Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
28/08 Khốn cho kẻ giả hình
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Khốn cho kẻ giả hình.
Thứ ba tuần 21 thường niên – Thánh Âu-tinh, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Phải làm những điều này, và không bỏ các điều kia".
* Thánh nhân sinh năm 354 tại Ta-gát, châu Phi. Người đã trải qua giai đoạn thanh xuân đầy náo động cả về đạo lý lẫn cách sống cho tới khi được thánh Am-rô-xi-ô thanh tẩy cho năm 387. Người trở về quê hương và sống một cuộc đời khắc khổ. Rồi người được chọn làm giám mục giáo phận Híp-pôn. Trong suốt ba mươi bốn năm làm giám mục, người đã tận tụy chăm sóc đoàn chiên. Nhưng đáng kể nhất là tư tưởng và chứng tá đời sống của người đã lan tỏa. Người đã sống một cuộc đời hoàn toàn lo tìm kiếm Thiên Chúa và phục vụ Hội Thánh. Đối với người, Hội Thánh là cộng đoàn tín hữu Híp-pôn và đồng thời cũng là Thân Thể Chúa Kitô trải rộng khắp thế giới. Người qua đời năm 430.
Lời Chúa Mt 23, 23-26
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình: các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, hồi hương và thì là, còn những điều quan trọng hơn trong lề luật, là đức công bình, lòng nhân từ và lòng tin thì các ngươi lại bỏ qua; đáng lẽ phải làm những điều này và không bỏ các điều kia.
"Hỡi những kẻ dẫn đường đui mù, các ngươi gạn lọc một con muỗi ra, nhưng lại nuốt trửng cả con lạc đà. Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, vì các ngươi rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong, các ngươi đầy gian tham và nhơ bẩn. Hỡi những người biệt phái đui mù, hãy rửa bên trong chén đĩa trước đã, để bên ngoài cũng được sạch".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Kết án thái độ vụ hình thức
Tin Mừng hôm nay ghi lại hai lời kết án của Chúa đối với thái độ vụ hình thức. Trước hết là việc giữ luật bên ngoài thật tỉ mỉ, mà không có lòng đạo đức thật, không thi hành công bằng và tình yêu thương.
Trong Do thái giáo, luật đóng thuế thập phân trên những sản phẩm con người làm ra là một hành động tôn giáo để nhìn nhận quyền tối cao của Thiên Chúa. Theo luật Môsê được ghi trong sách Thứ Luật, thì chỉ buộc trả thuế thập phân trên những sản phẩm chính là gạo, rượu, dầu, con vật đầu lòng. Thế nhưng, có lẽ vì quá sốt sắng, những Luật sĩ và Biệt phái muốn áp dụng thuế thập phân cho những sản phẩm nhỏ, không cần thiết như: bạc hà, thì là, rau húng.
Chúa Giêsu không kết án các Luật sĩ và Biệt phái vì sự tuân giữ luật Môsê một cách tỉ mỉ; nhưng Ngài kết án vì thái độ không trung thực: họ tuân giữ những điều hết sức nhỏ để tỏ ra mình sốt sắng đạo đức, nhưng họ lại lỗi phạm những điều lớn về đức công bằng và tình yêu thương, họ làm như thế chẳng khác nào lọc lừa con muỗi ra ngoài, nhưng lại nuốt con lạc đà nguy hiểm hơn.
Thái độ vụ hình thức thứ hai của các Luật sĩ và Biệt phái còn được thể hiện trong sự tuân giữ những nghi thức bên ngoài, mà không chăm lo tinh tuyền bên trong: họ lo rửa chén đĩa bên ngoài, mà bên trong tâm hồn thì đầy cướp bóc, tham lam. Việc tuân giữ nghi thức thanh tẩy bên ngoài, việc đến nhà thờ đọc kinh ngoài môi miệng mà thôi chưa đủ, cần phải để cho ơn Chúa biến đổi tận bên trong tâm hồn ngõ hầu trở nên con người mới. Sự hoán cải nội tâm quan trọng hơn và phải đi trước những thực hành đạo đức bên ngoài để tránh thái độ giả hình, vụ hình thức đáng bị Chúa khiển trách.
Nguyện xin Chúa thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi những tham lam, ích kỷ, hẹp hòi. Xin cho chúng ta sống ngay chính bên trong cũng như bên ngoài, sống điều chúng ta nói trên môi miệng để làm chứng cho Chúa giữa mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Công bình, nhân ái, thành tín, trong sạch
Đức Giêsu nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong lề luật là công bình, lòng nhân và thành tín. Phải làm các điều này mà không bỏ các điều kia.” (Mt. 23, 23)
Tôi rất thích mấy câu Phúc Âm này. Một lần nữa Đức Giêsu tỏ ra yêu thương những người biệt phái. Người hiểu và kính trọng họ biết bao. Nhưng Người cũng khiển trách thái độ nước đôi của họ: Vừa cứu vãn những vẻ bề ngoài bằng những cử chỉ vô ích, vừa loại bỏ những điều chân thực bên trong.
Đó là kiểu mẫu người tốt thời Đức Giêsu và chúng ta ngày nay cũng thế. Một đàng họ rất khắt khe tỉ mỉ bên ngoài, đàng khác họ quá phóng túng bên trong. Họ tỏ ra rất tự do rộng rãi đối với những điều thật sự quan trọng.
Càng đọc đi đọc lại những câu Tin Mừng này, tôi càng thấy nực cười! Đó là những câu rất đúng với hiện tại! Nếu chúng ta muốn rõ, chúng ta thử tự đánh giá mình một chút xem Tin Mừng là tấm gương soi cái gì?
Ba điều:
Ba điều này làm cho chúng ta phải chú ý: “Ba điều quan trọng nhất trong lề luật là: Công bình, lòng nhân ái và thành tín”. Các ngôn sứ, Đức Kitô, thánh Phao-lô và ngày nay Giáo Hội hằng rao giảng. Chính những điều này. Những bổn phận về công bình xã hội và tình yêu thương quan trọng hơn những bổn phận về nghi lễ. Các Ngài đã không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng: Giúp những người nghèo khó, trung tín trong đời sống gia đình, công bình xã hội trong công ăn việc làm, định mức giá cả, thuế má, đồng lương. Ngôn sứ Za-ca-ri-a cũng kêu gọi: “Hãy thực hiện công bình theo chân lý, thực hành lòng yêu thương đối với nhau. Chớ áp bức kẻ góa bụa, mồ côi, khách lạ, nghèo khó và đừng mưu mô trong lòng để hãm hại nhau” (7, 9-10).
Không trong sạch:
Nhờ so sánh những lời Đức Giêsu khiển trách biệt phái, chúng ta thấy đó cũng là những lời khiển trách chúng ta. Phải, Người khiển trách tôi, khiển trách bạn: “Các ngươi lọc con muỗi, nhưng lại nhốt con lạc đà”, “Các ngươi rửa sạch chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm cắp và vô độ”, bất công, lừa đảo lẫn nhau.
Chỉ con tim trong sạch mới nhìn thấy rõ Thiên Chúa. Không phải cái bên ngoài vào miệng làm cho con người ra nhơ bẩn, nhưng cái bên trong con người ra, mới làm nhơ bẩn con người thật sự. (Mt. 15, 11. 15-20)
JM
SUY NIỆM 3: TẠI SAO GIÀU CÓ LẠI KHÓ VÀO NƯỚC TRỜI? (Mt 19, 23-30)
Xem lại CN 28 TN. Thứ Ba tuần 8 TN.
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối trình thuật hôm qua về chuyện một thanh niên đến xin Đức Giêsu chỉ giáo để làm sao đạt được sự sống đời đời. Vì thế, Đức Giêsu đã bảo anh ta về bán tất cả của cải để bố thí cho người nghèo thì sẽ được sự sống viên mãn như anh mong muốn. Tuy nhiên anh ta đã buồn rầu và bỏ đi vì lòng anh đã bị đồng tiền che lấp mục đích đời đời.
Khi thấy như thế, Đức Giêsu quay sang các môn đệ và dạy cho các ông bài học về tác hại đồng tiền nếu coi đó là mục đích, là ông chủ. Ngài nói: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời".
Thực ra thì Đức Giêsu dùng lối nói ngoa ngữ để cho người nghe thấy được sự nguy hiểm của đồng tiền nếu làm sai mục đích.
Thật thật, vào được Nước Trời thế nào khi đồng tiền đó là quà hối lộ; là của cướp dật; là đâm thuê chém mướn; là cờ bạc...! Tệ hơn nữa, vì không phải là đồng tiền của mình làm ra bằng mồ hôi nước mắt, bằng công lao vất vả, nên lại dùng đồng tiền bất chính đã chiếm đoạt được để làm những chuyện bất chính khác ...!
Chỉ cần suy tư một chút thôi thì cũng đủ thấy sự nguy hiểm của đồng tiền khi đặt nó sai vị trí và sử dụng không đúng mục đích.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học:
Hãy dùng của cải để xây dựng hạnh phúc cho mọi người, từ trong gia đình đến xã hội cũng như lo việc bác ái, truyền giáo và xây dựng Giáo Hội.
Được như thế, ấy là chúng ta đã nghe theo Chúa và đi trên con đường hoàn thiện mà Chúa muốn chúng ta đi. Như vậy, sự bình an, hạnh phúc chính là phần thưởng Chúa dành cho những ai trung tín và khôn ngoan khi biết quản lý và biết sinh lợi nén bạc Chúa trao theo thánh ý Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa là lẽ sống và gia nghiệp của mình. Như thế, xin cho chúng con biết coi mọi sự chỉ là phù du, phương tiện để đạt được hạnh phúc. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 4: Bên trong, bên ngoài
Suy niệm :
Đức Giêsu đã từng nói về tám Mối Phúc trong Bài Giảng trên núi.
Trong chương này, Ngài sẽ nói với các kinh sư và nhóm Pharisêu bảy lần:
“Khốn cho các ngươi!”
Đây không phải là lời chúc dữ cho bằng là lời trách than, buồn tiếc,
vì những sự giả hình, che đậy nơi một số nhà lãnh đạo Do thái giáo.
Nhưng giả hình không phải chỉ là bệnh của một số kinh sư ngày xưa.
Nó là bệnh của những Kitô hữu trong Hội Thánh của Mátthêu sau năm 70.
Và nó cũng là bệnh của những Kitô hữu thuộc thế kỷ hai mươi mốt.
“Khốn cho các ngươi!” là một lời cảnh báo đối với chính bản thân tôi.
Bệnh được nhắc đến trong lời Khốn cho thứ tư (c. 23)
là bệnh quá tập trung vào điều phụ thuộc mà bỏ quên điều cốt yếu.
Có một số người Pharisêu bày tỏ sự đạo đức của mình
qua việc nộp thuế thập phân về những thứ rau lặt vặt họ trồng trong vườn.
Ba thứ rau thơm: bạc hà, thì là, rau húng, đúng ra không phải tính thuế,
vì chỉ phải nộp thuế về hoa lợi của vụ mùa, của vườn cây ăn trái thôi.
Nhưng có người đã nộp thuế về mọi thứ rau cỏ trong vườn (Lc 11, 42).
Thuế thập phân chỉ đòi nộp một phần mười sản phẩm nông nghiệp làm được,
để giúp việc thờ phượng Chúa trong Đền thờ và các người làm việc tại đó.
Đức Giêsu không cản chuyện nộp thuế về những điều lặt vặt (c. 23).
Ngài chỉ tiếc là những chuyện nặng ký hơn trong Lề Luật
như công lý, lòng nhân và thành tín, lại bị bỏ quên (c. 23).
Ba điều này đều được các ngôn sứ nhắc nhở (Is 1, 17; Hs 6, 6; Hb 2, 4).
Ngôn sứ Mikha đã viết một câu nổi tiếng (Mk 6, 8):
“Đức Chúa đòi anh em điều gì nếu không phải là sống theo công lý,
mến chuộng lòng nhân và khiêm hạ đi với Thiên Chúa của anh em.”
Có thể thái độ đạo đức giả bắt nguồn từ thói háo danh và sợ khó.
Nộp thuế dễ được người ta thấy hơn
và cũng khỏi phải hoán cải nơi bề sâu của lòng mình.
Tập trung vào những cái lặt vặt để khỏi phải áy náy về chuyện hệ trọng.
Làm tốt một chuyện nhỏ, nhưng lại làm hỏng một chuyện rất lớn.
Bệnh được nhắc đến trong lời Khốn cho thứ năm (c. 25)
là bệnh quá coi trọng cái bên ngoài mà coi thường cái bên trong.
Một số người Pharisêu loay hoay với chuyện lau sạch bên ngoài chén đĩa.
Họ sợ mình trở nên ô uế nếu sử dụng đồ chưa được rửa kỹ.
Tiếc thay, họ không để ý đủ đến sự nhơ uế bên trong tâm hồn.
Mà đó mới là thứ nhơ uế thật sự đáng quan tâm.
Có nguy cơ là sự sạch sẽ bên ngoài nhằm che đậy sự nhơ uế bên trong,
và đánh lừa cái nhìn của người khác, khiến họ lầm tưởng.
Thật ra trở về với lòng mình để nhận ra những ô nhơ, thật là điều khó.
Rửa tay trước khi ăn, rửa bát đĩa trước khi dùng, là điều dễ hơn nhiều.
Trở vào lòng mình, ta dễ bắt gặp bao tham lam, gian dối, thèm muốn vô độ.
Những điều ấy ta không muốn nhìn nhận có nơi mình.
Đức Giêsu mời chúng ta tìm kiếm sự tinh tuyền bên trong trước đã,
rồi mới để ý đến cái sạch sẽ bên ngoài sau (c. 26).
Xin Chúa cho chúng ta đừng bị đui mù, nhưng được sáng mắt (cc. 24. 26),
để biết phân biệt cái chính, cái phụ, cái trong, cái ngoài.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
27/08 Khốn cho các ngươi
- Viết bởi Mt 23, 13-22
Khốn cho các ngươi, …
Thứ hai tuần 21 thường niên – Thánh nữ Mônica. Lễ nhớ.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù".
Lời Chúa: Mt 23, 13-22
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đóng cửa nước trời không cho người ta vào: vì các ngươi không vào, mà kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đọc kinh cho dài để nuốt tài sản của các bà goá, bởi thế, các ngươi sẽ chịu phán xét nặng hơn.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi rảo khắp biển khơi và lục địa, để tìm cho được một người tòng giáo, nhưng khi đã cho người đó tòng giáo, các ngươi làm cho nó trở thành con cái hoả ngục gấp hai lần các ngươi.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù! Vì các ngươi nói rằng: Ai lấy đền thờ mà thề, thì không có giá trị gì, nhưng ai lấy vàng trong đền thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi kẻ ngu ngốc và đui mù, chớ thì vàng hay là đền thờ thánh hoá vàng, cái nào trọng hơn? Các ngươi còn bảo rằng: Ai lấy bàn thờ mà thề, thì không giá trị gì, nhưng ai lấy của lễ để trên bàn thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi những kẻ đui mù, chớ thì của lễ hay là bàn thờ thánh hoá của lễ, cái nào trọng hơn?
"Vậy ai lấy bàn thờ mà thề, thì lấy cả bàn thờ và mọi sự để trên bàn thờ mà thề. Kẻ nào lấy đền thờ mà thề, thì lấy cả đền thờ và Ðấng ngự trong đền thờ mà thề. Và kẻ nào lấy trời mà thề, thì lấy ngai toà Thiên Chúa và Ðấng ngự trên ngai toà ấy mà thề".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Kết Án Tội Mù Quáng
Toàn chương 23 Phúc Âm thánh Mátthêu ghi lại những lời kết án của Chúa Giêsu đối với các Luật sĩ và Biệt phái. Nhưng trước khi công bố 7 lời kết án đó, tác giả Mátthêu ghi lại nhận định chung của Chúa Giêsu (c.1-12). Chúa Giêsu, Ngài đề ra luật sống mới cho tất cả những ai muốn theo Ngài, Ngài là vị thầy duy nhất thay thế Môsê và các vị thầy nhân loại khác, Ngài muốn cho các môn đệ đừng rơi vào thái độ của những Luật sĩ và Biệt phái: mù quáng, giả hình, vụ hình thức, chú trọng đến cái phụ thuộc mà bỏ quên giáo lý làm linh hồn cho những hình thức bên ngoài.
Ba lời lên án của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay có cùng một điểm chung là sự mù quáng. Vì mù quáng, các Luật sĩ và Biệt phái chẳng những không được vào Nước Trời, mà còn cản trở những ai muốn vào đó; vì mù quáng, họ chỉ muốn khoe khoang lòng nhiệt thành tông đồ của họ, chứ không thực sự nhằm đến ơn cứu rỗi của những người họ muốn đưa về cùng Chúa; vì mù quáng, họ thay đổi luật Chúa theo ý riêng để có lợi cho cá nhân, chứ không thực sự màng đến luật Chúa.
Ðó là ba lời kết án của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã tự ví mình như người chăn chiên nhân lành đi tìm chiên lạc, như thầy thuốc cần cho bệnh nhân, như một Vị Thiên Chúa quyền năng sẵn sàng tha thứ và giải phóng con người tội lỗi. Thế nhưng, Ngài đã không sợ đưa ra những lời kết án mạnh mẽ, thẳng thắn: "Khốn cho các ngươi", không phải vì Ngài không còn lòng nhân từ và tha thứ, nhưng vì sự cứng lòng chai đá của con người đã đến mức tột cùng; không hoán cải khỏi thái độ giả hình, mù quáng, lạm dụng tôn giáo, con người không thể hưởng được tình yêu thương nhân từ của Thiên Chúa.
Ước gì Lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta khỏi thái độ mù quáng, khép kín, tư lợi, và cho chúng ta biết sống khiêm tốn, chân thành trước mặt Chúa và đối với anh em, để chúng ta xứng đáng hưởng chúc lành của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Lắng Nghe Tiếng Nói Của Lương Tri (Mt 23,13-22)
Những lời "khốn cho các ngươi" được lập lại nhiều lần tương ứng với những điều chướng tai gai mắt cũng là những tội của các kinh sư và biệt phái. Họ đã cố tình làm những điều phi lý, khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào, nuốt hết tài sản của các bà góa, rảo khắp các biển cả đất liền rủ cho được một người theo đạo, nhưng khi họ theo rồi thì lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục hơn. Chúa Giêsu đã gọi các kinh sư và biệt phái là những người sống mù quáng. Ðiều đáng nói ở đây là các kinh sư và biệt phái cố tình chia lìa trong lỗi lầm của mình, họ thích danh vọng và chạy theo những bả vinh hoa, vì vậy họ cố gắng tìm mọi cách để đạt đến nó bằng bất cứ cách nào. Có thể nói đây là những người chủ trương lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện. Cứu cánh của họ đã không công minh, chính trực và phương tiện lại còn đê hèn hơn, nên họ đã lợi dụng những dân đen, là những người thấp cổ bé họng, không có khả năng tự bảo vệ mình.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy lắng nghe tiếng nói của lương tri, là lời của Chúa muốn dạy chúng ta cách cụ thể trong từng trường hợp của đời sống ta.
Lạy Chúa,
Xin Chúa ban cho mỗi chúng con luôn biết xa tránh những điều xấu xa và tìm đến nguồn mạch ân sủng là Lời Chúa, nhờ đó lương tâm của chúng con mãi trong sáng để rọi lên hình ảnh sống động của Chúa và thánh ý Ngài trong mỗi giây phút của cuộc sống chúng con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Khốn cho kẻ giả hình.
Đức Giêsu nói: “Khốn cho các ngươi, những kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ vào.” (Mt. 23, 13)
Nếu có ai hỏi sao một người hiền lành, dịu ngọt nhất như Đức Giêsu lại có những lời như xẻ cưa, lửa đốt như vậy trong Tin Mừng của Người khi Người khiển trách những kẻ giả hình và những kẻ làm gương mù? Vì lợi ích tương lai của công trình Người, Người phải lột mặt nạ tập đoàn kinh sư lợi dụng quyền thế tách rời Người ra khỏi những người thường dân bé nhỏ. Hôm nay, Người nói rõ sự thật về họ một cách trịnh trọng:
Những kẻ giả hình xưa:
Tiếng kêu: “Khốn cho” kẻ giả hình, họ giả hình vì chỉ thực hành những nghi thức tôn giáo hoàn toàn hình thức bên ngoài, khác xa với lòng đạo đức chân thực sống động bên trong con người. Kẻ giả hình luôn lợi dụng việc thờ phượng Thiên Chúa hằng sống để thượng tôn pháp luật và nghi lễ bên ngoài một cách xảo quyệt. Chính ra việc phụng sự Thiên Chúa phải thành thực và sống động bởi lòng yêu mến chân chính.
Những lời khiển trách của Chúa còn tới chúng ta ngày nay không?
Kẻ giả hình ngày nay.
Chúng ta có là kẻ giả hình không? Không nên khóc thương những kẻ giả hình khốn khổ xưa, cũng không xét đoán ai. Nhưng chính mình chúng ta có sống chân thật không? Trong đời sống chúng ta? trong lúc hành đạo? có thể chúng ta có nhiều thái độ giả hình được biện minh nhân danh phục vụ, cần cho hợp thời dựa vào sự đổi mới của Công đồng Va-ti-can 2 hay liệng bỏ lời Giáo Hội là Thầy dạy.
Chúng ta giầu và phong phú lắm. Phải, đúng là chúng ta rất phong phú về lễ nghi. Nhưng chúng ta có biết tự hạ mình xuống giúp những kẻ không có gì chăng? có lẽ chúng ta cầu nguyện nhiều, nhưng có vừa đủ để cho người khác cầu nguyện không? và có khi họ cầu nguyện còn thành thực hơn chúng ta nhiều.
CG
SUY NIỆM 4: TIỀN CÓ MUA ĐƯỢC NƯỚC TRỜI KHÔNG? (Mt 19, 16-22)
Chúng ta không lạ gì câu nói: “Có tiền mua tiên cũng được”. Tuy nhiên, trong cuộc sống, sự thật không phải như vậy! Vì hiển nhiên vẫn còn đó những thứ có tiền mà không mua được. Điển hình như: sức khỏe, thời gian và sự sống… Chả thế mà người ta vẫn thường nói: “ Tiền có thể mua được một chiếc đồng hồ nhưng không mua được thời gian”; “Tiền có thể mua được thuốc để chữa bệnh, nhưng không thể mua được sự sống...”. Điều quan trọng là chúng ta biết sử dụng đồng tiền như thế nào cho có ích. Sử dụng nó như đầy tớ hay ông chủ? Đồng tiền có phải là mục đích cuối cùng, hay nó chỉ là một phương tiện để giúp con người đạt được hạnh phúc và mục đích tối hậu của mình?
Tin Mừng hôm trình thuật một thanh niên đến xin Đức Giêsu chỉ giáo để anh tiến bước hầu hy vọng đạt được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Nghe anh nói xong, Đức Giêsu đã phán: "Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta". Nhưng thật buồn, người thanh niên này đã lặng lẽ rút lui chỉ vì anh ta có nhiều tiền của.
Thật vậy, đồng tiền liền với khúc ruột. Đồng tiền gắn liền với cuộc sống. Đồng tiền đôi khi trở thành ông chủ tồi. Và như thế, nó đã là rào cản số một cho những ai muốn tiến xa, tiến sâu trên con đường nhân đức.
Dẫu vẫn biết trước những tai hại của nó, nhưng thực ra không ít người đã vì tiền mà bán rẻ lương tâm khi sẵn sàng trà đạp lên chân lý để đạt được mục đích “rẻ tiền”. Không thiếu người bán cả danh dự, nhân phẩm bản thân trong nghề mại dâm chỉ vì đồng tiền. Cũng không lạ gì những chuyện đâm thuê chém mướn, thay trắng đổi đen và vô luân, phi đạo đức cũng chỉ vì đồng tiền!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết dùng của cải như là phương tiện để xây dựng tình bác ái huynh đệ và cùng nhau xây dựng Nước Trời. Bởi vì Nước Trời là kho tàng, đồng tiền chỉ là thứ trợ giúp để ta mua được kho tàng chứ nó không phải kho tàng.
Vì thế, nếu chúng ta cứ bám vào của cải vật chất quá đáng, trái tim của chúng ta sẽ bị kìm chặt nơi thế gian. Của cải thế gian sẽ đóng kín cánh cửa tâm hồn và chúng ta trở thành nô lệ của nó. Như vậy, Chúa không còn chỗ nào trong trái tim, lương tâm và cõi lòng của chúng ta, và, như một lẽ tất yếu: Nước Trời không có chỗ cho những người coi đồng tiền là ông chủ và sống ích kỷ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khám phá và thi hành chân lý mà hôm nay Chúa dạy chúng con. Chân lý đó chính là chọn Chúa là gia nghiệp, là sự sống vĩnh cửu thì sẽ được hạnh phúc. Xin Chúa ban cho chúng con một tấm lòng quảng đại, ngõ hầu chúng con biết sử dụng đồng tiền mau hư chóng hết ở đời này để mua lấy Nước Trời qua sự bác ái. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Đạo đức giả
Suy niệm:
Trong Bài Giảng trên núi, Đức Giêsu đã nói đến Các Mối Phúc.
Ngài chúc mừng những ai thuộc về Nước Trời bằng các lời Phúc cho.
Còn trong chương 23 của Tin Mừng Mátthêu,
Đức Giêsu lại 7 lần dùng lối nói Khốn cho,
khi nói với giới lãnh đạo Do Thái giáo là các kinh sư và nhóm Pharisêu.
Đức Giêsu không phải là người đầu tiên dùng lối nói khó chịu này.
Các ngôn sứ thời xưa như Amốt hay Isaia (Am 6, 1; Is 5, 8-24)
cũng đã lắm khi dùng lối nói này để tố cáo những người quyền thế.
Mục đích của các ngôn sứ là vạch trần những sai phạm của họ,
và cảnh báo cho mọi người biết mà tránh xa.
Đức Giêsu đã nói như một vị ngôn sứ.
Khi nói khốn cho, Ngài không có ý nguyền rủa hay kết án ai,
cho bằng nói lên sự đau xót, thậm chí giận dữ đến độ trách phạt.
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin! khốn cho ngươi, hỡi Bétsaiđa!”
Đức Giêsu đã nói như thế với các thành phố từ chối Ngài (Mt 11, 21).
“Khốn cho kẻ nào nộp Con Người, thà nó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26, 24).
Đây không phải là một lời chúc dữ cho Giuđa,
hay kết án anh phải đời đời hư mất.
Đúng hơn đây diễn tả một tiếc nuối xót xa về tội của người môn đệ.
Vào thời thánh Mátthêu viết sách Tin Mừng, từ sau năm 70,
có một sự xung đột nghiêm trọng giữa các Kitô hữu gốc Do Thái
với những nhà lãnh đạo Do Thái giáo lúc bấy giờ.
Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh sự căng thẳng đó.
Các vị kinh sư và những người pharisêu đầy quyền lực
không muốn đồng bào của mình tin vào một ông Giêsu bị đóng đinh.
Ai tin sẽ bị trục xuất khỏi hội đường (x. Ga 9, 22).
Như thế họ đã khóa cửa Nước Trời để chẳng ai vào được, kể cả họ (c. 13).
Các vị kinh sư và nhóm Pharisêu hăng say trong việc truyền giáo.
Họ muốn làm cho dân ngoại trở thành Dân Chúa.
Tiếc thay, sau khi đã vào đạo rồi, những người tân tòng này
có thể trở nên cứng nhắc vì nệ luật, và rơi vào thói giả hình.
Họ “trở thành con cái của hỏa ngục gấp đôi các ông” (c. 15).
Đức Giêsu cũng tố cáo sự phân biệt quá chi li về giá trị những lời thề.
Đối với Ngài, thề nhân danh Đền thờ hay vàng trong Đền thờ,
nhân danh bàn thờ hay lễ vật trên bàn thờ (cc. 16-20),
thì cũng chẳng khác gì thề nhân danh chính Thiên Chúa (cc. 21-22).
Tất cả lời thề đều phải được giữ như nhau, đều ràng buộc như nhau.
Những lời tố giác của Đức Giêsu đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo
vẫn đặt câu hỏi cho chúng ta thời nay.
Làm sao để tôn giáo mở đường cho con người gặp gỡ Thiên Chúa,
chứ không khép lại hay gây cản trở?
Làm sao để người tân tòng thực sự trở thành con cái Nước Trời?
Làm sao để chúng ta khỏi sa vào những chi li thái quá của luật lệ?
Những lời của Đức Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lại mình và thay đổi.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Thứ hai: Mt 23, 13-22
Thứ Hai 27/08/2018 – Chúa động lòng thương và bảo bà …
27/08 – Thứ hai tuần 21 thường niên – Thánh nữ Mônica. Lễ nhớ.
Bổn mạng Giới Hiền Mẫu.
"Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy"
Lời Chúa: Lc 7, 11-17
Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với Người. Khi Người đến gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá kia và có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: "Đừng khóc nữa". Đoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy". Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó.
Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người". Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.
* Thánh nữ MONICA sinh năm 331 tại Ta-gát, châu Phi trong một gia đình theo Kitô giáo. Lúc còn thanh xuân, thánh nữ đã kết hôn với anh Pa-tri-xi-ô và sinh được những người con, trong đó có thánh Âu-tinh. Khi Âu-tinh mất đức tin, thánh nữ đã dâng những dòng lệ tựa những lời cầu nguyện âm thầm lên Thiên Chúa. Khi thấy Âu-tinh trở lại, thánh nữ đã tràn ngập vui mừng. Người không còn gì để chờ đợi ở trần gian này nữa, Thiên Chúa đã gọi người về ở Ốt-ti-a, năm 387, khi người đang sửa soạn trở về châu Phi, quê hương của người. Thánh nữ là tấm gương sáng chói cho những người làm mẹ: nuôi dưỡng lòng tin bằng lời cầu nguyện và chiếu tỏa ra bên ngoài bằng các nhân đức.
SUY NIỆM 1: Quan Thầy Của Các Bà Mẹ
Hôm nay chúng ta mừng lễ thánh Monica, Nữ vương của các bà mẹ nói chung và của các bà mẹ công giáo nói riêng. Sự kiên tâm bền chí của thánh nhân trong cầu nguyện là một lời chứng hùng hồn về đời sống đức tin sâu xa của một người nữ trong cương vị là một người mẹ.
Thánh Monica đã nếm mùi đau khổ trong việc nuôi dạy người con ngỗ nghịch của mình là thánh Augustino. Như chúng ta biết, thánh Monica là người đã đau khổ nhiều vì thánh Augustino, có lúc tưởng chừng như tuyệt vọng, nhưng đức tin đã cung cấp cho thánh nữ sức mạnh, lòng tin tưởng và kiên trì trong lời cầu nguyện cho người con xa Chúa, và phần thưởng cho sự kiên trì đó là ơn trở lại của Augustino và cuối cùng, thánh nhân đã được hạnh phúc chứng kiến người con của mình trở thành người của Chúa, được tận hiến cho Chúa để chăm sóc cho một cộng đoàn. Có thể nói thánh Monica đã thành thật sống đức tin của mình để nêu gương cho người con đã một thời sống ngoài luật Chúa. Thật là trái ngược với thái độ sống giả hình của những người biệt phái và kinh sư mà Chúa Giêsu đã nặng lời khiển trách.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Thánh nữ Monica
Có những giọt nước mắt đem lại hạnh phúc cho người khác. Có những giọt lệ làm lay chuyển tâm hồn người khác. Giọt nước mắt của người mẹ luôn có tác dụng rất lớn đối với con cái. Giọt nước mắt của thánh nữ Monica đã biến đổi cả cuộc đời của Augustinô, người con trai, đầu lòng thông minh nhưng ngang tàng, trụy lạc. Thánh nữ Monica đã cầu nguyện, đã khóc lóc, Chúa đã nhậm lời và ban cho con của thánh nữ là Augustinô ơn cải hóa từ tâm, ơn đổi mới tâm hồn, ơn làm đẹp con tim: con tim mới, cái nhìn mới.
MỘT CON NGƯỜI
Có một người nữ được sinh ra trong một gia đình đạo hạnh, thánh thiện: tên người nữ ấy là Monica. Monica sinh vào năm 332 tại làng Sucara bên Phi Châu. Gia đình Monica vốn có truyền thống đạo đức, yêu thương tha nhân, yêu thương người nghèo. Được sống trong bầu khí đạo đức của gia đình, Monica sớm trở thành một cô bé ngoan hiền, nhiệt thành, sốt sắng. Ngay từ lúc còn nhỏ Monica đã có tâm hồn quảng đại yêu thương người nghèo: mỗi bữa cơm Monica thường dành ra một phần cho người đói túng thiếu, và Monica thường tìm chỗ vắng vẻ để thân mật nói chuyện với Chúa. Monica đã biết biến những phút giây gặp gỡ người nghèo, chia sẻ cho người nghèo, cầu nguyện làm hạnh phúc cho đời mình. Cô đã biết biến những phút giây ấy làm phút giây cứu độ cho mình và cho người khác.
Con người đạo đức vẫn thường gặp truân chuyên như nhiều người thường nói. Ông Gióp đã là chứng minh hùng hồn cho cuộc đời thánh thiện, nhưng gặp toàn những chuyện thử thách, rắc rối.
Thánh Giuse là người công chính nhưng cũng gặp đắng cay: nếu không hiểu được ý Chúa, chắc chắn Người đã đứt gánh giữa đường. Monica cũng nằm trong diện ấy.
Năm 22 tuổi, vì vâng lời cha mẹ, thánh nữ đã kết hôn với Patricius thuộc dòng dõi quí phái, nhưng tính tình xấu xa, ngang ngược, độc ác, và lại hơn Monica cả hai con giáp. Đau khổ nhưng Monica đã chấp nhận ý cha mẹ, và âm thầm cầu nguyện cho chồng, vì thánh nữ xác tín mình sẽ cứu được một linh hồn trở về với Chúa. Nhờ lòng quả cảm, đức tính khiêm nhường, và nhờ cầu nguyện vững tin vào Chúa, Monica đã cảm hóa được người chồng, và sau này bà sinh được 3 người con mà Augustinô là con đầu lòng. Sau này chính nhờ những giọt lệ thành tâm và nhờ lời cầu nguyện liên lỉ của thánh nữ, Augustinô đã trở lại và trở nên thế giá, trở nên thánh.
VẪN GIỌT NƯỚC MẮT CỦA MONICA
Monica tuy sống trong một gia đình ngoại giáo, đã luôn chứng tỏ bà có Chúa ở cùng. Sự thánh thiện, lòng quảng đại, yêu thương của Monica đã cảm hóa được người chồng ác độc, ngang tàng, ích kỷ. Monica luôn dậy con cái biết mến Chúa, yêu người. Bà luôn yêu thương con cái với tất cả con tim, với tâm hồn đầy ắp Chúa. Bà đã biết biến mọi giây phút trong cuộc đời của bà trở thành những giây phút, những cơ hội hồng ân để thay đổi lòng người khác. Chính cái phút giây bà vâng lời cha mẹ kết hôn với Patricius đã thay đổi đời bà, nghĩa là bà đã chấp nhận điều mình không ưa thích để biến nó thành phút giây cứu độ cho mình và cho người mình sẽ sống, sẽ nhận làm chồng, dù rằng bà biết bà sẽ phải đau khổ nhiều, phải hy sinh, phải từ bỏ. Tình yêu Đức Kitô thúc bách bà. Bà đã đi tới cùng, bà đã làm thay đổi chồng, con, và biến đổi người con trụy lạc, ham chơi, ham lạc thú là Augustinô trở nên người con tốt, người con đẹp cho Giáo Hội. Qua những giọt lệ của Monica, qua lời cầu xin tha thiết của bà, Monica đã làm thay đổi tất cả, đã làm mới mọi sự để bà có thể nói được như ông già Siméon: ”Giờ đây xin để tôi tớ ra đi bình an…” .
Thánh nữ Monica đã qua đời năm 387, sau khi Augustinô được thánh Giám mục Ambrosiô rửa tội. Thánh nữ được an táng tại Otti. Đức Thánh Cha Martinô truyền đem xác thánh nữ về nhà thờ Thánh Augustinô ở Roma vào năm 1430.
Lạy Thánh nữ Monica, xin ban cho các bà mẹ công giáo luôn có tâm hồn thánh thiện và đạo đức như thánh nữ .
Xin cho các bà mẹ luôn biết giáo dục con cái mình biết mến Chúa và yêu người .
Xin cho các bà mẹ công giáo luôn biết nêu gương sáng cho con cái trong đời sống, để con cái nhiệt thành mến Chúa và yêu tha nhân.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT
SUY NIỆM 3: Thánh nữ Monica
Thánh nữ Monica sinh năm 332 trong một gia đình đạo hạnh làng Sucara bên Phi Châu. Với bầu khí đạo đức, Monica sớm trở thành một cô bé ngoan ngoãn và sốt sắng: mỗi bữa ăn cô thường dành một phần cho người nghèo và những lúc nhàn rỗi thường tìm nơi vắng vẻ để cầu nguyện.
Năm 22 tuổi, Monica vâng lời cha mẹ kết hôn với Patricius thuộc dòng dõi qúy phái, nhưng tính tình ngang tàng, độc ác và tuổi lại gấp đôi. Dù rất khổ tâm nhưng Monica vẫn vui vẻ vâng lời cha mẹ với hy vọng sẽ cứu được một linh hồn. Quả vậy, nhờ lời cầu nguyện và đức kiên nhẫn, Monica đã cải hóa được người chồng và mấy năm sau sinh được ba người con mà Augustinô là con đầu lòng. Dù sống trong một gia đình ngoại đạo, nhưng Monica đã chu toàn sứ mệnh làm mẹ, luôn giáo dục con cái biết yêu mến Chúa, yêu người. Bà luôn yêu thương con cái, nhất là đối với Augustinô. Nhưng càng lớn, Augustinô càng biểu lộ các tính hư tật xấu. Ỷ vào trí thông minh, Augustinô đâm lười biếng. Bị sửa phạt, Augustinô bèn lừa dối, lường gạt cha mẹ, thầy dạy, rồi từ đó ham mê lạc thú, ăn chơi, kiêu căng và ham hố danh vọng. Nhất là từ khi chàng được gửi đi học ở tỉnh thì những làn sóng tội lỗi lại tràn ngập tâm hồn. Rồi chàng lại theo bè rối Manikê chống lại đức tin. Còn gì đau khổ hơn cho Monica khi thấy người con yêu quý của mình ngày càng bước sâu vào con đường tội lỗi. Nhưng tin vào tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa, bà lại càng kiên tâm cầu nguyện và làm các việc lành.
Lời cầu nguyện và nước mắt của Monica đã được Chúa chấp nhận. Sau những thất bại, Augustinô đã tìm đường trở lại cùng Thiên Chúa. Monica vui mừng dâng lời tạ ơn. Thánh nữ cùng tĩnh tâm với Augustinô ở Cassicicum và có mặt trong lễ rửa tội của con. Ðêm Phục Sinh năm 387, Augustinô đã được lãnh bí tích Rửa Tội do thánh Giám Mục Ambrosiô. Lòng tràn ngập vui sướng, hai mẹ con cùng trở về Phi Châu. Tại Ostia, thánh nữ chia sẻ với con mình sự hoan lạc trong tâm hồn mà thánh Augustinô ghi lại trong cuốn IX “bộ tự thuật”. Thánh Monica đã nói như sau:
- Con ơi, phần mẹ, mẹ không còn thấy vui sướng vì bất cứ điều gì ở đời này nữa. Mẹ không hiểu sẽ phải làm gì và tại sao lại còn sống ở đây. Niềm hy vọng của mẹ trên thế gian này đã được hoàn thành. Chỉ có một điều mẹ ao ước là được thấy con trở thành người công giỏo trước khi mẹ lìa đời. Thiên Chúa cho mẹ được toại nguyện và hơn nữa đã cho mẹ thấy con chán ghét hạnh phúc trần gian và hiến thân phụng sự Ngài. Mẹ còn làm gì nữa đây?
Chẳng bao lâu sau đó, thánh nữ mang bệnh và chết bình an trong Chúa năm 387, tại Ostia, khi đó thánh nữ đã 56 tuổi.
Xác thánh nữ được mai táng ở Otti. Năm 1430, Ðức Thánh Cha Martinô truyền đem về nhà thờ Thánh Augustinô ở Rôma.
(tgpsaigon.net)
SUY NIỆM 4: Thánh nữ Monica (331-387)
(Lm. Anphong Trần Ðức Phương)
Người phụ nữ luôn kiên vững trong Niềm Tin vào Chúa và liên lỉ cầu nguyện giữa bao gian truân khốn khó trong đời sống Gia Đình.
Thánh Nữ Monica sinh năm 331 tại thành phố Tagaste, Phi Châu (bây giờ thuộc nước Algeria), trong một gia đình Công Giáo. Khi cò là một thiếu nữ, vâng lời cha mẹ, Monica lập gia đình với Ông Patricius, một người không công giáo. Ông Patricius là một viên chức hành chánh ở Tagaste. Monica sống với chồng và mẹ chồng. Ông Patricius hơn Thánh nữ nhiều tuổi. Hai ông bà sinh được ba người con: Augustinô, Navigio, và Perpetua. Mặc dầu thánh nữ muốn các con được chịu phép Thánh Tẩy theo lễ nghi Công Giáo, nhưng Patricius nhất định không chịu. Ông là một người tốt bụng, nhưng tính tình nóng nảy và thích sống đời sống ăn chơi phóng khoáng. Vì thế, mặc dầu vẫn kính nể đời sống tốt lành của Monica, những lại không thích lối sống mà ông cho là quá đạo đức, nhiệm nhạt. Hơn nữa mẹ của Patricius cũng bênh vực chủ trương không tôn giáo và đời sống phóng khoáng, tự do của Patricius, con bà. Vì những lý do đó, cuộc sống gia đình của Monica gặp rất nhiều khó khăn, đau khổ. Tuy nhiên, vì có đời sống đức tin vững mạnh và luôn sống theo tinh thần Phúc Âm theo tình thương của Chúa Kitô, Monica vẫn kiên trì chịu đựng mọi sự khó hằng ngày theo thánh ý Chúa. Monica vẫn một lòng yêu mến và kính trọng chồng và mẹ chồng; trong cách sống bà luôn nêu gương sáng cho các con và giáo dục các con theo tinh thần Phúc Âm của Chúa, dậy các con biết làm Dấu Thánh Giá, đọc kinh và cầu nguyện. Vì có lòng thương người và hay giúp đõ những nười nghèo khó, Monica được mọi người trong vùng yêu mến; hơn nữa, mọi người lại nể phục Monica như một người vợ và người mẹ rất gương mẫu.
Monica phải sống những chuỗi ngày trong đau khổ cả về tinh thần lẫn thể xác, trong nước mắt và cầu nguyện tha thiết với Chúa. Sau cùng, chính Ông Patricius và bà mẹ chồng cũng ăn năn hối hận và xin lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy và trở nên người Công Giáo vào năm 371. Ít lâu sau trong năm 371, ông Patricius qua đời trong niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô. Hai người con là Navigio và Perpetua cũng xin chịu phép Thanh Tẩy và gia nhập giáo hội Chúa. Sau này cả hai đã đi tu dòng.
Nhưng Chúa vẫn để Monica tiếp tục vác Thánh Giá theo chân Chúa. Thánh Giá đó là chính người con trưởng của bà, ông Augustinô. Augustinô là một người rất thông minh, lanh lợi và hoạt bát, lại thích giao du bạn bè và thích sống đời sống tự do, phóng khoáng như người bố trước đó. Vì thế, dù mẹ nói mấy mặc lòng, Augustinô nhất định không chịu gia nhập đạo thánh Chúa, vì ông không thích lối sống theo lề luật của Chúa và Giáo Hội. Trái lại ông thích sống theo các quan niệm của các triết thuyết và giáo phái có quan điểm sống tự do và buông thả hơn.
Sau khi học xong, Augustinô trở nên một Giáo Sư và càng ngày càng nổi tiếng tại quê hương Tagaste của ông. Sau một thời gian Augustinô di chuyển đến thành phố phồn thịch là Carthage ở Bắc Phi, cũng là nơi Augustinô đã theo học trước đó (Carthage là phần đất gần thủ đô Tunis của nước Tunnisia bấy giờ).
Thế rồi vào năm 383, lúc Augustinô 29 tuổi, vì muốn bay nhảy cho “thỏa chí tang bồng”, muốn thăng tiến đường công danh sự nghiệp, muốn nghiên cứu và học hỏi thêm, lại muốn xa cách người mẹ cúc lúc nào cũng theo sát bên mình khuyên nhủ, Augustinô quyết định rời bỏ quê hương Phi Châu để đi Rôma (thủ đô của Đế Quốc Rôma thời đó, cũng là trong tâm văn minh của thế giới đương thời).
Nhưng dù đi đâu xa xôi mặc lòng, Augustinô cũng không thể xa được người mẹ quyết tâm đi theo con mình đến bất cứ chân trời góc biển nào. Vừa đi theo tìm con, vừa khóc lóc, cầu xin Chúa cho con mình hồi tâm ăn năn trở về với chúa và Giáo Hội.
Khi Augustinô rời bỏ Rôma để đến Milan (ở miền Bắc nước Ý và là một Thành Phố cũng nổi tiếng thời đó về văn chương và nghệ thuật), Monica cũng đi theo.
Trên đường đi theo con, Monica thường đến gặp các linh mục và tu sĩ, và bất cứ ở đâu cũng xin các Ngài cầu nguyện người con “cứng lòng” của mình. Nhiều người lúc đó quen biết tính tình của Augustinô, thì coi như đã “hết thuốc chữa”. Nhưng bà Monica thì không bao giờ thất vọng, luôn vững tin rằng Chúa sẽ cứu vớt con mình. Một ngày kia, Bà gặp một linh mục để xin cầu nguyện. Cha này đã nói với Monica: “Không thể nào có một ngưòi con mà bà mẹ đã đổ ra bao nước mắt để khóc thương và cầu nguyện cho, lại có thể hư mất được!” Nhờ lời khuyến khích của vị linh mục này mà Monica càng vững lòng trông cậy nơi Chúa và cứ tiếp tục cầu nguyện, cầu nguyện và cầu nguyện với nước mắt và hy sinh hãm mình.
Cuối cùng sau 17 năm trường, sống trong khóc lóc, hy sinh, hãm mình, làm việc bác ái và cầu nguyện nhiệt tình với Chúa, Monica đã cứu được người con “vô hy vọng” của mình. Vào năm 386, lúc 33 tuổi, Augustinô đã nhận ra “chân lý vĩnh cửu” và tin vào Phúc Âm tình thương của Chúa là chân thật và là con đường cứu rỗi.
Augustino đã từ bỏ tất cả chủ trương sai lạc, quyết tâm gia nhập Giáo Hội Chúa và xin chịu phép Thánh Tẩy do chính tay Đức Tổng Giám Mục thành Milan lúc đó là Ambrosio, cũng là một người gia nhập đạo Thánh Chúa lúc 34 tuổi, ngay khi đươc bầu lên làm Tổng Giám Mục Milan và là Thánh Ambrosio, một vị Thánh Giáo Phụ thời danh của Giáo Hội, mà chúng ta mừng kính Ngài vào ngày 7 tháng 12.
Sau khi gia nhập Giáo Hội Chúa, Augustinô đã từ bỏ mọi tham vọng và vui thú trần gian, trở về quê hương Phi Châu, bước vào cuộc đời tu trì khổ hạnh, rồi được chọn làm Giám Mục thành phố Hippo. Sau 34 năm tận tụy chăn dắt đoàn chiên Chúa, Ngài đã được Chúa gọi về Nước Chúa vào năm 430, lúc Ngài 76 tuổi.
Thánh Augustinô viết nhiều tác phẩm về thần học và triết học. Ngài được kính như một Thánh Giáo Phụ thời danh và là Thánh Tiến Sĩ trong Giáo Hội. Chúng ta kính lễ Ngài vào ngày 28 tháng 8 hằng năm (ngay sau lễ kính Thánh Monica 27 tháng 8). Thánh Augustinô cũng nổi danh là nhà triết học nhân bản, các tác phẩm có tính cách triết học của Ngài vẫn được các Giáo sư và sinh viên trong các trường đại học ngày nay trên thế giới nghiên cứu. Ôi sự kỳ diệu của ơn Thánh Chúa!
Riêng Monica, sau khi con mình trở về với Chúa và Giáo Hội, bà vô cùng vui mừng tạ ơn Chúa và đã cùng các con trở về Phi Châu. Nhưng thánh ý Chúa nhiệm mầu, trên đường trở về quê hương, Chúa đã cất Monica về với Chúa tại Ostia, một hải cảng gần cửa sông Tibre ở Roma, vào năm 387, hưởng thọ 56 tuổi.
Thánh Nữ Monica đã được Chúa thương thực hiện những gì bà cầu xin, mà nhiều người cứ cho là vô vọng. Bà thật là một tấm gương tuyệt diệu cho mọi người chúng ta, nhất là các Bà Mẹ Công Giáo, để tất cả chúng ta luôn biết kiên trì hãm mình cầu nguyện trong niềm tin tưởng và tuyệt đối phó thác mọi sự trong tình thương và sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa là Cha nhân từ của mọi người chúng ta.
SUY NIỆM 5: Thánh nữ Monica (331-387)
Lm. Giacôbê Tạ Chúc
Không có gì cao sang trong cuộc đời bình thường, cũng không phải là “đấng nam nhi” hay “bậc anh hùng hảo hán”. Mônica chỉ là phận gái “liễu yếu đào tơ”, nhưng cuộc đời của người phụ nữ này, đã trở thành tấm gương ngời sáng cho những người phụ nữ khác, đặc biệt là những người vợ, người mẹ trong các gia đình. Dù Mônica không sinh trưởng tại quê hương Việt nam, nhưng ở Thánh nữ chúng ta vẫn thấy đầy chất Á Đông của người phụ nữ đất Việt: “Công, Dung, Ngôn, Hạnh” và “Tam tòng, Tứ đức”.
Cuộc đời Thánh Mônica
Thánh nữ sinh tại Thagaste, thuộc Bắc Phi châu vào năm 332 trong một gia đình công giáo. Lập gia đình với ông Patricius, một người ngoại giáo và có được ba người con. Chồng Mônica là một người giàu có, nhưng tính tình nóng nảy và không chung thủy. Người mẹ chồng của thánh nữ cũng gắt gỏng và khó chịu. Patricius thường hay rầy la vợ, vì Mônica hay tỏ ra thương yêu và giúp đỡ mọi người. Dù vậy, thánh nữ vẫn luôn âm thầm hy sinh, kiên trì, chịu đựng trong nước mắt của nguyện cầu. Cuối cùng, Mônica cũng chinh phục được mẹ chồng cùng với chồng, và họ đã trở lại cùng Thiên Chúa. Patricius qua đời năm 371, sau khi đã lãnh nhận Bí tích rửa tội. Hết chồng rồi lại đến con, Augustin học theo tính khí của cha, sống phóng đãng và chạy theo bè rối Manichée, trong chín năm. Mônica theo con để mong ngày con được trở lại cùng Chúa. Những hy sinh của Mônica thật không uổng tí nào. Đêm Phục sinh, ngày 24 tháng tư năm 387, bà vui mừng dự lễ rửa tội cho thánh Augustin. Cuối năm 387, khi mẹ con đang chuẩn bị trở về quê hương là Phi châu, thì Thiên chúa đã gọi Mônica về, lúc 56 tuổi. Thánh nữ được chôn cất tại Ostite và sau được dời về Rôma vào năm 1430.
Gương thánh nhân
Thánh Mônica lập gia đình và hoàn thành sứ mạng mà Thiên Chúa trao ban qua ơn gọi làm vợ và làm mẹ. Làm vợ, ngài hết tình yêu thương và chiều chuộng chồng, tính nết hiền lành và đạo đức, đó là bí quyết mà thánh nhân dùng để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Làm mẹ, ngài tận tình chăm sóc và giáo dục con cái, nhất là đời sống đạo đức. Nhờ đó mà chồng con đều lần lượt trở lại đạo Chúa. Mônica nên thánh trong một đời sống gia đình, rất bình thường như những gia đình của mỗi người. Điều đó cũng làm cho chúng ta, nhất là các bà mẹ công giáo thử đặt lại vấn đề, tại sao tôi không dùng chính đời sống gia đình của mình để làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày? Là một người vợ hay một người mẹ, tôi đã cầu nguyện với Chúa mỗi khi chồng con khô khan, nguội lạnh hay thậm chí mất đức tin…
Lạy Thánh Monica, bổn mạng của giới Hiền mẫu, qua lời bầu cử của Ngài, xin cho các người vợ, người mẹ có đời sống thánh thiện, hiền lành, yêu thương và nhẫn nhục, để hướng dẫn gia đình trong tình thương của Thiên Chúa. Giữa một cuộc sống đầy thử thách, tình trạng chối bỏ sự sống ngày càng lan tràn, giáo dục con cái trở nên đầy thách đố. Xin cho các gia đình luôn biết lắng nghe và thực thi lời dạy của Chúa qua những giáo huấn của Giáo hội. Amen.
(tinmung.net)
26/08 Chúa Giêsu – Lời ban sự sống
- Viết bởi Ga 6, 61-70
Chúa Giêsu – Lời ban sự sống.
Chúa Nhật tuần 21 Thường Niên năm B.
"Chúng con sẽ đi đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống".
Lời Chúa: Ga 6, 61-70
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: "Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" Tự biết rằng các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu nói với họ: "Điều đó làm các con khó chịu ư? Vậy nếu các con thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Nhưng lời Ta nói với các con là thần trí và là sự sống. Nhưng trong các con có một số không tin". Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: "Bởi đó, Ta bảo các con rằng: Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho".
Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa.
Chúa Giêsu liền nói với nhóm Mười Hai rằng: "Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?" ---------- Simon Phêrô thưa Người: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Gs 24,1-2a.15-17.18b; Ep 5,21-32; Ga 6, 54a. 60-69
1. Hãy làm điều có thể
Có một chàng thanh niên xa rời Giáo Hội. Chàng không đi lễ, không chịu các bí tích nữa. Thế rồi chàng phải lên đường thi hành nghĩa vụ quân sự. Mẹ chàng băn khoăn lo lắng và tự hỏi: Nếu chẳng may chàng chết thì sao? Bởi đó, vào buổi tối trước khi chàng lên đường, người mẹ ấy đã nói với chàng: Con ơi, mẹ muốn con làm cho mẹ một điều. Chàng hỏi lại: Điều gì vậy? Người mẹ trả lời: Mẹ muốn con mỗi ngày hãy đọc một kinh Kính Mừng mà thôi. Chàng do dự nhưng cũng đã nhận lời. Trải qua năm tháng, những bức thư chàng gởi về gia đình cứ thưa dần, rồi một ngày kia bức điện tín ngắn ngủi được trao cho người mẹ: Con bị thương nặng và đã chịu các bí tích. Rất may chàng được bình phục. Trong một dịp về thăm gia đình, chàng đã nói với mẹ: Điều mẹ căn dặn, con đã làm, nhờ đó mà con đã trở về với Chúa.
Từ câu chuyện trên tôi nhận thấy: Một tâm hồn trôi dạt xa lìa Chúa, nhưng nếu họ còn giữ được một liên hệ nào đó với Ngài, dù chỉ là một kinh Kính Mừng mỗi ngày, họ vẫn có hy vọng và có cơ may tìm thấy con đường trở về với Ngài. Như rất nhiều người Công giáo, chàng đã bắt chước các môn đệ trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Lìa bỏ Chúa mà đi. Những môn đệ ấy từ chối, không muốn tin rằng: Đức Kitô có thể lấy thịt Ngài cho họ ăn và máu Ngài cho họ uống. Dẫu rằng họ đã chứng kiến phép lạ năm chiếc bánh hoá nhiều làm cho năm ngàn người được no nê.
Hầu hết những lý do khiến người Công giáo xa lìa Giáo Hội đều liên quan tới vấn đề này. Chẳng hạn như: Thánh lễ không liên hệ gì đến tôi. Họ muốn nói rằng thánh lễ không đem lại cho họ một rung động, một cảm xúc nào cả. Và họ cũng chẳng làm gì để thay vào đó. Kinh nghiệm cho thấy những người như vậy thường không đọc lấy một câu kinh. Điều đó cũng dễ hiểu bởi vì đối với việc quan trọng nhất là bí tích Thánh Thể mà họ còn đối xử như vậy, huống nữa là những phương tiện đạo đức khác.
Trong khi đó, tôi nghĩ rằng mỗi người cần phải làm một cái gì có thể làm được. Chính việc làm nhỏ bé này sẽ đem lại ơn trợ giúp của Chúa. Chẳng hạn như đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng, hay cầu nguyện bằng chính ngôn ngữ riêng tư của mình: Lạy Chúa, xin giúp con làm vui lòng Chúa. Đó chính là khởi điểm cho một sự trở về. Cũng giống như một viên bi rơi trên một triền dốc, nếu không chặn lại, nó cứ lăn mãi lăn hoài cho đến tận cùng con dốc mới thôi. Người khô khan nguội lạnh, bỏ dần những việc đạo đức thì rồi, một lúc nào đó họ sẽ bỏ tất cả. Coi thường một giới răn thì rồi một lúc nào đó họ sẽ gác bỏ tất cả những giới răn khác.
Hãy gượng dậy từ một cố gắng. Hãy khởi đầu đi từ một việc làm nhỏ bé và rồi Chúa sẽ nâng đỡ phù trợ. Hay như một câu danh ngôn đã nói: Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn ngồi đó mà rủa xả bóng tối. Hãy làm những gì mình có thể và rồi hãy thưa lên cùng Chúa như Phêrô ngày xưa: Bỏ Thầy con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có lời ban sự sống.
2. Thử thách
Một chiếc tàu đánh cá Xô Viết được đưa vào sửa chữa bên cạnh tàu tuần dương hạm của Hoa Kỳ tại bờ biển New England. Các quan chức Mỹ-Xô cùng ngồi trên chiếc tàu Nga bàn luận sôi nổi về kỹ thuật đánh cá. Câu chuyện và mối liên hệ của họ thật tốt đẹp cho đến một đêm nọ một thuỷ thủ người Nga tên là Kudirka lẻn ra khỏi tàu Xô Viết, nhảy xuống biển và bơi qua tàu Mỹ, năn nỉ xin được tị nạn chính trị. Thế nhưng, vị chỉ huy tàu Mỹ đã từ chối. Quyết định này về sau đã bị các thượng cấp quở trách. Chàng thuỷ thủ bị trao lại cho nhà cầm quyền Xô Viết, và bị giam vào ngục. Thời gian ở tù chàng đã nhiều lần tuyệt vọng, nhưng nhờ người bạn đã dạy cho chàng một bài thơ, chính những vần thơ này đã giúp chàng đương đầu với hiện tại và hy vọng tiến đến tương lai. Bài thơ ấy như thế này: Nếu giành được chiến thắng hay gặp phải thất bại mà con vẫn xử sự như nhau. Nếu sự thật con nói ra bị vu khống là gian dối mà con vẫn tỏ ra bình thản. Nếu toàn bộ sự nghiệp đời con tan vỡ, mà con vẫn kiên trì xây dựng lại. Phải, nếu con làm được như thế, thì trái đất và mọi sự trên đó sẽ thuộc về con. Và hơn thế nữa, hỡi con, con sẽ là một con người đích thực.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Trong cuộc đời, có những lúc chúng ta dường như sắp sửa mất tất cả, thì điều quan trọng đó là chúng ta cần phải được giúp đỡ để không thất vọng và nản chí. Các môn đệ cũng vậy, niềm tin của các ông đang bị thử thách. Trước lời xác quyết của Chúa: Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống, thì một số môn đệ đã bỏ Chúa mà đi, vì không thể nào chấp nhận được lời giảng dạy ấy. Số còn lại thì vẫn trung thành với Chúa và Phêrô đã thay mặt cho nhóm còn lại ấy tuyên xưng: Bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Bị dồn vào chân tường, nhóm còn lại vẫn tin tưởng vào Chúa, trong khi đó, nhóm thứ nhất thì chỉ biết chú tâm vào vấn đề của họ mà thôi: Tại sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn? Như thế, một đàng biết chú tâm vào Chúa, còn một đàng chỉ biết chú tâm vào mình. Hai hình ảnh này một lần nữa được diễn tả qua đoạn Tin Mừng kể lại: Đêm khuya, sóng biển nổi lên Chúa Giêsu đi trên mặt nước tiến lại thuyền các môn đệ khiến họ hoảng sợ vì tưởng là ma. Thấy vậy Chúa Giêsu lên tiếng trấn an: Thầy đây, đừng sợ. Phêrô xin Chúa cho mình cũng được đi trên mặt nước tiến đến với Ngài. Thế nhưng khi ông bắt đầu nghi ngờ, thì lập tức ông bị chìm xuống. Lập tức Chúa Giêsu nắm lấy ông vào nói: Sao đức tin của con kém thế. Tại sao con lại hồ nghi? Như thế bao lâu Phêrô biết vững tâm nhìn vào Chúa Giêsu, thì ông được an lành. Nhưng khi ông rời khỏi Người và bắt đầu chú tâm lo vấn đề của riêng mình, thì lập tức ông lâm vào tình trạng nguy hiểm.
Giữa những cơn gian nguy thử thách, giữa những lúc khổ đau cay đắng, hãy tin tưởng vào Chúa để cuộc đời chúng ta tìm thấy được sự bình an và hạnh phúc.
3. Theo ai?
Cứ nhìn vào các nhà thờ đông nghẹt người xem lễ, thì ai cũng nói lòng đạo đức của người tín hữu hôm nay thật là lớn. Tuy nhiên, cuộc sống của họ có đúng là đạo đức hay không? Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay sẽ giúp chúng ta xác định xem mình đang theo Chúa hay là đã xa lìa Ngài?
Thực vậy, nếu chúng ta chỉ dừng lại ở bí tích Thánh Thể mà thôi thì chưa đủ theo đòi hỏi của Tin Mừng. Bởi vì Lời Chúa phải được đem ra thực hiện thì mới trở thành bánh trường sinh được và mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa càng sâu sắc hơn nếu mỗi người biết chia sẻ cho nhau không những của cải vật chất mà còn cả tình thương trong cuộc sống.
Vẫn còn có nhiều người quan niệm đi lễ, giữ chay, đọc kinh, giữ luật đạo, lâu lâu bố thí cho kẻ nghèo hay dâng cúng cho nhà thờ, thì đã thể hiện được lòng đạo đức của mình. Còn ngay trong cuộc sống hằng ngày, họ không cần biết đến người láng giềng đang sống như thế nào? Không cần biết đến xóm làng đang có những vấn đề gì? Họ không cần để ý đến tình người ngay trong mối quan hệ bình thường với kẻ khác. Và như thế vô tình họ đã khoanh vùng hoạt động cho Chúa ở trong nhà thờ mà thôi, họ chưa đưa Chúa vào trong cuộc đời, đang lúc Chúa Giêsu lại sinh hoạt ngay giữa lòng xã hội loài người. Nếu sống đạo như thế, thì làm sao lời Chúa trở thành bán ban sự sống cho được?
Không ít người đã theo Chúa Giêsu chỉ vì phép lạ bánh hoá nhiều, nhưng rồi họ lại vội vã bỏ Chúa mà đi vì lời Ngài thật chướng tai, không thể chấp nhận được. Chỉ riêng nhóm 12 là đã xác tín rằng: Chỉ mình Chúa mới có Lời ban sự sống. Điều xác tín này đã rõ nét trong khi xây dựng cộng đoàn tiên khởi: mọi người bỏ của chung, chăm lo cho nhau và ai cũng no đủ, hạnh phúc.
Giáo Hội kết hợp với Đức Kitô, không chỉ trong các nghi lễ phụng tự mà mỗi người trong Giáo Hội phải sống với tinh thần của Ngài ngay trong cuộc sống hằng ngày. Xã hội vẫn còn những kẻ thiếu ăn, vẫn còn những bất công và áp bức, thì Giáo Hội vẫn còn có những vấn đề được đặt ra cho mình. Làm thế nào để ngày càng đẩy lùi những bất công, đói khổ và lạc hậu. Điều đó đồng nghĩa với làm thế nào để tỏ lộ khuôn mặt Đức Kitô một cách rõ nét nhất trong cuộc sống hiện tại.
Thiên Chúa không thích những của lễ, nhưng Ngài cần lòng nhân ái. Lễ vật nào có ích gì khi sự thù hận đố kỵ vẫn còn trong người tín hữu hay vẫn còn những kẻ đói khổ đau đớn bên cạnh mình. Xác tín đi theo Chúa trên con đường cứu độ là phải mang lấy nỗi ưu tư, ray rứt về một xã hội chưa được an vui hạnh phúc.
Vậy thì chúng ta đã theo Chúa như thế nào và đã thực hiện lời Chúa ra làm sao để lời Chúa thực sự đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu?
4. Lời ban sự sống – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Bảo rằng lương thực hằng ngày như cơm, như bánh có thể mang lại cho con người sự sống tạm bợ đời nầy là điều dễ chấp nhận, vì rõ ràng nhờ cơm bánh mà chúng ta có thêm sức mạnh để lao động hằng ngày.
Bảo rằng thuốc men và các chất bổ dưỡng làm gia tăng sinh lực cho con người thì cũng dễ hiểu thôi, vì chúng ta có thể cảm nhận hiệu quả ấy trước mắt.
Thế nhưng Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô trong Tin Mừng hôm nay: "Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời" là những lời khó thuyết phục, vì lời nói thoảng bay trong gió, chứ có phải là lương thực, là thuốc men đâu mà có sức kéo dài tuổi thọ của con người.
Thiên Chúa dùng Lời để tác tạo vũ trụ và thông ban sự sống.
Từ nguyên thuỷ, khi tất cả còn hư vô trống rỗng, Thiên Chúa đã dùng Lời mà tác thành vũ trụ và sáng tạo muôn loài. Mọi sự sống trong hoàn vũ, từ sự sống của các loài sinh vật đơn giản cho đến sự sống của loài người đều do Lời Chúa phán mà ra.
Sáng thế ký chương I viết: “Thiên Chúa phán: "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc,... liền có như vậy."
Thiên Chúa phán: "Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy.
Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta..." Và từ Lời thần thiêng đó, con người đã được tạo thành và được thông ban sự sống. (Stk 1, 20.24.26)
Lời Chúa hồi sinh kẻ chết
Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu cũng dùng Lời thần thiêng của mình để phục hồi sự sống cho những kẻ chết.
Hôm ấy, khi Chúa Giêsu thấy người ta khiêng cậu con trai duy nhất của một bà goá ở thành Na-im đi chôn, người mẹ theo sau xác con gào khóc thảm thiết. Động lòng thương, Chúa truyền cho người khiêng đứng lại và Người dùng Lời của mình ban lại sự sống cho người thanh niên: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho anh hãy chổi dậy" (Lc 7,14), lập tức người chết được hồi sinh.
Rồi đến lượt La-da-rô đã chết đến bốn ngày, xác đã nặng mùi, thế mà Chúa Giêsu cũng chỉ dùng Lời của mình ban lại sự sống cho anh. "La-da-rô, hãy ra ngoài!". Vừa nghe lời quyền năng đó, người chết đội mồ sống lại. (Gioan 11, 43)
Thế thì rõ ràng là Chúa Giêsu có những Lời truyền ban sự sống, nhưng không chỉ thông ban sự sống sinh vật tạm thời mà còn đem lại sự sống vĩnh cửu trên thiên quốc.
Khi giảng tại Hội Đường Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu khẳng định Người chính là Bánh hằng sống, ai ăn thịt và uống máu Người sẽ được sống đời đời. Lời đó khiến dân chúng và các môn đệ bị sốc, không chấp nhận và tuần tự bỏ đi. Dầu vậy, thánh Phê-rô vẫn kiên vững tuyên xưng: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời." (Ga 6, 68)
Chúa Giêsu được mệnh danh là Ngôi Lời, đã hiện hữu từ trước muôn đời, "nhờ Người vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành" (Gioan 1, 1-3) thì chắc chắn Người có đủ quyền năng ban sự sống đời đời cho những ai tin nhận Người.
Nếu hôm nay trên thị trường có thuốc trường sinh, chắc chắn sẽ có nhiều người xô đẩy nhau quyết tìm mua bằng mọi giá. Thế mà nay Chúa Giêsu tặng ban miễn phí những Lời đem lại sự sống đời đời cho nhận loại, lẽ nào chúng ta lại thờ ơ.
Vậy thì cùng với thánh Phê-rô, chúng ta hãy tuyên xưng với tất cả lòng tin: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời".
Cùng với Mẹ Maria là Đấng hằng ghi nhớ và suy niệm Lời Chúa trong lòng, chúng ta hãy hấp thụ Lời Chúa vào tâm hồn, để Lời Chúa sinh hoa kết quả trong cuộc sống hằng ngày, nhờ đó mỗi người chúng ta được hưởng sự sống hoan lạc đời nầy và sự sống vĩnh cửu mai sau.
5. Chọn lựa.
Cả chúng con nữa, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?
Câu hỏi Chúa Giêsu đưa ra đòi buộc các môn đệ phải chọn lựa, phải dứt khoát lập trường. Đây không phải là một việc dễ dàng, vì ngay trước đó đã có nhiều môn đệ rút lui, bởi điều Ngài xác quyết một cách mạnh mẽ về thứ lương thực thiêng liêng nuôi sống linh hồn, thật là chói tai không thể nào chấp nhận được theo lẽ tự nhiên: Thịt Ngài là của ăn và Máu Ngài là của uống mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Với lời tuyên bố ấy, chúng ta có thể nghĩ tới bí tích Thánh Thể, chúng ta đã cử hành trong suốt cả cuộc đời người công giáo, mà chẳng có lấy một chút băn khoăn hay do dự. Chúng ta cũng đã từng đón nhận Mình và Máu thánh Ngài một cách quen thuộc theo nghi lễ và chúng ta không còn nhận ra tính cách chói tai và những khó khăn mà các môn đệ đã găp phải.
Sự tuyên xưng của các ông chính là một sự dấn thân, một hành đông liên quan tới vận mạng của một con người. Tuy nhiên, điều đáng cho chúng ta suy nghĩ hơn cả, đó là mặc dầu chúng ta tin tưởng vững chắc vào lời xác quyết của Chúa: Thịt Máu Ngài chính là lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đem đến cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, nhưng trong thực tế, chúng ta lại sống, lại hành động trái ngược với niềm tin tưởng ấy.
Đúng thế, có những người công giáo vốn tự xưng là đạo dòng, đạo gốc… Thế mà cả chục năm không rước Chúa lấy được một lần. Có những người khác, ngày Chúa nhật cũng đến nhà thờ nhưng cho qua lần đoạn lượt mà thôi. Họ đứng ở ngoài sân, vừa nói chuyện, vừa phì phèo điếu thuốc lá và vừa tham dự thánh lễ. Mình không tham dự đã đành, mà còn cả trở và làm cho người khác lo ra, chia trí.
Hơn thế nữa, phần đông chúng ta lại tách biệt thánh lễ ra khỏi cuộc sống.
Chúng ta giữ đạo ở trong nhà thờ như một người công chức tới giờ đến sở làm việc. Có nghĩa là khi đến nhà thờ, chúng ta trang nghiêm sốt sắng. Nhưng khi thánh lễ kết thúc, cửa nhà thờ đóng lại và chúng ta trở về với cuộc sống thường ngày. Lúc bấy giờ chúng ta lại vội vã gian than, độc ác và bất công. Trong nhà thờ chúng ta là những con chiên ngoan, nhưng giữa lòng cuộc đời, chúng ta lại hoá kiếp thành một loài sói dữ. Như vậy, thánh lễ cũng chỉ là một chiếc ngăn kéo rất nhỏ bé giữa những ngăn kéo biệt lập khác của cuộc sống.
Thế nhưng, với những người có đức tin thì khác, cuộc sống phải trờ thành thánh lễ, hay nói cách khác, tinh thần thánh lễ phải thấm sâu vào cuộc sống của họ. Có nghĩa là chúng ta phải biến đổi đời sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài, bằng cách thực thi tinh thần yêu thương và hợp nhất, giúp đỡ những người chung quanh, như một bài hát quen thuộc: Ta về thôi khi thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để làm chứng nhân.
Hãy góp nhặt những hy sinh rải rắc trong đời thường, để làm nên tấm bánh và chén rượu, như những của lễ chúng ta dâng lên Chúa. Từ đó chúng ta đi đến một câu hỏi, một kết luận, đó là chúng ta đã thực sự sống tinh thần thánh lễ giữa lòng cuộc đời của chúng ta hay chưa?
6. Trong anh em có những kẻ không tin
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Lời mời gọi tiếp nhận ‘bánh hằng sống’, hay đúng hơn ‘ăn thịt và uống máu’ của Đức Giêsu, đã bị đám thính giả Do Thái nói chung, thậm chí cả một số môn đệ nói riêng, khước từ; “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe cho nổi!... Từ lúc đó nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”. Chắc chắn không phải vì họ không muốn có bánh ăn là thứ mà họ đang kiếm tìm, nhưng họ khước từ ‘ăn thịt và uống máu’ vì là hình thức ghê tởm đối với bất kỳ ai. Điều đó thật ra cũng dễ hiểu thôi, và chẳng có gì đáng chê trách! Tuy nhiên điều làm chúng ta suy nghĩ chính là, từ sự ghê tởm tự nhiên đó, họ đã không còn tin vào Đức Giêsu nữa, “Trong anh em có những kẻ không tin”… và nhiều người quyết định lìa bỏ Người.
Nếu chỉ là vì hình thức ‘ăn thịt và uống máu’ làm họ ghê tởm, thì cách giải quyết cũng nhẹ nhàng thôi: chỉ cần trao bánh và rượu, rồi nói: “này là thịt và máu Ta”, như Người sẽ làm trong bữa ăn ly biệt, là sẽ dễ dàng được chấp nhận ngay. Thế nhưng, trong nhận thức của Đức Giêsu, thì rõ ràng đó không phải là lý do đáng quan tâm nhất để họ từ khước. Đối với Người, các môn đệ đang cần củng cố một điều gì còn thâm sâu hơn nhiều mà Người gọi là đức tin nhờ Thần Khí; “Thần Khí mới làm cho sống chứ xác thịt chẳng có ích gì”, vì cũng chỉ có Thần Khí mới có thể mở miệng Phê-rô thốt lên lời tuyên xưng: “Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”
Ngày nay trong số các Kitô hữu cũng có nhiều kẻ không tin, nhưng vấn đề chúng ta phải giáp mặt có lẽ lại trái ngược hẳn với các môn đệ Do Thái thời xưa. Khi giảng giải về Thánh Thể, người ta nhấn mạnh, bánh và rượu thật là ‘mình và máu’ Chúa (cũng có thể là do phản ứng của Công Giáo trước việc anh em Tin Lành chối bỏ học thuyết ‘biến thể’ transubstantiation). Điều này ngày nay không quá khó chấp nhận, ngay cả đối với các dự tòng, chỉ cần đưa ra một lý luận đơn giản: có điều gì mà Thiên Chúa không làm được? Cũng vậy khi tiến lên rước lễ, chẳng ai trong chúng ta còn có cái cảm giác ghê tởm của ‘ăn thịt và uống máu’. Thế nhưng, như đã từng xẩy ra cho các môn đệ xưa, vấn đề chính của chúng ta sẽ là: tôi có thật sự ‘tin và theo Thầy’ cách triệt để hay không? ‘Uống nước hằng sống’ và ‘ăn bánh trường sinh’ thực chất chỉ là những kiểu nói tượng hình để diễn đạt một điều hệ trọng hơn nhiều. Môn đệ Phê-rô đã biểu lộ niềm tin này qua lời tuyên xưng chân thành: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68).Chính Đức Giêsu cũng chỉ rõ: “… Trong anh em có những kẻ không tin… Vì thế, Thầy bảo anh em: không ai đến với Thầy được nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. Tác giả Gio-an hình như cũng có cùng một nhận định khi nói về các môn đệ: “Quả thực ngay từ đầu đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp người”. Như vậy ‘tin Đức Giêsu’ có nghĩa là lấy cái chết tự hiến thập giá của Người làm sức sống cho đời mình, làm con đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha – sự sống vĩnh cửu; “Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” Chỉ ai tin như thế (= ăn thịt và uống máu) mới bảo đảm cho mình được sống muôn đời; “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.
Xác tín điều này, tôi không hề có ý hạ thấp tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể trong nội dung triết học và thần học; ngược lại là đàng khác. Khi cử hành Thánh Thể, thay vì chỉ suy nghĩ rằng mình đang làm một việc đạo đức tốt lành và thánh thiện bậc nhất (hàng đầu trong số các bí tích hay phụng vụ), tôi cần minh định rõ rằng mình đang tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô cách long trọng nhất, cũng như đang đón nhận ơn cứu độ cách thâm sâu nhất. Đức tin của tôi không đơn thuần chỉ là xác tín bánh và rượu đã trở thành Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Đức tin phải đưa tôi tới việc đón nhận Đấng đã hiến dâng mình trên thập giá để tôi được thông phần vào sự sống từ ái vô biên của Chúa Cha… Và điều này thiết thực tới độ, cho dầu tôi, nếu có chết trước cả khi có dịp ‘ăn thịt và uống máu’ Người nơi bí tích Thánh Thể, và nếu tôi đã từng hết lòng ‘ăn bánh trường sinh’ trong niềm tin phó thác thâm sâu nhất đó, thì chính niềm tin này mới đảm bảo cho tôi “không còn chết nữa, nhưng được sống muôn đời”.
Điều tối quan trọng là đôi lúc tôi cần thật sự duyệt lại niềm tin của mình đạt nơi bí tích Thánh Thể, nhất là trong Thánh Lễ tôi cử hành hàng ngày
Lạy Cha chí ái, mỗi ngày khi con cử hành Thánh Thể, cho dầu có là một thói quen như hầu hết các linh mục khác, xin Cha luôn làm con ý thức rằng, đây chính là lời tuyên xưng đức tin thâm sâu nhất của con. Thánh Thể khi đó sẽ diễn đạt việc con đón nhận ơn cứu độ vô giá của thập giá Chúa Kitô cách trọn vẹn nhất, sẽ trở thành con đường để con đi vào sức sống vô biên của Chúa Cha, và bảo đảm cho con cuộc sống vĩnh hằng. Xin Cha giúp con luôn cử hành Thánh Lễ trong niềm tin như vậy. Amen.
7. Tình đời thay trắng đổi đen!
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Con người thường đổi trắng thay đen. Lòng người thường thay lòng đổi dạ khiến cho nhiều người đã chua chát nhìn đời mà bảo rằng:
"Còn tiền còn bạc còn đầy tớ.
Hết tiền hết bạc hết ông tôi".
Người ta gắn bó với nhau thường là vì tình, vì tiền và quyền lợi. Và một khi quyền lợi của mình bị lung lay, họ liền thay lòng đổi dạ để rồi "gió chiều nào xuôi theo chiều đó" để được an toàn bản thân. Xem ra tình cảm giữa con người với nhau thật mong manh. Mọi quan hệ đều được liên kết với nhau bằng những quyền lợi và nghĩa vụ phải thi hành với nhau. Tình đời thường thay trắng đổi đen nên mới có chuyện "ông ăn chả bà ăn nem". Bất trung và phản bội với lời đoan hứa thường là sự mất tín nhiệm nơi nhau và hậu quả là chẳng ai tin ai, ai cũng lo cho chính mình để khỏi bị thiệt hại bản thân.
Lịch sử cứu độ là một chuỗi dài sự tha thứ của Thiên Chúa và sự bất trung, phản bội của dân tộc được tuyển chọn. Họ hứa rồi quên. Họ đứng lên rồi lại ngã qụy. Dân Do Thái đã từng hứa trung thành với Giavê Thiên Chúa, nhưng rồi họ lại tin thờ thần ngoại bang. Mặc dầu Thiên Chúa luôn bảo vệ họ, chăm sóc họ như tình phụ tử dành cho con cái. Ngược lại, họ thường lãng quên ân huệ của Thiên Chúa. Họ năm lần bảy lượt quay lưng lại với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho họ.
Lời Chúa trong bài đọc thứ nhất là bằng chứng về quá khứ đầy thất trung của dân tộc được tuyển chọn. Cha ông họ đã từng thờ thần ngoại bang. Hôm nay họ tuyên hứa chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa Giavê duy nhất, nhưng rồi lời hứa lại đi vào quên lãng chỉ còn lại những thất tín, bội thề. Thiên Chúa đối với họ như là một kho ơn, chỉ đề rút tỉa và một khi không đáp ứng nguyện vọng là họ lại tìm kiếm nơi các thần ngoại bang. Thế nhưng, Thiên Chúa là Đấng tín trung với lời giao ước. Ngài chỉ giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương trọn đời.
Hôm nay, Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ một chọn lựa. Chọn gắn bó với Chúa hay chạy theo thói đời của thế gian "hạnh phúc thì xum vầy, gian nan thì bỏ chạy". Chúa đòi các môn đệ không lấp lửng, lập lờ "làm tôi hai chủ", mà phải tỏ rõ lập trường. Bỏ đi hay ở lại. Chọn sự sống đời đời hay sự sống chóng qua đời này. Các môn đệ đã gắn bó với Chúa bao lâu nay nhưng liệu rằng bằng đó thời gian có đủ để niềm tin các ông trưởng thành và có thể nhận ra Thầy là Chúa, là Đấng ban sự sống hay chưa? Trước câu hỏi: "cả anh em, anh em cũng muốn bỏ Thầy đi sao?". Nhiều môn đệ đã bỏ đi. Và chắc chắn ngay trong số 12 vẫn còn có kẻ muốn bỏ đi. Số còn lại do dự, im lặng, chỉ có một mình Phêrô đã mạnh dạn thưa lên rằng: "bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Vì chỉ có Thầy mới có lời ban lại sự sống đời đời". Thánh Phêrô đã ở lại với Thầy, vì ông tin vào Thầy mình là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Ông ở lại với Thầy vì chỉ có Thầy mới mang lại sự sống đời đời.
Người xưa thường nói: "Qua gian nan mới biết ai là bạn, là thù". Chúa Giêsu biết rõ một trong nhóm sẽ nộp mình. Ngài cũng Phêrô sẽ ba lần chối Thầy và đa số sẽ bỏ Thầy cho người ta hành hạ và treo lên thập tự giá, nhưng Ngài vẫn yêu thương. Ngài vẫn tìm mọi cách cho các môn đệ ở lại mãi trong tình yêu của Ngài. Tình yêu của Thiên Chúa đời đời vẫn thế. Tựa như tình yêu của cha của mẹ sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái. Tình yêu của Thiên Chúa vẫn mãi mãi trung thành với tình yêu ban đầu. Ngài vẫn hằng tha thiết mời gọi con người hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Dù rằng đó là đứa ngỗ nghịch, dù rằng đó là đứa thường phạm sai lầm, đôi khi còn bất hiếu bất trung. Ngài vẫn yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn hỏi chúng ta "phần các con có muốn bỏ Thầy không?". Chúng ta có dám ở lại với Thầy khi mà nhiều người đã không còn tin có thế giới thần linh? Chúng ta có dám gắn bó với Người khi mà cả khối đông nhân loại đang bỏ đi để chạy theo ma lực của đồng tiền và địa vị? Có lẽ phần nhiều chúng ta do dự, phần nhiều chúng ta im lặng. Vì biết bao lần chúng ta cũng bị cám dỗ bỏ đạo để được tiến thân trên đài cao danh vọng. Vì biết bao lần đồng tiền đã làm mờ con mắt, khiến chúng ta chao đảo đức tin, muốn buông xuôi theo thói gian dối của thế gian để tìm mối lợi cho bản thân của mình. Có thể chúng ta đang đóng vai trò một Giuđa vẫn ở xen lẫn với nhóm 12 nhưng chỉ chờ cơ hội để bán đứng Thầy và bán đứng anh em.
Nguyện xin Thiên Chúa tình yêu tha thứ những yếu đuối, nhỏ nhen đầy ích kỷ của chúng con. Xin Mình Máu Thánh Ngài nâng đỡ chúng con thoát khỏi những cám dỗ trần thế để mãi mãi con có thể nói như thánh Phêrô ngày nào: "Bỏ Ngài chúng con biết đến với ai. Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời". Amen.
8. Lòng trung thành
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Mỗi lần tham dự Thánh lễ hôn phối, ta được nghe từng lời của chú rể: Anh... nhận em... làm vợ và hứa sẽ giữ lòng trung thành với em, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như khi mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em suốt đời anh. Đáp lại, cô dâu cũng nói lên lòng trung thành với chồng của cô.
Lòng trung thành dường như là điều cần thiết cho cuộc sống chung. Trong mọi tương quan, trong mọi bậc sống đều cần lòng trung thành, sự chung thủy với nhau. Bạn bè chơi với nhau cần trung thành để không phản bội nhau. Vợ chồng cần trung thành để không có lỗi với nhau. Thầy trò cần lòng trung thành để gắn bó mật thiết với nhau... Và như vậy, chúng ta thấy lòng chung thủy, sự trung thành luôn là điều mà mọi người chúng ta phải gìn giữ trong mọi mối tương quan với nhau.
Nhưng xem ra xã hội chạy theo lợi nhuận đã khiến con người khó giữ lời hứa trung thành. Vì lợi nhuận có người đã thay đổi công ty mỗi năm vài lần, cho dù đó là những ông chủ đã từng cưu mang họ lúc khó khăn. Bạn bè chơi với nhau ngày hôm nay cũng thế! Rất khó kiếm được bạn tri kỷ như thế hệ cha anh. Họ chơi với nhau nhưng dễ dàng đạp đổ nhau vì cái lợi cá nhân, vì công danh của họ. Ngày hôm nay càng khó kiếm những đứa học trò về thăm thầy cô sau khi công thành danh toại, đôi khi còn phản thầy, phản bạn và vu khống nhau...
Điều báo động là lòng trung thành, sự chung thủy trong hôn nhân hôm nay cũng đang bị phá hủy một cách đáng báo động. Ở những thành phố lớn như Sài Gòn người ta tính cứ 3 đôi kết hôn thì 1 đôi không trung thành với nhau trọn đời. Và theo thống kê tại nơi thử máu AND để xác định cha con ruột với nhau thì cứ 10 trường hợp thì có 3 trường hợp nuôi con hàng xóm...
Quả thực, lòng trung thành nói thì dễ nhưng giữ lại chẳng dễ chút nào. Ngay trong tôn giáo có mấy người thực sự giữ lòng trung thành với Thiên Chúa? Ở Việt Nam vào thập niên 1980-1990 của thế kỷ trước rất nhiều người đã ghi vào lý lịch bản thân là không tôn giáo để tìm kiếm công danh cho dễ. Ở đâu đó ta vẫn thấy người Công Giáo nhưng không trung thành giữ luật Chúa, họ vẫn tham ô, lừa gạt, sống thiếu yêu thương...
Lời Chúa hôm nay, ta cũng nghe lời hết sức tình cảm từ môi miệng của Simon Phêrô: "Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời ". Nhưng Phê-rô thực sự đã không giữ lời hứa. Ông đã ngã đi ngã lại tới 3 lần và cuối cùng bỏ chạy biệt tăm trên đường thập giá mà Chúa phải đi một mình!
Cuộc đời mỗi người chúng ta dường như cũng có nét gì đó giống Simon Phêrô xưa. Nói yêu Chúa thì dễ nhưng khi phải làm chứng thì lại chạy xa. Đi lễ thì đông nhưng giữ trọn luật Chúa còn mấy ai? Ngày nay không còn có những cuộc bách hại đạo tàn khốc nhưng cuộc cạnh tranh cơm áo gạo tiền đã khiến bao người đánh mất lòng trung thành với Thiên Chúa. Và lòng trung thành với nhau của vợ chồng, của bạn bè , của đối tác làm ăn càng khó giữ vì lợi nhuận mà người ta dễ dàng phản bội nhau.
Chúa Giêsu hôm nay nói với các môn đệ và cũng là chúng ta muốn trung thành với Chúa và với nhau không thể dựa vào bản thân mà hãy dựa vào chính Chúa. Chính ơn ban của Chúa Cha mới giúp chúng ta sống trung thành với lời hứa. Thế nên, chúng ta cần khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của mình để trông cậy với ơn Chúa. Hãy gia tăng cầu nguyện, hãy phó thác vào Chúa để Ngài nâng đỡ sự yếu đuối của chúng ta và hoàn thiện chúng ta nên tốt hơn.
Xin ơn Chúa giúp chúng ta giữ lòng trung thành với Chúa và với nhau. Nhất là luôn nhận ra Chúa mới là nguồn sống trường sinh để biết chọn Chúa hơn là của cải trần gian mau qua. Amen.
9. Trung thành hay phản bội
(Suy niệm của Lm. GB. Văn Hào SDB)
Người ta vẫn thường nói, trên đời này không có gì ghê tởm và đáng cho chúng ta khinh bỉ cho bằng sự phản bội. Trò phản thầy. Con cái phản bội công ơn cha mẹ, nhất là vợ chồng phản bội nhau trong nghĩa tình phu thê,.. tất cả đều đáng bị nguyền rủa và coi khinh. Tuy nhiên, trong đời sống đức tin, đặc biệt trong ơn gọi thánh hiến, chúng ta cũng có nguy cơ dễ rơi vào sự bội phản này. Lời tuyên tín của thánh Phêrô trong trình thuật tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta phải luôn canh tân lòng trung thành và bền bỉ theo Chúa Giêsu từng ngày: “ Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6,68)
Nghịch lý của Lời
Sau khi Đức Giêsu tuyên bố: “ Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”, nhiều môn đệ dị ứng và ngán ngẩm bỏ đi. Có lẽ họ đã theo Chúa một thời gian khá lâu với những động cơ khác nhau, nhưng cuối cùng hầu hết đã thoái lui và đầu hàng vô điều kiện. “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi”(c.60). Họ bỏ của chạy lấy người, vì không thể chấp nhận nghịch lý theo suy luận tự nhiên nơi đầu óc của họ. Lời Đức Giêsu tuyên bố làm sụp đổ hoàn toàn những toan tính trần thế mà họ vẫn đeo bám khi đến với Đức Giêsu. Quả thật, Đức Giêsu vẫn luôn là một mầu nhiệm ẩn kín và khó hiểu. Mầu nhiệm về Ngài và những lời Ngài nói luôn hàm ngậm một nghịch lý, và cao điểm của nghịch lý này là cái chết trên Thập giá. Một con người mà họ mơ tưởng sẽ trở thành thủ lãnh chính trị, khai lập một vương quốc mới đầy oai phong, lại bị kết án như một tên tội phạm, và bị treo thân cách nhục nhã giống hệt một tên cướp đáng sợ. Một số môn đệ bỏ đi cũng dễ hiểu. Lời Đức Giêsu nói ra nghe thật chói tai và nhức nhối. Giả như chúng ta ở vào hoàn cảnh đó, có lẽ chúng ta cũng sẽ hành xử giống như họ. Khi tuyên bố như thế, ông Giêsu đúng là một con người điên điên khùng khùng chẳng giống ai. Ngay cả các thân nhân đồng hương với Chúa cũng đã có lần phải lắc đầu và ngao ngán thốt lên “Ông ấy đã mất trí rồi” ( Mc 3,21).
Nhưng nếu tìm hiểu căn nguyên một cách sâu xa hơn, một số môn đệ bỏ đi, bởi vì họ đã chưa thực sự cắm sâu vào mầu nhiệm Đức Giêsu. Họ chỉ nghe Chúa nói bên ngoài, nhưng bên trong, tâm hồn họ vẫn hoàn toàn đóng khép. Con tim họ chưa mở toang ra để lời Chúa có thể thẩm thấu vào sâu tận nơi con người họ. Thánh Biển Đức cũng dạy các con cái Ngài: “ Chúng con phải siêng năng lắng nghe lời Chúa, nhưng không phải nghe với đôi tai của thân xác mà với đôi tai của cõi lòng”.
Tự bản chất, Đức Giêsu chính là Lời hằng sống được hiến trao cho nhân loại. “ Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Lời Thiên Chúa không phải là một hệ thống những triết ngôn, hay những tư tưởng khuyến thiện để răn đời. Lời Chúa ở trên một mức độ khác cao cả hơn rất nhiều, bởi vì Lời Chúa và duy nhất chỉ có Lời của Thiên Chúa mới đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Đây là lời tuyên tín của Thánh Phêrô, được khởi hứng bởi Thần khí, đồng thời cũng là một mặc khải sâu xa Thiên Chúa ngỏ trao. Những kiến thức khoa học, chúng ta có thể nghiên cứu để sở đắc. Những chân lý triết học, chúng ta có thể dùng lý luận để suy tư. Nhưng lời Chúa không phải là một mớ kiến thức để nhồi nhét, nhằm thỏa mãn sự tò mò nơi đầu óc con người. Muốn đón nhận lời của Chúa để được sống luôn mãi, thái độ căn bản cần phải có chính là “tin” vào Ngài. Trong diễn từ về bánh nơi chương 6 trong Tin mừng Gioan, Đức Giêsu nói khá nhiều về thái độ căn bản này: “Ai tin vào tôi sẽ được sống muôn đời”. Lời khuyến mời của Đức Giêsu cũng tương thích với lời tuyên tín của thánh Phêrô. “ Chỉ Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Ăn thịt và uống máu Chúa, cũng như mở lòng đón nhận nhận Lời của Thiên Chúa sẽ được trường sinh. Đây là hai cách thái giống hệt nhau biểu tỏ một thực tại duy nhất: Tin vào Đức Giêsu.
Canh tân lòng trung thành
Lời của Chúa là nghịch lý luôn hàm ngậm mầu nhiệm tự hủy. Thánh giáo phụ Grêgoriô thành Nysse đã quảng diễn nghịch lý đức tin này khi Ngài viết: “Hành trình đức tin của chúng ta đến với Chúa giống như chúng ta đang dấn bước tìm đến một khoảng tối đầy ánh sáng”. Ánh sáng và bóng tối, sự sống và sự chết, ân sủng và tội lỗi.... là những cặp phàm trù tương phản và đối kháng nhau ẩn chứa nơi nghịch lý của Lời, cũng như trong nghịch lý của mầu nhiệm Đức Giêsu. Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta phải liều lĩnh dấn bước vào bóng tối để tiến đến ánh sáng, phải chấp nhận đi qua Thập giá và cái chết để tiến nhận sự sống và vinh quang. Đối diện trước nghịch lý này, chúng ta sẽ phải chạm mặt với những cám dỗ muốn thoái lui và không muốn chấp nhận điều nghịch thường đó.Vì thế, chúng ta cần phải canh tân lòng trung thành mỗi ngày. Đức tin không phải chỉ đón nhận một lần là xong. Thánh Phaolô cũng đã căn dặn giáo đoàn Rôma: “ Những người có đức tin vững mạnh phải nâng đỡ những người yếu đuối không có niềm tin vững mạnh” (Rm 15,1).
Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã từng cảnh báo chúng ta về ba nguy cơ gây xói mòn đức tin và làm suy giảm căn tính đích thực nơi mọi Kitô hữu, đó là sống theo chủ nghĩa duy vật (materialism), sống theo chủ nghĩa hưởng thụ (consumerism) và sống theo chủ nghĩa tục hóa (secularism). Là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta phải đặt Thiên Chúa vào chỗ tối thượng (in primacy). Điều này ai cũng biết trên lý thuyết, nhưng trong thực tế, chúng ta lại hay sống theo kiểu khác. Khi chúng ta thượng tôn tiền bạc, đặt tiền bạc làm thước đo mọi giá trị theo kiểu sống duy vật, thì đó chính là một sự phản bội. Khi chúng ta chủ trương sống an nhàn với những tiện nghi vật chất để thỏa mãn nhu cầu thể xác theo kiểu sống hưởng thụ, đó cũng là một sự phản bội. Đặc biệt, khi chúng ta mất dần cảm thức linh thánh, không còn thiết tha đến việc cầu nguyện và rơi vào nếp sống tục hóa, thì chắc chắn đó cũng chính là con đường phản bội mà chúng ta đang từ từ đi vào. Chúng ta phải can đảm đạp đổ những “con bò vàng” giống như con bò vàng của những người Do thái năm xưa trong sa mạc Sinai, để từng giờ từng phút, chúng ta luôn lặp lại quyết tâm sống trung thành.
Nguy cơ phản bội
Một đứa bé 12 tuổi ngồi tham dự phiên tòa xét xử vụ án ly dị của bố mẹ, đã viết lại những dòng tâm sự đầy nước mắt sau đây:
“Con nhớ mãi buổi chiều thu ấy, lá rơi nhiều. Bên ngoài trời mưa tầm tã. Bố đến hôn con, một nụ hôn cay đắng và nghiệt ngã. Tâm hồn con tan nát và chết lặng.
Bố ơi, sao bố dùng cái hôn ấy để xé nát gia đình chúng ta. Sao bố dùng nụ hôn giả dối ấy để trao cho con thay vì hôn trên đôi môi của mẹ. Chữ ký ngày xưa trên bàn thờ Chúa ngày bố mẹ thành hôn nay trở thành những nét chữ không hồn.
Mẹ ơi, sao mẹ không đến nhận nụ hôn thay cho con, nụ hôn ngày xưa mẹ đã hạnh phúc lãnh nhận trước bàn thờ Chúa. Sao mẹ vẫn lạnh lùng đứng đó như một kẻ xa lạ nhìn bố hôn con, một nụ hôn như mũi dao nhọn đâm nát trái tim bé bỏng nơi con.
Bố ơi, mẹ ơi, con phải trung thành với ai đây khi con sẽ đứng nhìn những nụ hôn bố trao cho mẹ ghẻ, mẹ sẽ trao cho một người đàn ông khác hoàn toàn xa lạ.
Chúa ơi, con còn quá nhỏ bé, sao Chúa để con phải nhận những nụ hôn Giuđa này?”
Đúng vậy, trên đời này không có gì đáng chúng ta ghê tởm cho bằng sự phản bội.
Nhưng, những nụ hôn Giuđa hình như vẫn đang được lặp lại trong cuộc sống mỗi người chúng ta, qua nhiều dạng thức khác nhau, đặc biệt trong đời sống đức tin, nhất là trong đời sống thánh hiến.
Kết luận
Cha Matthêu King, một linh mục dòng Salêdiêng DonBosco đã qua đời cách đây hơn 7 năm. Ngài được Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II mời sang Rôma để làm cố vấn đặc biệt cho giáo triều về những vấn đề của Trung quốc. Trong những năm tháng cuối đời nằm trên giường bệnh quặn đau với căn bệnh ung thư, Ngài vẫn thường nói: “ Tôi luôn cám ơn Chúa về ba hồng ân Chúa đã ban cho tôi. Trước hết, tôi được biết Chúa và trở nên môn đệ Đức Giêsu ngày tôi lãnh nhận bí tích Thánh tẩy. Thứ đến, Chúa đã chọn tôi trong ơn gọi Salêdiêng và trở nên một linh mục phục vụ Giáo hội. Cuối cùng, Chúa đã gửi đến cho tôi căn bệnh đau đớn này để tôi được thông dự vào những khổ đau với Chúa Giêsu trên Thánh giá. Tôi luôn cảm tạ Chúa vì ba ân huệ quý giá này”. Ngài cũng luôn nói với những ai đến thăm Ngài: “Xin anh em cầu nguyện cho tôi, để tôi được mãi trung thành”.
Đức tin không phải chiếm được một lần là xong. Chúng ta còn phải chiến đấu mãi, phải luôn bươn chải mãi, để với ơn Chúa, chúng ta có thể trung thành đến cùng.
10. Bỏ Thầy, Con Sẽ Theo Ai?
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã ban cho loài người được tự do lựa chọn: hoặc chấp nhận hay khước từ ơn Chúa. Sau khi chu toàn sứ mệnh Môsê trao phó để đưa dân Chúa chọn vào miền đất hứa, ông Giôsuê đã triệu tập các vị đại diện dân chúng tại Si-khem để khẳng định lại niềm tin vào Chúa. Ông nói với họ rằng: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ... Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Gs 24:15). Dân Ít-ra-en cũng đã lựa chọn. Họ quyết định phụng thờ Thiên Chúa vì Người đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai cập, đã làm những việc kỳ diệu và dẫn đưa họ vào miền đất hứa.
Tuy nhiên khi gặp khó khăn và thử thách trong sa mạc, họ lại bất trung, phản nghịch cùng Chúa. Và mỗi lần họ ăn năn sám hối thì Chúa lại giang tay đón nhận họ trở về với lòng bao dung tha thứ. Trong Phúc âm tuần trước, Đức Giêsu dạy họ về việc ăn bánh hằng sống là thịt và uống máu Người thì mới có sự sống muôn đời. Người Do thái liền tranh luận hỏi nhau: làm sao ông này có thể cho họ ăn thịt Người được (Ga 6:52)?
Lớp thính giả thứ hai trong Phúc âm hôm nay là các môn đệ khi nghe Đức Giêsu giảng dạy về việc ăn thịt và uống máu Người để được sống muôn đời, cũng lẩm bẩm cho rằng lời nói thật là chướng tai (Ga 6:60). Và theo Phúc âm thuật lại: Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa (Ga 6:66). Từ ngữ môn đệ được hiểu là người theo Đức Giêsu và con số được ghi là bảy mươi hai môn đệ. Và khi có những môn đệ bỏ cuộc, Đức Giêsu không ngạc nhiên, cũng không buồn giận, và không thay đổi lập trường. Người không giải thích, cũng không rút lại lời giảng dạy để mong bắt được mẻ cá lớn là các môn đệ.
Đến lượt lớp thính giả thứ ba là các tông đồ thì Đức Giêsu còn thách đố các ông thêm nữa. Người đòi hỏi nơi các tông đồ một đức tin không dè dặt, không lưỡng lự. Đức Giêsu gần làm hoảng hồn các tông đồ, khi Người hỏi thêm các ông: Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi không (Ga 6:67)? Hoặc ở lại hay bỏ đi, một câu hỏi mà họ không thể nào tránh né được. Để trả lời câu hỏi, ông Phêrô tiến lên, đóng vai trò lãnh đạo, đáp lại: Thưa Thầy, nếu bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6:68). Ông muốn nói là không có ai khác để mà theo cả. Đức Giêsu đòi hỏi một quyết định nơi các tông đồ. Và Người đã nhận được lời cam kết của thánh Phêrô. Một lời cam kết đã làm tiêu tan những nghi ngờ của các tông đồ khác.
Cũng vậy, tất cả những người đã quyết định theo Chúa qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức đều phải đương đầu với những thử thách về đức tin. Hằng ngày ta gặp nhiều cám dỗ để chối bỏ đức tin công giáo tông truyền. Ta gặp nhiều tiếng gọi dụ dỗ bảo ta điều gì phải tin, điều gì không cần tin, việc gì phải làm, việc gì không nên làm, điều gì cần phải được xét lại. Ta bị cám dỗ để giữ đạo theo xu hướng nhất thời, tuỳ theo hứng khởi: vui thì đi lễ thờ phượng, không thì ở nhà. Ta bị cám dỗ chỉ giữ đạo nếu Giáo hội thay đổi lập trường về một vài nguyên tắc luân lý nào đó, nếu Giáo hội chiều theo ước muốn của ta.
Ta bị cám dỗ chối bỏ đức tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh thể vì không hiểu sao bánh rượu sau khi linh mục đọc lời truyền phép vẫn giống bánh rượu trước khi truyền phép? Và đó chính là mầu nhiệm trong đạo mà loài người không thể dùng lí trí để giải thích và hiểu được. Nếu người ta có thể hiểu được mầu nhiệm trong đạo, thì cái được gọi là mầu nhiệm, không còn phải là mầu nhiệm nữa, mà chỉ là một triết thuyết hay một hệ thống khoa học. Vì thế mầu nhiệm vẫn mãi mãi là mầu nhiệm, nếu không thì đức tin không còn phải là đức tin nữa, mà chỉ là sự hiểu biết thôi. Tuy nhiên, nếu không hiểu, tại sao lại tin? Tin là chấp nhận dựa trên lời nói hay thế giá của người khác. Các tông đồ không hiểu, nhưng vẫn tin vì dựa trên lời nói của Thầy mình.
Khi cảm thấy khó chấp nhận về đường lối giáo huấn chính thức của Giáo hội, là phản ảnh của đường lối Phúc âm, về một vài vấn đề như tính dục, ly dị, phá thai..., đó là lúc mà câu hỏi Chúa đặt ra cho các tông đồ sẽ lại vọng lên bên tai ta: Còn con, con có muốn lìa bỏ Giáo hội mà Thầy đã thiết lập trên nền tảng các tông đồ không? Khi bất đồng ý kiến với Giáo hội về một số chính sách của Toà Thánh Vatican, đó là lúc mà một câu hỏi tương tự sẽ vọng lên bên tai ta: Còn con, con có muốn chấp nhận đường lối của Giáo hội mà Thầy thiết lập không? Khi thấy những gương xấu xẩy ra ngay trong hàng giáo sĩ, câu hỏi khác sẽ vọng lên: Còn con, con có muốn ở lại trong Giáo hội để cầu nguyện và xây dựng Giáo hội của Thầy không?
Khi phải đối chất với những lời giảng dậy chướng tai (Ga 6:60) trong đạo, hoặc giáo lí khó khăn của đạo thì người theo đạo nửa mùa, hoặc mạo nhận theo đạo, toan cắt nghĩa sao cho phiên phiến đi, để cho trở nên dễ dãi, hoặc thay đổi lẽ đạo sao cho phù hợp với ước muốn và quan niệm của họ cũng như của quần chúng. Thính giả trong Phúc âm hôm nay hiểu rõ lời Đức Giêsu giảng dạy, hiểu ý Người muốn nói gì nên mới cho là chướng tai đấy. Vậy mà Chúa cũng không cải chính về sự chướng tai đó đâu. Họ hiểu Chúa không nói đến việc ăn thịt và uống máu theo nghĩa tượng trưng thôi đâu. Khi cảm thấy Chúa mà mình tôn thờ, sao mà khó thế nếu so sánh với những chúa và thần của những đạo khác, đó là lúc mà câu hỏi giả sử của ông Giôsuê cũng vọng bên tai ta: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ (Js 24:15).
Phúc thay cho những gia đình, cộng đoàn giáo xứ và trong Giáo hội mà có được những người nói được những lời bất hủ để bầy tỏ đức tin quả quyết như Thánh Phêrô và ông Giôsuê hầu giúp củng cố đức tin của người khác trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ và trong cả Giáo hội.
Lời cầu nguyện xin cho được giữ vững niềm tin vào Bí tích Thánh Thể:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể.
Con xin cảm tạ Chúa đã lập Phép Thánh Thể
để làm của ăn uống thiêng liêng cho loài người.
Xin Chúa làm no thoả những đói khát của con
khi con lãnh nhận Mình Thánh Chúa
Và xin cho con giữ vững lời Chúa.
Đừng để con nghe theo lời quyến rũ rỉ tai
mà chối bỏ đức tin và xa lìa Chúa. Amen.
11. Lạy Thầy, chỉ Thầy mới có Lời Hằng Sống - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Lịch sử ca tụng Hội nghị Diên Hồng thời vua Trần nhân Tông. Vua đặt ra trước mắt toàn thể bô lão, khanh tướng và dân chúng một sự lựa chọn quyết liệt: Nên hòa hay chiến? Toàn dân hô: Chiến, chiến, chiến. Nhờ đó đã tạo được một sự đoàn kết có một sức mạnh phi thường, đã đánh bại quân Mông Cổ hùng mạnh đã từng bách chiến bách thắng chiếm cả Châu Á và một nửa Châu Âu, thống trị nước Tầu vĩ đại, còn muốn xơi ngon nước Việt nhỏ bé.
Cách đây gần ba ngàn năm, Giosuê đã bảo toàn dân phải dứt khoát chọn lựa: Hôm nay các ngươi hãy chọn hoặc thờ các thần, hoặc thờ Thiên Chúa. Còn tôi và gia đình, chúng tôi chọn thờ Thiên Chúa. Toàn dân thưa: Không đời nào chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà đi thờ các thần khác. Vì Thiên Chúa chúng tôi, chính Người đã đưa chúng tôi và cha ông chúng tôi khỏi nô lệ Ai cập, chính Người đã thực hiện trước mắt chúng tôi những dấu lạ vĩ đại, gìn giữ chúng tôi trên khắp nẻo đường.
Vinh phúc cho dân Do thái thời Giosuê và cho dân Việt thời vua Trần nhân Tông đã biết chọn lựa đúng, nên đã cứu cả dân tộc thoát khỏi nô lệ và khỏi chết nhục nhã.
Đức Giêsu từ trời xuống thế, đã ban phát một của ăn nuôi sống đời đời. Phúc cho ai biết chọn lấy lương thực trường sinh ấy, họ sẽ được sống vinh phúc đời đời.
Để người ta chọn đúng, Đức Giêsu đã phân biệt cho họ biết đâu là của ăn hư nát, đâu là của ăn hằng sống. Người Do thái chỉ biết có hai loại của ăn: một là loại của ăn hằng ngày, hai là loại của ăn lạ thường. Của ăn thường ngày là do hoa mầu ruộng đất và lao công loài người gieo trồng, chăm bón, chăn nuôi để nuôi sống thể xác. Để có của ăn này, con người phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt, tận tâm, tận lực làm việc cực khổ hơn muôn loài mới có của ăn. Nhưng dù có ăn bao nhiêu vẫn còn đói. Họ rất sợ đói. Cái đói đã giết chết hàng triệu người trên thế giới này, mặc dầu Thiên Chúa quan phòng đã dựng nên một vũ trụ phong phú cho loài người. Nếu họ biết khai thác, phát triển và chia sẻ cho nhau, thì chắc chắn chẳng ai bị chết đói. Chiến tranh thế giới thứ hai, người ta đã đổ hàng triệu tấn lương thực xuống biển, trong khi đó có hàng triệu người chết đói. Ở Việt Nam cũng có gần triệu người miền Bắc chết đói, lúc đó ở miền Nam, Phát xít Nhật đốt cháy hàng ngàn tấn lúa gạo.
Của ăn lạ thường do Thiên Chúa làm phép lạ như man-na hay bánh hóa nhiều trong những trường hợp đặc biệt. Bánh man-na đã được Thiên Chúa ban cho tổ tiên Do thái xưa đã biết nghe lời Chúa, từ bỏ Ai Cập, vượt qua sa mạc, trở về Đất Hứa để tôn thờ Thiên Chúa. Đức Giêsu cũng ban bánh hóa ra nhiều cho cả chục ngàn người ăn, vì họ đã sẵn sàng chịu đói để kiên trì theo Chúa đến nơi hoang vắng nhiều ngày.
Người Do thái đã kêu xin Chúa ban cho họ hai thứ của ăn đó, để họ không còn đói, và khỏi phải khổ cực làm ăn. Nhưng Đức Giêsu đã giải thích cho họ thấy: Đó là của ăn hay hư nát. Họ ăn bao nhiêu vẫn còn đói và còn chết, như cha ông họ đã ăn man-na và đã chết.
Đức Giêsu muốn ban cho họ thứ của ăn hằng sống: Đó là lời hằng sống và bánh hằng sống. Lời hằng sống là những giới răn giáo dục con người yêu mến Thiên Chúa, yêu thương nhau và xây dựng đời sống con người tồn tại vĩnh cửu như xây nhà trên đá. Muốn nên người, con cái cần cha mẹ dạy dỗ như thế nào, thì muốn trở nên con Thiên Chúa hằng sống, con người rất cần lời Chúa dạy dỗ như vậy.
Lời hằng sống là hạnh phúc trường sinh khi con người thực hiện được tám mối phúc thật. Lời hằng sống mặc khải cho ta thấy những mầu nhiệm Nước Trời vinh quang, như tiệc cưới hoàng tử, thấy Nước Trời phát triển mạnh mẽ như hạt cải nhỏ bé mọc lên thành cây lớn cho muôn chim trời trú ẩn, thấy tình thương vô biên của Thiên Chúa như người cha hiền đón mừng đứa con phung phá, như mục tử nhân lành đi tìm chiên lạc, như người bạn thí mạng sống cho người mình yêu.
