Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
20/06 Đạo đức thực sự vì Chúa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Đạo đức thực sự vì Chúa.
Thứ Tư tuần 11 thường niên.
"Cha ngươi Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi".
Lời Chúa: Mt. 6, 1-6, 16-18
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không, các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời.
Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Các việc đạo đức
Tại nhiều nơi, cứ vào mùa tranh cử, người ta lại dễ dàng nhìn thấy những bảng hiệu ghi ơn dân biểu này, nghị sĩ nọ, hoặc loan báo những công trình xây dựng của các nhân vật chính trị. Dĩ nhiên, ai cũng hiểu đó là những vận động gián tiếp, những hứa hẹn với dân chúng để hy vọng được bầu vào những chức vụ công quyền. Tâm thức và lối hành xử thường tình của con người là như thế đó: làm việc tốt để kể công, để được trọng vọng, khen thưởng. Người Kitô hữu cũng dễ bị cám dỗ để có tinh thần khoe khoang kể công như trên vào đời sống đạo đức.
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Môsê, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quý, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia. Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa hơn là để được người đời khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác.
Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta đề phòng thứ đạo đức vụ hình thức. Nhưng việc đạo đức tự nó rất ích lợi cho bản thân, cho tha nhân và đáng được Thiên Chúa ban thưởng, với điều kiện chúng được thực hiện với ý ngay lành. Chúng ta cần thực hành các việc lành với ý hướng này, vì đó là lẽ sống, là niềm vui và là động lực cho cuộc đời hy sinh phục vụ của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Đừng phô trương
“Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng.” (Mt. 6, 1)
Hãy nhìn tôi đây
Tất cả chúng ta đều nhìn nhận rằng những cách cư xử như vậy mà Chúa muốn chúng ta chấp nhận, đều là tuyệt hảo. Bố thí không khua chiêng đánh trống, cầu nguyện không để cho ai thấy, ăn chay không làm bộ rầu rĩ, ta muốn cho mọi người hành động như thế, và ta muốn mình cũng làm như vậy. Nhưng thực ra không phải dễ dàng đâu. Trong ta, mỗi người đều có một chút riêng tư, thực tế khó mà dứt ra được.
Ta thích cho người khác nhìn thấy việc tốt ta làm, cũng là thích phô trương những khía cạnh tốt của ta. Người ta phô trương mình, cũng là vì ý tốt và hàu như vô tình thôi.
Khi người khác có dụng ý khoe khoang, tìm những cử chỉ hợp thời để làm nổi bật mình, ta rất tinh để nhận ra điều đó. Lẽ nào ta lại không tinh tường đủ để nhận ra chính mình cũng mắc chứng tật đó khi tìm dịp để đặt mình lên bục cao sao?
Ta hãy nhớ lại chỉ trong một tuần lễ thôi, biết bao lần ta đã làm hết sức để cho người ta khen ta là dễ thương, quảng đại và hay giúp đỡ. Có lẽ những lần đó nhiều hơn ta tưởng.
Hãy để chính Thiên Chúa nhìn ta!
Thiên Chúa yêu thích những con người đơn sơ, khiêm tốn và kín đáo. Những kẻ thích làm ngôi sao nhỏ”, đối với Chúa thường chỉ là những người kiêu ngạo lớn. Khi ta thu xếp để người chung quanh ca ngợi ta, thì Thiên Chúa nhắm mắt lại. hoặc nhìn đi nơi khác.
Thiên Chúa chỉ đoái nhìn và xót thương những ai không tìm cách làm cho người ta nhìn mình.
Suy Niệm 3: Ý định và cách thức thể hiện
“Sống như kẻ công chính” có nghĩa, vào thời Chúa Giêsu, là trung thành với ba việc làm căn bản của đời sống tôn giáo: bố thí, kinh nguyện và chay tịnh. Một cách mặc nhiên Chúa Giêsu nói: các việc làm này quan trọng, và vì thế phải tránh đừng làm giảm giá chúng. Phải thực thi chúng không phải “trước mặt người ta”, nhưng trước mặt Thiên Chúa.
Một đàng con người có thể xác; vì vậy, thật là hợp lý khi thân xác được liên kết với cách thức diễn tả của đời sống thiêng liêng, tôn giáo. Điều này đưa đến những cử chỉ bên ngoài, có thể xem thấy được, thuộc về thể xác.
Người ta gọi là những việc làm. Đàng khác, thân xác là phương thế, là trung gian, là điểm tựa cho những tương quan xã hội. Những sinh hoạt thể xác, trông thấy được không thể là dửng dưng, nhưng được xem xét, lượng giá. Vì thế các việc làm tôn giáo là đối tượng của xem xét và lượng giá. Chúa Giêsu đề phòng chúng ta khỏi việc sử dụng những việc làm tôn giáo để lôi kéo sự xét đoán nịnh bợ và đánh giá khen ngợi của những kẻ trông thấy.
Phải làm gì? Hãy làm sao cho các việc làm này bớt tính cách thể xác, bớt dễ dàng cho người ta xem thấy tới mức tối đa. Vấn đề không phải là phát động một tôn giáo thoát xác và hoàn toàn bên trong. Bố thí, cử chỉ có tính cách vật chất; kinh nguyện đi đôi với thân xác; chay tịnh, kiêng cử thể xác. Tất cả những cái đó đều tốt và nên thực hành cách trung tín. Nhưng còn cách thức thực hiện: phải làm sao cho những việc làm có sự tham dự của thể xác và có thể thấy được, bớt tính cách phô trương. Phải làm cho chúng trở nên kín đáo tới mức tối đa, và hãy luôn ước muốn chỉ một mình Thiên Chúa xét đoán thôi. Tóm lại Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu điều này: đời sống tôn giáo là một việc làm giữa chúng ta và Thiên Chúa; vì thế điều hệ trọng là cái nhìn của Thiên Chúa trên ta, một cái nhìn thấu suốt được mọi bí nhiệm. Dùng những việc làm tôn giáo để được nhân loại tán dương thay vì muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa, là sự giả hình ghê tởm nhất. Ngày nay chúng ta có thể thêm: khinh dể bố thí, kinh nguyện, chay tịnh mà Chúa Giêsu đã làm gương thi hành, và lớn tiếng tuyên bố cổ võ một Phúc Âm giải thoát nhưng rỗng tuếch nhựa sống, điều này cũng là một sự giả hình không kém.
Việc từ bỏ mình của tôi, mà Thiên Chúa biết có tỏa rạng niềm vui không?
Suy Niệm 4: Đừng cầu danh
Một thi sĩ người Anh, ngoài tài làm thơ ông còn có năng khiếu về âm nhạc. Thi sĩ thường cùng với nhóm thân hữu họp để ngâm thơ và hòa nhạc. Một đêm nọ, lúc đang trên đường tới dự một buổi hòa nhạc, thi sĩ đã gặp một chiếc xe ngựa đang bị sa lầy, trên xe hàng hóa chất đầy, tài xế thì già yếu và con ngựa lại gầy còm. Không chút ngần ngại, ông đã bỏ cây đàn sang một bên, dỡ số hàng hóa trên xe xuống, đẩy xe qua khỏi vũng lầy và chất hàng hóa lên xe trở lại. Ông còn tặng thêm cho bác tài xế ít tiền nhỏ để mua thức ăn cho con ngựa. Xong xuôi công việc thì trời đã về khuya và bộ đồ dạ hội đã vấy bùn. Tuy nhiên, ông vẫn đến nơi hẹn, lúc ông đến nơi thì buổi hòa nhạc đã gần tàn, một người bạn nói với ông: “Nhà thơ của chúng ta đã lỡ mất một buổi hòa nhạc tuyệt vời”. Thi sĩ vui vẻ mỉm cười và đáp: “Vâng! đúng thế. Tuy nhiên, bù lại tôi đã tấu được khúc nhạc khác tuyệt vời hơn nhiều”.
Mỗi công việc đều đem lại một kết quả, kết quả đem lại cho con người hài lòng thì nó là phần thưởng. Đối với nhóm bạn bè thân hữu của thi sĩ thì công việc của ông làm đã hạ thấp giá trị người nghệ sĩ, ông bỏ mất phần thưởng giá trị để lao mình vào chuyện không đâu. Riêng đối với nhà thơ thì khác, qua công việc bác ái vừa làm, ông đã tấu được những khúc nhạc tuyệt vời. Vậy đâu là giá trị, là phần thưởng của công việc. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta phương thế để tìm kiếm và chọn lựa.
Thật thế, bố thí, cầu nguyện và ăn chay là ba nét chính yếu trong đời sống đạo của người Do thái, vì chúng diễn tả đến ba mối tương quan của con người. Có thể gọi “bố thí” là sự liên hệ đối với người khác, “cầu nguyện” là trao đổi, trò chuyện cùng Thiên Chúa và “ăn chay” là công việc liên quan đến chính bản thân mình.
Trong đời sống đạo chẳng thể bỏ qua ba công việc này, chúng rất cần thiết, vì đó là hình thức diễn đạt của con người hữu hình. Một tinh thần chịu sự lệ thuộc của thân xác, hình thức bên ngoài để bộc lộ bên trong. Tuy nhiên, cũng vì hình thức bên ngoài mà việc làm lại mang những ý nghĩa khác nhau, vì có người lợi dụng chiếc vỏ hình thức này để che giấu hoặc phô bày những khuyết điểm, nghĩa là thái độ giả hình. Thái độ giả hình này đã bị Chúa Giêsu thẳng thắn kết án. Những hạng người giả hình này, họ cũng bố thí, ăn chay, cầu nguyện, nhưng tựu trung chỉ để phô diễn cái tôi của họ để rồi đánh mất giá trị đích thực của công việc. Giá trị ít khi đi chung đường, và chính giá trị này sẽ hủy diệt giá trị kia.
Giữa Thiên Chúa và thế gian đã có một cách biệt rõ ràng; nếu chỉ tìm kiếm những giá trị trần gian thì con người khó lòng vươn tới được giá trị ở trong Thiên Chúa: “Họ đã được thưởng công rồi”. Lời nói nhẹ nhàng của Chúa Giêsu cũng là một tuyên bố dứt khoát đối với những ai mải mê chạy theo các giá trị trần thế, và dù người ta có muốn quay về với giá trị đích thực thì giấc mộng phù du cũng đã cản lối quay về.
Bố thí là một lời yêu thương nghĩ đến người khác, nhưng nếu bố thí chỉ muốn làm thỏa mãn cái tôi của mình thì làm sao thấy được kẻ khác. Cầu nguyện hướng về Thiên Chúa, thế mà chỉ quy về bản thân thì làm sao còn chỗ cho Thiên Chúa, còn biết Ngài ở đâu để trò chuyện. Ăn chay là một đền bù cho những gì sai lỗi, khiếm khuyết. Ăn chay được diễn tả như một khao khát được Thiên Chúa lấp đầy, thế nhưng nếu con người đã no thỏa với chính mình thì họ đâu cần đến Thiên Chúa. Đã tìm thấy giá trị nơi bản thân mình nên con người đánh mất giá trị quý báu do công việc đem lại.
Bởi thế, lời dạy của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay luôn là lời hướng dẫn cho người Kitô hữu khi hành động, không chỉ trong các việc làm căn bản của đời sống đạo, mà cả đến mọi công việc làm trong đời sống hằng ngày của con người. Công việc chỉ có giá trị khi người Kitô hữu biết nhìn công việc bằng ánh mắt của Đức Kitô, biết phân tích theo những tiêu chuẩn thẩm định của Thiên Chúa. Có thể người đời cho là thấp kém hoặc không ai biết đến. Tuy nhiên, Thiên Chúa Đấng thấu suốt mọi điều, Ngài sẽ thưởng công cho cách tràn đầy.
Lạy Chúa, trước một công việc chúng con làm, xin Chúa sáng soi để chúng con có thể khám phá được đâu là giá trị thực và xin giúp sức để chúng con quyết tâm theo đuổi giá trị ấy. Vì thân xác chúng con thật yếu đuối, vẻ hào nhoáng bên ngoài vẫn luôn là miếng mồi quyến rũ kéo chúng con lạc đường lối của Chúa. Xin Chúa cho chúng con biết chấp nhận những tầm thường để đổi lấy những giá trị cao cả của Nước Trời. Amen.
Suy Niệm 5: KHIÊM NHƯỜNG THÌ MỚI CÓ ÍCH ( Mt 6, 1-6. 16-18)
Xem lại Thứ Tư lễ Tro.
Ngày nọ, có một người đến nói với cha xứ: “Con sẵn sàng dâng cúng tiền để mua một quả chuông cho Giáo xứ, nhưng với điều kiện, phải khắc tên con trên quả chuông ấy!”.
Đây là thực trạng của rất nhiều người biểu lộ niềm tin của mình cách thực dụng như thế!
Sẵn sàng giúp đỡ, nhưng không thể thành hiện thực khi không được nêu danh tánh và công trạng của mình cách công khai!
Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng khuyên răn các môn đệ của Ngài phải cẩn trọng trong việc thi hành đức bác ái, kẻo lỡ trở thành “công dã tràng” tức là tốn công vô ích. Ngài dạy cho các ông khi làm việc thiện, hãy làm vì lòng mến và tinh thần vô vị lợi. Không cần phô trương để người đời biết mà ca tụng. Nếu muốn được biểu dương thì hẳn đã được phần thưởng do người phàm tán tụng rồi, và như một quy luật: đã được người đời thưởng công thì không được Thiên Chúa chúc phúc nữa.
Vậy, cùng một việc bác ái, khi thi hành, chúng ta muốn được phần thưởng muôn đời do Thiên Chúa ban tặng hay chỉ muốn phần thưởng tạm bợ, nhất thời, mau qua chóng hết do con người trao tặng?
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cùng nhau làm một bài toán hầu tính ra sự hơn thiệt để mà tiến bước. Tuy nhiên, đáp án chỉ có khi chúng ta kết thúc cuộc sống trần thế này, và lúc ấy, phần thưởng được trao ban khi và chỉ khi chúng ta làm việc thiện với lòng tin, cậy trông và lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con tinh thần của Chúa và giúp chúng con thi hành vì yêu mến Chúa và anh chị em, để mọi hành động, mọi việc làm của chúng con đều xuất phát từ tấm lòng khiêm cung và tràn đầy yêu thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Đấng thấu suốt những gì kín đáo
Suy niệm :
“Đã mang tiếng ở trong trời đất,
phải có danh gì với núi sông.”
Danh tiếng để lại cho đời là điều khiến nhiều người bận tâm.
Có người hiến mình để làm những công trình lớn lao để lại cho hậu thế.
Nhưng cũng có người rơi vào thói háo danh,
làm mọi sự chỉ để tìm cho mình chút tiếng khen mau qua.
Trong Bài Giảng trên núi mà ta nghe hôm nay,
Đức Giêsu tố giác thói háo danh của những người đạo đức giả,
khi họ làm ba việc đạo đức căn bản là bố thí, cầu nguyện, ăn chay.
Ngài cũng cho thấy cách sống đạo của người môn đệ.
Làm các việc đạo đức để tìm tiếng khen, là một cám dỗ có thật.
Có người thổi kèn trong hội đường hay ngoài phố khi bố thí.
Có người thích đứng cầu nguyện tại giữa ngã ba đường.
Có người có mang bộ mặt thiểu não khi ăn chay.
Tất cả chỉ nhằm thu hút sự chú ý của nhiều người khác,
chỉ nhằm “cho người ta thấy”, “để người ta khen” (cc. 1. 2. 5. 16).
Họ làm những việc tốt lành, nhưng lại tìm mình, co quắp trên chính mình,
trong khi lẽ ra những việc này phải mở họ ra trước Thiên Chúa.
Đối với Đức Giêsu, được người ta khen là nhận được phần thưởng rồi,
nên cũng chẳng được Cha trên trời ban thưởng nữa (c. 1).
Họ được phần thưởng mau qua của người đời,
nhưng mất phần thưởng trọng hậu trong ngày sau hết.
Đức Giêsu mời các môn đệ đi vào cái kín đáo, thầm lặng,
nơi đó không có con mắt của người đời, không có tiếng khen chê.
Nơi đó kín đến mức tay trái không biết việc tay phải làm.
Nơi đó là căn phòng đóng cửa, để chỉ có Cha và anh gặp gỡ.
Cha là Đấng hiện diện ở nơi kín đáo (cc. 6. 18).
Cha cũng là Đấng thấy những gì được làm ở nơi kín đáo (cc. 4. 6. 18).
Cha thấy anh đã bố thí, cầu nguyện, ăn chay cách thầm lặng.
Chính Cha sẽ ban thưởng cho anh.
“Hữu xạ tự nhiên hương” có thể là một hình ảnh đẹp về người Kitô hữu.
Đời Kitô hữu là cuộc đời kín đáo thầm lặng, như bị che khuất.
Nhưng cũng là cuộc đời không che giấu được trước mắt mọi người.
Chính khi cái tốt được làm một cách vô cầu, thì nó lại tỏa ngát hương.
Không hẳn là chúng ta luôn luôn phải cầu nguyện trong phòng đóng cửa.
Cũng như không hẳn chúng ta phải tô son đánh phấn khi ăn chay.
Nhưng điều quan trọng là chúng ta làm mọi sự cho vinh danh Chúa.
Cầu nguyện :
Ngày lại ngày, lạy Thiên Chúa,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan,
hai tay cung kính, lạy Thiên Chúa muôn loài,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Dưới bầu trời bao la,
trong cô đơn và thầm lặng,
với tấm lòng thanh tịnh,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Trong thế giới ồn ào vì nhọc nhằn,
huyên náo vì đấu tranh,
giữa đám đông hối hả lăng xăng,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Và khi đã hoàn tất việc đời,
lạy Thiên Chúa muôn loài,
một mình, lặng lẽ,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan. Amen.
(R. Tagore, Đỗ Khánh Hoan dịch)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
19/06 Yêu thương kẻ thù, để nên trọn lành
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Yêu thương kẻ thù, để nên trọn lành.
Thứ Ba tuần 11 thường niên.
"Các ngươi hãy yêu thương thù địch".
Lời Chúa: Mt. 5, 43-48
Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy: "Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù". Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con: để như vậy các con nên con cái Cha các con, Đấng ngự trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương.
Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm thế ư? Nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người ngoại giáo không làm như thế ư?
Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Yêu thương kẻ thù
Sau hơn 50 ngày bị bắt làm con tin và bị sút gần 20 ký vì sống trong thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần, một nhà truyền giáo nọ đã bình tĩnh trả lời câu hỏi của các phóng viên về những gì mình đang suy tính trong lòng: "Tôi vẫn yêu mến đất nước và dân tộc đó, như ngày tôi mới đến truyền giáo cách đây 40 năm. Tôi đã tha thứ cho những kẻ bắt giữ và hành hạ tôi. Tôi muốn nói với họ rằng tôi không có gì thù ghét họ, nhưng vẫn yêu thương và sẵn sàng trở lại đó làm việc mục vụ".
Những lời dạy của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, cũng không mập mờ, không nhượng bộ hay chiều theo khuynh hướng tự nhiên của con người muốn giới hạn tình yêu của mình đối với tha nhân.
"Hãy yêu mến anh em mình", mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi 19,18. Những "anh em" được nhắc đến ở đây chỉ những kẻ thân thuộc, đồng hương, thuộc về dân riêng của Chúa. Còn câu: "Hãy ghét kẻ thù địch" thì chúng ta không gặp thấy công thức nào tương tự như vậy trong Kinh Thánh. Những lời này có thể hiểu như một diễn tả tự nhiên của tâm lý thường tình nơi con người, một hậu quả của tình yêu thương có giới hạn trong khung cảnh những kẻ thân thuộc, những người thuộc về cùng một dân tộc, một xã hội. Theo tâm thức hạn hẹp của Cựu Ước, bất cứ ai không thuộc về Dân Chúa chọn, thì người đó là kẻ xa lạn, là kẻ thù địch, không được yêu thương.
Chúa Giêsu đã đến để mạc khải sứ điệp trọn hảo hơn, bẻ gẫy những giới hạn tự nhiên: "Còn Thầy, Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con". Chúng ta chú ý đến hai chi tiết trong lời dạy của Chúa Giêsu: thứ nhất: không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Chúa và sự phân chia con người ra làm hai loại: thân thuộc và thù địch không còn nữa. Thứ hai: Tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động cụ thể, và quan trọng nhất, đó là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ không tự nhiên được chúng ta yêu thương, và đây không còn là tình yêu thương theo tình cảm, mà là tình yêu thương thực sự hướng đến lợi ích của người khác.
Nhưng tại sao phải yêu thương như vậy? Bởi vì chính chúng ta là con cái của Thiên Chúa và do đó phải noi gương trọn lành của Ngài, Ðấng cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người lành.
Xin Chúa đổ tràn trên chúng ta tình thương của Chúa, để chúng ta được giải thoát khỏi tình yêu hạn hẹp, có tính toán, mà quảng đại yêu thương tất cả mọi người, ngay cả kẻ chống đối và có ác cảm với chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Tha thứ, được! Yêu thương, không!
“Anh em đã nghe luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo thật anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt. 5, 43-44)
Yêu như Chúa Cha yêu thương
Yêu thương kẻ thù của ta. Yêu thương những ai làm ta thất vọng, làm tổn thương, phản bội và bầm dập ta. Yêu thương những ai không còn yêu ta nữa. Yêu thương những kẻ đã làm hư hỏng đời ta. Yêu như thế đó. Và đúng là Chúa đòi hỏi ta nhiều lắm. Chúng ta sẽ dám nói là quá nhiều nữa.
Không phải chúng ta chống lại việc yêu kẻ thù. Ta còn cảm thấy rõ rằng nếu có thể yêu tới mức đó mới thật là đẹp. Hãy yêu thương như Chúa Giêsu và Cha Người yêu thương chúng ta. Yêu thương đối lại với tất cả. Yêu thương bất chấp tất cả. Được như vậy, quả là tuyệt vời. Nhưng có thể được không? Có vừa sức ta không? Ta có thể đi tới đó được không?
Ta có thể cố gắng tha thứ cho kẻ đã làm khổ ta, có thể không tìm ác để trả ác. Nhưng yêu thù địch của ta, lại là một chuyện. Nếu Thiên Chúa có thế làm được điều này, thì ta có thể làm được không?
Tha thứ, chính là yêu thương nhiều
Khi tự thâm tâm, ta nói với người đã nhẫntâm làm khổ ta rằng: “Tôi tha thứ cho nó. Tôi sẽ cố gắng quên đi phần nào”; và ngay cả khi có nói thêm rằng: “Nhưng yêu hắn nữa, thì tôi không có thể!” … ấy là lúc ta đang đặt chân trên đường lành rồi. Chúng ta đã hành động như Thiên Chúa ước mong, bởi vì thực lòng tha thứ, chính là đã tỏ ra yêu thương nhiều.
Có những tình yêu sẽ không bao giờ tái sinh. Có những con người đã gần gũi với ta ngày nào và rồi có thể không gần cận nữa. Đó chính là những cảnh nghiệt ngã của cuộc sống mà thường thường ta không thể cưỡng lại được. Thế nên mỗi khi ta trục xuất hận thù ra khỏi lòng ta, mỗi khi ta không mong ước điều xấu cho người đã làm ta tan nát, mỗi khi ta muốn thành tâm cầu nguyện cho họ, là ta đang có đôi nét giống Cha. Và Cha vui thích nhìn ta khi không khép kín cửa lòng như vậy.
Suy Niệm 3: Yêu là một sự tham dự
Nhiều đoạn trong bài giảng Trên Núi làm chúng ta ngạc nhiên về lối diễn tả nghịch lý, và đặc biệt đoạn này: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ làm khổ ngươi. Đây là điều gây vấp phạm nặng cho những khuynh hướng tự nhiên của chúng ta. Nhưng đâu là ý nghĩa đích thực của những lời này? Thật khó mà xác định ý nghĩa cách mạnh mẽ, và nhất là phải tránh làm giảm giá chúng với ý định làm cho chúng trở nên dễ chấp nhận hơn. Tuy nhiên chúng ta có thể đưa ra một vài suy tư sau đây:
Danh từ ‘thù địch’ thời Chúa Giêsu có nghĩa trước nhất là đối thủ và kẻ bắt bớ dân thánh. Cũng có thể là kẻ xa lạ với dân được lựa chọn. Chính trong nghĩa này mà dư luận Do thái thời bấy giờ áp dụng cho từ ngữ Chúa Giêsu nhắc đến: Hãy ghét thù địch. Hơn nữa, cần nhớ là chữ “ghét” không phải luôn luôn có nghĩa mạnh như chúng ta thường hiểu. “Ghét” có thể là: từ chối mọi liên lạc, ruồng bỏ, xa lánh. Chẳng hạn các tư tế và Lêvi thành Giêrusalem xem những người xứ Samaria là “thù địch”; điều này cắt nghĩa thái độ của thầy tư tế và Lêvi trong dụ ngôn đã bỏ rơi người xứ Samaria với số phận của họ.
Trên bình diện thứ nhất này Chúa Giêsu phán, và Ngài phán điều đó với Giáo Hội của Ngài hôm nay: hãy yêu thương thù địch, kẻ bách hại và cầu nguyện cho họ, vì Cha trên trời cũng muốn họ được rỗi.
Trên bình diện thực tế hơn, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta vượt mọi hiềm khích. Người Kitô hữu không những phải tránh mọi tình cảm ghen ghét và thù hằn, mà còn phải mong muốn biến cải kẻ thù mình thành bạn hữu. Nếu thực tế đôi khi rất khó thực hiện, thì ít là bên trong tâm hồn mình điều đó phải được thực hiện. Nghị lực con người sẽ không đủ. Người Kitô hữu thành công được là người múc lấy sức mạnh trong tình yêu và gương sáng của Chúa Kitô.
Phải nhớ rằng hiềm khích không hẳn là một sự kiện như những sự kiện khác. Hậu quả trực tiếp của nó là Thập Giá Chúa Kitô, Thập Giá mà chúng ta tham dự vào. Cách thức chúng ta vượt thắng hiềm khích tùy thuộc cách thức chúng ta tham dự vào Thập Giá Chúa Kitô. Nếu chúng ta chấp nhận điều đó, chúng ta sẽ yêu thương thù địch vì, với Đức Kitô trên Thập Giá, chúng ta hoạt động cho sự cứu rỗi của họ.
Tôi đã dùng sự đau khổ của tôi cho kẻ nào làm khổ tôi chưa?
Suy Niệm 4: Các con hãy nên trọn lành
Nữ tu Antoinette vẫn thường nhắc đến bệnh nhân già khó tính nhất trong bệnh viện, gặp ai ông cũng nhăn nhó nạt nộ. Có chuyện gì khó chịu một chút là ông la lớn, rùm beng lên. Ngày kia, đang lúc mải mê phục vụ các bệnh nhân, nữ tu Antoinette đã nghe thấy tiếng bệnh nhân già đó hét lên: “Đem cho tôi quả trứng”. Nữ tu Antoinette vui vẻ đem đến, nhưng bệnh nhân già lại nhăn nhó: “Trứng chưa chín đủ mà lại mang cho tôi ăn à?”, và nữ tu Antoinette vui vẻ mang trứng đi luộc lại. Nhưng rồi bệnh nhân lại kiếm lý do khác để gây phiền hà đến nữ tu: “Luộc trứng chín quá, tôi không ăn nổi đâu. Tôi muốn trứng khác”.
Nữ tu Antoinette không biết làm sao, chị bèn có sáng kiến chế một lò nấu nhỏ kê ở bên giường ông, và trao cho ông một quả trứng để chính ông có thể nấu lấy theo sở thích của ông. Người bệnh nhân thấy thế lại nổi giận hơn nữa. Ông đạp đổ bếp, quẳng trứng xuống sàn nhà và quát lớn: “Tôi là bệnh nhân mà đi luộc trứng à!”. Nữ tu Antoinette chẳng nói nửa lời, chỉ biết thinh lặng cúi xuống thu sạch và quét dọn. Lát sau, nữ tu đem đến cho bệnh nhân khó tính ấy một quả trứng khác và nhẹ nhàng nói với bệnh nhân: “Ông hãy dùng thử quả trứng này, tôi luộc vừa chín mà thôi”. Thái độ của nữ tu Antoinette đã làm cho bệnh nhân cảm động và lập bập nói: “Cám ơn nữ tu. Tôi ăn trứng này và cũng ăn cả lòng tốt của nữ tu nữa. Xin nữ tu tha thứ cho tôi”.
Tình thương bác ái phải được trải dài trong mọi giây phút, mọi hành động của cuộc sống. Tình thương đó luôn bị thử thách bởi những thái độ nghi kỵ, đối nghịch, khắt khe, khó tính, thiếu cảm thông của những người sống xung quanh ta. Khi phải đối diện với những người không thích mình, không hòa hợp, thông cảm với mình; thay vì đối đầu trả đũa thì ta hãy tự vấn mình xem có phải vì những tật xấu, những khuyết điểm của mình đã khơi dậy thái độ đối nghịch hay không? Có thể đôi khi chúng ta là thủ phạm đã gây nên những sự chống đối với người khác mà chúng ta lại không hay biết. Cách sống, cách suy tư, cách hành động của ta không phù hợp với những cách thức của anh em, hay cả những xúc phạm đến những anh em chung quanh mà chính mình không hay biết. Chính vì thế mà ta cần phải kiểm điểm lại đời sống của mình luôn, để đừng khơi dậy những ngăn cách với người khác.
Nhưng, cũng có những trường hợp ta bị đối xử oan ức, bị ghét bỏ cách bất công vì niềm tin của mình vào Chúa. Lúc đó chúng ta không còn gì khác đáp lại hơn là cầu nguyện xin Chúa thêm sức mạnh, để ta có thể tha thứ và yêu thương họ đến cùng như Chúa muốn. Và chúng ta cũng đừng bỏ cuộc, không rút lại điều tốt ta đang thực hiện như nữ tu Antoinette trong câu chuyện kể trên: “Phúc cho kẻ bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ”. Tình yêu thương kiên trì của ta chắc chắn sẽ không trở thành vô ích, nhưng sẽ cảm hóa được người làm phiền lòng ta vào lúc chỉ có Chúa biết mà thôi. Phần ta, ta chỉ cần biết một điều là: “Hãy yêu thương cho đến cùng”.
Tác giả tập sách “Đường Hy Vọng” đã chia sẻ như sau: “Bác ái là tu đức liên lỉ. Tu miệng lưỡi, tu quả tim, tu lỗ tai, tu con mắt, tu lá gan, tu bộ óc. Tất cả con người con vùng vẫy, nhưng con phải yêu thương như Chúa Giêsu”. Hãy lấy một tờ giấy và bình tĩnh viết trên đó đức tính của người con bất bình, con sẽ thấy họ không hoàn toàn xấu như con nghĩ từ đầu: “Tôi không muốn biết, không muốn nhớ quá khứ của anh em tôi. Tôi chỉ muốn biết hiện tại của anh em để thương nhau, giúp đỡ nhau và biết tương lai để tin nhau, để khuyến khích nhau”.
Sống bổn phận hiện tại không phải là thụ động, nhưng là liên lỉ canh tân, quyết định chọn Chúa hay chối từ, và tìm Nước Chúa là tin tưởng ở tình yêu vô bờ bến của Ngài, là hành động với tất cả hăng say. Đó là việc làm thể hiện đức mến Chúa và yêu người ngay trong giây phút hiện tại. Đó là những lời khuyến khích đầy kinh nghiệm giúp mỗi người chúng ta sống sứ điệp Phúc Âm của Chúa xác thực hơn, hiệu quả hơn.
Đặc biệt Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho mỗi người chúng ta rằng: “Con hãy yêu thương kẻ thù nghịch và làm ơn cho kẻ ghét con. Hãy cầu nguyện cho tất cả những ai bắt bớ và nguyền rủa con, để các con trở nên giống Cha, Đấng ngự trên trời. Ngài làm ơn cho người lành, kẻ dữ và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương. Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo”.
Mỗi người Kitô hữu phải như tấm kính phản chiếu sự trọn lành tình yêu của Thiên Chúa Cha. Noi theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô, mỗi ngày cuộc sống của chúng ta phải chiếu sáng hơn để anh chị em xung quanh có thể nhìn thấy mà ngợi khen tình thương Thiên Chúa trên trời.
Lạy Chúa, trên Thập Giá Chúa đã nêu gương tha thứ cho những kẻ giết Chúa. Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong tim con, để con mỗi ngày được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng. Amen.
Suy Niệm 5: Như Cha trên trời
Bí tích Thánh Tẩy làm chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa.
Nhưng bí tích Thánh Tẩy không phải chỉ là bí tích để lãnh nhận,
mà còn là bí tích để sống.
Trở nên con cái Thiên Chúa là tiến trình dài một đời người.
Kitô hữu trở nên con Cha trên trời nhờ bí tích Thánh Tẩy,
và cũng nhờ cố gắng liên tục sống như Cha của mình.
Thiếu cố gắng này, người ta chỉ còn là Kitô hữu có tên trong sổ Rửa tội.
Bài Tin Mừng hôm nay thật là đỉnh cao của Kitô giáo.
Đức Giêsu dạy ta nẻo đường để trở nên con cái Cha trên trời (c. 45).
Đó là: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”.
Cựu Ước dạy ta yêu người thân cận (Lv 19, 18).
Còn Đức Giêsu dạy ta yêu kẻ thù và cầu nguyện cho họ (c. 44).
Yêu ở đây không phải là chuyện của cảm xúc hay thích thú.
Dĩ nhiên chúng ta không thể yêu kẻ thù tha thiết như yêu cha mẹ mình được.
Yêu ở đây là chuyện của ý chí và hành động.
Chúng ta yêu kẻ thù, vì kẻ thù cũng là thụ tạo của Cha như ta.
Dù kẻ thù của ta có là kẻ xấu xa và bất chính, nhưng họ vẫn được Cha trên trời dấu yêu.
Ngài cho mặt trời mọc lên mỗi sáng để nắng ấm đem lại sự sống cho họ.
Ngài cho mưa rơi xuống luống cày của họ để họ có của nuôi thân (c. 45).
Thiên Chúa không dành nắng hay mưa cho riêng người tử tế đạo đức.
Ngài bao dung và rộng rãi khi đối xử với mọi người.
Trở nên con cái Cha là mang những tâm tình sâu kín ấy của trái tim Cha.
Khi trái tim ta giống trái tim Cha,
ta sẽ nhìn kẻ thù bằng cặp mắt mới,
sẽ cư xử với họ theo cung cách mới.
Lúc đó họ sẽ chẳng còn là kẻ thù nữa, mà là bạn.
Đức Giêsu mời gọi các môn đệ của mình bước lên,
lên cao hơn cái tự nhiên, bình thường của người đời.
Dù là kẻ xấu, người thu thuế vẫn yêu kẻ yêu thương ông ta.
Người dân ngoại chưa biết Chúa vẫn chào hỏi anh em của họ (c. 46).
Điều mà Đức Giêsu đòi các Kitô hữu phải làm hơn người khác,
đó là yêu kẻ thù ghét mình, cầu nguyện cho kẻ làm khổ mình,
và chào những kẻ chẳng bao giờ chào hỏi mình.
Làm thế là vượt lên trên tình cảm tự nhiên đang kéo trì mình xuống,
là giải thoát mình khỏi sức nặng của cái tôi nhỏ mọn, tự ái, kiêu căng.
Làm thế là bắt đầu đi vào trong nơi sâu nhất của trái tim Thiên Chúa.
“Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời” (c. 48).
Lý tưởng này thật là cao xa, sức người không vươn tới được.
Nhưng nếu ta tập quen yêu kẻ thù chung quanh ta,
- mà ai trong chúng ta lại không có kẻ thù -
thì chúng ta dần dần sẽ trở nên hoàn thiện.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu,
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu,
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
Suy Niệm 6: HÃY YÊU KẺ THÙ ( Mt 5, 43-48)
Xem lại CN 7 TN A.
“Yêu mến anh em, là sống chu toàn giới luật. Yêu mến người lành và yêu thương kẻ gian ác. Chính do tình yêu mà chúng ta được cứu độ, thành con Chúa Trời và thành bạn hữu Chúa Kitô”. Đây là lời bài hát mà có lẽ ai cũng thuộc vì nó được lặp lại nhiều lần trong Mùa Chay.
Đây cũng chính là lệnh truyền của Đức Giêsu cho các môn đệ, đồng thời cũng là lời mời gọi cho những ai đang bước theo Đức Giêsu trên lộ trình cứu độ.
Thật vậy, cốt lõi Đạo Công Giáo của chúng ta là tình yêu thương. Tại sao vậy? Thưa vì Đạo chúng ta bắt nguồn từ Thiên Chúa, mà bản chất của Thiên Chúa là Tình Yêu. Vì thế: "Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương...".
“Yêu thương kẻ thù" là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người. "Yêu thương kẻ thù" là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.
Khi dạy "hãy yêu kẻ thù", Đức Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm, nhưng là đề nêu cao tinh thần khoan dung, hiền từ, quảng đại, tha thứ.
"Hãy yêu kẻ thù", đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Đức Giêsu. Tuy nhiên, chính Ngài đã nêu gương khi sẵn sàng tha thứ cho kẻ hại mình và cầu xin Chúa Cha tha cho họ. Ý tưởng ấy rất cao và rất khó nhưng nó tạo nên ý nghĩa.
Như vậy, Đức Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
Là những Kitô hữu, chúng ta được mời gọi đứng về phía bất bạo động. Tuy nhiên đó không phải là một chọn lựa cho sự nhu nhược hay thụ động leo thang, nhưng chọn lựa bất bạo động có nghĩa là tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh của chân lý, của công bằng và tình yêu hơn là sức mạnh của chiến tranh, vũ khí và hận thù… Chúng ta phải cố gắng dùng điều tốt nhất để đáp lại điều xấu nhất.
Hãy nhớ rằng: “Viên đạn căm thù chỉ có thể làm thương tổn kẻ thù sau khi đã xuyên qua thân xác chúng ta trước”. Khi nuôi trong mình sự trả thù thì đồng nghĩa với việc ta đào thêm một cái hố nữa để chôn chính ta. Người Hy Lạp cổ thường ví von như sau: “Người khôn ngoan thà chịu đựng sự ác hơn là làm điều ác”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng đây là con đường nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, và chỉ khi nào chúng con đạt được điều đó, ấy là lúc chúng con trở thành môn đệ đích thực của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
18/06 Ðừng báo thù
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Ðừng báo thù.
Thứ Hai tuần 11 thường niên.
"Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác".
Lời Chúa: Mt 5, 38-42
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe bảo: "Mắt đền mắt, răng đền răng".
Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ðừng báo thù
"Mắt đền mắt, răng đền răng", đó là công thức của luật báo thù. Người ta xúc phạm đến tôi bao nhiêu, tôi phải làm lại cho người đó bấy nhiêu. Kẻ lý luận như thế là dựa trên sự công bằng, nhưng đây là sự công bằng theo mức độ của loài người. Luật trả thù này đã được ghi chép thành văn trong bộ luật của vua xứ Babylon năm 1750 TCN. Trong Bộ Ngũ Kinh, người ta cũng có thể đọc thấy vài công thức của luật trả thù này, và đó là sự bất toàn của Luật Môsê thời Cựu Ước.
Nhưng luật trả thù này không những có trong những bộ luật lâu đời, mà còn nằm trong tâm hồn con người mọi thời. Chúa Giêsu muốn nhắc cho các môn đệ Ngài xưa cũng như nay, là cần phải sẵn sàng dập tắt ngay nơi bản thân mầm mống của bạo động: "Ðừng chống cự người ác". Ngài nhấn mạnh đến tinh thần mà người môn đệ phải có, đó là tinh thần tha thứ, vượt qua điều anh em xúc phạm đến mình. Ðây là hình thức cao cả của tình yêu Kitô: yêu thương một cách nhưng không, không đòi lại điều gì, cũng không chờ đợi điều gì. Như vậy câu nói của Chúa Giêsu: "Ai muốn lấy áo trong của con, thì hãy cho nó cả áo ngoài" không phải là thái độ thụ động, mà là thái độ tích cực sống yêu thương tha thứ như Chúa đã nêu gương từ trên Thập giá khi Ngài cầu nguyện: "Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm". Chúa Giêsu đã yêu thương và tha thứ đến cùng, và Ngài dạy chúng ta sống theo gương Ngài, nếu chúng ta muốn trở nên môn đệ đích thực của Ngài.
Chúng ta hãy cầu xin bằng chính lời kinh hòa bình của thánh Phanxicô Assisiô: Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn u sầu.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Thay đổi những cử chỉ phản xạ tự nhiên
“Anh em nghe luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị vả mà bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” (Mt. 5, 38-39)
Phản xạ tự nhiên
Trong các điều Chúa đòi hỏi ở đây, chẳng có điều nào là tự nhiên đối với ta cả. Giơ má bên trái khi người ta vả ta má bên phải, không chống cự lại khi người đánh ta, cho họ vay mượn mà không đòi những những bảo đảm cần thiết để người ta hoàn trả. Tất cả những cử chỉ đáp lại trên đây đều không phải là những cử chỉ bộc phát tự nhiên đối với ta. Ngay cả những người lương thiện và nhân từ cũng chẳng hành động theo cách đó.
Có lẽ tất cả chúng ta đều đồng ý rằng thi hành đúng như lòi Chúa dạy, trong nhiều trường hợp, thiết tưởng mình sẽ tỏ ra ngây ngô và hèn nhát. Chẳng khác nào như nối giáo thêm cho giặc và bỏ ngỏ cửa nhà cho trộm dễ vào vậy. Trong cuộc sống thường phải biết đứng thẳng hiên ngang và không được mềm như bún. Phải có khả năng tỏ ra cương quyết, khả năng đòi lại quyền lợi của mình.
Những cử chỉ phản xạ của người con cái Chúa
Thiết tưởng Chúa Giêsu cũng sẽ đồng ý với điều ta vừa nói. Chúa không mong muốn ta trở thành những con người hiền lành như cục đất, bạc nhược và mềm như bún. Vậy phải hiểu rõ Chúa chờ đợi gì ở nơi ta.
Điều Chúa mong đợi ở nơi ta chính la, khi phải đương đầu với mọi tình huống, thì cử chỉ phản xạ đầu tiên của ta luôn luôn phải là cử chỉ của lòng nhân ái, hiểu biết và đầy quảng đại. Chúa đồng ý là tiên vàn ta phải cố gắng lấy đức báo oán, lấy tình yêu thắng hận thù. Người cho rằng đấy là cách làm tốt nhất để tước khí giới kẻ tấn công ta hay có ý lợi dụng ta.
Chỉ có tình yêu và lòng đại độ mới thay đổi được lòng người xấu. Hãy giết chết bạo lực từ trong trứng nước bằng một phản ứng bất bạo lực. Hãy làm bẽ mặt đối phương bằng một tâm hồn vô cùng độ lượng. Hãy có những cử chỉ phản xạ của những người con cái Chúa chứ đừng trả miếng theo lối hoàn toàn phàm phu. Chúa mời gọi ta làm như vậy đó. Ai dám bảo Chúa lầm?
Tránh mắc vào guồng bạo động
Sau khi đọc đoạn Tin Mừng này, người ta tự hỏi phải tổ chức đời sống xã hội trên thể thức công bằng nào? Phải chăng là bật đèn xanh cho người hung ác và kẻ bất lương mà không bắt họ phải chịu thiệt thòi gì cả?
Thật ra, những lời Chúa Giêsu nói không nhằm đến nền luân lý trong xã hội. Luật báo thù, xét về phương diện xã hội học, đã là một bước tiến quan trọng so với những tập tục xa xưa, khi mà sự trả đũa diễn ra trong hỗn loạn. Nhưng ở đây Chúa Giêsu tuyên bố: luật báo thù phải được bãi bỏ. Luật lệ xã hội không bao giờ đủ để làm cho công bằng và hòa bình chân chính ngự trị. Chúa Giêsu kêu mời đừng trả đũa khi bị lầm lỗi và thiệt hại. Điều này không có nghĩa là xã hội được miễn khỏi việc tái lập công bằng, nhưng người Kitô hữu không được trả thù, nghĩa là gây thiệt hại lại khi bị thiệt hại. Có một khác biệt sâu xa giữa việc đền bù một bất công thuộc thẩm quyền tư pháp và gây thiệt hại lại khi bị thiệt hại.
Đàng khác phải nhớ rằng Chúa Giêsu dùng thứ ngôn ngữ rất thực tế, hợp với dân chúng. Chúa lấy những ví dụ đập mạnh vào sự chú ý của dân chúng nhờ tính cách rắn rỏi và có vẻ nghịch lý. Nếu hiểu theo nghĩa đen thí dụ cái vả má, người ta sẽ tự hỏi tại sao Chúa Giêsu, khi bị tên đầy tớ vả má trước mặt Caipha, lại quả quyết mình vô tội, thay vì giơ má bên kia nữa. Vậy điều hệ trọng là tìm xem điều Chúa Giêsu muốn dạy qua những thí dụ về áo choàng, cái vả má… Lời giải thích được tìm thấy trong câu ngắn ngủi này: Ta bảo các ngươi đừng cự lại người ác. Điều này có nghĩa: chớ cãi vã, đánh đập, trả thù, chớ đi vào tinh thần kiện tụng (là thứ tinh thần quen thuộc trong xã hội Do thái thời Chúa Giêsu). Bình an là hoa quả của công bằng, nhưng không ai có bình an bằng phương tiện bạo động tự xử cho mình.
Một điểm nhỏ cần lưu ý: nếu ai cậy nhờ ngươi… Trong đời sống thường nhật chúng ta đã chẳng bị ‘nhờ vả’ bởi đủ thứ việc sao? Đừng tìm cách tránh né, nghĩa là chúng ta đừng lẩn trốn, nhưng hãy đáp lại với lòng quảng đại và nhân ái.
Suy Niệm 3: Khoan dung với kẻ ác
Lorobel khi còn làm quan toàn quyền ở Ấn Độ, vào một ngày kia ông đáp tàu trở về Trung Quốc, cùng trên chuyến tàu có một phu nhân mang theo đứa nhỏ, bà chẳng ngó ngàng gì đến đứa bé khiến nó cứ khóc thét suốt ngày đêm. Hành khách ai cũng bực mình, có người thô lỗ còn hăm dọa sẽ ném đứa bé xuống biển. Lorobel đã quyết định một việc mà ít ai ngờ tới: Ông ẵm đứa bé lên, đặt nó ngồi trên đùi của ông và từ giờ này qua giờ khác, ông nói chuyện đùa giỡn và làm trò đùa hoặc làm bất cứ điều gì đứa bé thích. Đầu tiên đứa bé ngạc nhiên quên đi chuyện khóc lóc, và sau khi quen rồi nó lại thích thú quấn quýt bên Lorobel. Hành khách trên tàu cảm thấy dễ chịu, ít bực mình và đôi khi còn vui lây niềm vui của đứa bé. Đứa bé không còn làm phiền ai nữa, nhưng nó đã trở nên tâm điểm truyền đạt niềm vui cho hành khách.
Nếu có mặt trên chuyến tàu cùng với Lorobel hôm đó, chúng ta cũng được chứng kiến một cảnh khôi hài, đó là một vị quan toàn quyền đầy uy quyền như thế mà lại nhận lãnh vai trò vú em. Ông không sử dụng uy quyền của mình để ra lệnh cho người đàn bà, nhưng đã dùng tình thương để đối xử với sự thiếu sót của bà. Đây quả thực là một phản chiếu lời dạy của Chúa Giêsu được thánh sử Matthêu gởi đến cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thật vậy, đền ơn trả oán là một áp dụng cụ thể trong công bằng giao hoán. Từ khi có ý niệm về luật pháp thì việc báo oán cũng được quy định. Luật của người Babylon viết: “Nếu kẻ nào làm cho một người nào đó trong giai cấp bị mất mắt hoặc gẫy tay chân thì phải chịu mất mắt hoặc gẫy tay chân để đền bù. Nếu đối tượng là kẻ bần dân thì chỉ cần đền bù bằng một lạng bạc”. Người Do thái cũng áp dụng luật này, nhưng không phân biệt giai cấp: mắt đền mắt, răng thế răng, mọi người đều có quyền được đền bù xứng đáng.
Thật ra ý niệm về công bằng này không hoàn toàn chia khỏi luật lệ người Do thái. Sách Lêvi viết: “Ngươi sẽ không báo oán, không tư thù với con cái dân ngươi”. Hoặc sách Cách Ngôn có viết: “Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó bánh ăn, nếu nó khát hãy cho nó nước uống”. Như vậy, dân tộc Israel vẫn còn chút gì là dân riêng của Chúa. Họ không buộc phải tuân giữ những điều này, họ vẫn có thể được đòi hỏi mắt đền mắt, răng thế răng. Chỉ khi Chúa Giêsu đến, Ngài mới kéo con người ra khỏi cái vòng oán thù lẩn quẩn này. Có thể xem cái vả vào má là một cái đụng chạm đến danh dự, một xúc phạm về tinh thần, và kiện tụng để đoạt áo là một đụng chạm đến của cải, một xúc phạm về vật chất.
Dù bị xúc phạm đến vật chất hoặc tinh thần thì người môn đệ của Chúa Giêsu không được vịn vào đó để báo oán, nhưng phải đưa má bên kia cho họ vả nữa. Hành động như vậy xem ra như một nhu nhược, cúi đầu khuất phục, nhưng chính hành động ấy diễn tả một thái độ quả cảm sẵn sàng cho đi tất cả để phục vụ người khác. Con người càng trở nên cao cả qua việc cho đi mà không giữ lại cho mình điều gì, dù điều đó là niềm hạnh phúc chính đáng, dù đó là một chút quyền lợi hợp với quyền sống con người. Càng cho đi, người môn đệ càng gần gũi với Thầy của mình là Đức Giêsu, Đấng đã cho đi hoàn toàn, cho đi cả mạng sống của mình.
Đồng thời, khi cho đi như vậy con người lại càng gần gũi với nhau hơn. Khi trao ban cho người khác điều gì là mở ngỏ cho họ sự cảm thông, và khi thực hành điều Chúa dạy: “Ai xin thì con hãy cho, ai muốn vay mượn con đừng khước từ”, cũng có nghĩa là đã thêm được một lần nối kết và nhiều nối kết sẽ tạo nên sự bền chặt và sức mạnh. Sợi tơ nhện mỏng manh, nhưng nhiều sợi tơ sẽ giữ được con ruồi. Một sự cho đi của con người xét ra thì chẳng đáng gì, thế nhưng nếu cả một thế giới cho đi thì cũng đủ khả năng để cầm giữ sự ác, để chống lại quyền lực của sự dữ.
Lạy Chúa, thế giới vẫn còn nhiều bóng dáng của sự ác, vẫn còn nhiều chiến tranh, vì mỗi người chúng con chỉ biết thu góp quyền lợi về cho mình mà chưa biết cho đi. Xin Chúa cho chúng con biết sẵn sàng cho đi, để rồi trong trao ban chúng con sẽ được nhận lãnh, chúng con sẽ gặp được Chúa là chính nguồn bình an, đồng thời cũng làm người em bên cạnh cũng nếm được mùi hạnh phúc thật của Chúa. Amen.
