Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
07/08 Chúa Ði Trên Biển
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chúa Ði Trên Biển.
Thứ ba tuần 18 thường niên.
"Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy".
Lời Chúa: Mt 14, 22-36
Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa" và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ". Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán: "Hãy đến". Phêrô xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: "Lạy Thầy, xin cứu con". Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?" Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!"
Khi đã sang qua biển hồ, các ngài lên bộ và ghé vào Ghênêsarét. Nhận ra Ngài, dân địa phương liền loan tin đi khắp cả vùng xung quanh, và người ta đem đến cho Ngài hết mọi kẻ ốm đau. Họ nài xin Ngài cho họ rờ đến tua áo choàng của Ngài thôi, và ai đã rờ đến thì đều được chữa lành.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chúa Ði Trên Biển
Thiên Chúa tỏ ra là một nhà giáo dục đại tài: Ngài luôn tôn trọng tư tưởng, dự định của con người, nhưng với thời gian và qua dòng lịch sử, Ngài thanh lọc, kiện toàn những gì không phù hợp với Nước Trời. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người cũng đi theo đường lối đó, như chúng ta có thể thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sau khi cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu buộc các môn đệ lên đò sang bờ bên kia. Giải tán dân chúng xong, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện một mình. Các môn đệ vâng lời Thầy ra đi, nhưng có lẽ các ông không được hài lòng. Các ông đã hết sức kiên nhẫn chờ đợi ngày Chúa Giêsu làm vua, cơ hội đó hôm nay đã đến, nhưng Chúa lại từ chối. Không những bỏ lỡ cơ hội, Chúa còn ra lệnh cho các ông lập tức rời bỏ hiện trường. Bất mãn, chán nản và mệt nhọc làm cho các ông ngã lòng. Chúa Giêsu biết rõ tâm trạng của các ông, không những bằng ánh mắt và bằng cả cõi lòng khi Ngài cầu nguyện trên triền núi. Ngài thấy các ông chèo chống ngược với sóng gió và ngược với cả ý muốn. Chính lúc đó, Ngài đi trên mặt biển để đến với các ông. Ngài đã làm như thế để các ông hiểu rằng Ngài có quyền năng trên các tạo vật, Ngài có chương trình của Ngài và Ngài sẽ thực hiện chương trình ấy khi giờ của Ngài đến.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt tất cả niềm tin vào quyền năng của Chúa. Ngài có chương trình cho mỗi người chúng ta. Ðiều quan trọng không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, chúng ta hãy đặt hết tin tưởng vào Chúa, Ngài vẫn hiện diện để sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Hãy phó thác vào quyền năng yêu thương của Ngài và như thế tâm hồn chúng ta sẽ được bình an.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Ðừng Sợ
Biến cố Chúa đi trên mặt biển cũng được tường thuật nơi Phúc Âm thánh Maccô chương 6 và nơi Phúc Âm thánh Gioan chương 6, nhưng nơi Phúc Âm thánh Mátthêu thì có thêm chủ ý hành văn của tác giả và ý định trình bày một cái nhìn. Các nhà chú giải đồng ý có ba phương diện giúp dễ hiểu đoạn Phúc Âm này hơn:
- Bình diện thứ nhất là bình diện của biến cố khi được tường thuật.
- Bình diện thứ hai là bình diện thần học về việc Chúa mạc khải Thần Khí của Người.
- Bình diện thứ ba là ý nghĩa xã hội học của biến cố.
Trước hết, về bình diện tường thuật biến cố thì câu chuyện được kể đơn sơ, dễ hiểu: "Sau biến cố bánh hóa nhiều, Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ xuống thuyền sang bờ bên kia. Còn Người thì ở lại giải tán dân chúng, rồi lên núi cầu nguyện. Ðến khuya, Chúa đi trên mặt biển đang bị động để đến với các tông đồ".
Nhưng nếu nhìn biến cố trong viễn tượng việc Chúa mạc khải chính mình thì biến cố mang một đặc điểm mới. Chúa Giêsu có quyền trên mọi biến cố thiên nhiên. Câu nói của Chúa: "Thầy đây, đừng sợ!" nhắc lại công thức Thiên Chúa mạc khải chính mình bằng lời quả quyết: "Ta là Ðấng Ta là".
Ý nghĩa xã hội học được trình bày qua hình ảnh con thuyền tượng trưng cho Giáo Hội Chúa. Thuyền gặp bão, Giáo Hội Chúa gặp thử thách. Nhưng Chúa Giêsu không để cho các tông đồ một mình chống lại với bão táp, không thể để cho Giáo Hội một mình gặp thử thách: "Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Chúa muốn cho các tông đồ luôn kiên trì trong đức tin, đừng lo sợ mê man. Chúa đến với các tông đồ, Chúa đến với Giáo Hội trong cơn thử thách. Chúng ta hãy để cho Chúa đến với chúng ta và hiện diện với chúng ta mãi mãi.
Lạy Chúa, Ðấng đã kêu gọi mọi người "Ðừng sợ".
Xin thương củng cố đức tin chúng con trong những lúc gặp gian nan thử thách.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Tôi Tin
Thấy Người đi trên mặt biển các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!”, và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm chính Thầy đây đừng sợ!” Ông Phê-rô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!” Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt. 14, 26-30)
Phêrô
Mọi chú ý đổ dồn vào một nhân vật: Phêrô. Ông là tông đồ thứ nhất. Ông nói, làm nhân danh các bạn khác. Hơn nữa, ông là người thứ nhất trong các kẻ tin. Ông tỏ vẻ rất linh hoạt và diễn xuất niềm tin xuất sắc. Ông mạnh mẽ và hiên ngang tuyên bố những lời kêu gọi và lôi cuốn con người. Đó là khát vọng sâu xa hướng về mình, ở bên mình, ở với mình. Đó là bước đường dẫn tới hố sâu vì được người ta tin cậy và yêu mến. Thế rồi, khi lòng tin cậy yếu đuối, lập tức kéo theo sự mất sức căn bản và những nguy khốn tứ bề ập tới làm mình run sợ mất lòng trông cậy. Lúc đó mình là mồi ngon cho các thế lực đe dọa, nếu mình không tìm ngay đến bàn tay của Thầy đến cứu vớt. Có lòng trông cậy, có lòng tin, nhưng quá hèn mọn, quá yếu ớt thì đừng bo bo cậy mình. Chỉ có đức tin vô điều kiện mới mong dẫn dắt các bạn một cách chân chính mà thôi. Điều xảy ra với tông đồ thứ nhất là Phêrô, luôn là gương mẫu cho tất cả những kẻ tin tưởng.
Giáo Hội
Giáo hội toàn thể luôn luôn ở trước tôn nhan Đức Giêsu. Giáo hội đã được bảo đảm thắng vượt mọi gian nan thử thách, có đủ khả năng thoát khỏi mọi nguy biến. Giáo hội biết mình được bảo đảm không bao giờ bị đắm chìm tan biến theo chiều dài của lịch sử ở điều kiện nắm vững đức tin.
Một đức tin đơn sơ
Những câu cuối cùng của đoạn Tin mừng này nhắc nhở chúng ta bài học về Phêrô bước đi trên mặt biển: một bài học về đức tin đơn sơ, không giải thích. Một đức tin biểu lộ bằng cử chỉ, bằng chỉ cần động đến gấu áo Chúa, nhưng đã diễn tả mọi rung động của con tim. “Nếu anh không trở nên trẻ nhỏ…”. Nếu đức tin không như thế, chúng ta phức tạp hóa đức tin của chúng ta, đức tin sẽ mất sức mạnh, mất sức sống! Ước chi chúng ta hãy hết lòng nói với Chúa: “Lạy Chúa, con tin”.
JM
Suy Niệm 4: HÃY VỮNG TIN VÀO CHÚA (Mt 14, 22-36)
Xem lại CN 19 TN A, CN 6 PS C,
lễ Cung Hiến Đền Thánh Phê-rô và Phao-lô, ngày 18 tháng 11.
Trong cuộc sống, nơi xã hội hôm nay luôn có những bất trắc. Nào là chuyện “cá lớn nuốt cá bé”; hay “ma mới bắt nạt ma cũ”; hoặc “chân lý thuộc về kẻ mạnh”. Một xã hội như thế, người ta lấy thước đo để đánh giá vấn đề, sự kiện... dựa vào tiền và quyền... Vì thế, không lạ gì khi vẫn còn đó tình trạng áp bức, bất công với người lương thiện và thấp cổ bé họng!
Đứng trước thực trạng ấy, chúng ta không thể không đặt ra câu hỏi: “Thiên Chúa ở đâu?”; “Ngài có thực sự hiện hữu không?”; “Nếu có, tại sao lại có chuyện con người thay Trời hành đạo như vậy?”.
Hôm nay, bài Tin Mừng tường thuật việc các môn đệ đang trên thuyền để đi sang bờ bên kia. Trong lúc các ông trèo thuyền ra xa, thì gió lớn nổi lên, khiến các ông lo sợ. Đúng lúc đó, Đức Giêsu hiện đến mà các ông không nhận ra Ngài. Vì thế, trong cơn hốt hoảng, các ông đã la lên: “Ma đấy”. Thấy vậy, Ngài đã trấn an các ông và nói: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!". Tuy nhiên, chưa tin và vẫn còn nghi ngờ, nên Phêrô đã thử liều một phen mang tính thách thức: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài".
Sự kiện Đức Giêsu đi trên mặt biển để đến với các môn đệ và việc cho Phêrô đi trên mặt nước với Ngài giúp cho chúng ta hiểu rằng: Chúa vẫn luôn còn đó trong cuộc đời. Mọi khó khăn thử thách, Ngài luôn có mặt, chỉ có điều chúng ta có một đức tin đủ mạnh để vượt qua mọi khó khăn và có đủ độ nhạy bén để nhận ra Ngài hay không mà thôi!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học: nếu có niềm tin và tín thác vào Chúa trong sự khiên tốn thì sẽ được Chúa thương.
Mong sao trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy nhớ đến câu nói của Đức Giêsu khi xưa: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!".
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của chúng con nhiều khi hoang mang và sợ hãi chẳng kém các môn đệ của Chúa là bao! Nhưng như các môn đệ, các ngài đã tin vào Chúa và được Chúa cứu, thì xin cũng ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con cũng được Chúa thương như các môn đệ khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Xin cứu con
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay là một loạt những kinh nghiệm thiêng liêng.
Có thể chúng ta ít nhiều đều đã có những kinh nghiệm này.
Thầy Giêsu là một nhà giáo nhân từ và cương quyết.
Ngài giáo dục các môn đệ bằng cách đưa họ vào những kinh nghiệm.
Kinh nghiệm bị Thầy bắt buộc phải qua bờ bên kia (c. 22),
dù họ rất muốn ở lại bờ bên này để nếm dư vị của thành công vừa rồi.
Sau phép lạ nhân bánh, người ta định tôn Thầy lên làm vua (Ga 6, 15).
Chỉ cần Thầy gật đầu là trò được chia sẻ tiếng tăm và quyền lực.
Các môn đệ đã bị ép lên thuyền, ngay lập tức, lúc chạng vạng tối.
Kinh nghiệm bị sóng đánh vì ngược gió.
Thuyền đã xa bờ mấy cây số, tiến tới không được, lùi lại cũng không xong.
Vào lúc khó khăn ấy lại không có Thầy ở trong thuyền.
Hầu như suốt đêm các môn đệ phải vất vả chèo chống với sóng gió.
Họ phải tập chiến đấu trong đêm tối khi không có Thầy ở bên.
Họ có nghĩ quyết định của Thầy là sai lầm, vội vã không ?
Kinh nghiệm hốt hoảng, sợ hãi và được trấn an.
Mãi đến lúc gần sáng, Thầy Giêsu mới đi trên biển mà đến với các môn đệ.
Ngài đến khi họ chưa thấy rõ mặt Ngài.
Ngài đến vào lúc bất ngờ và đến theo cách bất ngờ, khiến họ khiếp kinh.
Ngài đến đem bình an mà họ tưởng là ma quái đe dọa (c. 26).
Quả thật có những lúc không dễ nhận ra là Chúa đang đến với mình.
Chúa đến làm các môn đệ sợ hãi hơn cả sóng gió.
Nhưng “Cứ yên tâm, chính Thầy đây. Đừng sợ !” (c. 27).
Kinh nghiệm tự đưa mình vào một thách đố của lòng tin.
Một mặt Phêrô vẫn chưa tin trọn vẹn khi nói câu: Nếu quả là Thầy…(c. 28).
Nhưng mặt khác ông lại rất táo bạo khi dám xin ơn đi trên mặt nước.
Ông coi đó là cách thức chắc chắn nhất để biết có phải là Thầy không.
Nếu đúng là Thầy thì Thầy cũng có thể cho mình làm được như Thầy.
Chỉ cần Thầy truyền lệnh là đủ, Phêrô tin như thế.
Kinh nghiệm đi trên mặt nước và kinh nghiệm bị chìm.
Khi được Thầy cho phép, Phêrô đã dám từ thuyền bước xuống biển động.
Và ông đã đi được một quãng không rõ bao xa (c. 29).
Mặt nước cứng như đá hay người ông trở nên nhẹ bổng?
Bây giờ thì đúng là Thầy rồi, chỉ Thầy mới cho mình làm được như Thầy.
Phêrô sung sướng tiến về phía Thầy với lòng tin đang lớn lên.
Nhưng khi gặp gió thổi mạnh thì ông lại sợ, lại hoài nghi, yếu tin.
Ông mất tập trung vào sự hiện diện quyền năng của Thầy và bị chìm.
Người ta có thể bị chìm ngay khi biết Chúa ở trước mặt.
Kinh nghiệm được Thầy nắm tay mà dắt vào thuyền.
Khi Phêrô kêu cứu, Thầy Giêsu đã giữ ông khỏi bị nước nuốt chửng.
Sau đó hẳn hai Thầy trò đã cùng nhau đi trên sóng mà về thuyền.
Khi cả hai lên thuyền thì gió lặng, chẳng cần Thầy phải dẹp yên sóng gió.
Các kinh nghiệm môn đệ vừa trải qua thật kinh khủng và gần gũi với ta.
Buồn bực, sợ hãi, căng thẳng, bình an, nghi ngờ, chới với, hạnh phúc.
Đời Kitô hữu là một chuỗi những kinh nghiệm như thế.
Chúng ta tưởng Chúa bỏ rơi, Chúa vắng mặt, Chúa là ma làm ta sợ hãi.
Đơn giản Chúa là Thầy biết cách làm ta trưởng thành qua kinh nghiệm.
Cuối cùng chúng ta sẽ nhìn nhận: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa” (c. 33).
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy
sống đức tin giữa lòng cuộc đời
chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con
cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh
mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
06/08 Vinh quang Phục Sinh
- Viết bởi Mc 9, 1-9
Vinh quang Phục Sinh.
Thứ hai tuần 18 thường niên - CHÚA HIỂN DUNG năm B. Lễ kính.
"Đây là Con Ta yêu dấu".
* Bốn mươi ngày trước lễ Suy Tôn Thánh Giá, lễ Hiển Dung nhắc cho các tín hữu nhớ rằng Chúa Kitô đã muốn ‘chuẩn bị tâm hồn các môn đệ khỏi vấp phạm vì khổ hình thập giá’. Nhưng đồng thời lễ này cũng loan báo cho mọi tín hữu biết mình được nhận làm con cái Thiên Chúa, nhờ Con Thiên Chúa là Đức Giêsu, và loan báo ánh sáng diệu kỳ một ngày kia sẽ rạng ngời trên toàn thân thể nhiệm mầu, tức là Hội Thánh.
Lời Chúa: Mc 9, 1-9
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia cùng Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu.
Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông.
Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Người biến đổi hình dạng
Suy niệm :
Trong các hình ảnh người ta vẽ Ðức Giêsu,
ta thường thấy Ngài có vòng hào quang trên đầu.
Thật ra Con Thiên Chúa đã nên giống chúng ta.
Ngài mang khuôn mặt bình thường như ta.
Chính nơi khuôn mặt này mà ta thấy Thiên Chúa.
“Ai thấy Ta là thấy Cha” (Ga 14,9).
Khuôn mặt con người có thể phản ánh khuôn mặt Thiên Chúa.
Nơi khuôn mặt Ðức Giêsu, khuôn mặt như mọi người,
ta có thể gặp thấy Thiên Chúa vô hình,
Ðấng ngàn trùng thánh thiện và vô cùng siêu việt.
Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu,
khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ,
khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm của con người.
Chính vì thế họ ngây ngất hạnh phúc
khi thấy khuôn mặt ấy rực sáng vinh quang.
Họ muốn dựng lều để ở lại tận hưởng.
Tiếng từ đám mây phán ra
như một lời giới thiệu và nhắn nhủ:
“Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người,
các ngươi hãy vâng nghe lời Người.”
Thầy Giêsu vừa là Con, vừa là Người Tôi Trung (Is 42,1),
vừa là vị ngôn sứ đã từng được Môsê loan báo (Ðnl 18,15).
Phêrô không quên được kỷ niệm độc đáo này.
Ông viết: “Chúng tôi đã được thấy tận mắt
vẻ uy phong lẫm liệt của Người...
Chúng tôi đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra
khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người” (2Pr 1,16-18).
Ðức Giêsu được biến hình sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn,
sau khi thắng được cơn cám dỗ của Phêrô (Mt 16,23),
và kiên quyết đi trên con đường Cha muốn.
Biến hình là một bừng sáng ngắn ngủi, bất ngờ,
báo trước vinh quang phục sinh sắp đến.
Thân xác Ðức Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn
khi thân xác ấy chịu lăng nhục và đóng đinh
vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.
Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng,
nếu chúng ta dám yêu, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ,
để cái tôi đích thực được lộ ra, trong ngần.
Chúng ta cần có lần lên núi cao, thanh vắng,
để nhìn thấy khuôn mặt ngời sáng của Ðức Giêsu,
nhờ đó chúng ta dễ đón nhận
khuôn mặt bình thường của Ngài khi xuống núi,
và khuôn mặt khổ đau của Ngài trên thập tự.
Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng,
nhưng họ có thể cảm nghiệm được phần nào
khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi,
chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng.
Sám hối là đổi tâm hồn, đổi khuôn mặt
để chính tôi và cả Hội Thánh mang một khuôn mặt mới.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa,
xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn
sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và với tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Vinh quang Phục Sinh.
Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta suy niệm hôm nay ghi lại biến cố hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabo. Biến cố này diễn ra sáu ngày sau khi Chúa loan báo về cuộc tử nạn và sự phục sinh của Ngài. Các môn đệ và ngay cả những người môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Gioan và Giacôbê, không thể hiểu và không muốn chấp nhận cuộc tử nạn của Ngài. Cho các ông chứng kiến sự hiển dung, Chúa Giêsu muốn lặp lại dưới một hình thức khác lời loan báo về cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Lần này Ngài muốn xác quyết với các ông rằng để đi vào vinh quang Phục Sinh cần phải đi qua bóng tối của sự chết.
Với những ai đang trải qua bóng tối của thập giá, biến cố hiển dung của Chúa Giêsu là một nguồn nâng đỡ vô biên. Dietrick Bonhoffer, vị mục sư người Ðức đã bị giam tù vì can đảm lên tiếng chống lại chủ trương dã man độc ác của Ðức Quốc Xã. Trong tám tháng bị giam giữ, ông đã không ngừng suy nghĩ về biến cố hiển dung của Chúa Giêsu và tìm thấy được ánh sáng ngay giữa những đêm dài vô tận trong một nhà tù ở Berlin. Ngay chính buổi sáng bị đem ra hành quyết, ông đã thốt lên: "Thế là hết! Cuộc sống đã khởi đầu đối với tôi". Trong bài thơ có tựa đề Những Tiếng Thì Thầm Trong Ðêm Tối, ông đã kêu gọi: "Hỡi những người anh em, sau những đêm dài, bao lâu ngày của chúng ta chưa đến, chúng ta hãy chiến đấu".
Ba người môn đệ thân tín của Chúa Giêsu đã ngây ngất khi chiêm ngắm vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, nhưng ánh sáng phục sinh ấy chỉ kéo dài trong giây lát; bóng đêm đã trở lại, nhìn chung quanh, họ thấy lại Chúa Giêsu cũng như mọi người và nhất là như một tên tử tội đang tiến ra pháp trường. Nhưng chắc chắn ánh sáng phục sinh ấy đang chiếu rọi trong tâm hồn các ông.
Tất cả những ai đang sống trọn cho niềm tin của mình, tất cả những ai đang thực thi cho đến cùng sứ mệnh của các ngôn sứ đều có trong mình ánh sáng phục sinh ấy. Chính ánh sáng phục sinh ấy mang lại cho họ niềm hy vọng và can đảm để tiến tới trong đêm đen của hận thù, dối trá và đặt niềm tin tưởng mãnh liệt vào Chúa, họ có đủ lý do để có thể thấy trước sự chiến thắng của ánh sáng, của chân lý và tình yêu.
Nguyện xin Chúa nâng đỡ cho tất cả những ai đang sống cho đến cùng sứ mệnh ngôn sứ cho chân lý.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Xin được chiêm ngưỡng vinh quang Nước Chúa
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Trong thời Cựu ước, Thiên Chúa hiện ra với dân Người trong đám mây, ngoài sa mạc, nơi bụi cây. Thiên Chúa hiện ra với Môsê và Êlia trong đám mây thì Ðức Giêsu cũng biến hình trong đám mây trước mặt các tông đồ trên đỉnh núi (Mc 9:2). Thời đó, đám mây được coi là biểu hiệu của việc Chúa hiện diện.
Ðức Giêsu nhận thức rằng cuộc khổ hình mà Người sắp phải chịu, sẽ để lại một kinh nghiệm đau thương cho các tông đồ nhất là cho Phêrô, Giacôbê và Gioan là những người sẽ chứng kiến cảnh khổ nạn của Người trong vườn cây dầu. Vì thế Người đem ba tông đồ liên hệ lên núi, biến hình trước mắt các ông, cho các ông thấy cảnh vinh quang của nước Chúa và để củng cố đức tin và đức cậy của các ông trong viễn tượng của cuộc khổ hình thập giá. Nếu có ai hỏi vậy thì Ðức Giêsu biến hình trên núi nào? Truyền thuyết cho rằng đó là núi Tabo nằm về phía nam xứ Galilê, cao khoảng 600 thước tây mà nhìn lên thì thấy có vẻ giốc thẳng. Thời nay người ta làm đường trôn ốc vòng quanh núi cho tài xế tắc-xi chở khách hành hương lên. Còn thời đó chắc Chúa phải dùng quyền năng thiêng liêng mà tự nâng mình lên và cất nhắc các tông đồ lên núi.
Vậy thì tại sao trong cảnh Biến hình lại có sự hiện diện của ông Môsê và Êlia (Mc 9:4)? Theo truyền thuyết Do thái giáo, thì Môsê được coi là tác giả thu thập và kết hợp của sách Ngũ kinh, tượng trưng cho giới luật; còn Êlia là một đại ngôn sứ trong Cựu ước, tượng trưng cho các ngôn sứ. Cũng theo truyền thuyết Do thái thời bấy giờ thì ông Môsê và Êlia sẽ trở lại vào cuối thời. Như vậy sự hiện diện của hai vị này có mục đích chỉ cho bộ ba tông đồ thấy rằng đạo Kitô giáo mà Ðức Giêsu sẽ thiết lập sau này, không tách biệt khỏi những gì đã được ghi chép trong Thánh kinh Cựu ước, hầu để các ông vững tâm tiến bước theo Thầy mình mà khỏi bị hoang mang nao núng.
Tương tự như cảnh Biến hình, ngôn sứ Ðanien trong một thị kiến cũng nhìn thấy một cảnh tương tự, cũng dùng từ ngữ Con Người (Ðn 7:13) như Ðức Giêsu dùng trong cảnh Biến hình. Từ ngữ Con Người mà ngôn sứ Ðanien dùng có nghĩa là một nhân vật siêu phàm nào đó (Ðn 7:13). Trong Phúc âm Ðức Giêsu dành cho mình tước hiệu Con Người (Mc 9:9), ám chỉ thiên tính cách siêu việt và cũng nhấn mạnh đến nhân tính của Người. Còn Ðấng Lão Thành mà ngôn sứ Ðanien nói đến (Ðn 7:9,14) ám chỉ về Ðấng phán ra lời: Ðây là Con Ta yêu dấu (Mc 9:7) nghĩa là Thiên Chúa Cha trong cảnh Biến hình. Như vậy ta thấy một trường hợp nữa có sự liên hệ giữa Cựu ước và Tân ước. Nói cách khác Tân ước là sự hoàn thành của Cựu ước.
Ðức Giêsu cho ba tông đồ chủ chốt là Phêrô, Giacôbê và Gioan được thấy cảnh Biến hình để các ông có thể giữ vững đức tin của chính các ông sau ngày Thứ Sáu Chịu nạn và giúp giữ vững đức tin cho các bạn đồng chí hướng. Vậy mà trong dinh thượng tế, vì khiếp sợ, ông Phêrô đã chối Thầy mình ba lần. Phúc thay cho ông Phêrô, khi nghe tiếng gà gáy, ông liền nhớ lại lời Chúa tiên báo, khiến ông: Oà lên khóc (Mc 14:72). Nước mắt ông tuôn trào ra như là ông hối hận nói với Thầy mình: Sao con có thể chối Thầy khi con xin dựng ba lều ỏ trên núi để chiêm ngưỡng cảnh vinh quang của nước Thầy mà? Rồi con còn tuốt gươm chép đứt tai tên đầy tớ của vị thượng tế để bảo vệ Thầy, mà sao giờ này con lại hèn nhát đến thế? Như vậy những thực tại của cảnh Biến hình: đám mây, áo trắng hơn tuyết, sự hiện diện của ông Môsê và ông Êlia, tiếng phán từ đám mây có mục đích giúp các tông đồ nhận thức rằng cảnh khổ hình và thập giá của Thầy mình, không phải là một thất bại, nhưng chỉ là một sự biến đổi: qua thánh giá tới phục sinh.
Sau cảnh Biến hình, Ðức Giêsu căn dặn các tông đồ không được nói cho ai biết về chuyện này cho tới khi Con Người sống lại từ cõi chết. Và các ông đã tuân giữ lời Chúa. Sau khi Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại thì thánh Phêrô mới thuật lại cảnh biến hình trong thư gừi giáo đoàn và nhắc lại tiếng phán từ trời: Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng qúi mến (2 Pr 1:17). Ðó là tiếng Thiên Chúa Cha phán mà thánh sử Mác-cô đã thuật lại trong Phúc âm hôm nay: Ðây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người (Mc 9:7).
Trong ngày lễ Chúa Biến hình, Giáo hội muốn dạy người tín hữu hai chân lý. Thứ nhất là Ðức Giêsu có hai bản tính: một bản tính Thiên Chúa và một bản tính loài người. Thứ hai là loài người có ngày sẽ được thông phần vào vinh quang của Nước Chúa. Thật là một điều vinh dự và an ủi, khi người tín hữu mang trong mình thân xác yêu đuối, bệnh tật và rồi sẽ chết, lại có thể được chung hưởng vinh quang phục sinh trên nước trời. Thánh Phêrô trong lúc xuất thần có xin Thầy mình để được ở lại trên núi hầu được tiếp tục chiêm ngưỡng cảnh vinh quang của nước Chúa, cho tâm hồn được chìm đắm trong thiên cảnh tuyêt vời. Ông chưa nhận thức được rằng ông còn phải xuống núi đã để làm chứng cho đức tin vào Chúa, để chịu đau khổ và vác thánh giá trước khi được vào vinh quang. Và đó là đường lối của đạo Chúa: qua đau khổ thánh giá, mới tới vinh quang phục sinh. Là môn đệ Chúa, sao ta có thể đi theo con đường khác ngoài đường Chúa đã đi?
Lời cầu nguyện xin cho được chiêm ngưỡng vinh quang của nước Chúa:
Lậy Ðức Giêsu, cũng như Chúa đã biến hình
cho các tông đồ được thấy vinh quang của nước Chúa,
xin ban cho con cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa
ở đời này để con vững tâm theo Chúa
và được thấy vinh quang nước Chúa đời sau.
Xin Chúa là niềm hi vọng và là sự cậy trông của con. Amen.
SUY NIỆM 4: Hãy nghe Người.
Thánh Mác-cô kể cho chúng ta biết thân thể Đức Giê-su chiếu tỏa một thứ ánh sáng cực mạnh xuyên qua những lớp quần áo, chiếu vào đêm tối sáng choang. Trước Người Môise và Êlia đang nghiêng mình thờ lạy. Lạ lùng hơn nữa, tiếng Thiên Chúa bảo đảm sự thật cho lời dạy của Đức Giê-su : “Đây là Con Ta rất yêu dấu, hãy nghe lời Người”.
Tiếng Thiên Chúa.
Sự biến hình của Đức Giê-su mặc khải cho chúng ta sự cao cả huy hoàng của Người. Đức Giê-su là con rất yêu dấu của Thiên Chúa, là ánh sáng sinh ra bởi Thiên Chúa là ánh sáng, Ngôi Lời hằng sống của Thiên Chúa. Trong cuộc sống của Đức Giê-su, thần tính của Con Thiên Chúa bị che phủ, người ta thấy Người trước hết là một người tên là Giêsu. Biến hình mặc khải cho chúng ta biết Người là Con Thiên Chúa, nhờ tiếng Chúa phán và lời Người dạy rất đáng tin.
“Hãy nghe Người”:
Sự biến hình làm cho đức tin của chúng ta mạnh mẽ, vững chắc. Chúng ta tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa. Chúng ta tin Người nhờ lời chứng của các tông đồ, đó chính là lời chứng của Thánh Phêrô mà thánh Mác-cô kể lại cho chúng ta.
Nhưng chúng ta có nghe lời Đức Ki-tô không ? Tai chúng ta có chăm chú nghe lời Người trong phụng vụ không ? chúng ta có thể quả quyết với lòng liêm chính rằng Tin Mừng Chúa Giê-su là lương thực nuôi tinh thần, nuôi con tim chúng ta không ? là thuốc bổ cho ý chí, là sức nâng đỡ lòng hy vọng của chúng ta không ?
Những tin tức được báo chí, phát thanh, truyền hình, dư luận có ảnh hưởng đến phán đoán, lối cư xử của chúng ta có hơn Thiên Chúa không ?
Sứ điệp của Ngài có là ánh sáng cho chúng ta biết phán đoán về hạnh kiểm của chúng ta và về những biến cố xã hội, chính trị không ?
Khẫn thiết phải làm cho chúng ta tự cảm thấy luôn luôn quay về với đức tin vào Đức Giê-su Ki-tô và sống xứng đáng là Kitô hữu. Hãy làm cho chúng ta biến hình nhờ lời Chúa, để cho nước Đức Giê-su, Đấng Cứu Thế trị đến trong xã hội chúng ta.
J.M
SUY NIỆM 5: “Lạy Thầy chúng tôi được ở đây thì tốt lắm”.
Người ta không thể leo nhanh lên ngọn núi Thabor được, và chính Thabor cũng chỉ là một điểm dừng ngắn ngủi trên chặng đường đến với Thiên Chúa. Mỗi một ngày sống là một chặng đường mà chúng ta cần phải vượt qua. Nhờ vào những gì mà các tông đồ đã sống, chúng ta có thể hiểu rõ hơn chặng đường mà chúng ta cần vượt qua để đến gần với cõi vĩnh hằng hơn.
Và hôm nay trên núi Thabor chúng ta chứng kiến cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Tại sao Ngài lại chỉ đem theo 3 Tông đồ, mà lại không đem theo thêm những người khác?
Chúng ta, là những người tin Chúa, Chúa mời gọi chúng ta tin vào Người. Tại sao Chúa lại chỉ gọi chúng ta là những người tin Chúa, mà trong khi đó biết bao người đã không tin? Chúng ta cũng là những người Chúa chọn, cũng là những người đặc tuyển leo lên núi Thabor để chứng kiến việc Chúa biến hình. Chúng ta hãy hãnh diện về ơn gọi của chúng ta và sống làm sao để đáp trả ơn gọi đó.
Ba tông đồ đã vượt qua thung lũng và đã được Chúa cho thấy vinh quang của Người trên núi Thabor. Và các ông chỉ muốn thời gian đó kéo dài, đến nỗi Phêrô đã thưa với Chúa: “Lạy Thầy, chúng tôi được ở đây thì tốt lắm, nếu Chúa ưng, chúng tôi xin làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Êlia”.
Chúng ta cũng vậy! Có những khoảnh khắc, chúng ta cảm thấy cuộc sống sung mãn, hạnh phúc và bình yên, làm ăn phát đạt. Thế giới chung quanh và trong tâm hồn chứa đầy vẻ hài hoà. Rất có thể đó là lúc ngắm cảnh mặt trời lặn hoặc đứng trên núi chứng kiến vẻ hùng vĩ của thiên nhiên; cũng có thể là lúc rung động do một vần thơ, một giọng ca truyền cảm; cũng có thể là một cuộc gặp gỡ tình cờ,… Trong những hoàn cảnh đó chúng ta có thể thốt lên như Phêrô: “Lạy Thầy chúng tôi được ở đây thì tốt lắm”.
Nhưng dựa vào kinh nghiệm bản thân chúng ta biết rằng: không có tiệc vui nào mà lại không có lúc tàn. Có khi kéo dài dăm ba ngày, có khi chỉ trong khoảnh khắc. Sau đó tất cả lại trở về cuộc sống thường nhật.
Có lẽ những kinh nghiệm đó giúp chúng ta hiểu rõ những gì bài Tin Mừng hôm nay tường thuật. Tác giả mô tả những giây phút quí báu nhất của cuộc đời 3 môn đệ theo chân Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cùng với ba môn đệ và Người hiển dung trước mặt các ông. Trong khoảnh khắc các ông có thể cảm nhận sâu xa Đấng Cứu Thế là ai và dung nhan của Đấng Phục sinh như thế nào. Dĩ nhiên, chẳng ai muốn bỗng chốc buột khỏi tầm tay tất cả. Tất cả đều muốn nắm giữ lấy, muốn xây dựng ở đó ba lều.
Giây phút thần tiên thường hiếm có và ngắn ngủi! Thoáng chốc, Phêrô phải từ chín tầng mây trở về với cuộc sống muôn ngàn sóng gió. Ông phải học để biết rằng: những giây phút này là quà tặng của Thiên Chúa, không ai có thể giữ lấy bo bo cho mình. Ông phải từ trên núi trở về với cuộc sống thường nhật, trở về với con người và những khó khăn phải đương đầu!
Quả thật, cuộc sống con người đầy thăng trầm, và dường như chìm dần trong thung lũng tối. Ngày qua ngày, sương mù dày đặc! Chuỗi ngày kéo dài lê thê ảm đạm! Tất cả dường như vô nghĩa và tẻ nhạt!…Cũng có những giây phút con người không được yên thân, cuộc sống chao đảo, đầu tắt mặt tối với công việc. Việc này chưa xong, thì việc khác đã đứng chực ngoài cửa.
Đời sống đạo và đời sống nội tâm chúng ta từng có những kinh nghiệm như thế. Cũng chính vì vậy mà người ta thất vọng, xao nhãng công việc của cộng đoàn, bỏ luôn cả kinh hạt lễ lạy. Họ nghĩ rằng lễ lạy và kinh hạt cũng thế thôi. Làm ban hành giáo có được gì đâu, mà chỉ thấy kinh tế gia đình mình càng sa sút.
Trong hoàn cảnh này điều cần thiết nhất là nhớ đến những phút giây thiêng thánh nhất trong đời. Đó là những ngày tĩnh tâm, những giờ chầu Mình Thánh, những giây phút chìm lắng trong thinh lặng giúp chúng ta tái khám phá ra ý nghĩa đích thực của đời sống ơn gọi làm người, ơn gọi tu trì: một cuộc sống sung mãn, hạnh phúc thành công. Chúng ta cần những giây phút thần tiên ấy để giữ gìn cái nhìn toàn diện về cuộc sống. Thiên Chúa hứa đồng hành với chúng ta, đứng về phía chúng ta khi thành công cũng như lúc thất bại, khi vui cũng như lúc buồn tủi.
Điều quan trọng chính là kinh nghiệm trong cuộc sống thường nhật: tìm cho chính mình một mảnh thiên đàng tại thế. Thabor trước tiên không phải là một nơi chốn, nhưng là sự kiện có thể xẩy ra bất cứ ở đâu trong hoàn cảnh nào. Chúng ta chỉ có thể khám phá ra khi chúng ta sẵn sàng cởi mở tấm lòng tiếp nhận: một cuộc gặp gỡ vô tình, một vẻ đẹp của thiên nhiên, một khoảnh khắc yên tĩnh, một lời khen tặng, một thành công nhỏ, một sự dấn thân cho họ đạo, một kinh nghiệm trong đời sống cầu nguyện. Những lúc chúng ta cảm thấy cuộc đời này còn có nhiều thứ quí báu hơn, chúng ta phải ra sức bảo vệ, duy trì như những kho tàng vô giá trong ký ức. Những kinh nghiệm đó giúp chúng ta thêm can đảm và hăng hái dù phải gặp hoạn nạn éo le. Nhờ đó chúng ta tin rằng Thiên Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta tới đích điểm tốt đẹp, là Thiên Đàng, là Thabor Vĩnh Cửu!
Lm.Gioan Đặng Văn Nghĩa
SUY NIỆM 6: Trông mặt mà bắt hình trong
Người ta vẫn thường nói nửa đùa nửa thật với nhau rằng: “trông vậy mà không phải vậy”. Mội lời nói đơn sơ nhưng đầy triết lý cuộc sống.
Có những người “đẹp người nhưng xấu nết”. Có những người miệng nói “nam mô nhưng lại một bồ dao găm”. Có những người bên ngoài làm biết bao điều thiện nhưng chỉ là tìm hư danh. Có biết bao điều diễn ra trước mắt nhưng thực hư lại càng khó phân biệt phải trái, đúng sai.
Nhà văn Pháp Pécaut đã kể một câu chuyện thật cảm động mà chính ông vẫn ân hận mỗi khi nhớ lại chuyện xưa. Ong kể rằng: Một hôm, thằng bé trai bán diêm quẹt cứ van nài ông mua giúp em một hộp diêm quẹt. Động lòng thương ông rút ví ra định mua, nhưng khổ nỗi trong túi chỉ có toàn tiền chẵn. Ông đang ngần ngại thì thằng bé nói ngay: “Không sao ông ạ, xin ông cứ vui lòng đưa tiền cho cháu, cháu sẽ chạy đi tìm chỗ đổi tiền rồi trả lại cho ông”. Thằng bé cầm tiền và chạy biến ngay về hướng cuối phố. 5 phút trôi qua, rồi 10 phút, chẳng thấy bóng dáng thằng bé quay trở lại trả tiền. Ông thất vọng và nghĩ rằng sẽ chẳng bao giờ còn tin vào những bọn lêu lổng đầu đường xó chợ như thế nữa. Cho tới chiều tối, ông lại thấy một đứa bé hơn nữa, chỉ độ 8, 9 tuổi, khuôn mặt giống thằng ăn cắp như tạc. Nét mặt nó bộc lộc sự lo âu tuyệt vọng. Nó thổn thức nói với ông: “Thưa ông, có phải ông đã đưa cho anh cháu một đồng tiền vàng không ạ? Đây là chỗ tiền lẻ. Chính anh cháu nhờ gửi lại cho ông. Chúng cháu đều là trẻ mồ côi nhưng không phải là bọn ăn cắp. Anh cháu không thể trao tận tay ông ngay lúc sáng là vì anh cháu đã bị xe đụng khi vội chạy đi tìm chỗ đổi tiền”. Nghe tin đó, ông đã vội vàng cùng thằng em đến gặp thằng anh đang nằm thoi thóp ở xó nhà. Vừa thấy ông thằng bé đã nói: “Em cháu đã đưa tiền lẻ cho ông rồi phải không ạ? Ông thấy không, chúng cháu đâu có phải là những đứa lừa gạt và ăn cắp”. Ông hối hận vì đã nghi oan cho một đứa trẻ thơ ngây.
Có thể sự gian dối của thế gian đã làm ông không thể có cái nhìn tích cực về những gì đang diễn ra xung quanh. Ông không thể hình dung rằng: ở giữa cảnh đời nghèo khó và đau khổ đến cùng cực này mà em bé vẫn giữ được tấm lòng ngay thẳng thật thà. Em đã chết trong danh dự, còn ông đã chết trong sự xét đoán mù quáng của mình.
Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta thường dễ dàng kết án người khác khi chưa tìm hiểu nguyên nhân, đã bao lần chúng ta nhìn người ăn xin ở chợ, một em bé bán vé số bên đường, một người áo quần rách nát bằng ánh mắt nghi ngờ, tẩy chay.
Dù biết rằng “chiếc áo dòng không làm nên thầy tu”, thế mà, chúng ta vẫn nhìn những người lịch sự, giầu có, chức cao quyền trọng bằng ánh mắt kiêng nể, kính phục; và một ánh mắt nghi ngờ, khinh bỉ, dè bỉu dành cho những ai bên ngoài rách rưới, bẩn thỉu.
Xã hội hôm nay, người ta đang có chủ trương “thà nghi lầm còn hơn tin lầm”, hay tệ hơn nữa là “giết lầm hơn bỏ sót”. Một xã hội đang mất dần vẻ thân thiện yêu thương bởi sự đa nghi dẫn đến xa lạ và dửng dưng.
Chúa Giêsu ngày xưa cũng bị những con người đương thời nhìn bằng ánh mắt nghi ngờ. “Làm sao ông này có thể làm được chuyện đó? Ông ta cũng chỉ là một bác thợ mộc nghèo nàn miền Nagiaret thôi mà. Có gì đáng kính phục đâu!”. Họ đã không thể nhận ra ở bên trong sự bình dị đó, chính là một vì Thiên Chúa đang đồng hành với con người. Một vì Thiên Chúa đã từ bỏ tất cả để mặc lấy xác phàm đến nỗi họ không thể nhận ra sự thật về một Giêsu miền Nagiarét lại là Đấng Emanuel, Đấng của Lời Hứa ban cho trần gian. Từ chỗ không nhận ra đến khinh khi coi thường và đỉnh cao là kết án, loại trừ.
Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước những sóng gió mà các tông đồ sẽ phải trải qua trong cuộc đời theo Chúa và cuộc sống làm chứng nhân cho Chúa sau này. Ngài đã tỏ rõ dung nhan thật của Ngài là Thiên Chúa qua việc hiển dung trên núi Tabor. Với sự chứng giám của Môi-sê và Elia là hai đại diện của các tổ phụ và các tiên tri, họ là những con người đã nỗ lực chuẩn bị cho Đấng cứu thế đến trần gian. Hôm nay họ xuất hiện như một chứng nhân cho sự thật về con người Giêsu Nagairet chính là Đấng muôn dân đang mong chờ.
