Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
18/08 Tinh thần trẻ nhỏ
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Tinh thần trẻ nhỏ.
Thứ bảy tuần 19 thường niên.
"Đừng ngăn cấm các trẻ nhỏ đến với Ta, vì Nước Trời là của những người giống như chúng".
Lời Chúa: Mt 19, 13-15
Khi ấy, người ta đem những trẻ nhỏ đến cho Chúa Giêsu để Người đặt tay và cầu nguyện cho chúng. Các môn đệ liền quở trách chúng, nhưng chúa Giêsu bảo: "Hãy để các trẻ nhỏ đến với Ta, và đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những người giống như chúng". Sau khi Người đặt tay trên chúng, thì Người đi khỏi nơi đó.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chúa Giêsu Với Trẻ Nhỏ
Các trẻ nhỏ được Chúa Giêsu yêu thương và đưa ra làm mẫu mực cho những ai muốn bước vào Nước Trời: "Nếu các con không hóa nên như trẻ nhỏ, các con không được vào Nước Trời. Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ, đó là kẻ lớn nhất trong Nước Trời". Tinh thần tu đức trẻ thơ là đơn sơ, phó thác, không cậy dựa vào sức riêng, nhưng đặt trọn tin tưởng vào Chúa.
Tin Mừng Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay đề cập đến trẻ nhỏ trong một hoàn cảnh khác, với những lời của Chúa Giêsu: "Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì những ai giống như chúng mới được vào Nước Trời". Người ta dẫn các trẻ em đến với Chúa Giêsu để Ngài đặt tay và cầu nguyện cho chúng. Ðặt tay và cầu nguyện cho một người là nghi thức tôn giáo quen thuộc trong Do thái giáo thời Chúa Giêsu. Những vị lãnh đạo tôn giáo và các Rabbi thường đặt tay và cầu nguyện cho những ai đến xin được chúc lành; họ cũng đặt tay trên trẻ nhỏ và cầu nguyện cho chúng, mặc dù theo phong tục người Do thái thời đó, những trẻ nhỏ không có địa vị, không có giá trị gì, chỉ khi nào trẻ đến tuổi 12, nó mới được nhìn nhận có chỗ đứng trong cộng đoàn. Các môn đệ Chúa Giêsu lúc đó chưa thay đổi tâm thức, họ còn ngăn cản không cho người ta đem các trẻ nhỏ đến với Chúa.
Thái độ và lời dạy của Chúa Giêsu nhắc cho các môn đệ lúc đó và cho chúng ta ngày hôm nay rằng trong cộng đoàn Giáo Hội, mọi người không tùy thuộc hạng tuổi, đều có quyền đến với Chúa để Chúa đặt tay, cầu nguyện và chúc lành cho; không ai bị loại khỏi tình yêu và ân sủng của Chúa, dù là một đức trẻ. Các nhà chú giải đã xem đoạn Tin Mừng này như là căn bản cho việc rửa tội trẻ nhỏ được cộng đoàn tiên khởi thực hiện.
"Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng". Chúng ta có thái độ kỳ thị, ngăn cản các trẻ nhỏ đến với Chúa không? Có những người lớn, những bậc cha mẹ rơi vào tâm thức của các môn đệ ngày xưa: họ không đem con cái đến với Chúa Giêsu, họ không nêu gương sống đức tin cho con cái, cũng không muốn cho con cái lãnh nhận Bí tích Rửa tội, nại lý do tôn trọng tự do của con cái, đợi chúng lớn lên và tự quyết định muốn rửa tội hay không. Ðây là thái độ sai lầm về ơn cứu rỗi của Chúa: Ơn Chúa được ban nhưng không cho mọi người, chúng ta là ai mà dám xét đoán về điều kiện tuổi tác để được Chúa chúc lành và ban ơn cứu rỗi.
Hãy để các trẻ nhỏ đến với Chúa Giêsu, đừng ngăn cản chúng. Xin Chúa giúp chúng ta chu toàn trách nhiệm cao cả này, với ý thức rằng ân sủng và chúc lành của Chúa là kho tàng quí giá mà chúng ta có thể trao lại cho con cái chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Cầu Nguyện Cùng Mẹ Maria
Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta tinh thần của những kẻ bé mọn và trẻ thơ. Trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu rất quan tâm đến những cuộc gặp gỡ của Ngài với những kẻ bé mọn, hạng người bị bỏ rơi, mà đại biểu là trẻ em. Hình như các môn đệ luôn có thái độ vệ binh đối với Chúa Giêsu. Họ thường nghĩ có nghĩa vụ phải bảo vệ Ngài, bởi vì theo họ một bậc thiên sai và quân vương không thể để cho trẻ em và những kẻ hèn hạ đến gần. Nhưng Chúa Giêsu không phải là Ðấng Thiên Sai theo ý nghĩ và sự chờ đợi của các môn đệ, Ngài có cái nhìn về sứ mạng của Ngài và về con người khác với các ông.
Chúa Giêsu chỉ thực hiện sứ mạng thiên sai của mình qua con đường thập giá và Ngài chỉ thực sự gần gũi với những ai mang lấy gương mặt khổ đau như Ngài, tức là những kẻ bé mọn, những người bị bỏ rơi, những kẻ bị gạt ra bên lề xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, Ðấng hoàn toàn vâng phục và phó thác cho Thiên Chúa, những kẻ bé mọn ấy không còn biết bám víu vào sức mạnh và quyền lực nào khác hơn là chính Thiên Chúa. Họ là những người nghèo của Giavê như Cựu Ước đã từng loan báo. Vũ khí của họ, sức mạnh của họ, nơi nương tựa duy nhất của họ, lẽ sống của họ là chính Chúa. Chúa Giêsu đề cao những con người ấy và Ngài mời gọi những ai muốn làm đồ đệ Ngài cũng hãy mặc lấy tâm tình phó thác và tin yêu những con người ấy.
Kỳ thực, lịch sử vẫn tiếp tục chứng minh rằng chìa khóa của nhiều vấn đề lớn của nhân loại không nằm trong khoa học kỹ thuật và sức mạnh của vũ khí. Sứ điệp và bí mật Fatima đã được ứng nghiệm. Ba trẻ em vô học và nghèo nàn tại một ngôi làng nhỏ bên Bồ Ðào Nha đã chứng minh cho thế giới thấy sức mạnh vô song của lời cầu nguyện, tức của lòng tin và lòng phó thác của con người. Lời tiên tri của Mẹ Maria vẫn tiếp tục được ứng nghiệm: Người cất khỏi tòa cao những người quyền thế và nâng dậy những ai ở khiêm nhường.
Kính nhớ Mẹ trong ngày thứ bảy này, chúng ta cùng cầu nguyện với chính tâm tình của Mẹ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Như trẻ em
Bấy giờ, người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng và cầu nguyện. Các môn đệ la rầy chúng. Nhưng Đức Giêsu nói: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng.” Người đặt tay trên chúng, rồi đi khỏi nơi đó. (Mt. 19, 13-15)
Câu nói chiếu sáng cho cả đoạn Tin Mừng này là: “Nước Trời thuộc về những ai giống như trẻ em.” Nước Trời đang hiện diện mọi lúc trong đời sống con người, trong đời sống Giáo Hội. Trong các dụ ngôn về Nước Trời, Chúa luôn nhấn mạnh đến giai đoạn hiện tại và giai đoạn cánh chung. Nhưng giai đoạn cánh chung được tiếp nối với giai đoạn hiện tại, tùy thuộc chúng ta hôm nay sống Nước Trời hay không.
Hoàng tử nhỏ.
Hoàng tử nhỏ của Nước Trời là trẻ em, không phải vì bất lực hay nghèo khó, nhưng vì đời sống phong phú dồi dào, vì lòng trông cậy mạnh mẽ và con tim trong trắng đơn sơ, ngay thẳng. Tấm lòng trong trắng này làm cho con mắt tâm hồn trong suốt như thủy tinh. “Ai có lòng trong sạch được thấy Thiên Chúa” ngay trong đời sống này, chúng thấy được Thiên Chúa trong các tạo vật được dựng lên theo hình ảnh Ngài và được Ngài quan phòng hướng dẫn.
Sao con người lại bị mất vẻ trong sáng của tuổi thơ? khi nói tới ai có một tâm hồn trẻ thơ, người ta cảm thấy người đó sống bằng con tim thuần khiết.
Ở đâu?
Khi đứa bé qua đời, nó được sống trong Nước Trời, nó rất khó phải ở nơi khác! nếu nó yếu đuối phạm tội, chắc chắn nó sẽ ăn năn vì mến Chúa như Ngài đã yêu nó không hềloại trừ nó…
Sau những thí dụ đó Thiên Chúa công nhận trẻ em như là mẫu người được mời vào dự tiệc Nước Trời.
“Nếu các con không hóa nên như trẻ nhỏ…” đây là một ấn văn chứa đầy trong Tin Mừng …. Tại sao chúng ta không cố gắng thực hiện? tại sao chúng ta không sống theo lời mời gọi của Chúa? tại sao lời đó không trở nên qui tắc cho đời sống đạo của chúng ta?
J.M
Suy niệm 4: NÊN NHƯ TRẺ NHỎ MỚI ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI (Mt 19, 13-15)
Xem lại CN 27 TN B, Thứ Bảy tuần 7 TN.
Đơn sơ, trong trắng là những đặc tính quý giá nơi trẻ em. Vào thời Đức Giêsu, đã nhiều lần Ngài dùng hình ảnh, đời sống và tính cách các trẻ em để dạy cho các môn đệ hay dân chúng những bài học sâu xa về mầu nhiệm Nước Trời.
Hôm nay, một lần nữa, Đức Giêsu muốn nói rõ hơn về đặc tính ấy khi thấy một em bé được người ta bế đến để xin Ngài đặt tay và chúc lành cho chúng. Các môn đệ tỏ vẻ không đồng ý vì coi đây là chuyện vớ vẩn. Các ông nghĩ nên dành thời gian để Đức Giêsu nghỉ ngơi và làm những chuyện lớn lao hơn! Mặt khác, các ông cũng không muốn bị quấy rầy bởi những chyện tầm thường, nhỏ nhặt như vậy. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã tỏ thái độ khác hoàn toàn với lối suy nghĩ của các ông, nên Ngài đã nói: "Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng".
Thật vậy, trẻ nhỏ thì đơn sơ, trong trắng và thủy chung. Chúng luôn cần đến sự trợ giúp của người khác và thường nải nỉ xin cha mẹ và những người lớn điều chúng muốn.
Nhân đây, Đức Giêsu không có ý nói là phải nhỏ bé lại theo nghĩa đen, mà là theo nghĩa bóng, tức là hãy mặc lấy tâm tình của trẻ thơ, đó là: hãy sống trong trắng, đơn sơ, chân thành, không nghi kỵ, vòng vo, gian dối, không tự kiêu, tự mãn, nhưng biết phó thác, tin tưởng vào Chúa quan phòng. Luôn yêu thương và gắn kết trong sự tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, vì: “Mọi gánh nặng hãy trút bỏ cho Ngài, tin tưởng vào Ngài, Ngài sẽ ra tay”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trở nên đơn sơ như trẻ nhỏ để được vào Nước Trời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 5: Để trẻ em đến với Thầy
Suy niệm:
Bàn tay con người thật là cao quý.
Trong Cựu Ước, Đức Chúa muốn ông Môsê đặt tay trên ông Giosuê
để chia sẻ cho ông này quyền lãnh đạo dân (Ds 27, 18. 23).
Cụ Giacóp đã chúc phúc cho hai đứa cháu là Épraim và Mơnase
bằng cách đưa hai tay đặt trên đầu chúng (St 48, 14).
Cử chỉ đặt tay trên cũng thường thấy trong Giáo Hội thuở ban đầu.
Chúa Thánh Thần được trao ban qua việc đặt tay (Cv 8, 17-19; 19, 6).
Qua đặt tay, bảy phó tế đầu tiên lãnh nhận sứ vụ (Cv 6, 6).
Bácnaba và Saolô cũng được đặt tay sai để sai đi truyền giáo (Cv 13, 3).
Bàn tay Thiên Chúa là khí cụ che chở, đỡ nâng.
“Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước,
bàn tay của Ngài, Ngài đặt trên con (Tv 138, 5).
Bàn tay của Đức Giêsu đóng vai trò lớn trong sứ vụ.
Ngài chữa anh mù bằng cách đặt tay trên mắt anh (Mc 8, 25).
Ngài cũng chữa bà còng lưng theo cách tương tự (Lc 13, 13).
Người ta xin Ngài đặt tay để chữa một anh điếc và ngọng (Mc 7, 32),
thậm chí đặt tay để hoàn sinh một em gái mới chết (Mt 9, 18).
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Cha mẹ của các em đã đưa các em đến với Đức Giêsu,
để được Ngài đặt tay trên chúng và cầu nguyện (c. 13).
Họ tin phúc lành đến với con cái họ qua cử chỉ ấy.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã đặt tay trên các em nhỏ và cầu nguyện,
trước khi tiến về Giêrusalem để chịu khổ nạn (c. 15).
Nhưng các môn đệ lại bực bội và la rầy cha mẹ của các em.
Có lẽ đối với họ, Thầy Giêsu còn nhiều việc lớn lao để làm
hơn là mất thì giờ để chúc lành cho mấy em bé.
Đức Giêsu hoàn toàn không đồng ý với thái độ coi thường này.
Ngài nói thẳng: “Hãy để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng.”
Đến với Thầy Giêsu là quyền lợi của mọi trẻ em,
người lớn không được phép xâm phạm.
Ngài đưa ra lý do khiến các môn đệ phải tôn trọng trẻ em:
“vì Nước Trời là của những ai giống như chúng” (c. 14).
Như thế trẻ em, tuy không có chỗ cao trong xã hội,
nhưng lại có chỗ vững chãi trong Nước Trời.
Trẻ em có chỗ vì chúng hồn nhiên sống lệ thuộc vào cha mẹ,
và đón nhận mọi sự từ người khác với lòng biết ơn.
Những người lớn muốn vào Nước Trời phải nên giống chúng.
Đây là một tiến trình khó khăn và lâu dài,
vì người lớn phải quay lại, phải hoán cải để trở nên đơn sơ như trẻ thơ,
phải tự hạ mình xuống, bỏ đi những tự hào, tự mãn về mình (Mt 18, 3-4).
mở lòng đón lấy Nước Trời như quà tặng nhưng không.
Như thế trẻ thơ lại là mẫu mực cho các môn đệ của Thầy Giêsu.
Nước Trời dành cho trẻ thơ và những ai trở nên giống chúng.
Trẻ em có chỗ trong Nước Trời và trong Giáo Hội tại thế.
Các em cũng là thành viên trong cộng đoàn đức tin.
Lời dạy của Đức Giêsu vẫn mãi âm vang nơi chúng ta:
“Hãy để trẻ em đến với tôi, đừng ngăn cấm chúng.”
Chúng ta đã làm gì để đưa các em đến với Giêsu?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ,
nên xin yêu ngài bằng khả năng bé nhỏ của con.
Cho con biết yêu
những công việc bé nhỏ mỗi ngày,
những công việc âm thầm,
những bổn phận mà con làm vì yêu mến.
Cho con biết yêu những hy sinh bé nhỏ mỗi ngày,
vui lòng đón nhận những thánh giá tuy nhỏ,
nhưng làm tim con đau đớn.
Cho con biết yêu tinh thần bé nhỏ của trẻ thơ,
đơn sơ thú nhận mình yếu đuối và bất lực,
sung sướng nương tựa vào duy một mình Chúa.
Hơn nữa, xin cho con can đảm,
dám chọn những gì giúp con trở nên bé nhỏ hơn,
nhờ đó con vui tuoi phục vụ mọi người
và hạnh phúc khi thấy Chúa lớn lên trong con.
Mỗi lần bị cám dỗ tự cao,
xin cho con biết ngắm nhìn con đường Chúa đã đi,
con đường bé nhỏ và khiêm hạ.
Ước gì con được làm bạn của Chúa
trên đường từ Bêlem đến Núi Sọ,
và được ở bên Chúa trong Nước Trời. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
17/08 Không được phân ly
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Không được phân ly.
Thứ sáu tuần 19 thường niên.
"Vì lòng chai đá của các ngươi mà Môsê đã cho phép các ngươi rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy".
Lời Chúa: Mt 19, 3-12
Khi ấy, có những người biệt phái đến cùng Chúa Giêsu và hỏi thử Người rằng: "Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lẽ gì không?" Người đáp: "Nào các ông đã chẳng đọc thấy rằng: Từ thuở ban đầu, Tạo Hoá đã dựng loài người có nam có nữ, và Người đã phán: Bởi thế nên người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ nên một thân xác? Cho nên họ không còn là hai, nhưng là một thân xác. Vậy điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly". Họ hỏi lại: "Vậy tại sao Môsê đã truyền cấp tờ ly hôn mà cho rẫy vợ?" Người đáp: "Vì lòng chai đá của các ông mà Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy. Tôi bảo các ông rằng: Ai rẫy vợ, trừ nố gian dâm, và đi cưới vợ khác, thì phạm tội ngoại tình. Và ai cưới người đã bị rẫy, cũng phạm tội ngoại tình".
Các môn đệ thưa Người rằng: "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ". Người đáp: "Không phải mọi người hiểu được điều ấy, nhưng chỉ những ai được ban cho hiểu mà thôi. Vì có những hoạn nhân từ lòng mẹ sinh ra, có những hoạn nhân do người ta làm nên, và có những người vì Nước Trời, tự trở thành hoạn nhân. Ai có thể hiểu được thì hiểu".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Vấn Ðề Ly Dị
Vào thời Chúa Giêsu, dựa trên luật Môsê được ghi lại trong sách Tl 14, 1-4, thì mọi trường phái giải thích luật đều phải nhìn nhận việc ly dị, nhưng có điểm khác nhau về lý do ly dị. Trường phái Hillel cho phép ly dị vì bất cứ lý do gì, còn trường phái Shammai gắt gao hơn, chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại tình mà thôi.
Những người Biệt phái đến chất vấn Chúa Giêsu như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay, không phải về việc có được phép ly dị hay không, nhưng về lý do của việc ly dị: họ muốn Chúa Giêsu phải chọn một trong hai lập trường: hoặc cho phép ly dị vì bất cứ lý do gì, hoặc chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại tình.
Trong câu trả lời, Chúa Giêsu không theo lập trường của con người, không đứng về nhóm nào, nhưng Ngài kêu gọi trở về với chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa khi tạo dựng con người: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly". Ðời sống hôn nhân và gia đình giữa người nam và người nữ là một định chế do chương trình của Thiên Chúa khi tạo dựng con người, chứ không do con người thiết định. Môsê cho phép ly dị vì chiều theo lòng dạ chai đá của dân chúng, chứ ngay từ đầu không có như vậy.
Chứng kiến cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và những người Biệt phái, các môn đệ phản ứng: "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì thà đừng lấy vợ còn hơn". Trong câu trả lời, Chúa Giêsu cho các ông biết là cần phải có ơn Chúa, con người mới có thể hiểu rõ ơn gọi cao cả của đời sống hôn nhân cũng như của đời sống độc thân trinh khiết vì Nước Trời. Bậc sống độc thân hoặc lập gia đình, không phải thuần túy tùy thuộc ý định con người, nhưng là một ơn ban đến từ Thiên Chúa. Nếu không tin có Thiên Chúa và bị ảnh hưởng của tinh thần thế tục, con người sẽ không hiểu giá trị cũng như không thể sống trọn vẹn ơn gọi độc thân hoặc lập gia đình. "Ai có thể hiểu được thì hiểu", ơn ban của Thiên Chúa tùy thuộc tự do của con người. Con người thời nay đã lạm dụng tự do để quyết định những điều nghịch lại chương trình của Thiên Chúa. Con người đã trần tục hóa cả bậc độc thân lẫn bậc hôn nhân và gia đình. Tất cả đều được phép, kể cả việc hai người cùng phái tính được luật pháp cho phép sống với nhau như vợ chồng, để rồi tình thương của cha mẹ đối với con cái trong trường hợp nào cũng bị hạ thấp.
Người Kitô hữu chúng ta đừng để mình bị cám dỗ chạy theo tâm thức trần tục. Giải pháp cho vấn đề không phải là luật lệ do con người đặt ra, nhưng là tình thương, là trở về với Thiên Chúa và chương trình nguyên thủy của Ngài khi tạo dựng con người. Ðiều này đòi hỏi nhiều cố gắng hy sinh, nhưng đó là bí quyết để con người sống trọn ơn gọi của mình và đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Chúng ta đừng sợ cố gắng hy sinh, bởi vì Thiên Chúa sẽ trợ giúp chúng ta, nếu chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài và để Ngài hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Xin Chúa canh tân tình yêu chúng ta, cho tình yêu chúng ta hòa nhập vào tình yêu thần thiêng của Chúa, để chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi của chúng ta theo đúng chương trình của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Thủy Chung Trong Hôn Nhân (Mt 19,3-12)
Cách đây vài năm, không những hai miền nam bắc Triều Tiên mà có lẽ cả thế giới cùng khóc trước cảnh tượng hai trăm người già của từ hai miền của đất nước bị chia cắt từ năm mươi năm nay gặp lại nhau, ôm chầm lấy nhau, chan hòa trong tiếng khóc và niềm vui đoàn tụ. Theo thống kê, có khoảng ít nhất bảy triệu gia đình Nam Hàn có liên hệ máu mủ với Bắc Hàn. Trừ một số nhỏ đã được đoàn tụ tại những nước thứ ba, phần lớn các gia đình Triều Tiên đều bị ly tán kể từ cuộc chiến tranh nam bắc hồi năm 1953. Gia đình đổ vỡ và ly tán vẫn là một trong những nỗi đau lớn nhất trong cuộc sống con người.
Không riêng gì chiến tranh, nạn ly dị mà chúng ta đang chứng kiến trong hầu hết các xã hội đương đại đã và đang là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều vết thương khó hàn gắn nhất trong lòng người. Gia đình đứng vững, xã hội mới ổn định. Nhưng gia đình chỉ có thể đứng vững khi được xây dựng trên ý muốn của Ðấng Tạo Hóa về định chế hôn nhân mà thôi. Ðây là đạo lý mà Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta cùng nhau ôn lại qua đoạn Tin Mừng hôm nay.
Câu hỏi mà những người biệt phái đặt ra cho Chúa Giêsu gợi lại cuộc tranh luận giữa các trường phái Do Thái về luật cho phép ly dị được Môsê qui định trong sách giới luật. Luật Môsê cho phép người đàn ông bỏ vợ, nếu tìm thấy nơi vợ một thứ tì ố kín đáo nào đó. Các trường phái có khuynh hướng phóng khoáng giải thích rằng nếu một người chồng gặp một người đàn bà khác đẹp hơn và nhận thấy vợ mình xấu xí đến độ nhờm tởm, người đàn ông ấy được phép bỏ vợ. Những người có chủ trương nhiệm nhặt thì cho rằng một tì ố đáng khinh tởm nơi người vợ chỉ có thể là hành động ngoại tình mà thôi.
Như vậy, đặt câu hỏi cho Chúa Giêsu, các biệt phái chỉ có ý gài bẫy Ngài, họ muốn Ngài phải đứng hẳn về một trong hai lập trường trên đây. Nhưng Chúa Giêsu đã tránh được cái bẫy do các biệt phái cài ra khi tuyên bố rằng Ngài hoàn toàn chống lại việc ly dị, dù bất cứ lý do nào. Trích dẫn sách Khởi Nguyên, Chúa Giêsu chứng minh rằng ngay từ đầu, Thiên Chúa muốn rằng vợ chồng phải nên một với nhau như một thể xác. Ðây là ý muốn minh thị của Chúa. Không có quyền bính nào trên trần gian này có thể đảo lộn ý muốn ấy của Ðấng Tạo Hóa. Qua khẳng định này, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng hôn phối không chỉ là một giao ước giữa người nam và người nữ, mà còn là một thể hiện của chính ý muốn của Ðấng Tạo Hóa. Duy chỉ có ý muốn của hai người phối ngẫu chưa đủ để làm nên hôn phối, mà còn phải có ý muốn của chính Thiên Chúa. Nên vợ nên chồng không phải là nên một với nhau, mà còn là nên một với Thiên Chúa, hay đúng hơn, chỉ trong Thiên Chúa, hai người phối ngẫu mới thực sự nên một với nhau. Do đó, phá vỡ hôn ước, ly dị không chỉ là xé bỏ giao ước giữa hai con người, mà chính là chối bỏ chính Thiên Chúa.
Tựu trung, ly dị hay ngoại tình là phản bội chính Thiên Chúa; Khi Thiên Chúa bị loại ra khỏi tâm hồn thì dĩ nhiên con người cũng sẽ dễ dàng phản bội và loại trừ người khác. Và ngược lại, mỗi lần chúng ta phản bội hay loại trừ tha nhân, chúng ta cũng xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Con người mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa một cách thâm sâu đến độ xúc phạm đến con người là xúc phạm đến Thiên Chúa; và chối bỏ Thiên Chúa cũng đồng nghĩa với chối bỏ con người. Suy gẫm về sự thủy chung trong đời sống hôn nhân, chúng ta cũng nghĩ đến tình yêu trong mọi quan hệ giữa người với người. Về điểm này, lời của thánh Gioan nên được chúng ta tâm niệm và đem ra thực hành: Thiên Chúa là Tình Yêu, ai sống trong tình yêu, người đó sống trong Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Người ngoại tình.
Những người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giêsu để thử Người. Họ nói: “Thưa Thầy, cò được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?” Người đáp: “Các ông không đọc thấy điều này sao: “Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ,” Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” (Mt. 19, 3-4. 6)
“Những người biệt phái này điên rồ” Ôbelix nói thế. Từ khi họ thử gài bẫy Đức Giêsu, họ biết họ thất bại vì Đức Giêsu luôn trưng Thánh Kinh để trả lời họ.
Hạng đực rựa. (Le mâle)
Đoạn này cho ta thấy xã hội đực rựa thời đó. Chỉ có đàn bà là kẻ phạm tội ngoại tình, bị dãy bỏ. Đàn ông không có tội gì! giờ đây Đức Giêsu nhắc nhở họ phải tôn trọng người nữ, bình đẳng trước pháp luật và đàn ông cũng phải có trách nhiệm “ Kẻ dẫy vợ cũng phạm tội như kẻ cưới người đàn bà bị dẫy bỏ.”
Người ta thấy các tông đồ phản ứng: “Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ thì hơn.”
Ngày nay cũng không khác gì thời Đức Giêsu người ta không nói đến dẫy vợ nữa, nhưng nói đến ly dị, không bàn tán đến kết hôn nữa, nhưng nói đến tự do sống chung.
Người nam.
Giáo huấn của Đức Giêsu chính là luật tự nhiên. Sự kết hợp giữa hai người để xây dựng tốt hơn: hoàn toàn tôn trọng nhau. Đàn ông hay đàn bà không phải là máy móc để hành lạc hay con rối kỳ cục để thỏa mãn. Thời các tông đồ phản ánh ít nhiều thế. Chúa đã nhắc nhở họ nhớ đến phẩm giá là người. Thời đại chúng ta hầu như theo cái thứ luân lý buông thả. Chúa nhắc nhở chúng ta nhớ đến luật thương yêu tôn trọng lẫn nhau.
Chúa còn đi xa hơn về đời sống độc thân tự nguyện, phải kính trọng người khác và bản thân mình! Chúa không nghĩ phải khấn bậc tu trì. Nhưng, thời người đã có những người đáp lại tiếng gọi trở nên chứng nhân của đời sống vĩnh cửu, trường tồn.
J.M
Suy niệm 4: HÃY SỐNG CHUNG THỦY TRONG TÌNH YÊU (Mt 19, 3-12)
Xem lại CN 27 TN B, Thứ Sáu tuần 7 TN.
“Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?"
Đây là một câu hỏi rất thâm độc của những người Pharisêu. Họ dùng phương pháp: “Nhất tiễn diệt song điêu”, tức là gài bẫy Đức Giêsu. Cái bẫy mà hôm nay họ đưa ra cho Ngài rất giống chuyện người đàn bà phạm tội ngoại tình mà họ nhờ Đức Giêsu phân xử, hòng tìm cách bắt Ngài.
Tại sao vậy? Thưa! Khi hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?". Câu hỏi này được cất lên lại nằm trong vùng địa lý, đặc trị của Hêrôđê Antipas. Ông vua này mới ly dị vợ để lấy Hêrôđia, vợ của anh mình là Philipphê I. Ông ta đã bị Gioan Tẩy Giả phản đối và cuối cùng Gioan đã bị giết chết dưới sự độc ác của vua. Ý tưởng thâm độc của họ là: nếu Đức Giêsu đồng ý cho ly dị, thì trái ngược với Gioan và dân chúng sẽ phản đối vì họ rất tôn kính Gioan. Còn Nếu Đức Giêsu phản đối luật ly dị, thì sẽ bị chặt đầu như Gioan, và đồng thời nghịch lại với luật Môsê.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không vướng vào cái bẫy của họ. Nhưng qua đây, nhân cơ hội này, Ngài đã giải thích cho họ hiểu vì sao luật Môsê cho phép ly dị. Câu trả lời của Ngài đã dựa vào Kinh Thánh: "Thuở ban đầu, Ðấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: ‘Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt’. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Còn việc tại sao ông Môsê cho phép ly dị là vì: ‘các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ’”. Cũng nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã tái xác định luật hôn nhân: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly".
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức tính bất khả phân ly của Bí tích Hôn Nhân trong Giáo Hội. Luật này do chính Chúa đặt ra chứ không phải do con người. Hơn nữa, hình ảnh người nam, người nữ kết hợp và thủy chung với nhau diễn tả hình ảnh Đức Kitô yêu thương Giáo Hội và không bao giờ xa lìa Giáo Hội.
Vì thế, nguyện ước sống chung, không phải do loài người đặt ra, nhưng chính Thiên Chúa se kết người nam và người nữ, để yêu thương, giúp đỡ nhau, sống trung thành với nhau đến trọn đời. Chỉ có cái chết của một bên mới cho phép bên kia được tái hôn mà thôi. Vì vậy, Đức Giêsu nói rõ ràng rằng: “Trong lúc mối dây hôn nhân vẫn còn hiệu lực, rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình".
Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho đời sống hôn nhân ngày nay được ấm êm và hạnh phúc. Xin cho chúng con hiểu rằng: vì yêu thương mà Chúa đã chết vì chúng con, đến lượt chúng con cũng phải yêu thương nhau như Chúa yêu thương Giáo Hội. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 5: Một xương một thịt
Suy niệm :
“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phép phân ly.”
Lời của Đức Giêsu đã vang vọng qua hai mươi thế kỷ,
và vẫn thường được chọn để in trên thiệp cưới.
Phải chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng
ly dị là từ không nên có trong từ điển của các đôi vợ chồng.
Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các Kitô hữu đã gia tăng đáng kể.
Sống với nhau đến đầu bạc răng long trở thành một giấc mơ.
Trong xã hội Do Thái giáo thời Đức Giêsu,
người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới.
Người vợ là một thứ tài sản của người chồng,
nên chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ, có khi chỉ vì một lý do cỏn con.
Trước câu hỏi: “Chồng có được phép ly dị vợ vì bất cứ lý do nào không?”
Đức Giêsu đã kiên quyết nói không (c. 6).
Ngài bênh vực các bà vợ bị áp chế.
Họ không phải là một món hàng bỏ đi khi không cần hay không ưng.
Lập trường của Ngài đi ngược với nền văn hóa và tôn giáo thời đó.
Điều này khiến chính các môn đệ bị sốc (c. 10).
Hóa ra các ông vẫn cho mình có quyền bỏ vợ khi họ muốn.
Người Pharisêu trích sách Đệ Nhị Luật (24, 1)
để biện minh cho việc được phép ly dị đúng theo Luật Môsê (c. 7).
Còn Đức Giêsu lại trích sách Sáng Thế (2, 24)
để nhấn mạnh cho sự hiệp nhất vĩnh viễn giữa đôi vợ chồng.
“Cả hai thành một xương một thịt” không chỉ về mặt thân xác,
mà còn trở nên một lòng, một ý, một ước mơ, một hành động.
Ngài khẳng định điều này đã có từ thuở ban đầu (cc. 4. 8)
và nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa.
Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời (c. 8).
Đức Giêsu đến để hoàn chỉnh Luật Môsê
và khai mở ý muốn trọn vẹn của Thiên Chúa về hôn nhân.
Hôn nhân không phải chỉ là chuyện của hai người yêu nhau và lấy nhau.
Trong Lễ Cưới có sự hiện diện của Thiên Chúa là Đấng phối hợp.
Ngài tiếp tục bảo vệ tình yêu, cả khi hai người cùng muốn chia tay.
Hôn nhân không phải là một bản hợp đồng
mà hai bên được phép xé bỏ khi muốn.
Chung thủy mãi mãi là chuyện khó đối với con người thời nay.
Khi thịnh vượng, lúc gian nan, khi mạnh khỏe, lúc đau yếu,
khi buồn chán và thất vọng về nhau, khi yếu đuối và vấp ngã,
khi đổ vỡ quá lớn tưởng như không sao hàn gắn được,
khi đời sống vợ chồng thành như hỏa ngục trần gian…
khi ấy người ta cần Thiên Chúa để tiếp tục yêu thương và kính trọng nhau.
Xin bớt một chút ích kỷ tự ái, thêm một chút khiêm hạ yêu thương,
bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ…
để gìn giữ tình nghĩa vợ chồng như quà tặng mong manh của trời cao.
Cầu nguyện :
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,
xin Cha nhìn xuống
những gia đình sống trên mặt đất
trong những khu ổ chuột tồi tàn
hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến
những gia đình thiếu vắng tình yêu
hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu,
những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ
hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục
vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu
đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình;
nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ
hạnh phúc luôn ở trong tầm tay
của từng người chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
16/08 Yêu thương và tha thứ
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Yêu thương và tha thứ.
Thứ năm tuần 19 thường niên.
"Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy".
Lời Chúa: Mt 18,21 - 19,1
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.
"Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, và tôi sẽ trả lại cho ngài tất cả". Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.
"Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: "Hãy trả nợ cho ta". Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh". Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: "Tên đầy tớ ác độc kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?" Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ. "Vậy, Cha Thầy trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình".
Khi Chúa Giêsu nói những lời đó xong, thì Người bỏ xứ Galilêa mà đến Giuđêa, bên kia sông Giođan.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tha Thứ
Một đôi vợ chồng nọ đưa nhau ra tòa xin ly dị. Vị luật sư biện hộ cho quan tòa biết: đôi vợ chồng này sống hoàn toàn yên lặng với nhau trong suốt 12 năm liên tiếp. Họ cũng không muốn gặp nhau nữa, nếu cần cho nhau biết điều gì, thì họ chỉ cần viết vào một mảnh giấy để sẵn trên bàn cho người kia đọc. Ðôi vợ chồng này trước đây đã sống hạnh phúc với nhau trong vòng 18 năm, đã nuôi nấng con cái khôn lớn, nhưng rồi không rõ vì lý do gì, hai người đã không thèm nói chuyện với nhau, và giờ đây họ không nhớ đã giận nhau vì lý do gì.
Những hờn giận, phiền muộn xẩy ra trong sinh hoạt hằng ngày, nếu không được nghiêm chỉnh giải quyết, vượt qua, thì sẽ dễ dàng chồng chất làm thành những bức tường ngăn cách giữa cha mẹ với nhau, hay giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình, hoặc giữa bạn bè thân thích. Những tâm tình phiền muộn tiêu cực mỗi ngày một ít cũng đủ ảnh hưởng đến cả cuộc sống, làm chúng ta không còn vui sống và bình an nữa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải tha thứ và tha thứ luôn luôn. Nhưng tại sao phải tha thứ? Vì tha thứ là một điều cần thiết trong đời sống xã hội, trong gia đình, trong các đoàn thể; vì tha thứ là đặc điểm của tình yêu: trong tình yêu Chúa, chúng ta tha thứ cho nhau như Ngài đã tha thứ cho chúng ta. Tha thứ như thế không phải là yếu nhược, mà là sức mạnh của tình yêu, là khí cụ của hòa bình. Cuộc đời là một cuộc hành trình, nếu chúng ta cứ để mình mang nặng gánh ưu tư, phiền muộn thì làm sao có đủ sức để đạt tới đích được. Do đó chúng ta hãy luôn sống tha thứ để tâm hồn chúng ta được nhẹ nhàng thanh thoát trên đường đời với niềm hy vọng và an vui.
Một nhà tâm lý người Mỹ đã đưa ra nhận định như sau: Trên bình diện nhân bản, nếu suy nghĩ cho cùng, thì tha thứ là giải pháp tốt nhất cho người tha thứ và kẻ được tha thứ: sự tha thứ khai mở năng lực tinh thần con người và có tác dụng làm cho con người sống lành mạnh vui tươi hơn. Trên bình diện thiêng liêng, sự tha thứ có giá trị tích cực, chứng tỏ tình thương làm phát sinh nguồn an ủi trong tâm hồn; nếu chúng ta không thật lòng tha thứ cho nhau, thì Cha trên trời cũng không tha thứ cho chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tha thứ cho những ai xúc phạm đến chúng ta, và như vậy chúng ta trở thành khí cụ đem niềm vui đến cho mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Bản Sắc Của Người Kitô Hữu
Cuộc xung đột đẫm máu giữa người Do Thái và Palestin tại Trung Ðông cũng như những người công giáo và tin lành tại Bắc Ailen, hay giữa những chủng tộc khác nhau tại nhiều nơi khác trên thế giới cho chúng ta thấy rằng oán thù luôn sinh ra oán thù, bạo động luôn kéo theo bạo động, thế giới sẽ chẳng bao giờ có được hòa bình đích thực khi con người chưa biết tha thứ cho nhau.
Tin Mừng hôm nay một lần nữa mời gọi chúng ta đi vào cốt lõi của Tin Mừng là sự tha thứ, đây là tuyệt đỉnh của giáo huấn của Chúa Giêsu. Ngài sẽ chỉ là một kẻ lừa bịp và tòa giáo huấn của Ngài sẽ sụp đổ nếu trong giây phút cuối đời, từ trên thập giá, Ngài đã không tha thứ cho những kẻ đang hành hạ mình. Lời cầu xin tha thứ của Chúa Giêsu là bảo chứng của những lời Ngài rao giảng. Suy niệm về sự tha thứ, trước hết chúng ta phải hướng về tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng thương xót, chậm giận và hay tha thứ. Toàn bộ Kinh Thánh là lịch sử của những cử chỉ tha thứ của Thiên Chúa và sự bắt đầu lại của con người. Mỗi một lần con người vấp ngã là mỗi lần Thiên Chúa thực thi lòng thương xót. Ngay từ trang đầu tiên của Kinh Thánh, chúng ta đã thấy được sự tha thứ của Thiên Chúa. Sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã không bỏ mặc hay trừng phạt, mà trái lại còn hứa ban ơn cứu rỗi. Xuyên suốt Kinh Thánh Cựu Ước, Thiên Chúa trải dài tình yêu nhẫn nhục tha thứ cho dân riêng của Ngài. Qua Chúa Giêsu, lòng tha thứ của Chúa Cha đã bộc bạch một cách trọn vẹn. Những trang cảm động nhất trong Tân Ước hẳn phải là những trang về lòng tha thứ của Thiên Chúa được thể hiện qua lời nói, cử chỉ của Chúa Giêsu.
Còn bức tranh nào đẹp và cảm động cho bằng phiên tòa xử người đàn bà phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang. Từ buổi sáng tinh mơ, trong khi đám đông do các luật sĩ và biệt phái động viên đang hậm hực sẵn sàng ném đá người đàn bà khốn khổ, Chúa Giêsu đã giữ thinh lặng, và cuối cùng, khi đám đông đã rút lui, Ngài chỉ ôn tồn nói với chị: "Chị hãy về đi, Ta không kết án chị".
Còn áng văn nào đẹp cho bằng dụ ngôn về người con hoang đàng được ghi lại trong Tin Mừng theo thánh Luca. Còn lời nào dịu ngọt hơn lời tha thứ của Chúa Giêsu dành cho người được mệnh danh là kẻ trộm lành chịu đóng đinh bên hữu Ngài, và dĩ nhiên còn cử chỉ nào hào hùng và cao thượng hơn lời cầu xin tha thứ cho những kẻ lý hình trước khi trút hơi thở cuối cùng.
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, chậm giận và hay tha thứ. Ðó là tuyệt đỉnh của mạc khải Kitô giáo. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu tỏ bày cho chúng ta qua lời giảng dạy và cách cư xử của Ngài là Thiên Chúa hay thương xót và tha thứ. Lòng thương xót và tha thứ thiết yếu là của Thiên Chúa, con người không thể tự mình tha thứ. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã không tự mình tha thứ, Ngài cầu xin Chúa Cha tha thứ. Thiên Chúa thực thi lòng tha thứ qua con cái Ngài. Tự mình tha thứ không phải là điều tự nhiên đối với bản tính con người. Chính vì thế mà Chúa Giêsu dạy chúng ta phải kêu cầu ơn tha thứ của Thiên Chúa. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể tha thứ cho người khác: "Xin Cha tha cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa và sẵn sàng tha thứ cho người khác, đó là cuộc chiến đấu của cả một đời người nhưng đó cũng là cuộc chiến làm nên bản sắc của người tín hữu Kitô. Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là tín hữu Kitô khi họ biết tha thứ mà thôi.
Suy Niệm 3: Sáng và tối.
Bấy giờ ông Phê-rô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (Mt. 18, 21-22)
Ý nghĩa hai dụ ngôn này đã rõ ràng. Chúng ta không thể khước từ tha thư cho người khác vì Thiên Chúa cũng tha thứ cho mỗi người chúng ta hơn thế nhiều. Chúng ta cũng không thể không biết rằng thái độ của chúng ta đối vời anh em lân cận. Thì không có lý gì chúng ta sẽ tránh khỏi Thiên Chúa không xử với chúng ta như vậy. Chúng ta là nạn nhân của chính lối cư xử và hành động chúng ta.
Tối.
Thường những dụ ngôn của thánh Mát-thêu cũng như câu chuyện nhỏ này mang nặng bi quan. Nó phác họa những con người, những cách đối xử với nhau đáng buồn và kết thúc bằng kết án đầy tớ độc ác kèm theo sự đe dọa của hình phạt đối với kẻ không biết tha thứ. Chắc là bi quan rồi, nhưng như thế có sai lầm không? Chúng ta có cư xử cách khác đối với anh em ta không? Người ta nói: “Người là chó sói đối với người”
Ở đây nói về các môn đệ Chúa Giêsu, nói về mỗi người chúng ta, chúng ta có cư xử với nhau như thế không? có độc ác như thế không? có dã man không? dụ ngôn này Đức Giêsu không chỉ nói với các môn đệ hình như đã sống không có tình yêu huynh đệ, nó còn nói với chúng ta hiện nay nữa.
Sáng
Xuyên qua câu truyện dụ gôn này có thấy sáng lên hình bóng của nhà vua. Lòng thương xót của nhà vua biểu lộ qua những cách cư xử ban đầu làm cho dụ ngôn này một vẻ tươi sáng, nhưng rồi lại tuôn đi. Lối cư xử của đầy tớ ban đầu có vẻ lành mạnh: Nó lăn xả vào tay Chúa. Chúa không bắt buộc nó nữa. Người Cha của đầy tớ van xin này là người cha của đứa con phung phá. “Một người phủ đầy tội lỗi luôn được quan tâm ưu ái, đó là cái đích cho lòng thương xót nhắm bắn” Lê-on Bloy nói thế.
Nơi pháp trường người tội lỗi như món nợ vô phương đền trả, được trông thấy một người tiến lại cứu giúp. Gảii thoát nó hoàn toàn! Lòng tha thứ đưa đến một chân trơì mới, đến đời sống mới và gắn bó lòng thương xót tha thứ lẫn nhau.
J.M
Suy niệm 4: THA THỨ VÀ YÊU THƯƠNG KHÔNG GIỚI HẠN (Mt 18, 21; 19, 1)
Xem lại CN 24 TN A, Thứ Ba Tuần 3 MC.
Toàn bộ Tin Mừng được gói trọn trong hai điều răn là: “Mến Chúa và yêu người”; nói cách khác: “Mến Chúa và yêu người là hai mặt của một thực tại”, nó như hai mặt trên cùng một bàn tay. Thật vậy, nếu nói mến Chúa mà không yêu người thì là người nói dối vì sự thật không ở trong người đó. Vì thế, luật Tin Mừng đòi hỏi mến Chúa và yêu người phải luôn đi đôi với nhau như hình với bóng.
Hôm nay, Đức Giêsu dạy cho Phêrô một bài học về sự tha thứ khi ông đến hỏi: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?". Đức Giêsu liền nói: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy". Điều đó cho thấy rằng: tha thứ triền miên, tha thứ không giới hạn…
Nhưng muốn tha thứ trong tự do và đem lại hạnh phúc, thì điều quan trọng là nhận ra mình không là gì cả, nhưng vẫn được Chúa yêu thương. Mình đáng phải chết mà Chúa đã cứu sống và tha thứ. Vì thế, mình phải có trách nhiệm cứu giúp và yêu thương anh chị em đồng loại như Chúa đã thương mình. Dụ ngôn “tên mắc nợ không biết thương xót” là điều mà con người hay mắc phải. Tức là chỉ cầu cứu Thiên Chúa tha thứ cho mình, còn người khác khi có lỗi với mình, mình tìm mọi cách triệt tiêu và đóng đinh họ cho bằng được.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống trong tình yêu của Chúa. Biết yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng con. Đồng thời sẵn sàng tha thứ cho những thiếu xót, bất toàn của anh chị em chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 5: Bảy mươi lần bảy
Suy niệm :
Có khoảng cách rất lớn giữa mười ngàn yến vàng với một trăm quan tiền.
Mười ngàn yến vàng bằng một trăm triệu quan tiền.
Vậy mà người vừa được tha món tiền cực lớn ấy,
lại không tha được cho bạn của mình một món tiền tương đối nhỏ.
Thái độ độc ác này khiến tôi nhìn lại mình và tự hỏi tại sao.
Tại sao tôi không tha cho anh em tôi những điều nhỏ mọn hàng ngày,
trong khi Chúa vẫn tha cho tôi những món nợ rất lớn?
Dù một trăm quan tiền là hơn ba tháng lương của người lao động,
nhưng nó chẳng là gì so với món tiền lớn tôi mắc nợ Chủ tôi.
Tôi mắc nợ Ngài sự hiện hữu của tôi trên đời và tất cả những gì tôi có.
Tôi mắc nợ Ngài vì tình yêu bao la Ngài dành cho tôi.
Món nợ lớn vô cùng, vì tôi là thụ tạo, còn Ngài là Tạo Hóa.
“Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết” (cc. 26. 29).
Cả hai người đầy tớ đều sấp mình van xin như thế
khi cả hai đều không thể nào trả ngay được món nợ.
Nhưng hai câu trả lời nhận được lại khác nhau.
Chỉ vị vua mới biết chạnh lòng thương xót và tha toàn bộ số nợ (c. 27).
Còn người đầy tớ vừa được tha món nợ lớn, lại không có lòng thương xót này.
Anh ta thích dùng sức mạnh và quyền lực để giải quyết.
Túm lấy, bóp cổ, tống bạn mình vào ngục cho đến khi trả xong.
Lẽ ra anh ta phải cư xử với bạn mình như ông chủ đã cư xử với anh.
Đó chính là nội dung lời buộc tội của ông chủ giận dữ:
“Ngươi không phải thương xót đồng bạn,
như chính ta đã thương xót ngươi sao ?” (c. 33).
Lòng thương xót anh nhận được đã không trở thành dòng suối mát
chảy đến với người bạn đang cần chút xót thương.
Chính vì thế sự tha thứ mà anh nhận được từ chủ
phút chốc bị rút lại, bị xóa sạch.
Anh lại bị trở về tình trạng trước đây,
bị quân lính hành hạ, bị tù đầy cho đến khi trả hết (c. 34).
Sự tha thứ và lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta
chỉ ở lại với điều kiện là nó được chuyển đi, chứ không giữ lại.
Giữ lại đồng nghĩa với bị rút lại.
Món quà tôi nhận được từ Cha phải trở thành món quà tôi trao cho anh em.
Trong cuộc sống, chúng ta là con nợ của nhau, người này nợ người kia.
Trước những xúc phạm của người anh em trong cộng đoàn,
Phêrô nghĩ phải chăng nên tha đến bảy lần.
Đức Giêsu mời ta tha đến bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha đến vô cùng.
Ngài mời ta đi vào chỗ sâu nhất trong trái tim Thiên Chúa.
Sự tha thứ bắt nguồn từ tấm lòng, từ trái tim (c. 35).
Một trái tim tàn nhẫn chỉ biết đến một sự công bằng cứng cỏi.
Thế giới hôm nay cần một trái tim tha thứ hơn bao giờ.
Những nước nghèo mong chờ được tha những món nợ lớn.
Có những mối thù cần được tha giữa các sắc tộc, quốc gia, tôn giáo…
Người Kitô hữu chúng ta giúp gì cho sự tha thứ trong thế giới hôm nay?
Cầu nguyện :
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
14/08 Sống tinh thần trẻ thơ
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Sống tinh thần trẻ thơ.
Thứ ba tuần 19 thường niên – Thánh Mácximilianô Maria Kônbê, linh mục, tử đạo. Lễ nhớ.
"Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này".
* Thánh nhân sinh ngày 8 tháng 1 năm 1894 tại Ba Lan. Người gia nhập Dòng Anh Em Hèn Mọn và năm 1918 thụ phong linh mục tại Rôma. Đầy lòng yêu mến nồng nàn đối với Đức Trinh Nữ Maria Thánh Mẫu Thiên Chúa, người lập một hội đạo đức lấy tên là “Đạo binh Đức Maria Vô Nhiễm”. Hội này đã được truyền bá rộng rãi cả ở quê hương của người lẫn ở nhiều miền khác. Người đã đến Nhật Bản để truyền giáo, hăng say loan báo đức tin Kitô giáo dưới sự chăm sóc và bảo trợ của Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Khi đã trở về Ba Lan, người phải chịu biết bao cơ cực, nhọc nhằn một thời gian dài trong trại tập trung Ốt-suýt vì chính sách kỳ thị chủng tộc. Người đã hiến dâng mạng sống mình làm lễ toàn thiêu vì lòng bác ái ngày 14 tháng 8 năm 1941.
Lời Chúa: Mt 18, 1-5. 10. 12-14
Khi ấy các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi: "Chớ thì ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?" Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: "Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời.
"Và kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy. Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này, vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Ta, Đấng ngự trên trời.
"Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, Thầy bảo thật các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó, hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con trên trời không muốn để một trong những kẻ bé mọn này phải hư mất".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Tinh Thần Trẻ Thơ
Tin Mừng Mátthêu được cấu trúc xoay quanh năm diễn từ dài của Chúa Giêsu, và diễn từ thứ tư bắt đầu với chương 18 nói về nếp sống của người môn đệ trong cộng đoàn. Tin Mừng hôm nay nhắc đến hai đặc điểm của nếp sống người môn đệ trong cộng đoàn.
Trước hết là thái độ sống trẻ thơ.
Một tiểu thuyết gia nọ đã đưa ra nhận định: "Khi người lớn chúng ta không còn giữ liên hệ nào với các trẻ nhỏ, thì chúng ta không còn giữ được tính người nữa, mà đã trở thành như những chiếc máy chỉ biết ăn uống và kiếm tiền".
Lòng tin tưởng của trẻ thơ gợi lên cho chúng ta về sự tin tưởng mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải có đối với Thiên Chúa Cha, Ðấng ngự trên trời. Thái độ trẻ thơ khâm phục trước vũ trụ và thiên nhiên nhắc nhớ sự khâm phục mà chúng ta cần có đối với vũ trụ do Thiên Chúa Cha chúng ta dựng nên. Thái độ đáp trả của trẻ nhỏ trước tình yêu thương nhắc chúng ta phải đáp trả đối với tình yêu thương của Thiên Chúa.
Nhận định trên đây giúp chúng ta hiểu tại sao Chúa Giêsu muốn các môn đệ trong cộng đoàn mà Ngài thiết lập phải trở nên như những trẻ nhỏ: đơn sơ, tin tưởng phó thác, không có thái độ kẻ cả.
Những đức tính tốt của tuổi thơ sẽ giúp cho các thành phần trong cộng đoàn chấp nhận và phục vụ nhau, không kỳ thị phân biệt. Cộng đoàn những con người cụ thể dĩ nhiên có những khuyết điểm, những bất toàn, tội lỗi. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Ngài không muốn môn đệ Ngài có thái độ sống kỳ thị tách biệt khỏi những người khác, nhất là những người tội lỗi. Trái lại, Chúa Giêsu đã mở ra một viễn tượng mới, Ngài mạc khải thái độ nhân từ thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi, đến nỗi đã bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và vui mừng khi tìm được nó. Chúa Giêsu mời gọi con người ăn năn sám hối trở về với sự thật, với tình thương và với người anh em.
Xin Chúa cho chúng ta sống tinh thần trẻ thơ trước mặt Chúa và trong tương quan với người khác. Xin cho chúng ta sống tin tưởng, yêu thương phục vụ mọi người vì tình yêu Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 2: Những Trẻ Nhỏ Của Tôi.
Lúc ấy các môn đệ đến gần hỏi Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?” Đức Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông mà bảo: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”
Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời. (Mt. 18, 1-4)
Người lớn khó có lòng trông cậy hoàn toàn vào Thiên Chúa, khó sống trong đức tin.
Giầu có nhờ nghèo khó.
Nghèo khó trong mối phúc thật thứ nhất chính là sự giầu có của tuổi thơ ấu. Trẻ nhỏ không phải là thiên thần. Tuy nhiên thiên thần giống như đứa trẻ má phúng phính, chút vẻ ngây ngô, vô tính, như những bức họa mô tả.
Còn trẻ nhỏ có nhiều lầm lỗi, nhưng có nhiều đức tính, cá tính. Nó tin cậy tất cả, yêu tất cả. Nó biết cha nó không gắt gỏng về tính hay thay đổi của nó. Nếu cha nó sửa lỗi nó, thì luôn luôn vì yêu nó. (tôi nghĩ đến những người cha bình thường chứ không phải hạng người cha đao phủ mà báo chí đăng tin gật gân)
Cha chúng ta ở trên trời tha thứ những lời bậy bạ của chúng ta, khi chúng ta sống chắc chắn trong tình yêu của Ngài, tin cậy hoàn toàn vào Ngài.
Một đứa trẻ tưởng mình qua mặt được Thiên Chúa, cho rằng mình không cần Thiên Chúa để được hạnh phúc, thì nó đã tự coi mình trưởng thành, nó đã mất tâm hồn trẻ thơ, cạn kiệt hạnh phúc và niềm vui rồi.
Những đòi hỏi trở nên trẻ nhỏ.
Khi kêu gọi chúng ta trở nên trẻ nhỏ, Chúa nhắc nhở chúng ta rằng Nước Trời không phải là một phần thưởng dễ được, phải thực hiện một đời sống toàn diện. Phải tìm lại vẻ cao đẹp của tuổi thơ, sự chân thật, sự hết mình và tính vui tươi của chúng. Không lo ngày mai, nhưng lúc này là giây phút đời đời. Không dễ dàng trở nên trẻ nhỏ, tìm lại được nhiệt tình hăng hái trước cuộc đời biết ngạc nhiên trước tình yêu đang bộc lộ ra hằng ngày cho chúng ta. Không dễ dàng trở nên trẻ nhỏ và cuộc sống đầy tràn sức sống mỗi ngày. Nếu mọi việc chúng ta làm trong ngày mà đến cuối ngày chúng ta thấy mệt mỏi tinh thần, thì chắc chắn tất cả nhiệt tình chúng ta đổ vào công việc không còn mang được ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của thánh ý Chúa nữa, như vậy cuộc sống của chúng ta đã trở thành thảm kịch bi đát rồi.
J.M
Suy niệm 3: MUỐN LÀM LỚN, PHẢI LÀM GÌ? (Mt 18, 1-5. 10. 12-14)
Xem lại thứ Ba tuần 2 MV, lễ thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su ngày 1/10
và lễ Thiên Thần Bản Mệnh ngày 2/10.
Trong xã hội mọi thời, những chuyện như tranh dành quyền lực luôn diễn ra nhan nhản. Tuy nhiên, sự tiêu cực này không phải không có trong thời Đức Giêsu, vì thế, ta không lạ gì khi thấy các môn đệ lên tiếng hỏi Ngài: “Ai là người lớn nhất trong Nước Trời?”. Hồi hộp, mong mỏi chờ đợi Đức Giêsu lên tiếng! Nhưng khi Ngài lên tiếng thì các ông té ngửa và chưng hửng, bởi vì mưu ý của các ông đã bị lật đổ.
Nhân đây, Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ bài học:
- Điều kiện cần để được vào Nước Trời là: "Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời".
- Điều kiện đủ để là người lớn nhất trong Nước Trời là: "Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời".
Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì nên giống trẻ nhỏ thì: chân thành, không thù oán, không giận giữ, không màng công danh và luôn phó thác mọi sự nơi cha mẹ chúng.
Như vậy, Đức Giêsu muốn các môn đệ của mình phải mặc lấy những tâm tình đó để sẵn sàng hy sinh, tự hạ và chấp nhận mọi sự vì Nước Trời. Trở nên người phục vụ theo gương của chính Ngài là: “Đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cũng mặc lấy tâm tình của trẻ thơ như Đức Giêsu mong muốn. Biết chấp nhận thân phận yếu đuối để cần đến ơn Chúa và biết sống trong sự khiêm tốn, phó thác.
Được như thế, nhân loại này sẽ không còn chiến tranh, hận thù. Các gia đình sẽ ấm êm hạnh phúc vì mọi người biết sống cho nhau và vì nhau.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được yêu mến Chúa tha thiết, luôn sống trong tâm tình phó thác, và sẵn sàng dấn thân phục vụ anh chị em để được hạnh phúc Nước Trời làm gia nghiệp. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 4: Em nhỏ và kẻ bé mọn
Suy niệm :
Làm lớn ở trong nhóm hay trong Giáo Hội,
đó vẫn là mối bận tâm gây tranh cãi giữa các môn đệ Thầy Giêsu.
Sau khi Thầy loan báo lần thứ hai về cuộc Khổ nạn (Mt 17, 22-23),
các môn đệ vẫn bị hút vào câu hỏi ai là người lớn nhất (c. 1).
Như một nhà sư phạm khéo léo, Thầy Giêsu đã gọi một em nhỏ lại,
đặt em đứng giữa các ông, và đưa ra câu trả lời.
Câu trả lời của Thầy chắc đã làm các môn đệ bị sốc.
Trong xã hội Do thái thời Đức Giêsu, trẻ em không có vai vế gì,
cũng chẳng có chút quyền hành hay sự độc lập.
Chúng không phải là biểu tượng cho sự trong trắng, ngây thơ,
cho bằng là biểu tượng cho sự tùy thuộc, lệ thuộc vào người lớn.
Khi đặt một em nhỏ bằng xương bằng thịt giữa các ông,
Thầy Giêsu đã đưa ra câu trả lời rồi.
Đối với Thầy, điều kiện để vào Nước Trời mai sau,
là phải trở nên như trẻ em (c. 3).
Muốn trở nên như trẻ em, cần phải trở lại, nghĩa là quay lại, hoán cải.
Chỉ người lớn nào dám đổi hướng sống, mới có thể trở nên trẻ thơ.
Chỉ ai dám rũ bỏ đam mê về quyền lực và tiếng tăm, về địa vị và chỗ đứng,
người ấy mới có thể vào Nước Trời.
Nước Trời là Nước của trẻ thơ,
và những ai trở nên giống trẻ thơ nhờ hoán cải.
Vậy ai là người lớn nhất trong Nước Trời?
Thầy Giêsu trả lời, đó là người tự hạ, thấp kém như một em nhỏ (c. 4).
Để vào được Nước Trời, để làm người lớn nhất trong Nước đó,
cần trở nên như trẻ thơ, tay trắng, không tự hào, tự mãn về mình,
không cậy dựa vào đạo đức của bản thân, nhưng vào tình thương của Chúa.
Như thế người lớn nhất trong Nước Trời lại là người nhỏ bé, khiêm nhu.
Thầy Giêsu không chỉ giúp môn đệ hiểu xem ai là người lớn nhất thực sự,
Ngài còn dạy họ biết quý giá trị của từng con người trong cộng đoàn.
Cộng đoàn tín hữu nào cũng có những môn đệ yếu kém mặt này, mặt khác.
Ở đây họ được gọi là những kẻ bé mọn.