Suy Niệm 4: Ai xin, hãy cho
Suy niệm:
Đoạn Tin Mừng hôm nay dễ bị đem ra nhạo cười,
vì có vẻ nó dung túng sự ác và biểu lộ một tinh thần yếu hèn bạc nhược.
Người ta hay nghĩ rằng nếu cứ sống theo tinh thần của Chúa Kitô,
thì hẳn kẻ ác sẽ tha hồ tác oai tác quái trong thế giới này.
Tuy nhiên, chính vì con người muốn sống theo khuynh hướng tự nhiên,
nên thế giới hôm nay mới không ngớt chiến tranh và đau khổ.
Đánh phủ đầu là đánh trước khi người kia kịp đánh mình.
Trên thế giới mỗi ngày có biết bao vụ sát nhân chỉ vì một chút hờn oán.
“Mắt đền mắt, răng đền răng”,
câu này thường được dùng để cho thấy sự tàn nhẫn của Cựu Ước.
Thật ra, Cựu Ước chẳng bắt người ta phải móc mắt, nhổ răng kẻ thù.
Câu này chỉ nhằm giới hạn việc báo thù trong mức độ cân xứng.
Trong xã hội mang tính bộ tộc của Ítraen thuở ban đầu,
“mắt đền mắt” đã là một tiến bộ đáng kể.
Đức Giêsu đi xa hơn khi đòi hỏi đừng chống cự lại người ác,
nghĩa là đừng lấy ác báo ác, đừng sống theo luật báo phục (lex talionis).
“Nếu bị ai vả má bên phải, hãy đưa cả má kia ra nữa” (c. 39).
Bị vả má bên phải nghĩa là bị tát bằng mu bàn tay phải.
Không phải là đau hơn, nhưng là nhục nhã hơn nhiều.
Đức Giêsu đã từng có kinh nghiệm này trong cuộc Khổ Nạn (Mt 26, 67).
“Đưa má kia” đơn giản chỉ có nghĩa là
tránh trả thù, chịu mình ở thế yếu,
vì báo oán là chuyện của Thiên Chúa (Rm 12, 19-20).
“Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12,21).
“Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong, hãy để cho hắn lấy cả áo ngoài nữa” (c. 40).
Ở Đông phương, áo ngoài là quan trọng để chống cái lạnh ban đêm,
nên nếu bị cầm cố, thì cũng phải trả lại cho người ta có cái mà đắp (Đnl 24, 13).
Đưa cả áo trong lẫn áo ngoài cho kẻ kiện cáo mình,
là chấp nhận bị trần trụi và xấu hổ, nếu ai đó chỉ có một bộ thôi.
Trong xã hội Paléttin bị đô hộ bởi đế quốc Rôma,
chuyện bị ép vác đồ dùm cho lính tráng vẫn hay xảy ra (x. Mt 27, 32).
“Người bắt anh đi một dặm, hãy đi với người ấy hai dặm” (c. 41).
Môn đệ Đức Giêsu, trước những ép buộc không mấy chính đáng,
chẳng những được mời ưng thuận, mà còn làm hơn cả điều bị ép buộc.
Câu cuối của bài Tin mừng cho thấy thái độ bác ái của Kitô hữu
trước những yêu cầu của có thật của tha nhân (c. 42).
Mở lòng ra trước người xin, người muốn vay mượn,
dù kẻ ấy là kẻ thù hay người không có khả năng hoàn trả.
Lời của Đức Giêsu hôm nay làm chúng ta choáng váng.
Lời này không đòi dẹp bỏ hệ thống pháp luật, cảnh sát hay nhà tù.
Nhưng nếu các Kitô hữu cứ để cho Lời này thấm vào lòng từ từ,
đời sống của họ sẽ được thay đổi một cách kỳ diệu, và bộ mặt thế giới sẽ đổi khác.
Hiền hậu, bao dung, quảng đại, đó là điều thế giới hôm nay thiếu trầm trọng.
Gandhi, người say mê những câu Lời Chúa hôm nay, đã than phiền:
“Tôi thích Đức Kitô của các anh,
nhưng tôi không thích các Kitô hữu.
Vì các Kitô hữu thì chẳng giống Đức Kitô mấy.”
Chỉ mong chúng ta có trái tim hiền hậu giống Đức Kitô hơn.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa:
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường,
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn, để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở,
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
Suy Niệm 5: YÊU VÀ SỐNG (Mt 5, 38-42)
Xem lại CN 7 TN A, CN 7 TN C, thứ Năm tuần 23 TN
Khi đạo Công Giáo mới được loan báo trên quê hương Nước Việt, cha ông chúng ta đã mau mắn đón nhận Tin Mừng và sống những giá trị Tin Mừng ấy rất sống động. Một trong những điểm sáng mà tổ tiên chúng ta đã sống đó là “tình yêu thương”. Khi sống như thế, nhiều người không phải là Kitô hữu, họ đã không hiểu được các ngài theo đạo gì, vì thế, họ không ngần ngại đặt cho tôn giáo mới này là: “Đạo Yêu Nhau”.
Hôm nay, Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học yêu thương. Yêu thương thì không oán hờn; không tính toán thiệt hơn; yêu thương thì không có khái niệm trả thù mà sẽ tha thứ không chỉ bẩy lần, mà bẩy mươi lần bẩy, tức là không có giới hạn.
Trong thực tế hôm nay, nhiều người Công Giáo không dám sống căn tính của mình là yêu thương. Bởi vì khi yêu thương như Chúa đòi hỏi, thì họ phải trả giá bằng chính sự thiệt thòi, ức hiếp, bóc lột, coi thường, khinh khi..., vì thế, không thiếu gì hình ảnh những người Công Giáo cũng “ga lăng” chẳng kém gì ai! Đây đó vẫn có những người Công Giáo sống kiểu “đàn anh đàn chị!”.
Lời Chúa ngày hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy trở nên “thánh thật” chứ không chỉ làm thánh “lâm thời”. Muốn trở nên “thánh thật” thì phải mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương nhau thật lòng, dầu có phải thiệt thòi đôi chút. Chấp nhận đau khổ, hiểu lầm vì mối lợi lớn hơn là được biết Chúa và được Chúa yêu thương. Sẵn sàng đi trên con đường tình yêu được chứng minh bằng việc đón nhận thập giá trong cuộc sống vì lòng yêu mến Chúa, để qua đó, chúng ta có sự sống đời đời làm gia nghiệp.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa dạy khó quá đối với con người yếu đuối, ích kỷ của chúng con! Nhưng chúng con tin Lời Chúa có sức mạnh biến đổi. Xin Chúa thánh hóa chúng con, để mỗi ngày chúng con nên giống Chúa hơn khi biết quảng đại, bao dung và vô vị lợi như Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
17/06 Nước Thiên Chúa phát triển
- Viết bởi Mc 4, 26-34
Nước Thiên Chúa phát triển.
Chúa Nhật tuần 11 Thường Niên năm B.
"Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết".
Lời Chúa: Mc 4, 26-34
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: “Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Đất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa”.
Người còn phán: “Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung Nước Thiên Chúa? Hay dùng dụ ngôn nào mà so sánh Nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được”.
Người dùng nhiều dụ ngôn như thế mà rao giảng Lời Chúa cho họ, tùy sức họ có thể hiểu được và Người chỉ nói với họ bằng dụ ngôn, nhưng khi ở riêng với các môn đệ, Người giải thích tất cả cho các ông.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 11 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Ed 17, 22-24; 2Cr 5, 6-10; Mc 4, 26-34
1. Hạt cải
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau dừng lại ở hình ảnh hạt cải.
Nước Thiên Chúa giống như hạt cải nhỏ xíu, nhưng nó có thể lớn lên thành cây to cho chim trời tới đậu. Qua dụ ngôn này Chúa Giêsu như muốn xác định lại lời rao giảng lúc ban đầu: Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã đến gần. Chính Ngài là người gieo hạt giống đầu tiên để hạt giống đó âm thầm phát triển. Ngài nói điều đó với tất cả niềm xác tín, bởi vì đó chính là sự nghiệp của Chúa Cha.
Hơn nữa, nếu đem so sánh những lời giảng của Chúa Giêsu với cả thế giới bao la bát ngát này, thì có lẽ nó còn nhỏ bé hơn cả một hạt cải. Thế nhưng, Tin Mừng vẫn đứng vững và lớn lên từng ngày, đồng thời có biết bao nhiêu người đã được nâng đỡ và ủi an.
Trong niềm tin, chúng ta xác tín rằng Nước Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, mặc dù trên thế giới ngày hôm nay vẫn còn biết bao nhiêu những bất công và tội lỗi. Lời Chúa đem lại cho chúng ta niềm hy vọng. Vấn đề được đặt ra ra cho mỗi người, là chúng ta phải trở nên những hạt giống, được gieo vãi vào lòng cuộc đời, qua những việc làm nhỏ bé và khiêm tốn, nhưng không kém phần hiệu quả.
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã biết cuộc đời thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Cuộc đời ấy cũng như cuộc đời của biết bao nhiêu người khác. Thế nhưng nó mang đậm giá trị Tin Mừng, nên Giáo Hội đã tôn phong chị lên ngang bằng những vị đại thánh khác. Mẹ Têrêsa thành Calcutta, người phụ nữ nhỏ bé và mảnh khảnh, nhưng lại lớn mạnh trong cả thế giới qua những hành động bác ái yêu thương, giúp đỡ những kẻ nghèo túng và bất hạnh. Và còn biết bao nhiêu người khác nữa chung quanh chúng ta, họ đang âm thầm làm việc, phục vụ cho những kẻ bất hạnh trong mọi lãnh vực của cuộc sống.
Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin rằng Nước Thiên Chúa đã, đang và sẽ còn âm thầm lớn lên, không phải theo nghĩa một lực lượng đối đầu với nước thế gian, như chính Chúa Giêsu đã xác quyết: Nước tôi không thuộc về thế gian này, nhưng là những thực tại: kẻ què được đi, người mù được thấy, người điếc được nghe và kẻ chết được sống lại, người nghèo khó được rao giảng Tin Mừng.
Hãy tin vào Chúa Giêsu, là người gieo giống, đồng thời cũng là hạt giống đầu tiên được ươm trồng trên mảnh đất nhân loại này.
2. Thử thách và đức tin
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay muốn nhắn gởi chúng ta những gì? Dụ ngôn hạt giống âm thầm mọc lên nhấn mạnh đến sức nuôi sống khó cưỡng lại của đất. Đất làm cho hạt giống nẩy mầm, mọc lên thành cây rồi đâm bông kết trái, xuyên qua một quá trình phát triển hài hoà. Con người chỉ đóng vai trò chủ động khi mùa gặt đến.
Dĩ nhiên hình ảnh người gieo giống gợi lên hình ảnh Chúa Giêsu. Ngài so sánh hoạt động của Người rao giảng Nước Trời với hoạt động của ông chủ trại, bằng lòng đợi ngày mùa thu hoạch. Sở dĩ như thế là vì Ngài muốn đề cao sức mạnh của công trình rao giảng của Ngài, một công trình không thể không đem lại kết quả. Khi gieo hạt giống vào những tâm hồn sẵn sàng đón nhận. Đức Kitô ban cho họ sức mạnh để đáp trả và sinh hoa kết quả.
Vả lại, ở đây cũng muốn gợi lên sự cần thiết của thời gian, của hạn kỳ Thiên Chúa hoạt động trong lịch sử, Ngài quan tâm tới sự trưởng thành nhờ tác đợng của thời gian. Khi đó, người gieo giống trở thành thợ gặt. Và dĩ nhiên thợ gặt ở đây được đồng nhất với con người.
Dụ ngôn hạt cải cũng tạo được niềm phấn khởi lạc quan. Sự lớn lên kỳ diệu của hạt cải gợi lên sự phát triển của Nước Thiên Chúa. Dùng dụ ngôn này, Đức Kitô muốn tạo niềm tin tưởng nơi các môn đệ, có lẽ lúc bấy giờ đang dao động trước những khó khăn buổi đầu của công trình rao giảng của chính Chúa Giêsu. Do đó, Ngài không ngại tưởng tượng cái không-như-thật trong cách trình bày của Ngài, khi bảo rằng hạt cải mọc lên lớn hơn các thứ rau, cành lá xum xuê đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng. Nhưng điều không như thật trên bình diện khoa học đó lại là như thật trên bình diện giáo huấn của Ngài. Thiên Chúa thích cho thấy sức mạnh của Ngài trong cái yếu đuối, mong manh của buổi ban đầu.
Để kết luận, Chúa Giêsu cho thấy rằng dụ ngôn hàm chứa trong chính nó cả một sự phong phú về mặt gợi ý và ứng dụng. Trong một hoàn cảnh có nhiều khó khăn, trong đó một số tấn công bất nhân nào đó của môi trường chung quanh hay một số suy thoái nào đó về ý thức tôn giáo, làm che khuất các cố gắng khiêm tốn, kín đáo cua những tâm hồn cao thượng, như hoàn cảnh ta đang sống, các dụ ngôn về sự tăng trưởng và phát triển của Nước Thiên Chúa mang lại một bầu khí phấn chấn, trong lành. Cũng giống như các môn đệ của Chúa Giêsu hay những người đương thời với Ngài, nhiều khi chúng ta cũng dễ dàng tỏ ra thiếu kiên nhẫn và dễ nghi ngờ sự phát triển của Giáo Hội. Thiết tưởng chúng ta nên đọc kỹ lại các dụ ngôn trên để củng cố niềm tin vào sự lớn mạnh của Giáo Hội nhất là giữa cảnh bão bùng giông tố, bởi sức phát triển bất khuất đó không do sức mạnh của con người, mà là do sức mạnh của Thiên Chúa.
Sự khẳng định kiên vững đó của đức tin sẽ hâm nóng lại niềm hy vọng của chúng ta, mang lại đà tiến cho lòng chúng ta cũng như cho phép chúng ta tiếp tục can đảm dấn thân cho Nước Thiên Chúa. Niềm hy vọng đó sẽ làm nẩy nở ước muốn của chúng ta, dạy cho chúng ta biết kiên nhẫn, biết thán phục công trình của Chúa mà nhiều khi mới nhìn thoáng qua, chúng ta không nhận ra hết được cái sức mạnh kỳ diệu của nó. Niềm hy vọng đó cũng sẽ không ngừng kích thích chúng ta trông chờ mọi sự ở Thiên Chúa bằng cách đặt mình trong thế sẵn sàng thực hiện thánh ý của Ngài.
3. Hạt giống.
Một trong những hạt giống kỳ lạ nhất trên thế giới, đó là hạt giống của một loại tre bên Trung Quốc. Nó nằm trong lòng đất suốt 5 năm rồi mới ló chồi non lên trên mặt đất. Trong khoảng thời gian này, người ta phải chăm sóc, phải tưới nước, phải bón phân đều đặn cho nó. Thế nhưng một khi đã trồi lên khỏi mặt đất thì chỉ trong vòng sáu tuần, nó sẽ mọc lên cao tới 5 mét. Các chuyên gia cho rằng suốt thời gian 5 năm trong lòng đất, hạt giống của loại tre ấy đã hình thành một hệ thống rễ phức tạp. Nhờ hệ thống rễ này, mầm non có thể tăng trưởng một cách mau chóng.
Từ hình ảnh trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Thực vậy, hạt giống Nước Trời cũng giống như hạt giống của loại tre Trung Quốc. Nó cần một thời gian dài trước khi trồi lên. Đôi khi thời gian này quá lâu khiến chúng ta băn khoăn tự hỏi: Liệu hạt giống Nước Trời được gieo vào tâm hồn ngày nhận bí tích Rửa Tội đã bén rễ chưa? Hay đã bị tội lỗi là như những sỏi đá và gai góc bóp nghẹt mất rồi? Nói một cách thực tế, những điều trên có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Tôi xin thưa có hai ý nghĩa.
Ý nghĩa thứ nhất đó là chúng ta phải tin tưởng vào Chúa. Ngài đã gieo trồng hạt giống trong chúng ta, Ngài hiểu được điều gì đang xảy ra, đang chuyển biến cho dù chúng ta chẳng hề nhận biết. Ý nghĩa thứ hai đó là chúng ta cần phải kiên nhẫn. Dù Nước Trời xem ra như không phát triển gì cả trong chúng ta, nghĩa là chúng ta dường như chẳng thánh thiện gì hơn trước. Chúng ta đừng nản lòng. Tốt hơn chúng ta nên tiếp tục vun xới hạt giống trong chúng ta bằng việc cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Mẫu gương kiên nhẫn này chúng ta có thể học được nơi các bậc cha mẹ.
Ai cũng biết rằng việc gầy dựng một gia đình đòi hỏi nhiều kiên nhẫn và phó thác. Thực vậy, cha mẹ không thể lúc nào cũng có mặt bên cạnh con cái. Vì thế họ phải tin tưởng và phó thác vào chúng. Nếu như thỉnh thoảng sự tin tưởng ấy bị phản bội, thì lúc đó các ngài vẫn tiếp tục tha thứ và tin tưởng vào con cái mình. Hơn nữa, đôi khi cha mẹ thấy con cái mình chậm phát triển, chậm trưởng thành. Vậy phải làm gì? Họ càng phải yêu thương đứa bé hơn và tiếp tục kiên nhẫn đối với nó.
Chúng ta cũng hãy tin tưởng và kiên nhẫn như thế, bởi vì sẽ có ngày Nước Chúa sẽ trồi lên từ tâm hồn chúng ta và phát triển thành một thực tại vinh quang mà muôn đời chúng ta sẽ phải cảm tạ Chúa luôn mãi. Tóm lại, Thiên Chúa đã trồng hạt giống Nước Trời trong tâm hồn chúng ta vào ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Bổn phận của chúng ta hôm nay là phải nuôi dưỡng nó với lòng tin tưởng và kiên nhẫn, qua việc cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích, để rồi đức tin sẽ nẩy mầm, lớn lên và đem lại hoa trái cho cuộc đời chúng ta.
4. Gieo lời yêu thương – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Malcolm Dolkoff là một cậu bé nhút nhát, dễ bị tổn thương. Cậu có rất ít bạn và luôn phải lủi thủi một mình.
Một lần, cô giáo đọc cho cả lớp một đoạn truyện ngắn. Loài vật là bạn thân của con người, sau đó phân công mỗi học sinh tự viết đoạn kết cho câu chuyện. Dolkoff thích lắm, ngay chiều hôm ấy cậu đã hoàn thành bài viết của mình. Nhưng mãi cậu mới có đủ tự tin đem nộp truyện của mình cho cô giáo vào buổi học tuần sau.
Những gì cậu viết cũng như điểm số mà cô giáo đã cho không hề quan trọng. Đối với cậu, điều quan trọng nhất mà cũng là điều cậu nhớ nhất lại chính là 4 chữ cô giáo đã phê: “Em viết hay lắm!” Chỉ 4 chữ mà cũng đủ thay đổi toàn bộ cuộc đời cậu bé. Trước khi nhận được 4 chữ đó, cậu chưa bao giờ có khái niệm về bản thân hay những điều mình đã làm. Còn sau buổi học hôm ấy, cậu đã chạy thật nhanh về nhà, ngồi ngay vào bàn và bắt đầu viết một câu truyện ngắn, một câu truyện về tất cả những điều cậu đã từng mơ tới và không bao giờ dám nghĩ mình có thể biến những giấc mơ đó thành hiện thực.
Cậu viết ngày càng nhiều hơn và cứ được một truyện cậu lại mang ngay tới cho cô giáo của mình nhận xét.
Nhiều năm trôi qua, Malcolm Dalkoff đã trở thành một nhà văn nổi tiếng thay cho cậu bé tự ti ngày nào. Cậu trở về thăm trường cũ và thăm lại cô giáo ngày xưa của mình. Điều cậu phải cảm ơn cô không phải vì cô đã trở thành một người bạn của cậu mà chính là 4 chữ đầu tiên cô đã từng phê “Em viết hay lắm!”, bởi những chữ ấy đã có thể thay đổi cả một cuộc đời.
Có những lời nói, cử chỉ tưởng như vô tình lại trở thành nguyên nhân thay đổi cho cả một đời người. Biết bao con cái rơi vào sự tự ti mặc cảm khi cha mẹ vô tình lặp lại lời chê trách đối với con. Biết bao con người trở thành hung dữ khi cha mẹ luôn gieo vào tâm trí trẻ thơ những lời nói việc làm chất chứa đầy hiềm khích, bất công. Và ngược lại, biết bao con người đã bẻ gãy ổ khoá tự ti mặc cảm để can đảm vào đời, khi nhận được một sự khích lệ, một sự cảm thông từ những người thân. Biết bao con người đã hoàn thiện nhờ vào gương lành của tha nhân đã gieo vào lòng họ những lời nói, những việc làm tốt. Những lời nói, những việc làm của ta tưởng như vô tình nhưng thực ra nó vẫn âm thầm gieo vào lòng những người chung quanh ta để có thể biến đổi họ theo cách sống của chúng ta.
Cha ông ta vẫn thường nói: “Lời nói chẳng mất tiền mua - Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Nói cho vừa lòng nhau không phải để lấy lòng nhau hay lừa dối lòng mình. Nhưng là lựa lời để nói. Nói để xây dựng con người. Nói để giúp họ thăng tiến. Đừng dùng lời nói làm đau lòng người khác, và cũng đừng dùng lời nói để kết án anh em. Một lời nói có thể thay đổi cả đời người. Hãy trao tặng cho anh em những lời nói thật chân tình và đầy ắp yêu thương. Lời nói không mất tiền mua, không phải để chúng ta phung phí bừa bãi, nhưng biết quý trọng từng lời. Lời nói thể hiện nét đẹp văn hoá nơi con người. Hãy biết chắt lọc ngôn ngữ. Hãy làm cho lời nói của ta có giá trị bằng cách biết dùng lời cho vừa lòng nhau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ra đi gieo vãi Lời Chúa. Gieo trong kiên trì. Dù đêm hay ngày. Người gieo giống luôn gieo vào nhân thế hạt giống của tin mừng, hạt giống của yêu thương và hạnh phúc. Nếu cô giáo của Malcolm Dolkoff không gieo vào lòng cậu bé lòng tin và nghị lực thì không có một nhà văn tài ba. Người Kitô không gieo Lời Chúa thì làm sao có cánh đồng lúa bát ngát bông lúa vàng là tâm hồn các tín hữu?
“Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống này nảy mần và mọc lên, bằng cách nào thì người ấy không biết”. Sự kỳ diệu của hạt giống là vẫn âm thầm lớn lên theo quy luật tự nhiên và sẽ có một ngày nó trở thành cây cao bóng cả cho đàn chim trú ngụ. Người Kitô hãy gieo trong kiên trì, gieo với niềm cậy trông để nhờ ơn Chúa lời ta nói, việc ta làm sẽ sinh hoa kết trái nơi môi trường chúng ta đang sống.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn gieo vãi yêu thương trong hành trình cuộc sống của chúng ta, để mỗi bước chân chúng ta đi luôn để lại dấu ấn của yêu thương và hy vọng cho nhân thế. Amen.
5. Bông lúa trĩu hạt.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Một người có cái nhìn bi quan về Hội Thánh chắc sẽ tìm được nhiều dữ kiện để chứng minh.
Tại một số nước phương Tây, có nhiều nhà thờ vắng người, chủng viện thiếu chủng sinh, tập viện tạm đóng cửa.
Kitô hữu càng lúc càng chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng số dân trên thế giới.
Có những khủng hoảng đức tin trong giới trẻ. Người ta tự hỏi Hội Thánh đã lỗi thời chưa. Có cần phải tin vào Đức Kitô nữa không?
Vào thời thánh Mác-cô viết sách Tin Mừng, cũng có những Kitô hữu bi quan về Hội Thánh. Hội Thánh ở Rôma chỉ là một thiểu số nhỏ nhoi chịu bách hại dưới ách của bạo chúa Nê-rô. Liệu Hội Thánh có tồn tại và phát triển không dưới sức mạnh hùng hậu của đế quốc?
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta niềm lạc quan.
Đó là hai dụ ngôn về Nước Thiên Chúa, cũng là hai dụ ngôn về hạt giống.
Trong dụ ngôn thứ nhất, hạt giống được gieo xuống đất
là bắt đầu nảy mầm và lớn lên, theo một tiến trình không gì ngăn cản nổi. Trước hết mọc lên thành cây lúa, rồi trổ đòng đòng và sau cùng thành bông lúa trĩu hạt.
Tự nó, hạt giống mang một sức sống mạnh mẽ. Nó lớn lên cả đêm lẫn ngày, chẳng cần con người can thiệp.
Có cái gì mầu nhiệm trong sự tăng trưởng này khiến chính người gieo cũng không sao hiểu nổi.
Một cách âm thầm, chậm rãi nhưng vững vàng, hạt lúa đạt đến kết quả mỹ mãn.
Dụ ngôn thứ hai lại cho thấy một sự tương phản.
Nước Thiên Chúa như một hạt cải nhỏ xíu, vậy mà theo thời gian, nó mọc lên thành cây, và cây này lớn hơn mọi thứ cây cỏ khác. Hạt bé nhất lại cho cây lớn nhất.
Nước Trời khởi đầu bằng Đức Giêsu và một nhóm nhỏ môn đệ làm nghề chài lưới. Sau hai mươi thế kỷ, Kitô giáo đã lan khắp thế giới, đến với mọi dân tộc.
Tuy nhiên, Nước Trời chỉ đến trọn vẹn vào ngày cánh chung.
Thái độ ta phải có là kiên nhẫn chờ đợi.
Hạt giống nào cũng phải vùi sâu dưới đất, và phải đương đầu với những khó khăn khi thành cây. Có lúc ta thấy nó như bị chững lại hay suy thoái. Có lúc ta sợ nó không đứng vững trước bão bùng.
Đây là lúc ta phải sống niềm tin: tin rằng Thiên Chúa sẽ đưa Nước Ngài đến thành tựu, bất chấp những khiếm khuyết và cản trở của con người.
Đừng nản chí mà ngừng gieo vãi hạt giống Lời Chúa, dù nhiều khi chúng ta không thấy hạt giống lớn lên.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ở Việt Nam, Kitô hữu chỉ là thiểu số. Bạn nghĩ gì về sự đóng góp của các Kitô hữu Việt Nam cho quê hương đất nước hôm nay?
Theo bạn, những người ngoài Kitô giáo nghĩ gì về chúng ta? Họ có thiện cảm hay ác cảm? Chúng ta cần phát huy thêm tinh thần nào để gần gũi hơn với đa số đồng bào?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa. Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương, để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước, đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men được vùi sâu trong khối bột loài người để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước, nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời, nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh. Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian, nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
6. Hạt cải nhỏ nhất – Lm. ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Đến Victoria và Vancouver nước Canada, du khách thấy tận mắt một cây thông mọc lâu hơn 300 năm, cao hơn 100 mét, chu vi thân cây dài 9 mét và một cây sống hơn 1.000 năm cao lớn lạ thường. Có lẽ đó là cây cao lớn nhất thế giới. Nhưng hạt thông chỉ nhỏ bằng hạt táo.
Nhìn cây cổ thụ kỳ lạ đó, con người cảm thấy mình quá bé nhỏ. Bé nhỏ về tuổi thọ, bé nhỏ về thân phận mỏng dòn, yếu ớt.
Càng kinh ngạc hơn nữa, nếu con người nhìn hạt lúa, với con mắt khoa học, sẽ thấy nó chứa hàng tỷ tỷ hạt nguyên tử hợp bởi tỷ tỷ hạt li ti nhỏ bằng một tỷ lần milimét chạy quanh một hạt nhân với tốc độ kinh khủng 297.000 km trong một giây đồng hồ. Hạt lúa đó gieo trong đồng ruộng, nảy mầm, mọc lên, trổ đòng đòng thành bông lúa chín nặng trĩu, người ta vui mừng gặt về một mùa lúa bội thu, người ta vẫn không biết ai làm cho nó mọc lên, trổ bông, chín vàng.
Xét cho cùng, tất cả vũ trụ này, chỉ là những hạt li ti như thế thôi, dần dần bành trướng to lớn ra hàng tỷ tỷ tỷ lần. Ai đã gieo thứ hạt giống đó? Ai đã làm nó vô cùng to lớn như thế?
Chẳng biết ai, các bác học chỉ đưa ra những giả thuyết vu vơ. Cách đây hai ngàn năm, Đức Giêsu đã ví nước Thiên Chúa giống như những hạt giống đó. Đấng đã làm nên nước Trời thì cũng làm nên hạt giống đó, Ngài biết nó tự đâu có, Ngài đã cho nó mọc lên, trổ bông và chín nặng trĩu hạt.
Thiên Chúa còn gieo một thứ hạt giống lạ lùng vô cùng hơn nữa, thứ hạt giống từ trời gieo xuống đất, đó là Ngôi Lời xuống thế làm người. Thế gian chẳng ai biết Người bởi đâu! như Gioan viết: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian; thế gian nhờ Người mà có nhưng lại không nhận biết Người” (Ga. 1, 9-10). Dù thế gian không biết Người, Người vẫn như hạt cải mọc lên lớn hơn mọi thứ, xum xuê cho muôn dân tụ họp, sinh sống dưới bóng mát tình thương của Người. Lời Người, ân sủng của Người, công cuộc cứu thế của Người đang soi sáng và bao phủ khắp muôn dân. Người là đèn sáng, không ai có thể lấy thùng úp lại được, không một thế lực phàm trần nào có thể đè nén được. “Chẳng lẽ mang đèn đến để cho đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường? Nào chẳng phải đem đèn đến để đặt trên cao sao?” (Mc. 4, 21).
Do thái cậy mình con cháu Abraham đã ra sức vùi dập ánh sáng Đức Giêsu bằng xuyên tạc, chống đối, đe dọa, bắt bớ, đánh đòn và đóng đanh. Hy lạp tự kiêu khôn ngoan, bài bác, trục xuất Tin mừng Phaolô rao giảng. Rôma hùng mạnh đã tù đầy, kết án, xử tử những tông đồ tha thiết gieo giống cứu độ. Hạt giống nước Thiên Chúa vẫn nảy mầm mọc lên vươn cao, vươn rộng, vươn xa đến tận cùng trái đất và cho đến tận thế.
Người Tây phương chỉ thấy Thiên Chúa đã chết rồi (Nietzsch) mà không biết rằng: “Cha Ta hằng làm việc và luôn ẩn danh” (Deus abscondito). Ngài không nói sống sượng như kẻ kiêu ngạo, Ngài chỉ nói cách khiêm tốn và dịu hiền để ai có tai, có thiện tâm thì nghe rất thấm thía. Kẻ ác tâm, dã tâm, vô tâm chẳng bao giờ nghe được tiếng Ngài mà chỉ thấy chói tai quá!
Người Đông phương xưa, tuy không gần Ngài bằng xương, bằng thịt, nhưng cũng nhìn thấy: “Thiên hành kiện” – Trời hành động kiên cường không ngừng, mà chẳng nói gì “Thiên hà ngôn tai” – Trời không nói bằng miệng, nhưng nói bằng nhiều cách: nói bằng tác tạo trời đất muôn vật, nói trong lương tâm con người: “Thiên mệnh chi vị tính”, nói bằng ban phép tắc cho muôn vật: “Duy thiên sinh dân, hữu vật, hữu tắc”. Vì thế con người phải biết luôn luôn tìm ý Ngài để tuân theo. Không biết tìm ý Trời thì không đáng là quân tử, làm con Trời: “Bất tri thiên mệnh, vô dĩ vi quân tử”.
Đức Giêsu đã nói với chúng ta rất nhiều: Nói xa qua công việc tạo dựng và bảo tồn muôn vật, nói gần qua Hội thánh, qua các bài giáo lý, Tin mừng, ơn thánh và kinh nguyện.
Chúng ta có nghe được tiếng Người không? Có thiện chí tiếp nối công việc của Người đã làm không? Chúng ta có sống theo đời sống khiêm tốn, dịu hiền và thương yêu như Người không? Chúng ta có biết gieo những hạt giống tốt vào trong hồn các bé thơ để sau này nó sẽ tự nảy mầm, lớn lên và sinh hoa kết quả nặng trĩu không? Nhiều bà mẹ đã biết gieo vào lòng tuổi thơ những hạt giống tốt như kêu tên: Giêsu Maria Giuse, hay đọc kinh Kính Mừng. Nhờ những hạt giống nhỏ bé đó đã mọc lên những cây vĩ đại như Bernadette, Lucia, Giaxinta và Phanxicô để hàng triệu người được đến nương ẩn bóng mát ơn phúc của Lộ Đức và Fatima.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian như hạt giống bị vùi dập, chết đi trong lòng đất nhưng không bị hủy diệt mà đã sống lại vinh sáng. Xin cho chúng con cũng được sống lại sau những cái chết vì đau khổ dập vùi.
7. Công việc tông đồ – Cố Lm. Hồng Phúc
Tiên tri Ezechiel nhìn thấy những cảnh xáo trộn, thay ngôi đổi chủ, xảy ra tại Giêrusalem, trước ngày thành phố bị hủy, đã tiên báo về tương lai của dân Chúa. Mặc dầu bị lăng nhục tủi hổ… nhưng hãy trông cậy. Thiên Chúa sẽ cho mọc ra một chồi non, nó sẽ đâm chồi kết quả và trở thành cây hương nam vĩ đại. Lời hứa ấy tiên báo rằng Đức Messia sẽ đến, sẽ giữ lời Ngài đã phán: “Ta là Giavê, Ta sẽ hạ cây cao xuống và cho cây thấp mọc lên.”
Lời ngôn sứ ấy đưa ta đến dụ ngôn Phúc Âm về hạt lúa gieo xuống lòng đất mà Marcô một mình ghi lại. Chúa phán: Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất…, hạt giống tự nó đâm mầm và mọc lên thế nào, nào ai biết? Thì Nước trời cũng giống như vậy. Hạt giống Lời Chúa được rao giảng bên ngoài, sức tác động của Chúa hoạt động bên trong, thế là Phúc Âm sẽ sinh hoa kết quả. Nhưng, Chúa thấy trước, lời của Ngài, sứ vụ của Ngài sẽ gây kết quả từ từ, không gấp gáp, không gây chấn động. Vậy hãy nhẫn nại, hãy đợi chờ, như người nông phu đợi chờ hạt giống nẩy mầm sinh hoa.
Thánh Vinh Sơn Phaolô nói: “Công việc của Chúa được thực hiện từ từ, không ai hay biết”. Chúng ta không được “sốt ruột”, đừng ai tự cho mình là cần thiết, không có ta mặt trời sẽ không mọc, sau ta là lụt đại hồng thủy. Cũng đừng quá vội vã, quay cuồng, lo lắng vì thấy việc Tông đồ của mình như không đi đến đâu! Ngày cũng như đêm, hạt giống gieo vào lòng đất sẽ đâm chồi nẩy mộng. Và để kết luận, Chúa phán: “Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung Nước Thiên Chúa?... Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được”.
Dụ ngôn mang lại cho chúng ta nhiều bài đọc. Trước hết, Nước Thiên Chúa âm thầm lớn mạnh, tuần tự nhi tiến, dưới sự thúc đẩy của Chúa. Nhưng sự tiến triển cũng đòi hỏi sự góp phần tích cực của chúng ta. Đừng ngã lòng khi không thấy kết quả trước mắt. Sự lỗi lầm lớn của người Tông đồ là dựa trên tài cán nghị lực của ta hơn là vào sức mạnh của Chúa. Nhưng hãy cố gắng hết sức ta, làm phận bé nhỏ của ta vì yêu mến. Và kết quả sẽ đến vào lúc thật bất ngờ nhất!
Một hôm, cha Petitjean đến giảng đạo tại Nagasaki cho một số đông người Nhật. Nghĩ rằng họ đều là người bên lương, nên sau bài giảng, ngài tươi cười hỏi:
- Anh em có thắc mắc gì không?
Một người đưa tay đặt câu hỏi:
- Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời có hay không? Câu hỏi thứ nhất, các ông có tin Đức Mẹ đồng trinh không?
- Có.
- Câu hỏi thứ hai: Các ông có vâng lời và thông hiệp với Đức Thánh Cha không?
- Có.
- Câu hỏi thứ ba: Là linh mục, các ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân không?
- Có.
- Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi là Công giáo cả.
Cha Petitjean bàng hoàng như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm cổ nhau. Nhà truyền giáo hỏi:
- Bấy lâu nay, có ai giảng dạy cho anh em không?
- Thưa Cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi! Đó là nhờ ông bà tổ tiên chúng con truyền lại, rồi chúng con âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ: Sau này có ai đến giảng đạo hãy cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà nhận xem họ có phải là các cha đích thực, là người của Hội thánh sai đến.
Giáo hội Nhật bản đã tái sinh.
“Nước Trời như hạt cải bé nhỏ nhất khi gieo xuống lòng đất, nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, chim trời đến núp bóng được”.
8. Hạt giống cây tre tầu – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Nhà tâm lý học Weldon cho rằng hạt giống kỳ lạ nhất thế giới là hạt giống của cây tre Trung Quốc. Hạt giống này nằm yên dưới lòng đất đến 5 năm, rồi mới nhú chồi non lên mặt đất. Suốt thời gian 5 năm này, người ta phải vất vả chăm sóc nó, nào là tưới nước nào là bón phân, mà không hề nhìn thấy hệ thống rễ phức tạp đang bố trí trong lòng đất.
Cuối cùng, một sự sống đã vươn lên đầy kinh ngạc: Chỉ trong 6 tuần đầu, cây tre đã mọc cao lên gần 3 mét.
****
Hạt giống Nước Trời cũng tương tự như hạt giống cây tre Trung Quốc. Cần một thời gian dài "vùi sâu dưới lòng đất", điều này đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi. Khi hạt giống nẩy mầm lớn lên thành cây, nó phải đương đầu với tính khí thất thường của thời tiết, phải đối phó với cơn giận dữ của giông tố. Đây là lúc phải sống niềm tin: tin rằng Thiên Chúa sẽ đưa Nước Người đến thời viên mãn, bất chấp những cản trở của con người. Vì thế, chúng ta không ngừng gieo vãi Lời Chúa, cho dù không thấy hạt giống đang âm thầm phát triển.
Hạt giống Nước Trời cũng không khác chi hạt giống cây tre Trung Quốc. "Hạt bé nhất" lại cho cây lớn nhất. Nước Trời khởi đầu là Đức Giêsu và một nhóm nhỏ môn đệ dân chài. Sau hai mươi thế kỷ, Kitô giáo đã lan tràn khắp nơi, đến với mọi dân tộc.
Có thể nói Đức Giêsu đã gieo hạt giống Hội thánh vào giữa lòng thế giới. Sau đó Người biến mất khỏi dòng lịch sử, để hạt giống Hội thánh "âm thầm lớn lên" với bao gian nan thử và thử thách, yếu đuối và bất lực. Dường như Người dửng dưng trước bao khó khăn của Hội thánh. Dường như Người không biết đến bao tội ác đang lan tràn thế giới. Dường như Người không quan tâm đến nỗ lực sống thánh của dân Người.
Nhưng với niềm tin yêu phó thác, chúng ta xác tín rằng: bên kia dòng thời gian, nơi cuộc sống vĩnh hằng, Thiên Chúa đang chờ đợi, nhìn xem và điều khiển cho hạt giống Nước Trời lớn lên và tăng trưởng sung mãn vào một mùa bội thu trong Ngày Cánh Chung sẽ tới.
Có thể nói Đức Giêsu cũng đã gieo hạt giống Đức tin vào tâm hồn chúng ta qua Bí tích Rửa tội. Người cũng đang chờ đợi hạt giống ấy mọc lên và tăng trưởng: qua những lời cầu nguyện âm thầm, qua việc siêng năng lãnh nhận các Bí tích, và qua đời sống chứng nhân của mỗi người. Đây là việc đòi hỏi sự kiên nhẫn lâu dài và lòng trung tín suốt đời. Đức Giêsu nói: "Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát" (Mt.10,22).
Wendell Holmes cho chúng ta một bí quyết: "Để vào Nước Trời, chúng ta luôn phải chèo lái con thuyền của mình, đôi khi thuận buồm xuôi gió, nhưng cũng có lúc phải lội ngược dòng. Điều quan trọng là phải luôn chèo chống, đừng neo thuyền lại".
Thánh Phaolô dạy: "Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện" (Rm.12,12). Ngài cũng đã nêu gương bền chí: "Tôi đã chiến đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin" (2Tm.4,7).
***
Lạy Chúa, Chúa đã đến trần gian như hạt giống chôn vùi dưới lòng đất nhưng Chúa đã sống lại vinh quang. Xin cho chúng con biết âm thầm chết đi cho tội lỗi, để được lớn lên trong nguồn ơn Thánh Chúa. Amen.
9. Đặt niềm tin và hy vọng nơi Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật XI thường niên B, trung tuần tháng Sáu, tháng kính Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu. Lời Chúa mời gọi chúng ta sống tin tưởng và hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa tình yêu. Quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta là vô cùng vô tận, một tình yêu nhập thể (gieo vào thế gian) đối thoại với con người, khiến con người tin tưởng, kiên nhẫn, phó thác trong tin yêu vào Chúa là nguyên nhân mọi sự (x. Ed 17, 22-24), là sức mạnh, là niềm vui và là động lực, giúp con người nhận được ơn của Chúa, và sống tốt đời sống làm con Chúa.
Chủ nhật này, thánh Marcô, người con tinh thần của Thánh Phêrô thuật lại cho chúng ta hai dụ ngôn tuyệt vời, giàu ý nghĩa của Chúa Giêsu: dụ ngôn hạt giống tự mình mọc lên và dụ ngôn hạt cải (x. Mc 4, 26-34). Qua những hình ảnh nông nghiệp bình dân ấy, Chúa trình bày mầu nhiệm Nước Trời, và mời gọi con người hy vọng và tin tưởng nơi Chúa là Thiên Chúa quyền năng (x. Ed 17, 22 – 24).
Có người gọi dụ ngôn này là “hạt giống mọc lên một mình”. “Người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa” (Mc 4, 27). Thực tế, hạt giống không có tự mình mọc lên được như Phaolô nói: “Tôi trồng, Apôllô tưới, những chính Thiên Chúa cho mọc lên” (1Cr 3, 6). Một khi hạt giống được gieo vào lòng đất, tương quan giữa hạt giống với đất được thiết lập, một chuỗi những kỳ bí vô hình tuyệt vời bắt đầu, quá trình nảy mầm sẽ xảy ra, nếu như nhà nông không để ý đến những gì ông đã gieo và không ai quan tâm đến hạt rơi vào thửa đất.
Đây là một trong những dụ ngôn lạc quan nhất mà chúng ta có được. Mưa hay nắng, các thực tại thần linh được gieo trong nhân loại và chắc chắn mỗi ngày một triển nở, sự yếu đuối của chúng ta là sức mạnh của hạt giống. Hạt giống Chúa Giêsu Con Thiên Chúa được gieo vào mảnh đất nhân loại chúng ta.
Nước Thiên Chúa được sánh ví như hạt cải với sự lớn mạnh của nó... Liệu tất cả những người tin có hy vọng thế không ? Và các tín hữu có trông đợi như vậy không ? Phải chăng “những điều mắt chẳng hề thấy, tai không hề nghe, và đã không hề nảy lên nơi lòng một người phàm, hết thảy là những điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người sao ?” (1 Cr 2, 9) Thật vậy, “sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người” (1Cr 1, 25), nên điều nhỏ nhặt tốt lành của Chúa cũng lộng lẫy hơn sự bao la của thế giới.
Chúa Giêsu là Nước Trời. Theo cách thức của người gieo hạt, Người đã được gieo vào lòng đất thân xác Đức Trinh Nữ Maria. Người đã lớn lên và trở thành cây che phủ toàn thể địa cầu. Sau khi bị nghiền nát bởi cuộc Thương Khó, trái cây sinh ra đủ mọi hương vị, phù hợp với khẩu vị và tỏa hương thơm cho mọi vật sống chạm đến Người. Vì, như hạt cải, sự kiện hạt bị nứt ra chính là mạnh của nó. Tương tự như vậy, Chúa Kitô muốn thân mình được nghiền tán ra để sức quyền năng Thiên Chúa được thể hiện trong thế gia... Chúa là vua, là nguyên lý của mọi quyền hành là Nước Trời, vì tất cả vinh quang của nước ấy ở nơi Chúa.
Lời Chúa Giêsu : “Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung nước Thiên Chúa? Hay dùng dụ ngôn nào mà so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được” (Mc 4, 30-32). Với ngôn ngữ văn chương của người Do thái, các loài chim tượng trưng cho các dân ngoại và những người nước ngoài đến ẩn náu với số lượng lớn. Tiên tri Êdêkien đã nói rất chí lý : “Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi Israel, nó sẽ đâm chồi, kết quả, và trở thành cây hương nam vĩ đại; các thứ chim trời đều đến ẩn náu dưới thân cây và làm tổ dưới tàn nó” (Ed 17, 23). Hình ảnh của hạt cải lớn lên trở thành nơi cho “chim trời” ẩn núp không có mục đích gì hơn là giúp cho chim trời sống thoải mái và bình an! Hình ảnh này nhấn mạnh đến Nước Thiên Chúa ở trong chúng ta, và hạt cải nhỏ bé sẽ trở thành một cái cây lớn, trong đó chim trời đến làm tổ, ám chỉ tình yêu vô cùng của Thiên Chúa được ban nhưng không cho chúng ta. Vương quốc của Thiên Chúa sẽ lan rộng đến tất cả các quốc gia trên khắp thế và người ta tìm nơi trú ẩn nơi một Kitô giáo tốt lành.
Ơn gọi của Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô không phải là để trở nên mạnh mẽ. Trở nên vĩ đại, không phải là ơn gọi của Chúa Kitô. Giáo hội không tìm cách trở thành bình đẳng của các vương quốc thế trần : đó không phải là sứ mạng của Giáo hội, càng không phải là chứng nhân mà Thiên Chúa mong muốn nơi Giáo hội. Dụ ngôn nói rằng chim trời đến ẩn núp. Đây không phải là sự bành trướng nhưng là sự hiếu khách. Nước Trời không đến để áp đặt lên con người, nhưng đón nhận họ. Trong cây sự sống hoặc cây mà cho phép loài chim đến đậu rồi bay đi và đôi khi được đón nhận ở đó, cho đến ngày làm tổ, đẻ ấp trứng và sống hình thành.
Trong bước đường thiêng liêng, chúng ta thường có thói quen mơ tưởng những điều được coi là vĩ đại. Và rồi thất vọng. Không, chúng ta phải tin tưởng và hy vọng. Niềm hy vọng nơi chúng ta qua đức tin và lòng mến, cho phép chúng ta khám phá ra Thiên Chúa bao bọc chung ta, khiến chúng ta không nản lòng hay thất vọng trong việc truyền giáo, nhưng giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng sẽ dẫn dắt mọi sự đến thành toàn mà Ngài đã khởi đầu. Dù điều gì xảy ra với chúng ta đi chăng nữa, thì đời chúng ta đã được đồng hành bởi lời hứa đáng tin này: “Nếu ta cùng chết, ta sẽ cùng sống! Nếu ta chịu đựng, ta sẽ đồng trị. Nếu ta chối Ngài, Ngài sẽ chối ta” (2Tm 2, 11-12).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa, chúng con đặt tin cậy và hy vọng nơi Chúa. Amen.
10. Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây?
(Suy niệm của Nguyễn ngọc Thế SJ)
* Vài hàng sơ lược
Trước đoạn này, Chúa Giêsu cũng kể về hai dụ ngôn khác: Dụ ngôn người gieo giống (4, 1-20) và dụ ngôn cái đèn, đấu đong (4, 21-25). Về hài dụ ngôn trong đoạn này (26-29 và 30-32) Chúa Giêsu dùng để rao giảng về Nước Thiên Chúa.
Trong đoạn phúc âm này có thể chia ra làm ba phần: (1) Từ câu 26-29: Dụ ngôn hạt giống tự mọc lên; (2) câu 30-32: Dụ ngôn hạt cải; (3) câu 33-34: Kết luận về các dụ ngôn.
Ở đoạn (1) chúng ta có thể nhận ra được trọng tâm chính yếu hướng về việc hoa màu sinh ra. Nhưng cần phải nhấn mạnh thêm là, tự động sinh ra (câu 28). Tất cả những câu trước và câu sau gắn liền và hương về câu trọng tâm này.
Trong khi đọan (1) nhấn mạnh đến việc hạt giống tự mọc lên, thì ở đoạn (2) trọng tâm hướng về việc hạt cải nhỏ nhất, nhưng khi mọc lênm thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ (câu 31 và 32). Đây là một sự tương phản rõ rệt. Ngoài ra, cả ba dụ ngôn: dụ ngôn người gieo giống (1-20) và hai dụ ngôn trong đoạn này đều có một điểm chung được nhấn mạnh và là hạt giống tự mọc lên, Nước Thiên Chúa sự tự đến vào thời gian nhất định, con người không có thể làm gì, ngoài việc gieo hạt xuống đất và chờ đợi.
Đoạn (3) là kết luận về các dụ ngôn. Điều được nhấn mạnh ở đây là cách thức rao giảng của Đức Kitô: “Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn“ (câu 34)
* Suy niệm
26 Người nói: "Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất.27 Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết.
Dụ ngôn bắt đầu bằng câu: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện...” Ở đây Nước Thiên Chúa chính là chủ đề chính yếu mà Đức Giêsu muốn rao giảng, muốn cách nghĩa cho mọi người hiểu. Vậy chuyện mà Ngài dùng để hướng về Nước Thiên Chúa là chuyện gì? Đó là chuyện một người vãi hạt giống xuống đất (câu 26b). Trong câu này, Rudolf Pesch đã chú ý một điều là Mác-cô sử dụng động từ gieo vãi trong thì quá khứ, aorist (ba,lh - từ động từ ba,llw - gieo vãi) Như vậy hành động của người gieo giống được kết thúc ở đây. Điều này có nghĩa gì? Điều quan trọng giờ đây là việc lớn lên của hạt giống được diễn tả rất cụ thể. Đó là trọng tâm cần được chú ý.