Ngày hôm nay, Giêsu Nagiaret đó vẫn đang hiện diện giữa chợ đời hôm nay. Ngài có thể là một bác nông dân nghèo khó, một cụ bà côi cút sống cô độc nơi ngôi nhà rách nát nghèo nàn. Ngài có thể là một anh, một chị công nhân đang đổ mồ hôi trên công trường, trong nhà máy. Ngài vẫn đang hiện diện nơi những người nghèo khổ, bần cùng trong xã hội hôm nay. Ngài đang cần chúng ta đón nhận trong yêu thương huynh đệ, trong bác ái cảm thông. Vì chính Ngài đã từng đồng hoá mình với những con người bần cùng, nghèo khó đó. Ngài đã từng hứa ân thưởng cho những ai chia sẻ với ngài một ly nước khi khát, một chén cơm khi đói. Một chiếc áo để che thân thể, một cái mền để đắp khi trời lạnh đêm đông.
Xin Chúa cho chúng con trái tim của Chúa, để có thể nhìn thấy Chúa qua những người bị xã hội khi chê, ruồng bỏ. Xin cho chúng con cái nhìn của Chúa để nhìn vào tâm hồn nơi một người chứ không chỉ dừng lại ở dáng vẻ bên ngoài. Xin cho chúng con biết mở lòng với những người thấp bé, nghèo khổ vì Chúa đang nói với chúng con qua những con người nhỏ bé đó. Amen.
(Lm.Jos Tạ duy Tuyền)
SUY NIỆM 7: Biến hình.
Để một chú rắn con có thể lớn lên, nó phải “thay hình” và “đổi dạng”, phải đau đớn loại bỏ lớp da cũ kỹ, phải “lột xác” để mặc lấy bộ áo mới và trưởng thành hơn.
Đời sống tâm linh của chúng ta cũng vậy. Nếu muốn phát triển và lớn lên mãi trong tình nghĩa với Chúa, chúng ta cũng phải như chú rắn kia. Chúng ta phải can đảm hy sinh chấp nhận mọi đớn đau trong sự “biến hình” và “đổi dạng”, phải từ bỏ những cằn cỗi, già nua của lớp da cũ kỹ là thói tham sân si, ghen ghét, hận thù, bất công, vu oan, cáo vạ,… đồng thời ta phải “thay đổi” nếp sống để trở nên tốt hơn.
Vinh quang mà thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan được cảm mến khi chứng kiến Đức Giêsu biến hình cũng sẽ là vinh quang của chúng ta mai này, nếu chúng ta trung thành bước theo Chúa, và chấp nhận những khó khăn do việc biến đổi đời sống theo tinh thần Tin Mừng.
Nhưng liệu vinh quang ấy có đủ sức hấp dẫn chúng ta vượt qua mọi thử thách, mọi cám dỗ, mọi cạm bẫy trong cuộc đời để đi trọn con đường mà Chúa mời gọi chúng ta đi vào hay không?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biến hình trên núi như một khởi điểm cho sự biến đổi bản thân con. Xin Chúa biến đổi con nên đồng hình đồng dạng với Chúa. Amen.
(Suy niệm Tin Mừng hằng ngày)
05/08 Chúa Giêsu – Bánh ban sự sống
- Viết bởi Ga 6, 24-35
Chúa Giêsu – Bánh ban sự sống.
Chúa Nhật tuần 18 Thường Niên năm B.
"Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ".
Lời Chúa: Ga 6, 24-35
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền và đến Capharnaum tìm Chúa Giêsu. Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?" Chúa Giê-su đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu". Họ liền thưa lại rằng: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Chúa Giêsu đáp: "Đây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến". Họ thưa Chúa Giêsu: "Ngài sẽ làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như đã chép rằng: "Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời". Chúa Giêsu đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, không phải Môsê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và ban sự sống cho thế gian". Họ liền thưa Người rằng: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi". Chúa Giêsu nói: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Của ăn thiêng liêng
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta thấy Chúa Giêsu có một đường lối huấn luyện rất đặc biệt. Đường lối ấy, nói theo ngôn ngữ hiện nay, là rất sư phạm. Ngài đi từ các việc cụ thể, từ cái mắt thấy tai nghe, từ cái mà người ta cảm nghiệm được để nói về những thực tại siêu nhiên.
Thực vậy, để nói cho ông Nicôđêmô hiểu về sự cần thiết phải được tái sinh để được vào Nước Trời, Ngài bắt đầu nói về nước và Thần khí. Ai sinh ra cũng từ trong một bọc nước và phải thở. Kẻ tái sinh bởi ơn trên cũng phải sinh ra từ nước và thần khí. Đó là nước từ cạnh sườn Ngài chảy ra khi Ngài đã trao thần khí.
Để làm cho người ta hiểu Ngài là ánh sáng thế gian, Ngài đã mở mắt cho một người mù từ khi mới sinh. Và Hôm nay để mạc khải cho chúng ta biết Ngài chính là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian, Ngài đã làm phép lạ bánh hoá nhiều, cho năm ngàn người được no nê.
Con người sinh ra cần phải có ánh sáng, không khí, nước và bánh. Kẻ được tái sinh làm con Thiên Chúa, cũng cần đến Đức Kitô, là ánh sáng, là Thần khí, là nước hằng sống và là bánh bởi trời. Ánh sáng ấy bùng lên trên thập giá. Thần khí ấy là hơi thở của Đức Kitô được trao ban khi Ngài tắt hơi thở. Nước hằng sống là nước từ cạnh sườn Ngài chảy ra và bánh bởi trời chính là thịt của Ngài. Khi chúng ta ăn cái gì thì cái đó trở nên thịt máu của chúng ta. Khi chúng ta ăn thịt của Đức Kitô, tấm bánh được bẻ ra, thì Ngài sẽ trở thành thịt máu chúng ta. Và bằng cách đó, Ngài thực sự ở trong chúng ta. Ngài và chúng ta chỉ còn là một, để rồi chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Vì chính Đức Kitô sống trong chúng ta, nên chúng ta mới có thể gọi Thiên Chúa là Cha. Mầu nhiệm thật cao siêu, nhưng ngôn ngữ và cách diễn tả của Chúa thật cụ thể và đơn sơ đến sống sượng, bởi vì Ngài không ngại nói đến việc phải ăn thịt và uống máu Ngài, khiến cho nhiều người lấy làm chướng tai, không thể chấp nhận được, nên đã bỏ đi, không còn tin theo Ngài nữa.
Đó chính là lý do Chúa đòi hỏi niềm tin. Chỉ có đức tin mới giúp chúng ta nhận ra Ngài là Đấng từ nơi Chúa Cha mà đến. Và cái chết của Ngài mới có thể giải thoát chúng ta khỏi sự chết đời đời và đem lại cho chúng ta hạnh phúc trường sinh. Người Kitô hữu chúng ta hôm nay có thể ăn thịt và uống máu Chúa hằng ngày, nhưng mấy ai thực sự ý thức rằng mình đang sống bởi chính thịt máu của Ngài? Đây không chỉ là chuyện thần học hay huyền bí, mà là chuyện thực tế, chuyện cũng thật như khi chúng ta ăn cơm, ăn bánh vì chúng ta không chịu lễ thiêng liêng, mà thực sự ăn bánh đã trở nên Mình Thánh Chúa Giêsu. Thật đúng là mầu nhiệm đức tin.
Nhưng ý thức được như thế mà thôi chưa đủ, chuyện quan trọng đó là làm thế nào để chúng ta sống xứng đáng với Đấng đã thực sự trở nên thịt máu, tức là sự sống của chúng ta. Thực vậy, nếu chúng ta tin rằng: Thịt máu của chúng ta là chính thịt máu Đức Kitô, sự sống của chúng ta chính là sự sống Ngài tạo ra, thì chúng ta không còn được sống theo tính tự nhiên của mình, sống cho mình, mà trái lại, phải sống như Ngài đã sống. Và sống cho anh em mình, như Ngài đang sống cho chúng ta.
2. Đời còn thiếu
Con người chúng ta gồm có hồn và xác. Thân xác của chúng ta đôi khi lâm vào tình trạng đói khát. Linh hồn chúng ta cũng vậy. Nhu cầu mà linh hồn đói khát không gì khác hơn là chính Thiên Chúa, như lời thánh Augustinô đã viết: Linh hồn tôi sẽ mãi mãi khắc khoải tìm kiếm cho đến khi được nghỉ yên trong bàn tay của Chúa.
Tom Phillips là một thanh niên thành đạt. Năm 40 tuổi, anh đã làm tới chức giám đốc một công ty lớn. Nhà có, xe có, và gia đình ấm cúng. Thế nhưng anh vẫn cảm thấy không được hạnh phúc, vì còn thiếu sót một điều gì đó. Và rồi một đêm nọ, trên chuyến tàu đi Nữu Ước, anh đã khám phá ra điều mình còn thiếu sót, đó chính là Đức Kitô. Và từ đêm định mệnh ấy, cuộc đời anh đã đổi thay và anh mới cảm nhận được niềm hạnh phúc đích thực.
Charles Colson cũng vậy. Ông là một người thành đạt. Có một văn phòng rêng cạnh toà Bạch Ốc. Tuy nhiên, ông luôn cảm thấy một hố thẳm trong tâm hồn, và dường như còn thiếu một điều gì đó trong cuộc đời. Qua cuộc gặp gỡ với một người bạn thân. Nghe người bạn này kể lại sự trở về của mình. Ông đã khám phá điều mình còn thiếu. Và thế là lần đầu tiên trong đời, ông đã cầu nguyện với Chúa: Lạy Chúa, con không biết làm cách nào để tìm kiếm Chúa, nhưng con sẽ cố gắng. Hiện giờ con là kẻ không mấy tốt lành, nhưng con vẫn muốn tự hiến cho Ngài. Xin hãy nhận ấy con. Và từ đó cho đến ngày hôm nay, ông đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng, nhất là trong các trại giam và các trường đại học.
Từ hai câu chuyện trên, chúng ta hãy tự hỏi: Có bao giờ tâm hồn chúng ta cảm thấy đói khát hay không. Có bao giờ bản thân chúng ta khắc khoải tìm kiếm Chúa hay không? Có bao giờ con người chúng ta mong muốn được gắn bó với Chúa hay không? Nếu chúng ta trả lời có, thì lời Chúa hôm nay đã đem lại cho chúng ta đáp số để giải quyết: Ta là bánh Hằng Sống. Ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói. Ai tin vào Ta sẽ chẳng bị khát bao giờ. Nơi khác Ngài cũng xác quyết: Hỡi những ai lao nhọc và gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi.
Tóm lại, sứ điệp Chúa muốn gởi đến với mỗi người chúng ta hôm nay thật đơn giản. Sứ điệp ấy như thế này: Tận thẳm sâu cõi lòng, ai trong chúng ta cũng đều chất chứa một cơn đói khát sâu xa mà chỉ mình Chúa mới có thể thoả mãn. Chính sứ điệp này đã đem lại cho con người và cuộc đời chúng ta một ý nghĩa mới, miễn là chúng ta biết chấp nhận nó. Và để kết luận chúng ta hãy dâng lên Chúa lời cầu nguyện của Charles Colson: Lạy Chúa, con chẳng biết phải tìm kiếm Chúa thế nào, nhưng con luôn cố gắng. Hiện giờ con là kẻ không mấy tốt lành, nhưng con vẫn muốn hiến dâng cho Chúa. Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy con. Xin hãy nhận lấy con luôn mãi.
3. Bánh từ nhà đem đến.
Trong cuộc giao tranh, có một người lính bị thương nặng và được đưa vào bệnh viện dã chiến. Chàng có hy vọng bình phục, thế nhưng chàng lại không chịu ăn. Các y tá và nữ tu đã tìm mọi cách thuyết phục, nhưng chàng đều từ chối mọi thức ăn đem tới. Một người bạn thân biết chàng nhớ nhà nên anh đã tình nguyện đi tìm nhà của người bị thương để mời cha chàng tới. Đến nhà của người bạn, anh kể rõ hoàn cảnh. Người cha chuẩn bị lên đường thì mẹ chàng gói cho con bà một nắm cơm.
Nạn nhân vui mừng khi thấy cha mình. Nhưng chàng vẫn chưa chịu ăn, đến khi cha chàng nói: Này con, đây là nắm cơm mẹ con đã thổi. Nghe thế chàng bèn tươi ngay nét mặt và nói: Vâng, cơm mẹ con đã thổi xin cho con một miếng. Từ đó chàng bắt đầu bình phục.
Phải chăng đó cũng là hình ảnh của mỗi người chúng ta. Thực vậy, chúng ta bị thương trong trận chiến cuộc đời bởi tội, bởi quên Chúa, bởi những phiền muộn, những gian nan và khổ đau hằng ngày. Chúng ta hết muốn ăn những món ăn làm cho linh hồn chúng ta thêm mạnh mẽ. Chúng ta hãy nghe Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: Cha Ta cho các ngươi bánh bởi trời đích thật. Bánh của Thiên Chúa từ trới đến và ban sự sống cho thế gian. Cũng giống như người cha trong câu chuyện đã nói với con mình: đây là cơm mẹ con đã thổi.
Vì thế, vị linh mục nhân danh Đức Kitô cũng nói với chúng ta: Đây là bánh Cha chúng ta ở trên trời đã làm. Thánh Thể là bánh từ trời, bánh ban sự sống, bánh chữa lành thiêng liêng, cũng như trao ban sức mạnh cho tâm hồn. Không có phù phép gì trong nắm cơm của người mẹ. Nhưng có tình yêu là như một phép mầu. Bởi kinh nghiệm, người lính bị thương biết rằng nắm cơm người mẹ đã thổi gói ghém biết bao nhiêu tình thương.
Cũng thế, là những kẻ theo Đức Kitô, chúng ta biết rằng: Tình yêu được ban tặng trong Thánh Thể, trong việc đem bánh bởi trời đến ngay nơi đây và ngay lúc này. Thánh vịnh đã ca ngợi Chúa vì Ngài đã ban manna, một thứ của ăn lạ lùng của Chúa trong cuộc hành trình trở về đất hứa. Manna là hình ảnh của bánh Thánh Thể.
Chúng ta cũng dùng chính những lời người Do Thái đã dùng khi cảm tạ và ca tụng Chúa, vì bánh Thánh Thể Chúa ban như là manna cho tâm hồn chúng ta được sống trong cuộc lữ thứ trần gian này: Chúa đã ban cho họ bánh bởi trời, Ngài làm mưa manna trên họ để trở nên của ăn và Ngài cho họ bánh bởi trời.
Loài người được ăn bánh của Đấng toàn năng. Thánh Thể bao gồm tất cả. Và hôm nay, chúng ta nên nhớ rằng: Bánh bởi trời là liều thuốc cho linh hồn đau yếu, là sự bổ dưỡng cho những tâm hồn mang thương tích, là ánh sáng và sức mạnh cho những kẻ yếu đuối. Tất cả chúng ta sẽ thấy được điều người lính bị thương trong câu chuyện đã kinh nghiệm. Nếu chúng ta nhớ rằng: Thánh Thể là bánh được đem đến từ nhà của chúng ta ở trên trời.
4. Đằng sau vật chất hữu hình
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Qua những biểu tượng hay dấu chỉ hữu hình, con người có thể nhận ra Thực Tại Siêu Vượt. Qua tấm bánh, con người có thể nhận ra Thiên Chúa luôn yêu thương, săn sóc và dưỡng dục mỗi người và mọi dân tộc.
I. Cơ cấu vật chất- tinh thần
Con người có thân xác, nên phải ăn phải mặc; nhu cầu vật chất là điều chính đáng và cần được thỏa mãn. Tuy nhiên, con người khác con vật, con người không chỉ có nhu cầu vật chất: ăn ngon ngủ kỹ chưa đủ làm con người hạnh phúc. Con người còn có nhu cầu tinh thần. Con người cần được chấp nhận, cần được yêu được thương, cần được phát triển tài năng của mỗi người đến mức độ tuyệt hảo.
Vật chất- tinh thần là cơ cấu của con người. Qua những gì hữu hình vật chất, con người nhận ra tinh thần hiện diện. Con người là tinh thần qua thân xác, thân xác là biểu tượng của con người xét như hữu thể vật chất- tinh thần. Thế nên, kính trọng con người đòi phải kính trọng thân xác con người. Tình yêu đối với con người cũng được diễn tả một cách cụ thể qua thân xác và những gì cụ thể hữu hình. Tình yêu của cha mẹ đối với con cái được diễn tả qua sự hy sinh, vất vả làm việc để nuôi con, kiên nhẫn giáo dục con cái, mong con mình thành người trưởng thành và hạnh phúc.
Bài đọc sách Xuất Hành cho thấy dân Do Thái đói khát trong hoang địa nên đã kêu trách Môsê và Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban Manna nuôi sống họ. Họ đòi thịt, Thiên Chúa đã ban chim cút cho họ ăn. Tình yêu Thiên Chúa đối với dân Do Thái được diễn tả qua việc đưa họ ra khỏi Ai cập, qua việc che nắng và soi sáng họ bằng cột mây cột lửa, qua việc cho họ ăn uống. Thiên Chúa diễn tả tình yêu cho con người qua những gì cụ thể hữu hình, và Thiên Chúa cũng mong ước con người nhận ra tình yêu của Ngài, để con người có thể sống tín thác, an bình và hạnh phúc.
II. Siêu vượt- vượt lên những gì vật chất hữu hình
Dân Do Thái trong hoang địa càm ràm Thiên Chúa và Môsê: “Tại sao chúng tôi đã không chết trong tay Đức Chúa tại Aicập khi được ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thỏa lòng”. Dân Do Thái đã dừng lại nơi những gì là miếng ăn vật chất, nên đã không nhận ra tình yêu của Thiên Chúa qua việc Ngài can thiệp giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Thiên Chúa đã ban bánh cho dân, vì cơm bánh là nhu cầu chính đáng của con người; nhưng qua đó Thiên Chúa cũng mời gọi dân Do Thái nhận ra Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc họ, can thiệp, nuôi dưỡng và dạy dỗ họ ngang qua mọi biến cố.
Không phải chỉ dân Do Thái ngày xưa như vậy, ngày nay nhiều người cũng chỉ dừng lại những gì vật chất, họ đi tìm thỏa mãn hoan lạc nơi miếng ăn và xác thịt, họ chưa nhận ra được giá trị thực của đời người, chưa nhận ra được niềm vui sâu xa trong việc phục vụ và giúp đỡ tha nhân. Đức Giêsu nói với những người đi tìm Ngài chỉ vì bánh ăn: “các ngươi tìm Ta không vì đã thấy dấu lạ nhưng vì các ngươi có bánh ăn. Đừng lao công chỉ để có lương thực chóng qua, nhưng vì lương thực cho cuộc sống vĩnh cửu”. Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy giúp nhau nhận ra giá trị đích thực, làm sao để con người có thể sống hạnh phúc ngay trong hoàn cảnh hiện tại.
Con người được mời gọi vượt trên gặp gỡ Thiên Chúa qua những trung gian vật chất. Qua lương thực hằng ngày con người cũng có thể nhận ra tình yêu và sự quan tâm săn sóc của Thiên Chúa đối với mỗi người. Qua tình yêu của người con đối với cha mẹ, hoặc của cha mẹ đối với con cái, mỗi người có thể nhận ra tình yêu của Thiên Chúa cho mình. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, vì con người được tạo dựng giống Thiên Chúa. Cái nhìn siêu vượt, là cái nhìn giúp con người nhận ra Đấng Tuyệt Đối và có tương quan thân thiết với Ngài.
III. Thiên Chúa là Cha của tất cả
Khi một người được sinh ra, người đó là con của người cha người mẹ sinh ra mình. Mỗi người không tình cờ mà hiện hữu trên đời, chính Thiên Chúa đã yêu thương và sinh ra người đó qua cha mẹ của mình. Mỗi người đều có Thiên Chúa là cha là mẹ mình. Mỗi người làm cha làm mẹ đều cố gắng thương yêu tất cả những con mình sinh ra; cũng tương tự như vậy, mỗi người đều được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt.
Lịch sử dân tộc Do Thái là một mẫu cho tất cả các dân tộc trên hoàn vũ nhận ra rằng, Thiên Chúa yêu thương dân tộc mình như Ngài đã yêu thương dân tộc Do Thái. Cho tới ngày nay, cho dù dân tộc Do Thái có bị phân tán trên khắp thế giới, cho dù đất nước Do Thái có nhỏ bé và luôn sống trong chiến tranh, thì người ta vẫn tin rằng Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương dân tộc Do Thái, một dân được tuyển chọn làm dân tư tế, dân trung gian để nói về Thiên Chúa cho mọi người và mọi dân tộc khác.
Do Thái giáo là tôn giáo đặc biệt, vì Thiên Chúa mặc khải qua lịch sử dân tộc Do Thái, và lịch sử dân tộc Do Thái là lịch sử thánh. Kitô giáo là một tôn giáo đặc biệt vì đã được Đức Giêsu Kitô sáng lập, vì đã nhận ra Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Qua Đức Giêsu Kitô, Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Thiên Chúa yêu thương mỗi người như yêu thương Đức Giêsu (Ga.17, 23; 15, 8-9). Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Tất cả các tôn giáo có thể là phương tiện Thiên Chúa dùng để giúp con người sống trong tôn giáo đó gặp gỡ Thiên Chúa theo cách thế riêng của họ; tuy nhiên Kitô giáo là một hồng ân rất đặc biệt cho Kitô hữu và cho tất cả mọi người, ngay cả cho những người sống trong các tôn giáo khác.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Đâu là dấu chỉ hay biểu tượng mà qua đó bạn dễ nhận ra Thiên Chúa hiện diện và yêu thương bạn nhất? Nếu có, xin bạn chia sẻ.
2. Theo bạn, đâu là dấu chỉ hay biểu tượng đặc biệt có ý nghĩa đối với con người ngày nay, giúp con người vươn lên gặp gỡ Thiên Chúa?
5. Hãy tìm lương thực trường sinh - ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Người ta thường hoan hô lãnh tụ muôn năm, tổng thống muôn năm, chủ tịch muôn năm … Nhưng họ chẳng sống được muôn năm, mà nấm mồ chôn vùi họ thối nát dưới lòng đất. Lãnh tụ nổi tiếng nhất trong loài người muốn sống muôn năm và lo tìm thuốc trường sinh bất tử, có lẽ là Tần thủy Hoàng của nước Tầu, đã sống trước Chúa Giáng sinh hơn 200 năm. Ông tự phong là Nhất Thế, nghĩa là vô địch nhất thế gian này về đức độ hơn cả Tam Hoàng, có công hơn cả Ngũ Đế là những vị vua có công lập quốc, kiến quốc nhất của Trung Hoa. Thủy Hoàng còn muốn được trường sinh trẻ mãi, nên tìm đủ mọi danh y, pháp thuật, bói toán, chỉ dẫn cho uống thuốc, tập luyện và sai phái quần thần đi khắp mọi nơi tìm thuốc trường sinh, với bất cứ giá nào, dù phải vượt biển Đông hão huyền cũng phải đi tìm, dù phải khổ luyện đến chết, vẫn nhắm mắt làm theo. Đồng thời, ông lại lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga, rộng lớn chín dặm vuông vức, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân hà, lấy vàng bạc xây tường và chôn sống hàng trăm cung nữ vây quanh nhà mồ của ông để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta như bảo ông phú hộ rằng: “Đồ ngốc ! nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc. 12, 20). Quả thực, Thủy Hoàng chỉ làm vua hơn chục năm và sống hơn năm mươi tuổi. Khi chết, thây ma của ông thối tha ghê tởm đến nỗi phải gánh cá thối đi trước kẻo dân chúng nguyền rủa: “Ác giả ác báo”.
Tin mừng hôm nay cũng cho thấy dân chúng đi tìm Chúa Giêsu để được bánh ăn như hôm qua họ mới được ăn bánh hóa nhiều. Nhưng Chúa đã nhắc nhở họ: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông”. Họ tưởng Người sẽ ban cho họ thứ bánh như Môisen đã cho tổ tiên họ ăn man na trong sa mạc suốt thời gian bốn mươi năm về đất hứa. Họ vội vàng xin: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh đó”. Họ sẽ sống sung sướng biết bao, không phải làm ăn cực khổ.
Trước đó mấy ngày, người phụ nữ Samaria đến giếng Giacóp lấy nước. Chị được gặp Chúa Giêsu. Người cũng nói với chị: “Ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa, và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. Chị đã mau lẹ xin: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (Ga. 4, 13-15).
Thời nào con người cũng chỉ biết tham muốn đòi hỏi những của ăn vật chất hay hư nát như vậy. Tần thủy Hoàng, dân Do thái, dân Samari và cả chúng ta nữa: “được voi đòi tiên”, không bao giờ được thỏa mãn. Lòng tham con người không đáy. Ở nước nghèo đòi ăn no mặc ấm, có nhà ở. Ở nước giàu ăn dư thừa lại luôn xuống đường đình công, biểu tình đòi tăng lương, đòi bớt ngày làm việc, từ bảy ngày xuống năm ngày, từ 48 giờ xuống 40 giờ, 30 giờ, còn để giờ đi xả hơi, đi chơi, coi phim, du lịch đua xe, đấu bóng, đấu võ, tới chỗ đánh nhau, chửi nhau, gây rối, rượu chè, cờ bạc, nghiện ma túy, phá hoại, chiến tranh, chém giết lẫn nhau. Nhàn cư vi bất thiện. Không ở đâu trên thế gian làm cho người ta được bằng lòng ! Ở Việt Nam đòi sang Mỹ, ở Mỹ lại đòi về ! Càng giàu càng lắm nhu cầu. Càng nhiều nhu cầu càng khổ vì chẳng bao giờ được thỏa mãn.
Người ta chỉ biết tìm những của hư nát và chết theo của hư nát đó thôi.
Chúa Giêsu thấy con người sống trong cảnh hư nát bi đát tội nghiệp đó, đã kêu gọi ta: “Hãy ra công làm việc của Thiên Chúa, để có lương thực không hư nát. Việc của Thiên Chúa là tin vào Đấng Ngài đã sai đến”. Chúa Giêsu đã nói rõ: “Đấng ấy chính là Tôi”, “Chính Tôi là bánh trường sinh, ai đến với Tôi, không hề đói, ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ nữa”. “Đến với Tôi, tin vào Tôi” là sống như chính Chúa Giêsu sống, sống với tâm tình và hành động như Người. Sống bằng sức sống của Người đã sống và đã chết để hy sinh lấy thịt máu mình cho con người được sống và được sống dồi dào. Sống như thế sẽ không còn đói, hy sinh như thế sẽ không còn khát, không còn lòng tham không đáy nữa, không còn đau khổ, nhưng được sống trường sinh hạnh phúc muôn đời
Thánh Ignatiô, Đấng sáng lập Dòng Tên, một dòng trí thức nhất của Hội thánh, Ignatiô lúc còn là đại úy, là quan, là hiệp sĩ anh dũng đầy những tham vọng, đòi giàu sang, khát danh tiếng, mê lạc thú, khát khao đủ mọi của hư nát thế gian. Chẳng may, Ignatiô bị thương nặng, què cẳng, phải nằm nhà thương lâu dài. Ông có dịp đọc sách “Gương Chúa Giêsu”, ông cảm thấy tâm hồn thanh thoát, phấn khởi chan chứa niềm vui. Ông thấy niềm vui thánh thiện này khác hẳn với thú vui dục vọng, danh vọng, giàu sang. Niềm vui thế tục như của ăn hư nát, vui chút là hết, lại sinh ra buồn chán, khổ sở, cắn rứt bất mãn như kẻ say rượu, mê cờ bạc, nghiện ngập. Niềm vui nhân đức, thánh thiện, việc lành, tồn tại mãi, an tâm, phấn khởi, thanh thoát, giống như niềm vui của tuần tĩnh tâm, của mùa thương khó, của lễ Phục sinh và Giáng sinh.
Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Ignatiô tìm được lương thực trường sinh vinh phúc, xin cho chúng con luôn luôn làm việc của Thiên Chúa là tin mến vàsống theo Đức Giêsu để được Thịt và Máu Thánh Người bổ dưỡng chúng con bây giờ và cho đến muôn đời.
5. “Lương Thực Vĩnh Cửu”
(Suy niệm của Lm. Louis Phạm Hữu Độ, CMC)
Đức Tổng GM Fulton Sheen là một nhà giảng thuyết lừng danh của Nước Mỹ từ năm 1950 tới năm 1979. Ít ngày trước khi qua đời trong năm 1979, một nhà báo hỏi ngài "Thưa Đức Cha, ai đã tạo động lực cho Đức Cha về việc chầu Thánh Thể mỗi ngày, có phải vị thánh nào hay Đức Giáo Hoàng nào chăng?" Ngài trả lời: "Không phải từ vị thánh hay Giáo Hoàng nào cả nhưng là từ một cô bé người Tàu 11 tuổi" Ngài kể: Khi Trung cộng xâm chiếm Trung Hoa, lính Trung cộng đã đến 1 giáo xứ kia bắt giam Linh mục xứ trong nhà xứ, kế bên nhà thờ, rồi họ hung hăng tiến vào Thánh Đường phá vỡ Bàn Thờ và Nhà Tạm, đổ tung Mình Thánh ra. Qua khung kiếng cửa sổ vị Linh mục này nhìn thấy tất cả, và ngài còn nhớ rõ là trong Nhà Tạm bấy giờ có 32 Mình Thánh. Rồi lính Trung Cộng bỏ đi để lại 1 lính gác nhà thờ và 1 lính gác nhà xứ. Họ không ngờ bấy giờ có 1 cô bé đang cầu nguyện trong góc tối của nhà thờ. Cô nhìn thấy mọi sự. Đêm hôm ấy cô lẻn vào Nhà Thờ bằng cánh cửa riêng. Cô qùi chầu Chúa 1 giờ đền bù lại hành vi xúc phạm đó, rồi cô cúi xuống dùng lưỡi chịu lấy Mình Thánh Chúa vương vãi trên nền nhà thờ. Và cứ thế mỗi đêm cô đều tới chầu Chúa và chịu Lễ như vậy. Đến ngày thứ 32 sau khi chịu xong Mình Thánh cuối cùng cô lẻn ra, không may gây tiếng động khiến tên lính nghe được, đuổi theo và dùng báng súng đập chết cô. Cha xứ kể lại câu chuyện cảm động trên, Đức Tổng GM Fulton Sheen biết được và từ đó Ngài hứa với Chúa, bắt chước gương can đảm của cô bé và dù bận rộn đến đâu đi nữa Ngài vẫn giữ thói quen cầu nguyện trước Thánh Thể 1 giờ đồng hồ mỗi ngày.
Ăn là một nhu cầu và là một tác động rất quen thuộc với con người. Có ai sống mà không ăn. Chúa Giêsu không ngoại lệ. Phúc Âm nhiều lần kể Chúa Giêsu được mời tới nhà người ta ăn. Vì ăn là một sinh hoạt quen thuộc và quan trọng như vậy nên từ đó Chúa Giêsu muốn giới thiệu cho nhân loại một Của Ăn thiêng liêng là Thịt Máu Ngài. Đoạn Phúc Âm hôm nay kể lại chính Chúa tuyên bố, Thịt và Máu Chúa là Của Ăn cho nhân lọai. Đây không phải là câu nói chơi vì nó liên quan đến hạnh phúc đời đời của biết bao nhiêu người nên không nói chơi được. Đây cũng không phải là câu nói do cảm hứng hay tình cờ. Thiên Chúa không làm việc theo cảm hứng hay tình cờ nhưng có chương trình rỏ ràng, vả lại Chúa lập đi lập lại nhiều lần và cho dù nhiều người chống đối hay có nhiều môn đệ bỏ đi, Ngài vẫn cứ giữ nguyên câu nói đó.
Sau khi Chúa Giêsu tuyên bố Bánh Thiên Chúa ban là bánh bởi trời xuống và đem sự sống cho thế gian thì người Do Thái xin Chúa cho ăn mãi thứ Bánh đó. Chúa mới hướng họ về chính Chúa: Ta là Bánh trường sinh. Bánh thỏa mãn cơn đói và cơn khát của con ngưòi.
Ước mong hạnh phúc đời đời đó là niềm khát vọng sâu xa nhất của con người vì chúng ta được dựng nên có hạn nhưng lại khao khát sự vô hạn, chúng ta được dựng nên trong thời gian nhưng lại khao khát sự vĩnh cữu, chúng ta được dựng nên tại trái đất này nhưng chẳng có thứ gì ở trái đất này làm mình thõa mãn. Bởi vì linh hồn con người rất cao qúi nên chỉ có Đấng dựng nên nó mới làm nó thõa mãn mà thôi. Thịt Máu của Đấng vĩnh cữu sẽ ban cho con người sự sống vĩnh cữu, vì có được cái gì thì mới có thể ban ra cái đó, người ta không thể cho cái mà mình không có. Khi xưa Nã phá Luân, Hoàng đế nước Pháp, vinh quang tỏa sáng, danh tiếng khắp nơi. Một hôm có người đánh bạo hỏi vua "Thưa đức vua, đối với Ngài thì đâu là ngày đẹp nhất và qúi báu nhất trong đời Ngài?" Vua suy nghĩ một lát rồi trả lời: "Ngày đẹp nhất và qúi trọng nhất trong đời Ta đó là ngày Ta được Rước Lễ Lần Đầu."
Cơm bánh nuôi dưỡng thân xác chúng ta điều đó cần thiết nhưng chưa đủ vì chúng ta chỉ sống một thời gian nào đó trên trần gian này. Điều quan trọng là chúng ta không nhắm tới cái tạm thời mà trông vào cái vĩnh cữu. Chúng ta không muốn mình sống có 100 năm mà sống đời đời. Hãy rước Chúa vào lòng. Đó là sự nuôi dưỡng cao cả nhất và bền vững nhất vì được chính Chúa thì được hơn mọi thứ trong trần gian này. Đừng coi việc Rước Lễ là một sự thông thường, cũng đừng làm như một hành vi máy móc, vì thông thường sẽ dẫn tới coi thường, và máy móc thì không có mến yêu.
Xin Mẹ Maria, là Đấng ban Thịt Máu cho Chúa Giêsu, giúp chúng ta yêu mến Thánh Thể và dọn linh hồn đón nhận Lương Thực Vĩnh cửu này.
6. Bánh Ban Sự Sống – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Ngày 20 tháng 10 năm 1995, hơn 200 triệu người trên 100 quốc gia đã theo dõi cuộc phỏng vấn đặc biệt công nương Diana - vợ hoàng tử Charles Anh quốc do hãng thông tấn BBC thực hiện.
Diana nhìn nhận đã ngoại tình với sĩ quan kỵ binh James Hewitt. Lý do dẫn đến việc bất trung ấy là vì hoàng tử Charles đã dan díu với nàng Camilla Packer Bowles. Diana nói: "Tôi biết điều đó nhưng không làm gì được. Có tới ba người trong hôn nhân của chúng tôi. Và điều đó khiến nó trở nên chật chội".
***
Hôm nay dân chúng lên thuyền nỗ lực tìm kiếm Đức Giêsu, chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Miếng ăn là nỗi ưu tư của những người nghèo, nên Đức Giêsu không trách cứ họ. Người chỉ hướng dẫn họ đến với Bánh Trường Sinh: nuôi dưỡng tâm hồn, và đem lại sự sống đời đời.
Con người thời nay không khác gì dân chúng ngày xưa. Người nghèo thì bị cuốn hút vào cơm áo gạo tiền, để thỏa mãn nhu cầu cấp bách của thể xác. Người giàu lại chạy theo xa hoa vật chất, để hưởng thụ nhu cầu cao cấp của con người. Để rồi kẻ giàu người nghèo đều có chung một nguy cơ: là quên đi cái đói khát tâm linh.
Thật ra, càng hưởng thụ con người càng khao khát hơn, thỏa mãn đấy rồi lại khao khát. Mọi thứ của cải trần gian, con người không cho làm đủ. Dù có tiền bạc, thế lực, chức quyền và danh vọng nhưng hoàng tử Charles và công nương Diana vẫn là những con người bất hạnh. Họ vẫn còn đói khát một của ăn tâm hồn. Tiên tri Amos đã nói về niềm khao khát ấy như sau: "Có lúc cả xứ bị đói, không phải đói cơm bánh, không phải là khát nước uống là mà đói khát Lời Chúa" (Am.8,11).
Thấu hiểu cơn đói khát ấy, Đức Giêsu đã không cho Manna từ trời rơi xuống, để mỗi ngày người ta phải lượm mà ăn. Nhưng Người đã cho họ Bánh Ban Sự Sống, để những ai ăn Bánh thì được sống đời đời: "Chính Ta là Bánh ban Sự Sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ" (Ga.6,35).
Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 47 có viết: "Khi lãnh nhận Đức Kitô, tâm hồn được tràn đầy ân sủng, đồng thời cũng được bảo đảm cho vinh quang đời đời".
Quả thật, nếu người thứ ba trong cuộc hôn nhân của Diana và Charles không phải là Camilla mà chính là Đức Kitô, thì gia đình ấy sẽ no thỏa hạnh phúc biết bao. Cha Mark Link viết: "Trái tim chúng ta có một khoảng trống mà chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy".
Đức Giêsu chính là Tấm Bánh cho tâm hồn đói nghèo, là cánh tay cho người yếu đuối, là bạn đồng hành cho kẻ cô đơn, là ánh lửa hy vọng cho tất cả mọi người.
***
Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa mới đem lại cho chúng con sự no thỏa tâm hồn và niềm vui đích thực.
Xin cho chúng con luôn biết khao khát Chúa là Bánh ban Sự Sống, là nguồn hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen.
7. Tấm bánh được bẻ ra – Văn Hào.
Chúa Nhật tuần trước, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Đức Giêsu, vị mục tử nhân lành giàu lòng yêu thương con người đã nhân bánh và cá lên gấp ngàn lần để cho 5000 người ăn no nê. Phép lạ đã xảy ra. Nhưng chắc chắn Đức Giêsu không phải là một kinh tế gia, cũng không phải là một chuyên viên đi làm công tác từ thiện xã hội, hoặc xóa đói giảm nghèo. Phép lạ Đức Giêsu thực hiện là một dấu chỉ khải thị một chân lý sâu xa hơn. Ngài chính là tấm bánh được bẻ ra để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Đức Giêsu không đóng vai một nhà từ thiện giầu hảo tâm, giúp con người vượt qua cái đói vật chất. Ngài chính là Đấng Cứu Độ, là Bánh Trường Sinh, Đấng đến trần gian để cho chúng ta được sống. Đó chính là nội dung bài diễn từ về bánh mà Thánh Gioan trình bày cho chúng ta trong chương 6, bắt đầu từ Chúa Nhật hôm nay.
1. Tấm bánh thần thiêng
Năm 1868, một cô gái người Bỉ yếu ớt được in năm dấu thánh. Cô ta tên là Louis Lateau. Từ đó trở đi, cô không còn có thể ăn uống được nữa. Trong bảy năm trời, cô ta sống nhờ lương thực duy nhất là rước Mình Thánh Chúa mỗi ngày. Trường hợp tương tự cũng xảy ra với chị Têrêsa Newman và cô Matta Robin, người Sáng lập Tu hội Bác Ái. Những điều kỳ diệu đó phần nào chứng minh cho lời Chúa nói hôm nay: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh. Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn mau hư nát nhưng để có lương thực mang lại sự sống trường sinh, là lương thực mà Con Người sẽ ban cho các ngươi.” (Ga 6, 27). Thế, lương thực Chúa nói đây là lương thực gì?
Chúa Giêsu đã công bố: “Tôi là Bánh Trường Sinh”. Để có tấm bánh, dù là bánh bột mì hay bột gạo, trước hết phải có hạt. Hạt được gieo trồng trong ruộng, rồi phải có người tưới nước, làm cỏ, bón phân. Hạt lúa cần ánh nắng để được chín vàng. Kế đến phải có người gặt, đem về xay thành bột. Bột được nhào, nặn thành bánh và bánh phải được nung chín trong lò. Đức Giêsu, tấm bánh được Thiên Chúa ban tặng, cũng trải qua những công đoạn tương tự như thế. Ngài đã được cấy vào mảnh ruộng trần gian, nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Ngài cũng đã được lớn lên trong ánh nắng mặt trời vùng quê Nazareth, đã vươn lên giữa đám cỏ lùng trong thửa ruộng dương gian. Ngài đã trưởng thành, đã chín vàng dưới ánh nắng kỳ diệu của Thần Khí. Sau cùng, Ngài đã được gặt hái, bị nghiền nát phơi thây trên Thập Giá, và được nung chín trong cuộc khổ nạn. Ngài đã trở nên một Tấm Bánh, được bẻ ra và hiến trao cho nhân loại. Tấm bánh Giêsu được hiến tặng cho ta chính là tấm bánh được nướng chín trong mầu nhiệm Thập Giá, nơi kết tụ đỉnh cao của Tình yêu mà Thiên Chúa đã tỏ bày.
Văn hào Fortry đã viết: “Dầu bầu trời có tối đen đến mấy đi nữa, thì Thánh Giá vẫn là dấu hiệu cao cả nhất và tuyệt vời nhất của tình yêu”. Cha Thánh Gioan Maria Vianney cũng diễn tả một xác tín tương tự: “Chúng ta phải đeo bám vào Thập Giá Chúa như một kẻ hà tiện bám víu vào tiền bạc, vì Thánh Giá là chóp đỉnh của tình yêu, là lương thực trường sinh, là nguồn mạch cứu độ”.
Chúa Giêsu đã nói: “Ai tin vào tôi sẽ được sống đời đời”. Tin vào Đức Giêsu, Đấng bị phân thây trên Thập Giá, chính là tiếp nhận Ngài, mở lòng ra để “ăn” Ngài, vì Ngài chính là tấm bánh cứu độ được bẻ ra và được phân phát nhưng không cho tất cả mọi người.
Muốn trở nên lương thực nuôi sống con người, tấm bánh phải được nghiền nát và bị phân hủy để đi vào thịt máu, đem lại cho chúng ta sự sống. Đây là định luật về Bánh, đã được chính Đức Giêsu biểu tỏ qua cái chết của Ngài trên Thập Giá. Định luật đó cũng được Chúa Giêsu chuyển giao để chúng ta sống và thực hành: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày theo tôi”.
2. Sống định luật về bánh.
Văn hào Leon Tolstoi viết một tiểu thuyết ngắn với tựa đề: “Con người chúng ra sống bằng gì?” Tác giả nêu ra câu hỏi và trả lời ngay sau đó “Con người chúng ta sống bằng tình yêu”. Tần Thủy Hoàng ngày xưa đã cho nhiều người tài giỏi đi khắp nơi lùng sục những thang thuốc quý, hay những lương thực cao lương mỹ vị để được sống mãi. Nhưng ông ta đã chết, cũng như tất cả mọi người khác. Dùng đồ ăn thức uống hằng ngày cũng chỉ có thể vỗ béo và tẩm bổ thân xác hầu kéo dài thêm thời gian sống, nhưng cuối cùng ai ai cũng phải chết. Trái lại, sống bằng tình yêu, con người sẽ không bao giờ chết. Thánh Gioan trong thơ thứ nhất, đã định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, nên những ai đi vào quỹ đạo tình yêu với Thiên Chúa và sống sung mãn huyền nhiệm yêu thương, người đó không bao giờ chết. Điều đó, chính Đức Giêsu đã khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay: “Tôi là bánh đem lại sự sống cho trần gian (Ga 6, 33-35). Ai ăn bánh này sẽ không còn đói.. Ai tin tôi sẽ được sống đời đời”. Định luật về bánh phản chiếu qua mầu nhiệm Thập Giá luôn hàm ngậm một nghịch lý. Hạt lúa được gieo vào lòng đất phải thối đi mới có thể nảy mầm và đơm bông kết trái. Tấm bánh phải được nhai nát, được tiêu hủy trong dạ dày mới có thể chuyển hóa thành máu và thịt. Cũng vậy, chúng ta phải đi qua cái chết mới đến được sự sống, phải đi qua Thập Giá mới có thể đón nhận vinh quang. Per Crucem ad Lucem. Per angusta ad augusta.
