Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
24/07 Làm theo Ý Cha trên trời
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Làm theo Ý Cha trên trời.
Thứ ba tuần 16 thường niên.
"Người giơ tay trên các môn đệ mà nói: Đây là mẹ Ta và là anh em Ta".
Lời Chúa: Mt 12, 46-50
Khi ấy, Chúa Giêsu còn đang nói với dân chúng, thì mẹ Người và anh em Người đứng ngoài tìm cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa rằng: "Kìa, mẹ Ngài và anh em Ngài đang đứng tìm Ngài ngoài kia". Nhưng Người trả lời kẻ ấy rằng: "Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta?" Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: "Đây là mẹ Ta và là anh em Ta, vì hễ ai làm theo ý Cha Ta trên trời, thì người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta vậy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thực Hành Lời Chúa
Mỗi tác giả Tin Mừng đều có một lối giải thích về thái độ của Chúa Giêsu đối với gia đình của Ngài, và sự khẳng định về tình liên đới của Ngài đối với gia đình thiêng liêng gồm những ai thực thi ý Chúa. Ðối với thánh Marcô, thái độ của Chúa Giêsu được tỏ ra sau khi Chúa chọn Nhóm Mười Hai. Trong Nhóm Mười Hai đã có một cuộc tranh cãi sôi nổi về chuyện ai sẽ được ngồi bên tả hay bên hữu Chúa Giêsu; những người có họ hàng với Ngài dĩ nhiên nuôi nhiều hy vọng hơn. Chính trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu khẳng định trong Nước Ngài, quan hệ máu mủ ruột thịt không quan trọng bằng niềm tin; gần gũi với Ngài không đương nhiên là bà con ruột thịt, mà chính là những ai thực thi ý Chúa.
Trong Tin Mừng Luca, thì thái độ của Chúa Giêsu đối với gia đình ruột thịt của Ngài được ghi lại như một kết luận của toàn bộ những lời giảng dạy của Ngài về Nước Chúa, cũng như những điều kiện để thuộc về Nước Chúa. Như vậy, đối với Luca, chỉ có việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa mới thực sự làm cho con người được đi vào quan hệ mật thiết với Chúa Giêsu.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay là phần kết luận của trình thuật về cuộc chiến đấu giữa thần khí Chúa và thần khí ma quỷ. Ma quỷ vốn làm cho con người ra câm điếc đối với Lời Chúa; do đó, như người câm được Chúa Giêsu chữa lành, con người cũng cần phải được tháo cởi khỏi xiềng xích của ma quỷ mới có thể lắng nghe được Lời Chúa và thần khí của Ngài. Ðức Maria chính là mẫu mực của con người không hề bị giam hãm trong xiềng xích của ma quỷ. Mẹ luôn luôn lắng nghe và đáp trả Lời Chúa. Chính vì lắng nghe Lời Chúa mà Mẹ đã cưu mang Con Chúa; nơi Mẹ, quan hệ máu mủ ruột thịt với Chúa Giêsu được xây dựng trên chính thái độ lắng nghe Lời Chúa; Mẹ chỉ là Mẹ Chúa Giêsu, bởi vị Mẹ đã lắng nghe Lời Chúa.
Chúa Giêsu đã đề cao thái độ của Mẹ Maria, để từ đó nói lên mối giây liên kết đích thực trong gia đình Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập. Hầu hết các tôn giáo đều dựa trên gia đình như là cộng đoàn nền tảng nhất. Truyền thống khôn ngoan và luật Do Thái luôn đề cao tầm quan trọng của gia đình. Chúa Giêsu xem ra đã làm một cuộc cách mạng táo bạo khi xây dựng tôn giáo của Ngài, không dựa trên mạng lưới những quan hệ gia đình, mà trên nền tảng của sự tự do. Trong gia đình Giáo Hội, con người trở nên thân thiết với nhau, không nhất thiết nhờ máu mủ ruột thịt, mà do chính niềm tin.
Dĩ nhiên, gia đình tự nhiên vốn là nơi con người đón nhận và nuôi dưỡng đời sống đức tin; gia đình là trường học đầu tiên về cung cách làm người cũng như sự trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu không bao giờ chối bỏ vai trò ấy của gia đình. Cộng đoàn xã hội, nhất là xã hội gia đình là môi trường cần thiết giúp con người đón nhận và phát huy đức tin.
Khi đề cao thái độ lắng nghe và thực thi Lời Chúa của Ðức Maria, Chúa Giêsu muốn chúng ta thấy rằng đức tin là sự gặp gỡ cá biệt giữa con người với Thiên Chúa, đó là cuộc gặp gỡ của mỗi người mà không ai có thể thay thế được. Càng sống Lời Chúa, càng đi sâu vào sự thân tình với Chúa, con người càng nhận ra tương quan của mình với tha nhân. Hai giới răn mến Chúa và yêu người gắn liền mật thiết với nhau là thế đó: người yêu mến Chúa một cách nồng nàn không thể không yêu thương người anh em của mình, trái lại, lòng bác ái đối với tha nhân cũng không thể không làm cho con người thêm gần gũi với Chúa hơn.
Ước gì chúng ta biết chạy đến với Ðức Maria như mẫu gương của lắng nghe và thực hành Lời Chúa; chạy đến với Người như người Mẹ thân thương của mỗi người, chúng ta cũng hãy đón nhận tha nhân như người anh em trong cùng một gia đình của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Thiếu Nữ Ðầy Ơn Phúc (Mt 12,46-52)
Qua đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe trên đây, Chúa Giêsu muốn mạc khải cho những người đương thời và cho mỗi người chúng ta về mối tương quan mới giữa Chúa và những kẻ thuộc về Người. Dân chúng đến nghe Chúa giảng dạy, có lẽ biết rõ và quan trọng hóa gia đình theo huyết thống của Người. Tuy nhiên, Chúa muốn mở rộng cái nhìn của Người để lắng nghe Chúa, mạc khải cho họ mối tương quan mới quan trọng hơn giữa Chúa và những ai thuộc về cộng đoàn mới mà Người đang thiết lập. Ðó là mối tương quan dựa trên việc thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? Ðây là mẹ, là anh em tôi, là những ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Ðấng ngự trên trời". Ðó là đại gia đình mới của Chúa Giêsu, được mở rộng cho tất cả mọi người, mỗi thành viên trong gia đình mới này liên kết với nhau, không phải bằng mối dây thân tình ruột thịt, nhưng bằng một mối dây thần thiêng, liên kết vững bền và trường tồn, phát sinh từ việc thi hành thánh ý của Thiên Chúa Cha, Ðấng ngự trên trời.
Khi trả lời cho đám đông muốn Chúa dành ưu tiên cho mẹ và anh em đang đến tìm Chúa, cho gia đình tự nhiên của Chúa, một gia đình nhỏ, được xây trên tình thân ruột thịt, Chúa Giêsu không chối bỏ mối quan hệ giữa Chúa và Mẹ Maria cũng như những anh chị em thân thuộc, nhưng Người mạc khải cho thấy mối tương quan quan trọng hơn, trọn vẹn hơn, và trong tương lai sẽ được mở rộng ra cho tất cả những ai chấp nhận thực hành thánh ý Thiên Chúa. Phẩm vị của Mẹ Maria không chỉ hệ tại nơi mối liên hệ ruột thịt với Chúa Giêsu, nhưng còn, và nhất là dựa trên mối dây thiêng liêng thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Hơn ai hết, Mẹ Maria đã chấp nhận thực hiện thánh ý Thiên Chúa ngay từ đầu với lời thưa "Xin Vâng" trong biến cố truyền tin. Mẹ là người đã luôn thực thi trọn vẹn thánh ý Chúa, Mẹ đã phó thác cả cuộc đời Mẹ trong hai tiếng "Xin Vâng", và đã để Thiên Chúa dùng Mẹ như khí cụ mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Vì thế, Mẹ đã được gọi là "Người Ðầy Ơn Phước". Ðầy Ơn Phước đã trở thành tên của Mẹ. Thiên thần đã gọi Mẹ là "Thiếu Nữ Ðầy Ơn Phước".
Có thể nói, Chúa Giêsu đã xác nhận trước mặt mọi người phẩm vị cao cả của Mẹ Maria khi Người trả lời cho đám đông: "Ðây là mẹ, là anh em tôi, là những ai thi hành thánh ý của Cha tôi, Ðấng ngự trên trời". Và một cách gián tiếp, chúng ta có thể nói thêm rằng chính giây phút đó, Chúa Giêsu như muốn đề ra mẫu gương của Mẹ Maria cho tất cả những ai muốn bước vào sống trong đại gia đình mới của Người, đó là hãy sống vâng phục và thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha như Mẹ Chúa đã nêu gương.
Lạy Mẹ Maria,
Mẹ là Mẹ Ðấng Cứu Thế và là Mẹ chúng con. Mẹ đã thi hành trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa. Xin thương dạy chúng con biết nhận ra thánh ý Chúa trong đời sống và khiêm nhu thực thi trong mọi hoàn cảnh, để chúng con và tất cả những người chúng con gặp gỡ cũng cảm nếm được niềm vui của đại gia đình Chúa hôm nay và cho đến muôn đời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Hiệp Nhất Nên Một Nhờ Cùng Thưa Vâng Với Chúa
Người bảo kẻ ấy rằng: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi người giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mt. 12, 48-50)
Để đánh tan mọi hiều lầm, Chúa chúng ta đã không cần bảo cho người ta biết Người là con trai duy nhất của thân mẫu Người. Về vấn đề này, ở Ca-phát-na-um cũng như ở Nagiarét, người ta đã nhất mực cho rằng: Mọi người đều coi Đức Giêsu là “Con bà Ma-ri-a”
Cha chúng ta …
Thiết tưởng là điều thiển cận khi cho rằng Chúa Giêsu coi nhẹ những mối dây liên hệ gia đình tự nhiên. Trái lại, Chúa Giêsu không lãnh đạm với thân mẫu Người, và luôn bày tỏ lòng kính trọng đối với cha mẹ; Người cũng dạy phải luôn luôn tôn trọng những mối tương quan liên hệ giữa các thành viên của cùng một gia đình.
Nhưng trong đại gia đình của Chúa Cha mà Người là Con Một, và chúng ta tất cả đều là nghĩa tử, thì không còn sự phân biệt kỳ thị nữa. Cả điều này chính Chúa cũng giảng dạy nhiều lần.
Luật yêu thương và tôn trọng anh em trong một gia đình tiềm ẩn trong (tư tưởng) thần học trên đây về tình yêu đại đồng, bởi lẽ mọi người bốn bể đều là anh em con một cha: “Tứ hải giai huynh đệ” Bởi vậy chúng ta có hai lý do để tôn kính và yêu mến cha mẹ ta: Các Ngài có quyền được ta tôn kính và yêu mến vì là cha mẹ; Các Ngài cũng có quyền được ta mến yêu và trọng kính vì là thành viên của đại gia đình Thiên Chúa. Đối với người cận thân cũng thế! Người cận thân cũng có thể được gọi là anh em ta một cách chính đáng, vì người ấy thực sự nằm trong ý định của Thiên Chúa. Ta hãy nhớ lại lời thánh Phao-lô nhắc nhở ta là con cái Thiên Chúa, là anh em với Chúa Giêsu Kitô, là người cùng thừa hưởng Nước Trời.
Ý Cha.
Mối dây liên kết ta với Chúa Giêsu Kitô không phải là mối liên hệ tự nhiên theo huyết tộc; liên hệ tự nhiên này dù rất cao quý vẫn không phải là liên hệ tạo lên tình huynh đệ giữa ta, mà chính là sự vâng phục ý Cha trên trời. Trong cuộc sống của tôi, khi tôi từ chối ý Chúa hoặc uốn nắn ý Người theo sở ước của tôi, tôi không thuộc về gia đình của Người. Tôi không được quyền gọi người thân cận tôi là anh em của tôi, nếu tôi không sống và thực thi ý Chúa.
Khi đưa ra điều kiện trên đây để được làm anh em, chị em Người, mẹ Người. Chúa Giêsu quả thực biết rõ và muốn mời gọi ta tham dự vào sự sống vô cùng quý giá, vô cùng phấn khởi: Sự sống Thiên Chúa vậy.
J.M
SUY NIỆM 4: MẸ VÀ ANH EM CỦA ĐỨC GIÊSU (Mt 12, 46-50)
Xem lại thứ Ba tuần 3 TN
Trong cuộc sống, vì nhiều hoàn cảnh, các thành viên trong gia đình nhiều khi phải phân tán để ra đi đến nơi xa lạ nhằm kiếm miếng cơm manh áo hay học hành hoặc vì sứ vụ... Nỗi lòng nhớ quê hương và người thân hẳn không bao giờ vơi đi trong lòng người xa quê! Như vậy, nếu may mắn có cơ hội gặp được người thân nơi đất khách quê người thì thật là hạnh phúc, nhất là người đó lại là cha mẹ hay anh chị em thân thiện với mình.
Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy phản ứng ngược lại tình cảm tự nhiên của Đức Giêsu. Khởi đi từ việc Mẹ Maria và anh em của Đức Giêsu đến gặp Ngài. Khi được tin báo, thay vì hồ hởi, tay bắt mặt mừng để ra chào đón Mẹ và anh em của mình, thì Đức Giêsu lại chỉ tay vào các môn đệ và những người đang nghe giảng mà nói: “Đây là mẹ và anh em của ta”. Phải chăng có phũ phàng quá không???
Thực ra, qua câu nói này của Đức Giêsu không có ý hạ thấp, giảm nhẹ vai trò Đức Maria là thân mẫu của mình, cũng như không hề phủ nhận tình nghĩa anh em trong dòng họ. Nhưng mặt khác, Ngài muốn đề cao Đức Mẹ và anh em mình cách cụ thể, bởi vì chính các ngài là những người đã vâng theo thánh ý Chúa cách triệt để. Cũng qua câu nói này, Đức Giêsu đã đưa dân chúng đến một quan hệ khác còn quan trọng hơn tình mẫu tử và tình anh em ruột thịt, đó là những người nghe và mau mắn thi hành Lời Chúa thì đáng được gọi là mẹ hay anh chị em của Ngài hơn.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy biết lắng nghe và mau mắn thi hành Lời Chúa trong đời sống hằng ngày, để trở thành thành viên trong đại gia đình của Chúa thực sự. Chỉ những ai được tháp nhập vào trong đại gia đình này mới là những người được ơn cứu độ, vì con cái thì mới được ở trong nhà.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban ơn thánh của Chúa xuống trên chúng con, để chúng con trở nên những con chiên ngoan ngoãn nhờ biết mau mắn thi hành Lời Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Ai là mẹ tôi?
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bị sốc.
Đức Giêsu đang giảng cho một đám người khá đông.
Chắc là họ đứng chen chúc nhau đến nỗi khó lòng đến gần Ngài được.
Chính vào lúc này thì mẹ và anh em Ngài đến, không rõ lý do.
Họ muốn nói chuyện với Đức Giêsu, nhưng đành phải đứng ở ngoài.
Có người vào báo cho Ngài về chuyện đó.
Chúng ta tưởng Ngài sẽ ngưng ngay bài giảng để ra gặp mẹ và anh em.
Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
Mẹ Ngài hẳn đã phải đi một đoạn đường xa để đến gặp con trò chuyện.
Nhưng lạ thay Đức Giêsu vẫn tiếp tục giảng.
Ngài vẫn tiếp tục nói chuyện với đám đông đang nghe Ngài,
thay vì đi ra nói chuyện với mẹ.
Sự quan tâm của Ngài nhắm vào những người ở trong đây,
hơn những người đứng ở ngoài kia.
Sau đó Ngài lại đặt những câu hỏi vừa dễ lại vừa lạ:
“Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” (c. 48).
Dĩ nhiên đó là những người đang đứng ngoài kia,
đang chờ được gặp mặt và nói chuyện với Ngài.
Nhưng đó không phải là đáp án của Đức Giêsu.
Chính Ngài cho ta đáp án bằng cách giơ tay chỉ các môn đệ mà nói:
“Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi” (c. 49).
Có một gia đình máu mủ đậm đà đứng ở ngoài kia,
và một gia đình mới rất thân thương đứng ở trong này.
Đức Giêsu không coi thường tình mẫu tử hay tình họ hàng ruột thịt.
Điều Ngài muốn nhấn mạnh ở đây là chuyện Ngài có một gia đình mới.
Các môn đệ của Ngài thuộc về gia đình này.
Họ là mẹ, là anh chị em của Ngài, vì họ thi hành Ý muốn của Cha Ngài.
Chính Đức Giêsu là người Con luôn thi hành Ý muốn của Cha.
Ai thi hành Ý Cha trên trời cũng trở nên gần gũi với người Con (c. 50).
Chúng ta có họ với Đức Giêsu và làm nên một gia đình bao la rộng lớn.
Bỗng nhiên chúng ta thấy mình gần Cha, gần Giêsu và gần nhau.
Nước Trời bắt đầu đến khi hơn hai tỉ kitô hữu
nhận ra là mình cùng muốn làm trọn Ý Cha,
cùng gắn bó keo sơn với Giêsu và cùng coi nhau là anh chị em (Mt 23, 8).
Đức Giêsu có nhiều anh chị em trong gia đình của Ngài.
Các phụ nữ thật là chị em của Ngài, dù xã hội Ngài trọng nam khinh nữ.
Đức Giêsu cũng không chỉ có một người mẹ tên là Maria.
Bất cứ ai sống theo ý Cha trên trời trong niềm vâng phục phó thác,
bất cứ ai sinh Đức Giêsu ra cho môi trường sống của mình,
bất cứ ai làm cho Ngài lớn lên trong trái tim nhân loại,
người ấy là mẹ Đức Giêsu.
Trong gia đình mới là Giáo Hội của Đức Giêsu,
Maria đã là Mẹ Đức Giêsu theo ý nghĩa tuyệt vời nhất.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
23/07 Dấu lạ Giô-na
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Dấu lạ Giô-na.
Thứ hai tuần 16 thường niên.
"Nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy lên án thế hệ này".
Lời Chúa: Mt 12, 38-42
Khi ấy, có mấy luật sĩ và biệt phái thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ". Người trả lời: "Thế hệ hung ác gian dâm đòi một dấu lạ! Nhưng sẽ không cho dấu lạ nào, trừ dấu lạ tiên tri Giona. Cũng như xưa tiên tri Giona ở trong bụng cá ba đêm ngày thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba đêm ngày như vậy. Tới ngày phán xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó, vì họ đã nghe lời tiên tri Giona mà sám hối tội lỗi, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Giona. Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó: vì bà từ biên thuỳ trái đất đã đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Salomon".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Dấu Chỉ Yêu Thương
Trong quyển tự thuật "Vì Danh Ta", một Mục sư người Hungari đã kể lại kinh nghiệm của ông. Bị bắt và bị chuyển từ trại này sang trại khác, vị Mục sư vẫn âm thầm rao giảng Lời Chúa cho các bạn tù. Trong 13 năm tù, ông đã giúp cho rất nhiều bạn tù được gặp gỡ Chúa. Ông đã kết thúc quyển tự thuật cũng là bài ca tuyên xưng đức tin của ông như sau:
"Trong suốt thời gian bị tù đày, tôi đã hiểu được rằng Lời Chúa đi vào tâm hồn con người dễ dàng hơn giữa những đau khổ và bách hại. Ðó là lý do cho thấy mùa gặt thiêng liêng trong các ngục tù luôn luôn dồi dào. Tôi không tự cho mình là người anh hùng, lại càng không phải là vị tử đạo. Nhưng vào lúc sống tự do, nhìn lại đằng sau, tôi có thể nói với tất cả thành thật rằng 13 năm bị tra tấn đánh đập, đói khát, 13 năm đau khổ và xa gia đình để làm mục sư cho hàng ngàn tù nhân trong các trại giam, 13 năm như thế quả thật đáng giá".
Những dòng trên đây quả là một phấn khởi cho tất cả những ai đang vì niềm tin của mình mà phải chịu bách hại và đau khổ. Những đau khổ thử thách mà các Kitô hữu phải trải qua thường là dấu chỉ cao đẹp nhất, qua đó Thiên Chúa tỏ mình cho con người.
Chúa Giêsu như muốn nói đến điều đó, khi Ngài mượn hình ảnh tiên tri Yôna để loan báo về chính cái chết của Ngài. Cũng như Yôna đã vâng phục Thiên Chúa đến rao giảng sự sám hối cho dân thành Ninivê, thì Chúa Giêsu cũng vâng phục Chúa Cha để sống kiếp con người và trở thành dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa cho con người. Qua hình ảnh Yôna để loan báo sự vâng phục cho đến chết của Ngài, Chúa Giêsu muốn nói đến con đường mạc khải của Thiên Chúa, đó là con đường tình yêu. Ngài đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, nghĩa là có tự do và biết yêu thương, cho nên Thiên Chúa đã chọn con đường yêu thương để đến với con người. Ngài đã hóa thân làm người, sống trọn vẹn kiếp người, và cuối cùng chịu chết treo trên Thập giá, tất cả để trở thành lời mời gọi đối thoại yêu thương.
Mãi mãi Thiên Chúa chỉ đến với con người qua dấu chỉ của tình yêu. Người Kitô hữu luôn được mời gọi để nhận ra những dấu chỉ yêu thương ấy trong cuộc sống của mình, không những qua những chúc lành và may mắn, mà còn qua những mất mát, khổ đau thua thiệt nữa. Nhận ra những dấu chỉ yêu thương của Thiên Chúa trong cuộc sống, người Kitô hữu cũng được mời gọi để trở thành những dấu chỉ yêu thương của Ngài cho mọi người chung quanh. Trở thành dấu chỉ yêu thương có nghĩa là chấp nhận sống vâng phục và vâng phục cho đến chết như Chúa Giêsu. Trở thành dấu chỉ yêu thương giữa tăm tối của cuộc sống, giữa đọa đày bách hại, người Kitô hữu vẫn tiếp tục chiếu sáng trong tín thác, yêu thương, phục vụ, tha thứ.
Xin cho lý tưởng chứng nhân luôn bừng sáng trong chúng ta, để dù sống trong đau khổ, thử thách, chúng ta vẫn trung thành với tình yêu Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Phép Lạ Trong Cuộc Ðời (Mt 12,38-42)
Tại sao những người kinh sư và pharisiêu cứ một mực đòi Chúa làm một dấu lạ đặc biệt, cho dẫu những phép lạ Ngài đã thực hiện trong thời đó không phải là hiếm có? Chính vì họ không có tâm hồn trong sạch và ngay thẳng. Họ đến với Chúa với thái độ ganh tỵ, quá khích, tranh giành ảnh hưởng. Vì thế, họ đã không nhận ra những phép lạ Chúa Giêsu đã làm cũng như không hiểu được ý nghĩa và giá trị của phép lạ. Những phép lạ Ngài làm chỉ nhằm ích lợi cho và vì con người, để con người nhận ra tình thương cứu độ Thiên Chúa đã và đang hoạt động, đang hiện hữu nơi một con người cụ thể với tên là Giêsu. Chính Chúa Giêsu, Ðấng cứu độ, làm cho con người được cùng nhau sống hạnh phúc và sung mãn trong Nước của Ngài.
Trong cuốn sách nổi tiếng rất quen thuộc với chúng ta có tựa đề Phép Lạ Trong Những Cái Thường Ngày, tác giả đã đưa ra những tư tưởng, những lời khuyên rất sâu sắc và thiết thực, làm mẫu mực cho những suy tư và tâm tình sống của chúng ta. Có lẽ trong chúng ta ai cũng đồng ý với ý tưởng của tác giả. Một khi chúng ta nhìn tha nhân và thế giới quanh ta với cái nhìn trong sạch, một khi đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của ta, thì không có gì là không giúp chúng ta nhận ra sự quan phòng của Chúa. Chúa luôn can thiệp trong mọi giây phút của cuộc đời chúng ta. Phần chúng ta, chúng ta có sẵn sàng hay có đủ kiên nhẫn và khiêm nhường để nhận ra sự can thiệp của Ngài không. Hãy nhắm mắt lại và để tâm quan sát mọi cơ phận của ta cũng như mọi hoạt động, những chuyển động đang diễn ra trong ta và trong thế giới chúng ta đang sống, với sức sống của muôn loài thụ tạo. Từ cái to lớn vĩ đại nhất cho đến cái vi phân tử, rồi niềm tin, tư tưởng, ý nghĩ, tâm tư, tình cảm của con người, đâu đâu chúng ta cũng gặp thấy quyền năng và sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả những điều kỳ diệu đó là gì nếu không phải là những phép lạ trong cuộc đời ta.
Cảm tạ Chúa đã cho chúng con có phước được biết Chúa và được làm con Chúa. Chúng con biết rằng đức tin sẽ trở nên án phạt cho con nếu con để sự kiêu ngạo, tính ích kỷ thống trị con. Xin củng cố đức tin và xin ban sức mạnh của tình yêu Chúa cho chúng con, nhờ đó đức tin mà chúng con đã lãnh nhận được trổ sinh nhiều hoa trái, đem lại ơn cứu độ cho chúng con và cho tất cả mọi người, đó là phép lạ lớn nhất của cuộc đời con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Ngài là ai?
Người đáp: “Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Gio-na. Quả vậy, ông Gio-na đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy.” (Mt. 12, 39-40)
Những kẻ thù của Chúa Giêsu giả bộ muốn biết rõ về những bằng chứng Người có thể đưa ra để mình chứng cho sứ mạng của mình: “Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ nhãn tiền trên trời.” Vẻ lịch sự của họ là hoàn toàn giả dối. Họ không đòi bằng chứng để được thuyết phục, bởi họ đã nghĩ bụng rằng Chúa Giêsu sẽ không thể làm dấu lạ ấy.
“Dấu lạ … trên trời!”
Nhóm Pha-ri-sêu hiểu “Dấu lạ” là một sự lạ lùng nhãn tiền khẳng định rõ ràng Chúa Giêsu có quyền nằng siêu việt; họ đòi phải xảy ra ở “trên trời” nơi mà mọi người ở trần gian này không thể nhìn xem mà bắt chước được. Làm như vậy họ có ý nói xa nói gần rằng những phép lạ thực hiện ở Nagiarét trước đây như cho khỏi bệnh tật, làm sống lại v.v… Vì xảy ra ở trên mặt đất nên đã có thể là do những phù phép mà có. Khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất, họ cũng có mặt để nêu lên sự khác biệt giữa ân huệ do Chúa Giêsu ban tặng và man na của Mô-sê “Từ trời ban xuống”
Khoa học có thể giải thích hết.
Nhóm Pha-ri-sêu lầm lạc ở chỗ là dù Chúa Giêsu có đưa ra bằng chứng về sứ mệnh của mình, thì họ vẫn có lý do trước để chống đối Người: Họ không muốn nhìn nhận Người là Đấng Mê-si-a (Thiên sai): Chẳng đời nào họ sẽ chấp nhận gia nhập “Nước Thiên Chúa” mà Người rao giảng. Họ có một quan niệm về đạo giáo hoàn toàn khác biệt: Phụng thờ Thiên Chúa Ít-ra-en là công việc của họ, nên Chúa Giêsu phải xoay quanh lợi ích tức thời của họ. Chẳng ai sẽ được là ngôn sứ nếu họ không ưng thuận. Thần trí cứng lòng tin đã không thay đổi. Thời đại chúng ta hôm nay là hôm nay cũng vậy, khoa hoc mệnh danh là độc lập thì tống trát đòi Thiên Chúa ra trước phiên họp khoáng đại của các thành viên; tại đây và chỉ ở đây, người ta mới công nhận cho Chúa được làm phép lạ mà thôi. Người ta không tìm kiếm những lý do đủ dễ tin, nghĩa là “chịu nhận đó là dấu lạ của Chúa.” Người ta thích lên án Chúa để bắt Người phải chịu nhận là bất lực bất toàn, hoặc (và đây là phán quyết biệt đãi nhất mà người ta có thể trông chờ ở những vị thẩm phán tốt) tuyên bố rằng chúng tôi còn chưa biết thiên nhiên có sức mạnh tới đâu nữa.
Chúa Giêsu không muốn cho người ta nhìn nhận Người qua những dấu lạ không phải là dấu lạ mà thường ngày Người ban cho ta trong Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người.
Ta đón nhận Đức Giêsu là bởi chính con người của Người vậy!
J.M
Suy Niệm 4: PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN (Mt 12, 38-42)
Người Việt Nam chúng ta thường có câu: “Bụt chùa nhà không thiêng”. Câu nói đó hàm ý rằng: những người ở gần và sống bên cạnh chúng ta, dù họ có tốt và làm được nhiều chuyện lành thánh thế nào thì cũng chẳng có gì phải quan tâm và những lời họ nói cũng chẳng cần phải tin. Một lý do đơn giản là: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”.
Hôm nay, thánh Mátthêu trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu khiển trách những Kinh sư và Pharisêu cứng lòng không chịu tin vào những lời giảng và những việc Ngài làm. Lòng họ đã trở nên trai cứng. Trái tim họ đã hóa đá. Trước mắt họ, Đức Giêsu cũng chỉ là con Bác Thợ Mộc. Vì thế, họ thách thức Đức Giêsu phải làm một dấu lạ để họ trông thấy thì họ mới tin.
Tại sao vậy? Thưa! Đòi hỏi dấu lạ là đặc trưng của người Dothái, nhất là giới lãnh đạo. Trước mắt và tâm thức của những người này khi nhìn về Đấng Cứu Thế phải là một con người oai hùng lẫm liệt. Đấng ấy phải là người đánh đông dẹp bắc. Phải là người đưa dân Dothái đến bến bờ tự do và bá chủ mọi quốc gia. Và, như một sự tất yếu, Đấng ấy phải làm được dấu lạ. Nếu không đáp ứng sự hiếu tri của họ thì họ không tin.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không đi theo con đường mà họ thách đố. Con đường cứu thế của Ngài là khiêm tốn và tự hạ, con đường của hiền lành và nhân hậu, chứ không phải con đường của thách thức, kiêu ngạo, khoe khoang... Vì thế, Ngài sẵn sàng làm những dấu lạ để cứu giúp và củng cố niềm tin của người đương thời, nhưng nếu vì thách thức, đi ngược lại với sứ mạng và ích lợi cho phần rỗi của con người thì không bao giờ Đức Giêsu làm.
Lời Chúa hôm nay muốn dạy cho chúng ta rằng:
Thứ nhất, tìm những dấu lạ để tin cũng được, nhưng đây không phải là đức tin trưởng thành. Đức tin trưởng thành là đức tin của những người không thấy mà vẫn tin. Bởi vì Đức Giêsu đã nói với Tôma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Thứ hai, không nên thuần lý để thách thức Thiên Chúa như những người Dothái. Cần tránh cho xa ý tưởng bắt Thiên Chúa phải làm theo ý của mình.
Cuối cùng, tin Chúa thì phải hành động. Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Thật vậy, Ma Quỷ nó cũng tin có Thiên Chúa, nhưng nó không hề hành động theo điều nó đã tin, tức là tôn thờ Người.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một đức tin trưởng thành. Xin cũng ban cho chúng con lòng yêu mến Chúa tha thiết. Biết khiêm tốn để nhận ra thánh ý Chúa và thi hành. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Đòi dấu lạ
Suy niệm:
Sinh trong một gia đình người Pháp giàu có, quý phái và đạo đức,
Anh Charles de Foucauld mất đức tin từ năm 16 tuổi.
Hai năm sau Anh học ở trường sĩ quan Saint-Cyr nổi tiếng của Pháp,
đã đi thám hiểm nước Ma rốc ở châu Phi và được huy chương vàng.
Sau thời gian đó anh đã muốn suy nghĩ về đời mình.
Đời sống đạo đức của người chị em họ đánh động Anh nhiều.
Anh đi nhà thờ dù chẳng tin gì, chỉ thích lặp đi lặp lại lời nguyện này:
“Lạy Chúa, nếu Chúa hiện hữu, thì xin làm cho con nhận biết Chúa.”
Chúa đã làm cho Anh nhận biết Ngài vào một ngày cuối tháng 10-1886.
Khi được chị họ giới thiệu với cha sở Huvelin ở Paris, anh đã xin học đạo.
Nhưng cha lại bảo anh vào tòa giải tội và xưng tội.
Anh ngần ngại, nhưng đã chấp nhận quỳ xuống,
và bất ngờ nếm được niềm vui khôn tả của người con lưu lạc trở về.
Đời Anh đã bắt đầu sang trang từ giây phút ấy.
Chúa đưa Anh trở lại không bằng những dấu lạ lùng,
nhưng qua bà chị họ đạo đức, qua cha sở Huvelin nhiều kinh nghiệm.
Ơn hoán cải của Anh không dựa trên những dấu lạ làm Anh ngất ngây,
nhưng đến từ khiêm nhường tìm kiếm và quỳ xuống đón nhận.
Chỉ ai biết quỳ xuống mới nhận ra dấu bình thường là dấu lạ.
Đức Giêsu không vui khi người Pharisêu và những người đương thời
muốn thấy dấu lạ và tìm kiếm dấu lạ (cc. 38-39).
Họ chờ mong một dấu lạ làm họ lóa mắt, gây ấn tượng mạnh,
khiến họ không thể chối cãi và buộc họ phải tin.
Tiếc rằng Đức Giêsu không bao giờ có ý muốn làm thứ dấu lạ như vậy.
Ngài không làm dấu lạ để biểu diễn quyền năng của mình trước con người.
Ngài chỉ làm dấu lạ để phục vụ nhu cầu con người và loan báo Nước Chúa.
Dấu lạ là dấu chỉ mời gọi chứ không cưỡng bức người xem phải tin.
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ, nhưng họ vẫn không tin, vẫn đòi dấu lạ mới,
và còn bảo dấu lạ của Ngài là nhờ dựa vào tướng quỷ (Mt 12, 24).
Khăng khăng đòi dấu lạ cho thấy lòng họ dứt khoát từ chối Đức Giêsu.
Chẳng có dấu lạ nào làm họ thay đổi được cái nhìn về Ngài.
Đức Giêsu đã từng trách các thành vùng Galilê vì họ không sám hối (Mt 11,20).
Nay Ngài cũng quở trách một số người Pharisêu như vậy.
Vào ngày phán xét, chính dân Ninivê và Nữ hoàng Phương Nam sẽ kết án họ,
vì họ đã cứng lòng không tin Đức Giêsu (cc. 41-42).
Làm thế nào chúng ta nhận ra những dấu lạ Chúa vẫn làm cho đời ta,
để ta không đòi hỏi thêm dấu lạ nữa,
nhưng mãn nguyện với những gì mình nhận được?
Làm thế nào để chúng ta hạnh phúc
vì vẫn được nghe giảng bởi chính Đấng còn hơn Giôna nữa,
vẫn được tiếp xúc với Đấng còn khôn ngoan hơn vua Salômôn nữa?
Cầu nguyện :
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
22/07 Động lòng thương đàn chiên
- Viết bởi Mc 6, 30-34
Động lòng thương đàn chiên.
Chúa Nhật tuần 16 Thường Niên năm B.
"Họ như đàn chiên không người chăn".
Lời Chúa: Mc 6, 30-34
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy.
Người liền bảo các ông: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút". Vì lúc ấy dân chúng kẻ đến người đi tấp nập, đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống.
Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài.
Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Gr. 23, 1-6; Ep. 2, 13-18; Mc. 6, 30-34
1. Mục tử ân cần
Bấy giờ các môn đệ đi rao giảng trở về. Các ông có nhiều chuyện để kể lại cho Chúa Giêsu nghe, nhưng các ông không làm được, bởi vì đám đông dân chúng cứ đòi Ngài phải nói với họ hay thực hiện một việc làm kỳ diệu nào đó, cho họ được thoả lòng. Chúa Giêsu muốn các ông rút vào một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, nhưng dân chúng vẫn đi theo, đến độ các ông không có giờ để mà ăn và rồi giờ thì đã muộn, quanh cảnh lại hoang vắng, nên bắt buộc các ông phải nghĩ đến chuyện họ đói phải cho ăn. Chính trong bối cảnh ấy đã diễn ra phép lạ hoá bánh ra nhiều.
Điểm nổi bật trong thái độ của Chúa Giêsu đó là lòng ân cần. Chúa Giêsu xuất hiện như một người đang chăm lo cho những kẻ chung quanh. Chúng ta đã quá quen với những điều mà thiên hạ vốn thường lặp đi lặp lại rằng: Người Kitô hữu phải lắng nghe người khác, phải lưu tâm tới các tiếng gọi. Thế nhưng thiết tưởng, chúng ta nên làm trẻ lại cách nhìn của chúng ta và hãy xem cách Chúa Giêsu đón tiếp các môn đệ khi các ông trở về. Cũng như hãy xem Chúa Giêsu đối diện với đám đông đang háo hức tìm gặp Ngài và Ngài đã động lòng thương xót họ vì họ bơ vơ lạc lõng như đàn chiên không người chăn. Và đây cũng là điều chúng ta phải lưu ý: Đoàn chiên thiếu người chăn. Một đám đông, đang đói lời giảng dạy, đang khát sự hấp dẫn.
Thực vậy trải dài suốt hai mươi thế kỷ, lời cảnh giác của Chúa vẫn còn là một sự khẩn cấp: lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ sai thợ đến gặt lúa của mình. Biết bao nhiêu người trên thế giới, khát khao tìm gặp Chúa, nhưng lại không có ai hướng dẫn cho họ. Biết bao nhiêu người còn ngồi trong bóng tối, nhưng lại không có ai soi chiếu cho họ. Biết bao nhiêu đàn chiên không có người chăn, nên phải bơ vơ lạc lõng.
Thế nhưng trước một hoàn cảnh như thế, chúng ta phải làm gì? Đó mới là điều quan trọng. Bởi vì như danh ngôn Tây phương cũng đã nói: Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa sả bóng đêm.
Bằng đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, chúng ta có thể trở thành một tay thợ trên cánh đồng của Chúa, một ngọn đèn le lói trong đêm tối, một kẻ tiếp giúp cho việc hướng dẫn đoàn chiên.
2. Mục tử
Thiên Chúa đã dùng tiên tri Giêrêmia để quở trách và kết án những người lãnh đạo dân Chúa. Họ chẳng lo lắng đến dân chúng lại còn làm cho dân chúng phải điêu đứng và phân tán. Tuy nhiên Thiên Chúa đã mở ra cho thấy một viễn tượng tươi sáng. Mầm công chính xuất phát từ dòng Đavít, sẽ làm vua thống trị, sẽ thực thi hoà bình và công lý. Đó chính là Chúa Giêsu.
Thực vậy, Chúa Giêsu là mục tử nhân lành mà tiên tri Giêrêmia đã diễn tả. Ngài thương dân vì họ bơ vơ không có chủ chăn và ngài băt đầu dạy họ nhiều điều. Ngài như đồng cỏ non và như dòng suối mát để xoa dịu cơn đói khát của con người. Thế giới ngày nay tràn ngập ngôn từ, đầy dẫy những lời lẽ tuyên truyền và quảng cáo, thì liệu còn chỗ nào dành cho lời Chúa hay không. Nếu con người nghe theo tiếng Chúa và bước đi trong đường lối của Ngài thì ngày kia, chỉ còn lại một đoàn chiên và một chủ chiên. Chúa Giêsu không phải là kẻ chăn thuê, chỉ làm vì lợi lộc. Trái lại Ngài chăm sóc cho từng con chiên một, băng bó những con bị thương, và vác lên vai con bị đau yếu. Ngài dẫn chúng đến đồng cỏ xanh tươi, và tới dòng suối mát. Ngài dám thí mạng sống để bảo vệ đoàn chiên, và cuối cùng, Ngài đã trở nên của ăn nuôi sống cho đoàn chiên.
Tiếp đến Chúa Giêsu còn là vị mục tử hoà giải. Tội lỗi đem lại sự phân cách với Thiên Chúa, sự bất hoà với nhau và sự hỗn loạn trong xã hội. Như lời sách Sáng Thế Ký đã nói: Vì ngươi bất tuân nên đất đai sẽ nguyền rủa ngươi. Người mục tử đích thực của đoàn chiên sẽ tiêu diệt tội lỗi, xoá bỏ đi sự ngăn cách giữa trời và đất, sự thù hận giữa người với người. Bằng thập giá, Ngài đã thực hiện được mục đích đó, đồng thời tụ họp chúng ta lại với nhau. Đôi tay Ngài dang rộng như muốn ôm trọn cả nhân loại như lời thánh Phaolô: Chúng ta trở nên gần gũi nhau nhờ máu Đức Kitô. Cây thập giá gồm hai nét. Nét dọc nối kết chúng ta lại với Thiên Chúa. Còn nét ngang nối kết chúng ta lại với nhau.
Sau cùng Chúa Giêsu là mục tử an bình. Ngài đã thực hiện lời tiên tri Giêrêmia, tách biệt khỏi những kẻ chăn thuê vì lợi lộc để chứng thực mình là mục tử nhân lành. Ngài xua đuổi chó sói, và những kẻ cướp bóc. Ngài dạy dỗ và cứu vớt những con chiên lạc, dẫn đưa đoàn chiên tới đồng cỏ xanh tươi. Đi bên Ngài chúng ta không còn sợ hãi chi, và không lo thiếu thốn thứ gì cả. Ngài chính là sự sáng. Đi theo Ngài chúng ta sẽ không bao giờ bị lầm đường lạc lối.
3. Thương đàn chiên bơ vơ – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Hai sự kiện lịch sử lớn nhất thế kỷ hai mươi là:
Việc mở cổng Brandenburg và phá đổ bức tường ô nhục Berlin trước lễ Giáng Sinh năm 1989, đã chấm dứt 28 năm chia đôi nước Đức và chiến tranh lạnh thế giới giữa hai phe hận thù tư bản và cộng sản, mở ra một kỷ nguyên mới hòa bình và tin tưởng lẫn nhau. Thế giới hy vọng có những chủ chiên nhân lành, thương dân, xây dựng một thế giới đoàn kết, phát triển.
Việc thứ hai là dân tộc Israel và Palestin đã hạ súng xuống, sau hơn 30 năm chém giết nhau. Giữa tháng 7 năm 1994, ông Arafát chủ tịch Palestin đã về nước và tuyên bố: “Palestin và Israel cùng một tổ tiên”. Họ không còn những chủ chiên giả dẫn dắt vào con đường lầm lạc, hận thù, cuồng tín, tan nát. Họ đã được giải thoát khỏi những kẻ mù dắt mù xuống hố.
Người ta đã kể đến những vĩ nhân có công trực tiếp chấm dứt thời kỳ làm tán loạn thế giới là: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2, ông Walesa: chủ tịch Công đoàn Đoàn kết Balan, ông Gorbachov: tổng bí thư Liên bang Xô viết và ông Reagan: tổng thống Mỹ. Thực ra, họ chỉ là những sứ giả hòa bình của Thiên Chúa. Chính Đức Kitô mới là người phá bức tường chia rẽ hận thù giữa loài người với Thiên Chúa, giữa dân tộc với dân tộc, giữa cá nhân với cá nhân.
Thánh Phaolô đã nói rõ vai trò đó của Đức Giêsu Kitô trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô: “Trước kia anh em là những kẻ ở xa đối với Thiên Chúa, thì nay trong Đức Kitô, anh em đã trở nên những người ở gần … Chính Người đã liên kết dân Do thái và dân ngoại thành một. Người đã hiến thân để phá đổ bức tường ngăn cách là hận thù. Như vậy, nơi bản thân, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới và thiết lập hòa bình. Nhờ thập giá, Người đã quy tụ đôi bên trong một thân thể duy nhất, và cho họ được giao hòa với Thiên Chúa”. Tin mừng hôm nay cho thấy tấm lòng của Chúa Giêsu thương mến đám đông dân chúng biết bao: “Đến nỗi dầu mỏi mệt, đói khát đến đâu Người vẫn sẵn sàng tiếp đón họ, dạy dỗ và cứu chữa họ, không để họ bơ vơ thất vọng”. Thiếu vắng Người, họ như đàn chiên không người chăn dắt. Dân Do thái và dân ngoại thời đó, giống như bầy chiên bơ vơ, lạc lõng. Đất nước bị quân La mã đô hộ. Vua quan như Hêrôđê chỉ là tay sai đế quốc bóc lột dã man. Hêrôđê có nhiều con, nhưng chính tay ông đã giết hết, chỉ còn bốn hoàng tử. Dân chúng hơi bị nghi ngờ là bắt giết. Một hôm vua giả dạng thường dân đến làng quê, gặp ông già, vua hỏi: “Ông nghĩ về vua thế nào?”. Ông đáp: “Chim trời cũng là tình báo cho vua, còn ai dám nói điều gì” (Lm. Bửu Dưỡng, Ngôn hành dưới đất, 1965. tr. 37).
Đời đã bị xiết chặt, đạo cũng bị phân tán trăm bè bảy mối: phái Sađốc lo ăn chơi bám gót đế quốc; phái tư tế lo giữ địa vị, sợ đế quốc cách chức, dẹp bỏ; phái Pharisiêu bày đặt ra những luật tỉ mỉ, kiêng cữ bên ngoài để gò ép dân chúng sống khắt khe. Mỗi bè phái lôi kéo dân chúng theo mình. Dân chúng không còn biết chủ chăn nào chân chính, chủ chăn nào của Thiên Chúa. Đúng như lời Chúa phán trong bài đọc một: “Khốn thay những mục tử đã làm cho đàn chiên trong đồng cỏ của Ta phải tản lạc chết chóc”.
Giờ đây, Đức Giêsu đến để cho họ nhận ra Người là chủ chăn của Thiên Chúa. Người nói: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành đã hy sinh mạng sống mình cho chiên … cho chiên được sống và sống dồi dào. Tôi chính là mục tử nhân lành, Tôi biết chiên Tôi và chiên Tôi biết Tôi … Tôi là cửa cho chiên ra vào, ai qua Tôi mà vào thì sẽ được cứu”.
Đức Giêsu còn dạy cho dân chúng biết kẻ chăn giả, không qua cửa mà vào, chúng chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy … chúng không thiết gì đến chiên. Khi sói đến, chúng bỏ chiên mà chạy, để mặc cho sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn (Ga. 10, 1-14).
Ngày nay, Giáo Hội của Đức Giêsu đang thực thi sứ vụ mục tử nhân lành, luôn luôn chỉ dẫn cho nhân dân thế giới biết những kẻ chăn chiên giả. Họ là trộm cướp, tham nhũng, bóc lột, đàn áp chiên để chiếm tài sản, danh vọng, chức quyền. Họ sống giàu sang phú quý, xa hoa như những ông hoàng bà chúa thời phong kiến độc tài. Dân chúng sống nghèo khổ, lại phải đóng góp thuế má mọi mặt, phải hạn chế sinh sản, lại tự do sống đồi trụy và phá thai. Dân chúng không còn chủ chăn chân chính mà chỉ có trộm cướp.
Trung tuần tháng 8 năm 1997, một mục tử nhân lành, dầu đã 77 tuổi, sức yếu, chân chồn, vẫn đến Paris, thủ đô nước Pháp, gặp gỡ, yêu mến, săn sóc và khuyến khích hàng triệu con chiên giới trẻ bơ vơ, biết mạnh mẽ sống yêu thương, đoàn kết, tin tưởng gắn bó chặt chẽ với Đức Kitô, Chúa chiên nhân lành, trẻ trung, đã hy sinh cho họ được sống và sống dồi dào. Ngày nay, còn được bao nhiêu mục tử nhân lành như vậy? Còn được bao nhiêu linh mục, thày dạy, cha mẹ biết thấy con chiên đông đảo bơ vơ thì chạnh lòng thương để hy sinh phục vụ con chiên như Chúa chiên lành Giêsu xưa?
Lạy Chúa Giêsu, Người đã lăn xả xuống trần gian, đi tìm đàn chiên tản lạc và soi sáng dạy dỗ họ bằng lời hằng sống, cứu chữa hồn xác họ được lành mạnh, tin tưởng. Họ được no thỏa nằm nghỉ ngơi trong đồng cỏ tình yêu xanh tươi êm ái của Người. Còn bao nhiêu tâm hồn bơ vơ thất bại trên thế giới hoang dã này, xin Chúa cho họ được thấy đường Người đi mà chạy đến gặp gỡ Người để được sống và sống dồi dào.
4. Xin đừng vô cảm
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có ai đó nói rằng: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình thương”. Sự lạnh lùng con tim khiến cho tình người giá rét đến nỗi không thể thổi hơi ấm tình người cho nhau. Trái tim lạnh lùng đã khiến họ co ro trong vỏ ốc ích kỷ cá nhân mà không thể vươn ra với đồng loại. Sống giữa xã hội lạnh băng tình người, ta sẽ cảm thấy cái lạnh xuyên thấu tâm can, nó dẫn ta đến nỗi đau tột cùng của sự cô đơn.
Cái lạnh tình người ấy dường như đang bao phủ trong xã hội việt Nam hôm nay. Theo kết quả mới công bố của hãng khảo sát quốc tế Gallup, Việt Nam xếp thứ 13 trong những quốc gia vô cảm nhất thế giới. Thực hư của khảo sát không biết đúng hay sai? Nhưng càng ngày, chúng ta càng phải chứng kiến những câu chuyện đau lòng, những vụ việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Chuyện nữ sinh đánh nhau được các bạn cổ vũ nhiệt tình; chuyện bác sĩ thờ ơ, tắc trách làm chết bệnh nhân; chuyện bảo mẫu, cha mẹ bạo hành con trẻ đến chết; chuyện những vụ án giết người man rợ… khiến người ta không khỏi bàng hoàng về sự suy đồi đạo đức mà biểu hiện rõ nhất là sự vô cảm của con người. Người ta lo ngại “bệnh vô cảm” đang có sức lây lan rất lớn, len lỏi khắp mọi ngõ ngách của đời sống xã hội.
Sự vô cảm của con người dâng cao đến độ vô tâm làm hại nhau bằng đầu độc thuốc độc hại trong thực phẩm, trong trái cây. . . Dường như trong tất cả các trái cây hay rau xanh bán ở thị trường Việt Nam hôm nay đều được xịt thuốc trước hoặc sau. Đó là hành động giết người, là tội ác, là vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Thế nhưng, những sát thủ này vì lợi nhuận vẫn thản nhiên bơm thuốc vào thực phẩm để bán. Sư vô tâm còn man rợ đến nỗi gây nguy hiểm cho tha nhân khi chạy xe ẩu, lạng lách, đánh võng và thiếu nhường nhịn nhau trong giao thông đã gây nên hàng vạn cái chết thương tâm.
Trước một xã hội lạnh giá như vậy thì cần lắm một ngọn lửa tình người được thắp lên. Cần lắm những con người vượt lên trên lợi nhuận để sống có lương tâm, có đạo đức, có tình người. Đừng vì lợi nhuận mà đầu độc thuốc vào thực phẩm. Đừng vì vô tâm mà thấy nguy hiểm với tha nhân mà vẫn thản nhiên.
Giữa một xã hội lạnh lùng tình người thì cần lắm một đời sống chứng nhân của người ky-tô hữu. Người ky-tô hữu phải sống cho Tin mừng. Một Tin Mừng của yêu thương không tham lam của người và biết chia sẻ cơm bánh cho người nghèo khó. Một Tin mừng của tình người luôn biết chạnh lòng thương xót những khổ đau của tha nhân, và sẵn lòng cúi xuống phục vụ mà không mong đền đáp. Một Tin Mừng của công lý và hòa bình để người người biết tôn trọng nhau, tôn trọng luật pháp hầu xây dựng một thế giới hòa bình yêu thương.
Chúa Giêsu đã sống yêu thương. Tình yêu của Ngài trải rộng cho mọi người. Trái tim Ngài luôn chạnh lòng xót thương những mảnh đời khổ đau. Ngài luôn dấn thân xây dựng một thế giới công bằng bác ái. Ngài luôn đặt lợi ích tha nhân lên trên quyền lợi bản thân. Phúc âm ghi rằng Ngài và các môn đệ toan tính rời xa đám đông để nghỉ ngơi. Thế mà, đám đông vẫn theo Ngài. Ngài chạnh lòng thương xót họ và tiếp tục thi ân cho họ.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết trở nên giống như Chúa luôn sống bác ái yêu thương với mọi người. Xin đừng vì ích kỷ mà đóng cửa lòng với những nhu cầu khổ đau của tha nhân. Xin đừng vì tham lam mà sống thiếu công lý và tình thương làm hại người, hại đời. Amen.
5. Thời giờ cho Chúa và cho nhau
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Thế giới mỗi ngày một văn minh. Khoa học luôn tiến triển không ngừng. Văn minh hiện đại đã đáp ứng rất nhiều nhu cầu sinh hoạt cho con người. Thế nhưng, cơn lốc của văn minh đã cuốn hút con người chạy theo những đam mê hưởng thụ. Con người dường như đang trở thành một cái máy không hồn. Ăn và làm đó là mục đích chính yếu của con người văn minh hôm nay. Họ không còn giờ để bàn về việc có Thiên Chúa hay không. Họ không còn giờ để nhận ra niềm vui, nỗi buồn của tha nhân. Họ không còn thời giờ dành cho Chúa và cho nhau.
Mỗi lần có dịp trao đổi với các bạn trẻ, tôi thường nghe họ nói: "Con rất ít cầu nguyện". Nguyên do đơn giản là quá bận rộn với công việc. Ngoài thời giờ học hành, làm việc, mệt mỏi và lăn ra ngủ thế là hết ngày, hết tháng, có khi hết cả năm vẫn không một lần đọc kinh cầu nguyện. Thế giới văn minh đã đẩy con người vào cơn lốc của tiền bạc, danh vọng và lạc thú. Dưới góc cạnh của luân lý, đây là hiểm hoạ đang đe doạ con người. Văn minh là điều tốt. Giải thoát con người khỏi lầm than, lạc hậu. Nhưng nếu văn minh khoa học chỉ nhắm phát triển thể xác mà không hướng con người đến sự sống siêu nhiên, sẽ giới hạn con người thuần túy là loài vật, sẽ dấn đến huỷ diệt con người thay cho phát triển và hoàn thiện. Con người có hồn - có xác. Con người có tương quan với Đấng tạo hoá và với tha nhân. Nếu quá chú trọng đến nhu cầu thể xác mà quên đi đời sống tâm linh, con ngươi đã tự vong thân. Chỉ là những thây ma không hồn, gieo tai hoạ và khổ đau cho nhau. Con người sẽ đối xử tàn bạo với nhau nếu con người chỉ coi mình thuần túy là loài vật mà chối bỏ niềm tin vào Trời, vào Thiên Chúa, vào Đấng tạo thành. Không còn cảm nhận sự nhỏ bé trước Đấng Tạo Thành, con người sẽ mất đi sự khiêm tốn để sống gần gũi và hòa hợp với mọi người.
Cha ông ta vẫn nói: Có tài mà không có đức chỉ là tai hoạ cho gia đình và xã hội. Cái đức có là do tin vào có đời sau. Tin vào sự thưởng phạt của Đấng Tạo hóa. Người ta sống có đức vì trời có mắt. Người ta ăn ở ngay lành vì để đời sau được bình an hạnh phúc. Thế nên, là người thì tài đức cần phát triển song hành và hỗ trợ với nhau. Thế giới đã qúa đau khổ bởi những người có tài mà phi nhân bất nghĩa như: Hitler, Ponpót... Họ tìm vinh quang cho bản thân của mình đến nỗi sẵn sàng huỷ diệt cả hàng triệu sinh linh. Thế giới đã quá sợ hãi bởi những cuộc chạy đua kinh tế, khai thác dầu mỏ và vàng bạc đá qúy chỉ dẫn đến chiến tranh, bạo động và cướp phá lẫn nhau.
Chúa Giêsu đã rất khôn ngoan và tỉnh táo. Ngài không để các môn đệ quá say sưa trong công việc, và ngủ say trong chiến thắng. Sau một thời gian hoạt động tông đồ miệt mài và đạt nhiều thành quả tốt đẹp. Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ trở về với chính mình. Nhận biết mình thật nhỏ bé. Chỉ là dụng cụ được Thiên Chúa sử dụng vào công việc của Ngài. Cần phải hướng lòng lên Chúa để tạ ơn về thành quả đạt được và cầu nguyện để tìm hiểu thánh ý Chúa. Chính Chúa Giêsu vẫn tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện riêng với Chúa Cha. Chính Ngài đã nhiều lần tạ ơn Chúa Cha vì những gì đang diễn ra trong cuộc đời của Ngài. Chính Chúa Giêsu đã từng một lòng cương quyết vâng theo thánh ý Chúa Cha, quyết một lòng đi theo con đường Chúa Cha đã định. Chúa Giêsu đã sống phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Sứ mệnh của Ngài là giới thiệu về Thiên Chúa cho con người và đưa con người trở về với Thiên Chúa. Như vậy, việc tôn vinh Chúa Cha cũng gắn liền với việc phục vụ tha nhân. Nếu chỉ chú trọng việc phục vụ tha nhân mà xa rời Thiên Chúa con người sẽ đánh mất căn tính của mình. Nếu chỉ quy hướng cuộc đời mình về Thiên Chúa mà dửng dưng hay làm ngơ trước sự khốn cùng của đồng loại, cuộc sống trần gian sẽ không còn ý nghĩa. Chính vì lẽ đó, dù rằng sau những giờ làm việc mệt mỏi, Chúa Giêsu cùng các môn đệ muốn tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi và cầu nguyện, nhưng đoàn dân lại khao khát tìm đến Chúa để được no thỏa vật chất và tinh thần, Chúa Giêsu đã động lòng trắc ẩn. Ngài không lỡ từ chối hay chạy trốn đám đông. Ngài tiếp tục giang rộng đôi tay để thi ân và đón nhận tha nhân.
Ngày nay vẫn còn đó biết bao cảnh đời tha phương cầu thực đang cần một chút tình thương của chúng ta, nhưng liệu rằng chúng ta có sẵn lòng mở rộng đôi tay để trao ban và đón nhận hay chúng ta lại ngoảnh mặt làm ngơ, và tìm cách thoái thác để tiếp tục với công việc của mình mà quên đi đồng loại? Phải chăng chúng ta đang mải dệt đời mình trong danh lợi thú mà quên đi bổn phận với Đấng Tối Cao?
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy dành một chút thời giờ để nhìn lại mục đích đời người là gì? Người ta sống ở đời này để làm gì? Nếu không xác định được hướng đi của đời người thì cuộc sống của chúng ta chỉ tựa như con thiêu thân đang hủy hoại đời mình trong ánh hào quang của danh vọng trần gian.
Ước gì mỗi người chúng ta đang khi vất vả lo lắng cho những nhu cầu đời sống hằng ngày, cũng biết tìm vinh danh Chúa trong cuộc sống phục vụ tha nhân. Ước gì mỗi ngừơi chúng ta cũng tìm được lẽ sống của đời mình, để có thể dâng lên Chúa lời cầu nguyện như thánh Phanxicô thành Assisi: "Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người... Vì chính lúc hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời". Amen.
6. Tìm kiếm lương thực nuôi hồn
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Ông Delia Delgatto, Giám đốc Trung tâm quốc gia chăm sóc trẻ em của Chi-lê cho biết: Một bé trai người Chi-lê 10 tuổi, bị cha mẹ nghiện ma tuý nặng, vứt bỏ ra đường từ lúc lên năm. Từ đó, em chung sống với một đàn chó hoang chừng 15 con trong một cái hang tại thành phố cảng Talcahuano, ở phía Nam Chi-lê. Ngày ngày cậu bé cùng đi kiếm ăn chung với đàn chó. Hôm nào không tìm được thực phẩm, những con chó cái trong đàn đã cho bé trai này bú sữa của chúng.
Ông Delia kể tiếp: "Cảnh sát Chi-lê bắt lại được bé trai này khi bé nhảy xuống một cái hồ tìm cách thoát thân."
Vì lâu ngày ở chung với chó, em không biết nói tiếng người mà chỉ biết gầm gừ như chó. Và cũng vì chưa có tên nên báo chí gọi em là Bé Chó. (nguồn: Vietcatholic ngày 21 tháng 6 năm 2001)
Bé Chó nầy không hề thiếu lương thực nuôi xác, nhưng em thiếu hoàn toàn lương thực tinh thần như văn hoá, lễ nghĩa, lời dạy bảo khôn ngoan... nên em không thể thành người. Em mang hình hài con người nhưng tính tình và cách sống của em lại thuộc loài chó.
Sự kiện hiếm có nầy chứng tỏ cho thấy rằng nếu chỉ dùng lương thực nuôi xác mà không hấp thụ lương thực tinh thần, con người trở nên như con vật.
Để trở thành người, chúng ta không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần đến văn hoá, giáo dục và nhất là Lời khôn ngoan mang lại sự sống đời đời của Chúa Giêsu. (Mt 4,4)
Khao khát lương thực tinh thần
Tin Mừng hôm nay cho thấy đám đông dân Do-Thái nô nức tìm đến với Chúa Giêsu, không phải để tìm lương thực vật chất mà là tìm kiếm những lời dạy khôn ngoan.
Vì thấy các môn đệ mệt nhoài sau hành trình rao giảng, Chúa Giêsu sai các ông tìm nơi vắng vẻ nghỉ ngơi cho lại sức.
Các môn đệ vừa xuống thuyền ra đi thì đám đông dân chúng đoán biết địa điểm mà các ngài sẽ đến nên từ các thành, họ kéo nhau đi vòng quanh bờ hồ, tuôn đến nơi ấy trước Chúa Giêsu và các môn đệ.
Khi Chúa Giêsu lên bờ thì thấy dân chúng đã tụ họp đông đảo đang khao khát đón nhận những lời khôn ngoan của Người. Chúa cảm thương họ vì họ như đàn chiên đói khát bơ vơ không người chăn và Người đã trao ban lời khôn ngoan cho họ.
Thiên Chúa ban cho con người cơm bánh để nuôi phần xác nhưng điều quan trọng hơn là Người ban lương thực tinh thần để bồi bổ tâm linh họ.
Chúng ta vô cùng diễm phúc khi được sống bên Chúa Giêsu là hiện thân của Sự Khôn Ngoan, được đón nhận Kinh Thánh là kho tàng chứa đựng sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Vì thế, nếu không biết khai thác kho tàng khôn ngoan nầy thì thật vô cùng uổng phí.
Người Ả-rập Xê-út trước đây mang phận nghèo truyền kiếp. Tổ tiên họ sở hữu một kho tàng vô cùng phong phú nằm ngay dưới chân mình. Đó là một kho dầu lửa khổng lồ chiếm hơn một phần tư trữ lượng dầu của toàn thế giới. Tiếc thay, vì không biết khám phá kho tàng đó, nên cha ông họ đã sống trong nghèo đói cùng cực từ đời nầy sang đời khác.
Từ năm 1938, nhờ việc phát hiện và khai thác kho "vàng trắng" vĩ đại này, Ả-rập Xê-út trở thành nước xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới và nhân dân Ả-rập trở thành những người giàu có bậc nhất.
Như người Ả-rập xưa, chúng ta cũng đang sống bên cạnh kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa. Kho tàng đó là Lời Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Kho tàng đó là chính Chúa Giêsu, hiện thân của sự Khôn Ngoan Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng tiếc thay chúng ta không biết khai thác kho tàng khôn ngoan bên cạnh mình, nên chúng ta vẫn còn là những người nghèo đói trong đời sống tâm linh.
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho chúng con luôn nhớ rằng thân xác của chúng con mai đây sẽ hư nát và chỉ còn là tro bụi, nên chỉ cần chăm sóc vừa phải, còn linh hồn chúng con sẽ tồn tại vĩnh viễn nên đáng được nuôi dưỡng chu đáo hơn. Amen.
7. Tinh thần mục tử.
Như chúng ta đã biết dân Do Thái, một phần sống bằng nghề chăn nuôi, nên hình ảnh mục tử, người chăn dắt đoàn chiên, là một hình ảnh thật quen thuộc và gần gũi. Đavít ngày xưa, khi còn là một em bé chăn chiên, đã được Samuel xức dầu đặt làm vua. Sau này, trên ngai vàng, Đavít đã hướng dẫn dân Chúa tới một thời đại hoàng kim. Các ngôn sứ đã dùng hình ảnh mục tử, không phải để chỉ các vua mà còn ám chỉ chính Thiên Chúa, Ngài sẽ đích thân chăn dắt dân Ngài.
Lời tiên báo của các tiên tri đã được Chúa Giêsu thực hiện trong cuộc sống của Ngài, bởi vì Ngài chính là vị mục tử nhân lành. Thái độ nhân lành ấy đã được biểu lộ qua việc ân cần chăm sóc mà đoạn Tin Mừng ngắn ngủi sáng nay đã ghi lại.
Trước hết là đối với các môn đệ đang mệt mỏi vì những cuộc hành trình truyền bá Phúc Âm, Ngài đã khuyên các ông hãy tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút. Tiếp đến là đối với đám đông đang đói lời giảng dạy cũng như đang khát sự dẫn dắt, Phúc Âm đã ghi lại: Nhìn thấy họ, Chúa Giêsu đã động lòng thương xót và Ngài đã làm phép lạ để họ được ăn no giữa chốn hoang vắng. Không một trang Phuc Âm nào, mà chúng ta không thấy được những hành động bác ái yêu thương Chúa Giêsu đã thực hiện, nào là chữa lành các bệnh tật, cho kẻ chết được sống lại, tất cả những hành động này chỉ nhằm một mục đích duy nhất là xoa dịu mọi nỗi đớn đau của con người. Hơn thế nữa, Ngài còn dành một tình cảm đặc biệt cho những kẻ tội lỗi. Ngài đối xứ với họ như mục tử đối xử với những con chiên lạc. Ngài đã lên đường tìm kiếm họ, và nhất là Ngài đã tha thứ cho họ. Cái ước vọng duy nhất của Ngài, đó là cuối cùng chỉ còn lại một đoàn chiên và một chủ chiên. Cũng trong ước vọng duy nhất này mà Ngài đã chấp nhận chịu chết để đoàn chiên, là tất cả chúng ta được sống.
Từ hình ảnh người mục tử chúng ta phải làm gì? Dĩ nhiên chúng ta chưa phải là những mục tử của Chúa, nhưng ít nhất chúng ta cũng có thể tham dự chúc vụ mục tử này nhờ bí tích Rửa Tội, hay nói một cách khác, cái tinh thần mục tử chính là cái tinh thần mà mỗi người chúng ta phải sống, phải thực hiện trong cuộc đời của mình. Vậy tinh thần mục tử là gì?
Xin thưa đó là tinh thần phục vụ. Đúng thế, người làm vua hay người làm mục tử theo tinh thần của Chúa, không phải là để cai trị dân hay đánh đập những con chiên của mình, nhưng là để an ủi khích lệ, giúp đỡ và phục vụ họ như lời Ngài đã phán: Ai muốn làm lớn thì hãy trở nên tôi tớ phục vụ cho mọi người. Chính Ngài cũng đã từng làm gương cho chúng ta: Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho mọi người.
Từ đó chúng ta đi đến một kết luận đó là: Sống tinh thần mục tử đó là sống tinh thần phục vụ, dấn thân để giúp đỡ anh em theo mẫu gương của Chúa Giêsu.
8. Người chạnh lòng thương
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Tông đồ Gioan đã cho ta một định nghĩa rất tuyệt vời về Thiên Chúa: “Thiên Chúa là tình yêu”, rồi sau đó ông cố gắng giải thích cho ta hiểu tình yêu đó là như thế nào (1 Ga 4:7-11). Đức Giêsu cũng giảng giải cặn kẽ cho ông Ni-cô-đê-mô biết về thứ tình yêu ấy: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời…” (Ga 3:16-18). Các lời giải thích trên thật siêu việt và đầy tính thuyết phục ngay cả đối với một bậc ráp-bi trong dân, tuy nhiên tình yêu không phải là điều gì thuần tư duy; tình yêu thuộc lãnh vực cảm nghiệm và biểu lộ nhiều hơn. Biểu lộ vĩ đại nhất của tình yêu Thiên Chúa chính là cái chết thập giá của Đức Giêsu, do đó cảm nghiệm của ta chỉ trở nên sâu sắc khi vào sâu trong cái chết tự hiến của Người. Thế nhưng tình yêu, ngoài biểu lộ đỉnh điểm và mãnh liệt trên Thập Giá, vẫn còn có thể biểu lộ bằng nhiều cách khác, bình dị hơn nhưng không kém phần sâu sắc mặn mà. Tác giả Mác-cô, qua đoạn văn Tin Mừng ngắn gọn và giản dị hôm nay, muốn chúng ta chạm được tới thứ tình yêu rất nhân bản đầy tình người đó.
Các tông đồ mệt nhọc sau chuyến đi truyền giáo trở về, hẳn sẽ nghiệm thấy một tình cảm nồng ấm như thế nào khi nghe Thầy Giêsu ân cần: “Chính anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Các ông có lẽ đã không ngờ những lời đậm đà như thế lại được thốt ra từ môi miệng một bậc thầy được thiên hạ kính nể với những lời giảng dạy cao siêu đầy uy lực, ‘Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một đấng có thẩm quyền chứ không như các kinh sư’ (Mc 1:22). Các ông càng không thể ngờ được rằng, nếu Thầy Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa, thì làm sao Thiên Chúa lại có thể gần gũi và ân cần chăm sóc tới từng chi tiết của cuộc sống đời thường của con người đến thế?
Cựu Ước đã nhiều lần cho thấy Đức Chúa Gia-vê chăm sóc dân riêng tới từng chi tiết cuộc sống; trong thời xuất hành, Ngài hàng ngày chu cấp cho họ Man-na, thịt chim trời và nước uống trong mát (Xh 16:17), cho mây che ban ngày và cột lửa chiếu sáng ban đêm (Xh 13:21). Tuy nhiên đó vẫn là một Đức Chúa quyền uy cao vời, và dân Híp-ri phải luôn kính phục. Thế cho nên cái cảm nghiệm về một Thiên Chúa sống giữa loài người đầy ắp yêu thương thì chưa ai từng đã có bao giờ. Là các thủ lãnh tương lai của Giáo Hội, chắc chắn các tông đồ cần phải biết tới cảm nghiệm này: và mọi phần tử của Hội Thánh qua các thời đại cũng cần phải có nữa. Riêng các Ki-tô hữu, không trừ một ai, trong một mức độ nào đó, cũng cần nghiệm thấy như thế trong cuộc sống hàng ngày của mình, nhất là khi họ mở miệng tuyên xưng mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa đã trở nên giống con người mọi đàng, và cư ngụ giữa chúng ta (xem Pl 2:6-8). Lúc đó, phải, chỉ lúc đó, thực tế này không còn chỉ là một suy tư thần học, một mầu nhiệm cao vời, mà phải trở thành một kinh nghiệm sống ngọt ngào thường ngày.
‘Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt’.
Cựu Ước hầu như muốn dành sự chăm sóc của Đức Chúa Gia-vê cho riêng dân Do Thái của Ngài mà thôi. Các tiên tri sau này chỉ dám ám chỉ xa xa rằng Thiên Chúa cũng quan tâm tới các dân tộc khác và muốn qui tụ họ (xem Is 2:2). Phần các môn đệ, sau cảm nghiệm riêng tư thân mật, các ông đã được dẫn tới một trải nghiệm khác: sự quan tâm nhân ái của Thầy Giêsu mở rộng cho hết mọi hạng người, nhất là những ai bơ vơ vất vưởng. Chuyến đi truyền giáo cho các ông cái kinh nghiệm đầu tay về việc thiết lập một dân riêng mới, nhưng dân này sẽ không hề có tính biệt loại (exclusive). Vừa cảm thấy được Thầy Giêsu ân cần chăm sóc, các ông liền được cho biết, cõi lòng từ nhân của Người mở rộng cho hết mọi hạng người, nhất là cho các kẻ tội lỗi lầm lạc. Sau này rất nhiều lần khác nữa, Người không ngừng khảng định điều này…, và đây mới chính là đặc điểm không thể nhầm lẫn của đoàn dân mới là Hội Thánh (xem Mc 9:38-40; Lc 9:49-55). Như Phao-lô đã từng khảng định, mọi Ki-tô hữu cần nhận thức điều này: phe phái, biệt loại dưới bất kì hình thức nào, đều đi ngược lại với cõi lòng từ nhân của Đức Ki-tô, vì Người tới để phá bỏ mọi bức tường ngăn cách (xem Gl 3:27-28).
Tôi có thể đi tới kết luận cho chính bản thân mình rằng: càng có được cảm nghiệm riêng tư về lòng nhân ái Chúa, do được ưu ái chăm sóc cách đặc biệt (như khi nhận được ơn gọi Ki-tô hữu, tu sĩ SDB, linh mục…hay gặt hái được thành công…, vượt qua được thử thách…), tôi càng phải biết mở rộng cõi lòng hơn để vượt thắng mọi hình thức phân rẽ: lương - giáo; triều - dòng; tu - đời, đạo đức - khô khan; tốt - xấu.., để trên hết, lòng từ bi thương xót Chúa phải bao trùm trên tất cả trong tôi. Nếu cõi lòng tôi chưa được như thế, thì có nghĩa là cảm nghiệm về lòng thương xót Chúa nơi tôi chưa thật sự chân thành và sâu sắc.
Lạy Thầy Giêsu từ bi và nhân hậu, xin đừng để con run sợ trước các cảm nghiệm về sự uy nghi cao cả của Thiên Chúa, hay sự cao siêu bóng bảy trong các học thuyết Người loan truyền. Lòng con khao khát hơn một cảm nghiệm nồng ấm vì thấy mình được chăm sóc mến thương, nhất là được xót thương tha thứ. Xin cho con có được mỗi ngày vài giây phút gần gũi thân mật trong tâm tình và cảm nghiệm: mình được Chúa yêu thương chăm sóc. Amen.
9. Thiên Chúa chăn dắt dân
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Khi từ thuyền bước lên bờ, Đức Giêsu thấy đám đông dân chúng thì Ngài động lòng thương vì họ như chiên không người chăn dắt, và Ngài đã dạy dỗ họ. Dân chúng mong chờ khao khát điều mà họ thiếu, nay gặp Đức Giêsu và các môn đồ, họ như thể tìm được điều họ mong ước, nên họ tuôn đến với Đức Giêsu. Thiên Chúa cần những con người cụ thể để chăn dắt dân Ngài.
I. Ta sẽ đem chúng trở lại đồng cỏ
Tiên tri Giêrêmia sống vào thời trước và trong khi dân Do Thái bị lưu đầy. Trước thời lưu đày, dân Do Thái có tất cả những cơ cấu cần thiết, gồm những người có quyền đại diện Thiên Chúa mà cai quản, dạy dỗ dân chúng: vua, tư tế và tiên tri. Hai tiên tri lớn thời này là Giêrêmia và Edêkiel. Tuy nhiên, những người lãnh đạo thời đó là vua quan và tư tế thì lại đi tìm lợi ích và thỏa mãn riêng của họ; nên dân chúng chán nản không còn có thể tin vào những người lãnh đạo được nữa, và họ bị lạc lối và tán loạn.
Thiên Chúa đã nói qua tiên tri Giêrêmia: “khốn cho các mục tử đã để đàn chiên của Ta bị tan hoang và phân tán…; tuy nhiên Ta sẽ quy tụ chúng từ những nước Ta đã phân tán chúng; Ta sẽ mang chúng trở lại đồng cỏ”. Vì những lỗi lầm của những người lãnh đạo chăn dắt, dân chúng đã phải phân tán lưu đày; nhưng chính Thiên Chúa sẽ là Đấng quy tụ và đem dân trở về. Thiên Chúa sẽ đem con người trở về với Thiên Chúa cho dù con người hiện tại có bị lạc xa đường lối của Thiên Chúa.
“Ta sẽ làm chỗi dậy một nhành cho David, và vị này sẽ chăn dắt dân như một vị minh vương”. Thiên Chúa vẫn tiếp tục chăn dắt con người qua những trung gian của Ngài. Ngài sẽ cho chỗi dậy những con người như lòng Ngài mong ước để chăn dắt dân của Ngài. Khi Thiên Chúa tạo dựng con người như hiện tại, là Ngài đã muốn dùng cơ cấu vật chất- tinh thần, trung gian hữu hình để ở với và nói với con người của mọi thời đại.
II. Đức Giêsu động lòng thương dân như chiên không người chăn
Sau hơn ba mươi năm tháng dài ở Nadarét, Đức Giêsu đã rong ruổi khắp đất nước Do Thái để rao giảng. Ngài thu nhận môn đệ, và giữa các môn đệ Ngài tuyển chọn nhóm 12, để chuẩn bị cho sứ vụ rao giảng sau này. Tin Mừng Mác-cô cho thấy Ngài đã sai các tông đồ đi rao giảng, và các ông đã trở về với bao kết quả đáng mừng. Dân chúng đổ xô đến cùng các ngài, đến độ các ngài không còn thời gian để ăn và nghỉ ngơi hầu lấy lại sức khỏe cần thiết.
Đức Giêsu khuyên các tông đồ hãy tìm chỗ vắng vẻ để nghỉ ngơi. Ở đây một lần nữa người ta thấy Đức Giêsu cũng tôn trọng nhịp sống của con người: làm việc và nghỉ ngơi, kể cả đối với những công việc quan trọng như việc tông đồ. Dường như nhu cầu tông đồ không bao giờ cạn; người được sai phải làm bổn phận của mình, nhưng cũng cần phải có thời gian để yên lặng, để sống với Thiên Chúa cho chính mình, để thân xác hồi lại sức lực. Tôn trọng cơ cấu con người, cũng là tôn trọng Thiên Chúa.
“Khi Đức Giêsu ra khỏi thuyền và lên bờ, Ngài thấy dân chúng đông đảo nên động lòng thương vì họ như chiên không người chăn, và Ngài giảng dạy họ nhiều điều”. Đức Giêsu vẫn để các tông đồ có thời gian nghỉ, và lúc này chính Ngài dạy dỗ dân chúng. Đức Giêsu, hơn ai hết, Ngài nhận ra nhu cầu của dân chúng, của con người cụ thể. Ngài biết điều gì là thực sự cần thiết cho con người, Ngài đã làm và huấn luyện các tông đồ để họ tiếp tục sứ mạng của Ngài ở trần gian.
III. Con người hôm nay như dấu chỉ thời đại
Khi những người lãnh đạo dân không sống đúng với ơn gọi của họ, dân chúng bị phân tán vì họ không tìm thấy nơi những vị đó điều họ mong ước hy vọng. Con người luôn cần những người lãnh đạo tinh thần. Và ngược lại, nếu dân chúng phân tán như một sự kiện, thì những người lãnh đạo tinh thần cũng cần xét lại xem họ có đáp ứng nhu cầu thực sự của con người thời đại không.
Ngày nay, ở châu âu và ngay cả ở Mỹ, người ta ít đến nhà thờ; những người trẻ không tìm thấy ý nghĩa nơi nhà thờ. Nhà thờ ở Ý và nhiều nước ở châu âu trở thành “bảo tàng viện”, nơi các du khách tìm đến để xem những kiến trúc xa xưa, những hình ảnh phản ánh văn hóa một thời đại. Phụng vụ ở nhiều nơi chỉ gồm những nghi thức nhưng nội dung giảng dạy thì không được chú ý; cả một số nơi người ta cố gắng đổi hình thức nhưng lại không cố gắng để có nội dung sâu xa, và như vậy không cuốn hút được người trẻ, vì họ không tìm thấy nơi đó của ăn sức sống tinh thần, hay điều họ thâm sâu mong ước.
Những mục tử chân chính phải xét lại cách rao giảng của mình, xem mình và Giáo Hội có đáp ứng nhu cầu của con người ngày nay, đặc biệt là các người trẻ hôm nay không, hơn là chỉ nói: con người ngày nay không muốn đến nhà thờ nữa, hoặc con người ngày nay không còn có tinh thần đạo đức nữa. Làm sao có thể đòi họ đến nhà thờ khi họ không thấy ý nghĩa, khi họ không tìm thấy nơi đó có sức sống hay của ăn nuôi dưỡng họ và làm cho họ lên tinh thần. Thiển nghĩ, con người của mọi thời đại đều tốt, và cũng đang được Thánh Thần hướng dẫn và thúc đẩy. Người mục tử chân chính ngày nay phải làm sao để giúp con người hiện tại gặp gỡ Thiên Chúa, điều mà con người của mọi thời đại đều mong ước. Có lẽ Giáo Hội cũng phải xét lại cách huấn luyện những mục tử tương lai, sao cho những người này có thể nghe được và nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa qua con người ngày nay, qua thao thức và khát vọng của họ. Làm sao phụng vụ, những bài giảng, phải là lương thực nuôi dưỡng con người ngày nay. Nếu những người trẻ ngày nay không muốn tới nhà thờ, thì đâu là điều người trẻ hôm nay mong ước mà Giáo Hội cần khám phá và đáp ứng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, con người ngày nay mong ước gì một cách sâu xa nhất?
2. Theo bạn, Giáo Hội Công Giáo ngày nay đáp ứng được đến mức nào mong ước của con người hiện đại? Tại sao bạn nghĩ vậy?
10. Làm việc và cầu nguyện – Lm. GB Văn Hào
Trong cuộc sống đời thường, sau những lam lũ vất vả với biết bao lo toan và công việc bề bộn, con người chúng ta ai cũng cần có những phút giây thư giãn để nghỉ ngơi. Quy luật bình thường đó cũng được Đức Giêsu áp dụng cho các học trò của mình. Sau khi các tông đồ bươn chải nhọc nhằn trong sứ vụ ra đi rao giảng Tin Mừng, Chúa nói với các ông: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Sự nghỉ ngơi ở đây không phải chỉ là sự tĩnh dưỡng về thân xác, nhưng trước hết là thái độ tĩnh lặng của tâm hồn. Giữa những ồn ào náo nhiệt và bon chen trần thế, chúng ta cũng cần phải trở về với thế giới nội tâm để gặp gỡ Thiên Chúa trong chiều sâu của lòng mình. Thái độ tĩnh lặng và nghỉ ngơi đó chính là khuôn mẫu của việc cầu nguyện mà Chúa muốn nhắn gửi chúng ta hôm nay.
Có một lần Cha Thánh Gioan Maria Vianney đến thăm một ông cụ trong họ đạo ngài chăm sóc. Đó là một cụ già rất đạo đức và thánh thiện, được mọi người yêu mến và nể phục. Cụ vẫn hằng ngày đến nhà thờ thinh lặng hằng giờ để cầu nguyện trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Cha sở hỏi cụ: “Thưa cụ, người ta nói cụ rất đạo đức và say mê cầu nguyện. Thế, mỗi lần vào nhà thờ quỳ trước Chúa Giêsu Thánh Thể cả tiếng đồng hồ, cụ nói gì với Chúa?”. Cụ già chất phác và chân chất trả lời “Thưa Cha, con cũng chẳng có gì để nói với Chúa cả. Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con, thế thôi”. Cụ già đây đã nói chuyện với Chúa không phải bằng ngôn ngữ bình thường nhưng bằng những nhịp đập của con tim. Bắt chước cụ già, chúng ta có thể đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa trong thinh lặng nội tâm của cỏi lòng. Thinh lặng đặt mình trước mặt Chúa là ngôn ngữ tuyệt vời nhất để chúng ta có thể đối thoại và gặp gỡ Ngài.
Chính Đức Giêsu cũng nêu gương cho chúng ta về đời sống cầu nguyện. Để chuẩn bị cho ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa đã ẩn dật suốt 30 năm tại Nazareth trong âm thầm lặng lẽ. Trước khi khởi sự sứ vụ công khai, Ngài đã lui vào sa mạc 40 ngày đêm để ăn chay cầu nguyện. Sau những lam lũ với công việc bề bộn, Chúa vẫn thường hay rút lui vào trong thanh vắng để kết hiệp sâu xa với Chúa Cha. Đặc biệt trước biến cố thập giá, biến cố quan trọng nhất và cũng để hoàn tất sứ vụ cứu thế, Chúa đã đi vào vườn cây dầu để cầu nguyện và kết hiệp thân tình với Chúa Cha.
Nhìn vào lịch sử cứu độ thời cựu ước, chúng ta thấy các vĩ nhân cũng luôn thực hành việc cầu nguyện như vậy. Tổ phụ Abraham cũng đi vào sa mạc Ả Rập để gặp gỡ Chúa và lắng nghe điều Chúa gởi trao cho ông. Moise cũng đến sa mạc để đón nhận mệnh lệnh từ Thiên Chúa trước khi ông trở thành lãnh tụ dẫn đưa Israel ra khỏi Ai Cập. Dân Do Thái cũng phải rong ruổi 40 năm giữa sa mạc nóng cháy, trong cuộc lữ hành tiến về đất hứa. Trong Thánh Kinh, sa mạc là biểu tượng nơi chốn Thiên Chúa gặp gỡ con người. Trong sa mạc, Thiên Chúa nói với chúng ta, và cũng trong sa mạc, con người được Thiên Chúa uốn nắn và dậy dỗ. Cũng vậy, giữa những chộn rộn và tất bật của cuộc sống, chúng ta phải dành ra những giây phút thinh lặng, trở về trong sa mạc của lòng mình. Trong tĩnh lặng thâm sâu, chúng ta mới có thể nghe được tiếng Chúa nói, và cũng trong sự kết hợp với Chúa, chúng ta mới có được sức mạnh nội tâm để tiếp tục dấn bước trên con đường lữ hành trần gian ngày hôm nay.
Bác học Ampère đã nói: “ Con người chúng ta chỉ thực sự vĩ đại khi chúng ta biết cầu nguyện”. Cầu nguyện là gắn kết thân tình với Chúa. Mỗi người chúng ta là một hữu thể đầy giới hạn sẽ được kết hợp với Thiên Chúa quyền năng Đấng vô hạn khi cầu nguyện. Chúng ta đều là thụ tạo với bao mỏng giòn yếu đuối sẽ kín múc được sức mạnh từ Đấng Tạo Hóa mạnh mẽ vô song. Chúng ta trở nên vĩ đại nhờ thế. Lời căn dặn Chúa Giêsu ngỏ trao cho các tông đồ năm xưa cũng là lời khuyến mời Chúa nói với chúng ta hôm nay “ Anh em hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút”.
Có một thương gia giàu có nhưng tâm hồn bất an tìm đến một vị ẩn sĩ để xin một lời khuyên, giúp anh ta sống an bình. Vị ẩn sĩ đó trả lời “ Như con cá sẽ bị chết trên đất cạn, ngươi cũng sẽ bị chết trong sự vây hãm của thế gian, giữa những tranh giành, lọc lừa và gian dối. Con cá muốn sống phải trở về với sông với nước, ngươi muốn bình an phải trở về với sự cô tịch”. Anh thương gia hỏi lại “ Thưa Thầy, làm sao con có thể từ bỏ chuyện bán buôn để về đây sống ẩn dật như thầy được?” Vị ẩn sĩ nói tiếp: “ Không phải thế, con cứ tiếp tục buôn bán, cứ tiếp tục công việc hằng ngày của con, nhưng điều quan trọng nhất là con phải luôn biết trở về trong sự tĩnh lặng của cõi lòng ”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi các môn đệ hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi. Đó là giây phút Thầy trò gần gũi bên nhau, ôn lại những biến cố đã qua để có sức bật mới cho cuộc hành trình tông đồ tương lai. Sức bật mới này chỉ có thể đạt được qua ơn thánh, qua việc cầu nguyện, đi vào sự thân tình với Chúa. Chính Đức Giêsu đã nói “ Không có thầy, anh em không làm được gì.”
Việc cầu nguyện cần thiết cho mọi tín hữu nói chung, đặc biệt đối với các vị mục tử trong Giáo Hội nói riêng. Chúa Giêsu đã sai nhóm 12 đi truyền giáo để huấn luyện các Ngài, bởi vì các Ngài là những mục tử, là những cánh tay nối dài của Chúa trong sứ vụ cứu thế. Trong trình thuật Tin mừng, Thánh Marcô cho thấy chính Đức Giêsu đã thể hiện một trái tim yêu thương. Ngài chạnh lòng thương đám đông vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Các vị mục tử ngày hôm nay cũng phải sao chép lại cách thức yêu thương mà Đức Giêsu đã thể hiện, cũng như cách thức mà Ngài đã huấn luyện các học trò thân yêu. Trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã công bố rằng Đức Chúa sẽ ban cho các mục tử tốt để họ chăn dắt đoàn chiên. Vị tiên tri cũng lên án gay gắt các mục tử thời bấy giờ đã làm đàn chiên thất lạc và tan tác. Họ đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chiên. Vị Mục tử mà Giê-rê-mi-a nói tới chính là Đức Kitô, người chăn chiên nhân lành, đồng thời cũng ám thị các tông đồ, cũng như các vị mục tử trong Giáo Hội hôm nay, là những cộng sự viên đắc lực trong sứ vụ cứu thế của Đức Giêsu.
Để thực hiện sứ vụ này, chúng ta hãy nhìn vào bài học của các tông đồ hôm nay. Chúa mời gọi các ông rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa. Chúa cũng nhắn gửi các ông phải tránh những nơi ồn ào để có một tâm hồn tĩnh lặng và an bình. Biết bao ồn ào náo nhiệt của cuộc sống bên ngoài, ồn ào ngay cả những lúc chúng ta làm việc với ý hướng tốt nhằm phục vụ các linh hồn. Đó là những ồn ào của danh vọng, khi chúng ta thích được mọi người vỗ tay khen ngợi. Đó là những ồn ào của tiền bạc, của những cuốn hút trước một lối sống tục hóa. Người môn đệ Chúa Giêsu muốn thể hiện một tình yêu mục tử tinh ròng phải tránh tất cả những xôn xao ầm ĩ đó để tâm hồn được tĩnh lặng và để được nghỉ ngơi an bình bên Chúa.
Những vị mục tử ngày hôm nay, những cánh tay nối dài của Đức Giêsu, những con người được Chúa tin tưởng trao phó cho sứ mệnh cứu thế, cần phải học cho mình những bài học căn bản này để tâm hồn chúng ta luôn được thảnh thơi và an bình.
Sự bình an chân thật chỉ có thể có được nếu chúng ta biết lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa. Đức Giêsu chính là sự bình an của chúng ta. Thánh Phaolô đã nói cho chúng ta chân lý này trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay: “ Người đã đến loan Tin Mừng bình an: Bình an cho anh em là những kẻ ở xa và bình an cho những kẻ ở gần”. Chúng ta chỉ có thể kiến tạo cho mình sự bình an chân thật, nếu trong cuộc sống, chúng ta năng rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi. Đó không phải là sự nghỉ ngơi về thân xác, nhưng là sự tĩnh lặng trong sâu tận tâm hồn để sống kết hiệp với Chúa luôn mãi.”
11. Bận rộn – Lm Vũ Đình Tường
Khi chế tạo sản phẩm mới người ta quảng cáo đủ mọi điều tốt đẹp về sản phẩm. Nào là nó tiện lợi, đẹp, rẻ và tiện nghi cho đời sống mới. Một thời gian sau sản phẩm khác ra đời thay thế sản phẩm cũ, thế là có mới nới cũ. Cũ chìm vào quá khứ biến mất khỏi thị trường. Như thế người tiêu dùng bị hấp lực bởi quảng cáo, không phải hấp lực của sản phẩm. Đồng ý là khoa học kỹ thuật mang lại rất nhiều lợi ích thiết thực cho con người nhưng không phải mọi sáng chế đều thuận lợi cả đâu. Nhiều người trở thành nạn nhân của những sáng chế mới. Điều mà không ai tránh khỏi đó là vấn đề chạy đua với thời gian. Từ già trẻ, lớn bé, mọi người đều cảm thấy ngày ngắn, đêm đoản, ngủ chưa no giấc ngày đã đến, còn đang lai rai đêm đã tàn. Máy móc làm việc nhanh gấp ngàn lần chân tay đáng ra con người phải có nhiều giờ rảnh mới đúng nhưng dường như ai cũng bận rộn, không đủ giờ để nghỉ, thiếu giờ liên lạc, đàm thoại với nhau. Vì sao? Vì phải chạy đua với máy móc. Sức người có hạn, máy móc lại dai dẳng, không mệt nên người mệt mỏi trước máy. Tai hại thứ hai của sản phẩm khoa học kĩ thuật là vấn đề gian lận. Trẻ gian lận giờ học, giờ chơi, giờ ngủ để có giờ cho máy móc. Cảnh sát vất vả vì kẻ lạm dụng kiến thức khoa học đánh cắp đủ thứ. Hầu như ai cũng được khuyên cần mã số cho máy, mã số cho sổ ngân hàng, mã số cho mọi thứ liên quan đến cá nhân vì lúc nào cũng có kẻ rình mò tìm cách lợi dụng. Phương diện quốc gia cũng không hơn gì, ngày đêm có kẻ rình rập ăn cắp dữ kiện, phá nhau để họ khỏi hơn mình. Chiến tranh trên mạng chỉ mới bắt đầu và sẽ trở thành đại nạn trong những năm sắp tới.
Đức Kitô sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh tật cho tha nhân, các ông cũng cảm thấy bận rộn đến độ các ông không có giờ ăn trưa. Đức Kitô nói với các ông: anh em hãy đi tìm nơi thánh vắng nghỉ lấy sức c.13
Lời khuyên vừa khôn ngoan vừa thiết thực, nên nghỉ ngơi sau ngày làm việc vất vả đến từ Đức Kitô. Nơi thanh vắng không mang nghĩa là nơi cô đơn, một mình, không có ai hoặc là không làm gì hết nhưng là nghỉ trong Chúa. Nơi thanh vắng cho ta thời giờ rảnh rang để nhìn lại, kiểm điểm công việc đã qua. Trường hợp các tông đồ các ông đi chung với nhau, với những người chung niềm tin, tôn thờ cùng Thiên Chúa và làm cùng công việc rao giảng về nước trời.Nơi thanh vắng là nơi thể xác được nghỉ ngơi, tịnh dưỡng, tinh thần được bồi bổ và tâm linh được tăng sức mạnh. Nơi thanh vắng là nơi cuộc sống không bị dày vò, công việc không thúc bách và không phải chạy đua với thời gian. Nơi thanh vắng chúng ta tìm được bình an trong tâm hồn, yên tĩnh của cuộc sống và những điều này đánh tan nỗi lo nhọc của cuộc sống. Nơi thanh vắng là nơi chúng ta cởi mở tâm hồn tâm sự cùng Chúa. Nếu là những niềm vui chúng ta chia sẻ Thiên Chúa sẽ làm cho nguồn vui tăng gấp bội. Nếu là nhưng lo âu, sầu khổ, mệt mỏi chúng ta san sẻ nỗi âu lo đó cho Chúa và Chúa sẽ ban sức mạnh, chữa lành.
Tình yêu Chúa bất biến với thời gian. Tình yêu Chúa không bao giờ thay đổi nhưng cách làm chứng nhân cho Thiên Chúa cần đổi mới cho thích hợp với hoàn cảnh. Thay đổi thế nào thì tuỳ vào sự khôn ngoan của mỗi cá nhân lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Chúa trong lúc nghỉ ngơi tĩnh dưỡng.
12. Hao mòn – Lm Vũ Đình Tường
Nghỉ ngơi, bồi bổ, dưỡng sức là nhu cầu bắt buộc phải có trong cuộc sống. Thiếu nghỉ ngơi, bồi bổ và dưỡng sức sự sống bị hao mòn trước khi tắt ngủm.
Hay nóng giận, nổi quạo một cách vô cớ, phê bình, chỉ trích không lý do, là dấu hiệu báo động cho biết người đó đang bị căng thẳng. Căng thẳng gây nên bởi hai lý do chính. Một đến từ trong con người. Hai đến từ bên ngoài. Dù đến từ trong hay ngoài đều nguy hiểm cho cuộc sống. Căng thẳng xảy ra vì thiếu niềm tin vào Chúa.
Lý do trong ta
Tiền tài, tham vọng, tài sức riêng, và tính kiêu ngạo là lý do nội tại tạo nên mối căng thẳng cho mình và cho người khác.
Lý do ngoài ta
Xã hội sa đoạ, luân lí suy đồi vì gạt Chúa ra ngoài. Gia đình sào sáo, tranh quyền. Chúa đóng vai phụ trong cuộc sống. Môi trường thích hợp cho căng thẳng phát triển. Bao lâu người ta còn chối tình yêu Chúa, bấy lâu thân xác họ còn là những hầm mỏ chứa căng thẳng, tị hiềm, ghen ghét. Thể xác phải gánh chịu những đớn đau, dằn vặt đó.
Để tiêu diệt thù trong, giặc ngoài, nghi kị, hằn thù. Để tâm hồn tìm lại bình an, thể xác thảnh thơi, thoải mái, tình người đề cao, nhân phẩm coi trọng.
Sống tình Chúa yêu ta là điều không thể thiếu.
Thiếu yêu thương
Căng thẳng phát sinh không phải do công việc nặng nhọc. Nó bộc phát bởi điều kiện bên ngoài tác hại con người bên trong. Điều kiện bên ngoài do con người tác tạo. Xã hội có người gây căng thẳng; lại có người chữa trị căng thẳng. Có người chữa vì lòng yêu mến. Cũng có người lợi dụng làm giầu trên lo lắng, đau khổ của kẻ khác. Kết quả kẻ là nạn nhân; kẻ là tác giả gây căng thẳng. Cũng có trường hợp tác giả cũng chính là nạn nhân, thật đúng câu: gậy ông đập lưng ông. Sở dĩ có tình trạng tréo cẳng ngỗng như thế vì người ta từ chối, không đón nhận tôn thờ một Thiên Chúa yêu thương. Chối bỏ tình yêu Chúa con người không biết cách diễn tả tình yêu chân chính. Tưởng hành xử như thế là yêu nhưng thực ra phản lại tình yêu. Chúa là Đấng duy nhất dậy ta biết cách diễn tả tình yêu trọn hảo nhất. Ngoài cách Chúa dậy, mọi cách khác đều không trọn hảo.
Các ý kiến mâu thuẫn trong việc giải thích tình yêu. Ý nào cũng tự hào là đúng nhất. Điều gì bảo đảm cách này đúng hơn cách kia? Thưa, sức mạnh đồng tiền và vũ khí. Giầu, mạnh hơn đúng nhiều; nghèo, yếu hơn đúng ít. Tiền và vũ khí gieo oán hận, tang thương. Nơi đâu có ân oán, tang thương; nơi đó vắng bóng tình yêu chân chính. Khi có nhiều ý kiến nghịch nhau giải nghĩa chữ yêu thì cần phải chọn lựa.
Chúa là Đấng duy nhất đủ thẩm quyền dậy về tình yêu. Chính Con một Chúa làm gương tình yêu cho nhân loại soi. Mọi kêu gọi hy sinh trái với giới luật yêu thương của Chúa đều là gương giả hiệu. Từ chối lời Ngài là chọn sống trong tình trạng không biết Chúa. Không biết Chúa thì không biết yêu như Chúa yêu vì Thiên Chúa là tình yêu. Chúa chết để cứu chuộc ta nên tình yêu Ngài ban tặng là tình yêu chân thật.
Ân tình Chúa
Đức Kitô đưa ra lời khuyên cụ thể, xác thực. Lời khuyên đơn giản, cần thiết cho cuộc sống. Ngài biểu lộ tình yêu bằng cách lo lắng cho hạnh phúc của con người.
Tình yêu Chúa biểu lộ qua Tin Mừng.
Người rao giảng Tin Mừng, khuyên các ông nghỉ cho lại sức c.32
Đại chúng khi Ngài thấy họ bơ vơ nên chạnh lòng thương c.34
Nơi thanh vắng
Nơi thanh vắng là nơi không có người. Dù vắng người nhưng người tới đó không cảm thấy lẻ loi, cô đơn. Nơi thanh vắng là nơi Đức Kitô gặp Chúa Cha. Nơi thanh vắng Kitô hữu gặp
- Lại mình
- Tha nhân
- Gặp Chúa.
Đến nơi thanh vắng để tâm hồn được thanh thản, thân xác bình an. Cách chữa bệnh bằng phương pháp tự nhiên này rất công hiệu cho mọi người. Không cần phải thầy thuốc. Chỉ cần nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, bồi dưỡng. Nơi thanh vắng không cần phải xa xôi, hẻo lánh. Nơi gần, tốt, an toàn và thanh vắng nhất chính là con tim mình. Nơi con tim cảm thấy yên tâm, thoải mái. Không còn bồn chồn, giao động, toan tính mà là yên tâm, bình an. Chính lúc thư giãn, yên tâm là lúc tâm hồn gặp được Chúa. Tâm hồn được bồi dưỡng bằng sức mạnh thần thiêng. Sức mạnh thần thiêng có khả năng tăng sức cho thân xác. Nơi thanh vắng là nơi cầu nguyện tốt.
Tâm hồn xao động không có bình an. Bất an không thể phục vụ. Có yêu Chúa chỉ là yêu bằng môi mép. Chúa không muốn điều đó.
Quân này yêu Ta bằng môi, miệng còn lòng chúng thì xa Ta’. Mt 15, 8
Nơi thanh vắng giúp ta nhìn lại bước đường đã qua. Kiểm lại bước chân lung lạc trên đường về quê trời. Nơi thanh vắng giúp ta nhìn vào chính mình, học hỏi, xem lại cách sống, cách đối xử với tha nhân và với Đức Kitô.
Xin giúp con xác tín ngoài Chúa ra không có tình yêu chân chính.
13. Lắng đọng và bình an – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một thanh niên lực lưỡng xin đốn cây để phụ giúp gia đình. Thấy anh vạm vỡ, chủ liền trao cho anh một chiếc rìu, dẫn anh vào rừng và bảo:
- Anh thử đốn cây này cho tôi xem.
Vì đã từng lao động, nên anh đốn rất nhanh. Ông chủ nhận anh vào làm việc, đưa ra mức lương và cho nơi cư ngụ.
Dù mệt nhọc nhưng anh cảm thấy rất vui, vì nghĩ rằng cuối tuần sẽ có một số tiền kha khá đem về gia đình. Thứ Hai, Thứ Ba, rồi Thứ Tư vùn vụt trôi qua. Đến ngày Thứ Năm, chủ gọi anh vào cám ơn và trao cho anh tiền công cả một tuần.
Anh vui sướng cầm những tờ giấy bạc thấm đẫm mồ hôi, đôi mắt rạng ngời niềm vui. Bỗng chợt nhận ra có điều gì bất thường, anh thắc mắc hỏi chủ:
- Tôi xin cám ơn chủ đã trả lương cho tôi suốt tuần. Nhưng sao không để đến thứ bảy mà lại trả lương vào hôm nay.
- Đáng tiếc là tôi không thể mướn anh được nữa, vì theo sổ sách thì anh đốn được nhiều cây nhất vào ngày thứ Hai, nhưng qua ngày thứ Ba cây đã giảm xuống, và ngày thứ Tư anh là người đốn được ít cây nhất trong các công nhân ở đây.
- Nhưng thưa ông chủ, tôi đã làm hết sức mình. Tôi đi làm sớm về trễ. Tôi chỉ nghỉ để ăn trưa có nửa tiếng thay vì một tiếng. Tôi làm việc không ngừng. Tôi làm việc cả giờ giải lao. Vậy ông chủ còn muốn gì nữa?
- Những gì anh vừa nói không sai chút nào, tôi hoan nghênh sự nhiệt tình của anh. Nhưng tôi chỉ xin hỏi anh một câu: anh có mài rìu không?
***
"Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút" (Mc.6,31). Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả, các tông đồ phấn khởi thuật lại cho Đức Giêsu nghe những thành quả vàng son của mình. Nhưng Người lại quan tâm đến con người hơn công việc. Người muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với Thầy và với nhau.
Lắm khi chúng ta quên mất "mài rìu", vì cho rằng khối lượng công việc chồng chất, vì thời buổi kinh tế cạnh tranh, nên không dễ tìm được một chút tĩnh lặng: để thẩm định lại những biến cố, và soát lại công việc đã làm và lắng nghe được tiếng Chúa mời gọi.
Nếu muốn đốn nhiều cây càng phải năng "mài rìu" cho sắc.
Nếu muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi, lấy sức.
Nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, càng phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.
Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washigton Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời: "Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi sớm mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình của Người xếp đặt cho tôi".
P. Doncocur đã quả quyết: "Không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong tĩnh lặng để hồi tâm và cầu nguyện". Vâng, trong cuộc hành trình về quê Trời, người ta không thể đi hết con đường vừa dài vừa dốc, nếu không dừng lại nghỉ ngơi, lấy sức và định hướng.
****
Lạy Đức Giêsu, Chúa đã "lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện". Xin cho chúng con cũng biết gác bỏ những sôi nổi của thành công, những ê chề của thất bại, để một mình tĩnh lặng bên Chúa; lắng đọng và bình an.
Xin cho chúng con biết dừng lại, lắng nghe và kín múc nơi Chúa nguồn sức mạnh, để chúng con lại tiếp tục lên đường. Amen.
14. Chúa Nhật 16 Thường Niên
(Suy niệm của Lm Nguyễn Văn Phan, CSsR.)
Trong số những hình ảnh Kitô giáo thời sơ khai vẽ trên những bức tường hang toại đạo ở Roma, người ta thấy hình vẽ Đức Kitô dưới hình ảnh một người chăn chiên trẻ trung không để râu, vai vác một con chiên. Chủ đề rất cổ xưa này trong nghệ thuật Kitô giáo thời sơ khai được nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay, qua đó chúng ta chứng kiến Đức Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót đám đông quần chúng như là những con chiên không có người chăn.
Bối cảnh hôm ấy là khi các tông đồ trở về từ chuyến đi truyền giáo đầu tiên. Các ông mệt mỏi và cần nghỉ ngơi. Đức Chúa Giêsu biết thế, nên Người đưa các ông đến một nơi yên tĩnh để các ông có thể nghĩ ngơi và cầu nguyện đôi chút. Nhưng mọi chuyện đã không xẩy ra như ý. Đám đông đã xác định được nơi Thầy trò sẽ đến, nên họ đã kéo nhau đến đó trước. Ắt hẳn một số môn đệ của Đức Chúa Giêsu nghĩ rằng Thầy mình nên bảo họ trở về nhà, vì ngày hôm đó Người cũng đã làm việc nhiều rồi, nhưng Đức Giêsu đã không quay lưng lại với hoàn cảnh. Tình cảnh dân chúng thật đáng thương và Người đã ý thức đến nhu cầu của họ.
Chúng ta có thể rút ra một bài học từ thái độ quảng đại của Đức Chúa Giêsu khi Người đặt nhu cầu của tha nhân lên trên nhu cầu của chính mình. Nếu Đức Chúa Giêsu không giữ lại cho chính mình, thì những người đi theo Chúa cũng thế thôi. Qua ơn gọi thanh tẩy, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm làm Kitô Hữu, đều có phần nào đó trong việc chăn dắt những người Chúa trao cho chúng ta. Nhiều khi hình như chẳng ai để ý gì đặc biệt trong đời sống gia đình. Nếu con cái đang tuổi lớn không được chăm lo cẩn trọng và chỉ dẩn đúng hướng, chúng sẽ có nguy cơ lạc lối và lang thang vô vọng suốt đời vì không có mục đích nào cả. Trở nên người chăn chiên lành như ý Đức Kitô mong muốn thật là cả một chuỗi công việc vất vả khó khăn. Con đường Người muốn chúng ta đi theo là một con đường thẳng và hẹp của Thập Giới. Nếu như chúng ta không liên tục kết hợp với Đức Kitô trong lời cầu nguyện, chúng ta có nguy cơ loanh quanh luẩn quẩn rồi lại tìm những con đường khác hấp dẫn hơn.
Tin Mừng hôm nay cũng nói đến tầm quan trọng của việc tìm một nơi yên tĩnh trong cuộc sống nơi mà chúng ta có thể một mình cầu nguyện với Đức Kitô. Giống như Đức Kitô, nhiều khi chúng ta phải tìm cách thoát khỏi những tiếng gọi liên tục, khỏi những áp lực luôn đè nặng, ngõ hầu chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa dịu êm chữa lành và bồi dưỡng chúng ta về mặt thiêng liêng. Người ta có thể nghe thấy tiếng nói của Thiên Chúa rõ nhất trong những giây phút lặng lẽ. Khi và chỉ khi nào Đức Kitô có chỗ cư ngụ trong trái tim chúng ta, chúng ta mới được khai mở đón nhận sức mạnh Thiên Chúa đến hỗ trợ đỡ nâng cuộc sống chúng ta.
Cầu nguyện một mình trong thinh lặng với Thiên Chúa là một trong những nhu cầu quan trọng nhất của chúng ta. Một mình đối diện với Ngài, chúng ta nên tự vấn mình sẽ đi đến đâu, sẽ cố gắng làm gì để đạt tới chỗ đó. Nếu chúng ta không tạo ra những khoảng trống dành cho Thiên Chúa trong cuộc sống của mình, chúng ta sẽ lãng phí thời gian và không thấy gì ngoài những sinh hoạt hiện tại của mình thôi. Tất cả cuộc sống của chúng ta đã được thánh hiến, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được điều này nếu như chúng ta không trở nên môi miệng của Chúa; qua những nơi những người chúng ta thăm viếng, chúng ta trở nên đôi chân của Chúa.
15. Đời sống cần có Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc
Đời sống cần có Chúa: "Họ như bầy chiên không có kẻ chăn"
Sau Tiên tri Amos, xuất thân từ một người chăn chiên hiền lành biến thành một con sư tử “gầm thét” tội ác của các nhà lãnh đạo dân Chúa, nay đến Tiên tri Giêrêmia lên tiếng: “Khốn cho các mục tử làm tản mác và xâu xé đàn chiên”.
Họ đã làm cho nước mất nhà tan, hàng ngàn người chết, hàng vạn người phải lưu đầy qua Babylone, trong số chính nhà tiên tri là nạn nhân. Những nhà lãnh đạo Israel phải là kẻ đem lại hòa bình và hiệp nhất cho dân Chúa, trung thành với giao ước Sinai thì họ lại phản lại Thiên Chúa, gây khốn khổ cho Israel. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung thành, nhà Tiên tri nhìn thấy ở chân trời, một Đấng Mục Tử xuất hiện từ chi họ Đavít. Ngài sẽ đem lại hòa bình và công chính. Tuy nhiên, với điều kiện là đoàn chiên biết nghe lời Người. Lịch sử Do Thái là hình ảnh lịch sử nhân loại.
Thánh Phaolô, trong thư gởi giáo đoàn Êphêsô, cho chúng ta thấy Đấng đã làm “cho đôi bên lên một, phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt hận thù”, chính là Chúa Giêsu. Ngài đến loan báo Tin mừng bình an. Ngài đến hiệp nhất chúng ta lại. Chúng ta hãy nhìn lên cây Thập giá, Ngài chịu treo lên, như gạch nối giữa đất và trời, hai tay giang ra như để ôn chầm cả nhân loại.
Qua bài Phúc Âm, chúng ta thấy Marcô mô tả việc Chúa Giêsu và các môn đệ sau những ngày làm việc mệt nhọc, đã để ra một vài ngày nghỉ ngơi trong yên tĩnh. Quần chúng bao quanh đến nỗi “Ngài không có cả thì giờ để ăn”. Một thời gian để tĩnh dưỡng cho mình và các môn đệ là điều hợp lý.
Và chúng ta thấy Chúa Giêsu biết chọn những chỗ thích hợp, như “trên một ngọn núi cao, xa vắng” (9,2), trên bức thành đá ven bờ hồ Tibêriađê (5,1), bờ biển Phênicia, (7, 24-31) hay gần nguồn sông Giodan dưới chân núi Hermon (8,27). Đây là một cuộc tĩnh tâm của Thầy và các môn đệ, vừa nghỉ ngơi vừa huấn luyện. Các Tông đồ thuật lại cho Thầy nghe các kinh nghiệm tông đồ của mình (6,30), Thầy thông cảm với các cộng sự của mình: “Sáng sớm tinh sương, Ngài chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện ở đó” (1,35). Như vậy, khi trở về gặp lại dân chúng, lời giảng pha lẫn với lời kinh của Chúa và của môn đệ hứa hẹn một mùa gặt tốt.
Nhưng Chúa Giêsu và môn đệ không thể tĩnh dưỡng lâu, xa quần chúng. Vì Ngài đến vì dân chúng và dân chúng cũng cảm thấy không thể thiếu Ngài. Họ đi tìm Chúa, “họ như bầy chiên không có kẻ chăn”. Họ cần có Chúa.
Tất cả chúng ta đều cảm thấy cần có Chúa, thiếu Chúa đời ta thiếu tất cả, bơ vơ và lạc lõng. Thánh Augustinô kêu lên: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con sẽ không bình yên khi nó không an nghỉ trong Chúa”.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu tỏ ra rất thương yêu và am tường các nhu cầu vật chất và tinh thần của các môn đệ. Đời sống tông đồ là một đờ sống tận hiến tất cả, đầy gian lao và xả thân, nhưng phải luôn luôn trở về nguồn. Phải để xa những ngày nghỉ ngơi, im lặng và cầu nguyện, những ngày sống thân mật với Chúa, chuẩn bị cho những ngày xuất quân mới, đầy nghị lực và tình thương.
Đức Gioan XVIII được gọi là vị Giáo Hoàng năng tĩnh tâm. Mặc dù công việc Giáo Hội bề bộn, với bao nhiêu vấn đề phải suy tư giải quyết. Ngài hằng “trở về nguồn”. Đặc biệt, Ngài rất năng tĩnh tâm, tạm dẹp công việc lại một bên, để dành cho Chúa một thời gian. Ngài dọn một phòng riêng ở Vatican, để sống những giờ âm thầm bên Chúa hoặc nghe lời giảng day…Trước khi khai mạc Công Đồng Vaticanô II. Ngài đã tĩnh tâm một thời gian rồi đi hành hương ở Loretto, nơi lưu giữ ngôi nhà của Đức Mẹ, để xin cho Công Đồng được kết quả.
“Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi…
Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi,
Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng”.
16. Mục tử và đàn chiên
Người Việt nam chúng ta không làm nghề chăn chiên, nên ít có ấn tượng về hình ảnh sống động và mối liên hệ mật thiết giữa chủ chiên và đàn chiên. Ở nước Do thái thời Chúa Giêsu thì khác, hình ảnh đàn chiên và chủ chăn rất quen thuộc. Môsê và các tiên tri đã dùng hình ảnh này để tiên báo về lời hứa cứu độ, về những mục tử tốt lành Chúa sẽ ban cho dân Chúa.
