Cao vọng của Giacôbê còn được thể hiện qua sự việc bà Salômê, là mẹ của ông, đã thỉnh cầu Chúa Giêsu cho Giacôbê và Gioan rằng: “Xin Ngài truyền lệnh cho các con tôi đây được ngồi một đứa bên tả, một đứa bên hữu Ngài trong Nước của Ngài” (Mt 20,21).
Cao vọng của người mẹ truyền sang cho người con đến độ người mẹ không xin thì con cũng tự xin. Bằng chứng là Márcô kể lại câu chuyện thỉnh nguyện này mà không nhắc đến người mẹ, nhưng chỉ kể Giacôbê và Gioan tự miệng nói ra câu ấy (Mc 10,37).
Tuy Giacôbê có cao vọng như vậy, nhưng Chúa vẫn chọn ông và tín nhiệm ông, và Người đã hoán cải ông. Chúa hoán cải các môn đệ:
Bằng đời sống gương mẫu của ngài: Chúa Giêsu rửa chân cho các Tông Đồ và Người bảo các Tông Đồ hãy rửa chân cho nhau, vì “Ai muốn làm lớn trong anh em, thì hãy hầu hạ anh em” (Mt 20,27).
Bằng cái chết của Người: con Người đến để thí mạng sống mình hầu làm giá chuộc thay cho nhiều người (Mt 20,28). Các Tông Đồ đã lần lượt chịu tử đạo để theo gương Chúa.
3. Nhận thức và áp dụng:
Thánh Giacôbê thuộc giới thợ thuyền làm nghề chài lưới vất vả; đàng khác lại có tham vọng đi ngược với vai trò và tinh thần của người tông đồ, nhưng Chúa Giêsu vẫn gọi và chọn ông đi theo Chúa và làm Tông Đồ cho Chúa. Điều này chứng tỏ ơn thánh của Chúa Kitô quả có sức làm biến đổi tâm hồn và cuộc sống của Giacôbê đến độ ông đã hiến mình trọn vẹn cho Chúa.
Noi gương thánh Giacôbê: người tông đồ không nên tự ty mặc cảm về những hèn kém của mình, nhưng tin tưởng vào tình thương và sức mạnh của ơn Chúa để hiến thân trọn vẹn cho Chúa.
Đi theo Chúa, Giacôbê vẫn còn có những tham vọng phàm trần, song nhờ sự giáo huấn của Chúa và nhất là gương sống của Chúa đã khiến ông từ bỏ mọi sự và từ bỏ chính bản thân mình để hiến mình cho Chúa cách trọn vẹn.
Người tông đồ cần lắng nghe lời Chúa để đón nhận những giáo huấn của Chúa; đồng thời phải biết chiêm ngắm gương sống của Chúa để noi gương bắt chước sống trọn vẹn cho Chúa.
Giacôbê được Chúa dành riêng trong nhóm những người thận cận của Chúa để được chứng kiến những sự việc cần thiết cho sứ mạng làm chứng nhân trong vai trò người Tông Đồ.
Những ai được mời gọi sống đời thánh hiến, cũng được tuyển chọn riêng trong thời gian tu luyện để tìm gặp Chúa, đến với Chúa, ở lại với Chúa và để được biến đổi trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa, hầu có thể chu toàn sứ vụ tông đồ của mình.
SUY NIỆM 4: Thánh Giacôbê Tông Đồ
(Giuse Đinh Thành Đạt SDB)
Thánh Giacôbê, con ông Giêbêdê và bà Salomê, là anh của thánh Gioan và bà con với Chúa Giêsu. Người ta gọi Ngài là thánh Giacôbê Tiền, để phân biệt với thánh Giacôbê hậu, cũng là một tông đồ và làm giám mục Giêrusalem.