Con đường theo Đức Kitô, tấm bánh được bẻ ra, không phải là con đường thẳng tắp và phẳng lặng. Lối bước Thập Giá không phải là nẻo đường được đan kết bằng những bông hoa và nụ cười. Đó chính là con đường gập ghềnh đầy sỏi đá gai chông, là con đường đưa dẫn đến núi sọ và huyệt đá, hàm ngậm mầu nhiệm tự hủy để cùng chịu đóng đanh và cùng chết với Chúa Giêsu. (Mt 16, 24-25). Muốn trở thành môn đệ Ngài, chúng ta cũng phải trở nên tấm bánh được nghiền nát, được bẻ ra để phân chia cho mọi người.
3. Ví dụ cụ thể.
Một ngày cuối năm 1965, trên một chuyến bay từ Rôma đến Mỹ mang theo một số Giám Mục tham dự công đồng Vaticanô II trở về, có một tiếp viên hàng không khá xinh đẹp. Cô ta ân cần phục vụ hành khách, nhưng hôm đó cô tỏ vẻ hơi khó chịu vì có một cặp mắt cứ nhìn cô đăm đăm mỗi khi cô xuất hiện. Cô khá bực mình và cũng hơi bối rối, vì đó lại là cặp mắt của một vị Giám Mục đáng kính và khá nổi tiếng lúc bấy giờ: Đức Cha Fulton Sheen. Khi phi cơ đáp xuống, Đức Cha là người sau cùng rời máy bay. Ngài tiến lại gần cô tiếp viên và nói: “Thưa cô, cô rất xinh đẹp. Cô hãy cám ơn Chúa vì đã ban cho cô sắc đẹp tuyệt vời như thế”. Vị Giám Mục nói rất đứng đắn và trang nhã, nhưng cũng đầy trìu mến. Chỉ vài ngày sau, có tiếng gõ cửa tại văn phòng của Đức Cha ở New York. Người đến gặp Đức Cha không ai khác, mà chính là cô tiếp viên hôm nọ. Cô vào đề ngay: “Thưa Cha, con phải làm gì để cám ơn Chúa đã ban tặng cho con sắc đẹp?” Thay vì trả lời, Đức Cha hỏi lại cô: “Cô có bao giờ nghe nói về trại phong Di Linh ở Việt Nam chưa?” Cô trả lời rằng cô có biết qua báo chí. Đức Cha nói tiếp “Những người cùi ở đó cũng xinh đẹp lắm. Chúa Giêsu đang hiện thân nơi họ. Nếu cô muốn cám ơn Chúa, cô hãy sang Việt Nam và phục vụ họ như Chúa Giêsu đã yêu thương và phục vụ chúng ta”.
Cô tiếp viên xinh đẹp đó đã bay sang Việt Nam và sau đó trở thành nữ tu. Châm ngôn sống của cô là “Tôi cũng phải trở nên như một tấm bánh được bẻ ra để trao ban tình thương của Chúa Giêsu cho những người cùng khổ.”
Kết luận: Xin được tóm kết với bài thơ ngắn của thi sĩ Thagor: “Tôi đã nài xin Chúa cất khỏi tôi sự kiêu hãnh. Chúa trả lời rằng không. Chính tôi là người phải phấn đấu để vượt thắng. Tôi đã nài xin Chúa cho đứa con tật nguyền của tôi được lành lặn. Chúa nói không. Tinh thần mới cần lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ. Tôi đã nài xin Chúa cho tôi được hạnh phúc. Ngài cũng nói không. Ơn Ta thì luôn đủ cho con, hạnh phúc con phải tìm lấy. Và cuối cùng tôi xin Chúa ban cho tôi một quả tim để biết yêu thương. Chúa nói rằng đây là lời cầu nguyện Ta vẫn hằng mong chờ. Ta sẽ ban cho con một trái tim biết rung lên những nhịp đập yêu thương để con trở nên như một tấm bánh được bẻ ra, được nhai nát và góp phần đem lại sự sống cho mọi người”.
8. Bánh Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Trong bài Tin Mừng của ngày Chúa Nhật vừa qua chúng ta đã nghe tường thuật lại việc Đức Giêsu khi thấy dân chúng lũ lượt tuôn đến với Người và Người đã động lòng thương họ. Người đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi họ. Vì thế dân chúng đã đi tìm Người để theo Người, như thánh sử Gioan đã tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thật vậy, con người dù sống trong thời đại nào đi nữa cũng đều là con người và đều giống nhau: Là luôn tìm mọi cách để được no đủ và để thỏa mãn được những nhu cầu thể xác của mình. Trong cuộc sống hằng ngày của một gia đình hay của một quốc gia vấn đề kinh tế và tài chính luôn luôn đóng một vai trò rất quan trọng có tính cách quyết định. Bởi vậy, tất cả mọi vấn đề, mọi kế hoạch hay mọi lo toan tính toán của một gia đình hay của một quốc gia đều tùy thuộc vào tình trạng kinh tế hay tình trạng ngân sách của gia đình cũng như của quốc gia đó. Các vấn đề có được giải quyết hay không, phần lớn đều lệ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của đương sự.
Cả trong tôn giáo tình trạng kinh tế cũng có một ảnh huởng rất to lớn. Mọi hoạt động và mọi phương tiện thực hành đạo và sống đạo đều cần đến tài chính. Không có tiền bạc, mọi chuyện sẽ dậm chân tại chỗ hay ít ra sẽ bị giới hạn rất nhiều. Cũng như ngày xưa, động lực đã thúc đẩy người ta đến cùng Đức Giêsu và tuôn đi tìm kiếm Người là vì Người đã cho họ ăn no nê. Đúng là “miếng trầu là đầu chuyện” hay “Có thực mới vực được đạo”!
Nói một cách thành thật, tâm trạng đó vẫn không thay đổi cả trong thời đại của chúng ta ngày nay. Vâng, nếu người ta nghèo hay gặp phải cơn túng quẫn, người ta sẽ sống đạo sốt sắng hơn, sẽ chăm chỉ kinh nguyện hơn, sẽ siêng năng đi nhà thờ xem lễ đọc kinh hơn! Trái lại khi sống trong giàu sang phồn thịnh, người ta sẽ dễ lơ là với vấn đề tôn giáo, sẽ coi đời sống tôn giáo là việc thứ yếu hay chỉ là việc làm trong khi rảnh rỗi. Vì theo tâm lý của những người giàu có là họ cảm thấy cuộc sống của mình đầy đủ rồi, mọi sự đã được đảm bảo rồi, nên không cần phải nhờ cậy ai nữa, không cần phải nhờ cậy đến Thiên Chúa nữa, không cần phải cầu nguyện nữa.
Nhưng đó là cả một sự lầm lẫn nguy hiểm! Bởi vậy, Đức Giêsu đã quá thất vọng nói với các thính giả của Người: “Các ngươi tìm Ta vì các ngươi đã được ăn bánh no nê”. Tiếp đến, Người còn thêm: “Các ngươi hãy ra công tìm kiếm không phải vì thứ lương thực mau hư nát, nhưng là thứ lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ngươi”. Và thứ lương thực trường tồn và có thể đưa lại hạnh phúc vĩnh cửu cho con người, chính là Người: “Ta là bánh hằng sống!”
Đúng vậy, tôn giáo không phải là một loại ý thức hệ thuộc lãnh vực thứ yếu hay chỉ là một chuyện làm trong khi nhàn rỗi mà thôi. Tôn giáo cũng không phải là “thuốc phiện mê dân”, chỉ có giá trị qua thời, cốt giúp cho con người tạm quên đi những đau khổ hiện tại, hay chỉ dùng để an ủi vuốt ve con người đang trong cơn túng quẫn, nghèo khổ.
Không, đức Giêsu đã nói: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Ai theo Ta sẽ không phải chết, và ai tin Ta thì dầu có chết cũng sẽ được sống lại”. Thiên Chúa Giáo không phải là một thứ phương tiện để tạm an ủi và thoa dịu nổi khổ đời này, nhưng là chân lý dẫn đưa con người tới sự cứu rỗi đời đời.
Tuy nhiên, một điều chắc chắn là con người vẫn hoàn toàn được tự do để đến cùng Thiên Chúa, nguồn cứu rỗi vĩnh cửu, hay không! Thiên Chúa không bao giờ bó buộc ai cả. Nhưng một điều khác cũng rất chắc chắn là qua phương tiện kinh tế và tiền bạc vật chất mà thôi, con người sẽ không thể tìm được lối thoát sau cùng cho những vấn đề nan giải của cuộc sống, và, cũng không thể làm thỏa mãn hoàn toàn được những băn khoăn khắc khoải của mình bằng “cơm bánh” mà thôi. Bởi vì người Đức cũng đã có câu châm ngôn rất sâu sắc và rất thực tế: “Viel Geld heisst nich viel Gluck: Nhiều tiền không có nghĩa là nhiều hạnh phúc”.
Như vậy, chúng ta đã thấy rằng con đường duy nhất dẫn chúng ta tới hạnh phúc chân thật chính là lối đi đưa chúng ta về với Thiên Chúa, vì người chính là “Bánh hằng sống”. Dĩ nhiên, lối đi đó cũng đòi nơi chúng ta sự sẵn sàng nội tâm tự nguyện, sự đổi mới và cải thiện đời sống nội tâm. Chúng ta hãy cố gắng bước đi trên con đường đó, hãy cố gắng mỗi ngày bước đi trên con đường đó, vì nó là con đường cứu rỗi!
9. Bánh hằng sống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Lịch sử ơn cứu độ là một tiến trình dài cả mấy ngàn năm liên quan đến một dân tộc đã được chọn lựa. Dân tộc này được Thiên Chúa yêu thương và hướng dẫn cách đặc biệt. Thiên Chúa chọn các tổ phụ là Abraham, Isaac và Giacob để rồi sinh xôi ra một dân tộc đông đúc, gọi là dân Do-thái. Lịch sử của dân tộc này cũng là lịch sử của ơn cứu độ. Diễn tiến cuộc sống thăng trầm của dân riêng là một qúa trình thanh luyện, thử thách và tôi luyện ròng rã để đón nhận Đấng Cứu Thế. Tuy được Thiên Chúa chở che và bảo vệ, dân chúng thường lại muốn vượt rào và chạy theo cách sống của ngoại lai. Thiên Chúa đã nhiều lần thiết lập giao ước với dân để giữ mối giao hảo thủy chung. Thực tế, dân chúng lại cứ chứng nào tật đó và ngựa theo đường cũ từ bỏ đường lối Chúa chạy theo thói đời.
Gặp nạn đói kém, các con cháu của Giacob di dân đến đất Ai-cập. Dân Do-thái sinh sống tại đất nước này khoảng 430 năm, 12 người con của ông Jacob trở thành các ông tổ của mười hai chi tộc dân Israel. Con cái cháu chắt nhiều đời đã sinh xôi nẩy nở trở thành một dân lớn mạnh. Khi Môisen dẫn dân ra khỏi Ai-cập: Con cái Israel nhổ trại rời Ram-xết đi Xúc-cốt, có khoảng sáu trăm ngàn bộ hành, chỉ kể đàn ông không kể trẻ con. Cả một đám đông hỗn tạp cùng lên với họ, mang theo chiên cừu, bò dê, họp thành một đàn súc vật đông đảo (Xh 12, 37-38). Qua câu truyện Xuất Hành của người Do-thái, chúng ta không thể hiểu và tưởng tượng được việc Chúa đã làm cho dân riêng. Lữ hành trong sa mạc, cả triệu người này lấy gì mà ăn uống, lấy gì mà mặc và rồi các sinh hoạt cá nhân, gia đình và cộng đồng… Họ trở thành dân du mục sống 40 năm tạm cư tại nhiều nơi trước khi vào miền Đất Hứa.
Sách Dân Số ghi nhận số người của từng chi tộc khi ra khỏi đất Ai-cập. Tại sa mạc Sinai, theo lệnh truyền của Thiên Chúa,ông Môisen kiểm tra dân số:Tất cả con cái Israel đã được kiểm tra theo gia tộc của họ, từ hai mươi tuổi trở lên, tất cả các chiến binh trong dân Israel,tổng số người được kiểm tra, là 603.550 (Ds 1, 45-46). Chúng ta thử tínhtrên 600 ngàn chiến binh cộng thêm các phụ nữ và con trẻ nữa, phải có trên một triệu người vượt Ai-cập. Cuộc sống văn minh tiến bộ với nhiều phương tiện như hiện nay, con số trên một triệu người di dân qủa là một vấn đề lớn. Biết bao nhiêu các nhu cầu cuộc sống cần phải đáp ứng. Dân Do-thái đã trải qua những thách đố tôi luyện rất căng thẳng. Tuy nhiên, cho dù đối diện với muôn ngàn khó khăn, sau cùng, họ cũng đã tiến vào miền đất hứa chảy sữa và mật.
Sách Xuất Hành ghi lại cuộc sống nay đây mai đó, dân chúng cảm thấy thiếu thốn mọi bề, nên than khóc. Nhớ về qúa khứ ở Ai-cập ngồi bên nồi thịt và ăn no nê, dân chúng đã bắt đầu thấy chán nản và kêu trách Môisen và Aaron về lương thực hằng ngày. Thiên Chúa phán: "Ta đã nghe tiếng con cái Israel kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa, Thiên Chúa của các ngươi”.(Xh 16, 12). Qua những thăng trầm cuộc sống, Thiên Chúa từ từ mạc khải những mầu nhiệm Nước Trời. Qua bánh Manna nuôi sống thân xác, Chúa dẫn đến của ăn nuôi dưỡng phần hồn. Tất cả những sự cố xảy ra trong cuộc lữ hành của dân Do-thái đều mang một ý nghĩa nhiệm mầu trong chương trình cứu độ. Từ những sự kiện Môisen lãnh nhận Thập Giới, việc ông Môisen đập gậy vào tảng đá để nước chảy ra và việc Môisen treo con rắn đồng lên làm dấu trong hoang địa, để ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, sẽ được cứu. Thiên Chúa vừa thanh luyện tâm hồn vừa mạc khải những ý nhiệm sâu xa về Thiên Chúa độc nhất và chương trình cứu độ.
Lịch sử cứu độ được lồng vào lịch sử của dân tộc Do-thái, dân Chúa chọn. Dân Do-thái đã cưu mang chương trình cứu chuộc trong suốt hành trình lưu lạc trần thế. Thiên Chúa luôn yêu thương và giữ lời giao ước với đoàn dân. Dân chúng cũng đã vui hưởng những năm tháng an bình thịnh trị. Nhưng họ cũng không tránh khỏi những thăng trầm, gian nan, thách đố của cuộc sống. Trải qua lịch sử, cho dù nhiều lần dân chúng bỏ Chúa chạy theo bụt thần, Chúa vẫn luôn chờ đợi ngày họ quay trở về. Thiên Chúa quan tâm sai các tiên tri như là những sứ giả mở đường khai thông và bắc những nhịp cầu kết nối để giúp họ quay đầu sám hối.
Lời mời gọi sám hối là bước đầu đi vào cuộc sống an lạc và bình an. Chúa Giêsu khi ra rao giảng, Ngài cũng kêu gọi sám hối vì Nước Trời đã gần. Thánh Phaolô tông đồ cũng không ngừng nhắc nhở: Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em (Eph 4, 22-23). Lời mời gọi sám hối không phải chỉ để nghe nhưng là thực hành. Chúng ta không phải chờ tới ngày mai hay có cơ hội thuận tiện mới sám hối quay về. Lời của Chúa có sức mạnh tác động ngay trong hiện tại nếu chúng ta biết mở lòng đón nhận và quyết tâm sửa đổi cách sống.
Trong bài phúc âm hôm nay, từ những của ăn phần xác hay hư nát, Chúa Giêsu đã giới thiệu một loại bánh trường sinh. Bánh ban sự sống, đó là chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã dậy: Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận (Ga 6, 27). Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống ban sự sống cho thế gian. Đây là một ý tưởng ngoại thường, dân chúng không dễ dàng chấp nhận. Sau khi nghe Chúa nói về bánh hằng sống chính là thịt và máu của Chúa, các môn đệ cũng xì xầm nhỏ to và có nhiều môn đệ rút lui, không đi theo Thầy nữa.
Lời của Chúa Giêsu phán hai ngàn năm trước, hôm nay vẫn mang tròn đầy ý nghĩa. Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể, Chúa dùng bánh và rượu là của nuôi thân xác biến đổi thành Thịt và Máu Thánh Chúa để nuôi linh hồn. Đây chính là mầu nhiệm đức tin. Chúa phán:Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống (Ga 6, 51). Lời truyền của Chúa Giêsu không thay đổi vì là lời hằng sống. Giáo Hội tin và tôn thờ Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Thánh Thể trở nên trung tâm điểm trong đời sống của các Kitô hữu. Đến với Thánh Thể là đến với chính Chúa Giêsu. Thực tế niềm tin cuộc sống, nhiều người không còn tin thật Chúa Giêsu hiện diện dưới hình bánh hình rượu trong Bí tích Thánh Thể. Cả chúng ta, các Kitô hữu nhiều khi cũng lơ là và không tôn kính đủ khi đến với Thánh Thể nơi Nhạ Tạm.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin để chúng con nhận diện ra Chúa đang ngự giữa chúng con trong Bí Tích Thánh Thể. Đã nhiều lần chúng con đi qua Nhà Tạm Thánh Thể, Chúa hiện diện đó nhưng chúng con vô tình ngoảnh mặt làm ngơ. Chúa đã dùng Bí Tích Thánh Thể để hiện diện và trở nên thần lương nuôi dưỡng chúng con. Xin cho chúng con biết kết hợp mật thiết với Chúa trong mọi nơi và mọi lúc. Amen.
10. Đối xử công bằng với linh hồn ta
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Sau khi được Chúa Giêsu ban cho một bữa ăn no nê thỏa thích qua phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông người Do-thái đổ xô tìm đến với Chúa mong được Người cho ăn tiếp. Chúa Giêsu không bằng lòng với toan tính đó nên Người nói thẳng với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê."
Biết rõ bận tâm của đám đông là chỉ lo cho có lương thực nuôi xác, còn lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đời sống thiêng liêng thì chẳng màng tới, Chúa Giêsu răn bảo họ: "hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh." (Ga 6, 27).
Khi nói như thế, Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người hãy cố công chăm lo cho linh hồn mình được phúc đời đời chứ đừng chỉ dồn tất cả công sức chăm lo cho thân xác mau hư nát nầy.
* * *
Một nhà kia có hai người con. Người con út được cha mẹ đem hết lòng yêu thương chăm sóc: cho ăn, cho mặc, cho học hành, cho thuốc men, cho tiêu xài thoải mái, cho tất cả những gì nó muốn và không từ chối nó bất cứ điều gì.
Trong khi đó, đứa con cả không được cha mẹ đoái hoài: không được nuôi ăn, chẳng được cấp dưỡng chút gì, bị cha mẹ bỏ mặc như thể nó không hề có mặt trên đời, mặc dù nó không làm điều gì sai trái.
Cha mẹ phân biệt đối xử như thế là quá bất công, đáng bị lên án. Nếu chúng ta ở vào địa vị người cha người mẹ trên đây, chắc chắn không bao giờ chúng ta đối xử bất công như thế.
Thế nhưng, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có "hai người con" trong đời mình, đó là linh hồn và thân xác. Thân xác nầy nay còn mai mất thì được nhiều người chăm sóc chiều chuộng tối đa, còn linh hồn trường sinh bất tử thì chẳng được đoái hoài.
Châm ngôn của một số đông là: Tất cả dành cho thân xác, tất cả cho cuộc sống đời nầy. Người ta không từ chối thân xác bất cứ điều gì. Dù thân xác có đòi hỏi những điều hèn hạ, vô luân, người ta cũng chiều theo nó.
24 giờ của mỗi ngày đều dành trọn cho thân xác. 168 giờ của mỗi tuần, 720 giờ của một tháng đều dành trọn để lo cho thân xác và cứ như thế hết tháng nầy qua tháng khác, hết năm nầy qua năm kia.
Trong khi linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài!
Đó là một bất công không thể chấp nhận được và mang lại hậu quả đau thương cho cuộc sống mai sau, vì không sớm thì muộn, cái chết cũng sẽ đến để cướp hết những gì người ta đang có và hủy hoại thân xác ra không. Cuối cùng thân xác con người chỉ là một nhúm bụi đất còn linh hồn thì phải trầm luân muôn đời muôn kiếp.
Thật là điên rồ khi người ta dành hết tất cả thời gian, công sức, trí tuệ, tài năng, nghị lực của mình cho thân xác để rốt cuộc nó chỉ còn là bụi đất!
Qua sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người hãy đối xử công bằng với linh hồn mình.
Thân xác nầy nay còn mai mất thì chỉ cần chăm lo vừa đủ, còn linh hồn sống đời đời vĩnh cửu thì phải được chăm lo nhiều lần hơn.
Khi nuôi xác bằng cơm bánh được thu hoạch từ lòng đất thì cũng phải nuôi hồn bằng "Bánh từ trời xuống."
Chính Chúa Giêsu là Bánh bởi trời được Chúa Cha ban cho nhân loại để mang lại sự sống cho thế gian. (Ga 6, 32-35)
"Ăn" Chúa Giêsu (theo nội dung đoạn Tin Mừng hôm nay, Gioan 6, 24-35) không có nghĩa là nhai, là nuốt Chúa Giêsu nhưng là đến với Chúa Giêsu và tin vào Người: "Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!"
Nói khác đi, "ăn" Chúa Giêsu là đến với Chúa Giêsu, học với Chúa Giêsu, sống như Chúa Giêsu để đào tạo mình nên người có phẩm chất cao đẹp như Chúa, để rồi mỗi người chúng ta trở nên hình ảnh sống động của Chúa Giêsu và được chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người.
11. Bánh bởi trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tôi đã đọc đâu đó câu này: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái”.
Tại sao phải mất 40 năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái? Bài đọc 1 hôm nay nêu lý do. Dân Do thái than vãn với Môsê: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,3).
Dân Do Thái đã buông ra những lời trách móc nặng nề ông Môsê và ông Aharon. Nhiều lần dân Ítraen đã trách móc, xỉa xói và tỏ thái độ vô ơn bạc nghĩa đối với ông Môsê, vị đại ân nhân của họ: "Bên Aicập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? … Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Aicập! Thà làm nô lệ Aicập còn hơn chết trong sa mạc!" (Xh 14,11-12);“(Thà) chúng tôi chết … trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê … (còn hơn là) vào sa mạc này, để … phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,2-3);“Ông đưa chúng tôi ra khỏi Aicập để làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không?" (Xh 17,3); “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Aicập … Chúng tôi đã chán ngấy (manna) thứ đồ ăn vô vị này (rồi)” (Ds 21,5); “Phải chi chúng tôi chết ở bên đất Aicập, hoặc phải chi chúng tôi chết trong sa mạc này cho xong! Sao Đức Chúa lại đem chúng tôi vào đất này để chúng tôi ngã gục dưới lưỡi gươm, để vợ con chúng tôi bị giặc bắt? Chúng tôi trở về Aicập có tốt hơn không?” (Ds 14,2-4).
Hành trình sa mạc với nhiều thử thách là dịp thanh luyện dân tuyển chọn khỏi nổi nhớ “thịt béo, củ hành củ tỏi Ai cập”. Môsê vị lãnh đạo là khuôn mặt nổi bật nhất suốt chặng đường gian truân này.
1. Môsê, người của Thiên Chúa luôn sống liên đới với dân.
Môsê nhà lãnh đạo đã dành cả đời lo cho dân. Ông đã trải qua biết bao đau khổ, sợ hãi và lo lắng để chăm sóc cho dân. Nhưng dân lại trách móc, than phiền và mắng nhiếc ông. Dân đối xử tệ bạc với Môsê. Họ xem ông như chính là thủ phạm gây ra những đau khổ và bất hạnh cho họ và gia đình họ vậy. Thật bất công!
Vậy mà cả đời Môsê vẫn một mực yêu thương liên đới với dân, sống chết với dân trong lời táo bạo với Chúa mà thấm đượm lòng thương dân:“Tôi không muốn một mình sống hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”.
Từ ngày được Thiên Chúa gọi để lãnh đạo Dân Chúa (Xh 3,10), Môsê dần dần thấu hiểu và thâm tín rằng: vị tư tế ở giữa dân Chúa không những phải sống hoàn toàn liên đới với Thiên Chúa, mà còn phải hoàn toàn liên đới với dân Chúa.
Môsê luôn là người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa và là vị lãnh đạo quãng đại, đầy lòng xót thương, liên đới với dân cho dù dân ‘cứng cổ’, tội lỗi, bất trung.
a. Môsê, người của Thiên Chúa
Là tư tế, Môsê tường trình mọi việc của dân chúng ‘lên Thiên Chúa’ (Xh 18,19). Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng (Xh 33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên Chúa và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharôn và con cái Aharôn để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên Chúa để tác thánh họ (Xh 29,1-46). Chính việc tiếp xúc thường xuyên với ‘lãnh vực thánh’ đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã không ngần ngại gọi ông là ‘người của Thiên Chúa’ (Tl 33,1; Yôs 14,6).
Môsê có những lúc tiếp xúc tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, được chan hoà sự hiện diện của Người, mặt ông đã rạng sáng lên, dọi chiếu lại vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà không một người phàm nào có thể nhìn thẳng được: “Aharon và toàn thể con cái Israel trông thấy Môsê và này da mặt ông chói lọi và họ sợ không dám tiến lại với ông” (Xh 34,30). Khi ông vào Trướng tao phùng đàm đạo với Thiên Chúa, toàn dân phủ phục (Xh 33,7-11). Ở đó, Thiên Chúa nói chuyện với ông như nói chuyện với một người bạn thân ‘diện đối diện’ (Xh 33,11). Ông thật sự trở nên con người mà Thiên Chúa ‘biết’ đích danh và không ngần ngại đồng hành với ông (Xh 33,12-17). Môsê táo bạo thỉnh cầu được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa (Xh 33,18-23).Thiên Chúa đã nhượng bộ cho ông nhìn thấy Người… Nhưng từ phía sau lưng: “… Ta sẽ cất bàn tay Ta đi và Ngươi sẽ nhìn thấy phía sau Ta, nhưng Nhan Ta, người ta sẽ không nhìn thấy được” (Xh 33,23).
b. Môsê, người liên đới với dân Chúa
Môsê được sống bên cạnh, thân mật với Thiên Chúa, và tâm trí ông luôn hướng về dân Chúa: “Nếu quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người” (Xh 34,9).Từ ngữ ‘chúng tôi’ ở đây thật cảm động! Môsê đã không đặt mình trên dân, cũng không ở ngoài dân; nhưng hoàn toàn liên đới đến đồng hoá với dân, ngay cả nhận lãnh trách nhiệm về tội lỗi của dân.
Môsê bị phạt vì chính tội của dân, vì ông muốn liên đới với tội của dân: “Giavê đã phẫn nộ với cả ta nữa vì cớ các ngươi, mà rằng: cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không vào!” (Tl 1,37). Hình phạt này đối với Môsê thật nặng nề và đau khổ. Môsê đã phải nằm xuống trên núi Nêbô, tại vùng đất Môab. Môsê chia sẻ hoàn toàn số phận của dân và dường như ông còn muốn ôm vào lòng cả thế hệ xuất Ai cập, thế hệ mà ông đã lãnh đạo, đã cầm tay đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa tại Sinai, đã yêu thương cũng như đã chịu đựng… Thế hệ đó đã nằm xuống trong sa mạc. Môsê vì thế cũng ‘không muốn’ vào Hứa Địa một mình khi vắng bóng dân!
Môsê đã đau khổ cùng dân và cho dân! Môsê đã chết với dân và cho dân! Khuôn mặt và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa.
Môsê luôn luôn bênh đỡ, cầu bầu cho dân trước mặt Thiên Chúa: “Phải! Dân này đã phạm một tội rất lớn… Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng; bằng không, xin Người hãy xoá tôi đi khỏi sách Người đã viết…” (Xh 32,30-32).
Lòng yêu thương, tình liên đới, thái độ bầu chữa, bênh vực dân của Môsê xuyên suốt trong quá trình ông lãnh đạo dân. Môsê gắn bó cả cuộc đời và mạng sống mình với dân tộc Israel.
2. Môsê là hình bóng của Đức Giêsu Kitô.
Môsê là vị cứu tinh, là vị trung gian giữa Thiên Chúa và dân. Môsê là ngôn sứ nói với dân về Đấng Cứu Độ một lời danh tiếng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đó là: Đức Chúa sẽ cho xuất hiện “một ngôn sứ như tôi, anh em hãy nghe lời vị ấy” (Tl 18,15). Sau này, Têphanô vị tử đạo đầu tiên đã nhắc lại lời tiên tri đó (Cv 7,37); thánh Phêrô đã thấy thực hiện nơi Đức Kitô (Cv 3,22). Chính Môsê đã làm chứng về "Vị Tiên Tri" đó (Lc 24,27; Ga 5,46).
Là trung gian làm nhịp cầu giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel, Môsê tiên báo Đức Kitô, Đấng trung gian cho một Giao Ước mới hoàn hảo hơn. Dọc dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã thiết lập hai giao ước chính thức. Giao ước thứ nhất với Môsê trên núi Sinai. Giao ước thứ hai với Đức Kitô trên núi bát phúc và được bảo chứng trên Núi Sọ. Đây là Giao Ước Mới và là Giao Ước Vĩnh Cửu.
Đức Kitô, là Môsê mới đã hoàn thành tất cả những điều đã được ghi chép trong Lề Luật: "Những lời này, Ta đã nói cùng các ngươi, khi Ta còn ở với các ngươi, là phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật của Môsê và các tiên tri cùng Thánh Vịnh" (Lc 24,44).
Môsê đã đưa dân Israel nô lệ ở Ai cập, xuyên qua sa mạc về Đất Hứa. Đó là hình bóng và là tiên báo Chúa Cứu Thế, Đấng là Đường, là Ánh Sáng đưa Israel mới đi qua cuộc đời trần thế mà tiến về Đất Hứa, là thành Giêrusalem trên trời.
Đức Kitô là Môsê mới của Dân Chúa. Tác giả thư Do thái quả quyết: “Trong mọi sự, Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương, vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,17). Chính Người đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên Vị Thượng Tế tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa, đứng về phía Thiên Chúa (Dt 5,5-6), đồng thời Người cũng đã thể hiện một cách trọn vẹn sự liên đới với mọi người, đầy lòng xót thương đối với mọi người (Dt 5,9) qua hành động tự nguyện dâng hiến con người của mình làm lễ tế để kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho dân Chúa (Dt 5,8). Để đền tội cho dân và đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Đức Giêsu Nazaret đã dùng chính máu mình để thiết lập Giao Ước Mới, một lần nữa nối kết Thiên Chúa với con người (Mc 14,24; Mt 26,28; Lc 22,20; 1C 11,25; cf Xh 24,8) và dùng cái chết tự nguyện đau thương trên thập giá, bị liệt vào hàng tội nhân (Mc 15,22-37; Mt 27,39-50; Lc 23,33-46; Yn 19,17-30; Rm 8,3; cf Tl 34,5-6) để đáp lại lời thách đố của Môsê? Từ đó, qua Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, chắc hẳn Môsê sẽ được chứng kiến và nghe lại lời này: “Tôi muốn sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa, và ở đó có cả dân của tôi nữa!” (x.Môsê, vị lãnh đạo của Dân Chúa: trung tín và liên đới, ĐGM Giuse Võ Đức Minh, WHĐ).
3. Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời.
Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Chúa Giêsu "đã lánh mặt đi lên núi một mình”. "Chiều đến", các môn đệ xuống thuyền đi sang "bên kia Biển hồ”; còn Chúa Giêsu lát sau đó "đi trên mặt biển" mà đến với các ông. Hôm sau, đám đông cũng xuống thuyền vượt qua Biển hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Dân chúng sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc "vượt qua" khác, sâu xa hơn nhiều. Đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh.
Chúa Giêsu biết dân chúng đi tìm mình chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự. Chúa Giêsu muốn họ tìm đến lương thực thường tồn: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận". Chúa Giêsu nhắc cho họ, không phải Môsê đã cho họ manna, mà là Thiên Chúa. Người bảo họ manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, manna chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người, không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý mà còn là sự sống đời đời: "Chính tôi là Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.
“Chính Tôi là Bánh Hằng Sống”. Khẳng định long trọng của Chúa Giêsu không một chút mông lung, mơ hồ. Một ý tưởng, một lý tưởng hay một lý thuyết thì có thể mơ hồ, nhưng một con người có danh xưng cụ thể thì không. Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại, chính là bản thân Chúa Giêsu. Và để đón lấy một con người, một Đấng làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Người.
Liên tiếp trong 4 tuần lễ kể từ Chúa nhật hôm nay, phụng vụ Lời Chúa đọc lại gần như toàn bộ chương 6 Phúc âm Thánh Gioan về Bánh Hằng Sống. Đây là cơ hội để khám phá ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Mỗi Chúa Nhật một khía cạnh khác nhau. Tuần 1: Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời; Tuần 2: Bánh Ban Sự Sống; Tuần 3: Tấm Bánh Thánh Thể và Tuần 4: Tấm Bánh Lời Chúa.
Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời, không phải là đã “rớt xuống ” như mana trong sa mạc. Người là lương thực chân thật cho những kẻ đói khát. Lời của Chúa Giêsu, sứ vụ của Chúa Giêsu, cuộc sống của Chúa Giêsu đều là bánh nuôi dưỡng linh hồn nhân loại đang đói khát thiêng liêng. Chúa Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là Bánh Hằng Sống. Chúa Giêsu chính là Môsê mới cung cấp bánh ăn và giáo huấn khôn ngoan cho nhân loại. Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời. Người được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể.
Để được sống trường sinh, Thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”. (Bài đọc 2).
Sự công chính và thánh thiện chủ yếu là chết đi con người cũ để sống yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương. Không ai có thể đến với Thiên Chúa Hằng Sống để được sống trường sinh mà không qua Con Đường Giêsu, vì đây là Con Đường Thật, Con Đường dẫn đến Sự Sống.
“Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả. Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng, là sự cất cánh của tình yêu càng lên cao, càng lên cao mãi trong huyền nhiệm Thiên Chúa.
Mỗi lần rước lấy Thánh Thể,Tấm Bánh Bởi Trời, chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Người và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương.
12. Chết trong danh dự – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người xưa vẫn thường nói: "trông vậy mà không phải vậy". Một lời nói đơn sơ nhưng đầy triết lý cuộc sống. Có những người "đẹp người nhưng xấu nết". Có những người bên ngoài nhỏ nhẹ, lịch sự nhưng lòng đầy gian tham xảo quyệt. Có những người miệng nói "nam mô nhưng lại một bồ dao găm". Có biết bao điều diễn ra trước mắt nhưng thực hư lại càng khó phân biệt đúng sai. Cuộc sống thực dụng đã làm cho nhiều người biến chất trở thành kẻ lưu manh, lừa gạt hại người, hại đời. Cuộc sống đề cao vật chất đã khiến nhiều người đang tâm sống bất trung bất hiếu giữa với gia đình, với cha mẹ, với vợ, với chồng, với con. Dầu vậy, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những tấm lòng cao thượng, những trái tim trong trắng, những tâm hồn không để những tham sân si dòng đời làm băng hoại, hoen ố. Họ luôn sống cao đẹp. Họ luôn bảo vệ giá trị của tình người. Họ không bán rẻ phẩm giá vì một chút của cải mau qua. Họ đã sống đề cao giá trị vĩnh cửu hơn là những giá trị vật chất mau qua, tầm thường.
Nhà văn Pháp Pécaut đã kể một câu chuyện thật cảm động mà chính ông vẫn ân hận mỗi khi nhớ lại chuyện xưa. Ông kể rằng:
Một hôm tôi vừa ra khỏi nhà thì một em bé trai 12 tuổi chạy đến van nài tôi mua giúp em một hộp diêm quẹt. Động lòng thương tôi rút ví ra định mua, nhưng tôi lại chỉ có toàn tiền chẵn. Tôi đang ngần ngại thì thằng bé nói ngay: "Không sao ông ạ, xin ông cứ vui lòng đưa tiền cho cháu, cháu sẽ chạy đi tìm chỗ đổi tiền rồi trả lại cho ông ngay".
Tôi nhìn thằng bé gương mặt xanh xao của nó có vẻ thành thật đến mức tự hào. Tôi liền trao cho nó một đồng tiền vàng và nó chạy biến ngay về hướng cuối phố. 5 phút trôi qua, rồi 10 phút, tôi bắt đầu hồ nghi về sự ngay thẳng của thằng bé. Và nửa giờ sau thì tôi hết kiên nhẫn, bỏ đi tiếp tục cuộc dạo phố, lòng thầm nhủ sẽ chẳng bao giờ còn tin vào những bọn lêu lổng đầu đường xó chợ như thế nữa.
Buổi trưa, khi về tới nhà, đúng chỗ ban sáng thì tôi lại thấy một đứa bé hơn nữa, chỉ độ 8, 9 tuổi, khuôn mặt giống thằng ăn cắp như tạc. Nét mặt nó bộc lộ sự lo âu tuyệt vọng. Nó thổn thức nói với tôi: "Thưa ông, có phải ông đã đưa cho anh cháu một đồng tiền vàng không ạ? Đây là chỗ tiền lẻ. Chính anh cháu nhờ gửi lại cho ông. Chúng cháu đều là trẻ mồ côi nhưng không phải là bọn ăn cắp. Anh cháu không thể trao tận tay ông ngay lúc sáng là vì anh cháu đã bị xe đụng khi vội chạy đi tìm chỗ đổi tiền. Cháu... cháu sợ rằng anh cháu chết mất thôi...". Tôi bàng hoàng vội hỏi thằng bé trong tiếng nghẹn ngào: "Thế bây giờ anh cháu nằm ở đâu? Dắt bác đến gặp anh cháu ngay đi".
Tôi rảo bước gần như chạy sau em bé. Chúng tôi rời khỏi những khu phố giầu sang để lách vào những con hẻm lầy lội của một khu lao động nghèo khổ. Em bé dừng lại một căn lều xiêu vẹo. Trong một xó tối, tôi nhận ra thằng bé bán diêm quẹt ban sáng. Nó nằm dài bất động trên một đống áo quần cũ rách, mặt trắng bệch vì mất khá nhiều máu.
Tôi lặng lẽ cúi xuống hôn lên vầng trán bị giập nát vì vết thương của em. Tôi ân hận vì cái nhìn thiển cận của tôi. Tôi nuối tiếc vì sự đánh giá thiếu cân nhắc của mình. Nhưng tôi lại thầm cám ơn đời đã cho tôi gặp được một tâm hồn trẻ thơ vô cùng trong trắng ngay giữa cảnh đời nghèo khó và đau khổ đến cùng cực...
Vâng, giữa cuộc đời mà người ta đang đua nhau tranh giành miếng cơm manh áo đến nỗi coi nhẹ nhân phẩm, nhân vị thì vẫn còn đó những con người biết sống nghèo khó mà lòng thanh sạch. Giữa cuộc đời mà người ta đang loại trừ và hãm hại lẫn nhau chỉ vì một chút địa vị, bổng lộc thì vẫn còn đó những con người tìm niềm vui trong đời sống yêu thương, phục vụ một cách quảng đại và vô vị lời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm giá trị Nước Trời hơn là những của ăn mau hư nát. Thắng bé trong câu chuyện đã sống cao thượng, nó không vì tiền mà đánh mất danh dự. Nó thà chết chứ không để lòng tốt bị đánh cắp trong xã hội hôm nay. Nếu xã hội mà mỗi người đều biết trọng danh dự, trọng lẽ phải thì cuộc đời đâu còn nước mắt, trần gian đâu còn đọa đầy mà là thiên đàng tại thế. Nếu cuộc đời ai cũng biết trần gian là tạm bợ, thiên đàng mới là vĩnh cửu, có lẽ họ sẽ sống cao thượng, sống thanh sạch, sống công bình bác ái hơn là gian dối, tham lam tầm thường.
Nguyện xin Chúa là Đường là sự thật và là sự sống giúp chúng ta biết đi theo đường lối vẹn tuyền, biết tìm kiếm của ăn không bao giờ hư nát, biết chọn Chúa là phần gia nghiệp đời đời. Amen.
13. Thánh Thể - Nguồn mạch tình yêu
(Suy niệm của Matthêu Vũ Văn Lượng, OP)
Kính thưa cộng đoàn,
Cuộc gặp gỡ nào bao giờ cũng in đậm những kỷ niệm. Có cuộc gặp gỡ mang lại nụ cười thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại nước mắt; có cuộc gặp gỡ mang lại hạnh phúc thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại khổ đau; có cuộc gặp gỡ mang lại hiệp nhất thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại ly tan; có cuộc gặp gỡ mang lại ngọt bùi thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại cay đắng; v.v….
Thưa quý ông bà anh chị em, đó là cuộc gặp gỡ trong thân phận con người chúng ta. Từ những cuộc gặp gỡ đó, chúng ta hướng đến một cuộc gặp gỡ cao trọng nhất, thân thương nhất. Đó là cuộc gặp gỡ mang tính thần-nhân, cuộc gặp gỡ giữa mỗi chúng ta và Đức Giêsu. Thiên Chúa là tình yêu và Ngài không nói với chúng ta bằng ngôn ngữ nào khác hơn là thể hiện tình yêu qua cái chết của con Ngài. Tình yêu này được cụ thể hoá nơi phép Thánh Thể là chính thân mình Đức Kitô Giêsu.
Một trong những cuốn phim hay nhất của Chalot và có lẽ cũng là một trong những cuốn phim hay nhất của ngành điện ảnh, đó là cuốn phim có tựa đề: "Ánh sáng đô thị". Cuốn phim kể về câu chuyện tình của gã lang thang và cô gái bán hàng hoa.
Nàng là cô gái mù bán hàng hoa bên vệ đường. Ngày nào cũng có một nhà tỉ phú dừng lại mua hoa của nàng. Thế rồi, một ngày kia cũng có một gã lang thang tên là Chalot cũng dừng lại mua hoa của nàng. Tưởng là người tỉ phú, nàng đem lòng yêu mến và giấc mộng đã từ đây chớm nở nối kết hai tâm hồn. Phần nàng, nàng tưởng rằng mình gặp được người mình mơ mộng bấy lâu nay. Còn chàng Chalot thì hy vọng sẽ kiếm được tiền để chữa lành tật mù loà cho nàng.