Từ sau thời Vua Salomon trở đi, không được mấy ông vua vừa lòng dân, nhiều vị vua sống ích kỷ, không màng chăm lo cho đất nước và dân tộc, làm cho dân chúng thất vọng về chế độ Quân Chủ. Trong thời gian đất nước chia đôi, và nhất là thời kỳ lưu đày, bị đô hộ, dân Israel càng mong mỏi có được vị vua công minh, vị mục tử nhân lành như lời Chúa đã hứa qua Môsê và các tiên tri: Chúa sẽ cho xuất hiện một Vị Tiên Tri lớn như Môsê, một Vị Cứu Tinh đem lại hoà bình cho trăm họ. Chính Tiên tri Giêrêmia cũng nhắc lại lời hứa của Chúa cho dân nghe: Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền, Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa. Này, sẽ tới những ngày - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA -Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: "ĐỨC CHÚA, sự công chính của chúng ta."
Lời Chúa hứa qua miệng tiên tri Giêrêmia đã được thực hiện. Đó là chính Đức Giêsu, thuộc dòng dõi vua Đavid. Ngài đến chăn dắt đoàn chiên thuộc mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ, không phải bằng bạo lực, quyền hành kiểu thế gian nhưng bằng tình thương, lòng nhân hậu, bằng hy sinh, phục vụ hết mình vì hạnh phúc và hoà bình của nhân loại. Ngài là vị vua, là mục tử tốt lành. Ngài đến không phải để tìm lợi lộc cho chính mình nhưng tìm lợi ích cho tha nhân, cho mọi người chúng ta. Ngài là mục tử tốt lành, biết xót thương, biết sống vì người khác. Chẳng hạn, như trong bài Phúc âm hôm nay: dù Chúa Giêsu và các tông đồ đang có nhu cầu nghỉ ngơi, nhưng thấy đoàn lũ dân chúng kéo đến thì không kể mệt mỏi, cực nhọc đã tiếp tục giảng dạy, ban bố ơn lành cho họ.
Đức Giêsu vì chúng ta mà chết trên thánh giá để giải gỡ chúng ta khỏi xích xiềng tội lỗi và sát nhập chúng ta vào đoàn chiên của Ngài. Vậy, để đáp lại sự lo lắng và công ơn cứu chuộc đó, chúng ta phải làm gì cho đẹp lòng Ngài được vui. Tôi nghĩ, điều đẹp ý Ngài là:
1) Mọi người biết tuân giữ lời Chúa đã dạy. Đó là những điều rất ích lợi cho phần hồn và cả phần xác chúng ta nữa. Mọi người hãy luôn tỏ lòng yêu mến Chúa qua việc đi lễ đọc kinh mỗi ngày, ít là lo giữ ngày Chúa nhựt, thương mến và sống hoà thuận với mọi người chung quanh chúng ta vì mọi người là con cùng một Cha trên trời.
2) Chúa yêu thương chúng ta bằng tình yêu vô biên, chúng ta cũng hãy yêu Chúa hết mình mới tương ứng phần nào với tình yêu Chúa. Đó là lẽ phải mà mọi người cần thực hiện ngay trên trần gian này. Theo gương Đức Giêsu, chúng ta hãy sẵn sàng đón tiếp mọi người, nhất là những sứ giả của Chúa: như quý linh mục, tu sĩ. Và vì lòng mến Chúa, chúng ta cũng giúp đỡ những người nghèo khổ vốn không có khả năng trả ơn chúng ta để chính Chúa sẽ trả công bội hậu cho chúng ta sau này.
Lạy Chúa Giêsu là Mục tử tốt lành, xin cho chúng con nhận ra tình yêu Chúa đối với chúng con và biết đáp trả cho cân xứng phần nào với tình yêu đó.
17. Nghỉ ngơi một chút
(Suy niệm của Lm. Ignatiô M. Hải Dương CMC)
Tin Mừng Chúa Nhật 16 hôm nay, Chúa Kitô nói tới nhu cầu nghỉ ngơi. Lời Chúa Kitô: "Các con hãy lui ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút". Điều khuyên rất thích hợp với thời điểm mùa hè này. Nhiều nơi thời tiết nóng bức lên tới cả trăm độ F thì việc nghỉ ngơi, ra biển, hay tới những chỗ mát mẻ là điều cần thiết.
Theo các nghiên cứu y học thì nhịp sống nghỉ ngơi rất cần thiết cho công việc làm hằng ngày. Sau khi nghỉ ngơi chúng ta có thể tiếp tục làm việc lại một cách đều đặn, vì trong lúc nghỉ ngơi thân xác chúng ta có thời gian thư dãn, phục hồi lại những năng lượng đã mất. Số năng lượng tái tạo mới này sẽ bổ sung cho nhịp độ làm việc kế tiếp. Nếu không có sự nghỉ ngơi, con người sẽ không thể nào tiếp tục làm việc một cách tích cực và hiệu quả được. Hy vọng sau những ngày nghỉ ngơi dài, ngắn, chúng ta vui tươi trở lại làm việc với tinh thần mới.
Đức Thánh Cha Bênêđict XVI vào những ngày hè này cũng rời Vatican để bắt đầu kỳ nghỉ hè kéo dài 2 tuần tại những vùng Bắc Ý, nơi cao, khí hậu mát mẻ. Chân Phước Giáo Hoàng John Paul II cũng rất hay lui tới vùng Bắc Ý qua các kỳ nghỉ hè trước đây. Và vì khí hậu Roma vào tháng 7 và tháng 8 rất nóng, nên tiếp theo sau thời gian nghỉ hè này các Đức Giáo Hoàng thường sẽ trở về cung điện mùa hè Castel Gandolfoi, cách Rome 18,5 dặm về phía Nam, để ở đó cho đến cuối tháng 09.
Nghỉ ngơi là điều được nhắc đến nhiều trong Thánh Kinh, như trong bài đọc thứ nhất hôm nay, Ngôn sứ Giêrêmia nói: "Ta sẽ qui tụ phần còn lại của chiên Ta... và Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ, để chúng lớn lên, và tăng thêm" (Giêr. 23). Và trong bài Đáp Ca, Ngài sẽ: "dẫn tới dòng nước, chốn nghỉ ngơi, Người dẫn tôi đi, để làm sống lại tinh thần bải hoải." (T V. 22).
Những lời này qui chiếu về Chúa Kitô, Ngài cẩn thận chú ý đến từng thành phần trong nhân loại. Trong bài Tin Mừng, Chúa Kitô lo lắng cho các môn đệ, vì họ mệt nhọc sau sứ mệnh tông đồ, rong ruổi từ những làng mạc tới những thành lân cận. Ngài nói: "Các con hãy đến chỗ thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút." Vì nhiều khi các tông đồ bận rộn, không có thời giờ để ăn uống nữa.
Cuộc đời chúng ta cũng giống như cuộc đời các tông đồ là phụng sự Chúa Kitô, phục vụ gia đình và xã hội. Trong khi phục vụ, nhiều khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi và rất cần tới sự nghỉ ngơi. Kinh nghiệm bản thân, khi cuộc sống bận rộn, mệt nhọc, chúng ta ít kiên nhẫn, hay sinh ra bẳn gắt, nóng nảy, ảnh hưởng không tốt đến những phẩm chất những việc tốt lành và có khi ngay cả công việc tông đồ. Rồi từ đó biết đâu chúng ta lại có những phản ứng tiêu cực xẩy đến cho vợ chồng, con cái, đến những người thân, và cả những bạn bè.
Trong những bận bịu của cuộc sống, con người cần sự nghỉ ngơi, vì theo lời Thánh Grêgoriô Naziana: "Sợi dây không thể căng mãi và người bắn cung cần phải nới lỏng hai đầu cung, nếu muốn sau này lại giương lên bắn nữa". Thánh Augustinô thì cho rằng Thiên Chúa muốn chúng ta càng làm việc thì càng phải ở trong tình trạng thể lý tốt, vì Chúa chờ đợi nhiều ở nơi chúng ta. Ngài nói: "Hỡi anh em, hãy coi Thiên Chúa yêu chúng ta dường nào, vì khi ta nghỉ ngơi, thật là Thiên Chúa nghỉ ngơi".
Mong ước rằng tuy sự nghỉ ngơi là một nhu cầu cần thiết, chúng ta cũng hãy biết thánh hoá những sự nghỉ ngơi và giải trí này.
Trong sự thanh vắng, nghỉ ngơi của tâm hồn và thân xác, mỗi người cũng hãy nhìn lên Đức Trinh Nữ Maria để Mẹ dạy chúng ta yêu thích sự yên lặng và cầu nguyện.
18. Chúa Nhật 16 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Thu Băng)
Một hình ảnh được Thánh Kinh miêu tả lột được hết ý nghĩa nhân từ và thương yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, đó là hình ảnh của người chăn chiên nhân lành. Tìm đọc những trang Cựu Ước thân thương đó, Chúa Giêsu cũng lại ví mình như những mục tử nhân lành săn sóc đoàn chiên. Điểm nổi bật về tấm lòng mục tử của Chúa Giêsu là sự quan tâm, chăm sóc đến bày chiêm, từ việc dẫn chiên ra đồng, đến việc tìm đồng cỏ xanh tốt cho chiên ăn, từ việc chăm nom từng con chiên yếu đau bệnh tật, đến việc liều chết canh giữ bày sói rừng hung dữ...... Tất nói lên cái trách nhiệm lớn lao của một mục tử nhân lành.
Trách nhiệm của một Tổng thống cai trị một nước. Trách nhiệm của một Cha Xứ săn sóc một xứ đạo. Trách nhiệm của những người làm cha mẹ hướng dẫn và giáo dục một bày con trong gia đình...... thật lớn lao, thật quan trọng. Nhiều khi chúng ta cảm thấy sợ hãi trước trách nhiệm lãnh đạo của mình. Cũng có lúc chúng ta cảm thấy một gánh nặng đè trên vai. Dân chúng làm reo, bổn đạo không phục quyền, con cái cãi lại cha mẹ. Đứng trước những khó khăn như thế trong đời, chúng ta phải làm gì? Chúng ta nên làm điều mà Chúa Giêsu đã làm là " Các con hãy lui vào nơi thanh vắng mà cầu nguyện" (Mc.6:31). Khi cầu nguyện chúng ta sẽ cảm nhận được sự ủi an, sự khích lệ và nâng đỡ của Chúa để chúng ta đương đầu với mọi khó khăn. Cũng như xưa, khi Chúa Giêsu cầu nguyện trong vườn cây dầu, thì "Một Thiên Sứ từ trời hiện xuống an ủi và nâng đỡ Người" (Lc.22:43).
Khi ban hành một tài liệu mới, không những Đức Thánh Cha Gioan thứ 23, mà cả các Đức Thánh Cha khác nữa, các ngài đã để giờ đọc đi đọc lại tài liệu đó đó nhiều lần và để giờ cầu nguyện xin ơn soi sáng và khích lệ trước khi ban hành.
Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn văn Thuận, kể lại: "Trong thời kỳ triệt thoái của Việt Nam Cộng Hòa năm 1975, khi tôi còn là Giám Mục Giáo Phận Nha Trang, quân đội Mỹ vây quanh tòa Giám Mục với xe tăng thiết giáp, tối đến không ai dám đi lại, đèn đóm trong tòa Giám Mục cũng thắp có giới hạn. Tình hình khẩn cấp lâm nguy đến nơi. Đêm ấy, tôi vào bàn giấy đọc kinh cầu nguyện và phó thác mạng sống trong tay Chúa Mẹ, Cầu nguyện xong, tôi vừa bước ra khỏi bàn giấy mươi phút thì súng nổ nã vào bàn giấy tôi ngồi và phòng tôi ngủ. Điện đóm nỗ tung, khói mù mịt, màn chiếu rách toang. Nghe tiếng nổ, tôi nép vào bức tường trách né. Đạn xuyên thủng tường ngay trên đầu tôi. Sau hồi súng nổ, cha Quản Lý từ nhà dưới chạy lên xem sét sự tình. Tạ ơn Chúa Mẹ, tôi vẫn còn sống. Số mệnh của tôi còn vững trong tay Chúa. Sáng hôm sau tôi ra hỏi toán lính Mỹ, họ cho hay đêm qua có Bộ Đội lẩn vào Tòa Giám Mục, nên chúng tôi được lệnh giữ an ninh cho ngài.
Số mạng tôi ở trong tay Chúa, Chúa gìn giữ tôi qua mọi nẻo đường. Dù bước đi trong đen tối chông gai, suốt 13 năm tù với bao nhiêu lần tôi tưởng chết, nhưng Chúa chưa cho thí mạng cùi. Ngài vẫn là Hy Vọng của đời tôi, Ngài luôn ở cùng tôi. Lời cầu nguyện và tín thác vẫn là con thoi sinh mệnh của tôi". (Tâm sự riêng khi Ngài ghé thăm Đức Hồng Y Benadô Law tại Boston).
Tổng Thống Bush nhận thấy trách nhiệm nặng nề trên vai trước khi hạ lệnh đánh Iraq để tiêu diệt quân khủng bố, ông đã để nhiều thời giờ thăm dò dư luận của giới lãnh đạo thế giới và đắn đo suy nghĩ về kế hoạch mình sẽ thực hiện, cũng như ông đã dùng nhiều giờ cầu nguyện để được lòng can đảm và sức mạnh tiếp tục thi hành một bổn phận nặng nề và nguy hiểm trước thế giới. Cầu nguyện đã trở nên một sứ điệp thực tiễn và cần thiết để được Chúa ban ơn và nâng đỡ.
Để kết thúc, chúng ta hãy lập lại lời Thánh Vịnh 22, 1-3: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
19. Mục Tử - Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Giêrêmia hoạt động tại Giêrusalem vào khoảng từ năm 627-587 trước Công Nguyên. Quan niệm thần học chính của Giêrêmia cũng như các tiên tri khác là mời gọi dân chúng cải tà qui chánh. Vì tội lỗi của dân Judah, Yahweh Thiên Chúa đã phá huỷ thành quách do bởi Vua Babylon là Nebuchadrezzar. Tiên tri Giêrêmia là một trong các tiên tri có thế giá nhất. Sứ mệnh của tiên tri trong thời gian bất thường, kéo dài suốt 40 năm tao loạn của cộng đồng ở Giêrusalem. Ngài cùng thông phần chia sẻ những khốn khó và khổ đau với dân chúng. Tiên tri dẫn dắt mọi người đặt niềm tin tưởng và hy vọng vào sự giải cứu trong tương lai. Giêrêmia đã không ngại nói thẳng và nói thật khi phải đụng chạm với các chủ chăn. Ngài cảnh cáo: Chúa phán: “Khốn cho các mục tử làm tản mác và xâu xé đoàn chiên Ta” (Gr 23,1).
Lời Tiên tri Giêrêmia giúp chúng ta suy tư một chút về vấn đề mục vụ và phục vụ cộng đoàn dân Chúa. Nếu không được sai đi, không ai tự mình lãnh nhận trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên của Chúa. Thời Cựu Ước, Môisen đã dành ra một chi tộc Lêvi để phục vụ trong việc cầu nguyện, dâng hương, giảng dạy lề luật, hiến thánh và chúc lành (x. Ds 1,47-50). Tiếp theo là các vị tư tế được chọn lựa trong dân để phục vụ. Sứ mệnh phục vụ dân Chúa là việc tốt lành thánh thiện cần được huấn luyện trau dồi và được sai đi. Thời xưa, các vua chúa nắm quyền hành và hướng dẫn dân chúng cả việc đạo lẫn việc đời. Các vua Chúa như vua Saulê, Đavid, Solômon và những vua kế vị như vua Josiah, Jehoiakim và Zedekiah có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tình thần của đoàn dân. Hầu hết các vua Chúa đã bị lung lạc, sống buông thả và đưa dân chúng vào ngõ cụt thờ bụt thần của ngoại bang.
Tuần qua, chúng ta nói về Bài Sai gởi các nhân chứng ra đi vào cánh đồng truyền giáo. Giáo Hội đã quan tâm rất nhiều về sự huấn luyện các nhân chứng tin mừng cả về trí, đức và dục. Mỗi một tu sĩ nam nữ hay tân linh mục đã được thừa hưởng gia sản giáo dục rất phong phú. Để trở thành một linh mục, ít nhất các ứng viên cũng phải trải qua nhiều năm tháng tu luyện và học hỏi ở trường lớp. Về mặt tri thức, qua chương trình trung học phổ thông, các ứng sinh phải có bằng cử nhân Triết học, hoặc nếu có cử nhân về các môn học khác, thì cần các tín chỉ 2 năm về Triết học. Phải trải qua 4 năm thần học với bằng cử nhân Thần học và Cao học (MDiv. hoặc MA) cộng với các kinh nghiệm từng trải trong thời gian giúp xứ và mục vụ thử luyện tại các giáo xứ, trường học hay bệnh viện… Các linh mục dòng còn cần thời gian dài hơn trong sự huấn luyện cả về tu đức lẫn học hỏi chuyên môn. Điều quan trọng hơn hết là các ứng sinh linh mục cần có thời gian sống và kết hợp tương quan mật thiết với Chúa Giêsu linh mục. Tất cả các việc mục vụ và phục vụ của các linh mục và tu sĩ đều quy về Chúa Giêsu Kitô.
Mỗi linh mục nhận Bài Sai về các cộng đoàn, giáo xứ hoặc sinh hoạt trong các ban ngành chuyên môn, họ khả dĩ có đủ khả năng để phục vụ. Nói chung, linh mục nào cũng có sự hiểu biết căn bản về Giáo Hội và các môn thần học, nhưng mỗi vị có những cá tính khác nhau. Căn cốt của sự hiểu biết như nhau, nhưng mỗi người có những khả năng chuyên môn và cách hành xử khác nhau. Mỗi linh mục phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa và bề trên về công việc mục vụ và phục vụ của mình. Mỗi linh mục và tu sĩ đều có địa chỉ được sai đến, có cộng đoàn để phục vụ và trách nhiệm phải chu toàn.
Lý tưởng thì rất cao trọng và ý hướng phục vụ rất tốt lành. Trong thực tế cuộc sống, các mục tử không tránh khỏi những sự yếu đuối, sai lầm và trì trệ. Là con người, đôi khi cũng bị rơi vào những tham, sân, si hoặc lười biếng trễ nải. Các linh mục cũng có khi sa vào những cạm bẫy nghiện ngập như bài bạc, rượu chè, truỵ lạc và tham lam của cải thế gian. Rồi nữa, mục tử cũng không tránh khỏi những đua đòi, gây ảnh hưởng, tìm chỗ đứng và bon chen chợ đời làm suy yếu đời sống đạo. Tuy nhiên, chúng ta phải công nhận rằng có nhiều linh mục sống đức độ, thánh thiện và phục vụ quên mình cho đoàn chiên. Có những linh mục cũng vì nhiệt tâm cho nhà Chúa, nhưng không đáp ứng thoả mãn những đòi hỏi của giáo dân nên gây ra nhiều hệ luỵ. Có khi vì linh mục muốn chu toàn lẽ đạo theo lề luật của Giáo Hội mà bị coi là khó khăn, cố chấp và độc tài. Có khi vì đi theo chính dòng truyền thống của Giáo Hội, cũng có thể bị giáo dân chê bai là lỗi thời và chậm tiêu. Bởi thế, trong lòng Giáo Hội, nơi các cộng đoàn và giáo xứ luôn xảy ra những lủng củng, chia rẽ và bất cập. Trong mọi trường hợp, chúng ta đừng vội xét đoán và kết án, kẻo bé cái lầm.
Thường thì mục tử nào cũng có ý ngay lành muốn đàn chiên của mình được đoàn kết, yêu thương và gắn bó nhưng thực tế cuộc sống có nhiều phức tạp khó lường. Những thị phi và hoạ phước của con người có thể gây những phiền hà trong đời sống cộng đoàn. Chúng ta biết rằng nếp sống chung luôn là một sự thách đố. Người ta thường nói “trăm người trăm ý”. Ý kiến của ai cũng hay và cũng có lý, nhưng có thể không luôn thích hợp. Chính những sự khác biệt và mâu thuẫn này đã tạo nên những hố sâu ngăn cách và tị hiềm lẫn nhau. Các mục tử cần có sự khôn ngoan với lòng bao dung và biết lắng nghe để giúp khai thông những bế tắc. Các mục tử cần sự thinh lặng cầu nguyện và tìm sự hướng dẫn qua lời chỉ dạy của Chúa và Giáo Hội. Chúng ta hãy học theo gương của Thánh Phaolô Tông đồ sống khiêm hạ và phó thác. Thánh Phaolô đã tự khoe mình: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi” (2 Cr 12,9). Linh mục như những bình sành dễ bể, chúng ta phải cậy dựa vào tình thương và ân sủng của Chúa để thắng vượt các cơn cám dỗ.
Điều quan trọng hơn hết là Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy lui về nghỉ ngơi một chút. Chúa Giêsu bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31). Mỗi mục tử hãy dùng thời gian để kiểm điểm và suy xét lại đời sống dâng hiến của chính mình. Ý thức trong mọi suy tư, lời nói, hành động, trách nhiệm và bổn phận của mình. Biết rằng Chúa không đòi chúng ta phải nên giống người này hay người nọ, nhưng hãy chu toàn sứ mệnh được trao ban. Đây là một thách đố trường kỳ đòi hỏi nhiều sự kiên nhẫn và khiêm hạ. Thời gian nghỉ ngơi dưỡng sức để phục hồi năng lực rất quan trọng. Nghỉ ngơi để xả bớt những gánh nặng lo âu và căng thẳng. Chúng ta thường tò mò tìm hiểu những thế giới bên ngoài, sao không dùng đôi phút để tìm hiểu con người bên trong của mình. Tìm nơi thanh vắng nghỉ ngơi sẽ làm tâm hồn chúng ta được thư giãn để kết hợp với Chúa trong nguyện cầu.
Linh mục dù phải chạy đua với công việc thường ngày nhưng luôn nhớ gắn kết với Chúa Giêsu trong đời sống cầu nguyện. Chúng ta không thể đáp ứng thoả mãn các nhu cầu cuộc sống trong mọi trường hợp. Chúng ta phải biết tự giới hạn và chọn lựa thích đáng. Đôi khi phải biết nói ‘không’ khi những đòi hỏi không cần thiết. Người ta thường nói cả nể cho nên sự dở dang là thế. Người mục tử của ngày hôm nay đòi hỏi phải hy sinh phó thác và từ bỏ nhiều hơn. Linh mục luôn học sự cảm thông và nhẹ nhàng chia sẻ. Thông thoáng mà không quá dễ dãi. Nguyên tắc mà không khắc nghiệt.
Lạy Chúa Giêsu là Linh Mục Thượng Phẩm. Chúa là chủ chiên tốt lành đã dám hy sinh mạng sống vì đàn chiên, xin cho chúng con trở nên những mục tử biết hy sinh cuộc sống riêng để phục vụ tha nhân trong Chúa. Lạy Chúa, xin nhậm lời chúng con.
20. Nghỉ ngơi đôi chút
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Sau hơn một tháng trời vâng lời Chúa ra đi truyền giáo, các môn đệ trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn đệ và nhận thấy các ông có vẻ thấm mệt, nên Chúa bảo: "Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút". Một lời khuyên thật ý nghĩa và cần thiết.
Chúng ta phải công nhận Chúa Giêsu rất hiểu tâm lý con người. Bởi vì làm việc nhiều rồi thì dĩ nhiên mệt mỏi, nên cần phải nghỉ ngơi đôi chút để lấy lại nghị lực, rồi mới có thể tiếp tục làm việc được. Đó là điều dễ hiểu thôi. Anh chị em hãy nghĩ xem: có khi nào người ta bắt con ngựa chạy suốt ngày đêm, hết ngày đêm này qua ngày đêm khác không? Làm vậy người chủ sẽ được lợi lộc nhiều, nhưng chắc chắn không được lâu dài vì con ngựa sẽ chết yểu. Con ngựa mạnh hơn con người nhiều, nhưng chúng ta cao quý hơn con ngựa nhiều. Vậy tại sao chúng ta cho nó thì giờ nghỉ ngơi sau một thời gian hoạt động để nó thảnh thơi ung dung gặm cỏ, mà chúng ta lại bắt chính mình vất vả, bù đầu mãi trong công việc? Tại sao chúng ta quý trọng sức khỏe của con ngựa mà quên sức khỏe của mình?
Làm bất cứ công việc gì cũng vậy mà không biết nghỉ ngơi thì kết quả cũng kém và không tốt đẹp. Chúng ta hay quên chúng ta có thể xác, nó là một bộ máy rất tinh vi, rất mỏng manh, chỉ được sử dụng theo một chừng mực nào đó thôi. Còn tinh thần, tự bản chất, không biết mệt, nhưng vì làm việc tùy thuộc vào thể xác, nên cũng mệt với thể xác. Nếu chúng ta bắt thần kinh chúng ta lúc nào cũng căng thẳng như giây đàn, thì nếu chúng ta không chết yểu, chắc làm việc cũng không đắc lực bao nhiêu.
Vì thế, nghỉ ngơi sau khi làm việc mệt nhọc là điều quan trọng và cần thiết. Nghỉ ngơi có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúng ta ai cũng kinh nghiệm điều này: mỗi khi đi đâu xa về hoặc sau khi làm việc mệt nhọc, chúng ta muốn nghỉ ngơi một chút cho thoải mái, chứ chưa cần ăn uống. Hơn nữa, nghỉ ngơi còn được coi là liều thuốc bổ tự nhiên không tốn tiền, nên người ta còn khuyên phải biết nghỉ ngơi trước khi mệt mỏi nữa.
Chúng ta cần nghỉ ngơi, nghỉ ngơi vậy thôi, và cả nghỉ ngơi trong Chúa nữa. Anh chị em thử nghĩ xem: có phải cuộc đời chúng ta và hầu hết thời giờ của chúng ta bị công việc làm ăn, nghề nghiệp hoặc những công việc linh tinh, không tên tuổi chiếm hết không? Ban ngày làm việc, tối về lại nghĩ đến việc làm: mở mắt ra đã làm, đã bắt đầu rộn rã với mọi thứ việc. Chúng ta ngày nay khác hẳn với các cụ cha ông chúng ta ngày xưa: ngoài những công việc cấp bách ra, các cụ không còn thấy việc gì bắt buộc phải lưu tâm tới vấn đề thời gian. Các cụ làm việc tuy vất vả, nhưng vẫn thong dong thoải mái. Cứ ngày ngày, thấy mặt trời ló dạng là đi làm. Chiều tối thì ngồi lại với nhau uống trà, thưởng trăng, nói chuyện phiếm.
Chúng ta bây giờ thì khác hẳn. Nhịp sống được đo đắn cẩn thận bằng cái mà chúng ta gọi là đồng hồ. Ai cũng đeo ở tay một chiếc đồng hồ, lâu lâu lại nhìn vào, lo lắng, sốt ruột. Khi ở sở làm thì sốt ruột trông cho mau được về. Về nhà thì sốt ruột đi làm việc này việc khác. Người ta có cảm tưởng cuộc sống là một chiếc đèn cù, lửa đốt lên là bắt đầu chạy, chạy tưng bừng, rộn ràng, vội vã và chạy vòng tròn, nghĩa là ngày nào cũng thế, cũng những việc ấy, cũng những vất vả ấy, cũng mệt nhọc ấy...Có khi chúng ta làm việc đến quên mình và có thể quên cả Chúa luôn.
Vì thế có người nói rằng: khuyết điểm lớn nhất của thời đại văn minh tiến bộ ngày nay, cách riêng ở thành phố, là không biết nghệ thuật nghỉ. Người ta luôn luôn đứng núi này trông núi nọ. Làm việc này chưa xong đã thèm làm việc khác. Chúng ta chỉ sống về tương lai mà không biết sống cho hiện tại. Tâm hồn chúng ta bị xâu xé, dằn vặt, kích thích bởi muôn thứ nhu cầu. Cho nên, thời nay chúng ta thấy có nhiều người mắc những chứng bệnh: mất ngủ, nhức đầu, đau tim, đau thần kinh, nhiều người bị huyết áp cao, và hình như có nhiều người mát, tưng tửng, dở dở, ương ương, khùng khùng nữa...
Tóm lại, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy bảo chúng ta: không những chúng ta phải hăng say làm việc, làm việc hết mình, nhưng cũng phải biết dành thời giờ để nghỉ ngơi nữa. Như thế, chúng ta sẽ được khỏe mạnh hơn, phấn khởi hơn, yêu đời hơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhớ rằng: đã đành làm việc rồi cũng phải có lúc nghỉ. Nhưng giờ nghỉ đi sau giờ làm việc chứ không đi sau sự lười biếng. Chỉ có những người đã làm việc mới cần nghỉ. Ai không làm mà nghỉ là người lười.
Vì vậy, "Hãy nghỉ ngơi đôi chút" như Chúa Giêsu nói, không phải là một việc hao phí thời giờ. Trái lại, đó là một lối bồi dưỡng tinh thần: nghỉ ngơi để cho thể xác và tinh thần được thư giản, khỏe mạnh, tỉnh táo, sáng suốt hơn. Cho nên, người biết nghỉ là người có triết lý vừa sâu xa vừa thực tế, hiểu rõ chân giá trị của cuộc sống và ý nghĩa thâm thúy của đời người.
21. Hãy nghỉ ngơi
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Mục tử và đàn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái, vốn là dân du mục. Trong Cựu Ước, các ngôn sứ thường dùng hình ảnh này để diễn tả mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Chẳng hạn trong bài đọc thứ nhất hôm nay, ngôn sứ Giê-rê-mi-a cho thấy Thiên Chúa hết lòng yêu thương chăm sóc dân, Ngài lên án những hành vi ngang trái của những mục tử xấu và hứa đặt những mục tử tốt lành khác để lãnh đạo dân. Hơn nữa, Chúa còn hứa ban cho dân một vị mục tử xuất thân từ dòng dõi Đa-vít để lãnh đạo dân Ngài trong công bình chính trực, đem lại cảnh thái bình thịnh vượng. Rồi Chúa Giêsu đến, các sách Tin Mừng cho biết: Ngài chính là vị mục tử tốt lành mà các ngôn sứ đã loan báo. Như thế, lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết một chút tâm tình của vị mục tử ấy, là Chúa Giêsu, qua lời Chúa nói với các môn đệ: “Anh em hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Lý do Chúa Giêsu bảo các môn đệ như vậy là bởi vì sau khi các ông vâng lệnh Chúa, từng hai người một, ra đi rao giảng khắp nơi, hôm nay, các ông trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết những việc đã làm và những lời đã giảng dạy. Có lẽ lúc đó các môn đệ đã mệt mỏi, thêm vào đó, Tin Mừng cho biết các ông không còn thời giờ ăn uống, vì có rất nhiều người đến xin các ông dạy dỗ và chữa bệnh. Thấy thế, Chúa bảo các ông tạm lánh đi để khỏi bị quấy rầy và tĩnh nghỉ một chút. Chúng ta thấy Chúa quan tâm đến các môn đệ và cảm thông với những vất vả của các ông, nhưng Chúa quan tâm đến con người hơn là công việc, Ngài muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với thầy và với nhau. Tức là Chúa khuyên các môn đệ cần phải có thời gian yên tĩnh nghỉ ngơi và được bồi dưỡng để có thể duy trì hoạt động được lâu bền, bởi vì nghỉ ngơi cũng là để phục vụ hữu hiệu và lâu dài hơn, cũng như muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi lấy sức, thì muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, càng phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.
Qua đó Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta biết: dù phải bon chen, đầu tắt mặt tối lo cho đời sống, dù phải ngược xuôi vất vả trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta cũng phải biết dành thời giờ để hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ. Vì có hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ chúng ta mới thấm thía ý nghĩa cuộc đời, mới đối diện với chính mình và liên lạc trực tiếp với Thiên Chúa. Sự hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ như thế thật quan trọng, cần thiết và ích lợi.
Một văn sĩ Ấn Độ, tên là Mu-ke-di, một hôm hỏi thầy giáo cũ của mình, là một tu sĩ dòng Bê-na-rét: “Thưa thầy, thời gian còn ở Mỹ châu, con có quen biết một người tên là Uyn-sân. Ông ấy ôm ấp một lý tưởng và đã viết ra thành 14 khoản, rồi ra sức phổ biến lý tưởng ấy, nhưng vô hiệu, không mang lại kết quả gì, xin thầy chỉ giáo cho con biết tại sao ông ta thất bại?”. Vị tu sĩ hỏi: “Con người 14 khoản ấy có biết yên lặng và suy nghĩ mỗi năm một khoản không? Ông ta có kiểm điểm thường xuyên để rút ưu khuyết điểm đem lại cho mỗi khoản một nguồn sống không?”. Mu-ke-di thưa: “Thưa thầy, con không tin như vậy”. Tức thì mặt vị tu sĩ xuất thần, sáng lên và nói lớn: “Thảo nào, thảo nào, thất bại là ở đó”.
Ông Uyn-li-am Phin-lơ, môt doanh nhân thành đạt, lúc đầu sống rất chật vật và nghèo khổ, sau làm nghề viết báo, rồi mở nhà in, lợi nhuận hằng năm thu vào rất nhiều. Ông viết một quyển sách kể về những kinh nghiệm của đời ông. Ngay trang đầu tiên có những dòng chữ sau: “Có bao giờ các bạn đã thử sống một mình trong căn phòng, không đọc sách báo, không nghe ra-đi-ô hay ca nhạc, không xem ti-vi, không làm gì hết, một mình với những ý tưởng để suy nghĩ. Các bạn cứ thử xem, một chiều im lặng, mình với mình thôi, sẽ giúp cho các bạn biết mình, biết người, và chắc chắn các bạn sẽ thành công”.
Quả thực, có người đã nói: “Tất cả những cái chúng ta làm ra là kết quả của tư tưởng”. Đúng thế, từ cái bút máy, đồng hồ, máy may, ra-đi-ô, ti-vi, máy tính, xe đạp, ô tô, phản lực, hỏa tiễn, phi thuyền… đều do đầu óc mà ra, có nghĩa là do suy nghĩ. Niu-tân, một nhà bác học thời danh, rất thông minh và có tài đặc biệt, một lần có người hỏi ông: “Bằng cách nào ông đã phát minh được nhiều cái mới lạ như vậy?”. Ông trả lời: “Bằng cách luôn luôn suy nghĩ”. Nhờ suy nghĩ, do một thùng nước sôi làm bật vung, người ta đã chế tạo ra máy hơi nước. Nhờ suy nghĩ, từ những màng nhện giăng ở trong vườn, người ta đã phát minh ra cách làm cầu treo. Nhờ suy nghĩ, do chiếc đèn chầu đưa qua đưa lại mỗi khi bị va chạm, người ta đã tìm ra được luật đồng hồ. Nhờ suy nghĩ, Âu-tinh dứt bỏ được cuộc đời tội lỗi bê tha để trở nên một vị đại thánh thời danh. Nhờ suy nghĩ câu “Lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn ích gì” mà Phan-xi-cô Xa-vi-ê đã đổi hướng cuộc đời, từ danh vọng thế trần sang con đường đạo đức, quên mình đi truyền giáo. Chính Chúa Giêsu cũng sống âm thầm suy nghĩ suốt 30 năm trước khi công khai đi rao giảng. Rồi trong những năm giảng dạy, cho dù bận rộn với biết bao công việc, Chúa vẫn thường tìm nơi thanh vắng để hầu chuyện với Chúa Cha.
Chúng ta cũng vậy, trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới thấm thía ý nghĩa của đời người: phải làm ăn, tranh đấu, lam lũ với nghề nghiệp, lo miếng cơm manh áo cho mình và gia đình. Thật là nhiêu khê đến mệt óc, mỏi tim. Lo lắng, bon chen, vất vả, nhưng cuối cùng sẽ được gì? sẽ đi về đâu? vì sống là gửi, thác là về. Trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới biết tại sao vẫn chưa mến Chúa tận tình, vẫn chưa yêu người như Chúa truyền, vẫn chưa hiền lành, nhịn nhục, chịu khó, thông cảm và tha thứ? Trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới thấy linh hồn là quý, linh hồn ấy đòi làm lành lánh dữ, cần sống đời Ki-tô cho nghiêm chỉnh, và mới biết mình đang làm lợi hay hại cho linh hồn.
Tóm lại, qua lời Chúa khuyên bảo các tông đồ, Chúa cho chúng ta biết sự quan trọng, cần thiết và ích lợi phải hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ để tìm lại chính mình, hoặc để nghỉ ngơi. Đây không phải là chuyện vô ích, nhưng là chuyện thuộc về nhu cầu sống còn của chúng ta, nhờ đó tâm hồn chúng ta sẽ thanh thản hơn, thân xác chúng ta sẽ khỏe mạnh hơn, và chắc chắn đời sống chúng ta sẽ thoải mái và tốt đẹp hơn.
22. Lời khuyên thiết thực
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tiếp nối trang Tin Mừng tuần trước.
Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Nay các học trò trở về. Anh em vui mừng kể cho Thầy nghe kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn sinh và Chúa khuyên nhủ: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên rất thiết thực.
Chúa Giêsu rất thương các môn đệ. Làm việc nhiều nên cần phải nghỉ ngơi lấy lại sức lực để tiếp tục làm việc. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm của các Tông đồ. Trong thinh lặng, mỗi người cầu nguyện, trau dồi nội tâm.
1. Thinh lặng là một cõi riêng tư
Một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lắng là một cõi riêng tư thật cần thiết cho con người. Thân xác nghỉ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt, tâm hồn bình an.
Giữa những ồn ào của đám đông
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó
trầm lắng và bình an.
Lm Nhạc sĩ Thái Nguyên suy tư những lời thơ sâu lắng ấy và đã dệt ca khúc: “Một cõi riêng tư”.
Một cõi riêng tư, trong lòng con xin dành cho Chúa.
Một cõi riêng tư, trong lòng con Chúa thương ngự trị.
Chúa là điểm hẹn nơi con phát xuất ra đi dấn thân, cho cuộc đời nhân trần.
Chúa là đỉnh cao nơi con trở lại,để sống trong ân tình, niềm vui phút an bình.
Một cõi riêng tư với Chúa, chan chứa một niềm vui sâu lắng trong nội tâm, niềm vui gặp gỡ Chúa.
2. Chúa Giêsu mẫu gương thinh lặng
Chúa Giêsu khuyên các môn sinh hãy sống theo gương của Người. Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện và kết thúc trong tĩnh lặng riêng tư với Cha.Sáng sớm tinh mơ, Người dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Sau đó bận rộn với biết bao công việc: rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Chúa Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Người chọn những nơi hiện diện: "Một ngọn núi cao riêng biệt" (Mc 9,2); những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1); những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31); đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27)…
Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong cuộc sống thường ngày.
Các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Các môn đệ trở về, Chúa khuyên nên nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Làm việc và cầu nguyện, sống "nội tâm" và hoạt động "bên ngoài", đó là nhịp sống mỗi ngày của người môn đệ Chúa Giêsu.
3. Thinh lặng để sống nội tâm
Đời sống tâm linh phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Chúa chính là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Nhờ cầu nguyện, con người mới phát triển quân bình.
Làm việc và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình và góp phần xây dựng xã hội.Đời sống cầu nguyện hỗ trợ cho hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chạy theo chức quyền. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.
Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga, Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm.
Vào mùa hè, người ta thường tạm nghĩ công việc, rời nếp sống đô thị náo nhiệt tìm đến nghĩ ngơi nơi vùng quê, miền biển, miền núi.Nô đùa cùng sóng biển cát vàng, hít thở khí trời dịu mát của cao nguyên lộng gió hay hoà vào khung cảnh thanh bình êm ả của đồng quê bát ngát lúa chín vàng… Bầu khí yên tĩnh, thời gian trầm lắng là điều rất cần thiết cho con người. Thân xác nghĩ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt. Từ đó, nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm, rút ưu khuyết, định hướng cho cuộc sống sắp tới.
Trong lãnh vực tông đồ, thinh lặng cầu nguyện thật cần thiết. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.
Làm việc phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Điều kiện tiên quyết để thành công chính là sự thinh lặng. Từ thinh lặng ta mới có thể nuôi dưỡng những suy tư của mình một cách lâu dài được. Bầu khí thinh lặng giúp ta hồi tâm xét mình thực thi sám hối cách đúng mức. Bầu khí thinh lặng còn giúp cho người khác sống tinh thần cầu nguyện.
Người Kitô hữu yêu quý những giây phút thinh lặng trong tâm hồn, yên tĩnh ngọt ngào bên Chúa. Người Kitô hữu tìm thấy sự thinh lặng thánh ấy trong nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện và ngay trong tâm hồn mình. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm luôn mang lại sức sống thiêng liêng cho mỗi người.
Mẹ Têrêxa Calcutta thích thinh thặng và đã dâng lời cầu nguyện tha thiết.
Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng,xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài,trò chuyện,lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân, biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi,để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người,tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim, để tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn, ghen ghét, để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.
23. Thiên Chúa chăm sóc đoàn chiên Ngài
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Người ta thường gọi các kitô hữu là những "con chiên" của Chúa. Nói như thế nghĩa là gì? Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta biết được làm con chiên của Chúa thì sẽ hạnh phúc như thế nào. Xin Chúa cho chúng ta hiểu được hạnh phúc của chúng ta và luôn vui sống dưới sự chăm sóc của Chúa là mục tử chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta ít nghĩ đến tình thương của Chúa đối với chúng ta.
Chúng ta chưa gắn bó với các tín hữu khác là những người sống trong cùng một đoàn chiên Chúa với chúng ta.
Chúng ta không vâng nghe các mục tử mà Chúa đã đặt lên để hướng dẫn chúng ta.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Gr 23,1-6)
Trích đoạn này gồm 2 phần:
Trong phần đầu, Thiên Chúa trách "các mục tử Israel". Đó là các vua và các tư tế. Lẽ ra họ phải chăm sóc chu đáo cho đoàn chiên của Ngài là dân Do thái. Nhưng trái lại họ phân tán và xua đuổi chúng.
Trong phần sau, Thiên Chúa nói Ngài sẽ lấy đoàn chiên ấy lại và đích thân chăm sóc: quy tụ những con chiên tản lạc, dẫn chiên đến đồng cỏ, che chở chúng khỏi mọi nguy hiểm. Thiên Chúa còn hứa sẽ cho từ nhà Đavít nổi lên một mục tử đích thực. Đây là lời hứa ban Đấng Messia.
2. Đáp ca (Tv 22)
Tv này rất quen thuộc với chúng ta. Đây là bài ca tụng Thiên Chúa như một mục tử nhân lành, lo cho đoàn chiên có cỏ non, nước ngọt và bóng mát. Lại che chở chiên khỏi sói dữ và quân trộm cướp. Tác giả Tv bày tỏ niềm tin tuyệt đối rằng được sống dưới sự chăn dắt của Thiên Chúa thì sẽ không thiếu chi và không còn phải sợ gì nữa.
3. Tin Mừng (Mc 6,30-34)
Trong bài Tin Mừng tuần trước, Đức Giêsu đã sai 12 tông đồ đi rao giảng Tin Mừng. Trong bài này, các ông trở về hân hoan báo cáo những thành công của mình.
Đức Giêsu rất nhân bản, Ngài bảo các ông tìm một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi. Thầy trò xuống thuyền chèo đến một nơi yên tĩnh.
Nhưng vừa ra khỏi thuyền, Đức Giêsu lại thấy dân chúng kéo đến đông đảo. Ngài chạnh lòng thương họ, thấy họ như một đoàn chiên bơ vơ không người chăn. Thế là Ngài bỏ nghỉ ngơi, tiếp tục dạy dỗ họ.
4. Bài đọc II (Êp 2,13-18)
Thánh Phaolô trình bày cho những tân tòng ở Êphêxô hiểu về hai ơn trọng mà Chúa đã ban cho họ: ơn hòa giải và ơn quy tụ.
Ơn hòa giải: trước đây có một bức tường ngăn cách người Do Thái với người ngoại. Nhưng Đức Kitô đã phá đổ bức tường ấy để tử nay Do Thái và dân ngoại hòa giải với nhau.
Quy tụ: trước đây dân ngoại như những con chiên tản mác khắp nơi. Nhưng Đức Giêsu Kitô đã quy tụ họ lại trong cùng một đoàn chiên với dân do thái. Từ nay mọi người đều hiệp nhất trong Ngài.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Con tim mục tử
Hình ảnh Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này thật dịu dàng và rất đáng kính mến, vì Ngài có một trái tim rất nhạy cảm trước những nhu cầu của người khác:
- Các môn đệ trở về sau chuyến đi thực tập truyền giáo. Các ông vui mừng vì những thành công, hăng hái kể chuyện cho Ngài nghe, quên hết những mệt nhọc. Nhưng con tim mục tử của Đức Giêsu biết họ cần được nghỉ ngơi. Ngài dịu dàng bảo họ "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi đôi chút".
- Khi đã đến chỗ có thể nghỉ ngơi, Đức Giêsu thấy dân chúng kéo đến với mình. Con tim mục tử lại xúc động, vì họ như đoàn chiên không người chăn dắt. Ngài liền hy sinh sự nghỉ ngơi để tiếp tục giảng dạy họ.
Từ đoạn Tin Mừng này, chúng ta rút ra được hai điều:
- Thứ nhất: chúng ta hãy vui sướng vì được làm một con chiên đang sống dưới sự chăm sóc của một Vị mục Tử giàu tình thương như thế. Ngài biết chúng ta cần gì trước khi chúng ta cảm thấy điều cần đó, và Ngài lo liệu đầy đủ cho chúng ta.
- Thứ hai: chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng tại sao có một con tim giống như Ngài, một con tim biết xúc động và biết mở rộng trước nhu cầu của người khác, vì quả thực rất nhiều khi con tim của chúng ta đã chai lì, băng giá và khép kín.
2. "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ..."
Số người mắc bệnh thần kinh ngày nay càng ngày càng nhiều. Và một trong những lý do đưa đến bệnh đó là nếp sống càng ngày càng ồn ào xô bồ. Ngoài đường thì tiếng xe, tiếng máy, tiếng người ồn ào suốt ngày; trong nhà thì các thứ tiếng nói, tiếng hát, tiếng nhạc từ các máy radiô, tivi, cassette; rồi còn những tiếng khác từ các rạp hát, các loa phóng thanh v.v. Ở giữa bao nhiêu là tiếng động ồ ào đó, con người ngày nay như bị quay cuồng, bị li tâm, bị trống rỗng, thần kinh thì căng thẳng, và nội tâm thì nghèo nàn.
Để thoát ra khỏi bầu khí ồn ào cẳng thẳng đó hầu tìm lại phần nào yên tỉnh, trầm lặng, nội tâm... người ta đã tìm đến với Yoga, với Thiền, với những phương pháp dưỡng sinh... Những hình thức này càng ngày càng lôi kéo được nhiều người tham gia. (Đó cũng là một phản ứng tất nhiên để đánh quân bình lại với những hoạt động quá náo nhiệt ồn ào đã nói ở đầu). Ở những nước công nghiệp phát triển, vào mùa hè, người ta tạm nghỉ việc, rời bỏ nếp sống đô thị náo nhiệt và tìm đến nghỉ ngơi ở vùng yên tĩnh hơn như miền quê miền biển, miền núi... Và ngay ở Liên hợp quốc cũng có một căn phòng đặc biệt, phòng này không trang trí gì cả, rất trống trải nhưng rất yên tĩnh, dành cho các nhà ngoại giao, các nhà chính trị nếu cần tìm một chút bầu khí trầm tĩnh thì đến đấy trong một thời gian nào đó... Tất cả những cố gắng và những sáng kiến vừa kể trên cũng là một phản ứng tất nhiên của con người để quân bình lại với cuộc sống đã quá ồn ào như đã nói ở trên.
Như thế, chúng ta thấy được rằng một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lặng là điều rất cần thiết cho con người. Nó cần thiết vừa để cho thân xác nghỉ ngơi, vừa để cho tinh thần con người thư giãn, vừa để cho trí óc con người sáng suốt nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm và rút ưu khuyết điểm để định hướng cho cuộc sống trong giai đoạn tới. Sau khi các tông đồ đi hoạt động truyền giáo một thời gian trở về, Đức Giêsu đã bảo các ông chèo thuyền qua phía bên kia hồ, yên tỉnh hơn để tỉnh dưỡng xác hồn "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ..."
Lời khuyên này của Chúa ngày nay vẫn được những người tu hành, các Giám mục, linh mục, Tu sĩ, đặc biệt coi trọng. Hằng năm, hàng tháng các vị đó vẫn có những cuộc tĩnh tâm, có khi kéo dài một tháng, có khi một tuần, có khi một ngày, hay ít ra cũng một buổi. Trong thời gian đó, họ sẽ kiểm điểm đời sống, cầu nguyện, định hướng cho hoạt động sắp tới...
Còn đối với giáo dân, cuộc sống chạy đua với miếng cơm manh áo khiến chúng ta không có nhiều thời giờ rãnh rỗi để làm những cuộc tĩnh tâm như vậy. Tuy nhiên chúng ta đừng quên rằng yên tĩnh là một nhu cầu cần thiết cho cuộc sống, cuộc sống càng ồn ào chừng nào thì nhu cầu yên tĩnh càng cần thiết chứng ấy. Cho nên dù bận rộn, thỉnh thoảng chúng ta cũng hãy cố gắng đi tìm một chút yên tĩnh cho tâm hồn mình. Nhưng có nhiều thứ yên tĩnh:
- Không phải thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài. Có những người vì quá quen với ồn ào nên khi phải ở một nơi im lặng thì chịu không nổi, muốn phát điên lên. Chúng ta không đi tìm thứ yên tĩnh đó.
- Chúng ta cũng không đi tìm thứ yên tĩnh trống rỗng, nghĩa là bên ngoài đã hoang vắng mà trong tâm hồn cũng hoang sơ, cằn cỗi.
- Thứ yên tĩnh mà chúng ta cần đi tìm là thứ yên tĩnh tràn đầy hương vị ngọt ngào... Yên tĩnh bên ngoài để cho bên trong tâm hồn có được những ý hướng cao thượng, những nhận định sáng suốt, những sức mạnh an ủi khích lệ... Có một nhạc sĩ đã viết lên những câu nhạc như thế này: "Ta hãy làm thinh chớ nói nhiều, để nghe dưới đáy nước hồ reo, để nghe tơ liễu rung trong giá, và để xem trời giải nghĩa yêu..." Đó là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú, là chính thứ yên tĩnh ta cần đi tìm.
Nhưng tìm ở đâu bây giờ? Thưa thứ yên tĩnh đó ta có thể tìm thấy trong bầu khí trầm mặc ở nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện, và ngay trong chính tâm hồn mình. Nghe nói đến đây chắc chắn nhiều bạn trẻ thấy ngán! Đúng thế, chắc hẳn có nhiều lần chúng ta cũng đã đến nhà thờ, cũng đã cầu nguyện... nhưng thấy nó buồn tẻ làm sao, chỉ muốn ngủ gục thôi. Tại vì chúng ta như bị bó buộc phải đi vào cảnh yên tỉnh đó một cách miễn cưỡng, cho nên chúng ta chỉ gặp được cái thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài, hay chỉ gặp thứ yên tĩnh trống rỗng như đã phân loại ở trên. Muốn tìm thấy yên tĩnh đích thực, nghĩa là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú thì chúng ta phải tự nguyện tìm yên tĩnh và để trọn tâm hồn của mình lắng đọng trong cõi yên tĩnh đó.
Augustinô sau một thời gian tuổi trẻ chạy theo danh vọng, tiền tài, khoái lạc đã bắt đầu thấy chán chường. Một hôm chàng cầm theo một quyển sách vào ngồi trầm tư trong khu vườn vắng vẻ. Đột nhiên, chàng nghe vang lên một tiếng trẻ con "Hãy cầm lấy mà đọc". Augustinô ngó xuống thì thấy tay mình đang cầm quyển Thánh Kinh. Chàng mở ra và đọc, đọc được câu "Anh em đừng chạy theo xác thịt nữa nhưng hãy sống theo Thánh Thần Chúa". Câu nói ấy của Thánh Phaolô trong thư Ngài gửi cho giáo dân Rôma đã là khởi đầu cho một cuộc sống mới của Thánh Augustinô. Tất cả khởi đầu từ một giây phút yên tĩnh của tâm hồn.
Tóm lại, điều chúng ta cần ghi nhớ trong bài Tin mừng hôm nay là Lời Chúa khuyên: "Chúng con hãy lui vào nơi vắng vẻ..." Để thực hiện Lời Chúa, thỉnh thoảng chúng ta hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng lại, hãy tạm quên đi bỏ đi những ồn ào bên ngoài để đi sâu vào tâm hồn mình, thỉnh thoảng chúng ta hãy cầu nguyện thật sự, thỉnh thoảng chúng ta hãy vào nhà thờ với ước muốn thật sự tìm gặp ở đấy sự yên tĩnh cho tâm hồn.
Và cầu mong chúng ta sẽ gặp được điều mà chúng ta tìm kiếm.
3. Sức quyến rũ của Lời Chúa
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại một giai đoạn thành công của việc rao giảng Lời Chúa: dân chúng đã quá ngán trước những lời giảng dạy của các tư tế và luật sĩ quá khô khan và nặng nề hình thức, lễ nghi, luật lệ - nay gặp thấy giáo huấn của Đức Giêsu vừa đơn sơ dễ hiểu, vừa gần gũi thực tế, vừa chan chứa tình yêu thương nên họ say sưa đón nhận.
Đến nỗi một mình Đức Giêsu rao giảng không đủ, Chúa phải sai các tông đồ chia nhau đi các thành phố làng mạc để rao giảng. Các ông đi giảng ở đâu cũng gặt hái được những thành công. Vì thế các ông làm việc mà không thấy mệt, nói đúng hơn cũng có mệt nhưng không muốn nghỉ ngơi, thành công gặt hái được khiến các ông hăng hái muốn tiếp tục làm nữa. Đức Giêsu phải dùng quyền mà bắt các ông phải nghỉ ngơi đôi chút.
Nhưng muốn nghỉ mà cũng không được yên để nghỉ, vì dân chúng cứ tấp nập tuôn đến, các tông đồ không có cả thời giờ để ăn uống. Đức Giêsu mới nghĩ ra một cách giải quyết là bảo các tông đồ xuống thuyền chèo đến một nơi thanh vắng. Nhưng dân chúng đã đoán được chỗ đó, cho nên họ chạy bộ dọc theo bờ sông và đến nơi trước các ngài.
Nhìn thấy đám đông khao khát nghe Lời Chúa như thế, Đức Giêsu chạnh lòng thương. Ngài ví họ như một đoàn chiên đang đói khát không người chăn dẫn. Và vì thương họ nên Đức Giêsu hy sinh không nghỉ ngơi nữa, đích thân Ngài tiếp tục giảng cho họ nghe.
Thật là một cảnh tượng đáng mơ ước: người giảng thì hăng hái, mệt mà không muốn nghỉ; còn người nghe thì say sưa nghe mãi mà không chán. Nghĩa là cả người giảng lẫn kẻ nghe đều hăng hái say sưa. Do đâu mà mọi người đều say sưa hăng hái như vậy? do sức quyến rũ của Lời Chúa.
Khi người ta khám phá được một điều gì rất hay, rất hữu ích thì người ta hăng hái muốn nói lại cho người khác nghe biết. Thí dụ như nhà bác học Archimède: ông đang thắc mắc tìm hiểu tại sao những vật thể có tỉ trọng nặng hơn nước mà lại nổi trên mặt nước. Một ngày kia, ông đang nằm tắm trong bồn nước thì ông cảm thấy như có một sức đẩy dưới nước làm cho thân thể ông nổi lên, nghĩa là trong nước có một sức đẩy. Thế là ông đã tìm ra được lý do. Mừng quá, ông la lên "Eureka" (nghĩa là: "Tôi đã khám phá ra rồi") và chạy vội ra ngoài để kể cho người khác nghe, mặc dù ông quên chưa mặc quần áo, ông còn trần truồng! Đó là tâm lý của người khám phá. Còn về phần người nghe, thì khi thấy được một nội dung hấp dẫn, người ta cũng say sưa tìm nghe mãi. Một giáo viên đã kể lại cái thời còn là học sinh: "Anh em lớp chúng tôi rất mê một ông thầy dạy văn, và đặc biệt mê những bài thơ mới. Mỗi lần ông thầy đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ mới là chúng tôi say sưa chép, những bài thơ của Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận v.v... tụi học trò chúng tôi mê làm sao ấy. Nhưng mà ông thầy này cũng hà tiện, chỉ khi nào chúng tôi thuộc bài giỏi, giữ trật tự tốt thì ổng mới thưởng cho một bài, và mỗi lần như vậy là chúng tôi lại say mê chép."
Lời Chúa cũng có sức quyến rũ như vậy. Chiara Lubich là một người sống bình thường như mọi người. Đến thế chiến thứ II, nước Ý bị lôi cuốn vào vòng chiến. Hằng ngày bom đạn cứ trút xuống các thành phố, nhà cửa tài sản tan hoang, sinh mạng con người bị đe doạ từng giây từng phút. Trong những hầm tránh bom, Bà Chiara Lubich này cảm thấy chẳng còn có thể nương dựa vào bất cứ cái gì ở trần gian, nên bà chỉ đặt trọn niềm hy vọng vào quyển sách Tin Mừng mà bà mang theo. Nào ngờ những lời trong Tin Mừng đã khiến bà tìm thấy được lẽ sống. Và khi khám phá rồi, bà hăng hái kể lại khám phá ấy cho nhiều người khác nghe. Họ thành lập những nhóm chia sẻ Tin mừng với nhau. Những nhóm ấy càng ngày càng sinh thêm những nhóm khác, làm thành cả một phong trào, gọi là phong trào Focolare (nghĩa là Tổ ấm). Họ hăng hái thực hiện Tin mừng. Bà Chiara Lubich có để lại một câu nói đã trở thành danh ngôn: "Chúng ta hãy sống Tin mừng như thế nào để cho dù mọi quyển sách Tin mừng có bị đốt hết, người ta vẫn có thể nhìn vào đời sống của chúng ta mà viết lại trọn vẹn Tin mừng, từng câu, từng chữ".
Có những người chỉ cần khám phá một câu Tin mừng thôi là thấy được hấp dẫn cả một cuộc đời. Chẳng hạn như Thánh Phanxicô Thành Assisiô, câu "Phúc cho những người nghèo" đã khiến ông bỏ hết gia tài cha mẹ để dấn thân vào một cuộc sống nghèo nàn, nghèo nhưng vô cùng hạnh phúc; Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu thì vạch ra đường lối tu đức riêng của mình từ câu "Nước Trời thuộc về những trẻ nhỏ"; Cha Charles de Foucauld đã lập ra một Dòng chuyên sống lao động, vì cha rất say mê cuộc đời lao động của Đức Giêsu ở Nagiarét...
Lời Chúa quý giá như một viên ngọc. Nhưng ít ai biết quý chuộng Lời Chúa. Đọc Tin Mừng thì lười biếng, đi lễ nghe giảng thì ngủ gục, lo ra hay bỏ ra ngoài nhà thờ. Tại vì đó là một viên ngọc được chôn dấu dưới đất, ít ai khám phá ra. Nhưng người nào mà khám phá ra thì sẽ say mê, đến nỗi có thể bán hết mọi của cải tài sản để có được viên ngọc quý ấy.
Bởi vậy, bổn phận của các linh mục là phải trình bày Lời Chúa như thế nào để giáo dân thấy được giá trị hấp dẫn Lời Chúa. Còn bổn phận của giáo dân là phải biết chăm chú lắng nghe để chính mình cũng khám phá ra được giá trị tuyệt vời của Lời Chúa. Và bổn phận của tất cả mọi tín hữu, linh mục cũng như giáo dân, là phải trân trọng Lời Chúa: không phải chỉ đọc phớt qua, nghe phớt qua, mà phải chăm chú, tìm hiểu, cầu nguyện và cố gắng thực hành.
Xét về một khía cạnh nào đó, thì Lời Chúa còn quan trọng hơn cả các Bí tích nữa. Thí dụ như những người ở vào một hoàn cảnh không thể đến nhà thờ để dự lễ, xưng tội và chịu các bí tích được. Chẳng hạn như những người bệnh nặng, hay dời nhà về một vùng không có linh mục không có nhà thờ, những thanh niên đi nghĩa vụ quân sự, những bà con ở vùng kinh tế mới v.v. Nếu chúng ta chỉ biết có các Bí tích thì trong những hoàn cảnh ấy, chúng ta sẽ không còn cái gì gọi là sống đạo nữa. Nhưng nếu biết đọc Lời Chúa và sống Lời Chúa, thì chỉ cần một quyển Tin Mừng thôi, hay chỉ một quyển lịch công giáo thôi, chúng ta vẫn có thể tiếp tục có lương thực nuôi dưỡng linh hồn mình, có lẽ sống hướng dẫn cuộc đời mình.
Ở cuối đoạn Tin Mừng hôm nay; thánh Marcô ghi nhận rằng: Đức Giêsu nhìn thấy dân chúng thì chạnh lòng thương, vì họ như đoàn chiên không người chăn dẫn. Giáo dân là những con chiên của Chúa. Trong số đó có nhiều giáo dân phải sống ở những nơi không có linh mục, họ đúng là đoàn chiên không người chăn dẫn. Nhưng giáo dân ở các họ đạo có linh mục thì có khi cũng phải đói khát về lương thực tinh thần vì họ chỉ biết có đọc kinh và giữ các lễ nghi hình thức bề ngoài. Chúa thương hết mọi con chiên, Chúa thương cả đoàn chiên, nên Chúa đã cho đoàn chiên một nguồn lương thực hết sức quý giá, đó là Lời Chúa, chứa đựng trong Tin Mừng. Ước gì chúng ta khám phá được giá trị hấp dẫn của Lời Chúa, dù chỉ là một Lời, một câu trong Tin Mừng thôi, để cuộc đời chúng ta từ đó được biến đổi, có ý nghĩa, có giá trị.
4. Bị quấy rầy
Một người kia đến thăm người bạn của mình làm giáo sư tại một trường đại học lớn. Trong lúc hai người đang trò chuyện với nhau trong văn phòng của vị giáo sư thì những sinh viên thường tới gõ cửa để xin ý kiến về vấn đề này vấn đề nọ. Mỗi lần như thế thì câu chuyện bị gián đoạn vì vị giáo sư phải rời chỗ ngồi đi ra trả lời cho sinh viên. Cuối cùng người bạn hỏi: "Làm sao anh có thể làm việc được nếu công việc cứ bị gián đoạn mãi như thế?" Vị giáo sư đáp: "Ban đầu tôi cũng rất bực bội. Nhưng về sau, tôi chợt ý thức rằng công việc chính của tôi chính là những lúc bị gián đoạn như thế".
Vị giáo sư có thể đóng cửa, không tiếp ai hết, để miệt mài với công việc. Làm thế thì ông có thể được yên tĩnh. Nhưng vì là một con người quảng đại hay giúp đỡ, ông không thể làm thế. Thay vào đó ông coi việc tiếp xúc và giúp đỡ sinh viên là việc chính của mình. Bởi đó, không lạ gì ông được sinh viên quý mến, và ông là người hạnh phúc nhất và hoàn thành trách nhiệm giáo sư tốt nhất trong trường Đại học.
Vị tha vừa dễ mà cũng vừa khó. Dễ là khi việc phục vụ người khác là do ta tự ý chọn, nhờ đó ta chẳng những không cảm thấy bực bội mà còn thoải mái. Còn khó là khi ta phục vụ mà miễn cưỡng, thành ra bực bội và khó chịu.
Một hành vi được xét là tốt không do tầm quan trọng của nó, mà do tấm lòng của người làm hành vi đó: sẵn sàng chấp nhận nếp sống bị xáo trộn để giúp đỡ người khác, sẵn sàng tạm gác qua một bên những dự định của mình để phục vụ người khác.
Như ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu rất bận rộn với biết bao công việc, đến nỗi không có giờ để ăn uống. Ngài vừa định cùng các môn đệ đi tới một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi thì dân chúng lại kéo đến. Thấy vậy, "Ngài chạnh lòng thương và bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều".
Mặc dù biết phục vụ người khác là tốt, nhưng nhiều người chỉ muốn phục vụ một chút thôi, miễn là việc phục vụ đó đừng quá quấy rầy, đừng xáo trộn nếp sống quen thuộc của họ. Nhưng như thế không phải là phục vụ. Đức Giêsu đã phục vụ khi sẵn sàng cho người khác quấy rầy, làm xáo trộn chương trình của Ngài. Cha mẹ chúng ta cũng thế: biết bao lần các ngài đang ngủ giữa đêm phải thức dậy để chăm sóc con cái?
5. Lắng đọng và bình an
Một thanh niên lực lưỡng xin đốn cây để phụ giúp gia đình. Thấy anh vạm vỡ, chủ liền trao cho anh một chiếc rìu, dẫn anh vào rừng và bảo:
- Anh thử đốn cây này cho tôi xem.
Vì đã từng lao động, nên anh đốn rất nhanh. Ông chủ nhận anh vào làm việc, đưa ra mức lương và cho nơi cư ngụ.
Dù mệt nhọc nhưng anh cảm thấy rất vui, vì nghĩ rằng cuối tuần sẽ có một số tiền kha khá đem về gia đình. Thứ Hai, Thứ Ba, rồi Thứ Tư vùn vụt trôi qua. Đến ngày Thứ Năm, chủ gọi anh vào cám ơn và trao cho anh tiền công cả một tuần.
Anh vui sướng cầm những tờ giấy bạc thấm đẫm mồ hôi, đôi mắt rạng ngời niềm vui. Bỗng chợt nhận ra có điều gì bất thường, anh thắc mắc hỏi chủ:
- Tôi xin cám ơn chủ đã trả lương cho tôi suốt tuần. Nhưng sao không để đến thứ bảy mà lại trả lương vào hôm nay.
- Đáng tiếc là tôi không thể mướn anh được nữa, vì theo sổ sách thì anh đốn được nhiều cây nhất vào ngày thứ Hai, nhưng qua ngày thứ Ba cây đã giảm xuống, và ngày thứ Tư anh là người đốn được ít cây nhất trong các công nhân ở đây.
- Nhưng thưa ông chủ, tôi đã làm hết sức mình. Tôi đi làm sớm về trễ. Tôi chỉ nghỉ để ăn trưa có nửa tiếng thay vì một tiếng. Tôi làm việc không ngừng. Tôi làm việc cả giờ giải lao. Vậy ông chủ còn muốn gì nữa?
- Những gì anh vừa nói không sai chút nào, tôi hoan nghênh sự nhiệt tình của anh. Nhưng tôi chỉ xin hỏi anh một câu: anh có mài rìu không?
****
"Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút" (Mc. 6,31). Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả, các tông đồ phấn khởi thuật lại cho Đức Giêsu nghe những thành quả vàng son của mình. Nhưng Người lại quan tâm đến con người hơn công việc. Người muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với Thầy và với nhau.
Lắm khi chúng ta quên mất "mài rìu", vì cho rằng khối lượng công việc chồng chất, vì thời buổi kinh tế cạnh tranh, nên không dễ tìm được một chút tĩnh lặng: để thẩm định lại những biến cố, và soát lại công việc đã làm và lắng nghe được tiếng Chúa mời gọi.
Nếu muốn đốn nhiều cây càng phải năng "mài rìu" cho sắc.
Nếu muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi, lấy sức.
Nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, càng phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.
Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washigton Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời: "Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi sớm mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình của Người xếp đặt cho tôi".
P.Doncocur đã quả quyết: "Không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong tĩnh lặng để hồi tâm và cầu nguyện". Vâng, trong cuộc hành trình về quê Trời, người ta không thể đi hết con đường vừa dài vừa dốc, nếu không dừng lại nghỉ ngơi, lấy sức và định hướng.
****
Lạy Đức Giêsu, Chúa đã "lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện". Xin cho chúng con cũng biết gác bỏ những sôi nổi của thành công, những ê chề của thất bại, để một mình tĩnh lặng bên Chúa; lắng đọng và bình an.
Xin cho chúng con biết dừng lại, lắng nghe và kín múc nơi Chúa nguồn sức mạnh, để chúng con lại tiếp tục lên đường. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu muốn có những giây phút nghỉ ngơi với các tông đồ, nhưng thấy dân chúng bơ vơ như đàn chiên không người chăn. Người lo chăn dắt họ, Người thật là mục tử nhân hậu điển hình. Chúng ta hãy cầu nguyện:
1. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các vị chủ chăn trong Hội thánh biết tìm thời giờ để nghỉ ngơi và bồi dưỡng / để rồi lại hăng say chăn dắt đàn chiên tốt đẹp hơn.
2. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các nhà cầm quyền biết từ bỏ thói quan liêu tham nhũng và tư lợi / để tận tâm phục vụ công ích và hạnh phúc của người dân.
3. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người bơ vơ không nhà cửa, không việc làm, bị xã hội bỏ rơi / được có người biết quan tâm giúp đỡ.
4. Chúng ta hãy cầu nguyện cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng ta / năng cầu nguyện và tận tâm giúp đỡ các vị chủ chăn trong Hội thánh.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu là vị chủ chăn điển hình, xin sai đến với chúng con những vị chủ chăn xứng đáng với Chúa, và xin cho chúng con trở thành đoàn chiên ngoan ngoãn của Chúa, Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Trong tinh thần hiệp nhất của đoàn chiên quanh chủ chiên nhân lành là Đức Giêsu, chúng ta hãy sốt sắng cùng Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh chính Đức Giêsu đã dạy.
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Đức Giêsu Kitô, Chúa đã nói với các tông đồ rằng … Xin đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an và hiệp nhất như ý Chúa muốn. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời".
VII. Giải tán
Thánh lễ đã xong. Anh chị em hãy ra về và sống an bình, đừng lo lắng gì cả, vì có Chúa là mục tử luôn chăm sóc mỗi người chúng ta. Chúc anh chị em được bình an.
24. Chân dung vị lãnh đạo – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Các nhà lãnh đạo Trung Đông đang bù đầu tìm một giải pháp hòa bình cho miền Đất Hứa. Trên miền đất đầy xáo trộn đó, Con Thiên Chúa đã đến thực hiện giấc mộng hòa giải và bình an cho muôn dân. Người nổi bật như một lãnh tụ thật sự. Niềm mong đợi của muôn dân đã không uổng. Nhìn đến từng đoàn người tấp nập tuốn đến, Đức Giêsu đã làm tất cả những gì để mở ra một hướng sống cho con người.
MỘT HƯỚNG SỐNG
Thánh Marcô viết: “Đức Giêsu bắt đầu dậy dỗ dân chúng nhiều điều” (Mc 6:34). Không biết Người đã dậy dỗ những gì? Nhưng chắc chắn Người phải dậy dỗ điều Người đang quan tâm và dân chúng đang mong đợi. Điều Người đang quan tâm là “họ như bầy chiên không người chăn dắt.” (Mc 6:34) Còn ai xứng đáng là người chăn chiên như Người? Chính Người đã tự xưng: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành.” (Ga 10: 11,14) Người Mục Tử chân thật phải vạch được một hướng sống cho đám đông đáng thương đó.
Hướng sống, đó là nội dung những lời dạy dỗ hôm đó. Lời dậy dỗ đó không thể thành hình từ những ồn ào của cuộc sống. Cũng không thể phát xuất từ một tâm hồn giá băng. Nhưng trong thinh lặng và với một tâm hồn vô cùng nhậy cảm trước những nhu cầu lớn lao của quần chúng, Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về Thiên Chúa và con người. Trong sâu thẳm tâm hồn, Người đã nhìn thấy nhu cầu sâu xa và lớn lao nhất của kiếp người. Không phải cơm áo. Cũng chẳng phải an sinh xã hội. Nhưng chính là TÌNH YÊU. Vì “THIÊN CHÚA là TÌNH YÊU.” (1 Ga 4:8) Tình yêu sẽ là câu trả lời cuối cùng cho mọi nhu cầu con người. Tình yêu đưa con người về nguồn sống là Thiên Chúa. Tình yêu cũng là máu huyết nuôi dưỡng và gắn bó Ba Ngôi trong một mầu nhiệm duy nhất. Tình yêu quyết định thân phận con người và nhân loại. Không một thực tại nào vừa đẹp vừa mạnh bằng tình yêu. Mạc khải về tình yêu không bao giờ cùng. Tình yêu tóm tắt tất cả chương trình tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa. Có thể nói tất cả những điều Đức Giêsu dạy dỗ dân chúng hôm đó xoay quanh đề tài tình yêu.
Quả thật, “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã hiến ban Con Một.”(Ga 3: 16) Nhờ tình yêu Thiên Chúa, thế gian đã tìm được con đường, sự thật và sự sống là Đức Giêsu Kitô. Con đường ấy sẽ dẫn về Thiên Chúa và anh em. Sự thật ấy sẽ giải thoát khỏi mọi nô lệ, gông cùm của tội lỗi. Sự sống ấy chan hòa niềm vui và vô cùng sung mãn hồng ân Thiên Chúa. Tất cả đều là những nét tuyệt vời của một thủ lãnh siêu việt, đúng như lời Chúa phán: “Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng.” (Gr 23:4) Như vậy Chúa Giêsu đến đúng lúc để thực hiện lời tiên báo.
Người mục tử thực sự phải có một trái tim nồng nàn và cái nhìn xuyên suốt. “Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương.” (Mc 6:34) Trái tim Người không thể nghỉ yên bao lâu đám đông còn chìm trong cảnh thương tâm vì lầm lạc, nô lệ, tội lỗi. Người biết rõ tất cả chỉ vì thiếu một khuôn mặt lãnh đạo, nghĩa là không có ai đủ khả năng vạch ra một đường hướng mới cho dân tộc và nhân loại. Người biết rất rõ nhu cầu đám đông, nên Người càng muốn hi sinh tất cả cho quần chúng. Chính Người đã nói: “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hi sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10:14-15) Từ khi Chúa Giêsu xuất hiện, bầy chiên thực sự đã có người chăn dắt, không còn lo lạc đàn và bị lâm nguy vì sói dữ nữa. Tất cả nhờ sự hi sinh lớn lao của người chủ chiên là Đức Giêsu.
Muốn trở thành chủ chiên như Đức Giêsu, các Tông đồ cũng phải có một tâm hồn và cái nhìn như Đức Giêsu. Nhưng nếu thực sự muốn thế, các ông phải biết lánh xa quần chúng. Thật là diệu kỳ. Người lãnh đạo ở một vị trí vừa gần vừa xa quần chúng mới đạt được mục đích lớn lao. Quá lánh xa không thể hiểu quần chúng. Quá gần không thể thấy được vấn đề vì những ồn ào đám đông. Bởi thế, trong khi các ông hí hửng báo cáo “cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy”, thì “Người bảo các ông: ‘Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút’.” (Mc 6:30-31) Các ông hiểu ý nên “Thày trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng.” (Mc 6:32) Thầy trò đều muốn có những giây phút thoải mái nghỉ ngơi và bồi dưỡng trước khi tiếp tục công tác. Chắc chắn trong nơi hoang vắng đó, Thày trò có thể cầu nguyện dễ dàng. Các Tông đồ cũng có thể đón nghe những mạc khải mới. Nhờ đó tâm hồn và trí óc có thể sáng suốt hơn, phục vụ đắc lực hơn.
KHUÔN MẶT DỄ THƯƠNG
Nhưng đám đông vẫn không tha. “Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước các ngài.” (Mc 6:33) Đó là một hình ảnh sống động nói lên sự đói khát tinh thần của quần chúng. Họ mơ ước một vị Thiên Sai đến lãnh đạo dân tộc. Họ bị thu hút mãnh liệt vì khuôn mặt quá sức hấp dẫn của Đức Giêsu, bất kể những nhu cầu nghỉ ngơi của Thày trò. Hai hình ảnh trái ngược nhau. Dân chúng càng ồn ào náo nức bao nhiêu, Thày trò càng muốn tìm đến nơi hoang vắng bấy nhiêu.
Nhưng dân chúng đã tràn ngập cả nơi hoang vắng, phá vỡ sự yên tĩnh cần thiết của người lãnh đạo. Làm thế là phá hỏng cả chương trình của Thày trò. Nhưng Đức Giêsu lại thấy tất cả nét dễ thương trong thái độ quần chúng. Đó chỉ là một cách diễn tả lòng ái mộ tột độ. Với một cái nhìn bao dung và đi sâu vào lòng người, Đức Giêsu đủ khả năng “liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người đã hi sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét. Như vậy, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người.” (Ep 2:15) Đây là nét nổi bật nhất của vị lãnh đạo. Lãnh đạo chỉ là khả năng qui tụ con người. Mất sức qui tụ, lãnh đạo sẽ hoàn toàn thất bại.
Không những có đủ khả năng lãnh đạo một cách tuyệt vời, Đức Giêsu còn chứng tỏ khả năng đó một cách anh hùng khi đổ máu thực hiện việc hòa giải con người với nhau và với Thiên Chúa. Thực vậy, “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an,” (Ep 2:16-17) vì “chính Người là bình an của chúng ta.” (Ep 2:14) Như vậy, quyền lãnh đạo đã đạt tới cao điểm là cuộc hòa giải và sự bình an cho muôn dân. Còn ai xứng đáng lãnh đạo muôn dân hơn Đức Giêsu?
Cuộc hòa giải và sự bình an đó không dựa trên kiến thức hay năng lực vật chất. Nếu không có sự khôn ngoan, kiến thức chỉ làm cho con người thêm rối loạn và kiêu ngạo. Không thời đại nào con người giầu kiến thức nhưng cũng có quá nhiều bế tắc như hôm nay. Chỉ có một nguồn khai thông duy nhất cho mọi bế tắc, đó là “nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.” (Ep 2:18) Khi đã thông hiệp với Chúa Cha, con người có thể vượt qua những trở ngại dễ dàng, vì Chúa Cha là nguồn mạch mọi khôn ngoan. Như thế, quyền lãnh đạo của Đức Giêsu được củng cố trên một sức mạnh lớn lao là Thần Khí và đưa muôn dân về một cứu cánh duy nhất là Chúa Cha. Quyền lãnh đạo đã đạt tới một chiều kích vừa tự nhiên vừa siêu nhiên. Chúa có thấy được chiều kích lớn lao đó trên khuôn mặt những nhà lãnh đạo chúng ta không?
25. Vị mục tử.
Hẳn chúng ta đã biết một người nổi tiếng trong cuộc đấu tranh cho nhân quyền vào khoảng thập niên 50, đó là mục sư Martin Luther King. Ông là nhà lãnh đạo hàng đầu được cả triệu dân Mỹ Châu da đen ủng hộ. Họ coi ông như một vị anh hùng. Mà quả thật, nếu không có ông, thì họ sẽ bơ vơ như đàn chiên không ai chăn dắt.
Một đêm nọ vào lúc một giờ sáng, ông bị đánh thức bởi tiếng chuông điện thoại. Khi ông cầm máy lắng nghe, thì một giọng nói giận dữ vang lên: Này anh chàng da đen, hãy nghe đây, chúng tôi không cần đến anh. Anh đừng bén mảng đến phần đất của chúng tôi nữa. Nghe giọng nói đầy đe dọa này, ông đã thực sự hoảng sợ, và với chút can đảm còn sót lại, ông đã gục đầu kêu xin Chúa: Lạy Chúa, con đang đảm nhận một sứ vụ rất chính đáng, thế nhưng giờ đây, con vô cùng sợ hãi. Con không biết phải làm thế nào nữa. Một mình con không thể đương đầu nổi với trách nhiệm nặng nề này.
Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta cũng cảm thấy sợ hãi trước trách nhiệm đã lãnh nhận. Chúng ta dường như không thể vác nổi gánh nặng đè xuống trên chúng ta. Có nhiều lúc chúng ta cảm thấy như muốn kêu lên giống Chúa Giêsu trong vườn Cây dầu: Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén đắng này xa con. Noi gương Chúa Giêsu cũng như noi gương mục sư Martin Luther King, trong những lúc gặp khó khăn, trong những khi thất vọng nản chí, chúng ta hãy chạy đến với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện. Chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta.
Phúc âm kể lại, sau khi Đức Kitô cầu nguyện cùng Chúa Cha trong vườn Cây dầu, thì một thiên thần từ trời hiện đến an ủi và nâng đỡ Ngài. Còn mục sư Luther King cũng vậy, sau khi cầu khẩn cùng Chúa trong cái đêm đáng ghi nhớ ấy, ông đã ghi nhận được sự nâng đỡ của Chúa mà trước đó, ông chưa hề thấy.
Tóm lại, mỗi khi chúng ta cảm thấy gánh nặng của bổn phận, của trách nhiệm đè xuống trên mình, chúng ta hãy biết cầu nguyện, hãy biết tìm về với Chúa, và Ngài sẽ ban cho chúng ta nguồn sức mạnh, nâng đỡ chúng ta trên vạn nẻo đường đời, như lời Thánh vịnh đã viết: Chúa là mục tử, tôi chẳng còn thiếu thốn chi, Ngài dẫn tôi qua đường ngay nẻo chính. Dù bước đi trong thung lũng tối tăm, tôi chẳng hề lo sợ. Dù bị đè bẹp dưới muôn vàn gánh nặng, tôi cũng không nao núng.
Hay như lời Chúa đã kêu gọi: Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta và Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Bởi vì, có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành, còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
26. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
NHỊP SỐNG KITÔ HỮU
Trời có lúc mưa lúc nắng. Mưa để tưới cho cây lúa mọc nhanh. Nắng để cho hạt lúa vào mẩy chín vàng. Thời gian có ngày có đêm. Ngày để con người làm việc. Đêm để con người nghỉ ngơi phục hồi sức lực. Con người có đời sống riêng tư những cũng có đời sống xã hội. Có lúc phải ra ngoài góp mặt với đời. Có lúc phải rút lui vào chốn riêng tư để sống cho mình. Nhịp hai chi phối đời sống con người ấy cũng chi phối những hoạt động thiêng liêng của người môn đệ Chúa. Trong bài Tin Mừng Chủ nhật tuần trước, ta đã thấy Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Hôm nay, khi các ông về tường trình lại những việc đã làm. Người bảo các ông tìm chỗ vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Sống riêng tư thân mật với Chúa. Hoạt động và cầu nguyện, đó là nhịp sống của người môn đệ Chúa.
Hoạt động và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Vì con người có thể xác nhưng cũng có linh hồn. Vì đời sống trong xã hội, con người có bổn phận đối với làng xóm, với đất nước. Để thăng tiến bản thân, gia đình và đất nước, ta phải học hành, lao động hết sức vất vả. Đó là nhiệm vụ bắt buộc. Một người có tinh thần trách nhiệm không thể nào xao lãng những nhiệm vụ đó. Tuy nhiên sẽ là thiếu sót rất lớn nếu con người chỉ biết có đời sống thể xác mà quên đi đời sống tâm linh. Thật vậy, con người không chỉ có thể xác mà còn có linh hồn. Đời sống tâm linh cũng cần phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Sẽ là khập khiễng, lệch lạc, què quặt nếu chỉ lo phát triển đời sống vật lý mà quên đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh được nuôi dưỡng bồi bổ ở bên Chúa. Chính Chúa là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Vì thế những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giờ phút cầu nguyện mà con người được phát triển quân bình, song song cả hồn lẫn xác.
Hơn thế nữa việc cầu nguyện sẽ hỗ trợ hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chức quyền. Một xã hội chỉ phát triển về vật chất mà không phát triển về đạo đức sẽ khó tồn tại. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời, ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa lỗi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.
Riêng trong lãnh vực tông đồ, cầu nguyện tuyệt đối cần thiết. Thật vậy, việc tông đồ bắt nguồn từ nơi Chúa. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Làm việc của Chúa mà không kết hiệp mật thiết với Chúa thì không những không thể có kết quả tốt đẹp mà còn có nguy cơ đi sai đường, làm hỏng công việc của Chúa. Không cầu nguyện ta sẽ dễ chú ý tới những hoạt động thuần tuý phô trương bề ngoài. Không cầu nguyện ta sẽ dễ biến việc của Chúa thành của riêng ta và vì thế sinh ra tự phụ, kiêu hãnh. Không cầu nguyện, việc tông đồ sẽ chỉ là một hoạt động xã hội từ thiện không hơn không kém. Vì thế, cầu nguyện rất cần thiết. Cần cầu nguyện đế biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cần cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cần cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Thiên Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.
Hoạt động và cầu nguyện. Đó là hai nhịp trong đời sống Kitô hữu. Nhưng có lẽ ta thường chú trọng tới hoạt động mà quên cầu nguyện. Hôm nay, Chúa dạy ta phải biết giữ quân bình giữa hai nhịp của đời sống. Có hoạt động nhưng cũng phải có cầu nguyện. Hoạt động phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Cầu nguyện để tổng kết lượng giá những hoạt động cũ và định hướng những hoạt động mới. Hoạt động là bề mặt. Cầu nguyện là bề sâu. Giữ được quân bình giữa hai nhịp sống, con người mới phát triển toàn diện. Duy trì sự ổn định của hai nhịp sống mọi hoạt động của con người mới có nền tảng và bền vững.
Giữa những ồn ào của đám đông
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu
Giữa những đam mê quay cuồng
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó
trầm lắng và bình an.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Một ngày kết thúc mà bạn chưa cầu nguyện, bạn có cảm thấy như thế là thiếu sót như thể bạn chưa ăn gì trong ngày hôm ấy không?
2- Trước khi đi làm việc tông đồ, bạn có cầu nguyện không?
3- Hai nhịp trong đời sống bạn đã hài hoà chưa? Bạn sẽ làm gì để chỉnh đốn lại những lệch lạc trong nhịp sống?
4- Gia đình bạn có cầu nguyện chúng với nhau trước khi đi ngủ không?
27. Mẫu gương mục tử
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CMC)
Danh từ Mục Tử và Đoàn Chiên là những danh từ rất thông dụng trong Thánh Kinh, Chúa thường dùng để chỉ các vị lãnh đạo trong Dân Riêng của Chúa. Chính Chúa Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa, đến sống trên trần gian, rao giảng Tin Mừng, thực thi sứ mạng cứu thế, Chúa cũng tự ví mình như một Mục Tử nhân lành: "Ta là Mục Tử nhân lành, Ta đến để chiên Ta được sống và được sống sung túc. Mục Tử nhân lành hy hiến mạng sống mình vì Đoàn Chiên".
I. SỰ QUAN THIẾT PHẢI CÓ CHỦ CHĂN
Bài sách tiên tri Isaia hôm nay nói lên sự cần thiết phải có các vị lãnh đạo để quản trị và hướng dẫn Dân Chúa, như những vị Mục Tử để dẫn dắt Đoàn Chiên của Thiên Chúa theo đúng như thánh ý Ngài.
Như Chúa đã phán: "Khốn cho các Mục Tử làm tản mát và xâu xé Đoàn Chiên Ta". Chúa than phiền và chúc đữ cho những Mục Tử không tận tâm chăm nom, săn sóc và hướng dẫn Đoàn Chiên Chúa, Chúa sẽ xét xử những hành động gian ác của họ, vì họ đã không chu toàn nhiệm vụ được Chúa trao phó; trái lại, còn tác hại và làm chia rẽ Đoàn Chiên.
Vì thế, Chúa đã hứa: "Ta sẽ cho chúng những vị Chủ Chăn khác để chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn sợ hãi và kinh hoàng, chúng sẽ không phải thiếu thốn". Hơn nữa, Chúa còn quả quyết: "Này đây, đã tới ngày Ta cho Đavít một mầm mống công chính, Ngài sẽ làm Vua thống trị, là Đấng Khôn Ngoan thực hiện công lý và đức công bình trên đất nước"..."Người sẽ được gọi là Chúa Công Chính của chúng ta" (xem Jer 23:1-6).
II. CHÚA KITÔ, MỤC TỬ NHÂN LÀNH
Bài Tin Mừng thuật lại, sau khi nghe các Tông Đồ thuật lại việc thi hành sứ vụ Tông Đồ của các ngài, Chúa đã truyền cho các ông rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi lấy lại sức một chút; rồi sau đó, đoàn lũ đông đảo dân chúng lại tuốn đến nghe Lời Chúa, Thánh Marcô viết: "Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ phải bơ vơ như Đoàn Chiên không người chăn dắt, và Người dạy dỗ họ nhiều điều" (xem Mc 6:30-34).
Chúa Kitô đến trần gian để cứu chuộc chúng ta và Người đã tự đặt mình như mẫu gương cho các nhà lãnh đạo, các vị Chủ Chăn noi theo bắt chước. Chính Người đã phán: "Ta là Mục Tử Nhân Lành; Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta. Cũng như Chúa Cha biết Ta, và Ta biết Chúa Cha. Ta lại hiến mạng sống Ta vì Đoàn Chiên Ta" (Jn 10:11-15).
Chúa còn phán: "Kẻ chăn chiên hiền lành hiến mạng sống mình vì con chiên; trái lại, kẻ chăn thuê, khi thấy muông sói đến, bỏ đoàn chiên mà trốn chạy, muông sói bắt chiên và đoàn chiên phải tán loạn" (xem Jn 10:11-12).
Chúa còn căn dặn: "Như các con thấy: Thủ Lãnh trần gian lấy quyền thế cai trị dân; phần các con thì đừng làm như vậy, ai trong các con làm thủ lãnh thì hãy trở nên tôi tớ mọi người, cũng như chính Thầy, không đến để được hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người" (Mc 10:42-45).
III. NHIỆM VỤ CỦA CHÚNG TA
Như chúng ta đã thấy, ngày nay nhiều nơi trong Giáo Hội thiếu Chủ Chăn, Đoàn Chiên Chúa thiếu người lãnh đạo. Ngay nước Việt Nam chúng ta hiện nay, tại Bắc Việt rất thiếu Linh Mục, có những Giáo Phận chỉ có một Đức Giám Mục và một Cha Xứ... tại các Giáo Phận Miền Nam cũng rất thiếu, công việc mục vụ của các Đức Giám Mục và Linh Mục rất vất vả, một Linh Mục coi 2, 3 xứ ... Có nhiều Linh Mục, nhưng vì là cựu tuyên úy quân đội, sau khi được ra khỏi tù lại không được thi hành chức vụ.
Thế rồi, đau khổ cho Giáo Hội hơn nữa, nhiều nơi trên thế giới rất thiếu ơn gọi, thiếu người tình nguyện hiến thân làm vườn nho Chúa; lại còn cái nạn tệ hơn nữa có những vị Chủ Chăn lại phá hoại Đoàn Chiên, bằng những lời giáo huấn sai lạc cấp tiến, làm gương xấu cho Đoàn Chiên bằng một cuộc sống không mấy tốt đẹp.
Chúng ta có nhiệm vụ cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều ơn gọi, và gây thêm mầm mống ơn gọi nơi con cái trong gia đình chúng ta, để Giáo Hội có nhiều người hiến thân cho Chúa làm việc tông đồ, trong ơn gọi Linh Mục và Tu Sĩ để xây dựng Giáo Hội Chúa.
Chúng ta có nhiệm vụ cầu nguyện cho các vị Chủ Chăn biết khôn ngoan hướng dẫn Đoàn Chiên theo thánh ý Chúa, nhất là xin cho các ngài được sống đời thánh thiện, biết hy sinh cho Đoàn Chiên, theo gương mẫu đời sống thánh thiện của Chúa Kitô, vị Chủ Chăn Nhân Lành đã hy hiến mạng sống vì Đoàn Chiên.
Chúng ta cũng hãy nghĩ đến bổn phận của chúng ta là những bậc phụ huynh, là những vị Chủ Chăn trong đoàn chiên nhỏ là gia đình chúng ta, chúng ta hãy cố trở nên gương mẫu cho con cái chúng ta noi theo bắt chước. Đó là việc tông đồ, là lời cầu nguyện, là việc xây dựng, là việc cổ động, là việc củng cố và làm phát triển ơn gọi tông đồ tốt đẹp nhất.
Truyện Thánh Gioan Maria Vianney, một tấm gương phản chiếu trung thực mẫu gương Chúa Kitô, vị Chủ Chăn nhân lành. Khi còn theo học trong chủng viện với 200 Chủng Sinh, Gioan Vianney tuy lớn, nhưng điểm bao giờ cũng rốt bét. Nhiều lần anh em bạn Chủng Sinh khuyên Gioan nên rút lui khỏi chủng viện, vì không hy vọng theo kịp các lớp học để tiến tới chức Linh Mục được... Sau khi được "vớt" để lãnh chức Linh Mục, Bề Trên cử ngài đi coi một Giáo Xứ hẻo lánh là Xứ Ars. Một Linh Mục quen thân khuyên Ngài: "Cha ạ, tôi tưởng một người ít hiểu giáo lý như Cha, không nên ngồi tòa giải tội"... Thế mà rồi Giáo Xứ Ars đã được biến đổi, trở nên một Giáo Xứ đạo đức. Danh tiếng Cha Gioan Vianney đã lan rộng, ngài đã phải ngồi tòa 16 đến 18 giờ mỗi ngày. Dân chúng khắp nước Pháp và nhiều nơi trên thế giới tuốn đến nghe các giờ giáo lý ngài dạy, bàn hỏi việc tâm hồn và xưng tội với Ngài. Các công ty hỏa xa đã phải mở nhiều trục giao thông cho khách hành hương. Nhiều khách sạn được thiết lập để cung ứng cho mọi người. Sự kiện này đã khiến nhiều Linh Mục trong các Giáo Xứ lân cận không mấy bằng lòng, nên đã đồng lòng đệ đơn kiện lên Đức Giám Mục, xin ngài cứu xét việc này, vịn lý do một Linh Mục học thức kém cỏi như Cha Gioan Vianney, mà sao dám lôi kéo người ta đến xưng tội với mình như vậy.
Sau khi Đức Giám Mục đọc đơn kiện của các Cha, ngài quá bỡ ngỡ vì thấy sau chữ ký của các Cha lại có cả chữ ký của Cha Vianney nữa với dòng chữ: "Việc anh em nói trên đây rất đúng với sự thật. Con cũng xin ký tên vào đơn đồng tình cùng anh em". Linh Mục được ủy thác trách nhiệm đem thơ trình bày lên Đức Giám Mục, lại là bạn thân của Cha Gioan Vianney, nên khi đi ngang qua Xứ Ars đã ghé vào thăm và cho Cha Vianney hay sự việc, ngài xin được đọc và chính tay ngài đã ký tên rồi viết thêm dòng chữ này. Đức Giám Mục với lòng thán phục và tự hỏi: Có khi nào lại có người cùng ký vào bản đơn kiện mình như thế được. Thế rồi, Đức Giám Mục đã nói: "Các Cha xem, Cha Vianney phản ứng cách rất khiêm tốn. Có ai lại đồng ý tự kiện mình bao giờ? Ngài thực là một Linh Mục thánh thiện. Thôi chúng ta cứ để xem. Nếu là việc Chúa thì sẽ vững bền, ngược lại, nếu là việc của ý riêng ngài thì thế nào cũng sụp đổ".
Kết luận
Trước giáo huấn đầy khôn ngoan Chúa dạy và mẫu gương khiêm nhu Chúa đã để lại, Thánh Gioan Vianney, vị Chủ Chăn của Đoàn Chiên Chúa đã cố gắng họa lại cách trung thực trong đời sống của ngài, nên ngài đã đáng trở nên dụng cụ Chúa dùng, để Chúa được vinh danh và các linh hồn được cứu độ.
Vậy, là con cái Chúa, chúng ta cũng hãy cố gắng mô phỏng chân dung đích thực của Chúa Kitô nơi bản thân và đời sống chúng ta, để một phần nào chúng ta có thể hoàn thành được nhiệm vụ Chúa đã ủy thác cho mỗi người chúng ta, nhất là trong sứ mạng làm cha mẹ trong các gia đình con cái Chúa.
28. Nghỉ ngơi trong Chúa
"Lao động là vinh quang, lang thang là chết đói" hay "Nhàn cư vi bất thiện". Đây là hai câu nói lên giá trị sự siêng năng làm việc. Sống là phải làm việc, làm việc không ngừng. Dầu vậy không ai trong chúng ta có thể làm việc suốt ngày suốt đêm mà không cần nghỉ ngơi. Mục đích của nghỉ ngơi là để bồi dưỡng lấy lại sức khỏe thể xác cũng như tâm hồn. Nhờ đó mà những công việc tiếp theo có thể đem lại hiệu quả cao hơn.
Sau một thời gian ra đi truyền giáo theo lệnh của Thầy Giêsu, các Tông đồ trở về vui mừng hớn hở kể lại cho Thầy nghe những gì mình đã làm và đã giảng dạy. Người bảo các ông: "Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút." (Mc 6, 31). Chúa Giêsu muốn các ông nghỉ ngơi sau thời gian mệt mỏi ra đi truyền giáo. Có thể nói được là các ông được nghỉ trong Chúa.
Nghỉ ngơi trong Chúa, ta sẽ được bồi dưỡng đầy đủ chất bổ dưỡng. Chúa Giêsu chính là vị mục tử nhân hiền nuôi dưỡng các con chiên của mình trong đồng cỏ xanh tươi và suối mát trong lành. Người đã có lần kêu mời: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng" (Mt 11, 28)
Quả vậy, Người biết rõ chúng ta cần gì ngay cả trước khi chúng ta cầu xin. Điều răn thứ ba trong Mười điều răn Đức Chúa Trời dạy chúng ta giữ ngày Chúa nhật. Đồng thời, mỗi ngày chúng ta được Giáo hội dạy tuân giữ các giờ Kinh tối sáng. Cũng vậy, các Linh mục và tu sĩ hằng năm đều có thời gian tĩnh tâm mà chúng ta quen gọi là cấm phòng. Đây là những khoảng thời gian thật cần thiết và quý báu cho đời sống đức tin. Nếu biết rõ được ý nghĩa và giá trị của những khoảng thời gian này chắc hẳn chúng ta sẽ không cho đó là gánh nặng phải tuân giữ. Ngược lại chúng ta sẽ rất trân trọng.
Cuộc sống càng tiến bộ bao nhiêu thì dường như nhu cầu cần sự nghỉ ngơi của con người càng nhiều bấy nhiêu. Đáng tiếc thay có nhiều người lại lấy thời gian nghỉ ngơi này để làm hại chính mình và nhiều khi ảnh hưởng đến người khác. Những sòng bài, những nhóm ăn nhậu hay những nhóm trẻ ăn chơi thâu đêm suốt sáng. Đây là những lúc họ tự hủy hoại chính bản thân mình và gây thiệt hại đến người khác. Nhất là đây là một trong những lý do khiến cho nhiều gia đình phải tan vỡ.
Là người có đức tin chúng ta hãy biết quý trọng những thời gian nghỉ ngơi trong Chúa. Cũng như chúng ta nhắc nhở nhau tìm những trò giải trí lành mạnh hầu đem lại lợi ích cho mình và tránh gây thiệt hại cho người khác.
29. Chạnh lòng thương – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Sau một cuộc hành trình truyền giáo, các tông đồ phấn khởi trình bày cho Đức Giêsu những gì mình đã làm và đã dạy.
Đức Giêsu có vẻ quan tâm đến con người hơn công việc. Ngài biết các tông đồ giờ đây cần gì. Họ cần một chút nghỉ ngơi cho thân xác. Họ cần một chút riêng tư, trầm lắng cho tâm hồn, để nhìn lại phía sau, để nhìn về phía trước, để tách mình ra khỏi công việc bề bộn nơi đám đông, để sống tình thầy trò ấm áp.
"Hãy đi riêng ra, đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút." Chỉ cần một chút thôi, năm phút, mười phút...
Ai trong chúng ta cũng cần một chút lặng lẽ mỗi ngày, để trở lại chỗ sâu nhất của lòng mình, để nghe được tiếng gọi mời của Thiên Chúa.
Cần tìm một chỗ lặng lẽ trong nhà, để tôi có thể ngồi với tôi, trước nhan Chúa.
Cuộc sống hôm nay không để cho ta một chút nghỉ ngơi.
Các tông đồ cũng bị cuốn vào cơn lốc của công việc.
Cần phải phấn đấu để có được một chút mỗi ngày.
Một chút lắng sâu đủ nuôi cả ngày. Một chút êm ả khi ta đã làm mình rỗng không khỏi bao điều đã nghe và thấy, đã nói và ước mơ.
Phải xuống thuyền để đi đến nơi nghỉ ngơi. Phải ra khỏi chỗ mình đang sống.
Thầy trò đã lên thuyền, nhưng kế hoạch bất thành. Có lẽ vì ngược gió nên thuyền đi chậm. Một số người đã chạy đến trước nơi Thầy trò sắp ghé vào. Đức Giêsu sững sờ khi thấy đám đông. Những bước chân nôn nao, hối hả của họ đã khiến Ngài rung động tận cõi lòng. Ngài biết họ cần Ngài và Ngài thương họ.
Cái cần của tập thể thật cấp bách đến nỗi nhu cầu chính đáng của cá nhân phải hy sinh.
Đức Giêsu mang trái tim của người mục tử nhân hậu, nhói đau trước sự bơ vơ của đoàn chiên.
Bơ vơ là tâm trạng của con người mọi thời, nhất là của người trẻ hôm nay. Bơ vơ khi bị ném vào cuộc đời lọc lừa, xảo trá. Bơ vơ khi bị nghiền nát bởi những thủ đoạn gian manh. Bơ vơ khi bị sa sảy, không sao đứng lên được. Bơ vơ khi những thần tượng lần lượt tan vỡ.
Bi bơ vơ dẫn đến chán chường và buông trôi, mặc cho mình bị kéo vào những cái bẫy nghiệt ngã.
Làm thế nào để người bạn trẻ gặp được Giêsu, để lấy lại niềm tin, để tìm được hướng sống, để vững vàng bình an giữa sóng gió cuộc đời.
Tôi phải giới thiệu Đức Giêsu cho người khác, nhưng tôi cũng phải trở thành một Giêsu gần gũi để đến với những ai bơ vơ quanh tôi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Mỗi ngày kéo dài 288 lần 5 phút. Bạn có dám dành 1/288 của ngày để sống cho mình, sống rất riêng với Chúa không? Nếu bạn thường xuyên lặng lẽ như vậy, bạn có thấy được nâng đỡ không?
Bạn đã có lần rơi vào khủng hoảng, bơ vơ. Bạn làm gì hay nhờ ai mà ra khỏi tâm trạng bơ vơ đó?
Cầu Nguyện
Giữa những ồn ào của đám đông, giữa những sôi nổi của thành công và ê chề của thất bại, xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng, giữa những khát khao thèm muốn và những trói buộc của sợ hãi, âu lo, xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước, giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông, chẳng có ai để cậy dựa, xin trở về với cõi riêng bên Giêsu, để một mình ở đó, trầm lắng và bình an.
30. Khi con tim lao xao
(Suy niệm của AM. Trần Bình An)
Một Giám mục gần Sao Paulo (Thủ đô Brasil) đã biết rõ tinh thần của phong trào Focolare (Bác ái Hiệp nhất). Ngài muốn tinh thần tốt đẹp ấy cũng được thâm nhập vào giáo phận của ngài. Ngài mời một nhóm linh mục của nhóm Focolare đến giảng tĩnh tâm. Họ đã đến, nhưng ngay những ngày đầu tiên họ gặp phải một sự chống đối rất nặng nề và cảm thấy trở ngại rất nhiều trong việc giảng huấn. Sau đó, vào giờ nói chuyện với các linh mục, họ nhận ra rằng giữa các linh mục và Giám mục có một sự căng thẳng rất trầm trọng. Họ trình bày với Đức Giám mục về chuyện đó, ngài hứa sẽ sẵn sàng xin lỗi các linh mục trong Thánh lễ ngày mai về những khuyết điểm sai lầm và bất công trong suốt thời gian qua. Ngài muốn sống đúng theo câu khuyên của Chúa: "Khi con dâng lễ, nếu chợt nhớ ra có ai bất bình với con, hãy để lễ vật đó trước bàn thờ rồi đi làm hoà với anh em con trước đã, rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật." (Mt 5,23-24).
Trong Thánh lễ, Đức Giám mục đã khiêm tốn xin lỗi cộng đoàn linh mục, nhưng điều đó vẫn không mang lại một kết quả nào. Ngài hiểu rằng cần phải tiến thêm một bước nữa. Ngài tìm đến từng phòng để nói chuyện riêng với mỗi linh mục. Cử chỉ này đã làm cho các linh mục rất đỗi xúc động. Các ngài bắt đầu cởi mở, trình với Đức Giám mục hết mọi khó khăn, mọi vấn đề của các ngài. Các ngài bộc lộ hết tâm hồn mình cho Giám mục và chấp nhận Giám mục như là người anh, như chính Chúa Giêsu, và tạo nên một sự cảm thông sâu xa giữa hai bên. Trong tuần phòng đó, tất cả đã trở nên một đại gia đình, và cuối tuần phòng, Đức Cha đã có một quyết định quan trọng: Ngài thay đổi cách thăm viếng. Từ nay, ngài sẽ ở lại chung sống hai ba ngày với từng linh mục trong mỗi giáo xứ, để tạo một bầu khí huynh đệ giữa linh mục và Giám mục. Và từ đây các linh mục cũng rất ước mong đến ngày Đức Giám mục đến thăm xứ mình. ( ĐTGM Fx Nguyễn Văn Thuận, Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng )
Trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Thánh sử Maccô thuật lại chuyến trở về của các Tông Đồ được sai đi, tụ tập quanh Đức Giêsu, kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Người khuyên nhủ: “Anh em hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút!” Nghỉ ngơi là tĩnh tâm dưỡng sức, tìm về cội nguồn, sau thời gian hăng hái dấn thân phục vụ, mệt mỏi thân xác, lao xao con tim, cạn kiệt tinh thần và đuối sức tâm linh. Cuộc tĩnh tâm của các Linh mục và Đức Giám Mục ở gần Sao Paulo phản ảnh phần nào trích đoạn trên.
Về nguồn
Sau mỗi ngày cật lực giảng dạy cho dân chúng, Đức Giêsu luôn lui vào nơi vắng vẻ nghỉ ngơi dưỡng sức. (Lc 5, 16 & 9, 10) Chẳng phải thảnh thơi nhàn hạ vui hưởng gió mát trăng thanh, mà để hội ngộ với Thiên Chúa Cha, tâm sự, giãi bày mọi chuyện, dâng lên cả thành công lẫn thất bại trong ngày. Khấn xin thêm sức mạnh, can đảm tiếp tục dấn thân cho sứ vụ cứu chuộc nhân loại.
Đức Giêsu đã nêu gương cầu nguyện hàng ngày, đồng thời luôn tha thiết mời gọi tất cả mọi người đến cùng Người: “Hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng. Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các người. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28-30)
Mỗi dịp tĩnh tâm, mỗi Thánh Lễ, mỗi giờ chầu, mỗi lời kinh, mỗi buổi suy gẫm, mỗi dấu Thánh Giá, đều là những giây phút cầu nguyện, giây phút trở về Thiên Chúa, cội nguồn sự sống. Cảm tạ, ngợi khen, tán tụng Thiên Chúa đã ban tràn đầy hồng ân được sống, được nhận biết Chúa, được làm con Chúa, được bình an.
Vào nơi cô tịch, vắng vẻ tâm sự với Chúa. Không quên dâng lên Người những việc lành phúc đức, hy sinh, cùng thân thưa hối cải những lỗi lầm, vấp phạm đến anh em và tha nhân. Người sẽ luôn lắng nghe, luôn thấu hiểu, luôn yêu thương an ủi, chỉ dạy, chăm sóc, hướng dẫn, băng bó những thương tích, xoa dịu nỗi khổ đau thất bại, chia sẻ nỗi oan ức, cũng như khích lệ những thành công. Người soi sáng, thức tỉnh cho biết đâu là Thánh Ý mầu nhiệm. Người thử thách, trui luyện, trắc nghiệm xem người Kitô hữu chọn Chúa hay chọn công việc, chức tước, quyền lực? Có nhận vơ thành công làm thành tích cá nhân mình hay không? Có chán nản, buông trôi khi thất bại, vì kiêu căng bất khả chiến bại chăng?
“Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Chúa. Máy móc tự động có thể làm hơn con. “ ( Đường hy Vọng, số 118 )
Tận hiến
Mặc dù cùng các Tông Đồ xuống thuyền đi lánh riêng một nơi hoang vắng, để tĩnh dưỡng, nhưng ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đẩu dạy dỗ họ nhiều điều. Thởi khóa biểu bị đảo lộn, chương trình, kế hoạch thay đổi bất ngờ, chỉ vì quá thương yêu mà dấn thân tận tụy phục vụ nhu cầu rất chính đáng. Tình yêu xả kỷ vị tha, toàn tâm toàn lực hoàn toàn dâng hiến cho tha nhân. Sẵn sàng từ bỏ ý riêng để thực hành Thánh Ý Chúa. “Xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26, 39) Hy sinh tất cả phúc lợi cá nhân để phục vụ tha nhân đang mất phương hướng, thiếu người. Người chính là Thiên Chúa Tình Yêu.
“Tại sao tận hiến cho Chúa, mà con so sánh mình với người đời, phàn nàn vì thua sút điều này, điều nọ. Con tiếc vì làm tôi Chúa thiệt thòi sao?” ( Đường Hy Vọng, số 116)
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con noi gương Chúa, luôn dành thì giờ siêng năng cầu nguyện khi sáng thức dậy, ban tối trước khi ngủ, cũng như trong mọi nơi, mọi lúc, mọi việc trong ngày, luôn nhớ Chúa hiện diện, chúc lành và thánh hóa cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dẫn dắt chúng con vào nơi hoang vắng mà nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng, an ủi, cứu giúp chúng con thoát khỏi đám đông hỗn tạp, xô bồ, ô nhiễm, ồn ào, sặc mùi kim tiền, của cải, vật chất, lợi danh phù phiếm, hưởng lạc, sa đọa. Nhờ Đức Chúa Thánh Thần, xin Mẹ cầu bầu chúng con được hồi tâm phục sức sau bao gian lao, thử thách, ban cho chúng con luôn tràn đầy Tin Cậy Mến, lòng nhiệt thành, can đảm theo Chúa đến cùng. Amen.
31. Chúa Nhật 16 Thường Niên
(Suy niệm của Martin Lê Hoàng Vũ)
Những năm gần đây cứ vào mỗi dịp hè, sinh viên các trường đại học ở Tp. Hồ Chí Minh được mời tham gia vào chiến dịch "Mùa hè xanh". Các bạn được đến các vùng sâu vùng xa để sống với bà con nông dân nghèo khổ. Các bạn dạy chữ cho các trẻ em và người lớn mù chữ, giúp sửa sang nhà cửa, lợp mái, đào mương làm cống, làm đường trong những khu xóm nông thôn. Qua một tháng trời sống với người dân nghèo, các bạn học được một bài học quý giá về tinh thần sống vì người khác.. Năm nay chúng ta thấy khẩu hiệu của các bạn sinh viên tình nguyện tham gia chiến dịch mùa hè xanh là: "Ở dân thương, làm dân tin, đi dân nhớ." Sau một chuyến đi chắc chắn các bạn sẽ có những kỉ niệm khó quên thấm đượm tình người
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng dạy các môn đệ tinh thần sống cho người khác. Sống vì người khác là một đòi hỏi Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ phải thực hiện trong suốt đường đời sứ vụ tông đồ. Bởi vì đã là người thì ai cũng có mối liên hệ nào đó với người khác. Không ai có thể sống một mình, và chỉ lo cho cuộc sống mình được dư dật. Người ta thường nói: " không ai là một hòn đảo giữa đại dương mênh mông" cho nên con người chỉ sống có ý nghĩa thật sự khi biết sống cho người khác. Mộ người có thể sống vì mọi người. Vì qua hành động sống cho người khác chúng ta tìm được niềm vui. Vì hạnh phúc của tha nhân cũng là hạnh phúc của chính mình. Ngày nay Chúa Giêsu vẫn mời gọi mỗi người Kitô hữu sống liên đới và hiệp nhất với tất cả mọi người. Hình ảnh người mục tử mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay đưa ra chính là hình ảnh của một con người sống vì người khác và vì mục đích của cộng đồng. Trong cuộc sống tại thế, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta về đời sống phục vụ tha nhân. Ngài lại không ngừng đi đây đi đó rao giảng Tin Mừng, chữa lành các bệnh tật, thăm viếng gặp gỡ dân chúng. Những việc làm của Ngài tựu chung chỉ muốn giúp cho đời sống họ được thăng tiến về mọi mặt, nhất là đời sống thiêng liêng. Chúa và các môn đệ bận rộn với dân chúng đến nỗi không có cả thời gian nghỉ nghơi. Ngài động lòng trắc ẩn khi thấy dân chúng đi theo mình. Thay vì để cho các ông nghỉ ngơi như dự định, Đức Giêsu lại tiếp tục làm việc, tiếp tục giảng dạy cho dân chúng.
Hơn ai hết Chúa Giêsu thấy được lòng mong mỏi lắng nghe Tin Mừng của dân chúng. Quả thật Ngài là vị mục tử tốt luôn thao thức những nhu cầu cấp bách của con người. Do đó Ngài mong muốn đem đến cho người ta những điều chân thật..Lời giảng của có giá trị Cứu độ con người. Ai tin và sống theo lời Ngài dạy sẽ trở thành con của Cha trên trời. Tinh thần chung của những lời dạy của Chúa là tinh yêu thưong và phục vụ
Thật vậy, Đức Giêsu không ngừng làm việc là chứng tỏ tấm lòng mục tử của Ngài đối với dân chúng. Mục tử tốt chính là người sống vỉ đàn chiên, sống cho đàn chiên và dẫn đưa đàn chiên tới thượng nguồn của sự sống và niềm hạnh phúc đích thực. Chỉ qua Chúa Giêsu con người mới được cứu độ. Một cách nào đó, mỗi người Kitô hữu cũng là mục tử của nhau qua việc sống biết chăm lo cho người khác. Chúa Giêsu đòi hỏi họ sống cho và vì người khác thay vì luôn sống ích kỷ, vụ lợi, tranh giành quyền lợi và nghĩa vụ với người khác.