Thánh nhân cùng với em là Gioan được kêu gọi làm tông đồ trong khi họ đang chài lưới bên bờ biển Galilê (Mc 1,19-20). Cũng theo Tin Mừng của Marcô thì Giacôbê là một trong bốn môn đệ được Chúa gọi đầu tiên tại biển hồ Galilêa (Mc 1, 16-20). Trong những biến cố quan trọng của cuộc đời Đức Giêsu, vị Tông đồ này luôn có mặt, ông đã chứng kiến phép lạ Chúa chữa nhạc mẫu Phêrô khỏi bệnh (Mt 1, 29-31), con gái ông Giairô sống lại (Mc 5, 37-43), Chúa biến hình trên núi (Mc 9,2-8), và lúc chúa Giêsu hấp hối ở vười Gietsimani (Mt 26,37). Hai anh em Giacôbê và Gioan được Chúa đặt cho một biệt hiệu khá "kêu" là: "Boanergès" có nghĩa là con sấm sét (Mc 3,17). Chắc cũng vì cá tính của Giacôbê hơi nóng nảy khi cùng với Chúa Giêsu đi vào làng Samari và dân làng không đón tiếp. Thấy vậy, Giacôbê và Gioan cùng đề nghị với Chúa rằng: "Thưa thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không?" (Lc 9, 54)."
Đã có những phút giây Giacôbê vì yếu đuối như các tông đồ khác, như khi ngủ vùi khi Chúa Giêsu trải qua cơn hấp hối hay như việc ông trốn chạy trước cuộc khổ nạn của Thầy. Tuy nhiên, sau khi gặp gỡ Đấng phục sinh, nhất là sau ngày lễ Hiện Xuống, Giacôbê đã thực hiện lời hứa của Ngài, trở thành vị tông đồ đầu tiên lấy máu đào làm chứng đức tin và tình mến của mình vào thế kỷ II. Theo sách Công vụ kể lại thì có thể Thánh Giacôbê chịu tử đạo dưới thời vua Hêrôđê Agrippa I, vào cuối thế kỷ thứ II, khoảng năm 44: "Thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội thánh. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê là anh ông Gioan" (Cv 12,1-2). Đây là thời kỳ bách hại các Kitô hữu rất dữ dội, trong suốt ba thế kỷ đầu và chỉ tạm lắng xuống sau sắc chỉ Milan của hòang đế Constantianop vào năm 313.
Quả thực, khi xin Chúa Giêsu cho được ngồi bên hữu và bên tả của Ngài, Giacôbê đã được Chúa báo trước cuộc tử đạo mà những ai muốn theo Chúa phải đón nhận. Chén đắng cùng với mũ triều thiên vinh quang trong nước trời. Bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu đã làm sáng tỏ chén đắng mà Chúa Giêsu uống, khi Người trao lại cho thánh nhân, và Giacôbê sẵng sàng đón nhận: "Ngay từ phút đầu tiên, Người đã cháy lửa nhiệt tình, và trong sự khinh chê lạ thường các lợi lộc trần gian, Người đã tiến tới đỉnh cao đến độ tức thời bị đem đi giết” (trích bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu trong bài đọc giờ Kinh sách). Giáo hội phương tây mừng kính Ngài từ thế kỷ thứ VIII. Các Giáo hội theo nghi lễ Copte và Byzantin thì mừng lễ Ngài sớm hơn vào một ngày gần lễ Phục sinh.
SUY NIỆM 5: Thánh Giacôbê Tông Đồ
(Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý)
Thánh Giacôbê, con ông Giêbêdê và bà Salomê, là anh của thánh Gioan và bà con với Chúa Giêsu. Người ta gọi ngài là thánh Giacôbê tiền, để phân biệt với thánh Giacôbê hậu, cũng là một tông đồ và làm Giám mục Giêrusalem. Gọi là "tiền" vì ngài được gọi trước hay vì ngài cao lớn hơn, nhất là vì ngài lớn tuổi hơn.
Thánh nhân cùng với em là Gioan được kêu gọi làm tông đồ trong khi họ đang chài lưới bên bờ biển Galilê (Mc 1,19-20). Trong tường thuật này, chúng ta thấy gia đình ông Giêbêđê xem như cũng khá giả và có thuê những người làm công.