Chẳng may, vì một sự ngộ nhận, chàng bị cảnh sát giam giữ. Sau thời gian cầm tù, chàng được trả tự do. Rồi chàng trở lại chỗ cũ để tìm lại người con gái mù loà bán hoa, nhưng nàng đã ra đi. Nhờ tiền bạc trước đây chàng gởi cho, người con gái nay đã thấy được và đang đứng bán một cửa hàng hoa rộng lớn hơn. Chàng qua lại nhiều lần nhưng không thể nhận ra nàng.
Tình cờ một cánh hồng rơi xuống đất, chàng vội cúi nhặt lấy. Nhưng người con gái cười như khinh bỉ chàng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười, chàng vội quay lại và khẽ hỏi: "Cô thấy được rồi sao?" Người con gái nhận ra tiếng nói quen thuộc của chàng… Nàng từ từ nhặt cánh hoa lên, gắn lên áo chàng và nghẹn ngào thốt lên: "Anh đấy sao?" Cả hai người nhận ra nhau và không bao giờ xa nhau nữa.
Kính thưa cộng đoàn, đó cũng là cuộc gặp gỡ trong tình yêu. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đi vào cuộc gặp gỡ cao trọng hơn đó là phép Thánh Thể. Lời mời gọi nối kết con người và Đức Giêsu Kitô làm một:
Chính tôi là bánh trường sinh.
Ai đến với tôi, không hề phải đói;
ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ! (Ga 6, 35)
Đức Kitô nối kết tình yêu của mình với nhân loại bằng chính sự hiến thân cứu chuộc. Ngài trút bỏ mọi vinh hoa phú qúy, để sống kiếp phàm trần, để có dịp gặp gỡ và buồn vui với con người. Thánh Phaolô đã miêu tả: Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như Đức Kitô Giêsu. Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. … (Pl 2, 5-7).
Kính thưa cộng đoàn,
Đức Giêsu Kitô đã phục sinh và Ngài đã về với Thiên Chúa Cha, thế nhưng, một cách âm thầm, Ngài vẫn ở lại trong bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm để mời gọi mọi người hãy đến cùng ăn một bánh và cùng uống một chén. Một khi đã cùng ăn, cùng uống Mình và Máu Đức Kitô, chúng ta lại được cùng nhau hòa quyện trong tình yêu của Ngài. Tình yêu nối kết mỗi người lại với nhau, như Đức Kitô đã được sống trong tình yêu của Chúa Cha. Thánh thể là việc tự hiến mình trong đức ái của Chúa Giêsu cho Chúa Cha và cho mọi người chúng ta. Do đó, chúng ta cũng học theo gương Ngài mà trao cho nhau những hành động và cử chỉ yêu thương, điều này đòi hỏi một đức ái vững bền. Anh chị em có thể làm phúc, giúp đỡ người nghèo khó, người cô thế cô thân… với một tinh thần yêu thương, chắc hẳn anh chị em sẽ gặp được chính Đức Kitô nơi họ. Hình ảnh Đức Kitô nơi anh chị em đồng loại cũng chính là Đức Kitô trong Thánh thể, mà anh chị em rước lấy mỗi ngày - ai làm cho một trong những người bé nhỏ nhất của Ta đây, là anh em đã làm cho chính Ta vậy. Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời. Vì thế, Đức Kitô luôn đồng hành và dẫn dắt mỗi người chúng ta đến, để chúng ta cùng gặp gỡ nhau trong cùng một thế giới đầy yêu thương. Đó là nước trời mà Thiên Chúa Cha dành sẵn và đang chờ đón chúng ta.
Anh chị em có thể là một người nghèo vật chất, nhưng xin anh chị em đừng nghèo về tinh thần, nghèo tình cảm, nghèo lòng nhân đạo, nhất là nghèo tình yêu. Mọi điều Đức Kitô Giêsu ban tặng cho chúng ta được gói trọn trong hai chữ tình yêu: Này là mình Thầy hiến tế vì anh em. Tình yêu Đức Kitô làm cho chúng ta nên một, tràn ngập niềm vui và hy vọng.
Kính thưa cộng đoàn,
Thánh Gioan cho chúng ta thấy việc mặc khải Đức Giêsu là Bánh Hằng Sống, cũng chính là mặc khải của hành trình nối kết giữa Chúa Cha và Chúa Con, giữa con người với Thiên Chúa, giữa niềm vui và ơn cứu độ. Đó cũng là cuộc gặp gỡ giữa Chúa Cha và con người trong Đức Kitô. Bánh Hằng Sống diễn tả nét đặc trưng con người Đức Giêsu: Ngài là quà tặng của Thiên Chúa Cha cho chúng ta, và sự hiên diện của Ngài giữa chúng ta đã đem lại một luồng sinh khí mới và nối kết mọi người trong mối giây hiệp thông.
Chúa Giêsu chính là Bánh mà Chúa Cha đã gởi đến cho chúng ta và Ngài là hồng ân được tặng ban qua quyền năng và ân sủng của Chúa Thánh Thần. Ngài dùng bí tích Thánh Thể để công bố tình yêu của Chúa Cha và tuôn đổ Thần Khí của Ngài. Như vậy, sự hiệp thông của Ngài cũng chính là sự hiệp thông với Chúa Thánh Thần.
Bí tích Thánh Thể chính là suối nguồn tình yêu, bởi vì Đức Giêsu được dâng hiến như của lễ đẹp lòng Thiên Chúa Cha, để cứu rỗi nhân loại và canh tân mọi tạo vật. Do đó, khi cử hành bí tích Thánh Thể, chúng ta được mời gọi để gặp gỡ Đức Kitô, nguồn mạch sự sống và tình yêu, và làm cho cuộc sống của mỗi người chúng ta được biến đổi thành một hồng ân.
Cũng như cánh hồng là sợi chỉ hồng đan kết Chalot và nàng bán hàng hoa lại với nhau, thì cũng vậy, Thánh Thể là nguồn mạch Tình Yêu cũng nối kết chúng ta làm một với Đức Giêsu, tan biến chúng ta trong biển cả Tình Yêu của Ngài, và sau cùng dẫn dắt chúng ta đến hưởng nếm hạnh phúc đích thực là chính Ngài trên Thiên quốc.
Nguyện xin Đức Kitô là suối nguồn tình thương, nối kết mọi tâm hồn chúng con lại với nhau, như cành nho được nối kết cùng thân nho, để ngày càng phát triển và sinh nhiều hoa thơm trái tốt. Amen.
14. Của ăn cho cuộc sống muôn đời
(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)
Sách Xuất hành là sự tích của dân tộc Chúa được cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai cập và lưu hành trong 40 năm qua sa mạc để về đất Chúa hứa. Trong cuộc hành trình lâu dài ấy, vấn đề ẩm thực là mối lo hằng ngày. Nhưng Thiên Chúa là tình thương hằng lo lắng cho dân Người. Đành rằng suốt cuộc hành trình, không phải họ chỉ ăn chim cút và manna, mà còn nhiều thứ khác nữa như súc vật họ chăn nuôi và hoa quả cây rừng. Nhưng chim cút và manna là hai thực vật làm cho họ ngỡ ngàng và ghi nhớ hơn cả và họ coi đó là ơn Trời, là dấu chỉ hồng ân của Chúa.
Trong khi họ kêu rên, nhớ lại những “nồi thịt ở Ai cập” thì chiều hôm ấy có bầy chim cút bay tới rợp trời và sáng hôm sau, xung quanh trại, có những vật gì nhỏ nhỏ tròn tròn như bột sương đông đặc. Dân thấy vậy hỏi nhau: “man-hu” (cái gì vậy?) và Môsê nói: “Đó là bánh Chúa ban cho anh em ăn”. Từ đó, dân chúng gọi bánh ấy là manna, “bánh bởi trời”, bánh đó còn được lưu giữ trong hòm bia Nhà Tạm, như một tang chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Người. Bánh đó còn được gọi là “bánh ban sức mạnh”, “bánh các Thiên Thần”, hình ảnh mà Phaolô sẽ gọi là “của ăn thiêng liêng” ám chỉ phép Thánh Thể (Icor. 10,3).
Phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều xảy ra trên cánh đồng “đầy cỏ xanh” phía đông bắc biển hồ. Sáng hôm sau, dân chúng đi tìm Chúa, nhưng không gặp, họ liền xuống thuyền trở về Caphanaum và gặp Ngài ở đó.
Họ đi tìm, nhưng người ta đi tìm gì? Người ta hay đi tìm những thứ thỏa mãn nhu cầu vật chất như cơm ăn, áo mặc, nước uống, sức khỏe và đặt tất cả thời giờ vào việc ấy. Họ không đi tìm “điều cần thiết độc nhất” là Thiên Chúa, và Chúa Giêsu đến để làm cho họ hiểu điều đó. Họ lầm tưởng rằng Chúa đang còn ở bờ hồ bên này, nơi họ vừa được ăn no nê. Nhưng Chúa đã qua bờ bên kia rồi, nơi Chúa sẽ nuôi họ bằng của ăn thiêng liêng. Đành rằng Chúa không quên đời sống vật chất, cũng cần thiết, nên Chúa dạy phải xin của ăn lương thực hằng ngày. Nhưng Chúa đã qua bờ bên kia để dạy cho họ biết tìm kiếm một của ăn cần thiết hơn.
Vì thế, khi gặp lại họ, Gioan thuật lại bài giảng của Chúa về Bánh hằng sống: “Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng là vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng là vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa đã ghi dấu”.
Của ăn cuộc sống muôn đời mà Chúa muốn nói là của ăn gì? Hẳn là Gioan đã suy nghĩ và ghi sâu vào tâm khảm ý nghĩa đích thực Chúa muốn nói. Mấy lúc này, Chúa đã chuẩn bị tâm hồn các Môn đệ để họ chấp nhận cái chết của Ngài sắp xảy ra, để làm giá cứu chuộc nhân loại, như một của lễ hy sinh. Để cụ thể hóa việc sắp xảy ra, Ngài sẽ lập nên phép Thánh Thể trước mặt các ông. Thánh Thể và Thánh Giá gắn liền với nhau như hình với bóng không tách rời được. Vì thế, hôm nay Chúa nói rõ: “Ta bảo thật các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống Máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”. Chúa khêu gợi sự tò mò và chú ý của dân chúng để họ nghĩ đến một của ăn bí nhiệm mà Con Người sẽ ban cho họ…, một thứ manna đích thực “từ trời xuống và ban cho thế gian”. Nhưng họ không hiểu hay không muốn hiểu. Chúa kết kuận: “Chính Ta là bánh ban sự sống, ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ ”. Chúa đến để nuôi sống linh hồn chúng ta.
Trong trại cải tạo Cách mạng văn hóa của Mao Trạch Đông, có một ông già trạc 40 tuổi tên là Shah. Mọi người biết ông là một linh mục dòng Kitô. Ông rất có lòng bác ái thương người, giúp đỡ các bạn tù, trong số có một người ký giả Anh, Công giáo nhưng không giữ đạo. Một hôm giữa trời đông rét. Ông Shah kéo người bạn tóc vàng ra một nơi và hỏi:
- Anh là người Công giáo phải không?
- Phải
- Hôm nay là lễ Giáng Sinh, anh quên rồi! Thôi đi theo tôi, xuống hố đất đàng kia, tôi sẽ cùng anh dâng Thánh lễ.
Cả hai xuống một hố sâu có bờ đắp cao. Ông Shah giấu ở đó một mẩu bánh mì và một cái tô nhỏ có ít rượu nho. Giữa cảnh hoang lạnh, vị linh mục làm lễ… Người bạn tù cảm động, tự nhiên khịu xuống, ăn năn sám hối và được chịu lễ. Cả hai vội vàng bước lên khỏi hố. Một tên lính hỏi cha Shah:
- Mày đi đâu đàng kia?
- Hôm nay, lễ Giáng Sinh, giờ giải lao, tôi đi cầu nguyện!
Người lính dẫn ông đi và từ đó, người ta không còn gặp lại ông nữa! Người bạn tóc vàng sau đó được trả tự do và đã thuật lại thánh lễ Giáng Sinh của vị linh mục tên Shah, đã đưa ông trở lại với Chúa.
“Con người được ăn bánh của những vị hùng anh.
Người ban cho họ được bánh bởi trời”. (Tv. 77 – Đáp ca)
15. Lời ban sự sống.
Ngày xưa, có một người cha muốn chia gia tài cho các con. Ông vốn là một người nghèo, nhưng nhờ chuyên cần làm việc nên đã trở nên giàu có. Vì vậy, khi nằm trên giường bệnh, ông muốn trao phó cơ nghiệp cho người con nào thông minh nhất. Thế là ông cho gọi ba người con đến, trao cho mỗi người hai ngàn đồng bạc và bảo họ phải đi mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng của ông.
Người anh cả nghĩ rằng đấy chỉ là một công việc dễ dàng, nên anh đã ra chợ và mua về một bó rơm rất lớn. Người con thứ suy nghĩ kỹ hơn một tí, nên đã mua về một bao lông vịt. Còn người con thứ ba, nghĩ mãi nghĩ hoài mà vẫn chưa biết phải làm gì với hai ngàn đồng bạc cầm trong tay. Bỗng một ý nghĩ vụt sáng trong đầu óc thế là anh vội chạy ra tiệm tạp hóa, mua một cây nến và một hộp quẹt.
Ngày hôm sau, cả ba anh đem đến trước giường bệnh của người cha. Anh con cả hì hục vác vào một bó rơm, nhưng rơm không đủ phủ kín một góc nhà. Anh con thứ khoan khoái xách giỏ lông vịt, nhưng lông vịt cũng chỉ phủ được phần nào của căn phòng mà thôi. Giữa lúc người cha đang thất vọng thì anh con út bước vào. Trong chớp nhoáng, anh đánh diêm, thắp nến và căn phòng phủ đầy ánh sáng. Người cha mỉm cười, đắc ý về sự thông minh của anh con út và ông đã trao cho anh ta phần lớn gia tài của mình.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay và chúng ta thấy: Chúa Giêsu cũng muốn trao phó sự nghiệp của mình cho các môn đệ và Ngài không muốn nó bị tiêu tan. Trọn sự nghiệp ấy phải được lãnh hội, phải được đón nhận và phải được khai thác đúng mức.
Thực vậy, sau khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng dân chúng trong hoang địa. Lợi dụng vào đó, Ngài đã giới thiệu với họ một thứ của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn, đó là mình máu Thánh Ngài, như lời Ngài xác quyết: Thịt Ta là thật của ăn, máu Ta là thật của uống… Thế nhưng dân chúng và cả các môn đệ lại cho là chướng tai gai mắt, không thể nào chấp nhận được, cho nên họ đã rời bỏ Chúa. Trước tình cảnh ấy, Chúa Giêsu đã quay lại và hỏi các tông đồ: Còn các con, các con có muốn bỏ Ta mà đi hay không? Phêrô thay mặt cho nhóm mười hai đã tuyên xứng: Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống.
Lời tuyên xưng của Phêrô đã giúp chúng ta vượt lên trên những vấn đề thường ngày như cơm bánh, như sinh kế, như công việc làm ăn, đồng thời đưa chúng ta lên cao để nhìn rõ bản thân, mọi người và mọi sự theo quan điểm của Chúa, hầu thấy được rằng vạn vật tất cả đều do bởi Chúa.
Trong câu chuyện vừa nghe, chúng ta thấy: rơm và lông vịt không thể lấp đầy căn phòng, nhưng ánh sáng của cây nến do người con út thắp lên đã chiếm lĩnh toàn bộ căn phòng. Cũng vậy, với tấm bánh từ trời xuống là chính thịt máu Chúa, tự hiến cho loài người, thì cả nhân loại được tràn ngập tình yêu mến và lòng xót thương của Chúa. Bởi vì, chỉ nhờ ánh sáng đó mà con người mới thực sự được hạnh phúc.
16. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
TÌM KIẾM GIÁ TRỊ TUYỆT ĐỐI
Cách đây khoảng 10 năm, tại bang California bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.
Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Hiện nay trong nước ta, tại các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giầu có.
Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giầu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo ba-lô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô - tô. Có ô - tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.
Hôm nay, đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Đức Giêsu đã cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên chúa.
Thế nhưng ta tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên? Ta tìm đâu ra thứ bánh làm dịu được cơn đói hạnh phúc? Hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho ta thứ bánh đó. Đó là bánh đích thực, vì ăn rồi ta sẽ không bao giờ đói nữa. Đó là bánh ban sự sống, ai ăn sẽ không chết nữa. Đó là bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác. Đó là bánh Thiên Chúa ban chứ loài người không ban được. Đó là bánh từ trời chứ trần gian không sản xuất được. Tấm bánh đó là chính bản thân Người, Đức Giêsu Kitô.
Những người Do thái đã sai lầm khi đi tìm Đức Giêsu để được ăn bánh. Đức Giêsu đã cảnh tỉnh họ khi cho họ biết rằng không nên tìm bánh, vì như thế họ sẽ thất vọng. Bánh ăn rồi sẽ lại đói. Nhưng phải tìm chính Đức Giêsu. ở đây ta nhớ tới bài học Chúa đã dậy tổ phụ Ápraham. Thoạt tiên, Chúa kêu gọi tổ phụ Ápraham đi theo Chúa và hứa cho ông được một đất nước chảy sữa và mật và một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Nghe theo lời hứa, tổ phụ đã lên đường. Nhưng khi ông sinh được một người con trai duy nhất trong tuổi già, Chúa lại bảo ông phải sát tế dâng cho Chúa. Đây là một thử thách lớn lao, nhưng cũng là một lời mời gọi vươn lên. Ápraham được mời gọi thoát khỏi sự ràng buộc của lợi lộc vật chất. Theo Chúa chỉ vì Chúa chứ không phải vì lợi lộc vật chất. Ông hoàn toàn có lý vì ông đã chọn Chúa là sự Thiện tuyệt đối chứ không chỉ lựa chọn một vài sự thiện tương đối. Ông đã lựa chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc chứ không đuổi theo những ảo ảnh của hạnh phúc. Đức tin của ông hoàn toàn trưởng thành, nên ông đã trở thành Cha của những kẻ tin.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi, hãy noi gương tổ phụ Ápraham. Đừng tìm những mảnh vụn hạnh phúc, nhưng hãy đi đến nguồn mạch hạnh phúc. Đừng lo nắm giữ những của cải phù du, nhưng hãy tìm chiếm giữ kho tàng bền vững mối mọt không đục khoét được. Đừng đuổi theo những giá trị tương đối, nhưng hãy biết tìm kiếm giá trị tuyệt đối là chính Chúa. Chính Chúa sẽ làm ta no thoả. Chính Chúa sẽ lấp đầy những khát vọng của ta. Chính Chúa ban cho ta hạnh phúc tràn đầy, vĩnh viễn.
Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với thánh Âucơtinh: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có một thời người ta nói: “Đi đạo kiếm gạo mà ăn”. Bạn nghĩ gì về câu nói đó?
2) Mơ ước một đồ vật. Khi được rồi lại chán. Bạn có kinh nghiệm đó không?
3) Bạn có những khao khát về vật chất cũng như tinh thần. Khi đến với Đức Giêsu, bạn có thấy được thoả mãn phần nào không?
17. Ý Thiên Chúa - Ý con người
(Suy niệm của Anmai, CSsR)
Ý muốn của một người nào đó rất quan trọng trong cuộc đời nói chung và của con người đó nói riêng. Tuỳ hoàn cảnh, tuỳ chức vụ, ý muốn ấy sẽ chi phối theo hoàn cảnh và chức vụ ấy. Một người làm lớn mà quyết định chuyện gì thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ còn một người nhỏ dù có quyết định to thế nào đi chăng nữa thì cũng chẳng ảnh hưởng là bao. Cái nghịch lý trong cuộc đời này vẫn thường xảy ra và xảy ra "như cơm bữa" đó là con người vẫn thường lấy ý của mình và áp đặt cho đó là ý của Thiên Chúa.
Các bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay xoay quanh về ý của Thiên Chúa và ý của con người.
Trang sách Xuất hành đã kể lại việc cộng đồng con cái Israel nhớ "củ hành, củ tỏi" ở quê hương để rồi ai oán với cả ân nhân của mình. Thiên Chúa đã quá yêu con người để rồi bằng mọi cách và bằng mọi giá Thiên Chúa muốn cứu nhưng con người thì ngược lại. Nghĩ đi nghĩ lại Thiên Chúa hiền từ và dễ thương thật chứ không phải ở lời của Người nói. Dân chúng Israel kêu ca than thân trách phận và rồi Thiên Chúa đã ban bánh từ trời xuống để nuôi dân. Ý của con người là cứ ở lại với quê cha đất tổ còn ý của Thiên Chúa thì Thiên Chúa muốn cứu con người còn con người thì cứ lầm lũi với những cái lợi trước mắt, với cái gì là sung sướng cho bản thân.
Đó là những gì sách Xuất Hành thuật lại, rồi kế đến là tâm tình của Thánh Phaolô tông đồ gửi giáo đoàn Êphêsô. Không chỉ nói suông mà hôm nay lại còn "có Chúa chứng giám". Khi Ngài nói "có Chúa chứng giám" thì Ngài có ý muốn nhấn mạnh tâm tình của mình và khẳng định tâm tình ấy. Phải nói là nó rất quan trọng và ý nghĩa với cộng đoàn Êphêsô nên Ngài mới nói như vậy. Ngài nói là anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. Còn anh em, anh em đã chẳng học biết về Đức Kitô như vậy đâu; ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giêsu và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu. Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện. (Ep 4,20-24).
Hoá ra là Ngài biết dân ngoại từ xưa đã sống theo những tư tưởng phù phiếm, họ nhìn về Thiên Chúa, họ nhìn Chúa Giêsu dưới một lăng kính khác, dưới một chiều kích khác. Nơi Thánh Phaolô, Ngài có kinh nghiệm rõ nét về chuyện này. Ngày xưa, Ngài cũng lần bước trong con người cũ của Ngài là đi tìm vinh danh cho mình và đi bắt bới những người theo Chúa, những ai mang danh là Kitô hữu. Sau một chặng đường dài sống với con người cũ, sống với ý riêng của mình, Thánh Phaolô đã nhận ra rằng Thánh ý Thiên Chúa mới là quan trọng, sống với con người mới theo sự hướng dẫn của Thần Khí mới là điều đáng quan tâm. Ngài khuyên cộng đoàn Êphêsô đừng sống theo cái nhìn như vậy, theo quan niệm như vậy về Thiên Chúa. Quan niệm về Thiên Chúa của con người mới khác con người cũ. Không chỉ thế, Ngài còn nhấn mạnh rằng hãy cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới.
Ý tưởng trang Tin mừng hôm nay đã đẩy chuyện ý Thiên Chúa và ý con người lên một mức cao hơn. Chúa Giêsu đã không ngần ngại nói thẳng với những người đang có mặt ở đó với Chúa: "Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến." (Ga 6, 29).
Vấn đề là ở chỗ đó, là ở chỗ việc Thiên Chúa muốn cho các ông chứ không phải là chuyện các ông muốn. Thường, tâm trạng của con người thì những gì mang lợi lộc, mang sự dễ dãi đến cho mình thì con người đều quy về ý của Chúa, mỗi lúc cuộc đời gặp đau khổ, khó khăn thì sẵn sàng oán trách Chúa không thương tiếc. Nếu Chúa ban cho cuộc sống đầy đủ thì không ngớt lời tôn dương và chúc tụng nhưng khi cuộc đời gặp một chút gì đó thì bỏ Chúa và không tin Chúa nữa. Điều mà Thiên Chúa muốn quá rõ: đó là tin thật vào Ngài chứ không chỉ tin bằng môi bằng miệng. Chúa Giêsu, vì biết rõ lòng dạ của những người có mặt với Chúa ngày hôm đó nên Ngài đã không ngần ngại cảnh tỉnh họ về ý của Thiên Chúa.
Trở lại với trang Tin mừng tuần trước, dân chúng sau khi được ăn bánh no nê đã tìm cách tôn vinh Chúa Giêsu làm vua. Thế nhưng, Chúa Giêsu biết tỏng tòng tong lòng dạ của họ nên Ngài lánh đi một nơi. Vì những người có mặt ngày hôm ấy cũng như nhiều người khác vẫn sống theo cái ham muốn thể xác của mình là no cơm ấm áo nên tôn vinh Chúa làm vua chứ thật sự lòng của họ không phải như vậy. Thế đấy, ý Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn ý của con người.
Nhắc đến ý Thiên Chúa và ý con người, ta sẽ không khỏi nhịn cười được vì trong chính đời thường của mỗi người chúng ta. Nếu ý nào đó hợp lòng ta, mang lại cho ta thì ta bảo: "ý Chúa" còn nếu ý nào phật lòng ta thì ta lồng lộn lên và thậm chí còn oán trách và bỏ rơi Chúa.
Đôi lúc ngẫm nghĩ thấy thương Chúa thật. Chúa quả là quá hiền từ và dễ thương. Dễ thương đến độ con người dù ca khen, dù oán hờn chửi bới và vu oan cho Chúa thế nào Chúa vẫn lặng lẽ và lặng lẽ. Bi đát nhất đó là những người có chức có quyền và cầm quyền trên người khác. Nhiều và nhiều quyết định mang cảm tính hết sức con người nhưng lại bảo đó là ý Chúa mới chết người.
Một cái ví dụ hết sức nhỏ nhoi và đơn giản. Dưới con mắt của các đấng bậc có trách nhiệm đào tạo và con mắt bình thường của người đời thì những ai ngoan ngoãn, dạ bảo dạ, vâng bảo vâng thì các vị cũng như mọi người đánh giá hết sức là cao về những con người ngoan ngoãn vâng dạ ấy. Mỗi khi nhận xét hay quyết định gì thì không hế ngần ngại "châu phê" là người ấy tốt và người ấy có ơn gọi. Ý Chúa là gười đó có ơn gọi, còn ngược lại, những người không biết "bẩm - dạ" thì cũng sẽ bảo rằng cũng đó là ý Chúa cho kẻ không biết "đi bằng đầu gối" là không có ơn gọi.
Thật ra, chuyện này hết sức tế nhị nhưng phải trả lẽ trước mặt Chúa về những cảm tính hết sức cá nhân mà lại gán cho là "ý Chúa"! Chúa quá hiền đến độ người ta muốn nói gì thì nói. Người ta nói xuôi Chúa cũng chẳng nói gì và người ta nói ngược ta cũng thấy Chúa chẳng chịu nói gì.
Qua các bài đọc, đặc biệt là Tin mừng hôm nay, chúng ta có dịp dừng chân nhìn lại từng biến cố trong cuộc đời của ta, từng quyết định của ta. Những biến cố xảy đến và những quyết định của ta như thế nào? Có phải là của Chúa thật sự hay là của ta rồi ta gán cho Chúa.
Hơn một lần Chúa Giêsu đã nói: Lương thực của ta là thi hành ý muốn của Cha ta.
Quả thế, lương thực thật sự, lương thực trường tồn của Chúa chính là ở chỗ thi hành ý của Cha chứ không phải là theo ý của ta.
Một lần nọ, vào bệnh viện thăm người quen, có một người kia không ngần ngại tâm sự rằng chị ta đã bỏ Chúa 10 năm rồi. Hỏi lý do sao bỏ Chúa thì chị nói là vì mãi mê lo làm ăn kiếm tiền. Tôi bèn hỏi chị là dư được bao nhiêu tiền gửi trong ngân hàng và chị nói là không có đồng nào mà hiện nay nằm bệnh viện còn phải đi vay mượn!?
Thì ra là 10 năm bỏ Chúa để loay hoay với đồng tiền nhưng cuối cùng không có dư đồng nào mà thậm chí còn mang nợ!
Hai vợ chồng kia cũng thật thà tự thú là bỏ Chúa 4 mùa Phục Sinh. 4 mùa Phục Sinh qua đi mà gia đình cứ mãi sống trong vất vả và nay người vợ còn mang trong mình tật bệnh nữa!
Thế đấy! Người ta đã tước đoạt thánh ý của Chúa trên cuộc đời của người ta, người ta đã đẩy Chúa ra khỏi cuộc đời người ta để người ta làm theo ý của mình. Thế nhưng, thử hỏi trong những năm tháng dài đẩy thánh ý của Chúa ra khỏi đời mình để mình thực thi ý mình thì mình được gì?
Quá nhiều lần và phải nói là quá nhiều lần trong cuộc đời, con người đã bỏ ý Thiên Chúa ra khỏi đời mình để thực thi ý mình. Rốt cuộc như thế nào thì con người đã rõ.
Hôm nay, một lần nữa, đứng trước lời cảnh tỉnh của Chúa với đám đông dân chúng về ý của Thiên Chúa muốn, chúng ta làm gì, chúng ta sẽ trả lời với Chúa như thế nào? Chúng ta làm gì, trả lời với Chúa như thế nào đó chính là tuỳ thuộc tự do của mỗi người chúng ta.
18. Lương thực các Thiên Thần
(Suy niệm của An Phong, OP)
Tin mừng hôm nay là một phần trong diễn từ Bánh Sự Sống. Từ nhu cầu bánh ăn hàng ngày, Đức Giêsu kêu gọi người ta nhân ra nhu cầu "Bánh Sự Sống" và Người khẳng định mình chính là Sự Sống đích thực.
Những người tuôn đến với Đức Giêsu chắc chắn vẫn còn nhớ đến bữa ăn no nê do phép lạ Đức Giêsu đã làm từ năm chiếc bánh và hai con cá. Phép lạ đó làm cho người ta yên chí rằng Người sẽ còn mang lại cho họ những điều may mắn, sung sướng hay lợi lộc nào khác.
Những người Galilê đã chứng kiến phép lạ này, thay vì nhận ra đó là dấu chỉ hướng dẫn mình đi xa hơn, thì lại chỉ nghĩ đến những lợi lộc trước mắt; họ mới chỉ "tin" vào Đức Giêsu như người bảo vệ những quyền lợi riêng tư, như người phục vụ cho đời sống trần gian của họ.
Đức Giêsu hiểu rõ tâm hồn con người hơn bất cứ ai khác. Người biết họ tìm đến với Người vì điều gì. "Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê".
Đức Giêsu nhấn mạnh đến từ "dấu lạ" để kêu gọi người ta biết nhìn xa hơn, tin vào Chúa trọn vẹn hơn.
Chẳng những Người lưu ý đến những nhu cầu ăn uống, nhu cầu vật chất của con người, nhưng Người còn là Đấng Cứu độ trọn vẹn thân phận làm người nữa.
Phải chăng nhiều người chúng ta vẫn "đi đạo" như thể "đi chợ"; chúng ta muốn Thiên Chúa cung cấp cho chúng ta những "hành, tỏi, tiêu, ớt" như một thứ gia vị cho cuộc sống mà thôi. Chúng ta chưa nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài nuôi cuộc sống nhân loại bằng chính tình yêu thương lớn lao để chúng ta được đầy sức mạnh trên bước đường đời: Ngài nói với ta lời chân lý có sức giải thoát mọi lầm lạc: Ngài cứu độ nhân loại bằng chính sự sống thần linh để chúng ta được sống cùng với Người và sống trong Người. Như thế, một đức Tin thực sự phải có thể nói lên rằng: Đức Giêsu là tất cả đối với tôi. Tôi sẽ khám phá Người chính là "Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi không hề phải đói; ai tin vào Tôi không khát bao giờ".
Nhưng dẫu sao, Đức Giêsu vẫn thuơng con người. Người nhắc nhủ những lời ngọt ngào thân ái: "Hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn, đem lại phúc trường sinh". Người kêu gọi" "Hãy tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến"; và hãy yêu mến Thiên Chúa "hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn" (Mc 12,30).
Lạy Chúa,
Xin cho những hạt giống đức tin mọc lên trên thửa đất tốt của cầu nguyện, trở thành những cây cao chất chứa ánh sáng, mọc trên các nẻo đường của Nước Trời.
Vì Nước Trời giống như một hạt cải li ti, mong manh được gieo trong lòng chúng con, một hạt cải chỉ chờ ngày nảy mầm để trỗ sinh hoa trái nếu chúng con biết vun trồng.
19. Bánh đích thực.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Dân chúng vẫn còn sôi nổi sau phép lạ bánh hoá nhiều.
Hôm sau, họ lên thuyền qua bờ bên kia để tìm Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy nỗ lực tìm kiếm của họ. Ngài biết họ tìm Ngài chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự... Miếng ăn là nỗi lo của người nghèo vùng Galilê. Đó cũng là nỗi lo của hàng tỉ người trên thế giới. Đức Giêsu không trách họ về chuyện này. Ngài chỉ muốn nâng họ lên cao hơn, bởi lẽ con người không chỉ là thân xác.
Dân chúng vất vả tìm chút lương thực mau qua. Đức Giêsu muốn họ đừng quên thứ lương thực thường tồn nhằm nuôi dưỡng tinh thần và đem lại sự sống vĩnh cửu.
Người dân Galilê chỉ nhớ đến chiếc bánh hôm qua. Họ bị sa lầy và ngừng lại trong phép lạ. Họ không thể đi xa hơn và cũng không mơ ước gì hơn.
Con người hôm nay có nét giống đám đông ngày xưa. Người nghèo thì bị hút vào công việc lam lũ nhọc nhằn, để thỏa mãn cái đói cấp bách của thân xác. Người giàu thì mê mải với bao tiện nghi đang mời gọi. Họ bị ám ảnh và chạy đua với những mặt hàng mới. Rốt cuộc, kẻ nghèo người giàu đều có nguy cơ như nhau, đó là đánh mất đi cái đói khát tinh thần, mãn nguyện với cái bụng no, hay với thứ nữ trang đắt giá.
Thật ra, cũng khó dập tắt nỗi khát khao về Tuyệt Đối mà Thiên Chúa đã đặt rất sâu trong lòng người.
Mọi thứ thức ăn trần gian, con người không lấy làm đủ. Người nghèo không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần tình thương. Người giàu dư cơm bánh, nhưng lại cần lẽ sống. Không thiếu những bạn trẻ nhà giàu, có học, có tương lai, nhưng lại thất vọng chán chường, thậm chí rơi vào trụy lạc. Họ có tất cả, nhưng vẫn thấy thiếu cái gì đó... Thiếu cái này thì mọi thứ khác trở thành thừa. Có khi sống sa đọa lại là cách họ biểu lộ cơn đói khác vô cùng về những điều cao cả.
Đức Giêsu khơi dậy những khát khao tốt đẹp đang ngủ quên. Ngài không cho dân chúng thứ manna từ trời rơi xuống, để mỗi ngày họ phải lượm mà ăn.
Ngài cho họ thứ bánh bởi trời đích thực, bánh ban sự sống đời đời cho toàn thế giới.
"Xin cho chúng tôi thứ bánh đó luôn luôn"
"Xin ông cho tôi thứ nước ấy" (Ga 4, 15).
Con người vẫn đói khát thức ăn tinh thần. Cơn đói này còn kinh khủng hơn cả cơn đói thân xác.
Hãy đến với Giêsu! Hãy tin vào Giêsu! Nếu bạn khao khát Tuyệt Đối thì chỉ Tuyệt Đối mới làm bạn no thỏa. Tuyệt Đối đã hiện diện nơi Đức Giêsu.
Ước chi bạn để cho Ngài nuôi bằng lời giáo huấn, và tin tưởng dấn thân theo Ngài bằng cả cuộc đời.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi nói đến thức ăn tinh thần, người ta nghĩ ngay đến báo chí, sách vở, các phương tiện truyền thông đại chúng như tivi, phim ảnh, video. Bạn đánh giá thế nào về các món ăn tinh thần này? Bạn thích hình thức giải trí nào hơn cả?
Bạn có những khát vọng về mặt vật chất cũng như tinh thần. Khi đến với Đức Giêsu, bạn có thấy mình được mãn nguyện chút nào không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Những lúc con cảm thấy đói, xin ban cho con một ai đó đang cần của ăn.
Khi con khát, xin gởi đến cho con một ai đó đang cần nước uống.
Khi con lạnh lẽo, xin gởi đến cho con một ai đó đang cần được sưởi.
Khi con bị xúc phạm, xin ban cho con một ai đó đang cần ủi an.
Khi thập giá của con trở nên nặng nề, xin ban cho con thập giá của một người khác để cùng chia sẻ.
Khi con túng nghèo, xin dẫn đến cho con một người thiếu thốn.
Khi con không có thời giờ, xin ban cho con ai đó để con giúp họ giây lát.
Khi con nản chí, xin gởi đến cho con một người cần khích lệ.
Khi con chỉ biết nghĩ đến mình, xin xoay chuyển tư tưởng con hướng đến tha nhân.
20. Chính là Cha tôi cho các ông ăn
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Ty)
Sau phép lạ Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều, dân chúng bủa đi kiếm tìm Người; họ thật khẩn khoản, “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” Tuy nhiên điều này không làm cho Người hài lòng, vì Người biết quá rõ, họ kiếm tìm Người chỉ để được ăn bánh; “Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng… vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Sau phép lạ, Đức Giêsu đã phải ‘lánh mặt, đi lên núi một mình’ vì biết rằng: cho dầu họ có muốn tôn Người lên làm vua đi nữa, thì chẳng qua cũng chỉ vì muốn được tiếp tục ăn bánh, chứ chẳng phải vì muốn chấp nhận Người, lắng nghe lời Người, và còn xa lạ hơn nữa, nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ.
“Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc như có lời chép: người đã cho họ ăn bánh bởi trời… ” còn ông “ông sẽ làm gì đây?” Vấn đề được người Do Thái đặt ra đã rõ: ông cho chúng tôi ăn thứ bánh gì? Đúng là phần lớn diễn từ sau đó (đúng hơn, một cuộc tranh luận) sẽ xoay quanh vấn đề thứ bánh gì, thứ ‘bánh hay hư nát’ hay ‘bánh trường sinh’ đơn giản là vì, đó là mối quan tâm - thắc mắc hàng đầu họ đặt ra cho Người. Tuy nhiên hầu như ngay lập tức và xuyên suốt trong cuộc trao đổi tiếp theo, Đức Giêsu luôn gợi cho họ nhớ về ‘người ban bánh và kẻ cho họ ăn’; “Không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời”. Ngay cả sau đó, khi tự giới thiệu mình là ‘bánh trường sinh’, thì Người cũng không quên nhắc nhở rằng, Người đồng thời cũng là đấng ban tặng, vì được Chúa Cha sai đến.
Nếu chỉ nhìn vào bánh như một thứ thức ăn, người ta sẽ dễ dàng có những đánh giá khác nhau. Man-na không được sách Xuất Hành (chương 16) xác định rõ là thức ăn gì (nếu có chút đề cập thì cũng rất chung chung (xem Xh 16:31)). Sách chỉ nhấn mạnh trên sự kiện, nó được Gia-vê ban cho dân làm của ăn hàng ngày suốt hành trình gian khổ trong sa mạc. Man-na trước hết là dấu chỉ Gia-vê ân cần chăm sóc dân riêng trong thời gian xuất hành giải thoát; “Vào buổi chiều các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng các ngươi sẽ được ăn bánh thỏa thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi’ (câu 12). Ngược lại, trong sách Dân Số (chương 11), khi dân ta lên tiếng ta thán Mô-sê, thì Man-na bị chê là không ra gì hết, ‘… bây giờ chỉ thấy toàn Man-na thôi… nó như hạt ngô, trông như nhựa hương… xay ra nấu bánh thì mùi vị nó chẳng khác gì mùi vị bánh chiên dầu…’ (câu 7 và 8). Thế đấy, người Do Thái thời Đức Giêsu chưa tới nỗi chê bánh và cá mà Người đã hóa ra nhiều cho họ được ăn no nê, dầu có thể thức ăn bình dân đó chẳng ngon lành gì cho lắm (nếu là ngày nay, nhất là trong một xã hội sung túc hưởng thụ, có lẽ chúng ta sẽ lên tiếng ta thán vì bánh đó nhàm chán nhạt nhẽo quá chăng). Tuy nhiên phát biểu của họ cho thấy, họ đã hoàn toàn quên mất việc nhận biết ai đã cho họ ăn, và tại sao lại cho. Họ lầm tưởng vào thời cha ông họ, Mô-sê đã cho Man-na là để… tiếp tục lãnh đạo dân, thì nay ông Giêsu cũng làm vì một lý do tương tự; ‘Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây?’ (Ds 11:4) Đức Giêsu đã muốn gợi cho họ nhớ lại mục tiêu chính mà sách Xuất Hành nhắm tới khi tường thuật về Man-na: ‘chính Cha tôi đã cho…’ Tiếp theo đó, khi khảng định chính mình là bánh bởi trời, bánh trường sinh, thì đồng thời Đức Giêsu cũng xác định luôn, Người cũng chính là Đấng ban bánh cho họ, “bánh tôi sẽ ban tặng…” (câu 51), và Người kêu gọi họ không những chỉ đón nhận bánh, mà còn hãy đến với ‘người cho’, đồng thời với Đấng đàng sau ‘người cho’ đó nữa; “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và sẽ không bị loại ra ngoài… Ý của Cha là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời…” (câu 37 và 40). Mục đích tối hậu của việc ăn bánh trường sinh chính là: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.”
Ăn bánh trường sinh là tin và tiếp nhận trọn vẹn Thiên Chúa tình yêu trao hiến mình cho con người; là hành vi chạm sâu sát nhất tới sự chăm sóc tuyệt diệu của Thiên Chúa đối với con người yếu hèn tội lỗi. Tương tự như khi xưa, dân Do Thái thu gom Man-na để “biết rằng Ta là Đức Chúa”, thì nay Kit-tô hữu rước Mình Máu Thánh Chúa để tuyên xưng: Thiên Chúa là tình yêu tuyệt hảo, là tình yêu nhân từ và thương xót, là tình yêu cứu chuộc và trao ban. Mô-sê đã lưu trữ một đấu Man-na trong bình và đặt nó trong cung thánh ‘để giữ lại cho con cháu anh em…’ (Xh 16:53). Cũng thế nếu Bánh Thánh ngày nay có được giữ lại trong nhà tạm, mục đích chính cũng là để gợi nhớ về tình yêu nhân ái này, hơn là chỉ để được thờ lạy kính tôn.
Lạy Bánh Trường Sinh nhiệm mầu, xin cho con hiểu: nếu bánh và người cho bánh chỉ là một, thế có nghĩa là người đó đã trao ban hết, trao ban trọn vẹn chính mình. Bây giờ thì con đã rõ hơn: Thánh Thể và Thập Giá chỉ là một, vì đều là tình yêu tự trao ban đến cạn kiệt. Xin cho con rước lễ sốt sáng như con đường độc đạo đưa con vào chính tình yêu trao ban đó, để rước lễ trở nên cho con nguồn dâng hiến và phục vụ, trọn vẹn và mãi mãi. Amen.
21. Tìm kiếm Chúa Giêsu. – Guy Morin.
Chúa Giêsu vừa mới nuôi năm ngàn người với năm chiếc bánh và hai con cá. Lạ lùng thật. Từ thời Môsê tới lúc đó người ta chưa hề thấy một điều lạ nào như vậy. Thế là đám đông coi Ngài như vị giải phóng mà Thiên Chúa đã hứa và họ chuẩn bị tôn vinh Ngài làm vua. Nhưng vô ích thôi, Ngài đã dự đoán trước chuyện này và Ngài rút lui lên núi một mình trong lúc các môn đệ chèo thuyền sang bờ bên kia. Và giữa đêm khuya Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến gặp các ông.