Lời hằng sống còn biểu lộ bằng hành động ban sự sống. Đức Giêsu chỉ phán một lời bão biển phải im lặng để cứu sống các môn đệ. Người chỉ phán một lời, hàng đoàn quỷ phải xuất ra khỏi con người và nhào xuống biển chết. Người chỉ phán một lời đem sự sống cho bao nhiêu bệnh nhân, tội nhân và kẻ chết.
Lời Người đã làm cho nước biến thành rượu, bánh hóa nhiều và nhất là bánh rượu trở nên Mình Máu Người để nuôi sống các linh hồn muôn thuở.
Tại sao lời Đức Giêsu có sức sống quyền năng vô cùng như thế? Người đã giải thích: “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và Sự sống”. Lời Người bởi chính tim, óc, máu, thịt Người, bởi Ngôi Lời từ trời xuống. Lời hằng sống đó là tiếng hô hào vang dội dọn đường trực tiếp đón rước Người: “Kẻ ăn Tôi sẽ sống nhờ Tôi, cũng như Tôi sống nhờ Cha Tôi là Đấng Hằng Sống... Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời … Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống”.
Dù Đức Giêsu đã thương yêu họ, ban cho họ lời hằng sống và Bánh hằng sống, để làm của nuôi sống họ đời đời, nhưng người Do thái chưa có kinh nghiệm gì về Lời Hằng Sống và Bánh Hằng Sống. Họ chỉ biết có hai thứ bánh là của ăn hằng ngày và bánh như man-na và bánh hóa nhiều. Cho nên, ngay từ đầu Đức Giêsu đòi họ phải tin vào Người: “Việc của Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Ngài sai đến” (Ga. 6, 29). Vì thế bắt buộc con người phải lựa chọn, phải tỏ lập trường: tin theo Đức Giêsu hoặc không tin và bỏ đi.
“Cả anh em nữa, cũng muốn bỏ đi sao?”. Một câu hỏi dứt khoát quyết liệt, không phải thách đố, nhưng có mục đích làm sống lại sự cương quyết của bản thân mỗi người phải cam kết gắn bó với Đức Giêsu. Bởi bài giảng này mặc khải về phép Thánh Thể là một hồng ân đặc biệt của Đức Giêsu về bánh hằng sống: Bánh Thịt Máu Người từ trời xuống. Loài người không thể nào cứ sống theo lối sống vật chất hay hư nát, Đức Giêsu nhất quyết nâng con người lên tầm mức siêu việt theo lối sống con cái Thiên Chúa. Vì thế mỗi người phải tự quyết định lấy một là tin vào Đức Giêsu để được sống vinh phúc muôn đời, hai là bỏ đi sống theo lối xác thịt hư nát để phải chết đời đời.
Trước giờ phút long trọng cam kết và quyết liệt này nhiều người đã bỏ đi, Đức Giêsu nhìn sang nhóm mười hai hỏi: “Cả anh em nữa, cũng bỏ đi sao?”. Bầu khí thật ngột ngạt, nặng nề. Nhưng hạnh phúc thay cho Phêrô, ông đã đại diện cho anh em quả quyết đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai bây giờ? Thầy mới có lời hằng sống. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Trước mỗi Thánh lễ, chúng ta cũng được nghe lời hằng sống của Chúa, lời đó cũng hỏi mỗi người chúng ta: Cả anh chị em nữa, cũng muốn bỏ đi hay sao? Nhiều người đã bỏ đi, không muốn đi dâng lễ. Một số người đã đến nghe lời Chúa, nhưng có tin và sống thực thi lời Chúa, hay cũng như dân Do thái thấy chướng tai rồi bỏ đi?
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết quyết tâm mau mắn đáp như thánh Phêrô, và bước lên cung thánh đón rước bánh hằng sống để chúng ta được sống muôn đời.
12. Bỏ Thầy con biết theo ai? – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Trong cuốn Eucharistic Miracles của Carroll Cruz có viết một tích truyện về Bí tích Thánh Thể như sau:
Năm 700, tại tu viện Thánh Lougino ở Lanciano bên Italia, có một linh mục tên là Basilio hoài nghi về mầu nhiệm Chúa hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã làm phép lạ cả thể còn được lưu niệm cho đến ngày nay, như một minh chứng vĩ đại về Phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano.
Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt Máu Chúa đó còn được cô đọng đến ngày nay. Năm 1713 bửu Huyết Chúa đã được lưu giữ trong Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano. Năm 1971, cuộc khảo cứu khoa học đã cho biết Thịt đó là một thớ thịt từ trái tim, và Máu đỏ là máu của con người, thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).
Ngày nay, Thịt và Máu Chúa hiện đang được lưu giữ trong nhà thờ thánh Phanxicô, là trung tâm hành hương nổi tiếng của cả thế giới.
****
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ cũng rơi vào kinh nghiệm khủng hoảng đức tin ấy. Khi Ðức Giêsu tuyên bố, Người sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn, thì lập tức nhiều môn đệ đã phản ứng lại: "Lời này chói tai quá, ai mà nghe được" (Ga.6,60). Thánh Gioan còn ghi lại: "Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa" (Ga.6,66). Họ đã theo Người một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng.
Tận hiến cho Ðức Kitô không phải là sự lựa chọn một lần, đó là thách thức từng ngày. Trở nên một tín hữu Kitô không là bảo đảm sẽ trung tín đến cùng. Bước theo Ðức Giêsu là bước vào một cuộc mạo hiểm: mạo hiểm của tình yêu, mạo hiểm của lòng tin. Ðã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại, cũng có kẻ không theo được tới cùng.
Tạo sao nhóm thứ nhất bỏ đi, còn nhóm thứ hai lại trung kiên đến cùng? Tại sao nhóm thứ nhất thất bại, còn nhóm thứ hai lại thành công? Có thể nói "để khỏi bỏ cuộc, người ta cần phải bỏ mình". Ðể theo Ðức Giêsu, cần phải chú tâm đến Người hơn là bận tâm về chính mình. Thánh Phêrô đã làm được điều đó khi Ngài nói: "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai?". (Ga.6,68)
Ðứng trước lời tuyên bố của Ðức Giêsu xem ra có vẻ "chói tai" thì Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai vẫn không tỏ ra nao núng, vì ngài chỉ nhìn thẳng vào Ðức Giêsu.
Ðứng trước cuộc thử thách, ngài vẫn một niềm tin tưởng, vì ngài chỉ chú tâm vào Chúa: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa" (Ga.6,69).
Trái lại, nhóm thứ nhất sở dĩ bỏ cuộc, vì họ chỉ loay hoay bận tâm với những ý nghĩ của mình: "Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?" (Ga.6,52).
Hôm nay vẫn có những câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng, vẫn có những giây phút thử thách làm ta chao đảo, vẫn có những cơn cám dỗ làm ta bỏ cuộc. Hãy đưa mắt nhìn vào Chúa, hãy xác tín lại niềm tin vào Người như Thánh Phêrô đã làm:
****
Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời. Chúng con tin... Người là Ðấng Thánh của Thiên Chúa. Amen.
13. Mầu nhiệm Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu là một thực tại. Ngài hiện hữu như một sự kiện lịch sử. Ngài là người không dễ hiểu tuy dù người ta biết cha mẹ và dòng tộc Ngài. Ngài đã có những lời mà người đương thời không hiểu được, nhưng qua đó những người tin vào Ngài biết rằng Ngài có nguồn gốc thần linh: Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
I. Lời nói của Đức Giêsu khó hiểu
“Mình Ta là thật của ăn, máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, sẽ được sống đời đời”. Làm sao chấp nhận được câu nói này, khi người ta biết Ngài từ nhỏ đã sống ở Nadarét, khi người ta biết cha mẹ Ngài là Yuse và Maria! Ngài không được học hành gì, không có gì trổi trang hơn người khác khi sống tại Nadarét. Không thể chấp nhận được lời nói này của Ngài, đó là chuyện thường tình. Kể cả một số môn đệ, những người đã từng thán phục lời giảng của Ngài trước đó, cũng không thể chấp nhận lời này: “lời chi sống sượng thế, ai nghe cho nổi”. Họ đã bỏ đi, không muốn làm môn đệ của Ngài nữa.
Đức Giêsu nói với nhóm 12: cả các anh nữa, các anh có muốn bỏ đi không? Phêrô được một ơn riêng nên trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai. Thầy có lời ban sự sống đời đời. Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”. Để chấp nhận lời của Đức Giêsu về chính Ngài, con người phải có ơn đặc biệt từ trên, vì những gì Ngài nói vượt trên cái bình thường. Đức Giêsu cũng biết điều này: “Không ai đến được với Ta, trừ phi được Cha Ta ban ơn đó”. Ngài cũng biết những gì Ngài nói không phải chuyện “thuộc hạ giới”.
Những biểu lộ bên ngoài diễn tả điều gì sâu kín bên trong. Lời nói diễn tả nội tâm và bản tính mỗi người. Đức Giêsu không chỉ là một con người; qua lời Ngài, người ta nhận ra còn cái gì rất đặc biệt nơi Ngài. Làm sao lý giải những gì Đức Giêsu nói về chính Ngài, khi những lời này cho thấy như thể Ngài còn hơn là một con người? Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội, thế mà Ngài lại nói: “Tội con đã được tha” (Mc.2, 7); Abraham là ông tổ của cả dân Do Thái, thế mà Đức Giêsu lại nói: “trước khi có Abraham, Ta là Ta” (Ga.8, 58); Thiên Chúa là Đấng vượt trên tất cả, thế mà có lúc Đức Giêsu lại nói: “Ta và Cha Ta là một” (Ga.10, 30). Nếu không phải là người mất trí, thì ắt hẳn còn một điều gì đó mà người ta chưa hiểu về con người Đức Giêsu.
II. Đức Giêsu là một sự kiện khó lý giải
Biến cố Đức Giêsu phục sinh, giúp những người thân thiết với Đức Giêsu, cụ thể là các tông đồ, hiểu hơn về Đức Giêsu. Nếu Ngài thuộc loại gian dối, phạm thượng, thì Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài. Nếu Ngài được phục sinh, ắt hẳn những gì Ngài nói về Ngài phải là sự thật. Vậy Đức Giêsu là ai? Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa như thế nào? Đức Giêsu là một vấn đề cho con người thời đó, và cho cả con người thời nay nữa.
Với những người đơn thuần nghĩ Ngài là người phạm thượng, cái án tử hình dành cho Ngài thật là chính đáng. Nhưng biến cố phục sinh cho thấy cách nghĩ như vậy là không thỏa đáng và sai lầm. Vậy Ngài là ai? Các môn đệ thân tín, nhóm 12, có câu trả lời về người thầy thân yêu của họ. Ngài là tiên tri và còn hơn một tiên tri, Ngài là Đấng Kitô và còn hơn một Đấng Kitô, Ngài là con Thiên Chúa và còn hơn là con Thiên Chúa như những người công chính từng được gọi là con Thiên Chúa. Vậy Ngài là ai?
Tin Mừng Gioan diễn tả Ngài là Lời đã thành xác phàm (Ga.1, 14). Một số người diễn tả Ngài là con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt. Đức Giêsu cũng thắc mắc về điều người ta nói về Ngài: “người ta bảo Con Người là ai?” Đức Giêsu có vẻ hài lòng với câu trả lời của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Tuy nhiên, điều này cũng không rõ ràng lắm với con người ngày nay, vì có nhiều Đức Kitô, nghĩa là nhiều người được xức dầu, nhiều người là Đấng Thiên Sai, chẳng hạn Môsê, Đavít. Cũng có nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn các thiên thần, những người công chính, các vị vua. Công Đồng Chung Nicea sau này (năm 325) xác định, Ngài là con đồng bản tính với Thiên Chúa. Công Đồng Chung Chalcedoine xác định Ngài có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính con người, Ngài thực sự là người và thực sự là Thiên Chúa. Công Đồng Chung Epheso xác định Ngài là một ngôi vị Thiên Chúa trong hai bản tính. Dù thế nào chăng nữa, những tín điều về Đức Giêsu Kitô của Hội Thánh sau này, là để giúp các tín hữu hiểu đúng những mặc khải đã được tỏ lộ cho các tông đồ. Đức tin của Giáo Hội tựa trên nền tảng các tông đồ. Đức tin của các Kitô hữu, là đức tin tông truyền.
III. Mở lòng đón nhận sự kiện Giêsu Kitô
“Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Không thể hiểu lời này, vì xưa nay chưa có lương thực nào cho con người sự sống vĩnh cửu. Vậy làm sao có thể chấp nhận lời nói này! Hơn nữa, con người Giêsu cũng mong manh như bao người, vậy Giêsu lấy gì để bảo đảm cho lời nói của Ngài là đáng tin, là sự thật?
Đức Giêsu là một sự kiện, một biến cố, và là một mầu nhiệm. Những từ ngữ và lý giải, là để hiểu đúng và hiểu hơn về Đức Giêsu Kitô. Người ta chưa hiểu hết về Ngài, người ta đang cố gắng hiểu và diễn tả về Ngài. Có thể, mỗi một diễn tả giúp con người hiểu hơn về mầu nhiệm Giêsu; và có thể, cũng che khuất Ngài dưới một khía cạnh nào đó. Một điều đáng mừng là ngày nay người ta vẫn còn đang truy tìm về Đức Giêsu Kitô, người ta đang cố gắng diễn tả về Đức Giêsu Kitô với hy vọng giúp con người ngày nay hiểu và chấp nhận Đức Giêsu Kitô hơn. Tất cả những điều này cho thấy, Thánh Thần Thiên Chúa vẫn đang hoạt động nơi con người ngày hôm nay một cách rất sống động.
Xin cho con người ngày nay biết mở lòng và đón nhận mầu nhiệm Giêsu Kitô, và xin cho mầu nhiệm Giêsu Kitô soi sáng mầu nhiệm con người, giúp con người sống an bình và hạnh phúc trên đường trần gian này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có câu hỏi hoặc thao thức gì về Đức Giêsu?
2. Đức Giêsu có ảnh hưởng nhiều trên đời bạn không? Xin bạn cho biết điều đó.
14. Chọn lựa đi theo Chúa
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ở đời có nhiều cuộc tan rồi hợp và hợp rồi tan: đến với nhau, sống với nhau, rồi bỏ nhau. Nhiều tín hữu cũng đối xử với Chúa như thế: theo Ngài rồi bỏ Ngài. Có lẽ chúng ta đây cũng nhiều lần bị cám dỗ bỏ Chúa.
Hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ lại cuộc hành trình đi theo Chúa, và chúng ta tha thiết xin Chúa đừng để chúng ta bỏ Chúa bao giờ, bởi vì, như lời Thánh Phêrô tuyên xưng: "Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống"
II. Gợi ý sám hối
Nhiều lần chúng con đã bỏ Chúa để chạy theo lạc thú thế gian.
Nhiều lần chúng con đã bỏ Chúa vì không muốn vác Thánh giá Chúa trao.
Nhiều lần chúng con có ý muốn bỏ Chúa để tự do sống theo ý riêng của chúng con.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Gs 24,1-2a.15-17.18b)
Khi Môsê qua đời, Giôsuê tiếp tục sứ mạng dẫn dân Do thái về Ðất Hứa. Sau khi đã hoàn toàn chinh phục Ðất Hứa và chia phần cho các chi tộc, Giôsuê triệu tập tất cả 12 chi tộc tại Sikhem. Ông nhắc lại tất cả những điều mà Thiên Chúa đã làm cho họ, và kêu gọi họ hãy chọn lựa dứt khoát: Từ nay nếu họ chọn Chúa thì phải hoàn toàn trung thành với Ngài, từ bỏ mọi tà thần khác.
2. Ðáp ca (Tv 33)
Những lời ca tụng lòng nhân lành Chúa rất hợp với tâm tình của dân Israel sau khi họ đã được Thiên Chúa giải thoát khỏi bao nỗi gian nguy để cuối cùng được sống trong Ðất Hứa.
3. Tin Mừng (Ga 6,54a.60-69)
Kết quả của bài giảng về Thánh Thể:
Nhiều người cho là chói tai, bỏ đi, trong số đó có cả các môn đệ: "Từ hôm đó, có nhiều môn đệ rút lui không theo Ngài nữa".
Ðức Giêsu hỏi Nhóm 12. Phêrô thay mặt nhóm tuyên xưng "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời"
4. Bài đọc II (Êp 5,21-32) (Chủ đề phụ)
Giáo huấn của Thánh Phaolô về đạo vợ chồng: (1) Vợ phải phục tùng chồng như Hội Thánh tùng phục Ðức Kitô; (2) Chồng phải yêu thương vợ như Ðức Kitô yêu thương Hội Thánh và như người ta yêu thương thân xác mình.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Sống là chọn lựa
Trong bài Tin mừng hôm nay, có một câu nói của Thánh Phêrô đã trở thành bất hủ. Phêrô đã thưa với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy, Bỏ Thầy thì con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống". Phêrô đã nói lên câu đó trong một tình thế dằng co: khi ấy người ta đi theo Ðức Giêsu rất đông vì Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ ăn no nê, họ đi theo Chúa để mong lại được cho ăn no như thế mãi. Nhưng rồi Ðức Giêsu đột ngột chuyển hướng: Ngài hứa ban cho họ một thứ bánh khác, đó là Thịt và Máu Ngài. Làm cho dân chúng như bị hổng chân: họ đang mong được ăn bánh phần xác, thì Ðức Giêsu lại hứa cho họ thứ bánh tinh thần. Thành ra nhiều người chán, bỏ Chúa mà đi, họ đã ra đi gần hết. Bấy giờ Chúa mới hỏi nhóm môn đệ thân cận của mình "Còn các con, các con có muốn bỏ Thầy mà đi nữa không?" Lập tức, Phêrô đã nói lên câu nói bất hủ trên. Ông nhất quyết không bỏ Thầy, ông hứa sẽ mãi mãi theo Thầy. Nghĩa là Phêrô đã làm một sự lựa chọn.
Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được (không ai tự do lựa chọn xem có muốn được sinh ra hay không; cũng không ai được tự do lựa chọn xem có muốn chết hay không, và chết kiểu nào, lúc nào), còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính những sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt, sẽ hạnh phúc; còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì cuộc đời sẽ xấu, sẽ bất hạnh.
Ðời sống là như thế, sống là phải lựa chọn luôn. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn. Các bài đọc khác trong Thánh Lễ hôm nay cũng nói đến vấn đề lựa chọn: Bài trích sách Giôsuê thuật chuyện ông Giôsuê bảo dân phải lựa chọn một là thờ Chúa hai là thờ các thần tượng khác, chứ không được làm tôi hai chủ, không được bắt cá hai tay. Còn trong thư gởi tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô khuyên các đôi vợ chồng một khi đã chọn nhau làm bạn đời thì phải suốt đời trung thành với sự lựa chọn đó, nghĩa là phải thuỷ chung, phải tùng phục nhau, và phải hoà thuận với nhau.
Còn nếu nói theo từ ngữ phật giáo, thì chúng ta cũng phải luôn luôn lựa chọn một bên là tham sân si, và một bên là lý tưởng đạo đức của mình. Mỗi ngày chúng ta phải đứng trước biết bao sự lựa chọn như thế:
Một người đến đề nghị cho chúng ta một kiểu làm ăn gian lận, tiền sẽ có nhiều nhưng lại trái đức công bình: ta phải chọn hoặc là lòng tham hay là đức công bình.
Rồi một người hàng xóm làm một điều gì đó không vừa ý ta, ta phải lựa chọn hoặc là buông theo tính nóng của mình để chửi rủa người ta (Phật giáo gọi là cái Sân), hay là nhịn nhục tha thứ.
Và rất nhiều khi ta đứng trước những cơn cám dỗ, buông mình theo nó là buông theo cái Si, hay là phải biết tự chủ kềm chế mình.
Ai chọn lựa tham sân si là chọn sai, cuộc đời sẽ trở thành xấu. Còn ai chọn công bình, bác ái, tự chủ tức là chọn lấy cái tốt, chọn con đường Chúa đã vạch ra.
Nếu ta chọn Chúa thì sẽ ra sao? và nếu ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao? Linh mục nhạc sĩ Thành tâm đã suy diễn câu nói bất hủ của Thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau: "Bỏ Ngài con biết theo ai?
Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cánh chim bơ vơ trong khung trời lộng gió
"Bỏ Ngài con biết theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi".
Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con thuyền lao đao trên biển cả mênh mông.
"Bỏ Ngài con biết theo ai thuyền buông lái biết trôi về đâu?"
Bỏ Ngài thì đời con sẽ mờ mịt trước tương lai mơ hồ.
"Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ.
Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã.
"Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh".
Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy cũng vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chim bay trong khung trời lộng gió, cũng như con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình ấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm đi tới bến đò bình an.
Trên đây là một vài gợi ý về những sự lựa chọn trong cuộc đời.
Nhưng điều quan trọng là chính chúng ta phải biết lựa chọn như thế nào trước những hoàn cảnh riêng của cuộc đời mình. Cầu mong cho mỗi người chúng ta biết lựa chọn đúng và lựa chọn tốt.
* 2. Bỏ Thầy con biết theo ai?
Trong cuốn Eucharistic Miracles của Carroll Cruz có viết một tích truyện về Bí tích Thánh Thể như sau:
Năm 700, tại tu viện Thánh Lougino ở Lanciano bên Italia, có một linh mục tên là Basilio hoài nghi về mầu nhiệm Chúa hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã làm phép lạ cả thể còn được lưu niệm cho đến ngày nay, như một minh chứng vĩ đại về Phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano.
Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt Máu Chúa đó còn được cô đọng đến ngày nay. Năm 1713 bửu Huyết Chúa đã được lưu giữ trong Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano. Năm 1971, cuộc khảo cứu khoa học đã cho biết Thịt đó là một thớ thịt từ trái tim, và Máu đỏ là máu của con người, thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).
Ngày nay, Thịt và Máu Chúa hiện đang được lưu giữ trong nhà thờ thánh Phanxicô, là trung tâm hành hương nổi tiếng của cả thế giới.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ cũng rơi vào kinh nghiệm khủng hoảng đức tin ấy. Khi Ðức Giêsu tuyên bố, Người sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn, thì lập tức nhiều môn đệ đã phản ứng lại: "Lời này chói tai quá, ai mà nghe được" (Ga.6,60). Thánh Gioan còn ghi lại: "Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa" (Ga.6,66). Họ đã theo Người một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng.
Tận hiến cho Ðức Kitô không phải là sự lựa chọn một lần, đó là thách thức từng ngày. Trở nên một tín hữu Kitô không là bảo đảm sẽ trung tín đến cùng. Bước theo Ðức Giêsu là bước vào một cuộc mạo hiểm: mạo hiểm của tình yêu, mạo hiểm của lòng tin. Ðã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại, cũng có kẻ không theo được tới cùng.
Tạo sao nhóm thứ nhất bỏ đi, còn nhóm thứ hai lại trung kiên đến cùng? Tại sao nhóm thứ nhất thất bại, còn nhóm thứ hai lại thành công? Có thể nói "để khỏi bỏ cuộc, người ta cần phải bỏ mình". Ðể theo Ðức Giêsu, cần phải chú tâm đến Người hơn là bận tâm về chính mình. Thánh Phêrô đã làm được điều đó khi Ngài nói: "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai?". (Ga.6,68)
Ðứng trước lời tuyên bố của Ðức Giêsu xem ra có vẻ "chói tai" thì Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai vẫn không tỏ ra nao núng, vì ngài chỉ nhìn thẳng vào Ðức Giêsu.
Ðứng trước cuộc thử thách, ngài vẫn một niềm tin tưởng, vì ngài chỉ chú tâm vào Chúa: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa" (Ga.6,69).
Trái lại, nhóm thứ nhất sở dĩ bỏ cuộc, vì họ chỉ loay hoay bận tâm với những ý nghĩ của mình: "Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?" (Ga.6,52).
Hôm nay vẫn có những câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng, vẫn có những giây phút thử thách làm ta chao đảo, vẫn có những cơn cám dỗ làm ta bỏ cuộc. Hãy đưa mắt nhìn vào Chúa, hãy xác tín lại niềm tin vào Người như Thánh Phêrô đã làm:
*******
Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời. Chúng con tin... Người là Ðấng Thánh của Thiên Chúa. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 3. Ðức tin "nghĩa địa"
Một món đồ còn mới thì được gọi là đồ "gin", còn một món đồ đã có người xài trước rồi bán lại thì được gọi là đồ nghĩa địa (tiếng anh gọi là second-hand). Có một người kia một hôm bị rơi vào một tâm trạng vô cùng chán chường vì chợt nhận ra rằng đức tin của anh chỉ là một đức tin "nghĩa địa".
Anh vừa sinh ra thì đã được rửa tội. Lớn lên một chút anh đến nhà thờ học giáo lý và lần lượt được Rước lễ, Thêm sức và các bí tích khác. Hàng tuần anh đến nhà thờ tham dự Thánh lễ và nghe giảng. Ở nhà anh được cha mẹ và ông bà dạy dỗ cặn kẽ về cách sống đạo. Từ trước tới nay anh vẫn an tâm trong đức tin êm đềm như thế. Nhưng hôm đó anh chợt nhận ra rằng tất cả nội dung đức tin ấy đều là của người khác. Anh nghĩ rằng đức tin của anh giống như chiếc áo cũ mà người anh mặc chật nên chuyển lại cho người em. Một thứ đồ second-hand.
Anh nghĩ rằng bây giờ mình đã trưởng thành, mình phải suy nghĩ về đức tin để có những xác tín của riêng mình; mình cần có những cơ hội thử thách để có những chọn lựa của riêng mình.
Cơn khủng hoảng đức tin của người thanh niên trên hẳn là ray rứt lắm, nhưng thực rất cần thiết. Sinh ra trong đức tin thì chưa đủ, cần phải sinh lại trong đức tin nữa. Có một đức tin "nghĩa địa" cũng chưa đủ, mà cần có đức tin do chính mình xác tín. Chỉ có một đức tin do chính mình xác tín mới có thể giúp ta chọn cho mình một lập trường khi đứng trước những tình thế phải chọn lựa. Như thánh Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay đã mạnh dạn chọn Ðức Giêsu đang khi nhiều người khác bỏ Chúa mà đi: "Lạy Thầy, bỏ thầy thì con biết theo ai, vì chỉ có Thầy mới có những lời hằng sống" (Viết theo Flor McCarthy)
* 4. Chúng con cũng bỏ Thầy mà đi chăng?
Cách đây không lâu vào ngày 6 tháng 3, 1997, một vụ ly dị ở thành phố Bửu Tân (Brockton), bang Mã Sơn Xét (Massachusettes) của Hoa Kỳ gây nên một cảnh tượng hết sức đau lòng. Hai vợ chồng ông Ðặng Danh Mừng (Dana Raymond) và bà Giang thị Dương (Jeanne Ardizoni) đưa nhau ra toà để ly dị, mà cả hai đều không chịu nuôi hai con của họ, khiến cuối cùng toà phải xử cho hai đứa con vào viện mồ côi! Khi toà phán quyết, người ta nghe tiếng khóc nức nở của hai đứa bé tội nghiệp. Thế mà hai bố mẹ vẫn dửng dưng! Cảnh sát được lệnh toà "bắt" hai đứa bé lên xe chở tới viện mồ côi. Chúng vùng vẫy kêu "Cha", kêu "Mẹ", nhưng cha và mẹ đều không buồn ngó ngàng tới hai đứa con của mình!
Bài Tin Mừng hôm nay cũng để lộ ra một cảnh thương tâm theo bề sâu, mặc dầu bề ngoài xem ra chỉ là chuyện trò bỏ thầy vì giáo thuyết thầy dạy không lọt được vào tai trò.
Rabbi Giêsu đâu phải như các bậc thầy khác trong đạo Do Thái. Tác giả Tin Mừng thứ bốn, kể như người môn đệ thân thiết nhất của Ðức Giêsu, trong lời tựa đã giới thiệu Người là Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa "và Ngôi Lời là Thiên Chúa" (Ga 1,1) Nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành và "không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành" (c.3). Và "Ngôi Lời ấy đã trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta." (c.14).
Khi Người xuất hiện ở sông Giođan thì chính ông Gioan Tẩy Giả làm chứng về Người rằng "Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Nhưng chính Ðấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy thần khí xuống ngự trên ai, thì người đó chính là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần." (cc.32-33).
Người đã đến nhà mình mà người nhà chẳng chịu đón nhận!
Chính ông Gioan Tẩy Giả là người giới thiệu hai trong số môn đệ của ông đến nhận Ðức Giêsu làm thầy (c.37). Nhưng với Ðức Giêsu, ai đó trở nên môn đệ của Người phải được chính Người gọi (xem Mc 1,16-20). Giữa đám đông môn đệ, Người đã chọn và thiết lập nên Nhóm Mười Hai, để họ ở lại với Người và để Người sai họ đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa (xem Mc 3,13-15). Nhưng họ vẫn luôn có tự do nhận hoặc khước từ Ðức Giêsu. Ðiều đó được nói lên ngay ở lời tựa của Tin Mừng Gioan: "Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào Danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa." (Ga 1,10-12).
Niềm tin nơi các môn đệ cũng giống như sức khoẻ, cần được bồi dưỡng và triển nở. Tại tiệc cưới Cana, khi Ðức Giêsu hoá nước lã thành rượu ngon, các môn đệ đã tin vào Người (2,11). Nhưng tại Giêrusalem, khi nghe Ðức Giêsu tuyên bố với người Do Thái: "Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại", các môn đệ không hiểu lời đó. Khi Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại, các ông mới nhớ lại lời đó và mới tin vào Kinh Thánh và lời Ðức Giêsu đã nói (20-32). Cả lời tuyên bố của Ðức Giêsu với ông Nicôđêmô rằng "Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (3,14-15), lời tuyên bố ấy vẫn còn là điều bí nhiệm đối với các môn đệ.
Riêng với Tin Mừng Máccô, các môn đệ khi được loan báo về cuộc thương khó và phục sinh lần thứ hai, các ông không những không hiểu lời đó mà còn sợ không dám hỏi lại Người (xem Mc 9,30-32). Hơn nữa, các ông còn hành xử một cách hoàn toàn không xứng hợp chút nào với cuộc thương khó vừa được loan báo là dọc đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả! (Mc 9,34).
Ðức Giêsu vẫn muốn các môn đệ được tự do nói lên chọn lựa của mình.
Xuyên qua Tin Mừng Gioan chương 6, ta liên tiếp thấy diễn ra cảnh thương tâm là Ngôi Lời làm người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người!
Vậy trước hết ta có đông đảo dân chúng một bên và các môn đệ một bên. Dân chúng mặc dầu được ăn bánh no nê nhờ phép lạ hoá bánh ra nhiều, đã từ khước việc nhìn nhận Ðức Giêsu làm mục tử nhân hậu đến chăm sóc họ. Người biết họ sắp đến bắt Người đem đi và tôn lên làm vua, nên Người lánh mặt đi lên núi một mình (c.15). Còn các môn đệ ở lại trên thuyền như Nhóm Mười Hai được Người thiết lập, thì Người đã đi trên mặt nước mà đến với các ông: ngay lúc ấy Người còn cho thuyền các ông lập tức cập bến Caphácnaum, nơi các ông định đến (c.21).
Kế đến, vào ngày hôm sau, đám đông dân chúng lại tìm đến với Ðức Giêsu tại Caphácnaum. Ðức Giêsu bỏ qua sự cố ngày hôm trước là họ đã muốn bắt Người để tôn làm vua, Người khơi dậy nơi họ ý muốn làm công việc Thiên Chúa muốn họ làm, là tin vào Ðấng Thiên Chúa sai đến (c.29), tức là đón nhận Người mang đến cho họ bánh của Ðức Khôn Ngoan là Lời Chúa. Vậy Người nói với họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ" (c.35). Ðó là lúc người Do Thái xầm xì phản đối vì họ không chấp nhận Người là bánh từ trời xuống, mà chỉ kể Người là ông Giêsu, con ông Giuse mà thôi (cc.41-42).
Căng thẳng lên tới tột đỉnh với lời Ðức Giêsu tuyên bố "Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống" (c.51). Thịt nói đây là "sarx" trong Hy ngữ, cũng được dùng trong câu "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14). Tức là trọn con người cụ thể của Ðức Giêsu được ban cho thế gian để thế gian được sống. Nhưng khi giảng dạy trong hội đường, Caphácnaum, Ðức Giêsu lại còn nói: "Nếu các ông không ăn thịt Con Người các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy" (cc.53-56)
Chưa nói gì đến dân chúng, ngay giữa các môn đệ của Ðức Giêsu đã xảy ra một phân rẽ giữa kẻ không tin và người tin. Một bên nhiều môn đệ phản ứng: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" (c.60). Nhưng Ðức Giêsu vẫn kiên nhẫn khơi dậy nơi họ niềm tin mà họ cần đặt nơi Người là Ðấng từ Thiên Chúa mà đến: "Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống" (cc.62-63). Ðáp lại là cả một bi kịch. Nhiều môn đệ đã rút lui, không còn đi với Người nữa.
Còn bên kia là Nhóm Mười Hai, tức Nhóm chính Ðức Giêsu đã thiết lập để họ ở lại với Người. Với họ nữa, Ðức Giêsu vẫn muốn họ được tự do nói lên chọn lựa của mình. Cho nên Người đã nêu thẳng vấn đề là: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" Ông Simon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Ðấng Thánh của Thiên Chúa" (cc.67-69). Nhưng cả giữa nhóm thân cận nhất này của Ðức Giêsu, vẫn không vắng bóng kẻ nộp Chúa, để nhắc nhở loài người phải biết luôn thức tỉnh, "vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé." (1P 5,8) (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, sau khi Ðức Giêsu mặc khải Người là Bánh ban sự sống muôn đời, Người đòi hỏi mỗi người phải có thái độ dứt khoát, tin hay không tin. Chúng ta cùng càu xin với lòng tin tưởng:
1. Hội thánh hôm nay gặp nhiều khó khăn và thách đố / Xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn tin tưởng và nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
2. Thế giới hôm nay đang phải chọn lựa giữa chiến tranh và hòa bình, giữa vật chất và tinh thần, giữa hận thù và yêu thương / xin Chúa cho mọi nhà cầm quyền biết chọn lựa đường lối nào đem lại tự do và hạnh phúc thật cho mọi người.
3. Nhiều người đã dứt khoát từ bỏ Chúa / nhiều người còn dửng dưng không cần quan tâm đến Chúa / Xin Chúa cho họ được ánh sáng dẫn đường đẻ tìm về với Chúa là lẽ sống của mọi người.
4. Nhiều anh chị em trong họ đạo chúng ta đã biết Chúa mà còn thờ tiền bạc và ham mê đời sống vật chất đời này. / Xin Chúa cho họ được thức tỉnh và trở về với Chúa là Ðấng ban sự sống hạnh phúc muôn đời.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, bỏ Chúa thì chúng con biết theo ai bây giờ, vì chỉ một mình Chúa có lời ban phúc trường sinh; xin cho chúng con luôn vững tin nơi Chúa để giúp mọi người khác cũng tin theo Chúa. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước lúc rước lễ: Ðức Giêsu đã dạy "Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ được sống muôn đời". Chúng ta hãy dọn mình cho xứng đáng để rước lấy Mình Thánh Chúa.
VII. Giải tán
Sau khi đã được nuôi dưỡng bằng chính Mình Thánh Chúa và Lời hằng sống của Ngài, chúng ta hãy trung thành theo Chúa suốt đời.
15. Lòng trung thành
(Suy niệm của Huệ Minh)
Mỗi lần tham dự Thánh lễ hôn phối, ta được nghe từng lời của chú rể: Anh... nhận em... làm vợ và hứa sẽ giữ lòng trung thành với em, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như khi mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em suốt đời anh. Đáp lại, cô dâu cũng nói lên lòng trung thành với chồng của cô.
Đời sống nào cũng thế, bậc nào cũng thế và tương quan nào cũng thế, tất cả đều cần với nhau lòng trung thành, sự chung thủy với nhau.
Tham dự Thánh lễ hôn phối, ta vẫn thường cầu chúc cho đôi hôn nhân không chỉ là trung thành mà còn chung thủy với nhau cho đến ngày răng long đầu bạc! Bạn bè chơi với nhau thì ai ai cũng muốn người bạn của mình trung thành.
Và như vậy, chúng ta thấy lòng chung thủy, sự trung thành đó luôn luôn là điều mà mọi người chúng ta phải gìn giữ trong mọi mối tương quan với nhau.
Tương quan giữa con người với Thiên Chúa, nhìn lại lịch sử cứu độ, ta sẽ thấy mối tương quan đó như thế nào đó. Tương quan đó nhiều lần đổ vỡ vì lẽ con người vì chạy theo tà thần, chạy theo ngẫu tượng để rồi quay lưng lại và thất tín bất trung với Chúa. Với Chúa thì ngược lại, dù con người thất tín bất trung đó nhưng Thiên Chúa vẫn nhẫn nại và nhẫn nại.
Bằng chứng rõ nét nhất là hôm nay, chúng ta vừa nghe lời của ông Giosuê nói với toàn dân như: "Nếu các ngươi không muốn tôn thờ Thiên Chúa, thì cho các ngươi lựa chọn: hôm nay, các ngươi hãy tuỳ ý chọn phải tôn thờ ai hơn: hoặc là các thần cha ông các ngươi đã tôn thờ ở Mêsôpôtamia, hoặc các thần của người xứ Amôrê, nơi các ngươi đang ở. Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa".
Nghe lời của Giosuê, dân chúng đáp lại với vẻ khẳng khái và hết sức tự tin và thêm tình thống thiết xem ra rất tình cảm: "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ những thần ngoại. Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, chính Người đã dẫn chúng tôi và cha ông chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Người đã làm những việc kỳ diệu cả thể trước mắt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt con đường chúng tôi đã đi, giữa tất cả mọi dân chúng tôi đã đi qua. Chúa đã trục xuất tất cả những dân đó cũng như người Amôrê trên phần đất chúng tôi đã tiến vào".
Nghe những lời ấy, ta cũng thấy đi vào lòng người bởi những lời ấy hết sức tình cảm, hết sức gắn bó với Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, ta cũng nghe lời hết sức tình cảm từ miệng của ông Simon Phêrô: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa".
Những lời của ông Simon Phêrô xem ra cũng thống thiết, cũng tình cảm như lời của dân Do Thái ngày xưa. Thế nhưng, sau những lời thống thiết ấy, những lời xác tín ấy, ông Simon Phêrô lại cứ ngã lên ngã xuống và có những lúc đã bỏ thầy và cũng sẵn sàng chối Thầy.
Hành trình theo Chúa của mỗi người chúng ta dường như cũng có nét gì đó giống dân Do Thái ngày xưa hay cũng giống như ông Simon Phêrô vậy. Chúng ta đã thiếu lòng trung thành với Thiên Chúa. Nói về Thiên Chúa, có vẻ hơi xa, ta nhân cơi hội này nên nhìn lại lòng trung thành của chúng ta với vợ, với chồng, với bạn bè thân tín của ta, với đồng nghiệp, với công ty của ta.
Ngày hôm nay, cũng không thể nào phủ nhận sự tiến bộ quá nhanh chóng của xã hội, của cuộc sống để rồi đôi khi đâu đó ta nghe người này người kia trong một năm đã "nhảy" đến 3 công ty! Hẳn nhiên họ có quyền để tìm cho mình một công việc thuận lợi, một đồng lương phù hợp nhưng đàng sau đó, có những trường hợp thiếu lòng trung thành với cái nơi mà đã cưu mang mình mà cưu mang trong khoảng thời gian đặc biệt mới ra trường.
Ngày xưa đi làm cũng vậy, trong phòng của tôi, những anh em được lãnh đạo cưng chiều cũng như nâng đỡ lại là những người thiếu lòng trung thành cũng như biết ơn với những người đã cưu mang họ. Bi đát hơn nữa là họ đã lập công ty khác để cạnh tranh với chính người chủ của mình. Đàng rằng họ có quyền tự do để làm chuyện đó nhưng xem ra không có nhân có nghĩa. Khởi đầu tất cả cũng do sự thiếu trung thành với nhau.
Không chỉ là công việc, ngày hôm nay phải nói là hơn lúc nào hết, lòng trung thành, sự chung thủy trong đời sống hôn nhân đang ở mức báo động đỏ. Người ta thống kê được rằng cứ 2 đôi cưới nhau rồi thì sau đó không lâu 1 đôi bỏ nhau hay hơn nữa mà trong đó người Công Giáo chiếm số lượng không nhỏ. Cũng khởi đầu từ sự bất trung bất tín với nhau.
Bạn bè chơi với nhau ngày hôm nay cũng thế! Chơi với nhau như có chơi vậy thôi nhưng họ sẵn sàng đạp đổ nhau vì cái lợi cá nhân, vì sự ích kỷ của họ.
Là con người mà người ta còn coi thường lòng trung thành, sự chung thủy với nhau thì cũng dễ hiểu sao với Thiên Chúa họ cũng thất tín bất trung như vậy.
Như tâm tình của Thánh Phaolô nói thật hay: Ðức Kitô yêu thương Hội Thánh và phó mình vì Hội Thánh, để thánh hoá Hội Thánh, khi Người dùng nước và lời hằng sống rửa sạch Hội Thánh, ngõ hầu bày tỏ cho mình một Hội Thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo hay phải điều gì khác tương tự, nhưng thánh thiện và vẹn tuyền.
Đức Kitô mãi mãi yêu thương chúng ta, Đức Kitô chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống để rồi chỉ mình Đức Kitô mới là cùng đích của chúng ta. Chúng ta xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày ta luôn giữ lòng trung thành với Chúa và ta luôn nói với Chúa rằng: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời".
16. Lòng trung thành – Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Chúng ta vẫn thường hay nghe nói người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Chính bản thân nhiều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống, đến những vấn đề quan trọng nhất, người ta đều có thể bất trung thất tín. Ví dụ: Ai cũng biết, hôn nhân là mối dây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp diễn. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả.
Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản bội, cũng bất trung không kém. Từ thuở bình minh của nhân loại, thế giới, theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài. Nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm hai ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó, mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.
Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường nếm đủ mùi vị của khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn…, đã làm cho dân của Chúa mất kiên nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron. Không dừng ở đó, họ còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc để giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu?... Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn…” (Ds 11, 12tt). Trong sa mạc, lòng dân quên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại, nhiều lần họ đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.
Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất trung của dân Người. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ các thần khác”, và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi bậc lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoan dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba động từ: phản bội – nổi giận – tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.
Đó là bài đọc I trích trong sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của thánh Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm, cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá… Chính những giờ phút quan trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quên mất lời tuyên xưng mới đó, tính cho đến thời điểm diễn ra cuộc thương khó của Thầy, chưa được bao lâu. Vì một chút sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!
Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Hội Thánh mời gọi ta suy niệm các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành trong ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một lòng khoan dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi vẫn có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không hy vọng nữa mà thôi. Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính mình đã đánh mất.
17. Lời Hằng Sống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sau khi ông Môisen qua đời, ông Joshua, con của ông Nun, lên kế vị dẫn dân Do-thái vượt qua sông Jordan vào miền Đất Hứa. Toàn dân và gia đình ông Joshua đến trước Thiên Chúa ở giữa công đường, ông Joshua gợi ý cho dân chọn lựa tôn thờ Thiên Chúa hay tôn thờ các thần dân ngoại:Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Jos 24, 15). Dân chúng và gia đình ông Joshua đã chọn Thiên Chúa làm phần gia nghiệp. Ông Joshua đã trở thành người lãnh đạo tín trung và can đảm dẫn đưa dân vào miền đất chảy sữa và mật như lời đã hứa.
Dân Do-thái đã chọn đi theo Chúa tiến vào miền Đất Hứa nhưng rồi chẳng được bao lâu, dân chúng quên lời đã thề hứa. Họ bỏ Chúa, chạy theo các thú vui trần thế, tôn thờ các tà thần và sống theo thói tục của dân ngoại. Chúa phạt tội lỗi của họ, nhưng rồi Chúa lại tha thứ. Lịch sử cứu độ cứ thế lập đi lập lại với hết dòng dõi này sang dòng dõi khác. Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn đợi chờ. Qua các thử thách, Thiên Chúa hé mở những mầu nhiệm cao siêu trong cuộc sống bình thường. Từ những biến cố xảy ra hằng ngày, Thiên Chúa lại mở thêm những cánh cửa để dẫn con dân đi tìm về nguồn yêu thương. Không có một sự cố nào xảy ra mà không ghi dấu ấn tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa. Con đường cứu độ là con đường tình yêu và tha thứ. Yêu thương là ban tặng và dâng hiến. Thiên Chúa trao cho nhân loại bánh hằng sống, chính là Con Một của Thiên Chúa.
Sau khi Chúa Giêsu đã mạc khải về bánh ban sư sống bởi trời là thịt và máu Chúa, có nhiều người khó chịu về giáo lý này. Họ nói rằng: Lời này chói tai qúa! Ai nghe được. Chúa Giêsu biết rõ lòng họ nhưng Chúa không rút lại lời đã nói. Chúa không ngại để họ được tự do ra đi. Ngay cả các tông đồ, Chúa đã hỏi: Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không? Phêrô thưa: Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Chúa không muốn mị dân để làm vừa lòng mọi người. Chúa cho chúng ta được tự do chọn lựa thái độ. Chúng ta không thể đi nước đôi theo kiểu bắt cá hai tay. Tông đồ Phêrô đại diện cho anh em tuyên xưng niềm tin một cách xác tín: Thầy mới có lời ban sự sống đời đời.
Thái độ của Chúa Giêsu khác biệt thái độ của nhiều nhà lãnh đạo. Các lãnh tụ thế gian muốn mình trở thành số một, có quyền hành và muốn được người khác phục vụ. Người cầm quyền dùng nhiều thủ đoạn tìm vinh quang và thu gom cho mình mọi thứ ở trần gian. Họ thường dùng những lời hứa suông vượt trên khả năng và quyền hạn của họ để bảo đảm sự an toàn cho người khác. Họ muốn giới hạn tự do và ngay cả quyền thiêng liêng của con người để phục vụ cho chính sách và đường lối chính trị của phe nhóm họ. Trái lại, Chúa Giêsu không tìm vinh quang cho chính mình. Ngài qui mọi vinh quang và danh dự về Chúa Cha.
Khi Chúa chữa lành cho người phung hủi. Chúa nói với anh: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết (Mc 1, 44). Chúa chối từ sự tôn vinh của người đời. Khi Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no nê, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã từ chối. Chúa Giêsu từ trời hạ sinh làm người, nhưng Chúa lại chọn con đường phục vụ từ dưới thấp đi lên. Chúa khiêm hạ trong phục vụ. Chúa cúi xuống rửa chân cho các tông đồ. Khi Chúa xua đuổi qủy ám ra khỏi người đàn ông Gerasene, ông ta muốn ở lại với Chúa: Nhưng Chúa không cho phép, Người bảo: "Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào (Mc 5, 19). Chúa mời gọi mọi người đi theo Chúa để được lãnh nhận ơn cứu độ, nhưng Chúa không ép buộc hay cưỡng bức. Chúa để họ được hoàn toàn tự do lựa chọn.
Chúa Giêsu là thủ lãnh, là chủ chiên tốt lành và là Chúa đầy lòng xót thương. Chúa đã thí mạng sống vì đàn chiên. Trong vườn Cây Dầu, trước lúc bị bắt trói và dẫn đi, Chúa đã yêu cầu quân lính cho các tông đồ được tự do.Đức Giêsu nói: "Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi (Ga 18, 8). Chúa còn có những sứ mệnh khác cho các tông đồ. Các Ngài sẽ nên nhân chứng cho sự đau khổ, sự chết và sự sống lại của Thầy. Chúa không hứa một cuộc sống sung túc, đầy đủ, an bình và hưởng lạc, nhưng là con đường thánh giá có nhiều chông gai. Chúa đáp lời môn đệ muốn đi theo: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu (Lc 9, 58).
Lời Chúa là thần trí và là sự sống. Tác giả thơ Do-thái đã viết: Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử (Dt 1, 1-2). Qua Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta về tình yêu của ơn cứu độ. Lời của Chúa Giêsu là lời hằng sống. Lời Chúa có uy quyền tác động biến đổi và có hiệu qủa ngay: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy (Ga 6, 56). Chúa Giêsu đã từng chữa lành các bệnh nhân qua lời của Ngài.Người bảo anh bại tay: "Anh giơ tay ra! " Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường (Mc 3, 5). Khi Chúa Giêsu đang ngủ trên tàu gặp sóng gió:Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: "Im đi! Câm đi! " Gió liền tắt, và biển lặng như tờ (Mc 4, 39). Thánh Phêrô chỉ cho chúng tabiết rằng Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô đã khuyên dạy chúng ta: Anh em hay phục tùng nhau trong sự kính sợ Thiên Chúa (Eph 5, 21). Phaolô dùng hình ảnh của Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội để nói về việc vợ chồng phục tùng lẫn nhau trong đời sống hôn nhân gia đình:Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy (Eph 5, 25). Giáo Hội luôn gắn kết với Chúa Kitô là đầu. Lời Chúa là kim chỉ nam và là nguồn sống của Giáo Hội. Thánh Kinh và Thánh Truyền là hai nguồn bảo chứng giúp Giáo Hội tồn tại.Giáo Hội tin tưởng vào quyền năng thánh hóa qua lời hằng sống:Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống (Eph 5, 26).
Chúng ta lắng nghe, học hiểu, nhận biết và thực hành lời Chúa. Lời Chúa là lời quyền năng giúp chúng ta biến đổi nội tâm. Chúng ta cần học hỏi để có những kiến thức về đạo, nhưng điều quan trọng là tri và hành. Giống như chúng ta cầm được tấm bản đồ, chúng ta học biết các vị thế và nơi chốn nhưng chúng ta chỉ ngồi một chỗ thì sẽ chẳng bao giờ tới nơi. Lời của Chúa Giêsu mở cửa tâm hồn dẫn chúng ta đến hạnh phúc. Thực thi lời Chúa là chúng ta đang đi trên con đường chính thật. Chúng ta không thể đốt giai đoạn, mà hãy suy niệm và sống lời Chúa trong từng giây phút và qua từng cách ăn nết ở trong cuộc sống hằng ngày. Dấu chỉ của người môn đệ của Chúa là:Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau (Ga 13, 35).
Lạy Chúa, bỏ Chúa, chúng con biết theo ai. Chỉ có Chúa là Đấng Cứu Độ và là nguồn an lạc cho đời chúng con. Chúng con xin chọn Chúa làm gia nghiệp và là nơi chúng con nương náu ẩn thân. Chúng con xin chúc tụng và ngợi khen danh Chúa đến muôn ngàn đời.
18. Vừa vừa thôi chứ! – Guy Morin.
Đó là tiếng kêu người ta thốt ra khi không còn kiên nhẫn được nữa. Hồi nhỏ, khi chúng ta cãi lộn nhau dữ dội, cha mẹ chúng ta hết kiên nhẫn nổi và quát: “vừa vừa thôi chứ!”. Những lời như thể biểu lộ sự phản đối. Người ta cảm thấy bị tấn công bởi những điều thái quá nơi kẻ khác như nói năng, hoạt động, đòi hỏi quá mức. Đây là dấu hiệu cho hay đã tới cùng tận chịu đựng rồi, gần giống như phải chịu những tiếng ồn làm nức tai nhức óc. Trong Tin Mừng, các môn đệ nói một câu tương tự: “Lời này chướng tai quá!”. Các ông bực bội, bị tấn công bởi điều các ông xem như là thái quá trong lời lẽ của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đối diện với những hạn chế.
Sau diễn từ về Bánh hằng sống, trong đó Chúa Giêsu tuyên bố Ngài từ trời mà đến và Ngài sẽ ban thịt Ngài làm của ăn, nhiều môn đệ thấy những lời này là không thể chịu nổi. Vì, vốn là con ông Giuse, mà Ngài tự xưng mình từ trời xuống. Điều này vượt quá mức chịu đựng. Các ông không dám la hét phản đối, nhưng các ông lẩm bẩm chống lại Ngài. Chúa Giêsu đã đẩy họ đến mức tận cùng của sự chịu đựng. Có một giới hạn cho những gì các ông có thể chấp nhận được.
Chúa Giêsu sẽ phản ứng thế nào? Ngài có giữ vững lập trường hay là Ngài sẽ tìm cách giảm nhẹ lời nói của mình khi bảo rằng người ta đã hiểu lầm Ngài? Câu trả lời của Ngài thật tế nhị: Ngài không rút lại những lời Ngài đã nói, nhưng Ngài mời gọi các môn đệ của Ngài nhìn xa hơn và cho các ông thấy thái độ cần phải có. Ngài nói về việc Ngài lên trời: “Và nếu các con thấy Con Người lên nơi Ngài ở trước kia thì sao?”. Như thể Ngài muốn nói: “Khi các con nhìn thấy Ta lên Trời lúc đó các con sẽ hiểu rằng Ta từ trời xuống và điều đó sẽ không còn là cớ vấp phạm cho các con nữa”. Ngài yêu cầu các ông nhìn xa hơn tình hình hiện tại đang thử thách các ông và làm cho các ông vấp ngã. Sau đó, Chúa Giêsu gợi ý cho các ông về cách giải quyết: Đừng xét đoán Ngài theo xác thịt, theo dáng vẻ bên ngoài và những tiêu chuẩn của loài người, nhưng theo Thần Khí, tức là tin vào lời Ngài nói: “Những lời Thầy nói với các con là Thần Khí và sự sống”. Từ những dấu chỉ mà họ đã nhìn thấy: Phép lạ hóa bánh, việc đi trên mặt biển, Chúa Giêsu thúc giục các môn đệ tin lời Ngài cách vô điều kiện. Thật quá tầm mức các ông. Các ông quyết định không đi theo Ngài nữa.
Nhóm Mười Hai vô điều kiện.
“Các con cũng muốn bỏ đi nữa không?”. Chúa Giêsu không muốn gây áp lực trên Nhóm Mười Hai hoặc thu hút lòng thương hại của các ông. Chúa đòi hỏi nơi các ông một quyết định của ý chí, một lời tuyên xưng ý định của các ông. Phêrô nhân danh những anh em khác trả lời một cách vô điều kiện, không đặt một giới hạn nào cho sự gắn bó của mình: “Bỏ Thầy chúng con biết đi với ai?”. Câu hỏi này là một sự khẳng định mạnh mẽ niềm thán phục của ông đối với Chúa Giêsu: “Chúng con không có ai xứng đáng hơn Thầy để theo cả. Không có sự lựa chọn nào khác đáng giá cả. Chỉ mình Thầy mới mang lại cho cuộc đời chúng con một ý nghĩa mà thôi”.
Phêrô đưa ra những lý do của việc lựa chọn vô điều kiện này, đó là lời của Chúa Giêsu và căn tính của Ngài. Quả thật, nếu Nhóm Mười Hai gắn bó với Ngài, là vì Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Những môn đệ bỏ đi nhận thấy những lời này quá đòi hỏi và các ông cảm thấy không thể sống nhờ chúng được. Tuân giữ những lời này sẽ thực sự khó mà sống được. Đối với Nhóm Mười Hai thì ngược hẳn lại. Hơn nữa, nhờ lắng nghe Chúa Giêsu các ông mới nhận ra được căn tính của Ngài, các ông đã nhận ra được Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa: “Về phần chúng con, chúng con tin và chúng con đã biết…”. Đức tin đi trước việc hiểu biết. Các ông tin để hiểu, trong lúc những người bỏ đi muốn hiểu trước đã, vì họ không tin tưởng nơi Chúa Giêsu. Như vậy, Nhóm Mười Hai đã nhận ra nơi Chúa Giêsu một con người mà Thiên Chúa đã thánh hóa để thi hành một sứ vụ như các ngôn sứ ở Israel, trong lúc những người kia chỉ nhìn thấy nơi Ngài “Con ông Giuse mà chúng tôi biết cha mẹ” (c.42). Đức tin dẫn đưa Nhóm Mười Hai đến chỗ nhận ra ý định của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Chúa Giêsu.
Trở thành những kẻ vô điều kiện.
Cũng như các môn đệ, chúng ta có thể trải qua thử thách về đức tin. Cuộc sống sẽ mang đến cho ta những thử thách này: “Thất bại cá nhân, bệnh tật, bất công, vấn đề đói kém. Thiên Chúa làm gì vậy? Chúng ta không hiểu và chúng ta bị cám dỗ buông thả hết. Chúa Giêsu nhắc lại với chúng ta “Các con có muốn bỏ đi không?”. Lúc đó chúng ta được mời gọi trở thành những kẻ vô điều kiện của Chúa Giêsu, làm một bước nhảy vọt trong đức tin.
Thánh Thể tưởng niệm Chúa Giêsu trong tư cách là Đấng vô điều kiện của Chúa Cha: “Không theo ý con, nhưng theo ý Cha”. Theo mức độ chúng ta tin vô điều kiện, Thánh Thể cũng tưởng niệm chúng ta nữa.
19. Chọn Chúa là gia nghiệp đời tôi
Cuộc đời con người là một chuỗi dài những sự chọn lựa. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không có quyền lựa chọn, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Nếu chọn đúng, thì đời mình sẽ tốt đẹp và hạnh phúc, còn nếu chọn sai thi đời sẽ bất hạnh. Sống là phải lựa chọn luôn. Đời là vậy. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn.
Trong bài đọc I hôm nay, chúng ta nghe ông Giôsuê triệu tập toàn thể dân chúng lại, truyền cho họ đứng trước nhan Chúa, rồi ông nói với họ: "Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần?". Dân Do Thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã cứu họ thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Mặc dù họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại phụng thờ Ngài. Toàn dân đã biết hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đã đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài. Họ thưa với Giôsuê: "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi". Đó là một sự lựa chọn của dân Do Thái quyết tâm theo Chúa Giavê.
Trong Bài Phúc âm hôm nay kể lại việc sau khi dân chúng được ăn no nê, họ được Chúa giảng về Bánh Hằng Sống và lương thực bởi trời; Ngài tự xưng mình là Bánh Hằng Sống và quả quyết với họ rằng: "ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". Đứng trước lời mời gọi này có những kết quả chọn lựa khác nhau, có nhiều người chọn giải pháp không đi theo Ngài nữa và cũng nhóm những tâm hồn thành tâm thiện chí chọn đi theo Chúa Giêsu. Nhiều người cho rằng "lời gì mà nghe chói tai quá" và họ quyết định không đi theo.
Vì thế, sau khi họ bỏ Chúa Giêsu ra đi, Ngài quay lại hỏi các Tông Đồ: "Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy ra đi không?" Thánh Phêrô đại diện các Tông Đồ thưa với Chúa rằng: "Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời". Đó là sự chọn lựa của Phêrô. Như thế, dân Do Thái chọn bỏ Chúa còn Phêrô thì chọn theo Chúa Giêsu, chọn Chúa Giêsu là gia nghiệp đời mình.
Là người Công Giáo, khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, chúng ta quyết định chọn Chúa và đi theo Chúa, chúng ta tôn nhận Chúa là Thiên Chúa và chỉ tôn thờ, phụng sự, yêu mến duy một mình Người. Đó chỉ là sự chọn lựa của đức tin. Tuy nhiên, trong cuộc sống của mình, chúng ta đứng trước nhiều cơ hội để chọn lựa hơn nữa, để sống và làm chứng cho đức tin. Chúng ta hãy triệt để thi hành những điều phù hợp với ý Chúa, đó là cách chọn lựa thích hợp nhất theo bản vẽ mà Chúa đã thiết kế cho đời chúng ta. Vì thế, chọn sống theo ý Chúa và thực hành theo đức tin là một việc làm liên tục, thường xuyên cho đến chết. Đó là một đòi hỏi của đức tin.
Vì thế, đức tin này là một con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một con đường dài mà ta sẽ phải đi suốt cuộc đời. Con Đường đức tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ, ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ Chúa, được Chúa an ủi, mọi sự diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải trải qua những quãng đường gian nan đầy sóng gió không còn êm trôi. Có khi ta gặp khó khăn thử thách, gặp đau khổ, thất bại. Đôi khi chúng ta không tìm đâu ra lối thoát như chìm trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh sáng nào soi đường dẫn lối. Lúc đó, chúng ta sẽ cảm thấy mệt mỏi chán chường, muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác, bị cám dỗ tìm con đường dễ dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn. Đó là trường hợp của những người Do Thái và một số môn đệ hôm nay.
Thật thế, Khi Đức Giêsu hóa bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi và mừng vui. Họ tin Người chính là Đấng Cứu thế đến cứu dân tộc Do Thái. Thế nhưng khi Đức Giêsu tuyên bố: "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời", khi nghe nói như thế thì đám đông và một số môn đệ bỏ Chúa mà đi. Đức tin tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước, nay đã tan biến. Đức tin gặp thử thách và họ không thể vượt qua. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín.
Đức tin phải trải qua thử thách. Chỉ có những người bạn trung thành qua những khó khăn mới là những người bạn đích thực. Chỉ có niềm tin kiên vững bất chấp mọi thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Giữa cơn khủng hoảng ấy, thánh Phêrô đã đại diện nhóm 12 tuyên xưng niềm tin sắt đá vào Đức Kitô. Dù chưa hiểu những điều Đức Giêsu nói, nhưng các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào Người. Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều và sau khi chứng kiến Người đi trên mặt nước, các môn đệ có cơ sở để đặt niềm tin nơi Người. Lời tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có giá trị trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng. Nhưng vẫn gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách.
Hành trình đức tin và sự chọn lựa của chúng ta chắc chắn sẽ không khác của các tông đồ. Có những lúc thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt. Khi đó Lời Chúa êm ái ngọt ngào. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng. Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa, chúng ta dễ dàng chọn Chúa. Nhưng rồi tới những ngày tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy lời Chúa làm cho ta mất bình an. Lời Chúa đánh vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Phúc âm hôm nay, không còn muốn chọn Chúa nữa. Vì thế, trong những giờ phút gặp gian nan thử thách như thế, ta hãy nhớ đến lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên xưng trong đau đớn thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Sự trung tín vượt qua được những cơn khủng hoảng mới minh chứng một tình yêu chân thực. Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh dạn thưa với Chúa như thánh Phêrô: "Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời". Đó là cách chọn lựa phù hợp ý Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khôn ngoan và sáng suốt để biết chọn Chúa là gia nghiệp đời mình. Cho dù chọn Chúa thì chúng con phải can đảm sống đức tin, biết theo Chúa, phụng sự Chúa suốt cuộc đời con. Tuy nhiên, đó là cách chọn lựa bảo đảm sự sống đời đời cho chúng con. Xin cho chúng con biết đáp trả bước đi theo Chúa suốt cuộc đời chúng con. Amen.
20. Chúa Nhật 21 Thường Niên.
Anh chị em thân mến.
Trong thời gian gần đây, nếu anh chị em có dịp đi đến Châu đốc để vía bà, hay đi Cà Mau viếng mộ Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp. Quang cảnh của những nơi đó hết sức tưng bừng náo nhiệt, người tới lui tấp nập. Đi vòng quanh, có nhiều bia tạ ơn, bông hoa, nhan, đèn không bao giờ ngớt. Nhìn lại thì thấy đủ mọi hạng người, thuộc đủ mọi thành phần, đủ mọi tôn giáo. Họ đến đây vì nhu cầu riêng tư của cuộc sống: kẻ đã được đáp ứng, đến để tạ ơn, kẻ khác thì đến van xin. Nhìn lại, tất cả đều vì mối lợi riêng tư cho bản thân, vì cuộc sống riêng của mình.
Tôi suy nghĩ: nếu một người nào đã đi đến đó hai, ba lần mà nhu cầu của họ không được đáp ứng, thử hỏi họ có còn can đảm để đến thăm viếng và cầu xin nữa không. Tất cả chỉ vì nhu cầu của cuộc sống, vì quyền lợi riêng tư. Một khi quyền lợi bị đụng chạm, hay nhu cầu không còn cần thiết nữa thì chắc là họ sẽ không đến đó nữa.
Những người Do Thái, đi theo Chúa Giêsu vì Ngài đã đáp ứng nhu cầu của họ. Ngài cho họ ăn, giảng dạy, nói những lời mới lạ họ thích nghe. Nhưng khi Ngài nói những lời không hợp ý họ, họ liền chống đối và rời xa Ngài. Kể cả những người thân tín, những kẻ được gọi là môn đệ cũng bỏ Ngài. Còn lại nhóm 12, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn và hỏi:" Còn các con, các con có muốn bỏ đi không?"
"Lạy Thầy, chúng con biết đi theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời".
Phêrô đại diện cho cả nhóm nói lên như thế. Ông nhìn thấy được sự sống thật trong vị Thầy mà ông đang theo, ông nhìn thấy được sự cần thiết khi có Thầy bên cạnh. Chính vì thế các ông đã theo Thầy cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, các ông đã đạt được sự sống đời đời.
"Còn các con, các con có muốn bỏ đi không?"
Chúa Giêsu cũng hỏi từng người trong chúng ta như thế. Không phải chỉ một lần, nhưng rất nhiều lần trong cuộc sống. Nhưng nào chúng ta có nghe thấy gì đâu để mà trả lời cho Ngài, vì chúng ta đã bỏ đi trước khi nghe Ngài hỏi như thế. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta chán nản thất vọng, không kiên nhẫn đủ để chờ đợi Thiên Chúa ban ơn cho mình. Chúng ta quay ra phiền trách Thiên Chúa, vì Ngài không phục vụ cho nhu cầu riêng tư, phục vụ cho lợi ích cá nhân của mình. Chúng ta cầu xin, đòi hỏi, nhưng ít khi nào suy nghĩ rằng: điều mình cầu xin có thật sự cần thiết và hợp thánh Ý Thiên chúa không? Nếu đó là điều tốt đẹp, thì Thiên Chúa của chúng ta có bị bắt buộc phải vâng lời và thi hành ngay những điều chúng ta đòi hỏi hay không. Thiên Chúa nhìn thấy và Ngài cũng biết trước chúng ta đang nghĩ gì và làm gì. Thế là chúng ta rời bỏ Thiên Chúa của mình vì không đủ kiên nhẫn chờ đợi, hay đúng hơn là không có một con tim chân thành để theo Ngài.
Có khi nào trong cuộc sống, chúng ta lắng nghe và trả lời như Phêrô: "Chúng con biết đi theo ai, Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời". Nói được như thế là khi chúng ta biết để cho Thiên Chúa làm chủ cuộc sống của mình. Còn phần chúng ta biết lắng nghe và vâng theo những gì Ngài đặt để cho chúng ta trong cuộc sống. Chúng ta biết chấp nhận và chu toàn cách tốt đẹp hoàn cảnh sống của mình. Đó là sống kề cận bên Chúa và đó cũng là sự sống đích thực mà Thiên chúa ban cho những kẻ thành tâm theo Ngài.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe và luôn sống kề cận bên Chúa, để xứng đáng là môn đệ trung thành của Ngài.
21. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Kết thúc bài giảng về bánh trường sinh, Chúa Giêsu mời gọi ta: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6:56). Lời mời gọi này đòi người ta phài dứt khoát quyết định: hoặc bỏ Người mà đi, hoặc trung thành theo Người. Đó là đề tài của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay được quảng diễn qua sự kiện dân Chúa trong Cựu Ước quyết tâm phụng thờ Đức Chúa và sự kiện các Tông đồ trung thành làm môn đệ của Chúa Giêsu. Bài học trung thành ấy được áp dụng vào mối quan hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội.
1. Dân Ít-ra-en quyết tâm trung thành với Chúa (bài đọc Cựu Ước – Gs 24:1-2a.15-17.18b)
Sau khi hoàn tất nhiệm vụ đưa dân Chúa vào đất hứa và nhận thấy ngày cuối đời đã gần kề, ông Giô-suê triệu tập đại hội toàn dân tại Si-khem. Nói với họ, ông nhắc lại những điều Thiên Chúa thực hiện cho Ít-ra-en, kể từ thời các tổ phụ tới thời gian sống nhờ bên Ai-cập, cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ của Pha-ra-ô và trở về đất hứa. Rồi ông yêu cầu họ dứt khoát quyết định phụng thờ Chúa hay phụng thờ các thần ngoại. Ông cũng không ngại cho dân chúng biết ông và gia đình nhất quyết phụng thờ Thiên Chúa. Toàn dân đồng thanh đáp lời kêu gọi của ông: “Chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi” (Gs 24:18b).
Quả thực đây là một trang sử đẹp của dân Ít-ra-en. Cảm nghiệm về quyền năng của Thiên Chúa còn đậm nét và những biến cố lịch sử mới xảy ra không lâu đã giúp cho họ dễ dàng nhận ra “Người là Thiên Chúa” thật của họ và họ quyết tâm phụng thờ Người. Nhưng lịch sử dân Ít-ra-en lại hầu như đầy dẫy những bất trung của họ trong quan hệ với Chúa. Họ bị lôi cuốn theo lối sống của dân ngoại thay vì theo Lề Luật. Họ đã lấy các thần ngoại để thay thế chỗ đứng của Thiên Chúa, thí dụ như “các thần cha ông họ đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc các thần của người E-mô-ri” (Gs 24:15). Câu truyện cha ông họ đúc con bê bằng vàng để tôn thờ (Xh 32) cũng chỉ là một trong rất nhiều câu truyện được ghi lại trong Cựu Ước về sự bất trung của Ít-ra-en. Trong tình huống này, “ông Mô-sê đứng ở cổng trại và hô: “Ai thờ Đức Chúa thì theo tôi!” Tất cả con cái ông Lê-vi đều tập họp bên ông Mô-sê” (Xh 32:26).
Dân Chúa bất trung như thế đó, vậy mà ngược lại, Thiên Chúa luôn trung thành với dân Người. Người tìm đủ mọi cách để giúp họ thức tỉnh và sám hối sau những sa ngã tày trời ấy. Khi thì Người dùng hình phạt, chiến tranh, lưu đày để làm cho họ gắn bó với Người. Khi khác Người thiếu điều “năn nỉ ỉ ôi”, nhắc lại những việc tốt lành Người đã thực hiện cho họ, để xin họ hãy trung thành với Người. Câu truyện hôn nhân của ngôn sứ Hô-sê (Hs 1-3) là một biểu tượng sống động diễn tả sự quan tâm và lòng trung thành của Thiên Chúa dành cho Ít-ra-en. Cho dù Thiên Chúa có phải dùng đến hình phạt để đưa họ về đường ngay nẻo chính thì cũng là yêu cho roi cho vọt mà thôi, giống như cha mẹ một tay đánh con, một tay gạt nước mắt.
Lịch sử bất trung của Ít-ra-en tuy là một sự kiện cụ thể, nhưng cũng là lịch sử tái diễn nơi tâm hồn ta. Nhìn vào cuộc sống thiêng liêng của ta, ta dễ dàng nhận thấy những bất trung lớn có, nhỏ có, trong mối quan hệ với Chúa. Những lúc quyết tâm phụng thờ Chúa thật quá ít so với những lỗi lầm ta xúc phạm đến Chúa và anh chị em. Vậy mà Chúa vẫn một lòng yêu thương ta, như Chúa Kitô đã yêu thương những người tội lỗi và khốn khổ, hoặc như suy niệm của thánh Phao-lô qua bài đọc thứ hai về lòng yêu thương và chăm sóc của Chúa Kitô đối với Giáo Hội.
2. Kitô hữu quyết tâm trung thành làm môn đệ Chúa Kitô (bài Tin Mừng – Gio-an 6:54a.60-69)
Bài Tin Mừng ghi lại phản ứng của những người nghe Chúa giảng về Bí tích Thánh Thể và lời mời gọi “chướng tai” của Người. Lời ấy là: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6:54a). Nghe thế, có nhiều môn đệ không tin và bỏ đi, mặc dù Người đã giải thích: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống” (Ga 6:63). Giải thích như vậy, Chúa Giêsu muốn nhắc lại sứ mệnh của Người. Người là Ngôi Lời nhập thể để trở nên thần khí và sự sống đời đời cho ta nếu ta tiếp nhận Người.
Tuy nhiên điều mà bài Tin Mừng muốn nhắm đến hôm nay là sự kiện các Tông đồ đã quyết tâm ở lại với Chúa Giêsu, cho dù nhiều môn đệ và dân chúng đã bỏ Người. Ông Phê-rô thay mặt anh em, tuyên bố một câu bất hủ: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68). Đúng là cùng một niềm tin, cùng một sự trung thành giống như ông Mô-sê và ông Giô-suê. Trước hết, ông Phê-rô tuyên xưng sự độc tôn đối với Chúa Giêsu. Dân Ít-ra-en đã thề hứa trước mặt ông Giô-suê là họ sẽ phụng thờ duy một Đức Chúa mà thôi. Cũng vậy, Phê-rô muốn phát biểu rằng Chúa Giêsu là Đấng duy nhất ta phải đến, phải gặp gỡ, phải để cho Người biến đổi cuộc sống ta. Ông đã nhìn nhận chân lý: chỉ có Chúa Giêsu mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Sứ mệnh và vai trò của Chúa Giêsu thật vô cùng quan trọng đối với tương lai của nhân loại. Sau khi nói lên chỗ đứng không thể thay thế của Chúa Giêsu, Phê-rô nói về chính mình và các bạn: “Phần chúng con, chúng con tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6:69).
Ta nhận ra sự xác tín của ông Phê-rô, sự xác tín mạnh mẽ giữa lúc bị giao động do việc bỏ đi của những người khác. So sánh với việc tuyên xưng đức tin của ông tại Xê-da-rê Phi-líp-phê, là tuyên xưng theo sự mặc khải của Thiên Chúa (Mt 16:13-20), thì lần tuyên xưng này mới thực sự là những lời phát ra từ đáy lòng của những người quyết tâm làm môn đệ Chúa. Ông nhấn mạnh đến hành vi “tin” và “nhận biết” rằng Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Kết thúc câu truyện bài giảng về Bí tích Thánh Thể của Chúa Giêsu dầu sao cũng là kết thúc có hậu. Ít ra còn có những người quyết tâm theo Chúa và gắn bó với Người giống như ông Phê-rô và các bạn Tông đồ đã làm. Tuy nhiên kết thúc ấy cũng là lời mời gọi hoặc thách thức Kitô hữu mọi thời hãy đáp lại lời tha thiết của Chúa Giêsu “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”.
3. Chúa Kitô luôn trung thành với ta như Người trung thành với Giáo Hội (bài đọc Tân Ước – Ê-phê-xô 5:21-32)
Ta được kêu gọi hãy tiếp nhận Chúa Kitô và trung thành theo Người. Đó là để đáp lại lòng trung thành yêu thương của Chúa Kitô dành cho ta. Thánh Phao-lô đã cho ta những dòng suy niệm rất sâu xa về lòng trung thành yêu thương và chăm sóc của Chúa Giêsu đối với Giáo Hội.
Thực ra trong đoạn thư gửi tín hữu Ê-phê-xô 5:21-32, thánh Phao-lô bàn về những cách cư xử trong đời sống gia đình của Kitô hữu. Ngài đem mẫu gương Chúa Giêsu yêu thương và chăm sóc Giáo Hội áp dụng vào đời sống gia đình, đặc biệt là cách vợ chồng đối xử với nhau. Vậy thánh Tông đồ đã nhấn mạnh đến những điểm nào trong cách Chúa Kitô đối xử với Giáo Hội? Ở đây, ta đọc được nhiều điều Chúa Kitô đã và đang làm cho Giáo Hội. Người đã “cứu chuộc Hội Thánh” (câu 23), “yêu thương và hiến mình vì Hội Thánh” (c. 25), “thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước (Bí tích Rửa tội) và lời hằng sống” (c, 26), làm cho Hội Thánh “xinh đẹp lộng lẫy..., thánh thiện và tinh tuyền” (c. 26), “nuôi nấng (Bí tích Thánh Thể) và chăm sóc Hội Thánh” (c. 29). Tất cả những nghĩa cử này của Chúa Giêsu chứng tỏ lòng trung thành yêu thương của Người đối với Giáo Hội. Mà Kitô hữu là chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô, được bao bọc bằng tình yêu của Đầu là Chúa Kitô, nên ta phải trung thành theo Chúa, tùng phục Người, “như Hội Thành tùng phục Đức Kitô” (c. 24).
Qua lịch sử Giáo Hội, mặc dù có những giai đoạn đen tối, ta vẫn thấy thái độ căn bản của Giáo Hội đối với Chúa Kitô, đó là sự tùng phục và trung thành. Thái độ ấy không hẳn chỉ được biểu lộ qua những công thức tuyên tín hoặc những văn kiện chính thức của Giáo Hội, nhưng còn phải là lòng trung thành của mỗi phần tử trong Giáo Hội, cố gắng sống đúng với căn tính Kitô và với niềm xác tín: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Niềm xác tín ấy không phải chỉ của riêng Phê-rô, nhưng cũng phải là xác tín của mỗi người Kitô hữu nữa.
4. Sống Lời Chúa
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến lòng trung thành theo Chúa. Theo Chúa là điều không dễ dàng, như Chúa Giêsu đã nói: “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. Quả thực, khi ban cho ta Con Một để chứng tỏ lòng yêu thương ta, thì Thiên Chúa Cha đã ban cho ta ơn đến với Đức Kitô rồi. Vậy ý thức chân lý yêu thương ầy và xác tín vai trò “lời đem lại sự sống đời đời” của Chúa Giêsu, ta hãy mạnh dạn đến với Người và nhất là trung thành đi theo làm môn đệ Người.
Suy nghĩ: “Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”. Điều này có bao giờ xảy ra cho tôi không? “Lúc đó” là những hoàn cảnh nào trong đời tôi? Tôi đã xử trí như thế nào? Kinh nghiệm “rút lui” dạy tôi bài học nào và có giúp tôi trung thành hơn không?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới làm cho chùng con nên một lòng một ý; xin cho tất cả chúng con biết yêu luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa, để dầu sống giữa cảnh thế sự thăng trầm, chúng con vẫn một lòng thiết tha với cõi phúc chân thật. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 21 mùa Thường niên).
22. Lội ngược dòng – Lm. Phêrô Hồng Phúc
"Đối với loài người thì không có thể,
nhưng đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể".
Chúa Giêsu đã đưa ra mô hình sau để chúng ta kiểm nghiệm: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa.
Chúa Giêsu không lên án những người giàu, bởi vì giàu có hay nghèo khó đều là của cải Chúa ban trên mặt đất này. Bản thân của cải chưa nói lên điều gì, sở hữu của cải cũng chưa phải là tội hay là phúc. Điều quan trọng, người ta dùng của cải để giúp đỡ anh em hay là họ ham mê của cải đến mức độ tích trữ, thậm chí tìm mọi cách tham lam mưu mô để chiếm đoạt của cải của người khác. Tội hay phúc từ đó mới phát sinh.
Những người mà lòng tham vô đáy, tìm mọi mưu mô và chiếm đoạt của mọi người, để làm giàu cho mình dù là họ không đạt được ý nguyện, có khi trong tay cũng chẳng có tiền của nữa nhưng lòng tham vẫn là lòng tham, giàu có vẫn là giàu có. Những hạng như vậy: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn những người giàu có kiểu đó mà vào được Nước Trời.
Có những người của cải Chúa ban có thể họ được rất nhiều nhưng họ có cơ hội để giúp đỡ anh em, chị em, hoặc là những công việc từ thiện, những công việc truyền giáo, họ có rất nhiều tiền của mà họ vẫn là những người có tinh thần nghèo khó.
Như vậy Chúa Giêsu đề cao tinh thần nghèo khó và Chúa kết án lòng tham vô độ của con người khi chỉ muốn hưởng thụ và đam mê đời này. Một kiểm nghiệm trên để cho chúng ta thấy rằng tiền của hay thế giới vật chất chưa phải là điểm đến của chúng ta, lời mời gọi mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta cao hơn, xa hơn và vì thế khi Phêrô hỏi Chúa Giêsu: "Chúng con đã bỏ mọi sự mà đi theo Thầy, chúng con được gì". Đức Giêsu không ngần ngại cho chúng ta thấy một hoa trái thật là lớn lao: "Thầy nói thật với các con: không ai đã bỏ cha mẹ vợ con ruộng nương vì Thầy, vì Phúc âm mà không được gấp trăm ngay ở đời này và ngày sau được ngự trên tòa xét xử mười hai chi tộc Israel"(Mt 19,29); Khi Giacôbê và Gioan xin được ngồi bên tả bên hữu trong Nước Thầy, Chúa Giêsu từ chối. Thế nhưng hôm nay Chúa Giêsu lại hứa cho tất cả những ai từ bỏ mọi sự mà theo Chúa sẽ được ngồi trên tòa xét xử mười hai chi tộc Israel, tức là ở nơi vinh dự cao sang, nhưng đó là vinh dự cao sang của Nước Trời, mặc dầu thế, ngay ở đời này họ cũng được gấp trăm. Chúa không nói ai bỏ ra một nghìn đồng Chúa sẽ cho một trăm nghìn đồng, ai bỏ ra một triệu đồng Chúa sẽ cho trăm triệu đồng. Nhưng Chúa nói gấp trăm về nhiều phương diện: sự bình an, niềm vui, hạnh phúc... Họ là những người được chúc phúc ngay ở đời này, họ cảm thấy về ý nghĩa đời sống, về sự may lành, về những gì mà Thiên Chúa gìn giữ yêu thương quan phòng dẫn dắt họ, nghĩa là họ đi trong ánh sáng, trong niềm vui, những điều đó gấp trăm gấp nghìn lần những gì mà của cải hứa hẹn hưởng thụ trong mệt mỏi, trong rã rời, trong âu lo thậm chí trong chán nản và thất vọng.
Hôm nay, với mô hình Chúa đưa ra để cho chúng ta lựa chọn và rõ ràng là có những người đã lựa chọn sai cho nên có những kẻ trước hết danh vọng, chức quyền, của cải ngất trời ở đời này thì lại lên sau hết. Còn có những người đã dám hy sinh từ bỏ đến cả mạng sống của mình, từ bỏ của cải, từ bỏ đam mê, từ bỏ hưởng thụ, họ là những người nghèo khó, thậm chí là những người hành khất, họ nên giống Chúa Giêsu lang thang nhưng họ sẽ là những người ở đời này là bé mọn là rốt hết sẽ lên trước nhất.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đưa ra mô hình mà chúng con thấy khó thực hiện quá!
Tất cả đều là đảo ngược so với những suy nghĩ,
những bước đi tự nhiên của chúng con.
Nhưng chúng con đã thấy các thánh là những người thực hiện
theo những bước đi lội ngược dòng mà Chúa đề ra.
Các thánh đã đạt tới đỉnh điểm của hạnh phúc,
Các thánh đã đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của Nước Trời.
Xin cho chúng con ngày hôm nay dám từ bỏ,
dám lội ngược dòng để chúng con là những người rốt hết,
sẽ được nên những người trước nhất trong ngày sau hết.
Xin đừng để chúng con leo lên bậc trước nhất
để rồi ngày sau hết ngã xuống bậc rốt hết.
Chúa gọi chúng con đi ngược dòng
chính là trở về với cội nguồn ơn cứu độ.
Xin Chúa ban ơn để chúng con đạt tới ơn cứu độ đời đời. Amen.
23. Kiên quyết theo Chúa
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Cả bốn bài Tin Mừng của bốn Chúa nhật trước đây và cả bài Tin Mừng hôm nay, đã kể lại bài giảng của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống đời đời; đồng thời cũng lần lượt cho biết thái độ và phản ứng của các thính giả. Riêng bài Tin Mừng hôm nay cho biết phản ứng của các môn đệ nói chung và của Nhóm Mười Hai nói riêng. Mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giài thích thêm.
Suốt cuộc nói chuyện, hay đúng hơn, suốt bài giảng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa không ngừng mời gọi người ta đến với Ngài, tin vào Ngài, đón nhận Ngài làm của ăn thức uống. Nhưng không những dân chúng mà nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người Do thái khác: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi". Họ lẩm bẩm với nhau như thế. Nhưng Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải thích thêm cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu hơn vào bản thân và sứ mạng của Ngài. Ngài nói Ngài lên nơi Ngài đã ở trước, nghĩa là lên cùng Chúa Cha, vào trong vinh quang của Chúa Cha, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Chúa Con từ muôn thuở.
Khi nghe Chúa nói như vậy, nhiều môn đệ rút lui, không đi với Chúa nữa. Như vậy, không những dân chúng chán ngán mà cả đến các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm mười hai tông đồ, những người được coi là thân tín nhất của Chúa. Phản ứng của họ thế nào? Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: họ không bỏ Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Như vậy, thánh Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên một lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, tin vào sứ mạng của Ngài: Ngài có những lời đem lại sự sống đời đời. Do đó, những lời tuyên bố, quả quyết và khẳng định trong bài giảng về bánh hằng sống này thực sự là theo nghĩa đen thông thường nói về phép Thánh Thể.
Nhìn về chúng ta, đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta đều phải đích thân chọn lựa đứng lại với Chúa hay không? Đứng lại với Chúa không phải chỉ vì thấy người khác còn đứng lại hay vì chưa gặp dịp thuận tiện để tháo lui. Nhưng đứng lại với Chúa vì tin rằng Ngài là Đấng có lời ban sự sống đời đời, không còn ai khác để mình đi theo.
Chúng ta là Kitô hữu, tức là chúng ta là người chấp nhận đi theo Chúa Giêsu, là Đấng không những ban cho chúng ta sự sống đời này mà còn ban cho chúng ta sự sống đời đời nữa. Sống ở đời, ai cũng có niềm tin, và bởi thế, có nhiều thứ niềm tin khác nhau, chẳng hạn các vận đông viên thể thao tin ở sức mạnh của bắp thịt và sự dẻo dai của họ. Các chính trị gia đặt tất cả niềm tin nơi đảng phái của họ. Những người hoạt động theo một ý thức hệ cũng tin tưởng ở sự toàn thắng của lý tưởng mà họ đang theo đuổi...
Ngay trong cuộc sống thường ngày, chúng ta cũng bị bắt buộc phải có niềm tin, chẳng hạn: đau bệnh, chúng ta tìm đến thầy thuốc, chúng ta đặt niềm tin nơi khả năng và thiện chí của thầy thuốc. Đi mua hàng, chúng ta cũng phải tin tưởng nơi người bán hàng. Giao tiếp với nhau, chúng ta cũng phải tin tưởng nhau...Đối với chúng ta, những người Kitô hữu, chúng ta không những có niềm tin vào cuộc sống mà chúng ta còn có đức tin nữa. Làm sao có được đức tin? Triết gia Pát-can nói: "Nếu bạn muốn có đức tin, bạn hãy quỳ gối xuống và cầu nguyện".
Mẹ Têrêxa cũng nói như thế. Người ta kể rằng: một lần kia, Mẹ Têrêxa nói với một phóng viên báo chí: "Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin". Người ấy hỏi: "Tôi phải làm gì để có đức tin?". Mẹ Têrêxa đáp: "Ông hãy cầu nguyện". Người ấy nói: "Tôi không biết và không thể cầu nguyện". Mẹ Têrêxa nói: "Tôi sẽ cầu nguyện cho ông, phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh. Một nụ cười có thể đánh động người khác. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống".
Chúng ta lãnh nhận được đức tin khi chịu phép rửa tội. Như vậy, tất cả chúng ta đều đã có đức tin. Nhưng cũng như mọi thứ tài năng khác nơi con người, đức tin cần phải được triển nở, cần phải được nuôi dưỡng. Một tài năng không được nuôi dưỡng sẽ mai một với thời gain. Một đức tin không được vun trồng cũng sẽ chết dần chết mòn. Chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm những việc đạo đức là chúng ta nuôi dưỡng đức tin của mình. Ngoài ra, cả cách sống quảng đại, vị tha và yêu thương cũng là cách để nuôi dưỡng đức tin như lời Mẹ Têrêxa khuyên trên đây: mỉm cười với mọi người. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống. Một nụ cười còn có giá trị như thế phương chi những lời nói, những việc làm còn giá trị hơn biết bao.
24. Thách đố lớn nhất – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Trên bước đường theo Chúa, các môn đệ gặp rất nhiều thách đố từ ngoại cảnh hay nội tâm. Có bao giờ họ có thể tưởng tượng chính Chúa lại trở thành thách đố lớn nhất? Thế mà hôm nay, khi lên tiếng đòi hỏi một niềm tin lớn lao về quyền năng Thiên Chúa, chính bản thân Đức Giêsu đã trở thành một vấn đề khó vượt nhất, vấn đề có tính cách quyết định cho cả định mệnh con người, vì liên quan tới chính sự sống nhân loại.
Nguồn sống
Trước bao nhiêu đe dọa mạng sống, con người cảm thấy bất lực. Những sản phẩm tử thần phơi bày nhan nhản khắp nơi. Trươc tình cảnh ấy, Đức Giêsu xuất hiện như một nguồn sống: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời.” (Ga 6:54a) Lời đề nghị vô cùng lạ lùng, chưa từng nghe thấy bao giờ. “Nghe vậy nhiều môn đệ của Người liền nói: ‘Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60) Người trở thành đối tượng của lời xầm xì. Kết quả nhiều môn đệ đã theo Người lâu năm, cũng đành giũ áo ra đi (x. Ga 6:66). Tưởng việc ra đi đó sẽ khiến Người đổi thái độ. Nhưng không, Người vẫn không hề nao núng, dù chỉ còn ít người ở lại: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6:67) Thật là căng thẳng! Thật là một thách đố lớn!
Trước sự im lặng đến ngộp thở, ông Phêrô lên tiếng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” (Ga 6: 68-69) Chính Chúa Cha đã mạc khải tất cả sự thật về Chúa Con. Thật vậy, “Không ai đến được với Thầy, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.” (Ga 6:65) Bởi đó, niềm tin là một ân sủng vô cùng cao quí. Đến với Đức Giêsu tưởng như một hành vi đơn giản. Thực tế phải có một sức mạnh nội tại phát xuất từ Thiên Chúa, chúng ta mới có thể tin vào Lời Chúa và sự hiện diện đích thực của Chúa nơi con người Đức Giêsu và nhất là trong bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu hiện diện thật trong bí tích Thánh Thể. Nhưng sự hiện diện đó vẫn khác với sự hiện diện trong thân xác tại thế của Đức Giêsu. Nói khác, “thịt và máu” chỉ hiện diện một cách bí tích trong “bánh hằng sống”. Đây là một sự hiện diện sâu xa và đích thực. Bên ngoài chỉ là một tấm bánh hay một chén rượu. Nhưng dấu chỉ bên ngoài đó nói lên sự thật lớn lao bên trong. Đức Giêsu trở thành của ăn thức uống nuôi sống muôn dân khỏi cơn đói khát thiêng liêng. Bởi đó lấy sự hiểu biết bình thường để đo thực tại Thiên Chúa, con người sẽ bất lực. Trái lại phải có sức mạnh Thần khí mới có thể hiểu nổi Lời Chúa. Thực vậy, “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.” (Ga 6:63) Bản chất Lời Chúa là thần khí mà lại lấy con mắt xác thịt để nhìn, thật là không cân xứng. Xác thịt chỉ dẫn đến xác thịt, hoàn toàn bất lực trước những đòi hỏi của Thần khí. “Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống.” (2 Cr 3:6)
Những người còn ở lại với Chúa vì đã chấp nhận Lời Chúa và tin vào sự hiện diện đích thực của Người trong “bánh hằng sống”. Họ đã hiểu Lời Chúa dưới lăng kính Thần khí. “Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô.” (Rm 8:9) Đó là lý do tại sao “nhiều môn đệ rút lui” (Ga 6:66) và nhiều người “lấy làm chướng” và “xầm xì về vấn đề ấy.” (Ga 6:61) Thần Khí sẽ làm im bặt mọi tiếng xầm xì và nghi hoặc, vì Người chính là sức mạnh của Chúa Cha kéo ta lại gần Đức Kitô. Thần Khí không pha chút vẩn đục mới thấy hết được chiều sâu Lời Chúa. Xác thịt không có độ trong suốt đó để thấy tất cả sự thật. Thách đố chính là cuộc đối đầu giữa Thần Khí và xác thịt. Người môn đệ Đức Giêsu luôn bị đặt trước sự lựa chọn.
Ngày xưa, dân Do thái cũng đứng trước lựa chọn lớn lao đó. Ông Giôsuê đã lên tiếng trước toàn dân: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ... Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa.” (Gs 24:15) Giữa bao nhiêu cám dỗ, dân Do thái đã có lúc nghiêng ngả. Đã đến lúc họ phải dứt khoát. Oâng Giôsuê “đã cho họ một cơ hội để canh tân giao ước Sinai (Xh 19-24)” (Faley 1994:557) Họ đã nhớ lại tất cả sự nghiệp hiển hách Chúa đã làm trên đường về Đất Hứa. Tất cả đều lặp lại lời tuyên xưng đức tin như ông Giôsuê: “Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.” (Gs 24:18b) Tất cả lịch sử Do thái đều xây trên lời tuyên tín này. Như vậy ông Giôsuê đã chinh phục được toàn dân về cho Chúa. Nhưng suốt lịch sử không phải lúc nào niềm tin cũng trong sáng như vậy. Cuộc thách đố không bao giờ chỉ đến một lần. Trái lại, cuộc phấn đấu dai dẳng suốt bốn mươi năm trên sa mạc là cuộc phấn đấu với niềm tin.
Những sự kiện trái ngược
Các môn đệ Đức Giêsu còn phải phấn đấu cam go hơn nữa khi Đức Giêsu đòi hỏi phải tin “ai ăn thịt tôi và uống máu tôi...” (Ga 6:54) Ngày xưa, sau khi Người công bố về bánh hằng sống, “nhiều môn đệ rút lui.” (Ga 6:66) Đức Giêsu đã dám đánh đổi cả sự nghiệp lấy niềm tin đó. Giả sử lúc đó Chúa cũng chiều theo thị hiếu quần chúng, thử hỏi hôm nay Người còn độ hấp dẫn không?
Chính vì niềm xác tín lớn lao đó, ngày nay Giáo hội vẫn còn là điểm thu hút giới trẻ về với Đức Giêsu. Bằng chứng gần 3 triệu bạn trẻ khắp thế giới đã tề tựu về Roma trong ngày Quốc Tế Giới Trẻ từ ngày 15 đến 20 tháng 8 năm 2000 để lắng nghe Lời Chúa và tìm kiếm Đức Giêsu. Một biến cố lớn lao vượt ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Các bạn trẻ đã tuốn về Roma với niềm phấn khởi hân hoan. Họ đã đi bộ hằng chục cây số để vác tượng thánh giá theo gót Đức Giêsu. Họ đã quì gối giữa phố xá để cùng đọc kinh Truyền tin lúc 12 giờ trưa giữa những tiếng chuông nhịp nhàng nơi kinh thành ánh sáng đó. Để chuẩn bị cho ngày Đại Hội, hằng chục ngàn bạn trẻ đã phải làm việc mệt nhọc hằng tháng hay hằng năm trước. Các bạn trẻ hoàn toàn thoải mái vì được ăn uống ngủ nghỉ hoàn toàn miễn phí. Đại hội đã chuẩn bị 9 triệu bữa ăn cho các bạn trẻ. Có đủ dịch vụ y tế và vệ sinh đáp ứng nhu cầu của các bạn. Các nhà dân chúng ở Roma đã mở rộng cửa đón tiếp các bạn. Cả Đức Giáo Hoàng cũng đón tiếp 15 bạn trẻ vào ở chung với Người. Nhiều bạn trẻ thuộc thế giới thứ ba đã được bao vé máy bay về Roma. Các ân nhân đã đóng góp 3.5 triệu đô la giúp đỡ các bạn trẻ. Thật là một ngày vui lớn có tầm mức quốc tế. Niềm vui có thể đo lường được bằng những màn hội diễn văn nghệ, nhảy múa, ca hát. Tất cả đều tìm thấy nhau trong niềm vui hòa hợp với nhau và nhất là với Thiên Chúa. Có khoảng 2.000 linh mục sẵn sàng đáp ứng nhu cầu hòa giải nơi 300 tòa cáo giải ngay tại quảng trường Colossê.
Cũng trên chính quảng trường đó, trước đó hơn một tháng, nghĩa là ngày 8 tháng 7 năm 2000, một cảnh tượng trái ngược đã diễn ra. Cũng một Đại Hội Giới Trẻ. Cũng vào đầu thế kỷ 21. Những chuẩn bị cũng rất công phu. Ước vọng cũng rất lớn. Người ta hi vọng một triệu người trẻ đồng tính luyến ái sẽ qui tụ về Roma để biểu tình phản đối Tòa Thánh Vatican. Kết quả sau những ngày kêu gọi ầm ĩ và chuẩn bị rầm rộ, chỉ non 7000 bạn trẻ tham dự. Còn đâu hứa hẹn tự do đáp ứng mọi nhu cầu ăn chơi của tuổi trẻ bằng thế giới những người đồng tính luyến ái? Các bạn trẻ không nghe thấy tiếng kêu gào của những người tổ chức hay sao? Trong khi đó, một tiếng kêu gọi của một cụ già 80 tuổi đã được các bạn trẻ đón nhận nồng nhiệt. Gần 3 triệu bạn trẻ nghe tiếng nói của lẽ phải. Chưa tới 7000 nghe theo những hò hét điên cuồng. Nguyên con số cũng cho thấy thất vọng về tuổi trẻ là một sai lầm. Tuổi trẻ là niềm hi vọng lớn lao!!!
25. Một quyết định quan trọng cho thời khóa biểu.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” - Charles E. Miller).
Những quyết định hằng ngày là một phần của đời sống: như mặc đồ thế nào, ăn cái gì và khi nào thì đi ngủ. Với những vấn đề này, những quyết định của chúng ta thì thường thay đổi nhưng có một số quyết định mà bản tính của chúng kéo dài mãi đến đời đời. Những chọn lựa căn bản mà chúng ta đã làm bằng chính ý chí tự do của chúng ta, một thí dụ tuyệt hảo cho vấn đề này đó là quyết định kết hôn. Hôn nhân là một Giao Ước vĩnh viễn, một quan hệ tình yêu và trung thành giữa một người nam và một người nữ, để họ trở nên một.
Thiên Chúa đã mời gọi dân của Người trong Cựu Ước trở thành bạn tình của Người, bằng một Giao Ước mang hình thức của hôn nhân thiêng liêng. Giosuê là một người lãnh đạo của dân Thiên Chúa sau cái chết của Môisê, đã hiểu được tầm quan trọng của Giao Ước này. Ông đã thách thức dân chúng: “Nếu các ngươi không hài lòng phục vụ Chúa thì hãy quyết định trong ngày hôm nay, các người sẽ phục vụ ai, còn tôi và người nhà của tôi sẽ phục vụ Thiên Chúa” Giosuê đã làm một quyết định với chính mình.
Những thế kỷ sau, Chúa Giêsu đã đối đầu với những kẻ đã nghe người rao giảng. Người thách thức họ làm một quyết định về chính Người. Ngài đã tuyên bố một giáo lý mà họ có thể hiểu một cách rõ ràng: “Bánh mà Ta sẽ ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống. Những ai đã ăn Thịt của Ta và uống Máu Ta sẽ được sống đời đời và Ta sẽ cho nó sống lại ngày sau hết”. Họ hiểu điều Chúa Giêsu nói nhưng họ đã chối bỏ: “Những lời này nghe chói tai quá, ai mà nghe cho được”.
Họ đã hiểu một cách chính xác những gì mà Chúa Giêsu đòi hỏi. Khi họ từ bỏ và quay lưng với Ngài để bỏ đi, Ngài đã để cho họ đi. Đó là một ngày quyết định. Không thể tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu mà cùng lúc đó lại chối bỏ lời hứa của Ngài về bí tích Thánh Thể. Tiếp đó, Chúa Giêsu đã thách thức những người thân cận nhất của Ngài với nhóm 12: “Các ngươi có muốn rời bỏ Ta luôn không?” Phêrô đã tuyên xưng lòng trung thành mà lời đó đã được lặp lại qua muôn thế hệ bởi những người nam và những người nữ sống theo đức tin: “Lạy Chúa, bỏ Ngài con biết theo ai? Chỉ có Ngài mới có Lời ban sự sống đời đời. Chúng con tin rằng Người là Con Thiên Chúa, Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô thì không hề bị cưỡng bách, ngài đã nhận được ân sủng mà ân sủng đó không giống như là một đề nghị kết hôn. Ân sủng này Ngài được tự do đáp trả. Ngài đã làm một quyết định nối kết thân mật chính Ngài với Đức Kitô, mặc dù sau đó ngài đã bị sa ngã, nhưng ngài luôn luôn trung thành đức tin với Đức Kitô. Thật vậy, ngài nói rằng, ngài muốn bước vào mối quan hệ yêu thương và vĩnh viễn trung thành với Đức Kitô.
Chúng ta có cùng ân sủng, điều đó có nghĩa là chúng ta cũng có cùng thách đố, có cũng những quyết định phải làm. Đức Kitô làm cho đức tin vào Thánh Thể của chúng ta như là một thử thách tuyệt đối của đức tin vào chính Người. Nhận biết Thánh Thể là một bí tích của Giao Ước mới đời đời. Sẵn sàng yêu mến bí tích Thánh Thể và cử hành bí tích này tại trung tâm điểm cuộc sống của chúng ta, là thi hành mối quan hệ yêu thương và vĩnh viễn, làm cho Đức Kitô và chúng ta là hai trở nên một xác thịt.
Vì sao chúng ta tin vào bí tích Thánh Thể? Vì sao chúng ta lại thấy bí tích này một bí tích tuyệt diệu? Vì sao Thánh Lễ là diễn tả cao nhất của sự thờ phượng Công giáo? Bởi vì Đức Kitô là Lời có sự sống đời đời mà chúng ta tin rằng Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
26. Theo Chúa cũng lắm hạng người
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, làm các phép lạ và dân chúng lũ lượt đi theo Ngài. Thế nhưng những kẻ đi theo Ngài là một đám đông ô hợp, đủ hạng người. Tin Mừng cho chúng ta thấy ít là có 4 hạng người đi theo Chúa.
- Hạng người theo Chúa vì tính hiếu kỳ:
Thấy Chúa Giêsu giảng dạy lôi cuốn, giáo lý mới mẻ hấp dẫn, nhất là được chứng kiến một loạt các phép lạ lớn lao phi thường, họ đi theo. Đây là hạng người theo Chúa chỉ vì tính hiếu kỳ của mình: "Dập dìu người đi, tớ cũng đi"; "Thấy hay thì vỗ tay vào". Chính vì thế khi nghe Chúa Giêsu nói những lời chói tai, khó hiểu, họ đã nghi ngờ không biết ông Giêsu này có thật là Đấng Tiên Tri phải đến hay không; hay ông ta chỉ là người hâm hẩm. Thậm chí có lần người nhà đã từng cho rằng Ngài bị mất trí, nên đi tìm đẩ bắt ngài về. Và một khi lòng hiếu kỳ bị thương tổn, họ đã bỏ Chúa mà không một chút luyến tiếc.
- Hạng người theo Chúa vì mục đích kinh tế:
Đây là những người có lối sống thực dụng. Mối quan tâm của họ chỉ là cơm áo gạo tiền và những nhu cầu đời tạm này, một hình thức "đạo gạo" của thập niên 60, 70 tại Việt Nam chúng ta. Đối với họ, Chúa Giêsu xuất hiện như một vị cứu tinh với vai trò giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ và nghèo đói của kiếp người, qua những phép lạ: hoá bánh ra nhiều, làm nên những mẻ cá lạ lùng, tay không chữa bệnh, phục sinh kẻ chết... Điều này lý giải tại sao họ đã ùn ùn đi theo Chúa Giêsu tựa đàn kiến phát hiện được con mồi. Đơn giản vì theo Chúa Giêsu, họ sẽ không lo vất vả làm lụng, không sợ hạn hán lụt lội, hay kinh tế khủng hoảng,... Theo Chúa Giêsu, họ sẽ có bảo hiểm y tế cả đời. Dịch cúm H1N1 cũng chẳng ngán, nan y Siđa cũng chẳng tè, v.v... Cứ trực chỉ lương y Giêsu là được chữa lành hết, chẳng phải tốn một đồng nào. Tắt một lời, Giêsu đem lại cho họ qúa nhiều lợi lộc về mặt kinh tế.
Thế nhưng, cũng chính vì "Chúa tể họ thờ là cái bụng", nên khi thấy Đức Giêsu suốt ngày chỉ nói đến một thứ lương thực thiêng liêng trừu tượng, đến một thứ của ăn linh hồn đâu đâu, họ đành phải ngậm ngùi giã từ Ngài. Giã từ Ngài để trở về với "án phạt của tổ tông xưa": đổ mồ hôi sôi nước mắt hầu có của nuôi thân. Lơ tơ mơ, vợ con ở nhà chết đói như chơi!
- Hạng người theo Chúa vì động cơ chính trị:
Danh vọng, quyền lực trần thế là điểm nhắm của những người này khi men theo dấu chân của Đức Giêsu. Bởi đó, khi thấy Đức Gêsu ban đầu xuất hiện như một Mêsia trần thế, làm nhiều điều hiển hách phi thường, họ tưởng Ngài sẽ làm một cuộc đại cách mạng lật đổ thế lực Rôma ngoại bang, đem lại hưng thịnh cho đất nước. Dù chưa dám nói ra, nhưng trong lòng họ vẫn nuôi hy vọng một ngày nào đó họ sẽ được đổi đời, sẽ thoát khỏi cái kiếp làm "phó thường dân" dài dài, nhờ vào cái ô dù to tướng của ông Giêsu này. Nói cách khác, đi theo Chúa Giêsu, chắc chắn sẽ kiếm được một chổ đứng, một địa vị nào đó để lên hương với đời và lên mặt với người.
Tuy nhiên, khi nghe Chúa Giêsu chỉ thao thao diễn giải về một thứ đạo lí phục vụ hi sinh, hiến thân quên mình..., họ cảm thấy thất vọng và đành rút lui trong trật tự.
- Hạng người theo Chúa vì xác tín rằng Chúa mới có Lời ban sự sống đời đời:
Tiêu biểu cho hạng người này là Nhóm Mười Hai. Dẫu rằng ban đầu, động cơ đi theo Chúa cũng còn rất trần tục: họ muốn kiếm "chút cháo" cho gia đình và "chút công danh sự nghiệp" cho bản thân... Nhưng khi được Chúa Giêsu thanh tẩy, gạn lọc, họ đã dần xác tín vào Ngài và đã đón nhận mạc khải của Ngài với trọn cả tâm hồn. Họ đã nhận ra Lời của Chúa Giêsu có khả năng mang lại sự sống đời đời và họ cũng tin nhận nguồn gốc thần linh của Chúa Giêsu, qua vị đại diện là Phêrô: "Bỏ Thầy con biết theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Chính Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa." Và từ niềm xác tín đó, các ông đã chân thành tín thác đi theo Chúa trọn đời dù có phải chịu nhiều thử thách gian truân trong cuộc đời. Tất nhiên vòng nguyệt quế mà Chúa Giêsu hứa ban cho người chiến thắng đã thuộc về họ. Sự sống đời đời chính là phần thưởng lớn lao mà họ đã giành được nhờ Đấng đã ban sức mạnh cho họ.
Phần tôi thì sao? Tôi có được niềm xác tín như các tông đồ là "Bỏ Thầy con biết theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời" hay không?
Thực tế, nhiều người đã tự nguyện bỏ Chúa, bỏ ngày Chúa Nhật để đi theo tiếng gọi của tình ái, tiếng gọi của tiền tài, tiếng gọi của đủ thứ thú vui hưởng thụ... Hậu quả là một khi bỏ Chúa thì đời họ sẽ bơ vơ như cánh chim trong khung trời lộng gió. Một khi bỏ Chúa thì đời họ sẽ như chiếc thuyền dật dờ trên biển cả mêng mông. Một khi bỏ Chúa thì tương lai đời họ sẽ trở nên mịt mờ vô định. Và một khi bỏ Chúa thì đời họ sẽ như một cuộc hành trình cô đơn buồn bã.
Chớ gì trong mọi hoàn cảnh, chúng ta luôn chọn Chúa, chọn Chúa làm gia nghiệp đời mình. Để cuộc đời mình dẫu vẫn là một cuộc hành trình dài, vẫn là cánh chim trong khung trời lộng gió, vẫn như chiếc thuyền giữa biển cả mêng mông; nhưng trong cuộc hành trình đó, đã có Đức Giêsu Kitô đồng hành, cánh chim biết hướng bay, con thuyền có người lèo lái và cuộc đời chúng ta chắc chắn sẽ về tới bến bờ bình an hạnh phúc.
27. Lời ban sự sống.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Chẳng nên ngạc nhiên nếu có lúc đức tin gặp khủng hoảng.
Cả lịch sử Cựu Ước đong đưa giữa tin và không tin.
Khi Đức Giêsu đến, người ta phải đứng trước một lựa chọn: tin hay không tin vào Lời Ngài, vào con người Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một kinh nghiệm về khủng hoảng đức tin nơi chính các môn đệ. Kinh nghiệm ấy thật gần gũi với con người hôm nay.
Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?
Đó là phản ứng của các môn đệ ngày xưa khi nghe Thầy Giêsu vén mở căn tính của Thầy. Thầy khẳng định mình từ trời mà xuống (Ga 6,38), và Thầy sẽ trở lại nơi Thầy đã ở trước kia (c.62), sau khi hiến mình chịu chết cho nhân loại (c.51) và nuôi nhân loại bằng chính máu thịt mình (c.53).
Hôm nay chúng ta vẫn có thể thấy chúng chướng tai. Mầu nhiệm Nhập thể, mầu nhiệm Tử nạn của Con Thiên Chúa, bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm Chúa về trời: đó vẫn là và mãi mãi là những mầu nhiệm khôn dò.
Phải yêu mến mới hiểu được, mới chấp nhận được.
Hôm nay vẫn có câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng, vì chướng tai, chướng cả với suy nghĩ và tình cảm của ta. Lời Chúa đòi tôi đi xa hơn và bắt tôi điều chỉnh lại mối tương quan đã có với Chúa.
Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Ngài nữa. Họ đã đi với Ngài một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng cuộc phiêu lưu này.
Trở nên môn đệ hay trở nên một Kitô hữu không phải là một bảo đảm chắc chắn mình sẽ trung tín mãi mãi với Đức Kitô.
Trở nên môn đệ là bước vào cuộc phiêu lưu, là khám phá ra một Đức Kitô luôn luôn mới, là để Ngài từ từ đưa ta đi sâu vào mầu nhiệm hơn.
Cuộc phiêu lưu nào cũng có chút rủi ro, cũng đòi chút liều lĩnh, vì đây là cuộc phiêu lưu của tình yêu, của lòng tin.
Đã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại cũng có kẻ phản bội. Để khỏi bỏ cuộc, cần bỏ mình...
Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?
Đại diện Nhóm Mười Hai, Phêrô bày tỏ thái độ ở lại. Không phải vì ông và các bạn hiểu được lời Thầy Giêsu, nhưng vì họ tin vào con người của Thầy, tin Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng đã cho dân ăn no nê, Đấng đã đi trên biển. Lòng tin này khiến họ chấp nhận cả những lời chướng tai.
Lời chướng tai là lời đem lại sự sống đời đời.
Nhiều bạn trẻ hôm nay cô đơn, nhưng không biết đến với ai. Hãy cùng nhau đến với và ở lại bên Thầy Giêsu, Ngài sẽ không làm chúng ta thất vọng.
Gợi Ý Chia Sẻ
"Giới trẻ hôm nay khó tin vào Thiên Chúa, vào Đức Kitô, vào tương lai tươi sáng, vào tình bạn bền lâu, vào tình yêu chung thủy..." Bạn nghĩ gì về nhận xét này? Nhận xét này có đúng cho giới trẻ ở Việt Nam không?