Trong câu 27 hình ảnh một người nông dân “lười biếng“ được diễn tả qua một vài hành động: “ngủ... thức, không biết”. Nhưng có thực là anh nông dân này lười không? Phải chăng công việc của anh đã xong, giờ đây thì anh được thảnh thơi? Theo Adolf Pohl, thì việc gieo vãi hạt giống của anh nông dân không có ý nghĩa là vất bỏ, là quẳng đi không cần chú ý tới. Cũng giống như ở câu 3, Chúa Giêsu kể về người gieo giống: “Các người nghe đây! Người gieo giống đi ra gieo giống“, nhưng ở đây trong câu 27 này thì hình ảnh người nông dân được kể khác. Trong câu 3 thì việc gieo giống được kể rất chi tiết, còn ở đây thì hướng về thời gian sau khi gieo giống. Vì vậy mà hành động có tính cách bị động “ngủ” của người gieo giống ở đây được diễn tả như một hành động hướng về việc hạt giống mọc lên. Một cách nào đó, anh ta đã thi hành trách nhiệm của mình xong rồi, giờ đây thật bình tâm và thanh thản, anh ta tiếp tục sống và làm việc như mọi ngày, ăn ngủ, thức và làm việc cần làm. Còn chuyện hạt giống đâm chồi và mọc lên là chuyện sẽ đến và chuyện này đã có người khác lo rồi. Vì thế, nếu nói anh nông dân lười biếng thì tội nghiệp cho anh ta, và cũng không thể nói rằng anh ta chẳng màng gì đến việc hạt giống mọc lên thế nào. Như vậy, ở đây Chúa Giêsu muốn diễn tả một điều rất hay mà thánh Phao-lô đã nêu bật: “Vậy A-pô-lô là gì? Phao-lô là gì? Đó là những tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin, mỗi người đã làm theo khả năng Chúa ban. Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể” (1Cr 3, 5-7) Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng và Ngài cũng muốn ban tặng, nên người nông dân đã hiểu được điều này, vì thế người nông dân chẳng lo lắng, chẳng phiền muộn, mà ngược lại anh vẫn ngủ, vẫn thức và vẫn làm việc bình thương như mọi ngày. Điều này có lẽ cần giúp chúng ta suy nghĩ lại chính niềm tin của mình. Chúng ta có ý thức về sức mạnh tiềm ẩn của Thiên Chúa không? Chúng ta có tin tưởng vào hành động và ảnh hưởng của Ngài không? Hay chúng ta chỉ tin vào sức mình mà thôi, để rồi trong mọi chuyện chúng ta ra sức làm, để đạt được thành công mỹ mãn và hãnh diện về điều đó? Đâu rồi sự hiện diện sống động của Thiên Chúa? Ngài có chỗ trong đời sống chúng ta không? Còn nếu cố gằng hết sức mình nhưng vẫn thất bại thì sao đây? Lúc đó chúng ta mới đi tìm Thiên Chúa sao?
Ngoài ra, việc người nông dân vẫn ngủ, vẫn thức và vẫn làm việc bình thương như mọi ngày diễn tả một điều: Thời gian cứ xoay vần như vậy có nghĩa là, đây là thời gian mà hạt giống cũng được “vần xoay”, cũng đang được cho lớn lên, để rồi đến một lúc nào đó sẽ nẩy mầm thực sự. Đó là cao điểm của dụ ngôn, cao điểm của ân sủng và tình yêu. Và nhìn kìa:
28 Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt.29 Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa."
“auvto,matoj – Tự động” có nghĩa là không có nguyên nhân rõ rệt, và qua đó nói lên việc mọc lên của hạt giống là hành động lạ lùng của Thiên Chúa đã làm. Ba hình ảnh rất sống động nói lên được việc lạ lùng Thiên Chúa đã làm: “cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt“. Như vậy, việc hạt giống mọc lên và phát triển người gieo giống biết tới (câu 27), mà cần gì phải biết tới những công việc Thiên Chúa làm. Ngài luôn có mặt và làm những việc cần làm, để sự phát triển không chỉ nở hoa thơm, mà còn phải được trổ sinh trái chín trĩu nặng cành cây. Vâng, không có mặt người gieo giống, nhưng có Thiên Chúa hiện diện. Vậy là tốt lắm rồi!
Nhưng việc là lùng Thiên Chúa làm ở đây theo Rudolf Pesch không gạt bỏ con người và những gì con người làm ra rìa. Có lẽ điều con người có thể làm là gieo hạt, là ưng thuận, là kiên nhẫn đợi chờ, là trung thành với Đấng là Chủ Đất Trời, là tin tưởng và cậy trông hoàn toàn, đến nỗi mọi chuyện đều do Thiên Chúa làm, phần mình chỉ góp một chút thiện chí nhỏ nhoi. Vâng, thái độ rất căn bản mà nhà nông cần có là kiên nhẫn đợi chờ, bình tâm và tín thác hoàn toàn (ss. Giacôbê 5,7)
Giờ đã đến. Giờ của Thiên Chúa, giờ của tình yêu đã đến. Đây là sứ điệp trọng yếu của Đức Kitô rao giảng. Từ cái không không trở thành điều tuyệt hảo, từ một hạt giống nhỏ nhoi trở thành đồng lúc chin vàng mơn mởn với hương thơm lan tỏa. Và giờ đây:
“29 Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa."
Vâng, đợi chờ đã đến đích. Kiên nhẫn và tin tưởng giờ đây được thưởng rồi: “Các ngươi hãy tra liềm vào, vì đã tới mùa lúa chín. (Gioen 4, 13) Tiên tri Gioen đã kêu lên như thế, nhưng trong ý nghĩa của tòa án chung thẩm, nơi Thiên Chúa sẽ kết án (xem thêm Gioen 4, 9-14). Còn với Giêsu tiếng kêu này không hướng về kẻ thù nào cả. Tiếng kêu gọi hãy cầm liềm hái ra gặt là tiếng kêu mừng vui về mùa gặt đã tới, vì cành lúa đã trĩu nặng lắm rồi. Vâng, mừng vui về ơn giải thoát của Gia-vê Thiên Chúa, như tiên tri Isaia nói: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng them nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt.” (Is 9,2) Trở về lại với điểm quan trọng của dụ ngôn. Đó là hạt giống “tự động” nảy mầm và lớn lên, qua đó chúng ta nhận ra rằng, niềm vui về mùa gặt chính là món quà lớn lao của Thiên Chúa. Vâng, món quà về hạt lúa được gieo vào trong lòng đất tối tăm, nhưng sau đó tự động nảy mầm, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Đây chính là công việc lạ lùng Thiên Chúa làm trước mặt chúng ta. Trong ý nghĩa này, theo Adolf Pohl, thì chính Giêsu cũng sống trong niềm tin tưởng trọn vẹn vào sự “tự động” và Ngài luôn hướng về niềm vui về mùa gặt sẽ đến trong thời cao điểm. Hành động lạ lung của Thiên Chúa xảy ra vào ngày thứ sáu tuần thánh và ngày Phục Sinh. Từ chương 8, trong Mác-cô, Giêsu đã từ từ loan báo hành động lớn lao này của Thiên Chúa. Đó là cái nhìn Kitô học trong dụ ngôn này.
Theo cái nhìn Kitô học luôn là hiệu quả trong nhãn quan của Giáo Hội học. Vâng, theo Adolf Pohl, thì với dụ ngôn này Giêsu đã đặt cộng đoàn của Ngài trong tâm tình của Dacaria chương 4, câu 6: “Không phải nhờ thế lực, cũng chẳng phải nhờ sức mạnh mà nó hoàn thành công việc Ta giao phó, nhưng là nhờ thần khí của Ta, ĐỨC CHÚA các đạo binh phán.” Vâng, điều xảy ra này cộng đoàn và các môn đệ của Giêsu không thể tự mình nài công vất vả để làm ra và tạo nên, mà họ chỉ có thể cầu xin, mở lời ngợi ca, làm chứng tá, và đôi khi phải đau khổ nữa.
Thực, một môn đệ đích thực không muốn những gì anh ta không thể làm. Anh ta không muốn tự mình xây lên Thiên Đàng. Đây chính là điểm mà chúng ta cần phải suy niệm sâu sa. Vâng, trong chính công việc truyền giáo, rao giảng tin mừng, làm chứng tá, xây dựng cộng đoàn hay dòng tu, ai ai trong chúng ta cũng hăng say, cũng ra sức. Đó chính là điểm son của lòng nhiệt thành và thiện chí. Nhưng nếu không khéo, thì chúng ta quên đi rằng, chúng ta chỉ là người gieo giống mà thôi. Còn việc hạt giống nảy mầm, sinh hoa kết trái là của Chúa. Vâng, điều cần làm vẫn phải làm, đoạn đường cần đi vẫn phải đi, như anh người môn đệ đích thực, anh ta đã đi con đường mình cần đi rồi, thì với tất cả lòng khiêm tốn, anh ta dừng bước, và kiên nhẫn đợi chờ. Vâng, với lòng khao khát về Nước Trời sẽ đến, tình yêu sẽ nở bông lúa chín vàng nặng trĩu. Và khi mùa gặt đến rồi, anh ta với tất cả tấm lòng biết ơn sẽ mở lời tung hô Thiên Chúa, chứ không tự tung hô mình:
“Việc CHÚA làm cho ta, ôi vĩ đại!
ta thấy mình chan chứa một niềm vui.” (Tv 126, 3)
30 Rồi Người lại nói: "Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được?
Chúa Giêsu mở đầu dụ ngôn hạt cải với hai câu hỏi. Qua đó, Ngài như mời gọi người nghe đi vào câu chuyện với Ngài. Vâng, Nước Thiên Chúa được ví với cái gì?
31 Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. 32 Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng.
Nước Thiên Chúa, một đỉnh cao chót vót, nhưng giờ đây trở nên nhỏ bé nhất. Đấng vĩ đại trở thành Kẻ bé nhỏ nhất. Một hình ảnh thật đặc biệt chứa đựng sự táo bạo. Vâng, tình yêu có thể thúc đẩy người ta làm những hành động ngược đời, chẳng logic chút nào trong đôi mắt của cuộc đời. Ờ đây nếu chiêm ngắm tường tận Giêsu, thì chúng ta sẽ nhận ra được cái ngược đời này. Vâng, ngược với cuộc đời, nhưng xuôi với Thiên Chúa. Và ở đây hạt cải mà Giêsu nhắc đến, theo Joachim Jeremias thì trong đôi mắt con người, hạt cải nhỏ như lỗ kim, nhỏ nhất trên mặt đất (câu 31), đến nỗi người ta ít chú ý đến.
Trong sự so sánh này, theo Joachim Jeremias thì điều mà Giêsu muốn so sánh với Nước Thiên Chúa, là ở phần sau. Nghĩa là, từ hạt cải nhỏ nhất, cây cải mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ. Những cây cải này theo Jeremias, ở bờ hồ Giê-nê-gia-rét, cao từ 2,5m đến 3 m. Và cây cải này có nhiều cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng. Cây cải này với Adolf Pohl như là Cây của vương quốc Thiên Chúa mọc lên ngay tại chỗ hạt giống nhỏ bé được gieo, và người người đã từng đi qua nhưng chẳng màng nhìn đến. Giờ đây, chim trời tìm đến chú ẩn. Chim được nhắc ở đây không còn là loại chim biểu tượng cho sự dữ mà Mác-cô nhắc đến trong câu 4: “Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất.” Loài chim ở đây liên hệ với loài chim mà Êdêkien nhắc đến, biểu tượng cho tất cả mọi dân tộc: “Trên cành cây, mọi giống chim trời đến làm tổ.” (31,6) Vâng, theo Êdêkien thì làm tổ trên cành cây, còn theo Mác-cô thì làm tổ dưới bóng cành cây. Bóng cây ở đây không phải là bóng của thần chết, mà là bóng mát che đầu, bóng che chở mọi người trước ánh nắng chói chang nóng nực kia.
Ngoài ra, theo Adolf Pohl thì hình ảnh hạt cải này cũng nói lên sứ mạng của Giêsu. Một sứ mạng thật mầu nhiệm. Vâng, đó là mầu nhiệm về hành động yêu thương của Thiên Chúa đang sống động, đang bao trùm và ấp ủ thế giới này. Hành động của Thiên Chúa được thể hiện nơi Người tôi trung chẳng là gì, và cũng chẳng có nơi gối đầu, trong khi chim trời có tổ để ở. Qua chính sự dấn thân, việc làm và lời rao giảng của Ngài, mà hạt giống là Nước Trời được gieo vào lòng đất. Không chỉ dừng ở đấy, Người tôi tớ này bị hành hạ và đày ải, bị bắt bớ và kết án, bị đóng đinh trên thập giá và chết đi. Nhưng cái chết không thể thẳng được Ngài. Hay cái chết là điều cần thiết. Vâng, như hạt lúa mì cần phải chết đi mới sinh nhiều hoa trái, thì Giêsu cũng cần chết đi, để rồi từ đó mà Ngài đã đem lại cho nhân loại Cây Cải thật lớn với cành lá xum xuê, với bóng mát che đầu. Vâng, nơi đây dưới cây cổ thụ này, chim trời thích tìm đến, và mọi người ai tìm tới sẽ tìm thấy nơi gối đầu, tìm thấy quê hương và ngôi nhà để trú ẩn. Vâng, trú ẩn cả cuộc đời. Theo Rudolf Pesch, thì đây chính là ý nghĩa của động từ theo tiếng Hy-lạp: kataskhnou/n (kataskhno,w) – trú ẩn, làm tổ cả cuộc đời trong vương quốc Nước Thiên Chúa.
Vương quốc này theo Rudolf Pesch được tiềm ẩn trong cộng đoàn, trong Giáo Hội. Vâng, Giáo Hội chính là người có trách nhiệm gìn giữ chỗ cho Vương Quốc Thiên Chúa. Vâng, trong Giáo Hội nhỏ bẻ và bất toàn này Cây Vương Quốc rất thánh và rất huy hoàng đang ẩn mình. Như vậy, cây cải lớn lao này là biểu tượng cho vương quốc vĩ đại và mạnh mẽ, trong đó mọi người được trú ẩn, được chở che. Trong sách của tiên tri Edêkien chúng ta đọc được hình ảnh này:
“ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau:
Từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao chót vót,
Ta sẽ lấy, sẽ ngắt một chồi non;
chính Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi cao vòi vọi.
Ta sẽ trồng nó trên núi cao của Ít-ra-en.
Nó sẽ trổ cành và kết trái
thành một cây hương bá huy hoàng.
Muông chim đến nương mình bên nó,
và ẩn thân dưới bóng lá cành.” (17, 22-23)
Tóm lại ý nghĩa của dụ ngôn này theo Jeremias là: Từ sự bắt đầu nhỏ bé nhất, từ cái không không chẳng đáng nhìn trong đôi mắt con người, Thiên Chúa đã làm nên vương quốc vĩ đại, bao la và mạnh mẽ của mình. Trong vương quốc này người người, nhà nhà của của thế giới được phép trú ẩn và sống dồi dào.
33 Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe.34 Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.
Đây là phần kết luận về các dụ ngôn trong đoạn này của Mác-cô. Ở đây từ ngữ “Lời” gắn liền với từ vựng “Lời” được nhắc đến 8x trong đoạn trước đó, từ câu 14-20. Giêsu chính là người đi gieo giống. Lời chính là Sứ Điệp, là Tin Mừng, là lời kêu gọi về sự hiện diện của Vương Quốc Thiên Chúa trong chính Con Người Giêsu và những gì Ngài làm. Nhưng sứ điệp này Giêsu trình bày một cách gián tiếp, không bao giờ trình bày một cách trực tiếp. Cách thức cổ điển về việc trình bày gián tiếp là các dụ ngôn. Nhưng dụ ngôn không chỉ là hình thức rao giảng của Giêsu, mà còn là lời dạy dỗ (xem Mc 4, 1tt), hay còn là lời tiên tri, là những lời dùng trong lúc tranh luận, là lời hướng dẫn mang tính cách luân lý. Như vậy Giêsu không bao giờ nói về chính Ngài một cách trực tiếp và thẳng thẳn cho người nghe, như cách Ngài nói với các môn đệ của mình, như trong Mc 8, 31-32 về cuộc thương khó của Ngài.
Nhưng tại sao Giêsu lại không nói rõ ràng và thẳng thắn cho dân chúng? Lý do không nằm ở nơi Ngài, mà nơi dân chúng. Vâng, Ngài rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe. Ở đây chúng ta nhận ra rõ ràng nghệ thuật giáo dục của Giêsu. Hơn nữa, nếu Giêsu nói trực tiếp và rõ ràng, thì có thể sẽ đem lại một bầu khí áp đặt. Hơn nữa, lời rao giảng trực tiếp cũng có thể đưa tới tình trạng là dân chúng sẽ ùa vào và trở thành một tập thể không tin tưởng vào Ngài và chống lại Ngài, vì họ hay một vài người trong họ không hiểu những gì Ngài giảng dạy.
Như vậy, lời rao giảng theo tính cách tượng hình, dùng dụ ngôn … là cách thức dễ dàng đi vào lòng người, dễ dàng đi vào tập thể nhất. Hơn nữa, dụ ngôn Giêsu dùng lại liên hệ rất chặt chẽ với đời sống thường ngày của dân chúng nữa chứ. Vì thế, Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn.
Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết. Với nhóm môn đệ của mình, những người đã hiểu Giêsu một cách nào đó, thì Giêsu không sợ phải giải thích nhiều hơn hay nói thẳng ra rõ ràng. Có lẽ Giêsu đã biết chắc rằng, nhóm môn đệ này, khi nghe Lời giảng dạy trực tiếp sẽ không chống lại Ngài và trở thành những kẻ không tin vào Ngài. Ngoài ra, những gì các môn đệ được nghe trực tiếp cũng là một ân sủng: “Người nói với các ông: "Phần anh em, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn” (câu 11)
11. Giáo Hội là mầu nhiệm – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Ngày hôm nay Chúa Giêsu đã diễn tả một chân lý mà tất cả chúng ta đều nhận biết, ít nhất là qua cuộc suy niệm. Sau khi hạt giống đã được gieo vào trong đất, nó phát triển ra thành một mùa gặt lớn lao. Chỉ với một ít nước, ánh sáng mặt trời và một ít kiên nhẫn thì một sự tăng trưởng kỳ diệu đã diễn ra.
Những điều đó xảy ra thế nào chúng ta không biết. Đây là một sự kiện kỳ diệu, khi một bụi cây được cắt tỉa, một số cành bị cắt đi, nó thực sự trở nên sung mãn và sinh được nhiều hoa trái.
Đó là một mầu nhiệm trong tự nhiên mà có thể được miêu tả lại nhưng không thể cắt nghĩa. Chúng ta có thể nói huyên thuyên rằng những gì sẽ bay lên hoặc phải rớt xuống, nhưng chúng ta không biết vì sao lại có trọng lực nhưng chỉ thấy những việc đó diễn ra. Vì sao mọi vật chất đều được kéo đến trung tâm trái đất mà không chuyển đi từ đó? Không người nào thể có hiểu một cách hoàn toàn về những điều này.
Chủ ý của Chúa Giêsu không phải dạy về một bài học canh nông hoặc vật lý, nhưng muốn chúng ta suy nghĩ về một mầu nhiệm sâu hơn, mầu nhiệm đó là sự ngự trị của Thiên Chúa trong Giáo Hội. Chúa Giêsu nói rằng, việc ngự trị của Thiên Chúa thì giống như hạt cải, nó có thể lớn lên như một cây lớn. Chúng ta có thể sẵn sàng thấu suốt chân lý mà Ngài đã so sánh. Giáo Hội đã bắt đầu với một nhóm nhỏ các tông đồ ở Giêrusalem. Từ nhóm nhỏ đó đã trải dài lên phía bắc của Antiôkia và tiếp đó là băng qua Địa trung Hải để đến Rôma, xuyên qua Châu Âu và dần dần lan ra cả thế giới.
Tất cả những điều này đã xảy ra thì không mầu nhiệm hơn sự tăng trưởng của một hạt giống trở thành một cây lớn. Tuy nhiên một mầu nhiệm sẽ không chấm dứt từ đó. Mầu nhiệm không phải là một chân lý mà chúng ta không biết một tí gì. Mầu nhiệm là một chân lý mà trong đó chúng ta có thể biết về mầu nhiệm đó là Giáo Hội, là điều mà Chúa Thánh Thần đang thực hiện. Đời sống của rau cỏ thảo mộc cần ánh sáng và nước để tăng trưởng. Giáo Hội cũng cần Chúa Thánh Thần. Sau ngày lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã được gởi đến trên Giáo Hội, Giáo Hội đã bắt đầu tăng triển và lan rộng.
Công trình này của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội sẽ không làm cho chúng ta ngạc nhiên. Chính Chúa Giêsu đã thụ thai trong cùng lòng Mẹ Maria, bởi quyền phép Chúa Thánh Thần. Trong kinh nguyện Thánh Thể, chúng ta kêu cầu Chúa Cha: “Xin Thánh Thần của Người ban ơn xuống trên chúng con và làm cho chúng con nên thánh và chúng con xin Thánh Thần ngự trị trên những lễ vật này và làm cho chúng nên thánh để chúng trở nên cho chúng con là Mình Thánh và Máu Thánh của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con”. Tiếp đó, chúng ta cầu xin cho tất cả chúng ta được thông dự vào Mình và Máu Chúa Kitô và để cho tất cả chúng ta được hiệp nhất bởi Chúa Thánh Thần. Sự hợp nhất này là Giáo Hội, là thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Thánh Thần đã hình thành Đức Kitô trong dạ của Mẹ Maria, Người đã tiếp tục hình thành Đức Kitô trong Thánh Thể, cũng như trong Giáo Hội, Giáo Hội này là Giáo Hội hoàn vũ và chúng ta gọi là Công giáo, bởi vì nó đã đạt sự thân mật với mọi người nhân loại. Thánh Thần giống như sức mạnh của trọng lực lôi kéo tất cả mọi người đến trung tâm là Đức Kitô.
Để trở thành một người Công Giáo là suy nghĩ và nhận biết rằng, chúng ta là thành phần của Giáo Hội và Giáo Hội đó đã được thông truyền qua các thế kỷ do chính Chúa Kitô và bây giờ lan rộng khắp trái đất ở mọi nơi mọi chốn. Giáo Hội dù là hoàn vũ vẫn không hoàn hảo, chúng ta phải chấp nhận điều đó. Sự yếu đuối và lầm lẫn, là thân phận của chính chúng ta và những kẻ khác ở trong Giáo Hội, nhưng điều đó sẽ không bao giờ làm cho chúng ta nhát đảm. Như một bụi cây sẵn sàng chịu tỉa xén, để trở nên mạnh mẽ và tăng trưởng mạnh hơn thì Giáo Hội cũng như vậy, cũng cần phải thống hối và canh tân để cho những công trình của Chúa Thánh Thần phát triển. Quả thật chúng ta được đặc ân là thành phần của một Giáo Hội Công Giáo lớn lao này.
12. Hạt giống âm thầm.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một hôm, cha Petitjean đến giảng đạo tại Nagasaki cho một số đông người Nhật. Nghĩ rằng họ đều là người ngoại giáo, nên sau bài giảng cha tươi cười hỏi:
- Anh chị em có thắc mắc gì không?
Một người đưa tay đặt câu hỏi:
- Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời có hay không? Câu hỏi thứ nhất, các ông có Đức Mẹ đồng trinh không?
- Có.
- Câu hỏi thứa hai: Các ông có vâng lời và hiệp thông với Đức Giáo Hoàng không?
- Có.
- Câu hỏi thứ ba: Là linh mục, các ông có giữ mình khiết tịnh và sống độc thân không?
- Có.
- Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi là người Công Giáo cả.
Cha Petijean bàng hoàng như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm cổ nhau. Nhà truyền giáo hỏi:
- Bây lâu nay, có ai giảng dạy cho anh em không?
- Thưa cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi! Đó là nhờ ông bà tổ tiên chúng con truyền lại, rồi chúng con âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ: Sau này có ai đến giảng đạo, hãy cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà nhận xem họ có phải là các cha đích thực, là người của Hội Thánh sai đến không.
Kể từ đó, Giáo Hội Nhật Bản được tái sinh sau 200 năm cấm đạo. Hạt giống Lời Chúa đã được gieo vào lòng đất Nhật Bản từ 200 năm trước vẫn âm thầm nẩy mầm, mọc lên và sinh hoa kết quả.
Sự kiện lịch sử này đưa chúng ta đến hai dụ ngôn về hạt giống trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện người gieo giống trong đồng ruộng. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên bằng cách nào, thì người ấy không biết. Nước Thiên Chúa cũng giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên thế giới. Nhưng gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.
Hai dụ ngôn đều cho thấy đây là Nước của Thiên Chuá, chứ không phải nước của con người, nên hạt giống Nước ấy lớn lên và sinh hoa kết quả là do sức tăng trưởng của nội tại của mình, do quyền năng của Thiên Chúa chứ không do tại sức của của con người. Và vì thế, chắc chắn kết quả chung cuộc sẽ lớn lao bất ngờ hơn so với hạt giống bé nhỏ ban đầu.
Có những loại phong lan ủ rễ trong lòng đất hàng chục năm trước khi nở ra những cành lá xanh và bông hoa xinh đẹp, quý hiếm. Bộ rễ của cây to thường phát triển chậm, nhưng có thể mọc xuyên qua vách đá hoặc xi măng, không có gì có thể ngăn cản nổi. Cũng vậy, Nước Thiên Chúa có thể tăng trưởng chậm, lâu dài và âm thầm. Loài người có thể không nhận ra sự tăng trưởng của Nước ấy, nhưng chắc chắn Nước Thiên Chúa vẫn luôn tăng trưởng không ngừng, âm thầm nhưng mãnh liệt, không có gì có thể ngăn chặn được. Nước của Thiên Chúa vẫn luôn phát triển cả bề trong lẫn bề ngoài, cả chất lượng lẫn số lượng. Nước Thiên Chúa hôm nay vẫn chỉ nhỏ bé, nhưng Thiên Chúa đang làm cho Nước ấy lớn lên, trở thành nơi nương náu cho muôn dân muôn nước.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đến rao giảng sự tăng trưởng của Nước Thiên Chúa, thế mà hơn 2000 năm đã trôi qua, dường như Nước Thiên Chúa vẫn còn quá xa. Hội Thánh nỗ lực xây dựng Vương quốc của tình yêu, công lý và hoà bình. Nhưng biết đến bao giờ vương quốc ấy mới đến? Đôi khi xem ra lịch sử thay vì tiến lên thì lại thụt lùi tụt dốc. Tội lỗi vẫn còn đó, lòng hận thù, bất công vẫn còn đó. Hội Thánh là dấu chỉ của Nước Chúa trên trần gian, nhưng cho tới hôm nay, Hội Thánh vẫn chỉ là “đoàn chiên bé nhỏ” (Lc 2,32) giữa cộng đoàn nhân loại. Dân số thế giới vẫn gia tăng với những bước nhảy vọt, còn các Kitô hữu không tăng bao nhiêu, thậm chí ở một vài nơi lại sụp đổ từng mảng lớn và tỉ lệ lại càng chênh lệch lớn hơn.
Trong bối cảnh đó, đôi lúc chúng ta không khỏi ưu tư và nôn nóng. Càng nhiệt tình và thiện chí thì càng dễ thất vọng và mất kiên nhẫn. Phải chăng Thiên Chúa không còn can thiệp vào lịch sử này nữa? Phải chăng sự im lặng của Thiên Chúa chứng tỏ Ngài bất lực? Tin Mừng là một giải pháp vô ích và phải chăng Thiên Chúa đã chết?
Lời Chúa công bố hôm nay chính là Tin Mừng cho Hội Thánh lữ hành. Hội Thánh là bí tích của Nước Thiên Chúa, tức là dấu chỉ và là tôi tớ phục vụ cho Nước Chúa, nên Hội Thánh nghe được từ Lời Chúa hôm nay một sứ điệp quan trọng: tín thác và kiên nhẫn. Vì Nước Thiên Chúa là công trình của Thiên Chúa, nên Hội Thánh luôn tín thác vào sự tác động quyền năng của Thiên Chúa. Hội Thánh – tức là mọi Kitô hữu- không được tự hào về thánh tích của mình, không được quyền nghĩ rằng Nước Chúa sẽ đến là do khả năng của mình, do nỗ lực hay sáng kiến của mình.
Thánh Vinh Sơn – Phaolô nói: “Công việc của Chúa được thực hiện từ từ không hay biết”. Chúng ta không được sốt ruột, đừng ai tự cho mình là cần thiết: “Không có ta mặt trời sẽ không mọc, sau ta là lụt đại hồng thuỷ”. Cũng đừng quá vội vã, quay cuồng, lo lắng vì thấy hoạt động của mình như không đi đến đâu! Ngày cũng như đêm, hạt giống gieo vào lòng đất cứ âm thầm đâm chồi nẩy mộng. Cũng đừng thất vọng khi không thấy kết quả trước mắt. Lỗi lầm của người tông đồ là dựa trên tài sức của mình hơn là vào sức mạnh của Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa không thể xây dựng trong một ngày, nhưng trường kỳ từ ngày này sang ngày khác. Thái độ nôn nóng đôi khi là dấu hiệu của sự kiêu hãnh vì nghĩ rằng sự tiến bộ là do công lao của mình. Không biết kiên nhẫn đợi chờ có thể dẫn Hội Thánh đến những chọn lựa nghịch với Tin Mừng để tìm sức mạnh của quyền lực, giàu sang và chắc chắn không sớm thì muộn sẽ gặp phải thất bại.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cộng tác trong niềm tin. Tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Tin vào sự hướng dẫn của Chúa đối với với lịch sử, để tất cả vũ trụ đi tới sự viên mãn chung cuộc của mùa gặt phong phú cuối cùng. Niềm tin mời gọi chúng ta tiến bước, bền chí lên đường reo rắc hạt giống Lời Chúa, vì biết rằng: “Tôi trồng, Apôlô tưới, còn Thiên Chúa mới là người làm cho mọc lên” (1Cr 3,6). Tôi chỉ góp phần rất bé nhỏ, con Thiên Chúa mới làm cho hạt giống Nước Chúa lớn lên theo cách của Thiên Chúa. Có khi chính trong lúc ta tưởng ngờ- như Giáo Hội Nhật Bản đã phải trải qua 200 năm âm thầm và kiên nhẫn chờ đợi ngày tái sinh.
Trong Thánh lễ chúng ta được đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể. Chúa Giêsu chính là hạt giống Nước Trời được gieo vào lòng ta. Hạt giống ấy hôm nay nhỏ bé nhưng sẽ âm thầm lớn lên trong chúng ta. Có Chúa sống trong ta, cuộc đời ta sẽ trổ sinh hoa trái, xanh tươi, hoa lá cành, đem lại bóng mát, niềm tin và hạnh phúc cho mọi người.
13. Hạt Giống Thiên Quốc
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Bạn tôi đến Trung Quốc làm ăn cũng đã hơn 10 năm, và do nhu cầu công việc, tình cờ anh đến thăm một làng nọ, chuyên trồng tre làm hàng xuất khẩu. Khi anh đến thăm làng, ông chủ làng dẫn anh đi thăm khu vực đang trồng tre. Để cung ứng tre, họ trồng đủ cả: tre mới trồng, tre 1 năm tuổi, tre 2 năm tuổi, tre 3 và 4 năm tuổi, rồi tre 5 năm tuổi. Vào lúc 5 tuổi, những cây tre đã xanh, bự, cao ngất. Thế nhưng điều kỳ lạ là nếu bạn quan sát những mảnh đất trồng tre của 4 năm trước đó, thì bạn sẽ thấy… không gì cả.
Khi đó, anh bạn của tôi tưởng rằng do mất mùa, hoặc do làng không đủ vốn nên hỏi lại ông chủ làng: “Mất mùa thế kia, thì làng ta có thể cung cấp nguyên liệu đủ cho tôi nếu chúng ta ký hợp đồng nhiều năm không?”
Ông chủ làng cười và nói: “Anh có điều chưa hiểu. Tôi chắc khi anh nhìn vào các mảnh đất không gì cả ở đằng này của chúng tôi, anh nghĩ rằng chúng tôi sẽ không đủ khả năng cung ứng tốt những cây tre 5 năm tuổi cao, xanh và khỏe giống như đằng kia, đúng không? Thực ra không phải vậy. Cây tre ở làng chúng tôi đã được trồng nhiều đời theo cùng một cách… Nó là một giống tre khá lạ, chúng tôi gọi nó là giống tre Lã Vọng.”
Năm đầu tiên, khi những người nông dân của chúng tôi đem những cây giống của loại tre này trồng xuống, họ rất chăm chỉ làm cỏ, tưới nước, xới đất, bón phân với một niềm tin rằng cây tre sẽ phát triển nhanh, và mang lại nguồn thu nhập nuôi sống gia đình họ. Thế nhưng vào cuối năm ấy cái họ nhìn thấy là… không gì cả. Nhưng đến năm thứ 5, những cây tre này đã tự vọt cao một cách kinh khủng không ai hình dung nổi, lên tới hơn 24 mét.
Thực ra, trong những năm đầu, mọi tăng trưởng đều được dồn xuống dưới gốc tre. Sau đó khi đã có đủ bộ rễ, tất cả sự tăng trưởng của cây tre liền trồi lên mặt đất và mọi người lúc ấy mới có thể nhìn thấy được.” (Phùng Lê Sơn Hải, Câu chuyện cây tre Lã Vọng)
Trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu ví Nước Trời như hạt giống gieo vào lòng đất âm thầm lớn lên thành cây lúa, hoặc như hạt cải nhỏ bé mà lớn thành cây cao bóng cả. Hình ảnh Nước Trời hoàn toàn trái ngược với các nước thế gian, thậm chí chẳng có lãnh thổ, chẳng có cơ cấu chính quyền và lẫn thần dân. Điều đó được Đức Giêsu công khai xác nhận với quan Tổng trấn Philatô:"Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này." (Ga 18, 36)
Tuy vô hình với thế gian, nhưng Nước Chúa vẫn hiện hữu, vẫn tồn tại trong lòng người thiện tâm, công dân Nước Trời với hiến chương Bát Phúc. Khi Nước Chúa được ví như hạt giống gieo xuống đất, chính là Lời Chúa gieo vào lòng mọi người. Nếu mảnh đất được chăm sóc, tưới nước, bón phân, diệt cỏ, thì hạt giống Lời Chúa mới có cơ hội phát triển, mặc dầu rất âm thầm, rất khiêm nhượng, nhưng sức sống hạt giống dồi dào, vô cùng mãnh liệt, mà chẳng ai có thể ngờ được, vì cây phát triển, lớn mạnh sau này.
Âm thầm & Phát triển
Giống tre Lã Vọng kể trên có lẽ phản ảnh phần nào hạt giống Nước Trời, vốn khiêm nhu, hiền lành, mộc mạc, sẽ âm thầm phát sinh sức sống mới trong tâm hồn những ai nghe và thực hành Lời Chúa. Họ đều được vinh hạnh sẽ trở nên huynh đệ, là người anh, chị, em của Đức Giêsu trong Thiên Quốc. “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc 3, 35)
Với đất tốt, phì nhiêu, lòng chân thành, đạo đức, với sự chăm sóc, diệt trừ cỏ dại, ăn năn, sám hối, từ bỏ thói mê tật xấu, với sự đầu tư phân bón thích hợp, những việc lành phúc đức, bác ái, yêu thương, dấn thân phục vụ tha nhân, cùng hy sinh, chịu khổ cực, chịu chết đi tính xác thịt, thì hạt giống Nước Trời mới có cơ hội biến chuyển, nảy mộng, đâm chồi, bén rễ, tăng trưởng vượt bậc.
“Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết.” (Mc 4, 27) Làm sao ai thấu đáo nổi sức sống thần linh của Lời Chúa? Chính Thánh Phaolô cũng đã chứng thực, đó là quyền năng tuyệt hảo: “Tôi trồng, Apollô tưới, nhưng Thiên Chúa cho mọc lên.” (1Cr 3, 6)
Không cần xảo ngôn, không cần tuyên truyền, không cần phô trương, diễu võ dương oai, không phức tạp những kỹ năng tiếp thị, Nước Chúa luôn chân chất bình dị, không cầu kỳ, màu mè, hương sắc, chỉ đơn sơ, hiền lành như hạt giống lúa, chỉ nhỏ nhắn, khiêm hạ như hạt giống cải, chỉ nhu mì, giản dị như nắm men làm dậy cả đấu bột, nhưng lại vô cùng phát triển, vô cùng vững mạnh, nhất là lại vô cùng cao quý hiếm hoi, tựa như kho báu chôn giấu kỹ dưới ruộng, hay viên ngọc đẹp nhất vô giá, vô song. Bất cứ ai ngay lành, công chính, có lương tri, cũng đều thao thức, trăn trở làm sao sở hữu được báu vật trường cửu viên mãn đó.
Quảng đại và thử thách
Hạt Giống Thiên Quốc không chỉ hạn hẹp gieo vãi vào những mảnh đất phì nhiêu, bờ xôi ruộng mật, đệ nhất đẳng điền, nhưng còn quảng đại gieo vào khắp nơi, không phân biệt xấu tốt, như nắng mưa đổ xuống mọi người lành cũng như kẻ dữ. Có hạt rơi bên vệ đường, hạt rơi trên sỏi đá, hạt rơi vào bụi gai, hạt rơi vào đất tốt. (Mt 13, 3-9) Thiên Chúa luôn giàu lòng từ bi, yêu thương tất cả tạo vật, tất cả loài người, nên rộng lượng ban phát Lời Chúa cho tất cả mọi người. Nhưng chỉ có những ai thiện tâm, được hồng phúc, mới ươm trồng được Hạt Giống Thiên Quốc nảy chồi trong tâm hồn, mới hội nhập vào Nước Chúa, mới hoàn tất được hồ sơ xin chiếu khán vào Thiên Quốc.
Tuy nhiên, nhập cảnh vào Thiên Quốc không hề dễ dàng chút nào, lẽ đương nhiên còn phải chịu bao thử thách, bao gian khổ, bao công lao khó nhọc, thậm chí có khi phải hiến cả mạng sống, để xứng đáng làm công dân Thiên Quốc. Bởi vì Hiến Chương Nước Trời đã quy định tám điều luật cần thiết và ắt đủ để được cứu xét quyền lưu trú, quyền định cư vĩnh viễn vào Thiên Quốc.
Không thể như thế gian, cứ bon chen chạy chọt, cứ lải nhải xin xỏ, bẻm mép là được cứu xét, vì Đức Giêsu đã tuyên bố điều kiện gia nhập Nước Trời rất cụ thể và hữu lý: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: "Lạy Chúa, Lạy Chúa", là được vào Nước Trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào Nước Trời. (Mt 7, 21)
Thực hiện Ý Thiên Chúa chính là làm những điều Đức Giêsu đã phán dạy, cũng như những điều Người đã vâng theo Thánh Ý Chúa Cha, mà chịu khổ nạn vả chịu chết. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình. Vì chưng được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống mình, thì nào được ích gì?”(Mc 8, 34-36)
“Hạt lúa gieo xuống đất không chết, trong nó sẽ phát xuất sự sống phong phú mới mẻ hơn. Hạt lúa nấu thành cơm nuôi nhân loại cũng không chết, nó tươi nở trong một cuộc sống khác đẹp hơn, cao quý hơn.” (Đường Hy Vọng, số 688)
Lạy Chúa Giêsu, xin gieo vào lòng chúng con Hạt Giống Thiên Quốc, xin Chúa ban cho hạt giống nảy nở, đâm chồi, phát lộc vững mạnh, phát triển bền đỗ, tránh được hiểm họa sâu bệnh, lẫn phong ba, bão táp, lũ lụt, vẫn một lòng trung kiên, trung thành với Nước Trời.
Lạy Mẹ Maria từ bi nhân hậu, xin Mẹ cầu bầu chở che chúng con được ở trong Nước Chúa, dù có sa ngã, lỗi lầm, vấp phạm, vẫn được Mẹ thương yêu sửa dạy, ân cần dìu dắt, chỉ đường dẫn lối cho chúng con can đảm dấn bước về quê Trời. Amen.
14. Nước Cha Trị Đến
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Chúa Giêsu chính là Người Đi Gieo Hạt Giống Tin Mừng, khởi sự mở cửa Nước Trời cho nhân loại. Tiếp đến, các Tông Đồ, các mục tử và cả đoàn chiên cũng đã và đang tiếp nối sứ vụ Đi Gieo, mà Chúa Giêsu đã trao phó.
Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. (Mt 28, 19-20)
1. Đi Gieo
Trước khi về trời, Chúa Giêsu ân cần trao cho các Tông Đồ sứ vụ Đi Gieo Hạt Giống, rao giảng Tin Mừng đến muôn dân, mở mang Nước Chúa. Nhờ ơn Đức Chúa Thánh Thần, các ngài đã can đảm và tích cực phát triển Nước Chúa ngoạn mục, ngay từ những giây phút đầu tiên.
Anh em hãy sám hối và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em nhận được ân huệ là Thánh Thần…Và những ai đón nhận lời ông (Phêrô), đều chịu phép rửa. Và hôm đó đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo. (Cv 2, 38-41)
2. Chim trời, đất sỏi và gai góc
Nhưng sứ vụ Đi Gieo không hề dễ dàng thuận lợi, mà trái lại, gặp vô vàn gian nan, thử thách, thậm chí chịu bức bách, tù tội và hành hình. Như chim chóc, ác điểu lạnh lùng kéo nhau đến tiêu diệt, như đất sỏi đá, môi trường khắc nghiệt, từ chối, chống đối, áp bức, như bụi gai, những thế lực đen gian ác uy hiếp, cấm đoán, bót nghẹt.
Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có hạt rơi trên sỏi đá, chỗ không có nhiều đất, nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị chết cháy. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt và không sinh hoa kết quả. (Mc 4, 4-8)
Vào Tháng 8 năm 64, Hoàng đế Nero bắt đầu bách hại Kitô hữu. Cuộc bắt đạo diễn ra đến tận năm 313. Lúc ấy, Thánh Phêrô, viên đá tảng của Hội Thánh, là Đức Giám Mục Roma và là Đức Giáo Hoàng đầu tiên của Hội Thánh Công Giáo, được vinh dự làm chứng nhân Đức Tin, chịu tử vì đạo. Rồi Thánh Phaolô cũng chịu xử trảm.
Tại Việt Nam, vào thời Trịnh Nguyễn, Giáo Hội Công Giáo ước tính có đến hàng trăm ngàn người đã làm chứng nhân Chúa Kitô. Bây giờ cơn thử thách vẫn còn tiếp diễn, nhưng tinh vi, xảo quyệt hơn.
Khắp nơi lan tràn tinh thần thế tục, nếp sống hưởng thụ, chủ thuyết duy vật và các tà thuyết vô thần, đang hiệp đồng hăm hở đánh phá Nước Chúa, cùng ngăn chận những bước chân Đi Gieo.
3. Hạt Giống nhiệm mầu
Nhưng Hạt Giống vẫn âm thầm đâm chồi, nấy lộc, mọc lên. Tin Mừng vẫn tiếp tục được rao truyền. Nhờ Đức Chúa Thánh Thần vẫn âm thầm, che chở và tác động trên Dân Chúa, mọi nơi và mọi lúc, Nước Thiên Chúa vẫn phát triển mạnh mẽ không ngừng, mà chẳng ai có thể ngờ hay hiểu nổi.
Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. (Mc 4, 27)
4. Bội thu
Mặc cho mưa sa, bão táp, mặc cho bạo quyền cấm đoán, bách hại, Nước Chúa vẫn lặng lẽ phát triển cho đến khi hoàn thành mỹ mãn.
Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả: Hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được một trăm. (Mc 4, 9)
Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. (Mc 4, 28)
Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên, lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá sum suê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng. (Mc 4, 30-32)
Trong số 118 vị tử đạo ở Việt Nam, đã có 117 vị đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh vào ngày 19, tháng 6, năm 1988. Và Thầy Giảng Anrê Phú Yên được phong Chân Phước ngày 5 tháng 3, năm 2000. Những Hạt Giống ấu chiu6 mục nát đi, để cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam hôm nay xum xuê, tươi tốt, nhiều hoa thơm, trái ngọt. Dù bị cấm đoán, bách hại ngay từ thuở sơ khai, nhưng đến nay Nước Chúa vẫn mãi trường tồn và phát triền vững bền.
Lạy Chúa, xin gìn giữ, bảo vệ và an ủi, ban muôn hồng ân cho Dân Chúa trước những khó khăn, cấm đoán, bách hại, để Danh Cha luôn cả sáng, Nước Cha trị đến muôn đời.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã từng trải qua bao cơn bĩ cực, qua cơn bách hại của Hêrôđê ngày xưa, xin giúp con vượt qua hiểm nguy và cám dỗ, để vẫn mãi là con chiên trung thành của Nước Trời. Amen.
15. Hạt giống, hạt cải.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hạt giống và hạt cải làm ví dụ để nói về Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như một tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt nẩy sinh thành cây, rồi thành bông lúc. Như người dân Palestina, sau khi gieo hạt giống, họ âm thầm chờ đợi lúa chín để gặt hái, chứ không hề biết hạt giống được gieo xuống đất đã phát triển như thế nào: Chúa Giêsu cũng gieo hạt giống Nước Trời nơi tấm lòng con người, cùng với ơn Chúa, Nước đó âm thầm phát triển lan rộng khắp thế giới, tạo nên mùa gặt các linh hồn. Chúa Giêsu chỉ đích thân có mặt trong mùa gieo giống và mùa gặt hái. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian chờ đợi, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động một cách vô hình, qua Chúa Thánh Thần và Giáo Hội. Khi Nước Thiên Chúa đã phát triển đến mức tối đo, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang, thu hoạch mùa gặt của Ngài.
Dụ ngôn hạt cải là dụ ngôn cuối cùng trong năm dụ ngôn về Nước Thiên Chúa. Cũng như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn: hạt cải nhỏ xíu trở thành một cây to lớn. Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịch lý tương tự: Dưới cái nhìn của thánh Marcô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời về bí mật Mêsia. Cho đến lúc này, hành vi của Chúa Giêsu có thể bị coi là vô nghĩa và Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dù vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của nó như các Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Chính Giáo Hội tiên khởi, dù yếu đuối, vẫn ý thức được mình đang tham dự vào sự thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt tới mức hoàn vũ vào cuối giai đoạn phát triển của nó.
Hạt giống đã trải qua một quá trình phát triển âm thầm trước khi tới mùa gặt; hạt cải được trồng dưới đất cũng phải trải qua một quá trình cho đến khi trở thành một cây lớn. Trong những bổn phận dù âm thầm hằng ngày, chúng ta hãy tin tưởng phó thác cho quyền năng yêu thương của Chúa, chính Ngài sẽ làm cho công việc chúng ta thực hiện theo ý Chúa đạt tới kết quả vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta, và như vậy chúng ta sẽ làm ích cho chính bản thân, cho tha nhân và cho Nước Chúa.
Xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín đó.
16. Vấn đề thân cận.
Người nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bắng cách nào thì người ấy không biết.” (Mc. 4. 26-27)
Phúc âm hôm nay lấy chủ đề là việc gieo giống. Nhưng những lời lẽ được dùng lại vang lên những âm điệu mới lạ đáng chúng ta quan tâm suy nghĩ: mầu nhiệm Đức Kitô có một sức mạnh âm thầm hằng thúc đẩy để mầu nhiệm ấy được thực hiện trọn vẹn; dầu có tính cách mong manh, mầu nhiệm ấy vẫn có một sức mạnh vô địch; sau cùng lòng gắn bó hoặc tin cậy vào Chúa Giêsu giúp ta hiểu biết đầy đủ về mầu nhiệm này.
Một sức mạnh âm thầm
Mỗi ngày ta khó nhọc vất vả gieo hạt giống Nước Trời, mong cho Nước Chúa trị đến. Nào là: kinh lễ, hội họp, thảo luận, phục vụ, thăm viếng tình nghĩa, dạy giáo lý, hoạt động nghề nghiệp, săn sóc bệnh nhân, dạy học, làm việc chân tay… Chúng ta tin rằng thực hiện một trong những công việc kể trên là làm cho chúng ta sống mầu nhiệm phục sinh, là đưa mọi loài thụ tạo đến sự phục hồi. Ta tin nhưng mắt không nhìn thấy gì cả. Những kết quả công khó của ta thường âm thầm kín đáo. Chúng ta phải khiêm tốn và có khi phải cay đắng chấp nhận những giới hạn của thân phận con người.
“Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như …”, Chúa Kitô nói với chúng ta như vậy mà, …
Ta hãy kiên nhẫn và tin tưởng!
Một sức mạnh vô địch
Chúa còn kể dụ ngôn thứ hai, dụ ngôn hạt cải, để ta thêm vững lòng. Thực vậy, Chúa đặt đối chọi nhau hai sự thể: một bên là cái mong manh bé nhỏ, bên kia lại là những kết quả to lớn đạt được. “Cây cải mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.
Chúng ta không thường sống sự tương phản này sao, sự tương phản giữa một bên là những dấu chỉ mong manh, còn bên kia là những kết quả to lớn đạt được? Tất cả đời sống bí tích chỉ là việc xử dụng một loại hạt giống nhỏ nhất để rồi hạt giống đó trở thành một dấu chỉ sinh ân sủng vô vàn của Chúa.
Chỉ có ai yêu mến mới hiểu được
Sau cùng, những dụ ngôn này kết thúc với lời ghi nhận rằng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Chúa Giêsu giải nghĩa hết cho các Tông đồ. Sự gắn bó, gần gũi với Chúa giúp ta tiến tới Người vượt xa mức bình thường mà quần chúng có thể tiếp cận được, bởi vì xét cho cùng người ta chỉ có thể hiểu biết rõ được một người khi ta yêu mến người đó.
17. Sức mạnh của hạt giống Nước Trời.
Trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu thường dùng những dụ ngôn, những câu chuyện thường ngày mà Ngài rút ra được từ cuộc sống thực tế để giảng dạy, vì nó đơn giản, dễ hiểu, sống động và gần gũi với dân chúng. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn “Hạt giống tự mọc” (Mc 4,26-29) và “Hạt cải nhỏ bé” (Mc 4, 31-32) để nói lên sức mạnh quyền năng nhiệm mầu của nước Thiên Chúa.
Thật vậy, ai trong chúng ta nếu không biết nhiều thì cũng biết chút ít về việc gieo trồng của nhà nông. Hạt giống khi được gieo xuống đất, người nông dân có thể yên tâm mà làm những chuyện khác. Vì tự nó sẽ tiếp thu ánh sáng, khí trời, cùng những chất dinh dưỡng khác trong đất. Khi gặp điều kiện khí hậu, nhiệt độ thích hợp, nó sẽ âm thầm nảy mầm, từ từ mọc lên và trổ sinh bông hạt. Thế là mùa gặt đã đến. Người nông dân lại ra đồng gặt lúa đem về.
Cũng vậy, Chúa Giêsu đến trần gian và Ngài đã gieo hạt giống Nước Trời, hạt giống Tình Yêu, hạt giống Tin Mừng cứu rỗi là lời Ngài, cuộc sống, cái chết, và sự phục sinh của Ngài vào lòng nhân loại. Hạt giống ấy đã nảy mầm, lớn lên, có sức mạnh kỳ diệu, lan rộng khắp thế giới cách Nhiệm Mầu. Và Ngài đã âm thầm chờ đợi “mùa gặt bội thu.” Ngày Ngài lại đến để “thu hoạch”, để đưa tất cả những đồ đệ thân yêu của Ngài, những ai thật sự ước ao, khao khát nước trời, những ai suốt đời âm thầm lặng lẽ lắng nghe và tuân giữ lời Ngài, hy sinh phục vụ Nước Trời với tinh thần yêu thương, quảng đại, vị tha, và tiếp bước theo Ngài để gieo hạt giống tin mừng khắp mọi nơi.