Kể từ khi bỏ cha mẹ, chài lưới và những người làm công, anh em Giacôbê và Gioan luôn sát cánh bên Chúa. Họ chia sẻ với Người nếp sống "con cáo có hang, con chim có tổ, con người không có chỗ dựa đầu" và trong những buổi tiệc vui như ở Cana (Ga 2,1). Trong cộng đoàn tông đồ, Giacôbê luôn giữ một chỗ đứng quan trọng sau Phêrô. Bởi vậy ngài được vào số ba môn đệ trong các biến cố phục sinh cho con gái Giarô (Mc 5,37) biến hình (Mc 9,2) và hấp hối ở Gethsemani (Mc 14,33).
Giacôbê hẳn phải hiểu rõ đặc ân của mình và ông đã đáp trả bằng một nhiệt tình cũng đặc biệt. Một lần qua Samaria, ông đã bất mãn vì dân làng không tiếp đón Chúa Giêsu một cách nồng hậu. Ông phát biểu: -Thưa Ngài, Ngài có muốn chúng tôi khiến lửa từ trời giáng xuống mà tiêu diệt chúng không?
Nhiệt tình của ông giống như Êlia. Nhưng Chúa Giêsu lại sửa sai tính nóng nảy ấy của ông: -Các ngươi không biết các ngươi ứng theo thần khí nào (Lc 9,52-56). Và người đặt cho Giacôbê và Gioan biệt danh là Boanerghê, nghĩa là con cái của sấm sét (Mc 3,17).
Dĩ nhiên là con người, khi theo Chúa Giêsu, các ông vẫn còn những yếu đuối, khi nghe loan báo về cuộc hoàn thành sứ mạng sắp tới, Giacôbê và em ông không ngần ngại thưa: - Xin cho chúng tôi được ngồi, một người bên hữu, một người bên tả, trong vinh quang của thầy.
Không hứa sẽ thỏa mãn ước vọng của họ, Chúa Giêsu đã chỉ hỏi: -Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?
Một lần nữa, các ông bày tỏ nhiệt tình của mình: - Thưa được (Mt 20,20-23; Mc 10,35-40).
Đã có những phút giây Giacôbê vì yếu đuối như các tông đồ khác, như khi ngủ vùi khi Chúa Giêsu trải qua cơn hấp hối hay như việc ông trốn chạy trước cuộc khổ nạn của Thầy. Tuy nhiên, sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh, nhất là sau ngày lễ Hiện Xuống, Giacôbê đã thực hiện lời hứa của ngài. Ngài sẵn sàng chịu chết dưới lưỡi gươm theo lệnh truyền của Hêrôđê Agrippa (Cv 12,2), có lẽ vào năm 42. Thế là Giacôbê đã trở thành vị tông đồ đầu tiên lấy máu đào làm chứng đức tin và tình mến của mình vào thế kỷ II, Clêmentê thành Alexandria đã làm chứng rằng, chính kẻ tố cáo thánh nhân lại được ngài cải hóa và lãnh phúc tử đạo cùng lúc với ngài.
Truyền thống cho rằng Giacôbê đã mang Tin Mừng đến Tây Ban Nha. Tuy nhiên điều này không được chứng thực rõ ràng. Lần đầu tiên truyền thống này được viết ra vào thế kỷ VII, dựa vào nguồn Hy lạp không đáng tin. Một thế kỷ sau, khi một ngôi sao chỉ cho thấy ngôi mộ của thánh Giacôbê, niềm tin của quần chúng bắt đầu lan rộng.
Nơi hành hương ở Compostella (có lẽ bởi chữ Campustella : cánh đồng sao) là trung tâm rất nổi tiếng dầu chúng ta tin rằng thánh Giacôbê có đi Tây Ban Nha đi nữa thì cũng không thể nói được rằng nơi đây có di tích của thánh nhân.
SUY NIỆM 6: Sức mạnh của Thiên Chúa hoạt động trong sự yếu đuối của con người.