Ở một số nước phương Tây, đang rộ lên cả ngàn giáo phái. Người trẻ bị mê hoặc đến độ cuồng tín bởi các vị tự xưng là giáo chủ. Bạn nghĩ gì về hiện tượng này? Đâu là nguyên nhân và cách giải quyết?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa. Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa. Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái. Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
28. Hành trình đức tin – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đức tin là một con đường: con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một con đường dài. Vì ta sẽ phải đi suốt cuộc đời mới hết. Đường đức tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ và tiếng chim hót véo von. Đó là những khi niềm tin dâng đầy. Ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ Chúa, được Chúa an ủi, mọi sự diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải trải qua những quãng đường gian nan đầy chông gai sỏi đá. Ta gặp khó khăn thử thách. Ta gặp đau khổ thất bại. Ta không tìm đâu ra lối thoát. Ta như chìm trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh sáng nào soi đường dẫn lối. Đó là khi niềm tin bị thử thách, bị nghiêng ngả chao đảo. Ta cảm thấy mệt mỏi chán chường. Ta muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác. Ta bị cám dỗ tìm con đường dễ dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn.
Đó là trường hợp của những người Do Thái và một số môn đệ hôm nay.
Khi Đức Giêsu hoá bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi mừng vui. Họ tin tuyệt đối rằng Người chính là Đấng Cứu Thế đến cứu dân tộc Do Thái. Niềm tin của họ mạnh mẽ đến nỗi khi Đức Giêsu trốn đi, họ vẫn đuổi theo sát nút với ý định tôn Người lên làm vua cai trị họ.
Thế mà hôm nay, khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”, đám đông đã bỏ Chúa. Một số môn đệ cũng bỏ Chúa mà đi. Đức tin bồng bột tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước nay đã tan tành như mây khói. Sự gắn bó tưởng chừng như không gì chia cắt nổi bỗng trở nên nhạt nhẽo lạnh lùng. Đức tin gặp thử thách và họ đã không đủ mạnh tin để vượt qua thử thách. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín. Người không vì thế mà nói những lời nhẹ nhàng hơn. Đức tin phải trải qua thử thách. Lửa thử vàng, gian nan thử lòng trung tín. Chỉ có những người bạn trung thành qua những khó khăn mới là những người bạn đích thực. Chỉ có niềm tin kiên vững bất chấp mọi thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa.
Giữa cơn khủng hoảng ấy, thánh Phêrô đã đại diện nhóm 12 tuyên xưng niềm tin sắt đá vào Đức Kitô. Dù chưa hiểu những điều Đức Giêsu nói, nhưng các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào Người. Thế mới gọi là tin. Vì chưa thấy nên mới cần tin. Đã thấy rõ, đã biết rõ thì đâu cần tin nữa. Tuy nhiên niềm tin không phải là cái gì vô lý. Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều và sau khi chứng kiến Người đi trên mặt nuớc, các ông hoàn toàn có cơ sở để đặt niềm tin nơi Người. Đó là hai khía cạnh trái ngược của niềm tin. Tin là một ngọn đèn soi cho ta bước đi trong đêm tối. Ngọn đèn chỉ sáng đủ cho ta bước đi từng bước nhỏ trong niềm tin. Nhưng màn đêm vẫn tăm tối đủ cho ta nghi ngại. Chính vì thế mà niềm tin mới có giá trị và cần thiết.
Lời tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có giá trị trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng. Nhưng vẫn tin tưởng gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách đó mới thật sự là niềm tin chân chính.
Hành trình đức tin của chúng ta chắc chắn sẽ không khác hành trình đức tin của các Tông đồ. Có những thời gian thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt. Khi ấy Lời Chúa là những lời êm ái ngọt ngào làm phấn chấn lòng ta. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng. Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa.
Nhưng rồi tới những ngày u ám tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy Lời Chúa làm cho cuộc đời ta mất bình an. Lời Chúa gõ vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta. Lời Chúa gõ vào sức khoẻ ta. Lời Chúa gõ vào gia sản ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Tin Mừng hôm nay.
Trong những giờ phút gặp gian nan thử thách như thế, ta hãy nhớ đên những lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên xưng trong đau đớn thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Sự trung tín vượt qua được những cơn khủng hoảng mới minh chứng một tình yêu chân thực.
Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh dạn thưa với Chúa như thánh Phêrô: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời”. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đã có khi nào bạn cảm thấy niềm tin chao đảo, lung lay? Bạn đã làm gì để vượt qua những giờ phút khó khăn đó?
2- Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Bạn có xác tín điều đó không?
3- Sau khi những khó khăn qua đi, bạn nhìn thấy tất cả đều là ơn Chúa. Bạn có kinh nghiệm đó không?
29. Não trạng chúng ta thế nào?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Đoạn kết diễn từ của Chúa về Bánh ban sự sống dẫn ta tới đỉnh cuộc khủng hoảng, mà từ đó, sự Thương khó Đức Kitô sau này sẽ diễn ra. Chúa đã phán ra tất cả những lời buộc chúng ta phải chọn lựa, hoặc tin vào Người hoặc từ chối theo Người. Đoạn Phúc âm rất phong phú này đưa ta đến hai suy tư (trong các suy tư khác):
1) Tiếng xầm xì của một số môn đệ, sự vấp phạm, sự từ chối không tin của họ, được giải thích ở đây qua lý do cách thức họ hiểu Lời Chúa Giêsu. Dầu là họ từ chối không tin hay là đối với một số người ‘giờ’ chưa đến, họ cũng là những kẻ không hiểu được Lời Chúa trong Thánh Linh. Họ không vượt quá lên được một sự hiểu biết vật chất và xác thịt về các Lời đó. Tại sao? Tại vì lòng họ chưa ở trong tình trạng sẵn sàng đón nhận. Trí óc họ đóng cửa lại trước những gì mới lạ. Họ tự giam mình trong thế giới các sự việc ‘có thể’ đối với họ. Điều mà Chúa Giêsu nói đối với họ là ‘không có thể được’, nên họ gạt bỏ. Điều bất hạnh cho họ nằm ở trong một câu hỏi: có gì là ‘không thể được’ đối với Thiên Chúa? Ở đây, họ tỏ ra thiển cận, tự mình xét đoán lấy việc có thể hay không có thể. Họ không có được ý kiến phải tìm hiểu quan điểm người khác, những người thật đơn sơ thôi, song tức khắc đã nhận ra lối thoát đưa tới miền vô biên của thực tại, thực tại của Thiên Chúa. Nơi họ, chúng ta tìm thấy một trường hợp điển hình của óc tự mãn ngoan cố, hẹp hòi, xuất phát từ chối không muốn biết đến ‘bên kia’ của chân trời thấy được.
Các Tông đồ may mắn có thứ phản ứng đã cứu thoát họ. Được ân sủng bên trong của Thánh Linh hỗ trợ, họ khắc phục mọi khó khăn về hiểu biết bằng đức tin trung kiên của họ đối với Chúa Giêsu, bởi lẽ Chúa Giêsu là ‘Đấng Thánh của Thiên Chúa’.
2) Thái độ của phần đông các môn đệ đã bỏ Chúa, gợi lên cho chúng ta một vấn đề. Người ta đã nói rất nhiều đến não trạng ‘giảm thiểu’ về việc cắt nghĩa Thánh kinh hay kinh Tin Kính của Giáo hội. Nhất là sự hiện diện của Đức Kitô trong Thánh Thể lại là đối tượng của nhiều suy diễn đưa tới sự từ chối không nhận sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu.
Trong các loại suy diễn ấy, người ta gặp lại đúng cái não trạng của các môn đệ đã bỏ Chúa, vì họ cho rằng những điều Chúa nói là không thể nào quan niệm được. Não trạng ấy khổ sở vì sự bất lục không ra khỏi được những vùng của những cái gọi là có thể đối với con người, để tiến vào những vùng cao trọng hơn của những cái gọi là có thể đối với Thiên Chúa. Do đó, có những nỗ lực hăng say để ‘giảm thiểu’ sự hiện diện của Đức Kitô trong phép Thánh Thể thành một thứ gì mù mờ bao bọc bằng uy tín của các đại danh từ triết học.
Phần chúng ta, chúng ta thử ở lại bình tĩnh và cương quyết trong đức tin của chúng ta. Điều cần thiết là chúng ta phải biết tìm cách soi sáng đức tin ấy và phát biểu nó ra bằng thứ ngôn ngữ hiện đại. Nhưng sự thể là cuối cùng, chúng ta phải đi tới cho chấp nhận giáo huấn rất cương nghị của Giáo Hội và chúng ta chỉ có thể thực hiện điều này nếu chúng ta đón nhận giáo huấn ấy ‘trong Thánh Linh’, ở trình độ mà quan niệm nhân sinh cho là ‘không thể được’...
30. Trung thành theo Chúa.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cha Maurice Zundel đã kể một câu chuyện: Trong căn phòng chỉ còn lại hai người: linh mục phụ trách tu viện và viên sĩ quan Xô Viết. Viên sĩ quan nói: Hiện giờ chỉ có hai chúng ta. Ông và tôi, không một ai chứng kiến. Vậy ông hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả. Hãy nói cho tôi biết là ông không tin vào tất cả những chuyện về Chúa, Mẹ, trong tôn giáo mà ông vẫn tuyên xưng phải không?
Linh mục đáp: Có, tôi tin chứ!
Viên sĩ quan buông súng xuống, ôm chầm lấy người linh mục. Ông reo lên: Quả thật, đây là điều tôi trông đợi. Đây là người tìm kiếm. Vâng, thưa cha, bây giờ thì tôi cũng thế: Tôi tin Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Có lẽ vị linh mục trong tu viện đó đã từng xác định sự chọn lựa đi theo Chúa của mình, nên cha mới có được một phản ứng dứt khoát, kiên trung, điềm nhiên đến như thế. Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta xác định lại sự chọn lựa của chúng ta.
Bài đọc 1 đã cho ta thấy, bốn mươi năm về trước, dân Do Thái đã cam kết chọn Thiên Chúa trong Giao Ước tại núi Sinai. Nhưng hôm nay họ đã đặt chân và Đất Hứa, nhưng năm tháng rong ruổi trong sa mạc đã qua, những ngày tháng đói khát thiếu thốn đã chấm dứt, và từ nay họ bắt đầu cuộc sống định cư, đất đai phì nhiêu, cuộc sống thoải mái. Trước hoàn cảnh mới này, niềm tin của họ có còn mạnh mẽ sốt sắng như xưa hay đã sớm bỏ quên Chúa để chạy theo các thần địa phương. Ông Giôsê, mà cả toàn dân đã nói lên sự chọn lựa dứt khoát: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác”.
Khi Chúa Giêsu làm phép lạ bánh hoá nhiều, dân chúng theo Chúa rất đông. Nhưng từ phép lạ ấy, Chúa dẫn họ đến lương thực hằng sống: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời”. Nhưng họ cho rằng “lời này chói tai quá, ai mà nghe được”. Nên từ lúc đó, có nhiều người rút lui không còn theo Chúa nữa. Bấy giờ Chúa đặt thẳng vấn đề với nhóm Mười Hai: “Cả anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Nhưng Phêrô đã đại diện các Tông Đồ xác định sự chọn lựa của mình: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh”.
Thưa anh chị em,
Sống trong một thế giới đổi thay không ngừng, con người dễ bị lôi kéo vào thái độ thay lòng đổi dạ. Ngày nay con người gặp nhiều thứ khủng hoảng, trong đó khủng hoảng về lòng trung thành là một vấn đề quan trọng. Các hợp đồng kinh tế bị vi phạm, giao ước hôn nhân bị đổ vỡ, tình bạn bị phản bội. Ngay cả các Kitô hữu nhiều lúc cũng bị cám dỗ bỏ Chúa hoặc không sống đúng ơn gọi của mình, nhất là khi đứng trước một biến cố hay một hoàn cảnh; một thử thách hay một cám dỗ; một nỗi buồn hay một niềm vui… Xã hội Việt Nam hôm nay đổi thay từng ngày, và sự đổi thay nhanh chóng ấy đang tác động mạnh trên đời sống đức tin của các Kitô hữu. Ảnh hưởng tích cực có, mà tiêu cực cũng nhiều. Khá nhiều Kitô hữu trước kia là những người đạo đức, nhưng nay không còn đứng vững trước sức tấn công của nền kinh tế thị trường, của tiền bạc, lạc thú, công việc kinh doanh. Có những người đang từ nghèo thành giàu mà quên Chúa. Và ngược lại, một số khác đang từ giàu thành nghèo cũng bỏ Chúa. Nhiều người không còn muốn bước theo Chúa vì không thể chấp nhận được những nỗi ô nhục của thập giá trong đời mình. Cũng như những người không còn muốn trung thành với giáo huấn của Hội Thánh vì “lời này chói tai quá, ai mà nghe cho nổi?” Người môn đệ Chúa Kitô cần xác định lại để trung thành bước theo Chúa.
Từ lòng trung thành với Chúa sẽ dẫn đưa con người đến lòng trung thành với nhau, nhất là trong đời sống gia đình. Đời sống gia đình hôm nay của đang gặp khủng hoảng. Người ta cam kết thề hứa trung thành suốt đời, nhưng chỉ đi với nhau một đoạn đường ngắn để rồi sau đó chia tay nhau. Thánh Phaolô hôm nay mời gọi các bậc vợ chồng ngước nhìn lên mầu nhiệm Chúa Kitô yêu thương Hội Thánh để trung thành trong tình yêu hôn nhân.
Anh chị em thân mến,
Chúa muốn chúng ta trung thành và chúng ta cũng muốn trung thành. Nhưng trung thành bước theo Chúa không phải là điều dễ dàng. Quả vậy, có những lúc ta cảm thấy mình quá yếu đuối, tầm thường, quá bé nhỏ mỏng manh trước sức tấn công của thử thách, của cám dỗ, của tiện nghi vật chất, tiền bạc, thú vui sắc dục, danh vọng, quyền lực…. Chỉ có ơn Chúa mới có thể giúp ta trung thành đi theo Chúa: “Thần Khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì… không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơi ấy cho”. Thánh Phêrô đã nhìn lên Chúa, để tiếp tục chọn lựa đi theo Chúa: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh” Quả thực, Thánh Phêrô đã cảm nhiệm được Lời Chúa là ánh sáng, là niềm vui, là sự sống và Ngài đã an tâm tín nhiệm vào Chúa. Cũng thế, ở đại hội Sikem, dân Do Thái kiên quyết chọn Chúa vì đã nhận biết những việc kỳ diều Chúa đã làm khi giải phóng họ khỏi nô lệ Ai Cập và đưa về Đất Hứa.
Mỗi người chúng ta hôm nay phải đích thân nói lên lời cam kết trong ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi hôn nhân hay ơn gọi dâng hiến. Chúng ta muốn chọn lựa một cách dứt khoát và vĩnh viễn, dù hôm nay ta chưa biết hết được những gì sẽ đến trong ngày mai. Sự chọn lựa ấy đòi ta tín trung. Và để tín trung trong ơn gọi, ta cần bắt đầu lại mỗi ngày, chỗi dậy mỗi ngày để “trung thành với tình yêu ban đầu” (Kh 2,4).
Chúa Giêsu Thánh Thể tự hiến trên bàn thờ và ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế chính là bằng chứng của tình yêu trung thành. Chúa là nguồn sự sống luôn luôn tươi mới và là nguồn động lực để ta mãi mãi trung thành đi theo Chúa.
31. Hãy làm điều bạn có thể – Gm. Arthur Tone.
John là một người thanh niên, chàng lần lần rời xa Giáo Hội. Chàng không đi lễ nữa, không chịu các bí tích. Trong thế chiến thứ hai, khi chàng đăng ký nhập ngũ, sự lo âu của mẹ chàng tăng thêm: Nếu chàng bị chết thì sao? Linh hồn chàng sẽ ra sao? Khi chàng chuẩn bị lên đường. Mẹ chàng nói với chàng: “John ơi, mẹ muốn con làm cho mẹ một việc”. John hỏi: “Cái gì đó, mẹ?”.
“Mẹ muốn con đọc ít nhất mỗi ngày 1 lần kinh Kính Mừng. Hãy đọc, bất kể con bận hay con mệt tới mức nào”. Một chút do dự, John đã hứa.
Trải qua năm, tháng. Những bức thơ của John thưa dần. Một ngày kia một bức thơ của cha tuyên úy cho hay John bị thương nặng và chàng đã xin chịu các phép bí tích. May mắn, John bình phục. Trong bức thơ đầu về nhà, chàng viết: “Mẹ ơi, cám ơn mẹ đã bảo con làm lời hứa ấy. Con đã giữ. Mỗi lần có dịp con đi lễ và rước lễ”.
Mỗi vị linh mục đều đã nghe những câu chuyện như thế. Nó làm tôi nghĩ ngay: Dẫu một linh hồn trôi dạt xa Chúa bao xa. Nếu họ giữ một liên hệ nào đó với Chúa dù chỉ một kinh Kính Mừng một ngày, có hy vọng và có cơ may linh hồn ấy sẽ dần tìm đường trở về với Chúa.
Như rất nhiều người Công giáo ngày nay, John đã bắt chước những người môn đệ trong Tin Mừng hôm nay: Họ không đến với Chúa nữa. Những môn đệ ấy từ chối tin rằng Đức Kitô có thể lấy thịt sống của riêng Ngài cho họ ăn, Máu Ngài cho họ uống. Dẫu rằng họ đã thấy với 5 cái bánh, Đức Giêsu đã làm cho 5.000 người ăn no và họ đã thấy Người đi trên mặt nước.
Hầu hết những lý do người Công giáo xa lìa Giáo Hội có liên quan tới điều này. Thí dụ: “Thánh Lễ không liên hệ đến tôi”. Họ muốn nói Thánh Lễ không cho họ một rung động thể lý hay xúc cảm. Họ làm gì thay vào đó? Không làm gì cả. Kinh nghiệm cho thấy những người như vậy thường không đọc lấy một kinh, điều đó không lạ. Họ phải nói điều các Tông đồ đã nói với Chúa Giêsu: “Chúng con biết theo ai?”. Điều này áp dụng đặc biệt cho người Công giáo kết hôn ngoài Giáo Hội, và họ không thể lãnh các bí tích. Hầu hết mọi nơi, họ chẳng làm gì cả.
Quan điểm của tôi là người ta phải làm cái gì họ có thể làm được, điều này đem lại sự nâng đỡ và ơn của Chúa.
Đây là mấy đề nghị: Hãy đọc kinh “Lạy Cha”, kinh “Kính Mừng”. Hãy cầu nguyện bằng ngôn ngữ của riêng bạn như: “Lạy Chúa, xin giúp con làm mọi cái con có thể, để làm vui lòng Chúa”.
Bạn để ý cho con em của bạn để chỉ dạy về tôn giáo. Chính bạn phải dạy chúng. Hãy tham gia công việc của họ đạo. Bố thí cho người nghèo, người túng thiếu. Hãy giữ luật Chúa, những luật bạn có thể giữ được.
Rất thường xảy ra là một người Công giáo, khi họ nghĩ họ không thể giữ một giới răn nào đó của Chúa, họ sẽ gác bỏ tất cả mọi giới răn của Chúa qua một bên.
Bạn hãy làm những gì bạn có thể làm được, nhất là cố gắng tham dự Thánh Lễ mỗi ngày Chúa Nhật. Nếu bạn không thể rước lễ, bạn hãy rước lễ thiêng liêng. Nghĩa là bạn hãy thưa với Chúa Giêsu rằng bạn muốn rước Người vào trái tim bạn. Hãy thưa với Người rằng bạn hối hận vì tội lỗi của bạn, bạn ước ao Người đến với bạn một cách thiêng liêng. Bạn đón tiếp Người.
John trong câu chuyện chỉ làm một việc rất nhỏ là đọc mỗi ngày một kinh Kính Mừng. Chúa đã thưởng anh. Bạn hãy làm những gì bạn có thể làm được. Chúa sẽ thưởng bạn.
Xin Chúa chúc lành bạn.
32. Lời Chúa là thần trí và là sự sống – Noel Quesson.
Một người vô tín ngưỡng dừng chân ở một nông trại bên Hòa Lan, anh lớn giọng với ông chủ trại:
- Chẳng bao giờ tôi tin điều gì tôi không hiểu.
Ông chủ nông trại nói:
- Điều này khó đấy. Này nhé, thí dụ trong trại này, cậu có thấy đống cỏ không? Ngựa của tôi ăn cỏ, lớn lên lông nó mọc khắp mình. Con cừu ăn cỏ, thế là nó có len. Con ngỗng của tôi ăn cỏ, cả mình nó đầy lông vũ. Cậu có hiểu tại sao không nào?
Thực vậy, cho dù thông minh uyên bác đến mấy, người ta cũng không thể hiểu rõ toàn bộ những hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên. Một số kiến thức khoa học, chúng ta cũng chỉ nghe nói lại chứ đâu phải ta đích thân thí nghiệm và biết cặn kẽ chính xác. Vậy mà chúng ta vẫn tin. Chúng ta tin có vi trùng, tin trái đất tròn, tin nước gồm hai thành phần khí hợp lại…
Từ lãnh vực tự nhiên bước sang siêu nhiên cũng vậy. Không ai hiểu được các mầu nhiệm trong đạo. Chúng ta tin là vì Chúa dạy, vì Chúa thấu suốt mọi sự và cũng vì yêu thương ta, Chúa đã tỏ bày cho chúng ta. Đó là căn bản của mọi niềm tin.
Mầu nhiệm Thánh Thể là mầu nhiệm mà Chúa Giêsu đích thân dạy dỗ. Thánh Gioan đã nghe và tường thuật cho chúng ta khá đầy đủ. Nhưng chính Gioan cũng như đa số người nghe Chúa, không ai hiểu hết được. Họ đã chia ra làm hai phe. Một phe tỏ ra khó chịu, cho rằng những lời này làm chói tai, họ đã bỏ đi. Một phe thiểu số còn lại cũng không hiểu gì mấy, nhưng vẫn tin vào Chúa vì tin Ngài là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa hằng sống. Chúa biết trình độ hiểu biết hữu hạn của con người, kể cả những nhà hiền triết Đông Tây, nên Chúa đòi hỏi phải có lòng tin, tin vào Lời Ngài.
Thầy nhiều người bỏ đi, Chúa buồn lắm, nhưng Chúa không rút lại lời đã khẳng định. Chúa cũng không níu kéo họ, vì lòng tin phải được biểu lộ hoàn toàn tự do. Niềm tin đòi hỏi ta vượt trên ánh sáng khoa học. Không phải chỉ học hỏi về lòng tin mà là dấn thân, là thực hành trong cầu nguyện, trong việc đón nhận lời mạc khải từ Thiên Chúa. Lắng nghe Lời Chúa và làm theo Lời Chúa dạy, từ đó sẽ có lòng tin, một lòng tin chính Chúa ban tặng cho. Lòng tin vào Thánh Thể, có thể nói được là lòng tin trung tâm của đời sống Kitô hữu đến nỗi người ta thường gọi người giữ đạo là những người có đi lễ. Lòng tin vào Thánh Thể gồm hai khía cạnh rõ rệt: thứ nhất là ăn bánh sự sống; thứ hai là chia sẻ sự sống Đức Kitô, Ngài là tình yêu hiện thực.
Lòng tin như thế, nhất thiết phải xây dựng trên Lời Chúa, phải tiếp nhận Lời Chúa với lòng mến yêu tôn kính. Vì “Lời Chúa là Thần Trí và là Sự Sống”. Đó là một tâm tình cần phải có khi đọc Tin Mừng. Chúa Giêsu thường được kể là một vĩ nhân, một học giả, một ngôn sứ, một nhà giải phóng… Nhưng còn hơn thế nữa, Chúa là Thiên Chúa yêu thương.
Lạy Chúa, bỏ Ngài, chúng con biết theo ai? Vì Ngài có những lời hằng sống. Chúng con tin nhận Ngài là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Xin thêm lòng tin cho chúng con và giúp chúng con chia sẻ tình thương Chúa cho mọi người trong cuộc sống bác ái hôm nay.
33. Ai đi? Ai ở?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
* Biết theo ai bây giờ?
Trong phần cuối diễn từ về bánh trường sinh, Ðức Giêsu vẫn tiếp tục khẳng định: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời" (Ga 6,54; x. 6,55-58). Câu nói này không chỉ làm cho người Do-thái bực mình, mà ngay cả các môn đệ cũng cảm thấy bối rối. Các ông sửng sốt vì lời tuyên bố của Ðức Giêsu. Các ông cũng lấy làm chướng tai, và các ông cũng phản đối. Một số người không muốn nghe những lời như thế nữa, họ rút lui.
Tại sao thế?
Ðiều này cũng dễ hiểu. Từ lâu họ vẫn hy vọng sẽ được chứng kiến những giây phút vinh quang của Thầy lẫn trò, nhưng Ðức Giêsu đã bỏ qua cơ hội ấy. Ðang khi dân chúng vui mừng vì được ăn bánh no nê và muốn tôn Người làm vua, Ðức Giêsu đã chẳng lợi dụng lòng nhiệt thành ấy để đăng quang: Người đã giải tán dân chúng và cả các môn đệ nữa.
Lúc này, câu nói của Ðức Giêsu tạo nên phản ứng không chỉ nơi dân chúng mà cả các môn đệ nữa. Các ông có cảm tưởng như gió đã xoay chiều, và các ông cảm thấy chán nản.
Về phần Ðức Giêsu, Người vẫn kiên định với những điều Người vừa tuyên bố. Người hỏi những người thân đang vây quanh: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?"
Ðức Giêsu là ai mà vẫn cương quyết không lùi bước ngay cả khi nhìn thấy sự cô đơn hoàn toàn, tức là thất bại?
Trước câu hỏi của Ðức Giêsu, ông Phê-rô đã thay mặt cho Nhóm Mười Hai để trả lời: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?" Câu trả lời này chẳng làm sáng tỏ thêm mầu nhiệm sâu xa vừa được tỏ bày. Có thể coi câu trả lời ấy diễn tả rõ thái độ bối rối. Nếu như giữa Ðức Giêsu và các tông đồ không có những tương giao vốn được kiến tạo dần dần, thử hỏi rằng câu trả lời ấy còn cho thấy tình trạng bi đát như thế nào?
Tuy vậy, câu trả lời của ông Phê-rô cũng xuất phát từ lòng khiêm tốn, nên do đó còn là tiếng nói của lòng tin. Ðây không phải là lòng tin mù quáng vì dựa trên xác tín những lời của Ðức Giêsu phải có một ý nghĩa nào đó, mặc dù người nghe chưa hiểu. Thế nhưng lòng tin này phải lần lần bước trong bóng tối, phải trải qua những thử thách mới đạt tới mức hoàn hảo.
Như thế, ngày nay cũng như ngày xưa, con người luôn có những lý do để nghi ngờ, để đặt thành vấn đề. Ðối với những ai Người muốn lôi kéo về phía mình, Thiên Chúa không bao giờ làm cho con đường trở thành dễ dàng hơn. Ai muốn viện cớ những khó khăn để trốn tránh, để che giấu chính mình, người ấy làm một điều vô ích. Nhưng liệu mỗi người, với những kinh nghiệm đã trải qua, có thể nói lên như ông Phê-rô: "Chúng con biết theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời."
* Sự chọn lựa gay gắt
"Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa."
Lạ lùng quá! Tại sao Ðức Giêsu lại nói với đám đông những lời lẽ như thế? Hôm qua, họ là năm ngàn người, họ sẵn sàng làm thành một đạo binh đi theo Người. Còn Người lại nói cho họ rằng thân xác Người là của ăn và máu Người là của uống. Chẳng lẽ Người coi họ là những kẻ ăn thịt người?
"Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?"
Thái độ của Ðức Giêsu lạ quá! Người đến để loan báo lời ban sự sống, và Người nói lên như một lời mời. Vậy mà những kẻ thân cận với Người lại không hiểu được lời ấy, và những ai nghĩ rằng Người là Ðấng Mê-si-a, là Ðấng cứu độ Ít-ra-en lại lấy làm chướng tai.
Hôm trước, Người đã làm cho bánh hoá ra nhiều. Một hành động rất lạ, đám đông chưa bao giờ được chứng kiến. Tất cả đám đông được ăn no. Họ không rời bỏ Người, cứ bám riết lấy Người. Người đi đâu, họ đi theo đó. Nếu ngày nào Người cũng làm như thế thì tuyệt biết mấy. Phải rồi, Người là Vua.
Thế nhưng, vương quyền của Ðức Ki-tô khác hẳn điều họ vẫn mong ước: "Thật tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi ... vì các ông được ăn bánh no nê." Người có ý nói: bánh tôi đem đến là điều gì khác chứ không phải thứ bánh các ông ăn hôm qua. Lời Người nói làm một số người tức giận, số khác lại thất vọng. Tuy vậy, lời của Người buộc họ phải đáp trả, phải chọn lựa, hoặc là "tôi không tin và tôi bỏ đi", hay là "tôi tin và tôi ở lại!"
Một số môn đệ đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai ở lại. Các ông ở lại, nhưng phải chăng các ông đã hiểu được Ðức Giêsu và lời Người nói? Có thể các ông không hiểu, nhưng ít là các ông cảm thấy vấn đề Ðức Ki-tô nêu lên thật thiết yếu. Sau này, vấn đề trên sẽ được đặt ra lại theo một hình thức khác: "Phần anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Khi đó ông Phê-rô đã nhân danh những người khác thưa lại: "Thầy là Ðấng Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống."
Ðức Giêsu vẫn tiếp tục nêu lên câu hỏi ấy với mỗi người: Anh em có ở lại không? Anh em sẽ đi đâu? Anh em chọn bánh đem lại sự sống hay chọn bánh lúa mì?
Chọn lựa này chính là cao điểm trong cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và loài người. Họ đã đọc Tin Mừng, nhưng liệu họ có sẵn sàng mở rộng tâm hồn để Thần Khí làm cho sống? Họ biết rằng con đường phải đi qua thập giá, phải xuyên qua việc trao tặng cuộc sống của chính mình trong suốt mọi ngày. Họ cũng biết rằng con đường ấy bao hàm nhiều niềm vui đồng thời cũng đòi buộc nhiều từ bỏ. Nhưng họ có dám bước đi trên con đường đó?
Thật không gì rõ ràng hơn! Quả là một thử thách lớn chứ không phải chỉ là chấp nhận ở đầu môi mà không liều mạng. Câu hỏi Ðức Ki-tô nêu lên thật cấp thiết. Câu hỏi ấy đã làm cho một số môn đệ rút lui. Câu trả lời của mỗi người cũng rất quyết liệt: nó đưa cả cuộc sống của mỗi người vào đó.
* Vẫn có những khoảng tối
Nói cho cùng, Ðức Giêsu quả là một vị Thầy làm cho các môn đệ phải lúng túng. Từ trước đến giờ, Người đặt tất cả lý lẽ trên từ ngữ "thịt". Phải ăn thịt Người mới được sống đời đời. Lúc này, Người lại kết luận: "Chính tinh thần mới làm cho sống, xác không ích lợi gì." Rồi cả xác thịt lẫn máu huyết cũng không thể đưa đến lời tuyên xưng: "Thầy là Ðấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,16).
Như thế, phải đợi đến khi Ðức Giêsu phục sinh, thịt và máu mới đạt được ý nghĩa chung cuộc, mới được đón nhận trong lòng tin dứt khoát, "khi anh em thấy Con Người ngự trên nơi Người vẫn ngự trước kia ..."
Vì vậy, chúng ta phải đối diện với mầu nhiệm lớn lao này. Tất cả đều tùy thuộc vào lòng tin của chúng ta, vào thái độ của chúng ta đối với Tin Mừng cũng như vào cuộc chiến đấu của chúng ta chống lại những thói quen, những xơ cứng trước bí tích thịt và máu Ðức Giêsu. Nếu không ý thức, cuộc gặp gỡ của chúng ta với Ðức Giêsu sẽ rất nhạt nhẽo, vô vị, và chúng ta sẽ cảm thấy ngại ngùng trước những lời tuyên bố của Ðức Giêsu.
Chấp nhận làm môn đệ Ðức Giêsu là chấp nhận đi trong lòng tin. Chấp nhận Mình và Máu Ðức Giêsu là chấp nhận đi theo Ðức Kitô, trong khi vẫn được bổ dưỡng nhờ bánh Người ban tặng, và chỉ nương tựa vào một mình Người. Mỗi người Ki-tô hữu vẫn có những khoảng tối, nhưng đó lại là một tiếng kêu hướng lên Chúa Cha, là một lần xác tín vào Ðức Giêsu, Ðấng có lời "đem lại sự sống đời đời."
34. Thách đố lớn nhất
(Suy niệm của Như Hạ, OP)
Trên bước đường theo Chúa, các môn đệ gặp rất nhiều thách đố từ ngoại cảnh hay nội tâm. Có bao giờ họ có thể tưởng tượng chính Chúa lại trở thành thách đố lớn nhất? Thế mà hôm nay, khi lên tiếng đòi hỏi một niềm tin lớn lao về quyền năng Thiên Chúa, chính bản thân Ðức Giêsu đã trở thành một vấn đề khó vượt nhất, vấn đề có tính cách quyết định cho cả định mệnh con người, vì liên quan tới chính sự sống nhân loại.
NGUỒN SỐNG
Trước bao nhiêu đe dọa mạng sống, con người cảm thấy bất lực. Những sản phẩm tử thần phơi bày nhan nhản khắp nơi. Trươc tình cảnh ấy, Ðức Giêsu xuất hiện như một nguồn sống: "Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời." (Ga 6:54a) Lời đề nghị vô cùng lạ lùng, chưa từng nghe thấy bao giờ. "Nghe vậy nhiều môn đệ của Người liền nói: 'Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" (Ga 6:60) Người trở thành đối tượng của lời xầm xì. Kết quả nhiều môn đệ đã theo Người lâu năm, cũng đành giũ áo ra đi (x. Ga 6:66). Tưởng việc ra đi đó sẽ khiến Người đổi thái độ. Nhưng không, Người vẫn không hề nao núng, dù chỉ còn ít người ở lại: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" (Ga 6:67) Thật là căng thẳng! Thật là một thách đố lớn!
Trước sự im lặng đến ngộp thở, ông Phêrô lên tiếng: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Ðấng Thánh của Thiên Chúa." (Ga 6: 68-69) Chính Chúa Cha đã mạc khải tất cả sự thật về Chúa Con. Thật vậy, "Không ai đến được với Thầy, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho." (Ga 6:65) Bởi đó, niềm tin là một ân sủng vô cùng cao quí. Ðến với Ðức Giêsu tưởng như một hành vi đơn giản. Thực tế phải có một sức mạnh nội tại phát xuất từ Thiên Chúa, chúng ta mới có thể tin vào Lời Chúa và sự hiện diện đích thực của Chúa nơi con người Ðức Giêsu và nhất là trong bí tích Thánh Thể.
Ðức Giêsu hiện diện thật trong bí tích Thánh Thể. Nhưng sự hiện diện đó vẫn khác với sự hiện diện trong thân xác tại thế của Ðức Giêsu. Nói khác, "thịt và máu" chỉ hiện diện một cách bí tích trong "bánh hằng sống". Ðây là một sự hiện diện sâu xa và đích thực. Bên ngoài chỉ là một tấm bánh hay một chén rượu. Nhưng dấu chỉ bên ngoài đó nói lên sự thật lớn lao bên trong. Ðức Giêsu trở thành của ăn thức uống nuôi sống muôn dân khỏi cơn đói khát thiêng liêng. Bởi đó lấy sự hiểu biết bình thường để đo thực tại Thiên Chúa, con người sẽ bất lực. Trái lại phải có sức mạnh Thần khí mới có thể hiểu nổi Lời Chúa. Thực vậy, "Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống." (Ga 6:63) Bản chất Lời Chúa là thần khí mà lại lấy con mắt xác thịt để nhìn, thật là không cân xứng. Xác thịt chỉ dẫn đến xác thịt, hoàn toàn bất lực trước những đòi hỏi của Thần khí. "Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống." (2 Cr 3:6)
Những người còn ở lại với Chúa vì đã chấp nhận Lời Chúa và tin vào sự hiện diện đích thực của Người trong "bánh hằng sống". Họ đã hiểu Lời Chúa dưới lăng kính Thần khí. "Ai không có Thần Khí của Ðức Kitô, thì không thuộc về Ðức Kitô." (Rm 8:9) Ðó là lý do tại sao "nhiều môn đệ rút lui" (Ga 6:66) và nhiều người "lấy làm chướng" và "xầm xì về vấn đề ấy." (Ga 6:61) Thần Khí sẽ làm im bặt mọi tiếng xầm xì và nghi hoặc, vì Người chính là sức mạnh của Chúa Cha kéo ta lại gần Ðức Kitô. Thần Khí không pha chút vẩn đục mới thấy hết được chiều sâu Lời Chúa. Xác thịt không có độ trong suốt đó để thấy tất cả sự thật. Thách đố chính là cuộc đối đầu giữa Thần Khí và xác thịt. Người môn đệ Ðức Giêsu luôn bị đặt trước sự lựa chọn.
Ngày xưa, dân Do thái cũng đứng trước lựa chọn lớn lao đó. Ông Giôsuê đã lên tiếng trước toàn dân: "Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Ðức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ . . . Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa." (Gs 24:15) Giữa bao nhiêu cám dỗ, dân Do thái đã có lúc nghiêng ngả. Ðã đến lúc họ phải dứt khoát. Ông Giôsuê "đã cho họ một cơ hội để canh tân giao ước Sinai (Xh 19-24)" (Faley 1994:557) Họ đã nhớ lại tất cả sự nghiệp hiển hách Chúa đã làm trên đường về Ðất Hứa. Tất cả đều lặp lại lời tuyên xưng đức tin như ông Giôsuê: "Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi." (Gs 24:18b) Tất cả lịch sử Do thái đều xây trên lời tuyên tín này. Như vậy ông Giôsuê đã chinh phục được toàn dân về cho Chúa. Nhưng suốt lịch sử không phải lúc nào niềm tin cũng trong sáng như vậy. Cuộc thách đố không bao giờ chỉ đến một lần. Trái lại, cuộc phấn đấu dai dẳng suốt bốn mươi năm trên sa mạc là cuộc phấn đấu với niềm tin.
NHỮNG SỰ KIỆN TRÁI NGƯỢC
Các môn đệ Ðức Giêsu còn phải phấn đấu cam go hơn nữa khi Ðức Giêsu đòi hỏi phải tin "ai ăn thịt tôi và uống máu tôi . . ." (Ga 6:54) Ngày xưa, sau khi Người công bố về bánh hằng sống, "nhiều môn đệ rút lui." (Ga 6:66) Ðức Giêsu đã dám đánh đổi cả sự nghiệp lấy niềm tin đó. Giả sử lúc đó Chúa cũng chiều theo thị hiếu quần chúng, thử hỏi hôm nay Người còn độ hấp dẫn không?
Chính vì niềm xác tín lớn lao đó, ngày nay Giáo hội vẫn còn là điểm thu hút giới trẻ về với Ðức Giêsu. Bằng chứng gần 3 triệu bạn trẻ khắp thế giới đã tề tựu về Roma trong ngày Quốc Tế Giới Trẻ từ ngày 15 đến 20 tháng 8 năm 2000 để lắng nghe Lời Chúa và tìm kiếm Ðức Giêsu. Một biến cố lớn lao vượt ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Các bạn trẻ đã tuốn về Roma với niềm phấn khởi hân hoan. Họ đã đi bộ hằng chục cây số để vác tượng thánh giá theo gót Ðức Giêsu. Họ đã quì gối giữa phố xá để cùng đọc kinh Truyền tin lúc 12 giờ trưa giữa những tiếng chuông nhịp nhàng nơi kinh thành ánh sáng đó. Ðể chuẩn bị cho ngày Ðại Hội, hằng chục ngàn bạn trẻ đã phải làm việc mệt nhọc hằng tháng hay hằng năm trước. Các bạn trẻ hoàn toàn thoải mái vì được ăn uống ngủ nghỉ hoàn toàn miễn phí. Ðại hội đã chuẩn bị 9 triệu bữa ăn cho các bạn trẻ. Có đủ dịch vụ y tế và vệ sinh đáp ứng nhu cầu của các bạn. Các nhà dân chúng ở Roma đã mở rộng cửa đón tiếp các bạn. Cả Ðức Giáo Hoàng cũng đón tiếp 15 bạn trẻ vào ở chung với Người. Nhiều bạn trẻ thuộc thế giới thứ ba đã được bao vé máy bay về Roma. Các ân nhân đã đóng góp 3.5 triệu đô la giúp đỡ các bạn trẻ. Thật là một ngày vui lớn có tầm mức quốc tế. Niềm vui có thể đo lường được bằng những màn hội diễn văn nghệ, nhảy múa, ca hát. Tất cả đều tìm thấy nhau trong niềm vui hòa hợp với nhau và nhất là với Thiên Chúa. Có khoảng 2.000 linh mục sẵn sàng đáp ứng nhu cầu hòa giải nơi 300 tòa cáo giải ngay tại quảng trường Colossê.
Cũng trên chính quảng trường đó, trước đó hơn một tháng, nghĩa là ngày 8 tháng 7 năm 2000, một cảnh tượng trái ngược đã diễn ra. Cũng một Ðại Hội Giới Trẻ. Cũng vào đầu thế kỷ 21. Những chuẩn bị cũng rất công phu. Ước vọng cũng rất lớn. Người ta hi vọng một triệu người trẻ đồng tính luyến ái sẽ qui tụ về Roma để biểu tình phản đối Tòa Thánh Vatican. Kết quả sau những ngày kêu gọi ầm ĩ và chuẩn bị rầm rộ, chỉ non 7000 bạn trẻ tham dự. Còn đâu hứa hẹn tự do đáp ứng mọi nhu cầu ăn chơi của tuổi trẻ bằng thế giới những người đồng tính luyến ái? Các bạn trẻ không nghe thấy tiếng kêu gào của những người tổ chức hay sao? Trong khi đó, một tiếng kêu gọi của một cụ già 80 tuổi đã được các bạn trẻ đón nhận nồng nhiệt. Gần 3 triệu bạn trẻ nghe tiếng nói của lẽ phải. Chưa tới 7000 nghe theo những hò hét điên cuồng. Nguyên con số cũng cho thấy thất vọng về tuổi trẻ là một sai lầm. Tuổi trẻ là niềm hi vọng lớn lao!!!
35. Lúc này và ở đây
(Suy niệm của Giuse Nguyễn Văn Hội)
Kính thưa cộng đoàn,
Mỗi lần được tham dự thánh lễ cùng với cộng đoàn, đặc biệt trong những ngày lễ trọng như Giáng Sinh, Phục Sinh, tôi thầm cám ơn Chúa. Cám ơn Chúa vì Người vẫn hằng thúc giục bao tâm hồn đến cùng Người. Có thể nói, tại Việt Nam ta, số người đến với Chúa vẫn luôn đông đảo. Trong khi tại các nước phương tây như Pháp, Canada, những nước được xếp vào hàng cha mẹ hay ông bà của chúng ta vế số tuổi nhận biết đạo thánh Chúa, thì các nhà Dòng cũng như nhà thờ chẳng còn được mấy người lui tới, có chăng một số rất nhỏ các cụ già.
Nhưng tôi cũng phải cám ơn Chúa vì sự lựa chọn của chính ông bà, anh chị em. Vì có ai trong chúng ta khi chọn đến đây đã không phải hy sinh hay từ bỏ điều gì? Chắc hẳn là không. Từ những hy sinh nhỏ bé tưởng như không đáng kể, không là gì như giấc ngủ, xem phim, đi chơi,… đến những hy sinh như công việc, nghề nghiệp, tình cảm. Bởi theo tôi được biết, rất nhiều người đã sẵn sàng chọn công việc tầm thường hơn, lương tháng ít hơn, để có được ngày chủ nhật tương đối rảnh rỗi mà đến vơi Chúa; có nhiều bạn trẻ cũng đã mạnh mẽ dám khước từ lời mời gọi của tình yêu khi người bạn của mình không chấp nhận việc tin nhận Chúa.
Kính thưa cộng đoàn, dường như mỗi người, trên mỗi bước đường đời, đều được đặt trước một sự chọn lựa, một ngã ba đường. Có khi chọn lựa ấy là nhẹ nhàng, đơn giản. Có khi chọn lựa ấy là phức tạp, khó quyết. Có khi chọn lựa ấy đem lại hạnh phúc, nhưng có khi chọn lựa ấy đem lại khốn cùng. Có khi chọn lựa ấy như lẽ đương nhiên của một giai đoạn, nhưng có khi chọn lựa ấy lại nghiêm trọng liên quan đến sinh mệnh của đời người. Người ta phải luôn chọn lựa và đôi khi nếu không chọn lựa và quyết định, người ta chỉ có một con đường chết.
Nói đến đây tôi nhớ câu chuyện trong kho tàng chuyện cười dân gian Việt Nam. Chuyện kể rằng:
Tại một khúc sông nọ, quang cảnh thơ mộng, hai bên bờ sông có hai ngôi chùa, các sư sãi trong chùa có cuộc sống khá sung túc. Cũng tại khúc sông ấy, có một con chó, nó không thuộc chùa bên này cũng chẳng thuộc chùa bên kia. Bởi mỗi khi nghe tiếng chuông nhà cơm bên chùa nào vang lên nó lại bơi sang chùa đó để đánh chén no nê. Rồi đến ngày kia, có lẽ là ngày rằm, người ta trẩy đến chùa rất đông, mang theo đủ thứ lễ cúng. Chó ta bắt đầu chảy nước miếng. Giờ cơm hôm đó như dài hơn. Cuối cùng thì tiêng chuông cũng vang lên. Con chó vội nhảy xuống sông và bơi sang chùa có tiếng chuông. Nhưng khi nó vừa bơi đến giữa sông thì tiếng chuông chùa bên này cũng đã điểm. Con chó phân vân: Thôi ta quay lại, vì có lẽ cơm bên chùa này nhiều món ăn ngon hơn. Và nó quyết định bơi trở lại. Bơi được một đoạn, nó lại tự nhủ: biết đâu chùa bên kia có nhiều món ăn ngon hơn thì sao. Và nó lại quay đầu bơi sang chùa bên kia. Nhưng cũng bơi được một đoạn, nó lại tự hỏi: nếu chùa bên này có nhiều món ăn lạ hơn thì tiếc lắm. Và nó lại bơi trở lại. Cứ thế, con chó bơi trở đi trở lại không biết bao lần, cho đến khi không còn bơi được nữa vì kiệt sức, và nó bị dòng nước cuốn đi.
Hai bài đọc hôm nay đều hướng chúng ta đến hay đúng hơn đặt chúng ta trước một chọn lựa, một quyết định. Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe ông Giô-suê nói với toàn dân và ông đưa ra cho họ những chọn lựa: Các ngươi không bằng lòng chọn Gia-vê thì hôm nay cứ chọn lấy ai mà thờ, hoặc là những thần tổ tiên các ngươi đã phụng thờ bên kia sông cả; hoặc là các thần của dân Amori… Phần ta và cả nhà ta, chúng ta sẽ phụng thờ Gia-vê…
Còn trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu hỏi nhóm mười hai: Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? Ông Phê-rô đã nhanh nhẹn đại diện cho cả nhóm thưa: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai, Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời".
Sự chọn lựa và quyết định luôn là vấn đề hiện tại, lúc này và ở đây. Tuy nhiên, sự chọn lựa lại thường được nương vào quá khứ, lấy sự kiện quá khứ làm nền cho chọn lựa hiện tại. Dân Ít-ra-en xưa, trước câu hỏi của Giô-suê, đã trả lời: Quái gở thay nếu chúng tôi từ bỏ Gia-vê để phụng thờ những thần khác. Và họ đưa ra những lý do: Vì Gia-vê đã đem chúng tôi cùng cha ông lên khỏi đất Ai Cập; Vì Gia-vê đã gìn giữ chúng tôi trên đường đi, vì đã đuổi đằng trước chúng tôi hết mọi dân, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.
Còn Phê-rô, tại sao ông lại có thể đáp lại Chúa cách tức thời như thế? Như ta đã nghe trong các chúa nhật vừa qua, Phê-rô và các môn đệ đặc biệt là nhóm 12, đã luôn đi sát Chúa, cùng ăn cùng uống với Chúa, đã chứng kiến phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều, Chúa đi trên mặt biển, cùng những lời giảng dạy đầy uy quyền của Chúa. Vậy cứ theo lẽ thường, ông có đủ cơ sở để tiếp tục đi theo Ðức Kitô. Ông đã có một chọn lựa và quyết định dựa vào quá khứ.
Tuy nhiên ta có thể đặt câu hỏi tại sao nhiều môn đệ đã cùng đi với người từ lúc đầu, cũng chứng kiến tất cả những việc Chúa làm mà sao họ lại bỏ Chúa mà đi, sao họ không có cùng chọn lựa như nhóm 12? Một sự thật đau đớn như lời thánh Gio-an ghi lại:Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người.
Tuần trước ta đã nghe người Do Thái tranh luận sôi nổi với nhau "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được", khi họ nghe Ðức Giêsu nói: Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống. Người Do Thái tranh luận sôi nổi, còn các môn đệ hôm nay có phản ứng liền: Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi. Quả thật, có lẽ ta cũng phải thừa nhận rằng lời của Ðức Giêsu quá "sống sượng", quá chướng tai, bởi từ trước đến nay có ai dám nói với môn đệ và người ta rằng: hãy ăn thịt và uống máu tôi để được sống. Tuy rằng trong truyền thuyết hay trong thực tế cũng có những trường hợp lấy thịt hay máu của mình mà cho người thân ăn hay uống, như trong chuyện Thoại Khanh Châu Tuấn: Thoại Khanh vì hiếu thảo với mẹ chồng, nên khi mẹ muốn ăn thịt mà không kiếm đâu ra, nàng đã cắt thịt của mình mà nấu cho mẹ ăn. Hay trường hợp của một người mẹ, tôi không nhớ rõ đã đọc trên số báo nào, khi bị kẹt trong một căn nhà cùng đứa con nhỏ do động đất, sau mấy ngày không còn thức ăn nước uống, đứa bé khóc vì khát, vì đói, người mẹ vì thương con đã lấy mảnh chai cắt tay mình cho con mút, cũng may nhân viên cứu hộ đã tìm thấy kịp thời và cứu sống được cả hai mẹ con.
Nhưng đó là những trường hợp hy hữu. Ðàng này, Ðức Giêsu cứ thẳng thắn nói đi nói lại rằng hãy ăn thịt và uống máu Ngài, Ngài còn như đe doạ rằng nếu không sẽ không có sự sống, trong khi Ngài vẫn sống sờ sờ ra đấy. Những kinh nghiệm quá khứ đã không đủ mạnh, không đủ căn cứ để cho nhiều môn đệ có một sự chọn lựa và quyết định trước một sự thật quá phũ phàng, một sự thật mà các ông không thể chấp nhận được. Nhiều môn đệ đã bỏ đi, chỉ còn lại nhóm 12, và Ðức Giêsu đã buộc các ông phải có một thái độ dứt khoát trong chọn lựa.
Ta hãy trở lại câu hỏi trên kia: tại sao nhiều môn đệ cũng đã từng chứng kiến bao việc Chúa làm mà lại không có cùng quyết định như nhóm 12? Nhóm 12 đã có chọn lựa và quyết định dựa vào những sự kiện đã qua, dựa vào những lời nói và những việc Ðức Giêsu làm. Nhưng ta cũng có thể nói rằng kinh nghiệm của các ông có lẽ không đủ mạnh khiến các ông có một chọn lựa và quyết định dứt khoát như thế, khi vừa nghe những lời sống sượng và chói tai. Ðiều quan trọng hơn và có tính quyết định trong chọn lựa của các ông, đó là việc các ông nhận ra Ðức Giêsu là Ðấng thánh của Thiên Chúa, đó là điều do chính Ðức Giêsu nói ra: Thầy đã bảo anh em, không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho. Như thế việc chọn lựa và quyết định đi theo Ðức Giêsu là một ơn ban nhưng không, một ơn ban không dựa vào hiện tại, quá khứ hay tương lai.
Nhưng phải chăng tất cả các môn đệ không được cùng ban ơn ấy? Nếu có thì nhiều môn đệ đã không bỏ Chúa mà đi! Mỗi người đều được ban ơn ấy, vì chắc chắn Thiên Chúa không thiên vị khi ban ơn có sức cứu độ người ta. Nhưng nhiều môn đệ đã bỏ đi, và ta có thể nói, họ bỏ đi vì họ muốn thế, họ tự quyết như thế. Họ dùng tự do mà quyết định. Chắc chắn Chúa rất đau lòng khi phải chứng kiến bao môn đệ đã từng theo Người bấy lâu nay bỏ Người mà đi. Nhưng Người vẫn tôn trọng quyết định và chọn lựa của họ. Bởi chỉ trong tự do, con người mới có thể đi vào trong mối tương quan tình yêu với Người. Ta không dám lên án hay phán xét những môn đệ bỏ Chúa mà đi, nhưng có lẽ họ đã có một quyết định, một chọn lựa dẫn đến cõi chết.
Mong sao mỗi người chúng ta luôn có được những quyết định sáng suốt trên mỗi bước đường, và trong từng giây phút. Mong sao quyết định đi theo Ðức Kitô sẽ luôn là điểm qui chiếu của mọi quyết định và chọn lựa của ta trong đời sống. Và mong sao khi đứng trước một vấn đề gì, dù vượt quá tầm trí hiểu và có sức lôi cuốn ta bỏ Chúa thì lời thánh Phê-rô hôm nay lại vang lên trong mỗi người chúng ta: "Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai, Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Amen.
36. Bàn tay Chúa dẫn dắt ta trên mọi nẻo đường
(Suy niệm của GB. Nguyễn Tuấn Dũng, OP)
Hành trình của mỗi con người luôn chất chứa những điều kỳ diệu. Từ khi sinh ra cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, con người luôn hướng đến điều hạnh phúc. Ngay khi lọt lòng mẹ, em bé đã được yêu thương bồng ẵm, chăm sóc của người mẹ, người cha. Và bé được cưu mang trong vòng tay ấm êm của gia đình. Lớn lên em đến với trường lớp, nơi ấy có thầy cô, bạn bè quan tâm, nâng đỡ. Khi trưởng thành, người thanh niên, thanh nữ ấy hội nhập với xã hội, với con người, với môi trường sống vươn tới những ước mơ của cuộc đời, cho đến lúc trở về với cát bụi.
Nếu chỉ dừng lại cuộc sống ở đời này thì điều đó thật vô nghĩa. Con người cũng như cỏ cây, những loài thảo mộc, những loài động vật vô tri khác… Niềm tin của người Ki-tô hữu trả lời cho thế giới về một niềm hy vọng, đó là niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương con người, ban cho con người những hồng ân đặc biệt hơn các loại thụ tạo khác. Và như vậy, người Ki-tô hữu tin tưởng, phó thác cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Cả cuộc hành trình nơi dương thế này họ luôn được bàn tay Chúa dẫn dắt, đưa đường.
Tin mừng theo Thánh Gioan chúng ta vừa nghe đưa chúng ta vào câu chuyện giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Các môn đệ hãnh diện và an tâm về Thầy của mình. Các ông đã dám bỏ mọi sự để theo Người – Một Con Người không có nơi gối đầu. Các ông đi theo Chúa để lắng nghe, để được cùng sống với Người. Các ông nở mày nở mặt với mọi người khi vị Thầy của mình làm nhiều dấu lạ: chữa lành người bệnh tật, đau yếu, người què đi được, người phong hủi được sạch, người mù được thấy, người chết sống lại… Các môn đệ theo chân Chúa Giêsu cũng với nhiều mục đích, trong đó hẳn là các ông đi theo Chúa để tìm được hạnh phúc, trước hết ở đời này. Chúa Giêsu quả là vui khi có nhiều môn đệ theo Người, chưa kể đến nhóm Mười Hai mà Người đã chọn gọi.
Nhưng không phải lúc nào niềm vui ấy cũng được tràn trề. Các môn đệ theo Chúa không hẳn lúc nào cũng tìm thấy được sự bình an, niềm vui nơi vị Thầy của mình. Bằng chứng rằng khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6, 54a) đã có nhiều môn đệ không chịu nổi khi nghe những lời nói ấy của Đức Giêsu. Đối với họ, lời nói đó thật chướng tai, không thể tưởng tượng nổi.
Các môn đệ đã cảm thấy bị sốc khi đón nhận một lời giảng dạy thật mới mẻ, vượt ra ngoài những suy nghĩ đơn giản của họ. Họ không thể chấp nhận! Có lẽ mỗi người chúng ta nhiều khi vẫn cảm thấy ngỡ ngàng, chưa thật sự vững tin khi đứng trước Mầu Nhiệm Thánh Thể. Có thể cũng như các môn để xưa kia, chúng ta sẽ rút lui, thiếu niềm tin vào Chúa. Nhiều lúc trên bước đường trần gian, ta cảm thấy lạc lõng, gặp thử thách gian truân ta ngã lòng, không còn theo Chúa nữa. Một cơn bạo bệnh; một tai nạn bất ngờ; Hoặc công ăn việc làm không thuận buồm xuôi gió; Có khi gặp lừa đảo, gian dối nơi thương trường… Lúc ấy, dường như ta chẳng thấy bàn tay Chúa đâu cả. Làm sao để ta luôn có được một niềm tin vững mạnh như Thánh Tông đồ Phê-rô: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai?”. Rồi mạnh dạn tuyên xưng: Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới có những lời ban phúc trường sinh. Xin cho chúng ta biết một lòng khiêm tốn, để đón nhận ân sủng Chúa Cha ban cho hầu có thể đến được với Thầy Giêsu Chí Thánh.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin nhìn đến chúng con là những Ki-tô hữu yếu đuối và hèn kém trong đức tin, chưa vững vàng trong đức cậy, và lửa mến còn leo lét. Xin tuôn đổ muôn ơn thiêng dạt dào, thấm đượm tâm hồn, thể xác chúng con, để chúng con có được sức mạnh đích thực của Chúa, dám thưa rằng: Chỉ có Ngài mới đem lại sự sống đời đời – là gia nghiệp chúng con mãi mãi.
Ước gì nơi Lương thực thần lương Chúa mà chúng con rước lấy mỗi ngày, bổ dưỡng linh hồn chúng con. Để nhờ Thần lương trợ lực giúp chúng con kiên vững trên đường trần dù gặp thử thách, gian truân.
Lạy Chúa, xin dẫn chúng con đi theo Đường Chân lý của Ngài. (Tv 24, 5) Amen.
37. Dứt khoát theo Chúa.
Sau khi rao giảng về Bí tích Thánh Thể, dân chúng và ngay cả một số đông môn đệ đã lấy làm chướng tai gai mắt và khó nghe, nên đã lìa bỏ Chúa. Thấy vậy, Chúa bèn quay về với nhóm Mười Hai. Ngài đòi các ông phải có thái độ và lập trường dứt khoát, Ngài hỏi các ông:
- Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?
Và như thế chúng ta đã thấy, Phêrô thay mặt cho tất cả anh em trong nhóm đã thưa lên cùng Chúa:
- Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Hẳn chúng ta còn nhớ, một lần khác, khi thầy trò tới địa hạt xứ Cêsarêa Philipphê, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ:
- Người ta bảo con người là ai?
Các ông đã lượm lặt dư luận đó đây và thưa lên cùng Chúa:
- Người thì bảo là Êlia, người thì bảo là Giêrêmia, người thì bảo là một tiên tri nào đó và kẻ khác lại nói là Gioan tẩy giả.
Có lẽ lúc bấy giờ, Chúa Giêsu đã nhìn các ông và đặt một câu hỏi nòng cốt, đòi các ông phải bày tỏ lập trường:
- Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Và Phêrô cũng thay mặt cho anh em trong nhóm tuyên xưng đức tin:
- Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.
Xuyên qua những lời giảng dạy, Chúa Giêsu bao giờ cũng đòi hỏi nơi những người muốn bước theo Ngài một thái độ dứt khoát, một lập trừờng rõ rệt. Ngài bảo:
- Ai yêu thương cha mẹ, vợ con, tiền bạc nhà cửa hơn Ta, thì không xứng đáng làm môn đệ Ta. Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì nếu yêu chủ này thì sẽ ghét chủ kia, cũng vậy không thể làm tôi vừa Thiên Chúa vừa tiền bạc. Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Sở dĩ như vậy là vì tinh thần của Chúa thì trái với tinh thần của thế gian như lửa với nước, như ánh sáng và bóng tối. Theo Chúa là theo trót cả tâm hồn, chứ không thể trung lập, lửng lơ, đi nước đôi và bắt cá hai tay.
Cựu ước có kể lại một mẩu chuyện như sau: Ngày ấy, Giosuê triệu tập tất cả các chi tộc lại ở Sikem và ông nói với họ:
- Hôm nay các ngươi hãy lựa chọn, một là thờ phượng Đức Giavê, hai là thờ phượng các thần của dân ngoại. Riêng phần tôi và gia đình, chúng tôi nhất quyết chỉ thờ phượng một mình Đức Giavê mà thôi.
Bấy giờ dân chúng trả lời rằng:
- Không hề có chuyện chúng tôi lìa bỏ Đức Giavê mà tôn thờ những thần dân ngoại. Đức Giavê là Thiên Chúa của chúng tôi, chính Ngài đã dẫn chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, đã làm những việc kỳ diệu trước mặt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt những con đường chúng tôi đã đi qua. Chúng tôi chỉ phụng thờ Đức Giavê vì chỉ mình Ngài là Thiên Chúa chúng tôi.
Có lẽ giờ đây Chúa Giêsu cũng nhìn mỗi người chúng ta và muốn chúng ta tỏ bày cái thái độ dứt khoát. Thế nhưng, có lẽ chúng ta đã phải cúi mặt xuống, bởi vì mặc dù mang tiếng là người có đạo, là kẻ đã tin theo Chúa, nhưng cuộc đời chúng ta vẫn còn chồng chất quá nhiều tội lỗi, bản thân chúng ta vẫn thường xuyên nhượng bộ cho những cám dỗ, những khuynh hướng xấu xa. Chúng ta vừa muốn phụng thờ Chúa, vừa muốn phụng thờ ma quỷ. Vừa muốn bước theo Chúa lại vừa muốn phạm tội.
Chúng ta giống như người tân tòng khi được ghìm xuống nước để lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thì ông cứ giơ một bàn tay lên cao. Vị linh mục bèn hỏi tại sao, thì ông trả lời:
- Con muốn tin theo Chúa thật đấy, nhưng lại muốn dành bàn tay này cho tội lỗi, để khi bàn tay này ăn trộm ăn cắp, gây gỗ đánh lộn thì nó không thuộc về Chúa.
Hãy có một thái độ và một lập trường dứt khoát. Hãy dâng hiến cho Chúa trọn vẹn cả tâm hồn lẫn thể xác bởi vì nếu chúng ta nói rằng mình yêu mến Chúa, mà còn giữ lại một xó góc con tim cho tội lỗi, dù là một xó góc nhỏ bé nhất, thì đó là một dấu chỉ chắc chắn nhất chứng tỏ chúng ta chưa hề yêu mến Chúa.
38. Thầy mới có lời ban sự sống đời đời
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Tướng Turenne cố chấp
Trong các tướng lãnh phục vụ Vua Louis XIV của Pháp, có tướng Turenne là can đảm nhất và được mọi người trong triều đình kính nể. Tuy nhiên ông theo phái Calvin. Vua và vị giám mục hùng biện là Bossuet đều khuyên bảo, nhưng ông nhất định không hồi tâm hối cải. Ông còn có nhiều thành kiến chống Giáo hội. Đặc biệt ông chống lại việc Chúa Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Ông cho là không thể tin được, dù ông công nhận niềm tin nầy đẹp và an ủi những người có lòng tin. Ông thường nói:
- Nếu ai làm cho tôi tin vào sự hiện diện gủa Chúa Giêsu trong Thánh thể, thì có phải quỳ xuống đất để tôn thờ, tôi cũng quỳ.
Dầu tướng Turenne cố chấp như thế, Đức Cha Bossuet vẫn kiên trì, khuyên bảo ông về niềm tin này. Với mục đích ấy, hai vị thường gặp nhau trong lâu đài Louvre, nơi triển lãm nghệ thuật. Một trong những lần gặp nhau, một phòng triển lãm bị cháy. Lửa đe dọa tàn phá hết các tác phẩm nghệ thuật. Turenne vội vàng chạy tới điều khiển công việc dập tắt, nhưng mọi cố gắng đều vô ích. Đức Cha thấy sức lửa quá mạnh, và như có sự thúc giục của Chúa, ngài hới hả chạy vào nhà nguyện gần đó, lấy bình thánh đựng Mình Thánh mang đến lâu đài. Ngàu tới ngọn lửa, đọc lời chúc lành. Ngay lập tức, ngọn lửa dịu xuống và rồi tắt hẳn. Xúc động trước phép lạ cả thể, các công nhân chữa lửa đều quỳ xuống hát kinh tạ ơn Chúa. Tướng Turenne cũng quỳ gối thờ lạy Thánh Thể.
Và từ đó đến lúc qua đời, ông vẫn hết lòng tin kính mến yêu Chúa cứu thế hiện diện trong Thánh Thể. (“Những phép lạ Thánh Thể”).
2. Bỏ Thầy, con biết theo ai?
Năm 700, tại tu viện thánh Lougino ở Lanciano nước Ý, có một linh mục tên Basiliô hoài nghi về Chúa Giêsu hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã lám một phép lạ cả thể còn được lưu niệm cho đến nay.
Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt máu Chúa đó còn được lưu giữ trong hào quang quý giá, gọi là hào quang phép lạ Thánh Thể Lancianô.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy một số môn đệ rơi váo cơn khủng hảng đức tin về việc Chúa Giêsu tuyên bố Thịt Máu Người là của ăn của uống ban sự sống muôn đời, các môn đệ đó phản ứng: “Lời nầy chói tai quá, ai mà nghe được … và từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa” (Ga 6:60-66). Họ đã tin Chúa Giêsu và theo Người một thời gian, nhưng họ không thể đi tới cùng!
Dấn than theo Chúa Giêsu là phải chịu thách thức từng ngày. Trở nên tín hửu Kitô không phải được bảo đảm sẽ trung tín đến cùng. Đây là cuộc mạo hiểm: mạo hiểm của tình yêu, mạo hiểm của lòng tin. Đã có những môn đệ không tin được nữa và bỏ đi. Ngay trong nhóm còn ở lại, cũng có kẻ không tin theo được đến cùng.
Tại sao nhóm thứ nhất bỏ đi, còn nhóm thứ hai trung tín đến cùng? Có thể nói: để khỏi bỏ đi, cần phải bỏ mình. Để theo Đức Giêsu, cần phải chú tâm đến Ngài hơn là bận tâm về chính mình. Cần nhìn Ngài hơn là nhìn lại bản thân. Thánh Phêrô đã làm được điều đó khi ông nói “Bỏ thầy, chúng con biết theo ai. Thầy mới có lời ban phúc trường sinh.” Do đó khi đứng trước thử thách là “lời nói chói tai” của Chúa Giêsu, ông vẩn một niềm tin kiên vững, vì ông chỉ chú tâm vào Chúa, “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.”
Trái lại, nhóm thứ nhất bỏ cuộc rút lui, vì họ mãi loay hoay bận tâm với những ý nghĩ về mình “Sao ông nầy lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?” Ngày nay vẫn có những Lời Chúa làm chúng ta choáng váng, vẫn có những thử thách làm đức tin chúng ta chao đảo, vẫn có những cơn cám dỗ làm chúng ta có thể bỏ cuộc rút lui. Hãy đưa mắt nhìn vào Chúa. Hãy sác tín vào Ngài như Thánh Phêrô (Trích “Như Thầy đã yêu”).
3. Chỉ chú tâm vào Chúa Giêsu
Một chiếc tàu đánh cá Liên Xô được đưa vào sửa chữa bên cạnh chiếc tàu tuần dương Hoa Kỳ tại bờ biển New England. Một thủy thủ người Nga tên Simas Kudirka lén lút đến tàu Mỹ xin được tỵ nạn chính trị. Các viên chức Mỹ từ chối. Và người thủy thủ nầy đã bị giao lại cho nhà cầm quyền Xô Viết, và bị cầm tù.
Trong lúc bị thử thách như thế, Kudirka buồn sầu tuyệt vọng, không còn muốn sống nữa. Một tù nhân khác thấy anh chán nản quá như thế thì dạy cho anh những vầng thơ của thi sĩ Ruydyard Kipling, để giúp anh lấy lại tinh thần và can đảm đương đầu với thử thách gian lao, cương quyết làm lại cuộc đời. Trong những vần thơ đó có câu, “Nếu nhìn thấy toàn bộ sự nghiệp đời mình tan vỡ, và con vẫn bình tâm tin tưởng xây dựng lại, thì trái đất và mọi sự trên đó sẽ thuộc về con, và con sẽ là con người đích thực.”
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy rõ điểm trọng yếu trong Tin mừng hôm nay. Có những lúc cuộc sống chúng ta như bị dồn vào chân tường như các môn đệ Chúa Giêsu. Niềm tin của các ông bị thử thách vì Lời Chúa, “Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được sống muôn đời.” Có số trong các ông cho rằng “lời đó chói tai quá, làm sao nghe được,” và họ đã rút lui, không tin theo Chúa nữa. Nhóm còn lại thắng được thử thách, nên trung thàng tin theo Chúa.
Nhờ đâu mà nhóm nầy đã thắng được thử thách? Câu trả lời do thánh Phêrô nói thay cho cả nhóm, “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai. Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh … Chúng con tin và nhận biết chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” Những lời Chúa Giêsu nói không làm cho nhóm nầy chao đảo, vì họ tin tưởng Chúa, dán mắt vào Chúa. Còn nhóm kia thì ngược lại, họ chỉ chú tâm vào vấn đề của họ, thắc mắc của họ, “Sao ông nầy lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?” Thế nên đức tin của họ chao đảo và tất nhiên họ bỏ Chúa dễ dàng.
Trong cuộc sống, chắc chắn có những lúc chúng ta bị thách thức như các môn đệ, và chúng ta bị cám dỗ lìa bỏ Chúa, không tin tưởng Chúa. Những lúc đó, chúng ta đừng lầm lạc như số các môn đệ đã mất niềm tin vì chỉ nghĩ về mình, về những vấn đề của mình. Trái lại, chúng ta hãy nhìn Chúa Giêsu, tin tưởng Người, phó thác vào Người, xác nhận lại lòng tin như thánh Phêrô, “Chúng con tin Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Theo “Sunday homilies”).
4. Theo Chúa là sống nhờ Người
Một vị khổ tu sống rất nhiệm nhặt, hằng ngày ông ra sức chiến đấu chống lại tình dục và mọi thói hư tật xấu. Có thể nói suốt đời ông luôn chống trả các chước cám dỗ của ma quỷ xác thịt thế gian là ba kẻ thù của tín hữu Chúa.
Đến tuổi già, ông phải nhắm mắt lìa đời như mọi người. Cái chết của ông khiến mọi người thương tiếc, nhưng cũng an ủi vì tin chắc rằng ông sẽ được Chúa thưởng. Và một đệ tử của ông không chịu nổi sự ra đi của ông nên cũng ngã bệnh và chết theo ông.
Bên kia thế giới, người đệ tử nầy chứng kiến cảnh tượng rất hài lòng. Anh thấy bên cạnh thầy đáng kính có người đàn bà tuyệt vời. Anh tin thầy mình đã được Chúa thưởng xứng đáng, vì những chay tịnh và việc kiên tâm chống lại các chước cám dỗ lúc còn sống. Anh mon men đến gần thầy chúc mừng:
- Thưa Thầy, thật Chúa là Đấng công minh chính trực. Người đã thưởng công Thầy xứng với công lao Thầy đã lập lúc còn sống ở thế gian.
Thế nhưng anh ngạc nhiên thấy thầy không lộ chút vui mừng nào, mà còn buồn bả thốt lên:
- Đây không phải là thiên đàng. Ta chưa được thưởng. Và người đàn bà nầy cũng bị trầm luân như ta.
Câu chuyện trên đây do nhà tu đức học người Ấn độ là cha Anthony de Mello kể. Ý cha muốn nói sự thánh thiện không hệ ở lối sống khắc khổ bề ngoài. Đạo chúng ta cốt yếu là một Con Người. Con Người đó chính là Chúa Giêsu. Đó là sức sống và là sức sống muôn đời cho những ai tin theo Người.
Chính trong Tin mừng hôm nay, Người đã tuyên bố rõ, “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời … Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và sự sống.” Đối lại với việc giữ đạo hình thức của người Do thái nhất là các biệt phái xưa, Chúa Giêsu đã chỉ dạy cách sống đạo đích thực. Sống đạo đích thực không phải chỉ chu toàn lề luật, nhưng cốt yếu là tin theo Chúa Giêsu. Tin theo Chúa trước hết là sống siêu thoát như Người. Tin theo Chúa là sống phó thác như Người, sẵn sàng đón nhận và thực thi ý Chúa Cha trong từng biến cố của cuộc sống, dù phải trăm chiều gian lao thử thách và cả phải chết đi. Tin theo Chúa cũng có nghĩa là sống bằng sức sống của Người ban, qua Lời Người và Thịt Máu Thánh Người. Cần học hỏi thực hiện Lời Người, cần siêng năng dọn mình rước lấy Thánh Thể Người (theo “Truyện vui suy niệm”).
5. Lời Chúa là ngọn đèn soi bước
Khắp nước Phi Luât Tân, đâu đâu bạn cũng thấy những dòng chữ nói về Chúa, đặc biệt những câu trích nguyên văn Lời Chúa trong Tinh mừng, nhắc nhở mọi người sống và thực hành Lời Chúa trong đời sống hằng ngày. Có thể nhờ đó mà chín mươi phần trăm người Phi Luật Tân đã tin thờ Chúa. Những Lời Chúa khắp nơi đó khích lệ, động viên, nhắc nhở, cảnh tỉnh mọi người can đảm hướng thiện hành thiện trong mọi hoàn cảnh và từng giây phút trong cuộc sống. Lời Chúa là sức mạnh cải biến con người, phát sinh hiệu quả như ngôn sứ Isaia xác quyết:
“Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời, không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn. Lời Ta cũng thế, một khi phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở về với Ta, nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.”
Khắp nước Phi Luât Tân, đâu đâu bạn cũng thấy những dòng chữ nói về Chúa, đặc biệt những câu trích nguyên văn Lời Chúa trong Tinh mừng, nhắc nhở mọi người sống và thực hành Lời Chúa trong đời sống hằng ngày. Có thể nhờ đó mà chin mươi phần trăm người Phi Luật Tân đã tin thờ Chúa. Những Lời Chúa khắp nơi đó khích lệ, động viên, nhắc nhở, cảnh tỉnh mọi người can đảm hướng thiện hành thiện trong mọi hoàn cảnh và từng giây phút trong cuộc sống. Lời Chúa là sức mạnh cải biến con người, phát sinh hiệu quả như ngôn sứ Isaia xác quyết:
“Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời, không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn. Lời Ta cũng thế, một khi phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở về với Ta, nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.”
39. Bánh Thánh Thể.
Ba bài Tin Mừng của ba Chúa nhật trước đã thuật lại bài giảng của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống và cho biết thái độ cũng như phản ứng của dân chúng. Mặc dầu được thấy các sự lạ, được ăn bánh hóa nhiều, nhưng khi nghe Chúa nói Ngài là manna mới, là bánh bởi trời đích thực, Ngài bởi trời xuống, thịt Ngài thật là của ăn, máu Ngài thật là của uống, ai ăn thịt Ngài và uống máu Ngài thì sẽ được sự sống đời đời… họ lẩm bẩm với nhau, xô xát nhau và phản đối Chúa dữ dội, họ đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và cũng chính là ý nghĩa mà Chúa muốn nói, nên chẳng những Chúa không cải chính mà còn giải thích rõ hơn và nhấn mạnh hơn, nên có nhiều người đã bỏ đi không nghe Chúa nói nữa.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại phản ứng của các môn đệ nói chung và của nhóm 12 tông đồ nói riêng, mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giải thích thêm. Trước hết, nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người Do Thái khác: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”, họ lẩm bẩm với nhau như thế. Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải thích thêm cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu xa hơn vào bản thân và sứ mạng của Ngài. Nhưng có nhiều môn đệ đã rút lui không đi theo Chúa nữa. Như vậy, không những dân chúng chán ngán vì những lời Chúa Giêsu tuyên bố với họ, mà cả các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm 12, những người được coi là thân tín nhất của Chúa. Những người này đã có thái độ thế nào hay phản ứng của họ ra sao? Ông Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: Họ không bỏ Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Như vậy, ông Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, tin vào sứ mạng của Ngài, Ngài có những lời đem đến sự sống đời đời.
Như vậy, qua bài giảng về Bánh Hằng Sống, chúng ta thấy đám đông dân chúng vì thấy Chúa không đáp ứng nguyện vọng của họ, nên lẩm bẩm, không tin và bỏ đi. Ngay cả các môn đệ cũng bỏ Ngài, vì không chấp nhận nổi những lời tuyên bố của Ngài, họ cũng thất vọng và bỏ đi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn còn một niềm an ủi, đó là các tông đồ thân tín, vẫn cương quyết đi theo Ngài và tin vào lời Ngài.
Nhìn về chúng ta, đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người phải đích thân chọn lựa. Đành rằng cộng đoàn đức tin nâng đỡ mỗi người sống đức tin, nhưng mỗi người phải đích thân dứt khoát: đứng lại với Chúa không phải chỉ vì thấy người khác còn đứng lại hay vì chưa gặp dịp thuận tiện để tháo lui. Nhưng đứng lại với Chúa vì tin rằng Ngài là Đấng có lời ban sự sống đời đời, không còn ai khác để mình đi theo, tức là đòi hỏi chúng ta phải luôn trung thành với Chúa dù gặp hoàn cảnh nào cũng vậy, chẳng hạn như ông Ma-ranh trong câu chuyện sau:
Thời vua Ga-liên bách hại đạo, trong quân đội Rôma có một sĩ quan tên là Ma-ranh, xuất sắc, lừng danh, bách chiến bách thắng. Ai cũng biết Ma-ranh sắp được thăng đại tướng, chính ông cũng rất hy vọng như thế. Nhưng Ma-ranh là người Công giáo tốt, suốt đời ông chỉ xin ơn trung thành với lời hứa ngày chịu phép Rửa tội. Khi ấy, một trong các đại tướng Rôma chết bất ưng. Hôm sau, vị toàn quyền mời Ma-ranh đến vui vẻ nói: “Tôi vừa được lệnh nhà vua gọi ngài lên chức đại tướng, và tôi được hân hạnh trao quyền tổng chỉ huy cho ngài, nhưng nghe đâu ngài là người Công giáo, mà nhà vua thì không chịu để một người Công giáo nào trong sĩ quan quân đội hoàng gia, vậy xin ngài nói cho biết ngài có phải là người Công giáo không?”. Ma-ranh quả quyết: “Thưa, đúng thế, tôi là người Công giáo”. Viên toàn quyền nghiêm nghị nói: “Tôi cho ngài ba tiếng đồng hồ để nghĩ lại, nếu chối Giêsu thì làm đại tướng, nếu không ngài phải chết”. Ma-ranh ra về, đến gặp vị giám mục và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vị giám mục cầm tay Ma-ranh đưa vào nhà thờ, dẫn lên cung thánh, là chính nơi ngày xưa Ma-ranh đã thề trọn đời trung thành với Chúa Kitô. Rồi vị giám mục rút thanh gươm bên hông của Ma-ranh đặt bên cạnh sách Tin Mừng trên bàn thờ và nói: “Này ông Ma-ranh, dễ giải quyết lắm, phải chọn một trong hai, xin ông nhớ lại ngày rửa tội, rồi tùy ý ông”. Ma-ranh mạnh mẽ cầm sách Tin Mừng nói: “Con thề trung thành với Chúa, con xin trung thành”. Vị giám mục âu yếm nhìn Ma-ranh nói: Con hãy đi bình an, ngày hôm nay sẽ là ngày vinh quang của đời con, ngày hôm nay là ngày con đại thắng”. Và ngày hôm đó, Ma-ranh đã đổ máu vì đức tin Công giáo.
Trong những thế kỷ đầu của Giáo hội, dân ngoại bỡ ngỡ khi thấy người có đạo anh dũng chịu chết vì Chúa. Đâu là lý do của sự can đảm lạ lùng ấy? Thánh Síp-ri-a-nô trả lời: “Chính nhờ Mình Thánh Chúa gìn giữ mà người có đạo mới ra pháp trường một cách anh dũng như vậy”. Đời vua Tự Đức, tổ tiên chúng ta cũng không thua kém các vị tử đạo đầu tiên ở Rôma, nhờ đâu? Nhờ rước Mình thánh Chúa, trong một sắc lệnh cấm đạo của vua Tự Đức có một điều sau: “Không được để cho người ta đem đến cho kẻ có đạo một thứ bánh mầu nhiệm gì đó, vì thứ bánh ấy làm cho họ không biết sợ và vui vẻ chịu chết”.
Trong cuộc sống, có thể chúng ta không phải lựa chọn như ông Ma-ranh hay không bị bách hại như các vị tử đạo, nhưng rất có thể có nhiều lựa chọn khác hay những thử thách khác, đòi hỏi chúng ta phải sống ngay thẳng, công bình, bác ái. Xin Mình Thánh Chúa mà chúng ta rước lấy, tăng thêm sức mạnh để chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách ở đời này, nhất là về phương diện đức tin.
40. Theo Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay cho biết phản ứng của các môn đệ nói chung và của nhóm mười hai nói riêng. Mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giả thích thêm. Suốt cuộc nói chuyện, chúng ta thấy Chúa không ngừng mời gọi người ta đến với Ngài, đón nhận Ngài làm của ăn thức uống. Nhưng không những dân chúng mà nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người Do Thái khác: Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe cho nổi. Họ lẩm bẩm với nhau như thế. Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải thích cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu hơn vào bản thân và sứ mạng của Ngài. Ngài nói Ngài lên nơi Ngài đã ở trước, nghĩa là lên cùng Chúa Cha, vào trong vinh quang của Chúa Cha, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Ngài từ muôn thưở.
Khi nghe Chúa nói như vậy, nhiều môn đệ rút lui, không đi với Chúa nữa. Không những dân chúng chán ngán mà cả đến các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm mười hai tông đồ, những người được coi là thân tín nhất của Chúa. Phản ứng của họ thế nào? Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: họ không bỏ Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Như vậy Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: Ngài là con Thiên Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta đều phải đích thân chọn lựa Chúa. Là Kitô hữu, tức là chấp nhận đi theo Chúa, Đấng không những ban cho chúng ta sự sống đời này, mà còn ban cho chúng ta sự sống đời đời nữa.
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta phải có niềm tin. Chẳng hạn đau bệnh, chúng ta tìm đến thày thuốc, chúng ta đặt niềm tin nơi khả năng và thiện chí của ông ta… Là Kitô hữu, chúng ta không những có niềm tin vào cuộc sống mà còn phải có đức tin nữa. Vậy làm sao có được đức tin? Pascal nói: Muốn có đức tin, bạn phải quì gối xuống và cầu nguyện.
Mẹ Têrêsa cũng nói như thế. Người ta kể lại rằng: lần kia mẹ nói với một phóng viên báo chí: tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin. Người ấy hỏi: tôi phải làm gì để có được đức tin? Mẹ đáp: ông hãy cầu nguyện. Người ấy nói: tôi không thể cầu nguyện. Mẹ bảo: tôi sẽ cầu nguyện cho ông, phần ông, hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh. Một nụ cười có thể đánh động người khác. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống.
Chúng ta nhận được đức tin khi chịu phép rửa tội. Nhưng cũng như mọi thứ tài năng khác nơi con người, đức tin cần phải được nuôi dưỡng. Một tài năng không được nuôi dưỡng sẽ mai một với thời gian. Một đức tin không được vun trồng cũng sẽ chết dần chết mòn. Chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm những việc đạo đức là chúng ta nuôi dưỡng đức tin của mình. Ngoài ra, cả cách sống quảng đại, vị tha và yêu thương cũng là cách nuôi dưỡng đức tin như lời mẹ Têrêsa đã khuyên trên đây: Mỉm cười với mọi người. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống. Một nụ cười còn có giá trị như thế, phương chi là những lời nói, những việc làm còn có giá trị hơn biết bao.
41. Sống Lời Chúa.
Chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Hẳn chúng ta còn nhớ, Chúa Giêsu vào trong hoang địa và bị cám dỗ. Lúc bấy giờ ma quỉ hiện ra và nói với Ngài:
- Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy biến những hòn đá này trở nên bánh mà ăn.
Sở dĩ ma quỉ cám dỗ Ngài như thế là vì nó biết sau 40 ngày đêm ăn chay cầu nguyện, hẳn Ngài phải đói. Thế nhưng, Ngài đã thẳng thắn trả lời ma quỉ:
- Con người ta không phải chỉ sống bởi bánh, mà còn sống bởi những lời từ miệng Thiên Chúa phán ra.
Và qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng đã thấy: Sau phép lạ bánh hóa nhiều nuôi năm ngàn người trong hoang địa, lợi dụng biến cố đó, Chúa Giêsu đã giới thiệu với họ một thứ lương thực thiêng liêng bổ dưỡng cho tâm hồn, đó là Mình Máu Thánh Ngài như lời Ngài đã phán:
- Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời và Ta, ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.
Trước những lời giới thiệu đầy trang trọng ấy, một số các môn đệ đã lấy làm chướng tai, không thể chấp nhận được, và thế là họ đã bỏ Chúa mà đi. Bấy giờ Chúa Giêsu quay lại vànói với nhóm mười hai:
- Còn các con, các con không bỏ Thầy mà đi hay sao?
Phêrô bèn thay mặt cho nhóm nhỏ ấy mà tuyên xưng:
- Lạy Thầy, bỏ Thầy, chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Tuân giữ và thực thi lời Chúa truyền dạy là điều Ngài luôn luôn nhấn mạnh và đòi buộc mỗi người chúng ta. Thực vậy, có lần Ngài đã phán:
- Không phải những kẻ nói rằng Lạy Chúa tôi mà được vào nước trời, nhưng là những người tuân giữ những điều Ta truyền dạy.
Trước khi về trời, Ngài cũng đã căn dặn các môn đệ:
- Các con hãy đi giảng cho muôn dân, dạy họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho các con và đây Thầy ở cùng các con cho đến tận thế.
Sở dĩ, lời Chúa dẫn chúng ta tới cuộc sống vĩnh cửu vì lời Chúa vạch ra cho chúng ta con đường phải đi và chính con đường ấy sẽ dẫn đưa chúng ta trở về với Chúa. Như thế, việc tuân giữ lời Chúa sẽ là một bảo đảm chắc chắn nhất cho chúng ta ơn cứu rỗi, cũng như niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Để kết luận, tôi xin kể lại một mẩu chuyện nho nhỏ:
Trong một xưởng thợ, người ta bàn tán và cho rằng tôn giáo, nhất là Thiên Chúa giáo làm mê muội trí khôn, bức hiếp lẽ phải và làm sai lạc phán đoán.Một anh công nhân nghe thế bèn góp ý:
- Đúng thế, đạo Chúa và lời Ngài đã làm cho tôi mất đi tất cả.
Mọi người ngạc nhiên, sững sờ đưa mắt nhìn anh. Anh nói tiếp:
- Các bạn có biết không, tôi là người rượu chè be bét, nhưng đạo Chúa và lời Ngài giúp tôi chừa bỏ được rượu. Tôi là người thích cờ bạc, nhưng đạo Chúa và lời Ngài giúp tôi xa tránh được tật này. Xưa kia gia đình tôi luôn cãi vã xô xát nhau, nhưng đạo Chúa và lời Ngài, làm tôi mất đi cái địa ngục ấy và đem vào đó một bầu khí cảm thông và hạnh phúc. Và còn nhiều thứ khác nữa, đạo Chúa và lời Ngài đã làm mất đi nơi tôi và gia đình tôi. Các bạn hãy thực hành lời Ngài và sống đức tin của mình chắc chắn, các bạn sẽ không bao giờ phải hối hận đâu.
Hãy lắng nghe Lời Chúa, hãy suy gẫm Lời Chúa và nhất là hãy sống Lời Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ đạt tới niềm hạnh phúc Nước Trời.
42. Lời ban sự sống.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu không phải chỉ chữa lành và nuôi dưỡng phần xác, nhưng quan tâm chính của Ngài là nuôi dưỡng và chữa lành tâm hồn họ. Đó chính là điều mà Phêrô đã gọi một cách thật thích đáng: Lời đem lại sự sống đời đời. Lời của Ngài thật sự đem lại sự sống. Chúng ta sẽ đưa ra một vài thí dụ về những lời Ngài đã nói.
Con hãy đi bình an, tội con đã được tha. Với lời này, Ngài trả lại tự do cho bệnh nhân. Thày đây, anh em đừng sợ. Với lời này, Ngài trán an nỗi sợ hãi của các tông đồ khi họ nghĩ rằng mình sáp chết đuối. Ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát. Với lời này, Ngài làm dịu đi cơn khát trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Với lời này, Ngài làm cho tâm hồn chúng ta được no thỏa. Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo tôi sẽ không còn bức đi trong bóng tối, nhưng sẽ luôn có ánh sáng sự sống. Với lời này, ánh sáng của Ngài không những không có bóng tốt, mà còn không có cả sự chết, bởi vì chính Ngài đã chiến thắng sự chết. Tôi là mục tử tốt lành, tôi biết chiên tôi và chúng biết tôi, tôi cho chúng sự sống đời đời. Với lời này, Ngài khuyến khích chúng ta bước theo Ngài để tiến tới đồng cỏ Nước trời. Tôi là sự sống lại và là sự sống, ai tin tôi sẽ không chết muôn đời. Với lời này, Ngài an ủi chúng ta khi gặp phải những khổ đau buồn phiền. Anh em đừng sợ hãi, Thày đi để dọn chỗ cho anh em. Với lời này Ngài khích lệ chúng ta khi gặp phải những băn khoan lo lắng trên đường đời.
Có lần các nhà lãnh đạo tôn giáo sai các vệ binh trong đền thờ đến bắt Ngài, nhưng họ không bao giờ đặt tay lên Ngài được. Trái lại, họ say mê giáo huấn của Ngài. Họ thừa nhận rằng lời Ngài giảng dạy thật lạ lùng, họ trở về với các ông chủ của họ và nói: Không có ai giảng dạy giống như Ngài. Quả thật, Chúa Giêsu có lời đem lại sự sống đời đời. Và những lời của Ngài được gìn giữ cho chúng ta trong Tin mừng.
Anh em cũng muốn bỏ đi sao? Giờ đây, Ngài cũng muốn nói với mỗi người chúng ta như thế. Không phải Ngài lìa bỏ chúng ta, nhưng chúng ta có thể lìa bỏ Ngài. Và qua dòng thời gian, nhiều người đã làm như thế. Chúng ta cần tuyên xưng lại lời tuyên xưng đang của thánh Phêrô: Bỏ Thày chúng con biết theo ai. Thày mới có lời đem lại sự sống đời đời.
Liệu chúng ta đã thực sự tuyên xưng và sống lời tuyên xưng của mình như vậy hay chưa?
43. Tự do lựa chọn.
Trong những năm gần đây, chúng ta thấy xuất hiện nhiều giáo phái. Một trong những điều gây xáo trộn nhiều nhất của các giáo phái là ảnh hưởng chúng gây ra cho những người đi theo chúng. Các thủ lãnh luôn là những kẻ có tham vọng khống chế người khác. Và các thành viên thường là những người sợ hãi, dao động và nhu nhược, dễ làm mồi cho những lãnh tụ như thế.
Có một sự khác biệt lớn giữa cách giao tiếp của Đức Kitô và của các thủ lãnh giáo phái. Thực vậy, trong các giáo phái chúng ta thấy có sự tôn vinh cá nhân lãnh tụ. Còn Đức Kitô không bao giờ tìm kiếm vinh quang cho chính mình. Ngài quy hướng mọi việc về Chúa Cha, bởi vì Ngài đến để thi hành thánh ý Cha Ngài. Ngài làm cho mình trở thành tôi tớ của mọi người. Các tiên tri giả thường hứa hẹn cho các môn đệ một thiên đàng trần gian dưới một hình thức nào đó. Điều này trở thành một cách chiêu dụ. Đức Kitô không hứa hẹn như thế cho các môn đệ. Trái lại, Ngài nói với họ rằng họ phải vác thập giá và chịu bách hại khi bước theo Ngài.
Khi các lãnh tụ giáo phái nhìn thấy con tàu đang chìm, họ thường cố gắng bảo đảm rằng phi hành đoàn sẽ chết theo tàu. Trong khi đó, Đức Kitô, vị mục tử nhân lành, đã hiến mạng sống mình để cứu đoàn chiên.
Bằng việc kết hợp chiêu dụ với truyền thụ, những thành viên mới của giáo phái không khác gì những con ruồi bị mắc vào lưới nhện. Tự do của họ hoàn toàn bị lấy mất. Nhưng tự do lại là điều cao quí nhất mà chúng ta có được. Điều duy nhất có giá trị đạo đức và giúp chúng ta trưởng thành phải được thực hiện một cách tự do. Đức Kitô không cưỡng bách một ai đi theo Ngài. Chúng ta có một thí dụ rõ ràng về điều đó trong Tin mừng hôm nay.
Thập giá bắt đầu phủ bóng lên Ngài. Các môn đệ của Ngài phải đối diện trước một quyết định: Ở lại với Ngài hay lìa bỏ Ngài. Có những người ở lại với Ngài khi nào việc giảng dạy của Ngài còn tiến triển, nhưng ngay khi thấy bóng dáng của thập giá, họ liền lìa bỏ Ngài. Có những người đến với Ngài để được Ngài ban cho một ơn huệ nào đó, nhưng khi phải chịu đau khổ với Ngài và hiến thân cho người khác, họ liền bỏ đi. Dù khó tin, nhưng một trong nhóm mười hai đã âm thầm nuôi ý định phản bội Ngài.
Thế nhưng, có một số người còn ở lại với Chúa Giêsu, Phêrộ đã nói thay cho họ. Quyết định ở lại của ông dựa trên lòng trung tín của bản thân ông đối với Đức Kitô. Kế đến dựa trên giáo huấn của Ngài. Mặc dù có nhiều điều ông chưa hiểu, nhưng ông biết rằng Đức Kitô có những lời đem lại sự sống đời đời.
Nếu chúng ta đi theo Đức Kitô, chúng ta được tự do, không phải khi chúng ta làm bất cứ điều gì chúng ta thích, nhưng khi chúng ta làm điều phải. Bấy giờ, chúng ta giống như một dụng cụ được dùng đúng vai trò, đúng công việc mà mình phải thực hiện.
44. Tự do.
Trước khi đặt chân vào miền đất hứa, ông Giôsuê đã kêu gọi dân Do thái phải có một chọn lựa dứt khoát: phục vụ Thiên Chúa của cha ông họ hay phục vụ những thần tượng gỉa tạo khác. Ông đưa ra một lời cảnh cáo nghiêm trọng: nếu họ chọn đi theo những thần tượng giả tạo, họ sẽ bị chúc dữ. Còn nếu họ chọn Thiên Chúa, họ sẽ được chúc lành. Đây là một chọn lựa nghiêm túc và quả quyết, đúng hơn nó biểu hiện một nền đạo đức cấm đoán. Chúa Giêsu đã đưa ra một viễn cảnh khác: vâng lời không phải dưới sự đe dọa bị trừng phạt, nhưng xuất phát từ tình yêu. Dẫu sao các chi tộc Israen cũng đã tuyên bố: chúng tôi sẽ phụ vụ Thiên Chúa.
Một trong những quà tặng cao quí mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta, đó là tự do lựa chọn. Chắc chắn chúng ta sẽ có một đời sống dễ dàng hơn nếu Thiên Chúa điều hành mọi sự, nhưng bấy giờ chúng ta chỉ là những con rối bị giật dây. Dù chúng ta chỉ có những chọn lựa đúng, nhưng điều đó biến chúng ta trở thành nhưng người máy. Tội lỗi không thể có được, nhưng đồng thời đức hạnh cũng chẳng phát sinh.
Sự kiện Thiên Chúa tôn trọng tự do của chúng ta là một dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Thiên Chúa khg chiếm hữu và cố tình làm chủ chúng ta. Ngài cho chúng ta được tự do lựa chọn giữa tốt và xấu, tự do lựa chọn cái này hoặc cái kia.
Dầu chúng ta không vâng theo những giới răn của Ngài, Ngài vẫn không ngừng yêu thương chúng ta. Nhưng điều đó không có nghĩa là Ngài dễ dãi. Vấn đề ở đây không phải là chúng ta làm gì, mà là một số phận đáng sợ đang chờ đón. Thiên Chúa nhìn thấy mỗi người hành động. Ngài không bỏ qua tội lỗi và những việc làm sai trái.
Khi chúng ta tự do, chúng ta có trách nhiệm về sự lựa chọn của mình cũng như về những hậu quả của sự lựa chọn ấy. Tuy nhiên, Thiên Chúa không để chúng ta phải xoay xở một mình. Ngài ban cho chúng ta ơn sủng để giúp chúng ta thực hiện những chọn lựa đúng.
45. Tuyên xưng lòng tin bằng cả cuộc sống
Cùng với Giáo hội, hôm nay chúng ta suy niệm đoạn tin mừng cuối chương 6 Tin mừng theo thánh Gioan. Sau một diễn từ dài về Bánh Hằng Sống kết quả từ hơn năm ngàn người theo Chúa Giêsu giờ đây chỉ còn lại nhóm Mười Hai.
Những người bỏ đi cho rằng: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" (Ga 6, 60) vì tại hội đường Capharnaum Chúa Giêsu đã tuyên bố: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống" (Ga 6, 54 - 55)
Có thể, nói những cố gắng của Chúa Giêsu như đổ sông đổ biển. Người muốn dân chúng đến với Người bằng cả lòng tin hơn là bằng thái độ thực dụng. Tiếc thay, động cơ theo Chúa của họ chưa được tinh ròng.
May mắn là còn lại nhóm Mười Hai. Chúa Giêsu hỏi họ: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" (Ga 6, 60). Phêrô thay mặt anh em trả lời: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa." (Ga 6, 68 - 69). Một lời tuyên xưng đức tin một cách mạnh mẽ.
Lời tuyên xưng này không phải có giá trị ngay hôm nay nhưng sẽ có giá trị trong suốt cuộc đời của các ông. Thật vậy, sau biến cố Phục sinh của Chúa Giêsu các ông đã sống triệt để lời tuyên xưng này. Mỗi người làm chứng cho Chúa bằng cả mạng sống của mình mà chẳng sợ nguy hiểm hay bắt bớ.
Nhân dịp này mỗi người chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của mình. Chúng ta đã đón nhận hồng ân đức tin ngày chịu phép Rửa tội nhưng chúng ta có sống tốt đức tin của mình chưa.
Trong khung cảnh năm giáo dục gia đình những bậc phụ huynh nhìn lại đời sống đức tin của mình có làm gương sáng cho con cái mình chưa. Nếu tôi nhớ không lầm sau khi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan 23 được bầu làm Giáo Hoàng, ngài trở về nhà và khoe với mẹ của mình về chiếc nhẫn Giáo hoàng của mình. Mẹ của ngài liền đưa tay của bà lên và nói: không có chiếc nhẫn này làm sao có chiếc nhẫn đó.Nghĩa là nhờ đời sống đức tin của bà mà ngài mới có được như ngày hôm đó.
Chúng ta cũng vừa cùng với toàn thể Giáo hội mừng trọng thể lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời - một trong 4 đặc ân cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho Mẹ. Chắc chắn Mẹ đã được thừa hưởng đời sống đức tin từ Thánh Gioakim và Thánh Anna nên đời sống đức tin của Mẹ mới được mạnh mẽ như thế. Nhờ đời sống đức tin mạnh mẽ mặc dù gặp không biết bao nhiêu khó khăn thử thách nên Mẹ mới được trọng thưởng như thế.
Hãy noi gương các Tông đồ và Mẹ Maria sống đức tin trong đời sống của mình. Nhất là các bậc phụ huynh hãy tích cực sống đức tin để làm gương sáng cho con cái của mình.
46. Chọn lựa.
Nhìn thấy một số môn đệ bỏ đi, Chúa Giêsu liền hỏi nhóm mười hai: còn các con, các con có muốn bỏ Thày mà đi nữa không? Lập tức Phêrô đã trả lời: Thưa Thày, bỏ Thày chúng con biết theo ai, vì chì mình Thày mới có Lời ban sự sống đời đời. Qua câu trả lời này, ông đã nhất quyết không bỏ Thày, ông hứa sẽ mãi mãi theo thày, nghĩa là ông đã làm một sự chọn lựa.
Cuộc đời chúng ta là một chuỗi những sự chọn lựa. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính những sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt đẹp và hạnh phúc. Còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì đời sẽ xấu xa và bất hạnh. Sống là phải lựa chọn luôn. Đời là vậy. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cũng nói đến vấn đề lựa chọn. Trong bài đọc một ông Giôsuê đã bảo dân Do Thái phải chọn lựa: thờ Thiên Chúa hay thờ các thần tượng khác. Trong bài đọc hai, thánh Phaolô khuyên các đôi vợ chồng một khi đã chọn nhau làm bạn đườn, thì phải suốt đời trung thành với sự lựa chọn ấy,nghĩa là phải thủy chung, phải tùng phục và phải hòa thuận với nhau.
Còn nếu nói theo từ ngữ Phật giáo, thì chúng ta cũng phải luôn lựa chọn một bên là tham sân si và một bên là lý tưởng đạo đức của mình. Mỗi ngày chúng ta phải đứng trước biết bao sự lựa chọn như thế. Một người đến đề nghị cho chúng ta một kiểu làm ăn gian lận, tiền sẽ có nhiều nhưng lại trái đức công bình: chúng ta phải chọn lòng tham hay là đức công bình. Rồi một người hàng xóm làm điều gì đó không vừa ý chúng ta, chúng ta phải lựa chọn buông theo tính nóng của mình hay nhịn nhục tha thứ. Ai chọn lựa tham sân si là chọn sai, cuộc đời sẽ trở thành xấu xa. Còn ai chọn công bình, bác ái, tự chủ là chọn lấy cái tốt, chọn con đường Chúa đã vạch ra.
Nếu chúng ta chọn Chúa thì sẽ ra sao? Và nếu chúng ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao. Linh mục nhạc sĩ Thành Tâm đã suy diễn câu nói bất hủ của thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau: Bỏ Ngài con biết theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi? Bỏ Ngài con biết theo ai, thuyền không lái biết trôi về đâu? Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ? Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh.
Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chịm bay trong khung trời lộng gió, cũng vẫn như con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình aấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm tới bến bình an. Trên đây là một vài gợi ý về sự lựa chọn trong cuộc đời. Điều quan trọng đó là chúng ta phải biết chọn lựa như thế nào trước những hoàn cảnh riêng của cuộc đời mình. Cầu mong mỗi người chúng ta biết chọn lựa đúng và chọn lựa tốt.
47. Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh
Chắc bạn vẫn nghe thường xuyên về người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Hoặc chính bản thân nhều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống đến những vấn đề quan trọng nhất, người ta đều cóp thể thất trung, bất tín. Ví dụ: Ai cũng biết, hôn nhân là mối giây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp diễn từng ngày. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả của nó.
Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản bội, cũng bất trung không kém. Từ thủơ bình minh của nhân loại, thế giới theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người thôi: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài, nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống lại Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường hết được: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.
Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường, nếm đủ mùi vị của khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn..., đã làm cho dân của Chúa mất kiên nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron đã vậy, họ còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: " Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu, có phải con sinh ra nó đâu?... Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn..." (Ds 11, 12 tt). Trong sa mạc, lòng dân quyên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại nhiều lần đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.
Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về sự bất trung và lòng thương xót ấy. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: " Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác", và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính vì sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần phải chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi bật lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoang dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba động từ: phản bội - nổi giận - tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.
Đó là bài đọc I trích sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của thánh Phêrô: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa". Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm, cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá... Chính những giờ phút quan trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quyên mất lời tuyên xưng mới đó, tính cho đến nay chưa được bao lâu. Vì một chúc sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!
Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Giáo Hội mời gọi ta suy niệm các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành của ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một lòng khoang dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi vẫ có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không còn hy vọng nữa mà thôi. Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính mình đã đánh mất.
48. Bỏ Thầy con biết theo ai? – Lm. Giacôbê Tạ Chúc
Đời người là một chuỗi liên kết giữa những chọn lựa và quyết định. Chọn lựa luôn đi kèm theo một trách nhiệm, sự liên đới với những người khác. Chọn lựa đúng, đời sẽ hạnh phúc, nếu không sẽ là bất hạnh. Những người Do Thái không chọn Chúa, vì họ không tin Ngài. Các môn đệ cũng vậy, một số bỏ đi khi Chúa nói về Bí Tích Thánh Thể. Chỉ một số ở lại, vì họ tin Chúa Giêsu có Lời ban sự sống.
Thử thách trong chọn lựa
Có một chủ nông trại nọ thuê một người thanh niên đến nhặt khoai tây cho nông trại. Công việc hết sức đơn giản, hằng ngày anh này chỉ có một việc là ngồi phân loại các củ khoai tây và cho vào sọt. Lớn theo lớn, trung bình theo trung bình và nhỏ theo nhỏ. Sau một thời gian, anh thanh niên đến gặp ông chủ và xin nghỉ việc. Được hỏi lý do, anh ta giải thích: công việc ông giao phó không phải là công việc nặng nhọc, nhưng điều làm cho tôi nhức óc đó là phải chọn lựa.
Dân Do Thái chọn Chúa
Cách đây gần ba ngàn năm, Giôsuê cũng bảo tòan dân Israel phải dứt khóat chọn lựa: Hôm nay các ngươi phải chọn, hoặc thờ các thần, họăc thờ Thiên Chúa (Gs 24,15). Thú vật dường như không có chọn lựa và quyết định, chúng chỉ sống theo bản năng. Con người có lý trí và tự do, nhất là con người biết chọn lựa hướng đi cho cuộc đời của mình. Thánh Phêrô là người đã mạnh mẽ nói lên chọn lựa căn bản và dứt khóat của mình: "Ông Si-mon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6,68). Quả vậy, sai lầm lớn lao của con người là thay vì chọn Thiên Chúa để tôn thờ, họ lại đi chọn các thụ tạo để suy tôn. Danh vọng, tiền tài, lạc thú, chúng chỉ là những phương tiện, giúp cho con người hoàn thành sứ mạng của mình trên trần gian này. Chúng không phải là cứu cánh, càng không phải là đích điểm của cuộc đời.
Con người chọn lựa
Chọn lựa bao giờ cũng phải mất mát và hy sinh.Khi tôi quyết định chọn cuộc đời sống độc thân để tôn thờ Thiên Chúa, và phụng sự anh em, thì đồng thời tôi phải hy sinh cả một đời sống gia đình bình thường như bao người khác. Hoặc khi anh chọn một người phụ nữ làm vợ mình thì anh phải dứt khóat với những người đàn bà khác, nếu không gia đình sẽ tan vỡ và hôn nhân trở thành đại họa. Thiên Chúa ban cho con người có tự do, chính vì điều đó mà con người có quyền chọn thiên đàng hay hỏa ngục. Một khi khước từ Thiên Chúa, con người sẽ không còn xem người khác là anh em mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết chọn Chúa làm gia nghiệp của đời mình. Chọn Chúa chứ không phải là công việc hằng ngày. Bởi nếu chọn công việc của Chúa thì lúc thất bại con sẽ dễ dàng bỏ Chúa. Còn khi con chọn Chúa, thì không gì có thể làm con xao động. Mục vụ thì đầy ắp những công việc, bề bộn những chương trình, kế họach thì đan kín thời gian. Sẽ là vô ích, nếu như con không nhận ra thánh ý Ngài là tất cả, có Ngài đời sẽ tràn trề niềm hoan lạc tuổi xuân. Như các môn đệ không bỏ ra đi, con cũng xin thân thưa cùng Chúa: "Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Ga. 6, 68-69).
49. Suy niệm của Lm Minh Vận.
Trong đời sống con người trên trần gian, chúng ta thấy có biết bao thứ phải lựa chọn. Ngoài những lựa chọn thông thường hằng ngày như lựa chọn đồ dùng tốt xấu, nơi ăn chốn ngủ, xe cộ, áo quần... Còn có những thứ lựa chọn liên hệ đến cả vận mệnh của một dân tộc, làm đảo lộn lịch sử các quốc gia. Chẳng hạn Napoléon, vị tướng lãnh tài ba của Pháp Quốc, có lần phải mất năm phút để lựa chọn gấp rút nên tiến quân hay rút quân. Ông đã quyết định tiến quân và ông đã chiến thắng. Tổng Thống Lincoln đã phải chiến đấu để thắng chính bản ngã riêng tư của ông, để trả tự do cho người nô lệ. Ông đã quyết định hợp lý. Lịch sử đã tặng cho ông danh hiệu người giải phóng nô lệ. Người dân Nga Sô, dân Trung Hoa và các nước chư hầu của Nga Sô và Trung Hoa đã lầm lẫn khi lựa chọn theo thuyết cộng sản vô thần như một quốc sách, nên đã làm cho các dân tộc của họ ngày càng lùi dần về thời ăn lông ở lỗ, nghèo túng, đói rét, lạc hậu và cái mộng ước thiên đàng trần gian của chủ thuyết Kart Mark, Lénine đã trở thành mây khói hão huyền, gây nên bao đau thương đổ nát và tuyệt vọng.
Còn có thứ lựa chọn quan trọng và cần thiết hơn bội phần, như lựa chọn ơn gọi, sống Bậc Hôn Nhân giữa trần gian hay sống Bậc Thánh Hiến phụng sự Chúa trong đời sống tu trì; hoặc phải lựa chọn giữa điều thiện và điều ác, lựa chọn lên Thiên Đàng hay xuống hỏa ngục... Những lựa chọn này rất quan trọng vì nó không những chỉ liên quan đến hạnh phúc của cuộc sống trần gian mà còn liên hệ tới cứu cánh của cuộc sống vĩnh cửu trong đời sống mai hậu. Henry VIII, vua Anh Quốc đã chọn một người đàn bà bất hợp pháp làm vợ, tạo nên Anh Giáo, một giáo phái ly khai với Giáo Hội Công Giáo... Trước những lưỡng lự, ngã ba, ngã tư của cuộc đời, con người cần phải biết khôn ngoan lựa chọn và quyết định thế nào cho hợp với thánh ý Thiên Chúa. Có thể nói: Hạnh phúc cho những ai biết quyết định và lựa chọn đúng với thánh ý Thiên Chúa; nhưng trái lại, vô phúc cho những ai quyết định và lựa chọn phản lại thánh ý Ngài.
I. DÂN DO THÁI ĐÃ CHỌN CHÚA GIAVÊ
Bài đọc I hôm nay thuật lại việc ông Giosuê phải đau lòng trước sự ngỗ nghịch phản bội của dân Do Thái, ông đã triệu tập toàn thể dân chúng lại, truyền cho các kỳ lão, thủ lãnh các gia tộc, các quan án, các sĩ quan đến đứng trước nhan Chúa, rồi ông nói với họ: "Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần?" Toàn dân đã biết hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đã đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài, khi thưa với ông Giosuê: "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi".