Thầy Giêsu nhấn mạnh đến phẩm giá của những kẻ bé mọn này.
Không ai được phép khinh rẻ một người nào trong nhóm họ.
Họ được bảo trợ bởi các thiên thần riêng,
và các thiên thần của họ vẫn chiêm ngưỡng nhan Cha ở trên trời (c. 10).
Có những môn đệ bé mọn bị sa ngã, lạc lối.
Thái độ của người lãnh đạo là để lại chín mươi chín con chiên
để đi tìm một con chiên lạc.
Cả con chiên lạc cũng vẫn có giá trị khiến ta phải tốn công sức để tìm về.
“Thiên Chúa không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”
Chính vì thế từng con chiên lạc đều đáng chúng ta trân trọng.
Khi nhìn trẻ nhỏ và kẻ bé mọn trong cộng đoàn bằng cặp mắt của Chúa,
chúng ta sẽ biết cư xử tử tế và kính trọng họ hơn.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
13/08 Chúa Giêsu, mẫu gương vâng phục
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chúa Giêsu, mẫu gương vâng phục.
Thứ hai tuần 19 thường niên.
"Họ sẽ giết Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế".
Lời Chúa: Mt 17, 21-26
Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu còn đang ở Galilêa, thì Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết người, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Các môn đệ rất đỗi buồn phiền.
Khi các ngài đến Capharnaum, thì những người thu thế đền thờ đến gặp Phêrô và hỏi rằng: "Thầy các ông không nộp thuế "đền thờ' sao?" Ông nói: "Có chớ".
Khi ông về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi đón trước rằng: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian thu thuế má hạng người nào? Đòi con cái mình hay người ngoài?" Ông thưa rằng: "Đòi người ngoài". Chúa Giêsu bảo ông rằng: "Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để chúng ta không làm cho họ vấp phạm, con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Nộp Thuế Cho Ðền Thờ
Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Ðền thờ nữa: ngoại trừ đàn bà, các thiếu niên và các nô lệ, tất cả những ai từ 20 tuổi trở lên đều phải nộp thuế để bảo trì và tu sửa Ðền thờ Giêrusalem.
Câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay xẩy ra vào khoảng tháng 10, năm thứ hai cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, tức là ít lâu sau biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Thabor. Chúa Giêsu và các môn đệ trở lại Capharnaum, và ở đó, những người thu thuế đến yêu cầu Phêrô nộp thuế. Dĩ nhiên là Phêrô sẵn sàng nộp thuế.
Khi Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian lấy thuế của ai? Con cái mình hay người ngoài? Phêrô đáp: "Thưa, người ngoài. Chúa Giêsu liền bảo thế thì con cái được miễn". Ðây cũng là một mạc khải, bởi vì qua câu: "Thế thì con cái được miễn", Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế; nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Ðền thờ như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất quĩ mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài đã làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài.
Nếu ngày xưa, người Do thái có bổn phận nộp thuế cho Ðền thờ để lo việc phụng sự Nhà Chúa, thì ngày nay trong Giáo Hội cũng có những cách đóng góp hay dâng cúng, đó cũng là một việc thờ phượng và là một sự chia sẻ cho những anh chị em nghèo khó. Chúng ta hãy nhận ra nét đặc biệt trong nhân cách của Chúa, khi hòa nhập vào nếp sống cụ thể của những người đồng thời với Ngài. Mầu nhiệm nhập thể đòi buộc Chúa phải chia sẻ trọn vẹn đời sống con người. Ước gì chúng ta cũng biết noi gương Chúa, chấp nhận như hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi để trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 2: Quy Luật Của Cuộc Sống (Mt 17,22-27)
Bác sĩ Ý Antinori đã tạo ra một chấn động mạnh trong lương tâm nhân loại khi ông tuyên bố việc tạo sinh con người theo phương pháp vô tính. Phương pháp tạo sinh vô tính đã được áp dụng thành công vào việc sản sinh ra con cừu có tên là Doli tại Anh Quốc cách đây vài năm và đã được áp dụng vào những loài vật khác nhau từ chuột đến bò, heo. Vấn đề cần đặt ra không phải là chuyện phương pháp kỹ thuật tạo sinh vô tính có hoàn hảo không. Tất nhiên, đem thí nghiệm tạo ra một con người mà không biết chắc sẽ sinh ra một con người bình thường hay một quái thai, quả là một hành động liều lĩnh, vô trách nhiệm. Nhưng ngay cả khi phương pháp tạo sinh vô tính đã được nghiên cứu tới mức hoàn hảo đi nữa thì câu hỏi vẫn là con người có quyền sản sinh vô tính con người không? Không riêng gì những con người có niềm tin tôn giáo mà ngay cả với những ai không thuộc tôn giáo nào đi nữa, đã là con người có lương tri, người ta không thể trốn tránh một câu hỏi như thế.
Tựu trung, đạo đức vẫn luôn luôn là chiều kích bao trùm toàn bộ mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Trong bất cứ sinh hoạt nào, con người cũng luôn luôn phải tự hỏi: Tôi có được phép làm điều này không? Tôi phải cư xử như thế nào cho xứng với phẩm giá con người? Ðã làm người là phải chấp nhận những giới hạn. Không ai được hỏi ý kiến khi sinh ra. Không ai chọn lựa cha mẹ, quê hương để sinh ra. Con người đến trong cõi đời không do chọn lựa của mình. Ðiều ấy cho thấy tính giới hạn là tất yếu đối với con người. Cái chết lại càng là một khẳng định về những giới hạn ấy, mà đã có giới hạn, cho nên con người không thể sống mà không tuân theo những qui luật của cuộc sống. Bên cạnh những qui luật của thiên nhiên, quan trọng hơn cả là những qui luật đạo đức. Chỉ khi nào tuân hành những qui luật đạo đức ấy, con người mới có thể triển nở trong nhân cách và thành toàn.
Là người tín hữu Kitô chúng ta được mời gọi để suy nghĩ về thân phận con người dưới ánh sáng mầu nhiệm nhập thể. Chỉ trong Ngôi Lời nhập thể làm người, chân lý về con người mới được sáng tỏ. Chúng ta biết về mình và chúng ta biết phải sống như thế nào cho ra người khi nhìn vào con người và cuộc sống của Chúa Giêsu. Trong thư gởi cho giáo đoàn Philipphê, thánh Phaolô đã tuyên xưng mầu nhiệm nhập thể như sau: "Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì sự ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự".
Quả thật, Chúa Giêsu là mẫu gương của vâng phục. Suốt ba mươi năm ẩn dật tại Nazareth, Ngài đã vâng phục cha mẹ, tuân thủ các Lề Luật của Môsê. Tin Mừng hôm nay ghi lại việc Ngài đóng thuế cho đền thờ, đây là một điển hình của rất nhiều cử chỉ vâng phục mà Chúa Giêsu đã thể hiện trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài.
Vâng phục là nói lên tính cách bất toàn và giới hạn của thân phận con người. Ðã làm người, Chúa Giêsu đã không đi ra ngoài những qui luật ấy của thân phận con người, nhưng chính vì vâng phục mà Ngài đã chọn kiếp sống con người. Ngài là một mẫu người hoàn hảo. Hoàn hảo không phải vì không có giới hạn trong kiếp người mà chính là vì đã vâng phục. Thánh Phaolô đã khẳng định rằng: "Chính vì Ngài đã vâng phục mà Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban cho Ngài danh hiệu, vượt lên trên muôn ngàn danh hiệu".
Vâng phục để được suy tôn, tự hạ để được nâng lên. Sống những giới hạn của kiếp người với tinh thần trách nhiệm để được là người hơn. Ðó là qui luật của cuộc sống mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 3: Tình yêu của con người? … của Thiên Chúa.
Khi thầy trò tụ họp ở miền Galilê, Đức Giêsu nói với các ông: “Con người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy.” Các môn đệ buồn phiền lắm. (Mt. 17, 22-23)
Lần thứ nhất Đức Giêsu loan báo Người sẽ phải chịu chết, Phê-rô, nhân danh mình và các bạn tông đồ ra mặt phản đối. Tại sao? Thưa, Người đã không làm điều gì dữ. Người phải xa lánh Giê-ru-sa-lem vì thảm họa sẽ xảy ra ở đó. Chớ gì người ta chẳng cho phép bảo vệ Người. Những kẻ muốn mưu hại tính mạng thường đến đó. Thầy không muốn nghe về những chuyện đó. Phê-rô và các tông đồ nhớ rõ Thầy đã khiển trách các ông như thế rồi. Không có chuyện tái can Thầy nữa. “Các ông buồn!” Người ta nổi khùng khi đứng trước một người thân yêu lâm bệnh nguy tử, đành khoanh tay ngồi nhìn trước cảnh tượng vô phương đó, chúng ta cũng buồn. Người thân yêu của chúng ta sắp ra đi. Còn yêu gì được nữa.
Trống rỗng và nặng nề.
Con tim trống rỗng làm chúng ta cảm thấy bị đè nặng.
Các tông đồ buồn sầu. Còn nói gì được nữa? các ông biết chắc sẽ xẩy ra như thế vì Chúa đã nói rồi. Làm sao không tin được? Mọi sự Người đã nói, đã loan báo, thì đã thực hiện. Những công việc của Thiên Chúa mà Thầy hoàn tất chứng tỏ Thầy biết rõ ý định của Chúa Cha.
Phép lạ!
Nhân dịp kẻ thu thuế đòi đóng thuế, Đức Giêsu làm một phép lạ rất giản dị và dịu êm.
Thấy một con cá nuốt một vật, chẳng phải lạ, dù là một đồng tiền hay vật khác. Nhưng lạ lùng là chính Phê-rô đã bắt được con cá này để lấy đồng tiền ra nộp thuế đền thờ.
Đức Giêsu cho biết: Con không phải nộp thuế cho Cha. Cuộc thương khó và cái chết của Thầy nói cho biết Thầy là Con Chúa Cha. Để chứng tỏ Con luôn luôn vâng lời hết mọi sự.
J.M
Suy niệm 4: CON ĐƯỜNG CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊSU (Mt 17, 21-26)
Trong cuộc sống, có lẽ không ai muốn mình phải nghe, hay đụng chạm đến những tin không vui. Vì thế, với não trạng của con người, chúng ta thường thích nghe tin mừng, tin thành công và tin chiến thắng.
Tuy nhiên, hôm nay, bài Tin Mừng lại tường thuật việc Đức Giêsu loan báo một tin buồn và nghịch lý với lối hiểu của con người, Ngài nói: "Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy".
Khi nghe thấy tin đó, các môn đệ buồn phiền và thất vọng. Với các ông và cả những người Dothái cùng thời, Đức Giêsu phải là người mang lại tự do, thoát khỏi cảnh áp bức, bóc lột của đế quốc, Ngài phải là người đánh đông dẹp bắc và thống lãnh bằng quyền lực... Tuy nhiên, điều này hoàn toàn ngược lại với sứ vụ của Đức Giêsu, vì thế Ngài đã không làm. Con đường cứu độ và giải thoát của Ngài là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, mà ý Chúa Cha là muốn Đức Giêsu phải chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Vì thế, Ngài đã vâng lời đến cùng để thánh ý của Cha được nên trọn.
Nhưng vì biết các môn đệ luôn mang trong mình tâm tưởng phàm tục, nên Đức Giêsu đã loan báo trước cuộc khổ nạn, để các ông dần dần hiểu ra sứ vụ và tiếp tục tiến bước trên con đường mà chính Ngài đã đi.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng lòng lên trời để tìm vinh danh Chúa và ích lợi cho phần rỗi của mình. Đồng thời, sẵn sàng khước từ những điều không phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Mặt khác, cần phải xác định thật rõ con đường chân phúc để được hưởng niềm vui, hạnh phúc và bình an trong Nước Trời, con đường đó là: “Phải qua đau khổ rồi mới đến vinh quang". Tinh thần này cũng được Đức Cố Hồng Y Fx. Thuận nói đến trong sách Đường Hy Vọng, Ngài nói: “Tránh gian khổ con đừng trông làm thánh”(x. ĐHV., số 702) , thánh mà không vượt qua đau khổ là thánh giả, vì khi: “Phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện hình quỷ” (ÐHV., số 44).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khám phá ra ý nghĩa của sự đau khổ và luôn biết kết hợp với ơn Chúa, sẵn sàng đón nhận tất cả vì Chúa và vì Nước Trời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 5: Để khỏi làm cớ sa ngã
Suy niệm:
Đọc bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta không khỏi mỉm cười,
khi nghĩ đến việc anh Phêrô đi ra hồ Galilê để thả câu bắt cá,
một chuyện bắt cá rất bất thường, vì một mục đích cũng bất thường.
Thầy Giêsu dặn anh hãy túm lấy con cá đầu tiên câu được,
bắt lấy, mở miệng nó ra, thấy ngay một đồng tiền trị giá bốn quan,
vừa vặn để nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò.
Đây là thứ thuế mà hàng năm, theo sách Xuất hành (30, 14)
những người đàn ông Do Thái trên hai mươi tuổi phải nộp
để lo việc tu bổ Đền Thờ và việc tế tự trong đó.
Ta không thấy kể chuyện anh Phêrô đã vâng lời Thầy ra sao,
và phép lạ đã xẩy ra như thế nào.
Chỉ biết chẳng khi nào trong Tân Ước
Thầy Giêsu lại có ý làm một phép lạ vì lợi ích cho mình như vậy.
Nhưng chuyện bắt cá để lấy tiền nộp thuế
lại không phải là chuyện quan trọng của đoạn Tin Mừng này.
Điểm chính yếu nằm ở những câu nói của Thầy Giêsu.
Ai cũng biết con cái của vua chúa trần gian thì được miễn thuế,
vì các vua chỉ đánh thuế người ngoài thôi (c. 26).
Đức Giêsu chính là Người Con tuyệt hảo của Vị Vua thiên quốc.
Và những Kitô hữu cũng là con cái của Đức Vua tối cao.
Họ là những người đã mở lòng đón nhận Nước Trời (Mt 13, 38),
và đã gọi Thiên Chúa là Cha trên trời của chúng con (Mt 6, 9).
Như thế Thầy Giêsu và các môn đệ của mình đều được miễn thuế.
Thầy trò không phải nộp thuế Đền Thờ như những người Do Thái khác.
Tuy Thầy trò có quyền không nộp thuế,
nhưng Thầy Giêsu lại không muốn làm cớ cho người khác vấp phạm.
Khi về đến nhà của anh Phêrô ở Caphácnaum,
Thầy Giêsu bày tỏ ý muốn nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò.
Thầy chấp nhận giữ luật mà các người đàn ông Do Thái đều giữ.
Thầy biết mình có tự do,
nhưng Thầy cũng dám hy sinh tự do ấy vì lợi ích cho người khác.
Thánh Phaolô cũng sẽ nói về nguyên tắc này khi bàn về việc ăn đồ cúng.
“Đành rằng mọi thức ăn đều thanh sạch,
nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã, thì là điều xấu” (Rm 14, 20).
Chúng ta cần lưu tâm đến những người “yếu” trong cộng đoàn.
Chính tình yêu đối với họ khiến tôi cân nhắc điều mình được phép làm.
Tự giới hạn tự do của mình là một cách để biểu lộ tình yêu.
Thế giới hôm nay ca ngợi tự do, nên cũng đầy cớ gây vấp phạm.
Bao sa ngã của giới trẻ là do sự phóng túng của người lớn.
Con người hôm nay quá gần nhau bởi các phương tiện truyền thông,
nên ảnh hưởng xấu lan đi vừa nhanh lại vừa rộng.
Nếu chúng ta tự ý làm hay tránh làm một điều gì đó
chỉ vì tôn trọng lương tâm mong manh của người khác,
thì Thiên Chúa cũng sẽ giúp ta bằng những phép lạ thật ngỡ ngàng.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh.
Amen. (dịch theo Learning Christ)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
12/08 Bánh Hằng Sống từ trời xuống
- Viết bởi Ga 6, 41-51
Bánh Hằng Sống từ trời xuống.
Chúa Nhật tuần 19 Thường Niên năm B.
"Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống".
Lời Chúa: Ga 6, 41-51
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, những người Do-thái kêu trách Chúa Giêsu, vì Người đã phán rằng: "Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống". Họ nói: "Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: 'Ta bởi trời mà xuống'". Chúa Giêsu trả lời cùng họ rằng: "Các ngươi chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Trong sách các tiên tri có chép rằng: 'Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo'. Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng ấy đã thấy Cha. Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. "Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Đây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: 1V. 19, 4-8; Ep. 4, 30-5,2; Ga. 6, 41-51
1. Thánh Thể
Ta là bánh từ trời xuống ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Đức Kitô là bánh bởi trời, nhưng không phải đã rớt xuống như manna trong sa mạc. Trái lại cũng như tấm bánh được hình thành qua nhiều giai đoạn. Trước hết phải có hạt giống, phải có người gieo trồng, phải có người làm cỏ và bón phân. Rồi phải có mưa có nắng, phải có người gặt, phải có người xay bột và sau cùng phải có người làm bánh và khi ăn chúng ta phải bẻ, phải cắt ra từng miếng.
Đức Kitô tấm bánh chúng ta bẻ ra hôm nay trong bàn tiệc Thánh Thể cũng đã phải trải qua nhiều giai đoạn hình thành như thế. Có thể nói ngài là hạt lúa miến tinh tuyền đã được gieo cấy trong trần gian. Ngài đã lớn lên dưới ánh nắng mặt trời của xứ Nadarét, đã vươn lên trên nhân loại tội lỗi này, tựa như cây lúa vươn lên giữa khoảng bùn lầy. Rồi Ngài đã bị gặt hái, nghĩa là bị bắt, bị đánh đập, bị nghiền nát. Cuối cùng Ngài bị nướng trong lò nghĩa là đóng đinh, bị bẻ ra nghĩa là bị đâm thấu tận trái tim. Do đó trong tấm bánh bẻ ra hôm nay chúng ta phải thấy được Đức Kitô chịu chết như lời thánh Phaolô: Mỗi lần ăn và uống chén này là anh em loan truyền việc Chúa chịu chết. Đức Kitô không thể trở thành bánh nuôi chúng ta nếu Ngài không chấp nhận cái chết trên thập giá bởi vì Ngài có chết thì mới làm cho chúng ta được sống.
Đồng thời như chúng ta thường thấy: Bữa cơm quy tụ mọi người trong gia đình thế nào thì bàn tiệc Thánh Thể cũng quy tụ những người con cái Chúa như vậy. Ngay từ những ngày đầu tiên Giáo Hội đã ý thức rằng Thánh Thể là bí tích, là dấu chỉ sự sự hiệp nhất: Chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể. Bởi đó nếu chúng ta đến nhà thờ mà không có sự chia sẻ hiệp thông thì bàn tiệc Thánh Thể chẳng còn ý nghĩa gì mấy. Chúng ta rước lấy Chúa vào lòng cũng giống như kẻ ngồi vào bàn ăn, nếu chỉ biết có mình với chén cơm, thì bữa ăn cũng chẳng còn ý nghĩa sâu xa tốt đẹp.
Do đó, phải luôn ý thức rằng Thánh Thể là dấu chỉ của sự hiệp nhất và chúng ta chỉ thực sự có quyền đón nhận Thánh Thể khi yêu thương hiệp nhất với anh em. Đưa tay đón nhận Thánh Thể Chúa cũng chính là mở rộng bày tay đón nhận tất cả mọi anh em là chỉ thể của Ngài. Mở rộng lòng đón rước Chúa là mở rộng trái tim đón nhận mọi anh em. Chúng ta đã thực sự sống tình bác ái yêu thương và hiệp nhất mà bí tích Thánh Thể đòi hỏi hay chưa?
2. Trường sinh
Tần Thuỷ Hoàng là người đã xây Vạn Lý Trường Thành, dài hơn 2000 dặm. Đây là một kiến trúc duy nhất mà các phi hành gia có thể nhận ra từ phía ngoài không gian. Ông rất sợ chết. Ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông. Dân cư ở đó đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Thế là ông bèn phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu, lên đường tiến tới hòn đảo ấy với hy vọng có thể dùng những báu vật để trao đổi lấy bí quyết trường sinh. Tuy nhiên dân cư ở đây lại nhất định không chịu đổi.
Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, con người đã từng ước mơ được sống mãi và chẳng bao giờ phải chết. Nào là những viên thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, nào là những trái đào bất tử. Ngày nay, ngành y dược đã biến bộ, người ta tìm thấy những phương thuốc để kéo dài tuổi thọ. Nhưng rồi cuối cùng con người vẫn cứ phải chết.
Vì thế, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu bắt đầu nói về cuộc sống vĩnh cửu, thì dân chúng bèn kéo đến để nghe. Dân Do Thái vốn tin rằng có một thế giới của người chết, nhưng họ chẳng có khái niệm gì về thế giới ấy. Bởi đó họ sẵn sàng đón nhận bất cứ tia sáng nào dọi soi vào mầu nhiệm này.
Thế nhưng, họ đã lắc đầu khi nghe Chúa Giêsu xác quyết: Ta là bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban cho chính là thịt Ta. Dân chúng bắt đầu lẩm bẩm: Người này chẳng phải là anh chàng Giêsu, con trai ông Giuse đó sao? Thế mà anh ta lại dám mạo nhận là bánh từ trời xuống.
Còn chúng ta thì sao? Cũng chính vì chấp nhận mầu nhiệm này mà chúng ta đã tụ tập với nhau để nghe Chúa nói về cuộc sống vĩnh cửu, cũng như để được nuôi dưỡng bằng Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, bánh ban sự sống. Cái bí quyết được trường sinh, cái viên thuốc bất tử hiện đang ở giữa chúng ta... ngay trong ngôi thánh đường này. Đó là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, nguồn mạch trường sinh.
Ngài ở với chúng ta bằng thần trí như Ngài đã nói: Bất cứ ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ.
Ngài còn ở với chúng ta bằng lời của Ngài. Điều Ngài đã nói cách đây 2000 năm với dân chúng cũng là điều Ngài vừa nói với chúng ta quan đoạn Tin Mừng vừa nghe.
Cuối cùng Chúa Giêsu hiện diện với chta trong bí tích ban sự sống như lời Ngài đã xác quyết: Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Đứng trước mầu nhiệm tuyệt vời ấy chúng ta hãy bắt chước các môn đệ mà kêu cầu Chúa: Lạy Chúa, xin gia tăng niềm tin nhỏ bé của chúng con.
3. Bánh Hằng Sống.
Cách đây không lâu, dân chúng tại thủ đô Paris đã bàn tán xôn xao vì một mẩu tin khủng khiếp: Một sinh viên gốc Nhật, đã giết một cô gái, chặt ra từng khúc, rồi bỏ vào tủ lạnh định ăn dần cho đến hết. Khi bị bắt, anh ta đã khai như sau: Cô gái ấy là người yêu của tôi. Tôi yêu cô đến độ muốn biến cô ấy thành máu thịt của tôi, cho nên đã giết đi và ăn thịt cô ấy. Chỉ tiếc rằng mới ăn được có vài ngày thì đã bị phát giác.
Mẩu chuyện trên khiến cho chúng ta cảm thông được thái độ của người Do Thái khi nghe Chúa Giêsu xác quyết: Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì sẽ được sống đời đời. Vấn đề không gây ra một ngộ nhận nào, Ngài đã lặp đi lặp lại lời xác quyết ấy.
Cô gái nói trên hẳn không bao giờ có được cái ý tưởng điên khùng là trở nên của ăn cho người mình yêu, hầu hai người trở nên một. Thế nhưng cái sáng kiến điên khùng ấy đã được Thiên Chúa thực hiện qua Đức Kitô. Ngài đã để cho mình bị giết và trở nên lương thực cho những người mình yêu quý. Trước một cái gì quá sức tưởng tượng, con người bỗng trở nên dửng dưng vì vậy hiện nay có biết bao nhiêu người chịu Mình Thánh Chúa mà không hề cảm thấy được hiệp nhất trong tình yêu. Máu thịt Đức Kitô không chỉ là Mình Thánh trong bí tích Thánh Thể, mà còn là lời Chúa bởi vì “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta”. Ngày hôm nay Chúa phán: Ai ăn bánh này thì sẽ được sống muôn đời. Đây không phải là một lời hứa nhưng là một lời xác quyết, một lời khẳng định.
Thế nhưng, rất nhiều người đã từng nghe lời Chúa, đã từng rước lễ mà sao đời sống nội tâm vẫn cứ èo uột. Có thể vì họ không gắn bó với Chúa. Có thể họ chưa bao giờ đọc Lời Chúa với tâm trạng của một người yêu đọc bức thư tình. Có thể họ chưa đủ tin như người Do Thái ngày xưa.
Phúc Âm cho chúng ta thấy: Người đàn bà mắc chứng bệnh băng huyết, đã chạm đến gấu áo Ngài với niềm tin mãnh liệt và rồi bà đã được chữa khỏi, bởi vì sức mạnh từ Ngài được chuyển thông cho bà.
Với chúng ta cũng vậy, đến với Thánh Thể mà thiếu đi niềm tin yêu, thì e rằng miếng bánh ấy không bổ dưỡng bằng thức ăn vật chất. Đến với Thánh Thể mà thiếu đi niềm tin yêu, thì sợ rằng nó không hấp dẫn và hữu hiệu bằng một đoạn sách tầm thường. Ngôi Lời đã làm người. Và con người ấy đã trở nên lương thực nuôi sống tâm hồn chúng ta.
Nếu ngày hôm nay, bản thân chúng ta chưa tìm được sự bình an, và cuộc đời chúng ta vẫn còn nặng nề và mệt nhọc. Nếu cõi lòng chúng ta vẫn dửng dưng trước tiếng gọi của anh em, thì lỗi chắc chắn không phải là do Chúa. Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Phải chăng tôi quá ốm yếu để không dùng nổi thứ lương thực trường sinh này?
4. Bánh bởi trời – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Thân xác con người cần được nuôi sống bằng những thực phẩm thông thường như bánh, cơm, thịt, cá...
Tuy nhiên, có những thứ khác tuy không là thực phẩm như cơm bánh nhưng cũng cần cho sự phát triển trí tuệ con người nên cũng được xem là lương thực - thường được gọi là lương thực tinh thần- như sách, báo và nhiều loại văn hoá phẩm khác.
Lại còn có những thứ "bánh" khác cao cấp hơn, tuy không phải là thực phẩm thông thường như cơm cháo, không phải là lương thực tinh thần như sách báo, nhưng rất cần cho con người được sống và tăng trưởng. Điển hình cho thứ "bánh" nầy là... người mẹ!
Nhà thơ Kiên Giang viết về người mẹ như một thứ 'cơm bánh' tối cần giúp ông lớn lên thành người:
"Ngày xửa ngày xưa thời trẻ dại
Con đau rên siết mẹ sầu lo.
Bán đôi bông cưới mua thang thuốc
Mua bánh tai heo giấy học trò.
Đêm nao con khóc đòi ru ngủ
Mẹ thức mõi mòn nhịp võng đưa,
Thân lạnh nằm khoanh lòng mẹ ấm
Mẹ ơi! Con lớn giữa niềm ru..." (Trích: Khói trắng của Kiên Giang)
Mẹ là "bánh" cho con, một thứ bánh rất cần thiết cho con được sống còn; vì nhờ dạ mẹ mà con được tượng hình và được sinh ra; nhờ dòng sữa mẹ mà con tăng trưởng từng ngày; nhờ lời mẹ ru mà con được yên giấc; nhờ sự ấp yêu vỗ về của mẹ mà con được hạnh phúc; nhờ mẹ lo liệu thuốc men mà con thoát khỏi những cơn bệnh ngặt nghèo; nhờ mẹ kiên trì dạy dỗ mà con được khôn ngoan; nhờ mẹ thương yêu mà con được trở thành người nhân ái...
Mẹ là thứ "bánh" tuyệt vời mà đời con không thể thiếu. Mẹ là lương thực quý báu giúp con lớn thành người.
Tuy nhiên, dù được xem là tấm "bánh" rất cần thiết nuôi con lớn thành người, nhưng người mẹ cũng chỉ là "bánh" thuộc trần gian nên không thể đem lại sự sống lâu dài cho con cái. Vì thế, nhân loại cần có một thứ "bánh" cao cấp hơn có thể mang lại cho họ sự sống đời đời. Đó chính là Chúa Giêsu, Người là "Bánh trường sinh, là Bánh hằng sống từ trời xuống" như lời Người phán:
"Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh nầy là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh nầy, sẽ được sống muôn đời" (Ga 6, 48-51).
Nhờ "Tấm Bánh Giêsu" từ trời xuống mà một nhân loại mới được khai sinh, muôn người được cứu độ; con người được nhận ra nhau là anh em con cùng một Cha trên trời.
Nhờ "Tấm Bánh Giêsu" và luật yêu thương của Người mà nhân loại dần dần xóa bỏ những cuộc chiến huynh đệ tương tàn, biết quên mình phục vụ tha nhân và yêu thương người khác như chính bản thân.
Nhờ "Tấm Bánh Giêsu" được bẻ ra và trao ban mà các tín hữu được nên đồng huyết nhục với Chúa và nhận được sự sống đời đời do Người ban tặng.
Chúa Giêsu chính là "Bánh" từ trời xuống đem đến cho nhân loại cuộc sống hạnh phúc trên dương thế và cuộc sống vĩnh hằng trên thiên quốc.
Khi tự giới thiệu mình là "Bánh" cho trần gian, Chúa Giêsu tỏ cho thấy Người là Đấng tuyệt đối cần thiết cho sự sống và hạnh phúc của loài người, không có Người, nhân loại không thể tồn tại và có được bộ mặt nhân ái như hôm nay.
Muốn hấp thụ cơm bánh hằng ngày, người ta cho nó vào miệng rồi nhai và nuốt; còn muốn hấp thụ "Bánh bởi trời", người ta phải đón nhận và tin vào Chúa Giêsu.
"Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ." (Ga 6, 35)
"Tôi bảo các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh." (Ga 6, 48)
Tin vào Chúa Giêsu có nghĩa là đón nhận giáo lý của Người, noi gương bắt chước Người và sống như Người đã sống.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con đã không tiếc thời gian và công sức để kiếm cơm bánh nuôi sống thân xác mau hư nát nầy thì xin cho chúng con cũng đừng tiếc đầu tư thời gian và năng lực để đến với Chúa là "lương thực" thường tồn mang lại sự sống đời đời cho linh hồn chúng con. Amen.
5. Ta là bánh ban sự sống"
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Mỗi ngày Việt nam đang phải đối đầu với bao cái ác hoành hành. Những cái chết của phi nhân bất nghĩa, của tình người băng giá, của đạo đức suy đồi, của tham lam bất chính. Đây phải là lúc chúng ta nhìn lại nhân sinh quan cuộc sống, tại sao giữa nền văn minh nhân loại lại đổ vỡ tình người, lại tan nát tất cả những luân thường đạo lý mà bốn ngàn năm văn hiến của cha ông đã gầy dựng? Chúng ta thử nhìn lại thống kê của trang điện tử www.tin247.com/ mỗi ngày Việt Nam có:
Phá thai hơn 500.000 ca phá thai một năm, trung bình mỗi ngày có hơn 1.300 thai nhi bị giết hại.
Mỗi tháng có gần 1.100 người chết vì tai nạn giao thông, trung bình mỗi ngày hơn 35 người chết vì tai nạn giao thông.
Trung bình mỗi ngày lại có thêm 50 - 100 người nhiễm AIDS.
Mỗi một ngày tứ Bắc chí Nam có hàng ngàn cô gái đem thân xác đổi lấy những đồng tiền dơ bẩn.
Mỗi ngày những vụ án hình sự lại nhiều trò man rợ kinh hoàng hơn.
Đạo lý làm người nay ở đâu? Con người có còn là “nhân chi sơ tính bản thiện” hay đã bị thoái hóa mất tính người? Con người biết thiện và ác, có khả năng tự chủ bản thân hơn loài vật, sao lại dễ dàng làm điều xấu, điều hại người hơn là làm điều tốt, điều cứu sống anh em?
Là người ky-tô hữu, ai trong chúng ta cũng tự hào vì mình là hình ảnh Thiên Chúa. Ai trong chúng ta cũng tự hào mình vượt lên trên muôn loài muôn vật vì “nhân linh ư vạn vật”. Ai trong chúng ta cũng hiểu rằng con người có tương giao với Thiên Chúa, với thần linh. Con người đến từ Thiên Chúa. Con người thuộc về Thiên Chúa, vì con người bởi Thiên Chúa mà ra. Nhưng liệu rằng, khi nhìn vào cuộc sống của chúng ta người ta có nhận ra chúng ta là con cái Thiên Chúa hay người ta sẽ ngán ngẩm bảo rằng: cuộc sống của anh, suy nghĩ độc ác, ích kỷ, những ước muốn tầm thường, những lời nói giết người không dao của anh làm tan nát tâm hồn bao người, …tất cả chúng tôi nào có lạ gì, sao anh bảo anh đến từ Thiên Chúa tình thương và nhân lành? “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết các con là môn đệ Thầy: là các con yêu thương nhau”. Liệu rằng dấu hiệu ấy có được tỏ hiện qua lời nói việc làm của chúng ta hay không?
Cuộc đời dương thế của Chúa Giêsu đã chứng minh Ngài từ Thiên Chúa mà đến. Ngài đến để giới thiệu một Thiên Chúa yêu thương. Ngài đi gieo vãi yêu thương. Ngài đi nối kết tình người. Ngài đi xoa dịu đau thương. Ngài sống một cuộc đời thanh thoát không lệ thuộc của cải danh vọng trần gian. Ngài không bẻ gãy cây lau bị dập. Ngài không kết án ai. Ngài luôn bao dung tha thứ. Ngài đã từng tha thứ cho cả kẻ gây nên nhục hình cho Ngài. Đỉnh cao của dấu hiệu yêu thương ấy là chết cho người mình thương.
Cuộc đời Ngài ví tựa tấm bánh bẻ ra cho muôn người. Tấm bánh mang lại hạnh phúc cho nhiều người. Tấm bánh làm vui lòng trẻ thơ cũng như người già. Tấm bánh hòa tan cho muôn người. Kẻ thấp hèn cũng như người giầu sang. Tấm bánh thêm sức mạnh cho mọi người. Kẻ no đầy cũng như người khát. Tấm bánh nối kết tình mọi người. Vì “bánh ngọt bẻ đôi” sẽ là nhịp cầu thân ái cho người với người gần nhau hơn. Tấm bánh đời Ngài ban cho thế gian để cho thế gian được sống và sống dồi dào. “Và ai ăn bánh này sẽ không phải chết bao giờ”. Đó là tấm bánh phục sinh. Bánh cải từ hoàn sinh. Bánh trao ban sự sống đời này và cả đời sau.
Phải chăng Ngài cũng mời gọi chúng ta đón nhận tấm bánh đời Ngài để sức sống, ân sủng, tình thương của Ngài thẩm thấu trong cuộc đời chúng ta, để chính chúng ta cũng trở thành tấm bánh trao ban bình an và hạnh phúc cho tha nhân?
Phải chăng Ngài cũng đang mời gọi chúng ta, không chỉ nhận ra mình mang nguồn gốc từ trời, mà phải sống và hành động như con cái của Chúa. Sống hoàn thiện mình mỗi ngày như cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Mỗi ngày chúng ta phải thanh tẩy mình khỏi mọi điều gian ác, khỏi những ước muốn tầm thường và mặc lấy tâm tình từ bi nhân hậu như Đức Ky-tô để dung nhan Thiên Chúa được tỏ hiện trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Ước gì trong mỗi lời nói hành động đầy yêu thương bác ái của chúng ta mà các anh chị em chung quanh sẽ ngợi ca Cha chúng ta là Đấng ngự trên trời. Ứơc gì khi chúng ta nhận ra tình thương của Chúa dành cho mình, thì mỗi người hãy biết sống tâm tình tạ ơn Chúa, đồng thời biết noi gương Chúa sống yêu thương anh em đồng loại của mình.
Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể là tấm bánh bẻ ra cho muôn người nâng đỡ và giúp chúng ta biết sống cao thượng, sống đúng với phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa. Amen.
6. Bánh từ trời – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.
Cơm bánh giúp con người có sức khỏe thể xác, giúp con người sống và phát triển. Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời. Ngài là sức sống cho con người. Ngài giúp con người triển nở toàn diện vươn tới tầm mức Thiên Chúa muốn.
I. Thiên Chúa ban lương thực vật chất và tinh thần
Hoàng hậu Ideven đã sai sứ giả nói với tiên tri Elia rằng bà sẽ lấy mạng của Elia vào cùng giờ ngày hôm sau, giờ Elia đã hô hào dân chúng tru diệt các tiên tri thờ thần Baan. Elia đã bỏ xứ để trốn lên “núi Chúa”. Mệt lả vì đường dài và đói khát, Elia muốn chết và xin Chúa cất mình về, vì “con cũng không hơn gì cha ông con”. Thiên Chúa đã cho thiên thần mang lương thực nuôi tiên tri, để tiên tri có sức khỏe thể xác và tinh thần, hầu tiếp tục lên đường tới núi Khôrếp.
Con người không chỉ có nhu cầu thể lý nhưng còn có nhu cầu thiêng liêng. Con người cần lương thực vật chất nuôi sống thể xác, và cũng cần lương thực thiêng liêng cho tinh thần con người, làm con người thấy ý nghĩa cuộc đời. Thiên Chúa cung cấp lương thực vật chất nuôi sống con người, và Ngài cũng cung cấp thức ăn thiêng liêng cho con người.
Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc con người. Ngài là Cha của tất cả mọi loài, của vạn sự vạn vật. Thiên Chúa hiện diện với Elia khi ông kêu cầu Người, khi Ngài cho lửa thiêu đốt lễ vật trên tế đàn. Thiên Chúa săn sóc Elia cho ông thức ăn nước uống, cho ông có sức và nghị lực đi đến “núi Chúa”. Thiên Chúa cũng tỏ mình cho ông một cách đặc biệt khi ông ở trên núi thánh của Ngài: Ngài không ở trong cơn động đất, không ở trong gió bão nhưng ở trong gió hiu hiu thổi. Thiên Chúa là Đấng rộng lòng thương xót, yêu thương bao la.
II. Đức Giêsu là bánh từ trời
Đức Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Ngài không chỉ hóa bánh ra nhiều, nhưng chính Ngài là bánh để nuôi con người. Người Do Thái không hiểu ý nghĩa điều Ngài muốn nói, nên đã phản bác: “Ông ta không phải là con bác thợ mộc Giuse sao? Chúng ta đều biết cha mẹ ông ta, vậy sao ông ta có thể nói ông ta từ trời xuống”. Họ không hiểu Đức Giêsu, nên họ không thể chấp nhận được điều Đức Giêsu mặc khải cho họ. Họ cho rằng Đức Giêsu nói ngoa!
Đức Giêsu cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà nói: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình ta, sẽ bị nộp vì các con”. Tấm bánh được bẻ ra, là của ăn nuôi sống con người. Đức Giêsu là người hơn ai hết thấy được giá trị của tấm bánh. Ngài nhận ra Thiên Chúa ban bánh nuôi sống con người. Ngài cũng là tấm bánh, được bẻ ra cho con người ăn. Ngài là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người. Ngài là sức sống những ai biết và tin vào Ngài. Với những ai tin Ngài là bánh từ trời xuống, là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người, người đó tìm được sức sống và sẽ không chết về thiêng liêng.
Không phải ai cũng hiểu được rằng Đức Giêsu là bánh từ trời xuống. Đa số những người Do Thái thời đó không hiểu. Khi bị phản đối, Đức Giêsu cũng nhận ra rằng: “không ai đến được với ta nếu không được Cha ta lôi kéo”. Điều Đức Giêsu nói với họ, không dễ để mà hiểu, phải có ơn đặc biệt để hiểu điều này. Phải tin vào Đức Giêsu để hiểu điều Ngài nói, để hiểu rằng Ngài là bánh ban sự sống. Đức Giêsu và cách sống của Ngài, là khuôn mẫu để con người noi theo, hầu con người sống hạnh phúc.
III. Hành xử như những người con đích thực của Thiên Chúa
Niềm tin vào Đức Giêsu sẽ giúp người ta sống như con cái Thiên Chúa. Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài tự hủy làm người, mang thân phận của con người như bất cứ ai khác. Khi con một vị vua sinh ra, người con đó sẽ sống trong hoàng cung và được mọi người kính trọng. Ngôi Lời nhập thể làm người, không ai biết vì không ai có thể nghĩ rằng Thiên Chúa lại làm người. Thế nên, cách người ta đối xử với Đức Giêsu là cách người ta đối xử với những người nghèo hèn nhất. Đức Giêsu mang thân phận người, giống như bất kỳ người thấp cổ bé miệng nào trên thế giới này.
Đức Giêsu sống như thế nào, cách hành xử của Ngài ra sao, trở thành mẫu gương cho những người tin vào Ngài sống. Ngài là sức sống cho con người. Ngài là bánh nuôi sống những người tin vào Ngài. Nét đặc biệt của Ngài là tự hủy. Nhờ Ngài tự hủy mà con người tìm được lẽ sống, tìm được hạnh phúc trong việc cho đi và phục vụ. Yêu thương là phục vụ và cho đi. Phục vụ như người tôi tớ, theo nhu cầu của người mình phục vụ. Yêu thương là cho đi, cho đi chính mình, như tấm bánh được bẻ ra, bị tiêu hao cho con người được sống.
Ngày nay, Thánh Thần Thiên Chúa vẫn đang ở với con người, vẫn đang hoạt động nơi mỗi người, giúp con người đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa qua chọn lựa sống vươn lên và yêu thương phục vụ anh chị em mình. Những ai tin vào Đức Giêsu được mời gọi để mở lòng lắng nghe và vâng phục Thánh Thần. “Đừng dập tắt Thần Khí” (1Tx. 5, 19), “Chớ làm phiền Thánh Thần” (Eph.4, 30). Thánh Thần Thiên Chúa đang làm mới thế giới này, đang làm mới lòng con người, và làm con người thuộc về Thiên Chúa. Sống theo Thần Khí là trở thành bánh cho con người theo gương mẫu Đức Giêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo kinh nghiệm sống của bạn, điều gì làm bạn tăng sức sống và phấn khởi?
2. Có bao giờ Đức Giêsu làm bạn phấn khởi và ao ước làm lại cuộc đời không? Nếu có xin bạn chia sẻ.
7. Những lời thầm thì
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Con đường Hiroshi Igarashi đến với Giáo hội bắt đầu từ trong tù, nơi anh được giới thiệu về Kitô giáo – và nhất là Mẹ Têrêsa thành Calcutta. Anh có lòng sùng kính sâu sắc nữ thánh nhân này kể từ đó, và trong những ngày này anh dọn chỗ trên vách tường căn hộ nhỏ ở Tokyo để treo những bức ảnh của thánh nhân. Một số ảnh trước đây được anh treo trong phòng giam. Thường thì phạm nhân không được phép treo ảnh, nhưng Igarashi nài xin ban quản giáo và cuối cùng được phép. Có tiền án hình sự ba lần và gần 20 năm ngồi tù, Igarashi biết rõ thực trạng và tất cả các vấn đề trong tù.“Nhiều tù nhân bị cô lập và thiếu thốn tình thương. Điều mà những người này cần là có người hỗ trợ họ về mặt tình cảm, nhưng không có ai làm điều đó cả. Vì thế họ cảm thấy tuyệt vọng. Thời gian ở tù chỉ làm họ tổn thương thêm và khiến họ tồi tệ hơn.”
Igarashi nói ra những điều này từ kinh nghiệm của mình vì anh cũng đã từng cảm thấy tuyệt vọng. Khi anh bị bắt giam lần thứ ba, gia đình anh cắt đứt mọi liên hệ với anh. Anh đã nghĩ đến chuyện tự vẫn, nhưng ngay lúc đó có một người Brazil gốc Nhật vui tính bị cảnh sát bắt giam. Người này thường xuyên cầu nguyện và nói về Kinh Thánh cho Igarashi nghe.
Đó là lần đầu tiên Igarashi bắt đầu đọc Kinh Thánh. Anh ấn tượng nhất là câu: “Saolô, Saolô sao ngươi lại bắt bớ ta?“ (Cv 9, 4) Đối với Igarashi, câu này nghe như thể Đức Kitô đang hỏi chính anh: “Sao con phạm tội chống Ta?” Đó là lúc anh trở lại đạo. Anh cầu nguyện hết lòng, lớn tiếng nói: “Con xin lỗi Chúa!”
Anh nhận ra khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, Ngài chết thay cho anh trên đó và anh khóc nức nở. Một quản giáo nghĩ anh muốn tự tử, nên đã làm mọi việc có thể để an ủi con người tuyệt vọng này. Igarashi biết Mẹ Têrêsa cũng trong nhà tù, qua một quyển sách anh tình cờ đọc được. Anh lập tức tin rằng “con người này có thật” và muốn đi học hỏi nơi thánh nhân, mãi sau này anh mới biết ngài đã qua đời. May mắn thay, anh có cơ hội gặp được một số tu sĩ dòng Thừa sai Bác ái do ngài sáng lập.
Anh gặp nhiều người khác trong Giáo hội trước khi mãn hạn tù, trong đó có các giám mục, linh mục và nữ tu. Đức cố Hồng y Seiichi S. Hirayanagi mở khóa học giáo lý tân tòng giới thiệu đức tin Công giáo cho anh. Một luật sư Tin Lành đã đứng ra bảo lãnh anh. Khi ra tù, Igarashi bắt đầu biến đức tin thành hành động thực tế bằng cách thành lập Nhà Mẹ. Đức Tổng giám mục Takeo Okada đích thân gửi thư chúc mừng. Trong những ngày này điện thoại bắt đầu reo từ sáng sớm đến suốt ngày, người ta gọi đến hỏi thông tin về Nhà Mẹ. Anh làm việc hết mình, phấn đấu noi theo con đường tình yêu của Mẹ Têrêsa. (Ucanews.com, Câu chuyện của một tù nhân Nhật và Chân phước Têrêsa)
Lời thầm thì của Chúa qua Tin Mừng đã tái sinh anh Hiroshi Igarashi ngay trong ngục tù. Cộng thêm gương chứng nhân của Mẹ Têrêsa đã tiếp sức cho anh cải tà quy chánh, làm lại cuộc đời mới. Câu chuyện của anh minh họa sống động Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, khi Đức Giêsu tuyên bố: “Phàm ai nghe và dón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi.” Nhưng dân Do Thái thời ấy lại thì thầm bất tín, bất bình Lời Chúa. Chỉ vì họ đố kỵ ganh ghét, chỉ vì theo tà tâm, mong đợi Đấng Messia theo khuôn mẫu, thần tượng, một anh hùng giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị La Mã, một đại ân nhân hào phóng cho họ thỏa thuê xôi thịt. Không được như ý, họ liền thì thầm ngấm ngầm chống báng Đức Giêsu.
Thầm thì đố kỵ
"Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: 'Ta bởi trời mà xuống.” Dân Do Thái tỏ ra phản đối, chống lại Người, không phải không thấy những phép lạ nhãn tiền, hay không phải không được nghe những lời giảng dạy cao quý của Đức Giêsu, mà họ chỉ nại đến một lý do đơn giản đến bất ngờ: lý lịch của Người. Tầm thường, nghèo khó, xuất thân chẳng quyền cao, chức trọng, không danh tiếng, cũng chẳng xuất chúng. Cộng với tánh đố kỵ, ganh ghét, nhỏ mọn, làm sao họ chấp nhận Người trổi vượt họ cả trăm ngàn lần? Sao dám chấp nhận Người là Đấng Messia ngàn đời mơ ước?
Tuy nhiên, họ chỉ dám thầm thì vì danh bất chính ngôn bất thuận. Không dám nói to lên để tranh luận thẳng thắn, vì biết sẽ thua lý, thua tình. Vì ngay các luật sĩ, các tư tế, các thầy Biệt phái Pharisiêu cũng từng bị đuối lý, thua trắng tay, khi công khai tranh luận với Người về luật lệ, giáo lý, và nhất là về Kinh Thánh.
Đức Giêsu trả lời cùng họ rằng: "Các ngươi chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thiên Chúa đặt vào lòng người từ khi sơ sinh, lương tâm cùng với tình cảm và trí khôn, để phân biệt đâu là sự lành, sự dữ, điều tốt, cái xấu, việc đúng, lỗi sai. Nhân chi sơ tánh bản thiện. Thiên Chúa giao cho mỗi người những vốn liếng cao quý đó, để có thể tự điều chỉnh, như lời ngôn sứ Isaia: “Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo.”(Is 54, 13)
Theo thời gian, lương tâm có thể thay đổi, biến dạng, lệch lạc vì chịu ảnh hưởng môi trường gia đình, giáo dục và xã hội, nhưng vẫn còn trí khôn có thể phán đoán, nhận biết lý lẽ, sự thật và vẫn còn con tim biết yêu chuộng, thích thú điều tốt lành, lánh xa điều dữ. Nên con người không thể dễ dàng tha hóa, nếu không cố tình sa đọa, cố ý gian tham, bất nhân, độc ác. Vậy chỉ vì sống vị kỷ, kiêu căng, tự phụ, nuông chiều theo ý riêng xác thịt, người ta mới bưng tai, bịt mắt, từ chối lý lẽ, sự thật, đường công chính, mà lìa xa Thiên Chúa, cội nguồn sự sống, tình yêu và lòng thương xót.
Thầm thì tà tâm
Sống trong không gian ba chiều, con người thường bị giam hãm, bị đóng khung trong tầm nhìn hữu hạn, thường hâm mộ những cái hữu hình to lớn, kỳ quan kiến trúc, công trình xây dựng quy mô, đồ sộ, phô trương, choáng ngợp, mà hầu như quên đi những gì bé nhỏ, tầm thường, tự nhiên và gần gũi, thân thiện, như sông biển, núi non, rừng thẳm, thiên nhiên hùng vĩ. Hay không muốn quan tâm, hướng đến những điều quan trọng hơn, cao siêu hơn, linh thiêng và bất biến, như Đấng Tạo Hóa. Vì coi thường, nên người ta không tiếc thương bạc đãi, khai thác, gây ô nhiễm, phá hoại môi trường, để rồi chịu những cơn nổi giận của Mẹ Trái Đất bị xúc phạm, như mưa lũ, lụt lội, sạt lở, hạn hán, sóng thần,…
Con người tham lam khai thác đất đai đến kiệt quệ và sa mạc hóa. Không đoái hoài cho đất đai nghỉ ngơi, tái tạo độ phì nhiêu màu mỡ, như Luật dạy phải tuân thủ Năm Sabbat. (Lv 25, 1-7) Hiện nay, hàng vạn mẫu đất chuyên trồng cây bông bên Trung Quốc bị sa mạc hóa vì quá tận canh, tận thu, phá vỡ cân bằng sinh thái. Vì tà tâm, rủ nhau suy tôn, thờ lạy con bò vàng, thiên hạ bất tuân Lề Luật Thiên Chúa, mới thầm thì bất bình, bác bỏ, lìa xa Lời Chúa.
Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Thiên hạ đâu chịu nghe lời răn dạy của Thiên Chúa, nên dĩ nhiên xoay lưng lại Lời Đức Giêsu rao giảng, để bây giờ phải lãnh những hậu quả nhãn tiền.
Thầm thì chống đối
Người ta thầm thì chống báng, cũng chỉ vì cái tôi quá lớn, kiêu căng cao ngất trời xanh, che khuất cả vầng sáng mặt trời rực rỡ, nên tự hóa ra tối tăm, hẹp hòi, hoang tưởng, u mê như ếch ngồi đáy giếng. Chỉ nhìn thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình, thì lại không để ý tới (Lc 6, 41)
Vẫn biết cơ cấu tổ chức nào cũng đều bất cập, bất toàn, kể cả Tòa Thánh Vatican, vẫn biết cá nhân các đấng bậc, từ Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ, đến Giáo dân nam nữ, trẻ già, đều là con người, không thể vẹn toàn đức hạnh, thánh thiện, nhưng thiên hạ vẫn nại cớ vào đó để bài bác Nước Chúa. Không những không tin, hay nhẹ tin, hoặc nghi kỵ, bất tuân phục giáo lý Chúa, mà còn báng bổ, đả kích và xúc phạm thô bạo, vì những thiếu sót, những bất cập trong Giáo hội Công Giáo. Ngụy biện, suy diễn, quy nạp những tiểu tiết, chuyện nhỏ, mà vô tình hay hữu ý bác bỏ những điều vĩ đại vô song của đạo Chúa, như Tình Yêu Cứu Chuộc, Lòng Thương Xót bao dung và quảng đại của Thiên Chúa, thì còn gì đáng chê trách hơn?
Chẳng hề chấp nhất những lời thì thầm của thiên hạ bất bình, bất kính, lẫn bất mãn, vụng trộm kích động, phản đối, xúi giục, xúc phạm, Đức Giêsu vẫn điềm đạm dạy bảo toàn dân: “Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng ấy đã thấy Cha. Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời.
Chớ thì thầm với nhau
Đức Giêsu ôn tồn khuyên, đừng thì thầm đố kỵ, tà tâm hay chống đối, mà hãy hoàn toàn tin cậy và phó thác vào Người, để được ban sự sống. Hơn nữa Người còn tự hiến thân, hy sinh trở nên tấm bánh dưỡng nuôi và che chở con người lữ hành trên đường hy vọng. “Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Đây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết.” Lời Chúa và Mỉnh Máu Chúa đã trở nên lương thực trường sinh, bất tử cho những ai đói khát sự công chính, sự thật và sức sống viên mãn.
“Muốn tin, phải nuôi mình bằng Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa đựng “mầu nhiệm Đức Tin,” và ban sức mạnh đức tin cho con.” (Đường Hy Vọng, số 373)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang sống trong một xã hội bát nháo, cơ hội, duy vật, thực dụng, ráo riết chối bỏ và chống báng Thiên Chúa, trong môi trường chỉ biết cúc cung bái thờ lạy cái bụng mà thôi. Kính xin Lời Chúa đến thức tỉnh, cảnh giác, giải thoát chúng con khỏi những tiếng thì thầm êm ái, ngọt ngào quyến rũ đến chết người. Xin ban Thánh Thể đến cải hóa, đổi mới và tăng sức mạnh cho chúng con can đảm dấn thân đi theo Chúa trọn đời.
Lạy Mẹ Maria Thánh Thể, kính xin Mẹ cầu bầu cùng Đức Chúa Thánh Thần soi sáng, chỉ đường dẫn lối chúng con trung kiên đi theo Chúa, thoát khỏi những cạm bẫy của thân xác, thế gian và ma quỷ, đố kỵ, tà tâm, bất mãn giăng lên khắp ngả đường. Amen.
8. Thực phẩm trường sinh
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Khái niệm thực phẩm chức năng (Functional foods *) được người Nhật sử dụng đầu tiên trong những năm 1980, để chỉ những thực phẩm chế biến có chứa những thành phần tuy không có giá trị dinh dưỡng, nhưng giúp nâng cao sức khoẻ cho người sử dụng. Theo Viện Khoa học và Đời sống Quốc tế (International Life Science Institute - ILSI) thì thực phẩm chức năng là những thực phẩm, hay thành phần của chế độ ăn có thể đem lại lợi ích cho sức khoẻ nhiều hơn giá trị dinh dưỡng cơ bản. Thực phẩm chức năng có thể là sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên, hoặc là thực phẩm trong quá trình chế biến được bổ sung thêm các chất "chức năng".
Hiện nay các nước phát triển có xu hướng ưa chuộng dùng các TPCN hơn dùng thuốc. Chính vì vậy, đa số các tập đoàn sản xuất thuốc đang chuyển sang sản xuất TPCN và tìm được đối tượng tiêu thụ lớn hơn. Theo dự báo của chuyên gia, thì “thức ăn của con người trong thế kỷ 21 là TPCN”. Thức ăn không chỉ đảm bảo đủ calo, ăn ngon ăn sạch, mà còn phải được bổ sung các hoạt chất sinh học nguồn gốc tự nhiên cần cho sức khỏe và sắc đẹp, không chỉ có tác dụng phòng một số bệnh, mà còn tạo ra cho con người khả năng miễn dịch chống sự lão hóa và điều khiển được chức năng của từng hệ cơ quan trong cơ thể. (Wikipedia)
Dẫu thế, thực phẩm chức năng cũng chỉ có thể giúp con người chậm trễ đến cái chết, chứ không thể giúp vượt qua cái chết. Trong khi Chúa Giêsu lại giới thiệu một thực phẩm đặc biệt, không có gì sánh nổi, để nuôi dưỡng con người chiến thắng sự chết.
1- Bánh Thiên Sai
Trong sách Các Vua, quyển thứ nhất, hình ảnh Tiên tri Elia buông xuôi, chờ chết, được cứu sống bởi bánh từ trời, dẫn tín hữu đến gần với Bánh Từ Trời chánh thức giá trị vô song, đó chính là Đức Chúa Giêsu nhập thế. Người công khai mặc khải: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh nầy là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết.” (Ga 6, 48 – 49)
Với tình yêu vô biên, lòng thương xót hải hà, Chúa Giêsu lấy chính thân mình, tự dâng hiến trở thành lương thực cứu rỗi con người khỏi cái chết mục nát. Hơn nữa, còn ban cho đời sống vĩnh cửu.
2- Bánh Lời Chúa
Lời Chúa cũng được coi là Bánh Hằng Sống như ngôn sứ Amos đã cảnh báo dân Chúa: Ta sẽ gieo nạn đói trên xứ này, không phải đói bánh ăn, cũng không phải khát nước uống, mà là đói khát được nghe lời Đức Chúa. (Am 8, 11)
Bởi vì “Lời Chúa là là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sáng đường con đi" (TV 118,115).
Hơn nữa Chính Đấng Thiên Sai còn xác nhận công khai: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4,4)
Những lời khẳng định trên đều cho thấy, Lời Chúa là tấm Bánh không thể nào thiếu trong cuộc đời sống đạo ngày hôm nay, để giao hòa và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, hầu được cứu rỗi khỏi cạm bẫy thế gian.
3- Bánh Thánh Thể
Trước phong ba sự dữ dồn dập tấn công hiện nay, nhân đức Tin, Cậy, Mến cũng dễ bị chao đảo, sa sút hay khủng hoảng, nếu không có siêu lương thực Mình Máu Chúa dưỡng nuôi, cứu giúp và tăng lực. Bởi chưng chính Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, đã chính thức công khai tiết lộ cho con người sự hào phóng vô biên: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”(Ga 6, 51)
Thánh Thể mặc khải cho trí hiểu biết Mầu Nhiệm nước trời sẽ đến sau này và sát nhập dân Chúa vào Mầu Nhiệm nước trời. Đức Tin không thể tồn tại nơi người Công Giáo sống ngoài Thánh Thể. (ĐHV, 379)
Lạy Chúa Giê su, con xin cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng, vì đã ban cho con Bánh Trường Sinh, để con được sống viên mãn.
Lạy Mẹ Maria, con xin hiệp ý cùng Mẹ trong kinh Magnificat, để tán dương, tri ân Thiên Chúa đã ban cho con lương thực Trường Sinh, hầu vững bước về Quê Trời. Amen.
(*) Functional foods, Food suplement, Alicaments, Nutraceutics.
9. Tin Chúa sẽ được sống muôn đời
Anh chị em thân mến!
Chúng ta không phủ nhận sự kiện có nhiều người muốn chối bỏ Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa mà họ đang nắm giữ chưa phải là Thiên Chúa thật, đó mới chỉ là một phác họa của trí tưởng tượng, một phản ứng của những ước muốn nơi con người. Không chiều theo sở thích của họ thì họ sẽ sẵn sàng chối bỏ. Muốn khám phá ra một Thiên Chúa thật, con người phải tìm về cội nguồn là Đức Kitô, như lời dạy của Ngài qua tường thuật của thánh Gioan trong đoạn Tin Mừng hôm nay.
Thật thế, có nhiều cách nghe và nhiều cách phản ứng trước điều đã nghe. Có người nghe để rồi phê bình chỉ trích, có người nghe rồi chán nản bực mình, nghe để khiếp sợ xa lánh hoặc nghe chỉ vì không có cơ hội để nói. Tất cả các cách nghe này đều không phải là cách nghe mà Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ: "Ai nghe và học nơi Cha thì đến với Ta".
Nghe và học là đáp trả đối với tình yêu Thiên Chúa. Vì Lời của Thiên Chúa như mưa tuyết từ trời sa xuống, nó sẽ không trở lên trời lại nếu đã không thấm nhuần đất đai, nếu không làm cho đất đai sinh sản nẩy mầm và cho người gieo có giống cùng cơm bánh cho người ta ăn.