Sức mạnh Nước Trời còn ví như hạt cải, một loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. nhưng khi gieo, nó mọc lên và lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá sum xuê đến nỗi chim trời đến làm tổ ẩn náu (Mc 4,31). Thật thế, Nước Trời khởi đi từ sự vâng lời thi hànhThánh ý Chúa Cha của Chúa Giêsu qua sứ mệnh công khai rao giảng tin mừng của Người. Và Nước Trời lớn lên với việc kêu gọi, thiết lập nhóm mười hai (Mc 3, 13-19), những con người hầu như xuất thân từ tầng lớp nghèo, thất học, thấp cổ bé miệng. Thế mà, nó lại phát triển thành một “cây Giáo Hội” to lớn, lan rộng khắp nơi và vô cùng mạnh mẽ với qui mô lớn. Có hệ thống chặt chẽ, có phẩm trật trên dưới vững mạnh đến nỗi không gì có thể ngăn chặn được ngay cả quyền lực hỏa ngục cũng không thể nào làm chuyển lay ( x.Mt 16,)
Như những hạt giống gieo vào lòng đất, âm thầm, chết đi để sinh nhiều bông hạt. như những hạt cải bé nhỏ phải tự phân hủy mình đi thì mới mọc lên và trở thành cây to,là chỗ tựa nương cho bao sinh vật khác. Cuộc sống của người Ki tô hữu chúng ta cũng chết đi chính mình từng ngày, từng giờ từng phút cho tha nhân, cho Nước Trời một cách vô vì lợi. cho dù chúng ta có gặp nhiều chống đối, thử thách, ngay cả khi coi như thất bại, mất mát tất cả, chúng ta đừng nản lòng lùi bước. Vì chúng ta tin rằng, với cách sống âm thầm cầu nguyện, khiêm tốn dấn thân phục vụ trong hân hoan, tin yêu và phó thác của chúng ta, Thiên Chúa sẽ có cách làm cho những hạt giống bé nhỏ đời ta sẽ trổ sinh nhiều bông hạt. sinh ích cho tha nhân và cứu rỗi các linh hồn. Phải chăng đây chính là sức mạnh Nhiệm Mầu của hạt giống nước trời?
Cầu nguyện:
Chúng con đang sống trong một xã hội thực dụng, mọi thành tựu đều được đánh giá trên kết quả của lợi nhuận trước mắt. Thế giới đang mong chờ những con người đầy khả năng, trí tuệ nhưng chúng con thì bất tài, kém cỏi chẳng giúp ích gì cho xã hội, giáo hội, giáo xứ và ngay cả gia đình cũng như chính bản thân chúng con. Nhưng Lời Chúa hôm nay đã cho con một sức manh. Sức manh của tình yêu và niềm tin. Dù chúng con chẳng là gì, chỉ là những hạt giống bé nhỏ tầm thường. nhưng chính Chúa có cách để làm cho hạt giống đó có một sức mạnh kỳ diêu trở nên cây vĩ đại, sinh nhiều bông hạt, trái tốt.
Xin cho chúng con biết gieo vào lòng đời những hạt giống yêu thương, phục vụ bằng chính con người và cuộc sống chúng con. Amen.
18. Giá trị của những việc nhỏ
(Suy niệm của Rev. Louis Kim Nguyen)
Hạt nhân nguyên tử có sức công phá khủng khiếp; vi trùng nhỏ bé lại là nguyên nhân gây ra bệnh tật cho con người; chỉ một hạt cát nhỏ nếu rơi vào mắt sẽ làm xốn xang, khó chịu... là những thí dụ đơn giản giúp chúng ta ý thức được những giá trị không thể kể hết của những gì vốn thường hay được coi là nhỏ bé và âm thầm trong cuộc sống thường ngày.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, để quảng diễn những giá trị siêu việt và phổ quát của Nước Trời, Đức Giêsu cũng sử dụng những hình ảnh rất bình thường như hạt giống nhỏ bé được gieo vào lòng đất, âm thầm mọc lên, rồi sinh hoa kết trái. Nhỏ bé và âm thầm nhưng với thời gian, chúng để lại những hiệu quả không còn là nhỏ bé và âm thầm nữa.
Suy niệm Lời Chúa hôm nay sẽ giúp chúng ta thấy mình được mời gọi để nhận ra được những giá trị thật của những gì vốn rất bình thường, nhỏ bé. Thật thế, chúng ta cần tái khám phá ra những giá trị của chúng và sử dụng chúng để xây dựng Nước Thiên Chúa ngay trong cuộc sống hiện tại.
Nói như thế là vì thông thường chúng ta hay quá chú trọng đến những gì gọi là vĩ mô, những kế hoạch to lớn nhưng lại thường quên, hay bỏ sót không chú trọng đến những gì là vi mô, đơn giản, âm thầm.
Thử xét xem chúng ta sẽ thấy: những đức tính nhân bản tốt lành như nhân, tín, lễ, nghĩa… mà chúng ta đang có vốn đã được Cha Mẹ, Thầy Cô dày công dạy bảo, giúp uốn nắn khi chúng ta còn bé. Chính những uốn nắn, sửa bảo thời xa xưa ấy đã giúp hình thành nên những nhân cách tốt đẹp sau này.
Những buổi đọc kinh tối chung trong gia đình, những câu kinh căn bản được Cha Mẹ chỉ dạy, hướng dẫn cách cầu nguyện, sau này sẽ hình thành nên những thói quen đạo đức tốt lành trong hành trình sống đạo của chúng ta.
Những chân lý từ Tin Mừng được tiếp thu qua các lớp giáo lý căn bản, vỡ lòng khi còn niên thiếu, sẽ theo chúng ta qua năm tháng để rồi sau này sẽ được áp dụng trong cuộc sống giúp chúng ta trở thành những Kitô hữu tốt.
Có thể nói Cha Mẹ, Thầy Cô, và những người có trách nhiệm đã âm thầm gieo hạt giống Nước Trời vào trong tâm hồn chúng ta. Theo năm tháng chúng hình thành, được lưu lại trong tâm hồn và rồi sinh ra những hiệu quả tốt, tích cực trong các mối quan hệ xã hội và sống đạo của chúng ta.
Hôm nay chúng ta được mời gọi nhận thức lại những hướng dẫn tưởng như bình thường ấy và thực hành chúng trong cuộc sống hằng ngày. Đây là lúc chúng ta chuyển giao đức tin cho các thế hệ tương lai, và chúng sẽ được thể hiện qua những lời khuyên bảo ân cần; những tấm gương sáng bằng những hành động tốt, cụ thể.
Khi ý thức thực hiện những công việc này, chúng ta như những người đang gieo giống, đang xây dựng và làm hình thành Nước Trời ngay trong cuộc sống tại thế này bởi Nước Trời không ở đâu xa. Nước Trời ở ngay trong gia đình, trong xã hội, trong cộng đoàn của chính mình.
Chúng ta được mời gọi bởi Lời Chúa, qua dụ ngôn người gieo giống âm thầm, qua hạt giống nhỏ bé như hạt cải… tượng trưng cho những việc tốt nhỏ được âm thầm thực hiện hằng ngày. Những việc tốt nhỏ nhưng được làm với tâm hồn không nhỏ để làm gương sáng và để trở nên những nhân tố tích cực trong việc xây dựng Nước Trời trong lòng xã hội và thế giới này, một Nước Trời phổ quát và rộng lớn, không biên giới.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta xây dựng Nước Trời bằng việc âm thầm làm chứng và làm gương sáng về đức tin qua cuộc sống hằng ngày. Hãy làm những hành động nhỏ nhặt nhất, nhỏ nhặt nhưng với một tinh thần và ý thức lớn lao. Những việc ấy sẽ có tác dụng và để lại những ảnh hưởng tích cực đến môi trường sống, đến cộng đoàn.
Đức Giêsu đã gửi đến cho chúng ta một định hướng rõ ràng: không nên coi thường giá trị của những sự việc, hành động nhỏ bé. Và chính qua qua việc thực hiện những gì tưởng như là bình thường, đơn điệu ấy Nước Trời đang thực sự hiện diện và lớn lên giữa chúng ta.
19. Làm đẹp lòng Chúa.
(Trích trong ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ - Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Chúa nhật hôm nay đáng gọi là là ngày phấn khởi và hy vọng. Bài sách Ezekiel cho chúng ta thấy một nhánh cây đã được trồng và mọc lên trở thành bá hương oai lẫm. Còn trong bài Tin Mừng, Chúa Yêsu kể cho chúng ta nghe câu truyện hạt giống gieo xuống đất âm thầm mọc lên một cách tự nhiên nhưng chắc chắn. Và nhất là chúng ta phải bỡ ngỡ khi thấy hạt cải nhỏ bé nhất trong mọi thứ hạt mà lớn cao đến nỗi "chim trời có thể nương náu dưới bóng nó".
Những dụ ngôn và ví dụ ấy muốn nói gì với chúng ta về đời sống đạo đức? Có phải Lời Chúa hôm nay muốn khuyên chúng ta phấn khởi nhìn về tương lai, như thánh Phaolô nói trong bài thư không? Chắc chắn cả ba bài đọc đều phong phú, chúng ta không nên tổng hợp mau lẹ.
A. Nhánh cây bá hương
Bài sách Ezekiel đưa chúng ta trở về thời lưu đày của dân Dothái cách đây những 2,600 năm. Nhà tiên tri cũng ở trong số đám dân lưu lạc. Ông có chức tư tế nên càng thấm thía cảnh sống xa Đền thờ. Mọi nhân tố bên ngoài cho thấy chẳng còn hy vọng nào nữa cho đám người lưu vong này trở về quê cũ. Các tin tức bên nhà cho biết quê hương điêu tàn ngày nay đã có người khác đến ở. Họ không thờ Yavê và chẳng biết gì Luật pháp Môsê. Còn dân lưu đày, lúc đầu còn nhớ quê hương và noi giữ phong tục tổ tiên; nhưng dần dần đã muốn đồng hóa với dân ngoại, xây dựng cơ sở làm ăn và chẳng thiết gì việc trở về quê cũ nữa. Như vậy mọi lời hứa của Thiên Chúa Israel đã trở nên hão huyền sao? Người bỏ hẳn Dân được tuyển mãi ư? Niềm tin của những người chân chính như Ezekiel làm sao chịu được những ý nghĩ như vậy?
Nhưng cũng không vì vậy mà có thể lấy ước mơ làm sự thật. Thời gian đã cho thấy mọi kiểu mơ ước như vậy thật hão huyền và tai hại. Sấm ngôn của các tiên tri thì khác hẳn. Những người này không nói theo ước mơ của những kẻ bất lực và tuyệt vọng. Họ tuyên bố những điều phi thường nhân danh Thiên Chúa. Họ rất tỉnh và sáng suốt. Họ biết mình đang nói những điều không trí óc loài người nào nghĩ ra được. Họ chỉ tuyên bố những điều Chúa phán dạy.
Hôm nay Người nói qua miệng Ezekiel. Ông đến với đám dân lưu lạc không còn gì hy vọng. Ông nói với họ rằng: Chúa phán như sau. Người sẽ ngắt một nhánh trên ngọn bá hương cao ngất và đem trồng trên sơn lĩnh vòi vọi của Israel. Nó sẽ mang lá, sinh hoa và trở thành bá hương oai lẫm. Thú vật và chim trời sẽ đến núp bóng nó. Hơn nữa, người ta sẽ thấy nó vươn cao lên, đang khi cây gốc trước kia của nó sẽ cụp xuống và khô héo đi.
Thiên Chúa muốn nói gì vậy? Đám dân lưu đày thời bấy giờ đã hiểu ngay ý nghĩa. Ta có thể nhìn thấy mắt họ sáng lên và chân tay hồi sinh. Có thật như vậy không, bấy giờ họ hỏi nhau. Chúa đã dùng lời lẽ của loài người để nói với họ. Người mượn lại các quan niệm của họ quen sánh ví các dân tộc và các bậc vĩ nhân như các cây to lớn như giống bá hương. Do đó ở đây Lời Chúa muốn nói rằng, Người sẽ lấy một người hoặc một số ít người trên đất Babylon rộng lớn, vĩ đại này đem về trồng ở Israel. Tức là Người sẽ cho thiểu số dân lưu vong này được trở về Hứa Địa. Hơn nữa, nhóm dân nhỏ bé sẽ mang lá mang cành, mang hoa mang trái, trở thành cây bá hương oai lẫm, đang khi Babylon sẽ suy tàn héo hắt.
Rõ ràng phải hiểu Lời Chúa như vậy. Văn chương thời bấy giờ bắt phải cắt nghĩa như thế. Lời tiên tri hôm nay khẳng định Dân Chúa sẽ được hồi hương. Họ sẽ hồi sinh, họ sẽ trở thành chỗ tựa cho thú vật và chim trời tức là cho mọi thứ sinh linh. Đang khi ấy kẻ chiến thắng của họ trước đây sẽ bị quật xuống. Cây tươi (bây giờ) sẽ thành khô héo; và cây héo khô (lúc này) sẽ đâm chồi nẩn mầm. Vì chỉ có Thiên Chúa làm được như thế. Người hứa sẽ làm như vậy. Dân Chúa không thể nhận được lời hứa nào to lớn hơn. Tương lai quá sức huy hoàng. Mọi người phải phấn khởi. Tất cả phải hồi sinh. Hy vọng quá đỗi lớn lao!
Có chăng chỉ còn một thắc mắc: nhánh bá hương được Thiên Chúa ngắt và đem trồng trên Núi thánh Israel, là ai? Là một cá nhân được Thiên Chúa dùng để dựng lại nhà Đavít? Hoặc là cả thiểu số còn sót lại trong cuộc lưu đày sẽ được hồi hương và xây lại Dân Chúa? Bản văn không rõ ràng. Và lịch sử sau đó cho thấy, không phải một người nào -ngay cả trong hoàng tộc- đã dựng lại được cơ đồ cho Israel. Những người có công lớn trong việc trùng tu xứ sở như Ezra và Nêhêmya, cũng không đáng được coi như nhánh bá hương đã được ngắt từ Babylon đem về. Nhưng cũng không hoàn toàn đúng khi chúng ta hiểu nhánh cây lựa ấy ám chỉ toàn thể những con người hồi hương xây dựng lại Đất Hứa. Trước mắt thì đúng, vì công cuộc tái thiết quê hương là thành quả của cả dân còn sót lại sau thử thách lưu đày. Nhưng bảo rằng công việc của họ đã vươn lên trở thành bá hương oai lẫm khiến thú vật, chim trời đến núp bóng, tưởng không đúng với lịch sử. Israel sau lưu đày chẳng lúc nào được hoàn toàn quang vinh. Ngược lại, Dân Chúa lại mau chóng rơi vào lầm than khổ sở rồi lại bị ngoại bang đô hộ.
Như vậy lời sấm của Ezekiel đã đúng, nhưng chưa thực hiện hoàn toàn. Cây khô là Israel lưu đày có lúc đã được tươi tỉnh lại. Tuy nhiên người ta còn phải chờ xem khi nào cây mọc trên sơn lĩnh vòi vọi của Israel mới thật sự trở thành bá hương oai lẫm. Ngày nay nhờ đức tin chúng ta biết mọi lời tiên tri của Cựu Ước phải chờ thời Tân Ước mới hoàn thành. Và nhánh cây ưu tuyển mà Thiên Chúa lựa chọn trong Cựu Ước sẽ là một thực tại Tân Ước. Nó có phải là hạt giống và là hạt cải nói trong bài Tin Mừng hôm nay không? Chúng ta cứ thử tìm hiểu.
B. Hai dụ ngôn về hạt giống và hạt cải
Thoạt đầu, không ai thấy ngay có nét giống nhau nào giữa nhánh cây bá hương trong sách Ezekiel và dụ ngôn hạt giống. Tuy nhiên đọc lại người ta thấy bài Tin Mừng khẳng định: về Nước Thiên Chúa thì giống như khi người kia gieo giống xuống đất; dù người ấy ngủ hay thức, ban đêm hay ban ngày, hạt giống cứ nảy mầm, lớn lên... cho đến lúc có hạt chắc, đợi đến mùa sẽ tra liềm hái.
Khi kể dụ ngôn này, Chúa Yêsu muốn nói đến tương lai chắc chắn của Nước Thiên Chúa. Người gieo có thức hay ngủ, ban đêm hay ban ngày, hạt giống vẫn cứ mọc lên cho đến ngày mang hạt chắc, sẵn sàng cho mùa gặt hái. Nói cách khác Nước Thiên Chúa sẽ lớn lên và đi đến chỗ thành tựu như Thiên Chúa đã dự định, dường như bất kể thái độ của con người. Đó là công trình của Thiên Chúa, chứ không phải của loài người. Và Thiên Chúa đã dự định thế nào thì sẽ xảy ra như vậy.
Do đó ở đây cũng không khác trong sách Ezekiel: chính Yavê đã nói và sẽ làm. Người làm những việc không ai mường tượng được. Cây tươi, Người cho héo; cây héo, Người cho đâm chồi. Vậy nếu lời sấm của Ezekiel đã hồi sinh những tâm hồn héo hắt trong đám dân lưu đày, đem tin tưởng phấn khởi lại cho những kẻ đang rã rời, thì dụ ngôn hạt giống cũng muốn đem đến cho những người trong thời đại Tân Ước một niềm tin tương tự. Nhiều khi họ không tự hỏi về tương lai Nước Thiên Chúa và của Hội Thánh sao? Những hiện tượng bên ngoài lắm lúc khiến người ta phải tự hỏi: Nước Thiên Chúa đâu rồi? Ước gì những lúc ấy lại tự hỏi cũng nhận được câu trả lời của bài Tin Mừng hôm nay: hạt giống Nước Thiên Chúa đã gieo xuống rồi thì dù con người ngủ hay thức, ban đêm hay ban ngày, nó vẫn một mực nảy mầm lớn lên như Thiên Chúa đã dự liệu. Mùa gặt sẽ đến, ngày tận thếsẽ xảy ra. Nước Thiên Chúa sẽ thành tựu trong vinh quang.
Nhưng bài Tin Mừng hôm nay còn ví Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, khi gieo xuống đất nó nhỏ tí; nhưng đã gieo xuống rồi nó mọc thành to lớn đến nỗi chim trời có thể nương náu dưới bóng nó. Chúng ta thấy dụ ngôn này gần với bài sách Ezekiel hơn. Như một nhánh bá hương ngắt trên đỉnh cao của cây bá hương to lớn, đã lớn lên thành bá hương oai lẫm, hạt cải nhỏ xíu ở đây khi gieo xuống bé hơn mọi thứ hạt; nhưng lớn lên nó to lớn hơn mọi thứ rau. Tương lai Nước Thiên Chúa cũng như vậy. Khởi sự nhỏ mọn thôi, nhưng rồi sẽ trở nên nơi nương tựa cho mọi người được cứu chuộc.
Tuy nhiên, nếu chỉ so sánh như vậy, chúng ta chưa thấy vẻ đặc sắc của bài Tin Mừng. Có thể bảo bài sách Ezekiel còn phấn khởi và "hùng vĩ" hơn. Nhà tiên tri nói đến cây bá hương, trên đỉnh cao chót vót của núi đồi Israel. Ở đây, Chúa Yêsu lấy ví dụ hạt giống và hạt cải, không to lớn bằng. Ấy cũng do điều này mà nhiều người Dothái đã không muốn đón nhận ngay giáo lý của Đức Yêsu. Người ta thấy Người giảng dạy có uy quyền; nhưng những điều Người hé mở cho thấy lại không có vẻ hùng vĩ, oai lẫm. Người ví Nước Trời như hạt giống, hạt cải, hoặc như lưới vét và như men trong bột... Cách thức Người sống cũng không hứa hẹn phong cách triều đình. Nhất là những kẻ đi theo Người hầu hết là kẻ nghèo và thứ dân. Người Dothái ao ước Vị Thiên Sai phải lớn hơn các tiên tri và thời đại của Người sẽ cho thấy một nước Dothái bá quyền. Như vậy Người có thực hiện các lời tiên tri không? Cụ thể bài Tin Mừng hôm nay có giải đáp thắc mắc còn lại của bài sách Ezekiel không?
Đức tin khiến chúng ta trả lời không do dự. Ezekiel báo trước thời cực thịnh của Dân Chúa. Khi những người lưu đày trở về xây lại Israel, thì lời sấm của nhà tiên tri đã khởi sự thực hiện. Nhưng nó chỉ kiện toàn khi Đức Yêsu Kitô là mầm non của nhà Đavít đã trở nên thân nho ưu tuyển mà bất cứ kẻ nào muốn được cứu vớt cũng phải đến kết hiệp như cành phải gắn vào thân cây. Và Đức Yêsu Kitô Cứu thế hiện nay ở giữa chúng ta cũng là Hội Thánh mà Người đã thiết lập. Đó là dân Mới của Thiên Chúa. Dân đâm chồi trên cây héo là Israel xưa. Dân Mới khởi sự là một nhóm nhỏ, bé như hạt cải, thua mọi thứ hạt; nhưng đang lớn lên thành nơi cho chim trời đến nương bóng. Hội Thánh của Thiên Chúa sẽ thành tựu trong Thiên Chúa, sau khi trời đất này và mọi sự trong đó sẽ qua đi. Lúc đó lời sách Ezekiel mới hoàn toàn thực hiện. Bấy giờ người ta mới thấy rõ Hội Thánh là công trình của Thiên Chúa. Chính Người hướng dẫn lịch sử Hội Thánh chứ không phải con người; Hội Thánh lớn lên ban ngày # ban đêm, trải qua mọi thăng trầm của lịch sử loài người.
Qua bài Tin Mừng chúng ta còn nhận thấy nhiều hơn những điều Ezekiel muốn nói. Nhà tiên tri loan tin phấn khởi, nhưng có lẽ ông chưa cho người nghe thấy có thể cộng tác vào công trình của Chúa. Ông rao giảng một niềm tin chờ đợi. Còn Chúa Yêsu, trong khi kể dụ ngôn hạt giống và hạt cải, muốn cho người nghe phải tích cực hơn nhiều. Hạt giống gieo xuống, mọc lên, trổ bông, đậu quả, chờ đợi ngày gặt lúa, là hình ảnh Nước Thiên Chúa mà Đức Yêsu đang rao giảng. Thính giả của Người phải kiên trì. Đừng muốn có những kết quả thành tựu ngay. Phải chờ ngày gặt, mà theo Thánh Kinh, cũng là ngày Thiên Chúa xét xử. Như vậy thời gian trở nên giá trị. Đây là lúc Thiên Chúa có thể nói với người đã gieo xong. Người để cho các sự việc diễn tiến theo định luật của chúng. Ngày tận thế Người mới sai các thiên thần của Người tra liềm gặt hái: thóc sẽ được thu vào lẫm, cỏ sẽ bị đốt cháy trong khóc lóc nghiến răng. Và như vậy, đây cũng là thời gian để con người làm lành lánh dữ, xây dựng hay phá hoại hạnh phúc sau này.
Hơn nữa hạt giống Nước Thiên Chúa lại chỉ như một hạt cải. Nhưng nó sẽ thành cây rau lớn. Đức Yêsu và công việc của Người bề ngoài người ta chỉ thấy nhỏ mọn thôi, nhưng đừng vì vậy mà coi thường và không đón nhận. Phúc cho những ai không bị xúc phạm vì Người và cách sống của Người. Những kẻ không muốn trở nên bé nhỏ không thể vào Nước Thiên Chúa.
Những bài học ấy, ai bảo không còn cần thiết cho chúng ta?
C. Chỉ ao ước một điều: làm đẹp lòng Chúa
Chắc chắn cuộc đời của hết thảy chúng ta không giống như của thánh Phaolô, nhưng phương hướng phải như một, để chúng ta cũng thật sự có đức tin của các tông đồ.
Trong đoạn thư hôm nay, sau khi nhắc đến những gian truân thử thách xảy đến trong cuộc đời tông đồ, thánh Phaolô khẳng định lòng người luôn luôn vững vàng. Người ý thức rõ rệt cuộc sống hiện nay là lưu đày, không phải vì nhiều khổ sở, nhưng vì đang đi trong đức tin, chưa được ở bên Chúa như sau này ở trên trời. Chỉ ngày nào ra khỏi thân xác, mới ra khỏi nơi lưu lạc, mới không còn bước đi loạng choạng trong thứ ánh sáng nửa tối nửa sáng của đức tin, và mới được ở trước thiên nhan Chúa, diện đối diện, sáng tỏ hoàn toàn, không còn tranh tối tranh sáng nữa.
Do đó không phải chỉ khi gặp thử thách nặng nề, con người mới rơi vào chốn lưu đày. Nhưng bản chất của cuộc đời hiện nay là thời gian như không thấy Thiên Chúa hành động và các sức lực tự nhiên trong vũ trụ như cứ xảy ra theo định luật của chúng. Nước Thiên Chúa và sự công chính, nếu không hoàn toàn y như hạt giống đang nằm trong lòng đất, chẳng ai nhìn thấy, thì cũng chỉ giống như hạt cải đứng bên mọi thứ hạt khác, nhỏ bé đến nỗi người ta có thể không để ý đến nó. Chính vì vậy mà rất nhiều người hiện nay không quan tâm sống đạo đức và đi tìm Nước Thiên Chúa. Nhưng như hạt giống sẽ đi đến ngày gặt hái, hạt cải sẽ lớn thành cây, Nước Thiên Chúa cũng sẽ đi đến ngày tỏ hiện và sẽ bao trùm tất cả thế gian. Lúc ấy mỗi người sẽ lĩnh lấy thành quả đời mình khi còn sống trong thân xác, nơi chốn lưu đày. Thế nên điều quan trọng nhất cho chúng ta trong cuộc đời, là làm đẹp lòng Chúa, để khi Người đưa chúng ta ra khỏi chốn lưu đày, chúng ta được trở nên như nhánh bá hương oai lẫm; để khi mùa gặt đến, chúng ta là bông thóc chắc, để khi thời gian đã qua, chúng ta là cây rau to lớn... hoặc như khi chim trời được đến nấp bóng cây cải đã to là Hội Thánh trong thời viên mãn, là thân thể Chúa Kitô đã đạt tới tầm vóc kiện toàn.
Giờ đây mầu nhiệm Nước Thiên Chúa được cử hành trong mầu nhiệm Thánh Thể. Bề ngoài chỉ có tấm bánh và chén rượu. Có là gì trước mắt thế gian và đối với lịch sử thế giới? Không như hạt giống hạt cải sao? Và cộng đoàn tín hữu này có hơn gì đám dân lưu đày thời Ezekiel? Nhưng đức tin dạy chúng ta nhìn thấy mầu nhiệm Chúa Cứu thế, mầu nhiệm Hội Thánh, mầu nhiệm cuộc đời nơi những sự bé nhỏ và thông thường kia. Chúng ta hãy đón nhận Chúa, hãy kết hợp với Hội Thánh, hãy quyết tâm sống đẹp lòng Chúa. Mọi sự trong cuộc sống của chúng ta sẽ có ý nghĩa mới và có thể sẽ giống như hạt giống, hạt cải và nhánh bá hương nói đến trong ba bài đọc Kinh Thánh hôm nay.
20. Có hạt giống Nước Trời ở trong tôi không?
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Thưa quý OBACE, khi bắt đầu sứ mạng công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi: Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến. Lời kêu gọi này gây ngỡ ngàng cho nhiều người, và họ tự hỏi Nước Trời là gì?
Trong sứ mạng loan báo Nước Trời, Đức Giêsu cũng đã dùng đến những hình ảnh nông nghiệp gần gũi, để diễn tả về Nước trời như dụ ngôn về hạt cải được thuật lại hôm nay. Hạt cải là một hạt giống nhỏ bé, vậy mà khi nảy mầm đâm nhánh, nó lại trở thành một cây to lớn đến độ chim trời có thể đến nương náu dưới cành của nó. Hình ảnh này đã được tiên tri Ezekian tiên báo trong thị kiến của ông: Ngày ấy, từ ngọn cây hương bá cao chót vót, Đức Chúa sẽ ngắt một chồi non, chính ta sẽ trồng chúng trên đỉnh núi cao vời vợi… nó sẽ trổ cành kết trái thành một cây hương bá huy hoàng. Cây hương bá của Israel là một loài cây gỗ quý giá, là niềm tự hào và hãnh diện của quốc gia, vì vậy những anh hùng dân tộc của họ cũng được sánh ví như cây hương bá, hoặc vẻ đẹp trong trắng và cao sang cũng được sánh ví như rừng hương bá núi Liban (như Đức Maria được sánh ví như vườn hương bá Liban). Với hình ảnh chính Thiên Chúa sẽ trồng trên ngọn núi cao vườn cây của Ngài, nó sẽ trổ sinh hoa trái, muôn chim sẽ tìm đến ẩn nơi cành nó, vị tiên tri muốn nói đến một thời mà Thiên Chúa sẽ cắt đi sự kiêu hãnh của Israel, và chính tay Ngài sẽ trồng và tạo nên một dòng dõi mới, một thế hệ mới, giống như một rừng cây hương bá mới. Chính Thiên Chúa sẽ chăm sóc vun trồng và làm cho nó nên xanh tươi, và muôn dân tộc trên khắp thế giới sẽ nhận biết Thiên Chúa là Đấng đã trồng và đã làm nên như vậy, còn Israel cùng với sự kiêu căng tự mãn của họ sẽ bị Thiên Chúa làm cho khô héo.
Hình ảnh vườn cây của Thiên Chúa mà tiên tri Ezekien nói tới, đã được Đức Giêsu sử dụng để nói về Nước Trời. Chính Đức Giêsu là Đấng sẽ gầy dựng nên một dòng giống mới, một khu vườn mới, vườn của Nước Trời. Trong vườn này, được trồng toàn những cây giống đã được tuyển chọn, và tưới gội bằng máu và nước chảy ra từ cạnh sườn của Ngài, và chính Thiên Chúa sẽ bảo vệ và làm cho vườn cây mới này được nên xanh tươi và sinh nhiều hoa quả tốt lành. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn nói đến sức mạnh nội tại, sức mạnh lan tỏa của nước Trời, những ai đón nhận lời rao giảng của Ngài, giới răn và giáo huấn của Ngài, bước đi theo Ngài, tức là đón nhận hạt giống nước trời, thì người ấy sẽ mang một sức mạnh từ bên trong tâm hồn và sẽ lớn mạnh trong đời sống đức tin, sẽ trổ sinh hoa trái thiêng liêng thánh thiện trong cuộc đời và còn trở nên có ích cho mọi người.
Nước Trời, quả thật là một hình ảnh thật mới mẻ và khó có thể diễn tả hết bằng lời và cũng không thể so sánh một cách đầy đủ bằng một hình ảnh, chính vì thế Đức Giêsu đã dùng nhiều hình ảnh khác nhau để mạc khải về nước Trời: Nước Trời giống như vườn nho mà Thiên Chúa là người chủ vườn, như chuồng chiên mà Thiên Chúa là mục tử, như mẻ lưới được quăng xuống biển và bắt được nhiều cá, hôm nay Chúa Giêsu dùng hình ảnh hạt cải để trình bày về nước trời.
Nước trời bắt đầu bằng một sư nhỏ bé khiêm tốn như một hạt cải, Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài như những hạt giống nhỏ bé đầu tiên, thế mà, với quyền năng của Thiên Chúa, hạt cải này đã trổ mầm và thành một cây to lớn hơn mọi thứ rau cỏ khác. Những hạt cải nhỏ bé ngày xưa nay đã trở thành cây to lớn là Giáo Hội, mà ngày nay cành lá của giáo hội đã lan tỏa khắp cùng trái đất, và Giáo hội đang trổ sinh hoa quả của Nước Trời cho con người và thế giới hôm nay. Hình anh một cây xum xuê hoa trái che phủ cả mặt đất, và chim trời đến nương náu dưới cành của nó, muốn nói đến cây Giáo Hội hôm nay cũng là nơi dành cho mọi người mọi dân có thể nương náu nơi sự chở che bảo vệ của Giáo hội.
Nhưng sâu xa hơn, hình ảnh hạt giống Nước Trời mà Chúa Giêsu nói hôm nay, còn muốn nói đến hạt giống tin Mừng ở trong mảnh đất tâm hồn của mỗi người. Nếu như người phật giáo cho rằng ở nơi mỗi con người đều có phật tính, thì chúng ta là những Kitô hữu, tức là những người có Chúa Kitô, những người thuộc về Chúa Kitô, chúng ta tin rằng trong mỗi chúng ta đều có Chúa Kitô và có mầm giống Nước Trời ở trong tâm hồn, hay nói khác hơn là mỗi người đều có Nước Trời trong tâm hồn ngay hôm nay và ngay lúc này. Hạt giống nước trời trong chúng ta đã được gieo trong ngày chúng ta lãnh Bí tích Rửa tội, và chúng ta được chăm bón và vun tưới bằng các Bí Tích nhất là Bí tích Thánh Thể và Bí tích Giải tội, vấn đề là mầm giống ấy hôm nay đang ở tình trạng nào? Hạt giống đức tin, mầm sống Nước Trời ở trong chúng ta có thực sự tươi tốt hay là chỉ còn đang sống một cách èo uột không có hoa trái?
Thưa quý OBACE, Nước trời trong tâm hồn chúng ta là gì, hiện nay chúng ta có sinh được hoa trái của Nước Trời hay không? Hay nói khác đi Nước Trời có ở trong chúng ta hay không?
Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài chính là nước Trời, có Đức Giêsu là có cả Nước trời, giữ Lời Đức Giêsu và đem ra thực hành là chúng ta đang làm cho hạt giống Nước Trời sinh hoa kết trái. Chúa Giêsu đã có lần nói như thế với những người Do Thái: Nếu các ông tin và đón nhận Ngài, thì nước trời đang hiện diện trong lòng các ông rồi. Như vậy để chứng tỏ mình là công dân Nước Trời, là những người thuộc về chúa Giêsu, thì chúng ta phải có Chúa trong tâm hồn và trong cuộc đời, trong hành động của mình. Thực tế trong cuộc sống của nhiều tín hữu, họ chỉ có Chúa khi đến nhà thờ, chỉ có Chúa trên môi miệng, mà không hề có Chúa trong cuộc sống và không có Chúa trong các hành động của mình, chính vì vậy mà hành động của họ toàn là sự gian ác bất công, là mờ ám gian dối, là tội lỗi xấu xa; chính vì không có Chúa trong cuộc sống, nên cuộc sống của nhiều người tín hữu không khác gì cuộc sống của dân ngoại, thậm chí còn tệ hơn cả những người dân ngoại.
Chỉ khi có nước trời trong tâm hồn, chúng ta mới có thể sinh được hoa trái thánh thiện, hoa trái của nước trời, theo thánh Phaolô hoa trái ấy là: sự bình an, niềm vui, lòng quảng đại, nhân ái yêu thương, là khoan dung, nhân từ độ lượng… Như thế, nếu mỗi người tự xét mình mà không thấy những hoa trái nêu trên thì chứng tỏ người ấy chưa có nước trời trong tâm hồn, hoặc là hạt giống Nước trời chưa phát triển được trong tâm hồn người ấy.
Không chỉ có nước trời trong tâm hồn, mà mỗi người còn được mời gọi trở nên nước trời và là nước trời ngay trong xã hội hôm nay, làm cho hạt giống nước trời được trổ cành đâm nhánh trong thế giới và trở thành nơi nương náu an toàn cho mọi người. Hãy bắt đầu trổ sinh hoa trái ngay trong gia đình của mình, các bậc cha mẹ hãy làm cho gia đình của mình được che phủ bởi bóng mát của Nước Trời, hãy để cho những hoa trái là lòng nhân ái sự khoan dung tha thứ, sự thông cảm lắng nghe được nảy nở trong gia đình, hãy đem đến cho gia đình mình sự bình an thay cãi vã, sư tha thứ thay cho giận hờn, tiếng nói tiếng cười thay cho những lời chửi bới. Hãy làm cho gia đình mình thực sự trở thành nơi nương náu an tòan cho con cái, để mọi thành viên cảm nhận được gia đình chính là nơi nghỉ ngơi an toàn, là nơi mà mỗi người đều được đón nhận thông cảm và tôn trọng.
Các bạn trẻ cũng cần tự đặt cho mình câu hỏi như thế: Nước Trời có ở trong tôi hay không? Tôi có thuộc về Nước Trời hay không? Thưa các bạn, cuộc sống của chúng ta dành ưu tiên cho điều gì, dành phần lớn thời gian cho ai là chúng ta đang nghiêng chiều về phía đó, nhiều bạn trẻ ngày nay hầu như chỉ còn dành sự quan tâm cho công ăn việc làm, cho danh vọng bằng cấp, lương bổng nhiều hơn là quan tâm đến việc làm cho nước Trời lớn lên trong cuộc đời, và càng không quan tâm đên trổ sinh hoa trái nước trời trong cuộc sống, họ đã để mình cuốn trôi theo dòng chảy của xã hội và không còn biết mình thuộc về ai, không biết mình thuộc về Thiên Chúa, về Nước trời hay thuộc về thế gian?
Xin cho mỗi người luôn biết tự đặt cho mình câu hỏi: Tôi đang thuộc về ai? Nước trời có ở trong tôi hay không? Và biết tìm đến Chúa để có câu trả lời đúng đắn cho cuộc đời mình.
21. Tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm Ignatiô Hồ Thông)
Chúa Giê-su rao giảng cho đám đông bằng dụ ngôn, từ những hình ảnh đơn sơ giản dị được lấy ra từ đời thường, để dẫn đưa họ vào những thực tại cao vời khôn ví của Nước Trời. Văn chương Đông Phương (Ai-cập, Cận Đông) thích những bí nhiệm; các sách khải huyền Do thái được điểm tô với những bí nhiệm này. Các dụ ngôn rất gần với thể loại văn chương này. Tuy nhiên, Chúa Giê-su giải thích các dụ ngôn cho các môn đệ, vì sau này, họ sẽ tiếp tục sự nghiệp của Ngài mà loan báo Lời rõ ràng và phong phú cho quần chúng. Tin Mừng Mác-cô đề nghị cho chúng ta hai dụ ngôn: dụ ngôn hạt giống tự mọc lên và dụ ngôn hạt cải: dụ ngôn thứ nhất thuộc nguồn riêng của Mác-cô, dụ ngôn thứ hai chung với Mát-thêu (13, 31-32) và Lu-ca (13, 18-19).
1. Dụ ngôn hạt giống tự mọc lên (4, 26-29):
Bản văn của ngôn sứ Ê-dê-ki-en (Bài Đọc I) giúp chúng ta hiểu dụ ngôn hạt giống tự mọc lên này. Chính Đức Chúa sẽ trồng một chồi non mà Ngài đã ngắt từ ngọn hương bá. Vì Đức Chúa trồng, chắc chắn chồi non này sẽ mọc và lớn lên: “Nó sẽ trổ cành và kết trái”. Cũng vậy trong dụ ngôn hạt giống tự mọc lên, hình ảnh Nước Thiên Chúa được phát triển trong thầm lặng nhưng chắc chắn. Có lẽ không dụ ngôn nào đem đến niềm an ủi hơn dụ ngôn này. Thiên Chúa hiện diện và hành động trong thế giới và hành động của Ngài chắc chắn rồi sẽ sinh hoa kết quả, dù bên ngoài âm thầm lặng lẽ. Thời gian cũng không được tính đến.
Phải chăng dụ ngôn này muốn nói rằng người Ki-tô hữu không cần phải hành động bởi vì “đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết”? Không phải như thế! Việc dọn đất được nêu lên, vấn đề đất có thuận lợi hay không cho hạt giống phát triển đã được bàn đến trong một dụ ngôn khác (dụ ngôn người gieo giống: 4: 1-9). Chúng ta không những có bổn phận cầu xin cho “Nước Chúa trị đến”, nhưng còn phải góp phần mình vào việc xây dựng Nước Chúa ở ngay trong cõi thế này. Ở đây, vấn đề được nêu lên đó là quyền năng tất thắng của Thiên Chúa, Ngài hướng dẫn Triều Đại của Ngài cho đến lúc phát triển viên mãn: đó sẽ là mùa thu hoạch.
Tuy nhiên, phải chăng Chúa Giê-su dùng dụ ngôn này nhằm nhắn gởi đến những người nôn nóng và bạo động, tức là nhóm Nhiệt Thành được nuôi dưỡng bằng những giấc mơ đầy tham vọng của họ mà vài người trong số họ là môn đệ của ngài. Ngài muốn dẫn các môn đệ của Ngài đến một sự hiểu biết đầy đủ hơn về sứ mạng của Ngài. Ngài đã đến gieo lời Ngài và lời Ngài sẽ sinh hoa kết trái. Họ phải đặt trọn niềm tin tưởng tuyệt đối vào lời Ngài, tuy nhiên, chiều kích năng động của lời này cốt yếu là nội tại và tinh thần.
2. Dụ ngôn hạt cải (4, 30-32):
Để diễn tả năng lực phát triển kỳ diệu của Nước Trời khởi đi từ khởi đầu rất khiêm tốn, Chúa Giê-su đưa ra một so sánh được mượn từ một hình ảnh rất quen thuộc thường ngày: hình ảnh hạt cải khi được gieo thì nhỏ nhất trong mọi hạt giống, nhưng khi “mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”. Nước Trời cũng sẽ như vậy. Khởi đi hầu như không gì cả: mười hai tông đồ, vài môn đệ và vài người phụ nữ, nhưng sẽ phát triển rực rỡ.
Chúa Giê-su ám chỉ đến các bản văn của Ê-dê-ki-en và Đa-ni-en trong các dụ ngôn cây hương bá của họ; tuy nhiên, rõ ràng Ngài tránh lấy lại hình ảnh cây hương bá cao vút trên đỉnh non cao, biểu tượng cho quyền lực thống trị. Ngài cũng không lấy lại hình ảnh chồi non, vì hình ảnh này gợi lên hậu duệ nhà Đa-vít và có thể gợi lên việc phục hưng quyền lực chính trị. Hình ảnh hạt cải hàm chứa một sự mĩa mai, nhưng chắc chắn nói lên tính chất phi chính trị của Nước Trời.
22. Việc lớn, việc nhỏ – PM. Cao Huy Hoàng
Từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội, đâu đâu cũng có những việc lớn việc nhỏ. Ai cũng thích làm việc lớn hơn là những việc nhỏ mặc dù ai cũng hiểu việc nhỏ đã không làm nổi thì đừng mong làm chuyện lớn hơn.
Nếu không có người mẹ với gánh chè xôi nho nhỏ kia, xe cháo lòng dân dã kia… nếu không có sự chắt chiu trân trọng từng đồng tiền nhỏ lẻ kia, hẳn đã không thể mọc lên một căn nhà tươm tất tương đối là mái ấm hoàn mỹ cho gia đình.
Nếu không có người cha đã rong ruổi bán từng cái bong bóng nho nhỏ, từng que cà rem nho nhỏ những năm khó khăn gian khổ kia, hẳn là không thể có những mảnh bằng đại học của con cái hôm nay.
Nếu không có những tiếng ru êm ái, những lời kinh thì thầm, những lời dặn dò dịu ngọt, những lời sửa dạy nhẹ nhàng, những nhẫn nhịn chân thành, những hy sinh đơn sơ, những gương sáng đạo đức âm thầm của cha mẹ, hẳn đã không thể có những đứa con ngoan ngoãn biết thờ phượng Chúa, biết yêu thương người, biết quý trọng việc làm, biết làm lành lánh dữ, biết quan tâm sẻ chia, và nhất là biết ưa chuộng việc nhỏ, yêu mến đức khiêm nhường.
Nếu không có những việc nhỏ… hẳn không thể kết tinh được những thành quả lớn hơn: một người con của Chúa, một linh mục, một nữ tu, một người tài đức, một người hữu ích cho xã hội, cho Hội Thánh.
Trong công cuộc truyền giáo cũng vậy, ai cũng thích làm chuyện lớn lao, chuyện nổi danh cho ra ông kia bà nọ, và thường vẫn chê chối những việc nhỏ nhặt, chê bai những người làm công việc tầm thường, thậm chí còn dè bỉu coi thường những người có khả năng nhưng đã tận tuỵ làm những việc nhỏ, những đóng góp nhỏ.
Tưởng cũng nên nhắc đến ngay cả những người sống đời tận hiến, khi lãnh nhận bài sai phục vụ đoàn chiên của Chúa cũng có người phàn nàn trách móc bề trên ngay trong lễ nhận xứ rằng “trâu to mà sai cày ruộng nhỏ”… khiến nó trở thành câu nói “nổi tiếng” truyền đi hết nơi này đến nơi kia!
Hội Thánh lớn lên từ hạt cải bé nhỏ, từ tấm lòng khiêm nhượng: Hạt cải bé nhỏ của Giêsu - Tấm lòng khiêm nhượng của Giêsu - Hạt cải khiêm nhượng của những người theo gương Giêsu.
Nếu không có những đồng tiền của bà góa ở khắp năm châu, những đồng tiền nhỏ của những người hy sinh lớn, chắc gì xây nổi một Thánh Đường, một phòng Giáo Lý, hay một công trình nào đó cho Thiên Chúa.
Nếu không có những lời nguyện âm thầm của những người bệnh hoạn tật nguyền, những lời cầu nguyện âm thầm của những người đau khổ, thiếu thốn, đói nghèo ở khắp năm châu, thì chắc gì bạn đã được bình yên, được khoẻ mạnh, được thành đạt trong việc phục vụ Chúa, phục vụ gia đình, giáo xứ và cả Hội Thánh nữa.
Thiết tưởng, mỗi chúng ta nên sống tâm tình này: “Tôi sống nhờ lời cầu nguyện nho nhỏ, nhờ lời kinh rất âm thầm của những người đau khổ mà tôi chưa hề biết tên, biết mặt”.
Và từ suy gẫm ấy, mỗi chúng ta cũng phải trở thành người nhỏ bé khiêm nhu tận hiến cho Chúa từng việc nhỏ với lòng yêu mến, đơn sơ, chân thành và khiêm tốn vì “tất cả cho vinh danh Thiên Chúa”.
Ở một vài giáo xứ, khi có nhiều sinh hoạt đoàn thể khác nhau, thường có những cái nhìn so sánh phân biệt đoàn thể này giá trị hơn đoàn thể kia, hội này to hơn hội nọ. Thực đáng buồn cho những cái nhìn phân biệt ấy. Tôi vẫn để ý tới những kinh nguyện âm thầm, những bước chân lặng lẽ của những chiến sĩ của Mẹ trong Hội Legio. Họ không làm gì nổi bật cả, cũng không được phép huênh hoang điều gì cả, càng không được phép tiết lộ công việc của họ với người không liên quan… thế mà, có những mùa gặt Đức Tin bội thu từ những việc nho nhỏ ấy, từ một hội đoàn vẫn thường bị anh em xem thường. Có người còn nặng lời cho rằng hội ấy dành cho người bình dân, thấp bé, ít học. Thật đáng trách cho những người xem mình là lớn lao, thích làm việc lớn, việc nổi, mà chưa chắc đã sinh ích lợi gì cho mình và cho Hội Thánh.
Hoặc gần đây, cũng có một vài cái nhìn không mấy thiện cảm dành cho những hội viên Lòng Chúa Thương Xót vì cho rằng đó là việc đạo đức của những cụ già, của những người bệnh tật đau yếu, của những người tội lỗi… nhưng thực ra, chính họ đang khẩn cầu lòng Chúa thương xót cho họ, cho mỗi chúng ta và cho toàn thế giới.
Còn có những người không chỉ bé nhỏ mà còn vô danh tiểu tốt đang âm thầm làm hạt cải của Thiên Chúa ở khắp nơi giữa chợ đời. Họ vẫn chịu nhiều khinh miệt. Họ không được viếng thăm, cũng chẳng được tiếp rước linh đình, nhưng họ đang là bạn chí thân của những người đau khổ, xấu số, bất hạnh. Họ không sinh hoạt đoàn thể nào cả, vì chẳng có thời gian bỏ cái quang gánh thúng bưng, nhưng họ đang sống tốt lành trước mặt Chúa, để Đức Tin trưởng thành và gương sống công bình bác ái của họ nên lời chứng cho Thiên Chúa.
Hạt cải người đi gieo trồng với lòng tín thác vào quyền năng Chúa sẽ được Thiên Chúa cho mọc lên và phát triển.
Việc nhỏ mà chúng ta thực hiện cho danh Chúa cả sáng thì chắc hẳn Thiên Chúa sẽ làm cho nên lớn lao trong công cuộc của Ngài.
Chị Marie Paul NTL, năm ấy, vì những thất bại trong cuộc đời, trong chuyện gia đình, đã âm thầm tìm ra hải đảo để sinh sống. Chị đã thấy một hải đảo thiếu vắng Tin Mừng. Chị đã nguyện làm một hạt cải trong thánh ý của Thiên Chúa. Sau hơn 15 năm làm hạt cải âm thầm trên hải đảo, Chúa đã cất đi sự tủi hổ, cất đi sự thất bại của cuộc đời chị và đã làm cho hạt cải của chị lớn lên thành một cộng đoàn Giáo họ Hải Đảo Phú Quý như hôm nay: 157 giáo dân trên tổng số 27.000 dân hải đảo, một ngôi thánh đường sắp mọc lên. Và chúng ta có quyền hy vọng 157 hạt cải mới kia sẽ được Thiên Chúa cho vươn lên thành một cộng đoàn lớn, một công trình cứu rỗi.
Chúa đã làm nên bao việc lạ lùng trước mắt chúng ta, bắt đầu từ sự khiêm tốn của chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết rằng ‘quý chuộng và thực hiện việc nhỏ cho vinh danh Thiên Chúa thì có giá trị hơn là quý chuộng và thực hiện những việc lớn lao cho vinh danh mình’. Xin ban cho chúng con lòng khiêm tốn tín thác và chấp nhận để Chúa tác động trong mỗi việc của chúng con. Amen.
23. Ai ngăn được Nuớc Trời tăng trưởng?
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Dụ ngôn là một loại hình văn phong khá quen thuộc với người Do Thái, đặc biệt thời Chúa Giêsu. Dụ ngôn là một câu chuyện kể vốn được lấy trong đời thường. Ý của tác giả kể chuyện dụ ngôn thường nằm ở câu kết và có khi lại được gợi mở qua một hai chi tiết nào đó có vẻ nghịch thường, không hợp lý của câu chuyện.
Tin Mừng Hội Thánh cho trích đọc trong Chúa Nhật XI TN B là hai câu chuyện dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể để nói về Nước Trời. Ý nghĩa của hai dụ ngôn dường như đã quá rõ, đó là sự phát triển cách diệu kỳ của Nước Trời như mùa gặt bội thu, như cành lá xum xuê của cây cải. Ý nghĩa của dụ ngôn còn hiển thị nơi chi tiết có vẻ nghịch thường đó là người nông dân làm mùa cách bàng quan và nơi hình ảnh chim làm tổ dưới cành lá cây cải vốn chỉ là một loại rau. Xưa nay ít có nhà nông nào đã gieo hạt mà chẳng cần biết lúa mọc ra sao. Chuyện chim làm tổ dưới cành lá cây cải cũng là chuyện xưa nay hiếm. Các chi tiết nghịch thường này muốn làm nổi rõ chân lý này: sự phát triển của Nước Trời không hệ tại bởi sức con người mà chủ yếu là do quyền năng của Thiên Chúa.