Dân Do Thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã cứu họ thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Ngài đã làm biết bao việc kỳ diệu, những phép lạ do cánh tay hùng mạnh của Ngài; Ngài đã thi thố biết bao ơn phúc khi dẫn đưa dân tộc họ vào Đất Hứa, đất chảy sữa và mật mà Chúa đã hứa với cha ông của họ. Mặc dầu họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại phụng thờ Ngài. Chúa đã chấp nhận lòng sám hối của họ khi họ đồng tâm từ bỏ tà thần, trở lại chọn Chúa để tôn thờ Ngài. Dân Do Thái đã quyết định và lựa chọn đúng. Nhưng thực sự, dân Do Thái có trung thành với lời giao ước mà họ đã ký kết khi quyết định chọn Chúa để tôn thờ Ngài hay không? Lịch sử dân Do Thái đã đủ chứng minh cho câu trả lời này.
II. GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAOLÔ
Thánh Phaolô đã dùng một hình ảnh cụ thể trong đời sống hôn nhân, với một tình yêu thương khắng khít và sự lệ thuộc giữa vợ chồng, để dạy cho chúng ta một bài học, nói lên sự lệ thuộc và tình yêu mến chúng ta phải có đối với Thiên Chúa. Đồng thời, ngài cũng nhắc chúng ta tưởng nhớ lại biết bao ơn phúc Chúa đã ban cho chúng ta, khi nói đến tình Chúa yêu thương Hội Thánh, đã hiến thân chịu chết vì Hội Thánh là thân mình mầu nhiệm của Chúa. Mỗi người chúng ta là phần tử làm nên Hội Thánh là Nhiệm Thể của Chúa Kitô, chúng ta cũng phải hoàn toàn sống cho Chúa, chỉ chọn Chúa và tôn thờ Người, tuyệt đối lệ thuộc vào Chúa và hết lòng phụng sự Người.
Thánh Phaolô đã kết luận: "Bởi thế, người ta lià bỏ cha mẹ để kết hợp với bạn mình và cả hai nên một huyết nhục. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh". Còn chúng ta, chúng ta có từ bỏ mọi sự để kết hợp nên một với Chúa, hết lòng yêu mến, phụng sự, tôn thờ Người không?
III. CHÚA LÀ MỌI SỰ CỦA CON
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại: Sau khi Chúa giảng cho dân chúng về Bánh Hằng Sống và lương thực bởi trời; Ngài tự xưng mình là Bánh Hằng Sống và quả quyết với họ rằng: "Đây là ý muốn của Chúa Cha, Đấng đã sai Ta: Hễ ai xem thấy Chúa Con và tin kính Ngài, sẽ được đời đời hằng sống và Ta sẽ khiến kẻ ấy được sống lại trong ngày sau hết" (Jn 6:40). Người còn quả quyết: "Thật vậy, Ta nói thật với các ngươi; kẻ tin kính Ta sẽ được sống đời đời. Ta là Bánh Hằng Sống" (Jn 6:47).
Có nhiều môn đệ khi nghe lời quả quyết đó, họ cho là chói tai, khiến họ tức giận từ bỏ Chúa ra đi. Chúa biết truyện đó, nên hỏi họ: "Điều đó làm các ngươi khó chịu ư? Vậy nếu các ngươi thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính Thần Trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Những lời Ta nói với các ngươi là Thần Trí và Sự Sống. Nhưng trong các ngươi có một số kẻ không tin"... Sau khi họ bỏ Chúa ra đi, Chúa quay lại hỏi các Tông Đồ: "Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy ra đi không?" Thánh Phêrô đại diện các Tông Đồ thưa với Chúa rằng: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời".
Ngày chúng ta lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta tuyên thệ từ bỏ Satan, từ bỏ tội lỗi, từ bỏ mọi sự thuộc về Satan và tội lỗi... Chúng ta tôn nhận Chúa là Thiên Chúa và chỉ tôn thờ, phụng sự, yêu mến duy một mình Người.
Hơn nữa, ngày chúng ta tuyên lời khấn, thánh hiến chọn cuộc đời cho Chúa, tự nguyện tuân giữ ba lời khuyên của Tin Mừng, chúng ta đã tôn nhận Chúa làm gia nghiệp đời đời, làm Bạn Tâm Phúc của chúng ta, là chúng ta làm mới lại, thêm xác tín vững mạnh hơn, thêm thánh thiện hơn lời chúng ta đã long trọng tuyên thệ ngày chúng ta lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, tôn nhận Chúa và chỉ phụng sự yêu mến duy một mình Ngài.
Kết Luận
Không như dân Do Thái chọn Chúa, nhưng lại đã bất trung với lời giao ước, phản bội Chúa, không tôn thờ Ngài; còn chúng ta, chúng ta có trung thành với lời tuyên thệ chọn Chúa, tôn thờ, phụng sự, yêu mến Chúa là cùng đích, là hạnh phúc, là gia nghiệp đời đời của chúng ta chưa? Vì, được Chúa là được mọi sự, mất Chúa là mất tất cả.
50. Suy niệm của JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Câu Đức Giêsu nói: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời" có lạ tai không? Câu nói trên cần phải hiểu theo nghĩa tâm linh hay theo nghĩa vật chất? Sau khi câu nói câu ấy, Đức Giêsu có nói câu nào để hướng dẫn người nghe phải hiểu theo nghĩa tâm linh không? Ngài nói gì?
2. Nếu bạn là các môn đệ Ngài hồi ấy, khi nghe lời ấy, bạn sẽ phản ứng thế nào? bỏ Ngài và rút lui, hay theo Ngài tới cùng như Phêrô?
3. Trước hai phản ứng khác nhau của các môn đệ, ta rút ra bài học gì? Có nên tin vào lý trí của mình hơn tin vào Thầy mình, hay vào Thánh Thần chăng?
Suy tư gợi ý:
1. «Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?»
Khi nghe Đức Giêsu nói: «Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời», chẳng những người Do-thái nghe không lọt tai, mà ngay cả các môn đệ cũng có những người không chấp nhận được. Họ đã hiểu câu Ngài nói theo nghĩa vật chất, theo mặt chữ, mà không chịu hiểu theo nghĩa tâm linh, theo Thần Khí. Thế là «nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa». Ngài đã để mặc họ bỏ Ngài, vì thấy họ không thích hợp với công việc của Ngài, vốn mang nhiều tính chất «thần khí» hay tâm linh.
a) «Ai có tai thì nghe!» hay «ai hiểu được thì hiểu!»
Trong Tin Mừng có nhiều trường hợp tương tự như trường hợp này. Nhiều lần, Đức Giêsu nói xong, người ta không hiểu, Ngài chẳng những không giải thích thêm, lại còn nói: «Ai có tai thì nghe» (nghĩa là ai hiểu được thì hiểu) (Mt 11,15; 13,9; 13,43; Mc 4,9; 4,23; 7,16; Lc 8,8). Vì chân lý không phải là ai cũng có thể hiểu và sẵn sàng đón nhận, như Ngài đã nói: «Thế là đối với họ, lời sấm của ngôn sứ Isaia đã ứng nghiệm: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, vì lòng dân này đã ra chai đá» (Mt 13,14). Một hình thức của chai đá tâm trí là chỉ hiểu được lời Chúa theo nghĩa vật chất mà không thể hiểu theo nghĩa tâm linh, chỉ biết chấp vào lời mà không chịu hiểu ý, nhất là khi lời đó diễn tả những chân lý thâm sâu về Thiên Chúa và đời sống tâm linh.
b) Đừng hiểu theo nghĩa vật chất, mà theo nghĩa tâm linh
Khi thấy có những môn đệ không chấp nhận vì hiểu sai, Ngài đã soi sáng thêm: «Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?» Ngài gợi ý cho họ thấy hai cách hiện hữu của Ngài: cách hiện tại là hiện hữu trong xác thịt, còn cách hiện hữu trước kia là hiện hữu trong thần khí. Nhắc tới hai cách hiện hữu ấy, Ngài gợi ý cho các ông hiểu rằng: lời của Ngài cần hiểu theo nghĩa tâm linh, chứ không thể hiểu theo nghĩa thể chất. Câu nói kế tiếp của Ngài lại càng khai sáng vấn đề hơn: «Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống». Lời Ngài nói là thần khí chứ không phải xác thịt, nên phải hiểu theo nghĩa tâm linh chứ không phải nghĩa thể chất. Hiểu theo nghĩa thể chất thì những từ «thịt» và «máu» Ngài vừa nói chính là thịt và máu vật chất, tức xác thịt. Ngài đã loại bỏ cách hiểu này: «Xác thịt chẳng có ích gì». Ngài đề cao cách hiểu theo nghĩa tâm linh qua câu: «Thần khí mới làm cho sống».
Thánh Phaolô cũng so sánh hai cách hiểu ấy: «Giao Ước Mới không phải là Giao Ước căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống» (2Cr 3,6). Chữ viết là vật chất, ai chỉ biết hiểu lời Chúa theo nghĩa vật chất của chữ viết, thì cách hiểu ấy sẽ giết chết tâm linh của người ấy. Lời Chúa cần được hiểu theo nghĩa tâm linh, nghĩa là «dựa vào Thần Khí», cách hiểu này mới «ban sự sống». Sự sống ở đây là sự sống tâm linh chứ không phải thể chất. Về vấn đề giữ luật, thậm chí luật cắt bì là một luật hết sức quan trọng trong Cựu Ước, thánh Phaolô chủ trương phải giữ theo tinh thần của lề luật chứ không phải theo chữ viết: «Phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật» (Rm 2,29). Vậy, khi đọc Kinh Thánh, đặc biệt sách Khải Huyền, những chân lý thâm sâu cần được hiểu theo nghĩa tâm linh. Hiểu theo nghĩa vật chất nhiều khi dẫn tới sự phi lý và không đem lại «sự sống» hay lợi ích thực tế.
2. Hai phản ứng khác nhau của các môn đệ
Khi nghe Đức Giêsu nói câu khó hiểu, thậm chí có vẻ phi lý và chướng tai ấy, tôi nghĩ, chắc hẳn ngay lúc ấy chẳng ai trong các môn đệ đủ trình độ để hiểu được ý nghĩa lời của Ngài. Nhưng các môn đệ đã phản ứng theo hai cách: một số rút lui và số còn lại vẫn trung thành theo Ngài.
a) Đừng quá cố chấp vào những hiểu biết mình đang có:
Những môn đệ từ bỏ Ngài, không chịu làm môn đệ Ngài nữa, là vì họ nghe Ngài nói điều mà họ thấy là phi lý không thể chấp nhận được. Họ hoàn toàn có lý của họ. Nhưng phải nói họ là những người đã bị chai đá về mặt lý trí. Hễ điều gì họ đã cho là đúng, mà có ai nói ngược lại, nói những điều không lọt tai họ, thì họ tiên thiên cho là sai, và không thèm nghe, suy nghĩ hay tìm hiểu thêm. Những người này sẽ không bao giờ tiếp nhận được những kiến thức mới, những khám phá mới về chân lý. Vì chân lý thì vô tận, con người khám phá không ngừng và không bao giờ hết. Những khám phá mới nhiều khi phủ nhận hoặc vượt qua những khám phá cũ. Chẳng hạn nếu các em học sinh cấp I cứ chấp cứng vào kiến thức mà các em thu thập được ở trường lớp là: không được lấy số lớn trừ số nhỏ vì đó là một sự phi lý, thì các em sẽ cho các thầy dạy cấp II là dạy bậy. Vì ở cấp II, việc lấy số nhỏ trừ số lớn để ra một số âm là chuyện bình thường. Hay ở cấp II và III, việc đặt số âm trong một căn hiệu là phi lý, nhưng ở đại học, khi học về số ảo, thì một số âm vẫn luôn luôn có căn số.
Đức Phật có đưa ra một minh họa về vấn đề này: Một người có duy nhất một đứa con mà ông rất thương yêu. Khi ông đi vắng để đứa con ở nhà thì kẻ cướp đến đốt làng cướp bóc và bắt con ông đi. Khi về, ông thấy thi hài một đứa bé cháy đen bên căn nhà mình. Ông tin ngay là con mình và chôn cất trong sự thương tiếc. Mấy tháng sau, con ông tìm cách thoát được bọn cướp, tìm về đến nhà lúc nửa đêm và gõ cửa xin vào. Nhưng ông không chịu ra mở cửa vì cứ nhất định là con ông đã chết rồi, và cho rằng đứa gõ cửa là một thằng mất dạy nào đó trêu chọc ông. Rồi ông nhất quyết không nhận nó là con, bất chấp những bằng chứng hợp lý trước mắt.
Người ta nói: «Khoa học là mồ chôn những giả thuyết», vì giả thuyết mới phủ nhận giả thuyết cũ. Sự vật thì không thay đổi, nhưng khi ta biết 10 điều, ta nghĩ về sự vật thế này. Khi biết 100 điều, ta lại nghĩ thế khác. Khi biết 1000 điều, ta lại nghĩ hoàn toàn khác nữa. Ta nên tiếp tục nghĩ rằng khi biết 2000, 3000… điều, ta cũng sẽ tiếp tục nghĩ khác. Vậy trong đời sống tâm linh, hãy luôn luôn tỉnh thức để đón nhận những đổi mới của Thánh Thần trong cả cách nhìn về Thiên Chúa và về những chân lý cao sâu. Các tư tế và kinh sư Do-thái chính vì chấp vào những hiểu biết dựa trên Kinh Thánh và thần học của họ mà đã lên án và giết Đức Giêsu!
b) Hãy tin tưởng vào sự hướng dẫn của Thánh Thần:
Còn những môn đệ khác mà điển hình là Phêrô, tuy cũng thấy phi lý và chói tai, nhưng nghĩ rằng mình chưa hiểu được hết ý của Ngài. Qua những sự kiện thấy được nơi Đức Giêsu, họ tin Ngài là người nắm được những chân lý cao siêu, là «Đấng Thánh của Thiên Chúa». Vì thế, dù Ngài nói điều gì nghe không lọt tai, họ vẫn tạm chấp nhận để tiếp tục theo Ngài, mong có cơ hội sau này hiểu được điều ấy. Và đương nhiên sau này họ đều hiểu. Đó là thái độ khiêm nhường nhưng rất hợp lý: cho rằng khả năng hiểu biết mình còn non kém thì đúng hơn là cho rằng Thầy mình nói sai.
Tất cả những hiểu biết của nhân loại - kể cả của Giáo Hội - đều là những hiểu biết tương đối, phù hợp với số lượng những khám phá của họ. Khi khám phá ra nhiều sự kiện hơn nữa, ắt nhiên mọi người sẽ phải thay đổi quan niệm hay hiểu biết của mình. Trong đời sống tôn giáo hay tâm linh, điều quan trọng là chúng ta phải sẵn sàng đổi mới quan niệm và sẵn sàng từ bỏ những kiến thức cũ của mình thì mới theo kịp Thánh Thần. Ngài là Đấng luôn luôn «đổi mới mặt đất này» (Tv 104,30) và sẽ dẫn chúng ta «tới sự thật toàn vẹn» (Ga 16,13). Nên nhớ cách hành động của Thiên Chúa là: «Khi Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới, Người làm cho giao ước thứ nhất hoá ra giao ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi, thì sẽ tan biến đi» (Dt 8,13). Nếu ta cứ chấp vào giao ước cũ, làm sao ta đón nhận được giao ước mới? Nên nhớ, chỉ một mình Thiên Chúa là không thay đổi, còn mọi hiểu biết của con người về Thiên Chúa thì phải thay đổi theo trình độ trí thức và tâm linh con người. Cứ chấp vào hiểu biết cũ làm sao đón nhận những hiểu biết mới?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, Thánh Thần của Cha luôn luôn đổi mới mọi sự trong thế gian này. Xin cho chúng con biết thích ứng với Thánh Thần, sẵn sàng từ bỏ quan niệm cũ, cách hiểu biết cũ để theo quan niệm và cách hiểu biết mới mà Thánh Thần hướng dẫn. Đừng để chúng con đi vào bánh xe đã đổ của các kinh sư Do-thái: cứ chấp vào hiểu biết cũ nên không theo kịp cái mới của Thánh Thần, để cuối cùng bị đào thải về mặt tôn giáo. Amen.
51. Chọn lựa: một hành vi không dễ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Cả anh em nữa, anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không? Chúa Giêsu không hỏi: anh em có tiếp tục theo Thầy không mà lại hỏi thẳng thừng: anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không. Một câu hỏi không thuộc dạng mời gọi như trước đây mà là đặt vấn đề chọn lựa rõ ràng, dứt khoát.
Kitô hữu chúng ta theo đạo không phải là theo một học thuyết mang tính triết lý hay thần học nào đó, nhưng là theo một "con người", theo một "ai đó", một "Đấng nào đó". Đấng hay con người mà chúng ta lựa chọn đi theo, lựa chọn để gắn bó, đó là Đức Giêsu Kitô. Phụng Vụ Lời Chúa ngày Chúa nhật XXI TN B đặc biệt lưu ý chúng ta đến hành vi lựa chọn. Chọn lựa một công việc để làm kế sinh nhai quả không mấy dễ. Chọn lựa một bậc sống thật lắm phân vân đủ bề. Chọn lựa một con người để làm bạn đời trăm năm cũng lắm sự nhiêu khê. Và chọn lựa Đấng để trao gửi hạnh phúc hôm nay và vĩnh cửu chắc chắn sẽ khó khăn hơn nhiều. Vì thế, khi phải chọn lựa trong một vấn đề quan trọng, chúng ta cần có đủ cơ sở một cách nào đó.
Sau khi nhắc lại cho dân tình yêu của Thiên Chúa qua các kỳ công Người đã thực hiện để bảo vệ dân, Giosuê khẳng khái trước toàn dân rằng: "Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa" (Gs 24,15). Và dân đã đáp lại rằng họ không hề có ý định bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Họ sẽ thờ phụng Thiên Chúa, vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của họ dùng quyền năng thực hiện những dấu lạ lớn lao để đem họ cùng với cha ông họ ra khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ mà vào đất hứa. Như thế, cơ sở để dân Chúa xưa chọn thờ phụng Người đó là vì Người quyền năng đã đưa họ ra khỏi nhà nô lệ.
Trước câu hỏi của Chúa Giêsu, một kiểu đặt vấn đề đòi hỏi có sự chọn lựa dứt khoát thì Phêrô đã thay mặt nhóm Mười Hai trả lời: " Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6,68). Không kể trường hợp một phần tử trong nhóm không tin, thì câu trả lời của Phêrô nói lên sự chọn lựa của cả nhóm Tông Đồ. Và sự chọn lựa ấy đặt cơ sở trên điều này: vì Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Để nói lên được những lời này, chắc chắn cùng với các bạn, Phêrô đã từng chứng kiến uy quyền của Thầy khi khiến nước lã hóa thành rượu ngon (x.Ga 2,1-12). Các vị đã từng nghe Thầy nói với viên sĩ quan cận vệ nhà vua rằng: "Ông cứ về đi, con ông sống" và đứa con trai của ông ta đang đang hấp hói đã đuợc cứu sống (x. Ga 4,46-54). Và các ngài chưa thể quên lời tạ ơn mới đây của Thầy đã giúp cho năm ngàn người đàn ông chưa kể đàn bà và con trẻ no nê chỉ từ năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá (x. Ga 6,1-15).
Không ai tự nguyện dấn thân theo một lý tưởng, thực hiện một trách vụ hay gắn bó với một con người mà không ấp ủ một hoài bão, một ước mơ hay niềm hy vọng nào đó. Xưa, dân Do Thái chọn tôn thờ Thiên Chúa là để một mặt khỏi bị Người giáng họa, trừng phạt, mà trái lại sẽ được Người chúc phúc và che chở trước các "kẻ thù" lân bang (Gs 24,19-20).
Cái hoài bão, uớc mơ, đúng hơn là cái mục đích việc Phêrô thay mặt anh em chọn gắn bó với Thầy đó là vì "Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời". Sự sống đời đời là một ước mơ của con người, mọi thời và mọi nơi. Dù đủ đầy của cải vật chất, dù nắm trong tay quyền sinh sát của bậc đế vương thì con người vẫn cảm nhận cái hữu hạn của cuộc sống đời này. Danh vọng quyền lực, của cải hay tiền tài không thể giúp ta kéo dài cuộc sống đến vô tận. Một thanh niên có nhiều sản nghiệp đã đến tham vấn Chúa Giêsu: Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời? Sau khi biểu anh ta giữ các giới răn, Chúa Giêsu đã mời gọi anh ta hãy bán của cải, phân phát cho người nghèo rồi đến mà theo Người (x. Mt 19,16-22; Mc 10,17-22; Lc 18,28-30).
Chọn lựa là hy sinh. Một câu nói cho thấy một lẽ tất yếu của việc chọn lựa, Chọn ra đi thì phải hy sinh chuyện không ở lại, chọn việc cất tiếng nói thì đương nhiên phải mất thái độ giữ im lặng, đã chọn tôn thờ Thiên Chúa thì phải bỏ các thần của dân ngoại (x. Gs 24,23)... Tuy nhiên sự hy sinh trong việc chọn lựa không chỉ dừng lại ở các nội dung xem như đối lập của sự chọn lựa mà còn có đó sự hy sinh ngay trong chính hành vi chọn lựa. Sự hy sinh ở đây được hiểu như một sự đánh cược, một sự dân thân, một sự "liều lĩnh" nào đó. Vì chưng, chúng ta vốn khó có được các cở sở một cách chắc chắn kiểu trăm phần trăm khi chọn lựa một điều gì đó. Chúng ta dễ nhận ra ngay hiện thực này qua việc các bạn thanh niên nam nữ chọn bạn đời hay chọn ơn gọi tu trì. Như thế, sự hy sinh ở đây có thể hiếu như sự can đảm dấn thân, chấp nhận nhiều "cái giá" phải trả khi chọn lựa.
Cái giá mà chúng ta phải trả khi chọn lựa đi theo Chúa Giêsu, gắn bó với Người đó chính là "vác thập giá". "Ai không các thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc 14,27). Cái giá mà Phêrô sẽ phải trả được Đấng Phúc sinh báo trước: "Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đế nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi Người bảo ông: "Hãy theo Thầy" (Ga 21,18-19).
"Thiên Chúa dựng nên tôi không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà cần có tôi" (thánh Augustinô). Tự do là một quà tặng cao quý Chúa ban cho loài người, loài cao trọng nhất trong các loài hữu hình Người dựng nên. Tự do là một ân ban cao quý và cũng là một thử thách ắt có của tình yêu. Được sống đời đời hay phải chết đời đời có nghĩa là được hạnh phúc bất diệt hay bị trầm luân mãi mãi, các khả thể này đang tùy ở sự lựa chọn của chúng ta. Ai lại không muốn được sự sống đời đời, được hạnh phúc bất diệt, nhưng vấn nạn khó vượt qua đó là chúng ta thường e ngại phải trả giá.
52. Suy niệm của Lm. Thu Băng, CMC
Anh Vũ Thành Tâm là một thanh niên tuổi quân dịch. Anh đã bỏ nhà thờ từ lâu. Anh chẳng còn đi lễ, chẳng còn chịu các phép Bí Tích nữa. Khi nhập ngũ, Mẹ anh lo lắm. Mẹ anh sợ anh bị chết ngoài trận chiến bất kỳ lúc nào. Vì thế trước khi lên đường, mẹ anh soăn xúyt bên con, vồn vã nói với con: "Tâm con, mẹ muốn con làm cho mẹ một điều". "Điều gì đó mẹ?" Anh hỏi lại. Con đi xa nhà, đời binh nghiệp trôi nổi bôn ba, cái chết như tầu lá rơi trước gió, vì thế mẹ muốn con hứa với mẹ: Dù con có bận bịu mệt mã đến đâu đi nữa, mỗi ngày con hãy đọc một kinh kính mừng dâng phó linh hồn con cho Đức Mẹ. Có được không? Tâm suy đi nghĩ lại, lời mẹ như đưa chàng vào thế kẹt: Mình đã bỏ đạo từ lâu rồi nên không chấp nhận. Nhưng mình là người con có hiếu chả lẽ từ chối! Thôi thì chấp nhận cho mẹ vui. Tấm tức giữa hai ngả. Sau cùng Tâm chấp nhận sẽ làm như mẹ xin. "Con làm sao bỏ được lời mẹ trối". Mấy năm trời trôi qua. Tâm bận bịu với việc quân ngũ nên cũng chẳng biên thư về nhà. Rồi một hôm, mẹ anh nhận được thư cha Tuyên Úy cho biết anh bị trọng thương và đã xin chịu các phép Bí Tích. Ít lâu sau anh Tâm bình phục và viết thư về cho mẹ: "Mẹ ơi, con cám ơn mẹ đã bảo con hứa với mẹ là sẽ đọc một kinh kính mừng mỗi ngày. Con đã giữ lời hứa đó và nay con đã bắt đầu đi lễ và chịu lễ mỗi chúa nhật".
Bài Tin Mừng ngày hôm nay cũng là một thách đố cho các môn đệ. Niềm tin của các ngài cũng bị thử thách trầm trọng vì trong bài giảng ngài nói: "Ngài sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn". Có nhóm không chấp nhận được lời Chúa Giêsu tuyên bố cũng như anh Tâm đã bỏ Chúa lâu rồi làm sao có thể chấp nhận đọc kinh được. Nhưng nhóm còn lại chấp nhận thử thách và trung thành với Chúa Giêsu "Bỏ thầy con biết theo ai. Thầy mới có lời hằng sống". Như anh Vũ thành Tâm trung thành với lời "Con làm sao bỏ được lời mẹ trối".
Chúng ta có thể tin rằng một linh hồn dù có xa Chúa đến mấy đi nữa mà còn giữ được một cái gì nối kết với Chúa, dù cái đó chỉ là một câu kinh lạy Cha, kinh kính mừng mỗi ngày thì vẫn còn hy vọng sẽ tìm lại được đường về. Anh Tâm cũng như rất nhiều người công giáo đã bắt chước các môn đệ thành tâm trong bài tin mừng hôm nay. Họ không thể tin Chúa Giêsu có thể cho họ Mình và Máu Ngài để họ ăn và uống. Nhưng ít là họ đã chứng kiến việc Chúa dùng 5 cái bánh và 2 con cá để nuôi 5000 người ăn no. Nhiều người thường lấy lý do "Đi dự lễ không thấy phấn khởi, đọc một câu kinh không thấy được ơn ích gì..." Nhưng họ làm ít ra còn tin vào lời Chúa nói. Cứ làm đi rồi Chúa sẽ hỗ trợ, sẽ ban ơn.
Như Anh Vũ Thành Tâm trong câu chuyện, mỗi người chúng ta hãy cố làm những gì có thể được, càng nhiều càng tốt để đáng được Chúa thương cứu giúp.
53. Suy niệm của Lm Vũ Xuân Hạnh.
Chắc bạn vẫn nghe thường xuyên về người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Hoặc chính bản thân nhều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống đến những vấn đề quan trọng nhất, người ta đều cóp thể thất trung, bất tín. Ví dụ: Ai cũng biết, hôn nhân là mối giây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp diễn từng ngày. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả của nó.
Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản bội, cũng bất trung không kém. Từ thuở bình minh của nhân loại, thế giới theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người thôi: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài, nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống lại Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường hết được: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.
Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường, nếm đủ mùi vị của khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn…, đã làm cho dân của Chúa mất kiên nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron đã vậy, họ còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: “Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu, có phải con sinh ra nó đâu?… Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn…” (Ds 11, 12 tt). Trong sa mạc, lòng dân quyên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại nhiều lần đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.
Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về sự bất trung và lòng thương xót ấy. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác”, và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính vì sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần phải chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi bật lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoang dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba động từ: phản bội - nổi giận - tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.
Đó là bài đọc I trích sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của thánh Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm, cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá… Chính những giờ phút quan trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quyên mất lời tuyên xưng mới đó, tính cho đến nay chưa được bao lâu. Vì một chúc sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!
Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Giáo Hội mời gọi ta suy niệm các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành của ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một lòng khoang dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi vẫ có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không còn hy vọng nữa mà thôi. Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính mình đã đánh mất.
54. Bỏ đi hoặc ở lại – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Với bản văn hôm nay, độc giả đi tới đỉnh cao của Diễn từ về Bánh trường sinh, đỉnh cao của cuộc “khủng hoảng” báo trước cuộc Thương Khó của Đức Giêsu: các thính giả phản ứng lại các lời của Đức Giêsu; họ bị đặt trước một chọn lựa là tin hoặc không tin vào Người.
Thứ lương thực lạ lùng và Bài Diễn từ về Bánh khác các dấu lạ và các diễn từ khác của Đức Giêsu do sự kiện là trong vấn đề này, các môn đệ lấy lập trường. Tại đây Đức Giêsu đã mạc khải các ân ban đặc biệt của Người và các ân ban này chính là thịt máu của Người. Các môn đệ của Người chia rẽ về điểm này: bỏ đi vì không thể chấp nhận các lời Đức Giêsu nói, hoặc ở lại với Người, vì tin rằng chỉ Người mới có “những lời đem lại sự sống đời đời”.
2.- Bố cục
Bản văn phụng vụ có thể chia thành ba phần:
1) Một câu tóm nội dung bài giảng về Bánh hằng sống (6,54a);
2) Những môn đệ bỏ đi (6,60-66);
3) Nhóm Mười Hai ở lại (6,67-69).
3.- Vài điểm chú giải
- Nghe rồi, […]: "Ai mà nghe nổi? (60): Động từ “nghe” (akouein) được dùng hai lần với nghĩa khác nhau: lần đầu, từ này có nghĩa là “nghe” mà không có sắc thái một sự chấp thuận; lần sau, có nghĩa là “nghe” với sự chấp thuận.
- nhiều môn đệ của Người (60): Bản văn không nói là các “môn đệ” này có hàm chứa cả Nhóm Mười Hai hay không. Tuy nhiên, vì Phêrô đã lấy lập trường mà nói nhân danh Nhóm Mười Hai, rất có thể Nhóm Mười Hai không được kể vào số các “môn đệ” càm ràm, xầm xì này (có lẽ ngoại trừ Giuđa, vì Đức Giêsu gọi ông là “quỷ”, x. c. 70).
- lên nơi đã ở trước kia (62): tức lên với Chúa Cha (x. Ga 17,5).
- Lời Thầy nói với anh em (63): dịch cho nổi bật các sắc thái là: “Những lời mà Thầy đây, Thầy đã nói với anh em”. Chủ từ egô được viết ra trong bản văn để tạo sự cường điệu.
- là Thần Khí và là sự sống (63): Đây là một “phép thế đôi”[1], nên cần dịch diễn ra là “lời Thầy nói với anh em là Thần Khí ban sự sống”.
- Nhóm Mười Hai (67): Ga 6,67-71 là nơi duy nhất trong TM IV mà tác giả minh nhiên nói đến Nhóm Mười Hai (ngoại trừ một hoạt cảnh khác chỉ được nhắc tới trong TM này, ở Ga 20,24). Hai lần nhắc tới “Nhóm Mười Hai” (hoi dodeka) ở cc. 67 và 71 “đóng khung” phân đoạn ngắn này thành một đơn vị văn chương. Tác giả ghi nhận rằng Nhóm Mười Hai đã được Đức Giêsu chọn (Ga 6,70), dù không cho biết vào dịp nào và trong những hoàn cảnh nào. Do sự trung tín của họ với Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai ở vào thế tương phản với những môn đệ đã sa sút. Không giống với các môn đệ đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai ở lại với Đức Giêsu. Đối với các ông, các ông không còn chỗ nào khác mà đi. Phêrô đã nói thay anh em: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68).
Đoạn Ga 6,67-71 là nơi duy nhất trong TM mà tác giả minh nhiên nói đến Nhóm Mười Hai (ngoại trừ một hoạt cảnh khác chỉ được nhắc tới trong TM IV, ở Ga 20,24). Hai lần nhắc tới “Nhóm Mười Hai” (hoi dodeka) ở cc. 67 và 71 “đóng khung” phân đoạn ngắn này thành một đơn vị văn chương.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Một câu tóm nội dung bài giảng về Bánh hằng sống (54a)
Sau các vòng giới thiệu, đây là khẳng định tối hậu Đức Giêsu nêu ra về mầu nhiệm bản thân Người: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (c. 54a). Các động từ được chọn để diễn tả tính hiện thực của ân ban là thịt máu Đức Giêsu đã đạt mục tiêu: các môn đệ sẽ phản ứng.
* Những môn đệ bỏ đi (60-66)
Phần lớn các môn đệ không thể chấp nhận được các lời Đức Giêsu đã nói, đến mức không còn có thể lắng nghe được nữa. Và thật sự các lời của Đức Giêsu không thể chịu nổi, nếu Người chỉ là một người phàm. Các lời Đức Giêsu đã nói quả không thể chấp nhận được, nếu người ta chỉ đón nhận theo cảm xúc và hời hợt, nếu người ta chỉ để ý đến các chi tiết chứ không thấy bối cảnh tổng quát. Đức Giêsu tìm cách cung cấp cho các môn đệ một điểm hỗ trợ hầu có thể hiểu, nhưng Người cũng nói rõ ra lý do đích thực của phản ứng khó chịu của họ: họ thiếu đức tin. Trước hết, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng Người không nói như một người thường, nhưng như là Con Người, đã từ Thiên Chúa mà đến và sẽ quay về với Thiên Chúa. Trong bài Diễn từ về Bánh trường sinh, Đức Giêsu đã nhiều lần nêu bật điều này là Người được Thiên Chúa cử đến và có sự sống phát xuất từ Thiên Chúa (x. Ga 6,27.57). Điều kiện tiên quyết để hiểu được các lời của Đức Giêsu, đó là hiểu và nhìn nhận bản thân Người.
Thế rồi Đức Giêsu đi vào một điểm đặc biệt trong Bài Diễn từ. Các môn đệ dường như cảm thấy bị vấp phạm nhất về sự kiện Người ban thịt làm của ăn và máu làm thức uống. Đức Giêsu đảm bảo với họ rằng nếu đi từ “thịt” hiểu là con người phàm trần – kể cả nhân tính của Đức Giêsu – người ta chẳng có gì để mong đợi, vì “thịt” thì hư hoại và tiến về cái chết; đi từ “thịt”, ta không thể chờ đợi sự sống bất hoại. Sự sống này chỉ đến từ Thánh Thần, từ quyền lực không bao giờ cạn kiệt ban sự sống của Thiên Chúa (x. Ga 3,6). Nhưng Đức Giêsu cũng nhấn mạnh rằng toàn thể các lời Người là Thần Khí và sự sống. Người không chỉ trình bày một vài suy tư về Thánh Thần và sự sống, về quyền lực không bao giờ cạn kiệt ban sự sống của Thiên Chúa và về sự sống bất hoại, nhưng Thần Khí và sự sống hiện diện trong chính các lời nói của Người và Người cho một chứng minh rõ ràng nhất về điểm này. Kể cả các lời Người nói về thịt và máu Người là Thần Khí và là sự sống, theo nghĩa là các lời ấy nói về Đấng không chỉ là thịt, mà là Ngôi Lời trở thành xác thịt (x. 1,14). Người ta chỉ hiểu Đức Giêsu đúng đắn nếu để ý đến chuyện Người là ai và bản chất các lời Người nói là thế nào. Nhưng người ta lại đáp lại bằng sự thiếu lòng tin, sự từ khước, sự ngờ vực đối với Người và đối với lời Người. Đức tin là một ân ban của Thiên Chúa (x. 6,37-44); nhưng đồng thời vẫn còn nguyên trách nhiệm của những người không tin và xa lìa Đức Giêsu. Nhiều môn đệ lãnh trách nhiệm này khi “rút lui, không còn ở với Người nữa” (c. 66).
* Nhóm Mười Hai ở lại (67-69)
Mẩu đối thoại của Đức Giêsu với nhiều môn đệ đã khởi đầu bằng lời phản đối của họ và bằng cách họ đánh giá các lời của Người theo cảm xúc. Bây giờ Đức Giêsu ngỏ lời với nhóm thứ ba bên trong đám đông, Nhóm Mười Hai, một nhóm rất gần gũi với Người, nhưng cũng bị cám dỗ, bị lay động, bị thách thức bởi những lời đòi hỏi của Người. Mẩu đối thoại của Người với Nhóm Mười Hai bắt đầu bằng một câu hỏi Người đặt ra: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67). Câu hỏi này không hề có đặc tính gây hấn, như thể Đức Giêsu muốn nói: “Anh em cứ việc bỏ đi!”, trái lại câu hỏi này hàm chứa một lời mời ở lại. Đức Giêsu đặt câu hỏi và để cho các môn đệ tự do quyết định. Nhưng Người không rút lại bất cứ điều gì Người đã nói. Simôn Phêrô đã nhân danh nhóm (“chúng con”) nói lên một câu trả lời có suy ngẫm và nêu ra ba lý do khiến các ông ở lại với Đức Giêsu chứ không đi theo đa số: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
Lý do thứ nhất là một suy tư sáng suốt: ‘Chúng con không thể bỏ đi kiểu mù quáng. Khi bỏ đi, chúng con cần phải biết chúng con muốn bỏ ai, và gặp được điều gì tốt hơn và thuyết phục hơn nơi người nào. Chỉ đơn giản bỏ đi thì không có ý nghĩa’. Suy tư này giúp tránh những quyết định vội vã, theo tình cảm. Bởi vì không tìm được một vị thầy nào dứt khoát khá hơn, thì khôn ngoan là ở lại với Đức Giêsu.
Lý do thứ hai nhắc đến đặc tính của các lời Đức Giêsu. Chính Người đã nói: “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (6,63). Bây giờ Phêrô chấp nhận điều ấy: “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (c. 68). Ông đã hiểu rằng ân ban cao trọng nhất của Đức Giêsu là sự sống đời đời và nhận biết rằng Đức Giêsu nói về điều đó trong tư cách đáng tin nhất; Đức Giêsu không chỉ nói về điều đó, Người còn mang sứ điệp chắc chắn về sự sống đời đời và mở đường vào sự sống đó.
Lý do thứ ba liên hệ đến việc nhận biết bản thân Đức Giêsu. Phêrô nói về con đường giúp nhận biết như thế và nói về nội dung của nhận thức này. Nhóm Mười Hai đã ký thác và tín nhiệm hoàn toàn vào Đức Giêsu. Trên nền tảng của thái độ này, các ông đã hiểu và nhận biết rằng Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (c. 69). “Thánh” chính là điều thuộc về Thiên Chúa. Nếu Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, điều này có nghĩa là Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và được kết nối với Thiên Chúa trọn vẹn. Chính vì Đức Giêsu có một tương quan đặc biệt với Thiên Chúa, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, mà Người có những lời ban sự sống vĩnh cửu, và do đó, thật là điên rồ nếu xa lánh Người.
Qua câu trả lời ấy của ông, Phêrô đề cập đến ba chủ đề lớn của TM IV: (1) “sự sống đời đời” (36 lần; các TMNL: 14 lần); (2) “tin” (98 lần; toàn bộ Tân Ước còn lại: 145 lần); (3) “[nhận] biết”(56 lần; các TMNL: 58 lần). Lời tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu cũng chính là lời tuyên xưng tình yêu đối với Người.
+ Kết luận
Các lập trường đã rõ, các phe đã được xác định. Giuđa và những người Do-thái có thể chuẩn bị vụ xét xử Đức Giêsu. Trong thực tế, chính Con Người mới sắp xử dân bị Thiên Chúa loại trừ, ngay giữa niềm hân hoan của Lễ Lều và lễ Cung hiến Đền Thờ, là hai ngày lễ quy tụ Dân Thiên Chúa (Ga 7–10). Các môn đệ của Đức Giêsu cũng sẽ “bị xét xử”: các hoàn cảnh sống của Đức Giêsu buộc các ông phải chọn lựa dứt khoát. Chỉ có một trong hai cách: bỏ đi hoặc ở lại với Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khi suy niệm bản văn Ga 6,60-69, người tín hữu hôm nay không được phép bằng lòng với việc trách móc nhóm môn đệ đã bỏ đi hoặc khen ngợi Nhóm Mười Hai vẫn còn ở lại. Làm như thế là quên mất rằng chính mình cũng là một môn đệ, là một trong Nhóm Mười Hai. Do đó, họ phải tự hỏi: Quan niệm của tôi về Đức Giêsu lâu nay như thế nào? Tôi đang đặt những niềm chờ mong gì nơi Người? Tại sao tôi còn ở lại với Người? Những câu hỏi này bắt tôi phải ra khỏi tình trạng nửa vời để dứt khoát chọn Đức Giêsu.
2. Người ta không thể nhận biết Đức Giêsu từ xa, nhưng chỉ khi ở gần; và người ta cũng không thể nhận biết Đức Giêsu khi dựa trên sự lãnh đạm, sự chỉ trích và kiêu ngạo, nhưng chỉ nhờ tin tưởng hoàn toàn vào Người. Phêrô không nhắc lại một trong cách danh hiệu quen thuộc của Đức Giêsu; ông không nhấn mạnh trên tầm quan trọng của Người đối với loài người, nhưng ông xác định được về Người nhờ dựa trên tương quan của Người với Chúa Cha.
3. Chúng ta không được lãnh nhận Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể rồi lại đi tìm các thú vui riêng cho mình; nếu chúng ta chỉ nghĩ đến mình, chúng ta không thật sự tin vào Đức Kitô. Đức Giêsu biết khó khăn này, nên Người mời chúng ta đi vào thế giới của Thánh Thần. Nếu chúng ta đặt sự chọn lựa của chúng ta trên nền tảng là lô-gích người phàm, chúng ta sẽ thất vọng. Chỉ khi nào chúng ta có thể lắng nghe tiếng gọi của Chúa Cha, khi nào chúng ta để cho Thần Khí thúc đẩy, chúng ta mới có thể hiểu và chọn Đức Kitô.
4. Có thể nói hoạt cảnh ngắn trong đó Phêrô xuất hiện ra như là người phát ngôn của Nhóm Mười Hai là phương tiện giúp tác giả suy tư về Nhóm Mười Hai. Tác giả ghi nhận rằng Nhóm Mười Hai đã được Đức Giêsu chọn (Ga 6,70), dù không cho biết vào dịp nào và trong những hoàn cảnh nào. Do sự trung tín của họ với Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai ở vào thế tương phản với những môn đệ đã sa sút. Không giống với các môn đệ đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai ở lại với Đức Giêsu. Tuy nhiên, tương lai còn đó để Nhóm Mười Hai xác nhận sự chọn lựa của các ông: cuộc Thương Khó của Đức Giêsu sẽ là biến cố tối hậu bắt các ông phải minh định lập trường của mình.
55. Chú giải của Noel Quesson.
BÁNH HẰNG SỐNG
Đức Giêsu đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời... Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”.
Chúng ta đã đọc đến đoạn cuối của diễn từ “Bánh hằng sống". Chúng ta sẽ tìm hiểu hiệu quả bài giảng của Đức Giêsu đối với thính giả, qua ngòi bút của một nhân chứng đã đích thân tham dự buổi diễn giảng này. Có hai hiệu quả:
Đó là sự vấp phạm và khước từ của đa số cử tọa.
Nhưng cũng là sự trung thành, khiêm tốn đầy tin cậy của nhóm nhân tố "Mười Hai".
Ở đây chúng ta có chứng tích lịch sử bậc nhất về cuộc sống của Đức Giêsu. Ba thánh sử kia cũng đã ghi lại rõ ràng khúc quanh quan trọng này trong sứ vụ của vị tiên tri làng Nagiaret: Đó là cơn khủng hoảng! Cho tới bây giờ, đám đông đã đi theo và tìm kiếm Người: Ở đây Gioan đã gọi họ là "môn đệ". Nhưng các "môn đệ" này, những người đã bắt đầu đi một đoạn đường với Đức Giêsu, đang từ bỏ Người. Sự mạc khải mầu nhiệm Thánh Thể bắt đầu làm cho đa số thính giả chán ngán vào cuối chương này, chúng ta có thể đếm số môn đệ nhỏ nhoi còn lại.
Tin Mừng đã thẳng thắn không che giấu chúng ta rằng Chúa đã thất bại trong ý định giúp ta hiểu về "bánh" của Người, "Bánh đích thực". Bởi vì nói cho cùng thì ai có thể hơn Đức Giêsu để giải thích cho chúng ta vấn đề này? Hai mươi thế kỷ qua đi, chúng ta vẫn tiếp tục ngạc nhiên khi thấy những con người nam nữ già trẻ từ chối bước theo Đức Giêsu để "nhận lấy mà ăn bánh và cầm lấy mà uống rượu của Người, và như Người tuyên bố thì đó là thịt và máu của Người". Và có thể chúng ta vẫn lên án Giáo Hội về điểm đó: "ôi giá kể Giáo Hội đã không thay đổi nhanh hơn... ôi, nếu Giáo Hội có lập trường như lập trường của tôi".
Thực ra chính "đức tin" là nguyên nhân của sự việc này, chứ không phải là một truyền thống phụng vụ, văn hóa, xã hội nào đó, và Đức Giêsu sẽ nói lại điều này với chúng ta một cách rõ ràng, không chút nhượng bộ.
Nhưng Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy.
Các bạn thấy không? Đức Giêsu không cần nghe những lời lẩm bẩm đó. Người biết trước, Người không ngạc nhiên, Người đang chờ đợi những lời đó. "Đức tin" khó khăn biết bao! Vì đức tin là "khước từ cách hiểu biết thông thường, nhờ giác quan và lý trí, lý luận" để "tin vào một người khác" đó là "tin mà không thấy", như Thánh Gioan sẽ nói rất nhiều lần.
Người bảo các ông: "Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?".
Vâng lạy Thầy, điều đó làm chúng con vấp phạm. Và Thầy biết rõ như thế. Từ Hy Lạp là động từ "Scandahzô" Ở đây dịch là vấp phạm, có nghĩa là điều đó làm các ngươi bất bình, các ngươi vấp phải ta như vấp phải một hòn đá chướng ngại. Chúng ta thường có khuynh hướng làm cho đức tin trở thành một thứ giáo huấn. Nếu giảng hay, những người trẻ sẽ đi dự lễ. Họ sẽ hiểu, họ không còn "biết" gì thêm nữa. Nhưng đối với Đức Giêsu, như chúng ta đã thấy đức tin luôn gây đụng chạm! Đức tin không hẳn nhiên là thế? Đức tin luôn luôn cho ta thấy chướng. "Đức tin" không phải là một bài học được lặp đi lặp lại, "nhưng" là một dấn thân trong cuộc sống". Đức tin là một "thực hành có hiệu quả". Đức tin là một sự "thúc hối" phải chấp nhận từ bỏ ánh sáng riêng của mình, được coi là có tính khoa học, để đón nhận mạc khải của một người khác mà không thể kiểm chứng được bằng những phương thế nhân loại. “Tuyên xưng đức tin" thực sự, không phải là đọc kinh Tin kính hay một "công thức" nào hay nhất do bộ óc văn minh của chúng ta, mà là thực hành không gì Chúa đã dạy. Mầu nhiệm trung tâm của đức tin, chắc chắn là Bí tích Thánh Thể. Khi ta nói "Người Kitô hữu là người đi dự lễ", thì ta chưa nói hết. Nhưng ta đã nói một phần nào cốt yếu, nếu ta hiểu Thánh lễ như chúng ta đang cố cử hành với chính Chúa Giêsu. Đức tin đó là một "quyết định". Quyết định này bao gồm hai khía cạnh:
1 “An bánh hằng sống”.
2. "Sống đời mình bằng yêu thương hữu ích".
Thế khi anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?
Làm sao người này có thể cho thịt của mình để chúng ta ăn? Chính vì người này không chỉ là một con người. Đức Giêsu, thay vì rút lại lời khẳng định của mình hay là giải thích hoặc làm giảm nhẹ chúng, Người lại nhấn mạnh bằng cách gợi cho chúng ta một "mầu nhiệm" khác mà mầu nhiệm Thánh Thể chỉ là sự diễn dịch. Chúng ta đang thực sự ở trong đề tài Nhập Thể của Thiên Chúa. "Thần Khí" trở thành xác phàm.
Đây thực là một mầu nhiệm "thần linh" (không ai đã thấy Chúa) và vì thế con người không thể tự sức riêng mà hiểu được. Đức Giêsu ám chỉ rõ ràng "hữu thể thần linh của Người". Người nói Người sẽ trở về nơi mà trước kia Người đã ở. Chúng ta hãy lưu ý tới giọng nói hạch hỏi của Đức Giêsu này. Câu nói của Người hầu như chưa dứt: "Và khi anh em sẽ thấy Con Người lên nơi mà Người đã ở trước thì sao?".
Vâng, xuyên qua sự tối tăm, vẻ tầm thường, sự thân mật nơi thân phận con người hiện tại của Đức Giêsu, cần phải tiến đến sự khám phá vinh quang của Chúa Ba Ngôi. Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha, trong sự sống động của Thần Khí, mà Người đã lãnh nhận từ Chúa Cha. "Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi và Tôi sống nhờ Chúa Cha, thế nào thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy".
Thực sự chúng ta không biết sự sống là gì: sự sống bình thường của thảo mộc, cũng như động vật, không ai, không một nhà bác học nào đã có thể nói sự sống là gì?
Vậy thì “sự sống" của Thiên Chúa thì sao? Những phương tiện để hiểu biết mà con người có được đều bất lực, không thể giúp hiểu mầu nhiệm này. Người ta không thể giải thích Bí tích Thánh Thể chỉ bằng lý trí con người: Mầu nhiệm này thật vĩ đại, khôn dò, đó là mầu nhiệm đức tin.
Thần khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì
Lạy Chúa, xin lặp lại cho con những lời đó. Ước chi những lời này không làm cớ cho con vấp phạm và nghi ngờ.
Những lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ không tin. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người.
Hơn mọi lời khác, lời Chúa, nói về phép Thánh Thể, đã giả định trước tác động của Chúa thánh Thần. Chúng ta thực sự đang ở trung tâm điểm của Tin Mừng. Làm sao có thể giản lược Tin Mừng vào những giải thích luân lý: Đức Giêsu con người vĩ đại nhất, nhà hiền triết, vị ngôn sứ nhà cách mạng, là phong trào xã hội, là giải phóng... tất cả đều đúng, nhưng không phải là bản chất riêng của Chúa. Có một khía cạnh nổi bật khác, không thể thu nhỏ được mà chúng ta gọi là thần linh! Tức là vô hình, vượt trên tất cả. Chúng ta chỉ thấy được một phần nào siêu việt qua con người hữu thể của Người, mà phải mất một chút đoán nhận ra "ngang qua xác thể" nhưng đó vẫn thuộc về trật tự Thần khí và Sự sống.
Người nói: "Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho".
Chúng ta đang ở trong mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa, sự sống của Ba Ngôi. Hình trạng Chúa Ba Ngôi của Rublev đã diễn tả mầu nhiệm này cách kỳ diệu.
Ba nhân vật ngồi chung quanh một “cái bàn" và chỉ dùng một "chén". Tam vị nhất thể được tiếng trưng bằng một vòng tròn mà chu vi bên ngoài của ba ngôi vẽ nên cách ăn khớp tuyệt hảo. Là 3 hình nhưng để tạo nên một vòng duy nhất. Đó là một vòng tròn sống động luôn vận chuyển. Chúa Cha chủ tọa bên kia bàn. Người nhìn bằng cái nhìn tình yêu xuyên suốt trái tim, lồng ngực của Chúa Con. Còn Chúa Con lại nhìn sang Chúa Thánh Thần. Nhưng ta hãy nhìn kỹ dung mạo của Ngôi Ba và cử động bàn tay phải của người: Cả mặt và tay hướng xuống đất! Hình tròn được mở về phía chúng ta là những người đang đứng phía trước bàn, để ngắm nhìn "hình" này. Vâng, sự sống của Ba Ngôi được ban cho chúng ta, tại chiếc bàn này: Thần khí là sự sống được ban cho chúng ta, được dâng tặng cho chúng ta. Thiên Chúa, vì là Tình yêu, nên rõ ràng Người không thể ép buộc ai.
Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa. Nên Đức Giêsu mới hỏi Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?".
Dường như Chúa nói': "Tôi không giữ anh em, anh em được tự do”. Trong cuộc xung đột đang xảy ra giữa những "môn đệ ra đi" và những người ở lại với Chúa, trong cuộc xung đột giữa cha mẹ và con cái chẳng hạn... chúng ta hãy nhớ lời của Chúa: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? “ông Simon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh, phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa".
Đây là những lời đầy khiêm hạ và đơn thành: "Bỏ Thầy, thì chúng con biết đến với ai bây giờ". Lời nói chứa chan tình yêu và sự phó thác, vì đối với họ, Đức Giêsu là Đấng "không ai có thể thay thế được". Tuy nhiên chúng ta nên ghi nhớ, Nhóm Mười Hai đêm trước đã có một kinh nghiệm có thể soi sáng cho họ: Giữa phép lạ hóa bánh ra nhiều và diễn từ về Bánh hằng sống là thịt của Người các ông đã thấy thân thể đó "bước đi trên mặt nước hồ đang nổi sóng dữ dội trong cơn bão tố" (Ga 6,16-21). Thân thể này không có trọng lượng như chúng ta. Đó là Thánh Thể Đấng Thánh của Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại giới hạn Thiên Chúa vào trong khả năng hiểu biết của chúng ta? Thiên Chúa vượt mọi khả năng của chúng ta. Điều đó thật hiển nhiên!
56. Chú giải của William Barclay.
THẦN KHÍ TỐI QUAN TRỌNG (Ga 6,59-65)
Chúng ta không mấy ngạc nhiên khi thấy các môn đệ cho rằng bài giảng của Chúa Giêsu thật khó lãnh hội. Từ Hy Lạp skleros không có nghĩa là khó hiểu, nhưng có nghĩa là khó chấp nhận. Các môn đệ biết rất rõ Chúa Giêsu tự xưng là sự sống từ Thiên Chúa đến trần gian. Chẳng có ai có thể sống hoặc đối diện với cõi đời đời nếu không tin nhận và tùng phục Ngài.
Đến đây chúng ta gặp một chân lý nổi bật trong mọi thời đại. Nhiều khi người ta khước từ Chúa Kitô vì không đáp ứng nổi tiêu chuẩn đạo đức mà Ngài đòi hỏi, chứ chẳng phải vì không biết Ngài. Khi thành thật suy nghĩ về vấn đề này, chúng ta bắt buộc nhìn nhận lại tâm điểm của mọi tôn giáo đều phải có mầu nhiệm, lý do đơn giản vì trung tâm của mọi tôn giáo đều có Thiên Chúa. Tâm trí loài người chẳng bao giờ hiểu được đầy đủ trọn vẹn về Thiên Chúa. Bất cứ một nhà tư tưởng chân chính nào cũng phải chấp nhận mầu nhiệm.
Chỗ khó thật sự của Kitô giáo gồm hai phương diện: Một là đòi hỏi tùng phục Chúa Kitô, nhận Ngài có quyền uy tối hậu, hai là đòi hỏi tiêu chuẩn đạo đức cao nhất. Các môn đệ vốn hiểu rất rõ Chúa Giêsu tự xưng chính Ngài là sự sống, là thần trí của Thiên Chúa xuống thế gian. Cái khó của họ là chấp nhận điều đó là đúng, với tất cả những gì tiềm ẩn trong đó. Đến nay có nhiều người chấp nhận giáo lý, nhưng có những người lại không theo nổi tiêu chuẩn sống của Ngài.
Cho nên Chúa Giêsu tiếp tục –không nhằm cố gắng chứng minh cho lời tự xưng của Ngài- mà Ngài nói rõ sẽ có ngày các biến cố xảy ra chứng minh điều đó. Ngài nói: “Các ngươi thấy khó tin Ta là bánh, là phần thiết yếu cho sự sống, từ trời xuống. Rồi các ngươi không còn thấy khó tin nữa, khi chứng kiến Ta trở lên trời”.
Đây là lời báo trước sự thăng thiên. Điều đó có nghĩa là Phục Sinh bảo đảm cho tất cả các lời tuyên bố của Ngài. Chúa Giêsu không phải là một người sống cao quý và chết dũng cảm cho một chính nghĩa bị thất bại. Ngài là Đấng mà những lời tự xưng được ứng nghiệm bởi sự kiện Ngài chết rồi sống lại. Chúa Giêsu tiếp tục dạy rằng điều tối quan trọng là quyền ban sự sống của Thần Khí, xác thịt chẳng ích gì cả. Thật đơn giản để hiểu phần nào ý nghĩa của nó – điều quan trọng hơn hết, đó là tinh thần ở trong mọi hành động. Giá trị của bất cứ vật gì là tùy ở mục đích của nó. Nếu chỉ ăn để mà ăn thì chúng ta trở thành kẻ tham ăn, như thế có hại hơn là lợi. Nếu chúng ta ăn để bảo tồn sự sống, để làm việc tốt hơn, để giúp thân thể thích ứng với đỉnh cao nhất của nó thì thức ăn mới có ý nghĩa đích thực. Nếu một người dành thì giờ để chơi thể thao chỉ vì thể thao mà thôi, thì trong phạm vi nào đó anh ta đã phí thời giờ của mình. Nhưng nếu người ấy chơi thể thao để thân thể tráng kiện, nhờ đó, có thể phục vụ Thiên Chúa và loài người đắc lực hơn thì thể thao lại trở thành quan trọng. Mọi điều liên hệ đến xác thịt có giá trị hay không tùy thuộc vào tinh thần nó được thực hiện.
Chúa Giêsu tiếp: “Lời Ta là Thần Khí và là sự sống”. Chỉ một mình Chúa Kitô cho chúng ta biết sự sống là gì, đặt trong chúng ta phần tinh thần hướng dẫn cuộc đời và ban cho chúng ta năng lực để sống cuộc đời ấy. Sự sống có giá trị hay không là tùy chủ đích, mục tiêu nó nhắm tới. Chỉ một mình Chúa Kitô định cho chúng ta mục địch, chủ đích thực của đời sống, và cũng chỉ một mình Ngài ban cho chúng ta năng lực để thực hiện mục đích ấy, chống lại những nghịch cảnh bên ngoài.
Nhưng Chúa Giêsu biết rõ nhiều người không chỉ khước từ suông lời đề nghị của Ngài, mà còn chối bỏ với lòng đố kỵ, thù ghét nữa. Không ai có thể tin nhận Chúa Giêsu trừ phi được Thánh Thần tác động. Nhưng con người cũng có thể chống lại Thánh Thần cho đến ngày cuối cùng. Một người như thế không phải bị Thiên Chúa loại ra, nhưng chính người ấy đã tự loại mình ra.
NHỮNG THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI CHÚA KITÔ (Ga 6,66-71)
Đoạn này được viết theo linh tính về thảm họa sắp xảy ra, vì đây là phần bắt đầu của giai đoạn cuối cùng. Nhiều người kéo đến theo Chúa Giêsu, lúc Ngài dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem. Họ đã thấy các phép lạ Ngài làm và tin danh Ngài, số người kéo đến xin các môn đệ làm phép rửa thì đông, không kể xiết (2,23; 4,1-3). Tại Samari, nhiều việc lớn đã xảy ra (4,1.39.45). Tại Galilê, mới ngày hôm trước dân chúng hãy còn kéo theo Ngài rất đông (6,2), nhưng bây giờ giọng văn mô tả đã thay đổi. Từ nay trở đi, sự oán ghét ngày càng chồng chất cho đến khi đạt đến tột đỉnh là thập giá. Gioan đã hé mở màn cuối của thảm kịch. Chính trong những hoàn cảnh này, người ta mới thấy rõ lòng người và hiểu được bộ mặt thật của họ. Và trong những hoàn cảnh như thế, đã có ba thái độ khác nhau đối với Chúa Giêsu.
1. Có sự bỏ cuộc. Nhiều người quay lưng lại, không đi theo Ngài nữa. Họ bỏ đi vì nhiều lý do. Một số người trong đám đông họ đã thấy rõ Chúa Giêsu đi về đâu. Không thể thách thức giới caầm quyền như Ngài đã làm mà tránh khỏi hậu hoạn. Chúa Giêsu đang đi vào thảm họa và họ đã rút lui kịp thời, họ là hạng người tùy thời. Người ta bảo muốn thử một đạo quân, hãy xem cách đạo quân ấy đánh giặc khi mọi người đều mỏi mệt. Nếu sự nghiệp Chúa Giêsu cứ đi lên, chắc những người kia chưa quay lưng, nhưng ngay khi nhìn thấy bóng thập giá, họ liền bỏ Ngài. Có một số người khác bỏ Chúa vì trốn tránh thách thức của Ngài. Quan điểm cơ bản của họ là theo Chúa để được một cái gì đó, nên khi phải chịu khổ vì Ngài, phải mất một chút gì đó cho Ngài là họ bỏ đi ngay.
Nếu theo Ngài mà thơ mộng, huy hoàng, chắc họ bám sát Ngài, nhưng khi đường đi trở thành khó khăn, theo Ngài đòi hỏi một điều khó làm thì họ bỏ Ngài. Việc họ tìm thầy học đạo hoàn toàn do những động lực ích kỷ. Thật ra chẳng có ai ban cho chúng ta nhiều hơn Chúa Giêsu. Nhưng nếu chúng ta chỉ đến với Ngài nhằm mục đích thu vào chứ chẳng cho ra, chắc chắn chúng ta phải trở lui. Những ai muốn theo Chúa Giêsu phải nhớ đường theo Ngài là thập giá.
2. Có sự suy thoái. Chúng ta thấy điều này nơi Giuđa rõ hơn hết. Chúa Giêsu đã thấy ông là người có thể dùng cho chủ đích của Ngài. Nhưng thay vì trở thành anh hùng, Giuđa lại trở nên tên vô lại, và đáng lẽ là thánh nhưng lại là một tên ô nhục. Câu chuyện của họa sĩ vẽ bức tranh Bữa Tiệc Ly là một kinh nghiệm đáng sợ. Đó là một bức tranh khổng lồ, đòi hỏi họa sĩ phải mất nhiều năm để vẽ. Tìm một người mẫu để vẽ Chúa Giêsu, ông gặp một thanh niên có gương mặt đẹp đẽ, thuần khiết và siêu thoát, ông thuê chàng làm người mẫu. Bức tranh cứ được bổ túc, ông vẽ hết môn đệ này đến môn đệ nọ, một ngày kia, ông cần một người để vẽ Giuđa, mà ông có ý để vẽ sau cùng. Ông đi ra, tìm trong số người hèn hạ nhất trong thành phố, đến cả nơi hang ổ những kẻ xấu xa nhất. Cuối cùng ông gặp được một người, bộ mặt in hằn dấu vết một kẻ trụy lạc vô cùng xấu xa. Ông thuê người này là mẫu. Khi bức tranh hoàn tất, người mẫu nói với họa sĩ: “Trước đây đã có lần ông vẽ tôi rồi”. Họa sĩ đáp: “Chắc chắn là không”. Người nọ bảo: “Ồ có mà, lần trước ông đã vẽ tôi, ông dùng tôi làm mẫu để vẽ Chúa Giêsu”. Năm tháng đã tạo nên sự suy thoái khủng khiếp. Thời gian thật bạo tàn, nó có thể cướp đi những lý tưởng, những hăng say, những mơ ước và sự trung thành của chúng ta, có thể để lại nơi chúng ta một đời sống ngày càng nhỏ nhoi thay vì càng cao đẹp. Nó có thể lưu lại cho chúng ta một tấm lòng đã chai lỳ thay vì được rộng mở trong tình thương của Chúa Giêsu. Cuộc đời có thể làm mất đi vẻ đẹp đáng yêu của chúng ta. Nguyện xin Chúa cứu chúng ta ra khỏi tình trạng đó.
3. Có sự quyết định. Đây là cách Gioan viết lại lời xưng nhận quan trọng của Phêrô tại Xêdarê Philipphê (Mc 8,27; Mt 16,13; Lc 9,18). Chính trong một hoàn cảnh như thế, người ta đã thấy lòng trung thành của Phêrô. Đối với Phêrô, có một điều thật đơn giản là chẳng còn có ai đang cho ông đi theo hơn là Chúa Giêsu. Với ông, chỉ có Ngài mới có lời đem lại sự sống đời đời.
Lòng trung thành của Phêrô căn cứ trên mối liên hệ cá nhân với Chúa Giêsu Kitô. Có nhiều điều Phêrô không hiểu, ông cũng bối rối, lạc lõng như bất cứ ai khác. Nhưng nơi Chúa Giêsu có một cái gì khiến ông sẵn sàng hy sinh tính mạng. Nói cho cùng, Kitô hữu không phải là một triết lý mà chúng ta chấp nhận hoặc một lý thuyết buộc chúng ta phải trung thành. Nó là sự đáp ứng cá nhân với Chúa Giêsu Kitô. Đó là lòng trung thành và tình yêu mà một người hiến dâng, vì tấm lòng người ấy không cho phép người ấy làm gì khác hơn nữa.
57. Vừa vừa thôi chứ.
- Tiếng kêu người ta thốt ra khi không còn kiên nhẫn được nữa
1* Mấy đứa con cái cãi nhau: cha mẹ không còn kiên nhẫn được, nổi giận la rầy: “Vừa vừa thôi chứ” (biểu lộ một phản đối). 2* Một ai đó cảm thấy mình bị tấn công bởi nhiều điều thái quá do kẻ khác gây ra như nói năng, đòi hỏi quá mức “Vừa vừa thôi chứ” (biểu lộ đã tới cùng tận mức chịu đựng rồi) 3* Một ai đó gây ra tiếng ồn quá mức, ta không chịu đựng nổi “Vừa vừa thôi chứ ---- Các môn đệ Chúa “Lời này chướng tai quá”! Các ông bực bội vì các ông coi như bị Chúa tấn công bởi Chúa tuyên bố điều thái quá
Chúa Giêsu đối diện với những hạn chế: Sau diễn từ về Bánh Hằng Sống, trong đó Chúa Giêsu tuyên bố Ngài từ trời mà đến và Ngài ban thịt máu mình làm của ăn. Các môn đệ thấy những lời này không thể chịu nổi. Vì, Chúa Giêsu là con ông Giuse thế mà dám tự xưng mình từ trời xuống. ‘Quá sức chịu đựng, các ông không dám la hét phản đối, nhưng lẩm bẩm chống lại’. Chúa Giêsu đã đẩy họ tới mức tận cùng của sự chịu đựng.
Chúa Giêsu phản ứng thế nào? Có giữ vững lập trường không? Ngài có làm giảm nhẹ lời nói của mình không? Thí dụ như bảo họ rằng: họ đã hiểu lầm lời Ngài? Câu trả lời của Chúa Giêsu thật tế nhị: Ngài khg rút lại lời Ngài đã nói nhưng MỜI GỌI CÁC ÔNG ĐI XA HƠN và chỉ cho các ông THÁI ĐỘ CẦN PHẢI CÓ. “Nếu các con thấy Con Người lên nơi Ngài đã ở trước kia thì sao?”. Ngài muốn nói: Khi các con nhìn thấy Ta lên trời lúc đó các con sẽ hiểu rằng Ta từ trời xuống và điều đó sẽ không còn là cớ vấp phạm cho các con nữa. Ngài mời các ông nhìn xa hơn tình hình hiện tại đang thử thách các ông và làm cho các ông vấp ngã. * Ngài đưa ra cho các ông cách giải quyết: Đừng xét đoán Ngài theo xác thịt, theo dáng bề ngoài, theo tiêu chuẩn của loài người. Nhưng hãy theo Thần Khí tức là tin vào lời Ngài nói: “Những lời Thầy nói với các con là Thần Khí và là Sự Sống”. Từ nhữg dấu chỉ mà họ nhìn thấy: Phép lạ bánh hoá nhiều, đi trên mặt biển, Chúa thúc các ông tin lời Ngài một cách vô điều kiện. Điều này vượt tầm mức của các ông. Một số quyết định: không theo Ngài nữa. Còn NHÓM MƯỜI HAI: “Các con có muốn bỏ đi không?”. Chúa Giêsu không muốn gây áp lực trên nhóm 12 hoặc thu hút lòng thương hại của các ông. Chúa đòi các ông đưa ra một quyết định, một quyết định của ý chí, một sự tuyên xưng. Phêrô nhân danh nhóm đáp trả một cách vô điều kiện, không giới hạn: MUỐN GẮN BÓ VỚI THẦY. “Bỏ Thầy…”. Câu nói này khẳng định mạnh mẽ sự thán phục của ông đối với Chúa Giêsu: “Chúng con không có ai xứng đáng hơn Thầy để theo cả. Không có sự chọn lựa nào khác. Chỉ nơi Thầy, cuộc đời chúng con mới có ý nghĩa.
Phêrô đưa ra lý do của việc chọn lựa vô điều kiện này: “Lời Chúa Giêsu và căn tính của Chúa Giêsu. 1) Nhóm 12 gắn bó với Chúa vì Chúa mới có những lời ban sự sốg đời đời. Nhữg mdệ bỏ đi vì những lời này quá đòi hỏi và các ông cảm thấy không thể sống nhờ chúng được. Tuân giữ nhữg lời này sẽ thực sự khó mà sống được. Đối với nhóm 12 thì ngược hẳn lại. 2) Nhờ lắng nghe lời Chúa mà các ông nhận ra căn tính của Chúa. Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa. “Về phần chúng con, chúng con tin ….”. ĐỨC TIN đi trước việc HIỂU BIẾT. Các ông TIN ĐỂ HIỂU, trong lúc nhữg người bỏ đi thì muốn HIỂU trước đã, vì họ khôg tin Chúa. Như vậy, nhóm 12 đã nhận ra nơi Chúa Giêsu một con người mà Thiên Chúa đã thánh hoá để thi hành sứ vụ cứu độ nhân loại. Trong lúc nhữg người kia chỉ nhìn thấy nơi Chúa Giêsu là “con ông Giuse mà chúg tôi biết rõ cha mẹ”.
NƠI CHÚNG TA: Chúng ta cũng trải qua những thử thách về đức tin. Cuộc sống mang đến cho chúng ta thử thách này: thất bại, bệnh tật, bất công, hiểu lầm, nghi kỵ, đói kém, khỗ đau. Thiên Chúa đang làm gì? Chúg ta không hiểu, chúng ta bị cám dỗ buông thả. Chúa Giêsu nhắc chúng ta: “Các con có muốn bỏ đi không? Lúc đó chúng ta phải đáp trả. Đáp trả ra sao?
Theo gương Chúa Giêsu: “Không theo ý con, nhưng theo ý Cha”. Chúng ta hãy đáp trả theo hướng đó.
25/08 Luật sĩ và biệt phái giả hình
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Luật sĩ và biệt phái giả hình.
Thứ Bảy tuần 20 thường niên.
"Họ nói mà không làm".
Lời Chúa: Mt 23, 1-12
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm.
Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta: còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy". Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là "Thầy", vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là "cha", vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là "người chỉ đạo": vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Đức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Ðề phòng thái độ giả hình
Theo các văn thư của Ðức Giáo Hoàng Innocentê để lại, thì thời của Ngài, tức thế kỷ 12, là một trong những thời kỳ suy thoái nhất của giáo huấn về đức tin và luân lý: tệ đoan lan tràn khắp nơi, các phe phái quá khích nổi lên, nhiều người phê bình chỉ trích các vị lãnh đạo Giáo Hội vì cuộc sống phản chứng của các ngài.
Lúc đó thánh Phanxicô Assisiô xuất hiện, ngài không chỉ trích ai, nhưng ý thức rằng kẻ phải ăn năn sám hối trước tiên là chính ngài; ngài không khoe khoang, không tham lam, không giả hình, nhưng cố gắng sống đạo một cách nghiêm túc; ngài đi cho đến tận cùng trọng cuộc sống nghèo khó, bác ái, phục vụ, khoan dung. Lý tưởng của thánh Phanxicô chẳng mấy chốc đã được nhiều người chia sẻ, Giáo Hội được hồi sinh, nhiều tâm hồn được đổi mới, mùa xuân thiêng liêng được nở rộ nhiều thế kỷ liên tiếp.
Trong giai đoạn hiện nay, mẫu gương của thánh Phanxicô Assisiô thôi thúc chúng ta hơn bao giờ hết.
Tin Mừng hôm nay không phải là một bản án trút xuống một vài thành phần nào đó trong Giáo Hội, mà phải là một lời mời gọi sám hối cho mọi người. Quả thật, Chúa Giêsu không chỉ kết án thái độ giả hình của những biệt phái, mà còn kêu gọi mọi người hãy đề phòng thái độ giả hình ấy. Giả hình là căn bệnh chung của tất cả những ai mang danh Kitô. Thật thế, nếu giả hình là tách biệt giữa niềm tin và cuộc sống, thì có ai trong chúng ta dám tự phụ mình không rơi vào một thái độ như thế? Giả hình vẫn là cơn cám dỗ cơ bản và triền miên trong cuộc sống người Kitô hữu. Khi căn tính Kitô chỉ là một danh xưng mà không được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày, khi sinh hoạt tôn giáo chỉ đóng khung trong bốn bức tường nhà thờ, khi lòng đạo đức được thúc đẩy bởi khoe khoang, tự phụ, khi cuộc sống đạo không là lối sống về niềm tin, mà là trở ngại cho nhiều người đến với Chúa và Giáo Hội, phải chăng đó không là một cuộc sống giả hình?
Câu hỏi mà chúng ta không ngừng đặt ra là cuộc sống đạo của tôi có thực sự là một đóng góp vào việc cải tạo một xã hội đang băng hoại về đạo đức và những giá trị tinh thần không? Giáo Hội mà tôi là thành phần, có xứng đáng là điểm tựa đạo đức cho nhiều người không?
Xin Chúa soi sáng hướng dẫn chúng ta để chúng ta không ngừng nhìn lại bản thân và nhận ra những thiếu sót lầm lỡ trong cuộc sống đạo, ngõ hầu từ đó chúng ta quyết tâm vươn lên mỗi ngày trên đường theo Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Trung Thực Với Lời Nói
Những lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với các kinh sư, những nhà thông thái Kinh Thánh biết rõ về Luật Môsê để giảng dạy cho dân chúng được hướng tới hai tật xấu quan trọng là giả hình và khoe khoang. Giả hình vì nếp sống cụ thể của họ không phù hợp với những gì họ giảng dạy cho dân chúng. Họ nói mà không làm, họ giải thích Luật Môsê cách tỉ mỉ nhưng là để cho kẻ khác tuân giữ còn họ thì không thèm động ngón tay vào đó. Thật ra không phải là họ không tuân giữ, vì họ luôn ăn chay, bố thí cho đền thờ, họ cầu nguyện, họ đọc Kinh Thánh. Nhưng họ làm tất cả những điều này để làm cho người ta trông thấy, để được khen thưởng, được danh lợi. Họ làm những điều tốt lành đó là để khoe khoang, là để được người khác nhìn thấy, là để được tranh hơn thiệt, để được chỗ ngồi danh dự, để được gọi là thầy, đó là họ thực hành những hình thức bên ngoài và không có tinh thần tôn thờ và yêu mến Chúa nơi chính họ. Chúa Giêsu trách những kinh sư và biệt phái như thế là để cảnh tỉnh các môn đệ đừng đi vào con đường không tốt.
Việc người thì sáng, việc mình thì quáng. Chúng ta dễ dàng nhìn thấy và phơi bày những tật xấu của anh chị em nhưng lại làm ngơ hoặc che dấu những tật xấu của chính mình. Trước đó, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh các môn đệ Người như sau: "Nếu sự công chính của các con không hơn sự công chính của các kinh sư và những biệt phái, thì các con sẽ không được vào Nước Trời; các con đừng để ai gọi mình là Thầy, vì chỉ có một Thầy, còn tất cả các con là anh chị em với nhau". Cộng đoàn các môn đệ chỉ có một Chúa Giêsu là Thầy và một Thiên Chúa là Cha. Chúng ta nên lưu ý đoạn Tin Mừng này không có ý chối bỏ quyền hành trong cộng đoàn những đồ đệ, nhưng chỉ chống lại lòng ham quyền, ham danh, lạm dụng địa vị để phục vụ cho cái tôi cao ngạo của mình. Những con người ham quyền ham danh như vậy muốn chiếm chỗ của Thiên Chúa trong tâm hồn anh chị em.
Chúa Giêsu không loại bỏ tác vụ phục vụ cộng đoàn để hướng dẫn cộng đoàn: "Ai nghe các con là nghe Thầy", nhưng Chúa muốn lưu ý rằng những thừa tác viên của Chúa có trách nhiệm đối với cộng đoàn cần sống nêu gương cho anh chị em, thực hành trung thực những gì mình rao giảng.
"Ai làm lớn trong các con phải là kẻ phục vụ cho tất cả". Quyền hành trong cộng đoàn những kẻ tin Chúa là quyền thừa tác nhân danh Chúa và phục vụ anh chị em, giúp anh chị em đến với Chúa chứ không phải là để cho quyền hưởng lợi cá nhân. Tất cả mọi thành phần trong cộng đoàn, những đồ đệ đều phải hướng về cùng một điểm trung tâm duy nhất là Thiên Chúa Cha và sống hiệp nhất, hiệp thông với nhau trong Chúa Kitô.
Lạy Chúa,
Xin giải thoát các con khỏi cám dỗ sống giả hình, khoe khoang. Xin thương củng cố chúng con tất cả trong ơn gọi và sứ mạng riêng biệt của mình nơi cộng đoàn dân Chúa. Xin đổ tràn ơn Chúa Thánh Thần xuống trên các con, giúp các con hiểu biết và yêu mến Chúa hết lòng và dấn thân hết sức mình phục vụ lẫn nhau vì yêu mến Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Phục Vụ Người Khác.
Bấy giờ Đức Giêsu nói với đám đông và các môn đệ Người rằng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ của họ mà làm, vì họ nói mà không làm.
Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên. (Mt. 23, 1-3. 12)
Chúa nhấn mạnh: “Người lớn hơn cả phải là người phục vụ anh em” lần thứ nhất, Người nói với các môn đệ: “Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, là người lớn nhất trong Nước Trời” (Mt. 18, 4) Khi Phê-rô lên tiếng thay cho các tông đồ hỏi: “Chúng con sẽ được gì?” Đức Giêsu đáp: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, nhiều kẻ đứng hàng chót sẽ được lên đầu.” (Mt. 19, 30). Rồi Người kết thúc dụ ngôn thợ làm vườn nho thế này: “Thế là kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và những kẻ đứng hàng đầu sẽ đứng chót.” (Mt. 20, 16). Sau đó một chút, Đức Giêsu còn nhắc lại: “… Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải là người phục vụ anh em. Ai muốn làm đầu giữa anh em, thì phải là người phục vụ anh em. Ai muốn làm đầu giữa anh em, thì phải làm đầy tớ anh em” (Mt. 20, 26-27) Chúa lên Giê-ru-sa-lem lần cuối cùng, người lại kêu gọi các tông đồ: Ai giầu có về tài năng, về sáng kiến, về thông minh, về tấm lòng, phải làm đầy tớ! vì chính con người, đứng hàng đầu phải làm người đứng chót! “Chính con người đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ, và thí mạng sống mình” (Mt. 20, 28).
Chỉ cho tiền …
Đức Giêsu khiển trách Pha-ri-sêu và luật sĩ thời đó, và cả thời chúng ta nữa: không giúp đỡ anh em! càng giầu, người ta càng phải cho đi! cho đi tiền của có thể là một lăng nhục, nếu người ta chỉ vì cậy có tiền.
Tiền không diễn tả được sự hy sinh hiến thân, tiền của giầu sang không làm cho ai hài lòng, bởi vì khi cho tiền, họ lại trở nên kẻ biển lận mà họ có.
Chúng ta cần lưu ý Chúa luôn luôn nói với những người giầu: chính họ cần thiết phải sống theo Tin Mừng … Vậy người ta có can đảm dùng mọi của cải giầu có, dùng mọi quyền thế đề phục vụ người nghèo vì thực thi Tin Mừng không?
J.M
SUY NIỆM 4: HÃY TRỞ NÊN CHỨNG NHÂN (Mt 23, 1-12)
Xem lại CN 31 TN A, thứ Ba tuần 2 MC.
Đức cố Giáo hoàng Phaolô VI đã nói như sau: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân" (Thông điệp "Evangelii Nuntiandi" số 41).
Còn thánh Augustinô thì nói: “Chúng ta là tiếng, Đức Giêsu là Lời, là nội dung của tiếng, của âm thanh”.
Như vậy, người rao giảng Lời Chúa, phải là người trung thành. Trung thành với Lời Chúa và sứ điệp của Ngài. Trung thành với sứ vụ qua lời loan báo. Trung thành với nội dung Tin Mừng. Không thể chấp nhận người tông đồ ra đi loan báo Lời Chân Lý, mà họ lại thuộc về thành phần: “Ngôn hành bất nhất”, tức là không thật, hai lòng, nói một đàng, làm một nẻo.
Sự giả tạo này được Đức Giêsu cho thấy qua hình ảnh những người Pharisêu:“Họ là những người nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào”; mặt khác, họ còn là những người thích sống hình thức đến độ: “Nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là ‘Thầy’. Đức Giêsu không muốn để các môn đệ của mình rơi vào tình trạng như vậy, nên Ngài quay sang các ông và nói: “Phần các con thì không được vậy…”.
Vì thế, người tông đồ phải là người: “Nhất ngôn, nhất hành”, nếu không, thay vì làm chứng, chúng ta lại rơi vào tình trạng phản chứng.
Thoạt nghe, chúng ta có thể dè lưỡi, bữu môi khinh chê những người Kinh Sư và Pharisêu! Nhưng thực ra, nếu lắng đọng lại một chút thì hẳn lời trách móc của Đức Giêsu khi xưa lại là lời cảnh tỉnh cho chính chúng ta hôm nay.
Thật vậy, đã biết bao lần chúng ta sống trong cung cách của những kẻ bất nhân. Không khoan nhượng. Không cảm thông. Sống xa hoa, hình thức, kỳ thị, ích kỷ, kiêu căng, trác táng, ngông nghênh, ngạo nghễ và xét đoán...
Những lúc như thế, ấy là lúc nhãn hiệu Kinh Sư và Pharisêu vẫn lủng lẳng quanh cổ chúng ta! Và như một hệ lụy, chúng ta nói về Chúa là đấng nhân từ, hiền hậu, khiêm nhường và yêu thương làm sao khi hình ảnh của Ngài đang méo mó nơi hành động xấu xa, lời nói chua chát, lối sống buông thả... của ta! Như vậy, chúng ta trở thành những người đang phá hoại sứ điệp yêu thương của Chúa.
Lời Chúa hôm nay nhắn gửi chúng ta cần phải tránh những thứ xa hoa, diêm dúa bên ngoài. Hãy tập trung vào cốt lõi của Tin Mừng là yêu thương, chứ đừng giả dối như những Kinh Sư và người Pharisêu khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, nhiều khi chúng con tìm mọi cách để uốn nắn ý của Chúa theo ý chúng con. Nhiều khi chúng con tìm vinh dự và muốn được trọng vọng bản thân thay vì làm vinh danh Chúa. Những lúc đó, chúng con đã đi sai đường, trệch lối theo tinh thần của Chúa, xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Là anh em với nhau
Suy niệm:
Nửa sau của bài Tin Mừng hôm nay
có thể làm chúng ta bị sốc.
Ðức Giêsu bảo ta đừng để ai gọi mình là thầy,
vì chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo là chính Ngài;
cũng đừng gọi ai là cha,
vì chỉ có một Cha là Thiên Chúa trên trời.
Vậy mà chúng ta vẫn gọi nhiều vị trong Hội Thánh
là cha, là Ðức Thánh Cha,
là giáo phụ, thượng phụ, viện phụ...
Chúng ta có làm sai lời Chúa dạy không?
Ta có phải hiểu theo nghĩa đen lời của Ðức Giêsu không?
Hội Thánh sơ khai đã không hề hiểu theo nghĩa đen.
Thánh Phaolô đã coi mình là cha sinh ra các tín hữu,
đã gọi họ là con (1Cr 4,14-17; Gl 4,19).
Hội Thánh cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr 12,28),
và những vị lãnh đạo (Cv 15,22; Rm 12,8)
Vậy đâu là điều Ðức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta?
Chắc chắn Ngài không hề muốn phá bỏ
những cơ cấu cần thiết cho thân thể Hội Thánh,
Ngài cũng không loại bỏ phẩm trật và quyền hành.
Ngài chỉ muốn chúng ta đừng quên:
mọi quyền bính trong Hội Thánh
đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về Thiên Chúa.
Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo,
thì vì họ được chia sẻ quyền làm Thầy của Ðức Giêsu.
Nếu họ được gọi là cha,
thì vì họ được chia sẻ quyền làm Cha của Thiên Chúa.
Dù có chức vụ hay chức vị gì trong Hội Thánh,
tôi cũng không được quên chân lý này:
còn tất cả anh em đều là anh em với nhau,
con một Cha trên trời.
Chỉ có một vị Thầy là Ðức Giêsu.
Nhưng Thầy Giêsu lại sống như bạn của các môn đệ,
như anh em với họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50),
và nhất là như tôi tớ phục vụ họ (Mt 20,28).
Ðức Giêsu mãi mãi là gương cho các nhà lãnh đạo.
Quyền lãnh đạo chính là để phục vụ con người.
Phần đầu của bài Tin Mừng cho thấy sự giả hình
của một số người pharisêu, có quyền giảng dạy Lề Luật.
Giả hình là không làm điều mình dạy người khác,
là dễ dãi với chính mình,
nhưng khắt khe với tha nhân.
Giả hình là biến việc thờ phượng Chúa thành thờ mình,
làm việc tốt để người ta thấy và thán phục.
Khi nhìn khuôn mặt của người pharisêu giả hình,
tôi thấy tôi: háo danh, khoa trương, ích kỷ,
dám “đốc” chứ không dám làm...
Có những đoạn Tin Mừng làm chúng ta nhức nhối,
vì mở cho chúng ta những chân trời xa,
cho chúng ta thấy những điều cần làm, phải làm,
nhưng chưa làm.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
24/08 Ðến Mà Xem
- Viết bởi Trầm Thiên Thu
Ðến Mà Xem.
Thứ Sáu tuần 20 thường niên – THÁNH BATÔLÔMÊÔ, TÔNG ĐỒ. Lễ kính.
“Đây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối “.
* Thánh nhân còn được gọi là Na-tha-na-en, quê ở Ca-na. Chính tông đồ Phi-líp-phê là người đã giới thiệu thánh nhân với Chúa Giêsu ở bờ sông Gio-đan. Người nhập nhóm các môn đệ đầu tiên được Chúa kêu gọi. Người ta không biết đích xác về hoạt động tông đồ của người sau lễ Hiện Xuống. Tương truyền rằng người đã loan báo Tin Mừng ở Ấn Độ và đã chịu tử đạo ở đó.
Lời Chúa: Ga 1, 45-51
Khi ấy, Philipphê gặp Nathanael và nói với ông: “Đấng đã được Môsê ghi trong Luật và các tiên tri nói đến, chúng tôi đã gặp rồi: đó là Giêsu con ông Giuse, người thành Nadarét”. Nathanael đáp: “Bởi Nadarét nào có cái chi hay?” Philipphê nói: “Hãy đến mà xem”.
Chúa Giêsu thấy Nathanael đi tới Mình, thì nói về ông: “Đây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối”. Nathanael đáp: “Sao Ngài biết tôi?” Chúa Giêsu trả lời rằng: “Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi”. Nathanael thưa lại rằng: “Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel”. Chúa Giêsu trả lời: “Vì Ta đã nói với ngươi rằng: Ta đã thấy ngươi dưới cây vả, nên ngươi tin, ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa”. Và Người nói với ông: “Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các Thiên Thần Chúa lên xuống trên Con Người”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Ðến mà xem
“Từ Nazareth làm sao có cái gì hay được”. Nathanael lặp lại một thành kiến không tốt về Nazareth, về quê hương của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhận định về ông như một người Israel đích thực: “Lòng dạ không có gì gian dối”. Nhân vô thập toàn, không ai là hoàn toàn tốt và cũng không ai là hoàn toàn xấu. Nathanael là con người tốt, nhưng cũng có khuyết điểm sống theo dư luận không có quan niệm tốt về Nazareth: “Từ Nazareth làm sao có cái gì hay được”.
Chứng tá đầy xác tín của Philipphê đã giúp đưa Nathanael ra khỏi sự mù quáng tinh thần: “Cứ đến mà xem, Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ đã nói tới, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazareth”. Chỉ kinh nghiệm sống trực tiếp với Chúa Giêsu mới có thể giúp các tông đồ, những kẻ đầu tiên được gọi theo Chúa Giêsu, vượt qua được những giới hạn trần tục, che kín mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể.
Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan đã mô tả ơn gọi sống như Chúa Giêsu như là một cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa Chúa và người được gọi. Và khi đã được gặp gỡ trực tiếp với Chúa Giêsu rồi, người được gọi mới vượt qua được những thành kiến tự nhiên đối với Chúa, và cảm thấy được thôi thúc chia sẻ kinh nghiệm gặp Chúa cho anh chị em chung quanh. Kinh nghiệm sống của Philipphê được chia sẻ cho Nathanael: “Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ đã nói đến, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazareth”. Có thể nói đây là kiểu mẫu cho điều chúng ta gọi là việc tông đồ, là thông truyền và chia sẻ kinh nghiệm sống của chính bản thân về Chúa Giêsu cho anh chị em chung quanh, đây cũng là phương thế duy nhất giúp anh chị em vượt qua được những thành kiến không tốt về Thiên Chúa, để cùng chúng ta tôn thờ và yêu mến Ngài. Chỉ nhờ đã gặp được Chúa trước rồi chúng ta mới có thể trở nên phương tiện để giúp anh chị em đến gặp Chúa: “Cứ đến mà xem”.
Ước chi đời sống chúng ta là một lời mời gọi liên lỉ anh chị em đến với Chúa.
Lạy Chúa,
Nhờ công nghiệp và lời chuyển cầu của thánh tông đồ Nathanael Batolomeo, mà chúng con mừng lễ hôm nay, xin Chúa thương giải thoát con khỏi những thành kiến ngăn cách con với Chúa, cũng như ngăn cách con với anh chị em. Xin thương mời gọi con đến với Chúa và củng cố đức tin còn non yếu của con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Một người Israel đích thật
Chúa đã đích thân chiêu mộ các tông đồ trong giới hạng trung bình, giới thợ thuyền, công chức, thủ trưởng đoàn đội v.v... họ thuộc giới có đủ thời giờ lo lắng cho nước trời, vì công việc không làm họ u tối, trí độn. Họ không phải hạng người vô học, dốt nát. Họ là hạng người Do Thái đang mong đợi Đấng thiên sai Cứu Thế. Họ biết khá khá Kinh Thánh để đoán được thời giờ đã gần tới.
Họ có những ước đoán của lớp trung bình. Họ có thể hình dung một nhân vật lực lưỡng như rôbốt, mới chắc là Đấng Messia, Đấng Messia phải đáp ứng được những nét đặc trưng, nên không thể xuất thân “Từ Nadarét đâu có gì hay được”.
Đích thật....
Một kiểu người thuộc giới trung bình, Nathanael. Trước hết, ông nghi ngờ, rồi lắng nghe rồi đi đến cảm phục. Ông không khó tin, không khó đi theo Đức Giê-su, nhưng lòng nhiệt tình hăng say chốc lát biến đi, chỉ còn lại một con người chân thành! ông đã gặp Đức Ki-tô, Đấng Messia, ông không thể không hợp đoàn với Người.
Hạng trưởng giả
Nguy hiểm của hạng trưởng giả nhỏ (không xét đến lợi tức) đây chỉ xét đến khía cạnh đức tin, họ là thứ công tử bột, họ không như biệt phái, luật sĩ. Hạng trưởng giả này thoải mái hơn, dễ chịu hơn, ngay cả niềm tin cũng đỡ. Họ không lo lắng chuyện gì quá. Trời của họ khá được đảm bảo.
Hạng giầu thật, trong xã hội hơn là giầu niềm tin, là hạng trên mức đa số, họ được người ta cầu cạnh, kính nể, đáng chuộng: nhưng lối sống tiện nghi đừng để đến thái quá.
Người ta còn biết đến “hạng trưởng giả thánh” chính là hạng tri túc, tri thường. Các Tông Đồ đã chứng tỏ như thế. Dù sống thân mật với Đức Giê-su, họ chũng có vẻ trưởng giả gồm cả những tính xấu và tính tốt. Nhưng Thiên Chúa yêu họ. Chính là vì họ là trưởng giả nhỏ nên đã được Chúa chinh phục, được Phúc Âm kêu gọi.
Như thế đó! được chinh phục!
Sống với lòng xác tín của mình!
Sống với đức tin vủa mình.
J.M.
SUY NIỆM 3: Thánh Barthôlômêô, Tông Đồ
Mỗi người đều có một lối sống, mỗi người đều có một phong cách khác nhau. Các thánh cũng vậy. Cuộc sống của các thánh luôn có một mẫu số chung: sống giống Ðức Kitô. Thánh Bathôlômêô, tông đồ, Giáo Hội tôn kính hôm nay cũng không nằm ngoài định luật muôn thuở: họa lại hình ảnh thật nhất của Chúa Giêsu Cứu Thế.
Barthôlômêô được tuyển chọn làm tông đồ
Philipphê gặp ông Nathanaen và nói: “Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới,chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse,người Nagiarét”. Ông Nathanaen liền bảo: “Từ Nagiarét, làm sao có cái gì hay được?”. Ông Philipphê trả lời: “Cứ đến mà xem” (Ga 1,45-46).
Cứ đến mà xem là lời mời gọi ông Nathanaen trở thành tông đồ đích thực của Chúa Giêsu. Sự kỳ diệu và hết sức lạ lùng là khi Chúa Giêsu vừa thấy Nathanaen, Người đã nói: “Ðây đích thật là một người Israel, lòng dạ không có gì gian dối” (Ga 1, 47). Việc Chúa gọi Nathanaen tức Barthôlômêô thật là huyền nhiệm vì chính Chúa đã thấy, đã biết ông khi ông đang ở dưới cây vả (Ga 1,48). Chúa nói: “lòng dạ của Nathanaen không có gì gian dối”. Ðiều này nói lên hồng phúc của Barthôlômêô vì tâm hồn mới là quan trọng. Người ta thường ví von: “Hữu ư trung xuất hình ư ngoại” (trong có gì thì biểu lộ ra bên ngoài). Chính lúc, Na-tha-na-en tuyên xưng: “Thưa Thầy, chính Thầy là con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Israel” (Ga 1, 49). Chúa Giêsu đã tuyển chọn Na-tha-na-en làm “Apostoloi”, nghĩa là tông đồ. Ðó là giờ cứu độ, giờ hồng phúc của Barthôlômêô, giờ Barthôlômêô được lột xác trở nên hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa. Làm tông đồ nghĩa là thuộc trọn vẹn về Chúa.
Như mọi tông đồ, Bathôlômêô được sai ra khơi (duc in altum) thả lưới
Thả lưới nghĩa là phải ra xa bờ, chọn chỗ nhiều cá. Ra khơi có nghĩa là tin vào Chúa vì có thể trong cuộc hải hành sẽ gặp sóng to, gió lớn, sẽ gặp nhiều chuyện trục trặc, nhưng tin, cậy vào Chúa sẽ được Chúa giải thoát. Barthôlômêô đã cùng với các bạn trong nhóm 12, theo Chúa Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo, theo Thầy làm chứng có nước trời, có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Theo Thầy để học hỏi những kinh nghiệm của Thầy, lãnh nhận những tư tưởng, chân lý và Tin Mừng, giáo lý của Thầy hầu chuẩn bị cho việc ra khơi mai sau. Theo Thầy để lãnh nhận quyền và sự thật mà Thầy sẽ trao phó cho: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Và, sau khi Chúa về trời,các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Barthôlômêô được sai đi loan báo Tin Mừng tại Ấn Ðộ, vùng Lycôni và Arménie. Thánh Bar-thô-lô-mê-ô đã làm chứng cho Chúa phục sinh bằng gương sáng đời sống thánh thiện, đạo đức của Ngài, bằng những lời chân thật, tài lợi khẩu, hoạt bát và những phép lạ Chúa ban cho, thánh nhân đã đưa được biết bao người ngoại giáo trở về. Thánh nhân đã trở nên giống Chúa Kitô như thánh Phaolô nói: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Ðức Kitô sống trong tôi” và “Tôi có thể làm được mọi sự trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi”. Chính tình yêu Chúa Kitô thúc bách thánh nhân.
Barthôlômêô đã thực hiện việc rao giảng bằng chính cuộc đời của Ngài: từ bỏ, hy sinh và hết lòng trở nên giống Chúa Kitô. Thánh nhân đã trừ quỷ cho công chúa của vua Polêmon và nhiều người khác, đặc biệt Ngài đã hoán cải và đưa cả gia đình nhà vua polêmon trở lại đạo công giáo.
Thánh nhân đã làm chứng cho Chúa bằng chính mạng sống của mình đúng như lời Chúa phán: “Tôi tớ không hơn chủ”. Vì ghen tức thánh nhân, các sư sãi và các quan chức triều đình đã vu cáo, khai gian cho thánh nhân đủ điều và Ngài đã bị vua Attiges bắt, bỏ tù, hành hạ đủ mọi cực hình và lãnh án trảm quyết cho tới hơi thở cuối cùng vào năm 52.
Lạy thánh Barthôlômêô, tông đồ xin đến giúp chúng con để chúng con có lửa nhiệt thành như thánh nhân hầu làm chứng cho Chúa sống lại.
Xin cho chúng con ơn can đảm để chúng con luôn biết lướt thắg mọi thử thách chông gai của cuộc đời.
Xin thêm đức tin cho chúng con để chúng con chỉ biết cậy trông vào Chúa.
(Lm Nguyễn Hưng Lợi)
SUY NIỆM 4: Thánh Barthôlômêô tông đồ
Các sách Tin Mừng nhất lãm và sách công vụ tông đồ ghi nhận thánh Bartôlômêô là một trong nhóm 12, nhưng lại không biết thêm gì về Ngài, ngoài việc liên kết tên Ngài với Philipphê.
Tin Mừng thứ tư không có danh sách các tông đồ, nhưng có nhắc phần lớn tên các tông đồ thuộc nhóm 12, sách Tin Mừng này không nói gì tới Bartôlômêô, nhưng lại chỉ ghi nhận tên Nathanael, liên hệ với Philipphê (Ga 43-51), cũng như kết nhóm với các tông đồ khác sau phục sinh (Ga 21,1-14). Từ thế kỷ 16, nhiều học giả đã đồng hóa Nathanael với Bartôlômêô và gọi tên Bartôlômêô là tên của Nathanael. Như vậy chính Narthanael là con (bar) của ông Tolmai hay có thể Ptoleemy (Tlômêô), sinh tại Cana (Ga 21,2).
Nếu sự đồng hoá là đúng, chúng ta biết được nhiều chi tiết về ơn gọi của thánh tông đồ hơn là của các tông đồ khác (Lc 5,4-10 dường như là phó bản của Ga 21,4-17). Trước khi được chính thức kêu gọi, đã có một cuộc gặp gỡ thú vị: Philipphê giới thiệu với Bartôlômêô: - Đấng mà Môsê trong lề luật cùng các tiên tri chép đến, chúng tôi đã gặp rồi, Người là đức Giêsu con ông Giuse người Nazareth.
Bartôlômêô đáp lại, với óc khinh miệt của những dân làng lân cận: - Từ Nazareth thì có thể xảy ra điều gì tốt được.
Tuy nhiên đáp lại lời mời “thì hãy đến mà xem”, vị tông đồ đã gặp một Chúa Giêsu thấu suốt lòng mọi người: - Này đây đích thực là một người Israel, trong mình không có gì gian dối.
Bartôlômêô đã nhận ra nguồn gốc thiên sai của Chúa Giêsu nhờ cuộc gặp gỡ ấy. Rồi đây Ngài còn khám phá ra sư thật cao cả hơn nữa về con người Chúa Giêsu. Ngài luôn chen vai sát cánh với các bạn tông đồ (Ga 21,1-14).
Sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ tuần, thánh Bartôlômêô ra đi truyền giáo. Có nhiều truyền thống cung ứng các chi tiết khác nhau về đời truyền giáo của Ngài tại Tiểu Á, Armennia, Mosopotamia, Persia, Ấn Độ và Ai cập. Tuy nhiên giai thoại ở Armenia được chấp nhận nhiều hơn cả. Thánh nhân được tôn kính như thánh tông đồ của miền này.
Người ta kể rằng: khi thánh tông đồ đến Armenia, tại chính nơi vua Polimio và triều đình cư ngụ, quỷ thần Atarốt ở đấy câmhọng. Ngài khua trừ ma quỉ. Giải thoát cho nhiều người khỏi bị quỉ ám. Trong số này có cả nàng công chúa. Ngài liền được triêu vời đến triều đình. Trước mặt vua Ngài truyền quỉ thần phải nói sự thật bỉ ổivề số phận đời đời của nó. Nhà vua cảm động ban tặng tiền bạc cho tông đồ, nhưng Ngài từ khước và chỉ mong mọi người nhận biết và thờ phượng Chúa.
Dĩ nhiên các tư tế thờ ma quỉ tức giận, họ xúi giục dân chúng nổi dậy chống lại thánh tông đồ. Attiges em vua Polimiô bắt Ngài tống ngục. Ong nổi giận ra lệnh lột da rồi thiêu sống thánh nhân. Nhưng nhờ quyền năng Chúa, Ngài vẫn được cứu sống. Người ta dựa vào sự kiện này để vẽ hình thánh nhân nằm cạnh con dao và miếng da như biểu tượng đời Ngài. Cuối cùng Ngài bị trảm quyết.
Tương truyền rằng: xác Ngài được chuyển về Beneventô. Vào thế kỷ X, không rõ các di tích của Ngài có được vua Ottô III đưa về và còn được lưu giữ tại thánh đường thánh Bartôlômêô ở Tiber không?
(Trích trong “Theo Vết Chân Người” - Chân dung các thánh nhân)
SUY NIỆM 5: Thánh Barthôlômêô tông đồ
Thuộc dòng dõi vua Tolmai (2 Sam 3:3). Vua Geshu con của Maacah, mẹ của Absalong sanh ra vua David. Đàng khác Bartholomew họ hàng với Ptolemy vua nước Ai Cập. Ông có bộ tóc đen quăn dài phủ tai, da trắng, mắt to, mũi thẳng, râu rậm chen lẫn những chùm râu trắng, người cao trung bình. Ảnh hưởng bởi dòng dõi quý tộc và phong cách con nhà quyền quý ông thích mặc áo chùng màu trắng kèm theo những giải màu tím. Áo choàng ngoài cũng màu trắng thêu màu tím bốn góc. Là một người thông thái, thông thạo nhiều ngôn ngữ, tính tình nhân hậu, vui vẻ và chuyên cần cầu nguyện ngày đêm. Tuy dòng dõi hoàng gia nhưng ông hội nhập vui sống với những ngư phủ, thứ dân, ngôn từ bình dị, không hề than thở hay tỏ ra cao ngạo.
Phúc âm Matthew, Marcô và Luca luôn nhắc đến Philip và Barthôlômêo. Phúc âm Gioan nhắc Philip giới thiệu Nathanael cho Chúa Yêsu nên có nhiều học giả cho là Barthôlômêo và Nathanael là một.
Barthôlômêo giảng đạo tại Ấn Độ với tông đồ Phillip và miền Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kì). Hành trang giảng đạo vỏn vẹn có cuốn sách Phúc Âm thánh Mathêu viết bằng tiếng Hy Bá. Vợ quan toàn quyền Astyages được ơn lạ. Thánh nhân cứu sống qua cơn bệnh ngặt nghèo. Bà tin theo đạo và trở thành người giúp việc tận tình cho việc truyền giáo. Số người trở lại tin theo lên đến nhiều ngàn. Làn sóng người tin đạo gây một phản ứng ngược mạnh mẽ trong giới lãnh đạo. Trước áp lực của các quan cận thần và sợ tiếng quở trách của hoàng đế Rôma. Toàn quyền Astyages ra lệnh ngăn cấm dân chúng không được theo đạo. Lệnh cấm không làm giảm niềm tin; trái lại số người tin theo tăng ngày một nhiều. Giải pháp duy nhất Astyages thực hiện là bắt các tông đồ tống ngục. Việc làm gây tiếng vang giữa các tín hữu. Người tin theo càng can đảm hơn. Họ lầm lí luận xử tử các ngài đạo sẽ tan. Họ không biết các ngài chỉ là công cụ của Thiên Chúa. Ngoài xã hội, giết kẻ lãnh đạo đoàn thể đó tan. Lãnh đạo trong Giáo Hội là Chúa. Đức Kitô đi rao giảng bây giờ trở thành kẻ được rao giảng.
Bị bắt chung với Philip, quan tòa ra lệnh tha Bartholomew, còn Philip thì bị án tử. Lính được lệnh treo ngài vào thập tự không phải đóng bằng đinh nhưng dùng giáo đâm lủng hai đùi, xỏ giây qua treo ngược trên thập tự. Bartholomew được tự do có lẽ do sự can thiệp của vợ quan toàn quyền, cũng có thể do chính vị chánh án xử cũng tin theo Chúa và nhận được ơn nên ông ra lệnh tha Bartholomew.
Chứng kiến cảnh Philip tử đạo, Bartholomew sang Armenia (quê hương mẹ Têrêsa). Ngày nay phần đất này nằm giữa biên cương Irăn và Sô Viết. Bartholomew là thánh bổn mạng của quốc gia này. Thực ra Bartholomew không phải là nhà truyền giáo đầu tiên trên phần đất này. Trước đó vào các năm 43-66, thánh Tông Đồ Thađêô đến Armenia giảng đạo. Barthôlômêô có mặt vào khỏang năm 66-68. Như thế hạt giống Tin Mừng đức tin được thánh tông đồ Thađêô gieo rắc một thời gian dài là 23 năm trước đó. Hai năm 66-68, Bartholomew là người tưới cho hạt giống đức tin nảy mầm và mọc xanh tốt.
Bartholomew không trú ngụ hẳn tại Liên Sô hay Armenia nhưng thường xuyên đi lại giữa hai nước. Tại Armenia, Bartholomew đặt tay cầu nguyện cứu sống con gái vua. Việc tốt lành này làm nổi giận các đạo sĩ hầu cận nhà vua vì họ mất sủng ái. Gia đình tiểu vương tin theo Chúa nhưng các đạo sĩ trong cung điện mua chuộc anh vua. Nhóm này âm thầm ngầm bắt Bartholomew lột da sống rồi đóng đinh ngược tại Bashlake năm 68. Nay là thành phố Derbend. Đây là một hải cảng dân chúng sống nghề buôn bán ngựa cho chiến tranh.
Trong quá khứ các nhà địa lí dường như không phân biệt rõ ràng, mạch lạc như chúng ta hiểu ngày nay. Trong thời buổi hỗn mang đó, nhiều vua lắm chúa, bá tước và đại điền chủ đều xưng vương xưng bá, quyền hành như vua con một cõi nên việc phân biệt địa danh quả là có nhiều vấn đề. Thời đó Ấn Độ được hiểu là một trong các miền ở các vùng Ả Rập, Ethiôpia, Libya, Parthia, Persia, Medes và một phần Ấn Độ ngày nay.
Bước chân truyền giáo của các tông đồ rất khó xác định vì các ngài ra đi tự do, không người chỉ định. Sau ngày lễ Ngũ Tuần các ngài hăng hái ra đi về một phương trời vô định. Đến nơi này thấy có người đang truyền giáo các ngài bỏ đi nơi khác, thực hành câu sai đi rao giảng Tin Mừng đến khắp cùng bờ cõi. Vì quan niệm tứ hải đều là nhà nên nơi nào chấp nhận hạt giống đức tin; nơi đó các ngài cư ngụ. Nơi nào xua đuổi các ngài âm thầm ra đi. Sau này tin tức truyền giáo viết phỏng theo lời tường thuật của dân địa phương, truyền khẩu, nhớ đến đâu kể đến đó. Các sử gia cố gắng kiểm chứng, dò theo từng vết chân, bút tích, nhân chứng. Căn cứ vào thánh đường, thánh tích, lời truyền nếu các chi tiết đó ăn khớp với nhau coi như tin đó chính xác, đáng tin.
Dẫu thế mức độ chính xác cũng chỉ tương đối. Thứ nhất là chiến tranh, thứ hai là các tôn giáo bạn, nhóm nào cũng nhận đóng góp ít nhiều trong việc giúp các tông đồ. Chính vì thế mà khi đọc về lịch sử truyền giáo, các sử gia thường phải đối chiếu nhiều tài liệu khác nhau: lịch sử dân tộc, lịch sử công giáo, chính thống, địa phương sử và chiến sử rồi so sánh, gạn lọc truyền thống có nhiều bằng chứng nhất giữ lại. Truyền thống thần bí chờ nghiên cứu thêm.
Vấn đề ngôn ngữ là yếu tố khác. Có bản viết bằng tiếng La Tinh, bản khác tiếng Hy lạp cổ, tiếng thổ dân nên cần rất nhiều công tra cứu để đọc và hiểu rõ tác giả muốn viết gì. Da thuộc hiếm và đắt nên đắn đo từng chữ trước khi viết.
Ngày nay xác thánh Bartholomew được cất giữ ở nhiều nơi khác nhau. 508 vua Anastasius giữ xác thánh tại Duras, Mesopotamia. Thế kỉ thứ 6 thánh Gregory de Tours chuyển xác về Sicily. Năm 809 xác được chuyển sang Benevento. Năm 983, vua Otto đệ tam chuyển sang Roma.
Hiện nay một phần thánh tích chôn cất dưới thánh đường Bartholomew. Một xương cánh tay chuyển về Benevento và giám mục Edward tặng thánh đường Canterbury.
Tóm lược trong tài liệu:
1.The Search for the Twelve Apostles của W. McBirnie
2. The Twelve Apostles của R. Brownrigg
(Lm Vũ đình Tường, Vietcatholic News)
SUY NIỆM 6: Cứ đến mà xem
Suy niệm :
Thầy Giêsu là người tìm thấy Philípphê và gọi anh đi theo (Ga 1, 43).
Sau khi gặp Thầy, Philípphê đi tìm Nathanaen.
Ông rủ bạn mình đến gặp Thầy Giêsu.
Nathanaen không được nhắc tên trong mọi danh sách nhóm Mười Hai.
Vào thế kỷ thứ 9, có người coi Nathanaen là Batôlômêô,
lý do vì trong mọi danh sách, Batôlômêô là tên luôn đi ngay sau Philípphê.
Chúng ta không chắc Nathanaen có phải là Batôlômêô không.
Nhưng điều đó không quan trọng mấy.
Dù sao Nathanaen cũng là một người môn đệ đã theo Thầy Giêsu,
và đã có mặt trong nhóm gặp Đấng phục sinh bên bờ hồ (Ga 21, 2).
Bài Tin Mừng hôm nay cũng có thể cho ta thấy ít nhiều
về khuôn mặt của vị tông đồ mà chúng ta mừng kính.
Sau khi được Thầy Giêsu tìm thấy và mời: “Anh hãy theo tôi” (c. 43).
Philípphê đã theo Thầy và hẳn đã ở lại với Thầy một thời gian.
Chính sự gần gũi và quen biết này
đã khiến ông tin Thầy là Đấng được tất cả Sách Thánh nói tới (c. 45).
Trong niềm vui sướng, Philípphê tìm thấy Nathanaen, và khoe:
“Chúng tôi đã tìm thấy Đấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới.”
Đấng ấy có tên là Giêsu, có cha là Giuse, có quê ở Nadarét.
Với một chút thành kiến, Nathanaen đã không thể tin được chuyện này.
Một ngôi làng vô danh như Nadarét, làm sao có thể sinh ra điều tốt được?
Nhưng Philípphê không chịu bỏ cuộc, ông tiếp tục mời gọi bạn mình,
như Đức Giêsu đã mời hai môn đệ đầu tiên: “Hãy đến mà xem” (cc. 39. 46).
Cuối cùng Nathanaen đã nhận lời, đã đến và đã xem thấy.
Cuộc hạnh ngộ diễn ra giữa Thầy Giêsu với Nathanaen.