Lời Chúa là lời phát sinh hiệu quả. Hiệu quả ấy không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng hoặc kết tinh của ước muốn. Nếu chỉ gặt hái được những kết quả như thế khi tiếp xúc với Thiên Chúa, sớm muộn gì con người cũng sẽ chối bỏ Ngài.
Muốn gặp được Thiên Chúa thật, con người phải đến với Đức Giêsu: "Không ai xem thấy Cha trừ ra Đấng bởi từ Thiên Chúa Cha mà ra. Đấng ấy đã thấy Cha và Đấng ấy cũng là Thiên Chúa".
Tìm đến với Ngài là tìm gặp được Thiên Chúa. Nghe và học ở nơi Ngài không chỉ là việc tiếp nhận từ Ngài các kiến thức khô khan, như các công thức toán học, vật lý hoặc văn chương triết học. Nghe và học ở Ngài là đón nhận cả con người của Ngài. Thân thể Ngài trở nên của ăn, Máu Ngài trở nên của uống nuôi sống trần gian: "Ai đến với Ngài sẽ không hề đói. Ai tin vào Ngài sẽ không hề khát bao giờ".
Con người vẫn còn than trách hoặc chối từ Thiên Chúa, vì họ còn giữ mãi cho mình hình ảnh của một Thiên Chúa do họ nắn tạo ra. Cần phải phá bỏ hình ảnh đó đi, họ mới có cơ may gặp được Thiên Chúa thật. Người Do Thái đã không từ chối hình ảnh của Đấng Cứu Thế theo những gì họ nghĩ tưởng. Thế nên, đứng trước một Đấng Cứu Thế thật, họ cũng chẳng bao giờ gặp được Ngài.
Biệt phái nghe để phê bình, luật sĩ nhìn để bắt bẻ, thì làm sao có thể nghe và nhìn để học hỏi nơi Đức Giêsu. Người tín hữu hôm nay cũng thế, nếu không biết nghe và học, họ sẽ không gặp được Thiên Chúa. Nghe và học đòi buộc họ phải đến với Chúa Giêsu, đến với Ngài đòi buộc họ phải đón nhận Ngài. Vì hiểu biết Thiên Chúa không phải chỉ là mớ kiến thức, nhưng hiểu biết về Ngài là một cảm nghiệm, một đối thoại trao đổi không ngừng.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta vượt qua hình ảnh về Thiên Chúa mà bấy lâu nay mỗi người trong chúng ta đã đúc sẵn cho mình. Có thể đó là một Thiên Chúa nhớ đến lúc nguy nan hoặc như nhãn hiệu gắn bên ngoài để che mắt người đời. Có như thế, chúng ta mới gặp được Thiên Chúa thật, Đấng hằng mong chờ chúng ta đến để sống với Ngài, để hưởng sự sống đời đời bên Ngài. Amen.
10. Bí quyết trường sinh – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Tần Thủy Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng Sinh khoảng 200 năm. Ông là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2.000 dặm. Đó là kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư ở đấy đã khám phá ra bí quyết trường sinh.
Tần Thủy Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường, hy vọng đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ.
Thế rồi ông lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga rộng lớn, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân Hà, lấy vàng bạc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống ấy chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết đi.
***
Trường sinh bất tử là ước mơ ngàn đời của con người. Cứ mỗi lần một người thân giã từ cõi thế, thì ước mơ được sống mãi lại càng dày vò con người dữ dội hơn. Nên không lạ gì khi Đức Giêsu nói về cuộc sống trường sinh thì mọi người tuôn đến như đi tìm kho báu.
Nhưng mầu nhiệm về "Sự sống đời đời" lại rất xa tầm trí mọn của đám dân chúng. Đức Giêsu không giúp họ thoát khỏi cái chết của thân xác, vì chính Người cũng vui lòng chết như mọi người. Nhưng Người cứu họ thoát khỏi cái chết của linh hồn: cái chết vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa và hoàn toàn ly biệt với tha nhân, cái chết đi vào trầm luân muôn kiếp, cái chết dẫn đến cõi tiêu diệt muôn đời.
Cuộc sống vĩnh cửu ấy, hôm nay Đức Giêsu đã mạc khải: "Ta là Bánh ban Sự Sống... Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời" (Ga.6,47). Vậy bí quyết trường sinh mà Tần Thủy Hoàng khó nhọc đi tìm kiếm tận các đảo thần tiên, lúc nào cũng hiện diện trước mặt chúng ta, trong mọi thánh đường Công giáo. Chính là Đức Giêsu nguồn mạch trường sinh.
Người đang hiện diện với chúng ta bằng thần trí Người: "Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ" (Mt.18,20).
Người còn hiện diện với chúng ta qua Lời Chúa. Lời mà Người nói cách đây 2000 năm cũng chính là Lời Người đang nói với chúng ta trong tin mừng.
Người hiện diện với chúng ta qua các linh mục trong lúc giảng dạy và trong khi cử hành các Bí tích: "Ai nghe các con là nghe Ta" (Lc.10,16).
Đặc biệt Người hiện diện thực sự với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể: "Ta là bánh hằng sống... Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời" (Ga.6,52).
Như vậy, "Sự sống đời đời" không phải là chuyện viễn vông xa vời, nhưng là một thực tại đang triển nở trong đời sống người tín hữu. Mỗi thánh lễ là một bàn tiệc nuôi dưỡng linh hồn đưa ta về chốn trường sinh.
***
Lạy Đức Giêsu, như Tấm Bánh Thánh xin cho tâm hồn chúng con nên trong trắng, cố xa tránh những ô uế cho dù nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa.
Xin cho tâm hồn chúng con nên khiêm hạ nhỏ bé, nhưng luôn bày tỏ một tình yêu lớn lao.
Và cho tâm hồn chúng con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen.
11. Tấm bánh bẻ ra.
Ta là bánh ban sự sống. Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã ban phát và nuôi sống dân chúng ngay khi Ngài còn ở giữa họ, không phải từ những tấm bánh cho bao nhiêu ngàn người ăn để rồi họ cũng chết như tổ tiên họ. Nhưng Ngài đã ban chính mình Ngài cho dân chúng, qua tất cả những phép lạ như một quà tặng cho nhân loại.
Ngài ban chính mình Ngài qua tình thương mà con người thấy được ở lời nói và hành động của Ngài. Ngài đã ban chính mình Ngài qua cái chết trên thập giá như một dấu chứng cho tình yêu, cho chân lý và cho chương trình cứu độ của Ngài. Ngài đã ban tất cả những gì cao quí nhất, cả đến mạng sống cho mọi người, như thế Ngài đã trở nên bánh ban sự sống cho chúng ta. Tình thương, lời Chúa và cuộc sống của Ngài vẫn luôn luôn là nguồn sống cho chúng ta, là động lực cho muôn người nối gót Ngài đi cải tạo thế giới bằng tình thương. Chính vì thế mà những ai sống trong Ngài, tin vào Ngài thì đã có sự sống đời đời. Lẽ tất nhiên, Chúa còn hứa ban chính mình Ngài trong Bí tích Thánh Thể.
Nhưng ở đây chúng ta muốn nói đến Ngài như tấm bánh đem lại sự sống. Ngài là Đấng bị ăn. Thực vậy, trong bữa tiệc ly Ngài đã phán: Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là mình Ta. Thế nhưng, chúng ta không phải được kết hiệp với Ngài qua Bí tích Thánh Thể, mà còn một cách khác Ngài đã muốn chúng ta dùng để được kết hiệp thực sự với Ngài: Ai yêu mến Ta thì hãy giữ lời Ta. Lời Chúa là bánh ban sự sống cũng có giá trị ngang hàng với bàn tiệc Thánh Thể. Chúa là tấm bánh được ban để cho chúng ta ăn. Và khi chúng ta ăn, chúng ta cũng phải trở thành bánh thịt ngon, để anh em chúng ta có thể ăn. Chúng ta sống bằng tình thương, bằng lời Chúa và bằng chính cuộc sống của Ngài thế nào, thì mọi người chung quanh chúng ta cũng được sống bằng tình thương, bằng lời nói và bằng chính cuộc sống tín hữu của chúng ta như vậy.
Nếu tất cả cuộc đời, lời nói và hành động của chúng ta đều xuất phát một cách chân thành từ tình thương, thì chúng ta sẽ là những tấm bánh thơm ngon cho ngưới anh em. Còn nếu cuộc đời chúng ta chỉ toàn gương xấu, tính ích kỷ, chỉ biết lo đến phần rỗi của riêng cá nhân mình: ai chết mặc ai, miễn là ta lên thiên đàng, thì không ai gọi chúng ta là những tấm bánh được, mà chỉ là một thứ rác rưởi, một thứ cặn bã cần tống đi mà thôi. Chúa là tấm bánh cho ta, thì ta cũng phải là tấm bánh bẻ ra cho những người anh em.
12. Tôi là Bánh từ trời xuống – ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Chúa nhật trước, Đức Giêsu kêu gọi dân chúng: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực hư nát, nhưng để có lương thực trường sinh”. Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến thứ lương thực đó là bánh từ trời xuống “Tôi là bánh từ trời xuống”.
Rất nhiều dân tộc trên thế giới chủ trương tổ tiên của họ là người từ trời xuống. Đoạn văn về Sáng Thế trong kinh Digha Nykaya của Phật giáo viết như sau: Có ít dân trời hết nghiệp tốt, phải bỏ trời xuống mặt đất. Họ vẫn sáng láng thanh tịnh. Nhưng xảy ra có mấy người tò mò lấy ngón tay động vào vỏ đất rồi đưa lên lưỡi nếm thấy mùi mật ong. Lòng tham thúc đẩy họ bắt đầu ăn vỏ đất. Những người khác thấy vậy cũng ăn vào, nên thân xác trở nên dầy đặc và nặng nề.
Platon, ông tổ triết học Tây phương, cũng cho con người từ trên lý giới sa đọa xuống hạ giới này.
Con người luôn mơ ước được về trời vì họ tưởng tổ tiên họ đã từ trời xuống. Nhưng khi nghe Đức Giêsu nói: “Tôi là bánh từ trời xuống”, người ta lại kêu ca phản đối: “Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống”. Họ phản đối Đức Giêsu vì họ thấy theo con mắt xác thịt, theo suy nghĩ của loài người hạ giới. Họ giống như Gagarin, anh hùng vũ trụ đầu tiên, bay lên không gian ngày 12 tháng 04 năm 1961. Khi trở về trái đất, ông tuyên bố: “Tôi không thấy thiên đàng đâu cả”. Cũng như bác sĩ giải phẫu bệnh nhân, chỉ thấy ruột, tim, gan, phổi mà không thấy tâm tình, ý chí, trí khôn, lương tri, trí thức và nhất là linh hồn đâu cả.
Lối nhìn này gọi là quan sát thực nghiệm, nghĩa là chỉ thấy cái nhìn thí nghiệm, cân đo, đụng chạm được bằng mắt, tai, tay, chân, mũi. Ngoài ra, không thấy gì khác nữa, nên cho là không có.
Người Do thái cũng biết Đức Giêsu theo lối nhìn xác thịt. Họ chỉ thấy Người là con ông Giuse và bà Maria, sống ở thôn ấp nhỏ bé. Nếu họ thấy hơn chút nữa, thì họ cũng chỉ ngạc nhiên thấy Người làm cho kẻ què được đi, kẻ mù thấy được, kẻ câm nói được, kẻ điếc nghe được, kẻ chết sống lại và chính họ là kẻ đói được ăn no nê. Có thế thôi. Họ không thể thấy gì thiêng liêng, cao siêu qua những việc lạ lùng đó. Cùng lắm, họ coi Người là một tiên tri như Êlia được thiên thần đưa bánh cho ăn, hay là kẻ chết sống lại mới làm được những sự lạ ấy.
Họ không thể thấy Người từ trời xuống, thấy Người được Chúa Cha sai đến, thấy Người là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Đức Maria bởi phép Chúa Thánh Thần, thấy các thiên thần hát mừng Người lúc sinh ra trong hang lừa, thấy được tiếng Đức Chúa Cha phán: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, khi Đức Giêsu chịu phép rửa của ông Gioan tẩy giả.
Họ không thấy được Đức Giêsu từ trời xuống vì lòng họ ra chai đá, không còn cảm động theo ân huệ lôi kéo của Đức Chúa Cha, không còn nghe lời Chúa Cha dạy dỗ dù hết mọi người được Thiên Chúa dạy dỗ như sách các Ngôn sứ đã chép. Thiên Chúa lôi kéo, Thiên Chúa dạy dỗ, Thiên Chúa đề nghị, nhưng rồi ta không nghe, không đáp lại, không hiệp thông. Người ta có tự do, có quyền từ chối, tự do của họ đã chiều theo cái bụng, cái mắt, cái tai, cái dục. Chừng nào họ diệt được tham, sân, si thì lòng mới trong sạch, mắt mới sáng lên, tai mới thính ra, lúc đó, họ mới sống đức tin, mới thấy được bánh từ trời xuống, họ mới rước được bánh trường sinh và được sống đời đời.
Mỗi Thánh lễ đều nói với chúng ta: “Tôi là bánh từ trời xuống” “Này là Mình Thầy, này là chén Máu Thầy”. Thánh lễ chẳng có gì hấp dẫn những con mắt no nê phim ảnh, những cái bụng say sưa ăn nhậu. Thánh lễ chẳng có gì làm hồi hộp rung động những con tim mê đắm xác thịt, những lòng trí miệt mài tiền của, danh vọng.
Thánh lễ chỉ cảm hóa những con người chân thành, những tấm lòng khao khát lương thực trường sinh. Thánh lễ chỉ hấp dẫn những ý chí quyết tin theo lời Thiên Chúa, những tình yêu sốt sắng hy sinh lấy thịt mình cho người khác ăn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con đôi mắt sáng để nhìn thấy bánh từ trời xuống. Xin cho con đôi tai tinh tường để lắng nghe lời hằng sống. Xin cho con một ý chí mạnh mẽ để ra sức làm việc của Thiên Chúa và một trái tim nhạy cảm trước tình thương lấy thịt mình nuôi sống chúng con đời đời.
13. Bánh bởi trời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Cuộc đời tiên tri Êlia là một cuộc chiến đấu anh dũng và kiên cường. Một mình người phải chiến đấu chống lại cả một dân tộc bỏ đạo do hoàng hậu Dêdaben cầm đầu. Người khiển trách dân chúng vì họ đã nghe theo hoàng hậu mà bỏ Chúa. Người thách thức 400 sư sãi của thần Baan trong một cuộc dâng của lễ cầu mưa. Người đã chiến thắng. Nhưng chính vì chiến thắng. Người bị hoàng hậu săn đuổi, phải chạy trốn vào sa mạc. Hôm nay, đói khát đến lả người, vị tiên tri dũng mãnh rồi cũng cảm thấy mệt mỏi rã rời. Người mất hết sức lực thể chất lẫn tinh thần. Chẳng thiết sống, người xin Chúa cất người ra khỏi thế gian phiền nhiễu đầy bất trắc. Người mất hết sức phấn đấu. Người chỉ muốn an nghỉ trong Chúa. Nhưng Chúa sai thiên thần đem bánh cho người. Ăn được bánh bởi trời, tiên tri mới đủ sức vượt qua sa mạc, sau cùng đi tới núi của Thiên Chúa.
Tương tự như thế, đời sống ta cũng là một chuyến đi về nhà Thiên Chúa. Để đến với Thiên Chúa, ta phải vượt qua sa mạc cuộc đời đầy chông gai cạm bẫy. Đường đi rất xa và rất khó khăn. Những chiến đấu có thể sẽ khiến ta mệt mỏi rã rời. Ta sẽ chẳng đủ sức đi trọn con đường nếu không được nâng đỡ, an ủi. Để giúp ta đủ sức chiến đấu và đi trọn con đường khó khăn thử thách tiến về nhà Cha. Thiên Chúa đầy tình yêu thương đã ban cho ta tấm bánh bởi trời. Tấm bánh bởi trời mà Chúa Cha ban cho ta chính là Đức Giêsu Kitô, người Con duy nhất của Người. Món quà của Chúa Cha ban được thực hiện dưới hai hình thức: Lời Chúa và Phép Thánh Thể.
Đức Giêsu Kitô là Lời Ban Sự Sống của Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa là Lời Ban Sự Sống. Chính Đức Giêsu đã khẳng định điều này khi Người trả lời ma quỉ cám dỗ: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Thật vậy, chính Lời Chúa làm cho sự sống xuất hiện. Nhờ Lời quyền năng của Thiên Chúa, vũ trụ được tạo thành. Lời Chúa là lẽ sống của Đức Giêsu, nên trọn đời Người luôn đi tìm thực hiện thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy”. Xưa kia, Thiên Chúa nói qua trung gian các tổ phụ và các tiên tri. Nay, Đức Giêsu là Lời của Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại. Lời Người ban sự sống cho Ladarô, cho con trai bà góa thành Naim. Lời Người tha thứ tội lỗi cho Mađalêna, cho người phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu. Lời Người hoán cải người phụ nữ xứ Samaria. Người đưa tất cả những người tội lỗi trở về con đường sự sống. Lời Người đã giúp cho bao thế hệ tìm thấy lẽ sống. Lời Người ban cho họ một sự sống mới, tươi trẻ, phong phú, dồi dào hơn. Chính vì thế, thánh Phêrô đã lên tiếng tuyên xưng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai. Chỉ Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời”.
Ban Lời hằng sống chưa đủ với tình yêu thương của Người, Đức Giêsu còn ban cho ta chính bản thân Người trong bí tích Thánh Thể. Thật là một tình yêu sâu xa tha thiết. Khi nuôi dưỡng ta bằng chính thịt máu Người, Đức Giêsu không những muốn kết hiệp mật thiết với ta trong từng thớ thịt, từng dòng máu, mà Người còn muốn ban cho ta sự sống đời đời. Bí tích Thánh Thể là lương thực thần linh. Lương thực thần linh ban sự sống thần linh. Qua bí tích Thánh thể, sự sống thần linh dần dần thấm nhập bản thân ta. Đây là một tiến trình thần hóa chầm chậm. Ta trở nên một thân thể với Đức Giêsu. Ta sống cùng sự sống của Người, sự sống đời đời trong hạnh phúc của Thiên Chúa.
Thánh lễ chính là bữa tiệc trong đó Thiên Chúa dọn ra hai bàn tiệc. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai bàn tiệc cũng đều là chính Đức Giêsu. Trong thánh lễ, ta nghe lời Chúa dạy dỗ ta. Lời Chúa chỉ cho ta con đường ngay thẳng, con đường hạnh phúc, con đường đưa ta về với Chúa. Thánh Thể Chúa ban sức mạnh giúp ta đủ sức đương đầu với những khó khăn thử thách của cuộc đời. Bởi thế, khi tham dự thánh lễ, ta cần lưu ý lắng nghe Lời Chúa. Chúa muốn nói riêng với từng người. Hãy lắng nghe để tìm ra điều Chúa muốn nhắn gửi. Hãy lắng nghe để tìm ra lẽ sống. Hãy lắng nghe để biết con đường phải đi. Lời Chúa là con đường đưa tới sự thật và sự sống.
Hãy rước lễ một cách kính cẩn sốt sắng. Phép Thánh Thể chính là một quà tặng của tình yêu Thiên Chúa. Hãy hưởng nếm sự ngọt ngào được kề cận Thiên Chúa. Hãy múc lấy nơi Thánh thể nguồn sức mạnh để thắng vượt những thử thách trong cuộc đời. Hãy để Thánh Thể uốn nắn, biến đổi ta để ta ngày càng nên giống Người hơn. Hãy nếm cảm hương vị thiên đàng ngay khi còn tại thế.
Lạy Chúa là Cha vô cùng yêu thương, con cảm tạ Cha đã ban cho con chính Con Một yêu quý của Cha làm bánh trường sinh nuôi dưỡng và đưa chúng con vào sự sống đời đời.
14. Bánh trường sinh - Manna
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Một ngôn sứ dũng cảm như Êlia trên núi Các-men cũng có lúc chán nản, thất vọng, chỉ muốn xin được chết. Giữa sa mạc, Êlia nằm ngủ dưới gốc cây. Ông không còn đủ sức tiếp tục cuộc hành trình. Một thiên thần đã đem đến cho ông bánh và nước, nhờ đó ông có sức đi đến núi của Thiên Chúa.
Người Kitô hữu cũng phải đi ngang qua sa mạc cuộc đời, với bao thách đố, ngờ vực, hiểm nguy... Chúng ta cần được dưỡng nuôi, nâng đỡ, để có sức đi hết cuộc hành trình về quê thật. Có thiên thần nào hiện ra đem bánh cho ta không? Có thứ manna nào từ trời rơi xuống?
Thiên Chúa Cha muốn ban cho ta tấm bánh từ trời, đó là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa (Ga 6,32-33).
Đức Giêsu là Tấm Bánh Cha ban cho nhân loại, và chính Ngài cũng muốn tặng bản thân mình cho ta: "Tôi là Bánh trường sinh" (c.48). "Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống" (c.51).
Khi nói đến Bánh hằng sống, Bánh trường sinh, chúng ta thường nghĩ ngay đến bí tích Thánh Thể và ít khi nghĩ đến Tấm Bánh Lời Chúa.
Mỗi thánh lễ là một bữa tiệc. Chúng ta được mời đến dự bàn tiệc Lời Chúa trước khi dự bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai đều là lương thực cần thiết cho tín hữu.
Công đồng Vaticanô (PV 7) khẳng định rằng khi chúng ta nghe đọc Lời Chúa trong Phụng Vụ thì Chúa Giêsu "hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi ta đọc Kinh Thánh trong Giáo Hội". Như thế Chúa Giêsu vẫn loan báo Tin Mừng trong từng thánh lễ (PV 33). Ngài vẫn trao cho ta Tấm Bánh là Lời của Ngài.
Con người sống đâu chỉ nhờ cơm bánh vật chất, mà còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. Đức Giêsu là Lời viết hoa của Thiên Chúa. "Thầy có những lời ban sự sống đời đời" (Ga 6,68).
Lời Chúa là thức ăn khó nuốt. Cuốn Tân Ước tôi cầm trên tay là một bản văn cổ, thuộc nền văn hóa xứ Pa-lét-tin cách đây hơn 2000 năm. Phải học hỏi, đào sâu mới hiểu đúng và hiểu đủ.
Lời Chúa cũng là thức ăn khó nuốt, vì là một lời mời gọi tôi ra khỏi mình, bỏ lại những tính toán khôn ngoan và hợp lý. Tiếng Chúa đụng đến con người tôi, ở đây, bây giờ, và mời tôi dấn thân vào một cuộc mạo hiểm. Nhưng Lời Chúa sẽ là tấm bánh thơm ngon nếu tôi biết lắng nghe và đem ra thực hành. Càng sống Lời Chúa, tôi càng gặp được ánh sáng và sức mạnh, nhất là được hiệp thông với con người Đức Giêsu.
Hãy hưởng dùng Tấm Bánh Chúa trao cho bạn, và hãy chia sẻ cho nhau kho tàng Lời Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có câu Lời Chúa nào đã soi sáng cho bạn khi bạn đứng trước một chọn lựa? Có câu Lời Chúa nào đã ảnh hưởng trên đời sống của bạn?
Theo ý bạn, để hiểu các bài Sách Thánh trong Thánh Lễ có dễ không? Thế nào là một bài giảng Lời Chúa "đạt yêu cầu", theo ước mơ của bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Chúa hiện diện lặng lẽ như tấm bánh nơi nhà Tạm, nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ, những người sống không ra người.
Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục, nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người gặp gỡ nhau để chia sẻ Lời Chúa.
Chúa hiện diện nơi Giáo Hội gồm những con người yếu đuối, bất toàn, và Chúa cũng ở rất sâu trong lòng từng Kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy Chúa đang tạo dựng cả vũ trụ và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa. Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa. Xin cho con khám phá ra Chúa đang hẹn gặp con nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường. Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi, thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa. Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa trên bước đường đời của con. Amen.
15. Không dừng lại, không chấm dứt – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’).
Diễn từ của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống hấp dẫn chúng ta vì sức mạnh của những lời quả quyết và đồng thời cũng làm cho chúng ta phân vân về sự cô đơn mà Chúa Giêsu đã tạo ra chung quanh Người vì những lời quả quyết đó. Người ta tự hỏi tính chất cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các người Do thái thực ra như thế nào?. Một điều hiển nhiên là những người Do thái không thể vươn lên tới trình độ của Chúa Giêsu hiện hữu và từ đó Người nói. Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều. Ngay lúc ấy, người Do thái chú ý đến Chúa, nhưng không phải là để đi theo vị sứ giả của Thiên Chúa, họ chỉ muốn trưng dụng Chúa vào mục đích tư lợi là thoả mãn các ước vọng thế tục của họ. Dụng tâm sâu sắc của họ ngược hẳn lại với dụng ý của Chúa Giêsu. Họ, họ muốn kéo Chúa về với họ trong địa hạt trần thế, còn Chúa Giêsu, Người lại muốn đưa họ lên cao đến trình độ Thiên Chúa. Trong công việc này, Chúa không áp dụng chính sách ngoại giao. Người quả quyết Người là ai, dầu cho dân Do thái chỉ muốn nhìn nhận nơi Người là người mà họ biết cha và mẹ, theo lời họ nói.
Để suy gẫm, chúng ta có thể từ bối-cảnh đó rút tỉa ra hai điều đặc biệt sau đây:
1) ‘Không ai đến được với Ta, nếu Cha là Đấng đã sai Ta, không lôi cuốn nó’.
Cần phải hiểu rõ lời ấy của Chúa Giêsu. Nó không có nghĩa là trong xã hội loài người, Thiên Chúa lôi kéo một số người này, gạt bỏ một số người khác. Thiên Chúa muốn cho hết thảy được cứu rỗi. Ngay từ lúc khởi sự, Thiên Chúa không tiên thiên chọn phần này của nhân loại và bỏ rơi phần kia. Người đã đặt vào thâm tâm mỗi người, bản năng nội tại, luôn hướng họ về với số mệnh mà con người tạo dựng. Bản năng thiêng liêng ấy mang nhiều hình thức, và chỉ có Thiên Chúa biết lúc nào trong cuộc đời con người, nó sẽ chỗi dậy trong lương tâm mỗi cá nhân. Chúng ta chỉ cần nhớ rằng hết thảy mọi chúng sinh-dầu cho có kẻ sống trên trần gian chỉ vỏn vẹn một giây phút-cũng đều được kêu gọi trở nên con Chúa. Ơn gọi ấy luôn diễn ra bên trong 1 cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Lời Chúa Giêsu phán ở trên có nghĩa là loài người tự mình bất lực để tiến đến cùng Chúa Giêsu, hết thảy không trừ một ai, phải nhờ Chúa Cha dẫn dắt mới đến được cùng Chúa Giêsu. Không ai đến cùng Đức Kitô do sáng kiến nhân-loại, nhưng mọi người chỉ có thể đến với Đức Kitô nhờ Chúa Cha. Mầu nhiệm của cuộc gặp gỡ giữa Đức Kitô với mỗi người, nói riêng không thể nào hiểu thấu được. Đối với chúng ta là những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, vấn đề được đặt ra là phải lo đi sâu vào đức tin. Nhưng bằng cách nào?
2) ‘Ai nghe và học lấy giáo huấn của Cha, thì đến cùng Ta’.
Chúng ta cần lưu ý, Chúa Giêsu phán các lời đóở thì hiện tại, chớ không phải ở thì đã qua. Vấn đề không phải là đã được nghe, đã được giác ngộ và đã đến được với Đức Kitô, sau đó mục tiêu được đạt tới. Đây là một thực- tế hiện hữu mà chúng ta phải bành trướng không ngừng. Điều quan trọng là hằng ngày chúng ta phải ở trong tình trạng nghe giáo huấn của Chúa Cha, học hỏi Lời Người và tiến đến cùng Chúa Giêsu.
Việc Chúa Giêsu đến với chúng ta trong đời sống là một thời sự nội tâm luôn luôn hành động, không hề dừng lại, không chấm dứt. Cũng vậy, hành động của chúng ta tiến tới Chúa Giêsu, cuộc ‘gặp gỡ với Chúa Giêsu’, đức tin, sự kết hiệp của chúng ta với Người, là một sự tiến bộ sống động luôn luôn vươn tới sự gia tăng về đức tin, về sự kết hiệp với Chúa. Vậy tìm đâu ra sinh lực nội tại để nuôi dưỡng sự tiến bộ tới cùng Chúa Giêsu?. Xin thưa, phải tìm nơi Bánh hằng sống, tức Thánh Thể.
16. Sẽ trường sinh nếu ăn Bánh Giêsu
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc, con người ở mọi nơi mọi thời vẫn hằng khao khát sống sống trường sinh bất lão. Vì khát khao vậy, nên người ta ra công tìm mọi cách để kéo dài sự sống bao nhiêu có thể. Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một thứ lương thực trường tồn là chính Chúa: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51).
Bánh trong sa mạc
Trên hành trình về Đất Hứa, qua sa mạc Sin, giữa Êlim và Sinai, dân Israel nổi loạn kêu trách Môsê đã dẫn họ ra khỏi Ai Cập để vào đây phải chết đói (x. Xh 16,3). Môsê đã xinThiên Chúa ban cho Manna từ trời xuống làm của ăn dòng dã 40 năm trường (x. Xh 16, 1- 36).
Đến lượt Êlia, người Tisbê, ở Galaad, sứ ngôn của Thiên Chúa, trong thời kỳ hạn hán không có mưa, có sương, Thiên Chúa đã dùng quạ ở thung lũng Cơrít và bà góa thành Xarépta nuôi ông (x. 1V 17, 1-15). Và trong cuộc hành trình đến núi Horeb của Thiên Chúa, ngài đã dùng chính Thiên Thần mang bánh đến cho ông ăn, nhờ “sức của nuôi ấy, ông đi bốn mươi ngày bốn mươi đêm mới tới Horeb, núi của Thiên Chúa” (1V 19, 8).
Cho dù là Manna từ trời xuống nuôi dân Israel trong sa mạc, hay bánh Thiên Thần mang đến cho Êlia nuôi sống người ta 40 ngày cùng lắm là 40 năm đi nữa, thì những thứ bánh đó cũng chỉ nuôi sống con người cách rất tạm bợ, kẻ ăn những thứ bánh ấy vẫn đói, vẫn khát và vẫn phải chết. Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta bánh bởi trời xuống là chính Chúa, Người đến làm no thỏa cái đói tinh thần con người, ai ăn chính Người sẽ khỏi đói muôn đời, và nhất là khỏi chết đời đời.
Bánh Giêsu
Thật không phải dễ để giúp những người Do thái thời Chúa Giêsu đón nhận Chúa là Bánh Hằng Sống, thứ bánh họ cần thiết phải kiếm tìm, và ăn không phải nhằm thỏa mãn thể lý trong một thời gian, nhưng còn để sống vĩnh viễn. Chính vì thế, từ phép lạ hóa bánh ra nhiều làm thỏa mãn cái đói thể xác của họ một cách lạ lùng, Người chuẩn bị họ đón nhận lời loan báo, Người chính là bánh từ trời xuống (x. Ga 6, 41) làm thỏa mãn một cách vĩnh viễn:“Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51).
Trong hành trình dài nơi sa mạc, toàn dân Do thái đã sống kinh nghiệm Manna, bánh từ trời xuống dưỡng nuôi họ cho tới khi vào đất hứa. Thật đáng ngưỡng mộ Thiên Chúa đã làm mưa Manna từ trời xuống mỗi ngày cho cha ông chúng họ ăn no thỏa thích. Đó là lý do tại sao người ta nói: “Bánh Thiên Thần phàm nhân được hưởng” (Tv 77, 25). Tuy nhiên, những người ăn bánh này trong sa mạc đều đã chết. Nay, Chúa Giêsu là bánh đích thực do Thiên Chúa Cha ban xuống từ trời, ai ăn sẽ khỏi phải chết muôn đời, bánh đó chính là thân mình Chúa Giêsu, Người quả quyết: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời”(Ga 6, 51). Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống, là hồng ân bởi trời, là chính Chúa ngự trên các tầng trời, có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi. Người là lương thực ban sự sống vĩnh cửu, bởi vì Người là Con Một Thiên Chúa, ở cung lòng Thiên Chúa Cha, đến để trao ban cho con người sự sống tràn đầy, dẫn con người vào trong chính sự sống của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã thất bại, gặp phải điều cấm kỵ trong dân Israel khi tuyên bố:“Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51). Người dẫn chứng: “Cha ông các ngươi đã ăn Manna trong sa mạc và đã chết”, khiến họ kêu trách: “Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: ‘Ta bởi trời mà xuống”(Ga 6, 42). Họ không vượt qua được các nguồn gốc trần gian, và vì thế họ khước từ tiếp nhận Chúa Giêsu như Lời nhập thể của Thiên Chúa. Và như một hệ quả, họ đã mang án tử để đi vào cõi chết vì không tin. Họ còn quá xa bánh bởi trời và không cảm thấy đói bánh ấy.
Phần chúng ta giờ này đây phải tự hỏi xem chúng ta có thật sự tin Chúa là bánh hằng sống, có cảm thấy đói Lời Chúa, đói bánh Giêsu không? Nếu chúng ta cảm thấy đói thực sự, chúng ta hay tin vào Chúa và để Thiên Chúa lôi kéo. Vì chỉ có ai được Thiên Chúa Cha lôi kéo, chỉ có ai lắng nghe Người và để cho Người dậy dỗ, mới có thể tin nơi Chúa Giêsu, găp gỡ Người và nuôi dưỡng mình bởi Người, và như thế tìm ra sự sống thật, tìm ra con đường sự sống, công lý, sự thật và tình yêu. Vì thật ra, ai ăn bánh hằng sống thì tin nơi Chúa, và ai tin thì ăn và trong một cách vô hình họ được no thỏa.
Ngày hôm nay, qua bàn tiệc Thánh Thể, Chúa Giêsu cũng mời gọi mỗi chúng ta hãy đến để đón nhận bánh ban sự sống, bánh bởi Trời đích thực là chính thân mình Người: “Đây là Mình Thầy”; “Đây là Máu Thầy”; “Ai tin và đón nhận sẽ được sống muôn đời”.
Xin cho mỗi người chúng ta có lòng tin yêu Chúa hiện diện nơi Bí Tích Thánh Thể, để qua việc lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa, chúng ta được sống trường sinh. Amen.
17. Thần lương độ đường
(Suy niệm của Lm. GB. Văn Hào SDB)
Trong cuộc sống đời thường, ai trong chúng ta cũng có lúc thành công, cũng có khi thất bại. Thành công mang lại cho chúng ta niềm phấn khích, nhưng thất bại dễ nhấn chìm chúng ta trong tuyệt vọng và chán chường. Hình ảnh của ngôn sứ Êlia được sách Các Vua phác vẽ trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay lột tả các trạng luống nhân sinh của đời sống con người. Ông đã chiến thắng ngoạn mục trên núi Car-mê-lô trước 450 tiên tri của thần Baal. Lời cầu khấn của ông đã được Chúa chấp nhận và cho lửa từ trời xuống đốt cháy lễ vật. Trong khi đó, môt đội quân đông đảo các tiên tri của Baal dài cổ kêu gào cả ngày mà không một thần linh nào đoái hoài tới. Sự thành công đó đã chứng minh Đấng mà ông tôn thờ là Thiên Chúa thật. Nhưng liền sau đó, gian nan ập đến. Hoàng hậu Idêven săn lùng và tìm cách giết ông, bởi vì bà ta bảo vệ cho tôn giáo thờ Baal. Thế là vị ngôn sứ phải lẩn trốn để lánh nạn. Ông lên đường ra đi trong tất tưởi và cay đắng. Ông hoàn toàn tuyệt vọng và muốn chết quách cho xong. Giữa sa mạc hoang vu, ông nằm vật xuống, đi sâu vào giấc ngủ và xin Chúa cất lấy linh hồn ông. Trong cơn thất vọng ê chề, vị ngôn sứ đã được Chúa sai thiên thần đến đem bánh và nước để ông tiếp tục cuộc hành trình tới núi Khô-rep.
Hình ảnh của Êlia là biểu trưng thân phận lữ hành của tất cả mọi người chúng ta. Biết bao lần chúng ta cũng bị bầm dập và tan nát giữa những bi thương của cuộc sống, tưởng chừng như bế tắc và sụp đổ hoàn toàn. Nhưng Thiên Chúa đã trao tặng một thứ lương thực kỳ diệu như đã ban cho Êlia năm xưa để giúp chúng ta độ thân trên con đường lữ thứ. Đó chính là Bánh ban sự sống, Bánh trường sinh, là thần lương cao quý nhất trong kiếp sống lữ hành trần thế hôm nay.
Một lần nữa trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta về lương thực kỳ diệu này. Ngài khẳng định: “Tôi là Bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ không phải chết.... Và bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống” (Ga 6,50-51)
Bánh thần thiêng
Cha thánh Gioan Maria Vianney đã miêu tả trong một bài giảng. Thuở ban đầu khi tạo thành vũ trụ, Thiên Chúa định liệu cho mọi sinh linh có đủ lương thực để tồn tại. Mọi thứ rau cỏ, thịt cá... được dọn ra ê hề như một mâm cỗ đầy ắp và mỗi loài có thể tự chọn những lương thực thích hợp để bảo tồn sự sống cho mình. Cuối cùng đến lượt con người, Thiên Chúa khựng lại và tự hỏi “ Ta sẽ ban cho họ lương thực gì đây? Bởi vì con người được dựng nên giống hình ảnh Ta, không chỉ có thân xác mà còn có cả linh hồn”. Thân xác thì đã có của ăn vật chất còn linh hồn thì sao? Cuối cùng, để tương xứng với vẻ đẹp của linh hồn con người vốn là họa ảnh của chính Thiên Chúa, Ngài đã quyết định trao hiến thịt và máu Người Con yêu quý để nuôi sống chúng ta, cho dù Ngài biết con người đầy tội lỗi và bất xứng.
Thiên Chúa đã phân thây xẻ thịt người con duy nhất để biểu tỏ tình yêu điên rồ của Ngài. Chính Đức Giêsu khải thị điều này trong câu chuyện nói với Nicôđêmô: “ Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một yêu dấu” (Ga 3,16). Tình yêu này quả rất điên rồ mà chúng ta không thể lý giải được. Đức Giêsu đã nói: “ Không có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của người hiến thân vì bạn hữu”. Đức Giêsu không phải là một lý thuyết gia, không phải là một nhà mô phạm chỉ nói bằng sáo ngữ trên đầu môi cửa miệng. Ngài đã hiện thực lời tuyên bố ấy qua chính cái chết trên thập giá. Thập giá Đức Kitô là câu định nghĩa tròn đầy nhất và sâu tận nhất về tình yêu mà Thiên Chúa muốn diễn bày. Đức Giêsu chính là tấm bánh được ban tặng, tấm bánh được nướng chín trong cuộc khổ nạn, tấm bánh đã được bẻ nát và được phân hủy để thông truyền sự sống cho chúng ta. “Bánh tôi sẽ ban chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
Hình tượng Thịt và Máu
Cách đây hơn 80 năm, có một đoàn di dân từ Âu châu đến Úc châu. Trong đám người du cư lang thang lếch thếch đó, người ta bỗng nghe tiếng khóc xé lòng của một đứa bé bên vệ đường. Lại gần, mọi người thấy một em bé còn đỏ hỏn đang giãy dụa nằm khóc thét bên cạnh mẹ nó. Người phụ nữ xấu số đã chết vì mệt nhọc và đói khát. Khuôn mặt hốc hác và tím tái của chị trông bất động và thật lạnh lẽo. Bầu vú của người đàn bà hầu như đã cạn kiệt. Nhưng kỳ diệu thay, đứa bé vẫn còn sống. Nó vẫn mân mê mút đầu ngón tay của mẹ nó, và những giọt máu hiếm hoi của người mẹ đã cứu sống đứa trẻ. Chính người mẹ với tình mẫu tử bất tận đã truyền những giọt máu cuối cùng của mình cho đứa con để nó được cứu sống. Bà đã chết, nhưng tình yêu cao cả khiến bà vẫn sống. Bà vẫn sống và sống mãi trong tâm hồn đứa bé thơ. Năm mươi năm sau, đứa bé đó lớn lên trở thành chủ tịch quốc hội nước Úc. Chính ông ta đã kể lại câu chuyện cảm động này, làm sống lại hình ảnh người mẹ đã hy sinh tính mạng để cho con bà được sống.
Ngày hôm nay Giáo hội cũng kể lại cho chúng ta nghe một câu chuyện tương tự giống như vậy. Câu chuyện hôm nay được kể còn hay hơn và thâm thúy hơn rất nhiều. Chính xác hơn, chính Đức Giêsu đang kể cho chúng ta câu chuyên này. “Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống”. Qua bài Tin mừng, Chúa Giêsu dẫn mời chúng ta dần dần đi sâu vào câu chuyện tình rất linh thánh mà chính Ngài thủ vai chính.
Câu chuyện Đức Giêsu kể hôm nay không phải là một câu chuyện hoang đường hay mang tính thần thoại. Nhân vật chính trong câu chuyện là chính Ngài, đấng là Thiên Chúa –Người, đã đến trần gian để viết nên một câu chuyện tình hay đẹp nhất và sâu xa nhất. Cảm nghiệm điều này, thánh giáo phụ Irênê đã viết: “Vì yêu thương, Thiên Chúa đã trở nên con người để khi chúng ta đi vào quỹ đạo tình yêu cùng với Ngài, con người chúng ta được trở nên Thiên Chúa.”
Canh bạc điên rồ
Một viên phi công từng chở công nhân Trung quốc sang Miến điện làm việc hồi thế chiến thứ 2 đã kể lại một giai thoại. Hồi đó những chuyến bay như thế thường rất dài và hành khách tỏ ra khá mệt mỏi. Các công nhân trên máy bay có nhiều thời gian rảnh rỗi và không biết làm gì nên rủ nhau đánh bạc. Đi vào vận đỏ đen, có kẻ thắng người thua. Người được tiền, kẻ trắng túi. Khi không còn tiền bạc mà máu đen đỏ vẫn còn, họ vẫn ham mê và đánh bạc bằng chính mạng sống của mình. Ai thua phải nhảy ra khỏi máy bay mà không có dù. Họ đã liều lĩnh và nhiều người đã lao vào canh bạc một cách hết sức điên rồ.
Nhưng có lẽ điên rồ hơn cả là canh bạc mà chính Thiên Chúa đang liều mạng dấn bước vào. Ngài dùng chính mạng sống Con Một yêu dấu để đánh bạc với chúng ta. Ngài phân thây xẻ thịt chính Đức Giêsu một cách điên rồ để cá cược với mọi người. Qủa là một sự liều lĩnh và táo bạo. Trong canh bạc này, Thiên Chúa thắng hay thua là do chúng ta quyết định. Bàn tiệc đã dọn sẵn và chúng ta là những thực khách được mời. Chúng ta có đến hay không đến, Thiên chúa vẫn để cho chúng ta tự do lựa chọn.
Kết luận
Chúa Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai tin thì có sự sống đời đời” (Ga 6,47). Tin là chấp nhận lao vào canh bạc của tình yêu và để cho Thiên Chúa thắng. Thánh Augustinô cũng nói: “ Tin là chúng ta ký sẵn một bản hợp đồng với Thiên Chúa trên một tờ giấy trắng. Chúa muốn viết gì trên trang giấy đó tùy ý Ngài.” Mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ, Giáo hội công bố: “ Đây là mầu nhiệm đức tin”. Chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta ơn đức tin để chúng ta luôn biết trải lòng mình ra lãnh nhận hồng ân ban tặng. Hồng ân được hiển thị rất cụ thể qua bữa tiệc linh thánh nhất mà chúng ta được mời tới tham dự. “Ai ăn thịt tôi sẽ được trường sinh” và “Ai tin sẽ được sự sống đời đời”. Đó là hai vế của một định đề duy nhất, diễn bày tình yêu sâu tận của Thiên Chúa. Đứng trước lời gọi mời này, thái độ của bạn, thái độ của tôi, thái độ của chúng ta phải như thế nào?
18. Còn hơn manna nữa – Jean Yves Garneau.
Thật dễ quên đi những điều đẹp đẽ nhất, phong phú nhất, sâu sắc nhất… và làm cho chúng trở nên tầm thường! Tình yêu được sống ngày này qua ngày nọ, không ồn ào. Người ta ít nhận ra nó, người ta không quý trọng nó đúng mức. Sức khỏe của chúng ta được xem như một điều quá bình thường… Vậy nói về nó làm gì? Những gì tuyệt vời trong thiên nhiên, người ta không còn nhìn thấy nữa. Có nhiều món trên bàn ăn, ba lần mỗi ngày, có gì tự nhiên hơn đâu? Tại sao phải tạ ơn vì những món ăn đó?
Người ta cũng quen với những thực tại thiêng liêng, thần thiêng và chẳng thiếu gì những lúc người ta còn xem những thực tại ấy là tầm thường nữa. Ta hãy nêu một ví dụ, đó là việc rước lễ. Một Chúa Nhật, hay có lẽ nhiều hơn nữa, chúng ta được đón tiếp tại bàn tiệc của Thiên Chúa. Bánh Thánh được trao cho chúng ta, chúng ta rước Mình Thánh Chúa. Sự sống của Con Một Thiên Chúa tràn vào tâm hồn chúng ta, thật không tầm thường chút nào!
Nhưng chúng ta rước lễ ra sao? Chúng ta quý trọng Thánh Thể như thế nào? Thánh Thể dùng để làm gì cho chúng ta? Thực sự, nguy cơ trở nên quen thuộc với Bánh Thánh thật là lớn, cũng như người ta quen thuộc với bánh người ta đặt trên bàn ăn gia đình mỗi ngày. Vậy phải phản ứng: Phải mở mắt ra. Hôm nay là dịp tốt để làm điều này, vì Tin Mừng nói với chúng ta về Bánh Thánh, cũng như hôm Chúa Nhật vừa rồi.
Bánh trong sa mạc: Tiền vị của Thánh Thể.
Để cho người ta hiểu giá trị của nó, Chúa Giêsu nhắc đến manna được ban cho dân Chúa trong sa mạc, Ngài nói: Bánh Thánh Thể vượt xa hơn manna nữa. Nó còn phong phú vô cùng hơn nữa.
Tuy nhiên manna đã là một cái gì lạ lùng rồi. Mỗi ngày khi thức dậy, người ta có thể đi nhặt bánh đó đầy giỏ. Vui thích biết bao được nuôi dưỡng bằng thứ bánh ấy! Không có nó không thể nào tiếp tục bước đi giữa sa mạc, ngày này qua ngày nọ, tiến về đất hứa được. Chính manna đã cứu dân Chúa trong sa mạc. Manna đã là một thứ bánh làm cho sống, một thứ bánh giải phóng.
Manna đối với người Do Thái như thế nào, thì bánh Thánh Thể đối với chúng ta cũng thế ấy. Và còn hơn nữa! Như Manna, Thánh Thể sẵn có cho chúng ta mỗi ngày. Được ban nhưng không. Được ban dư dật. Tuy có điều này đặc biệt: Sự sống mà bánh Thánh Thể ban không chỉ là thể lý, sẽ chấm dứt bởi cái chết, nhưng là sự sống vĩnh cửu. “Trong sa mạc, cha ông anh em đã ăn manna, và họ đã chết, nhưng bánh này từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ không chết… Họ sẽ sống đời đời”.
Lời khẳng định tuyệt vời. Chúng ta có sẵn một lương thực cho phép chúng ta sống mãi. Khi chúng ta tự nuôi dưỡng mình bằng Thánh Thể, chính là lúc chúng ta tháp mầm sống vĩnh cửu vào xác thịt của chúng ta.
Lý do được diễn tả cách rõ ràng. Bánh Thánh Thể không phải là một thứ bánh của trần thế. Đó là bánh từ trời xuống. Chứa đựng Đấng phát xuất từ thế giới của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói: Ta là bánh hằng sống từ trời xuống.
Qua trung gian bánh Thánh Thể, Chúa Kitô hiển thắng và Phục Sinh được ban cho chúng ta. Mình và Máu Ngài, được Chúa Thánh Thần biến đổi, đã được ban cho chúng ta. Những gì của Thiên Chúa đi vào lòng chúng ta, sự sống của Thiên Chúa được thông truyền cho chúng ta. Vậy nên nhờ bánh này, chúng ta đạt được khả năng sống đời đời.
Sự giàu sang lạ lùng! Sự phong phú lạ lùng của bánh Thánh Thể! Chúng ta phải coi chừng, đừng tầm thường hóa thứ bánh cao cả dường ấy.
19. Bánh Hằng Sống
(Suy niệm của An Phong, OP)
Người Do thái đã phản đối Chúa Giêsu khi Người nói mình là Bánh Hằng Sống bởi trời, vì họ chỉ nhìn thấy nơi Đức Giêsu là con ông Giuse, một con người như biết bao nhiêu người khác. Đức Giêsu hiểu được sự cứng lòng ấy; Người khẳng định người ta cần phải được Thiên Chúa giáo huấn, dạy dỗ để có thể đón nhận "Đấng Chúa Cha sai đến" vì "không ai đến được với Tôi nếu Cha là Đấng sai Tôi không lôi kéo họ"; và ai được lãnh nhận Bánh Chúa Giêsu ban là chính Thịt của Người thì mới có thể được sống muôn đời.
Đức Giêsu Đấng Thiên Sai từ trời xuống để trở nên Ơn Cứu độ cho con người. Người là Lời Thiên Chúa gửi đến để giáo huấn nhân loại; "phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì sẽ đến với Tôi" và Người là Bánh để nuôi dưỡng sự sống của Thiên Chúa trong nhân loại, "Bánh Tôi ban chính là Thịt Tôi để cho thế gian được sống".
Khi tham dự thánh lễ, chúng ta được mời gọi tham dự bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể Chúa.
Đối với những người tin, tức là những người gắn bó với Đức Giêsu, thì Lời của Người hướng dẫn họ trong cuộc sống trần gian, giúp họ đạt đến ơn cứu độ của Thiên Chúa. Cuộc sống trần gian có biết bao điều mờ tối, lừa gạt, cám dỗ; nên Thiên Chúa muốn ban Lời của Người để "hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ". Khi mở lòng ra lắng nghe Lời Chúa, để cho Lời Chúa chỉ dẫn những khi rối rắm. Gắn bó cuộc đời với Đức Giêsu, thì chúng ta bước theo đường lối của Thiên Chúa và tìm thấy bình an, hạnh phúc.
Đối với những người đón nhận Thánh Thể, Bánh mang lại sự sống đời đời, thì chính Đức Giêsu đến và biến đổi họ. Thánh Thể là nguồn nghị lực để chiến thắng cám dỗ của ích kỷ, là nguồn tình yêu để vuợt qua những gian nan trên hành trình sa mạc cuộc đời.
Dường như chúng ta vẫn chưa cởi mở và sẵn sàng đủ để lắng nghe Lời giáo huấn của Thiên Chúa? Dường như chúng ta chưa đón nhận Thánh Thể như một quà tặng của Tình yêu Thiên Chúa?
Lạy Chúa,
Trên con đường trần gian,
biết bao lần chúng con bị lầm lạc
vì chạy theo những loại "bánh hay hư nát".
Trên con đường trần gian;
biết bao lần chúng con cảm thấy mệt mỏi và chán nản
vì những trò đời.
Lạy Chúa,
xin cho chúng con biết tìm đến Chúa,
là Lời Giáo huấn khôn ngoan
và là Bánh Hằng Sống đời đời.
20. Bánh Trường Sinh
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Con người hay lầm lẫn giữa điều đã biết và điều chưa biết. Có những điều không biết mà nghĩ là biết. Trái lại có những điều biết mà nghĩ là không biết. Chính những ’nghĩ là’ tạo nên nhiều trăn trở trong cuộc sống. Nguy hiểm hơn cả khi trăn trở đó liên quan đến vấn đề tâm linh, đức tin.
Nguy hiểm vì niềm tin tôn giáo định hướng cuộc đời. Định hướng liên quan đến tương lai, liên quan đến cách xử thế trong xã hội, liên quan đến việc cá nhân thực thi đức ái và lối sống đạo.
Từ chối nhận
Đám đông theo Đức Kitô, nghe Ngài nói về bánh trường sinh, họ vui mừng đón nhận và xin thêm bánh đó. Đức Kitô dẫn họ tiến thêm một bước nữa Ngài nói,
‘Tôi là bánh từ trời xuống’
Đám đông đặt vấn đề, viện lí lẽ từ chối. Làm sao ông này có thể làm được điều đó. Định kiến ngăn cản họ mở rộng tầm mắt.
Định kiến thứ nhất phát sinh do tư tưởng. Theo họ Thiên Chúa ở tận trời cao, mây thẳm, con người không thể vươn tới.
Thứ hai Chúa là Thần Linh. Thần linh không thể trông giống và sống chung với người phàm. Định kiến này chối bỏ Chúa Giáng Sinh nơi hang đá Belem. Đồng thời phản bác hình ảnh Chúa đồng hành với dân Người trong vườn địa đàng trước khi tội vào thế gian. Định kiến thứ hai ảnh hưởng bởi tội lỗi, ngăn cản con người nhận biết Chúa.
Đám đông nhận biết Đức Kitô làm bánh hoá ra nhiều nhưng không công nhận Ngài là Thiên Chúa giáng trần. Dùng sức mạnh tập thể thế quyền lấn át thần quyền. Ngày nay nó xuất hiện dưới hình thức không công nhận linh mục này, phản đối linh mục nọ. Dù nhận hay không thiên chức vẫn là thiên chức. Thiên chức không do con người ban mà do ơn thánh, ơn thiên triệu. Từ chối ơn thánh là chấp nhận sống như kẻ vô thần.
Kiến thức, hiểu biết xóm làng là định kiến thứ ba dẫn đến phán đoán sai lầm về Thiên Chúa. Đám đông đơn thuần lập luận biết rõ gia đình, thân thích. Làm sao có thể nói ông là Thiên Chúa.
Căn bệnh tự mãn
Chúa Kitô gặp rắc rối không phải với những người xa lạ. Ngài gặp rắc rối với những người tự nhận là biết Ngài, rõ gia đình dòng tộc, xuất xứ, gốc gác con cái nhà ai, sanh tại đâu. Cha mẹ làm nghề gì. Chính những hiểu biết trần thế này làm mờ con mắt đức tin, ngăn cảm việc nhận ra Đấng ban bánh trường sinh. Sai lầm do tự mãn gây ra. Bởi tin điều đã biết là chính xác, không tìm hiểu thêm, không chấp nhận thay đổi. Tự mãn trở thành định kiến như đã phân tích trên.
Dùng hiểu biết, kiến thức trần thế để giải thích sự kiện trên trời là một cạm bẫy kẻ sĩ thường mắc phải. Kiến thức sâu rộng trần thế không bảo đảm người đó có kiến thức, hiểu biết nước trời. Kiến thức nước trời không thể đo bằng hiểu biết trần thế.
Nhìn bằng con mắt đức tin sẽ giúp nhìn rõ hơn. Để có con mắt đức tin thì cần phải có lòng tin, dù là rất nhỏ. Thiếu lòng tin, không thể bắt đầu việc tìm hiểu lẽ đạo. Có nghe Chúa giảng cũng không hiểu. Ăn bánh phép lạ xong vẫn còn đói. Đọc Phúc Âm mong có thêm kiến thức hơn là giúp ích cho lòng tin. Đức tin là bước đầu tiên, quan trọng, nền tảng chính trong việc nhận biết thế giới thần thiêng.
Cửa tâm hồn
Kiến thức được ví như cánh cửa sổ của tâm hồn, giúp nhìn vào khung trời bao la. Điều trớ trêu là nếu không biết mở sẽ xảy ra tình trạng mở khung trời này, cùng lúc lại đóng, che lấp khung trời khác.
Cả cánh cửa lẫn mắt nhìn đều có giới hạn riêng, tầm nhìn thu hẹp của người nhìn. Ngăn trở lớn là cùng xem nhưng kết luận khác nhau. Cùng nhìn vào khung trời có kẻ nhìn sót, kẻ nhìn không rõ. Kẻ chú trọng điều này, người quan tâm đến vật nọ. Kết quả cùng nhìn một bức tranh, đọc chung sự kiện mà nhiều ý khác nhau. Tương tự như bức tranh thiên nhiên. Cùng nhìn vào thiên nhiên vũ trụ mà có kẻ chối bỏ Thiên Chúa, kẻ tin thờ Thiên Chúa.
Cường điệu
Hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa hay xác định biết rõ Thiên Chúa. Cả hai cách nói đều cường điệu. Thực tế cho thấy kiến thức hạn hẹp; trí khôn nông cạn; nhìn sự việc phiếm diện, ngăn cản, hoàn toàn chối bỏ hay biết rõ về Thiên Chúa. Chưa biết rõ chính ta sao có thể biết rõ Đấng tạo dựng nên ta. Không hiểu ta và bạn thân sao có thể hiểu rõ Đấng dựng nên ta. Vì thế mọi khẳng định biết rõ hay hoàn toàn chối bỏ Chúa đều giả dối, cường điệu. Chối bỏ Thiên Chúa chính là chối bỏ tình yêu. Không có tình yêu, không có sự sống. Khi tạo dựng con người, Chúa đặt vào tâm luật biết lành dữ. Tội làm cho việc phán đoán này ra lu mờ.
Tin vào Chúa được Lời Ngài hướng dẫn, dẫn đưa ta tiến trên con đường lành, đường nhân đức, đường dẫn đến sự sống trường sinh.
Chối bỏ Chúa ta tự chọn đi con đường ác, dẫn đến diệt vong. Chối bỏ Chúa vừa là mây mù ngăn cản nhận ra Chúa, là chướng ngại ngăn cản người khác đến cùng Chúa, vừa cản trở việc Chúa muốn thực hiện.
Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi….. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh c.43
21. Nói thẳng về một sự thật sống động.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” - Charles E. Miller).
Đôi khi chúng ta cần nghe nói thẳng về một chân lý quan trọng, ví dụ như Thiên Chúa nhân lành; tội lỗi thì xấu xa, đơn giản là nhưng câu nói trực tiếp những gì thật sự là quan trọng trong đời sống làm cho chúng ta dừng lại hoặc làm chúng ta chú ý.
Trong hội đường Caphanaum Chúa Giêsu đã quyết định nói thẳng về bản chất của một sự thật cốt yếu. Ngài đã muốn cho những thích giả của Ngài chú ý. Ngài muốn cho chúng ta dừng lại để suy nghĩ về chân lý nơi những lời của Ngài.
Ngày hôm trước, Chúa Giêsu đã nuôi dưỡng đám đông dân chúng với năm chiếc bánh, Ngài đã trông đợi họ nhìn thấy phép lạ này như một dấu hiệu để Ngài trao ban cho họ một điều gì đó hơn nữa, một điều gì đó lớn hơn là bánh cho toàn thể thế giới. Ngài sẽ hiến tặng chính mình Ngài để làm của ăn thiêng liêng.
Những người lãnh đạo trong dân đã không hề chú ý tới những gì Chúa Giêsu đã hứa. Họ chỉ thấy Ngài là một người quá bình thường mặc dầu những dấu hiệu Ngài đã ban cho họ trong việc hoá bánh ra nhiều. Họ vẫn giữ ý kiến: “Ông này không phải là Giêsu con ông Giuse sao? Không phải chúng ta đã biết cha và mẹ của ông ấy sao?”
Chúa Giêsu đã nghe những lời bàn tán đồn thổi nhưng không hề giận về điều ấy và Ngài từ chối cúi mình, coi thường sự làm ngơ của họ. Ngài nhấn mạnh: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Hễ ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời.” Tiếp đó với lời lẽ đơn giản trực tiếp, một tuyên bố chứa đựng một chân lý cốt yếu cho đức tin Công Giáo của chúng ta, một lời loan báo được thúc đẩy bằng một sự quan tâm đáng yêu của một Thiên Chúa nhân lành. Một lời tuyên xưng của giáo lý mà nhưng người nam và những người nữ qua muôn thế hệ đã hiến dâng mạng sống mình để tử đạo, để bảo vệ một lời hứa đã tiết lộ tình yêu tuyệt vời nơi trái tim của Đức Kitô. Chúa Giêsu nói: “Bánh mà Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”.
Không có lời nào thẳng thắn hơn. Không có điều gì diễn tả một cách rõ ràng hơn. Tất cả đã không phải là một sự hùng biện. Chúa Giêsu không nói bánh thì giống như là Thịt của Ngài, điều đó sẽ gợi lên nhắc nhở đến thịt của Ngài. Ngài nói một cách rất rõ ràng: “Bánh mà Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”.