Ngày hôm sau, dân chúng nhận thấy rằng vị vua của họ đã thoát khỏi tay họ. Ngài đã đặt một cái hố ngăn cách giữa họ và Ngài. Nhưng họ không chịu thua. Họ tức tốc lên thuyền và qua bờ bên kia để “tìm kiếm Chúa Giêsu”.
Thật cảm động khi thấy đám đông này theo đuổi Chúa Giêsu. Họ nhìn nhận Ngài là một Đấng cao cả. Họ cảm thấy Thiên Chúa hiện diện nơi Ngài và thấy Ngài có quyền uy làm cho họ được no nê, thỏa mãn mọi nhu cầu của họ. Một cuộc tìm kiếm thật xúc động và bi đát, vì những người này tỏ ra không thể gặp Ngài đúng nơi Ngài muốn được gặp. Với tất cả tài khéo léo và nỗ lực họ chèo hết tốc độ hướng về Chúa Giêsu, tuy nhiên về mặt thiêng liêng họ vẫn xa cách Ngài. Họ tìm kiếm Ngài và đã gặp được Ngài, nhưng chỉ gặp Ngài ở một bình diện chẳng mang đến một lợi ích nào, và việc khám phá của họ cũng chỉ là uổng công. Họ đứng trước mặt Chúa Giêsu, nhưng không tiếp xúc được với Ngài.
Chúng ta có khác họ lắm không? Đôi khi chúng ta cũng tìm kiếm Chúa Giêsu ở nơi không có Ngài và gặp được Ngài nơi Ngài không hiện diện. Thường thường ta chờ đợi nơi Ngài những điều khác hẳn với những gì Ngài muốn ban cho ta và những điều ấy đã đánh lạc hướng tìm kiếm của chúng ta.
Tìm kiếm từ phép lạ.
Chúa Giêsu nói với người Do Thái: “Anh em tìm kiếm tôi không phải vì anh em đã nhìn thấy những dấu lạ, nhưng bởi vì anh em đã được ăn no”. Những người Do Thái nhìn Chúa Giêsu như một người cung cấp lương thực. Họ nhìn đúng. Nhưng Ngài trách họ đã không nhận ra ý nghĩa của biến cố này. Họ lợi dụng nó, mà không suy nghĩ gì hơn nữa. Họ dừng lại ở mức độ một việc cứu đói và làm cho dấu chỉ mà Thiên Chúa ban cho họ trở nên vô ích.
Xa hơn nữa, khi Chúa Giêsu tuyên bố rằng Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến, người Do Thái lại đòi Ngài làm một dấu lạ để họ tin vào Ngài, họ đòi hỏi những bằng chứng: “Ông làm được dấu lạ nào, để khi nhìn thấy, chúng tôi có thể tin?”. Đi xa hơn nữa họ muốn Ngài tái diễn phép lạ manna trong sa mạc, thứ bánh từ trời mà đến.
Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa liên lỉ ban cho loài người những dấu lạ để khơi dậy niềm tin của họ. Chính Ngài đưa ra sáng kiến và chọn những dấu chỉ của Ngài. Ngài từ chối không chịu để cho con người áp đặt những dấu chỉ mà họ muốn Ngài phải làm, vì có những dấu chỉ không phục vụ cho đức tin. Vậy nên Chúa Giêsu luôn luôn từ chối những cử chỉ biểu lộ quyền năng. Những phép lạ của Ngài không hề muốn cưỡng ép đức tin của ai cả, nhưng khiến họ tự hỏi về Ngài. Ngài không làm dấu lạ theo đơn đặt hàng. Ngài ban cho dấu lạ của Giona nhưng không phải dấu lạ về con cá voi, nhưng là dấu lạ về việc rao giảng của ông. Dân thành Ninivê không đòi ông Giona phải làm một dấu lạ lẫy lừng: Chỉ nguyên lời rao giảng của ông đã hoán cải họ. Lời của ông đã có được hiệu năng nơi chính nó.
Cũng vậy, người Do Thái phải nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến, bởi uy tín của Lời Ngài. Ngài từ chối thực hiện một dấu lạ từ trời để làm cho họ tin. Chính nơi nội tâm con người mà Lời Chúa phải phát sinh hiệu quả chứ không phải nhờ một dấu lạ làm quáng mắt họ. Tìm kiếm Thiên Chúa qua những dấu lạ lẫy lừng, sẽ không gặp được Ngài. Vì nơi Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã không muốn tỏ ra mình là Đấng quyền năng và thi thố quyền năng bằng những việc lạ lùng, nhưng chỉ là Đấng Cứu Độ con người mà thôi.
Tìm kiếm, tức là tin.
Bị thách thức bởi sự tiếp đón khá lạnh nhạt của Chúa Giêsu, những người Do Thái kia mới hỏi: “Chúng tôi phải làm gì, để gọi là làm công việc của Thiên Chúa?” Chúa Giêsu trả lời: “Công việc của Thiên Chúa, là anh em tin vào Đấng Ngài đã sai đến”.
Câu hỏi ở số nhiều. Người Do Thái muốn biết Thiên Chúa chờ đợi nơi họ những công việc nào: Những kinh nguyện nào, những việc bố thí nào, những việc dâng cúng nào, v.v… Họ muốn những chỉ thị cụ thể và chính xác. Chúa Giêsu trả lời họ ở số ít. Thiên Chúa chỉ đòi hỏi nơi họ một việc thôi, đó là tin vào Đấng Ngài đã sai đến. Thậm chí không phải là một việc làm nữa, nhưng là tin. Và đó là việc của Thiên Chúa hơn là của con người. Đó thực sự là việc của Thiên Chúa, việc phát xuất từ Ngài. Phần của con người là đón nhận hồng ân Thiên Chúa, ban nơi Chúa Giêsu Kitô.
Dĩ nhiên các việc lành không phải là không đáng kể, thậm chí còn cần thiết nữa. Nhưng sự sống đời đời trước hết là tin theo Chúa Giêsu. Sau đó phục vụ Thiên Chúa và đồng loại.
Ở đây Chúa Giêsu khẳng định vị trí ưu tiên tuyệt đối của đức tin. Tìm kiếm Thiên Chúa, tức là thiết lập với Ngài một mối tương quan sâu xa, tức là cởi mở đối với lời mời gọi mà Ngài gửi đến chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô, điều mà thánh Phaolô gọi là sự vâng phục của đức tin. Hôm nay chúng ta đừng khép kín lòng mình lại, và hãy dành chỗ cho Lời Chúa trong đời sống chúng ta.
22. Suy niệm của Giuse Đỗ Văn Phi, OP
Ta là bánh trường sinh
Ai đến cùng Ta, không hề phải đói
LỜI DẪN:
Kính thưa cộng đoàn,
Cơm ăn, áo mặc, nước uống, thuốc men, nhà cửa, xe cộ, tiền tài, danh vọng… có thể giúp cho con người kéo dài sự sống, được khoẻ mạnh, được sung túc... Thế nhưng, những thứ đó lại không thể đảm bảo cho con người thoát khỏi cái chết cho dẫu người ta có sở hữu nhiều của cải vật chất đến đâu đi chăng nữa. Vậy mà, biết bao người vẫn mải mê đi tìm thứ lương thực mau qua chóng mất ấy, khiến Đức Giêsu phải nhắc nhở: “Anh em hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.
Lương thực đem lại phúc trường sinh ấy chính là con người của Đức Giêsu như Ngài đã khẳng định: “Chính Ngài là bánh trường sinh”.
Trong những giây phút ngắn ngủi được ở bên Chúa hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta được luôn ghi nhớ lời dạy của Chúa và ra công làm việc hơn nữa, để có thể gặt hái được thứ lương thực Ngài đã hứa.
SUY NIỆM:
Trong các chiến dịch tranh cử, các ứng viên thường đưa ra nhiều lời hứa, nhiều chương trình cải cách, nhiều viễn tượng tốt đẹp… cho một tương lai sáng lạn hơn để thuyết phục mọi người dồn phiếu cho mình. Tuy nhiên, biết bao nhiêu lần trong lịch sử, lời hứa đó chỉ là lời hứa suông, viễn cảnh tốt đẹp kia chỉ là “bánh vẽ”; hết nhiệm kỳ, đôi khi tình trạng lại còn tồi tệ hơn trước.
Còn trong đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu khẳng định Ngài chính là “Bánh Trường Sinh” và Ngài hứa rằng: “Ai đến với Ngài, không hề phải đói; ai tin vào Ngài, chẳng khát bao giờ!”. Đức Giêsu đã không hứa suông; Ngài đã hứa điều đó sau phép lạ hoá bánh ra nhiều như một minh hoạ cho lời hứa. Lời hứa ấy được ký kết bằng bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly, được hoàn tất bằng chính cái chết và sự phục sinh của Ngài. Một lời hứa ngàn vàng không đổi được vì được bảo chứng bằng chính mạng sống của Con Thiên Chúa.
Chúng ta biết rằng: Chúng ta được tạo thành nhờ Thiên Chúa và cho Thiên Chúa, dù chúng ta có muốn hay không. Cơn đói khát thực sự của chúng ta là đói khát Thiên Chúa. Vì thế, mọi lương thực trần gian mau hư nát chỉ làm cho con người thèm khát thêm mà thôi. Lương thực đích thực và duy nhất của chúng ta là lương thực phát xuất từ Thiên Chúa. Ngoài Thiên Chúa, không có gì có thể làm thoả mãn con người hoàn toàn được.
Vì vậy, Chúa Giêsu đã và đang mời gọi chúng ta hãy đến với Ngài để cho chúng ta được no thoả, vì Ngài là “Bánh trường sinh”, là “Nước hằng sống”. Người không lừa dối chúng ta đâu, chỉ có chúng ta có chịu tin vào Ngài hay không mà thôi.
Vì đã hứa nên Chúa Giêsu đã chấp nhận cái chết để cho chúng ta được sống. Còn chúng ta đã hứa gì với Ngài? Và chúng ta đã thực hiện lời hứa ấy ra sao?
Chúng ta hãy năng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để tâm sự, để chia sẻ với Chúa những vui-buồn, sướng-khổ, những thành công và những thất bại chúng ta gặp trong cuộc sống để được Ngài nâng đỡ, ủi an và bổ sức cho.
Mỗi khi có thể, chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn mình cho xứng hợp để rước lấy Mình và Máu Thánh Chúa, để linh hồn chúng ta không còn phải đói, phải khát nữa.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, đức tin chúng con còn yếu đuối, xin củng cố và nâng đỡ để chúng con luôn có Ngài trong cuộc sống, để cho lời hứa của Ngài thành sự trên chúng con và giúp chúng con biết loan truyền Lời Ngài bằng chính niềm tin và cuộc sống của chúng con. Amen.
23. Làm hay là?
(Suy niệm của Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Lời tuyên bố gây sững sờ
Đoạn văn hôm nay mở đầu cho cuộc đối thoại dài giữa Đức Giêsu với đám đông dân chúng muốn tôn Người làm vua, sau khi họ được chứng kiến phép lạ hoá bánh ra nhiều. Cuộc đối thoại này được gọi là diễn từ về bánh trường sinh, trong đó Đức Giêsu đáp lại việc tìm kiếm của đám đông dân chúng qua những tuyên bố quan trọng, nhưng họ không hiểu nỗi. Đức Giêsu cố gắng giải thích cho họ hiểu tầm mức sâu xa của những điều mới xảy ra. Bánh Người vừa ban cho đám đông mới chỉ là một dấu chỉ, qua đó Người loan báo một thực tại còn sâu sắc hơn nhiều. Thực tại ấy là nguồn mạch đích thực của sự sống, bởi vì nó không chỉ diễn tả tình yêu, nhưng chính là tình yêu.
. "Tôi là bánh trường sinh"
Một tuyên bố đầy mâu thuẫn và có tính khiêu khích. Lời tuyên bố này buộc các thính giả phải đặt mình vào một tầm mức hoàn toàn khác hẳn với cuộc sống thể chất. Họ phải tự đặt câu hỏi cho chính mình: Đâu là khát vọng cơ bản đang thúc đẩy họ? Phải chăng họ là những người đang ở trong tình trạng no nê, thoả mãn vì đã được ăn và bây giờ không còn đói? Họ có cảm thấy khao khát một chuyện gì khác không, và chuyện đó là gì?
Lời tuyên bố của Đức Giêsu không có ý nói bánh ăn của con người không làm cho họ cảm thấy ngon miệng. Người cũng không nói với họ là nhu cầu ăn uống không cần thiết nữa và phải loại bỏ. Người có ý buộc họ phải đào sâu khát vọng của mình: họ có mong muốn được sống vĩnh cửu hay chỉ sống đời này? Người cho họ hiểu rằng con người không thể sống được nếu không có mối liên hệ với thế giới đang nuôi dưỡng mình. Con người không thể sống được nếu không có mối liên hệ với người khác cũng như với chính mình.
Đó là điều Đức Giêsu muốn đề nghị qua lời tuyên bố "Tôi là bánh trường sinh."
. "Việc Thiên Chúa muốn là các ông tin..."
Khi đám đông đến gặp Đức Giêsu, Người đã nói với họ: "Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê". Đức Giêsu biết dân chúng đi tìm Người không phải vì đã hiểu được dấu lạ hoá bánh ra nhiều, nhưng vì những mục đích phàm trần. Trong thâm sâu, có lẽ Đức Giêsu muốn nói với họ rằng: "Việc các ông phải làm là đừng tìm kiếm thứ của ăn hư nát, nhưng là nhận ra trong dấu lạ tôi vừa thực hiện là hành động của Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã trao cho tôi làm thay và tôi là người do Chúa Cha sai đến. Hãy tin vào tôi, đó là việc các ông phải làm".
Lời tuyên bố làm đám đông ngạc nhiên, chưng hửng.
Tin vào tôi tức là vào Đức Giêsu, người đang nói chuyện với đám đông. Đây không phải là tin cách mù quáng nhưng là đi vào trong nhãn quan mới của người đang nói chuyện. Tin Đức Giêsu là Đấng được Chúa Cha sai đến có nghĩa là khám phá nơi chính bản thân mình ý nghĩa về cuộc sống của mình, về khát vọng cũng như lời mời gọi của mình.
Lời đề nghị của Đức Giêsu không bảo người ta phải rút lui, nhưng thúc đẩy họ đạt đến chân lý sâu xa đang ẩn giấu nơi tâm hồn con người, vì con người che giấu chân lý.
Về phần mình, qua hành động, qua cuộc sống và cái chết, Đức Giêsu buộc mỗi người phải đối diện với thực tại ấy. Ai chấp nhận mở ra, người ấy vượt lên trên những biểu hiện bên ngoài, hiểu được nền tảng của thực tại và họ sống.
Cuộc đối thoại quyết liệt
Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và đám đông quả là một thứ bi kịch. Đức Giêsu muốn bày tỏ những điều bí nhiệm, còn dân chúng lại cứ muốn hiểu theo nghĩa vật chất. Các cử chỉ và lời lẽ của Đức Giêsu do thánh Gio-an thuật lại ghi nhận rằng mối căng thẳng từ bên trong mỗi lúc một tăng thêm. Người ta phải đau đớn mà nhìn nhận rằng, giữa hai bên, không hề có sự thông cảm, khoan nhượng. Một cuộc đối thoại quyết liệt.
Khởi đầu, đám đông đi tìm Đức Giêsu. Sau khi được Người cho ăn bánh no nê, họ đã lạc mất Người, và họ đi tìm.
Nhưng họ đi tìm ai? Có phải là tìm người vừa cho họ ăn bánh, hay là người sẽ giải quyết những vấn đề cụ thể của họ? Sau khi được Đức Giêsu nuôi ăn, họ nghĩ rằng mình có quyền chiếm đoạt Người. Gặp Đức Giêsu, họ đưa ra một loạt câu hỏi: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?" - "Ông sẽ làm gì đây?" - "Ông làm được dấu lạ nào?" Và cuối cùng, như một lệnh truyền: "Xin ban cho chúng tôi..."
Làm, đó là từ ngữ chính của đám đông. Họ muốn Đức Giêsu phải luôn làm một điều gì đó, một điều gì mới với tư cách là một nhà ảo thuật đầy khéo léo. Và họ sẽ đưa ra nhận xét về Đức Giêsu theo những việc Người làm.
Để đáp lại từ làm của đám đông, Đức Giêsu nói: "Tôi là".
Họ hỏi: "Chúng tôi phải làm gì?"
Đức Giêsu đáp: "Việc Thiên Chúa muốn các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến."
- Xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.
- Chính tôi là bánh trường sinh. Hãy đến và hãy tin.
Đây chính là trọng tâm của bi kịch; không có ánh sáng Thần Khí, không thể nào vượt qua được. Không có thái độ sẵn sàng, làm sao có thể hiểu được là là quan trọng nhất, và "tôi làm" chỉ là một hình thức của "tôi là"?
Quả thật, người ta không thể nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa mà trong thực tế lại ghét anh em mình. Nhưng người ta càng không thể coi điều này hơn điều kia để rổi không sống chính sự sống của Đức Kitô, không sống tình yêu Người trao tặng qua cuộc sống của Người.
Trong thực tế, người ta thường bỏ qua khó khăn này. Người ta dễ dàng quả quyết Đức Giêsu là bánh trường sinh, nhưng lại không nhìn nhận đó là lương thực của mình. Người ta rất ao ước đón nhận Bánh trường sinh, nhưng lại không muốn tiến đến với Đức Kitô, không muốn nhận lấy thập giá và bước đi theo Người.
Cuối cùng, người Do-thái chẳng hiểu được Đức Giêsu muốn nói với họ. Họ chỉ mong muốn Đức Giêsu làm cho họ có bánh ăn, chứ không muốn Đức Giêsu là bánh cho họ.
Bánh là chính Thiên Chúa
"Tôi là bánh trường sinh."
Đây là một khẳng định quan trọng Đức Giêsu gửi đến mỗi chúng ta. Qua câu nói này, Đức Giêsu muốn nói với chúng ta: "Hãy đến với tôi, anh em sẽ không còn đói; hãy tin vào tôi và anh em sẽ không còn khát."
Thật thế, chúng ta đói, chúng ta thiếu, không phải chỉ bánh ăn; chúng ta khát không phải chỉ nước uống. Chúng ta còn đói, còn khát tình bạn. Chúng ta cần gặp được một cái nhìn, cần được nâng đỡ cách thân tình qua sự trợ giúp đầy tình huynh đệ. Chúng ta cần biết, cần thấy rằng chúng ta được người khác hiểu biết, thông cảm, và nhất là được người khác yêu mến.
Sau nữa, chúng ta còn đói khát điều căn bản hơn là chính Thiên Chúa. Cơn đói khát này, chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể làm thoả mãn. Vì thế, Thiên Chúa đã đến với chúng ta, không chỉ như một sự kiện, nhưng nơi một con người là Đức Giêsu Kitô.
Chìa khoá mở ra tương lai của chúng ta chính là Đức Kitô, và chỉ một mình Người.
Chúng ta phải tiến đến với Đức Kitô, chứ không phải là đi tìm bánh.
Chúng ta phải đáp lại sự hiện diện của Đức Kitô không chỉ bằng từ ngữ, nhưng bằng thái độ sẵn sàng do Thần Khí thúc đẩy, Người sẽ giúp chúng ta nói lên:
"Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin hãy đến.
Chúa thực là bánh trường sinh,
là bánh từ trời xuống."
* * *
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con,
xin ban cho chúng con Người Con của Chúa.
Xin cho chúng con được ăn
thịt và máu Người.
Xin cho chúng con được hưởng
tất cả những gì Người đã nói và đã làm giữa chúng con.
Người thường hay nói lương thực của Người là thi hành ý Chúa.
Xin dạy chúng con
đừng chỉ tìm sống cho riêng mình
để biết mến yêu người khác,
và như vậy,
được bước từ cõi chết sang cõi sống. (theo F. Cromphout)
24. Suy niệm của Charles E. Miller.
TIN VÀO ĐỨC KITÔ VÀ
NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỨC TIN NƠI THÁNH THỂ
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng”)
Vào Chúa Nhật trước chúng ta đã bắt đầu đọc chương 6 của Phúc Âm theo thánh Gioan. Một chương gồm có bẩy mươi mốt câu, là chương dài thứ hai trong Tân Ước sau chương thứ nhất của thánh Luca gồm có tám mươi câu.
Chương đầu tiên của thánh Luca nói về những biến cố dẫn đến việc Chúa Giêsu được sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Chương thứ sáu của Thánh Gioan hé mở giáo huấn của Chúa Giêsu tuyên xưng mục đích Ngài đến và tỏ hiện những đặc ân của Ngài qua bí tích Thánh Thể.
Chương này của thánh Gioan là chương dài trong phụng vụ, đã được chia làm năm phần qua năm Chúa Nhật. Để thấu hiểu ý nghĩa tuyệt vời của bức ranh mà thánh Gioan đã minh hoạ, thật cần thiết chúng ta phải trở lại nhìn chương này như một tổng thể.
Câu chuyện bắt đầu bằng Chúa Nhật trước với phép lạ hoá bánh ra nhiều. Chúa Giêsu đã nuôi năm ngàn người với năm chiếc bánh và 2 con cá, điều quan trọng của biến cố này được nhìn nơi sự kiện, đây không phải là phép lạ duy nhất của Chúa Giêsu đã được kể lại trong bốn Phúc Âm. Cung cách đã được tường thuật bởi mỗi soạn giả Phúc Âm làm cho người ta tin và nghĩ về Thánh Thể. Thí dụ thánh Gioan trong câu nói rằng, Chúa Giêsu đã dâng lời tạ ơn trước khi Ngài bẻ bánh. Lời nguyện gốc tiếng Hy lạp là: “Dâng lời tạ ơn, là Thánh Thể, là hy tế tạ ơn”. Điểm chính yếu của câu chuyện là Chúa Giêsu đã để tâm đến một điều gì đó hơn là chuyện thực phẩm bình thường.
Chúa Nhật này là một khung cảnh đã xảy ra trên bờ biển Galilê, nơi mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ tại hội đường Caphanaum, giảng một bài giảng về hy tế Thánh Thể. Chúa đã bắt đầu bài giảng lời kêu gọi tin vào chính Người, vào Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến trong trần gian. Đức tin này thật cần thiết để chấp nhận hy tế Thánh Thể tuỳ thuộc hoàn toàn vào lời của Chúa Giêsu.
Vào Chúa Nhật thứ ba bài giảng được tiếp tục, trong phần này, Chúa Giêsu đã làm một cuộc chuyển đổi từ đức tin vào Người đến đức tin là đặc ân của Người là hy tế tạ ơn. Một đức tin phải dẫn tới một điều khác.
Vào Chúa Nhật thứ bốn Chúa Giêsu đã tuyên bố một cách công khai và rõ ràng giáo lý của Người, Ngài tuyên bố với lời lẽ xác quyết: “Bánh mà Ta sẽ ban là thịt Ta cho thế gian được sống”, sau những phản ứng tiêu cực của đám đông Ngài đã nói một cách mạnh mẽ hơn nữa: “Thịt của Ta thật là thức ăn và Máu Ta thật là của uống”.
Chúa Nhật cuối cùng đã giới thiệu một thách đố. Mọi người có thể không nhiệt tình với lời hứa, với Chúa Giêsu. Một ngày kia họ đã nghe lời giáo huấn của Người, họ phải chấp nhận nó hoặc từ bỏ nó. Thánh Gioan nói với chúng ta rằng: “Nhiều môn đệ đã lấy làm chướng tai và không còn đi theo Ngài nữa” Ngay cả các môn đệ cũng đã có những phân vân giao động trong tâm trí. Chúa Giêsu đã hỏi họ: “Các con có muốn ra đi không? Có muốn bỏ Thầy không?” Phêrô trả lời: “Lạy Thầy bỏ Ngài chúng con biết đi theo ai, chính Ngài mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Cố gắng đọc toàn thể chương sáu trong từ thế ngồi. Điều đó sẽ giúp cho các bạn thấu triệt được hy tế Thánh Thể mà phục vụ đã hé mở cho chúng ta qua ba Chúa Nhật kế tiếp.
25. Lương thực Chúa ban
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúa nhật vừa qua chúng ta đã thấy Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê. Nhưng hôm sau họ lại tìm đến Ngài, mong được ăn bánh nữa, thì Ngài nói với họ về một thứ bánh khác: "Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh".
Chúng ta đến đây vì chúng ta biết rằng chúng ta cần một thứ lương thực khác, thứ lương thực mà chỉ có Chúa mới ban cho chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Chúng con quá lo tìm lương thực vật chất, đến nỗi sao lãng lương thực thần linh.
Ngay cả khi chúng con dự Thánh Lễ, chúng con cũng chỉ xin Chúa ban lương thực vật chất cho chúng con.
Chúng con chưa đủ lòng phó thác để tin rằng Chúa sẽ lo cho chúng con lương thực hằng ngày.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Xh 16,2-4.12-15)
Phép lạ manna xảy ra trong sa mạc. Sa mạc là nơi trơ trụi, thiếu thốn mọi thứ, cho nên sa mạc cũng là nơi thử thách. Mà một trong những thử thách lớn nhất đối với con người là đói, không có thức ăn. Bởi vậy, Chúa đã nói với Môsê: "Ta muốn thử lòng chúng"
Tuy nhiên, thử thách này cũng có cái lợi là nhắc con người nhớ rằng lương thực họ ăn hằng ngày là do Chúa ban. Chính vì thế, Thiên Chúa bảo dân Do Thái chỉ được lượm một phần bánh đủ ăn trong ngày.
2. Đáp ca (Tv 77)
Phép lạ manna vẫn được các thế hệ về sau nhắc tới như là một trong những công cuộc lẫy lừng của Thiên Chúa, cho người ta thấy quyền phép và tình thương to lớn Chúa dành cho dân Ngài.
3. Tin Mừng (Ga 6,24-35)
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, hôm sau người Do Thái lại tìm đến với Đức Giêsu mong được ăn bánh nữa. Đức Giêsu hướng họ lên cao hơn một bước: "Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh". Họ tưởng đó là manna ngày xưa trong sa mạc. Đức Giêsu nói rõ: "Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta không hề phải đói. Ai tin vào Ta chẳng khát bao giờ".
4. Bài đọc II (Êp 4,17-20.24) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô khuyên tín hữu một khi đã theo Đức Kitô thì phải từ bỏ nếp sống cũ, tư tưởng cũ và tinh thần cũ như hồi còn là dân ngoại. Thay vào đó, hãy mặc lấy con người mới, tinh thần mới và cách sống mới như Đức Kitô.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Nhiều thứ đói
Năm 1885 Vincent van Gogh đến viện bảo tàng Amsterdam để được ngắm một họa phẩm nổi tiếng của họa sĩ Rembrandt, bức "Cô Dâu Do Thái". Sau khi ngắm xong, Van Gogh thố lộ: "Tôi thà giảm thọ 10 năm để được ngồi 2 tuần trước bức danh họa này, chỉ cần ăn bánh mì khô thôi cũng được. Thực ra, thứ mà tôi đói nhất không phải là thức ăn mà là hội họa. Mỗi khi tôi có tiền tôi liền đi săn tìm các mẫu vẽ cho tới khi nhẵn túi".
Không phải chỉ cơ thể mới biết đói, mà con tim và tinh thần cũng biết. Cơm bánh không thể nào thỏa mãn cơn đói của con tim và tinh thần. Nuôi sống một người không giống như nuôi một con vật, chỉ cần cho nó ăn no. Chúng ta là người, chúng ta không chỉ có một thứ đói mà có hàng trăm thứ đói. Ngoài cơm bánh ra chúng ta còn đói rất nhiều thứ:
- đói được người ta tôn trọng: không ai muốn bị coi là đồ bỏ; ai cũng muốn có người khác trọng mình, ít ra là một người.
- đói được người ta chấp nhận: nếu không ai chấp nhận chúng ta thì chúng ta không sao thể hiện chính mình được.
- đói những tương giao: không được tương giao với người khác thì chúng ta sẽ trở nên cô độc buồn sầu.
- đói nguồn động viên: không có gì động viên chúng ta thì chúng ta giống như những cánh buồm không gió.
- đói niềm tin: ai cũng cần đức tin hay ít ra là một số điều mình tin tưởng. Nếu không thì dòng đời chúng ta bị trôi dạt như những con thuyền không định hướng.
- đói hy vọng: bao lâu con người còn hy vọng thì còn có thể làm được nhiều việc; một khi đã mất hy vọng thì mất tất cả.
- đói tình yêu: nếu cơn đói này được thỏa mãn thì hầu hết những cơn đói khác sẽ biến mất.
- Và còn một thứ đói nữa, sâu xa nhất, hàm chứa trong mọi cơn đói khác, kể cả đói tình yêu. Đó là đói sự sống đời đời, hay nói cách khác, đói Thiên Chúa. Cảm nghiệm đói Thiên Chúa không phải là một bất hạnh nhưng là một phúc lành, vì nó giúp cho đời ta khỏi bị tù hãm trì trệ, nhưng đưa thuyền đời chúng ta hướng tới đại dương mênh mông. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Cậy trông nơi Chúa
Khi ban Manna cho dân Do Thái, Thiên Chúa nói với Môsê rằng: "Ta sẽ cho lương thực từ trời rơi xuống cho các ngươi. Mỗi ngày, dân hãy ra khỏi trại để nhặt lấy phần lương thực cho ngày đó. Băng cách này, Ta muốn thử xem họ có tuân theo lề luật của Ta hay không". Những lời này của Thiên Chúa có nghĩa gì?
Nếu bạn hỏi một tín hữu là có tin rằng Thiên Chúa là Chúa duy nhất của vũ trụ không, thì người đó sẽ trả lời ngay không chút ngần ngại: "Dĩ nhiên là tôi tin thế". Nhưng nếu bạn lại hỏi người đó có tin rằng Thiên Chúa ấy thấy mọi nhu cầu đời sống của họ và sẽ lo cho họ có mọi thứ họ cần không, thì họ sẽ chần chừ không dám trả lời xác quyết.
Đức tin và đức Cậy liên hệ chặt chẽ với nhau. Người nào tin vững vàng thì cũng trông cậy hoàn toàn. Còn ai không trông cậy trọn vẹn vào Chúa thì đức tin của họ cũng bị lung lay.
Kinh nghiệm trong sa mạc là cơ hội giúp dân Do Thái trông cậy vào Chúa. Bởi thế Chúa bảo họ chỉ lượm manna cho đủ ăn một ngày thôi, ngày mai để Thiên Chúa lo. Đức Giêsu cũng dạy như thế: "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày". Ngày nay, những lời dạy như thế xem ra xa lạ và thậm chí điên khùng nữa, bởi vì nhiều người rất phòng xa bằng cách để dành tiền, gửi tiết kiệm, mua bảo hiểm v.v. Họ trông cậy vào những thứ đó hơn là vào Chúa.
Xét cho cùng thì cái nâng đỡ dân Do Thái trong sa mạc không phải là manna mà là đức tin và đức cậy. Đối với chúng ta cũng thế, lương thực nuôi chúng ta chính là đức tin và đức cậy. Nhất là khi chúng ta gặp khó khăn thử thách, khi đó không phải chúng ta giữ đức tin và đức cậy, mà ngược lại hai nhân đức ấy gìn giữ chúng ta.
Dù cho cuộc sống có khó khăn thế nào đi nữa thì đối với người trông cậy vào Chúa và biết sống từng ngày từng giờ trong niềm trông cậy ấy, manna vẫn rơi xuống mỗi ngày. (Viết theo Flor McCarthy)
3. Cái giá của tự do
Hình như có một quy luật của cuộc sống là trong lúc khó khăn thì nghị lực của con người lên tới đỉnh cao nhất, nhưng khi khó khăn qua rồi thì nghị lực lại tuột xuống mức thấp nhất. Primo Levi, một người sống sót sau nhiều năm ở trong trại giam Auschwitz của Đức quốc Xã, đã viết: "Trong đa số trường hợp, giờ được giải phóng chẳng vui mà cũng chẳng mừng gì cả. Nhiều vụ tự tử đã xảy ra ngay sau ngày giải phóng. Ngược lại, những cuộc tự tử rất hiếm trong thời gian bị giam cầm". Elie Wiesel, một cựu từ nhân Auschwitz khác cũng nói: "Trong cơn thử thách, tôi sống trong sự mong chờ, mong chờ một phép lạ hoặc mong chờ cái chết. Nhưng khi cơn ác mộng đã qua thì tôi bị rơi vào cơn khủng hoảng rất đau đớn và dằn vật, tôi đặt lại vấn đề về tất cả những niềm tin của tôi". Còn Oscar Wilde thì viết: "Sự tàn bạo của ngục tù chỉ bắt đầu khi bạn ra khỏi đó".
Tại sao vậy? Vì trong lúc khó khăn, ước mơ được giải thoát đã giúp cho người ta có nghị lực để sống. Nhưng khi được tự do rồi, thực tế không phải luôn luôn đúng như họ đã ước mơ.
Dân Do Thái cũng trải qua kinh nghiệm ấy. Ngày họ được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập, họ đã vui mừng ra đi và tràn đầy hy vọng một tương lai tươi sáng. Thế nhưng chẳng bao lâu sau, họ lại đòi trở lại Ai cập, họ muốn làm nô lệ nữa. Lý do là những khó khăn họ gặp phải trong cuộc xuất hành. Sự tự do đã không biến hết những ước mơ của họ thành sự thật. Có lẽ họ chưa được chuẩn bị sẵn sàng để sống cái ơn ban tự do ấy. Phải chờ thế hệ sau mới sẵn sàng qua sông Giođan và vào Đất hứa. Bởi vậy có người đã nói: "Dân Do Thái chỉ cần một ngày để ra khỏi Ai cập, nhưng phải cần đến 40 năm để hình ảnh Ai cập thoát khỏi đầu óc của họ".
Tự do có những thách thức của nó. Tự do nghĩa là phải tự gánh lấy trách nhiệm của đời mình. Điều này thật không dễ đối với những ai đã quen để cho người khác quyết định thay mình, còn mình chỉ biết vâng lời thôi. Tự do còn đòi phải có kỷ luật bản thân. Tuân theo kỹ luật do người khác đặt ra cho mình thì dễ hơn là làm theo kỹ luật do chính mình tự đặt ra. Biến một người tự do thành người nô lệ thì dễ hơn giúp một người nô lệ thành người tự do.
Dân Do Thái nhìn lại quá khứ và nghĩ: "Sống ở Ai cập còn tốt hơn, vì ít ra mình cũng có đủ ăn". Thế là họ cằn nhằn với Môsê. Lẽ ra, họ phải mang theo họ những đức tính đã từng giúp họ chịu đựng những khó khăn thời làm nô lệ. Nhưng lúc được tư do họ đã không xử dụng nghị lực như khi còn làm nô lệ. May thay Thiên Chúa đã ban manna cho dân Do Thái để nâng đỡ cuộc sống của họ trong cuộc hành trình về Đất Hứa.
Qua Bí Tích Rửa tội, chúng ta cũng được giải phóng: giải phóng khỏi ách nô lệ của tội lỗi và giải phóng khỏi sự lệ thuộc vào những bảo đảm vật chất (xem bài đọc II). Tuy nhiên cuộc hành trình của chúng ta cũng rất gian truân. Nhiều khi chúng ta muốn trở lại kiếp sống nô lệ. Chúng ta thà làm nô lệ cho thế gian và tội lỗi hơn là làm những người con tự do của Thiên Chúa. May thay Đức Giêsu đã nâng đỡ cuộc hành trình của chúng ta. Đặc biệt Ngài đã ban manna mới cho chúng ta là bí tích Thánh Thể. Không phải chúng ta gìn giữ đức tin, mà chính đức tin gìn giữ chúng ta.
Dù cho cuộc sống có khó khăn thế nào đi nữa thì đối với người trông cậy vào Chúa và biết sống từng ngày từng giờ trong niềm trông cậy ấy, manna vẫn rơi xuống mỗi ngày. (Viết theo Flor McCarthy)
4. Theo Chúa, nhưng vì động lực nào?
Chúng ta nên đặt đoạn Tin Mừng này trong bối cảnh của nó. Đó là thời kỳ Đức Giêsu đang được quần chúng ngưỡng mộ nhất: Ngài đi đâu dân chúng cũng đông đảo ùa theo đến đó, thậm chí họ còn muốn tôn Ngài lên làm vua khiến Ngài phải trốn đi. Nhưng dù Ngài trốn đi họ cũng vẫn tìm ra được chỗ Ngài và sáng hôm sau lại ùa tới vây quanh Ngài.
Nhưng tại sao quần chúng ùa theo Ngài như thế? Thưa vì lợi lộc vật chất:
Chúa đã chữa nhiều bệnh tật: mù, què, câm, điếc, cả kẻ chết Ngài cũng làm cho sống lại được. Thậm chí có những người chỉ cần chạm tới gấu áo của Ngài hay chỉ cần chờ Ngài đi qua cho cái bóng của Ngài cho phủ lên họ thì cũng được khỏi bệnh.
Ngài lại vừa mới làm cho họ có bánh ăn: hàng mấy ngàn người đi theo Ngài, Ngài chỉ dùng có 5 chiếc bánh và 2 con cá mà biến ra cho đủ lương thực cho họ ăn no nê thừa thải. Chắc là họ nhủ thầm: Giá mà có ông này bên cạnh ta mãi thì ta chẳng bao giờ sợ đói khát, cũng chẳng cần phải làm lụng cực nhọc mà vẫn luôn no đủ. Chính vì có ý nghĩ như thế, cho nên họ mới định tôn Ngài lên làm vua. Đức Giêsu biết ý họ nên trốn đi. Nhưng sáng hôm sau họ cũng tìm được chỗ và lại đến vây quanh Ngài.
Khi đó Đức Giêsu nói thẳng: "Các ngươi tìm ta là vì đã được ăn no". Rồi Đức Giêsu muốn đưa họ lên cao hơn, Ngài nói "Các người đừng theo Ta vì của ăn vật chất, nhưng hãy tìm của ăn tinh thần không hư nát".
Nghe lời đó, dân chúng chán nản, bỏ Ngài mà đi gần hết. Chỉ còn lại 12 tông đồ. Đức Giêsu hỏi các tông đồ "Chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi nữa không?" Phêrô lên tiếng đáp thay anh em "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có Lời ban sự sống đời đời".
Con người ta là thế đấy: Hễ thấy có lợi lộc vật chất thì chạy theo, khi không có lợi thì bỏ đi. Ngay trong việc theo đạo cũng vậy. Trong một quyển truyện mang tựa đề "Chìa khóa Nước Trời", nhà văn A.J.Cronin kể lại có một linh mục kia đi truyền giáo tại một vùng quê nước Trung Hoa, ông truyền giáo bằng cách phân phát đồ viện trợ nào tiền nào gạo nào thuốc men, những người giúp việc tông đồ cũng được trả lương tháng rộng rãi. Kết quả là chỉ trong vòng có một năm đã có tới 5000 người theo đạo. Nhưng sau khi ông về hưu thì hầu như tất cả đều bỏ đạo, thậm chí Nhà thờ cũng bị những giáo dân bỏ đạo ấy tháo gở đập phá về sửa nhà riêng. Vị linh mục thứ hai được gởi đến, tưởng mình sẽ gặp được một họ đạo đông đúc và sốt sắng theo như bản báo cáo, nhưng đến nơi ông thấy chẳng có gì cả: Không một giáo dân, không còn nhà thờ. Cuối cùng có hai người đến tự xưng là các giảng viên giáo lý của linh mục trước, họ đòi lương 15.000 đồng một tháng. linh mục mới này quá nghèo không có tiền trả nên cả hai giáo dân đó cũng bỏ đi hết. Cha ấy phải khởi sự tất cả lại từ con số không.
Truyền đạo bằng mồi vật chất là xây nhà trên cát - Theo đạo chỉ vì lợi lộc vật chất cũng là xây nhà trên cát!
Suy lại phần mình, chúng ta cũng theo đạo, nhưng thử hỏi vì động lực nào? Chắc hẳn không ai trong chúng ta quá tệ theo đạo chỉ vì những lợi lộc vật chất đâu. Tuy nhiên trong cuộc đời sống đạo của chúng ta, có lẽ nhiều lần chúng ta bị yếu tố vật chất tác động mạnh mẻ: nghĩa là khi sung túc thì sốt sắng, còn khi túng thiếu thì nguội lạnh. Biết bao lần khi lâm cảnh túng thiếu, chúng ta không muốn dự lễ, không muốn cần nguyện nữa, và thậm chí không muốn tin có Chúa nữa.
Đó là một thứ cám dỗ, nói mạnh hơn, đó là một mưu mô thâm độc của ma quỷ: Ma quỷ luôn muốn làm hại ta. Khi chúng ta túng thiếu, kể như chúng ta không còn một chỗ dựa nào hết, chỉ còn mỗi một nơi nương tựa là Thiên Chúa. Ma quỷ cám dỗ ta bỏ Chúa luôn để ta hoàn toàn không còn một chỗ dựa nào hết. Nghèo nàn hoàn toàn: Nghèo cả vật chất và nghèo cả tinh thần. Đó thật là một mưu mô thâm độc, những ai xưa nay chỉ theo đạo vì lợi lộc vật chất chắc chắn sẽ mắc bẫy của nó.
Chính vì thế, Đức Giêsu khuyến cáo chúng ta "Các ngươi đừng chỉ tìm những của ăn hay hư nát, nhưng hãy tìm những của ăn tinh thần không bao giờ hư nát".
Những của ăn tinh thần ấy là gì?
Là một cuộc sống lương thiện: Người ta thì bần cùng sinh đạo tặc, nhưng kẻ theo Chúa thật thì dù nghèo cũng vẫn thanh cao, công bình.
Là một cuộc sống bác ái: Người ta thì có phú quý mới sinh lễ nghĩa, còn nghèo túng thì lục đục với nhau: Nhưng kẻ theo Chúa thật dù nghèo túng cũng biết thương yêu chia sớt cho nhau.
Là một quan niệm sống đầy đủ: không chỉ lo cho thân xác mà còn lo cho phần hồn nữa.
Trở lại với câu chuyện truyền giáo của linh mục kia. Vì cha nghèo, không có tiền nhiều để làm mồi câu những người tòng giáo - mà dù có cha cũng không muốn truyền giáo theo kiểu đó - cha chỉ đem tinh thần bác ái của Tin Mừng ra để sống với người khác: Cha thăm viếng những người bệnh, cha cư xử với những người khác tín ngưỡng như những người bạn, cha nuôi những đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi. Một hôm đứa con trai duy nhất của một ông điền chủ bị bệnh nặng. Nhờ có hiểu biết chút ít về Tây Y, cha đã cứu cho nó sống. Ông điền chủ chiều hôm ấy tìm đem cha về xin theo đạo. Nhưng cha thẳng thắn từ chối vì thừa hiểu rằng ông ta chưa có niềm tin. Cha chỉ giữ liên hệ láng giềng tốt với ông ta thôi. Phần ông ta càng ngày càng có cảm tình với cha. Sau 30 năm truyền giáo như thế, vị linh mục nghèo tiền nhưng giàu lòng bác ái ấy đã có được số giáo dân khoảng 500 người, nhưng đều là những giáo dân có niềm tin vững chắc. Một ngày trước khi cha giả từ họ đạo để về hưu, cha nhận được một niềm vui to lớn: ông nhà giàu kia lại xin theo đạo, và lần này vì một lý do rất vững chắc, ông nói: Thưa cha, cách đây 30 năm tôi xin theo đạo để trả ơn cha đã cứu sống con trai tôi, khi đó cha không nhận vì thấy tôi chưa có niềm tin. Hôm nay, 30 năm sau tôi lại xin theo đạo, lần này không phải để trả ơn cha, mà vì tôi thấy tôi cần có đạo. Cuộc sống của cha trong 30 năm đã giúp tôi thấy đạo rất là đẹp, rất là tốt và rất là cần cho con người. Vậy lần này tôi mong cha đừng từ chối nữa. Dĩ nhiên là vị linh mục già ấy nhận lời. Buổi lễ tiễn biệt được trở thành lễ Rửa tội thật là cảm động.