(Lm Anthony Đinh Minh Tiên, OP)
Con người bị bao vây bởi những yếu đuối về thể xác cũng như tinh thần: về thể xác: nghèo đói, bệnh tật, nguy hiểm, chết chóc; về tinh thần: ghen ghét, hận thù, tội lỗi. Tuy thế, lịch sử Giáo Hội không ngừng chứng minh: sức mạnh của Thiên Chúa hoạt động nơi những con người yếu đuối. Ví dụ: Phêrô chối Chúa 3 lần thành người điều khiển Giáo Hội, Phaolô nhiệt thành bắt bớ Đạo thành người nhiệt thành rao truyền Đạo, Augustino một thanh niên chơi bời hư hỏng thành thánh Giám-mục loan truyền tình yêu và sự khôn ngoan của Thiên Chúa ...
Các Bài Đọc hôm nay muốn làm sáng tỏ tư tưởng Thiên Chúa hoạt động trong sự yếu đuối và tội lỗi của con người. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô so sánh sức mạnh của Thiên Chúa như kho tàng chứa đựng trong bình sành là thân xác yếu đuối và tội lỗi của con người. Trong Phúc Âm, vì ham muốn quyền bính và địa vị, người mẹ của Giacôbê và Gioan xin với Chúa Giêsu cho hai con mình được một đứa ngồi bên phải và một đứa ngồi bên trái trong vương quốc của Ngài. Điều này gây sự ghen tị và chia rẽ trong hàng ngũ các môn đệ. Chúa Giêsu gọi các ông lại và chỉ dạy các ông con đường lãnh đạo: hy sinh chịu gian khổ và phục vụ mọi người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em.
1.1/ Kho tàng chứa đựng trong bình sành: Kho tàng là các hồng ân của Thiên Chúa và sức mạnh của Đức Kitô. Một sự phân tích những tư tưởng sau cho chúng ta thấy kho tàng của Thiên Chúa chứa đựng trong bình sành là thân xác yếu đuối của con người:
+ Bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp: Phaolô phải chịu bao áp lực nhưng ông vẫn có thể tìm cách thoát ra. Ví dụ: khi bị giam hãm trong lao tù, ông vẫn có thể cầu nguyện và kết hiệp với Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa muốn, Ngài vẫn có cách để giải thoát ông nhiều lần.
+ Bị hoang mang, nhưng không tuyệt vọng: Nhiều lần trong đời, Phaolô cũng như chúng ta hoang mang không biết đâu là thánh ý Chúa để theo. Thánh Gioan Thánh Giá gọi đây là "những đêm tăm tối," khi chúng ta không cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa; nhưng chúng ta vẫn dùng đức tin để vượt qua và tiến tới. Khi đã trải qua rồi, chúng ta nhìn lại và nhận ra sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa.
+ Bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi: Người môn đệ của Đức Kitô sẽ bị người đời ngược đãi: nói hành, bôi nhọ, bắt bớ, tù đày... vì họ không sống theo tiêu chuẩn và đường lối của thế gian; nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi họ. Ngài hứa sẽ ở cùng các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế, và Thánh Thần sẽ giúp họ biết phải nói gì và làm gì khi bị thế gian ngược đãi.
+ Bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt: Phaolô cũng như các tín hữu đã nhiều lần bị quật ngã: hoặc cách thể lý như bị ngược đãi bởi người đời, hoặc cách tâm linh như những lúc sa ngã phạm tội. Nhưng với sức mạnh và ơn thánh của Chúa, họ lại trỗi dậy, giao hòa với Chúa, và tiếp tục phấn đấu cho đến hơi thở cuối cùng.
Hiểu như thế, cuộc đời mỗi tín hữu là cuộc đời luôn vác thánh giá theo chân Đức Kitô, như Phaolô diễn tả: "Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi."
1.2/ Sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em: Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Đức Kitô là người đi tiên phong mở đường cứu độ bằng cách mặc lấy thân xác yếu đuối của con người để rao truyền Tin Mừng, để huấn luyện các môn đệ trước khi sai đi, và hy sinh chịu gian khổ để chuộc tội cho con người.