Chúa Giêsu đã làm viên mãn lời hứa của Ngài vào đêm trước khi Ngài chịu nạn. Vì các môn đồ của Ngài và các môn đồ kế tiếp đã đi theo Ngài, đang theo Ngài và sẽ theo Ngài đến tận cùng thế giới, Ngài đã thiết lập hy tế Thánh nhân, mọi người của mọi chủng tộc, mọi nền văn hoá, đã được kêu gọi tới bàn của Chúa chúng ta. Hạnh phúc biết bao cho những người được mời đến, và phúc cho những ai đã đáp trả lời mời gọi đó trong đức tin. Bánh và rượu với những hình thức bên ngoài của Thánh Thể, có vẻ quá bình thường, đơn giản trong đôi mắt của nhiều người nhưng đối với những người có đức tin, họ nhìn thấy đây là một đặc ân rất lớn lao vĩ đại từ Thiên Chúa qua Con của Người.
Chúng ta cầu nguyện xin lương thực này, chúng ta không phải chỉ xin thực phẩm duy trì sự sống của chúng ta trên mặt đất này nhưng còn là của ăn trên trời, thức ăn mà sẽ dẫn chúng ta tới sự sống đời đời. Chúng ta không làm điều gì lầm lạc, chúng ta tiếp tục trung thành với đức tin Công Giáo của chúng ta, bánh mà Đức Kitô đã ban chính là Thịt và Máu của Người để cho thế gian được sống.
22. Có ai thấy Chúa Cha đâu?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
KHÔNG PHẢI LÀ ĐÃ CÓ AI THẤY CHÚA CHA ĐÂU
Câu chuyện bánh ăn vẫn chưa tới hồi kết nhưng lại ngày càng trở nên gay cấn hơn. Các người Do Thái bắt đầu cảm thấy bực bội khó chịu; họ xầm xì – phản đối (xem Xh 15:24; 16:12; 17:3), nhưng lần này không còn xoay quanh vấn đề bánh đó là thức ăn gì, hay người nào cho ăn, mà tập trung vào vấn nạn, người cho ăn bánh đó từ đâu mà đến; “tại sao bây giờ ông ta lại nói: “tôi từ trời xuống?’ Qua cuộc tranh luận về ăn bánh này, Đức Giêsu đã đưa nhóm thính giả Do Thái, vốn có rất ít thiện cảm với Người, đi tới một kết luận hết sức bất ngờ: “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời”.
Câu khảng định gây ngạc nhiên trên cho các thính giả Do Thái khi cho biết một điều chưa từng được nghe ai nói tới bao giờ, đó là bất cứ ai thấy được Chúa Cha thì người đó sẽ có sự sống đời đời. Điều này trước hết hoàn toàn trái ngược với quan niệm phổ thông của người Do Thái đương thời; họ cho rằng, Đức Chúa, Chúa các đạo binh là đấng quyền uy cao cả vô song tới nỗi không ai có thể nhìn thẳng mặt Ngài được, nếu không muốn chết (xem Xh 19:21). Ngay cả các thiên thần, trong quan điểm của họ, cũng phải hãi sợ lấy cánh che mặt mỗi lần ra trước Thánh Nhan (xem Is 6:1-3). Đến cả Mô-sê từ đỉnh núi Si-nai đi xuống, sau khi đã nhận lãnh các bia đá giới luật, mặt ông còn phản chiếu vinh quang Đức Chúa chói lọi tới độ dân chúng không dám nhìn trực diện, buộc ông phải lấy mảnh vải thưa che mặt mình lại (xem Xh 34:29-34). Thế đấy, làm sao một Đức Chúa đáng khiếp sợ như thế lại có thể trở thành nguồn cứu rỗi, và nhân vật đã nhìn thấy Đức Chúa, rồi từ Ngài mà đến, lại có thể ban sự sống chứ không phải là cái chết cho con người? Chính vì suy nghĩ như thế mà sau này, khi Phi-líp-phê đại diện cho các tông đồ và những kẻ tin khao khát được nhìn thấy Cha và lên tiếng: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện!” (Ga 14:8) thì đó đã là cả một lời tuyên xưng đức tin rất can trường và hiếm có. Nếu đối với các người môn đệ - những kẻ tin đã là như thế, thì đối với những ai không tin, đương nhiên việc ao ước được nhìn thấy Đức Chúa uy hùng để rồi phải chết là điều không thể. Do đó câu khảng định tiếp theo của Đức Giêsu lại càng chói tai, càng khó chấp nhận hơn đối với nhóm cử tọa đa nghi: “Tôi là bánh trường sinh, bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết.”
Khi đồng hóa việc ‘nhìn thấy Cha’ - là điều không ai dám làm, với việc ăn bánh và tin vào Người Con, Đức Giêsu đã làm một mời gọi vô cùng táo bạo, vượt quá hết mọi giới hạn chấp nhận của người đương thời. Nó đòi dân chúng nói chung, đặc biệt đám thính giả Do Thái nói riêng, phải có khả năng chuyển dịch từ quan niệm về một Thiên Chúa quyền uy cao cả, xa cách và đáng khiếp sợ, để chấp nhận diện mạo đối nghịch về một Thiên Chúa gần gũi, thấp hèn và từ nhân. Điều này cũng giống như đòi các tín đồ Do Thái nhiệt thành phải bỏ hẳn lối hiểu biết về (hay niềm tin vào) Đức Chúa oai hùng của Mô-sê và các tổ phụ, để đặt trọn niềm tin vào một Thiên Chúa Nhập Thể biểu hiện nơi con người ông Giêsu quá tầm thường này, “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông chúng ta đều biết cả” (câu 42). Đơn giản họ không bao giờ có thể chấp nhận nổi điều này!
Đối với Kitô hữu chúng ta ngày nay, chính vì Mầu Nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể đã dần trở thành một ‘công thức’ quen thuộc, cho nên việc chấp nhận lời mời gọi ‘ăn bánh trường sinh’ cũng không còn là điều gì quá chói tai. Tuy nhiên cũng như mãi mãi Thiên Chúa Nhập Thể vẫn là một mầu nhiệm khó nuốt trôi, thì việc ‘ăn bánh hằng sống’ với tất cả niềm tin sâu sắc cũng chẳng dễ dàng gì. Bao lâu ta còn đặt nặng việc tôn thờ một Thiên Chúa quyền uy cao cả, bấy lâu ta còn chưa thể khai thác được tất cả sự phong phú của Mầu Nhiệm Nhập Thể; bao lâu ta chưa thể thuyết phục được mình, rằng yếu tính quan trọng nhất của Thiên Chúa chính là sự từ bi nhân ái và hay xót thương, bao lâu ta còn chưa chịu chấp nhận “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9) khi ngước nhìn lên Thập Giá, bấy lâu ta vẫn chưa thể bị thuyết phục rằng: “Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thế đó, Thánh Thể luôn là biểu hiện của một niềm tin sâu sắc nhất (mầu nhiệm đức tin) chính là ở điểm này!
Niềm tin của tôi vào Thánh Thể hệ tại ở điều gì?
Lạy Chúa, bao lâu con còn chu chu chắm chắm tôn thờ sự hiện diện uy nghi cao cả của Chúa sau mỗi lần rước lễ, bấy lâu con chưa thể chân nhận Chúa chính là ‘bánh bởi trời’ nuôi sống con. Con phải tôn thờ Chúa, nhưng là tôn thờ một Thiên Chúa thật gần gũi, khiêm hạ và tự hiến, sẵn sàng hiến thân mình làm của ăn nuôi con. Xin cho con biết chuyển dịch cách hữu hiệu niềm tin của con từ việc quá quan tâm tới sự toàn năng cao cả của Chúa qua việc nhấn mạnh trên lòng nhân từ xót thương của Người, đặc biệt trong những lần con được diễm phúc tiến lên rước Chúa. Amen.
23. Bánh trường sinh
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta là những khách lữ hành trên dương thế. Điểm tới của chúng ta là quê trời. Nhưng cuộc hành trình vừa dài lâu vừa vất vả. Chúa biết thế nên Ngài thương ban cho chúng ta thứ lương thực bồi dưỡng sức lực là chính Mình Ngài trong Bí Tích Thánh Thể.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy đến với Chúa, hãy sốt sắng rước Ngài vào lòng, để có sức tiếp tục cuộc hành trình của chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Xin Chúa thứ tha cho những lần chúng con ngã lòng, chua chát và phiền trách Chúa.
Xin Chúa tha thứ vì những lần mệt mỏi chán chường chúng con đã không chạy đến tìm sức mạnh nơi Chúa.
Xin Chúa tha thứ vì những lần chúng con rước lễ mà không đủ đức tin.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (1 V 19,4-8)
Sau lần ngôn sứ Êlia giết các sư sãi baal, ông bị hoàng hậu Giêsabel truy nã gắt gao. Ông phải chạy trốn lên núi Horép. Nhưng dọc đường vì quá mệt ông đã nằm ỳ xuống đất. Chúa sai thiên thần mang đến cho ông một chiếc bánh và một vò nước. Sau khi ăn uống xong, Êlia lấy lại sức và đi một mạch lên đến núi Horép diện kiến Chúa.
2. Đáp ca (Tv 33)
Thánh vịnh này của một tác giả đã từng gặp hoạn nạn, đã kêu xin Chúa và đã được Ngài cứu thoát. Một câu trong Thánh vịnh rất đúng với hoàn cảnh của ngôn sứ Êlia: "Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn".
3. Tin Mừng (Ga 6,41-51)
Hai ý tưởng then chốt của bài Tin Mừng này là "đến với" và "tin vào" Chúa:
Việc "tin vào" Đức Giêsu, thể hiện bằng việc "đến với" Ngài là kết quả của sự hợp tác của hai phía:
- Phía Thiên Chúa: Thiên Chúa ban ơn "lôi kéo" con người tin vào Đức Giêsu và đến với Ngài: "Không ai đến được với Ta nếu Cha Ta là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy" (câu 44). Thực ra, Thiên Chúa luôn muốn "lôi kéo" con người đến với Đức Giêsu để con người được sống. Nhưng con người ít ra phải ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa lôi kéo. Nhiều người Do Thái đã không ngoan ngoãn như vậy nên đã không đến được với Đức Giêsu.
- Phía con người: phải "nghe lời giáo huấn" của Thiên Chúa.: "Ai nghe lời giáo huấn của Cha thì đến với Ta" (câu 45). Mà Thiên Chúa thì luôn giáo huấn con người: "Trong sách các ngôn sứ có chép rằng mọi người sẽ được Thiên Chúa giáo huấn" (câu 45). Câu nói này ngầm trích dẫn Is 54,13. Mà đại ý chương 54 sách Isaia là kinh nghiệm của dân Israel vào cuối thời lưu đày: họ đã thấy rằng Thiên Chúa luôn quyến luyến con người như một người chồng quyến luyến vợ. Đó chính là giáo huấn mà Thiên Chúa đã ban cho Israel qua dòng lịch sử. Như thế, "nghe lời giáo huấn của Thiên Chúa" nghĩa là ý thức rằng Thiên Chúa luôn yêu thương mình.
Tóm lại, việc "tin vào" Đức Giêsu và "đến với" Ngài là điều Thiên Chúa yêu thương luôn tạo điều kiện để con người thực hiện được dễ dàng. Chỉ cần ngoan ngoãn phó thác vào tình thương Thiên Chúa thì con người có thể làm được.
4. Bài đọc II (Êp 4,30-32--5,2) (Chủ đề phụ)
Sau khi khuyên dạy các tín hữu phải cởi bỏ nếp sống cũ hồi còn là dân ngoại để mặc lấy nếp sống mới giống Đức Kitô (Chúa nhật 18), Thánh Phaolô giải thích rõ hơn về nếp sống mới: tha thứ cho những điều xấu người khác gây cho mình, và sống bác ái yêu thương. Có như thế kitô hữu mới trở thành hy lễ tựa hương thơm ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Bánh hằng sống
Bài đọc thứ I của Thánh Lễ hôm nay được trích từ sách Các Vua và kể về cuộc hành trình gian khổ của Tiên tri Êlia: Vì ông đã tiêu diệt thứ đạo đầy mê tín dị đoan mà bà Hoàng Hậu Jésabel đem vào nước nên ông bị Bà này thù ghét tìm giết. Do đó ông phải chạy trốn và định trốn lên tận đỉnh núi Horep. Nhưng đường quá dài và nhiều gian nan nên ông mệt mỏi, chán nản bi quan nằm đại xuống đường phó mặc cho số mạng tới đâu thì tới. Lúc ấy Chúa sai Thiên Thần đem đến cho ông một chiếc bánh và một bình nước. Ăn uống xong, ông cảm thấy khoẻ khoắn và lạc quan trở lại, đi một mạch suốt 40 ngày đêm lên tận đỉnh núi Horép.
Thứ bánh thần diệu đã bổ sức cho tiên tri Êlia chỉ là hình bóng của Thứ Bánh mà Đức Giêsu sẽ ban cho loài người, tức là Mình Thánh Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". Thực vậy, mỗi lần chúng ta rước lễ là ta được ăn chính Mình Thánh Chúa, và của ăn đó đem lại cho người rước lễ biết bao ơn quý giá.
Nhiều người đã từng ở tù sau khi về nhà đã thuật lại rằng cuộc sống trong đó thật là cực khổ, tinh thần xuống dốc, đâm ra bi quan, chán đời. Nhưng đối với những người công giáo, nếu thỉnh thoảng được Rước Mình Thánh Chúa thì họ cảm thấy được an ủi rất nhiều, dù sức chịu đựng những sự cực khổ, tinh thần vững vàng và còn lạc quan vui vẻ giúp đỡ những anh em khác nữa. Trong hoàn cảnh khốn đốn như thế, người ta mới thấy rõ Mình Thánh Chúa thực là của ăn cần thiết cho tâm hồn mình.
Còn chúng ta, hoàn cảnh của chúng ta dễ dãi, có lẽ chúng ta không thấy được sự cần thiết của Mình Thánh Chúa. Cũng giống như người ăn nhiều quá nên không còn biết ngon nữa, chúng ta cũng thế: chúng ta có thể rước Mình Thánh Chúa hằng tuần, hằng ngày nếu quá quen và quên để ý đến những giá trị vô cùng cao quý của Mình Thánh Chúa.
Mình Thánh Chúa là biểu hiệu của một sự gần gũi rất thân thiết và rất sẵn sàng: nghĩa là trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có thể rước lễ và được Chúa ở gần cạnh ta để an ủi, nâng đỡ, khích lệ ta. Trong cuộc đời chúng ta, có thể có những lúc chúng ta cảm thấy rất cô đơn, mọi người đều xa cách ta, kể cả những người thân thiết nhất cũng bỏ ta. Chỉ có Chúa là không xa ta, không bỏ ta,. Ta rước lễ là được Mình Thánh Chúa đến ở trong lòng ta, gần thật gần, thân thật thân, và Chúa sẽ an ủi nâng đỡ khích lệ ta.
Mình Thánh Chúa còn là biểu hiệu của một sự trao hiến trọn vẹn đầy yêu thương: Yêu thương là cho đi. Rước Lễ là một cuộc gặp gỡ giữa hai người yêu nhau trao quà tặng cho nhau. Đức Giêsu trao tặng chúng ta cái quý giá nhất là chính thân xác của Ngài. Còn chúng ta cũng trao cho Chúa những cái quý nhất của chúng ta: Những việc bác ái chúng ta đã làm được, những hy sinh chúng ta đã chịu và cả những tâm sự buồn phiền ray rứt đang dằn xé tâm can ta.
Mình Thánh Chúa còn là biểu hiệu của một sự hiện diện đầy quyền năng của một vị lãnh tụ của chúng ta. Đó là khám phá của một nhà trí thức Ấn Độ, ông Chidambaram. Là một người trí thức luôn đi tìm chân lý hoàn hảo nhất, ông khởi sự đi tìm trong nghề là báo, nhưng sau đó ông thấy rằng nghề báo cũng dầy dẫy những sự gian dối. Ông theo đạo Bàlamôn và là một tín đồ nhiệt thành, nhưng ông cũng không thoả mãn,. Ông sang Ấn giáo vì cho rằng Ấn giáo là thứ đạo Bàlamôn được cải tiến tốt đẹp hơn. Dù vậy ông cũng thất vọng. Cuối cùng ông gia nhập đạo Công giáo, ông thấy thoả mãn và trung thành với Đức tin công giáo cho đến hơi thở cuối cùng. Vậy cái gì trong Công giáo đã làm thoả mãn khát vong của ông? Thưa chính là Phép Thánh Thể. Ông đã nhận thấy rằng việc Đức Giêsu hiện diện thật sự trong Mình Thánh Chúa, và khi rước lễ chính Đức Giêsu đến ở thật sự trong lòng các tín hữu là một điều quý giá vô cùng mà không một tôn giáo nào trên khắp thế giới có được. Thần thánh của các tôn giáo kính vị viễn chi (nghĩa là kính nhưng mà phải ở xa xa). Còn trong đạo Công giáo, nhờ có bí tích Mình Thánh Chúa, Đức Giêsu ở thật gần với tín hữu của mình, thấu hiểu hết mọi tâm tư nguyện vọng của mình, thông cảm với mọi nỗi khó khăn của mình, và nâng đỡ thêm sức hướng dẫn mình trong từng chi tiết từng biến cố trong đời sống mình. Mình Thánh Chúa quả là một sáng kiến vô cùng thông minh của quyền phép Thiên Chúa và cũng là một ơn vô cùng cao quý cho con người.
Nếu mỗi lần chúng ta rước lễ mà chúng ta hiểu được, cảm được và sống được những tâm tình như vậy thì chắc chắn Mình Thánh Chúa sẽ trở thành một thứ lương thực bổ dưỡng cho linh hồn chúng ta, đúng như Lời Chúa phán trong bài Tin mừng hôm nay: Ta là bánh hằng sống bởi trời xuống, ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời.
* 2. Bánh hằng sống
Trong kho tàng văn hóa Việt Nam có chuyện "Thoại Khanh Châu Tuấn". Đó là tên của hai vợ chồng trẻ. Nhà họ nghèo, lại phải nuôi một người mẹ già yếu. Nhưng người vợ trẻ hy sinh chịu cực khổ làm lụng để cho chồng học hành đi thi, rồi đến ngày người chồng từ giã mẹ và vợ lên đường về kinh đô ứng thí. Rủi là trong lúc đó gia đình lâm cảnh đói rách rất thê thảm, người mẹ già đói quá sắp chết. Người vợ trẻ đã cam đảm lấy dao lóc thịt mình để nuôi mẹ chồng. Nhờ đó mà người mẹ già mù loà có thể sống được cho tới ngày con trai đổ đạt vinh quy về nhà.
Câu chuyện cổ tích tưởng tượng trên cũng cảm động như câu chuyện thực sự diễn ra hàng tuần, hàng ngày trong Thánh Lễ: Đức Giêsu lấy chính Thịt Máu Mình để nuôi sống linh hồn chúng ta: "Ta là bánh hằng sống".
Nhưng phải thú nhận ngay rằng: Khi nghe câu chuyện Thoại Khanh Châu Tuấn ta thấy cảm động, còn khi nghe câu "Ta là bánh hằng sống" chúng ta thấy vẫn trơ trơ. Tại vì tai ta đã nghe câu đó quá thường rồi. Thực ra, đây không phải là một câu nói bóng bảy văn chương, mà là một sự thật: Mình Thánh Chúa thực là một thứ của ăn có sức bổ dưỡng thần diệu:
1/ Ngày xưa tiên tri Êlia bị bà hoàng hậu Giêzabel gian tà hung ác săn đuổi. Ông quá mệt mỏi đói khát, nằm vật xuống đất chỉ chờ chết đi. Nhưng Thiên Chúa sai một Thiên Thần đem lại cho ông một chiếc bánh nhỏ,. Ông ngồi dậy ăn vào và có sức đi suốt 40 ngày tới đỉnh núi Carmel hội kiến với Thiên Chúa. Đó chỉ là một hình bóng của Cựu Ước thôi, huống chi thực tại Rước Lễ của Tân Ước còn có sức bồi dưỡng đến mức nào!
2/ Tin Mừng cũng kể rằng có lần dân chúng tấp nập đón Đức Giêsu đi ngang qua những người bệnh tật cố sức chạm tới mình Ngài, rờ tới gấu áo Ngài, hay ít ra được bóng Ngài che phủ lên mình thì lập tức bao bệnh hoạn liền biến mất. Huống chi ngày nay chúng ta được Rước chính Mình Thánh Chúa vào kết hợp mật thiết với thịt máu ta, hoà tan trong thịt máu ta.
3/ Tục ngữ VN chúng ta có câu "Trời đánh tránh bữa ăn": khi cùng dùng cơm chung với nhau một bàn, người ta phải dẹp bỏ mọi xích mích để cố hòa hợp đoàn kết với nhau. Bữa ăn thường còn thế, huống chi bữa ăn thánh của những người cùng là con cái Chúa và anh em với nhau.
Những so sánh nho nhỏ trên cho ta thấy rằng Mình Thánh Chúa thật là một thứ bánh hằng sống có thể thêm sức cho chúng ta trên con đường dương thế, có thể tẩy xoá mọi yếu đuối bệnh tật trong linh hồn chúng ta và có thể giúp chúng ta đoàn kết yêu thương nhau.
Nhưng thực tế là chúng ta đã rước lễ biết bao nhiêu lần mà vẫn chẳng thấy ích lợi bao nhiêu. Chính các tông đồ cũng vậy: Thánh Lễ đầu tiên do chính Đức Giêsu cử hành trong nhà Tiệc ly, tất cả 12 tông đồ đều rước lễ, nhưng sau đó đâu phải tất cả 12 đều được thánh hóa: Giuđa vội ra đi tính việc bán Chúa, Phêrô sau đó đã chối Chúa 3 lần, chỉ có Gioan là vẫn theo sát bên Chúa trên đường tử nạn.
Thực ra cũng chẳng có gì là khó hiểu: như một dĩa thức ăn thật bổ dưỡng, nhưng nếu người ta mà không tiêu hóa thì cũng vô ích thôi, có khi còn sinh ra trúng thực hay bội thực nữa. Nếu chúng ta rước lễ thường xuyên mà chẳng được ích lợi thì không phải tại Mình Thánh Chúa mà tại chính chúng ta. Vì thế cũng cần xét lại cách chúng ta rước lễ như thế nào. Xin đưa ra một vài mẫu gương để chúng ta cùng chiêm ngắm:
1/ Các tín hữu sơ khai gọi Thánh Lễ là tiệc bẻ bánh: Khi tới nhà thờ, mọi người đều cố gắng đem phần bánh của mình đến. Người nghèo đem ít, người giàu đem nhiều, kẻ túng thiếu có khi không mang gì hết. Chủ tế thu nhận tất cả rồi truyền phép biến bánh thành Mình Thánh Chúa. Sau đó mọi người chia đều nhau, ai có phần nấy, lại có một số phần để dành đem chia cho những người giả cả yếu đau không thể tới dự nghi lễ bẻ bánh. Người ta đã đến dự lễ với tấm lòng quảng đại, với trái tim yêu thương đùm bọc nhau. Kết quả là họ đạo trở thành một tổ ấm khiến lương dân phải trầm trồ khen ngợi "Kìa xem họ thương yêu nhau đến mức nào".
2/ Tới thời Rôma bị bắt đạo, các tín hữu phải ẩn trốn trong các đường hầm ở ngoại ô gọi là những hang toại đạo. Họ cử hành Thánh Lễ trên mồ chôn các thánh tử đạo. Họ dâng lễ bằng chính những hy sinh gian khổ của họ đang chịu vì Chúa, và họ rước lễ như rước lấy nghị lực của Đấng cũng đã từng chịu nạn chịu chết như họ. Và kết quả là họ đã có một đức tin kiên vững, gian lao không sờn, chết chóc không nản, hận thù không giết chết trái tim yêu thương của họ. Ngày nay trong các hang toại đạo, du khách vẫn còn thấy vẽ những hình về Bí tích Thánh Thể như những đĩa bánh, những chùm nho, những con cá... và những câu tràn đầy yêu thương tha thứ tin tưởng như sau: "Bình an", amor "tình yêu thương", Christus vincit "Đức Kitô chiến thắng"...
Đường đời chúng ta như một cuộc lữ hành gian nan nhọc mệt.
Cuộc đời chúng ta như một cuộc chiến đấu cực khổ đau thương.
Cuộc sống chúng ta với người khác nhiều khi bực bội như hoả ngục.
Đức Giêsu muốn giúp chúng ta, nên Ngài đã hiến thân làm bánh hằng sống để ban nghị lực cho chúng ta có thể đi trọn đường dài, ban ơn nâng đỡ cho chúng ta chịu đựng những khổ đau, ban thêm tình thương để chúng ta sưởi ấm lòng mình và sưởi ấm lòng những kẻ sống với mình.
Nhưng chúng ta cũng phải cố gắng giúp chính chúng ta nữa bằng cách tham dự Thánh Lễ và rước lấy thứ Bánh Hằng Sống đó một cách sốt sắng. Rước Lễ sốt sắng là có dọn mình trước khi dự lễ, kết hợp sâu xa với Ngài đã ngự vào lòng ta, và sau đó cùng đồng hành với Ngài bước vào cuộc sống với tâm tình lạc quan, yêu thương, quảng đại.
* 3. Bí quyết trường sinh (Ga 6,41-51)
Tần Thủy Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng Sinh khoảng 200 năm. Ông là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2.000 dặm. Đó là kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư ở đấy đã khám phá ra bí quyết trường sinh.
Tần Thủy Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường, hy vọng đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ.
Thế rồi ông lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga rộng lớn, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân Hà, lấy vàng bạc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống ấy chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết đi.
***
Trường sinh bất tử là ước mơ ngàn đời của con người. Cứ mỗi lần một người thân giã từ cõi thế, thì ước mơ được sống mãi lại càng dày vò con người dữ dội hơn. Nên không lạ gì khi Đức Giêsu nói về cuộc sống trường sinh thì mọi người tuôn đến như đi tìm kho báu.
Nhưng mầu nhiệm về "Sự sống đời đời" lại rất xa tầm trí mọn của đám dân chúng. Đức Giêsu không giúp họ thoát khỏi cái chết của thân xác, vì chính Người cũng vui lòng chết như mọi người. Nhưng Người cứu họ thoát khỏi cái chết của linh hồn: cái chết vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa và hoàn toàn ly biệt với tha nhân, cái chết đi vào trầm luân muôn kiếp, cái chết dẫn đến cõi tiêu diệt muôn đời.
Cuộc sống vĩnh cửu ấy, hôm nay Đức Giêsu đã mạc khải: "Ta là Bánh ban Sự Sống... Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời" (Ga.6,47). Vậy bí quyết trường sinh mà Tần Thủy Hoàng khó nhọc đi tìm kiếm tận các đảo thần tiên, lúc nào cũng hiện diện trước mặt chúng ta, trong mọi thánh đường Công giáo. Chính là Đức Giêsu nguồn mạch trường sinh.
Người đang hiện diện với chúng ta bằng thần trí Người: "Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ" (Mt.18,20).
Người còn hiện diện với chúng ta qua Lời Chúa. Lời mà Người nói cách đây 2000 năm cũng chính là Lời Người đang nói với chúng ta trong tin mừng.
Người hiện diện với chúng ta qua các linh mục trong lúc giảng dạy và trong khi cử hành các Bí tích: "Ai nghe các con là nghe Ta" (Lc.10,16).
Đặc biệt Người hiện diện thực sự với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể: "Ta là bánh hằng sống... Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời" (Ga.6,52).
Như vậy, "Sự sống đời đời" không phải là chuyện viễn vông xa vời, nhưng là một thực tại đang triển nở trong đời sống người tín hữu. Mỗi thánh lễ là một bàn tiệc nuôi dưỡng linh hồn đưa ta về chốn trường sinh.
***
Lạy Đức Giêsu, như Tấm Bánh Thánh xin cho tâm hồn chúng con nên trong trắng, cố xa tránh những ô uế cho dù nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa.
Xin cho tâm hồn chúng con nên khiêm hạ nhỏ bé, nhưng luôn bày tỏ một tình yêu lớn lao.
Và cho tâm hồn chúng con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen.
(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 4. Mất tinh thần
Bài đọc I kể chuyện ngôn sứ Êlia. Ông đã từng can đảm dám một mình chống lại hoàng hậu Giêsabel và giết hết tất cả các sư sãi của bà này. Nhưng sau đó, bị bà này truy bắt, ông phải chạy vào sa mạc. Cuộc trốn chạy quá vất vả khiến ông chán nản không muốn tiếp tục nữa. Ông ngồi bẹp dưới gốc một cây kim tước. Ông còn xin Chúa cho ông chết đi cho rồi: "Lạy Chúa, đủ rồi. Bây giờ xin Chúa lấy mạng con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông con".
Tâm trạng Êlia lúc đó là mất tinh thần. Khi ta mất tinh thần thì ta mất nguồn sức mạnh lớn nhất, bởi vì tinh thần đối với con người cũng giống như đôi cánh đối với loài chim, và như bộ rễ đối với loài cây vậy.
Ngay cả những nhân vật anh hùng cũng có lúc cảm thấy mệt mõi, yếu đuối và thất vọng. Nhưng không phải vì thế mà họ không còn là anh hùng. Đúng hơn, những lúc đó cho thấy họ thực sự là người. Chính Đức Giêsu cũng từng trải qua những giây phút như thế trong vườn Cây Dầu.
Nhiều người không thể chấp nhận những giới hạn do thân phận làm người của mình. Họ muốn tỏ ra lúc nào cũng mạnh. Họ cho rằng họ sẽ bị mất mặt nếu để cho người ta thấy được sự yếu đuối và sợ hãi của mình. Nhưng sự thực không phải thế. Người ta sẽ cảm động và sẵn sàng giúp ta khi thấy ta cũng là người giống như họ. Như lời Picasso nói: "Lòng bạn sẽ tràn ngập cảm thông khi bạn nhận ra rằng trong mỗi người có cả một nguồn nước mắt".
Có người còn cho rằng cảm giác yếu đuối đó không xứng với người có đức tin. Nhưng thực ra, yếu đuối đâu có gì ngược với đức tin. Vả lại làm sao ta có thể được giúp đỡ nếu ta không thấy mình cần được giúp đỡ?
Chúa sai một thiên thần mang đến cho Êlia bánh và nước. Nhờ thứ lương thực này, Êlia được bổ sức và đi một mạch đến núi Horép, núi của Chúa. Thực ra, tình trạng yếu đưối trước đây của Êlia không phải chỉ do thiếu lương thực mà do mất tinh thần. Bây giờ cũng thế, ông được hồi sức không phải chỉ vì có lương thực, mà còn do lấy lại được tinh thần: Ông được bảo đảm rằng Chúa luôn ở cùng ông. Chính sự bảo đảm này đã đem lại cho Êlia một nguồn sống mới và giục giã ông lên đường.
Chúng ta cũng đang hành trình lên núi Chúa, tức là sự sống đời đời. Nhiều lúc chúng ta cũng cảm thấy yếu đuối mệt mỏi. Cho nên chúng ta cũng cần được giúp đỡ; những sự giúp đỡ của anh chị em tín hữu trong cộng đoàn, và nhất là sự giúp đỡ của Chúa. Sự giúp đỡ của Chúa chính là ý thức có Chúa ở với ta và hằng yêu thương ta. Như Êlia, chúng ta cũng cần bánh. Bánh ban sức mạnh chính là Mình Thánh Chúa trong bí tích Thánh Thể. Bánh Thánh thể được gọi là Viaticum, "lương thực đi đường". (Viết theo Flor McCarthy).
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã nhắc đi nhắc lại rằng: "Tôi là bánh từ trời xuống... không ai thấy Chúa Cha, chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha". Chúng ta hãy tin tưởng cầu xin với Người:
1. Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn tin tưởng và tuyên xưng rằng / Đức Giêsu Kitô là Đấng từ trời đến / là Con Chúa Cha ở trên trời, và là Thiên Chúa làm người / Đấng cứu độ duy nhất ở trần gian.
2. Xin cho mọi nhà cầm quyền và mọi người theo các tôn giáo khác / được nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ mà Chúa Cha sai đến / để giải thoát và cứu độ tất cả mọi người.
3. Xin cho mọi người chưa nhận biết ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô / được Chúa Cha lôi kéo đến với Người / để Người ban cho họ lương thực nuôi cả xác hồn.
4. Xin cho anh chị giáo hữu trong xứ đạo chúng ta luôn siêng năng dự lễ và rước lễ / để lãnh nhận lương thực bởi trời / mà chu toàn bổn phận mình trong cuộc hành trình về Nước Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa chúng con cảm tạ Chúa là Cha yêu thương đã ban cho chúng con bánh từ trời xuống là Đức Giêsu Kitô. Xin cho chúng con luôn được nuôi dưỡng bằng Bánh bởi trời, để chúng con luôn có sự sống muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi chúng ta đọc "Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày", chúng ta đừng chỉ xin cơm bánh vật chất, nhưng hãy xin Chúa ban cho chúng ta chính bản thân Ngài, để Ngài đồng hành với chúng ta luôn mãi trong cuộc đời.
- Trước lúc rước lễ: Ngày xưa ngôn sứ Êlia đã được ăn bánh Chúa ban, nhờ đó có sức lên núi Horép gặp Chúa. Chút nữa đây chúng ta sẽ được rước chính Mình Thánh Chúa. Xin cho thứ lương thực thần thiêng này bồi dưỡng sức khoẻ tinh thần cho chúng ta trong cuộc lữ hành dương thế.
VII. Giải tán
Chúng ta đã có Chúa trong lòng. Hãy lạc quan trở về cuộc sống và cùng sống với Chúa trong từng phút giây.
24. Lời hứa về Sự Sống
(Suy niệm của Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Có một thứ bánh khác
Tiếp tục diễn từ về Bánh trường sinh, vị Hoàng Tử sự sống mặc khải một mầu nhiệm thật khó tin: "Tôi là Bánh ban sự sống, bánh tiêu diệt sự chết."
Lời loan báo này dựa trên một biến cố huy hoàng: năm chiếc bánh được hoá nên nhiều, làm cho cả đám đông được ăn no. Các thính giả coi biến cố này là một cử chỉ của một vị ngôn sứ, của một ông vua. Họ nghĩ rằng, cuối cùng, Đức Giêsu là vị thủ lãnh, chỉ nhờ quyền năng của lời, đã có thể nuôi đám đông đang bị đói, đồng thời hiệp nhất cả đám đông. Phải tôn Người làm vua, không chờ đợi gì cả. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối, Người trốn đi một mình.
Sau đấy, Người đã tuyên bố chính Người là bánh trường sinh, và cố gắng giải thích điều lạ lùng này cho dân chúng.
Quả thật, Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống, quy tụ những kẻ theo Người thành một dân. Bánh này không chỉ là man-na Đức Chúa ban cho dân đang ở trong hoang địa thuộc giao ước cũ. Bánh này chính là Thiên Chúa tự hiến thành của ăn, của ăn đàng, tức là lương thực cho người đang hành trình. Thiên Chúa trở thành bánh cho con người: một mặc khải tuyệt vời, hoàn toàn vượt quá óc tưởng tượng của các thính giả.
"Tôi là bánh trường sinh."
Lời tuyên bố không thể chấp nhận nổi.
Để hiểu trọn vẹn ý nghĩa sâu xa của mặc khải này, người ta không thể tách rời diễn từ về bánh trường sinh với những điều Đức Giêsu thực hiện trong bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng. Trong cả hai trình thuật này, có ba thực tại luôn đan kết với nhau như là những yếu tố của một mầu nhiệm duy nhất: bánh, đức tin và sự sống - Ăn, tin và chiến thắng sự chết.
Với cuộc phục sinh, Đức Ki-tô sẽ thực hiện việc hoá bánh ra nhiều đích thực: không chỉ là bánh ăn thông thường, nhưng là bánh ban sự sống. Từ nay, qua các buổi cử hành lễ tạ ơn, dấu chỉ này về cuộc phục sinh - tức là bánh ban sự sống luôn có tính hữu hiệu và có chiều kích phỗ quát. Nó không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian. Hai mươi thế kỷ sau, một Charles de Foucauld trong sa mạc Tamanrasset, hay bất cứ một vị linh mục nào, cũng đều thực hiện cử chỉ kỳ diệu này, cử chỉ đem lại sự sống, bắt đầu từ lời và hành động Đức Giêsu đã thực hiện.
Quả thế, mổi thánh lễ vẫn là một lời khẳng định dứt khoát rằng quyền lực tử thần không thể là tiếng nói cuối cùng. Lời khẳng định này được nói lên khi các Ki-tô hữu đang cùng nhau chia sẻ tấm bánh và chén rượu là Mình và Máu Đức Ki-tô, mặc dù họ vẫn đang bị cầm giữ trong thân xác, vẫn đang bị cơn đói hành hạ và vẫn đang bị cái chết đe doạ. Từ giữa những bóng tối của cuộc đời, họ cử hành mầu nhiệm về bánh ban sự sống và nhờ đó họ có thể dần dần thoát ra khỏi quyền lực của sự chết.
Có lẽ các Ki-tô hữu cần suy gẫm câu nói của Bernanos: "Ki-tô giáo của chúng ta đặt nền tảng trên tình yêu... Chúng ta yêu quý sự sống, chúng ta tin vào sự sống. Chúng ta biết rằng sự sống ấy không lừa dối chúng ta, và các lời hứa về sự sống sẽ không phai tàn."
Phải tin mới hiểu được
Đức Giêsu vừa tuyên bố Người là bánh ban sự sống và các địch thủ từ chối bước theo Người vào trong lãnh vực Người muốn đưa họ vào. Theo họ, Đức Giêsu chỉ là một người khoa trương: "Chúng tôi biết rõ ông ấy." Tóm lại, họ muốn lôi Người vào trong những sắp xếp của họ. Theo họ, Đức Giêsu chỉ là con ông Giu-se. Thế thôi... chấm hết.
Thế nhưng, Đức Giêsu vẫn tiếp tục nhấn mạnh tính cách nghịch thường của những khẳng định Người đã nêu ra, đồng thời tố cáo quan niệm của các đối thủ. Quan niệm này chỉ là những suy nghĩ bình thường của con người, chứ không phải là quan điểm của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đề nghị họ phải thay đổi nhãn quan, thay đổi cách nhìn - có thể nói như thế - và đó là đức tin.
Biết bao lần người ta giản lược đức tin thành một chuổi những khẳng định cần được lặp lại mà không cần hiểu. Người ta tưởng rằng như thế là đủ và tự nhận mình thuộc về một nhóm ưu tuyển và do đó có quyền được thưởng. Người ta đâu biết rằng khi quan niệm như thế, họ đã biến đức tin thành một hành động mà không có sự tham dự của lý trí.
Theo Đức Ki-tô, đức tin là sức mạnh đem lại sự sống và mở ra những nhãn quan diệu kỳ. Đức tin không đề ra những câu trả lời trực tiếp cho những vấn đề của con người, nhưng làm thay đổi quan niệm, cách nhìn vấn đề của họ. Đức tin cho họ thoáng thấy một thứ ánh sáng mà họ sẽ không ngừng tiếp cận. Nhờ ánh sáng này, người tín hữu bước đi, khám phá và sống.
Như vậy, đức tin là ân huệ Thiên Chúa ban. Nó không đến do lý luận hay do nôỵ lực của ý muốn con người. Chỉ có thể hiểu được đức tin khi chấp nhận đó là kết quả của ân ban. Dĩ nhiên, nỗ lực và thiện chí của con người sẽ giúp phần nào tiến trình này, nhưng cuối cùng, đó là chấp nhận mở ra trước ánh sáng được bày tỏ cho mình.
Chỉ có đức tin như thế mới giúp hiểu Đức Giêsu là bánh ban sự sống đích thực. Đức tin ấy đưa con người tham dự cách trọn vẹn vào mầu nhiệm hiệp thông, vào cuộc trao đổi. Ai hiểu được điều này, người ấy đạt được sự sống vĩnh cửu, bởi vì họ hiểu được thực tại sâu xa của tình yêu, một tình yêu mà ngay cả đến sự chết cũng không tiêu diệt được. Nói thế, vì tình yêu chính là nền tảng của thực tại.
Để cho Thiên Chúa lôi kéo
Giữa Đức Giêsu và các thính giả, có một khoảng cách khá xa, hay nói đúng hơn, một sự hiểu lầm.
Trước khi tự nhận là bánh trường sinh, Đức Giêsu đã muốn chia sẻ hương vị bánh của con người: ba mươi năm chuẩn bị với những bữa ăn hằng ngày, những bữa ăn trong ngày tang chế cũng như trong những ngày vui; ba mươi năm để cố gắng giúp con người hiểu được đâu là cơn đói thực sự, đổng thời làm cho họ nhận ra của ăn chính yếu Người trao tặng cho họ. Ba mươi năm để rổi nghe được một nhận xét đầy mỉa mai: "Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giu-se đó sao? Sao bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống.""
Tâm hồn của người không tin, có lẽ cũng là của chúng ta, đó là chỉ nhận ra Đức Giêsu là người chia sẻ bánh của con người chứ không muốn đón nhận Người là Đấng qua tấm bánh, muốn chia sẻ cuộc sống của chính họ. Dường như chúng ta chỉ muốn lãnh nhận bánh từ tay Đức Giêsu, chứ không muốn đón nhận chính Người.
Đàng khác, chúng ta thường có thói quen giản lược hành trình tôn giáo vào những cố gắng của riêng mình. Chúng ta nghĩ rằng mình là người đưa ra sáng kiến, và chúng ta chỉ quan tâm đến việc chiếm lấy Thiên Chúa. Thực ra, chính Thiên Chúa lôi kéo chúng ta đến với Người qua Đức Giêsu. Thiên Chúa đến với chúng ta qua Con của Người. Đức Giêsu là Lời và là bánh từ trời xuống để chia sẻ cuộc sống với chúng ta trước khi chúng ta có sáng kiến về chuyện này. Qua Đức Giêsu, Đấng đã ăn bánh của con người trong ba mươi năm, Thiên Chúa dạy chúng ta biết rằng: có một thứ bánh để nuôi sống trong cuộc đời này, và có một thứ bánh ban sự sống vĩnh cửu. Một bên là bánh của người phàm, một bên là bánh của Thiên Chúa. Hai thứ bánh này khác nhau.
Qua sự nhập thể của Đức Giêsu và qua bí tích Thánh Thể, chúng ta có biết để Thiên Chúa lôi kéo và hướng dẫn? Chúng ta có tin Đức Giêsu là bánh từ trời xuống? Chúng ta có dám tin vào lời hứa ban sự sống của Đức Giêsu?
Lạy Chúa,
mặc dù Chúa rất xa chúng con,
nhưng nhờ tình yêu, chúng con vẫn gần với Chúa.
Không hề có phân ly
giữa chi thể với vị thủ lãnh nhiệm mầu!
Chúa cho mọi người được dự tiệc
khi cử hành lễ tạ ơn.
Chính Chúa đã nói rằng
con có thể ăn thịt là Mình Chúa.
Điều ấy đã được viết lại,
không phải tự ý con nghĩ ra.
Thế mà có lúc tại sao con nghi ngờ
trong khi Lời Chúa quá rõ ràng như thế?
Paul Claudel.
25. Bánh Trường Sinh.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Vào thế kỷ 16 có một nhà thám hiểm người Tây Ban Nha tên là Ponce de Léon. Sau khi Kha Luân Bố (Christophe Colomb) khám phá Mỹ Châu ít lâu, người ta đồn rằng ở Tân Thế Giới có một ngọn suối trường sinh, thế là Ponce de León liền sắm thuyền vượt biển sang Nam Mỹ đi tìm con suối huyền thoại đó.
Giống như Ponce de Léon, các bô lão trong phim Cocoon đã được cải lão hoàn đồng khi họ xuống tắm ở một hồ bơi đã được những người xa lạ từ một hành tinh khác bí mật sử dụng. Chính kinh nghiệm kỳ thú này khiến các cụ sẵn sàng nhận lời mời của các vị khách lạ đi theo họ về chốn hành tinh khác. Vì theo lời các vị khách này, một khi đến được hành tinh xa lạ kia, các bô lão sẽ mãi mãi được trường sinh.
Cũng thế, Tần Thuỷ Hoàng, một vị hoàng đế Trung Quốc thời xưa, người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc. Với chiều dài hơn 2000 dặm (=3218 km), Vạn Lý Trường Thành này là kiến trúc nhân tạo duy nhất trên trái đất mà các phi hành gia có thể nhận ra từ phía ngoài không gian. Theo tờ tạp chí Địa Lý Quốc Gia (National Geographic), Tần Thuỷ Hoàng rất sợ chết. Một ngày nọ các chiêm tinh kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở Biển Đông, dân cư ở đây đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Thế là Tần Thuỷ Hoàng liền phái một tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường đi tìm các dân cư của hòn đảo ấy, hy vọng có thể dùng những báu vật để trao đổi lấy bí quyết trường sinh của họ. Theo lời người ta kể, các tàu thuyền này đã tìm ra đảo thần tiên nhưng cư dân ở đây chẳng thèm đổi bí quyết trường sinh của họ để lấy những “tặng vật tầm thường” ấy của Hoàng Đế.
Thưa anh chị em,
Ba câu chuyện trên cho chúng ta thấy rằng: từ xa xưa, con người đã mơ ước được sống chẳng bao giờ chết, được trường sinh bất tử. Mỗi lần thấy một người thân chết đi thì niềm ước mơ bất tử này càng ám ảnh con người dữ dội hơn. Vì thế, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu xuất hiện ở Palestine và bắt đầu nói về cuộc sống trường sinh bất tử thì dân chúng liền đổ xô đến nghe Ngài nói. Đám dân Do Thái này rất chú tâm đến vấn đề này, vì kể từ thời Abraham và Môsê họ triền miên sống trong mờ mịt, chẳng hiểu tí gì về những điều xẩy đến cho những người chết. Họ tin rằng có một “thế giới của người chết” (Shéol), nhưng họ chẳng có khái niệm gì về thế giới ấy. Vì thế, họ sẵn sàng đón nhận bất cứ tia sáng nào Chúa Giêsu soi dọi vào mầu nhiệm này.
Trong Tin Mừng hôm nay, một trong những câu nói quan trong nhất của Chúa Giêsu về đời sống vĩnh cửu là: “Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống đời đời. Và bánh Tôi ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”. Chúa Giêsu mạc khải cho biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Còn các một cuộc sống trong tương lại không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu, trường sinh.
Thế nên có lạ gì khi nhiều người Do Thái lắc đầu, bỉu môi, liếc xéo Chúa Giêsu khi nghe Ngài nói: “Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống!” Có lạ gì khi họ xầm xì với nhau: “Anh này chẳng phải là anh chàng Giêsu, con trai ông Giuse đó sao? Bộ chúng ta không biết bố mẹ anh ta sao mà anh ta lại dám mạo nhận là từ trời xuống?” Và nếu chúng ta tiếp tục đọc hết chương 6 của Thánh sử Gioan, chúng ta sẽ thấy ngay cả các môn đệ của Chúa Giêsu cũng xầm xì với nhau: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (6,60) “Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Chúa Giêsu nữa” (6,60). Chỉ mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, nhiều người trong đám dân Do Thái này mới bắt đầu biết trân trọng những câu nói trên của Chúa Giêsu.
Và cũng chính vì tin nhận mầu nhiệm này mà chúng ta đã cùng nhau tập họp trong thánh đường ngày hôm nay. Chúng ta tập họp nhau để nghe Chúa Giêsu nói về cuộc sống vĩnh cửu, để được dưỡng nuôi bằng bánh trờng sinh, Mình Thánh Chúa Giêsu. Ngọn suối trường sinh mà Ponce de Léon đã khổ công lên đường đi Châu Mỹ để tìm kiếm, cuộc sống bất tử mà các bô lão trong phim Cocoon sẵn sàng ra đi để tìm kiếm ở một hành tinh khác, và bí quyết trường sinh mà Tần Thuỷ Hoàng đi đến tận các đảo thần tiên để truy lùng, hiện đang ở giữa chúng ta, ngay trong thánh đường này. Chúa Giêsu hiện diện với chúng ta trong bí tích ban phúc trường sinh khi Ngài nói: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Nếu đã thấu hiểu toàn bộ mầu nhiệm này, chúng ta sẽ không còn ngạc nhiên hay xầm xì với nhau khi nghe Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta hôm nay.
Anh chị em thân mến,
Vào thời ông Môsê, dân Do Thái ăn chán bánh manna từ trời rơi xuống, họ lẩm bẩm kêu trách Chúa. Rồi họ đòi ăn thịt, Chúa cho từng đàn chim cút bay sà xuống để họ bắt làm thịt ăn. Ăn chán rồi họ lại kêu trách Chúa và ông Môsê. Đến thời Chúa Giêsu, họ lại xầm xì với nhau vì không thể tin được Chúa Giêsu là Đấng từ trời xuống, như thứ bánh manna mới, đem lại sự sống đời đời. Ngày nay, lễ xong ra về, nhiều người Kitô hữu cũng lẩm bẩm, xầm xì với nhau: “Thánh lễ buồn tẻ! Hát dở ẹt! giảng chán phèo! Người ngồi bên cạnh khó chịu! Rồi lại xin tiền!”… Họ lại xầm xì với nhau. Chúng ta thường như thế đó. Trước Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng tự hiến cho chúng ta, chúng ta còn tìm đủ lý do từ chối cái chính yếu là chính Mình Ngài, chính tình yêu của Ngài, để chạy theo những chi tiết phụ thuộc mà đả kích, phê bình. Phải chăng chúng ta đã nghe chán rồi? Nên Lời Chúa chẳng còn đánh động lòng ta nữa? Phải chăng chúng ta đã ăn chán rồi, nên Bánh Thánh Thể được dọn ra trong Tiệc Thánh chẳng còn đem lại cho chúng ta niềm vui nội tâm nào nữa? Phải chăng chúng ta tôn thờ cá nhân cha này, thầy nọ, đến nỗi cộng đoàn anh em Kitô hữu chăng còn sức thúc đẩy ta dấn thân phục vụ linh động hơn nữa? Phải chăng chúng ta không nhìn ra chung quanh chúng ta biết bao anh em đang chờ chúng ta giúp đỡ, thay vì ngồi đó mà lẩm bẩm với nhau về những chuyện thứ yếu, không đâu?
Thiết tưởng chúng ta nên nghe lại lời Chúa bảo: “Anh em đừng xầm xì với nhau nữa!” Thiết tưởng mỗi Chúa Nhật, chúng ta nên suy niệm bài Tin Mừng, rồi đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống cụ thể, điều mà không một ai được chuẩn chước từ nhà thờ bước vào lòng đời. Bánh Trường Sinh phải được đem đến các môi trường sinh sống của Chúng ta, nơi chúng ta lao động, đấu tranh, nơi chúng ta cười, chúng ta khóc với người khác. Một khi lễ xong, anh chị em ra về, cửa nhà thờ đóng lại thì phải chăng là cả thế giới mênh mông với trăm ngàn khuôn mặt hợp thành gia đình của Chúa là điểm hẹn của anh chị em. Đời ta là thánh lễ nối dài. Chúng ta đã làm gì ở đó nhân danh đức tin của chúng ta?
Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra cho chúng ta chung quanh Bánh Hằng Sống của Chúa Giêsu. Nhưng đó cũng là những lời mời gọi chúng ta sống trọn vẹn các chiều kích của Bánh Trường Sinh mà chúng ta lãnh nhận từ Bàn Tiệc của Chúa mỗi ngày Chuá Nhật.
26. Sắp hàng lãnh bánh của Chúa – Gm. Arthur Tone.
Trong những cơn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930, hàng triệu người Mỹ thất nghiệp, và hàng triệu người bị đói. Ở một số thành phố, những nhóm tu sĩ tổ chức phát chẩn cho những người bị đói, một trong những nhóm đó là tu viện Thánh Phanxicô ở số 1615 Vine street (Phố Cây Nho) tỉnh Cincinnati, tiểu bang Chio.
Mỗi ngày bánh mì kẹp thịt được phân phát cho hàng trăm người đói, đàn ông, đàn bà đứng xếp hàng đợi đến 5 giờ chiều để được phát bánh. Cả ngày, hai thầy dòng Phanxicô và năm, bảy người giáo dân trợ giúp, làm bánh mì kẹp thịt và gói lại. Nhìn những người sa cơ lỡ thế ấy nhận bữa ăn tạm, tôi thấy: nhiều người nhận gói bánh mỉm cười và cám ơn, có người mắc cở, giật lấy gói bánh rồi lẩn mất, có người mở gói bánh ngay, ăn liền và vội vàng ra đi, có người cầm gói bánh đi vào một ngõ hẻm. Ít, rất ít người mở gói bánh ra, rồi liệng đi tất cả. Một vài người ăn thịt còn bánh liệng đi. Hầu hết ăn trọn một tấm bánh, một vài người ăn thịt còn bánh liệng đi. Hầu hết ăn trọn tấm bánh, một vài người ăn một phần, bỏ đi một phần, có người gói lại và để dành một phần. Nhiều người gọn gàng bỏ giấy gói vào thùng rác. Những người khác thì xả rác bừa bãi trên đường. Thỉnh thoảng một vài người làm dấu thánh giá.
Cách thức những người bất hạnh đến xin ăn, phần nào giống như cách thức những người nghe đón nhận lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: “Tôi là bánh sinh sự sống từ trời đến, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Và bánh Tôi sẽ ban là Thịt Tôi vì sự sống của thế gian”.
Trong thời đại Chúa Giêsu và trong thời đại chúng ta có người lẩm bẩm: “Không thể được, ông ấy chẳng có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn, và máu mình cho chúng ta uống”. Họ quên rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa. Người khác đón nhận bánh của Người nhưng đức tin yếu ớt. Có người còn nói họ tin nhưng đức tin của họ yếu ớt. Có người nói họ tin nhưng việc làm của họ là từ chối. Họ không đón nhận thường hơn như họ có thể. Bạn có thể tưởng tượng một người đó ở Cincinnati lại lười biếng không đến nhận bánh Sandwich được cho không?
Có người Công giáo rước lễ với lòng biết ơn, có người nghĩ là họ làm ơn cho Đức Kitô, cho vị linh mục.
Một số lãnh nhận được rất ít sự bổ dưỡng thiêng liêng trong việc rước lễ. Vì họ đến bàn thánh thiếu chú ý và chuẩn bị cẩn thận. Cám ơn Chúa. Hầu hết những người Công giáo ý thức rằng của ăn thánh chúng ta đón nhận nơi đây, tại bàn thờ này sẽ giữ gìn chúng ta sống động và lành mạnh thiêng liêng.
Tất cả nhân loại đang đói khát Đức Kitô, có khi họ còn chưa được nghe nói về Người. Nhiều người thực sự đang khao khát Đức Kitô, nhưng họ không biết cái gì, hoặc ai sẽ thỏa mãn cơn đói của họ.
Đức Kitô đã chuẩn bị phát chẩn, phát chẩn Thánh Thể để cho chúng ta, vâng, cho mỗi người chúng ta của ăn là chính Ngài, để thêm sức mạnh và giúp chúng ta sống mãi mãi.
Xin Chúa chúc lành bạn.
27. Ai được Cha giáo hóa thì đến với Ta.
(Suy niệm của Noel Quesson)
Hồng y Niu-mân trước kia theo Anh giáo. Người là một chức sắc cao cấp, được trợ cấp hàng năm một ngân khoản rất lớn. Thế mà sau một thời gian lâu dài suy nghĩ, cuối cùng người đã quyết định xin trở lại Công giáo. Một bạn thân của Niu-mân khuyên:
- Bạn phải suy nghĩ cẩn thận, nếu cải giáo, bạn sẽ mất hết số lương bổng hàng năm.
Niu-mân hiên ngang trả lời:
- Ngân khoản trợ cấp và bổng lộc là gì, so với một lần tôi được rước lễ?
Có được tâm tình đó, hẳn Niu-mân phải được ơn Chúa soi sáng hướng dẫn. Thực vậy, thiếu ơn Chúa, chẳng những người ta không hiểu nổi mầu nhiệm Chúa Giêsu mà còn thấy khó chịu khi nghe Chúa nói. Bởi lẽ chỉ có Thiên Chúa mới hiểu được Thiên Chúa và có khả năng giúp con người hiểu biết Thiên Chúa mà thôi.
Chính Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta những mạc khải sâu xa nhất về Thiên Chúa mà Cựu Ước chỉ nói tới rất mơ hồ. Chúa Giêsu giáng trần đã đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại, nhưng nếu không có Thiên Chúa trực tiếp soi sáng và dạy bảo, làm sao chúng ta hiểu nổi điều đó? Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã dùng các ngôn sứ và các biến cố lịch sử mà chuẩn bị tâm hồn con người đón nhận Chúa. Nhưng người Do Thái không thành tâm thiện chí tiếp thu lời Chúa dạy qua Kinh Thánh, nên khi nghe Chúa Giêsu nói về Người là “Bánh từ trời xuống”, họ liền tức bực nói: “Lẽ nào ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn sao?”.
Những ai là người đã được Thiên Chúa giáo hóa? Đó là những mục tử vùng Bêlem, các đạo sĩ Đông phương, Simêon, Anna, Gioan Tẩy giả… Chúa Giêsu đã xếp những người này vào loại được Thiên Chúa giáo hóa, và cho họ biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế từ trời xuống, là Con Thiên Chúa thật. Người là Ngôi Lời, là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta, như cơm bánh nuôi thân xác ta vậy: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa nói ra” (Mt 4,4).
Ai đón nhận và thực thi lời Chúa, sẽ được sống vĩnh viễn. Còn ai không đón nhận sẽ chết muôn đời. Tin Mừng trong lễ hôm nay, Chúa nói về Thánh Thể, đồng thời cũng nhấn mạnh về Lời Chúa, cốt cho chúng ta dứt khoát lập trường, đón nhận Chúa hoặc từ chối Chúa, tin hoặc không tin Lời Chúa dạy. Chúa khẳng định Chúa là “Bánh hằng sống” không phải là hình ảnh hay ẩn dụ nhưng là bánh thật cho cuộc sống tâm linh của mọi tín hưũ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con yêu mến đón nhận Lời Chúa hằng ngày để được Chúa giáo hóa. Lời Chúa là sự sống tâm hồn chúng con, là ánh sáng dẫn đưa chúng con đến cuộc sống muôn đời.
28. Sắp hàng lãnh bánh.
Trong nạn đói năm Ất Dậu 1945, hằng triệu người miền Bắc lâm vào cảnh túng thiếu, đến nỗi củ chuối trong vườn cũng chẳng còn để mà ăn, khiến cho họ phải bỏ nhà cửa, làng mạc lên đường kiếm chút của ăn nuôi thân.
Tại một số giáo xứ may mắn, không bị nạn đói hoành hành, người ta tổ chức phát chẩn cho những kẻ bị đói. Mỗi ngày nhà chung thổi những nồi cơm lớn, rồi nắm thành những nắm nhỏ, được gọi là nắm cơm chim phân phát cho hằng trăm người đói lả. Đàn ông, đàn bà và trẻ nít đứng xếp hàng để chờ được nhận nắm cơm chim của mình.
Nhìn những kẻ sa cơ nhận phần ăn ít ỏi, chúng ta thấy có người thì cám ơn, có kẻ thì mắc cỡ giật lấy nắm cơm rồi lẩn mất. Có người ăn vội ăn vàng rồi ra đi, có kẻ cầm nắm cơm tới một bụi tre hay một khóm trúc rồi mới ăn. Có người chỉ ăn một nửa, còn một nửa thì gói lại để dành. Có người làm dấu trước khi ăn, nhưng cũng có kẻ không làm vì chắc hẳn họ là người ngoại…
Cách thức những người bất hạnh đến xin ăn phần nào giống như cách thức những người nghe và đón nhận lời Chúa trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay:
- Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta vì sự sống của thế gian.
Trong thời đại Chúa Giêsu cũng như trong thời đại chúng ta, có người đã lẩm bẩm:
- Không thể được, ông ấy chẳng có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn và máu mình cho chúng ta uống.
Họ quên rằng Đức Kitô là Thiên Chúa.
Có kẻ đón nhận bánh của Ngài, nhưng đức tin thì lại yếu ớt. Có người tuy nói rằng mình tin nhưng rồi việc làm của họ lại là một sự từ chối, cả dăm bảy năm họ không rước Chúa lấy được một lần, dù miệng lưỡi họ vẫn tự hào rằng tôi tin. Liệu chúng ta có thể tưởng tượng, một người đang đói lả mà lại đi từ chối nắm cơm, cho dù chỉ là một nắm cơm nhỏ bé, nắm cơm chim của nhà chung?