Dựa vào lời mạc khải, chúng ta có thể khẳng định Nước Trời là nước của Thiên Chúa, vương quốc của tình yêu và của sự thật. Con người đã bị sự tham lam ích kỷ chi phối, do đó tình yêu đã bị làm biến dạng và băng hoại cách nào đó. Sự ích kỷ tham lam cũng đã làm con người xa rời, tránh né sự thật. Đây là tình trạng mà thánh Gioan gọi là “thế gian”, theo nghĩa là tình trạng vắng bóng hay chối từ Thiên Chúa.
Thế nhưng, “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (Ga 3,16). Con Thiên Chúa đã vào trần gian để “làm chứng cho sự thật”, để sống yêu thương bằng việc phục vụ và hiến dâng mạng sống của mình (x.Ga 18,37). Nước Trời đã ở giữa nhân loại chúng ta. Cho dù bị khuớc từ hay bị chống đối lúc này lúc kia, nơi này khác, bởi người này người nọ, nhưng Nước Trời vẫn không ngừng lớn mạnh, vì Thiên Chúa là Đấng xây dựng và làm cho Nước Trời phát triển. Hạt giống Nước Trời được gieo vải, có thể có nhiều hạt như là bị hoang phí vô ích vì rơi trên vệ đường, rơi vào đất sỏi đá hay đất gai góc, nhưng khi có hạt rơi vào đất tốt thì sẽ sinh được một trăm hạt, sáu mươi hạt và chí ít cũng sinh được ba mươi (x.Mt 13,18-23). Thế là vẫn dư lãi.
Vì sự tham lam ích kỷ, háo danh, tham quyền, hám lợi lộc, con người bị cám dỗ sống giả dối, gian trá, sống bất công, ghen ghét, hận thù, sát phạt lẫn nhau. Tuy nhiên niềm khát mong sống trong công lý và sự thật vẫn mãi còn đó, sự ao ước được sống trong yêu thương vẫn luôn có đó. Nền khoa học công nghệ của con người luôn tăng tiến và ngày nay xem ra tiến bộ cách tỏ tường, đặc biệt là nền công nghệ viễn thông. Nhân loại ngày càng xích lại gần nhau hơn và nhờ thế sự tương thân tương ái càng có điều kiện phát triển. Một tai ương hoạn nạn vừa xảy ra ở đây thì chỉ năm bảy phút sau nhiều người trên thế giới đã có thể cập nhật thông tin và tình người lại được dịp rộng mở với sự sẻ chia cách này cách khác. Bên cạnh đó nền thông tin hiện đại đã giúp con người dễ dàng tiếp cận với chân lý và có điều kiện để đòi hỏi quyền được sống trong sự thật. Các phong trào dân chủ nhân quyền đang phát triển đó đây là một minh chứng cụ thể.
Nước Trời, vương quốc của tình yêu, của sự thật không ngừng tăng trưởng cả về mặt không gian lẫn chất lượng. Không có gì, không có ai có thể ngăn cản sự phát triển của Nước Trời. Tất thảy vì lý do này: chính Thiên Chúa là Đấng dựng xây Nước Trời. Tuy nhiên, Thiên Chúa lại muốn dành phần vinh dự cho con người khi trao trọng trách cho con người góp phần xây dựng vương quốc ấy. “Xin cho Nước Cha trị đến”. Một nội dung của lời kinh “Lạy Cha” mà Chúa Giêsu truyền dạy khẳng định với chúng ta chân lý này (x.Mt 6,10). Là Kitô hữu, bạn, tôi, chúng ta đã làm gì cho Nước Trời trị đến trên trần gian này và trên quê hương chúng ta đang sống?
24. Hạt giống âm thầm.
Suy niệm:
Bài Phúc Âm trình hai dụ ngôn khác nhau: dụ ngôn hạt giống tự mọc (Mc 4,26-29). Và dụ ngôn hạt cải (3,34).
I/ Dụ ngôn hạt giống tự mọc (c.26-29). Trước khi hiểu về dụ ngôn này, xin đừng quá nhấn mạnh vào chi tiết để hỏi ai là người gieo hạt giống tự mọc kia. Nếu cho đó là Chúa Kitô thì phải hiểu thế nào về việc Ngài ngủ Ngài thức, về việc Ngài không quan tâm và không hay biết gì về Nước Trời tiến triển ra sao trong khi chúng ta biết Chúa hằng quan phòng và săn sóc Giáo hội cho đến tận thế. Vậy chúng ta phải hiểu dụ ngôn bao giờ cũng trình bày một số bài học chính như sau:
1. Nước Trời, Giáo Hội của Chúa có sức mạnh tăng trưởng tự động bởi ơn Chúa.
2. Nhưng tăng trưởng một cách chắc chắn, từ từ và âm thầm, mà bất chấp mọi trở ngại thử thách. Thiên Chúa có giờ của Ngài chứ Ngài không đốt giai đoạn.
3. Đối với nhà nông, chúng ta hay cho rằng thành quả của mùa màng là do công lao của riêng mình. Có khi còn nghĩ rằng được mùa là do công khổ của mình; còn mất mùa là đổ thừa cho Chúa. Trên phạm vi mùa màng chúng ta thấy có gì? Chúng ta gieo giống, cấy giống, làm cỏ, thuỷ lợi, gặt hái. Thế nhưng cái căn bản nhất là sự tăng truởng, sự sống, và sự lớn lên, kết bông trái của mùa màng thì chắc chắn chúng ta không làm được đâu. Dù chúng ta thức hay ngủ nghỉ, dù muốn hay không thì cây lúa vẫn tự nó lớn từ từ không gián đoạn... cho đến ngày mùa.
Nước Trời cũng thế. Con người chúng ta có thể làm được nhiều chuyện, nhưng là những chuyện phụ thuộc thôi, chúng ta chỉ là người cộng tác với Thiên Chúa. Nước Trời không lệ thuộc vào văn minh của chúng ta đâu. Điều này Thiên Chúa vẫn thường minh chứng trong lịch sử con người. Thiên Chúa đã cấy Giáo Hội của Ngài vào trong trần gian là cánh đồng. Cánh đồng ấy sẽ tăng trưởng, lớn lên và ngày mùa là ngày tận thế. Nước Chúa qua Giáo Hội vẫn cứ tăng trưởng qua mọi hoàn cảnh, thời gian và không gian.
Nước Chúa trị đến sẽ mãi mãi là đến chứ không lùi. Cho nên phía chúng ta là nhân loại đừng quá nóng ruột mà mất hy vọng, mất cả lòng tin và đức cậy nữa. Trong sách Khải Huyền có tiếng kêu: “Khi nào Thiên Chúa can thiệp?” thì được trả lời “khi nào số kẻ được chọn đủ số.” Số kẻ được lựa chọn vẫn cứ được bồi thêm mỗi ngày. Tóm lại Nước Trời vẫn trị đến cả lúc Babel sụp đổ giữa cả bao nhiêu nền văn minh tan nát, giữa hai lần thế chiến, giữa lòng người bất an với nhau... thì Kinh lạy Cha vẫn cứ vang lên “Danh Cha cả sáng.”
Dụ ngôn này cho chúng ta thấy một vẻ lạc quan an lòng. Nhưng cũng đừng quá lạc quan cho rằng mình như một thứ đồng hồ lên giây đủ rồi để rồi không làm việc. Không, con người phải làm bổn phận của mình như dụ ngôn nén bạc đã nói (Mt 25,14-30). Khi chúng ta làm xong bổn phận, hãy tạ ơn Thiên Chúa mà nói rằng: “Chúng tôi là đầy tớ vô ích, làm việc mình phải làm” (Lc 17,10). Chúng ta nhớ lại lời Thánh Phaolô “Nhưng Chúa làm cho cây lớn lên” (1C 5,3-7)
II/ Dụ ngôn hạt cải muốn nói lên chân lý: bất cứ cái gì dù nhỏ bé đến mấy mà Thiên Chúa can thiệp vào đều trở nên quan trọng lớn lao và hữu ích.
Hạt cải theo Máccô là thứ hạt nhỏ hơn hết mặc dù không hẳn đúng như thế, nhưng quan niệm của người Do Thái khi muốn so sánh vẫn lấy hạt cải làm mốc. Cũng như kiểu nói Việt Nam vẫn lấy con kiến làm nhỏ “nhỏ như con kiến.” Vậy một hạt cải nhỏ bé tầm thường mà chúng ta có thể vo trong tay. Nhưng nếu gieo vào lòng đất, nó sẽ nẩy mầm, vươn lên. Nẩy mầm là khởi đầu một sự sống mới. Sự sống ấy tuy mỏng manh nhưng không gì ngăn cản được. Hạt cải gieo vào đất ít tháng sau có thể cao như cây trứng cá của chúng ta mà chim trời tới đậu được. Nhất là vào mùa hè trái cải chín mọng chim sẻ rất ham ăn... Còn trẻ con cũng tới đó để bắt chim vui nhộn.
* Ý nghĩa chung của dụ ngôn này là sức mạnh bành trướng chiều rộng của Nước Trời, của Hội Thánh Chúa ở trần gian.
1. Trước hết Đấng Sáng Lập là Đức Kitô sống ẩn dật không ai biết tới, bị khinh dể là ở Nagiarét, là con bác thợ mộc.
2. Giáo Hội của Chúa từ đầu bé nhỏ nghèo nàn, không quân quốc, không binh bị, tiền tài, uy thế. Tất cả công việc của Chúa lúc bình sinh xem ra thất bại và kết thúc bằng cái chết nhục nhã trên Thánh Giá. Nhưng đó chính là hạt giống tự mục nát đi (Ga 12,24).
3. Sự thiếu thốn nhân sự. Vỏn vẹn lúc đầu chỉ có 12 tông đồ nhút nhát. Thật đúng như lời Chúa phán: “Hỡi đoàn chiên nhỏ của Ta, đừng sợ vì Cha các con thích ban Nước Trời cho các con” (Lc 12,32). Chúa Giêsu đã dùng ngay hình ảnh hạt cải để ám chỉ về Giáo Hội Ngài thành lập. Nhưng lúc ấy không mấy ai lưu tâm đến dụ ngôn này. Khởi đầu nước Chúa với con số 12 người. Ngày Chúa về Trời con số môn đệ khoảng 120, âm thầm sống và tăng trưởng đều đều.
Theo như 4 bản niên giám thế giới thì năm 1950 số tín hữu theo Chúa khoảng 800 triệu người. Đến năm 1975, số tín hữu (kể cả 3 ngành: Chính thống, Tin lành, Công giáo) lên tới một tỷ 24 triệu 106 ngàn 500 người. Nhưng con số đó không hề quan hệ cho bằng vấn đề ơn cứu rỗi. Có đức tin thì dễ, nhưng duy trì được đức tin là chuyện khác và thực hành đức tin lại là chuyện khác nữa.
Nếu chỉ có tin mà không thực hành là một cái xác không hồn, là thứ cây vả xanh um bên ngoài (Mc 11,20). Có lẽ ngày về trời chúng ta mới hiểu được thế nào là dụ ngôn hạt cải. Ngày ấy chúng ta có thể đếm những số các thánh mà ngày nay sách Khải Huyền cũng chịu, đếm không được, không xuể.
Đối với mỗi người cũng bắt đầu từ chỗ tầm thường nhỏ bé như vậy, từ một em bé thành người lớn. Kể cả trên phạm vi sự nghiệp cũng thế. Vậy thì trên lãnh vực đức tin, chúng ta nhớ rằng dù một hành vi nhỏ bé tầm thường đến đâu như cho đi một bát nước lã – là cũng đang đóng góp vào sự nghiệp nước trời. Chính việc bác ái gương lành đan kết thành triều thiên chói ngời trên trời ngày mai.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, trong những bổn phận dù âm thầm hàng ngày, xin cho chúng con biết tin tưởng và phó thác cho quyền năng yêu thương của Chúa. Chính Ngài sẽ làm cho công việc của chúng con thực hiện theo ý Chúa để đạt kết quả tốt. Như thế chúng con sẽ làm ích cho chính bản thân, cho tha nhân và cho Nước Chúa. Lạy Chúa, xin cho con biết kiên trì gieo Lời Chúa dù gặp điều kiện thuận lợi hay không.
(Trích trong http://www.dmhcg.org)
25. Vương Quốc và Giáo Hội
(Suy niệm của Lm. Mark Link, S.J.)
Một ngày kia, bé Sharon, năm tuổi, đến thăm bà ngoại. Trong cuộc thăm viếng này, bà đã cho cháu một trái dưa leo lớn nằm trong lọ thuỷ tinh.
Bé Sharon rất ngạc nhiên và hỏi: “Ngoại ơi, làm sao trái dưa leo lọt được vào cái chai qua cái miệng nhỏ xíu này?” Bà ngoại mỉm cười và nói:
“Cháu ơn, nếu bà nói cho cháu nghe bí mật này ngay lập tức, nó sẽ làm hư một bí mật lớn hơn mà bà muốn nói cho cháu nghe sau này. Hãy suy nghĩ một chút xíu đi.
“Bà biết là cháu sẽ tìm ra câu trả lời. Và lúc đó, bà sẽ nói cho cháu biết một bí mật lớn hơn.”
Khoảng một tuần sau, bé Sharon thơ thẩn hái bông trong khu vườn của bà ngoại. Bỗng dưng, nó thấy một cái chai mà trong đó bà ngoại đã nhét vào một nhánh nhỏ với trái dưa leo chút xíu. Bây giờ nó đã hiểu cách bà ngoại nó làm: bà nhét dưa leo vào cái chai khi nó còn nhỏ và để nó lớn lên ở trong đó. Nó chạy đến bà ngoại, vừa nhảy nhót vừa nói, “Ngoại ơi, con biết bí mật đó rồi. Bây giờ ngoại nói cho con biết bí mật lớn đi. Con không chờ được nữa!”
Bà ngoại nó bắt đầu:
“Bí mật thì như thế này: một thói quen tốt mà cháu tập luyện bây giờ giống như trái dưa leo nhỏ trong cái chai. Từ từ nó lớn lên và lớn hơn nữa bên trong con người cháu, như vậy khi cháu trưởng thành, không ai lấy đi được đức tính ấy.
“Và như vậy, điều bí mật là thế này: Nếu cháu muốn sau này hạnh phúc thì phải tập luyện một thói quen tốt ngay tự bây giờ.”
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Đức Giêsu kể cho chúng ta nghe một bí mật cũng giống như bí mật của bà ngoại cháu Sharon đã kể.
Đức Giêsu gieo một hạt cải nhỏ xíu của Nước Trời trong lòng mỗi người chúng ta. Nó “đâm chồi và lớn lên” mà không ai biết.
Công việc của chúng ta là nuôi dưỡng nó với sự cầu nguyện và công việc lành cho đến khi nó lớn lên đến độ không ai có thể lấy đi khỏi chúng ta – dù là những tai hoạ, những bách hại, và ngay cả cái chết.
Ở đây, điều quan trọng cần để ý là sự lớn lên của Nước Trời trong mỗi người chúng ta thì từ từ, thay đổi dần dần.
Cũng giống như cần phải có thời gian để trái dưa leo nhỏ xíu lớn lên trong cái chai, Nước Trời cũng vậy. Đây là lý do tại sao vẫn còn sự dữ bên trong tâm hồn chúng ta, và nhất là trong thế giới.
Hạt giống của Nước Trời đã được gieo xuống; nó đang mọc lên nhưng chưa đạt đến trọn vẹn.
Đây là lý do chúng ta xin cho “nước Cha trị đến” khi đọc kinh Lậy Cha.
Trong khi đó, “lĩnh vực của Satan” tiếp tục chiến đấu chống với Nước Trời.
Nói cách khác, vương quốc của Satan thì chỉ mới bị kết án tử hình. Nó chưa bị tiêu diệt. Và hậu quả là nó vẫn gieo rắc sự thù địch trong thế giới chúng ta.
Điều này đưa chúng ta đến điểm quan trọng thứ hai về Nước Trời.
Không giống như một cây rõ ràng xuất phát từ hạt giống nhỏ xíu, để mọi người đều thấy, Nước Trời thì vô hình và không thể thấy. Nó là tinh thần. Đức Giêsu nói:
“Nước Thiên Chúa không đến theo kiểu cách để được thấy. Không ai có thể nói, ‘Kìa, nó ở đây! Hay ‘Nó ở kia’; bởi vì Nước Thiên Chúa thì trong lòng anh em.” (Luca 17:20-21)
Điều này đưa chúng ta đến với vai trò của Giáo Hội. Đức Giêsu đã thiết lập Hội Thánh để phục vụ hai mục đích.
Thứ nhất, nó phục vụ như một “hạt giống” mà từ đó Nước Trời sẽ xuất phát. Thứ hai, nó là một “dấu hiệu” thấy được của vương quốc Thiên Chúa trong thế giới chúng ta.
Cũng giống như Đức Giêsu, Hội Thánh có hai chiều kích: chiều kích thiêng liêng và chiều kích nhân bản.
Chiều kích thiêng liêng thì vô hình. Không có ai khác hơn là chính Đức Kitô, Người là đầu và là sự sống của Hội Thánh.
Ngược lại, chiều kích nhân bản thì hữu hình. Đó là các phần tử của Hội Thánh.
Qua đời sống chứng nhân và phụng tự của chúng ta, là các phần tử của thân thể Đức Kitô, chúng ta làm cho Hội Thánh trở nên hữu hình và hoạt động trong thế giới.
Chiều kích nhân bản của Hội Thánh thì giống như bất cứ gì thuộc về con người; nó có khuyết điểm. Điều này không chỉ bao gồm các phần tử, nhưng còn cả giới lãnh đạo: các giám mục và linh mục của Hội Thánh.
Bởi vì có khuyết điểm, nó không luôn luôn trưng ra được “diện mạo của Đức Kitô” cho thế giới thấy như nó phải thi hành.
Nó cũng dễ sa ngã tội lỗi và vẫn phải tranh đấu để trở nên điều mà Thiên Chúa đã mời gọi.
Hậu quả là trong cuộc lữ hành trần thế của Hội Thánh, nó luôn luôn là một sự pha trộn giữa ánh sáng và bóng tối.
Sẽ luôn luôn có đủ ánh sáng cho những ai thành tâm muốn được thấy và cũng đủ tối tăm cho những ai không muốn.
Đây là điều nó phải như vậy. Ánh sáng của Hội Thánh không bao giờ trùm lấp chúng ta. Nó chỉ mời gọi chúng ta.
Nói cách khác: khi nói đến sự hiện diện của Hội Thánh, nó không bao giờ quá sáng tỏ đến độ chúng ta không cần phải thắc mắc gì cả.
Nó cũng không ẩn giấu quá kín đến độ người thành tâm muốn tìm kiếm phải lầm lạc. Nó luôn luôn mở rộng cho cả hai điều khả dĩ.
Và đây là điều phải như vậy. Đức Giêsu tôn trọng sự tự do con người. Đức Giêsu không ép buộc chúng ta phải đi theo Người.
Hãy để tôi kết thúc với một đoạn trích từ bài thơ thật hay bởi một tác giả vô danh.
Nó hầu như tóm lược những gì mà chúng ta muốn nói. Bài thơ viết:
Tôi nghĩ không bao giờ tôi thấy được một Giáo Hội đúng như tất cả những gì nó phải là:
Một Giáo Hội mà các phần tử không bao giờ lệch lạc khỏi con đường thẳng và hẹp.
Một Giáo Hội không còn hàng ghế trống trong nhà thờ, và cha xứ không bao giờ phải thất vọng.
Các Giáo Hội tuyệt hảo như thế có lẽ cũng có nhưng tôi chưa bao giờ được biết.
Tuy vậy, chúng ta sẽ làm việc và chơi đùa và hoạch định để làm cho Giáo Hội của chính chúng ta trở nên tốt nhất có thể.
26. Hạt giống mọc lên
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Vào một đêm nọ, người phụ nữ nằm mơ. Chị thấy mình bước vào một siêu thị. Khách hàng tấp nập. Có một quày hàng đặc biệt, người ta chen chân không lọt. Chị ngạc nhiên thấy Chúa Giêsu đứng bán ở quày hàng này.
Chờ đợi đến phiên mình, chị hỏi: Chúa mà cũng bán hàng sao? Chúa bán cái gì ở đây vậy?
Chúa trả lời: Ta bán mọi sự con đang ước muốn trong trái tim con.
Chị nói liền một hồi: Thưa Chúa, con muốn có bình an, có tình yêu, có hạnh phúc, có khôn ngoan và tự do không sợ hãi. Suy nghĩ một lúc, chị lại thêm: không chỉ cho con mà thôi nhưng còn cho chồng, cho con và cho những người thân yêu của con nữa.
Chúa mỉm cười và nói: hỡi con yêu dấu, ở đây,Ta không bán hoa trái mà chỉ bán hạt giống thôi. (Anthony de Mello).
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn hạt giống để rao giảng về Nước Thiên Chúa. Hình ảnh cụ thể và dễ hiểu. Nước Thiên Chúa giống như người nông dân gieo hạt xuống đất. Hạt giống âm thầm nẩy mầm, phát triển và sinh bông hạt. Cũng vậy, hạt giống Lời Chúa được gieo vào lòng thế giới và gieo vào lòng người sẽ nảy mầm và sinh nhiều hoa trái tốt lành. Nước Thiên Chúa là vương quốc của tình yêu, của sự thật không ngừng tăng trưởng dọc dài thời gian của lịch sử nhân loại. Không ai có thể ngăn cản sự phát triển của Nước Thiên Chúa.
Dụ ngôn “Hạt lúa âm thầm mọc lên” (x. Mc 4,26-29) chính là hình ảnh của Tin mừng chan hoà trong một nền văn hoá.
Hạt giống Tin Mừng Đức Giêsu Kitô đã đến với quê hương Việt Nam gần năm thế kỷ.Trước đó cả ngàn năm đã có ba tôn giáo lớn là Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và Tín Ngưỡng dân gian ăn sâu vào tâm hồn người Việt Nam. Phong tục tập quán, văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam, đã được nhào luyện bởi tất cả những mầm sống cũng như giới hạn các tín ngưỡng đó.
Trên nền tảng một đời sống tâm linh phong phú mà Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và nhất là Đạo Ông Bà đã xây dựng từ hơn một ngàn năm, hạt giống Tin Mừng đã nẩy mầm và trổ sinh nhiều hoa trái. Tinh thần hiếu khách, lòng bao dung làm cho người Việt Nam sẵn sàng tiếp xúc với những người tỏ ra có thiện cảm với mình, cho dù họ từ xa đến. Với những đức tính như lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, kính trên nhường dưới trong gia đình, với một tâm hồn yêu thích tĩnh mịch và chiêm niệm, người Việt Nam là một mãnh đất tốt để đón nhận những giá trị thiêng liêng hàm chứa trong Tin Mừng.
Nhờ các nhà truyền giáo, từ các thế hệ tiền nhân, người Việt đã nhận lãnh nhiều điều tốt lành: những thường thức về vệ sinh, khoa học, những hiểu biết mới, những đồ vật quý hiếm cũng như những trợ giúp vật chất dù rất khiêm tốn, những nhân vật thánh thiêng đầy nhân ái... khiến họ, nhất là những người thuộc lớp bình dân, sẵn sàng đón nhận giáo lý mà những người tốt lành như vậy mang đến cho họ. Nhờ đó những tập tục phi lý và phi nhân (bùa mê, sát tế) như một gánh nặng đè lên cuộc đời của họ nay được cởi bỏ. Khi đã tìm gặp một vị thần đầy yêu thương, họ liền cảm thấy được giải thoát và tin theo.
Rao giảng Tin Mừng cho họ cần gắn liền với phát triển cuộc sống, quan tâm săn sóc sức khỏe, nâng cao văn hóa giáo dục. Người truyền giáo cần phải sống giữa những anh chị em nầy và chia sẽ đời sống của họ. Đó là điều cần phải làm trước tiên và đó là chìa khóa thành công của một nhà truyền giáo thật sự. Cần huấn luyện những cá nhân trưởng thành và những tổ chức tự lập ngõ hầu những thành phần của địa phương có thể rao giảng phúc âm cho chính đồng bào của họ và cung cấp những giáo dân có đức tin vừng mạnh, có trình độ trí thức tốt, có khả năng làm việc cách hăng say giữa anh chị em mình.
Tôi vừa mới đi du lịch hành hương đất nước Hàn Quốc(10-15/6/2012). Theo linh mục Piero Gheddo, thuộc Hội Truyền Giáo Nước Ngoài Milano: “Trong suốt 50 năm qua có lẽ đã không có quốc gia nào trên thế giới có được sự phát triển liên tục trên mọi bình diện chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo như Hàn Quốc. Sự phát triển mạnh mẽ này cũng xảy ra đối với Kitô giáo nữa. Thật thế, từ năm 1960 đến năm 2010, dân số Hàn Quốc từ 23 triệu đã tăng lên 48 triệu người. Lợi tức bình quân tính trên đầu người gia tăng từ 1.300 USD lên 19.500 USD hằng năm. Số Kitô hữu từ 2% tăng lên 30%, trong đó có khoảng 11% là tín hữu Công giáo, tức khoảng 5,4 triệu. Số linh mục từ 250 lên đến 5.000”. (Nhật báo Avvenire (Tương lai), cơ quan ngôn luận chính thức của Hội đồng Giám mục Italia số ra ngày 8-4-2012).
Với 5.000 linh mục hiện nay, tính bình quân, mỗi vị coi sóc 1.100 tín hữu. Hồi năm 2008, số tín hữu Công giáo đã vượt 10% tổng số dân Hàn Quốc và gia tăng 3% mỗi năm.
Theo thống kê của Giáo Hội năm 2009, số người lãnh nhận bí tích Rửa tội đã là 159.000, và đã có 149 phó tế được thụ phong linh mục, tức gia tăng 21 vị so với năm 2008. Trong năm 2009 có 69% người Hàn Quốc thuộc lứa tuổi 23 tới 40. Điều này cho thấy người dân Hàn Quốc rất trẻ trung và tràn đầy sức sống.
Đức Hồng y Nicholas Cheong Jin Suk, Tổng Giám mục thủ đô Seoul, cho biết trong 10 năm qua, số tín hữu Công giáo Hàn Quốc đã gia tăng từ 3 lên đến hơn 5 triệu, khiến cho Giáo Hội Hàn Quốc là Giáo Hội tiến triển mạnh nhất châu Á. Tại Hàn Quốc, quyền tự do tôn giáo được hoàn toàn tôn trọng.
Hiện nay Giáo Hội Hàn Quốc đang sống chương trình gọi là "Rao giảng Tin Mừng hai mươi hai mươi", có nghĩa là mọi tín hữu trong Giáo Hội phải dấn thân truyền giáo làm sao để vào năm 2020, số tín hữu Công giáo đạt tỷ lệ 20% tổng số dân Hàn Quốc, nghĩa là gia tăng gấp đôi số tín hữu hiện nay lên 10 triệu. (Sẽ chia sẻ thêm về Giáo hội Hàn Quốc trong những bài sau).
Loan báo Tin Mừng là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu (x. Ga 15,13).
Một Giáo Hội khiêm nhu nhỏ bé dễ hòa mình vào giữa đại đa số những người nghèo của Châu Á. Và một Giáo Hội không quyền lực dễ gần gũi số đông những người chỉ mơ ước được làm người, được cơm no áo ấm, được học hành và có việc làm. Vì phải chăng đã đến lúc cần sáng tạo ra những "mô hình" mới của Giáo Hội như là những cộng đồng nhỏ bé, dễ hòa mình vào những cộng đồng xã hội của người nghèo: những cộng đồng nghèo hơn, ít bề thế, ít cồng kềnh, khiến người ta không còn e dè sợ hãi khi tiếp cận, gặp gỡ, những cộng đồng mở rộng hơn là khép kín. Sau cùng đó là những cộng đồng quan tâm nhiều hơn nữa đến đời sống toàn diện của con người, không chỉ khép kín trong đời sống thuần túy tôn giáo, nghĩa là trong việc cử hành bí tích hay phụng vụ, mà còn dấn thân trực tiếp vào việc cải thiện đời sống vật chất, nâng cao văn hóa và giáo dục cho người dân, nhất là những người nghèo. Tục ngữ Việt Nam có câu: "có thực mới vực được đạo". Giáo Hội không được sai đến để giải quyết vấn đề kinh tế xã hội... nhưng không phải vì thế mà Giáo Hội không quan tâm đến những vấn đề ấy. Chúa Giêsu đã loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói, mà Tin Mừng của Người là "làm cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết chỗi dậy" (Lc 7,22).
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay, truyền giáo chính là “làm muối,” “làm men,” “làm ánh sáng”... như những hình ảnh chính Chúa Giêsu đã dùng khi trao sứ mạng cho các môn đệ. Muối, men, ánh sáng thì không ồn ào áp chế, công việc của nó là âm thầm hiện diện, và chỉ cần hiện diện đúng như bản chất của mình, tự khắc môi trường xung quanh nó sẽ thấm mặn, sẽ dậy men, và sẽ đầy ánh sáng.
27. Hạt cải Nước Trời
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta thường nghe nói chúng ta là công dân Nước Thiên Chúa và có bổn phận xây dựng Nước Thiên Chúa. Nhưng có lẽ chúng ta chưa hiểu bao nhiêu. Lời Chúa hôm nay sẽ dạy chúng ta những điều đó.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy và xin Chúa giúp chúng ta thực hành Lời Ngài.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta chưa sống đúng theo niềm tin của mình.
Chúng ta không làm chứng cho những giá trị tốt của Tin Mừng.
Chúng ta không quan tâm xây dựng Nước Thiên Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Êd 17,22-24)
Ngôn sứ Êdêkien rao giảng dụ ngôn này trong thời dân Israel đang bị lưu đày bên Babylon:
Cây hương nam cao nhất ám chỉ Nabuchodonosor và đế quốc của ông. Nó sẽ bị Thiên Chúa chặt xuống.
Một chồi non được Thiên Chúa trồng và lớn lên thành cây hương nam vĩ đại ám chỉ dân Israel. Họ sẽ được Thiên Chúa cho hồi hương và đất nước họ sẽ thịnh vượng.
Tất cả những cây rừng khác ám chỉ các vua và các nước khác. Họ sẽ nhận biết uy quyền của Thiên Chúa và vinh quang của Israel.
2. Đáp ca (Tv 91)
Tv này cũng so sánh người hiền đức như một cây là cây chà là: được vun trồng trong nhà Chúa, lớn lên và trổ sinh hoa trái như cây hương bá đất Liban.
3. Tin Mừng (Mc 4,26-34)
Đức Giêsu dùng hai dụ ngôn giúp người ta hiểu về Nước Thiên Chúa:
Nước Thiên Chúa giống như hạt giống được gieo xuống đất và dù người gieo thức hay ngủ, dù ngày hay đêm, hạt giống cứ âm thầm mọc lên thành cây... Sức phát triển nội tại của Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa giống như một hạt cải rất nhỏ gieo xuống đất nhưng dần dà lớn lên thành cây to đến nỗi chim trời đến núp dưới bóng của nó. Sức bành trướng rất mạnh của Nước Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (2 Cr 5,6-10)
Giữa những gian truân khổ sở của cuộc đời, thánh Phaolô bày tỏ niềm trông cậy vào Chúa:
* bởi vì sống ở đời này cũng như bị lưu đày xa cách Thiên Chúa. Một ngày nào đó chúng ta sẽ thoát cảnh lưu đày mà về với Chúa.
* trong khi chờ đến ngày đó, chúng ta hãy cố gắng sống sao cho đẹp lòng Chúa, để khi đến ngày đó chúng ta sẽ được Thiên Chúa xét xử và thưởng công.
IV. Gợi ý giảng
* 1. "Nước Thiên Chúa giống như người kia gieo hạt xuống đất"
Cách Đức Giêsu dùng để mô tả Nước Thiên Chúa rất xa lạ với trí tưởng tượng của con người. Ngài không nói Nước Thiên Chúa giống như một đất nước đông đảo hay một đạo quân hùng mạnh, nhưng nói "Nước Thiên Chúa giống như người kia gieo hạt xuống đất". Câu này có nhiều ý nghĩa.
Nước Thiên Chúa là một hạt giống: thực chất của Nước Thiên Chúa không phải là hệ thống tổ chức quy mô hay thế lực mạnh mẽ bề ngoài, mà là những giá trị bên trong, những giá trị mà Đức Giêsu đã rao giảng trong Tin Mừng, như yêu thương, tha thứ, hòa thuận v.v.
Nước Thiên Chúa giống như người kia gieo hạt: Xây dựng Nước Thiên Chúa không phải bằng cách lập hội kêu gọi càng nhiều người ghi tên vào càng tốt, hay đem quân xâm lấn để mở mang bờ cõi, mà là gieo hạt: đem những giá trị Tin Mừng vùi vào thế giới này, gieo vào lòng nhân loại này.
Hạt giống sẽ dần dần mọc lên: Không nên nôn nóng mong chờ một sự phát triển nhanh chóng ngoạn mục mà phải kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng đồng thời cũng phải lạc quan tin tưởng vì thế nào Nước Thiên Chúa cũng lớn lên.
* 2. Nhỏ bé mà rất mạnh, âm thầm mà bền bĩ
Nhỏ bé mà rất mạnh, âm thầm mà bền bĩ: đó là những đặc tính của hạt giống.
Đức Giêsu dùng hình ảnh hạt giống để dạy môn đệ Ngài sống và xây dựng Nước Thiên Chúa:
Chúng ta không cần làm những việc to tát vĩ đại. Chỉ cần làm cho tốt những việc nhỏ bé hằng ngày của mình.
Chúng ta không cần ồn ào phô trương hay quảng cáo cho niềm tin của chúng ta. Chỉ cần sống một cách âm thầm nhưng kiên trì những giá trị Tin Mừng mà mình đã nhập tâm.
* 3. Tính nóng vội
Thời nay có nhiều sản phẩm "xài liền", như mì ăn liền, cà phê uống liền, chụp hình lấy liền v.v. Dù chúng ta biết phẩm chất của những thứ đó không được tốt, nhưng chúng ta vẫn thích, bởi vì đỡ tốn công và đỡ mất giờ.
Thế nhưng chúng ta quên rằng có nhiều thứ không thể hối thúc được. Phát triển thành một con người chín chắn là công việc của cả một đời người. Xây dựng một tương quan tốt đẹp với ai đó đòi hỏi rất nhiều thời gian. Biết và hiểu con cái mình cũng đòi cha mẹ phải tốn nhiều thời giờ. Vượt qua tội lỗi và thói xấu cũng không phải là công việc một sớm một chiều.
Thời đại chúng ta ngày này cũng được gọi là thời đại nhấn nút. Nhấn nút một cái là đèn cháy, nhấn nút một cái là máy nổ, nhấn nút một cái là cửa mở ra... Quả thật nhiều phương tiện hiện đại nhằm tiết kiệm sức người là tốt. Thế nhưng kiểu sống "nhấn nút" như thế làm cho chúng ta có khuynh hướng tìm sự dễ dãi. Đi đến thăm một người già hay một người bệnh làm chi cho mất công, sao không gọi điện thoại cho tiện! Hơn nữa có rất nhiều chuyện không thể giải quyết bằng cách nhấn nút: không có nút nào thay thế việc nuôi dạy con cái cho nên người, cũng không có nút nào thay thế việc luyện tập thành thạo một kỹ năng...
Trong dụ ngôn hôm nay, người nông dân đã làm tất cả những gì phải làm, là dọn đất và gieo hạt giống. Sau đó là phần việc của hạt giống, phần việc này ngoài tầm của người nông dân. Người nông dân phải chờ, chờ trong kiên nhẫn và hy vọng.
Dụ ngôn này nhắc chúng ta rằng chúng ta có thể gieo hạt giống nhưng chúng ta không thể làm cho hạt giống mọc lên. Chính Chúa làm việc đó. Nếu chúng ta làm xong phần bổn phận mình thì chắc chắn Chúa sẽ cho sinh hoa kết quả. Nhưng liệu chúng ta có đủ kiên nhẫn và đủ lòng trông cậy không? (Viết theo Flor McCarthy)
* 4. Những sự bắt đầu nho nhỏ
Dụ ngôn thứ hai của bài Tin Mừng hôm nay (hạt cải nhỏ mọc thành cây to) chứa đựng bài học này: có nhiều việc lớn phải bắt đầu bằng những việc nhỏ.
Có rất nhiều thí dụ: Muốn xây một tòa nhà thì phải bắt đầu bằng từng viên gạch; muốn viết một quyển sách thì phải bắt đầu bằng từng trang, thậm chí từng chữ; muốn làm một chuyến viễn du thì phải bắt đầu bằng từng bước; muốn xây dựng một tình bạn thì phải bắt đầu bằng những lần gặp gỡ đổi trao v.v.
Sự bắt đầu rất là quan trọng. Nếu bạn muốn con bạn lớn lên thành người tốt thì bạn phải bắt đầu chăm sóc dạy dỗ nó ngay từ nhỏ. Mà khi bắt đầu thì phải chú ý đến những điều rất nhỏ. Một tính tốt dần dần thành hình từ những thói quen tốt nho nhỏ. Một tính xấu cũng thành hình từ những thói quen xấu được lặp đi lặp lại.
* 5. Câu chuyện minh họa:
a/ Hạt giống:
Bà và cháu gái đang phân loại hạt giống chuẩn bị cho vụ mùa tới. Cô bé nhận xét khi kiểm tra những hạt trong tay: "Những mong đợi nhỏ bé và mỏng manh phải không bà? Có phải mỗi hạt là một niềm hy vọng không?"
- Phải, mỗi hạt là một niềm hy vọng. Nhưng vì là hy vọng, cần có những điều kiện để đi tới thành đạt.
Chúa cho chúng ta niềm hy vọng được an bình mỗi khi gặp đau khổ; được sức mạnh khi gặp thử thách; được ánh sáng cho những ngày tối tăm. Nhưng chúng ta phải có niềm tin và can đảm tiến về phía trước.
Hạt giống nhỏ bé phải chịu chôn vùi trong đất và phơi mình dưới mưa nắng, thì khả năng tốt đẹp của nó mới thành hiện thực.
b/ Chìa khóa vào thiên đường
Một thầy dòng là thợ may cho cộng đoàn. Ngày kia, ông đau nặng và chờ chết. Ông nói với anh em: "Đưa cho tôi chìa khóa vào thiên đường!"
Anh em nhìn nhau bối rối. Họ không biết ông muốn nói gì. Nhưng ông chỉ lập lại lời đề nghị: "Đưa cho tôi chìa khóa vào thiên đường". Cuối cùng, họ đưa cho ông chiếc kim may. Một nụ cười mãn nguyện làm gương mặt thầy già sáng lên khi liếc nhìn chiếc kim trong tay và nói: "Tôi làm việc mỗi ngày với chiếc kim này vì vinh quang Chúa. Bây giờ nó là chìa khóa mở cửa cho tôi vào thiên đường".
* 6. Hạt giống cây tre tàu.
Nhà tâm lý học Weldon cho rằng hạt giống kỳ lạ nhất thế giới là hạt giống của cây tre Trung Quốc. Hạt giống này nằm yên dưới lòng đất đến 5 năm, rồi mới nhú chồi non lên mặt đất. Suốt thời gian 5 năm này, người ta phải vất vả chăm sóc nó, nào là tưới nước nào là bón phân, mà không hề nhìn thấy hệ thống rễ phức tạp đang bố trí trong lòng đất.
Cuối cùng, một sự sống đã vươn lên đầy kinh ngạc: Chỉ trong 6 tuần đầu, cây tre đã mọc cao lên gần 3 mét.
***
Hạt giống Nước Trời cũng tương tự như hạt giống cây tre Trung Quốc. Cần một thời gian dài "vùi sâu dưới lòng đất", điều này đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi. Khi hạt giống nẩy mầm lớn lên thành cây, nó phải đương đầu với tính khí thất thường của thời tiết, phải đối phó với cơn giận dữ của giông tố. Đây là lúc phải sống niềm tin: tin rằng Thiên Chúa sẽ đưa Nước Người đến thời viên mãn, bất chấp những cản trở của con người. Vì thế, chúng ta không ngừng gieo vãi Lời Chúa, cho dù không thấy hạt giống đang âm thầm phát triển.
Hạt giống Nước Trời cũng không khác chi hạt giống cây tre Trung Quốc. "Hạt bé nhất" lại cho cây lớn nhất. Nước Trời khởi đầu là Đức Giêsu và một nhóm nhỏ môn đệ dân chài. Sau hai mươi thế kỷ, Kitô giáo đã lan tràn khắp nơi, đến với mọi dân tộc.
Có thể nói Đức Giêsu đã gieo hạt giống Hội thánh vào giữa lòng thế giới. Sau đó Người biến mất khỏi dòng lịch sử, để hạt giống Hội thánh "âm thầm lớn lên" với bao gian nan thử và thử thách, yếu đuối và bất lực. Dường như Người dửng dưng trước bao khó khăn của Hội thánh. Dường như Người không biết đến bao tội ác đang lan tràn thế giới. Dường như Người không quan tâm đến nỗ lực sống thánh của dân Người.
Nhưng với niềm tin yêu phó thác, chúng ta xác tín rằng: bên kia dòng thời gian, nơi cuộc sống vĩnh hằng, Thiên Chúa đang chờ đợi, nhìn xem và điều khiển cho hạt giống Nước Trời lớn lên và tăng trưởng sung mãn vào một mùa bội thu trong Ngày Cánh Chung sẽ tới.
Có thể nói Đức Giêsu cũng đã gieo hạt giống Đức tin vào tâm hồn chúng ta qua Bí tích Rửa tội. Người cũng đang chờ đợi hạt giống ấy mọc lên và tăng trưởng: qua những lời cầu nguyện âm thầm, qua việc siêng năng lãnh nhận các Bí tích, và qua đời sống chứng nhân của mỗi người. Đây là việc đòi hỏi sự kiên nhẫn lâu dài và lòng trung tín suốt đời. Đức Giêsu nói: "Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát" (Mt.10,22).
Wendell Holmes cho chúng ta một bí quyết: "Để vào Nước Trời, chúng ta luôn phải chèo lái con thuyền của mình, đôi khi thuận buồm xuôi gió, nhưng cũng có lúc phải lội ngược dòng. Điều quan trọng là phải luôn chèo chống, đừng neo thuyền lại".
Thánh Phaolô dạy: "Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện" (Rm.12,12). Ngài cũng đã nêu gương bền chí: "Tôi đã chiến đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin" (2Tm.4,7).
***
Lạy Chúa, Chúa đã đến trần gian như hạt giống chôn vùi dưới lòng đất nhưng Chúa đã sống lại vinh quang. Xin cho chúng con biết âm thầm chết đi cho tội lỗi, để được lớn lên trong nguồn ơn Thánh Chúa. Amen (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Đức Giêsu đã phán: "Khi nào có hai ba người họp nhau cầu nguyện thì có Ta ngự giữa". Giờ đây chúng ta hãy hợp một ý một lòng dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện của chúng ta:
1. Hội Thánh chính là Nước Thiên Chúa hữu hình ở trần gian. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho Hội Thánh ngày càng vững mạnh và phát triển.
2. Thế giới ngày nay đang chạy theo những giá trị vật chất và xa dần những giá trị đạo đức. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp phát huy những giá trị Tin Mừng để hoán cải thế giới này.
3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ đặc biệt những người đang âm thầm gieo những hạt giống Tin Mừng trong môi trường sống của họ.
4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta tích cực và kiên trì xây dựng Nước Thiên Chúa ở trần gian.
CT: Lạy Chúa, ngày xưa Chúa đã dùng dụ ngôn hạt giống âm thầm mọc để dạy các môn đệ Chúa hãy kiên trì và lạc quan xây dựng Nước Thiên Chúa. Sứ mạng ấy ngày nay được trao lại cho chúng con. Xin Chúa giúp chúng con chu toàn sứ mạng Chúa trao. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Trong Kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy đặc biệt cầu nguyện cho Nước Cha được trị đến.
VII. Giải tán
Thánh lễ đã xong. Ước gì mỗi người anh chị em trở thành một hạt giống Nước Chúa giữa cuộc đời. Chúc anh chị em bình an.
28. Tin tưởng và phó thác – Lm Paul Nguyễn Nguyên
Ai trong chúng ta cũng biết rằng: bất cứ một hạt giống nào, dù nhỏ bé đến đâu cũng đều mang trong mình một sức sống mãnh liệt, bằng chứng khi nó được gieo xuống đất nếu gặp điều kiện thuận tiện để nảy mầm thì nó sẽ phát triển cách rất mạnh mẽ, bất chấp mọi cản trở. Hôm nay, mượn hình ảnh từ thiên nhiên đó, Chúa Giêsu muốn nói tới sự phát triển của Nước Trời. Ngài không nói Nước Trời giống như một đất nước đông đảo hay như một đạo quân hùng mạnh, nhưng nói “Nước Trời giống như người kia gieo hạt xuống đất”, rồi âm thầm chờ đợi theo dòng thời gian, Nước Trời sẽ tự nhiên lớn mạnh, như hạt cải ban đầu nhỏ tí dần dần cũng mọc thành cây cao. Sở dĩ Chúa Giêsu lạc quan như vậy, vì Nước Trời là việc thuộc quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Không một sức mạnh hay gian khó nào có thể cản trở dự định của Thiên Chúa, không một yếu hèn sai lỗi nào của con người có thể là lực cản không cho Nước Trời hiển trị. Thiên Chúa sẽ thắng tội lỗi, thậm chí chính từ tội lỗi con người, Thiên Chúa có thể kéo ra sự lành, để ngay giữa dòng tội lỗi Nước Trời tiếp tục lớn mạnh.
Lịch sử giáo hội đã chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều đó: Nước trời khi khởi sự thật là khiêm tốn, chỉ là một Thầy Giêsu thuộc làng quê Nazaret và mười hai đệ tử, những con người hầu như xuất thân từ tầng lớp nghèo, thất học, thấp cổ bé miệng. Thế mà, trải qua năm tháng nó lại phát triển thành một “cây Giáo Hội” to lớn, đã có mặt ở mọi nơi trên mặt đất này, và vô cùng mạnh mẽ với qui mô lớn. Có hệ thống chặt chẽ, có phẩm trật trên dưới vững mạnh, đến nỗi không gì có thể ngăn chặn được ngay cả quyền lực hỏa ngục cũng không thể nào làm chuyển lay. Như vậy, trong nước Thiên Chúa điều quan trọng không phải là những việc làm đấy khó khăn vất vả, nhưng là sức mạnh của lòng tin và sức mạnh của tâm tình phó thác, và đó là điều kiện cho sự lớn lên.
Vì thế, tin mừng hôm nay làm cho chúng ta thêm can đảm sống một cách đầy tin tưởng hơn. Chúng ta không phải một mình làm hết mọi việc với sức riêng, không cần phải vất vả và lo lắng đến thành qủa, nhưng, như người gieo giống, chúng ta có thể thoải mái vô tư chờ sự lớn lên của hạt giống. Tuy nhiên, nói như thế, không có nghĩa là chúng ta không làm gì cả, vì “đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết”? Không phải như thế! Vì công việc gieo vải, vun trồng và tưới nước là phải của con người, còn việc làm cho hạt mầm mọc lên và đâm hoa kết trái là công việc của Thiên Chúa. Vì yếu tố quan trọng căn bản không phải là đòi hỏi những kế hoạch hay chương trình sống to lớn, nhưng là sự bền bỉ và kiên nhẫn thực hiện từng bước nhỏ, là hoàn tất những hành động bé nhỏ tầm thường trong cuộc sống. Nước Thiên Chúa sẽ được bắt đầu khi ở đâu có người biết mỉm cười an ủi người khác, biết nâng đỡ người đang gặp khó khăn. Nước Thiên Chúa được bắt đầu khi ở đâu có những bàn tay giơ ra và nắm chặt với nhau để làm hoà, khi ở đâu con người biết xích lại gần nhau với tất cả tâm hồn đầy thiện chí, khi ở đâu mọi người biết ngồi lại để cùng nhau bàn bạc và cùng nhau tìm cách giải quyết các vấn đề còn vướng mắc trong tâm tình đầy cảm thông và hiểu biết.
Vậy ước gì mỗi người trong chúng ta hôm nay ý thức được rằng: chúng ta không cần làm những việc to tát vĩ đại, mà chỉ cần làm cho tốt những việc nhỏ bé hằng ngày của mình, không cần ồn ào phô trương hay quảng cáo cho niềm tin. Chỉ cần sống một cách âm thầm nhưng kiên trì những giá trị Tin Mừng mà mình đã nhập tâm. Rồi Thiên Chúa sẽ có cách làm cho những hạt giống bé nhỏ đời ta sẽ trổ sinh nhiều bông hạt. sinh ích cho tha nhân và cứu rỗi các linh hồn.
Nguyện xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín đó. Xin cho chúng ta biết gieo vào lòng đời những hạt giống yêu thương, phục vụ bằng chính con người và cuộc sống chúng ta. Amen.
29. Nguồn sống – Lm Giuse Trần Việt Hùng.
Tiên tri Ezêkiel xuất hiện thực hành sứ vụ khoảng giữa năm 592-571 trước Công Nguyên. Tiên tri mang lại cho dân một niềm hy vọng rằng Thiên Chúa sẽ không quên dân tộc mà Ngài đã chọn. Chúa không bỏ mặc dân trong lưu đầy khổ nạn. Chúa sẽ cứu họ và sẽ đưa họ trở về quê hương xứ sở. Hình ảnh cây hương nam được trồng nơi đỉnh núi Israel sẽ đâm chồi nẩy lộc là dấu chỉ sự phát triển thịnh vượng của dân tộc. Thiên Chúa đã làm cho cây khô trở nên xanh tươi. Cho dù Dân có phạm tội và ngoảnh mặt làm ngơ chạy theo bụt thần, Thiên Chúa luôn ngóng đợi và tạo mọi cơ hội cho dân trở về.
Giữa thời kỳ lưu đầy xa xứ, dân của Chúa đã phải đối diện với nhiều khó khăn nơi đất khách quê người. Họ bị tước mất quyền lợi và chịu đầu phục những kẻ ngoại bang thờ ngẫu tượng. Tấm lòng dần dà bị xa rời khỏi những luật lệ và giới răn. Họ đã chạy theo những cách sống của dân ngoại mà dần quên lãng những kỳ công Chúa đã thực hiện với cha ông họ. Dân còn bị lang thang phiêu bạt không đích hướng. Họ bị rơi vào sự chán chường thất vọng và không còn biết bám víu vào đâu. Tiên tri xuất hiện đã mang lại cho họ tin vui hy vọng. Họ có một Thiên Chúa để tôn thờ, một dân tộc được yêu thương chọn lựa và một quê hương để trở về xây dựng lại.
Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để giảng về Nước Thiên Chúa. Những hình ảnh áp dụng rất cụ thể và dễ hiểu. Nước Thiên Chúa giống như người ta gieo hạt xuống đất, từ từ hạt nẩy mầm, phát triển và sinh bông hạt. Thiên Chúa đã quan phòng cho tất cả các giống hạt, khi môi trường có đủ điều kiện thì hạt nẩy mầm cho dù người gieo hạt ngủ hay thức và có mặt hay không có mặt: Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết (Mc 4, 27).Trong khi hạt giống lời Chúa được gieo vào lòng người thì không phải tự nhiên sẽ mọc lên tươi tốt được, mà cần được ý thức chấp nhận, chăm dẵm và áp dụng vào đời sống.