Ngày nay trong một xã hội con người đang chạy theo biết bao nhiêu hình thức sống theo cá nhân chủ nghĩa,người môn đệ của Chúa Giêsu phải dám "lội ngược dòng đời" để sống theo lời Chúa dạy. Trong cuộc sống của người môn đệ phải dành chỗ cho tha nhân bằng với một tấm lòng yêu thương chân thật. Đi đến đâu người Kitô hữu phải làm sáng tỏ ra dấu hiệu của mình khi biết quên mình vì lợi ích của tập thể, của mỗi cá nhân. Người Kitô hữu trở thành mục tử khi có hành động tương trợ giúp đỡ và trao ban cho người khác những gì mình có. Danh hiệu Kitô hữu không phải là một đặc quyền đặc lợi để chúng ta đóng kín tấm lòng mình trước tha nhân. Niềm hạnh phúc của chúng ta là biết trao ban cả những gì có thể mình quý trọng nhất cho tha nhân. Có trao ban tất cả chúng ta mới có tất cả và có cả điều quý giá nhất là Nước Trời. Khi nghĩ đến việc sống cho người khác chúng ta tưởng chừng như rất khó thực hiện. Nhưng điều đó nằm trong tầm tay của mỗi người. Với ơn Chúa, với sự vươn lên và luôn hạnh động cho người khác cùa mỗi người chúng ta, chắc chắn nhiều người sẽ bớt đau khổ hay túng thiếu Sự bận rộn của Chúa Giêsu và các môn đệ xưa kia ngày nay người Kitô hữu cũng phải bận rộn như vậy. Điều mà chúng ta có thể rao giảng chính là cuộc sống vì tha nhân của chúng ta. Bất cứ lúc nào chúng ta cũng hãy nghĩ đến tha nhân trước khi hành động một việc gì đó Có như thế người ta mới tin và theo Chúa Giêsu nhiều hơn. Mỗi người tùy theo khả năng có thể làm điều gì đó tốt cho tha nhân. Khi thấy người ta đang cần mình giúp đỡ viêc gì chúng ta cầm mau mắn" ra tay" Cộng đồng xã hội sẽ tốt đẹp hơn khi có những con người biết sống cho người khác.
Lạy Chúa cả cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng Chúa lúc nào cũng bận rộn vì dân chúng. Chúa cũng chết vì tội lỗi loài người chúng con. Xin cho mỗi người Kitô hữu và mỗi cộng đoàn giáo xứ biết thực hiện những chương trình bác ái từ thiện giúp đỡ người nghèo có nhà ở, có cơm ăn áo mặc, và trẻ em được học hành tới nơi tới chốn. Vì nhờ đó chúng con làm sáng danh Chúa giữa cuộc đời này. Amen.
32. Chúng ta hoạt động đến đâu – Yvon Daigneault.
Mở đầu.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại một cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng này bắt đầu bằng sự bất dung hợp giữa các môn đệ, và thái độ của Chúa Giêsu, thái độ ấy là: Ngài động lòng xót thương đối với những kẻ bơ vơ như bầy cừu không ai chăn dắt, nên Ngài dạy dỗ họ nhiều điều.
Một đàng, ta có thể thấy sự xuất hiện một thứ hoạt động trở thành cùng đích cho mình, và quên đi những kẻ vì họ mà mình hoạt động, đàng khác, thái độ của Chúa Giêsu trước hết là lo lắng cho những con người và nhu cầu thực sự của họ. Tin Mừng nhắc lại cho chúng ta thấy bằng cách nào Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ một bài học về mục vụ mà không làm cho họ chán nản, và ngăn chận sự quảng đại của họ.
“Hãy đi vào nơi thanh vắng và nghỉ ngơi”.
Chúa Giêsu cố ý chấm dứt câu chuyện về một chuyến làm mục vụ có vẻ cấp bách nhất và mang lại thành công nhất. Vì sự thành công đó mà công việc mục vụ này dường như rơi vào một nguy cơ, như có thể xảy ra cho những công việc mang lại thành công quá nhanh chóng. Những công việc này bị lôi cuốn vào những xung đột không giải quyết được: làm sao tiếp tục tăng trưởng, đảm nhiệm tất cả, những sự thay đổi mà việc tăng trưởng đòi hỏi, và đồng thời, giữ được căn tính chính yếu của công việc đó? Có những kỹ nghệ thịnh vượng, những nhà xuất bản đang lên, nhưng cũng có tạp chí, những việc buôn bán sụp đổ và biến mất.
Cuộc khủng hoảng ấy cũng có thể xảy ra cho những công trình mà khởi đầu đã mang lại những thành công lớn nhất. Và không thiếu những sự kiện đa dạng vào những năm gần đây để minh họa điều này. Bao nhiêu Kitô hữu đã bỏ đức tin? Bao nhiêu tu sĩ đã bỏ ơn gọi? Bao nhiêu sự nghiệp có vẻ bền bỉ đã biến mất? Ta đừng đoán xét. Nhưng hãy lắng nghe bài học của Chúa về sự cần thiết phải có một cái nhìn đúng đắn về sứ vụ được giao phó cho chúng ta.
Đi bộ từ khắp các thành phố.
Nếu Chúa muốn chấm dứt việc mục vụ này, không phải vì nó thất bại, cũng không phải vì nó thiếu ảnh hưởng trên dân chúng. Người ta cần nó. Họ từ khắp nơi tuôn đến. Họ đi vòng chung quanh hồ để gặp lại Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài.
Một cuộc đi bộ cần thiết… để loại bỏ những kẻ hiếu kỳ, những kẻ đa nghi, những kẻ lợi dụng, cần phải suy nghĩ hai lần, và tự hỏi tại sao người ta tìm kiếm Chúa Giêsu, trong lúc những người nghèo, những người bệnh và kẻ tội lỗi là những người đến gần Chúa Giêsu, trước hết, Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. Chúa Giêsu tiếp tục sứ vụ, khi trả lại cho sứ vụ ý nghĩa thực sự của nó: đó là rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, Ngài đã chẳng nói trong hội đường Caphacnaum rằng rao giảng này là đặc điểm chính yếu của sứ vụ Ngài đó sao?
Động cơ của sứ vụ ấy là lòng thương xót của Ngài đối với người nghèo. Lòng thương xót ấy đem đến cho con người một ý nghĩa nâng cao, giải phóng và hoàn thiện con người. Một lòng thương xót tạo nên sự sống. Tự nhiên hình ảnh người mục tử hiện ra trong trí chúng ta. Công việc của người mục tử thật khó khăn. Họ phải liên lỉ canh chừng, kiên nhẫn để đưa dẫn đàn chiên không phải lúc nào cũng tin tưởng đến những đồng cỏ xanh tươi.
Kết luận.
Một cách rất đơn giản, Chúa Giêsu đã đưa sứ vụ trở về đúng hướng. Ngài cũng xác định với những kẻ thuộc về Ngài: rằng người mục tử bao giờ cũng cần phải có thời gian, nhiều thời gian và kiên nhẫn cùng với sự tôn trọng khả năng của những kẻ được ủy thác cho họ.
33. Chúng ta cần một sự quân bình – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng”)
Hầu hết mọi người đều nhận thấy rằng có một sự quân bình trong đời sống là cần thiết. Một người hướng ngoại yêu thích xuất hiện nơi công chúng cũng cần có thời gian sống cô độc và thinh lặng. Một người hướng nội biết giá trị của những khoảnh khắc cô độc, thỉnh thoảng cũng nên được phấn khích bởi một đám đông tưng bừng vui vẻ.
Chúa Giêsu đã cho chúng ta một mẫu gương về sự quân bình cần thiết cho đời sống thiêng liêng của chúng ta. Chúa Giêsu có thói quen đi tới hội đường vào những ngày Sabát, Người đã tham dự phụng vụ nơi Đền Thờ Giêrusalem trong những thời gian được chỉ định. Ngài cũng sẵn sàng ra đi và trải qua suốt đêm trong cầu nguyện với Cha Ngài trên trời.
Phúc Âm ngày hôm nay hé mở cho chúng ta thấy những tông đồ trở lại với Chúa Giêsu sau hành trình truyền giáo mà Ngài đã gởi họ từng hai người một. Đó là thời gian giúp cho họ rao giảng cho mọi người và cầu nguyện với mọi người. Chúa Giêsu nói với họ: “Các con hãy lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút”. Họ đã ra đi với Chúa Giêsu lên một chiếc thuyền và vào nơi hoang địa. Chúa Giêsu hiểu sự cần thiết của việc quân bình trong đời sống cho các môn đồ của Ngài.
Chúa Giêsu cũng muốn cả chúng ta nữa duy trì sự quân bình. Ngày xưa trong đời sống thiêng liêng của chúng ta là cùng nhau cử hành phụng vụ. Tham dự cách năng nổ và ý thức trong phụng vụ thánh, đặc biệt là trong Thánh Lễ ngày Chúa Nhật là nguồn mạch không gì có thể thay thế được, để chúng ta có thể đạt được một tinh thần Kitô giáo thật sự. Cả chúng ta nữa, cũng phải có thời gian để đến một nơi thanh vắng mà cầu nguyện một mình với Chúa Giêsu trong thinh lặng và hồi tâm. Chúng ta cần có những cơ hội để cầu nguyện theo cách của mình và cho những chủ ý của chính chúng ta. Cả hai, cầu nguyện chung và riêng là một phần đời sống của người Công giáo chúng ta. Chúng ta sẽ không bao giờ chểnh mảng việc phụng vụ hoặc những hình thức cầu nguyện riêng tư. Như thế, chúng ta sẽ không bao giờ chểnh mảng việc cầu nguyện tư trong đời sống riêng của mình.
Đôi khi một số người đã kinh nghiệm với hình thức phụng vụ, phàn nàn rằng họ không thể cầu nguyện trong Thánh Lễ được nhiều hơn. Những gì mà họ muốn nói là hình thức trong suốt Thánh Lễ, điều đó đã được diễn ra trong tiếng Latinh và họ hầu như hoàn toàn im lặng, họ có thể cầu nguyện theo cách của họ và cho những nhu cầu của họ. Bây giờ họ được kêu gọi trở lại như một gia đình, một cộng đoàn. Họ và tất cả chúng ta phải biết rằng thi hành bổn phận Kitô giáo có liên quan ít nhiều đến việc thờ phượng ngày Chúa Nhật, ngay cả trong những lãnh vực cầu nguyện. Bên ngoài những nghi thức phụng vụ, chúng ta cũng cần có thời gian để cầu nguyện theo cách riêng của mình, để làm viên mãn nhu cầu tôn giáo cá nhân của chúng ta, chúng ta có thể đến với phụng vụ một cách sẵn sàng và nồng nhiệt, kết hợp với anh chị em thiêng liêng trong gia đình thờ phượng Thiên Chúa Cha của chúng ta.
Những người nhiệt tâm với việc canh tân phụng vụ, họ đã tìm thấy trong việc thờ phượng công một kinh nghiệm hướng thuợng và thoả mãn, phải nhận biết rằng họ cần có thời gian cho việc sùng kính cá nhân và riêng tư nữa. Phải giữ sự quân bình đó là điều quan trọng, sùng kính riêng tư sẽ không bình thường, nếu coi thường đặc tính thờ phượng công xuyên qua việc đọc lớn tiếng hoặc là cầu nguyện chung. Nhu cầu thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm, đó cũng là ý nghĩa của đời sống và nơi chốn chúng ta phải có trong đời sống của chúng ta. Một sự chiêm niệm về giáo huấn và gương mẫu của Chúa Giêsu, diễn tả mối quan hệ cá nhân của chúng ta với Thiên Chúa, chúng ta sẽ không muốn Thánh Lễ phải trở nên im lặng, là một sự sùng kính cá nhân, hoặc chúng ta cũng không xoay trở những diễn tả tôn giáo riêng tư trở thành những mẫu cầu nguyện chung của cộng đoàn. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta sự quan trọng của việc quân bình trong cầu nguyện, Ngài đã cho chúng ta một gương mẫu. Nỗ lực và thời gian chúng ta đặt vào cả hai, chúng ta cần có nỗ lực và thời gian để chú trọng đến cả hai phụng vụ chung và cầu nguyện riêng theo cách của chúng ta đáp trả lại gương mẫu và giáo huấn của Chúa Giêsu.
34. Làm sao để đáp ứng các nhu cầu của con người?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Thánh Marcô kể lại việc Đức Giêsu tiếp đón các Tông đồ lúc họ đi rao giảng về. Thánh Marcô không nói Đức Giêsu đã làm gì lúc họ đi vắng. Tuy nhiên có một chữ có thể soi sáng chúng ta: cả các con nữa, hãy đến mà nghỉ ngơi một chút. Chữ ‘cả các con nữa’ hình như ám chỉ rằng Đức Giêsu đã để ra một khoảng thời gian nghỉ ngơi, tĩnh tâm. Ngài muốn đến lượt các Tông đồ cũng được hưởng ân huệ đó. Nhưng lời van xin của đám đông đã cản trở ý định này. Đức Giêsu chiều theo lời van xin này, vì Ngài có trước mắt Ngài một đám đông bơ vơ, lạc lõng và Người dạy dỗ họ nhiều điều.
Giai thoại này gợi ra cho ta hai điều: con người có một nhu cầu học hỏi và họ cần một thứ giáo huấn thấm nhuần chiêm niệm.
1) Ngài động lòng thương đám đông, vì họ như đàn chiên không người chăn và Người dạy dỗ họ nhiều điều.
Đám đông không thiếu người hướng dẫn, nhưng đặc điểm của các người hướng dẫn là sớm muộn gì cũng đưa đám đông đến nỗi thất vọng.
Đám đông tuôn đến cùng Đức Giêsu, cũng đã bị thất vọng trước rồi. Họ cảm thấy nơi Ngài một Đấng đem lại 1 sứ điệp mới, có một sức mạnh và một mệnh lệnh vượt lên trên những gì họ đã nghe cho đến bây giờ. Con người, khi không được dạy bảo cho đứng đắn, giống như đàn vật, sẽ xảy ra những chuyển động khi thì theo hướng này khi thì theo hướng khác. Họ thiếu một hướng chỉ đạo. Giáo hội đã thấy rằng, đặc biệt trong thời đại chúng ta, nhân loại giống như một đàn vật cùng đường. Cho nên Giáo hội đã bắt đầu rao giảng nhiều điều qua công đồng Vaticanô II.
Nhưng các mục tử không giấy ủy nhiệm, thiếu khả năng và ít lo lắng khơi dậy nơi đám đông việc lắng nghe lời Đức Kitô, đã cố tâm làm dậy lên, thường là trong chiều hướng các định kiến mới, những lực lượng phi lý đang hoạt động trong các nhóm nhân loại. Họ lèo lái dư luận và đôi khi lại là chính dư luận bên trong Giáo hội. Những Kitô hữu ưu tú chỉ muốn được Đức Kitô dạy bảo, đã chứng tỏ một lương tri sáng suốt khi nghe theo tiếng nói thuộc quyền Giáo hội và bỏ rơi một số những tiếng nói khác ít nhiều ăn bám hoặc dị đồng.
2) ‘Cả các con nữa, hãy lui vào nơi vắng vẻ’.
Đức Giêsu mời các môn đệ hãy lui vào một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi là để lấy lại sức. Sự nghỉ ngơi của vị Tông đồ cũng là để lấy lại nghị lực về mọi phương diện: thể lý, tinh thần, thiêng liêng. Trong giai thoại vừa kể; Đức Kitô và các Tông đồ đã chìu theo lời van xin của đám đông. Điều này cho thấy có những trường hợp mà tình bác ái, tình thương, sự tận tụy đòi hỏi phải hành động mặc dầu đang mệt nhọc. Những dự định của Chúa là lôi kéo các Tông đồ vào nghỉ ngơi vẫn còn. Cái nhịp thông thường của đời sống Tông đồ, chiến sĩ bao gồm cả những thời gian tĩnh tâm, lấy sức, chiêm niệm, ‘hâm nóng lại’. Gương của Đức Kitô và của các Tông đồ minh chứng cho thấy hoạt động chiến sĩ không thể tự mình mang lại lương thực đầy đủ.
Những người hoạt động hữu hiệu trên bình diện thuần túy nhân loại, cũng biết để ra những thời giờ dài ngắn trong yên tĩnh và suy gẫm. Huống hồ là Tông đồ của Đức Kitô, họ phải dành ra những giây phút dài lâu để lấy lại sức mạnh thiêng liêng, nhờ việc sống thân mật với Ngài, riêng biệt trong một nơi vắng vẻ, như Phúc âm nói. Người tông đồ hữu hiệu truyền đạt cho kẻ khác điều mình đã lâu giờ học hỏi nơi Đức Kitô. Và chính là điều này mà con người đòi hỏi.
35. Tìm đến với Chúa Giêsu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Mario Flajano, văn sĩ, ký giả kiêm đạo diễn người Italia, qua đời năm 1972, đã để lại những trang nhật ký thật cảm động; năm 1942, đưa con gái 8 tuổi của ông bị bệnh sưng màng óc và kéo lê cuộc sống tàn tật đó cho đến năm 1992,tức là 50 năm. Nhìn đứa con mà lòng đau xót, nhưng người cha vẫn đặt tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa. Trong một trang nhật ký, ông viết: “một người đàn ông nọ dẫn đến cho Chúa Giêsu đứa con gái bệnh tật và nói với Ngài: ‘Con không muốn chữa lành nó, nhưng chỉ xin Chúa yêu thương nó mà thôi’. Chúa Giêsu cúi xuống hôn đứa trẻ và nói: “Ta nói thật, người đàn ông này đã xin điều có thể cho được’. Nói xong, Chúa Giêsu biến đi trong ánh sáng chói ngời bỏ lại một đám đông tiếp tục bàn tán về phép lạ, còn các nhà báo thì cố gắng mô ta các phép lạ”.
Anh chị em thân mến,
Những dòng nhật ký trên đây của Flajano đưa chúng ta vào trọng tâm của Tin Mừng. Đám đông dân chúng kéo đến với Chúa Giêsu. Họ đến do nhiều động lực khác nhau thúc đẩy: vì tò mò, hiếu kỳ, vì mốn được xem phép lạ, hoặc để được phép lạ, nếu là những bệnh nhân. Nhưng chắc chắn không ít người đến với Chúa Giêsu vì muốn nghe Ngài giảng dạy, vì đói khát chân lý Tin Mừng. Và Chúa Giêsu muốn đáp ứng trước tiên nhu cầu này của họ, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Nhiều lần trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu thay đổi một chương trình, bỏ một dự tính, để dừng lại bên một đám tang, bên một bệnh nhân, bên một bờ giếng… Trong câu chuyện hôm nay, Chúa Giêsu đã có thể dành thời giờ thích thú nghe các Tông Đồ báo cáo kết quả chuyến đi truyền giáo. Ngài có thể dẫn các Tông Đồ đi đến một nơi riêng không bị ai quấy rầy, để nghỉ ngơi. Nhưng Ngài đã huỷ bỏ cuộc nghỉ để trước hết đáp ứng cơn đói khát của dân chúng. “Ngài đã giảng dạy họ nhiều điều”.
Thật vậy, Tin Mừng không phải là một mớ lý thuyết hay giáo điều. Tin Mừng cũng không phải là một Thiên Chúa cao xa trừu tượng. Tin Mừng thiết yếu là một con người bằng xương bằng thịt, với một trái tim dễ rung động và biết yêu thương. Đọc lại các sách Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không làm phép lạ như một phù thuỷ múa máy cây đũa thần của mình. Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm loé mắt thiên hạ. Phép lạ dấu chỉ của ơn cứu độ, là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, một Thiên Chúa yêu thương đến độ nhập thể làm người và sống thân phận con người.
Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô như tóm tắt tất cả dung mạo của Chúa Giêsu trong câu nói: “Chúa Giêsu thấy đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Đây là tất cả mạc khải về tình yêu Thiên Chúa đối với con người: thay cho một Thiên Chúa ở trên cao, thưởng phạt chí công, lạnh lùng nghiêm khắc, Chúa Giêsu đã bày tỏ cho chúng ta một Thiên Chúa đi vào lịch sử con người, một Thiên Chúa sinh ra như một em bé, một Thiên Chúa cũng biết thế nào là đau khổ, một Thiên Chúa có trái tim cảm thông và tha thứ, một Thiên Chúa gần gũi với con người, có mặt trong từng nhịp thở của con người.
Chiêm ngắm một Thiên Chuá như thế qua con người Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cũng nhận ra được một chân lý về con người, bởi vì như Cộng Đồng Vatican II trong Hiến Chế “Vui Mừng Và Hy Vọng” đã nói: “Chỉ trong ánh sáng của màu nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể, chân lý về con người mới được sáng tỏ”. Con người bởi đâu mà đến? Sẽ đi về đâu? Chúng ta nhận ra điều đó trong Chúa Giêsu đã đành, mà trong Ngài, chúng ta còn biết phải sống thế nào cho phải đạo làm người. Qua cung cách của Ngài, chúng ta thấy phải đối xử thế nào với người đồng loại. Qua cuộc sống yêu thương và yêu thương đến chết trên thập giá, chúng ta hiểu được rằng hiến thân cho tha nhân là ơn gọi của con người, chỉ có con người mới được mời gọi để sống cho tha nhân mà thôi.
Trong Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra ý nghĩa cuộc sống của con người. Con người sống không chỉ loanh quanh lẩn quẩn trong những cái ăn, cái mặc, ngủ nghỉ, vui chơi, giải trí mà thôi. Trên thế giới có lẽ ít người tự tử vì nghèo đói hơn là vì không tìm ra ý nghĩa cuộc đời: Tại sao mình phải sống? Chết rồi sẽ ra sao?... Nói cách khác, cái túng thiếu, quẫn bách, nghèo đói, chưa phải là động lực cuối cùng xô đẩy người ta liều mạng sống cho bằng vì người ta cảm thấy không tìm ra giá trị nào cho cuộc đời của mình: cuộc đời phi lý, vô nghĩa, không đáng sống! Chúa Kitô giảng dạy cho chúng ta biết rõ đích điểm của cuộc đời mình và biết đường đi đến đích. Con người không được Lời Chúa hưỡng dẫn sẽ giống như đàn vật bơ vơ lạc lõng, không biết đời mình sẽ đi về đâu? Họ thiếu một hướng chỉ đạo. Giáo Hội đã nhận thấy điều đó, đặc biệt trong thời đại chúng ta, nhân loại giống như một đàn vật cùng đường, mất hướng. Giáo Hội phải rao giảng Lời Chúa, đem chân lý đến cho loài người, như Chúa Giêsu giảng dạy cho đám đông dân chúng đi theo Ngài: “Ngài đã giảng dạy cho họ nhiều điều”.
Thưa anh chị em, ngày nay, đứng trước hàng tỷ, hàng triệu con người sống nhung nhúc ở những lục địa Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ Châu hoặc trước hoàn cảnh của các Kitô hữu không có chủ chăn, lời Chúa đã thốt ra cách đây gần 2000 năm vẫn là vấn đề thời sự: “Ta chạnh lòng xót thương đám đông dân chúng, vì họ bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt”. Vì thế, Giáo Hội hôm nay nói chung và mỗi người chúng ta nói riêng, đều có sứ mạng đem Lời Chúa và giúp người khác thực thi Lời Chúa, đó là cách Giáo Hội đóng góp cho con người, cho công cuộc xây dựng thế giới loài người. Lời Chúa không thể nào dung tha những gian dối, bất công, hận thù, chia rẽ, ích kỷ. Lời Chúa đòi người ta phải sống cho sự thật, phải tranh đấu cho công bình, phải mở rộng vòng tay đón nhân anh em, làm cho mọi người được sống hạnh phúc.
Là Mục tử tốt lành, Chúa Giêsu hôm nay vẫn luôn chăm sóc chúng ta. Ngài tập họp chúng ta xung quanh Ngài để nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và bằng Bánh ban sự sống. Hãy tìm đến với Ngài để lãnh nhận nguồn sinh lực mới. Tìm đến với Ngài, chúng ta sẽ tìm gặp anh em cùng với Ngài: không thể tránh né anh em để chỉ tìm một mình Ngài. Tập họp chung quanh Ngài, chúng ta cùng cộng tác với Ngài để chiến đấu với tội ác, ích kỷ, bất công, hận thù, để cho Tin Mừng cứu độ giải thoát loài người.
36. Bản tường trình của giám mục
(Suy niệm của ĐGM. Arthur Tone)
Một linh mục du lịch bằng xe lửa qua Ái Nhĩ Lan đang hút một điếu xì gà. Tại một trạm xe, vị Giám mục nổi tiếng ở Dwyer của địa phận Limerick đang đứng trên bực thềm đợi một chuyến xe khác. Ngài thấy vị linh mục hút thuốc, liền phê bình: “Cha thân mến, cha hút thuốc trước công chúng làm gương xấu cho người Ái Nhĩ Lan”. Vị linh mục đáp lại “Tôi không thấy gì là gương xấu khi hút một điếu xì gà”. Và vị linh mục hỏi tiếp” “Xin được phép hỏi: Ngài là ai?”. Câu trả lời: “Tôi là Giám mục O. Dwyer địa phận Limerick. Hơi bối rối, vị linh mục kính cẩn nhìn vị Giám mục một lát rồi khi xe từ từ rời bến. Ngài lẩm bẩm: “Đức Cha có chức vụ cao, Đức Cha cố gắng chu toàn”.
Vâng, Đức Giám mục của chúng ta “có chức vụ cao”. Ngài là Đấng kế vị các Tông đồ. Công việc của ngài thánh thiện và khó khăn. Một bổn phận của ngài là báo cáo đều đặn trực tiếp cho Đức Thánh Cha. Tin Mừng hôm nay kể rằng: Các Tông đồ trở về với Chúa Giêsu và kể lại cho Người tất cả những gì các ông đã làm và đã giảng dạy. Một cách tương tự, Đức Giám mục năm năm một lần báo cáo đầy đủ và chi tiết về tình trạng địa phận của ngài và sự liên đới với chính quyền dân sự. Cứ 10 năm Đức Giám mục đích thân đem báo cáo về Roma. Bản báo cáo này gồm: tình hình tôn giáo của địa phận. Số họ đạo, linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân, giáo lý viên, học sinh Công giáo trong trường Công giáo, học sinh Công giáo trong trường công lập, số nhà thương, viện dưỡng lão, số hôn phối, tân tòng, số người rửa tội, số người chết, mọi vấn đề liên quan đến đời sống thiêng liêng. Bản báo cáo cũng bao gồm lời xác nhận chính thức về sự điều hành địa phận: giới trẻ Công giáo, báo chí địa phận, hoạt động từ thiện, đời sống gia đình, việc truyền bá đức tin và những nhân viên cùng ủy ban giúp sức Giám mục.
Ngài cùng báo cáo về tình hình tài chính nữa. Các bạn biết rằng, mỗi năm cha sở phải báo cho Đức Giám mục tình hình tài chính và thiêng liêng của họ đạo. Tới luợt Đức Giám mục báo cáo đầy đủ cho Đức Thánh Cha.
Bởi vì, những bản báo cáo này từ khắp thế giới, nên Đức Giáo Hoàng – Đầu hữu hình của Giáo Hội, am tường tình hình diễn biến trên thế giới. Bạn và tôi có phần sống động trong bản báo cáo đó. Đức Thánh Cha quan tâm đến mọi phần tử trong gia đình nhân loại khắp mặt đất. Vì thế mà Franklin Roosevelt nài nỉ được đích thân làm quan sát viên cạnh Vatican.
Đức Giêsu sai phái các Tông đồ, và các Ngài báo cáo lại cho Chúa. Đức Giáo Hoàng sai phái các Giám mục, các ngài báo cáo lại cho Đức Giáo Hoàng. Đó thực là trở về sinh hoạt của các Kitô hữu lúc đầu.
Bản tường trình chính thức này cho những lời trong kinh nguyện Thánh Thể II ý nghĩa đặc biệt: “Lạy Chúa, xin nhớ đến Hội Thánh lan rộng khắp hoàn cầu. Để kiện toàn Hội Thánh trong đức mến, cùng với Gioan Phaolô II, Đức Giám mục… giáo phận chúng con và toàn thể hàng giáo sĩ. Bạn hãy cầu nguyện lời kinh này với ý nghĩa đó.
Xin Chúa chúc lành bạn.
37. Suy niệm của Noel Quesson.
HÃY LUI VÀO NƠI THANH VẮNG VÀ NGHỈ NGƠI.
Cuộc sống của Cha Sở xứ Ars cho ta thấy rõ sức mạnh chinh phục tâm hồn người ta là do Chúa. Thánh Gioan Vianney không tài giỏi, nhưng ngài luôn tích cực làm việc và tin tưởng ở Chúa. Hoạt động mục vụ của Cha Vianney xây dựng trên ba trục chính: đời sống khắc khổ hy sinh; tôn sùng Thánh Thể; phục vụ giáo dân qua lời giảng và nơi tòa giải tội.
Trong cuộc sống phục vụ các tâm hồn, người ta chỉ có thể thu lượm kết quả, một khi biết trau dồi đời sống nội tâm, và kết hiệp mật thiết với Chúa. Chính vì thế mà ngay sau khi nghe các Tông đồ báo cáo về những việc họ đã làm, Chúa truyền cho họ phải tìm chốn nghỉ ngơi, mặc dù đó là lúc người ta lui tới với các Tông đồ rất đông. Việc nghỉ ngơi nói đây không phải chỉ là việc giải lao bình thường, nhưng còn là một thời gian dành cho việc bồi dưỡng tinh thần. Trong thanh vắng, Chúa cho các Tông đồ hiểu: việc rao giảng Tin Mừng là chia sẻ cho người ta những gì mình ôm ấp trong tâm hồn. Nếu mình không học hỏi thêm, không suy nghĩ, không kiểm điểm về những điều mình biết và tin, thì vốn liếng niềm tin của mình sẽ nghèo đi. Còn gì để chia sẻ cho người khác nữa? Thời gian nghỉ ngơi là lúc các Tông đồ kiểm điểm đời sống để thấy điều gì cần sửa đổi, điều gì cần phải làm thêm cho sinh hoạt truyền giáo đạt kết quả. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm của các Tông đồ vậy. Nơi vắng vẻ cũng là nơi thuận tiện cho các Tông đồ cầu nguyện. Vì cầu nguyện cũng là trau dồi đời sống nội tâm. Cầu nguyện để được ơn Thánh Thần trợ giúp. Cầu nguyện để xin Chúa tác động vào các tâm hồn đã đón nghe Tin Mừng. Đó mới là phần chính yếu để việc truyền giảng Tin Mừng phát sinh hiệu quả.
Các Tông đồ trở về, cùng với Chúa đi vào nơi thanh vắng để học hỏi, để suy tư, để cầu nguyện. Cũng như sau thời gian phân phát lương thực cho người khác, các Tông đồ trở về nguồn để lấy thêm chất liệu, hầu có thể tiếp tục lên đường phục vụ.
Trở về với Chúa để học hỏi, suy tư và cầu nguyện là việc cần thiết, mọi người tín hữu phải làm trong cuộc sống Kitô hữu hôm nay. Vì chúng ta cũng được sai đi như các Tông đồ xưa. Sau một ngày, sau một tuần, chúng ta cũng cần có thời gian trở về với Chúa để kiểm điểm lại sinh hoạt tôn giáo, học hỏi lời Chúa và cầu nguyện. Cụ thể là ngày Chúa nhật, chúng ta có dịp thuận tiện để sống với cộng đoàn, được bồi dưỡng tinh thần và được Chúa sai đi chia sẻ cho anh chị em những gì mình đã lãnh nhận.
Lạy Chúa, xin tạo điều kiện cho chúng con được trở về với Chúa mỗi ngày, mỗi tuần trong việc gặp gỡ Chúa qua bí tích Thánh Thể, qua Thánh Kinh và qua bí tích hòa giải; nhờ đó chúng con lãnh nhận được mọi ơn cần thiết cho cuộc sống phục vụ hôm nay.
38. Mục tử.
Hôm nay chúng ta suy gẫm về Chúa Giêsu trong tư cách Người là vị Mục Tử của chúng ta.
Chúa Giêsu đã sai mười hai tông đồ ra đi rao giảng. Họ ra đi để thực hiện những việc Chúa đang làm: “Rao giảng về Nước Thiên Chúa, xua trừ ma quỷ, xức dầu và chữa lành cho các bệnh nhân”. Khi trở về, họ hết sức phấn khởi về các việc họ đã làm. Nhưng Chúa Giêsu đã thấy họ cần phải cẩn trọng. Họ đang ở trong tình trạng nguy hiểm của chủ nghĩa duy hoạt động, họ không còn thời giờ để ăn nữa. Vì vậy, Chúa bảo họ: “Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Vị mục tử hoạt động có hiệu quả không phải là người chỉ biết có làm việc mà thôi. Chúa Giêsu biết rõ sự làm việc quá độ sẽ dẫn đến kiệt sức. Vị mục tử nhân lành bảo các môn đệ hãy nghỉ ngơi đôi chút. Một sự nghỉ ngơi không chỉ để dưỡng sức phần xác mà còn để cho tâm hồn được bồi dưỡng nữa. Phải rời khỏi đám đông ồn ào, đến nơi thanh vắng để có thể chú tâm đến sự hướng dẫn của Thần Khí. Đây là mục đích của việc suy niệm hàng ngày, cầu nguyện trong thinh lặng trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Người môn đệ của Chúa Giêsu cần có một khoảng thời gian tách khỏi những công việc thường ngày và đi đến nơi thanh vắng để tĩnh tâm, để nhìn lại mục đích cuộc đời của mình. Chúa Giêsu từng đi lên núi một mình để hiệp thông với Chúa Cha trong thinh lặng của ban đêm. Mọi vị hướng dẫn các linh hồn đều cần hiệp thông với Thiên Chúa trong thinh lặng để được đón nhận sức sống từ Thiên Chúa.
Dân chúng cũng muốn được ở với Chúa Giêsu. Họ đã đi bộ vội vã đến nơi trước Chúa. Họ đói khát lời của Thiên Chúa và Chúa Giêsu không thể từ chối họ. Chúa biết nhu cầu của họ và Người đã giảng dạy cho họ. Bởi vì Chúa Giêsu luôn ở với Chúa Cha, nên các lời giảng dạy của Người đã nuôi dưỡng dân chúng bằng những chân lý phát xuất từ Thiên Chúa, những lời làm cho dân chúng trưởng thành hơn và được tự do. Chúa Giêsu là vị mục tử đích thật, là Đấng Mêsia.
Nhóm mười hai đang say men chiến thắng và đang nôn nóng hoạt động. Họ đang ngây ngất với những thành công và uy tín. Họ đang ở trong một mối nguy hiểm. Họ muốn ở lại giữa đám đông, vì họ đang lôi kéo được sự chú ý của dân chúng, họ không còn chú tâm đến Chúa Giêsu nữa. Chúa Giêsu là vị mục tử phải chăm sóc không chỉ cho dân chúng mà thôi, nhưng còn quan tâm đến các vị mục tử tương lai nữa. Các vị mục tử phải là “các tôi tớ phục vụ Lời”, nếu họ muốn trung thành với sứ vụ của họ. Vì thế, họ cần phải hiệp thông với Chúa Giêsu, Thầy của mình.
Lạy Chúa Giêsu, là vị Mục Tử tối cao, xin dạy con đường lối của Chúa.
39. Nghỉ ngơi.
Mục tử và đàn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái, vốn là dân du mục. Trong Cựu ước, các ngôn sứ thường dùng hình ảnh này để diễn tả mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Chẳng hạn trong bài đọc thứ nhất hôm nay, ngôn sứ Giêrêmia cho thấy Thiên Chúa hết lòng yêu thương chăm sóc dân, Ngài lên án những hành vi ngang trái của những mục tử xấu và hứa đặt những mục tử tốt lành khác để lãnh đạo dân. Hơn nữa, Chúa còn hứa ban cho dân một vị mục tử xuất thân từ dòng dõi Đavid để lãnh đạo dân Ngài trong công bình chính trực, đem lại cảnh thái bình thịnh vượng. Rồi Chúa Giêsu đến, các sách Tin Mừng cho biết: Ngài chính là vị mục tử tốt lành mà các ngôn sứ đã loan báo. Như thế, lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết một chút tâm tình của vị mục tử ấy, là Chúa Giêsu, qua lời Chúa nói với các môn đệ: “Anh em hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Lý do Chúa Giêsu bảo các môn đệ như vậy là bởi vì sau khi các ông vâng lệnh Chúa, từng hai người một, ra đi rao giảng khắp nơi, hôm nay, các ông trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết những việc đã làm và những lời đã giảng dạy. Có lẽ lúc đó các môn đệ đã mệt mỏi, thêm vào đó, Tin Mừng cho biết các ông không còn thời giờ ăn uống, vì có rất nhiều người đến xin các ông dạy dỗ và chữa bệnh. Thấy thế, Chúa bảo các ông tạm lánh đi để khỏi bị quấy rầy và tĩnh nghỉ một chút. Chúng ta thấy Chúa quan tâm đến các môn đệ và cảm thông với những vất vả của các ông. Nhưng Chúa quan tâm đến con người hơn là công việc, Ngài muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với thầy và với nhau. Tức là Chúa khuyên các môn đệ cần phải có thời gian yên tĩnh nghỉ ngơi và được bồi dưỡng để có thể duy trì hoạt động được lâu bền, bởi vì nghỉ ngơi cũng là để phục vụ hữu hiệu và lâu dài hơn, cũng như muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi lấy sức, thì muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, cần phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.
Qua đó Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta biết: dù phải bon chen, đầu tắt mặt tối lo cho đời sống, dù phải ngược xuôi vất vả trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta cũng phải biết dành thời giờ để hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ. Vì có hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ chúng ta mới thấm thía ý nghĩa cuộc đời, mới đối diện với chính mình và liên lạc trực tiếp với Thiên Chúa. Sự hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ như thế thật quan trọng, cần thiết và ích lợi.
Một văn sĩ Ấn Độ, tên là Mukedi, một hôm hỏi thầy giáo cũ của mình, là một tu sĩ dòng Bênarét: “Thưa thầy, thời gian còn ở Mỹ châu, con có quen biết một người tên là Uyn-sân. Ông ấy ôm ấp một lý tưởng và đã viết ra thành 14 khoản, rồi ra sức phổ biến lý tưởng ấy, nhưng vô hiệu, không mang lại kết quả gì, xin thầy chỉ giáo cho con biết tại sao ông ta thất bại?” Vị tu sĩ hỏi: “Con người 14 khoản ấy có biết yên lặng và suy nghĩ mỗi năm một khoản không? Ông ta có kiểm điểm thường xuyên để rút ưu khuyết điểm đem lại cho mỗi khoản một nguồn sống không?” Mukedi thưa: “Thưa thầy con không tin như vậy”. Tức thì mặt vị tu sĩ xuất thần, sáng lên và nói lớn: “Thảo nào, thảo nào, thất bại là ở đó”.
Ông Uynliam Phinlơ, một doanh nhân thành đạt, lúc đầu sống rất chật vật và nghèo khổ, sau làm nghề viết báo, rồi mở nhà in, lợi nhuận hàng năm thu vào rất nhiều. Ông viết một quyển sách kể về những kinh nghiệm của đời ông. Ngay trang đầu tiên có những dòng chữ sau: “Có bao giờ các bạn đã thử sống một mình trong căn phòng, không đọc sách báo, không nghe radiô hay ca nhạc, không xem tivi, không làm gì hết, một mình với những ý tưởng để suy nghĩ. Các bạn cứ thử xem, một chiều im lặng, mình với mình thôi, sẽ giúp cho các bạn biết mình, biết người, và chắc chắn các bạn sẽ thành công”.
Quả thực, có người đã nói: “Tất cả những cái chúng ta làm ra là kết quả của tư tưởng”. Đúng thế, từ cái bút máy, đồng hồ, máy may, rađiô, tivi, máy tính, xe đạp, ô tô, phản lực, hỏa tiễn, phi thuyền… đều do đầu óc mà ra, có nghĩa là do suy nghĩ. Niu-tân, một nhà bác học thời danh, rất thông minh và có tài đặc biệt, một lần có người hỏi ông: “Bằng cách nào ông đã phát minh được nhiều cái mới lạ như vậy?” Ông trả lời: “Bằng cách luôn luôn suy nghĩ”. Nhờ suy nghĩ, do một thùng nước sôi làm bật vung, người ta đã chế tạo ra máy hơi nước. Nhờ suy nghĩ, từ những màng nhện giăng ở trong vườn, người ta đã phát minh ra cách làm cầu treo. Nhờ suy nghĩ, do chiếc đèn chầu đưa qua đưa lại mỗi khi bị va chạm, người ta đã tìm ra được luật đồng hồ. Nhờ suy nghĩ, Âu tinh dứt bỏ được cuộc đời tội lỗi bê tha để trở nên một vị đại thánh thời danh. Nhờ suy nghĩ câu “Lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn ích gì” mà Phanxicô Xaviê đã đổi hướng cuộc đời, từ danh vọng thế trần sang con đường đạo đức, quên mình đi truyền giáo. Chính Chúa Giêsu cũng sống âm thầm suy nghĩ suốt 30 năm trước khi công khai đi rao giảng. Rồi trong những năm giảng dạy, cho dù bận rộn với biết bao công việc, Chúa vẫn thường tìm nơi thanh vắng để hầu chuyện với Chúa Cha.
Chúng ta cũng vậy, trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới thấm thía ý nghĩa của đời người: phải làm ăn, tranh đấu, lam lũ với nghề nghiệp, lo miếng cơm manh áo cho mình và gia đình. Thật là nhiêu khê đến mệt óc, mỏi tim. Lo lắng, bon chen, vất vả, nhưng cuối cùng sẽ được gì? Sẽ đi về đâu? vì sống là gửi, thác là về. Trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới biết tại sao vẫn chưa mến Chúa tận tình, vẫn chưa yêu người như Chúa truyền, vẫn chưa hiền lành, nhịn nhục, chịu khó, thông cảm và tha thứ? Trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới thấy linh hồn là quý, linh hồn ấy đòi làm lành lánh dữ, cần sống đời Kitô cho nghiêm chỉnh, và mới biết mình đang làm lợi hay hại cho linh hồn.
Tóm lại, qua lời Chúa khuyên bảo các tông đồ, Chúa cho chúng ta biết sự quan trọng, cần thiết và ích lợi phải hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ để tìm lại chính mình, hoặc để nghỉ ngơi. Đây không phải là chuyện vô ích, nhưng là chuyện thuộc về nhu cầu sống của chúng ta, nhờ đó tâm hồn chúng ta sẽ thanh thản hơn, thân xác chúng ta sẽ khỏe mạnh hơn, và chắc chắn đời sống chúng ta sẽ thoải mái và tốt đẹp hơn.
40. Kiểm thảo.
Các con hãy vào nơi vắng vẻ.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi, nhưng đồng thời cũng để kiểm điểm lại, sau những cuộc hành trình truyền giáo đầy gian nan vất vả.
Với chúng ta cũng thế, giữa dòng đời huyên náo, bon chen và ồn ào với những âm thanh thừa thãi, chúng ta cũng hãy dành lấy những giây phút thinh lặng, để cầu nguyện và kiểm điểm về cuộc sống của mình, từ tư tưởng, lời nói cho đến việc làm, xem có điều chi sai quấy và đi trái với lệnh truyền của Chúa.
Sau đây, tôi xin gợi lên một vài điểm để chúng ta cùng nhau suy nghĩ và xét mình.
Thứ nhất là về đời sống cá nhân:
Người ta thường nói:
- Việc người thì sáng, việc mình thì quáng.
Sống trên đời, chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ phía trước mặt đựng những sai lỗi của người khác. Cái giỏ phía sau lưng đặt những sai lỗi của bản thân. Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ và lên tiếng phê bình chỉ trích gắt gao những sai lỗi của người khác. Trong khi đó, những sai lỗi của bản thân thì lại không nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy, cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực và bào chữa.
Vì vậy, người ngoài thường nhìn thấy rõ những khuyết điểm của chúng ta, còn chính chúng ta lại không nhìn thấy.
Hai người chửi nhau, đánh nhau và có khi kiện nhau, thì mấy khi có người nhận mình đã sai lỗi. Có những người không ưa chúng ta, thì kêu ca và trách móc, bảo chúng ta là thế nọ thế kia, nhưng chính chúng ta lại không nhìn thấy và không nhận lỗi. Mẹ chồng nàng dâu ai cũng bảo mình là phải, vì thế mới có mâu thuẫn, xích mích va chạm và chiến tranh.
Crexley là một tên cướp nổi tiếng ở Nữu ước với biệt hiệu là hai súng vì trong mình hắn lúc nào cũng có hai khẩu súng. Một hôm bị cảnh sát bao vây trên một cao ốc. Một tay hắn bắn lại, còn một tay thì nguệch ngoạc viết một hàng chữ như sau:
- Dưới lớp áo này, trái tim tôi vẫn ngập tràn tình thương và không muốn hại ai.
Trong khi đó, tòa án kết tội hắn là một tên giết người không biết gớm tay.
Bởi đó, phải biết dừng lại để kiểm điểm xem mình là ai và như thế nào, đồng thời đánh giá đúng mức dư luận người khác nghĩ về mình. Bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:
- Ai khen ta mà khen phải ấy là bạn ta, còn ai chê ta mà chê phải, ấy là thày ta.
Thứ hai là về đời sống gia đình.
Vợ chồng có hòa thuận đoàn kết và yêu thương, hay ông nói gà bà nói vịt, trống đánh xuôi kèn thổi ngược, để rồi luôn có sự xích mích đôi co.
Với con cái, có biết lưu tâm dạy dỗ và giáo dục, nhất là về phương diện đạo đức và luân lý, như dạy bảo kinh bổn, nhắc nhở làm những việc thiêng liêng hay là chúng ta lại làm ngơ và thả lỏng.
Có một câu danh ngôn đã khuyên những bậc làm cha làm mẹ như sau:
- Thà rằng, hiện giờ con cái phải khóc vì được cha mẹ dạy bảo, còn hơn là sau này chính cha mẹ phải khóc vì con cái mình ngang bướng ngổ nghịch.
Thứ ba là về đời sống xã hội:
Chúng ta có biết tránh đi những chuyện gây bất hòa cho bà con lối xóm, như thả gà vịt, trâu bò, phá phách hoa màu người khác? Có biết tránh đi thái độ bênh con cái, có bé xé ra to và thổi phồng những chuyện con nít hay không?
Khi hàng xóm có việc như ma chay cưới hỏi, chúng ta có biết chia vui sẻ buồn, giúp đỡ họ trong những hoàn cảnh như vậy hay không? Cùng sống trong một giáo xứ, chúng ta có biết góp phần xây dựng cho công ích, hay chỉ đứng ngoài làm giám độc, giám xúi chứ không dám làm. Tay chúng ta không làm, nhưng miệng chúng ta thì chỉ toàn phun ra những lời phê bình chỉ trích.
Chúng ta có biết yêu thương đùm bọc lấy nhau hay chia thành năm bè bảy mối, vu oan tố giác kẻ khác, cuối cùng cũng chỉ là làm cỗ cho thiên hạ xơi. Chúng ta có biết thông cảm, hòa giải và xích lại gần nhau, hay mượn cơ hội để trả thù và báo oán.
Sau cùng là về đời sống đạo đức.
Chúng ta có siêng năng đọc kinh tối sớm, xưng tội rước lễ, hay thảng hoặc mới tới nhà thờ. Chúng ta có thực sự là một tín hữu biết sống niềm tin của mình hay chúng ta chỉ là những kẻ mang danh hiệu Kitô hữu, có tên trong sổ Rửa tội mà không hề sống đạo.
Đó chỉ là mấy điều gợi ý để chúng ta kiểm thảo và nhìn rõ con người của mình, vì như người xưa vốn thường khuyên:
- Này bạn, bạn hãy biết mình bạn.
41. Bốn vị mục tử – Lm. Mark Link, S.J.
Người có tên tuổi lẫy lừng nhất trong việc đấu tranh cho dân quyền vào thập niên 50 và 60 là Martin Luther King. Ông là nhà lãnh đạo được hành triệu dân Mỹ Châu da đen ủng hộ. Họ xem ông như vị anh hùng, người xướng ngôn đồng thời cũng là mục tử của họ. Nếu không có ông, vào những năm ấy đám dân da đen có lẽ chả khác gì đám dân bơ vơ lạc lõng được nhắc đến trong Phúc Âm hôm nay. Đám dân này được ví như bầy cừu không ai chăn dắt. Cũng giống như Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài thuở xưa, King và các đồng sự ông thường khó được yên thân đi tìm cho mình một chốn an bình vắng vẻ để nghỉ ngơi. Chẳng hạn, một đêm nọ, sau một ngày làm việc mệt nhoài trong vùng Montgomery thuộc bang Alabama, King leo lên giường ngủ bên cạnh bà Coretta vợ ông. Lúc này bà đã ngủ say. Nhưng ông vừa mới chợp mắt thiêm thiếp thì chuông điện thoại vang lên. Ông vội choàng dậy ngay để khỏi làm bà Coretta thức giấc. Lúc bấy giờ một giọng nói giận dữ bên đầu dây kia vọng ra: "Này anh chàng da đen, hãy nghe đây, chúng tôi không cần đến anh nữa, bắt đầu tuần tới xin ông vui lòng đừng bén mảng tới Montgomery nữa"... Nói thế rồi kẻ gọi điện cúp máy ngay. Bất thình lình bao nhiêu nỗi sợ hãi chụp xuống trên người Luther King như một toà nhà đang đổ xuống. Lòng can đảm của ông hầu như bị tiêu tan. Ông đứng dậy đi vào nhà bếp pha một ly cà phê uống cho ấm dạ, đoạn ngồi xuống lặng lẽ suy nghĩ phương cách thoát ra khỏi cảnh ngộ ở Montgomery mà không mang tiếng là một kẻ hèn nhát.
Lúc bấy giờ với chút ít can đảm còn sót lại, ông gục đầu khấn xin Chúa bằng những lời sau đây: "Lạy Chúa, con đang đảm nhận sứ vụ mà con nghĩ rằng chính đáng, nhưng giờ đây con vô cùng sợ hãi. Dân chúng đang mong chờ con lãnh đạo, và nếu con tỏ ra khiếp nhược thì chính họ cũng sẽ trở nên yếu hèn nhát đảm. Nhưng con đang ở nẻo đường cùng và chẳng biết phải làm sao đây. Con không thể nào một mình đương đầu nổi trách nhiệm này nữa".
Đoạn nổi bật nhất trong lời cầu nguyện của Tiến sĩ King là câu này: "Dân chúng đang trông chờ con lãnh đạo họ và nếu con tỏ ra khiếp nhược thì họ cũng sẽ trở nên nhát đảm". Nếu cần mượn lại cách diễn đạt của bài Phúc Âm hôm nay, lời cầu ấy có thể diễn tả cách khác như sau: "Họ sẽ trở nên như bầy chiên không người chăn".
Tất cả các cha sở cha phó, các giáo sư, các bậc cha mẹ đều có thể dùng những lời cầu nguyện trên của tiến sĩ King để áp dụng cho chính mình. Thực thế, có nhiều lúc trong đời, chúng ta cảm thấy sợ hãi trước trách nhiệm lãnh đạo của mình. Có nhiều lúc trong đời, chúng ta cảm thấy không thể nào vác nổi gánh nặng đè trên chúng ta. Có nhiều lúc trong đời chúng ta cảm thấy như muốn kêu lên giống Chúa Giêsu trong vườn Giêtsimani: "Cha ơi, nếu có thể được xin cất chén đắng này xa con" (Mt 26: 39)
Trong những cơn khủng hoảng như thế này, chúng ta nên làm gì? Chúng ta nên làm điều Chúa Giêsu đã làm. Chúng ta nên làm điều Martin Luther King đã làm. Chúng ta nên làm điều các Kitô hữu luôn luôn làm, đó là cầu nguyện cùng Thiên Chúa.
Ngay sau khi Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài trong vườn Giêtsêmani, thì theo lời kể của thánh Luca: "Một thiên sứ từ trời hiện đến an ủi đỡ nâng Người" (Lc 22: 43). Và ngay sau khi Tiến sĩ King cầu khấn cùng Chúa vào cái đêm đáng ghi nhớ ở Montgomery đó, ông nói rằng ông đã cảm nhận được "sự hiện diện nâng đỡ của Chúa mà trước đó ông chưa hề cảm thấy".
Bài đọc này quả thực rõ ràng đối với chúng ta khi chúng ta cảm thấy bị đè bẹp dưới một gánh nặng nào đó, chúng ta nên bắt chước Chúa Giêsu và Martin Luther King dâng lời cầu nguyện lên cùng Chúa.
Một trong những vị chỉ huy quân đội Liên Bang trong cuộc nội chiến Nam Bắc Mỹ là tướng Sickles. Ông kể cho chúng ta biết ngay trước trận đánh ở Gettysburg, Tổng thống Lincoln cảm thấy trách nhiệm đè nặng trên vai mình. Lập tức ông cầu nguyện với Chúa. Chính Lincoln đã nói về lần cầu nguyện ấy như sau: "Chưa bao giờ tôi cầu nguyện hăng say đến thế. Phải chi tôi có thể lập lại nguyên vẹn lời nguyện này. Tôi cảm thấy mình cần phải đặt tất cả niềm tín thác nơi Thiên Chúa tối cao. Chỉ một mình Ngài mới có thể cứu đất nước khỏi sự diệt vong sau khi quì gối đứng lên, tôi cảm thấy lời cầu xin đã được Chúa chấp thuận. Tôi chắc chắn rằng lời cầu nguyện đã có kết quả". Cũng một cách thức tương tự nhưng hơi khôi hài hơn, Harry Truman đã kể cho các phóng viên sau ngày đầu tiên nhận chức Tổng thống của ông: "Các bạn thân mến, nếu các bạn đã từng cầu nguyện thì xin hãy cầu nguyện cho tôi lúc này đây. Tôi chẳng bíết quí bạn đã từng bị bó cỏ khô nào đè trên người chưa, chứ nếu các bạn hỏi tôi về những gì đã xẩy đến cho tôi ngày hôm qua, thì tôi xin thưa là tôi đã cảm thấy như mặt trăng, các vì sao và các tinh tú đổ sụp xuống trên tôi vậy".
Khi cảm thấy trách nhiệm đè nặng trên mình, cả bốn vị lãnh đạo: Chúa Giêsu, Abraham Lincoln, Harry Truman, Martin Luther King đều đã làm cùng một hành vi, đó là cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Và cả bốn vị đều được Chúa ban lòng can đảm và sức mạnh để tiếp tục bổn phận hướng đạo dân chúng. Ịó là một sứ điệp thực tiễn đối với chúng ta. Có thể tóm tắt như sau: khi nào cảm thấy gánh nặng đè xuống trên mình, chúng ta cũng phải biết cầu nguyện cùng Chúa. Và Chúa sẽ ban sức mạnh cho chúng ta như Ngài đã từng nâng đỡ bốn vị mục tử nói trên.
Để kết thúc, chúng ta hãy lập lại Thánh vịnh đáp ca ngày hôm nay:
Chúa là mục tử tôi, tôi nào thiếu thốn chi. Ngài hướng dẫn tôi qua đường chính nẻo ngay vì danh Ngài. Dù bước đi trong thung lũng tối tăm, tôi chẳng hề lo sợ. Dù bị đè bẹp dưới muôn gánh nặng, tôi cũng không nao núng. Vì Chúa bước đi cạnh tôi. Ngài củng cố và tăng sức mạnh cho tôi. Khi đời tôi bước vào buổi xế chiều như mặt trời xế bóng, Ngài sẽ mang tôi vào nhà Ngài, để tôi được sống với Ngài muôn đời muôn kiếp.
42. Nghỉ ngơi.
Sau hơn một tháng trời vâng lời Chúa ra đi truyền giáo, các môn đệ trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn đệ và nhận thấy các ông có vẻ thấm mệt, nên Chúa bảo: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên thật ý nghĩa và cần thiết.
Chúng ta phải công nhận Chúa Giêsu rất hiểu tâm lý con người. Bởi vì làm việc nhiều rồi thì dĩ nhiên mệt mỏi, nên cần phải nghỉ ngơi đôi chút để lấy lại nghị lực, rồi mới có thể tiếp tục làm việc được. Đó là điều dễ hiểu thôi. Anh chị em hãy nghĩ xem: có khi nào người ta bắt con ngựa chạy suốt ngày đêm, hết ngày đêm này qua ngày đêm khác không? Làm vậy người chủ sẽ được lợi lộc nhiều, nhưng chắc chắn không được lâu dài vì con ngựa sẽ chết yểu. Con ngựa mạnh hơn chúng ta nhiều, nhưng chúng ta cao quí hơn con ngựa nhiều. Vậy tại sao chúng ta cho nó thì giờ nghỉ ngơi sau một thời gian hoạt động để nó thảnh thơi ung dung gặm cỏ, mà chúng ta lại bắt chính mình vất vả, bù đầu mãi trong công việc? tại sao chúng ta quí trọng sức khỏe của con ngựa mà quên sức khỏe của mình?
Làm bất cứ công việc gì cũng vậy mà không biết nghỉ ngơi thì kết quả cũng kém và không tốt đẹp. Chúng ta hay quên chúng ta có thể xác, nó là một bộ máy rất tinh vi, rất mỏng manh, chỉ được sử dụng theo một chừng mực nào đó thôi. Còn tinh thần, tự bản chất, không biết mệt, nhưng vì làm việc tùy thuộc vào thể xác, nên cũng mệt với thể xác. Nếu chúng ta bắt thần kinh chúng ta lúc nào cũng căng thẳng như giây đàn, thì nếu chúng ta không chết yểu, chắc làm việc cũng không đắc lực bao nhiêu.
Vì thế, nghỉ ngơi sau khi làm việc mệt nhọc là điều quan trọng và cần thiết. Nghỉ ngơi có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúng ta ai cũng kinh nghiệm điều này: mỗi khi đi đâu xa về hoặc sau khi làm việc mệt nhọc, chúng ta muốn nghỉ ngơi một chút cho thoải mái, chứ chưa cần ăn uống. Hơn nữa, nghỉ ngơi còn được coi là liều thuốc bổ tự nhiên không tốn tiền, nên người ta còn khuyên phải biết nghỉ ngơi trước khi mệt mỏi nữa.
Chúng ta cần nghỉ ngơi, nghỉ ngơi vậy thôi, và cả nghỉ ngơi trong Chúa nữa. Anh chị em thử nghĩ xem: có phải cuộc đời chúng ta và hầu hết thời giờ của chúng ta bị công việc làm ăn, nghề nghiệp hoặc những công việc linh tinh, không tên tuổi, chiếm hết không? Ban ngày làm việc, tối về lại nghĩ đến việc làm: mở mắt ra đã làm, đã bắt đầu rộn rã với mọi thứ việc. Chúng ta ngày nay khác hẳn với các cụ cha ông chúng ta ngày xưa: ngoài những công việc cấp bách ra, các cụ không còn thấy việc gì bắt buộc phải lưu tâm tới vấn đề thời gian. Các cụ làm việc tuy vất vả, nhưng vẫn thong dong thoải mái. Cứ sáng ngày, thấy mặt trời ló dạng là đi làm. Chiều tối thì ngồi lại với nhau uống trà, thưởng trăng, nói chuyện phiếm.
Chúng ta bây giờ thì khác hẳn. Nhịp sống được đo đắn cẩn thận bằng cái mà chúng ta gọi là đồng hồ. Ai cũng đeo ở tay một chiếc đồng hồ, lâu lâu lại nhìn vào, lo lắng, sốt ruột. Khi ở sở làm thì sốt ruột trông cho mau được về. Về nhà thì sốt ruột đi làm việc này việc khác. Người ta có cảm tưởng cuộc sống là một chiếc đèn cù, lửa đốt lên là bắt đầu chạy, chạy tưng bừng, rộn ràng, vội vã và chạy vòng tròn, nghĩa là ngày nào cũng thế, cũng những việc ấy, cũng những vất vả ấy, cũng nhọc mệt ấy… Có khi chúng ta làm việc đến quên mình và có thể quên cả Chúa luôn.
Vì thế, có người đã nói rằng: khuyết điểm lớn nhất của thời đại văn minh tiến bộ ngày nay, cách riêng ở thành phố, là không biết nghệ thuật nghỉ. Người ta luôn luôn đứng núi này trông núi nọ. Làm việc này chưa xong đã thèm làm việc khác. Chúng ta chỉ sống về tương lai mà không biết sống cho hiện tại. Tâm hồn chúng ta bị xâu xé, dằn vặt, kích thích bởi muôn thứ nhu cầu. Cho nên, thời nay chúng ta thấy có nhiều người mắc những chứng bệnh: mất ngủ, nhức đầu, đau tim, đau thần kinh, nhiều người bị áp huyết cao, và hình như có nhiều người mát, tưng tửng, dở dở, ương ương, khùng khùng nữa…
Tóm lại, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy bảo chúng ta: không những chúng ta phải hăng say làm việc, làm việc hết mình, nhưng cũng phải biết dành thời giờ để nghỉ ngơi nữa. Như thế, chúng ta sẽ được khỏe mạnh hơn, phấn khởi hơn, yêu đời hơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhớ rằng: đã đành làm việc rồi thì cũng phải có lúc nghỉ. Nhưng giờ nghỉ đi sau giờ làm việc chứ không đi sau sự lười biếng. Chỉ có những người đã làm việc mới cần nghỉ. Ai không làm việc mà cũng nghỉ là một người lười.
Vì vậy, “Hãy nghỉ ngơi đôi chút” như Chúa Giêsu nói, không phải là một việc hao phí thời giờ. Trái lại, đó là một lối bồi dưỡng tinh thần: nghỉ ngơi để cho thể xác và tinh thần được thư giãn, khỏe mạnh, tỉnh táo, sáng suốt hơn. Cho nên, người biết nghỉ là người có triết lý vừa sâu xa vừa thực tế, hiểu rõ chân giá trị của cuộc sống và ý nghĩa thâm thúy của đời người.
43. Chăm sóc.
Một lần kia, có người đàn ông đến gặp bạn của mình, là giáo sư của một trường đại học lớn. Tuy nhiên, vì họ ngồi nói chuyện phiếm trong phòng giáo sư, nên liên tục bị gián đoạn bởi các sinh viên đến gõ cửa, họ tìm giáo sư để xin hướng dẫn về điều này, điều nọ. Mỗi lần như thế, ông giáo sư từ ghế đứng lên, đi đến cửa, đáp ứng yêu cầu của sinh viên. Bất ngờ, người bạn đến thăm hỏi ông giáo sư: “Bạn xoay xở thế nào để làm được việc với quá nhiều lần gián đoạn như thế?”
Ông giáo sư trả lời. “Lúc đầu, tôi luôn bực bội vì công việc của mình bị gián đoạn. Nhưng một ngày kia, thình lình tôi thấy rõ rằng những lúc bị gián đoạn cũng là công việc của tôi”. Ông giáo sư có thể khóa kín cửa lại, và dành hết thời gian cho công việc riêng của ông. Theo cách này thì không chút nghi ngờ, ông đã có một đời sống yên tĩnh hơn. Nhưng vì là một người quảng đại và vị tha, ông không thể làm như vậy. Trái lại ông sẵn sàng phục vụ các sinh viên mà ông yêu mến. Và không lạ gì ông là một giáo sư hạnh phúc nhất và mãn nguyện nhất trong trường.
Lòng vị tha không bao giờ dễ dàng. Tuy nhiên, có lúc nó dễ dàng hơn những lúc khác. Nó dễ dàng hơn khi chúng ta có thể hoạch định công việc chúng ta thật tốt – Khi công việc do chính chúng ta chọn lựa hợp lý và ít gây ra khó chịu, giằng co. Trong những lúc khác, lòng vị tha đặc biệt khó khăn khi công việc do chính chúng ta chọn lựa, chúng ta không cảm thấy hợp lý và khi nó trào dâng lên trong chúng ta những rắc rối, khó xử. Trong trường hợp ấy, chúng ta phải quên chính mình và để sang một bên những cảm giác và dự định của chúng ta. Nó đòi hỏi một sự hy sinh thật sự.
Một hành vi nhân hậu được xét đoán không phải bởi sự quan trọng của nó nhưng bởi sự đột phá mà nó gây ra trong đời sống của người thực hiện hành vi ấy. Đó là một trắc nghiệm tấm lòng cao cả đối với người đang có nhiều dự tính, họ phải đặt qua một bên những dự định riêng của họ để giúp đỡ người khác.
Đối với chúng ta, biết được Đức Giêsu cũng phải đối phó với sự gián đoạn quả là một niềm an ủi. Người cũng gặp những lúc mà kế hoạch đã bị đảo lộn. Tin mừng hôm nay nói với chúng ta rằng Người nhận được nhiều lời cầu xin đến nỗi Người và các tông đồ không có thì giờ để ăn uống. Tuy nhiên đến một lúc nào đó, Người đã quyết định như thế là đủ và đưa các tông đồ đến chỗ thanh tĩnh để nghỉ ngơi. Người không dành thời gian này cho mình và cho các tông đồ. Họ vừa mới trở về từ sứ vụ mà Người đã sai họ. Người đã nhìn thấy họ cần được nghỉ ngơi. Vì thế Người quyết định đưa họ đến nơi yên tĩnh. Những người chăm sóc kẻ khác cũng cần được chăm sóc.
Tuy nhiên sự việc diễn tiến không như dự kiến. Dân chúng đã đi theo các ngài. Đức Giêsu phản ứng như thế nào? Không hề bực dọc, Người tiếp đón dân. Điều này nói với chúng ta nhiều về cung cách nhân từ của Người. Người xúc động vì thương xót họ. Người thấy họ như bầy chiên không người chăn dắt. Những bậc thầy chính thức không có thời gian dành cho dân thường. Nhưng Đức Giêsu dành thời gian cho họ. Đó là lý do họ lũ lượt đi theo Người. Quan tâm chăm sóc không bao giờ là việc dễ dàng. Một số người muốn chăm sóc chút ít, với điều kiện theo cách của họ, không quá phiền hà và không đảo lộn những dự tính của họ. Nhưng hãy chăm sóc như Đức Giêsu đã làm, khi những kế hoạch của mình bị đảo lộn, đây là một trắc nghiệm tốt nhất. Lúc nào các bậc cha mẹ cũng làm việc đó. Bao nhiêu lần họ đã trỗi dậy trong đêm để ngắm nhìn đứa con của họ?
Tất cả chúng ta đều có khả năng chăm sóc. Nhu cầu chăm sóc con người là rất lớn. Sự thờ ơ đang lan rộng phổ biến trong xã hội chúng ta. Có nhiều dân tộc trên thế giới giống như bầy chiên không người chăn dắt. (Bạn hãy cho vài ví dụ). Khi chúng ta chăm sóc người khác, chúng ta đang sống Tin Mừng.
Bị người khác làm gián đoạn, ngắt quãng có thể là một điều tốt. Chúng ta nhờ thế mà tránh được sự quan tâm quá đáng về chính mình. Tính ích kỷ là một thứ nhà tù. Mặt khác, tình yêu thương đem lại tự do cho chúng ta. Đức Tổng giám mục Kelder Camara nói: “Bạn hãy chấp nhận những sự bất ngờ làm đảo lộn kế hoạch của bạn, làm tiêu tan những giấc mộng của bạn và làm cho dự định trong ngày hoàn toàn đổi hướng và … Nào ai biết được?.. Có khi cả đời sống bạn. Đó không phải là sự tình cờ. Bạn hãy để Thiên Chúa được tự do kết dệt những đường nét của bạn mỗi ngày”.
44. Mục tử.
A-mốt là một người chăn dắt một bầy gia súc lớn. Hôm nay, đến lượt ông làm người canh gác. Đêm lạnh lẽo cắt da, một làn sương mỏng bắt đầu rơi, ông phải kéo chiếc áo ấm nặng sát vào người. Trong lúc đang đứng run rẩy thì tâm trí ông quay trở về thuở ấu thơ.
Ngay từ khi còn trẻ. Ông yêu chiên cừu và muốn cống hiến đời ông cho chúng. Nhưng trong những ngày xa xưa ấy, ông rất ngây thơ. Tâm hồn trẻ trung của ông đầy những ý tưởng lãng mạn. Đối với ông, một mục tử là một người yêu thương đàn chiên và tận tụy vì chúng. Còn gì đơn giản hơn? Nhưng giờ đây, mắt ông đã mở ra. Nhiệm vụ chăn dắt đã chuyển thành một việc phức tạp và nhiều yêu sách hơn ông nghĩ.
Chỉ một việc ấy đã bao hàm nhiều việc khác. Những lúc đó, ông thích làm một người thợ xây hơn là một người mục tử, đến nỗi ông bỏ nhiều thời gian để xây dựng những bức tượng và những hàng rào. Những lần khác, công việc đòi hỏi ông khả năng dự báo thời tiết. Những lần khác nữa sự chăn dắt đòi ông phải có chuyên môn về giải phẫu thú y và kỹ năng của một người săn thú dữ chuyên nghiệp. Và tối nay, ông là người canh gác, mất hút trong sự thinh lặng của đêm tối.
“Thực tại và mơ mộng khác nhau biết bao”, ông tự nhủ. Nhưng lúc ấy có một tiếng nói khác vang lên “Giờ đây, bạn phó mình cho may rủi để nghiêm chỉnh trở thành điều mà bạn đã ngây thơ mơ mộng lúc khởi đầu. Không có ai sinh đã là mục tử. Người ta trở thành một mục tử”.
Một mục tử được dùng trong Kinh Thánh như một hình ảnh chăm sóc con người. Vì thế Thiên Chúa được mô tả như vị Mục Tử của dân Người. Và Thiên Chúa đã chỉ định những thủ lãnh. Họ sẽ trở thành những người chăn dắt dân Thiên Chúa. Trong bài đọc 1 hôm nay, rõ ràng họ đã không làm tròn bổn phận của họ.
Thiên Chúa tố giác các thủ lãnh của Israel bởi vì họ đã thờ ơ đối với dân chúng. Sự thờ ơ là một điều xấu. Vì thế đó là tiếng kêu khóc mà ngày nay, mà người ta vẫn thường nghe thấy: “Các ông không chăm sóc, lo lắng cho tôi”. Hoặc người ta có thể nói về các nhà lãnh đạo của mình. “Họ chỉ lo cho họ”. Một đôi khi, điều đó hơi thái quá, nhưng khổ nỗi phần lớn lại xác đáng.
Mẹ Têrêxa kể lại một ngày nọ, mẹ đến thăm nhà nuôi các cụ già ở Thụy Điển. Mọi việc đều trôi chảy. Thức ăn ngon. Nhân viên đều được đào tạo và đối xử với các cụ rất tốt. Dường như đó là nơi lý tưởng cho những ngày còn lại của cuộc đời.
Trong nhà ấy, có khoảng 40 người già. Xem ra các cụ có đủ những thứ cần thiết. Tuy nhiên khi mẹ rảo quanh một vòng, mẹ nhận thấy không có cụ nào mỉm cười. Mẹ cũng nhận ra một việc khác. Họ cứ nhìn ra cánh cổng. Mẹ hỏi một chị điều dưỡng tại sao lại thế.
Chị điều dưỡng đáp: “Họ mong ngóng có người đến thăm họ”. “Lúc nào họ cũng nhìn ra và suy nghĩ “Có lẽ là con trai tôi, có lẽ là con gái tôi, có lẽ là một người nào đó sẽ đến thăm tôi hôm nay”. Nhưng không một ai đến, và ngày nào cũng thế”.
“Không một ai đến!” Câu nói này ám ảnh mẹ Têrêxa. Những cụ già này đã bị gia đình đưa vào đây và bỏ rơi họ. Hơn thế nữa, cảm giác bị bỏ rơi là nỗi đau khổ nhất.
Đôi khi, một người không còn sự chọn lựa nào khác hơn là đưa cha mẹ già vào viện dưỡng lão. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là với tinh thần như thế nào. Một người có thể đưa cha mẹ già vào viện dưỡng lão để rồi bỏ rơi họ, trong khi người khác đến thăm cha mẹ một cách đều đặn.
Một Kitô hữu không chăm sóc đến người khác giống như một ngọn đèn không cho ánh sáng. Nhưng chăm sóc không bao giờ là một việc dễ dàng. Dù vậy, tất cả chúng ta đều có khả năng chăm sóc. Điều cần đó là một tâm hồn rộng mở. Khi chúng ta chăm sóc là lúc chúng ta sống Tin Mừng.
45. Lòng thương.
Các cố vấn xã hội và các bác sĩ trị liệu được dạy rằng khi đối xử với bệnh nhân, lúc nào họ cũng phải làm chủ cảm xúc của mình. Họ phải duy trì một khoảng cách nào đó. Lời khuyên này rất ý nghĩa. Mặt khác họ có thể không kiên định giữ một quan điểm cần thiết. Họ có thể bị bệnh nhân hoặc đối tượng lôi kéo và nguy cơ bị “đốt cháy”. Vì thế, lúc nào họ cũng phải giữ sự lãnh đạm nghề nghiệp.
Vì thế sự lãnh đạm và cách biệt ấy có thể được đẩy quá xa. Phẩm chất của mối quan hệ giữa bác sĩ trị liệu và bệnh nhân có thể còn quan trọng hơn các phương pháp và kỹ thuật. Thái độ lạnh lùng, cách biệt, không thiện cảm của người trị bệnh không có lợi cho việc chữa lành. Bệnh nhân phải cảm nghiệm sự ấm cúng, thiện cảm và sự chăm sóc mà khi đã lành bệnh, sẽ được thay thế bằng sự biến đổi và trưởng thành.
Những nhà tâm lý trị liệu thành công nhất là những người có khả năng bày tỏ sự ấm cúng và thấu cảm. Việc trị liệu tiến hành tốt nhất khi nhà trị liệu xúc động. Vì hoàn cảnh của bệnh nhân, và không ngần ngại cho bệnh nhân thấy điều đó. Nhà phân tâm học nổi tiếng Carl Jung nói “Tôi biết rằng chỉ những bác sĩ cảm nhận sâu xa nỗi xúc động do bệnh nhân gây ra mới có thể chữa lành”. Và Scott Peck, tác giả cuốn The Road Less Travelled, còn đi xa hơn khi nói rằng điều chủ yếu đối với nhà trị liệu là yêu thương bệnh nhân để việc trị liệu thành công.
Nếu bạn là bệnh nhân, khi bạn gặp một người dường như hiểu rõ bạn mà không cần phân tích bạn hoặc phán đoán về bạn, bạn thấy mình dễ dàng cởi mở hơn. Khi bạn biết rằng người mà bạn tin cậy cảm nhận nỗi đau của bạn, điều ấy làm bạn muốn mình khỏe lại.
Vẫn còn những nhà chuyên môn luôn đi qua với thái độ lạnh lùng với những người rất dễ bị tổn thương. Nhiều người không có khả năng ứng xử với sự đau khổ. Hẳn bạn từng nghe có người nói “Tôi sẽ không bao giờ làm bác sĩ hay y tá – Thấy người ta đau đớn tôi không chịu được”. Nhưng bác sĩ và y tá tốt nhất rõ ràng là những người không thể cam lòng nhìn người khác đau khổ, vì thế mà họ cố hết sức làm vơi nhẹ nỗi đau. Nhưng điều đó không có nghĩa là không có những giới hạn.
Trong khi các nhà chuyên môn cố giữ khoảng cách thì những người làm công việc chăm sóc nghiệp dư thường quan tâm đến bệnh nhân nhiều hơn. Nhà chuyên môn hay coi thường người làm nghiệp dư, tuy vậy người làm nghiệp dư đôi khi lại làm được việc nhiều hơn. Điều này không làm bạn ngạc nhiên nhận ra rằng trong từ “nghiệp dư” (amateur) có ngữ căn của tiếng Latinh amare, có nghĩa là “yêu thương”. Xét về lâu dài, tình yêu thương là vật chữa lành.
Đức Giêsu không cách biệt với người bệnh. Người bày tỏ sự chăm sóc và lòng thương xót đối với những người đau khổ. Và Người không ngần ngại cho người bệnh thấy Người chăm sóc lo lắng cho họ. Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một tấm gương về điều đó. Khi ra khỏi thuyền lên bờ, Đức Giêsu đã nhìn thấy một đám người rất đông, nhưng như một tập hợp những cá nhân. Mỗi người có những vấn đề và những nỗi lo âu. Đức Giêsu thương xót họ, chỉ vì họ mang thương tích và cần đến Người.
Việc chăm sóc chủ yếu là vấn đề của trái tim. Ngày nay những sự quan tâm, tận tụy ít làm người ta kiệt sức hơn nỗ lực tạo ra những rào chắn bảo vệ mình, vì rằng người ta biết làm thế nào để làm đầy lại nguồn năng lực dự trữ. Những người ban tặng chính mình đồng thời cũng tích chứa lại cho mình một cách nào đó.
46. Vắng vẻ.
Số người mắc bệnh thần kinh ngày nay càng ngày càng nhiều. Và một trong những lý do đưa đến bệnh đó là nếp sống càng ngày càng ồn ào xô bồ. Ngoài đường thì tiếng xe, tiếng máy, tiếng người ồn ào suốt ngày; trong nhà thì các thứ tiếng nói, tiếng hát, tiếng nhạc từ các máy radiô, tivi, cassette; rồi còn những tiếng khác từ các rạp hát, các loa phóng thanh v.v… Ở giữa bao nhiêu là tiếng động ồn ào đó, con người ngày nay như bị quay cuồng, bị li tâm, bị trống rỗng, thần kinh thì căng thẳng, và nội tâm thì nghèo nàn.
Để thoát ra khỏi bầu khí ồn ào căng thẳng đó hầu tìm lại phần nào yên tĩnh, trầm lặng, nội tâm… người ta đã tìm đến với Yoga, với Thiền, với những phương pháp dưỡng sinh… Những hình thức này càng ngày càng lôi kéo được nhiều người tham gia. (Đó cũng là một phản ứng tất nhiên để đánh quân bình lại với những hoạt động quá náo nhiệt ồn ào đã nói ở đầu). Ở những nước công nghiệp phát triển, vào mùa hè, người ta tạm nghỉ việc, rời bỏ nếp sống đô thị náo nhiệt và tìm đến nghỉ ngơi ở vùng yên tĩnh hơn như miền quê, miền biển, miền núi… Và ngay ở Liên hợp quốc cũng có một căn phòng đặc biệt, phòng này không trang trí gì cả, rất trống trải nhưng rất yên tĩnh, dành cho các nhà ngoại giao, các nhà chính trị nếu cần tìm một chút bầu khí trầm tĩnh thì đến đấy trong một thời gian nào đó… Tất cả những cố gắng và những sáng kiến vừa kể trên cũng là một phản ứng tất nhiên của con người để đánh quân bình lại với cuộc sống đã quá ồn ào như đã nói ở trên.
Như thế, chúng ta thấy được rằng một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lặng là điều rất cần thiết cho con người. Nó cần thiết vừa để cho thân xác nghỉ ngơi, vừa để cho tinh thần con người thư giãn, vừa để cho trí óc con người sáng suốt nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm và rút ưu khuyết điểm để định hướng cho cuộc sống trong giai đoạn tới. Sau khi các tông đồ đi hoạt động truyền giáo một thời gian trở về, Đức Giêsu đã bảo các ông chèo thuyền qua phía bên kia hồ, yên tĩnh hơn để tỉnh dưỡng xác hồn “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ…”
Lời khuyên này của Chúa ngày nay vẫn được những người tu hành, các giám mục, linh mục, tu sĩ, đặc biệt coi trọng. Hằng năm, hàng tháng các vị đó vẫn có những cuộc tĩnh tâm, có khi kéo dài một tháng, có khi một tuần, có khi một ngày, hay ít ra cũng một buổi. Trong thời gian đó, họ sẽ kiểm điểm đời sống, cầu nguyện, định hướng cho hoạt động sắp tới…
Còn đối với giáo dân, cuộc sống chạy đua với miếng cơm manh áo khiến chúng ta không có nhiều thời giờ rảnh rỗi để làm những cuộc tĩnh tâm như vậy. Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng yên tĩnh là một nhu cầu cần thiết cho cuộc sống, cuộc sống càng ồn ào chừng nào thì nhu cầu yên tĩnh càng cần thiết chừng ấy. Cho nên dù bận rộn, thỉnh thoảng chúng ta cũng hãy cố gắng đi tìm một chút yên tĩnh cho tâm hồn mình. Nhưng có nhiều thứ yên tĩnh:
. Không phải thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài. Có những người vì quá quen với ồn ào nên khi phải ở một nơi im lặng thì chịu không nổi, muốn phát điên lên. Chúng ta không đi tìm thứ yên tĩnh đó.
. Chúng ta cũng không đi tìm thứ yên tĩnh trống rỗng, nghĩa là bên ngoài đã hoang vắng mà trong tâm hồn cũng hoang sơ, cằn cỗi.
. Thứ yên tĩnh mà chúng ta cần đi tìm là thứ yên tĩnh tràn đầy hương vị ngọt ngào…Yên tĩnh bên ngoài để cho bên trong tâm hồn có được những ý hướng cao thượng, những nhận định sáng suốt, những sức mạnh an ủi khích lệ… Có một nhạc sĩ đã viết lên những câu nhạc như thế này: “Ta hãy làm thinh chớ nói nhiều, để nghe dưới đáy nước hồ reo, để nghe tơ liễu rung trong gió, và để xem trời giải nghĩa yêu…” Đó là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú, là chính thứ yên tĩnh ta cần đi tìm.
Nhưng tìm ở đâu bây giờ? Thưa thứ yên tĩnh đó ta có thể tìm thấy trong bầu khí trầm mặc ở nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện, và ngay trong chính tâm hồn mình. Nghe nói đến đây chắc chắn nhiều bạn trẻ thấy ngán! Đúng thế, chắc hẳn có nhiều lần chúng ta cũng đã đến nhà thờ, cũng đã cầu nguyện… nhưng thấy nó buồn tẻ làm sao, chỉ muốn ngủ gục thôi. Tại vì chúng ta như bị bó buộc phải đi vào cảnh yên tĩnh đó một cách miễn cưỡng, cho nên chúng ta chỉ gặp được cái thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài, hay chỉ gặp thứ yên tĩnh trống rỗng như đã phân loại ở trên. Muốn tìm thấy yên tĩnh đích thực, nghĩa là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú thì chúng ta phải tự nguyện tìm yên tĩnh và để trọn tâm hồn của mình lắng đọng trong cõi yên tĩnh đó.
Augustinô sau một thời gian tuổi trẻ chạy theo danh vọng, tiền tài, khoái lạc đã bắt đầu thấy chán chường. Một hôm chàng cầm theo một quyển sách vào ngồi trầm tư trong khu vườn vắng vẻ. Đột nhiên, chàng nghe vang lên một tiếng trẻ con “Hãy cầm lấy mà đọc”. Augustinô ngó xuống thì thấy tay mình đang cầm quyển Thánh Kinh. Chàng mở ra và đọc, đọc được câu “Anh em đừng chạy theo xác thịt nữa nhưng hãy sống theo Thánh Thần Chúa”. Câu nói ấy của thánh Phaolô trong thư ngài gửi giáo dân Rôma đã là khởi đầu cho một cuộc sống mới của thánh Augustinô. Tất cả khởi đầu từ một giây phút yên tĩnh của tâm hồn.
Tóm lại, điều chúng ta cần ghi nhớ trong bài Tin Mừng hôm nay là lời Chúa khuyên: “Chúng con hãy lui vào nơi vắng vẻ…” Để thực hiện lời Chúa, thỉnh thoảng chúng ta hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng lại, hãy tạm quên đi bỏ đi những ồn ào bên ngoài để đi sâu vào tâm hồn mình, thỉnh thoảng chúng ta hãy cầu nguyện thật sự, thỉnh thoảng chúng ta hãy vào nhà thờ với ước muốn thật sự tìm gặp ở đấy sự yên tĩnh cho tâm hồn.
Và cầu mong chúng ta sẽ gặp được điều mà chúng ta tìm kiếm.
47. Lời Chúa.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại một giai đoạn thành công của việc rao giảng Lời Chúa: dân chúng đã quá ngán trước những lời giảng dạy của các tư tế và luật sĩ quá khô khan và nặng nề hình thức, lễ nghi, luật lệ – nay gặp thấy giáo huấn của Đức Giêsu vừa đơn sơ dễ hiểu, vừa gần gũi thực tế, vừa chan chứa tình yêu thương nên họ say sưa đón nhận.
. Đến nỗi một mình Đức Giêsu rao giảng không đủ, Chúa phải sai các tông đồ chia nhau đi các thành phố làng mạc để rao giảng. Các ông đi rao giảng ở đâu cũng gặt hái được những thành công. Vì thế các ông làm việc mà không thấy mệt, nói đúng hơn cũng có mệt nhưng không muốn nghỉ ngơi, thành công gặt hái được khiến các ông hăng hái muốn tiếp tục làm nữa. Đức Giêsu phải dùng quyền mà bắt các ông phải nghỉ ngơi đôi chút.
. Nhưng muốn nghỉ mà cũng không được yên để nghỉ, vì dân chúng cứ tấp nập tuôn đến, các tông đồ không có cả thời giờ để ăn uống. Đức Giêsu mới nghĩ ra một cách giải quyết là bảo các tông đồ xuống thuyền chèo đến một nơi thanh vắng. Nhưng dân chúng đã đoán được chỗ đó, cho nên họ chạy bộ dọc theo bờ sông và đến nơi trước các ngài.
. Nhìn thấy đám đông khao khát nghe Lời Chúa như thế, Đức Giêsu chạnh lòng thương. Ngài ví họ như một đoàn chiên đang đói khát không người chăn dẫn. Và vì thương họ nên Đức Giêsu hy sinh không nghỉ ngơi nữa, đích thân Ngài tiếp tục giảng cho họ nghe.
Thật là một cảnh tượng đáng mơ ước: người giảng thì hăng hái, mệt mà không muốn nghỉ; còn người nghe thì say sưa nghe mãi mà không chán. Nghĩa là cả người giảng lẫn kẻ nghe đều hăng hái say sưa. Do đâu mà mọi người đều say sưa hăng hái như vậy? Do sức quyến rũ của Lời Chúa.
Khi người ta khám phá được một điều gì rất hay, rất hữu ích thì người ta hăng hái muốn nói lại cho người khác nghe biết. Thí dụ như nhà bác học Archimède: ông đang thắc mắc tìm hiểu tại sao những vật thể có tỉ trọng nặng hơn nước mà lại nổi trên mặt nước. Một ngày kia, ông đang nằm tắm trong bồn nước thì ông cảm thấy như có một sức đẩy dưới nước làm cho thân thể ông nổi lên, nghĩa là trong nước có một sức đẩy. Thế là ông đã tìm ra được lý do. Mừng quá, ông la lên “Eureka” (nghĩa là: “Tôi đã khám phá ra rồi”) và chạy vội ra ngoài để kể cho người khác nghe, mặc dù ông quên chưa mặc quần áo, ông còn trần truồng! Đó là tâm lý của người khám phá. Còn về phần người nghe, thì khi thấy được một nội dung hấp dẫn, người ta cũng say sưa tìm nghe mãi. Một giáo viên đã kể lại cái thời còn là học sinh: “Anh em lớp chúng tôi rất mê một ông thày dạy văn, và đặc biệt mê những bài thơ mới. Mỗi lần ông thầy đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ mới là chúng tôi say sưa chép, những bài thơ của Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận v.v… tụi học trò chúng tôi mê làm sao ấy. Nhưng mà ông thầy này cũng hà tiện, chỉ khi nào chúng tôi thuộc bài giỏi, giữ trật tự tốt thì ổng mới thưởng cho một bài, và mỗi lần như vậy là chúng tôi lại say mê chép”.
Lời Chúa cũng có sức quyến rũ như vậy. Chiara Lubich là một người sống bình thường như mọi người. Đến thế chiến thứ II, nước Ý bị lôi cuốn vào vòng chiến. Hằng ngày bom đạn cứ trút xuống các thành phố, nhà cửa tài sản tang hoang, sinh mạng con người bị đe dọa từng giây từng phút. Trong những hầm tránh bom, bà Chiara Lubich này cảm thấy chẳng còn có thể nương dựa vào bất cứ cái gì ở trần gian, nên bà chỉ đặt trọn niềm hy vọng vào quyển sách Tin Mừng mà bà mang theo. Nào ngờ những lời trong Tin Mừng đã khiến bà tìm thấy được lẽ sống. Và khi khám phá ra rồi, bà hăng hái kể lại khám phá ấy cho nhiều người khác nghe. Họ thành lập những nhóm chia sẻ Tin Mừng với nhau. Những nhóm ấy càng ngày càng sinh thêm những nhóm khác, làm thành cả một phong trào Focolare (nghĩa là Tổ ấm). Họ hăng hái thực hiện Tin Mừng. Bà Chiara Lubich có để lại một câu nói đã trở thành danh ngôn: “Chúng ta hãy sống Tin Mừng như thế nào để cho dù mọi quyển sách Tin Mừng có bị đốt hết, người ta vẫn có thể nhìn vào đời sống của chúng ta mà viết lại trọn vẹn Tin Mừng, từng câu, từng chữ”.
Có những người chỉ cần khám phá một câu Tin Mừng thôi là thấy được hấp dẫn cả một cuộc đời. Chẳng hạn như thánh Phanxicô thành Assisiô, câu “Phúc cho những người nghèo” đã khiến ông bỏ hết gia tài cha mẹ để dấn thân vào một cuộc sống nghèo nàn, nghèo nhưng vô cùng hạnh phúc; Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu thì vạch ra đường lối tu đức riêng của mình từ câu “Nước Trời thuộc về những trẻ nhỏ”; Cha Charles de Foucauld đã lập ra một dòng chuyên sống lao động, vì cha rất say mê cuộc đời lao động của Đức Giêsu ở Nagiarét…
Lời Chúa quý giá như một viên ngọc. Nhưng ít ai biết quí chuộng Lời Chúa. Đọc Tin Mừng thì lười biếng, đi lễ nghe giảng thì ngủ gục, lo ra hay bỏ ra ngoài nhà thờ. Tại vì đó là một viên ngọc được chôn giấu dưới đất, ít ai khám phá ra. Nhưng người nào mà khám phá ra thì sẽ say mê, đến nỗi có thể bán hết mọi của cải tài sản để có được viên ngọc quí ấy.
Bởi vậy, bổn phận của các linh mục là phải trình bày Lời Chúa như thế nào để giáo dân thấy được giá trị hấp dẫn Lời Chúa. Còn bổn phận của giáo dân là phải biết chăm chú lắng nghe để chính mình cũng khám phá ra được giá trị tuyệt vời của Lời Chúa. Và bổn phận của tất cả mọi tín hữu, linh mục cũng như giáo dân, là phải trân trọng Lời Chúa: không phải chỉ đọc phớt qua, nghe phớt qua, mà phải chăm chú, tìm hiểu, cầu nguyện và cố gắng thực hành.
Xét về một khía cạnh nào đó, thì Lời Chúa còn quan trọng hơn cả các bí tích nữa. Thí dụ như những người ở vào một hoàn cảnh không thể đến nhà thờ để dự lễ, xưng tội và chịu các bí tích được. Chẳng hạn như những người bệnh nặng, hay dời nhà về một vùng không có linh mục, không có nhà thờ, những thanh niên đi nghĩa vụ quân sự, những bà con ở vùng kinh tế mới…Nếu chúng ta chỉ biết có các bí tích thì trong những hoàn cảnh ấy, chúng ta sẽ không còn cái gì gọi là sống đạo nữa. Nhưng nếu biết đọc Lời Chúa và sống Lời Chúa, thì chỉ cần một quyển Tin Mừng thôi, hay chỉ một quyển lịch Công giáo thôi, chúng ta vẫn có thể tiếp tục có lương thực nuôi dưỡng linh hồn mình, có lẽ sống hướng dẫn cuộc đời mình.
Ở cuối đoạn Tin Mừng hôm nay; thánh Marcô ghi nhận rằng: Đức Giêsu nhìn thấy dân chúng thì chạnh lòng thương, vì họ như đoàn chiên không người chăn dẫn. Giáo dân là những con chiên của Chúa. Trong số đó có nhiều giáo dân phải sống ở những nơi không có linh mục, họ đúng là đoàn chiên không người chăn dẫn. Nhưng giáo dân ở các họ đạo có linh mục thì có khi cũng phải đói khát về lương thực tinh thần vì họ chỉ biết có đọc kinh và giữ các lễ nghi hình thức bề ngoài. Chúa thương hết mọi con chiên, Chúa thương cả đoàn chiên, nên Chúa đã cho đoàn chiên một nguồn lương thực hết sức quý giá, đó là Lời Chúa, chứa đựng trong Tin Mừng. Ước gì chúng ta khám phá được giá trị hấp dẫn của Lời Chúa, dù chỉ là một Lời, một câu trong Tin Mừng thôi, để cuộc đời chúng ta từ đó được biến đổi, có ý nghĩa, có giá trị.
48. Bình an.
Một thanh niên lực lưỡng xin đốn cây để phụ giúp gia đình. Thấy anh vạm vỡ, chủ liền trao cho anh một chiếc rìu, dẫn anh vào rừng và bảo:
- Anh thử đốn cây này cho tôi xem.
Vì đã từng lao động, nên anh đốn rất nhanh. Ông chủ nhận anh vào làm việc, đưa ra mức lương và cho nơi cư ngụ.
Dù mệt nhọc nhưng anh cảm thấy rất vui, vì nghĩ rằng cuối tuần sẽ có một số tiền kha khá đem về gia đình. Thứ Hai, Thứ Ba, rồi Thứ Tư vùn vụt trôi qua. Đến ngày thứ năm, chủ gọi anh vào cám ơn và trao cho anh tiền công cả một tuần.
Anh vui sướng cầm những tờ giấy bạc thấm đẫm mồ hôi, đôi mắt rạng ngời niềm vui. Bỗng chợt nhận ra có điều gì bất thường, anh thắc mắc hỏi chủ:
- Tôi xin cám ơn chủ đã trả lương cho tôi suốt tuần. Nhưng sao không để đến thứ bảy mà lại trả lương vào hôm nay.
- Đáng tiếc là tôi không thể mướn anh được nữa, vì theo sổ sách thì anh đốn được nhiều cây nhất vào ngày thứ Hai, nhưng qua ngày thứ Ba cây đã giảm xuống, và ngày thứ Tư anh là người đốn được ít cây nhất trong các công nhân ở đây.
- Nhưng thưa ông chủ, tôi đã làm hết sức mình. Tôi đi làm sớm về trễ. Tôi chỉ nghỉ để ăn trưa có nửa tiếng thay vì một tiếng. Tôi làm việc không ngừng. Tôi làm việc cả giờ giải lao. Vậy ông chủ còn muốn gì nữa?
- Những gì anh vừa nói không sai chút nào, tôi hoan nghênh sự nhiệt tình của anh. Nhưng tôi chỉ xin hỏi anh một câu: anh có mài rìu không?
“Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”. Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả, các tông đồ phấn khởi thuật lại cho Đức Giêsu nghe những thành quả vàng son của mình. Nhưng Người lại quan tâm đến con người hơn công việc. Người muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với Thầy và với nhau.
Lắm khi chúng ta quên mất “mài rìu”, vì cho rằng khối lượng công việc chồng chất, vì thời buổi kinh tế cạnh tranh, nên không dễ tìm được một chút tĩnh lặng: để thẩm định lại những biến cố, và soát lại công việc đã làm và lắng nghe được tiếng Chúa mời gọi.
Nếu muốn đốn nhiều cây càng phải năng “mài rìu” cho sắc.
Nếu muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi, lấy sức.
Nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, càng phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.
Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washigton Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời: “Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi sớm mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình của Người xếp đặt cho tôi”.
P. Doncocur đã quả quyết: “Không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong tĩnh lặng để hồi tâm và cầu nguyện”. Vâng, trong cuộc hành trình về quê trời, người ta không thể đi hết con đường vừa dài vừa dốc, nếu không dừng lại nghỉ ngơi, lấy sức và định hướng.
49. Tìm về nội tâm của bản thân.
Cách đây một vài năm, tờ báo Wall Street Journal có cho đăng tải trên trang đầu một bài viết với tựa đề "Ở một vài hãng sở, mỗi ngày đều có những dấu hiệu về việc đạo đức." Ví dụ: hãng Reynolds Industries, một hãng tại Salem, SC luôn có một nhà nguyện và một vị linh mục tuyên úy được trả lương. Hay tại hãng Midwest Federal Savings and Loan tại Minneapolis, MN, ban chấp hành đã thiết lập một nhà nguyện thay vì một nhà nghỉ ngơi cho các nhân viên.
Một bài báo khác trong tờ báo New York Times gần đây đã viết về những thương gia trong thành phố New York: "Các thương gia đã xoay sang việc cầu nguyện bởi vì họ mong muốn xây dựng một tình bằng hữu với những người đồng nghiệp và qua đó, họ có thể thông cảm với nhau những khó khăn trong công việc hằng ngày."
Cũng trong một ý hướng như bài báo trên, một nhân viên ban chấp hành đã nói lên trong một cuộc họp hằng tuần tại Chase Manhattan Plaza: "Đây là chỗ để tôi đến và lấy lại nguồn sống. Nếu tôi không thể đến đây được thì tôi không biết tôi sẽ có thể làm được gì không."
Tất cả những điều nói trên của các nhà thương gia đều giống như điều mà Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài trong bài Phúc Âm: "Hãy đi... vào nơi hoang vắng và tìm chỗ nghỉ một chút."
Thánh Marcô đã tiếp tục giải thích tại sao Chúa Giêsu đã nói điều này với các môn đệ Ngài. Đó là vì có quá nhiều người đang đòi hỏi các môn đệ nhiều điều đến nỗi họ không có cả giờ để ăn uống.
Chúa Giêsu hướng đến một điểm mà ai trong chúng ta cũng cần phải có. Điều đó là chúng ta phải tìm giờ để lấy lại sức lực và tinh thần.
Nói rõ ràng hơn, Chúa Giêsu có ý nói chúng ta cần phải biết rút lui vào nơi hoang vắng để nhìn vào trong cung lòng của chúng ta, đặc biệt là tìm đến Thiên Chúa đang hiện diện ở trong đó.
Chúng ta luôn biết trở về với lòng mình, đi vào nội cung tâm hồn của mình, và gặp gỡ Thiên Chúa, Người đang hiện diện ở đấy. Chúng ta cần phải nuôi dưỡng tinh thần của mình trong sự hiện diện của Thiên Chúa để chúng ta có thể mạnh mẽ mà sống trong một thế giới hỗn tạp này.
Việc quan trọng là chúng ta cần phải biết dành ra khoảng chừng năm mười phút mỗi ngày để gặp gỡ Thiên Chúa, Người hằng mong muốn để nói chuyện với chúng ta và làm mới lại tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa, xin hãy làm cho nhịp tim con trở nên nhẹ nhàng bằng cách làm cho tâm trí con được thinh lặng... Xin hãy bẻ gẫy những căng thẳng trong các mạch máu và bắp thịt của con. Xin hãy giúp con biết được phép mầu để con có thể hồi phục lại khả năng ngủ nghỉ của con.
50. Bức tranh toàn cảnh về Tin Mừng Cứu Độ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Chỉ còn 5 ngày nữa, lễ Khai mạc Thế Vận hội 2012 (gọi tắt là Olympic London) sẽ chính thức diễn ra tại xứ sở sương mù thuộc vương quốc Anh. Toàn cảnh thủ đô London, nơi diễn ra các cuộc tranh tài đỉnh cao thế giới trong những ngày chuẩn bị thật gần cho Thế Vận hội lung linh sắc màu như mời gọi. Thế giới được chiêm ngưỡng các bức tranh tuyệt mỹ về những công trình kiến trúc và những khu thể thao liên hợp đã được xây dựng từ nhiều năm nay nhằm phục vụ cho Thế Vận hội này.
Còn đối với chúng ta, những người Kitô hữu, hôm nay Thánh sử Marcô lại mời gọi chúng ta chiêm ngắm một bức tranh khác, tuy không lộng lẫy và hoành tráng như những bức tranh Olympic London 2012, nhưng lại sống động và thiêng thánh hơn nhiều nhiều lần. Bức tranh ấy phác hoạ 3 hình ảnh tuyệt đẹp với 3 gam màu chủ đạo.
1. Gam màu vàng cam. Đó chính là hình ảnh các Tông đồ, những cộng sự viên nhiệt thành với sứ mạng và trung thành với Thầy Giêsu. Chúng ta bắt gặp ở đây hình ảnh các Tông đồ say sưa nhiệt thành với công việc thực tập mục vụ đến độ quên cả việc ăn uống nghỉ ngơi. Kẻ thì thao thao rao giảng Lời Chúa, kẻ thì bận bịu đặt tay chữa lành bệnh nhân, kẻ thì lâm râm đọc công thức trừ tà... Các ông tất bật từ sáng sớm tinh mơ mãi cho đến giờ đi ngủ. Lúc nào cũng có người vây quanh, mệt bở cả hơi tai, nhưng bù lại là niềm vui ngập tràn. Có lẽ, sau đợt thực tập này tất cả các ông đều được cấp “chứng chỉ tốt nghiệp” hạng ưu, vì đã hoàn thành xuất sắc nhiêm vụ!!!
Nhiệt thành hết mình với sứ vụ, các ông còn trung thành hết tình với Thầy Giêsu. Ý thức Thầy Giêsu là điểm quy chiếu những thành công trong việc mục vụ của mình, đồng thời là gạch nối liên kết các ông với nhau, nên sau chuyến thực tập ngắn ngày, các ông mau mắn trở về bên Thầy mình để “phúc trình thành quả”, để kể lại tất cả những việc các ông đã làm và tất cả những điều các ông đã rao giảng. Dù thành công hay thất bại, các ông vẫn một lòng gắn bó với Thầy Giêsu Chí Thánh.
Bao nhiêu người làm công tác tông đồ, bao nhiêu người làm việc thiện nguyện biết trở về bên Chúa để nhỏ to tâm sự với Ngài, sau một ngày hay sau một chuyến làm việc?
2. Gam màu xanh thẳm. Đó là gam màu phác hoạ hình ảnh đám đông dân chúng như là đàn chiên đang hết lòng đi theo Mục Tử của mình và khao khát được nghe lời hằng sống của Vị Mục Tử ấy. Quả vậy, nhiều lần Chúa Giêsu và các môn đệ đã chủ động lánh vào những nơi hoang vắng để tránh bị quấy rầy, hay tránh “bị” tôn lên làm vua bất đắc dĩ, như trường hợp sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Nhưng dân chúng vẫn bám sát gót. Nói được là họ sẵn sàng đi theo Chúa đến bất cứ nơi đâu, dù đó là trên núi cao, ngoài biển khơi, hay trong hoang địa... Thậm chí họ còn đoán trước được nơi mà thầy trò Chúa Giêsu định tới, rồi theo đường bộ tới trước cả các ngài, như trình thuật mà thánh sử Marcô mô tả.
Rõ ràng, họ đi theo Chúa một cách say mê. Theo Chúa để làm gì? Dĩ nhiên là có nhiều lý do, nhưng một trong những lý do tốt lành đó là để được nghe lời Ngài. Nói cách khác vì họ khát khao được nghe Lời Chúa nên tìm đủ mọi cách để được gần Ngài. Và đây là yếu tố làm nên một gam màu tuyệt đẹp nữa, gam màu xanh thẳm, trong bức tranh toàn cảnh của Tin Mừng hôm nay.
Chẳng bù cho con người thời nay, nhiều lúc tĩnh tâm cấm phòng để chuẩn bị mừng đại lễ này, đại lễ nọ,… các vị mục tử của Chúa “gọi kiêu triệu vời” rát cả cổ mà đàn chiên của các ngài chẳng màng đến nghe các ngài giảng dạy.
3. Gam màu hồng thắm. Đây là gam màu nổi bật nhất trong bức tranh, phác hoạ hình ảnh Đức Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Hậu Từ Tâm.
Nhân hậu đối với các cộng sự viên của mình qua việc: chăm chú lắng nghe họ tâm sự. Chúa Giêsu không bao giờ nghe một cách hời hợt, trái lại, Ngài nghe như mở lòng để cho các ông trút bầu tâm sự. Bao nhiêu nỗi niềm sâu lắng, bao nhiêu kỷ niệm buồn vui, bao nhiêu thành công thất bại của chuyến thực tập sứ vụ được Chúa Giêsu lắng nghe một cách say sưa và thấu hiểu. Không những thế, Ngài còn ân cần lo lắng cho miếng ăn, giấc ngủ, giờ nghỉ ngơi của các ông: “Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31). Tuyệt vời thay tấm lòng của một người mục tử nhân hậu, tuyệt vời thay con tim của một Thiên-Chúa-làm-người!
Ân cần lo lắng hết tình với các cộng sự viên của mình, Ngài còn từ tâm tận tuỵ hết mình đối với đàn chiên. Tận tuỵ đến nỗi quên cả thời gian và sức lực. Trái tim của một người Mục Tử chân chính không cho phép ngài để mặc đàn chiên tiếp tục phải chịu nhiều khổ cực đoạ đày vì “bị” chăn dắt bởi “bạo quyền và roi sắt”, và những đường lối mục vụ đầy toan tính của những kẻ “chăn thuê chăn mướn”. Ngài cảm nghiệm được lòng khao khát của đàn chiên đang muốn được nghe những lời giáo huấn “mới mẻ và đầy uy quyền” của Ngài, và nhất là được chiêm ngắm dung mạo của một Vị Mục Tử có tấm lòng vàng. Bởi đó, dù thân đã mệt nhọc, bụng đã cồn cào vì đói, Ngài vẫn ân cần đón tiếp họ và còn “dạy dỗ họ nhiều điều”, dạy dỗ với cả tấm lòng yêu thương (x. Mc 6,34).
Chiêm ngắm 3 hình ảnh đó để học lấy 3 chữ cần thiết cho cuộc đời người Kitô hữu. Đó là chữ tình nơi các Tông đồ: tình yêu đối với công việc mục vụ và tình yêu gắn bó đối với Thầy mình là Đức Giêsu. Chữ tâm nơi Chúa Giêsu: cảm thông, ân cần, yêu thương và nhân ái đối với mọi người. Chữ lòng nơi đám đông dân chúng: hết lòng đi theo Chúa và thực lòng khao khát được lắng nghe lời Ngài.
51. Ân cần với mọi người
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Ở riêng một chỗ
Có thể giải thích bài Tin Mừng hôm nay theo hai đề tài: tách biệt và đám đông. Đức Giêsu muốn dẫn các môn đệ đi riêng ra một nơi, còn đám đông lúc nào cũng có mặt. Theo thánh Mác-cô, hai đề tài này là những chiều kích của Nước Trời.
Tách biệt
Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp liền sau bài Tin Mừng Chúa nhật trước. Các môn đệ đã được Đức Giêsu sai đi truyền giáo và bây giờ các ông trở về thuật lại những công việc đã làm. Các ông đã được mời gọi đến với Đức Giêsu, và lời mời gọi này chỉ có được ý nghĩa vì cuộc ra đi liền sau đó. Hôm nay, sau chuyến đi truyền giáo trở về, các ông được mời gặp gỡ với Đức Giêsu. Người nói với các ông: "Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng." Từ ngữ này vẫn thường được sử dụng trong những trình thuật kể lại chuyện Đức Giêsu tách riêng ra một nơi để cầu nguyện. Và theo Kinh Thánh, nơi thanh vắng hay sa mạc là nơi đặc biệt để nghe lời Thiên Chúa.
Sự tách biệt này là điều cần phải có sau thời gian hoạt động, là một nhịp thở thứ hai trước khi lại lên đường. Khoảng cách cần thiết này, thay vì là thời gian để phán xét các hoạt động, lại là lúc để các môn đệ tìm lại ý nghĩa xem ai đã cắt cử các ông đi, đồng thời có thể là lúc để tái khám phá về Chúa.
Quả vậy, sau một thời gian hoạt động, các môn đệ lại trở về sống thân mật với Thầy của mình. Ở bên Người, các ông mới hiểu được ý nghĩa cuộc sống, cũng như tìm được lý do làm cho lời giảng của mình có sức thuyết phục. Các ông trở về sống với Đức Giêsu, không phải để nhằm thoả mãn tình cảm của mình, nhưng là để cảm nghiệm sâu xa tấm lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với dân Người, và cũng hiểu rằng sứ vụ truyền giáo vẫn chưa trọn vẹn. Thời gian này là thời gian để tái khám phá. Thánh Mác-cô nhấn mạnh sự khám phá này qua một câu có vẻ như trái ngược nhau: "Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu các ngài."
Đám đông
Thế nhưng đám đông dân chúng đã không để cho Đức Giêsu và các môn đệ tránh xa họ. Ngay từ những ngày đầu tiên Đức Giêsu mới rao giảng, họ đã có thiện cảm với Người. Dù Người có trốn vào nơi thanh vắng, họ cũng tuốn đến, có khi không để cho Đức Giêsu và các môn đệ dùng bữa (2,2.13; 3,7-9 ...). Họ là những người chờ mong Đấng Mê-si-a, và khi gặp được Đức Giêsu, họ hy vọng Người sẽ đáp ứng điều họ trông mong. Vì thế, Đức Giêsu có mặt ở đâu, họ cũng có mặt ở đó, có khi còn đến nơi trước Đức Giêsu và các môn đệ. Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô đã mô tả cách ngộ nghĩnh: đám đông đi bộ vòng quanh hồ đã đến nơi nhanh hơn Đức Giêsu và các môn đệ đi bằng thuyền. Họ là sự trông đợi có mặt trước khi người phải xuất hiện đến.
Do lòng trông đợi, đám đông này sẽ làm thành Vương quốc. Các con chiên đầy náo nức này sẽ trở thành một đoàn chiên khi nhận biết Vị Mục Tử. Đám đông này đã lên đường, đã ra khỏi nhà của mình, đã rời xa thành phố, nên họ có thể gặp được Thiên Chúa trong nơi thanh vắng.
Đối với họ, lúc này là thời gian yên tĩnh để lắng nghe Lời Chúa, lúc này là thời gian nghỉ ngơi, ở riêng một chỗ.
Người dạy dỗ họ nhiều điều
Sau bài Tin Mừng hôm nay là câu chuyện Đức Giêsu hoá bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng. Đấng Mê-si-a có thể dọn bàn ăn ngay tại nơi hoang vắng; Người cũng chẳng cần đợi đến mùa gặt: Đấng Mê-si-a chính là người gieo hạt, người trồng nho, người chăn chiên, nói chung là người làm vườn trong vườn Ê-đen mới. Như thế, có thể giải thích bài Tin Mừng hôm nay như một lời tiên báo long trọng về bí tích Thánh Thể, hay nói cách khác, về Bánh Hằng Sống.
Đám đông đi theo Đức Giêsu đang cần bánh, họ bị cơn đói hành hạ. Đám đông không có tư cách của một dân. Nó đồng nghĩa với đám người hỗn độn, không trật tự, một thực tại đầy xảo trá và nguy hiểm. Hôm nay đám đông ấy vây quanh Đức Giêsu, lắng nghe lời Người giảng dạy và được nuôi dưỡng, nhưng đến chiều thứ Năm Tuần Thánh, cũng đám đông này khạc nhỗ vào Đức Giêsu và kêu la đòi đóng đinh Người vào thập giá !
Đức Giêsu thương đám đông ấy. Thánh Mác-cô cho thấy mối xúc động của Đức Giêsu có lý do rất sâu xa: đám đông chỉ là một tập hợp, không phải là một dân; đám đông đang lầm lạc vì không biết đường đi.
Đám đông ấy là những con chiên không có người chăn dắt; họ lang thang trong những cánh đồng đầy chết chóc. Họ thiếu thốn mọi sự. Thiếu của ăn, nhưng điều quan trọng hơn cả là thiếu một nguyên lý thống nhất làm cho họ có thể quy tụ và hiệp thông với nhau.
Đấng Mê-si-a là người đáp ứng những đòi hỏi này. Người sẽ cho họ của ăn, cho họ chỗ nghỉ "trên đồng cỏ xanh tươi, bên dòng nước trong lành". Nhưng điều quan trọng và có ý nghĩa nhất là Người làm cho họ trở thành một dân tộc, và Người sẽ là Mục Tử săn sóc họ.
Thánh Mác-cô bỏ lửng câu chuyện sau khi thuật lại thái độ ân cần của Đức Giêsu với dân chúng: "Đức Giêsu chạnh lòng thương ... và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều." Đức Giêsu nói gì với dân chúng?
Theo bối cảnh của câu chuyện, có lẽ Đức Giêsu đã nói với họ về nỗi thống khỗ sâu xa của con người: họ chưa được quy tụ lại với nhau để sống với nhau như bạn hữu, để trở thành một dân trong đó mọi người coi nhau như anh em; nói chung lại, để thành một vương quốc theo nghĩa Kinh Thánh.
Có lẽ Đức Giêsu cũng gợi lên cho đám đông ấy biết là Người được sai đến, không phải chỉ để làm Mục Tử coi sóc nhà Ít-ra-en, nhưng còn coi sóc toàn thể nhân loại. Người được sai đến với nhiệm vụ thực hiện điều Thiên Chúa vẫn ước mong. Tất cả hãy nên một theo hình ảnh của Ta, hãy tiến sâu hơn vào trong mối tương giao chia sẻ và hiệp thông.
Đó cũng là ơn gọi của Hội Thánh, của mỗi người: làm cho thế giới đang bị chia rẽ trở thành một dân tộc anh em.
Lời giảng chính là sự sống
"Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều."
"Đức Giêsu không ngừng dạy dỗ chúng ta. Khi người ta muốn tôn Người làm vua, đặt Người xa khỏi chúng ta, dành cho Người uy quyền và vinh quang như chúng ta quan niệm, Người đã từ chối ... và muốn dạy bảo chúng ta.
"Người dạy bảo gì?
"Người không nói về kiến thức, về những điều phải tin, về những giáo lý trong sách vở. Nhưng Người dạy bảo chúng ta về sự sống, sự sống đích thực.
"Sự sống đích thực là gì?
"Không ai có thể trả lời đầy đủ câu hỏi này, dù người ấy có hiểu nhiều biết rộng. Sự sống, Đức Giêsu đã dạy chúng ta qua những rung động trong cuộc sống của Người, qua những lời luôn mới mẻ của Người, qua những lỗ hỗng Người không ngừng mở ra cho nhân loại.
"Đó là sự sống của Thiên Chúa, Đấng mà Đức Giêsu gọi là Cha với tất cả niềm thân ái. Đức Giêsu đã tự nhận Người ngang hàng với Chúa Cha. Nhiều người sống cùng thời với Đức Giêsu đã không thể chấp nhận những giáo huấn này của Đức Giêsu." (theo G.Bessière)
Còn chúng ta, chúng ta có chấp nhận lời giảng của Đức Giêsu, chúng ta có chấp nhận sự sống mà Đức Giêsu muốn dạy bảo chúng ta? Chúng ta có đáp ứng thái độ ân cần của con người?