Có người đã rước lễ với lòng biết ơn vì tình thương mà Đức Kitô đã dành cho họ. Nhưng cũng có những kẻ chẳng đón nhận được bao nhiêu lợi ích khi họ tiến đến bàn tiệc Thánh Thể bởi vì họ thiếu chuẩn bị, thiếu ý thức, thiếu tình yêu.
Phần lớn nhân loại đang đói khát Đức Kitô, nhưng họ không biết cái gì hoặc ai sẽ làm cho họ thỏa mãn cơn đói khát ấy. Đức Kitô đã chuẩn bị phát chẩn. Đúng thế, phát chẩn chính thịt máu Ngài qua bí tích Thánh Thể làm của ăn đem lại sức mạnh và sự sống thiêng liêng cho mỗi người chúng ta.
Thế nhưng, chúng ta đã đón nhận của ăn cao cả ấy như thế nào?
29. Bánh hằng sống.
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Đó là tư tưởng then chốt của Tin Mừng Chúa nhật hôm nay và cũng là đề tài tranh luận giữa người Do Thái và Chúa Giêsu.
Chúng ta biết, ngoài câu chuyện manna là bánh mà Thiên Chúa đã ban cho dân Do Thái làm lương thực nuôi họ 40 năm trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, Kinh Thánh Cựu ước còn kể lại hai phép lạ về bánh: một phép lạ đã xảy ra với ngôn sứ Êlisa trong bài đọc một của ngày Chúa nhật cách đây hai tuần: có người đem đến dâng cho ngôn sứ Êlisa 20 chiếc bánh làm bằng lúa mạch và cốm đầu mùa. Ngôn sứ bảo dọn cho mọi người ăn, và 20 chiếc bánh đã cho 100 người ăn no mà còn dư. Phép lạ thứ hai kể lại trong bài đọc hôm nay: trên đường vào sa mạc tiến đến đỉnh núi Khôrếp để trốn bạo chúa A-cáp và hoàng hậu Dêdaben, ngôn sứ Êlia cảm thấy mệt mỏi, chán chường, thất vọng, chỉ cầu mong được chết đi cho xong, nhưng Thiên Chúa đã sai sứ thần đến ban bánh nướng cho ngôn sứ ăn hai lần, và theo Kinh Thánh, “nhờ sức của lương thực ấy, ông đã đi một hơi 40 đêm ngày tới núi của Thiên Chúa”.
Phép lạ trên đây thường được các giáo phụ coi như hình ảnh bánh hằng sống của Chúa Kitô, là thịt máu Đức Kitô ban để cho mọi người được sống. Đây chính là điều Chúa Giêsu giảng dạy người Do Thái trong bài Tin Mừng và cũng là tư tưởng then chốt của lời Chúa hôm nay: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Qua những lời này, chúng ta thấy rõ ràng Chúa Giêsu muốn mạc khải về phép Thánh Thể.
Trước hết, chúng ta thấy khi Chúa tuyên bố “Tôi sẽ ban bánh hằng sống” thì người Do Thái lý luận; ông ta không thể làm được điều đó, vì ông ta không thể hơn cha ông tổ tiên họ, các ngài đã ăn manna từ trời mà còn chết hết, thì làm sao bánh mà ông ta ban có thể làm cho họ sống bất diệt được? Lại nữa, ông ta nói xạo, ông ta không thể từ trời mà xuống được, vì họ đều biết nguồn gốc cha mẹ, anh chị em của Ngài, nhất là ông ta không thể lấy thịt mình cho họ ăn được.
Nhưng chúng ta thấy Chúa Giêsu không lùi bước trước những thái độ hoài nghi và những câu lẩm bẩm trách móc ấy. Ngài còn lặp đi lặp lại hai ba lần để khẳng định lời nói của Ngài. Rồi hình như sợ dân chúng chỉ hiểu theo nghĩa bóng, Ngài lại tuyên bố thêm: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi để cho thế gian được sống”. Từ đó trở đi Ngài chỉ dùng hai tiếng “thịt” và “máu” thay thế cho tiếng bánh, mãi đến khi gần kết thúc bài giảng và để cho tiền hậu đồng nhất, Ngài nhắc lại tiếng bánh lần chót: “Đây là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”. Như vậy, chúng ta thấy rõ ràng qua những lời tuyên bố trên đây, Chúa Giêsu muốn mạc khải về phép Thánh Thể.
Để thấy rõ và dễ nhớ mạc khải của Chúa Giêsu, chúng ta có thể xếp lại thứ tự từng lời mạc khải của Chúa Giêsu: Trước hết, Chúa phán: “Ai tin vào tôi thì có sự sống đời đời”, rồi Chúa phán: “Tôi là bánh ban sự sống”, rồi Chúa phán: “Đây là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này thì khỏi phải chết”, rồi Chúa liên kết hai điều đó: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”, cuối cùng, Chúa kết luận: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi để nuôi sống thế gian”.
Với một lối diễn tả tư tưởng rõ ràng và khúc chiết như thế, không ai còn có thể hoài nghi hay hiểu sai được nữa. Đối với chúng ta ngày nay thì quá rõ ràng rồi: bánh và rượu trong phép Thánh thể chính là thịt và máu Chúa Kitô. Thực vậy, Mình Máu Chúa Kitô mà chúng ta đón nhận không phải là những kỷ niệm và những biểu hiện đơn giản hay những sự vật không còn sự sống. Trái lại, tất cả còn sống động, còn cuộn chảy, còn cảm giác. Đó là một lương thực còn sức sống, một thứ bánh có sức sống, một loại bánh mang lại sự sống thần linh, hay nói khác đi, đó là bánh bởi trời.
Như vậy, khi rước lễ, Chúa Kitô kết hiệp với tâm hồn chúng ta, đem lại cho chúng ta sức sống, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải tỏ lộ sự kết hiệp đó bằng nếp sống xứng đáng. Người năng rước lễ thiết tưởng phải sống khác hẳn những người khác, miệng này đã nhận của ăn thần linh sao lại còn ham hố tìm kiếm của ăn khoái khẩu vô độ thế gian? Lưỡi kia là nơi thân xác một Thiên Chúa nằm nghỉ liệu còn dám nói những lời chua cay, độc dữ gây bất hòa, chia rẽ, ghen ghét và thù oán không? Hơn nữa, các ấn tượng, các tâm tình có được khi tiếp xúc với Chúa Kitô phải dần dần ghi trong ánh mắt, nụ cười, trong điệu bộ đi đứng, để rồi có thể nói được rằng tất cả thái độ của con người đó như phảng phất bóng dáng thần linh, hoặc ít ra thì cũng không bao giờ tỏ ra điều gì là tầm thường, hẹp hòi, ích kỷ, lạnh nhạt… Sống ngược lại là làm buồn lòng Chúa Kitô vô cùng.
Lạy Chúa Giêsu, đã có biết bao trường hợp thân xác Chúa không được tôn thờ xứng đáng, bởi vì có nhiều người rước Chúa với tâm hồn đầy tội nhẹ đáng kể mà họ không muốn sửa chữa; nhiều người khác đón Chúa vào lòng với thái độ hờ hững, máy móc, không chút chú tâm và cung kính. Nhưng Chúa vẫn không muốn ai nói rằng những tâm hồn như thế thì không xứng đáng, trái lại, Chúa muốn họ cứ đón nhận Chúa, vì như thế họ mới có được sức sống. Lạy Chúa, đó là thái độ, cách sống và hành động của chúng con, xin Chúa tha thứ và chúng con hứa sẽ cố gắng xứng đáng hơn, xin Chúa giúp chúng con.
30. Bánh trường sinh.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Chẳng ai đến với Ta được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai Ta, không lôi kéo người ấy, và hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Chúng ta đến được với Chúa Giêsu là nhờ được Thiên Chúa dạy bảo. Vì thế, chúng ta hãy ca tụng và cảm tạ Cha trên trời đã cho chúng ta được vào trong số những người được tuyển chọn. Chúng ta đừng để cho bất cứ điều gì lôi kéo chúng ta ra khỏi Chúa Giêsu. Ngược lại, chúng ta hãy nỗ lực để càng ngày càng sống gần gũi mật thiết với Chúa hơn. Sống như vậy là cách chúng ta biểu lộ lòng biết ơn đối với Chúa, trái với người Do Thái càm ràm và phản đối Chúa.
Chúa Giêsu dần dần biểu lộ rõ ràng bản thân của Người. Lúc đầu, Người nói: “Ta là bánh từ trời xuống”. Kế tiếp, Người nói thêm: “Ta là bánh hằng sống”. Rồi Người kết luận: “Bánh Ta sẽ ban tặng, chính là thịt Ta đây”. Tiến trình tiệm tiến, và người nghe được dẫn dắt để nhận ra bánh và thân thể của Đức Giêsu là một. Chúa Giêsu chính là bánh của chúng ta.
Chúa còn nói: “Ai tin thì được sự sống đời đời”. Tin cái gì? Tin Chúa Giêsu là bánh hằng sống. Ngày nay, nhiều Kitô hữu từ chối không chấp nhận Chúa Giêsu ban chính Người cho chúng ta qua hình bánh trong bí tích Thánh Thể. Nhiều người vẫn nói bánh chỉ là biểu tượng của thân xác Chúa Giêsu, chứ không thật sự là thịt của Chúa. Bản văn của Tin Mừng không nói gì đến biểu tượng. Chúa Giêsu nói rõ ràng: “Bánh Ta sẽ ban tặng, chính là Thịt Ta đây”. Nếu ai không tin vào lời này của Chúa Giêsu thì sẽ không có sự sống đời đời.
Hơn thế nữa, Chúa còn nói: “Ai ăn bánh này thì sẽ sống muôn đời” và “Ta sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”, “Đây là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết”. Những câu này cho thấy, bí tích Thánh thể là bảo đảm cho chúng ta được phục sinh và được sự sống đời đời. Vì thế, để được sự sống đời đời Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta hai điều là tin Người là bánh hằng sống và ăn bánh này, tức là ăn thịt của Người.
Bánh này có khác gì với manna? Quả thực, manna là bánh từ trời xuống. Nhưng dân Israel ăn manna và vẫn phải chết. Còn ai ăn bánh hằng sống là thịt của Chúa Giêsu thì sẽ được sự sống đời đời.
Những suy tư trên đây về bản văn Tin Mừng giúp chúng ta hiểu được điều mà Giáo hội Công giáo giảng dạy về bí tích thánh thể không phải là phát minh của các nhà thần học, nhưng là những lời được chép trong Kinh Thánh.
Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa ban cho con chính Chúa qua bí tích Thánh thể. Xin Chúa giúp con rước Chúa cách xứng đáng để con có được sự sống đời đời.
31. Bánh Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Đó là tư tưởng then chốt của Tin Mừng Chúa nhật hôm nay và cũng là đề tài tranh luận giữa người Do Thái và Chúa Giêsu.
Chúng ta biết, ngoài câu chuyện man-na là bánh mà Thiên Chúa đã ban cho dân Do Thái làm lương thực nuôi họ 40 năm trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, Kinh Thánh Cựu Ước còn kể lại hai phép lạ về bánh: một phép lạ đã xảy ra với ngôn sứ Ê-li-sa trong bài đọc một của ngày Chúa nhật cách đây hai tuần: có người đem đến dâng cho ngôn sứ Ê-li-sa 20 chiếc bánh làm bằng lúa mạch và cốm đầu mùa. Ngôn sứ bảo dọn cho mọi người ăn, và 20 chiếc bánh đã cho 100 người ăn no mà còn dư. Phép lạ thứ hai kể lại trong bài đọc một hôm nay: trên đường vào sa mạc tiến đến đỉnh núi Khô-rếp để trốn bạo chúa A-cáp và hoàng hậu Dê-da-ben, ngôn sứ Ê-li-a cảm thấy mệt mỏi, chán chường, thất vọng, chỉ cầu mong được chết đi cho xong, nhưng Thiên Chúa đã sai sứ thần đến ban bánh nướng cho ngôn sứ ăn hai lần, và theo Kinh Thánh, “nhờ sức của lương thực ấy, ông đã đi một hơi 40 đêm ngày tới núi của Thiên Chúa”.
Phép lạ trên đây thường được các giáo phụ coi như hình ảnh bánh hằng sống của Chúa Ki-tô, là thịt máu Đức Ki-tô ban để cho mọi người được sống. Đây chính là điều Chúa Giêsu giảng dạy người Do Thái trong bài Tin Mừng và cũng là tư tưởng then chốt của lời Chúa hôm nay:“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”, “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Qua những lời này, chúng ta thấy rõ ràng Chúa Giêsu muốn mạc khải về phép Thánh Thể.
Trước hết, chúng ta thấy khi Chúa tuyên bố “Tôi sẽ ban bánh hằng sống” thì người Do Thái lý luận: ông ta không thể làm được điều đó, vì ông ta không thể hơn cha ông tổ tiên họ, các ngài đã ăn man-na từ trời mà còn chết hết, thì làm sao bánh mà ông ta ban có thể làm cho họ sống bất diệt được? Lại nữa, ông ta nói xạo, ông ta không thể từ trời mà xuống được, vì họ đều biết nguồn gốc cha mẹ, anh chị em của Ngài, nhất là ông ta không thể lấy thịt mình cho họ ăn được.
Nhưng chúng ta thấy Chúa Giêsu không lùi bước trước những thái độ hoài nghi và những câu lẩm bẩm trách móc ấy, Ngài còn lặp đi lặp lại hai ba lần để khẳng định lời nói của Ngài. Rồi hình như sợ dân chúng chỉ hiểu theo nghĩa bóng, Ngài lại tuyên bố thêm: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi để cho thế gian được sống”. Từ đó trở đi Ngài chỉ dùng hai tiếng “thịt” và “máu” thay thế cho tiếng bánh, mãi đến khi gần kết thúc bài giảng và để cho tiền hậu đồng nhất, Ngài nhắc lại tiếng bánh lần chót: “Đây là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”. Như vậy, chúng ta thấy rõ ràng qua những lời tuyên bố trên đây, Chúa Giêsu muốn mạc khải về phép Thánh Thể.
Để thấy rõ và dễ nhớ mạc khải của Chúa Giêsu, chúng ta có thể xếp lại thứ tự từng lời mạc khải của Chúa: Trước hết, Chúa phán: “Ai tin vào tôi thì có sự sống đời đời”, rồi Chúa phán: “Tôi là bánh ban sự sống”, rồi Chúa phán: “Đây là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này thì khỏi phải chết”, rồi Chúa liên kết hai điều đó: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”, cuối cùng, Chúa kết luận: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi để nuôi sống thế gian”.
Với một lối diễn tả tư tưởng rõ ràng và khúc chiết như thế, không ai còn có thể hoài nghi hay hiểu sai được nữa. Đối với chúng ta ngày nay thì quá rõ ràng rồi: bánh và rượu trong phép Thánh Thể chính là thịt và máu Chúa Ki-tô. Thực vậy, Mình Máu Chúa Ki-tô mà chúng ta đón nhận không phải là những kỷ niệm và những biểu hiện đơn giản hay những sự vật không còn sự sống, trái lại, tất cả còn sống động, còn cuộn chảy, còn cảm giác. Đó là một lương thực còn sức sống, một thứ bánh có sức sống, một loại bánh mang lại sự sống thần linh, hay nói khác đi, đó là bánh bởi trời.
Như vậy, khi rước lễ, Chúa Ki-tô kết hiệp với tâm hồn chúng ta, đem lại cho chúng ta sức sống, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải tỏ lộ sự kết hiệp đó bằng nếp sống xứng đáng. Người năng rước lễ thiết tưởng phải sống khác hẳn những người khác, miệng này đã nhận của ăn thần linh sao lại còn ham hố tìm kiếm của ăn khoái khẩu vô độ thế gian? Lưỡi kia là nơi thân xác một Thiên Chúa nằm nghỉ liệu còn dám nói những lời chua cay, độc dữ gây bất hòa, chia rẽ, ghen ghét và thù oán không? Hơn nữa, các ấn tượng, các tâm tình có được khi tiếp xúc với Chúa Ki-tô phải dần dần ghi trong ánh mắt, nụ cười, trong điệu bộ đi đứng, để rồi có thể nói được rằng tất cả thái độ của con người đó như phảng phất bóng dáng thần linh, hoặc ít ra thì cũng không bao giờ tỏ ra điều gì là tầm thường, hẹp hòi, ích kỷ, lạnh nhạt… Sống ngược lại là làm buồn lòng Chúa Ki-tô vô cùng.
Lạy Chúa Giêsu, đã có biết bao trường hợp thân xác Chúa không được tôn thờ xứng đáng, bởi vì có nhiều người rước Chúa với tâm hồn đầy tội nhẹ đáng kể mà họ không muốn sửa chữa; nhiều người khác đón Chúa vào lòng với thái độ hờ hững, máy móc, không chút chú tâm và cung kính. Nhưng Chúa vẫn không muốn ai nói rằng những tâm hồn như thế thì không xứng đáng, trái lại, Chúa muốn họ cứ đón nhận Chúa, vì như thế họ mới có được sức sống. Lạy Chúa, đó là thái độ, cách sống và hành động của chúng con, xin Chúa tha thứ và chúng con hứa sẽ cố gắng xứng đáng hơn, xin Chúa giúp chúng con.
32. Bánh Hằng Sống – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Thiên Chúa đã nuôi dân Do Thái bằng mana xuyên suốt hành trình 40 năm trên đường về Đất Hứa. Thiên Chúa bồi bổ cho ngôn sứ Êlia bánh và nước trong cuộc đăng sơn Khôrep. Thiên Chúa ban Bánh Hằng Sống cho nhân loại đang lữ hành tiến về quê trời.
1. Mana nuôi dân Chúa trong sa mạc
Trước bánh Thiên Chúa ban, con cái Israel liền hỏi nhau: “Man hu?”, nghĩa là: “Cái gì đây?”. Ông Môsê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn!”. Bánh Thiên Chúa ban, họ chỉ biết gọi là mana, một tên gọi dưới dạng câu hỏi. Vẫn còn đó khía cạnh mầu nhiệm cần được vén tỏ.
Theo “Từ điển Công Giáo”: Mana có gốc tiếng Hipri là (man hu – cái gì đây; x. Xh 16,15), là một loại thức ăn Thiên Chúa đã ban cho dân Israel trong sa mạc, trên hành trình về Đất Hứa. Mana rơi xuống quanh trại vào mỗi buổi sáng “giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong” (Xh 16,31).
Điều quan trọng đối với Thánh Kinh không phải là bản chất thể lý, nhưng là giá trị tượng trưng của nó. Câu hỏi của con cái Israel “Man hu?” (Cái gì đây?) đã nói lên tích cách huyền nhiệm của nó. Mana tiêu biểu cho một ân huệ kỳ diệu của Thiên Chúa trong việc chăm sóc Dân Ngài.
Trong Tân ước Chúa Giêsu dùng Mana để chỉ “Bánh Bởi Trời”, “Bánh Trường Sinh” là chính Người, ban cho các tín hữu trong Bí Tích Thánh Thể” (Ga 6,32-35). (x.Từ điển Công giáo, trang 226).
2. Bánh nuôi ngôn sứ Êlia lên núi Khôrep
Sau khi vua Salomon băng hà, đất nước Israel chia đôi: vương quốc Israel, phương Bắc, vương quốc Giuđa phương nam (1V 12). Tại Israel, vua Omri (885-874 tcn) đã lập một dòng vua mới và đặt kinh đô tại Samari. Con của Omri là vua Akháp (875 – 853 tcn) xây cất thành lũy và cung điện. Israel dưới thời Akháp khá thịnh vượng. Công việc thương mại tạo nên những tương quan thuận lợi với các nước lân bang, nhưng đồng thời cũng gây nên một tiêm nhiễm văn hóa và tôn giáo ngoại lai. Điển hình của việc suy đồi tôn giáo là cuộc hôn nhân của vua Akháp với Ideven, con gái vua Xiđôn (1V 16,29-34). Ideven du nhập đạo ngoại vào Israel, xây dựng đền thờ thần Baan tại Samari, tổ chức cộng đồng các Ngôn sứ thần Baan. Đạo Giavê bị bách hại. Chính trong hoàn cảnh đó, sách các Vua nói đến hoạt động của hai Ngôn sứ Êlia và Êlisê (1V17 ; 2V 13).
Ngay từ khi Israel đặt chân lên Canaan, tôn giáo Canaan và việc thờ thần Baan đã là mối ưu tư và nguy hiểm cho niềm tin vào Giavê. Mối nguy hiểm cũng như sự tiêm nhiễm đạo ngoại lai ấy ngày càng gia tăng qua sự phát triển kinh tế, tương quan thương mại với các dân tộc lân bang và đạt tới cao điểm vào thời Akháp. Đây không phải là việc từ bỏ đức tin truyền thống của cha ông vào Thiên Chúa Giavê, nhưng đúng hơn là sự pha trộn đạo Giavê với tôn giáo Canaan. Baan là vị thần của mưa gió, của sức mạnh thiên nhiên, của phú túc. Đối với dân, đây quả là vị thần lý tưởng cho cuộc sống chủ yếu là nông nghiệp thời bấy giờ. Êlia xuất hiện như vị anh hùng bảo vệ đạo Giavê, chống lại mọi pha trộn, mọi thỏa hiệp. Ông quả là người hùng của Thiên Chúa duy nhất và chân thật của Israel.
Cuộc so tài trên núi Carmen giữa Êlia và các ngôn sứ thần Baan được hoàng hậu Ideven bảo trợ, có mục đích cho dân nhận định rõ ai là Chúa thật tại Israel: Giavê hay Baan. Các ngôn sứ Baan làm mọi cách: kêu cầu, nhảy múa, rạch mình, nhưng không có hiệu quả. Êlia kêu cầu Thiên Chúa. Giavê trả lời bằng một phép lạ chứng tỏ Ngài là Chúa các năng lực thiên nhiên. Người chính là Thiên Chúa của toàn thể vũ trụ (1V 18,17 - 40).
Bài đọc 1 thuật lại cuộc hành trình của ngôn sứ Êlia trong sa mạc tiến đến núi Khôrép. Êlia chạy trốn trước sự trả thù bách hại của Ideven. Trên đường đi, Êlia đói lã và chán nản thất vọng. Sứ thần Chúa mang đến cho ông bánh và nước. “Ông dậy ăn bánh và uống nước. Rồi nhờ lương thực bổ dưỡng ấy, ông đi suốt 40 ngày, 40 đêm tới Khôrép là núi của Thiên Chúa”. Tại Khôrep, ông được gặp Đức Giavê. Ông lấy lại được niềm tin và tiếp tục sứ mệnh tái lập một Israel đích thực.
Bốn trăm năm đã trôi qua giữa ngôn sứ Môsê và ngôn sứ Êlia. Danh tiếng của hai vị được liên kết với đỉnh núi Khôrep, núi thánh của Đức Chúa. Hai nhận vật Cựu Ước danh tiếng lừng lẫy nầy sẽ cùng nhau tái xuất hiện trên đỉnh núi Tabor.
Các Giáo phụ nhìn 40 ngày hành trình của Êlia như gợi lại cuộc hành trình của Israel trong hoang địa tiến về đất hứa,40 ngày chay tịnh của Môisê (Xh 34,28), tiên trưng việc Chúa Giêsu ăn chay 40 đêm ngày trươc khi thi hành sứ vụ công khai. Các Giáo phụ cũng nhìn thấy nơi những chiếc bánh mà sứ thần trao cho Êlia là hình ảnh tiên báo phép Thánh Thể nuôi dưỡng tín hữu trên đường dương thế tiến về quê trời. Lương thực nuôi dưỡng Êlia trở thành biểu tượng cho của ăn đi đường cho Kitô hữu trong suốt cuộc hành trình trần gian. Các thế hệ Kitô hữu đã xem Êlia như võ sĩ vô địch về đức tin. Các đan viện, các dòng tu nhìn Êlia như vị tiền phong của mọi nổ lực từ bỏ nếp sống trần tục để đi vào trong thinh lặng và nội tâm, tìm kiếm Thiên Chúa. Đó là con đường đầy thử thách, nhưng chắc chắn sẽ gặp thần lương đi đường cho những ai có thiện chí.
3. Bánh Hằng Sống nuôi tín hữu lữ hành về quê trời.
Chúa Giêsu Kitô là Bánh Hằng Sống, Bánh bởi Trời, Bánh ban sự sống cho cả nhân loại. Nhưng làm sao mà con người có thể lãnh hội được ngay mạc khải quan trọng ấy. Vì thế, đã có tiếng xầm xì to nhỏ: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”. Người Do thái có đủ lý do để nghi ngờ những lời nói của Chúa Giêsu: Ngài đang sống ở giữa họ như một người giữa mọi người vậy mà Ngài bất ngờ tuyên bố mình từ trời xuống. Chúa Giêsu đòi hỏi họ hãy tin vì Ngài là Đấng ban sự sống và Ngài từ Chúa Cha mà đến. Ngài là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa Cha. Gặp gỡ Ngài là gặp gỡ Thiên Chúa Hằng Sống. Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, ai ăn thì khỏi phải chết”. Chúa Giêsu tuyên bố: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thánh Thể được mạc khải một cách minh nhiên ngay từ bây giờ với điểm nhấn trên hy tế cứu độ trong mầu nhiệm thập giá. Sự sống vĩnh cửu hàm chứa trong mầu nhiệm Thánh Thể.
Cho tới Bữa Tiệc Ly và Hy Tế Thập Giá, khi Chúa Kitô tự nguyện nộp mình, như hạt lúa bị nghiền nát để trở nên tấm bánh cứu độ cho tất cả nhân loại, người ta mới hiểu và tin vào lời mạc khải về Bánh Hằng Sống.
Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép; nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Người vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Người đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy là chính Người trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người.
Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí Tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.
Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá.
Thánh Thể, Tấm Bánh Chúa Kitô bẻ ra cho sự sống thế giới; Thánh Thể Mình Máu Chúa Kitô trao ban cho cả nhân loại; Thánh Thể tình yêu đã trở nên thực phẩm vun bồi sự sống cho hôm nay trên đường dương thế và cho mai sau trong hạnh phúc Nước Trời.
Trong cuộc hành trình tiến tới sự sống viên mãn với Thiên Chúa là Cha, chính Chúa Giêsu là lương thực bổ dưỡng con người.
Trong bài đọc 2, thánh Phaolô mời gọi các tín hữu hãy sống hoàn thiện theo mẫu gương của Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thánh Thần, bắt chước Thiên Chúa và thực hành đức ái như Đức Kitô. “Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt”. Những ai tin vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, phải sống đức tin bằng đức ái.
Ai rước Mình Máu Chúa Kitô sẽ có sự sống Chúa Kitô. Chúa Kitô sống trong họ và họ được hiệp thông sống trong Người.
Ai nhận Mình Máu Chúa Kitô sẽ cùng tham dự một sự sống, nên trở thành anh em với nhau, sống đức ái và trở nên chứng nhân của Chúa Kitô.
Tạ ơn Chúa đã ban Bánh Hằng Sống, quà tặng tình yêu thần linh cho chúng con. Mỗi lần rước Bánh Thánh Thể với lòng sốt mến kính cẩn chúng con được cảm nến hương vị thiên đàng. Chúng con tạ ơn Chúa đã luôn nuôi dưỡng và dẫn đưa chúng con vào sự sống đời đời. Amen.
33. Bánh hằng sống.
Steve Garwood là một nhà thầu tại tiểu bang South Carolina và là một thừa tác viên Thánh Thể của giáo xứ. Một hôm, sau Lễ Chúa Nhật ông mang Mình Thánh cho bệnh nhân. Trong khi bệnh nhân chuẩn bị, Steve đặt Mình Thánh Chúa đang được đựng trong một cái hộp nhỏ bằng vàng trên bàn thờ. Khi Steve đang quì và cúi đầu cầu nguyện thì bất chợt ông nhận ra rằng Chúa Giêsu đang ở bên. Sự nhận thức này đã làm cho ông thật sung sướng. Ông đã tả lại như sau:
"Máu đã dồn vào tai tôi, và tất cả những sợi tóc trên đầu tôi đều dựng đứng lên hết. Tôi đã cầu nguyện: 'Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin hãy thương xót con, một kẻ tội lỗi. Ngài đang ở trước mặt con và Ngài hằng luôn chúc lành cho con' (trích trong cuốn And You, Who Do You Say I Am?).
Câu truyện trên thích ứng với bài đọc Phúc Âm hôm nay vì nó nói lên niềm tin và lòng tôn kính đặc biệt nơi Chúa Giêsu Thánh Thể.
Thứ nhất, nó nhấn mạnh đến trung tâm mầu nhiệm của đức tin, đó là niềm tin mà người Công Giáo chúng ta tin rằng Chúa Kitô Phục Sinh đang sống với chúng ta cũng như Ngài đã sống trong thời xưa.
Giải thích rõ ràng hơn về mầu nhiệm này, Công Đồng Vaticanô II đã nói: "Chúa Kitô vẫn hằng luôn hiện diện trong Giáo Hội, nhất là trong những khi cử hành phụng vụ. Ngài hiện diện trong Thánh Lễ, trong con người linh mục... và nhất là trong phép Thánh Thể. Chúa Kitô hiện diện trong các bí tích bằng quyền năng của Ngài. Qua đó, khi một ai đó lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội chẳng hạn, thì chính là Chúa Giêsu rửa tội cho người đó. Chúa Giêsu còn hiện diện qua những lời Phúc Âm. Khi Giáo Hội tuyên bố Phúc Âm thì những lời đó chính là Chúa Giêsu phán. Sau hết, Ngài còn hiện diện khi Giáo Hội cầu nguyện và ca hát bởi chính Ngài đã hứa: "Ở đâu có hai ba người tụ lại cầu nguyện với Danh Ta, thì Ta ngự ở giữa họ" (Constitutin on the Sacred Liturgy).
Trong tất cả mọi cách, Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta, Bí Tích Thánh Thể vẫn là cách đặc biệt nhất. Điều này được giải thích trong bài Phúc Âm hôm nay: "Ta là bánh ban sự sống... Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống."
Và như thế, chúng ta thấy câu truyện của Steve Garwood nhấn mạnh mầu nhiệm chính yếu của đức tin, đó là Chúa Giêsu Phục Sinh ngự giữa chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể một cách sống động như thời xưa.
Do đó, người Công Giáo có lòng tôn kính đặc biệt đối với Bí Tích Thánh Thể. Cũng giống như Tôma, người môn đệ đã quì gối xuống trước mặt Chúa Giêsu Phục Sinh và thốt lên: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa con!" (Gn 20:28) Nhiều khi, chúng ta cũng cần phải quì gối xuống một lát và nói với Chúa Giêsu Thánh Thể điều mà Tôma đã nói: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa con!"
Lạy Chúa, xin cho chúng con thêm niềm tin để chúng con có thể nhận ra Máu Thịt của Con Ngài trong tấm bánh mà chúng con sẽ cùng nhau cử hành một lát nữa đây.
34. Chúa Giêsu là Bánh hằng sống từ trời xuống
Minh Họa Lời Chúa
1. Cuộc sống trường sinh
Sau khi Kha Luân Bố khám phá Mỹ châu, một người Tây-ban-Nha tên là Ponce de Lion nghe đồn ở Tân thế giới có ngọn suối trường sinh. Ông liền sắm thuyền vượt biển sang Nam Mỹ tìm. Và trước Chúa Giáng Sinh khoảng 2000 năm, hoàng đế Trung Hoa tên Tần Thủy Hoàng muốn được trường sinh bất tử. Ông nghe các nhà chiêm tinh nói ở biển Đông có hòn đảo thần, dân ở đó khám phá ra bí quyết trường sinh. Ông liền phái một số tàu thuyền chở đầy châu báu đến đó đổi lấy bí quyết trường sinh, nhưng dân chúng ở đó không chịu đổi…
*****
Những câu chuyện trên muốn nói lên điều gì? Nói lên con người thời nào cũng muốn trường sinh bất tử. Đó là ước mơ ngàn đời của loài người. Mỗi lần thấy một người nằm xuống là ước mơ này cũng dày vò con người mãnh liệt hơn.
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự giới thiệu Người là “Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời… Ai tin thì được sống đời đời” (Ga.6,50-51)
Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là hết. Còn có một cuộc sống mai hậu không bao giờ chấm dứt. Đó là cuộc sống trường sinh, cuộc sống vĩnh cửu.
Khi nghe Chúa Giêsu tuyên bố “Người là Bánh trường sinh từ trời xuống”. Dân Do thái không tin, họ xầm xì phản đối, vì họ chỉ nhận Người là con ông Giuse thợ mộc nghèo khó mà họ quen biết. Mãi đến khi họ thấy Người từ cõi chết sống lại, họ mới nhận ra Người là Con Thiên Chúa từ trời xuống cứu thoát họ khỏi chết, đem đến cho mọi người sự sống đời đời.
Chính vì tin nhận mầu nhiệm trường sinh này mà hôm nay chúng ta đến nhà thờ đây, để nghe Chúa Giêsu nói về cuộc sống vĩnh cửu, để được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, nhất là bằng Mình Máu thánh Người là “Bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết’. (Ga.6,50).
Ngọn suối trường sinh mà Ponce de Lion người Tây-ban-Nha đã khổ công đi tìm kiếm, bí quyết sống vĩnh cửu mà Tần Thủy Hoàng cho người đến tận các đảo thần tiên đổi lấy hiện đang ở trước mặt chúng ta trong Bí tính Thánh Thể.
Muốn được trường sinh bất tử, muốn sống đời đời trong tương lai, mỗi người chúng ta chỉ cần đến rước lấy Mình Máu Thánh của Đấng là Bánh Hằng Sống từ trời xuống…
(Theo “Sunday Homilies”).
2. Trường sinh bất tử
Chuyện thần thoạt Hy-lạp kể:
Sivil là người phục vụ đền thờ, có nhiều công trạng. Khi được hỏi muốn được thưởng thế nào cho xứng với công khó của mình, bà trả lời:
- Xin cho tôi được trường sinh bất tử…
Thế là bà được toại nguyện. Tất cả người thân và bạn hữu bà đều chết hết, chỉ còn lại một mình bà. Nhưng dù không chết, thân bà ngày càng tàn tạ teo héo, bệnh tật ngày càng gia tang, nên bà không còn muốn được sống trường sinh nữa, chỉ muốn chết thôi.
*****
Con người thời nào và ở đâu cũng muốn được trường sinh bất tử. Nhưng trường sinh bất tử mà phải triền miên đau khổ bệnh tật thì nào có ích lợi gì, thà chết còn hơn…
Cuộc sống trường sinh Chúa Giêsu nói trong Tin mừng hôm nay không phải ở cõi đời này. Nó chỉ đến với con người trong cuộc sống mai sau. Để được sống trường sinh con người phải lìa bỏ đời này. Muốn được sống muôn đời, họ phải trải qua đau khổ, bệnh tật, chết chóc. Tuy nhiên không vì hướng đến cuộc sống vĩnh viễn đó mà họ được xao nhãng cuộc sống hiện tại. Trái lại họ phải biết rằng: hạt giống vĩnh cửu được gieo vãi và nảy mầm tại cuộc sống đời này. Họ phải làm sao cho hạt giống đó trổ sinh tươi tốt bằng đời sống lương thiện, yêu thương bác ái. Đặc biệt đối với các Kitô hữu, họ còn cần phải vun trồng cuộc sống trường sinh đó bằng tin cậy mến Chúa, bằng lắng nghe và thực hành Lời Chúa, bằng lương thực thiêng liêng là Mình Máu Thánh Chúa Giêsu: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Ga.6,51) (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày, tập I).
3. Trên đường về quê
Lúc ông Theodore Roosevelt làm tổng thống Hoa Kỳ, một kỳ nghỉ hè ông sang Phi châu săn bắn hươu cao cổ để giải trí.
Lúc trở về Hoa Kỳ, ông cùng đi một chuyến tàu với nhà truyền giáo đã 40 năm hy sinh giảng đạo nơi vùng xa xôi hẻo lánh bên Phi châu. Khi tàu cập bến, nhà truyền giáo thấy cảnh các nhân vật trong chính phủ và dân chúng đứng sẵn trên bờ đón chào tổng thống đi săn về, không ai để ý đến ông. Ông lủi thủi một mình lên bờ, tủi phận nên phàn nàn với Chúa:
- Chúa có thấy không? Ông tổng thống đi nghỉ hè săn bắn trở về mà người ta còn tiếp rước nồng hậu như thế. Còn con đã hy sinh phục vụ Chúa 40 năm trời trở về, không một người nghĩ đến con. Thật là bất công tủi hổ cho con quá! Phải biết vậy, con không đi giảng đạo làm gì.
Chúa liền thầm thỉ trong lòng ông:
- Con chưa trở về quê hương thật của con mà…
*****
Có thể chúng ta cũng phàn nàn với Chúa như nhà truyền giáo đó. Chúng ta đã giảng đạo Chúa nhiều năm, chúng ta đã sống đạo Chúa nhiều ngày, nhưng cảm thấy mình chưa được Chúa thưởng công gì, mà lắm lúc còn phải khổ cực gian nan đủ thứ.
Câu Chúa trả lời cho nhà truyền giáo trong câu chuyện trên cũng là câu trả lời của Chúa cho mỗi người chúng ta: “Con ơi! Con chưa trở về Quê Hương thật của con. Ngày nào con trở về Quê Thật, con sẽ thấy Cha tiếp đó con nồng nhiệt thế nào!...
Thế gian này chỉ là nơi chúng ta sống tạm để lập công nghiệp, để chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu trường sinh hạnh phúc. Chúng ta cứ cố gắng hết khả năng phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân, thay vì bận tâm lo lắng tích lũy cho bản thân, ganh tỵ với may mắn của kẻ khác.
Đặc biệt chúng ta là các Kitô hữu, chúng ta sẽ nhờ Thánh Thể Chúa Kitô mà đạt được cuộc sống trường sinh, như Lời Chúa Giêsu hứa với chúng ta trong Tin mừng hôm nay: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga.6,51).
“Sự sống muôn đời mời gọi mỗi người chúng ta hãy sống thế nào, hành động ra sao, để đến giờ được Chúa gọi về Quê Hương Thật, chúng ta không lo sợ chi mà còn vững tâm an lòng đi vào cõi sống hạnh phúc trường sinh. Nhớ đến sự sống vĩnh cửu đời sau sẽ giúp mỗi người chúng ta sống trọn vẹn, sống tốt đẹp cuộc sống đời này. Sở dĩ nhiều người sống buông thả vô luân là vì họ không thường nghĩ gì đến sự sống đời đời của họ. Thánh Phaolô đã khóc lóc than phiền hạng người đó:
“Như tôi đã nói với anh em, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô: chung cuộc là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. Còn chúng ta, quê hương của chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu-Kitô từ trời đến cứu chúng ta”. (Pl.3,18-20) (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập I).
4. Sống sung mãn từng giây phút
Ngụ ngôn Mông Cổ có câu chuyện sau:
Một hôm con phượng hoàng hỏi con quạ:
- Anh quạ ơi! Sao anh sống được 300 năm, còn chúng tôi chỉ sống được 33 năm tuổi?
Con quạ hỏi ngược lại:
- Thế tại sao bạn chỉ uống máu tươi, còn chúng tôi phải sống bằng xác chết?
Con phượng hoàng nghĩ ngợi:
- Hay là chúng tôi thử ăn xác chết như anh quạ xem sao! Coi có sống được lâu hơn không?
Thế là cả hai cùng bay lượn tìm mồi. Thấy con ngựa chết thúi, cả hai cùng lao mình xuống. Con quạ như trúng số độc đắc, nó ăn lấy ăn để cách ngon lành. Trong khi đó con phượng hoàng mổ một cái rồi dừng lại, nó rán thử một lần nữa, nhưng rồi lắc đầu bảo quạ:
- Anh quạ ơi! Tôi không thể ăn nữa được, thà một lần uống máu tươi, còn hơn 300 năm ăn đồ hôi thúi!...
*****
Bài học của câu chuyện trên là: một khoảnh khắc sống sung mãn có giá trị hơn một cuộc sống kéo lê trong bùn nhơ hôi thối. Có những cuộc sống kéo lê trong bùn nhơ hôi thối của trụy lạc, của tham lam, ích kỷ, hận thù, nhưng cũng có những cuộc sống tuy ngắn ngủi, mà sung mãn của những người biết sống xả kỹ, hy sinh, lương thiện…
Một người Do thái viết cuốn sách tựa đề “Khôn ngoan” như sau:
“Người đức nghĩa dầu chết sớm cũng tìm được an nghỉ. Tuổi thọ đáng kính đâu phải nhiều năm hay đo bằng số tuổi. Nhưng tuổi đời chính là sự khôn ngoan và một cuộc sống thọ là một cuộc sống không vết nhơ. Vì đẹp lòng Thiên Chúa, người đức nghĩa được Ngài yêu mến, bởi phải sống giữa những tội nhân nên được cất đi. Người ấy được cất đi kẻo sự dữ làm phôi phai trí khôn và quyến rũ tâm hồn. Bởi vì tật xấu làm mờ sự lành và đam mê quay cuống làm tiêu ma tinh thần chất phác”.
Thiên Chúa không để con người sống mãi trong cuộc sống tại thế, vì còn có một cuộc sống đáng quý hơn. Đó là cuộc sống vĩnh cửu. Có những giá trị cao cả gấp bội phần sự sống, sức khỏe và mọi thứ của cái trên thế giới, do đó giá trị của cuộc sống không phải là tuổi đời của cuộc sống, không phải là tuổi đời chồng chất, không phải là danh vọng hão huyền, mà là chính sự sống vĩnh cửu. Sống chính là dệt nên cuộc sống vĩnh cửu ấy qua từng khoảnh khắc trong cuộc sống tại thế. Và bí quyết dệt nên cuộc sống vĩnh cửu đó chính là nhận lãnh Thánh Thể Chúa Giêsu, như Lời Người đã xác quyết trong Tin mừng hôm nay: “Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn bánh man-na trong sa mạc nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi chết” (Ga.6,48-50) (Trích “Chờ đợi Chúa”).
5. Cuộc sống vĩnh cửu
Tại Phi luật Tân, cách thủ đô Manila chừng 200 cây số, có một trại tỵ nạn do quốc gia Hoa Kỳ tổ chức, nhằm chuẩn bị cho những người tỵ nạn Đông Dương chờ vào sống trong xã hội Mỹ.
Trại được tổ chức như một thành phố nhỏ: có trường học, chợ búa, đường xá, bưu điện… Tất cả cố gắng của người tỵ nạn đều được dồn vào hai mục địch: Đó là học Anh ngữ, và tập sống nếp sống một cách rất khít khao, để tạo cho người tỵ nạn cái cảm tưởng là họ đang sống trên đất Mỹ, nơi mà giờ rảnh được coi là xa xỉ.
*****
Cứu cánh tối hậu của con người là sự sống vĩnh cửu. Do đó cuộc sống tạm bợ trên trần gian này chỉ có giá trị khi nó là một chuẩn bị để bước vào vĩnh cửu. Chúng ta hãy tập sống làm sao để mỗi giây phút, mỗi việc làm, mỗi cuộc gặp gỡ của chúng ta đều là một sinh hoạt trong cuộc sống vĩnh cửu.
Đặc biệt chúng ta chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu đó bằng cách năng dọn mình rước Chúa Giêsu vào tâm hồn chúng ta. Vì trong Tin mừng hôm nay, Người tự giới thiệu: Người là bánh ban cho chúng ta sự sống trường sinh: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga.6,5).
Không ai trong chúng ta có thể tưởng tượng được cuộc sống đó như thế nào, chỉ biết rằng tình yêu là giá trị sẽ mãi mãi tồn tại ở đời sau. Và chỉ có tình yêu mới thắng được sự chết, và tất cả những gì trói buộc con người trong giới hạn của cuộc sống này. Hãy sống mỗi phút giây của cuộc sống này như hương vị ngọt ngào của mai hậu.
(Trích “Như lòng Chúa khoan dung”).
35. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
Nếu chúng ta gặp một người tuyên bố rằng: “Ta từ trời mà đến”, chúng ta nghĩ sao? Chúng ta có tin được không? Đứng trước những lời tuyên bố lạ thường của Chúa Giêsu, đám đông dân chúng không thể tin được, tất nhiên họ phản đối. Vì thế, họ xầm xì với nhau: “Ông này là con ông Giuse, tại sao ông ấy dám tuyên bố là Bánh bởi trời xuống?” Họ biết cha mẹ và dòng họ của Ngài. Có lẽ Chúa Giêsu muốn gây “sốc” để từ đó tạo ra một thắc mắc và sau đó giải quyết vấn đề.
Chúng ta cũng thế thôi. Chúng ta thường căn cứ vào “lý lịch”, hay căn cứ vào những gì mình đã biết, nhất là vào thời của chúng ta: phải có lý lịch mới được công nhận. Đó là căn bản.
Khi Ngài về Nadareth, quê hương của Ngài, không mấy ai tin Ngài, vì nơi đó lý lịch của Ngài quá rõ, không ai có thể chấp nhận sự thông thái của Ngài vì họ biết, Ngài chỉ là một anh thợ mộc dốt nát.
Lý lịch trở thành một rào cản không cho phép người ta đi xa hơn. Nó ràng buộc một con người trong khung cảnh nhỏ hẹp của họ. Ngài là con ông thợ mộc, thì suốt đời Ngài cũng chỉ là con ông thợ mộc mà thôi.
Điều này không gây trở ngại cho Chúa Giêsu. Ngài khẳng định: “Anh em biết tôi là con ông thợ mộc, nhưng không chỉ là con ông thợ mộc. Đó chỉ là lý lịch thôi. Tôi vượt xa hơn thế.”
Ngài tuyên bố những lời rất “khó nghe”: “Các ông đừng xầm xì nữa. Chẳng ai đến được với tôi nếu Chúa Cha, Đấng đã sai tôi không lôi kéo người ấy”.
“Không ai đến được với tôi”, tức là tôi không thuộc về mảnh đất này, môi trường này, tôi thuộc về nơi khác, tôi ở nơi Chúa Cha. Ngài muốn ám chỉ mối liên hệ sâu xa của Ngài với Chúa Cha. Chính Chúa Cha “kéo” chúng ta đến với Ngài chứ không phải chúng ta tự mình đến với Ngài. Ngài là Đấng Chúa Cha đã ghi dấu và sai đến, thì chính Chúa Cha cũng kéo chúng ta đến với Ngài.
Dân Do Thái thắc mắc về lý lịch của Ngài và không muốn vượt qua rào cản đó, vì họ không được Chúa Cha lôi kéo. Họ dừng lại ở những dữ kiện bên ngoài mà quên những yếu tố bên trong. Con người là một huyền nhiệm vì họ mang một thực tại siêu linh và một sự sống thiêng liêng mà con mắt phàm trần không thể nhìn thấy. Đánh giá một người dựa trên lý lịch là một sự thiển cận tai hại.
Ông Giêsu Nadareth, ông thợ mộc ấy không chỉ là ông thợ mộc. Nếu chúng ta dừng lại nơi những sự kiện vật chất, chúng ta sẽ không thể khám phá huyền nhiệm của Ngài.
Để trả lời cho những thắc mắc của người Do Thái, Chúa Giêsu mạc khải Chúa Cha. Nhiều lần, Ngài đã tự xưng mình là Con của Chúa Cha, nhất là trong những lần tranh luận với đám Pharisêu. Nhưng họ có hiểu đâu! Và họ lại ném đá Ngài.
Trong xã hội hôm nay, người ta chỉ căn cứ vào lý lịch để đánh giá một người. Trong Giáo Hội lắm khi cũng vậy, chúng ta đánh giá theo lý lịch. Lý lịch đôi khi cũng giúp chúng ta tìm hiểu về nhân cách hay nguồn gốc của một người, nhưng còn những yếu tố khác cũng quan trọng, giúp chúng ta khám phá ra tâm hồn của một người. Thường chúng ta dán nhãn cho một người và xếp hạng họ vào một loại nào đó mà quên rằng con người có thể biến đổi, chúng ta không nhìn thấy những hy sinh, chịu đựng của một người để sống tốt hơn. Chúng ta căn cứ vào những lỗi lầm của dĩ vãng mà không nhìn thấy những đổi mới nơi một người. Trong Giáo Hội mọi thời vẫn có những người như thánh Âutinh, những Charles de Foucauld, những Mađalêna … Những con người trở về từ rất xa. Cần cố gắng nhìn những hồng ân của Chúa nơi người khác.
Bè phái Pharisêu sai lầm và không thoát ra được khỏi sự lầm lạc của mình và họ đã đi đến sai lầm cuối cùng là đóng đinh Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu vẫn không ngại tuyên bố, không úp mở về chính Ngài: Ngài là Đấng Chúa Cha đã ghi dấu và sai đến. Ngài là người đã “thấy Chúa Cha”. Con người duy nhất đã thấy Chúa Cha và mạc khải Người cho chúng ta. Và Ngài đòi hỏi phải tin vào Ngài mới có sự sống đời đời.
Chúng ta có tin không? Niềm tin của chúng ta được đánh giá bằng gì? Bằng một vài hành động đạo đức, bằng việc dự lễ, rước lễ và vài ba câu kinh hấp tấp?
Tin vào Chúa Giêsu chính là sống như Ngài đã sống, khiêm nhượng và hiền lành, yêu thương không tính toán, là sống trong tình yêu của Chúa Cha.
Tin là ăn lấy Ngài vì Ngài chính là Bánh Trường Sinh. Chỉ có Ngài mới làm cho sống. Ngài đã tuyên bố mạnh mẽ rõ ràng: “Tôi là Bánh từ trời xuống… Và Bánh tôi ban tặng chính là Thịt Tôi đây”.
Chỉ có Ngài mới dám tuyên bố những lời như thế mà không sợ bẽ mặt, vì Ngài nói và làm đúng như đã nói. Ngài là Thiên Chúa quyền năng đã đến trong trần gian. Con người của chúng ta hồ nghi vì chúng ta đã quá quen với những lời tuyên bố trống rỗng, chúng ta trở nên đa nghi. Người Do Thái xưa cũng đa nghi và họ không thể tin vào ai được vì có quá nhiều tiên tri giả.
Chúng ta vẫn có thể vững tin dù cho mọi người không dám tin. Chúng ta là những người đến sau, chúng ta có đủ bằng chứng để không thể hồ nghi. Đó là Chúa Giêsu đã chết và sống lại. Niềm tin của chúng ta được đặt trên sự sống lại vinh hiển của Ngài chứ không còn thắc mắc như dân Do Thái xưa kia nữa; nhưng chúng ta vững tin rằng, Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống.
Hãy đến ăn lấy Ngài trong tin tưởng và hân hoan: “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Bàn tiệc thiên quốc đang mời gọi mỗi Kitô hữu. Chúng ta hãy ăn lấy Bánh Tình Yêu để sống trong tình yêu và loan truyền Tình Yêu.
36. Nguồn sinh lực.
Ngày kia, tiên tri Elia phải lìa bỏ kinh thành mà chạy trốn vì hoàng hậu Zézabel muốn tìm giết ông. Tiên tri vội vã lên đường, không kịp mang theo đồ ăn và thức uống, rồi chính ông cũng chẳng biết mình sẽ phải về đâu.
Sau nhiều ngày lang thang trong sa mạc cát nóng, vừa mệt mỏi lại vừa tuyệt vọng, ông bèn nằm dưới một bóng cây chờ chết và thiếp vào một giấc ngủ nặng nề.
Lúc sau có một thiên thần đánh thức ông, đưa cho ông bánh và nói:
- Nào hãy chỗi dậy, cầm lấy mà ăn vì đường còn xa.
Elia chỗi dậy, ăn bánh và cơ thể ông lấy lại được sức khỏe, ông trở nên một con người mới, hăm hở băng qua sa mạc, đi cho đến tận đỉnh Horb là núi thánh của Chúa.
Hình ảnh tiên tri Elia cũng chính là hình ảnh chúng ta. Và cuộc hành trình đầy gian khổ tiến lên núi thánh cũng chính là hình ảnh cuộc đời của mỗi người.
Thực vậy, sống trong cuộc đời, chúng ta đều gặp phải những đau khổ đắng cay, những đớn đau buồn phiền. Làm sao chúng ta có đủ sức chịu đựng nổi.
Hơn thế nữa, Thiên Chúa là Đấng yêu thương, Ngài mong muốn cho tất cả chúng ta đều được hưởng niềm hạnh phúc nước trời. Nhưng để xứng đáng với niềm hạnh phúc ấy, chúng ta phải trở nên thánh thiện.
Thế nhưng kinh nghiệm cho chúng ta hay, trở nên thánh không phải là một việc dễ dàng. Biết bao nhiêu lần chúng ta đã dốc quyết điều nọ điều kia, nhưng rồi chỉ trong vòng ba bảy hai mươi mốt ngày, chúng ta lại vội vã quên đi, để rồi vẫn chứng nào tật ấy, mèo vẫn hoàn mèo mà thôi.
Hay như lời thánh Phaolô đã diễn tả:
- Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi không muốn thì tôi lại làm.
Trên đường tiến tới quê hương nước trời, chúng ta phải chống cự với biết bao nhiêu kẻ thù, chúng ta phải vượt qua biết bao nhiêu khó khăn.
Như tiên tri Elia đã lấy lại được sức khỏe do bánh mà sứ thần đem tới, thì chúng ta cũng có được một thứ bánh bởi trời, một thứ lương thực thần linh, bồi bổ cho tâm hồn đó là Mình Máu Thánh Chúa.
Ý thức được những lợi ích to lớn ấy, chúng ta hiểu được tại sao Chúa Giêsu đã truyền cho chúng ta phải rước lễ. Để cho chúng ta được sống và không phải chết, Chúa Giêsu đã phán:
- Hãy cầm lấy mà ăn, hãy cầm lấy mà uống…
Đồng thời Ngài cũng cảnh giác:
- Nếu các con không ăn thịt Ta và không uống máu Ta, các con sẽ không có sự sống.
Hơn thế nữa, Ngài còn hứa:
- Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có được sự sống đời đời và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.
Thế nhưng nhiều người trong chúng ta đã coi thường lệnh truyền của Chúa. Họ giống như những người được nhà vua mời tới tham dự tiệc cưới, nhưng đã viện lý do nọ lý do kia: nào là tôi mới mua nhà, nào là tôi mới tậu bò, nào là tôi mới cưới vợ… để rồi tất cả đã từ chối không đến tham dự. Họ có đủ thời giờ làm mọi việc, chỉ trừ có một việc là không đáp trả lời mời gọi của nhà vua.
Với chúng ta cũng thế. Bí tích Thánh Thể là một bàn tiệc, là một bữa ăn. Chúa Giêsu đã lên tiếng kêu mời chúng ta. Phải chăng chúng ta đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ, không đếm xỉa gì tới lời mời gọi ấy, bởi vì có khi cả năm chúng ta không rước lễ lấy được một lần?
Để đáp trả tình thương của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ và nhất là hãy sốt sắng rước lễ, mỗi khi có thể, vì việc rước lễ chính là một giới luật, chính là một lệnh truyền, chính là một lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa.
37. Sống đời đời.
Bài Tin Mừng tiếp tục kể lại bài giảng về bánh hằng sống của Chúa Giêsu. Qua bài giảng này Chúa Giêsu muốn mạc khải về phép Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập. Chúng ta hãy ôn lại ít điều giáo lý về việc rước Chúa, tức là việc rước lễ, đem lại cho chúng ta rất nhiều ơn ích lớn lao, có thể tóm tắt trong bốn điều:
Thứ nhất, rước Chúa chúng ta được tăng thêm ơn thánh hóa. Khi chúng ta lãnh các bí tích Thêm sức, Giải tội, Xức dầu, Truyền chức thánh và Hôn phối, chúng ta cũng được tăng thêm ơn thánh hóa. Nhưng khi lãnh bí tích Thánh Thể chúng ta được tăng thêm ơn thánh hóa nhiều nhất, vì không phải chúng ta chỉ lãnh thêm ơn thánh mà là lãnh nhận chính Đấng ban ơn thánh, là chính nguồn mạch ơn phúc.
Thứ hai, rước Chúa làm chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và với các anh chị em tín hữu khác. Cũng như khi chúng ta ăn bất cứ thứ gì, thì của ăn đó được biến hóa và trở nên thịt máu vào chính con người chúng ta. Vậy khi ăn thịt Chúa, thì thịt Chúa sẽ trở nên thịt máu chúng ta. Chúng ta sẽ sống trong Chúa và Chúa sẽ sống trong chúng ta, như Chúa đã phán: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy”. Khi đó chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Không phải tôi sống nữa mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Không những chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu mà chúng ta còn hiệp nhất với anh chị em tín hữu trong cả hoàn cầu nữa. Bởi vì chúng ta cùng chia sẻ một lương thực là cùng chia sẻ một sự sống, nên chúng ta hiệp thông và hiệp nhất với nhau, như thánh Phaolô đã nói: “Chúng ta ăn mình Chúa nên tất cả chúng ta đều là một”. Do đó, đã hiệp nhất với Chúa Giêsu thì cũng hiệp nhất với nhau.
Thứ ba, rước Chúa chúng ta được tha các tội nhẹ và bảo vệ chúng ta khỏi tội trọng. Hằng ngày chúng ta phạm nhiều tội nhẹ trong tư tưởng, ước muốn, lời nói, việc làm. Những tội này không những không ngăn trở chúng ta rước lễ, mà chính việc rước lễ sẽ tha các tội nhẹ cho chúng ta. Còn khi có tội trọng thì không được rước lễ. Nhưng chính việc rước lễ sẽ giúp chúng ta, sẽ gìn giữ chúng ta khỏi sa ngã phạm tội trọng, như Công Đồng Tridentinô đã nói: Việc rước Chúa là một liều thuốc gìn giữ chúng ta khỏi sa ngã phạm tội trọng”.
Thứ tư, rước Chúa ban cho chúng ta sự sống đời đời ngay khi chúng ta còn sống trên mặt đất này, Chúa Giêsu nói rõ: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”. Chúa không nói người ấy “sẽ được sống muôn đời”. Chúa nhấn mạnh người ấy “được sống muôn đời”. Còn việc bảo đảm sẽ được sống lại sau này thì chính Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”. Như vậy, phép Thánh Thể, sự phục sinh và cuộc sống vĩnh cửu có tương quan với nhau, nghĩa là bây giờ nhờ rước Chúa, chúng ta có đời sống ân sủng, sau khi chết, linh hồn chúng ta được hạnh phúc trường cửu, và ngày tận thế, thân xác chúng ta sẽ được đồng vinh hiển cùng với linh hồn.
Anh chị em có đọc được ở đâu hay tìm thấy nơi một tôn giáo nào khác có một đấng thần minh, dám nói như Chúa Giêsu đã nói hôm nay không: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”?. Chúa Giêsu dám nói như thế, vì Ngài có nền tảng, vì Ngài là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài có quyền ban sự sống đời đời cho những ai tin Ngài. Ngài là lẽ sống của họ. Trong những thế kỷ đầu của Giáo Hội, dân ngoại bỡ ngỡ khi thấy người có đạo anh dũng chịu chết vì Chúa. Đâu là lý do của sự can đảm lạ lùng ấy? Thánh Si-pơ-ri-a-nô trả lời: “Chính nhờ Mình Thánh Chúa Giêsu gìn giữ mà người có đạo mới ra pháp trường một cách anh dũng như vậy”. Đời vua Tự Đức, tổ tiên chúng ta cũng không thua kém các vị tử đạo đầu tiên ở Rôma. Nhờ đâu? Nhờ rước Mình Thánh Chúa. Bằng chứng: trong một sắc lệnh cấm đạo của vua Tự Đức có một điều như sau: “Không được để cho người ta đem đến cho kẻ có đạo thứ bánh mầu nhiệm gì đó, vì thứ bánh ấy làm cho họ không sợ đau đớn và vui vẻ chịu chết”.
Quả thực, ăn thịt máu Chúa sẽ tìm được sức mạnh thánh hóa và can đảm. Thịt máu Chúa còn đem lại hiệu quả cuối cùng là sự sống lại và sự sống đời đời. Vì thế, nếu chúng ta đến dâng lễ mà chúng ta không rước Mình Thánh Chúa, thì cũng không khác gì đi ăn tiệc mà không ăn gì cả. Và như thế là chúng ta đã từ chối ân huệ lớn lao, như nhà vua kia mời dự tiệc cưới con mình mà bị từ chối, là năm trinh nữ khờ dại không vào phòng tiệc, là chôn giấu nén bạc chủ trao cho, là mất kho tàng và đá ngọc, là vứt hòn ngọc đi. Tóm lại. Mình Máu Chúa là của ăn không những nuôi dưỡng linh hồn mà còn tăng thêm niềm tin, lòng yêu mến và hy vọng, giúp chúng ta sống hào hùng, sống tốt đẹp ở đời này và bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc đời sau. Vậy chúng ta hãy quí mến phép Thánh Thể và siêng năng rước lễ, để lãnh nhận những ơn ích và những hiệu quả cao quý ấy.