Bằng cái nhìn thấu suốt, Thầy nhận ra cái tốt đẹp nơi con người anh:
“Đây là một người Israel đích thật, nơi anh không có gì gian dối” (c. 47).
Quả là một lời khen bất ngờ đối với Nathanaen, người mới gặp Thầy lần đầu.
Anh ngỡ ngàng khi thấy Thầy biết rõ bề sâu của lòng mình.
“Làm sao Ngài lại biết tôi?” (c. 48).
Làm sao Ngài biết tôi là người không thích quanh co, gian dối ?
Đức Giêsu bảo Ngài đã thấy anh dưới cây vả, trước khi Philípphê gọi anh.
Nathanaen nhanh chóng tuyên xưng niềm tin vào Thầy Giêsu (c. 49).
Và Thầy hứa sẽ cho anh thấy trời mở ra để trò chuyện với con người.
Thầy như cái thang bắc từ trời, để các thiên thần lên xuống (c. 51),
để Thiên Chúa và con người gặp nhau.
Như Nathanaen, chúng ta cũng trở nên môn đệ nhờ có người giới thiệu.
Chỉ ai đã thực sự gặp mới hăng hái đi giới thiệu Chúa với người khác.
Chúa Giêsu hôm nay vẫn qua người khác mà gọi tôi theo Ngài.
Nhưng cuối cùng chính tôi vẫn phải gặp mặt Ngài và để Ngài chinh phục.
Dần dần Ngài dắt tôi vào mầu nhiệm của con người Ngài.
Ngài là Giêsu Nadarét, con ông Giuse, và là chính Con Thiên Chúa
Ngài là chiếc thang đưa tôi từ đất lên mà gặp gỡ trời cao.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
khi đến với Chúa
con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con
con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con,
con đóng lại bút viết: các quan điểm của con,
con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con,
để con được ở một mình với Ngài,
lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
Sau khi được ở với Ngài,
con sẽ xỏ giày vào
để đi theo đường của Chúa,
con sẽ đeo đồng hồ
để sống trong thời gian của Chúa,
con sẽ đeo kính vào
để nhìn thế giới của Chúa,
con sẽ mở bút ra
để viết những tư tưởng của Chúa,
con sẽ cầm chìa khóa lên
để mở những cánh cửa của Chúa. (Graham Kings)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 7: Thánh Barthôlômêô, Tông Đồ
Trong danh sách các Tông Đồ, Thánh Ba-tô-lô-mê-ô thường được 3 Phúc Âm Nhất Lãm nhắc đến (Mt 10,3 ; Mc gọi Ngài là Bar-Tolmai ; ngài được Phúc Âm Gioan gọi là Natanael (Ga 1,45-51). Người ta đoán rằng Nathanael là một thầy thông luật hay đệ tử của trường phái luật sĩ.
Theo truyền thuyết, Natanael rao giảng ở Ấn Độ, Mésopotamie và nhất là ở Arménie, cuối cùng chịu tử đạo tại đây. Di hài của ngài sau đó được chuyển về đảo Lipara và về Benevent. Hoàng đế Otto III cho chuyển về Rôma và đặt ở một cồn nhỏ trên sông Tibre. Trong Tin Mừng Gioan, Natanael là người môn đệ thứ tư được Chúa Giêsu kêu gọi.
- Khi Philipphê nói với Natanael rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia, Natanael tỏ vẻ hoài nghi, bởi vì theo ông, Đấng Messia không thể xuất thân từ một nơi mà Thánh Kinh không bao giờ nói tới như Nagiarét. Quả thực, sự tương phản giữa quan niệm về một Đấng Messia vinh quang với nguồn gốc hèn hạ của Đức Giêsu chính là một sự vấp phạm của mầu nhiệm nhập thể. Đức tin phải vượt qua cớ vấp phạm này để nhận ra Đức Giêsu xuất thân từ Nagiarét tầm thường ấy chính là Đấng Messia. Một số người do thái đã không thể vượt qua như vậy, họ nói : “Ông này không phải là con của Giuse đấy ư ? Chúng ta há không biết cha mẹ của ông ta sao ? Thế mà tại sao bây giờ ông ta lại tuyên bố rằng ta từ trời xuống ? (6,42)
- Đức Giêsu nói với Natanaen “Trước khi Philipphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh” : Trong Ga, Đức Giêsu thường tỏ ra am tường các biến cố và các con người (2,25 6,61 13,1). Hình ảnh cây vả hơi mơ hồ : có người hiểu đó là nơi các rabbi thích ngồi để nghiên cứu Thánh Kinh ; có người nghĩ đến cây biết tốt xấu trong vườn diệu quang. Có lẽ ý nghĩa ở đây là : Natanaen là người thích suy gẫm Thánh Kinh để biết về Đấng Messia, và Đức Giêsu cho ông hay rằng những lời tiên báo về Đấng Messia ấy đã được thực hiện nơi Ngài.
- Lời của Đức Giêsu khiến Natanaen xúc động đến nỗi ông gọi Ngài bằng 2 tước hiệu “Con Thiên Chúa” và “Vua Israel”.
a/ Trong Ga, tước hiệu “Vua Israel” đồng nghĩa với tước hiệu Messia nhưng ít màu sắc chính trị hơn tước hiệu “Vua dân do thái” được nhắc tới trong cuộc chịu nạn của Ngài (18,33.39 19,3 19,21). Khi Ngài vào thành Giêrusalem, dân chúng cũng tung hô Ngài bằng tước hiệu “Vua Israel” (12,13).
b/ Còn tước hiệu “Con Thiên Chúa” chính là tước hiệu được gán cho Ngài khi Ngài đăng quang làm Messia (x. 2Sm 7,14).
- Nathanaen sẽ “được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa” : bây giờ Đức Giêsu chỉ mới mạc khải với ông bằng lời, sau này Ngài sẽ còn dùng dấu chỉ để loan báo tương lai, nhất là dấu chỉ Cana trong đó Ngài sẽ “biểu lộ vinh quang của Ngài”.
- Đức Giêsu có nhắc tới việc “thiên thần Chúa lên xuống”. Có thể có liên hệ với chiếc thang Giacóp trong St 28,12 “Này đây được dựng từ đất một chiếc thang mà đầu cuối chạm tới trời ; các thiên sứ lên xuống trên thang đó”. Như thế, chi tiết này muốn nói rằng trong tư cách là “Con Người”, Đức Giêsu chính là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người, giữa trời và đất.
SUY NIỆM 8: Chân dung Thánh Barthôlômêô, Tông Đồ
Trong Tân ước, Thánh Batôlômêô chỉ được nhắc đến trong danh sách các tông đồ. Một số học giả xác định ngài với Nathanael (còn viết là Nathaniel), một đàn ông người Cana ở Galilê đã được Philipphê nói cho biết về Chúa Giêsu.
Giáo hội mừng kính Thánh Batôlômêô vào ngày 24-8 hàng năm. Ngày này là ngày các hội chợ truyền thống, như Hội chợ Batôlômêô ở Smithfield (London, Anh quốc) xuất hiện từ thời Trung Cổ, có diễn hài kịch của Ben Jonson.
Thánh Batôlômêô được liệt kê thuộc Nhóm Mười Hai trong các Phúc Âm nhất lãm (Mt 10:1-4; Mc 3:13-19; Lc 6:12-16), và ngài là một trong ba nhân chứng khi Chúa Giêsu lên trời (Cv 1:4, 12-13). Trong Ga 1:45-51, ông Nathanael được giới thiệu là bạn của ông Philipphê. Ông được mô tả là người nghi ngờ về Đấng Mêsia đến từ Nadarét khi nói: “Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?”, nhưng sau khi ông Philipphê nói: “Cứ đến mà xem!”, ông đã đến gặp Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã khen ông: “Đây đích thật là một người Ít-ra-en, lòng dạ không có gì gian dối” (Ga 1:47). Khi Nathanael hỏi tại sao Chúa Giêsu biết ông, Chúa Giêsu nói: “Trước khi Philípphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi” (Ga 1:48). Điều mặc khải lạ lùng là Nathanael tuyên xưng: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en!” (Ga 1:49). Chúa Giêsu nói: “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa” (Ga 1:50).
Quả thật, Nathanael đã thấy những điều lớn lao hơn. Ngài là một trong các tông đồ được Chúa Giêsu hiện ra trên bờ biển Tibêria sau khi Ngài phục sinh (x. Ga 21:1-14). Lúc đó, họ đã đánh cá suốt đêm mà vô ích. Đến sáng, họ thấy một người đứng trên bờ nhưng không ai biết đó là Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã bảo họ thả lưới, họ làm theo và đánh được rất nhiều cá. Rồi Gioan nói với Phêrô: “Chúa đó” (Ga 21:7).
Truyền thống cho biết rằng Thánh Batôlômêô đi truyền giáo ở Ấn Độ, và đã để lại đây cuốn Phúc Âm theo Thánh Matthêu. Các truyền thống khác nói ngài đi truyền giáo ở Ethiopia, Mesopotamia, Parthia và Lycaonia. Ngài tử đạo tại Albanopolis, thuộc Armenia. Truyền thống nói ngài bị chém đầu, nhưng phổ biến hơn là truyền thống nói ngài bị lột da rồi bị đóng đinh ngược. Truyền thống còn cho biết rằng ngài đã hoán cải Polymius, vua của Armenia. Chính người anh em của Polymius là Astyages đã ra lệnh xử tử Thánh Batôlômêô.
Một tu viện nổi tiếng tại Armenia là Tu viện Thánh Batôlômêô có từ thế kỷ 13, được xây dựng ngay tại nơi Thánh Batôlômêô chịu tử đạo là tỉnh Vaspurakan, thuộc Armenia (nay thuộc Đông Nam Thổ Nhĩ Kỳ).
Nghiên cứu của LM A.C Perumalil (Dòng Tên) và Moraes cho thấy rằng miền Bombay thuộc duyên hải Konkan, có thể đây là thành phố cổ Kalyan, là vùng hoạt động truyền giáo của Thánh Batôlômêô. Tác giả Theodorus Lector (thế kỷ 6), xác nhận rằng khoảng năm 507, Hoàng đế Anastasius đã giao hài cốt Thánh Batôlômêô cho thành phố Dura-Europos sau khi được tái phát hiện.
Năm 803, hài cốt ngài được đặt tại Giáo đường Thánh Batôlômêô tại Lipari, một đảo nhỏ thuộc duyên hải Sicily, do Constantinople kiểm soát. Năm 803, hài cốt ngài lại được chuyển tới Beneventum; rồi năm 980, Hoàng đế Otto II của Tòa Thánh đã chuyển hài cốt ngài tới Rôma, lưu giữ tại Giáo đường San Bartolomeo all’Isola. Một phần sọ của Thánh Batôlômêô được chuyển tới Giáo đường Frankfurt, còn một cánh tay của ngài được tôn kính tại Giáo đường Canterbury ngày nay.
Có nhiều phép lạ của Thánh Batôlômêô đã xảy ra trước và sau khi ngài chết, hai phép lạ nổi tiếng xảy ra cho dân thành phố nhỏ tại đảo Lipari.
Theo truyền thống, dân đảo Lipari rước tượng ngài bằng vàng và bằng bạc từ Giáo đường Thánh Batôlômêô đi khắp thành phố. Một lần nọ, khi đưa tượng ngài từ trên đồi xuống thành phố, bỗng dưng tượng ngài trở nên nặng trĩu, không thể đưa đi nơi khác, người ta cố đưa tượng đi nhưng tượng càng nặng hơn, thế là người ta phải đặt tượng ngài tại đó. Hồi thế chiến II, chế độ Phát-xít (Đức/Ý) tìm cách quản lý các hoạt động. Lệnh truyền phải đưa tượng Thánh Batôlômêô đi chỗ khác, tượng lại trở nên nặng hơn. Người ta đành “bó tay”!
Lạy Thánh Batôlômêô, xin cầu thay nguyện giúp. Amen.
(Trầm Thiên Thu)
23/08 Tiệc cưới Nước Trời
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Tiệc cưới Nước Trời.
Thứ Năm tuần 20 thường niên.
"Các ngươi gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới".
Lời Chúa: Mt 22, 1-14
Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới". Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới". Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.
Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!" Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tiệc Cưới, Áo Cưới
Dụ ngôn tiệc cưới và chiếc áo cưới trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta mặc lấy một trong những tâm tình cơ bản nhất của Kitô giáo, đó là hân hoan, vui mừng. Kitô giáo thiết yếu là đạo của Tin Mừng.
Trong rất nhiều sinh hoạt và hình ảnh của cuộc sống, Chúa Giêsu đã chọn bữa ăn như dấu chỉ ưu việt nhất để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Nước Trời giống như một tiệc cưới, đây là một trong những hình ảnh được Chúa Giêsu sử dụng nhiều nhất để nói lên niềm vui của Nước Trời. Chúa Giêsu cũng mặc cho bữa tiệc của Ngài một ý nghĩa tượng trưng đặc biệt. Chúng ta chỉ cần nhớ lại tiệc cưới Cana, trong đó Chúa Giêsu đã biến nước thành rượu để khách dự tiệc được tiếp tục cuộc vui. Ngài dự tiệc do Lêvi, do Zakêu và rất nhiều người thu thuế khoản đãi; Ngài đồng bàn với họ, chia sẻ một tấm bánh và uống một chén rượu với họ.
Không những đồng bàn với những người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng không từ chối lời mời của những người Biệt phái, những người giàu có. Ngài chia sẻ bữa ăn thân thiết với gia đình Marta, Maria và Lazarô tại Bêtania. Ngài thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng của Ngài với các môn đệ. Sau khi sống lại, Ngài ngồi đồng bàn với hai môn đệ trên đường Emmau. Ngài hiện ra trên bờ hồ và chuẩn bị bữa ăn cho các môn đệ, rồi Ngài cùng ăn cùng uống với các ông.
Bữa ăn là nơi thể hiện của những giá trị cao quí nhất trong cuộc sống của con người, như gặp gỡ, hiệp thông, trao ban, chia sẻ, hân hoan. Chính vì ý nghĩa cao quí ấy, Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh bữa tiệc để nói lên những thực tại Nước Trời. Ðến đây, chúng ta hiểu được ý nghĩa của hình ảnh chiếc áo cưới mà thực khách phải mặc vào khi dự tiệc cưới. Chiếc áo cưới ấy chính là tâm tình gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, hân hoan mà con người phải mặc lấy để thuộc về Nước Trời.
Có người đã tưởng tượng ra Thiên đàng, hỏa ngục như hai bàn tiệc. Bàn tiệc dưới hỏa ngục cũng mâm cao cỗ đầy, thế nhưng khách dự tiệc thì ngồi ủ rũ buồn thiu, bởi vì mỗi người đều cầm trong tay một đôi đũa dài đến độ thức ăn thì gắp được, nhưng không thể đưa thức ăn vào miệng. Bàn tiệc trên Thiên đàng cũng y hệt, nhưng khác một điều, là thay vì gắp thức ăn cho vào miệng mình, người ta lại gắp thức ăn và đưa vào miệng người đối diện, thế là vui vẻ cả, vì ai cũng được ăn uống no nê.
Ước gì niềm vui bàn tiệc thánh mà chúng ta tham dự cũng được tiếp tục thể hiện trong đời thường của chúng ta. Ước gì cả cuộc sống chúng ta luôn được diễn ra trong gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, vui tươi, nhờ đó chúng ta cảm nhận được niềm vui đích thực của Nước Trời và thắng vượt được mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Mặc Áo Cưới
Thiên Chúa ban ơn và mời gọi mọi người đến lãnh nhận ơn cứu rỗi để được hưởng hạnh phúc đời đời, điều này được diễn tả qua hình ảnh bữa tiệc cưới được dọn ra cho con người nhưng những kẻ được mời đã không đến dự. Con người tìm hạnh phúc ở nơi khác ngoài Thiên Chúa, ngoài chương trình Thiên Chúa mong muốn. Sự chối từ của con người không làm cho Thiên Chúa bỏ dở công cuộc của Ngài, Ngài tiếp tục mời gọi con người đến với Ngài. Nhưng có một chi tiết đáng lưu ý, những kẻ bước vào dự tiệc phải giữ điều tối thiểu đó là mặc áo cưới. Các nhà chú giải hiểu việc mặc áo cưới như là mặc lấy Chúa Kitô và được thánh Phaolô tông đồ giải thích nơi thư Êphêsô như sau: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa kia, là con người phải hư nát vì những ham muốn lừa lọc. Anh em phải để Thánh Thần đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thực sự sống công chính và thánh thiện". Ðể vào Nước Thiên Chúa theo lời mời gọi của Chúa, mọi người phải mặc áo cưới, tức là mặc lấy Chúa Kitô, sống thánh thiện, từ bỏ những hành vi xấu xa tội lỗi. Thiên Chúa luôn ban ơn nhưng con người cần cộng tác với ơn Chúa. Chúng ta đừng tìm lý do trì hoãn sự dấn thân đáp trả lời mời gọi của Chúa.
Lạy Chúa
Chúng con chúc tụng lòng nhân từ của Chúa muốn ban ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người. Xin giúp chúng con mau mắn đáp lại tiếng Chúa kêu mời, luôn canh tân đời sống, mặc lấy Chúa Kitô để thực sự vui hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa, cùng hiệp an với các thánh nhân trên trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Cơ Hội Cho Kẻ Giàu
Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: “Nước Trời cũng giống như vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến.”
Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.
Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy đó có một người không mặc y phục lễ cưới. (Mt. 22, 1-3, 10-11)
Người ta cho rằng dụ ngôn này ám chỉ người Do-thái trước hết. Chính họ là những người nghe đầu tiên, thế mà khi nói với họ, Người lại bị họ theo dõi… truy lùng…. Họ là những người giầu trong Nước Trời. họ được đặc quyền sống với Thiên Chúa từ bao thế kỷ rồi.
Khách mời của Chúa.
Luôn luôn có nhiều người giầu trên thế giới. Nước Trời được dâng biếu cho họ trước hết. Đúng vì họ giầu, họ có thể giúp đỡ người nghèo. Họ có thể hiến thân. Nếu họ đi sai, có phải chính vì họ không nghe tiếng Chúa không?
Để dự tiệc cưới…
Không thiếu những kẻ muốn dự tiệc cưới. Không phải chỉ vì họ không có gì tặng, nhưng chỉ vì họ không chịu mặc áo cưới: đó là điều kiện độc nhất như luật tiệc cưới buộc. Ngạc nhiên ư? nếu người ta chấp nhận thì phải mặc trang phục tiệc cưới để vào ăn cưới theo tục lệ thời đó. Thế mà vào dự tiệc, chúng ta lại quá tự do, tự diễn không theo ý chủ mời nên mới phải chịu trách nhiệm! Đàng khác, chúng ta được lựa chọn, có thể từ chối. Nhiều người đã xin lỗi từ chối. Ngày nay, người ta lấy cớ giữ giới răn thì cổ lỗ chừng nào. Giáo lý của Giáo Hội nhất là về công bằng, bác ái thì lạc hậu biết bao!
Người ta thỏa mãn với nhiều thần tượng khác, người ta sống trong giầu có dư thừa và độc lập tự mãn; tại sao tự khép kín, tự tôn mình làm Thiên Chúa như thế?
Vua sai đầy tớ đi thỉnh khách đã được mời trước, nhưng họ từ chối. Chúng ta từ chối, chúng ta phải hứng chịu những hậu quả ghê gớm mai ngày sau cái chết, và ngay ngày hôm nay chúng ta đang sống. Những giới răn của Thiên Chúa không còn giá trị nữa sao? Chúng ta đã thay thế giới răn đó bằng thứ gì? Người ta từ chối dự tiệc Nước Trời để được tự do: như đứa con hoang đàng, chúng ta bằng lòng dự tiệc với đồ ăn của heo sao?
Nhưng Cha trên trời đang ở đó để chờ đợi chúng ta luôn luôn! chúng ta không chỉ là khách được mời, chúng ta còn là con Cha nữa.
J.M
SUY NIỆM 4: Y PHỤC LỄ CƯỚI (Mt 22, 1-14)
Xem lại CN 28 TNA, Thứ Ba tuần 31 TN.
Hôm nay, Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu lấy hình ảnh hôn lễ để nói về Nước Trời. Ông Vua chính là Thiên Chúa Cha. Hoàng Tử là Đức Giêsu. Hôn Thê là Giáo Hội. Khách được mời là dân Dothái, nhưng họ đã khước từ, vì thế khách được mời là hết mọi người, không phân biệt. Ngày cưới là ngày chung cuộc, ngày phán xét, ngày Vua tập hợp tất cả mọi người trên mọi nẻo đường, mọi thành phần tốt cũng như xấu, và đến giờ, nhà vua mới tiến vào và phán xét mọi người để phân biệt đâu là chiên và đâu là dê!
Tiêu chuẩn để không bị xét xử là phải mặc y phục lễ cưới. Nếu không sẽ bị đuổi ra ngoài.
Y phục mà Đức Giêsu muốn nói đến ở đây là gì? Thưa! Đó là sự đổi mới. Đổi mới là từ bỏ lòng ích kỷ cá nhân để mặc vào lòng bác ái vị tha. Từ bỏ sự hiềm khích, vô ơn, bất chính, để mặc vào tình yêu thương chân chính và lòng biết ơn. Từ bỏ sự hờ hững, vô tâm để mặc lấy lòng nhiệt thành, liên đới, cảm thông.
Vì thế, mặc y phục lễ cưới là mặc lấy tinh thần mới, lối nhìn mới và cách sống mới. Tiếc thay, điều kiện của Vua thì rất là dễ, nhưng lại trở thành quá khó đối với một số người cố thủ trong ích kỷ, biếng nhác, tham lam và ghen ghét. Vì thế, họ bị đuổi ra ngoài.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức lại việc mình được mời đến dự tiệc Thánh Thể và Lời Chúa hằng ngày. Tuy nhiên, chúng ta đã đáp trả như thế nào? Thờ ơ lãnh đạm như dân Dothái xưa không đi dự tiệc vì quá nhiều bận rộn trong đời sống, hay chúng ta đi dự tiệc mà không mặc y phục lễ cưới là phẩm hạnh của bàn tiệc mà Đức Giêsu đòi hỏi như: y phục của lòng tin, cậy, mến; y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa; y phục của tình yêu thương, liên đới và chia sẻ với người nghèo!
Mong thay, mỗi người chúng ta, khi được tham dự bàn tiệc Thánh Thể và Lời Chúa thì cũng được biến đổi, để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô và đủ điều kiện để một ngày kia tham dự vào bàn tiệc Thiên Quốc. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Tiệc cưới đã sẵn sàng
Suy niệm :
Dụ ngôn hôm nay nói về một tình yêu bị từ chối.
Chẳng có gì long trọng và tưng bừng cho bằng tiệc cưới của hoàng tử.
Tiệc cưới này do chính nhà vua khoản đãi với sự chuẩn bị chu đáo.
Vua đã mời các quan khách từ trước, và còn mời nhiều lần sau đó.
Trước những lời mời trân trọng của nhà vua, họ đã chối từ.
Thái độ của quan khách thật không sao hiểu nổi.
Họ chẳng sợ xúc phạm đến nhà vua khi coi chuyện đi buôn và chăn nuôi
quan trọng hơn chuyện dự tiệc cưới hoàng tử (c. 5).
Thậm chí có kẻ còn bắt các đầy tớ, hành hạ và giết đi (c. 6).
Những khách quý bây giờ trở thành kẻ sát nhân.
Họ sẽ phải chịu cơn thịnh nộ ghê gớm của nhà vua về sự xúc phạm đó.
Như thế tiệc cưới cho hoàng tử sẽ đi về đâu?
Ai là người sẽ được mời tiếp theo, khi những người trước tỏ ra bất xứng?
Nhà vua đã đưa ra một quyết định rất bất ngờ.
“Hãy đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (c. 9).
Như thế phòng tiệc bây giờ vẫn đầy người được mời, có cả tốt lẫn xấu.
Dụ ngôn trên đây lại được kết nối với một dụ ngôn khác.
Chúng ta ngạc nhiên khi thấy nhà vua đi vào phòng tiệc
để quan sát cách ăn mặc của những vị khách đến từ đường phố (c. 11).
Có người không mặc y phục lễ cưới và đã bị trừng phạt nặng nề (c. 13).
Tại sao lại phạt anh, khi anh bất ngờ được đưa vào ăn cưới?
Nhưng đừng quên các người khác đều mang y phục lễ cưới đầy đủ,
nên anh chẳng nói được gì để tự biện minh (c. 12).
Lịch sự với Thiên Chúa là điều ta dễ quên.
Ngài vẫn trân trọng mời ta dự tiệc chung vui với Ngài, với Con của Ngài.
“Mọi sự đã sẵn, mời quý vị đến dự tiệc cưới” (c. 4).
Đối với Ngài, sự hiện diện của chúng ta đem lại niềm vui lớn.
Khi đa số dân Do thái, những khách quý được mời trước, từ chối Ngài,
Ngài đã không muốn phòng tiệc bị trống, tiệc cưới bị đình hoãn.
Thiên Chúa chấp nhận mở cửa phòng tiệc cho mọi người.
Họ đến từ muôn phương, có người tốt người xấu, để làm nên Giáo hội.
Giáo hội gồm những người được mời và được gọi một cách nhưng không.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần lịch sự với Thiên Chúa, người chủ tiệc,
cần mặc y phục lễ cưới một cách đàng hoàng.
Y phục ấy chính là một đời sống nghiêm túc theo giáo huấn của Đức Giêsu.
Các Kitô hữu chúng ta đã được ngồi trong phòng tiệc của Thiên Chúa.
Chúng ta đã được mời và được gọi để sống trong Giáo hội,
nhưng chưa chắc chúng ta nằm trong số những người được tuyển chọn.
Số người được chọn bao giờ cũng ít hơn số người được gọi.
Để vào số những người được chọn, chúng ta phải biết trân trọng ơn ban.
Có khi chúng ta cũng coi chuyện buôn bán làm ăn của mình
quan trọng hơn những lời mời khẩn thiết đến từ Thiên Chúa.
Làm thế nào để chúng ta giữ được ơn cứu độ Chúa đang ban hôm nay?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
22/08 Xin Vâng
- Viết bởi Giuse Đinh Thành Đạt SDB
Xin Vâng.
Thứ Tư tuần 20 thường niên – Đức Maria Nữ Vương. Lễ nhớ.
"Này Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một Con trai".
* Vì cả thân xác cũng đã được biến đổi, Đức Maria trong vinh quang mông triệu đã trở nên thành công tối hậu của công trình cứu chuộc. Nhưng Đức Maria vô cùng diễm lệ đồng thời cũng rất quyền thế bởi vì Người là Thánh Mẫu của Đấng mà “triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Chính vì thế, từ bao thế kỷ, các tín hữu đã kính chào Mẹ là Đức Nữ Vương, Đấng Trung Gian tối cao của ân sủng.
Lời Chúa: Lc 1, 26-38
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một Trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, Trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà Trinh nữ và chào rằng:
"Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ". Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận". Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế, Đấng Bà sinh ra sẽ là Đấng Thánh, và đưọc gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt Bà.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Trinh Nữ Vương
Hiện nay, tại một số ít quốc gia trên thế giới như Anh Quốc, Hòa Lan, Thụy Ðiển, Thái Lan, chức nữ hoàng và quốc vương vẫn còn tồn tại, nhưng họ chỉ đóng vai trò tượng trưng, chứ không có thực quyền.
Giữa trào lưu có sự thay đổi quan trọng này trong hình thức chính trị và trong đời sống xã hội, những câu kinh: "Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy..." lượt dịch bài bình ca bất hủ bằng tiếng La Tinh: "Salve Regina..." vẫn còn được bao cửa miệng và tâm hồn dâng lên Mẹ Maria, diễn tả tấm lòng tôn kính, mến yêu của đoàn con cái đối với mẹ không mảy may bị lạnh nhạt, mặc cho thế sự đổi thay.
Trong tông huấn mang tựa đề: "Lòmg sùng kính Ðức Mẹ Maria", Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã định nghĩa về Ðức Maria Trinh Nữ Vương mà Giáo Hội mừng kính hôm nay đại khái như sau: "Lễ này là tiếp diễn lễ Ðức Mẹ Hồn Xác lên trời. Thực vậy, vào lễ Ðức Mẹ Hồn Xác lên trời, chúng ta say đắm và hân hoan mừng kính Mẹ Maria như là hoa quả đầu mùa của công trình cứu rỗi của Chúa Giêsu, đã chiến thắng hai kẻ thù của nhân loại, đó là: tội lỗi và sự chết. Hôm nay, trong lễ Ðức Maria Trinh Nữ Vương, chúng ta chiêm ngắm Ðức Mẹ bên cạnh Vua Cao Cả trời đất, như là Nữ Vương và là người bầu cử cho chúng ta như một người mẹ nhân hiền".
Lời giải thích của Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI trên đây giúp chúng ta hiểu đúng vai trò của Mẹ Maria theo tinh thần của cộng đồng Vatican II. Ðó là liên kết vai trò của Ðức Trinh Nữ Maria với Chúa Giêsu và công cuộc cứu rỗi của Ngài.
Theo dòng trào lưu đổi thay của quan niệm về tự do, dân chủ, vai trò Nữ Vương của Mẹ Maria vẫn đứng vững trong tâm trí và con tim của trăm triệu con cái Mẹ, vì Mẹ ngự bên cạnh Chúa Giêsu Vua. Một vị vua dùng thập giá làm ngai vàng, mão gai làm triều thiên và muôn thuở cạnh sườn ngài bị đâm thủng, để nguồn suối của tình yêu Thiên Chúa luôn chảy tràn, giải lao cho nhân loại đang khao khát tình yêu chân thật, làm động lực để biến xã hội loài người thành Nước Trời, với Chúa Giêsu là Vua. Mẹ Maria đứng cạnh ngai vàng thập giá, trái tim bị gươm đâm thâu, để dòng máu tình yêu của Mẹ hòa chảy, hầu đồng lao cộng khổ và đồng thống trị với con Mẹ trong Nước Trời.
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ của R. Veritas)
SUY NIỆM 2: Tôi là nữ tì của Chúa
Maria, một thôn nữ của ngôi làng Nadarét nhỏ bé thuộc vùng Galilê.
Cô đã đính hôn, và cứ sự thường, Cô sẽ kết hôn với ông Giuse.
Cuộc sống của Cô bề ngoài chẳng có gì khác thường.
Nhưng bên trong, Cô là một kiệt tác của Thiên Chúa.
Đơn giản vì Cô được tuyển chọn giữa mọi phụ nữ trên địa cầu
để trở nên Mẹ của Con Thiên Chúa, Mẹ của chính Ngôi Lời nhập thể.
Thiên Chúa đã làm những điều tốt đẹp nhất cho Cô
để Cô xứng đáng với đặc ân mà chẳng ai dám nghĩ tới.
Thiên Chúa muốn Con Một của Ngài làm người trăm phần trăm,
nên Ngài cần một người mẹ trần thế cho Người Con ấy.
Maria được chọn và được chuẩn bị hết sức chu đáo cho trọng trách này.
Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyết định của Cô.
Maria có chấp nhận cộng tác vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa không?
Một Thiên Chúa tôn trọng tự do là một Thiên Chúa biết mời gọi, hỏi ý.
Thiên Chúa cần sự gật đầu ưng thuận của một cô thiếu nữ xứ Paléttin
để Con của Ngài được làm người ở trên trái đất.
Thiên Chúa khiêm tốn không muốn đặt Cô trước sự đã rồi.
Ngài muốn Con của Ngài được Cô đón nhận vào cả hồn lẫn xác.
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện sứ thần Gabrien truyền tin cho Maria.
Đúng hơn đây là chuyện Thiên Chúa siêu việt hỏi ý một thụ tạo nhỏ bé.
Lời chào của sứ thần làm Cô rất bối rối, không hiểu và sợ hãi (cc. 29-30).
Maria được chào là Đấng đầy ân sủng,
nghĩa là người được Thiên Chúa đặc biệt mến yêu.
Ngài vẫn luôn ở cùng Cô ngay từ khi Cô còn trong lòng mẹ.
Sứ thần báo tin Cô sẽ thụ thai một con trai.
Người Con này là Con Đấng Tối Cao, là Vị Vua thuộc dòng Đavít (c. 33).
Hẳn Maria biết ngay là mình được mời gọi làm Mẹ Đấng Mêsia,
một danh dự mà bao thiếu nữ Do thái mong đợi.
Nhưng Maria vẫn chưa hiểu làm sao Cô có thể thụ thai
khi Cô chưa làm lễ thành hôn và về chung sống với chồng (c. 34).
Sứ thần cho biết việc Cô thụ thai là chuyện độc nhất vô nhị.
Cô có con là vì “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Cô
và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ tỏa bóng trên Cô” (c. 35).
Người chồng tương lai của Cô không dự phần vào việc thụ thai này.
Con của Cô sẽ được gọi là Con Thiên Chúa theo nghĩa viên mãn nhất.
Maria đã nói tiếng Xin Vâng với đề nghị của Thiên Chúa (c. 38).
Cô đã thụ thai từ khi nói tiếng Xin Vâng đầy tín thác ấy.
Ngôi Hai Thiên Chúa đã hiện diện trong lòng Cô, trong đời Cô.
Chúng ta cũng được Thiên Chúa mời gọi và hỏi ý như Maria xưa.
Ngài cũng cần từng người chúng ta để cứu độ cả nhân loại.
Nếu chúng ta chịu cưu mang Đức Giêsu, sinh hạ và làm cho Ngài lớn lên,
thì chúng ta được chia sẻ chức làm mẹ của Mẹ Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 3: Mẹ tuyệt vời
Còn gì vui bằng, hạnh phúc khi có Mẹ ở bên. Còn Mẹ là một ân huệ. Còn Mẹ là một hồng ân tuyệt diệu. Mẹ trần thế còn quí hóa như thế. Mẹ trên trời còn giá trị biết bao.
Maria là tên người Mẹ thiêng liêng, tên cao trọng, tên tuyệt vời. Còn gì hạnh phúc khi con người được thân thương gọi tên Mẹ “Maria”. Tên Mẹ thật dịu hiền, thật nhẹ nhàng, thật gợi cảm. Tên Mẹ gói ghém tất cả, nói lên tất cả. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Mẹ là Nữ Vương trên trời dưới đất. Với muôn tước hiệu Giáo Hội ca tụng Mẹ: “Tước hiệu nào cũng đẹp, cũng quí, cũng cao vời”. Nhân loại không ngớt cùng Mẹ tung hô Thiên Chúa:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.” (Lc 1, 46-48).
Maria quả thực đã trọn đời tín thác nơi Chúa. Việc thăm viếng bà chị họ Ê-li-gia-bét nói lên tình thương của Mẹ đối với ông Dacaria và bà Êligiabét, Mẹ đến để phục vụ họ, nhưng Mẹ đến cũng là đem cho họ sứ điệp của niềm vui và bình an: “Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êligiabét” (Lc 1, 40). Lời chào của Maria có ý nghĩa cao vời hơn mọi lời chào xã giao hoặc lời chào của những người thân đi xa về. Mẹ Maria, Nữ tử Sion đã nói lên lời chào bình an, lời chào hoàn tất niềm mong đợi của Israen. Mẹ đã đem niềm hạnh phúc, mang Chúa Giêsu, hoa trái của lòng trinh khiết của Mẹ, mang Vua Hòa Bình là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần đến để khi bà Êligiabét vừa nghe lời Mẹ, đứa con trong bụng bà nhảy lên… (Lc 1, 41).
Maria đã trao ban chính bản thân trọn vẹn bằng lời “xin vâng” đầy lòng tin và tín thác nơi Thiên Chúa, do đó: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1, 14).
Mẹ Maria là Nữ Vương các Ngôn sứ, các thánh tử đạo, Nữ Vương trên trời dưới đất. Tước hiệu ấy đi đôi với tước hiệu Vua Giêsu Con của Mẹ. Chúa Giêsu là Vua, nhưng Vua yêu thương, phục vụ và khiêm nhượng. “Nước Tôi không thuộc thế gian này”. Chúa Giêsu đã nói với Philatô như thế. Ngài xác nhận: “Tôi là Vua” (Ga 18,37).
Vua chết trên thập giá để kéo mọi người đến với Ngài vì “Chỉ nơi Ngài mới có ơn cứu chuộc chan chứa” (Copiosa apud Eum Rédemptio). “Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Mẹ Maria là Nữ Vương đứng dưới chân thập giá:” Con Mẹ là Vua cứu chuộc”. Nên, Mẹ cũng đồng hiệp thông với sự đau khổ, sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu để thống trị với Con của Mẹ trong Nước Thiên Chúa.”… Hôm nay, trong lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương, chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ ngự bên cạnh Vua cao cả trời đất, như là Nữ Vương và là người bầu cử cho chúng ta như một người Mẹ nhân hiền” (Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI trong tông huấn: “Lòng sùng kính Đức Mẹ Maria”).
Dù rằng, thế giới hôm nay, chức “Vua” chỉ có vai trò tượng trưng, nhưng không hề có thực quyền, Maria là Nữ Vương vẫn hoàn toàn có giá trị, vẫn hoàn toàn có uy quyền trước Chúa Giêsu Vua, Con của Mẹ. Nhân loại vẫn không ngớt ca tụng Mẹ là Nữ Vương như kinh Lạy Nữ Vương chúng ta vẫn thường đọc. Mẹ là Nữ Vương bên ngai toà Đức Kitô để Mẹ chiếu dọi ánh hào quang vinh quang của Chúa Giêsu Vua cho nhân loại.
Người ta đã tôn sùng Đức Trinh Nữ Vương từ lâu đời. Đức Thánh Cha Piô VII vào thế kỷ XIX đã công khai cho phép một số Giáo Phận mừng lễ Đức Trinh Nữ Vương. Đức Giáo Hoàng Piô IX đã thiết lập một lời nguyện và một lễ kính Đức Trinh Nữ Vương đặc biệt. Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng dâng loài người cho trái tim vẹn sạch Đức Trinh Nữ Vương vào năm 1942 giữa lúc thế chiến thứ 2 đang ngập tràn. Năm 1944, chính Đức Giáo Hoàng Piô XII đã buộc mừng kính lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương trong Giáo Hội toàn cầu.
Muôn đời, nhân loại sẽ hiệp ý với Mẹ Trinh Nữ Vương ca tụng, tôn vinh Thiên Chúa:” Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ đến đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người “(Lc 11, 49-50). Mẹ là Nữ Vương cao sang, uy quyền. Mẹ là Nữ Vương tuyệt mỹ.
Lạy Đức Trinh Nữ Maria xin cầu bầu cùng Chúa cho chúng con trước ngai toà Chúa để chúng con luôn tín thác vào Chúa và hết lòng trông cậy vào Mẹ. Amen.
(Lm. Nguyễn Hưng Lợi)
SUY NIỆM 4: Đức Maria Nữ Vương
Việc cử hành lễ Đức Maria Nữ Vương đem đến cho chúng ta một niềm vui đặc biệt khi chiêm ngắm một con đường khác mà Thiên Chúa vén mở tình yêu của Ngài cho nhân loại. Ngài ban cho Mẹ Maria - một bông hồng giữa bụi gai mà không bị suy suyển - được đồng hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa, trên tất cả các thiên thần.
Bằng phương cách độc nhất, Mẹ tự nguyện trở thành dụng cụ của Thiên Chúa để qua Mẹ “Ngôi Lời đã trở nên người phàm” (Ga. 1:14). Những hoa trái cứu chuộc đến với chúng ta qua Đức Maria khi Mẹ trả lời “Xin Vâng” với Chúa Cha để đem Chúa Giêsu Kitô vào thế giới loài người. Thân xác Đức Maria trở nên cực thánh khi cưu mang Đức Kitô. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Luca chỉ cho ta một trái tim hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa, yêu mến Ngài, và uớc muốn làm mọi sự cho Ngài và tuân phục Ngài. Được Chúa chúc phúc, Đức Maria tuân theo kế hoạch cứu độ, và hiến đâng trọn đời cho Chúa.
Vì vậy Mẹ Maria rất thánh được tôn vinh lên địa vị cao quí nơi ngai tòa Thiên Chúa Ba Ngôi, từ nơi này Thiên Chúa cho các thánh thấy rõ Thiên Chúa đời đời hằng hữu và mọi thụ tạo đều tuỳ thuộc thánh ý Chúa. Được tràn đầy ân sủng vượt trên mọi thụ tạo, ở trần thế, Đức Maria đã hạ mình xuống địa vị thấp hèn nhất, thì nay, trên thiên quốc, Mẹ được nhận lấy địa vị tối cao và tham dự quyền chăm sóc mọi tạo vật. Mẹ là Nữ Vuơng, là Đấng Bảo Vệ, là Trạng Sư, là Mẹ và Thầy Giáo hội lữ hành. Mẹ giúp đỡ và cứu vớt mọi nỗi thống khổ, vất vả, cực nhọc, và ưu phiền của nhân loại.
Phụng vụ hôm nay nhắc tới việc Chúa đã đặt Thánh Mẫu của Đức Kitô Con Chúa làm Thánh Mẫu và Nữ Vương, xin Mẹ chuyển cầu cho chúng ta đạt tới phúc vinh quang Chúa dành sẵn trên trời cho con cái Chúa.
Công Đồng Vaticanô II, trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo hội, nói về Đức Maria như sau:” các Tông Đồ trước ngày lễ Ngũ Tuần ‘đã kiên tâm hiệp ý cầu nguyện, cùng với các phụ nữ, với Đức Maria Mẹ Chúa Giêsu và với anh em của Ngài’ (Cv 1:14), Đức Maria cũng tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, Đấng đã bao phủ Người trong ngày Truyền tin. Sau cùng, được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội lỗi nguyên tổ và sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế, Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ để nên giống Con của Người trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. (số 59).
Mẹ Maria đã chia sẻ mọi việc làm và nỗi thống khổ của Đấng Cứu Chuộc nhân thế. Mẹ đã đứng bên thánh giá lúc Chúa lìa trần và Chúa thưởng Mẹ xứng với tình yêu và công nghiệp của Mẹ và Mẹ được xưng tụng là Nữ Vuơng thiên đàng và Nữ Vuơng cả vũ trụ vạn vật.
Lạy Chúa Thánh Thần, Ngài là nguồn mạch của sức mạnh, hy vọng và yêu thương nơi Đức Maria. Xin hãy mở rộng cánh cửa tâm hồn con, xin ban sức mạnh, hy vọng và tình yêu nơi con để Vua Vinh Hiển ngự vào lòng con.
(Nguyễn Đức Tuyên)
SUY NIỆM 5: Đức Maria là Nữ Vương
1) Đức Ma-ri-a là Nữ Vương
Trong kinh cầu Đức Mẹ, ta thấy Giáo Hội tôn vinh Đức Ma-ri-a là Nữ Vương với nhiều danh hiệu khác nhau: Nữ Vương Thiên Đàng, Nữ Vương các thiên thần, Nữ Vương các thánh nam cùng các thánh nữ, Nữ Vương ban sự bình yên, v. v… Vương có nghĩa là vua, là chủ tể. Đương nhiên tước hiệu Vương hay Vua của Đức Ma-ri-a không đồng nghĩa hay đồng hàng với tước hiệu Vương hay Vua của Thiên Chúa hay của Đức Giê-su. Nhưng là Vương hay Vua có nghĩa là có sự trổi vượt, có quyền cai trị, có thế lực, thần thế, có bề tôi hay những người dưới quyền…
Trong vũ trụ luôn luôn có phẩm trật rõ rệt. Cao cả nhất là Thiên Chúa Ba Ngôi, trong đó có Đức Giê-su là Ngôi Hai Thiên Chúa, và kế đến là Đức Ma-ri-a. Vì là Mẹ sinh ra Đức Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa, nên Mẹ thuộc hẳn về «Hoàng Gia» hay Gia Đình của Thiên Chúa. Đây là một vinh dự chung rất lớn lao cho loài người, vì trong «Hoàng Gia» này – bao gồm những thủ lãnh cao cấp nhất của vũ trụ – ta thấy có hai vị là con người: Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a. Đây cũng là một lợi điểm cho cả loài người. Các thiên thần không có được vinh dự ấy.
Như vậy, Mẹ Ma-ri-a rất có thần thế trước mặt Thiên Chúa, và rất có uy quyền đối với loài thiên thần và loài người. Ngày lễ hôm nay có chủ ý tôn vinh tước hiệu, thần thế và uy quyền ấy của Mẹ Ma-ri-a.
2) Điều quan trọng là: Mẹ Ma-ri-a có phải là Nữ Vương của chính tâm hồn và bản thân ta không?
Mẹ Ma-ri-a là Nữ Vương trên trời dưới đất, Giáo Hội Công giáo tuyên xưng như vậy. Nhưng điều ấy sẽ không ích lợi gì cho chính bản thân ta, nếu nó hoàn toàn xảy ra bên ngoài ta, nghĩa là nếu như Mẹ không phải là Nữ Vương của chính tâm hồn và bản thân ta. Việc Mẹ Ma-ri-a là Nữ Vương trên trời dưới đất phải là một sự việc hiện sinh đang xảy ra «tại đây và lúc này» trong chính bản thân ta, trong ý thức của ta. Nghĩa là bất cứ lúc nào ta cũng ý thức và nhìn nhận Mẹ Ma-ri-a vừa là Mẹ ta, vừa là vị Nữ Hoàng thống trị tâm hồn ta. Nói cách khác, ta luôn ý thức phận làm con, làm thần dân của Mẹ, và lúc nào cũng sẵn sàng tuân hành ý muốn hay mệnh lệnh của Mẹ nói trong chiều sâu tâm khảm ta. Được như thế, Mẹ sẽ uốn nắn tâm hồn ta nên hoàn hảo giống như Đức Giê-su, Con của Mẹ.
Nói một cách cụ thể, trong bất cứ hoàn cảnh hay tình huống nào trong cuộc đời, ta cũng đều nên hỏi Mẹ: «Lạy Mẹ, con phải làm gì đây? Mẹ muốn con làm gì và làm thế nào?» Khi ta quyết tâm làm theo sự hướng dẫn hay chỉ đạo của Mẹ chứ không phải theo ý riêng mình, Mẹ sẽ giúp ta hoàn thành mọi việc một cách tốt đẹp và việc ta làm sẽ có một giá trị lớn lao trước mặt Thiên Chúa. Cứ như thế, ta sẽ nên thánh.
3. Chính Mẹ đã nêu gương cho ta trong việc làm theo thánh ý Chúa
Bài Tin Mừng cho ta thấy Mẹ không muốn mọi sự xảy ra theo ý riêng mình, mà sẵn sàng vâng theo ý muốn của Thiên Chúa, qua lời của thiên sứ. Chính vì thế, Mẹ đã trở nên người phụ nữ cao trọng và diễm phúc hơn tất cả mọi phụ nữ. Mẹ tin tưởng rằng cách mình tính dù có khôn ngoan tới đâu cũng không bằng cách Thiên Chúa tính cho mình. Cứ phó thác toàn bộ chuyện của mình cho Ngài, không theo ý riêng của mình, thì cuối cùng, cách Ngài tính cho ta là cách khôn ngoan và tốt đẹp nhất. Tương tự như vậy, ta hãy để cho Mẹ được toàn quyền xếp đặt mọi sự trong cuộc đời ta, thì cuộc đời ta sẽ trở nên tốt đẹp hơn trường hợp chính ta tự xếp đặt lấy độc lập với ý muốn của Mẹ. Tại sao? Vì Mẹ vừa yêu thương ta vô cùng, lại khôn ngoan hơn ta rất nhiều. Không bao giờ Mẹ lại để cho những đứa con phó thác cho sự khôn ngoan và tình thương của Mẹ phải thất vọng hay thiệt hại vì sự phó thác ấy.
Tóm lại, trong ngày lễ kính Mẹ Ma-ri-a là Nữ Vương trên trời dưới đất, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta hãy tôn vinh Mẹ là Nữ Vương của chính bản thân mình, của gia đình mình. Đó là cách hết sức khôn ngoan để cuộc đời ta nên thánh thiện, tốt đẹp và hạnh phúc nhất.
JNK
SUY NIỆM 6: Đức Maria Trinh Nữ Vương
Ngày 1 tháng 11 năm 1954, bốn năm sau khi tuyên bố tín điều Đức Maria hồn xác về trời, Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng đội triều thiên lên tượng Đức Trinh Nữ là "sự cứu rỗi của dân Roma". Đây là cử chỉ tượng trưng biểu thị sự công bố về vương quyền phổ quát của Đức Mẹ Maria.
Đoàn người đông đảo đứng chật quảng đường đền thờ thánh Phêrô, nhân danh cả hoàn cầu, dâng cao niềm hoan hỉ.
Đức Thánh Cha cầm những vòng vàng dát đá quí từ khắp thế giới gởi về, để đặt trên đầu tượng Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Ngài nói: "Xin Mẹ cai quản trên Giáo hội, trên mọi trí khôn, mọi cõi lòng, mọi cá nhân, mọi gia đình cũng như mọi xã hội và mọi quốc gia, trên mọi cộng đoàn, những người quyền thế. Xin Mẹ hãy cai trị trên mọi nẻo đường và mọi quảng trường, trong thành thị và chốn thôn quê, trên nền trời, cũng như trên mặt đất và cả biển khơi."
Ngài còn nói: "Vương quyền của Đức Maria là một thực tại siêu vượt thế trần, đồng thời lại thấm nhập mọi cõi lòng và chạm tới phần cốt yếu sâu thẳm nhất có tính cách siêu nhiên và bất tử nhất của con người."
Đức Maria là Mẹ thánh, tước hiệu này khiến cho Mẹ được đặc ân không bị thương tổn vì tội lỗi. Vô nhiễm nguyên tội, Mẹ cũng không bị thương tổn vì sự chết. Khi kết thúc cuộc đời trần gian cũng như từ những lời đầu tiên buổi truyền tin, mẹ là tuyệt đỉnh của nhân tính bất khả xâm phạm luôn hiệp nhất với Ngôi Lời để hoàn tất công cuộc cứu rỗi thế gian. Không một ý tưởng, hành vi nào của Mẹ lại rời khỏi con Mẹ trong việc chinh phục bản tính nhân loại và việc chinh phục vũ trụ.
Trong kinh lạy Nữ Vương chúng ta xưng tụng "Thân lạy Nữ Vương, lạy Mẹ từ bi, Mẹ là sự sống, sự ngọt ngào và hy vọng của chúng con”. Mẹ Maria được xưng tụng như Esther trong Cựu Ước đã cứu dân ra khỏi hoạ diệt vong, Nữ Vương có mọi quyền hành bên Đức Vua và là Đấng bầu cử linh thiêng nhất bên cạnh Đức Vua.
Ngày nay, những lời ca tụng Đức Mẹ hướng về vẻ đẹp tuyệt mỹ của Đức Mẹ và uy quyền của Mẹ bên ngai tòa Chúa Giêsu. Mẹ là hoa quả tuyệt vời của ơn cứu rỗi và là hoa trái tuyệt mỹ của thập giá Chúa Giêsu "Một người nữ mình mặc áo mặt trời, chân đạp vầng trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Mẹ Maria là người Mẹ đầy uy quyền trước mặt Chúa: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (Ga 2,5).
Lễ Mông Triệu (Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời) kéo dài một tuần đến lễ Đức Trinh Nữ Vương, lễ này cho thấy Đức Mẹ Maria sáng chói như Nữ Hoàng và như Bà Mẹ, Ngài là Đấng cầu bầu cho chúng ta bên cạnh Đức Vua muôn thuở.” (Marialis cultus, 6)
Lạy Chúa, Chúa đã đặt Thánh Mẫu của Đức Kitô Con Chúa làm Thánh Mẫu và Nữ Vương chúng con. Xin nhận lời Đức Nữ Vương chuyển cầu mà cho chúng con đạt tới phúc vinh quang Chúa dành sẵn trên trời cho con cái Chúa. (Lời nguyện nhập lễ, lễ Đức Maria Nữ Vương)
SUY NIỆM 7: Đức Maria Nữ Vương
Thánh vịnh 44, 10 viết rằng: ”Lạy Chúa, bên hữu Ngài, Hoàng Hậu sánh vai, mặc xiêm y dệt gấm thêu vàng, và trang điểm huy hoàng rực rỡ ». Thánh lễ mừng kính Đức Maria Trinh Nữ Vương đã có từ lâu, nhưng phải đợi đến năm 1944, Đức Giáo Hoàng Piô XII buộc toàn thể Giáo Hội mừng kính lễ này trọng thể trong toàn thể Giáo Hội.
KHÁI NIỆM VƯƠNG QUYỀN CỦA ĐỨC TRINH NỮ MARIA:
Với muôn vàn tước hiệu Giáo Hội và nhân loại cung kính dâng lên Đức Trinh Nữ Maria, tước hiệu Nữ Vương Vũ Trụ Trời Đất bao gồm mọi tước hiệu Nữ Vương khác, và tước hiệu này có nền tảng trong Sách Khải Huyền: ”Một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên trời: một người nữ mặc mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1) hoặc “Người mang Danh viết trên áo, trên tà áo của Người: Vua các vua và Chúa các chúa” (Kh 19,16). Chúa là vua trên hết các vua. Vương quyền của Ngài vượt trên mọi vương quyền.
Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ của Chúa Giêsu cũng phải được tôn vinh như vậy, và nhân loại phải tung hô vương quyền, tôn nhận Mẹ là Nữ Vương trên hết mọi Nữ Vương. Cha thánh Giám Mục Anphongsô đệ Liguori đã viết: ”Chúng ta hãy cám tạ Nữ Vương rất dấu yêu của chúng ta, bởi vì mọi ơn chúng ta được lãnh nhận đều từ tay Mẹ và nhờ lời cầu bầu của Mẹ” (Vinh Quang Đức Mẹ, II). Trong kinh lạy Nữ Vương ta đọc thấy: ”Kính chào Đức Nữ Vương, Bà là Mẹ xót thương, Ngọt ngào cho cuộc sống, Kính chào lẽ cậy trông » (Salve Regina). Mẹ Maria được tôn nhận làm Nữ Vương trên thiên quốc. Đức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết lập lễ Đức Maria Trinh Vương và công bố tông thư Coeli Reginam nói về Vương Quyền của Đức Trinh Nữ Maria: vương quyền của Mẹ Maria là vương quyền của yêu thương và phục vụ.
MẸ MARIA LÀ NỮ VƯƠNG TRỜI ĐẤT:
Trong kinh lạy Nữ Vương chúng ta xưng tụng ”Thân lạy Nữ Vương, lạy Mẹ từ bi, Mẹ là sự sống, sự ngọt ngào và hy vọng của chúng con”. Mẹ Maria được xưng tụng như Esther trong Cựu Ước đã cứu dân ra khỏi hoạ diệt vong, Nữ Vương có mọi quyền hành bên Đức Vua và là Đấng bầu cử linh thiêng nhứt bên cạnh Đức Vua.
Ngày nay, những lời ca tụng Đức Mẹ hướng về vẻ đẹp tuyệt mỹ của Đức Mẹ và uy quyền của Mẹ bên ngai toà Chúa Giêsu. Mẹ là hoa quả tuyệt vời của ơn cứu độ và là hoa trái tuyệt mỹ của thập giá Chúa Giêsu: ”Một người nữ mình mặc áo mặt trụi, chân đạp vầng trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12, 1). Mẹ Maria là người Mẹ đầy uy quyền trước mặt Chúa: ”Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2, 5).
Lạy Chúa, Chúa đã đặt Thánh Mẫu của Đức Kitô Con Chúa làm Thánh Mẫu và Nữ Vương chúng con. Xin nhận lời Đức Nữ Vương chuyển cầu mà cho chúng con đạt tới phúc vinh quang Chúa dành sẵn trên trời cho con cái Chúa” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Đức Maria Nữ Vương).
SUY NIỆM 8: Đức Maria Nữ Vương - NỮ VƯƠNG BAN SỰ BÌNH AN
(Is 9, 2-4. 6-7; Tv 112, 1-2. 3-4. 5-6. 7-8; Lc 1, 26-38)
Từ lâu đời, nhiều bài thánh ca đã hướng lên đức Maria dưới tước hiệu Nữ vương (thí dụ: “Salve Regina, Reginae coaeli, Ave regina coelorum); trong kinh cầu Đức Mẹ, lời khẩn cầu “Nữ vương” được lặp lại nhiều lần dưới nhiều tước hiệu khác nhau.
Thế nhưng, lễ Đức Maria Nữ vương thì mới được đức Piô XII thiết lập vào năm 1954, (để đánh dấu năm Thánh mẫu kỷ niệm bách chu niên của việc tuyên bố tín điều Đức mẹ vô nhiễm nguyên tội), với thông điệp “Ad caeli reginam” ngày 11/10/1954. Lễ này được ấn định cử hành vào ngày 31 tháng 5.
Và rồi, với cuộc canh tân phụng vụ sau Công Đồng đã dời lễ nhớ sang ngày 22 tháng 8 để làm nêu bật hơn sự gắn liền tước hiệu Nữ vương của Đức Maria với việc lên Trời: chúng ta chiêm ngắm Đức Maria, Nữ hoàng ngồi bên cạnh Vua thiên triều để cầu bầu cho chúng ta như Thái Hậu.
Thật vậy, chức Nữ vương của Đức Maria được gắn liền với vai trò làm mẹ và chuyển cầu. Có lẽ nên hiểu tước “Nữ vương” theo nghĩa là “Thái Hậu” (bà mẹ của Đức Vua), hơn là Hoàng hậu hay Nữ hoàng. Hơn thế nữa, cũng như Đức Kitô đã giải thích vương triều Thiên Chúa theo nghĩa phục vụ chứ không phải thống trị, chúng ta cũng hiểu được rằng vinh quang của Đức Maria không dành để củng cổ thế lực, nhưng là nhằm để thực thi lòng ân cần săn sóc đối với anh chị em còn trên đường lữ hành.
Ý nghĩa tước hiệu “Nữ vương” được phụng vụ giải thích trong phần dẫn nhập vào bài lễ như sau:
Có ít là bốn lý do để đức Maria đáng mang tước hiệu Nữ vương: lòng khiêm nhường; chức phận làm mẹ; vai trò chuyển cầu; hình ảnh vinh quang của Hội thánh.
1) Đức Maria là Nữ vương trên trời bởi vì khi còn ở dưới thế, Người là tôi tớ khiêm nhường của Chúa. Theo như lời của chính Chúa đã dạy: “ai hạ mình xuống thì sẽ được nhấc lên” (Lc 14, 11). Cũng như Chúa Cha đã tôn vinh Đức Kitô vì đã hạ mình cho đến chết trên thập giá (Pl 2, 6-11), thì Ngài cũng nhấc người nữ tì hèn hạ lên trên các thiên thần.
2) Đức Maria là Nữ vương vì là thân mẫu của Vua cứu thế, Đấng “ngự trên toàn vua Đavít đến ngàn đời” (Lc 1, 32-33). Bà Isave đã chúc tụng Người là “Mẹ của Chúa tôi” (Lc 1, 41-43).
3) Đức Maria là Nữ vương bởi vì ở bên cạnh đức Vua vinh hiển trên trời để cầu bầu cho nhân loại. Khi còn tại thế, Đức Maria đã đồng lao cộng tác với Đức Kitô vào sự cứu chuộc trong đau khổ; ngày nay Người cũng chia sẻ vinh quang với Chúa để cầu xin cho hết mọi người được hưởng nhờ ơn đó.
4) Đức Maria là Nữ vương vì người tiên phong cho hội thánh mai hậu, cũng được gọi vào chia sẻ vinh quang của con cái Chúa trong nước trời (Kh 5, 10), lãnh triều thiên vinh quang (1Pr 5, 4), triều thiên công chính (2Tm 4, 8).
Và rồi, chúng ta thấy để tôn kính Nữ Vương, với kinh cầu Đức Bà, ta thấy có nhiều lời ca tụng Đức Nữ vương.
Đức giáo hoàng Piô 6 năm 1814, thêm vào kinh Cầu Đức Bà 8 câu tôn vinh Nữ vương:"Nữ Vương các thánh thiên thần" cho đến câu "Nữ Vương các thánh nam cùng các thánh nữ".
Nữ vương các thánh thiên thần.
Nữ vương các thánh Tổ tông.
Nữ vương các thánh Tiên tri.
Nữ vương các thánh Tông đồ.
Nữ vương các thánh Tử vì đạo.
Nữ vương các thánh Hiển tu.
Nữ vương các thánh Ðồng trinh.
Nữ vương các thánh Nam cùng các thánh Nữ.
Nữ vương truyền phép rất thánh Mân côi.- Đức Lêô 13, năm 1833 thêm: "Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân côi".
Nữ vương chẳng hề mắc tội tổ tông. - Đức Piô 9, năm 1854 thêm: "Nữ Vương chẳng hề mắc tội tổ tông".
Nữ vương linh hồn và xác lên trời.- Đức Piô 12, năm 1950 thêm: "Nữ Vương linh hồn và xác lên trời".
Nữ vương các gia đình.- Đức Gioan Phaolô 2, năm 1995 thêm "Nữ Vương các gia đình" để cầu cho các gia đình đang gặp nhiều khó khăn giữa thế giới hôm nay.
Đặc biệt, lời ca tụng Nữ vương ban sự bằng yên được Đức Bênêđictô 15, năm 1915 thêm "Nữ Vương ban sự bằng yên".
Và, đặc biệt hơn nữa, trong các giờ kinh gia đình, giờ kinh chúng ta thường nghe thấy câu cuối cùng : “Nữ Vương ban sự bình yên – cầu cho chúng con”. Không chỉ xướng 1 lần mà xướng đến 3 lần.
Điều mà người ta tha thiết nài xin nên người ta mới xướng nhiều đến như vậy. Phải chăng đó là tâm thức của con người, tâm thức của mỗi người chúng ta khi hướng lòng lên với Đức Mẹ.
Thật vậy, Mẹ Maria – Mẹ chúng ta – Mẹ chính là Nữ Vương trời đất.
Maria xứng đáng là Nữ Vương Trời đất bởi lẽ Mẹ đã thưa hai tiếng xin vâng như trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe : "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền".
Eva đã xuẩn động bất tuân để làm cho con người trở nên nô lệ của tội lỗi. Chính từ ngày đó, con người đã bất an vì tội lỗi lan tràn mặt đất. Còn Maria – Ave – hai tiếng Mẹ đảo vần đó đã mang lại ơn cứu độ, mang ơn bình an đến cho nhân loại.
Nhìn vào thực tế của cuộc đời, ta thấy con người không thể nào thoát khỏi sự quan phòng, khỏi bàn tay của Thiên Chúa để rồi càng bất tuân, càng hí hoáy lòng ta lại bất an. Càng đi tìm cho mình cái tôi của mình, sự tự do của mình ta lại thấy bất an. Kinh nghiệm rõ ràng nơi Mẹ Maria, ta sẽ bình an khi ta thân thưa với Chúa lời xin vâng như Mẹ.
Và, thật sự là thế, Maria là Mẹ, là Nữ Vương ban sự bình an bởi lẽ trong tâm tình là Mẹ, Mẹ hiểu được lòng con thơ.
Cuộc đời con người, ắt hẳn không có gì quý cho bằng sự bình an trong tâm hồn. Chính vì thế, mỗi người chúng ta nếu muốn bình an thật sự thì hãy đến bên Mẹ, nép mình vào lòng Mẹ và cùng thưa với Chúa lời xin vâng như Mẹ chúng ta sẽ có sự bình an như Mẹ.
Trong tâm niệm, ta hãy cũng niệm lời xướng thật dễ thương : Nữ Vương ban sự bình an – cầu cho chúng con.
Xin Mẹ là Mẹ, là Nữ Vương ban sự bình an luôn che chở chúng con trong vòng tay của Mẹ để đời chúng con mãi mãi được sự bình an.
Huệ Minh
SUY NIỆM 9: Đức Maria Nữ Vương - BIẾN CỐ TRUYỀN TIN
Một phụ nữ mang trong mình mầm sống đã được 7 tháng, chị hết sức vui mừng và hạnh phúc, nhưng chị lại không có được sức khỏe bình thường như những bà mẹ khác. Sau khi đã theo dõi sức khỏe của chị một thời gian dài, bác sĩ quyết định nói cho chị biết sự thật rằng bệnh của chị hiện tại không cho phép chị sinh em bé, nếu chị sinh con thì sẽ ảnh hưởng đến tính mạng. Vì vậy chị chỉ có thể chọn lựa một là bỏ em bé, hai là giữ lại thai nhi nhưng chị sẽ có nguy cơ mất mạng rất cao. Họ rất thông cảm với chị và mong chị suy nghĩ cho kỹ hầu có được quyết định đúng đắn. Người mẹ trẻ hết sức bối rối và đau lòng, nhưng sau một thời gian, chị đã quyết định hy sinh bản thân cho con mình được sống.
Trong cuộc sống, chúng ta luôn nhận được rất nhiều thông tin mỗi ngày. Có những thông tin chỉ hời hợt, nhưng cũng có những thông tin thật quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống mỗi người. Nếu có người đưa đến cho bạn hai thông tin nào đó rất quan trọng, một tin vui và một tin buồn thì bạn sẽ muốn nghe loại nào trước? Có thể chúng ta sẽ phân vân chưa biết chọn tin nào trước, nhưng một thực tế là thông tin ấy có liên quan đến cuộc sống của chúng ta, bạn không thể nào phủ nhận nó được và cần có thêm chút thời gian để chọn lựa. Bài Tin Mừng hôm nay Đức Maria cũng lâm vào hoàn cảnh phải tiếp nhận một thông điệp gửi đến từ sứ thần của Chúa, nhưng ngài không có được thời gian để suy nghĩ, chọn lựa như người mẹ trong câu truyện trên, dù rằng đây là một tin trọng đại liên quan đến cả cuộc đời Mẹ. Trong hoàn cảnh của Mẹ phải đối diện lúc này là một vinh dự cao cả, một sự thiện tuyệt đối không thể chối từ: "Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là con Đấng Tối Cao". Có lẽ cũng có người trong chúng ta thắc mắc rằng việc làm Mẹ Thiên Chúa là một vinh dự lớn lao như vậy thì có gì phải chần chờ, có gì mà khó khăn, có gì mà bối rối? Nếu là tôi thì sẽ nhận lời tức khắc!
Chúng ta sẽ nghĩ thế nào nếu chính chúng ta trong hiện tại là một cô gái mười sáu trăng tròn, bỗng dưng có một vị thiên sứ hay một người nào đó đến báo tin rằng chúng ta sẽ có thai và đứa con đó là Thiên Chúa? Liệu chúng ta có đủ niềm tin để đón nhận hay không? Khi chúng ta nói cho người khác rằng con của mình không phải là kết quả của người phàm và đó là Thiên Chúa, liệu họ có tin không? Chúng ta sẽ xoay xở thế nào trong cuộc sống để nuôi dưỡng con mình bằng kinh nghiệm non trẻ ấy? Đức Maria thời ấy lại còn phải đối diện với việc giải thích thế nào cho người bạn đời của mình tin và hiểu. Hơn nữa vào thời ấy, một khi người phụ nữ nào không chồng mà có con sẽ phải đối diện với việc bị ném đá cho đến chết! Việc Đức Maria mang thai trong thời điểm này chẳng khác nào người mẹ trong câu truyện trên đang đón nhận một thông tin liên quan đến chính mạng sống của mình. Chính việc can đảm đón nhận sứ điệp của Thiên Chúa và tín thác hoàn toàn vào Ngài để thực hiện trọn vẹn sứ vụ của mình cách hoàn hảo, Đức Maria đã trở nên một Nữ Vương trong việc thực thi thánh ý Thiên Chúa.
Cuộc sống của chúng ta không thiếu những thông tin tích cực lẫn tiêu cực ảnh hưởng đến sinh hoạt của chúng ta, và không ít lần chúng ta đã than trách, đã chạy trốn trước những thách đố của cuộc sống và rất có thể đã không còn sự tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Vì vậy chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria trong cách đón nhận từng biến cố, chúng ta không phản ứng nóng vội trước mọi thông tin, nhưng là suy niệm tìm ra ý Chúa và luôn sẵn lòng thực thi thánh ý Thiên Chúa trong lời thưa "xin vâng" bằng sự khiêm nhường sâu thẳm và tín thác vào Chúa quan phòng theo gương Mẹ Maria. Trong mỗi biến cố của cuộc sống, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ và tin rằng Đức Maria Trinh Nữ Vương sẽ luôn che chở và phù giúp chúng ta khi chúng ta chạy đến cùng ngài.
Giuse Đinh Thành Đạt SDB
21/08 Đường vào Nước Trời
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Đường vào Nước Trời.
Thứ Ba tuần 20 thường niên – Thánh Piô 10, giáo hoàng. Lễ nhớ.
"Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời".
* Thánh nhân sinh năm 1835 tại Ri-ê-sê, nước Ý. Sau khi làm linh mục, người dấn thân thi hành việc mục vụ. Người làm giám mục Man-tô-va, rồi làm thượng phụ giáo chủ Vê-nê-xi-a và cuối cùng, năm 1903, được chọn làm giáo hoàng. Người chu toàn bổn phận của mình theo khẩu hiệu người đã chọn: “Canh tân mọi sự trong Chúa Kitô” với lòng đơn sơ, đời sống thanh bần và can đảm. Cùng với những đức tính ấy, người đã giúp các tín hữu sống đạo nhiệt thành và đối phó với những sai lầm đang lan tràn trong Hội Thánh. Người qua đời ngày 20 tháng 08 năm 1914.
Lời Chúa: Mt 19, 23-30
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo thật các con: Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời. Thầy còn bảo các con rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời". Các môn đệ nghe vậy thì bỡ ngỡ quá mà thưa rằng: "Vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu nhìn các ông mà phán rằng: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được". Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: "Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Giáo Hội Của Người Nghèo
"Giáo Hội của người nghèo", "Ưu tiên phục vụ người nghèo", đó là những khẩu hiệu đã trở thành thời trang trong Giáo Hội kể từ vài thập niên qua. Bất cứ ai có ý thức về công bằng xã hội hoặc đôi chút trăn trở về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, cũng đều thốt lên những khẩu hiệu ấy. Nhưng Giáo Hội có thực sự là Giáo Hội của đại đa số dân nghèo khổ chưa?
Sự hiện diện của người nghèo quả là một thách đố lớn cho Giáo Hội. Ngày nay, tiếng kêu than của họ luôn là một nhắc nhớ cho Giáo Hội về bản chất và sứ mệnh của mình trong thế giới. Cuộc trở lại của Hoàng đế Constantinople vào thế kỷ thứ 4 đã chấm dứt những cuộc bách hại đẫm máu và đã biến Tây Phương thành thế giới Kitô giáo, nhưng không chừng đã làm Giáo Hội quên đi bản chất đích thực của mình. Sự tương nhập giữa thế quyền và giáo quyền đã biến Giáo Hội thành một thế lực chính trị, và các vị lãnh đạo Giáo Hội thành những vua chúa trần gian. Nhiều người đã có lý để nói rằng nhờ những lay động của Karl Marx mà Giáo Hội đã lắng nghe được tiếng kêu than của người nghèo, đồng thời ý thức được vai trò và sứ mệnh của mình trong thế giới ngày nay.
Ngay từ khi mới khai sinh, cộng đoàn Kitô tiên khởi đã ý thức được vấn đề ấy. Tin Mừng hôm nay là một phản ánh về những trăn trở của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, cách riêng cộng đoàn Giêrusalem là cộng đoàn gồm toàn những người nghèo trong xã hội thời bấy giờ. Ðọc lại giáo huấn của Chúa Giêsu về thái độ của Kitô hữu đối với tiền bạc của cải, cộng đoàn tiên khởi đặt lại vấn đề về sự hiện diện của người giầu trong Giáo Hội. Theo quan niệm quen thuộc của người Do thái, thì sự giầu sang phú quí là một chúc lành của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đánh đổ quan niệm sai lầm ấy, khi nói rằng: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó", và rằng sự nghèo khó là điều kiện thiết yếu để vào Nước Trời.
Giáo Hội của người nghèo, điều đó có nghĩa là trước tiên tất cả những ai thuộc về Giáo Hội đều phải có tinh thần nghèo khó đích thực, họ phải sống phó thác và quảng đại chia sẻ cho nhau. Các Kitô hữu tiên khởi đã hiểu được điều ấy: họ để chung của cải lại, chia sẻ với nhau và yêu thương đùm bọc nhau như trong cùng một gia đình. Giáo Hội của người nghèo, điều đó cũng có nghĩa là các tín hữu phải lấy sự phục vụ người nghèo làm ưu tiên hàng đầu. Bản sắc của người Kitô hữu do đó được xác nhận bằng chính tương quan với người nghèo.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại cách sống đạo của chúng ta. Thách đố của Giáo Hội hiện nay cũng chính là thách đố của mỗi người chúng ta. Nếu những người cùng khổ chưa phải là thao thức trăn trở của chúng ta, thì có lẽ chúng ta còn quá xa với Giáo Hội Chúa Kitô. Nếu cuộc sống chúng ta chưa phải là cuộc sống liên đới chia sẻ với người khốn khổ, thì có lẽ chúng ta chỉ là những Kitô hữu hữu danh vô thực.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Chiến Thắng Mọi Cám Dỗ (Mt 19,23-30)
Sự ham tiền và bám víu vào tiền của làm cho con người trở nên mù quáng và cản bước con người trên con đường theo Chúa. Bài Phúc Âm hôm qua mô tả thái độ của chàng thanh niên buồn rầu bỏ cuộc, không muốn theo Chúa nữa vì anh ta có nhiều của cải. Chúa Giêsu rút ra bài học cho các môn đệ như sau: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa". Câu kết luận xem ra thật khắt khe, nhưng đây là một lối nói phóng đại của vùng Cận Ðông nhằm đánh động người nghe, khơi lên ý thức về một sự thật quan trọng. Trong đời thường, có bao giờ con lạc đà có thể chui qua lỗ kim nhỏ xíu được. Thế nhưng, giả như có thể có trường hợp này thì nó cũng còn dễ dàng hơn việc người giàu có vào nước Thiên Chúa. Và cách nói qua hai lần phủ định cho rằng không thể được đã nói lên sự thật quan trọng.
Chúng ta không nên hiểu lầm phán quyết khắt khe của Chúa Giêsu về thái độ bám víu của cải và quí trọng của hơn là con người. Chàng thanh niên rút lui vì có nhiều của cải, không phải chỉ có mà thôi nhưng còn bám víu vào đó.
Lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu không phải chỉ áp dụng cho những ai sắp dấn thân bước theo Chúa cách đặc biệt mà thôi, nhưng còn cho tất cả những ai đang theo Chúa nữa. Cám dỗ của quyền lực và tiền của là cám dỗ trường kỳ của thân phận làm người. Thoát ra khỏi cám dỗ này không phải là việc dễ dàng, vì thế Phêrô vội vàng hỏi Chúa Giêsu: "Vậy thì ai có thể được rỗi?" Ðáp lại, Chúa Giêsu mạc khải bí quyết sống cho các môn đệ và cũng là trấn an các ngài: "Ðối với con người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể".
Thiên Chúa có thể làm được mọi sự, con người cần tin tưởng phó thác vào Người. Bí quyết của Chúa Giêsu đề ra qua câu nói trên là bí quyết sống kết hiệp với Chúa để nhờ sức mạnh của Người mà chiến thắng cơn cám dỗ và thoát khỏi những cản trở không cho ta gặp Chúa. Sự bám víu vào của cải là dấu chỉ của người đồ đệ chưa phát triển được mối tương quan thân tình với Chúa. Chúng ta đang ở mức độ nào đây?
Lạy Chúa
Xin thương giúp con phát triển mối thân tình. Xin giúp con tăng sự sống kết hiệp với Thiên Chúa để trổ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy chúng con không làm chi được.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Từ Bỏ Tất Cả
Bấy giờ Đức Giêsu nói với các môn đệ của Người: “Thầy bảo thật anh em, người giầu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào Nước Thiên Chúa.” (Mt. 19, 23-24)
Của giầu mà cậy chi giầu…
Hiển nhiên là đống vàng chẳng tạo ra được liêm chính hay bất chính. Kẻ tôn thờ của cải chẳng khá bao giờ, mà còn bị lòng tham và tính hà tiện dày vò; Người giầu trong đoạn Tin Mừng này chắc chắn là người có gia tài kếch sù và đối với nó có gí trị sinh sống.
Tất nhiên, Đức Giêsu biết tài sản sở hữu không phải là không có giá trị, nó là loại khá quan trọng như tiền bạc, bất động sản, nữ trang. Nó giúp cho có đủ khả năng chính đáng khi người ta biết dùng của cải để thương giúp người khác. Không ai phủ nhận những việc làm tốt lành đó, nếu họ không hoàn toàn từ bỏ Thiên Chúa.
Những kẻ đứng đầu những kẻ rốt hết…
Phê-rô phản ứng đúng theo những ước muốn của chúng ta, những đòi hỏi của chúng ta, cũng là bầy tỏ lòng chân thành. Như hầu hết chúng ta, Phê-rô không ngại phát biểu: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy…” Bỏ ai, bỏ gì? truyền thống cho biết phải có gia đình, có nhà cửa ở Ca-phát-na-um, gần biển hồ, có thuyền chài lưới. Ông chưa bỏ nhà cửa, thuyền lưới, người ta thấy ông nhiều lần đem thuyền đi đánh cá. Thế mà ông quả quyết: Chúng con bỏ mọi sự. Chúa đã không trách chi, trái lại Chúa nói: “Anh em hãy theo Thầy.”
Đó là lời mời gọi tiến hơn nữa để yêu mến Chúa. Một tình yêu độc nhất phải từ bỏ tất cả. Người không muốn các ông dựa vào ai nữa.
Người luôn luôn nhắc nhở chúng ta: càng trơ trọi càng gần Thiên Chúa. Càng nghèo khó, càng cố kết với Thiên Chúa. Trong nhiều dụ ngôn Chúa đã nói như thế. Giờ đây chúng ta chọn Chúa hay chọn Mammon (thần tài)?
J.M
SUY NIỆM 4: TẠI SAO GIÀU CÓ LẠI KHÓ VÀO NƯỚC TRỜI? (Mt 19, 23-30)
Xem lại CN 28 TN. Thứ Ba tuần 8 TN.
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối trình thuật hôm qua về chuyện một thanh niên đến xin Đức Giêsu chỉ giáo để làm sao đạt được sự sống đời đời. Vì thế, Đức Giêsu đã bảo anh ta về bán tất cả của cải để bố thí cho người nghèo thì sẽ được sự sống viên mãn như anh mong muốn. Tuy nhiên anh ta đã buồn rầu và bỏ đi vì lòng anh đã bị đồng tiền che lấp mục đích đời đời.
Khi thấy như thế, Đức Giêsu quay sang các môn đệ và dạy cho các ông bài học về tác hại đồng tiền nếu coi đó là mục đích, là ông chủ. Ngài nói: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời".
Thực ra thì Đức Giêsu dùng lối nói ngoa ngữ để cho người nghe thấy được sự nguy hiểm của đồng tiền nếu làm sai mục đích.
Thật thật, vào được Nước Trời thế nào khi đồng tiền đó là quà hối lộ; là của cướp dật; là đâm thuê chém mướn; là cờ bạc...! Tệ hơn nữa, vì không phải là đồng tiền của mình làm ra bằng mồ hôi nước mắt, bằng công lao vất vả, nên lại dùng đồng tiền bất chính đã chiếm đoạt được để làm những chuyện bất chính khác ...!
Chỉ cần suy tư một chút thôi thì cũng đủ thấy sự nguy hiểm của đồng tiền khi đặt nó sai vị trí và sử dụng không đúng mục đích.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học:
Hãy dùng của cải để xây dựng hạnh phúc cho mọi người, từ trong gia đình đến xã hội cũng như lo việc bác ái, truyền giáo và xây dựng Giáo Hội.
Được như thế, ấy là chúng ta đã nghe theo Chúa và đi trên con đường hoàn thiện mà Chúa muốn chúng ta đi. Như vậy, sự bình an, hạnh phúc chính là phần thưởng Chúa dành cho những ai trung tín và khôn ngoan khi biết quản lý và biết sinh lợi nén bạc Chúa trao theo thánh ý Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa là lẽ sống và gia nghiệp của mình. Như thế, xin cho chúng con biết coi mọi sự chỉ là phù du, phương tiện để đạt được hạnh phúc. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: (Thứ ba Tuần 20 Thường niên)
Suy niệm :
Người thanh niên giàu có đã bỏ đi
khi Thầy Giêsu mời anh bán tài sản và cho người nghèo.
Của cải đã trói buộc anh, dù anh là người có thiện chí.
Anh tìm sự sống đời sau, nhưng lại bị vướng bởi vật chất đời này.
“Người giàu có thật khó vào Nước Trời” (c. 23).
Câu nói này của Thầy Giêsu khiến các môn đệ rất đỗi ngạc nhiên (c. 25),
vì vào thời đó, giàu sang thường được coi là dấu hiệu Chúa chúc lành.
Thầy Giêsu dùng một hình ảnh ngoa dụ, cường điệu,
để diễn tả việc người giàu khó vào Nước Trời,
khó hơn con lạc đà rất to chui qua lỗ kim rất nhỏ.
Dĩ nhiên lạc đà thì chẳng thể nào chui qua lỗ kim được,
nhưng người giàu thì vẫn có thể được vào Nước Trời, dù rất khó khăn,
“vì đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được” (c. 26).
Đã có những người giàu tốt bụng đi theo Thầy Giêsu.
Họ là Giuse Arimathia, Nicôđêmô, Dakêu, là các phụ nữ.
Giuse và Nicôđêmô đã lo mộ phần và việc tẩm liệm Thầy Giêsu.
Dakêu đã tự nguyện chia nửa phần tài sản mình cho người nghèo khó.
Các phụ nữ theo Thầy từ Galilê đã giúp đỡ vật chất cho Thầy (Lc 8, 3).
Có vẻ họ được tự do với của cải trần thế.
Của cải không ngăn cản họ trở thành người môn đệ Thầy Giêsu.
Nhưng cũng phải nhìn nhận của cải vật chất có sức mạnh của nó.
Như người ta hay nói: có tiền mua tiên cũng được.
Tiền bạc của cải có vẻ đem lại chỗ dựa vững chắc cho chủ nhân,
chính vì thế người ta thích thu tích của cải một cách vô độ (Lc 12, 21).
Của cải làm chúng ta phải bận tâm:
“Kho tàng anh em ở đâu, trái tim anh em ở đó” (Mt 6, 21),
kho tàng dưới đất sẽ giữ tim ta dưới đất.
Ham mê của cải có thể bóp nghẹt hạt giống lời Chúa trong tim ta (Mt 13, 22).
Nó làm chúng ta dễ trở nên nô lệ:
“Anh em không thể làm tôi hai chủ, vì sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia…
Anh em không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền tài” (Mt 6, 24).
Như thế nó có khả năng đẩy Thiên Chúa xuống hàng thứ yếu.
Quả thực của cải dễ làm ta khép lòng lại trước Thiên Chúa và tha nhân,
và làm cái tôi của ta trở nên cứng cỏi, tự mãn.
Khác với anh thanh niên giàu có, nhóm Mười Hai đã bỏ mọi sự mà theo Thầy.
“Vậy chúng con sẽ được gì ?”, họ đã hỏi Thầy Giêsu như vậy.
Thầy hứa sẽ cho họ được cùng Thầy xét xử Israel trong ngày tận thế.
Hơn nữa, Thầy còn hứa bất cứ ai chịu mất mát về gia đình, cơ nghiệp,
đều được đền bù gấp trăm, và nhất là được sự sống đời đời (c. 29).
Hôm nay chúng ta cũng hỏi Ngài như vậy, về cái được, cái mất.
Chúng ta có thể bỏ mất nhiều điều mà thiên hạ coi là giá trị,
như một đời sống tiện nghi, một chỗ làm ổn định, hay một chút tiếng tăm.
Chỉ mong được tấm lòng luôn an vui, hạnh phúc,
vì biết mình được Đức Kitô và ở lại trong Ngài (Pl 3, 8-9).
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
20/08 Sống trọn lành
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Sống trọn lành.
Thứ Hai tuần 20 thường niên – Thánh Bênađô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời".
* Thánh nhân sinh năm 1090 gần Đi-giông, nước Pháp. Được giáo dục theo nếp sống đạo đức, năm 1111, người nhập dòng các đan sĩ Xitô. Ít lâu sau, người được chọn làm viện phụ. Người đã dùng hoạt động và gương sáng để hướng dẫn các đan sĩ tập luyện các nhân đức. Vì có sự phân ly trong Hội Thánh, người đã đi khắp châu Âu để lo vãn hồi sự hòa bình và hiệp nhất. Người đã biên soạn nhiều tác phẩm thần học và tu đức. Người qua đời năm 1153.
Lời Chúa: Mt 19, 16-22
Khi ấy, có một người đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?" Người bảo kẻ ấy rằng: "Sao ngươi hỏi Ta về việc lành? Chỉ có một Ðấng nhân lành là Thiên Chúa. Nếu ngươi muốn vào nơi hằng sống, ngươi hãy tuân giữ các giới răn". Người ấy hỏi rằng: "Những giới răn nào?" Chúa Giêsu đáp: "Ngươi chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ, và yêu thương kẻ khác như chính mình". Người thanh niên thưa lại rằng: "Tất cả những điều đó tôi đã giữ từ khi còn niên thiếu, vậy tôi còn thiếu sót gì nữa chăng? Chúa Giêsu bảo anh: "Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta". Khi người thanh niên nghe lời đó thì buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều sản nghiệp.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Ðường Ðến Sự Sống Ðời Ðời
Tin Mừng hôm nay ghi lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên giàu có. Người thanh niên đến gặp và xin Chúa Giêsu chỉ con đường dẫn đến sự sống đời đời, đó là một ý nghĩ khôn ngoan. Tuy nhiên, thái độ của anh đáp ứng Lời Chúa Giêsu chứng tỏ anh mới chỉ có ý nghĩ một chút về sự khôn ngoan. Anh thoáng thấy của cải không phải là hạnh phúc đích thực, vì thế, anh đến với Chúa để tìm sự khôn ngoan. Khốn nỗi, con đường khôn ngoan mới vạch ra đã bị của cải cản lối khiến anh không nhận ra được rằng sự sống đời đời mới là của cải quí giá nhất mà anh phải tìm kiếm.
Người thanh niên tìm đến với Chúa Giêsu, vì nhận thấy Ngài là một tôn sư có gì khôn ngoan hơn những bậc thầy trong dân Israel mà anh thường gặp. Anh chưa nhận ra Chúa Giêsu chẳng những là tôn sư dạy sự khôn ngoan, mà còn là chính sự khôn ngoan; Ngài không chỉ đưa ra một lời dạy khôn, mà còn là lời ban sự sống đời đời; ai đón nhận và thực hiện lời Ngài sẽ được sống đời đời. Chính vì thế, anh đã sầm nét mặt, buồn sầu bỏ đi khi Chúa Giêsu bảo anh: Hãy về bán hết của cải, rồi đến theo Ngài. Anh yêu của cải hơn sự sống và hạnh phúc đời đời. Anh tưởng Lời Chúa chỉ là một trong những lời chỉ giáo muôn mặt của các bậc thầy trong Israel, có theo hay không cũng chẳng sao, cứ nắm giữ lề luật cha ông truyền lại đã đủ chiếm được Nước Trời. Do đó, anh làm sao hiểu được lời này: "Anh chỉ còn thiếu một điều".
Anh đã thực hiện những gì ghi trong lề luật, nhưng anh còn thiếu một điều, mà thiếu điều đó, những gì anh đã nắm giữ mới chỉ là thứ công chính của Biệt phái không thể vào Nước Trời được. Ðiều anh còn thiếu chính là tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là liên kết với Ngài và thực hiện Lời Ngài. Vì Lời Ngài là lời thần linh làm cho việc tuân giữ giới răn trở thành sức sống trong tâm hồn con người.
Thật ra, tự nó, của cải không cản trở người ta vào Nước Trời, nhưng thái độ ham mê của cải cản trở người ta yêu mến Thiên Chúa và Chúa Kitô.
Cần phải có tinh thần sẵn sàng từ bỏ mọi của cải, mọi đam mê, để được tự do nghe tiếng Chúa dạy dỗ trong tâm hồn. Thái độ từ bỏ của cải và đam mê, không nhất thiết bắt người ta trở thành nghèo mạt, bởi vì từ bỏ mọi sự vì Chúa và vì Tin Mừng, chẳng những không làm người ta bị thiệt thòi, mà còn mở rộng tương giao xã hội của họ, vì họ sẽ được đại gia đình nhân loại, và rồi với những thử thách đã vượt qua, họ sẽ được hưởng sự sống đời đời.
Nguyện xin Chúa kiện toàn nơi chúng ta những gì Ngài đã khởi sự, và cho chúng ta đạt tới lý tưởng là sống theo Chúa, Ðấng là đường, là sự thật và là sự sống đời đời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Chàng Thanh Niên Nhiều Của (Mt 19,16-22)
Bài Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta xét đến thái độ sống của mình. Chúng ta hiện đang tôn thờ Thiên Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự, hay chúng ta đang tôn thờ một thần tượng trần tục nào đó, như danh vọng, quyền hành, tiền bạc?
Tâm hồn tốt lành, tuân giữ luật Chúa và khát vọng cuộc sống đời đời, đó là những yếu tố đã thôi thúc chàng thanh niên đến gặp Chúa Giêsu. Nhưng cuộc gặp gỡ đã không đưa đến kết quả tích cực, vì chàng thanh niên chưa hoàn toàn tự do khỏi mọi bám víu trần tục. Anh ta buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải.
Giữa việc tuân giữ Lề Luật và thật sự yêu mến Chúa và anh chị em bằng những cử chỉ cụ thể, chàng thanh niên bắt đầu cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu cách tốt đẹp với những phẩm tính tốt như ước muốn làm điều tốt, cố gắng tìm hiểu xem phải làm gì để trọn hảo hơn và tuân giữ những giới răn Chúa truyền dạy. Nhưng không thể dừng lại mãi nơi điểm khởi đầu này, người đồ đệ của Chúa phải tiến lên, phải thực hiện lý tưởng và đạt cho được cùng đích là Chúa Giêsu Kitô, sống với Người, được trở nên giống như Người mỗi ngày một hơn: "Nếu con muốn nên hoàn thiện, hãy bán đi tất cả những gì con có đem cho kẻ nghèo, rồi đến theo Ta".
Mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm mình: tôi có thật sự muốn hay không? Trong những giây phút cầu nguyện sốt sắng, ta có thể hỏi Chúa điều này mà không nhất quyết thực hiện bước thứ hai là làm điều Chúa soi sáng cho.
Ơn Chúa không bao giờ thiếu, nhưng chính chúng ta lại thiếu can đảm, thiếu nhất quyết, thiếu cộng tác với ơn soi sáng của Chúa. Như chàng thanh niên trong Phúc Âm, chúng ta còn bám víu nhiều điều và đã bỏ mất nhiều cơ hội để được trưởng thành trong đời sống thiêng liêng và được theo Chúa trọn vẹn hơn.
Lạy Chúa, Con muốn theo Chúa trọn vẹn cho đến cùng. Xin thương ban ơn trợ giúp cho sự yếu đuối của con người con. Xin hãy kiện toàn nơi con điều Chúa đã khởi sự.
Lạy Chúa, Xin hãy phán dạy, này con đang lắng nghe và sẵn sàng thực hiện điều Chúa muốn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Thanh thoát để theo Chúa
Và kìa có một người đến thưa Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt, để được hưởng sự sống đời đời?”
Đức Giêsu đáp: “Nếu anh muốn lên hoàn thiện, thì hãy đi bán hết tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Nghe lời đó người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều của cải. (Mt. 19, 16. 21-22)
Để trả lời người thanh niên, Đức Giêsu không nói tới ba giới răn đầu về kính mến Thiên Chúa. Người chỉ kể đến các giới răn liên hệ đến người ta để người ta hiểu rằng muốn được hưởng sự sống đời đời, phải lo làm điều tốt cho người khác. Ai lo tìm đường tới sự sống đời đời, hoàn toàn phải biết vâng lời Thiên Chúa, nhưng họ luôn luôn phải nhớ rõ rằng họ phải thực hiện sự vâng lời Ngài dạy phải yêu người.
Tôi còn thiếu gì nữa?
Như hầu hết mọi người, chúng ta cũng có thể nói như người thanh niên giầu có rằng: “Tất cả những điều đó tôi đã tuân giữ.” Nhưng cố gắng, sống theo giới răn đó, chưa đạt tới hoàn thiện. Phải tiến xa hơn giáo huấn cổ truyền.
Nếu anh em muốn nên hoàn thiện.
Chúng ta phải nên hoàn hảo, như Cha là Đấng hoàn hảo. Nhận biết và làm đầy đủ như giới răn dạy, chưa đủ, phải nên hoàn thiện. Hoàn thiện, hoàn thiện không phải là một lời khuyên, nhưng là một yêu cầu căn bản. Là Kitô hữu không phải lo giữ giới răn, mà chính là hiến toàn thân và yêu thương vô biên.
Đó là Tin Mừng này nói về sự hoàn thiện tổng quát cho tất cả mọi người không phân biệt ai, tuy trực tiếp nói cho người thanh niên, nhưng mọi người cũng phải dùng của cải mình có mà giúp đỡ người nghèo khó.
Trước hết, bất cứ môn đệ nào nghe thấy lời thực hiện theo yêu cầu cụ thể trong hoàn cảnh của mình. Vấn đề ở đây không phải là lo trao nộp tất cả của cải, nhưng là để mình được tự do phục vụ Thiên Chúa theo khả năng của mình có.
Chúng ta phải biết vâng theo Đức Giêsu điều ưu tiên hàng đầu, như bản văn Tin Mừng kêu gọi, là sẵn sàng chịu khổ nạn, tham dự vào sự thương khó của Người.
SUY NIỆM 4: TIỀN CÓ MUA ĐƯỢC NƯỚC TRỜI KHÔNG? (Mt 19, 16-22)
Chúng ta không lạ gì câu nói: “Có tiền mua tiên cũng được”. Tuy nhiên, trong cuộc sống, sự thật không phải như vậy! Vì hiển nhiên vẫn còn đó những thứ có tiền mà không mua được. Điển hình như: sức khỏe, thời gian và sự sống… Chả thế mà người ta vẫn thường nói: “ Tiền có thể mua được một chiếc đồng hồ nhưng không mua được thời gian”; “Tiền có thể mua được thuốc để chữa bệnh, nhưng không thể mua được sự sống...”. Điều quan trọng là chúng ta biết sử dụng đồng tiền như thế nào cho có ích. Sử dụng nó như đầy tớ hay ông chủ? Đồng tiền có phải là mục đích cuối cùng, hay nó chỉ là một phương tiện để giúp con người đạt được hạnh phúc và mục đích tối hậu của mình?
Tin Mừng hôm trình thuật một thanh niên đến xin Đức Giêsu chỉ giáo để anh tiến bước hầu hy vọng đạt được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Nghe anh nói xong, Đức Giêsu đã phán: "Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta". Nhưng thật buồn, người thanh niên này đã lặng lẽ rút lui chỉ vì anh ta có nhiều tiền của.
Thật vậy, đồng tiền liền với khúc ruột. Đồng tiền gắn liền với cuộc sống. Đồng tiền đôi khi trở thành ông chủ tồi. Và như thế, nó đã là rào cản số một cho những ai muốn tiến xa, tiến sâu trên con đường nhân đức.
Dẫu vẫn biết trước những tai hại của nó, nhưng thực ra không ít người đã vì tiền mà bán rẻ lương tâm khi sẵn sàng trà đạp lên chân lý để đạt được mục đích “rẻ tiền”. Không thiếu người bán cả danh dự, nhân phẩm bản thân trong nghề mại dâm chỉ vì đồng tiền. Cũng không lạ gì những chuyện đâm thuê chém mướn, thay trắng đổi đen và vô luân, phi đạo đức cũng chỉ vì đồng tiền!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết dùng của cải như là phương tiện để xây dựng tình bác ái huynh đệ và cùng nhau xây dựng Nước Trời. Bởi vì Nước Trời là kho tàng, đồng tiền chỉ là thứ trợ giúp để ta mua được kho tàng chứ nó không phải kho tàng.
Vì thế, nếu chúng ta cứ bám vào của cải vật chất quá đáng, trái tim của chúng ta sẽ bị kìm chặt nơi thế gian. Của cải thế gian sẽ đóng kín cánh cửa tâm hồn và chúng ta trở thành nô lệ của nó. Như vậy, Chúa không còn chỗ nào trong trái tim, lương tâm và cõi lòng của chúng ta, và, như một lẽ tất yếu: Nước Trời không có chỗ cho những người coi đồng tiền là ông chủ và sống ích kỷ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khám phá và thi hành chân lý mà hôm nay Chúa dạy chúng con. Chân lý đó chính là chọn Chúa là gia nghiệp, là sự sống vĩnh cửu thì sẽ được hạnh phúc. Xin Chúa ban cho chúng con một tấm lòng quảng đại, ngõ hầu chúng con biết sử dụng đồng tiền mau hư chóng hết ở đời này để mua lấy Nước Trời qua sự bác ái. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Tôi còn thiếu điều gì?
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay gồm sáu câu đối thoại qua lại
giữa Đức Giêsu với một anh thanh niên giàu có.
Hẳn anh ấy là một người có thiện chí, khi anh đến gặp Đức Giêsu
để hỏi về chuyện phải làm điều tốt nào để có sự sống đời đời (c. 16).
Như thế sự sống đời đời là điều anh quan tâm,
và anh thực sự muốn biết cách hành động để đạt đến sự sống ấy.
Thầy Giêsu đã cho anh một câu trả lời đơn giản: hãy giữ các điều răn.
Thầy đã kể cho anh sáu điều răn (cc. 18-19),
bốn điều cấm làm và hai điều phải làm, tất cả đều liên quan đến tha nhân.
Anh cho biết mình đã sống mọi điều răn đó.
Dù vậy, anh vẫn mang trong mình một thao thức.
Chính thao thức ấy đã đưa anh đến với Thầy Giêsu để hỏi:
“Tôi còn thiếu điều gì?” (c. 20).
Anh chờ mong một câu trả lời từ vị Thầy mà anh quý mến.
Anh muốn làm một cái gì đó, muốn biết điều mình còn thiếu.
Câu trả lời của Thầy làm anh chưng hửng.
“Nếu anh muốn nên hoàn thiện, hãy đi, bán tài sản của anh,
cho người nghèo, anh sẽ có một kho tàng trên trời, và đến, theo tôi.”
Như thế khi anh xin có sự sống đời đời, xin được kho tàng trên trời,
thì Thầy Giêsu đòi anh bán kho tàng dưới đất anh đang có.
Bán xong, hãy tặng cho người nghèo để chẳng mong lấy lại.
Thầy mời anh trở nên tay trắng, rồi đến và theo Thầy.
Nhưng Thầy Giêsu không đòi mọi người phải làm y như anh thanh niên,
bán hết tài sản và cho người nghèo.
Ngài cũng không đòi mọi người phải bỏ vợ con để theo Ngài y như Phêrô.
Nhưng Ngài muốn mọi người nên hoàn thiện và có sự sống đời đời.
Ngài kêu gọi mọi người làm môn đệ, theo Ngài trong hoàn cảnh của mình.
Như thế ai cũng có cái phải bỏ, phải bán, phải cho không…
Ai cũng có thể hỏi Ngài như anh thanh niên: Tôi còn thiếu điều gì nữa?
Anh thanh niên giàu có đã phấn khởi đến với Thầy Giêsu (c. 22).
bây giờ anh lại buồn rầu bỏ đi.
Anh buồn vì không muốn mất một chỗ dựa vững chắc là của cải.
Thực ra anh buồn vì không đủ tự do để đáp lại một tiếng gọi đẹp quá.
Anh muốn sự sống đời đời, nhưng không dám chọn con đường tốt nhất.
Anh muốn làm môn đệ Thầy Giêsu, nhưng tình yêu của cải lại mạnh hơn.
Nếu anh chịu tự giải phóng mình khỏi trói buộc của vật chất,
khi trở lại gặp Thầy, anh sẽ thấy mình nhẹ hơn và giàu có hơn nhiều.
Nếu hôm nay, Thầy Giêsu gặp tôi, Thầy sẽ bảo tôi còn thiếu điều gì.
Điều gì đang ràng buộc tôi khiến tôi muốn quay lưng bỏ đi ?
Xin cho tôi dám chọn Giêsu, dám mất những điều quý giá vì Giêsu,
vì có Giêsu là có tất cả.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo
trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng
chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp :
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có,
tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
19/08 Ăn Bánh-Chúa Giêsu, sẽ sống đời đời
- Viết bởi Ga 6, 51-59
Ăn Bánh-Chúa Giêsu, sẽ sống đời đời.
Chúa Nhật tuần 20 Thường Niên năm B.
"Thịt Ta thật là của ăn, và Máu Ta thật là của uống".
Lời Chúa: Ga 6, 51-59
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?" Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha, là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là bánh bởi trời xuống. Không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Cn. 9, 1-6; Ep. 5, 15-20; Ga. 6, 51-58
1. Lương thực
Trên một chiếc thuyền buồm chở người di cư, có một bà mẹ trẻ goá chồng, mang theo một đứa con thơ còn đang bú sữa mẹ. Sau khi đi được một tuần, thì một cơn bão bất ngờ ập đến làm biển động dữ dội, con thuyền bị sóng đánh tơi tả và cột bườm bị gẫy. Từ đó, con thuyền phải lênh đệnh trên mặt biển trong nhiều ngày. Lương thực trên tàu hầu như cạn kiệt. Nhiều người trên thuyền bị chết đói và bị quăng xuống biển. Vào một buổi sáng người ta phát hiện ra bà mẹ kia đã bị chêt đói, đang khi đứa con bên cạnh vẫn còn sống. Thì ra bà này trước khi chết đã dùng dao cắt đứt đầu ngón tay út và cho con bú máu mình thay cho dòng sữa.
Câu chuyện trên là hình ảnh tuyệt hảo diễn tả tình thương của Chúa Giêsu khi lập bí tích Thánh Thể. Ngài là Tấm Bánh được ban cho loài người: Bánh là một thứ lương thực có thể ăn được và cho người ăn được sống. Bánh không sống cho mình, mà luôn sống vì người khác và cho người khác. Chúa Giêsu tự xưng mình là Bánh, nghĩa là Ngài tự huỷ chính mình, hy sinh bản thân mình để cho loài người được sống.
Rước Mình máu Chúa là đón nhận chính sự sống của Chúa Giêsu: “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy”. Chính khi rước lễ, là chúng ta được sống nhờ Chúa Giêsu, sống trong Chúa Giêsu và sống cho Chúa Giêsu, như cành nho chỉ sống được là nhờ hút nhựa sống từ thân cây nho.
Để việc rước lễ mang lại lợi ích thiêng liêng, thì không phải chỉ cần có sự chuẩn bị trước, mà còn phải gặp gỡ thân tình với Chúa sau khi đón rước Ngài. Cần tránh thái độ lên rước lễ do thói quen, do sự thúc bách của hoàn cảnh, nên thiếu sự chuẩn bị trước và thiếu đối thoại đối thoại kết hiệp với Chúa sau khi rước lễ. Ngày nay nhiều người rước lễ, nhưng phần đông rước lễ cách khô khan: Bỏ giây phút Thinh Lặng Thánh sau khi rước lễ, vội vàng ra ngoài lấy xe để còn lo chuyện làm ăn hay vui vẻ ăn nhậu với bè bạn. Vì thế mà việc rước lễ trở thành nhàm chán, một lễ nghi hình thức bên ngoài: rước lễ chỉ là việc đi lên đón nhận và ăn một tấm Bánh Thánh, thay vì để được gặp Chúa Giêsu Thánh Thể. Thật ít có vị khách quý nào lại bị chủ nhà tiếp đón cách lạnh nhạt như Ngài! Vì thế, dù siêng năng rước lễ, nhưng người tín hữu vẫn không gặp được Chúa, không nhận được sức sống thần linh của Ngài, để được ơn biến đổi nên con người mới. Vì vậy, sau nhiều năm theo đạo, chúng ta cảm thấy mình vẫn chỉ là mình với những thói hư và tội lỗi như cũ!
2. Rước lễ
Có một cô sinh viên, được đặc ân mỗi tuần mang Mình Thánh Chúa đến cho một cụ già sống lẻ loi và cô quạnh. Cô sinh viên đã kể lại như thế này: Sau khi tới nơi, tôi ngồi xuống cạnh cụ, đọc lại bài Phúc Âm ngày Chúa nhật cho cụ nghe, rồi bàn bạc trao đổi với cụ về một vài điểm mà đoạn Phúc Âm ấy đã gợi lên. Tiếp đến là giây phút cụ trông đợi cả tuần lễ. Tôi và cụ cùng nhau đọc kinh Lạy Cha. Rồi tôi giờ Mình Thánh lên và nói với cụ: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian, phúc cho ai được mời tới dự tiệc Con Thiên Chúa. Và cụ đáp lại: Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh. Đoạn tôi trao Mình Thánh cho cụ. Sau một vài phút thinh lặng, tôi giúp cụ cầu nguyện: Lạy Chúa, ước gì Mình Thánh Chúa mà cụ vừa lãnh nhận, mang lại cho cụ sức khoẻ phần hồn cũng như phần xác. Xin Chúa giải thoát cụ khỏi mọi khổ đau và bệnh tật, xin hãy dùng sức mạnh của Chúa mà nâng đỡ, chở che để cụ cũng sẽ được phục sinh trong cuộc sống mới vào ngày sau hết. Sau đó, hai người ngồi nói chuyện một lúc rồi tôi tạm biệt và hứa sẽ cầu nguyện cho nhau và hẹn gặp lại vào Chúa nhật tuần tới.
Câu chuyện đơn sơ trên cho chúng ta thấy loại đức tin mà Chúa Giêsu muốn chúng ta có như lời Ngài đã nói qua đoạn Phúc Âm sáng hôm nay: Ta là bánh Hằng Sống từ trời xuống. Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì kẻ ấy sống trong Ta và Ta sống trong kẻ ấy. Cụ già và cô sinh viên đều chứng tỏ đức tin của họ vào lời nói ấy của Chúa, bằng cách trao ban cũng như nhận lãnh Mình Thánh Chúa Giêsu, bằng cách cùng cầu nguyện chung với nhau.
Và như thế, việc rước lễ phải là một cảm nghiệm của đức tin, được thực hiện kèm theo lời cầu nguyện. Lúc rước lễ là như một viên kim cương. Còn thời gian trước và sau rước lễ là như một sợi dây vàng. Tự bản tính, viên kim cương vốn đã xinh đẹp, nhưng nó sẽ trở nên vô cùng đẹp đẽ hơn nếu được gắn vào giữa sợi dây vàng và trở thành trung tâm điểm. Cũng thế, tự bản tính việc rước lễ là một cảm nghiệm tuyệt đẹp, nhưng nó sẽ trở nên vô cùng tốt đẹp nếu được kèm theo những tâm tình cầu nguyện. Vậy chúng ta đã cầu nguyện thế nào trước và sau khi rước lễ? Tâm hồn chúng ta nghĩ gì khi tiến lên bàn thánh Chúa. Chúng ta có tâm sự với Chúa như với người bạn thân hay không? Chúng ta có biết cảm tạ Ngài, xin Ngài tha thứ và hướng dẫn chúng ta trên vạn nẻo đường đời?
Điểm thứ hai câu chuyện trên cho thấy đó là thứ tình thương Chúa muốn chúng ta phải có với tư cách là những Kitô hữu. Thực vậy, tình thương giữa cụ già và cô sinh viên là loại tình thương mà mỗi người chúng ta cần phải cố gắng vun trồng cho nhau. Và bí tích Thánh Thể chính là một phương tiện giúp chúng ta sống gắn bó mật thiết với nhau hơn như lời thánh Phaolô đã viết: Mặc dù chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Vậy việc rước lễ có làm cho đời sống chúng ta dồi dào tình thương mến, nhất là đối với những người khổ đau và bất hạnh hay không? Nói cách khác, việc rước lễ có lôi kéo chúng ta đến gần Chúa và đến gần nhau hay không?
3. Mình Máu Thánh Chúa.
Nếu hôm nay có ai đến bảo chúng ta rằng: Bạn hãy ăn thịt và uống máu tôi đi, bạn sẽ sống mãi không chết bao giờ, thì chắc chúng ta sẽ cho là người ấy mắc bệnh tâm thần.
Người Do Thái ngày xưa, kể cả các môn đệ, khi nghe Chúa Giêsu nói những lời lẽ tương tự cũng đã bảo nhau: Lời ấy chướng tai quá, ai mà nghe cho nổi.
Thực ra người Việt Nam chúng ta có một cách nói khác: Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. Thực vậy, chén cơm là kết quả của công lao khó nhọc nơi người nông dân: từ lúc gieo xạ, tới lúc chăm sóc, phân bón, làm cỏ, trừ sâu và gặt hái. Bao nhiêu công đoạn là bấy nhiêu nhọc nhằn, có khi còn phải tủi nhục, đoạ đày dưới ánh mắt của những chủ điền độc ác. Chính nhờ mồ hôi nước mắt, nhờ những cay đắng nhọc nhằn ấy mà chúng ta được sống.
Mà không phải chỉ có mồ hôi nước mắt của nhà nông mà thôi. Khi cha mẹ tôi đổ mồ hôi kiếm sống nuôi tôi thì chén cơm trên bàn ăn mẹ xới cho tôi chính là một phần của máu thịt cha mẹ tôi sẻ bớt cho tôi. Tôi sống nhờ thịt máu các ngài.
Chúa Giêsu khi cầm tấm bánh bẻ ra và nói: Tất cả hãy cầm lấy mà ăn, thì Ngài đã nghĩ ngay đến cái chết của mình vì nhân loại, nên đã nói tiếp: Đây là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con.
Nếu sau việc làm này, nghĩa là nếu sau khi đã bẻ bánh và nói những lời ấy Chúa Giêsu không bị giết thì việc làm của Ngài chỉ là một chuyện đùa và không ai nhắc lại làm gì. Nhưng thật sự Ngài đã bị giết, bị mai táng và đã sống lại, bởi thế tấm bánh Ngài bẻ ra thực sự có ý nghĩa. Đó là chính thân thể Ngài bị giết để có thể trở thành của ăn của uống cho chúng ta.
Thật vậy, khi chúng ta ăn cái gì thì cái đó biến thành máu thịt chúng ta. Chúng ta ăn thịt và uống máu Con Người thì thịt máu ấy trở thành thịt máu chúng ta. Người nên một với ta, ta nên một với Người hay nói cách khác, ta ở trong Người và Người ở trong ta. Và như thế, nếu Người sống đời đời thì ta cũng phải được sống đời đời như Người và với Người.
Do đó, nhờ bí tích Thánh Thể chúng ta nhận được từ nơi Người chính sự sống của Người để có thể nói như thánh Phaolô: Tôi sống nhưng không phải tôi sống, nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi. Nếu thực sự Đức Kitô sống trong tôi thì điều đó phải được tỏ hiện qua tâm tình, lời nói và hành động của tôi. Bởi thế ai ăn thịt và uống máu Đức Kitô mà không sống như Người đã sống, nghĩa là không yêu thương anh em như Người đã yêu thương thì kẻ đó đã thực sự rước lễ chẳng nên vì thịt máu Đức Kitô không biến thành thịt máu kẻ ấy. Người đã không ở trong họ và họ cũng chẳng ở trong Người và như vậy họ chẳng bao giờ được sống đời đời.
Bí tích Thánh Thể không được lập ra chỉ để nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta, biến chúng ta thành những kẻ đạo đức, mà chủ yếu đây là bí tích của yêu thương và hợp nhất. Bí tích mời gọi chúng ta biết chia sẻ cuộc sống với người khác. Bởi đó, kẻ chỉ biết ngồi ở bàn tiệc Thánh Thể mà không bao giờ biết ngồi vào bàn ăn với anh em, nhất là không biết dọn bàn ăn cho anh em mình, thì đó là kẻ chưa hiểu được ý nghĩa của bí tích này và cũng chẳng hưởng được hồng ân nơi bàn tiệc của Chúa.