Xin Chúa giúp chúng ta theo đạo vì lý do vững chắc như ông ấy, và biết sống đạo như vị linh mục ấy. Chúng ta hãy ghi nhớ Lời Chúa "Các người đừng chỉ tìm của ăn vật chất hay hư nát, nhưng hãy tìm của ăn tinh thần không hư nát bao giờ"; cũng đừng bao giờ vì khó khăn vật chất mà bỏ Chúa: "Bỏ Ngài con biết theo ai vì Ngài có Lời ban sự sống".
* 5. Bánh Ban Sự Sống
Ngày 20 tháng 10 năm 1995, hơn 200 triệu người trên 100 quốc gia đã theo dõi cuộc phỏng vấn đặc biệt công nương Diana - vợ hoàng tử Charles Anh quốc do hãng thông tấn BBC thực hiện.
Diana nhìn nhận đã ngoại tình với sĩ quan kỵ binh James Hewitt. Lý do dẫn đến việc bất trung ấy là vì hoàng tử Charles đã dan díu với nàng Camilla Packer Bowles. Diana nói: "Tôi biết điều đó nhưng không làm gì được. Có tới ba người trong hôn nhân của chúng tôi. Và điều đó khiến nó trở nên chật chội".
***
Hôm nay dân chúng lên thuyền nỗ lực tìm kiếm Đức Giêsu, chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Miếng ăn là nỗi ưu tư của những người nghèo, nên Đức Giêsu không trách cứ họ. Người chỉ hướng dẫn họ đến với Bánh Trường Sinh: nuôi dưỡng tâm hồn, và đem lại sự sống đời đời.
Con người thời nay không khác gì dân chúng ngày xưa. Người nghèo thì bị cuốn hút vào cơm áo gạo tiền, để thỏa mãn nhu cầu cấp bách của thể xác. Người giàu lại chạy theo xa hoa vật chất, để hưởng thụ nhu cầu cao cấp của con người. Để rồi kẻ giàu người nghèo đều có chung một nguy cơ: là quên đi cái đói khát tâm linh.
Thật ra, càng hưởng thụ con người càng khao khát hơn, thỏa mãn đấy rồi lại khao khát. Mọi thứ của cải trần gian, con người không cho làm đủ. Dù có tiền bạc, thế lực, chức quyền và danh vọng nhưng hoàng tử Charles và công nương Diana vẫn là những con người bất hạnh. Họ vẫn còn đói khát một của ăn tâm hồn. Tiên tri Amos đã nói về niềm khao khát ấy như sau: "Có lúc cả xứ bị đói, không phải đói cơm bánh, không phải là khát nước uống là mà đói khát Lời Chúa" (Am.8,11).
Thấu hiểu cơn đói khát ấy, Đức Giêsu đã không cho Manna từ trời rơi xuống, để mỗi ngày người ta phải lượm mà ăn. Nhưng Người đã cho họ Bánh Ban Sự Sống, để những ai ăn Bánh thì được sống đời đời: "Chính Ta là Bánh ban Sự Sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ" (Ga.6,35).
Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 47 có viết: "Khi lãnh nhận Đức Kitô, tâm hồn được tràn đầy ân sủng, đồng thời cũng được bảo đảm cho vinh quang đời đời".
Quả thật, nếu người thứ ba trong cuộc hôn nhân của Diana và Charles không phải là Camilla mà chính là Đức Kitô, thì gia đình ấy sẽ no thỏa hạnh phúc biết bao. Cha Mark Link viết: "Trái tim chúng ta có một khoảng trống mà chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy".
Đức Giêsu chính là Tấm Bánh cho tâm hồn đói nghèo, là cánh tay cho người yếu đuối, là bạn đồng hành cho kẻ cô đơn, là ánh lửa hy vọng cho tất cả mọi người.
***
Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa mới đem lại cho chúng con sự no thỏa tâm hồn và niềm vui đích thực.
Xin cho chúng con luôn biết khao khát Chúa là Bánh ban Sự Sống, là nguồn hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, dân Do thái xưa đã tìm đến Đức Giêsu vì được ăn no. Đức Giêsu bảo họ: "Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh". Chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây:
1. Chúng ta cầu nguyện cho Hội thánh đang chăm sóc những người nghèo khổ, bệnh tật và chậm tiến / cùng giúp cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là nguồn gốc gây ra mọi đau khổ.
2. Chúng ta cầu nguyện cho các nhà cầm quyền đừng chỉ chuyên tâm đến vấn đề vật chất và kinh tế / mà bỏ quên vấn đề nhân phẩm, giáo dục, và tự do của mỗi người.
3. Chúng ta cầu nguyện cho những người đang chạy theo tiền bạc và ham mê hưởng thụ vật chất / biết nhận ra rằng con người còn có tâm hồn và tình yêu / để hướng tới những gì là cao thượng và linh thiêng hơn.
4. Chúng ta cầu nguyện cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / đừng vì âu lo sinh sống vật chất mà bỏ quên bổn phận là con của Chúa, và là anh em của mọi người.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa hằng thương lo cho mọi người chúng con cả hồn xác, xin cho chúng con biết nghe lời Chúa, để ra công làm việc không phải vì lương thực hay hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh. Chúa là đấng hằng sống hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi chúng ta cầu xin cho có "lương thực hằng ngày", một mặt chúng ta xin Chúa quan tâm đến những nhu cầu đời sống chúng ta, nhưng mặt khác chúng ta cũng hãy xin cho mình biết phó thác cuộc sống trong tay Chúa quan phòng.
- Trước Rước lễ: Mình Thánh Chúa mà chúng ta sắp rước còn quý giá gấp bội so với những chiếc bánh và những con cá mà dân Do Thái ngày xưa được ăn. Chúng ta hãy rước lễ trong tâm tình yêu mến và tạ ơn sốt sắng.
VII. Giải tán
Chúa đã nuôi dưỡng chúng ta trong Thánh lễ này và hằng nuôi dưỡng chúng ta mãi mãi. Chúng ta cũng hãy rộng rãi chia xẻ với anh chị em chúng ta.
26. Chạy đến Chúa Giêsu là suối nguồn yêu thương
Lương thực là nhu cầu thiết yếu của con người. Có nhiều thứ lương thực, có thứ lương thực nuôi dưỡng thể xác, có thứ lương thực nuôi dưỡng tinh thần và có thứ lương thực nuôi dưỡng đời sống tâm linh, phần rỗi con người. Ngày nay, có thể người ta không thiếu lương thực nuôi dưỡng thể xác, có thiếu là do người ta chưa biết san sẻ cho nhau. Tuy nhiên một điều chắc chắc là người ta thiếu tình thương, vì thiếu tình thương nên thể hiện quá nhiều thứ tiêu cực, thể hiện quá nhiều bạo lực trong thế giới, trong xã hội và ngay trong gia đình, thậm chí trong chính bản thân con người.
Chúa Giêsu là Đấng đã trao ban tình thương, bình an và gieo niềm hy vọng. Ngài đã trao ban những điều mà nhân loại đang thiếu thốn. Đó là tình thương vì chỉ có tình thương này mới có thể lấp đầy những thiếu thốn kia. Thật thế, phép lạ hoá bánh ra nhiều thể hiện tình thương của Chúa cho nhân loại, Chúa cho no nê về thể xác mà người ta thấy được rõ ràng, Chúa còn cho người ta tình thương, Chúa cho người ta sự liên đới, sự cộng tác với Chúa, sự quảng đại san sẻ của cải, san sẻ tình người,... điều đó người ta có thể cảm nhận và học hỏi được. Do đó, khi lòng người cảm nhận được Chúa yêu thương, quan tâm chăm sóc thì đó chính là lúc tâm hồn mình được bình an không còn xáo trộn nữa mà được thúc bách thể hiện tình thương của Chúa cho nhân loại, thể hiện tình người cho nhân thế và thể hiện được nền văn minh sự sống. Được như thế thì bản thân, gia đình và đến cả xã hội, thế giới sẽ không còn thiếu thốn nữa mà là đầy đủ thậm chí là dư tràn, dư tràn tình thương của Chúa, dư tràn lòng mến thương nhau. Đó chẳng phải là điều Chúa Giêsu khát mong, điều mà tình thương của Ngài thật sự hữu hiệu.
Trên bình diện nhân linh, con người luôn luôn cần và rất cần thậm chí có thể nói, con người đói khát chân lý và các thực tại siêu nhiên, nếu hiểu đói khát là khả năng khai mở, tiếp nhận thì không có điều gì có thể lấp đầy nỗi khát khao vô hạn của con người. Vì con người tự thân là một "khao khát vô biên, khao khát tuyệt đối" và duy chỉ con người mới có khả năng đó. Chính thánh Augustino đã nói lên điều này: "Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con khao khát mãi cho đến khi được nghỉ ngơi trong Chúa". Chúa Giêsu hẳn đã biết được tâm trạng này nên Ngài đã kêu mời: "hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng." (Mt 28, 28 - 30). Vả lại, Chúa Giêsu còn muốn chúng ta hãy lo cho phần rỗi của mình, lo cho sự sống đời đời: "hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho anh em" (Ga 6, 27)
Chính Ta là bánh Hằng Sống, đây là một chân lý quan trọng, là một khẳng định dứt khoát cho con người. Chỉ khi con người tin nhận, đến với và đón lấy thì con người sẽ nhận được sự sống đời đời, sự bình an và niềm hoan lạc đích thực. Đó hẳn thật là một hành trình, hành trình của tình yêu, tình yêu càng lên cao mãi, tình yêu này làm cho con người no thoả, không còn phải đói khát, tình yêu này làm cho con người biết liên đới với tha nhân, chung sống và chung xây hoà bình và lợi ích của nhau. Và thật sự chính Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể chính là mối giây liên kết mọi người cùng tồn tại trong đức ái, thể hiện tình mến thương chân thành và luôn đi trong lòng mến. Thánh lễ là nơi chúng ta tham dự vào bàn tiệc Mình Máu Thánh Đức Kitô, là nơi lặp lại hy tế Núi Sọ. Nơi đó chúng ta được gặp gỡ với Thiên Chúa và hiệp thông với anh em nữa. Nên Thánh Lễ là Bí tích của sự hiệp thông. Hơn nữa, Thánh lễ còn là nơi thể hiện sự hiệp thông. Khi đi tham dự thánh lễ, chúng ta được trực tiếp gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu, luôn yêu thương chúng ta. Nơi Ngài ta đặt trọn vẹn tâm tư tình cảm của mình vào Ngài. Chúng ta mang theo thế giới mình đang sống như một hành trang, như một lễ vật dâng tiến Ngài. Rồi từ thánh lễ bước vào lại thế giới, để biến thế giới, biến cuộc đời thành một thánh lễ nối dài. Bên cạnh đó, Thánh lễ còn dạy chúng ta biết bẻ bánh cho nhau, có nghĩa là biết yêu thương nhau trong đời thường, chia sẻ tình thương mà mình nhận được từ Thiên Chúa qua Thánh lễ. Bởi vì tất cả chúng ta cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Khi chúng ta cảm nhận được Thiên Chúa yêu ta thì lòng ta sẽ được Thánh Thần thúc giục để biết đem tình thương đó chia sẻ cho người khác nữa. Sống tinh thần hiệp thông và chia sẻ với người khác, chính là dấu chỉ cho thấy chúng ta đã thực sự tham dự Thánh lễ và đã biến cuộc sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khao khát và siêng năng chay đến với bí tích Thánh Thể, để chúng con đón lấy suối nguồn yêu thương của Chúa và chúng con sẵn sàng trao ban tình thương Chúa cho mọi người. Amen.
27. Chúa Nhật 18 Thường Niên
Thánh lễ là nơi chúng ta tham dự vào bàn tiệc Mình Máu Thánh Đức Kitô, là nơi lặp lại hy tế Núi Sọ. Nơi đó chúng ta được gặp gỡ với Thiên Chúa và hiệp thông với anh em nữa. Nên Thánh Lễ là Bí tích của sự hiệp thông
Thánh lễ còn là nơi thể hiện sự hiệp thông. Khi đi tham dự thánh lễ, chúng ta được trực tiếp găp gỡ Thiên Chúa - chính Đấng là Tình Yêu, luôn yêu thương chúng ta. Nơi Ngài ta đặt trọn vẹn tâm tư tình cảm của mình vào Ngài. Chúng ta mang theo thế giới mình đang sống như một hành trang, như một lễ vật dâng tiến Ngài. Rồi từ thánh lễ bước vào lại thế giới, để biến thế giới, biến cuộc đời thành một thánh lễ nối dài.
Khi dâng Thánh lễ, chúng ta mang nhiều tâm tư, tình cảm vào trong đó. Thánh lễ giúp chúng ta đón nhận thập giá đời thường. Bởi vì tất cả những khổ đau và bất hạnh, những thành công thất bại, những vất vả trong cuộc sống được chúng ta góp lại, trở thành lễ vật của chúng ta, kết hiệp với lễ vật của Đức Kitô mà linh mục dâng lên Thiên Chúa. Khi đã dâng cho Ngài chúng ta đón nhận được sự bình an, thư thái. Chúng ta cảm nếm hạnh phúc ngọt ngào tâm tình của người con luôn vâng theo thánh ý Cha. Chúa chính là sự bình an sẽ bồi đắp lòng ta đầy tình thương của Ngài để ta được hoan hỉ trong sự bình an ấy.
Thánh lễ còn dạy chúng ta biết bẻ bánh cho nhau, có nghĩa là biết yêu thương nhau trong đời thường, chia sẻ tình thương mà mình nhận được từ Thiên Chúa qua Thánh lễ. Bởi vì tất cả chúng ta cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Khi chúng ta cảm nhận được Thiên Chúa yêu ta thì lòng ta sẽ được Thánh Thần thúc giục để biết đem tình thương đó chia sẻ cho người khác nữa. Theo Luca (Lc 1, 20 - 44) cho ta thấy: Có Chúa trong lòng rồi thì Mẹ Maria liền hối hả đem Chúa cho Bà Ysave, mang niềm vui ơn cứu độ cho bà chị họ.
Ngược lại, một số tín hữu ở Corintô (1Cr11, 17 - 22), khi tham dự nghi thức bẻ bánh, chỉ biết lo cho bữa ăn riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói khát, người thì lại no say. Thái độ ích kỷ này hoàn toàn trái ngược với tinh thần hiệp thông và chia sẻ của thánh lễ.
Sống tinh thần hiệp thông và chia sẻ với người khác, chính là dấu chỉ cho thấy chúng ta đã thực sự tham dự thánh lễ và đã biến cuộc sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài.
Xin Chúa cho chúng ta siêng năng tham dự Thánh Lễ và biết làm cho đời ta là Thánh Lễ nối dài, hữu ích cho tha nhân.
28. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng, USA)
Để sửa soạn cho một dân tộc làm dân riêng, Thiên Chúa đã dẫn đưa dân Do thái thoát khỏi ách nô lệ bên Ai cập, vượt qua Biển đỏ ráo chân, đi vào sa mạc chịu cảnh thiếu thốn cực khổ về vật chất để thanh tẩy và luyện lọc họ. Bài trích sách Xuất hành hôm nay cho thấy dân chúng trách móc Mô-sê và A-ha-ron vì đã đưa họ vào sa mạc thanh vắng, thiếu đồ ăn thức uống, để bắt họ phải chết đói. Sở dĩ có sự phàn nàn là vì họ đã quên mất tình yêu và đường lối quan phòng của Chúa. Tình yêu và quyền năng Chúa đã giải thoát họ khỏi ách thống trị của người Ai cập. Dầu sao đi nữa, khi nghe tiếng kêu trách của dân chúng, Chúa liền phán bảo Mô-sê: Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các người ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó. Ta muốn thử lòng chúng như vậy, xem chúng có tuân theo Luật của ta hay không (Xh 16:4). Tuy nhiên khi Chúa cho ma-na rơi xuống mỗi ngày, dân chúng lại phàn nàn vì họ phải đi lượm lấy mà ăn, và vì ngày nào cũng phải ăn cùng thứ bánh, và bánh lại không có mùi vị. Phải chăng họ được voi đòi tiên?
Phúc âm hôm nay cũng ghi lại việc dân chúng đi tìm Chúa, để hi vọng được ăn bánh no nê, vì ngày hôm trước họ đã được Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi dưỡng họ. Nhân cơ hội này, Chúa dạy họ một bài học: Các ngươi đi tìm ta, không phải vì các ngươi đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no thoả. Các ngươi hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn, đem lại phúc trường sinh (Ga 6:26-27). Khi Chúa Giêsu bảo họ việc Thiên Chúa Cha muốn là tin vào Đấng mà Người đã sai đến. Đám đông liền xin Người một dấu lạ để tin vào Người. Họ tìm Chúa để được ăn bánh nuôi thân xác nên họ không nhận ra Chúa là Đấng có quyền năng làm phép lạ.
Qua bí tích Rửa tội, ta được gia nhập đại gia đình của Chúa là Giáo hội. Tuy nhiên không phải vì thế mà ta dừng chân lại, không cần đi tìm Chúa nữa. Ta vẫn phải tiếp tục đi tìm Chúa, tìm những gì thuộc về nước Chúa, tìm sự công chính của nước Chúa, tìm cái chân thiện mỹ trong tư tưởng, lời nói và hành động, tìm những gì thuộc lãnh vực thiêng liêng và siêu nhiên. Ta cần tìm ra những dấu vết của sự hiện diện của Chúa trong vũ trụ, nơi những kỳ công của Đấng tạo dựng. Ta cần tìm lắng nghe tiếng Chúa qua liếng lương tâm ngay thẳng. Ta cần tìm ra những gì đem lại hạnh phúc toàn diện về thể xác, tinh thần và thiêng liêng, cũng như hạnh phúc lâu dài ở đời này và đời sau cho cuộc sống.
Tìm Chúa là một tiến trình kéo dài suốt cả cuộc sống. Mỗi ngày ta phải đi tìm Chúa với hi vọng được biết Chúa nhiều hơn. Mỗi ngày ta phải khám phá ra sự hiện diện của Chúa để được sống gần gũi thân mật với Chúa. Để có thể đi tìm Chúa, ta phải cảm thấy đói khát về đời sống thiêng liêng. Để có thể cảm thấy đói khát, người ta phải loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn là tội lỗi và các thứ tinh mê nết xấu thì tâm hồn mới có chỗ trống mà cảm thấy đói được. Nếu tâm hồn chứa đầy những chướng ngại vật: những tư tưởng ám muội, những hận thù ghen ghét, tham lam, những ước nuốn ngang trái, những việc làm tội lỗi thì tâm hồn bị ứ đọng, không thể cảm thấy đói khát về đời sống thiêng liêng được. Để có thể cảm thấy đói khát thiêng liêng, ta phải từ bỏ con người cũ, nếp sống tội lỗi cũ để mặc lấy con người mới cùng với nếp sống mới trong ơn nghĩa với Chúa.
Hôm nay mỗi người cần tự xét xem mình đang đói khát những gì? Có phải ta đang đói khát tiền tài, danh vọng, thú vui.... hay đói khát Chúa và những sự công chính và bình an của nước Chúa?
29. Chuyện hai bên bờ biển hồ
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Cửa hàng thức ăn nhanh McDonalds ở quận 1, Sàigòn tổ chức chương trình phát những phần ăn nhanh miễn phí, diễn ra từ 20 giờ tối 23-3-2015 đến 20 giờ tối 24-3. Quà tặng bao gồm một phần bánh burger, khoai tây, nước ngọt và áo thun. Người tham gia nhận quà phải đi xe máy hoặc xe đạp, xếp hàng để đến quầy bán thức ăn của cửa hàng.
Nằm trong chuỗi sự kiện này, trưa nay, 24-3, cửa hàng tiếp tục phát những phần ăn miễn phí cho khách hàng, kèm theo đó là chương trình cơn mưa đồ chơi gồm huy hiệu, râu giả, mắt kính... được ban tổ chức ném từ sân thượng cửa hàng cho người chơi nhặt lấy. Rất nhiều người không ngại trưa nắng đã đứng chờ hàng giờ trước cửa hàng để được nhận quà miễn phí, nhưng rất lâu vẫn chưa đến lượt. Thỉnh thoảng trong đám đông xuất hiện nhiều đợt cãi vã chen lấn, khiến lực lượng bảo vệ phải đến can thiệp. Nhiều người mặt đỏ gay, mệt mỏi khi đứng đợi chờ trong khói xe, nắng nóng. Đoạn đường bên ngoài cũng xảy ra tình trạng ùn tắc vì số người chờ đợi tràn ra cả ngoài.
Khoảng 11 giờ 30, trong lúc dòng người đang xếp hàng, những món đồ chơi từ trên cao ồ ạt rơi xuống. Cảnh hỗn loạn diễn ra, nhiều người vứt xe máy, xe đạp ùa vào tranh nhau lấy quà. Anh Trần Hữu, ngụ quận Bình Thạnh, nói: “Tôi không đồng tình cách làm của cửa hàng khi ném đồ chơi xuống để mọi người giành, giẫm nhau để nhận quà. Sao không tặng kèm trong gói thức ăn?" Đại diện cửa hàng trên cho biết đây là hoạt động mang tên “I’m lovin’ it” nhằm kết nối 24 thành phố trên khắp thế giới có cửa hàng McDonalds. Đã có trên 16.000 phần thức ăn được phát ra. (Lê Phong, NLĐ, Hàng ngàn người đội nắng nhận thức ăn nhanh, giành giật đồ chơi)
Hình ảnh cả ngàn người rồng rắn, hem hễ dưới trời nắng gắt, chờ được McDonalds phát chẩn, có lẽ phản ảnh được phần nào chuyện ngày xưa dân chúng Do Thái lũ lượt kéo nhau đi tìm Đức Giêsu để được no thỏa.
Nhân chuyện này, ở trong hội đường Capharnaum, Đức Giêsu giảng dạy cho dân chúng về hai thứ lương thực hư nát và trường sinh. Tuy nhiên, phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi ăn cả vạn người vẫn còn quá ấn tượng đối với dân chúng, khiến họ không thể nào suy nghĩ xa hơn, hay cao hơn chiếc bánh lúa mạch và cá muối đậm đà.
Bờ bên này: Lương thực hư nát
Vào thuở lữ hành trong sa mạc, dân Do Thái tuy thoát khỏi ách cai trị hà khắc của Ai Cập, nhưng vẫn còn bị ám ảnh kiếp đọa đầy nô lệ, vong thân, trong suốt cuộc hành trình ròng rã 40 năm. Qua lời khẩn cầu của ngôn sứ Môsê, Thiên Chúa đã ban manna để nuôi sống họ. Hôm qua, dân chúng lại được ăn no, nên hôm nay càng thêm đông người tìm đến với Đức Giêsu. Tuy họ đã cố gắng theo Đức Giêsu, đi sang bờ bên kia Biển Hồ, nhưng tâm hồn vẫn còn nặng lòng với những gì xảy ra ở bờ bên này.
Ở bờ bên này, họ đã được Đức Giêsu đáp ứng nhu cầu thể xác, đã no thỏa, dư đầy bánh và cá. Cho nên, họ tiếp tục tìm kiếm Chúa, đi theo Chúa với nguyện vọng, khát khao, mong đợi có thể hưởng phúc hơn thế nữa. Nhân dịp này, Đức Giêsu đã mượn việc hóa bánh ra nhiều để kín đáo hướng họ lên tầm cao mới, không phải Người chỉ đáp ứng nhu cầu căn bản thể lý, bản năng, mà còn phục vụ nhu cầu tâm linh. Nỗi khao khát muôn thuở của tạo vật muốn tìm về cội nguồn, Đấng Tạo Hóa. Người muốn tâm hồn họ mở rộng, hướng thượng, tân trang, biến đổi, theo bước chân họ khi sang bờ bên kia. Thế nhưng, Người đành phải bất bình thốt lên: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.”
Rồi Đức Giêsu khuyên nhủ họ đừng chỉ làm vì lương thực mau hư nát, mà vì lương thực thường tồn, trường sinh, do chính Người ban tặng. Dân chúng thì vô tình, chỉ đơn sơ hiểu chữ “làm” theo nghĩa đen, nên hỏi lại: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Họ nghĩ Đức Giêsu sẽ kể ra một loạt các việc làm cụ thể, như các thầy luật sĩ, tư tế vẫn thường dạy bảo. Đức Giêsu vẫn nhẫn nại, vắt tắt, ôn tồn trả lời, đó là tin vào Đấng Người đã sai đến. Nhưng với não trạng thực dụng, tham lam, lợi dụng, hưởng thụ, chai lỳ, họ ra điều kiện, thách đố, mới chịu tin Người, yêu cầu Người tiếp tục làm phép lạ, cũng gợi ý Người hãy tiếp tục chiêu đãi họ ăn no nê, như xưa cha ông họ được ăn manna phủ phê.“Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời.”
Quanh đi quẩn lại, dân chúng vẫn lấy cái bụng làm trọng tâm câu chuyện. Họ vẫn chưa thoát ra khỏi bờ bên này dư đầy bánh và cá. Dẫu thế, Đức Giêsu vẫn tiếp tục đào sâu ý nghĩa quan trọng của bánh bởi trời. Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian. Họ liền hớn hở, mừng rỡ cầu xin ngay: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy!”
Bờ bên kia: Lương thực trường sinh
Tuy đang ở cùng không gian là hội đường Capharnaum, nhưng giữa Đức Giêsu và dân chúng vẫn xa cách nhau vời vợi. Đức Giêsu đã sang bờ bên kia, trong khi tâm hồn dân chúng vẫn cố chấp, bảo thủ, đóng đô ở bờ bên này. Cuộc đối thoại cuối cùng bế tắc, vì mâu thuẫn ý tưởng dị biệt hai bên bờ, mặc dù nghe rất xuôi tai, thuận chiều.
Trình thuật Tin Mừng Thánh sử Gioan hôm nay nhắc đến một cơ hội thích hợp cho Đức Giêsu giảng dạy về bánh hằng sống, khi dân chúng vừa chứng kiến phép lạ hóa bánh, đã được ăn no thỏa thuê, bèn kéo nhau tìm đến Người.
“Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn, đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” Từ chuyện lao động, làm việc mưu sinh, Đức Giêsu nhẹ nhàng chuyển qua thái độ, lẽ sống, ứng xử, tâm hồn, phải linh hoạt làm sao thủ đắc được lương thực thường tồn. Mà lương thực đó do chính Người trao ban. Hơn nữa Người lại được chính Thiên Chúa Cha đóng dấu xác nhận. Với người Do Thái xưa, con dấu, con triện luôn luôn có giá trị cao nhất trong mọi giao dịch trong xã hội.
Để nhận được lương thực thường tồn đó chỉ có cách duy nhất là tin vào Đức Giêsu, nghe theo, tuân giữ và sống Lời Người. Bởi chưng chính Người là Bánh Đem Lại Sự Sống: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”
“Mặt trời sáng và tung tỏa ánh sáng. Thánh Thể là sự sống và nguồn phát xuất sự sống Thần Linh cho nhân loại, sự hòa hợp cho các dân tộc: “Bánh Ta sẽ ban ấy là thịt mình Ta vì sự sống thế gian” (Ga 6, 51) (Đường Hy Vọng, số 361)
Lạy Chúa Giêsu, xưa dân Do Thái được Chúa nuôi bằng manna, nay chúng con vô cùng vinh dự được Chúa nuôi bằng Thánh Thể, bằng chính Máu Thịt Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết ăn năn, sám hối, canh tân hàng ngày, cũng như khao khát, dọn mình xứng đáng để đón rước Chúa ngự vào lòng.
Lạy Mẹ Maria, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã suy tôn Mẹ một danh hiệu mới, là Người Nữ Thánh Thể. Qua lời “Xin Vâng,” Mẹ đã cưu mang và dưỡng nuôi Đức Giêsu trong cung lòng. Mẹ chuyển thông cho Đức Giêsu chính thịt máu Mẹ, cũng là Mình Máu Thánh Chúa. Kính xin Mẹ cầu bầu, cảm hóa và thánh hóa chúng con, để chúng con luôn khát khao tìm đến, tin cậy và đón rước Thánh Thể, hầu được sống viên mãn. Amen.
30. Chúng ta sống nhờ sự vật hay nhờ một ai?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Bài giảng về bánh sự sống cho ta thấy một cách đặc biệt sống động một đặc điểm của phúc âm thứ tư. Thánh Gioan đã chuyển những gì Đức Giêsu đã nói trước các thính giả kém cỏi hơn thành những dòng chữ cho thích hợp với các độc giả cuối thế kỷ I. thực tế, những gì Thánh Gioan kể lại, là do Đức Giêsu đã nói thật sự, nhưng với từ ngữ, những công thức, những ráp nối được Thánh Gioan viết lại. Thánh Gioan đã trung thành chuyển đạt lời rao giảng của Đức Giêsu, vì ngài đã viết dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, nhưng chuyển đạt không phải bằng cách thức thâu phát băng nhựa. Với tư cách là một môn đệ trung thành đã suy nghĩ nhiều, ngài đã tiêu hóa lời giảng dạy của Thầy, rồi ngài truyền đạt lại lời giảng dạy này xuyên qua những từ ngữ của riêng ngài, cách thức ngài diễn tả, lề-lối ngài suy tư. Tóm lại ngài vừa là chứng nhân, vừa là người được linh ứng.
Bài giảng về bánh sự sống trình bày ý nghĩa tiềm ẩn trong phép lạ bánh hoá nhiều Đức Giêsu đã muốn cho một dấu hiệu. Ngài đã quyết định làm một công việc với ý muốn chứng minh rằng chính Chúa Cha đã làm công việc này xuyên qua Ngài. Như thế Ngài muốn cho thấy chính Ngài là Đấng đem lại sự sống vĩnh cửu cũng như của ăn cần thiết cho đời sống ấy. Sau Phục Sinh, các Kitô hữu sẽ hiểu rằng của ăn này, bánh sự sống này là Thánh Thể.
Không nhấn mạnh đến lối giải thích Thánh Thể về đoạn văn này, chúng ta hãy xem điều được trình bày như là 1 lời mời gọi chúng ta tin.
1) ‘Chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực’.
Người Do thái vừa mới nhắc đến bánh man-na từ trời xuống. Đức Giêsu lợi dụng cơ hội để cho thấy việc ban bánh man-na kia nay đã bị vượt qua bằng một ơn huệ cao cả hơn vô cùng. Từ một của ăn thuần tuý thể xác, nay người ta đến một của ăn thiêng liêng, của ăn đem lại sự sống đời đời. Bánh từ trời xuống, không phải chỉ là cái gì vật chất. Bánh này là Đấng Chúa Cha ban cho nhân loại, chính là Đức Giêsu Ngài không đến qua trung gian Môsê, Ngài trực tiếp là hồng ân của Thiên Chúa. Ngài đến để ban sự sống cho thế gian và Ngài thật sự là của ăn cho đời sống ấy.
Đời sống thâm sâu của ta làm bằng gì? Của ăn của nó là gì? Chúng ta sống nhờ các sự vật hay nhờ một Con Người? Chân lý của chúng ta là một tổng hợp các ý tưởng hay là một sự dẫn thân cho Đức Giêsu Kitô?
2) ‘Chính Ta là bánh sự sống’.
Trong phúc âm Thánh Gioan, Đức Giêsu đã nhiều lần nói ‘Ta là’. Ngài nói: ‘Ta là ánh sáng, là kẻ chăn chiên nhân lành, là cửa chuồng chiên, là sự sống lại và là sự sống, là cây nho đích thật’. Tất cả những chỉ dẫn trên dưới con mắt của người Do thái đều có giá trị ơn sủng của Thiên Chúa. Đức Giêsu quả quyết rằng chính Ngài, hôm nay là ơn huệ đích thật và vĩnh viễn của TC.
Khi nói: ‘Ta là bánh sự sống, chỉ một mình Ta là bánh sự sống’. Đức Giêsu biết Ngài sẽ gây ra việc hiểu lầm, cứng lòng tin và ngay cả sự vấp phạm. Thật vậy, cách nói ‘Ta là’ khi nói đến bánh sự sống, ánh sáng… gợi lên trong não trạng các thính giả Do thái một ý tưởng tuyệt đối. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể nói ‘Ta là’. Con người chỉ có thể nói: tôi là người này, người nọ, nhưng không ai có thể nói: Ta là bánh, là ánh sáng, là sự thật, là sự sống. Nhưng đó lại là điều Đức Giêsu làm. Một quả quyết như thế gây ra vấp phạm hoặc niềm tin. Chúng ta được may mắn thuộc thành phần những kẻ đáp lại bằng niềm tin.
31. Dấu chỉ tình thương.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong trận nội chiến ở Tây Ban Nha, một anh lính bị thương nặng được đưa về bệnh viện dã chiến. Anh có hy vọng sẽ được bình phục. Nhưng anh nhất định không chịu ăn uống gì cả. Các y tá đã tìm mọi cách thuyết phục nhưng anh vẫn từ chối mọi thức ăn đem tới. Một người bạn thân biết được ý anh muốn được gặp mặt cha mẹ, nên tình nguyện đi tìm nhà của anh bạn thương binh để báo tin cho cha mẹ anh đến thăm. Khi người cha chuẩn bị lên đường thì mẹ anh gói cho con bà một ổ bánh. Anh thương binh vui mừng vì được gặp mặt cha mình, nhưng anh vẫn chưa chịu ăn. Khi cha lấy từ trong túi xách gói bánh và nói: “Này con, đây là ổ bánh mẹ con đã làm”. Anh thương binh liền bật dậy tươi nét mặt thốt lên: “A! bánh mẹ con làm, cho con ăn một miếng đi!” Từ đó anh mới chịu ăn lại và cũng bắt đầu bình phục.
Thưa anh chị em,
Không có phù phép nào trong tấm bánh của người mẹ. Nhưng có tình yêu là phép mầu. Bởi kinh nghiệm, anh biết rằng tấm bánh mẹ anh làm gói ghém bao tình yêu thương mà mẹ dành cho anh. Cũng thế, tấm bánh Chúa Giêsu phân phát cho đám đông dân chúng ăn no nê là dấu chỉ lòng thương yêu của Thiên Chúa đối với dân chúng đang đói. Đáng lý ra họ phải nhận ra Thiên Chúa, nhận ra tình thương của Ngài qua tấm bánh mà họ nhận được, chứ không đòi hỏi cái gì khác nữa. Nhưng đàng này, sự cứng lòng và đam mê vật chất đã khiến họ không thể nhận ra mối tương quan giữa tấm bánh và con người làm ra bánh hay nhân ra bánh nhiều, cũng chẳng nhận ra ý nghĩa của việc Chúa bẻ bánh và chia sẻ cho họ ăn no: Ngài đã chia sẻ tấm bánh đó như là biểu tượng của chính Thân Thể Ngài sẽ bị bẻ ra, tan nát, bầm dập trong cuộc khổ nạn và phục sinh. Vì thế, Chúa Giêsu phải nói thẳng với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Thì ra, họ chạy theo Chúa Giêsu chỉ vì cơm bánh chứ không phải vì tin Chúa Giêsu là Bánh đích thực ban sự sống đời đời. Dấu lạ bánh mời gọi niềm tin, chứ không phải để tin thì cần phải có dấu lạ. Chẳng hạn, những người con biết nhận ra mồ hôi nước mắt, công lao của cha mẹ trong miếng cơm mình ăn, sẽ chẳng bao giờ đòi hỏi những món ăn đặc sản, ngon miệng, đắt tiền, mới tin vào tình thương của cha mẹ. Bởi vì họ đã tin vào tình thương của cha mẹ rồi, và chính nhờ niềm tin đó mà họ đón nhận chén cơm thanh đạm với tất cả niềm tri ân. Trái lại, những người con suốt đời chỉ biết đòi hỏi hết ăn ngon đến mặc đẹp, thì chẳng bao giờ thấy được tình thương của cha mẹ, cho dù cha mẹ có đáp ứng những đòi hỏi của họ tới mức nào đi nữa. Bởi vì cái họ yêu, các họ tìm, không phải là cha mẹ, nhưng là cơm áo và của cải vật chất.
Không phải tấm bánh làm ra tình thương, mà chính tình thương làm ra tấm bánh. Thế giới chúng ta ngày ngay thực ra đã không thiếu và không bao giờ thiếu cơm bánh, nhưng thiếu tình thương, nên bánh đã không được bẻ ra cho hết mọi người hay nói đúng ra, người ta chỉ bẻ ra cho những người sẵn sàng làm nô lệ cho họ: bánh cho người nô lệ thì có, nhưng bánh của tình thương dành cho những con người tự do thì không. Chúa Giêsu đã cho chúng ta thứ bánh của tình thương. Thứ bánh của tự do, khi Ngài bẻ bánh phân phát cho người ta và dặn dò: “Anh em phải ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”. Người Do Thái sẵn sàng làm nô lệ, miễn sao bụng được ăn no, nhưng Chúa Giêsu thì lại muốn cho con người được tự do, nên Ngài đã từ chối không làm phép lạ cho bánh từ trời rơi xuống, mà chỉ cho nhân loại thứ bánh của niềm tin, đó chính là bản thân Ngài: “Chính Tôi là Bánh Trường Sinh, ai đến với Tôi, không hề phải đói, ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.
Anh chị em thân mến,
Đói khát, đó là thảm trạng và là nỗi ám ảnh thường xuyên nhất của nhân loại cho đến hôm nay. “No, đủ” vẫn là giấc mơ của hàng trăm triệu con người… Trước khi nói đến Bánh Hằng Sống, Chúa Giêsu đã chạnh thương đám dân nghèo khổ đi theo Ngài, họ đói, họ không có bánh ăn: “Anh em hay cho họ ăn đi” (Mc 6,37). Lời này mời gọi chính chúng ta hãy cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống. Và khi đã khởi sự cảm thông, chia sẻ cơm bánh với họ. Ngài đã cảm thông và chia sẻ, nhưng không chỉ dừng lại ở đó. Ngài đã mạc khải cho họ chân lý về Bánh Hằng Sống, nhưng không hề lãng quên, hay nhắm mắt trước cơn đói đang dày vò họ. Đó là hai khía cạnh gắn liền với nhau không thể tách rời hoặc thiếu một trong hai trong đời sống đạo của chúng ta.
Trên một bình diện khác, bình diện nhân linh, đói khát quả thực là một đặc tính riêng biệt của con người, nếu hiểu đói khát là khả năng khai mở, tiếp nhận, khát vọng, thì thực sự không có điều gì có thể lấp đầy nỗi khao khát vô hạn của con người. Vì tự thân con người đã làm một “khao khát vô biên”, “khao khát tuyệt đối”, và chỉ con người mới có khả năng đó. Thánh Augustinô đã nói lên điều này một cách thấm thía từ kinh nghiệm sống của Ngài: “Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con còn thao thức mãi cho tới khi được an nghỉ trong Chúa” (Tự thuật). Chúa Giêsu hẳn muốn khơi dậy nơi chúng ta niềm khao khát này khi Ngài nói: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho anh em” (Ga 6,27).
Anh chị em thân mến,
Nếu sự đói khát là một mối phúc trong tám mối phúc thật: “Phúc cho người đói khát sự công chính”(Mt 5,6) thì phải chăng, “không biết đói khát”, tự mãn với chính mình, không còn muốn nâng cao khát vọng của mình, là một “mối hoạ” không những cho bản thân mà còn cho gia đình và cho cộng đồng nhân loại.
“Chính Tôi là Bánh Hằng Sống”: Khẳng định long trọng của Chúa Giêsu không một chút mông lung, mơ hồ. Một ý tưởng, một lý tưởng hay lý thuyết thì có thể mơ hồ, nhưng một con người có danh xưng cụ thể thì không. Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại, chính là bản thân Chúa Giêsu. Và để đón lấy một con người, một Đấng làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Ngài. Vì thế kẻ đến nhận lãnh “Lời Hằng Sống” và “Bánh Sự Sống” khác nào người được đưa vào “kho tuý luý yêu thương”- như kiểu nói của Thánh Basiliô- “Lạy Chúa là thức ăn, thức uống của con. Càng ăn, con càng đói; càng uống, con càng khát; càng sở hữu, con lại càng ước ao”.
“Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả. Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng, là sự cất cánh của tình yêu càng lên cao, càng lên cao mãi không thôi… Mỗi lần rước lấy Tấm Bánh Hằng Sống chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Ngài và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương.
32. Bánh Ban Sự Sống
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Thiên Chúa đã dựng nên con người “Giống Hình Ảnh Chúa.” (Khởi Nguyên 1: 27). Vì thế, con người trổi vượt hơn mọi loài thọ tạo khác vì vừa có thể xác, vừa có Linh Hồn, và biết suy tư, lý luận, lại có tự do đích thực để trách nhiệm và quyết định cuộc sống của mình.
Thân xác cần ‘của ăn’ để sống và tăng triển; đó là đời sống thể xác, đời sống vật chất. Linh hồn cũng cần ‘của ăn’ để sống và phát triển, đó là đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng.
Xưa kia, khi dân Do Thái đã được Thiên Chúa giúp thoát khỏi ách nô lệ người Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ để tiến về Đất Hứa, họ đã phải đi qua sa mạc Sainai khô cằn trong 40 năm. Thời gian ở trong sa mạc dân chúng thiếu của ăn, thì Thiên Chúa đã cho chim cút bay đến và mưa Manna để họ có của ăn. “Manna” nguyên ngữ của người Do Thái thời đó là “Man-hu” có nghĩa là “cái gì vậy?”. Vì khi nhìn thấy Manna rơi xuống, người Do Thái thường hỏi nhau “cái gì vậy?” và Ông Môsê đã trả lời họ: “Đó là bánh Thiên Chúa ban cho anh em (Bài Đọc I: Sách Xuất Hành 16: 2-4, 12-15). Người Do Thái đã sống nhờ Manna này trong suốt cuộc hành trình 40 năm để có thể vượt qua sa mạc, và về tới phần đất Chúa đã hứa ban cho cha ông của họ là vùng đất Palestina, nơi người Do Thái đã thành lập nước Israel bây giờ.