38. Dậy mà ăn, vì đường còn xa!
(Suy niệm của Lm. Giuse Trịnh Ngọc Danh)
“Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”. Đó là lời thiên sứ của Thiên Chúa thúc dục ngôn sứ Êlia, sau khi ông đã được thiên sứ cung cấp bánh và nước cho ăn no sau cuộc vượt thoát khỏi hoàng hậu Ideven đang tìm giết ông; vì ông đã chiến thắng trong cuộc thách đố với 450 ngôn sứ của thần Baan. Ăn no, ông lại tiếp tục ngủ.Thiên sứ lại hiện ra, dục ông dậy mà ăn, vì đường lên núi Khôrếp, núi Thiên Chúa còn xa.
Lương thực cho Êlia
Ngôn sứ Êlia là người được Thiên Chúa sai đến với dân chúng để làm chứng cho họ nhận biết chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng duy nhất họ phải tôn thờ, nhưng dân chúng không nghe; ông đã khiển trách toàn thể con cái Israen trên núi Cácmen: “Các ngươi nhảy khập khiểng cho tới bao giờ? Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa, thì hãy theo Người; còn nếu là Baan, thì cứ theo nó!”(1V 18: 21); và ông đã mạnh dạn thách thức với 450 ngôn sứ của thần Baan trên núi Cácmen: cả hai bên cùng dâng hy lễ để chứng minh Đấng nào là Thiên Chúa chân thật. Thiên Chúa đã nhậm lời ông để cho dân chúng nhận ra Thiên Chúa là Đấng nào và ông đã giết chết 450 ngôn sứ của thần Baan; vì thế, hoàng hậu Ideven thề sẽ lấy mạng sống ông. Ông thất vọng, chán nản, buông xuôi. Ông trốn chạy và đã xin với Chúa: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con cũng chẳng hơn gì cha ông của con”. Rồi ông nằm dưới cây kim tước mà ngủ thiếp đi”(1V. 19: 4). Được thiên sứ của Chúa cung cấp đồ ăn, đồ uống; nhưng ăn xong, ông lại nằm ngủ tiếp.
Một mình chống chọi với các thế lực tà thần làm ông trở nên yếu đuối, mệt mỏi, mất tinh thần, hoảng sợ vì làm ngôn sứ của Thiên Chúa. Ông trốn chạy để cứu mạng sống. Ông muốn bỏ cuộc: ăn no, ông lại ngủ tiếp!
Thiên sứ trở lại lần thư hai, đánh thức ông dậy và nói:“Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”. Và nhờ lương thực từ trời bổ dưỡng, ông đã đi suốt bốn mươi ngày, bốn mươi đêm tới Khôrếp, là núi của Thiên Chúa”(1V. 19: 7-8)
Lương thực cho chúng ta
Trên con đường hành trình đi về núi Thiên Chúa, Êlia chán nản, thất vọng: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con cũng chẳng hơn gì cha ông của con”. Chúa Giêsu Nadarét bị đồng hương khinh bỉ, rồi lo buồn sầu não trước giờ tử nạn: “Lạy Cha, nếu có thể thì xin cho con khỏi uống chén này”. Và Hội Thánh hôm nay bị xoi mói, biêu rếu…Và chúng ta là dân Thiên Chúa đang hành trình trong đức tin về miền đất hứa của sự sống đời đời. Suốt cuộc hành trình ấy, chúng ta cũng không tránh khỏi những thất vọng, khó khăn, hoài nghi, chán nản, mất niềm tin khi gặp khó khăn, khốn khổ.Cũng có lúc, chúng ta dựa vào thế lực của trần thế hơn là dựa vào quyền năng của Thiên Chúa; nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi con cái của Ngài.
Ngày xưa, cha ông chúng ta đã ăn manna trong hoang địa; tiên tri Êlia được Thiên sứ cho một thứ lương thực bồi dưỡng giúp ông đi suốt bốn mươi ngày đêm lên tới núi Thiên Chúa mà không mõi mệt.
Và chúng ta ngày nay, vì “còn phải đi đường xa”, chúng ta sẽ ăn gì đây để có đủ sức mạnh tiến về núi Thiên Chúa?
Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một thứ lương thực mới, không như manna mà cha ông chúng ta đã “ăn trong sa mạc nhưng đã chết”, nhưng là một thứ “bánh từ trời xuống để ai ăn thì khỏi phải chết”. Lương thực ấy, thứ bánh ấy chính là Thịt và Máu Chúa Kitô:“Tôi là bánh trường sinh. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây. Ai không ăn thịt và uống máu Con Người, không có sự sống nơi mình. Ai ăn thìđược sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”
“Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”. Đây cũng là lời Thiên Chúa thúc dục chúng ta trên con đường lữ hành về Nước Trời. Đường cònxa!
Qua bài Tin Mừng của thánh Gioan (Ga. 6: 41-51) vào ngày Chúa nhật 19 thường niên, năm B, Chúa Giêsu đã giới thiệu cho chúng ta về thân thế và sứ vụ của Ngài trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa: Người Con ở cùng Người Cha. Chắc chắn Người Con biết rõ về Người Cha, Người Con biết rõ rằng “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”; do đó, ai nghe và đón nhận giáo huấn Người Cha, thì sẽ đến với Người Con. Nếu Người Cha không lôi kéo người ấy, thì chẳng ai đến được với Người Con; và ai đến được với Người Con, thì Nguời Con sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Người Con từ trời xuống thế gian theo ý của Người Cha. Người Con tự hiến tế đã trở thành bánh trường sinh bằng chính thịt và máu mình. Ai tin, và ăn thứ bánh hằng sống Người Con ban cho sẽ được sống đời đời.
Chúa Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Chỉ trong Ngài, con người mới thấy được Thiên Chúa như lời Ngài đã nói: “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha”.
Vì Chúa Giêsu và Chúa Cha là một; cho nên, nếu muốn được sống đời sống thần linh, chúng ta phải sống bằng chính sự sống của Chúa Giêsu, phải được nuôi dưỡng bằng chính Thịt và Máu Ngài: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy như tôi sống nhờ Chúa Cha”.
Chúa Giêsu là “bánh từ trời xuống”, bánh được ban xuống cho con người để lôi kéo con người lên với Chúa Cha. Chúng ta tiếp nhận Thịt và Máu Chúa Giêsu là để được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, được sống kết hợp với Ngài.
Sẽ không được sống đời đời, sẽ không có sự sống đích thực, sẽ không được sống lại trong ngày sau hết, nếu không ăn thịt và uống máu Con Người: “Ai không ăn thịt và uống máu Con Người, không có sự sống nơi mình. Ai ăn thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.”
Và sẽ không đến được với Con Người, nếu không đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, không tin vào Con Người, không tin vào tình yêu Thiên Chúa: “Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi”. Và “ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy Người Con và tin vào Người Con thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời”.
Thiên Chúa mà chúng ta quy tụ nhân danh Chúa Giêsu Kitô không chỉ là đích đến của cuộc hành trình về Nhà Cha mà Ngài còn là người bạn đồng hành, là một lương thực cần thiết trên con đường lữ hành ấy.
Điều kiện đến với Người Con để được sống đời đời là tin và phó thác vào Thiên Chúa và tuân giữ các giới răn của Ngài, là tin và sám hối theo Tin Mừng
Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài, cho con người làm con cái của Ngài. Ngài muốn con người được sống hạnh phúc. Ngài ban cho con người tự do; nhưng vì có tự do, con người đã đánh mất vị thế làm con, đánh mất cuộc sống hạnh phúc trong vườn Địa đàng.
Thay vì lên án, hủy diệt con người đã bất trung bội phản, nhưng vì yêu thương, Ngài đã không bỏ mặc những ai tin tưởng nơi Ngài, đã làm mọi cách để lôi kéo con người khỏi vòng bủa vây của sự diệt vong, khỏi sự lôi kéo của thần chết.
Thiên Chúa vẫn luôn tín trung với tình yêu của Ngài. Với những người tin tưởng và phó thác vào Ngài, Ngài chẳng bao giờ bỏ rơi họ như dụng ôn về con chiên lạc và dụ ngôn người con hoang đàng.
Trong cuộc hành trình tiến về núi Thiên Chúa, có những lúc, những giai đoạn chúng ta sẽ gặp những khó khăn, chán nản, thất vọng, cô đơn như trường hợp của ngôn sứ Elia. Nhưng những ai tin tưởng phó thác vào tình yêu Thiên Chúa, Ngài sẽ luôn quan phòng và không để họ thoát khỏi tình yêu của Ngài.
Chúng ta đã có một thứ lương thực trường sinh cho cuộc hành trình đi về với Chúa Cha: Đó là Thịt máu Chúa Kitô trong phép Thánh Thể. Khi đón nhận Bánh Hằng Sống là lãnh nhận tình yêu của Thiên Chúa và từ đó lan toả sang cho tha nhân để đưa mọi người về với Ngài.
Tin và thực hành những điều Thiên Chúa dạy là bước khởi đầu dẫn chúng ta vào Nước Trời. Chúng ta chính thức trở thành công dân Nươc Trời khi chúng ta sát nhập với Chúa Kitô, khi chúng ta ăn “ bánh hằng sống từ trời xuống” là chính Chúa Kitô. Ngài là nguyên lý sự sống đích thực và là trung tâm thu hút mọi người tìm về.
Chỉ có sức sống thần linh mới làm cho con người được sống đích thực cuộc sống của mình. “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”.
39. Lương thực.
Êlia là vị ngôn sứ lớn nhất trong Cựu ước. Đến nỗi người ta đã nghĩ rằng ông sẽ trở lại để loan báo thời đại của Đấng Mêsia. Tuy nhiên, trong bài đọc 1, chúng ta thấy ông yếu đuối, kiệt sức, hoảng sợ. Ông đau đớn, mệt mỏi vì làm ngôn sứ của Thiên Chúa. Ông bỏ chạy để cứu mạng sống mình. Ông muốn bỏ cuộc. Ông bắt đầu nghi ngờ chính mình: “Tôi không tốt hơn cha ông tôi”.
Điều gì đã làm cho ông xuống tinh thần như thế? Ông đã theo đuổi một cuộc chiến đấu ác liệt chống việc thờ ngẫu tượng đang bùng lên trong thời kỳ ấy. Điều này đưa ông đến xung đột với hoàng hậu độc ác I-da-ven. Bà này muốn giết ông. Vì thế ông phải chạy trốn trong sa mạc, ở đó ông sấp mình xin Thiên Chúa lấy mạng sống của ông để mọi phiền muộn chấm dứt.
Ông đã mất hết tinh thần. Khi chúng ta mất hết tinh thần, chúng ta đánh mất sức mạnh cao cả. Tinh thần của chúng ta ví như đôi cánh của chim và gốc rễ của cây cối.
Cả bậc vĩ nhân cũng biết đến những thời kỳ yếu đuối, rã rời và thất vọng. Họ cảm thấy đời sống quá khó khăn đến nỗi họ không thể đương đầu với bất cứ điều gì nữa. Họ không vì thế mà kém vĩ đại. Dẫu sao, họ cũng chứng tỏ rằng họ rất con người và do đó có giới hạn. Chính Đức Giêsu biết điều đó một giờ trong vườn Giệtsimani.
Nhiều người không thích chấp nhận những giới hạn của mình trong nhân tính. Họ muốn tỏ ra lúc nào cũng mạnh mẽ. Họ nghĩ họ sẽ mất mặt trước những người khác nếu họ tỏ ra yếu đuối và sợ hãi. Nhưng, thật ra, trường hợp ngược lại mới phải. Người ta sẽ cảm động và sẵn sàng giúp đỡ khi họ thấy rằng chúng ta là con người giống họ. Hình như Picasso có nói: “Lòng trắc ẩn sẽ thắng bạn, khi bạn thấy nơi mỗi người dòng suối lệ”.
Vẫn còn có người cảm thấy rằng cảm nhận như thế là không xứng đáng với một người có đức tin vào Thiên Chúa. Nhưng sự yếu đuối không phải là không phù hợp với đức tin. Mặt khác, làm thế nào chúng ta có thể được giúp đỡ nếu chúng ta không thú nhận chúng ta cần? Sự nhận biết mình là bước đầu của sự cải hóa.
Thiên Chúa đã sai một “thiên thần” mang thức ăn, và thức uống cho Êlia. Hầu như “thiên thần” không ai khác hơn là người thị đồng (nô bộc) đã đi theo ông đến bìa sa mạc. Với sức mạnh mà lương thực ấy mang lại, Êlia đã đi hết con đường đến núi Khô-rếp, núi của Thiên Chúa. Như thể vấn đề tiên quyết của ông không phải do thiếu lương thực sinh ra (dù trong thời gian ấy có nạn đói) vì thế sức mạnh mới của ông không chỉ do lương thực mà do sự bảo đảm Thiên Chúa ở cùng ông. Chính sự bảo đảm này thổi vào ông sự sống mới và cho ông nhiệt tình để đi tiếp.
Chúng ta cũng đang hành trình tiến về núi của Thiên Chúa, nơi có sự sống đời đời. Chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm những lúc yếu đuối trong cuộc lữ hành ấy. Chúng ta cần sự giúp đỡ mà ở hàng đầu là sự giúp đỡ của con người. Một cách lý tưởng điều này sẽ có hiệu lực qua cộng đoàn Kitô hữu. Và dĩ nhiên chúng ta cần sự giúp đỡ đến từ Thiên Chúa. Quả là một sự nâng đỡ đặc biệt khi chúng ta cảm nhận Thiên Chúa hiện diện với chúng ta và yêu thương chúng ta. Và chúng ta cần bánh cho cuộc hành trình của mình. Tuy nhiên bánh bình thường sẽ không đủ. Chúng ta cần bánh mà Đức Giêsu ban cho – Bánh Thánh Thể.
Thánh Thể còn được gọi là Viaticum có nghĩa là bánh hay thức ăn đi đường giống như khẩu phần của người chiến sĩ. Tuy nhiên, qua nhiều năm tháng Viaticum chỉ còn được áp dụng trong một ý nghĩa rất hẹp, và để chỉ sự rước lễ dành cho một người sắp chết. Vì thế nó chỉ được xem như bánh dành cho giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình trên trần gian của người Kitô hữu. Nhưng Thánh Thể có ý nghĩa nâng đỡ chúng ta suốt cuộc hành trình ấy.
Nhờ vào sức mạnh của lương thực mà Đức Giêsu ban cho chúng ta trong Thánh Thể, chúng ta sẽ đi trọn con đường dẫn đến Nước Chúa vĩnh cửu. Và dọc đường, chúng ta có đặc ân làm một thiên thần của Thiên Chúa cho một người khác đang cảm thấy xuống tinh thần. Đó chỉ là loại tình yêu và nâng đỡ mà bạn hy vọng cho người cùng ngồi ăn với bạn.
40. Giúp đỡ.
Êlia là một ngôn sứ lớn nhất của Cựu ước. Ông chống lại và đánh bại các ngôn sứ của thần Ba-an tại núi Cát minh. Điều này khiến ông bị hoàng hậu thờ ngẫu tượng I-da-ven căm thù và muốn cho người giết ông. Vì thế ông chạy trốn vào sa mạc, ở đó ông phủ phục và xin Thiên Chúa cất mạng sống ông đi. Và rồi mọi ưu phiền của ông cũng chấm dứt.
Thiên Chúa nghe lời cầu nguyện của Êlia và đã đáp lại, nhưng không phải theo cách Êlia mong muốn. Thiên Chúa sai một thiên thần đem đến cho ông lương thực và nước uống. Và khi được lương thực “từ trời” xuống làm cho mạnh mẻ, ông có thể tiếp tục cuộc hành trình lên núi Khô-rếp, ngọn núi của Thiên Chúa.
Về sự việc này, có thể không theo cách nói siêu nhiên mà giải thích theo cách tự nhiên. Thiên thần nuôi sống Êlia có lẽ chính là người nô bộc của ngôn sứ mà ông đã để lại phía sau một khoảng cách. Nhưng dù giải thích cách nào thì cũng đều là sự chăm sóc của Thiên Chúa đối với ngôn sứ của Người. Cách hoạt động thông thường của Thiên Chúa là qua những con người làm trung gian.
Có một câu chuyện để minh họa điều này. Có một cơn lũ tồi tệ và hầm rượu của nhà Tôma đã ngập nước. Một người chạy Canô đến và nói: “Ông có muốn tôi chở đến chỗ an toàn không?” “Không” Tôma nói “Tôi tin vào Thiên Chúa, Người sẽ cứu tôi”.
Nước tiếp tục dâng lên và ngập đến sàn nhà. Tôma phải lên lầu. Một người chèo một chiếc xuồng máy đi ngang qua và đề nghị đưa ông đến một chỗ an toàn, nhưng Tôma nói “Tôi tin vào Thiên Chúa, Người sẽ cứu tôi”.
Nước vẫn lên cao và Tôma phải trèo lên mái nhà. Một máy bay trực thăng đi ngang qua và phi công đề nghị đưa ông đến chỗ an toàn, nhưng Tôma nói: “Tôi tin vào Thiên Chúa và Người sẽ cứu tôi”.
Nhưng nước vẫn cứ dâng lên và ông bị cuốn trôi. Khi lên trời ông giận dữ nói với Thiên Chúa: “Con đã tin Chúa thế mà Chúa vẫn để con chết chìm”. Nhưng Thiên Chúa đáp lại: “Không chỉ một lần nhưng là ba lần, Ta cho người đến giúp con, nhưng lần nào, con cũng từ chối”.
Chúng ta thường không nhận ra sự giúp đỡ của Thiên Chúa khi nó đến. Lời cầu nguyện được đáp ứng không phải trong việc Thiên Chúa làm, nhưng trong việc Thiên Chúa giúp chúng ta tự làm, hoặc cho người khác giúp chúng ta. Chúng ta sẽ chờ đợi vô ích một Thiên Chúa từ trời xuống. Nhưng Thiên Chúa sai một thiên thần con người đến. Mọi người chúng ta đều có kinh nghiệm về tác vụ của những thiên thần như thế.
Và chúng ta cũng có những cơ hội để đóng vai một thiên thần đến với một người trong cảnh khốn khổ. Đôi khi để làm một việc gì đó, cung cấp một thứ phục vụ cơ bản nào đó như nấu một món ăn. Những lần khác để nói một lời động viên, hoặc chỉ để đem lại sự có mặt an ủi và người ta không còn chịu đau khổ một mình trong cảnh cô đơn.
Nhiều người đi qua một thời kỳ tồi tệ. Chỉ cần có sự chăm sóc của một thiên thần con người đủ giúp họ vượt qua thời kỳ ấy. Sau cùng “thiên thần” mà Thiên Chúa sai đến với chúng ta là Con của Người, Đức Giêsu. Đức Giêsu luôn ở bên cạnh chúng ta và cho chúng ta, không phải thứ bánh thông thường, mà là “bánh sự sống”. Nhờ sức mạnh bánh đó mang lại, chúng ta sẽ đi trọn con đường lên núi Thiên Chúa có tên gọi là sự sống đời đời.
41. Thoát ly.
Êlia, vị ngôn sứ dùng cả cuộc đời mình để chiến đấu chống lại sự thờ ngẫu tượng đang lan rộng trong thời kỳ đó. Điều này dẫn ông đến chỗ xung đột với hoàng hậu I-da-ven là người muốn giết ông. Vì thế ông đã chạy trốn vào trong sa mạc để thoát nạn. Nhưng ở đó ông bị nỗi phiền muộn dày vò. Ông đã cho đi tất cả, giờ đây ông cảm thấy mình kiệt sức. Vì thế ông phủ phục xuống đất và xin Thiên Chúa cất mạng sống ông đi. Và rồi mọi phiền muộn sẽ không còn nữa.
Êlia có lẽ là vị ngôn sứ lớn nhất trong Cựu ước. Tuy nhiên ở đây, chúng ta thấy ông yếu đuối, kiệt sức, hoảng sợ và chỉ muốn chết. Thay vì sửng sốt khó chịu bởi việc đó, chúng ta không nên bận tâm. Êlia là một vĩ nhân. Nhưng sự cao cả vĩ đại không thể được phong tặng, người ta phải thực hiện nó. Và khi thực hiện sự cao cả, vĩ đại, người ta không tránh khỏi những khó khăn, trái lại còn phải đương đầu và vượt qua chúng. Nhưng cả bậc vĩ nhân cũng biết đến những lúc yếu đuối, sợ hãi, hồ nghi như tất cả chúng ta.
Êlia đã chạy trốn khỏi những gì đuổi theo ông. Nhưng thay vì đáp ứng mong ước của ông. Thiên Chúa đã sai một thiên thần mang lương thực và nước uống đến cho ông. Biến cố này không hẳn là một sự kiện siêu nhiên. “Thiên thần” có lẽ là người tôi tớ của ngôn sứ và ông đã để lại phía sau không xa. Dù gì, đó cũng là một cách diễn tả sự chăm sóc mà Thiên Chúa đã dành cho Êlia. Trong bất cứ tình huống nào, được lương thực từ trời làm mạnh sức, Êlia có thể tiếp tục lên đường đến núi Khô-rếp, núi của Thiên Chúa.
Ở núi Khô-rếp ông đã có một kinh nghiệm về Thiên Chúa. Mục đích của kinh nghiệm này không phải để khuyến khích ông đào tẩu, thoát ly, nhưng để an ủi và làm ông thêm mạnh mẽ để có thể trở về và đối đầu với tình trạng lộn xộn và nguy hiểm ông đã để lại phía sau. Và đó chính xác là điều ông đã làm.
Cầu nguyện và tôn giáo không có nghĩa là một sự đào tẩu khỏi đời sống nhưng để được giúp đỡ đối đầu với nó. Chúng ta thường xuyên quay về đời sống cầu nguyện và các bí tích từ cuộc hành trình tìm kiếm Thiên Chúa mỗi ngày và trong nỗ lực sống đời Kitô hữu. Tuy nhiên không phải để trốn tránh và đào tẩu, nhưng để được tái tạo và đổi mới lòng can đảm và năng lực, ngõ hầu chúng ta có thể lại dấn thân vào cuộc hành trình.
Tôn giáo là để an ủi chúng ta trong những lúc phiền muộn và những khi đau buồn. Nhưng nếu tôn giáo không làm hơn thế, thì trong trường hợp ấy, tôn giáo không bao hàm nguy cơ và sự căng thẳng. Nó phải đem lại một điều gì để nâng chúng ta lên, một lý do tốt để chúng ta thêm mạnh mẽ. Tôn giáo phải thách thức và kéo căng chúng ta khỏi những giới hạn của mình và vượt qua chúng, để sau đó chúng ta có những tiêu chuẩn phán đoán chính mình.
Có một tôn giáo của lòng sùng tín và một tôn giáo của sự cam kết. Đức tin có thể là cây nạng hoặc một đôi cánh.
Đời sống Kitô hữu không nhắm đến đào tẩu thoát ly, những quan điểm mềm yếu, sự an ủi. Nó nhắm đến điều trái ngược với những điều đó. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, mong mỏi điều tốt nhất cho chúng ta, Người không mong chờ điều gì thấp kém hơn.
Thiên Chúa cho chúng ta một lương thực đặc biệt nuôi dưỡng chúng ta. Lương thực mà Êlia nhận được, giúp ông có thể tiến lên núi của Thiên Chúa. Lương thực mà Đức Giêsu ban cho chúng ta trong thánh lễ có thể cho chúng ta năng lực tiến lên trên con đường đến Nước trời vĩnh cửu.
42. Bánh sự sống đến từ trời - Lm. Gioan Trần Khả.
Khát Trường Sinh
Ai trong chúng ta cũng muốn mình sống lâu và trẻ hoài. Nếu có cách gì làm cho mình khoẻ, trẻ và sống lâu thì chúng ta không ngại thử ngay.
Vào thế kỷ thứ 16 khi Kha Luân Bố tìm ra miền đất mới thì có tin đồn rằng miền đất mới có suối nước thần nếu ai tắm và uống nước đó sẽ trẻ trung hoài. Ponce de Leon đã quyết định đóng tầu đi thám hiểm đến miền đất mới để tìm giòng suối trẻ trung đó.
Hoàng Đế Chin của Trung Hoa, người xây Vạn Lý Trường Thành cũng rất sợ già và sợ chết. Một hôm người cận thần tâu trình rằng ở bên Biển Đông có hòn đảo địa đàng. Người dân trên đảo đã khám phá ra bí mật của sự sống trường sinh. Hoàng Đế liền cho lệnh chất vàng bạc châu báu lên tầu và khởi hành đi về Biển Đông để trao đổi lấy thuốc thần trường sinh.
Những ai coi phim tầu cũng rất quen thuộc với giấc mơ đi về miền núi xa xôi hoang vắng nào đó để tìm cho đuợc củ sâm ngàn năm. Củ sâm đó có sức làm cho người ta phục hồi sức sống, tăng thêm tuổi thọ, sống lâu không chết.
Trẻ trung và sống lâu hạnh phúc là giấc mơ của con người ở mọi thời đại. Con nguời luôn luôn mong muốn sống mãi sống hoài. Nếu bị bệnh là lo tìm thày chạy thuốc. Nếu có khiếm khuyết về dung mạo hay hình dáng thì lo tìm cách sửa trị hoặc che đậy đi. Nhưng xưa nay chưa có ai thực hiện được hoài bão sống trường sinh như thế. Chỉ có một người hứa với chúng ta bí mật sống trường sinh và người đó đã thực hiện được. Vị đó là chính Đức Giêsu Kitô.
Bánh Sự Sống Từ Trời
Đức Giêsu đã qủa quyết với những người theo Ngài: "Ta là Bánh Hằng Sống bởi trời xuống... Ai tin vào ta thì có sự sống đời đời. Ta là bánh ban sự sống... Ai ăn bánh này thì khỏi chết, nhưng sẽ sống đời đời. Bánh ta ban là chính thịt ta để cho thế gian được sống" (Gio. 6:41-52).
Ponce de Leon đã vất vả thám hiểm tới miền đất mới để tìm giòng suối nước có sức làm trẻ trung, nhưng chẳng thấy. Hoàng đế Chin đến hòn đảo ở biển đông với vàng bạc châu báu để tìm đổi lấy bí mật trường sinh, nhưng chẳng có. Nhiều người tìm uống các dược chất để hy vọng có sức khỏe lâu bền, nhưng rồi cũng chết. Mỗi người chúng ta hôm nay cũng đến thánh đường này để nghe lời Chúa về sự sống đời đời, và để được ăn bánh trường sinh Đức Giêsu hứa ban. Chúng ta không phải vất vả trèo non lội suối hay đi đâu xa để tìm kiếm thuốc trường sinh. Chúng ta không phải bỏ tiền mua dược phẩm để được sống trường sinh. Đức Giêsu Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài là suối nước trường sinh đang hiện diện với chúng ta nơi đây, và chúng ta có thể tiếp nhận Ngài miễn phí. Tiếp nhận Ngài là chúng ta tiếp nhận sự sống đời đời. Tiếp nhận Ngài là chúng ta được bổ sức cho tinh thần sống.
Elia Được Dưỡng Sức
Elia trong bài đọc thứ nhất, đã cảm thấy mệt mỏi và chán nản. Nhưng trong lúc buồn chán đó Thiên Thần của Chúa đã đến đánh thức ông dạy để được nuôi dưõng bằng bánh bởi trời. Ông đã nghe lời của Thiên Thần Chúa, chỗi dạy ăn bánh, và ông đã được bồi dưỡng có đủ sức tiếp tục cuộc hành trình đi về núi thánh của Thiên Chúa. Giống như Elia, nhiều lần trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta cũng cảm thấy mệt mỏi và yếu đuối vì những cám dỗ và tội lỗi, vì những nặng nợ vất vả trần thế. Chúng ta cần lắng nghe Thánh Thần của Thiên Chúa qua Giáo Hội thức tỉnh chúng ta. Chúng ta cần chỗi dạy để nghe lời Chúa, và được bổ dưỡng bằng của ăn hằng sống là Mình và Máu Thánh Chúa để chúng ta có đủ sức cho cuộc hành trình đức tin. Chính lúc chúng ta thấy mệt mỏi vì phải thức khuya dạy sớm, làm việc nhiều giờ, vì vất vả lo lắng trong cuộc sống, là lúc chúng ta cần thức tỉnh, và chỗi dậy, để tiếp nhận của ăn hằng sống. Của ăn có khả năng nuôi dưỡng sức mạnh và bổ dưỡng tinh thần cho chúng ta trên con đường đi về núi Thánh.
Dấu Có Sự Sống
Thêm vào đó, nguyên việc tin tưởng và tiếp nhận Đức Kitô là Bánh Sự Sống từ trời chưa đủ bảo đảm cho chúng ta có sự sống đời đời trong mình. Tiếp rước Mình và Máu Đức Kitô, chúng ta cần phải trở nên giống như Ngài. Chúng ta cần phải cố gắng sống như lời khuyên dạy của Thánh Phaolô trong bài đọc 2: "Anh em hãy loại ra khỏi anh em tính gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác... Anh em hảy ăn ở hiền hậu, thương xót và tha thứ cho nhau." Thanh trang tâm hồn chúng ta bằng những nhân đức ấy; rồi biết lắng nghe lời của Thiên Chúa và thường xuyên đến thánh đường tiếp nhận Mình và Máu Chúa Kitô cách sốt sắng là chúng ta có sự sống trường sinh trong mình ngay từ bây giờ. Sự sống đó chúng ta có thể cảm nghiệm được và những người chung quanh chúng ta cũng có thể nhận thấy nơi chúng ta.
43. Đường lên Núi Chúa
(Suy niệm của Như Hạ, OP)
Đời là một cuộc hành trình lên núi Chúa. Trên bước đường trần gian, nhiều biến cố dồn dập đến với con người. Biết bao người đã không leo đến đỉnh núi … Chính vì thế, Đức Giêsu đã mạc khải con đường sáng dẫn đến nguồn sống cho toàn thể nhân loại.
Đức Giêsu đã đi vào một trần gian đầy những con người thiển cận. "Chúa họ thờ là cái bụng." (Pl 3:19) Đi từ nhu cầu cấp thiết và căn bản nhất, Đức Giêsu muốn mạc khải về chính bản thân: "Tôi là bánh từ trời xuống," (Ga 6:41) để đem lại sự sống vĩnh cửu. Quả thực, "Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời." (Ga 6:51) Nói khác, để lên "núi của Thiên Chúa," (1 V 19:8) phải có một thứ lương thực mang lại sự sống đời đời.
Chính nguồn gốc và năng lực bánh ấy đã trở thành vấn đề cho "người Do thái xầm xì phản đối," (Ga 6:41) vì họ không tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Đức tin này vượt quá nhận thức về thực tại và nguồn gốc tầm thường của Người. Dân Do thái đã từng xầm xì trước khi đón nhận nước và manna trong sa mạc (x. Xh 15:24; 16:2,7,12). "Xầm xì là một điển hình về 'lòng bất tín.'" (The New Jerome Biblical Commentary 1990:962) Những đầu óc bảo thủ không thể thoát khỏi sức chi phối của những nếp suy nghĩ và phong tục thời đại. Nói khác, đó là phản ứng của con người tự nhiên.
Rõ ràng đức tin không phải là thái độ tự nhiên. "Không phải con người, nhưng Thiên Chúa mới đóng vai tích cực nhất trong công cuộc cứu độ." (Life Application Study Bible 1991:1888) Không được Thiên Chúa giúp đỡ và soi sáng, không ai có thể tin vào Đức Giêsu Kitô. Nhờ Thánh linh thúc đẩy, con người có thể đi đến một lựa chọn quyết liệt trước ngưỡng cửa vĩnh cửu. Thánh linh là sức lôi hút của Chúa Cha. Chính Đức Giêsu quả quyết: "Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy." (Ga 6:44) Thánh Phaolô là môt trường hợp điển hình. Ông đã từng chống đối quyết liệt niềm tin vào Đức Giêsu. Thế nhưng, ông đã không chống cưỡng nổi sức lôi hút ấy khi dấn thân theo Chúa.
Trên hành trình về nhà Cha, nhiều người cũng đang bị lôi hút mãnh liệt. Trước hết, họ "được Thiên Chúa dạy dỗ"(Is 54:13; Gr 31:34) để có thể đặt tất cả niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Những tia nắng dọi thấu con tim đó sẽ làm bừng lên cả một mùa hồng ân. Thế nhưng, ân sủng Thiên Chúa không bao giờ là một sức mạnh giết chết tự do. Chính ở niềm tin, con người chứng tỏ mức độ tự do cao cả nhất. Thực tế, không phải cứ biết là tin. Đức Giêsu chứng minh: "Phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi." (Ga 6:45) Có nhiều người chỉ nghe những gì muốn nghe, đón nhận những gì hợp sở thích và quyền lợi riêng. Họ "thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất." (Ga 3:31)
Trái lại, "chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha" (Ga 6:46) mới có thể mạc khải về sự sống huyền nhiệm và tình yêu sâu thẳm nơi Thiên Chúa. Đạt tới đỉnh cao ấy, con người phải trải qua một hành trình rất dài, dài hơn "cuộc hành trình lên núi Khôrếp" (1 V 19:4) của ngôn sứ Êlia trong sa mạc. Làm sao đạt tới đích, nếu không có lương thực? Thực tế, không có một thứ lương thực trần gian nào có thể giúp con người đi đến cùng đường. Kinh nghiệm lịch sử Do thái đã cho Đức Giêsu thấy: "Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết." (Ga 6:49)
Không có bánh trường sinh là chính Đức Giêsu (Ga 6:48), làm sao lên núi Chúa? Không những "ai ăn (bánh này) thì khỏi phải chết" (Ga 6:50), mà còn "được sống muôn đời" (Ga 6:51) trong Nhà Chúa. Bởi vậy, Đức Giêsu trở thành lương thực vô cùng cần thiết. Người còn nói rõ: "Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống" (Ga 6:51) mà hoàn thành cuộc hành trình về Nhà Cha. Muốn được thế, Đức Giêsu "đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt," (Ep 5:2) và trở thành "bánh hằng sống" (Ga 6:51) bổ dưỡng muôn dân trên đường lên núi Chúa. Khác hẳn với bánh nuôi sống ngôn sứ Êlia, "bánh hằng sống" có khả năng làm cho tín hữu "sống lại trong ngày sau hết." (Ga 6:44)
Như thế "bánh hằng sống" vừa là của ăn đàng vừa giúp tín hữu đạt tới hạnh phúc sau cùng. Trên hành trình trần gian, nhờ "bánh hằng sống", người tín hữu có khả năng "bắt chước Thiên Chúa" (Ep 5:1) để "sống trong tình bác ái." (Ep 5:2) Nói khác, nhờ "bánh hằng sống", các tín hữu hiệp nhất với nhau. Thật thế, "bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể." (1 Cr 10:17)
Hiệp nhất lớn nhất tỏ lộ trong lời cầu nguyện trong Thánh thể. Thật vậy, "cầu nguyện đem lại niềm hi vọng, niềm vui và ánh sáng, nhờ chân thành cậy dựa vào Thiên Chúa và thánh ý đầy tình yêu của Người. Đây là sức mạnh lời cầu nguyện, nguyên nhân sinh ra sự sống và ơn cứu độ." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 9/7/03) Chính lời cầu nguyện trước Thánh Thể giúp tín hữu liên kết với Chúa Cha và "có thể đón nhận tất cả tình yêu cứu độ và trọn vẹn sự sống của Người." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 9/7/03) Không được "bánh hằng sống" ấy bổ dưỡng, không thể có sức mạnh vượt qua những cơn đau buồn và sẽ "lâm vào cảnh cô độc và chết chóc, vì Chúa là nguồn sống." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 9/7/03) Bởi đấy, "bánh hằng sống" là một mối lợi lớn nhất giúp người lữ hành trần gian thoát khỏi cơn đói khát và đủ sức đi trọn đường lên núi Chúa.
44. Suy niệm của Martin Vũ Thái Hiệp, OP
HÃY ĐẾN DỰ BÀN TIỆC THÁNH, NGƯỜI SẼ BỒI DƯỠNG CHO
Kính thưa cộng đoàn!
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay thuật lại giáo huấn của Chúa Giêsu về mầu nhiệm của Bí Tích Thánh Thể. Đây là một mầu nhiệm cao cả vượt quá trí hiểu của con người khiến dân chúng không dễ dàng đón nhận. Trước sự cứng lòng tin của họ, Đức Giêsu không nản lòng. Ngài kiên trì cắt nghĩa Thánh Kinh cho họ và trích dẫn hình ảnh bánh Manna trong Cựu Ước, để liên hệ đến Manna mới từ trời xuống là chính thịt và máu Người.
Lần mò tìm về lịch sử, theo tiếng Do Thái, từ Man-na có nguồn gốc là từ Man hu (có nghĩa là: cái gì vậy?). Vì suốt bốn mươi năm trong sa mạc, mỗi sáng Thiên Chúa cho một lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan đi thì trên mặt hoang địa, có một thứ gì mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Thấy thế, con cái Israel hỏi nhau: "Man hu? " Nghĩa là: "Cái gì vậy? " (x. Xh 16, 13-15). Rồi về sau dân Israel gọi bánh ấy là Man-na.
Có một nét gì đó tương đồng ở đây. Cũng thế, Bí Tích Thánh Thể là một mầu nhiệm cực linh. Hẳn rằng chúng ta sẽ chẳng hiểu cho đủ mầu nhiệm ấy nếu Thiên Chúa không mặc khải cho. Lặng quì trước Thánh Thể, chúng ta cũng đã bao lần hỏi Chúa: Man hu, cái gì vậy?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con biết mắt phàm làm sao thấy được mầu nhiệm thanh cao. Vậy xin Chúa vén mở bức màn che khuất mà mặc khải cho chúng con hiểu thấu Thánh Thể tình yêu của Ngài, để lòng tin của con được thêm kiên vững. Xin tỏ cho trí hiểu non nớt của con biết máu thịt thực sự của Ngài trong Thánh Thể Chúa để lòng con thêm hớn hở vui mừng mỗi khi được đón Chúa ngự vào tâm hồn.
Lại nói về dân Israel, năm xưa dân Israel than trách với ông Môsê và Aharon vì ngày nào họ cũng chỉ được ăn một thứ bánh Man-na nhàm chán. Lúc này, họ hồi tưởng và ao ước được ăn thịt, cá, rồi cọng hành cọng tỏi… ở Ai Cập dù có phải làm nô lệ trong kiếp tù đày gian khổ. (x. Ds 11,4-6)
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, nhân loại ngày nay cũng vậy. Người ta chán ngán việc đi lễ hằng ngày và chỉ được rước Thánh Thể Chúa dưới hình bánh miến đơn điệu. Lúc này, người ta lại thèm muốn những lạc thú trong cõi hồng trần giả dối, những cái hiện thực thấy được. Nếu năm xưa dân Israel muốn được ăn thịt hơn bánh Man-na Chúa ban, thì giờ đây nhân loại cũng hám danh, thèm lợi, thèm đi dự tiệc cưới, sinh nhật… hơn là đi tham dự thánh lễ và được hiệp thông trong tình yêu của Bí Tích Thánh Thể. Quả thực, trái cấm nào cũng ngọt ngào và đường dẫn đến địa ngục bao giờ cũng bằng phẳng và thênh thang.
Hôm nay, Chúa Giêsu mặc khải rằng Ngài là Bánh Trường Sinh từ trời xuống. Và ai ăn Bánh ấy sẽ được sống muôn đời. Quả thực, cái gì bởi đất mà ra thì thuộc về đất là cõi phù du tạm bợ. Ví như tiền tài, danh vọng, hay thậm chí là cả thân xác của chúng ta cũng có ngày sẽ trở về cát bụi, là nơi nó đã xuất phát ra. Trái lại, cái gì bởi trời mà ra thì thuộc về trời, là vĩnh cửu và viên mãn. Bất cứ cái gì bởi trời thì tốt đẹp.
Quả vậy, Đức Giêsu là bánh bởi trời, Ngài đã trở nên như nguồn lương thực vĩnh cửu nuôi dưỡng ta, cho ta được trường sinh và dồi dào luôn mãi. Mỗi ngày, chúng ta được Giáo hội mời gọi đến tham dự bàn tiệc thánh. Và nơi đây Giáo hội tái diễn lại việc Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể tình yêu.
Như dân Israel năm xưa trong sa mạc khát cháy được Chúa ban Man-na cho no thỏa, thì ngày hôm nay, lòng trí khô héo cằn cỗi của chúng ta cũng được chan chứa niềm phấn khởi vui mừng nhờ được Thánh Thể Chúa nuôi dưỡng. Cảm tạ Thiên Chúa đã thương ban cho chúng con được đến dự Bàn Tiệc Thánh mỗi ngày, để hồn chúng con được no thỏa và được hạnh phúc viên mãn khi đón nhận chính thân thể thực sự của Đức Giêsu Kitô.
Lạy Chúa, xin Ngài thương thứ tha cho bao lần con hờ hững trước Thánh Thể Ngài. Xin cho con không cố hiểu để yêu, nhưng là luôn cố yêu để hiểu biết mầu nhiệm Thánh Thể hơn nữa. Xin ban cho chúng con thấy được tầm quan trọng của Bí Tích Thánh Thể và cảm nghiệm được tình yêu chan chứa của Ngài; ngõ hầu chúng con càng được rước Chúa vào lòng, chúng con lại càng thêm yêu mến và khát khao Ngài hơn.
45. Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao người Do-thái phản đối câu nói của Đức Giêsu: «Tôi là bánh từ trời xuống». Họ đã hiểu câu đó theo nghĩa tâm linh hay vật chất? Các câu diễn tả chân lý thâm sâu trong Kinh Thánh thường phải hiểu theo nghĩa nào?
2. Phải hiểu những từ «ăn thịt», «uống máu» Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay theo nghĩa nào? Có thể dùng thể chất với cách ăn uống thể chất để nuôi dưỡng và phát triển tâm linh không?
3. Trong đời sống Kitô hữu, phải «ăn thịt», «uống máu» Đức Giêsu theo nghĩa tâm linh như thế nào?
Suy tư gợi ý:
1. Tiền kiến sai lầm về những thực tại siêu việt (do hiểu Kinh Thánh theo nghĩa vật chất)
Chúng ta hiện nay biết Đức Giêsu là một con người siêu việt, là thần thánh, vì Ngài là Con Thiên Chúa, cũng là Thiên Chúa. Nhưng những người Do-thái xưa lại thấy Đức Giêsu là một con người rất tầm thường, vì Ngài xuất thân từ gia đình nghèo khó, lại kém học thức… «Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?”» Đối với họ, và cả chúng ta nếu ở vào trường hợp của họ, thật khó mà chấp nhận Ngài là một ngôn sứ, nói gì đến chuyện chấp nhận Ngài là Con Thiên Chúa. Lý do khiến họ không chấp nhận không phải là phi lý. Theo lẽ thường, họ không chấp nhận thì hữu lý hơn là chấp nhận. Họ hiểu Thánh Kinh hoàn toàn theo nghĩa đen: một người từ trời xuống có nghĩa là một người thật sự «từ trời xuống» hiểu theo nghĩa vật chất, chứ không phải là một người sinh ra từ bụng mẹ. Họ hiểu «trời» theo nghĩa vật chất là bầu trời, không trung. Chính vì thế, họ không hiểu được chân lý thâm sâu trong câu nói ấy của Đức Giêsu. Họ không ngờ được con người từ trời xuống lại chẳng có vẻ «từ trời xuống» (theo nghĩa vật chất) một chút nào.
Những câu nói lên những chân lý quan trọng trong Thánh Kinh đều cần phải hiểu theo nghĩa tâm linh hơn theo nghĩa vật chất. Trong lịch sử, Giáo Hội Công giáo đã bị «hố» nhiều lần vì hiểu Kinh Thánh theo nghĩa vật chất, để rồi về sau phải chỉnh lại cách hiểu của mình theo nghĩa tâm linh. Chẳng hạn việc hiểu trình tự sáng tạo vũ trụ và con người trong sách Sáng thế ký, việc hiểu câu Kinh Thánh Gs 10,12 đến nỗi đi đến việc kết án Côpécnic và Galilê…
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta lại gặp nhiều lần từ ngữ «từ trời xuống»: có từ được áp dụng vào Đức Giêsu, có từ được áp dụng vào bánh trường sinh. Nếu trong áp dụng trước người ta hiểu theo nghĩa vật chất thì bị sai lầm, ắt trong áp dụng sau việc hiểu theo nghĩa vật chất cũng rất có thể dẫn đến sai lầm. Điều quan trọng là chúng ta phải dựa vào sự kiện, vào thực nghiệm tâm linh trong thực tế đời sống, để biết hiểu theo cách nào là đúng. Chẳng hạn hai câu: «Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết». Chữ «chết» trong câu trước - ứng với việc ăn manna - buộc phải hiểu theo nghĩa vật chất, nghĩa là chết về thể xác. Còn chữ «chết» trong câu sau - ứng với việc ăn «bánh từ trời xuống» - buộc phải hiểu theo nghĩa tâm linh, vì không có ý nói đến cái chết thể chất, bởi chưa ai ở trần gian này thoát chết về thể chất cả, kể cả Đức Giêsu.
Tương tự, những câu trong bài Tin Mừng hôm nay như: «Tôi là bánh trường sinh», «ai ăn thì khỏi phải chết», «bánh hằng sống từ trời xuống», «ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời», «bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây», sẽ thật là ngộ nghĩnh và phi lý nếu hiểu theo nghĩa vật chất, nhưng sẽ trở nên hữu lý và đúng với thực nghiệm tâm linh khi hiểu theo nghĩa tâm linh. Những câu này chính là những chân lý quan trọng trong Kitô giáo mà mọi Kitô hữu cần áp dụng trong đời sống tâm linh để đời sống nội tâm được nuôi dưỡng và phát triển mạnh mẽ.
2. Đức Giêsu là «bánh hằng sống từ trời xuống»
a) Cần phải hiểu câu này theo nghĩa tâm linh
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố: «Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời». Chắc chắn, đối với chúng ta, những người Kitô hữu, lời Ngài nói ắt phải là chân lý. Và đây là một chân lý quan trọng đem lại sự sống và phát triển tâm linh cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải triệt để áp dụng chân lý này vào đời sống. Chắc hẳn không ai trong chúng ta hiểu câu nói này theo kiểu các yêu tinh trong truyện Tôn Ngộ Không hiểu về thịt của Đường Tăng Tam Tạng. Chúng quyết tâm bắt cho được Đường Tăng để ăn thịt, với niềm tin tưởng rằng ăn thịt ông thì sẽ được sống lâu, thậm chí sẽ không chết. Tôi nghĩ: giả như có ai giết Đức Giêsu để ăn thịt Ngài (theo kiểu các yêu tinh ăn thịt Đường Tăng) thì người ấy vẫn chết như thường, và về mặt tâm linh thì cũng chẳng được ích lợi gì. Vì câu nói «thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống» của Đức Giêsu không thể hiểu theo nghĩa vật chất. «Thịt» và «máu» ở đây không phải là thịt và máu huyết vật chất, «của ăn» và «của uống» ở đây cũng không phải là của ăn và của uống vật chất. Tất cả những từ trên đều phải hiểu theo nghĩa tâm linh. Và nếu hiểu theo nghĩa tâm linh, thì Đức Giêsu chính là lương thực đem lại sự sống và sự phát triển tâm linh thật sự.
Hiện nay, không ai có thể gặp hay tiếp xúc với Đức Giêsu bằng xương bằng thịt như các tông đồ ngày xưa cả. Nhưng Đức Giêsu vẫn luôn hiện diện thật sự trong tâm hồn ta (x. Ga 14:17.20.23.26). Sự hiện diện của Ngài hiện nay không phải là một sự hiện diện tại thế, mang tính vật chất, mà là sự hiện diện mang tính tâm linh. Điều ấy người Kitô hữu nào cũng biết và cũng tin như thế. Vấn đề còn lại mang tính thực hành là: làm sao để Ngài thật sự nuôi dưỡng và phát triển đời sống tâm linh của ta?
b) «Ăn thịt» và «uống máu» Đức Giêsu thế nào?
Trước hết phải hiểu đúng các từ «ăn» và «uống», «thịt» và «máu» theo nghĩa tâm linh là gì. Ăn và uống vật gì là được nuôi dưỡng, được trở nên mạnh mẽ bởi chính vật ấy. Thịt và máu một người nói lên chính bản thân hay bản chất người ấy. Ăn thịt và uống máu Đức Giêsu hiểu theo nghĩa tâm linh là được bổ dưỡng, được trở nên mạnh mẽ bởi chính bản chất Đức Giêsu. Bản chất của Đức Giêsu là gì? Hiểu và thường xuyên ý thức bản chất của Đức Giêsu là gì là điều cốt yếu và hết sức quan trọng để có thể «ăn» và «uống» Ngài. Trước tiên, Ngài chính là Thiên Chúa, là thần linh. Ngoài ra, Ngài còn là nguồn sống, nguồn tình yêu, nguồn sức mạnh, nguồn trí tuệ, nguồn của tất cả mọi sự thiện hảo trên trời dưới đất. «Ăn» và «uống» Ngài chính là làm cho bản chất của Ngài thấm nhập vào bản chất của ta, làm cho ta càng ngày càng trở nên Ngài, nói cụ thể hơn là giống y như Ngài, trở nên một với Ngài. Nghĩa là ta cũng trở nên thần linh, trở nên nguồn sự sống, nguồn tình yêu, nguồn sức mạnh, nguồn trí tuệ, nguồn của tất cả mọi sự thiện hảo. Để rồi cuối cùng trở nên đúng như Ngài đã mô tả: «Ai uống nước tôi cho («nước» ở đây chính là bản thân Ngài) sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời» (Ga 4,14). Lúc đó ta sẽ không còn khao khát một thứ gì nữa, nghĩa là được thỏa mãn mọi bề, được tràn đầy hạnh phúc, vì Ngài đã là tất cả rồi. Và mọi người sẽ thấy ở nơi ta một nguồn mạch tràn đầy sức sống, tình thương, khôn ngoan, can đảm, nghị lực… luôn luôn «vọt lên». Nhờ đó, chẳng những chính bản thân ta tràn đầy hạnh phúc, mà ta còn làm cho tất cả những người chung quanh ta hạnh phúc bằng sự dấn thân phục vụ không mệt mỏi của ta nữa.
Tôi muốn nhắc lại điều quan trọng này là: muốn cho bản chất của Ngài thấm nhập vào bản chất của ta, tức là ta «ăn» Ngài, thì không cách gì hữu hiệu hơn là thường xuyên ý thức về bản chất của Ngài và sự hiện diện thường hằng của bản chất ấy trong bản thân ta. Ý thức thường xuyên ấy là điều kiện tối cần thiết để bản chất của Ngài dần dần thấm sang bản chất của ta. Tương tự như hai bình liền nhau, cách nhau bởi một vách xốp: nước trong bình này từ từ thấm và chảy sang bình kia. Ý thức thường xuyên ấy làm cho vách ấy trở nên xốp để nước có thể thấm và chảy qua.
Đó là cách tôi hiểu đoạn Tin Mừng trên. Tôi hoàn toàn không bài bác những cách hiểu khác. Nhưng quả thật đời sống tâm linh tôi chỉ thật sự thay đổi và khởi sắc lên từ khi tôi hiểu và áp dụng bài Tin Mừng hôm nay theo cách này. Đó là thực nghiệm tâm linh của tôi mà tôi muốn chia sẻ với mọi người, để ai muốn thì cứ thử hiểu theo cách này xem. Tôi tin tưởng và hy vọng người ấy sẽ được biến đổi.
Cầu Nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu đang hiện diện trong con chính là nguồn sống, nguồn tình yêu, nguồn trí tuệ, nguồn thiện hảo… vô biên của toàn thể vũ trụ. Nguồn ấy đang hiện diện trong con với tất cả năng lực của một nguồn lực vô tận. Năng lực đa dạng trong nguồn ấy sẵn sàng tràn sang bản thân con với điều kiện con ý thức được bản chất và sự hiện diện của nguồn ấy trong con. Xin cho con thường xuyên ý thức được như vậy, để càng ngày con càng trở nên giống như Ngài, cũng là giống như Cha.
46. Bánh Ban Sự Sống
(Suy niệm của Tu sĩ Nguyễn Minh Tân)
Kính thưa cộng đoàn!
Trong cuộc sống không phải lúc nào cũng êm xuôi như nước chảy một chiều; có lúc vui nhưng cũng không vắng những nổi buồn, khi thành công nhưng đôi khi thất bại, có lúc hăng say nhưng đôi khi chán trường..., phải chăng "đời là bể khổ?". Ai trong chúng ta chẳng đã một lần cảm nhận được những ngày mệt nhọc, buồn rầu chán nản? trước mặt như có một khoảng trống không, sau lưng chồng chất cả một dĩ vãng nặng nề?
Bủa vây con suốt ngày ngần ấy thứ
Dồn dập tư bề như nước bao la
Cận thân Chúa khiến lìa xa
Chung quanh bầu bạn chỉ là bóng đêm.
Đó cũng là trường hợp của nhà tiên tri E-li-a mà chúng ta vừa nghe qua bài đọc một. Ông cảm thấy cô đơn mệt mỏi, bởi vì nhìn xung quanh, ông thấy dân chúng, dân của Thiên Chúa, càng ngày càng đi sâu vào con đường tội lổi. Chỉ còn lại một mình, lẻ loi trơ trọi. Ông tự hỏi: chiến đấu, hăm dọa làm gì, khi mà Thiên Chúa cứ để cho mụ đàn bà tên là Gêzabel, vợ vua Achal làm mưa làm gió!, trong lúc buồn rầu, ông lên đường vào sa mạc, vừa đi vừa nói: "Lạy Chúa! đã đủ rồi, xin cất mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông chúng con", mệt mỏi quá, ngồi nghỉ dưới gốc cây tùng và ngủ thiếp đi. Chúa biết, không gì làm ích cho vị tông đồ, thần kinh căng thẳng, cho bằng một giấc ngủ, và Chúa đã để cho ông có một giấc ngủ dài. Sau đó Chúa lại dọn cho một bữa ăn, nhờ bữa ăn đó mà ông có sức. Rồi Chúa dạy ông hãy đi lên núi Khô-rếp, núi thánh, nơi mà xưa kia Mô-sê đã được gặp gỡ Chúa và trở về với bộ mặt sáng chói.
Thưa cộng đoàn!
Đời sống của người tín hữu cũng là một chuyến đi lâu dài và vất vả. Câu chuyện tiên tri E-li-a là tiền ảnh một vị tông đồ khác là Phao-lô: "Anh em hãy đi, hãy chạy trong lòng mến". Trong thư gửi Ê-phê-sô mà chúng ta vừa nghe qua bài đọc hai, Ngài dạy phải bắt chước Thiên Chúa, gương mẫu của chúng ta: "Anh em hãy sống trong tình bác ái. như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tự hương thơm ngào ngạt". Qua đây Thánh Phao-lô muốn ám chỉ rằng cuộc sống của chúng ta cũng như của Chúa Giêsu là một cuộc "đăng sơn". Vậy! anh em chúng ta hãy để lại dưới chân núi những: chua cay, gắt gỏng, nóng nảy, giận hờn, thóa mạ..., để rồi cùng nhau hít thở bầu không khí trong mát trên đỉnh cao sơn: "Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô". Tình yêu là làn gió mát, là sức mạnh để chúng ta tiến bước.
Thưa cộng đoàn!
Chắc chúng ta còn nhớ bài Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước, đó là phần đầu của bài giảng về Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu; Người đã phân biệt hai thứ bánh: bánh vật chất nuôi thân xác tức là manna trong Cựu Ước, bánh thiêng liêng nuôi hồn tức Thánh Thể Chúa Ki-tô trong Tân Ước, và bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối bài Tin Mừng Chúa Nhật vừa qua, đồng thời cũng là phần thứ hai của bài giảng về Bánh Hằng Sống. Trong phần này Chúa Giêsu nói đến việc Người ban "Mình" làm Bánh Hằng Sống và kêu gọi người ta ăn bánh đó.
"Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn Bánh này sẽ sống đời đời"
Ở đây chúng ta thấy Chúa Giêsu đưa dần đến mầu ngiệm "bánh ban sự sống". Thế nhưng dân chúng không chịu mở tai để nghe, mở trí để hiểu. Họ cứ khư khư xoay quanh những đòi hỏi vật chất, không khác gì cha ông họ kêu trách trong sa mạc ngày xưa. Họ nói: "Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả; sao bây giờ ông ta lại nó: "Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống". Thật vậy, Bánh Hằng Sống: đây là cách ám chỉ một con người sống, vì bánh tự nó không bao giờ có sự sống. Chúa Giêsu tự xưng là Bánh Hằng Sống vì Người là Thiên Chúa hằng sống, là Đấng phục sinh luôn mãi. Vì thế, chúng ta được lôi kéo đến cùng Người thì được thông phần vào mầu nhiệm của Người và cuối cùng được dẫn đến sự sống vinh quang.
Thưa cộng đoàn!
Nguồn gốc, nhân vị, quyền năng của Chúa Giêsu là một mầu nhiệm; "Ngài bởi đâu mà đến?". Thưa: chỉ có đức tin, một ân huệ của Chúa Cha, mới có thể trả lời cho chúng ta biết. Chúa Giêsu đã bác bỏ những luận điệu quá tự nhiên ấy, Ngài còn khẳng định rằng: "Ta là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Ta, nếu Cha là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết". Thật vậy, chỉ có Thiên Chúa mới có thể mạc khải cho chúng ta Chúa Giêsu. Thánh kinh là con đường dẫn chúng ta đến với con Thiên Chúa; nhất là đến tột điểm hôm nay dưới hình ảnh Ngài là Bánh Hằng Sống. Để kết thúc bài giảng Chúa đã khẳng định rõ ràng, không úp mở: "Bánh Ta ban chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống!".
Xin cộng đoàn nhớ điều này: Phép Thánh Thể chính là biểu hiện và cũng là sự thật, tình thương của Ngài đã hiến mình vì chúng ta dưới hình bánh rượu. Như E-li-a buồn rầu, chán nản, Chúa đã dọn cho một bữa ăn để có sức đi lên núi Chúa; thì nay Chúa cũng dọn cho chúng ta, chính Thịt và Máu của Người để bồi dưỡng linh hồn và thể xác chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể.
Thưa cộng đoàn!
Chúa đã hiến ban Thịt mình cho thế gian được sống; vì thế chúng ta hãy quảng đại hiến ban chính cuộc sống cũng như tài năng, sức khỏe, bổn phận, vật chất..., để tạo nên sự nhẹ nhàng, thoải mái, niềm vui và hạnh phúc cho những người xung quanh chúng ta. Có một điều mà người kitô hữu không thể sao lãng đó là: chúng ta đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng đức tin của chúng ta chỉ có sự sống khi chúng ta không có thái độ thờ ơ nguội lạnh với phép Thánh Thể, nhưng là sốt sắng và mến yêu tha thiết, vì phép Thánh Thể là nguồn ban sinh lực sự sống đời đời cho chúng ta.
47. Lời Chúa chính là bánh nuôi sống chúng ta
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP - Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP)
Ngôn sứ Êlia là một ngôn sứ phải chạy trốn. Sau khi ông ta thắng các ngôn sứ Canaan của thần Baal ở trên núi Carmel, ông ta phải chạy thoát. Vì hoàng hậu Jezebel tức giận. Chính hoàng hậu Jezebel là người đã đem các ngôn sứ thần Baal đến Israel. Hoàng hậu thề sẽ giết ông Êlia. Khi chúng ta gặp ông ta trong sa mạc, ông đã chạy kiệt sức. Không có gì làm cho ông lại sức được. Đến đó ông xin Thiên Chúa cho ông chết đi. Ông nói: "nay đã đủ rồi, lạy Đức Chúa, xin cất mạng tôi đi, tôi cũng không hơn gì tổ tiên tôi."