Kinh nghiệm cho chúng ta thấy, khi chúng ta lấy nước tưới lên khoảnh đất chai lì và khô cứng, nước sẽ chảy thoáng qua và bốc hơi ráo khô nhanh chóng. Mưa to nước thoáng chảy tuôn trào mặt đất, chỉ có mưa dầm chầm chậm thấm đất nguồn. Đất cần cầy xới và để khô ải, nguồn nước sẽ thấm mềm đất. Hạt giống gieo mới có cơ hội đâm chồi nẩy lộc và bám rễ sâu. Lòng con người cũng cần được khơi dậy và xới lở để đón nhận hạt giống lời Chúa. Những lời giảng dậy, những phê bình góp ý, những bài suy niệm và những lời mời gọi sám hối, đôi khi nó xoáy vào tâm làm chúng ta cảm thấy khó chịu và chướng tai. Chúng ta cần những có những giây phút thinh lặng, tâm tư phản hồi, xét mình, gẫm suy và muốn đổi mới. Muốn nên hoàn thiện, chúng ta cần những quyết tâm để thực hiện điều tốt và tránh điều xấu.
Tâm địa con người tốt hay xấu giống như mảnh đất có cả cây tốt lẫn cỏ dại. Cây tốt là các nhân đức, việc lành và việc thiện. Cỏ dại là những thói hư tật xấu. Tật xấu thì nhiều vô kể. Cây tốt hay cỏ dại, việc lành hay việc xấu, nếu không được vun tưới sẽ khó bề phát triển. Những thói xấu như ích kỷ, tham lam, lừa đảo gian dối, trộm cắp, hận thù, ghen ghét… nếu không được vun xới và nuơng chiều thì những thói hư cũng không thể lớn mạnh. Chính chúng ta đã tạo nhiều cơ hội giúp những thói xấu tiêu cực phát triển trong tâm hồn. Như khi nói xấu, nói hành, nói gian cho người khác, chúng ta muốn nói cho hả giận và nói cho đã miệng, đó chính là lúc chúng ta đang thêm phân đạm và mở lòng cho cỏ dại được tự do phát triển trong tâm hồn của chúng ta.
Cỏ dại mọc lên rất tự nhiên và rất mạnh mẽ. Người nông dân thường nói: Cỏ dại là con đẻ, còn lúa là con nuôi. Khi mảnh ruộng được bón phân chăm sóc thì cỏ dại phát triển lấn át cả lúa. Cho nên nhà nông cần phải diệt cỏ dại trước. Cây tốt như các nhân đức phải chăm sóc cách đặc biệt, vì nó rất mỏng dòn và dễ đốn ngã. Nhân đức khó có thể bon chen đối đầu với những thói xấu vây quanh. Sống trong môi trường xã hội xô bồ không định hướng, thường thì chúng ta bị nhiễm những thói đời hơn là tìm học những nhân đức. Thực ra, ai cũng muốn nên tốt, nên đẹp, nên giầu có và thành công. Cách thế nên tốt lành đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và gắng công không ngừng. Chúng ta hết sức cẩn thận nuôi dưỡng và trau dồi các nhân đức trong cuộc sống hằng ngày.
Hạt giống lời Chúa gieo xuống mảnh đất tâm hồn cần được thấm nhuần, bén rễ và nẩy mầm sinh hạt. Không có lời nào trở thành vô ích hay cùi cụt. Lời Chúa là lời hằng sống có sinh lực biến đổi. Có sức biến đổi tâm hồn trở nên tốt hơn, bén nhậy hơn và thánh thiện hơn. Không phải ngày một ngày hai mà chúng ta có thể cải đổi hoàn toàn cuộc sống. Chúng ta cần có sự quyết tâm và nỗ lực không ngừng. Thử nhìn một cầu thủ chơi banh, họ phải qua những thời gian tập luyện cực khổ để có những thành tích. Những người chạy Marathon đã phải kiên trì tập luyện ngày này qua tháng khác mới đạt kết qủa tốt.
Muốn lấy được bằng cấp nơi học đường cũng phải miệt mài đèn sách. Muốn có được bằng cử nhân, cao học hay tiến sĩ, cũng phải cố gắng trong suốt 15 tới 20 năm trường. Muốn trở thành một giáo sư, mục sư, nhà giảng thuyết, linh mục hay nhà hùng biện cũng phải học hỏi cả 20 năm nơi ghế nhà trường. Để trở thành một Kitô hữu ngoan đạo và hiểu biết cần có thời gian khả dĩ dài đủ. Muốn trở thành một vĩ nhân hay một vị thánh, chúng ta còn phải đầu tư cả cuộc đời để sinh hoa trái cho đồng loại. Cuộc sống không đơn giản và dễ dàng như chúng ta ngồi suy nghĩ và tưởng tượng. Phải dấn thân và hòa nhập trong cuộc sống. Không ai nên thánh một mình.
Thánh Phaolô tông đồ viết thơ gởi cho tín hữu Corintô: Vì tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng, trước toà Đức Kitô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác (2 Cor 5, 10). Ngày phán xét sau cùng, mỗi người đều phải đứng trên đôi chân của mình, không còn thể dựa dẫm vào thành tích của ai cả. Phần thưởng sẽ dành cho những việc tốt mà chúng ta đã thực hành trong cuộc sống. Thành qủa hoa trái của các nhân đức sẽ trổ bông. Thiên Chúa nhân từ đầy lòng thương xót, nhưng Ngài cũng công bằng vô cùng. Ngài không xét đoán thiên tư tây vị ai cả. Mỗi người chúng ta cố gắng chu toàn bổn phận trong ơn gọi của mình để làm cho danh Chúa được cả sáng.
Chúng ta biết rằng khi thời gian đã qua đi, sẽ không bao giờ trở lại. Những lời đã nói, chẳng bao giờ rút lại được cũng giống như chén nước đã đổ, chúng ta sẽ không hốt lại nguyên vẹn. Nếu để vuột mất cơ hội trong cuộc sống, dịp may sẽ trôi qua và không tìm lại được. Chúng ta hãy dùng mọi thời gian Chúa ban để sống tốt, sống vui và sống thánh. Sống từng giây phút trong ân tình của Chúa và từ bi với mọi người. Chúng ta sẽ vui hưởng những hoa trái dịu ngọt của cuộc sống. Chúng ta sẽ hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau.
Lạy Chúa, xin Chúa đốt lửa kính mến trong lòng chúng con để đón nhận lời Chúa. Xin cho hạt giống lời Chúa sinh xôi nẩy nở và phát sinh nhiều hoa trái tốt lành, yêu thương và thánh thiện. Để mọi người nhận ra chúng con là môn đệ của Chúa.
30. Hạt giống Lời Chúa - Lm Giuse Trần Việt Hùng
Hạt giống được gieo xuống đất từ từ phát triển mỗi ngày. Đất tự nó làm trổ sinh hoa trái. Cho dù con người không cần vun xới hay chăm sóc. Chúa Giêsu nói với dân chúng về Nước Thiên Chúa cũng giống như người kia gieo hạt giống xuống đất, dù người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ nẩy mầm và mọc lên.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để diễn tả về nước trời. Hạt giống lời Chúa cứ tiếp tục được gieo vãi trong lòng người từ thời này qua thời kia. Hạt giống âm thầm nẩy nở và phát triển. Chúng ta quan sát sự phát triển của Giáo Hội qua các thời đại. Từ một nhóm nhỏ các tông đồ mà Chúa Giêsu đã kêu gọi và trao ban sứ mệnh. Hạt giống đầu tiên đã gieo vào lòng các ngài và hạt giống được nhân lên qua các thế hệ.
Đã có biết bao nhiêu người được lắng nghe lời Chúa qua sách vở, truyền thanh, truyền hình, điện thư, sự giảng dạy và đời sống chứng nhân. Đây là một sự cố gắng liên tục của Giáo Hội qua mọi thời đại. Lời Chúa được lắng nghe, suy niệm và sinh hoa trái trong đời sống. Hạt giống ngoài đồng nội cần có đủ môi trường sinh sống là hạt giống phát triển nhưng hạt giống lời Chúa cần được gieo vãi và chăm sóc.
Lạy Chúa, lời Chúa là hạt giống sống động. Lời Chúa có nguồn sinh lực nội tại phát triển không ngừng. Xin Chúa cho lời Chúa thấm nhập tâm hồn của chúng con để sinh hoa quả.
31. Chú giải của Noel Quesson.
Đức Giêsu nói: "Chuyện nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện người gieo giống trong đồng ruộng".
Đức Giêsu dùng một so sánh rất tự nhiên mà các thính giả của Người đều biết rõ. "Gieo hạt giống” đó là một cử chỉ rất quen thuộc, đến nỗi ta có nguy cơ không còn nhận ra mầu nhiệm của nó nữa. Đây là việc làm rất mạo hiểm. Hạt giống này sẽ ra thế nào?
Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Đất tự nó sinh ra hoa màu: Trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt.
Người ta đã gọi dụ ngôn này là "hạt giống tự mọc lên". Quả nhiên, mọi sự diễn tiến như thế. "Không ai" chăm sóc hạt giống khi rớt xuống đất, như thể người nông dân đã không quan tâm đến hạt lúa mà anh đã gieo. Đây là một dụ ngôn lạc quan nhất mà chúng ta có được. Máccô là thánh sử duy nhất đã kể lại dụ ngôn này. Chúng ta hãy để cho trí tưởng tượng hoạt động quay lại cuộn phim về sự tăng trưởng này, mà ta không nhận thấy và không hiểu được ngày nay cũng như vào thời Đức Giêsu.
Những nhà bác học của chúng ta đã tiến bộ rất nhiều trong việc mô tả và phân tách những biến động bên ngoài, nhưng chưa vị nào biết được sự sống là cái gì. Ngay khi một hạt giống rơi xuống đất, thì trong vòng bí mật, bắt đầu một sự chuyển hóa vật chất thật tuyệt vời, một loạt những sự kỳ diệu mà ta không thấy được. Dù con người có lo lắng về việc đó hay không, thì trong phần cốt yếu của nó sự sống không tùy thuộc con người. Việc trồng trọt giúp thiên nhiên, nhưng không bao giờ thay thế thiên nhiên được. Hạt giống, rồi cọng cây xanh non, bông hoa nhỏ xíu, hạt lúa, và sau cùng là vô số những hạt khác.
Lạy Chúa, Chúa muốn nói gì với chúng con qua dụ ngôn hy vọng này? Chúa gởi đến chúng con lời mời gọi nào qua những câu đó? Không ai có thể thay thế chúng ta để trả lời những câu hỏi này. Tình trạng của tôi" như thế nào, vào lúc này, hôm nay, mà Chúa đang nói với tôi? Tình trạng của Giáo Hội, của thế giới hiện nay ra sao, để chúng ta có thể áp dụng bài học hy vọng này?
Lúa vừa chín, người ta đem liềm hái ra gặt vì đã đến mùa.
Bỗng nhiên tình thế biến đổi. Bản văn Hy Lạp của Mác-cô gồm hai từ nhấn mạnh về sự đối chọi này "nhưng" và “ngay sau đó". Sau một thời gian dài không hoạt động của nơi nông dân, bây giờ là lúc gặt hái sôi nổi. Chúng ta chớ quên phần đầu của dụ ngôn này. Đó là nói về "Nước Thiên Chúa". Thái độ của người nông dân giúp chúng ta hiểu thái độ của Thiên Chúa. Một lần nữa, Tin Mừng không phải là một bài học luân lý và chúng ta không nên vội áp dụng thực tế vào cuộc sống.
Trước hết Tin Mừng là mạc khải" về Thiên Chúa, và chỉ bằng cách liên quan với chân lý đức tin được khám phá rõ hơn, mà chúng ta mới có thể có một thái độ cụ thể một cách gián tiếp. Như vậy sự mạc khải về Chúa qua dụ ngôn này là thế nào? Đức Giêsu soi sáng cho tình hình vào thời của Người, mà Thánh Gioan Tẩy giả đã nói rõ lên sự thất vọng của ông. "Người có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải đợi một Đấng khác?" (Mt 11,3). Nhưng đó cũng là một câu hỏi ngày nay, như của mọi thời đại: Tại sao người ta không thấy Nước Thiên Chúa rõ hơn? Tại sao Người lại cho ta có cảm tưởng là Người không lo lắng gì đến những việc xảy ra trên thế giới? Đức Giêsu trả lời. Thiên Chúa không làm gì khác hơn là người nông dân. Các người hãy chờ đến "mùa gặt”. Trong khi chờ đợi, nếu ta nghĩ là không có gì xảy ra, thì chúng ta đã bị ảo giác. Các bạn thấy nhưng các bạn khống thấy được tất cả. Chúng ta cũng biết, những gì chúng ta không thấy không phải là không hiện hữu, ngược lại thì có. "Điều cốt yếu thì không thể thấy được", con chồn đã nói như vậy với vị hoàng tử nhỏ bé" trong chuyện của văn sĩ St Exupéry. Một hạt lúa mì chứa đựng hàng tỷ tỷ hạt nhân, gồm một lõi và những phân tử chỉ to bằng một phần tỷ của một phần tỷ một milimét xoay quanh lõi đó với tốc độ 297.000 cây số/một giây? Bạn không thấy hết được điều đó, nhưng đấy là sự thật của hạt lúa mì.
Tất cả những gì "thần thiêng" ở trong thế giới đều nằm trong đó: Sức mạnh tiềm tàng, khó nhận biết và tích cực... chỉ có những tâm hồn đơn sơ mới tìm thấy được, đó là những người chấp nhận "tin" những gì Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta về Thiên Chúa.
Vậy đối với những người tin "hậu quả thực tế" là gì? Xin bạn hãy tự rút ra kết luận. Chúa tác động trong sự bí mật. Đó là một Thiên Chúa ẩn dật.
Bạn hãy để cho hạt giống chín mùi. Bạn chớ bao giờ nản lòng. Hãy khởi công. Hãy gieo hạt. Vũ trụ không đang đi đến cõi chết, nhưng đang tiến tới "niềm vui của mùa gặt". Hời nông dân bạn hãy giơ liềm lên!
Rồi Đức Giêsu lại nói: "Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? lấy dụ ngôn nào mà hình dung được?"
Đó là hai câu hỏi. Đơn thuần là một cách hành văn để nhắc nhở đề tài? Hay là những câu hỏi của Đức Giêsu để nhấn mạnh về sự khó khăn khi nói về Nước Thiên Chúa? Dù sao chúng ta cũng nên tìm hiểu Nước Thiên Chúa có thể như thế nào? Nước này sẽ đi đến đâu? Hình thức của nó ra sao? Nó giống cái gì?
Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống để tự nó là loại hạt nhỏ nhất trên thế gian. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ.
Lại một hình ảnh nữa. Đức Giêsu là một "Thầy dạy khôn ngoan" một nhà sư phạm giỏi, một người kể chuyện biết tìm những câu châm ngôn kích thích tính hiếu kỳ. “Hạt cải" đã được nổi tiếng trong những câu tục ngữ vì sự nhỏ bé của nó. Đức Giêsu đã ám chỉ hạt cải này một lần khác khi Người nói: "Nếu anh em có đức tin lớn hơn một hạt cải..." (Lc 17,6). Dụ ngôn này nhấn mạnh về sự bất trung xứng giữa lúc đầu "nhỏ xíu” và khi hoàn thành rất lớn. Trong sự so sánh. này cũng như trong so sánh trước đó. Đức Giêsu đã trả lời cho thái độ bất bình của những người đồng thời cũng là cớ gây chống đối Người. Sự can thiệp của Đấng Mêsia đã được mọi người mong đợi như một biến cố hiển thắng và mau lẹ, thế nhưng "buổi chiều tối quan trọng của Thiên Chúa đã không đến. Đứng trước những đảo lộn hiển nhiên của những niềm hy vọng người Do Thái, tác vụ của Đức Giêsu xem ra thật là vô vị, nhưng Máccô trả lời cho thái độ bất bình của thời ông, vào lúc ông viết Tin Mừng, có một sự kiện không chối cãi được, đã làm mọi người suy nghĩ xôn xao: Làm sao dân Chúa chọn, dân ít-ra-en phần lớn lại không đón nhận Tin Mừng của Đức Giêsu? Có phải là sự thất bại của chương trình Thiên Chúa không? Trang Tin Mừng của Máccô trên đây phù hợp cách diệu kỳ với câu hỏi đáng sợ nhất của thời đại chúng ta: Nếu Thiên Chúa hiện hữu thì mọi việc sẽ sáng tỏ hơn... Vậy tại sao có rất nhiều người ngay thẳng và lương thiện mà lại không tin, hay cứ theo thuyết vô tri. Thiên Chúa có hiện hữu thực sự không? phải chăng đó chỉ là bóng ma, là chủ quan? Hay là ảo giác của một số người cuồng tưởng? Thiên tài, thánh thiện, toàn hảo như thế mà đã không làm cho người đồng thời trở lại được, ngay cả chính thân nhân của Người. (Như bài Tin Mừng Chúa nhật trước đã cho ta thấy). Tuy nhiên với một sự bạo dạn như điên rồ, Người đã tin rằng Người đã không mất thời giờ để gieo "hạt giống nhỏ bé" của Người, và lịch sử chứng minh Người đã có lý kể từ bây giờ, bất cứ ai đã gieo một "mầm" trong một linh hồn người nào để dấn thân phục vụ một công trình giúp đỡ anh em mình, bất cứ ai đã cố gieo Tin Mừng, có thể dựa trên lời nói của Đức Giêsu trên đây, để vượt qua mọi thất vọng và thất bại nhất thời. Cha mẹ, ông bà nào đã nghĩ mình đã thất bại trong giáo dục con cháu, quý vị hãy cầm lên một hạt cải nhỏ: Dù kết quả bề ngoài xem ra nhỏ bé, quý vị vẫn là những người được "mời gọi để hy vọng". Cuộc phiêu lưu nhỏ bé của Đức Giêsu đã được chứng thực: Cuộc phiêu lưu đó bây giờ đã "lớn lao". Cuối cùng rồi các bạn sẽ thấy!
Cành lá xum xuê đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng.
Hạt nhỏ nhất trong các hạt đã trở nên một cây nhỏ đẹp. Cây là chỗ cho "chim trời tới trú ẩn" đã là một hình ảnh cổ điển trong Thánh kinh (Đn 4,9; Ed 31,6-17,22-23; Tp 9,15). Đttc Giêsu đã hoàn toàn được xác định vị trí trong môi trường văn hóa của Người. Và nói theo lúc đó Người dám tiên đoán sự thành công cuối cùng này, chỉ là một con người u tối xứ Galilê, vùng Na-za-rét có 12 người nghèo khổ, không văn hóa, không thế lực đi theo. Lạy Đức Giêsu, con đọc lại lời hứa của Người và con áp dụng lời đó cho mọi cơn thất vọng của con. Xin Người cho chúng con niềm hy vọng và lòng tin tưởng.
Đức Giêsu dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng Lời Thiên Chúa cho dân chúng nghe tùy theo sức họ hiểu. Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.
Vậy Đức Giêsu đã lưu ý đến trình độ đức tin của người nghe. Đó là mầu nhiệm của tự do. Đối với những người có thiện cảm với Người. Với các bạn hữu của Người, Đức Giêsu đã giải thích bổ túc cách riêng. Đức tin là một "sự sống" một tương giao sống động". Mỗi lời cầu nguyện chuẩn bị cho lời cầu kế tiếp. Mỗi suy niệm chuẩn bị cho suy niệm tiếp theo. Mỗi bước chân đi tới Chúa sửa soạn cho bước kế tiếp. Điều còn là tối tăm khó hiểu đối với nhiều người, lại là một thực tế dần dần trở nên hiển nhiên đối với những người khác. Nếu bạn muốn biết -Thiên Chúa nhiều hơn, bạn hãy bắt đầu bước đi đầu tiên tới Chúa đi. Bạn hỡi, chỉ một bước thôi. Bạn sẽ phải thể hiện một bước đi như thế nào, để cho sự sống tiếp tục nảy nở?
32. Hai dụ ngôn về Nước Thiên Chúa
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
Qua các dụ ngôn trong bài Tin Mừng này, chúng ta hiểu rằng ngay bây giờ trong hiện tại, ta đã có thể cảm nghiệm sức mạnh cứu độ của Triều Đại Thiên Chúa.
1.- Ngữ cảnh
TM Máccô liên tục nhắc lại rằng Đức Giêsu giảng dạy, nhưng không bao giờ ghi lại nội dung cả (x. 1,21; 2,13; 6,2.6.34; 10,1). Ngoại trừ bài Diễn từ cánh chung (ch. 13), các giáo huấn được triển khai nhất của Đức Giêsu nằm trong Mc 4, có thể được gọi là "Chương các dụ ngôn (ba dụ ngôn)" (4,1-34). Chương này gồm có hai phân đoạn lớn và ba phân đoạn nhỏ:
* Mở (cc. 1-2);
1) Dụ ngôn Người gieo giống (cc. 3-9);
a- Mục đích của các dụ ngôn (cc. [10]11-12);
* Giải thích dụ ngôn Người gieo giống (cc. 13-20);
b- Hình ảnh Cái đèn và cái đấu: trách nhiệm (cc. 21-25);
2) Dụ ngôn Hạt giống tự mọc lên (cc. 26-29) và Hạt cải (cc. 30-32);
c- Kết luận về các dụ ngôn (cc. 33-34).
Đây là cách hành văn quen thuộc của Mc: ghép các phần của các bài tường thuật vào nhau để soi sáng các bài lẫn nhau.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Dụ ngôn Hạt giống tự mọc lên (4,26-29);
2) Dụ ngôn Hạt cải (4,30-32);
3) Kết luận về các dụ ngôn (4,33-34).
3.- Vài điểm chú giải
- Chuyện Nước Thiên Chúa cũng tựa như chuyện một người (26): dịch sát "Nước Thiên Chúa tựa như một người". Trong lối diễn tả của các kinh sư, dụ ngôn không ví Nước Thiên Chúa với một người; dụ ngôn chỉ muốn minh hoạ một sự thật liên quan đến Nước Thiên Chúa nhờ một câu truyện trong đó người ấy có một vai trò. Trong những ví dụ thuộc loại này, thường thường chính phần cuối mới cung cấp một hình ảnh trực tiếp hoặc gián tiếp gợi đến Nước Thiên Chúa. Trong bài dụ ngôn Mc, sự việc Nước Thiên Chúa đến thì tựa như những gì xảy ra vào lúc thu hoạch (c. 29).
- một người: Không nhất thiết phải đồng hoá người gieo giống với Đức Giêsu, bởi vì từ ngữ này được dùng rất tổng quát (không như bản văn Mt).
- Đêm hay ngày: Đêm đi trước ngày bởi vì ngày được coi như bắt đầu với lúc mặt trời lặn.
- Bằng cách nào thì người ấy không biết: Tiến trình theo đó hạt giống mọc lên có một quy luật bên trong nó; người gieo giống không phân tích tiến trình này, mà ông có băn khoăn về tiến trình này cũng không lợi ích gì.
- Đất tự động (HL. automatê) (28): Từ này mô tả một sự tăng trưởng tiệm tiến của hạt giống trước mùa gặt. Trong ngữ cảnh là sự so sánh với Nước Thiên Chúa, tác giả nhấn mạnh trên hoạt động ẩn giấu và tiệm tiến của Nước Thiên Chúa hầu đưa hạt giống đến chỗ tăng trưởng hoàn toàn.
- Lúa vừa chín (29): Trong giai đoạn tăng trưởng, người nông phu không phải làm gì trên cánh đồng cả; mọi sự tiến hành không cần ông. Nhưng hoàn cảnh thay đổi đột ngột với c. 29 (x. liên từ dé [= "nhưng"; "khi"] và trạng từ Hy Lạp euthys [= "tức khắc"]). Sau một thời gian không làm gì cả (những câu trước), người nông phu can thiệp không chút chậm trễ vào lúc thu hoạch. Bây giờ bản văn hoàn toàn chú ý đến người nông phu, đến sự thay đổi thình lình trong lối xử sự của ông.
- đem liềm hái ra gặt: Đây là câu trích mặc nhiên Giôen 4,13: "Các ngươi hãy tra liềm vào, vì đã tới mùa lúa chín". Vị ngôn sứ loan báo cuộc phán xét mà Thiên Chúa sắp thực hiện trong cánh đồng Giôsaphát để chống các dân tộc ngoại giáo (Ge 4,12-16). Sách Khải huyền cũng ám chỉ đến biến cố này (Kh 14,14-16).
- hạt cải (31): Tục ngữ xứ Paléttina coi đây là hạt giống nhỏ nhất. Để nói một vết máu thật nhỏ, các kinh sư nói: "Không lớn hơn một hạt cải". Điểm nhắm là một hạt giống nhỏ nhất và một cây thật to. Cách sử dụng thì (tense) hỗ trợ cho sự tương phản này: tác giả nói đến việc gieo hạt ở thì quá khứ aorist ("một khi người đã được gieo", cc. 31 và 32) và nói đến sự tăng trưởng ở thì hiện tại.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Dụ ngôn Hạt giống tự mọc lên (26-29)
Sẽ đến ngày Thiên Chúa can thiệp dứt khoát vào lịch sử nhân loại. Trước đó, có một thời gian Thiên Chúa để cho mọi sự cứ đi theo dòng của chúng, khiến ta có thể nghĩ rằng Ngài không quan tâm gì đến thế giới (x. sự ngạc nhiên của Gioan Tẩy Giả: Mt 11,2-6). Đức Giêsu loan báo rằng Nước Thiên Chúa đã gần kề. Thế mà mọi người đều biết rằng sự thiết lập Nước Thiên Chúa được khởi đầu bằng việc phán xét để tiễu trừ khỏi dân Israel tất cả những kẻ tội lỗi, không xứng đáng được tham dự vào ân huệ của Nước Thiên Chúa. Vậy, nếu Thiên Chúa đã thực sự quyết định thiết lập Vương quyền của Ngài trên mặt đất, tại sao ta chưa thấy một dấu gì cho biết là cuộc phán xét khủng khiếp ấy đã đến?
Để trả lời, Đức Giêsu dùng một dụ ngôn để ví: Hạt giống là Lời. Hạt giống mang trong mình một sức mạnh vô phương kháng cự. Một khi đã được gieo, hạt giống-Lời đi sâu vào trong các tâm trí và con tim và biến đổi những ai nghe Lời. Hoa trái không lệ thuộc người gieo giống, người rao giảng, nhưng lệ thuộc vào sức mạnh mà hạt giống có trong mình. Không ai có thể kéo một cây con để làm cho nó mọc nhanh hơn được! Dụ ngôn dạy chúng ta đặt tin tưởng nơi lời Tin Mừng. Làm cho hạt giống-Lời lớn lên: đây không phải là công việc của chúng ta. Chúng ta chỉ có một việc phải làm đó là gieo Lời trên mảnh đất được giao cho chúng ta. Rồi sẽ đến lúc thu hoạch. Đức Giêsu cho các thính giả hiểu rằng thời gian Người hoạt động ở trần gian chính là giai đoạn cuối cùng của Lịch sử cứu độ, đi sát ngay trước cuộc can thiệp chung cuôc của Thiên Chúa. Ai có bổn phận cộng tác với Người để gieo hạt giống-Lời, hãy kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng tất cả mọi người đều đón nhận Lời, hãy làm sao để hạt giống có thể thật sự mọc lên và sinh hoa trái.
* Dụ ngôn Hạt cải (30-32)
Một cây cho chim trời trú ngụ rất thường được dùng để nói về một vị vua biết dùng quyền lực mà che chở thuộc hạ (x. Đn 4,9.18; Ed 31,5...). Nhưng một đoạn như Ed 17,22-23 thì lại nhấn mạnh trên sự phồn vinh xảy ra với Nước Thiên Chúa vào thời tận thế. Đây cũng là ý nhắm của dụ ngôn Tin Mừng: hình ảnh một cây che chở chim trời báo trước tình trạng sự việc vào lúc Thiên Chúa thiết lập Vương quyền của Ngài trên mặt đất.
Vào lúc tiến trình đưa tới việc thiết lập Nước Thiên Chúa bắt đầu diễn tiến (sứ vụ của Đức Giêsu), người ta nghĩ đây là một biến cố không đáng kể. Nhưng cũng như hạt cải nhỏ bé hứa hẹn một cây lớn, sứ mạng của Đức Giêsu đúng là chặng đầu tiên của sự can thiệp của Thiên Chúa nhằm thiết lập Triều Đại của Người. Vậy nhận biết ý nghĩa đích thực của sứ mạng của Đức Giêsu, chính là hiểu rằng thái độ phải có trước sứ mạng này là chấp nhận hoặc từ khước quyền chủ tể cánh chung của Thiên Chúa. Chính thái độ này sẽ xác định vận mệnh của mỗi người trong thế giới bên kia.
* Kết luận về các dụ ngôn (33-34)
Cả hai dụ ngôn đều nhấn mạnh tầm quan trọng quyết định của thời gian hiện tại đối với các thính giả của Đức Giêsu. Hai dụ ngôn này mời gọi nhận biết sứ mạng của Đức Giêsu chính là khởi đầu cuộc can thiệp cánh chung của Thiên Chúa. Áp dụng giáo huấn vào trong đời sống Giáo Hội, thời gian hiện tại không còn phải là thời gian của sứ vụ của Đức Giêsu, nhưng là thời gian của nếp sống và hoạt động rao giảng của Giáo Hội.
+ Kết luận
Thoạt nhìn, chúng ta thấy kết luận của diễn từ các dụ ngôn không có vấn đề. Đức Giêsu loan báo Lời Thiên Chúa cho người ta ("đám đông"; x. 4,1-2). Người diễn tả bằng các dụ ngôn theo mức độ hiểu biết của họ. Dường như đối với Đức Giêsu, các dụ ngôn là một phương tiện để giúp các thính giả hiểu Người dễ dàng hơn. Ngoài ra, Người còn cung cấp các giải thích bổ sung cho nhóm môn đệ (c. 10). Mọi sự không rõ ràng rồi hay sao?
Vấn đề chỉ xuất hiện rõ ràng khi ta lưu ý rằng tác giả Mc đã muốn kết thúc với đề tài ngài đã đưa vào ở trên (cc. 10-12). Đối với công chúng, "những kẻ ở ngoài" (c. 11), Đức Giêsu "không bao giờ rao giảng mà không dùng dụ ngôn" (c. 34); "với những người kia..., cái gì cũng phải dùng dụ ngôn" (c. 11). "Nhưng khi chỉ có riêng thầy trò với nhau" (HL. kat' idian, c. 34), "khi còn một mình" (HL. kata monas, c. 10), Đức Giêsu "giải đáp" tất cả cho các môn đệ (c. 34), nghĩa là "những kẻ đang ngồi quanh Người cùng với Nhóm Mười Hai" (c. 10), là những kẻ mà "mầu nhiệm nước Thiên Chúa đã được ban cho" (c. 11).
Vậy, các dụ ngôn là một thứ ẩn ngữ, mà chỉ các môn đệ mới có chìa khóa để hiểu được, còn đám đông, mà Đức Giêsu không muốn nói với họ bằng một ngôn ngữ rõ ràng, thì vẫn không thể nắm bắt được ý nghĩa đích thực của giáo huấn của Người: "Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa" không được ban cho "những kẻ ở ngoài"; chính vì thế mà Đức Giêsu "không nói gì mà không dùng dụ ngôn".
Đây chính là "thuyết các dụ ngôn" trong TM Mc (J. Dupont), mà thật ra, đây cũng chỉ là một phương diện đặc biệt của "thuyết về bí mật thiên sai" của tác giả. Vào lúc tác giả soạn TM I, có một sự kiện không thể phủ nhận, nhưng thật gai chướng: dân tộc Do Thái nói chung đã không đón nhận Tin Mừng. Phải chăng kế hoạch của Thiên Chúa đã thất bại? Hay là phải nhìn nhận rằng sứ mạng của Đức Giêsu không đến từ Thiên Chúa? Tác giả Mc tìm ra được câu trả lời thần học trong bản văn Is 6,9-10 (x. Mc 4,12). Trong sứ mạng của Đức Giêsu, đã được ứng nghiệm lệnh truyền của Thiên Chúa qua miệng của vị ngôn sứ, là phải nói với dân cách nào để "họ có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không hiểu...".
Vậy, vị sứ giả của Thiên Chúa phải diễn tả cách nào để người ta không hiểu được: đó đã là quyết định của Thiên Chúa mà! Người đã muốn làm cho sứ mạng của vị sứ giả trở thành một phán quyết chống lại một dân mù quáng và cứng lòng. Nhưng làm thế nào nhận ra sấm ngôn ấy là chương trình hoạt động của Đức Giêsu? Tác giả Mc tìm ra được đáp số nơi việc Đức Giêsu sử dụng các dụ ngôn: Người nói bằng dụ ngôn cho đám đông hoặc cho các đối thủ, vì Người không buộc phải làm cho họ hiểu Người. Dưới mắt Mc, dụ ngôn là như một phương tiện không phải để làm cho một giáo huấn nên dễ hiểu hơn, nhưng để che đậy ý nghĩa của giáo huấn này dưới những hình ảnh. Để người ta hiểu, thì cần có một lời giải thích; nhưng lời giải thích chỉ được ban cho các môn đệ mà thôi. Tuy nhiên, tác giả đã nhận ra ngay nguy cơ là thuyết này có thể đưa tới chủ trương bí truyền (esoterism); vì thế, ở 4,21-25, ngài mới xác định rằng các môn đệ đã nhận được mạc khải là để đi phổ biến rộng rãi, để đi hô to trên mái nhà.
Chúng ta có thể nhận định rằng thuyết của Mc về các dụ ngôn là một thuyết khá giả tạo. Nhưng để đánh giá đúng đắn, cần đo lường được mức độ nghiêm trọng của vấn đề đang được hoàn cảnh cụ thể đặt ra cho tác giả và cho Hội Thánh thời ngài: đoàn dân đông đảo được Thiên Chúa tuyển chọn đã không tin vào Đức Giêsu và đã không chấp nhận sứ điệp của Người. Bản văn Is 6,9-10 cho thấy là Thiên Chúa đã thấy trước (quan phòng) tình trạng sự việc như thế.
Rõ ràng công việc soạn thảo TM Mc mang dấu ấn của các hoàn cảnh và các vấn đề thời tác giả. Ngài đã nghĩ tới việc rao giảng khi kể lại dụ ngôn trong đó Lời Chúa được hình dung như một hạt giống. Ngài cũng đang cố gắng tìm một giải thích thần học cho thất bại của sứ vụ này, bằng thuyết về giáo huấn bằng dụ ngôn. Chứng nhân của Lời Chúa không phải là người chỉ biết bằng lòng với việc lập lại máy móc Lời Chúa, nhưng là người biết tìm nơi Lời Chúa câu trả lời cho những nhu cầu của những con người thời mình.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Cả ba dụ ngôn (Người gieo giống, Hạt giống tự mọc lên, và Hạt cải) có điểm chung là không truyền đạt những giáo huấn đặc biệt, nhưng chỉ bàn về việc lấy lập trường trước lối hành động của Đức Giêsu. Dường như thực tại thấy được (sự từ chối, sự vắng mặt của Thiên Chúa, những khởi đầu không sáng sủa mấy) thì mâu thuẫn với sứ điệp và uy thế Mêsia của Người. Do đó, ba dụ ngôn đều mời gọi sống đức tin.
2. Qua các dụ ngôn, chúng ta hiểu rằng Triều Đại Thiên Chúa không những đến chắc chắn, mà bây giờ trong hiện tại, ta đã có thể cảm nghiệm sức mạnh cứu độ của Triều Đại này. Tuy nhiên, chỉ người nào biết nhìn các sự việc với con mắt đức tin mới nhận ra được sức mạnh này.
3. Như tác giả Mc, thừa tác viên Lời Chúa cần phải tìm cho ra sứ điệp được gửi đến cho dân Thiên Chúa hôm nay từ bản văn Kinh Thánh. Đó chính là sống và thi hành chức năng ngôn sứ, bởi vì ngôn sứ chính là người thay mặt Thiên Chúa mà truyền đạt cho dân Ngài biết thánh ý Ngài đối với dân trong hoàn cảnh hiện tại.
4. Khi thấy rằng tình yêu, sự kính trọng đối với các quyền của con người và sự tự do, sự tha thứ, không đưa tới những kết quả mong muốn, có những Kitô hữu đã bị cám dỗ thúc bách Triều Đại Thiên Chúa đến cho nhanh bằng cách sử dụng những phương tiện Đức Giêsu đã cấm, như vũ lực, mưu mô, gian dối... Đức Giêsu dạy chúng ta tin tưởng vào sức mạnh của Lời Tin Mừng.
33. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
Dụ ngôn hạt giống tự triển nở một mình (4, 26-29)
Trình thuật này đơn sơ và rõ ràng: Đây là cách hành văn riêng của Maccô. Maccô khởi đầu bằng câu: “Chúa Giêsu nói” mà chẳng cần lưu tâm đến việc Ngài nói cho ai. Người ta có thể giả thuyết lần này không phải Chúa Giêsu nói cho nhóm thân hữu của Ngài như lần vừa rồi mà là nói với toàn đám đông đi theo Ngài. Đoạn cuối chương nói về các dụ ngôn sẽ cho thấy được điều suy đoán này (4, 33).
Trước hết, rõ ràng là hình ảnh dụ ngôn này là liên quan đến Nước Thiên Chúa (c. 26a). nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như một tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt này sinh thành cây rồi thành bông lúa (c. 26b-28). Vậy thì thính giả phải chú ý đến điều gì ở đây? Rõ ràng là phải lưu ý đến quyền năng mầu nhiệm không gì chống lại được của Thiên Chúa. Quyền năng này có thể làm phát sinh và tăng trưởng Vương Quốc Ngài mà chẳng cần loài người tham gia đóng góp gì vào đó cả.
Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để giúp cử tọa Ngài nhờ đó thoát ra được các tình cảnh khó khăn. Chắc chắn Maccô rất sung sướng khi đặt ra trước mắt các độc giả của ông sự đảm bảo là tổ chức sẽ dẫn đưa Vương Quốc Ngài đến chung cục tốt đẹp qua hành vi phù trợ liên tục, tuy âm thầm, nhưng hiệu quả. Giáo Hội Rôma được Maccô soạn thảo cho cuốn Tin Mừng này, lúc bấy giờ đang sống trong những ngày thử thách, hình như Thiên Chúa vắng mặt ở chốn trần gian này. Vì thế, thật an ủi biết bao khi biết Ngài vẫn đang hoạt động! Dụ ngôn hạt giống mọc lên một mình được hoàn tất ở câu kêu gọi mùa gặt (c. 29). Dù loài người có hành động xấu tốt thế nào đi nữa, Thiên Chúa vẫn trung thành theo đuổi ý định của Ngài đến cùng, đó là sẽ thu hoạch hạt gieo. Thật hy vọng lớn biết bao cho những ai được trông thấy mùa gặt chín!
Dụ ngôn hạt cải (4,30-32)
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục dùng ngôn ngữ tượng hình để giảng dạy (c. 30). Đây là dụ ngôn cuối cùng trong năm dụ ngôn về Nước Thiên Chúa. Giống như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn. Hạt cải bé xíu trở thành một cây lớn oai phong (c. 31-32a). Làm sao có thể đo được khoảng cách hạt cải bé xíu và cái cây to lớn mà nó phát sinh ra? Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịc lý tương tự như thế đó. Chớ vội thấy bước khởi đầu bé xíu mà lầm! Rồi nó sẽ gặt hái được thành công dị tiết khác thường đập mạnh vào trí tưởng tượng. Ở đây cái khác thường đó là sự to lớn bất ngờ của cây cải (c. 32b). hình ảnh thân cây hùng vĩ, có thể làm nơi trú ngụ Ngài cho vô số chim trời, là hình ảnh thuộc về Kinh Thánh. Người ta găp thấy hình ảnh này nơi tiên tri Daniel (4,7-9), ở đây Nước Thiên Chúa đã được đảm bảo sẽ gặt hái thành công mang chiều kích vũ hoàn.
Trong ánh mắt của Maccô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời nhất về bí mật Đấng Mêsia. Cho đến giờ này, hành vi của Chúa Giêsu có thể bị xét đoán là vô nghĩa và Vươn Quốc Thiên Chúa vận chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dầu vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của Vương Quốc ấy, như các Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Dù yếu đuối, Giáo Hội sơ khai vẫn ý thức được mình đang tham dự vào thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt đến toàn vũ truyện vào cuối giai đọan phát triển của nó.
Kết luận về bài diễn từ bằng dụ ngôn (4,33-34)
Năm dụ ngôn Maccô sưu tập vừa rồi không phải là năm dụ ngôn duy nhất Chúa Giêsu dùng (c. 33a). chắc chắn Ngài đã kể ra rất nhiều câu chuyện bằng hình ảnh thuộc loại này. Maccô nhắc rõ là lối giảng dạy này hoàn toàn thích hợp với đám cử tọa bình dân. Hẳn là đám đông có khả năng nắm bắt được điều cốt lõi. Tuy nhiên Maccô nhấn mạnh là Chúa Giêsu chỉ loan báo Tin Mừng cho họ bằng hình thức dụ ngôn trong mức độ họ có thể hiểu được (c. 33b). Như thế Maccô lại trở về với điều mà ông cố gắng giải thích, liên quan đến thời đại ông (ở chương 4,11-12) đó là một số đông người Do Thái không đón nhận Tin Mừng. Mặc dù mang mục đích làm cho quảng đại quần chúng hiểu được chủ ý, các dụ ngôn vẫn là những chuyện “khó hiểu” đối với phần lớn dân Chúa chọn.
Và Maccô đã kết luận “bài diễn từ” về chương bốn này trong tinh thần trung thành với quan niệm của ông về bí mật Đấng Mêsia. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn nói với đám đông, nhừng Ngài phải dẫn các môn đệ riêng ra để giải thích cho họ về các dụ ngôn ấy (c. 34). Đối với Maccô, như người ta biết, mầu nhiệm về Chúa Giêsu (tức thân thế và sứ vụ Ngài) vẫn không thể đến được với “người người ngoài” (4,11). Để vào được mầu nhiệm này, cần phải tin và hơn nữa, cần phải bước theo Chúa Giêsu trên con đường (rất não nề!) dẫn đến cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Chỉ các biến cố này mới có thể giúp chúng ta, nhờ đức tin, đạt đến được bản tính và sứ mệnh đích thực của Đấng Mêsia.
34. Chú giải của Fiches Dominicales.
HAI DỤ NGÔN VỀ NƯỚC TRỜI.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Hạt giống tự mọc lên.
Tiếp theo trình thuật về ai là thân nhân thực của Đức Giêsu, Máccô đã long trọng đưa vào một chương mới, phải nói là quan trọng. Lúc ấy Đức Giêsu đang ở ven Biển Hồ "Galilê". Một đám người rất đông tụ họp chung quanh Người. Nên Người phải "xuống thuyền mà ngồi dưới biển để giảng dạy đám đông đang ở trên bờ" (4,1-2).
Đây là lần đầu tiên Người giảng dạy "bằng dụ ngôn" (4,2). J. Hervieux giải thích: "Dụ ngôn là một câu chuyện rút ra từ thiên nhiên hay trong đời sống thường nhật. Nhờ hình thức rất đơn giản và tính cách lạ thường, dụ ngôn dễ làm cho người nghe chú ý và khiến họ phải suy nghĩ đến điều mà dụ ngôn có ý nhắm tới thông qua những hình ảnh" ("L'evangile de Marc", Centurion, trang 65).
Bỏ qua các dụ ngôn người gieo giống (1-9, 13-20) dụ ngôn cái đèn (21-23) cái đấu (24-25), là những dụ ngôn ta đã suy niệm trong năm A- Matthêu, bài đọc năm B này chỉ giữ lại hai dụ ngôn cuối cùng: dụ ngôn hạt giống tự mọc lên và dụ ngôn hạt cải.
Mở đầu Tin Mừng Chúa nhật XI thường niên này là dụ ngôn Hạt giống tự mọc lên.
+ Tiên vàn trình thuật vắn tắt gợi lại thời gieo vãi: chuyện nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người-vãi hạt giống xuống đất”.
+ Rồi kết thúc cũng một cách vắn gọn, nói về "thời gặt lúa”. "Lúc vừa chín, người ta đem liềm hái ra gặt". Kiểu nói sau này là mượn lời của ngôn sứ Joel 4,1 3 loan báo ngày phán xét của Chúa tương tự như mùa gặt: "Ta sẽ ngự tòa phán xét muôn dân - Hãy đem liềm hái ra, vì đã đến mùa gặt rồi".
+ Khoảng giữa hai thời kỳ là việc nảy mầm và phát triển của hạt giống diễn ra trong âm thầm và chậm chạp, được tác giả Tin Mừng gợi ra bằng những giai đoạn lần lượt nối tiếp nhau: “cây lúa”, “ trổ đòng" rồi "bông lúa nặng trĩu hạt”.
Đối lại với sự hoạt động của hai thời kỳ gieo và gặt, là tính vô lo rõ ràng của người gieo trong giai đoạn trung gian này. Thật vậy bác nhà nông của chúng ta đã trở lại nhịp sống thường ngày. Bác lo toan những công việc khác mà chẳng phải bận tâm đến đồng ruộng nữa. Vậy mà đang lúc ấy, "đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức”, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, "bằng cách nào” thì người ấy không biết.
Một dụ ngôn trả lời cho tâm trạng thiếu kiên nhẫn hoặc thất vọng của đám thính giả vốn dựa vào lời giáo huấn của Gioan Tẩy Giả nên đang trông đợi ngày Chúa phán xét và trừng trị những quân gian ác, cùng với sự xuất hiện của Nước Chúa. Về phần Đức Giêsu, Người muốn cho họ hiểu rằng Người sẽ thi hành quyền xét xử đó vào ngày tận thế, tức là vào thời kỳ gặt lúa. Còn sứ vụ hiện nay của Người là thời gian để hạt giống nẩy mầm và lớn lên; đó là thời trung gian cần thiết để Lời được gieo vãi vào lòng đất, hoạt động không ngừng trong lòng mọi người hầu chuẩn bị cho Ngày Thu Hoạch.
Khi lấy lại những lời này của Đức Giêsu để gởi đến cho các độc giả của mình, Máccô muốn đoan chắc với họ rằng dù họ đang phải sống những giờ phút gian nan thử thách thế mà Thiên Chúa lại có vẻ như vắng bóng, nhưng kỳ thực Người vẫn đang lèo lái công trình của Người bằng một hoạt động là lặng lẽ và âm thầm, nhưng miệt mài và có kết quả.
2. Hạt nhỏ nhất lại trở thành cây lớn
Dụ ngôn thứ năm và cũng là dụ ngôn cuối cùng của chương 4 Tin Mừng Máccô, cho thấy vẻ tương phản rõ rệt giữa một bên là sự nhỏ bé, vô nghĩa lúc ban đầu, và bên kia là kết quả cuối cùng lại phong phú không ngờ, thật chẳ người tương xứng chút nào! "Hạt cải... là loại hạt nhỏ nhặt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ".
Ngỏ lời với đám thính giả đang đánh giá sứ vụ của mình theo những tiêu chuẩn phàm trần, và với những ai đang thất vọng khi thấy vẻ khiêm tốn lúc ban đầu của mình, Đức Giêsu báo trước cho họ biết rằng, dù thế nào, họ cũng vẫn là những người được chứng kiến công cuộc khai trương Nước Thiên Chúa. Nơi bản thân Đức Giêsu, dù bằng cách kín đáo thế nào chăng nữa, thì Nước Thiên Chúa cũng đã xuất hiện rồi. Một ngày nào đó, nhân loại sẽ phải ngỡ ngàng chứng kiến sức mạnh vô địch và vẻ phong phú lạ lùng của Nước ấy. Cái gì mắt người được nhìn thấy hiện nay không cho ai đoán trước được nó sẽ như thế nào ở giai đoạn chót của mức phát triển.
Tường thuật lại cho các độc giả của mình những lời này của Đức Giêsu, Máccô muốn trấn an họ rằng hoạt động của Đức Giêsu khi còn tại thế dù khiêm tốn, nhỏ bé, và cộng đoàn các môn đệ của Người là Giáo Hội, dù có yếu đuối thế nào, thì tất cả đều đang tham gia vào thành tựu vẻ vang của một công trình tràn đầy sức sống mà khi tới giai đoạn chót của mức phát triển, phải đạt được chiều kịch toàn cầu (J. Hervieux).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Chính Thiên Chúa mới là tác giả của Nước Trời”
Đức Giêsu kể tiếp một dụ ngôn khác liên kết với dụ ngôn nói về sự phát triển từ những cái nhỏ bé. Dụ ngôn này đem lại rất nhiều sức nâng đỡ, ủi an, nếu ta biết sống đúng chân lý của dụ ngôn ấy. Thật vậy, nhiều khi vì lòng nhiệt thành mà ta lại phải chuốc lấy lo âu phiền muộn. Khi ta mệt mỏi phần nào vì trông cho Nước Chúa trị đến, nên có lẽ vì sự mệt mỏi đó, mà ta đòi hỏi phải có ngay và thấy được sự thành tựu. Đó cũng là điều tự nhiên thời. Thế nhưng thái độ đó thật nguy hiểm. Vì rốt cuộc nó sẽ làm cho ta ngờ rằng chính ta là những tác giả, là những người thợ kiến tạo Nước Trời. Mà thực ra chỉ mình Thiên Chúa và chính Thiên Chúa mới là tác giả của Nước ấy. Về phần ta, chỉ phải coi mình là những dụng cự bé mọn mà tay Chúa dùng. Hãy nhìn hạt giống đã gieo vãi xuống đất. Đêm hay ngày, người gieo có ngủ hay thức, lo âu hay thanh thản, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên. Không ai có thể thúc bách cho hạt giống mọc vội, mọc nhanh. Bởi lẽ chính Chúa mới là Kẻ Kiến Tạo Nước Trời.
Trong những thời kỳ khủng hoảng chúng ta đang trải qua trong Giáo Hội, thiết tưởng ta nên coi trọng dụ ngôn này. Những xao xuyến, bồn chồn, cuồng nhiệt của ta sẽ chẳng thêm gì hơn cho Nước Chúa. Nước Chúa chỉ cần ta góp phần vào một việc là người gieo hãy làm công việc của mình cách trung thực. Đành rằng công việc gieo vãi này, ta phải chu toàn. Nhưng hãy ở đúng vị trí của mình, chứ đừng bao giờ lấn sang chỗ không phải là của ta. Hạt giống mọc lên không tùy thuộc ở ta mà hoàn toàn tùy thuộc ở Chúa. Nếu tình hình hiện nay của Giáo Hội cho phép ta hiểu biết khá hơn chân lý này, thiết tưởng cũng là điều hữu ích vậy.
2. “Chỉ trong vài dòng mà đã nói lên tất cả hành trình cuộc đời của Đức Giêsu và tất cả bước đường phiêu lưu của Nước Trời.