4. Hồng ân Thánh Thể – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà
Không gì trên đời quý bằng sự sống. Dù có bị thiên tai mất hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, nhưng chưa phải chết thì vẫn còn may.
Được sống là một hồng phúc lớn nhất, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Theo nhà văn Jack London thì "thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết". Làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Thế nên người ta thường nói: "Mạng sống quý hơn đống vàng".
Vì yêu thương con người trên hết mọi sự, nên Thiên Chúa muốn dành cho họ quà tặng cao quý hơn tất cả mọi quà tặng, đó là sự sống; nhưng Thiên Chúa không chỉ ban sự sống sinh vật mà còn thông ban cả Sự Sống của chính Thiên Chúa cho con người nữa.
Thông ban sự sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự Sống. Sự Sống bắt nguồn từ Chúa Cha. Người thông ban Sự Sống của Người cho Chúa Con (Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con). Chúa Giêsu xác nhận sự sống của Người từ Chúa Cha mà đến: “Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha” (Ga 6, 57)
Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha, Chúa Giêsu không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống cao quý ấy cho nhân loại.
Bằng cách nào?
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Thế nên, Chúa Giêsu lập nên bí tích Thánh Thể, hiến ban Thịt và Máu Người, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Người thì được nên một với Người, được ở lại trong Người: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.”
Những ai “ở lại trong Chúa Giêsu và có Chúa Giêsu ở lại trong người ấy”, thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giêsu thông ban, qua việc tiếp nhận Mình Máu Người, không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.
“Đức Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 51)
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6, 54)
Thế là thông qua việc ăn Mình và Máu Chúa Giêsu, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu” với Chúa Giêsu và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho họ.
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà.
Biến đổi con người thành Chúa Giêsu
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong Bí Tích thánh thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giêsu khác. Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định:
“Thực thế, chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa Kitô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy” (trích bài giảng của thánh Lê-ô cả giáo hoàng, trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư, tuần 2 phục sinh)
Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho biết nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa:
“Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân. Nhờ vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa.” (trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong bài đọc kinh sách ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giêsu,
Hồng ân Chúa ban thật vô cùng lớn lao và quý báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ.
Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.
5. Thiên Chúa vô cùng yêu thương chúng ta
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Thiên Chúa vô cùng yêu thương chúng ta nên Ngài muốn ban cho chúng ta món quà cao quý nhất.
Nhưng thưa ông bà anh chị em, nếu giờ đây Chúa hiện ra và phán với mỗi người rằng: "Ta sẽ ban cho các con món quà quý báu nhất", thì chúng ta sẽ xin Ngài điều gì? Xin vài tấn gạo? Có nhiều điều khác giá trị hơn gạo. Xin tiền? Vài tỉ bạc cho mỗi gia đình? Còn nhiều điều khác quý hơn tỉ bạc. Xin một tấn vàng ròng? Còn có điều quý hơn vàng bạc, hơn bảo ngọc trân châu. Đó là sự sống! Ông bà chúng ta thường nói: "Mạng sống quý hơn đống vàng". Được sống là một may mắn vô cùng, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Nhà văn Jack London nói: "Thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết". Đúng vậy. Làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Dù mất hết tiền bạc của cải, nhưng còn được sống thì cũng còn may.
Nhưng sự sống cũng có nhiều đẳng cấp khác nhau.
Sự sống của cây cỏ vốn thấp kém, hầu như vô tri vô giác. Cây cối không biết khóc, không biết cười, không biết đau đớn cũng như mừng vui, lại phải chôn chân một chỗ cho đến lúc lụi tàn.
Sự sống của các loài côn trùng như giun, như sâu bọ, như kiến... tuy cao hơn loài thảo mộc một chút nhưng còn ở đẳng cấp thấp.
Sự sống của cá nước, chim trời, của loài cầm thú cao hơn sự sống của cỏ cây, của côn trùng, nhưng vẫn chưa phải là mức sống cao.
Sự sống của con người cao vượt hơn cả: hơn sự sống của hoa lá cỏ cây, hơn sự sống của côn trùng, hơn sự sống của chim trời cá nước, hơn sự sống của các loài muông thú, nhưng dù vậy vẫn còn thua sự sống của các thiên thần và còn thua xa sự sống của Thiên Chúa. Sự sống của Thiên Chúa là sự sống cao quý vô song.
Sự sống con người cao quý thật, nhưng tiếc thay, sự sống ấy đã bị tội nguyên tổ làm cho tổn thương, làm cho khiếm khuyết và giới hạn. Khiếm khuyết vì bệnh tật, vì già yếu, và giới hạn bởi cái chết.
Thế nên Thiên Chúa nhân lành tiên liệu ban thêm cho loài người sự sống khác, vô cùng phong phú, vô cùng cao quý, và không bao giờ cùng tận, đó là sự sống của chính Ngài. Thiên Chúa lấy chính sự sống của Mình làm quà tặng cho loài người khốn hèn tội lỗi! Có ai hiểu nổi không?
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta điều đó.
Chúa Giêsu nói: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời."
Phẩm chất của sự sống Chúa ban là vĩnh cửu, không thể lụi tàn.
Và sự sống nầy chính là sự sống của Chúa Cha: "Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy."
Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng Sự Sống mà Ngài đã nhận được từ nơi Chúa Cha, thì Ngài thông ban lại cho chúng ta. Sự sống thần linh bắt nguồn từ Chúa Cha, thông truyền cho Chúa Con và Thánh Thần, giờ đây lại được Chúa Giêsu khơi dòng để chảy tràn vào mỗi người chúng ta, nếu chúng ta ăn Ngài, tức là đón nhận Ngài, rước lấy Ngài trong bí tích thánh thể.
"Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy."
Thật tuyệt vời không thể tưởng tượng được. Thiên Chúa thông ban sự sống cao quý của chính Ngài cho chúng ta qua Chúa Giêsu.
Món quà vô cùng quý báu, vượt xa tất cả mọi món quà đã được Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho chúng ta. Chúng ta hãy mau mau nhận lãnh món quà quý báu nầy với tất cả tấm lòng cảm tạ tri ân, đồng thời hãy cầu xin Chúa cho sự sống thần linh ấy thực sự trổ sinh hoa trái dồi dào trong cuộc đời mỗi người chúng ta.
6. Đức Kitô mẫu gương tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ngày 24/6/2009, tại phòng trọ ở thành phố Tuy Hòa, 2 bình gas loại du lịch đã phát nổ khiến Tuyên và một bạn cùng phòng bị bỏng. Với tình trạng bỏng nặng tới 65%, các bác sỹ đã dự đoán cô gái này khó có thể qua khỏi, đặc biệt là ở thời điểm sau 10 ngày nằm viện, Tuyên được chẩn đoán là bị nhiễm trùng máu khá nặng.
Thương con, người cha là Lê Thanh Tuấn đã năn nỉ các bác sỹ lóc da đùi của mình để cấy ghép vào phần da bị mất do bỏng của con, dù chuyện này rất có thể sẽ đem đến biến chứng nguy hiểm cho người bị huyết áp cao như ông. Nếu những chuyên gia phẫu thuật của bệnh viện Chợ Rẫy không từ chối, thì có lẽ ông Tuấn đã sẵn sàng để họ lấy cả phần da từ bụng, ngực... trên người mình để đắp sang con.
Sự hy sinh của người cha đã được phần nào đền đáp khi sức khỏe của 'bé Út' dần khá hơn. Cô nữ sinh đã tỉnh táo hơn và có thể trò chuyện được đôi lời. Còn ông Tuấn, sau nhiều ngày rất khó khăn trong từng bước đi vì toàn bộ lớp da hai bên đùi đã bị lấy hết, cũng đã dần ổn định và có thể cử động được.
Đến phòng bệnh tại khoa Bỏng của Bệnh viện Chợ Rẫy vào những ngày này, gần như ở thời điểm nào trong ngày, người ta cũng sẽ nhìn thấy cảnh một cô gái băng bó trắng toàn thân nằm trên giường. Bên cạnh cô là người cha bó quanh đùi bằng những sợi băng y tế bị nhuộm đỏ. Ông luôn ngồi đó, động viên chăm sóc cho cô con gái vẫn mang trong mình mong muốn được thi đại học, khối C.
Vâng, nếu chúng ta được tận mắt nhìn thấy những hình ảnh đó, có lẽ chúng ta cũng để cho dòng nước mắt của tình người dạt dào tuôn trào nơi chúng ta. Nước mắt cảm thông. Nước mắt của trái tim hoà nhịp với trái tim yêu thương của người cha lóc thịt cho con. Khóc vì ngưỡng mộ một con người giầu lòng quảng đại. Yêu tha nhân không chỉ yêu như chính mình mà còn quên cả bản thân. Một tình yêu quá cao vời. Nước mắt đồng cảm với một con tim không chỉ biết nói lời yêu thương mà còn thể hiện bằng tình yêu trao ban chính thịt máu mình để cấy trồng lại sự sống cho con.
Đó cũng là tình yêu mà Đức Giêsu đã thể hiện trong cuộc sống của Ngài. Chính Ngài đã hiến dâng mạng sống cho con người được sống và sống dồi dào. Chính Ngài đã sống vì cuộc sống của nhân loại. Ngài đến trần gian để cứu độ nhân loại. Ngài sống không phải vì mình mà cho thế gian được ơn cứu độ. Ngài yêu thương thế gian đến nỗi còn muốn trao ban chính mình làm của ăn của uống cho nhân loại. Chính Ngài đã xác quyết rằng "Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống". Ai ăn và uống Mình và Máu Ngài không chỉ được sống hạnh phúc mà còn hơn thế nữa là được sống muôn đời. Ngài là bánh trường sinh. Dân Do Thái đã từng được ăn Mana từ trời nhưng rồi cũng chết. Còn ai ăn và uống Mình Máu thánh Ngài sẽ được sống muôn đời.
Tình yêu luôn phát sinh những điều kỳ diệu. Có tình yêu sẽ có sáng tạo. Tình yêu đã làm phát sinh biết bao nghĩa cử cao đẹp mà con người dành cho nhau. Từ lời nói đến hành động luôn biết làm đẹp lòng nhau. Người ta chắt chiu từng lời nói, từng việc làm để cho người mình yêu được vui lòng. Tình yêu là một quà tặng vô giá mà chúng ta dành cho nhau. Không có tình yêu sẽ không có tặng ban. Món qùa được trao tặng không có tình yêu chỉ là một thủ đoạn, lừa dối và nhẹ hơn chỉ là sự trao đổi qua lại theo lẽ công bằng với nhau.
Thế giới hôm nay rất cần tình yêu để con người được sống trong an vui và hạnh phúc. Sự sống còn của nhân loại hoàn toàn tuỳ thuộc vào khả năng yêu thương của chính con người. Hàng ngày trên thế giới có hàng triệu người đã chết bởi sự thiếu tình yêu của đồng loại. Bởi thù hận người ta giết nhau bằng súng đạn, gươm giáo. Bởi thiếu trách nhiệm người ta giết nhau bằng sự bỏ rơi và dửng dưng.
Thế giới không có tình yêu sẽ hoang tàn đổ nát tựa như cơn lũ đã tàn phá môi trường chỉ để lại sự dơ bẩn và chết chóc. Đó chính là thảm cảnh mà chúng ta đang phải đối diện. Bởi thiếu vắng tình yêu đã đẩy sự dữ ngày một gia tăng. Sự dữ ẩn chứa khắp nơi. Sự dữ luôn đe doạ hủy diệt địa cầu bất cứ giờ nào. Kẻ dữ luôn gia tăng sự ác. Kẻ lương thiện ngao ngán sự đời. Kẻ khôn ngoan né tránh. Người dại dột thì lãnh đủ. Người ta nói rằng: "Khôn cũng chết. Dại cũng chết. Biết thì sống". Biết để né tránh. Biết để thủ thế. Biết để an phận thủ thường. Một lối sống "biết để sống" đến nỗi bỏ quên đồng loại, chỉ lo toan cho mình nên không có sự sáng tạo trong yêu thương. "Biết để sống" dẫn đến đa nghi nên thế giới chẳng ai tin ai. Thế giới đã chết vì thiếu vắng tình yêu.
Mỗi lần chúng ta rước Chúa là được đón nhận chính sự sống và tình yêu của Chúa. Ước gì tình yêu Chúa tuôn chảy trong con tim của chúng ta để chúng ta dám hiến dâng chính mình vì sự sống của tha nhân. Ước gì mỗi người biết hy sinh cho nhau, và biết kiến tạo hạnh phúc cho nhau, chắc chắn cuộc sống này sẽ đẹp hơn. Ước gì mỗi người chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu trở thành quà tặng mang lại cho anh em niềm vui và hạnh phúc. Xin cho chúng ta luôn cảm nghiệm rằng "chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời". Amen.
7. Tình yêu của Chúa Giêsu Thánh Thể
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Khi nói về thân phận phụ nữ tần tảo “một nắng hai sương”, người ta thường nhớ đến câu thơ bất hủ của Tú Xương đã nói về vợ mình như sau:
“Quanh năm buôn bán ở ven sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Và những ai thích ca cổ cải lương, sẽ nhớ mãi câu chuyện huyền thoại thật cảm động về Thoại Khanh – Châu Tuấn. Chuyện kể về một người vợ chung thủy, một nàng dâu hiếu thảo. Nàng lấy chồng nhưng không phải để được sống sung sướng hạnh phúc. Nàng lấy chồng không phải để có chỗ nương tựa như bao người phụ nữ khác. Nàng lấy chồng để được “nâng khăn sửa túi” cho chồng, và nhất là thay chồng để gánh lấy “giang sơn nhà chồng”. Nàng cặm cụi dệt cửi thêu thùa để lo cho chồng ăn học. Và rồi tai hoạ đã đổ ập xuống trên cuộc đời nàng, khi chồng đang mãi ứng thí trên kinh thành, thiên tai lũ lụt đã tàn phá quê nhà đến nỗi nhiều gia đình phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Đói khổ bần cùng. Nàng cùng mẹ chồng sống lây lất qua ngày. Lương thực thiếu thốn. Mẹ chồng già yếu, lại thêm mù loà. Nàng đã hằng ngày róc thịt mình cho mẹ ăn. Nàng đã chấp nhận róc từng thớ thịt của mình để nuôi mẹ già sống cho tới ngày chồng trở về để “vinh quy bái tổ”.
Xem tuồng cải lương về Thoại Khanh – Châu Tuấn, nhiều người đã rơi nước mắt. Nước mắt cảm thông. Nước mắt của trái tim hoà nhịp với trái tim yêu thương của nàng dâu lấy thịt nuôi mẹ chồng. Khóc vì ngưỡng mộ một con người giầu lòng quảng đại. Yêu tha nhân không chỉ yêu như chính mình mà còn quên cả bản thân. Một tình yêu quá cao vời. Nước mắt đồng cảm với một con tim không chỉ biết nói lời yêu thương mà còn thể hiện bằng tình yêu trao ban chính thịt máu mình cho mẹ già được sống trong an vui hạnh phúc.
Chuyện kể về Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay không phải là huyền thoại, mà là sự thật. Chính Ngài đã hiến dâng mạng sống cho con người được sống và sống dồi dào. Chính Ngài đã sống vì cuộc sống của nhân loại. Ngài đến trần gian để cứu độ nhân loại. Ngài sống không phải vì mình mà cho thế gian được ơn cứu độ. Ngài yêu thương thế gian đến nỗi còn muốn trao ban chính mình làm của ăn của uống cho nhân loại. Chính Ngài đã xác quyết rằng “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống”. Ai ăn và uống Mình và Máu Ngài không chỉ được sống hạnh phúc mà còn hơn thế nữa là được sống muôn đời. Ngài là bánh trường sinh. Dân Do Thái đã từng được ăn Mana từ trời nhưng rồi cũng chết. Người mẹ chồng đã từng sống nhờ từng thớ thịt nàng dâu nhưng rồi cũng từ giã cõi trần. Còn ai ăn và uống Mình Máu thánh Ngài sẽ được sống muôn đời.
Tình yêu luôn phát sinh những điều kỳ diệu. Có tình yêu sẽ có sáng tạo. Tình yêu đã làm phát sinh biết bao nghĩa cử cao đẹp mà con người dành cho nhau. Từ lời nói đến hành động luôn biết làm đẹp lòng nhau. Người ta chắt chiu từng lời nói, từng việc làm để cho người mình yêu được lớn lên trong tình yêu. Tình yêu là một quà tặng vô giá mà chúng ta dành cho nhau. Không có tình yêu sẽ không có tặng ban. Món qùa được trao tặng không có tình yêu chỉ là một thủ đoạn, lừa dối và nhẹ hơn chỉ là sự đổi trác qua lại theo lẽ công bằng với nhau.
Thế giới hôm nay rất cần tình yêu để con người được sống trong an vui và hạnh phúc. Sự sống còn của nhân loại hoàn toàn tuỳ thuộc vào khả năng yêu thương của chính con người. Hàng ngày trên thế giới có hàng triệu người đã chết bởi sự thiếu tình yêu của đồng loại. Bởi thù hận người ta giết nhau bằng súng đạn, gươm giáo. Ngay lúc này tại vùng trung đông luôn có biết bao sự xung đột bom đạn và hoả tiễn giết chết hàng vạn người. Bởi thiếu trách nhiệm người ta giết nhau bằng sự bỏ rơi và dửng dưng. Ngay lúc này có hàng ngàn thai nhi bị trục xuất ra khỏi lòng mẹ và có hàng triệu người chết vì đói khổ và thiên tai lũ lụt.
Thế giới không có tình yêu sẽ hoang tàn đổ nát tựa như cơn lũ đã tàn phá môi trường, chỉ để lại sự dơ bẩn và chết chóc. Đó chính là thảm cảnh mà chúng ta đang phải đối diện. Bởi thiếu vắng tình yêu đã đẩy sự dữ ngày một gia tăng. Sự dữ ẩn chứa khắp nơi. Sự dữ luôn đe doạ hủy diệt địa cầu bất cứ giờ nào. Kẻ dữ luôn gia tăng sự ác. Kẻ lương thiện ngao ngán sự đời. Kẻ khôn ngoan né tránh. Người dại dột thì lãnh đủ. Người ta nói rằng: “Khôn cũng chết. Dại cũng chết. Biết thì sống”. Biết để né tránh. Biết để thủ thế. Biết để an phận thủ thường. Một lối sống “biết để sống” đến nỗi bỏ quên đồng loại, chỉ lo toan cho mình, nên không có sự sáng tạo trong yêu thương. “Biết để sống” dẫn đến đa nghi, nên thế giới chẳng ai tin ai. Thế giới đã chết vì thiếu vắng tình yêu.
Mỗi lần chúng ta rước Chúa là được đón nhận chính sự sống và tình yêu của Chúa. Ước gì tình yêu Chúa tuôn chảy trong con tim của chúng ta để chúng ta dám hiến dâng chính mình vì sự sống của tha nhân. Ước gì mỗi người biết hy sinh cho nhau, và biết kiến tạo hạnh phúc cho nhau, chắc chắn cuộc sống này sẽ đẹp hơn. Con người sẽ hạnh phúc và lạc quan hơn. Ước gì mỗi người chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu trở thành quà tặng mang lại cho anh em niềm vui và hạnh phúc. Xin đừng bao giờ biến mình thành ác qủy luôn đe doạ sự sống tha nhân và trở thành mối lo của xã hội. Xin cho chúng ta luôn cảm nghiệm rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Amen.
8. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu nói “thịt Ngài là thật của ăn và máu Ngài thật là của uống”, và hơn nữa, “ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”.
Kitô hữu tin rằng bánh rượu sau khi linh mục đọc lời truyền phép trong thánh lễ, thực là mình và máu Đức Giêsu Kitô Phục Sinh. Với giác quan, con người vẫn thấy đó là tấm bánh và rượu, nhưng với con mắt đức tin, đó là mình máu Chúa Giêsu Kitô. Đây không là phép lạ, vì nếu là một phép lạ, thì mọi người đã nhận biết đó là thịt máu Đức Giêsu, và con người không thể chối cãi được; chẳng hạn một số người nhận được phép lạ chữa lành bệnh tật ở Lourdes, người ta không thể phủ nhận điều này. Bánh rượu sau truyền phép là một bí tích, nghĩa là, là một dấu chỉ hữu hình để Thiên Chúa ban ơn sủng thiêng liêng cho con người.
Bí tích Thánh Thể không đơn thuần là dấu chỉ hữu hình Thiên Chúa dùng để ban ơn thiêng liêng, nhưng còn là biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa. Biểu tượng là dấu chỉ liên hệ mật thiết với điều dấu chỉ trỏ tới, và cũng là chính thực tại, chẳng hạn thân xác là biểu tượng của con người toàn diện. Bánh rượu nuôi sống và làm hoan lạc con người, bí tích Thánh Thể, mình và máu Đức Giêsu Kitô, cũng nuôi sống và làm hoan lạc con người, thể chất và tinh thần.
Bí tích Thánh Thể cho thấy Lời Thiên Chúa tiếp tục tự hủy cho con người được sống. Lời Thiên Chúa đã tự hủy, nhập thể làm người, giờ đây Đức Giêsu Phục Sinh đã được tôn vinh, thế nhưng Ngài vẫn tiếp tục tự hủy nơi bí tích Thánh Thể. Bánh rượu trở thành mình máu Đức Giêsu Kitô: ôi vật chất sao được diễm phúc đặc biệt này. Lời Thiên Chúa tự hủy cho con người thấy nét đẹp và cao quý của thân xác, điều mà nhiều người tưởng rằng thân xác là cái gì kém giá trị. Bí tích Thánh Thể cho thấy vật chất cũng là cái gì tuyệt vời, vì Lời Thiên Chúa nhập thể đã dùng để làm nên mình máu thánh Ngài.
Bí tích Thánh Thể, mình máu thánh Đức Giêsu Kitô, là bánh ban xuống bởi trời. Là lương thực ban cho con người sự sống vĩnh cửu. Bí tích Thánh Thể là bánh hằng sống đối với những người tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nhập thể. Với những người này, chính qua bí tích Thánh Thể mà các tín hữu được quy tụ, để họ được nghe Lời Chúa và được rước mình và máu Chúa. Bí tích Thánh Thể nuôi sống đời sống thiêng liêng của họ, củng cố đức tin của họ vào Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô, giúp họ sống bình an hạnh phúc trong những ngày ở dương gian này.
Bí tích Thánh Thể là biểu tượng tình yêu của Đức Giêsu cho con người, vì Thánh Thể là chính mình máu Ngài. Nơi bí tích Thánh Thể, người ta đọc thấy tình yêu của Đức Giêsu đã hiến mạng sống cho con người, cho những ai tin vào Ngài. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình (Ga.15, 13). Đức Giêsu đã hiến mạng cho con người, và điều này được thấy một cách cụ thể qua qua bí tích Thánh Thể khi Đức Giêsu nói: “các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy, sẽ bị nộp vì anh em…. Này là chén máu thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội”. Bí tích Thánh Thể là chính mình máu thánh Người, được ban tặng cho con người, để trở thành bánh ban sự sống, để trở thành giá cứu chuộc con người. Con người thật là tạo vật được Thiên Chúa quý trọng biết bao, vì nó đã được Đức Giêsu hiến mình cứu chuộc.
Với bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa đang hiện diện với con người một cách bí tích nhưng thật cụ thể đối với những người tin. Thiên Chúa ở với con người qua Ngôi Lời nhập thể là Đức Giêsu; giờ đây Đức Giêsu Phục Sinh đã được siêu tôn ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang ở với con người tuy dù con người không thể thấy Ngài bằng mắt trần, và rồi Ngài đang hiện diện với tín hữu cách đặc biệt nơi bí tích Thánh Thể. Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện cụ thể với con người. Thiên Chúa luôn ở với con người, và Ngài còn luôn ở lại với con người một cách cụ thể qua bí tích tình yêu này.
Khi một người nhận lãnh lương thực nuôi thân xác, lương thực được biến hóa thành thịt máu người nhận; khi một Kitô hữu đón nhận mình và máu Đức Giêsu Kitô vào lòng, Đức Giêsu Kitô làm cho người lãnh nhận được trở nên một với Ngài, được thần hóa nhờ Ngài. Mình máu Đức Giêsu Kitô thánh hóa Kitô hữu, làm Kitô hữu trở nên thánh một khi họ rước mình và máu Ngài. “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Bí tích Thánh Thể, thần lương quy tụ, gầy dựng, và nuôi dưỡng Giáo Hội. Ước gì mỗi Kitô hữu nhận biết giá trị vô lường của bí tích Thánh Thể, để trân trọng và hân hoan đón nhận bí tích cao quý này mỗi ngày, để bí tích Thánh Thể trở thành nguồn sống cho cá nhân và cộng đoàn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bí tích Thánh Thể có giúp bạn sống hạnh phúc không?
2. Theo kinh nghiệm sống, bí tích Thánh Thể ảnh hưởng trên đời bạn thế nào?
9. Đức Kitô hiện diện.
Thân xác cần phải ăn uống thì mới sống được. Một chút thực phẩm dự trữ cũng đủ để người bị lạc trong rừng sống thêm đôi ba ngày. Một chút nước trong sa mạc cũng giúp kéo dài thêm sự sống.
Con người, như chúng ta đã biết, không chỉ là thân xác mà còn là tinh thần. Và tinh thần cũng cần phải được nuôi dưỡng để tồn tại và phát triển. Người ta đã nói đến những món ăn tinh thần như sách báo, nghệ thuật… Chúa Giêsu còn muốn cung ứng cho chúng ta một món ăn tinh thần cao quí và tuyệt hảo hơn nhiều, đó là chính bản thân Ngài, bởi vì Ngài muốn trở nên lương thực nuôi sống nhân loại.
Thế nhưng, làm sao Ngài lại có thể cho chúng ta ăn thịt Ngài và uống máu Ngài? Tôi xin thưa Ngài đã dùng quyền năng mà biến đổi tấm bánh và chén rượu trở thành thịt và máu thánh Ngài, để khi ăn tấm bánh và uống chén rượu, chúng ta được kết hiệp với chính con người của Ngài. Như thế, khi rước lễ, chúng ta không lãnh nhận một Đức Kitô đã chết và nay chỉ còn là một cái xác không hồn. Trái lại, chúng ta đón nhận một Đấng đã sống, đã chết và đã sống lại, hiện đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Thánh Gioan đã diễn tả:
- Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy.
Mà ở trong Chúa, chắc hẳn cuộc đời chúng ta sẽ trổ sinh nhiều hoa trái. Cũng vì xác tín như vậy, mà Giáo Hội luôn tỏ lòng kính trọng sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Sau khi truyền phép, vị linh mục nâng cao mình và máu thánh Chúa, để chúng ta thờ lạy.
Ngoài ra, Giáo Hội còn tổ chức những cuộc rước kiệu, chầu phép lành, các đại hội Thánh Thể trên toàn thế giới. Đức Kitô đến với chúng ta qua bí tích Thánh Thể và Ngài cũng còn đến với chúng ta dưới nhiều hình thức khác nữa.
Khi tham dự thánh lễ cùng với cộng đoàn, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài giữa lòng Giáo Hội:
- Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Giáo Hội là thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô. Thân mình này được nuôi dưỡng bởi mình và máu thánh Ngài. Như thế, chúng ta cần ý thức về sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong Giáo Hội.
Ngoài ra, Chúa Giêsu còn hiện diện khi chúng ta lắng nghe lời Ngài. Chính ngài nói với chúng ta, khi chúng ta đọc Kinh Thánh trong Giáo Hội. Nơi Thánh lễ, chúng ta thấy bàn tiệc mình máu thánh Chúa và bàn tiệc lời Chúa. Đó không phải là haibàn tiệc tách biệt, vì trong Thánh lễ, cả lời Chúa lẫn mình Chúa được dọn ra trên một bàn ăn, để giáo dân được hướng dẫn và bổ sức.
Chúa Giêsu không phải chỉ ở ngoài chúng ta, nhưng Ngài còn ở trong chúng ta. Ngài ở trong trái tim, Ngài ở trong cõi lòng chúng ta. Tuy nhiên, nhiều lúc chúng ta quên đi sự hiện của Ngài nơi chính bản thân mình. Chúng ta quên rằng bản thân mình cũng là một nhà tạm, một đền thờ cho Chúa ngự trị. Không phải chỉ khi lên rước lễ, Ngài mới bắt đầu hiện diện trong chúng ta và lúc đó chúng ta mới có thể gặp gỡ Ngài. Thật ra Chúa luôn ở với chúng ta, và lúc nào ta cũng có thể trở về với lòng mình để gặp gỡ Ngài.
Sau cùng, Chúa Giêsu còn hiện diện ở bên ngoài nhà thờ, nhất là nơi những người bất hạnh, đau khổ, đói khát, ốm yếu, trần trụi… Họ cũng là những bí tích của Đức Kitô. Ẩn dưới tấm bánh là mình thánh Chúa. Còn ẩn dưới những kẻ sống bên lề xã hội là Đức Kitô thiếu thốn đang xin trợ giúp. Cần phải có cặp mắt đức tin để khám phá ra sự hiện diện của Chúa nơi những thực tại của đời thường. Ngài không quen đến với sự hào nhoáng và vinh quan hiển hách. Ngài đến với chúng ta với thận phận của một con người yếu đuối.
Hãy khiêm nhường để tìm thấy sự hiện diện khiêm tốn của Chúa, nhờ đó biến đời mình trở thành một cuộc gặp gỡ liên tục với Ngài.
10. Thịt Ta là của ăn – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Nói đến máu thịt là nói đến những gì thâm sâu nhất trong con người. Thâm sâu vì máu thịt chính là sự sống. Thâm sâu vì máu huyết thuộc hệ di truyền. Ta thường nói: máu huyết của cha, thịt xương của mẹ. Yếu tố “gen” là thứ sâu xa trong bản tính con người. Là lực lượng âm thầm điều hướng định mệnh con người. Như thế máu thịt không những làm thành con người thể lý bên ngoài mà còn làm thành con người ở chiều sâu tâm sinh lý nữa.
Máu thịt là thứ thiết thân nhất trong con người. Thiết thân vì nó gắn bó chặt chẽ với bản thân ta, gắn bó với sự sống của ta. Lấy nó ra khỏi con người thì đau đớn lắm. Thiết thân vì ta yêu mến nó. Yêu máu thịt của mình cũng như yêu mạng sống mình là một điều hết sức tự nhiên.
Hôm nay khi nói ban Máu Thịt cho chúng ta, Chúa Giêsu ban cho ta những gì thâm sâu nhất trong bản thân Người. Người không chỉ ban Máu Thịt mà còn ban cho ta cốt lõi của bản tính Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Khi ban cho ta Máu Thịt, Chúa Giêsu ban cho ta chính tình yêu của Người.
Khi ban Máu Thịt cho ta, Chúa Giêsu phải chịu đau đớn. Mạng sống là quý nhất. Nhưng Người yêu ta còn hơn yêu mạng sống của mình. Vì thế, Người hiến mạng sống cho ta như lời Người nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Mạng sống là thiết thân. Nhưng đối với Người, ta còn thiết thân với Người hơn cả mạng sống của Người nữa. Người chịu tiêu hủy mình đi để trở nên thiết thân với ta. Khi hiến mình làm lương thực, Người chấp nhận chịu nghiền tán, chịu đớn đau để trở thành thịt máu của ta, để trở thành thiết thân với ta, đến nỗi ta không thể tách Người ra khỏi ta được nữa. Thật là một tình yêu lạ lùng. Thật là một sáng kiến tuyệt vời.
Khi ban Mình Máu Thánh cho ta, Chúa Giêsu mong ước ta sống kết hiệp mật thiết với Người. Khi chịu lấy Mình máu Thánh Chúa thì Chúa ở trong ta và ta được ở trong Chúa. Đây là một biến đổi sâu xa. Chúa Giêsu đã làm người để ở với ta, làm tấm bánh để ở lại trong ta. Chúa mong ước ta ở lại trong Chúa. Vì thế khi rước lễ, ta phải biến đổi đời sống cho xứng đáng và phù hợp với Chúa. Ở trong Chúa không phải là ở trong không gian vật lý nhưng ở trong không gian thiêng liêng, trong ảnh hưởng của Chúa, trong tình yêu của Chúa, trong lề luật của Chúa, trong tinh thần của Chúa. Như thế ở trong Chúa có nghĩa là sống như Chúa, suy nghĩ như Chúa, hành động như Chúa, yêu thương như Chúa.
Khi mời gọi ta đến kết hiệp với Người, Chúa mong muốn cho ta được sống. Chúa chính là nguồn mạch sự sống. Ở trong Người là ở trong sự sống. Kết hiệp với Người là kết hiệp với sự sống. Sống nhờ Người là hít thở sự sống của Người, hấp thu sự sống của Người. Người là sự sống vĩnh cửu, sự sống sung mãn, sự sống hạnh phúc. Được sống bằng sự sống của Người ta sẽ được sự sống dồi dào, hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu biết, yêu mến và sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn hiểu thịt máu có ý nghĩa gì?
2) Chúa ban Thịt Máu Chúa cho ta. Điều này có ý nghĩa gì?
3) Thế nào là ở trong Chúa? Muốn ở trong Chúa bạn phải làm gì?
4) Thế nào là sống nhờ Chúa? Muốn sống nhờ Chúa bạn phải làm gì?
11. Kẻ Ăn Tôi Sẽ Sống Nhờ Tôi - Manna
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết
nhưng tôi muốn con tôi được sống"
Đó là lời của bà Susanna sau khi được cứu
trong trận động đất ở Ácmêni vào tháng 12-1987.
Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch,
có hai mẹ con bà Susanna may mắn còn sống sót.
Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước.
Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra?
Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩ táo bạo,
đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút.
Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu người mẹ.
Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu.
Câu truyện trên giúp ta hiều phần nào bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu đã chết để chúng ta được sống.
Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá,
và Ngài muốn máu Ngài trở nên thức uống cho chúng ta.
Trong các nhà thờ, vào dịp lễ Giáng sinh,
thường có những người ngoài Kitô giáo đến dự lễ.
Cũng có ít người tò mò lên "ăn bánh thánh".
Họ ngạc nhiên vì tấm bánh mỏng manh, nhạt nhẽo.
Nhưng họ sẽ ngạc nhiên hơn nhiều nếu chúng ta bảo họ:
"Ăn tấm bánh đó là ăn thịt Chúa,
uống chén rượu đó là uống máu Chúa".
Thật là kinh khủng, làm sao có chuyện như vậy?
Đây là mầu nhiệm đức tin, không dễ giải thích cho người ngoài.
Tất cả bắt đầu từ ước muốn lạ lùng của Đức Giêsu.
Ngài muốn nuôi nhân loại bằng chính con người Ngài.
Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho nhân loại:
"Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy.
Các con hãy cầm lấy mà uống, đây là Máu Thầy."
Mình và Máu tượng trưng toàn thể con người Đức Giêsu.
Nên khi rước lễ, ta không chỉ rước thịt mình Ngài,
mà rước lấy cả con người Ngài dưới dạng tấm bánh.
Rước lễ là gắn bó với một ngôi vị:
"Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi
và tôi ở lại trong người ấy (c.56).
Rước lễ không phải là đón nhận một xác chết,
nhưng là gặp gỡ Đức Giêsu đã chết và nay đã phục sinh.
"Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào,
kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy" (c.57).
Rước lễ là đón lấy sự sống từ Đấng đang sống,
cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.
Hôm nay, Đức Giêsu phục sinh có một lối hiện diện mới mẻ.
Ngài không hiện diện dưới dạng một con người,
nhưng dưới dạng đồ ăn, đồ uống.
Như thế cả vật chất bất động cũng được nâng lên,
cả lao công của con người cũng được thánh hiến.
Vật chất trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Vật chất có chỗ trong thế giới của Thiên Chúa.
Ước gì thế giới vật chất ở quanh ta
cũng nên thánh, nhờ được chia sẻ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bài Tin Mừng hôm nay có 10 từ "sống". Bí tích Thánh Thể là bí tích ban sự sống. Bạn có thấy thánh lễ đem lại sức sống cho bạn không? Nếu không, tại sao?
Bạn nghĩ gì về thái độ của bạn khi rước lễ? Đó có phải là một cuộc gặp gỡ thân tình không? Bạn có chuẩn bị gì khi rước lễ? Bạn có dành những giây phút lặng lẽ để tâm sự với Chúa sau rước lễ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm,
ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân,
và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp nơi,
để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp,
nơi lớp học tình thương lúc chiều tà,
nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm,
nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ,
nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ,
nơi các tiệm cho mướn băng video,
nơi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ...
Nhưng lạy Chúa, trước hết,
xin cho đời con là một ngọn đèn,
xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ,
mời người ta dừng lại, trầm tư,
và gặp được Chúa.
12. Tôi là Bánh.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Cả các Kitô hữu cũng ngỡ ngàng trước bí tích Thánh Thể.
Ăn thịt và uống máu người mình yêu là điều khủng khiếp chẳng ai dám nghĩ tới. Nhưng Đức Giêsu lại muốn nuôi cả nhân loại bằng Thịt và Máu Ngài. Và thực sự Ngài đã nuôi ta bằng cái chết thập giá - ở đó Ngài đã hy sinh Máu Thịt mình.
Đúng hơn, Ngài nuôi chúng ta bằng sự sống của Ngài: sự sống được trao đi qua cái chết tự nguyện, và sự sống được lấy lại qua phục sinh vinh quang.
Đức Giêsu ban cho ta Tấm Bánh (c.51). Ngài còn tự nhận mình là Tấm Bánh (cc.48.51): Tấm Bánh có sự sống và Tấm Bánh ban sự sống. Tôi là Tấm Bánh: đó là định nghĩa của Đức Giêsu về mình.
Định nghĩa này có làm ta ngạc nhiên không? Bánh là cái gì ăn được và đem lại sự sống. Bánh không sống cho mình, nhưng cho người khác.
Chấp nhận là bánh có nghĩa là chấp nhận mất mình, mà chỉ khi mất mình như thế, bánh mới thật là bánh, mình mới thật là mình. Thật ra bánh vẫn hiện diện và nên một với người ăn. Đức Giêsu là Tấm Bánh đặc biệt. Khi tôi ăn, Ngài thành tôi và biến tôi thành Ngài. Một sự ở lại hai chiều, một sự hiệp thông sâu thẳm.
"Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy" (c.56).
Rước lễ là đón lấy dòng sự sống, chấp nhận sống nhờ.
Đức Giêsu sống nhờ Cha và chúng ta sống nhờ Đức Giêsu (c.57).
Như cành nho sống nhờ thân cây nho, chúng ta cũng sống nhờ, nghĩa là sống trong và sống cho Chúa.
Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh đã từng có thái độ nhìn và thờ lạy Thánh Thể hơn là cầm lấy mà ăn. Động từ ăn được nhắc đến 8 lần trong bài Tin Mừng này, như một lời mời gọi tha thiết của Đức Giêsu.
Ngày nay, người ta rước lễ nhiều hơn trước. Tiếc thay lắm khi cuộc gặp gỡ này khá vội vã, thiếu chuẩn bị và cũng thiếu đối thoại thân tình.
Tôi lên rước lễ chỉ vì mọi người trong hàng ghế đã lên.
Phút thinh lặng sau rước lễ cũng bị cắt ngắn. Tôi phải về ngay vì phải lấy xe, vì nhà thờ đóng cửa... Chính vì thế rước lễ chẳng gây được âm vang nào nơi tôi. Nó trở thành một thói quen, một nghi thức thuần tuý.
Tôi lên ăn một vật thánh, thay vì đón một người.
Ít khi có vị khách quý nào bị thường xuyên tiếp đón lạnh nhạt như thế! Rốt cuộc chẳng có cuộc gặp gỡ nào xảy ra, nên tôi vẫn cứ là tôi như trước.
Hãy dự lễ như người đi dự tiệc Lời Chúa, Mình Chúa.
Chỉ ai biết ăn, biết thưởng thức và nghiền ngẫm, người ấy mới gặp được sự sống và gặp được Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Đức Giêsu tự định nghĩa mình là Cửa (10,7), là Mục Tử (10,11), là Ánh Sáng (12,46), là Con Đường (14,6), là Cây Nho (15,1), là Tấm Bánh (6,48). Những định nghĩa rất gợi hình và đều hướng về con người. Bạn thích định nghĩa nào hơn cả? Tại sao?
Bạn nghĩ gì về việc bạn rước Chúa? Có cái gì không ổn, cần sửa đổi không? Có khi nào bạn thấy mình gặp được Chúa sau khi rước lễ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đến với chúng con dưới dạng tấm bánh bình thường. Tấm bánh chẳng nói gì, chỉ biết lặng lẽ chờ đợi. Tấm bánh hiện diện là để phục vụ cho con người. Tấm bánh quá đỗi mong manh, nhỏ bé, có thể bị ẩm mốc làm hư hoại, và tan rất mau sau khi được nhận lãnh.
Lạy Chúa Giêsu, có cái gì tương tự giữa phận làm người và phận làm bánh của Chúa. Xin cho chúng con biết cách đến với con người hôm nay: đơn sơ, khiêm hạ, không chút vinh quang hay quyền lực. Nhờ ăn tấm bánh của Chúa, chúng con cũng trở nên tấm bánh ngon, được bẻ ra để đáp ứng khẩu vị của nhiều người. Ước gì chúng con dám rước Chúa đi vào mọi vùng mờ tối của lòng mình, để sự hiện diện của Chúa trong con được lớn lên. Và ước gì chúng con trở thành những Nhà Tạm di động, đem Chúa đến cho đồng bào và quê hương chúng con. Amen.
13. Suy niệm của An Phong
“Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”
Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta; Đức Kitô phân biệt rõ Thịt và Máu để loan báo hy tế thập giá và phép Thánh Thể. Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta.
"Đức Giêsu một cách mặc nhiên, trong diễn từ về Bánh Sự Sống là chính mình Ngài, đã đề cập đến cuộc hiến tế Núi Sọ. Ngài hiến thân chịu chết để làm lương thần nuôi dưỡng chúng ta".
Tự nguồn gốc, Thánh Thể là một hy tế. Đức Kitô qua cái chết và sự phục sinh, hiện diện trong Thánh Thể để nuôi sống chúng ta. Hy tế đó có giá trị chuộc tội, chữa ta khỏi tội lỗi và thông ban sự sống. Hãy hiến dâng thân mình với hy tế trên bàn thờ, nghĩa là kết hiệp đời mình với thập giá.
"Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Cha toàn năng". Tiếp nhận Chúa Thánh Thể, phải noi gương Ngài và ý thức mọi điều phải qui về Thiên Chúa. "Kẻ ăn Ta sẽ sống nhờ Ta, cũng như Ta sống nhờ Cha" (Ga 6,57).
Mỗi lần rước lễ bạn có vững tin mình đang ở giai đoạn đầu của đời sống vĩnh cửu trên thiên quốc chăng? Tuy trạng thái khác nhau, vì ở trần gian còn bị giới hạn bởi vật chất hữu hình. Nhưng căn bản vẫn giống nhau, là có sự sống Thiên Chúa. "Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta sẽ có sự sống đời đời" (Ga 6,54).
Hiệu quả việc rước lễ, là sự kết hiệp thân mật tương hỗ với Đức Kitô. Chúng ta đón nhận được sự sống sung mãn và có Đức Kitô như người bạn thân tình đồng hành với ta trong đời. "Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì lưu lại trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy" (Ga 6,36).
Người xác tín Chúa ngự trong Bánh Thánh nơi nhà tạm của giáo đường, thì:
- Siêng năng đến gặp Chúa
- Tâm sự đôi lời với Chúa khi đi ngang qua nhà thờ
- Và khi có thể tham dự các giờ chầu Thánh Thể với cộng đoàn Giáo xứ.
Những việc đó một phần nào đánh giá được niềm tin của bạn. Tuy nhiên, bạn cần xét lại khi thực hành như vậy, mình đã xác tín sự hiện diện của Ngài đến mức nào?
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã biến đổi bánh và rượu
trở nên Mình Máu Thánh Chúa;
Xin Chúa cũng biến đổi cuộc sống chúng con
trở nên lễ tế hiến dâng trong tình yêu
và trong thái độ vâng phục chương trình của Chúa Cha.
14. Tôi là Bánh Hằng Sống – ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Thời vua Hùng Vương có một bà sinh đứa con tên là Gióng. Đứa bé lên ba rồi vẫn không biết lật, không biết ngồi, cũng không biết cười nói gì, cứ nằm ngửa đòi ăn.
Thời ấy giặc Ân kéo đến xâm chiếm, quân ta nhiều lần bại trận. Vua Hùng lo sợ, sai sứ đi khắp nước tìm kiếm tướng tài cứu nước. Nghe báo cứu nước, tự nhiên bé Gióng nhìn mẹ bật lên tiếng nói: “Mẹ gọi sứ giả vào đây cho con”. Sứ giả vào nhà thấy bé liền hỏi: “Bé ơi, bé bị tật như thế, mời ta vào làm gì?”. Gióng dõng dạc nói: “Về bảo Vua đúc một con ngựa sắt, một thanh gươm sắt, một áo giáp sắt, một mũ sắt đưa đến cho ta đi đánh giặc Ân”. Rồi bé bảo mẹ thổi nhiều cơm cho con ăn. Mẹ thổi bao nhiêu, bé ăn hết bấy nhiêu. Hết gạo, mẹ kêu làng xã đem gạo, khoai, bánh rượu, trâu bò cho bé ăn. Bao nhiêu cũng hết. Ăn xong, lúc vươn vai thành người khổng lồ, mặc áo giáp, cầm gươm, hét lớn tiếng: “Ta là tướng nhà trời”. Gióng nhảy lên ngựa sắt phun ra lửa, phi như bay đến phá tan giặc Ân. Dẹp xong giặc, Gióng chạy lên núi Sóc Sơn, cởi áo bỏ lại, biến lên trời. Vua phong thánh Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ kỷ niệm ở làng quê. Câu truyện có vẻ thần thoại, nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Thứ nhất, gặp nguy khốn, thấy mình bất lực, phải lo tìm hiền tài cứu nước, chớ đừng kiêu ngạo cậy mình tự ái kẻo nguy khốn. Đức Giêsu thấy con người nguy khốn phải chết đời đời, nên đã bảo Ta phải tìm bánh hằng sống, đừng cậy dựa vào thức ăn hư nát.
Thứ hai, đừng khinh chê những kẻ bé nhỏ yếu đuối, nhiều khi đó là thứ bé bé hạt tiêu. Dân Do thái khinh chê Đức Giêsu là con bác thợ mộc, đâu có ngờ rằng chính Người là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế họ hằng trông mong.
Thứ ba, sức con người dù là vua, quan, quân tướng, cơm gạo chẳng đáng là gì, nếu không nhờ trời cứu giúp thì sẽ bị diệt vong.
Đức Giêsu báo động cho dân chúng biết cơm bánh trần gian đâu có cứu được họ khỏi chết, nếu không nhờ bánh từ trời. Bánh hằng sống thì họ sẽ bị diệt vong đời đời.
Thứ bốn, nhân dân muốn được cứu khỏi tay quân giặc tàn bạo, thì phải biết tham gia vào công việc cứu mình, cứu quốc bằng góp gạo, góp sức đúc ngựa sắt, áo, mũ, gươm sắt để tỏ lòng thành khẩn cầu cứu. Thực ra, tướng nhà trời đâu cần những thứ đó.
Đức Giêsu cũng đòi người ta phải ra công làm những việc Thiên Chúa dạy dỗ, để chứng tỏ lòng mình thành tâm tin thờ Ngài. Chứ những việc làm của con người đâu có thêm gì cho Thiên Chúa, mà chỉ mang lại sự sống đời đời cho con người.
Nếu sứ giả cũng như nhà vua cùng bà mẹ và dân làng, khinh chê đứa bé tàn tật, cố chấp không nghe lời bé Gióng, không góp công, góp của một chút, thì đâu được bé Gióng là tướng nhà trời đến cứu dân, cứu nước. May thay, họ đã khiêm tốn nghe theo lời đứa bé ba tuổi tàn tật và họ đã được tướng nhà trời cứu sống. Đúng như câu tục ngữ: Hãy giúp mình thì trời sẽ giúp anh (Aides-toi, le ciel t’aidera).
Người Do thái đã không học bài học đó. Họ khinh chê lời Đức Giêsu. Họ quá quen ăn thịt chiên, cừu, gà, vịt, mỗi khi nghe nói: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì được sống muôn đời”. Họ lấy làm chướng tai, phản đối và bỏ đi. Cố chấp, dầu Đức Giêsu đã giải thích rõ lời của Người là lời hằng sống, Thịt của Người là bánh trường sinh từ trời xuống, để cho thế gian được sống, họ vẫn không tin. Họ không nhận ra lòng yêu thương vô cùng của Người đã cứu chữa bao nhiêu kẻ tàn tật phong cùi, và mới cứu họ khỏi đói khát, đã cho họ ăn bánh lạ no nê. Bây giờ Người cho họ biết: Người sẽ hy sinh lấy Thịt Máu Mình nuôi sống họ muôn đời. Họ lại càng thấy chướng tai.
Cảnh tượng đó thật đau lòng. Cảnh tượng đau lòng này cũng đang diễn ra nơi chúng ta. Chúng ta nghe lời Chúa thì ít, học lời Chúa càng ít hơn, còn tin lời Chúa, suy niệm lời Chúa và sống lời Chúa thì không biết được mấy ai? Nhưng chúng ta nghe nói hành, nói xấu thì tham gia thêm thắt rất hăng hái. Nghe chuyện bù cú thì rất thích chí, cười khềnh khệch. Nghe nói dóc, tán tỉnh rất mùi mẫm, nghe chuyện tào lao phim ảnh như chuyện Ngộ Không, Trư bát Giới thì nhớ rất kỹ và kể lại thao thao bất tuyệt.
Chúa hết lòng dạy dỗ và đã phải kêu gọi: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe” thì chẳng ai nghe. Nếu có nghe thì cũng chỉ như hạt giống rơi trên vệ đường đá sỏi, bụi gai, chẳng gặp được đất tốt.
Chúa bảo: “Ai ăn Thịt Ta thì được sống đời đời”, thế mà chỉ được một số, còn rất nhiều người bỏ đi uống cà phê, hút thuốc, say rượu, dung dưỡng xác thịt hơn là lãnh của ăn hằng sống bổ dưỡng cho linh hồn. Biết bao nhiêu người được mời dự tiệc con chiên nước Trời, nhưng họ đã tìm hết cách từ chối: “Người đi thăm trại, kẻ đi buôn, đứa thì lo cưới vợ. Họ khinh thường lời mời của vua trời đất, họ sẽ bị tru diệt” (Mt. 22, 5-7 Lc. 14, 18-20).
Lạy Chúa, ai đã thương lấy thịt mình nuôi con. Ai đã thương cứu con khỏi cảnh hư đốn. Ai đã thương cho con được sống muôn đời. Ai đã thương cho con được sống vinh phúc với Ngài. Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa mà thôi. Amen.
15. Mầu nhiệm Đức Tin
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Một giáo lý viên muốn chơi khăm ông cha phó mới ra lò: “Thưa cha, Hội Thánh dạy rằng phải kiêng thịt mỗi ngày thứ sáu. Vì thế, hôm nay ngày thứ sáu, con không dám rước Chúa vì rước Chúa là ăn thịt, uống máu Chúa Giêsu. Mà ăn thịt là lỗi luật Hội Thánh dạy.” Chắc hẳn ông cha phó dù mới ra lò cũng có đủ cách, đủ kiểu để thoát cạm bẩy của mấy tay giáo lý viên ngỗ nghịch ấy. Tuy nhiên, qua câu chuyện vui này, chúng ta có lẽ dễ thông cảm với người Do Thái xưa thấy khó chịu khi nghe Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51). Tin mừng tường thuật rằng họ đã tranh luận sôi nổi với nhau rằng: “làm sao ông nầy có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6,52).
Kho tàng các chuyện dân gian về tình mẫu tử hay tình hiếu thảo vẫn có đó nhiều mẫu gương các bà mẹ cho con “uống máu”mình hay những người con hiếu thảo cắt thịt để nuôi mẹ già. Dù vậy, khi nghe đến các từ ăn thịt và uống máu người, thì chúng ta vẫn thấy gai gai, rờn rợn chút nào đó. Thế nhưng, có thể nói rằng tất cả mọi người đều đã từng ăn uống thịt máu người để được sống. Cứ vào mỗi dịp chuẩn bị cho các em xưng tội rước lễ lần đầu, tôi thường nói lên sự thật này đó là con người chúng ta thoặt sinh ra hầu hết đều nhờ chính thịt máu của mẹ qua dòng sữa để sống và lớn lên. Đã từng một thời, nhiều bà mẹ không ý thức tầm quan trọng của dòng sữa mình trong việc nuôi con thưở con mới lọt lòng và khi con còn thơ bé. Nhờ khoa học tiến bộ và cũng nhờ các phương tiện thông tin đại chúng, ngày nay người ta biết khôn ngoan hơn khi nhìn nhận: sữa mẹ là sữa tốt nhất cho trẻ sơ sinh và các trẻ nhỏ” Qua hình ảnh dòng sữa mẹ, xin được chia sẻ đôi điều về chính Thịt Máu Chúa Kitô là quà tặng nhưng không, là phương dược kháng bệnh tuyệt vời và là nguồn ban sự sống đời đời.
Thánh Thể: Quà tặng nhưng không. Nói rằng nhưng không thì có thể là thừa, vì đã nói là quà tặng thì không đòi hỏi phải trả tiền hay công sức. Tuy nhiên, không nói thì cũng có thể thiếu vì trong thực tế đằng sau nhiều quà tặng vẫn có đó hậu ý “bánh ít trao đi, bánh nhì trả lại” hay chuyện trả nợ đời của những bữa tiệc cưới hỏi, đám đình. Dòng sữa mẹ trao ban cho con thơ thì như là tuyệt đối nhưng không, nghĩa là tất cả chỉ vì con và cho con, ngay cả khi con chưa cất tiếng khóc vì khát sữa. Thiên Chúa được nhân cách hóa bằng Đức Khôn ngoan đã bảo “ Hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế! Đừng ngây thơ khờ dại nữa…” (Cn 9,5). Ngôn sứ Isaia cũng đã từng khẳng định: “Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon…”(Is 25,6) và ngài đã nói thay Thiên Chúa rằng: “Đến cả đi, hỡi những ai đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mà mua mà dùng; đến mua rượu, mua sữa, không phải trả đồng nào” (Is 55,1). Thánh Thể là quà tặng miễn phí, nhưng không. “Anh em đã lãnh nhận nhưng không thì hãy trao ban nhưng không” (Mt 10,8).
Thánh Thể: Phương dược kháng khuẩn, phòng bệnh tuyệt vời. Khôn ngoan hơn người xưa, các bà trẻ ngày nay ý thức tầm quan trọng của những “giọt sữa trong” của mình khi đứa con vừa chào đời, là một linh dược giúp đứa trẻ kháng bệnh tật cách tuyệt vời. Chúa Kitô minh nhiên phán: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,27-28). Mẹ Hội Thánh còn dạy chúng ta: “ Việc rước lễ giúp chúng ta xa lánh tội lỗi. Chúng ta rước lấy Mình Chúa Kitô, ‘đã phó nộp vì chúng ta” và Máu “đã đổ ra cho mọi người được tha tội”. Vì thế, bí tích Thánh Thể không thể kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô, nếu không thanh tẩy chúng ta khỏi tội đã phạm và giúp chúng ta xa lánh tội lỗi” (GLCG chung số 1393).
Thánh Thể: Nguồn ban sự sống thần thiêng, nhờ được kết hiệp nên một với Chúa Kitô. Qua dòng sữa, đứa trẻ ngày càng khắng khít với người sinh ra nó. Nhờ dòng sữa, cái tình giữa người mẹ và đứa con thêm đậm đà. Chúa Kitô đã từng khẳng định: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì luôn kết hiệp với Tôi, và Tôi luôn kết hiệp với người ấy”. Đời sống trong Chúa Kitô có nền tảng nơi bí tích Thánh Thể: Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57) (GLCG chung số 1391).
Không ai tự nhận là người khờ dại. Chúng ta đều muốn là những người khôn ngoan, nhưng có thể là “khôn ngoan của con cái thế gian”. Người khôn ngoan kiểu này thì tìm mọi cách thế để có được những thiện hảo đời này kể cả những cách thế phi nghĩa (x.Mt 16,1-8). Không chối cãi rằng vẫn có đó những bậc hiền triết và khôn ngoan đáng trân trọng. Tuy nhiên khôn ngoan theo kiểu này vẫn chưa đủ bảo đảm cho sự sống đời đời vì người ta có thể ỷ lại vào luận lý nhân loại để khước từ Đấng là bánh hằng sống từ trời xuống (x.Mt 11,25-56; Lc 10,21). Ngoài sự khôn ngoan chính đáng thì cần phải có lòng tin. Dù luận suy thế nào đi nữa thì Bánh hằng sống là nguồn ban sự sống đời đời, là phương dược xóa tội và giúp chống lại chước cám dỗ, là quà tặng nhưng không, mãi luôn là mầu nhiệm của đức tin.
Nói đến đức tin thì chúng ta nhìn nhận đó là hồng ân Chúa ban và cũng là sự dấn thân đáp trả của chúng ta. Sự đáp trả này đòi hỏi nhiều sự từ bỏ. Một trong những sự từ bỏ phải có, đó là chấp nhận sự hạn chế của lý trí trước các thực tại siêu nhiên, vì đối tượng của đức tin không minh nhiên rõ ràng theo sự luận lý của trí khôn nhân loại. Vì Chúa Kitô là Đấng có lời quyền năng trên bệnh tật, trên sự chết, trên cả thiên nhiên và Người là Đấng từ bi, nhân hậu, đầy lòng xót thương, nên chúng ta tin nhận những gì Người mạc khải.
Lạy Chúa, con tin, nhưng xin củng cố đức tin cho chúng con (x. Mc 9,24).
16. Tấm Bánh – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Theo tạp chí Times, gần đây có nhiều vụ tự tử trong giới doanh nghiệp Nhật Bản. Ông Saysi, 40 tuổi mạnh khỏe, là quản lý của công ty bảo hiểm Taiho, ông có đủ điều kiện để sống hạnh phúc, an khang. Nhưng vào tháng 11-97 ông Saysi đã nhảy lầu tự vẫn vì công ty mẹ là Yematri bị phá sản. Cũng trong thời gian này, một quan chức trong Bộ tài chánh và hai viên chức khác thuộc công ty xã hội Nhật cũng kết liễu đời mình khi bị kết án có dính líu đến tham nhũng.
Theo thống kê của cục cảnh sát Nhật Bản năm 1996 có đến 23.000 người Nhật tự tử, gấp hai lần số người chết vì tai nạn giao thông. Trong đó 3025 người tự tử vì thất bại về kinh tế. Các nhà tâm lý giải thích cho những người mất việc rằng: "Thất nghiệp là chuyện bình thường trong cuộc sống. Hơn nữa, trong cuộc sống còn có một cái gì khác hơn việc làm".
***
Trong cuộc hành trình tìm về quê trời, người tín hữu Kitô còn phải tìm kiếm một điều gì khác hơn là công việc, tiền của, danh vọng và chức quyền.
Chúng ta luôn được nhắc nhở: "Sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian" (x.Ga.15,19). Đừng gắn bó với của cải chóng qua nhưng hãy tìm kiếm những giá trị trường tồn. Đó chính là Đức Giêsu Kitô. Tấm bánh được trao ban cho nhân loại: "Bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Ga.6,51).
Tấm Bánh ấy không chỉ là bí tích Thánh Thể mà còn là Tấm Bánh Lời Chúa. Hiến chế về Phụng vụ quả quyết: "Chúa Kitô hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Giáo hội" (Pv.7). Đức Giêsu vẫn trao cho ta sức sống của Người chính là Tấm Bánh Lời Chúa: "Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn nhờ mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt.4,4).
Hiến chế Tín lý Mạc khải số 21 viết: "Giáo hội luôn tôn kính Kinh Thánh như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng vụ Thánh, Giáo hội không ngừng lấy Bánh ban Sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu".
Mỗi thánh lễ là một bữa tiệc. Chúng ta được mời đến tham dự bàn tiệc Lời Chúa, trước khi cử hành bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai đều là lương thực cần thiết cho cuộc sống đời đời.
Mọi tín hữu đều biết ích lợi vô song của Bí tích Thánh thể, nhưng lại dễ dàng bỏ qua việc rước lễ, chưa kể là thiếu chuẩn bị, thiếu sốt sắng và thiếu thân tình.
Mọi tín hữu đều biết Lời Chúa là cần thiết, nhưng lại ít quan tâm suy niệm và sống Lời Chúa.
Mahatma Gandhi, vị thánh của dân tộc Ấn Độ có nói: "Tôi sẵn sàng trở thành một Kitô hữu, nếu tôi thấy những người Kitô hữu thực thi Tám mối phúc thật".
****
Lạy Đức Giêsu, xin cho Lời Chúa luôn tỏa sáng lối đường chúng con đi. Xin cho Mình Thánh Chúa là lương thực hàng ngày cho chúng con. Xin dạy chúng con cũng trở nên tấm bánh được bẻ ra cho anh chị em. Xin giúp chúng con không chỉ lắng nghe mà còn biết thực thi lời Chúa; không chỉ yêu mến, mà còn biết sống Lời Ngài; không chỉ tuyên xưng, mà còn biết thực hành đức tin. Amen.
17. Bí Tích Thánh Thể – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sách Phương Ngôn, cũng gọi là sách Châm Ngôn, bao gồm những lời huấn dụ khôn ngoan của vua Salômôn, con vua Đavít. Sách Châm Ngôn giúp con người tìm biết lẽ khôn ngoan và hiểu được những lời cao siêu của các bậc hiền nhân. Sách này giúp chúng ta tìm mở lòng mở trí và học hỏi thêm kiến thức. Kính sợ Thiên Chúa là bước đầu của kiến thức. Lời mời gọi khôn ngoan: Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta và hãy uống rượu ta đã pha sẵn cho các ngươi (Cn 9, 5). Bánh và rượu đây là thức ăn quý báu dành cho những kẻ đơn sơ chân thành. Bánh sẽ mang lại sự no thỏa thân xác và rượu sẽ làm hoan hỉ lòng người. Được cùng chia sẻ bữa tiệc là cùng được chung hưởng niềm hoan lạc cuộc sống.
Của ăn trao ban qua bánh rượu và các bữa tiệc trần thế được chuẩn bị để đón nhận bữa tiệc hằng sống. Thánh Gioan đã diễn tả những lời mạc khải về thần lương của Chúa Giêsu rất rõ ràng minh bạch. Lời mạc khải trọn vẹn về sứ mệnh của Con Thiên Chúa làm người: Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống (Ga 6, 51). Chúa Giêsu không úp mở hay nói bóng nói gió theo kiểu ẩn dụ hoặc dụ ngôn với các môn đệ và dân chúng. Chúa xác tín lời hằng sống và mời gọi mọi người hãy tin và chấp nhận, vì đây là điều kiện để được sống muôn đời: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống (Ga 6, 54-55). Thịt và Máu của Chúa Giêsu được biến đổi trong Bí Tích Thánh Thể.
Dọc theo lịch sử, Giáo Hội đã trải qua rất nhiều nghịch cảnh để loan truyền niềm tin vào Chúa Kitô đã từ cõi chết sống lại. Cốt lõi của niềm tin là sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể qua hình bánh và rượu. Ngay từ lúc khai sinh, Giáo Hội đã cử hành các nghi thức phụng vụ xoay quanh việc Bẻ Bánh. Thực hành theo lời truyền dạy của Chúa Giêsu: “Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy."(Lc 22, 19). Giáo Hội ở khắp năm châu, bốn biển trong mọi thời khắc, luôn luôn có các linh mục cử hành Bí Tích Thánh Thể để tưởng nhớ đến Thầy Chí Thánh.
Có nhiều phép lạ chứng minh sự biến đổi Thịt và Máu Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể.Vào năm 750, tại Lancianô, nước Ý, trong đan viện thánh Legonziano, có một linh mục dòng Basiliô đức tin lung lay nghi ngờ về sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.Khi linh mục này dâng lễ, sau lời Truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu, đông đặc lại thành năm hột nhỏ theo hình dáng đặc biệt.Sự lưu trữ Thịt và Máu trong mười hai thế kỷ qua là lưu trữ cách tự nhiên, không bằng chất hoá học, giữ trong không khí thường và môi trường sinh vật mà vẫn giữ được nguyên chất.
Tại Ý, năm 1263, thành Bolsène, trong nhà thờ Sainte Catherine, một linh mục sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Máu và Thịt Chúa Giêsu. Tức thì Máu Thánh chảy đẫm khăn thánh và khăn bàn thờ. Đức Giáo Hoàng nghe tin này, đã ra lệnh đem khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette. Sau này Giáo Hội đã xây nhà thờ khang trang để kính khăn thánh này.
Ngày 8 tháng 9 năm 1264, Đức Giáo Hoàng Urbano IV (1262-1268) đã ký sắc lệnh Transiturus, thành lập lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu, cử hành vào sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Trong thời gian đó, thánh tiến sĩ Thomas Aquino đã sáng tác nhiều bài hát vào dịp mừng lễ này như bài Lauda sion, Pange lingua, Adoro Te và các kinh đọc Sacris Solemniis và Verbum Supernum. Vào dịp lễ này, các Giáo xứ tổ chức kiệu Mình Thánh Chúa ra đường phố công cộng để mọi người tôn thờ.
Thời vua Philippe le Bel đang cai trị nước Pháp (1285-1314), năm 1290, có một bà công giáo sống đạo đức. Vì nghèo, bà phải đem cầm chiếc áo cho một người Do Thái. Đến gần lễ Phục Sinh bà đến chuộc lại chiếc áo để mặc đi dự lễ. Người chủ đồng ý trả lại chiếc áo và không lấy tiền lời, với điều kiện buộc bà là rước lễ xong phải nhả Mình Thánh ra và đem về cho anh ta. Bà nghe lời nhả Mình Thánh vào khăn đem về cho anh ta. Anh để Mình Thánh trên bàn lấy dao nhọn đâm nhiều lát. Máu trong Mình Thánh chảy ra. Anh đem Mình Thánh bỏ vào lửa đốt, song Mình Thánh bay lên khỏi lửa.
Năm 1608, trong nhà dòng Faverney tại Besançon, vào ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống có chầu Mình Thánh Chúa trọng thể. Trên bàn thờ trưng hoa và thắp nhiều đèn nến. Người ta sơ ý để đèn cháy khăn bàn thờ, nhà tạm và bàn thờ. Trong khi lửa lan nhanh và bốc cháy khắp cả, Mình Thánh đựng trong hào quang cứ bay lên lơ lửng trên không gian trọn một ngày một đêm. Qua ngày thứ ba, người ta lập một bàn thờ khác thay bàn thờ đã cháy và trong khi cử hành thánh lễ, thì hào quang từ từ đặt xuống bàn thờ. Có nhiều người chứng kiến đã cùng hát kinh chúc tụng và thờ lạy.
Có rất nhiều chứng tích phép lạ Thánh Thể được lưu giữ và ghi lại trong kho tàng tài liệu của Giáo Hội để chứng minh sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể.Thực ra, giáo lý về Bí Tích Thánh Thể vẫn luôn là đề tài suy tư và tranh luận giữa các nhà thần học của các Kitô Giáo. Giữa các giáo phái Tin Lành và Công Giáo có những quan niệm thần học khác nhau về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể. Niềm tin trong đạo Công Giáo là tin thật Chúa Giêsu tiếp tục ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể cả trong nhà tạm, nghĩa là sau khi dâng thánh lễ. Các giáo phái khác không chia sẻ cùng niềm tin này. Một số Kitô hữu (Christians) tin rằng sự thánh hiến bánh và rượu có thể là biểu tượng (symbolic) hay việc tưởng niệm của Bữa Tiệc ly. Niềm tin của Giáo Hội Công Giáo là trong thánh lễ, sau khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép: Đây là mình Ta…Đây là Máu Ta… thì bánh và rượu trở nên Mình và Máu của Chúa Kitô.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô nhắn nhủ rằng: Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha (Eph 5, 20). Thừa hưởng gia tài vô giá của Chúa Giêsu qua Giáo Hội của Ngài, chúng ta được tiếp tục thông hiệp vào tiệc Thánh Thể. Chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và với tha nhân. Chúng ta được trở nên một trong Chúa nhờ một phép rửa, một niềm tin và một niềm hy vọng. Vậy chúng ta hãy thực thi lời của thánh Phaolô: Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan (Eph 5, 15).
Trong mọi sự, chúng ta hãy cùng dâng lời tạ ơn Thiên Chúa là Cha. Chúa đã ban bánh bởi trời cho nhân loại và bánh đó có đủ mọi mùi thơm ngon: Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời (Ga 6. 58). Lạy Chúa, Chúa là nguồn ban sự sống. Xin cho chúng con biết đặt trọn niềm tin tưởng và phó thác vào Chúa. Chúa sẽ cho chúng con bánh ban sự sống đời đời. Amen.
18. Bàn tiệc Chúa
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta đói khát nhiều thứ, và chỉ có Chúa mới thỏa mãn được tất cả cho chúng ta. Thánh lễ chính là một bữa tiệc. Trong Thánh lễ, chúng ta được lắng nghe Lời Chúa, chúng ta được ăn Mình Thánh Chúa.
Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng tham dự Bàn tiệc Chúa.
II. Gợi ý sám hối
* Chúng ta chưa thực sự tin rằng Mình Thánh Chúa là lương thực rất cần thiết cho cuộc sống chúng ta.
* Chúng ta chưa thiết tha học hỏi sự khôn ngoan trong Lời Chúa.
* Chúng ta không siêng năng dự tiệc Thánh Lễ.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Cn 9,1-6)
Cựu Ước rất quý chuộng sự Khôn ngoan, đến nỗi đã nhân cách hóa sự Khôn ngoan như một mệnh phụ hào phóng dọn một bữa tiệc thịnh soạn và kêu mời mọi người đến dự, tức là đế học hỏi sự khôn ngoan của mình.
Hình tượng về sự Khôn ngoan này sẽ được thực hiện bởi Đức Giêsu.
2. Đáp ca (Tv 33)
Thánh vịnh này quảng diễn tiếp bài đọc I về sự khôn ngoan: khôn ngoan thật là biết kính sợ Chúa.
3. Tin Mừng (Ga 6,51-58)
Tiếp tục bài giảng sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu hướng thính giả về bí tích Thánh Thể: Ngài nói rõ hơn về bánh ban sự sống, đó là Thịt và Máu Ngài: "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời".
Ở cuối đoạn tuần trước, Đức Giêsu đã nói rõ: "Bánh ta sẽ ban chính là thịt ta đây" (câu 51).
Câu đó đã khiến những người Do Thái tranh luận với nhau. Sở dĩ họ tranh luận vì trong họ có người hiểu theo nghĩa đen (ăn thịt sống của Đức Giêsu), có người hiểu theo nghĩa bóng (tin vào Ngài).
Phần Đức Giêsu, Ngài muốn hiểu theo nghĩa nào? Thưa theo nghĩa đen. Bởi đó Đức Giêsu dùng những động từ rất mạnh và cụ thể. Động từ "ăn" nguyên gốc là Trôgô nghĩa là "nhai", lấy răng mà nhai một thức ăn nào đó. Và động từ trôgô này được lặp đi lặp lại nhiều lần (các câu 53-54). Tới câu 55 Ngài tuyên bố dứt khoát "Thịt ta thật là của ăn và máu ta thật là của uống".
Như thế là Đức Giêsu nói tới bí tích Thánh thể, trong đó Ngài ban chính thịt và máu Ngài làm của ăn của uống cho loài người.
Hiệu quả của việc rước lễ: "Ai ăn thịt Ta và uống máu ta thì có sự sống đời đời... thì ở trong ta và ta ở trong kẻ ấy".
4. Bài đọc II (Êp 5,15-20)
Đoạn thư này cũng trùng hợp với hai bài đọc Cựu Ước và Tin Mừng vì cũng đề cập đến sự khôn ngoan. Thánh Phaolô khuyên tín hữu đừng sống như kẻ khờ dại, mà hãy sống như người khôn ngoan. Theo ngài, khôn ngoan là
- biết tận dụng thời buổi hiện tại
- biết tìm hiểu đâu là thánh ý Chúa
IV. Gợi ý giảng
* 1. Tấm Bánh (Ga 6,51-58)
Theo tạp chí Times, gần đây có nhiều vụ tự tử trong giới doanh nghiệp Nhật Bản. Ông Saysi, 40 tuổi mạnh khỏe, là quản lý của công ty bảo hiểm Taiho, ông có đủ điều kiện để sống hạnh phúc, an khang. Nhưng vào tháng 11-97 ông Saysi đã nhảy lầu tự vẫn vì công ty mẹ là Yematri bị phá sản. Cũng trong thời gian này, một quan chức trong Bộ tài chánh và hai viên chức khác thuộc công ty xã hội Nhật cũng kết liễu đời mình khi bị kết án có dính líu đến tham nhũng.
Theo thống kê của cục cảnh sát Nhật Bản năm 1996 có đến 23.000 người Nhật tự tử, gấp hai lần số người chết vì tai nạn giao thông. Trong đó 3025 người tự tử vì thất bại về kinh tế. Các nhà tâm lý giải thích cho những người mất việc rằng: "Thất nghiệp là chuyện bình thường trong cuộc sống. Hơn nữa, trong cuộc sống còn có một cái gì khác hơn việc làm".
***
Trong cuộc hành trình tìm về quê trời, người tín hữu Kitô còn phải tìm kiếm một điều gì khác hơn là công việc, tiền của, danh vọng và chức quyền.
Chúng ta luôn được nhắc nhở: "Sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian" (x.Ga.15,19). Đừng gắn bó với của cải chóng qua nhưng hãy tìm kiếm những giá trị trường tồn. Đó chính là Đức Giêsu Kitô. Tấm bánh được trao ban cho nhân loại: "Bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Ga.6,51).
Tấm Bánh ấy không chỉ là bí tích Thánh Thể mà còn là Tấm Bánh Lời Chúa. Hiến chế về Phụng vụ quả quyết: "Chúa Kitô hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Giáo hội" (Pv.7). Đức Giêsu vẫn trao cho ta sức sống của Người chính là Tấm Bánh Lời Chúa: "Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn nhờ mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt.4,4).
Hiến chế Tín lý Mạc khải số 21 viết: "Giáo hội luôn tôn kính Kinh Thánh như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng vụ Thánh, Giáo hội không ngừng lấy Bánh ban Sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu".
Mỗi thánh lễ là một bữa tiệc. Chúng ta được mời đến tham dự bàn tiệc Lời Chúa, trước khi cử hành bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai đều là lương thực cần thiết cho cuộc sống đời đời.
Mọi tín hữu đều biết ích lợi vô song của Bí tích Thánh thể, nhưng lại dễ dàng bỏ qua việc rước lễ, chưa kể là thiếu chuẩn bị, thiếu sốt sắng và thiếu thân tình.
Mọi tín hữu đều biết Lời Chúa là cần thiết, nhưng lại ít quan tâm suy niệm và sống Lời Chúa.
Mahatma Gandhi, vị thánh của dân tộc Ấn Độ có nói: "Tôi sẵn sàng trở thành một Kitô hữu, nếu tôi thấy những người Kitô hữu thực thi Tám mối phúc thật".
****
Lạy Đức Giêsu, xin cho Lời Chúa luôn tỏa sáng lối đường chúng con đi. Xin cho Mình Thánh Chúa là lương thực hàng ngày cho chúng con. Xin dạy chúng con cũng trở nên tấm bánh được bẻ ra cho anh chị em. Xin giúp chúng con không chỉ lắng nghe mà còn biết thực thi lời Chúa; không chỉ yêu mến, mà còn biết sống Lời Ngài; không chỉ tuyên xưng, mà còn biết thực hành đức tin. Amen.
(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 2. Chỗ trong bàn tiệc
Một thương gia giàu có kia sống chung với con trai và con dâu mình. Người con trai rất thương người nghèo, hay làm việc thiện nguyện trong những tổ chức giúp đỡ người nghèo, và cũng thường bố thí cho người nghèo. Ít lâu sau vợ chồng người con trai sinh được đứa con đầu lòng. Ông thương gia rất mừng và định tổ chức một bữa tiệc mừng rất lớn.
Người con hỏi người cha: "Cha định sắp xếp chỗ ngồi cho khách thế nào? Có phải là để những người giàu ngồi những bàn trên còn những người nghèo ngồi những bàn gần cửa không?" Người Cha xác nhận đúng như thế. Người con mới xin: "Vì đây là bữa tiệc mừng đứa con của con, nên xin Cha hãy chìu ý con mà đảo ngược lại, nghĩa là hãy đề những người nghèo ngồi bàn trên và những người giàu ngồi bàn dưới". Người Cha đáp: "Con ơi, khó mà thay đổi thế giới được. Này nhé con hãy suy nghĩ thử xem: Những người nghèo đến dự tiệc là để ăn, còn những người giàu đến đây không phải để ăn mà để được vinh dự. Vậy nếu ta xếp những người nghèo ở bàn trên thì họ phải cố gắng giữ tư thế cho đàng hoàng, không dám ăn uống tự nhiên, cho nên dù có ăn họ cũng ăn không ngon. Thà để họ ngồi các bàn dưới thì họ sẽ thoải mái hơn và muốn ăn uống thế nào và bao nhiêu tuỳ thích. Còn những người giàu đến đây thực ra không cần ăn, vì họ đã ăn uống đầy đủ ở nhà rồi. Xếp họ ngồi các bàn dưới thì họ sẽ buồn; cho nên xếp họ ngồi bàn trên thì hợp ý họ hơn".
Nghe người cha giải thích như vậy, người con thấy hợp lý và không nài nỉ nữa.
Câu chuyện trên không có ý dạy ta coi trọng người giàu và coi nhẹ người nghèo, nhưng muốn giúp ta so sánh với Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là một bàn tiệc. Nhưng bàn tiệc này khác với những bàn tiệc của loài người ở chỗ là mọi người đều được mời, bất kể họ giàu hay nghèo. Những chỗ ngồi trong bàn tiệc Thánh Thể cũng bình đẳng như nhau, không ai cao mà cũng không ai thấp. Tất cả chúng ta đến dự tiệc Thánh Thể đều là những người nghèo về mặt thiêng liêng, cho nên đến đây tất cả chúng ta đều được ăn uống no nê. Chẳng những thế tất cả chúng ta còn được vinh dự vì được tham dự bàn tiệc của Thiên Chúa. Và hơn nữa những người cùng tham dự bàn tiệc Chúa sẽ liên kết với nhau bằng sợi dây tình nghĩa, vì cùng chia xẻ một thức ăn và một tình yêu của Đức Giêsu Kitô. (Viết theo Flor McCarthy)
3. Chuyện minh họa
Mẹ Têrêxa Calcutta có một quy luật là khi một thiếu nữ nào đến xin nhập Dòng thì ngay ngày hôm sau sẽ được gửi tới Nhà Lâm Chung (nơi chăm sóc những người sắp chết).
Một hôm, có một thiếu nữ đến xin nhập Dòng. Theo thông lệ, Mẹ Têrêxa gửi chị này đến Nhà Lâm Chung. Mẹ căn dặn: "Con đã thấy các linh mục chạm đến Mình Thánh Chúa một cách cung kính và trìu mến thế nào. Bây giờ con hãy đến Nhà Lâm Chung và cũng hãy làm như thế, bởi vì Đức Giêsu trong Mình Thánh Chúa cũng là một với Đức Giêsu đang ở trong những người khốn khổ ấy".
Ba giờ sau, thiếu nữ trở về với một nụ cười rạng rỡ trên mặt. Cô trình với Mẹ Têrêxa: "Thưa Mẹ, con đã được chạm đến Mình Thánh Chúa suốt 3 giờ đồng hồ". "Sao? Con đã làm gì?" Mẹ Têrêxa hỏi. Cô đáp: "Khi con đến đấy thì người ta cũng vừa mang đến một ông bị rơi vào một cái cống và phải nằm trong đó một thời gian. Mình mẩy ông rất dơ bẩn và rất nhiều thương tích. Con đã rửa cho ông và lau các vết thương của ông. Đang lúc con làm thế, con biết là con đang chạm chính Mình Thánh Đức Kitô".
* 4. Lương thực thần linh
"Có thực mới vực được đạo." Câu nói đó chắc chắn không áp dụng với người giáo dân tên là Têrêxa Niu Man, là người đã trải qua 36 năm trời không ăn uống gì mà vẫn sống và giữ đạo sốt sắng. Têrêxa sinh ngày 8 tháng 4, 1898, trong một gia đình Công Giáo ngoan đạo miền Bắc Baveria của nước Đức. Người dân trong làng Cổ Môn Trường gồm gần 1,000 người, hầu hết sống bằng nghề nông. Gia đình của Têrêxa rất nghèo như phần đông các gia đình trong làng. Học xong tiểu học, Têrêxa 14 tuổi và em là Maria 13 tuổi, đi làm thuê cho những điền chủ ở các làng lân cận để có tiền giúp đỡ cha mẹ. Công việc nặng nhọc nhưng Têrêxa không ngại vì bản tính vốn ưa thích việc đồng ruộng và chăm sóc súc vật. Giống như mấy em gái của nàng, Têrêxa cũng có những chàng trai để ý ngắm nghía, nhưng nàng đã có mơ ước riêng. Từ nhỏ nàng đã mơ ước là một nữ tu truyền giáo ở Phi Châu và đã nhiều lần liên lạc với các tu sĩ truyền giáo Dòng Biển Đức. Nhưng Thiên Chúa đã an bài một hướng truyền giáo khác cho Têrêxa.
Ngày 13 tháng 11, 1925, Têrêxa bị đau ruột dư dữ dội, cơn sốt cao khủng khiếp. Bác sĩ chăm sóc cho nàng đề nghị một cuộc giải phẫu tức khắc tại một bệnh viện gần đó. Mẹ nàng khóc hết nước mắt. Cha sở Ngô Biên (Nobert) có mặt. Têrêxa xin cha Biên đặt thánh tích của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu lên chỗ đau và chính nàng cầu xin: "Lạy thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, chỉ có Ngài mới có thể chữa con lành bệnh, Ngài đã chữa lành con nhiều lần rồi. Con không xin Ngài vì con nhưng vì mẹ con."
Đáp lại thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã cho nàng lập tức khỏi bệnh. Cùng với mẹ nàng đến nhà thờ tạ ơn Chúa trước sự ngỡ ngàng của mọi người có mặt. Nhưng trước đó thánh nhân đã nói cho Têrêxa Niu Man biết rằng: Sự tuân phục và vui tươi chấp nhận đau khổ của con làm ta rất hài lòng. Để mọi người nhận thức đây là một biến cố phi thường, con sẽ không cần phải trải qua cuộc giải phẫu và hãy mau mau tạ ơn Chúa. Con sẽ phải chịu đau khổ nhiều hơn nữa, nhưng đừng sợ điều gì, cả những đau khổ trong nội tâm. Chỉ có cách này con mới cứu được các linh hồn. Con phải từ bỏ mình nhiều hơn, nhưng hãy luôn sống trong sạch, đơn sơ như hiện nay.
Quả thật, không đầy bốn tháng sau, Têrêxa cảm thấy mệt mỏi phải nằm giường cả hơn tháng trời cho tới lễ Phục Sinh. Đêm thứ năm ngày 4 tháng 3 khi nằm nghỉ trên giường, nàng chợt thấy trong một thị kiến, Đức Giêsu đang quì cầu nguyện ở vườn cây dầu và thấy các môn đệ đang ngủ. Nàng cảm thấy dấy lên nơi tâm hồn niềm thương cảm vô biên đối với Đấng Cứu Chuộc. Cùng lúc Đức Giêsu nhìn chằm chặp vào nàng. Nàng cảm thấy đau đớn tột độ ở gần nơi trái tim đến nỗi có thể chết được. Khi tỉnh lại, Têrêxa thấy ở cạnh sườn bên trái của nàng một vết thương, máu rỉ ra cho đến ngày hôm sau. Nàng băng vết thương lại để mọi người không thấy và nói với em gái ở chung phòng với nàng là nàng bị phỏng.
Một tuần lễ sau cũng vào giờ đó Têrêxa lại thấy Đức Giêsu trong vườn cây dầu, và sau đó cảnh Ngài bị đánh bằng roi. Tuần lễ sau nữa, nàng chứng kiến cảnh Chúa đội mão gai. Mỗi lần như thế, vết thương cạnh sườn nàng chảy máu chan hoà đến ngày hôm sau. Ngày thứ sáu 26 tháng 3, Têrêxa thấy Chúa vác thánh giá và té ngã dưới sức nặng. Khi tỉnh lại nàng thấy một vết thương hiện lên nơi bàn tay trái của nàng, không cách chi che giấu được. Khi mẹ nàng hỏi tại sao bị thương như thế, Têrêxa trả lời rằng vết thương ấy đã xuất hiện cách tự nhiên. Trong đêm thứ năm tuần thánh, tức ngày 1 tháng 4, lần đầu tiên Têrêxa được mục kích trọn đường thánh giá từ vườn cây dầu tới đỉnh núi Sọ và cái chết của Chúa trên thập giá.
Sau đó những vết thương khác xuất hiện thêm trên tay mặt và hai chân của nàng. Cha sở Ngô Biên được mời đến. Cha vội đến nói với một linh mục khác và cha đã ghi như sau trong nhật ký của cha: " Têrêxa nằm đó như một vị tử đạo, cặp mắt nàng đầy máu và hai giọt máu chảy xuống má nàng. Gương mặt nàng nhợt nhạt như một người chết. Đến 3 giờ chiều, giờ chết của Đấng Cứu Chuộc, nàng phải chịu những cơn đau khủng khiếp đến chết đi được. Sau đó, nàng trở nên yên lặng hoàn toàn. Cha sở bị đánh động mạnh trước biến cố. Các dấu thánh ấy đồng thời khiến cha mẹ và cả gia đình của Têrêxa sầu khổ tột độ.
Ngày 4 tháng 4 là Chúa Nhật Phục Sinh, Têrêxa được thấy Đấng Cứu Chuộc Phục Sinh. Nàng cảm thấy khoẻ khoắn trong người để có thể ra khỏi giường.
Ban đầu gia đình Têrêxa nghi ngờ về những dấu lạ này nên cố gắng chữa trị cho Têrêxa. Nhưng càng chạy chữa, xức thuốc và băng bó, những vết thương ấy càng lở loét và gây thêm đau nhức. Têrêxa lấy làm lạ về hiện tượng đó nên thỉnh ý thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu và được Ngài cho biết là không nên chữa trị những vết thương đó. Chúng không làm độc và chỉ mở ra mỗi thứ sáu.
Tháng 11 cùng năm đó, giữa hai ngày 18 và 19, tức thứ năm và thứ sáu, trong khi Têrêxa nhận được thị kiến về Đức Giêsu chịu đội mão gai, người ta thấy xuất hiện 3 vết máu trên chiếc khăn màu trắng nàng đội trên đầu. Khi cất khăn đi người ta thấy đầu nàng ướt sũng máu và rất đau đớn. Tuần kế tiếp có 8 vết máu trên đầu nàng. Những vết ấy sẽ ở mãi trên đầu nàng.
Từ lễ Giáng Sinh 1926, Têrêxa kinh nghiệm một sự thay đổi đột ngột là ngưng hẳn việc ăn uống. Hằng ngày sau khi rước lễ nàng chỉ dùng vài giọt nước để giúp nàng nuốt trôi Mình Thánh Chúa. Nhưng cha sở Ngô Biên chứng thực rằng sau tháng 9, 1927, nàng không cần những giọt nước này nữa.
Từ đó trở đi, trong 36 năm liền, Têrêxa sống mà không cần ăn uống gì cả. Mình Thánh Chúa là thức ăn duy nhất của nàng. Cha Ngô Biên, người đã cho Têrêxa rước lễ mỗi ngày cho đến khi nàng chết, đã ghi trong nhật ký của ngài rằng Têrêxa thường nói với mọi người là nàng sống nhờ vào Đấng Cứu Chuộc. Và cha còn thêm rằng nơi Têrêxa thực đã ứng nghiệm lời tuyên bố của Đức Giêsu khi nói: "Thịt Ta thật là của ăn. Máu Ta thật là của uống."
Câu chuyện vừa kể minh họa lời Đức Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay là "Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy" (c.56). Câu chuyện cho thấy Chúa ở lại một cách lạ lùng: (1) Chúa ở lại và tỏ lộ quyền năng của Người nơi một giáo dân chỉ cần chịu lễ mà thôi# không cần ăn uống gì khác trong suốt thời gian 36 năm, mà vẫn mạnh khỏe! (2) Chúa còn ở lại và cho người ấy dự phần vào cuộc thương khó của Chúa cả nơi thân xác lẫn nơi nội tâm người đó. (3) Mục tiêu nhắm tới là: "Con đừng sợ đau khổ, kể cả đau khổ nội tâm. Chỉ có cách đó, con mới cứu được các linh hồn. Con phải từ bỏ mình nhiều hơn, phải luôn sống trong sạch và đơn sơ như hiện nay" - mục tiêu ấy được tiết lộ qua trung gian thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu trong một thị kiến.
Nhân vật trong câu chuyện có thực, vì ta biết rõ lý lịch. Sự kiện mà người đó chịu lễ và không ăn uống gì khác suốt 36 năm, cũng như sự kiện về năm dấu thánh nơi thân xác người đó với những đau đớn người đó phải chịu các ngày thứ sáu, những hiện tượng đó đã được kiểm chứng đầy đủ do các bác sĩ có thẩm quyền của Toà Thánh và của giáo phận Ratisbon của Đức Quốc. Đồng thời, vụ án phong chân phước cho bà Têrêxa Niu Man đang được xúc tiến.
Chẳng ai buộc người Kitô phải tin vào ơn mạc khải riêng bao giờ. Nhưng mọi Kitô hữu đều phải bén nhạy đối với những việc Chúa làm nơi thọ tạo. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã nói: "Tôi là bánh từ Trời xuống, bánh Tôi sẽ ban tặng chính là thịt và máu Tôi. Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được sống muôn đời". Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
1. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các giáo sĩ, tu sĩ các giáo dân trong Hội thánh / biết sốt sắng tham dự thánh lễ và siêng năng Rửa tội / để luôn sống hiệp thông với Đức Giêsu và với nhau.
3. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các dân tộc / được ơn khôn ngoan sáng suốt để chọn đường lối tốt đẹp nhất mà phục vụ cho đồng bào mình.
2. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người chưa biết Đức Giêsu Kitô / được sớm nhận ra Người chính là Đường, là sự Thật và là Sự Sống của mọi người.
4. Chúng ta hãy cầu nguyện cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng ta / ngày càng hiểu biết hơn tầm quan trọng của bí tích thánh thể trong cuộc sống hằng ngày của mỗi Kitô hữu.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, xin cho mỗi người chúng con hiểu biết rằng, chỉ nhờ sức sống của Chúa ban cho trong bí tích Thánh Thể, chúng con mới có thể sống yêu thương và phục vụ tốt cho gia đình và xã hội. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước lúc rước lễ: Chúng ta hãy nhớ lại lời Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng: "Đây là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời"
VII. Giải tán
Chúng ta tạ ơn Chúa đã cho chúng ta tham dự Thánh lễ này, vì nhờ đó chúng ta được nghe những Lời khôn ngoan của Chúa và được rước lấy Mình Thánh Ngài. Ước gì Lời Chúa và Mình Chúa giúp chúng ta sống thật tốt suốt tuần này.
19. Thứ bánh không thể thiếu
(Suy niệm của Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Mãi mãi là chia sẻ
Trong bài Tin Mừng Chúa nhật này, thánh Gioan kết thúc phần suy niệm diễn từ bánh trường sinh. Sẽ thật là uổng công khi muốn tách rời điều Đức Giêsu muốn nói và điều tác giả muốn hiểu - một suy tư ở cuối một kinh nghiệm dài về đời sống Hội Thánh. Toàn bộ diễn từ, đặc biệt phần kết luận, trình bày những suy tư của thánh Gioan về mặc khải Đức Giêsu nói về chính Người qua Lời giảng và thập giá. Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống và ở mãi với con người. Thịt Máu Người là quà tặng cho nhân loại được sống, là lương thực đưa đến vĩnh cửu và là bảo đảm cho sự phục sinh.
Kết luận của diễn từ cũng chỉ là nhấn mạnh đến thực tại tính của bí tích Thánh Thể. Điều này đã được hàm ẩn ở phần trên, còn ở đây được nói đến trực tiếp: những điều Đức Giêsu nói trong diễn từ rất gần với trình thuật Tiệc Ly. Chính vì thế, tác giả Tin Mừng thứ tư không thuật lại chuyện Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly; tác giả chỉ đưa ra những suy niệm rất phong phú sau trình thuật hoá bánh ra nhiều.
Quả thế, trong suốt lịch sử Dân Thiên Chúa, việc chia sẻ thực sự của ăn vật chất vẫn là điều thường được nhắc đến để rồi bí tích Thánh Thể do Đức Giêsu thành lập chính là cao điểm. Bí tích Thánh Thể loan báo sự hoàn tất của điều chỉ mới phác thảo trong của ăn vật chất. Do đó, bí tích Thánh Thể buộc con người phải suy nghĩ về cách thức phân phối của ăn trong thế giới hiện nay.
Biết bao lần con người đã làm cho dấu chỉ này mất đi nền tảng thực sự của mình. Người tín hữu vẫn mong muốn thế giới đến lãnh nhận bánh này, nhưng lại xao lãng thi hành điều Thiên Chúa muốn và chính Đức Giêsu đã mở đầu. Đó là trao tặng của ăn đích thực cho tất cả mọi người.
Trách nhiệm này không chỉ liên hệ đến gia đình hay những nhóm nhỏ, nhưng trở thành một vấn đề có tầm mức quốc tế, liên hệ đến cả lãnh vực kinh tế, chính trị. Điều này làm cho con người sợ! Con người cảm thấy dễ dàng khi phải chấp nhận một số ít của cải hơn là phải chia sẻ những gì mình đang có, những lợi lộc mình kiếm được, những kỹ thuật tiên tiến hay kiến thức của mình. Họ sợ rằng những người được họ trao tặng những thứ đó mai này sẽ trở thành những đối thủ của họ trên thị trường cạnh tranh, tức là về công việc làm và về bánh ăn!
Nếu những ý tưởng đó thực sự là suy nghĩ của nhiều người thì tại sao họ lại ngạc nhiên khi thánh lễ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu đối với nhiều Ki-tô hữu, và lại càng chẳng có ý nghĩa gì đối với những người không tin?
Chia sẻ! Một đòi hỏi cần thiết trong mọi thời đại, vì đó chính là trao tặng "thịt làm của ăn". Điều này chỉ có một mình Đức Giêsu thực hiện đến cùng.
Cuộc trao đổi kỳ diệu
Trao tặng cuộc sống: thành ngữ này làm người ta nghĩ ngay đến hành động anh hùng của người băng mình cứu người bị nạn, hay của người chiến binh liều mạng vì lợi ích của đồng đội. Thành ngữ này cũng làm người ta nghĩ đến các bậc cha mẹ, những nhà giáo dục, có thể cả những nhà chính trị thực sự hy sinh vì lợi ích chung.
Trao tặng cuộc sống, đó là hy sinh cuộc sống riêng mình vì các con, vì người thân cận, vì người đồng hương. Tất cả thời giờ để phục vụ người khác đều có ý nghĩa là cuộc sống được sử dụng, được tiêu dùng.
Thế nhưng, có thực tại nào của nhân loại diễn tả đầy đủ nhất về sự trao tặng này hơn là bữa ăn. Khi bữa ăn chia sẻ diễn ra trong một cộng đoàn yêu thương nhau, thì nó không chỉ là cung cấp của ăn vật chất, bởi vì người dọn bữa ăn cũng như người tham dự đã trao tặng một phần thời gian dành để kiếm sống. Trong bữa ăn như thế, người ta trao tặng phần thời gian đã qua cũng như khoảng thời gian hiện tại để cho người khác được sống và sống vui tươi.
Đó là một thực tại tinh thần mà người ta ít quan tâm. Thật là dễ dàng biết bao khi chỉ nhìn sự vật theo dáng vẻ bên ngoài, và đánh giá bữa ăn theo chất lượng của thức ăn để rồi không nhận ra rằng chỉ một mẩu bánh nhỏ thôi, nhưng do chính người đang đói trao tặng với lòng yêu thương thì có giá trị hơn hẳn bữa tiệc huy hoàng nhất.
Ai hiểu được thực tại này cũng sẽ hiểu được thực tại vô cùng sâu xa do Đức Giêsu loan báo: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống... Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời." Đấng đưa ra lời mời này chính là nguồn mạch tình yêu. Dòng sống Người muốn đưa nhân loại vào khi trao tặng chính Người cho họ, đó là Thiên Chúa.
Ai tin tưởng và mở ra trước lời mời của Đức Giêsu, ai tin tưởng và lãnh nhận tấm bánh do Thiên Chúa ban, thì sự sống đích thực sẽ phát triển nơi người ấy, bởi vì qua tấm bánh, họ lãnh nhận chính con người và sự sống của Đức Giêsu. Như vậy, khi lãnh nhận thịt và máu Đức Giêsu, người tín hữu bước vào mối tương quan thân mật hoàn toàn mới. Họ tham dự vào mối hiệp thông thần linh và vĩnh cửu giữa Cha và Con, đồng thời lãnh nhận bảo chứng sẽ được phục sinh vào ngày cuối cùng.
Một mẩu bánh, đó là tất cả những gì Đức Giêsu để lại cho con người kèm theo một lời mời. Ai ăn tấm bánh đó thì được đồng hoá với Đức Giêsu, trở nên thiêng liêng và được mời gọi trao tặng không giới hạn. Liệu con người còn có thể hy vọng có một chứng tá tình yêu nào lớn lao hơn là cuộc trao đổi kỳ diệu này?
Hiệu quả tinh thần
Từ những lời của Đức Giêsu, ta có thể nhận ra ba hiệu quả của bí tích Thánh Thể.
* Sự sống đời đời và sự sống lại
Thánh Thể làm cho ta được hiệp thông với Đức Giêsu Phục Sinh, đang ngự bên hữu Chúa Cha. Thân xác sống động ấy trở thành một hạt giống của sự sống vĩnh cửu được gieo vào trong chúng ta. Nhờ đó, ngay tại trần gian này, chúng ta đã bắt đầu tham dự vào hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
* Đức Ki-tô ở lại trong người Ki-tô hữu
Thánh Gioan thường nhắc đi nhắc lại từ ngữ ở lại. Ơn gọi của tất cả chúng ta là được "ở lại với Thiên Chúa, trong Thiên Chúa". Ngược lại, Thiên Chúa vẫn luôn mong muốn ở lại với nhân loại. Lịch sử cứu độ không có gì khác hơn câu chuyện Thiên Chúa đến ở với con người và làm cho con người được ở với Thiên Chúa.
* Sống nhờ Chúa Cha
Qua cách dùng từ ngữ của thánh Gioan, chúng ta có thể hiểu rằng Đức Giêsu sống qua Chúa Cha, nhờ Chúa Cha và vì Chúa Cha. Thật ra, Đức Giêsu không ngừng bày tỏ điều này trong suốt cuộc đời của Người. Bất cứ hành động hay lời nói nào của Người cũng đều phát xuất từ Chúa Cha và vì tình yêu mến đối với Chúa Cha. Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta đi vào mối tương giao ấy qua việc đón nhận chính thân thể của Người.
"Chúng con ăn thân xác chí thánh của Chúa,
thân xác đã chịu đóng đinh vì chúng con.
Chúng con uống máu thánh của Chúa
đã đổ ra để giải thoát chúng con.
Ước mong thân xác của Chúa,
nên ơn cứu độ cho chúng con!
Ước chi máu thánh của Chúa,
trở thành ơn tha thứ mọi tội lỗi chúng con."
(theo Phụng Vụ Pháp)
20. Thân Thể
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Cơ thể con người được Thiên Chúa tạo dựng và phần nào cũng có chức năng riêng của nó, phần nào cũng quan trọng, phần nào cũng cần thiết. Ảnh hưởng bởi phong tục, tập quán, xã hội chia thân thể con người ra nhiều phần khác nhau. Bởi có chia thành từng phần nên việc thích phần cơ thể này nhiều hơn phần cơ thể kia là điều không thể tránh. Người ta nói đến khuôn mặt dễ thương, sóng mũi cao đẹp, đôi mắt tinh anh, miệng cười dí dỏm. Bởi thích hơn nên chăm sóc phần đó nhiều hơn và lơ là chăm sóc phần khác. Từ tư tưởng chăm sóc thiên vị kia dẫn đến việc ca ngợi phần cơ thể này và dùng phần không ưa kia tặng người mình không ưa kèm theo lời thậm tệ, chửi rủa, hạ nhục kẻ khác. Chửi rủa thường gắn liền với một phần nào đó của thân thể và phần đó thường được che kín, bởi giận nên bới tung phần che kín xả cơn bực dọc, khó chịu. Những câu nói đó dù nói riêng tư hay nói nơi công cộng đều khó nghe cả nhưng dường như hầu hết mọi người ít nhiều dùng những câu nói đó mà chúng ta gọi là chửi thề. Chửi thề là cách diễn tả cảm xúc của con người và diễn tả cảm xúc buồn vui, tức giận là điều cần thiết và người bình thường nào cũng cần đến. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào cách diễn tả tình cảm của ta để người khác biết về cá tính và tư cách của người đó. Tư cách con người biểu lộ rõ ràng nhất khi người đó nóng giận, bực dọc bởi chính lúc đó là lúc sống thực với mình nhất. Sống thực bởi không kiềm chế được sự bực dọc.
Đức Kitô cũng dùng chính thân thể của Ngài để diễn tả không phải tình cảm suông mà Ngài dùng toàn thể con người Ngài để nói lên tình yêu tuyệt vời dành cho những ai Ngài yêu mến. Ngài hứa ban thịt và máu Ngài làm của ăn cho mọi người. Cách diễn tả mạnh bạo, mãnh liệt đến độ khi nghe đến người ta giật nảy mình, không tin vào điều tai vừa nghe.
Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Gn 6, 53-56.
Có rất nhiều trường hợp Đức Kitô biểu lộ rõ ràng tâm tình của Ngài nhưng chưa lần nào Ngài biểu lộ cách rõ ràng, tỏ tường như lần Ngài dùng chính thịt và máu mình làm của nuôi tâm hồn con người. Đây không phải là diễn tả tình cảm riêng tư mà chính là ngôn ngữ diễn tả hành động vì yêu thương nên dâng hiến. Cho đi thịt và máu là cho đi tất cả thể xác lẫn tâm hồn, không giữ lại bất cứ chút nào mà là cho toàn vẹn. Ngôn ngữ nghe có vẻ chói tai cho những ai không tin vào Đức Kitô hay cho những ai đức tin yếu kém. Đức Kitô dùng ngôn ngữ hiến cho trọn vẹn để diễn tả tình yêu thiết tha, chân thành hết mực cho người mình yêu. Ngôn ngữ hy sinh trọn vẹn không thuần về tâm tình mà tiến xa hơn tâm tình đến hy sinh, hiến tặng vô điều kiện để nói lên mối tình tuyệt vời, không còn cấp bậc tình yêu nào cao hơn là chết vô điều kiện cho người mình yêu.
Khi hiến tặng toàn thể con người cho nhân loại Đức Kitô mời gọi chúng ta liên kết với Ngài qua việc bẻ bánh, qua việc đón nhận tình yêu Chúa vào trong tâm hồn một cách sốt sắng, mến yêu đáp lại tình Chúa yêu thương. Việc đón nhận Đức Kitô vào trong tâm hồn là liên kết sống trong Chúa. Chúa sống trong ta và ta sống trong Chúa. Thánh Phaolô diễn tả tình yêu liên kết là một bảo vệ, che chở tuyệt vời: khi Chúa ở cùng tôi, tôi còn sợ ai vì Thánh Thần Chúa giải thoát tôi (Rm. 8,31)
Liên kết với Đức Kitô, tội lỗi và sự chết không còn làm chủ được ta nữa vì có Chúa ở cùng. Đấng chiến thắng sự chết. Sự sống trường sinh Chúa ban không bao giờ tàn lụi bởi sự sống đó đến từ Thiên Chúa hằng sống. Vì thế chúng ta cầu xin mỗi lần đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa chúng ta cảm nhận được sự sống Phục Sinh của Ngài trong ta.
21. Bánh Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Sách Xuất Hành chương thứ ba kể chuyện Môisen nhìn thấy bụi cây bốc cháy nhưng bụi cây không tàn héo, vẫn xanh tươi. Thấy sự lạ Môisen tò mò dò bước tới xem. Gần đến nơi nghe tiếng phán, bỏ dép ra vì nơi ngươi đang đến là nơi thánh. Môisen hỏi thưa Ngài, Ngài là ai. Có tiếng đáp. Ta là Đấng Tự Hữu, Thiên Chúa của tổ tiên các ngươi, là Thiên Chúa hằng có đời đời.
Tin để hiểu
Gặp gỡ Thiên Chúa, Môisen không hiểu ý nghĩa thâm sâu của câu nói dù đã nghe rõ từng chữ trong câu. Qua cuộc đối thoại đó Môisen học biết đức tin không phải để hiểu mà để tin. Môisen tin mà không hiểu. Qua niềm tin chân thành, Thiên Chúa dùng Môisen như khí cụ, thủ lãnh giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ Pharaôn.
Tin thì quan trọng và có ích hơn hiểu. Tin là bước đầu giúp tìm hiểu, học hỏi nhận biết thêm về Thiên Chúa. Hiểu rồi mới tin là điều không thể xảy ra vì điều kiện tiên quyết, căn bản là đức tin.
Đức Tin vô cùng quan trọng. Tin là bước nền tảng, căn bản dẫn đến hiểu biết qua cầu nguyện, thành tâm học hỏi. Thiếu bước nền tảng này không thể bước đúng bước kế tiếp. Bước đầu tiên đã sai. Bước thứ hai tiếp tục sai. Càng bước càng sai.
Sức mạnh niềm tin
Tin vào Thiên Chúa đã không thiệt thòi gì còn được hưởng ân huệ Chúa ban. Ơn được làm con cái Chúa, ơn được gọi Chúa là Cha. Ơn trợ giúp khi gặp nguy khó. Ơn là anh chị em trong đại gia đình Chúa. Ơn trở thành phần tử của thân thể Đức Kitô, Ngài là đầu, chúng ta là chi thể. Những ơn này không lộ rõ ra bề ngoài nhưng mang lại hạnh phúc thật cho tâm hồn. Lúc bình thường, thuận buồm xuôi gió, sức mạnh đức tin tiềm ẩn, bàng bạc trong cuộc sống, vô ý không nhận biết. Khi gian nan, lúc khốn khó, sức mạnh đức tin xuất hiện, giúp mang an bình nội tâm. Trong gian truân đức tin mạnh tựa núi đá, thành trì vững chắc bảo vệ, giúp vượt qua phong ba, bão tố. Vì thế kẻ có đức tin thất bại chẳng nản lòng. Buồn khổ, lo lắng, vẫn một lòng phó thác. Khi tù đày vẫn cảm thấy Chúa gần bên.
Ân huệ ngàn trùng
Gần ngàn năm sau Đức Kitô xuống thế làm rõ nghĩa câu tổ phụ Môisen thắc mắc và suy gẫm trong lòng. Đức Kitô mặc khải Đấng Tự Hữu không phải là ai khác mà chính là Cha Ngài. Mặc khải này cho biết:
Đức Kitô đến từ Chúa Cha, Đấng Tự Hữu.
Đức Kitô là Đấng hằng sống.
Đức Kitô là Đấng ban bánh hằng sống.
Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời vì được phúc trường sinh. Sức riêng ta không kiếm được bánh trường sinh. Nhờ tin, ăn bánh mà được kết hợp với Đấng hằng sống. Bánh đó chính là tình yêu Chúa ban cho nhân loại. Để diễn tả tình Chúa bao la Đức Kitô dùng Thịt và Máu Người làm của ăn trường sinh.
‘Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời’ c.58
Khôn ngoan tự trời
Bánh Hằng Sống là Bánh Từ Trời ban xuống vì thế không thể dùng khôn ngoan trần thế nhận Bánh Từ Trời. Muốn nhận được cần lòng tin và khiêm nhường. Những gì thuộc về trời chỉ có thể giải thích bởi khôn ngoan nước trời. Khôn ngoan trần thế không thấy sự khác biệt giữa bánh trần thế và Bánh Bởi Trời. Chỉ những ai khiêm nhu nhận ơn Chúa, với lòng tin mới nhận ra Bánh Trường Sinh đến từ trời.
Muốn nhận khôn ngoan nước trời, phải sống khiêm nhường. Bước đầu của khiêm nhường là chấp nhận con người giới hạn cả tài, trí lẫn đức. Để vượt qua giới hạn, cần siêng năng luyện tập các nhân đức. Chính việc thao luyện giúp trưởng thành về mọi mặt. Cách thao luyện đòi hỏi thành tâm, khiêm nhường. Tuổi đời và trưởng thành nhân đức không đi song hành. Càng siêng luyện tập càng sớm trưởng thành. Thiếu luyện tập nhân đức bị còi, đẹt, thu hẹp thể hiện qua tính tình bủn xỉn, nhỏ mọn, dễ giận, mau cáu, nhanh tự ái và ưa thù vặt.
Tài trí và đức, cần thao luyện chung với nhau mới mong có cuộc sống quân bình. Có tài trí mà thiếu đức dễ gây hoạ cho đời. Họa nhỏ thành đại hoạ do lãnh đạo quân phiệt, độc tài, vô đạo và vô thần. Giầu đức độ mà thiếu tài trí dễ bị kẻ khéo ăn nói, giỏi nịnh nọt, lợi dụng, làm xiêu lòng, rơi vào cạm bẫy kẻ tà tâm.
Liên kết
Nhờ ơn khôn ngoan mà nhận biết Bánh Trường Sinh không những đã nuôi sống, ban sức sống mà còn nối kết với Đấng hằng Sống. Chính sự nối kết này là nguồn sinh lực ban sức sống trường sinh cho những tâm hồn liên kết với Ngài. Hình ảnh cây nho liền cành dẫn đưa ta đến hình ảnh tình yêu sống động Đức Kitô thực hiện cho dân Ngài.
Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy c.57.
Đây chính là hình ảnh của hôn ước nước trời. Ai ăn thịt và uống máu Đức Kitô là liên kết với Ngài được tham dự tiệc cưới nước trời.
22. Tôi Là Bánh Hằng Sống – Lm. GB. Văn Hào
Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục (Presbiterorum Ordinis) đã viết: “ Mọi bí tích của Giáo hội đều quy nguồn về Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa mọi kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, là nhiệm thể Đức Kitô. Không có Thánh Thể, không có đời sống cầu nguyện và cũng không có việc rao giảng Tin mừng” (số 8). Lời khẳng quyết của Hội thánh nêu bật nền tảng thiết yếu của bí tích Thánh Thể trong đời sống Đức tin của mọi Kitô hữu.
Suốt bốn tuần qua, chúng ta đã suy gẫm bài diễn từ về “Bánh” trong chương 6 của tin mừng thánh Gioan. Chúa nhật hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta một lần nữa lắng đọng tâm hồn để tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu nơi bàn tiệc thánh. Đó là bàn tiệc yêu thương, bàn tiệc đức tin và cũng là bàn tiệc diễn bày sự hiệp thông huynh đệ.
Bàn tiệc tình yêu.
Thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm” (Ga 1,14). Thân xác Đức Giêsu sau khi sống lại đã đi vào trong vinh quang với Chúa Cha, nhưng thân xác thánh thiêng ấy vẫn còn hiện diện cách nhiệm mầu nơi bí tích Thánh Thể. Đó là sự hiện diện của tình yêu. “Thiên Chúa vui thích ở giữa dân Ngài”. Ngài đã đến cắm lều giữa chúng ta, dọn sẵn cho chúng ta bữa tiệc để tỏ hiện tình yêu nhưng không của Ngài. Đây cũng chính là bữa tiệc mà sách Khôn ngoan nhắc tới trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay. Thực đơn của bàn tiệc này chỉ có một món duy nhất, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu, là lương thực được hiến trao, như chính Đức Giêsu đã khẳng định trong bài Tin mừng: “ Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Không có từ ngữ nào lột tả được cách trọn vẹn mầu nhiệm tình yêu sâu xa này. Chính Đức Giêsu đã khải thị cho các học trò trong bữa tiệc ly trước khi Ngài đi thụ nạn: “ Không ai có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của người hiến ban mạng sống mình cho bạn hữu”.
Muốn ngồi vào bàn tiệc tình yêu này, chúng ta phải loại bỏ khỏi mình những gì thuộc ác quỷ, đối kháng với tình yêu mà Thiên Chúa diễn bày. Thánh Augustinô đã nói: “Bánh mì nuôi sống con người, nhưng sẽ giết chết chim diều hâu”. Bao tử con người thích hợp với bánh mì nhưng khi diều hâu ăn vào, bánh mì sẽ trương nở, nó bị ngạt thở và sẽ chết. Bàn tiệc tình yêu sẽ không có chỗ để những con người ác tâm với một trái tim diều hâu ngồi vào. Diều hâu chuyên rúc rỉa xác chết, là một hình tượng ám chỉ những hôi thối và bẩn thỉu của tội lỗi. Ngồi vào bàn tiệc thánh, chúng ta cần phải tinh luyện tâm hồn, loại bỏ đi những gian dối lọc lừa, những hận thù ghét ghen, những tham lam bất chính. Chúa nói “Tôi là Bánh trường sinh”, bánh đem lại sự sống cho những người ngay lành nhưng sẽ giết chết những tâm hồn diều hâu đầy gian ác.
Bàn tiệc đức tin.
Mỗi khi chầu Thánh Thể, chúng ta mượn lại những vần thơ thánh của thánh Tôma Aquinô để hát lên: “ Đây nhiệm tích vô cùng cao quý. Nếu giác quan không cảm nhận ra, chúng ta hãy lấy đức tin bù lại”. Đức tin là điều kiện tiên quyết để dẫn đưa chúng ta đến bàn tiệc. Chúa Giêsu đã nói: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi sẽ sống muôn đời” (Ga 6,54). Khi đàm đạo với Nicôđêmô, Đức Giêsu cũng đã khải thị: “Ai tin vào con của Người, sẽ được trường sinh” (Ga 3,15-16). Đây là hai cách diễn tả của một thực tại duy nhất: Ăn bánh trường sinh và tin vào Thiên Chúa. Bàn tiệc Thánh Thể chính là bàn tiệc của đức tin. Rất nhiều lần chúng ta đến nhà thờ tham dự thánh lễ nhưng thiếu hẳn cảm thức đức tin cần phải có. Nhiều người coi việc dự lễ mỗi tuần một lần vào Chúa nhật như một bổn phận phải làm để lương tâm được yên ổn, hay để người khác khỏi dị nghị. Thái độ đức tin là điều kiện tất yếu cần phải thể hiện, vì nếu không phát xuất từ đức tin, việc đi lễ cách máy móc sẽ trở nên vô nghĩa và phí phạm thì giờ cách vô ích.
Tin không phải là một động thái mang tính suy lý, nhưng trước hết đây là tác động của ơn sủng. Vì thế trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội luôn nhắc nhở “ Đây là mầu nhiệm đức tin”. Qua lăng kính đức tin chúng ta mới có thể khám phá nguồn sống vô tận từ Bánh Hằng Sống. Chỉ với đức tin soi dẫn, chúng ta mới có thể tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu linh thánh được diễn bày nơi bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta được mời tới tham dự.
Bàn tiệc hiệp thông.
Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong khung cảnh một bữa ăn. Bữa ăn là dịp để quy tụ, gắn kết mối hiệp thông trong từng mỗi gia đình hay tại bất cứ một tổ chức, một đoàn thể nào. Cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi là gương mẫu cho chúng ta về tinh thần hiệp thông này. Tác gỉa sách Tông đồ Công vụ thuật lại rằng, các tín hữu “luôn chuyên cần lắng nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Họ sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Tất cả đều đồng tâm nhất trí. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ (Cv 3,42-46). Sự hiệp thông này đòi hỏi phải xóa bỏ những hàng rào cách ngăn, dẹp tan mọi toan tính ích kỷ mang tính vụ lợi, và sống gắn kết nên một với nhau như lời ước nguyện của Chúa Giêsu “Ut unum sint” (Xin cho chúng nên một).
Một tu sĩ nọ khi tham dự một Thánh lễ khá đặc biệt ở Bolivia thuộc Châu Mỹ La tinh đã tả lại quang cảnh buổi lễ đó như sau. Phần đầu lễ, vị linh mục mời gọi mọi người thống hối. Vài giây phút thinh lặng để cầu nguyện, sau đó một hồi trống nổi lên. Bốn thanh niên nam nữ từ cuối nhà thờ tiến lên trước cung thánh, trên tay mỗi người mang một sợi xích thật nặng. Họ cố giơ cao tay lên cùng với lời cầu nguyện: Lạy Chúa, đây là những dây xích biểu tượng sức mạnh tội lỗi đang đè nặng trên chúng con. Chúng con chưa hết lòng yêu mến Chúa và mến thương nhau. Trong cuộc sống hằng ngày, đức ái của chúng con vẫn bị khống chế bởi những sợi xích của tham lam và ích kỷ, những trói buộc của đam mê và dục vọng thấp hèn. Xin Chúa phá đi những dây xích nặng nề này nơi tâm hồn tan nát và bầm dập của chúng con. “Lạy Chúa xin thương xót chúng con.” Cả cộng đoàn lập lại: “Xin Chúa thương xót chúng con”. Đến phần dâng lễ vật, cũng hai cặp thanh niên nam nữ tiến lên dâng bánh và rượu. Đặc biệt họ mang theo một tảng đá lớn cùng với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa cả tảng đá này, biểu trưng sự chai cứng trong tâm hồn mỗi người. Xin Chúa hãy nhận bánh và rượu để biến nên mình và máu con Chúa. Xin Chúa cũng dang rộng đôi tay đón nhận những con tim lạnh lùng và chai đá của chúng con để biến đổi thành những trái tim thịt mềm. Xin Chúa giúp chúng con biết sống với nhau tử tế hơn, khoan dung hơn và biết quảng đại tha thứ cho nhau hơn”.
Kết luận
Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết lại những trang hồi ký trong thời gian Ngài bị biệt giam trong tù. Ngài tóm gọn thành một tập sách nhỏ mang tựa đề “Năm chiếc bánh và hai con cá” để chia sẻ cho giáo triều Rôma trong dịp tĩnh tâm mùa chay vào những năm thập niên 90. Ngài thú nhận, sức mạnh lớn nhất nâng đỡ Ngài trong những năm tháng tù ngục là được cử hành Thánh lễ cho dù lén lút, nhưng rất cảm động và sâu lắng. Thánh lễ Ngài dâng một mình trong bóng tối của nhà tù, không kèn không trống, cũng chẳng có ánh đèn hay một bông hoa trang trí nào. Áo tù Ngài mặc thay cho áo lễ. Đôi bàn tay sần sùi của Ngài đựng những giọt rượu nho thay cho chén thánh. Bánh lễ chứa trong hộp đựng thuốc ho. Những Thánh lễ rất âm thầm và giản đơn, không ồn ào, không một chút hoành tráng bề ngoài, chẳng có ca đoàn hay người giúp lễ.. nhưng sao chép lại gần sát với chính Thánh lễ mà Chúa Giêsu đã cử hành năm xưa trên Thập giá. Đó là những Thánh lễ đẹp nhất trong cuộc đời linh mục của Ngài. Vị Giám mục đáng kính đã dâng những Thánh lễ như thế để kín múc cho mình sức mạnh tâm linh trong những tháng ngày đen tối nhất nơi ngục tù. Còn những thánh lễ chúng ta tham dự mỗi ngày thì sao? Đặc biệt đối với anh em linh mục là những “alter Christus”, đã hàng trăm, hàng ngàn lần cử hành thánh lễ “in personna Christi”, chúng ta đã dâng các thánh lễ ấy như thế nào? Chúng ta cũng hãy bắt chước tâm tình đơn sơ của một nữ tu dòng Clara khi đến bàn tiệc thánh. Chị chia sẻ với các chị em trong cộng đoàn “ Các chị hãy xem một người ăn xin nghèo khổ đến gõ cửa nhà một người giàu có, một bệnh nhân gần chết đến với một bác sĩ tài giỏi, một người đang khát cháy đến bên dòng nước mát trong. Họ đến để làm gì, thì em cũng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể như thế”.
Xin Chúa khơi dậy nơi tâm hồn chúng ta một ánh lửa đức tin ngời sáng, mỗi khi chúng ta đến ngồi vào bàn tiệc thánh này.
23. Bánh Thánh Thể
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Bài đọc 1 trích sách Châm Ngôn: “Hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế”. Theo lời sách Châm Ngôn, bánh và rượu đây là Đức Khôn Ngoan. Đức Khôn Ngoan được “thiên cách hóa” như chính Thiên Chúa: “đừng ngây thơ dại ngờ nữa, và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết”.
Tin Mừng thánh Gioan chương 6 cho thấy Chúa Giêsu Kitô chính là Đức Khôn Ngoan Nhập Thể, là Bánh Hằng Sống, “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.
Trang Tin Mừng hôm nay là đỉnh cao của mạc khải Đức Khôn Ngoan Nhập Thể trở thành Bánh Thánh Thể.
Chúa Giêsu khẳng định: “Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Người Do thái phản ứng và tranh luận sôi nổi: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”.
Chúa Giêsu giải thích và khẳng định thêm: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”.
Chúa Giêsu cho biết hiệu năng khi “ăn thịt và uống máu” là được kết hiệp mật thiết với Chúa: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”.
Chúa Giêsu nhắc lại hiệu lực của manna cũ để so sánh với hiệu năng của Manna mới: “Tổ tiên các ngươi đã ăn mana và đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.
Những lời Chúa Giêsu giảng dạy mạc khải rõ ràng về Bí Tích Thánh Thể.
Bí Tích Thánh Thể được Chúa tiên báo trong tiệc cưới Cana, được hứa ban cho dân ở Caphanaum.
Bí Tích Thánh Thể được Chúa thiết lập trong Tiệc Ly: “Đang khi ngồi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ và phán:Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con.Cùng một thể thức ấy, Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói:Tất cả hãy cầm lấy mà uống vì này là chén máu Ta, máu giao ước sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. (Mt 26,26-29).
Bí Tích Thánh Thể được Chúa cử hành đầu tiên tại làng quê Emmau “Người cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho họ. Và họ đã nhận ra Người đã Phục sinh” (Lc 24,13-35).
Thánh Thể là sự sống của Giáo Hội, là lương thực thiêng liêng cho đời sống và là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của người tín hữu chúng ta.
Thánh Thể là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau.
Thánh Thể chính là Tặng Phẩm Thần Linh mà Thiên Chúa trao cho nhân loại.
Lịch sử cứu độ là lịch sử hồng ân và là lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa. Cao điểm của lịch sử này là Thập Giá Đức Kitô. Thập Giá là tột đỉnh hy sinh của Thiên Chúa. Thập Giá biểu lộ tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Thập Giá cũng là tột đỉnh hy sinh của Đức Kitô, Đấng đã hạ mình vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập Giá. Thập giá là cao điểm tình yêu tự hiến của Chúa Kitô.
Tình yêu sâu thẳm và khôn dò của Thiên Chúa biểu lộ nơi Thập Giá Đức Kitô là tình yêu vượt thời gian. Tình yêu tự hiến của Đức Kitô biểu lộ bằng cái chết cũng vượt thời gian. Chúa Kitô chỉ tự hiến một lần, tự hiến trọn vẹn thay cho mọi lần. Chúa đã biểu lộ điều này trong bữa Tiệc Ly. Từ đó, Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch của đời sống Giáo Hội, là trọng tâm và là tột đỉnh của sinh hoạt Giáo Hội. Thánh Thể làm nên Giáo Hội. Không có Thánh Thể thì không có Giáo Hội. Giáo hội là thân mình gồm nhiều người ăn cùng một tấm bánh là thân mình Đức Kitô (1 Cor10,17). Như thế bàn tiệc Thánh Thể là nguồn mạch của yêu thương, cảm thông và hiệp nhất.
Giáo hội luôn định tín rằng: dù chỉ một miếng bánh nhỏ, khi đã được Truyền Phép, vẫn chứa đựng cả thân xác, linh hồn và thần tính của Đức Kitô. Chúng ta có Đức Kitô nguyên vẹn và cụ thể. Chính Chúa Thánh Thần Kitô hóa bánh rượu, làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Khi linh mục, thừa tác viên của Giáo hội, thay mặt Chúa Kitô đọc Lời Truyền Phép. Lời Truyền Phép mà linh mục đọc không phải là một câu thần chú có một ma lực biến bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, giống như linh mục có quyền trên Chúa Kitô, khiến Chúa đến thì Ngài phải đến. Lời Truyền Phép chính là Lời Chúa Kitô, Lời mà Chúa Kitô muốn nói qua môi miệng của linh mục. Chúa Kitô đã chọn một số người để họ lập lại y nguyên Lời Truyền Phép của Ngài. Chính Chúa Thánh Thần lấp đầy "khoảng cách" giữa linh mục và Đức Kitô, khiến Lời Truyền Phép trở nên "công hiệu", làm cho nội dung của Lời trở thành hiện thực. Sau Truyền Phép bánh không còn là bánh mà là Mình Thánh Chúa, rượu không còn là rượu mà là Máu Thánh Chúa. Đã có một sự thay đổi, sự thay đổi ấy là thay đổi bản thể hay "biến thể". Đây là công việc của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là công việc của người phàm, dù người ấy là linh mục. Vì ý thức điều đó, Giáo hội thiết tha khẩn cầu trước lúc linh mục Truyền Phép:
- "Chúng con nài xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này, để biến thành Mình và Máu của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con" (Kinh Nguyện Thánh Thể II).
- "Lạy Cha, chúng con tha thiết nài xin Cha, cũng nhờ Chúa Thánh Thần, mà thánh hóa của lễ chúng con dâng hiến Cha đây, để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, con Cha, Chúa chúng con" (Kinh Nguyện Thánh Thể III).
- "Lạy Cha, xin cho Chúa Thánh Thần đoái thương thánh hóa những của lễ này, để biến thành Mình và Máu Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con" (Kinh Nguyện Thánh Thể IV).
Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Kitô hiện diện thực sự giữa chúng ta, trong hình bánh và rượu. Điều đó không có nghĩa là Đức Kitô không hiện diện thực sự bằng những cách khác, như hiện diện qua lời Kinh Thánh, hiện diện trong Giáo hội, hiện diện nơi những người nghèo khổ, hiện diện giữa hai hoặc ba người họp nhau cầu nguyện (Mt 18, 20). Tất cả những cách hiện diện đó đều là hiện diện thực. Có điều khác là: Đức Kitô không đồng hóa với lời Kinh thánh, Lời Kinh thánh được đọc lên không là bản thân Đức Kitô; Đức Kitô cũng không đồng hóa với người nghèo, vì người nghèo không là bản thân Đức Kitô, dù Ngài đã nói: "Ta đói các ngươi cho ăn, Ta khát các ngươi cho uống..." (Mt 25, 35- 36). Trái lại nơi Bí Tích Thánh Thể, sau Lời Truyền Phép, bánh và rượu là Đức Kitô, là bản thân Ngài, là bản thể Ngài, là Mình và Máu Ngài. Trong Bí Tích Thánh Thể, sự hiện diện của Đức Kitô có một chiều sâu hữu thể mà không nơi nào có. Sự hiện diện đích thực và đặc biệt này của Đức Kitô là kết quả của một sự thay đổi mà tác động thay đổi chính là công việc của Chúa Thánh Thần làm khi linh mục đọc Lời Truyền Phép. (x.simonhoadalat.com, Tặng phẩm Thần Linh, ĐGM Bùi Văn Đọc).
Bí Tích Thánh Thể là sáng kiến của tình yêu. Tình yêu luôn có những sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu. “Thiên Chúa đã yêu thế gian nỗi ban chính Con Một...” (Ga 3, 16) và Con Một là Chúa Giêsu đã yêu cho đến cùng, đã lập Bí tích Thánh Thể để ở với con người luôn mãi.
Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường, nhưng lại là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống con người hàng ngày. Chúa Giêsu đã muốn trở nên những gì cần thiết và gần gũi đó. Người muốn bánh và rượu trở nên thịt máu của Người. Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Vật chất đã trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Trước tình yêu bao la của Thiên Chúa, thánh Phaolô trong bài đọc 2 khuyên các tín hữu: “Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha”, đồng thời: “Hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời gian hiện tại…hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa…hãy thấm nhuần Thần Khí”. Ý Thiên Chúa muốn chúng ta sống yêu thương như Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương.
Mình và Máu Chúa Kitô là hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa. Tham dự Thánh Lễ tích cực, trọn vẹn là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa. Thỉnh thoảng trong ngày, trong tuần, chúng ta nên quỳ gối trước Thánh Thể, chúng ta có thể học được nhiều điều từ Bí Tích Tình Yêu.
24. Bánh Thánh Thể
(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Trong một cuộc họp mặt đông đảo các Ki-tô hữu tại một nhà thờ ở Tây Đức để đón chào mẹ Tê-rê-xa Can-cút-ta, người ta đã dâng cho mẹ một bó hoa rất đẹp. Bỡ ngỡ trước lòng quý mến và trọng kính mà người ta đã dành cho mình, mẹ Tê-rê-xa mới đầu tỏ ra hơi lúng túng, nhưng sau đó vài phút, với thái độ đơn sơ quen thuộc, mẹ đã ôm bó hoa đi thẳng lên cung thánh, mẹ quì gối nơi bậc bàn thờ rồi đặt bó hoa trước nhà tạm. Cử chỉ này cho thấy mẹ Tê-rê-xa rất quý trọng phép Thánh Thể, vì Thánh Thể chính là nguồn tình yêu và nghị lực mà từ đó mẹ đã nhận được tình yêu và nghị lực cho cuộc sống dấn thân và phục vụ vô vị lợi của mẹ.
Qua các hoạt động bác ái, mẹ Tê-rê-xa và các nữ tu dòng của mẹ đã nuôi dưỡng hàng ngàn trẻ em mồ côi, đã phục vụ hàng ngàn người nghèo đói, đã chăm sóc, chữa trị hàng trăm ngàn bệnh nhân và an ủi hàng chục ngàn người hấp hối. Nhưng vượt lên trên tất cả những hoạt động nhằm phục vụ cho sự sống thể xác, mẹ Tê-rê-xa đã đặc biệt chú trọng đến một nhu cầu mà mẹ thường nhấn mạnh và cho là căn bản, nó cần thiết hơn cả cơm ăn áo mặc nữa, nhu cầu đó là muốn được chấp nhận và được yêu thương.
Phép Thánh Thể có khả năng thỏa mãn nhu cầu cấp thiết đó, vì phép Thánh Thể là một bằng chứng thật hùng hồn nhắc nhở và tái diễn mối tình muôn thuở, đó là mối tình của Thiên Chúa đối với loài người và mối tình của Chúa Giêsu đối với chúng ta. Thánh Gio-an tông đồ đã quả quyết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một yêu dấu của mình cho thế gian”. Còn đối với Chúa Giêsu thì Kinh Thánh cho biết: “Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không dành cho mình phận ngang hàng với Thiên Chúa, mà Ngài đã hủy mình đi, Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Cái chết của Ngài là một thực hiện lời Ngài mạc khải trong bài Tin Mừng hôm nay: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”. Bánh đó chính là thịt Ngài.
Quả thực, ai ăn thịt Chúa sẽ được tăng thêm ơn thánh hóa, được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và với các anh chị em tín hữu khác, được tha các tội nhẹ và bảo vệ khỏi tội trọng, và bảo đảm được một hiệu quả vô cùng cao quý là sự sống lại và sự sống đời đời. Nhưng với điều kiện là chúng ta phải rước Mình Thánh Chúa với thái độ tin và yêu. Để biểu lộ thái độ tin và yêu ấy đối với Đấng đã, đang và sẽ còn tiếp tục tự hiến thịt máu mình để cho chúng ta ăn và uống mà được sống, chúng ta hãy để cho tình yêu của Chúa biến đổi chúng ta thành những khí cụ ban phát tình yêu Thiên Chúa cho mọi người như mẹ Tê-rê-xa Can-cút-ta và các nữ tu thuộc dòng do mẹ sáng lập đang thực hiện khắp nơi trên thế giới.
Đó cũng là cách Chúa mời gọi chúng ta cùng làm phép lạ với Chúa, đó là câu kết luận của câu truyện sau đây: Có một gia đình giàu có, quý tộc người Anh, dẫn đứa con trai yêu quý về miền quê chơi. Trong khi nô đùa, chẳng may em bị rơi xuống một hố nước sâu mà cha mẹ không hay biết. Nhưng rất may tiếng kêu cứu của em đã được một chú bé, con của người làm vườn nghèo khó nghe được và chạy đến cứu sống.
Cha của em tỏ lòng biết ơn chú bé đã cứu sống con ông, nhưng thay vì lời cám ơn, ông muốn giúp đỡ chú bé ấy. Ông hỏi: “Khi lớn lên con muốn làm gì?” - “Thưa ông, chắc là con sẽ tiếp tục nghề làm vườn của cha con” - “Con không còn ước mơ nào lớn hơn sao?” - “Dạ, nhà con nghèo thế này thì con còn ước mơ gì được nữa” - “Nhưng nếu con được ước mơ thì con ước mơ gì?” - “Thưa ông, con muốn đi học, muốn là bác sĩ”.
Sau này, em bé được cứu sống đã trở thành một vĩ nhân của thế giới, đã giữ một vai trò quan trọng làm thay đổi cục diện thế chiến thứ II và đã làm cho nước Anh hãnh diện vì tài ba chính trị của ông, đó là thủ tướng Uyn-sân Chớc-Chiu. Và nhờ lòng thương giúp đỡ của người cha của Chớc-Chiu mà chú bé nhà nghèo kia đã trở thành một bác sĩ lừng danh của thế giới và là ân nhân của nhân loại cho đến ngàn đời, vị bác sĩ đó là Phơ-len-ning, người đã tìm ra thuốc trụ sinh Pê-ni-ci-lin.
Sau khi kể xong câu truyện trên, tác giả đã kết luận: “Khi Chúa mời gọi chúng ta giúp đỡ nhau là Chúa mời gọi chúng ta cùng làm phép lạ với Chúa”. Chúng ta hãy nhớ: Khi chúng ta giúp đỡ nhau là chúng ta cùng làm phép lạ với Chúa. Trở lại bài Tin Mừng hôm nay, điều chính yếu Chúa Giêsu muốn bảo cho người Do Thái xưa kia và chúng ta hôm nay: Ngài là bánh hằng sống, vì Ngài là Thiên Chúa hằng sống, chính vì thế kẻ ăn bánh này sẽ được tham dự vào sự sống của Chúa, họ sẽ được sống đời đời. Cho nên, người ta phải đón nhận Ngài không những bằng lòng tin mà còn phải ăn bánh đó, tức là ăn thịt Ngài nữa.
Chúa Giêsu dạy chúng ta về Bánh Thánh Thể, chúng ta có chấp nhận với lòng tin không? Nếu chúng ta không lãnh nhận của ăn này thì hậu quả sẽ ra sao? tất nhiên là chúng ta không được “chất bổ” của thứ bánh bởi trời này, mà ngược lại, còn bị xét xử, đoán phạt, chết đời đời. Cũng như nếu chúng ta bệnh tật, thuốc men có đó mà chúng ta nhất định từ chối không dùng thì chúng ta không khỏi bệnh là tại chính chúng ta thôi. Cũng vậy, ai trong chúng ta cũng muốn ăn no, mặc ấm, mà còn muốn ăn ngon, mặc đẹp nữa, muốn gia đình hạnh phúc, kể cả những người đầy đủ cũng thế, họ vẫn mơ ước thêm nữa, vậy thì chúng ta có muốn sau 50, 60 hay 70 năm trần thế này được sống hạnh phúc mãi bên Chúa không? Hãy đến với bí tích Thánh Thể, hãy hết lòng tin vào phép Thánh Thể. Bánh Thánh Thể là của ăn cho chúng ta no ấm đi hết quãng đời này về trời.
Thánh Thể không phải chỉ là một lời hứa trường sinh bất tử nhưng còn là một bảo chứng: hôm nay thân xác chúng ta đã được dự tiệc Thánh Thể, thì sau này thân xác chúng ta sẽ được dự tiệc thiên quốc. Tiệc Thánh Thể mới chỉ là khai vị chuẩn bị cho tiệc thiên quốc. Chúng ta hãy siêng năng rước lễ để bảo đảm cho cuộc sống hạnh phúc muôn đời.
25. Suy niệm của Yvon Daigneault.
Tìm Kiếm Một Lương Thực Cho Đời Sống Vĩnh Cửu.
Mở đầu.
Có lẽ chúng ta đã không chú ý đến bài Tin Mừng hôm nay. Nghe những lời đầu, chúng ta tự nhủ: Đây là việc rước lễ… Và chúng ta nghĩ đến điều gì khác. Quả thật Tin Mừng hôm nay nói về Thánh Thể và đây là một đề tài quan trọng đến nõi chúng ta cần phải nghe lại giáo huấn của Chúa Giêsu về đề tài này với một niềm tin mạnh mẽ hơn.
Tìm kiếm của ăn tuyệt vời.
Mỗi người đều hy vọng tìm kiếm một lương thực tuyệt vời, vừa hợp sở thích vừa hoàn toàn cân đối, không làm cho mập ra cũng không làm cho gầy đi, duy trì sự sống một cách phong phú đến nỗi sự sống này dường như có thể kéo dài mãi mãi. Nhưng thật đáng tiếc, chúng ta phải dẹp bỏ đi những ước mơ kiểu đó. Không có của ăn nào hoàn hảo cả. Chỉ có những của ăn duy trì được sự sống nhưng rồi cũng hướng về cái chết thôi.
Các thính giả của Chúa Giêsu, khi chứng kiến phép lạ hóa bánh, đã nhớ lại biến cố xưa kia: Mỗi ngày Thiên Chúa ban cho một lương thực từ trời mà đến và đã nâng đỡ tổ tiên họ trong cuộc hành trình dài hướng về đất hứa. Ân huệ này đã chấm dứt. Người ta hy vọng nó sẽ tái diễn khi Đấng Mêsia đến. Và khi đó sẽ là một lương thực tuyệt vời, lương thực của các Thiên Thần, của ăn ban sự sống đời đời.
Của ăn thật.
Chúa Giêsu chấm dứt niềm hy vọng ấy. Sẽ không có lương thực nào của các thiên thần có thể ban sự sống đời đời cả. Chính vì thế mà Ngài đã làm cho bánh của loài người hóa ra nhiều, bánh hằng ngày thực sự, vì nó mà phải làm lụng vất vả, để cảnh giác chúng ta rằng dù có Chúa hiện diện, ta vẫn phải tiếp tục gieo vãi, gặt hái, xay bột, nhồi bột, nướng và chia sẻ bánh cho nhau.
Đồng thời Ngài loan báo một việc diệu kỳ bất ngờ, đã không được tiếp nhận. Thiên Chúa muốn ban sự sống vĩnh cửu. Và, chính để ban sự sống mà Chúa Giêsu đã được Chúa Cha sai đến. Chính Ngài là sự sống. Ta chỉ nhận được sự sống này khi kết hợp hoàn toàn với Ngài thôi. Không còn là lương thực tuyệt vời nữa nhưng là sự hiệp thông được diễn tả bằng một lời khó tin: “Ăn Thịt Con Người và uống Máu Ngài”, kèm theo một cử chỉ bất ngờ: Nhận lấy bánh mà từ nay Ngài sẽ ban cho: “Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời”.
Kết hợp với Thập giá.
Tìm kiếm một lương thực tuyệt vời là để che dấu đi ước muốn thoát khỏi những đòi hỏi của cuộc sống. Ta hãy nhớ rằng lời Chúa Giêsu hứa cho chúng ta được hiệp thông đời đời với sự sống mà Ngài đã lãnh nhận nơi Chúa Cha không đưa chúng ta ra khỏi những khó khăn của đời sống hiện tại.
Chúa Giêsu nói tới một thực tại quen thuộc với các thính giả của Ngài hơn là chúng ta: Của lễ hiệp thông dâng cho Thiên Chúa trên bàn thờ của đền Thánh. Một phần của lễ đó được thiêu đốt dâng cho Chúa, phần kia được chia sẻ giữa những người dâng của lễ. Hiệp thông với Chúa Giêsu cũng tương tự như vậy. Đó là tham dự vào hy lễ của Ngài để chia sẻ vinh quang của Ngài. Trong cụ thể, điều này có nghĩa là vác Thập giá của mình cùng với Ngài.
Hiệp thông với Chúa Giêsu, khi ăn bánh hằng sống mà Ngài chia sẻ cho chúng ta, mời gọi chúng ta kết hợp vào hy tế của Ngài những hy sinh hằng ngày mà chúng ta phải vác như một cây thập giá cùng với Chúa Giêsu, và chúng ta chấp nhận như một của lễ hiến dâng để cho chúng ta và thế giới được cứu độ. Không thể hiệp thông với sự sống vĩnh cửu mà Chúa Cha ban tràn đầy cho Chúa Giêsu nếu không cùng với Ngài vác Thánh giá hằng ngày của chúng ta. Khác hẳn với chuyện ngồi trên bãi cỏ mà chờ bánh từ trời rơi xuống.
Kết luận.
Chúng ta phải nghiêm túc tự hỏi xem mình chờ đợi gì nơi việc rước lễ và tại sao việc rước lễ có vẻ ít sinh ích và ít hấp dẫn đến thế? Chúng ta có muốn liên kết vào hy tế của Chúa Giêsu bản thân và cuộc sống của chúng ta không hay là chúng ta tìm cách tránh né được càng nhiều hy sinh càng tốt, và đó là một dấu chỉ cho thấy rằng chúng ta không muốn vác thập giá của mình chút nào cả?
26. Marketing Bánh từ trời
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Ngày xưa Chúa Giêsu đã dùng ngôn ngữ, hình ảnh nông thôn, dân dã, mộc mạc để diễn tả mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm Nước Chúa. Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, những thuật ngữ kinh tế dùng trong bài dưới đây đều phổ thông, gần gũi, cũng có thể sữ dụng để diễn tả Lời Chúa. Kính mong đối với bất cứ ai, chúng không trở nên cớ xúc phạm, bất kính Thiên Chúa.
Theo một số tài liệu thì thuật ngữ Marketing xuất hiện lần đầu tiên tại Mỹ vào đầu thế kỷ 20 và được đưa vào Từ điển tiếng Anh năm 1944. Xét về mặt cấu trúc, thuật ngữ Marketing gồm gốc "market" có nghĩa là "cái chợ" hay "thị trường" và hậu tố "ing" diễn đạt sự vận động và quá trình đang diễn ra của thị trường.
Tại Việt Nam, một số tài liệu thường hay dịch từ marketing sang tiếng việt là "tiếp thị". Tuy nhiên, từ "tiếp thị" không thể bao hàm hết được ý nghĩa của marketing, nó chỉ là phạm vi hẹp của marketing.
Một kế hoạch marketing để đạt được thành công đòi hỏi sự kết hợp chiến lược và hiệu quả của 4 chữ P (Product, Place, Price, Promotion) - Sản phẩm, Phân phối, Định giá và Khuyến mãi. (Wikipedia)
Từ 21 thế kỷ trước Chúa Giêsu đã khéo léo Marketing về Bánh Từ Trời, về Nước Trời rất nhuần nhuyễn. Nắm bắt từ nhu cầu sinh tồn đến khao khát trường sinh của con người, Chúa Giêsu đã ân cần dẫn dắt các khách hàng tiềm năng đến tuyệt đỉnh Cõi Phúc trường sinh.
1- Siêu phẩm: Bánh Từ Trời
Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là Bánh Từ Trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời.”(Ga 6, 51). Người chính là siêu phẩm, đứng trên mọi thứ sản phẩm trong thế gian, không có gì sánh nổi. Bánh Từ Trời tồn tại, không hư hao, không biến đổi, mãi mãi tinh tuyền nguyên thủy, nguyên chất cho đến muôn đời, dưới hai dạng Lời Chúa và Thánh Thể.
2- Phân phối: Phổ thông
Siêu phẩm này được phân phối bởi chính Chúa Giêsu. Sau đó bởi các Tông đồ, môn đệ, và đến nay bởi Giáo Hội, thông qua các Chủ Chiên cử hành phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể. Nhưng mấu chốt vẫn là nhờ lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6, 44)
Dẫu vậy, như “xưa có lời chép trong sách ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi.”(Ga, 6, 45)
Hơn nữa, để phân phối sâu rộng khắp nơi, khắp chốn, khắp thời đại, mỗi tín hữu Ki tô đều được mời gọi trở nên chứng nhân, hay nhân viên tiếp thị cho Bánh Từ Trời. "Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài"( Mc 16, 15)
3- Định Giá: Vô giá
Vì là siêu phẩm, chứ không phải sản phẩm bình thường như manna trước đây, nên Bánh Từ Trời này vô giá, độc nhất vô nhị, vì có công năng phi thường, đem lại sự sống vĩnh cửu. “Đây là Bánh Từ Trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 58)
4- Khuyến mãi: Biếu không và có thưởng
Dù vô cùng quý hiếm, vô giá, nhưng lại cho không, biếu không, hoàn toàn miễn phí. Chỉ ban tặng, chứ không bán buôn cho ai. “Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51) Nhưng với điều kiện: “Thật tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sống đời đời.” (Ga, 47)
Hơn nữa, còn được giải thưởng tuyệt vời. Ai ăn Bánh này còn hứa hẹn trúng lô độc đắc thật vinh phúc: “Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” Bởi vì: “Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống, đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy.” (Ga 6, 54 -57)
Mỗi khi trao Chúa Giê su Thánh Thể cho giáo dân, con hãy ý thức trao cả đời con, sức khỏe, tài năng, tiền của, nghĩa là máu thịt con cùng với Mình Máu Thánh Chúa làm của nuôi mọi người và mỗi người không phân biệt ai. (ĐHV, 376)
Lạy Chúa, con cảm tạ, ngợi khen, tán tụng Chúa đã thương yêu, ban Bánh Từ Trời dưỡng nuôi con sống đời đời.
Lạy Mẹ Maria, con xin Mẹ nâng đỡ, hộ trỉ con luôn xứng đáng rước Mình Thánh Chúa, hầu con luôn vững cậy trông vào Chúa trước phong ba cuộc đời. Amen.
27. Hy tế Thánh Thể là tất cả đời sống.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” - Charles E. Miller).
Sách viết về bí tích Thánh Thể thì nhiều hơn là sách viết về sáu bí tích kia cộng lại, có sự phong phú này là đặc ân tuyệt vời đến từ Thiên Chúa. Từ Eucharist có nghĩa là dâng lời tạ ơn, ám chỉ tới hành động của Thánh Lễ. Nếu có một từ phải được liên kết với từ Eucharist thì không từ nào tốt hơn đó là “Sự sống”.
Trong khi hứa với chúng ta về bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Bánh mà Ta sẽ ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống”, trong bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta chính Mình Người dưới hình bánh và rượu, của ăn và của uống là của nuôi thiêng liêng cho đời sống thiêng liêng của chúng ta.
Thánh Tôma Aquinô đã lý giải rằng chúng ta có thể bắt đầu hiểu một số hiệu quả của hy tế Thánh Thể bằng việc suy niệm mối liên quan giữa của ăn bình thường và đời sống con người. Tiến trình của thánh nhân thì rõ ràng và đơn giản.
Đầu tiên, Ngài quan sát thấy của ăn của uống thì cần thiết để duy trì sự sống. Không có thực phẩm và nước uống chúng ta sẽ chết. Kế đó, thánh nhân cắt nghĩa của ăn của uống giúp chúng ta tăng triển thế nào. Thứ ba, Ngài đã trình bày của ăn của uống cần thiết cho sức khỏe và việc chữa lành những vết thương, những cơn bệnh. Điểm thứ bốn Ngài đưa ra là chân lý mà tất cả chúng ta đều nhận biết là của ăn và của uống thì đem lại sự sung sướng. Đó là những chân lý áp dụng của bí tích Thánh Thể.
Trong phép rửa chúng ta được sinh ra bởi nước và Thánh Thần như làcon cái của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha của chúng ta và chúng ta được chia sẽ đời sống thần linh với Người. Để duy trì sự sống này bên trong chúng ta, chúng ta cần nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng. Và Thiên Chúa Cha đã ban cho chúng ta của ăn quý giá, chính là Thân Mình và Máu Con Một của Người. Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Như Cha, Đấng đã sai Ta và Ta đã sống bởi Cha thế nào thì người được Ta nuôi dưỡng cũng sẽ sống bởi Ta như vậy”.
Đời sống mà Chúa Giêsu lãnh nhận trong Đức Kitô nơi phép rửa thì không phải là một chuyện hoang tưởng. Chúng ta không được kêu gọi để lớn lên, càng ngày càng lớn lên để trở nên giống Chúa Kitô hơn sao, nhưng chúng ta không thể làm như vậy bằng chính những nỗ lực của chúng ta. Bí tích Thánh Thể là ý nghĩa càng ngày càng trở nên giống Đức Kitô hơn. Bí tích Thánh Thể là một bí tích của sự chuyển đổi và tăng trưởng.
Trong hành trình xuyên qua đời sống, chúng ta đã phạm nhiều lầm lỗi, chúng ta xúc phạm với chính mình bởi những tội lỗi. Ngay sau khi phạm tội chúng ta đã được tha thứ, một đôi lần chúng ta cảm thấy những hiệu quả của tội. Chúng ta thì yếu đuối giống như một con người bị vây bọc bởi một cơn sốt cao. Bí tích Thánh Thể là sức mạnh của chúng ta, để lướt thắng những hiệu quả của tội lỗi và để sửa chữa những hư hại của tội.
Nếu chúng ta chỉ có thể nhận biết được với đức tin sâu xa, sự phong phú kỳ diệu của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể, chúng ta sẽ là người hạnh phúc nhất trên mặt đất này. Chúng ta sẽ đến với bí tích Thánh Thể như là một sự cử hành sung sướng về sự kỳ diệu của ân sủng Thiên Chúa.
Bí tích Thánh Thể một cách đơn giản là bí tích của đời sống thần linh. Bí tích này duy trì sự sống, giúp chúng ta tăng trưởng trong đời sống đó, sửa chữa những hư hại đã bị tội lỗi gây ra trong đời sống và cử hành nó trong niềm vui được hưởng đặc ân của sự sống.
Bí tích Thánh Thể của nghĩa là đời sống. Tuy nhiên đời sống hy tế Thánh Thể thì không thể chết. Nó sẽ không tận cùng bằng cái chết. Nó là một sự thông dự vào cuộc sống đời đời với Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã tổng kết nơi hy tế Thánh Thể bằng việc nhấn mạnh: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sống đời đời và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết”.
28. Bí Tích Thánh Thể – Pr. Trần Đình Phan Tiến
Sự sống nhân thế hệ tại ăn và uống, uống ăn, ăn uống cứ quẩn quanh và sinh ra rất nhiều phiền toái. Ăn thế nào cho ngon, cho sang, cho bổ, cho khỏe. Đó là công việc của nhân thế, thế nhân thường sử dụng lời nói “làm ăn”. Làm lụng vất vả để có cái ăn, điều ấy thật tốt lành, “cũng như lao động là vinh quang”, dùng sức lao động tạo ra cái ăn là vinh quang.
Từ đầu sáng thế, Thiên Chúa tạo dựng nên con người, chưa cần làm lụng vẫn có cái ăn. Quả thật là thiên đàng, nhưng rồi vì án phạt con người phải làm lụng vất vả mới có cái ăn, cuối cùng con người phải “chết”. Vì thân xác con người đã mang án phạt, nên con người phải chết, nghĩa là cái ăn của trần thế chỉ mang lại sự sống nơi thế gian, cho dù nhân thế có ăn uống cao lương mỹ vị, sơn hào hải sản quý đến đâu đi nữa, con người cũng không thể duy trì sự sống trên trần gian, như vậy tại sao con người phải chết? rõ ràng là án phạt nguyên tổ. Như vậy nhân thế chờ mong điều gì nơi Đấng Tạo Thành. Há chẳng phải là ơn cứu độ sao? Ơn cứu độ để làm gì? Há chẳng phải là để được sống và sống muôn đời sao?
Sống muôn đời mà phải làm lụng vất vả, tìm kế sinh nhai, lao động là vinh quang vì cái ăn, thì sống đời đời để làm gì? Có khác gì với đời sống thế trần đâu?
Như vậy ăn uống luôn gắn liền với sự sống của con người, ngay cả khi họ chết rồi, họ cũng được thân nhân cúng cơm, cúng nước và cúng giỗ hằng năm. Cái ăn, cái uống không thể tách rời nhân thế khi sống ở thế trần hay khi về âm phủ, chầu âm ty.
Thật đáng thương cho nhân thế, nếu không có lương thực vĩnh cửu, trường tồn, thì họ chỉ biết lấy cái ăn làm chuẩn mực cho cuộc sống trên dương thế cũng như âm phủ. Triết lý sống trần thế chỉ có thế thôi!
Nhưng, “Thiên Chúa đã yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian, để ai TIN vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. (Ga 3,16) Như vậy rõ ràng, Thiên Chúa không bỏ mặc thế gian. Thiên Chúa đã ban sự sống từ Thiên Chúa cho thế gian một lần nữa, sau lần sáng thế.nhưng sự sống nơi Thiên Chúa được trao ban qua Con MỘT của Ngài là Đức Kitô Giêsu. Chỉ có đấng từ trời mới ban cho Lương thực bởi trời, tức là Thần Lương, Thần Lương tức không còn là lương thực tự nhiên như cơm bánh, nước và rượu nữa, vì những thứ đó tự bản chất không phải là Thần Lương. Thần lương tức lương thực siêu nhiên, chỉ ăn một lần mà sống mãi, đó là Niềm TIN. Thật vậy, khi nhân thế chỉ TIN vào Đấng cứu thế Giêsu một lần là đủ cho họ, nhưng niềm tin cũng cần nuôi dưỡng để nó lớn lên và trưởng thành, như vậy, chúng ta cần kết hiệp với Đấng Cứu thế thường xuyên, liên tiếp khi nào có thể, để Thần lương huyền nhiệm vì tình yêu sẽ nâng đỡ chúng ta trong mọi nơi, mọi lúc, cho đến khi chúng ta được Chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng CN 20 TN (B) (Ga 6,51-58) hôm nay, được Đấng Giêsu Kitô quả quyết cách xác thực chính Thần Lương từ trời là “THỊT và MÁU” của Người, nghĩa là phần nhân tính hữu hình của Đấng thiên sai không phải là sự hư nát, tiêu hao như phần nhân tính của phàm nhân. Bởi vì, Người là Thiên Chúa, ăn THỊT và uống MÁU Chúa Giêsu là Tin tuyệt đối vào mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa làm Người, ở giữa nhân loại. Sự sống Người mang đến cho nhân loại là mầu nhiệm nhập thể và làm Người cùng với phần Thiên tính là Thiên Chúa của Người. Bí tích Thánh Thể không thể hiểu theo nghĩa hẹp, khi Chúa Giêsu còn ở trần gian, mà là khi Người đã hoàn tất mầu nhiệm cứu độ. Mầu nhiệm cứu độ bao gồm sự nhập thể -nhậpthế làm Người, tử nạn và phục sinh. Bánh và rượu thánh không mang lại sự cứu độ vì nó không phải là Thần Lương, nó không cho sự sống trương sinh, ví nó là phương tiện hữu hình của trần gian. Không có giá trị nào thay thế THỊT và MÁU Chúa Giêsu được. Vì chính Thân Thể hữu hình “ấy” được treo lên, thì THỊT và MÁU “ấy” sẽ trở nên Thần Lương CHO NHỮNG AI TIN VÀO NGƯỜI LÀ THIÊN CHÚA.
“Vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” (c 55), chứ không phải bánh và rượu là của ăn và của uống nữa. Thịt và Máu của Chúa Giêsu chính là lương thực đích thực nuôi sống nhân thế đời đời và những ai đón nhận thì không hề đói khát, vì Thần lương vĩnh hằng chính là Thiên Chúa duy nhất. Đến đây, xin nhớ đến linh hồn thân phụ tôi, người mà luôn thì thầm bên tai tôi, mỗi khi tham dự Thánh lễ Misa, khi tôi còn thơ ấu.
Khi linh mục đọc lời truyền phép và dâng bánh lễ lên: Thầy cả làm gì khi dâng bánh? Thầy cả lấy dĩa thánh có bánh lễ dâng lên, bánh ấy trở nên Mình Thánh Đức Chúa Giêsu. Thầy cả làm gì khi dâng rượu? thầy cả rót rượu nho vào chén Thánh, rượu nho trở nên Máu Thánh Đức Chúa Giêsu và một chút nước lã,hai chất ấy chỉ Máu và Nước bởi cạnh nương long Chúa đã chảy ra khi Người chịu treo trên cây Thánh Giá. Thầy cả rửa tay thì kẻ giúp làm gì? Kẻ giúp đổ nước trên ngón tay thầy cả để chỉ lòng ăn năn sám hối, ta cũng phải rửa linh hồn ta cho sạch và ăn năn thảm thiết về tiền khiên ta đã phạm, để xứng đáng dâng thánh lễ cực trọng nầy.
Như vậy, bánh và rượu là hình thức tượng trưng cho THỊT và MÁU Chúa Giêsu Kitô, Đấng từ trời mà đến, đem lại sự sống vĩnh cửu cho những ai tin và đón nhận và làm no thỏa mọi khao khát của nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, con tin vào Chúa, xin Chúa trợ giúp lòng tin yếu kém của con. Amen.
29. Nguồn sống – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Thay vì hiệp nhất, Thánh thể lại trở thành cớ cho các Kitô hữu chia rẽ. Chia rẽ vì không biết đâu là sự thật về sự hiện diện của Đức Giêsu trong bí tích. Lịch sử Giáo hội cho thấy niềm tin vào mầu nhiệm này đã tạo nên bao kỳ công vô cùng lớn lao trong Giáo hội. Hơn nữa, một chút nghiên cứu sâu xa cũng có thể cho ta nắm vững ý nghĩa lời Chúa khi lập bí tích Thánh thể.
Thực vậy, Chúa Giêsu quả quyết: “Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.” (Ga 6:55) Xác quyết đó đã làm chói tai người Do thái. Họ chỉ hiểu sự vật theo lẽ tự nhiên. Chỉ trong Thần khí mới có sức mạnh siêu nhiên để hiểu mạc khải về mầu nhiệm Thánh Thể. Chỉ Thần khí mới nâng con người lên lãnh vực siêu nhiên để thấy được sự thật nơi xác quyết đó. Thật thế, “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì.” (Ga 6:63)
“Những chữ trong công thức ‘truyền phép’ Thánh thể không đủ chứng tỏ Mình Máu Chúa hiện diện thật sự. Động từ ‘là’ không loại trừ ý nghĩa biểu tượng (x. Ed 5:5; Mt 13:37-38; Ga 15:1, 5). Tuy nhiên, trong văn hóa Sêmít, nếu chỉ có biểu tượng, không đủ thiết lập giao ước. Để lập giao ước, đòi phải có lễ vật thực sự, chứ không chỉ có những dấu chỉ của những vật đó mà thôi (St 15:9-18; Xh 24:5).” (New Catholic Encyclopedia 2003:5, 411)
Không những mạc khải về thực tại sự sống nơi thân xác Người, Đức Giêsu còn muốn cho thấy thái độ và hiệu quả của những con người tin tưởng và đón nhận thực tại đó nữa. Người muốn cho mọi người thấy thịt máu Người vô cùng cần thiết cho ơn cứu độ. Thật vậy, Người đã quả quyết: ai đón nhận thân mình Người sẽ “có sự sống nơi mình,” (Ga 6:53) “được sống muôn đời,” (Ga 6:54; 58) và “ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.” (Ga 6:56) Từ đó, họ sẽ tìm được tất cả ý nghĩa và giá trị đích thực cho con người và cuộc đời.
Sự sống ấy trào dâng từ Chúa Cha. Chính sự sống ấy khiến Đức Giêsu làm được mọi sự. Giờ đây sự sống ấy lại cuồn cuộn chảy vào những ai “ăn thịt và uống máu Con Người.” (Ga 6:53) Sự sống như quyện vào nhau. Đó là điều Chúa Giêsu đã mạc khải: “Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy.” (Ga 6:57) Chính sự sống này sẽ quyết định tất cả. Không có sự sống ấy, trần gian sẽ băng hoại. Muốn tránh cơn băng hoại đó, người tín hữu “hãy bước đi trên con đường hiểu biết,” (Cn 9:6) và “sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại” (Ep 5:15-16) “mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha.” (Ep 5:20)
Tương quan sâu xa giữa Đức Giêsu và người tín hữu được thiết lập trong bí tích Thánh Thể. Đó là cái nhìn thần học của thánh Gioan và cũng là kinh nghiệm sống động của cộng đồng Gioan. Chính trong cộng đồng này, tín hữu đã thấu hiểu và cảm nghiệm sâu xa Chúa Giêsu Thánh Thể hiện diện “để cho thế gian được sống.” (Ga 6:51) Từ đó, họ cũng đón nhận được sức mạnh xây dựng cộng đoàn. Trong cộng đoàn tông đồ này, họ đã “cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng” và “đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa.” (Ep 5:19) Chính khi chia sẻ tình yêu Thánh Thể với anh em, họ đã xây dựng thành công Giáo hội tiên khởi. “Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ.” (Cv 2:46-47)
“Lễ bẻ bánh” chính là tiệc Thánh Thể (Mc 14:22; 1 Cr 11:24; Cv 2:42-47). Tin mừng Lc 24:13-35 cũng cho thấy hai môn đệ trên đường Emmau nhận ra Đức Giêsu khi Người bẻ bánh. “Hình như thánh sử Luca dùng từ này để chỉ về Thánh Thể. Có lẽ thánh sử có ý cho thấy, trong khi Kinh thánh hướng tới Đức Kitô, chỉ có Thánh thể mới cho phép Kitô hữu nhận thức và chiếm hữu Người trọn vẹn.” (New Catholic Encyclopedia 2003:2, 600) Chính trong thịt và máu Đức Kitô, tín hữu tiên khởi đã làm nên một thân thể và tạo thành một sức mạnh kiên cường đến nỗi “quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” (Mt 16:18)
Sức mạnh đó ngày nay vẫn còn. Giáo hội trổ sinh một mùa màng tươi tốt nuôi sống muôn dân. Thứ sáu 11/07/03 vừa qua, Liên Minh các tổ chức Caritas kết thúc tổng hội thứ 17 với tựa đề: “Việc Toàn cầu hóa sẽ thành công nếu mọi người đều hưởng phúc lợi từ đó.” (Zenit 14/07/03) Tuyên bố chung nói: Caritas Quốc tế “cam kết hoạt động cho xã hội người nghèo và những người bị tách ly ra khỏi xã hội đang dần dần được toàn cầu hóa. Nghĩa là, sự liên đới phải được toàn cầu hóa, và Liên Minh Caritas phải tận tụy thực hiện mục tiêu này trong bốn năm tới.” (Zenit 14/07/03) Caritas hi vọng thực hiện đầy đủ nghị quyết trong tông thư ‘Tân Thiên Niên Kỷ’. ĐGH Gioan Phaolô II kêu gọi phải có ‘sáng tạo mới’ trong công cuộc bác ái. Caritas giải thích: “Trong kế hoạch hoạt động, các thành viên tổ chức Caritas Quốc tế tái cam kết làm cho tiếng nói người nghèo được lắng nghe trong các thực thể quốc tế, và thực hiện việc liên kết giữa những người có trách nhiệm quyết định và dân chúng chịu ảnh hưởng quyết định đó.” (Zenit 14/07/03)
Tổ chức Caritas chuyên phục vụ những người nghèo khổ trên thế giới. Tổ chức lấy sức mạnh từ niềm tin nơi Đức Giêsu, tấm bánh bẻ ra cho muôn dân. Biết bao Kitô hữu cũng đang theo sát gót Đức Kitô phục vụ trên khắp nẻo đường đời. Đó là những người khôn ngoan đang cố gắng “tận dụng thời buổi hiện tại” (Ep 5:16) để giải thoát nhân loại khỏi “những ngày đen tối.” (Ep 5:16)
30. Bánh ban sự sống là do Chúa Cha ban cho.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Chúa Giêsu quả quyết rằng nguồn mạch vô tận của sự sống vĩnh cửu là ở nơi Người. Lương thực nuôi dưỡng sự sống ấy chính là chíng Người, ‘Bánh hằng sống’. Nói đúng hơn, Người là hiện thân của đời sống vĩnh cửu, và Người đã tự ban chính mình làm bánh nuôi sống chúng sinh. Có ba xác định sau đây:
1) Chúng ta cần ghi nhận trong bài đọc hôm nay, nó sửa soạn cho điều mà -gọi là giá trị hy tế của việc Chúa Giêsu nhập thể giữa nhân loại. Bánh mà ta sẽ ban, đó là thịt Ta cho thế gian được sống. Với tư cách là Con Người, Đấng sẽ tự hiến mình làm hy lễ, Chúa Giêsu-Chúa Giêsu ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu. Khi Chúa nói lời này Chúa chưa trải qua ‘Giờ’ của Người, nghĩa là sự hy sinh của Người trên thánh giá, sự phục sinh và ân huệ của Thánh Linh. Vì thế nên Người nói ở thì tương lai: Bánh mà Ta ‘sẽ ban’. Bánh đó sẽ được ban cho thế gian được sống. Nhưng chính qua cuộc tế lễ của Người mà Chúa Giêsu đem lại sự sống lại cho thế gian. Điều quan trọng là chúng ta phải nhấn mạnh là Chúa Giêsu, vào lúc Người loan báo Thánh Thể, đã thấy trước mắt Thập giá, sự sống lại, ân huệ của Thánh Linh, nghĩa là cuộc lễ tế cứu chuộc, đem lại sự sống cho thế gian. Người ta có thể nói trong viễn ảnh Chúa Giêsu thấy, thì bánh hằng sống và cuộc lễ tế của Người, hoàn toàn gắn liền với nhau.
2) Tại sao trong phúc âm của Gioan, Chúa Giêsu đã dùng tiếng ‘thịt Ta’, chớ không dùng tiếng ‘mình Ta’? Thật vậy, trong các phúc âm Nhất lãm, các thánh sử khác đã dùng tiếng ‘Mình’ trong đoạn nói về bữa tiệc ly. Chúng ta gặp ở đây một kiểu nói hơi khác, nó có ích lợi của nó, để nhấn mạnh đến ‘bánh hằng sống’ có tính cách nhất thiết sinh động; ban sự sống. Trong cách nói của Thánh Gioan, danh từ ‘Thịt’ ở đây có nghĩa là chính bản thân sống động của Chúa Giêsu. Phúc âm của Gioan dùng tiếng ‘Mình’ để chỉ thân xác đã chết của Chúa Giêsu, sau cuộc khổ nạn trên Núi sọ. Thánh Gioan đã nhận ra một sắc thái dị biệt. Chúa Giêsu, Đấng ban ‘thịt’ của mình làm bánh hằng sống, là Chúa Giêsu vinh hiển, sống động và truyền thông sự sống. Người đã đi qua cái chết, song Người là sự sống. Sau khi nói như vậy, chúng ta hiểu được những lời truyền phép Mình Thánh được lặp lại trong các phúc âm Nhất lãm, đã dùng tiếng ‘Mình’ có liên quan đến Mình và Máu Chúa Kitô đang sống và ban sự sống. Người ta có thể nói rằng, trong bối cảnh chung gồm tất cả các thực tại mà chúng ta tin là xác thực, Thánh Gioan thích nhấn mạnh đến phương diện nguồn mạch sự sống thể hiện nơi phép Thánh Thể.
3) Bánh hằng sống là do Chúa Cha ban. Sau khi đã dài dòng căn dặn về sự cần thiết của con người phải nuôi mình bằng chính Chúa, Chúa Giêsu trở lại nguồn gốc của hồng ân đó. Như Cha là Đấng đã sai Ta, và Ta sống bởi Cha thế nào, kẻ ăn Ta, sẽ sống bởi Ta như vậy’. Chúng ta gặp lại ở đây một trong các hình thức hơi lộ ra bên ngoài của sự chuyển động sâu xa bên trong, đang tác động nơi Chúa Giêsu. Người luôn luôn ý thức là hết mọi sự, đều do nơi Cha Người và hết thảy đều phải hướng trở về cùng Cha Người. Thật là điều quan trọng là hôm nay đây, chúng ta phải chú ý đến sự kiện này, dầu cho chỉ là vì lòng đoan chính đối với Phúc âm. Não trạng của thế giới chúng ta hiện nay, bị ảnh hưởng bởi những quan niệm mệnh danh là khoa học, để tuyên bố là ‘Chúa Cha đã chết’. Cung cách đọc Phúc âm, vì tinh thần lương thiện, phải cam kết chống lại mọi thứ não trạng như vậy, và nếu có thể, hãy soi sáng nó.
31. “... Sẽ sống đời đời”
(Suy niệm của Lm Basiliô Quang Linh, CMC)
Vào một buổi sáng vào khoảng thế kỷ 12, một linh mục thuộc dòng Basiliô đang dâng Lễ tại một thánh đường thuộc thành phố Lancianô, nước Ý. Đang khi dâng lễ ngài bị cám dỗ nghi ngờ về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể. Đang khi nghi ngờ như thế thì đột nhiên ngài thấy bánh rượu đã truyền phép trở nên Thịt Máu Chúa Giêsu. Ngài ngạc nhiên hết sức không thể che dấu phép lạ nhãn tiền nên cho giáo dân biết. Chẳng mấy chốc tin phép lạ Thánh Thể truyền ra nhanh chóng. Hiện nay Máu Thịt Chúa vẫn còn lưu giữ cho đến ngày nay.
Trong Lời Chúa hôm nay Chúa Giêsu nói về của ăn thiêng liêng Ngài ban nuôi dưỡng linh hồn người ta, “A i ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ có sự sống đời đời.” Lời tuyên bố này làm cho người Do Thái bối rối khó hiểu, “Làm sao Ngài lại có thể lấy thịt máu Ngài cho người ta ăn uống được.” Đối với tín hữu thời nay nhất là những người Tin lành và cả người Công giáo cũng đồng ý với người Do Thái. “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho người ta ăn được.” Họ kết luận rằng, có lẽ Chúa chỉ có ý nói về biểu tượng chứ không phải nói về sự hiện diện thật sự của Chúa trong Thánh Thể.
Thật ra theo niềm tin từ thời các thánh tông đồ các thánh giáo phụ thì giáo lý về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể là sự thật đáng tin. Vì khi Chúa Giêsu ban Mình Máu Thánh Người làm của ăn nuôi dưỡn g linh hồn người ta Ngài không nói, “Đây là biểu tượng Mình Ta, nhưng mà “Đây là Mình Ta.” Ngài cũng không nói, “Đây là biểu tượng Máu Ta,” mà là “Đây là Máu Ta.” Thánh Augustinô nói, “Những gì chúng ta thấy nơi Bánh Rượu đã truyền phép qua con mắt xác thịt là bánh rượu bình thường, nhưng với con mắt đức tin, bánh và rượu đã truyền phép thực sự chính là Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu.” Cho nên khi ta nói: “Chỉ những gì tôi thấy tôi mới tin,” không áp dụng cho Bí Tích Thánh Thể.
Thánh Thể chính là qua tặng Chúa ban và là của ăn thiêng liêng nuôi dưỡng linh hồn ta trên đường lữ thứ trần gian và là bảo đảm đời sống vĩnh cửu cho ta sau này như lời Chúa hứa, “A i ăn Thịt Ta và uống Máu Ta sẽ có sự sống đời, và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết, vì Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống.” Ta cần phải tin thật về điều ấy qua cử chỉ và hành động khi vào thánh đường. Ta có bái gối hay cúi mình khi vào nhà thờ hay nhà nguyện có Chúa hiện diện trong Nhà tạm? Ta có hay viếng Chúa để tâm sự với Ngài hay mỗi lần lái xe qua các nhà thờ Công Giáo, ta có thầm thỉ chào Chúa không? Ta có chầu Thánh Thể mỗi khi giáo xứ hay cộng đồng tổ chức? Nhất là ta có chuẩn bị tâm hồn chu đáo để rước Chúa một cách sốt sắng khi tham dự Thánh Lễ? Ta có dám rước Chúa khi tâm hồn đang vương mắc tội trọng phạm sự thánh khi chưa được tha thứ trong phép Giải Tội?
Ta thật khôn ngoan khi biết trân quý của cải tiền bạc và các vật dụng của mình và tìm cách lo lắng bảo vệ khỏi mất và đánh cắp. Nhưng ta thật thiếu khôn ngoan khi coi thường giá trị của phép Thánh Thể, vì Thánh Thể chính là lương thực thiêng nuôi sống linh hồn ta. Ước gì ta là người biết khôn ngoan nhận ra giá trị đích thực của Thánh Thể hầu được bình an hạnh phúc đời này và đời sau. Amen.
32. Thánh Thể- Hiến Tế.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cha Piô, tu sĩ dòng Capucinô, ở Itala, mới được phong thánh năm 2004, là vị linh mục đầu tiên đã được in 5 dấu thánh. Ngài là linh mục và đặc ân của Ngài, do thánh chức, là ở toà giải tội và nhất là trên bàn thờ dâng lễ. Cha dâng lễ lâu đến ba tiếng rưỡi đồng hồ. Ai dự lễ do cha Piô làm đều say sưa, sốt sắng, không biết mỏi mệt. Ngài sống mầu nhiệm Chúa hiện diện trên bàn thờ trong Bí tích Thánh Thể. Sau khi dâng Mình Thánh Chúa, thảm kịch tế lễ càng diễn tiến như dưới chân Thánh Giá xưa. Mồ hôi nhỏ giọt, nước mắt dầm dề. Ngài đọc lời truyền phép như một người đang hấp hối, đau khổ tột độ. Ngài cầm Mình Thánh giơ lên, những đường máu từ từ rơi theo dấu ngón tay. Rồi ngài hớn hở như được thấy Chúa. Ai không tin sự hiện diện của Chúa trong hình bánh hình rượu, hãy đến dự thánh lễ cha Piô sẽ biết, sẽ cảm nghiệm. Để Thánh lễ đừng kéo dài quá lâu sau truyền phép, cha bề trên tu viện núp trong cung thánh, phải ra lệnh bằng ý muốn cho ngài tiếp tục (Le vrai visage du Padre Pio, Maria Winowska,Fayard).
Anh chị em thân mến,
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn đi xa hơn nữa trong mạc khải của Ngài về Bánh Hằng Sống. Không những Chúa Giêsu đói buộc phải tin vào Ngài, nhưng Ngài còn đòi buộc phải ăn bánh là chính Mình Ngài, phải uống chén rượu là chính Máu Ngài. Bánh và rượu chính là Thịt và Máu của Ngài. Bánh và rượu này liên hệ đến cái chết của Ngài, cho đến độ không có cái chết của Ngài trên Thập Giá, thì Bánh ngày không thể là Thịt của Ngài và Rựơu này không thể là Máu của Ngài. Vì vậy, Bí tích Thánh Thể vừa là lễ tế hy sinh của Chúa Giêsu trên Thập Giá, vừa là bữa tiệc Thịt và Máu của Ngài, dưới hình thức bánh và rượu. Vì thế, Thánh Thể trước hết là một hy lễ. Chính là máu của Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người được ơn tha tội. Chính là cuộc tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá.
Đoạn Tin Mừng hôm nay gợi lại cho chúng ta Bữa Tiệc Thánh Thể Chúa Giêsu đã cử hành vào những giờ phút cuối cùng của đời Ngài, trước lúc Ngài bị bắt và chết trên Thập Giá. “Trong bứa ăn tối, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, chúc tụng, rồi bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói: Các con hay cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy. Rồi cầm lấy chén rượu, tạ ơn, Ngài trao cho họ mà nói: Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là chén Máu Thầy, máu Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người được ơn tha tội” (Mt 26,26-28). Thánh Phaolô còn nói rõ: “Mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, là anh em loan báo cái chết của Chúa Giêsu cho đến khi Ngài lại đến” (1Cr 11,26).
Chúng ta phải đọc những lời thiết lập Bí tích Thánh Thể dưới ánh sáng của những lời khẳng định của Chúa Giêsu về Bánh ban sự sống. Ngài đã tuyên bố một cách thẳng thừng Ngài là gì và người ta phải quan hệ với Ngài như thế nào để có được sự sống của Thiên Chúa. “Tôi là Bánh ban sự sống… Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì sống mãi trong Tôi, và Tôi sống mãi trong người ấy”. “Tôi sống như thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy”. Thịt và Máu Chúa Giêsu là của ăn, của uống làm cho người ta “sống trong Chúa Giêsu” và làm cho Chúa Giêsu “sống trong người ấy”. Người dùng thức ăn, thức uống này thì được “sống nhờ Chúa Giêsu”, sẽ được “sống lại trong ngày sau hết” và được “sống đời đời”.
Thưa anh chị em,
Trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, tình yêu liên hệ với sự sống: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã banh Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Không có sự sống thì cũng không có tình yêu. Thiên Chúa đã cứu chúng ta khỏi chết để chúng ta được sống để chúng ta được sống và được sống với Ngài. Bánh Ngài ban tặng chúng ta là bánh ban sự sống đời đời, là dấu chỉ của tình yêu, là dấu chỉ của chính Thân Thể Ngài hy sinh cho nhân loại. Tấm bánh bẻ ra hay là Chúa Giêsu Kitô hy sinh chịu chết vì chúng ta, đó chính là bằng chúng của tình yêu cao cả nhất: “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu hiến thân mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Vì vậy, Bí tích Thánh Thể được coi là Bí tích của tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu và yêu là muốn kết hợp với người yêu. Yêu là muốn điều tốt, muốn cho người yêu được sống dồi dào, và trong tình yêu có sự đòi buộc phải hy sinh.
Bí tích Thánh Thể là bí tích tình yêu của Chúa Giêsu ban cho chúng ta. Từ khi nhập thể làm người cho đến lúc gục đầu trên Thập Giá. Chúa Giêsu chỉ có một khắc khoải là minh chứng tình yêu cho nhân loại. Ngài muốn loài người được sống và sống dồi dào. Đâu là Bí Tích Thánh Thể của Chúa Giêsu, bí tích của một tình yêu tận hiến. Chúa ban sự sống của Ngài cho chúng ta để chúng ta kết hợp với Ngài và được sống dồi dào nhờ cái chết cứu độ của Ngài.
Thế nhưng, được kết hợp với Ngài để làm gì? Được sống dồi dào để làm gì? Được sống kết hợp với Chúa để tiếp tục sống tình yêu như Ngài. Được kết hợp với Chúa để tiếp tục hoạt động với Ngài để đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Được kết hợp với Chúa Cha ở mọi nơi. Được kết hợp với Chúa để phục vụ cho anh em được sống dồi dào hơn qua cuộc tận hiến chính cuộc đời của mình.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu tiếp tục hiến mình làm bánh, là lương thực nuôi sống Giá Hội, nuôi sống chúng ta qua Bí tích Thánh Thể được cử hành hằng ngày, hằng tuần… Và mỗi người chúng ta cũng như cộng đoàn được mời gọi tiếp rước Mình và Máu của Chúa. Nhưng tiếp rước ở đây không phải chỉ là ăn uống Mình và Máu của Chúa Giêsu mà thôi, mà còn phải là tiếp rước chính Chúa Giêsu với cả cuộc đời và sứ mạng của Ngài, để hoạ lại ý nghĩa của cuộc đời và sứ mạng đó trong chính cuộc sống của mình. Do đó, rước lễ đích thực không thể tách rời khỏi việc tìm hiểu trong Lời của Chúa, trong cuộc đời của Ngài bài học về cách xử sự, về sự lựa chọn, về sự hy sinh, về lòng yêu mến người khác cho chính cuộc đời của mình. Đó là cách thức để người Kitô hữu sống bằng Thịt và Máu của Chúa, sống nhờ Chúa và qua đó, được sống đời đời.
Bí Tích Thánh Thể của Chúa Giêsu phải được nhân lên qua cuộc sống của các tín hữu. Bao lâu chúng ta còn sống hữu ích cho anh em, còn tìm cách làm cho cuộc sống của những người chung quanh bớt nghèo, bớt đói, bớt khổ… là chúng ta đang tế hiến mình với Chúa Kitô Thánh Thể. Chúng ta trở thành bánh ngon để nuôi sống anh em. Lúc đó, chúng ta mới dâng lên Thiên Chúa Bí tích tình yêu của chính bản thân mình mỗi lần họp nhau cử hành Bí tích Thánh Thể của Chúa Kitô.
33. Ai ăn Ta, sẽ sống nhờ Ta – Noel Quesson.
Đanien Côn-neo (Daniel Connell) là người đã giải phóng dân tộc Ái nhĩ lan. Ông là một tín hữu can đảm và nhiệt thành. Khi người ta cười nhạo ông vì họ không hiểu rõ và cũng không tin bí tích Thánh Thể. Ông đã giải đáp: “Sao các ông lại hỏi tôi? Các ông phải hỏi Chúa Giêsu. Phần tôi, tôi chỉ tin như Chúa Giêsu đã nói. Nếu điều đó không đúng, thì Chúa mới là người đáng trách. Nhưng sự thật của Chúa thì muôn đời tồn tại”.
Niềm tin vào bí tích Thánh Thể cũng như toàn bộ niềm tin của chúng ta, phải xây dựng và chỉ có thể xây dựng trên Lời Chúa. Chúa là sự sống của ta và Chúa là căn bản lòng tin của ta. Chúa là lương thực nuôi hồn ta, Chúa liên kết với ta, thông chia sự sống nhiệm mầu của Người cho ta. Nếu chúng ta thấy xao xuyến, mệt mỏi bơ vơ, là tại chúng ta đã xa cách Chúa, tại chúng ta đã cách ly Chúa. Khi đó chẳng những chúng ta lạc lõng khốn cùng mà còn phải chết muôn đời nữa. Vì Chúa đã khẳng định: “Nếu các ngươi không ăn thịt, không uống máu Con Người, thì trong các ngươi không có sự sống” (Ga 6,53).
Khi nói về bánh hằng sống, Chúa Giêsu nói xen lẫn hai sự kiện: Lời Chúa và bí tích Thánh Thể. Chúa nói cả hai chuyện một lúc như vậy, cốt cho ta hiểu rằng cả hai chỉ là một. Tiếp nhận Chúa là đón nghe và làm theo Lời Chúa. Sống Lời Chúa cũng chính là việc ăn Mình, uống Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể, là cụ thể hóa Lời Chúa bằng bí tích Mình Máu Chúa, là hòa nhập sự sống ta với sự sống Chúa. Cũng như Thánh Lễ không phải là hai phần tách biệt mà chỉ là một: đó là mầu nhiệm Chúa Kitô dạy dỗ ta bằng Lời Chúa và Lời Chúa đi vào cuộc sống ta bằng chính Máu Thịt Chúa. Chúa trở nên huyết nhục chúng ta, để biến đổi sự sống ta thành sự sống Chúa, và rồi từ đó, Lời Chúa sẽ thành lời nói và hành động của ta. Ta sẽ là hiện thân Chúa Giêsu giữa trần gian.
Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu biết ba tác dụng của bí tích Thánh Thể: Trước hết là sự sống lại và cuộc sống vĩnh viễn: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì được sống muôn đời, còn Ta, Ta sẽ cho người ấy sống lại ngày tận thế” (Ga 6,54). Trong bữa tiệc ly, Chúa đã nối kết tiệc Thánh Thể với tiệc Nước Trời: “Thầy sẽ không uống rượu nho này nữa cho tới lúc Thầy lại uống với các con trong Nước của Cha Thầy”.
Thứ đến là tình liên đới giữa Đức Kitô và các tín hữu: “Ai ăn Thịt và uống Máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong người đó”. Ở trong Chúa là hưởng hạnh phúc với Chúa. Hạnh phúc lớn nhất là ở bên người mình yêu và được người đó yêu mình. Từ Cựu Ước đã có những lời diễn tả thực tại này: “Các ngươi sẽ là dân Ta và Ta là Thiên Chúa các ngươi” (Xh 6,7); “Người yêu của tôi thuộc về tôi và tôi thuộc về người” (Diễm ca 6,3); “Các con hãy ở trong Thầy như Thầy ở trong các con” (Ga 6,56; 15,4).
Sau cùng là sự tận hiến cho Cha: “Như Chúa Cha hằng sống đã sai Thầy và Thầy sống nhờ Cha, cũng vậy, ai ăn Thầy sẽ sống nhờ Thầy”. Chúa Giêsu đã sống kết hiệp với Cha, Chúa cũng đòi ta hiệp nhất với Ngài như thế.
Lạy Chúa, nhờ Lời Chúa và Thánh Thể, chúng con hy vọng chắc chắn sẽ được sống lại và được sống muôn đời với Chúa. Xin giúp chúng con biểu lộ lòng tin này trong việc đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể, trong cuộc sống hiệp nhất với nhau và trong tình liên đới với mọi người.
34. Nguồn Sống – Như Hạ, OP
Thay vì hiệp nhất, Thánh thể lại trở thành cớ cho các Kitô hữu chia rẽ. Chia rẽ vì không biết đâu là sự thật về sự hiện diện của Đức Giêsu trong bí tích. Lịch sử Giáo hội cho thấy niềm tin vào mầu nhiệm này đã tạo nên bao kỳ công vô cùng lớn lao trong Giáo hội. Hơn nữa, một chút nghiên cứu sâu xa cũng có thể cho ta nắm vững ý nghĩa lời Chúa khi lập bí tích Thánh thể.
Thực vậy, Chúa Giêsu quả quyết: "Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống." (Ga 6:55) Xác quyết đó đã làm chói tai người Do thái. Họ chỉ hiểu sự vật theo lẽ tự nhiên. Chỉ trong Thần khí mới có sức mạnh siêu nhiên để hiểu mạc khải về mầu nhiệm Thánh Thể. Chỉ Thần khí mới nâng con người lên lãnh vực siêu nhiên để thấy được sự thật nơi xác quyết đó. Thật thế, "Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì." (Ga 6:63)
"Những chữ trong công thức 'truyền phép' Thánh thể không đủ chứng tỏ Mình Máu Chúa hiện diện thật sự. Động từ 'là' không loại trừ ý nghĩa biểu tượng (x. Ed 5:5; Mt 13:37-38; Ga 15:1, 5). Tuy nhiên, trong văn hóa Sêmít, nếu chỉ có biểu tượng, không đủ thiết lập giao ước. Để lập giao ước, đòi phải có lễ vật thực sự, chứ không chỉ có những dấu chỉ của những vật đó mà thôi (St 15:9-18; Xh 24:5)." (New Catholic Encyclopedia 2003:5, 411)
Không những mạc khải về thực tại sự sống nơi thân xác Người, Đức Giêsu còn muốn cho thấy thái độ và hiệu quả của những con người tin tưởng và đón nhận thực tại đó nữa. Người muốn cho mọi người thấy thịt máu Người vô cùng cần thiết cho ơn cứu độ. Thật vậy, Người đã quả quyết: ai đón nhận thân mình Người sẽ "có sự sống nơi mình," (Ga 6:53) "được sống muôn đời," (Ga 6:54; 58) và "ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy." (Ga 6:56) Từ đó, họ sẽ tìm được tất cả ý nghĩa và giá trị đích thực cho con người và cuộc đời.
Sự sống ấy trào dâng từ Chúa Cha. Chính sự sống ấy khiến Đức Giêsu làm được mọi sự. Giờ đây sự sống ấy lại cuồn cuộn chảy vào những ai "ăn thịt và uống máu Con Người." (Ga 6:53) Sự sống như quyện vào nhau. Đó là điều Chúa Giêsu đã mạc khải: "Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy." (Ga 6:57) Chính sự sống này sẽ quyết định tất cả. Không có sự sống ấy, trần gian sẽ băng hoại. Muốn tránh cơn băng hoại đó, người tín hữu "hãy bước đi trên con đường hiểu biết," (Cn 9:6) và "sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại" (Ep 5:15-16) "mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha." (Ep 5:20)
Tương quan sâu xa giữa Đức Giêsu và người tín hữu được thiết lập trong bí tích Thánh Thể. Đó là cái nhìn thần học của thánh Gioan và cũng là kinh nghiệm sống động của cộng đồng Gioan. Chính trong cộng đồng này, tín hữu đã thấu hiểu và cảm nghiệm sâu xa Chúa Giêsu Thánh Thể hiện diện "để cho thế gian được sống." (Ga 6:51) Từ đó, họ cũng đón nhận được sức mạnh xây dựng cộng đoàn. Trong cộng đoàn tông đồ này, họ đã "cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng" và "đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa." (Ep 5:19) Chính khi chia sẻ tình yêu Thánh Thể với anh em, họ đã xây dựng thành công Giáo hội tiên khởi. "Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ." (Cv 2:46-47)
"Lễ bẻ bánh" chính là tiệc Thánh Thể (Mc 14:22; 1 Cr 11:24; Cv 2:42-47). Tin mừng Lc 24:13-35 cũng cho thấy hai môn đệ trên đường Emmau nhận ra Đức Giêsu khi Người bẻ bánh. "Hình như thánh sử Luca dùng từ này để chỉ về Thánh Thể. Có lẽ thánh sử có ý cho thấy, trong khi Kinh thánh hướng tới Đức Kitô, chỉ có Thánh thể mới cho phép Kitô hữu nhận thức và chiếm hữu Người trọn vẹn." (New Catholic Encyclopedia 2003:2, 600) Chính trong thịt và máu Đức Kitô, tín hữu tiên khởi đã làm nên một thân thể và tạo thành một sức mạnh kiên cường đến nỗi "quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi." (Mt 16:18)
Sức mạnh đó ngày nay vẫn còn. Giáo hội trổ sinh một mùa màng tươi tốt nuôi sống muôn dân. Thứ sáu 11/07/03 vừa qua, Liên Minh các tổ chức Caritas kết thúc tổng hội thứ 17 với tựa đề: "Việc Toàn cầu hóa sẽ thành công nếu mọi người đều hưởng phúc lợi từ đó." (Zenit 14/07/03) Tuyên bố chung nói: Caritas Quốc tế "cam kết hoạt động cho xã hội người nghèo và những người bị tách ly ra khỏi xã hội đang dần dần được toàn cầu hóa. Nghĩa là, sự liên đới phải được toàn cầu hóa, và Liên Minh Caritas phải tận tụy thực hiện mục tiêu này trong bốn năm tới." (Zenit 14/07/03) Caritas hi vọng thực hiện đầy đủ nghị quyết trong tông thư 'Tân Thiên Niên Kỷ'. ĐGH Gioan Phaolô II kêu gọi phải có 'sáng tạo mới' trong công cuộc bác ái. Caritas giải thích: "Trong kế hoạch hoạt động, các thành viên tổ chức Caritas Quốc tế tái cam kết làm cho tiếng nói người nghèo được lắng nghe trong các thực thể quốc tế, và thực hiện việc liên kết giữa những người có trách nhiệm quyết định và dân chúng chịu ảnh hưởng quyết định đó." (Zenit 14/07/03)
Tổ chức Caritas chuyên phục vụ những người nghèo khổ trên thế giới. Tổ chức lấy sức mạnh từ niềm tin nơi Đức Giêsu, tấm bánh bẻ ra cho muôn dân. Biết bao Kitô hữu cũng đang theo sát gót Đức Kitô phục vụ trên khắp nẻo đường đời. Đó là những người khôn ngoan đang cố gắng "tận dụng thời buổi hiện tại" (Ep 5:16) để giải thoát nhân loại khỏi "những ngày đen tối." (Ep 5:16)
35. Bánh hóa nhiều.
Tôi còn nhớ, hồi nhỏ mỗi khi ăn cơm mà để những hạt cơm rơi vãi, thế nào cũng bị ba tôi giảng cho một bài luân lý giáo khoa thư.
Một hạt cơm mà thôi cũng do bởi biết bao công lao khó nhọc, như tục ngữ đã bảo:
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hột đắng cay muôn phần.
Rất may là chúng ta chưa lâm vào cảnh đói kém, nhiều khi chỉ vì một nắm cơm mà người ta sẵn sàng làm những công việc đê tiện.
Trong những trại tù, thì giây phút quan trọng và cam go nhất của một ngày là lúc phân phát thực phẩm. Nhiều người chỉ sống cho giây phút này mà thôi. Sau khi đã lãnh phần ăn, họ đã nhìn vào chén cơm hồi lâu, rồi cẩn thận nhai nuốt với tất cả sự trọng kính.
Thế nhưng, cơm bánh chỉ là một hình ảnh tượng trưng, vì ngoài thân xác ra, con người còn có một linh hồn, linh hồn ấy cũng cần phải được nuôi dưỡng bằng một thứ của ăn thiêng liêng. Giữa của ăn vật chất và của ăn thiêng liêng có một mối liên hệ, tuy mầu nhiệm nhưng cũng lại rất hiện thực.
Cũng trong những trại tù, các linh mục âm thầm làm lễ giữa đêm khuya ngay trong chiếc mùng của mình. Rồi Mình Thánh được gói trong những mảnh giấy nhỏ và chuyển đến cho các bạn tù, nhờ đó mà những tù nhân Công giáo tìm thấy được niềm an ủi và khích lệ.
Chúa Giêsu cũng đã biết rằng cái đói là một nỗi bất hạnh và con người luôn cần tới cơm bánh, vì thế Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi sống hàng ngàn người giữa nơi hoang vắng. Rồi từ đó Ngài đã giới thiệu thứ của ăn nuôi sống linh hồn, đó là thịt máu Ngài.
- Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máy Ta thì sẽ được sống đời đới.
Mặc dù đám đông trước đó đã nhiệt tình hoan hô Ngài và muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng với những lời lẽ như thế, họ đã bỏ Ngài, để rồi chỉ còn mình Ngài với các môn đệ.
Sự kiện này vẫn thường xảy ra qua giòng thời gian. Những kẻ không tin tưởng và cho rằng cái đói của linh hồn là một chuyện hoang đường, và họ đã bỏ Chúa mà đi. Còn chúng ta thì sao?
Điều quan trọng đó là chúng ta phải hiểu đúng ý định của Chúa và cố gắng thực hiện bằng cách siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ. Việc rước lễ đã ấn định một lằn mức phân chia những người tin và không tin.
Đúng thế, thánh lễ không phải chỉ là một đề mục trong cuộc sống người Kytô hữu, nhưng đúng là một phép lạ. Trong phần dâng lễ, linh mục đại diện cho tất cả chúng ta dâng tiến Chúa của lễ của cộng đồng. Trong phần truyền phép, qua tay linh mục, Chúa Giêsu đã biến đổi bánh rượu trở nên thịt máu Ngài, đó là giây phút trọng đại, qua đó Chúa tuôn đổ muôn vàn hồng ân của Ngài. Việc rước lễ là một bàn tiệc, để chúng ta được nhận lãnh của ăn nuôi sống linh hồn.
Nếu hiểu được như thế, thì mỗi ngày chúng ta hãy cố gắng thực hiện lệnh truyền của chúa, đó là
- Các con hãy nhận lấy mà ăn…Các con hãy nhận lấy mà uống…
36. Đức Giáo Hoàng.
Hãy tưởng tượng Đức Giáo Hoàng đến đất nước chúng ta, và ngài muốn lưu lại trong nhà của một gia đình nào đó. Và thật là một điều tuyệt diệu, nếu gia đình bạn được chọn để đón tiếp Đức Thánh Cha. Bạn sẽ làm mọi sự để chuẩn bị cho biến cố trọng đại đó và lòng đầy phấn khởi, hân hoan có phải không? Rồi một khi Đức Thánh Cha đến và bắt đầu sống trong gia đình bạn, bạn sẽ cẩn trọng, ý tứ trong mọi lời nói, hành động để bạn luôn luôn ở trong tư thế hoàn hảo nhất trước mặt ngài có phải không? Bạn sẽ hỏi ngài những gì bạn muốn biết, rồi xin ngài chỉ dẫn những gì đem lại bình an và yêu thương, bạn sẽ tìm nơi ngài những lời khích lệ và sung sướng về sự hiện diện của ngài, là Đấng Đại Diện của Chúa Kitô, có phải không? Đấy sẽ là một kinh nghiệm tuyệt vời đối với bạn, có phải không?
Bây giờ, nếu có ai nói chính Chúa Giêsu sẽ đến cư ngụ, không phải trong nhà bạn, nhưng trong tâm hồn của bạn. Đấy có phải là một kinh nghiệm tuyệt vời nhất hay không? Bây giờ, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng thực tại tuyệt vời đó xảy đến với chúng ta, khi chúng ta rước Chúa ngự trong phép Thánh Thể. Thách đố đối với chúng ta là phải học lại một lần nữa bằng cách suy nghĩ, biết ơn và cảm tạ Chúa Giêsu về hồng ân vĩ đại mà Ngài dành cho Chúng ta nơi bí tích Thánh Thể trong cuộc sống của chúng ta. Trong thánh lễ hàng ngày, có một Đấng còn cao cả hơn Đức Giáo Hoàng đến ngự trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Vậy chúng ta có sẵn sàng và chuẩn bị chu đáo để đón tiếp vị khách cao cả đó không?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con một đức tin sống động vào sự hiện diện của Chúa trong bí tích Thánh Thể và giúp con chuẩn bị tâm hồn sốt sắng mỗi khi tham dự thánh lễ.
37. Bánh Thánh Thể.
Trong một cuộc họp mặt đông đảo các Kitô hữu tại một nhà thờ ở Tây Đức để đón chào mẹ Têrêxa Calcutta, người ta đã dâng cho mẹ một bó hoa rất đẹp. Bỡ ngỡ trước lòng quý mến và trọng kính mà người ta đã dành cho mình, mẹ Têrêxa mới đầu tỏ ra hơi lúng túng, nhưng sau đó vài phút, với thái độ đơn sơ quen thuộc, mẹ đã ôm bó hoa đi thẳng lên cung thánh, mẹ quỳ gối nơi bậc bàn thờ rồi đặt bó hoa trước nhà tạm. Cử chỉ này cho thấy mẹ Têrêxa rất quý trọng phép Thánh Thể, vì Thánh Thể chính là nguồn tình yêu và nghị lực mà từ đó mẹ đã nhận được tình yêu và nghị lực cho cuộc sống dấn thân và phục vụ vô vị lợi của mẹ.
Qua các hoạt động bác ái, mẹ Têrêxa và các nữ tu dòng của mẹ đã nuôi dưỡng hàng ngàn trẻ em mồ côi, đã phục vụ hàng ngàn người nghèo đói, đã chăm sóc, chữa trị hàng trăm ngàn bệnh nhân và an ủi hàng chục ngàn người hấp hối. Nhưng vượt lên trên tất cả những hoạt động nhằm phục vụ cho sự sống thể xác, mẹTêrêxa đã đặc biệt chú trọng đến một nhu cầu mà mẹ thường nhấn mạnh và cho là căn bản, nó cần thiết hơn cả cơm ăn áo mặc nữa, nhu cầu đó là muốn được chấp nhận và được yêu thương.
Phép Thánh Thể có khả năng thỏa mãn nhu cầu cấp thiết đó, vì phép Thánh thể là một bằng chứng thật hùng hồn nhắc nhở và tái diễn mối tình muôn thuở, đó là mối tình của Thiên Chúa đối với loài người và mối tình của Chúa Giêsu đối với chúng ta. Thánh Gioan tông đồ đã quả quyết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một yêu dấu của mình cho thế gian”. Còn đối với Chúa Giêsu thì Kinh Thánh cho biết: “Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không dành cho mình phận ngang hàng với Thiên Chúa, mà Ngài đã hủy mình đi, Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Cái chết của Ngài là một thực hiện lời Ngài mạc khải trong bài Tin Mừng hôm nay: Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”. Bánh đó chính là thịt Ngài.
Quả thực, ai ăn thịt Chúa sẽ được tăng thêm ơn thánh hóa, được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và với các anh chị em tín hữu khác, được tha các tội nhẹ và bảo vệ khỏi tội trọng, và bảo đảm được một hiệu quả vô cùng cao quý là sự sống lại và sự sống đời đời. Nhưng với điều kiện là chúng ta phải rước Mình Thánh Chúa với thái độ tin và yêu. Để biểu lộ thái độ tin và yêu ấy đối với Đấng đã, đang và sẽ còn tiếp tục tự hiến thịt máu mình để cho chúng ta ăn và uống mà được sống, chúng ta hãy để cho tình yêu của Chúa biến đổi chúng ta thành những khí cụ ban phát tình yêu Thiên Chúa cho mọi người như mẹ Têrêxa Calcutta và các nữ tu thuộc dòng do mẹ sáng lập đang thực hiện khắp nơi trên thế giới.
Đó cũng là cách Chúa mời gọi chúng ta cùng làm phép lạ với Chúa, đó là câu kết luận của câu truyện sau đây: Có một gia đình giàu có, quý tộc người Anh, dẫn đứa con trai yêu quý về miền quê chơi. Trong khi nô đùa, chẳng may em bị rơi xuống một hố nước sâu mà cha mẹ không hay biết. Nhưng rất may tiếng kêu cứu của em đã được một chú bé, con của người làm vườn nghèo khó nghe được và chạy đến cứu sống.
Cha của em tỏ lòng biết ơn chú bé đã cứu sống con ông, nhưng thay vì lời cám ơn, ông muốn giúp đỡ chú bé ấy. Ông hỏi: “Khi lớn lên con muốn làm gì?” – “Thưa ông, chắc là con sẽ tiếp tục nghề làm vườn của cha con” – “Con không còn ước mơ nào lớn hơn sao?” – “Dạ, nhà con nghèo thế này thì con còn ước mơ gì được nữa” – “Nhưng nếu con được ước mơ thì con ước mơ gì?” – “Thưa ông, con muốn đi học, muốn là bác sĩ”.
Sau này, em bé được cứu sống đã trở thành một vĩ nhân của thế giới, đã giữ một vai trò quan trọng làm thay đổi cục diện thế chiến thứ II và đã làm cho nước Anh hãnh diện vì tài ba chính trị của ông, đó là thủ tướng Uyn-sân Chớc-chiu. Và nhờ lòng thương giúp đỡ của người cha của Chớc-chiu mà chú bé nhà nghèo kia đã trở thành một bác sĩ lừng danh của thế giới và là ân nhân của nhân loại cho đến ngàn đời, vị bác sĩ đó là Phơ-len-ning, người đã tìm ra thuốc trụ sinh Pê-nê-ci-lin.
Sau khi kể xong câu truyện trên, tác giả đã kết luận: “Khi Chúa mời gọi chúng ta giúp đỡ nhau là Chúa mời gọi chúng ta cùng làm phép lạ với Chúa”. Chúng ta hãy nhớ: Khi chúng ta giúp đỡ nhau là chúng ta cùng làm phép lạ với Chúa. Trở lại bài Tin Mừng hôm nay, điều chính yếu Chúa Giêsu muốn bảo cho người Do Thái xưa kia và chúng ta hôm nay: Ngài là bánh hằng sống, vì Ngài là Thiên Chúa hằng sống, chính vì thế kẻ ăn bánh này sẽ được tham dự vào sự sống của Chúa, họ sẽ được sống đời đời. Cho nên, người ta phải đón nhận Ngài không những bằng lòng tin mà còn phải ăn bánh đó, tức là ăn thịt Ngài nữa.
Chúa Giêsu dạy chúng ta về Bánh Thánh Thể, chúng ta có chấp nhận với lòng tin không? Nếu chúng ta không lãnh nhận của ăn này thì hậu quả sẽ ra sao? Tất nhiên là chúng ta không được “chất bổ” của thứ bánh bởi trời này, mà ngược lại, còn bị xét xử, đoán phạt, chết đời đời. Cũng như nếu chúng ta bệnh tật, thuốc men có đó mà chúng ta nhất định từ chối không dùng thì chúng ta không khỏi bệnh là tại chính chúng ta thôi. Cũng vậy, ai trong chúng ta cũng muốn ăn no, mặc ấm, mà còn muốn ăn ngon, mặc đẹp nữa, muốn gia đình hạnh phúc, kể cả những người đầy đủ cũng thế, họ vẫn mơ ước thêm nữa, vậy thì chúng ta muốn có sau 50, 60 hay 70 năm trần thế này được sống hạnh phúc mãi bên Chúa không? Hãy đến với bí tích Thánh Thể, hãy hết lòng tin vào phép Thánh Thể. Bánh Thánh Thể là của ăn cho chúng ta no ấm đi hết quãng đời này về trời.
Thánh Thể không phải chỉ là một lời hứa trường sinh bất tử nhưng còn là một bảo chứng: hôm nay thân xác chúng ta đã được dự tiệc Thánh thể, thì sau này thân xác chúng ta sẽ được dự tiệc thiên quốc. Tiệc Thánh thể mới chỉ là khai vị chuẩn bị cho tiệc thiên quốc. Chúng ta hãy siêng năng rước lễ để bảo đảm cho cho cuộc sống hạnh phúc muôn đời.
38. Bánh Hằng Sống.
Nhà văn James Colaianni ghi lại một chuyện như sau:
Một gia đình nghèo khó nọ ở một làng thuộc nước Nam Tư đã định tâm di cư đến nước Hoa Kỳ. Gia đình này gồm ba mẹ, một em bé trai, và bốn em gái nhỏ. Trước khi đi, những người thân thuộc đã cho gia đình đó những món quà đơn sơ như bánh mì và một vài cục phó mát.
Ngày họ lên tàu, họ rất ngỡ ngàng với những cảnh ở thế giới bên ngoài. Ngày đó là một ngày mùa đông giá lạnh, nên sau khi lên tàu, họ liền chui xuống chỗ ngồi hạng ba ở gầm tàu. Họ đã ở đó và ăn những ổ bánh mì mà những người thân đã tặng cho họ lúc họ rời Nam Tư. Họ cố gắng ăn ít bao nhiêu có thể hầu có đủ lương thực cho chuyến đi đến Hoa Kỳ.
Ngày cuối cùng của cuộc hành trình, em bé trai cảm thấy mệt mỏi nên em đã xin phép ông bố để đi lên trên boong tàu nhìn ngắm cảnh vật.
Sau khi em bé đã đi cả một tiếng đồng hồ mà không thấy trở về, ông bố cảm thấy lo và đi lên boong tàu để kiếm em. Ông bố đã tìm thấy em bé đang ngồi trong một cái nhà cơm thật thịnh soạn và đang ngồi tại một cái bàn với đầy đủ đồ ăn thịt rau và trái cây.
Khi nhìn thấy như vậy, tim ông bố như bị ngừng đập. Trong tâm trí, ông đang nghĩ ra cái cảnh khi vừa đặt chân đến nước Hoa Kỳ, ông sẽ phải vô trong tù bởi vì ông quá nghèo không đủ tiền để trả cho những thức ăn mà người con trai của ông đang ăn.
Khi người con trai nhìn thấy bố mình hoảng hồn như thế liền nói: "Bố ơi, đừng sợ, bữa ăn này không mất tiền. Trong khi chúng ta ở dưới gầm tàu ăn uống thanh đạm thì mọi người trên tàu này đều ăn uống thả dàn như thế này. Các món ăn này đã được tính cả vào trong vé tàu của mình rồi."
Trong thế giới này có biết bao nhiêu người nghèo khổ giống như gia đình nghèo khổ Nam Tư đó. Họ hành trình trong cuộc sống mà hoàn toàn không để ý rằng có một Bữa Tiệc Thần Thiêng. Đó là bữa tiệc Thánh Thể và nó đã được tính vào vé của cuộc sống.
Chúa Giêsu đã nói đến bữa tiệc thần diệu này trong bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Gn 6:51).
Sự khác biệt giữa Bánh Hằng Sống và bánh ăn thường thì vượt xa vời vợi. Khi chúng ta ăn bánh thường, bánh ấy sẽ trở nên thân xác chúng ta. Nhưng khi chúng ta ăn Bánh Trường Sinh thì hiệu quả khác biệt. Bánh ấy không trở nên thân xác chúng ta, nhưng chúng ta trở nên Bánh Trường Sinh. Bánh ấy sẽ biến đổi chúng ta thành Thân Mình Chúa Kitô. Và đó chính là lý do tại sao khi chúng ta ăn bánh ấy, chúng ta sẽ được sống đời đời. Nếu chúng ta dành ra một đôi phút để nghĩ về mầu nhiệm kỳ diệu này, chúng ta sẽ cảm thấy rất ngạc nhiên về món quà rất quí giá này.
Thật là một điều bất hạnh khi phải hành trình trong cuộc sống mà không biết gì đến món quà rất quí giá này. Thật là một điều bất hạnh cho những ai đang đi trên đường đời mà không biết gì đến Bữa Tiệc Thần Diệu đi chung với cái vé cuộc đời.
Tuy nhiên, còn đau thương hơn nữa là có những người đi trên đường đời biết đến Bữa Tiệc Thần Diệu, nhưng coi thường bữa tiệc này và không biết ơn Đấng ban cho chúng ta Bữa Tiệc Thánh ấy. Có khi chúng ta lãnh nhận Mình Thánh theo một thói quen và chúng ta khinh thường Mình Thánh. Chúng ta đã không còn biết tôn kính Mình Thánh và sự thiếu kính trọng đó đã được bộc lộ qua các hành động của chúng ta.
Chúng ta hãy xét xem chúng ta có biết cầu nguyện trước khi và sau khi rước Chúa không? Điều gì đã ở trong trí óc của chúng ta trước và sau khi rước Chúa? Chúng ta có cầu nguyện với Ngài như là một người bạn không? Chúng ta có cám ơn Ngài, xin Ngài tha thứ những lỗi lầm, và nói với Ngài những khó khăn của chúng ta không?
Cái gia đình Nam Tư nghèo khổ trong câu truyện trên thật là tội nghiệp, bởi vì đã đi hết chuyến vượt đại dương mà không biết rằng cái vé tàu bao luôn cả phần ăn nữa. Và còn tội nghiệp hơn nữa cho một số người trải qua đường đời mà không biết gì đến Bữa Tiệc Thánh đến với họ cùng với cái vé cuộc đời.
39. Thánh Thể.
Kinh Thánh đã đưa ra nhiều hình ảnh ám chỉ đến bữa tiệc Thánh Thể. Từ những lễ vật của Cựu ước đến Manna trong hoang địa. Thế nhưng, phép lạ bánh hóa nhiều là một hình ảnh vừa gần gũi, lại vừa trực tiếp nhất.
Bởi vì sau phép lạ ấy Chúa Giêsu đã xác quyết:
- Ta là bánh hằng sống từ trời xuống…Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống…
Tất cả những hình ảnh ấy đã được Chúa Giêsu thực hiện một cách trọn vẹn trong bữa tiệc ly vào buổi chiều ngày Thứ Năm Tuần Thánh, khi Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể.
Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và nói:
- Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con.
Rồi Ngài cầm lấy chén rượu và nói:
- Này là chén máu Ta, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội.
Vậy thì Bí tích Thánh Thể có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
Trước hết, Bí tích Thánh Thể là hy tế tưởng niệm và tạ ơn hoàn hảo nhất dâng lên Thiên Chúa để đền bù vì tội lỗi chúng ta.
Thực vậy, qua cái chết và sống lại, Chúa Giêsu đã trở nên lễ tế hoàn hảo nhất, bởi vì Ngài là Đấng thánh thiện tuyệt vời, được sánh ví như một con chiên vượt qua thanh sạch, không tì vết, để đền bù thay cho chúng ta.
Đúng thế, tội lỗi là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa, tự sức riêng chúng ta không thể nào đền bù cho cân xứng. Với cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã đền bù thay cho chúng ta và hy tế này, ngày hôm nay vẫn còn được tái diễn trong thánh lễ để kéo ơn sủng và tình thương của Thiên Chúa xuống cho chúng ta.
Tiếp đến, Bí tích Thánh Thể chính là lương thực nuôi sống tâm hồn chúng ta.
Thực vậy, phần xác chúng ta muốn được sống thì cần phải ăn. Phần hồn chúng ta muốn được sống thì cũng cần phải ăn. Dĩ nhiên, không phải là cơm gạo vật chất, nhưng là chính thịt máu Chúa Giêsu như lời Ngài đã từng xác quyết:
- Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày tận thế.
Nhờ của ăn thần linh này, tâm hồn chúng ta được bổ dưỡng để có đủ sức khỏe tiến bước trong cuộc lữ hành trần gian, và sẽ đạt tới bờ bến Nước Trời.
Sau cùng, Bí tích Thánh Thể còn là sợi dây liên kết, không phải chỉ liên kết chúng ta lại với Chúa, mà hơn thế nữa còn liên kết chúng ta lại với nhau.
Thực vậy, nơi bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta đều bình đẳng với nhau, không phân biệt địa vị và tuổi tác. Đồng thời, nơi bàn tiệc Thánh Thể chúng ta còn chia sẻ cùng nhau một thứ lương thực thiêng liêng, đó là Mình và Máu Thánh Đức Kitô, như lời thánh Phaolô đã nói:
- Mặc dù chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng ăn một bánh, cùng uống một chén, cùng làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Chính vì thế, Bí tích Thánh Thể đòi buộc chúng ta phải biết yêu thương nhau, giúp đỡ nhau và chia sẻ cùng nhau gánh nặng cuộc đời.
Cộng đoàn các tín hữu sơ khai đã để lại cho chúng ta mẫu gương sáng chói về vấn đề này: Họ thường tụ tập nhau lại để tham dự nghi lễ bẻ bánh, tức là Bí tích Thánh Thể. Rồi trong cuộc sống, họ gom góp tài sản đặt dưới chân các tông đồ, để tùy các ngài phân phối theo nhu cầu. Với một nếp sống như thế, dân ngoại đã phải trầm trồ khen ngợi:
- Kìa xem họ yêu thương nhau biết là chừng nào.
Còn chúng ta thì sao? Cuộc đời của chúng ta có phải là một thánh lễ nối dài hay không? Và trong cuộc sống chúng ta có biết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau như Bí tích Thánh Thể đòi buộc? Hay là, ở nhà thờ chúng ta là những con chiên ngoan, nhưng khi bước xuống lòng cuộc đời, chúng ta vội lột xác thành một loài lang sói, luôn oán ghét, thù hận, gầm gừ và cắn xé lẫn nhau.
40. Bánh hằng sống.
Đoạn Tin Mừng này có thể nói có bốn phần: trước hết là phản ứng của người Do thái về lời tuyên bố của Chúa Giêsu, khi Chúa nói thịt Ngài là của ăn ban cho họ được sống muôn đời. Phản ứng của họ lần này có vẻ mạnh hơn trước. Họ xô xát và tranh luận với nhau. Họ đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen: là một người như họ, làm sao có thể lấy thịt mình cho họ ăn?
Phần thứ hai, trước phản ứng có vẻ dữ dội của người Do thái, Chúa Giêsu vẫn không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”, nghĩa là hiệu năng dinh dưỡng mà thịt máu Chúa đem lại cho kẻ lãnh nhận, là sự sống muôn đời và sự phục sinh từ trong cõi chết.
Phần thứ ba, Chúa Giêsu cho biết của ăn của uống này tác động như thế nào. Của ăn vật chất chúng ta ăn thì biến thành thịt máu ta. Còn thịt máu Chúa mà chúng ta ăn, chúng ta uống, lại đưa chúng ta vào một sự kết hiệp mật thiết với Ngài: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”.
Cuối cùng, Chúa Giêsu nhắc lại hiệu lực của manna cũ để so sánh với hiệu lực của manna mới: manna cũ, những người ăn đã chết. Manna mới, những người ăn sẽ sống đời đời. Kết thúc bài giảng của Chúa Giêsu như vậy quả là tốt đẹp và gọn gàng. Chính người Do thái gợi ra câu chuyện manna, thì Chúa Giêsu lại dùng ngay câu chuyện ấy để so sánh và mạc khải về bánh bởi trời đích thực, bánh ban sự sống muôn đời.
Những lời Chúa Giêsu giảng dậy ở đây có đúng là ý nghĩa về bí tích Thánh Thể mà giáo lý Công giáo thường hiểu không hay đây cũng chỉ là kiểu nói tượng trưng? Chúng ta có thể trả lời ngay rằng: Những lời Chúa Giêsu giảng dạy ở đây thực sự là nghĩa đen thông thường, nói về phép Thánh Thể chứ không phải là nói tượng trưng. Cũng như trong bữa Tiệc Ly, Chúa nói: “Nầy là Mình Thầy”, “Này là chén Máu Thầy”, “Cái này là tượng trưng cho Máu Thầy”. Nếu có gì lầm lẫn trong ý nghĩa đó, chắc Chúa đã cải chính hay sửa chữa lại. Nhưng dù dân chúng phản đối dữ dội, Chúa vẫn không thay đổi cách nói, Ngài không cải chính hay sửa lại điều gì, và suốt 20 thế kỷ qua vẫn giữ nguyên ý nghĩa đó.
Là con cái Chúa ở đầu thế kỷ 21 này, chúng ta không có lý do gì để nói rằng: chúng ta không biết, không hiểu về thứ bánh mà Chúa Giêsu đã mạc khải cách đây hai ngàn năm. Thứ bánh đó là bánh Giêsu, bánh có tên là Giêsu, là bánh từ trời xuống, có khả năng đem lại cho con người sự sống và sự sống đời đời. Nói tóm lại, điều chính yếu Chúa Giêsu muốn dạy bảo người Do thái xưa kia và chúng ta hôm nay rằng: Ngài là bánh hằng sống. Ai ăn bánh này sẽ được tham dự vào sự sống của Ngài và sẽ được sống đời đời.
Phép Thánh Thể là một bằng chứng thật hùng hồn nhắc nhở và tái diễn mối tình muôn thuở, đó là mối tình của Thiên Chúa đối với loài người và mối tình của Chúa Giêsu đối với chúng ta. Thánh Gioan tông đồ đã quả quyết: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một yêu dấu của Ngài cho thế gian”. Còn đối với Chúa Giêsu thì Kinh Thánh cho biết: “Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không giành cho mình phận ngang hàng với Thiên Chúa, mà Ngài đã hủy mình đi, Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Cái chết của Ngài là một thực hiện lời mạc khải trong bài Tin Mừng hôm nay: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Bánh đó, vẫn theo lời Chúa Giêsu, chính là thịt Ngài.
Quả thực, ai ăn thịt Chúa sẽ tìm được sức mạnh thánh hóa và nhận được một hiệu quả vô cùng cao quí là sự sống lại và sự sống đời đời. Nghĩa là đến với Chúa, tin vào Chúa, và ăn thịt Ngài là chúng ta lãnh nhận được sự sống đời đời ngay từ bây giờ, bởi vì mỗi lần lãnh nhận Thánh Thể là chúng ta lãnh nhận chính mầm sự sống đời đời. Cũng vậy, tin vào sự sống đời đời không phải là phủ nhận cuộc sống trần gian, nhưng chính là làm cho cuộc sống trần gian có ý nghĩa, vì sự sống đời đời lớn lên trong cuộc sống trần gian, và chính sự sống đời đời thôi thúc chúng ta làm cho cuộc sống trần gian tốt đẹp hơn.
Ai trong chúng ta không những muốn ăn no, mặc ấm mà còn muốn ăn ngon, mặc đẹp nữa, muốn hạnh phúc, kể cả những người đầy đủ cũng thế, họ còn muốn và ước mơ thêm nữa. Vậy anh chị em có muốn sau 60, 70 hay 80 năm trần thế này được sống hạnh phúc mãi bên Chúa không? Hãy đến với Bí tích Thánh Thể, hãy hết lòng tin vào phép Thánh Thể, và hãy siêng năng lãnh nhận Thánh Thể, để Mình Máu Chúa tăng thêm niềm tin, lòng yêu mến, sự hy vọng và giúp chúng ta sống hào hùng, sống tốt đẹp ở đời này và bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc đời sau.
41. Hiệp thông.
Sự hiện diện thể chất là một điều cao cả. Chúng ta thường không nhận ra điều đó cho đến khi một người thân yêu của chúng ta vắng mặt. Và cả nhà phải sững sờ nhiều hơn khi một người thân yêu qua đời, để lại một khoảng trống to lớn.
Sự hiện diện thể chất là một điều cao cả. Nhưng nó không phải là tất cả. Sự hiện diện thể chất thường không tạo ra sự thân mật mà chúng ta mong ước. Thật vậy, người ta có thể ngồi cạnh nhau mà không thật sự hiện diện cho nhau. Có thể không có sự giao tiếp và ít có sự hiệp thông giữa họ. Và căn cứ vào tất cả những gì xảy ra giữa họ, họ như thể xa nhau ngàn dặm. Nhưng điều ngược lại cũng có thể xảy ra. Người ta có thể xa nhau một khoảng cách lớn nhưng hiện diện cho nhau rất nhiều.
Chúng ta tin rằng Đức Giêsu hiện diện trong Thánh Thể nhưng Người không hiện diện một cách thể chất. Tuy nhiên, Người hiện diện chính xác và chân thật. Cách thức hiện diện của Người bên ngoài sự hiểu biết của chúng ta. Chúng ta gọi đó là “hiện diện thật” bởi vì đó là sự hiện diện với ý nghĩa đầy đủ nhất. Đón nhận quà tặng Thánh Thể là đón nhận chính Chúa.
Dĩ nhiên, người ta được yêu cầu phải có một hành động đức tin. Nhưng đối với những người tin rằng Thiên Chúa hiện diện trong mọi vật ở mọi nơi, thì sự hiện diện duy nhất và đặc biệt của Người trong Thánh Thể không phải là một vấn đề lớn. Ngoài ra, chúng ta còn có lời của Đức Giêsu: “Đây là mình Thầy… Đây là máu Thầy”, Thánh Xirilô nói: “Đừng nghi ngờ đó là sự thật, nhưng tốt hơn nên đón nhận Lời của Đấng Cứu Thế trong đức tin, vì Người không thể nói dối”.
Các cách diễn tả “Ăn thịt” và “uống máu” không nên hiểu theo nghĩa đen và từng chữ một. “Mình và Máu” phải được hiểu như con người toàn diện. Khi chúng ta ăn bánh và uống rượu nho của Thánh Thể, chúng ta không tiếp nhận mình và máu. Chúng ta tiếp nhận một con người, một ngôi vị hằng sống.
Trong Thánh Thể, Đức Giêsu đến với chúng ta, không phải dưới hình thức một vật như một cái đài thu thanh, hoặc một cái áo, hoặc thuốc men. Người đến dưới hình thức của một vật nền tảng hơn, và thiết yếu cho đời sống, đó là lương thực. Đặc biệt hơn Người đến dưới hình thức của bánh. Bánh nuôi dưỡng chúng ta và cho chúng ta sự sống. Nhưng bánh cũng là một vật mà chúng ta có thể đưa vào trong cơ thể chúng ta và làm thành một phần của chính chúng ta. Qua lương thực Thánh Thể Đức Giêsu nuôi dưỡng trong chúng ta sự sống trường sinh bất tử của Thiên Chúa mà chúng ta đã nhận lãnh trong phép Rửa tội. Đó là lý do Người nói: “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.