Thiên Chúa đặt Êlia làm ngôn sứ, ông ta đã làm điều mà Thiên Chúa bảo ông làm là trung thành rao giảng lỏ#i Chúa. Đến bây giỏ# ông ta cảm thấy ông ta tự nghi ngờ mình, ông ta có thể nói với Thiên Chúa "vậy đây có phải là tôi được cảm ơn hay không?" Mỗi khi người nào gặp hoạn nạn khó khăn, thường người đó tự hỏi có phải Thiên Chúa phạt họ vì họ đã làm điều gì trái với thánh ý Thiên Chúa hay không. Nhưng ông Êlia không làm điều gì sai cả. ông ta phải chịu đựng những phản bác, đe doạ như thường đã xãy ra cho các ngôn sứ. Cho đến ngày hôm nay có ngôn sứ còn chịu khổ hơn là bị giết vì họ đã trung thành phục vụ Thiên Chúa,
Trong hoang địa, dưới một cây kim tước, ông Êlia xin cho được chết, rồi ông ta nằm xuống ngù, ông ta thấy chiêm bao về Thiên Chúa. Một thiên thần đánh thức ông ta dậy cho ông thức ăn. Tới đây chúng ta biết câu chuyện sẽ đi về đâu phải không? Câu chuyện này nhắc đến câu chuyện dân Israel đi trong hoang địa. Trong sa mạc làm gì có của ăn, chỉ có Thiên Chúa cho chúng ta của ăn. Thật ra Thiên Chúa đã làm gì? Ông Êlia không còn sức để tiếp tục đi trong sa mạc nữa. Nhưng Thiên Chúa đã cho ông ta của ăn để ông ta có sức đi xa hơn nữa, ông ta không tránh khỏi khó khăn. Nhưng Thiên Chúa ban cho ông ta điều gì ông ta cần để phục vụ trong chặng đường tiếp theo. Thiên Chúa còn cần ông ta làm việc hơn nữa. Đến đây chúng ta lại nhớ dân Israel trong sa mạc. Ông Êlia có của ăn để đi trong sa mạc "40 ngày đêm cho đến núi Horeb, là núi của Thiên Chúa". Trên núi Horeb là núi Sinai Thiên Chúa đã cho ông Môsê 10 điều răn, đó là thứ bánh khác cho những người đói trong sa mạc. Chủ đề nói về của ăn phần xác và phần hồn sẽ được nói đến trong phúc âm hôm nay.
Ông Êlia không tự ý lên đường đi trong sa mạc. Khởi đầu ông ta chạy trốn để tránh khỏi bị giết. Sau khi ông ta gặp một thiên thần, thì việc ông đi là như đi hành hương đến nơi thánh địa. Vậy đời sống chúng ta có giống như vậy không? Chúng ta gặp khó khăn hoạn nạn, khó lòng qua từng ngày một. Khi chúng ta cảm thấy chúng ta không làm gì được nữa chúng ta kêu gào xin ơn giúp đỡ. Thiên Chúa có cách nào đến thăm chúng ta trong sa mạc của chúng ta, cho chúng ta của ăn để chúng ta tiếp tục chặng đường. Sau cùng khi chúng ta nhìn thấy hoạn nạn khó khăn qua đi thì chúng ta nhận ra là Thiên Chúa có đó giúp đỡ chúng ta từng bước một. Cũng như ông Môsê và ông Êlia, chúng ta đã được dẫn đi qua hoang địa của chúng ta, và ở đó chúng ta gặp đươc Thiên Chúa.
Ông Êlia là nguồn khuyến khích của chúng ta; ông ta là một ngôn sứ đầy nhiệt huyết, sợ hãi và mạnh mẽ. Nhưng lúc ông ta thành công thì hầu như thế giới xung quanh ông ta bị sụp đổ và ông ta phải chạy thoát thân để cứu mạng sống mình khỏi bà hoàng hậu Jezebel, Ông ta sợ hãi, không biết rõ và kiệt sức. Dù vậy ông ta vẫn ở trong vòng tay Thiên Chúa. Mặc dù hoàn cảnh rối bời, Thiên Chúa không buông rơi ông ta, mà lại tìm đến ông. Ngay trong khi yếu đuối, khi chúng ta không làm gì được nữa thì Thiên Chúa tỏ cho chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa của chúng ta.
Êlia tường thuật để khuyến khích chúng ta tin tưởng vào tình yêu nhân từ của Thiên Chúa. Đây không phải là câu chuyện về một người đã "xứng đáng" được giúp đỡ từ Thiên Chúa. Mà là một câu chuyện về một người không thể tự giúp mình. Trong khi phải di chuyển nhiều nơi. Được Chúa giúp bánh và nước, để tiếp tục cuộc hành trình. Bánh của Êlia là hình ảnh dẫn chúng ta đến lời Chúa hôm nay.
Chúng ta đang ở trong diễn từ về "Bánh Hằng Sống" trong phúc âm của thánh Gioan. Đến đây đang còm sớm để nói về Bánh Thánh Thể. Đến câu cuối cùng chúng ta chuyển sang diễn từ về đức tin vào Chúa Giêsu và bánh là thịt Ngài. Trong đoạn phúc âm hôm nay "bánh bởi trời xuống" là Lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa dạy chúng ta qua Chúa Giêsu; Chúa Giêsu là Lời ban sự sống. Thiên Chúa làm việc qua Chúa Giêsu như Ngài đã làm cho người Do thái trong sa mạc. Thiên Chúa cho chúng ta ăn qua Lời Ngài. Như chúng ta thấy trong sách Đệ Nhị Luật "Người ta không sống chỉ nhờ bánh mà còn nhờ mọi điều do miệng Đức Chúa phán ra" (Tl 8"3)
Chúa Giêsu vừa cho 5,000 người ăn. Và bây giờ Ngài sẽ dạy họ về bánh không phải như man-na cho tổ tiên họ ăn trong sa mạc từng ngày một. Nhưng chính là bánh cho chúng ta khỏi đói và cho chúng ta đời sống trong thời đại mới mà Chúa Giêsu đang triển khai. Chúa Giêsu không đối đáp với những người chống đối Ngài. Nếu nhũng người đó suy luận theo người phàm thì họ sẽ không bao giò trông thấy Chúa Giêsu. Họ đã nghe điều gì Chúa Giêsu nói với họ, lý luận không giúp họ gặp Chúa Kitô.
Dân chúng đến với Chúa Giêsu là bởi Chúa Cha "thu hút họ". Nhìn qua cặp mắt đức tin là ân huệ bởi Thiên Chúa. Thật là một dịp lớn cho những người được thấy Chúa Giêsu trước mặt họ. Chúa Cha thu hút họ đến với Chúa Giêsu, nhưng họ không nhìn nhận. Họ không thể nhìn nhận Thiên Chúa tự họ. Họ phải được Thiên Chúa thu hút họ. Thiên Chúa là Đấng ban dức tin. Sự mời gọi đó luôn luôn ở trước mặt chúng ta. Vậy chúng ta có chấp nhận lần nữa hay không? Các nhà lãnh đạo tôn giáo bác bỏ bánh bởi trời xuống.
Chúng ta học nơi ngôn sứ Êlia và hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta biết là Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chúng ta được mời gọi sống đức tin. Đức tin không tránh khỏi những lúc khó khăn trong đời sống thật. Ông Êlia phải trở lại gặp kẻ thù của ông ta. Chúa Giêsu không tránh những đau khổ và sự chết dành cho Ngài. Chúng ta cũng vậy, chúng ta không để Thiên Chúa lo lắng mọi sự cho chúng ta. Đức tin chúng ta giúp chúng ta cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa với cả sự an toàn và khuyến khích để chúng ta có thể làm việc mà chúng ta phải làm.
48. Tôi là Bánh Ban Sự Sống
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Cũng như trong việc chữa lành người bất toại ở Ga 5, sang Ga 6, Đức Giêsu lấy sáng kiến nuôi đám đông (6,4-13). Và đám đông nhìn nhận việc nhân bánh ra lạ lùng là dấu chứng tỏ Đức Giêsu là vị ngôn sứ và vua của thời cánh chung mà dân con Israel hằng mong đợi (6,14-15). Kế đó, việc Đức Giêsu trên mặt biển sôi sục (6,16-19) và lời “Thầy đây (egô eimi, “Tôi là”)” để trấn an nhưng mang tính mạc khải cho các môn đệ đang sợ hãi (6,20; x. Xh 3,14) cho thấy thần tính của Người. Bài diễn từ kế đó cũng tập trung vào bản thân Đức Kitô (6,22-59). Trước tiên Đức Giêsu tỏ ra chính Người là “bánh ban sự sống” (6,35.48), là mạc khải của Thiên Chúa nhằm ban sự sống cho loài người, là bánh ban sự sống do Thiên Chúa Cha ban từ trời cho họ (6,32-33). Để được thứ bánh ban sự sống vĩnh cửu này, người ta phải tin vào Đức Giêsu, là Đấng Chúa Cha sai phái (6,29.35.40.47), và ăn thịt cùng uống máu Người (6,53.54.57.58).
Chính Bài diễn từ về Bánh ban sự sống có thể phân chia như sau:
1) Chuyển tiếp vào Bài Diễn từ (6,22-24);
2) Mở đầu Bài Diễn từ (6,25-34);
3) Chính Bài Diễn từ (6,35-50.51-59);
4) Phản ứng lại với Bài Diễn từ (6,60-71).
2.- Bố cục
Bản văn có thể được chia thành bốn phần:
1) Người Do Thái xầm xì (6,41-42);
2) Đức Giêsu kêu gọi tin vào Người (6,43-47);
3) Đức Giêsu mời gọi đón nhận Người là bánh trường sinh (6,48-50);
4) Bánh trường sinh chính là thịt Đức Giêsu (6,51).
3.- Vài điểm chú giải
- Tôi là (42): Kiểu nói “Tôi là” trong TM IV được liên kết với tên của Thiên Chúa (x. Xh 3,14). Trong tư tưởng Sê-mít, tên của một người cho thấy tính cách của người ấy. Như thế, khi đồng hóa chính mình với tên Thiên Chúa, Đức Giêsu mạc khải bản tính của Thiên Chúa và làm cho người ta biết Thiên Chúa. Những lời nói của Đức Giêsu thông ban ơn cứu độ của Thiên Chúa, là nguồn mạch tối hậu ban sự sống và ánh sáng cho Dân Người. Công thức “Tôi là” được sử dụng cách tuyệt đối trong 6,20; 8,24.28.58; 13,19; 18,5.6.8; đó là cách Đức Giêsu mạc khải về bản thân và uy quyền của Người. Một cách thường xuyên hơn, công thức này được sử dụng phối hợp với một ẩn dụ. Có 7 lần công thức “Tôi là” được dùng theo kiểu ẩn dụ để nói rõ rằng Đức Giêsu là một món quà Thiên Chúa ban cho loài người để có sự sống đích thực và ánh sáng, hoặc là ơn cứu độ được Thiên Chúa ban cho nhân loại (6,35; 8,12; 10,7.9; 10,11; 11,25; 14,6; 15,1).
- Ông này (42): “Cái ông này”, tính từ houtos diễn tả sự khinh thường (6,52; 7,15; 3,16).
- lôi kéo (44): Động từ helkyein với nghĩa “kéo ra ngoài, rút ra, mang ra ngoài bằng sức mạnh”, thường được dùng để chỉ việc di chuyển một khối nặng, như một chiếc thuyền, một cái xe.
- sách các ngôn sứ (45): Số phức này có lẽ là một cách tổng-quát-hóa, vì ở đây chỉ có một câu trích Is 54,13.
- thịt (51): Sarx đúng là từ ngữ dịch từ bơsar (A-ram; bâsâr, Híp-ri). Nhưng từ ngữ này không chỉ có nghĩa là “thịt” (cơ bắp…), mà cũng có thể có nghĩa là toàn thân thể và thậm chí tất cả con người, với đặc điểm là có tương quan với những người chung quanh (x. 1,14). Hy-ngữ có khả năng diễn tả tốt hơn các sắc thái này. Trong Do Thái giáo sau này, người ta chọn dịch từ Híp-ri bâsâr-thân thể bằng từ sôma, cho dù trong Tân Ước, đôi khi người ta dùng cả hai từ sarx và sôma như nhau. Nhưng đối với bí tích Thánh Thể, từ sôma đã trở thành từ cổ điển, ngoại trừ trong một vài tác phẩm sau thời các Tông Đồ, do ảnh hưởng Ga 6, các tác giả đã dùng từ sarx (chẳng hạn thánh Inhaxiô và thánh Giustinô). Phần tác giả TM IV, tại sao ông vẫn giữ lại danh từ “thịt” mặc dù đã có một từ ngữ riêng cho Bí tích Thánh Thể? Đó là vì “thịt” có nghĩa rộng hơn là sôma-thân thể; vả lại trong TM IV, sôma là cái thi hài, là thân thể chết. Làm thế nào một thi hài có thể đưa lại sự sống? Ngược lại “thịt” vừa chỉ toàn thể con người vừa chỉ thân xác, nên một danh từ hai nghĩa này rất lý tưởng để vừa gợi tới cái chết trên thập giá vừa nhắc tới Bí tích Thánh Thể.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đến đây, bên trong đám đông, bắt đầu xuất hiện những nhân vât đặc biệt. Nhóm đầu tiên là nhóm những người Do Thái. Chẳng lẽ tất cả những người làm thành “đám đông” lại không phải là Do Thái cả sao? Thế mà bên trong đám đông, tác giả Ga lại phân biệt ra một nhóm riêng gọi là “người Do Thái”, và ngài coi đây là những người càm ràm (“xầm xì”) và không tin.
* Người Do Thái xầm xì (41-42)
Phản ứng xầm xì của người Do Thái ở đây tương tự kiểu vấn nạn dân làng Nadarét đã nêu ra cho Đức Giêsu trong TM Mc (6,1-6). Phản ứng này còn khiến chúng ta nhớ lại quãng lịch sử xa hơn ngày trước: Trong sa mạc Sinai, con cái Israel đã xầm xì để bày tỏ sự ngờ vực đối với Môsê: họ không tin vào sứ mạng của ông là do Thiên Chúa trao và khả năng của ông là cung cấp bánh và nước cho họ (Xh 16,2-3; 17,3). Vẫn đi theo chiều hướng của tổ tiên, người Do Thái hôm nay xầm xì để nói lên sự hoài nghi của họ về tư cách và khả năng của Đức Giêsu.
Họ nhắc lại hai khẳng định của Đức Giêsu (c. 41): Người là bánh và Người từ trời xuống; đặc biệt họ nhấn mạnh tới điểm thứ hai. “Cái ông này” (giọng khinh thường), ta biết rõ gốc gác, thế mà ông ta lại cho rằng mình có một sứ mạng và một xuất xứ thần linh (x. 7,27)! Quả thật, theo niềm tin dân gian Do Thái, Đấng Mêsia phải xuất hiện thình lình, mà không ai biết Người từ đâu đến. Dựa trên niềm tin này, người Do Thái nghĩ rằng họ hoàn toàn có cơ sở để bác bỏ các khẳng định của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu kêu gọi tin vào Người (43-47)
Đức Giêsu liền can thiệp, nhưng Người không bao giờ trả lời câu hỏi về nguồn gốc của Người trên bình diện nhân loại. Đứng tại quan điểm thần học, Người cho biết “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy” (c. 44). Người được Thiên Chúa sai đến (c. 44) và Người đến từ Thiên Chúa (c. 46), do đó Người có thể cho rằng Người từ trời xuống. Nếu người Do Thái thôi xầm xì, và để cho lòng họ mở ra với hoạt động của Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lôi kéo họ đến với Đức Giêsu. Đây chính là lúc lời ngôn sứ Isaia (54,13) được thể hiện: “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Việc dạy dỗ này có một phương diện bề ngoài, theo nghĩa là nó được cụ-thể-hóa bởi chính Đức Giêsu đang đi lại giữa họ, và có một phương diện bên trong, theo nghĩa là Thiên Chúa hành động trong tim họ. Điều này cũng ứng nghiệm lời ngôn sứ Gr (31,33). Sự thôi thúc bên trong này do bởi Chúa Cha sẽ làm cho họ có khả năng tin vào Người Con và như thế có sự sống đời đời.
* Đức Giêsu mời gọi đón nhận Người là bánh trường sinh (48-50)
Các câu 48-50 là một đoạn theo cách hành văn đóng khung, vì các câu này nhắc lại phần mở của Bài diễn từ: Câu 48 cùng với c. 35 làm thành một câu đóng khung; cc. 49-50 nhắc lại các đề tài của cc. 31-33. Đám đông đã nêu ra cho Đức Giêsu gương của các tổ tiên họ đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng Đức Giêsu cho thấy rằng việc này đã không cứu được các tổ tiên họ khỏi chết. Kế đó, Người lại nhắc lại ý câu trích Kinh Thánh ở c. 31 (“Người đã cho họ ăn bánh bởi trời”), Người nói rằng bánh đến thật sự từ trời là một thứ bánh không để cho người ta phải chết.
* Bánh trường sinh chính là thịt Đức Giêsu (51)
Sau đó, Đức Giêsu chuyển sang một đề tài mới: bây giờ vấn đề không còn phải là tin vào Người để được sống đời đời nữa, mà là ăn thịt và uống máu Người (cc. 51.54). Lâu nay các tác giả vẫn coi đây là một gợi ý về Bí tích Thánh Thể, nhưng ta có thể thấy nghĩa gần là Đức Giêsu nêu bật giá trị của cái chết của Người trên thập giá. Bởi vì chính là trong tư cách Con Người mà Đức Giêsu ban sự sống đời đời và Người lại trở thành Con Người đúng vào lúc cuối đời, vào Giờ của Người. Chính vì nhắm nối dài gợi ý về cái chết trên thập giá, tác giả dùng từ “thịt” (sarx), thay vì dùng từ “thân thể” (sôma). Bởi vì ý nghĩa căn bản và cũng là từ nguồn của thịt mà Con Người sẽ ban không phải là Bí tích Thánh Thể mà là ân ban “chính mình” trong cái chết trên thập giá. Vậy tại Caphácnaum, khi nói đến “thịt để cho thế gian được sống”, là Đức Giêsu muốn nói là “bản thân Người (chịu sát tế) để cho thế gian được sống”.
+ Kết luận
Điều mà không một thứ bánh nào có thể cung cấp và không một lời hứa nào của con người có thể đạt tới, cho dù có xác tín đến đâu, Đức Giêsu có thể ban tặng. Người mạnh hơn cái chết và Người muốn đưa chúng ta đi qua bên kia cái chết. Phần chúng ta, điều này có nghĩa là chúng ta phải chạy đến với Người để có sự sống đời đời, cũng như chúng ta vẫn chạy đến với bánh trần thế, để có sự sống trần thế. Nhưng điều này cũng có nghĩa là các biên giới của cái chết đã bị đánh đổ. Cũng như trong bánh, chúng ta tìm được phương thế để tránh thoát cái chết và tiếp tục ở lại trong sự sống trần thế, thì cũng thế Đức Giêsu giúp chúng ta thắng vượt sự chết và đi vào sự sống vĩnh cửu. Vì bánh giữ cho tôi sống, tôi phải ăn bánh, chứ không chỉ nói suông về bánh; vì Đức Giêsu là bánh ban sự sống vĩnh cửu, tôi phải đón nhận Người, tin vào Người và “ăn thịt” của Người, chứ không chỉ bằng lòng với việc biết điều gì đó về Người hoặc nói về Người, dù sâu sắc.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu đã thật sự cho đám đông được ăn no; nhưng biến cố này không có ý nghĩa tự nó, nó quy về một thực tại khác. Sự kiện Đức Giêsu có thể ban bánh và cho no thỏa về phương diện trần thế phải chứng minh rằng Người chính là bánh ban sự sống đời đời. Ở bên Người, chúng ta không được tìm cơm bánh vật chất; trái lại chúng ta phải nhận biết Người có thể và Người muốn ban cho chúng ta điều vô cùng to lớn hơn. Điều mà chúng ta đang tìm kiếm nơi Đức Giêsu và chúng ta phải nhận được từ nơi Người, có thể được tóm trong câu này: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35; x. 6,48.51).
2. Đức Giêsu đã ra sức soi sáng chúng ta và quy hướng sự chú ý của chúng ta vào ân ban cốt yếu của Người. Lương thực ban cho đám đông chỉ là một dấu chỉ. Chúng ta coi thường dấu chỉ này, nếu chúng ta dừng lại với các mối quan tâm tức thời và chờ đợi Người ban cho cơm bánh và sức khỏe; thật ra Người muốn ban nhiều hơn thế nữa. Khi nói “Tôi là bánh hằng sống”, Đức Giêsu đặt mình vào trong mạc khải của Thiên Chúa mà Môsê đã được thông dự vào khi được Thiên Chúa kêu gọi. Vào dịp đó, Thiên Chúa đã mạc khải tên của Ngài: “Ta là Đấng Ta là” (Xh 3,14). Thiên Chúa được xác định chủ yếu bằng sự kiện là Ngài hiện diện vì Dân Ngai. Khi tự giới thiệu mình như thế, Đức Giêsu nói rằng Thiên Chúa đang hiện diện nơi Người vì loài người và quan tâm đến chúng ta, đến đời sống chúng ta. Đức Giêsu hiện thân là hình thái mới và vĩnh viễn của sự hiện diện đầy uy lực và năng động của Thiên Chúa, không chỉ nhắm ban sự che chở và hướng dẫn, mà còn nhắm có sự hiệp thông riêng tư về sự sống. Đức Giêsu không chỉ muốn ban bánh, mà còn ban sự hiệp thông vĩnh cửu riêng tư về sự sống với Thiên Chúa.
3. Chúng ta lệ thuộc cơm bánh, để đảm bảo được sự sống của chúng ta. Không có sức lực đến từ cơm bánh, chúng ta không thể sống và làm được gì. Điều này không tùy thuộc ý chí chúng ta; nó là như thế. Do bản tính tự nhiên, chúng ta phải nhờ cơm bánh. Có cơm bánh, cũng có khả năng của cơm bánh là duy trì sự sống cho chúng ta. Nhưng đây chỉ là một khả năng giới hạn, vì cuối cùng chúng ta vẫn phải chết. Với công thức “Tôi là bánh hằng sống”, Đức Giêsu khẳng định rằng tương quan giữa bản thân Người với loài người cũng cùng một kiểu như tương quan giữa bánh và chúng ta. Đích thân Người, với tất cả những gì thuộc về Người, có thể ban cho chúng ta những gì bánh đưa lại cho chúng ta, nhưng không chỉ nhằm sự sống giới hạn, mà là sự sống vĩnh cửu vô biên.
4. Dây liên kết duy nhất đích thật với Đức Kitô là tin vào Người. Tôi tin vào Người khi tôi ký thác tất cả lòng trí tôi nơi Người, xác tín vào lời Người nói, xây dựng mọi sự dựa trên Người, nhắm mọi sự theo Người, liên kết đời tôi vào Người. Đức tin không phải là một xác tín về trí thức và một đoan chắc rằng một lời khẳng định hay một sự kiện nào đó là thật; đức tin là một thái độ chắc chắn và tin tưởng tỏ ra với Đức Giêsu, với ý thức trọn vẹn rằng Người là ai và với sự nhận biết đầy đủ về chân tính của Người. Đức tin là tương quan và dây liên kết người với người. Niềm tin vào Đức Giêsu đưa lại sự sống đời đời (6,47).
49. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.
Sự cứng lòng không chịu tin:
Thấy mà không tin (c. 36)
Xầm xì (c. 41)
Chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? (c. 42)
Làm sao ông ta có thể nói?
Mặc khải:
Chẳng ai đến với Tôi được nếu Chúa Cha không lôi kéo người ấy (c. 44).
Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết
Không ai thấy Chúa Cha. Chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha (c.46).
Được dẫn nhập cách trịnh trọng một lần nữa bằng “Thật, Tôi bảo thật các ông”, sự mặc khải được nhấn mạnh hơn, bằng cách tập trung vào Chúa Giêsu. Việc người Do Thái soi chiếu với bánh manna dẫn đưa bài diễn từ của Chúa Giêsu đến “Bánh bởi trời”. Cũng như người Do Thái đã lãnh nhận bánh manna làm dấu chỉ của Lời và của sự mặc khải, thì Chúa Giêsu, bánh từ trời xuống, tỏ mình như sự mặc khải chung cuộc cho loài người. Có nhiều từ được lặp lại trong phần thứ ba (cc. 47-52). Như được chứng tỏ khi đem so sánh các câu 33 và 51-52:
Bánh Thiên Chúa ban (c. 33) đó là:
Đấng từ trời xuống và đem lại sự sống cho thế gian.
Tôi là (c. 51)
Bánh từ trời xuống
Bánh Tôi sẽ ban tặng...
Là để cho thế gian được sống
Trong bối cảnh lịch sử của Chúa Giêsu thì rõ ràng diễn từ về bánh trường sinh này không thể trực tiếp chỉ Thánh Thể, không thể nào hiểu được trước khi có bữa ăn sau cùng, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Như vậy đúng là sự mặc khải, tiêu biểu bằng con người Chúa Giêsu. Tuy nhiên được viết sau Phục Sinh, với những lời lẽ ghi lại cụ thể từ việc cử hành Thánh Thể, thì rõ ràng toàn bộ chương 6 là một diễn từ gợi lên cùng một lúc Đức tin và Thánh Thể trở nên nổi bật, trong khi chính đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng mạc khải, chiếm ưu thế cho đến bấy giờ. Cựu ước sẵn sàng soi sáng lời với lương thực: Như Amôt: “Đây Thiên Chúa phán: Kìa, thời kỳ ấy là khi ta khiến lãnh thổ đói kém, không vì đói khát nước, nhưng bởi đói nghe lời Thiên Chúa” (Am 8,11). Cách nói về lương thực cũng gợi nhớ đến sự khôn ngoan trong Cựu ước: “Ai ăn vào càng đói, uống càng khát”, sự Khôn ngoan tự tán dương (Kn 24,21). Có thể xem thêm Cn 9,5.
Sự sống mà Chúa Giêsu cho là ân ban ngay lập tức và là lời hứa được sống lại trong ngày sau hết. Sự cánh chung ngay lập tức và bảo chứng sự sống đời đời được trao ban nhờ đức tin vào Chúa Giêsu.
Ân ý của biến cố Xuất hành biến hóa trong các từ được dùng để diễn tả sự đối nghịch của người Do Thái: “họ xầm xì” (ở đây nên dịch là “càu nhàu” c.41) như tổ tiên họ đã làm trong sa mạc (Xh 16,2.7; 17,3). Họ phản ứng “theo xác thịt”: làm sao “con ông Giuse” (c.42). Con Người bằng thịt bằng máu, có thể nhận mình là Con của Chúa Cha?
Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 47-52)
Mặc khải: (cc. 47-51)
Sự cứng lòng không chịu tin:
Người Do Thái tranh luận sôi nổi với nhau: Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được (c,52)?
Sự mặc khải tiến dần theo cách thức Sêmit, theo hình xoắn ốc được lặp lại bằng cách đào sâu suy nghĩ. Các câu 33 và 51 song song nhau: vẫn là đức tin vào Chúa Giêsu trổi vượt hơn hết, Người là Đấng cho mình là Lời của Thiên Chúa từ trời xuống. Tuy nhiên trong 51, thình lình sự chết được nhắc đến, như nguồn mạch sự sống, được xác định: “Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống.” Từ “thịt” làm liên tưởng đến lời tựa 1,14: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Chính là sự nhập thể, nhưng ở đây được diễn tả theo cách: sự chết của Chúa Giêsu như nguồn mạch sự sống cho mọi người.
Ngôi Lời đã trở nên người phàm (1,14)
Thịt đã trở nên bánh (6,51)
Có sự liên tục giữa sự nhập thể, sự chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể. Chính trong câu này mà sự mặc khải tỏ hiện cho mọi người, cùng với nguy cơ bị từ khước: ở đây người Do Thái “tranh luận”, tím kiếm lý lẽ (“làm sao”) thay vì sẵn sàng đón nhận mầu nhiệm.
50. Chú giải của Noel Quesson.
BÁNH HẰNG SỐNG
Người Do Thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói: "Tôi là bánh từ trời xuống".
Họ nói: "ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả sao bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống?”
Theo truyền thống thiêng liêng qua mọi thời đại, chúng ta có thể nghĩ rằng không có một chi tiết nào trong Thánh Kinh là vô ích hay tầm thường. Nếu những "thính giả đầu tiên" của Đức Giêsu đã "phản đối" khi họ nghe nói về “Thánh Lễ" chắc điều này phải có ý nghĩa. Không phải chỉ có ngày nay con người mới khước từ Mầu nhiệm Trung tâm của đức tin. Sự khước từ hiện nay của nhiều người trẻ cũng như người trưởng thành không phải là một chuyện mới mẻ: việc này đã bắt đầu từ thời Đức Giêsu, khi chính Người đã giảng giải và dạy giáo lý! Trước hết chúng ta hãy khiêm tốn nhận biết lời xác quyết của Đức Giêsu thật to lớn. Chúng ta nên nhìn nhận rằng người, không tin không phải là một kẻ bất bình thường. Họ sống theo "lý trí” của con người một cách hoàn toàn tự nhiên. Điều này càng nhấn mạnh đến tính cách đặc biệt của đức tin; đức tin không chỉ giới hạn vào những quan điểm hợp lý mà thôi. "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống". Đây là cao vọng chưa từng thấy của một người thợ mộc thấp bé ở làng bên cạnh, mà người ta biết rõ cha mẹ. Đức Gỉêsu đã phản ứng thế nào, hôm đó (và hôm nay) trước sự khước từ “bánh bởi trời"?
Đức Giêsu bảo họ: "Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với Tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy. và Tôi, Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ".
Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đứng trên một bình diện khác với lý trí của con người. Đó là điều mà chúng ta thường gọi là "ân sủng" hay nói cách khác, đó là sáng kiến của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói, cần phải có sự soi sáng bên trong của Thiên Chúa là đức tin, để thấu 'hiểu được những việc của Thiên Chúa, để "đến với Đức Gíêsu”. Chỉ có Chúa mới có thể nói về Chúa. Đấng siêu việt không phải là một thực tại nhỏ bé nằm trong tầm hiểu của bộ óc con người hay của máy móc khoa học: Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, vượt cao hơn tất cả. Hãy để cho Chúa dạy bảo chúng ta. Phải đón nhận "Lời Chúa", lời từ một nơi khác đến với chúng ta.
Có lẽ chúng ta chưa nghe Đức Giêsu nói cách đầy đủ. Hỡi bạn trẻ, bạn cho rằng Thánh lễ "chẳng có gì hấp dẫn", bạn hãy ra khỏi chân trời nhỏ bé của bạn, hãy bước vào cuộc phiêu lưu. Trước tiên, Thánh lễ không bao giờ là một hiện tượng văn hóa, xã hội hay mỹ thuật. Thánh lễ là mầu nhiệm của "sự hiện diện", tiếng Hêbrơ gọi là "Shekinnar" có nghĩa là "sự cư ngụ thực sự" của Thiên Chúa siêu việt trên địa cầu của chúng ta.
Bạn tìm cái gì khi bạn đi dự lễ? Nhạc "bình ca" hay nhạc "tân thời”? Chỗ nương tựa để bạn bảo thủ cương vị của mình cách an toàn, hay hứng khởi giúp bạn dấn thân đổi mới? Những bầu khí đó không phải là vô ích. Nhưng Đức Giêsu nói với chúng ta rằng Chúa là Đấng chúng ta phải tìm kiếm. Đến với Đức Giêsu là một "hồng phúc của Thiên Chúa". Một thứ ân sủng: "Bạn hãy đưa tay ra, hỡi người anh em, hãy mở rộng bàn tay hãy đón nhận Man-na, đón nhận lời Chúa".
Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Cha, thì sẽ đến với Tôi.
Đức Giêsu có một tư tưởng rất tinh tế. Không, lao vào một cuộc tranh cãi thần học nào, không bút chiến. Người khẳng định:
- Vai trò ưu tiên của "ân sủng", một sáng kiến của Chúa mà chúng ta phải nhận lãnh.
Vai trò cốt yếu của tự do, đặc chất của con người, luôn đòi hỏi một nỗ lực. Chính Chúa Cha "lôi kéo", "dạy bảo” và "đề nghị". Nhưng con người có thể "lắng nghe" và đáp lại hay bịt kín lỗ tai và từ chối.
Chỉ có những kẻ nào ưng thuận "lắng nghe lời dạy của Chúa Cha" mới có thể bước vào mầu nhiệm "Bánh hằng sống". Nhưng ta sẽ sai lầm nếu chỉ hiểu câu nói của Đức Giêsu theo nghĩa hẹp. Vì thế Đức Giêsu đã nói: "Có một số người được Chúa Cha lôi kéo đến đón nhận ân sủng”. Người vừa nhấn mạnh: "Tất cả họ đều được Thiên Chúa dạy dỗ". Do đó sự khác biệt trong thái độ, chính là sự khác biệt trong cách lắng nghe. Về phía Chúa, ân sủng được ban cho tất cả mọi người. Nhưng về phía con người tự do, họ có thể chối từ Thiên Chúa. "Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón tiếp" (Ga 1,11).
Lạy Chúa chúng con đang chờ đón Chúa. Này, đây đôi tay chúng con đang giang rộng...
Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha.
Một cách rõ ràng, Đức Giêsu muốn mang đến cho chúng ta một cái gì khác hơn là một ý thức hệ, một thứ luân lý, mỹ thuật hay chính, trị. "Ngôi vị Thiên Chúa" đã đột nhập trong lịch sử nhân loại: Người khẳng định, Người từ Thiên Chúa mà đến, và là "Đấng duy nhất" biết rõ về Thiên Chúa. Người là sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa trong thế giới chúng ta. Vậy chúng ta chớ ngạc nhiên khi thấy Thánh lễ thật kỳ diệu lạ lùng. Đó là nơi gặp gỡ của Đấng vô hình, của Đấng tuyệt đối, của Thiên Chúa. Đó là cuộc phiêu lưu tuyệt vời đòi phải vượt qua những quan điểm thông thường nhân loại, Thánh lễ là một "lỗ hổng"... một sự mở rộng nhiệm mầu u nới bức tường lý trí hay lý luận của chúng ta: Thánh lễ có thể đưa chúng ta vào lãnh vực rất bí ẩn của Thiên Chúa.
Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ.
Đức Giêsu không dè giữ lời nói. Người đặt hàng rào chắn rất cao. Vượt qua được khó khăn đó, để gặp gỡ Chúa, thành tích của ta thật là hiển hách. Văn sĩ Peguy nói: Bí tích Thánh Thể, Bánh hằng sống, không phải là những chuyện tầm thường ngang tầm tay chúng ta. Phải tìm kiếm vượt trên những gì hữu hình. Không ai đã thầy bao giờ. Vậy để thấy rõ hơn có lẽ chúng ta sẽ nhắm hẳn mắt lại, tránh mọi sự chia trí trong thế giới hữu hình, để tập trung vào cái vô hình.
Ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.
Đây là những lời nói lạ kỳ, hầu như không chấp nhận được khi ta biết rằng những lời này đã được một người có vẻ như mọi người, nói lên vào một ngày kia, bên bờ một hồ nhỏ tại Ca-phác-na-um trên hành tinh chúng ta. Sự việc Thiên Chúa đột nhập trong con người, đã gây ra ngạc nhiên biết bao. Ngạc nhiên như việc "sáng tạo đầu tiên từ hư không".
Chúng ta hãy để ý thì hiện tại: "Họ có sự sống đời đời” và thì tương lai: "Tôi sẽ cho người ấy sống lại".
Tôi là bánh trường sinh.
Ở đây chúng ta gặp lại sự khẳng định mạnh mẽ của Thánh kinh, định nghĩa Thiên Chúa như là "Đấng hiện hữu YAHVEH". Đó là 4 chữ không xóa nhòa được, chỉ có 4 phụ âm (vì tiếng Hêbrơ chỉ viết có phụ âm) mà không một người Do Thái nào dám đọc 4 chữ này, người Do Thái thay thế 4 chữ này bằng Adonai, (Đức Chúa). Còn Chúa Giêsu thì dám nói: "Tôi hiện hữu”, "Tôi là Bánh hằng sống".
Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời.
Ở đây chỉ đặt vấn đề "sự sống". Sau khi đã nói về “Bánh ban sự sống" (o artos tès zoès) bây giờ Đức Giêsu nói về "Bánh hằng sống" (o artos ozôn). Cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh (Sáng Thế 3,22) khẳng định con người (‘Ađam’ trong tiếng Hêbrơ) đã được tạo nên để sống vĩnh cửu do "cây hằng sống" mà con người có thể ăn những trái thần thiêng của cây này. Và cuốn sách mạc khải cuối cùng (Khải Huyền) khẳng định khi việc sáng tạo chấm dứt, sẽ không có sự chết nữa. "Ta sẽ cho kẻ chiến thắng ăn cây hằng sống trong vườn của Thiên Chúa". Đó là sự lặp lại và là sự thành công trong chương trình ban đầu của Thiên Chúa.
Do đó Chúa Giêsu đã khẳng định với những nông dân Galilê thời xưa, cũng như với chúng ta ngày nay rằng, sự “bất tử", sự sống không chết "này nhờ đức tin" đã được ban cho những người, không còn phải ăn "cây hằng sống”, nữa mà là "bánh hằng sống": Là chính Đức Giêsu. Ta có thể thắc mắc, những kẻ rước Mình Thánh Đức Giêsu cũng đã chết như mọi người? Nhưng rõ ràng ta không còn ở trong phạm vi nhân loại nữa nghĩa là trong lãnh vực các sự vật “hữu hình": Không ai đã thấy cái "vô hình” không ai có thể chứng minh là không có một "sự sống" vô hình. Điều đó không thuộc lãnh vực "lý trí". Nhưng tại sao chúng ta không để cho "Chúa Cha dạy bảo"? Tại sao chúng ta lại không tin Người?
Từ chối sự "dâng hiến" siêu việt này, là đánh mất ngay từ bây giờ sự sống vô hình, là tự phó mình cho hư không, cho tính hữu hạn thuộc bản chất tự nhiên của con người: "Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra thì là xác thịt" (Ga 3,6). Tại sao Thiên Chúa lại không can thiệp để "ban cho" chúng ta sự sống, tuyệt đối vĩnh cửu của Người?
Lạy Chúa này đây tay chúng con đang giơ cao để đón nhận hồng ân đó.
Và bánh Tôi sẽ ban tặng chính là thịt Tôi để cho thế gian được sống.
An sủng của Thiên Chúa, tự nó là vô hình, nhưng đã trở nên hữu hình trong Chúa Giêsu Kitô. Tinh yêu của Thiên Chúa, phi thường, nhưng ẩn dấu, đã tự tỏ lộ ra và trở nên "cảm thấy được"; đó là Chúa Giêsu bị đóng đinh, là Thịt và Máu của Người đã được hiến tế. Ngôi Lời Thiên Chúa đã không chỉ nói với chúng ta bằng lời mà còn bằng hành động: "Trao hiến thịt mình, phó nộp thân mình, đó là dấu chỉ tình yêu trọn vẹn.
Chúng ta hãy đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa đang ban Thịt Máu Người cho chúng ta và trở nên sự sống cho chúng ta.
51. Chú giải của Fiches Dominicales.
BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Bỏ qua “những lời sầm xì phản đối”
Hôm nay chúng ta vẫn tiếp tục tìm hiểu bài 'diễn từ về Bánh hằng sống" đã khởi sự được đọc từ Chúa nhật trước. Đức Giêsu vừa long trọng khẳng định: "Tôi là bánh từ trời xuống”. Manna là của ăn tạm bợ, mau hư nát phải gợi lên cho con cái lsrael một cơn đói khác: đói Lời Chúa, một thứ lương thực duy nhất có khả năng làm cho lòng người được no đầy phỉ chí. Còn trổi vượt hơn manna kỳ diệu, Đức Giêsu tự xưng là "Bánh Trường sinh là mạc khải quyết định, nên nghe Người là được mời dùng bữa, hấp thụ lời Người trở thành lương thực đem lại kết quả là sự sống. Chúa nói tiếp: "Ai đến với tôi không hề phải đói, ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ”.
Lời tuyên bố này vì có tính cách thúc ép họ phải xác định lập trường đối với Đức Giêsu, nên khiến cho quan hệ đôi bên trở nên tồi tệ: từ ngộ nhận này đến ngộ nhận khác đánh dấu hồi đầu của cuộc đối thoại, người ta đi tới thái độ không hiểu và chống đối.
Những điềm báo trước sự đổ vỡ này được Tin Mừng Gioan mô tả trong ba nét sau:
- Trước tiên đã có sự thay đổi từ vựng. Trước đây, thánh sử dùng những từ "đám đông" hoặc "dân chúng" để chỉ đám người Galilê. Chúa nói: Từ nay, Ngài sẽ nói là những người Do Thái, hiểu nơi này trong Tin Mừng Gioan không có ý chỉ dân Do Thái chút nào, mà được hiểu là những chức sắc tôn giáo ở Giêrusalem, họ là những người đã có lập trường chống đối Đức Giêsu. Kiểu nói đó, hiểu rộng ra cũng ám chỉ tất cả những kẻ đã từ chối tiếp nhận Chúa.
Thứ đến là việc lặp đi lặp lại hai động từ "xầm xì phăn đối" để nêu bật những phản ứng tiêu cực trong bụng dạ họ thay cho những thỉnh cầu tỏ tường và trực tiếp lúc ban đầu. Những động từ này rõ ràng mang âm hưởng Kinh Thánh vì gợi cho người ta nhớ đến thái độ phản loạn của con cái Israel trong hành trình ở sa mạc. X. Léon-dufour giải thích: "Trung thành với câu chuyện về manna trong sa mạc được làm nên cho cả chương sách, thánh sử với những thính giả của Đức Giêsu lúc này như thế hệ của những người trong sa mạc xưa: "họ xì xầm, phản đối”, những khác nào cha ông họ xưa tỏ ra cứng đầu cứng cổ, bị cơn đói dày vò, đã buông lời kêu trách ông Môsê vì đã dẫn đưa họ ra khỏi đất Ai Cập. Mối liên hệ giữa hai bản văn là sự thiếu lòng tin (...) Trong sa mạc khi những người Do Thái xì xầm phăn đối ông Môsê, ông đã trả lời rằng không phải họ đã phản đối ông, mà chính là đã phản đối Đức Giavê vậy". Có thể là Gioan thích dùng động từ "xì xầm phản đối" hơn bất cứ động từ nào khác, vì từ ấy thích hợp hơn để gợi ý rằng từ chối tin vào Đức Giêsu chính là từ chối đi theo chương trình của chính Thiên Chúa vậy. Ở 6,35-40, Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến việc Người được “Chúa Cha sai đến và người hoàn toàn làm trọn ý Cha Người" ("Lecture de l'evangile selon Jean"; cuốn 11, trang 152).
Sau cùng có vấn nạn gay gắt họ đưa ra: "Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả. Sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống”. Họ nghĩ bụng: "Quả thực, có thể nhìn nhận cái gốc gác thần linh ông ta đòi, nơi một kẻ mà người ta biết rõ cả gia đình, nghề nghiệp và địa vị xã hội được chăng?”
2. Tiếp đến lòng tin vào Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa sai đến.
Không những không nhẹ giọng, Đức Giêsu còn lên tiếng mạnh mẽ quả quyết rằng Người từ Thiên Chúa mà đến, rằng chỉ mình Người đã thấy Chúa Cha. Tin Đức Kitô là tuyên xưng Người có nguồn gốc từ trời, không căn cứ vào những vẻ bề ngoài, không nệ vào những gì ta biết được về liên hệ gia đình và xã hội của Người. Tin chính là khởi đi từ dấu chỉ để học cho biết nhận ra và hết lòng tin cậy vào Đấng Chúa Cha sai đến. Và đó hẳn không phải là chuyện con người một mình tiến hành; chỉ những ai được Chúa Cha lôi kéo mới đến được với Đức Kitô thôi: "Chẳng ai đến với tôi được, nếu không được Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, lôi kéo người ấy”.
Dựa vào những lời hứa và hình ảnh tiên báo của Cựu Ước, Đức Giêsu liền tuyên bố rằng những lời hứa và hình ảnh ấy nay đang ứng nghiệm nơi bản thân Người.
Vị ngôn sứ xưa đã loan báo rằng Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra cho toàn thể dân Người: "Mọi người sẽ được chính Thiên Chúa dạy dỗ" (ls 54,13 và 11,8 hoặc Giê 31,34). Chính bây giờ là lúc Đức Giêsu khẳng định - lời hứa ấy được ứng nghiệm. Người còn nói với họ: Chính bây giờ là lúc Chúa Cha kêu gọi các ông và lôi kéo các ông đấy, bởi lẽ lời dạy dỗ của Tôi là lời dạy dỗ của Chúa Cha; người mà các ông chỉ muốn coi là "con ông Giuse" chính là mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa đã được các ngôn sứ loan báo trước.
Manna, lương thực lạ lùng đấy, nhưng tạm bợ, đã không thể giữ cho lớp người ở sa mạc khỏi phải chết. Còn Đức Giêsu, vì Người bởi Thiên Chúa mà đến, mới thực là "bánh hằng sống”, bánh đem lại phúc trường sinh: "Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, ai ăn thì khỏi phải chết”.
Ở câu 51: "Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống”, Đức Giêsu loan báo cái chết của Người là ân huệ, một ân huệ nguồn sống. Đây là câu chuyển tiếp sang phần hai của "Diễn từ về Bánh hằng sống" chúng ta sẽ đọc vào Chúa nhật tới.
A.Marchadour muốn lưu ý ta rằng: "Trong bối cảnh lịch sử rõ ràng là bài diễn từ về bánh hằng sống này không thể trực tiếp ngụ ý nói về bí tích Thánh Thể, càng không thể hiểu được là bữa ăn sau hết, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Vậy ta nên coi đây là mặc khải về chính bản thân con người Đức Giêsu. Nhưng vì được viết sau Phục sinh, cùng với những từ ngữ mang âm sắc mạnh mẽ của việc cử hành Thánh Thể, thì rõ ràng là toàn bộ chương 6 là một bài diễn từ gợi lại cùng một lúc lòng tin và bí tích Thánh Thể với một tỉ lệ đảo ngược: từ câu 51-52 trở đi, nốt chủ âm là bí tích Thánh Thể (51/71), còn từ đầu chương cho đến câu 51, thì lòng tin vào Đức Giêsu Đấng Mạc Khải chính là nốt chủ âm thứ nhất (1/51) vậy. (Sđd, trang 107)
BÀI ĐỌC THÊM
1. "Sâu thẳm lòng tin"
(Đức Cha L.Daloz, trong ‘Nous avons vu sa Gloire’, Desclée de Brouwer, trang 85-86).
Những lời Chúa nói gây nên trong đám đông một cuộc tranh luận sôi nổi. Như Cộng đồng Israel trong sa mạc, vì sợ chết đói, nên đã xầm xì phản đối hai ông Môsê và Aaron thế nào, thì những người Do Thái, như Tin Mừng cho biết, cũng bắt đầu xầm xì phản đối Đức Giêsu như vậy. Lời quả quyết của Người có vẻ lố bịch: ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả. Vấn đề nhân tính của Đức Giêsu được họ đặt ra rất gay gắt. Con người này, người ta biết rõ gia đình của ông, thế mà ông ấy lại quả quyết mình từ trời xuống! Đó là cái nút thắt của mầu nhiệm mà sau này các Công đồng và các nhà thần học sẽ cố gắng tập trung nghiên cứu, mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Con vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Vào thời điểm Tin Mừng Gioan được viết ra, các tín hữu đã suy niệm mầu nhiệm này rồi, nên không lạ gì mầu nhiệm ấy đã được trình bày cho chúng ta một cách khá rõ ràng.
Đây là một vấn đề luôn có tính thời sự. Cả chúng ta cũng phải đối diện với mầu nhiệm này nữa, nếu ta muốn tiếp nhận Đức Giêsu đúng như chân tính của Người: vừa gần gũi vừa khiến ta ngỡ ngàng, vừa dễ hiểu vừa nhiệm mầu. Để được như vậy, thì ta cần phải để cho Chúa Cha lôi kéo, để Người nói với con tim ta: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi không lôi kéo người ấy”. Đức Giêsu vừa rất gần gũi, rất người, mà cũng xa cách biết bao. Để nhận biết Người cho đúng, ta phải "đến với Người”. Trong con người Giêsu ấy mà ta tưởng là đã nắm được lý lịch, ta sẽ khám phá ra Đấng đã thấy Chúa Cha, Đấng có quyền cho mọi người sống lại trong ngày sau hết. Đức tin ngay từ bây giờ đưa ta đi vào cuộc sống đời đời: "Thật, tôi bảo thật các ông ai tin thì được sự sống đời đời”. Đây chính là một giai đoạn mà ta phải quyết định. Đằng sau vẻ ồ ạt bên ngoài của đám đông theo Đức Giêsu vì Người đã thỏa mãn nhu cầu cơm bánh của họ, đằng sau ngay cả vẻ tán đồng của các môn đệ vì đã nhìn thấy qua các dấu chỉ của Người, vinh quang Chúa tỏ hiện, thì bước sau cùng tiến đến lòng tin vẫn là ngoan ngoãn để Chúa Cha lôi kéo. Những con mắt thịt của ta chỉ có thể trông thấy những cái bên ngoài; còn trực giác của ta chỉ có thể làm cho ta cảm nghiệm được mầu nhiệm. Việc tuyên xưng niềm tiến chỉ nảy ra trong lòng và tràn trên môi miệng ta nấu Thiên Chúa rọi sáng cho con mắt tâm hồn của ta và ta được ánh sáng hướng dẫn. Ta có lòng tin sâu thẳm khi trong mật thiết sâu xa và huyền nhiệm Chúa đến gần gũi ta và ta tự do dâng hiến toàn thân và dấn thân cho Người
2. “Chúng ta có tránh khỏi sầm xì không”.
(H.Vulliez, trong "Dieu si proche, Năm B", Desclée de Brouwer, tr. 137).
Khi những tiếng xầm xì, nhỏ to nổi lên từ một đám đông, thật đáng buồn. Những lời xầm xì nham hiểm, tệ hơn những lời phản đối mạnh mẽ! Không có gì đáng sợ và có sức phá hoại hơn thái độ khinh thị ngạo mạn này. Khi lang thang trong sa mạc, dân Do Thái đã luyến tiếc "những củ hành và miếng thịt" của Ai Cập mà quên đi kiếp nô lệ phũ phàng đã phải chịu. Họ bắt đầu xầm xì phản đối ông Môsê và Aaron.
Thực ra chính là họ đứng lên chống lại chính Thiên Chúa. Trong cả bộ Kinh Thánh, từ "xầm xì phản đối" đều có một ý nghĩa đạo đức nhất định. Đó sẽ là sự biểu lộ thái độ ngoan cố chối từ kế hoạch Chúa muốn cho con người. Như ta thấy biểu lộ trong phần đầu chương 6, Tin Mừng Gioan: những người lãnh đạo Do Thái giáo chối từ "bánh hằng sống”. Xa hơn (Ga 6,61) ta thấy thái độ chối từ của chính các môn đệ. Những lời xầm xì thường là thái độ chối từ chưa dám đem niêm yết công khai vậy.
Liệu chúng ta có tránh khỏi thái độ xầm xì không?
52. Chú giải của William Barclay.
SỰ THẤT BẠI CỦA NGƯỜI DO THÁI
Điểm quan trọng ở đây là các lý do khiến người Do Thái chối bỏ Chúa Giêsu, mà chối bỏ Ngài là họ chối bỏ cả sự sống đời đời.
1. Họ xét theo các giá trị của loài người và theo các tiêu chuẩn bên ngoài.
Họ phản ứng trước lời tự xưng của Chúa, nêu ra sự kiện Ngài là con nhà thợ mộc, họ biết Ngài sống ở Nadaret. Làm sao họ hiểu được một người thợ mộc tầm thuờng lại có thể trở thành một sứ giả đặc biệt của Thiên Chúa được. Họ chối bỏ Chúa Giêsu vì đã xem xét Ngài bằng các giá trị của loài người, của xã hội và bằng tiêu chuẩn thế gian.
T.E.Lawrence là bạn thân của thi sĩ Thomas Hardy. Thời gian ông phục vụ trong Không Lực Hoàng Gia Anh với tư cách thợ máy, ông vẫn mặc thường mặc quân phục thợ máy khi đến thăm vợ chồng Hardy. Một lần tại nhà thi sĩ, ông gặp bà Thị Trưởng Dorchester. Không biết anh thợ máy cùng có mặt hôm ấy là ai, bà tỏ vẻ khó chịu quay sang bà Hardy, nói bằng tiếng Pháp, bà than phiền, “Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến nay, tôi chưa hề ngồi uống trà với một tên lính quèn như thế này”. Không ai nói năng gì. Một lúc sau, Lawrence nói với bà bằng tiếng Pháp “Xin lỗi bà, tôi có thể là thông dịch viên cho bà, vì bà Hardy không biết tiếng Pháp”. Một mệnh phụ phu nhân rởm đời và bất nhã đã nhầm lẫn tai hại chỉ vì xét người theo bề ngoài, theo tiêu chuẩn xã hội. Đó cũng là nhầm lẫn của dân Do Thái đối với Chúa Giêsu. Chúng ta phải thận trọng, đừng bao giờ xem thường một sứ điệp của Thiên Chúa vì chúng ta khinh dể hay chẳng đếm xỉa gì đến vị sứ giả. Không ai từ chối tấm ngân phiếu 1.000 Anh kim, chỉ vì nó được bỏ vào một phong bì không phù hợp với tiêu chuẩn về giấy tờ của hạng người quý phái. Thiên Chúa có nhiều sứ giả khác nhau. Sứ điệp quan trọng nhất của Ngài đến từ một người thợ mộc xứ Galilê, mà cũng chính vì thế nên người Do Thái đã xem thường.
2. Người Do Thái than phiền và cãi nhau. Họ mải lý luận và bị lôi cuốn vào đó, đến nỗi chẳng để ý đến quyết định của Thiên Chúa.
Họ nóng nảy muốn cho ai nấy biết họ nghĩ gì về vấn đề ấy, nhưng chẳng cần biết Thiên Chúa đã nghĩ gì. Trong một hội nghị hay hội đồng, khi ai nấy đều muốn bắt buộc người bên cạnh phải chấp nhận ý kiến của mình, tốt hơn hết chúng ta nên yên lặng cầu xin Thiên Chúa xem Ngài nghĩ gì và muốn chúng ta làm gì. Dù chúng ta có nghĩ gì đi nữa cũng chẳng quan trọng, những gì Thiên Chúa nghĩ mới thật quan trọng, vậy mà chúng ta lại rất ít chịu khó để tìm biết Ngài nghĩ gì!
3. Người Do Thái lắng nghe, nhưng không chịu học hỏi.
Có nhiều cách nghe: có lối nghe của nhà phê bình, lối nghe của người thù ghét, lối nghe của cấp trên, có lối nghe dửng dưng, lối nghe của người đành chịu vì chưa có cơ hội để nói. Cách nghe thích hợp duy nhất là lắng nghe để học hỏi, không có cách nào khác hơn để được nghe Thiên Chúa.
4. Người Do Thái chống lại sự lôi kéo của Thiên Chúa.
Chỉ những người được Thiên Chúa kéo lại với Chúa Giêsu mới tiếp nhận Ngài. Từ mà Gioan dùng mô tả động tác kéo rất thú vị, đó là chữ được dùng trong bản dịch Do Thái sang Hy Lạp. Khi Giêrêmia nghe tiếng Thiên Chúa phán: “Ta đã lấy sự nhân từ mà kéo ngươi đến” (Gr 31,3), nhưng điều thú vị trong từ này (Belkuein) là có ý nói về một sức kháng cự. Đó là chữ dùng mô tả sự “kéo một tay lưới nặng vào bờ hồ” (Ga 21,6.11). Đó cũng là chữ dùng chỉ việc Phaolô và Sila bị kéo đến các quan tòa tại Philipphê (Cv 16,19). Đó cũng là chữ chỉ việc rút gươm ra khỏi dây thắt lưng hay khỏi vỏ (Ga 18,10). Nó luôn luôn ngụ ý kháng cự lại. Thiên Chúa lôi cuốn người ta đến, thế nhưng sức kháng cự của con người có thể làm thất bại sự lôi kéo của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là bánh sự sống. Như thế chúng ta hiểu Chúa là nhu cầu thiết yếu cho đời sống, vậy khước từ lời mời gọi và mệnh lệnh của Chúa Giêsu là đánh mất sự sống và phải chết. Người Pharisêu nói: “Thế hệ ở trong sa mạc chẳng có phần gì ở đời sống mai sau”. Trong câu chuyện xưa của sách Dân số, sau khi nghe các thám tử báo cáo, số người hèn nhát, từ chối mạo hiểm đi vào Đất Hứa đều bị kết án phải lưu lạc trong sa mạc cho đến chết. Vì họ không chấp nhận sự hướng dẫn của Thiên Chúa, nên cánh cửa vào Đất Hứa đã đóng vĩnh viễn. Khước từ đề nghị của Chúa là từ chối phần thiết yếu cho đời sống, do đó mất luôn sự sống đời này lẫn đời sau. Trong khi đó, tiếp nhận đề nghị của Chúa Giêsu là tìm được sự sống, một sự sống đích thực ở đời này và vinh hiển ở đời sau.
53. Suy niệm của Đức Ông James M. Reinert
(Đan Quang Tâm dịch)
ĐƯỢC CỨU THOÁT KHÔNG PHẢI BẰNG MỘT CÔNG THỨC NHƯNG NHỜ MỘT CON NGƯỜI.
Một lần nữa, như ta đã nghe trong Chúa nhật tuần trước, một sứ điệp với lời hứa sẽ được dưỡng nuôi trong cuộc hành trình phía trước. Điều này đặc biệt rõ rệt trong đoạn văn trong Sách Các Vua quyển thứ nhất. Trong sứ điệp này, ta nghe câu truyện về Ngôn sứ Êlia hành trình trong sa mạc. Điều quan trọng là xem thấy bối cảnh câu truyện diễn ra.
Êlia trên đường đến Khôrếp – “núi của Đức Chúa”. Chính trong cái hang ở đó Thiên Chúa đã tự mặc khải cho vị Ngôn sứ, không phải trong gió, trong một trận động đất hoặc ngọn lửa mà trong một “tiếng thì thầm”. Trước đó, trước khi lên đường, Êlia chứng minh cho Vua dân Israel và mọi người thờ thần ngoại, kể cả các thầy cúng Baal, rằng chỉ có một Thiên Chúa chân thực duy nhất, không phải chỉ ở Israel nhưng mà trong khắp cả thế giới.
Bây giờ, ta trở lại sứ điệp ngày hôm nay, Êlia đang chạy thục mạng. Tuy nhiên, ông không cô đơn. Thiên Chúa ở với ông, dưỡng nuôi ông trong cuộc hành trình.
Trong Thư Thánh Phaolô gửi các Tín hữu Êphêxô, ta nghe một bài khuyến thiện hãy noi gương Thiên Chúa – hãy sống bằng tình yêu. Thánh Phaolô khích lệ cộng đoàn Kitô hữu tại Êphêxô hãy hướng đến một sự thánh thiện mới bởi tặng ân đức tin mà họ đã lĩnh nhận.
“Niềm tin vào Thiên Chúa và vào Đức Giêsu Kitô soi sáng cho những nguyên tắc luân lý là “nền tảng duy nhất và không thể thay thế được của sự ổn định và an bình, của trật tự nội tâm và ngoại giới, trật tự riêng và chung, mà chỉ nền tảng đó mới có thể làm nảy sinh và bảo đảm sự thịnh vượng của các quốc gia”. Đời sống trong xã hội phải dựa trên nền tảng kế hoạch của Thiên Chúa vì “chiều kích thần học cần thiết cho việc giải thích lẫn việc giải quyết những vấn đề hiện nay trong xã hội loài người”. Trước sự hiện diện của những hình thức bóc lột và bất công xã hội trầm trọng, có “một nhận thức ngày càng rộng khắp và nhạy bén hơn về nhu cầu đổi mới triệt để cá nhân và xã hội để có thể bảo đảm công lý, tình liên đới, sự trung thực và cởi mở. Chắc chắn, có cả một con đường dài và khó khăn phía trước; việc đem lại một sự đổi mới như thế đòi hỏi nỗ lực to lớn, đặc biệt khi xét đến số lượng và tính trầm trọng của những nguyên nhân làm phát sinh và làm trầm trọng thêm những tình huống bất công đang hiện diện trong thế giới ngày nay. Nhưng, như lịch sử và kinh nghiệm cá nhân cho thấy, không khó để khám phá ra tại đáy của những tình huống này các nguyên nhân gọi cho đúng là về ‘văn hoá’, gắn kết với những cách nhìn nào đó về con người, xã hội và thế giới. Quả vậy, tại tâm điểm của vấn đề văn hoá, chúng ta tìm thấy nhận thức luân lý, đến lượt mình, nhận thức này được đâm rễ và hoàn thành trong nhận thức tôn giáo”. Về “vấn đề xã hội”, chúng ta không được để mình bị quyến rũ bởi “niềm mong ước ngây thơ rằng đối diện với những thử thách lớn lao của thời đại chúng ta, ta sẽ tìm thấy một công thức thần kỳ nào đó. Không, chúng ta sẽ không được cứu thoát bằng một công thức nhưng nhờ một Con Người, và sự bảo đảm mà Con Người đó ban cho chúng ta: Thầy ở với anh em! Vì thế, vấn đề không phải là phát minh ra một ‘chương trình mới’. Chương trình có sẵn rồi: đó là kế hoạch được tìm thấy trong Tin Mừng và trong Truyền Thống sống động, mãi mãi sẽ như vậy. Cuối cùng, chương trình đó có tâm điểm là chính Đức Kitô, Đấng phải được nhận biết, được yêu thương và được noi theo, để trong Người, chúng ta có thể sống đời sống của Ba Ngôi, và cùng với Người, chúng ta biến đổi lịch sử cho đến khi lịch sử hoàn thành nơi Giêrusalem trên trời” (Sách Tóm lược HTXHCG, 577).