Noi gương Đức Kitô, Phaolô và các môn đệ cũng đi theo con đường đó: Các ông được sai đi rao giảng Tin Mừng, thu thập và huấn luyện các môn đệ để tiếp tục sai đi, và cũng phải hy sinh chịu gian khổ để làm chứng cho Đức Kitô và cho Tin Mừng được lan rộng khắp nơi. Các môn đệ dám hy sinh tất cả cho dẫu phải đổ máu vì các ông biết rằng: "Đấng đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy cũng sẽ làm cho các ông được trỗi dậy với Chúa Giêsu, và đặt các ông bên hữu Người."
Các tín hữu sau khi đã nhận được đức tin từ Phaolô và các môn đệ lại tiếp tục tiến trình đó, và cứ như vậy cho đến ngày Đức Kitô trở lại. Nếu tất cả đều trung thành với sứ vụ của mình và làm chứng cho Đức Kitô, toàn thế giới sẽ được nghe Tin Mừng và trở thành những môn đệ của Ngài. Lúc đó Nước Chúa sẽ trị đến, như Phaolô hy vọng: "Như thế, ân sủng càng dồi dào, thì càng có đông người hơn dâng lên Thiên Chúa muôn ngàn lời cảm tạ, để tôn vinh Người."
2/ Phúc Âm: Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em.
2.1/ Tính mỏng giòn yếu đuối của con người:
(1) Lòng ham muốn địa vị: "Bấy giờ bà mẹ của các con ông Zebedee đến gặp Đức Giêsu, có các con bà đi theo; bà bái lạy và kêu xin Người một điều. Người hỏi bà: "Bà muốn gì?" Bà thưa: "Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy."
Có sự khác biệt giữa hai trình thuật giữa Marcô và Matthew về biến cố này: Theo trình thuật của Marcô, chính hai anh em yêu cầu điều này với Chúa Giêsu. Theo trình thuật của Matthew, lời yêu cầu được làm qua người mẹ. Dù sao chăng nữa, đây cũng là điều yếu đuối rất thường xảy ra nơi con người: ai cũng mong được hơn người, có quyền hành và địa vị, và được người khác kính nể, phục vụ. Hai anh em không ngại đi theo Chúa, nhưng đi theo để đạt mục đích trần thế của mình.
(2) Lòng ghen tị khi thấy người khác hơn mình: "Nghe vậy, mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó." Điều này cũng là yếu đuối con người nữa: Dưới mắt các ông, chỉ có hai chỗ cao trọng nhất mà hai anh em nhà Zebedee đã giành, còn mình ngồi đâu? Hơn nữa, hai anh em cùng với Phêrô, thường được coi là những người "thân tín" của Chúa!
2.2/ Sự khôn ngoan của Thiên Chúa:
(1) Lãnh đạo bằng hy sinh chịu đựng gian khổ: Đức Giêsu bảo họ: "Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?" Họ đáp: "Thưa uống nổi."
Đức Giêsu bảo: "Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được." Lịch sử chứng minh Giacôbê cũng uống chén đắng của Chúa bằng việc tử đạo tại Jerusalem (Acts 12:1-2), và Gioan uống chén đắng bằng cách sống trung thành với Đức Kitô cho đến tuổi già.
(2) Lãnh đạo bằng khiêm nhường phục vụ tha nhân: Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: "Anh em biết thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy. Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta đừng bao giờ nản chí khi phải đương đầu với yếu đuối của thân xác và sa ngã của linh hồn, vì sức mạnh của Thiên Chúa vẫn đang hoạt động trong chúng ta.
- Chúng ta phải sống theo chỉ đạo và đường lối của Thiên Chúa: lãnh đạo bằng hy sinh và phục vụ. Đừng sống theo tiêu chuẩn và đường lối của thế gian để đòi danh vọng và chức quyền.
- 24/07 Làm theo Ý Cha trên trời
- 23/07 Dấu lạ Giô-na
- 22/07 Động lòng thương đàn chiên
- 21/07 Người tôi tớ hiền lành và khiêm tốn
- 20/07 Con Người là chủ ngày Sabbat
- 19/07 Ách của Ta êm ái
- 18/07 Mạc khải cho kẻ bé mọn
- 17/07 Đón nhận và sám hối
- 16/07 Phần thưởng môn đệ Chúa
- 15/07 Chúa sai đi LOAN BÁO TIN MỪNG