Khi chúng ta tiếp nhận Thánh Thể, Đức Giêsu đến với mỗi người chúng ta một cách cá nhân, như thể mỗi người chúng ta là một người duy nhất trong thế giới này ở giây phút đó. Chúng ta có thể bước vào sự thân mật sâu xa với Người hơn cả khi Người hiện diện bằng thể chất. Chúng ta hầu như không giao tiếp với Người nhưng trong sự hiệp thông với Người, một sự hiệp thông thánh thiện. Qua phép Thánh thể một sự liên kết tâm linh được củng cố giữa chúng ta với Đức Giêsu. Thánh Thể cho chúng ta khả năng lớn lên trong sự thân mật và trong tình bạn hữu với Chúa.
Và qua việc chúng ta chia sẻ sự thân mật với Đức Giêsu, chúng ta cũng hiệp nhất với nhau trong sự hiệp thông, điều mà chúng ta phải cố gắng sống trong đời sống thường ngày bằng sự yêu thương, tha thứ và hòa hợp với nhau.
42. Đời sống.
Chủ đề của bài Tin Mừng hôm nay dành để nói về Thánh Thể. Chúng ta hoàn toàn tin một điều rất quan trọng là Đức kitô hiện diện thật trong Thánh Thể. Tuy không phải là sự hiện diện thể chất nhưng vẫn là sự hiện diện thật. Đối với những người tin rằng Thiên Chúa hiện diện trong mọi vật và ở mọi nơi thì sự hiện diện đặc biệt của Người trong Thánh Thể không phải là một vấn đề lớn. Mặt khác, chúng ta còn có lời của Đức Giêsu: “Đây là mình Thầy… đây là máu Thầy”. Và Chúa Giêsu không thể nói dối.
Khi chúng ta rước lễ, Đức Giêsu đến với mỗi người chúng ta một cách cá nhân, như thế mỗi người chúng ta là một người duy nhất trong thế giới này vào giây phút đó. Một sự liên kết tâm linh được củng cố giữa chúng ta với Người mà kết quả là chúng ta có thể đi vào sự thân mật sâu xa với Người hơn cả khi Người hiện diện bằng thể chất. Chúng ta phải dùng thời gian tuyệt diệu này để lớn lên trong sự thân mật và trong tình bằng hữu với Chúa.
Tuy nhiên, chúng ta không bao giờ quên rằng Đức Giêsu mà chúng ta tiếp nhận trong Thánh Thể cũng là Đức Giêsu đã ban sự sống của Người cho chúng ta. Những lời thánh hiến nhắc chúng ta nhớ lời này: “Đây là mình Thầy ban cho các con… Đây là máu Thầy sẽ đổ ra vì các con”. Vì thế, hiệp lễ phải gợi ra tinh thần hy sinh trong chúng ta. Khi nhận lương thực này, chúng ta được nhắc lại rằng, giống như Đức Kitô, chúng ta cũng phải sẵn sàng hiến dâng chính mình để phục vụ người khác.
Mẹ Têrêxa ở Calcutta có một qui định, khi một người mới đến để vào dòng của Mẹ, Dòng Thừa Sai Bác Ai thì ngay ngày hôm sau, người ấy phải đến Nhà bệnh nhân hấp hối. Một ngày kia, có một cô gái từ bên ngoài nước An Độ đến và Mẹ Têrêxa đã nói với cô: “Con đã thấy linh mục chạm vào Đức Giêsu trong bánh thánh lúc cử hành thánh lễ với sự yêu thương và chăm sóc như thế nào. Bây giờ con cũng đi đến nhà của những người hấp hối và làm như thế, bởi vì con sẽ tìm thấy ở đó, trong những thân thể đau thương của người nghèo thân thể Đức Giêsu”.
Ba giờ sau chị trở về và với nụ cười trên môi chị nói với Mẹ: “Thưa Mẹ, con đã chạm vào thân thể Đức Kitô trong suốt ba giờ”. “Thế nào? Con đã làm gì? Mẹ Têrêxa hỏi chị. “Khi con đến đó”, chị đáp “người ta khiêng vào một người đàn ông đã ngã xuống một cống nước, và cứ nằm ở đó trong một thời gian. Người ông bẩn thỉu và có vài vết thương. Con đã tắm rửa và lau các vết thương cho ông. Khi con làm như thế, con biết rằng con đã chạm vào thân thể của Đức Kitô”. Để có thể thực hiện được điều ấy chúng ta cần sự giúp đỡ của chính Chúa. Trên hết là sự giúp đơ mà Thánh Thể đem lại cho chúng ta. Mẹ Têrêxa khẳng định điều đó như sau: “ Trong Bí tích Thánh thể, tôi nhận được lương thực tâm linh nâng đỡ tôi trong mọi công việc. Không có Thánh Thể, tôi không thể sống nổi dù chỉ một ngày hoặc một giờ trong đời tôi”.
43. Hiệp nhất.
Một lần kia, có một người thương gia giàu có. Trong nhà ông còn có người con trai ông vừa mới lập gia đình và vợ anh. Người con trai có tấm lòng nhân hậu và ân cần làm việc bác ái, giúp đỡ người nghèo.
Ít lâu sau, người vợ trẻ sinh một bé trai. Để ăn mừng, ông nội của bé chuẩn bị một bữa tiệc lớn. Gần đến ngày tổ chức bữa tiệc, người con hỏi:
“Thưa cha, xin cha cho con biết, cha định sắp xếp chỗ ngồi cho khách như thế nào? Nếu cha theo đúng tục lệ xếp người giàu ngồi ở đầu bàn và người nghèo ở gần cửa ra vào thì điều ấy sẽ làm con khổ tâm. Cha biết rất rõ con yêu thương người nghèo như thế nào. Vì đây là tiệc mừng của con, xin cha cho con tôn vinh những người không có danh phận. Xin cha hứa với con cha sẽ xếp người nghèo ở đầu bàn và người giàu ở cuối bàn, gần cửa ra vào”.
Cha của anh lắng nghe chăm chú và đáp lại: “Con ơi, khó mà thay đổi thế gian. Con thử nghĩ xem: Tại sao người nghèo đến dự tiệc? Bởi vì họ đói và muốn ăn thức ăn ngon. Tại sao người giàu đến dự tiệc? Để được vinh dự. Họ đến không phải để ăn, bởi vì nhà họ có đầy đủ.
“Bây giờ con hãy tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra khi xếp người nghèo ở đầu bàn. Họ ngồi đó, cảm thấy rất e dè như mọi con mắt đang nhìn mình, và vì thế họ thẹn thùng không dám ăn cho thật no. Và họ không thưởng thức trọn vẹn những món họ ăn. Con không nghĩ, vì quyền lợi của họ, tốt hơn nên xếp cho họ ngồi chỗ không ai để ý đến là ở cửa ra vào, ở đó họ có thể ăn uống thỏa thuê mà không phải xấu hổ đó sao?
“Còn nữa, giả sử cha làm theo điều con yêu cầu và xếp người giàu ngồi ở cửa ra vào. Con không nghĩ họ sẽ cảm thấy bị xúc phạm sao? Họ không đến để ăn mà vì vinh dự. Và phải chăng con không cho họ điều mà họ muốn sao?
Thánh lễ là một bữa tiệc mà Đức Giêsu đáp ứng cho các môn đệ của Người. Tất cả chúng ta đều đến bữa tiệc ấy với cái đói, chúng ta đều cần bánh ăn mà chỉ có Đức Giêsu có thể ban cho – bánh của sự sống đời đời. Và tất cả chúng ta đến đây nghèo khó trước mặt Thiên Chúa. Ở đây chúng ta đều được nuôi sống và đều được vinh dự, bởi vì ở đây mỗi chỗ là một chỗ vinh dự.
Hơn thế nữa qua Thánh Thể một sự liên kết tinh thần được củng cố giữa chúng ta. Qua sự thân mật mà chúng ta chia sẻ với Đức Giêsu, chúng ta cũng được hiệp nhất với nhau. Sự hiệp nhất này là điều mà chúng ta phải thể hiện trong đời sống thường ngày qua sự yêu thương, tha thứ và hòa hợp.
44. Máu thịt Đức Giêsu là của ăn tâm linh - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Chúng ta đã mang danh là «ăn uống Mình Máu Thánh Chúa» bao nhiêu lần, thậm chí hằng ngày suốt bao năm trường. Nhưng đời sống tâm linh của ta có thật sự tiến triển không? Có những bước tiến vĩ đại - như đúng lý phải có - so với những người không «ăn uống Mình Máu Thánh Chúa» không?
2. Nếu không có những bước tiến to tát, thì có phải do Lời của Đức Giêsu không đúng, hay do quan niệm về Thánh Thể và cách thức «ăn uống Mình Máu Thánh Chúa» của chúng ta không đúng?
3. Phải quan niệm về bí tích Thánh Thể thế nào? và phải «ăn uống Mình Máu Thánh Chúa» thế nào cho đúng?
Suy tư gợi ý:
1. «Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống»
Như lời xác nhận của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, thì bản thân Ngài chính là lương thực nuôi dưỡng và bồi bổ tâm linh con người. Vấn đề mà chúng ta cần phải đặt ra hôm nay không còn là lý giải chân lý ấy nữa, mà là áp dụng chân lý ấy vào đời sống tâm linh thực tế của chúng ta. Cả đời người Kitô hữu từ lúc rước lễ lần đầu đến lúc chết, việc áp dụng chân lý này trong đời sống tâm linh luôn luôn được những người hướng dẫn tâm linh nhắc nhở, khuyến khích thực hiện bằng việc rước lễ, tức rước Mình Máu Thánh Đức Giêsu.
Tuy nhiên, lâu lâu chúng ta cũng cần phải nhìn lại xem việc áp dụng chân lý quan trọng ấy có thật sự đem lại kết quả thực tế trong đời sống chúng ta chưa, và kết quả thế nào, có thật sự thỏa mãn chúng ta đúng như lời Đức Giêsu hứa chưa. Nếu quả thực sau nhiều năm rước Mình và Máu Thánh Đức Giêsu vào lòng mà chúng ta cảm thấy có tiến bộ thật sự trong đời sống tâm linh, thì đó là một điều hết sức đáng mừng. Nhưng nếu không được như vậy thì chúng ta cần phải xét lại. Cũng tương tự như khi uống một loại thuốc bổ được mọi người nói là thần dược một thời gian mà không thấy có kết quả gì khác lạ hơn là khi không uống, ắt nhiên ta phải lấy làm lạ, và phải đặt lại vấn đề. Có thể lời người ta ca tụng về loại thuốc ấy là sai sự thật, nhưng cũng có thể là ta đã sử dụng không đúng cách loại thuốc ấy.
Là người Kitô hữu hay tu sĩ lâu năm, nếu ta đã rước lễ hàng ngày hay hàng tuần suốt mấy chục năm trường rồi, mà ta vẫn không thấy mình tiến bộ về mặt tâm linh hơn những người ngoại, hay hơn những người khô khan ít lãnh nhận bí tích, thì ta cần đặt vấn đề lại. Trong thời đại khoa học thực nghiệm này, sự tiến bộ tâm linh nếu có ắt phải được được chứng tỏ bằng những sự kiện rõ rệt như: khả năng yêu thương ngày càng rộng rãi và bao trùm hơn, tính vị tha ngày càng nhiều hơn, có khả năng hy sinh cho tha nhân nhiều hơn, nội lực tinh thần mạnh mẽ hơn, sự khôn ngoan kiểu Thiên Chúa (chứ không phải kiểu trần gian) tăng triển hơn, bình an và hạnh phúc trong tâm hồn nhiều hơn và biểu hiện rõ rệt hơn, v.v… Nếu không có được những dữ kiện cụ thể như thế, chúng ta nên thành thật nhìn nhận rằng mình đã không tiến bộ tâm linh gì cả hay bao nhiêu. Lúc đó, chúng ta cần đặt lại vấn đề quan niệm về bí tích Thánh Thể và cách rước Chúa của chúng ta.
2. Cần quan niệm cho đúng về bí tích Thánh Thể
a) Bí tích Thánh Thể không phải là bùa chú hay phù phép
Nhiều Kitô hữu quan niệm Mình Máu Thánh Chúa tương tự như một thứ bùa chú hay phù phép, cứ việc nuốt vào bụng là tự động sinh hiệu quả mong muốn. Quan niệm như thế thì thật là sai lầm. Họ quan niệm Thánh Thể không khác gì những yêu tinh trong truyện Tôn Ngộ Không quan niệm về thịt Đường Tăng, cho rằng hễ ăn được thịt của ông thì sẽ tự nhiên sống lâu trường thọ. Nếu có khác thì chỉ khác ở chỗ thay vì trường thọ về mặt thể chất thì được trường thọ hay phát triển về mặt tâm linh, mà không cần phải có một ý thức hay nỗ lực nào.
b) Thức ăn tâm linh thì phải ăn bằng tâm linh
Thực ra, Mình Máu Thánh Chúa hay thịt và máu Đức Giêsu là của ăn tâm linh bổ dưỡng tâm hồn. Thức ăn tâm linh thì chủ yếu phải ăn bằng tâm linh chứ không phải bằng thể xác. Điều quan trọng để được bổ dưỡng tâm linh là phải gặp gỡ được Đức Giêsu và nhận được sức mạnh từ nơi Ngài. Việc gặp gỡ Ngài ở đây cũng cần được hiểu là gặp gỡ bằng tâm linh chứ không phải bằng thể chất.
c) Gặp gỡ Thiên Chúa phải gặp gỡ bằng tâm linh
Nếu chỉ gặp gỡ bằng thể chất mà thôi thì hoàn toàn chẳng ích lợi gì. Các kinh sư Do-thái xưa cũng gặp gỡ và nói chuyện với Đức Giêsu nhiều lần, nhưng họ có được biến đổi gì đâu, trái lại họ chỉ trở nên tồi tệ, cứng lòng và độc ác hơn. Một chàng trai ăn chơi hưởng lạc trong ổ gái điếm, tuy chung đụng xác thịt với các cô gái, nhưng như thế đâu phải là gặp gỡ họ đúng nghĩa. Trong một đống gạch, hai viên gạch xếp cạnh nhau hay chồng lên nhau, tuy có trực tiếp tiếp xúc với nhau thật lâu, nhưng như thế đâu thể gọi là gặp gỡ.
Sự gặp gỡ đòi hỏi một thái độ nội tâm hơn là tiếp xúc bằng thể chất. Văn chương Việt Nam có câu: «Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng» (có duyên với nhau thì dù xa cách ngàn dặm vẫn có thể gặp nhau, còn không có duyên với nhau thì dù có đối diện với nhau cũng chẳng thể gặp nhau). Vì thế, có biết bao Kitô hữu nuốt Thánh Thể vào bụng hằng ngày mà chưa bao giờ thật sự gặp được Đức Giêsu. Vì thế, họ có rước lễ hằng ngày suốt cả cuộc đời thì đời sống tâm linh của họ chẳng hề thay đổi, bởi họ chẳng hề được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể. Nếu thật sự gặp gỡ Đức Giêsu, tâm hồn ta chắc chắn phải được biến đổi. Thời Ngài còn tại thế, có những người chỉ cần thật sự gặp gỡ Ngài một lần là được biến đổi hoàn toàn như Da-kêu (Lc 19,1-10), người trộm lành (Lc 23,39-43)…
d) Muốn thật sự gặp gỡ Đức Giêsu, phải có tình yêu
Theo câu nói văn chương trên thì điều quan trọng để thật sự gặp nhau là phải có «duyên» với nhau. Muốn gặp Chúa, kết hiệp hay nên một với Ngài thì phải có «duyên» với Ngài, nghĩa là phải có một sự đồng cảm hay một sự giống nhau nào đấy với Ngài. Ta thấy dầu và nước không thể hòa tan với nhau được, vì hóa tính của hai chất không giống nhau. Hai chất phải có những hóa tính căn bản giống nhau mới hòa tan với nhau được. Cũng vậy, «Thiên Chúa là tình yêu» (1Ga 4,8.16), nên muốn gặp Ngài hay kết hiệp với Ngài thì chính mình cũng phải có ít nhiều tình yêu, có lòng vị tha, có thiện chí muốn gặp gỡ Ngài bằng bất cứ giá nào. Một người có tính ích kỷ, lãnh đạm với mọi người, hay có tính ganh tị, ghen ghét thì khó mà gặp được Chúa, dẫu họ có rước lễ cả chục lần một ngày. Thánh Gioan xác định: « Ai không yêu thương, thì không biết (=kinh nghiệm về) Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu» (1Ga 4,8); « Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta » (4,12); « Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao Thiên Chúa ở trong người ấy được? » (3,17).
Phương cách «ăn» Mình và Máu Thánh Đức Giêsu
Ăn theo nghĩa vật chất đòi hỏi một số tác động như đưa thức ăn vào miệng, nhai, nuốt, và sau đó là cả một tiến trình làm việc âm thầm của dạ dày, gan, mật, ruột… để biến thức ăn thành chất bổ dưỡng. Tất cả đều là tác động thể chất. Còn «ăn thịt» và «uống máu» Đức Giêsu hoàn toàn là những tác động tâm linh. Hình bánh, rượu và tác động nuốt vào bụng đều là những dấu chỉ mang tính bí tích nói lên một thực tại tâm linh có thực ở đằng sau. Nếu chỉ ăn hay uống Ngài theo kiểu vật chất thì chẳng khác gì ăn một mẩu bánh hay uống một ly rượu, chẳng ích lợi gì cho tâm linh ta cả. Do đó, cần phải biết «ăn» hay «uống» Ngài theo kiểu tâm linh. Tôi đã trình bày vấn đề này trong hai bài chia sẻ trước (Chúa Nhật 18 và 19 Thường Niên). Cách «ăn» hay «uống» ấy hệ tại việc ý thức thường xuyên Đức Giêsu là Thiên Chúa với bản chất thần linh, là nguồn sống, nguồn tình yêu, nguồn sức mạnh, nguồn trí tuệ, nguồn của tất cả mọi sự thiện hảo trên trời dưới đất. Bản chất thần linh và tất cả những nguồn này đang hiện diện ngay trong bản thân ta, sẵn sàng lan tràn sang bản chất của ta, biến đổi bản chất ta nên giống Ngài, làm ta nên mạnh mẽ, tràn đầy sức sống, tình yêu, trí tuệ, can đảm, v.v… Ý thức thường xuyên như thế ta sẽ dần dần thấy tâm linh ta được biến đổi thật sự một cách có thể kiểm chứng được. Và sự biến đổi đó sẽ là một thực chứng, một kinh nghiệm tâm linh làm nền tảng cho đời sống thần linh của ta. Đời sống tâm linh phải được xây dựng trên những thực chứng về Thiên Chúa, về sức mạnh của Ngài. Nếu không, nó chỉ là một mớ lý thuyết không có khả năng đem lại lợi ích tâm linh thực tế.
Cầu Nguyện
Lạy Cha, con đã «ăn uống Mình Máu Thánh Đức Giêsu» suốt bao nhiêu năm trường, nhưng dường như con chẳng tiến bộ tâm linh bao nhiêu. Xin cho con biết đặt lại vấn đề một cách nghiêm chỉnh: máu thịt Đức Giêsu là lương thực tâm linh, tại sao con ăn uống máu thịt ấy hằng ngày, hằng tuần, mà tâm linh con vẫn yếu hèn? Xin dạy con cách thức «ăn uống Mình Máu Thánh» cho đúng với ý mà Đức Giêsu mong muốn.
45. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan.
Chúng ta có thể sai lầm khi nghĩ rằng một bữa ăn chỉ có một vai trò quan trọng là cung cấp lương thực bồi dưỡng thân xác chúng ta, nhưng một bữa ăn còn có một ý nghĩa khác sâu xa hơn thế. Cái yếu tố thực sự gắn bó liên kết những người ngồi ăn với nhau chính là câu chuyện, tiếng nói, nụ cười trao đổi trong khi ăn, là tất cả những gì làm tâm hồn thoãi mái và tạo nên tình bạn thân thiết cho nhau. Đối với Đức Chúa Giêsu cũng thế, Người không có gì khác chúng ta. Vào Bữa Ăn sau hết (quen gọi là Bữa Tiệc Ly), tình yêu thương và tình bằng hữu nơi Người được bộc lộ tràn trề hết mực khi Người tâm sự chỉ bảo các tông đồ cách thức yêu thương nhau cho phải đạo. Mỗi khi chúng ta cử hành Thánh Thể, chúng ta làm sống lại Bữa Ăn Sau Hết ấy, là lúc chúng ta được gặp gỡ Đức Chúa Giêsu như là Người Anh và là Đấng Cứu Chuộc của cuộc đời chúng ta, đồng thời lại được đón nhận Sự Sống Thần Linh do chính Người chia sẽ cho chúng ta. Tin Mừng hôm nay ngỏ lời với chúng ta thật rõ ràng minh bạch là Đức Chúa Giêsu ban tặng cho chúng ta "Thân Xác và Bửu Huyết của Người " để chúng ta làm của ăn thiêng liêng cần thiết trên con đường lữ thứ trần gian, và Người còn cảnh cáo cho chúng ta biết những hậu quả nghiêm trọng nếu từ chối món quà này. "Nếu anh em không ăn Thịt và uống Máu của Con Người thì anh em sẽ không có sự sống trong anh em."
Sáng nay được sum họp gần gũi với nhau như thế này, chúng ta được nhắc nhở nhiều về sự hiệp thông mà Đức Kitô mời gọi chúng ta mỗi khi tham dự cử hành Thánh Thể. Đó là một sự kết hợp chỉ đạt được viên mãn ở đời sau. Đức Kitô trao cho chúng ta một cuộc sống mới không bao giờ già cỗi nhưng sẽ triển nở mãi mãi. Trong Nhiệm Tích Thánh Thể, chúng ta được đón nhận sự sống mà Đức Kitô hằng chia sẻ với Thiên Chúa Cha, Đức Kitô không hiện diện trên bàn thờ chỉ để chúng ta thờ lạy. Người còn hiện diện ở đó là để chúng ta có thể kết hợp với Người hoàn hảo hơn. Việc cử hành và đón nhận Thánh Thể có thể trở thành trống rỗng nếu như chỉ đóng khung trong một tiếng đồng hồ trong giáo đường vào một buổi sáng Chúa nhật, và nhất là nếu như việc cử hành Thánh Thể của chúng ta không được tuôn chảy vào những thời khắc còn lại của cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta không trở nên một thành phần của việc chúng ta đang cử hành, nếu chúng ta không để cho tâm hồn chúng ta gần gũi Đức Kitô hơn và trở nên giống như Người hơn, thì chúng ta mới chỉ chấm dứt một cuộc sống ngoại đạo của chúng ta bằng một mớ nghi thức của Kitô giáo mà thôi. Việc đón nhận Thánh Thể sẽ trở nên vô ích và vô nghĩa nếu như chúng ta không sống những gì chúng ta cử hành. Chúng ta phải đưa tôn giáo ra khỏi nhà thờ mà đem về nhà để có thể cùng chúng ta đi vào giữa chốn chợ đời. Cũng như không thể có chuyện nói về tình yêu mà không hề cố gắng làm gì để lan tỏa yêu thương. Cuối mỗi thánh lễ, chúng ta được sai đi vào cuộc đời để phục vụ Chúa nơi chúng ta đang sống và làm việc với tư cách là những Kitô hữu (người -mang-Đức-Kitô) vừa sống cuộc đời của mình vừa làm cho Đức Kitô hiện diện trong một trần thế mà hiện nay đang che khuất Người. Hôm nay chúng ta đặc biệt cảm tạ Thiên Chúa vì hồng ân cao cả Ngài đã ban tặng cho chúng ta: chính Con Một Ngài, Đấng sẽ dẫn đưa chúng ta về với Thiên Chúa Cha. Mỗi một hành vi thái độ, lời ăn tiếng nói, ý nghĩ tâm tư chúng ta đặt lên bàn thờ Chúa cũng đều đem lại ơn ích thiêng liêng cao cả trần thế này. Nếu không thường xuyên quay trở lại với Bánh Hằng Sống, chúng ta sẽ không thể nuôi dưỡng tinh thần Đức Kitô sống trong tâm tư chúng ta mãi được.
46. Chuyện khôn, dại
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Ngay trong cuộc sống đời thường cũng luôn có nhiều “chuyện lạ”, nhưng mỗi chuyện đều có những mức độ “lạ” khác nhau, thậm chí là khác hẳn. Tốt cũng “lạ”, xấu cũng “lạ”. Vì vậy mà cần phải tỉnh táo, biết phân biệt cái gì đúng hoặc cái gì sai. Đó là người thông minh và khôn ngoan. Chúa Giêsu dạy cách xử sự: “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10:16).
Sự khôn ngoan rất quan trọng trong mọi trường hợp. Kinh thánh cho biết: Đức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình, dựng lên bảy cây cột, hạ thú vật, pha chế rượu, dọn bàn ăn và sai các nữ tỳ ra đi. Đức Khôn Ngoan còn lên các nơi cao trong thành phố và kêu gọi: “Hỡi người ngây thơ, hãy lại đây!” (Cn 9:4). Với người ngu si, Đức Khôn Ngoan bảo: “Hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta pha chế! Đừng ngây thơ khờ dại nữa, và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết” (Cn 9:5-6).
Đường lối Chúa luôn cao siêu và kỳ diệu, vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải thầm nhủ: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Ngài chẳng ngớt trên môi” [Tv 33 (34):2], đồng thời còn nói cho người khác biết: “Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Ngài” [Tv 33 (34):3-4], rồi giải thích lý do: “Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Ngài đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng” [Tv 33 (34):5]. Tình yêu của Thiên Chúa bao la, lòng thương xót của Ngài vô biên, chắc chắn rằng “ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi” [Tv 33 (34):6]. Sự thường thì “vô tri, bất mộ”. Nhưng một khi đã “nếm thử” sự ngọt ngào của Ngài rồi, người ta sẽ khiêm nhường khi làm chứng về Ngài: “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn” [Tv 33 (34):7].
Thánh vịnh 33 (34) muốn nhắc nhở chúng ta một điều: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” [Tv 33 (34):9]. Nghiệm ra Chúa rồi thì người ta sẽ thêm khôn ngoan, biết sống theo lời khuyên tốt lành: “Phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa; hãy làm lành, lánh dữ;, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà” [Tv 33 (34):14-15].
Tục ngữ Việt Nam khuyên: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Đó là phép lịch sự cơ bản nhưng lại thể hiện sự ý tứ, tinh tế và khôn khéo. Thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối” (Ep 5:15-16). Thánh nhân “vuốt mặt” mà không cần “nể mũi”, cứ nói thẳng nói thật: “Anh em đừng hoá ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là Ý Chúa. Chớ say sưa rượu chè, vì rượu chè đưa tới truỵ lạc, nhưng hãy thấm nhuần Thần Khí” (Ep 5:17-18). Đó mới là cách sống khôn ngoan, mà người nào có “sống khôn” thì mới có thể “chết thiêng”. Hệ lụy lô-gích!
Ngày xưa, những người có “máu nhạc” bị coi là “xướng ca vô loài”, nghĩa là “không giống ai” theo dạng “kỳ quặc”, kiểu như “con giáp thứ 13” không hề có trong số các con giáp. Thế nhưng Thánh Phaolô lại khuyên: “Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” (Ep 5:19). Đặc biệt hơn, thánh nhân nhấn mạnh: “Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha” (Ep 5:20). Tạ ơn khi vui mừng và may mắn thì đó là điều dễ dàng, không có gì đáng nói; nhưng tạ ơn khi buồn rầu và kém may mắn thì đó mới là điều đáng nói. Khó lắm! Nhưng Thánh Gióp đã làm được điều đó, dù đời ông là bản “trường ca đau khổ”. Chúng ta phải nỗ lực noi gương Thánh Gióp vậy!
Nếu lần đầu nghe Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6:51). Liệu chúng ta có thể tin “chuyện động trời” như vậy? Chắc là không! Người Do-thái khi nghe Chúa Giêsu nói vậy, họ liền tranh luận sôi nổi với nhau: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6:52). Ăn thịt sống của động vật đã là “điều lạ”, huống chi là “ăn thịt và uống máu người”. Phải nói là kinh dị! Chắc là Chúa Giêsu cười thầm trong bụng. Biết họ không thể tin vì “chói tai”, nhưng Ngài vẫn xác quyết: “Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” (Ga 6:53-55). Chắc là lúc đó ai cũng trố mắt ngạc nhiên, nhưng vẫn há hốc mồm miệng và vểnh tai nghe “điều lạ”. Chúa Giêsu nói tiếp: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Ttôi, và Tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy” (Ga 6:56-57).
Chúa Giêsu là nhà hùng biện vĩ đại. Họ im lặng tức là có cảm giác “khác” rồi. Đúng là “lời nói lung lay, gương lành lôi kéo”. Ngài tiếp tục tái xác định: “Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6:58).
Có lý lắm. Chắc hẳn lúc đó có nhiều người đang “mềm” lòng như sáp nến gặp lửa nóng vậy. Trong số những người khôn thì chắc cũng không thiếu những người dại. Họ dại vì họ cố chấp, biết đúng mà cứ muốn chứng tỏ “bản lĩnh” của mình; họ dại vì quá tự ái, cái “tôi” lớn hơn cái “chúng ta”; họ dại vì không muốn tin vào quyền năng của “chàng trai trẻ” Giêsu.
Và chúng ta ngày nay cũng thế thôi, có người khôn và cũng có người dại!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con được đức khôn ngoan và đức khiêm nhường để sống tốt lành ngay trên trần gian này, để chúng con được mãi mãi “ở lại trong tình thương của Chúa” (Ga 15:9). Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
47. Khôn Ngoan Nhập Thể và Bánh Hằng Sống
(Suy niệm của Đức ông James M. Reinert - Đan Quang Tâm dịch)
Ba tuần trước, ta nghe đọc trình thuật của Thánh Gioan về một trong những dịp Đức Giêsu cho hàng ngàn người ăn bằng mấy cái bánh và vài con cá. Như trong các trình thuật khác, ta thấy rằng có một sự ê hề dẫy tràn. Chẳng những đủ cho người ta ăn – mà phần dư thừa để lại cũng nhiều, ngay cả sau khi ai nấy đều ăn no.
Từ sau ngày hôm nay trở đi, ta sẽ nghe thêm một bài trích từ Chương sáu Phúc âm Thánh Gioan. Đức Giêsu tiếp tục đưa ra mối liên quan đến điều Người hứa về “bánh hằng sống” và câu truyện Cựu Ước về việc Thiên Chúa nuôi dân Israel ăn trong sa mạc. Người bồi dưỡng cuộc sống của họ nơi sa mạc. Người bồi dưỡng cuộc đời của họ về mặt thể lý và Đức Giêsu sẽ bồi dưỡng chúng ta về mặt tâm linh.
“Niềm hy vọng Kitô giáo đem lại năng lượng lớn lao cho việc dấn thân trong lĩnh vực xã hội vì niềm hy vọng này tạo ra niềm tin vào khả năng xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, mặc dù sẽ không bao giờ có “một thiên đàng hạ giới”. Các Kitô hữu, đặc biệt là giáo dân, được thôi thúc hành động sao cho “sức mạnh của Tin Mừng chiếu soi trên đời sống gia đình và xã hội hàng ngày của mình. Họ hành xử với tư cách con cái của lời hứa và vì vậy, mạnh mẽ trong niềm tin và hy vọng, họ biết tận dụng thời buổi hiện tại (x. Ep 5,16; Cl 4,5) và bền chí chờ đợi vinh quang sẽ đến (x. Rm 8,25). Vì vậy, họ đừng giấu kín niềm hy vọng này tận nơi thâm sâu của lòng mình, nhưng hãy diễn tả ra qua việc hoán cải không ngừng và qua việc chiến đấu “chống lại những lực lượng thống trị thế giới tối tăm này, chống lại những thần linh quái ác chốn trời cao” (Ep 6,12). Động lực tôn giáo đàng sau sự dấn thân đó có thể không được tất cả mọi người chia sẻ, nhưng các xác tín luân lý nảy sinh từ động lực ấy tạo thành một điểm gặp gỡ giữa các Kitô hữu và tất cả những người thành tâm thiện chí” (Sách Tóm lược HTXHCG, 579).
Bài đọc Sách Cách ngôn bảo ta rằng tất cả điều này nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Đối với tác giả, khôn ngoan là một điều gì đó “cụ thể”, một điều gì đó hữu hình, một điều gì đó chiếm hữu – theo cùng phương cách ta cảm thấy về quan hệ của ta với Thiên Chúa. Mọi thứ được chuẩn bị cho ta – các lời mời đã được đưa ra. Bài Đọc thứ nhất không bảo ta liệu lời mời đến dự bữa tiệc này đã được chấp nhận hay không và lời mời ấy có thể thấy dễ dàng như một điều gì đó mà nhân loại đã phấn đấu qua các thời đại.
Đức Giêsu đã chuẩn bị loại tiệc cưới đó và đưa ra cùng một lời mời: chấp nhận tình yêu của Thiên Chúa, lắng nghe lời Người, đặt niềm tin vào điều bạn nghe, chia sẻ trong thân mình và máu của Người và để cho Đức Giêsu lôi kéo bạn đến với Người.
Kết quả? Như Thánh Phao lô viết cho cộng đoàn Êphêxô: “Hãy biết tận dụng thời buổi hiện tại… đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa”. Thánh Phaolô yêu cầu các thành viên của cộng đoàn hãy sử dụng các ơn đã được ban cho họ… chấp nhận lời mời và lắng nghe, đặt lòng tin vào lời của Thiên Chúa và hãy để cho Đức Giêsu lôi kéo họ vào ơn cứu độ và sự sống đời đời mà Người hứa.
Rồi Thánh Phaolô thêm vào quyền năng và công trình của Chúa Thánh Thần. Người bảo cộng đoàn “hãy thấm nhuần Thần Khí”. Chỉ qua việc sống một đời sống yêu thương huynh đệ trong cộng đoàn thì mới họ bỏ ngỏ cho Thần Khí làm việc và nhờ thế mà họ mới thờ phượng Thiên Chúa một cách chân thực.
Một lần nữa, với lời nhắc nhở được Đức Giêsu ban cho ta vào cuối bài đọc Phúc âm ngày hôm nay, ta thấy rằng đây không những là một bộ phận trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người nhưng các quà tặng này cũng đã được đề nghị qua các thời đại và bây giờ ta, một lần nữa, được mời gọi, chấp nhận, lời mời dự yến tiệc trên trời của Thiên Chúa. Ta quả là một dân tộc của niềm cậy trông.
48. Thánh Thể
Suy niệm
Ăn thịt và uống máu người mình yêu là điều khủng khiếp chẳng ai dám nghĩ tới. Nhưng Đức Giêsu lại muốn nuôi cả nhân loại bằng Thịt và Máu Ngài. Và thực sự Ngài đã nuôi ta bằng cái chết thập giá - ở đó Ngài đã hy sinh Máu Thịt mình. Đúng hơn, Ngài nuôi chúng ta bằng sự sống của Ngài: sự sống được trao đi qua cái chết tự nguyện, và sự sống được lấy lại qua phục sinh vinh quang.
“Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (c.56). Từ sau bữa Tiệc Ly, Hội Thánh đã tin vào sự hiện diện đích thực của Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, cùng với linh hồn và thiên tính của Người, trong hình bánh rượu. Như Hội Thánh dạy, chắc chắn Chúa Kitô hiện diện với chúng ta bằng nhiều cách, nhưng cách riêng là dưới hình bánh rượu.
Thánh Thể là một hy tế: hy tế cứu chuộc và đồng thời là hy tế của Giao Ước mới. Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã thiết lập hy tế tạ ơn bằng Mình và Máu Người, nhờ đó hy tế thập giá được kéo dài qua các thời đại cho tới khi Người lại đến, và cũng để lại cho Hội Thánh việc tưởng niệm cái chết và sự phục sinh của Người. Rước lễ là đón lấy dòng sự sống, chấp nhận sống nhờ. Như Đức Giêsu sống nhờ Cha và chúng ta sống nhờ Đức Giêsu (c.57). Như cành nho sống nhờ thân cây nho, chúng ta cũng sống nhờ, sống trong và sống cho Chúa.
Trong phép Thánh Thể, Chúa Giêsu là lễ vật Chúa Cha ban tặng cho chúng ta để được hiến tế, hầu thanh tẩy và giao hòa chúng ta với Người. Hy tế của Chúa Kitô và hy tế tạ ơn trong thánh lễ chỉ là một vì cùng có một lễ vật là Chúa Giêsu, chỉ khác về cách dâng hiến. Hy tế của Chúa Kitô cũng là hy tế của các chi thể của Thân mình Người. Cuộc sống của các tín hữu, công việc, đau khổ, lời ca ngợi, kinh nguyện của chúng ta được kết hợp với Chúa Kitô và lễ dâng toàn hiến của Người và nhờ đó có được một giá trị mới.Thánh
úa Kitô, được biến đổi thành con người mới, kết hợp mật thiết với Chúa, là Đầu của Nhiệm thể.
Sự sống mới mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta trong Bí tích Thánh Thể biến thành “liều thuốc trường sinh bất tử, để được mãi mãi sống trong Chúa Kitô”. Là những người sống nhờ Chúa Kitô, và Chúa Kitô muốn cho tất cả chúng ta được sống dồi dào, chúng ta phải công bố tính cách thánh thiêng của sự sống con người.
Dâng hy tế của Chúa Kitô cách đích thực có nghĩa là tiếp nối hy tế này bằng một cuộc sống hiến dâng cho kẻ khác. Cũng như Chúa Kitô đã hiến mình làm hy tế dưới hình bánh rượu, chúng ta cũng phải hiến thân cho người đồng loại, qua việc phục vụ khiêm hạ trong tình huynh đệ xứng với phẩm giá con người.
Vậy Thánh Thể mà chúng ta cử hành và chia sẻ trong bữa tiệc thánh, mời gọi chúng ta kết hợp việc bẻ bánh với việc chia sẻ của cải, quyên góp để trợ giúp những người túng thiếu nhất, thắng vượt mọi chia rẽ và kỳ thị. Chứng tá tình yêu này là một yếu tố không thể thiếu trong việc Phúc Âm hóa đích thật.
Lạy Chúa Giêsu, nhờ Lời Chúa và Thánh Thể, chúng con hy vọng chắc chắn sẽ được sống lại và được sống muôn đời với Chúa. Xin giúp chúng con biểu lộ lòng tin này trong việc đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể, trong cuộc sống hiệp nhất với nhau và trong tình liên đới với mọi người.
49. Lương thực nuôi hồn
(Suy niệm của Tu sĩ Phạm Hùng Cường)
Qua đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe tôi nghĩ đến một câu truyện được kể rằng:
Trong trận thế chiến thứ hai, quân phát xít Đức kéo vào những làng mạc giết hại người dân vô tội, một cuộc càn quét thật dữ dội và ác nghiệt, thấy thế chị Êlen vội bế con mình xuống hầm trốn, mẹ con chị đã hơn ba ngày ở dưới hầm mà bọn lính vẫn rảo quanh tìm kiếm những người sống xót để sát hại, sự tìm kiếm ấy mỗi lúc một gắt gao hơn. Với thời gian chị Êlen vừa đói vừa phải lo bảo vệ đứa con của mình nên đã cảm thấy mệt, đồng thời đứa bé trên tay lại luôn miệng kêu mẹ ơi con khát, vừa nghe lời đó chị Êlen thấy người mình run lên và lòng như lửa đốt, chị run lên vì sợ rằng qua tiếng kêu đó quân lính sẽ phát hiện ra mẹ con chị, còn chị như lửa đốt là bởi vì thương con đang đói, nên chị ôm ghì chặt con vào lòng, sau giây lát đứa bé lại rên rỉ kêu mẹ! con khát! Chị Êlen quờ quạng xem có tìm được gì cho con uống để đỡ khát chăng. Nhưng cũng chẳng có gì ngoài bóng tối, đứa con lại kêu lên Mẹ! khát! Chị Êlen xoay người, đưa tay lên miệng cắn đứt đầu ngón tay rồi đút vào miệng con và nói uống đi con nước đây! Chị Êlen lúc này cảm thấy như toàn bộ dòng máu trong cơ thể đang truyền sang đứa con của mình và từ đó người con ấy được hết khát.
Kính thưa qúy ông bà và toàn thể anh chị em đói đã là một nỗi lo cho con người nhưng khát còn là điều đáng lo hơn.
Qua câu chuyện trên đây thiết nghĩ rằng: Đối với mỗi người chúng ta, chúng ta chỉ bỏ một ngày không ăn uống gì là chúng ta đã cảm thấy khó chịu hoặc đói lả, chúng ta phải đi tìm cho mình những gì có thể giúp mình vượt qua cơn đói khát này. Vâng!thể xác là thế đó. Còn linh hồn thì sao? Chúng ta có thể để cho linh hồn chúng ta đói khát không? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã từng để linh hồn mình đói, nhưng nhiều khi chúng ta đã không nhận ra, mà chúng ta chỉ thấy bình thừơng như không có gì xẩy ra, thực ra cái bình thừơng ở đây lại là cái không bình thường. Không bình thường là vì linh hồn là sức sống cho thể xác, mà một khi thể xác không còn nhạy cảm nữa, thì cũng chính là lúc linh hồn đã suy thoái, tàn phai như thế làm sao có thể tồn tại được.
Vậy để có được một linh hồn khoẻ mạnh, chúng ta hãy cho linh hồn chúng ta được ăn uống đầy đủ. Lương thực của linh hồn ở đây không phải là thịt, cá hay rau quả mà chúng ta thường dùng hàng ngày, nhưng chính là mình và máu Chúa Giêsu, Chúa sẵn sàng cho chúng ta con người của Ngài.Ngài không nề quản bất cứ điều gì với chúng ta, Ngài sẵn sàng chịu nghèo đi để chúng ta được giầu có, Ngài bằng lòng chiụ đau khổ để chúng ta được hạnh phúc, Ngài chấp nhận chết đi để chúng ta được sống, tất cả những điều đó đều nhắm tới một mục đích duy nhất là để được kết hợp giữa Ngài với chúng ta. Một sự kết hợp không chỉ dừng lại ở gặp gỡ nhưng phải đạt đến đỉnh điểm là nên một với Ngài. Ngài đã hứa với chúng ta rằng "Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi"
Vì thế, trước khi chịu tử nạn Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể để ở với chúng ta, và cho chúng ta đuợc no thỏa mỗi ngày qua Thánh lễ, có như thế chúng ta mới có thể cảm nghiệm được tình thương của Chúa dành cho chúng ta mỗi ngày một sâu hơn, khăng khít hơn và Chúa còn nói rằng: "Ai ăn thịt ta và uống máu ta, thì ở trong ta và ta ở trong kẻ ấy". Từ đó ta thấy tình thương của Chúa dành cho ta thật bao la, hải hà. Nhưng chúng ta đã đáp trả lại tình thương ấy thế nào? hay đã nhiều lần chúng ta đáp trả tình thương đại lượng ấy bằng sự so đo, tính toán, ích kỷ… thậm chí có thể nói chúng ta còn làm ngơ trước tiếng mời gọi của Chúa. Trong khi đó Chúa thì mong sao có người đến nói chuyện và dùng bữa với Chúa, nhưng ngày qua ngày cũng chỉ có ta với ta. Vâng! Con người chúng con là thế đó!
Lạy Chúa chúng con là những con người yếu đuối thường hay phản bội, xin cho chúng con có được linh hồn khoẻ mạnh để soi sáng cho chúng con luôn nhận ra và chống lại những trước cám dỗ trong cuộc đời. Từ đó chúng con sẽ nhạy cảm hơn khi thấy linh hồn mình đói, có như thế chúng con mới biết chạy đến với Chúa, để Chúa cho linh hồn chúng con ăn từ đó linh hồn chúng con sẽ không bị đói nữa và sẽ được sống đời đời.
50. Suy niệm của Lm Vũ Xuân Hạnh.
“Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”.
Chữ “manna” chắc hẳn không còn lạ lẫm gì với bạn và tôi. Chúng ta nghe rất nhiều khi đọc Thánh Kinh Cựu ước, nhất là sách Xuất hành. Sách Tân ước cũng đã có nhiều lần nhắc lại. Đặc biệt trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc lại từ “manna” như một so sánh kém hơn để nói về bí tích Thánh Thể, của ăn cao quý. Vậy manna có nghĩa là gì?
Câu chuyện về manna thật lạ lùng. Nó như một phương tiện cứu đói mà Thiên Chúa quan phòng, qua đó đã tỏ bày lòng yêu thương đối với dân của Người. Ngày ấy, dân đi trong sa mạc đến bốn mươi năm. Sa mạc chứ đâu phải đồng bằng. Đồng bằng còn có người khổ, người đói nói gì đến sa mạc đầy khắc nghiệt, đầy nguy nan. Vì thế cuộc sống sa mạc dẫu có đói rét, thiếu thốn đến mức cùng cực, không thể vượt qua đi nữa, vẫn là điều không lạ. Thiên Chúa nhìn thấy nỗi lầm than ấy của dân chúng. Manna là quà tặng mà Người ban cho họ để không chỉ làm lương thực mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương vô cùng của Người. Người cho họ biết rằng, giữa nỗi cơ cực trăm chiều, Người vẫn ở bên họ, Người rất gần với họ.
Manna giống như một thứ nhựa cây, cứng lại khi gặp không khí. Muốn ăn, người ta phải giã nát ra rồi nướng thành bánh. Manna có đủ mọi mùi thơm ngon, điều đó biểu trưng cho lòng nhân hậu của Chúa.
Chúa Kitô ví Thịt Máu Người là BÁNH. Nói cho trọn nghĩa, Bánh ở đây nghĩa là lương thực. Lương thực - Bánh - này “bởi trời xuống”. Vì thế Bánh này là Bánh mà không một thứ lương thực nào ví bằng. Dẫu là manna, dẫu là lương thực đã từng biểu trưng cho lòng thương xót của Thiên Chúa với dân Người, vẫn không thể và không bao giờ có thể mảy may sánh được. Bởi thế Chúa Giêsu khẳng định: “Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”.
Nếu ngày xưa, manna như một thứ nhựa cây, ngày nay bánh Thánh Thể chính là Mình Máu Đấng là Thiên Chúa làm người. Nếu ngày xưa ăn manna chỉ là ăn bánh, ngày nay lãnh nhận bí tích Thánh Thể là ăn chính Chúa Kitô. Ngày xưa manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, thì hôm nay lòng thương xót của Thiên Chúa đã trao tặng con người chính Người Con Một dấu ái. Ngày xưa manna chỉ là của ăn mang lai sự no nê cho thân xác, ngày nay Mình Máu Chúa Kitô trở thành Thần Lương không chỉ nuôi sống linh hồn mà còn củng cố khả năng hướng thiện của người rước lấy. Ngày xưa manna chỉ là phương tiện cứu đói tạm thời, ngày nay Mình Máu Chúa Kitô không chỉ là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức mạnh, đủ nghị lực tiếp bước hành trình về quê trời, mà còn đưa họ vào vĩnh cửu và sống vĩnh cửu. Ngày xưa manna cho thấy Chúa không bỏ dân của Người, ngày nay Chúa hiện diện giữa Hội Thánh và hiện diện giữa thế giới này bằng chính Con của Người trong bí tích Thánh Thể. Còn hơn cả mọi hiện diện bình thường, nơi bí tích ThánhThể, người cô đơn tìm được nguồn an ủi; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ; người đau đớn tìm được sự chữa lành; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần; người mất niềm tin vào cuộc đời, vào con người tìm được chỗ nương thân; người hấp hối tìm được sự nâng đỡ vững vàng để bước ra khỏi cuộc đời; người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm… Và còn một ý nghĩa quan trọng, rất quan trọng: Nếu ngày xưa manna là của ăn nuôi thân xác, ngày nay còn hơn bất cứ của ăn nào, Mình Máu Chúa Kitô ban cho ta ơn thần hoá…
“Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”. Bằng những lời chân thành như thế, Chúa Giêsu giới thiệu cách long trọng Bánh hằng sống, Bánh muôn đời tồn tại và đầy quyền năng trao ban ơn sống đời vĩnh cửu cho tất cả những ai rước lấy với lòng trong sạch, đơn sơ, ngay lành. Bánh ấy, quyền năng ấy chỉ có thể được trao ban bởi một mình Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, Thiên Chúa đã làm người, để bằng tất cả mọi sáng kiến của Người, ta được sung mãn đến mức làm một với Thiên Chúa. Bởi vậy, khi dạy hãy ăn Thịt và uống Máu Người, Chúa Giêsu muốn ta đời đời ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa trong ta. Người muốn ta dùng chính nhân tính của Người mà nuôi dưỡng tâm trí và linh hồn ta. Người muốn ta hãy bồi bổ đời sống của mình bằng sự sống của Người cho đến khi trong ta thấm đẫm, tràn ngập và đầy dẫy sự sống của Thiên Chúa.
Vì Thánh Thể là một sự bồi bổ thần linh tuyệt hảo như thế, nên ăn Chúa Kitô là sống bằng chất bổ dưỡng có tên là CHÚA KITÔ. Vì thế việc rước lễ thường xuyên, cũng có nghĩa là ngay từ bây giờ bạn và tôi đã bước vào đời vĩnh cửu và chắc chắn sẽ được sống đời vĩnh cửu ấy.
51. Sự sống phát xuất từ việc trao ban sự sống
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này nằm trong Phần I của TM IV (“Sách các Dấu lạ”, ch. 2–12) và thuộc bài diễn từ “Bánh trường sinh” (6,1-71).
Nói chính xác, bài diễn từ “Bánh trường sinh” bắt đầu từ c. 25 và được kết cấu thành năm vòng tròn, mỗi vòng bắt đầu bằng một câu nói của Đức Giêsu và một vấn nạn của người Do Thái: a) 6,25; b) 6,28; c) 6,34; d) 6,41; e) 6,52. Cứ một câu hỏi của người Do Thái lại đưa Đức Giêsu đến một mạc khải mới về mầu nhiệm bản thân Người; mạc khải này càng gây thắc mắc cho người Do Thái hơn. Năm vòng tròn này chuyển theo hình trôn ốc, đưa đến chọn lựa cuối cùng: bỏ rơi Đức Giêsu (6,66) hoặc tiếp tục gắn bó với Người (6,69).
2.- Bố cục
Bản văn có thể được chia thành bốn phần:
1) Đề tài được xác định lần ba (x. cc. 35 và 48): “Tôi là bánh hằng sống” (6,51);
2) Thắc mắc của người Do Thái (6,52);
3) Triển khai đề tài (6,53-56);
4) Nền tảng của đề tài (6,57-58; c. 58a nhắc lại c. 51a).
3.- Vài điểm chú giải
- từ trời xuống (51): hàm ý mầu nhiệm Nhập Thể.
- bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây (51): Chúng ta có thể tự hỏi vì sao tác giả Gioan không dùng từ ngữ “thân thể” (sôma) mà lại dùng từ “thịt” (sarx), nhất là khi mà từ sôma đã trở thành từ quen thuộc trong văn chương Tân Ước để gọi bí tích Thánh Thể (x. Mc 14,22; Mt 26,26; Lc 22,19; 1 Cr 11,24). Đồng ý là trong bữa tiệc cuối cùng, hẳn là Đức Giêsu đã sử dụng từ A-ram bơsar (Híp-ri bâsâr), và từ này, cho dù chỉ “thân thể”, vẫn được ưu tiên dịch ra bằng sarx, “thịt”, trong Bản dịch LXX. Nhưng thông thường, Ga cũng không mấy để ý đến từ Hy Lạp chính xác. Ở đây hẳn phải có lý do khác.
Sarx đúng là từ để dịch bơsar. Nhưng sarx không chỉ có nghĩa là “thịt” là còn có nghĩa là “toàn thân thể”; “toàn thể con người” [theo nghĩa là có quan hệ với người chung quanh; x. 1,14]. Để diễn tả các sắc thái này, ngôn ngữ Hy Lạp có khả năng tinh tế hơn tiếng A-ram. Nhưng trong Do Thái giáo sau này, người ta đã chọn dịch bơsar là sôma, cho dù trong Tân Ước, đôi khi người ta dùng cả hai từ. Nhưng để nói về bí tích Thánh Thể, từ sôma đã được chọn, ngoại trừ một vài bản văn sau thời các tông đồ, được viết dưới ảnh hưởng của Ga 6, đã dùng từ sarx (vd: thánh Inhaxiô Antiôkhia, thánh Giúttinô…). Như thế, dù trong Hội Thánh tiên khởi, đã có một từ nhất định để gọi bí tích Thánh Thể, nếu Ga vẫn giữ lại từ sarx, là vì sarx-thịt có trong ngôn ngữ A-ram một ý nghĩa rộng hơn sôma-thân thể. Đàng khác, trong Ga, sôma được dùng để gọi một xác chết: làm thế nào một xác chết có thể ban sự sống? Ngược lại, “thịt” vừa có nghĩa là toàn thể con người vừa có nghĩa là thân thể, và “hai nghĩa trong một” này rất lý tưởng để gợi ra một trật cái chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể. Bởi vì ý nghĩa căn bản và tại nguồn của “thịt mà Con Người sẽ ban” không phải là bí tích Thánh Thể, mà là “chính bản thân” Người trong cái chết trên thập giá. Vậy, khi Đức Giêsu nói về “thịt của Người để cho thế gian được sống”, Người muốn nói đến “bản thân Người” (chịu sát tế) để cho thế gian được sống”.
- làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt (52): Đại danh từ Hy Lạp “ông này” (houtos) hàm ý khinh bỉ (x. c. 42). Trong Kinh Thánh, “ăn thịt ai” là một công thức bóng bảy để diễn tả sự thù nghịch (x. Tv 27,2; Dcr 11,9). Còn việc uống máu bị coi như một việc ghê tởm bị luật Thiên Chúa cấm (St 9,4; Lv 3,17; Đnl 12,23; Cv 15,20).
- ăn... uống (53): Hai động từ Hy Lạp này (esthiein và pinein) là những hành vi rất cụ thể để nuôi dưỡng thân xác.
- thịt... máu (53): Thành ngữ Híp-ri “thịt và máu” có nghĩa là toàn thể con người. Vào thời phong trào Cải Cách (tk. xvi), người ta đã tranh luận là có cần nhận Thánh Thể dưới hai hình không. Tất cả những gì có thể rút ra từ bản văn này là: cần phải nhận trọn vẹn Đức Kitô.
- Ai ăn (54 và 57): Động từ “ăn” ở đây là trôgein (bản văn tiếng Anh dịch là feed) chứ không phải là esthiein như ở trên, để diễn tả một hành động rất cụ thể: “nhai bằng răng”. Động từ này nêu bật tính hiện thực của bí tích Thánh Thể.
- ở lại (56): Động từ menein (remain; rester) là một động từ quan trọng của TM Ga (x. chương 15: “Cây nho thật”; động từ này được dùng trong TMNL: 12 lần; Ga: 40 lần; 1-3 Ga: 27 lần; Kh: 1 lần). Tác giả Ga thích dùng động từ này để diễn tả quan hệ trường tồn giữa Chúa Cha và Chúa Con và giữa Chúa Con và các Kitô hữu. Ở trong Cựu Ước, “trường tồn” là một đặc điểm của Thiên Chúa và của những thứ thuộc về Thiên Chúa (x. Đn 6,26; Kn 7,27; 1 Pr 1,25), đối lại với đặc tính tạm bợ, chóng qua của con người. Tuy nhiên, TM IV còn dùng một công thức là “ở trong” (menein en) để nói về tính nội tại liên kết Chúa Cha, Chúa Con và các Kitô hữu lại với nhau: như Con ở trong Cha, và Cha ở trong Con (14,10-11), thì Con cũng ở trong loài người, và loài người phải ở trong Cha và trong Con (17,21.23).
- kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống (57): Bí tích Thánh Thể thông ban cho các tín hữu sự sống mà Chúa Con nhận từ nơi Chúa Cha.
- chết (58): Đây là cái chết thể lý đối lại với sự sống thiêng liêng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong tư cách là Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai đến, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta hiệp thông vào sự sống với Người. Nếu chúng ta tin vào Người, chúng ta được đi vào trong sự sống với Người, trong sự sống vĩnh cửu. Ở đây Người giải thích cặn kẽ Người là bánh ban sự sống cho chúng ta như thế nào: Trong cái chết trên thập giá, Người hiến mình cho thế gian được sống và Người ban cho chúng ta thịt và máu Người làm của ăn của uống.
* Xác định đề tài (51)
Đề tài đã được xác định ở cc. 35 và 48, nay lại được nhắc lại, nhưng mang ý nghĩa phong phú hơn, bởi vì đã được triển khai hai đợt (cc. 35-47 và cc. 48-50). Khi nói “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (c. 51a), Đức Giêsu tóm ý nghĩa của dấu chỉ hóa bánh ra nhiều. Chính bản thân Người là sức sống thiên quốc và thần linh, tuyệt đối không thể cạn kiệt. Ai đi vào tương quan đúng đắn với Người thì được thông phần vào sự sống muôn đời. Trong câu “Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (c. 51b) chứa đựng những yếu tố sẽ được triển khai sau này. Cho đến nay, các lời Đức Giêsu nói chỉ giới thiệu tổng quát rằng Người là bánh ban sự sống; nhưng bây giờ Người nói rằng trong tương lai, Người sẽ ban bánh. Bánh ấy chính là thịt Người, hoặc là chính bản thân Người với trọn vẹn cuộc sống con người. Người đã đưa nhân tính của Người ra mà phục vụ sự sống của thế giới, của tất cả mọi người không loại trừ ai.
* Thắc mắc của người Do Thái (52)
Người Do Thái bị vấp phạm nặng nề vì lời khẳng định của Đức Giêsu: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”. Với mức độ Đức Giêsu mạc khải rõ ràng hơn, sự đối kháng cũng tăng theo. Lúc đầu, còn là những xầm xì, nay đã trở thành tranh luận. Nếu cố gắng ép nghĩa, thì cũng có thể hiểu lời khẳng định của Đức Giêsu theo nghĩa ẩn dụ: ăn và uống đây chính là học hỏi Lề Luật. Nhưng dựa theo giọng điệu của Đức Giêsu, những lời Người nói, người Do Thái đã hiểu rằng phải hiểu mọi sự theo nghĩa chữ. Và theo họ, như thế là phi lý: “ăn thịt người” đã là một chuyện phi lý, lại còn “ăn thịt” một kẻ tầm thường (houtos) như ông này! Chúng ta gặp lại một hiểu lầm liên hệ đến các điểm trung tâm của Kitô học Gioan (x. 2,19-21; 7,33-36; 8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 14,4-6; 16,16-19).
* Triển khai đề tài (53-56)
Đức Giêsu đã dùng ngôn ngữ hiện thực, thậm chí sống sượng (“ăn”, trôgein) để diễn tả tính hiện thực của bí tích Thánh Thể. Để được thông phần vào sự sống muôn đời, cần phải ăn thịt Con Người và uống máu Người. Cùng với thịt, bây giờ còn có máu nữa: Đức Giêsu nhắc đến chính cái chết thảm khốc của Người trên thập giá, được tượng trưng bằng từ ngữ “máu”. Trong bánh, là thịt Người, và trong rượu, là máu Người, Người sẽ ban tặng chính bản thân Người như Đấng đã trao ban mạng sống trên thập giá. Các tặng phẩm Thánh Thể có nền tảng là chính cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, trong hành vi Người hiến tặng mạng sống để cho thế gian được sống, như bằng chứng tối cao về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đức Giêsu, Đấng hiến mạng sống trên thập giá, cũng ban thịt Người như là của ăn và máu Người như là của uống. Thịt và máu này là một bằng chứng tối hậu về tình yêu của Người và là bảo chứng về tình yêu mà Người chứng tỏ khi hy sinh mạng sống.
Ai lấy đức tin mà đón nhận quà tặng này, thì cũng tuyên xưng Đấng Chịu Đóng Đinh với tình yêu của Người là nguồn mạch ban sự sống, và sẽ được thông phần vào sự sống của Người, cũng là hiêp thông với Người: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (c. 54). Một lần nữa, Đức Giêsu lại khẳng định rõ ràng rằng sự sống đời đời và hiệp thông cá nhân với Người chỉ là một. Với người nào ăn thịt và uống máu Người, Đức Giêsu hứa: “[Người ấy] được sống muôn đời (c. 54)” và “người ấy … ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (c. 56). “Ở lại trong nhau” có nghĩa là trao đổi hỗ tương trọn vẹn và kết hợp với nhau chặt chẽ nhất. Dụ ngôn Cây nho và các cành sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa này hơn nữa (x. 15,1-17).
* Nền tảng của đề tài (57-58)
Chúa Cha chính là nguồn phát xuất ra mọi sự: Ngài gửi Chúa Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (6,32.44), nhưng cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu trong tư cách là “bánh ban sự sống” (cc. 37.44.65). Thiên Chúa là Cha “hằng sống”, là chính sự sống, là sức sống viên mãn không bao giờ cạn kiệt, là Thiên Chúa hằng sống. Đức Giêsu được sai phái đi bởi Chúa Cha và có sự sống bởi Chúa Cha; Người cũng có thể thông ban sự sống thần linh. Bánh ban sự sống đến từ Chúa Cha hằng sống và nhận từ Chúa Cha tất cả sức mạnh ban sự sống. Bởi vì Người phát xuất từ Chúa Cha hằng sống, Đức Giêsu là bánh ban sự sống, là bánh từ trời xuống.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã đến để cứu độ thế gian (Ga 3,17), Người là Đấng “Cứu độ trần gian” (4,42). Người đã hy sinh chính mạng sống, để đưa lại sự sống cho thế gian. Do đó, không ai bị loại trừ cả. Bí tích Thánh Thể là bữa tiệc Thiên Chúa đặt để thết đãi loài người. Bàn thờ dâng lễ cũng chính là bàn tiệc, nơi thịt và máu Đức Kitô được chuyển đến cho các thực khách làm thức ăn thức uống. Mọi người đều được mời gọi đến bàn tiệc này. Lương thực là chính Đức Giêsu, mà Người ban cho chúng ta, không được dùng để duy trì sự sống trần gian hoặc ngăn cản cái chết thể lý. Chính Đức Giêsu cũng đã chết, khi trao hiến thịt và máu trên thập giá. Nhưng cũng chính Người, là bánh ban sự sống, sẽ ban sự sống muôn đời, sự sống này không mai một đi trong cái chết và sẽ được viên mãn trong ngày sống lại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nhận lấy Mình Máu thánh Đức Kitô, trước tiên là nhận biết Chúa Cha là nguồn ban cho chúng ta ơn cao trọng ấy. Đức Giêsu đã nhiều lần nói với chúng ta về Chúa Cha như về Đấng ban cho chúng ta tất cả mọi sự. Chúa Cha sai Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (Ga 6,32.44), nhưng Chúa Cha cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu, “bánh ban sự sống” (6,37.44.65). Đức Giêsu cũng nói về Chúa Cha: “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (6,40). Người cũng nói rằng tất cả những gì Người ban như là ân huệ riêng, thì có nền tảng là chính Chúa Cha (6,57). Thiên Chúa là Cha hằng sống, là chính sự sống, là sinh lực viên mãn. Như thế, khi đến với Tiệc Thánh Thể, chúng ta cần nhớ rằng chính Chúa Cha đang dẫn chúng ta đến để ban cho chúng ta lương thực là chính Con Một của Ngài.
2. Nếu chúng ta ăn thịt và uống máu Đức Giêsu, chúng ta đón nhận các quà tặng của chính Người và tuyên xưng niềm tin rằng Người hiện diện trong bánh và rượu đã được truyền phép và chỉ nhờ Người, Đấng được giương cao và chịu đóng đinh, chúng ta mới có sự sống đời đời. Khi đó, chúng ta cũng được mời gọi nhận ra rằng Thịt và Máu Người chính là bằng chứng cao cả nhất về tình yêu của Chúa Cha và của chính Người đối với nhân loại, đồng thời cũng là bảo chứng về sự sống đời mà Người muốn ban cho chúng ta.
3. Ăn thịt Đức Giêsu, hoặc ăn chính Đức Giêsu, trong bí tích Thánh Thể, là cách thức duy nhất giúp tránh được tình trạng suy nhược thiêng liêng và cái chết. Ăn Đức Kitô, chính là sống nhờ Đức Kitô. Nếu chúng ta hiệp thông đều đặn vào sự sống của Người, chúng ta đã được đặt để trong tình trạng ân phúc, và tình trạng này sẽ triển nở thành vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu.
4. Đã hiệp thông vào thịt và máu Đức Kitô, chúng ta trở thành “Đức Kitô toàn thể”. Do đó, chúng ta cũng phải trở thành “lương thực” nuôi dưỡng anh chị em chúng ta. Mãi mãi chúng ta sẽ thấy mình bất xứng, muốn co lại, khép kín trên chính mình, nên cứ phải để cho Đức Giêsu giúp biết hy sinh hầu phục vụ sự sống của anh chị em mình. “Hồng ân Chúa Kitô và Thánh Thần của Người mà chúng ta lãnh nhận trong việc hiệp lễ hoàn tất cách sung mãn tuyệt vời những ước muốn hợp nhất huynh đệ đang ngự trị trong tâm hồn con người, đồng thời nâng cao kinh nghiệm về tình huynh đệ trong việc tham dự chung vào cùng một bàn tiệc Thánh Thể đến một mức độ vượt hẳn kinh nghiệm đồng bàn đơn thường của con người” (Thông điệp Giáo Hội từ bí tích Thánh Thể, 24).
52. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.
Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 53-59)
Mạc khải:(cc. 54-58)
Trong phần cuối này của diễn từ của Chúa Giêsu, từ vựng nói về Thánh Thể trổi vượt, với một thực tại chỉ có thể hiểu được tùy vào thời điểm của Giáo Hội. Giữa các câu 53 và 54-56, Gioan, thay vì từ “ăn” quen thuộc, lại sử dụng một từ sống sượng: “nhai, cắn”, để có thể nhấn mạnh sự chiếm hữu và sự nội tâm hóa cần thiết. Trong trường hợp này, có thể phần này của diễn từ chịu ảnh hưởng của các cuộc tranh luận trong cộng đoàn của Gioan về thực tại Thánh Thể. Ta liên tưởng đến các môi trường theo thuyết trực quan hay ảo thân thuyết, chủ trương liên kết với Chúa Giêsu mà không cần thông qua trung gian bí tích. Thánh Thể, mình và máu, thông ban cho tín hữu hai ân huệ mà các tín hữu thời Chúa Giêsu tìm kiếm: sự sống đời đời ngay từ lúc này đây và được ở lại với Chúa Giêsu: “ở lại với Chúa” đó là điều mà người Do Thái hướng đến khi tìm kiếm Chúa Giêsu (sự tìm kiếm Chúa Giêsu) mà không đạt được. Việc nhắc lại Caphanaum (c.59) đi theo việc nhắc lại lần đầu về địa điểm này trong 6,24. Sự mạc khải đã kết thúc, tuy nhiên nó không ngưng nghỉ tạo nên nhiều hiệu quả.
Tóm lại, đây là vài suy tư có hệ thống hơm, khả dĩ cung hiến những điểm chính yếu giúp hiểu rõ hơn sự hợp lý của bài diễn từ quan trọng này.
1. Diễn từ này cần được hiểu bằng cách so chiếu với phép lạ trước đó. Chúa Giêsu đưa ra một dấu lạ chiếm vị trí trong sự tiếp đãi bánh manna và ý nghĩa của nó. Điều can hệ ở đây, đó là căn tính của Chúa Giêsu và thân phận của Người đối với Do Thái giáo và nhất là với các biến cố căn bản của việc Xuất hành. Người mong muốn được nhận biết và đã thất bại. Do đó diễn từ cố gắng làm điều mà hành động đã không thể thực hiện được.
2. Lần mạc khải này được điều tiết bằng bốn lần thật, tôi bảo thật các ông. Nắm vững các điệu tiết này như những dấu chỉ sự tiến triển của dòng tư tưởng, ta sẽ có cơ may tôn trọng sự hợp lý của dòng văn bản. Ta nhận ra rằng mỗi một đơn vị được cấu tạo bằng một lần mạc khải và một lần biểu hiện sự cứng lòng không chịu tin, ngoại trừ đơn vị sau cùng chỉ có lời mạc khải của Chúa Giêsu chiếm lĩnh.
3. Sự kiên trì cứng lòng không chịu tin tạo cảm nghĩ rằng chúng ta đang đứng trước một bản văn tranh luận và biện giải. Cuộc tranh luận này để lộ ra thân phận dành cho người Do Thái và những gương mặt quan trọng của Israel. Dụng ngữ “tổ tiên các ông” được lặp lại nhiều lần, chỉ rõ sự rạn nứt đã xảy ra giữa người Do Thái và các Kitô hữu đang tranh luận. Lối diễn đạt như thế khiến nghĩ đến thời kỳ cộng đoàn chứ không phải thời kỳ lịch sử của Chúa Giêsu. Vả lại, còn có nhiều dụng ngữ khác xác nhận cảm nghiệm này, đặc biệt sự đối nghịch liên lỉ giữa bánh manna như lương thực của sự chết – “Tổ tiên các ông đã ăn và đã chết” (c. 49) – và Chúa Giêsu như “bánh đem lại sự sống cho thế gian” (c. 33).
4. Chính cá nhân Chúa Giêsu là tâm điểm của diễn tiến. Giữa bốn phần, ta thấy có sự tiến triển trong mạc khải.
Trong phân đoạn thứ nhất (cc. 26-31), Chúa Giêsu trình bày mạc khải khi Người nói về mình ở ngôi thứ ba mà không hề xưng “Tôi”. Những người Do Thái là những chứng nhân và là những người thụ hưởng một dấu lạ. Thế nhưng họ tỏ ra không có khả năng nhận biết nơi Chúa Giêsu điều gì khác hơn điều họ chờ đợi: một Mêsia trần thế. Để thấu hiểu hiện tại, họ không thể tìm thấy cách đo lường nào khác hơn là cách đo lường của quá khứ: tổ tiên chúng tôi đã ăn manna (c. 31)...
Phân đoạn thứ hai (cc. 32-46) đặt ở vị trí thứ nhất Thiên Chúa Cha và nhất là Chúa Con, “Đấng từ trời xuống” (c. 33). Ta nhận thấy rằng Chúa Giêsu xoay hướng lợi ích về bản thân mình: điều đó biểu lộ qua việc sử dụng ít nhất 18 đại từ ở ngôi thứ nhất. Cuộc thách đố: đó là tin rằng nơi con người Chúa Giêsu (“con ông Giuse, cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả” c. 42), Thiên Chúa tỏ hiện và tự hiến. Tin vào Chúa Giêsu, đó là được sự sống ngay từ lúc này đây và sống cho sự sống lại chung cục.
Phân đoạn thứ ba (cc. 47-52), theo cách thức Sêmit, lặp lại các chủ đề đã đưa vào và xác định chúng: Chúa Cha, từ nơi Người mà Chúa Con đã lãnh nhận mọi sự, không được nhắc đến trong phân đoạn này; ở đây Chúa Giêsu nói về chính mình và đưa vào chủ đề sự chết của Người như nguồn mạch sự sống cho thế gian. Chủ đề cho đến lúc đó đã tập trung ở đức tin vào Chúa Giêsu thì giờ đây nhắc đến sự chết của Người và Thánh Thể như bí tích tưởng niệm sự chết.
Phân đoạn sau cùng (cc. 53-59) đề cập cách rõ ràng về Thánh Thể: các từ ngữ được sử dụng rất thực tế: ăn thịt (“nhai” theo nghĩa từng chữ). Rõ ràng ở đây chúng ta đang ở trong thời kỳ của Giáo Hội: việc cử hành Thánh Thể là hành động đối lại ảo-thân-thuyết (giáo phái cho rằng Chúa Giêsu giả bộ làm người) và là sự quả quyết có tính bí tích về thực tại của sự nhập thể.
5. Sự mạc khải về mầu nhiệm của Chúa Giêsu ngày càng thâm sâu thì số môn đệ càng bớt dần. Trước tiến đó là người Do Thái “xầm xì” (c. 41) như dân Israel xưa kia đã làm trong sa mạc: Xh 17,3. Tiếp đến ngày càng nhiều môn đệ “rút lui và không còn đi với Người nữa” (c. 66); sau cùng, ngay giữa nhóm Mười Hai, cũng bắt đầu sự cứng lòng không chịu tin. Dù có lời tuyên xưng đức tin tuyệt vời của Phêrô, chương này kết thúc với một ghi chú bi quang: “Chính Giuđa, một môn đệ trong nhóm Mười Hai sẽ nộp Người” (c. 71).
6. Toàn thể chương này xoay quanh vấn nạn: “Làm sao tìm gặp Chúa Giêsu?”. Dân chúng đi theo Người, tưởng đã gặp Người đến nỗi có thể “bắt ép Người” (c. 15). Chúa Giêsu lẩn tránh được họ và dân chúng bắt đầu “tìm kiếm Người” (c. 25). Khi đã gặp được Người trong hội đường, dân chúng cảm nghiệm có thể mất Người vì những kỳ vọng xem ra thái quá. Họ tranh luận nhau và kẻ trước người sau bỏ đi hết. Đối với các Kitô hữu sống sau thời Chúa Giêsu tại thế, Thánh Thể cho phép sự gặp gỡ là “ở lại với Người” (c. 56). Phêrô, người phát ngôn của nhóm Mười Hai, ở lại với Người bởi vì “Người có những lời đem lại sự sống đời đời” (c. 68).
Chương này dài và khó đã khiến nhiều nhà chú giải có những ý kiến khác nhau về ý nghĩa. Ngay các Giáo phụ cũng đã tranh luận về giá trị Thánh Thể của bài trần thuật. Vài vị đã quả quyết rằng hình ảnh của ăn uống là những biểu tượng của đức tin. Những vị khác lại nhận thấy một ý nghĩa đặc biệt trong các câu 53-58. dường như hiện nay những đối nghịch đó không còn mãnh liệt nữa, vì đa phần đều chấp nhận ảnh hưởng của Giáo Hội đối với chương này. Đặc biệt các quy chiếu Thánh Thể, không thể hiểu được trong thời gian Chúa Giêsu tại thế, lại có thể hiểu được và trở thành hiển nhiên sau việc lập Thánh Thể và việc cử hành bí tích của Giáo Hội.
53. Chú giải của Noel Quesson.
BÁNH HẰNG SỐNG
Thiên Chúa là duy nhất và Lời Chúa là duy nhất, nghĩa là được gom lại trong một sự phát âm duy nhất: Chúa nghĩ mọi sự trong chỉ một “Lời” lời của Người hoàn toàn duy nhất. Nhưng độc nhất và duy nhất đó, lời đơn giản đó lại được truyền đi thành vô số những chân lý khác nhau, qua những lời nói khác nhau của con người. Cũng như ánh sáng trắng trong tính duy nhất của nó, gồm chứa mọi màu sắc của cầu vồng, rất khác nhau, khi chúng xuyên qua lăng kính của chúng ta. Vậy chúng ta không nên ngạc nhiên khi thấy người ta đưa ra nhiều giải thích về mầu nhiệm bánh sự sống. Mỗi cách giai thích là một sự tiếp cận, một phiến diện của chân lý độc nhất. Chương 6 Tin Mừng Thểo thánh Gioan có thể được hiệu bằng 4 cách:
1. Một vài tác giả thời xưa đã nghĩ đến ý nghĩa thuần túy thiêng liêng “Bánh sự sống " đó là con người và sứ điệp của Đức Giêsu, mà ta “đồng hóa" nhờ đức tin.
2. Một số lớn những nhà chú giải Thánh Kinh thời nay, trái lại cho rằng cách nói này hoàn toàn thuộc về Bí tích Thánh Thể: “Bánh sự sống”, chính Thánh Thể mà chúng ta ăn thực sự trong một thứ bữa ăn hiện thực, trong đó chính thân Thể của chúng ta cũng đóng vai trò của nó.
3. Nhiều nhà phê bình đưa ra một ý kiến trung dung: Phần đầu diễn từ cho đến câu 50 nhắm vào đức tin... làm cho chúng ta được nuôi dưỡng bằng Đức Giêsu nhờ thông hiệp với tư tưởng và lời của Người. Phần 2 của diễn từ, bắt đầu từ câu 51 tức là bài đọc Chúa nhật này, nhằm Bí tích Thánh Thể, làm cho chúng ta kết hiệp với Mình Máu Chúa cách Bí tích, trong một "dấu chỉ hữu hiệu”.
4. Cuối cùng, đối với một số tác giả hiện đại, diễn từ của Chúa Giêsu nhắm cả vào Đức tin và Bí tích Thánh Thể. Thật vậy, có một sự kết hợp mạnh mẽ giữa hai đề tài này: Đức tin hoàn toàn nơi Chúa Kitô đòi hỏi phải tìm Người hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, vì Bí tích Thánh Thể là "mầu nhiệm đức tin" tuyệt vời.
Suy niệm về Lời và Con Người của Đức Giêsu (phần đầu của Thánh lễ: Phụng vụ Lời Chúa) và rồi thông hiệp với Mình Máu Thánh Người (phần 2 của Thánh lễ: Phụng vụ Thánh Thể), là 2 phần nối tiếp nhau. Làm sao ta có thể nói, người ta thực sự tin vào Đức Giêsu, con Thiên Chúa đã nhập thể không mà ta lại không làm theo lời Người và đón nhận “Mình Thánh" Người? Đức Giêsu thường nói về đức tin trước khi nói cách rõ ràng về Bí tích Thánh Thể, vì sự hiện diện nhiệm mầu" của Người chỉ thực sự nuôi dưỡng những kẻ tin. Ta cũng thấy được sự quan trọng phải đến dự lễ đúng giờ: Nhờ đức tin, chúng ta phải được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa là chính Đức Giêsu, để có thể được nuôi dưỡng bằng chính Người trong mình Chúa đã được phó nộp vì chúng ta. Không có 2 phần trong Thánh lễ, phần đầu có thể tùy ý không bắt buộc. Ngay từ đầu, chúng ta đã thông hiệp với Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Đức Giêsu nói: "Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây để cho thế gian được sống".
Đây là câu 51 lần đầu tiên một từ mới xuất hiện và sẽ được lặp lại 11 lần trong phần cuối diễn từ của Đức Giêsu: “thịt và máu” "ăn và uống". Chứng từ này rất hiện thực chúng ta không làm sao chỉ có thể hiểu một cách tượng trưng được.
Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?".
Họ đã hiểu theo một cách thực tế nhất, và họ đã bất bình. Nếu họ nghĩ đến việc đón nhận Thánh Thể cách thiêng liêng, thì họ đã không bất bình.
Đức Giêsu nói với họ: "Thật, Tôi bảo thật các ông: Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông sẽ không có sự sống nơi mình".
Thay vì làm dịu bớt sự căng thẳng, Đức Giêsu lại càng nhấn mạnh đến tính thực tế của đời Người, và từ bây giờ trở đi, Người còn thêm 2 từ "thịt" và “máu”... Và vấn đề không chỉ nguyên là "ăn" mà còn là "uống" nữa. Việc rước Chúa dưới "hai hình" nằm trong truyền thống xa xưa bắt nguồn từ Đức Giêsu, đến nỗi người ta tự hỏi làm sao có thể bỏ truyền thống này, và cần. phải bao lâu nữa người Kitô hữu mới muốn lăp lại truyền thống này.
Sự liên kết hai chữ "thịt" và "máu” có thể được hiểu bằng nhiều cách.
Theo tâm thức của người Sê-mít, kiểu nói này ám chỉ toàn diện con người, tất cả những gì làm nên thực tại cụ thể con người, với những khả năng và giới hạn của nó. Cũng theo tâm thức của người phương Đông, "máu” thật là linh thiêng, bởi vì nó là biểu tượng phi thường của "sự sống", đến độ có thể dùng chữ này thay thế chữ kia ("nếu các ông không uống sự sống của Người, các ông sẽ không có sự sống của Người trong mình").
Nhưng cuối cùng và quan trọng nhất, đó là sự phân cách giữa 2 yếu tố này: Mình Tôi và Máu Tôi, gợi lên cho biết Đức Giêsu sẽ chết cách nào, bằng cách "tách rời máu Người ra khỏi thân mình Người". Đức Giêsu vừa nói: "Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống": Ở đây rõ ràng Chúa muốn ám chỉ đến lễ hy sinh Thập giá Chúng ta thâm tín với Đức Giêsu, Người cần phải hy sinh để cứu chuộc thế gian. Người biết Người phải “hiến dâng" mạng sống của Người để cho thế gian được sống.
Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được sống muôn đời và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.
Đừng quên rằng Thánh Gioan viết những câu này trong Tin Mừng của ông vào khoảng năm 90 hay 100. Nghĩa là từ 60 năm qua, ông đã cử hành Bí tích Thánh Thể với những cộng đoàn Kitô hữu. Làm sao mà độc giả của ông lại không áp dụng ngay những lời này vào Bí tích Thánh Thể mà họ đã "ăn và uống" thực sự, trong một bữa ăn huynh đệ thân mật. Vả lại, nếu Đức Giêsu không nói như thế thì làm sao các tông đồ trong bữa tiệc ly đã có thể hiểu được việc Đức Giêsu làm? Sự thiết lập Bí tích Thánh Thể, chiều 11 tối Thứ Năm Thánh sẽ không thể hiểu được đối với Nhóm Mười Hai, nếu Đức Giêsu đã không chuẩn bị cho các ông, bằng cách này hay cách khác... Và ở đây, trình thuật của Gioan rất quan trọng: Chắc chắn ông đã hiểu rõ những gì Đức Giêsu nói hôm đó khoảng một năm trước cuộc thương khó của Người, và Gioan đã đưa vào trình thuật của ông tất cả những hiểu biết về sự Phục sinh mà ông đã ghi nhận được qua những biến cố sau cùng này.
Vì Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống.
Thánh Gioan không thuật lại việc thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu, chiều tối Thứ Năm. Nhưng chúng ta thấy có sự song song rất ăn khớp với Tin Mừng nhất là Mátthêu, Máccô và Luca: Thực sự đó chỉ là một Tin Mừng với những từ ngữ khác nhau. Chúng ta đừng quên một tính từ mà Thánh Gioan thường hay dùng, đó là chữ "đích thực". Chữ này phải làm chúng ta chú ý, nó có nghĩa "coi thường". Đó là "của ăn đích thực" một của ăn không giống như những thức ăn khác. Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa đã cho chúng con những chỉ dẫn chính xác, rất quan trọng, giúp chúng con vượt lên trên những quan điểm nhân loại, quá chật hẹp thuần túy.
Sau đó, Đức Giêsu chỉ cho chúng ta 3 hiệu quả của Bí tích Thánh Thể.
1) Sự sống đời đời và sự sống lại
Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại.
Bích tích Thánh Thể làm cho chúng ta kết hiệp với Chúa Kitô Phục sinh đang sống trong vinh quang của Chúa Cha. Và Thân Thể hằng sống này (sống một cách khác, sống sự sống đích thực) trở nên "mầm mống" sự sống Thiên Chúa trong chúng ta. Theo Tin Mừng nhất lãm, vào buổi tối tiệc ly Đức Giêsu sẽ nói về "bữa tiệc trên trời", nơi đó Người sẽ quy tụ các bạn hữu của Người. "Thầy sẽ không uống rượu nho nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống với các con Rượu Mới trong vương quốc của Cha Thầy". Bữa tiệc Thánh Thể là một sự tham dự trước bữa tiệc Nước Trời, nơi đó chúng ta sẽ ngồi đồng bàn với Chúa Cha, với Đức Giêsu và Chúa Thánh Thần, theo hình tượng rất đẹp của Chúa Ba Ngôi. Vâng, chúng ta đang đi tới cuộc gặp gỡ hạnh phúc đó. Tạ ơn Chúa.
2) Sự kết hợp hỗ tương giữa Chúa Kitô và người Kitô hữu.
Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì luôn kết hợp với Tôi, và Tôi luôn kết hợp với người ấy.
Đây cũng là một từ quen thuộc đối với Thánh Gioan "ở cùng". Ơn gọi của mỗi người là "ở cùng Chúa, ở trong Chúa". Đó là đề tài căn bản của Giao Ước, đã được diễn tả trong Thánh kinh suốt dòng lịch sử, qua những kiểu nói ngày càng rõ ràng, riêng tư và thân mật:
"Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi" (Xh 6,7).- “Người yêu tôi thuộc về tôi và tôi thuộc về người ấy (Dc 6,3).- “Các con hãy ở trong Thầy, cũng như Thầy ở trong các con" (Ga 6,56 - 15,4).
3) Sự tận hiến cho Chúa Cha.
Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy.
Giới từ được dịch ở đây là "nhờ Chúa Cha" có những nghĩa phong phú hơn trong tiếng Hy Lạp. Giới từ đó là chỉ "địa", có nghĩa là "qua", "vì", "nhờ". Chúng ta thấy phớt qua một trong những nghĩa cử sâu xa của Đức Giêsu, mà Thánh Gioan đã khéo đoán biết được: Đức Giêsu sống qua Chúa Cha, nhờ Chúa Cha và cho Chúa Cha, và Người mời gọi chúng ta sống như thế!
54. Chú giải của Fiches Dominicales.
DIỄN TỪ VỀ BÁNH TRƯỜNG SINH
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Một lời huyền nhiệm mới:
Chúa nhật trước, chúng ta đã kết thúc phần thứ nhất "diễn từ bánh trường sinh"; theo thánh Gioan, Chúa nói những lời này ở hội đường Capharnaum, tiếp theo sau phép lạ bánh hóa nhiều. Lúc ấy, Đức Giêsu tự giới thiệu Ngài là "Bánh từ trời xuống”, cao trọng vô cùng so với manna của cuộc Vượt Qua thứ nhất. Điều này đã gây ra sự chống đối nơi người Do thái: "Người này không phải là Giêsu, con của ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết rõ, sao bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống”. Trước sự chống đối này, Đức Giêsu cho họ biết một mạc khải mới về mầu nhiệm con người và sứ vụ của Ngài: "Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. "
Câu nói này còn gây ra một chống đối khác, và để trả lời cho sụ chống đối lần thứ hai này, lại có thêm một mạc khải mới nữa về mầu nhiệm Đức Giêsu, lời huyền nhiệm mới của Ngài ở câu 51 (câu kết bài Phúc âm chúa nhật trước) mở đầu cho phần thứ hai của diễn từ. Lời này chủ yếu nói đến Thánh Thể: "Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống"
Đức Giêsu không những chỉ rõ mình là "bánh trường sinh" mà còn là "bánh trường sinh từ trời xuống”.
Động từ "ban” ("Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống") chủ từ của nó không phải là Cha, nhưng chính là Đức Giêsu. Ngài là người ban tặng, nhân danh Chúa Cha.
Bánh này đồng nhất với "thịt " của Đức Giêsu. Từ này không chỉ bản chất của cơ thể con người, nhưng chỉ chính Đức Giêsu trong thân phận con người phải chết. Tại sao tác giả Tin Mừng thích dùng từ này hơn từ ‘thân mình’ mà truyền thống đã quen khi nhắc lại những lời Đức Giêsu nói ở bữa tiệc ly? Cha X. Léon-dufour trả lời: "Có thể do từ "thịt" đã nêu lên cách hiện diện của Ngôi Lời giữa chúng ta trong Lời Tựa của Phúc Âm thánh Gioan (1,14: "Ngôi Lời đã trở nên xác thịt). Như vậy, ở đây, tác giả Phúc âm muốn giữ lại ý tưởng về mầu nhiệm nhập thể mà diễn từ muốn làm nổi bật khi nói đến vấn đề từ trời xuống." (Lecture de l'Evangile selon Jean', tập 2, Seuil, tr. 160). Ngôi Lời đã trở nên xác thịt (1,14). Và thịt đã trở nên bánh (6,51).
Còn công thức: "Ban để cho thế gian được sống" nói rõ mục đích của việc Đức Giêsu dâng hiến mạng sống mình làm quà tặng. (Sách đã dẫn, tr.161)
2) Một phản đối mới
Điều khẳng định mới mẻ về cái chết của Ngài là mạch suối hằng sống cho thế gian đã gây ra một phản đối mới: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?"
Mới đó, Đức Giêsu đã gây xung đột khi xưng mình có nguồn gốc từ trời, giờ lại thêm một xung đột khác. Nếu đúng thực là người Thiên Chúa sai đến, là Đấng Thiên sai như đã tự phụ thì làm sao Thiên Chúa có thể để Ngài phải trải qua cái chết vì Ngài quả quyết: " Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống. "Làm sao Thiên Chúa có thể không cứu Ngài thoát khỏi quân thù và bảo đảm cho Ngài chiến thắng?” LM. Chauvet cảnh báo: "Nếu khó khăn thứ nhất về căn tính Đức Giêsu đã khó có thể tiêu hóa nổi thì khó khăn thứ hai về cách thực hiện sứ mạng của Ngài càng không thể nuốt trôi: vì như vậy, Thiên Chúa có lẽ sẽ không còn là Thiên Chúa nữa". ("Symbole ét sacrement", Cerf, tr.229-230).
Chính xung đột thứ hai là hậu cảnh cho "diễn từ về bánh trường sinh”, chứ không phải việc bánh trở nên thịt Ngài được gọi là sự ‘biến đổi bản thể’. Chính niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng từ Thiên Chúa mà đến và lại trở về với Thiên Chúa sau khi trải qua cái chết để ban sự sống cho thế gian mới là trung tâm của tất cả diễn từ. Như thế, chúng ta mới nói hết được tầm quan trọng của vấn nạn ở câu 52 (Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?): Thiên Chúa có còn là Thiên Chúa nữa không một khi Người để cho kẻ người sai đi phải chết?" (LM. Chauvet, Sđd, tr.230).
3) Mạc khải mới của Đức Giêsu về chính mình:
Thay vì hạ giọng làm cho người nghe khỏi bị vấp phạm, Đức Giêsu còn lên tiếng mạnh mẽ, quả quyết hơn: "Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình."
Không chỉ có vấn đề "thịt ", mà còn phải "ăn" (nghĩa đen là nhai, như chúng ta "nhai" bữa ăn phục sinh; chúng ta gặp động từ này 8 lần trong những câu này); và phải uống máu Ngài. Để "ở” với Ngài ngay từ bây giờ, để sống sự sống Ngài đã nhận từ Cha, chúng ta phải nhờ đức tin đón nhận mầu nhiệm sự chết là quà tặng Ngài ban cho ta.
Khi đọc bản vằn này, một bản văn rất tương hợp với bài tường thuật về việc Chúa lập bí tích Thánh Thể, người Kitô hữu không thể không nhận biết đó là lời loan báo về Thánh Thể. Tài liệu thần học chuẩn bị cho Đại hội Thánh Thể quốc tế tại Lộ đức viết rằng: "Khi ăn Mình mầu nhiệm Chúa, các Kitô hữu nghiền ngẫm" (nhai lại) biến cố gây vấp phạm là việc Đấng Thiên sai bị đóng đinh vì muốn ban sự sống cho thế gian (xem Ga 6,51), và nên một với Người nơi chính thân thể mình, hầu đời sống hằng ngày được biến đổi nên giống Người" (Jésus Christ, painrompu our un monde nouveau, Centurion, 1980, tr. 64)
BÀI ĐỌC THÊM
1) “Ngôi lời đã trở thành xác thịt. Xác thịt đã trở nên bánh”
(A. Marchadour, trong "Les dossiers de la Bible", số 41, 1992, tr.13-14):
Khi giảng dạy tại Capharnaum. Đức Giêsu không thể tuyên bố trực tiếp về Thánh Thể vì trước bữa tiệc ly, cũng như trước khi Ngài chết và sống lại, điều đó còn rất khó hiểu. Trước hết, thành ngữ "Bánh trường sinh" là cách để chỉ Đức Giêsu là Đấng mạc khải từ trời đến, và lời Ngài là của ăn và của uống giống như sự khôn ngoan của Thiên Chúa được trình bày cụ thể bằng bánh và rượu (Hãy đến, hãy ăn bánh và hãy uống rượu ta đã dọn cho các ngươi, Prov. 9,5). Toàn bộ diễn từ nhằm gợi lên niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng mạc khải; ngoài ra, việc cử hành bí tích Thánh Thể cũng được biểu lộ rõ ràng trong những kiểu nói: "An, uống, có sự sống”. Hơn nữa, phần cuối (câu 51-58) của diễn từ còn trực tiếp nói đến Thánh Thể. Chúng ta hãy xem xét phần này.
Quả thật, từ câu 51, Đức Giêsu nói đến cái chết của Ngài như nguồn mạch sự sống: "Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây để cho thế gian được sống”. Từ thịt làm chúng ta nghĩ đến Lời Tựa: "Ngôi Lời đã trở thành xác thịt" (1,14). Ở đây, rõ ràng, mầu nhiệm nhập thể được diễn tả ở điểm chót là cái chết của Đức Giêsu. Ngôi Lời đã trở thành xác thịt. Xác thịt đã trở nên bánh. Có sự liên tục giữa nhập thể, cái chết trên thập giá và Thánh Thể. Ngày nay, Đức Giêsu vắng mặt về thể xác, nhưng điều Ngài mạc khải còn đó và Thánh Thể vẫn và điểm hẹn để con người có thể gặp gỡ hoặc từ chối Người như những người đương thời với Đức Giêsu vậy: "Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi” (6,60).
Trong các câu 53-56, thay vì động từ "ăn”, Gioan dùng một động từ có nghĩa mạnh hơn: "nhai”, "nhai rau ráu”. Điều này có thể nhằm nhấn mạnh đến thực tại của Thánh Thể vì có một số Kitô hữu theo thuyết ngộ đạo bác bỏ sự trung gian của vật chất trong việc kết hợp với Đức Giêsu qua các bí tích, và không nhận Ngài cũng là người như chúng ta: đến trong xác thịt (1Ga 4,2). Tuy nhiên, sử dụng vật chất làm trung gian trong các bí tích không có nghĩa là chúng ta sử dụng ma thuật: Chính Thần Khí mới làm cho sống, còn xác thịt chẳng ích chi (6,63). Thánh Thể, xác và máu, thông truyền cho tín hữu hai quà tặng mà những người thời Đức Giêsu tìm kiếm: đời sống vĩnh cửu ngay từ bây giờ và sự luôn “ở" với Đức Giêsu. Ngày nay cũng vậy, Kitô hữu nào thông hiệp với Đức Kitô trong đức tin thì ở trong Ngài và được sự sống đời đời.
2) “Hai bàn tiệc"
"Thánh lễ gồm hai phần: phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể; cả hai liên kết chặt chẽ để làm nên một hành động phụng tự duy nhất. Thật vậy, thánh lễ vừa là bàn tiệc Lời Chúa vừa là bàn tiệc Thân Thể Chúa nhờ đó các tín hữu được giáo huấn và được bồi dưỡng" (PGMPL 8) Bản văn này sáng sủa rõ ràng nên không cần phải giải thích thêm. Nó nói đến tính cách đặc biệt của mỗi phần trong thánh lễ: có hai bàn tiệc nên có hai của ăn, nhưng cũng nói đến sự duy nhất làm cho hai bàn nên một hành động phượng tự duy nhất. Chúng ta đi từ Lời đến Thánh Thể, hay, dựa trên câu nổi tiếng của Phúc Âm thánh Gioan: "Ngôi Lời đã trở thành xác thịt" (1,14), để nói rằng chúng ta không thể đi tới xác thịt (thân thể) mà không qua Ngôi Lời (lời), và cả hai đều chỉ là duy nhất một Chúa có nghĩa là để gặp Chúa, đến với Chúa, phải nhờ Lời của Người.
Chúng ta cũng biết rằng từ thế kỷ XVI, anh em Tin Lành nhấn mạnh hơn đến tầm quan trọng của bàn tiệc thứ nhất và người công giáo chú trọng đến bàn tiệc thứ hai, nhưng từ công đồng Vaticanô II, phụng vụ có được sự cân đối hài hòa giữa hai bàn tiệc này. Đàng khác, Công đồng không canh tân mà chỉ trở về nguồn là nền thần học của các Giáo phụ nổi tiếng như Origênê, Ambrôsiô, Hiêrônimô, Gioan Kim Khẩu và Xê-da thành Ac".
55. Chú giải của William Barclay.
THỊT VÀ MÁU NGÀI (Ga 6,51-59)
Đối với phần đông chúng ta, đây là một đoạn khó hiểu. Đoạn này được trình bày phát biểu bằng một ngôn ngữ và chuyển động trong một thế giới tư tưởng hoàn toàn xa lạ với chúng ta, có thể là quái dị và thô kệch nữa. Nhưng chúng ta phải nhớ điều này, với thế giới thời cổ, nó vốn vận hành giữa những tư tưởng quen thuộc, những ý niệm có từ thời ấu trĩ của loài người.
Các ý niệm trong đoạn sách này vốn hoàn toàn bình thường đối với bất cứ ai đã quen với việc dâng tế lễ đời xưa. Ngày xưa, khi dùng sinh tế, lễ vật ít khi được thiêu hủy trọn vẹn, thường chỉ thiêu một phần tượng trưng nơi bàn thờ, tuy toàn thể con vật được dâng lên cho vị thần. Một phần thịt được chia cho các thầy tế lễ kể như thù lao cho họ, một phần khác được chia cho người dâng lễ vật để người ấy tổ chức bữa tiệc thiết đãi bạn bè mình ngay trong khuôn viên Đền Thờ. Trong bữa tiệc ấy, vị thần cũng được xem như một vị khách. Hơn nữa, khi thịt đã dâng cho thần rồi, người ta nghĩ thần đã nhập vào đó, cho nên khi người ta ăn thịt ấy, là ăn vị thần của mình. Sau khi dự một bữa tiệc như thế, họ tin rằng họ đã được tràn trề vị thần ấy. Họ hoàn toàn tin từ lúc ấy, trong người họ có sức sống sinh động của vị thần. Ta có thể nghĩ đó là thờ ngẫu tượng, là ảo tưởng viễn vông, nhưng với một số người khác thì đoạn sách này chẳng có gì khó hiểu cả.
Hơn nữa trong thế giới thời ấy, có thứ tôn giáo sống động, đó là các tôn giáo thần bí. Một điều đáng nói mà các tôn giáo thần bí ấy cung ứng được, là sự thông hiệp và ngay đến sự đồng hóa với vị thần nào đó. Cách thức thực hiện việc đó như sau. Tất cả các tôn giáo thần bí chủ yếu đều là những vở kịch đam mê. Có nhiều chuyện kể về một vài vị thần đã sống và chịu đau khổ khủng khiếp, đã chết rồi sống lại. Câu chuyện được dựng lên thành một vở kích cảm động, nhưng trước khi xem vở kịch ấy, người nhập giáo phải trải qua một lớp tập huấn lâu dài về ý nghĩa tiềm ẩn sau câu chuyện. Người ấy phải trải qua đủ thứ lễ nghi thanh tẩy, phải qua một thời gian dài kiêng cữ mọi liên hệ tính dục. Khi vở kịch về đam mê được trình diễn thì mọi sự đều được dàn xếp nhằm tạo bầu không khí dễ gây cảm xúc cao độ, người ta tính toán rất kỹ mức độ ánh sáng, có mùi hương trầm kích thích, có nhạc kích động, có kinh kệ kỳ bí, mọi sự đều nhằm tạo cho người mới nhập giáo một cảm xúc và khát vọng cao độ mà người ấy chưa từng biết trước đó. Nếu muốn, chúng ta có thể gọi là ảo giác, là sự kết hợp giữa thôi miên với tự kỷ ám thị – thái độ sẵn sàng chờ đợi một cái gì xảy ra. Và điều xảy ra đó là được đồng hóa với vị thần. Khi người mới nhập giáo được chuẩn bị sẵn sàng xem diễn kịch, thì người ấy trở thành một với vị thần. Người ấy chia sẻ những âu lo, đau khổ, sự chết và sống lại. Người ấy với vị thần vĩnh viễn trở thành một, do đó, người ấy sẽ được an toàn khi còn sống và lúc đã chết.
Có một số câu nói và kinh cầu nguyện của các tôn giáo thần bí nghe thật hay. Trong huyền thoại về Mithra, người mới nhập giáo cầu nguyện rằng: “Xin hãy ở với linh hồn tôi, xin đừng bỏ tôi, để tôi bắt đầu được sống với thần linh và thân linh sẽ cứ ở mãi trong tôi”. Trong huyền thoại về Hermes, người mới theo đạo nói: “Tôi biết thần Hermes, và Ngài biết tôi, tôi là Ngài, và Ngài là tôi”. Cũng trong huyền thoại đó, có một bài cầu nguyện như thế này: “Lạy Chúa Hermes, xin hãy đến trong tôi, như những con trẻ đến với lòng các bà mẹ vậy”. Trong huyền thoại về Iris, người thờ phượng nói: “Thần Orisis thật sự sống mãi thế nào, thì nguyện mọi kẻ thờ phượng Ngài cũng được sống thể ấy. Thần Orisis quả thật là không hề chết thể nào, nguyện người theo Ngài cũng sẽ không chết nữa”.
Chúng ta cần nhớ rằng những người thời cổ biết rõ mọi sự về sự phấn đấu, chờ đợi, mơ ước được đồng hóa với thần của họ, được phúc nhận vị thần ngự trong mình và nghe được vị thần mình. Họ không hề đọc những câu như “ăn thịt và uống máu Chúa Kitô” theo nghĩa đen một cách sống sượng và đáng sợ. Họ đã biết ít nhiều về kinh nghiệm kết hợp không thể mô tả được, một sự kết hợp mật thiết hơn bất cứ sự kết hợp nào trên thế gian. Đó là loại ngôn ngữ mà người thời cổ hiểu được, và chính chúng ta cũng hiểu được.
Cũng cần nhớ ở đây Gioan lại làm điều ông vẫn làm. Ông không cố gắng đưa nguyên văn lời Chúa Giêsu đã nói. Bảy mươi năm suy nghĩ về những gì Chúa Giêsu đã nói và bây giờ, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, ông đưa ra ý nghĩa bên trong lời ấy. Ông không kể lại từng chữ từng tiếng, vì nếu thế, chỉ là công việc của trí nhớ. Nhưng ông kể lại phần ý nghĩa cốt lõi của những lời ấy, tức là phần bởi Thánh Thần soi sáng.
Bây giờ chúng ta tìm xem Chúa Giêsu muốn nói điều gì, và Gioan hiểu thế nào từ những lời lẽ ấy như thế. Có hai cách để khảo sát đoạn này.
1. Có thể hiểu theo một ý nghĩa hết sức tổng quát, Chúa Giêsu nói về việc ăn thịt và uống máu Ngài. Thịt của Chúa Giêsu là nhân tính trọn vẹn đầy đủ của Ngài. Trong thư 1 Ga, đúng là tác giả đã phẫn nộ khi viết “Phàm Thần Khí nào tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng đã đến và trở nên người phàm thì Thần Khí đó là bởi Thiên Chúa, còn Thần Khí nào không tuyên xưng Đức Giêsu thì chẳng phải bởi Thiên Chúa” (1Ga 4,2-3). Thật vậy, Thần Khí nào phủ nhận Đức Giêsu lấy xác phàm mà đến là thần của Antichrist. Gioan muốn nhấn mạnh là chúng ta phải bám lấy, không bao giờ buông rơi phần nhân tính trọn vẹn của Chúa Giêsu. Chúa vốn có thịt xương giống như chúng ta. Điều ấy có nghĩa là gì? Như chúng ta đã thấy, Chúa Giêsu là tâm trí của Thiên Chúa trở thành con người. Có nghĩa là nơi Chúa Giêsu chúng ta thấy Thiên Chúa mặc lấy sự sống như con người đối diện với hoàn cảnh con người, phấn đấu với các vấn đề của loài người, tranh chiến với những cám dỗ của con người, giải quyết các mối liên hệ giữa loài người chúng ta.
Dường như Chúa Giêsu đã nói: “Hãy lấy tư tưởng về nhân tính của Ta mà nuôi dưỡng tâm trí linh hồn các ngươi. Khi các ngươi chán nản hay thất vọng, quá mệt mỏi với đời sống mà ngã quỵ, chán đời và chán sống thì hãy nhớ Ta đã từng lấy đời sống các ngươi với tất cả những nỗi gian nan mà khoác vào mình Ta”. Như thế đời sống và thân xác sẽ mặc lấy vinh quang vì đã được Thiên Chúa chạm đến. Chúa Giêsu đã thần hóa thân xác chúng ta bằng cách mặc nó lên chính Ngài, đó là niềm tin quan trọng của các học giả Kitô giáo chính thống Hy Lạp. Ăn thịt Chúa Kitô là nuôi dưỡng tư tưởng bằng nhân tính Ngài, cho đến chừng nào nhân tính của bạn được tăng cường, được tẩy sạch để trở thành thuần khiết và được Ngài chiếu sáng cho.
Chúa Giêsu dạy chúng ta uống máu Ngài. Tư tưởng Do Thái cho rằng máu tiêu biểu cho sự sống. Thật dễ hiểu tại sao Ngài bảo vậy. Một vết thương làm máu chảy ra tức là sự sống bị giảm đi. Với người Do Thái máu thuộc về Thiên Chúa. Đó là lý do cho đến ngày nay, người Do Thái chẳng bao giờ ăn một con vật còn máu bên trong. “Song các ngươi không nên ăn thịt còn hồn sống nghĩa là có máu” (St 9,4). “Các ngươi chớ ăn máu nó, phải đổ máu trên đất như vậy” (Đnl 15,23). Bây giờ chúng ta mới hiểu điều Chúa Giêsu dạy bảo: “Các ngươi phải uống máu Ta, phải nhận lấy sự sống của Ta là sự sống Thiên Chúa”. Khi Chúa Giêsu phán dạy phải uống máu Ngài, là Ngài dạy chúng ta phải nhận láy sự sống của Ngài vào trong mình.
Như thế có nghĩa gì? Xin minh họa như sau: Đây là tủ sách của tôi, trong đó có một cuốn sách mà tôi chưa hề đọc. Dù cho quyển sách có quý và bổ ích đến thế nào, mà nếu tôi không đọc đến nó thì nó vẫn ở ngoài tôi. Nhưng một ngày kia, tôi lấy nó ra đọc, tôi cảm thấy hồi hộp, lôi cuốn và rung cảm. Câu chuyện đó thôi thúc tôi, những dòng chữ quan trọng được ghi khắc vào tâm trí tôi. Bây giờ lúc cần, tôi có thể lấy những điều kỳ diệu đó từ bên trong, hồi tưởng lại, suy gẫm nó, bồi dưỡng tâm trí mình. Trước kia, cuốn sách vốn ở ngoài tôi, nằm trên kệ sách. Bây giờ, nó thâm nhập vào tôi, tôi có thể lấy nó để nuôi mình. Những kinh nghiệm từng trải trong đời cũng vậy. Chúng vẫn ở ngoài ta cho đến khi chúng ta nhận lấy cho riêng mình.
Với Chúa Giêsu cũng vậy. Bao lâu Ngài còn là một nhân vật trong sách, thì Ngài vẫn ở ngoài ta, nhưng một khi Ngài đã vào lòng chúng ta, thì Ngài ở trong chúng ta, chúng ta được nuôi dưỡng bằng sự sống, sức mạnh và sự sinh động do Ngài ban. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải uống máu của Ngài. Ngài phán: “Các ngươi phải lãnh nhận sự sống của Ta, đưa vào bên trong các ngươi. Phải thôi nghĩ về Ta như một nhân vật trong sách hay một đề tài thảo luận thần học, mà phải nhận lấy Ta vào trong các ngươi, và các ngươi vào trong Ta, lúc ấy, các ngươi sẽ có sự sống và đó là sự sống thật”. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nói khi Ngài đề cập đến việc chúng ta ở trong Ngài và Ngài ở trong chúng ta. Khi Chúa Giêsu dạy chúng ta ăn thịt và uống máu Ngài, là dạy chúng ta hãy nhận lấy nhân tính của Ngài để nuôi dưỡng tâm trí và linh hồn ta, hãy bồi dưỡng đời sống mình bằng sự sống của Ngài cho đến khi chúng ta được thấm nhuần, tràn ngập, đầy dẫy sự sống của Thiên Chúa.
2. Nhưng Gioan còn muốn nói nhiều hơn, Gioan cũng nghĩ đến Bữa Ăn Tối của Chúa, là Tiệc Thánh. Chúa Giêsu phán: “Nếu các ngươi muốn có sự sống, hãy đến ngồi vào bàn ăn để ăn miếng bánh đã bị bẻ ra, uống chén rượu đã được đổ ra, để bởi ân huệ của Thiên Chúa, các ngươi được tiếp xúc với tình yêu và sự sống của Chúa Giêsu cách sống động”. Gioan nói với mọi người: “Các bạn không thể có được đầy dẫy diệu kỳ của đời sống Kitô hữu, trừ phi các bạn đến ngồi vào bàn tiệc yêu thương này”. Nhưng Gioan không hề kể lại câu chuyện về Bữa Ăn Tối cuối cùng, đây là điều vô cùng lạ lùng trong quan điểm của ông. Ông đưa ra lời giáo huấn về Tiệc Thánh, không phải trong phần tường thuật câu chuyện ở phòng cao, mà trong câu chuyện một bữa ăn ngoài trời trên sườn đồi gần Bétxaiđa Guilia, bên bờ hồ Galilê xanh biếc.
Chúng ta không có gì nghi ngờ về những điều Gioan muốn nói. Ông muốn nói với Kitô hữu chân chính điều này, là mỗi bữa ăn đều trở thành Thánh Lễ. Có thể nói không quá đáng rằng một số người đã lạm dụng Thánh Lễ trong Hội Thánh, khiến nó trở thành một thứ bùa phép ma thuật, hoặc ngụ ý rằng Tiệc Thánh là nơi duy nhất chúng ta có thể đến gần Chúa Kitô Phục Sinh. Gioan thật tình chủ trương mỗi bữa ăn, dù là trong gia đình hèn hạ nhất hay trong cung điện cao sang, dưới bầu trời với bãi cỏ xanh làm thảm, cũng đều là một Tiệc Thánh. Gioan không giới hạn sự hiện diện của Chúa Kitô trong khung cảnh giáo đường hay một buổi lễ có kinh kệ theo đúng nghi thức. Ông nói: “Trong bất cứ bữa ăn nào, các bạn cũng lại thấy bánh chỉ về nhân tính của Thầy, rượu nho chỉ về máu vốn là sự sống”. Trong tư tưởng của Gioan, tại bàn ăn qua loa ngoài bờ biển hay trên sườn đồi, tất cả đều giống nhau ở chỗ, trong tất cả các bữa ăn đó chúng ta đều có thể nếm, chạm đến và cầm lấy bánh với rượu nho đem chúng ta đến gần Chúa Kitô. Kitô giáo sẽ thật nghèo nàn, nếu Chúa Kitô bị giới hạn trong các nhà thờ. Gioan tin rằng chúng ta có thể tìm gặp Chúa Kitô bất cứ ở đâu, vì trong thế giới có sự hiện diện của Ngài khắp nơi. Không phải ông làm giảm giá trị Tiệc Thánh, nhưng ông mở rộng ra để chúng ta có thể tìm gặp Chúa Kitô tại bàn Tiệc Thánh trong nhà thờ, rồi đi ra để cùng gặp Ngài ở bất cứ nơi nào mà con người họp lại để vui hưởng các ân huệ của Ngài.
- 18/08 Tinh thần trẻ nhỏ
- 17/08 Không được phân ly
- 16/08 Yêu thương và tha thứ
- 14/08 Sống tinh thần trẻ thơ
- 13/08 Chúa Giêsu, mẫu gương vâng phục
- 12/08 Bánh Hằng Sống từ trời xuống
- 11/08 Lòng tin lớn bằng hạt cải
- 10/08 Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt
- 09/08 Vác Thập giá theo Chúa
- 08/08 Lòng tin bà mẹ ngoại giáo