Đức Giêsu tiếp tục bài đã được gọi là “diễn từ Bánh Hằng sống”. Người bảo đám đông rằng “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy”. Người nói điều này khi một vài người trong đám đông phản đối việc Đức Giêsu nhận mình là “bánh từ trời xuống”.
Một lần nữa, biến cố này xảy ra trong bối cảnh Đức Giêsu hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi đám đông. Lại vẫn giống như những người Israel trong Cựu Ước, có sự thiếu hiểu biết. Không những thế, có cả sự thiếu sẵn sàng để cho phép tặng ân đức tin được vào trong tâm hồn và tâm trí của họ.
Trong đoạn văn, Đức Giêsu đưa ra một số lời hứa mà đã trở thành một bộ phận chính yếu trong đức tin của chúng ta. Người bảo họ rằng Người sẽ cho những người tin sống lại trong ngày sau hết. Người đoan chắc với họ rằng họ có thể đến với Người nếu họ nghe tiếng Chúa Cha và học được từ lời đó. Sau cùng Người hứa rằng những ai tin, những ai được gọi, những ai được thông phần vào việc ăn “bánh hằng sống từ trời xuống” sẽ sống muôn đời.
Đây là lời hứa của chúng ta và niềm hy vọng của chúng ta. Ta hãy cầu nguyện cho ta được nghe tiếng của Chúa Cha và được đến gần Đức Kiô hơn, Đấng là bánh hằng sống và chia sẻ sự sống của Người với chúng ta.
11/08 Lòng tin lớn bằng hạt cải
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Lòng tin lớn bằng hạt cải.
Thứ bảy tuần 18 thường niên – Thánh Cơlara, trinh nữ. Lễ nhớ.
"Nếu các con có lòng tin, thì chẳng có gì các con không làm được".
* Thánh nữ sinh năm 1193 tại Átxidi. Năm 18 tuổi, chị xin thánh Phanxicô cho được theo nếp sống khó nghèo. Thánh Phanxicô đã cho chị ở trong một căn nhà tồi tàn, gần nhà thờ thánh Đamianô ở cửa ngõ thành Átxidi. Em của thánh nữ tên là Anê và một số thiếu nữ khác gia nhập nếp sống của chị: sống thanh bần triệt để. Đó là những nữ tu Phanxicô tiên khởi. Chị qua đời năm 1253.
Lời Chúa: Mt 17, 14-19
Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: "Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được". Chúa Giêsu đáp: "Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Hãy đem nó lại đây cho Ta". Chúa Giêsu quát mắng quỷ và quỷ liền ra khỏi đứa bé. Và nó được lành ngay trong lúc ấy.
Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: "Tại sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Vì các con yếu lòng tin! Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia', thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Ðức Tin Rất Cần Thiết
Thánh Augustinô nói: "Thiên Chúa dựng nên con người không cần con người, nhưng để cứu chuộc con người, thì Ngài cần đến sự cộng tác của con người". Sở dĩ như vậy là vì Thiên Chúa dựng nên con người có tự do, và tự do bao hàm sự lựa chọn tin nhận hoặc khước từ Thiên Chúa. Ðức tin cần thiết cho con người, không những để được cứu rỗi, mà còn để biết vui tươi đón nhận những biến cố trong đời sống theo thánh ý Chúa.
Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chữa một đứa bé bị kinh phong. Có thể nói, không có gì đặc biệt, nếu phép lạ được thực hiện do Chúa Giêsu, bởi vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng làm được mọi sự. Nhưng điều quan trọng là phép lạ có thể xẩy ra là do đức tin của con người. Thật thế, trong bất cứ phép lạ nào, Chúa Giêsu cũng đòi hỏi con người phải tin, hoặc chính đương sự hoặc cha mẹ hay người bảo trợ. Là Ðấng Cứu Thế, Chúa Giêsu yêu thương và muốn cứu chữa con người khỏi mọi tật bệnh; nhưng mỗi khi thực hiện phép lạ để cứu chữa một người nào, Ngài cũng đòi phải có đức tin. Nếu việc cứu chữa riêng lẻ đó chỉ là hình ảnh lu mờ của việc cứu chữa tối hậu mà Chúa còn đòi hỏi đức tin, thì để được cứu rỗi trong thời cứu độ viên mãn, đức tin còn cần thiết biết chừng nào.
Kết thúc bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì chẳng có gì các con không làm được. Ðức tin làm cho chúng ta từ con người tội lỗi trở thành con cái Thiên Chúa; đức tin giúp cho những việc tầm thường trong đời sống trở thành có giá trị vĩnh cửu; đức tin cho chúng ta có cái nhìn lạc quan tin tưởng vào mọi biến cố cuộc sống; đức tin giúp con người làm được những điều mà người không có đức tin không hiểu nổi: các thánh tử đạo can đảm chấp nhận cái chết đau thương, các thánh hiển tu đã từ bỏ tất cả để hoàn toàn sống theo Chúa.
Nguyện xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta để nhận ra bàn tay Chúa luôn dẫn dắt chúng ta và luôn sống trong bình an dưới sự chăm sóc của Ðấng Toàn Năng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Lòng tin thật
Bây giờ các môn đệ đến gần hỏi riêng Đức Giêsu rằng: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” Người nói với các ông: “Tại sao anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “Rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được. [Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện]. (Mt. 17, 19-21)
Nếu người ta nhìn bề ngoài theo nghĩa đen, thì có lòng tin vào Đức Kitô đã đủ làm những điều phi thường: Chữa khỏi các bệnh tật.
Chớ gì có niềm tin vô điều kiện vào Thiên Chúa và Đức Kitô, tôi hoàn toàn đồng ý! Lời dạy của Đức Kitô được chép lại rõ ràng, cần phải đọc lại các sách Tin Mừng, đặc biệt của thánh Gio-an, để xác tín điều đó. Lòng tin là điều kiện cần cho lời cầu nguyện biết bao, nhất là lời cầu nguyện cầu xin.
Nhưng chưa đủ.
Nhưng cần thiết lời cầu nguyện phải hợp với kế hoạch của Thiên Chúa, Đức Giêsu, lúc sống ở trần thế, đã không chữa mọi bệnh tật cho dân Ít-ra-en, các tông đồ cũng thế. Vì nếu đánh giá lòng tin bằng được khỏi bệnh thì lòng tin đó chỉ như một thứ tiền trả cho việc chữa bệnh. Lòng tin như thế có đủ không? Đó không phải là thứ lòng tin sống động, không phải là thứ lòng tin của thứ phần tử trong Giáo Hội, của thân thể Đức Kitô. Lòng tin như thế là của những người không tín ngưỡng.
Tôi nghĩ những đoạn Tin Mừng này có thể sẽ bị hiểu lầm và sẽ gây ra những quá đáng đạo đức.
Vâng: Một lòng tin sâu sắc.
Lòng tin trong sáng và nhiệt thành ăn rễ sâu vào tâm hồn siêng năng hơn là hành động nhất thời. Nếu người ta không thường xuyên sống với tâm tình yêu mến và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì làm sao tránh khỏi không nghi ngờ. Chỉ khi nào có một chút niềm tin hoàn hảo mới mong phát sinh ra những công cuộc kỳ diệu hữu hình và vô hình.
Có những Đấng Thánh có lòng tin, một lòng tin sâu xa, sống động! đã xẩy ra và còn xẩy ra nơi các Đấng một đức tin trọn vẹn để thực hiện ơn gọi đặc biệt trong Hội Thánh.
J.M
SUY NIỆM 3: KIÊU NGẠO SẼ THẤT BẠI (Mt 17, 14-20)
Xem thêm thứ Hai tuần 7 TN.
Một sự cám dỗ lớn lao nhất thường đến với con người, đó là cơn cám dỗ về sự kiêu ngạo.
Thật vậy, sự kiêu ngạo nó thường trực trong con người, và mức độ nguy hiểm của chúng là rất cao. Có thể ví rằng: sự kiêu ngạo luôn nhăm nhe bừng phát, chúng giống như bình xăng còn ma quỷ như bó đuốc. Nếu không cẩn thận và đề phòng bằng sự khiêm nhường, ắt không sớm thì muộn, chúng cũng làm cho bình xăng bốc cháy!
Đọc lại lịch sử cứu độ, chúng ta thấy, từ xa xưa, người ta vẫn bị mắc vào cám dỗ này.
Khởi đi từ Nguyên Tổ loài người là Ađam và Evà; rồi câu chuyện tháp Babel, đến hành động của Môsê, Aharon, Đavít, và ngay cả đến các môn đệ, tất cả đều bị ngã gục trước sự cám dỗ của ma quỷ dưới lưỡi hái của sự kiêu ngạo.
Thật vậy, cậy vào sức riêng của mình là chuyện bình thường. Tuy nhiên, vì tự tin đến độ không cần đến Thiên Chúa thì lại là kẻ bất thường, vì thế, thất bại là lẽ đương nhiên.
Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy việc các môn đệ thất bại trong việc trừ quỷ. Nguyên do chính là do các ông tự mãn và cậy vào khả năng riêng của mình chứ không phải là niềm tin vào Thiên Chúa.
Tin Mừng thuật lại, sau khi Đức Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor, số môn đệ còn lại ở dưới núi, vì thế người ta mang đến cho các ông một đứa trẻ bị quỷ ám mắc kinh phong. Các ông đã trừ mà không được. Nên thấy Đức Giêsu xuống, dân chúng đã xúm lại và xin Ngài chữa lành. Sau khi Ngài chữa cho bé gái khỏi quỷ ám. Các môn đệ tiến lại gần và hỏi: "Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?". Đức Giêsu mặc khải cho họ biết: "Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘rời khỏi đây, qua bên kia!’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được".
Sau khi các ông nhận ra sự thất bại của mình và hiểu rõ về sức mạnh của niềm tin, Đức Giêsu muốn dạy các ông sự khiêm nhường và gắn bó với Thiên Chúa cách trọn ven thì mới có thể thi hành được sứ vụ.
Trong cuộc sống đức tin của chúng ta, có lẽ không cần phải xin Chúa cho được chuyển núi dời non theo nghĩa đen. Nhưng điều mà chúng ta cần chuyển dời chính là ngọn núi của kiêu căng, tự ái, ghen ghét. Có thế, chúng ta mới để cho đức tin mà Thiên Chúa ban cho chúng ta được lớn mạnh.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết gắn bó với Chúa để được Chúa yêu thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 4: Tại anh em kém tin
Suy niệm:
Thầy Giêsu và ba môn đệ xuống từ trên núi, nơi Thầy mới hiển dung.
Bốn Thầy trò gặp ngay một đám đông.
Một người cha chạy đến, quỳ xuống trước mặt Đức Giêsu.
Ông xin Ngài thương xót đứa con trai của ông bị kinh phong nặng lắm.
Những mô tả của ông về bệnh tình của con đúng là triệu chứng kinh phong.
Cậu bé không làm chủ được mình, dễ ngã vào nước, vào lửa.
Tính mạng cậu lúc nào cũng bị đe dọa (c. 15).
Điều đáng lưu ý ở đây là chín môn đệ khác đã bó tay.
“Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài,
nhưng các ông không chữa được” (c. 16).
Chính những người đã được Thầy trao quyền để chữa bệnh và trừ quỷ
lại không thể giải quyết được trường hợp này.
Phải chăng vì không có sự hiện diện của Thầy, hay vì đám đông cứng lòng,
hay vì cơn bệnh quá nặng khiến các môn đệ không đủ tự tin và mạnh mẽ?
Dù sao Thầy Giêsu cũng phải ra tay, để làm điều cần làm.
Với thái độ hơi mất kiên nhẫn, Ngài đã trách móc đám đông (c. 17).
Ngài gọi họ là một thế hệ không tin và gian tà.
Đức Giêsu thấy mình vẫn còn phải ở lại với họ và chịu đựng họ (c. 17)
“Đem cháu lại đây cho tôi”
Đức Giêsu quát mắng quỷ, quỷ liền xuất, và cậu bé được khỏi lập tức.
Các môn đệ hẳn bối rối và xấu hổ vì không đuổi được quỷ.
Chắc họ cũng ngạc nhiên vì thấy mình thất bại trong trường hợp này,
tuy họ đã thành công trong nhiều trường hợp khác (x. Lc 10, 17).
Họ chờ lúc riêng tư giữa Thầy trò để hỏi lý do tại sao (c. 19).
Câu trả lời của Thầy Giêsu ở đây là khá rõ ràng.
“Tại anh em kém tin!” (c. 20).
Kém tin là một từ đặc biệt chỉ có trong Tin Mừng Mátthêu.
Từ này được dùng nhiều lần (6, 30; 8, 26; 14, 31; 16, 8).
Người kém tin là người có lòng tin nhỏ bé (oligopistia),
chứ không phải là hoàn toàn không tin chút nào (apistia).
Nhưng lòng tin nhỏ bé này thật sự cũng chẳng đem lại hiệu quả gì.
Nó chưa đáng được gọi là tin theo đúng nghĩa.
Một lòng tin đúng nghĩa thì dù nhỏ bé như một hạt cải
cũng có thể chuyển núi dời non (c. 20b; 1 Cr 13, 2).
Chỉ với lòng tin nhỏ như vậy, sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.
Dĩ nhiên, câu này không có nghĩa là họ làm được mọi sự.
Các môn đệ chỉ làm được những gì liên quan đến việc loan báo Nước Trời,
như chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền và trừ quỷ (Mt 10).
Họ chỉ làm được phép lạ khi người bệnh có lòng tin,
và khi việc họ làm nằm trong ý định của Thiên Chúa.
Những thừa tác viên của Giáo Hội nhiều khi thấy mình bất lực trước sự dữ.
Chúng ta cần xin Chúa thêm cho ta đức tin để có thể chuyển được
những đồi núi nơi lòng con người hôm nay.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thưong của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
10/08 Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt.
Thứ sáu tuần 18 thường niên – THÁNH LÔRENXÔ PHÓ TẾ, TỬ ĐẠO. Lễ kính.
"Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó".
* Phó tế Lôrenxô chịu tử đạo tại Rôma ngày 10 tháng 8 năm 258, sau đức Xít-tô II bốn ngày. Chuyện kể rằng người phải chịu cực hình lửa thiêu trên một chiếc giường sắt sau khi người đã phân phát cho người nghèo tài sản của cộng đoàn. Ngay từ thế kỷ IV, lòng tôn kính người đã phổ biến trong Hội Thánh.
Lời Chúa: Ga 12, 24-26
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thật, Ta nói thật với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tài sản của Giáo Hội
Hôm nay, Giáo Hội kính nhớ một vị thánh được tôn kính rất nhiều trong những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo: đó là thánh Lôrenxô. Thật ra, người ta biết rất ít về vị thánh này...
Theo tương truyền, thì Lôrenxô là một vị phó tế người Roma phục vụ Giáo Hội dưới thời Ðức Giáo Hoàng Sixtô II, và có lẽ cũng đã chịu tử đạo trong thời kỳ bách hại của Hoàng đế Velerianô vào thế kỷ thứ 3.
Chuyện kể lại rằng, cũng như các phó tế trong giai đoạn tiên khởi của Giáo Hội, Lôrenxô được giao phó trách nhiệm quản lý tài sản của Giáo Hội và trợ giúp người nghèo. Ngày nay chúng ta gọi là hoạt động xã hội của Giáo Hội.
Sau khi Ðức Sixtô II bị bắt giữ, phó tế Lôrenxô cũng đã nghĩ ngay đến số phận chờ đợi mình mà Giáo Hội phải trải qua. Ngài tập trung lại tất cả những người nghèo, các bà góa và các em cô nhi tại Roma. Tất cả tài sản của Giáo Hội, ngài phân phát cho họ. Ðể cung cấp đủ cho số người túng thiếu quá đông, ngài đã cho bán cả các chén thánh dùng trong phụng tự...
Hoạt động bác ái quá rầm rộ này không mấy chốc đến tai viên thị trưởng Roma. Ông cho rằng, Giáo Hội phải có rất nhiều kho tàng. Thế là Lôrenxô đã bị điệu đến để cung khai về tất cả tài sản của Giáo Hội. Vị phó tế khôn ngoan này đã xin hoãn lại một thời gian để xếp đặt mọi sự và lập danh sách của cải của Giáo Hội. Trong suốt ba ngày, ngài cho triệu tập những người tàn tật, đui mù, góa bụa, cô nhi... và cho họ xếp hàng đứng trước dinh viên thị trưởng. Rồi ngài dõng dạc tuyên bố: "Ðây là tất cả tài sản của Giáo Hội".
Viên thị trưởng đã cho lời tuyên bố này là một thách thức ngạo mạn. Ông truyền lệnh cho thiêu sống Lôrenxô trên một chiếc giường sắt được nung đỏ. Các lý hình thay phiên nhau để quay trở thân xác của thánh nhân như một con thú...
Câu chuyện trên đây có thể chỉ là sản phẩm của một lòng tôn kính cao độ mà các tín hữu thời sơ khai dành cho một vị thánh. Nhưng, dù không biết nhiều về vị thánh này, chúng ta vẫn có thể xác quyết một điều: ngài đã chết vì Ðức Kitô. Sự thánh thiện ở thời đại nào cũng được định nghĩa như một sự đáp trả hoàn toàn đối với lời mời gọi bước theo Ðức Kitô.
Sống và chết cho Ðức Kitô: đó là ơn gọi từng ngày của người Kitô. Có nhiều hình thức bắt đạo khác nhau: từ những sắc lệnh cấm đạo công khai cho đến những hạn chế tự do tín ngưỡng một cách tinh vi.
Có nhiều hình thức tử đạo khác nhau: từ cảnh đầu rơi, máu đổ cho đến những cái chết dần mòn trong nơi lao tù, cũng như những khước từ hy sinh từng ngày mà mỗi người Kitô đang phải trải qua.
Sống trọn vẹn ơn gọi của người Kitô cũng là một hình thức tử đạo từng ngày. Quyết trí trung thành lắng nghe tiếng nói của lương tâm để không chạy theo những cám dỗ của quyền lực, của tiền bạc, của gian dối, của lường gạt: đó cũng là một cuộc tử đạo dai dẳng.
Quyết trí trung thành với Giáo Hội dù phải chịu những phân biệt đối xử, dù phải bị tước đoạt quyền lợi: đó cũng là một cuộc tử đạo dai dẳng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Hy Sinh Và Phục Vụ
Văn sĩ Robert Jordan Mayer đã viết tập sách có tựa đề Tạ Ơn Chúa. Trong đó ông chia ra ba loại cho đi: cho đi vì tức, cho đi vì bổn phận và cho đi vì lòng biết ơn.
- Kẻ cho đi vì tức thường nói: “Tôi không thích cho đi, vì kẹt quá nên đành phải làm như vậy”. Cho đi vì tức thì cho đi rất ít, vì món quà mà không có người cho thì không giá trị.
- Người cho đi vì bổn phận thì nói: “Tôi phải cho đi”. Cho đi vì bổn phận thì cho đi nhiều hơn là cho đi vì tức, nhưng món quà không hấp dẫn, không màu sắc.
- Người cho đi vì lòng biết ơn thì nói: “Tôi muốn cho đi”. Cho đi vì lòng biết ơn thì cho đi mọi sự và làm cho thế gian nhìn thấy hình ảnh Thiên Chúa.
Chúng ta hãy xét xem mình thuộc loại người nào trong ba mẫu người vừa nêu trên: cho đi vì tức, cho vì bổn phận và cho đi vì lòng biết ơn.
Bài Phúc Âm hôm nay dùng hình ảnh hạt giống phải chết đi mới trổ sinh nhiều hoa trái để nhắc cho môn đệ Chúa Giêsu phải biết sống hình ảnh cao cả nhất của việc cho đi là biết chấp nhận chết đi nơi bản thân, biết hy sinh chính mạng sống mình như thánh Laurensô vì tình yêu Chúa.
Ðịnh luật chết đi để trổ sinh hoa trái đã được Chúa Giêsu Kitô, Thầy chúng ta, thi hành nêu gương trước. “Không ai có tình yêu lớn hơn kẻ hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”, nếu không có mẫu gương đi kèm theo lời dạy đầy cương quyết của Chúa thì có lẽ chúng ta không màng chi đến việc phải chết đi, phải hy sinh chính mạng sống mình để phục vụ điều thiện hảo của anh chị em. Không hy sinh thì sẽ không có phục vụ đích thực và không phục vụ đích thực thì ta chưa phải là đồ đệ đích thực của Chúa.
Lạy Chúa,
Xin hãy khắc ghi thật sâu vào tâm trí con Lời Chúa dạy về hy sinh và phục vụ. Vì công nghiệp của thánh Laurentio tử đạo, xin ban cho con ơn can đảm và trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh và ngay cả khi phải hy sinh mạng sống vì Chúa và vì anh em.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Thánh Laurensô
Ca nhập lễ, lễ thánh Laurensô viết rằng: “Đây là thánh Laurensô, Người đã hiến thân phục vụ Hội Thánh: vì thế Người được phúc tử đạo, để hân hoan tiến lên gặp Chúa Kitô”. Thánh Laurensô đã kiên cường phục vụ Giáo Hội, phục vụ dân Chúa bất chấp những gian nan, thử thách khó nguy, Ngài đã xứng đáng lãnh nhận triều thiên nước trời.
CON NGƯỜI KIÊN CƯỜNG:
Thánh Laurensô sinh ra trong một gia đình đạo đức: cha mẹ của Ngài là những người rất mực đạo hạnh. Ngài được cha mẹ hạ sinh tại miền Huescô, nước Tây Ban Nha. Vì cha mẹ Ngài rất sùng đạo, luôn ở trung tín với Thiên Chúa, với Hội Thánh và yêu thương mọi người, thánh nhân đã sớm được cha mẹ cho đi du học bên Roma và Ngài sống suốt cuộc đời tại đây. Thánh nhân học giỏi, chuyên cần và siêng năng đạo đức, trau dồi kiến thức, nên chẳng bao lâu tiếng tăm của Ngài đã vang dội khắp nơi. Đức Giáo Hoàng Sixtô liền triệu vời Ngài và đặt Ngài làm phó tế giúp việc cho tòa thánh. Thời GiáoHội sơ khai, chức phó tế không quá 7 người và chỉ có chức đó mới được chọn làm Giáo Hoàng. Cuộc bách đạo lúc đó nổi lên, Giáo Hội gặp sóng gió lớn, các kẻ thù tìm cách bắt vị thủ lãnh Giáo Hội để làm cho đàn chiên tan tác. Thánh Laurensô luôn kiên cường đi thăm viếng các tín hữu nơi các hang toại đạo, giảng dậy và ban các bí tích. Thánh nhân có tấm lòng yêu thương các người nghèo nàn, nhất là những người ốm đau, bệnh tật. Thánh nhân bị bắt, bị tra tấn dã man, nhưng Ngài vẫn một mực trung thành với Thiên Chúa, với Giáo Hội, Ngài cảm nghiệm sâu xa lời Chúa “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”(Ga 12,26)
THÁNH NHÂN LÃNH PHÚC THIÊN ĐÀNG:
Nhà vua đã tìm mọi cách để dụ dỗ thánh nhân bỏ đạo, nhưng thánh Laurensô đã một mực trung thành với Chúa và nhất quyết không bao giờ bỏ đạo. Vua căm phẫn vì không thuyết phục nổi thánh nhân, nên đã hạ lệnh cho lý hình nung đỏ giường sắt và đặt ngài trên đó. Thánh nhân đã vui cười chịu đựng và sau cùng đã ra đi về với Chúa trong bình an ngày 8 tháng 8 năm 258.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chính vì được tình yêu Chúa nung nấu, thánh phó tế Laurensô đã trung thành phục vụ và đạt tới phúc tử đạo vinh quang. Xin cho dân Chúa biết thực hành những điều Người dậy và noi gương Người mà yêu mến Chúa và anh em (Lời nguyện Nhập lễ, Lễ thánh Laurensô, phó tế, tử đạo).
Lm. Nguyễn Hưng Lợi
SUY NIỆM 4: Thánh Laurensô (+258)
Thánh Laurensô là vị thánh tử đạo Roma được biết đến nhiều nhất. Từ thế kỷ thứ IV, một mình Ngài ngoài các thánh tông đồ, được kính nhớ với thánh lễ vọng. Sách nghi thức Đức giáo hoàng Lêô thế kỷ VI có không dưới 14 lễ kính Ngài. Trời Trung Cổ đã có ít là 34 thánh đường ở Roma dâng kính thánh nhân. Ngài là vị thánh bổn mạng thứ ba của thành Roma.
Tại sao thánh Laurensô được tôn kính cách đặc biệt như vậy? Thật khó mà trả lời được. Người nếu bản tường thuật về cuộc tử đạo của Ngài là đúng sự thật, câu trả lời ấy sẽ rõ rệt. Sau đây là tóm lược bản tường thuật ấy:
Là tổng phó tế của thánh Xystô, Laurensô gặp Đức giáo hoàng đang bị bắt giữ và trách Ngài đã không cho mình được chia sẻ triều thiên tử đạo với Ngài. Đức giáo hoàng hứa rằng trong vài ngày nữa, Laurensô sẽ được lãnh phúc tử đạo, đau đớn hơn nhiều. Ngài còn truyền cho vị tổng phó tế của mình hãy phân phát tài sản Giáo hội cho người nghèo. Khi những lời này tới tai hoàng đế Đêciô, ông truyền bắt giam Laurensô. Thánh nhân cải hóa được viên gác ngục Hippolytô. Bị điệu tới trước viên tổng trấn Valrianô, Ngài được lệnh phải nhượng lại các tài sản của Giáo hội. Được dành cho ba ngày để thâu thập của cải, Ngài đã mang tất cả tài sản phân phát cho kẻ nghèo. Hết hạn Ngài dẫn họ tới trình với tổng trấn Valêrianô, như là tài sản của Giáo hội. Viên tổng trấn nổi giận, buộc thánh nhân phải dâng lễ tiến các thần minh.
Từ khước, thánh nhân phải chịu mọi cực hình, bị nướng trên sắt nung đỏ. Trên giường chết lạ lùng này, Ngài còn chế nhạo Dêciô, người đích thân ngồi ghế chánh án rằng: - Một bên đã chín rồi hãy chiên bên kia nữa mà ăn.
Bản tường thuật khó tin nổi. Tác giả đã lẫn lộn hai vị hoàng đế Dêciô và Valêrianô khi coi ông này là tổng trấn dưới quyền ông kia. Hơn nữa, Đức Xystô không bị xử mà bị chặt đầu khi bị giam.
Một cách tổng quát, người ta công nhận rằng: thánh Laurensô là một trong bảy vị phó tế của Đức Xystô và chịu tử đạo vào năm 158. Nhưng nếu Ngài chỉ bị chặt đầu như các bạn thì chắc không đủ lý do để được tôn kính đặc biệt như vậy.
(‘Hạnh Tích Các Thánh’)
SUY NIỆM 5: Mang nhiều hoa trái
Khi nghĩ đến cái chết sắp đến của mình,
Đức Giêsu lại nghĩ đến thân phận hạt lúa mì.
Ngài nói một điều mà ai cũng biết như một định luật tự nhiên,
một điều chẳng làm ai ngỡ ngàng kinh ngạc.
Nếu một hạt lúa rơi xuống đất và không chết đi, nó trơ trọi một mình;
nhưng nếu nó chết đi, nó mới mang nhiều hoa trái” (c. 24).
Đức Giêsu ví mình như hạt lúa đem gieo.
Điều kiện để đời Ngài đơm bông kết trái, đó là cái chết.
Không chấp nhận chết đi, hạt lúa vẫn chỉ là hạt lúa trơ trọi.
Đức Giêsu không muốn mình là thứ hạt lúa ấy,
được bao bọc vững chắc bởi lớp vỏ, cố giữ cho mình được nguyên vẹn,
vì thế cũng chẳng chịu vươn ra khỏi mình, chẳng dám đánh mất chính mình để nảy mầm sinh hạt.
Đức Giêsu đã đón lấy cái chết như con đường để sự sống sinh sôi.
Cái chết của Ngài trên thập giá có khả năng kéo được mọi người lên (Ga 12, 32),
và thu hút cả vũ trụ về với Thiên Chúa.
Có một hạt lúa mang tên Giêsu.
Hạt lúa ấy đã chấp nhận chịu mục nát,
để cả thế giới trở thành đồng lúa thơm trĩu hạt.
Mỗi Kitô hữu cũng là một hạt lúa, được mời gọi để sống như hạt lúa Giêsu.
“Ai yêu mạng sống của mình, thì sẽ mất nó;
còn ai ghét mạng sống của mình ở trần gian này,
thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (c. 25).
Vấn đề là yêu hay ghét cuộc sống ở đời này.
Kitô hữu không phải là những kẻ chán đời hay khinh rẻ cuộc đời tại thế.
Ghét mạng sống ở đây chỉ có nghĩa là không đặt nó lên chỗ cao nhất,
không để nó chiếm chỗ của Thiên Chúa.
Chính khi nhận ra giá trị tương đối của cuộc đời trần thế này,
chúng ta mới có hy vọng giữ được nó mãi mãi.
Ngược lại, thái độ bám chặt vào đời này, gắn bó với nó một cách lệch lạc,
lại dẫn đến việc đánh mất hạnh phúc, cả đời này lẫn đời sau.
Thánh Laurensô đã bị thiêu sống ở Rôma trên một chiếc giường sắt,
sau khi ngài đã phân phát tài sản của cộng đoàn cho người nghèo.
Thầy phó tế Laurensô đã sống như người phục vụ cho Đức Kitô (c. 26)
bằng cuộc sống và cái chết tử đạo năm 258.
Được ở bên Thầy Giêsu mãi mãi và được Cha Thầy quý trọng,
đó là điều Laurensô được hưởng và cũng là hy vọng của chúng ta.
Cầu nguyện:
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người,
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. (R. Tagore)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
09/08 Vác Thập giá theo Chúa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Vác Thập giá theo Chúa.
Thứ năm tuần 18 thường niên.
"Con là Đá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời".
Lời Chúa: Mt 16, 13-23
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở". Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Đức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Vác Thập Giá Theo Chúa Giêsu
Có lẽ chúng ta quá quen thuộc với hình ảnh của Thập giá. Nơi nào có người Kitô hữu thì nơi đó có Thập giá. Vào thời Chúa Giêsu, Thập giá là một cực hình làm cho con người khiếp sợ, tủi hổ. Hằng ngày, người Do thái chứng kiến cảnh các tội nhân vác những khúc gỗ lớn tuần hành qua các khu phố trước khi đến Núi Sọ; những khúc gỗ sần sùi ấy sẽ được sử dụng để treo chính các tội nhân.
Chúa Giêsu đã loan báo về cái chết của Ngài, đồng thời mời gọi các môn đệ Ngài cũng hãy vác Thập giá của mình để tiến bước theo Ngài. Theo Chúa Giêsu, đó là lời mời gọi cốt yếu của Kitô giáo. Vì sự nghiệp, vì lý tưởng, người ta có thể hy sinh mạng sống của mình. Một người vô tín ngưỡng có thể vì lý tưởng dám hy sinh tất cả cuộc đời của mình; thế nhưng điểm chính yếu của Tin Mừng lại là một con người, đó là Chúa Giêsu Kitô. Ðời sống Kitô giáo chỉ có thể là đời sống, nếu nó được tiếp tục nuôi dưỡng bởi con người Chúa Kitô như là nguồn mạch của sự sống.
Chúng ta ghi dấu Thánh giá trên người chúng ta, chúng ta mang Thánh giá trong người chúng ta, đó không là dấu hiệu của sự chết, nhưng là biểu dương của một sức sống của Ðấng đã chết, đã phục sinh và đang tác động trong chúng ta. Nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi". Chúa Kitô sống trong chúng ta để tiếp tục và hoàn tất công trình cứu rỗi của Ngài. Chúa Kitô đã vác Thập giá và đã chết một lần, cuộc Tử nạn ấy cần phải đươc tiếp tục qua các Kitô hữu. Cũng chính thánh Phaolô đã nói: "Tôi cần phải bổ khuyết những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Chúa Kitô".
Thập giá đang được vẽ lại dưới muôn nghìn hình thức. Chúa Kitô đang tiếp tục vác Thập giá với những người đang bị giam giữ một cách bất công, những người bị tước đoạt quyền sống, những người bị tra tấn và hành hạ. Chúa Kitô đang tiếp tục cuộc tử nạn của Ngài qua con người chúng ta. Người Kitô hữu chịu gian khó thử thách vì ý thức rằng Chúa Kitô đang sống trong chúng ta.
Xin cho Lời Chúa và sức sống của Chúa nâng đỡ chúng ta, để giữa những đau khổ, thử thách của cuộc sống hiện tại, chúng ta luôn kiên vững và an vui.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Trưởng Thành Trong Ðức Tin
Chúng ta hãy chú ý đến thái độ sống của hai nhân vật nổi bật trong đoạn Phúc Âm hôm nay là Chúa Giêsu và tông đồ Phêrô. Trước khi mạc khải rõ ràng hơn về vận mệnh phải chịu đau khổ của mình, Chúa Giêsu khơi dậy lòng tin của các môn đệ đã từng sống với Ngài, nghe lời Ngài giảng dạy, thấy những việc lạ Ngài làm qua câu hỏi: "Dân chúng nghĩ Con Người là ai? Và các con, thì các con nghĩ như thế nào?". Sau lời tuyên xưng của Phêrô: "Thầy là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", Chúa Giêsu nói về quyền đứng đầu của Phêrô, về sự đau khổ Chúa sẽ phải chịu tại Giêrusalem để các môn đệ đừng có những hy vọng không đâu. Sai lầm! Cần khám phá ra thực thể của Chúa để theo Chúa cách trọn vẹn. Mạc khải của Chúa không hòa hợp được với quan niệm còn trần tục, chưa được thanh tẩy của Phêrô. Vì thế, ông đã căn ngăn Chúa: "Thưa Thầy, làm sao như vậy được. Xin cho chuyện khổ này đừng xảy ra cho Thầy". Và Phêrô đã bị khiển trách: "Satan, hãy lui ra khỏi mắt Ta". Trước đó không lâu, Phêrô được khen, nhưng liền sau đó là bị khiển trách vì ông chưa được thanh luyện. Dĩ nhiên, vào thời điểm này, tông đồ Phêrô và những tông đồ khác còn cần ơn Chúa Thánh Thần soi sáng để tin trọn vẹn vào một Vị Thiên Chúa chấp nhận khổ đau, chịu chết cách nhục nhã rồi sẽ sống lại. Phêrô và các môn đệ còn cần ơn Chúa Thánh Thần để được ơn Chúa dẫn đến sự thật trọn vẹn và làm chứng cho Chúa.
Lạy Chúa,
Xin thương giúp con được trưởng thành trong đức tin. Xin cho con được biết đúng và chấp nhận Chúa cách trọn vẹn. Xin cho con được theo Chúa đến cùng.
SUY NIỆM 3: Phêrô Của Đức Giêsu
Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Simon Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Đức Giêsu nói với ông: “Này anh Simon con ông Gio-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, thì trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì thì trên trời cũng tháo cởi như vậy.” (Mt. 16, 15-19)
Sự tuyên xưng đức tin của Phê-rô, Đức Giêsu chọn Phê-rô đứng đầu Giáo Hội Người, sự trao đổi giữa Phê-rô và Đức Giêsu, điều đó rất rõ, người ta viết nhiều về điều đó! điều đáng chú ý nữa là bạn thâm sâu và trưởng thành cũng như lòng tin cậy giữa Phê-rô và Đức Kitô luôn bền vững.
Phê-rô.
Phê-rô được Đức Giêsu chọn đứng đầu. Người ta thấy luôn luôn gần gũi Đức Giêsu như một nhân vật giữ gìn chìa khóa. Đức Giêsu luôn quan tâm đến giây phút cuối cùng, Phê-rô có nhiều lầm lỗi, tuyên bố quá đáng, phản kháng mạnh mẽ, những vui vẻ chất phát hào phóng và có thiện cảm kỳ lạ. Ông yêu mến Đức Giêsu! Cảm phục Người không chút dè dặt. Đức Giêsu yêu mến ông vì sức mạnh mẽ tự nhiên này, Người hoàn toàn tín nhiệm ông. Chính ông là nền tảng Đức Giêsu xây đá Hội Thánh, chính ông được Đức Giêsu trao chìa khóa Nước Trời, khi Đức Kitô nói với các môn đệ, Phê-rô đã tự mình làm xướng ngôn viên, ông đã phát biểu: “Thầy là Con Thiên Chúa Hằng Sống” chính ông hiểu ra ông sẽ là người đầu tiên bước theo gót của Thầy.
Không có những ủy mị hào phóng.
Thật ngồ ngộ, vui vui, và thật cảm động! khi Đức Kitô loan báo về việc khổ nạn và cái chết của Người, Phê-rô phản đối Người! Chớ dại, sao lại đi nộp mình vào tay quân thù!
Đức Giêsu và Phê-rô được các môn đệ và đám đông vây quanh. Hai người không bước đồng hành với nhau, nhưng tháp tùng nhau, hai người sát cánh nhau đến cùng!
Đức Giêsu đến lượt Người phải quay lại khiển trách Phê-rô. Người quở mắng thẳng thừng bạn đồng hành thứ nhất của mình, bạn tri ân, bạn đáng tin cậy nhất của mình.
Một tình bạn không chịu cho người khác hòa giải, cũng không ủy mị hào nhoáng. Nếu người ta muốn biết quy tắc của tình bạn, chúng ta chỉ mở Tin Mừng ra và đồng hành với Đức Giêsu và Thánh Phê-rô đã sống làm bạn với nhau là quá đủ.
J.M
SUY NIỆM 4: CẦN TUYÊN XƯNG ĐỂ ĐÓN NHẬN SỨ VỤ (Mt 16, 13-23)
Xem lại CN 21 TN A,
lễ kính Toà Thánh Phê-rô 22/2, lễ thánh Phê-rô và Phao-lô 29/6
"Người ta bảo Con Người là ai?".
Tại sao Đức Giêsu lại hỏi các môn đệ như vậy? Câu hỏi này của Đức Giêsu có ý gì?
Thưa vì những lý do sau:
Thứ nhất, Ngài và các môn đệ đang ở vùng Cêsarêa Philipphê, đây là vùng đất của dân ngoại. Địa danh này còn được biết đến là một trung tâm thờ thần Baan. Nơi đây cũng có thể là nơi “chôn nhau cắt rốn” của thần Hylạp có tên là Panias - thần thiên nhiên.
Dân chúng ở đây, trong tâm thức của họ, Đức Giêsu chỉ là một nhân vật vĩ đại và thuần túy, hay chỉ là người tiếp nối quá khứ truyền thống các tiên tri mà thôi. Sẵn có lối suy nghĩ như vậy, nên họ không hiểu rõ sứ vụ Thiên Sai của Đức Giêsu. Vì thế không lạ gì khi được hỏi về dư luận trong dân chúng về mình, các môn đệ đã thông tri cho Đức Giêsu biết: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Khi nghe thấy như thế, Đức Giêsu không thỏa mãn với câu trả lời đó, nên đã hỏi trực tiếp các môn đệ: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?". Phêrô đã thay mặt anh em lên tiếng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Khi Phêrô tuyên xưng điều đó, có lẽ ông cũng không hiểu hết, bởi vì mầu nhiệm này quá sức của ông và các môn đệ khác.
Quả thật, “Đấng Kitô” mà Đức Giêsu muốn các môn sinh của mình hiểu ở đây không chỉ đơn thuần theo nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sinh ra, mà còn là người hành động như Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa. Còn “Con Thiên Chúa hằng sống ”, tức Ngài là Đấng tự hữu và tự tồn tại, vì thế “Ngài ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”.
Thứ hai, đây là dịp để Đức Giêsu trắc nghiệm niềm tin của các môn đệ vào mình, bởi lẽ không thể trao phó một trách nhiệm quan trọng mang tính trường tồn cho một kẻ kém tin và không hiểu biết gì về Người Trao.
Vì vậy, khi Phêrô tuyên xưng niềm tin, ngay lập tức, Ngài đã đổi tên của ông là Simon thành Phêrô và giải thích là “Đá Tảng”, đồng thời, Ngài cũng đặt gánh nặng lên vai Simon Phêrô: “Trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” và “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy".
Khi nói Phêrô là “Đá Tảng”, Đức Giêsu cho biết, đây là một thực tại chắc chắn, không lay chuyển, không thay đổi.
Thứ ba, khi đặt Phêrô làm “Đá Tảng” để xây dựng Giáo Hội, Đức Giêsu muốn chúng ta tin rằng:
Giáo Hội được Ngài thiết lập trên “Đá Tảng” là Phêrô, và chúng ta là người được ở trong tòa nhà đó, hẳn chúng ta phải xác tín rằng: “quyền lực tử thần sẽ không phá nổi”.
Thật vậy, trải qua biết bao thế kỷ, Giáo Hội luôn đứng vững trước sự công phá của ma quỷ, không những thế, Giáo Hội còn giải thoát con người khỏi ách của tội lỗi... và sự chết.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn mời gọi chúng ta hãy vững tin vào Đức Kitô, vì “Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống”. Tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa nơi Bí tích Hòa Giải. Vâng phục, yêu mến đấng thay mặt Chúa, kế vị Thánh Phêrô là Đức Giáo Hoàng. Đồng thời luôn biết thể hiện tinh thần hiệp thông để xây dựng Giáo Hội của Chúa trên trần gian này, hầu cho nhiều người nhận biết “Ðức Kitô, là Con Thiên Chúa hằng sống". Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Anh là tảng đá
Suy niệm :
Chúng ta đã quen cầu nguyện cho Đức giáo hoàng với bài hát:
“Này con là đá, trên viên đá này Ta xây Giáo hội…”
Theo Tin Mừng Gioan, ngay từ lần đầu gặp gỡ (Ga 1, 42),
Đức Giêsu đã đặt cho anh Simon một tên mới: Kêpha, nghĩa là Đá.
Trong bài Tin Mừng bằng tiếng Hy Lạp, Đức Giêsu nói với Simon:
“Anh là Petros (Phêrô), và trên petra (đá) này, Thầy sẽ xây Giáo Hội Thầy.”
Rất có thể Ngài đã nói với Simon bằng tiếng Do Thái thời của Ngài như sau:
“Anh là Kêpha, và trên kêpha này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy.”
Người Do Thái hầu như không có thói quen đặt tên con là Đá, Kêpha.
Khi đặt cho Simon cái tên lạ, Đức Giêsu đã muốn trao sứ mạng cho anh.
Anh sẽ là nền cho ngôi nhà mới của Thầy, do tay Thầy xây dựng (c. 18).
Ngôi nhà ấy chính là Giáo hội, là cộng đoàn giao ước mới do Thầy lập nên.
Chúng ta rất ngạc nhiên vì Đức Giêsu muốn đặt nền trên Kêpha (Phêrô),
một con người bình thường, một ngư phủ ít học.
Làm sao Giáo hội có thể xây nền trên một con người yếu đuối như thế?
Kêpha vững như bàn thạch không nhờ sức riêng, nhưng nhờ ơn Chúa.
Quyền lực của Tử thần, của Ác thần không thắng được cộng đoàn này.
Bất chấp những tấn công trong ngoài từ hai mươi thế kỷ qua,
Giáo hội vẫn đứng vững trên nền đá Phêrô, anh ngư phủ vùng Galilê,
đơn giản vì Chúa phục sinh vẫn luôn ở với Giáo hội (Mt 28, 20),
và vẫn tiếp tục xây dựng Giáo hội của Ngài trong sự thăng trầm của lịch sử.
Nhưng Phêrô cũng có những yếu đuối của mình.
Khi Thầy Giêsu loan báo về con đường khổ nạn và cái chết sắp đến,
Phêrô không thể chấp nhận được con đường hẹp này.
Dù đã được Cha mặc khải để biết Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa,
nhưng Phêrô lại chưa thể hình dung được một đấng Kitô thất bại ê chề.
“Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (c. 22).
Nếu Thầy là Con Thiên Chúa, thì Cha chẳng để Thầy phải chịu như vậy.
Trong phút chốc, từ Đá Tảng vững chắc (kêpha, petra)
Phêrô trở thành viên đá làm cho Thầy vấp phạm (scandalon),
trở thành cơn cám dỗ lớn cho Thầy đến từ Satan (c. 23).
Đức Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ đối với anh môn đệ mà Ngài tin tưởng.
“Lui đi sau Thầy!”: Ngài nói giống như lần bị cám dỗ bởi Satan (Mt 4, 10).
Ngài muốn Phêrô trở lại vị trí đi sau của người môn đệ.
Cần có thời gian Phêrô mới hiểu được con đường Thầy đã đi.
và tự nguyện đón lấy cái chết thập giá mà chính Thầy đã chịu.
Cám dỗ tránh con đường hẹp của khổ đau, nhục nhã, thất bại, khó nghèo
là cám dỗ muôn thuở mà Thầy Giêsu và anh Phêrô đã trải qua,
cũng là cám dỗ muôn thuở của Giáo hội mọi thời.
Làm thế nào để chúng ta nghĩ như Thiên Chúa, chứ không như thế gian,
chọn sự ngu dại của Thập Giá hơn là sự khôn ngoan người đời (x. 1 Cr 1, 25)?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
Xin nhìn đến Hội Thánh của Chúa trên khắp hoàn cầu,
Hội Thánh Chúa đã lập bằng rất nhiều tình yêu.
Xin nhìn đến những nơi thiếu nhà thờ, cần chủ chăn,
những đồng lúa chín vàng chờ người gặt.
Xin nhìn đến những thánh đường vắng bóng giáo dân,
những chủng viện và tập viện phải đóng cửa vì thiếu ơn gọi.
Xin thương những kitô hữu đang bị bách hại ở nhiều nơi,
và bao người trẻ mất đức tin, mất niềm hy vọng vào Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Hội Thánh sau hai ngàn năm đã lớn mạnh hơn nhiều,
nhưng vẫn bị đe dọa bởi bao sóng gió bên ngoài và bên trong.
Xin cho Hội Thánh biết không ngừng canh tân nhờ Thánh Thần,
để có thể đồng hành và đối thoại với con người hôm nay.
Xin cho các kitô hữu sống thánh thiện như Cha trên trời.
để những khiếm khuyết của chúng con khỏi làm cớ cho nhiều người bỏ Chúa.
Cuối cùng, xin Chúa cho Hội Thánh chúng con những vị thánh mới,
tươi tắn, khiêm hạ và nhân từ như Chúa,
để cuộc sống ngát hương của họ khiến Hội Thánh đáng tin hơn,
và chinh phục được những tâm hồn chưa biết Chúa.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
08/08 Lòng tin bà mẹ ngoại giáo
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Lòng tin bà mẹ ngoại giáo.
Thứ tư tuần 18 thường niên – Thánh Đaminh, linh mục. Lễ nhớ.
"Này bà, bà có lòng mạnh tin".
* Thánh nhân sinh quãng năm 1170, tại Ca-lê-ru-ê-ga, Tây Ban Nha. Người học thần học tại Pa-len-xi-a rồi làm kinh sĩ giáo phận Ốt-ma. Trước hết, người quy tụ một số phụ nữ về sống tại Pơ-rô-vin-lơ (Pháp), theo một tu luật, rồi sau người lập Dòng Anh Em Thuyết Giáo tại Tu-lu-dơ để đối lại lạc giáo Ca-tha. Chính người đã chiến đấu với lạc giáo bằng lời giảng thuyết, bằng gương sáng và đã thu hoạch được kết quả khả quan. Người muốn các anh em trong Dòng phải sống khất thực, và lời giảng dạy phải xuất phát và được nuôi dưỡng bằng chiêm niệm. Người đã đặt trung tâm Dòng ở Rôma trước khi qua đời ở Bô-lô-nha ngày 6 tháng 8 năm 1221.
Lời Chúa: Mt 15, 21-28
Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm".
Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel".
Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Người đáp: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống".
Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Sống Niềm Tin
Mahatma Gandhi, người có công giành độc lập cho Ấn Ðộ bằng con đường bất bạo động, đã có lần tuyên bố: "Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu". Câu nói của con người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.
Giáo lý của Chúa Kitô thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho bao nhiêu người xa lánh Giáo Hội, chỉ vì cuộc sống của họ đi ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Người ta thường nói: "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Ðôi khi chúng ta cảm thấy gần gũi với những người láng giềng hơn là với những người thân thuộc. Trong liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có biết bao người chưa từng được nghe nói đến Chúa Giêsu, có biết bao người không mang danh hiệu Kitô, nhưng lại gần gũi với Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn chính những người Kitô hữu.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: "Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta". Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Ðền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa".
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Ðây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Tâm Hồn Khiêm Tốn (Mt 15,21-28)
Biến cố chúng ta vừa đọc lại trên đây cho thấy Chúa Giêsu đã vượt qua một biên giới, và đến gần vùng đất của dân ngoại. Và tại đây Ngài đã gặp một người đàn bà được hưởng lấy lợi ích từ tác vụ của Chúa Giêsu, tự lãnh nhận những hồng ân Thiên Chúa như những người con Do Thái đồng hương. Vừa bước vào vùng đất mới, Chúa Giêsu nghe được lời kêu van của một người đàn bà đang gặp thử thách: "Lạy Ngài, con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi. Ðức con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm". Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Trước lời kêu xin tha thiết như vậy, tại sao Chúa không đáp lại? Chúa là Ðấng nhân từ, đầy cảm thông trước cảnh cùng khổ của những ai đến với Chúa và đã dạy các tông đồ: "Hãy cầu nguyện thì sẽ được. Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho". Thế mà tại sao Chúa lại làm thinh, không trả lời cho người đàn bà đang thành tâm kêu xin? Hẳn có lý do.
Các tông đồ không hiểu được thái độ của Chúa và cũng không muốn bị quấy rầy nên đã nói với Chúa như sau: "Xin Thầy bảo bà ấy đi đi, kẻo bà ấy cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Các tông đồ hiểu lầm thái độ im lặng của Chúa như một sự từ chối và các ngài cũng muốn phủi tay: "Xin Chúa đuổi bà ấy đi cho, đừng để bà ấy quấy rầy nữa". Chúa Giêsu không chỉ im lặng mà Ngài còn lên tiếng nói lời chối từ như sau: "Ta chỉ được sai đến để cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi".
Chúng ta nên học hỏi thái độ khiêm tốn và kiên trì của người đàn bà: "Lạy Thầy, xin cứu giúp tôi". Bà không bực tức, không nổi giận, không trách móc Chúa tại sao thế này, tại sao thế nọ. Chúa càng im lặng thì bà càng khiêm tốn hơn nữa. Không những bà chỉ nói mà còn van xin bằng cả con người của mình. Bà sụp lạy Chúa Giêsu và nói: "Xin Ngài thương xót con". Sự im lặng của Chúa là một thử thách, thử thách trong đức tin, thử thách trong việc cầu nguyện Chúa Giêsu thử thách nhiều hơn nữa: "Không được lấy bánh dành cho con cái mà đem ném cho chó". Ðây là thử thách ở mức độ cuối cùng, ai có thể vượt qua được. Người đàn bà xa lạ và thuộc dân ngoại khiêm tốn thưa cùng Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng mà những con chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ trên bàn chủa rơi xuống". Có thể nói tâm hồn khiêm tốn đã giúp người đàn bà vượt qua được thử thách và trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu trấn an bà như sau: "Này bà, lòng tin của bà thật mạnh. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy". Người đàn bà chỉ xin Chúa cho lợi lộc thông thường cho con bà khỏi bị quỉ ám và bà được nhận lời.
Chúng ta có thể tượng tưởng người đàn bà sẽ vui mừng biết bao hơn nữa khi lãnh nhận được ơn Chúa. Cuối đoạn đường gian nan nhìn lại, chúng ta sẽ thấy rõ những giây phút Chúa xem ra im lặng là những giây phút quí trọng vô cùng vì những im lặng và từ chối này của Chúa giúp đức tin của chúng ta được trưởng thành. Khi đi qua đoạn đường gian nan, chúng ta có thể hiểu được chương trình của Chúa dành cho cuộc đời mình. Thử hỏi, chúng ta còn đủ nghị lực để đi qua đoạn đường nhiều gian nan thử thách hay không.
Lạy Chúa, Xin thương ban cho tất cả những ai chọn theo Chúa có được tâm hồn khiêm tốn để lãnh nhận những mầu nhiệm ân sủng của cuộc đời.
Lạy Chúa, Xin thương nâng đỡ chúng con và củng cố đức tin cho chúng con.
SUY NIỆM 3: Một Con Chó Biết Ơn.
Bà ấy liền bái lạy và thưa với Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Người đáp: “Không lên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó con gái bà được khỏi. (Mt. 15, 25-28)
Những câu: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy.” cho người ta thấy Đức Giêsu rất cảm thương, tốt lành và kính chuộng những kẻ hèn mọn và nghèo khổ.
Thánh Mát-thêu cho chúng ta thấy một Đức Giêsu có óc bè phái: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” Có óc khinh bỉ: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”
Nhưng kìa: Đức Giêsu hoàn toàn không phải thế, Thánh sử muốn dạy chúng ta biết lắng nghe và hiểu rõ bài học này.
Có nhiều người lương dân biết xưng tụng, kêu van danh Đức Kitô, trong khi những Kitô hữu nghe danh người xưa kia mà nay lại không biết kêu cầu Người. Hay ngay cả khi họ nghĩ đến Người, hiểu biết Người bây giờ, họ vẫn điếc chẳng nghe Tin Mừng của Người, mù không thấy những phép lạ của Người, sự phục sinh của Người, câm không nói về Người.
Chó con trong nhà.
Chó con được ăn những đồ thừa, không những nó bằng lòng mà còn tỏ niềm vui mừng và biết ơn nữa. Trẻ con trong nhà thì sao? Không phải lúc nào chúng cũng biết ơn, cảm ơn dù chúng được chăm lo rất nhiều, chúng không thấy vì được quá nhiều đặc ân, quá thường xuyên.
Bà lương dân này chẳng được dạy dỗ, chẳng được ân huệ gì, bà lại có niềm tin thật mạnh đó là điều thiết yếu Đức Giêsu muốn Người không nói bà phải tỏ ra ngoan ngoãn phục tùng, Người không tra hỏi về đời tư của bà. Như bất cứ một kẻ nào đó đến với Người, cầu khẩn Người, với cảnh cùng khổ của mình, với lòng tin cậy được nhận lời.
Chúng ta hãy thành khẩn.
Còn chúng ta ngày nay thì sao?
Không còn đề cập đến vấn đề đức tin nữa, nó làm chúng ta mù quáng bằng đủ mọi thứ bào chữa để che đậy lòng thiếu đức tin của chúng ta.
Nếu người lương dân biết tin vào Đức Kitô thì càng có lý mạnh mẽ đòi chúng ta càng xây dựng niềm tin vào Đức Kitô biết bao! và phải làm cho Người trở lên sống động nơi chúng ta và nơi mọi người đến chừng nào! vì chúng ta hiểu biết Người hơn lương dân gấp bội.
SUY NIỆM 4: NHỜ NIỀM TIN CỦA MẸ MÀ CON ĐƯỢC CỨU SỐNG
Xem lại CN 20 TN A.
Trong câu chuyện kể về phép lạ của Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, người ta kể về gương sáng đức tin của một bà mẹ. Chuyện kể rằng: nhờ mối liên hệ thân tình với Đức Hồng Y, lòng quý trọng và niềm tin tuyệt đối vào ngài, vì thế, bà thường xuyên cầu khấn với ngài khi con bà đang trong tình trạng hôn mê sâu nhiều tháng và chỉ còn chờ chết ngay tại đất nước Hoa Kỳ văn minh tiến bộ vào hạng nhất nhì thế giới!
Quả thật, cậu chủng sinh con bà đã thoát khỏi tử thần khi được chính Đức Hồng Y cầu thay nguyện giúp nhờ vào lòng tin của bà mẹ.
Hôm nay, Tin Mừng cũng trình thuật phép lạ Đức Giêsu đã làm khi cho một bé gái thoát khỏi quỷ ám nhờ vào lòng tin của mẹ em.
Thật vậy, lời cầu xin“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi” của người phụ nữ xứ Canaan đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Đức Giêsu, nên bà đã được Ngài xót thương. Nhưng Đức Giêsu còn muốn kiểm chứng đức tin của bà xem có phát xuất từ con tim yêu mến hay chỉ là thực dụng???
Tuy nhiên, càng đi sâu vào câu chuyện, chúng ta lại càng thấy niềm tin ấy được tỏa sáng. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì qua sự thinh lặng của Đức Giêsu và nhất là lời khước từ của Ngài khi nói: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Đồng thời, bà còn gặp khó khăn khi những người Dothái cũng như của chính các môn đệ ngăn cản không cho bà đến gần Đức Giêsu, thế nhưng, niềm hy vọng vào tình thương của Chúa đã làm cho bà đặt hết niềm tin tưởng nơi Ngài. Vì thế, bà đã thốt lên: “Nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Đứng trước niềm tin đặc biệt đó, Đức Giêsu đã phải chạnh lòng thương đến con bà khi nói: “Lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy”.
Trong cuộc sống hiện nay của chúng ta nhiều khi đức tin mang tính nhất thời, tức là chỉ tin khi thuận tiện. Mặt khác, niềm tin của mỗi người có lúc mang tính nửa vời, tức là tin Chúa 50%; 50% còn lại thì dành cho những thần khác...
Tuy nhiên, niềm tin thì hời hợt như vậy, nhưng khi có người khác thể hiện niềm tin vào Chúa thì chúng ta lại tìm cách ngăn cản hay cho là phù phiếm... như các môn đệ và người Dothái khi xưa. Phải chăng họ không muốn vào Nước Trời, nhưng những người muốn vào thì chính họ lại ngăn cản không cho vào.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt niềm tin tuyệt đối nơi Chúa. Đồng thời ý thức rằng: niềm tin trưởng thành là một niềm tin trải qua thử thách và có kinh nghiệm thực sự về Chúa. Cuối cùng, hãy biết noi gương Chúa để thi ân giáng phúc cho những người hoạn nạn, kể cả họ là kẻ thù của ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho mỗi chúng con biết yêu mến Chúa và luôn đặt niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa. Xin cũng cho chúng con có lòng nhân hậu với hết mọi người. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Lòng tin của bà lớn thật
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa,
tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại.
Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm.
Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan.
Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít.
Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia.
Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.
Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu và ngỏ lời nài xin:
“Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.”
Người mẹ đau vì con của mình đau.
Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái.
Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy.
Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to.
Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội.
Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu.
“Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.”
Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần.
Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu.
Người phụ nữ vẫn là người độc thoại.
Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà.
Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình:
“Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.”
Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát.
Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ.
Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích.
Chị không phải là chiên của nhà Israel.
Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi,
vì Cha tôi chưa sai tôi đến.
Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách đến tột độ.
Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng,
và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu.
Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế.
Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.
Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin:
“Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25);
khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22).
Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà.
Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ.
Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con,
vì tình yêu nối kết cả hai nên một.
Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ
dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu.
Người đưa ra lời từ chối thứ hai
quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng:
“Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.”
Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành.
Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà.
Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng.
Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái.
Họ tự hào về tính ưu việt của mình
trong tư cách là Dân riêng của Chúa.
Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
Người phụ nữ không phản đối cái nhìn của Đức Giêsu
Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi.
Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa:
“Thưa Ngài đúng thế.
Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.”
Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà,
không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn.
Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách
để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái,
bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.
Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng.
Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.
Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của bà.
Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”
Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).
Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.
Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin,
khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.
Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.
Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu,
và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.
Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…
Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện với bà: “Này bà…”
Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm.
Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà
chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt:
“Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.
Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó.
Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.
Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.
Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ.
Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.
Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.
Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai:
“Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,”
để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”
Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ khổ vì con mình bị ám.
Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại.
Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa.
Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau.
Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại,
tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng
và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thuong của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.