Vì Người yêu mến con người sống tự do,
nên người ta bảo rằng Người chẳng nói gì.
Vì Người mang khuôn mặt nhân loại,
nên người ta bảo rằng Người che giấu.
Vì Người quan tâm đến người nghèo,
nên người ta bảo rằng Người đã chết.
Vì Người là một Thiên Chúa đầy từ tâm,
nên người ta bảo rằng Người đang ngủ.
Vì Người không có mưu toan
nên người ta bảo rằng Người chẳng có ích gì.
(theo P. Fertin)
52. Đức Giêsu chạnh lòng thương – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Cảm xúc của Đức Giêsu ra sao khi thấy dân chúng «như bầy chiên không người chăn dắt»? Cảm xúc ấy có dẫn Ngài đến hành động không? Nếu ta đứng trước cảnh dân chúng như thế thì cảm xúc và phản ứng của ta thế nào? Ta có hành động như Ngài không?
2. Mục tử tốt và mục tử xấu khác nhau chỗ nào? Khác nhau ở lời nói hay ở hành động? Mục tử xấu có thể rao giảng thật hay, và tỏ ra thật hiền lành đạo mạo nhưng lại có thể sẵn sàng làm ngơ trước đau khổ của đồng loại không? Có thể căn cứ vào vẻ hiền lành đạo mạo để chắc chắn rằng đó là mục tử tốt không?
3. Người mục tử tốt lành có thể không cảm xúc trước những đau khổ của đàn chiên, sẵn sàng im lặng trước những bất công ngay trước mắt mình, hoặc khoanh tay đứng nhìn bất động trước những bàn tay giơ lên cầu cứu mình không?
Suy tư gợi ý:
1. Khả năng «chạnh lòng thương» và hy sinh cho dân chúng
Bài đọc 1 nói về những mục tử xấu và về lời Thiên Chúa hứa hẹn sẽ ban cho dân những mục tử tốt. Vì thế, qua bài Tin Mừng được ghép với bài đọc I, Giáo Hội muốn nói tới khả năng yêu thương của người mục tử, đặc biệt khả năng «chạnh lòng thương» như Đức Giêsu trước những đau khổ của dân chúng, khả năng hy sinh để cứu khổ và đem lại hạnh phúc cho họ.
Bài Tin Mừng cho thấy sự đói khát chân lý của dân chúng. Họ chẳng những nghèo về vật chất, mà còn nghèo về kiến thức, về khả năng suy nghĩ, về văn hóa, về tâm linh, vì không ai chỉ dẫn dạy bảo họ. Khi thấy Đức Giêsu giảng dạy «như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư» (Mt 7,29), họ theo Ngài rất đông. Sau khi rao giảng và dạy dỗ họ đã lâu, Đức Giêsu và các môn đệ cảm thấy mệt và cần nghỉ ngơi, nên phải «lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút». Nhưng dân chúng vẫn còn ham muốn được nghe Ngài dạy bảo, nên không để cho Ngài và các môn đệ nghỉ ngơi, mà lại tiếp tục bám sát các ngài đến nỗi các ngài «chẳng có thì giờ ăn uống nữa». Trước tình cảnh này, đáng lẽ Đức Giêsu từ chối họ vì Ngài và các môn đệ cần phải nghỉ ngơi và cầu nguyện, đó là những nhu cầu hết sức chính đáng của các ngài. Nhưng Ngài không làm như vậy mà lại «bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều». Tại sao? Vì Ngài luôn luôn «chạnh lòng thương» trước nỗi cùng khốn của họ, «họ như bầy chiên không người chăn dắt». Tình thương bao la đã khiến Ngài trở nên rất nhạy cảm trước nhu cầu cũng như nỗi thống khổ của mọi người. Tình thương ấy đòi buộc Ngài phải làm cho họ một cái gì.
2. Mọi mục tử cần có khả năng «chạnh lòng thương»
Ước gì mọi mục tử - là những người muốn noi gương Đức Giêsu một cách đặc biệt và triệt để hơn những Kitô hữu bình thường khác - cũng có khả năng «chạnh lòng thương» trước những nỗi cùng khốn của những «con chiên» mình chăn dắt. «Chạnh lòng thương» để sẵn sàng hy sinh cho họ: chẳng hạn hy sinh giấc nghỉ trưa, giờ đọc kinh nguyện, thậm chí cả giờ nghỉ đêm… khi họ cần mình giúp đỡ. Tôi có quen và rất cảm phục một linh mục nọ: khi có một bệnh nhân ở một bệnh viện nào kêu ngài đến xức dầu hoặc giải tội, ngay cả vào ban đêm hay khi trời mưa, thì ngài đều sẵn sàng lên đường đến với họ. Họ không biết kêu ai ngoài ngài trong những trường hợp đặc biệt ấy, vì hầu hết các linh mục khác gần bệnh viện đều từ chối. Thế rồi người này nói với ngài kia về sự sẵn sàng của ngài, nên về sau người ta chỉ còn biết đến với Ngài, dù họ ở những bệnh viện khá xa. Điều khiến tôi phục ngài sát đất là khả năng «chạnh lòng thương» của Ngài qua nhiều năm tháng vẫn không suy giảm, khiến ngài luôn luôn sẵn sàng đến với những ai đau khổ, dù sức khỏe ngài không được tốt lắm. Và nhất là vì ngài luôn luôn rất bận: ngài là cha phó một xứ lớn, và cũng là một nhà nghiên cứu, viết lách, đồng thời còn bận làm một số công tác trong giáo phận. Tôi hằng cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam có được nhiều linh mục như ngài!
3. Đời biết bao cảnh khổ đau khiến ta «chạnh lòng thương»
Đức Phật nói: «Đời là bể khổ». Quả thật, đời người có biết bao nỗi khổ, nhất là trong những đất nước theo những thể chế phi nhân, độc tài: dân chúng nghèo nàn, lầm than, khổ sở trong một xã hội đầy dẫy áp bức, bất công. Trong những xã hội như thế, người mục tử - vốn là hiện thân của Đức Giêsu - cần phải có khả năng «chạnh lòng thương» hơn bất kỳ ở đâu khác. Trong xã hội Do-thái xưa, Đức Giêsu đi tới đâu mà gặp những người đau khổ cần cứu giúp thì Ngài luôn luôn ra tay, không bao giờ từ chối: «Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó» (Cv 10,38).
Hiện nay, Ngài không còn ở trần gian để «thi ân giáng phúc» như thế nữa, nhưng Ngài đã lập nên một đội ngũ mục tử - gồm những người tình nguyện tiếp nối sứ mạng «mục tử» của Ngài - để thay Ngài và nhân danh Ngài «thi ân giáng phúc» cho tất cả những ai đau khổ. Nhờ vậy, Ngài vẫn có thể rao giảng chân lý, nói những lời an ủi mọi người qua miệng các mục tử ấy. Ngài vẫn có thể lắng nghe mọi người bằng đôi tai của các mục tử. Ngài vẫn yêu thương bằng con tim của họ. Ngài vẫn phục vụ bằng đôi tay họ. Ngài vẫn đến với mọi người bằng đôi chân của họ. Ngài làm tất cả những điều tốt đẹp cho mọi người bằng bản thân của họ. Các mục tử chính là hiện thân của Ngài giữa lòng thế giới đầy đau khổ này. Nếu mọi mục tử của Ngài đều thật sự sống đúng điều họ đã cam kết khi dấn thân làm mục tử thì dân chúng sẽ bớt được biết bao đau khổ!
4. Những «mục tử ghẻ»
Nhưng than ôi, nếu thời nào cũng có những «con chiên ghẻ» thì thời nào cũng có những «mục tử ghẻ» như ngôn sứ Giêrêmia mô tả trong bài đọc I. Những «mục tử ghẻ» là những mục tử có trái tim bằng đá chứ không phải bằng thịt (x. Ed 36,26), không có khả năng «chạnh lòng thương» như Đức Giêsu. Vì thế, họ sẵn sàng làm ngơ và lạnh lùng quay mặt đi trước những bất hạnh cùng cực của người khác, trước những cánh tay đưa lên van xin họ cứu giúp một cách tuyệt vọng. Họ có thể điềm nhiên nhìn những cảnh bất công xảy ra nhan nhản trước mắt cho chiên của mình mà trong lòng không cảm thấy mình phải làm một cái gì, hay phải nói lên một lời nào để cải thiện những cảnh ấy. Họ sợ bị phiền hà đến bản thân nên sẵn sàng tỏ ra vô trách nhiệm trước mọi cảnh áp bức xảy đến với chiên của mình. Họ được Đức Giêsu mô tả như những kẻ chăn chiên thuê: «Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (Ga 10,12).
Tệ hơn nữa, nhiều «mục tử ghẻ» lại còn vì quyền lợi của mình mà sẵn sàng ngấm ngầm đứng về phe kẻ ác, bênh vực kẻ gây bất công. Những mục tử này có thể là thầy dạy về đức tin, về tình thương. Họ tuyên xưng đức tin ngoài miệng rất mạnh mẽ, lên án gắt gao những ai chỉ tuyên xưng khác với mình một chút. Nhưng khi gặp những tình huống cần phải chứng tỏ đức tin thực tế của mình, người ta mới thấy đức tin ấy chỉ là thứ «đức tin chết» (Gc 2,26; x. 2,17), hay đức tin ngoài vỏ, rỗng ruột. Những bài giảng về tình thương của họ nghe rất tuyệt vời, nhưng khi cần phải chứng tỏ bằng thực tế chính tình thương của mình, người ta mới thấy tình thương của họ chỉ là tình thương ngoài miệng lưỡi. Trong một xã hội phi nhân và bất công, «đàn chiên» của những «mục tử ghẻ» ấy nhiều khi phải mang hai lần ách: ách đời thường vốn đã nặng lại còn phải gánh thêm ách đạo nặng không kém, vì thế họ trở nên bất hạnh gấp đôi những kẻ bất hạnh khác. Trái lại, một mục tử tốt lành luôn luôn làm cho mọi người đến với mình cảm thấy được trút bớt gánh nặng, hoặc cảm thấy mạnh sức hơn để có thể nhấc bổng gánh nặng của mình. Kitô giáo đúng nghĩa phải đem lại giải phóng chứ không hề chất thêm gánh nặng cho con người. Mọi mục tử phải nói được như Đức Giêsu: «Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ bồi dưỡng cho» (Mt 11,28).
5. Số phận của những mục tử
Nếu những mục tử tốt lành sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và ân thưởng, thì những mục tử xấu sẽ bị Thiên Chúa ra án phạt nghiêm khắc. Trong bài đọc I, ngôn sứ Giêrêmia nói về số phận các mục tử xấu ấy: «Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi» (Gr 23,1-2). Ngôn sứ Dacaria cũng viết: «Ta sẽ bừng bừng nổi giận đánh phạt các mục tử» (Dc 10,3); «Hãy nghe tiếng rú của các mục tử, vì vẻ huy hoàng của chúng đã tiêu tan» (11,3).
Những mục tử xấu đáng trừng phạt. Vì thế, nếu không có khả năng «chạnh lòng thương» trước những đau khổ của con người, tốt hơn không nên làm mục tử. Đã nhận sứ mạng làm mục tử thì phải biết yêu thương đàn chiên. Những mục tử không thương đàn chiên, bỏ mặc chiên cho sói ăn thịt, hoặc còn hùa theo những kẻ gian ác để hại đàn chiên thì có thể được ưu đãi, trọng vọng, được sung sướng, được hưởng nhiều ân huệ và đặc quyền đặc lợi mà những kẻ bóc lột đàn áp chiên dành cho. Nhưng rốt cuộc cuộc đời họ sẽ kết thúc trong đau khổ, họ sẽ mang tiếng xấu muôn đời. Những vết nhơ, những vết đen trong lịch sử cuộc đời họ làm sao có thể rửa sạch được? Danh thơm tồn tại mãi, mà tiếng xấu cũng không bao giờ phai. Người đời vẫn thường nói: «Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ».
Cầu nguyện
Lạy Cha, trong xã hội và thế giới hiện nay có rất nhiều mục tử, nhiều nơi thậm chí dư thừa, nhưng mục tử tốt biết «chạnh lòng thương» và biết hy sinh cho đàn chiên thì vẫn luôn luôn thiếu. Dân chúng đau khổ không cần những mục tử vô tâm, họ chỉ cần và rất cần những mục tử biết «chạnh lòng thương». Xin Cha hãy ban cho chúng con những mục tử tốt ấy như Cha đã hứa qua miệng ngôn sứ Giêrêmia (Gr 23,4). Amen.
53. Lòng thương của Chúa
(Suy niệm của FX. Nguyễn Tất Đạt)
"Chúa Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không có người chăn dắt".
Có một nữ tu đã kể lại một sự việc xảy ra trong cộng đoàn mình như sau:
Vào năm 1982, khi quân đội Israel xâm chiếm Liban đã dồn người Palestine phải tràn vào trường học của chúng tôi để xin tị nạn. Phản ứng tự nhiên của chúng tôi dĩ nhiên là dè dặt, thủ thế và nghi kỵ. Làm sao chúng tôi có thể niềm nở với hạng người không có văn hoá như thế được. Họ tháo gỡ Thánh Giá Chúa khỏi các lớp học và chà đạp dưới chân, họ cưa chân bàn để nấu cơm. Nét mặt của họ lúc nào cũng câm lặng khó thương. Thế nhưng, các nữ tu chúng tôi cố gắng đặt mình vào hoàn cảnh của họ và tiếp nhận họ mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện nào. Chúng tôi cố gắng hiểu rằng, họ bị người ta kìm kẹp trong sự dốt nát để dễ dàng sai khiến và lèo lái. Dần dần tâm hồn của chúng tôi hoán cải và chính những người Palestine này cũng biến đổi và mỗi khi chúng tôi xuống sân trường thì họ đều chào hỏi niềm nở với chúng tôi.
Kính thưa quí ông bà và anh chị em
Phải đặt mình vào hoàn cảnh của người khác chúng ta mới hiểu và thông cảm với họ. Đó là bài học mà chúng ta cần phải học hỏi và rút ra từ chính cuộc đời của Chúa Giêsu để có thể sống đúng luật bác ái của Ngài. Để cảm thông với nhân loại tội lỗi, Thiên Chúa đã hoá thân làm người, và khi làm người, Ngài chọn kiếp sống nghèo hèn cũng như sống thân thiết với người nghèo. Thiên Chúa muốn nên một với con người, nhất là những người nghèo hèn cùng khổ, những người bị gạt bỏ ra ngoài lề của xã hội.
Bài Tin Mừng hôm nay đã ghi lại sự cảm thông ấy của Chúa Giêsu trước tiên là với các Tông Đồ. Ngài biết các ông đã rất mệt mỏi sau chuyến đi công tác về, và không đợi các ông ngỏ ý, Ngài đã khuyên các ông: "Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút". Còn đối với đám đông, Thánh Mac cô đã tóm gọn: "Ngài động lòng thương". Trái tim giàu lòng thương xót của Thiên Chúa như đang từng giây, từng phút bừng cháy một ngọn lửa yêu thương, ngọn lửa cảm thông và trìu mến đối với tất cả mọi người chúng ta.
Kính thưa quí ông bà và anh chị em, Chúa Giêsu xuống thế làm người là để sống và thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho loài người. Có lẽ ai trong chúng ta ít nhất cũng đã hơn một lần được nghe các đoạn Tin Mừng nói về:
- Chúa Giêsu động lòng thương trước cái chết của Lazarô và Ngài đã cho sống lại.
- Chúa Giêsu động lòng thương trước sự hối cải của tên trộm trên đồi Calvê và hứa ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.
- Chúa Giêsu động lòng thương trước cái chết của một thanh niên con bà goá ở thành Na-in và Ngài đã cho anh ấy sống lại.v.v.
Qua những việc làm cao cả đó, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta thấy được tình yêu của Ngài, đồng thời Chúa Giêsu cũng muốn tỏ bày cho chúng ta nhân tính đích thực của con người. Không thể làm người mà không biết xúc động, cảm thông trước những đau khổ của người chung quanh.
Tục ngữ ca dao dân gian Việt Nam có câu: "Con nhà tông không giống lông thì giống cánh". Chúng ta là dân riêng của Chúa Giêsu, là học trò của Chúa Giêsu, và là con cái của Chúa Giêsu. Vậy, chúng ta đã học đựơc nơi Ngài điều gì để xứng đáng được gọi là học trò của Ngài? Chúng ta đã nên giống Ngài ở điểm nào để xứng đáng được gọi là con cái của Ngài ?
Vậy qua bài Tin Mừng hôm nay, tất cả mỗi người chúng ta cần phải nhìn lại xem:
- Đã bao lần ta thực sự cảm thông trước lầm lỗi của người khác?
- Đã bao lần ta thực sự chia sẻ trước những đau khổ của người khác?
- Đã bao lần ta thực sự động lòng thương trước những người ngày ngày lê lết ngoài phố chợ kia chưa?...
Kính thưa cộng đoàn, chúng ta phải không ngừng học hỏi Đức Giêsu là Thầy của chúng ta để sống cho ra người, sống cho xứng đáng với phẩm giá con người, chính mỗi người chúng ta phải biết rung động và cảm thông trước những đau khổ với người khác, biết chia sẽ nổi khổ của người khác, biết lấy nổi khổ đau của người khác làm của chính mình. Nếu chúng ta thể hiện được những việc như thế, chúng ta mới xứng đáng là những người trò, người con của Đức Kitô sống để làm chứng cho lòng thương xót, sự cảm thông và tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người, và có lẽ chúng ta cũng cần khẳng định rằng đó chính là sứ vụ, trách nhiệm của mỗi Kitô hữu dưới lòng trần thế. Amen.
54. Người chạnh lòng thương
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Trong bố cục của tin mừng Marcô, đoạn 6:30-34 được chia thành hai và thuộc hai trình thuât kế tiếp nhau. Những câu 6:30-32 là kết luận của câu chuyện nhóm Mười Hai được sai đi rao giảng (6:6b-13); trong khi những câu 6:33-34 được xem là nhập đề của câu chuyện Chúa Giêsu cho năm ngàn người ăn bánh no nê (6:32-44). Giữa hai đoạn ngắn nầy có những liên kết chặt chẽ: các tông đồ nhận chỉ thị là rút lui vào “nơi hoang vắng” để nghỉ ngơi (c. 31), và họ đi thuyền vào nơi ấy (cc. 32-33); “dân chúng đông đảo” xuất hiện trong câu 31, sẽ kéo đến nơi hoang vắng và Chúa Giêsu sẽ chạnh lòng thương họ (c. 33.34). Ngoài ra, còn có một sự diễn tiến liên tục giữa hai phần: các tông đồ nhận chỉ thị đi vào nơi hoang vắng (c. 31), họ ra đi (c. 32) và họ đến nơi (c. 34). Như thế, đoạn 6:30-34 đóng vai trò liên kết hai trình thuật 6:6b-13 và 6:33-44, chuyển tiếp từ vai trò được sai đi đến vai trò làm mục tử học từ Chúa Giêsu là Mục Tử duy nhất của dân Người.
Khi các tông đồ trở về, sứ mạng đầu tiên của họ kể như chấm dứt. Ở câu 6:7 họ “đến cùng” Chúa Giêsu theo lời mời gọi của Người để được sai đi. Ở đây, họ lại “đến cùng” Người (6:30) để thuật cho Người những việc họ đã làm. Marcô đã nói đến những việc của họ: rao giảng để cho những người nghe có thể sám hối, trừ quỉ, chữa nhiều bệnh tật (x. 6:12-13). Chỉ Luca ghi nhận kết quả của những việc họ đã làm là họ vui mừng vô cùng vì đã trừ được quỉ nhân danh Chúa Giêsu (x. Lc 10:17). Trước khi Chúa Giêsu lên trời, các tông đồ sẽ lãnh nhận lần nữa mệnh lệnh đi rao giảng và cả sức mạnh và quyền năng từ Người để nhân danh Người thực hiện những điều mà hôm nay chỉ là thực tập (x. 16:17-18). Như thế, họ hoàn toàn lệ thuộc vào Người trong ơn gọi và sứ mạng của họ.
Về phần dân chúng, họ đông đảo và tuôn đến từ các thành (c. 33; x. 1:33.45). Lần nầy họ tìm đến không chỉ Chúa Giêsu mà cả các tông đồ, đến nỗi họ không có thời giờ để ăn (c. 31; x. 1:45). Những hành động của họ được mô tả cách sống động trong câu 33: “thấy”, “nhận ra”, “cùng nhau chạy” và “đến trước” diễn tả sự khao khát và nhu cầu của họ. Động từ “nhận ra”, “nhận biết” (c. 33) chỉ sự hiểu thấu thâm sâu bên trong một người hoặc một sự kiện (x. 2:8; 5:30). Dân chúng đã nhận ra Chúa Giêsu và các tông đồ của Người là ai và đó là lý do họ tìm đến các ngài (x. 6:33.54).
Tương ứng với những hành động của dân chúng là những hành động của Chúa Giêsu. Người “thấy họ” khi bước xuống khỏi thuyền (c. 34); như thế bắt gặp cái nhìn của họ. Cái “thấy” của Người, hơn cả việc nhận ra bằng thị giác một sự kiện, thấu hiểu tường tận tình huống bên trong của nó. Khi thấy một ai, Người hiểu ngay người ấy cần gì để được nên hoàn hảo hơn; do đó, Người làm điều gì đó cho Người ấy (x. 1:16.19; 2:14; 6:34). Ở đây, Người thấy dân chúng như một đàn chiên không có người chăn chiên, nên Người chạnh lòng thương (c. 34; 8:2). Động từ “chạnh lòng thương” xuất phát từ chữ “ruột gan” (splagkhnon), ngày xưa được dùng để chỉ nơi phát sinh nhưng tình cảm, cảm xúc, thay vì “con tim” trong cách dùng ngày nay. Do đó, có thể nói là khi thấy dân chúng đông đảo, Người xót dạ. Việc Người sẽ làm cho dân chúng là giảng dạy (c. 34) và cho họ bánh ăn no nê (6:35-44).
Chúa Giêsu là Mục Tử. Người nuôi dưỡng đàn chiên của Người bằng giáo huấn và bánh hằng sống của mình máu Người. Người đặt nhóm tông đồ làm mục tử và dạy cho họ làm sao có thể có được gan ruột mục tử của Người.
55. Đi tìm con người – Lm. Nguyễn Lộc Hòa
Truyện kể rằng: Một hôm trên thành A-ten nhìn thấy nhà hiền triết Đi-ô-sen với chiến đèn lồng thắp sáng trên tay đi đi lại lại săm soi như tìm kiếm gì đó giữa phố xá đông vui. Lúc ấy lại vào ban ngày nắng chói chang có người không nén nổi tính tò mò lẫn kinh ngạc lên tiếng nói: “Thưa tiên sinh, ngài tìm chi giữa thanh thiên bạch nhật vậy”. Nhà hiền triết trả lời: “Ta tìm con người”. Câu trả lời ngắn ngủi như hàm chứa những chuỗi dài suy nghẫm cho nhiều thế hệ. Hóa ra ngay ở thời Đi-ô-sen tìm ra một con người cho đáng phẩm chất người quả là việc quá nhiêu khê như mò kim dưới đáy biển.
Bài Tin Mừng thánh Maccô cho thấy: Trái tim Chúa Giêsu lại cứ trào lên trong lòng người một nổi cảm thương vô hạn khi chứng kiến đám dân chúng bơ vơ ngơ ngác như chiên không người chăn dắt. Sao lại không có người chăn dắt? Họ là người Israel có vua quan, có chức quyền, có nhà nước cai trị mà. Phải mà không phải vậy. Bởi lẽ vua Hê-rốt và quần thần của ông ta thực chất chỉ là chính quyền bù nhìn phải dựa vào thế lực của đế quốc Rôma để sinh tồn. Điều suy nhất họ vẫn cần mẫn chu toàn là giáng xuống đồng bào khốn khổ của họ, siêu cao thuế nặng để có của cống nạp cho quan tề nước lớn. Đồng thời không từ một biện pháp chuyên chính đẩm máu nào để chèn ép mọi manh nha phản kháng nổi dậy của dân chúng.
Nhưng dù gì thì dù, người Israel vẫn cứ là dân riêng của Chúa. Họ có tôn giáo, có đền thờ, có các bậc lãnh đạo tinh thần, những vị này đâu hết rồi. Có chủ chăn song cũng như không. Một số các vị gồm tư tế và kinh sư chạy theo thời cuộc dấn sâu vào chính trị. Tôn giáo đối với họ chỉ là thứ để tạo thế lực đổi chac1t với nhà cầm quyền. Một số các vị khác đặc biệt như nhóm tư tế đền thờ đã tận dụng vai trò “thầy cúng” của họ để làm giàu, thậm chí biến nhà Chúa thành thị trường kinh doanh trục lợi. Cũng chính vì tham vọng tiền và quyền họ thi nhau xén lông vắt kiệt sữa chiên trong khi không hề bận tâm lo cho chiên nắm cỏ, ngụm nước. Bóc lột chiên chán chê họ quay ra ẩu đả cắn xé lẫn nhau. Đó là bức tranh thảm thương của dân chúng thời ngôn sứ Giê-ri-mi-a vừa được tái hiện hầu như nguyên vẹn trước mắt Đức Giêsu. Không đau lòng Đấng Cứu Thế sao được, không xót dạ vị Thiên Sai sao được, nổi đau vừa do số phận đáng thương của đàn chiên và vì tính cách bất xứng vô đạo của các chủ chăn chiên. Đây là thời điểm Thiên Chúa bị chủ chăn tối cao hành động. Ngài sẽ nghiêm khắc trừng trị đám chủ chăn gian ác bất xứng. Người đem đàn chiên của người khỏi tay chúng để trao cho vị mục tử nhân lành chăm sóc. Vị mục tử này giàu lòng cảm thương vừa lo cho chiên ăn mạnh trong đàn vừa lặn lội đi tìm chiên lạc.
Và như thánh Phaolô miêu tả vị mục tử chính nhân đó sẽ thí mạng đổ máu trên thập giá để hòa giải liên kết chiên thành một để biến đổi mọi kẻ xa lạ thành người nhà bà con ruột rà với nhau và với Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa đến với mỗi người, mỗi cộng đoàn Hội thánh cũng như với đất nước ta hôm nay làm sống lại niềm hy vọng gần như tàn lụi giữa bao khó khăn truyền miên trong lịch sử và trong hiện tại. Thiên Chúa vẫn luôn để mắt đến dân của ngài. Đức Giêsu Kitô vị mục tử nhân lành đầy lòng trấn ẩn luôn dẫn dắt bảo vệ và nuôi dưỡng đàn chiên của người.
56. Tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Thấy các tông đồ đầu tắt mặt tối: làm việc cũng như giảng dạy đến nỗi không còn thời giờ mà ăn uống, Đức Giêsu mới bảo họ: Hãy vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi đôi chút (Mc 6:31). Rồi Người cùng với các tông đồ xuống thuyền chèo vào nơi thanh vắng. Để duy trì mức độ thăng bằng trong cuộc sống, Đức Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi.
Sách Sáng thế cũng ghi lại: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, và Thiên Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ ngơi, ngưng làm mọi công việc sáng tạo (St 2:3). Khi Đức Giêsu sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần, đạo mới là Kitô giáo đã dùng ngày Chúa nhật để nghỉ ngơi, thờ phượng và cảm tạ Thiên Chúa thay vì ngày Thứ Bảy là ngày Sabát.
Có bao giờ ta cảm thấy dù bận rộn với công việc làm, dù ở giữa gia đình có cha mẹ, anh chị em và bạn hữu, mà vẫn cảm thấy tâm hồn trống rỗng chăng? Và ai có thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn? Như Đức Giêsu khuyên các tông đồ tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đời nay cũng cần tìm thời giờ yên tĩnh, tìm bầu khí thanh tịnh - ngưng nói, ngưng làm - để ở một mình, hầu có thể lắng nghe tiếng Chúa và cũng lắng nghe tiếng lòng mình. Chúa thường nói với ta trong thinh lặng. Và chỉ trong thinh lặng ta mới có thể dễ dàng nghe tiếng Chúa hầu có thể thẩm định và đánh giá xem công việc đạo đức ta làm có bị Chúa dùng lời ngôn sứ Giêrêmia hôm nay mà cảnh giác chăng (Gr 23:1-6)?
Khi còn tại thế, Đức Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc làm (Ga 5:17), và còn cầu nguyện xin Thiên Chúa Cha thánh hoá họ và công việc làm của họ trong cả chương 17 của Phúc âm thánh Gioan. Sách Sáng thế có ghi lại là sau khi A-đam và E-và phạm tội, Thiên Chúa truyền cho họ phải làm việc đổ mồ hôi mới có cơm bánh mà ăn. Trong thế giới hiện tại và trong xã hội ta đang sống, người ta cần làm việc để độ thân và hộ đỡ gia đình và xây dựng xã hội loài người. Tuy nhiên nếu lúc nào cũng làm việc và coi việc làm như cùng đích và cứu cánh là người ta đã bị sa vào thuyết duy vật. Duy vật chủ nghĩa coi con người là dụng cụ sản xuất và đánh giá con người tùy theo năng lượng sản xuất. Tại những xứ kĩ nghệ hoá và hậu kĩ nghệ, nhiều người phải làm ngày Chúa nhật vì sở làm đòi hỏi như vậy, khiến người ta bị gò bó vào thời giờ làm việc tại văn phòng, nhà máy và công sở. Trong trường hợp đó người ta cần tìm ngày giờ khác nghỉ bù lại để có thể dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình và cho chính mình.
Nghỉ ngơi bao gồm cả việc đi nghỉ hè. Khi đi nghỉ hè, người tín hữu nên mời Chúa đi cùng với mình. Nói như vậy có nghĩa là trước khi đi nghè cần giàn xếp thế nào để Chúa nhật có thể dâng lễ thờ phượng. Có những người đạo đức còn làm hoà với Chúa qua Bí tích cáo giải nữa vì sợ xẩy ra tai nạn máy bay, tàu bè. Nghỉ ngơi còn gồm cả việc đi hành hương ở những nơi có ghi dấu thánh tích về cuộc đời Chúa Cứu thế để làm sống lại lời Chúa, hoặc đến thủ đô Giáo hội để làm tăng triển căn tính công giáo, hoặc những nơi Đức Mẹ hiện ra để củng cố đức tin khi thấy khách hành hương bầy tỏ đức tin trong cách thế cầu nguyện xin ơn của họ. Nhận xét thấy nhiều bà mẹ Việt nam nhất là những bà ở miền quê sinh trước khi đất nước chia đôi năm 1954 và trước khi làn sóng di dư ra ngoại quốc năm 1975 thật vất vả, không dám ăn miếng ngon, nhưng để dành cho con cái như thi sĩ Tú Xương đã mô tả về bà xã ông như sau: Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng. Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Trong ý hướng ghi ơn bậc sinh thành và dưỡng dục, thì con cháu nên gom góp tiền để giúp bố mẹ, ông bà đi hành hương một vài lần cho biết đó biết đây. Có linh mục kia hướng dẫn nhóm hành hương nói với phái đoàn trên xe là hôm đó đến tiệm ăn tối, chủ tiệm sẽ cho uống rượu vang miễn phí, nên các bà cứ uống một chút cho đời nó lên hương. Chính Đức Giêsu đã làm phép lạ biến nước thành rượu cho khách dự tiệc cưới Cana được tiếp tục vui vẻ đấy (Ga 2:1-11). Nghe vậy, có mấy bà ngồi trong xe được dịp phất cờ trong bụng. Kết quả là khi ăn uống xong, lên xe buýt, có bà đi lảo đảo, khiến mấy người trong nhóm phải dìu đi theo. Nhớ cả đời đấy!
Việc nghỉ ngơi để lấy lại sức còn bao gồm việc cầu nguyện và thờ phượng. Vào ngày lễ nghỉ, ta đến nhà thờ để dâng thánh lễ thờ phượng Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa. Ta cùng suy niệm về mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh của Chúa có ảnh hưởng đến đời sống và hành động của ta như thế nào? Thánh lễ ngày Chúa nhật phải là trung tâm điểm của đời sống người công giáo. Nói như vậy có nghĩa là cả tuần ta bận rộn với công ăn việc làm. Cuối tuần ta đến nhà thờ để được bổ dưỡng và tăng sức bằng lời Chúa và Mình thánh Chúa và để nâng đỡ đức tin của lẫn nhau. Tới cuối tuần khác, khi kiệt sức vì công ăn việc làm, ta lại đến nhà thờ để được bồi bổ sức mạnh tinh thần và thiêng liêng.
Trong Tông thư về ngày Chúa nhật gửi toàn thế giới ban hành 31-5-1998, Đức Thánh cha Gioan Phaolo II nhắc lại Chúa nhật là ‘ngày của Chúa’ trong chương một. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày và Chúa nghỉ ngơi một ngày. Chương hai bàn về ngày Chúa là ngày của Đức Kitô, ngày Chúa phục sinh, ngày vui mừng. Đức Thánh cha khẳng định lại: bỏ lễ Chúa nhật mà không có lý do chính đáng vẫn là tội nặng. Chương ba nói về ‘ngày của Giáo hội’. Giáo hội có bổn phận thánh hoá ngày Chúa nhật bằng cách nhắc nhở và khuyến khích giáo dân đi dâng lễ thờ phượng, làm việc từ thiện bác ái và nghỉ ngơi.
Khi Đức Giêsu và các tông đồ chèo thuyền vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, thì nhiều người hiểu ý nên chạy đến trước đón Người. Khi thấy đám đông, thì Chúa chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không người chăn dắt (Mc 6:34). Trong cánh đồng truyền giáo ta thấy có nhiều nơi thiếu chủ chăn, nên nhiều giáo sĩ phải bao thầu cáng đáng nhiều công việc đến nỗi không còn giờ nghỉ ngơi. Vậy thì ta cần cầu xin Chúa ban thêm nhiều mục tử để hướng dẫn và chăn dắt đoàn chiên (Gr 23:4) cũng như thợ gặt làm việc trong cánh đồng truyền giáo.
Lời cầu nguyện xin được đủ sức làm việc:
Lậy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy các tông đồ
về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi
sau những ngày giờ làm việc vất vả.
Xin giúp thánh hoá công việc con làm
và dạy con biết tìm giờ nghỉ ngơi
hầu cho thể xác và tinh thần được thanh thoả
và cũng dành thời giờ cầu nguyện với Chúa
để cho tâm hồn được thư thái lắng đọng. Amen.
57. Chúa Nhật 16 Thường Niên
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Khi còn tại thế, Chúa Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc làm, và dạy họ cầu xin Thiên Chúa thánh hoá công việc họ làm. Sách Sáng thế ghi lại là sau khi A-đam và E-và phạm tội, Chúa truyền cho họ phải làm việc đổ mồ hôi mới có mà ăn. Trong thế giới hiện tại và trong xã hội ta đang sống, ta cần làm việc để nuôi thân và hộ đỡ gia đình. Ta bị gò bó vào giờ làm việc trong sở làm. Tuy nhiên nếu lúc nào ta cũng làm việc, và coi việc làm như là cùng đích và cứu cánh là sa vào thuyết duy vật. Thuyết duy vật coi con người là dụng cụ sản xuất, và đánh giá con người theo năng lượng sản xuất.
Trong Phúc âm hôm nay Chúa còn dạy: Sau khi các tông đồ thuật lại mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy, Người bảo các ông hãy lui vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi một chút (Mc 6:31). Và rồi Chúa Giêsu và các tông đồ xuống thuyền chèo vào nơi thanh vắng. Ap dụng lời Chúa dạy, ta cầm tìm thời giờ nghỉ ngơi để duy trì mức độ thăng bằng trong cuộc sống. Việc nghỉ ngơi không có nghiã là việc mất thời giờ. Việc nghỉ ngơi đã được Thiên Chúa chúc phúc trong Phúc âm hôm nay. Sách Sáng thế cũng ghi lại: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, và Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ ngơi, ngưng làm mọi công việc sáng tạo (St 2:3). Khi Chúa Giêsu sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần, đạo mới là đạo Ki-tô giáo đã dùng ngày thứ nhất trong tuần để nghỉ ngơi, để thờ phượng và cảm tạ Chúa thay vì ngày thứ bảy.
Có bao giờ bạn cảm thấy dù bận rộn việc làm, dù ở giữa gia đình có cha mẹ, anh chị em và bạn hữu.. mà ta vẫn cảm thấy tâm hồn trống rỗng? Và ai có thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn? Như Chúa khuyên các tông đồ cần tìm sự yên tĩnh, tìm bàu khí thinh lặng để ở một mình với Chúa, và để có thể lắng nghe tiếng Chúa. Chúa thường nói với ta trong thinh lặng. Và chỉ trong thinh lặng người ta mới có thể dễ dàng nghe tiếng Chúa. Tại xứ này nhiều người phải làm ngày Chúa nhật vì sở làm đòi hỏi. Trường hợp đó ta cần tìm nghỉ bù vào ngày khác để dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình và cho chính mình.
Thống kê trong cuốn sách Future Shock của Alvin Tofler có nhận định trung bình một người Mỹ cuối thế kỷ 20 thâu nhận từ mười tới hai mươi ngàn tiếng nói mỗi ngày từ báo chí, truyền thanh, truyền hình. Ngoài ra mỗi ngày họ còn nghe truyền thanh chừng 70 phút, và coi truyền hình hàng giờ, và còn nhiều hơn nữa vào cuối tuần.
Hôm nay mỗi người nên tự hỏi xem mình đã dành cho Chúa được bao nhiêu thời giờ vào việc cầu nguyện và thờ phượng? Không những giáo sĩ mà cả giáo dân, mỗi người phải biết tìm những nơi thanh vắng, để tĩnh tâm, cầu nguyện, đặt mình dưới sự hiện diện của Chúa. Hôm nay ta tụ họp trong nhà thờ để dâng thánh lễ thờ phượng Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa. Ta cùng suy niệm về màu nhiệm nhập thể, cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa đã có ảnh hưởng đến đời sống và hành động của ta như thế nào? Thánh lễ ngày Chủ nhật phải là trung tâm điểm của đời sống người công giáo. Nói như vậy có nghĩa là cả tuần ta bận rộn với công ăn việc làm. Cuối tuần ta đến nhà thờ để được bổ dưỡng và tăng sức bằng lời Chúa và Mình thánh Chúa, và để nâng đỡ đức tin của lẫn nhau. Cuối tuần khi ta kiệt sức vì công ăn việc làm, ta lại đến nhà thờ để được bồi bổ sức mạnh tinh thần và sức mạnh thiêng liêng.
58. Chúng ta hoạt động đến đâu.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại một cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng này bắt đầu bằng sự bất dung hợp giữa các hoạt động sôi nổi không kiểm soát được của các môn đệ, và thái độ của Chúa Giêsu, thái độ ấy là: Ngài động lòng xót thương đối với những kẻ bơ vơ như bầy cừu không ai chăn dắt, nên Ngài dạy dỗ họ nhiều điều.
Một đàng, ta có thể thấy sự xuất hiện một thứ hoạt động trở thành cùng đích cho mình, và quên đi những kẻ vì họ mà mình hoạt động, đàng khác, thái độ của Chúa Giêsu trước hết là lo lắng cho những con người và nhu cầu thực sự của họ. Tin mừng nhắc lại cho chúng ta thấy bằng cách nào Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ một bài học về mục vụ mà không làm cho họ chán nản, không ngăn chặn sự quảng đại của họ.
“Hãy đi vào nơi thanh vắng và nghỉ ngơi”
Chúa Giêsu cố ý chấm dứt câu chuyện về một chuyến làm mục vụ có vẻ cấp bách nhất và mang lại thành công nhất. Vì sự thành công đó mà công việc mục vụ này dường như rơi vào một nguy cơ, như có thể xảy ra cho những công việc mang lại thành công quá nhanh chóng. Những công việc này bị lôi cuốn vào những xung đột không giải quyết được: làm sao tiếp tục tăng trưởng, đảm nhiệm tất cả, những sự thay đổi mà việc tăng trưởng đòi hỏi, và đồng thời, giữ được căn tính của công việc đó? Có những kỹ nghệ thịnh vượng, những nhà xuất bản đang lên, nhưng cũng có tạp chí, những việc buôn bán sụp đổ và biết mất.
Cuộc khủng hoảng ấy cũng có thể xảy ra cho những công trình mà khởi đầu đã mang lại những thành công lớn nhất. Và không thiếu những sự kiện đa dạng vào những năm gần đây để minh hoạ điều này. Bao nhiêu Kitô hữu đã bỏ đức tin? Bao nhiêu tu sĩ đã bỏ ơn gọi? Bao nhiêu sự nghiệp có vẻ bền bỉ đã biến mất? Ta đừng đoán xét. Nhưng hãy lắng nghe bài học của Chúa về sự cần thiết phải có một cái nhìn đúng đắn về sứ vụ được giao phó cho chúng ta.
Đi bộ từ khắp các thành phố.
Nếu Chúa muốn chấm dứt việc mục vụ này, không phải vì nó thất bại, cũng không phải vì nó thiếu ảnh hưởng trên dân chúng. Người ta cần nó. Họ từ khắp nơi tuôn đến. Họ đi vòng chung quanh hồ để gặp lại Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài.
Một cuộc đi bộ cần thiết… để loại bỏ những kẻ hiếu kỳ, những kẻ đa nghi, những kẻ lợi dụng. Cần phải suy nghĩ hai lần, và tự hỏi tại sao người ta tìm kiếm Chúa Giêsu, trong lúc những người nghèo, những người bệnh và kẻ tội lỗi là những người đến gần Chúa Giêsu trước hết và Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều; Chúa Giêsu tiếp tục sứ vụ, khi trả lại cho sứ vụ ý nghĩa thực sự của nó: đó là rao giảng Tin mừng cho người nghèo. Ngài đã chẳng nói trong hội đường Caphacnaum rằng rao giảng này là đặc điểm chính yếu của sứ vụ Ngài đó sao?
Động cơ của sứ vụ ấy là lòng thương xót của Ngài đối với người nghèo. Lòng thương xót ấy đem đến cho con người một ý nghĩa nâng cao, giải phóng và hoàn thiện con người. Một lòng thương xót tạo nên sự sống. Tự nhiên hình ảnh người mục tử hiện ra trong trí chúng ta. Công việc của người mục tử thật khó khăn. Họ phải liên lỉ canh chừng, kiên nhẫn để đưa dẫn đàn chiên không phải lúc nào cũng tin tưởng đến những đồng cỏ xanh tươi.
Một cách rất đơn giản, Chúa Giêsu đã đưa sứ vụ trở về đúng hướng. Ngài cũng xác định với những kẻ thuộc về Ngài: rằng người mục tử bao giờ cũng cần phải có thời gian, nhiều thời gian và kiên nhẫn cùng với sự tôn trọng khả năng của những kẻ được ủy thác cho họ.
59. Kiểm điểm.
Sau cuộc đi thực tập truyền giáo trở về, các tông đồ đã sung sướng kể lại những thành quả tốt đẹp đã gặt hái. Nghe xong, Chúa Giêsu đã mời gọi các ông vào nơi thanh vắng, như Ngài vốn làm, để nghỉ ngơi, để cầu nguyện cũng như để kiểm điểm về những biến cố mà họ đã gặp và đã sống.
Trong một vài phút ngắn ngủi này, tôi muốn chia sẻ về việc kiểm điểm đời sống để biết rõ chính bản thân của mình.
Con người ngày nay biết được nhiều sự, nhưng có một sự cần biết hơn cả thì họ lại mù tịt, đó là biết chính bản thân mình. Con người ngày nay khám phá ra nhiều thứ, từ những bí mật dưới lòng biển cả cho đến những tinh tú trên bầu trời cao, nhưng có cái cần khám phá hơn cả thì họ lại quên lãng, đó là khám phá chính tâm hồn của mình.
Từ xưa, người ta đã nhấn mạnh đến tầm mức quan trọng của việc biết mình.
Đông phương thì bảo:
- Tri bỉ tri kỷ, bách chiến báchthắng. Biết mình biết người, trăm trận đều thắng.
Còn Tây phương thì khuyên:
- Connais-toi, toi-même. Hãy biết chính mình bạn.
Sở dĩ như vậy vì không biết mình thì khó mà khiêm nhường, không khiêm nhường thì khó mà nhân đức, không nhân đức thì khó mà được vào nước trời. Không biết những sai lỗi thì làm sao có thể uốn nắn mà trở nên hoàn thiện.
Tuy nhiên, biết mình không phải là chuyện dễ, bởi vì như một thi sĩ đã bảo:
- Con người khó mà đo được tâm hồn của mình một cách chính xác, bởi vì cái thước họ dùng luôn sai lạc, hoặc ngắn quá hoặc dài quá.
Một người đã sạch thì chỉ một vết nhơ nhỏ mọn cũng đã đủ để cảm thấy bức rức khó chịu rồi tắm gội lại ngay. Trái lại, một người đã lem luốc bẩn thỉu, dính đầy dầu mỡ, thì dù bùn đất có dính vào thì cũng chẳng cảm thấy chi. Cái bi đát là ở chỗ người say thì chẳng bao giờ nhận mình là say. Còn kẻ tội lỗi thì chẳng nhận thấy mình có tội lỗi gì.
Chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ đằng trước đựng những sai lỗi của kẻ khác còn cái giỏ sau lưng thì đựng những sai lỗi của mình. Do kiêu ngạo, chúng ta thiếu nhận biết về bản thân cùng những sai lỗi của mình. Trái lại, những khuyết điểm của người khác thì chúng ta lại biết rất rõ và kết án một cách rất là nghiêm khắc.
Bởi đó chúng ta phải luôn luôn tự hỏi:
- Tôi là ai và tôi như thế nào? Đâu là những cám dỗ tôi thường gặp, đâu là những tật xấu tôi thường vấp mắc và đâu là những tội tôi thường phạm?
Tất cả những câu hỏi trên, chúng ta chỉ có thể tìm thấy được câu trả lời một cách xác thực nhất trong thinh lặng, cầu nguyện và kiểm điểm đời sống.
Bởi đó, giữa giòng đời huyên náo, chúng ta hãy biết dành lấy những giây phút thinh lặng để cầu nguyện, để tính sổ cuộc đời với Chúa, và nhìn lại những bước đường đã đi.
Qua những giây phút thinh lặng ấy, chúng ta sẽ trở về nguồn và từ đó xác định rõ hơn mình đang ở đâu và mình đã đi tới đâu rồi? Từ đó, chúng ta sẽ dễ dàng uốn nắn lại đường đi nước bước của mình.
Đồng thời, chúng ta sẽ lãnh nhận được một nguồn sinh lực và ơn sủng dồi dào nhờ việc kết hợp và gắn bó mật thiết với Chúa.
Chính vì thế, người ta đã đưa ra một kinh nghiệm sống như sau: Tâm hồn càng nhận được nhiều trong thinh lặng thì càng ban phát nhiều hơn trong hành động và trong cuộc sống.
60. Người chạnh lòng thương
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Trong bố cục của tin mừng Marcô, đoạn 6:30-34 được chia thành hai và thuộc hai trình thuât kế tiếp nhau. Những câu 6:30-32 là kết luận của câu chuyện nhóm Mười Hai được sai đi rao giảng (6:6b-13); trong khi những câu 6:33-34 được xem là nhập đề của câu chuyện Chúa Giêsu cho năm ngàn người ăn bánh no nê (6:32-44). Giữa hai đoạn ngắn nầy có những liên kết chặt chẽ: các tông đồ nhận chỉ thị là rút lui vào “nơi hoang vắng” để nghỉ ngơi (c. 31), và họ đi thuyền vào nơi ấy (cc. 32-33); “dân chúng đông đảo” xuất hiện trong câu 31, sẽ kéo đến nơi hoang vắng và Chúa Giêsu sẽ chạnh lòng thương họ (c. 33.34). Ngoài ra, còn có một sự diễn tiến liên tục giữa hai phần: các tông đồ nhận chỉ thị đi vào nơi hoang vắng (c. 31), họ ra đi (c. 32) và họ đến nơi (c. 34). Như thế, đoạn 6:30-34 đóng vai trò liên kết hai trình thuật 6:6b-13 và 6:33-44, chuyển tiếp từ vai trò được sai đi đến vai trò làm mục tử học từ Chúa Giêsu là Mục Tử duy nhất của dân Người.
Khi các tông đồ trở về, sứ mạng đầu tiên của họ kể như chấm dứt. Ở câu 6:7 họ “đến cùng” Chúa Giêsu theo lời mời gọi của Người để được sai đi. Ở đây, họ lại “đến cùng” Người (6:30) để thuật cho Người những việc họ đã làm. Marcô đã nói đến những việc của họ: rao giảng để cho những người nghe có thể sám hối, trừ quỉ, chữa nhiều bệnh tật (x. 6:12-13). Chỉ Luca ghi nhận kết quả của những việc họ đã làm là họ vui mừng vô cùng vì đã trừ được quỉ nhân danh Chúa Giêsu (x. Lc 10:17). Trước khi Chúa Giêsu lên trời, các tông đồ sẽ lãnh nhận lần nữa mệnh lệnh đi rao giảng và cả sức mạnh và quyền năng từ Người để nhân danh Người thực hiện những điều mà hôm nay chỉ là thực tập (x. 16:17-18). Như thế, họ hoàn toàn lệ thuộc vào Người trong ơn gọi và sứ mạng của họ.
Về phần dân chúng, họ đông đảo và tuôn đến từ các thành (c. 33; x. 1:33.45). Lần nầy họ tìm đến không chỉ Chúa Giêsu mà cả các tông đồ, đến nỗi họ không có thời giờ để ăn (c. 31; x. 1:45). Những hành động của họ được mô tả cách sống động trong câu 33: “thấy”, “nhận ra”, “cùng nhau chạy” và “đến trước” diễn tả sự khao khát và nhu cầu của họ. Động từ “nhận ra”, “nhận biết” (c. 33) chỉ sự hiểu thấu thâm sâu bên trong một người hoặc một sự kiện (x. 2:8; 5:30). Dân chúng đã nhận ra Chúa Giêsu và các tông đồ của Người là ai và đó là lý do họ tìm đến các ngài (x. 6:33.54).
Tương ứng với những hành động của dân chúng là những hành động của Chúa Giêsu. Người “thấy họ” khi bước xuống khỏi thuyền (c. 34); như thế bắt gặp cái nhìn của họ. Cái “thấy” của Người, hơn cả việc nhận ra bằng thị giác một sự kiện, thấu hiểu tường tận tình huống bên trong của nó. Khi thấy một ai, Người hiểu ngay người ấy cần gì để được nên hoàn hảo hơn; do đó, Người làm điều gì đó cho Người ấy (x. 1:16.19; 2:14; 6:34). Ở đây, Người thấy dân chúng như một đàn chiên không có người chăn chiên, nên Người chạnh lòng thương (c. 34; 8:2). Động từ “chạnh lòng thương” xuất phát từ chữ “ruột gan” (splagkhnon), ngày xưa được dùng để chỉ nơi phát sinh nhưng tình cảm, cảm xúc, thay vì “con tim” trong cách dùng ngày nay. Do đó, có thể nói là khi thấy dân chúng đông đảo, Người xót dạ. Việc Người sẽ làm cho dân chúng là giảng dạy (c. 34) và cho họ bánh ăn no nê (6:35-44).
Chúa Giêsu là Mục Tử. Người nuôi dưỡng đàn chiên của Người bằng giáo huấn và bánh hằng sống của mình máu Người. Người đặt nhóm tông đồ làm mục tử và dạy cho họ làm sao có thể có được gan ruột mục tử của Người.
61. Đức Giêsu, các Tông Đồ và dân chúng
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đức Giêsu đã gọi Nhóm Mười Hai và sai đi từng hai người một (6,7.12). Bản văn hôm nay tường thuật việc các ông trở về báo cáo công việc đã làm với Thầy. Để chu toàn được sứ mạng Đức Giêsu giao là loan báo Tin Mừng về Triều Đại Thiên Chúa và đuổi được ma quỷ, các ông phải chấp nhận định mệnh của Gioan Tẩy Giả (đó là lý do khiến tác giả đã tháp truyện Gioan bị trảm quyết vào giữa đoạn văn về sai phái đi và trở về báo cáo kết quả; x. 6,17-29).
Trong đoạn văn này, chúng ta gặp lại những yếu tố quen thuộc: Đức Giêsu là Thầy nhắc nhở các môn đệ (c. 31), rút về nơi thanh vắng (1,35.45), đám đông kéo tới, chiếc thuyền (2,2; 3,7t.20; 4,1t). Sự kiện cả Nhóm không có giờ ăn uống đã được nói đến ở 3,20.
Nếu đặt bản văn này trong tác phẩm Mc, ta thấy đây chính là phần mở cho biến cố Đức Giêsu làm cho bánh hóa nhiều mà nuôi đám đông dân chúng (6,34-44).
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu và các Tông Đồ (6,30-32);
2) Đức Giêsu và đám đông dân chúng (6,33-34).
3.- Vài điểm chú giải
- Các Tông Đồ tụ họp quanh Đức Giêsu (30): Không phải là chuyện tình cờ nếu khi đi rao giảng về, Nhóm Mười Hai được nhận danh hiệu “tông đồ” (và trong TM II thì chỉ ở đây mà thôi). Danh hiệu này tăng cường thêm cho dây liên kết giữa đoạn văn này với đoạn văn kể lại việc Đức Giêsu sai phái các ông đi rao giảng. Chính là trong tư cách “tông đồ”, nghĩa là những người được Đức Giêsu giao phó sứ mạng tiếp nối công trình của Người, mà các ông tái xuất hiện.
- và kể lại … mọi điều các ông đã làm … đã dạy: Họ báo cáo đúng theo hai phương diện của hoạt động được giao (x. 6,12-13): rao giảng – trừ quỷ và chữa bệnh (x. thêm 6,7-11; 3,14-15). Hai phương diện này đã được minh hoạ trong hoạt động của Đức Giêsu (1,21-27; ch. 4–5; 6,1-6). Sứ vụ của Nhóm Mười Hai được đồng hoá với sứ vụ của Đức Giêsu và nối dài sứ vụ của Người.
Đây là chỗ duy nhất mà tác giả xác định là Nhóm Mười Hai “đã giảng dạy” (edidaxan). Ngài thường dùng động từ “công bố” để nói về các ông này hơn (kêryssein: 3,14; 6,12; 13,10; 14,9). Trong từ vựng của ngài, có một sắc thái phân biệt hai từ này: việc công bố đi trước việc giảng dạy (so sánh 1,14 và 21). Tuy nhiên, không nên đối lập hai từ này y như thể là hai sinh hoạt hoàn toàn tách biệt; khó mà làm việc này nếu không có việc kia. Dù sao, lời nhắc đến việc giảng dạy của Nhóm Mười Hai ở đây vẫn đáng lưu ý, vì tại đây tác giả đang nêu bật hoạt động giảng dạy của Đức Giêsu (6,6b.34). Ngài muốn nói: hoạt động giảng dạy của Đức Giêsu được nối tiếp nơi hoạt động giảng dạy của Nhóm Mười Hai.
- Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng, mà nghỉ ngơi đôi chút (31): Câu này hẳn là có ý giải thích việc ra đi đến nơi thanh vắng để rồi tại đó, xảy ra cuộc gặp gỡ với năm ngàn người. Câu này hẳn cũng cho phép liên kết việc sai phái Nhóm Mười Hai và cuộc trở về của họ với cuộc gặp gỡ của vị Mục Tử với đàn chiên bơ vơ. Tuy nhiên, câu này cũng có những chi tiết đáng quan tâm: một đàng, sự tha thiết được nêu bật bằng việc lặp lại: “lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng” (cc. 31-32). “Lánh riêng ra” (kat’idian) là một nét riêng của Mc (x. 7,33; 4,34; 9,2.28; 13,2). Đức Giêsu tạo cơ hội cho Nhóm Mười Hai được “ở với Người” (3,14), xa đám đông, và để được sai đi.
Đàng khác, lời đề nghị của Đức Giêsu hàm ý Người muốn các tông đồ có cùng một nhịp sinh hoạt (hoạt động nơi dân chúng – sống cô tịch) như Người. Các ông được mời bắt chước Người tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi, mà cầu nguyện, sau khi đã hoạt động rao giảng. Phải chăng đây là điều tác giả muốn diễn tả qua dụ ngôn hạt giống tự mọc một mình (4,26-29)?
- chạnh lòng thương (34): Động từ splanchnizomai (x. 1,41) diễn tả một tâm tình sâu xa động chạm đến lòng dạ (ta splanchna) và được biểu lộ ra bằng một hành vi đặc biệt chiếu cố đến một ai đó (x. Mt 18,27; Lc 15,20; 10,33).
- vì họ như bầy chiên không người chăn dắt: Câu này gợi nhớ đến hoàn cảnh nguy hiểm hoặc đáng thương của dân Chúa khi thiếu vắng thủ lãnh (Ds 27,17), bị phó mặc cho kẻ thù xâu xé (1 V 22,17; 2 Sb 18,16), bị vua chúa coi thường và bỏ rơi (Ed 34,5), lang thang, lạc lõng, bơ vơ không người chăn dắt (Dcr 10,2-3; 13,7). Dường như bản văn Mc gần với Ds 27 và Ed 34 hơn, vừa về giọng văn vừa về đề tài. Trong Ds 27, chính Môsê, trước khi chết, đã xin Thiên Chúa ban một thủ lãnh thay thế ngài dẫn dắt cộng đồng dân Chúa đi trong hoang địa; thế mà bản văn Mc đây đang nhắc nhớ đến Môsê và các lương thực nhiệm mầu của Ít-ra-en trong hoang địa. Còn lời sấm Ed 34 thì loan báo rằng chính Thiên Chúa sẽ săn sóc đoàn chiên Ngài (c. 11), cho chúng được ăn trong đồng cỏ mầu mỡ (c. 14), cho chúng nghỉ ngơi (cc. 14-15) và đặt một mục tử dẫn dắt chúng (c. 23). Xem Tv 22/23.
Nhiều chi tiết trong bài tường thuật liên hệ đến những đoạn văn đó: sự ân cần của Đức Giêsu, sự nghỉ ngơi mà Người muốn bảo đảm cho môn đệ, đám đông qui tụ lại, bữa ăn trên cỏ xanh, lương thực dồi dào… Đây là những gợi ý cho hiểu Đức Giêsu chính là vị Mục tử thiên sai. Khi nhận xét rằng Đức Giêsu “chạnh lòng thương”, bản văn đã đề cao phẩm chất của vị Mục tử thiên sai.
- và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều: Điều đáng ngạc nhiên là Đức Giêsu giảng dạy để bày tỏ lòng thương xót! Các bản văn Mt và Lc dường như hợp lý hơn: Đức Giêsu chữa các bệnh nhân hoặc nếu có giảng dạy thì không phải vì thương xót. Vả lại công việc của người mục tử không phải là dạy dỗ, mà là nuôi dưỡng đoàn chiên.
Thật ra, ở đây cũng như tại những nơi khác (x. 1,21; 2,13; 6,2; 10,1), tuy không cảm thấy phải nói về nội dung của lời Đức Giêsu giảng dạy, Mc vẫn sử dụng danh từ “lời giảng dạy” và động từ “giảng dạy” nhiều hơn Mt. Bởi vì điều ngài quan tâm không phải là nội dung lời giảng, mà là chính hoạt động giảng dạy, vì hoạt động này biểu lộ chân tính của Đức Giêsu. Bằng lời Đức Giêsu giảng dạy và đánh tan quyền lực của Satan, Thiên Chúa hành động để thiết lập Triều Đại của Ngài. Vậy, trong tư cách Mục tử thiên sai, khi giảng dạy, Đức Giêsu chứng tỏ uy quyền. Đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ xa xưa, nay Đức Giêsu đến để dùng lời nói mà qui tụ, để làm no thoả đàn chiên bơ vơ.
Thật ra, có nhiều bản văn Kinh Thánh nối kết việc mạc khải Lời Chúa với ân ban các lương thực thiên quốc (x. trường hợp Môsê: Kn 16,28; Nkm 9,13-15; Tv 118/119,131.176; Tv 94/95,7-8.11; TM Ga nối bài tường thuật về việc hoá bánh ra nhiều (6,1-15) với diễn từ về Bánh ban sự sống (6,26-58).
Cũng có thể giải thích bản văn Mc dựa theo sinh hoạt Giáo Hội: hẳn là Mc đã dựa vào nếp sinh hoạt phụng vụ cộng đoàn, trong đó việc giảng dạy và bẻ bánh đi đôi với nhau và hỗ trợ cho nhau (x. Cv 2,42; 20,7; Lc 24,25-32).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu và các tông đồ (30-32)
Cần phải hiểu cách thức Đức Giêsu xử sự với dân chúng trong quan hệ với sự ân cần Người tỏ ra với các môn đệ.
Trong TM Mc, quan hệ của Đức Giêsu với đám đông dân chúng luôn luôn xảy ra có sự chứng kiến của Nhóm Mười Hai hoặc của một vài người của Nhóm. Song song với việc giảng dạy cho dân chúng, Đức Giêsu có dành cho Nhóm Mười Hai một lối giảng dạy riêng (4,1-34; x. cc. 10-25.34).
Kể từ sau khi các môn đệ đi sứ vụ trở về (6,30), Đức Giêsu đã làm một loạt những hành vi và ban những lời giảng dạy dành riêng cho họ. Nếu Đức Giêsu có giảng dạy và nuôi dưỡng đám đông, thì theo TM II, dấu lạ này lại được dành cho các môn đệ, chỉ có điều là họ không hiểu thôi (6,52). Nếu Đức Giêsu có tranh luận về sự thanh sạch của lương thực và về truyền thống với người Pharisêu (7,1-16), chính là để soi sáng cho các môn đệ đang ở riêng một nơi (7,17-23). Vào cuối phần đoạn nói về các cuộc hoá bánh ra nhiều, những lời Người trách các môn đệ (8,14-21) chứng tỏ đấy là một mạc khải được dành riêng cho các ông. Câu truyện Đức Giêsu chữa một người mù (8,22-26) được đặt giữa những lời trách mắng này và lời tuyên xưng đức tin của Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô”, sẽ là một bước dứt khoát hướng về chỗ hiểu biết Người chính xác hơn.
* Đức Giêsu và đám đông dân chúng (33-34)
Theo Mc, Đức Giêsu có sức thu hút phi thường đối với dân chúng ngay khi Người xuất hiện (1,33). Người có rút lui vào nơi thanh vắng cũng không tránh khỏi dân chúng (1,45). Dân chúng từ khắp nơi tuốn về, chen chúc, xô đẩy Người, khiến Người không còn thì giờ để ăn uống với môn đệ nữa (2,2.13; 3,7-9.20; 5,21.24; 6,54-56; 9,15; 10,1.46). Dọc theo quyển Tin Mừng, ta thấy dân chúng luôn luôn tỏ ra có thiện cảm với Người, cho đến khi họ bị các thượng tế lèo lái trong cuộc xử án tại toà Philatô (15,11). Không bao giờ Đức Giêsu xua đuổi họ, cho dù đôi khi Người tìm cách tránh họ (7,24.33; 9,30). Có khi Người còn gọi họ lại (7,14; 8,34). Sự hiện diện hoặc vắng mặt của đám đông không phải là không có ý nghĩa. Theo Mc, cách thức Đức Giêsu đối xử với đám đông biểu lộ một phương diện cốt yếu thuộc sứ mạng Người. Đó đặc biệt là trường hợp ở đây, khi mà đám đông kéo đến bất ngờ, và Đức Giêsu thì muốn tránh.
+ Kết luận
“Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” là hoạt động Thiên Chúa đang được thể hiện giữa loài người hôm nay. Tin Mừng này nhắm đạt đến mọi người, nhờ sứ vụ các tông đồ. Xuyên qua sứ vụ này, chính lòng thương xót của Đức Kitô, đức ái của Người, chiếu cố đến mọi người. Khi suy gẫm về sự hiệp nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ ở thời kỳ khai nguyên Tin Mừng, Mc chạm đến thực tại sâu xa của Giáo Hội, trách nhiệm của Giáo Hội, đòi hỏi mà Giáo Hội phải đáp ứng bằng sứ vụ loan báo Tin Mừng.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Các Tông Đồ “tụ họp” chung quanh Thầy và đánh giá về công việc với Người chính là hình ảnh của cộng đoàn vẫn liên lạc thường xuyên với Đức Chúa của mình. Người ta có thể làm một công việc mà trước đó không xác định được là việc gì chăng? Và khi đã làm xong công việc được giao phó, người ấy lại không phải đến gặp ông chủ vào báo cáo về công việc đó sao? Đây là một lưu ý được gửi đến cho cộng đoàn Kitô hữu: coi chừng có thể lấy những quyết định mà không quy chiếu về Lời của Thầy. Bất cứ khi nào cộng đoàn Kitô hữu lấy các quyết định mà không quy chiếu về Tin Mừng, họ rất có thể sẽ theo lô-gích loài người và chỉ nhìn công việc dưới những nhãn hiệu như là uy tín, thành công và danh giá.
2. Khi khuyên các môn đệ đi đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi, Đức Giêsu đã làm một cử chỉ rất nhân bản, Người đã tỏ ra là một vị Thầy quan tâm đến mọi phương diện thuộc đời sống các môn đệ: có phương diện thiêng liêng, và cũng có những nhu cầu thể lý. Đấy là một tấm gương cho tất cả những ai có trách nhiệm về những người khác. Ngoài ra, trong Cựu Ước, lòng từ bi thương xót là một phẩm tính của Thiên Chúa; qua thái độ của Đức Giêsu, ta thấy được lòng thương cảm của Thiên Chúa đối với loài người. Bất cứ ai có vai trò “mục tử” (cha xứ, bề trên, cha mẹ…) đều được mời gọi bắt chước Đức Giêsu về phương diện này.
3. Đức Giêsu thương xót đám đông, và việc Người đã làm là ngồi xuống, lắng nghe họ và cố gắng hiểu các vấn đề của họ, rồi dùng thì giờ mà giảng dạy họ. Khi đưa Nhóm Mười Hai vào sứ vụ này, Đức Giêsu đã thật vất vả mới mở mắt các ông ra được, thì chắc hẳn không người môn đệ nào hôm nay muốn thực tập đời Tông Đồ mà lại miễn chuẩn cho mình khỏi phải ở với Đức Giêsu, nhìn ngắm Người, bước theo Người và cứ thường xuyên bị Người ngăn cản trong những kế hoạch theo lô-gích loài người.
62. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
CHÚA GIÊSU ĐỘNG LÒNG XÓT THƯƠNG
Chính vì muốn tường trình cho Thầy mình công việc rao giảng nên các môn đệ đã trở về gặp lại Chúa Giêsu (c.30). Đã đến giờ các thừa sai làm bảng tổng kết đầu tiên. Đây là lần duy nhất trong sách Tin Mừng, Maccô gán cho nhóm Mười Hai biệt danh “Tông đồ”, nghĩa là “những kẻ được sai đi”. Chúa Giêsu moơì các bạn hữu Ngài tìm chỗ yên tĩnh xa lánh mọi người để nghĩ ngơi cho lại sức (c.31a). Đám cứ quấy nhiễu không cho họ có thời giờ phục hồi sinh lực (c.31b). Như thế chủ đề về thực phẩm mà Maccô dự tính trình bày đã được loan báo. Có sự tương phản sống động giữa một ý định chạy trốn đám đông (sang bên kia hồ) và một bên là làn sóng người tìm cách cuốc bộ tới địa điểm trước để đón các Ngài (2,32-33).
Vì thế, vừa đặt chân lên đất, Chúa Giêsu đã lại thấy một đám đông vô kể (c.34). Chúa Giêsu không thể và cũng không muốn trốn họ nữa. Ngược lại, Maccô nhấn mạnh đến sự lo lắng đặc biệt Chúa dành cho đám đông này. Trong tiếng Hy Lạp, thành ngữ “động lòng xót thương” có ý nghĩa rất mạnh. Bản văn nói lên rõ ràng: “Lòng dạ Ngài xúc động” giống như lòng dạ Thiên Chúa đối với dân Người (Hs 11,8).
Lòng xót thương của Chúa Giêsu có thể sánh ví với lòng xót thương của người mục tử đối với bầy chiên bơ vơ lạc lõng. Ở đây phảng phất chủ đề căn bản của Cựu Ước, Israel được trình bày như một đàn cứu được Thiên Chúa và các mục tử Ngài gửi đến dẫn dắt. Tuy nhiên không phải tất cả các mục tử này là những người gương mẫu giống như Môsê hoặc Đavit (x.Ed 34,1-31). Dân Chúa từng gặp phải và vẫn còn gặp phải những người lãnh đạo rất bất xứng với sứ mệnh của họ. Vì thế Thiên Chúa đã hứa sẽ ban cho Israel một vị mục tử nhân lành là chính Đấng Mêsia được toàn dân mong đợi. Trong chương này, Chúa Giêsu xuất hiện như vị Mục Tử thần linh cực kỳ lo lắng cho dân Ngài. Và Maccô nhấn mạnh việc Chúa bắt đầu bằng hành động “giáo hóa” dân chúng một cách kỹ lưỡng. Có tới hai lần, tác giả ghi nhận tầm quan trọng của lời Chúa Giêsu giảng dạy (1,22; 4,1-2) dù không hề xác định rõ nội dung của lời giảng dạy đó. Ở đây cũng thế. Tuy nhiên, sự kiện này vẫn mang đầy ý nghĩa. Trước khi cho dân chúng bánh ăn thì lời giảng của Chúa Giêsu đã làm cho họ “no thỏa”. Trình thuật hóa bánh sắp diễn ra không được phép tách lìa khỏi trình thuật giảng dạy trước đó. Bởi vì chính Chúa Giêsu đã “dùng Lời” để cố quy tụ đám đông thành một dân mới của Thiên Chúa. Từ xưa Giáo Hội đã ghi nhận điều này. Trong nghi thức Thánh Thể, Giáo Hội luôn luôn nối kết “hai bàn tiệc” với nhau: trước hết là bàn tiệc Lời Chúa, rồi sau đó là bàn tiệc Bánh Thánh.
63. Chú giải của Noel Quesson.
CÁC TÔNG ĐỒ TỤ HỌP CHUNG QUANH ĐỨC GIÊSU.
Đây là lần đầu tiên và lần duy nhất, Maccô gọi các môn đệ là "Tông đồ" ("apostoloi", có nghĩa là "những kẻ được sai đi"). Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã nghe Đức Giêsu dặn dò các Tông đồ, khi sai các ông lên đường. Các ông đã sống một ít ngày, không biết mấy ngày, từng hai người một nhưng không có Người. Các ông trở về sau một cuộc truyền giáo. Các ông đã cảm nghiệm được sức mạnh của Tin Mừng, nhưng chắc hẳn các ông cũng đã có kinh nghiệm về sự chống đối, khước từ, lãnh đạm. Và đoạn Tin Mừng này cho thấy các ông rất mệt mỏi. Cần sự nghỉ ngơi. Vào thời đó, người ta chỉ đi bộ.
Và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy.
Đó là giờ ‘báo cáo’. Hành động rồi xét lại hành động đó để hiểu nó hơn trong đức tin và để làm tốt hơn trong những lần sau. Ngày nay người ta thường tụ họp nhau lại. Người ta quen làm việc theo nhóm, trong sinh hoạt học đường, nghề nghiệp, nghiên cứu: Các Hiệp hội, nghiệp đoàn, ủy ban đủ loại, thường triệu tập thành viên của mình để góp chung ý kiến, dự thảo các dự án. Ngày nay, người ta nói nhiều về "thảo luận", "đối thoại". Đó là một phần thuộc bản chất con người. Một lần nữa chúng ta thấy Đức Giêsu đã hoàn toàn hòa nhập vào bản chất sâu xa của con người; sống trong tương quan và góp phần với người khác. Ngày nay nhiều Kitô hữu đã hiểu rằng, đức tin của họ sẽ mạnh hơn biết bao, nếu họ liên kết với những người anh em khác để giải thích và chia sẻ Tin Mừng. Đó là mục đích của việc họp mừng Thánh Thể mỗi Chúa nhật. Sau một tuần thi hành sứ vụ, người Kitô hữu "trở về" với Đức Giêsu. Tôi có điều gì để nói với Chúa không? Tôi có cầu nguyện với Người về cuộc sống của tôi trong tuần qua không?
Mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy.
Thánh Maccô tóm lại tất cả sứ vụ của các Tông đồ trong hai bình diện "làm" và "nói". Đó cũng là đặc điểm hoạt động của Đức Giêsu: Những hành vi xót thương, giảng dạy. Đức Giêsu và các tông đồ đều là những người thợ cùng làm một công việc.
Người bảo các ông: "Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút". Quả thế kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. Vậy, các ngài xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng.
Đức Giêsu cũng "nghỉ mát". Đức Giêsu đề nghị với các bạn của Người, đang quá mệt mỏi vì công việc, hãy dành một thời gian để nghỉ ngơi thư giãn. Quá tải, căng thẳng thần kinh mà ngày nay người ta gọi là ‘stress’ có hại cho công việc Tông đồ cũng như các công việc khác. Đức Giêsu muốn cho mọi người nam cũng như nữ được quân bình, thanh tĩnh, ổn định. Đó là nhu cầu thinh lặng, cô tịch, tránh xa đám đông. Đó là điều cần thiết cho con người mọi thời, đặc biệt cho con người thời nay, có thể dễ bị bệnh nhồi máu cơ tim do sự biến động trong các thành phố.
Trong một tuần lễ, một ngày sống, tôi có tự ý dành một khoảng thời gian để sống thinh lặng cô tịch không? Tôi phải qua những kỳ nghỉ nào?
Đây không phải là lần duy nhất Máccô cho chúng ta biết Đức Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Đức Giêsu còn biết chọn những nơi hiện diện: "Một ngọn núi cao riêng biệt" (Mc 9,2). Những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1) những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31) đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Héc-mon (Mc 8,27).
Đến nơi thanh vắng trong sự cô tịch, anh em hãy nghỉ ngơi.
Đức Giêsu khích lệ các Tông đồ đi đến một nơi thanh vắng yên tĩnh. Đời sống nội tâm đòi buộc phải suy niệm. Sự náo động bên ngoài chỉ đưa đến phiến diện bề ngoài. Không có một công trình vĩ đại nào của con người được thực hiện mà lại không có sự tập trung cao độ, cố gắng yên tĩnh và tự chủ. Bất cứ một cuộc sống đúng đắn nào của con người cũng phải trải qua từ giai đoạn hoạt động “bên ngoài" đến những giai đoạn suy tư "bên trong" – xem, xét, làm. Xem lại, xét lại, làm lại. Điều này lại càng đúng với đời sống Kitô hữu: Không có cuộc sống Kitô hữu nào vững chắc và sâu xa mà lại không thể hiện hai nhịp sau: Sống "nội tâm" và hoạt động "bên ngoài". Tôi có dành thời gian để suy niệm không? Thời gian tôi dành cho sự cầu nguyện trong khoảng 24 giờ là bao nhiêu? Tôi có sự thinh lặng, cô tịch không? Tôi có quen vặn rađiô hay tivi để lấp đầy khoảng trống thời gian của tôi không? Còn những Chúa nhật của tôi ra sao? Có phải là ngày sabat, ngày nghỉ ngơi không?
Thấy các ngài ra đi nhiều người hiểu ý các ngài, nên từ khắp thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi trước các ngài. Bước lên bờ, Đức Giêsu thấy đông đảo dân chúng.
Ở đây Đức G'iêsu và các môn đệ dường như đang chơi trò "ú tim" hay "cút bắt" với đám đông. Nhưng không có cách nào trốn được. Người ta muốn trốn đám đông Nhưng người ta cũng phải lo cho đám đông đó. Người ta muốn trốn để nghỉ ngơi, tránh sự quá tải đến nỗi không có thời giờ để ăn. Người ta sắp xếp để rút êm, nhưng đám đông đã ở đó trước. Phản ứng của Đức Giêsu trước sự bất ngờ trái ý, làm xáo trộn chương trình của Người thế nào?
Đức Giêsu thấy đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương.
Lạy Chúa, người ta nhận biết rõ Chúa nhờ điểm đó. Trước tiên, con muốn dành thời giờ để tưởng tượng phản ứng của Chúa. Chúa bước lên bờ. Đám đông đang ở trên bãi biển -Đám đông chạy ùa đến với Chúa. Thay vì bực mình, lạy Chúa, Chúa đã tiếp đón họ. Sự cô tịch, nghỉ ngơi được dời lại vào một lần khác. Trước những trường hợp cấp bách, Chúa cũng phải thay đổi chướng trình của Người. Người đã đáp lại lời mời gọi của kẻ khác. Biết bao bà mẹ muốn nghỉ ngơi mà không được. Lạy Chúa, Chúa đã trải qua kinh nghiệm này. Tình yêu là thế. Làm những gì mà người ta "có lẽ không muốn", làm những gì "phải làm", những việc "đang ở đó", "Kẻ nào muốn làm môn đệ Tôi, hãy khước từ chính bản thân mình và hãy theo Tôi" (Mc 8,34), Kẻ nào liều mất mạng sống của mình, sẽ được sống" (Mc 8,35). Thua mất! Chúa đã thua mất. Người đòi hỏi chúng ta hãy làm như Người; Thua mất vì tình yêu.
Người chạnh lòng thương.
Cảm xúc này đã biểu lộ trên ương mặt, trong cử chỉ của đôi -tay, trên môi, trên mắt, trong giọng nói của Đức Giêsu thế nào?
Đức Giêsu nhìn đám đông cách trìu mến, đám đông đó là hình ảnh thế gian qua mọi thới đại. Vào lúc này đây, lạy Chúa, con tin rằng Chúa vẫn tiếp tục nhìn thế giới của chúng con hôm nay với cái nhìn "trắc ẩn" như thế? Còn tôi? Cái nhìn của tôi trên đám đông như thế nào?
Vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.
Hình ảnh đẹp làm sao! Chiên không người chăn! Thật là hỗn độn? Phải làm gì bây giờ? Mối tương quan giữa Chúa và dân Người đã không ngớt được mô tả dưới biểu tượng này. Sự ra khỏi Ai Cập đã do Giavê dẫn dắt như một người chăn chiên dẫn đoàn chiên vào sa mạc (Xh 15,13). Môisen lúc chết đã lo lắng cho dân Israel "như chiên không có chủ chăn” (Ds 27,17). Trong bài đọc thứ nhất của Chúa nhật này, Giêrêmia cho thấy dân chúng được giao cho những kẻ chăn chiên xấu, họ để chiên bị chết và tản mát trong đồng cỏ của Chúa (Gr 23,1-6). Chúa nhật này, chúng ta hát lên Thánh Vịnh 22; "Chúa là Mục tử chăn dắt tôi, tôi còn thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì, Người cho tôi ngơi nghỉ". Chính Đức Giêsu cũng đã dùng lại hình ảnh này: "Ta sẽ đánh người chăn chiên và các chiên sẽ bị tản mác" (Mc 14,27). Người xác quyết mình được sai đến với nhung con chiên lạc" (Lc 19,10; 15,4-7). Người là Mục tử nhân lành (Ga 10).
Ở đây Đức Giêsu xử sự như Đấng Mêsia đã được Thiên Chúa hứa. Và chúng ta có thể nói, Người thay cho Thiên Chúa: Đó là Thiên Chúa - Mục tử của dân Israel.
“Những con chiên không người chăn". Đó là hình ảnh của thế giới qua mọi thời đại, đó cũng là hình ảnh của thời đại chúng ta. Như vậy phải chăng có ý nói rằng thế giới đang rơi vào hỗn loạn? Chúng ta biết rằng có những vị thủ lãnh, những người lãnh đạo dân chúng xuất hiện và tự cho mình là người hướng dẫn quần chúng. Người ta đang tìm Đấng "Chúa hứa ban". Nhưng thường thì sau một thời gian hy vọng, lại thấy sự áp bức, thối nát tham nhũng tái diễn. Biết bao quốc gia trên hành tinh chúng ta hiện nay có thể chế dân chủ tự do, nhưng cũng biết bao nước khác đang phải chịu những chế độ độc tài, với kỷ luật khắt khe, chỉ nô lệ hóa lương tâm con người và bắt những đầu óc tự do phải câm lặng.
Chúa Giêsu đã đến trong một thế giới như thế. Quốc gia lúc bấy giờ là đế quốc La Mã. Quân đội chiếm đóng đã áp đặt trên dân chúng một chính sách nặng nề.
“Chiên không có chủ chăn": Đó là một nhân loại mất phương hướng, không biết tìm đâu ra ý nghĩa cuộc sống của mình. Ai sẽ cho chúng ta thưởng nếm hương vị của đồng cỏ xanh tươi?
Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
Việc đầu tiên Đức Giêsu giúp cho những đám đông mất phương hướng đó, là "Phục vụ Lời Chúa". Một lần nữa Máccô không nói cho chúng ta biết nội dung của giáo huấn trên. Ông chỉ muốn gợi ý cho chúng biết rằng: Nội dung đó chính là con người Đức Giêsu.
Lạy Chúa, con đang lắng nghe. Xin Chúa hãy nói nhiều hơn…
64. Chú giải của William Barclay.
THƯƠNG CẢM VỚI ĐÁM ĐÔNG (Mc 6,30-34)
Khi các môn đệ hoàn thành sứ mạng trở về, họ phúc trình công tác với Chúa Giêsu. Nhu cầu của quần chúng muốn được nghe Chúa Giêsu thì rất lớn, đến nỗi các ông chẳng có thì giờ dùng bữa; cho nên Chúa Giêsu bảo các môn đệ tìm một nơi vắng vẻ phía bên kia bờ biển hồ để thầy trò có thì giờ yên tĩnh nghỉ ngơi.
Tại đây chúng ta thấy điều có thể gọi là nhịp điệu của đời sống. Vì đời sống là một hành trình liên tục từ chỗ gặp loài người đến nơi gặp Chúa, để rồi từ nơi gặp Chúa trở về gặp loài người. Nó tương tự như nhịp điệu của giấc ngủ và công việc. Chúng ta sẽ không thể làm việc, nếu không có đủ thì giờ nghỉ ngơi thích hợp, nhưng chúng ta cũng không thể ngủ nếu chưa làm việc cho đến khi đi mệt mỏi.
Trong nếp sống hằng ngày, có hai nguy cơ. Một là có cơ nguy hoạt động quá sức. Không ai có thể làm việc mà không nghỉ ngơi, cũng như chẳng ai có thể sống đạo nếu không dành thì giờ để được sống riêng biệt với Chúa. Có thể tất cả rắc rối của đời sống là do chúng ta không dành thì giờ để Chúa phán dạy mình, vì chúng ta không biết yên lặng lắng nghe. Chúng ta không để Chúa bồi bổ lại năng lực cho mình, vì chúng ta không dành thì giờ nào riêng ra để chờ đợi, trông mong nơi Ngài cả. Làm thế nào chúng ta có thể đương đầu nổi các gánh nặng của đời sống, nếu không được tiếp xúc với Đấng là Chúa tể của mọi đời sống? Làm sao chúng ta làm nổi công việc cho Chúa nếu không được sức lực Ngài ban cho? Và làm sao chúng ta có thể nhận được sức lực ấy nếu không gặp gỡ riêng với Thiên Chúa? Hai là, có nguy cơ của việc thoái thác quá nhiều. Lòng tin kính mà không tạo ra được hành động thì không phải là tin kính đích thực. Chúng ta đừng bao giờ đi tìm hiệp thông với Chúa để trốn tránh hiệp thông với con người. Nhịp điệu của đời sống là luân phiên gặp gỡ Chúa trong nơi kín đáo, phục vụ người ta ngoài phố chợ.
Nhưng Chúa Giêsu với các môn đệ Ngài đã không tìm được sự nghỉ ngơi mong muốn. Đám đông thấy Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài ra đi. Từ chỗ họ đến nơi mà Chúa Giêsu với các môn đệ vừa tới cách xa bốn dặm đường vượt biển bằng thuyền, nhưng nếu phải đi bộ đường vòng thì đường dài đến mười dặm. Vào ngày lặng gió hay có gió ngược thì một chiếc thuyền vượt quãng đuờng này phải tốn khá thời gian. Còn một người khỏe chân có thể đi bộ vòng bờ hồ và sẽ đến nơi trước khi thuyền cặp bến. Đó chính là việc đã xảy ra ở đây. Cho nên lúc gặp Chúa Giêsu và các môn đệ vừa bước ra khỏi thuyền, thì chính đám đông mà các Ngài muốn tránh mặt đẻ tìm thì giờ nghỉ ngơi, họ đã chờ đợi sẵn đó rồi.
Nếu là một người thường chắc phải cảm thấy hết sức phiền hà. Chúa Giêsu đang rất cần được nghỉ ngơi và rất đáng được nghỉ ngơi, lại không được cho nghỉ ngơi. Đời sống riêng tư của Ngài đã bị xâm phạm. Nếu là người thường, chắc không được vui, nhưng Chúa Giêsu lại rất cảm động và thương xót đám đông. Ngài nhìn họ, họ quá ư nhiệt thành, họ quá mong muốn điều mà chỉ có Ngài mới ban cho họ được, họ cần quá nhiều điều mà một mình Ngài không đáp ứng kịp, dưới mắt Ngài thì họ như chiên không có kẻ chăn. Ngụ ý muốn nói gì?
1/ Một con chiên không có người chăn sẽ không tìm được đường đi. Nếu bị bỏ mặc một mình, chúng ta sẽ bị lạc lõng trong cuộc sống. Hiệu trưởng Cairns nói về những người họ cảm thấy “như trẻ con đi lạc trong mưa”. Dante có một câu nói rằng “Tôi tỉnh dậy giữa rừng và trời tối đen, trước mặt tôi chẳng thấy có con đường nào trống trải cả”. Cuộc đời có thể khiến chúng ta bị bối rối lạc lõng như vậy. Chúng ta có thể gặp một ngã tư đường mà không biết phải đi lối nào. Chỉ khi Chúa Giêsu hướng dẫn, chúng ta mới theo Ngài, tìm ra lối đi.
2/ Một con chiên không có người chăn sẽ không tìm được đồng cỏ và thức ăn. Sống trên đời này, chúng ta phải tìm kế mưu sinh, chúng ta cần sức lực để có thể vững buớc, cần có nguồn cảm hứng để nâng chúng ta vượt ra khỏi chính mình và vượt cao hơn cả chính mình. Nếu chúng ta tìm ở những nơi khác, tâm trí chúng ta chưa thể thỏa mãn, tấm lòng chúng ta vẫn chưa được no đủ. Chúng ta chỉ có thể tìm được sức lực cho đời sống từ nơi Đấng vốn là Bánh Hằng Sống.
3/ Một con chiên không có người chăn sẽ không được ai bảo vệ chống lại những nguy hiểm đang đe dọa nó. Nó không thể tự vệ cả với bọn trộm cướp lẫn với đám thú rừng. Nếu cuộc đời dạy khôn chúng ta điều gì, thì đó là chúng ta không thể sống một mình, phải biết rõ không thể tự mình mà sống. Không ai có thể tự vệ đối với những cám dỗ tấn công mình, với điều gian ác của thế gian luôn luôn vây hãm mình. Chỉ khi nào chúng ta cùng đi với Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể bước đi trong thế gian mà giữ được áo xống mình khỏi ô nhiễm của đời này. Không có Ngài, chúng ta sẽ không thể tự vệ, với Ngài chúng ta được an toàn.
65. Đồng xanh yêu thương
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Con người rất yếu đuối. Hứa nhiều mà chẳng giữ đươc bao nhiêu. Mỗi ngày té lên té xuống bao lần. Cả đời biết bao lần ăn năn mà vẫn chưa “nên người”. Đúng là không có Ơn Chúa thì con người không thể làm được gì (Ga 15:5), và Chúa đòi buộc chúng ta phải “từ bỏ mọi sự” (Mt 10:37-39; Lc 14:26-27). Thế nên, sách Huấn ca có những lời cầu nguyện để chúng ta học hỏi: “Lạy Đức Chúa là Cha và là Chúa Tể đời con, xin đừng để mặc con chiều theo sở thích của môi miệng, đừng để nó làm con vấp ngã. Tư tưởng con, ai sẽ lấy roi sửa trị, tâm can con, ai sẽ dùng khôn ngoan dạy dỗ, để đừng dung thứ những lầm lỗi của con, cũng đừng làm ngơ trước tội con đã phạm? Bằng không, lỗi lầm của con cứ gia tăng mãi, tội lỗi của con chồng chất thêm nhiều, con sẽ quỵ ngã trước mặt đối phương và kẻ thù con đắc chí nhạo cười” (Hc 23:1-3). Rất nhiều thứ nguy hiểm vây quanh chúng ta hằng ngày, sơ sảy một chút là “mắc mưu ma chước quỷ” ngay lập tức. Vì thế, chúng ta không chỉ phải cảnh giác mọi sự mà còn phải canh chừng chính mình: “Lạy Đức Chúa là Cha và là Thiên Chúa của đời con, xin đừng để mắt con trâng tráo, xin đẩy dục vọng xa khỏi con, xin chớ để thói ăn chơi truỵ lạc thống trị con, đừng để con đắm chìm trong những dục vọng trơ trẽn” (Hc 23:4-6).
Ai cũng mong muốn được sống an bình thư thái, mà điều đó chỉ có thể tìm thấy ở nơi Chúa. Muốn vậy thì phải biết khước từ tội lỗi và sống phó thác cho Ngài quan phòng. Khi đó, chúng ta có thể hạnh phúc nói: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” [Tv 22 (23):1]. Thật vậy, chúng ta không thể im lặng khi niềm vui dâng trào, nên phải thổ lộ: “Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” [Tv 22 (23):2-3]. Và rồi vui mừng với niềm tin tưởng thân thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” [Tv 22 (23):4]. Không nói Chúa cũng biết, nhưng bổn phận người hàm ơn phải biết ơn và không thể không bày tỏ điều đó ra: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa” [Tv 22 (23):5]. Niềm hạnh phúc đó còn được “khoe” với người khác, đó là chia sẻ với tha nhân để cùng vui mừng với nhau: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” [Tv 22 (23):6].
Sau thời gian sống u buồn ảm đạm vì vắng bóng Thiên Chúa, giờ đây chúng ta sống bình an trong niềm hạnh phúc kỳ diệu “và con tim đã vui trở lại” (ca khúc của Ns Đức Huy).
Thánh Phaolô nói: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2:13). Vì yếu đối, vì sa ngã, vì tội lỗi mà chúng ta xa cách Chúa, nhưng nhờ giá Máu cứu chuộc của Ngài mà chúng ta lại được tiếp cận Ngài, được Ngài thương nhận là con cái. Thật hạnh phúc biết bao! Đó là nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa mà thôi. Lòng thương xót ấy phát xuất từ Thánh Tâm nhân từ của Đức Giêsu. Không có lòng thương xót đó thì chúng ta phải trầm luân đời đời!
Con cái phải lìa xa cha mẹ là nỗi khổ, yêu nhau mà không được gần nhau là nỗi khổ. Khổ thì mệt. Mệt tinh thần kéo theo mệt thể lý. Mệt nào cũng cần được nghỉ ngơi hợp lý. Khi gia đình đoàn tụ, khi những người yêu nhau được gần nhau, niềm vui bừng lên và dâng cao như nước thủy triều.
Thật vậy, chính Ngài là bình an của chúng ta: “Ngài đã liên kết dân Do-thái và dân ngoại thành một; Ngài đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Ngài đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật” (Ep 2:14-15). Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Ngài đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Ngài. Hai “đối thủ” hài hòa và sống hòa bình trên cánh đồng xanh mướt yêu thương. Đó là “nhờ thập giá mà Ngài đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Ngài đã tiêu diệt sự thù ghét” (Ep 2:16). Ngài đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho chúng ta là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Và cũng chính nhờ Ngài, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha (Ep 2:18).
Theo tường thuật của Thánh sử Mác-cô, các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, kể lại cho Ngài biết mọi việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy. Ngài bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6:31). Công việc bận rộn, làm gì cũng mệt, làm ít mệt ít, làm nhiều mệt nhiều. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, và Ngài cũng rất tâm lý nên thương các ông mà bảo các ông “nghỉ ngơi đôi chút”, tức là Ngài bảo chúng ta làm gì thì cũng cần có những giây phút tịnh tâm (tĩnh tâm hoặc cấm phòng) để không chỉ để phục hồi thể lý mà quan trọng hơn là phục hồi tinh thần, đặc biệt là tâm sự với Chúa để tâm hồn được nghỉ ngơi và bình an. Cố Hồng y P.X. Nguyễn Văn Thuận nói: “Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hoạt động”.
Hôm đó, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. Thế nên thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Thấy thầy trò đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. Chúa Giêsu thu hút mọi người không chỉ vì Ngài luôn nói lời hay ý đẹp, dạy chân lý cao siêu, làm những việc kỳ diệu, mà chắc hẳn Ngài ăn nói rất có duyên và chí lý nên người ta mới tâm phục khẩu phục như vậy. Chính Ngài đã từng khuyên nhủ: “Khôn như rắn, hiền như bồ câu” (Mt 10:16).
Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt, và Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều (Mc 6:34). Thánh Tâm thương xót của Ngài không thể chịu được khi thấy người ta nghèo khổ và vất vưởng giữa cuộc đời, thế nên Ngài luôn động lòng trắc ẩn, và Ngài muốn chúng ta cũng phải biết xót thương nhau như vậy, không chỉ xót thương bằng lời nói suông mà còn phải thể hiện bằng hành động thực tế. Như Thánh Giacôbê đã xác định: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17). Là ích kỷ nếu tôi được nghỉ ngơi trong đồng xanh yêu thương của Chúa khi người khác phải long đong khốn khó, cũng là ích kỷ nếu tôi chỉ lo cho phần rỗi của tôi mà bỏ mặc người khác!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết kết hợp và cân bằng giữa hoạt động với cầu nguyện. Xin giúp chúng con biết cùng dìu nhau vào Nước Trời. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
66. Chạnh lòng – Trầm Thiên Thu
Một danh nhân đã nhận định: “Chỉ có những người biết yêu thương thì mới xứng đáng nhận danh hiệu con người”. Một câu nói khá nhẹ nhàng mà lại khiến lòng người “nhức nhối” lắm.
Trong những ngày vừa qua, các phương tiện truyền thông “nóng lên” về chuyện những người có “máu lạnh” – tài xế cho xe ủi đất cán chết một phụ nữ trong vụ tranh chấp đất đai ở Hải Dương, hoặc sát thủ Nguyễn Hải Dương ra tay hạ sát 6 nạn nhân tại Bình Phước. Họ là ai? Họ là con người nhưng không hề biết chạnh lòng thương người khác.
Ai cũng phải yêu thương vì đã được Thiên Chúa xót thương. Không yêu thương là ích kỷ, là chống lại chính Thiên Chúa. Mà dám chống lại Thiên Chúa thì số phận học sẽ như thế nào? Chắc hẳn ai cũng biết. Người đời cũng vẫn nói: “Không sợ người hại, mà chỉ sợ Trời hại”. Chắc chắn “chạy trời không khỏi nắng”.
Bất cứ ai không biết chạnh lòng trước cảnh khổ của người khác thì đều là kẻ bất hạnh. Càng bất hạnh hơn nếu người đó là người lãnh trọng trách chăm lo cho người khác. Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã tuyên phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác” (Gr 23:1). Là mục tử thì PHẢI chăm lo cho đoàn chiên. Đã không chăm lo cho chiên mà lại cứ tìm cách “vỗ béo” mình, bằng cách này hay cách nọ, thì không chỉ bất xứng mà chỉ là “thợ chiên” (người chăn thuê), thật đáng nguyền rủa! Và còn đáng nguyền rủa hơn nếu mục tử đó lại còn làm cho đoàn chiên tản mác!
Thật đáng giật mình với lời chia sẻ của ĐGM G.B. Bùi Tuần: “Kinh nghiệm cho tôi thấy những gì Chúa phán đều đã xảy ra nhiều cách khác nhau. Có một số ít người được lãnh nhận chức thánh, do tranh đấu, do vận động, do mưu lược. Có nghĩa là đã có sự lừa dối trong việc trở thành mục tử. Mục tử giả bị Chúa gọi là kẻ trộm, kẻ cướp. Cũng có một số ít người vào chuồng chiên một cách đàng hoàng, nhưng không hy sinh cho đoàn chiên thì bị Chúa gọi là kẻ làm thuê (x. Ga 10:12). Nghĩa là họ cũng có sự lừa dối trong trách nhiệm, một trách nhiệm đòi nhiều từ bỏ chính mình, vác thánh giá mà theo Chúa” (Cầu Nguyện với Chúa về Tình Hình Quỷ Dữ Lộng Hành Ngày Nay). Sự thật vẫn thường hay phũ phàng như thế đấy! Ai sẽ là người dám thay đổi, dám chấn chỉnh, dám nói thẳng nói thật? Chắc chắn phải thực sự can đảm lắm lắm!
Thánh GH Grêgôriô (540?-604) thẳng thắn và cương quyết cách chức các linh mục bất xứng, CẤM lấy tiền từ nhiều loại lễ, nhưng ngài lại lấy tiền của Tòa Thánh để giúp các tù nhân của Lombard, chăm sóc những người Do Thái bị hành hạ, giúp đỡ các nạn nhân bị dịch bệnh và nạn đói. Ngài nổi tiếng là nhà cải cách phụng vụ và củng cố tín lý. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài đã dám đi đối chất với vua Lombard. Ngài đúng là vị mục tử đích thực!
Thánh Phaolô cũng xác nhận: “Chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ đội lốt người phục vụ sự công chính” (2 Cr 11:14-15). Chúng ta lại tiếp tục giật mình nữa!
Vì thế, để lên án các mục tử – những người chăn dắt dân Chúa, Thiên Chúa đã tuyên phán rạch ròi: “Chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi. Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa” (Gr 23:2-4). Vâng, Thiên Chúa luôn thích những chữ T kỳ diệu: Thật Thà, Thanh Thản, Từ Từ Truy Tìm, Thẳng Thắn Trách Tới Tấp, Triệt Tiêu Tụi Tà Tâm,...
Người dám nói thẳng sẽ khiến người nghe rát tai, thế nên người chói tai sẽ ghét người nói thật và tìm cách xa lánh, trù dập. Thường thì người ta thích “che chắn” cho nhau bằng nhiều kiểu tinh vi lắm – gọi là phe cánh, vây cánh, đồng bọn. Thật khó mà phát hiện. Thời nay, những cái giả nhìn còn đẹp hơn cái thật – từ hàng hóa đến con người, chuyên gia còn khó phân biệt, huống chi người không chuyên. Nhưng rồi điều gì đến cũng đến, công lý mãi là công lý, sự thật mãi là sự thật: “Này, sẽ tới những ngày Ta làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta” (Gr 23:5-6).
Miệng nói là một chuyện, tay có làm hay không lại là chuyện khác. Vì thế, chúng ta rất cần ơn khôn ngoan để tỉnh táo và có thể “xem quả mà biết cây” (Mt 12:33). Cuộc sống quá nhiêu khê, cả xã hội và Giáo Hội, chúng ta chỉ còn biết tín thác vào Thiên Chúa: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3).
Chân thành tín thác vào Thiên Chúa thì chúng ta sẽ an tâm, lỡ có gặp “hàng giả” cũng không lo bị tác hại: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:4-6). Có được Chúa không phải dễ, vì phải từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì phù phiếm, xa hoa, vinh thân phì da.
Phải thực sự can đảm mới có thể từ bỏ mọi thứ. Từ bỏ mình để có Chúa, được là thân nhân của Ngài. Thánh Phaolô phân tích: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2:13). Thật vậy, Thánh Phaolô xác nhận “chính Người là bình an của chúng ta” và giải thích chi tiết: “Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người” (Ep 2:14-15).
Chúa Giêsu là mối liên kết, là “dấu cộng” nối lại những gì tách rời: “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2:16-18). Đó là sự no thỏa tâm linh, no thỏa để tâm linh phát triển và trưởng thành, cũng như thân xác cần được no thỏa để duy trì sự sống thể lý.
Trình thuật Tin Mừng Mc 6:30-44 (tương đương Mt 14:13-21; Lc 9:10-17; Ga 6:1-13) tường trình phép lạ “bánh hoá nhiều” lần thứ nhất mà Chúa Giêsu đã làm vì chạnh lòng thương dân chúng, những người vì mê say Ngài “nói chuyện” mà bỏ ăn quên uống. Và Ngài biết họ đang đói lắm.
Chiều hôm đó, các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Nhưng Ngài bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Ngài biết công việc mục vụ vất vả lắm, vất vả thì phải mệt, Ngài thương các ông lắm, vì công việc cần làm mà không có giờ ăn lót dạ. Thế nên Ngài bảo các ông cứ nghỉ ngơi cho lại sức rồi “chiến đấu” tiếp.
Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa, dù đó là nhu cầu thiết yếu nhất. Nhưng vì Chúa và vì tha nhân mà họ chấp nhận hy sinh. Sau đó, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Nhưng thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên người ta từ khắp các thành cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, thậm chí còn đến trước cả các ngài. Thế mới chắc cú! Điều đó cho thấy sức hút của Chúa Giêsu rất mạnh, dù nhìn bề ngoài Ngài rất “bụi”, chẳng có gì “nổi bật”.
Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Chạnh lòng thương là điều kiện tiên quyết để có thể dẫn tới hành động cụ thể. Rồi Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. Ngài dạy họ cách sống vì thương xót họ, thương xót vô điều kiện.
Nói đến chuyện chăm sóc mục vụ, chúng ta không thể không liên tưởng tới cuộc đời Thánh LM Gioan Maria Vianney (1786-1859, Pháp quốc). Cuộc đời ngài thể hiện rõ nét một mục tử đích thực, vì ngài đã thực sự hành động theo đúng Thánh Ý Chúa, chính xác như lời Thầy Chí Thánh Giêsu đã xác định: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Thánh Gioan Vianney lo mục vụ giải tội mà bỏ cả ăn uống, ngủ ít, hy sinh cả những thứ cơ bản nhất của mình, đói thì chỉ ăn mấy củ khoai lót dạ mà thôi. Suốt đời linh mục, ngài rất coi trọng việc giải tội vì ngài muốn mọi tội nhân được giải hòa với Thiên Chúa. Và Ngài không hề nghĩ tới chuyện nghỉ hưu. Thật đáng khâm phục biết bao!
Có quy-trình-trao-đổi thế này: Nếu linh mục là vị Thánh, giáo dân sẽ thánh thiện; nếu linh mục thánh thiện, giáo dân sẽ tốt lành; nếu linh mục tốt lành, giáo dân sẽ tử tế; nếu linh mục tử tế, giáo dân sẽ vô tín ngưỡng. Thánh Gioan Vianney đã và đang nhắc nhở chúng ta nhiều điều lắm. Hãy tự đấm ngực chứ đừng vỗ ngực, tự nhận lỗi mình chứ đừng biện hộ bằng những cái NẾU, VÌ, BỞI, TẠI, GIÁ MÀ,...
Lúc sinh thời, Thánh GH Piô X (1835-1914) đã xác định: “Tôi sinh ra nghèo hèn, tôi sống nghèo hèn, tôi sẽ chết nghèo hèn”. Ngài đã tỏ ra lúng túng vì một số nghi thức long trọng dành cho ngài trong lễ đăng quang giáo hoàng. Ngài nói trong nước mắt: “Nhìn kìa! Người ta cho tôi mặc đẹp biết bao!”. Rồi ngài nói thêm: “Phải chấp nhận như thế là việc đền tội. Họ dẫn tôi đi với lính tráng vây quanh như Chúa Giêsu khi Ngài bị bắt trong vườn Gếtsimani vậy”. Hay quá! Tuyệt quá! Nhân đức quá!
Hình ảnh vị Giáo hoàng Phanxicô đang cho chúng ta thấy rõ nét chân dung Đức Kitô: Nghèo khó, khiêm nhường, giản dị, hòa nhã, tươi cười,… nhưng vẫn cương trực, thẳng thắn và dứt khoát.
Lo cho thân xác được no ấm thì cũng phải lo cho linh hồn no thỏa. Muốn như vậy thì phải can đảm và dứt khoát – nghĩa là không sợ gì hoặc sợ ai. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đã động viên chúng ta 365 lần: “Đừng sợ!”. Con số “kỷ lục” này chia đủ cho số ngày của một năm, điều đó cho chúng ta thấy rằng ngày nào Thiên Chúa cũng động viên chúng ta can đảm sống hiền như chiên giữa bầy sói, hiền lành nhưng vẫn cương quyết bảo vệ sự thật để làm chứng nhân của Thiên Chúa.
Trong Tông thư Laudato Si (Chúc Tụng Thiên Chúa), ĐGH Phanxicô có đề cập một cách sống độc đáo theo tinh thần của Đức Giêsu Kitô: “Hãy sống khôn ngoan, hãy suy nghĩ sâu sắc, hãy yêu thương rộng lòng”. Ước gì mỗi chúng ta đều biết thể hiện lòng thương xót đối với mọi người, nhất là đối với những người hèn mọn, những người bị xã hội ruồng bỏ, có làm vậy thì chúng ta mới xứng đáng nói được như tác giả Thánh Vịnh: “Lòng Chúa Thương Xót, đời đời con ca tụng – Misericordias Domini in aeternum cantabo” (Tv 89:1).
Lạy Thiên Chúa giàu lòng xót thương, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ (Tv 51:12) để con biết thương xót tha nhân như chính mình. Xin cho các Kitô hữu luôn cố gắng sống xứng đáng kiếp người trong mọi hoàn cảnh. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại. Amen.
67. Chuyện ăn uống
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
“Có thực mới vực được đạo”. Đó là câu người ta thường nói, cho thấy chuyện ăn uống là điều cần thiết cơ bản nhất để duy trì sự sống. Trước tiên, người ta cần ăn no và mặc ấm; sau đó mới có thể phấn đấu để ăn ngon và mặc đẹp. Vả lại, chuyện ăn uống được người ta coi là “đệ nhất khoái” trong “tứ khoái” của một con người bình thường.
Chúa Giêsu là người rất thực tế. Ngài chăm lo từ những gì cần thiết và cơ bản nhất: Ăn uống. Ngài luôn quan tâm người nghèo, và chính Ngài cũng đã xác định tại Bêtania: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Ga 12:8; Mt 26:11; Mc 14:7). Và rồi Thánh Giacôbê cũng khuyên chúng ta “phải kính trọng người nghèo” (Thư Thánh Giacôbê, chương 2).
Người khổ chưa chắc là người nghèo. Nhưng người nghèo thì chắc chắn là người khổ – thậm chí còn hóa khốn, vì luôn bị người ta khinh miệt, và vì “lý lẽ của người nghèo không được ai nghe thấy” (Sử gia Thomas Fuller, 1608-1661). Có lẽ vì vậy mà người Việt thường “ghép đôi” hai tình trạng này thành một: Nghèo khổ. Quả thật, “sự nghèo đói là hình thức bạo lực tồi tệ nhất” (Mahatma Gandhi, 1869-1948).
Tuy nhiên, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi người nghèo, vì thế họ luôn tin tưởng và nhủ thầm: “Có Thiên Chúa phù trì, thân con đây, Chúa hằng nâng đỡ” (Tv 54:6). Đồng thời họ luôn tâm niệm: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo, vì Chúa giải thoát con khỏi mọi gian nguy, và con đã dám nghênh bọn địch thù” (Tv 54:8-9).
Chuyện ăn uống bình thường mà quan trọng. Điều đó liên quan vấn đề kinh tế và chính trị, đồng thời cũng là vấn đề cơ bản trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo.
Hiền triết Trang Tử (Zhuang Zhou hoặc Zhuangzi, 365-290 trước công nguyên) đã nhận định: “Cản trở con người sống vui vẻ, tước đoạt khả năng dệt vải, may mặc, cày cấy, ăn uống, mà lại tô vẽ nó như là nhân nghĩa, đó là tội ác của thánh nhân”. Đó là một dạng giả nhân giả nghĩa, Chúa Giêsu rất ghét loại người này và Ngài đã 8 lần nguyền rủa họ là “đồ khốn” (Mt 23:13-29) và còn gọi họ là “đồ ngu si mù quáng”. Nhức óc quá chừng!
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã tuyên phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác” (Gr 23:1). Là mục tử thì PHẢI chăm lo cho đoàn chiên. Đã không chăm lo cho chiên mà lại cứ tìm cách “vỗ béo” mình, bằng cách này hay cách nọ, thì không chỉ bất xứng mà chỉ là “thợ chiên” (người chăn thuê), thật đáng nguyền rủa! Và còn đáng nguyền rủa hơn nếu mục tử đó lại còn làm cho đoàn chiên tản mác!
Thật đáng giật mình với lời chia sẻ của ĐGM G.B. Bùi Tuần: “Kinh nghiệm cho tôi thấy những gì Chúa phán đều đã xảy ra nhiều cách khác nhau. Có một số ít người được lãnh nhận chức thánh, do tranh đấu, do vận động, do mưu lược. Có nghĩa là đã có sự lừa dối trong việc trở thành mục tử. Mục tử giả bị Chúa gọi là kẻ trộm, kẻ cướp. Cũng có một số ít người vào chuồng chiên một cách đàng hoàng, nhưng không hy sinh cho đoàn chiên thì bị Chúa gọi là kẻ làm thuê (x. Ga 10:12). Nghĩa là họ cũng có sự lừa dối trong trách nhiệm, một trách nhiệm đòi nhiều từ bỏ chính mình, vác thánh giá mà theo Chúa” (Cầu Nguyện với Chúa về Tình Hình Quỷ Dữ Lộng Hành Ngày Nay). Sự thật vẫn thường hay phũ phàng như thế đấy! Ai sẽ là người dám thay đổi, dám chấn chỉnh, dám nói thẳng nói thật? Chắc chắn phải thực sự can đảm lắm lắm!
Thánh GH Grêgôriô (540?-604) thẳng thắn và cương quyết cách chức các linh mục bất xứng, CẤM lấy tiền từ nhiều loại lễ, nhưng ngài lại lấy tiền của Tòa Thánh để giúp các tù nhân của Lombard, chăm sóc những người Do Thái bị hành hạ, giúp đỡ các nạn nhân bị dịch bệnh và nạn đói. Ngài nổi tiếng là nhà cải cách phụng vụ và củng cố tín lý. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài đã dám đi đối chất với vua Lombard. Ngài đúng là vị mục tử đích thực!
Thánh Phaolô cũng xác nhận: “Chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ đội lốt người phục vụ sự công chính” (2 Cr 11:14-15). Chúng ta lại tiếp tục giật mình nữa!
Vì thế, để lên án các mục tử – những người chăn dắt dân Chúa, Thiên Chúa đã tuyên phán rạch ròi: “Chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi. Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa” (Gr 23:2-4). Vâng, Thiên Chúa luôn thích những chữ T kỳ diệu: Thật Thà, Thanh Thản, Từ Từ Truy Tìm, Thẳng Thắn Trách Tới Tấp, Triệt Tiêu Tụi Tà Tâm,...
Người dám nói thẳng sẽ khiến người nghe rát tai, thế nên người chói tai sẽ ghét người nói thật và tìm cách xa lánh, trù dập. Thường thì người ta thích “che chắn” cho nhau bằng nhiều kiểu tinh vi lắm – gọi là phe cánh, vây cánh, đồng bọn. Thật khó mà phát hiện. Thời nay, những cái giả nhìn còn đẹp hơn cái thật – từ hàng hóa đến con người, chuyên gia còn khó phân biệt, huống chi người không chuyên. Nhưng rồi điều gì đến cũng đến, công lý mãi là công lý, sự thật mãi là sự thật: “Này, sẽ tới những ngày Ta làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta” (Gr 23:5-6).
Miệng nói là một chuyện, tay có làm hay không lại là chuyện khác. Vì thế, chúng ta rất cần ơn khôn ngoan để tỉnh táo và có thể “xem quả mà biết cây” (Mt 12:33). Cuộc sống quá nhiêu khê, cả xã hội và Giáo Hội, chúng ta chỉ còn biết tín thác vào Thiên Chúa: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3).
Chân thành tín thác vào Thiên Chúa thì chúng ta sẽ an tâm, lỡ có gặp “hàng giả” cũng không lo bị tác hại: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:4-6). Có được Chúa không phải dễ, vì phải từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì phù phiếm, xa hoa, vinh thân phì da.
Phải thực sự can đảm mới có thể từ bỏ mọi thứ. Từ bỏ mình để có Chúa, được là thân nhân của Ngài. Thánh Phaolô phân tích: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2:13). Thật vậy, Thánh Phaolô xác nhận “chính Người là bình an của chúng ta” và giải thích chi tiết: “Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người” (Ep 2:14-15).
Chúa Giêsu là mối liên kết, là “dấu cộng” nối lại những gì tách rời: “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2:16-18). Đó là sự no thỏa tâm linh, no thỏa để tâm linh phát triển và trưởng thành, cũng như thân xác cần được no thỏa để duy trì sự sống thể lý.
Trình thuật Tin Mừng Mc 6:30-44 (tương đương Mt 14:13-21; Lc 9:10-17; Ga 6:1-13) tường trình phép lạ “bánh hoá nhiều” lần thứ nhất mà Chúa Giêsu đã làm vì chạnh lòng thương dân chúng, những người vì mê say Ngài “nói chuyện” mà bỏ ăn quên uống. Và Ngài biết họ đang đói lắm.
Chiều hôm đó, các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Nhưng Ngài bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Ngài biết công việc mục vụ vất vả lắm, vất vả thì phải mệt, Ngài thương các ông lắm, vì công việc cần làm mà không có giờ ăn lót dạ. Thế nên Ngài bảo các ông cứ nghỉ ngơi cho lại sức rồi “chiến đấu” tiếp.
Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa, dù đó là nhu cầu thiết yếu nhất. Nhưng vì Chúa và vì tha nhân mà họ chấp nhận hy sinh. Sau đó, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Nhưng thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên người ta từ khắp các thành cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, thậm chí còn đến trước cả các ngài. Thế mới chắc cú! Điều đó cho thấy sức hút của Chúa Giêsu rất mạnh, dù nhìn bề ngoài Ngài rất “bụi”, chẳng có gì “nổi bật”.
Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Chạnh lòng thương là điều kiện tiên quyết để có thể dẫn tới hành động cụ thể. Rồi Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. Tuy nhiên, bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Ngài và thưa chuyện về việc cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn, vì ở đó hoang vắng và trời đã khá muộn. Nhưng Ngài nói tỉnh bơ: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi!”. Mèn ơi! Các ông vừa gãi đầu vừa nói với Ngài: “Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao?”. Hai trăm quan tiền là số tiền lớn, dù chưa bằng số tiền giá chiếc bình dầu thơm mà người phh tội lỗi xức chân Chúa Giêsu tại nhà ông Simôn Cùi ở làng Bêtania: Ba trăm quan tiền (Mt 26:6-13; Mc 14:3-9; Ga 12:1-8), gấp 10 lần số tiền ông Giuđa bán Thầy.
Ngài biết các ông chỉ có nước “bó tay” mà thôi, thế nên Ngài bảo các ông đi xem có mấy chiếc bánh. Khi dò hỏi, họ thưa với Ngài là có năm chiếc bánh và hai con cá. Ngài ra lệnh cho các ông bảo mọi người ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh, ngồi thành từng đám, chỗ thì một trăm, chỗ thì năm mươi. Rồi Ngài cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng, cả hai con cá cũng được chia đều như vậy. Ai nấy đều ăn và được no nê, người ta thu lại những mẩu bánh được mười hai thúng đầy, cùng với cá còn dư. Số người ăn bánh là năm ngàn người đàn ông. Nếu tính cả số phụ nữ và trẻ em “ăn theo”, con số có thể lên tới chục ngàn người.
Việc Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều là “dấu chỉ” báo trước về Bí tích Thánh Thể, đồng thời cho chúng ta thấy rằng nhu cầu ăn uống liên quan chuyện sinh tồn – cả thể lý và tâm linh. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải biết chạnh lòng thương mà quan tâm nhu cầu thiết yếu của người khác. Vâng, quả thật là “có thực mới vực được đạo”.
Nói đến chuyện chăm sóc mục vụ, chúng ta không thể không liên tưởng tới cuộc đời Thánh LM Gioan Maria Vianney (1786-1859, Pháp quốc). Cuộc đời ngài thể hiện rõ nét một mục tử đích thực, vì ngài đã thực sự hành động theo đúng Thánh Ý Chúa, chính xác như lời Thầy Chí Thánh Giêsu đã xác định: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Thánh Gioan Vianney lo mục vụ giải tội mà bỏ cả ăn uống, ngủ ít, hy sinh cả những thứ cơ bản nhất của mình, đói thì chỉ ăn mấy củ khoai lót dạ mà thôi. Suốt đời linh mục, ngài rất coi trọng việc giải tội vì ngài muốn mọi tội nhân được giải hòa với Thiên Chúa. Và Ngài không hề nghĩ tới chuyện nghỉ hưu. Thật đáng khâm phục biết bao!
Có quy-trình-trao-đổi thế này: Nếu linh mục là vị Thánh, giáo dân sẽ thánh thiện; nếu linh mục thánh thiện, giáo dân sẽ tốt lành; nếu linh mục tốt lành, giáo dân sẽ tử tế; nếu linh mục tử tế, giáo dân sẽ vô tín ngưỡng. Thánh Gioan Vianney đã và đang nhắc nhở chúng ta nhiều điều lắm. Hãy tự đấm ngực chứ đừng vỗ ngực, tự nhận lỗi mình chứ đừng biện hộ bằng những cái NẾU, VÌ, BỞI, TẠI, GIÁ MÀ,...
Lúc sinh thời, Thánh GH Piô X (1835-1914) đã xác định: “Tôi sinh ra nghèo hèn, tôi sống nghèo hèn, tôi sẽ chết nghèo hèn”. Ngài đã tỏ ra lúng túng vì một số nghi thức long trọng dành cho ngài trong lễ đăng quang giáo hoàng. Ngài nói trong nước mắt: “Nhìn kìa! Người ta cho tôi mặc đẹp biết bao!”. Rồi ngài nói thêm: “Phải chấp nhận như thế là việc đền tội. Họ dẫn tôi đi với lính tráng vây quanh như Chúa Giêsu khi Ngài bị bắt trong vườn Gếtsimani vậy”. Hay quá! Tuyệt quá! Nhân đức quá!
Hình ảnh vị Giáo hoàng Phanxicô đang cho chúng ta thấy rõ nét chân dung Đức Kitô: Nghèo khó, khiêm nhường, giản dị, hòa nhã, tươi cười,… nhưng vẫn cương trực, thẳng thắn và dứt khoát.
Lo cho thân xác được no ấm thì cũng phải lo cho linh hồn no thỏa. Muốn như vậy thì phải can đảm và dứt khoát – nghĩa là không sợ gì hoặc sợ ai. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đã động viên chúng ta 365 lần: “Đừng sợ!”. Con số “kỷ lục” này chia đủ cho số ngày của một năm, điều đó cho chúng ta thấy rằng ngày nào Thiên Chúa cũng động viên chúng ta can đảm sống hiền như chiên giữa bầy sói, hiền lành nhưng vẫn cương quyết bảo vệ sự thật để làm chứng nhân của Thiên Chúa.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, con không dám xin Ngài ban cho con những điều con muốn, mà con xin được can đảm chấp nhận và mau mắn thay đổi theo đúng Thánh Ý Ngài. Xin ban cho mọi người có đủ lương thực hàng ngày, để nhờ đó mà họ có thể sống xứng đáng con người, đồng thời an tâm phụng sự Ngài hết linh hồn và hết sức lực. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ giàu lòng xót thương. Amen.
THIÊN CHÚA MỜI GỌI
Được làm người là lời Chúa mời gọi
Cố nuôi dưỡng và sống trọn đức tin
Sống yêu thương chân thành cả con tim
Biết trắc ẩn, chạnh lòng thương người khác
Sống khiêm nhu, biết chấp nhận thua thiệt
Sống đoàn kết huynh đệ một gia đình
Biết phục vụ, dấn thân và quên mình
Sống đại lượng, mọi chuyện đều tha thứ
Sống cương trực, quyết bảo vệ công lý
Vì chân lý, sống trong hy vọng luôn
Sống đơn sơ, giản dị và nhân hiền
Thu nhỏ mình để Thiên Chúa lớn mạnh
Trầm Thiên Thu
68. Tấm lòng – An Phong, OP
Phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi 5000 người, là phép lạ duy nhất được cả Bốn Tin mừng thuật lại. Thánh Máccô cũng thuật lại phép lạ này hai lần. Tin mừng hôm nay là phần đầu của trình thuật phép lạ này.
Câu chuyện diễn ra tại "một nơi hoang vắng", chứ không phải trong một thành phố ồn ào náo nhiệt. Dường như bối cảnh thanh vắng, lặng tĩnh, là bối cảnh dễ dàng để Thiên Chúa hành động. Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu, vị Thiên Chúa Cứu độ đã hành động để "cứu đói", nói khác, để giải quyết cơn đói tức thời. Hẳn là một người đang sắp chết khát cần một chút nước hơn là một thỏi vàng sáng chói. Như thế, Chúa Giêsu cứu giúp con người cách cụ thể và đúng lúc.
Phải chăng chúng ta cần nhận ra ơn cứu độ trong chiều kích cụ thể, thực tế, đang diễn ra trong cuộc đời này; Ơn Cứu độ của Thiên Chúa phải rất thực và "dính dáng" đến những vấn đề quen thuộc hàng ngày nữa; tức là đem lại bình an, hạnh phúc ngay lúc này, tại đây, cho con người.
Để nhận ra khía cạnh cứu độ này, cần phải tìm một nơi thanh vắng, an tĩnh của tâm hồn mình, của cõi lòng mình. Bởi lẽ, với một cái nhìn đức Tin sâu sắc, chúng ta mới nhận ra một Tấm lòng đang yêu thương mình, một Ý định đang cứu độ mình. Hẳn là Thiên Chúa vẫn đang "động lòng thương" cuộc đời rách nát của mỗi người chúng ta ! Hẳn là tấm lòng Thiên Chúa vẫn đang đi tìm tấm lòng của con người. Điều cần thiết để các tấm lòng gặp nhau được là "trong nơi thanh vắng", thoát khỏi những vọng động của "tham, sân, si, mạn, nghi, thâm kiến; thoát khỏi những phiền toái, lo âu, sợ hãi của cuộc đời.
Để được như thế, cần phải xác tín có một vị Mục tử nhân lành đang "đứng sừng sửng" trong cõi lòng ta, hết ngày này qua tháng khác. Người đó vẫn hiện diện để khích lệ và nâng đỡ ta.
Lạy Chúa Giêsu,
Cuộc sống của chúng con
đang bị vây chặt vì biết bao cơn đói,
đói ơn gọi, đói nhà cửa, đói việc làm, đói bình an…
Nhưng trong tấm bánh nhỏ này,
Chúa muốn ban cho con tất cả,
vì Chúa đã ban cho con chính Chúa.
Lạy Chúa,
xin cho con được vững tin nơi ơn cứu độ của Chúa.
Đức Giêsu, hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa.
69. Chân dung vị lãnh đạo – Như Hạ, OP
Các nhà lãnh đạo Trung Đông đang bù đầu tìm một giải pháp hòa bình cho miền Đất Hứa. Trên miền đất đầy xáo trộn đó, Con Thiên Chúa đã đến thực hiện giấc mộng hòa giải và bình an cho muôn dân. Người nổi bật như một lãnh tụ thật sự.
Niềm mong đợi của muôn dân đã không uổng. Nhìn đến từng đoàn người tấp nập tuốn đến, Đức Giêsu đã làm tất cả những gì để mở ra một hướng sống cho con người.
MỘT HƯỚNG SỐNG
Thánh Marcô viết : "Đức Giêsu bắt đầu dậy dỗ dân chúng nhiều điều" (Mc 6:34). Không biết Người đã dậy dỗ những gì ? Nhưng chắc chắn Người phải dậy dỗ điều Người đang quan tâm và dân chúng đang mong đợi. Điều Người đang quan tâm là "họ như bầy chiên không người chăn dắt" (Mc 6:34). Còn ai xứng đáng là người chăn chiên như Người ? Chính Người đã tự xưng : "Tôi chính là Mục Tử nhân lành" (Ga 10: 11,14). Người Mục Tử chân thật phải vạch được một hướng sống cho đám đông đáng thương đó.
Hướng sống, đó là nội dung những lời dạy dỗ hôm đó. Lời dậy dỗ đó không thể thành hình từ những ồn ào của cuộc sống. Cũng không thể phát xuất từ một tâm hồn giá băng. Nhưng trong thinh lặng và với một tâm hồn vô cùng nhậy cảm trước những nhu cầu lớn lao của quần chúng, Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về Thiên Chúa và con người. Trong sâu thẳm tâm hồn, Người đã nhìn thấy nhu cầu sâu xa và lớn lao nhất của kiếp người. Không phải cơm áo. Cũng chẳng phải an sinh xã hội. Nhưng chính là TÌNH YÊU. Vì "THIÊN CHÚA là TÌNH YÊU" (1 Ga 4:8). Tình yêu sẽ là câu trả lời cuối cùng cho mọi nhu cầu con người. Tình yêu đưa con người về nguồn sống là Thiên Chúa. Tình yêu cũng là máu huyết nuôi dưỡng và gắn bó Ba Ngôi trong một mầu nhiệm duy nhất. Tình yêu quyết định thân phận con người và nhân loại. Không một thực tại nào vừa đẹp vừa mạnh bằng tình yêu. Mạc khải về tình yêu không bao giờ cùng. Tình yêu tóm tắt tất cả chương trình tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa. Có thể nói tất cả những điều Đức Giêsu dạy dỗ dân chúng hôm đó xoay quanh đề tài tình yêu.
Quả thật, "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã hiến ban Con Một"(Ga 3: 16). Nhờ tình yêu Thiên Chúa, thế gian đã tìm được con đường, sự thật và sự sống là Đức Giêsu Kitô. Con đường ấy sẽ dẫn về Thiên Chúa và anh em. Sự thật ấy sẽ giải thoát khỏi mọi nô lệ, gông cùm của tội lỗi. Sự sống ấy chan hòa niềm vui và vô cùng sung mãn hồng ân Thiên Chúa. Tất cả đều là những nét tuyệt vời của một thủ lãnh siêu việt, đúng như lời Chúa phán : "Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng" (Gr 23:4). Như vậy Chúa Giêsu đến đúng lúc để thực hiện lời tiên báo.
Người mục tử thực sự phải có một trái tim nồng nàn và cái nhìn xuyên suốt. "Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương" (Mc 6:34). Trái tim Người không thể nghỉ yên bao lâu đám đông còn chìm trong cảnh thương tâm vì lầm lạc, nô lệ, tội lỗi. Người biết rõ tất cả chỉ vì thiếu một khuôn mặt lãnh đạo, nghĩa là không có ai đủ khả năng vạch ra một đường hướng mới cho dân tộc và nhân loại. Người biết rất rõ nhu cầu đám đông, nên Người càng muốn hi sinh tất cả cho quần chúng. Chính Người đã nói : "Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hi sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10:14-15). Từ khi Chúa Giêsu xuất hiện, bầy chiên thực sự đã có người chăn dắt, không còn lo lạc đàn và bị lâm nguy vì sói dữ nữa. Tất cả nhờ sự hi sinh lớn lao của người chủ chiên là Đức Giêsu.
Muốn trở thành chủ chiên như Đức Giêsu, các Tông đồ cũng phải có một tâm hồn và cái nhìn như Đức Giêsu. Nhưng nếu thực sự muốn thế, các ông phải biết lánh xa quần chúng. Thật là diệu kỳ. Người lãnh đạo ở một vị trí vừa gần vừa xa quần chúng mới đạt được mục đích lớn lao. Quá lánh xa không thể hiểu quần chúng. Quá gần không thể thấy được vấn đề vì những ồn ào đám đông. Bởi thế, trong khi các ông hí hửng báo cáo "cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy", thì "Người bảo các ông : 'Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút'" (Mc 6:30-31). Các ông hiểu ý nên "Thày trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng" (Mc 6:32). Thầy trò đều muốn có những giây phút thoải mái nghỉ ngơi và bồi dưỡng trước khi tiếp tục công tác. Chắc chắn trong nơi hoang vắng đó, Thày trò có thể cầu nguyện dễ dàng. Các Tông đồ cũng có thể đón nghe những mạc khải mới. Nhờ đó tâm hồn và trí óc có thể sáng suốt hơn, phục vụ đắc lực hơn.
KHUÔN MẶT DỄ THƯƠNG
Nhưng đám đông vẫn không tha. "Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước các ngài" (Mc 6:33). Đó là một hình ảnh sống động nói lên sự đói khát tinh thần của quần chúng. Họ mơ ước một vị Thiên Sai đến lãnh đạo dân tộc. Họ bị thu hút mãnh liệt vì khuôn mặt quá sức hấp dẫn của Đức Giêsu, bất kể những nhu cầu nghỉ ngơi của Thày trò. Hai hình ảnh trái ngược nhau. Dân chúng càng ồn ào náo nức bao nhiêu, Thày trò càng muốn tìm đến nơi hoang vắng bấy nhiêu. Nhưng dân chúng đã tràn ngập cả nơi hoang vắng, phá vỡ sự yên tĩnh cần thiết của người lãnh đạo. Biết dân chúng làm thế là phá hỏng cả chương trình của Thày trò, nhưng Đức Giêsu lại thấy được thái độ dễ thương của quần chúng. Đó chỉ là một cách diễn tả lòng ái mộ tột độ. Một người lãnh đạo phải có cái nhìn bao dung và đi sâu vào lòng người. Có thế, Đức Giêsu mới có đủ khả năng 'liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một ; Người đã hi sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét. Như vậy, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người" (Ep 2:15). Đây là nét nổi bật nhất của vị lãnh đạo. Lãnh đạo chỉ là khả năng qui tụ con người. Mất sức qui tụ, lãnh đạo sẽ hoàn toàn thất bại.
Không những có đủ khả năng lãnh đạo một cách tuyệt vời, Đức Giêsu còn chứng tỏ khả năng đó một cách anh hùng khi đổ máu thực hiện việc hòa giải con người với nhau và với Thiên Chúa. Thực vậy, "Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất ; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an," (Ep 2:16-17) vì "chính Người là bình an của chúng ta" (Ep 2:14). Như vậy, quyền lãnh đạo đã đạt tới cao điểm là cuộc hòa giải và sự bình an cho muôn dân. Còn ai xứng đáng lãnh đạo muôn dân hơn Đức Giêsu ?
Cuộc hòa giải và sự bình an đó không dựa trên kiến thức hay năng lực vật chất. Kiến thức chỉ làm cho con người thêm rối loạn và kiêu ngạo. Không thời đại nào con người giầu kiến thức nhưng cũng có quá nhiều bế tắc như hôm nay. Chỉ có một nguồn khai thông duy nhất cho mọi bế tắc, đó là "nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha" (Ep 2:18). Khi đã thông hiệp với Chúa Cha, con người có thể vượt qua những trở ngại dễ dàng, vì Chúa Cha là nguồn mạch mọi khôn ngoan. Như thế, quyền lãnh đạo của Đức Giêsu được củng cố trên một sức mạnh lớn lao là Thần Khí và đưa muôn dân về một cứu cánh duy nhất là Chúa Cha. Quyền lãnh đạo đã đạt tới một chiều kích vừa tự nhiên vừa siêu nhiên. Chúa có thấy được chiều kích lớn lao đó trên khuôn mặt những nhà lãnh đạo chúng ta không?
70. Lòng thương của Chúa
(Suy niệm của FX. Nguyễn Tất Đạt)
"Chúa Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không có người chăn dắt".
Có một nữ tu đã kể lại một sự việc xảy ra trong cộng đoàn mình như sau:
Vào năm 1982, khi quân đội Israel xâm chiếm Liban đã dồn người Palestine phải tràn vào trường học của chúng tôi để xin tị nạn. Phản ứng tự nhiên của chúng tôi dĩ nhiên là dè dặt, thủ thế và nghi kỵ. Làm sao chúng tôi có thể niềm nở với hạng người không có văn hoá như thế được. Họ tháo gỡ Thánh Giá Chúa khỏi các lớp học và chà đạp dưới chân, họ cưa chân bàn để nấu cơm. Nét mặt của họ lúc nào cũng câm lặng khó thương. Thế nhưng, các nữ tu chúng tôi cố gắng đặt mình vào hoàn cảnh của họ và tiếp nhận họ mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện nào. Chúng tôi cố gắng hiểu rằng, họ bị người ta kìm kẹp trong sự dốt nát để dễ dàng sai khiến và lèo lái. Dần dần tâm hồn của chúng tôi hoán cải và chính những người Palestine này cũng biến đổi và mỗi khi chúng tôi xuống sân trường thì họ đều chào hỏi niềm nở với chúng tôi.
Kính thưa quí ông bà và anh chị em
Phải đặt mình vào hoàn cảnh của người khác chúng ta mới hiểu và thông cảm với họ. Đó là bài học mà chúng ta cần phải học hỏi và rút ra từ chính cuộc đời của Chúa Giêsu để có thể sống đúng luật bác ái của Ngài. Để cảm thông với nhân loại tội lỗi, Thiên Chúa đã hoá thân làm người, và khi làm người, Ngài chọn kiếp sống nghèo hèn cũng như sống thân thiết với người nghèo. Thiên Chúa muốn nên một với con người, nhất là những người nghèo hèn cùng khổ, những người bị gạt bỏ ra ngoài lề của xã hội.
Bài Tin Mừng hôm nay đã ghi lại sự cảm thông ấy của Chúa Giêsu trước tiên là với các Tông Đồ. Ngài biết các ông đã rất mệt mỏi sau chuyến đi công tác về, và không đợi các ông ngỏ ý, Ngài đã khuyên các ông: "Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút". Còn đối với đám đông, Thánh Mac cô đã tóm gọn: "Ngài động lòng thương". Trái tim giàu lòng thương xót của Thiên Chúa như đang từng giây, từng phút bừng cháy một ngọn lửa yêu thương, ngọn lửa cảm thông và trìu mến đối với tất cả mọi người chúng ta.
Kính thưa quí ông bà và anh chị em, Chúa Giêsu xuống thế làm người là để sống và thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho loài người. Có lẽ ai trong chúng ta ít nhất cũng đã hơn một lần được nghe các đoạn Tin Mừng nói về:
- Chúa Giêsu động lòng thương trước cái chết của Lazarô và Ngài đã cho sống lại.
- Chúa Giêsu động lòng thương trước sự hối cải của tên trộm trên đồi Calvê và hứa ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.
- Chúa Giêsu động lòng thương trước cái chết của một thanh niên con bà goá ở thành Na-in và Ngài đã cho anh ấy sống lại.v.v.
Qua những việc làm cao cả đó, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta thấy được tình yêu của Ngài, đồng thời Chúa Giêsu cũng muốn tỏ bày cho chúng ta nhân tính đích thực của con người. Không thể làm người mà không biết xúc động, cảm thông trước những đau khổ của người chung quanh.
Tục ngữ ca dao dân gian Việt Nam có câu: "Con nhà tông không giống lông thì giống cánh". Chúng ta là dân riêng của Chúa Giêsu, là học trò của Chúa Giêsu, và là con cái của Chúa Giêsu. Vậy, chúng ta đã học đựơc nơi Ngài điều gì để xứng đáng được gọi là học trò của Ngài? Chúng ta đã nên giống Ngài ở điểm nào để xứng đáng được gọi là con cái của Ngài ?
Vậy qua bài Tin Mừng hôm nay, tất cả mỗi người chúng ta cần phải nhìn lại xem:
- Đã bao lần ta thực sự cảm thông trước lầm lỗi của người khác?
- Đã bao lần ta thực sự chia sẻ trước những đau khổ của người khác?
- Đã bao lần ta thực sự động lòng thương trước những người ngày ngày lê lết ngoài phố chợ kia chưa?...
Kính thưa cộng đoàn, chúng ta phải không ngừng học hỏi Đức Giêsu là Thầy của chúng ta để sống cho ra người, sống cho xứng đáng với phẩm giá con người, chính mỗi người chúng ta phải biết rung động và cảm thông trước những đau khổ với người khác, biết chia sẽ nổi khổ của người khác, biết lấy nổi khổ đau của người khác làm của chính mình. Nếu chúng ta thể hiện được những việc như thế, chúng ta mới xứng đáng là những người trò, người con của Đức Kitô sống để làm chứng cho lòng thương xót, sự cảm thông và tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người, và có lẽ chúng ta cũng cần khẳng định rằng đó chính là sứ vụ, trách nhiệm của mỗi Kitô hữu dưới lòng trần thế. Amen.
21/07 Người tôi tớ hiền lành và khiêm tốn
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Người tôi tớ hiền lành và khiêm tốn.
Thứ bảy tuần 15 thường niên.
"Người cấm họ đừng cho ai biết Người, để ứng nghiệm lời đã phán".
Lời Chúa: Mt 12, 14-21
Khi ấy, các người biệt phái đi ra ngoài, bàn mưu kế chống lại Chúa Giêsu để hãm hại Người. Biết thế, Chúa Giêsu rời bỏ nơi ấy. Có nhiều kẻ đi theo Người, và ai có bệnh, đều được Người chữa lành. Người cấm họ đừng cho ai biết Người, để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã chép rằng:
"Này là tôi tớ Ta đã chọn, là người Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Ta sẽ cho Thần trí ngự trên Người. Người sẽ rao giảng sự công chính cho dân ngoại. Người không cãi cọ hay dức lác, và không ai nghe tiếng Người ngoài đường phố. Người không bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói, cho đến lúc Người khiến sự công minh được toàn thắng. Dân ngoại sẽ hy vọng vào danh Người".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Người Tôi Trung Hiền Lành
Chúa Giêsu biết rõ những người Biệt Phái ghen ghép và mưu hại Ngài, Ngài đã kín đáo rời khỏi miền Galilê để tiếp tục sứ mệnh của Ngài tại nhiều nơi khác, Ngài còn cấm những kẻ theo Ngài không được tiết lộ cho thiên hạ biết Ngài là ai. Thánh Mátthêu đã nhận ra trong sự kiện này lời tiên tri Isaia đã ứng nghiệm, như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay.
Ðấng Thiên Sai là Con Thiên Chúa. Thần Khí Thiên Chúa luôn ngự trên Ngài, nhưng theo lời tiên tri Isaia, khi Ngài xuất hiện thì đây là dấu để nhận ra Ngài; một con người hiền lành và khiêm nhường thật trong lòng, Ngài không cãi vả, không la lối, Ngài không bẻ gẫy cây sậy đã dập, không dập tắt tim đèn còn khói. Ðó chính là lòng nhân từ kiên nhẫn, xót thương của Chúa. Nhưng Ngài hiền lành không phải để buông xuôi, mà là để thâm nhập tâm hồn con người, cho đến lúc sự công chính được toàn thắng và muôn dân nước đều hy vọng vào Ngài.
Thật ra, trong suốt cuộc sống tại thế và cho đến hôm nay, Chúa Giêsu vẫn kiên nhẫn chờ đợi với hy vọng mọi người trở về với Ngài để được cứu thoát. Chẳng hạn với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, một thứ tội phải bị ném đá, Chúa Giêsu chỉ nói: "Tôi cũng không kết án chị, chị hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa". Ngài luôn quả quyết: "Tôi đến để kêu gọi người tội lỗi ăn năn trở lại", và thực tế, Ngài đã chữa lành những kẻ bị coi là tội lỗi và bị xã hội ruồng bỏ.
Lời Chúa hôm nay một lần nữa cho thấy ơn cứu rỗi ở tầm tay chúng ta: được cứu rỗi hay không là do chúng ta, vì Chúa vẫn kiên nhẫn và ban ơn đầy đủ, chỉ cần chúng ta thành tâm trở về với Ngài. Người trộm lành chỉ trong giây phút hướng tâm hồn về Chúa và tin tưởng nơi Ngài, đã được Chúa hứa cho ở trên Thiên Ðàng với Chúa ngay hôm đó. Còn Giuđa đã thất vọng đến chỗ tự vẫn, thì đó là dấu chưa hiểu lòng Chúa thương yêu bao la đến mức nào.
Xin Chúa cho chúng ta thấu hiểu lòng Chúa luôn yêu thương kiên nhẫn chờ đợi chúng ta. Xin cho chúng ta hết lòng trở về với Chúa để được ơn cứu độ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Làm Chứng Cho Sự Thật (Mt 12,12-21)
Chúng ta có thể nhận ra hai phần khá rõ của đoạn Tin Mừng trên. Phần một tóm lược cuộc đời của Chúa Giêsu, nhất là về những hành động chữa lành các bệnh nhân như dấu chỉ Nước Chúa ngự đến. Và phần thứ hai là một đoạn trích từ sách Ngôn sứ Isaia chương 42, 1-4, nói về dung mạo người tôi tớ của Giavê Thiên Chúa được áp dụng cho chính Chúa Giêsu. Khi tóm lược về những việc làm của Chúa Giêsu, đoạn Phúc Âm hôm nay nhấn mạnh đến hai chi tiết: một bên là những người Pharisiêu chống đối Chúa họp nhau lại để tìm cách bắt Ngài, trong khi đó thì dân chúng lại theo Chúa rất đông và những người bệnh được chữa lành.
Bị chống đối nơi này, Chúa Giêsu đi nơi khác và tiếp tục sứ mạng của Người. Chúa không ngừng thi ân, mặc dù có những kẻ khước từ không nhìn nhận những ân ban đó. Rồi nơi những lời trích từ sách Ngôn sứ Isaia, nói về người tôi tớ hiền lành của Thiên Chúa được áp dụng cho Chúa Giêsu Kitô, chúng ta có thể lưu ý đến những lời nói về Chúa Giêsu như là kẻ luôn trung thành làm chứng cho sự thật: "Ta sẽ đặt Thánh Linh của Ta trên Người, và Người sẽ rao giảng sự thật cho các ông. Người sẽ không cãi cọ, không có những hành động bạo lực. Cây sậy đã giập, Người không bẻ đi. Cho đến khi Người đem sự thật đến chỗ toàn thắng".
Rao giảng sự thật và đem sự thật đến chỗ toàn thắng, đó là lời tóm gọn đủ và đúng cuộc đời của Chúa Giêsu trên trần gian này. Sau này, trước mặt quan Philatô xử án Chúa, thì Chúa Giêsu cũng đã mạnh mẽ chấp nhận: "Ta sinh ra trên trần gian là để làm chứng cho sự thật. Ai hành động theo sự thật thì nghe theo Ta". Chúa Giêsu cương quyết làm chứng cho sự thật, nhưng với công thức hiền lành, với tình thương nhân từ, biết thông cảm và nâng dậy những ai lạc bước như chủ chăn nhân từ đi tìm con chiên lạc.
Là đồ đệ của Chúa, mỗi người được mời gọi theo gương Chúa làm chứng cho sự thật giữa anh chị em, nhưng làm chứng với một tâm hồn tràn đầy tình yêu thương và diệu hiền.
Lạy Chúa, Xin dạy con sống noi gương Chúa làm kẻ phục vụ anh chị em hết tình thương mến, nhân hậu và thông cảm.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Bất Bạo Lực
Đây là người tôi trung Ta đã tuyển chọn,
Đây là người Ta yêu dấu: Ta hài lòng về Người.
Ta cho thần khí Ta ngự trên Người.
Người sẽ loan báo công lý trước mặt muôn dân.
Người sẽ không cãi vã, không kêu to,
Chẳng ai nghe thấy Người lên tiếng giữa phố phường.
Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gẫy,
Tim đèn leo lét. Chẳng nỡ tắt đi,
Cho đến khi Người đưa công lý đến toàn thắng.
Và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người.” (Mt. 12, 18-21)
Người có khả năng cứu kẻ khác.
Bạn hãy đọc lại Kinh thánh cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, bạn sẽ nhận thầy điều này. Người được Thiên Chúa sai đến với con người để cứu họ, không phải là kẻ tàn bạo. Đó là một người hiền lành, một người nhân hậu. Người hùng mạnh, nhưng không bao giờ ỷ sức mạnh để ức hiếp, đàn áp đập tan. Người nhẫn nại, có khả năng chịu khổ, biết chịu đựng. Sức mạnh lớn lao của Người là yêu thương, cảm thông cho đi và tha thứ.
Con Người đã cứu loài người ấy tên là Giêsu. Để cứu vớt muôn người, Người đã không đả kích sự sống của ai, mà lại trao ban sự sống mình cho họ. Ta phải nhìn ngắm con người đó, phải tin tưởng vào Người, phải bắt chước Người.
Hãy giết chết bạo lực.
Mỗi ngày xã hội thời nay ngày càng trở nên tàn bạo, ngày càng có nhiều người nghĩ rằng chỉ có bạo lực. Thể lý hay tinh thần. Mới có thể duy trì được hòa bình, giải phóng người bị áp bức, đem lại quyền lợi cho những người bị tước mất. Họ đi sai đường rồi. Họ lầm lạc đáng thương. Bạo lực chỉ có thể sinh thêm bạo lực mà thôi.
Ta phải giết chết bạo lực. Phải lấy yêu thương, nhẫn nhịn và nhân hậu để thắng bạo lực. Phải học cho biết sự hiền hòa. Chỉ những sức mạnh đó, chứ không sức mạnh nào khác mới có thể cứu vớt con người.
Người có sức mạnh thật là người hiền từ. Kẻ bạo lực hóa ra lại là người yêu. Yêu thương dẫn đến sự sống, bạo lực đưa đến chết chóc. Khi gieo chết chóc cho người khác, người ta chỉ làm cho chết chóc thêm lên. Khi tự mình biết chết đi, ta gieo vãi sự sống. Chính những con người không dùng bạo lực mới cứu được thế giới này.
J.Y.G
Suy Niệm 4: ĐỨC GIÊSU, NGƯỜI TÔI TRUNG CỦA THIÊN CHÚA (Mt 12, 14-21)
Đoạn Tin Mừng này nằm trong bối cảnh Đức Giêsu chữa lành một người bại liệt, lần này xảy ra ngay giữa Hội Đường và lại vào đúng ngày Sabát. Vì thế, những người Pharisêu tính kế lập mưu để tìm cách giết Đức Giêsu.
Khi biết được ý định của họ, Đức Giêsu đã tìm cách để lánh đi nơi khác. Ngài cũng cấm không cho những kẻ theo mình tiết lộ điều gì liên quan đến Ngài. Sự tránh né này không phải vì sợ hay do nhát đảm hoặc yếu thế..., nhưng là để tránh đi sự hiểu lầm vì “giờ” của Ngài chưa tới. Đây cũng chính là thái độ của những người cao thượng lấy “nhu thắng cường, nhược thắng cương”.
Sang phần hai của bài Tin Mừng, thánh Mátthêu đã khéo léo khi giới thiệu Đức Giêsu như người Tôi Trung trong Cựu Ước mà tiên tri Isaia đã loan báo. Những đặc tính để nhận ra Ngài là: hiền lành và khiêm nhường, không cãi vã, không la lối. Ngài không bẻ gẫy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói.
Lời Chúa hôm nay muốn mời gọi chúng ta hãy sống yêu thương, nhân từ và kiên nhẫn. Không vì ghen tức mà tìm cách hại người khác chỉ vì việc tốt họ đã làm. Cũng không vì ích kỷ đến độ thấy người khác tốt lành hơn, nhân hậu hơn, làm được nhiều việc tốt hơn mà sinh lòng ác độc đối với anh chị em chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, hình ảnh Chúa hiền hậu, khiêm nhường và hết lòng yêu thương luôn là lời mời gọi cho chúng con noi theo. Xin Chúa cho chúng con trở nên những con người thánh thiện, luôn biết yêu thương người khác. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Hài lòng về Người
Suy niệm :
Chúng ta đã từng thấy một Đức Giêsu đầy uy quyền
trong Bài Giảng trên núi và trong các phép lạ (Mt 6-9).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy một Đức Giêsu ở vào thế yếu.
Khi biết nhóm Pharisêu tìm cách giết mình thì Ngài lánh đi (c. 15).
Ngài đã lánh đi nhiều lần khi gặp chống đối và đe dọa.
Ngài lánh đi khi nghe tin Gioan bị nộp, rồi bị giết (Mt 4, 12; 14, 13).
Đức Giêsu không đối đầu với kẻ bách hại như Ngài đã dạy môn đệ (Mt 10, 23).
Ngài chỉ đón lấy cái chết khi Cha muốn.
Đức Giêsu có tiếng tăm nhưng cũng rất âm thầm.
Ngài chữa bệnh cho đám đông theo Ngài, nhưng lại muốn giữ kín (c. 16).
Ngài không muốn những phô trương rầm rộ, những biểu dương hoành tráng.
Đây là chọn lựa của Ngài ngay từ đầu sứ vụ
khi Ngài từ chối không nhảy xuống từ nóc đền thờ để người ta vỗ tay.
Và Ngài đã sống sự âm thầm này đến cuối đời
khi Ngài không bước xuống khỏi thập giá để được kẻ thù tin kính.
Sự phục sinh của Ngài có thể nói cũng là chuyện âm thầm,
vì Ngài chỉ hiện ra với các môn đệ của Ngài (1 Cr 15, 5-8).
Ngài chẳng hiện ra để đòi mạng Philatô, Caipha, Hêrốt…
Giáo hội nhỏ bé của Ngài cũng đã âm thầm lớn lên sau hai mươi thế kỷ.
Giáo hội này vẫn từ chối dùng quyền lực và bạo lực để xây dựng Nước Trời.
Các Kitô hữu đầu tiên đã thấy khuôn mặt người Tôi Trung nơi Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã làm trọn từng nét của người Tôi Trung này (Is 42, 1-4).
Đây là người được Thiên Chúa yêu mến, tuyển chọn và hài lòng,
là người có Thần Khí Thiên Chúa, để được sai đến với muôn dân.
Người Tôi Trung này sẽ loan báo công lý trước muôn dân,
và sẽ đưa công lý đến toàn thắng (c. 20).
Tuy nhiên việc loan báo của người Tôi Trung này lại không ồn ào.
“Người sẽ không cãi vã, không kêu to,
chẳng ai nghe thấy Người lên tiếng giữa phố phường” (c. 19).
Đức Giêsu đã loan báo Tin Mừng như một lời mời gọi.
Ngài không dùng quyền năng Cha ban để đe dọa hay làm hại ai,
nhưng để phục vụ mọi người trong âm thầm và khiêm hạ.
Không bẻ gẫy cây lau bị giập, không làm tắt tim đèn leo lét (c. 20).
Nâng niu những gì còn có chút hy vọng,
gìn giữ những sự sống mong manh và khơi dậy những thiện chí còn ẩn giấu.
Đó là điều Đức Giêsu vẫn làm khi đến với những người bị loại trừ,
những tội nhân và người thu thuế.
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã nhắn nhủ các Đức Giám mục Việt Nam
trong buổi triều yết ngày 27-6-2009 như sau:
“Trong tinh thần đối thoại và hợp tác tôn trọng nhau,
chỉ mong Giáo hội có thể góp phần xứng đáng vào sinh hoạt quốc gia,
vào việc phục vụ tất cả người dân.”
Xin cho chúng ta biết sống phục vụ như người Tôi Trung Giêsu
để “xây dựng một xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng.”
Cầu nguyện :
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy không gọi chúng con là tôi tớ,
Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ.
Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy,
vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con
những điều riêng tư thầm kín nhất
trong tương quan giữa Thầy với Cha.
Hơn nữa, sau phục sinh,
Thầy đã gọi các môn đệ là anh em.
Mặc nhiên Thầy tự nhận mình là Anh Trưởng
đứng đầu một đoàn em đông đúc.
Xin cho chúng con
luôn thi hành ý muốn của Cha
để trở nên những người em
cùng huyết nhục với Thầy.
Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên
làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy.
Còn Thầy lại hạ mình xuống
phục vụ chúng con như người tôi tớ,
rửa chân cho chúng con như một nô lệ
và chết thay cho chúng con trên thập giá.
Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy
và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
20/07 Con Người là chủ ngày Sabbat
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Con Người là chủ ngày Sabbat.
Thứ sáu tuần 15 thường niên.
"Con Người cũng là chủ ngày sabbat".
Lời Chúa: Mt 12, 1-8
Khi ấy, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi ngang cánh đồng lúa. Các môn đệ của Người đói, liền bứt bông lúa mà ăn. Thấy vậy, các người biệt phái thưa với Người rằng: "Kìa, các môn đệ của Ngài làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat".
Người nói với các ông rằng: "Các ông không đọc thấy Đavít và những người đi với ông đã làm gì khi đói lả sao? Các ông cũng không đọc thấy Đavít vào đền thờ Chúa ăn bánh trưng hiến, bánh mà ông và các kẻ theo ông không được phép ăn, chỉ trừ các tư tế được ăn mà thôi sao? Hay các ông không đọc thấy trong luật rằng: Ngày Sabbat, các tư tế trong đền thờ vi phạm ngày Sabbat mà không mắc tội đó sao?
Tôi bảo cho các ông biết, đây có Đấng còn trọng hơn đền thờ nữa. Vì nếu các ông biết được điều này là, "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ", chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội, vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Ngày Hưu Lễ
Chương 12 Tin Mừng Mátthêu qui tụ những tranh luận giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do thái giáo thời Chúa Giêsu về những đặc tính của nếp sống tôn giáo. Cuộc tranh luận hôm nay liên quan đến việc thực hành đạo đức căn bản của người Do thái, đó là việc giữ ngày Hưu lễ. Ðây là một thực hành quan trọng đến độ người Biệt Phái đã dùng việc Chúa Giêsu không tuân giữ luật Hưu lễ để lý luận và nói với dân chúng rằng Chúa Giêsu không phải là Ðấng đến từ Thiên Chúa, không phải là Ðấng Mêsia.
Việc dành riêng một ngày nghỉ cho Thiên Chúa đã bị lạm dụng đến mức việc tuân giữ ngày Hưu lễ không còn là do tình yêu mến tôn thờ đối với Thiên Chúa, nhưng là một hình thức ràng buộc con người. Qua cuộc tranh luận với những người Biệt Phái về việc giữ ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu mở rộng cho chúng ta thấy giá trị tôn giáo đích thực của ngày Hưu lễ, và do đó phải sống tinh thần ngày Hưu lễ đó như thế nào?
Cuộc tranh luận của Chúa Giêsu đều được trình thuật đầy đủ trong các Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng nơi Tin Mừng Mátthêu, tác giả lưu ý hai điểm: thứ nhất, quyền hành của Chúa Giêsu trên các việc thực hành đạo đức; thứ hai, lòng nhân từ có ưu tiên trên việc thực hành đạo đức. Trả lời cho thắc mắc của những người Biệt Phái tại sao các môn đệ Ngài không giữ luật Hưu lễ, Chúa Giêsu nhắc lại việc xẩy ra trong Cựu Ước liên quan đến Ðavít và những người tùy tùng khi đói, tức khi khẩn thiết, đã làm điều không được phép làm, hoặc việc các tư tế trong Ðền thờ không nghỉ ngày Hưu lễ mà cũng không mắc tội. Rồi Chúa kết luận: "Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông sẽ chẳng lên án kẻ vô tội". Lòng nhân từ phải là căn bản cho những phán đoán của chúng ta đối với anh em; cần phải hành xử theo lòng nhân từ này hơn là chỉ xét đoán anh em theo những việc bên ngoài.
Vả lại, những việc đạo đức và việc nghỉ ngày Hưu lễ, là để con người đến gần Thiên Chúa, thế mà Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã hiện diện giữa họ, thì lòng đạo đức không còn là một cái gì tuyệt đối phải thi hành nữa. Các tư tế làm việc trong Ðền thờ ngày Hưu lễ mà không lỗi luật, thì các môn đệ Chúa Giêsu lỗi luật thế nào được, vì đã có Chúa Giêsu bên cạnh họ. Ngài là Con Thiên Chúa cao trọng hơn Ðền thờ. Chúa Giêsu muốn nhân dịp này để mạc khải chính Ngài là Ðấng Mêsia cao trọng hơn Ðền thờ và làm chủ cả ngày Hưu lễ; nhưng các người Biệt Phái không nhìn nhận điều này.
Xin Chúa giúp chúng ta vượt qua tinh thần vụ hình thức trong đời sống đức tin. Xin cho chúng ta tâm hồn nhân từ như Chúa để biết đối xử với người khác mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 2: Tinh Thần Vụ Hình Thức (Mt 12,1-8)
Cuộc tranh luận trên của Chúa Giêsu với những người biệt phái được tường thuật cách đầy đủ trong cả bốn Phúc Âm, nhưng nơi Phúc Âm thánh Mátthêu này thì tác giả xem ra muốn lưu ý độc giả hai điểm: thứ nhất là lòng nhân từ ưu tiên trên việc thực hành những việc đạo đức và thứ hai là quyền hành của Chúa Giêsu vượt lên trên những việc đạo đức.
"Ta ưa thích lòng nhân từ chứ không ưa thích của lễ". Lòng nhân từ phải là căn bản cho những phán đoán của ta đối với anh chị em. Cần hành xử theo lòng nhân từ này hơn là chỉ lo xét đoán anh chị em theo những việc bề ngoài. Hơn nữa, những việc đạo đức trong đó có việc nghỉ ngày sabát là để con người đến gần Thiên Chúa. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đang hiện diện giữa các tông đồ, Người làm cho những việc đạo đức khác trở thành thứ yếu, bởi vì một khi đã đạt đến mục tiêu là sống hiện diện với Chúa rồi, thì những phương tiện, những việc đạo đức phải nhường chỗ. Nếu các biệt phái chấp nhận rằng các thầy tư tế làm việc trong đền thờ vào ngày nghỉ sabát sẽ không lỗi luật nghỉ sabát, thì những đồ đệ của Chúa Giêsu lỗi luật ngày sabát sao được vì đã có Chúa bên cạnh họ rồi.
"Ðây có Ðấng cao trọng hơn đền thờ". Chúa Giêsu dùng việc tranh luận để mạc khải về chính mình là Ðấng cao trọng hơn đền thờ, là Ðấng Thiên Sai, Ðấng dĩ nhiên có quyền trên ngày sabát. Ước chi chúng ta đừng xét xử anh chị em qua những việc đạo đức bên ngoài. Những việc làm này là điều tốt, đáng làm, nhưng không phải là tiêu chuẩn tuyệt đối để ta dựa vào mà xét xử anh chị em. Lòng nhân từ thì quan trọng hơn.
Lạy Chúa, Xin giúp con vượt qua được tinh thần vụ hình thức trong đời sống đức tin. Xin thương ban cho con tâm hồn nhân từ yêu thương như Chúa, để biết cảm thông và đối xử với anh chị em chung quanh mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 3: Những Luật Phải Vi Phạm.
Khi ấy vào ngày sa bát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ thấy đói và bắt đầu bứt lúa ăn. Những người Pha-ri-sêu thấy vậy, mới nói với Đức Giêsu: “Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm trong ngày sa bát!” (Mt. 12, 1-2)
Các môn đệ đói.
Các môn đệ Chúa bị cơn đói dày vò. Luật ngày sa bát không cho phép các ông bứt lúa mà ăn trong ngày ấy. Các môn đệ vẫn cứ bứt lúa ăn. Các người Pha-ri-sêu cho đó là xì-căng-đan. Đức Giêsu dùng sự cố này để bày tỏ quan điểm của Người về ngày sa bát.
Quan điểm đó của Chúa, chúng ta biết rõ rồi. Ngày sa bát phải phục vụ con người… ngày sa bát được phép làm điều lành. Nếu những luật chi phối ngày sa bát đã nén cản trở yêu thương, ta không được làm nô lệ cho những luật ấy và ngần ngại vi phạm. Nhưng thực tế không phải là phạm luật, bởi lẽ có môt luật được đặt lên hàng ưu tiên và làm lu mờ mọi luật khác: Luật tình yêu. Để yêu thương để giúp người đang túng đói, ta đừng phải sợ thay đổi nội quy, tập tục và luật lệ.
Có những người đang đói.
Theo thói quen ta vốn nghĩ là mình không còn nô lệ cho những luật lệ bất công vốn ngăn trở ta phục vụ tha nhân. Ta lầm rồi đấy. Những luật ấy tuy không áp dụng cho việc tuân giữa này sa bát hoặc ngày chúa nhật, nhưhg nó vẫn tồn tại.
Trên thế giới có những người đang đói ăn. Có nhiều người đang đói ăn. Cónhững người đang chết đói. Cần phải cho họ ăn. Cần phải có đủ trí tưởng tượng và con tim mới giúp họ sống được. Những điều gì đang xảy ra. Có những luật ngăn cản người ta chừng nào hay chừng ấy trong công việc cứu giúp những con người đói khổ kia.
Những luật này, chính các nước giầu tự ấn định cho mình, không những để cho mình vẫn là những nước giầu có mà muốn khuếch trương thêm sự giầu có của họ. Những luật ấy chính chúng ta tự đặt ra cho mình để tiếp tục sống trong tiện nhgi xa hoa.
Ngày nào chúng ta mới dám vi phạm tất cả những luật lệ này để có được một con tim rộng mở biết yêu thương hơn nữa.
J.Y.G
Suy Niệm 4: GIỮ LUẬT VÌ LÒNG MẾN (Mt 12, 1-8)
Chúng ta vẫn thường nghe những người khác tôn giáo nhận định về người Công Giáo như sau: “Những người theo đạo Công Giáo sướng thật! Ngày Chủ nhật họ ăn mặc đẹp, nghỉ ngơi để đi lễ nhà thờ”.
Lời nhận định tuy thật đơn sơ nhưng cũng đủ để cho chúng ta thấy rằng: Ngày Chúa Nhật là ngày của Chúa. Ngày tưởng niệm và tạ ơn Chúa vì Ngài đã tạo dựng nên tất cả cho con người hưởng dùng. Đồng thời cũng là ngày tưởng niệm hồng ân cứu chuộc của Đức Giêsu nơi lịch sử nhân loại. Trong ngày này, chúng ta thi hành việc bác ái, nâng đỡ những người túng thiếu, bần cùng. Đồng thời, chúng ta cũng dùng ngày này để làm mới lại tình yêu của mọi thành viên trong gia đình.
Như vậy, vì tình yêu, Thiên Chúa dựng nên tất cả. Cũng vì tình yêu, con người được đón nhận tất cả. Nên cũng chỉ có con đường duy nhất chính là tình yêu để dẫn đưa con người đến gặp Thiên Chúa và đến được với nhau.
Nếu làm mọi chuyện chỉ vì sợ tội, sợ mất chức, sợ tiếng chê, rồi sinh ra nhu nhược hay tàn ác trong khi thi hành bổn phận thì thật là tắc trách. Tự bản chất, con đường này không thể gặp được Thiên Chúa và không thể có mối tương quan thân tình với nhau, bởi vì nó được thi hành bằng mệnh lệnh của cái đầu mà không phải bằng tình thương của trái tim.
Hôm nay, Đức Giêsu khiển trách những người Pharisêu về thái độ nệ luật của họ, nên đã đánh mất đi tương quan với Thiên Chúa và với nhau trong tình yêu. Họ đã thể hiện và củng cố uy quyền của mình bằng sự tàn ác, vô nhân đạo và mất đi tính người. Vì thế, Đức Giêsu cho họ biết là lòng nhân hậu thì quý hơn của lễ được làm nên bởi sự ích kỷ, bất nhân, tàn ác. Thiên Chúa cần sự bao dung, tha thứ và nhân hậu trong của lễ. Vì thế, Đức Giêsu đã nói: “Ta muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế” (Mt 12, 7).
Như vậy, Đức Giêsu nhấn mạnh đến ý nghĩa cốt lõi của ngày Sabát và đưa con người đến chỗ nhận ra ý định yêu thương của Chúa, đồng thời mời gọi con người biết cộng tác vào việc thánh hóa ngày ấy theo như ý Thiên Chúa muốn.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa vì nhờ lề luật của Chúa mà chúng con được tự do, hạnh phúc. Xin cho chúng con biết tuân giữ luật vì lòng yêu mến. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Ta muốn lòng nhân
Suy niệm :
Đức Khổng Tử đòi người quân tử phải có năm đức tính gọi là ngũ thường.
Đứng đầu của ngũ thường là lòng nhân.
Ngài viết: “Người quân tử mà bỏ đức nhân thì làm sao được gọi là quân tử?
Người quân tử dù trong một bữa ăn cũng không làm trái điều nhân,
dù trong lúc vội vàng cũng theo điều nhân (Luận Ngữ, IV, 5).
Trong giáo huấn của Đức Giêsu, lòng nhân có một chỗ đứng đặc biệt.
Hai lần câu này của ngôn sứ Hôsê được trích dẫn trong Mátthêu:
“Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế” (9, 13; 12, 7).
Xem ra câu này không dễ hiểu, nên Ngài khuyên ta học cho biết ý nghĩa.
Giữ ngày sabát là điều rất quan trọng trong Do thái giáo.
Theo Luật Chúa, đó là ngày nghỉ ngơi, ngừng mọi công việc.
Đối với người Pharisêu, bứt lúa được xem như gặt lúa, nên là việc bị cấm làm.
Hành vi bứt lúa của các môn đệ bị coi là vi phạm ngày sabát.
Thay vì trách họ theo lời người Pharisêu, Thầy Giêsu lại bênh vực họ.
Ngài trưng dẫn trường hợp Đavít và các thuộc hạ khi đói bụng
đã ăn bánh thánh hiến vốn dành riêng cho các tư tế (Lv 24,5-9; 1 Sm 21,1-6).
Hiển nhiên đây là chuyện vi phạm Lề Luật vì có nhu cầu chính đáng.
Nếu chấp nhận chuyện Đavít thì càng phải chấp nhận chuyện của các môn đệ,
vì họ đi theo một Đấng mà Đavít phải gọi là Chúa (Mt 22, 43).
Luật giữ ngày sabát thật ra không phải là một đòi buộc luân lý tuyệt đối.
Các tư tế phải làm việc phụng sự Chúa, chuẩn bị các lễ vật vào ngày sabát.
Nếu họ được phép vi phạm ngày sabát mà không mắc tội (c. 5),
thì huống hồ là Thầy Giêsu và các môn đệ của Ngài,
những người làm việc cho Nước Trời, nhưng lại phải chịu đói nên mới bứt lúa.
Đức Giêsu không có thái độ bất kính với ngày sabát.
Nhưng Ngài là chủ ngày sabát, Ngài có quyền xác định điều gì được phép làm.
Ngài thấy gánh nặng đè lên con người bởi những cấm đoán chi li,
khiến con người ngột ngạt, mệt mỏi.
Giữ Luật phải đem lại cho con người hạnh phúc,
phải đi với lòng nhân.
Giữ Luật mà cứng nhắc, thiếu lòng nhân, lòng bao dung,
thì đó là thứ hy lễ Chúa không cần (Hs 6, 6).
Thật ra không có sự đối nghịch giữa luật lệ với lòng nhân.
Giữ luật là cách biểu lộ lòng nhân, vì luật trên hết là luật yêu thương.
Người giữ luật thực sự là người có khuôn mặt vui tươi và trái tim rộng mở.
Khi yêu thì người ta trở nên chi li.
Không phải chi li để xét đoán người khác.
Nhưng chi li vì thấy những nhu cầu nhỏ bé của tha nhân.
Chỉ xin giữ mọi luật lệ nhỏ bé thật chi li, chỉ vì yêu bằng tình yêu quá lớn.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ,
nên xin yêu ngài bằng khả năng bé nhỏ của con.
Cho con biết yêu
những công việc bé nhỏ mỗi ngày,
những công việc âm thầm,
những bổn phận mà con làm vì yêu mến.
Cho con biết yêu những hy sinh bé nhỏ mỗi ngày,
vui lòng đón nhận những thánh giá tuy nhỏ,
nhưng làm tim con đau đớn.
Cho con biết yêu tinh thần bé nhỏ của trẻ thơ,
đơn sơ thú nhận mình yếu đuối và bất lực,
sung sướng nương tựa vào duy một mình Chúa.
Hơn nữa, xin cho con can đảm,
dám chọn những gì giúp con trở nên bé nhỏ hơn,
nhờ đó con vui tươi phục vụ mọi người
và hạnh phúc khi thấy Chúa lớn lên trong con.
Mỗi lần bị cám dỗ tự cao,
xin cho con biết ngắm nhìn con đường Chúa đã đi,
con đường bé nhỏ và khiêm hạ.
Ước gì con được làm bạn của Chúa
trên đường từ Bêlem đến Núi Sọ,
và được ở bên Chúa trong Nước Trời. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
19/07 Ách của Ta êm ái
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Ách của Ta êm ái.
Thứ năm tuần 15 thường niên.
"Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng".
Lời Chúa: Mt 11, 28-30
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Hãy Ðến Với Chúa
Những kẻ vất vả mang gánh nặng mà Tin Mừng hôm nay nhắc đến được các nhà chú giải hiểu là những con người đơn sơ khiêm tốn, sẵn sàng để Thiên Chúa dạy dỗ hướng dẫn, như được nói đến trong đoạn Tin Mừng trước đó. Tâm hồn họ đã sẵn sàng, giờ đây, Chúa Giêsu mời gọi họ đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ bổ sức cho; hay nói theo một bản dịch Kinh Thánh khác: để được Ngài giải thoát khỏi gánh nặng. Gánh nặng nào? Ðó là gánh nặng của lề luật mà các nhà thông thái chất trên vai những con người đơn sơ, hèn mọn. Họ bó gánh nặng đặt lên vai người khác, còn chính họ thì không muốn động ngón tay vào, như lời Chúa trách cứ thái độ giả hình của những người Biệt Phái. Tinh thần vụ luật, vụ hình thức đã làm cho những vị lãnh đạo Do Thái giáo không còn quả tim để thông cảm nữa.
Chúa Giêsu mời gọi dân chúng đến với Ngài để được Ngài giải thoát khỏi gánh nặng và được nâng đỡ bổ sức. Chống lại những người Biệt Phái, Chúa Giêsu đề ra một cái ách mới cho những ai chấp nhận Ngài. Ðây chẳng phải là không còn lề luật, bởi vì giáo huấn của Chúa Giêsu đòi hỏi không thua gì lề luật của Môsê. Nhưng đối với Chúa Giêsu, những kẻ tuân giữ luật Chúa được sức mạnh tinh thần nâng đỡ ủi an, đó là sức mạnh của Thánh Thần mà Ngài đã ban cho các môn đệ để họ tuân giữ luật Chúa, và như vậy luật Chúa trở nên nhẹ nhàng, dễ chu toàn.
Người Kitô hữu không lẻ loi một mình, không tự sức mình tuân giữ luật Chúa. Hằng ngày họ được Chúa nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Thánh Ngài và được ban cho tràn đầy Thánh Thần. Sống theo ơn soi sáng của Thánh Thần, họ sẽ cảm nghiệm được rằng đời sống đức tin với tất cả những hệ lụy, những đòi buộc của nó, sẽ không còn là gánh nặng, mà là niềm vui và sức mạnh trong mọi biến cố, mọi hoàn cảnh cuộc đời.
Xin cho chúng ta biết lắng nghe lời mời gọi đến với Chúa, tin tưởng vào Chúa và lấy tình yêu đáp trả tình yêu để "ách Chúa trở nên êm ái và gánh Chúa trở nên nhẹ nhàng" cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 2: Gánh Nặng Cuộc Ðời (Mt 11,28-30)
Theo các nhà chú giải thì những kẻ mệt mỏi và vất vả mà đoạn Phúc Âm nhắc đến là những kẻ đã được nói đến trước đó như là những con người đơn sơ, khiêm tốn, sẵn sàng để cho Chúa dạy bảo, hướng dẫn. Tâm hồn họ đã được chuẩn bị sẵn sàng. Giờ đây, Chúa mời gọi họ một cách tha thiết hơn. Hãy đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ, an ủi. Nơi bản văn Kinh Thánh khác, câu quả quyết của Chúa Giêsu: "Ta sẽ nâng đỡ, an ủi" được chuyển dịch là: "Ta sẽ giải phóng họ khỏi gánh nặng". Và gánh nặng nào đây? Thưa, đó là gánh nặng phức tạp mà các nhà thông luật đặt ra đè năng trên vai những con người đơn sơ bé nhỏ, bắt buộc họ phải tuân giữ hết điều này tới điều khác.
Chúa Giêsu đã trách những người biệt phái, thông luật và giả hình như sau: "Họ bó những gánh nặng đặt trên vai dân chúng. Còn họ thì không muốn đụng ngón tay". Tinh thần vụ hình thức, vụ Lề Luật Môsê, đã làm cho những vị lãnh đạo dân Do Thái không còn có một quả tim để thông cảm nữa. Chúa Giêsu mời gọi dân chúng đến với Ngài để được giải thoát khỏi những gánh nặng của cuộc đời, khỏi những gánh nặng của luật lệ, vụ hình thức.
"Hãy mang lấy ách của Ta, ách êm ái, gánh nhẹ nhàng". Chống lại những người Pharisiêu, Chúa Giêsu đề ra cho những ai chấp nhận Ngài một ách mới, nhưng đây không có nghĩa là không còn luật lệ gì nữa cả. Không phải vậy, giáo huấn của Chúa Giêsu rất đòi hỏi không thua gì những đòi hỏi của luật Môsê. Nhưng kẻ tuân giữ Luật Chúa thì còn được sức mạnh Chúa nâng đỡ an ủi, đó là Thánh Thần sự thật mà Chúa Giêsu hứa sẽ ban cho các đồ đệ, để giúp các ngài tuân giữ Luật Chúa và như vậy khiến Luật Chúa trở nên nhẹ nhàng, dễ chu toàn.
Người đồ đệ Chúa không lẻ loi, không tự sức mình mà tuân giữ các giới răn, có Chúa Thánh Thần ngự trong họ, giúp họ hướng về Thiên Chúa mà họ gọi là Cha "Abba". Sống theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, người đồ đệ sẽ cảm nghiệm được rằng đời sống đức tin với tất cả những hệ luận của nó sẽ không còn là gánh nặng nữa, nhưng là niềm vui, sự ủi an và cả những thử thách.
Lạy Chúa,
Con hết lòng cảm tạ Chúa, vì tình thương bao la Chúa không ngừng nâng đỡ con. Con cảm tạ Chúa vì đã ban cho con hồng ân của Chúa Thánh Thần, để soi sáng, nâng đỡ con trong những lúc gian nan thử thách. Xin cho con được tin tưởng đến với Chúa, lấy tình yêu đáp lại tình yêu.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 3: Luật Đè Nặng, Luật Giải Thoát
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt. 11, 28-30)
Ách lề luật
Chúa Giêsu hay ngỏ lời với đám người bình dân, Người thường gặp trên các nẻo đường. Họ là những con người nghèo khổ, bé mọn mà Phúc Âm rất hay nói đến. Cuộc sống của đám người này chẳng có gì là sung sướng. Một trong những lý do thực tế là họ đã phải tuân thủ quá nhiều luật lệ mà giới chức sắc thời đó đã áp đặt lên họ. Và bởi không sao giữ nổi hết những luật lệ tỉ mỉ đó, lên lương tâm họ đâm ra bối rối. Họ đâu có biết rằng trong nhiều trường hợp người ta đã lợi dụng họ.
Thời ấy luật lệ thường quá tỉ mỉ và thường bất công. Những người thấp cổ bé họng cứ phải lầm lũi phục lụy. Còn kẻ có địa vị ăn trên ngồi trước lại khôn khéo tìm kẽ hở để được miễn trừ luật. Gánh nặng quả đã đè năng lên vai những người bé mọn ấy.
Ách tình yêu.
Chúa Giêsu muốn giải thoát họ, người mời gọi họ đổi cái ách ngăn cản họ sống lấy cái ách mới sẽ làm họ sống. Ách đó chỉ gồm có một luật mà thôi: Luật tình yêu.
Nếu Chúa Giêsu bảo người ta phải mang ách là vì điều Người kêu gọi là đòi hỏi cấp bách phải thi hành. Con đường Người đặt cho ta đi quả là gay go, cánh cửa Ngài mở ra cho ai sẽ đi theo Người là cánh cửa hẹp. Thế nhưng Chúa bảo đó là ách êm ái nhẹ nhàng. Tất nhiên là người ta mang ách đó bởi vì tình yêu.
Khi ta cảm thấy ngột ngạt vì phải chu toàn những bổn phận, phải giữ những điều trung tín, phải tôn trọng những lời nói, phải thực hành những điều Phúc Âm truyền buộc thì chỉ có một lý do: Là vì không có tình yêu ở đấy. Khi không có tình yêu, chẳng có gì ý nghĩa. Khi có tình yêu trong công việc, mọi việc đều mang ý nghĩa. Và điều gì có thể coi như nặng nề, bỗng nhiên hóa ra nhẹ nhàng hơn nhiều.
J.Y.G
Suy Niệm 4: MANG “ÁCH” VÀ “GÁNH” CỦA CHÚA ĐỂ ĐƯỢC BÌNH AN (Mt 11, 28-30)
Xem lại CN 14 TN A, lễ Thánh Tâm A, // lễ thánh Phan-xi-cô At-si-di ngày 4/10
và thứ Tư tuần 2 MV.
Trong xã hội ngày nay, số người tự tử khá cao. Điều đáng nói là những người tự tử ở độ tuổi thanh thiếu niên lại nhiều nhất. Tại Nhật Bản, người ta ước tính cứ 16 phút lại có một người tự tử. Tự tử chiếm tỉ lệ cao hơn cả tại nạn giao thông ở đất nước này.
Khi tìm hiểu nguyên nhân, người ta nhận thấy nhiều bạn trẻ bế tắc trong công việc, thất bại trong tình yêu, không tìm ra ý nghĩa, giá trị của cuộc sống, nên đã tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Nói chung, họ thấy gánh nặng cuộc đời quá lớn, khiến không thể mang vác nổi, vì thế đành “hạ gánh buông trôi” cho dòng đời đưa đẩy.
Hôm nay, Đức Giêsu mời gọi hãy mang lấy “ách” và “gánh” của Ngài để được bình an và hạnh phúc, vì “ách” của Ngài thì êm ái và “gánh” của Ngài thì nhẹ nhàng. Đồng thời Đức Giêsu cũng mời gọi mỗi chúng ta hãy học với Ngài vì Ngài hiền hậu và khiêm nhường trong lòng.
“Ách” của Đức Giêsu chính là sự “hiền hậu”, “khiêm nhường”. Khi mang lấy trong mình sự “hiền hậu”, “khiêm nhường”, chúng ta sẽ thấy mọi chuyện chở nên êm ái và nhẹ nhàng. Còn “gánh” của Đức Giêsu chính là “luật yêu thương”.
Trong đời sống của người tín hữu, chúng ta sẽ gặp không ít những khó khăn bên trong và bên ngoài. Khó khăn về thể lý lẫn tinh thần. Khó khăn về những hiểu lầm, cố chấp, bất công. Khó khăn về sự chung thủy... Những cái đó chính là những “ách” và “gánh” của cuộc đời.
Khi mang “ách” và “gánh” cuộc đời như vậy, chúng ta cảm thấy nặng nề và muốn buông xuôi, bỏ cuộc, bởi vì chúng ta đối diện và phải mang cái “ách” đó bằng sự kiêu ngạo, tự phụ, ích kỷ chứ không phải là hiền hậu và khiêm nhường theo tinh thần của Chúa. Hơn nữa,“gánh” của cuộc đời mà chúng ta vẫn mang theo chính là sự bảo thủ, ghen ghét, không thông cảm và cố chấp chứ không phải là “luật yêu thương”!
Mong sao mỗi chúng ta hãy mang lấy “ách” và “gánh” của Đức Giêsu và hãy học cùng Ngài để được bình an.
Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống, chúng con luôn phải đối diện với những lo toan như cơm, áo, gạo, tiền, khiến đôi khi chúng con cảm thấy nặng nề và thất vọng. Xin Chúa ban cho chúng con biết đến với Chúa để được Chúa cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Hiền hậu và khiêm nhường
Suy niệm :
Sống làm người ở đời ai tránh được gánh nặng.
Chẳng phải chỉ những người bốc vác ở cảng mới mang gánh nặng.
Gánh nặng gắn liền với phận người.
Có gánh nặng gia đình, gánh nặng nghề nghiệp, gánh nặng tuổi tác.
Có gánh nặng buồn đau của quá khứ, gánh nặng lo âu cho tương lai.
Xem ra mỗi người không vác nổi gánh nặng của mình.
Ai cũng thấy có lúc cần đến người khác.
Đức Giêsu nhìn thấy những ai đang mang gánh nặng vào thời của Ngài.
Đặc biệt những kẻ phải giữ chi li hơn 600 điều luật của phái Pharisêu.
Luật Chúa lẽ ra phải đem đến niềm vui hạnh phúc,
thì lại trở thành “những gánh nặng chất lên vai người ta” (Mt 23, 4).
Đức Giêsu mời đến với Ngài tất cả những ai đang vất vả,
tất cả những ai chưa là môn đệ của Ngài.
Ngài hứa sẽ cho họ được nghỉ ngơi trong tâm hồn (cc. 28. 29).
Sự nghỉ ngơi ở đây chính là sự bình an sâu xa của người được cứu độ,
được hưởng các mối phúc ngay từ bây giờ,
và bắt đầu được sống trong ngày Sabát vĩnh cửu với Thiên Chúa.
“Hãy đến với tôi; hãy mang ách của tôi; hãy học với tôi.”
Lời mời của Đức Giêsu lôi kéo những ai vất vả đến với Ngài.
Ngài mời họ làm môn đệ và sống theo giáo huấn của Ngài.
Trong Cựu Ước, ách tượng trưng cho Luật Thiên Chúa ban cho Môsê
Đi theo làm học trò Đức Giêsu, không phải là không có ách.
Ách của Đức Giêsu chính là lời giáo huấn của Ngài.
Lời giáo huấn ấy chúng ta đã được nghe trong Bài Giảng trên núi.
“Ách của tôi êm ái và gánh của tôi nhẹ nhàng” (c. 30).
Nhiều người không hiểu tại sao Đức Giêsu lại bảo ách mình êm ái,
khi mà Ngài đưa ra những đòi hỏi triệt để hơn,
tận căn hơn những đòi hỏi của Luật được giải thích bởi Môsê.
Thật ra sự êm ái nhẹ nhàng không bắt nguồn từ việc được đòi hỏi ít hơn,
nhưng đến từ tình yêu của tôi đối với Đức Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay có 7 chữ tôi.
Cái tôi hiền hậu và khiêm nhường của Đức Giêsu thu hút tôi mến Ngài
Chính tình yêu làm cho ách và gánh của Ngài trở nên êm nhẹ.
Người ta thấy nặng nề khi bị áp lực phải giữ các luật lệ bên ngoài,
nhưng lại dễ làm theo sự thúc đẩy của một tình yêu bên trong.
Tự do hơn và vui tươi hơn, đó là điều ta cảm thấy khi sống cho Giêsu.
Làm sao để việc giữ đạo, theo đạo, sống đạo,
không trở thành một gánh nặng đè trên người Kitô hữu?
Làm sao để chúng ta tự do hơn và vui tươi hơn khi đến gặp Giêsu
và tìm được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn mình?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
18/07 Mạc khải cho kẻ bé mọn
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Mạc khải cho kẻ bé mọn.
Thứ tư tuần 15 thường niên.
"Chúa đã giấu không cho những người khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn".
Lời Chúa: Mt 11, 25-27
Khi ấy, Chúa Giêsu thưa rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Cần Trở Nên Bé Mọn
Con người có thể khước từ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ từ bỏ con người; Ngài luôn mời gọi con người trở về để lãnh nhận ân sủng và sự thật của Ngài. Thiên Chúa mời gọi mọi người, không phân biệt, nhưng từ phía con người có thể có một trong hai thái độ: thái độ của những kẻ bé mọn khiêm tốn để cho Chúa dạy dỗ; và thái độ của những kẻ thông thái, tự cao, cho mình thuộc một nhóm nhỏ tách rời khỏi đại đa số dân chúng.
Những kẻ thông thái được Chúa Giêsu trực tiếp nhắm đến trong Tin Mừng hôm nay là nhóm Biệt Phái đang đứng trong hành lãnh đạo sinh hoạt tôn giáo và chống đối Chúa. Họ đến với Chúa bằng con đường của sự thông hiểu về luật Môsê; họ cho rằng chỉ cần am tường lề luật Môsê trong Kinh Thánh cũng như trong truyền khẩu là con người có thể đến với Chúa: họ tự phụ mình biết Thiên Chúa, nhưng thực ra họ lìa xa Ngài.
Con đường Chúa Giêsu mạc khải để giúp con người đến với Thiên Chúa chính là Ngài, mà mỗi người chúng ta được mời gọi đón nhận với tâm hồn đơn sơ khiêm tốn: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". Nếu cậy dựa vào sự khôn ngoan của mình, con người sẽ không gặp được Thiên Chúa, nhưng nếu để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, con người có thể đạt tới sự thông hiệp với Thiên Chúa và được cứu rỗi: "Lạy Cha, con chúc tụng Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, thì Cha lại mạc khải cho những người bé mọn".
Chúng ta cần trở nên những người bé mọn theo tinh thần Phúc Âm, để cảm nếm và sống hòa hiệp với Thiên Chúa. Ðức tin Kitô giáo hướng dẫn chúng ta đến một con người cụ thể, một vị Thiên Chúa chấp nhận sống với con người, chứ không phải những lý lẽ thần học cao siêu. Một con người khiêm tốn có thể có đức tin sâu xa hơn một nhà thông thái. Ðức tin là một hồng ân cần được lãnh nhận hơn là kết quả của sưu tầm trí thức của con người.
Thánh Têrêsa Avila, tuy không học hành nhiều, nhưng đã có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa và đã trình bày kinh nghiệm thiêng liêng của mình một cách tốt đẹp, đến nỗi đã được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh, vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quý báu giúp mọi thành phần Giáo Hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không có ý loại bỏ những bậc thông thái, nhưng chỉ có ý cảnh tỉnh những ai cậy dựa vào sự thông thái rằng họ sẽ không đến được với Chúa, không có đủ điều kiện để lãnh nhận mạc khải của Chúa. Tuy nhiên, không thiếu những trường hợp có sự hòa hợp giữa thông thái và đức tin Kitô giáo. Thánh Tôma Tiến sĩ là một điển hình. Nói chung, thái độ khiêm tốn để Chúa soi sáng hướng dẫn là điều căn bản cần phải có luôn.
Xin Chúa mở rộng tâm hồn chúng ta để lắng nghe Lời Chúa với tâm hồn khiêm tốn, mến yêu. Xin cho chúng ta biết sống theo sự soi sáng của Thánh Thần để đến với Chúa và anh em.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 2: Kinh Nghiệm Thiêng Liêng (Mt 11,25-27)
Con người có thể khước từ Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ từ bỏ con người, không bao giờ ngưng mời gọi con người trở về lãnh nhận ân sủng và sự thật Người ban cho nhưng không: "Hết thảy những ai mệt mỏi và vất vả hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ, ủi an". Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người, không phân biệt một ai, nhưng từ phiá con người, khi đáp lại lời mời gọi của Chúa, mỗi người chúng ta có thể có một trong hai thái độ: thái độ đơn sơ, khiêm tốn đón nhận Chúa để cho Ngài hướng dẫn dạy dỗ; hoặc ngược lại, thái độ tự cao của kẻ cho mình là khôn ngoan, không cần đến Thiên Chúa.
Những kẻ khôn ngoan thông thái mà Chúa Giêsu nhắm đến trong đoạn Tin Mừng trên đây là những người biệt phái tinh thông Lề Luật và lãnh đạo sinh hoạt tôn giáo của dân Israel. Có thể nói, những kẻ khôn ngoan thông thái này đến với Chúa bằng con đường hiểu biết, nhất là sự thông thái Lề Luật Môsê. Họ nghĩ rằng chỉ cần am tường những Lề Luật của Môsê là họ có thể đến với Thiên Chúa. Họ ỷ lại vào sự hiểu biết và sự tự phụ cho mình biết rõ Thiên Chúa, nhưng thật ra, họ đang xa lìa Ngài.
"Lạy Cha, con chúc tụng Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã giấu những điều đó ngoài những kẻ khôn ngoan thông thái, nhưng lại mạc khải cho chúng con, những kẻ bé mọn". Mỗi người chúng ta cần trở nên bé nhỏ đơn sơ theo tinh thần Phúc Âm để cảm mến và sống mầu nhiệm Thiên Chúa. Ðức tin Kitô hướng ta đến gặp một con người cụ thể, một vì Thiên Chúa chấp nhận đến với con người. Ðức tin Kitô không dựa trên những lý lẽ thần học cao siêu. Ðức tin là một hồng ân cần được khiêm tốn đón nhận hơn là kết quả của cuộc sống sưu tầm trí thức.
Thánh Têrêsa Avila tuy không được học hành nhiều nhưng có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa. Thánh nữ đã trình bày những kinh nghiệm thiêng liêng của mình cách tốt đẹp đến độ Ðức Thánh Cha Phaolô VI đã tuyên bố thánh nữ là tiến sĩ của Giáo Hội, bởi vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quý báu giúp các thành phần Giáo Hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, đoạn Tin Mừng hôm nay không có ý nói là Chúa Giêsu hoàn toàn loại bỏ những nhà thông thái, nhưng chỉ có ý cảnh tỉnh rằng những ai ỷ lại vào sự hiểu biết thông thái của mình, thì sẽ không đến được với Thiên Chúa. Không thiếu những trường hợp có sự hài hòa giữa sự thông thái và đức tin Kitô như thánh Thomaso thành Aquino. Trong mọi trường hợp, thái độ khiêm tốn chấp nhận để cho Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn là điều căn bản cần phải có luôn.
Lạy Chúa,
Xin thương mở rộng tâm hồn cho con được lắng nghe Lời Chúa với hết lòng khiêm tốn và biết ơn. Xin thương giúp con sống theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần để đến với Chúa và anh chị em một cách dễ dàng và sâu xa hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 3: Đường Lối Cư Xử Của Chúa
Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết điều này, nhưng lại mắc khải cho những người bé mọn.” (Mt. 11, 25)
Không giống như mọi người
Thiên Chúa không hành động như phần đông người ta, không suy nghĩ như họ, không xét đoán theo cùng tiêu chuẩn như họ.
Đối với phần đông, quy luật chung vẫn là: “Mạnh được yếu thua.” Người giầu có nhiều cơ may thăng tiến, kẻ nghèo thì họa chăng mới được, người khôn ngoan thông thái được mọi người kính trọng, hạng thứ dân ít học vốn bị coi thường. Kẻ có tiền, có quyền giống như: “Miệng quan có gang có thép.” Kẻ trắng tay lý lẽ cũng không. Ai có địa vị, người ấy có quyền ăn quyền nói, kẻ thấp hèn lên tiếng chẳng ai nghe.
Nhưng đối với Chúa lại khác hẳn, kẻ làm đầu phải trở lên người rốt hết, người rốt hết sẽ lên kẻ đứng đầu. Người mạnh trở lên yếu, kẻ yếu được lên mạnh, những bậc khôn ngoan thông thái đã bị giấú không cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, trong khi những kẻ bé mọn lại được Chúa mặc khải cho những thực tại tuyệt vời ấy.
Lời tiên báo cho những kẻ bé mọn.
Khi thấy những người khôn ngoan thông thái bịt tai không nghe những lời giáo huấn của Chúa, còn những kẻ bé mọn lại dễ dàng tiếp nhận, Chúa Giêsu trong trạng thái hứng khởi, liền cất tiếng ngợi khen Cha.
Những kẻ bé mọn mà Phúc Âm nói đến ở đây, ta có thể gặp họ ở khắp nơi. Đó là những con người ít được học hành. Những người chẳng có địa vị cao trong xã hội, những người không thành đạt mấy trong cuộc đời, những người sống khiêm tốn. Họ có được sự nhạy bén để mở lòng ra đón nhận những sự thuộc về Chúa, một sự nhạy bén mà những người khác không có.
Nhưng những kẻ bé mọn của Phúc Âm cũng có thể là những người khôn ngoan và thông thái chân thật. Tuy nhiên không phải bất cứ người khôn ngoan thông thái nào cũng là chân thật cả. Mà chỉ có những ai không vênh vang kiêu hãnh về sự hiểu biết và khôn ngoan của mình mới là những người khôn ngoan thông thái chân thật. Chỉ có những người ấy mới có được tâm hồn của những kẻ bé mọn vậy.
J.Y.G
Suy Niệm 4: KHIÊM TỐN ĐỂ ĐÓN NHẬN MẶC KHẢI (Mt 11, 25-27)
Xem lại CN 24 TN A, lễ Thánh Tâm A //và lễ thánh Phan-xi-cô At-si-di ngày 4/10.
Để cảnh báo tác hại của rượu, một nhà khoa học đã làm một thí nghiệm trong một cuộc hội thảo. Ông bỏ mấy con sâu vào trong hai cái lọ: một lọ nước và một lọ rượu. Kết quả là sâu trong lọ rượu chết nhanh chóng, còn sâu trong lọ nước thì vẫn sống. Tuy nhiên, trước kết quả đó, một thanh niên cuối phòng hội thảo giơ tay phát biểu: “Thưa mọi người, con sâu không sống được trong rượu, vì vậy, phải uống thật nhiều rượu để diệt trừ sâu trong người!”. Tuyên bố như thế là dại dột, thiếu hiểu biết. Nếu cứ uống rượu để diệt sâu thì có lẽ người chết trước khi sâu sinh thì!
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy: sự kiêu ngạo của con người khiến cho họ trở nên chai lỳ, cứng cỏi. Một khi họ đã đeo cặp kính râm, thì trước mắt họ mọi sự đều là màu đen hết!
Hôm nay, Đức Giêsu đã tạ ơn Chúa Cha vì Người không cho những người thông thái và khôn ngoan biết mầu nhiệm Nước Trời , nhưng lại mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn.
Trong thực tế chúng ta vẫn thấy có nhiều người rất bình dân, học hành chẳng tới đâu, họ là những người khiêm tốn, nên đời sống đức tin của họ sâu xa và sống động! Ngược lại, những người tài giỏi, uyên thâm thì đức tin lại leo lét. Tại sao vậy? Thưa vì đức tin là một quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho những ai biết khiêm tốn đón nhận chứ không phải là kết quả của cuộc sưu tầm trí thức nơi con người.
Ơn cứu độ sẽ được dành cho những ai khiêm tốn và cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa chứ không đến được với những người kiêu căng, ngạo nghễ và cậy dựa thuần túy vào khoa học. Hạng người này, Thiên Chúa sẽ loại trừ, hay nói đúng hơn vì họ không chịu đón nhận tình thương và mạc khải của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con đức tin. Xin Chúa cho chúng con được trở nên đơn sơ để đức tin nơi chúng con ngày càng được lớn lên trong ân sủng của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Cha mặc khải
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay là một lời nguyện tự phát của Đức Giêsu.
Đó là một lời tạ ơn, một lời ngợi khen của Con dâng lên Cha.
Đức Giêsu gọi Thiên Chúa bằng từ Abba thân thương gần gũi,
nhưng Thiên Chúa ấy cũng là Đấng siêu việt ngàn trùng,
Đấng quyền uy tối thượng, Chúa Tể cả trời đất (c. 25).
Đức Giêsu ca ngợi Cha vì hành vi mặc khải của Cha cho con người.
Cha có một kế hoạch cứu độ nhân loại qua Con của Cha là Đức Giêsu.
Và Cha muốn vén mở kế hoạch đó cho con người biết.
Có những người đã thành tâm đón nhận, và có những người cố ý từ chối.
Nhưng tất cả đều không nằm ngoài chương trình của Cha (c. 26).
Lối nói kiểu Do thái của Đức Giêsu có thể khó hiểu đối với ta ngày nay:
“Cha đã giấu các điều này trước những người khôn ngoan thông thái.”
Thật ra, chẳng phải Thiên Chúa ghét bỏ hay phân biệt đối xử,
vì Ngài muốn cho mọi người được cứu độ (1 Tm 2, 4).
Chẳng phải Cha ghét bỏ các người khôn ngoan và cổ võ sự ngu dốt.
Ngài cũng không che giấu mầu nhiệm Nước Trời trước một ai.
Nhưng quả thật ai tự hào, tự mãn với hiểu biết khôn ngoan của mình,
và khép lại trước những gì vượt quá trí hiểu nông cạn của họ,
người ấy sẽ không có cơ may đón nhận được mặc khải của Thiên Chúa.
Một số kinh sư và người Pharisêu giỏi giang về Sách Thánh và truyền thống,
đã không thể đón nhận được cái hoàn toàn mới mẻ nơi giáo lý Đức Kitô,
vì họ quá bám víu vào cái biết cũ mà họ coi là tuyệt đối.
Nhưng các người bé mọn, ít tri thức và sách vở, lại dễ dàng đón nhận hơn.
Họ hồn nhiên mở ra trước mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu.
Chính vì thế họ biết được những điều sức người không thể nào đạt tới.
Câu cuối (c. 27) là một mặc khải lớn của Đức Giêsu trong tư cách là Con.
Ngài cho thấy giữa Cha và Con có sự hiểu biết nhau cách độc nhất vô nhị.
“Không ai biết rõ Con trừ ra Cha và không ai biết rõ Cha trừ ra Con…”
Sự hiểu biết nhau thân tình và sâu xa này
như thể tạo ra một thế giới riêng giữa Cha và Con.
Muốn biết Cha phải nhờ Con, Đấng duy nhất có đủ thẩm quyền mặc khải.
Hơn nữa, muốn biết Con cũng phải nhờ Cha mặc khải.
Phêrô phải nhờ Cha mới biết được Đức Giêsu là ai (Mt 16, 17).
Nói chung Cha và Con làm nên một thế giới riêng tư, nồng ấm.
Nhưng thế giới ấy lại không khép kín, mà mở ra để mời con người vào.
Cha và Con đều muốn mặc khải thế giới ấy cho con người.
Cha đưa ta gặp Con, Con đưa ta gặp Cha.
Chỉ cần gặp Con hay Cha là có thể bước vào thế giới đó, để gặp cả Cha và Con.
Chị Edit Stein là một phụ nữ Do thái được coi là thông thái, trí tuệ.
Chị đậu tiến sĩ triết học với hạng tối danh dự tại Đức.
và là người cộng tác với ông tổ của Hiện tượng luận là triết gia Husserl.
Việc tìm kiếm Chân Lý đã dẫn chị đến với đạo Công giáo.
Chị đã đi tu Dòng Kín Cát Minh và đã bị giết tại trại giam của Đức quốc xã.
Chị Bênêđícta Thánh Giá được phong thánh năm 1998 bởi Đức Gioan Phaolô II.
Sự thông thái khiêm tốn đã giúp Chị gặp được Nước Trời như một kẻ bé mọn.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
17/07 Đón nhận và sám hối
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Đón nhận và sám hối.
Thứ ba tuần 15 thường niên.
"Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi".
Lời Chúa: Mt 11, 20-24
Khi ấy, Chúa Giêsu quở trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà không chịu sám hối: "Hỡi Côrôzain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy ra tại Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo nhặm, rắc tro mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi.
"Còn ngươi, hỡi Capharnaum, chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi sẽ phải rơi xuống địa ngục, vì nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra tại Sôđôma, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các ngươi: Trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ được xét xử khoan dung hơn ngươi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lắng Nghe Lời Chúa
Văn minh càng tiến bộ, càng lôi kéo con người đến sa đọa và hủy hoại nền tảng gia đình và xã hội. Ngay từ thời xa xưa, các Tiên Tri trong Cựu Ước đã thấy được hiểm họa ấy. Việc chúc dữ các đô thị là một trong những đề tài nổi bật trong lời rao giảng của các ngài. Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Siđôn là đối tượng của những lời rủa xả nặng nề nhất của các tiên tri. Những đô thị này không những là nơi phát sinh những sa đọa luân lý, mà còn là biểu tượng của óc tự mãn, sự tôn thờ ngẫu tượng của con người.
Chúa Giêsu cũng tiếp tục truyền thống tiên tri ấy khi Ngài lên tiếng chúc dữ một số thành phố như Corazin, Betsaida. Cuộc sống vật chất sung túc làm cho con người sa đọa, đồng thời chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa. Con người được tạo dựng không phải để sống đơn độc một mình; chính trong tương quan với tha nhân mà con người nên thành toàn hơn, do đó gia đình và xã hội là nhân tố thiết yếu cho sự phát triển toàn diện con người.
Làng mạc, thành phố, đô thị, tự nó là những xã hội cần thiết để con người xây dựng các tương quan và nhờ đó phát triển nhân cách. Tuy nhiên, thay vì giúp con người phát triển, các đô thi thường lại đày đọa con người vào nỗi cô đơn và chối bỏ mối tương quan với Thiên Chúa. Sự trống rỗng trong lòng người dân đô thị cũng là dấu chỉ sự vắng bóng Thiên Chúa. Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở con người biết rằng chỉ trong Thiên Chúa, con người mới có thể tạo được tương quan đích thực giữa người với người. Loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, con người không những rơi vào sa đọa, mà còn cắt đứt mọi tương quan với tha nhân.
Lắng nghe Lời Chúa, đó là bí quyết để xây dựng cuộc sống xã hội, thắt chặt quan hệ với tha nhân và trở nên thành toàn. Ðó là điều Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: con người không thể xây dựng một xã hội tốt đẹp, nếu loại bỏ Thiên Chúa và những giá trị thiêng liêng ra khỏi cuộc sống.
Nguyện cho Lời Chúa soi sáng và hướng dẫn chúng ta trong cuộc sống, để khi mưu sinh và xây dựng xã hội, chúng ta biết đặt Thiên Chúa vào trọng tâm cuộc sống, đeo đuổi những giá trị thiêng liêng và xây dựng tình người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Ăn Năn Thống Hối (Mt 11,20-24)
Bài Tin Mừng hôm nay là lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với cư dân thuộc các thành phố tại miền Galilêa, nằm gần bờ hồ Tibêria. Ba thành phố đó là Khôradin, Bétxaiđa và Caphácnaum. Thành phố Khôradin nằm cách ba cây số về hướng đông bắc của Caphácnaum. Thành Bétxaiđa là quê hương của tông đồ Philiphê, Phêrô, Andrê - em ông Phêrô. Thành Caphácnaum được đặc biệt gọi tên là thành của Chúa Giêsu, nơi Chúa thường hay lui tới, sau những lần rao giảng Tin Mừng qua vùng phụ cận. Tắt một lời, đây là những nơi mà dân chúng ít nhiều đã chứng kiến tận mắt, và được hưởng phúc lành những phép lạ của Chúa, đã được nghe những lời giảng dạy của Người. Thế nhưng, không phải tất cả đều tin nhận Chúa.
Chúa Giêsu đã dành cho dân chúng tại ba thành phố nhiều ơn lành. Thế nhưng, họ không ý thức, không biết quý trọng lắng nghe, không thay đổi đời sống, trở lại với Người. Mục tiêu Chúa nhắm đến là sự ăn năn thống hối của những ai nghe lời Chúa, để lãnh nhận ơn cứu rỗi. Hơn nữa, sự tự phụ, kiêu ngạo của dân thành Capharnaum càng cao, thì sự hủy diệt họ càng nặng nề. Ân huệ được trao ban cho ai nhiều, thì người đó sẽ phải trả lẽ, phải chịu trách nhiệm nhiều hơn.
Những lời khiển trách của Chúa Giêsu có thể được xem như là những lời tổng kết về kết quả của các vụ rao giảng của Chúa tại miền Galilêa. Chúa Giêsu đã thu nhập những môn đệ tại vùng này, nhưng đây chỉ là sự đáp trả của một thiểu số, còn đa số thì vẫn lơ là, không màng chi, dù được chứng kiến những phép lạ Chúa đã thực hiện. Những phép lạ này là dấu chỉ trên Nước Chúa,là lời cảnh tỉnh và thôi thúc con người ăn năn trở lại cùng Thiên Chúa: "Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Trời đã gần bên". Chuyện xưa còn mang tính thời sự cho ngày hôm nay, Lời Chúa và những việc kỳ diệu Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục thực hiện trong lịch sử con người, cách riêng trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Lòng ăn năn thống hối phải là bước đầu tiên chuẩn bị chúng ta tin nhận Chúa. Xin hãy thương ban cho con một quả tim mới, một tinh thần mới, để con đừng hoang phí hồng ân Chúa ban cho con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Chúa Giêsu Đe Dọa
Bấy giờ Người bắt đầu quả trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối:
“Khốn cho các ngươi, hỡi Khô-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bét-xai-đa! Vì nhiều phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đon,thì họ đã mặc vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối.” (Mt. 11, 20-21)
Khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho người ta cùng một cách. Người hiện diện với những người này hơn với những người kia. Người nói rất rõ ràng cho người này, tối tăm khó hiểu cho người khác. Người luôn sử sự như vậy đó.
Khi Chúa Giêsu chưa đến ở giữa chúng ta, Thiên Chúa duy trì mối liên hệ đặc biệt với dân Ít-ra-en. Chẳng một dân tộc nào mà được Chúa dùng các ngôn sứ mà nói với họ, như đã nói với dân tộc này. Chẳng một dân tộc nào đã được nhìn xem kỳ công của Chúa, như Chúa đã dùng mà tỏ mình ra cho dân tộc này vậy. Đường lối ấy, Chúa vẫn tiếp tục. Khi Đức Giêsu đã sinh ra-Xứ Pa-lét-tin lại được Chúa ưu đãi. Nhưng Chúa Giêsu cũng không tỏ mình đồng đều ở khắp nơi. Chúa đã làm nhiều phép lạ hơn, và giảng dạy rõ ràng hơn ở những miền này hơn là những miền kia.
Chúa làm như vậy để gây hiệu quả. Đến ngày phán xét, những ai đã lãnh nhiều, sẽ bị đối xử nghiêm nhặt hơn. Chỉ là công bình thôi. Cho ai nhiều hơn thì đòi người ấy nhiều hơn.
Chúng ta hãy coi chừng
“Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Chúa phán, khốn cho ngươi hỡi Bét-xai-đa! Khốn cho ngươi, hỡi Ca-phác-na-um!…vì đến ngày phán xét, đất Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn các ngươi” Lời đe dọa này thật dễ hiểu. Những thành phố này đã lãnh nhận nhiều hơn từ nơi Chúa Kitô. Nhưng chính họ lại tỏ ra lì lợm và cứng lòng tin hơn. Họ phải gánh lấy hậu quả vì không đón nhận Người và tin vào Người.
Chúng ta đang sống trong một đất nước mà đức tin Kitô giáo đã phát triển tứ lâu năm và sâu xa. Những cơ may cho ta gặp gỡ Đức Kitô và nhận biết Phúc âm đã và vẫn còn rất nhiều. Có thể là lời đe doạ của Đức Kitô cũng nói cho chúng ta hôm nay chăng?
J.Y.G
Suy Niệm 4: SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC ƠN THA THỨ (Mt 11, 20-24)
Sự cố ngày 11-09-2001 tại nước Mỹ khi tòa nhà tháp đôi sụp đổ và cướp đi sinh mạng của biết bao nhân tài đã làm cho cả thế giới phải sững sờ! Tại sao một đất nước nổi tiếng về an ninh, khoa học... lại để xảy ra biến cố đáng tiếc này? Sau hàng loạt những câu hỏi nhằm thỏa mãn sự thắc mắc tự nhiên của con người, thì câu hỏi quan trọng nhất và cũng là gốc rễ, căn nguyên của vấn đề được đưa ra, câu hỏi đó là: “Tại sao Thiên Chúa cho phép xảy ra một thảm họa kinh hoàng như vậy?” Và người ta nhận được câu trả lời của một người dân: “Tôi nghĩ Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, bởi vì từ nhiều năm nay, chúng ta đã yêu cầu Ngài đi ra khỏi trường học và đời sống của chúng ta. Như thế, chúng ta làm sao có thể mong Chúa can thiệp khi ta đã khẩn thiết xin Ngài hãy để mặc chúng ta một mình!”.
Thật vậy, tội lớn nhất của con người ngày hôm nay chính là tội không tin có Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa có thật, thì người ta cũng muốn loại bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống. Vì thế, đã có một thời người ta tuyên bố rằng: “Thiên Chúa đã chết”. Đã có lần người ta lên tới cung trăng rồi bảo rằng: “Chẳng có Thiên Chúa đâu cả!”. Và cũng có một thời người ta cho rằng: khoa học tiến bộ sẽ là lời giải đáp cho mọi vấn đề, và lúc đó, khoa học sẽ trở thành nấm mồ chôn vùi Thiên Chúa!
Thật vậy, con người ngày nay ảo tưởng và ngây ngô khi nghĩ rằng: “Một tay che kín cả bầu trời” nên không cần có Thiên Chúa nữa. Họ muốn loại bỏ tôn giáo và tự tin trong thế giới thực nghiệm. Nền tảng của họ được xây dựng thuần túy trên những phát minh khoa học. Đây là những lựa chọn sai lầm.
Nên biết rằng: Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất của mọi vấn đề. Lời Chúa phải là nền tảng để khám phá, xây dựng và phát minh. Một nhà nghiên cứu khoa học chân chính sẽ nhận ra quyền năng của Thiên Chúa ngay trong công trình khảo cứu của mình. Thật vậy, chính nhà bác học Newton đã nhìn nhận: “Tôi thấy Thiên Chúa đi qua ống kính viễn vọng của tôi!”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sám hối để được ơn tha thứ. Phải từ bỏ thái độ chai lỳ, vô ơn và bất kính trước những ơn lành mà Ngài đã ban xuống trên cuộc đời, trong gia đình, nơi Giáo xứ và ngoài xã hội. Đừng giả điếc làm ngơ; đừng kiêu ngạo, tự phụ và ích kỷ, khiến cho Lời Chúa bị bóp nghẹt và không trổ sinh hoa trái được.
Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ cho chúng con. Xin cho chúng con biết sám hối, nhạy bén để nhận ra thánh ý Chúa và mau mắn thi hành để khỏi bị khiển trách như dân thành Khoradin, Bethsaiđa và Capharnaum. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Không sám hối
Suy niệm :
Lời giảng đầu tiên của Đức Giêsu là một lời mời sám hối (Mt 4, 17).
Những phép lạ Ngài làm cũng là một lời mời tương tự.
Phép lạ không phải chỉ là những biểu lộ của uy quyền và tình thương.
nhằm vén mở khuôn mặt của Thiên Chúa và của Con Ngài.
Phép lạ còn là lời mời gọi đổi đời, vì Nước Trời đã gần đến.
Đức Giêsu quở trách các thành đã lần lữa không chịu sám hối,
dù họ đã được chứng kiến phần lớn các phép lạ Ngài làm (c. 20).
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin ! Khốn cho ngươi, hỡi Bếtxaiđa!”
Đức Giêsu đã kêu than như một ngôn sứ, buồn phiền và đau đớn,
trước sự cứng lòng của những nơi mà Ngài đã đặt chân và thi ân.
Khoradin là một vùng ở tây bắc của Hồ Galilê (Mc 10, 13).
Nay chỉ còn là cánh đồng gạch vụn, với dấu tích của một hội đường.
Bếtxaiđa nghĩa là “nhà của cá”, nằm nơi sông Giođan đổ vào Hồ nói trên.
Thành này ngày nay cũng biến mất, có lẽ vì bị tràn ngập bởi phù sa.
Đức Giêsu đã so sánh hai thành này với hai thành dân ngoại Tia và Xiđôn.
Nếu Tia và Xiđôn nhận được sự hiện diện của Đức Giêsu,
hẳn họ đã ăn năn sám hối từ lâu rồi (c. 21).
Caphácnaum được coi là trụ sở của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ.
Nơi đây Ngài đã làm bao điều tốt lành (Mt 4, 13; 8, 5; 9, 1; 17, 24).
Vậy mà có vẻ nó lại không muốn đón nhận Đấng mang ơn cứu độ.
Phải chăng vì nó đã tự hào, tự cao trước những ơn Chúa ban?
“Ngươi sẽ được đưa lên tới tận trời sao? Ngươi sẽ bị tống xuống âm phủ.”
Đức Giêsu dám so sánh Caphácnaum với Xơđôm.
Xơđôm là một thành phố trụy lạc, đã bị thiêu hủy hoàn toàn (St 19, 25).
Ngài cho rằng Xơđôm mà được thấy những điều kỳ diệu Ngài làm,
hẳn nó đã hoán cải và còn tồn tại đến nay (c. 23).
Đến ngày phán xét, con người sẽ bị xét xử theo điều mình đã lãnh nhận.
Lãnh ít thì sẽ được khoan hồng nhiều hơn.
Mỗi người chúng ta thật sự chẳng rõ mình đã nhận được bao nhiêu.
Chúng ta dễ có thái độ tự cao của những người được gần gũi Chúa.
“Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài,
và Ngài cũng đã từng dạy dỗ trên các đường phố của chúng tôi” (Lc 13,26).
Nhưng điều quan trọng không phải là đã nghe giảng và đã thấy phép lạ.
Điều quan trọng là sám hối.
Những ơn lộc Chúa ban cho đời Kitô hữu lại đòi ta phải hoán cải nhiều hơn.
Chúng ta không thể coi mình là Caphácnaum để khinh Xơđôm được.
Thiên Chúa xét xử theo điều Ngài ban cho từng con người,
từng nền văn hóa hay văn minh, từng vùng đất hay từng tôn giáo.
Làm sao tôi có thể thấy được những phép lạ Chúa làm cho tôi mỗi ngày?
Có những phép lạ xảy ra đều đặn và bình thường nên tôi không nhận ra.
Mỗi cử chỉ yêu thương tôi nhận được cũng là phép lạ.
Mong tôi đáp lại phép lạ đó bằng một cử chỉ yêu thương.
Cầu nguyện :
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
16/07 Phần thưởng môn đệ Chúa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Phần thưởng môn đệ Chúa.
Thứ Hai tuần 15 thường niên.
"Thầy không đến để đem hòa bình, nhưng đem gươm giáo".
Lời Chúa: Mt 10,34 - 11,1
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con chớ tưởng rằng Thầy đến để mang hoà bình cho thế gian: Thầy không đến để đem hoà bình, nhưng đem gươm giáo. Vì chưng, Thầy đến để gây chia rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình: và thù địch của người ta lại là chính người nhà mình. Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.
Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu".
Sau khi Chúa Giêsu truyền dạy xong các điều ấy cho mười hai tông đồ, Người rời khỏi đó để đi dạy dỗ và rao giảng trong các thành phố của các ông.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chúa Sẽ Ðền Bù
Có thể nói, bài Tin Mừng hôm nay cho hệ quả của bước đường theo Chúa. Theo Chúa, người môn đệ phải chấp nhận nhiều thua thiệt: họ có thể bị chống đối từ ngoài xã hội đến trong gia đình, và một cách nào đó, Chúa Giêsu cũng bị xem là nguyên cớ của các tranh chấp, chống đối. Thật thế, làm sao không có đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Chúa Giêsu và thế gian, giữa quyền lực Thiên Chúa và quyền lực thế gian. Bước theo Chúa, người môn đệ phải chọn lựa, và chỉ chọn lựa tình yêu Chúa mới cho họ xứng đáng được gọi là môn đệ Ngài.
Chắc chắn, khi chọn lựa như vậy, người môn đệ không tránh khỏi những mất mát, thua thiệt. Tuy nhiên, Thiên Chúa sẽ không để họ phải thất vọng, Ngài sẽ đền bù vượt quá sự chờ đợi của họ. "Ðón tiếp một tiên tri, sẽ nhận được phần thưởng dành cho một tiên tri; đón tiếp người công chính, sẽ nhận được phần thưởng dành cho người công chính; đón tiếp kẻ rao giảng, sẽ nhận được phần thưởng dành cho kẻ rao giảng". Người môn đệ của Chúa đừng sợ mất phần thưởng, nhưng hãy sợ mình chưa trung thành trong bổn phận của mình mà thôi.
Với Thiên Chúa, dù công khai hay âm thầm, sứ mệnh kẻ rao giảng bao giờ cũng cần thiết. Thiên Chúa luôn cần đến những người ngày đêm nhiệt thành rao giảng và làm chứng cho Ngài bằng đời sống hoạt động tông đồ, nhưng Ngài cũng cần đến những người hỗ trợ cho công việc tông đồ bằng đời sống âm thầm cầu nguyện và hy sinh. Lịch sử chỉ nhớ đến những vĩ nhân, chứ lịch sử không đủ giấy bút để ghi lại hết những khuôn mặt đã góp phần vào đời sống của các vĩ nhân. Lịch sử không nhớ, nhưng Thiên Chúa lại ghi nhớ tất cả, Ngài không bỏ sót một khuôn mặt nào, và phần thưởng của họ cũng có giá trị như của các vĩ nhân.
Xin Chúa cho chúng ta biết biểu lộ lòng trung thành với Chúa và Giáo Hội bằng những đóng góp nhỏ bé trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Dù chỉ là những việc nhỏ bé, âm thầm, không được ai biết đến, nhưng chúng ta hãy tin rằng chúng vẫn hiện diện và có giá trị trước mặt Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Thực hành giới răn của Chúa (Mt 10,34-11,1)
Với cái nhìn trần tục, chúng ta có thể cho rằng những lời dạy của Chúa Giêsu cho các đồ đệ xem ra thật chói tai: "Thầy đến để đem chia rẽ con trai với cha, con gái với mẹ. Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy. Ai không vác thập giá mình hàng ngày mà theo Thầy, thì cũng không xứng đáng làm môn đệ Thầy".
Thử hỏi, trên trần gian này có ai dám yêu cầu những điều như vậy nơi những kẻ theo họ không? Nhưng Chúa Giêsu đã không ngần ngại dùng ngôn ngữ như vậy, để khắc ghi mạnh mẽ vào tâm trí những người nghe điều Người muốn nói trong cách thức phù hợp với tâm thức của những người đương thời.
Thật vậy, để nhấn mạnh điều gì đó người ta thường dùng cách nói táo bạo, nghịch lý thường tình như những lời chúng ta vừa đọc lại trên: "Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy". Chúa muốn chỗ ưu tiên trên hết mọi người và mọi sự. Chính vì vậy mà sự hiện diện của Chúa là dấu gây nên mâu thuẫn, gây chia rẽ: "Thầy không đến mang sự bình an, nhưng chia rẽ. Thầy đến để chia rẽ con trai với cha, con gái với mẹ".
Sự trung thành với Chúa, việc sống thực hành những giới răn Chúa làm cho mỗi người Kitô trở thành như kẻ thù của chính người thân thuộc, vì nếp sống mới mẻ của người Kitô không phù hợp với nếp sống trần gian, tinh thần Phúc Âm không phù hợp với tinh thần phàm tục. Luật Chúa luôn luôn dạy điều nghịch lại những ước mơ ích kỷ của con người. Giáo huấn Phúc Âm không bao giờ là điều tiện lợi dễ dàng. Thánh giá hy sinh là chiều kích không thể nào tách rời ra khỏi cuộc đời của người theo Chúa. Thánh giá là dấu chỉ, là bằng chứng của tình yêu.
Nhìn vào Chúa Giêsu, Thầy chúng ta, bị treo trên thập giá, chúng ta hiểu được mức tận cùng của tình yêu đích thực. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi trao nộp Con Một của Ngài cho thế gian giết chết trên thập giá. Hy sinh mạng sống mình cho Chúa và anh chị em, đó là vận mệnh không thể tránh được của người Kitô. Ðể theo Ngài trọn vẹn, trung thành cho đến cùng, người đồ đệ cần nhiều can đảm, hy sinh và ơn soi sáng hướng dẫn Chúa.
Lạy Chúa, Xin đổ tràn tình yêu Chúa xuống trên chúng con, để chúng con sống trung kiên với Chúa và quảng đại với anh chị em chung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Chúa Giêsu không đem đến bình an
“Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo.”
Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì sẽ không xứng với Thầy. Ai giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt. 10, 34. 38-39)
Những lời gây kinh ngạc
Nếu có ai hỏi ta Chúa Giêsu đến mang lại và dạy dỗ cho con người cái gì, ta sẽ trả lời rằng Chúa đến dạy người ta biết sống yêu thương nhau; Người đem hòa bình, Người hiệp nhất những ai chia rẽ. Và chúng ta sẽ có thể trưng ta nhiều câu Phúc Âm minh chứng rằng vì những mục đích trên, mà Chúa Giêsu đã làm người ở giữa chúng ta, đã chết và sống ại vì hạnh phúc loài người.
Vậy thì những lời của Phúc Âm vừa nghe, quả làm ta ngạc nhiên Chúa Giêsu khẳng định rằng Người “Không đến đem bình an cho trái đất, nhưng để đem gươm giáo”. Người dám nói rằng Người đến: “Để gây chia rẽ giữa con trai với cha mình, giữa con gái với mẹ…” Chúa Giêsu Người gieo rắc chia rẽ! Chúa Giêsu gây chia rẽ hơn là tạo hiệp nhất! Có ai dám nghĩ như vậy không? Ai mà cho rằng những lời đó là từ môi miệng Chúa? Vậy mà đúng như thế đó.
Những sự kiện minh chứng.
Ta nên lưu ý rằng Chúa Giêsu không khẳng định là Người có chủ tâm gây chia rẽ người ta. Người chỉ nhìn nhận sự kiện xảy ra. Người ta sẽ bất đồng ý kiến với nhau về Người. Có những người sẽ ủng hộ Người, người khác lại chống đối Người. Sẽ có những hiểu lầm, những cắt đứt quan hệ, những xung đột ở khắp nơi trên thế giới và ngay cả trong các gia đình, là vì Người và vì giáo huấn của Người.
Đó chính là điều vẫn xảy ra, mãi mãi những kẻ tin và những kẻ không tin Chúa Kitô vẫn xung khắc với nhau. Mãi mãi chồng và vợ, cha và con chia rẽ nhau và gây khổ cho nhau vì đôi bên không cùng một lập trường khi phải đối mặt với giáo huấn của Chúa Kitô.
Chúa Giêsu lúc nào cũng vẫn muốn gieo sự bình an, nhưng Người cũng là con người thực tế, vì biết rằng trên trần gian Người sẽ mãi mãi là chủ đề gây trang cãi, chống đối và chia rẽ vậy.
J.Y.G
Suy Niệm 4: HÒA BÌNH TRONG CHÂN LÝ (Mt 10, 34 - 42; 11, 1)
Sống trong bối cảnh xã hội hiện nay, chúng ta thấy tình hình căng thẳng trên Biển Đông ngày càng leo thang! Các nước có liên quan đã lên án sự ngang ngược, cách hành xử vô lý của Trung Quốc muốn bá chủ vùng Biển này. Đồng thời người ta lo ngại sẽ xảy ra chiến tranh!
Qua câu chuyện Biển Đông, người dân đều mong muốn có hòa bình, không chiến tranh. Tuy nhiên, ai cũng biết, muốn không xảy ra đụng độ, các bên phải ngồi lại để đàm phán, tôn trọng và chấp nhận sự thật. Có thế, chúng ta mới hy vọng hòa bình lặp lại trên Biển Đông.
Hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố một câu xem ra rất nghịch lý: “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa người ta với cha mình, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà" (Mt 10, 34-36). Thoạt nghe, chúng ta thấy xem ra có vẻ mâu thuẫn, bất thường và khó hiểu. Tuy nhiên, đi vào chiều sâu của vấn đề, chúng ta mới thấy sáng tỏ một chân lý, đó là: chỉ có bình an đích thực khi chấp nhận sự thật; chấp nhận loại trừ những sai quấy. Bao lâu ta còn để cho sự ác, bất công, gian dối lộng hành, thì bấy lâu chúng ta không có bình an, nếu có, cũng chỉ là thứ bình an giả tạo.
Như thế, chúng ta cũng đâu lạ gì khi trong gia đình có những thành phần chống đối nhau. Tại sao thế? Thưa, chỉ vì có những chuẩn mực trong cuộc sống, những lựa chọn khác nhau, dẫn đến hệ quả khác nhau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải đắn đo và cẩn trọng khi chọn lựa. Khi đã chọn điều tốt, phải kiên trì bảo vệ để đạt được sự bình an đích thực.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chiến đấu trong sự thiện, để luôn đứng về phía sự thật, hầu đem lại sự bình an thực sự. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Không xứng với Thầy
Suy niệm:
Văn Cao là một nhạc sĩ có tài với bản Tiến Quân Ca bất hủ.
Nhưng ông cũng là một thi sĩ ít được ai biết đến.
Ông có làm một bài thơ ngắn Không Đề như sau:
“Con thuyền đi qua để lại sóng.
Đoàn tàu đi qua để lại tiếng.
Đoàn người đi qua để lại bóng.
Tôi không đi qua tôi để lại gì ?”
Ông muốn để lại chút gì cho đời của kẻ đã mang tiếng ở trong trời đất.
Và ông hiểu rằng mình không thể để lại gì, nếu không vượt qua chính mình.
Cái tôi và tất cả những gì thuộc về nó, đều là đối tượng phải vượt qua.
Vượt qua cái tôi không làm tôi mất nó, nhưng lại được một cái tôi viên mãn.
Phải chăng đó là điều Văn Cao, một Kitô hữu ẩn danh đến lúc chết,
muốn gửi gấm qua những vần thơ này ?
Có những giá trị hầu như được mọi người nhìn nhận.
Có những giá trị thiêng liêng máu mủ như cha mẹ, con cái.
Đặc biệt trong xã hội Do thái, hiếu thảo với cha mẹ là điều được đề cao.
Đức Giêsu cũng đã phê phán thái độ bất hiếu đối với cha mẹ (Mt 15, 3-6).
Mạng sống của con người cũng là một giá trị cao quý.
Đụng đến mạng sống con người là xúc phạm đến chính Thiên Chúa,
như ta thấy trong chuyện Cain giết em là Aben (St 4, 9-10).
Trước những giá trị thiêng liêng như thế, ta cần yêu mến, giữ gìn.
Yêu cha, yêu mẹ, yêu con trai, con gái, là những điều hợp đạo lý.
Giữ gìn mạng sống của mình là điều phải làm.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã đưa ra một đòi hỏi mới mẻ và đáng sợ.
Ngài không cấm các môn đệ yêu cha mẹ, con cái, hay mạng sống,
vì đó là những giá trị thiêng liêng cao quý.
Nhưng Ngài không chấp nhận họ yêu những giá trị này hơn Ngài.
Ngài không muốn họ đặt Ngài ở dưới những giá trị đó.
Đơn giản Ngài muốn họ coi Ngài là một Giá Trị hơn hẳn, Giá Trị viết hoa.
Khi cần chọn lựa giữa các giá trị, Ngài đòi họ ưu tiên chọn Ngài.
Cụm từ “không xứng đáng với Thầy” được nhắc đến ba lần (cc. 37-38).
Chỉ ai dám yêu Ngài hơn người thân yêu, dám vác thập giá mình mà theo,
người ấy mới xứng đáng với Thầy.
Chỉ ai dám mất mạng sống của mình vì Thầy,
người ấy mới lấy lại được sự sống tròn đầy ở đời sau (c. 39).
Đức Kitô là ai mà đòi chúng ta phải đặt Ngài lên trên các thụ tạo như vậy,
nếu Ngài không phải là hiện thân của chính Thiên Chúa?
Đừng quên chính Ngài đã mất mạng sống mình vì tôi trước.
Chỉ khi tôi đi qua tôi, nhờ đặt tôi và mọi sự thuộc về tôi dưới Đức Kitô,
tôi mới có gì để lại cho đời, tôi mới giữ lại được mọi giá trị khác.
Xin làm được điều thánh Biển Đức dạy:
“Phải tuyệt đối không coi gì trọng hơn Đức Kitô.”
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,
để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.
Xin cho con thấy Chúa thật bao la,
để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.
Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu,
để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.
Lạy Chúa Giêsu,
xin làm cho con thật mạnh mẽ,
để không nỗi thất vọng nào
còn chạm được tới con.
Xin làm cho con thật đầy ắp,
để ngay cả một ước muốn nhỏ
cũng không còn có chỗ trong con.
Xin làm cho con thật lặng lẽ,
để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.
Xin Chúa ngự trong con thật sống động,
để không phải là con,
mà là chính Ngài đang sống.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
15/07 Chúa sai đi LOAN BÁO TIN MỪNG
- Viết bởi Mc 6, 7-13
Chúa sai đi LOAN BÁO TIN MỪNG.
Chúa Nhật tuần 15 Thường Niên năm B.
"Người bắt đầu sai các ông đi".