Trong Chúa Nhật trước, chúng ta đã nghe Bài Phúc Âm (Ga 6, 1-15) nói về việc Chúa Giêsu làm phép lạ “Năm chiếc bánh và hai con cá” để nuôi đám đông dân chúng sau một ngày dài đến nghe Chúa giảng dạy trong nơi thanh vắng mà không có gì ăn. Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay (Ga 6, 24-35), khi dân chúng lại kéo đến nghe Chúa giảng dạy, Ngài đã hướng tâm trí họ từ “của ăn hay hư nát” đến “của ăn được tồn tại đến muôn đời”. Chúa Giêsu muốn nói đến của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn trong cuộc hành trình vượt qua sa mạc đời sống trần gian để tiến về cuộc sống vĩnh cửu trên trời; vì “con người không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng những lời do miệng Thiên Chúa giảng dạy!” Chúa Giêsu cũng cho biết là Manna không phải do ông Moisê ban, nhưng là “Cha Ta đã ban!” Từ đó, Chúa Giêsu hướng tâm hồn các Môn đệ về Bí Tích Thánh Thể là của nuôi linh hồn cùng với Lời Chúa: “Chính Ta là Bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin Ta sẽ không hề khát bao giờ!” Nhưng để hiểu được Lời Chúa, chúng ta cần có Đức Tin: “Tin Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến” để cứu chuộc chúng ta, để ban chính Mình và Máu Thánh Ngài làm của ăn thiêng liêng cho linh hồn chúng ta.
Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay là phần mở đầu của Bài Giảng của Chúa Giêsu về “Bánh Hằng Sống”. Nhưng Chúa Nhật XIX, XX và XXI (Năm B) tiếp theo, chúng ta sẽ được nghe những Lời Chúa nhấn mạnh hơn để hướng tâm trí chúng ta về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Hình Bánh và Hình Rượu trong Bí Tích Mình và Máu Thánh Chúa mà Chúa Giêsu đã thiết lập trong Bữa Tiệc Ly, Bữa Ăn Tình Thương cùng với Bí Tích Truyền chức Thánh để ban Chức Linh Mục với quyền tế lễ cho các Tông đồ và những người Chúa chọn qua các thế hệ tiếp theo.
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy hiệp lời cầu nguyện cho mỗi người chúng ta được luôn giữ vững niềm tin nơi Lời Chúa đã giảng dạy về Bí Tích Thánh Thể, về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Hình Bánh và Hình Rượu để luôn ở giữa chúng ta và nuôi sống đời sống thiêng liêng của chúng ta.
Qua Phép Rửa Tội, chúng ta đã được thoát ách nô lệ của tội lỗi, chúng ta cũng hãy hiệp lời cầu nguyện cho chúng ta luôn biết thắng vượt những đam mê tội lỗi theo tính xác thịt để “mặc lấy con người đã được tác thành theo Thánh Ý Chúa” như lời khuyên nhủ của Thánh Phaolô trong Bài Đọc II hôm nay (Ephêsô 4: 17, 20-24), và để chúng ta có thể xứng đáng cùng dâng Thánh Lễ thờ phượng Chúa, và hiệp thông trong việc rước Mình và Máu Thánh Chúa ngự thật rong Bí Tích Thánh Thể. Cũng xin tiếp tục cầu nguyện xin ơn thánh hóa cho các Linh Mục trong “Năm Linh Mục” này để các Linh Mục được ơn Chúa sống xứng đáng ơn gọi cao qúy Chúa đã thương ban và hàng ngày xứng đáng dâng Thánh Lễ thờ phượng Chúa và ban phát của ăn thiêng liêng cho dân Chúa.
33. Thánh Thể, Bí Tích Tình Yêu
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CMC)
Bài trích sách Xuất Hành hôm nay thuật lại việc con cái Israel kêu trách tổ phụ Maisen và tư tế Aaron: "Tại sao các ông dẫn chúng tôi lên sa mạc này, để cả lũ phải chết đói như thế này? Thà chúng tôi chết trong đất Ai Cập trong tay Chúa, khi chúng tôi còn ngồi kề bên nồi thịt và ăn bánh no nê".
Như chúng ta biết, Chúa đã thương yêu Israel, Dân Riêng của Chúa, Người đã dùng cánh tay uy quyền của Người, thực hiện những phép lạ phi thường để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của vua Pharaon bên Ai Cập, dùng các tôi tớ trung thành của Người là Maisen và Aaron dẫn đưa họ về Đất Hứa. Vì những gian khổ trên đường tiến tới Đất Hứa, đã làm cho con cái Isarel quên bẵng những ơn lành Chúa đã ban; họ đã dám vô ơn bội nghĩa, buông ra những lời phàn nàn kêu trách các thủ lãnh của họ và hơn nữa, họ còn dám phạm thượng kêu trách cả Thiên Chúa nữa.
I. PHÉP LẠ MANNA VÀ CHIM CÚT
Thấu tỏ lòng dân vô ơn bội bạc. Lời họ kêu trách đã vọng tới tai Chúa, nhưng Chúa vốn nhân từ thương xót họ, ban Manna từ trời rơi xuống để nuôi sống họ; đồng thời, Người cũng cho chim cút bay tới rợp cả khu trại, để họ bắt giết thịt làm của ăn.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại: Sau khi Chúa làm phép lạ bánh và cá hóa nhiều để nuôi đám đông dân chúng đi theo nghe Chúa giảng. Khi gặp lại Chúa, họ thưa với Người: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?" Chúa thừa biết tâm tư của họ, nên Người đã nói thật với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã được thấy các phép lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê". Chúa thấy họ chỉ nghĩ đến những sự tầm thường, những của ăn hay hư nát, những sự dưới đất này, nên Người muốn nâng tâm hồn họ lên cao hơn nữa, khi phán với họ lời này: "Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho cuộc sống muôn đời, là của ăn mà Con Người sẽ ban cho các ngươi".
II. TIN KÍNH CHÚA LÀ LẼ SỐNG HỒN TA
Họ thưa với Chúa: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Chúa đã quả quyết với họ: "Đây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến". Dầu Chúa đã nói thẳng với họ là phải tin vào Ngài, là chính Đấng mà Chúa Cha đã sai đến, thế mà họ vốn còn cứ bám víu lấy "Của ăn phàm trần", đầu óc họ cứ vốn còn lẩn quẩn đến những nhu cầu vật chất tầm thường, nên họ đã thưa với Chúa: "Xin Ngài làm dấu lạ nào để chúng tôi thấy mà tin vào Ngài, Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã cho chúng tôi ăn bánh bởi trời". Chúa đáp: "Không phải Maisen đã cho các ngươi ăn bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì Bánh của Thiên Chúa phải là vật từ trời xuống, và ban sự sống cho trần gian". Họ liền thưa với Ngài: "Thưa Ngài, xin ban bánh ấy cho chúng tôi luôn mãi". Nhờ cơ hội đó, Chúa Kitô đã tỏ cho họ biết chính Ngài là Bánh Thiên Chúa ban cho họ, khi Ngài trịnh trọng tuyên bố: "Chính Ta là Bánh ban Sự Sống, ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ".
Nơi khác trong Tin Mừng, Chúa cũng đã quả quyết: "Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn sống bằng mọi lời do miệng Chúa phán ra". Thực vậy, lương thực nuôi cho người ta được sống; nhưng cũng một sự thực trăm phần trăm là biết bao người có đầy tràn lương thực cũng vốn phải chết, chứ đâu có lương thực đầy đủ mà sống mãi được đâu. Vả nữa, lương thực chỉ là của ăn Chúa ban để nuôi chúng ta phần xác, bao lâu chúng ta còn sống trên trần gian này; nhưng lương thực vật chất đó không thể nuôi chúng ta trong cuộc sống vĩnh cửu, cuộc sống mãi mãi vĩnh tồn trong hạnh phúc bất diệt, mà Thiên Chúa ban cho những ai tin kính yêu mến Người.
Chính nhờ niềm tin kính vào Chúa, mới là lẽ sống nuôi dưỡng linh hồn chúng ta trong cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu.
III. THÁNH THỂ, NHIỆM TÍCH TÌNH YÊU
Manna là thứ bánh Chúa làm phép lạ để nuôi Dân Riêng trên đường tiến về Đất Hứa, cũng như phép lạ Chúa làm bánh hóa nhiều để nuôi dân chúng trong lúc họ đi theo nghe Chúa giảng. Đó là một hình bóng, một biểu tượng Chúa dùng, để dọn lòng chúng ta hiểu được mầu nhiệm Thánh Thể, một Nhiệm Tích Tình Yêu Chúa đã lập để bày tỏ lòng nhân từ Chúa yêu thương chúng ta. Nhiệm Tích Thánh Thể là một phép lạ gồm tóm mọi phép lạ, là trung tâm mọi việc tôn thờ dâng lên Thiên Chúa của Giáo Hội Công Giáo. Là một Nhiệm Tích cần thiết để được Ơn Cứu Độ. Người ta không có lương thực nuôi thân, người ta sẽ phải chết; cũng thế, nếu chúng ta không có lương thực thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta, linh hồn chúng ta cũng sẽ phải chết... Xin Chúa cho chúng ta hiểu biết giá trị đích thực và sự cần thiết phải được dưỡng nuôi bằng Bánh Thánh Thể Chúa. Phải hết lòng phụng sự tôn thờ yêu mến mầu nhiệm Chúa ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể và siêng năng sốt sắng lãnh nhận Chúa Giêsu Thánh Thể cách xứng đáng, để chúng ta được hưởng ơn ích do Bí Tích Thánh Thể mang lại cho chúng ta, nhờ lòng nhân từ yêu thương của Chúa.
Biết bao nhiêu phép lạ Chúa đã làm để chứng minh sự hiện diện thực sự của Chúa nơi Thánh Thể. Nhiều vị Thánh và những tâm hồn thánh thiện, không những Bánh Thánh Thể đã nuôi sống linh hồn các ngài, mà còn dưỡng nuôi cả thân xác các ngài nữa, đến nỗi có nhiều vị đã sống nhờ duy một chút Bánh Thánh Thể trong nhiều năm.
Thánh Anton Padua rất khao khát được dự lễ và rước Chúa Giêsu Thánh Thể, nhưng vì ngài phải nằm liệt tại phòng bệnh, không thể tới dự lễ và rước Chúa được. Khi ngài nghe thấy tiếng chuông rung trong lúc Linh Mục chủ tế dâng Mình Thánh Chúa lên, bỗng ngài nhảy chồm xuống khỏi giường, cúi mình thờ lạy Chúa, đột nhiên bức tường phòng bệnh rẽ ra, để ngài đủ thấy rõ Linh Mục dâng Thánh Lễ. Chúa đã làm phép lạ này để thưởng lòng khát mong của Thánh Nhân... Các vị sau đây mỗi ngày chỉ chịu một tấm Bánh Thánh Thể nhỏ bé mà vẫn sống trong nhiều năm. Chân Phước Angela Foligno 12 năm, Thánh Nữ Catharina 8 năm, Chân Phước Elizabeth Reute 15 năm, Thánh Nữ Ledwina 28 năm, Chân Phước Catharina Reconnigi 10 năm, Rosa Andriani 28 năm, Louise Leteau 14 năm.
Là con cái Chúa, với tâm tình như các Thánh, chúng ta tin thật Chúa hiện diện thực tại nơi Nhiệm Tích Thánh Thể. Chúa ngự nơi đây vì yêu thương chúng ta, để nên nguồn an ủi, nên hạnh phúc, nên gia nghiệp đời đời, nên Thiên Đàng cho chúng ta trên dương thế này. Chúa khát mong được ngự vào linh hồn chúng ta để thánh hóa và biến đổi chúng ta nên giống Chúa như Chúa đã truyền dạy: "Các con hãy nên Thánh vì Ta là Thánh" (Lv 11:45). Và: "Các con hãy nên Thánh như Cha các con trên trời là Đấng Thánh" (Mt 5:48).
Kết Luận
Chúng ta hãy đáp lại lòng Chúa yêu thương bằng cách năng đến viếng thăm Chúa, đền tạ an ủi Chúa vì những tội lỗi loài người hằng xúc phạm đến Nhiệm Tích Tình Yêu Cực Thánh này, bằng những tội phạm thánh, đón rước Chúa cách bất xứng, hoặc thờ ơ nguội lạnh bất kính, hoặc chối từ không tin nhận Chúa đang ngự thật nơi đây.
Xin Chúa ban cho chúng ta Đức Tin vững mạnh và sống động mỗi khi chúng ta đến viếng thăm, tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể, hoặc khi tham dự Thánh Lễ, nhất là khi chúng ta đón rước Thánh Thể Chúa ngự vào linh hồn chúng ta. Xin cho chúng ta hằng cháy lửa kính mến Chúa, cố gắng biến đổi cuộc sống chúng ta nên một Hy Lễ với Chúa, để làm vui lòng Cha Trên Trời, thánh hóa bản thân và cứu độ tha nhân.
34. Của không hư nát
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Một hôm, Na-pô-lê-ông, vị hoàng đế có đôi mắt rất sáng, nói chuyện với một người bạn của ông, người này thì lại có đôi mắt rất kém. Hai người nói chuyện với nhau về sự đời, bên cạnh một của sổ. Bất chợt, Na-pô-lê-ông chỉ tay lên trời, một bầu trời đầy sao, đang phát ra những ánh sáng lập lòe, và hỏi người bạn: "Anh có thấy những ngôi sao ở trên trời kia không?". Người bạn trả lời: "Không, mắt tôi kém lắm rồi, tôi không thấy gì cả". Na-pô-lê-ông nói: "Đó là sự khác biệt giữa anh và tôi". Rồi Na-pô-lê-ông nói tiếp: "Những người nhìn bầu trời đen mà không thấy gì thì mới sống được nửa cuộc đời mà thôi. Muốn sống trọn cả cuộc đời, thì phải thấy được những ngôi sao giữa bầu trời đen". Lời nhận xét trên đây của Na-pô-lê-ông là một lời gián tiếp chê bai người bạn của ông có đôi mắt kém.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đưa ra một lời chê bai những người đã tìm đến Ngài. Ngài nói: "Các ông tìm tôi không phải vì các ông đã tìm thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê". Khi quả quyết điều trên đây, Chúa Giêsu phân biệt hai lý do khiến người ta tìm đến với Ngài, đó là để thấy dấu lạ và được ăn bánh nó nê. Bình thường chúng ta hiểu hai lý do đó là một, bởi vì làm sao có đủ bánh để cho hàng ngàn người ăn ở nơi vắng vẻ nếu không là một phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên Ngài thấy rõ tâm tư của những người tìm đến với Ngài ở đây chỉ là vì muốn được ăn bánh no nê như đã được ăn hôm trước.
Chắc có người khi đọc đoạn Tin Mừng này sẽ cho rằng: Những người tìm đến với Chúa để được ăn bánh nữa là những người thực tế. Điều đó đúng, vấn đề cơm ăn áo mặc, vấn đề nhà ở để che nắng che mưa, đó là những vấn đề ưu tiên của con người, những vấn đề thiết thân cho cuộc sống, ở đời này ai mà không quan tâm đến những vấn đề ấy. Nhưng ở đây, khi chê bai những người tìm đến với Ngài, Chúa Giêsu muốn nói với họ rằng: ngoài sự đói khát vật chất và thể lý còn có sự đói khát thuộc tinh thần và tâm linh nữa. Vấn đề này cũng cần phải được giải quyết. Và Chúa đã đưa ra cho họ một lời khuyên: "Các ông hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh".
Vì thế, nếu về phương diện vật chất và thể lý, để thỏa mãn những nhu cầu, cần phải làm việc vất vả, thì về phương diện tinh thần và tâm linh, con người cũng phải ra công làm việc. Đúng thế, sống ở đời, chúng ta phải làm việc, và làm việc với lý do gì hay vì lý do gì chăng nữa, thì trên hết vẫn phải là lý do vì lương thực không hư nát, vì chỉ có lương thực ấy mới còn lại trong cõi vĩnh hằng, cõi hằng sống. Đó là những việc lành, việc tốt, việc bác ái yêu thương, việc thông cảm tha thứ...Chỉ có những việc ấy mới theo chúng ta về thế giới bên kia mà thôi.
Như vậy, công việc làm ăn không phải là không quan trọng. Nhưng nếu ai chỉ miệt mài làm việc mà bỏ quên nước trời, quên hạnh phúc đích thực đời sau của mình, thì Chúa bảo: họ sẽ mất tất cả. Tại Pháp, có một thương gia rất giàu, phương châm của đời ông là làm tiền, ăn nhậu và chơi bời. Nhưng chẳng bao lâu ông bị bệnh trầm trọng: thần kinh chỉ huy thanh quản bị tê liệt, làm ông bị câm. Trên giường bệnh, ông luôn thở dài chán nản. Cuối cùng, trước khi chết, ông bảo gia nhân đem bút giấy cho ông. Cầm bút, ông ghi một hàng chữ và truyền khắc nó trên bia mộ của ông: "Đây là người dại dột, đã sống mà không biết sống. Hỡi những người đang sống, chớ gì sự vô phúc của kẻ khác mở mắt các ông".
"Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng. Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì". Thánh Gióp nói: "Từ lòng mẹ tôi sinh ra trần truồng và lại trần truồng để trở về đấy". Thánh Phaolô cũng nói: "Vào thế gian ta chẳng mang gì, thì cũng không thể mang gì khi phải ra đi". Và lời Chúa Giêsu: "Tất cả mọi sự sẽ qua đi, chỉ có việc lành mới tồn tại".
Chúng ta đang sống, chúng ta đừng quên mối tương quan giữa cuộc sống đời này và cuộc sống đời sau. Hơn ai hết, người Kitô hữu phải luôn nhớ mối tương quan ấy. Chúng ta cần lợi dụng từng giây phút, cần hoàn tất từng công việc, dù nhỏ mọn hay to lớn, để làm giàu cho cuộc sống, để làm cho đời mình có giá trị vĩnh cữu. Chỉ sống như thế chúng ta mới có thể đón nhận được lời diễm phúc này: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào chung hưởng niềm hoan lạc với chủ ngươi".
35. Man-na - Thánh Thể
(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho năm chiếc bánh và hai con cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, dân chúng phấn khởi quá muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài không đồng tình với quan niệm vật chất, trần tục của họ, nên Ngài bảo các môn đệ xuống thuyền đi trước sang bờ bên kia Biển Hồ, còn một mình Ngài lên núi cầu nguyện. Nửa đêm, bão tố nổi lên, con thuyền các môn đệ bị đe dọa, Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ, Ngài truyền cho bão tố yên lặng và con thuyền cập bến bình an. Còn dân chúng không thấy Chúa đâu, họ háo hức đi tìm, số người rất đông, gồm những người mới tới cũng như những người đã được ăn bánh hóa nhiều hôm trước. Họ đã gặp Chúa và các môn đệ ở Ca-phác-na-um. Nhân dịp này, Chúa đã giảng dạy cho họ một bài khá dài về bánh hằng sống, và qua đó Chúa mạc khải về Bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ lập sau này.
Bài Tin Mừng hôm nay là phần mở đầu của bài giảng ấy, vừa móc nối với những gì đã xảy ra trước đó vừa đặt “dàn bài” cho bài giảng theo sau. Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu đòi hỏi dân chúng phải tin vào Ngài: “Các người hãy tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến”. Nghe Chúa nói như vậy, họ hiểu ngay Chúa muốn nói phải tin vào Ngài, nên họ liền đặt câu hỏi với Chúa: “Ông làm được dấu lạ nào để chúng tôi tin ông? Ông làm được việc gì?”, nghĩa là họ đòi Chúa phải làm một việc gì phi thường để chứng tỏ Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến, rồi chính họ lại đưa “đề tài” để Chúa biểu diễn quyền năng, họ nói: “Tổ tiên chúng tôi hồi ở trong sa mạc đã được ăn man-na, như có lời chép: “Người đã cho họ ăn bánh bởi trời”.
Chúng ta biết: man-na là một loại bánh Thiên Chúa đã ban từ trời xuống làm lương thực cho dân Do Thái trong 40 năm hành trình đi về Đất Hứa. Đây là một biến cố vĩ đại không người Do Thái nào không biết, vì thế, suốt chiều dài lịch sử, dân Do Thái luôn luôn ghi nhớ và ca tụng ân huệ man-na, họ gọi đó là ‘bánh bởi trời”,”bánh của các thiên thần”, và trong truyền thống Do Thái, man-na vẫn được coi là dấu lạ vĩ đại nhất, man-na cũng là bằng chứng cho dân Do Thái tin vào ông Mô-sê. Bây giờ Chúa Giêsu đòi họ tin vào Ngài, nên họ đem chuyện man-na ra làm đề tài để đối chiếu Chúa với ông Mô-sê, và yêu cầu Chúa làm một dấu lạ gì tương tự như thế hay hơn thế thì họ sẽ tin Ngài.
Chúa Giêsu đã dùng đề tài họ nêu ra để dạy cho họ và mọi thời đại biết: không phải ông Mô-sê đã ban man-na, ông chỉ là dụng cụ của Thiên Chúa, chính Thiên Chúa mới ban ma-na. Đàng khác, man-na chưa phải là bánh thật từ trời xuống, có chăng chỉ là hình bóng, là cái bóng mờ của một thứ bánh thật mà Ngài sẽ ban sau này. Một điều khác biệt quan trọng nữa là man-na chỉ có trong một thời gian ở sa mạc và bao nhiêu người được ăn man-na rồi cũng chết, trái lại, bánh Ngài sẽ ban mới là bánh từ trời đích thực, có những đặc tính: tăng sức mạnh cho thời gian lữ thứ, và cuối cùng ban sự sống đời đời. Đó là ý nghĩa của man-na cũ và Chúa Giêsu đã áp dụng vào man-na mới là bánh hằng sống và ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời, đó là bánh Thánh Thể.
Là con cái Chúa ở thế kỷ XXI này, chúng ta không còn có lý do gì để nói rằng chúng ta không biết, không hiểu về thứ bánh mà Chúa Giêsu đã mặc khải cách đây hai ngàn năm nữa. Ngài nói: “Chính tôi là bánh ban sự sống”. Nhưng thứ bánh mà Chúa nói đến ở đây không phải là thứ bánh mà người Do Thái thời xưa đã hiểu và đã xin Chúa, mà bánh đó là bánh Giêsu, bánh có tên là Giêsu, bánh đó là bánh từ trời xuống, Ngài đã từ trời xuống, bánh đó mới có khả năng đem lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Thế nhưng thái độ của chúng ta đối với thứ bánh đó như thế nào? Có phải là thái độ của người Do Thái thời Chúa Giêsu khi được nghe nói về thứ bánh từ trời xuống, thứ bánh ban sự sống đời đời hay là thái độ thờ ơ lãnh đạm đối với thứ bánh vô cùng quý giá đó? Và nếu trong những lời cầu xin của chúng ta, nhất là trong những lời cầu xin sau những lần ăn bánh Giêsu, chúng ta chỉ cầu xin cơm bánh vật chất, cầu xin tiền bạc, cầu xin sức khỏe, cầu xin thành công, cầu xin địa vị danh giá mà không cầu xin sự sống đời đời mà bánh Giêsu mang lại thì chúng ta cũng chẳng hơn gì những người Do Thái thời Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy nhớ: ông Mô-sê và dân Do Thái đã được ăn man-na trong thời gian vượt qua sa mạc. Cuộc đời con người chúng ta hôm nay, sống trong khoảng không gian, thời gian ở trần thế, được coi là một cuộc vượt qua sa mạc, chúng ta cần có lương thực, đó là bánh Thánh Thể. Bánh này không phải như man-na dân Do Thái đã ăn và cũng đã chết, cũng không phải là thứ bánh hóa nhiều trong hoang địa cũng đã hết. Nhưng bánh của Chúa là bánh ban sự sống và bảo đảm được sự sống đời đời với Chúa. Xin Chúa cho chúng ta biết quý trọng phép Thánh Thể và siêng năng rước lễ để Mình Thánh Chúa trợ giúp chúng ta sống lành, sống tốt ở đời này và bảo đảm cho cuộc sống vĩnh cửu hạnh phúc ở đời sau.
36. Thần lương
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Điều không thể chối cãi là con người cần ăn uống để sống và thực phẩm để nuôi thân chính do bàn tay sinh hoạt, cộng với khối óc, nhào lặn đất cát làm ra thực phẩm nuôi thân. Ngoài việc nuôi dưỡng bảo vệ phần xác, còn một phần nữa rất quan trọng cũng cần phải nuôi dưỡng, chăm sóc bảo vệ. Tuỳ vào niềm tin cuộc sống đời sau của mỗi người mà họ đặt tên gọi cho phần quan trọng này. Kitô hữu gọi đó là linh hồn, thuộc phần tâm linh.
Thần lương là lương thực đặc biệt dùng để nuôi sống linh hồn hoặc tâm linh trong ta. Điều này rất quan trọng bởi nếu ta chăm sóc chu đáo cho phần xác và lơ là phần tâm linh ta sẽ cảm thấy cuộc đời là gánh nặng, vất vả. Kể cả trường hợp đánh mất mục đích cuộc sống trần gian. Không biết sống để làm gì, với mục đích gì. Những cảm xúc đó xuất hiện trong cuộc sống là dấu chỉ cho biết đời sống tâm linh bị lơ là, quên lãng từ đó đánh mất í nghĩa cuộc đời. Đời sống tâm linh lơ là, đời mất vui, ngày đêm luôn lo lắng. Thành công vui chốc lát; thất bại thảm sầu khôn nguôi. Giầu sang sống sợ sệt; nghèo hèn lo ngày đêm. Con người không thể sống thiếu niềm vui nên người ta thay vì củng cố đời sống tâm linh cho vững chắc để hưởng hạnh phúc, bình an thực, lại đi tìm bình an giả tạo trong các cuộc chơi. Một thời gian sau trở thành nghiện ngập. Cuối cùng bị xã hội tẩy chay, trở thành cặn bã xã hội.
Khám phá y khoa và chuyên gia ẩm thực đồng loạt lên tiếng cảnh cáo cho biết người dùng thực phẩm tốt sẽ có một cơ thể tốt, khoẻ mạnh; người dùng thực phẩm xấu hậu quả thật buồn thảm bởi sau một thời gian thực phẩm xấu tàn phá cơ thể đến độ không thể chữa trị được dẫn đến tử vong. Cảnh cáo này đúng cho cuộc sống tâm linh. Thực phẩm nuôi dưỡng tâm linh tốt sẽ tạo cho cuộc sống dù nghèo, dù vất vả nhưng vẫn cảm thấy an vui, yên tâm sống hạnh phúc. Thực phẩm nuôi dưỡng tâm linh xấu dù giầu sang, dù nổi tiếng, dù tài cao, dù chức trọng vẫn luôn thấy bất an, sống trong lo lắng, sợ sệt. Để lấp vào lỗ hổng lo lắng, mất an người ta tìm mọi cách mang lại bình an tạm, như thuê người bảo vệ, xây hàng rào cao, cần khoá vững chắc và ngay cả không loại bỏ giải pháp nếu phải tiêu diệt kẻ mình nghi đang cạnh tranh, giành giật điều đang có họ cũng không từ nan.
Thực phẩm tìm kiếm trong đất đai phù hợp cho cơ thể con người nhưng trở thành vô dụng không sinh ích gì cho tâm linh. Kitô hữu may mắn có thần lương do Đức Kitô ban. Ngài biết rõ tâm linh cần gì nên Ngài biến thực phẩm bình thường thành lương thực trường sinh. Không phải do đất đai; cũng không phải do con người mà chính là Đức Kitô, Đấng biến thực phẩm hay hư nát thành thần lương trường sinh cho tâm hồn. Bí Tích Thánh Thể và Lời Chúa làm công việc thánh hoá đó. Trong lời nguyện khi dâng lễ vật chúng ta nghe linh mục cầu xin
Chúc tụng Chúa là Chúa Tể càn khôn vì Chúa đã dựng nên bánh/rượu này là hoa mầu của trái đất và lao công của con người. Chúng con dâng lên Chúa để trở nên của ăn/uống trường sinh cho chúng con. (Sách lễ Roma)
Lời nguyện trên cho thấy bánh rượu thường chúng ta dâng tiến, Thiên Chúa biến chúng thành thần lương nuôi dưỡng tâm linh con người. Qua việc thánh hiến và lời nguyện bánh rượu thường trở thành Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Ngoài Thiên Chúa ra không một ai có thể làm được điều đó. Ngoài thần lương này ra không thực phẩm nào trên thế gian mang lại bình an thực sự cho tâm hồn. Đời sống tâm linh không lệ thuộc vào luật thiên nhiên nên thực phẩm trong thiên nhiên không thể nuôi sống tâm linh mà phải cần đến thần lương Chúa ban.
Lời nguyện trên cũng cho biết Thiên Chúa hằng sống, luôn đồng hành với dân Chúa và tiếp tục, không ngừng sáng tạo. Qua lời cầu của linh mục, đại diện cộng đoàn, dâng lời nguyện và tiến dâng lễ vật, Thiên Chúa sáng tạo, biến đổi bánh thường thành thần lương.
Ngoài Chúa ra không người nào có khả năng làm điều kì diệu trên. Con người chỉ biết dâng lời cảm tạ, chân thành tôn kính Chúa và khiêm nhường đón nhận thần lương với tâm tình mến yêu với niềm tin sắt son vào Lời Đức Kitô truyền dậy
Người ta không chỉ sống bởi cơm bánh mà còn sống bằng Lời tử miệng Thiên Chúa phán ra – (TĐCV 17,28).
37. Bánh bởi trời
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Chúa dùng manna nuôi dân trong sa mạc khô cằn biểu lộ lòng Chúa xót thương ngay cả khi con người phản bội, bất trung.
Thực thể diệu kì
Thực thể diệu kì, nơi đâu có Chúa ngự trị, nơi đó có sự sống và sống dồi dào. Sa mạc khô cằn, sỏi nhiều hơn đá. Đá nhiều hơn đất. Đất xấu nhiều hơn đất tốt. Đã ít đất còn khô cằn. Loại cây nào cũng chết yểu. Cỏ dại nào cũng bơ phờ. Lưa thưa vài đám xương rồng, lá thu nhỏ thành gai.
Sa mạc
Sa mạc hình bóng chết chóc rõ nét hơn sự sống. Chết vì nắng khô, chết vì bò cạp, rắn độc. Thần chết rình rập cả ngày lẫn đêm. Chết vì thiếu nước. Chết vì ngày nóng khiến cát chuyển mình. Triệu hạt cát cùng chuyển biến thành bão cát. Sa mạc đêm lạnh se lòng đá, khiến đá rung động, rên siết, vụn tan thành cát.
Thiếu đất và nước sự sống cằn cỗi, èo ọt. Sức người có hạn, sớm muộn gì cũng thành tro bụi. Con người bất lực. Tuy nhiên, với Chúa không có chi khó, chỉ cần có đức tin. Các tông đồ có lần kinh ngạc thốt lên:
‘Người này là ai mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh. Mc. 4,41
Với Chúa mọi sự đều có thể. Các tổ phụ năm xưa có lẽ kinh ngạc hỏi nhau: ông này là ai mà sai khiến được cả sương khuya, gió sớm. Một lời Ngài phán ra sương mai vâng lời chở manna nuôi dân. Một lệnh truyền ban, gió vâng lệnh. Chim cút trên ngàn tự hiến thân cho bữa cơm gia đình. Đời sống sa mạc trở nên phong phú, sung túc. Thiên nhiên vâng lệnh Ngài. Chỉ có con người, lợi dụng tình Chúa yêu thương, cãi lại Đấng từ bi, nhân hậu, chậm bất bình, giầu thứ tha.
Ngày lễ nghỉ
Điểm thứ hai, kiêng việc xác ngày Chúa Nhật là kiện toàn lề luật. Sách Xuất Hành ghi nhận. Chúa ban manna cho dân chúng từ Thứ Hai đến Thứ Sáu. Mọi người lớn nhỏ, tự do gom góp đủ của ăn nguyên ngày. Kẻ tham lam lấy nhiều hơn đã không được hưởng còn đắc tội. Manna vụng trộm, cất dấu ngay chiều tối hôm đó nảy sinh giòi bọ, hôi thối. Của để dành trở thành của nợ. Chúa làm chủ manna, ban cho nó sự tươi mát, tinh khiết, dài ngắn tuỳ ý Chúa. Một mình Chúa định đoạt tuổi thọ của con người, chim trời, cá biển, bông cỏ đồng nội và ngay cả cỏ dại trên ngàn. Tất cả đều vâng phục ý Chúa, ngoại trừ con người.
Ngày Thứ Bảy mọi người được phép giữ đủ manna ăn cho hai ngày Thứ Bảy và Chúa Nhật. Ngoài ý Chúa nhiệm mầu ai giải thích nổi điều kì lạ. Cùng loại manna từ trời do sương mai chuyển đến nhưng từ thứ Hai đến Thứ Sáu không để dành được. Trái lại manna thu lượm ngày Thứ Bảy lại để dành cho đến hết ngày Chúa Nhật vẫn tươi mát, thơm ngon. Lí do ngày Chúa Nhật là ngày dành riêng ca tụng thờ phượng Chúa. Truyền thống tốt đẹp, cao quí lâu đời này bị kẻ coi thường luân thường, đạo lí thay đổi.
Ngày lễ nghỉ theo tập tục, truyền thống ngàn xưa dành riêng để tôn vinh Thiên Chúa bị các ‘nhân danh’ lạm dụng, ngầm mưu hại.
- Nhân danh cách mạng kĩ nghệ, công nhân làm bảy ngày trong tuần.
- Nhân danh thể dục, thể thao tổ chức trận đấu vào Chúa Nhật.
- Nhân danh giáo dục thi cử vào Chúa Nhật, đại lễ Giáng Sinh.
- Nhân danh kỉ niệm một biến cố xã hội, ngăn cản giáo dân kiện toàn lề luật nghỉ ngày hưu lễ.
Tất cả các nhân danh này nọ, ít người đủ can đảm, bạo miệng nói thẳng ra, nhưng tự thâm tâm có mục đích bài bác ngày lễ nghỉ, chủ trương phá hoại ngày dành riêng tôn thờ Thiên Chúa. Một hình thức chống phá đạo trá hình. Tất cả các nhân danh của xã hội đều chối bỏ một thực thể hiện hữu: Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống.
Bánh trường sinh
Có xã hội nào ra công, bỏ sức đi tìm thực phẩm mau hư nát mà dân chúng thực sự an cư, lạc nghiệp. Càng cố gắng đi tìm quyền cao, chức trọng. Càng ra sức tranh giành cho mình nhiều của hơn người. Xã hội càng lắm tệ đoan. Tránh khỏi cám dỗ này lại sa vào cạm bẫy khác. Vất vả tìm kiến, mệt mỏi tranh giành bệnh thời đại phát sinh. Điên loạn, trầm cảm gia tăng. Trẻ khủng hoảng cuộc đời; già bị bỏ rơi. Nghèo ham có tiền; giầu thấy tiền vô nghĩa. Sống vô vị, thiếu giá trị, mất tương lai nên số người tự huỷ ngày một nhiều. Hậu quả của
‘Chối bỏ lương thực đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho’ c.27.
Chối Chúa là bước trên con đường một chiều dẫn đến diệt vong. Chê bánh trường sinh sẽ mất sự sống trường sinh. Chê bánh ban sự sống sẽ mất sự sống. Kiêu ngạo, chối bỏ Chúa, tự nhận mình làm chủ sự sống. Bài học tổ phụ Adam - Eva học xưa nay con cháu cho vào dĩ vãng. Chúa là Đấng duy nhất làm chủ sự sống.
Chối cuộc sống đời sau nên tranh sống đời này. Tranh sống nên đè đầu cỡi cổ nhau. Bất công ra đời, công kích, phản đối, gầm gừ cấu xé nhau. Một mình làm không được thì kéo bè, chia phái. Luật tranh sống ra đời bắt đa số phục vụ thiểu số lãnh đạo. Mầm mống tự huỷ nảy sinh. Chối Chúa là đi trên con đường tự hủy. Bỏ Chúa là bỏ sự sống trường sinh. Chỉ có một điều cần để được sống an vui, trường cửu.
Tin vào Đấng Chúa Cha sai đến, là Đức Kitô. c.29
Để sống đời đời hãy đón nhận Bánh Trường Sinh với lòng cảm mến.
38. Đói khát – Như Hạ, OP
Không bao giờ nhân loại hết đói khổ. Chính dân Chúa đã trải qua kinh nghiệm đau thương đó trong sa mạc. Nhưng cũng chính trong cơn đói khát đó, họ mới chứng kiến sự thật về quyền năng Thiên Chúa.
BÁNH ĐÍCH THỰC
Tại sao con người phải lao nhọc mới có miếng ăn? Miếng ăn có phải là lý do sau cùng lý giải hoàn toàn mọi sinh hoạt của nhân loại không? Con người thường thiếu tầm nhìn xa để thấy được tất cả ý nghĩa và nguyên nhân sự sống. Ngay cả trong hàng ngũ những người theo Chúa, cũng có những người chỉ biết cắm mắt vào những những thực tại tầm thường và theo đuổi những mục tiêu quá vị kỷ. Chính vì thế, Đức Giêsu mới nói: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê." (Ga 6:26)
Làm sao có thể nhìn thấy thực chất cuộc sống, nếu không hiểu được ý định của Tạo Hóa? Thực vậy, Thiên Chúa muốn chúng ta "tin vào Đấng Người đã sai đến." (Ga 6:29) Không tin không thể thấy những "dấu lạ" tràn ngập trong cuộc sống. Dấu lạ đó là những dấu chỉ về tình yêu Thiên Chúa. Dấu lạ lớn nhất là chính Đức Giêsu Kitô "đem lại sự sống cho thế gian," vì Người là "bánh Thiên Chúa." (Ga 6: 33) Chỉ có con mắt đức tin mới khám phá được tất cả những "dấu lạ" trong "bánh trường sinh" (Ga 6:35). Bánh trường sinh đó là "lời mạc khải của Đức Giêsu." (The New Jerome Biblical Commentary 1990:961)
Khác hẳn với bánh trần gian, "bánh trường sinh" sẽ cung cấp cho con người sự sống bất tận. Thực vậy, Đức Giêsu mạnh dạn mạc khải: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ." (Ga 6:35) Tin vào Đức Giêsu, phải dấn thân và hành động. Tin là phục vụ vô điều kiện. Không có sự phân cách giữa đức tin và việc làm, vì tất cả đều do ân sủng! Hơn nữa, chính Đức giêsu cũng nhấn mạnh: " Chỉ có một 'việc'phải làm, đó là tin vào Đấng Thiên Chúa đã sai đến." (The New Jerome Biblical Commentary 1990:961)
Nguồn ân sủng phát xuất từ Thánh linh. Bởi đấy, muốn tin vào Đức Giêsu, "anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em." (Ep 4:23-24) Không đổi mới không thể thấy "dấu lạ". Chỉ Thần Khí mới có thể dẫn con người ra khỏi đường mòn và ngõ cụt cuộc đời. Thiếu Thần Khí, con người cứ quanh quẩn với những nhu cầu tầm thường và chết ngộp dưới sức nặng vật chất. Cuộc đời trở thành đấu trường đầy dẫy bất công và vô đạo. Muốn được giải thoát, chúng ta "phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện." (Ep 4:24) Con người ấy sẽ sống nhờ "bánh bởi trời, bánh đích thực" (Ga 6:32) là Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, họ sống trong hòa bình và hạnh phúc. Thật vậy, chỉ khi nào trở về con người đích thực, họ mới nhận ra Đức Chúa là Thiên chúa (x. Xh 16:12) và "Đấng Người đã sai đến" (Ga 6:29) giải thoát nhân loại khỏi cơn đói khát triền miên.
CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?
Ngày nay, cơn đói khát cả tinh thần lẫn vất chất lan rộng khắp thế giới. Phải có một cuộc "liên đới toàn cầu" mới tạo nổi sức mạnh giải quyết vấn đề quá sức lớn lao đó. Đây là quan tâm chính và cũng là phương châm của 450 đại biểu thuộc hơn 150 tổ chức Caritas quốc gia họp tại Roma từ ngày 7 đến 12 tháng 7 năm 2003.
Trong lá thư viết cho ĐGM Youhanna Fouad El-Hage, chủ tịch Caritas Quốc tế và là TGM tại Lebanon, ĐGH Gioan Phaolô II viết: "việc toàn cầu hóa phải được mọi giai tầng chính trị nhận thức. Muốn cho sự liên đới mang chiều kích toàn cầu, phải thực sự quan tâm tới mọi dân tộc khắp nơi trên thế giới. Trước hết, phải có những nỗ lực quốc tế lớn lao bảo đảm vững chắc cho những tổ chức nhân đạo. Những tổ chức này thường bị gạt qua một bên mỗi khi có tranh chấp, vì họ không được bảo đảm an ninh cũng như quyền giúp đỡ con người" (Zenit 7/7/03) sống và phát triển. Tìm đâu ra hứng khởi và sức mạnh hỗ trợ cho những nỗ lực như thế? Chỉ Lời Chúa mới có thể đem "thần khí và sự sống" cho toàn thể vũ trụ. Lời Chúa mới có thể hiệp nhất nhân loại trong nỗ lực chống nghèo đói trên thế giới. Chính vì thế, việc toàn cầu hóa tình liên đới trên hết là một lời đáp lại tiếng Đức Giêsu mời gọi khẩn thiết trong Tin mừng. Đối với các Kitô hữu, lời mơi gọi này đòi chúng ta phải đi theo một con đường thiêng liêng đích thực, cải hóa tâm hồn và con người." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 7/7/03)
Theo tinh thần đó, "viện trợ không chỉ là việc bố thí cho người nghèo, khiến người cho tự hào và người nhận tủi hổ." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 7/7/03) Để tránh tình trạng đó, "việc toàn cầu hóa tình liên đới đòi chúng ta phải sát cánh làm việc và thường xuyên liên đới với những tổ chức quốc tế. Chính những tổ chức này làm cho các mối tương quan giữa các quốc gia giàu nghèo được luật pháp bảo đảm, cân bằng các mối tương quan đó theo chiều hướng mới, để chấm dứt các các tương quan viện trợ một chiều, thường góp phần làm chênh lệch cán cân giữa các quốc gia qua những món nợ chồng chất từ năm này qua năm khác." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 7/7/03)
Của cải đã trở thành phương tiện thống trị. Mối quan tâm hàng đầu của con người thời nay là làm sao "được ăn bánh no nê" hằng ngày, bất kể người anh em đồng loại đang chết đói bên cạnh. Những hạng phú hộ đó nhan nhản khắp nơi. Theo gót Đức Giêsu Kitô, người tín hữu không thể sống buông thả như thế. Trái lại, vì "được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu," (Ep 4:21) họ có khả năng đọc những "dấu lạ". Nhờ đó, họ phấn khởi hướng dẫn mọi ngươi từ "lương thực mau hư nát" tới "lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh" (Ga 6:28) nơi "Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận" (Ga 6:27) là Đấng Cứu độ duy nhất cho toàn thể nhân loại.
39. Làm việc để tìm kiếm Nước Trời
"Có làm thì mới có ăn
Không dưng ai dễ đem phần đến cho"
Đúng vậy, ai ai trong chúng ta cũng công nhận rằng sống thì phải làm việc, làm việc không ngừng. Điều đáng nói là chúng ta phải làm những việc nào và làm với động cơ nào?