Quả thực, chuyện Nước Thiên Chúa cũng giống như chuyện của hạt giống vậy. Được gieo vãi vào lòng đất, hạt giống sẽ nẩy mầm, mọc lên và phát triển, không cần đến bày tay can thiệp của người gieo, không cần biết hạt giống mọc lên như thế nào. Nước ấy sẽ tỏ hiện vào mùa gặt, nghĩa là vào ngày “chung thẩm". Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, liềm hái và mùa gặt gợi ra hình ảnh ngày tận thế"? Từ khi gieo vãi cho đến mùa gặt là thời gian đất hoạt động âm thầm: mầu nhiệm sự chết và sự sống. Khi kể dụ ngôn này, Đức Giêsu có vẻ đặc biệt nhấn mạnh đến giai đoạn phát triển của phạt giống. Trọn hành trình cuộc đời của Đức Giêsu được nói lên ở đây, vắn gọn trong một vài dòng - Và đó cũng là tất cả bước đường phiêu lưu của Nước Trời. Lời Chúa đã mang mầm mống nhân loại: "và Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Giờ đây Người động ở trong cánh đồng nhân loại để gieo vãi. Rồi sẽ tới ngày là mùa gặt. Hiện giờ là phải sống tin tưởng và hy vọng vì là lúc hạt giống đang nẩy mầm và lớn lên.
Dụ ngôn thứ hai, dụ ngôn hạt cải nhấn mạnh đến tính cách nhỏ bé của hạt và tầm vóc lớn lao của cây. Thật lạ lùng! Hãy nhìn coi, vật nhỏ bé nhất của trần gian, mà phát triển như vậy đón Nước trời ở khắp mọi nơi. Ở đâu người ta đón nhận Lời Chúa, ở đó lời chúa trở nên hữu hình. Hạt giống của Lời nẩy mầm và lớn lên trong âm thầm của những cõi lòng, trong huyền nhiệm của những cuộc đời vậy.
35. Hạt cải, men bánh - Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Hạt cải, men bánh là biểu trưng con số nhỏ, hoặc hình ảnh con số còn lại.
Con số nhỏ bé nhưng quan trọng, bằng cách thuật chuyện, dụ ngôn diễn tả: như hạt cải gieo vào đất vườn, hạt ấy nhỏ bé, nảy mầm, thành cây, lớn lên, đến nỗi chim trời có thể đến làm tổ. Tiến trình lớn lên trong một hạt nhỏ bé, một mầu nhiệm của sự sống diễn ra trong từng ngày. Nhỏ bé mang tầm vóc vũ trụ, những người theo Đạo giáo [Tôn giáo cổ phát sinh từ tín ngưỡng dân gian thờ các vị thần tiên bất tử, nên còn gọi là Đạo Tiên. Hình thành trở thành tôn giáo chính thức vào thời Đông Hán (thếkỷ I - II sau Công Nguyên), tôn Lão Tử làm thuỷ tổ, nên còn gọi là Đạo Lão, lấy Đạo Đức Kinh làm kinh điển. Sau này có nhiều nhánh phát triển: Thần tiên, luyện đan, phong thuỷ, bói toán.], xem hạt cải là hạt mang dấu chỉ trường sinh bất tử, vì hạt này rất nhiều trong một quả. Hạt bất tử nằm nhỏ bé trong đời sống con người như hạt ước mơ trường sinh mà con người hằng đi tìm kiếm.
Hạt bé nhỏ này Đức Giêsu gọi là Nước Trời. Nước Trời có trong tâm hồn của mỗi con người mang tính nhỏ bé, có thể sánh ví như hạt giống được người đi gieo hạt, gieo vào cuộc sống, hạt có thể bị chim trời ăn mất, hạt có thể chịu bụi gai chèn ép, hạt có thể chịu rơi vào sỏi đá và hạt có thể trổ sinh những hạt khác. Nước Trời khi sánh ví như hạt nhỏ bé được gieo vào lòng người, Đức Giêsu muốn liên hệ với trách nhiệm bản thân của mỗi người.
Với sự nhỏ bé của hạt, gợi ý hình ảnh số còn sót lại thờ phượng Thiên Chúa, con số nhỏ của các môn đệ tiên khởi, con số nhỏ của những người sống theo Đức Kitô giữa lòng thế giới, con số nhỏ bé liên hệ tới men.
Như một ít men ở giữa khối bột, men làm dậy cả khối bột. Lên men là một quá trình biến đổi, tiệm tiến từ hạt - chết đi - thành cây - sinh hoa - kết trái. Men là nguyên nhân tác động tiến trình biến đổi. Như vậy khi nói men Tin Mừng, Đức Giêsu muốn nói tới chất xúc tác hướng dẫn sự biến đổi tiềm tàng bên trong. Quá trình lên men còn được nói là quá trình của sự thăng hoá, con người không chỉ bám víu vào trái đất, mỗi ngày sống cần thăng hoá hơn về tinh thần và đạt cao hơn về cõi trời. Giải nghĩa dụ ngôn hạt cải và men này soi sáng nhiều dụ ngôn khác.
Nếu nói theo Dịch học, men là nguyên nhân làm cho mọi vật chuyển động, chuyển động làm phát sinh, sinh hoài và sinh mãi. Yếu tố của men rất quan trọng, sự sinh hoá tuỳ thuộc vào men tốt xấu. Men xấu làm hư khối bột, làm thành hôi thối. Sự phân rã là một trong những bước tiến trình để biến đổi, chết là sự phân rã, sự phân rã làm nên hai cách tái sinh, men xấu làm phân rã dẫn đến tiêu huỷ đời đời và men tốt dẫn đến sự phân rã tái sinh, làm nên cái mới.
Nước Trời khi sánh ví như hạt cải và như men, có ý nghĩa làm cho men Tin Mừng thấm nhuần vào các nền văn hoá. Tin Mừng ấy chính là Đức Giêsu, Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã mang lấy xác phàm nhân để cứu độ con người phàm nhân về với Thiên Chúa. Như hạt cải bé nhỏ, Thiên Chúa ưa thích đi lối nhỏ giữa cuộc đời, Con Thiên Chúa không sinh hạ trong hoàn cảnh của một gia đình quyền thế giàu sang, nhưng chọn một gia đình nghèo khó, sinh ra giữa những người nghèo.
Lối nhỏ, con đường nhỏ, những phận nhỏ là những nẻo đường Thiên Chúa đã dùng trong lịch sử. Để chọn một người làm tổ phụ dân tộc, Thiên Chúa chọn cụ già Abraham, đã gần đất xa trời mà chưa có đứa con nối dõi. Để đánh bại Goliat, Thiên Chúa dùng cậu bé Đavit, để chọn những người rao giảng sám hối Chúa đã chọn các bác nhà quê như Amốt, như Giêrêmia. Để chọn một bà mẹ làm mẹ Con Thiên Chúa làm người, Người đã chọn một thiếu nữ làng quê. Để chọn nơi cư trú cho Giêsu, Người đã chọn làng nghèo Nazareth, để chọn các tông đồ, Đức Giêsu đã chọn các bác làng chài, các bác nhà nông và người thu thuế và ngay cả Giuđa Iscariôt. Để chọn Đá Tảng xây dựng Hội Thánh, ngài đã chọn con người ba lần phản bội, Phêrô. Trong cách lựa chọn ấy, Chúa muốn chọn đi lối nhỏ, từ những gì xem ra hèn kém nhất, Thiên Chúa dùng để chinh phục những đỉnh cao. Từ đổ vỡ của thân phận, Chúa dùng kinh nghiệm bản thân ấy làm chứng tá. Có Giuđa bội phản kết liễu đời mình vì đã không tin vào lối nhỏ của Chúa dùng. Sự cứng lòng dẫn tới cái chết tự huỷ hoại.
Nếu bạn tin, niềm tin ấy nhỏ bé như hạt cải, nhưng hạt cải ngày kia sẽ mọc thành cây lớn và chim trời có thể đến cư trú. Nếu bạn tin, niềm tin ấy như nắm men, người đàn bà goá nọ đem trộn vào đấu bột, một ngày kia đấu bột dậy men. Lối nhỏ, phận nhỏ xem ra mong manh nhưng chẳng mong manh chút nào, bởi vì nơi ấy Thiên Chúa bày tỏ quyền năng. Tất cả chất liệu nỏ bé cuộc đời của bạn đều có thểtrở thành men thành hạt cải có giá trị nảy mầm hiến tế vô song để thánh hoá trần gian.
Lối đi nhỏ, con đường nhỏ và phận nhỏ đã hình thành con đường thơ ấu thiêng liêng của chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu, một bí quyết đơn giản để nên thánh và thánh hoá các thực tại bằng cách cho chúng một giá trị bền vững. Cách thức ấy là dù bất cứ làm việc gì cũng đều dâng lên Chúa như lễ vật, để từ lễ vật Thiên Chúa hiến thánh.
Một chiếc chìa khoá bé nhỏ so với một cánh cửa khổng lồ, thế nhưng chiếc chìa khoá sẽ mở được cánh cửa, nếu bạn tin điều bé nhỏ sẽ mở được điều lớn lao; từ hạt nhỏ trở thành cây lớn.
16/06 Có thì nói có, không thì nói không
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Có thì nói có, không thì nói không.
Thứ Bảy tuần 10 thường niên.
"Thầy bảo các con: đừng thề chi cả".
Lời Chúa: Mt 5, 33-37
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con lại còn nghe dạy người xưa rằng: "Ðừng bội thề, nhưng hãy giữ lời ngươi đã thề với Chúa". Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ðừng thề chi cả, đừng lấy trời mà thề, vì là ngai của Thiên Chúa; đừng lấy đất mà thề, vì là bệ đặt chân của Người; đừng lấy Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua cao cả; cũng đừng chỉ đầu mà thề, vì con không thể làm cho một sợi tóc ra trắng hoặc ra đen được.
Nhưng lời các con phải: có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Có thì nói có
Trong một xã hội mà sự dối trá lừa đảo đã trở thành luật sống, thì sự trung thực quả là vàng. Phải chăng nhiều người Kitô hữu chúng ta lại không cho rằng trong hoàn cảnh hiện nay, giới răn thứ tám không còn ràng buộc nữa? Người người dối trá, tại sao tôi không dối trá, miễn là tôi không vi phạm đến quyền lợi người khác thì thôi!
Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ một luật trừ trong giới răn này: "Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỷ mà ra". Nền tảng của giới răn này chính là phẩm giá của con người. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Ðấng chân thật, cho nên thuộc tính cơ bản nhất của con người cũng phải là chân thật. Thiên Chúa phán một lời liền có trời đất muôn vật, không có quãng cách giữa lời và hành động của Thiên Chúa. Người tôn trọng phẩm giá cao cả của minh đương nhiên cũng là người tôn trọng lời nói của mình, đó là đòi hỏi của bất cứ nền luân lý đạo đức nào.
Ðón nhận chân lý mạc khải của Thiên Chúa về con người, người Kitô hữu phải ý thức hơn ai hết về phẩm giá cao trọng của mình. Phẩm giá ấy được thể hiện hay không là tùy ở mức độ trung thực của họ. Bản sắc của người Kitô hữu có được thể hiện hay không là tùy ở mức độ trong suốt của cuộc sống của họ. Niềm tin của người Kitô hữu có khả tín hay không là tùy họ có can đảm để lội ngược dòng giữa một xã hội mà dối trá đã trở thành luật sống.
Những vần thơ sau đây của thi sĩ Phùng Quán quả thật đáng cho chúng ta suy nghĩ:
Yêu ai cứ bảo rằng yêu
Ghét ai cứ bảo rằng ghét.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều,
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết,
Cũng không nói ghét thành yêu.
Chúa Giêsu đã sống cho đến cùng những lời Ngài rao giảng. Dù cái chết cũng không khóa được những lời sự thật của Ngài và cái chết của Ngài trên Thập giá cuối cùng cũng trở thành lời. Biết bao người đang chờ được nghe những lời chân thật của các Kitô hữu, không chỉ những lời thốt ra từ môi miệng, mà còn là những lời từ một cuộc sống ngay thẳng, thanh liêm.
Nguyện xin Chúa gìn giữ và ban cho chúng ta can đảm để làm chứng cho lời chân lý của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Ai là người nói thật
Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: “Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa, còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. (Mt. 5, 33-34)
Mọi người đều dối trá
Mỗi ngày ta đều có được những kinh nghiệm sống tuy nhỏ bé nhưng rất có ý nghĩa. Chẳng hạn mấy đứa con chúng ta cãi lộn nhau. Đứa này bảo đứa kia đã gây sự trước. Đứa kia cũng nói lại như vậy. Đứa nào đúng? Một tin lớn đăng tải trên trang đầu của tờ báo. Hôm sau lại nói ngược lại. Tin nào đúng? Chính quyền tỉnh cho công bố những bảng thống kê. Mười ngày sau chính quyền liên bang lại đưa ra bảng thống kê của mình. Phải tin ai đây?
Trong xã hội ta hôm nay, những thông tin quả là phong phú, những phương pháp truy cứu lại rất khoa học, những bản điều tra thật tường tận, vậy mà chúng ta vẫn luôn phải tự hỏi rằng: “Ai đúng?” Ta thường xuyên liên hệ với những người mà ta tin là liêm chính và ngay thẳng. Ta tin cậy họ, thậm chí có thể yêu mến họ. Nhưng biết bao lần ta phải tự hỏi: “Không biết lần này ông ta có nói đúng sự thật cho mình không?”. Ta có cảm tưởng như chung quanh ta mọi người đều dối trá cả
Cho đến giờ, ta đã chỉ nói đến những người nói dối ta. Thiết tưởng cũng nên nhìn vào mình một chút. Ai trong ta, xưa rày chỉ nói sự thật? Chúng ta chắc cũng không lạ gì với những cách nói nửa vời, những câu trả lời lấp lửng, những kiểu thêm thắt, bịa điều đặt chuyện, nói quanh co điều ta nghĩ và biết, chung quy gọi là dối trá, lươn lẹo.
Hãy vun trồng sự thật
Chúa Giêsu yêu cầu ta vun trồng sự thật. Nói “có” khi phải nói “có”, nói “không” khi phải nói “không”. Nói “có” hay “không” dều phải rõ ràng dứt khoát. Đạt được như vậy, không phải là chuyện đơn giản. Ta thường phải khó chịu, đôi khi phải nhượng bộ nữa. Để biết nói sự thật, tâm hồn ta phải thật trong sáng, ngay thẳng và trong một vài trường hợp, phải có nhiều can đảm. Thế nhưng ta phải tập cho quen biết nói sự thật, và phải tập ngay từ bây giờ, bằng không sẽ chẳng bao giờ biết nói sự thật cả.
Suy Niệm 3: KHÔNG ĐƯỢC THỀ! (Mt 5, 33-37)
Có những lần chúng ta đã nghe thấy những câu thề thốt đáng sợ như: "Tôi thề có đất trời chứng dám, sự việc xảy ra đúng như vậy, nếu không thì cho tôi bị chết bất đắc kỳ tử”. Như vậy, theo quan niệm của con người, lời thề thông thường là nối liền với sự tự rủa bản thân mình để chứng thực điều quả quyết. Khi đã thề, đòi buộc người thề không được bội ước.
Tuy nhiên, hôm nay, Đức Giêsu lại dạy các môn đệ rằng: “Đừng thề chi cả [...]. Nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.
Thực ra, thề có độc địa đến đâu, thì lời thề đó cũng khó có thể thành hiện thực. Như một lời nhắc nhở, Đức Giêsu cho biết, những lời thề đó là những điều phạm thánh, nếu cố tình vi phạm, không ăn năn hối cải sẽ bị Chúa phán xét nặng trong ngày diện kiến với Chúa.
Trên thực tế, con người ta có nhiều điều bất hảo. Thử hỏi có ai làm cho tóc hóa đen, hay kéo dài tuổi thọ của mình trên trần gian? Nếu điều đó cũng không làm được, thì nói chi đến những chuyện động địa như trong lời thề!
Hôm nay, Lời Chúa dạy cho chúng ta bài học về sự chân thật. “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ".
Chúng ta không được phép thêm bớt để rồi làm cho người khác bất hạnh. Hãy sống thật với lòng mình thì sẽ được Chúa chúc phúc. Đừng sống kiểu: “Khẩu Phật, tâm xà”; hay: “Lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý đến với mỗi người chúng con, để chúng con biết sống ngay thẳng, công tâm, hầu xứng đáng là con cái Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Có thì nói có
Suy niệm:
Việc thề vẫn có trong các nền văn hóa nhân loại.
Người ta thề để người khác tin lời của mình hơn,
vì nếu không giữ lời thề sẽ bị các thần minh nguyền rủa.
Người Do thái từ xa xưa cũng đã có thói quen thề.
Thề là nại đến Thiên Chúa để làm chứng cho điều mình nói.
Hêrôđê Antipas đã thề hứa với cô bé con bà Hêrôđia (Mt 14, 7).
Lời thề của một người lãnh đạo như ông đã khiến ông bị kẹt.
Phêrô đã chối Thầy kèm theo những lời thề thốt (Mt 26, 72. 74),
vì ông sợ người ta không tin lời ông nói.
Đức Giêsu biết chuyện Luật Môsê cấm bội thề,
và phải giữ trọn điều đã hứa với Đức Chúa (c. 33).
Nhưng quan điểm của Ngài trong Bài Giảng trên núi là không thề gì cả.
Không cần thề để xin Đức Chúa làm chứng cho lời ta nói,
vì mọi lời ta nói, Ngài đều biết và làm chứng.
Vì những sơ xuất trong việc giữ lời thề
có thể làm Thánh Danh Đức Chúa bị xúc phạm, nên khi thề,
người Do thái thường thay Danh Chúa bằng một vật gì đó (Mt 23, 16-22).
Tương tự như ở Việt Nam, họ dùng trời hay đất để thề.
Họ cũng thề nhân danh Đền thờ Giêrusalem hay chính đầu của mình
Đối với Đức Giêsu, điều đó cũng chẳng làm nhẹ tội chút nào,
vì trời, đất, Đền Thờ, hay đầu của chúng ta cũng đều thuộc về Chúa.
Trời quan trọng vì là ngai của Thiên Chúa.
Đất quan trọng vì là bệ dưới chân Người.
Đền thờ quan trọng vì là thành của Đức Vua cao cả.
Đầu cũng chẳng thuộc quyền con người,
vì màu trắng hay đen của sợi tóc nằm ngoài tầm chi phối của họ (cc. 34-36).
Khi kêu gọi chúng ta đừng thề chi cả,
Đức Giêsu muốn lời nói của ta tự nó phải mang sức mạnh của sự thật,
tự nó chắc chắn, đáng được mọi người tin cậy.
Thánh Giacôbê đã nhắc lại giáo huấn của Đức Giêsu khi viết:
“Hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không,
như thế anh em sẽ không bị xét xử” (Gc 5, 12).
Mọi thêm thắt đều do ác thần (c. 37).
Giáo hội sơ khai đã giữ lệnh truyền này một cách nghiêm túc.
Nhưng từ đầu thời Trung cổ, Giáo hội đã dùng các hình thức tuyên thệ.
Giáo sư trong các chủng viện vào đầu năm học, phải tuyên thệ
trung thành giảng dạy giáo lý chính thống của Giáo hội.
Các lời khấn của tu sĩ cũng là những lời thề hứa sống như Giêsu.
Dù sao chúng ta cũng là những con người mong manh, hay thay đổi.
Thề, hứa, khấn, tuyên thệ trọn đời, đều là những việc vượt sức con người.
Trung tín với điều mình đoan nguyện là bắt đầu đi vào vĩnh cửu.
Chỉ xin sự trung tín của Thiên Chúa nâng đỡ sự trung tín của chúng ta.
Cầu nguyện :
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen.
R. Tagore (Đỗ Khánh Hoan dịch)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
15/06 Quyết liệt xa tội
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Quyết liệt xa tội.
Thứ Sáu tuần 10 thường niên.
"Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi".
Lời Chúa: Mt 5, 27-32
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Chớ ngoại tình". Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi. Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục.
"Có lời dạy rằng: "Ai bỏ vợ mình, hãy trao cho vợ một giấy ly dị". Phần Thầy, Thầy bảo các con: bất cứ ai bỏ vợ mình-ngoại trừ vì lý do gian dâm-là làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới người vợ bị bỏ, cũng phạm tội ngoại tình nữa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chớ ngoại tình, đừng ly dị
Hôn nhân không phải là một sự phối hợp tạm thời để có thể dễ dàng phân ly vì sự thay đổi hoặc vì đam mê của con người. Chúa Giêsu lên án những phóng đãng luân lý, như sự bất trung, ngoại tình, ly dị do pháp luật cho phép.
Chống lại sự bất trung, Chúa Giêsu lên án cách nhìn ngắm không trong sạch của những ước muốn xác thịt, liều mình đi đến chỗ phạm tội trong tâm hồn. Cử chỉ này bị coi là đã thành tội, vì tội phát sinh bởi ý muốn thầm kín của tâm hồn. Với những lời gắt gao, Chúa nhắc lại việc cần phải dấn thân một cách nghiêm chỉnh và cương quyết chống lại những lạc hướng do ích kỷ, để cứu vãn và tăng cường tình yêu hôn nhân bằng mọi giá.
Chống lại việc ly dị, Chúa Giêsu đã sửa lại luật Môsê cho phép ly dị trong một số trường hợp. Ðối với Ngài, lý do là sự lựa chọn của một tình yêu dâng hiến, với tình yêu này, người nam và người nữ dấn thân sống chung với nhau suốt đời. Ngài kêu gọi lương tâm của con người, và không luật nào được thay thế và vi phạm lương tâm này. Tội tà dâm phải được loại trừ tận gốc rễ, và trong tư tưởng thầm kín. Cái nhìn trong sạch: "Phúc cho ai có tâm hồn trọng sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa"; muốn thế, cần phải hy sinh những gì gây cớ vấp phạm.
Trong luật cũ có vẻ bao dung đối với nam giới và nghiêm khắc đối với nữ giới, thì Chúa Giêsu đặt cả hai trên cùng một cấp bậc: Ngài lên án rõ ràng và như nhau về việc ly dị đối với cả hai giới, và tuyên bố việc phối hợp với người khác sau khi ly dị là ngoại tình.
Theo giáo huấn của Chúa, việc phối hợp giữa người nam và người nữ là một biểu lộ của tình yêu, và tình yêu này đến từ Thiên Chúa, chứ không do tình dục ích kỷ. Tình yêu là một sự trao ban cho nhau, là cuộc gặp gỡ của tự do.
Xin Chúa cho chúng ta biết tiến lên theo Thánh Thần thúc đẩy, để chúng ta không chiều theo những ước muốn và hành động của xác thịt; trái lại biết sống trong tự do của Chúa, nhờ đó lề luật của Chúa sẽ trở nên nguồn an vui và sức mạnh của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Giải phóng tình yêu
“Anh em đã nghe luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.” (Mt. 5, 27-28)
Những lời nói cũ rích?
Có những người nói rằng thời đại ta là thời đại giải phóng tình dục và họ vỗ tay hoan hô. Những người khác nhìn thấy cảnh sống phóng túng tràn lan hầu như khắp nơi, thì lại chỉ buông lời trách móc. Ta nên xử trí thế nào cho phải. Cách ăn nết ở của đàn ông đàn bà cũng như của thanh thiếu niên nam nữ xưa đối với nhau có những mặt tốt và mặt xấu của nó. Xưa có những cách bày tỏ tình bằng hữu, cho đến cả tình yêu nữa, không phải luôn luôn hoàn hảo, xứng với con người hay hợp với tinh thần Kitô giáo đâu. Nhưng những cách cư xử mới của những người thời nay cũng không phải là hoàn toàn bảo đảm. Chắc chắn là chúng ta đã đạt tới những nếp sống phóng túng chẳng giúp gì cho việc khơi đậy và phát triển một tình yêu sâu xa giữa nam nữ cũng như giữa vợ chồng.
Trong bối cảnh hiện nay thì chắc chắn những lời Chúa phán kia có nguy cơ bị coi là lỗi thời. Không được thèm muốn vợ người khác, phải cương quyết để sống trung tín với người nam hay nữ mình yêu, người ta còn sẵn sàng thực hiện điều này không?
Yêu thương, khó đấy
Thế nhưng ta phải thực hiện yêu thương, sẽ phải luôn luôn thực hiện yêu thương, bởi lẽ không bao giờ một tình yêu muốn được coi là chân thật, bền bỉ và trung tín sẽ chịu dung dưỡng với những dễ dãi và thỏa hiệp.
Từ mấy thập niên qua, người ta dã tốn công nhiều để giải phóng người nam và người nữ khỏi một số những điều cấm kỵ vốn cản trở họ yêu nhau một cách hồn nhiên và được vui sướng. Nhưng giờ đây một trách vụ mới lại được đặt ra. Phải giải phóng tình yêu khỏi tất cả những gì làm thoái hóa, hư hỏng và bóp nghẹt tình yêu, làm cho tình yêu trở thành một thực phẩm không còn mùi vị gì nữa và không còn mời gọi vươn lên nữa.
Chúa Giêsu đã yêu thương đến độ đón nhận thập giá. Chẳng có tình yêu giữa hai vợ chồng khi tình yêu ấy không trải qua con đường này.
Suy Niệm 3: HÃY SỐNG TRONG SẠCH TỪ TƯ TƯỞNG (Mt 5, 27-32)
Trên các trang mạng xã hội gần đây có đăng tải câu chuyện của một quan tham, ông ta là Phó Chánh Văn phòng UBND tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. Ông này có ý đồ dâm đãng với nhiều phụ nữ. Ông ta trở thành điển hình cho thói ăn chơi sa đọa và bệnh hoạn. Giấc mơ mà ông này đeo đuổi chính là được "qua đêm" với 1.500 người phụ nữ. Kết cục ông đã bị bắt (xc. http://www.tienphong.vn/the-gioi/quan-tham-trung-quoc-dat-muc-tieu-ngu-voi-1500-nguoi-phu-nu-711861.tpo).
Hôm nay Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học về sự thanh bạch, khiết tịnh từ bên trong, Ngài nói: “Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi”. Sau đó, Ngài đã nói lên tính cẩn trọng, dứt khoát với tội để có sự toàn vẹn trong cuộc sống mai hậu: “Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục”.
Trong đời sống thực tế, có nhiều người bên ngoài tỏ ra rất đạo đức, thánh thiện, nhưng bên trong luôn đi tìm muốn sự bất khiết.
Lời Chúa hôm nay nhắc cho mỗi chúng ta hãy tránh xa những dịp tội, nhất là tội dâm dục, để được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc trên Thiên Quốc mai sau.
Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con và ban cho có tự do, đồng thời Chúa cho phép chúng con sử dụng sự tự do đó để làm điều thiện hay xấu. Xin Chúa ban ơn trợ lực, để chúng con biết sử dụng ân huệ Chúa ban mà làm việc tốt, hầu sinh ích cho phần hồn chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Ngoại tình trong lòng
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay hẳn gây sốc cho những ai nghe Đức Giêsu,
và nhất là cho chúng ta ở thế kỷ này nữa.
Đòi hỏi của Đức Giêsu mang tính tận căn, vượt quá Luật Môsê.
Không phải chỉ là tránh ngoại tình trong hành động,
mà còn phải tránh cả ngoại tình trong tư tưởng, trong trái tim,
khi nhìn người phụ nữ bằng cái nhìn thèm muốn chiếm đoạt.
Phụ nữ ở đây hẳn là người đã có chồng, đầu tóc được che khăn.
Thèm muốn ở đây không phải chỉ là một rung động tự nhiên trước vẻ đẹp,
nhưng muốn nói đến một dục vọng xác thịt được nuôi dưỡng kéo dài,
nhắm đến một tương quan bất chính với người phụ nữ ấy.
Thèm muốn này có tính chiếm đoạt.
Điều này đã được nói đến ở giới răn thứ mười:
chớ thèm muốn vợ người khác (Xh 20, 17).
Đàn ông hôm nay thấy khó tránh cái nhìn thèm muốn, chiếm đoạt.
vì phụ nữ hôm nay biết cách lôi kéo cái nhìn của họ.
Nhiều phụ nữ coi “gợi cảm” và “gợi tình” là điều cần nhắm tới.
Các quán bán cà phê đều cần những cô “có ngoại hình”.
Trong các tạp chí và trên mạng thiếu gì những hình ảnh tươi mát, dâm ô.
Chúng ta đã quen với một nền văn hóa tiếp thị bằng hình ảnh như thế.
Từ nhìn đến thèm muốn cháy bỏng, rồi dẫn đến sa ngã thực sự.
Nạn mãi dâm, ngoại tình, đổ vỡ trong gia đình vẫn là chuyện nhức nhối.
Từ đó phát sinh bao bệnh tật và tệ nạn trong xã hội.
Đức Giêsu muốn ngăn chặn cái xấu từ trong gốc rễ.
Bà Evà đã nhìn, đã thèm muốn, rồi cuối cùng đã hái trái cấm.
Từ mắt đến tim và đến tay: đó vẫn là con đường bình thường của cám dỗ.
Đức Giêsu đã dùng lối ngoa ngữ để nói lên đòi hỏi tận căn của Ngài.
Nếu mắt hay tay làm dịp cho chúng ta phạm tội về xác thịt,
thì thà mất mắt phải hay tay phải mà vào Nước Trời
còn hơn toàn thân bị ném vào hỏa ngục.
Chúng ta không hiểu theo nghĩa đen để rồi chặt tay hay móc mắt,
vì làm thế cũng chẳng khiến ta hết dục vọng.
Nhưng chúng ta hiểu mình cần phải chịu những hy sinh đau đớn
mới có thể giữ mình thanh khiết để xứng đáng với Nước Trời.
Làm sao để cái nhìn của tôi được trong sáng ngay giữa một thế giới ô uế?
Làm sao để tôi không coi người khác phái chỉ là đối tượng của dục vọng xác thịt?
Làm sao tôi có thể quay đi và nhắm mắt để được tự do?
Cầu nguyện :
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ tâm hồn con thanh khiết.
Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục,
xin gìn giữ mắt con.
Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc,
xin dạy con biết trân trọng thân xác.
Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục,
xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.
Xin nâng con lên cao
vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt,
để biết tự hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí sức lực
vào những chuyện tình cảm chóng qua,
nhưng giúp con tự rèn luyện mình
để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ thân xác con thanh khiết. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
14/06 Phải sống công chính hơn
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Phải sống công chính hơn.
Thứ Năm tuần 10 thường niên.
"Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt".
Lời Chúa: Mt 5, 20-26
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.
"Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án". Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là "ngốc", thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là "khùng", thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng!"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Sự thánh thiện đích thực
Chân phước Marchello, một kỹ nghệ gia giàu có người Italia, đã bán hết tất cả gia sản và sang Châu Mỹ La tinh phục vụ những người phong cùi, có kể lại câu chuyện như sau: tại một viện bài phung giữa rừng già miền Amazone, có một người đàn bà thoạt nhìn qua ai cũng thấy đáng thương. Từ nhiều năm qua, vì phong cùi, bà bị chồng con bỏ rơi, bà sống đơn độc trong một túp lều gỗ, mặt mũi đã bị đục khoét đến độ không còn hình tượng con người nữa.
Mang đến cho bà vài món quà, chân phước Marchello hỏi bà:
- Bà làm gì suốt ngày? Có ai đến thăm bà không?
Người đàn bà trả lời:
- Tôi sống đơn độc một mình. Tôi không còn làm được gì nữa, tay chân bại liệt, mắt mũi lại chẳng còn trông thấy gì nữa.
Marchello tỏ ra cảm thông trước nỗi khổ của bà, ngài hỏi:
- Vậy chắc bà phải cô đơn buồn chán lắm phải không?
Người đàn bà liền nói:
- Thưa ngài, không. Tôi cô độc thì có, nhưng tôi không hề cảm thấy buồn hoặc bị bỏ rơi, bởi vì tôi cầu nguyện suốt ngày và tôi luôn cảm thấy có Chúa bên cạnh.
Ngạc nhiên về lòng tin của bà, chân phước Marchello hỏi tiếp:
- Thế bà cầu nguyện cho ai?
Người đàn bà như mở to được đôi mắt mù lòa, bà nói:
- Tôi cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ. Tôi cầu nguyện cho những người phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ em mồ côi, cho tất cả những ai giúp đỡ trung tâm này.
Chân phước Marchello ngắt lời bà:
- Bà không cầu nguyện cho bà sao?
Với một nụ cười rạng rỡ, người đàn bà quả quyết:
- Tôi chỉ cầu nguyện cho những người khác mà thôi, bởi vì khi người khác được hạnh phúc, thì tôi cũng được hạnh phúc.
Thái độ sống và cầu nguyện của người đàn bà phong cùi trên đây minh họa cho sự thánh thiện đích thực là người chỉ sống cho người khác, lấy hạnh phúc của người khác làm của mình. Ðể có được thái độ như thế, chắc chắn phải có một đức tin sâu xa, một đức tin luôn đòi hỏi con người nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong mọi người và yêu thương mọi người. Như vậy, thánh thiện và bác ái cũng là một: thánh thiện mà không có bác ái là thánh thiện giả hình.
Chúa Giêsu đã đến để đem lại cho sự thánh thiện một nội dung đích thực. Ngài đề ra một mẫu mực thánh thiện hoàn toàn khác với quan niệm và thực hành của người Biệt Phái và Luật Sĩ, tức là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Theo họ, thánh thiện là chu toàn một cách chi li và máy móc những luật lệ đã được quy định mà không màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ tha nhân.
Ðả phá quan niệm và cách thực hành của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Chúa Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống: "Nếu các con không ăn ở công chính hơn những Biệt Phái và Luật Sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời."
Quả thật, nếu an bình, hân hoan, hạnh phúc là thể hiện của Nước Trời ngay trong cuộc sống này, thì chúng ta chỉ được vào Nước Trời, nếu chúng ta biết sống cho tha nhân mà thôi. Sống vui và hạnh phúc, phải chăng không là mơ ước của mọi người, nhưng liệu mỗi người có ý thức rằng bí quyết của hạnh phúc và niềm vui ấy chính là sống cho tha nhân không? Kỳ thực, các thánh là những người đạt được niềm vui và hạnh phúc ấy ngay từ cuộc sống này. Người Tây phương đã chẳng nói: "Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn" đó sao?
Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn biết tìm kiếm và cảm mến được niềm vui và hạnh phúc đích thực trong yêu thương và phục vụ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Thái độ nửa vời
“Anh em đã nghe người xưa rằng: “Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước thượng hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải lửa hỏa ngục thiêu đốt.” (Mt. 5, 21-22)
Làm như mọi người
Xã hội nào cũng có những luật lệ, quy tắc, những điều được làm, những điều cấm đoán, mà người ta phải tôn trọng, nếu không cuộc sống của người khác sẽ gặp trắc trở phiền hà. Nói chung mọi người đều được yêu cầu đừng vượt quá giới hạn. Phải giữ một mức cư xử tốt đẹp tối thiểu hoặc cùng lắm cũng phải tỏ ra có tình người thật.
Không ăn trộm ăn cắp, không làm thiệt hại tài sản người khác, không mưu hại mạng sống và sức khỏe của ai, không làm giầu cách gian lận, tuân theo luật lệ giao thông. Đó là đại khái những loại luật lệ quy tắc mà ta phải tuân thủ. Khi chu toàn được những điều này – tuy không phải lúc nào cũng dễ dàng – ta thường khá hài lòng về mình. Thiên hạ coi những ai giữ trọn được như vậy, chẳng phải anh hùng thì ít ra cũng là những con người lương thiện, những công dân tốt.
Làm hơn được chăng?
Chúa Giêsu còn đòi hỏi nhiều hơn thế. Chúa đòi hỏi những ai tin vào Người phải có lòng tốt, lòng quảng đại, sự hiến thân mỗi ngày phải tiến xa hơn nhiều. Xã hội bất quá kêu gọi tôn trọng công bình. Còn Chúa Giêsu lại mời gọi người ta sống yêu thương. Dưới con mắt Chúa, công bình chỉ là một thái độ nửa vời, hoặc nên gọi là không trọn mức cũng được. Nếu chỉ cư xử với nhau theo đức công bình, ta chỉ mới được nửa đường tới dích thôi. Chúa mốn ta giữ đức công bình được tình yêu làm cho thăng hoa tốt đẹp. Đành rằng phải có đức công bình để con người có thể cùng nhau chung sống, nhưng không đủ cho con người được sống hạnh phúc.
Chúng ta thường chỉ coi đức công bình là đủ, như vậy là ta cũng chỉ có thái độ nửa vời. Những người có thái độ nửa vời, sẽ chẳng được vào Nước Trời đâu.
Suy Niệm 3: HÃY TRỞ NÊN CÔNG CHÍNH HƠN (Mt 5, 20-26)
Xem lại thứ Sáu tuần 1 MC
Cuốn sách: “Những căn bệnh trầm kha trong đời sống đức tin Công Giáo tại Việt Nam”, ở phần dẫn nhập, tác giả kể một câu chuyện đại khái thế này: có một người giàu có, cuộc sống sung túc, và ông ta có rất nhiều vợ. Mỗi người đều có cơ ngơi riêng. Khi gần qua đời, ông ta tin vào Chúa, theo đạo Công Giáo và được Rửa tội...
Khi nghe câu chuyện ấy, một người Công Giáo đã thốt lên ngay: “Ông này hên thật, được cả đời này lẫn đời sau!”
Điều ấy cho thấy khá rõ hiện trạng đời sống đức tin của người Kitô hữu Việt Nam: đạo không phải là một hồng phúc, nhưng là một sự may rủi, đôi khi trở thành gánh nặng!
Hôm nay, Đức Giêsu muốn giúp cho các môn đệ đi một bước xa hơn trong việc giữ Luật. Ngài nói: "Nếu các con không công chính hơn các Luật Sĩ và Kinh Sư, các con sẽ chẳng thể vào được Nước Trời" (Mt 5,20).
Nước Trời không thể có cho những người “bắc nước trực gạo người” hay “há miệng chờ sung rụng”. Nước Trời cũng không dành cho những người vụ Luật và chỉ biết sống cho chính mình mà không cần quan tâm đến anh chị em đồng loại.
Vậy, để như điều kiện cần cho được vào Nước Trời, đó chính là phải sống thật tâm, sống hết mình với Chúa và với nhau. Tức là tất cả phải được xây dựng trên tình yêu. Nếu có tình yêu, thì đâu còn chuyện giết hại lẫn nhau; đâu còn mắng chửi nhau là ngu là ngốc; và làm sao đến dâng lễ vật mà trong lòng còn căm ghét anh chị em mình... Hãy sống với giây phút hiện tại và thánh hóa chúng, vì đối với Thiên Chúa, Người không tính thời gian hay công việc, mà Người nhìn tận sâu thẳm của tâm hồn con người nơi công việc hay suy nghĩ của họ.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã chỉ ra cho chúng con con đường để được cứu độ, đó là con đường yêu thương. Xin cho chúng con biết đi trên con đường đó cho đến hết đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Chớ giết người
Suy niệm :
“Chớ giết người”, đó là một trong những giới luật quan trọng.
Dân Do thái đã nhận giới luật này từ Thiên Chúa
qua trung gian ông Môsê trên núi Xinai (Xh 20, 13; Đnl 5, 17).
Đức Giêsu không đến để bãi bỏ Luật Môsê.
Ngài nâng Luật này lên một tầng cao mới.
Không phải chỉ hành vi giết người mới là tội.
Ngay cả ai giận ghét anh em trong lòng
và biểu lộ ra bằng những lời nhục mạ, mắng chửi,
cũng phải chịu những hình phạt tương tự (c. 22).
Đức Giêsu đẩy giới răn này đến chỗ triệt để, tận căn.
Ngài tìm về cội nguồn của hành vi sát nhân nơi tâm con người.
Nếu lòng con người không còn giận ghét anh em,
và lời nói giữ được sự kính trọng, ôn hòa,
thì tội giết người hoàn toàn có thể tránh được.
Sống với nhau tránh sao khỏi những tranh chấp, cọ sát.
Đi làm hòa với người anh em trong cộng đoàn là điều khẩn trương.
Thậm chí phải để lại lễ vật sắp dâng trước bàn thánh
mà đi làm hòa với một người anh em đang bất bình với mình,
rồi sau đó mới trở lại dâng lễ vật cho Chúa (cc. 23-24).
Phải chăng người ta chỉ đến được với Chúa và được đoái nhận lễ vật
khi người ta đến được với anh em trong sự an hòa thứ tha?
Để đến được với người đang xích mích với mình,
cần khiêm hạ, ra khỏi mình và lên đường đến với người ấy.
Đi bước trước để đến với người khác, dù lỗi không thuộc về mình,
đó là cách làm hòa và làm lành những vết thương.
Hòa giải với tha nhân phải được coi là việc cần làm ngay
trước khi ta có thể hiệp thông với Thiên Chúa qua việc dâng của lễ.
“Chớ giết người”, giới răn này xem ra bị coi nhẹ trong thế giới hôm nay,
một thế giới tự hào là văn minh, nhưng mạng sống con người bị rẻ rúng.
Những vụ phá thai, những tai nạn xe cộ mỗi ngày,
những cuộc chiến không ngừng giữa các quốc gia thù nghịch.
Bao cuộc khủng bố đã làm hàng ngàn người chết.
Những tội ác diệt chủng đã xóa sổ cả triệu con người.
“Chớ giết mình”, con người cũng không biết quý mạng sống mình.
Những vụ tự tử, những cái chết do sử dụng ma túy hay ăn chơi,
những bệnh tật do con người tự phá hoại thân xác mình.
Cain đã giết em là Abel vì ghen tương và giận dữ.
Tội ác đó vẫn xuất hiện mãi trên mặt đất cho đến nay.
Làm thế nào để ta biết trân trọng sự sống của người khác và của mình?
Làm thế nào để Thiên Chúa được nhìn nhận như Chủ Tể của sự sống?
Kitô hữu được mời gọi tôn trọng nhân vị của từng người,
trong trái tim, trong lời nói cũng như hành động .
vì mỗi người mang hình ảnh của chính Thiên Chúa.
Cầu nguyện :
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
13/06 Kiện toàn lề luật
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Kiện toàn lề luật.
Thứ Tư tuần 10 thường niên – Thánh Antôn Pađôva, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn".
* Chào đời khoảng cuối thế kỷ 12, tại Lít-bon, Bồ-đào-Nha, nhập hội kinh sĩ thánh Augustinô, nhưng sau khi làm linh mục được ít lâu, thánh Antôn hâm mộ lý tưởng sống Tin Mừng của thánh Phanxicô. Người đã đến Át-xi-di, sống bên cạnh thánh Phanxicô (năm 1221). Với tài năng giảng thuyết ngoại thường, người được phái qua Pháp là nơi các giáo thuyết của phái Ca-tha đang hoành hành. Người lập một tu viện ở Bơ-ri-vơ La Gai-ác. Thánh nhân là người đầu tiên trong dòng dạy thần học cho anh em. Người qua đời tại Pađôva sau khi giảng tĩnh tâm mùa Chay tại đó (năm 1231).
Lời Chúa: Mt 5, 17-19
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn.
Vì Thầy bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Kiện toàn lề luật
Luật cơ bản nhất trong đời sống tu trì vốn là luật bác ái và nền tảng của luật này là sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Sự kiện này tiêu biểu cho chính sự tuân hành luật lệ trong Giáo Hội. Giáo Hội có luật lệ, nhưng không bao giờ dùng sức mạnh đe dọa để cưỡng bách người tín hữu tuân hành. Tinh thần đích thực của việc tuân hành luật lệ trong Giáo Hội chính là tình mến; không có tình mến, thì một bộ luật, dù hoàn hảo đến đâu, cũng không khác gì một cây khô héo.
Ý nghĩa và tinh thần ấy của luật lệ, chúng ta có thể đọc được trong Tin Mừng hôm nay. Những người Biệt phái, nhất là các Luật sĩ, vốn là những người rất trung thành với lề luật, họ tuân giữ luật lệ không thiếu một chấm, một phết. Nhưng đàng sau sự trung thành ấy có hàm ẩn tự mãn: họ cho rằng trung thành với lề luật là đương nhiên trở thành người công chính, và vì nghĩ mình là người công chính, nên họ lên mặt khinh dễ những người không tuân giữ luật lệ một cách nghiêm chỉnh như họ.
Chúa Giêsu không phải là người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của Môsê truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ lề luật để kiện toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho lề luật một tinh thần mới, tức là tình mến.
Luật lệ vốn là lời loan báo của các tiên tri về Ðấng Cứu thế, do đó luật lệ có tính tiên tri. Khi chu toàn lề luật, Giáo Hội chứng tỏ cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng các tiên tri đã loan báo. Như vậy, một cách nào đó, khi người Kitô hữu tuân hành lề luật, họ cũng loan báo chính Chúa Kitô, nhưng dĩ nhiên, họ chỉ có thể loan báo về Ngài khi việc tuân giữ của họ thể hiện được chính tinh thần của Ngài. Xét cho cùng, đối với người Kitô hữu, tuân giữ lề luật là mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô, là sống như Ngài, là trở thành hiện thân của Ngài.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của chúng ta và ban sức mạnh để chúng ta chu toàn lề luật của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Rắc rối yêu thương
“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ. Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” (Mt. 5, 17)
Quá nhiều luật lệ!
Hai mươi hoặc ba mươi năm vè trước, người Kitô hữu phải tuân giữ nhiều luật lệ và điều răn hơn hôm nay. Điều gì phải làm hay không được làm đều đã được phân định rạch ròi đến từng chi tiết. Thời ấy người ta rất tỉ mỉ, phải nói là quá tỉ mỉ nữa.
Khoảng mấy năm gần đây, nhiều sự đã thay đổi. Hôm nay người ta thường nghe nói rằng chẳng còn luật lệ gì nữa. Có người tiếc rẻ, người khác lại vui mừng. Những người luyến tiếc mạnh miệng nói rằng Giáo hội bây giờ dễ dãi quá, để mặc cho ai nấy muốn làm gì thì làm.
Đức Giêsu với lề luật
Chúa Giêsu bảo ta rằng “dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, cũng không được bãi bỏ”. Nói được rằng Chúa Giêsu ủng hộ việc có nhiều luật lệ và điều răn chăng? Chắc chắn là không.
Như ta biết, đối với Chúa Giêsu chỉ có một điều răn thâu tóm mọi điều răn khác. Đó là điều răn dạy phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Nhưng bởi chỉ có một điều răn nền tảng, thì không có nghĩa là không có điều răn nào khác cũng quan trọng.
Để yêu thương như Chúa muốn, người ta không thể giữ mực chung chung, mà phải đi vào cụ thể, phải chú ý đến cả những điều nhỏ nhặt. Tình yêu được hình thành từ vô vàn những sự chăm chú, từ vô số những cái tế nhị, từ ngàn lẻ một những chuyện nhỏ nhặt. Ta đừng tin những ai nói mình yêu Chúa yêu anh em mà lại bất chấp mọi điều khác.
Những điều răn nhỏ nhất phải tuân giữ mà Chúa nói đến ở đây, chính là những điều tế nhị phải có trong khi yêu thương vậy.
Suy Niệm 3: GIỮ LUẬT THEO TINH THẦN CỦA CHÚA (Mt 10, 7-13; hoặc Mt 5, 17-19)
Xem lại CN 6 TN A,
Thứ Tư tuần 3 MC
Chuyện cổ Đông phương kể rằng: ngày xưa, có một vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn thần kỳ và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quý hiếm và gắn đầy kim cương lóng lánh: nó kỳ diệu ở chỗ nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, làm cho ngón tay trở nên đau đớn.
Mỗi người chúng ta cũng có một chiếc nhẫn thần là Lề Luật của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chiếc nhẫn thần đó mang lại cho chúng ta niềm vui, hạnh phúc hay đau khổ là do thái độ của chúng ta với chúng. Thái độ đó là yêu mến hay bị ép buộc?
Hôm nay, khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ trong ngày Sabát, giới lãnh đạo Dothái tỏ vẻ khó chịu và nghi ngờ việc Đức Giêsu bất chấp Lề Luật. Thấy được sự sầm sì của họ, Đức Giêsu lên tiếng dạy các môn đệ và cũng một cách gián tiếp giáo huấn những người Pharisêu: "Các con đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Lề Luật hay Lời các ngôn sứ; Thầy không đến để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn" (Mt 5,17). Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn mặc cho Lề Luật một ý nghĩa mới, đó là Luật vì con người chứ không phải con người vì Luật. Khi Luật vì con người, thì tình yêu sẽ vượt lên trên Lề Luật, còn khi con người vì Luật, thì chính Luật sẽ đè bẹp và giết chết con người trong sự vô nhân đạo.
Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để chúng con tuân giữ Lề Luật của Chúa trong sự ép buộc, nhưng là trong lòng mến, để qua đó, nhờ Lề Luật mà làm cho chúng con được gần Chúa và anh chị em chúng con hơn. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Để kiện toàn
Suy niệm :
Đã có thời người ta nghĩ rằng theo Công giáo là bất hiếu,
vì phải từ bỏ việc cúng giỗ cha mẹ tổ tiên.
Nếu người chết cũng có nhu cầu ăn uống tiêu dùng như người sống,
thì hiếu thảo đòi phải lo cho người đã khuất được đầy đủ, ấm no.
Nhiều người không dám theo đạo,
vì sợ theo đạo thì không được cúng giỗ tổ tiên, phải bỏ ông bà.
Vào thời thánh Mátthêu, một số người Do thái cũng có nỗi sợ tương tự.
Họ tin vào Đức Giêsu và muốn trở thành môn đệ của Ngài,
nhưng họ lại sợ làm thế là bỏ đạo của cha ông, bỏ Do thái giáo.
Họ sợ giáo huấn mới mẻ của Đức Giêsu làm họ bỏ Luật Môsê,
và không còn thuộc về dân Thiên Chúa nữa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu khẳng định :
“Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.
Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (c. 17).
Luật Môsê thật ra là Luật của Thiên Chúa trao qua trung gian ông Môsê.
Môsê đã làm nhiệm vụ trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy.
Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê.
Bây giờ có một Đấng mới xuất hiện, là Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.
Ngài biết rõ ý định của Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha.
Đức Giêsu không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê.
Nhưng Ngài sẽ giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa,
vì chẳng ai biết rõ ý Cha bằng Con.
Trong Bài Giảng trên núi mà ta sắp nghe trong những ngày tới,
ta sẽ thấy Đức Giêsu giải thích lại Luật Môsê như thế nào.
Hành vi đó được gọi là kiện toàn hay hoàn chỉnh.
Một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ đã được mở ra với Đức Giêsu.
Giai đoạn chung cục này vừa liên tục, vừa vượt quá giai đoạn cũ.
Đức Giêsu mời chúng ta tuân giữ nghiêm túc Luật Thiên Chúa đã ban,
nhưng theo cách giải thích mới mẻ, hoàn chỉnh và có thẩm quyền của Ngài.
Muốn trở nên hoàn thiện, muốn đón nhận Nước Trời do Ngài khai mở,
cần sống Luật Tôra đã được Ngài giải thích lại.