Lời Chúa: Mc 6, 7-13
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế.
Và Người truyền các ông đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: "Đến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ".
Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Am. 7, 12-15; Ep. 1, 3-14; Mc. 6, 7-13
1. Tông đồ
Một tôn giáo chỉ tồn tại nếu mỗi ngày một phát triển và có thêm người tin theo.
Kitô giáo do Chúa Giêsu thiết lập cũng nằm trong hoàn cảnh ấy. Dưới con mắt của Ngài, thì mỗi linh hồn đều có một giá trị như nhau. Và mỗi người đều được sai đi để tìm kiếm những con chiên lạc, mà dẫn chúng trở về cùng Chúa. Ngài luôn ý thức rằng Thiên Chúa đã tạo dựng con người, không phải để vứt vào lò lửa đời đời, nhưng là để được thu vào kho lẫm Nước Trời. Do đó, mối bận tâm lớn nhất của Ngài khi đến trong trần gian chính là đem Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Và để chu toàn sứ mệnh này, Ngài cần có những người cộng tác với Ngài, bởi vì lúa chín thì nhiều, mà thợ gặt thì ít.
Với chúng ta cũng vậy, một khi đã lãnh nhận bí tích Rửa tội và bí tích Thêm Sức, chúng ta cũng đã bước theo Chúa để trở nên môn đệ của Ngài. Vì thế, chúng ta có bổn phận phải cộng tác với Ngài, trong công cuộc rao giảng Tin Mừng, truyền bá đức tin. Vậy rao giảng Tin Mừng, hay truyền bá đức tin là gì?
Tôi xin thưa: Trước hết là rao giảng Đức Kitô, Đấng đã đến để thiết lập Nước Trời. Việc rao giảng và truyền bá này gồm hai phần. Một phần tiêu cực, đó là giải phóng con người khỏi sự nô lệ và kìm kẹp của ma quỷ, tội lỗi. Vì thế, Chúa đã ban cho các tông đồ quyền hành trên các thần ô uế. Còn một phần tích cực đó là làm chứng cho Chúa trong lời nói, trong việc làm và nhất là trong đời sống của mình.
Thực vậy, người Kitô hữu phải là người có Chúa trong tâm hồn và đem Chúa đến cho người khác. Và cách thức bảo đảm để đem Chúa đến cho người khác, đó chính là đời sống gương mẫu của mình, một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Ngày kia thánh Phanxicô gọi một thầy dòng để cùng đi rao giảng với ngài. Hai thầy trò rảo qua các đường phố tại Assie, một cách thật nghiêm trang, vừa đi vừa suy gẫm về Chúa. Tới nhà, thầy dòng ngạc nhiên vì chẳng thấy giảng dạy ở chỗ nào. Thánh nhân mỉm cười và trả lời: Chúng ta đã giảng bằng chính gương sáng, bằng chính sự sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn.
Một điều cần thiết khác trong khi hoạt động tông đồ, đó là phải biết quên mình đi, để Chúa hoạt động, bởi vì dù tài giỏi đến đâu chăng nữa, chúng ta cũng chỉ là một dụng cụ tầm thường trong bàn tay Chúa. Vì thế, đừng ỷ lại vào tài năng, một hãy tin cậy vào tình thương và quyền năng của Chúa, bởi vì không có Chúa chúng ta không thể làm được gì.
Một văn hào có nói: Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nâng cả địa cầu này lên. Điềm tựa duy nhất của chúng ta, chính là Thiên Chúa. Thánh nữ Catarina, chỉ là một nữ tu dòng Đaminh, vừa trẻ tuổi lại vừa ít học, thế nhưng đã chi phối đời sống thiêng liêng của Giáo Hội, đã chi phối những sinh hoạt chính trị của nước Ý và đã làm được nhiều việc to lớn, như đem Đức Giáo Hoàng từ Avignon trở về Rôma. Sở dĩ như vậy vì thánh nữ hoàn toàn tin tưởng và phó thác vào quyền năng và tình thương của Chúa.
Bởi vì như Thánh vịnh cũng đã viết:
Ví như Chúa chẳng xây nhà,
Thợ nề vất vả cũng là uổng công
Thành trì Chúa chẳng giữ trông
Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.
2. Phục vụ người nghèo
Như chúng ta đã biết: thánh Phanxicô Assisi, sinh trong một gia đình giàu có. Thuở niên thiếu, người là một cậu bé lêu lỏng hoang phí. Thế rồi vào năm 1202, thành phố Assisi và Perugia bỗng trở nên thù địch nhau. Phanxicô gia nhập quân đội Assisi và lên đường chiến đấu. Chàng bị bắt làm tù binh. Sau đó bị xiềng và giam trong hầm ngục dơ bẩn suốt một năm. Khi được trả tự do, phải mất một thời gian dài, sức khoẻ chàng mới được khôi phục. Chính biến cố này đã thay đổi cuộc đời chàng. Chàng dẹp bỏ những bộ quần áo đắt tiền và khoác lên người bộ quần áo công nhân nghèo khổ. Chàng từ giã gia đình để sống đời ẩn sĩ khổ hạnh. Chàng đặc biệt lưu tâm tới những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Sở dĩ tình thương ấy lớn mạnh trong tâm hồn chàng là do mối xúc cảm sâu xa trước hai lời giáo huấn trong Kinh Thánh.
Lời giáo huấn thứ nhất nằm trong sách Sáng Thế Ký, đó là mọi người đều được dựng nên theo hình ảnh Chúa. Giáo huấn thứ hai nằm trong sách Phúc Âm, đó là sự gì chúng ta làm cho một kẻ bé nhỏ nhất là chúng ta đã làm cho chính Chúa vậy. Chàng đã xác tín và thực thi đúng với những lời giáo huấn kể trên. Lần kia, đang lúc đi đường, Phanxicô gặp một người cùi. Mặc dù rất ghê tởm, nhưng Phanxicô xấn tiến lại ôm hôn con người bất hạnh đó.
Hơn thế nữa, chính đoạn Tin Mừng hôm nay, ngài được nghe đọc trong một thánh lễ đã thay đổi toàn bộ nếp sống của ngài. Ngài từ giã nếp sống ẩn sĩ, dùng đức khó nghèo làm hành trang lên đường để rao giảng Tin Mừng. Nếp sống này chẳng bao lâu đã lôi cuốn được nhiều thanh niên. Và những tu sĩ đầu tiên của dòng Phanxicô này ra đi khắp nơi, chăm sóc các bệnh nhân và giúp đỡ những người nghèo. Họ lấy trời làm nhà và ăn uống bất cứ thứ gì người ta bố thí cho. Đức khó nghèo biến họ trở nên một với những kẻ nghèo khó. Và đó cũng chính là nếp sống mà Chúa Giêsu đã chọn.
Thánh Phanxiô kêu gọi mọi người giúp đỡ kẻ nghèo tuỳ theo hoàn cảnh của mình, và nhường cho kẻ khác trách nhiệm động viên quần chúng và chính quyền tấn công vào cội rễ phát sinh ra sự nghèo khổ. Điều đó dẫn chúng ta đến một kết luận thật quan trọng. Đó là ngày nay hơn bao giờ hết, xã hội đang cần những loại chứng từ phục vụ người nghèo như Chúa Giêsu, như thánh Phanxicô, như Mẹ Têrêsa...
Phải, thế giới đang rất cần những người biết giúp đỡ kẻ nghèo tuỳ theo hoành cảnh riêng của mình. Lời giáo huấn của Chúa trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay thật rõ ràng. Tất cả chúng ta đều được mời gọi rao giảng Phúc Âm. Và chúng ta có thể rao giảng Phúc Âm bằng cách biểu lộ tình yêu và sự quan tâm đối với kẻ khác, nhất là những kẻ nghèo túng và khổ đau.
Và để kết luận, chúng ta hãy nhớ lại kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi: Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
3. Tông đồ.
Có một câu chuyện tưởng tượng kể lại:
Sau khi hoàn tất sứ mạng trần gian, Chúa Giêsu trở về trời và được thiên thần Gabriel ra tiếp đón. Gặp Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay: Lạy Chúa, xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế? Chúa Giêsu đáp: Ta đã chọn 12 tông đồ và Ta đã trao phó cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng bờ cõi trái đất. Nghe Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn toàn thoả mãn nên hỏi tiếp: Nếu chẳng may họ thất bại thì Chúa có dự tính chương trình nào khác nữa không? Chúa Giêsu mỉm cười: Ta không dự tính một chương trình nào khác, Ta tin tưởng ơ họ.
Đúng thế, Chúa Giêsu hoàn toàn tin tưởng vào các tông đồ, mặc dầu xét về nhiều phương diện, khi Ngài về trời, Ngài đã để lại một nhóm tông đồ ít ỏi xem ra không đủ khả năng để chu toàn sứ mạng đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Hơn thế nữa, ngay cả sau khi Chúa đã sống lại, đức tin của các ông vẫn còn chập chững và chao đảo. Chẳng hạn lần kia Chúa Giêsu gặp gỡ họ trên bờ biển Tibêria, sau khi nghe theo lời Chúa truyền, các ông đã được một mẻ lưới đầy cá. Lên bờ, thấy sẵn có than hồng, với cá đang nướng và bánh. Các ông được Chúa ân cần mời: Hãy ăn đi các con. Tuy nhiên các ông vẫn còn nghi ngờ, chưa nhận ra ngay là Chúa. Và sách Tông Đồ Công Vụ còn cho chúng ta thấy thái độ sợ sệt và khép kín của các ông sau khi Chúa đã về trời. Thế nhưng, chính nơi các ngư phủ quê mùa này mà Chúa Giêsu đã trao phó trọn vẹn sứ mạng hoàn tất chương trình Chúa muốn thực hiện. Đó là chương trình biến trần gian trở thành Nước Trời. Cũng trong sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta còn thấy được một hình ảnh khác hẳn khi các ông nhận lãnh Chúa Thánh Thần.
Thực vậy, các ông đã can đảm ra khỏi những gian phòng đóng kín, nơi các ông đã từng sợ hãi và trốn tránh, để lên đường rao giảng Tin Mừng Đức Kitô ở khắp mọi nơi, bất chấp mọi cấm đoán, mọi đòn vọt, mọi giam cầm, sẵn sàng chấp nhận cái chết để nêu cao niềm tin. Tất cả các tông đồ, ngoại trừ một mình Gioan, đều đã lấy máu đào để minh chứng lời mình rao giảng.
Nước Trời từ một hạt cải nhỏ bé, đã trở thành một cây to cho chim trời tới đậu. Đã hai mươi thế kỷ trôi qua, có biết bao nhiêu người, thuộc đủ mọi thành phần, mọi sắc dân, đáp ứng lời mời gọi của Chúa Giêsu, Đấng là đường là sự thật và là sự sống.
Và bây giờ đến lượt chúng ta. Đúng thế, có lẽ lúc này Ngài đang nhìn mỗi người chúng ta và đưa ra một câu hỏi để chúng ta có được một thái độ dứt khoát. Câu hỏi ấy như thế này: Còn con, con có muốn trở nên tông đồ, cộng tác với Ta bằng lời nói cũng như bằng chính việc làm và cuộc sống của mình, để đem Tin Mừng đến cho những người chung quanh hay không? Thế nhưng, trước câu hỏi ấy, chúng ta đã trả lời như thế nào và chúng ta sẽ làm gì để đáp trả tiếng Chúa.
4. Tông đồ.
Một trong những ưu tư lớn trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, đó là tìm những người cộng tác với mình trong công cuộc truyền bá Phúc âm, bởi vì Ngài luôn ý thức rằng: Lúa chín thì nhiều, mà thợ gặt thì ít. Chính vì thế Ngài đã kêu gọi và chọn lựa các môn đệ. Ngài đã để cho các ông sống bên cạnh mình và trực tiếp huấn luyện các ông, bằng cách để cho các ông được nghe những lời Ngài giảng, xem những việc Ngài làm. Và cắt nghĩa cho các ông những điều các ông chưa hiểu.
Rồi hôm nay, Ngài đã sai các ông đi để thực tập truyền giáo. Và trước khi các ông lên đường, Ngài đã căn dặn: Đừng mang theo bao bị, đừng mang theo cơm bánh, đừng mang theo tiền bạc và đừng mặc hai áo, nghĩa là Ngài bảo các ông phải ra đi trong một hoàn cảnh bấp bênh nhất, để tập trung vào việc rao giảng Tin Mừng, cũng như luôn phó thác vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa.
Lầm lỗi nặng nề nhất của người tông đồ hăng say và nhiệt thành, đó là họ quá cậy dựa vào tài năng riêng của mình mà quên mất tác động và sự trợ giúp của Chúa, bởi vì không có Chúa, chúng ta không thể làm được gì. Hay như lời thánh Phaolô xác quyết: Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng đem lại kết quả.
Đối với chúng ta cũng vậy, một khi đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Bí tích Thêm sức, chúng ta cũng được Chúa kêu mời cộng tác với Ngài trong công cuộc truyền bá đức tin, để rồi chúng ta cũng sẽ là những môn đệ của Ngài. Và cách thức để chúng ta thể hiện ơn gọi và sứ mạng của mình một cách hiệu quả nhất vẫn là đời sống gương mẫu của chúng ta.
Vì thế, sau khi công bố tám mối phúc thật, Chúa Giêsu đã truyền dạy: Các con là ánh sáng thế gian. Ánh sáng ấy phải chiếu dãi trước mặt thiên hạ, để mọi người nhìn thấy những công việc của các con mà ngợi khen Cha các con là Đấng ở trên trời.
Tục ngữ Việt Nam cũng bảo: Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi kéo. Chính đời sống gương mẫu của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn có sức lôi cuốn và hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.
Tuy nhiên, nói tới việc tông đồ, nhiều người trong chúng ta vẫn cảm thấy xa lạ bởi vì họ cho rằng đó là bổn phận của giới tu hành, chứ không phải là bổn phận của họ, những người giáo dân sống giữa lòng đời. Đây là một quan niệm sai lạc, bởi vì đã là con cái Giáo Hội, chúng ta đều có bổn phận làm cho Giáo Hội được phát triển, được rộng mở, tùy theo hoàn cảnh và đấng bậc của mình.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại một mẩu chuyện cảm động như sau: Ngày kia có một thiếu phụ cùng tám đứa con đến gõ cửa xin gạo. Mẹ đích thân trao cho bà ta một bao. Bà nhận gạo rồi chia làm hai phần, Mẹ ngạc nhiên hỏi tại sao thì bà trả lời: Tôi dành một phần cho gia đình Hồi giáo bên cạnh vì đã mấy ngày qua, họ không có gì để ăn.
Người nghèo khổ nhất cũng có thể thực thi tinh thần chia sẻ huynh đệ, nghĩa là họ vẫn có thể làm việc tông đồ, làm sáng danh Chúa bằng chính đời sống của họ.
5. Sứ mệnh tông đồ – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Tôi hình dung ngày Chúa nhật, Chúa Giêsu gọi tất cả chúng ta đến xum họp chung quanh bàn thờ để hiệp dâng Thánh lễ với Ngài. Rồi sau đó, Ngài sai chúng ta đi đưa Tin mừng, như các môn đệ sống thân mật bên Chúa Giêsu đã được sai đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân. Thực vậy, Chúa Giêsu đã sống hiệp nhất với Chúa Cha và được sai xuống trần gian. Các môn đệ đã chung sống với Chúa Giêsu để rồi được sai đi, thì chúng ta xum họp với Ngài trong Thánh lễ để rồi cũng được sai đi thi hành sứ mạng tông đồ của Chúa Giêsu. Lời chúc cuối Thánh lễ là: Ite, missa est: Hãy đi, thi hành sứ mệnh được ủy nhiệm. Sứ mệnh đó là sứ mệnh tông đồ (Apostolorum missio), cũng là đầu đề của bài Tin mừng này,
Trước khi đi, Đức Giêsu đã gọi nhóm Mười hai lại và sai đi với những lời chỉ dẫn sau đây: “Đi từng hai người một”. Hai người làm chứng thì chứng có giá trị hơn một người. Trước tòa án cần có hai nhân chứng, chứng đó mới thật. Trước dân chúng, cần cóhai người chứng, chứng đó mới mạnh mẽ. Mạnh mẽ hơn nữa khi hai người sống thành cộng đồng thương yêu nhau như Chúa Giêsu đã nói: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con”, “Cứ dấu đó, thế gian sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy”.
Các môn đệ đã chung sống với Thầy, đã được Thầy yêu thương thế nào, các ông cũng phải chung sống và thương yêu nhau như vậy, để làm chứng về Thầy. Đó là ý muốn rõ nhất của Chúa Giêsu khi chỉ thị cho chúng ta thực hiện sứ mệnh tông đồ.
Lối sống yêu thương được thể hiện hơn qua cách sống nghèo: có khó mới bó lấy nhau, nên chỉ thị thứ hai là “Không mang gì đi đường”, đừng mang lương thực, bao bị, tiền bạc, quần áo, thêm phức tạp, nặng nề, phiền toái. Chỉ có giầy và dép là hành trang của kẻ bộ hành luôn luôn sẵn sàng lên đường đến các làng chung quanh, đến các thành thị, qua các bờ biển xa xăm. Chỉ thị của Thầy đòi hỏi chứng nhân sống nghèo khó, thanh bạch, siêu thoát, không cậy dựa vào của cải, giàu sang, không cậy thế, cậy quyền, như Thầy đã trả lời một kinh sư: “Con chồn có hang, con chim có tổ, Con Người không có chỗ dựa đầu”. Quyền thế, danh vọng, chỉ bắt người ta phục vụ mình, còn Đức Giêsu: “Con Người đến phục vụ như một đầy tớ hy sinh mạng sống để cứu người ta”. Cho nên thánh Phaolô nói: “Chính nhờ Máu thánh Đức Kitô mà ta được giải thoát, được tha tội … được hồng ân dồi dào phong phú … được Thiên Chúa đóng ấn bằng Thánh Thần … là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta” (Bài đọc 2).
Chứng nhân chỉ cậy dựa vào Đấng đã sai đi và ban quyền cho mình thôi: “Người ban cho các ông quyền trừ quỷ”. Như Thầy đã trừ quỷ, các môn đệ cũng trừ quỷ. Quỷ là thủ lãnh, là tướng, đầu mối gây ra tội lỗi, sự dữ, sự ác, đau khổ và sự chết. Cho nên các ông đã ra đi rao giảng kêu gọi người ta sám hối, từ bỏ mọi sự của ma quỷ, trở về với Thiên Chúa là nguồn sự sống, sự thánh thiện và ơn phúc.
Sau Thánh lễ chúng ta được Chúa Giêsu sai đi như mười hai tông đồ vậy. Khi chúng ta lo trừ khử tội lỗi, sửa thói hư tật xấu, trừ khử sự dữ, sự ác, đau khổ nơi mình và người khác là chúng ta trừ quỷ, là rao giảng Tin mừng.
Khi chúng ta cầu nguyện kết hợp với Chúa và làm cho người ta sống kết hợp với Chúa để mến Chúa, yêu người, là chúng ta rao giảng Tin mừng.
Khi chúng ta cố gắng làm mọi việc thiện, mọi việc ích lợi cho hồn xác người khác, là rao giảng Tin mừng. Chúa Giêsu đã từng nói: “Kẻ nào cho người bé mọn chỉ một bát nước vì danh nghĩa là môn đệ, sẽ không mất phần thưởng” (Mt. 10, 41; Mc. 6, 42).
Rao giảng Tin mừng như thế ai làm cũng được. Bài đọc một cho biết Amos là người chăn bò trồng sung, thế mà Chúa sai ông đi công bố lời Chúa cho dân Israel. Một ông già rách rưới gầy còm như ăn mày, đứng chen chúc trên xe đò, vẫn cầm tràng hạt đọc kinh, hướng lòng lên với Chúa, cầu nguyện cho mọi người đứng chật chội trên xe là rao giảng Tin mừng. Một đứa trẻ học giáo lý, đọc đi đọc lại, rót vào tai người lớn, đó là rao giảng Tin mừng. Một thanh niên biết khéo léo rủ bạn đi làm, xa tránh nghiện ngập rượu chè, đó là rao giảng Tin mừng.
Có trăm ngàn cách rao giảng Tin mừng, vì có trăm ngàn việc thiện đem lại vui mừng cho người ta.
Lạy Chúa, mỗi Thánh lễ là một bài sai chúng con đi thi hành sứ mệnh tông đồ, đi rao giảng công trình cứu độ của Chúa. Xin cho chúng con biết liên kết với nhau hăng hái đón nhận bài sai của Chúa để làm sáng danh Chúa giữa muôn người.
6. Hành trang người môn đệ
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ai đi xa cũng phải chuẩn bị hành trang. Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều. Chuyến đi càng quan trọng thì hành trang càng phải chọn lựa, tính toán. Hôm nay Đức Giêsu sai các môn đệ đi một chuyến quan trọng: tiếp nối sứ mạng của Người đem Tin Mừng đến khắp các làng mạc xa xôi. Để chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng này, Đức Giêsu đã giúp các môn đệ sắp xếp hành trang. Sau khi đã loại bỏ những loại hành trang cồng kềnh không cần thiết, có hại cho nhiệm vụ, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ những hành trang thực sự cần thiết và hữu ích cho sứ vụ Tông đồ.
Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã có một thời gian sống bên cạnh Người. Thời gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để các môn đệ hiểu biết, cảm thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người. Đây chính là hành trang quan trọng nhất. Người được sai đi phải gắn bó mật thiết với Đấng đã sai mình. Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính trung thực, là chìa khoá thành công của sứ vụ. Đức Giêsu đã nêu gương về điểm này khi luôn gắn bó mật thiết với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.
Hành trang của người môn đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác. Khi chỉ thị cho các môn đệ: “không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo”, Đức Giêsu muốn các ông sống trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa. Tiền của, tiện nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả tạo, dẫn con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành công là nhờ tài sức riêng mình. Vì thế, dễ tha hoá, làm theo ý mình hơn là làm theo ý Chúa, sắp đặt chương trình cho Chúa hơn là tìm thực hiện chương trình của Chúa. Nghèo khó sẽ giúp người môn đệ ý thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu ớt của mình, ý thức đó sẽ giúp người môn đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó thác cho Chúa. Tôi chỉ là hư vô, là cát bụi. Mọi thành công đều của Chúa, nhờ Chúa. Những thành công do tài sức con người sẽ mau tàn. Chỉ có công trình của Chúa mới bền vững. Vì thế đơn sơ phó thác là một hành trang rất cần thiết cho người môn đệ. Không mang theo gì của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là mang theo tất cả.
Hành trang của người môn đệ là tình liên đới. Đức Giêsu không sai các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng hai người một. Người biết khả năng con người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ mới hoàn thành sứ mạng. Lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục. Cần có sự đồng tâm nhất trí của một tập thể lời chứng mới thực sự đáng tin. Hơn nữa, Đức Giêsu không sai các môn đệ đi làm việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng sai các ngài đến với con người. Các ngài phải sống giữa mọi người, nhờ mọi người giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống với họ. Phải liên đới với con người. Tình liên đới không những cần thiết để giúp các ngài làm việc tông đồ một cách hữu hiệu. Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.
Hành trang của người môn đệ là trái tim biết cảm thương. Đức Giêsu sai các môn đệ đến với những người đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, bị quỷ ma hành hạ. Tức là đến với những người kém may mắn ở đời. Những người nghèo hèn yếu đuối. Những người bị xã hội bỏ quên. Để đến với những người anh em bé nhỏ, người môn đệ phải có trái tim biết cảm thương. Các ngài phải mang trái tim của Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám đông bơ vơ tất tưởi, túng thiếu, đói khát. Phải sẵn sàng băng rừng vượt suối đi tìm một con chiên lạc. Phải mở rộng vòng tay đón nhận đứa con hoang đàng trở về. Phải sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi thật lòng hối cải ăn năn.
Mỗi người chúng ta đều là môn đệ của Chúa. Khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng của Người. Tôi thấy anh chị em ở Giáo xứ Cửa Nam rất tích cực trong việc tông đồ. Nhưng có lẽ anh chị em vẫn băn khoăn, không biết làm sao để việc tông đồ có kết quả tốt đẹp. Hôm nay, Đức Giêsu cho ta biết, muốn việc tông đồ có kết quả, ta phải gắn bó mật thiết với Chúa, phó thác mọi sự cho Chúa, đồng thời phải có tình liên đới và nhất là phải biết cảm thương anh chị em đồng loại. Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Một tình yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa. Liên kết mọi người trong tình yêu mến. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của Chúa. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Chúa sai bạn đi làm tông đồ cho Chúa, bạn có cảm thấy điều đó không?
2- Mỗi khi đi làm việc tông đồ, bạn thường chuẩn bị những loại hành trang nào, những hành trang của bạn quan tâm có giống những hành trang Chúa chuẩn bị cho các môn đệ không?
3- Theo bạn, đâu là phương thế hữu hiệu nhất làm cho những người chung quanh nhận biết Chúa?
4- Đâu là những hành trang cần thiết của người môn đệ của Chúa?
7. Bài Sai – Lm Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Amos xuất hiện khoảng năm 760 trước Công Nguyên dưới thời của Vua Phương Nam Uzziah (783-742) và Vua Phương Bắc Jeroboam II (786-746).
Tiên tri Amos làm việc nơi đồng áng và chăn nuôi súc vật. Ông được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi rao giảng sám hối tại trung tâm miền Bắc Bethel và Samaria. Quan niệm thần học tập trung việc cảnh cáo dân Do-thái rằng Thiên Chúa sẽ trừng phạt và phá hủy dân Israel bởi vì tội lỗi của họ. Amos kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối và cải đổi đời sống theo giới răn của Chúa.
Phúc âm Chúa Nhật hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi. Chúa ban cho các ông quyền trên các thần ô uế. Với lời nhắn nhủ sống đơn sơ chân thành và đi làm nhân chứng với hai bàn tay trắng. Các ông đã ra đi vào các làng mạc chuẩn bị các tâm hồn đón nhận ơn Chúa. Các ông hoàn toàn cậy dựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta biết Chúa Giêsu đã chọn những con người tầm thường, họ không có nhiều tài năng chuyên môn, không có của cải và không có chỗ đứng trong xã hội. Chúa chọn những người bình thường để làm những việc phi thường cho Nước Chúa.
Thật lạ lùng, Chúa Giêsu sai các tông đồ ra đi loan truyền sứ mệnh quan trọng nhưng không ban cho các phương tiện, tiền bạc hay của cải. Ngày nay trong công tác mục vụ, chúng ta thường chuẩn bị rất kỹ càng, nào là tiền mặt, thẻ tín dụng, thức ăn thức uống, bản đồ, áo trong áo ngoài, máy móc đủ loại và các dụng cụ cá nhân. Nếu khi phải ở qua đêm, chúng ta còn cần nhiều thứ lỉnh kỉnh nữa. Chúng ta lo lắng cho những nhu cầu vật chất như chỗ ăn chỗ ở, cái ăn cái mặc và những tiện nghi tối thiểu. Đôi khi chúng ta lại quá lo lắng cậy dựa vào những nhu cầu vật chất của đời thường. Theo thông lệ một số các đấng bậc khi thăm viếng mục vụ, các giáo đoàn phải chuẩn bị đón tiếp long trọng và đôi khi còn phải chi tiêu hao tốn, thiếu đi tinh thần nghèo khó và sự phó thác.
Mỗi năm kết khóa, mùa Hè là mùa ra trường. Các ứng sinh lãnh nhận những mảnh bằng tốt nghiệp đã bắt đầu bước vào đời. Những vốn liếng thu lượm qua việc trau dồi học hỏi trên ghế nhà trường nay đem ra áp dụng theo những sở trường và khả năng. Trong sứ mệnh dâng hiến, mỗi năm Giáo Hội đón nhận nhiều tu sĩ nam nữ khấn dòng, khấn tạm hoặc vĩnh khấn, các chủng sinh lãnh nhận chức đọc sách, giúp lễ, phó tế và các tân chức linh mục. Mỗi tu sĩ hay tân chức sẽ lãnh nhận những bài sai từ bề trên để ra đi làm nhân chứng cho Chúa Kitô. Các sứ giả phúc âm không được tự chọn cho mình nơi chỗ, nhưng được sai đến bất cứ nơi nào để phục vụ Giáo Hội và tha nhân.
Tháng Sáu vừa qua, tôi rất hân hạnh được tham dự thánh lễ truyền chức linh mục tại Đài Đức Mẹ, Tân Hiệp, Địa phận Long Xuyên. Lễ phong chức cho 18 tân linh mục rất là hoành tráng. Với trên hai trăm linh mục trong Giáo phận có mặt và có thêm nhiều vị từ khắp nơi đổ về. Với sự hiện diện trên mười ngàn Giáo dân vui mừng hân hoan tụ về tham dự nghi lễ phong chức linh mục. Ngay sau thánh lễ truyền chức, một vị linh mục đại diện đã công bố Bài Sai của Đức Giám Mục Địa Phận cho từng tân linh mục. Một sự chọn lựa cắt đặt các tân chức vào các sứ vụ tùy theo khả năng thích hợp của mỗi tân linh mục.
Chúng ta biết rằng lãnh nhận thiên chức linh mục không phải riêng cho mình, nhưng cho Giáo Hội và chung cho mọi người. Các tân chức nhận những Bài Sai khác nhau như về trụ sở Tòa Giám Mục, các Giáo Xứ và có những Bài Sai về nơi truyền giáo vùng sâu vùng xa. Niềm vui trào dâng khi nhận lãnh thiên chức cao cả. Khi nghe rao báo Bài Sai, các tân chức cũng có những cảm tình vui buồn lẫn lộn. Có những bà mẹ nhảy cẫng vui mừng vì con mình được về giáo xứ giầu có ổn định. Có những gia đình vỗ tay hãnh diện vì tân linh mục nhà mình được về xứ lớn ở trung tâm thành phố. Có những vẻ mặt không được vui lắm khi nghe Bài Sai sẽ đi phục vụ ở những nơi khai hoang truyền giáo. Thật vậy, được sai đi nơi đâu, cũng là để phục vụ tha nhân. Chúa Kitô vẫn luôn là trung tâm điểm của đời sống mục vụ và phục vụ.
Câu truyện vào thời chiến, có một sự kiện xảy ra nơi một làng nhỏ ở nước Đại Hàn. Trước nhà thờ có một tượng Chúa Giêsu bị trúng mảnh bom làm vỡ bể. Một nhóm binh sĩ Hoa Kỳ đã giúp linh mục lau dọn và thu thập các mảnh vỡ vụn để gắn đặt lại tượng Chúa. Họ tìm thấy mọi phần của tượng Chúa, trừ một cánh tay bị vỡ tan. Các binh sĩ đề nghị với linh mục là đưa tượng Chúa về Hoa Kỳ để tu sửa và làm cánh tay mới. Linh mục bổn sở từ chối. Ngài nói: Tôi có một ý tưởng. Cứ để tượng như thế, thiếu một cánh tay. Chúng ta hãy viết trên bệ cho các khách hành hương chú ý: Hỡi bạn, cho tôi mượn cánh tay của bạn.
Trong cách này, mỗi tu sĩ nam nữ, các thiện nguyện viên hay các linh mục ra đi giúp mọi người nhận ra những nhu cầu trong sứ mệnh phục vụ của mình. Chúng ta sẽ là những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu để xây dựng lại những đổ nát và hư mất. Cùng một suy tưởng, Chúa cần những đôi chân của chúng ta để đi tìm kiếm những ai đã lạc bước. Chúa muốn những đôi tai của chúng ta để nghe những tâm sự cô đơn buồn chán của tha nhân. Chúa dùng miệng lưỡi của chúng ta để nói những lời thân thương, khuyến khích, ủi an và nâng đỡ những kẻ đau buồn, khổ sở và thất vọng.
Trong thơ gởi cho tín hữu Ephêsô, thánh Phaolô đã viết rằng: Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người (Eph 1, 4). Sau khi hồi đầu, Phaolô đặt trọn niềm tin nơi Đức Kitô. Chúa đã chọn và gọi Phaolô một cách đặc biệt. Biến đổi ông từ một người bách hại các Kitô hữu trở nên nhân chứng cho niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Phaolô đã được sai đi rao giảng tin mừng cho dân ngoại. Tông đồ Phaolô đã không ngại gian khó rong ruổi khắp các thành thị và làng mạc để loan báo về công cuộc cứu độ của Chúa Kitô.
Giáo Hội luôn kêu gọi chúng ta cầu nguyện cho ơn gọi dâng hiến. Có rất nhiều tâm hồn đã và đang quảng đại đáp lại tiếng Chúa trong ơn gọi tu trì. Mỗi tín hữu đều có bổn phận góp sức mình, của cải và khả năng để xây dựng và loan truyền tin mừng cứu độ. Chúng ta không thể đổ dồn trách nhiệm cho môt thành phần riêng biệt nào. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận và trách nhiệm sống động trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Sự cộng tác của chúng ta bằng lời cầu nguyện, nâng đỡ tinh thần và khuyến khích hơn là sự chỉ trích, gây chia rẽ, đàm tiếu hoặc phá đổ. Lạy Chúa, cánh đồng truyền giáo còn bao la bát ngát, xin Chúa sai thêm những thợ gặt lành nghề. Chúng con cảm tạ Danh Chúa đến muôn ngàn đời. Amen.
8. Chúa sai tôi đi – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ của Thiên Phúc)
Sau thế chiến thứ nhất, một linh mục trẻ người Pháp được bài sai đi coi xứ. Tay xách vali, cha mạnh dạn ra đi truyền giáo. Đến nơi chỉ thấy hầm sâu, tường đổ. Nhà thờ, nhà xứ, chỉ còn duy nhất một bức tường xiêu vẹo.
Không một chút sờn lòng, cha cùng với các tín hữu tích cực kiến thiết lại ngôi thánh đường đổ nát. Chẳng bao lâu sau, đền thờ vật chất đã hoàn thành khang trang đẹp đẽ. Giờ đây, cha lại tiếp tục xây dựng đền thờ tâm hồn. Nhờ đời sống gương mẫu, cha đã tu sửa lại lòng đạo đức của cả đoàn chiên.
Tuổi cha chưa cao nhưng đã kiệt sức, giữa lúc tình cha con đang mặn nồng, gắn bó. Dầu vậy, nằm trên giường bệnh, cha vẫn thản nhiên vui vẻ. Giờ hấp hối đến, cha nhỏ nhẹ nói với những người chung quanh:
- Giờ đây tôi vui mừng vì đã trung thành giữ lời nhủ bảo của thân phụ ngày tôi chịu chức linh mục: "Nay con làm linh mục Chúa, cha chỉ cầu ước cho con 3 điều: Thứ nhất, lúc con chết đừng nợ ai xu nào; Thứ hai, khi qua đời con cũng chẳng còn xu nào; Thứ ba, lúc lâm chung con đừng vướng một chút tội nào với Chúa". Và ngài an bình đi về với Đấng mình đã trọn đời dâng hiến.
***
Vị linh mục trong câu chuyện trên đây, không những đã làm theo lời khuyên của thân phụ, mà còn thi hành đúng lời dạy của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Khi sai các tông đồ đi truyền giáo, Chúa phán: "Không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc..." (Mc.6,8). Hành trang của các ông chỉ là chiếc áo đang mặc, cây gậy và đôi dép đi đường. Vì chính Người đã từng nói: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, con Người không có chỗ dựa đầu". Người muốn các ông hoàn toàn nương tựa vào Chúa, phó thác cho tình yêu quan phòng của Người, và cậy dựa vào lòng tốt của tha nhân.
Đó là thân phận của kẻ được sai đi: ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Vì "Phaolô trồng, Apollo tưới và Chúa mới cho mọc lên" (1Cr.3,6).
Hôm nay Chúa cũng sai chúng ta đi vào lòng thế giới, để "rao giảng sự sám hối" (Mc.6,12). Sám hối rất khó nói vì chẳng mấy ai thích nghe. Đó cũng là thách thức của người tông đồ: can đảm nói lên những điều phải nói. Nói mà không giảm nhẹ những đòi hỏi của Tin mừng. Nói mà không lợi dụng tin mừng để mưu cầu cá nhân. Nói mà không trích dẫn Tin mừng để khoe khoang kiến thức. Nói mà không bóp méo Tin mừng để vuốt ve quần chúng. Dù sao Tin mừng vẫn phải được loan báo. Chúng ta hãy xem câu nói của Thánh Phaolô như là của chính mình: "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cr.9,16).
Hôm nay, Chúa cũng trao cho chúng ta những quyền năng như hành trang để lên đường. Đó là quyền rao giảng Tin mừng, quyền trừ quỷ và quyền chữa bệnh.
Chúng ta có thể chia sẻ Tin mừng với niềm hân hoan của người tìm được viên ngọc quí.
Chúng ta có thể nói về Chúa như nói về một người bạn thân.
Chúng ta có thể xua trừ quỉ bằng cách đẩy lui những thói hư tật xấu.
Chúng ta có thể chữa bệnh bằng cách lau khô những giọt lệ của bao người quanh ta.
***
Lạy Đức Giêsu, mỗi thánh lễ là một bài sai, mỗi bài Tin mừng là một sứ điệp Chúa gởi cho trần gian qua từng người chúng con. Xin cho chúng con đừng bao giờ cậy dựa sức riêng mình, nhưng tin tưởng vào quyền năng Chúa mà chu toàn sứ vụ Người đã trao ban. Amen.
9. Sống thanh thoát – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Muốn đất nước phát triển: “Hãy loại trừ tham nhũng”, đó là vấn đề được bàn luận sôi nổi nhất nơi các kỳ họp quốc hội Việt Nam.
Tham nhũng là gì? Tham nhũng không đơn thuần là lấy của công thành của riêng. Tham nhũng không dừng lại ở việc lợi dụng chức quyền để vun quén cho bản thân mà còn cho cả dòng họ. Đúng như cha ông ta đã nói: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Điều tệ hại của tham nhũng đó là lòng tham đã ăn sâu vào xương tủy những người làm quan. Lòng tham khiến họ không còn chí công vô tư khi thi hành chức vụ. Lòng tham khiến họ không thể sống thanh liêm chính trực. Lòng tham dẫn họ đi sâu vào tội ác và dối trá. Nếu xã hội không còn những người thanh liêm thì làm sao tránh khỏi ăn bẩn, ăn chận của người thấp cổ bé miệng và đói nghèo. Nếu xã hội không còn những con người chí công vô tư thì làm sao có công lý và tình thương trong xã hội hôm nay. Tất cả chỉ là dối trả và phỉnh lừa lẫn nhau.
Lời Chúa hôm nay gợi lên một hình ảnh thật đẹp về những sứ giả tin mừng. Họ là những người được tuyển chọn để cứu nhân độ thế. Họ dấn thân vào đời để giải cứu thế gian khỏi ba thù hiểm độc. Thế gian có quá nhiều mưu mô và xảo quyệt. Ma qủy có quá nhiều phương cách để cám dỗ. Họ cần phải ra đi với đôi chân nhẹ nhàng và lòng thanh thoát. Họ không được mang bao bị, không mang bạc tiền của nhân thế. Họ là những người chấp nhận cuộc sống nổi trôi “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh”. Sứ mệnh của họ là đẩy lùi sự dữ và thi thố tình thuơng. Họ không thể bận tâm đến của cải thế gian. Họ không để lòng mình bị ràng buộc bởi nhu cầu vật chất và tiện nghi. Nếu họ quá quan tâm đến mình sẽ bỏ quên đồng loại. Nếu họ quá chú trọng đến vật chất sẽ dẫn đến lo hưởng thụ và tích góp cho bản thân. Thiện chí sẽ mất. Hướng đi sẽ chệch đường lạc lối. Lý tưởng ban đầu sẽ bị đảo ngược. Thay vì cứu đời sẽ chỉ còn lại sự lợi dụng địa vị chức quyền để vun quén cho bản thân.
Người ta kể rằng: có một đệ tử muốn từ bỏ mọi sự của thế gian để sống tu trì. Anh quyết định vào rừng vắng sống ẩn tu. Hành trang duy nhất anh mang là chiếc áo ăn mày để khất thực sống qua ngày.
Ngày kia, anh đau đớn vô cùng khi thấy chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn nát tả tơi. Không còn cách nào khác, anh phải vào trong làng xin một chiếc áo khác. Chiếc áo thứ hai này cũng bị cùng chung số phận, nát tả tơi vì chuột cắn. Anh nghĩ rằng chỉ có nuôi mèo mới giữ được chiếc áo. Anh quyết định nuôi mèo. Thế nhưng, khi có mèo anh lại phải lo kiếm thêm phần ăn cho con mèo được nuôi để đuổi chuột.
Ngày ngày vác bị đi khất thực, anh cảm thấy mình như một gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh cố gắng chắt chiu để kiếm tiền nuôi một con bò để thêm phần thu nhập. Nhưng có bò lại phải kiếm cỏ cho bò ăn. Chăn nuôi gia súc khiến anh không thể có thời giờ cầu nguyện, anh lại phải thuê người cắt cỏ nuôi bò. Càng ngày bò càng sinh sản, người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang sơ đã biến thành một trang trại rộng lớn. Gia súc và người làm ngày càng thêm đông. Con người đã một thời muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên trở thành một ông chủ trang trại.
Có tiền của và tài sản to lớn, anh lại muốn có người chia sẻ công việc của mình. Anh cưới vợ và sinh con. Anh trở thành một người chồng, người cha trong một gia đình hạnh phúc. Thế là lý tưởng ban đầu đã hết. Anh đã đánh mất lý tưởng chỉ vì mải lo gìn giữ một “cái áo rách”.
Chuyện có vẻ hoang đường nhưng lại là thật. Ma quỷ thường cám dỗ từng bước. Ma quỷ thường gợi lên những điều hay, điều tốt để dẵn dắt con người đi theo chương trình của nó. Adam – Evà đã nhìn thấy trái táo thơm ngon mà quên đi thân phận phải vâng lời Thiên Chúa. Khi tỉnh lại chỉ còn thất vọng và hổ thẹn lương tâm. Người tu sĩ đã lạc bước khi quá bận tâm đến nhu cầu vật chất, đến đồng tiền bát gạo, khiến tâm hồn anh không còn thời giờ để vun đắp, định hướng cho hướng đi của mình. Cái thất bại của anh thật tẻ nhạt, chỉ vì mải lo gìn giữ một “chiếc áo rách”.
Thực vậy, vì tiền bạc, mà người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời. Vì tiền mà “nhân chi sơ tính bổn thiện” đã không còn. Vì tiền mà người ta có thể chối bỏ niềm tin. Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Đó là bài học cho tất cả chúng ta. Đồng tiền thật cần thiết cho cuộc sống nhưng không phải là cứu cánh cho cuộc đời. Đừng quá lệ thuộc vào của cải vật chất. Nó chính là con dao hai lưỡi có thể làm hại cuộc đời chúng ta, nếu không khôn ngoan, sáng suốt để nhận định đúng giá trị của nó. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm của cải vật chất, chúng ta có đủ nghị lực khước từ mọi hành vi bất chính, mọi thoả hiệp với lừa đảo, gian trá của thế gian.
Con người luôn hướng về sự thiện. Con người luôn mong muốn cống hiến cuộc đời mình cho tha nhân. Đó chính là mục đích mà Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Thế nhưng ma quỷ luôn vẽ lối chúng ta đi sai đường Chúa. Ước gì lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta, hãy lo tìm kiếm những điều đẹp ý Chúa hơn là thế gian. Hãy để tâm làm việc phụng sự Chúa hơn là làm tôi cho tiền bạc và tiện nghi. Đừng để lòng mình lệ thuộc vào vật chất mà quên đi gía trị tinh thần. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống theo lời Chúa để được phúc lành mai sau. Vì “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ”. Amen.
10. Sứ mạng loan báo Tin Mừng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Sau khoá huấn luyện “trung cấp” 2 năm về “kỹ năng” loan báo Tin Mừng, hôm nay Chúa Giêsu đặc phái các môn sinh của mình lên đường thực tập sứ vụ trước khi cấp “chứng chỉ tốt nghiệp ra trường” cho các ông. Ngay trước lúc lên đường, Chúa Giêsu đã không quên ân cần dặn dò các môn sinh cách thức để việc loan báo Tin Mừng mang lại hiệu quả như ý. Tựu trung lời dặn dò đó chứa đựng 3 bí quyết, như là “kim chỉ nam” cho các nhà truyền giáo mọi thời mọi nơi.
1. Loan báo Tin Mừng - sứ mạng phải được thực hiện trong chiều kích cộng đoàn
Cá nhân chủ nghĩa không có chổ đứng trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Bởi chưng, Chúa Giêsu không sai các môn đệ đi từng người một, lẻ loi, đơn độc, để rồi các ông cứ mãi hát khúc hát “Cô đơn một cõi đi về”. Ngài sai họ đi là sai từng hai người một, cùng với các Tông đồ khác tạo thành nhóm, thành cộng đoàn. Qua đó, các ông được huấn luyện tinh thần làm việc chung, làm việc với người khác. Tinh thần làm việc chung, việc nhóm mới có khả năng tạo nên sức mạnh kỳ diệu (các giải thưởng Nobel trong những năm gần đây chứng minh điều này. Hầu hết đó là những công trình của một tập thể, một nhóm). Hơn nữa, trên phương diện chứng tá, chứng của hai người trở lên bao giờ cũng có giá trị hơn. Giá trị còn là vì cộng đoàn tính nói lên tinh thần liên đới và hiệp nhất của người Tông đồ. Cộng đoàn tính còn là lời chứng sống động về tình huynh đệ yêu thương mà họ rao giảng. Bởi thế, ta không ngạc nhiên khi thấy các vị thừa sai thường được phái đi từ 2 hoặc 3 người đến một giáo điểm hay một vùng miền nào đó để làm việc Tông đồ truyền giáo.
Chính Chúa Giêsu khi được Chúa Cha sai đến trần gian, Ngài không đi một mình, nhưng có Chúa Thánh thần cùng đồng hành và cùng hoạt động với Ngài.
2. Loan báo Tin Mừng - sứ mạng cần được thực hiện với tinh thần siêu thoát
Siêu thoát khỏi những dính bén với của cải vật chất, tiền bạc để sẵn sàng lên đường, sẵn sàng đi đến bất cứ nơi đâu một cách nhanh nhẹn và vui tươi. Siêu thoát với mọi thực tại đời này để toàn tâm, toàn ý cho sứ mạng được giao phó. Thái độ siêu thoát cũng là dấu chứng nói cho người khác biết lòng tin tưởng phó thác của người môn đệ vào sự quan phòng của Chúa. Chúa Quan Phòng phải là người bạn đường của người loan báo Tin Mừng. Nếu gạt Chúa Quan Phòng sang một bên, người tông đồ chỉ còn loay hoay vun vén, “đào hang”, “xây tổ” cho riêng mình.
Chúa Giêsu đã nêu gương cho các môn đệ của Ngài về tinh thần siêu thoát và tín thác. Khi đến trong trần gian, Ngài không mang theo gì ngoại trừ tình yêu của Chúa Cha. Khi sống trong trần gian, cũng như khi đi rao giảng Tin Mừng, Ngài hoàn toàn sống phó thác vào sự quan phòng của Chúa Cha. Chính Ngài đã bộc bạch: “Chim có tổ, cáo có hang; còn Con Người không có chổ tựa đầu” (Lc 9,58).
3. Loan báo Tin Mừng - sứ mạng phải được thực hiện với năng quyền của chính Chúa
Lệnh truyền và sứ điệp loan báo Tin Mừng không đến từ con người, nhưng đến từ Thiên Chúa. Do đó, để có thể chu toàn sứ mạng, cần đón nhận năng quyền Thiên Chúa ban. Đó là năng quyền rao giảng: công bố Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô. Đó là năng quyền chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống và phong hoá trần gian. Đó còn là năng quyền trừ quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.
Kinh nghiệm của các Tông đồ ngày hôm nay cũng cho thấy Thiên Chúa luôn dẫn dắt chúng ta đi: “Ơn ta đã đủ cho ngươi”. Đức Tổng Giám mục Vacchelli, Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Ý quốc, khi được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm Trợ lý Tổng Trưởng của Thánh Bộ Rao giảng Tin Mừng cho các Dân tộc và Chủ tịch Hiệp hội Giáo hoàng Truyền giáo, ngài cho hay: “Gia nhập vào Thánh Bộ là chịu trách nhiệm trực tiếp với 1.100 giáo phận trên toàn cầu, 2.000 giám mục và vô số các giáo sĩ, nam nữ tu sĩ. Và trên hết vấn đề chính không chỉ là nghèo đói, nhưng là xây dựng một đời sống theo đường lối Kitô giáo. Vì thế, phạm vi rộng hơn nhiều”.
Đối mặt với lượng công việc đồ sộ như vậy, ngài vẫn tràn trề hy vọng nói: “Khi anh làm việc cho Thiên Chúa, Người luôn đi trước anh, thu xếp tính hèn yếu của anh bằng ân huệ của Người”. Nếu ý thức được như thế, các vị thừa sai của Chúa sẽ bớt sợ bớt lo khi thấy trách nhiệm năng nề, đồng thời sẽ bớt tự mãn kiêu căng khi làm được việc này việc nọ.
Qua Bí tích Rửa Tội, đặc biệt là Bí tích Thêm Sức, người Kitô hữu, cũng là người được sai đi. Được sai đi cùng với người khác, được sai đi với tính thần siêu thoát và được sai đi với ơn sức của Chúa. Đối tượng mà chúng ta cần nói cho biết về Chúa, không ở đâu xa mà ngay trong gia đình, gia tộc và xứ đạo của mình. Họ là những người thân thích với ta, là bà con lối xóm của ta. Họ là những người đồng hương với ta. Họ là những người cùng nghề cùng sở làm với ta...
Thế nhưng câu hỏi đặt ra là khi thực hiện ơn gọi loan báo Tin Mừng, tôi đã nêu cao tinh thần chung, tinh thần cộng tác với anh chị mình chưa hay vẫn còn cá nhân chủ nghĩa? Tôi đã đề cao tinh thần siêu thoát chưa, hay còn quá dính bén với những thực tại đời này, và quá chú trọng đến việc “xây tổ”, “đào hang” cho mình? Và nhất là tôi đã hết lòng giương cao sức mạnh của Chúa chưa, hay chỉ toàn cậy dựa vào tài cán và sức riêng mình?
11. Không bánh mì, cũng chẳng tiền túi
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Thế)
* Vài hàng sơ lược
- Sau khi bị người đồng hương Na-za-réth của mình chối từ (Mc 6, 1-6a), thay vì bực mình giận dữ, Giêsu vẫn thản nhiên và Ngài tiếp tục lên đường đến các làng chung quanh để giảng dạy. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thi hành sứ mạng giảng dạy như Ngài.
- Đoạn này có thể chia như sau: (1) 6b-7: Chuyển tiếp (câu 6b) và dẫn vào câu chuyện. (2) 8-9: Chỉ thị các môn đệ phải trang bị những gì khi ra đi. (3) 10-11: Chỉ thị các môn đệ về phản ứng trước sự đón tiếp của người khác. (4) 12-13: việc rao giảng và chữa bệnh của các môn đệ.
- Trong cái nhìn nhất lãm, thì Luca nêu đoạn 9, 1-6, tương hợp với đoạn phúc âm của Mác-cô ở đây. Còn trong Mát-thêu thì cũng nêu lên trong Mt 10, 1-15. Theo Helmut Klein thì Luca đã lấy lại đoạn phúc âm này của Mác-cô. Tuy nhiên, có một vài sự khác biệt: Luca không đề cập đến việc đi giày trong chỉ thị sai đi của Giêsu. Ngoài ra, Luca nêu bật ý nghĩa và nội dung của việc Giêsu sai đi, trong khi Mác-cô thì lại không. Ý nghĩa nằm trong câu: “Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (Lc 9,2). So sánh với Mát-thêu thì có khá nhiều sự khác biệt. Mát-thêu nêu tên 12 tông đồ (câu 2-4). Đích đến cũng được Mát-thêu nêu rõ: “Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en” (câu 6). Ý nghĩa việc sai đi của Mát-thêu thì gần giống như Luca.
* Suy niệm
“Rồi Người đi các làng chung quanh mà giảng dạy.”
Các làng chung quanh ở đây là các làng nằm chung quanh Na-za-réth. Trong mạch văn của Mác-cô, thì việc giảng dạy của Giêsu ở đây có ý nghĩa hướng dẫn các môn đệ vào trong sứ mạng rao giảng sắp tới.
“Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ.”
Nhóm Mười Hai mà Giêsu thành lập (ss. Mc 3,14) giờ đây được Giêsu gọi lại và bắt đầu sai họ đi. Sứ mạng thực sự bắt đầu. Sau những ngày được kêu gọi để ở lại với Giêsu (Mc 3, 14), để đi sâu vào tương quan với Giêsu, để học biết tinh thần của Ngài, thì giờ đây có lẽ các môn đệ đã phần nào “chín chắn”, nên Giêsu sai các ông lên đường. Ngài sai các ông đi từng hai người một. Tại sao lại từng hai người một? Theo các nhà chú giải thì trước hết liên quan đến việc làm chứng của người Do-thái. Chỉ có một người làm chứng sẽ không có tác dụng gì cả, hay nói mạnh hơn là không phải là người làm chứng. Nếu chỉ có một người làm chứng thì không thế dẫn tới quyết định trong tòa án, mà cần phải có hai người hay ba người làm chứng: “Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ một tội một lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét.” (Đnl 19,15)
Ngoài ra, trong Thánh Kinh còn có một số đoạn nhắc đến cặp “hai người”, như trong cuộc tranh luận với người Pha-ri-sêu về bản thân của Người, Giêsu đã nói: “Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật. Tôi làm chứng cho chính mình, và Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng cho tôi.” (Ga 8,17-18), hay ở Mt 18,19: “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”
Như vậy, việc làm chứng của “hai người” còn có ý nghĩa là làm cho sự thật được sáng tỏ, sự thật về chính Đức Kitô, con Thiên Chúa, đến trần gian để rao giảng tin mừng Nước Thiên Chúa cho mọi người. Sự thật về tin mừng này sẽ được tỏ lộ một cách thật rõ ràng và chất lượng hơn, khi có hai người cùng đi chung để rao giảng và loan báo.
Có lẽ đây là điều quan trọng trong sứ mạng rao giảng, nên ngay từ đầu chúng ta đã thấy các cặp đi rao giảng chung, như trong Tông Đồ Công Vụ đề cập đến: Phao-lô và Ba-na-bê, Phêrô và Gioan.
Và Giêsu đã ban cho họ quyền trừ quỷ. Điều này được Mác-cô nêu bật trong Phúc Âm của mình (ss. Mc 1, 21-28), qua đó quyền năng của Giêsu được “tô đậm”, quyền năng giải phóng con người khỏi thần dữ. Vâng, Mác-cô chủ ý nêu bật điều này, vì độc giả của ông là những người kitô giáo trở lại ở Roma. Họ cần nhận ra sự gần gũi của Thiên Chúa, ngay cả khi thần dữ đang chế ngự. Sự gần gũi và quyền năng Thiên Chúa chính là bảo đảm cho sự tự do của những người con cái Thiên Chúa.
Trở về với đoạn Phúc Âm, các môn đệ ra đi với quyền năng của Giêsu để trừ quỷ.
Thực, trong trận chiến đấu với thần dữ, thì nếu không mang vũ khí của Thiên Chúa ban cho, thì không thể nào chiến thắng được: “Sau cùng, anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen tối.” (Ep 6, 10-13) Đây chính là vũ khí thiêng liêng các môn đệ cần đến.
Với sự sai đi và với quyền năng trừ quỷ của Giêsu ban cho, các môn đệ và giáo hội nhận được một sứ mạng mới, sứ mạng loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa, và sứ mạng trừ khử thần dữ trong thế giới.
“Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.”
Lời nhắn nhủ của Giêsu ở trên được coi như là chỉ thị, tiếng Hy-lạp là paragge,llw (paraggellò). Theo từ điển chú giải Tân Ước của Horst Balz và Gerhard Schneider xuất bản (Exegetisches Woerterbuch zum Neuen Testament), thì động từ này xuất hiện 31 lần trong Tân Ước. Trong các sách Phúc Âm, chỉ có Giêsu là người ra lệnh cho thần ô uế (Lc 8,29), và chỉ thị cho nhóm 12 (Mc 6,8).... Ở đây, trong đoạn phúc âm của Mác-cô, theo R. Pesch, với chỉ thị này Giêsu muốn đặt nền tảng cho nguyên tắc sai đi của Ngài. Nguyên tắc đó là gì vậy?
“Không được mang gì đi đường”, nghĩa là phải từ bỏ của cải và không còn có nhu cầu gì cả. Đó là nguyên tắc rất triệt để. Như vậy, trong bối cảnh xã hội thời đó, thì người môn đệ của Giêsu còn phải triệt để hơn cả những nhà triết gia Kyniker, những nhà thuyết giảng khắc khổ đi khắp mọi nơi. Và khi các triết gia Kyniker đi, thì họ không có nhu cầu gì cả, nhưng họ có đem theo gậy, túi xin tiền và chiếc áo mantel giành cho nhà triết gia. Còn các môn đệ của Giêsu thì có gậy đấy, nhưng không có túi xin tiền hay ba lô hay túi ngủ gì cả, và cũng chẳng có tiền buộc bụng, đến cả của ăn đàng cũng không có nữa. Dù vậy, có áo, nhưng chỉ là một thôi chứ không phải là hai hay là ba.
Nhưng tại sao lại phải từ bỏ những vật dụng đó?
Không mang lương thực đi đường, không bánh trái gì cả. Điều này còn vượt trội hơn các triết gia khắc khổ Kyniker thời đó, vì khi họ ra đi thì họ đem theo bánh, trái vải và bình nước. Như vậy, người loan báo tin mừng của Đức Kitô sẽ hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, và cũng tự do và khiêm nhường đón nhận tất cả những gì anh chị em ban cho mình. Ai cho ăn gì thì ăn nấy. Ai cho ly nước thì uống nước, ai mời tách trà thì sẵn sàng ngồi lại nhâm nhi. Thật đơn sơ và giản dị.
Giản dị hơn nữa, khi chẳng đem theo bao bị, chẳng có ba lô trên vai. Rũ bỏ tất cả. Tự do hoàn toàn. Không vương vấn điều gì, không giữ lại sự gì cả. Như vậy, thì không chỉ chân rảnh, mà tay cũng rảnh, người cũng nhẹ và đầu óc cũng trở nên trống rỗng hoàn toàn, để tất cả cho Tin Mừng mà thôi.
Tất cả vì Tin Mừng nên tiền bạc cũng chẳng màng tới. Và nhờ vậy mà tránh được biết bao nhiêu phiền toái tiền bạc có thể gây ra. Không tham lam, không thu gom, không cất giữ, đỡ phải mệt mỏi ôm đống tiền trong lòng, đỡ phải phí phạm chẳng đáng gì. Hơn nữa, trong xã hội Đông Phương thời đó, thì khi không mang tiền bạc trên mình, sẽ tránh được sự trấn lột của kẻ cướp qua đường.
Thật là tuyệt, nếu tự do hoàn toàn với tiền bạc, tự do với thế lực của đồng tiền mà người đời thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được.”
Vật được mang theo là gậy và dép, còn áo thì chỉ một cái thôi nhé!
Tại sao vậy? Cây gậy ở đây là vật dụng cần thiết cho người lữ hành, cho người giảng thuyết phải đi khắp mọi chốn để loan báo tin vui. Với cây gậy trên tay chứ không vũ khí nào khác, người giảng thuyết xuất hiện rất đơn sơ và giản dị trước mọi người. Không ai phải sợ sệt người giảng thuyết cả, và người rao giảng Tin Mừng cũng không cần phải hãi sợ ai hết: “Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng. “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 26-28a) Và người rao giảng sẽ “không phải chết, nhưng sẽ sống, để loan báo những công việc CHÚA làm.” (Tv 118,17)
Dép được nhắc ở đây chính là Sandalion, tiếng Hy-lạp là sanda,lion, có thể mường tượng như giày Sandal có quai như hiện giờ, là một vật dụng cần thiết cho người rảo bước khắp mọi nơi loan báo Tin Mừng. Sandal được sử dụng rất thường trong xã hội Do-thái thời đó, và rất cần thiết cho những chặng đường dài, từ miền đất này qua miền đất khác. Cũng nên nhớ rằng, ở Ít-ra-en có những miền đất sa mạc rất khô cằn và nóng, vì thế Sandal thực là cần thiết. Còn khi đi chân không, thì đó là dấu hiệu của sự tang tóc và chay tịnh. Vâng, người rao giảng tin vui đâu có ăn chay, đâu có mang tang tóc, vì thế cần phải đi Sandal vào, và như vậy thì mới khỏe khoắn nhanh nhẹn rảo bước, sẵn sàng lên đường đi bất cứ nơi đâu, đến với bất cứ ai đang cần đến Tin Mừng.
Ngoài Sandal và gậy ra, người loan bao tin vui được phép mang theo áo, nhưng chỉ một mà thôi. “Áo” ở đây dịch từ ngữ Hy-lạp citw,n (chitòn). Theo từ điển chú giải Tân Ước của Horst Balz và Gerhard Schneider, thì áo này là một loại áo dài bằng vải thô hay len, dài có thể tới đầu gối che thân mình trên và thân mình dưới, có cả hai loại tay ngắn và tay dài.
Ngoài ra, theo Adolf Pohl, trong xã hội Đông Phương thời đó, quần áo là dấu hiệu nói về sự giàu sang phú quý. Người giàu sang là người có nhiều quần áo, trong khi người nghèo khổ chỉ có mỗi một chiếc áo che thân. Để khoe khoang và muốn mọi người tiếp đón mình đàng hoàng, người giàu có thường thay đổi áo và mang trên mình nhiều áo khác nhau. Nhưng cũng vì sự khoe khoang này, mà họ trở thành nạn nhân của kẻ cướp đường.
Người loan báo tin mừng của Giêsu không cần phải khoe khoang, không cần phải sửa soạn nhiều, không cần phải mang áo có hiệu vào mình. Vâng, khi mọi người chẳng sợ hãi gì trước người loan báo tin mừng, thì cũng thế, không ai phải ganh tị với người loan báo tin mừng về áo quần cả.
Như vậy, tinh thần của người loan báo tin mừng là trở nên tự do hoàn toàn với mọi thứ. Mọi thứ đều trở thành thứ yếu. Chỉ có Tin Mừng, Nước Thiên Chúa và ơn cứu rỗi cho mọi người là tất cả. Không có gì hơn cả. Cả quần áo, cả tiền bạc, cả lương thực, cả balô. Vâng, nói theo tinh thần của thánh I-nhã, thì người môn đệ của Chúa cần phải trở nên bình tâm và tự do hoàn toàn, để luôn sống theo thánh ý Chúa, và luôn ao ước được trở nên nghèo khó như Đức Kitô, Vị Giảng Thuyết đơn sơ nghèo hèn, nhưng đem lại biết bao nhiêu ơn lành cho mọi người.
“Người bảo các ông: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi.”
Sau các chỉ thị về việc từ bỏ tất cả những gì không cần thiết để lên đường, Giêsu căn dặc các môn đệ thêm hai nguyên tắc, khi đi đến với những người mà họ rao giảng. Điều thứ nhất liên quan đến lòng hiếu khách và đón tiếp. Trong tục lệ Do-thái, sự hiếu khách đóng một vai trò quan trọng. Sự hiếu khách hứa hẹn sự chúc phúc, và còn là sự tha thứ cho người lầm lỡ. Ngay cả đối với kẻ thù, thì cũng khó lòng mà từ chối không đón tiếp. Về phía khách, ở đây là những người rao giảng tin vui, thì không được phép thay đổi chỗ ở tùy ý. Trong ý nghĩa mà Mác-cô diễn tả ở đây, có thể việc rao giảng và xây dựng một cộng đoàn đòi hỏi nhiều thời gian, nên không không được thay đổi chỗ ở liên hồi. Trong khi Tin Mừng chưa “đâm rễ” vào lòng người, vào cộng đoàn, thì cần phải ở lại.
“Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.”
Nguyên tắc thứ hai ở đây liên quan đến sự từ chối, không đón tiếp, không lắng nghe của chủ nhà. Khi chối từ người rao giảng và sứ điệp anh ta đưa lại, là chối từ chính Đấng sai anh ta. Sự chối từ đem lại hậu quả. Như trong phản ứng của Giêsu với những người Na-za-réth, Giêsu nói với các môn đệ mình hãy đi ra khỏi đó, và giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ. Thái độ giũ bụi này trong xã hội Do-thái thời đó, được người Do-thái làm, mỗi lần họ từ đất dân ngoại trở về lại biên giới của đất thánh. Theo truyền thống của các Rabbi, thì bụi đó có thể sẽ làm ô uế. Vì vậy, họ muốn tẩy rửa và giũ lại tất cả những gì dơ bẩn.
Theo các nhà chú giải, thì trong đoạn phúc âm này, thái độ giũ bụi chân là biểu tượng của chứng từ mà người rao giảng tin mừng để lại, và hy vọng có ngày người chối từ Tin Mừng sẽ suy nghĩ lại, tự chất vấn lại thái độ của mình đối với Tin Mừng và đối với Đấng là chủ của Tin Mừng.
“Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.”
Nhóm Mười Hai ra đi theo lời sai đi của Giêsu, và họ đã làm được nhiều điều tốt lành. Cụ thể họ đã ra đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Không chỉ thế, với quyền trừ quỷ mà Giêu đã trao, họ đã trừ được nhiều quỷ. Mác-cô lại làm nổi bật điều này, để qua đó nói lên quyền năng của Thiên Chúa trên thần dữ. Quyền năng giải thoát con người khỏi bóng đêm. Thêm vào đó họ đã xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
Như vậy, khi ra đi theo lời kêu gọi của Đức Kitô, và sống đúng theo chỉ thị và tinh thần của Ngài, các môn đệ đã cùng với Đức Kitô đem lại Tin Mừng cho rất nhiều người, và qua đó họ nhận được sự tự do làm con cái Thiên Chúa, sự tự do với bình an và niềm vui sống mà mọi người có thể tìm thấy trong Nước Trời.
12. Những lời căn dặn cho việc thi hành sứ vụ.
(Suy niệm của Camille Gagnon)
Hôm nay, xin anh chị em cho phép tôi giảng một bài hơi nhẹ nhàng một chút, một bài giảng cho kỳ nghỉ hè. Tôi muốn nói về gia đình Tremblay tuần rồi đã đi cắm trại lần đầu tiên ra sao.
Điều khiến tôi nói về gia đình này, là Tin Mừng bảo rằng “Lần đầu tiên” Chúa Giêsu sai các môn đệ, từng hai người một, đi rao giảng, và để giúp họ, Ngài dặn dò họ ngay trước lúc lên đường. Tôi không biết các môn đệ có hiểu rõ và nghe theo những lời dặn dò này không, nhưng tôi biết rằng gia đình Tremblay đã không hiểu và không tuân theo, và họ là làm hỏng kinh nghiệm cắm trại của mình. Và khi nói về kinh nghiệm cắm trại của gia đình Tremblay, tôi sẽ nói một chút về các bạn và tôi.
“Đừng mang theo hành lý cồng kềnh”.
Lời căn dặn đầu tiên của Chúa Giêsu thật rõ ràng: “Đừng mang theo hành lý cồng kềnh”. Vì ông Tremblay không biết điều gì sẽ xảy ra nên ông đã chuẩn bị mọi sự: Hai túi ngủ cho mỗi người, những cây cọc để cắm lều, những chiếc ấm lớn nhỏ, thùng dụng cụ, v.v… Đối với ông Tremblay thà chen chúc nhau trong lều còn hơn là thiếu bất cứ món gì. Cuối cùng ông hầu như đã dọn hết đồ đạc trong nhà đi và đã phải bận rộn chuẩn bị đồ đạc cả tuần.
Một người quen cắm trại, sẽ khôn ngoan hơn. Ít nhất họ biết phải tránh mang theo những hành lý vô ích. Họ đã hiểu ý nghĩa thật của lời Chúa Giêsu căn dặn. Khi nhìn ông Tremblay họ thấy được yếu điểm của ông. Trước một công việc đòi hỏi phải dẹp đi mọi nhu cầu không cần thiết ông lại sợ phải bỏ đi những thói quen và những bảo đảm cho cuộc sống của mình. Thật ra ông Tremblay nghi ngờ rằng việc cắm trại sẽ không lấp đầy được cả một tuần lễ nghỉ ngơi, và ông nghĩ sẽ buồn chán khi thiếu tiện nghi. Thế là, bị kẹt trong đống đồ đạc lỉnh kỉnh của mình, ông không còn thảnh thơi để có được những ngày nghỉ ngơi thực sự nữa.
“Đừng đi lăng xăng khắp nơi!”.
Lời căn dặn thứ hai là đừng đi lăng xăng khắp nơi. Nhưng cả ở điểm này nữa, bà Tremblay đã không thành công. Tuy nhiên, bà đã có ý tốt. Đối với bà, trong tuần cắm trại đó sẽ có dịp gặp gỡ nhiều người và bà cũng nghe nói rằng khi đi cắm trại người ta rất tử tế và dễ làm quen. Vậy nên bà không ngồi đấy mà chờ đợi: Bà vội vã đi bước trước, mỗi ngày bà đi thăm hết mọi người, những chẳng tiếp xúc với ai lâu. Cuối tuần, bà đã “quen biết” nhiều người, nhưng lại có ít bạn bè. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã nói: “Khi các con được đón tiếp vào nhà nào thì ở lại đó cho đến lúc ra đi!”. Điều này có vẻ ngộ nghĩnh. Hiển nhiên là phải ở nơi nào đó trước khi ra đi. Nhưng, suy nghĩ một chút, ta thấy rằng ta có thể ở nơi nào đó mà không hiện diện, không bao giờ ở với ai cả. Điều này cũng có nghĩa là chỉ có một cách để tạo nên những mối liên hệ thực sự với kẻ khác: Đó là dừng lại, đừng bỏ đi ngay khi vừa gặp sự khó chịu nào đó và đừng sợ làm quen. Chúa Giêsu bảo: Với thái độ ấy làm sao các con có thể loan báo Thầy. Nói về Thầy thế nào nếu không tạo được những cuộc gặp gỡ thực sự? Nếu các con chỉ chạy vội hết nơi này đến nơi khác?
Cuối cùng đừng luyến tiếc gì cả.
Bọn trẻ nhà Tremblay trở về rất thất vọng. Chúng cứ tưởng sẽ gặp được nhiều bạn trẻ cùng lứa tuổi với chúng; dụng cụ thể thao cũ rích; huấn luyện viên về bơi lội bị ốm hai ngày, hai ngày đẹp trời nhất, v.v… Chúng đã mong một cái gì mới mẻ, nhưng bây giờ chúng chán cắm trại lắm rồi. Từ nay chúng đã biết cắm trại chẳng thích thú gì cả. Từ lúc về nhà chúng cứ luyến tiếc mãi những ngày đi chơi thất bại.
Điều Chúa Giêsu căn dặn cuối cùng là: “Nghe đây! Nếu các con đã thất bại ở nơi nào đó, thì hãy bỏ đi và để lại tất cả đàng sau mình, nhất là đừng luyến tiếc gì cả. Vì chúng sẽ chỉ ngăn cản các con bắt đầu lại công việc cách tốt hơn mà thôi”.
Tóm lại sứ vụ của các môn đệ, cuộc đời của chúng ta, và cuộc cắm trại của gia đình Tremblay lại chẳng cần những lời căn dặn này sao: “Hãy siêu thoát đối với bản thân; hãy dừng lại để thiết lập những mối liên hệ thực sự; và hãy quên đi những luyến tiếc để bắt đầu lại cách tốt hơn”.
13. Thiên Chúa nói qua trung gian
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Thiên Chúa luôn làm việc. Ngài trực tiếp tác động nơi tâm hồn mỗi người, và Ngài cũng sai một số người đặc biệt để nói với con người của mọi thời đại. Mỗi một người rao giảng đều phải là người đã biết lắng nghe và vâng nghe Lời Chúa trong đời sống.
I. Amos đã được sai để nói nhân danh Thiên Chúa cho dân Ngài
Con người là tạo vật được yêu thương. Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, Ngài mong ước con người sống hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Khi cần can thiệp để hướng dẫn dân một cách đặc biệt, Thiên Chúa dùng các tôi tớ Ngài, cụ thể là các tiên tri. Sách tiên tri Amos cho thấy tiên tri Amos không phải là tiên tri “chuyên nghiệp”, nghĩa là, Ngài không thuộc nhóm tiên tri, hoặc con cháu tiên tri. Ngài là một người chăn cừu, người đi hái trái sung, nhưng đã được Thiên Chúa gọi đi nói tiên tri, đi làm ngôn sứ.
Tiên tri Amos đã được Chúa sai tới nói với dân ở phía bắc, tại đền thờ ở Bethel, nên đã bị tư tế Amaziah đuổi: “hãy cút đi, hỡi nhà thị kiến, hãy trở lại đất Juđa mà nói tiên tri, mà kiếm cơm ở đó”. Amos không là người kiếm cơm bằng nghề tiên tri, thầy chiêm, bói toán. Amos được Thiên Chúa gọi để làm ngôn sứ, nói với dân nhân danh Thiên Chúa. Amos đã đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, ông đã tới miền bắc để nói tiên tri, để loan báo những gì sắp xảy ra cho dân, để cho dân biết rằng Thiên Chúa vẫn yêu thương dân; những tai họa sắp xảy tới là do nhà vua và dân chúng phía bắc đã không tuân giữ giao ước của Thiên Chúa. Nếu vua chúa và dân không nghe, không đổi đời, thì sẽ có tai họa xảy tới, sẽ bị mất nước. Khi rao giảng như vậy, dĩ nhiên vua chúa và đa số dân chúng thuộc vương quốc phía bắc không đồng ý. Người ta muốn nghe điều tốt lành, chứ không ai muốn nghe nói tai họa sẽ xảy ra. Tư tế Amaziah của đền thờ tại Bethel đã trục xuất tiên tri Amos và không cho ông rao giảng nữa.
Tiên tri, là người của Thiên Chúa. Amos đã vâng nghe Chúa, đáp trả lời mời gọi của Ngài. Ông đã bỏ nghề, đã đi tới vùng đất xa lạ và thậm chí nói cả điều mà chính ông cũng biết sẽ không được người ta chấp nhận. Những nhà tiên tri “chuyên nghiệp”, kiếm cơm bằng nghề bói toán (thầy chiêm, tiên tri) sẽ không dám nói mất lòng dân chúng vì như vậy đâu có kiếm cơm được. Nhiều tiên tri “thật” trong lịch sử đã phải khốn khổ vì đã nói lên sự thật, đã làm điều mà nhiều người cho là ngu dại. Một tiên tri đúng nghĩa, là người của Thiên Chúa, vâng theo Chúa bất chấp những gì xảy tới cho mình.
II. Đừng mang theo gì cả trừ cây gậy
Sau khi nhận phép rửa tại sông Yordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày trong hoang địa, đã rong ruổi rao giảng khắp đất nước Do Thái. Khi đi rao giảng, Đức Giêsu không có gì ngoài chính con người của Ngài. Ngài không sợ đói, không sợ vất vả, không sợ phải màn trời chiếu đất (Mt.21, 18; Lc.21, 37). Đức Giêsu chấp nhận tất cả, Ngài chỉ có sứ mạng phải nói với dân chúng, và chính Ngài đang là Lời cho dân chúng qua cách sống và cách ứng xử của Ngài.
Đức Giêsu cũng sai các tông đồ đi rao giảng. Có lẽ Ngài đang huấn luyện các tông đồ cho sứ vụ tương lai. Ngài ban cho các ông quyền trên thần ô uế, sai các ông đi từng đôi một, dạy các tông đồ đừng mang gì cả ngoại trừ cây gậy. Hành trang của một người tông đồ rất đơn giản: không trang bị lương thực, không bao bị rương hòm, không hai áo! Chả có gì phải bận tâm ngoại trừ chính sứ điệp phải rao giảng.
Người tông đồ của Chúa không chọn ở chỗ này chỗ kia vì được tiện nghi hay kính trọng, nhưng cố gắng diễn tả tính thành tín của Thiên Chúa bằng việc ở tại nhà nào thì ở lại đó cho tới khi ra đi. Nếu người ta không nghe, thì hãy ra đi và không mang theo gì cả, kể cả bụi chân, cũng không ra đi với lòng hận thù hay nguyền rủa. Người của Thiên Chúa mang bình an tới, nhưng nếu người ta không đón nhận, nghĩa là họ không đủ điều kiện để sống bình an, thì người tông đồ của Chúa cũng chấp nhận họ như Thiên Chúa đã chấp nhận họ.
III. Người được sai cũng là quà tặng của Thiên Chúa cho con người
Thiên Chúa tạo dựng con người qua Lời của Ngài. Thiên Chúa ban cho con người tự do. Qua lương tâm, Thiên Chúa mời gọi con người sống vươn lên từng ngày, từng giây phút sống trọn vẹn trong yêu thương, để thành con cái yêu quý của Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình yêu thương con người, Thiên Chúa đã sai Lời Ngài đến ở giữa con người, thành một người rất cụ thể là Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu đã sống trọn vẹn thân phận con người, Ngài cũng phải chọn lựa từng ngày, từng hành vi để thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu không là một người giầu có về vật chất tiền bạc, Ngài không là một người có địa vị chức quyền, Ngài trắng tay như bao người nghèo khác. Ngài chỉ có Thiên Chúa là Cha, và sống trọn vẹn cho Thiên Chúa mỗi ngày.
Thiên Chúa muốn ban tất cả cho con người, không chỉ là sự hiện hữu của mỗi người; nhưng Ngài còn muốn ban cho con người tất cả trong Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là mẫu gương, để mỗi con người nhìn vào và dõi theo, để sống yêu thương và hạnh phúc từng ngày. Đức Giêsu là quà tặng vô cùng quý mà Thiên Chúa đã trao ban cho con người. Qua Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người biết bao, Thiên Chúa sẵn sàng cho con người tất cả trong Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là tất cả, diễn tả tất cả những gì Thiên Chúa muốn cho con người.
Đức Giêsu Kitô là điều gì vô cùng mới, theo thánh Phaolô, được dấu kín từ muốn thuở nay được tỏ lộ. Đức Giêsu Kitô là mặc khải tuyệt vời của Thiên Chúa. Với Đức Giêsu Kitô, người ta hiểu hơn Thiên Chúa là ai, là Đấng yêu thương con người đến độ nào, là Đấng có nhiều sáng kiến tuyệt vời như thế nào để yêu thương con người. Đức Giêsu đúng là Lời của Thiên Chúa, là mặc khải của Thiên Chúa cho con người, là bảo chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu là bình an của con người, hiểu theo nghĩa, qua Đức Giêsu con người biết Thiên Chúa yêu thương mình vô cùng, đến độ mình có thể phó thác tất cả cho Thiên Chúa và sống bình an.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có nghĩ rằng bạn là người được Thiên Chúa sai để làm điều gì chăng? Nếu có xin chia sẻ.
2. Theo bạn, Đức Giêsu được sai tới để làm gì? Ngài có làm trọn sứ mạng của Ngài không?
14. Lời dặn dò cần thiết
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện, bằng cách cho các môn đệ được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thực tập truyền giáo. Hai động từ “gọi, sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các Tông đồ. Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông đồ. M. Quesnel ví những lời đó như “một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo” (“Comment lire un évangile?”, Seuil, trang 103).
1. Hành trang người tông đồ
a. Hành trang đi đường: cây gậy, đôi dép, không mang hai áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.
Các môn đệ được tham dự vào ba chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của tư tế.
- Cây gậy
Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.
- Đôi dép
Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân. Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.
- Tấm áo
Người ra đi mang áo là mặc lấy tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa Kitô.
Chúa Giêsu trao cho các ông những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang quan trọng hàng đầu. Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.
b. Phương tiện sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chúa muốn.
c. Tương lai bấp bênh. Chúa Giêsu cũng không giấu diếm họ điều gì. Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ như lời Thánh phaolô nòi: Tôi trồng, Apollô tưới, Chúa cho mọc lên.
Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ...và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi. Lên đường bao giờ cũng đẹp. Hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.
2. Phương thức hoạt động:”từng hai người một”
Khi sai đi “từng hai người một “, Chúa Giêsu mong các ông hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy” (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của Chúa (x. Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người khác.
Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền giáo thường lên đường với nhau “từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22)... Hoạt động tông đồ luôn là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.
3. Tinh thần tông đồ là ra đi
Trao “Sứ vụ” cho các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông “phải giảng điều gì”. Ngài chỉ căn dặn các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với Chúa Giêsu, ra đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.
Suốt mấy năm ra mặt với đời để thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước để truyền giáo. Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23). Đôi khi ở ngoài trời, ở ngoài đường. Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí. Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình liên miên. Theo ngôn ngữ của Phúc âm Marcô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan, rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum... Ngài ngang qua đồng lúa... Cứ đi và đi như vậy mãi.
Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Chúa bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống. Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng. Cánh huệ mọc ngoài đồng. Đàn chim sẻ đang bay. Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời. Một mẻ cá lớn bên biển hồ. Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá. Một đàn cừu người chăn lùa về buổi chiều tối. Từng tảng đá, từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối để vất đi. Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá...
Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận... Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20). Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho mình. Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn: “Sáng đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43).
Như thế, suốt đời Chúa Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài đang sống.
Chúa Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng. Bị điệu đến Hanna rồi Caipha. Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm đường trên con đường “công lý” của loài người.
Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh trên thập giá. Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật, niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66).Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.
Sau khi phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin mừng.
Hoàn thành sứ mạng, “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. (Mt 28,20).
Chúa Giêsu gọi các môn đệ và “thiết lập Nhóm Mười Hai” để họ ở với Ngài và để Ngài sai đi. Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân. Ra đi là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ.
Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.
Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi.
Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin Chúa giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa. Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.
15. Dự định của Cha dành cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” – Charles E. Miller)
Trước khi một tòa nhà được xây dựng, kỹ sư phải hoàn thành bản vẽ. Trước khi một đội bóng đá chuyên nghiệp đến một sân nào thì người huấn luyện viên đó phải có một chiến thuật. Vậy trước khi chúng ta làm một việc gì, phải ý thức về cuộc sống của chúng ta, chúng ta cần phải có một bản thiết kế; cần phải biết chiến thuật của chúng ta là gì.
Chúa Giêsu đã giới thiệu dự định đó trong lúc Ngài ở đây trên mặt đất này, Ngài đã gởi mười hai tông đồ đi trước Ngài trong công cuộc rao giảng, và Ngài tiếp tục rao giảng ngày hôm nay xuyên qua Giáo Hội, tuy nhiên sự thật là dự định của Thiên Chúa không phải là một chân lý lầm lạc hoặc là một ý tưởng xa vời. Dự định của Thiên Chúa là một con người, con người đó là người Con của Ngài, Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu thì giống như là một bản thiết kế đã được mang lấy xác. Chúa Giêsu là chương trình dự định cho đới sống của chúng ta.
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô giải thích dự định mà Thiên Chúa Cha đã hài lòng nơi Đức Kitô, Đấng đã mang hết tất cả mọi sự trên trời dưới đất vào trong quyền thủ lãnh của Đức Kitô. Đức Kitô là Đầu và chúng ta là chi thể của thân mình Ngài. Thân thể mầu nhiệm của Ngài là Giáo Hội, thân thể phải đươc trở nên giống như Đầu.
Bởi vì chúng ta là một với Đức Kitô ở trong Giáo Hội, chúng thông dự vào mối quan hệ của Người với Cha. Vì Người là người Con đời đời của Cha, trong ba ngôi, như thế chúng ta cũng trở thành con cái của Thiên Chúa trong Giáo Hội. Thiên Chúa cũng là một gia đình gồm Cha và Con được hợp nhất trong một Thánh Thần. Giáo Hội là một gia đình thiêng liêng ở trên mặt đất này. Chúng ta được sinh ra trong gia đình này qua phép rửa và phép thêm sức và được củng cố như là con cái của Thiên Chúa qua việc xức dầu của Thánh Thần.
Thánh Phaolô đã viết: “Chúng ta đã được đóng ấn bằng Thánh Thần. Sự diễn tả này ám chỉ lối thực hành của một vị vua hoặc của những người khác, họ đã ấn chiếc nhẫn của mình trên sáp nóng và sau đó đóng dấu ấn vào một bức thư hoặc một văn kiện quan trọng để làm bằng chứng xác thực. Khi người ta nhận thấy con dấu của vua, người đó biết rằng tài liệu này là xác thực. Chúa Thánh Thần cũng xuyên qua bí tích Thêm sức đã in dấu trên linh hồn chúng ta để xác định chúng ta thật sự là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta thật sự là như thế”
Mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa trong Giáo Hội kêu gọi chúng ta đáp trả bằng hai cách. Cách đầu tiên là phụng vụ. Thánh Phaolô đã nhấn mạnh rằng chúng ta phải ngợi khen đặc ân của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta qua người Con Yêu Dấu của Ngài: “Chúng ta đươc tiền định để ngợi khen vinh quang Ngài”. Chúng ta làm viên mãn sự đáp trả này chính yếu là trong phụng vụ thánh, lời cầu nguyện của chúng ta được vươn cùng Giáo Hội. Cái đáp trả thứ hai là “cố gắng trở nên thánh thiện và không tì tích trước ánh nhìn của Thiên Chúa, được tràn đầy tình yêu”. Lối đáp trả thứ hai được chỉ định như là cách chúng ta sẽ sống. Nó có nghĩa là chúng ta phải trở nên giống Đức Kitô, không chỉ trong hữu thể của mình nhưng còn trong tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta nữa.
Bởi vì Đức Kitô là bản vẽ, là kế hoạch cho đời sống chúng ta, nên phụng vụ không mệt mỏi để giới thiệu Phúc âm cho chúng ta trong mỗi Thánh Lễ. Trong suốt ba năm và Chúa nhật, chúng ta được nghe Lời của Chúa trong bốn Phúc âm. Tất cả các sách Phúc âm đều giúp chúng ta chứng kiến hành động của Chúa Giêsu. Chúng ta thấy bản vẽ của chúng ta, Con Thiên Chúa đã sống như một con người thế nào. Chúng ta cũng được giới thiệu lý tưởng để sống đúng. Trong việc lãnh nhận Thân Mình và Máu của Chúa trong bí tích Thánh Thể, chúng ta được làm cho mạnh sưc1 để có thể theo được kế hoạch của Thiên Chúa dành cho chúng ta: “ Hãy ngợi khen Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã ban cho chúng ta trong Đức Kitô mọi phước lành thiêng liêng trên trời”.
16. Giáo huấn bằng các việc làm thực tập.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Trước hết là một vài điểm chi tiết để hiểu đoạn văn dễ dàng hơn:
- Nhóm 12 là 12 tông đồ. Đức Giêsu sai họ đi từng hai người một, để họ có thể nâng đỡ nhau. Cũng có thể là để làm chứng vì luật Do thái về việc làm chứng đòi hỏi có hai người.
- Chiếc gậy là vật trợ giúp thông thường cho những người đi đường. Chúa cấm mang bị. Có lẽ Ngài ám chỉ đến cái bị của các kẻ hành khất làm giàu nhờ của xin được ở các nơi thờ phượng ít nhiều có khuynh hướng ngẫu tượng. Người ta biết rằng trong lịch sử Giáo hội đã có xuất hiện các dòng hành khất. Để tránh những lạm dụng, Giáo hội luôn đề phòng sao cho việc hành khất khỏi lìa xa đối tượng của nó: việc sinh sống, giúp đỡ kẻ nghèo và các việc truyền giáo. Những lúc nẩy sinh các lạm dụng là những giai đoạn xuống dốc: các dòng tu và hàng giáo sĩ không thực hành đức nghèo khó của người môn đệ. Ngược lại người ta biết đến sự phiêu lưu phan sinh (dòng hành khất đầu tiên do thánh Phanxicô Assisi sáng lập), đã đem lại cho Giáo hội sự canh tân Phúc âm.
- Đi đường với hai áo là dấu chỉ của người giàu di chuyển bằng ngựa.
- Đức Giêsu sai các môn đệ và nói họ cậy trông vào sự tiếp đãi của dân chúng. Sự tiếp đãi đó thuộc phong tục của thời đại và mặc lấy tính cách một bổn phẩn của thành phố và làng mạc với tư cách tập thể cũng như cá nhân.
- Phủi bụi chân ám chỉ một tập tục. Người Do thái từ một nước ngoại giáo trở về hay từ một nơi chốn dơ bẩn mà đến, phải phủi bụi chân để khỏi pha trộn đất bị bẩn và đất thánh thiện của xứ Giavê.
Hai câu hỏi được đặt ra:
1) Tại sao Đức Giêsu sai nhóm 12 đi rao giảng? Thưa vì lý do sư phạm. Đức Giêsu muốn giáo dục các mônd đệ. Và sự giáo dục bao hàm một phần thực tập. Các môn đệ đã nghe Đức Giêsu rao giảng. Nhưng người ta chỉ học tốt điều người ta kinh nghiệm, điều người ta thực hành. Sai họ đi rao giảng, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ có được hai kinh nghiệm: Kinh nghiệm sống sự sám hối mà họ rao giảng và kinh nghiệm cảm thấy sự bất túc của con người và vì thế cần phải cầu xin Chúa trong khi chu toàn sứ vụ tông đồ của mình.
Đức Giêsu cũng muốn huấn luyện nhóm 12 về điểm bất vụ lợi tuyệt đối, thật cần thiết cho việc tông đồ đích thật. Cho nên Ngài đòi hỏi phải từ bỏ tất cả những gì không cần thiết cho đời sống. Nhất là Ngài muốn cho họ được cái kinh nghiệm này là: sự từ bỏ chắc chắn sẽ lôi kéo sự quan phòng của Chúa Cha. Con người tự hạn chế về của cải vật chất vì tình yêu đối với TC và để sẵn sàng phục vụ ơn cứu rỗi sẽ không thiếu điều cần thiết.
2) Đức Giêsu gọi 12 tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền... Ngay từ lúc đầu trong đời sống CHUNG với Đức Giêsu, các tông đồ kinh nghiệm rằng Thầy họ sai họ đi. Sứ vụ tông đồ tương lai của họ có được tính cách xác thực cũng là nhờ một nguồn gốc: được Đức GIêsu sai đi rao giảng. Ngày ngay chúng ta nói: Giáo hội là Tông truyền. Điều này có hai nghĩa: trước nhất là xuyên qua các Giám mục, Giáo Hội lên đến các Tông đồ, kế tiếp là các Tông đồ được chính Chúa Kitô sai đi và ban quyền hành. Chúng ta có thể rút ra một hệ luận. Nếu ai muốn đến và nhân danh Phúc âm mà nói với chúng ta, chúng ta hãy xem họ có ở trong hàng ngũ tông truyền không, nghĩa là họ có được sự ủy quyền của các người kế vị các Tông đồ, các Giám mục cùng với Đức Thánh Cha ở đàng đầu không. Đây thật là một điều kiện tối cần thiết để bảo đảm rằng qua lời nói và việc làm của họ, họ có được ơn huệ của Đức Kitô không.
17. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Nếu các ngôn sứ là những người nói thay cho Thiên Chúa trong thời Cựu Ước, thì các Tông đồ là những ngôn sứ của Chúa Kitô và được Người sai đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật trước đã nói với ta về những đặc nét của ngôn sứ trong Cựu Ước, đồng thời cũng giới thiệu cho ta vị Ngôn Sứ Con Thiên Chúa là Đức Kitô. Bài Tin Mừng hôm nay là những lời Chúa Giêsu căn dặn các Tông đồ trước khi sai họ lên đường thực tập việc rao giảng.
1. Ông A-mốt, một nông dân được kêu gọi làm ngôn sứ (bài đọc Cựu Ước – A-mốt 7,12-15)
Câu truyện ngôn sứ A-mốt bị tư tế A-mát-gia sỉ nhục và xua đuổi, cho ta hiểu đâu là điều giúp ta nhận ra một ngôn sứ đích thực. Vốn là một nông dân chỉ biết miệt mài với công việc chăn nuôi và trồng cây, ông A-mốt không hề nghĩ một ngày nào đó Thiên Chúa sẽ gọi ông làm công việc của một vị ngôn sứ. Đáp lời gọi của Chúa, ông rao giảng ở miền bắc vương quốc Ít-ra-en, dưới thời Gia-róp-am II (783-743 trước công nguyên). Với tính tình chất phác của người nông dân, lời giảng của ông giản dị, dễ hiểu, nhưng cũng hết sức mạnh mẽ và thẳng thắn. Chính những lời ông cảnh cáo tội ác của mọi giới trong Ít-ra-en đã khiến cho các nhà lãnh đạo khó chịu và không muốn thấy ông hiện diện tại miền đất của họ nữa. Do đó, A-mát-gia, tư tế đền thờ Bết-Ên, đã quyết tâm xua đuổi ông. Vị tư tế mỉa mai gọi ông A-mốt là “thầy chiêm”, danh từ ám chỉ người phục vụ các thần ngoại chứ không phải Thiên Chúa. Tệ hơn nữa, ông ta còn coi sứ vụ ngôn sứ của A-mốt là một “nghề” để kiếm ăn! Sau cùng ông ta đem cả cái nhãn hiệu “Bết-Ên, thánh điện của quân vương và đền thờ của vương triều” để dọa nạt A-mốt.
Trả lời cho vị tư tế, ông A-mốt đơn giản cho biết: ông không phải là ngôn sứ, hay nói đúng hơn, ông không muốn được người ta xưng tụng là ngôn sứ, mà chỉ là một nông dân thi hành những gì Thiên Chúa truyền dạy ông phải làm, là “đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Chúa”.
Thực thế, ngôn sứ là người đáp lại lời gọi của Chúa để thi hành một tác vụ, chứ đâu phải một nghề nghiệp hay một địa vị xã hội để vênh vang lên mặt. Ơn gọi khác với nghề nghiệp. Linh mục, tu sĩ, ngay cả những người chọn sống bậc gia đình hay độc thân đều là những người sống ơn gọi. Còn bác sĩ, luật sư, kỹ sư... là những người chọn một nghề nghiệp. Ơn gọi là để phục vụ, còn nghề nghiệp thì mục đích chính là để kiếm tiền và nếu hành nghề với lý tưởng phục vụ nữa thì càng hay biết mấy. Nếu vậy thì ngoài các linh mục tu sĩ là những người chọn việc phục vụ, ta là những anh chị em giáo dân cũng vẫn có thể phục vụ mặc dù ta cần phải có nghề nghiệp để sinh sống. Khi ta thi hành nghề nghiệp của ta cho có lương tâm, sử dụng nghề nghiệp để không những kiếm sống, mà còn giúp đỡ mọi người trong khả năng nghề nghiệp của ta tức là ta đang làm công việc phục vụ rồi đó. Ta rao giảng bằng chính công việc của ta, bằng cách giao tiếp với những người liên hệ trong đức ái Kitô, trong đức công bằng và bình an như Giáo Hội dạy. Ta sử dụng những tài năng trong lãnh vực nghề nghiệp để xây dựng cộng đồng, lo lắng cho công ích, chú tâm tới những người cần giúp đỡ về mọi phương diện... Đó là ta đang cùng một lúc vừa thi hành nghề nghiệp, vừa làm việc tông đồ, một phương thức thực tiễn nhất để chu toàn tác vụ ngôn sứ của ta.
2. Tinh thần tông đồ (bài Tin Mừng – Mác-cô 6:7-13)
Trước khi sai các Tông đồ ra đi rao giảng, Chúa Giêsu đã phải huấn luyện và đào tạo các ông. Mặc dù các ông có cơ hội “học việc” với Chúa khi các ông theo Người đi khắp nơi, các ông vẫn cần một thời gian “thử việc” sau khi nghe những lời căn dặn quan trọng của Chúa. Những lời căn dặn của Chúa hôm nay không phải là một bản đề cương chi tiết với những nguyên tắc luật lệ rõ ràng, nhưng là những lời đơn sơ nhắm nói lên tinh thần tông đồ hoặc hồn tông đồ là điều các ông cần phải có. Nên nhớ đây không phải là một “nghề nghiệp” cần phải có bản “mô tả công việc” như ta thấy nơi các sở làm, nhưng là một “ơn gọi phục vụ” Chúa mời gọi để các Tông đồ đáp lời và ra đi phục vụ.
Trước hết Chúa sai họ đi từng hai người một, để họ không lẻ loi, nhưng nâng đỡ và giúp nhau, nhất là khi gặp những gian nan thử thách. Tiếp đến, Chúa “ban quyền” cho các ông, không phải để dùng quyền đó mà hống hách nạt nộ hay áp bức người khác, nhưng là để sử dụng mà giải thoát người khác khỏi quyền lực của ác thần, bệnh tật thể xác cũng như tinh thần.
Những lời căn dặn của Chúa Giêsu nhắm đến tinh thần tông đồ và cách giao tiếp cũng như ứng phó với hoàn cảnh rao giảng. Nói đến tinh thần tông đồ hoặc hồn tông đồ là nói đến tinh thần tự do, không vướng mắc vào tiền bạc, của cải, đời sống vật chất hoặc danh vọng ở đời. Người tông đồ “không được mang gì đi đường” và chỉ độc nhất có “cây gậy và đôi dép” làm hành trang! Không mang theo gì cả, ngoài lý tưởng phục vụ, bởi vì lỉnh kỉnh với những hành trang nặng nề sẽ làm tổn thương đến lý tưởng phục vụ. Chỉ có cây gậy là lòng tín thác cậy dựa vào tình yêu cũng như quyền năng của Chúa. Chỉ có đôi dép là sức mạnh của Chúa giúp họ bền bỉ và can đảm rảo khắp nẻo đường Chúa muốn họ đi.
Về cách giao tiếp và ứng phó với hoàn cảnh, người tông đồ phải luôn thẳng thắn, đó là điều cần thiết nhất. “Khi anh em đã vào nhà nào” là cách nói ám chỉ người tông đồ đã được người ta tiếp nhận và lắng nghe. Nếu thế thì người tông đồ cứ tác vụ mình mà thi hành, “ở lại đó” mà rao giảng, mà phục vụ, mà làm khí cụ bình an của Chúa, chứ đừng làm gì đi ngược với tinh thần tự do đích thực, đừng vướng mắc bất cứ gì dù là vật chất hay tình cảm. Người tông đồ thẳng thắn khi được tiếp nhận, nhưng cũng thẳng thắn khi bị xua đuổi. Dù không được đón tiếp niềm nở hay thậm chí bị xua đuổi, người tông đồ không cay đắng nguyền rủa những người xử tệ với họ, nhưng chỉ thẳng thắn “cảnh cáo” những kẻ ấy đã không tiếp nhận Tin Mừng để hy vọng ngày nào đó họ sẽ thay lòng đổi dạ.
Lời dặn dò của Chúa Giêsu chẳng cần văn hoa hoặc đao to búa lớn, nhưng là những điều đơn sơ nhất, cần thiết nhất và thực tế nhất. Tinh thần tự do và tinh thần thẳng thắn đã đủ là hành trang của bất cứ ai muốn đáp lời Chúa ra đi rao giảng hoặc làm chứng cho những giá trị Tin Mừng. Có lẽ ta tự hỏi: vậy người giáo dân chúng tôi làm thế nào để áp dụng tinh thần tự do và thẳng thắn ấy? Thì cũng vậy thôi, nghĩa là cứ sống như một người Công giáo không để cho tiền bạc, danh vọng và quyền lực làm chủ mình. Nghĩa là cứ thẳng thắn và thành thực trong những giao tiếp, đối xử với những người chung quanh, lúc nào cũng cố gắng thực thi lời dạy “hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con” của Chúa. Như thế là ta đang làm ngôn sứ của Chúa Kitô, làm chứng nhân cho Tin Mừng của Người rồi. Thánh sử Mác-cô kể rằng các Tông đồ đã thực sự lên đường và cũng đã gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Chắc chắn việc lên đường ấy và gặt hái được những hoa trái tông đồ ấy không phải là điều không thể đối với ta, những Kitô hữu hôm nay.
3. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn ta làm nghĩa tử (bài đọc Tân Ước – Ê-phê-xô 1:3-14)
Được Thiên Chúa chọn và gọi làm ngôn sứ là một ân sủng lớn lao. Tuy nhiên được Người chọn làm nghĩa tử còn là một ân sủng lớn lao hơn nữa. Chính vì thế thánh Phao-lô Tông đồ đã cảm nghiệm ân sủng cao sâu đó, nên mở đầu thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, ngài đã dành một đoạn hết sức tuyệt vời để dâng lời chúc tụng Thiên Chúa. Thánh Phao-lô chúc tụng Chúa, vì trong Đức Kitô, Chúa đã thực hiện cho nhân loại một điều vô cùng lớn lao mà ngài gọi là “kế hoạch yêu thương”. Kế hoạch này được thực hiện đều là nhờ Chúa Kitô. Vậy trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, Thiên Chúa làm gì cho ta? Thánh Phao-lô kể ra những việc sau đây: a) Thiên Chúa đã chọn ta và muốn ta nên tinh tuyền thánh thiện (Ep 1:4); b) Thiên Chúa đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Kitô (1:5); c) Thiên Chúa cứu độ ta nhờ máu Thánh Tử đổ ra (1:7); d) Thiên Chúa đã chọn các Tông đồ làm gương mẫu đặt hy vọng vào Đức Kitô (1:11); e) Thiên Chúa đã cho ta được diễm phúc đón nghe Tin Mừng (1:13); và f) Thiên Chúa ban Thánh Thần làm bảo chứng phần gia nghiệp của ta (1:13). Tất cả những điều này đều là những điều Thiên Chúa đã “tiền định”, tức là đã có kế hoạch từ trước muôn đời. Nói như vậy tức là mọi thứ phúc họa ta gặp ở đời này chỉ là những may rủi hay trùng hợp, chứ không thể là “Chúa định”! Chúa chỉ tiền định có một điều và Chúa chỉ tiền định điều tốt thôi, đó là sắp đặt “kế hoạch yêu thương” để mong ta đáp lại, cộng tác và sau hết được cùng Người hưởng phúc trường sinh. Mà chính khi tiền định để cứu độ ta, Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyền tự do cộng tác của ta, chứ không tiền định một cách độc đoán đến độ “bắt” ta “phải” lên thiên đàng đâu!
Có khi nào trong đời Kitô hữu, ta biết dừng lại một chút để suy nghĩ về kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa và dâng lời chúc tụng Người như thánh Phao-lô đã làm không? Hay là cái điệp khúc “ta là con cái Chúa và được Người cứu độ” đã trở thành quá quen thuộc đến độ ta không còn để ý tới ý nghĩa sâu xa của nó nữa, nhất là ta quên rằng đó là một kế hoạch của tình yêu? “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20:21; xem 17:18). Chúa Cha đã sai Đức Kitô đi thực hiện kế hoạch yêu thương. Giờ đây đến lượt Đức Kitô sai ta đi làm ngôn sứ và chứng nhân cho kế hoạch yêu thương ấy bằng chính đời sống yêu thương của ta.
4) Sống Lời Chúa
Chúa Giêsu kêu gọi các thánh Tông đồ, đào tạo họ trong tinh thần truyền giáo và sai họ đi rao giảng Tin Mừng. Tất cả đều nhắm mục đích thực hiện kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chu toàn sứ mệnh và Người còn kêu gọi ta tiếp tục sứ mệnh của Người nếu ta sống tất cả những ân sủng đã lãnh nhận được từ kế hoạch yêu thương ấy. Ý thức sứ mệnh tông đồ và truyền giáo ta được chia sẻ với Chúa Kitô, ta cố gắng sống cuộc đời Kitô hữu gương mẫu, để không chỉ rao giảng bằng lời nói, nhưng bằng việc làm và qua những giao tiếp đầy tình thương bác ái với anh chị em.
Suy nghĩ: Tông đồ nghĩa là người được sai đi. Vậy tôi được Chúa sai đi tới đâu và làm gì với tính cách là tông đồ của Người? Những lời Chúa căn dặn các Tông đồ có ý nghĩa gì đối với tôi?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, nhờ Con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên; xin rộng ban cho các tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này: Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, xin cũng cho họ được hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 14 mùa Thường niên).
18. Sai nhóm Mười Hai đi rao giảng
Mãi đến lúc này Maccô mới kể cho chúng ta biết thoạt đầu Chúa Giêsu gọi vài môn đệ theo Ngài (1,16-20), sau đó Chúa Giêsu thiết lập nhóm Mười Hai để họ “ở với Ngài” và chia sẻ sứ vụ của Ngài (3,13-19). Và giờ đây Ngài mới sai họ đi rao giảng (c. 7). Nhóm Mười Hai sẽ xứng đáng với tước hiệu “tông đồ”, nghĩa là “được sai đi” thi hành sứ vụ (6,30) mà sau này họ sẽ lãnh nhận. Trong chương ngắn gọn này, xem ra Maccô đã sử dụng cuốn tiểu cẩm nang của một thừa sai hoàn hảo. Lối hành văn vấp váp không mạch lạc cho thấy rõ Maccô đã sử dụng lại một truyền thống có trước ông.
Khởi đầu Chúa Giêsu sai các môn đệ đi từng nhóm “hai người một” (c. 76). Đây không hiểu có phải là một tập tục Do Thái không? Theo luật Môsê, cần hai nhân chứng mới xác nhận được một lời khai (Đnl 19,15). Tuy nhiên con số hai cũng là biểu tượng của cộng đoàn, nghĩa là các thừa sai không làm việc đơn lẻ mà làm việc theo từng nhóm. Các Kitô hữu sơ khai đã lặp lại y hệt lối thực hành này của Chúa Giêsu. Trong công vụ sứ đồ, các thừa sai luôn luôn đồng hành từng cặp với nhau: Phêrô và Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phalô và Barnabê (Cv 13,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22b)… Chúa Giêsu cũng ban cho các thừa sai này một phần quyền năng của Ngài, đó là quyền trừ quỷ, như là một trong dấu chỉ xác thực rằng Vương Quốc Thiên Chúa đã được khánh thành.
Điều đáng nhớ trước hết: các lệnh Chúa Giêsu truyền cho các thừa sai (c. 8-9) lại là các lệnh truyền dành riêng cho khách bộ hành. Tuy nhiên, các huấn luyện ấy đặc biệt nhấn mạnh đến đức tính khó nghèo mà các thừa sai phải chứng tỏ cho mọi người thấy. Ngay cả những gì thiết yếu (như bánh mì, tiền túi) thì cũng sẽ chỉ được nhận lãnh như những quà tặng của những người được họ ghé thăm. Phong thái họ cực kỳ đơn giản giống như những lữ khách lòng không hề vướng bận (không túi xách đi đường, không áo dài để thay đổi). Ngược với Matthêu và Luca, để bước đi cho dễ, Maccô cho rằng gậy và dép là cần thiết. Vào thời đó, hầu như người ta thường đi chân không. Tuy nhiên để đi nhưng chặng đường dài, xem ra cần phải có gậy và dép. Có lẽ ở đây Maccô muốn trình bày các trợ tá của Chúa Giêsu như những “khách hành hương” luôn luôn sẵn sàng lên đường, như những kẻ được mô tả trong nghi thức lễ vượt qua: “Nịt thắt ngang hông, giầy dép xỏ vào chân, tay cầm sẵn gậy” (Xh 12,11).
Các lời khuyên liên quan đến việc tiếp đãi còn đáng ngạc nhiên hơn (c. 10-11). Là thừa sai đi rao truyền sứ điệp một cách vô vị lợi, nên họ có quyền được những gia đình mà họ ghé tiếp đón họ một cách vô vị lợi. Tuy nhiên Tin Mừng không mang tính áp đặt, mà chỉ có thể được đón nhận trong tự do. Nếu thành phố hay làng mạc nào từ chối không đón nhận thì người ta sẽ đi qua chỗ khác nhưng đồng thời vẫn tôn trọng sự từ chối đó. Ở đây Maccô mô tả lại nghi thức xưa kia thường được dùng ở phương Đông: Phủi bụi khỏi chân mình khi rời bỏ một nơi chốn thù nghịch để tỏ dấu tuyệt giao!
Giống như Chúa Giêsu (c. 12-13), nhóm Mười Hai lên đường loan báo Nước Thiên Chúa đã đến và mời gọi mọi người hoán cải (1,15). Giống như Ngài, họ cũng chứng thực lời nói của họ bằng việc ban phát những dấu chỉ để giúp người ta tin họ. Việc xức dầu trên bệnh nhân chứng thực đây là một thói quen đã có từ xa xưa. Người ta từng biết công dụng hữu ích của việc xức dầu lên thân thể. Giáo Hội về sau đã nhận ra trong tập tục này mầm giống một phép bí tích đó là bí tích Xức dầu bệnh nhân để chữa lành thể xác và tâm linh của họ (x. Gc 5,14).
Đối với chúng ta ngày nay xem ra rất cổ kính xét về mặt hình thức của nó bởi vì rõ ràng nó chịu ảnh hưởng sâu đậm của các phong tục thời xưa. Tuy nhiên tận căn nó vẫn hiện thực. Tin Mừng phải luôn luôn được cơ động mang đến khắp mọi nơi bằng những phương tiện nghèo khó. Được trao ban vô vị lợi, Tin Mừng này mời gọi lương tâm tự do đón nhân. Đây là lời nói đi kèm theo các dấu chứng sự chiến thắng của Chúa Kitô trên sự Dữ và Thần Chết. Đó chính là sứ điệp trường cửu của trình thuật rất cổ kính này.
19. Loan báo Tin Mừng.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam ghi lại tên tuổi hai vị giáo sĩ truyền giáo nổi tiếng: Đức Cha Lambert de la Motte và Đức Cha Francois Pallu. Vào thế kỷ 17, Toà Thánh đã đặt hai giám mục này làm Giám Quản Tông Toà đầu tiên ở Việt Nam: Đức Cha Lambert de la Motte phụ trách Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) kiêm Camquchia, Lào, Thái Lan. Đức Cha Francois Pallu phụ trách Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung Quốc.
Đức Cha Francois Pallu là người pháp, từ bỏ gia đình và quê hương vào ngày 3.1.1662, ngài dùng tàu buồm vượt qua Địa Trung Hải rồi men theo đường bộ một thời gian lâu dài, qua hết các nước Trung Đông, Vịnh Ba Tư, Ấn Độ mới đến Thái Lan. Năm 1670, trên đường đến miền Bắc Việt Nam, lúc đi ngang qua Huế, thuyền của ngài bị một cơn bão đánh giạt vào Philippin. Ngài bị người Tây Ban Nha bắt bỏ tù rồi đem giải về Tây Ban Nha.Với sự can thiệp của Toà Thánh, Tây Ban Nha trả tự do cho Đức Cha. Tuy phải trải qua nhiều gian khổ, nhưng tim ngài vẫn luôn sáng chói một niềm hy vọng. Ngài nói: “Tôi phải đem Tin Mừng đến tận Trung Quốc”. Vừa được trả tự do, ngài tìm mọi cách đến Bắc Kinh, và cuối cùng thân xác ngài được chôn vùi tại đây theo như ngài mơ ước. một câu nói của ngài đáng cho chúng ta ghi nhớ: “Tôi tự cho mình hạnh phúc nếu có thể đem xương cốt mình bắc một nhịp cầu tới Bắc Việt và tới Trung Quốc!”.
Thưa anh chị em, cuộc đời truyền giáo của Đức Cha Francois Pallu tại đất nước ta cũng như biết bao nhà truyền giáo khác trên thế giới gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của mười hai Tông Đồ. Chính Chúa Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai để nhóm này ở lại bên Ngài và để được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để các ông trở nên những người được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngay từ khi còn ở trần gian, Chúa Giêsu đã thấy mình đứng trước một cánh đồng mênh mông, có biết bao nhiêu người cần được nghe Tin Mừng cứu độ. Ngài thấy mình cần những cộng tác viên nhiệt thành cho công cuộc truyền bá Tin Mừng. Chúa Giêsu đã trao tất cả những gì mình có cho Nhóm Mười Hai: quyền rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ. Hoạt động của các ông là một sự nối dài và mở rộng sứ vụ của mình Chúa Giêsu.
Chia tay Thầy Giêsu, Nhóm Mười Hai lên đường. Đâu là hành trang của người tông đồ? Chúa Giêsu trả lời: “Không được mang gì khi đi đường”. Không bánh trái, không bao bì, không tiền bạc, không mặc hai áo. Như thế, các ông lên đường với tất cả sự nhẹ nhàng. Càng nhẹ nhàng thì càng dễ thi hành sứ mạng và càng được tự do hơn. Tuy nhiên sự nhẹ nhàng này thật là một thách đố. Khi người tông đồ phải lên đường với hai bàn tay trắng, không có lộ phí, không có lương thực dự trữ, lúc đó họ phải hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và lòng tốt của tha nhân. Ra đi tay trắng như thế là chấp nhận mọi bất trắc có thể xẩy ra dọc đường, nhưng cũng là đặt mình thường xuyên dưới sự quan phòng của Chúa. Chính Chúa lo mọi sự cho tôi, để tôi chuyên tâm lo việc của Chúa. Sự an toàn của tôi không dựa vào những phương tiện trần thế, nhưng vào chính Thiên Chúa.
Chúa Giêsu cũng dạy cho các ông biết thái độ phải có khi đến với dân chúng. Nếu được đón tiếp thì hãy ở lại, không tìm một nhà khác tiện nghi hơn. Người tông đồ cần có đời sống nghèo, đón nhận những gì được trao cho mình với lòng biết ơn. Nếu không được đón tiếp thì cũng không nên nản lòng. Cử chỉ giũ chân ra đi cho thấy người tông đồ chẳng hề muốn lấy đi điều gì ở nơi đã từ chối đón tiếp mình.
Anh chị em thân mến, hôm nay, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng sai chúng ta đến với thế giới. Thế giới không phải là chuyện xa xôi. Thế giới là nơi chúng ta đang sống, đang làm việc. Thế giới là gia đình, bạn bè, là trường học, cơ quan, xí nghiệp. Thế giới là nơi giải trí, nơi du lịch, bãi biển. Thế giới là sách báo, phim ảnh, video, quảng cáo. Thế giới là mọi ngành khoa học, nghệ thuật, văn chương. Chúng ta ở trong thế giới và Chúa muốn sai chúng ta đi vào thế giới của mình trong tư cách là người Kitô hữu. Kitô hữu là người có khả năng biến đổi thế giới mình đang sống để nó biến thành thế giới của Thiên Chúa. Các Tông Đồ đã rao giảng, đã mời gọi con người hoán cải để đón nhận Nước Thiên Chúa gần bên. Chúng ta cả những gì phá huỷ phẩm giá con người, loại trừ sự sống của Thiên Chúa, đều phải bị loại trừ. Kitô hữu là người phải hoán cải trước khi mời gọi người khác hoán cải, phải tỉnh thức trước khi đánh thức người khác, phải thuộc về Chúa trước khi trừ quỷ.
Thế giới hôm nay cũng là một thế giới bị thương tích, cần được chữa lành. Bệnh tật của thân xác và bệnh tật của tinh thần vẫn hoành hành trên thế giới. Con người đau khổ vì mất lòng tin, lo âu, tuyệt vọng. Con người nô lệ cho chính những sản phẩm của mình. Tiến bộ khoa học kỹ thuật lại đặt ra những vấn đề mới mà tự sức con người không giải quyết được. Kitô hữu là người tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, băng bó vết thương của thế giới bằng sự hiện diện đầy yêu thương.
Chúng ta không rõ nếu hôm nay Chúa Phục Sinh chỉ thị cho chúng ta, thì Ngài sẽ nói gì trước khi ngài sai chúng ta ra đi. Chắc Ngài sẽ nói khác với đoạn Tin Mừng hôm nay, những ý chính vẫn không thay đổi. Ngài dạy chúng ta tin cậy và quyền năng của Thánh Linh hơn là vào khả năng và phương tiện tự nhiên của mình. Ngài nhắc nhở chúng ta tín thác và Cha trên trời và Chuyển cầu cầu nguyện, vì chẳng ai có thể rao giảng Tin Mừng nếu không có tình bạn thân thết với Chúa.
Mỗi Thánh Lễ Chúa Giêsu tập họp chúng ta lại thành một cộng đoàn môn đệ của Ngài, để rồi sai chúng ta ra đi loan truyền Tin Mừng Phục Sinh của Ngài cho mọi người ở mọi nơi. Tin Mừng này chỉ có thể được công bố bằng cuộc sống làm chứng của mỗi người chúng ta và của Giáo Hội, một cuộc sống trung thành với Chúa Giêsu nghèo khó và chịu đóng đinh thập giá. Đó là bằng chứng đáng tin của tình thương cứu độ mọi người.
20. Hành trang đi gieo
(Suy niệm của AM. Trần Bình An)
Linh mục Anto Kudukkamthadam là Cha Sở giáo xứ Piploda bên Ấn Độ. Vốn liếng kiến thức về xã hội học đã giúp Cha Anto biết rõ địa hình địa thế của xứ đạo. Theo Cha, có từ 5-7% dân làng là người giàu, 10% là giới trung lưu, còn lại 80% là người nghèo. Thế nhưng, Cha Anto nói:” Vị Linh Mục tu sĩ nào dám công khai lên tiếng tố giác hố sâu bất công này thì tính mạng bị lâm nguy. Nữ tu Rani Maria bị ám sát cách dã man, chỉ vì Chị hoạt động xã hội, khuyến khích các bà các cô biết tự tổ chức, phân định các hoàn cảnh và làm việc chung với nhau. Hoạt động của Chị Rani Maria mang lại kết quả tốt đẹp. Nhưng kết quả tốt đẹp lại gây khó chịu cho giới giàu có trong làng và họ thuê người giết Chị.”
Thời gian đầu vô cùng khó khăn. Một ngày, tôi tưởng như giờ cuối cùng đã điểm. Một nhóm thanh niên thuộc phong trào chính trị Ấn giáo đến giáo xứ gặp tôi. Họ chất vấn tôi đủ điều:” Ông là ai mà dám ở đây? Rồi ông đến đây để làm gì? Ông không phải dân địa phương, như thế có nghĩa ông nhận tiền viện trợ của Anh hoặc của Mỹ! May mắn thay, tôi nói được tiếng Hindi địa phương. Sau khi giải thích việc đang làm, tôi kết thúc: “ Các anh có thể giết tôi, tôi sẵn sàng chết vì Đức Chúa GIÊSU KITÔ!
Dần dần, họ dịu lại. Một thời gian sau, khi họ thấy chúng tôi thật sự giúp dân làng, đặc biệt mở các lớp học bình dân, thì chính những người từng dọa giết tôi, lại gửi con cái họ đến học trường chúng tôi! Cha Anto lấy lại bình tĩnh nhờ cầu nguyện và suy gẫm mỗi ngày. Rồi từ sau vụ khỏi bệnh lạ lùng, uy tín của Cha Anto càng gia tăng thêm. Số là, một ngày kia, một dân làng bị bò húc gãy xương sống. Họ mang người bị nạn đến, xin Cha chữa vì nghĩ Cha là thầy thuốc. Cha Anto nói với người bệnh: ”Tôi không có thuốc, nhưng chỉ duy nhất Đức Chúa GIÊSU KITÔ có thể chữa ông lành.” Nói xong, Cha đặt tay trên ông và sốt sắng cầu nguyện. Bỗng chốc người bị nạn đứng lên và đi đứng như thường.
Từ đó, Cha Anto điều động một nhóm cầu nguyện và tiếp tục làm việc tông đồ trong an bình, không còn bị quấy nhiễu nữa! (Nữ tu Jean Berchmans Minh Nguyệt, “Missions Étrangères de Paris”, n.315, Janvier/1997, trang 12-17)
Theo Tin Mừng Máccô hôm nay, Đức Giêsu bắt đầu sai các Tông Đồ đi rao giảng. Ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế, sự dữ, ma quỷ. Nhưng dặn các ông không được mang theo tiền của, lương thực, hành trang nào khác ngoài Lời Chúa. Linh mục Anto Kudukkamthadam đã áp dụng chuẩn xác những điều Đức Giêsu răn dạy khi đi rao giảng.
Sống đơn sơ
Thoát khỏi cám dỗ vật chất, tiện nghi, không lương thực, bao bì, tiền bạc, không áo quần rườm rà, kiểu cọ, thời trang, mà sống đạm bạc, đơn sơ, thanh đạm, Tông Đồ mới có thể can đảm dấn thân đi rao giảng kết quả hữu hiệu. Bao lâu còn bị những ràng buộc vật chất, của cải, danh lợi, chức tước, quyền lực khuynh đảo, quản lý và trói buộc, thì chẳng còn hồn Tông Đồ, mà chỉ còn hồn Trương Ba, da hàng thịt, là kẻ cơ hội, mưu lợi cá nhân, vinh thân phì gia, cúc cung bái thần tài, nô lệ cho thân xác, thế gian và ma quỷ. “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mt 6, 24).
Đức Thánh Cha Phanxicô hẳn phải rất băn khoăn, lo lắng cho tiền đồ Hội Thánh mới công khai nhắc nhở các Linh mục: "Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình." Khi ngài cử hành Thánh Lễ Làm Phép Dầu tại Đền thờ Thánh Phêrô,vào lúc 9 giờ 30, ngày Thứ Năm Tuần Thánh, 28.3.2013.
Sống phục vụ
"Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi." Không theo ý riêng, không đòi hỏi được phục vụ như thế nào, mà hoàn toàn vâng theo Thánh ý Chúa, bằng lòng với môi trường được trao, chấp nhận mọi thách đố, khó khăn, thi hành đầy đủ chức năng, bổn phận và Ơn Gọi. Vì Đi Gieo là phục vụ chứ không phải được phục vụ, mà kén cá chọn canh, là sẵn sàng đón nhận gian lao, khó khăn, hy sinh và hiểm nguy đến tánh mạng. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình.” (Mc 8, 34-35)
“Mỗi dịp hiến mình trong ngày không phải là một khổ đau, mất mát, nhưng là một đề nghị của Chúa, để con được lớn lên.” (Đường Hy Vọng, số 610)
Sống công chính
“Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ." Không thỏa hiệp với sự dữ, cái ác, với thế gian và với ma quỷ, Tông Đồ luôn khẳng định là chứng nhân đích thực của Đức Kitô, không cần mỵ dân, không a dua bầy đàn theo xã hội, theo khuynh hướng thế tục, ham danh háo lợi, khoa trương, kiêu căng, kiêu hãnh.
Khôn ngoan thế gian hay cám dỗ hòa hợp, thỏa hiệp để tồn tại, để phát triển, để xây nhà thờ, nhà xứ cho đồ sộ, nguy nga, để sinh hoạt giáo xứ sầm uất, rầm rộ, xôm tụ, danh tiếng, mà bỏ bê tâm hồn giáo dân nguội lạnh, xa Chúa thì phỏng được ích gì?
Thánh Phaolô chỉ duy nhất lấy làm hãnh diện về Thập Giá Đức Giêsu: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian.” (Gl 6, 14)
“Ánh sáng tông đồ của con phải chuyển sang những lớp tông đồ khác, cho đến lúc thế gian từ u tối tràn ngập hào quang. Làm tông đồ cho tông đồ.” (Đường Hy Vọng, số 305)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con được Chúa mời gọi ra đi rao giảng Tin Mừng, nhưng chúng con còn mãi bận rộn, tất bật với đủ chuyện thế gian, lo toan giành giật làm ăn, kiếm tiền, kiếm chức, kiếm danh, lại còn đam mê những thứ phù phiếm hư ảo chóng qua. Xin Chúa thức tỉnh chúng con, biết dần bỏ đi mọi sự phù vân, mà can đảm lên đường theo Chúa làm chứng nhân.
Mẹ Maria ơi, xin Mẹ cầu bầu cứu giúp chúng con bừng tỉnh, thoát ra khỏi thung lũng nước mắt này, để chúng con biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, sám hối, ăn năn, tái sinh trong Chúa Thánh Thần, trở nên người Đi Gieo Lời Chúa cho muôn người. Amen.
21. Hãy đi nói tiên tri cho dân Ta
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
"Hãy đi". Chúa phán cùng Amos: "Hãy đi nói tiên tri cho dân Ta" (Am 7, 15); "Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi" (Mc 6, 7). Chúa gọi Amos, Chúa sai các tông đồ, Chúa cũng gọi mỗi người chúng ta. Hết thảy mọi tín hữu, ngoài ơn gọi làm con cái Chúa, còn có ơn gọi làm ngôn sứ, và rao giảng Tin Mừng nữa.
Chúa chọn Amos và sai đi
Amos là người được Thiên Chúa chọn gọi và sai đi, khi ông chăn bò, Chúa túm lấy ông, Chúa lôi ông đi. Dù không được đón tiếp, ông vẫn mạnh mẽ rao giảng chống lại sự bất công, nhất là tố cáo nhà vua và các kỳ mục đã xúc phạm đến Thiên Chúa khiến cho hành vi phụng tự của họ trở nên vô ích. Vì thế Amasia đuổi Amos khỏi vương quốc Israel: "Hỡi tiên tri, người hãy trốn sang đất Giuđa, sinh sống và nói tiên tri ở đó. Chớ tiếp tục nói tiên tri ở Bêthel, vì đó là thánh điện của vua và là đền thờ của vương quốc" (Am 7, 12-13). Nhưng Amos vẫn tiếp tục nhiệm vụ ngôn sứ của mình. Dẫu biết rằng, việc phụng sự Thiên Chúa nơi Đền thờ và trong cung thánh là việc dành riêng cho chi tộc Lêvi. Amos không chỉ trích điều Môisê thiết lập. Ông tự đặt mình vào vị trí chính xác: "Tôi không phải là tiên tri, cũng không phải con của tiên tri. Tôi là một người chăn bò và chuyên đi hái lá xung" (Am 7,14). Thiên Chúa đã chọn ông từ nơi khác đến và trao cho ông sứ mạng này. Ông đến rao giảng điều Thiên Chúa phán chứ không rao giảng những gì con người muốn nghe. Đây chính sứ mạng của Giáo hội, Giáo hội không rao giảng điều các kẻ quyền thế muốn nghe. Tiêu chuẩn của các tông đồ là sự thật và công lý, cả khi chống lại sự đồng tình của con người và quyền bính trần gian. Cộng đoàn Giáo hội sơ khai cũng gặp những khó khăn tương tự như sự xuất hiện của thánh Phaolô, "hoán cải trong giây lát".
Amasia yêu cầu Amos rời khỏi vương quốc thuộc chi tộc phía Bắc đi đến đất Giuđa, vì ông không muốn nghe, Amos trả lời: "Khi tôi đang đi theo đàn chiên, thì Chúa dẫn tôi đi và nói cùng tôi rằng: "Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta" (Am 7, 15). Sứ mạng của Amos là phổ quát, Chúa sai đi nói tiên tri cho cả 12 chi tộc chứ không riêng một chi tộc nào.
Chúa Giêsu sai các môn đệ
"Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con" (Ga 20, 21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo hội đi đến tận cùng trái đất. Đây là sứ điệp phát xuất từ Thiên Chúa gửi đến hết mọi người, ngõ hầu con người được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.
Các tông đồ là những người bình thường được Chúa chọn, gọi và sai từng hai người đi, sau khi dạy các ông cầu nguyện, Người ban cho các ông quyền trên các thần ô uế là những thần có lần làm các ông bất lực! Dù là ai đi chăng nữa, gặp sự gì vượt quá khả năng, cần có sự trợ giúp từ Trời Cao. Chúa Giêsu tin tưởng và dạy dỗ các ông để các ông mang Tin Mừng đến tận cùng thế giới.
Thế là sáng kiến của Chúa Giêsu được thể hiện, mười hai ông được sai đi. Tông Đồ nghĩa là "được sai đi". Sự kiện Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ cộng tác trực tiếp vào sứ mệnh của Người, thể hiện khía cạnh yêu thương của Chúa. Chúa không chê sự trợ giúp của con người vào công trình của Chúa. Người biết rõ giới hạn cũng như yếu đuối của họ nhưng không khinh rể họ, trái lại còn ban cho họ phẩm giá là những người được Chúa sai đi.
Chúa sai họ đi kèm theo các chỉ thị. Thứ nhất là tinh thần không dính bén tới tiền bạc và các tiện nghi vật chất. Ra đi với hai bàn tay trắng để họ chỉ còn cậy dựa vào chính Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới hoán cải được lòng người. Người cũng báo cho họ biết không phải nơi nào họ cũng được tiếp đón, đôi khi bị khước từ và cũng có thể bị bách hại. Nhưng họ phải luôn luôn nói nhân danh Chúa Giêsu và rao giảng Nước Thiên Chúa mà không lo chuyện thành công.
Cử chỉ rũ bụi chân diễn tả sự không dính bén luân lý và vật chất, như để nói rằng chúng tôi đã loan báo nhưng các bạn đã từ chối, và chúng tôi không muốn gì cho các bạn cả. Sau hết, cùng với việc rao giảng là chữa lành bệnh tật theo gương Chúa Giêsu để biểu lộ lòng lành của Người với các cử chỉ bác ái, phục vụ và sự tận hiến.
Chúa tiếp tục sai chúng ta
"Hãy đi!" Mệnh lệnh Chúa truyền cho Amos vẫn còn rất thời sự với chúng ta. Nếu như tiên tri Amos lúc ấy thoái thác, thì ngày hôm nay một tâm thức khá phổ biến cổ võ cho thái độ muốn rút lui trước những khó khăn vẫn tồn tại. Điều kiện đầu tiên để "ra đi" là vun trồng một tinh thần cầu nguyện sâu xa, được nuôi dưỡng hằng ngày bởi việc lắng nghe Lời Chúa.
Ở thời chúng ta, vẫn có những người nam nữ được Thiên Chúa chọn, túm lấy, khi họ đang đối mặt với những lo lắng hằng ngày. Họ đang ở trong giáo xứ, chủng viện, tu viện, hay trên cánh đồng truyền giáo. Khuôn mẫu của họ là Đức Kitô, Đấng đầu tiên chấp nhận con đường thánh ý Chúa Cha vạch ra và cam kết trung thành với sứ mạng cho đến chết và Phục sinh.
Chúng ta không dựa vào sức con người hay tìm kiếm thành công, mà phải dựa vào chính Thiên Chúa. Vì là tạo vật của Thiên Chúa, nhận lãnh mọi sự từ Thiên Chúa. Chúng ta không thể làm những gì chúng ta muốn. Chúng ta có nghĩa vụ phải làm những gì Thiên Chúa muốn. Vì tất cả là hồng ân mời gọi ta thưa: "Lạy Chúa, con đây". Đừng bao giờ phản đối hay từ chối lời mời gọi của Chúa, "Chính Chúa đã chọn tôi".
Thiên Chúa "đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta được nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Ngài trong tình yêu thương. Chiếu theo thánh ý Ngài, Ngài đã tiền định cho ta được phúc làm con nhờ Đức Giêsu Kitô, để chúng ta ca tụng vinh quang ân sủng của Ngài" (Ep 1, 4). Đây là kế hoạch tình yêu nhiệm mầu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ trợ giúp chúng con quảng đại đáp trả lại lời mời gọi của Chúa để loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa bằng lời nói và trước hết bằng cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.
22. Sai đi – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Vào thế kỷ thứ 8 trước khi Chúa Giêsu sinh ra, sau một cuộc tranh chấp ác liệt, đất Do thái bị chia làm đôi: hai chi tộc phía Nam là Giuđa và Bengiamin làm thành quốc gia Giuđa với Giêrusalem là thủ đô; mười chi tộc còn lại ở phía Bắc lập thành nước Israel với Samaria là thủ phủ. Dưới triều đại của Giêrôbôam II (786-726 BC), đất nước Israel trở nên hưng thịnh. Vương quốc được mở mang và trở nên giàu có.
Để lôi kéo thêm dân chúng từ các nơi về, và để dân trong nước không đi lên đền thờ Giêrusalem trong các dịp lễ, Giêrôbôam và các vua trước ông đã cho lập đền thờ tại Bethel, cách Giêrusalem chừng 14 dặm Anh về phía bắc. Hàng tư tế tại đây được ưu đãi và khuyến khích lập ra những lễ nghi đặc biệt, để tạo nên không khí huy hoàng và sầm uất, hầu làm lu mờ những hình ảnh sinh hoạt tôn giáo tại Giêrusalem. Đây là một mưu đồ chính trị nhằm củng cố việc chia đôi đất nước và phân rẻ một dân tộc mà Giavê đã tuyển chọn nhằm tái tạo sự hiệp nhất giữa trời cao với đất thấp-giữa Thiên Chúa và con người.
Nhưng Giavê không thể làm ngơ trước cảnh tượng đó. Ngài đã chọn Amos, một người chăn chiên tại Tekoa, bên bìa sa mạc Giuđa, để đi làm ngôn sứ cho Giavê Thiên Chúa bên nước Israel.
Nhân danh Thiên Chúa, Amos cảnh cáo những âm mưu nuôi dưỡng tình trạng chia rẽ để trục lợi, lên án những cuộc sống sa đoạ bất công trong xã hội, công kích sự an tâm giả tạo khi người ta lấy lễ nghi tôn giáo để che đậy cho những việc làm xấu xa.
Sau một thời gian ngắn thi hành sứ vụ tại Bethel và Samria, Amos đã bị trục xuất ra khỏi Israel.
Khi mà quyền lợi cá nhân bị đụng chạm, miếng cơm bị đe doạ, người ta khó lòng để yên. Vì thế Amasia, một tư tế của đền thờ Bethel đã cậy vào uy thế của vua Giêrôbôam và nhân danh hàng tư tế của vương quốc miền Bắc để đuổi Amos về lại Giuđa. Ông cho Amos là hạng thầy bói nói mò hòng kiếm miếng cơm. Amasia cấm Amos không được tuyên sấm ở Bethel nữa, vì theo ông, những sứ điệp đó không phù hợp với đường lối chính trị của nhà vua và cả vương quốc Israel.
Nhưng ngôn sứ Amos không chấp nhận lập luận của Amasia. Ông khiêm nhường nói với vị tư tế bụt thần này rằng ông không làm nghề tiên tri, cũng không phải là con của một tiên tri. Trước kia ông chẳng hề nghĩ đến việc đi tuyên sấm, ông chỉ biết chăn chiên và hái trái sung. Nhưng rồi một hôm, đang lúc bước theo đàn chiên, Giavê Thiên Chúa đã gọi ông và truyền phải đi tuyên sấm cho nhà Israel, cảnh báo họ về một tai hoạ khủng khiếp sẽ giáng xuống: quân thù dày xéo đất nước, tàn sát dân chúng, bắt đi lưu đày những kẻ còn sống sót (Am 7:17).
Như vậy việc Amos đi loan truyền sứ điệp tiên tri cho các vua quan, tư tế, và dân chúng, không vì khả năng tự nhiên hay tài đức hơn người, song là vì Giavê đã trao Lời và sai ông ra đi. Thế nên sứ mạng của ông không gì khác hơn là nói lại Lời đó trong vai trò của một ngôn sứ. Có thể sứ điệp do ông truyền đạt sẽ được nhiều người đón nhận, nhưng cũng không chắc tránh khỏi tình cảnh bị từ khước, xua đuổi, hay giết hại. Dẫu sao, người được sai đi vẫn ra đi và không ngừng tiến bước. Không nản lòng. Không thất vọng. Không đầu hàng. Đó mới là thái độ của người môn đệ Đức Kitô.
Phúc âm tường thuật việc Chúa Giêsu sai mười hai tông đồ đi đến các làng mạc miền Galilê, rao giảng sự ăn năn thống hối. Ngài thấy trước những thất bại có thể sảy ra, và sự thất bại đáng kể nhất sẽ là bị khước từ. Song thất bại không thể là yếu tố làm chùn bước chân của vị sứ giả Tin Mừng. Bởi vì như lời Đức Giêsu phán dạy: “Nếu nơi nào không tiếp đón các ngươi thì hãy ra khỏi chỗ đó, phủi bụi chân lại” (Mc 6:11) rồi tiếp tục tiến bước. Cũng như trong bài Phúc âm tuần trước, khi bị những người đồng hương đồng hạt khinh dể thì “Chúa Giêsu đã rảo qua các làng xung quanh và giảng dạy” (Mc 6:6b).
Khách quan mà xét, hành trình rao giảng của Chúa Giêsu cũng có thất bại, nhưng không vì đó mà Ngài thất vọng ngã lòng. Trái lại Ngài vẫn tiến bước ra đi. Đi cho đến chặng đường cuối cùng là thập giá.
Như thế, người tông đồ của Đức Kitô cũng không thể tránh khỏi thập giá, vì “môn đệ không thể hơn thầy.” Nhưng dù có gặp từ khước, khó khăn, trắc trở, lao tù, xiềng xích trên hành trình rao giảng, Lời Chúa vẫn “không bị xích xiềng” và “Đức Kitô vẫn được truyền rao” (Ph 1:18).
Thế nhưng tôi tự hỏi: Nếu ngày nay Lời Chúa bị xiềng xích và Đức Kitô không được rao truyền là bởi các lý do bên ngoài hay những yếu tố bên trong? Vì người ta không nghe Tin Mừng tôi loan báo hay vì những tham lam, lợi nhuận, bất công, và cả những hình thức, lễ nghi trang trọng nhưng vô hồn, như của dân Do thái trong thời ngôn sứ Amos, đã trói buộc chân lý Phúc âm?
Thế nên, Lời Chúa lại nhắc nhở tôi về thái độ nghèo khó để được tự do trong khi rao giảng: không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, không mặc tới hai áo. Giá trị của Tin Mừng không hệ tại nơi áo quần, tiền bạc, cơm bánh. Chúa Giêsu không chọn con đường cứu nhân độ thế bằng sự đáp ứng của cải vật chất, song là chính Lời Hằng Sống của Ngài.
Vì vậy, hành trang rao giảng của người môn đệ Chúa Kitô phải luôn là Đức Giêsu Kitô-Lời Thiên Chúa mà họ tiếp cận và tìm thấy “sự sống phong phú dồi dào” (Ga 10:10b)-chứ không phải bao bị, giày dép, tài năng, bạo lực hay bạc tiền. Đây cũng chính là nguyên lý căn bản mà Giáo hội đã dùng để trả lời cho thần học “giải phóng” khi xác định: Chỉ có “chân lý mới giải thoát con người” (Ga 8:32). Và chân lý đó chính là Đức Giêsu. Vì Ngài là đường, là chân lý, và là sự sống cho nhân trần mọi thời và mọi nơi.
23. Chúa sai chúng ta đi
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta thường nghe nói tới hai chữ "thừa sai": Giáo Hội chúng ta là một Giáo Hội "thừa sai", mỗi tín hữu chúng ta là một "thừa sai". "Thừa sai" là gì? Là được sai đi. Ngày xưa Đức Giêsu đã sai 12 tông đồ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Ngày nay Ngài cũng sai chúng ta như thế.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa dạy cho chúng ta hiểu rõ hơn để chúng ta thi hành sứ mạng này.
II. Gợi ý sám hối
Xưa nay chúng ta chỉ lo "giữ đạo" mà không để ý đến "truyền đạo".
Chúng ta chưa ý thức mình được Thiên Chúa sai đi để mang Tin Mừng đến cho người khác.
Trong những lúc khó khăn, chúng ta chưa phó thác đủ vào sự quan phòng của Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Am 7,12-15)
Amos sinh sống ở tiểu vương quốc Giuđa (miền Nam), nhưng Chúa sai ông lên tiểu vương quốc Israel (miền Bắc) để làm ngôn sứ nói lời Ngài.
Vì trung thực nói lời Chúa, nên Amos bị dân Israel ghét. Một vị tư tế tên Amasia còn đuổi ông về Giuđa.
Amos đáp lại: Ông chỉ là một nông dân chứ không thuộc dòng dõi ngôn sứ cho nên không quen làm ngôn sứ. Nhưng chỉ vì Thiên Chúa sai ông nên ông phải vâng theo.
Trong một đoạn khác không thuộc trích đoạn này, Amos còn nói một câu rất ý nghĩa cho thấy sự thúc bách của lệnh Chúa sai đi: "Sư tử gầm lên, ai lại không sợ; Đức Chúa Giavê phán, ai lại không nói tiên tri?" (Am 3,8)
2. Đáp ca (Tv 84)
Trích đoạn Tv 84 này có thể được coi là nối tiếp ý tưởng của bài đọc I: người được Thiên Chúa sai đi phải quan tâm "lắng nghe điều Thiên Chúa phán", đó là những lời mang lại bình an và ơn cứu độ.
3. Tin Mừng (Mc 6,7-13)
Trong giai đoạn đầu của việc rao giảng Tin Mừng, trung tâm hoạt động của Đức Giêsu là thành Caphácnaum và những thành ven bờ hồ Ghênêdarét. Bây giờ bước vào giai đoạn 2, Ngài sai các tông đồ từng hai người một đi đến những vùng khác.
Sứ mạng của các ông là rao giảng sự thống hối và trừ quỷ, chữa bệnh.
"Phương tiện" của các ông chỉ có tối thiểu, còn tất cả những điều khác đều phó thác cho Chúa quan phòng lo liệu.
4. Bài đọc II (Êp 1,3-14)
Thánh Phaolô trình bày chương trình cứu độ của Thiên Chúa:
Ngài đã chọn chúng ta trước khi tạo thành thế gian.
Tiền định cho chúng ta được phúc làm con Ngài nhờ Đức Giêsu Kitô.
Cứu chuộc chúng ta bằng giá máu của chính Đức Giêsu Kitô.
Ban Thánh Thần cho chúng ta.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Chúa cần đến chúng ta
Trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên, một ngôi làng bị pháo kích nặng nề. Giữa làng có một ngôi nhà thờ, trước nhà thờ có một tượng Đức Giêsu được đặt trên một cái bệ. Nhưng sau khi khói lửa của trận pháo kích tan đi, người ta chỉ còn thấy cái bệ, còn pho tượng thì biến đâu mất. Những người lính đồng minh cố gắng đi tìm và cuối cùng cũng tìm thấy tượng Chúa bị văng khỏi đó một khoảng khá xa. Tuy nhiên hai cánh tay của Chúa đã bị hỏng mất. Họ cung cấp một chiếc máy bay để chở pho tượng về Mỹ cho thợ làm lại hai cánh tay. Nhưng Cha Xứ từ chối. Cha bảo cứ đặt pho tượng lên bệ như cũ, phía dưới viết thêm hàng chữ: "Các con thân mến, hãy cho ta mượn đôi cánh tay của các con".
Câu chuyện trên giúp ta hiểu sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay: Đức Giêsu kêu gọi các tông đồ tham gia công việc của Ngài. Ngài chia sẻ sứ mạng với họ. Ngài ban cho họ chính quyền năng và uy tín của Ngài. Rồi Ngài sai họ đi loan truyền Tin Mừng. Thực ra, họ chỉ là những người chài lưới, cả tài năng lẫn đức độ đều không có bao nhiêu. Nhưng Ngài vẫn chia sẻ sứ mạng cho họ, vì họ sẽ thi hành sứ mạng không phải bằng sức riêng của họ, mà bằng ơn Chúa.
Ngày nay, có nhiều đấng có thẩm quyền vẫn e ngại không chia xẻ công việc cho giáo dân; mặt khác, nhiều giáo dân cũng e ngại không dám gánh trách nhiệm trong Giáo Hội. Cả hai phía đều tính toán thành bại dựa trên khả năng của con người. Nhưng đó không phải là tính toán của Thiên Chúa.
Hãy nhớ rằng Sách Thánh bắt đầu bằng chuyện Thiên Chúa giao cho loài người quyền hợp tác với Ngài trong công cuộc sáng tạo vũ trụ; bài đọc I hôm nay kể chuyện Thiên Chúa giao cho Amos sứ mạng làm ngôn sứ cho dân Israel mặc dù ông chỉ chuyên nghề chăm sóc cây sung; và bài Tin Mừng kể chuyện Đức Giêsu sai 12 tông đồ vốn là những dân chài sứ mạng truyền giáo. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Phó thác trong tay Chúa
Bài Tin Mừng này nói đến tinh thần Phó Thác mà Chúa muốn các Tông đồ phải có trong khi đi truyền giáo. Phó Thác là một nhân đức quan trọng, nhưng nhiều người không hiểu đúng.
Chẳng hạn một người kia mắc bệnh, không lo chữa trị mà cũng chẳng có biện pháp giữ gìn sức khoẻ gì hết, mà lại nói "Tôi phó thác tất cả cho Chúa". Như thế có phải là phó thác không? Dĩ nhiên là không.
Hay một người khác không chăm chỉ làm ăn, tiêu xài thì chẳng tính toán cân nhắc, rồi lâm cảnh túng thiếu. Cũng nó: "Xin phó thác tương lai trong tay Chúa". Có phải là phó thác không? Dĩ nhiên cũng là không.
Xin thêm một thí dụ nữa: làm cha mẹ chẳng lo sửa dạy con cái, để cho chúng hư thân mất nết, rồi bảo "Phó thác cho Chúa". Có phải là Phó thác không? Cũng không phải.
Nếu những trường hợp kể trên mà là Phó Thác, thì Phó thác chẳng còn phải là một nhân đức nữa, nhưng là một tính xấu: tính lười biếng, thụ động. Đạo Công giáo mà chủ trương phó thác kiểu đó thì cũng không oan ức gì khi bị người khác chế nhạo là đạo tiêu cực, đạo cảm trở sự tiến bộ....
Ngược lại, đứng trước một công việc mà mình lo lắng thái quá, làm như Chúa để một mình mình phải lo, thì cũng không phải là phó thác. Rồi trong khi lo công việc mà quá cậy dựa vào những phương tiện vật chất, thế tục, không tin tưởng vào ơn Chúa giúp, cũng không phải là phó thác.
Vậy phó thác là gì? Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa dạy các tông đồ có tinh thần phó thác đúng nghĩa: khi các ông ra đi truyền giáo, các ông chỉ cần một số phương tiện vật chất vừa đủ: một cây gậy để chống lại thú dữ dọc đường, một chiếc áo mặc, một đôi dép để đi, thế thôi. Đừng quá lo lắng về vật chất: không cần mang lương thực dự trữ, không cần thủ cho nhiều tiền trong túi, không cần tới hai áo, không cần mang bị theo để đựng quà biếu của người khác. Về nơi ăn chốn ở cũng thế, miễn sao có chỗ trọ là được, nhà nào cho mình trọ, thì cứ trọ bất kể giàu hay nghèo, đừng chọn lựa nhà này hay nhà khác để có tiện nghi hơn. Nhà nào không cho mình trọ thì mình ra đi không chút lưu luyến. Điều chính yếu quan trọng mà các ông phải cậy dựa vào, đó là quyền năng của Chúa.
Qua đoạn Tin Mừng trên, chúng ta hiểu Phó Thác là đứng trước một công việc, một mặt mình không được lười biếng buông trôi nhưng phải vận dụng hết sức mình để làm cho được; mặt khác không ỷ sức riêng mình mà còn phải cầu nguyện xin Chúa ban ơn giúp sức. Và khi đã cố gắng hết sức mình đồng thời đã tin cậy vào ơn Chúa như thế, sau đó công việc diễn tiến thế nào đi nữa mình cũng không quá lo lắng sợ sệt, vì mình đã Phó thác cho Chúa.
Như thế, đứng trước một vấn đề khó khăn, nếu ta ngả lòng nản chí thì là thiếu phó thác; nhưng nếu ta quá lo lắng cậy dựa vào khả năng riêng của mình để giải quyết thì cũng là thiếu phó thác.
Chúng ta hãy làm như một đứa bé tập đi: bàn tay nhỏ bé của nó nắm chặt bàn tay Cha nó, đôi chân nhỏ bé của nó can đảm bước đi từng bước từng bước, và lòng nó thì rất an tâm, vì nó biết chắc có Cha nó luôn sẵn sàng nâng đỡ mỗi khi nó xảy chân. Phó thác là như thế.
* 3. Chúa sai tôi đi
Sau thế chiến thứ nhất, một linh mục trẻ người Pháp được bài sai đi coi xứ. Tay xách vali, cha mạnh dạn ra đi truyền giáo. Đến nơi chỉ thấy hầm sâu, tường đổ. Nhà thờ, nhà xứ, chỉ còn duy nhất một bức tường xiêu vẹo.
Không một chút sờn lòng, cha cùng với các tín hữu tích cực kiến thiết lại ngôi thánh đường đổ nát. Chẳng bao lâu sau, đền thờ vật chất đã hoàn thành khang trang đẹp đẽ. Giờ đây, cha lại tiếp tục xây dựng đền thờ tâm hồn. Nhờ đời sống gương mẫu, cha đã tu sửa lại lòng đạo đức của cả đoàn chiên.
Tuổi cha chưa cao nhưng đã kiệt sức, giữa lúc tình cha con đang mặn nồng, gắn bó. Dầu vậy, nằm trên giường bệnh, cha vẫn thản nhiên vui vẻ. Giờ hấp hối đến, cha nhỏ nhẹ nói với những người chung quanh:
- Giờ đây tôi vui mừng vì đã trung thành giữ lời nhủ bảo của thân phụ ngày tôi chịu chức linh mục: "Nay con làm linh mục Chúa, cha chỉ cầu ước cho con 3 điều: Thứ nhất, lúc con chết đừng nợ ai xu nào; Thứ hai, khi qua đời con cũng chẳng còn xu nào; Thứ ba, lúc lâm chung con đừng vướng một chút tội nào với Chúa". Và ngài an bình đi về với Đấng mình đã trọn đời dâng hiến.
***
Vị linh mục trong câu chuyện trên đây, không những đã làm theo lời khuyên của thân phụ, mà còn thi hành đúng lời dạy của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Khi sai các tông đồ đi truyền giáo, Chúa phán: "Không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc..." (Mc.6,8). Hành trang của các ông chỉ là chiếc áo đang mặc, cây gậy và đôi dép đi đường. Vì chính Người đã từng nói: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, con Người không có chỗ dựa đầu". Người muốn các ông hoàn toàn nương tựa vào Chúa, phó thác cho tình yêu quan phòng của Người, và cậy dựa vào lòng tốt của tha nhân.
Đó là thân phận của kẻ được sai đi: ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Vì "Phaolô trồng, Apollo tưới và Chúa mới cho mọc lên" (1Cr.3,6).
Hôm nay Chúa cũng sai chúng ta đi vào lòng thế giới, để "rao giảng sự sám hối" (Mc.6,12). Sám hối rất khó nói vì chẳng mấy ai thích nghe. Đó cũng là thách thức của người tông đồ: can đảm nói lên những điều phải nói. Nói mà không giảm nhẹ những đòi hỏi của Tin mừng. Nói mà không lợi dụng tin mừng để mưu cầu cá nhân. Nói mà không trích dẫn Tin mừng để khoe khoang kiến thức. Nói mà không bóp méo Tin mừng để vuốt ve quần chúng. Dù sao Tin mừng vẫn phải được loan báo. Chúng ta hãy xem câu nói của Thánh Phaolô như là của chính mình: "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cr.9,16).
Hôm nay, Chúa cũng trao cho chúng ta những quyền năng như hành trang để lên đường. Đó là quyền rao giảng Tin mừng, quyền trừ quỷ và quyền chữa bệnh.
Chúng ta có thể chia sẻ Tin mừng với niềm hân hoan của người tìm được viên ngọc quí.
Chúng ta có thể nói về Chúa như nói về một người bạn thân.
Chúng ta có thể xua trừ quỉ bằng cách đẩy lui những thói hư tật xấu.
Chúng ta có thể chữa bệnh bằng cách lau khô những giọt lệ của bao người quanh ta.
***
Lạy Đức Giêsu, mỗi thánh lễ là một bài sai, mỗi bài Tin mừng là một sứ điệp Chúa gởi cho trần gian qua từng người chúng con. Xin cho chúng con đừng bao giờ cậy dựa sức riêng mình, nhưng tin tưởng vào quyền năng Chúa mà chu toàn sứ vụ Người đã trao ban. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
4. Những lời chói tai
Chúng ta hãy tìm hiểu bài đọc thứ I, được trích từ sách tiên tri Amos.
Amos không phải là một ngôn sứ chuyên nghiệp. Hằng ngày làm ăn sinh sống bằng nghề chăn chiên và hái trái sung. Nhưng một ngày kia Thiên Chúa bảo ông hãy lên miền Israel công bố Lời Chúa. Lúc ấy nước Do thái đang chia cắt thành hai miền vừa khác nhau vừa đối nghịch nhau; miền Nam nơi Amos đang sinh sống là Yuđa, còn miền Bắc là Israel. Mà Israel lúc đó đang vào hồi thịnh vượng, giàu có. Tuy nhiên đó chỉ là thịnh vượng giàu có về mặt vật chất, chứ về tôn giáo và luân lý xã hội thì rất tồi tệ.
Về tôn giáo: người dân Israel thờ Chúa ở Đền Thờ Bethel. Họ dâng hiến rất nhiều lễ vật. Nhưng họ cũng ỷ rằng vì họ đã dâng nhiều lễ vật cho nên họ chẳng cần phải sống đạo đức. Chúa đã nhận lễ vật của họ cho nên Chúa có bổn phận phải che chở cho họ. Đó là một thứ đạo đức bề ngoài.
Còn về luân lý xã hội thì đầy dẫy những xấu xa: người giàu bóc lột, ức hiếp người nghèo, thói làm ăn gian lận, kẻ có nhiều tiền thì có tất cả, còn kẻ không có tiền thì thua thiệt mọi mặt.
Vì vâng lệnh Chúa, Amos đã từ giả nếp sống bình dị ở miền Nam Yuđa để lên miền bắc Israel. Ông lớn tiếng công kích tất cả những tệ nạn xấu xa vừa kể trên. Ông can đảm vạch tội của mọi hạng người từ vua chúa, đến các tư tế và những người giàu có. Và dĩ nhiên là những người này tức giận. Nhưng người tức giận nhất là Amasia, một ngôn sứ chuyên nghiệp ở đền thờ Bethel. Xưa nay Amasia vẫn cấu kết với giới hoàng gia và những người giàu có, dùng quyền tiên tri để nói những điều vừa ý họ. Bây giờ ông cũng thay mặt họ chống lại Amos. Đại khái ông mỉa mai Amos rằng: nếu nhà người có muốn kiếm ăn bằng cái nghề ngôn sứ này thì tốt hơn hãy trở về miền Yuđa của nhà ngươi mà nói tiên tri đi. Ở đây mà nói tiên tri giọng đó thì chẳng ăn khách đâu. Đối lại Amos trả lời: tôi đâu phải là một người kiếm sống bằng nghề ngôn sứ. Tôi chỉ là một nhà nông thôi. Nhưng vì Chúa sai tôi đến đây nói tiên tri thì tôi phải đến và nói, và bổn phận của tôi là phải truyền đạt lại đúng y như lời Chúa. Amasia tức bực. Ông ta vận động với triều đình Israel ra lệnh trục xuất Amos. Thế là Amos phải trở về quê cũ.
Ca dao có câu: "Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Đó là một thái độ khôn ngoan, khôn ngoan vì lời mình nói không đụng chạm ai và dễ được người ta chấp nhận, người ta còn thích mình nữa. Đó là kiểu khôn ngoan của tiên tri Amasia: ông đã nói những lời thuận tai vừa lòng những bậc vua chúa và những người giàu có, và họ đã ưu đãi ông, ông được hưởng một cuộc sống sung túc dễ chịu. Nhưng kiểu khôn ngoan đó không đem lại lợi ích thực sự cho dân. Dân Israel bị ru ngủ bởi những lời dễ chịu ấy cứ tiếp tục dấn sâu mãi trong những tội lỗi của mình, để rồi đến khi Thiên Chúa ra tay trừng phạt thì hối tiếc đã muộn. Năm 721 Chúa để cho đất nước họ bị xâm lược, dân chúng bị bắt, đi lưu đày. Tục ngữ cũng có câu "Thuốc đắng đã tật lời thật mất lòng". Những lời nói thành thật, dám vạch ra những cái xấu thì thường không được người ta ưa nghe, lại còn làm cho người ta ghét mình nữa. Có thể coi đó là một thái độ ngu dại. Đó là cái ngu dại của Amos. Thế nhưng cái ngu dại ấy lại có ích. Nếu như dân Israel chịu nghe lời của Amos mà sửa đổi những tật xấu của mình thì họ đã được Chúa thương tha thứ.
Như vậy là có 2 kiểu nói: Kiểu nói thuận tai của Amasia và kiểu nói chói tai của Amos. Tự nhiên thì chúng ta thích nghe những lời nói kiểu Amasia. Thế nhưng nếu chúng ta muốn hoàn thiện đời mình thì chúng ta phải tập lắng nghe những lời nói kiểu Amos. Vậy ai là những Amos của chúng ta ngày nay? Trước hết đó là những Linh mục có nhiệm vụ giảng dạy Lời Chúa. Kế đó là những người thiện chí muốn sửa đổi chúng ta. Và kế tiếp nữa phải kể cả những người không ưa chúng ta mà chỉ trích chúng ta. Trước những lời nói thẳng nói thật, nhiều người tức bực, chẳng những không là một người muốn kiếm ăn bằng nghề tiên tri. Chúng ta cũng có phản ứng tương tự khi tìm cách nói xấu lại người dám nói thẳng vạch cái xấu của chúng ta: nào là người ấy bịa chuyện, nào là bản thân người ấy cũng chẳng tốt lành gì, có khi còn vạch ra những cái xấu của người ấy hay thậm chí bịa ra những điều xấu gán cho người ấy để làm giảm uy tín của họ và để che giấu chính cái xấu của mình. Nghĩa là trên cương vị người nghe, chúng ta phải tập khiêm nhường để sẵn sàng lắng nghe những tiếng nói chói tai vạch những cái xấu của mình.
Còn trên cương vị người nói, nếu nói kiểu Amasia để làm vừa lòng người ta thì thật là quá đã, nhưng chúng ta phải tập cho có can đảm để dám nói theo kiểu Amos, dám vạch thẳng những cái xấu của người khác. Nhưng chúng ta đừng hiểu lầm Amos, cho rằng Amos đã làm gương cho chúng ta về việc nói xấu nói hành. Amos nói thẳng nói thật chứ không phải nói xấu nói hành. Người nói là thẳng nói thật là người nói trước mặt người nghe. Còn người nói xấu nói hành là người trước mặt thì nói tốt hoặc không dám nói, nhưng sau lưng thì nói xấu. Thực ra, biết được một điều xấu của người khác thì rất dễ, nhưng chỉ cho người ta biết cái xấu của họ một cách thẳng thắn thì là khó, và giúp cho người ta sửa được cái xấu ấy lại càng khó hơn nhiều. Vậy trong thực hành, khi chúng ta biết một điều xấu của người nào đó, nếu chúng ta có can đảm tới nói thẳng với người đó để người đó sửa lỗi thì chúng ta hãy nói, cho dù lời nói của mình có thể làm cho người ta khó chịu, người ta ghét mình. Còn nếu chúng ta không có đủ can đảm như vậy thì thà chúng ta im lặng, đừng nói lén sau lưng, đừng rỉ tai, đừng nói lại cho bất cứ ai nghe, vì như thế chẳng những không có lợi mà chỉ có hại và còn có tội nữa.
Tuy nhiên có lẽ chúng ta nên tìm một giải pháp dung hoà giữa hai thái độ của Amasia và Amos. Amasia chỉ nói ngọt nên được người ta ưa nghe nhưng không làm lợi cho người ta. Còn Amos thì nói lời chói tai nên người ta không chịu nghe, còn bị người ta ghét và xua đuổi. Thái độ dung hoà là nói thật nhưng ngọt ngào. Vừa dễ nghe vừa sửa được lỗi của người khác. Và ngọt ngào thì không gì ngọt ngào bằng yêu thương. Vì yêu thương người có lỗi mà ta nói, và nói làm sao để người nghe hiểu rằng ta nói vì ta thương họ; và kết quả là vì họ biết ta thương họ nên họ sẽ cố gắng sửa mình để đáp lại tình thương của ta.
Con người có tai để nghe và lưỡi để nói. Trong chữ Nho, chữ "Thánh" là do 3 chữ ghép lại: chữ Vương ở dưới có nghĩa là vua, phía trên có chữ Nhĩ là lỗ tai và chữ Khẩu là cái miệng. Vậy Thánh, theo chữ Nho, có nghĩa là người làm chủ được sự nghe và sự nói của mình. Làm chủ được sự nghe là không phải chỉ thích nghe những lời nói khen mà còn dám nghe những lời phê bình thẳng thắn; làm chủ sự nói là không phải bạ đâu nói đó, nói một cách vô trách nhiệm, nói hành nói xấu, nhưng là nói đúng, nói thật, nói khéo, nói với tình thương để lời nói của mình đem lại lợi ích xây dựng cho người khác.
5. Một tấm gương
Một tội nhân được giong đi pháp trường. Đến nơi hành quyết lính vây quanh thành ba vòng: vòng trong cầm gươm, vòng giữa cầm giáo, vòng ngoài cầm cờ, sĩ quan oai vệ cưỡi ngựa cưỡi voi. Bỗng tội nhân lên tiếng nói đôi lời với những người có mặt, sau đó nói riêng với viên chỉ huy. Với viên chỉ huy tội nhân nói:
"Tôi xin gửi quan 30 đồng tiền để xin quan một ân huệ: xin đừng chém tôi một nhát, nhưng chém ba nhát. Nhát thứ nhất, tôi tạ ơn Chúa đã dựng nên tôi, và đưa tôi đến đất Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành nên tôi. Còn nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí trong đức tin, theo gương vị chủ chăn của mình. Và như thế họ đáng lãnh phần phúc cùng các thánh trên trời."
Tội nhân là Đức Cha An vừa dứt lời, lính liền trói ngài vào cây cọc hình thập giá. Dân công giáo có mặt oà lên khóc. Lính chém Đức Cha ba nhát như ngài đã yêu cầu. Đầu và mình của vị tử đạo bị ném xuống sông. Có hai người lính thấm máu vị tử đạo liền bị tống giam. Đồ đạc sách vở của Đức Cha đều bị đốt.
Đó là ngày 20 tháng 7, 1857. Trước đó hai tháng, Đức Cha đã viết thư tạm biệt Đức Giám Mục và các linh mục trong Giáo Phận. Từ nhà ngục tỉnh Nam Định ngày 28 tháng 5,1857, Đức Cha An viết:
"Tù nhân trong Chúa gửi lời tạm biệt Đức Cha và các cha cho tới ngày gặp nhau trên trời. Xin tất cả anh em tha thứ cho những điều lầm lỗi và gương xấu tôi đã làm... Gông xiềng tôi đang mang được coi là những báu vật Đức Giêsu gửi cho tôi. Tôi vui mừng lắm và chỉ ước ao đổ máu vì Chúa, để máu tôi hoà với máu cực thánh Đức Giêsu rửa linh hồn tôi được sạch mọi tội lỗi. Xin anh em cầu cho tôi vững tin đến cùng..."
Giuse Diaz Sanjurjo cất tiếng chào đời ngày 26 tháng 10, 1818 tại tỉnh Lugo nước Tây Ban Nha. Cậu là con cả trong gia đình có năm anh em mà một người sau là nữ tu Antonia. Lớn lên cậu theo học chủng viện Lugo. Chiến tranh khiến việc học của cậu bị gián đoạn ba năm nhưng sau được vào đại học, cậu đã tìm đến với tỉnh dòng Đa Minh Rất Thánh Mân Côi là tỉnh dòng đặc trách lo việc truyền giáo tại Viễn Đông. Ở đây cậu đã lần lượt được nhận vào Tập Viện ngày 23 tháng 9, 1842; được tuyên khấn 24.9.1843. Cha Giuse Diaz Sanjurjo đến địa phận Đông Đàng Ngoài ngày 19.9.1845 với tên Việt Nam là An. Sau thời gian học tiếng Việt, cha An được giao nhiệm vụ coi sóc chủng viện tại Nam An.
Dưới thời vua Tự Đức cấm đạo gắt gao năm 1848, cha An đã phải đau lòng gấp rút giải tán chủng sinh, chôn giấu các đồ thờ phượng và nhìn chủng viện bị tàn phá. Trong thư gởi một bạn ở Tây Ban Nha, cha An viết: "Chúng tôi chẳng còn nhà, chẳng còn sách vở và áo quần, chẳng còn gì nữa... nhưng chúng tôi vẫn an tâm vì nhớ lời Thầy Chí Thánh nói "Con Người không có chỗ gối đầu..."
Nhiệt thành với tương lai giáo phận, cha An tái lập chủng viện tại Cao Xá. Thời gian này cha biên soạn cuốn văn phạm La ngữ bằng tiếng Việt.
Qua tông thư đề ngày 05.09.1848, Đức Piô IX thiết lập giáo phận Trung tách khỏi giáo phận Đông Đàng Ngoài. Giáo phận Trung gồm cả Bùi Chu và Thái Bình hiện nay, với dân số khi ấy là 140.000 giáo hữu rải rác trên 624 giáo xứ.
Người có công thuyết phục linh mục Marti Gia nhận chức vụ giám mục giáo phận mới thành lập chính là cha An. Trong bầu khí trao đổi thân tình, cha An đã phân tích các mặt của nhiệm vụ giám mục với những khó khăn trong thời cấm đạo. Kế đến cha nêu những nhu cầu của cộng đoàn dân Chúa mà vai trò phục vụ được giao cần phải đáp ứng. Cha An không ngờ sắc lệnh bổ nhiệm Đức Cha Marti Gia làm giám mục giáo phận Trung Đàng Ngoài, có ban quyền chọn giám mục phó. Đức Cha Gia liền chọn người đã thuyết phục mình nhận chức giám mục bản quyền, là cha An, làm giám mục phó.
Sau khi thụ phong giám mục, cha An lại trở về Cao Xá tiếp tục coi sóc chủng viện. Trong thư gởi gia đình, đức tân giám mục viết: "Ở đây thì chức vụ cao chỉ thêm công việc, con thường phải đi bộ, có khi phải đi chân không, nhiều lần phải lội bùn đến đầu gối, để trốn tránh những người lùng bắt."
Tháng 3, 1850, Đức Cha An giao chủng viện cho cha San Pedro Xuyên coi sóc rồi đi kinh lý toàn tỉnh Hưng Yên. Cuộc kinh lý bị bỏ dở. Hai linh mục Việt Nam cùng đi với Đức Cha bị bắt. Đức Cha thoát nạn nhưng về bị sốt rét nặng một thời gian. Hai năm sau, Đức Cha Marti Gia lâm bệnh nặng và qua đời tại Hương Cảng ngày 26.4.1852. Thế là Đức Cha An phải đến ở toà giám mục Bùi Chu để điều khiển công việc giáo phận mà mũi nhọn là công cuộc truyền giáo. Số người được chịu phép rửa tội năm 1852 lên tới 28.355 người. Đức Cha An viết: "Đó quả là phần thưởng đầy khích lệ để các nhà truyền giáo tiếp tục trách nhiệm tông đồ bất chấp âm mưu của thần dữ. Không nản lòng trước những cơ cực thiếu thốn, trước nguy hiểm vây quanh và những nghịch cảnh có thể xảy đến..."
Xảy ra là từ năm 1854, tại miền Bắc có giặc châu chấu của Lê Duy Cự và Cao Bá Quát. Họ kêu gọi người công giáo tham gia nhưng Đức Cha An lên tiếng cấm bổn đạo không được chống lại chính quyền hợp pháp. Do đó các quan chức địa phương cũng nới tay trong việc thi hành sắc lệnh cấm đạo của nhà vua. Tổng đốc Nguyễn Đình Tuân biết chính xác trụ sở toà giám mục Bùi Chu nhưng vẫn làm ngơ. Ông còn hứa nếu bất đắc dĩ phải sai quân truy nã thì ông sai người báo trước.
Không may khi ấy có quan thượng thư từ kinh đô về Nam Định nhằm lúc có người làng Thoại Miên là Chánh Mẹo, lên tỉnh tố cáo rằng có đạo trưởng Tây tên An ở Bùi Chu. Quan Tổng đốc buộc lòng phải ra lệnh truy bắt nhưng cũng cho người đi báo tin cho toà giám mục. Tiếc rằng tin đến nơi thì Đức Cha An đã bị bắt. Khi lính đến bao vây, Đức Cha chạy đi ẩn náu liên tiếp ở bốn nơi. Nơi cuối cùng ở giữa bụi tre khá kín. Nhưng đúng lúc Đức Cha ngó đầu ra để xem lính đã đi chưa thì bị phát hiện và bị bắt.
Đức Cha An bị giải về Nam Định và bị biệt giam hai tháng trước khi có án tử hình từ kinh đô truyền chém đầu Tây dương đạo trưởng tên An. Nhưng Đức Cha An đã không bị cưỡng bức chịu tử hình. Ngài đã vui mừng đón nhận cái chết tử đạo vì yêu mến Đức Giêsu vị Mục Tử nhân lành. Do đó ngài đã xin được chém ba nhát mà nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của ngài để họ bền chí trong đức tin, theo gương vị chủ chăn của mình.
Cuộc đời tông đồ và cái chết tử đạo của Đức Cha An được kể vì gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của Mười Hai Tông Đồ xưa. Mỗi giám mục đều là người kế vị các tông đồ của Đức Giêsu. Chính Người gọi từng người môn đệ (Mc 1,16-20). Từ số các môn đệ ấy, Người tuyển chọn Nhóm Mười Hai (3,13-19) để Nhóm này ở lại bên Người hầu được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để họ trở nên những người được Đức Giêsu sai đi như ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay (6,7-13). Họ có sứ mạng khử trừ các thần ô uế (c.7), đó là điều chính yếu. Nhưng họ còn được hướng dẫn về cách ăn vận, về đồ vật nào được mang theo, về nơi nào nên ở lại, về cách xử trí khi bị khước từ. Điều quan trọng là họ phải trở nên nhẹ nhàng cho việc di chuyển và phải đặt mình dưới sự săn sóc của Thiên Chúa.
Điều mà Tin Mừng Máccô gợi ý đối với các Kitô hữu xưa cũng như nay là chính họ cũng cần ở lại bên Đức Giêsu để được Người huấn luyện. Đức Giêsu hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi vẫn là một (Dt 13,8). Chính Người đứng đầu Giáo Hội. Người điều khiển mọi người nhờ Chúa Thánh Linh. Chúa Thánh Linh là Đấng làm vang lên tiếng gọi của Đức Giêsu nơi những tâm hồn quảng đại. Chúa Thánh Linh cũng là Đấng làm cho cuộc huấn luyện các môn đệ vẫn còn tiếp tục trong Giáo Hội. Thư Do Thái nói rõ tính chất của cuộc huấn luyện đó khi nói "Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo của anh em, họ là những người làm cho anh em được nghe lời của Thiên Chúa và hãy xem cuộc đời của họ kết thúc như thế nào, để noi theo lòng tin của họ" (Dt 13,7).
Vậy bài Tin Mừng hôm nay đi đôi với cái chết tử đạo của các thánh tông đồ cũng như của các vị kế nghiệp Nhóm Mười Hai như trường hợp Đức Cha An, phải trở nên sức mạnh củng cố ta trong đức tin và thăng tiến ta trong đức ái nhằm vinh danh Chúa hơn. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
* 6. Chuyện minh họa
a/ Đóng góp
Một vị Thị trưởng mở một Lễ hội lớn và mời mọi thị dân đến dự. Phần thức ăn thì vị Thị Trưởng hứa cung cấp đầy đủ. Phần rượu thì ông kêu gọi mỗi người khi đến dự hãy mang theo một chai, đến đổ vào một thùng rất lớn rồi mọi người sẽ uống chung.
Tới ngày Lễ hội, ai nấy đều mang chai rượu mình đến đổ vào thùng. Khi mọi người đổ xong, vị Thị trưởng cầm ly đến múc từ trong thùng ra, rồi nâng ly tuyên bố "Lễ Hội chính thức bắt đầu".
Tuy nhiên khi ông Thị Trưởng uống, thì ôi thôi chỉ toàn là nước! Bởi vì ai cũng nghĩ rằng người ta sẽ mang rượu thật đổ vào đấy, chỉ một chai nước của mình thì có làm loãng bao nhiêu đâu! Thế là Lễ Hội thất bại thê thảm, chỉ vì sự tiêu cực và ích kỷ của thị dân.
Chúa mời gọi chúng ta cộng tác vào công trình của Ngài. Chúng ta hãy là những người tích cực chứ đừng tiêu cực như những thị dân trong chuyện trên. Chúng ta đừng chỉ biết nhận mà cũng hãy biết cho.
b/ Trang bị đầy đủ
Một chàng hiệp sĩ chuẩn bị làm một chuyến viễn du. Chàng tính trước tất cả mọi tình huống có thể xảy ra, để trang bị tất cả những điều cần thiết để đối phó.
Chàng mang theo một thanh gươm và một bộ áo giáp để sẵn sàng chiến đấu với quân thù. Chàng mang thêm một bình dầu chống nắng để thoa lên da phòng khi phải đi giữa trời trưa nắng gắt. Lại mang thêm một cái rìu để đốn củi đốt lên phòng lúc đi lạc ban đêm trong rừng. Chàng còn mang thêm một cái lều và rất nhiều chăn mền phòng khi gặp tiết trời trở lạnh. Lại có cả nồi niêu xoong chão để nấu nướng kẻo có lúc không gặp được quán ăn. Và chàng cũng không quên chở theo mấy bao ngũ cốc cho con ngựa vì sợ dọc đường không mua được. Và với những hành trang rất đầy đủ đó, chàng bắt đầu lên đường.
Nhưng mới đi được một khoảng thì gặp một chiếc cầu cũ kỹ lung lay. Chàng mới đi được đến giữa cầu thì chiếc cầu gãy sụp vì không chịu nổi sức nặng của mớ hành lý. Thế là anh chàng hiệp sĩ chết đuối mà không hoàn thành được cuộc hành trình đã dự định.
Khi Đức Giêsu sai 12 tông đồ ra đi truyền giáo, Ngài căn dặn họ một mặt đừng mang nhiều hành trang, mặt khác hãy phó thác cho Chúa Quan Phòng. Muốn hành trình đi xa thì hành trang phải nhẹ nhàng. Tuy nhiên ra đi với hành trang nhẹ nhàng đòi hỏi phải có đức tin vững chắc.
c/ Chúng ta là công cụ của Chúa
Một ngày mùa đông, một người bộ hành bắt gặp một cậu bé đang ngồi ăn xin ở dạ cầu. Cậu bé vừa lạnh run vừa rất đói. Người bộ hành cảm thấy bất nhẫn nên nói với Chúa:
- Thưa Chúa, sao Chúa không làm gì hết để giúp cậu bé này?
Chúa đáp:
- Ta đã làm rồi chứ.
Người bộ hành rất ngạc nhiên trước câu trả lời ấy nên vặn lại:
- Nhưng dù Chúa có làm gì đi nữa thì xem ra chẳng có hiệu quả gì cả.
- Ta đồng ý.
- Nhân tiện, xin mạo muội hỏi Chúa một câu nữa: Chúa đã làm gì nào?
- Thì Ta đã tạo dựng nên con đó.
Chúng ta là dụng cụ Chúa dùng để lo cho người khác, và chúng ta có trách nhiệm về hạnh phúc của người khác.
d/ Ánh sáng của Chúa
Ở thành phố Dallas, bang Texas Hoa Kỳ, có một cặp vợ chồng thất nghiệp hàng ngày đi lượm những lon bia và lon nước ngọt để bán lại kiếm tiền sinh sống. Một hôm, đang khi tìm kiếm trong những thùng rác, họ gặp được một cảnh rất đau lòng, đó là một đứa bé bị cha mẹ vất bỏ và đã chết trong thùng rác. Họ báo cảnh sát để tìm cha mẹ đứa bé. Nhưng chẳng tìm ra. Cũng chẳng ai đứng ra lo chôn cất đứa bé xấu số ấy. Thế là hai vợ chồng nghèo này quyết định làm việc đó. Họ lấy hết số tiền đang có để mua một chiếc quan tài nhỏ và một bó hoa, rồi đưa tiễn đứa bé tới nơi an nghỉ cuối cùng. Có thể nói, những giọt lệ của họ trước nấm mồ của đứa bé cũng thánh thiện như những giọt lệ Đức Giêsu đã đổ ra trước nấm mồ của Ladarô.
Để trở thành ánh sáng tỏa chiếu trong thế giới tối tăm này, chúng ta không cần phải có nhiều tiền, mà chỉ cần có một tấm lòng biết hướng tới người khác.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã sai 12 tông đồ đi loan báo Tin mừng. Chúng ta đã lãnh nhận bí tích Rửa tội và Thêm sức nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta cũng được sai đi để Tin mừng hóa anh chị em đồng bào chúng ta. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
1. Hội thánh có sứ vụ loan báo Tin mừng cho mọi dân tộc mút cùng trái đất / Xin cho các giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân trong Hội thánh luôn hăng say thi hành sứ vụ Chúa đã trao phó / dầu gặp thuận lợi hay bất cứ khó khăn nào.
2. Nhiều nhà cầm quyền trên thế giới còn hạn chế cấm đoán, và bách hại các sứ giả Tin mừng của Chúa / Xin cho họ biết dẹp bỏ mọi thành kiến sai lầm / vì việc Tin mừng hóa chỉ nhằm mục đích đem lại hạnh phúc thật cho con người.
3. Chung quanh chúng ta còn rất nhiều người chưa biết Tin mừng của Chúa / còn sống trong mê tín dị đoan hoặc nô lệ vật chất / Xin cho họ sớm được nghe biết Tin mừng giải phóng của Chúa.
4. Nhiều giáo hữu trong họ đạo chúng ta còn dửng dưng và chẳng quan tâm gì đến nhiệm vụ truyền giáo / Xin Chúa cho họ biết cầu nguyện và góp công góp của cho việc truyền giáo của Hội thánh.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin cho mọi Kitô hữu chúng con biết nghe theo lệnh truyền của Chúa, để sẵn sàng cộng tác bằng bất cứ cách nào có thể, cho mọi người được nghe biết và đón nhận Tin mừng của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi cùng với Đức Giêsu dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha trên trời, chúng ta hãy đặc biệt xin cho Nước Cha trị đến.
VII. Giải tán
- Thánh lễ đã xong. Đây là lúc Chúa sai chúng ta đi. Chúng ta hãy mang tinh thần Tin Mừng của Chúa đến cho tất cả mọi người chúng ta sẽ gặp gỡ trong tuần này.
24. Gỡ bỏ hành trang - Gm. Arthur Tone.
Ulysses Grant là tổng tư lệnh liên quân trong trận nội chiến, và sau này là Tổng thống Hoa Kỳ trong hai nhiệm kỳ. Ông K.B.Washburn, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, làm chứng về lối sống đơn giản của ông Grant như sau:
“Khi ông Grant rời tổng hành dinh, mở một chiến dịch quyết định, ông không đem theo hành trang như thói quen các binh sĩ. Tất cả lệ thuộc vào phản ứng mau lẹ, điều quan trọng là ông không bị cản trở bởi hành trang. Ông không đem theo tùy viên, không ngựa hay tôi tớ, không đem theo áo khoác và ngay cả một chiếc sơ mi. Trọn hành trang của ông trong 6 ngày –tôi có mặt lúc đó- là chiếc bàn chải đánh răng. Ông ăn uống như một người lính trơn, ngủ giữa màn trời chiếu đất”.
Tướng Grant đi tay không. Đức Giêsu và các Tông đồ cũng vậy. Chúng ta vừa đọc, Đức Giêsu đã sai phái những người lãnh đạo của Ngài ra sao. Người nói với họ: “Không đem theo đồ ăn, không giỏ xách, không tiền và không áo ngoài nữa”.
Chúng ta phải làm gì? Bạn và tôi được gọi làm tông đồ để loan truyền sứ điệp của Đức Kitô bằng lời nói và việc làm. Chúng ta có thể làm việc khá hơn nếu chúng ta không bị đè nặng với những đồ đạc không cần thiết. Nó có thể làm mất thời giờ, mất sự chú ý và mất cả tiền bạc nữa. Một số đồ dùng có thể cho chúng ta tiện nghi, dễ chịu giúp chúng ta làm việc nhanh và hiệu nghiệm hơn. Tuy nhiên có nhiều cái không cần thiết làm mất thời giờ, giảm thiểu cố gắng của tinh thần và lý trí.
Phải chăng tôi đề nghị chúng ta bắt chước Mahatma Gandi, hoặc thánh Phanxicô Essisiô và sống như người hành khất nghèo hèn nhất sao? Không phải thế, nhưng tinh thần của Đức Kitô là chúng ta được tự do khỏi những sự dư thừa không cần thiết, một đống dư thừa đè nặng chúng ta cả thể xác lẫn tinh thần.
Tôi đề nghị chúng ta đừng bắt chước cô nữ sinh trung học có 26 chiếc áo lót mà hầu hết cô không bao giờ mặc tới hay như một bà Đại sứ bên Anh có hàng ngàn đôi giầy hoặc như một ai đã gây ra nỗi 65 % đồ ăn đặt tại khách sạn phải bỏ đi.
Dĩ nhiên, làm việc không có dụng cụ sẽ bị hạn chế. Bác thợ mộc cần cưa, ông bác sĩ cần một phòng làm việc mắc tiền. Bà nội trợ cần dụng cụ trong bếp, ông luật sư cần 1 giá sách luật. Nhưng tất cả chúng ta, kẻ nhiều người ít, có thể tìm ra cái không cần, những cái làm cho chúng ta mất tự do suy nghĩ, nói năng và hành động.
Mới đây, có vài người lối xóm phải chuyển đến một thành phố khác, họ tốn công gấp 5 lần để thu góp, phân loại, đóng kiện và chuyên chở những cái không quan trọng –mà có người gọi là đồ “ve chai lông vịt”- sánh với những cái chính yếu. Chúng ta thường thấy như thế.
Chúng ta đang trên hành trình về quê trời. Bớt hành trang chúng ta càng có thể tập trung vào điểm chính yếu, càng có thời giờ cho vấn đề thiêng liêng. Đi tay không như Chúa Giêsu và như những người theo Chúa lúc ban đầu.
Xin Chúa chúc lành bạn.
25. Chúa sai các tông đồ đi từng hai - Noel Quesson.
Gandhi là vị cứu tinh của Ấn Độ, ông rất cảm phục Đức Kitô. Ông đọc Tin Mừng hằng ngày và lấy “bài giảng trên núi” của Chúa làm phương châm hành động. Một hôm, muốn tìm hiểu cụ thể hơn về Giáo Hội, ông đi tới một nhà thờ Công Giáo. Vừa tới cửa nhà thờ, một người chực việc tiến lại bảo ông: “Nếu những người Công Giáo sống đúng theo Tin Mừng Đức Kitô thì dân tộc của tôi bớt khổ”. Ông Gandhi mới có ý nghĩ đó. Nhiều người chúng ta cũng lấy làm tiếc vì không được chính Chúa Giêsu đích thân điều hành sinh hoạt Giáo Hội. Và thấy rằng trong các cộng đoàn nhỏ, có nhiều người ở cấp điều hành đã làm người ta hiểu sai về Tin Mừng ở Đức Kitô. Nhưng biết làm sao được? Khi Chúa Giêsu nhập thể làm người, Chúa phải chịu chi phối do không gian và thời gian. Muốn thiết lập một Giáo Hội trường tồn trong lịch sử, Chúa phải trao Giáo Hội Chúa vào tay con người trần thế. Ngay từ khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa đã huấn luyện các môn đệ để các ông tiếp tục sứ mệnh của Chúa. Cũng vậy, hôm nay đây, Chúa trao sứ mệnh tiếp tục công việc Chúa làm nơi trần gian cho mỗi người chúng ta. Mọi Thánh Lễ chúng ta tham dự, đều kết thúc bằng lệnh truyền sai đi: Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi bình an.
Theo lệnh Chúa, các Tông đồ ra đi, làm những việc Chúa đã làm: xức dầu cho bệnh nhân, chữa họ lành, rao giảng Tin Mừng, thúc giục người ta cải thiện đời sống. Nhân danh Chúa, các ông làm được nhiều việc lạ, đã trừ quỉ.
Chúa sai các ông đi từng hai người, như vậy, Chúa đã thiết lập những cộng đoàn nhỏ. Các ông là những chứng nhân, và chứng nhân càng nhiều thì càng có giá trị. Một cộng đoàn, bao giờ cũng có lợi hơn là một người đơn độc. Trong cộng đoàn người ta nhắc nhở nhau, nâng đỡ nhau sống trung thành với luật Chúa, nhất là việc làm chứng tình thương của Chúa ngay trong cộng đoàn. Chúa đòi hỏi các Tông đồ phải nhất thiết trở nên mẫu mực về tình bác ái huynh đệ. Và làm sao thực thi bác ái được, nếu mỗi người chỉ sống một mình. Dân chúng thời các tông đồ đã nhận ra dấu chứng này nơi cộng đoàn tín hữu đầu tiên: “Coi kìa, họ yêu thương nhau biết bao!”. Và đó cũng là định hướng của chính Đức Kitô: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là thấy các con yêu thương nhau”. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng của Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dùng cuộc sống yêu thương để làm chứng cho Tin Mừng ngay trong cộng đoàn và trong môi trường sống của chúng con.
26. Ngài gọi và sai đi.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đức Giêsu là người làm nên Nhóm Mười Hai.
Sau một thời gian ở với Ngài (x. Mc 3,14), họ đã được Ngài sai đi rao giảng.
Người được sai đi phải là người có đời sống gần gũi thiết thân với Chúa.
Đức Giêsu sai họ lên đường. Ngài trao cho các ông những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang lên đường của các ông. Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.
Đức Giêsu cấm các ông không được mang theo lương thực, bao bị, tiền bạc... Không lương thực đi đường nên có thể bị đói. Không bao bị nên không thể để dành. Không tiền bạc nên không thể mua sắm. Ngài muốn các ông hoàn toàn nương tựa vào lòng tốt của Thiên Chúa và của con người.
Ra đi mà không có một chút bảo đảm. Các môn đệ đã đi từ nơi nọ đến nơi kia, lê gót qua các làng mạc và thành phố. Họ không đóng đô ở một nơi, dù gặp thành công, vì họ nhớ lời của Thầy: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa” (x. Mc 1,38)
Tính cơ động là đặc tính thiết yếu của người tông đồ. Sẵn sàng đến và cũng sẵn sàng đi.
Các môn đệ loan báo về Nước Thiên Chúa đang đến. Đó là một tin vui, nhưng đòi con người hoán cải.
Hoán cải là điều chẳng ai ưa. Người tông đồ cần can đảm nói điều phải nói. Không làm nhẹ đi những đòi buộc của Tin Mừng, không bóp méo Tin Mừng để tìm thành công cá nhân, cũng không mỵ dân để vuốt ve dư luận. Người tông đồ phải chấp nhận được tiếp đón một cách nồng hậu hay lạnh nhạt.
Họ chỉ là những người phục vụ cho Tin Mừng.
Chúng ta cần cảm nghiệm niềm vui của các môn đệ. Những người đánh cá nay trở thành nhà rao giảng. Những người ít học, bình dân, nay trừ quỷ và chữa bệnh. Họ đem đến cho con người niềm vui, sự giải phóng toàn vẹn cả hồn lẫn xác.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn sai ta đến trong thế giới. Đi từng hai người hay từng nhóm để nâng đỡ nhau. Chúng ta có thể mang theo nhiều đồ trang bị hơn xưa, nhưng không vì thế mà bỏ rơi cậy dựa vào Chúa. Thế giới hôm nay vẫn có nhiều bệnh tật: bệnh tuyệt vọng chán chường, bệnh hoài nghi khép kín... Ước gì chúng ta chữa lành những nỗi đau hôm nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Lên đường là ra đi, nhưng cũng là ở lại môi trường mình đang sống. Bạn thấy làm chứng cho Chúa tại nơi bạn học hành, làm việc, có khó không? Đâu là những cản trở?
Thế giới hôm nay là thế giới bị nô lệ dưới nhiều hình thức. Bạn thấy được những hình thức nào? (nô lệ cho vật chất, tiện nghi, chức vị, xác thịt...)
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin sai chúng con lên đường; nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
27. Lên đường thi hành sứ vụ với Chúa Giêsu.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Mười hai môn đệ lên đường theo lệnh Chúa Giêsu mà chẳng mang theo gì cả: không lương thực, không tiền bạc, không mang thêm chiếc áo thứ hai, không bao bị, ngoại trừ hai vật dụng tối cần là cây gậy và đôi dép (Mc 6, 8-9). Ngoài ra, các môn đệ lại là những người ít học, khả năng khiêm tốn...
Vậy mà các ngài đã đạt được những thành quả tuyệt vời: Xua trừ nhiều ma quỷ, chữa lành nhiều bệnh nhân, kêu gọi người ta ăn năn sám hối! (Mc 6,13).
Nhờ đâu các ngài đạt được những thành quả phi thường nầy?
Tất cả là do quyền năng Thiên Chúa.
Khi sai các môn đệ lên đường không chút hành trang, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu hoạt động qua các vị như đôi bàn tay của Người.
Chúng ta là chi thể của Chúa Giêsu
Từ ngày lãnh bí tích rửa tội, chúng ta được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu như cành liền cây, như bàn tay nối liền cơ thể và từ đó, chúng ta được thông dự vào sứ mạng ngôn sứ, tư tế và vương đế của Chúa Giêsu.
Từ đó, Chúa Giêsu muốn rao giảng qua chúng ta là môi miệng của Người; Chúa Giêsu muốn chăm sóc bệnh nhân và người đau khổ qua chúng ta là đôi tay của Người; Chúa Giêsu muốn tỏ lòng thương xót nhân loại qua chúng ta là trái tim của Người.
Thế nên, chúng ta phải cùng hoạt động với Chúa Giêsu và để Người sử dụng chúng ta như chi thể của Người mà tiếp nối sứ mạng loan Tin Mừng và đem ơn cứu độ cho thế giới.
Chúng ta không thể viện cớ mình nghèo nàn, ít học, yếu đuối để từ khước sứ mạng Chúa giao, vì mười hai môn đệ đầu tiên được Chúa sai đi cũng không có nhiều khả năng, nhiều điều kiện hơn chúng ta hôm nay. Các vị lên đường theo lệnh Chúa Giêsu dù không mang lương thực, không tiền bạc, không bao bị, không cả chiếc áo thứ hai mà vẫn đạt được thành quả tốt đẹp khác thường. Chúng ta cũng có thể đạt được hiệu quả như thế nếu chúng ta hiến mình cho Chúa Giêsu sử dụng.
Đừng trở nên bàn tay tê bại
Nhân loại hôm nay đông đảo gấp hàng triệu lần so với thời các môn đệ đầu tiên nên nhu cầu loan báo Tin Mừng lúc nầy càng cấp bách và khẩn thiết hơn bao giờ hết. Hôm nay Chúa Giêsu vẫn liên lỉ kêu mời mỗi người chúng ta tham gia sứ vụ loan Tin Mừng như các môn đệ xưa.
Là chi thể của Chúa Giêsu, chúng ta không thể từ chối tham gia vào công việc cứu độ của Người.
Một chi thể không cùng các chi thể khác tham gia vào các hoạt động của thân mình là một chi thể tê bại hoặc là một chi thể thừa (như ngón thứ sáu -ngón tay thừa- trên một bàn tay).
Một chi thể tê bại (hoặc thừa) chẳng những không mang lợi ích gì cho thân mình mà còn trở nên chướng ngại cho hoạt động của toàn thân.
Chắc chắn không ai trong chúng ta muốn làm một chi thể tê bại trong Thân Mình Chúa.
Vậy thì hãy sẵn sàng hiến thân làm khí cụ cho Chúa Kitô.
Khi chúng ta hiến đời mình để Chúa Giêsu sử dụng như bàn tay của Người, chắc chắn nhiều điều kỳ diệu sẽ được Người thực hiện qua con người mỏng giòn yếu đuối của chúng ta.
28. Chân dung của Sứ giả Tin Mừng.
(Suy niệm của Lm Jos. Tạ Duy Tuyền)
Một cuộc đời đẹp là một cuộc đời dấn thân vì lợi ích cho tha nhân. Một tâm hồn thanh cao là tâm hồn luôn thanh thoát khỏi những bon chen vật chất, những vinh hoa phù phiếm mau qua. Đó chính là mẫu người mà xã hội hôm qua cũng như hôm nay đang cần, rất cần họ để điểm tô cho xã hội thêm phong phú nhờ những cống hiến vô vị lợi và đầy lòng quảng đại của họ.
Đó cũng chính là chân dung của các sứ giả Tin mừng. Họ đã để lại cho nhân thế những bước chân thật thanh thoát, nhẹ nhàng nhưng đầy tình người. Họ là những người được tuyển chọn để cứu nhân độ thế. Họ dấn thân vào đời để giải cứu thế gian khỏi ba thù hiểm độc. Thế gian có quá nhiều mưu mô và xảo quyệt. Ma qủy có quá nhiều phương cách để cám dỗ. Họ cần phải ra đi với đôi chân nhẹ nhàng và lòng thanh thoát. Họ không được mang bao bị, không mang bạc tiền của nhân thế. Họ là những người chấp nhận cuộc sống nổi trôi “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh”. Sứ mệnh của họ là đẩy lùi sự dữ và thi thố tình thuơng. Họ không thể bận tâm đến của cải thế gian. Họ không để lòng mình bị ràng buộc bởi nhu cầu vật chất và tiện nghi. Nếu họ quá quan tâm đến mình sẽ quên đồng loại. Nếu họ quá chú trọng đến vật chất sẽ dẫn đến lo hưởng thụ và tích góp cho bản thân. Thiện chí sẽ mất. Hướng đi sẽ chệch đường lạc lối. Lý tưởng ban đầu sẽ bị đảo ngược. Thay vì cứu đời sẽ chỉ còn lại sự lợi dụng địa vị chức quyền để vun quén cho bản thân.
Người ta kể rằng: có một đệ tử muốn từ bỏ mọi sự của thế gian để sống tu trì. Anh quyết định vào rừng vắng sống ẩn tu. Hành trang duy nhất anh mang là chiếc áo ăn mày để khất thực sống qua ngày.
Ngày kia, anh đau đớn vô cùng khi thấy chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn nát tả tơi. Không còn cách nào khác, anh phải vào trong làng xin một chiếc áo khác. Chiếc áo thứ hai này cũng bị cùng chung số phận, nát tả tơi vì chuột cắn. Anh nghĩ rằng chỉ có nuôi mèo mới giữ được chiếc áo. Anh quyết định nuôi mèo. Thế nhưng, khi có mèo anh lại phải lo kiếm thêm phần ăn cho con mèo được nuôi để đuổi chuột.
Ngày ngày vác bị đi khất thực, anh cảm thấy mình như một gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh cố gắng chắt chiu để kiếm tiền nuôi một con bò để thêm phần thu nhập. Nhưng có bò lại phải kiếm cỏ cho bò ăn. Chăn nuôi gia súc khiến anh không thể có thời giờ cầu nguyện, tối mặt vì công việc, anh lại phải thuê người cắt cỏ nuôi bò. Càng ngày bò càng sinh sản, người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang sơ đã biến thành một trang trại rộng lớn. Gia súc và người làm ngày càng thêm đông. Con người đã một thời muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên trở thành một ông chủ trang trại.
Có tiền của và tài sản to lớn, anh lại muốn có người chia sẻ công việc của mình. Anh cưới vợ và sinh con. Anh trở thành một người chồng, người cha trong một gia đình hạnh phúc. Thế là lý tưởng ban đầu đã hết. Anh đã đánh mất lý tưởng chỉ vì mải lo gìn giữ một cái áo rách. Chuyện có vẻ hoang đường nhưng lại là thật. Ma qủy thường cám dỗ từng bước. Ma qủy thường gợi lên những điều rất hấp dẫn để dẵn dắt con người đi theo chương trình của nó. Adam - Evà đã nhìn thấy trái táo thơm ngon mà quên đi thân phận phải vâng lời Thiên Chúa. Khi tỉnh lại chỉ còn thất vọng và hổ thẹn lương tâm. Người tu sĩ đã lạc bước khi quá bận tâm đến nhu cầu vật chất, đến đồng tiền bát gạo, khiến tâm hồn anh không còn thời giờ để vun đắp, định hướng cho hướng đi của mình. Cái thất bại của anh thật tẻ nhạt, chỉ vì mải lo gìn giữ một chiếc áo rách.
Thực vậy, vì tiền bạc, mà người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời.Vì tiền mà cái tính bổn thiện của con người ban đầu đã không còn. Vì tiền mà người ta có thể chối bỏ niềm tin. Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Đó là bài học cho tất cả chúng ta. Đồng tiền thật cần thiết cho cuộc sống nhưng không phải là cứu cánh cho cuộc đời. Đừng quá lệ thuộc vào của cải vật chất. Nó chính là con dao hai lưỡi có thể làm hại cuộc đời chúng ta, nếu không khôn ngoan, sáng suốt để nhận định đúng giá trị của nó. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm của cải vật chất, chúng ta cần có đủ nghị lực khước từ mọi hành vi bất chính, mọi thoả hiệp với lừa đảo, gian trá của thế gian. Chúng ta không thể vì tiền mà đánh mất tính người. Vì tiền mà đánh mất tình người. Vì tiền mà lòng mang dạ sói để hại người, hại đời, để làm tôi cho ma quỷ sai khiến ra đi gieo vãi sự dữ cho trần gian.
Con người luôn hướng về sự thiện. Con người luôn mong muốn cống hiến cuộc đời mình cho tha nhân. Đó chính là mục đích mà Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Thế nhưng ma quỷ luôn vẽ lối chúng ta đi sai đường Chúa. Ước gì lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta, hãy lo tìm kiếm những điều đẹp ý Chúa hơn là thế gian. Hãy để tâm làm việc phụng sự Chúa hơn là làm tôi cho tiền bạc và tiện nghi. Đừng để lòng mình lệ thuộc vào vật chất mà quên đi gía trị tinh thần. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống theo lời Chúa để được phúc lành mai sau. Vì “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ”. Amen.
29. Rao giảng.
Các con hãy đi rao giảng.
Đó là một mệnh lệnh đòi chúng ta phải ra đi.
Ra đi như các tông đồ, từ bỏ nghề nghiệp, từ bỏ quê hương, từ bỏ những người thân yêu và ra đi như thế có nghĩa là hy sinh.
Ra đi như các tu sĩ, từ bỏ gia đình, từ bỏ bè bạn. Và ra đi như thế cũng có nghĩa là hy sinh.
Hễ đã muốn hiến thân theo đuổi một sự nghiệp trong đạo, thì phải bằng cách này hay cách khác, chấp nhận từ bỏ và hy sinh.
Nhưng từ bỏ những cái bên ngoài mà thôi thì vẫn chưa phải là ra đi đích thực. Ra đi đích thực chính là từ bỏ bản thân, từ bỏ những tập quán và những ý riêng tư để tin vào giá trị vô song của nước trời, một vương quốc mà chúng ta phải hy sinh tất cả để xây dựng. Chấp nhận ra đi, chúng ta sẽ rao giảng, sẽ nhắc lại lời Ngài đã nói:
- Nước trời đã gần.
Đó là tất cả những gì chúng ta phải rao truyền cho các tâm hồn.
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy còn quá nhiều người chưa nhận biết nước Chúa. Ngày nay cũng chẳng hơn gì ngày xưa, vì nhân loại luôn đợi chờ một cái gì khác nữa.
Vào thời Chúa Giêsu, người ta mong đợi Thiên Chúa sẽ can thiệp, sẽ làm một phép lạ để đánh đuổi binh đội Rôma, biến nước Israel thành một địa đàng mới, đầy đủ mọi vinh quang. Ngày nay người ta cũng mơ ước như thế. Nhưng khốn nỗi là họ không mong đợi ở Thiên Chúa mà lại mong đỡi ở tài năng con người như khoa học, kỹ thuật. Họ tin tưởng ở quyền lực và tổ chức con người để rồi loại trừ Thiên Chúa. Dĩ nhiên không phải là tất cả, vì còn có những người biết suy nghĩ cách sâu xa hơn, để rồi nghiêng mình suy tôn Thiên Chúa…
Nhưng xét cho cùng, vẫn còn biết bao nhiêu sự phủ nhận về nhiều phương diện, hoặc công khai ngoài xã hội, hoặc âm thầm trong đời sống riêng tư.
Sở dĩ như vậy, vì Chúa Giêsu đã rao giảng một nước trời hoàn toàn khác biệt với mộng ước của người Do Thái, một vương quốc thiêng liêng được thiết lập trong tâm hồn người đón nhận.
Chúng ta cũng phải rao giảng như thế, mặc dù có trái với mộng ước của thời đại. Chúng ta phải chèo ngược dòng nước đang cuốn trôi nhân loại.
Như các tông đồ, chúng ta hãy nhắc lại lời Chúa:
- Nước trời đã gần, và đang ở trong tâm hồn những người thiện chí.
Mọi Kitô hữu đều có bổn phận rao giảng lời Chúa, nhưng rao giảng bằng cách nào?
Trước hết, rao giảng bằng lời cầu nguyện.
Đây là cách rao giảng tốt nhất mà mọi người đều có thể áp dụng. Thánh nữ Têrêxa với 24 tuổi đời trong bốn bức tường tu viện, đã được Giáo hội đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo, phải chăng là nhờ lời cầu nguyện của thánh nữ mà biết bao tâm hồn được ơn ăn năn sám hối.
Tiếp đến là rao giảng bằng gương sáng, bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Các tu sĩ Phanxicô đầu tiên đã áp dụng phương cách này. Họ rao giảng bằng cách sống Phúc âm, thực hiện sự khó nghèo giữa một thế giới đang chạy theo giàu sang, kể cả những người con của Chúa. Họ sống khó nghèo nhưng trên khuôn mặt luôn phản chiếu niềm vui của thiên đàng, và đó là một bài giảng hùng hồn nhất. Bài giảng sẽ vô ích nếu người giảng không sống lời mình giảng, Trái lại, khi đã sống một cách gương mẫu thì bài giảng hoàn tất. Một khi đã sống thánh thiện và làm gương cho người khác, chúng ta có thể rao giảng bằng lời nói, đó là cách thức thứ ba.
Nói càng ít càng tốt, nhưng phải nói những lời xuất phát từ một tâm hồn thánh thiện, những lời được Chúa soi sáng, vì như lời thánh Phaolô: Muốn tin thì phải được nghe biết, muốn nghe biết thì phải có người nói tới. Chúng ta cũng đừng quên rằng đời sống càng thánh thiện thì lời giảng càng hiệu lực.
Sau cùng, rao giảng bằng cách làm tròn bổn phận.
Thực vậy, địa vị nào cũng có thể là một bài giảng sống động, bổn phận nào cũng có thể là một lời kinh, nếu chúng ta biết thánh hóa, hoàn cảnh nào cũng có thể giúp chúng ta nên chứng tá cho Chúa ngay giữa lòng cuộc đời của mình.
30. Chúa Kitô.
Chúa Giêsu mở rộng hoạt động của Người bằng cách sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng. “Nhóm Mười Hai” là một nhóm nhỏ các môn đệ, còn được gọi là các tông đồ. Chúa Giêsu đã tuyển chọn để sai đi rao giảng. Họ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu và thúc giục người ta hoán cải cuộc sống, để có thể đón nhận Nước Thiên Chúa đang đến qua con người của Chúa Giêsu.
Qua trình thuật của Tin Mừng, chúng ta thoáng thấy những qui luật truyền giáo của Hội Thánh tiên khởi. Hoạt động truyền giáo của Giáo hội được trình bày như là tiếp nối sứ vụ mà Chúa Giêsu đã ủy thác cho các tông đồ. Các nhà thừa sai rao giảng bằng lời nói và các hoạt động bác ái. Như vậy, Tin Mừng được chứng minh là công trình của Thiên Chúa nhằm cứu độ những người có lòng tin.
Các giáo phụ luôn luôn nhắc nhở các tín hữu như sau: “Chúa Kitô tiếp tục hoạt động trong các bí tích. Khi vị linh mục làm phép Thánh Tẩy, đó là chính Chúa Kitô thanh tẩy chúng ta. Khi Đức Giám mục ban phép Thêm sức, đó là chính Chúa Kitô tăng sức mạnh cho chúng ta. Khi linh mục ban phép Giải tội, đó là chính Chúa Kitô tha tội cho chúng ta. Các thừa tác viên là những người tiếp nối công trình của Chúa Kitô. Công việc của các ngài là chính hoạt động cứu độ của Chúa Kitô”.
Những thành viên của phong trào Cursillo đã vẽ một bức tranh Chúa Kitô không có tay chân. Mỗi một thành viên của phong trào Cursillo được yêu cầu trở thành tay chân của Chúa Kitô, tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Kitô trong hiện tại. Nếu bức tranh đó mô tả nhiệm vụ của các thành viên trong phong trào Cursillo, thì điều đó càng đúng hơn cho các thừa tác viên trong Giáo hội. Họ tiếp tục công việc “rao giảng lòng thống hối, từ bỏ tội lỗi, xức dầu cho các bệnh nhân và chữa lành cho nhiều người”.
Trở thành một thừa tác viên của Chúa Kitô là một ơn gọi cao quý, nhưng cũng là một ân huệ. Không ai được tự cho mình có ơn gọi đó. Người ta phải cầu nguyện, suy nghĩ và chuẩn bị chu đáo cho ơn gọi đó. Nhiều người được gọi nhưng ít kẻ được chọn. Người ta phải sống gắn bó chặt chẽ với Chúa Kitô, theo sát Chúa Kitô và sống cho Người. Bất cứ một do dự, một nghi ngờ nào về sự trung tín của Thiên Chúa cũng là một sự phản bội. Nếu có một sự bất trung nào thì người ta sẽ thấy đó là do lỗi của chính mình, bởi vì Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi những ai chân thành tìm kiếm và bước theo Người.
Lạy Chúa, xin Chúa cho các bậc làm cha mẹ biết quảng đại dâng hiến con mình trong cuộc sống tận hiến cho việc phụng sự Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con những linh mục thánh thiện như lòng Chúa mong ước.
31. Rao giảng.
Tất cả những người đi tu, nhất là để làm linh mục, thường được kêu gọi hai lần: lần thứ nhất, Chúa kêu gọi âm thầm trong lòng mỗi người bằng những ước muốn, yêu thích và qua những biến cố do Chúa quan phòng xếp đặt để hướng dẫn đương sự tới nơi tu trì hay tới bàn thờ. Lần thứ hai, Chúa kêu gọi qua sự tuyển chọn và kêu gọi của bề trên hay Đức Giám mục.
Chúa Giêsu cũng đã hành động như thế trong việc kêu gọi các tông đồ, các môn đệ đầu tiên của Ngài. Chúa kêu gọi họ ngay khi bắt đầu sứ vụ công khai truyền giảng Tin Mừng. Ngài đã kêu gọi từng người một trong nhiều hoàn cảnh khác nhau: người thì đang vá lưới, kẻ gặp ở giữa đường, người khác đang ngồi thu thuế… Rồi Ngài qui tụ họ lại cho ở luôn bên cạnh Ngài, huấn luyện, dạy dỗ, cho chứng kiến những phép lạ, các công việc Ngài làm, nghe Ngài giảng dạy dân chúng, thấy gương sáng của Ngài. Giờ đây, muốn sai họ đi truyền giảng Tin Mừng, Ngài lại chính thức gọi họ một lần nữa như bài Tin Mừng kể lại. Sở dĩ Chúa làm như vậy là để cho họ thấy rằng: việc trở thành tông đồ, và linh mục hay cả tu sĩ ngày nay, không phải là sáng kiến của cá nhân họ, nhưng là ơn thiên triệu Chúa ban, là một thứ đoàn sủng.
Trước khi sai các tông đồ đi truyền giảng, Chúa Giêsu đã căn dặn họ nhiều điều. Những điều này được coi là khuôn mẫu, là bộ luật chỉ đạo cho các chiến sĩ truyền giáo. Chúng ta thấy Chúa không bảo họ phải giảng gì và giảng như thế nào, nhưng phải ăn mặc thế nào, mang những gì, sinh sống đối xử làm sao với những người mà họ tiếp xúc, đồng thời dùng quyền năng Chúa ban mà trừ quỷ và chữa bệnh.
Có thể nói: Chúa không dạy các ông phải rao giảng bằng những bài giảng thuyết tràng giang đại hải hay bằng những lý luận đanh thép, khôn ngoan, thông thái nhằm thuyết phục mọi người, nhưng Chúa bảo các ông phải giảng bằng chứng tích, tức là bằng chính đời sống của họ. Còn những điều các ông phải nói, phải giảng, tóm lại vỏn vẹn có hai hay ba điều: chúc bình an – báo tin Nước Trời đã đến hay đã gần – và thúc giục người ta ăn năn hối cải. Nghĩa là Chúa muốn các môn đệ của Chúa nói ít và làm nhiều, dĩ nhiên Chúa không cấm họ kể lại cho mọi người tất cả những giáo huấn mà họ đã được nghe.
Đối với chúng ta hôm nay, Chúa cũng kêu gọi và sai chúng ta đi truyền giảng Nước Thiên Chúa. Bởi vì mỗi người chúng ta khi đã lãnh bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta đều được kêu gọi và sai đi rao giảng: Có người bằng lời nói, nhưng tất cả đều bằng việc làm, tức là bằng đời sống, bằng hành động gương mẫu tốt lành. Nghĩa là tất cả chúng ta đều phải là chứng nhân của Chúa và của Nước Trời, không ai được chuẩn chước, cho dù là một bệnh nhân bất toại nằm trên giường cũng thế.
Rao giảng bằng lời nói của các chiến sĩ Phúc âm, của các vị thừa sai, của các linh mục… cũng rất cần thiết, nhưng với điều kiện là phải đi đôi với bằng chứng đời sống của chính các ngài, nếu không lời nói của các ngài chỉ là tiếng thanh la não bạt rộn ràng. Ngược lại, việc rao giảng bằng đời sống, tự nó có năng lực thuyết phục người ta chấp nhận chân lý mà không cần lời nói, tuy rằng lời giảng vẫn có thể bổ túc một cách hữu hiệu. Chúng ta vẫn nói hay nghe người khác nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, lời nói mới chỉ làm lung lay lòng người, nhưng đời sống sẽ lôi kéo người ấy về hẳn phía mình.
Mỗi Kitô hữu, mỗi người Công giáo là một chứng nhân cho Chúa, cho đạo. Nếu chúng ta thiếu đời sống tốt lành, thiếu đời sống gương mẫu là chúng ta đã bỏ mất ơn thiên triệu làm chứng nhân và không thi hành đầy đủ sứ mệnh tông đồ của mình. Như vậy, cách rao giảng, cách làm chứng cho Chúa, cho đạo tốt nhất, hữu hiệu nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta. Nghĩa là làm bất cứ việc gì, ở đâu, với ai, chúng ta hãy để ý đối xử với họ thế nào để gây được thiện cảm cho đạo, dù đó chỉ là những cử chỉ nhỏ nhặt hay những câu nói buông trôi giữa trời, bởi vì chính những cử chỉ không tên tuổi, những câu nói giữa trời, những thái độ dường như vô tình ấy cũng rất có ảnh hưởng và có khi còn ảnh hưởng sâu xa nữa.
Phương ngôn Ả Rập có câu: “Nếu anh không làm được ngôi sao trên trời, anh hãy làm cái đèn trong nhà anh”. Nếu đa số chúng ta không có điều kiện để đi đây đó làm tông đồ, thì tất cả chúng ta đều có thể làm tông đồ bằng gương sáng. Làm gương sáng là một nhiệm vụ chính Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Các con là cái đèn sáng, sự sáng của các con phải tỏa chiếu trước người ta, để người ta thấy công việc của các con mà ngợi khen Cha trên trời”. Chúng ta làm tông đồ bằng cách gây ảnh hưởng tốt và gây ảnh hưởng bằng ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ… Vậy nếu một lời nói, một cử chỉ, một thái độ có thể ảnh hưởng đến người khác, thì phương chi một hành động, một công việc và nhất là một nếp sống. Làm gương sáng bằng hành động của chúng ta có sức lôi cuốn hơn những lời nói hoặc những bài giảng hay.
Gương sáng cụ thể nhất là những việc làm thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Có một người đàn bà kia đã khuyên đứa con cưng của bà như sau: “Con ơi, ngày con mới sinh, đôi mắt con vừa nhìn thấy ánh sáng, mọi người đều mỉm cười với con, mà con lại khóc. Con hãy sống thế nào để một ngày kia, đến giờ sau hết, mọi người đều tràn lệ mà con lại mỉm cười”. Sống thế nào để được như thế? Chỉ có một cách duy nhất là gieo vào tâm hồn những người chung quanh một tình thương mến, để đến giờ cuối đó họ phải khóc vì thương tiếc, và chúng ta mỉm cười vì đã thực thi được tình người, muốn như vậy cần phải biết yêu thương và thể hiện tình yêu thương.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức nhiệm vụ tông đồ và cố gắng thực hiện bằng cách làm gương sáng và thể hiện tình yêu thương để danh Chúa được rạng sáng và nước Chúa được mở rộng.
32. Hoạt động tông đồ.
Rất nhiều lần trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã than thở, đã tâm sự với các môn đệ:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít…Ta mang lửa xuống trần gian và chỉ mong cho lửa ấy bừng cháy lên.
Vì thế, nỗi lo lắng số một trong cuộc đời Chúa, đó là huấn luyện các tông đồ, để các ông tiếp nối sứ mạng của Ngài.
Chính Ngài đã tuyển chọn các ông, cắt nghĩa cho các ông được hiểu về giáo lý Tin Mừng, trao ban quyền hành và sai các ông đi truyền giáo. Phần các tông đồ, các ông cũng đã hăng say đáp trả lời mời gọi của Chúa.
Còn chúng ta thì sao?
Với Bí tích Rửa tội, Chúa cũng đã kêu gọi chúng ta trở nên những tông đồ. Với Bí tích Thêm sức, Chúa cũng đã sai chúng ta đi vào cuộc đời để làm chứng cho Ngài. Thế nhưng, chúng ta đã làm được những gì, cho danh Chúa được cả sáng, và nước Chúa được trị đến?
Nhiều người trong chúng ta đã phủi tay trước nhiệm vụ khẩn thiết ấy. Họ cho rằng: Hoạt động tông đồ truyền giáo chỉ là một bổn phận dành riêng cho linh mục và tu sĩ. Còn họ, đang phải vật lộn giữa dòng đời, thì còn hơi sức đâu mà nghĩ tới.
Vậy họ đã đưa ra những lý do nào để biện minh cho thái độ của mình.
Lý do thứ nhất như vừa trình bày, họ cho rằng hoạt động tông đồ và truyền giáo không phải là bổn phận của họ.
Nghĩ như vậy là lầm, bởi vì một khi đã là chi thể của Hội thánh, chúng ta phải liên đới chịu trách nhiệm về sự sống còn và phát triển của Hội thánh.
Chính vì thế, Đức Thánh Cha Piô XII đã kêu gọi:
- Hãy liên kết với nhau để xây dựng lại thế giới.
Hơn thế nữa, Kinh thánh đã bảo chúng ta:
- Đức tin không có việc làm thì chỉ là một đức tin đã chết.
Bằng hoạt động, bằng việc làm, chúng ta sẽ biểu lộ được sức sống của niềm tin.
Lý do thứ hai họ đưa ra, đó là tôi không có thời giờ và tiền bạc.
Chúng ta nói rằng, chúng ta yêu mến Chúa hết lòng, nhưng thử hỏi chúng ta đã dành cho Chúa những gì?
Nếu so sánh chúng ta với một đảng viên, một cán bộ, chúng ta sẽ thấy mình thua xa. Trong một tuần lễ mà thôi, một đảng viên, một cán bộ đã bỏ ra bao nhiêu thời giờ để hội họp, để thảo luận, để đi đây đi đó mà phổ biến chính sách đường lối, còn chúng ta thì sao?
Đừng hỏi rằng Chúa đã làm gì cho tôi, mà hãy tự kiểm điểm xem tôi đã làm được những gì cho Chúa.
Lý do thứ ba họ nghĩ rằng: mình không có khả năng.
Thực vậy, tôi vừa quê mùa, lại vừa dốt nát, làm sao có thể đối đầu với những người học rộng biết nhiều và trí thức?
Đọc lại Phúc âm chúng ta thấy các tông đồ là ai? Tôi xin thưa:
- Họ là những ngư phủ đơn sơ và chất phác, học thì ít mà thiện chí thì nhiều.
Chính thiện chí mới là điều cần thiết, như là một câu danh ngôn đã bảo:
- Người ta làm được nhiều điều tốt đẹp với một trái tim hơn là với một cái đầu.
Ngoài ra, làm việc tông đồ đâu có phải chỉ là giảng giải, tranh biện hơn thua mà còn bằng lời cầu nguyện, còn bằng đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của mình nữa.
Trong bàn tay của Chúa, một dụng cụ tầm thường nhất cũng có thể tạo được những thành công rực rỡ.
Ngày nay chúng ta thường kêu ca:
- Đạo đức thì suy đồi, luân thường thì đảo lộn, con người như đã đánh mất niềm tin vào những giá trị thiêng liêng.
Nhưng thử hỏi:
- Chúng ta làm được những gì để cải tạo xã hội, hay là chúng ta cho rằng mình chỉ là một cánh én, làm sao tạo dựng nổi một mùa xuân?
Chúng ta lớn tiếng phê bình chỉ trích, nhưng lại không góp được một phần nhỏ bé vào công cuộc truyền giáo, đem ánh sáng Phúc âm đến cho những người chung quanh…
Thiết tưởng, chúng ta nên ghi nhớ và thực hành lời khuyên sau đây, đó là:
- Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
33. Hãy đi rao giảng.
Lần đầu tiên sai các môn đệ đi thực tập rao giảng Chúa Giêsu đã căn dặn họ nhiều điều. Đoạn Tin Mừng hôm nay chỉ nói đến hai điều: hành trang phải mang theo là những gì và phải xử trí thế nào trước những thái độ khác nhau của thính giả.
Bình thường, trước khi đi đâu, nhất là khi đi xa, lâu ngày, một người cẩn thận, bao giờ cũng phải chuẩn bị, sửa soạn, sắm sửa hành trang. Chẳng hạn: một người tính đi du lịch Đà Lạt hay Nha Trang, dù chỉ bốn, năm ngày hay một tuần, trước khi đi, người ấy sẽ chuẩn bị quần áo và những vật dụng cần thiết. Một người mẹ cho con gái đi ở riêng, trước khi tiễn con lên xe hoa, bà thường sắm sửa cho con đủ thứ áo xống, vật dụng và căn dặn con đủ cách. Hoặc khi tiễn người con trai đi nghĩa vụ quân sự, bà cũng lo lắng, sắm sửa, căn dặn con nhiều điều. Trong phạm vi nghề nghiệp cũng vậy. Làm nghề gì người ta cũng sửa soạn dụng cụ cần thiết: một bác nông dân đi làm thì phải có cày có cuốc. Trẻ em đi học thì phải có bút mực, sách vở…
Vậy mà chúng ta thấy, trước khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu bảo họ: không được mang gì cả, không mang bị, không mang tiền, không mang hai áo… Tại sao vậy? Bởi vì Chúa muốn họ ra đi truyền giáo phải có tấm lòng từ bỏ tất cả, thoát ly ra ngoài vòng cương tỏa của vật chất. Họ sẽ sống một nếp sống bấp bênh. Có vậy họ mới biết bám víu vào Thiên Chúa quan phòng đã sai họ ra đi.
Vấn đề ở đây, Chúa muốn dạy các môn đệ Ngài phải có một tấm lòng sẵn sàng từ bỏ: từ bỏ cha mẹ, bà con và chính bản thân, từ bỏ những gì cần thiết… để họ thảnh thơi ra đi, không bon chen, không dính bén, không vướng víu; và đi đâu, đến đâu cũng được, nơi đâu cũng là quê hương. Chúa không muốn các môn đệ Ngài trở thành những hành khách được trang bị đầy đủ để rồi không còn lo sợ bất trắc. Không, Chúa muốn các môn đệ Ngài phải biết đặt lòng tin vào Thiên Chúa quan phòng. Ngài muốn họ gặp bất trắc để họ biết phó thác vào Thiên Chúa.
Sau khi căn dặn các môn đệ từ bỏ, tín thác vào Thiên Chúa quan phòng, Chúa cho họ biết ngay rằng: công việc rao giảng của họ không dễ dàng: có người chấp nhận, có người không. Vậy họ phải xử trí thế nào? Chúa bảo: gặp được nhà nào tốt lành, chính đáng, thì ở lại đó cho đến lúc ra đi. Làm như vậy là tỏ lòng kính trọng, trung thành và biết ơn lòng hiếu khách. Còn làm khác đi dễ gây hiểu lầm, bội tín. Sở dĩ có lời khuyên như thế là vì hồi xưa, các nhà truyền giáo không có chỗ ở cố định mà phải nhờ vả rất nhiều vào các tín hữu để truyền giáo dần dần.
Dĩ nhiên và đương nhiên họ sẽ không được một số nơi tiếp nhận và còn ngược đãi nữa. Trường hợp đó, Chúa cho phép ra đi tới một nơi khác, và hãy giũ bụi chân lại cho họ biết lỗi lầm bất kính cảu họ. Người Do thái có thói quen làm như thế khi họ đi từ vùng dân ngoại vào vùng đất của họ để minh chứng họ dứt bỏ mọi liên hệ xấu với dân ngoại. Vậy người môn đệ làm như thế để đánh thức những ai từ chối họ, và cho những người ấy biết rằng cư xử của họ như vậy là đã trở thành dân ngoại.
Việc Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng và căn dặn các ông nhiều điều, nhắc nhở chúng ta cũng hãy làm tông đồ cho Chúa. Và tất cả chúng ta đều biết cách làm tông đồ tốt nhất, được Giáo Hội đề cao và cổ võ nhất, là làm tông đồ bằng chính đời sống tốt lành của chúng ta. Bởi vì đời sống của một người tín hữu chẳng những sống mà còn mang một sứ điệp, là người phát ngôn của Chúa ở nơi mình sống. Thiên Chúa là tác giả viết thư, còn chúng ta là những dòng chữ sống Thiên Chúa viết trên trần gian này. Đọc bức thư là người ta hiểu được ý tưởng, vấn đề người chủ muốn viết. Cho nên, đời sống của người Kitô hữu thánh thiện, tốt lành có giá trị thuyết phục hơn tất cả những bằng chứng khác.
Ngược lại, nếu chúng ta không sống như thế mà còn sống tệ hơn những người khác thì sao? Chẳng hạn như vấn đề được nêu lên trên một tờ báo như sau: Khu xóm tôi là một xóm toàn tòng theo đạo. Những ngày Chúa nhật hoặc lễ trọng, nhà nhà đi lễ, người người đi lễ, rất là nhộn nhịp trong bầu không khí thánh thiện của một ngày lễ. Đó là một điều đáng mừng đáng quí. Thế nhưng còn một điều đáng buồn cũng xảy ra thường ngày trong xóm đạo tôi, đó là thiếu tình thương, thiếu bác ái. Chẳng hạn: hai nhà gần nhau, mấy đứa nhỏ chơi với nhau rồi đánh nhau. Thế là hai gia đình đó cãi nhau chí tử. Chẳng hạn: buôn bán, vay mượn tiền bạc của nhau, không biết quên sót hay thiếu đủ sao đó, rồi cũng đi đến chỗ cãi nhau cả ngày trời, náo động cả khu xóm. Những chuyện như vậy cứ xảy ra thường xuyên ở khu xóm tôi, một xóm toàn những người có đạo. Thế mà mọi người vẫn thản nhiên vui sống, vẫn cứ đi lễ, đọc kinh, vẫn cứ cãi lộn, chửi nhau. Cuối cùng, tác giả bài báo này kết luận: Ước mong xóm đạo tôi ngày càng sống đạo tốt hơn, tức là vẫn siêng năng đi lễ, cầu nguyện, nhưng cũng biết sống bác ái, chia sẻ hơn với mọi người chung quanh.
Có lẽ đó cũng là điều ước mong của chúng ta. Chúng ta hãy sống đạo ở trong nhà thờ, trong gia đình, ở khu phố, ở mọi nơi. Sống đạo thực sự như thế là chúng ta cũng đang đóng góp phần mình vào công cuộc tông đồ của Chúa và Giáo Hội.
34. Người sai họ đi.
Đức Giêsu sai các tông đồ ra đi. Kitô giáo luôn là thế. Nó không bao giờ giữ lại điều gì cho mình. Nó luôn bao hàm sự vươn tới những người khác. Nếu không có yếu tố này, không còn là Kitô giáo nữa. Và điều đó nhiều lần được chứng tỏ bằng sự sẵn sàng hy sinh của mỗi người.
Cho tới lúc đó, các tông đồ ở với Đức Giêsu. Suốt thời gian qua, Người đã giáo huấn họ. Nhưng Người đã chọn họ cho một sứ mạng – giúp truyền bá Tin mừng về nước Thiên Chúa. Đã đến lúc họ phải góp phần vào công việc ấy. Người sai họ đi từng hai người một để họ có thể nâng đỡ nhau và học làm việc với những người khác. Người ban cho họ quyền nói và hành động nhân danh Người.
Hãy nhớ rằng đó chỉ là sứ mạng tạm thời, ngắn hạn và giới hạn trong các thị trấn và làng mạc Do thái. Sứ vụ sau cùng, khi họ được sai đến toàn thế giới, vẫn còn trong tương lai.
Sứ vụ của họ trước tiên là một sứ vụ tâm linh – rao giảng sự sám hối và nước Thiên Chúa đã đến trong thế giới. Nhưng sứ vụ ấy cũng liên quan đến việc chữa lành thể chất và tinh thần. Nó cho thấy Kitô giáo quan tâm đến hạnh phúc tinh thần và vật chất của con người. Nói cách khác, nó quan tâm đến con người toàn diện.
Họ không mang theo những vật chất để cho người ta. Trong bất cứ trường hợp nào, họ không thể có được những thứ ấy. Nếu việc truyền giáo gắn sứ điệp với những quà tặng vật chất luôn luôn là điều nguy hiểm. Bởi lẽ người ta có thể chấp nhận sứ điệp với những lý do sai lầm. Sứ điệp của họ phải tự nó tỏa sáng giá trị xứng đáng, và phải được chấp nhận chủ yếu bởi những lý do tinh thần.
Về những trang bị cá nhân, họ chỉ được mang những cái hoàn toàn cần thiết – dép và gậy. Về lương thực và chỗ ở, họ phải trông cậy vào lòng hiếu khách của những người mà họ được sai đến. Thật vậy, điều đó có nghĩa là trông cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nhưng bằng cách ấy, dân chúng sẽ cảm thấy họ cũng tặng lại một điều gì đó. Sẽ có một sự chia sẻ. Điều này tốt cho các thừa sai: họ cần dân chúng nơi họ được sai đến. Và cũng tốt cho dân ở nơi truyền giáo: tốt cho nhân phẩm của họ, và cũng để khuyến khích lòng quảng đại của họ.
Các thừa sai phải làm chứng về đức nghèo khó bằng sự từ bỏ những của cải vật chất. Và họ phải chứng tỏ sự liên đới với người nghèo bằng cách liên kết trong các cuộc đấu tranh của họ và chia sẻ sự nghèo khó với họ. Nhiệm vụ chính của họ là rao giảng sứ điệp. Nhưng họ không thể kiểm soát, điều khiển sự đáp ứng của dân và cũng không nên làm như thế. Họ phải tôn trọng tự do của người được rao giảng. Và họ phải chờ đợi có người sẽ khước từ nó.
Nếu sự rao giảng của họ bị chối bỏ, họ chỉ được phản ứng với một cử chỉ tượng trưng, phủi bụi dính ở chân. Đây là một hành động có tính tượng trưng cao đối với người Do thái trong thời đó. Dân chúng sẽ hiểu rõ ý nghĩa của hành động đó. Nó có nghĩa là các tông đồ sẽ đoạn giao với họ hoàn toàn và kể từ đó coi họ như người ngoại giáo. Tuy nhiên, cũng có nghĩa như một cữ chỉ quan tâm. Mục đích của nó là làm cho họ nghĩ lại về những điều mà các tông đồ đã đem đến cho họ và những hậu quả của việc khước từ. Nó cho thấy số phận của những người khước từ quà tặng của Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng này rất thích hợp với chúng ta. Tin Mừng vẫn cần được rao giảng và cần có những người chấp nhận nó. Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn còn thích hợp cho các thừa sai hôm nay. Dù những điều kiện đã thay đổi, những nguyên tắc căn bản những giữ nguyên. Những điều kiện ấy thách đố những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng và những người được rao giảng – Nó cho thấy tầm quan trọng của việc cởi mở tâm hồn để đón nhận lời Chúa.