Người Kitô hữu gốc Do thái khi theo Đức Giêsu thì chẳng sợ mình bỏ đạo,
bỏ Lề Luật, bỏ các Ngôn sứ hay truyền thống của cha ông
Giáo huấn của Đức Giêsu đã chứa đựng cốt lõi tinh túy của Luật ấy rồi.
Làm thế nào để các Kitô hữu Á Châu cảm thấy đức tin của mình
không tạo ra sự xung đột hay đoạn tuyệt
với những giá trị của nền văn hóa mình đã lãnh nhận và đã sống?
Làm sao để mình sống viên mãn là một Kitô hữu, một người Công Giáo Rôma,
mà vẫn chẳng mất căn tính là người Việt Nam hay người Châu Á?
Chỉ cần một điều kiện, đó là thấy Kitô giáo không phá bỏ, nhưng kiện toàn
tất cả mọi giá trị cao quý có trong các nền văn hóa và tôn giáo khác.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
Chúa đã muốn trở nên con của loài người,
con của trái đất, con của một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa
dù họ từ khước Tin Mừng
và đóng đinh Chúa vào thập giá.
Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,
một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu
sau những năm dài chiến tranh,
một quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc
và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên
trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,
và làm một điều gì đó thật cụ thể
cho những đồng bào quanh chúng con.
Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước
bằng khối óc, quả tim và đôi tay.
Và ước gì chúng con biết khiêm tốn
cộng tác với muôn người thiện chí. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
12/06 Muối và Ánh Sáng
- Viết bởi Mt 5, 13-16
Muối và Ánh Sáng.
Thứ Ba tuần 10 thường niên.
"Các con là sự sáng thế gian".
Lời Chúa: Mt 5, 13-16
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.
Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Muối và Ánh Sáng
Muối là để làm gia vị, đèn là để soi sáng. Với hai hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói lên sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Ngay từ đầu lịch sử của mình, Giáo Hội đã ý thức về sứ mệnh ấy. Giáo Hội là muối và ánh sáng của thế giới, bởi vì là Thân Thể của Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống. Giáo Hội luôn xác tín rằng tất cả chân lý về Thiên Chúa và về con người đã được Chúa Giêsu mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội. Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội bày tỏ cho nhân loại biết con người là ai? Con người bởi đâu mà đến? Con người sẽ đi về đâu? Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội chứng tỏ cho con người cùng đích của cuộc sống, đó là sống với Thiên Chúa.
Các tín hữu tiên khởi đã xác tín về điều đó, cuộc sống bác ái yêu thương của họ đã là muối và ánh sáng cho nhiều người. Những tiến bộ về khoa học, văn hóa, kinh tế và ngay cả chính trị tại Âu Châu thời Trung Cổ quả là thể hiện vai trò muối và ánh sáng của Giáo Hội. Không ai có thể vai trò hạt nhân về phát triển của các Tu viện Công giáo. Văn minh Tây phương, dù muốn hay không, vẫn là văn minh Kitô giáo. Những giá trị tinh thần mà nhân loại đạt được ngày nay, như tự do, dân chủ, nhân quyền, đều là những giá trị xuất phát từ Kitô giáo. Qua những giá trị tinh thần ấy, chúng ta có thể nói rằng muối của Giáo Hội đã ướp được phần lớn trái đất, ánh sáng của Giáo Hội đã chiếu soi vào những góc tối tăm của tâm hồn.
Tuy nhiên, hình ảnh muối và ánh sáng vẫn luôn gợi lên cho chúng ta cái tư thế nhỏ bé của Giáo Hội. Người ta chỉ cần một lượng nhỏ muối để ướp một lượng lớn thực phẩm, một cái đèn nhỏ cũng đủ để chiếu dọi một khoảng không gian lớn. Phải chăng với hình ảnh của muối và ánh sáng, Chúa Giêsu không muốn ám chỉ tới cái vị thế đàn chiên nhỏ bé là Giáo Hội? Ðã qua hơn 2,000 năm lịch sử, các môn đệ Chúa Giêsu đã đi khắp thế giới để rao giảng cho mọi dân tộc. Nếu xét về con số, thì thực tế không thể chối cãi là hơn 2/3 nhân loại vẫn chưa trở thành môn đệ Chúa Giêsu, và càng ngày xem chừng những người mang danh hiệu Kitô càng nhỏ lại, nếu so với những người ngoài Kitô giáo.
Muối và đèn soi vốn là những hình ảnh gợi lên cho chúng ta cái tư thế thiểu số của Giáo Hội trong trần thế, nhưng lại mời gọi chúng ta xác tín về sứ mệnh vô cùng to tát của Giáo Hội. Bằng mọi giá, Giáo Hội phải ướp mặn thế giới, phải chiếu soi trần gian bằng chính chân lý cao cả mà Chúa Giêsu đã mạc khải và ủy thác cho mình. Cả vận mệnh nhân loại tùy thuộc sứ mệnh của Giáo Hội, do đó không có lý do nào cho phép Giáo Hội xao lãng sứ mệnh ấy. Thánh Phaolô đã nói lên sự khẩn thiết của sứ mệnh ấy như sau: "Gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, cũng phải luôn luôn rao giảng Tin Mừng của Chúa".
Ðã có một lúc Giáo Hội gặp nhiều dễ dàng và thuận tiện trong việc thực thi sứ mệnh: cả một quốc gia, cả một lục địa đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thế nhưng, cũng có biết bao thời kỳ Giáo Hội bị khước từ, bị bách hại, đây chính là lúc không thuận tiện mà thánh Phaolô nói đến và cũng là lúc Giáo Hội càng phải rao giảng mạnh mẽ và kiên quyết hơn. Chính vì là thiểu số, và là một thiểu số bị loại trừ và bách hại, Giáo Hội lại càng phải ý thức hơn về vai trò là muối và ánh sáng của mình.
Một trong những nguy cơ lớn nhất đối với Giáo Hội chính là thỏa hiệp: thỏa hiệp để được một chút dễ dãi, thỏa hiệp để được một chút đặc quyền đặc lợi. Thực ra, đã là thỏa hiệp tức là đánh mất một phần căn tính của mình: thay vì muối để ướp cho mặn, thì muối lại đánh mất chất mặn của mình đi; đã là đèn dùng để soi sáng thì đèn lại bị đặt dưới đáy thùng; thay vì rao giảng lời chân lý, Giáo Hội thỏa hiệp để chỉ còn rao giảng lời của những sức mạnh đang khống chế mình. Xét cho cùng, sứ mệnh của muối và ánh sáng cũng chính là sứ mệnh của tiên tri. Số phận của tiên tri là số phận của thiểu số, nhưng là thiểu số dám lên tiếng rao giảng chân lý, sẵn sàng tố cáo bất công, và dĩ nhiên sẵn sàng hy sinh, ngay cả mạng sống mình.
Giáo Hội là muối và ánh sáng thế gian. Mỗi Kitô hữu tự bản chất cũng là muối và ánh sáng của thế gian. Họ sẽ đánh mất bản chất mặn của muối và tia sáng của ánh sáng, nếu chỉ vì một chút lợi lộc vật chất, một chút dễ dãi, mà họ thỏa hiệp với những gì đi ngược chân lý của Chúa Giêsu. Một cách cụ thể, người Kitô hữu sẽ không còn là muối và ánh sáng, nếu theo dòng chảy của xã hội, họ cũng lọc lừa, móc ngoặc, dối trá.
Nguyện xin Chúa ban thêm sức mạnh, để dù chỉ là một thiểu số, chúng ta vẫn luôn là muối có sức ướp mặn xã hội, là đèn có sức chiếu soi xã hội.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Muối và Ánh Sáng
Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà đã nhạt đi, thì lấy gì muối cho nó mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.
Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. (Mt. 5, 13-14)
Thế giới chẳng đẹp gì
Thế giới chẳng đẹp đẽ cho lắm. Nào là chiến tranh, bất công, bạo lực và hận thù tràn lan. Bạn cứ đọc báo là thấy ngay! Chỗ này chỗ kia, người ta đâm chém nhau, ăn cắp của nhau, đánh lộn nhau, sâu xé nhau. Đâu đâu người ta cũng thấy phô ra cái chẳng đẹp, chẳng tốt, chẳng sạch. Xa xa thì ở nơi nhà hàng xóm, mà cần gì phải đâu xa ngay tại nhà mình cũng có nữa.
Người ta không yêu nhau nhiều. Chắc chắn là không đủ. Có nhiều những người bất hạnh hơn là phải có. Có quá nhiều phụ nữ bị bỏ rơi đang khóc. Quá nhiều trẻ em bị hành hạ. Quá nhiều người nghèo khổ chẳng ai thèm chú ý tới. Có quá nhiều mảnh đời đủ mọi hạng tuổi mà thật ra chẳng được bao nhiêu thú vui để sống.
Lãnh đạm đủ rồi!
Trước những thảm cảnh đó, ta phải làm gì? Có thể làm gì? Có người lên tiếng! Thì đã có chính phủ để mắt tới! Thì đã có những nghiệp đoàn họ lo! Thì đã có những cơ quan cứu trợ xã hội để họ làm tốt công việc của họ!” Chỉ có giải pháp đó thôi sao?”
Chúa Giêsu có những lời mà người nghe phải hiểu rằng có một giải pháp khác. Chúa nói với chúng ta: “Anh em là muối đất. Anh em là ánh sáng trần gian”. Người còn phán: “Chính anh em phải làm cái gì đó. Chính anh em phải động đậy lên, phải nhúng tay vào. Chính anh em phải thay đổi thế giới một chút. Chính anh em phải giúp đỡ người ta được hạnh phúc hơn một chút, được tốt hơn một chút, được có tình huynh đệ hơn nữa”.
Chúng ta có là muối mặn không? Là ánh sáng chiếu soi không? Nếu chúng ta là những kẻ chẳng soi sáng cho ai, chẳng khích lệ ai, chẳng nâng dỡ ủi an ai, chẳng đem đến cho ai nụ cười; nếu chúng ta là những người lãnh đạm ơ hờ. Chà!…Một phần nào đó chính là vì chúng ta mà thế giới không khá hơn đó.
Suy Niệm 3: MUỐI PHẢI LÀ MUỐI (Mt 5, 13-16)
Xem lại CN 5 TN A.
Khi nói đến muối, người ta nghĩ ngay đến vai trò quan trọng của chúng trên sức khỏe của con người, bởi vì: muối có thể làm dung hòa, điều chỉnh độ chứa nước của cơ thể (cân bằng lỏng). Các hoạt động của cơ thể sẽ bị xáo trộn nếu thiếu muối, triệu chứng rối loạn điện giải, co bắp thịt, đau cơ, uể oải, buồn nôn, hoa mắt, chóng mặt, phù thũng... là do thiếu muối. Muối còn có tác dụng xát trùng cao, bảo quản thức ăn cho khỏi hư thối... Tục ngữ ca dao Việt Nam có câu: "Cá không ăn muối cá ươn”.
Hôm nay, Đức Giêsu phán cùng các môn đệ: "Chính anh em là muối cho đời”. Nhưng liền sau đó, như một sự cảnh báo trước: “Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó?".
Thật vậy, đời môn đệ chỉ có giá trị khi trong mình có vị mặn của tình yêu Giêsu, để làm toát lên hương vị của khiên nhường, yêu thương, tự hủy, vâng phục, xóa mình ra không để sống và sống cho người khác. Nếu không có vị mặn này, phải chăng đời môn đệ của chúng ta trở nên nhạt nhẽo, bèo bọt và vô tác dụng. Khi ấy, sự hiện diện của chúng ta trở nên dị hợm... thay vì ướp cho đời thì lại làm cho đời trở nên hư thối vì bị lây nhiễm bởi những lề thói xấu xa tục tĩu của chúng ta.
Muốn được như thế, như những hạt muối, chúng phải chịu hòa tan trong nước thì mới có giá trị, người Kitô hữu muốn trở nên chứng nhân, thì cũng phải tan hòa cuộc đời như những hạt muối, chấp nhận từ bỏ cái tôi ích kỷ để trở thành hữu dụng cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con vẫn mãi là muối mang vị mặn của Chúa, để chính Chúa ướp chúng con và cũng để chúng con cùng Chúa ướp cho đời khỏi bị hư thối bởi những trào lưu tục hóa trong thế gian này. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Muối cho trái đất
Người ta thường định nghĩa Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô,
là người sống mầu nhiệm Vượt Qua với Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa,
hay đơn giản là người bạn của Ngài.
Chẳng thể nào nói đến Kitô hữu mà không nói đến mối dây với Đức Kitô.
Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, khi nói chuyện với các môn đệ,
những người vừa được nghe các Mối Phúc,
Đức Giêsu lại đưa ra một định nghĩa khác về họ.
“Các con là muối cho trái đất” (c. 13).
“Các con là ánh sáng cho thế giới” (c. 14).
Thế giới này, trái đất này, nằm trong định nghĩa về người Kitô hữu.
Không có Kitô hữu sống lơ lửng giữa trời và đất.
Họ thuộc về trời và thuộc về đất, về thế giới hiện tại và thế giới mai sau.
Họ được sai vào thế giới này để phục vụ bằng cách biến đổi.
Muối có nhiều công dụng.
Muối dùng để bảo quản cho khỏi hư, để nêm nếm cho đậm đà, để bón phân.
Muối cần cho sự sống thường ngày con người.
Đức Giêsu dùng hình ảnh muối để áp dụng cho các môn đệ.
Họ cần cho trái đất này,
Như muối thấm vào đồ ăn, họ phải có ảnh hưởng tích cực trên trái đất.
Điều làm cho muối là muối, đó là vị mặn.
Muối trở nên nhạt thì đánh mất chính mình rồi, chẳng đáng gọi là muối nữa.
Đức Giêsu tự nhận mình là Ánh sáng cho thế giới (Ga 8, 12; 9,5; 12, 46).
Bây giờ Ngài mạnh dạn gọi các môn đệ là ánh sáng cho thế giới.
Thế giới hôm nay đã được điện khí hóa khắp nơi.
Nhưng bóng tối và bóng mờ thì chỗ nào cũng có.
Cả bên ngoài lẫn bên trong tim con người.
Bóng tối thật là một quyền lực đáng sợ mà con người phải đối diện.
Chỉ khi môn đệ mang Ánh sáng của Đức Giêsu, và trở nên ánh sáng,
khi ấy họ mới có thể giúp thế giới này bừng sáng.
Thành thánh Giêrusalem ở trên núi, không sao giấu được.
Ngọn đèn được thắp lên cũng không để lấy thùng che lại.
Căn tính của người Kitô hữu cũng vậy.
Tự nó bừng sáng, tự nó quyến rũ, tự nó hồn nhiên tỏa hương.
Đừng sợ để người khác thấy điều tốt nơi mình,
nếu điều đó đưa người ta đến chỗ nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa.
Một phần ba thế giới là Kitô hữu,
bẩy phần trăm người Việt Nam là Công Giáo.
Chúng ta có thể làm được nhiều điều cho thế giới hôm nay.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ,
nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục,
nếu Chúa là vua của hơn tám trăm ngàn nữ tu,
nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo,
thì thế giới này sẽ đổi khác,
Hội Thánh sẽ đổi khác.
Chúng con không phải là một lượng men quá nhỏ.
Nếu khối bột chẳng được dậy lên,
thì là vì men đã mất phẩm chất.
Chúng con phải chịu trách nhiệm
về sự dữ trên địa cầu :
có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.
Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến,
nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ,
chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa,
giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ,
nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa,
dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con,
và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ người công giáo
chịu để Chúa chi phối đời mình
và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến.
Như thế vũ trụ này
trở thành vũ trụ của Thiên Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
11/06 Người con có biệt tài khuyên nhủ
- Viết bởi Lm Đa-minh Thiệu O.Cist
Người con có biệt tài khuyên nhủ.
Thứ Hai tuần 10 thường niên – Thánh Banaba, tông đồ. Lễ nhớ.
“Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.
* Thánh nhân quê ở đảo Sýp. Ít lâu sau lễ Ngũ Tuần, người có mặt trong cộng đoàn Giêrusalem, rồi ở Antiôkia, nơi người đã giới thiệu ông Saolê thành Tácxô với các anh em.
Người đã cùng với ông Phaolô đi loan báo Tin Mừng cho Tiểu Á, nhưng sau người trở lại đảo Sýp. Thánh Banaba, với cái nhìn rộng rãi, khoáng đạt, đã giữ vai trò chủ yếu trong tiến trình truyền giáo của Hội Thánh.
Lời Chúa: Mt 10, 7-13
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy đi rao giảng rằng: Nước Trời đã gần đến. Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ: Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không.
“Các con chớ mang vàng, bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc: vì thợ thì đáng được nuôi ăn. Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở nơi đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi.
“Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: “Bình an cho nhà này”. Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì sự bình an của các con sẽ trở về với các con”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Người con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Barnaba tông đồ. Là một người Do Thái sinh trưởng tại đảo Sýp vào khởi đầu của đạo Kitô, Barnaba có tên là Giuse, thuộc dòng tộc Lêvi. Có lẽ thánh nhân từng sống tại Giêrusalem trước khi Chúa Giêsu chịu tử nạn. Vì nhiệt tình và sự thành công trong công tác rao giảng, cho nên thánh nhân được các thánh tông đồ tặng cho biệt hiệu là Barnaba, nghĩa là “người con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi”.
Sau khi trở lại, thánh Phaolô đến Giêrusalem, nhưng cộng đoàn tín hữu tại đây vẫn còn ngờ vực thiện chí của ngài.
Chính thánh Barnaba là người đứng ra bảo đảm và giới thiệu thánh Phaolô với các tông đồ, nhưng sau đó thánh Phaolô lui về ẩn dật trong nhà ngài tại Tácxô trong nhiều năm và Barnaba vẫn ở lại Giêrusalem. Sau này các thánh tông đồ sai Barnaba đến Antiokia để điều tra về sự thành công của thánh Phaolô trong công tác rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, Barnaba đã nhận ra ngay ơn Chúa trong công việc của thánh Phaolô. Ðây là lý do để nối kết hai người lại với nhau trong cánh đồng truyền giáo của dân ngoại. Cả hai sát cánh bên nhau tại Antiokia trong vòng một năm. Một trận đói lớn đã tàn phá Giêrusalem, Barnaba và Phaolô đã quyên góp để mang về Giêrusalem cứu trợ. Sau công tác này, cả hai trở về Antiokia và mang theo một người bà con họ hàng với Barnaba là Marcô, vị thánh sử tương lai.
Từ Antiokia, cùng với Marcô, Barnaba và Phaolô lên đường đi đến đảo Sýp, quê hương của Barnaba và từ đó sang Tiểu Á. Tại một trạm đầu tiên ở Tiểu Á, Marcô đã chia tay với Barnaba và Phaolô. Barnaba và Phaolô bắt đầu những trạm truyền giáo cam go nhất. Mỗi một bước đi là mỗi một lần bị chống đối và bách hại từ phía những người Do Thái. Những người này cũng xúi giục dân ngoại chống lại các vị tông đồ.
Tại Líttra, sau khi thánh Phaolô chữa lành một người tàn tật, dân thành xem các ngài như những vị thần. Họ định giết bò để tế cho các ngài nhưng liền sau đó bị người Do Thái xúi giục họ lại quay ra tấn công hai ngài. Riêng thánh Phaolô bị gây thương tích. Dù bị chống đối và bách hại, hai vị tông đồ vẫn hoán cải được nhiều người cũng như tổ chức được giáo đoàn. Bị người Do Thái và dân ngoại chống đối và bách hại, Barnaba và Phaolô còn gặp khó khăn ngay cả từ phía cộng đoàn Giêrusalem. Vấn đề xoay quanh việc có nên cắt bì cho dân ngoại không. Hai vị thánh này đã tranh đấu và cuối cùng đã tìm được giải pháp trong cộng đoàn Giêrusalem.
Về sau, trong chuyến đi trở lại để viếng thăm các cộng đoàn, Barnaba và Phaolô đã chia tay nhau mỗi người một ngả. Barnaba đi với Marcô đến Sýp; Thánh Phaolô cùng với một người môn đệ tên là Xila trở lại Tiểu Á. Những năm tháng còn lại của Barnaba không còn được nhắc đến nữa. Nhưng cũng như thánh Phaolô, thánh Barnaba vừa rao giảng Tin Mừng vừa tự lực cánh sinh. Khi thánh Phaolô bị giam tại Rôma, Marcô đã trở thành môn đệ của ngài. Ðiều này cho thấy rằng Barnaba không còn nữa.
Theo truyền thuyết, thánh Barnaba là vị giám mục đầu tiên của thành Milanô. Dù thế nào đi nữa, tất cả mọi truyền thuyết đều gặp nhau trong cùng một điểm là xem Barnaba như con người được mến chuộng nhất trong thế hệ Kitô đầu tiên. Trong sách Tông Ðồ Công Vụ, thánh sử Luca gọi ngài là một con người tốt, đầy tràn Chúa Thánh Thần. Thái độ của ngài đối với thánh Marcô chứng tỏ một trái tim nhân hậu và đại lượng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Thánh Barnabas
Thánh Barnabas, một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội, đóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Qua sách Công Vụ Tông Ðồ, chúng ta được biết ngài là người Do Thái ở Cypriot tên thật là Giuse, và các tông đồ đã đặt tên cho ngài là Barnabas sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông đồ cai quản.
Mặc dù Barnabas không phải là một người trong nhóm Mười Hai nguyên thủy, Thánh Luca coi ngài như vị tông đồ vì ngài được lãnh nhận nhiệm vụ đặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Một trong những đóng góp quan trọng của Barnabas là ngài đã đảm bảo cho Saolô, một người mới tòng giáo mà ai ai cũng sợ hãi vì quá khứ bắt đạo của Saolô. Sau đó, Barnabas được sai đi rao giảng ở Antiôkia. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnabas đã xin Phaolô (tên cũ là Saolô) đến tiếp tay; cả hai đã xây dựng một giáo hội thật phát triển. Theo sách Công Vụ Tông Ðồ, chính ở Antiôkia mà “lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô Hữu.”
Chính trong cộng đoàn siêng năng cầu nguyện này mà “Thánh Thần phán bảo, 'Hãy dành riêng cho Ta Barnabas và Phaolô để lo cho công việc mà Ta đã kêu gọi hai người ấy.” Sau đó họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi.” Do đó, Barnabas và Phaolô khởi hành chuyến đi truyền giáo đầu tiên thực sự ở nước ngoài, trước hết đến Cyprus (là nơi họ hoán cải một quan đầu tỉnh người Rôma) và sau đó đến lục địa Tiểu Á. Lúc đầu các ngài rao giảng cho người Do Thái, nhưng bị chống đối dữ dội nên họ quay sang rao giảng cho dân ngoại và đã thành công lớn. Trong một thành phố, người Hy Lạp quá mến mộ các ngài đến nỗi họ tôn thờ Barnabas và Phaolô như các thần Zeus và Hermes. Vất vả lắm thì các ngài mới ngăn cản được đám đông hiếu khách ấy đừng dâng của lễ mà tế các ngài.
Công cuộc truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh vấn đề là người tòng giáo có phải cắt bì theo luật Do Thái hay không. Phaolô và Barnabas đã chống đối tập tục này và lập trường của các ngài đã làm chủ tình hình trong Công Ðồng Giêrusalem.
Barnabas và Phaolô dự định tiếp tục công cuộc truyền giáo, nhưng ngay tối trước khi khởi hành, một bất đồng xảy ra là có nên đem theo một môn đệ nữa hay không, là ông Gioan Máccô. Vì vấn đề này mà hai tông đồ tách làm đôi. Phaolô đem Silas đi Syria, còn Barnabas đem Máccô đến Cyprus. Sau này, ba người: Phaolô, Barnabas và Máccô đã làm hòa với nhau.
Mặc dù không có những dữ kiện rõ ràng, dường như Barnabas, với sự tháp tùng của Gioan Máccô, đã trở về Cyprus. Ở đây, theo truyền thuyết, ngài đã chịu tử đạo vào năm 61.
Lời Bàn
Thánh Barnabas được đề cập như một người tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Ngài là người “đầy tràn Thánh Thần và đức tin. Do đó đã lôi cuốn một số đông người về với Chúa.” Ngay cả khi ngài và Thánh Phaolô bị trục xuất khỏi Antiôkia, họ “tràn ngập niềm vui và Thánh Thần.”
(Trích trong ‘Gương Thánh Nhân’ – http://nguoitinhuu.com)
SUY NIỆM 3: Gợi ý từ ‘Hạt giống… Nảy mầm’ của Lm. Trọng Hương
A. Hạt giống...
Những chỉ dẫn tiếp theo về cách đối xử của người được sai đi giảng Tin Mừng:
- Công việc sẽ làm: “chữa lành” người đau yếu.
- Trừ quỷ.
- Tinh thần phục vụ quảng đại: Hãy cho cách nhưng không, vì trước đó ta đã lãnh nhận cách nhưng không.
- Đừng quá bận tâm đến những phương tiện vật chất. Có thứ gì thì dùng thứ đó.
- Cũng đừng quá quan tâm kén chọn chỗ trọ.
- Phải đem bình an đến cho những người mình gặp gỡ.
B.... nẩy mầm.
1. “Các con hãy rao giảng rằng Nước Trời đã đến gần”: nhiều người không tin có Thiên Chúa, nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa ở quá xa. Sứ giả Tin Mừng phải làm cho người ta tin rằng Thiên Chúa và Nước Trời đang ở thật gần, bởi vì Thiên Chúa chính là Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
2. “Chữa lành các bệnh nhân…, làm cho kẻ chết sống lại…, làm cho những người cùi được sạch… trừ quỷ…”: tông đồ là một con người chuyên làm lành: xoa dịu những đau khổ, đem lại lẽ sống cho kẻ tuyệt vọng, giúp đỡ những người bị xã hội khinh chê, giải thoát người ta khỏi tội lỗi…
3. “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không”: Làm tông đồ cũng là một bổn phận công bình. Tôi đã lãnh nhận rất nhiều từ Chúa và Giáo Hội cho nên tôi cũng phải biết cho đi.
4. Nhận và cho: Một hôm có một vị bá tước đến cho Thánh Gioan Thiên Chúa số tiền 25 đồng vàng để ngài giúp những người nghèo khổ. Ngay chiều hôm ấy, ông ta giả trang làm một người ăn xin đến xin thánh nhân bố thí. Thánh Gioan Thiên Chúa động lòng thương, lấy cả số tiền 25 đồng vàng đem cho người ấy kèm với những lời khích lệ an ủi. Ngày hôm sau, vị bá tước đích thân đến thú nhận tất cả với thánh nhân và xin lỗi vì đã thử lòng bác ái của Ngài. Khi từ giã, ông đưa tặng thêm 150 đồng vàng nữa ngoài số 25 đồng mà ông xin hoàn lại. Từ đó cứ mỗi tuần ông lại gởi tới bệnh viện của thánh nhân một số tiền lớn, một số thuốc men, lương thực và quần áo để thánh nhân giúp đỡ những người nghèo (Góp nhặt)
5. Phaolô và Banaba đều là những tông đồ nhưng cá tính và cách đối xử khác hẳn nhau. Phaolô thì nguyên tắc và cứng rắn, còn Banaba thì tình cảm và mềm dẽo. Bởi thế đôi khi hai ông đụng độ nhau: lần thứ nhất là về vấn đề ăn chung Ga 2,13). Số là Giáo Hội đã có quyết định rằng lương dân tòng giáo không bị buộc giữ tục lệ do thái giáo, trong đó có tục lệ phân biệt những món ăn nào sạch những món ăn nào dơ. Bởi đó các tông đồ đều hòa đồng với lương dân, ăn chung bàn với họ. Nhưng một lần kia vì có mặt những người do thái nên vì muốn không gây khó chịu cho họ, thánh Banaba và cả thánh Phêrô đã tránh ngồi chung bàn ăn với những người lương tòng giáo. Lần đó Phaolô đã nổi giận đứng lên công khai trách nặng hai ngài. Nhưng sách thánh không viết gì về phản ứng ngược lại của hai vị, tức là hai vị đã nhịn. Phêrô vị lãnh đạo Giáo Hội, Banaba người đỡ đầu cho Phaolô, còn Phaolô chỉ là một kẻ đến sau, một người cấp dưới. Thế mà hôm nay người đến sau và người cấp dưới ấy công khai chỉ trích hai bậc trưởng thượng trước mặt cả người do thái lẫn người lương tòng giáo. Vậy mà hai vị này vẫn nhịn. Thật là một tấm gương về lòng khiêm tốn và coi trọng hòa khí. Lần đụng độ thứ hai là về việc của Marcô (Cv 15,39): Trong chuyến truyền giáo thứ nhất, Banaba đã cho Marcô nhập đoàn. Nhưng sau một số gian khổ, Marcô đã bỏ cuộc về nhà với mẹ. Phaolô giận lắm. Đến khi chuẩn bị chuyến truyền giáo thứ hai, Banaba lại rủ Marcô theo, có ý là để Marcô đoái công chuộc tội. Nhưng Phaolô cương quyết không nhận. Phần Banaba thì cũng thiết tha muốn cứu vớt Marcô nên cũng nhất định giữ anh này. Kết quả là Banaba và Phaolô đành phải chia tay nhau, mỗi người dẫn một đoàn truyền giáo riêng đi giảng một hướng riêng. Chuyện bất đồng này lại sinh kết quả tốt là việc truyền giáo càng được đẩy mạnh hơn. Còn thêm một kết quả nữa chứng minh quan điểm của Banaba là hợp lý, đó là ông đã thực sự cứu chữa được Marcô, Marcô trở thành một tông đồ nhiệt thành và tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.
Mỗi người chúng ta khi sinh ra mang sẵn một loại tính tình. Hãy sống Tin Mừng và loan Tin Mừng theo cá tính riêng của mình.
6. Đoạn Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Chúa Giêsu căn dặn các tông đồ trước khi sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Trong đó lời dặn đầu tiên là “Anh em hãy chữa lành” và lời dặn cuối cùng là “Đến đâu anh em hãy mang bình an tới đó”. Với cá tính tự nhiên thích hợp với hai điều này, Thánh Banaba đã thực hiện rõ nhất hai lời căn dặn này của Chúa:
- Ngài đã cứu chữa Phaolô khi đứng ra bảo lãnh Phaolô trước mặt các tông đồ; rồi giúp cho hai bên hoà thuận với nhau, cộng tác nhau vui vẻ.
- Ngài đã cứu chữa giáo đoàn Antiôkhia, chẳng những hóa giải được mối e ngại của Giêrusalem đối với những hoạt động truyền giáo của giáo đoàn non trẻ này, mà còn khuyến khích họ, bồi dưỡng giáo lý cho họ và nâng uy tín của họ đối với giáo đoàn mẹ Giêrusalem. Rồi lại làm cho hai giáo đoàn mẹ con hòa thuận hợp tác.
- Ngài cứu chữa chính giáo đoàn mẹ Giêrusalem, đem đồ cứu trọ của Antiôkhia về cho Giêrusalem.
- Cùng với Phaolô, Ngài cứu chữa các tín hữu gốc lương dân. Bênh vực họ trong hội nghị Giêrusalem. Góp phần làm cho kitô hữu gốc do thái và kitô hữu gốc lương dân sống hòa thuận với nhau trong cùng một niềm tin.
- Ngay cả khi đụng chạm với Phaolô, Thánh Banaba cũng được thúc đẩy bởi tấm lòng thích cứu chữa và hòa giải: trong vụ ăn uống là vì Ngài không muốn gây vấp phạm cho các tín hữu gốc do thái; trong vụ Marcô là vì Ngài muốn cứu vớt một kẻ đã lỡ một lần lỗi phạm.
7. “Đừng sắm vàng bạc hay tiến đồng để giắt lưng. Đi đường đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày hay cầm gậy” (Mt 10,9-10)
Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan đã lên đường. Họ tức khắc bỏ chài lưới mà lên đường. Họ muốn tung cánh trong tự do bát ngát. Họ gieo Tin Mừng khắp cánh đồng Galilê.
Quê hương con, bao thế hệ cũng đã lên đường. Họ kiếm tìm bình đẳng, bác ái và tự do. Họ đấu tranh cho công bằng xã hội. Họ xây dựng một thế giới hòa bình. Và nhiều người đã bỏ mình vì Nước Chúa.
Còn con… Con cần đội chiếc mũ bằng cấp. Con thích mặc chiếc áo sắc đẹp. Con muốn xỏ đôi giày tình yêu. Con ham vác vài bao của cải, và tay cầm cây gậy quyền năng. Rồi con trở nên nặng nề vì các tạo vật ấy.
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. Xin sai chúng con lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. (Hosanna)
SUY NIỆM 4: Thánh Barnaba
Dù không phải là một trong số mười hai tông đồ được Đức Chúa Giêsu tuyển chọn, nhưng thánh Barnaba được thánh ký Luca gọi là tông đồ trong sách Tông đồ Công vụ của ngài. Vì như tông đồ Phaolô, Barnaba cũng nhận được từ Thiên Chúa một sứ vụ đặc biệt. Thánh nhân là người gốc Dothái, sinh tại đảo Cyprô. Tên của ngài là Giuse nhưng các tông đồ đổi thành Barnaba. Danh xưng này có nghĩa là “con của sự an ủi.”
Ngay khi trở thành Kitô hữu, thánh Barnaba đã bán tất cả những gì ngài có và đem tiền dâng cho các tông đồ. Thánh nhân là người tốt bụng. Ngài rất nhiệt thành hăng say tin yêu Đức Chúa Giêsu. Barnaba được sai đến thành Antiôkia để rao giảng Tin mừng. Antiôkia là thành phố lớn thứ ba trong đế quốc Rôma thời ấy. Tại đây, những người tin theo Đức Chúa Giêsu lần đầu tiên được gọi là Kitô hữu. Barnaba nhận thấy mình cần sự giúp đỡ nên liền nghĩ tới Phaolô thành Tarsô. Ngài tin rằng Phaolô đã thực sự được ơn trở lại. Chính Barnaba đã đứng ra thuyết phục thánh Phêrô và cộng đoàn Kitô hữu; và đã xin cho Phaolô đến làm việc với mình. Barnaba là người khiêm tốn. Ngài không ngại chia sẻ năng lực và trách nhiệm. Ngài cũng biết Phaolô có một ân sủng rất đặc biệt và ngài muốn thánh nhân có cơ hội để trao ban.
Một thời gian sau, Chúa Thánh Linh đã chọn Phaolô và Barnaba để thực hiện một sứ vụ quan trọng. Sau đó không lâu, hai vị tông đồ đã lên đường thực hiện sứ mệnh anh dũng này. Các ngài đã phải chịu nhiều đau khổ và thường hay gặp nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng giữa những thử thách cam go, việc rao giảng của các ngài đã thuyết phục được nhiều người trở về với Đức Chúa Giêsu và Giáo hội của Người.
Sau đó, thánh Barnaba tiếp tục thực hiện một cuộc truyền giáo khác. Lần này với thánh Marcô, người bà con với ngài. Họ đi về Cyprô, quê hương của Barnaba. Qua việc rao giảng của thánh Barnaba, rất nhiều người đã trở nên Kitô hữu đến nỗi Barnaba được gọi là tông đồ của đảo Cyprô. Theo ý kiến chung, người ta cho rằng vị đại thánh này đã bị ném đá chết vào năm 61.
Thánh Barnaba đã nhận một danh xưng biểu hiệu đúng con người của ngài: một người tốt luôn luôn khuyến khích người khác yêu mến Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện với vị thánh này và xin ngài làm cho chúng ta cũng được trở nên những “người con của sự an ủi” như thánh nhân.
SUY NIỆM 5: Thánh Barnaba
Mặc dù thánh Barnaba không phải là một người trong nhóm mười hai tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu, nhưng thánh Luca coi ngài như vị tông đồ, vì ngài được lãnh nhận nhiệm vụ đặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Thánh nhân là người gốc Do Thái, sinh tại đảo Síp. Tên của ngài là Giuse, nhưng các tông đồ đổi thành Barnaba sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông đồ cai quản. Danh xưng này có nghĩa là “người con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi.”
Thánh Barnaba là một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội. Ngài đóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Đồng thời, chính ngài là người đã đứng ra đảm bảo về sự trở lại thực sự của thánh Phaolô trước mặt cộng đoàn Kitô hữu khi Phaolô mới trở lại đạo. Sau đó, Barnaba được sai đi rao giảng ở Antiôkia để rao giảng Tin Mừng. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnaba đã xin Phaolô đến giúp sức cho mình. Cả hai đã xây dựng một Giáo Hội thật phát triển tại nơi đây. Theo sách Công Vụ Tông Đồ, chính ở Antiôkia mà "lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu".
Sau một thời gian, Chúa Thánh Thần đã chọn thánh Barnaba và thánh Phaolô để thực hiện một sứ vụ quan trọng, đó là đem Tin Mừng đến cho dân ngoại. Do đó, hai ông đã khởi hành chuyến đi truyền giáo đầu tiên ở nước ngoài, trước hết là đến Síp và sau đó là đến lục địa Tiểu Á. Lúc đầu các ngài rao giảng cho người Do Thái, nhưng bị chống đối dữ dội nên họ quay sang rao giảng cho dân ngoại và đã thành công lớn. Tuy nhiên, công cuộc truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh một vấn đề là người tòng giáo có phải cắt bì theo luật Do Thái hay không. Thánh Phaolô và Barnaba đã chống đối tập tục này và lập trường của các ngài đã được Công đồng Giêrusalem chấp thuận, tức là những người ngoài Do Thái khi rửa tội không buộc phải chịu cắt bì.
Barnaba và Phaolô dự định tiếp tục công cuộc truyền giáo của mình, nhưng ngay tối trước khi khởi hành, một bất đồng xảy ra là có nên đem theo một môn đệ nữa hay không, là ông Máccô, vị thánh sử tương lai. Vì vấn đề này mà hai tông đồ tách làm đôi. Phaolô đem Silas đi Syria, còn Barnaba đem Máccô đến đảo Síp. Sau này cả ba người là Phaolô, Barnaba và Máccô đã làm hòa với nhau.
Tuy không có những dữ kiện rõ ràng, nhưng theo truyền thuyết thì thánh Barnaba đã được phúc tử đạo tại Síp vào năm 61. Đồng thời, truyền thống Hội Thánh nhìn nhận ngài là vị sáng lập Hội Thánh tại đảo Síp. Bên cạnh đó, người ta nói rằng mộ Ngài được tìm thấy năm 448 và trên ngực ngài còn có một cuốn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Barnaba đã chép tay.
Thánh Barnaba là mẫu gương về lòng nhiệt thành trong việc rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, và là mẫu gương về một đời sống khiêm nhường, bác ái và chia sẻ cho tha nhân. Chúng ta hãy cầu xin thánh nhân phù trợ cho mỗi người chúng ta, để trong đời sống thường ngày chúng ta biết quan tâm và chia sẻ Tin Mừng tình yêu của Chúa đến cho mọi người.
Pet. Hải Văn SDB
SUY NIỆM 6: Thánh Barnaba
Thánh Barnaba nắm giữ một chức vụ nổi bật trong những chương đầu của sách Công Vụ Tông Đồ, không phải cho mình mà nhằm giới thiệu thánh Phaolô, anh hùng trong cuốn sách.
Ngài là một người Do Thái được sinh tại Chypre. Và là một phần tử trong Giáo Hội sơ khai ở Giêrusalem. Chính ở địa vị này mà khoảng năm 39 tân tòng Saolê được đón nhận vào cộng đoàn các tông đồ (Cv 9-27). Bốn năm sau, Ngài kêu gọi Saolê tham gia công tác hướng dẫn cộng đoàn Kitô giáo mới được thiết lập ở Antiôkia (Cv 11,19-26). Thành phố này rất quan trọng, chỉ kém Rôma và đã trở nên trung tâm Kitô giáo của lương dân.
Một lần nữa, cùng với Saolê, Ngài được trao phó cho nhiệm vụ mang tiền cứu trợ gởi về cho Giáo Hội Giêrusalem (Cv 27-30). Nơi đây hai người lại được Gioan Marô là bà con của Barnaba (Gl 4,10) nhập bọn. Ba người họp thành đoàn truyền giáo, lên đường khoảng năm 45 (Cv 13 và 14). Từ đây Barnaba dần dần ẩn mặt đi. Dầu Chypre là sinh quán của Ngài, nhưng chính Saolê dưới tên mới là Phaolô dẫn dầu cuộc truyền bá Phúc Âm. Phaolô và đoàn tùy tùng lên đường tới lục địa Tiểu Á. Khi cùng Phaolô rao giảng (Cv 14,8-18), Barnaba được coi là thần Jupiter và Phaolô là Hermes. Đây là chứng cớ hùng hồn về vai trò hỗ tương của hai ông. Ba năm sau Phaolô trở về và được cộng đồng Giêrusalem phê chuẩn về đường lối Ngài theo trong chuyến hành trình (Cv 15,1-35).
Năm sau, dự định hành trình truyền giáo thứ hai có sự tranh chấp về việc kết nạp Gioan Marcô (Cv 15,35-41). Phaolô chọn các bạn đồng hành khác và Barnaba trở về Chypre. Việc giới thiệu Phaolô đã được hoàn thành và tên Ngài không còn được nhắc đến trong sách Công Vụ nữa. Trong việc trao đổi thư từ của Phaolô với Giáo Hội Côrintô cho thấy khoảng năm 56 thánh Barnaba vẫn còn sống (1Cr 9,5). Sáu năm sau Phaolô xin Marcô đến gặp mình ở Roma (2Tm 4). Sự kiện này cho phép chúng ta nghĩ rằng thánh Barnaba đã qua đời.
Một truyền thống sau này nói tới chuyến hành trình của thánh Barnaba tới Alexandria, Rôma, và Milan. Tại Milan, Ngài là Giám mục tiên khởi. Một truyền thống đáng tin hơn cho biết Ngài chết vì ném đá ở Salamis, sinh quán của Ngài. Nay còn nhiều mảnh vụn của cuốn ngụy thư Phúc Âm thánh Barnaba và của một tác phẩm thuộc thế kỷ thứ V là công vụ thánh Barnana. Nhưng những tài liệu này không cho biết nhiều hơn những điều đã biết được từ sách Công Vụ các tông đồ. cuốn gọi là thơ thánh Barnaba mà nhiều giáo phụ chép vào thơ mục Thánh Kinh, nay người ta biết được là tác phẩm của một người Do Thái theo Kitô giáo ở Alexandria.
Người ta nói rằng mộ Ngài được tìm thấy năm 448. Trên ngực Ngài còn có một cuốn Phúc Âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Ngài đã chép tay.
(tgpsaison.net)
SUY NIỆM 7: Thánh Barnaba
Thánh Bác-na-ba vốn là một Thầy Lê-vi, và là con của một chủ trang trại người Sýp, gốc Do-thái. Tên khai sinh của Ngài là Giu-se, nhưng các Tông Đồ đã đổi tên cho Ngài thành Bác-na-ba, nghĩa là người có tài yên ủi (Cv 4,36). Trong cuộc bầu chọn để trở thành thành viên của nhóm Mười Hai, Ngài cũng là một trong hai ứng cử viên được đề cử để thế chỗ cho Giu-đa Ít-ca-ri-ốt. Tuy nhiên khi các Tông Đồ tổ chức rút thăm thì Ngài đã không trúng, nhưng thánh Mát-thi-a đã trúng (Cv 1,23-26). Sau khi gia nhập cộng đoàn Giáo hội sơ khai, Thánh Nhân đã bán hết tài sản, nhà cửa và ruộng vườn của mình đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ (Cv 4, 36-37). Thánh Nhân còn là người có tài khuyên bảo, đầy Thánh Thần và Đức Tin (Cv 11,23-24). Không những thế, Thánh Bác-na-ba còn là người bảo lãnh để Cộng đoàn Giáo hội tiên khởi tại Giê-ru-sa-lem đón nhận Thánh Phao-lô, khi vị Tông Đồ này trở lại (Cv 9,26-27).
Sau khi Thánh Phao-lô bị gửi về quê, còn mình thì được các Tông Đồ cử đến Antiochia (tức Antakya ngày nay), Thánh Bác-na-ba đã trẩy đi Tác-xô để tìm Thánh Phao-lô. Sau đó cả hai cùng trở lại Antiochia và cùng hoạt động truyền giáo tại đó trong suốt một năm (Cv 11,22-26). Thánh Bác-na-ba cũng đồng hành với Thánh Phao-lô trong cuộc hành trình truyền giáo đầu tiên tới đảo Sýp, cũng như tới vùng Tiểu Á. Cả hai đã cùng tham dự Công Đồng Giê-ru-sa-lem. Tại Công Đồng này, các Tông Đồ đã thống nhất quyết định sẽ thi hành sứ mạng truyền giáo cả ở nơi người Do-thái lẫn nơi người gốc dân ngoại (Cv 15,2-35).
Một cuộc tranh cãi đã nổ ra giữa Thánh Phao-lô và Thánh Bác-na-ba vì vấn nạn liên quan đến bổn phận phải tuân giữ những quy luật Do-thái giáo đối với các Ki-tô hữu gốc dân ngoại (Gl 2,11-14; Cv 15,22-35), và vì Gio-an Mác-cô, người em họ của Bác-na-ba. Do cuộc tranh cãi này nên hai vị Tông Đồ đã chia tay nhau. Sau đó, Thánh Bác-na-ba cùng với Thánh Mác-cô đã đến thăm các Cộng Đoàn tại đảo Sýp, quê hương của Ngài (Cv 15,39). Theo nhiều truyền thuyết có tính huyền thoại, Thánh Bác-na-ba đã chữa lành nhiều bệnh tật bằng cách dùng cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu mà Ngài luôn mang theo mình, để đặt lên đầu các bệnh nhân. Cũng theo truyền thuyết, Thánh Bác-na-ba còn đến truyền giáo tại Rô-ma, và đã ban Bí Tích Thanh Tẩy cho một tân tòng, mà sau này người tân tòng ấy đã trở thành Giám mục của Rô-ma, tức Đức Giáo Hoàng Clê-men-tê I. Rời Rô-ma, Ngài đến Mi-lan, và được coi là Giám mục tiên khởi của Giáo đoàn này. Nhưng theo một truyền thuyết khác thì Thánh Bác-na-ba đã trở lại đảo Sýp, và tại đó, Ngài đã được phúc Tử Đạo thông qua việc bị ném đá đến chết.
Một số chuyên gia đã so sánh Thánh Bác-na-ba ngang hàng với Thánh Phao-lô về tầm quan trọng của Ngài trong công cuộc truyền giáo cho dân ngoại.
Có một bức thư mang tên của Ngài, nhưng nó được coi là mạo danh, và cũng được xếp vào hàng ngũ các sách Ngụy Thư. Bức thư này muốn chứng minh những huấn giáo của Ki-tô giáo nguyên thủy về Chúa Giê-su Ki-tô và về cuộc khổ hình của Ngài như là sự tương ứng và hài hòa với Cựu Ước; trong thời Giáo hội cổ đại, bức thư này đôi khi được coi như thành phần của quy điển Tân Ước. Thực tế thì bức thư đó đã xuất hiện khá muộn, chỉ khoảng vào năm 130, và với cách giải thích Cựu Ước có tính bài Do-thái của mình, nên bức thư này không được công nhận là của Thánh Bác-na-ba. Cũng có một cuốn Tin Mừng mạo danh Thánh Nhân, nhưng tiếc rằng nó đã bị thất truyền. Một tác phẩm khác cũng mạo danh Thánh Nhân, nhưng mãi cho tới thế kỷ XVI nó mới được biên soạn. Theo một truyền thống trước đây, mà truyền thống này phát xuất từ Tertullianô, Thánh Bác-na-ba được coi là tác giả của Thư gửi Tín Hữu Do-thái.
Các Giáo hội Chính Thống đã liệt Thánh Nhân vào nhóm 70 môn đệ do đích thân Chúa Giê-su tuyển chọn.
Tương truyền về việc Thánh Bác-na-ba được hưởng phúc Tử Đạo tại đảo Sýp xem ra đáng tin cậy hơn. Theo đó, Ngài đã được phúc Tử Đạo vào khoảng năm 63 dưới thời hoàng đế Nero, và được an táng tại đó trong một hang mộ của một nghĩa trang lớn thuộc vùng Salamis cổ, tức khu hoang tàn của Famagusta ngày nay (phía Đông đảo Sýp). Một ngôi Thánh Đường của Giáo hội Sýp đã được kiến thiết trên ngôi mộ của Ngài. Sau một cuộc tranh cãi lâu dài giữa các nhà lãnh đạo của Giáo hội Sýp với Đức Thượng Phụ Giáo chủ Antiochia về tính độc lập của Giáo hội Sýp, tại Công Đồng Ê-phê-sô, các Nghị Phụ đã đưa ra quyết định nghiêng về Giáo hội Sýp, nhưng Antiochia đã thu hồi quyết định đó. Theo tương truyền, vào năm 477, trong một buổi tối, Thánh Bác-na-ba đã hiện ra với Đức Tổng Giám Mục Anthemios của đảo Sýp, và đã chỉ cho Đức Tổng Giám Mục này biết vị trí ngôi mộ của Ngài. Sau đó, thi hài của Thánh Nhân đã được tìm thấy. Khai quật ngôn mộ của Ngài, người ta phát hiện ra rằng, khi Thánh Bác-na-ba qua đời, người bạn đường của Ngài là Thánh Mác-cô, đã an táng Ngài một cách hết sức trang trọng. Trên ngực của Thánh Bác-na-ba có đặt một bản sao cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu do chính Thánh Bác-na-ba chép lại. Đức Tổng Giám mục Anthemios đã cấp tốc báo cho triều đình hoàng đế Zenon tại Constantinopoli biết tin về vụ khai quật. Qua đó vị Giám mục của Giáo hội Sýp đã thuyết phục được nhà cầm quyền rằng, Giáo hội Zýp được thành lập bởi Thánh Bác-na-ba, nên không ít tính Tông Truyền hơn Giáo hội Antiochia, và vì thế được coi là ngang hàng với Giáo hội đó. Một nguồn suối đã bắt nguồn ngay bên cạnh ngôi mộ trống ngày nay. Nguồn suối này được cho là có khả năng chữa lành cũng như có khả năng kỳ diệu, đặc biệt là đối với những phụ nữ vô sinh và những bệnh ngoài da. Vào năm 1953, một nhà nguyện mới đã được kiến thiết ngay trên phần mộ được cho là của Thánh Bác-na-ba.
Các Thánh Tích của Thánh Bác-na-ba đã được tôn kính tại nhiều nhà thờ khác nhau trên nước Ý, và tại một số nơi khác như Prag (Tiệp Khắc), Köln, Andechs (Đức), Toulouse (Pháp) và Namur (Bỉ).
Lm Đa-minh Thiệu O.Cist
- 10/06 Chúa Giêsu và tương quan thực sự
- 09/06 Mẫu mực trong đời sống đức tin
- 08/06 Tình yêu của Chúa
- 07/06 Giới răn trọng nhất
- 06/06 Người chết sống lại
- 05/06 Bổn phận với Thiên Chúa và với trần thế
- 04/06 Dụ ngôn tá điền sát nhân
- 03/06 Bàn tiệc Thánh Thể
- 02/06 Do quyền phép nào?
- 01/06 Nhà cầu nguyện của mọi dân tộc