Tất cả chúng ta đều gặp một thách đố lớn là phải trở thành các môn đệ hoạt động, chứ không phải là các môn đệ thụ động; không chỉ là những người đón nhận mà còn là những người ban phát. Không phải là cành cây khô hoặc gốc nho chết mà là những cành cây sống và trĩu quả.
Chúng ta thấy A mốt đã được kêu gọi bỏ công việc bình thường để đi rao giảng sứ điệp (Bài đọc 1). Mười hai tông đồ cũng thế. Không phải chỉ một số ít chúng ta được kêu gọi rao giảng Tin Mừng ngày nay. Nhưng tất cả chúng ta đều được kêu gọi làm nhân chứng cho Tin Mừng. Chúng ta làm điều đó chủ yếu bằng cách sống Tin Mừng – bằng cách làm môn đệ của Đức Kitô trong thực tế cũng như trên danh nghĩa.
35. Trách nhiệm.
Trong một ý nghĩa, niềm tin vào Thiên Chúa rất phiền nhiễu bởi vì nó gia tăng trách nhiệm của chúng ta. Nếu không có Thiên Chúa, thì cũng không còn trách nhiệm – chỉ còn sự hỗn mang và đêm dài vô tận.
Nếu một người nào đến tìm chúng ta và cầu xin giúp đỡ, chúng ta không thể xua đuổi người ấy với những lời đạo đức: “Bạn hãy có đức tin, hãy dâng sự khó khăn này lên Thiên Chúa và Người sẽ giúp đỡ bạn”. Trong những trường hợp như thế, bạn nên hành động như thể không có Thiên Chúa, như thể chỉ có một người trên thế gian này có thể giúp đỡ, người ấy chính là tôi.
Nương tựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa là một chủ yếu của Kitô giáo. Nhưng nó không được viện dẫn như một cái cớ để không làm việc gì. Chúng ta không nên lùi lại và chờ đợi Thiên Chúa làm hết. Thiên Chúa sẽ không xuống và đích thân Người làm. Thiên Chúa hành động qua chúng ta.
Một ngày mùa đông một người đàn ông đi đến một cậu bé đang ngồi ăn xin trên một cây cầu của thành phố, gió thổi lồng lộng. Cậu bé run lập cập vì lạnh và rõ ràng đang cần một bữa ăn ngon. Nhìn thấy cậu bé, người đàn ông rất tức giận bèn nói với Thiên Chúa:
“Lạy Chúa, tại sao Chúa không làm điều gì đó cho cậu bé này?”
Và Thiên Chúa đáp lại: “Ta đã làm một điều gì đó cho nó rồi”.
Điều này làm người đàn ông ngạc nhiên, vì thế ông nói “Con hy vọng Chúa không nói rằng: Bất cứ điều gì Chúa làm đều có vẻ như không làm”.
“Ta cũng đồng ý với con điều đó” Chúa đáp.
“ Nhưng bằng cách nào Chúa đã làm điều đó?” Người đàn ông hỏi.
“Ta đã làm ra con” Chúa đáp.
Không có gì sai khi yêu cầu Thiên Chúa chỉnh đốn lại những điều sai trái và an ủi nỗi khổ đau. Nhưng chúng ta phải nhớ một điều là Người đã giao phó những nhiệm vụ ấy cho chúng ta.
Chúng ta là những công cụ của Thiên Chúa. Đó là phẩm giá và cũng là trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta phải xác tín rằng không có tình yêu thương của chúng ta, những người khác sẽ không hoàn thành những việc mà Thiên Chúa muốn họ làm. Chúng ta thấy điều này rất rõ trong bài Tin Mừng hôm nay. Ở đây chúng ta thấy Đức Giêsu chia sẻ công việc mở rộng nước Thiên Chúa cho các tông đồ.
Dĩ nhiên, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta có thể làm gì? Chúng ta phải trả lời câu hỏi ấy cho chính mình. Nhưng ví dụ sau đây chỉ cho chúng ta phương hướng đúng.
Một cặp vợ chồng thất nghiệp sống ở Dallas, Texas. Họ rất nghèo và thường đi quanh thành phố nhặt những lon bia bằng nhôm để bán cho những nơi tái chế. Trong công việc của họ, họ phải lục lọi trong những thùng đựng rượu vứt làm rác.
Một buổi sáng họ có một khám phá rất đau buồn trong một thùng bia đặc biệt. Trong đó họ thấy một cái xác của một trẻ sơ sinh. Họ báo cho cảnh sát. Cảnh sát tiến hành một cuộc điều tra nhưng không tìm ra dấu vết của cha mẹ đứa trẻ. Thế là không có ai là người chôn cất cho đứa bé.
Cặp vợ chồng biết ngay việc họ phải làm. Chính họ muốn nhìn thấy đứa trẻ xa lạ được chôn cất tử tế. Nhưng việc này phải tốn tiền, trong khi họ lại có quá ít. Người vợ đem cầm vật duy nhất có giá trị, một chiếc nhẫn cưới hột xoàn, để trả các chi phí mai táng.
Nhờ có sự cố gắng của họ, đứa trẻ đã đến nơi an nghỉ cuối cùng trong một quan tài màu trắng có phủ hoa. Nước mắt của cặp vợ chồng cũng thanh khiết như nước mắt của Đức Giêsu trước nấm mồ của bạn Người, Ladarô.
Để trở nên suối nguồn ánh sáng trong thế gian, người ta không cần giàu sang hoặc có tiếng tăm. Người ta chỉ cần có một tấm lòng yêu thương nồng cháy.
36. Đức Kitô cần chúng ta.
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo. Trong làng, có một ngôi nhà thờ Công giáo. Bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng Đức Kitô. Tuy nhiên, khi cuộc chiến qua rồi bức tượng đã biến mất. Bức tượng đã bị hất ra khỏi bệ vỡ ra từng mảnh trên mặt đất.
Một nhóm lính Mỹ đã giúp vị linh mục thu thập những mảnh vụn. Một cách cẩn thận, họ đã ráp lại pho tượng. Họ tìm thấy tất cả các mảnh vỡ, trừ đôi bàn tay. Họ đề nghị khi trở về Mỹ họ sẽ đặt làm đôi bàn tay ấy. Nhưng vị linh mục đã từ chối.
“Tôi có một ý tưởng hay hơn”, ông nói. “Chúng ta hãy để pho tượng không có bàn tay. Và chúng ta sẽ ghi vào chân đế lời này. “Bạn ơi, hãy cho tôi mượn đôi bàn tay của bạn”. Bằng cách đó, những khách vãng lai sẽ nhìn thấy giờ đây Đức Kitô không có tay nhưng chính tay chúng ta sẽ nâng đỡ người vấp ngã; không có bàn chân chính chân chúng ta sẽ đi tìm người lạc mất, không có tai nhưng chính tai chúng ta sẽ lắng nghe người cô độc, không có lưỡi nhưng chính lưỡi chúng ta sẽ nói những lời an ủi người cô đơn.
Sự cố nhỏ ấy làm sáng tỏ sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu kéo các tông đồ vào công việc của Người. Người chia sẻ sứ vụ thánh thiêng của Người cho họ. Người đã cho họ quyền bính và sức mạnh của Người. Đương nhiên, họ cũng phạm những lỗi lầm, điều này không làm người ta ngạc nhiên khi hiểu rằng họ là những con người bình thường.
A mốt là một mục đồng bình thường (Bài đọc 1). Tuy nhiên Thiên Chúa đã sai ông đi rao giảng sứ điệp hối cải cho dân. Hầu hết các tông đồ là những ngư phủ. Tuy nhiên Đức Giêsu đã không ngần ngại chia sẻ công việc Người cho họ. Càng ngạc nhiên hơn khi một ngày kia Người sẽ giao phó toàn bộ công việc cho họ.
Nhiều người đang nắm quyền hành thường sợ kéo người khác vào công việc, đặc biệt những người được gọi là tầm thường. Vì thế, người khác bị loại ra với cảm giác rằng họ không đóng góp được điều gì. Để cho người khác tham gia là điều tốt. Nó làm cho người ta có trách nhiệm. Nó cho người ta một cơ hội sử dụng tài năng của mình. Nó xây dựng một cộng đoàn tinh thần.
Nhưng một đôi khi người ta không muốn tham gia. Giao việc ấy lại cho các chuyên viên hẳn là dễ dàng hơn. Ngày nay, người ta thường giao việc cho các chuyên môn. Vì thế, việc chữa bệnh được giao cho các bác sĩ và y tá. Việc dạy học giao cho các thầy cô giáo. Còn việc lo cho người nghèo giao cho chính phủ hoặc Hiệp Hội Bác ái Vinh Sơn Phao Lô.
Dĩ nhiên các chuyên gia rất cần trong các việc chuyên môn. Nhưng người không chuyên môn cũng có nhiều việc đóng góp và thường có nhiều nhiệt tình hơn. Người bệnh có thầy thuốc nhưng cũng cần có tình bè bạn. Người già cần có người chia sẻ thời gian với họ. Người trẻ cần có người tỏ ra quan tâm đến họ. Đây là công việc mà chúng ta có thể làm được. Nó không đòi hỏi tài chuyên môn nào mà chỉ cần có một tấm lòng tận tụy.
Kinh Thánh bắt đầu với câu chuyện Thiên Chúa làm con người trở thành những người cộng tác trong công trình sáng thế. Và Đức Kitô đã cho các môn đệ tham gia công trình cứu chuộc của Người. Một trách nhiệm cao cả đã được đặt lên vai chúng ta. Một vinh dự cao quí cũng đã được trao cho chúng ta. Chúng ta có trách nhiệm về thế giới này của Thiên Chúa và về mỗi người khác. Chúng ta là những người quản lý tạo vật và là người đồng cộng tác với Đức Kitô.
37. Chúa cần chúng ta.
Trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên, một ngôi làng bị pháo kích nặng nề. Giữa làng có một ngôi nhà thờ, trước nhà thờ có một tượng Đức Giêsu được đặt trên một cái bệ. Nhưng sau khi khói lửa của trận pháo kích tan đi, người ta chỉ còn thấy cái bệ, còn pho tượng thì biến đâu mất. Những người lính đồng minh cố gắng đi tìm và cuối cùng cũng tìm thấy tượng Chúa bị văng khỏi đó một khoảng khá xa. Tuy nhiên hai cánh tay của Chúa đã bị hỏng mất. Họ cung cấp một chiếc máy bay để chở pho tượng về Mỹ cho thợ làm lại hai cánh tay. Nhưng cha xứ từ chối. Cha bảo cứ đặt pho tượng lên bệ như cũ, phía dưới viết thêm hàng chữ: “Các con thân mến, hãy cho ta mượn đôi cánh tay của các bạn”.
Câu chuyện trên giúp ta hiểu sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay: Đức Giêsu kêu gọi các tông đồ tham gia công việc của Ngài. Ngài chia sẻ sứ mạng với họ. Ngài ban cho họ chính quyền năng và uy tín của Ngài. Rồi Ngài sai họ đi loan truyền Tin Mừng. Thực ra, họ chỉ là những người chài lưới, cả tài năng lẫn đức độ đều không có bao nhiêu. Nhưng Ngài vẫn chia sẻ sứ mạng cho họ, vì họ sẽ thi hành sứ mạng không phải bằng sức riêng của họ, mà bằng ơn Chúa.
Ngày nay, có nhiều đấng có thẩm quyền vẫn e ngại không xẻ công việc cho giáo dân; mặt khác, nhiều giáo dân cũng e ngại không dám gánh trách nhiệm trong Giáo Hội. Cả hai phía đều tính toán thành bại dựa trên khả năng của con người. Nhưng đó không phải là tính toán của Thiên Chúa.
Hãy nhớ rằng Sách Thánh bắt đầu bằng chuyện Thiên Chúa giao cho loài người quyền hợp tác với Ngài trong công cuộc sáng tạo vũ trụ; bài đọc 1 hôm nay kể chuyện Thiên Chúa giao cho Amos sứ mạng làm ngôn sứ cho dân Israel mặc dù ông chỉ chuyên nghề chăm sóc cây sung; và bài Tin Mừng kể chuyện Đức Giêsu sai 12 tông đồ vốn là những dân chài sứ mạng truyền giáo.
38. Siêu thoát bản ngã
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CMC)
Đại Tướng Grant là Tổng Chỉ Huy quân đội trong trận nội chiến và sau này trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ thứ 18 với hai nhiệm kỳ. Đại Tướng sống rất đơn sơ, như Ngoại Trưởng Washburne đã viết về ông như sau: "Khi Đại Tướng Grant từ giã Bộ Tổng Tham Mưu để đi tranh cử Tổng Thống, ông chẳng mang theo sắc phục "Lon Tướng" và những vật dụng mà một Tướng Lãnh thường mang theo. Ông chỉ muốn làm sao để có thể di chuyển cho nhẹ nhàng. Vì thế, điều quan trọng đối với ông là càng mang theo ít đồ càng tốt. Ông chẳng cần có cận vệ đi theo, chẳng cần có lừa ngựa để di chuyển, cũng chẳng mang theo áo khoác hoặc nhiều y phục để thay đổi. Tất cả những thứ mà ông mang theo cho cuộc vận động 6 ngày là một bàn chải đánh răng. Tôi đi theo ông, nên tôi biết rõ lắm. Ông sống như một anh binh nhì, ăn như lính, ngủ như lính, lấy trời xanh làm màn che".
I. ƠN TUYỂN CHỌN CAO QUÝ
Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Kitô sai các Tông Đồ đi rao giảng, đi vận động cho Tin Mừng Nước Trời, Ngài cũng truyền cho các ông đừng mang theo nhiều đồ kềnh càng, không mang bị mang bánh, không mang theo tiền của, không mang hai áo choàng... để các ông khỏi bận tâm vào của cải, khỏi bị những phù vân đời này ràng buộc chi phối, làm ngãng trở sứ mạng Tông Đồ cao cả Chúa ủy thác.
Tất cả chúng ta đều cũng được Chúa tuyển chọn, như Ngài đã tuyển chọn các Tông Đồ. Thánh Phaolô đã viết trong thư gởi Giáo Đoàn Ephesô khi nói với chúng ta rằng: "Thiên Chúa đã tuyển chọn chúng ta trong Chúa Kitô trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta nên thánh thiện và tinh tuyền trước nhan thánh Ngài trong tình yêu thương" (Eph 1:4).
Ngay từ muôn thế hệ, Chúa đã biết chúng ta, đã yêu thương và tuyển chọn chúng ta, để chúng ta sinh vào đời, làm người rao giảng Tin Mừng, làm chứng nhân cho Chúa, như lời Người đã phán trong sách tiên tri Isaia: "Trước khi tác tạo nên con trong lòng thân mẫu, Cha đã tường hiểu con; trước khi con ra khỏi lòng mẹ, Cha đã thánh hiến con và đặt con làm tiên tri rao truyền danh Cha cho các dân tộc" (Jer.1:4-5). Chúa còn phán: "Cha đã yêu thương con bằng một tình yêu vĩnh cửu; nên Cha đã dủ tình thương mà lôi kéo con lại với Cha" (Jer. 31:3).
II. THÁI ĐỘ CHÚNG TA ĐÁP LẠI
Để đáp lại tình Chúa yêu thương đã tuyển chọn chúng ta; để chu toàn sứ mạng làm Tông Đồ, làm chứng nhân cho Chúa giữa trần gian; cũng như các Tông Đồ, Chúa muốn chúng ta sống thanh thản siêu thoát, không bị ràng buộc vào những của cải vật chất, không bị trói buộc và nô lệ bởi bất cứ một phù vân nào ở đời này; để dễ dàng chuyên lo thực thi sứ mạng Chúa ủy thác và đạt tới cùng đích của cuộc sống làm con cái Chúa.
Dĩ nhiên, bao lâu còn sống trên trần gian, chúng ta còn phải sử dụng tiền của, vật dụng, tiện nghi cho những nhu cầu thân xác hoặc làm việc tông đồ; chúng ta cũng cần phải có những phương tiện vật chất trợ giúp, thiếu nó chúng ta cũng khó chu toàn được nhiệm vụ. Nhưng Chúa truyền dạy chúng ta đừng quá lệ thuộc vào những thứ đó, đến nỗi chúng ta trở nên nô lệ cho vật chất làm choán đoạt tâm trí, kéo ghì con người chúng ta xuống, khó vươn mình lên cao được, khiến chúng ta không thể: "Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước hết".
Các Thánh đã quá hiểu sự ràng buộc bởi của cải vật chất, làm ngãng trở đường tiến tới cùng đích và cản ngăn sứ mạng Tông Đồ, nên các ngài đã khước từ của cải đời này; hoặc phải dùng của cải đời này mà như không dùng, tức là không để cho mình bị chúng chiếm đoạt, đến nỗi trở thành nộ lệ cho những thứ phù ảo đó.
Nhiều vị Thánh, như Thánh Phanxicô Khó Khăn chẳng hạn, đã bán hết của cải, phân phát cho người nghèo, hoặc từ bỏ chức quyền sang trọng để sống một đời nghèo nàn, tầm thường, bình dị, thoát ly khỏi những bon chen trần thế, để dễ dàng thoát ly khỏi những vật chất và ngay cả chính bản thân mình, hầu mau chóng đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của ơn gọi làm con cái Chúa và chu toàn được sứ mạng Tông Đồ làm vinh danh Chúa.
Trái lại, nếu chúng ta không vươn tâm hồn lên khỏi cái bản ngã hư hèn, chúng ta cũng chẳng thể làm được ích lợi gì cho tha nhân, và cũng chẳng thể làm được lợi ích gì cho vinh danh Chúa, mà ngay cả phần rỗi chúng ta cũng khó đạt tới, chẳng hạn như câu truyện sau đây:
Một ông bõ giúp việc trong một giáo xứ nọ ở Miền Bắc Việt Nam, do một Cha Xứ kể lại: "Ông sống trong Nhà Xứ bằng một đời sống khô khan nguội lạnh, hằng ngày với các công việc thông thường như dọn nhà, xay thóc, giã gạo... Cuộc sống cũng nghèo khó đơn bạch, nhưng ông lại có lòng ham mê tiền của, chỉ lo tích góp từng đồng bạc không dám tiêu dùng và cũng chẳng giúp đỡ ai, ông chỉ bo bo như thần giữ của, cho đến khi ông lâm bệnh gần chết, mà cũng chẳng sao xưng tội được để dọn mình ra trước tòa Chúa, khuyên bảo mấy cũng vô ích... Mắt ông cứ đăm chiêu nhìn lên xà nhà, nơi treo bó quần áo rách của ông và lòng thì gắn vào mớ giấy bạc ông đã bó chặt vào đùi ông, mãi sau khi chết người ta mới khám phá ra. Thật thẳm hại thay con người mê tiền của!"
Kết Luận
Xin Chúa ban cho chúng ta biết chuyên lo một điều khẩn thiết là: "Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước tiên", tức là biết chu toàn sứ mạng Chúa ủy thác làm tông đồ vinh danh Chúa, tìm cầu Ơn Cứu Độ và hạnh phúc vĩnh cửu cho chính mình và cho các linh hồn trước hết mọi sự.
Để đạt được điều ước mong trên, Chúa đòi chúng ta phải siêu thoát khỏi mọi ràng buộc và nô lệ bởi những phù ảo trần thế như tiền của, danh vọng, chức quyền, hầu dễ dàng vươn lên với Chúa.
39. Người bắt đầu sai đi
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Sau khi bị dân chúng ở Nazaréth chối từ, Chúa Giêsu đi rao giảng ở vùng phụ cận. Đoạn 6:6b-13 nằm trong bối cảnh những sinh hoạt cuối cùng của Chúa Giêsu ở Galilêa (6:6b-8:26), mà việc trước hết là gởi các môn đệ đi (6:6b-13), và họ sẽ trở lại tường thuật cho Người những việc họ đã làm (6:30). Cấu trúc của đoạn: 1- Chúa sai các môn đệ đi trong khi gọi họ đến với Người và ban cho họ quyền năng (6:7); 2- Chỉ thị cho họ những gì họ phải mang theo mình (6:8-9); 3- Cách thức họ phải cư xử (6:10-11) và lời của thánh sử về việc họ đã thi hành bổn phận của họ như thế nào (6:12-13).
Đây là lần đầu tiên các môn đệ được sai đi. Khi thiết lập nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu đã nhắm đến hai điều chính: là “ở với Người” và “để sai đi” (3:14). Người đã nói với những người đầu tiên được kêu gọi là họ sẽ trở nên những người đánh cá con người (x. 1:17). Sứ mạng của nhóm Mười Hai chứng tỏ một cách mới mẻ quyền năng của Chúa Giêsu. Người kêu họ đến với Người, sai họ đi, ban cho họ quyền năng và chỉ định cho họ cách hành xử. Họ đi rao giảng và làm chứng không phải cho tin mừng của họ, mà của tin mừng đã lãnh nhận từ Người (x. Mt 18:16). Việc xua trừ ma quỉ trước đây là của Người, bây giờ việc nầy được trao phó cho họ để thi hành (x. 1:23-27.34.39; 3:11-12.22; 5:1-20; 3:15).
Chỉ thị trước tiên là các môn đệ không được có gì cả, ngoại trừ chỉ một cây gậy, đôi dép và một cái áo là những thứ cần thiết của người đi trên đường (c. 9). Họ không mang theo lương thực cần thiết cho bản thân, mà là sứ điệp và quyền hành nhân danh Người để nuôi sống cách thiêng liêng người khác. Phù hợp với điều nầy Phêrô đã nói với người què: “Vàng và bạc tôi không có. Nhưng tôi cho anh điều tôi có là nhân danh Chúa Giêsu Kitô Nazaréth, anh hãy bước đi” (Cvtđ 3:6). Tiếp đến là cách hành xử nếu như người ta từ chối đón nhận sứ điệp họ mang đến. Với cử chỉ giũ bụi khỏi dép các môn đệ cho họ thấy là giữa họ và những người không đón nhận họ không có một điểm chung và quan hệ nào cả (x. Cvtđ 13:51; 18:6).
Sứ mạng của các môn đệ xem ra nằm ngoài thời gian và không gian. Cũng không có một chỉ dẫn đặc thù nào về nơi chốn và thời gian mà họ được sai đến. Tuy nhiên quan hệ giữa họ với Chúa Giêsu được xác định rõ ràng: Người sai họ đi và họ sẽ trở về tường thuật với Người những điều họ đã làm. Như thế, sứ mạng của họ lệ thuộc hoàn toàn vào Người. Marcô không cho biết nội dung của sứ điệp, mà hành động đi rao giảng của họ. Mục đích của việc nầy làm làm cho người ta hoán cải và trở về với Thiên Chúa. Sứ điệp nầy tương tự với sứ điệp Gioan Tẩy Giả đã rao giảng (1:4); kèm theo đó, họ xua trừ ma quỉ và chữa bệnh họ. Phần Chúa Giêsu, Người kêu gọi không chỉ sám hối mà cả tin vào Tin Mừng nữa (1:14-15).
Từ khi được kêu gọi làm ngư phủ của con người (1:7) đến khi được thiết lập thành nhóm Mười Hai (3:14-15), đây là lần đầu tiên họ được sai đi để học kinh nghiệm bản thân về sứ mạng của họ. Họ lệ thuộc vào Chúa Giêsu, Đấng kêu gọi họ, không chỉ như là môn đệ, mà là tông đồ, người được sai đi.
40. Ra đi – Lm. Nguyễn Hữu An.
“Hôm nay khai mạc đại hội Truyền giáo tại nhà nguyện dòng Thánh Phaolô. Mình phụ trách phần thuyết trình. Lần đầu tiên trong đời, mình đăng đàn trước một cử toạ có nhiều người tai to mặt lớn như thế. Mình bắt đầu run. Phải hít thật sâu mấy hơi liền mới thấy hết hồi hộp.
Mình chủ trương rằng người truyền giáo phải khởi đầu sự nghiệp bằng việc ra đi. Đi đễ thấy mình phải làm gì, phải làm thế nào và phải làm tới mức độ nào. Đức Giêsu đã đi và đi không ngừng. Thánh Phaolô cũng thế. Mình trích dẫn lời của Thủ tướng Ben Gourion: “Người lính Do Thái phải tìm hiểu và yêu thương quê hương của mình bằng hai bàn chân”. Người truyền giáo có thể đi bằng phương tiện truyền thông xã hội, nhưng đi bằng chính thân xác của mình, để hiện diện và đối thoại với người lương dân là cách đi hoàn hảo nhất. Mặt đối mặt, lời trao lời mới nảy ra tình yêu. Truyền giáo mà không yêu thương thì không thể là truyền giáo được. Muốn thế thì phải đi, phải đến...
Bài thuyết trình của mình có một ưu điểm là rất ngắn gọn, nên được thính giả vỗ tay hơn thông lệ. Vừa rời giảng đài được chừng ba bước thì chạm trán với thầy Hiến Minh. Thầy siết tay mình thật chặt và khen ngợi bằng một câu rất gọn: “Cậu nói được đấy”.
Thái độ niềm nở và lời khen ngợi của Thầy làm mình phấn khởi và thêm xác tín vào lập trường sẵn có: “Người truyền giáo phải khởi đầu sự nghiệp bằng việc ra đi. Đi để thấy mình phải làm gì, phải làm thế nào và phải làm tới mức độ nào”
(Lm Piô Phúc Hậu, Nhật ký truyền giáo trang 177).
Truyền giáo là ra đi, đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân.
Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Đức Giêsu thực hiện sứ vụ bằng việc ra đi.
Suốt mấy năm ra mặt với đời để hành đạo, Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước của Ngài để truyền đạo. Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23) hay ở ngoài trời, ở ngoài đường. Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí. Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình liên miên. Theo ngôn ngữ của Marcô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Gio-đan, rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum... Ngài ngang qua đồng lúa... Cứ đi và đi như vậy mãi.
Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Ngài bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống. Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng. Cánh huệ mọc ngoài đồng, đàn chim sẻ đang bay. Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời. Một mẻ cá lớn bên biển hồ. Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá. Một đàn cừu, dê, người chăn lùa về buổi chiều tối. Từng tảng đá, từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối để vất đi. Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá...
Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận... Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20). Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho. Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn “sáng đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43).
Như thế, quả là suốt đời Đức Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có chỗ trụ trì, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài sống.
Đức Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Ghetsêmani hoang vắng. Bị điệu đến Hanna rồi Caipha. Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm đường trên con đường “công lý” của loài người.
Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh thập giá. Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật, niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66).
Thế nhưng, Đức Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.
Sau khi phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo tin mừng.
Hoàn thành sứ mạng, “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. (Mt 28,20)
Đức Giêsu lập nên Nhóm Mười Hai. Họ được Ngài sai đi rao giảng (Mc 6,7). Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân.
Hai động từ Gọi - Sai Đi diễn tả rõ rệt ơn gọi của Nhóm Mười Hai. Các Tông Đồ là những người được sai đi. Chúa căn dặn rằng: người được sai đi phải có tinh thần nghèo khó và từ bỏ.
Nghèo khó về hành trang đi đường: 1 cây gậy, 1 đôi dép, không mang 2 áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.
Nghèo khó về phương diện sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chúa muốn.
Đức Giêsu cũng không giấu diếm họ. Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ tôi trồng, Apollô tưới Chúa cho mọc lên.
Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ... và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi, lên đường bao giờ cũng đẹp, hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.
Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.
Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi.
Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa. Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.
41. Suy Niệm của Lm. Phạm Bá Tước.
Việc truyền giáo trong đạo của chúng ta ở vào thời đại nào cũng thế, luôn luôn bị vấn đề kinh tế, tài chánh làm cản trở bước tiến. Các nhà truyền giáo ngày nay muốn phát động một chiến dịch đến với dân ngoại mà không có tài chánh, thì cũng đành bó tay; bởi thế trong dân mới có câu: “Có thực mới vực được đạo” quả là chí lý lắm, từ trung ương Giáo-hội cho chí các Giáo-phận, rồi giáo hạt, giáo xứ, đều phải có sẵn một qũi dành riêng cho việc truyền giáo thì công việc mới trôi chẩy. Thế mà các nhà truyền giáo tiên khởi của chúng ta, là các Tông đồ, được Chúa Giêsu, là bậc Thầy lỗi lạc của mọi nhà truyền giáo, trực tiếp sai đi xem ra lại coi nhẹ vấn đề tài chánh ấy. Chúa nói: “Khi đi anh em không được mang theo lương thực, tiền bạc, ngoại trừ một đôi dép mang dưới chân và một cây gậy câm nơi tay để chống thôi, ăn mặc đơn sơ gọn gàng, đừng mặc hai áo.”
Trích đoạn Tin-mừng theo thánh Marcô, đọc trong thánh lễ hôm nay, cho chúng ta thấy người chiến sĩ Phúc âm mẫu được Chúa Giêsu đích thân sai đi, chỉ có hai bàn tay trắng, mọi nhu cầu thiết yếu cho sự sống thân xác, cụ thể như lương thực, tiền bạc đều không được mang theo. Điều đó khiến nhiều người trong chúng ta không khỏi thắc mắc, tại sao Chúa Giêsu là Thiên-Chúa mà lại hành sử một cách khờ khạo và vô lý như thế? hay Chúa chỉ sai đi trong chốc lát thôi, đói bụng thì về nhà ăn. Người chiến sĩ ra mặt trận mà hễ đói bụng thì phải trở về hậu phương để ăn, như thế làm sao có thể chiến đấu thành công được? Chúng ta phải hiểu Lời Chúa sao đây? có nên làm theo lời Chúa dậy để nắm chắc lấy cái thất bại không? Chúng ta hãy cùng nhau chia sẻ để tìm hiểu ý Chúa.
Tiên vàn, chúng ta phải tự giác lãnh lấy trách nhiệm loan báo Tin-mừng mà Chúa trao cho chúng ta trước đã, đừng thoái thác cho rằng việc truyền giáo là việc hay là bổn phận dành riêng cho các vị Thừa sai, cho hàng Giáo sĩ, hay Tu sĩ, chứ Chúa không trao cho người giáo dân chúng tôi. Nếu chưa xác định được lệnh truyền của Chúa xưa sai các môn đệ đi cũng là lệnh truyền sai hết mọi Kitô hữu cho đến từng người một trong chúng ta, thì chẳng còn gì để nói cả, chỉ vì một lý do rất đơn giản là hết thảy những ai đã chịu phép rửa tội đều mang danh là Kitô hữu, nên chúng ta trở thành môn đệ đích thực của Chúa, hơn nữa chẳng ai trong chúng ta muốn chối bỏ danh hiệu này. Thánh lễ chúng ta tham dự hằng ngày, bao giờ cũng được kết thúc bằng một lệnh truyền sai đi. Giáo-hội thay mặt Chúa nói với chúng ta: “Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an” Cộng đoàn hoan hỷ đáp lại: “Tạ ơn Chúa” Lời cầu chúc ấy là một lệnh sai đi loan báo Tin-mừng, hàm ý nhắc nhở người tín hữu về bao nhiêu ơn lành Chúa thông ban cho chúng ta trong Thánh lễ, đặc biệt những ơn chúng ta lãnh được nơi bàn tiệc Mình và Máu Chúa, không phải để chúng ta mang về cất giấu đi cho mình. Bao nhiêu tâm hồn đang đói khát ơn Chúa, không được diễm phúc ăn uống no say Mình và Máu Chúa như chúng ta, chúng ta có bổn phận phải đem chia sẻ ơn Chúa cho họ.
Chỉ cần nói tới đây thôi là ai cũng hiểu được, tại sao hôm nay Chúa sai tôi đi loan báo Tin-mừng lại không muốn cho tôi bận tâm đến vấn đề kinh tế, tài chánh và ẩm thực, tất nhiên Ngài không sai tôi đi chỉ trong chốc lát, công tác phải được thực hiện liên tục và kéo dài suốt cả đời tôi. Đã có ai trước tôi thực hiện nổi Lời Chúa dạy chưa? Thánh Nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu chỉ ở trong 4 bức tường của nhà Kín, không tiếp xúc với ngoài xã hội, nhưng chị nhận trách nhiệm được sai đi, chị đã đem được bao nhiệu tâm hồn trở lại, mà Giáo-hội đặt chị thánh làm bổn mạng các xứ truyền giáo ngang hàng thánh Phanxicô Xavier, người chiến sĩ Phúc âm lỗi lạc đã từng đặt chân lên mọi nẻo đường của cả một vùng Đông Nam Á rộng lớn. Thánh nữ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ truyền bá Phúc âm chỉ bằng lời cầu nguyện và sư hy sinh hãm mình mà thôi.
Nếu người Kitô hữu chúng ta phải sống giữa thế gian xô bồ, đầy những bon chen, cạnh tranh, không có môi trường thuận lợi để cầu nguyện và hy sinh hãm mình như Têrêxa, thì chúng ta rao giảng danh Chúa bằng gương sáng đời sống và cách ăn ở của chúng ta, như lời Chúa dậy: “Anh em hãy sống làm sao để mọi người nhìn thấy cách anh em ăn ở mà ngợi khen Cha anh em ở trên trời”, những cách thế loan báo Tin-mừng như vậy không đòi hỏi chúng ta phải mang theo tiền bạc, luơng thực hay phải ăn mặc lịch sự (hai áo) làm gì. Một người sống bần hàn giữa chợ đời, mà sáng chói những đức tính khiêm tốn, thật thà, đạo đức thì có sức lôi cuốn được người ta trở về với Chúa gấp hơn cả ngàn lần những bài giảng hùng hồn mà rỗng tuếch.
Nói như thế không có nghĩa là, cách thế Chúa sai các môn đệ đi loan báo Tin-mừng xưa, hiểu theo nghĩa hẹp, các nhà truyền giáo của chúng ta ngày nay chẳng còn ai đem ra áp dụng nữa đâu. Tất cả những ai đã đọc cuốn NHẬT KÝ TRUYỀN GIÁO của Linh mục Nguyễn phúc Hậu nói về những sinh hoạt truyền giáo của người chiến sĩ Phúc âm ở vùng Năm-căn, Cà mau, một cánh đồng truyền giáo Mầu mỡ, phì nhiêu ngay trên đất nước Việt-nam thân yêu của chúng ta, đều phải công nhận rằng, Lời Chúa hôm nay vẫn còn được đem ra áp dụng từng nét. Sống trong thời kỳ kinh tế thị trường như ở xã hội Việt-nam chúng ta đang sống hiện nay, đối với những người chiến sĩ Phúc âm vùng Năm căn, Cà mau, Chúa vẫn chỉ thị: “Anh em không được mang gì đi đường, trừ cây gậy, không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc, được đi dép, nhưng không mặc hai áo” còn họ thì không có gậy cầm tay, có khi dép cũng chẳng có để đi nữa, thì còn nói chi tới luơng thực, tiền bạc có đâu mà mang theo, nhưng lời Chúa vẫn được rao giảng rất là kỳ diệu, những người chiến sĩ ấy sống giữa đám dân nghèo, nhà ở cũng như nhà thờ làm toàn bằng lá dừa nứơc lụp xụp, đến nỗi nhìn nhà thờ, người ta có cảm tương đó là một Cái Chuồng thờ thì đúng hơn.
Trong khi đó Chúa cho tôi được sống trong một hoàn cảnh vô cùng thuận lợi về mọi mặt, hằng ngày tôi đã làm được những gì để hoàn thành nhiệm vụ của người được Chúa sai đi? đời sống của tôi có vì Phúc âm mà cải thiện được chút nào không? tôi có dùng đức tin như cây gậy Chúa trang bị cho để đi cho vững khỏi vấp ngã trước bao nhiêu thử thách của cuộc đời không? tôi có tận dụng được mọi ơn Chúa ban như cơm ăn, áo mặc, nhà ở cùng mọi tiện nghi của cuộc sống, như đôi dép giúp cho đôi chân tôi chống lại mọi chông gai trên đường đi, để tôi an tâm lo việc loan báo Tin-mừng không? hay ngược lại, tôi lại lợi dụng những ơn lành Chúa ban, làm gương xấu cho những người chung quanh, khiến cho người ta tìm đường xa lánh, không muốn trở về với Hội-thánh của Người.
Ngày nay nói tới Gandhi thì ai cũng biết ông là một vị Cứu tinh của dân tộc Ấn độ. Mặc dù là người theo Ấn giáo, nhưng ông rất cảm phục Chúa Giêsu, qua việc ông chăm chỉ đọc sách Tin-mừng hằng ngày, ông rất tâm đắc với Bài giảng trên núi, Chúa nói về tám mối phúc thật và lấy đó làm phương châm hành động cho mình. Nhờ đó mà ông quyết chọn một đường lối đấu tranh bất bạo động để cứu nguy cho nhân dân Aán độ. Thế rồi một hôm, ông muốn tìm hiểu cụ thể hơn về Hội-thánh Công giáo, ông tìm tới một nhà thơ trong giờ thánh lễ để quan sát sinh hoạt của người Công giáo. Nhưng không may, ông vừa tới cửa định bước vào thì một người chức việc cản ông lại và nói:”Nếu ông muốn đến dự lễ thì xin ông hãy tìm đến một nhà thờ khác, nhà thờ này chỉ dành chongười da trắng thôi’ Nghe thế, ông lủi thủi bước ra, và từ đó không bao giờ ông nghĩ đến việc đi vào một nhà thờ nào nữa. Có lần ông phải cay đắng thốt lên: “Nếu như người Công giáo sống đúng như tinh thần Phúc âm của Chúa Giêsu, thì dân tộc của tôi bớt khổ biết mấy”
Nói đúng ra, không phải chỉ mình ông Gandhi mới có ý nghĩ ấy, mà nhiều người Kitô hữu chúng ta cũng đã có lần lấy làm tiếc, vì thấy rằng, chỉ nội trong cộng đoàn người Công giáo nhỏ bé của chúng ta thôi, nhiều lần cũng có người phơi ra trước mặt mọi người cách ăn nết ở chẳng ra gì, khiến cho người ngoài hiểu sai về Tin-mừng của Đức Kitô. Họ công khai lớn tiếng thoá mạ, hạ nhục nhau ngay trước mặt những anh em luơng dân. Phải chi chúng ta phát huy được lối sống của người giáo dân thời các Tông đồ, dân chúng thời đó đã nhận ra dấu chứng này nơi cộng đoàn các tín hữu đầu tiên, khi nhìn các Kitô hữu chung sống với nhau khiến họ phải thốt lên:Coi kìa, họ yêu thương nhau biết bao và đó cũng là định hướng của chính Đức Kitô, đã ban ra cho chúng ta. Ngài nói: Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là thấy anh em yêu thương nhau Quả thế cuộc sống huynh đệ của chúng ta chẳng những là dấu hiệu chứng tỏ tôi và bạn là người môn đệ Chúa, mà còn là một bài giảng sống động và hùng hồn nhất về Tin-mừng của Chúa.
Còn chần chừ gì nữa, ngay từ hôm nay, từ giậy phút này, chúng ta cùng nhau bắt tay vào việc ngay, thời gian khẩn trương lắm rồi, Chúa đang cần những chứng nhân cho Tin-mừng. Hãy gấp rút sửa lại mọi lệch lạc của đời sống để mở lối cho nhiều tâm hồn đang trên đường tìm về với Chúa và Hội-thánh của Người. Amen.
42. Chân dung người tông đồ - Martin Lê Hoàng Vũ.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu sai nhóm 12 môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng. Trước khi lên đường, ngoài việc ban quyền trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, Đức Giêsu còn đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho các ông trong đời sống tông đồ. Đó là những điều Chúa đòi hỏi với từng người môn đệ qua mọi thời đại. Nếu dám sống theo những đòi hỏi ấy, chúng ta mới là môn đệ thật sự của Chúa. Vì ngày nay Chúa vẫn sai chúng ta ra đi vào đời với tư cách của người tông đồ.
Là môn đệ Đức Giêsu, mỗi người Kitô hữu phải sống theo những lời chỉ dạy của Chúa. Chỉ dẫn của Đức Giêsu cho các tông đồ cách đây hơn 2000 năm vẫn luôn hợp thời. Nhìn chung những đòi hỏi đó Chúa chỉ muốn các ông tin tưởng vào Ngài. Không cho mang bao bị, tiền bạc, lương thực, mặc hai áo, nghĩa là Ngài muốn người môn đệ phải sống tinh thần khó nghèo. Những thứ đó là nhu cầu vật chất cần thiết cho cuộc sống, nhưng chúng chỉ là phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Chúng chỉ tốt khi giúp con người đạt tới mục đích tốt. Không mang những thứ đó người môn đệ đỡ phải vướng bận lo lắng, vì đôi khi chúng còn chiếm cả thời gian dành cho Chúa của ngườI môn đệ. Một người lên đường mà hành trang gọn nhẹ như các tông đồ được Đức Giêsu chỉ dẫn thì thật là dễ di chuyển đến nhiều nơi. Người tông đồ có sống nghèo mới được tự do, thanh thản, không bị vật chất chi phốI, điều khiển. Người môn đệ nghèo vật chất nhưng rất giàu tấm lòng yêu mến. Càng nghèo người môn đệ càng dễ tín thác vào sự quan phòng của Chúa. Hơn nữa khi dám sống nghèo người tông đồ sẽ là bạn của người nghèo. Bởi vì Tin Mừng mà Đức Giêsu ủy thác cho Giáo Hội và cho mỗi người Kitô hữu là Tin Mừng cho những người nghèo khó, bị tù đày, đang sầu khổ, đang thiếu cơm ăn áo mặc và vô gia cư. Những người đó được xem là thành phần “thấp cổ bé miệng” trong xã hội, bị người đời khinh thường, nhưng lại được người tông đồ tiếp đón niềm nở.
Thật thế, dám sống theo những chỉ dẫn của Đức Giêsu, người tông đồ sẽ là con người tự do, tự mình suy nghĩ và hành động mà không lo sợ bị mất quyền lợi vật chất. Nếu cần họ sẵn sàng chịu mất tiền bạc và tất cả mọi sự để có được Chúa. Họ luôn ý thức rằng chỉ có Chúa là Cứu Cánh Tối Thượng của cuộc đời mình. Như vậy, dù Chúa có cử họ đi bất cứ nơi đâu, họ cũng hoàn toàn vâng theoThánh Ý Ngài. Mỗi khi gặp khó khăn thử thách xảy ra là dịp để họ bộc lộ lòng yêu mến và tin tưởng vào Chúa.
Ngoài ra Chúa còn đòi hỏi các tông đồ phải có một thái độ kiên nhẫn, biết chịu đựng cả những gì mà xem ra mình không thể chấp nhận được. Có thể khi ra đi rao giảng Tin Mừng người tông đồ sẽ bị người đời từ chối. Nhưng kiên nhẫn chờ đợi với lòng tin tưởng và làm hết mọi việc với tâm sức vào việc Chúa giao, không bao giờ buông xuôi hay chạy trốn việc khó. Biết chấp nhận thực tại bị chối từ người tông đồ sẽ ra đi rao giảng Tin Mừng trong niềm vui tươi phấn khởi. Dù có bị người đời tẩy chay và cô lập hoàn toàn vì lối sống “ngược dòng đời “ của mình, nhưng người tông đồ không cảm thấy trống vắng. Chúa không những sai các ông ra đi, mà Ngài còn đi bên cạnh các ông trên đường sứ vụ. Chính Chúa sẽ lấp đầy mọi khoảng trống trong lòng của các ông.
“Khi anh em vào nhà nào làm được người ta đón tiếp thì ở lại cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em thì ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ’ Chỉ dẫn này cho thấy Chúa chỉ sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng chứ không phải là cưỡng bức, áp đặt người khác phải tin theo. Việc bây giờ các ông làm chỉ trông chờ vào bàn tay Chúa làm cho có kết quả mĩ mãn
Lời Chúa dạy các tông đồ năm xưa ngày nay vẫn đang thôi thúc mọi Kitô hữu. Chúa sai chúng ta ra đi đến với con người để sống như người anh em của mọi người. Dĩ nhiên không phải ai trong chúng ta cũng có hạnh phúc được đi đến những nơi xa xăm để rao giảng Tin Mừng như các thừa sai. Tuy nhiên sự ra đi của chúng ta của người Kitô hữu nằm ngay trong cuộc sống đức tin của mỗi người. Sự ra đi đó đặt vấn đề cho niềm tin của chúng ta khi chúng ta phải đương đầu những khó khăn, phải đối diện với những chọn lựa dứt khoát. Để chúng ta biết chọn lựa Chúa và thực hành những đòi hỏi gay gắt của Tin Mừng. Chúng ta không chạy theo tiền tài, danh vọng, chức quyền mà phải tìm kiếm chính Chúa. Chúng ta chỉ có thể giới thiệu Tin Mừng của Chúa cho những người chung quanh bằng một đời sống khiêm tốn, hiền lành và bác ái. Chúng ta sống khó nghèo qua việc chia sẻ vật chất, thăm hỏi. ủi an và kính trọng yêu thương tha nhân.
Lạy Chúa, Chúa đã đến trong trần gian để rao giảng Tin Mừng cứu độ. Và Chúa còn chịu chết vì con người. Chúng con hiểu điều đó và hết lòng tin tưởng vào sứ mạng Chúa đã trao cho mỗi người chúng con là làm tông đồ giữa thời đại ngày nay. Xin cho chúng con biết giương cao những giá trị của Tin Mừng là hy sinh quên mình và yêu thương giữa một xã hộI ai cũng chạy theo hưởng thụ vật chất. Để nhờ đời sống của chúng con mà có them nhiều người nhận biết Chúa. Amen.
43. Đức Giêsu sai nhóm mười hai đi
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đức Giêsu đã thiết lập Nhóm Mười Hai với hai mục tiêu: họ phải ở với Người và phải được Người cử đi loan báo Tin Mừng và trừ quỉ (Mc 3,14t). Kể từ khi được Người chỉ định, Nhóm Mười Hai ở với Người, đồng hành với Người, chứng kiến tất cả hoạt động giảng dạy và tất cả các hành vi quyền lực của Người. Như thế, các ông chu toàn mục tiêu đầu tiên mà Đức Giêsu nhắm cho các ông, khi các ông cùng đi với Người trong khi Người chu toàn sứ mạng của Người (x. 1,38).
Đức Giêsu đang đi đường và giảng dạy các làng trong miền Galilê (6,6). Kế đó, Người cử Nhóm Mười Hai đi, để các ông nối tiếp công việc của Người.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu ban chỉ thị cho Nhóm Mười Hai (6,7-11):
a- Nhóm Mười Hai được giao phó sứ mạng (c. 7),
b- Giáo huấn của Đức Giêsu về hành trang (cc. 8-9),
c- Giáo huấn của Đức Giêsu về cách xử sự (cc. 10-11);
2) Nhóm Mười Hai thi hành sứ mạng (6,12-13).
3.- Vài điểm chú giải
- Nhóm Mười Hai (7): Đời tông đồ là một cuộc hành trình để nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu. Điều này được tác giả Mc diễn tả bằng cách dùng thuật ngữ “Nhóm Mười Hai” ở 7 điểm quan trọng. Thuật ngữ này trở đi trở lại theo những khoảng cách đều đặn: từ khi Nhóm được thành lập cho đến khi tan rã vào lúc Giuđa phản bội, Nhóm được nhắc đến ở mỗi chặng quan trọng. Các ông đi theo Đức Giêsu từ lời đầu tiên loan báo về Nước Thiên Chúa cho đến thử thách cuối cùng:
1) Lần đầu, ở ch. 3: Đức Giêsu “thành lập (= tạo thành) Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai đi rao giảng” (3,14). Và xa hơn: “Người thành lập Nhóm Mười Hai” (3,16).
2) Ở ch. 4: “Khi còn một mình Người, những người thân cận cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi Người về các dụ ngôn” (4,10). Lần đầu tiên Nhóm Mười Hai hỏi riêng Đức Giêsu: điều này chứng tỏ Nhóm được tuyển chọn để được đào tạo riêng.
3) Ở ch. 6: “Đức Giêsu gọi Nhóm Mười Hai” (6,7). Trong TM Mc, từ ngữ “tông đồ” chỉ được dùng ở 6,30.
4) Ở ch. 9: Đức Giêsu nhắc bảo các môn đệ vài điều: “Ngài gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người” (9,35).
5) Ở ch. 10: Đức Giêsu loan báo Người sẽ chết và sống lại. Đức Giêsu dẫn các ông; các ông kinh hoàng, còn nhưng kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (10,32).
6) Ở ch. 11: Đức Giêsu đã đi vào Giêrusalem: “Sau khi rảo mắt nhìn xem mọi sự, Người ra khỏi thành…, và tiến về Bêtania cùng với Nhóm Mười Hai” (11,11). Câu 11 là như lời dẫn nhập vào hoạt động của Đức Giêsu tại Giêrusalem (nơi chốn, hoàn cảnh, chương trình hành động), và Nhóm Mười Hai là những người tháp tùng Người.
7) Ở ch. 14 (tại Giêrusalem): Đây là khởi đầu cuộc Thương Khó, Nhóm Mười Hai được nhắc đến thường xuyên, nhưng như là Nhóm trong đó có kẻ phản bội: 14,10.17.20.43. Mỗi lần kẻ phản bội được nhắc tên cũng là mỗi lần Nhóm được nhắc lại. Ở 14,17, Nhóm Mười Hai được nêu lên như là những người tháp tùng Đức Giêsu vào Tiệc Ly và đồng bàn với Người.
Khi nêu bật Nhóm Mười Hai, Mc cho thấy rằng Tin Mừng không phải là một hệ thống các giáo thuyết hoặc luật lệ. Khi nêu bật Nhóm Mười Hai, Mc cho thấy rằng Tin Mừng được mạc khải và đón nhận xuyên qua một quan hệ riêng tư với Đức Giêsu, được truyền đạt bởi những sứ giả được đào tạo từ chính quan hệ này, và, cuối cùng, điều ngài muốn là đưa độc giả đi dần vào quan hệ riêng tư và trọn vẹn này với Đức Giêsu.
- Quyền trừ quỉ: Mc trình bày sứ mạng của Nhóm Mười Hai như là việc nối dài chính sứ vụ của Đức Giêsu là rao giảng và chữa bệnh (chủ yếu là trừ quỉ).
- không được mang gì đi đường (8): Tình trạng thiếu trang bị vật chất như thế phản ánh tính cấp bách của công tác và sự tin tưởng ký thác hoàn toàn vào tay Thiên Chúa.
- chỉ trừ cây gậy: Mt 10,10 và Lc 9,3 cấm các môn đệ cầm gậy đi đường. NJBC giải thích: hoặc bản văn Mc có khuynh hướng chế giảm hoặc đây là cách đọc sai từ A-ram l’ (“không”) thành ’l’ (“ngoại trừ”). Hay là phải chăng vào thời Mc, tình thế còn khá nguy hiểm, nên còn chấp nhận một vài chế giảm như thế?
- bao bị: Từ Hy Lạp pêra là túi xách để đựng hành trang đi đường hoặc của bố thí.
- được đi dép (9): Mt 10,10 và Lc 9,3 cấm các môn đệ đi giày; có lẽ đây là cấm đi một đôi dư ra (Mt dùng từ hypodêma, vật bó dưới chân; còn Mc dùng từ sandalion), bởi vì đi chân không trên các nẻo đường đầy sỏi đá xứ Paléttina thì rất vất vả.
- hai áo: Từ Hy Lạp chitôn là áo trong, mặc sát người.
- giũ bụi chân (11): Khi có nơi nào không đón tiếp mình, người môn đệ được hướng dẫn làm thành một hành vi biểu tượng thôi, chứ không trả đũa thô bạo. Hành vi này nhằm thúc bách những con người tại nơi ấy phải suy nghĩ. Hành vi này cũng có thể có liên hệ với việc giũ bụi chân khi trở lại xứ Paléttina. Khi ấy, ý nghĩa của hành vi này là thành thiếu lòng hiếu khách thì không thuộc về Ít-ra-en chân chính.
- Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối (12): Câu tóm về lời rao giảng của các môn đệ làm vọng lại câu tóm về lời rao giảng của Đức Giêsu trong 1,14-15: các môn đệ chia sẻ sứ mạng của Thầy (x. c. 13).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu ban chỉ thị cho Nhóm Mười Hai (7-11)
Đức Giêsu đã “gọi lại với mình” Nhóm Mười Hai: điều này chứng tỏ uy quyền của Người và sự chọn lựa của Người. Người cử Nhóm Mười Hai đi, để các ông nối tiếp công việc của Người. Các hình thái cơ bản trong hoạt động của các ông là loan báo Tin Mừng và xua trừ ma quỉ (3,14t; 6,7.12t): đây cũng là những nhiệm vụ của Đức Giêsu (1,14t; 1,21-27; 1,39). Người không chu toàn sứ mạng một mình, nhưng chia sẻ sứ mạng đó cho những người mà Người đã uốn nắn và đào tạo nhờ tiếp xúc thường xuyên với Người. Cũng như Người, các ông cũng phải loan báo Tin Mừng là Triều Đại Thiên Chúa đã gần. Cũng như Người, các ông phải truyền đạt với xác tín cao và vững chắc sứ điệp vui tươi và giải phóng này: chỉ mình Thiên Chúa là Chúa tể; quyền làm chủ của Ngài trên muôn loài muôn vật, vào lúc này, người ta chưa nhận ra được, nhưng đến một lúc nào đó, chắc chắn sẽ tỏ hiện rõ ràng.
Chân lý hệ trọng này, các môn đệ phải loan báo không những bằng lời nói, mà còn phải cho thấy nó có giá trị thực sự bằng hành động nữa. Hành trang của các ông chỉ có những gì cần thiết cho một lữ khách: một cây gậy, một áo choàng và đôi dép. Người ta phải thấy được rõ ràng là các ông không sở hữu gì cả và các ông không có gì mà mang theo cả, ngoại trừ sứ điệp của các ông: các ông chỉ là sứ giả mà thôi. Về lối sống của các ông, Đức Giêsu cho hai chỉ thị: các ông không được đòi hỏi gì và phải ý thức về sứ mạng của các ông. Các ông phải bằng lòng với mọi kiểu nơi ăn chốn ở có được, chứ không đi hết nhà này đến nhà kia để tìm được nếp sống thoải mái hơn. Các ông phải nêu bật ý nghĩa của sứ điệp. Ai không muốn nghe, các ông phải cho họ hiểu rõ ràng rằng khi từ chối như thế, họ đã lấy một quyết định hệ trọng trong quan hệ đối với ơn cứu độ: giũ bụi chân để cho hiểu rằng vừa xảy ra một việc tách biệt quyết liệt, “giữa chúng ta, không còn liên hệ gì nữa!”. Từ chối sứ giả có nghĩa là từ khước sứ điệp.
* Nhóm Mười Hai thi hành sứ mạng (12-13)
Giữa phần mô tả hoạt động của Nhóm Mười Hai (6,12t) và việc họ trở về (6,30), TM II không nói gì đến hoạt động của Đức Giêsu. Hoạt động của các tông đồ có trọng lượng riêng, chứ không phải là một chuyện phụ thuộc được che phủ bởi hoạt động của Đức Giêsu. Hoạt động của các ông có trọn vẹn tầm quan trọng của nó. Các ông đã ra đi thi hành hai điều cốt yếu trong chỉ thị của Đức Giêsu: rao giảng và trừ quỉ.
+ Kết luận
Khi đọc đoạn văn trên đây, Giáo Hội (và mỗi Kitô hữu) được mời gọi nhận ra câu truyện về ơn gọi của chính mình. Giáo Hội (và mỗi Kitô hữu) không được khép kín trên chính mình, theo một số tiêu chuẩn xã hội học nào đó. Giáo Hội sẽ phải ra đi đến mọi phương trời vào mọi thời đại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nhiệm vụ của người Kitô hữu hôm nay cũng không khác nhiệm vụ của Nhóm Mười Hai xưa kia: loan báo Tin Mừng và giảm thiểu ảnh hưởng của sự dữ. Nhưng sức riêng không giúp họ chu toàn được sứ mạng này; họ cần phải liên kết mật thiết với Đức Giêsu (“ở với Người”; x. 3,14).
2. Người Kitô hữu không được chỉ giới hạn vào việc lắng nghe sứ điệp về Triều Đại Thiên Chúa, mà còn phải nhận ra trong đời sống mình có quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động để đưa lại sự giải thoát và niềm vui.
3. Làm chứng bằng lời nói là một khía cạnh của sứ mạng tông đồ. Tuy nhiên, sứ mạng này sẽ khiếm khuyết nếu việc làm chứng bằng lời nói không được phối hợp với việc làm chứng bằng hành động, bằng chính đời sống mình.
4. Người Kitô hữu luôn nhớ rằng mình là người được sai phái đi, nên phải lệ thuộc vào các chỉ thị của Chúa mình và phải trả lời về cách thực hiện các mệnh lệnh của Người. Như thế, ra đi loan báo Tin Mừng không phải là cơ hội để truyền đạt và áp đặt các tư tưởng của riêng mình.
44. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
SAI NHÓM MƯỜI HAI ĐI RAO GIẢNG (6,7-13)
Mãi đến lúc này Maccô mới kể cho chúng ta biết thoạt đầu Chúa Giêsu gọi vài môn đệ theo Ngài (1,16-20), sau đó Chúa Giêsu thiết lập nhóm Mười Hai để họ “ở với Ngài” và chia sẻ sứ vụ của Ngài (3,13-19). Và giờ đây Ngài mới sai họ đi rao giảng (c. 7). Nhóm Mười Hai sẽ xứng đáng với tước hiệu “tông đồ”, nghĩa là “được sai đi” thi hành sứ vụ (6,30) mà sau này họ sẽ lãnh nhận. Trong chương ngắn gọn này, xem ra Maccô đã sử dụng cuốn tiểu cẩm nang của một thừa sai hoàn hảo. Lối hành văn vấp váp không mạch lạc cho thấy rõ Maccô đã sử dụng lại một truyền thống có trước ông.
Khởi đầu Chúa Giêsu sai các môn đệ đi từng nhóm “hai người một” (c. 76). Đây không hiểu có phải là một tập tục Do Thái không? Theo luật Môsê, cần hai nhân chứng mới xác nhận được một lời khai (Đnl 19,15). Tuy nhiên con số hai cũng là biểu tượng của cộng đoàn, nghĩa là các thừa sai không làm việc đơn lẻ mà làm việc theo từng nhóm. Các Kitô hữu sơ khai đã lặp lại y hệt lối thực hành này của Chúa Giêsu. Trong công vụ sứ đồ, các thừa sai luôn luôn đồng hành từng cặp với nhau: Phêrô và Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phalô và Barnabê (Cv 13,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22b)… Chúa Giêsu cũng ban cho các thừa sai này một phần quyền năng của Ngài, đó là quyền trừ quỷ, như là một trong dấu chỉ xác thực rằng Vương Quốc Thiên Chúa đã được khánh thành.
Điều đáng nhớ trước hết: các lệnh Chúa Giêsu truyền cho các thừa sai (c. 8-9) lại là các lệnh truyền dành riêng cho khách bộ hành. Tuy nhiên, các huấn luyện ấy đặc biệt nhấn mạnh đến đức tính khó nghèo mà các thừa sai phải chứng tỏ cho mọi người thấy. Ngay cả những gì thiết yếu (như bánh mì, tiền túi) thì cũng sẽ chỉ được nhận lãnh như những quà tặng của những người được họ ghé thăm. Phong thái họ cực kỳ đơn giản giống như những lữ khách lòng không hề vướng bận (không túi xách đi đường, không áo dài để thay đổi). Ngược với Matthêu và Luca, để bước đi cho dễ, Maccô cho rằng gậy và dép là cần thiết. Vào thời đó, hầu như người ta thường đi chân không. Tuy nhiên để đi nhưng chặng đường dài, xem ra cần phải có gậy và dép. Có lẽ ở đây Maccô muốn trình bày các trợ tá của Chúa Giêsu như những “khách hành hương” luôn luôn sẵn sàng lên đường, như những kẻ được mô tả trong nghi thức lễ vượt qua: “Nịt thắt ngang hông, giầy dép xỏ vào chân, tay cầm sẵn gậy” (Xh 12,11).
Các lời khuyên liên quan đến việc tiếp đãi còn đáng ngạc nhiên hơn (c. 10-11). Là thừa sai đi rao truyền sứ điệp một cách vô vị lợi, nên họ có quyền được những gia đình mà họ ghé tiếp đón họ một cách vô vị lợi. Tuy nhiên Tin Mừng không mang tính áp đặt, mà chỉ có thể được đón nhận trong tự do. Nếu thành phố hay làng mạc nào từ chối không đón nhận thì người ta sẽ đi qua chỗ khác nhưng đồng thời vẫn tôn trọng sự từ chối đó. Ở đây Maccô mô tả lại nghi thức xưa kia thường được dùng ở phương Đông: Phủi bụi khỏi chân mình khi rời bỏ một nơi chốn thù nghịch để tỏ dấu tuyệt giao!
Giống như Chúa Giêsu (c. 12-13), nhóm Mười Hai lên đường loan báo Nước Thiên Chúa đã đến và mời gọi mọi người hoán cải (1,15). Giống như Ngài, họ cũng chứng thực lời nói của họ bằng việc ban phát những dấu chỉ để giúp người ta tin họ. Việc xức dầu trên bệnh nhân chứng thực đây là một thói quen đã có từ xa xưa. Người ta từng biết công dụng hữu ích của việc xức dầu lên thân thể. Giáo Hội về sau đã nhận ra trong tập tục này mầm giống một phép bí tích đó là bí tích Xức dầu bệnh nhân để chữa lành thể xác và tâm linh của họ (x. Gc 5,14).
Đối với chúng ta ngày nay xem ra rất cổ kính xét về mặt hình thức của nó bởi vì rõ ràng nó chịu ảnh hưởng sâu đậm của các phong tục thời xưa. Tuy nhiên tận căn nó vẫn hiện thực. Tin Mừng phải luôn luôn được cơ động mang đến khắp mọi nơi bằng những phương tiện nghèo khó. Được trao ban vô vị lợi, Tin Mừng này mời gọi lương tâm tự do đón nhân. Đây là lời nói đi kèm theo các dấu chứng sự chiến thắng của Chúa Kitô trên sự Dữ và Thần Chết. Đó chính là sứ điệp trường cửu của trình thuật rất cổ kính này.
45. Chú giải của Noel Quesson.
Chúa gọi Nhóm Mười Hai lại, và sai đi từng hai người một.
Một trong những việc làm đầu tiên của Đức Giêsu, ngay từ bắt đầu cuộc sống công khai, là chọn những cộng tác viên (Mc 1,16). Sau khi đã dần dần bổ sung nhóm môn đệ (Mc 2,14), cuối cùng Đức Giêsu đã chọn 12 vị. Con số tượng trưng ám chỉ ý định của Người muốn thành lập một dân tộc Israel mới, dựa theo mười hai Tổ phụ hay mười hai Chi tộc. Trong phần đầu của Tin Mừng, chúng ta thấy các Tông đồ đi theo Đức Giêsu và ở “với Người” (Mc 3,14).
Hôm nay, có thể nói, Đức Giêsu sắp ẩn mình đi và trao phó sứ vụ của Người trong tay các tông đồ. Lần đầu tiên các ông đi rao giảng một mình, không có Đức Giêsu. Đó là thời kỳ Giáo Hội đang bắt đầu. Trước tiên, chúng ta có thể cầu nguyện dựa trên thái độ này của Người: Thiên Chúa của chúng ta, Người trao cho chúng ta những trách vụ quan trọng: Người không điều khiển chúng ta như những con rối. Tôi có những trách nhiệm nào? Lạy Chúa, Chúa chờ đợi gì nơi con?
Chúa sai họ đi.
Trong năm chương đầu của trình thuật, Maccô đã nhấn mạnh cho chúng ta thấy “Đức Giêsu với các môn đệ”, tạo thành một nhóm duy nhất và hợp nhất đối lại với đám đông, với các đối thủ. Vào lúc “kêu gọi” các ông (Mc 3,13-14), Maccô ghi nhận, Đức Giêsu đã “thiết lập Nhóm Mười Hai” để ở với Người và để Người “sai họ đi”. Đó cũng chính là chuyển động của trái tim: Tâm trương… tâm thu... máu vào tim rồi chuyển đến các cơ quan. Hoạt động tông đồ thông thường cũng như thế: Sống kết hợp mật thiết với Chúa Kitô, mang Đức Kitô đến khắp nơi trên thế giới. Đó cũng là hoạt động của đời sống Kitô hữu: Tập họp quanh Chúa vào mỗi Chúa nhật, tản mác trong cuộc sống hằng ngày để nên nhân chứng sống động của Chúa.
“Anh hãy đi! Anh em được sai đi” “Ite, Missa est” chữ Messe (Thánh Lễ) có nghĩa là “sự sai đi”. Chính Chúa đã thiết lập nhịp sống đó. Tôi có sống như thế không? Tôi có thường sống “với Chúa” trong suy niệm, trong nguyện cầu không? Tôi có ý thức mình được Chúa “sai đi” vào đời sống thướng nhật để làm một việc gì đó, có liên quan đến Chúa không?
Người sai đi từng hai người một.
Phải có hai người thì chứng tá mới có giá trị (Ds 17,6; 19,5). Dân gian đã khôn ngoan đặt ra nhiều câu ngạn ngữ để nói về điều này. “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy, nhưng khốn cho kẻ đi một mình” (Gv 4,9).
Quy tắc đầu tiên của việc tông đồ là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu, trước khi bàn tới. “Các bạn hãy nhìn xem họ thương nhau biết bao!”. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Đó là ý muốn rõ ràng của Đức Giêsu. Vậy tôi phải tự vấn về thái độ của tôi. Chủ nghĩa cá nhân có nhưng hình thức tinh vi và đáng sợ: Chúng ta không thích những người anh em khác kiểm tra thái độ sống của riêng mình. Tuy nhiên?
Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, trừ cây gậy; không được mang lương thực, mang bao bị, mang tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.
Điều đáng lưu ý là chúng ta không thấy Đức Giêsu dặn dò các Tông đồ về nội dung giáo thuyết, “Sứ vụ” của các ông. Chúa không bảo các ông “phải giảng điều gì”. Người chỉ nhắc nhở các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với Đức Giêsu, chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.
Thực tế lời khuyên duy nhất của Thầy liên quan đến đòi hỏi sống nghèo khó. Những người đại diện Chúa phải tỏ ra mình không cậy dựa vào sự giúp đỡ, vào uy tín nào của con người. Tất cả chỉ dựa vào niềm tin nơi Đấng đã sai họ. Thánh Phaolô sẽ khai triển đòi hỏi này khi khẳng định: “Vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời lên gương mặt Đức Kitô, nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong bình đất, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2 Cr 4,6-7). Thánh Phaolô cũng khoe về sự nghèo khó của mình: “Khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời nói hùng hồn hoặc triết lý cao siêu... nhưng tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy... có vậy đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa” (l Cr 2,1-5).
Vâng, điều Đức Giêsu muốn, đó là những đoàn ngũ phải nhẹ nhàng, không có những hành trang cồng kềnh, luôn sẵn sàng đi nơi khác. Lữ khách, phải là người sẵn sàng. Có lẽ, Giáo Hội không ngừng tự “làm nhẹ bớt” để sẵn sàng theo sự thúc đẩy của Thánh Thần.
Còn tôi? Tôi sống thế nào trước đòi hỏi nghèo khó này? Đức Giêsu đã nói rõ với các bạn hữu của Người, chỉ mang theo những vật hết sức cần thiết. Chiến thắng sự cám dỗ của tiền bạc là chiến thắng đầu tiên của Tin Mừng, là bài giảng đầu tiên rất cần thiết cho một thế giới tham lam, là trận chiến hàng đầu (nơi chính bản thân mình trước hết) chống lại một kẻ thù lớn của nhân loại: Sự chiếm hữu của cải! Nguồn gốc của chia rẽ, tranh chấp và kiêu ngạo!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con đến gần lý tưởng từ bỏ mà Chúa mong muốn.
Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.
Chúng ta ngạc nhiên vi tầm quan trọng của thái độ khước từ “tiếp nhận” trong diễn từ của Đức Giêsu. Nhưng môn đệ của Người có thành công lắm không? Hình như không được khá lắm. Người ta dễ dàng đoán được những ý nghĩ: “Các ông muốn chúng tôi trở lại chăng? Nhưng hiện nay chúng tôi rất tốt! Chúng tôi là những người Do Thái tốt theo truyền thống. Tại sao phải thay đổi những thói quen của chúng tôi? Xin các ông hãy đi giảng đạo nơi khác” Những khó khăn của Kitô hữu khi trình bày đức tin không phải chỉ ngày nay mới có, Đức Giêsu nói với chúng ta hôm nay: “Các con chớ có lo lắng. Đây là điều Thầy đã tiên liệu, Thầy đã báo trước cho các con”. “Chúng ta chớ nên ảo tưởng”.
Ngày nay cũng như thời Đức Giêsu sứ điệp đích thực của đức tin vẫn bị đa số khước từ, không đón nhận. Vì thế điều Đức Giêsu yêu cầu chúng ta là: Luôn đứng vững đừng ngã lòng: “Nếu người ta không tiếp nhận các con, các con hãy đi nơi khác”. Chịu đựng thái độ không tin, lãnh đạm, chối bỏ,... điều đó xem ra hết sức bình thường đối với Đức Giêsu. Sự thật là khó khăn. Đức Giêsu đã báo trước điều đó cho những người được sai đi rao giảng Tin Mừng.
Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
Họ đã làm đúng những gì họ thấy Đức Giêsu làm khi họ “ở với Người”. Nội dung của nỗ lực “truyền giáo” gồm 3 giai đoạn:
1. Rao giảng lời Chúa, đòi hỏi một sự thay đổi đời sống, một cuộc hoán cải.
2. Chiến đấu chống sự dữ, xua đuổi ma quỷ ra khỏi con người để giải thoát họ.
3. Hoạt động giúp người nghèo, cải thiện đời sống và chữa lành bệnh tật.
Hoán cải
Đó là nội dung thứ nhất của việc rao giảng: Hãy thay đổi cách sống. Hãy hoán cải. Chúng ta hiểu vì sao các Tông đồ được ít người nghe theo và bị từ chối. Thông thường, con người không thích “thay đổi” cách sống: Hãy để cho chúng tôi yên! Thế mà, Thiên Chúa lại hay gây phiền hà, Người yêu cầu chúng ta dấn thân vào một cuộc sống mới. Chữ Hy Lạp “mitanoa” dịch ra là “hoán cải”, có nghĩa là “đổi ngược tinh thần”. Vậy là phải đổi hướng: Chúng ta đã đi theo một hướng, bây giờ phải quyết tâm đổi ngược lại. Đây không phải là điều dễ. Tin Mừng luôn mang tính ác liệt. Chúng ta đã biến Tin Mừng trở nên loại gì? Một thứ học thuyết thiếu năng động? Một thứ thuốc ngủ? Một thứ nâng đỡ cho trật tự hiện hành? “Các Ngài đã kêu to” “ékèruxan” phải thay đổi cuộc sống “Metanoôsin”.
Trừ quỷ
Chắc hẳn Maccô đã dùng những cách mô tả theo tâm thức của những người đương thời, nhưng rõ ràng sứ vụ mang tính chất bi kịch. Đó là một cuộc chiến! Một cuộc chiến chống lại quyền lực của sự dữ trên thế giới. Những “nhà truyền giáo” những người được Chúa “sai đi” không quảng cáo cho một sản phẩm để bán chạy. Các Ngài đã lên đường để đương đầu với một đối thủ ghê gớm. Sự chống đối mà các Ngài gặp không chỉ đến từ những người khước từ vì không hiểu. Có một lực lượng đối kháng. Một sự chống lại Tin Mừng đến từ xa hơn: Đó là những điều chúng ta gọi là 'tội lỗi thế gian’. Ngày nay, chúng ta có thể diễn tả thế nào về những thế lực xấu xa mà chúng ta phải chống lại để xua đuổi chúng.
Chữa lành
Lôi kéo con người ra khỏi những thế lực xấu làm cho họ hư mất, đó cũng là giúp họ thăng hoa phẩm giá một cách tích cực, là chữa lành họ. Đây là một trong những đòi hỏi rõ ràng của Đức Giêsu. Mệnh lệnh vẫn có giá trị, mặc dù trong bối cảnh văn minh hiện nay, nó mang một hình thức cụ thể khác.
Rao giảng Tin Mừng.
Không phải chỉ là “giảng dạy” mà đặc biệt còn là “giải thoát”. Ngày nay rao giảng Tin Mừng phải có những hình thức tân tiến và thích ứng thế nào để phù hợp với thời đại của chúng ta? Chúng ta phải chiến đấu chống lại những sự dữ nào? Xã hội chúng ta cần sự chữa lành nào?
Tin Mừng vẫn luôn mang tính thời sự, nhưng chính chúng ta không còn nghe được lời kêu gọi hoán cải của Tin Mừng nữa.
46. Chú giải của Fiches Dominicales.
CHÚA KÊU GỌI VÀ
SAI CÁC ÔNG ĐI TRUYỀN GIÁO
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Công việc truyền giáo của Nhóm Mười Hai.
Ngay từ những trang đầu Tin Mừng của mình, Maccô đã muốn kể lại việc Chúa kêu gọi Simon và anh của ông là Anrê, cùng với hai anh em Giacôbê và Gioan khi Người đang đi dọc theo Biển Hồ Galilê (1,16-20); Người nói với các ông ấy: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá!” Maccô cũng cho ta thấy khi tới Capharnaum vào một ngày Sabát, Đức Giêsu “cùng với các môn đệ đi vào thành” (1,21). Sau đó thánh sử còn cho ta thấy Đức Giêsu “Lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ”(3,14-15). Con số Mười Hai ám chỉ mười hai chi tộc Israel là dấu chỉ Chúa muốn khai sinh một dân Thiên Chúa mới nơi bản thân các ông.
Giờ đây Maccô gợi nhớ lại buổi truyền giáo ban đầu của Nhóm Mười Hai mà Ngài lại đặt vào trong một nghịch cảnh là sau chuyến viếng thăm thất bại của Đức Giêsu khi trở về quê hương Nagiarét. Maccô viết: “Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi”. Hai động từ “Gọi, sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các ông. Các ông sẽ là những “Tông đồ” của Đức Giêsu, nghĩa là những người được Chúa “sai đi”, như Tin Mừng thứ hai sẽ nói đến, khi các ông đi truyền giáo về (6,30).
Những lời tiếp theo là chỉ thị Đức Giêsu ban bố cho các tông đồ trước khi lên đường truyền giáo. M. Quesnel ví những lời đó như “một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo” (“Comment lire un évangile?”, Seuil, trang 103).
- Đức Giêsu sai các ông đi: “Từng hai người một”.
J. Potin giải thích: đó là tập tục các kinh sư. Vẫn thi hành đối với các môn sinh của họ. Hai người có chứng từ phù hợp nhau chứng tỏ rằng họ cùng được sai đi từ một người. Thực vậy, sứ điệp họ mang đi không phải là của riêng các ông, mà là của Đức Giêsu “ (Jésus, l'histoire vraie”, Centurion, trang 266-267). Nhóm Mười Hai không được “tính toán cho mình”. Sứ mệnh của các ông bắt nguồn từ Đức Giêsu; đây là công việc của nhóm, là hành đông mang tính cộng đoàn.
Và thực tế như vậy, trong Công vụ Tông đồ, chúng ta sẽ thấy các nhà truyền giáo ấy thường lên đường với nhau “từng hai người một”. Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); giuđa và Sila (Cv 15,22).
- Đức Giêsu ra chỉ thị cho các kẻ Người gọi và sai đi như vậy phải có tinh thần khó nghèo và từ bỏ:
+ Khó nghèo xét về hành trang đi đường: “Một cây gậy, một đôi dép” là những gì Người cho phép. Người cũng không đồng ý cho mang hai áo”. Những kẻ được Chúa sai đi sẽ là những con người thanh thoát, không cồng kềnh, mà rong ruổi như Người và luôn sẵn sàng lên đường đi loan báo Tin Mừng.
+ Khó nghèo xét về những phương tiên sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng”. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi tong tư thế tùy thuộc. Họ sẽ nhận lương thực và tiền túi từ tay những ai sẽ tiếp rước họ.
Đức Giêsu không giấu giếm họ: con đường truyền giáo là con đường gian khổ. Cũng như Người họ phải đón nhận rủi ro bị chối từ hay xua đuổi Các ông phải đi theo Người đến độ phải bị chống đối, phải hy sinh thân mình.
2. Một sứ mệnh nối tiếp sứ mệnh của Đức Giêsu.
Sứ mệnh của Nhóm Mười Hai không phải là của riêng các ông, đó chính là sứ mệnh của Đức Giêsu nối tiếp nơi bản thân các ông: các ông rao giảng cùng một sứ điệp như Đức Giêsu là “Sám hối” (Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” Mc 1,14-15); các ông thực hiện cùng những dấu chỉ như Đức Giêsu là “trừ quỷ”và nếu Maccô ghi nhận rằng nhờ việc “xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh” thì hẳn là để ám chỉ rằng các ông hành động nhờ quyền năng của một ai khác là Đức Giêsu vậy.
Là những người được kêu gọi và sai đi, Nhóm Mười Hai không được giới thiệu ở đây như là những chuyên viên có ít nhiều chuyên môn hay là những người chuyên trách rao giảng Tin Mừng. J. Delorme kết luận: “Maccô mang lại cho sứ mệnh của nhóm Mười Hai một chiều kích rộng lớn hơn cả không phủ nhận một sự thật là bất cứ tác vụ nào trong Hội Thánh đều có thể tìm thấy nền tảng nơi sứ mệnh của Nhóm Mười Hai, trình thuật này của thánh Maccô có thể nhắc cho mọi tín hữu nhớ rằng họ thuộc một Hội Thánh được sai đến với mọi người và họ phải là nhân chứng của Đức Giêsu trước mặt người đời”.
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Sứ mệnh của Nhóm Mười Hai, một cột mốc quan trọng và mang nhiều ý nghĩa”
(J. Delorme, “Assemblées du Seigneur” số 46, trang 49).
Không những mang giá trị lịch sử, bài trình thuật về sử mệnh của Nhóm Mười Hai ở Galilê, trong Tin Mừng Maccô còn hoàn thành một chức năng cao hơn. Trình thuật ấy ghi một cột mốc quan trọng, có ý nghĩa, ở buổi ban đầu của Hội Thánh cũng như trong sự triển khai một công trình vẫn được theo đuổi trong Hội Thánh và thế giới. Khi đọc trình thuật này Hội Thánh được mời gọi nhận ra ơn gọi của mình. Ơn gọi này bao hàm một sứ mệnh không cho phép Hội Thánh được tự kết cấu thành xã hội khép kín đối với chính mình hoặc đối với bất kỳ mô hình văn hóa-xã hội nào. Trong trình thuật của Maccô, khi sai Nhóm Mười Hai ra đi, không kèm theo một xác định rõ ràng nào về địa điểm, nơi chốn phải tới để hạn định các ông (so sánh với Mt 10, 5-6 và Lc 9,6; 10,1). Mà theo sau đó là cả một bài tập nghề khó khăn đối với các môn đệ, khiến Đức Giêsu phải gia tăng các phép lạ và những lời cảnh giác rút vào ngay trong Do Thái giáo (7,8-13). Theo cái nhìn của Hội Thánh, Nhóm Mười Hai chính là những bảo chứng cho phần vụ mà Hội Thánh phải gánh vác là giới thiệu Tin Mừng cho tất cả mọi người.
2. “Được liên kết với sứ mệnh của Chúa”
“Đức Giêsu cho con người liên kết với công việc chính Người đang thực hiện. Người mở rộng công việc rao giảng, rời bỏ làng mạc cùng gia đình, đi đến các làng chung quanh mà giảng dạy. Người gọi Nhóm Mười Hai để ở bên Người rồi sai họ đi. Các ông sẽ phải lao vào cùng một cuộc chiến như Chúa, nên Người ban cho các ông “quyền trừ quỷ”. Thế là các ông ra đi từng hai người một, kêu gọi người ta ăn năn sám hối, trừ được nhiều quỷ, chữa nhiều người đau ốm khỏi bệnh. Rồi đây cuộc đời của các Tông đồ sau khi Chúa sống lại và ban Thánh Thần, sẽ như thế nào, thì lúc này đã được khởi sự như một bước thí nghiệm vậy. Bởi đấy người môn đệ của Đức Giêsu chia sẻ sứ mệnh của Người. Người môn đệ ấy loan báo và truyền đạt ơn cứu độ, ơn chữa lành ơn giải thoát. Đức Giêsu làm cho người môn đệ ấy trở thành cộng tác viên của Người. Người môn đệ mang cùng một tâm tư, có chung cùng hoạt động và những bận tâm như Thầy mình. Từ nay, những “ưu tư “ của người môn đệ trở nên đơn giản vì “Người chỉ thi cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy, không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng. Đi theo Đức Giêsu, không phải là sống cách biệt với sứ mệnh. Nhưng là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ”.
3. “Từ di sản đến cử chỉ đề nghị”
(“Thư gởi người Công giáo Pháp”, Cerf, trang 36-37).
Cái thời mà Hội Thánh thực Sự hoá thân với đại bộ phận xã hội, dầu gặp phải nhiều chống đối và thách đố, công việc truyền bá đức tin đều được tiến hành gần như tác động, nhờ vào những bộ phận chuyên lo việc truyền bá này còn có mặt ở cả những cơ quan điều hành thông thường của xã hội nửa. Do đó mà kiểm chứng được câu ngạn ngữ cho rằng người ta không sinh ra làm người tín hữu, nhưng cử thành người tín hữu (có đạo theo kiểu cha truyền con nối).
Dần dà với thời gian, chúng ta phải nhìn nhận rằng hoàn cảnh xa xưa này có những điều bất tiện, bởi lẽ khi việc loan báo đức tin ít nhiều bị thu gọn vào công việc thi hành những thủ tục gần như tự động để truyền đạt, người ta khó mà nhận thấy được những lệch lạc có thể xảy ra. Có những lệch lạc thực sự đã dẫn đến một thứ tục hóa đức tin chừng nào đạo Công giáo nhắm trở thành một phận vụ của xã hội và Hội Thánh thì được coi như một dịch vụ bình thường của xã hội.
Hoàn cảnh hiện nay lại có những khó khăn mới. Thực vậy, việc truyền bá đức tin ngày nay đang bị thỏa hiệp, hoặc rất khó thực hiện trong những khu vực rộng lớn của xã hội Pháp.
Điều có vẻ nghịch lý là hoàn cảnh này đòi buộc chúng ta phải đón nhận chiều kích mới mẻ của đức tin và kinh nghiệm sống đức tin ấy. Chúng ta không còn có thể chỉ hài lòng với một di sản đã thừa hưởng dù nó có phong phú đến đâu. Mà phải mở lòng đón nhận ân huệ Chúa ban trong những điều kiện mới mẻ và đồng thời tìm lại được cử chỉ ban đầu của việc phúc âm hóa đó là thái độ đề nghị đơn sơ mà cả quyết của Tin Mừng đức ki tô (Giáo Hội chỉ rao giảng Tin Mừng như một đề nghị để mỗi người tự ý quyết định lựa chọn).
47. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
SỨ MỆNH CỦA NHÓM MƯỜI HAI TẠI GALILÊ
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Không phải các sứ đồ tự chọn sứ mệnh cho mình. Như Amos, Phaolô (bài đọc 1 và 2), họ đã được chọn: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con” (Ga 15,16). Vì họ rao giảng sứ điệp của Thiên Chúa chứ không phải sứ điệp của họ. Và sứ mệnh họ là Tin Mừng hóa thế gian, dù lúc thuận tiện hay bất thuận tiện, dù phải lưu đày hay phải chết.
2) Lệnh lên đường: không mang bánh, bao bị, tiền bạc, không mặc hai áo. Nghĩa là phải khẩn trương, vì thời gian cấp bách, phải nhẹ nhàng, vì phương tiện chính là phương tiện của Chúa. Bận bịu với của cải, lo cho đầy đủ phương tiện như ý mình thì khó mà cả bước lên đường truyền giáo! Có bao giờ ta cảm nghiệm được tính cách cấp bách này không? Để dứt khoát dấn thân, để khẩn trương hối cải, để chinh phục thế gian ngay trong thế hệ mình! “Hãy cắt đứt xích xiềng ràng buộc con, dù là xích vàng, để tiến tới. Cuối đường có Chúa đón chờ con” (ĐHV 179).
3) Chúa Giêsu sai đi từng hai người, là để trước hết họ cho một chứng tích sống động về điều họ rao giảng: cộng đoàn huynh đệ yêu thương. Người ta cứ dấu đó mà biết họ là môn đồ của Chúa. Sau là để nâng đỡ nhau. Người tông đồ nào không được nâng đỡ hay không tìm sự nâng đỡ, hiệp thông nơi các bạn đồng chí, thế nào cũng cằn cỗi trong công việc rồi xé lẻ tách rời.
4) Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. Quỷ là tên chia rẽ, chia rẽ dưới mọi hình thức: chia rẽ trong chính con người, chia rẽ trong xã hội, chia rẽ giữa con người với Thiên Chúa. Chúa Giêsu là Đấng cứu độ, là thầy thuốc chữa lành, là Đấng tái tạo sự hiệp nhất trong con người, giữa con người, giữa con người với Thiên Chúa. Người tông đồ phải đặt lại vấn đề khi thấy công việc mình làm không đem lại sự hiệp nhất và bình an trong chính bản thân, trong môi trường hoạt động.
5) Có nhiều hình thức làm tông đồ trong xã hội hôm nay: Tông đồ bằng đau khổ: không rao giảng, không hoạt động, nhưng thinh lặng tế lễ cứu bao linh hồn. Như Chúa Giêsu hấp hối trên thập giá, Đức Mẹ hấp hối trong tâm hồn dưới chân thập giá. Tông đồ bằng hy sinh và thinh lặng: như hạt lúa chôn vùi, thối nát để sinh muôn ngàn hạt khác nuôi nhân loại. Tông đồ bằng chứng tích: tang vật đáng tin hơn. Tông đồ bằng tiếp xúc: “Tâm hồn chúng ta chẳng nóng lên khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó sao?” (Lc 24,32). Tông đồ bằng tư tưởng: nâng đỡ người bạn đang lung lạc, ủi an kẻ sầu buồn... Tông đồ bằng bữa ăn: ăn là chuyện thường tình. Nhưng Chúa Giêsu ăn ở nhà Mađalêna, ở nhà Simon, Giakêu khác xa chúng ta: “Hôm nay ơn cứu rỗi đã đến với nhà này” (Lc 19,9). Tông đồ bằng thư từ: Phaolô ngồi trong tù, không máy in, vẫn viết thư cho một giáo đoàn, giáo đoàn ấy chép lại rồi chuyển sang cho giáo đoàn khác. Cứ thế, Phaolô đã giữ vững và phát triển đức tin của Hội Thánh sơ khởi. Con hãy để tất cả lòng yêu thương con vào phong bì rồi dán lại, gởi đi.
48. Chú giải của William Barclay.
NHỮNG NGƯỜI TIỀN HÔ CHO NHÀ VUA (Mc 6,7-11)
Chúng ta sẽ hiểu rõ đoạn sách này hơn, nếu chúng ta có trong trí một hình ảnh về cách ăn mặc của người Do Thái tại Palestine vào thời của Chúa Giêsu. Có có năm trang phục.
1/ Phần áo lót mặc lên người trước nhất là cái chiton hay sindon, tức là áo trong. Áo này rất đơn giản, chỉ là một mẩu vải dài xếp đôi rồi may một bên. Nó khá dài đủ che phủ đến bàn chân. Hai góc ở phần trên được khoét để làm hai cánh tay ra. Loại áo này thường được bán mà chưa khoét cổ. Điều đó cho ta biết áo vẫn còn mới, để người mua tùy tiện khoét phần cổ sao cho vừa với khổ người của mình. Thí dụ như kiểu cổ áo của nam với nữ khác nhau. Cổ áo phụ nữ phải rộng để có thể cho con bú. Tóm lại chiếc áo trong chỉ khác hơn cái bao một chút có khoét hai lỗ ở hai góc phía trên. Trong hình thức phát triển hơn, nó có hai tay áo dài được khâu dính vào và đôi khi xẻ ở phía trước để tra nút và cài lại.
2/ Chiếc áo ngoài được gọi là himation. Ban ngày nó được dùng làm áo choàng và ban đêm làm mền. Nó gồm một tấm vải dài hơn 2 mét, khổ rộng khoảng 1,4 đến 1,5, rộng khoảng 0,4m mỗi bên được xếp và may lại, khoét lỗ ở phía trên để xỏ tay được. Vì thế nó gần như vuông vức. Thường thường nó là hai khúc vải, mỗi khúc dài hơn 2m, rộng khoảng 0,6-0,7m may dính vào nhau. Đường may nằm phía sau lưng. Nhưng chiếc áo ngoài đặc biệt có thể dệt cẩn thận nguyên tấm không có đường may như chiếc áo dài của Chúa Giêsu vậy (Ga 19,23). Đây là chiếc áo chính trong toàn bộ y phục.
3/ Có dây thắt lưng. Dây thắt lưng để buộc phía ngoài hai chiếc áo vừa kể trên. Khi cần làm việc hay chạy, người ta vén các vạt áo trong lên và giữ lại bằng giây thắt lưng. Có khi chiếc áo ngắn được vén lên ở phía trên dây thắt lưng, chỗ trống phía trước thắt lưng có thể đặt một bao hoặc một gói gì đó để mang đi. Dây thắt lưng thường được may hai lớp khoảng 4 tấc rưỡi từ mỗi đầu. Phần may hai lớp thường dùng làm túi đựng tiền.
4/ Có khăn vuông che đầu. Khăn vuông che đầu bằng vải, rộng khoảng 1m2, thường màu trắng, xanh hoặc đen. Thỉnh thoảng cũng có loại khăn bằng lụa màu, nó được xếp theo đường chéo góc, cột lên đầu để che gáy gò má và mắt cho khỏi sức nóng và tia nắng của mặt trời. Người ta cột nó vòng quanh đầu bằng một sợi dây da co giãn được sao cho dễ mở ra.
5/ Có đôi dép. Dép chỉ là những miếng da bằng phẳng có xoi lỗ, có khi bằng gỗ hoặc bện bằng rơm. Người ta xỏ dây và cột nó vào bàn chân để mang.
Túi tiền có thể là hai vật sau đây:
(a) Nó có thể là chiếc túi đi đường bình thường. Túi này được may bằng da dê con. Thường thì bộ da con vật được lột nguyên miếng nên vẫn giữ được hình dáng con vật, đủ cả chân, đuôi và đầu. Hai túi có dây để đeo trên vai. Trong đó người chăn chiên, khách hành hương, hoặc kẻ đi đường đựng bánh mì, nho, trái ôliu và bánh sữa đủ ăn một hai ngày.
(b) Có một điểm gợi ý rất thú vị ở đây. Từ Hy Lạp pera có nghĩa là chiếc bao quyên góp. Thường thường các thầy tư tế và người sùng đạo ra đi với chiếc bao này để góp nhặt các của đóng góp cho Đền Thờ. Họ được mô tả là “những tên trộm cướp ngoan đạo với các chiến lợi phẩm phình to thêm, từ làng này sang làng khác”. Có một tấm bia của một người tự xưng là nô lệ của nữ thần xứ Syri, cho biết mỗi chuyến đi như vậy, anh ta lại mang về cho nữ thần của mình 70 bao đầy.
Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa thứ nhất thì Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ Ngài đừng mang theo thức ăn khi đi đường, nhưng phải tin cậy vào Thiên Chúa trong mọi sự. Còn theo nghĩa thứ hai, thì lời dạy ấy có nghĩa là họ không nên tham lam mà vơ vét như các thầy tư tế. Họ phải đi đây đi đó để cho đi chứ không phải để thâu gom của cải.
Ở đây còn thêm hai điều lý thú khác nữa:
1/ Theo luật của các Rabbi, thì khi vào đến các sân của Đền Thờ, người ta phải để lại đó chiếc gậy, đôi dép và túi bạc. Mọi vật tầm thường phải được xếp qua một bên khi vào nơi thánh. Có lẽ Chúa Giêsu đang nghĩ đến việc đó và Ngài ngụ ý dạy rằng các căn nhà khiêm tốn mà các môn đệ Ngài vào, đều là những nơi thánh thiêng như các sân trong Đền Thờ vậy.
2/ Bên phương Đông, việc ân cần tiếp đãi khách lạ được xem là một bổn phận thiêng liêng. Khi có người lạ vào làng, người ấy không cần đi tìm nơi trú ngụ vì chính làng ấy có nhiệm vụ tiếp đãi họ. Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Ngài rằng nếu người ta từ chối không chịu tiếp đãi, đóng cửa, bịt tai lại, các ông cứ phủi bụi dính chân họ rồi đi nơi khác. Luật của các Rabbi dạy rằng bụi đất nơi dân ngoại vốn ô uế, nên khi một người từ xứ khác vào Palestine, phải phủi cho sạch không còn một hạt bụi ô uế nào. Chúa Giêsu muốn dạy nếu họ không chịu nghe các ngươi, việc duy nhất các ngươi có thể làm là đối xử với họ như cách người Do Thái khắt khe vẫn đối xử với nhà của người ngoại. Giữa họ và các ngươi chẳng còn có liên hệt gì với nhau nữa cả!.
Vậy chúng ta thấy dấu hiệu của một môn đệ Chúa là sống thật đơn giản, hoàn toàn tin cậy vào Thiên Chúa và phải luôn luôn đem ơn phúc đến cho người khác chứ không phải mong thiên hạ làm phúc cho mình.
THÔNG ĐIỆP VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA NHÀ VUA (Mc 6,12-13)
Nói vắn tắt, đây là bản phúc trình công tác mà các môn đệ đã trình lên Chúa Giêsu sau khi Ngài sai phái họ ra đi.
1/ Họ rao truyền sứ điệp của Chúa Giêsu cho quần chúng. Theo nghĩa đen, từ được dùng chính là từ dùng cho sự công bố của sứ giả tiền trạm. Khi các tông đồ đi ra rao giảng cho mọi người, các vị không hề tạo ra sứ điệp, các vị mang một sứ điệp. Họ không nói với mọi người điều họ tin hay thấy là đúng nhưng chỉ nói lại cho mọi người chân lý của Thiên Chúa. Sứ điệp của các ngôn sứ bao giờ cũng bắt đầu bằng câu “Đức Chúa phán vậy”. Người muốn mang một sứ điệp kiến hiệu và thành công đến cho kẻ khác, trước hết phải nhận từ nơi Chúa.
2/ Các vị mang theo sứ điệp của nhà vua đến cho mọi người và sứ điệp đó là “hãy hối cải”. Đây là một sứ điệp gây khó chịu cho mọi người. Hối cải có nghĩa là thay đối ý, sau đó hành động phù hợp với sự đối ý đó, có nghĩa là đổi ý và thay đổi luôn hành động nữa. Hối cải bao gồm sự thương tổn vì phải tự nhận con đường mình đang đi là sai lầm, đầy cay đắng. Hối cải bao gồm sự xáo trộn, vì nó có nghĩa là người ta phải hoàn toàn đảo ngược nếp sống.
Chính vì thế mà ít người chịu hối cải, vì hầu hết người ta không muốn bị quấy rầy. Trong một câu sống động, bà Asquith đề cập đến số người “lãng phí cho đến chết”. Nhiều người vẫn hành động như thế. Họ oán ghét mọi hành động gây căng thẳng, nỗ lực. Với họ, cuộc đời là “một vùng đất chỉ có buổi chiều”. Theo một vài phương diện, một tội nhân hung hăng, công khai xông vào mục tiêu tự chọn vẫn dễ cuốn hút hơn một người đi rông tiêu cực, ủ rũ trôi giạt cách nhu nhược và chẳng có một chút định hướng gì cho đời sống cả.
Trong tác phẩm Quo Vadis có một đoạn trong đó chàng thanh niên Roma Vinicius yêu một cô gái là Kitô hữu. Vì Vinicius không phải là Kitô hữu nên cô ta không muốn liên hệ với cậu. Cậu theo cô ấy đến những buổi họp thầm lén ban đêm của một số Kitô hữu, tại đó chẳng ai nhận ra cậu, và cậu lắng nghe Phêrô giảng dạy. Lúc đang nghe có một việc đã xảy đến cho cậu: “Vinicius cảm thấy rằng nếu muốn theo lời dạy ấy, cậu phải đặt trên đống lửa hừng tất cả mọi ý nghĩ, thói quen, tính tình, cả bản chất của mình cho đến khoảnh khắc nào đó và thiêu đốt tất cả ra tro, rồi tiếp nhận vào người sự sống khác hẳn, một linh hồn hoàn toàn mới mẻ”.
Đó là hối cải. Nhưng nếu một người không mong ước gì hơn là được để yên một mình thì sao? Sự thay đổi không nhất thiết chỉ từ chỗ trộm cắp, sát nhân, dâm loạn, cùng các tội tỏ tường khác. Sự thay đổi có thể xảy ra ngay trong một đời sống ích kỷ, tham lam, chẳng xem ai ra gì, thay đổi từ chỗ lấy cái tôi làm trung tâm, và mọi sự thay đổi như vậy ắt sẽ gây rất nhiều tổn thương. W. M. Macgregor có trích một câu nói của vị giám mục trong quyển “Những Kẻ Khốn Cùng” của Victor Hugo “Tôi luôn luôn gây rối cho một vài người trong đám họ, vì qua tôi, một luồng không khí từ bên ngoài đã thổi tới họ, sự có mặt của tôi giữa họ khiến họ cảm thấy như có một khung cửa được mở toang và họ ở trong vùng có gió lùa”. Hối cải không chỉ là hối tiếc về mặt tình cảm mà thôi, mà là làm cách mạng. Vì lý do ấy đã có rất ít người chịu hối cải.
3/ Các tông đồ đưa đến cho người ta ơn thương xót của nhà vua. Không phải họ chỉ đem đến cho người ta những đòi hỏi làm đảo lộn mà thôi, nhưng họ cũng cần mang đến sự trợ giúp và chữa bệnh nữa. Họ đem đến sự giải phóng cho những người bị quỷ ám cùng khổ. Ngay từ đầu Kitô giáo đã nhắm mục đích đem sức khỏe, sự lành mạnh cho cả xác lẫn hồn. Kitô giáo không chỉ nhằm cứu rỗi linh hồn mà thôi, nhưng là cứu rỗi con người toàn diện. Kitô giáo không chỉ đưa ra một tay kéo người ta lên khỏi chỗ suy đồi đạo đức, nhưng cũng đưa tay còn lại kéo người ta ra khỏi sự đau đớn, khổ sở của thân xác. Điều rất có ý nghĩa, là các môn đệ còn xức dầu cho mọi người nữa. Đời xưa, dầu được xem là thuốc trị bá chứng. Galen là y sĩ đại tài người Hy Lạp nói “Dầu là thuốc hay nhất để trị bệnh cho thân thể”. Khi đặt trong tay các tôi tớ của Chúa Cứu Thế, dầu được thêm một đặc tính mới. Điều lạ lùng là các môn đệ sử dụng những vật mà tri thức hạn chế của loài người thời bấy giờ vẫn biết rõ, nhưng Thần Khí Chúa đã ban cho họ một quyền phép mới và một đặc tính mới trong cách trị bệnh cổ truyền đó. Quyền năng của Chúa trở thành có giá trị trong mọi việc thông thường khi người ta có đức tin.
Vậy mười hai tông đồ đã đem đến cho nhân loại sứ điệp cứu rỗi, lòng thương xót của Nhà Vua, và cho đến ngày nay, đó vẫn là nhiệm vụ hằng ngày của Kitô hữu.
49. Chúa sai các Tông đồ đi giảng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Một trong những điều kỳ diệu nhất Chúa Giêsu đã làm là thiết lập Nhóm Mười Hai. Ngài qui tụ họ từ nhiều giới trong xã hội Do Thái lúc đó. Nhóm Mười Hai được Chúa kêu mời: họ là những ngư phủ, thu thuế, lao động. Chúa dạy dỗ họ, uốn nắn họ, cho họ sống thân mật gần gũi với Chúa. Ngài đã làm phép lạ trước mặt họ, cho họ tham gia vào những công việc mà Chúa làm hằng ngày. Chúa tin tưởng họ. Sau khi ở với Ngài một thời gian (Mc 3, 14). Chúa sai các ngài đi thực tập rao giảng, làm việc truyền giáo, làm việc tông đồ…
Chúa sai các môn đệ lên đường, Ngài trang bị cho các ông những quyền năng: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ (Mc 6,7). Rồi Chúa Giêsu chỉ thị cho các ông: ”không được mang gì đi đường, trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo“ (Mc 6, 8-9). Sở dĩ Chúa dặn và truyền cho các ông như thế để các ông hoàn toàn siêu thoát và luôn tin tưởng, phó thác vào sự quan phòng của Chúa, cậy trông vào lòng tốt của con người. Các ông ra đi không có một chút bảo đảm nào! Các môn đệ đi khắp nơi, rao giảng khắp chốn, không đóng đô, đóng trụ ở một nơi nào dù những nơi đó các ông gặp nhiều thuận tiện và thành công bởi vì các ông nhớ lại lời Chúa: ”Không Thầy các con không thể làm gì được“ hoặc “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh để Thầy còn rao giảng ở đó nữa“ (Mc 1, 38). Các môn đệ phải luôn có tư thế sẵn sàng: ”đến và đi“. Nơi nào cần thì đến, xong rồi đi… Đó là tính cơ động của người môn đệ, người tông đồ của Chúa.
Điều các môn đệ phải làm là rao giảng về Nước Thiên Chúa đang đến và giới thiệu Đức Kitô. Nhưng đồng thời các ngài cũng kêu gọi con người sám hối, hoán cải như Chúa Giêsu khi bắt đầu sứ mạng công khai đã công bố: ”Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng “. Các tông đồ phải mạnh dạn nói lên sự thật, không được bóp méo sự thật và những đòi buộc của Phúc Âm. Họ luôn sẵn sàng dù được đón nhận hay bị khước từ. Thành công không tự phụ, tự mãn và thất bại cũng không cay đắng vì: ” Phaolô trồng, Apollo tưới và Chúa mới cho mọc lên “ (1 Co 3, 6). Do đó, các tông đồ đã hoàn thành sứ mạng Chúa trao phó cho họ. Bởi vì, khi về trời Chúa vẫn luôn tin tưởng vào Nhóm Mười Hai và một số ít người phụ nữ đạo đức đã từng đi theo Chúa và các tông đồ. Hôm nay, Chúa tiếp tục trao cho mọi người chúng ta sứ mạng rao giảng Tin Mừng giữa lòng đời. Chúng ta tiếp tục phải nói lên những đòi hỏi của Tin Mừng và không được làm vơi nhẹ những điều Chúa đòi buộc. Chúng ta không được mị dân, vuốt ve dân mà bóp méo Tin Mừng. Phúc Âm luôn luôn phải được rao giảng lúc thuận cũng như lúc nghịch như lời thánh Phaolô viết:” Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng “ (1 Co 9, 16).
Chúa vẫn trao cho chúng ta những hành trang như đã trang bị cho các tông đồ: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh và quyền xua trừ ma quỷ. Chúng ta vẫn công bố Tin Mừng về Nước Trời khi chúng ta sống lời Chúa, sống đạo gương mẫu và làm chứng cho Chúa. Chúng ta vẫn xua trừ ma quỷ khi chúng ta đẩy xa chúng ta những thói hư, tật xấu, những điều tiêu cực ra khỏi con người chúng ta.Chúng ta vẫn chữa lành bệnh hoạn tật nguyền khi chúng ta biết nâng đỡ kẻ cô thân yếu thế và thăm viếng những người bệnh hoạn.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu được sứ mạng rao giảng của mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con luôn biết công bố Nước Trời, giới thiệu Đức Kitô dù lúc thuận hay lúc nghịch. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Chúa sai ai đi rao giảng?
2. Tại sao Chúa lại tin tưởng Nhóm Mười Hai?
3. Chúa trang bị cho các tông đồ những gì khi đi rao giảng?
4. Chúa cấm các tông đồ những gì khi họ được sai đi rao giảng?
50. Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP
(Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP)
HÃY RAO GIẢNG BẰNG ĐỜI SỐNG CHỨNG NHÂN LUÔN TÍN THÁC VÀO CHÚA
Tôi mở bài suy ngẫm này để chia sẻ với quý vị giảng thuyết. Nhưng nếu bạn không phải là người giảng thuyết thì đừng nghĩ là không liên quan đến. Một giáo sủ giảng thuyết tiếng tăm là cha Fred Craddock đề nghị trong sách cha viết về cách giảng là nên bắt đầu bài giảng với với lời giải thích mang tính giản đơn của bài đọc. Cha khuyên nên tránh xa những lời bình luận, và đọc bài sách như giáo dân nghe. Đến đây chúng ta nghĩ đến câu hỏi, những thắc mắc, những nhầm lẫn, những cảm giác và bao nhiêu ý niệm gây nên bởi bài đọc "giản đơn". Lần đọc đầu tiên giúp có khái niệm mới mẻ về bài sách, và giúp người giảng thuyết nghe bài sách như giáo dân nghe một cách chính xác không có gì che đậy. Tôi sẽ dùng lời khuyên của cha Craddock về bài sách của tiên tri Amos.
Trước tiên,bài sách đánh động trí tôi như là một bài kỳ lạ. Đó là điều gì? Vì sao thầy tư tế Amasya không chịu nổi Amos? Nếu thầy giảng nói về bài sách này hay không, tôi chắc rằng giáo dân sẽ nghe và biết điều gì xãy ra. Như thế tôi có bi quan quá hay không? Tôi công nhận tôi cũng không biết nhiều về bài sách đó.
Lúc đó là thế kỷ thứ 8 trước công nguyên. Amasya là thầy cả tư tế trong triều vua. Bấy giờ là lúc hoà bình thịnh vượng cho dân Israel, và những người giàu có cảm thầy rất an toàn. Và cũng là lúc dân chúng suy đồi, quên lời Giao ước. Thầy tư tế Amasya chỉ nói với triều đình những gì họ muốn nghe, và biết bao người khác đã bỏ qua Thiên Chúa, dựa vào quyền uy của chính quyền để giữ sự an toàn. Amos là một người chăn chiên và châm quả sung. Ỏ Trung Đông trái sung là cho người nghèo. Phải châm trái lúc còn nhỏ để mủ chảy ra cho trái mau lớn và chín ngọt. (Đây, một người châm trái sung lại là ngôn sứ).
Amos không phải là thành phần trong triều vua, ông ta cũng không phải là ngôn sứ nhà nghề. Amos xưng mình là kẻ chiếm giải Sư tử Giuda. Bài sách hôm nay nói về thị kiến của Amos. Việc ông ta gặp thầy tư tế Amasya cắt ngang các thị kiến. Amasya bảo Amos chạy thoát thân ra khỏi thành phố. Amos cự lại, nói với Amasya là ông ta không muốn làm ngôn sứ. Nhưng Đức Chúa đã chọn ông không giống bất cứ một điều gì như trước kia. Amos cũng không phải là tiên tri hay môn đệ của tiên tri. Sứ mạng ông ta phải được chấp nhận. Sứ mạng đó không phải bởi quan quyền trong chính quyền hay bởi triều vua. Bây giờ chúng ta hiểu vì sao bài sách này được chọn đi với bài phúc âm hôm nay. Sứ mạng là điều chính. Thiên Chúa chọ người đưa sứ mạng đến dân Ngài.
Tôi viết bài này nhân lúc tôi sửa soạn hành lý lên đường đi giảng tĩnh tâm ở một xứ đạo. Bài Phúc Âm làm tôi suy nghĩ trong lúc tôi nhìn những hành lý tôi muốn đem theo. Nghe bài Phúc âm bảo là tôi không nên lo về tiền bạc, thức ăn, vậy tôi có lo nhiều quá hay không? Tôi sẽ làm sao ra phi trường, và ai sẽ trả tiền vé máy bay cho tôi? Tôi biết bây giờ không như ngày xưa và tôi đang nhìn vào máy vi tính để nhắc tôi biết là sự vật thay đổi quá nhanh chóng. Nhưng tôi không muốn bỏ qua bài sách một cách dễ dàng cho đó là một bài sách thuộc thời xưa. Mà tôi cũng không muốn nói là bài sách chỉ áp dụng cho một số ít vị giảng thuyết. Chúng ta đi giảng nhiều cách, và mỗi người được phép "trừ tà" của thời đại mình.
Chúa Giêsu bảo chúng ta nên sống đơn giản, chú trọng đến sự quan trọng của sứ mạng, và ra đi làm điều gì về sứ mạng đó. Vậy thì đã bao lần chúng ta bỏ qua lời kinh nguyện quan trọng vì chúng ta nghĩ chúng ta cần đọc sách về cầu nguyện, hay dự một buổi họp về cầu nguyện và học cách làm sao cầu nguyện phải không? Chúng ta cảm thấy chúng ta không đủ sức nói với người khác về cầu nguyện. Vậy thì về những câu chuyện chúng ta tránh nói như: về sức khoẻ, tôn giáo, vũ khí quân đội v.v… vì chúng ta nghĩ là chúng ta không biết đủ các chi tiêt hay sao? Nếu đó là những điều làm chúng ta thinh lặng thì chúng ta có thể bớt xem truyền hình, bớt chơi game trên vi tính và để nhiều thì giờ học hỏi hơn. Chúng ta cần biết là chúng ta được sai đi rao giảng, được quyền trừ quỷ, và được phép chửa bệnh.
Có lẽ chúng ta nên sống đơn giản, chứng tỏ điều chúng ta ao ước là chỉ Thiên Chúa mà thôi, và chỉ có lề luật Thiên Chúa quản trị trên trái đất hơn là các quyền khác trên chúng ta. Có thể lối sống đơn giản là dấu chỉ "quyền uy trên quỷ dữ", vì chúng ta đều biết rõ là lối sống đơn giản, cách tiêu xài, cách giải trí và cách tiêu thụ nhờ vào các nước khác dùng nhân công rẻ và không giúp tái tạo lại con người và các nguyên vật thiên nhiên của họ. Một báo cáo của chính phủ cho biết người Hoa Kỳ phung phí 25% của thực phẩm tươi họ mua. Vậy môn đệ Chúa Giêsu sẽ làm gì trước những phung phí đó? Và chúng ta dùng sự đơn giản để sống một lôi sống khác hay không? Bài giảng chúng ta qua lời nói và lối sống có lẽ phải rõ ràng hơn. Phải nói rõ chúng ta là ai và đời sống chúng ta chú trọng về ai. Nếu chúng ta thật lòng với Chúa Kitô và Tin Mừng thì chúng ta cần làm chứng về Đấng chúng ta tin tưởng qua sự thay đổi lối sống của chúng ta. Giảm bớt "xử dụng quá mức" sẽ chứng tỏ sứ mạng mà chúng ta được sai đi rao giảng.
Chúng ta nhớ câu chuyên người Samaritanô tốt lành trong phúc âm thánh Luca. Câu chuyện đó nhắc đến nguy hiểm trong thế gian là nơi Chúa Giêsu sai các môn đệ Ngài ra đi. Thế gian nguy hiểm cho người đi đường. Vì sao lại bỏ nơi an toàn trong gia đình và làng xóm để ra đi trong thế gian nguy hiểm? Phần đông ít người ra đi như thế. Họ có đủ mọi sự trong gia đình. Dù vậy Chúa Giếsu gởi các môn đệ Ngài ra đi. Ngài gởi đi từng hai người một. Họ sẽ cần giúp đỡ che chở nhau. Có người nghĩ là nếu hai người đi với nhau thì sẽ không chỉ giảng về Chúa Giêsu, hay về sứ mạng của Ngài. Hai người giảng sẽ cân bằng hơn. Chúa Giêsu nghĩ là các môn đệ Ngài sẽ được đón nhận theo truyền thống đón khách cúa văn hoá Trung đông. Chúa Giêsu nghĩ là một khi họ được đón vào nơi nào thi sứ mạng họ đem đến sẽ làm cho họ được đón nhận niềm nở chứ không phải vì vật dụng hay tiền bạc họ mang theo.
Vì sao Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ nhiều như thế? Cha Robert Warznak S.S. nhớ lại một phong tục Do thái, là khi người ta bước vào sân đền thờ, người ta phải dừng lại bỏ cây gậy và cởi giày ra và cả thắt lưng tiền rồi mới bước vào đền thờ là nơi thánh thiện có sự hiện diện của Thiên Chúa. Các điều gì lo lắng hằng ngày sẽ phải để ra một bên. Bây giờ nếu các môn đệ Chúa Giêsu để "các lo lắng ra một bên" thì có ý nghĩa gì? Sứ mạng của Chúa Giêsu và phép chửa lành sẽ là điều quan trọng nhất và các lo lắng đều không đáng kể. Vậy môn đệ trên đường đi giảng mang theo hành lý ít hơn có thể đứng trước Đấng Thánh, mặc dù còn trên đường đi hay ở trong hội đường hay không? Vậy các nhà họ bước vào, và các gia đình đón nhận họ có như hội đường là nơi có Đấng Thánh ngụ hay không? Vậy Chúa Giêsu có thể nhắc các môn đệ là khi nào gặp trường hợp khó (như nơi nào không đón nhận họ), các ông sẽ dựa vào Thiên Chúa hơn là dựa vào các lo lắng hay không?
Vì các môn đệ xức dầu cho người bệnh và chữa lành họ, thì Chúa nhật hôm nay có nên giảng về bí tích xức dầu cho người bệnh hay không? Chắc bạn không muốn để riêng bài Kinh Thánh ra và giảng nhiều về tín lý, rồi phần thứ hai của bài giảng sẽ nói về bí tích là dấu chỉ Chúa Giêsu tiếp tục chữa lành trong cộng đoàn. Điều đó thể giúp chỉ rõ sự quan trọng của bài sách đọc hôm nay về đời sống của Giáo hội.
- 14/07 Đừng sợ…, nhưng hãy sợ ….
- 13/07 Số phận người môn đệ Chúa
- 12/07 Huớng dẫn rao giảng về Nước Thiên Chúa
- 11/07 Chọn gọi 12 tông đồ
- 10/07 Cánh đồng truyền giáo
- 09/07 Lòng tin mạnh mẽ
- 08/07 Chúa về lại quê hương Nadarét
- 07/07 Ăn chay đẹp lòng Chúa
- 06/07 Kêu gọi người thu thuế Mátthêu
- 05/07 Chúa có quyền tha tội