Chúa nhật tuần trước, cùng với Giáo hội chúng ta đã suy niệm đoạn Tin mừng của Thánh Gioan. Đoạn Tin mừng này nói về phép lạ hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh và hai con cá nuôi hơn năm ngàn người ăn no nê. Kể từ phép lạ ấy dân chúng theo Chúa Giêsu ngày càng đông hơn. Thấy họ theo mình đông đảo như thế, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở họ về động cơ đi theo Người: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê" (Ga 6, 26). Người nói tiếp: "Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông" (Ga 6, 27)
Có lẽ, Chúa Giêsu sợ rằng họ nghĩ là theo Người thì khỏi phải làm gì mà vẫn được no nê. Bởi lẽ, nhàn cư vi bất thiện. Do đó, Chúa Giêsu muốn họ có cái nhìn đúng đắn khi đi theo Người. Cái nhìn ấy phát xuất từ lòng tin tưởng vào Chúa. Tin tưởng vào Chúa để lo ưu tiên tìm kiếm Nước Trời là trên hết.
Có lần Chúa Giêsu đã nói: "...Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người" (Mt 6, 31 - 33)
Hằng ngày cực khổ làm việc vất vả nhưng có khi nào chúng ta tự hỏi tôi làm với động cơ gì chăng. Và rồi tôi đã làm việc như thế nào.
Có người làm việc với động cơ hại người.
Có người làm việc với động cơ hơn thua nhau
Để rồi họ bất chấp mọi thủ đoạn, bất chấp luân thường đạo lý miễn sao là đạt được mục tiêu đen tối của mình. Thật là nguy hiểm cho những người làm việc như thế. Hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta biết làm việc với động cơ thật tốt. Động cơ tốt là để tìm kiếm Nước trời.
40. Bánh từ nhà đem tới - Gm. Arthur Tone.
Trong trận chiến ở Tây Ban Nha, một người lính bị thương nặng được đưa về bệnh viện dã chiến. Chàng có hy vọng bình phục nhưng chàng lại không chịu ăn. Các y tá các nữ tu đã tìm mọi cách thuyết phục, nhưng chàng từ chối mọi thức ăn đem tới. Một người bạn thân của chàng, biết chàng nhớ nhà, nên anh tình nguyện đi tìm nhà của người bạn, anh kẻ rõ hoàn cảnh. Người cha của người bị thương chuẩn bị lên đường thì mẹ chàng gói cho con bà một tấm bánh. Nạn nhân vui mừng khi thấy cha mình. Nhưng anh vẫn chưa chịu ăn, đến khi cha chàng nói: “Này con, đây là tấm bánh mẹ con đã nướng”. Người con tươi nét mặt nói: “Vâng, bánh mẹ con làm, cho con một miếng”. Từ đó, chàng bắt đầu trên đường bình phục.
Bạn và tôi ở trong câu chuyện đó. Chúng ta bị thương trong trận chiến cuộc đời bởi tội, bởi quên Chúa, bởi những điều phiền muộn, những gian nan và những khổ đau hàng ngày. Chúng ta hết muốn ăn những món ăn làm cho linh hồn chúng ta thêm mạnh mẽ. Chúng ta hãy nghe Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Cha Ta cho anh em Bánh bởi trời đích thực. Bánh của Thiên Chúa từ trời đến và ban sự sống cho thế gian”. Cũng giống như người cha trong câu chuyện nói với con mình “Đây là bánh mẹ con đã làm”. Bởi vậy, vị linh mục của bạn nhân danh Đức Kitô nói với bạn: “Đây là Bánh Cha bạn ở trên trời đã làm”.
Thánh Thể là bánh từ trên trời, bánh ban sự sống cho chúng ta, sự sống thiêng liêng thật, sự sống của Thiên Chúa. Bánh chữa lành thiêng liêng, ban sức khỏe và sức mạnh thiêng liêng.
Không có phù phép trong tấm bánh của người mẹ. Nhưng có tình yêu là phép màu. Bởi kinh nghiệm, người lính bị thương biết rằng tấm bánh mẹ chàng nướng gói ghém bao tình thương. Cũng thế, chúng ta những kẻ theo Chúa Kitô biết rằng Tình yêu ban tặng trong Thánh Thể, trong việc đem bánh bởi trời đến ngay nơi đây, trong giờ này.
Trong Thánh vịnh đáp ca, chúng ta lặp lại những lời của bài ca trong Cựu Ước, ca ngợi Chúa vì Chúa ban Mana, của ăn lạ lùng Chúa ban cho dân Người trên hành trình về đất hứa. Mana là hình ảnh bánh Thánh Thể chúng ta dùng cũng những lời người Do Thái cổ đã dùng khi cảm tạ và ca ngợi Chúa. Vì bánh Thánh Thể Chúa ban trong giờ phút này.
“Chúa đã cho họ bánh bởi trời”
“Người làm mưa Mana trên họ để làm của ăn
và Người cho họ bánh bởi trời”.
Loài người được ăn bánh của Đấng Toàn Năng. Thánh Thể bao gồm tất cả. Hôm nay tôi gợi ý chúng ta nhớ Bánh bởi trời là liều thuốc cho linh hồn đau yếu, là sự bổ dưỡng cho tâm hồn bị thương, là ánh sáng và sức mạnh cho tâm trí yếu đuối. Tất cả chúng ta sẽ thấy được điều người lính bị thương trong câu chuyện đã kinh nghiệm. Nếu chúng ta nhớ rằng: “Thánh Thể là bánh đem từ nhà tới, từ nhà của chúng ta ở trên trời”.
Xin Chúa chúc lành bạn.
41. Ta là Bánh Hằng Sống - Noel Quesson.
Luy Latô (Louis Lateau), một người Bỉ được in năm dấu vào năm 1868. Từ nhỏ, cô đã bị đau yếu, ít ăn uống, nhất là sau khi được in năm dấu thánh, cô chỉ còn ăn chút ít, mỗi ngày một mẩu bánh nhỏ. Và kể từ 1871 trở đi, suốt bảy năm, cô không ăn uống gì nữa, chỉ còn rước lễ hàng ngày.
Thời gian gần đây, có những người được ơn lạ. Trong số những người đó, có Têrêxa Niu-man và Matta Robin đã không ăn uống trong nhiều chục năm. Có lẽ Chúa Giêsu muốn chúng ta nhớ điều này: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh…”. Dĩ nhiên hai cuộc sống nói ở đây là khác biệt, nhưng đều quan trọng cho một đời người.
Trong sinh hoạt trần thế của con người, có lẽ những bận tâm, những nỗ lực tìm kiếm của nuôi thân đã mất nhiều công sức và thời giờ hơn cả. Chúa nhìn ra tâm trạng đó ngay trong đám dân đi theo Người: “Các ngươi tìm Ta không phải vì xem thấy dấu lạ nhưng vì đã được ăn bánh no nê”. Và có những người khi nghe Chúa nói tới bánh là họ hiểu ngay theo nghĩa đen. Cũng như người phụ nữ bên bờ giếng Gia-cóp, nghe Chúa nói về nước, bà xin ngay: “Xin cho tôi nước đó để tôi khỏi phải đi múc nước ở đây”.
Tâm tình này là đúng. Nhưng ngoài nhu cầu thân xác, còn có nhu cầu tâm linh nữa. Nhu cầu tâm linh hay lương thực nuôi hồn là gì? Lương thực nuôi hồn là lời Chúa, là chính Chúa. Chỉ khi nào con người tìm về với Chúa, mới được no thỏa, dù có ý thức điều đó hay không. Ngôn sứ Amos đã nói về niềm khát khao Chúa như một cơn đói trầm trọng: “Sẽ có lúc cả xứ bị đói, không phải là đói cơm bánh, không phải là khát nước, mà là đói khát lời Chúa” (Am 8,11). Ngôn sứ Giêrêmia cũng cảm nghiệm điều đó: “Gặp được lời Chúa, tôi đã nhai đã nuốt vào. Lời Chúa làm no thỏa hồn tôi và làm tôi hân hoan” (Gr 15,16). Và chính Chúa cũng đã nói với các môn đệ: “Thầy có một thứ lương thực mà anh em không biết, đó là làm theo ý Đấng đã sai Thầy và chu toàn công việc của người” (Ga 4,32-34), Bởi thế, Chúa nói: “Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta, sẽ không phải đói. Ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”.
Lạy Chúa, chúng con kiếm tìm Chúa như tìm kiếm của ăn đích thực cho tâm hồn. Chỉ một mình Chúa, mới đem lại cho chúng con sự sống và niềm vui thực.
42. Một trái tim đói khát.
Vai chính trong cuốn phim về một nhóm ca sĩ "Damn Yankees" là một người đứng tuổi, tên là Joe Boyd. Từ khi còn bé, Joe đã ước mơ một ngày nào đó, anh sẽ trở thành một cầu thủ nổi tiếng chơi banh baseball. Bây giờ Joe đã lớn tuổi, giấc mơ không thể thực hiện được nữa, nhưng chàng vẫn tiếp tục mơ ước.
Rồi vào một buổi tối nọ, một điều kỳ lạ đã xảy ra. Một người đàn ông tên Applegate đã đi vào cuộc sống của Joe. Applegate đã nói với Joe rằng ông có thể giúp Joe thực hiện giấc mơ của mình.
Ông có thể làm cho Joe, từ một người đàn ông đứng tuổi, trở thành một cầu thủ 22 tuổi chơi cho đội banh Washington Senators. Vào thời đó, đội Washington là một đội trong liên hội Hoa Kỳ (American League). Tuyệt vời hơn nữa là Joe không những sẽ trở thành cầu thủ nổi tiếng, mà còn giựt được cờ vô địch New York Yankees.
Applegate là ai vậy? Có lẽ chúng ta có thể đoán ra được câu trả lời rồi, đó là thằng quỉ đội lớp người.
Sau khi nói sơ qua những gì Joe sẽ được, thì Applegate ra một điều kiện là anh phải bán linh hồn mình cho nó để đổi lấy danh tiếng.
Joe đã không nghĩ ra được một lý do gì mà không đồng ý với thằng quỉ Applegate để thực hiện giấc mơ của mình. Sau cùng, Joe đã đồng ý với thằng quỉ nhưng với một điều kiện là nếu bất thình lình trước khi giựt được cờ vô địch thì hợp đồng vẫn có thể bị hủy bỏ. Applegate nghĩ rằng một khi Joe đã được nổi tiếng rồi thì chắc chắn anh sẽ bị danh tiếng làm cho ngu muội và sẽ không bao giờ hủy bỏ hợp đồng, và nó đã đồng ý.
Sau khi mọi sự đã được thỏa thuận, Joe đã hôn lên má người vợ đang ngủ của mình và để lại một tấm giấy với những lời tạm biệt. Joe bắt đầu một cuộc sống khác.
Joe đã gia nhập vào đội banh Senators như là một lính mới và dần dần anh đã được nổi tiếng trong nhóm. Joe đã được nhiều người thích baseball mộ mến, và nhiều người trẻ đã coi Joe là một thần tượng. Nhiều người già còn mơ ước rằng Joe là một trong những người con của họ.
Đó là những giây phút thật hào hứng. Anh không bao giờ dám nghĩ rằng cuộc sống của anh tràn đầy sự ngọt ngào như thế. Anh không bao giờ dám mơ rằng thế giới tuyệt vời đến thế.
Tiếp tục cuốn phim, một điều không ngờ đã xảy ra cho Joe. Mặc dù có danh tiếng và vận may Joe vẫn thấy chán nản. Một buổi tối nọ, Joe đã ngồi và nhìn vào một bức tường, và trong thâm tâm của anh, anh đang nhìn thấy một sự trống rỗng. Danh tiếng và vận may không có thể nào làm cho tâm hồn no thỏa được. Và Joe vẫn không hiểu tại sao.
Rốt cuộc, ngày hạn đã sắp đến để giao linh hồn mình cho quỉ. Còn danh tiếng, cờ hiệu, trong tâm trí của Joe chỉ là con số không. Sau cùng, Joe đã quyết định một việc mà anh không bao giờ nghĩ đến đó là trước khi giựt được giải cờ hiệu, anh sẽ hủy bỏ hợp đồng với Applegate.
Có lẽ rằng lý do mà Joe hủy bỏ hợp đồng là bởi vì trong tâm trí của Joe, anh đã nghe được tiếng nói của Chúa Giêsu: "Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn mình thì được ích gì?" (Lc 9:25).
Cho dù là lý do nào đi nữa thì Joe đã biến khỏi thế giới của môn thể thao baseball một cách huyền bí giống như lúc anh bước vào.
Một vài ngày sau, Joe đã trở về căn nhà của mình. Anh hôn vợ của mình và anh đã trở lại một người đàn ông đứng tuổi hồi trước, Joe Boyd, một người đã từng mơ ước để trở thành một cầu thủ baseball nổi tiếng.
Câu truyện của Joe Boyd nói lên một tư tưởng mà chúng ta gặp thấy trong bài Phúc Âm hôm nay: "Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời... Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ."
Điều mà Chúa Giêsu phán có thể được tóm gọn trong một câu: Không vật gì ở thế gian này có thể thỏa mãn được trái tim đói khát của con người.
Đó là bài học mà chúng ta cần phải biết nếu chúng ta muốn đi tìm sự hạnh phúc thật. Danh tiếng và của cải sẽ hứa cho chúng ta được no thỏa về phần xác, nhưng đến cuối cùng nó chỉ làm cho chúng ta càng thêm đói khát.
Trong một vài phút nữa đây, chúng ta sẽ chia sẻ với nhau tấm bánh hằng sống. Chúng ta cùng nhau xin Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ quên đi một chân lý cao cả mà Chúa Giêsu đã dạy trong bài Phúc Âm: của ăn uống của thế giới vật chất này không bao giờ no thỏa trái tim đói khát của chúng ta và trái tim chúng ta được dựng nên cho Chúa và sẽ chỉ được yên nghỉ trong Chúa mà thôi.
43. Trung tín trong cuộc hành trình về quê trời
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano)
Nếu như muốn suy niệm về Kinh thánh Do thái, thì hôm nay chúng ta có cơ hội tốt. Bài đọc 1 trích từ sách Xuất hành, là thành phần của cuộc di cư vĩ đại, lâu dài, khó khăn, dân tộc Do thái phải trải qua trong sa mạc Sin khô cằn. Tính chất biểu tượng của nó thật phong phú cho mỗi linh hồn và ngay cả cho toàn thể Hội thánh, để vượt qua biển đời trần gian. Trong suốt thời kỳ đó lòng tin của dân tộc Israel bị thử thách nặng nề qua những miền đất hoang dã, gập ghềnh, đầy thú dữ. Nghe đọc bản văn, chúng ta tưởng chừng như câu truyện mới xảy ra hôm qua. Thực sự việc đó đã xảy ra hàng ngàn năm về trước. Thiên Chúa dẫn đưa dân Do thái thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, và vào lúc này họ thấy mình đang trên con đường trở về đất hứa. Họ được tự do, nhưng cuộc hành trình về quê cha đất tổ thì mới vừa khởi sự. Họ còn phải chịu đựng rất nhiều để học cho biết họ là dân tộc nào và Thiên Chúa là ai? Câu truyện thật hấp dẫn và biểu tượng song hành cũng thật rõ ràng. Đức tin của mỗi linh hồn cũng phải trải qua ngần ấy khó khăn để đến được bến bờ hạnh phúc.
Điểm tôi lưu ý đầu tiên là tính cộng đoàn của dân Israel. Ở đây tác giả không nói về cá nhân nào, mà về toàn thể xét như một dân tộc thoát ách nô lệ, và làm cuộc di chuyển qua sa mạc. Cả cộng đồng rời bỏ Ai cập, cả cộng đồng ăn thịt chim cút và bánh manna. Cả cộng đồng phải thử thách, khổ đau, chịu đựng và kêu ca. Như vậy bài đọc gợi ý cho chúng ta về những vật lộn cá nhân trong những cuộc hành trình khó khăn của đức tin. Xin luôn nhớ đây là truyện lòng tin của cả một khối người, không phải của riêng lẻ một ai. Một khối người duy nhất phải trải qua sa mạc. Về phần chúng ta cũng vậy các khó khăn thử thách trong cuộc sống cũng phải được nhìn trong tổng thể lòng tin của cộng đoàn giáo xứ, khi chúng ta cùng nhau tiến tới trên cuộc đời người tín hữu.
Vậy thì cứ thử đặt kinh nghiệm vượt sa mạc của dân Do thái dưới góc độ văn phạm của ngôn ngữ để thấy nội dung của nó ra sao! Thật khủng khiếp. Nhưng xin thứ lỗi cho tôi về lối giải thích ngoại thường này. Một mệnh đề đơn giản phải có ba yếu tố: Chủ từ, động từ và túc từ. Chủ từ thực hiện hành động, động từ chuyển tải hành động và túc từ tiếp nhận hành động. Trong suốt hành trình di cư của dân Do thái, sự thật văn phạm được tôn trọng. Thiên Chúa là chủ từ và dân Israel tiếp nhận các hành động của Ngài, còn động từ thì vô số, tuỳ vào tình huống: giải cứu, trừng phạt, đe doạ, khuyên răn, ban lề luật… Trong câu truyện xuất hành Thiên Chúa thực hiện những hành động cao cả trên dân. Ngài trông thấy nỗi nhọc nhằn vất vả của kiếp sống lầm than và ra tay giải cứu. Ngài che chở, nuôi sống, dẫn đưa họ qua sa mạc. Tất cả đều là những hành động của Ngài. Dân chúng kêu ca, ta thán, thì có thể coi như những lời cầu khẩn, van xin Thiên Chúa nghe lời và quyết định giải thoát. Ngài không hề ở xa tuyển dân, ngược lại luôn ở gần, lắng nghe các ước vọng của họ. Đàng khác, tuyển dân là túc từ của mệnh đề. Họ sống trong gian khổ, trong những nhu cầu cấp thiết, nhưng chẳng có khả năng tự giải quyết. Họ tiếp nhận các hành động xót thương của Đức Chúa.
Do đó, sách Xuất hành mạc khải cho dân Do thái biết Thiên Chúa là ai và những vật lộn trong sa mạc cho họ hay mình là thế nào? Chúng ta cũng thường bộc lộ những yếu đuối, chao đảo, khó khăn, ta thán, những nỗi thống khổ. Chúng ta có cảm nhận một Thiên Chúa trung tín, hằng ra tay nâng đỡ, cứu giúp, như Ngài đã từng làm cho dân Do thái? Hơn nữa, hàng ngày chúng ta cần Thượng đế giải phóng khỏi kiếp nô lệ tội lỗi. Mặc dù do thói quen chúng ta không nhận ra thân phận mình, cứ cho là tự do mà trong thực tế không phải vậy. Nói rộng ra, phần đông nhân loại đều sống trong ách kìm kẹp của Satan. Nhân loại cần một Thiên Chúa giải thoát. Nhưng công việc của Ngài chỉ là bước đầu. Còn rất nhiều gian nan trước mắt: phá vỡ thói xấu, tập tành nhân đức, vượt khó… Vì thế ngay khi ra khỏi Ai Cập, Thiên Chúa đã truyền cho tuyển dân phải nên thánh, kẻo trở lại nếp sống nô lệ xưa. Đây là tình trạng mà Vat.II đã gặp. Sau những cố gắng đổi mới, biết bao nhiêu chống đối nổi lên, thậm chí còn có những kẻ muốn huỷ bỏ thành quả của Công đồng, trở về nếp sống bảo thủ, khép kín, ngăn cách khỏi cộng đồng nhân loại. Trên con đường thiêng liêng nếu không có Thiên Chúa hướng dẫn, thì trăm bước sai lầm, chưa chắc chúng ta đã được một bước chính xác. Vì vậy phải luôn gắn bó với Thiên Chúa trong nếp sống thánh thiện.
Nhưng cũng không nên quá bi quan, tô vẽ một Thiên Chúa dẫn đưa chúng ta vào khó khăn, thử thách. Xin luôn nhớ, dân tộc Israel đã từng sống kiếp nô lệ và Thiên Chúa là Đấng giải cứu họ. Nếu như họ gặp nhọc nhằn, đó là vì còn đang ở trong tiến trình tiến tới tự do, phải bỏ lại đằng sau những tập quán xưa, thói quen cũ. Điều này không phải dễ, nhìn vào chính bản thân, chúng ta cũng thấy cải tạo quả là khó khăn, đau xót, nói chi đến một tập thể, một cộng đoàn, một giáo xứ và ngay cả Hội thánh. Tuy nhiên, để có những cuộc khai sinh con người mới, cộng đoàn mới, thì nhất thiết chúng ta phải chết đi bằng nhiều kiểu cách. Không phải tự tử mà chết đi với tật xấu thói hư.
Giống như dân tộc Israel, Hội thánh cũng hằng đối mặt với các cuộc thanh tẩy, các thử thách do những thế lực ma quỉ gây nên. Lịch sử Giáo hội cho thấy rõ điều đó. Năm ngoái tôi được cung cấp một danh sách dài những quốc gia đang còn bách hại Hội thánh. Tất cả là hơn 20. Năm nay tôi dám chắc con số đó không giảm, có thể còn tăng lên. Bởi lẽ tình hình bài tây phương ngày một dâng cao và Hội thánh bị ảnh hưởng, tuy gián tiếp nhưng cũng rất nặng nề. Cũng không thể bỏ qua những đấu tranh nội bộ. Khi cố gắng sống nhân chứng cho Đức Kitô, Giáo hội phải thích nghi với nếp sống địa phương. Nhưng vô tình Giáo hội đồng hành luôn với các thể chế chính trị, văn hoá, kinh tế. Thành thử nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân, lây nhiễm não trạng thực dụng, cứ ngỡ ủng hộ lợi ích của chế độ là trở thành các Kitô hữu tốt. Làm ngược lại là xấu, là phản bội đức tin. Thực chất không phải vậy. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Nước của tôi không thuộc về thế gian này.” (Ga 18, 36). Lại còn một loại khó khăn khác nữa mà Hội thánh luôn phải đấu tranh. Đó là tội lỗi trong lòng mình, đặc biệt các gương mù gương xấu của giai cấp linh mục, tu sĩ. Thí dụ như trong Hội thánh Hoa Kỳ, gương mù lạm dụng tình dục của một vài giáo sĩ đã gây nên không biết bao nhiêu thiệt hại cho mẹ Giáo hội. Về vật chất, thiệt hại quả là khổng lồ. Tiền của đền bù, đáng lý phải được dùng vào những lợi ích khác như thành lập bệnh viện, trường học, từ thiện, viện trợ cho các giáo hội nghèo khó v.v… Tất cả đều bị cắt giảm để tài trợ cho các án dân sự. Về mặt tinh thần thì vô kể. Gương xấu đã phát sinh nhiều lời phê bình gay gắt, giận dữ, bất mãn, ta thán, chế diễu, tố cáo, rời bỏ, loại trừ… Chẳng thiếu một hình thức nào. Có thể còn phải mất vài thập niên nữa vết thương mới được chữa lành. Ở đây chúng ta lại gặp kinh nghiệm sa mạc và như thế lại cần đến lương thực “man-na” mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có khả năng cung cấp. Thứ manna chữa lành, đổi mới và tái dấn thân. Giáo hội Hoa kỳ đang ở giai đoạn xuất hành gian khổ. Thử thách ập đến trong nhiều hình thức khác nhau. Giống như tuyển dân Do thái, chúng ta cũng rất dễ xa đường lạc lối.
Điều an ủi là Thiên Chúa xưa kia đã trông thấy cộng đoàn xuất hành Do thái đói khổ và gởi lương thực đến cho họ. Không phải lương thực họ đã quen dùng, cũng không phải lương thực họ tự chọn lấy. Nhưng thứ bánh mà họ phải hỏi nhau: “Cái gì đây?” (man-hu?). Cho nên bài đọc 1 cũng như bài Tin mừng kêu gọi hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Ngài sẽ nuôi dưỡng chúng ta trong những ngày tháng khó khăn này. Chúng ta chẳng biết được thứ bánh mà Ngài sẽ ban là gì. Có thể ngon ngọt, vui mừng. Có thể chua cay đắng đót. Nhưng mỗi ngày chúng ta được thêm sức mạnh để vượt qua thử thách. Bánh đây không loại trừ lời khích lệ của thân nhân, bà con, bạn bè, có khi của cả những người xa lạ chúng ta chưa từng một lần gặp. Đúng thế, ngoại trừ số ít lòng lang dạ thú, còn thì trái tim con người ta đa phần rất dễ rung động trước những nỗi bất hạnh của kẻ khác. Mỗi khi có thiên tai, bão lụt, lòng hảo tâm của các tầng lớp đồng bào lại mở rộng một cách hào hiệp. Thêm vào đó, nhiều cơ quan từ thiện quốc gia, tôn giáo, quốc tế thường xuyên hoạt động ở những khu vực cần giúp đỡ. Nhiều khi vì quá vô tâm, chúng ta không nhìn thấy bàn tay dịu hiền của Thiên Chúa cùng hoạt động với những cơ quan đó. Như vậy trong một cộng đoàn, bánh của Thiên Chúa có thể là vật chất, có thể là tinh thần, dưới những hình thức ngôn sứ khác nhau, kêu gọi chúng ta trở về với Hội thánh, Bí tích phổ quát của Chúa Giêsu trên thế gian.
Điểm cuối cùng sách Xuất hành mặc khải là: ngày nào đủ bánh cho ngày ấy. Người ta thu gom phần bánh cho mình hàng ngày. Nếu như họ tỏ lộ lòng tham lam, lượm hơn số cần thiết, nó sẽ tự hư nát (trừ trường hợp cho ngày Sabbath). Nghĩa là Thiên Chúa luôn có mặt để giúp đỡ con người vượt qua mọi khó khăn. Do đó, chúng ta được dậy cho biết phải cậy trông vào sự quan phòng của Đức Chúa Trời, nuôi dưỡng các tạo vật của Ngài. Chúng ta thực sự có nhu cầu sống trong đức tin như thể cá nhân hay cộng đồng mà chỉ một mình Thiên Chúa mới thoả mãn được. Trong Thánh lễ hôm nay chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể, bánh hàng ngày của nhân loại, bánh ban sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu. Bánh chứng tỏ rằng mặc dù chúng ta hằng cầu xin, nhưng Thiên Chúa đã lắng nghe rồi, mà ban cho dư thừa. Tuy nhiên, còn một hình thức khác của bánh cần van xin. Đó là bánh đức tin để chúng ta can đảm làm các chứng nhân. Đó là bánh liên kết chúng ta với nhau trong bác ái. Đó là bánh bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa xót thương giữa xã hội loài người. Chúng ta cầu xin thứ bánh đó. Nhưng cũng đừng quá đỗi ngạc nhiên., khi Ngài ban tặng “manna” trong muôn vàn thể thức khác nhau. Amen.
------------------------
Ghi chú thêm: Bài đọc 2 thánh Phaolô nói đến con người mới: chúng ta có thể khai triển: Con người mới là Đức Giêsu Kitô, là Hội thánh (khải hoàn). Con người đang đổi mới là mỗi tín hữu.
44. Đức Kitô chính là của ăn nuôi sống chúng ta
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP)
Tôi có một người bạn bị bệnh ung thư. Bà ta phải đi chữa bằng chương trình hoá trị, và chịu hậu quả của chương trinh đó. Các bạn biết chứ, chữa bằng hoá trị rất đau đớn, làm tổn hại sức khoẻ. Nếu chúng ta không bị bệnh như thế, chắc chúng ta không biết gì về người bị ung thư. Bà bạn tôi là goá phụ. Con cái bà sống xa. Các con hằng ngày gọi điện thoại hỏi thăm mẹ. Họ thay phiên đến thăm mẹ. Nhưng họ có con cái và công việc làm ăn nên không thăm mẹ thường được. Nhưng bà bạn tôi nói với các con "đừng lo, mẹ có bà Maria".
Bà Maria là bạn lâu đời của bà ấy. Cả hai người là giáo chức hưu trí. Bà Maria đi với bà bạn khi chữa bệnh. Khi nào bà bạn đau nhiều thì bà Maria đi chợ nấu nướng cho bạn. Vì thế bà bạn tôi nói với con cái đừng lo. Con cái nói "Cám ơn Chúa, có bà Maria". Nghe như tên của bà Maria là "cám ơn Chúa", vì mỗi khi nói đến Mẹ Maria, chúng ta nói "Cám ơn Chúa có Mẹ Maria".
Rất nhiều người được sự giúp đỡ của gia đình, hay bạn bè, hay người xa lạ không biết từ đâu đến. Khi xãy ra như thế, người được giúp đỡ tỏ vẻ cảm tạ với lời cám ơn nồng hậu và đưa một chút quà nhỏ để tạ ơn người giúp đỡ. Nhưng có người trông thấy xa hơn một tầm tay giúp họ khi họ cần. Chúng ta có thể nói là những người đó "mở mắt lớn ra". Theo lời phúc âm hôm nay họ "trông thấy". Nói cách khác, họ trông thấy dấu chỉ, họ không những chỉ thấy người giúp đỡ họ nhưng họ trông thấy cả Đấng đã gởi người đến giúp họ. Bởi thế bà bạn tôi nói "Cám ơn Chúa…". Tôi chắc bạn có thể điền tên người giúp vào chỗ trống.
Phúc âm hôm nay tiếp theo câu chuyện dân chúng ăn bánh hoá nhiều mà Chúa Giêsu ban cho họ. Chúa Giêsu cho họ ăn vì họ đói. Nền tảng của phúc âm là lo lắng cho người đói và người cần được giúp đỡ. Nhưng Chúa Giêsu nhắc họ là mặc dù họ đã được ăn uống no nê, họ sẽ còn đói nữa. Các giáo chức có thể gọi điều này là "việc dạy dỗ". Chúa Giêsu thừa dịp này dạy họ nên để sức tìm của ăn bền vững hơn, không phải chỉ của ăn phần xác, mà cả của ăn thuộc đời sống thâm sâu hơn. Lẽ cố nhiên Chúa Giêsu muốn nói về chính Ngài. Chúa Giêsu là của ăn sẽ không để họ đói nữa, của ăn đó cho một đời sống mới bắt đầu từ bây giờ, và không mất mát qua thời gian. Thật ra đời sống đó sẽ nẫy nỡ thêm.
Chúa Giêsu biết chúng ta có nhu cầu thân xác và đói khát: nhất là khi trong gia đình có người lâm bệnh; hay sau khi có người thân thương qua đời; hay trong lúc kinh tế khủng hoảng; hay trong lúc chiến tranh hay sợ có chiến tranh. Nhưng Chúa Giêsu muốn nói là Ngài sẽ giúp chúng ta nhiều hơn là chỉ ngay khi chúng ta gặp khó khăn. Lẽ cố nhiên chúng ta mong mỏi người thân thương hết bệnh tật, nền kinh tế sẽ khá hơn, và hoà bình sẽ đến v.v... Nhưng, khi hoàn cảnh thay đổi khá hơn, liệu chúng ta có ít nhu cầu tìm về Chúa Giêsu trong đời sống chúng ta hay không? Hoặc chúng ta có cảm thấy cần sự nuôi dưỡng của Chúa Giêsu cho sự khát khao lâu dài của chúng ta hay không? Chúa Giêsu ban cho chúng ta bánh hằng sống "bánh thật bởi trời".
Khi người ta hỏi Chúa Giêsu "chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?". Chúa Giêsu trả lời "việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đên". Họ lại nói "Ông Môsê đã cho chúng tôi bánh ăn trong lúc đói và chúng tôi có được sức đi qua sa mạc". Chúa Giêsu nói "vậy ông Môsê đã cho các ông bánh ăn, nhưng chính Thiên Chúa là Đấng đã cho các ông bánh bởi trời. Các ông không nhận thấy dấu chỉ sao, chính Thiên Chúa đã cho bánh đó". Chúa Giêsu bảo họ phải mở mắt để "xem", nghĩa là hãy tin vào Ngài.
Ngay bây giờ Chúa Giêsu đang nói vói chúng ta, vì Thiên Chúa tiếp tục ban cho chúng ta "bánh bởi trời ". Bà bạn tôi nhìn thấy Thiên Chúa làm việc đó qua bà Maria. Bà ta nói Thiên Chúa đã gởi bà Maria đến "bà Maria là người Thiên Chúa gởi đến".
Đó là điều chúng ta cần suy ngẫm hôm nay phải không? Chúng ta có biết tạ ơn vì chúng ta đã được giúp đỡ trong những lúc khó khăn, và chúng ta có nhận thấy sự giúp đỡ đó là bởi Thiên Chúa hay không? Nếu chúng ta đã nhìn nhận dấu chỉ, nếu chúng ta đã "mở mắt ra" nghĩa là chúng ta biết cảm tạ những người cho chúng ta của ăn khi chúng ta cần.
Chúng ta cảm tạ Đấng đã gởi sự giúp đỡ qua một người bạn khi người nói với chúng ta "đừng lo, tôi sẽ có đó với bạn". Chúng ta cảm tạ một vị giáo chức đã để thêm thi giờ giúp chúng ta học bài thi. Chúng ta cảm tạ thầy dạy giáo lý giúp chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa với nhãn quan mới. Chúng ta cảm tạ ông bà hay cô cậu giúp chúng ta tiền để đi học, hay giúp chúng ta tìm việc làm. Chúng ta cảm tạ một người trong giáo xứ giúp chúng ta nhìn xa hơn nhu cầu của chúng ta để nhìn thấy nhu cầu khẩn cấp của người khác. Trong sa mạc ông Môsê cho của ăn, nhủng chính Thiên Chúa là Đấng ban của ăn đó. Chúng ta có nhận dấu chỉ không? Làm sao chúng ta đáp lại lòng Thiên Chúa rộng lượng nhân từ đã cho chúng ta bánh dưới nhiều hình thức đó? Chúng ta có thể dùng lời chỉ dẫn của một tu sĩ dòng đa minh ở thế kỷ thứ 14 là Meister Eckhart. "Nếu có lời kinh duy nhất trong đời chúng ta đó là "cảm tạ" là đủ rồi".
Và đó là ý nghĩa của từ Thánh Thể "cảm tạ". Cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã cho chúng ta "bánh hằng sống là Chúa Giêsu". Hãy nghe trong lời nguyện Thánh Thể lời "cảm tạ" hay "tạ ơn" lập lại bao nhiêu lần. Khi nào chúng ta nghe từ "tạ ơn" chúng ta có thể nhắc người khác là Thiên Chúa gởi của ăn cho chúng ta khỏi đói về phần xác và cả phần hồn. Rồi chúng ta thưa "cảm tạ" với Thiên Chúa là Đấng đã cho chúng ta "bánh ăn". Nếu lời kinh nguyện độc nhất chúng ta dâng trong đời sống chúng ta là "cảm tạ" cũng đủ rồi.
45. Suy niệm của Lm. Jude Siciliano
(Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP)
Thánh Thể, Của Ăn Bảo Dưỡng Trong Hành Trình Dương Thế
Chúa nhật vừa qua chúng ta đã đọc phần mở đầu của chương 6 trong Phúc Âm thánh Gioan. Kể từ Chúa nhật này cho đến hết tháng 8 các bài phúc âm sẽ trình bày tuần tự chương này; nhờ vậy; chúng ta sẽ hiểu rõ chương 6 nhiều hơn.
Qua đó diễn tả việc Chúa Giêsu làm phép lạ bánh và cá hóa nhiều giúp nuôi dưỡng số đông dân chúng theo Ngài. Sau đó đám dân chúng muốn tôn phong Ngài làm Vua nên Ngài đã lánh đi nơi khác. Nhưng đám dân chúng vẫn kiên trì bám theo Ngài qua tới bờ bên kia biển hồ ở Ca-phác-na-um. Trong phúc âm thánh Gioan hay nhắc đến việc Chúa Giêsu gặp và đối thoại với nhóm Biệt Phái hay với đám đông sau mỗi phép lạ Ngài làm. Đây là cách thánh Gioan muốn diễn đạt thêm về ý nghĩa của những “dấu chỉ” mà Chúa Giêsu đã thực hiện cho những cộng đoàn Kytô Hữu thời đó hiểu.
Trong những đối thoại này không nhằm để chúng ta biết được những gì đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm. Nhưng để chúng ta tin là Chúa Giêsu đã sống lại và Ngài đang nói với chúng ta ngày hôm nay, cũng như Ngài đã nói với đám quần chúng theo Ngài trước kia. Khi đám dân chúng gặp được Ngài, họ đã hỏi “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” Thật là một câu hỏi thông thường phải không? Và chúng ta cũng sẽ hỏi như vậy khi chưa biết gì về Chúa Giêsu. Nhưng trong câu chuyện này có điều đáng để ý là Chúa Giêsu không đối xử với đám người hỏi Ngài một cách bực tức và đuổi họ đi. Trái lại, Ngài đối thoại với họ. Chúng ta học hỏi được gì về cử chỉ đó của Chúa Giêsu. Nếu chúng ta thực hiện việc đó với Chúa Giêsu bằng cách đối thoại với Ngài và lắng nghe lời Ngài, thì chúng ta sẽ hiểu thêm được Ngài là ai và chúng ta là ai.
Chúng ta lại tụ họp nhau trong ngày Chúa Nhật để mừng bí tích Thánh Thể. Có lẽ chúng ta vừa qua một tuần lễ rất bận bịu công việc, và không có thì giờ để nghĩ đến Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta đến đây với câu hỏi của chúng ta, và chúng ta lắng nghe lời Chúa Giêsu hỏi chúng ta. Như Ngài đã nói với đám đông quần lúc ấy: “Các ông tìm gì vậy?” Có phải hôm nay chúng ta cầu xin với Chúa Giêsu vì chúng ta biết Ngài sẽ giúp chúng ta ra khỏi cảnh khó khăn của cuộc sống, hay giúp tránh chuyện bất hạnh xảy đến cho chúng ta không?
Chúng ta cầu nguyện khi gặp khó khăn, đó là sự hiển nhiên. Nhưng Chúa Giêsu có thể giúp chúng ta nhiều hơn thế nữa; vì chúng ta khao khát Thiên Chúa nhiều chăng? Hay chúng ta muốn sống đời sống Thiên Chúa, muốn hiểu biết thêm nhiều hơn nữa về Ngài?; Đó là bánh mà Chúa Giêsu sẽ cho chúng ta. Khi chúng ta rước Chúa Giêsu vào lòng, là chúng ta rước chính đời sống Thiên Chúa vậy. Vì Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài “Thầy là đường…”. Với sự khao khát hiểu biết thêm về Thiên Chúa, chúng ta hảy dùng lời của đám quần chúng theo Chúa Giêsu “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.”
Tôi có người bạn sửa soạn một chuyến du hành dài 8 giờ bằng xe hơi. Trong lúc ông sắp xếp hành lý vào xe, có vài người trong chúng tôi hỏi “Anh đem đủ lương thực đi đường không?” Ông ta trả lời là đủ, và nếu không đủ thì ông ta sẽ ghé lại quán ăn nơi dừng xe. Nhưng thời Chúa Giêsu không có những chỗ nghỉ chân dọc đường, vì thế nếu không mang theo đủ lương thực là có thể chết đói. Bởi thế phong tục thời bấy giờ là tặng lương thực cho người lên đường đi xa.
Chúng ta tất cả đều là những lữ khách, và chưa biết quảng đường đi là bao xa. Có những đoạn nào nguy hiểm thử thách đức tin chúng ta, chúng ta có thể mệt mỏi, và lạc hướng. Chúng ta có thể có lương thực vật chất, nhưng để giữ vững đức tin theo lời Chúa gọi là một chuyện khác. Nếu chúng ta muốn theo chân Chúa Giêsu chúng ta phải có lương thực mà chỉ có Ngài mới cho chúng ta được, đó chính là thân thể Ngài. Do vậy, mỗi Chúa Nhật chúng ta hợp nhau trong phụng vụ, để lãnh nhận món ăn bởi Lời Chúa và bởi Tiệc Thánh Chúa dành cho chúng ta để làm lương thực cho cuộc hành trình dương thế chăng?
Chúng ta, những người đến dự thánh lễ đều là những người đói khát. Có người đói về món ăn vật chất: như người bị thất nghiệp, hay không làm đủ lương để sống và nuôi gia đình; chúng ta không đủ bảo hiểm sức khỏe để khi đau ốm; chúng ta không đủ tiền để trả tiền học v.v… Trong giáo xứ chúng ta đã làm gì để giúp những trường hợp đó? Có giáo xứ lập kho thực phẩm, nhóm bác sĩ và y tá tình nguyện, lo tìm chỗ trọ cho người vô gia cư, chỗ dạy nghề, hướng dẫn về luật pháp v.v..
Chúa Giêsu trông thấy đám đông người nên Ngài động lòng cho họ của ăn. Chắc chắn rằng Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta giúp những người đói khát về vật chất trong xã hội chúng ta. Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống, giúp chúng ta trông thấy những người cần giúp đỡ trong cộng đoàn chúng ta. Bằng đôi mắt của Ngài; sẽ giúp chúng ta thấy được những đói khát của tha nhân trong xã hội, luôn cả những người ở ngoài biên giới đất nước chúng ta. Thí dụ như tổ chức “Bánh cho thế giới”, là tổ chức làm đồng hành với Chúa Giêsu được gọi là “cộng đoàn Kitô Hữu” kêu gọi những người lãnh đạo đất nước quan tâm giải quyết nạn đói trong nước và trên thế giới.
Trong khi Chúa Giêsu nói đến sự đói khát vật chất, Ngài cũng nhắc họ không những chỉ tìm của ăn vật chất mà thôi, vì với của ăn đó, con người vẫn còn đói khát nữa. Ngoài món ăn vật chất ra, chúng ta còn đói khát về phần tâm linh và tình cảm. Những ngày bấy giờ chúng ta hãy nói đến những đói khát chúng ta nhận thấy trong đời sống, và trong gia đình chúng ta. Và chúng ta hãy đưa tay ra xin Chúa Giêsu ban cho chúng ta của ăn. Ngài thấy chúng ta đói khát, và Ngài không nỡ từ chối lương thực hàng ngày mà chúng ta cần đến.
Thánh Gioan diễn tả Chúa Giêsu là người làm phép lạ, nhưng Ngài cũng là người cho chúng ta bánh “muôn đời”. Chúa Giêsu là “Bánh bởi trời”, Ngài được Thiên Chúa gởi đến để dạy chúng ta tin tưởng vào Thiên Chúa. Dân Israel gọi ông Mô-sê là người đã cho họ ăn bánh bởi trời, nhưng Chúa Giêsu đã chỉnh sửa lại là chính Thiên Chúa chứ không phải ông Mô-sê là Đấng cho họ của ăn trong sa mạc. Chúa Giêsu khuyên những người thời bấy giờ nên nhìn nhận chính Ngài là bánh mà Thiên Chúa gởi đến cho họ. Thiên Chúa không những đã cho của ăn trong sa mạc, nhưng ngay bây giờ Thiên Chúa tự Ngài ban cho họ của ăn. (Phúc âm Thánh Gioan là phúc âm của thì hiện tại).
Đám quần chúng hỏi Chúa Giêsu “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?”. Ngài trả lời “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến”. Tin vào Chúa Giêsu là tin Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta (Ga, 3:16). Chúng ta không đáng được hưởng tình thương yêu đó, Chúa Giêsu là dấu chứng tình thương yêu của Thiên Chúa. Đón nhận Chúa Giêsu và lời Ngài dạy là ăn bánh hằng sống, bánh “ban sự sống cho thế gian”.
Sống đời sống của Chúa Giêsu ở thế gian là điều rất khó. Chúng ta có thể bị chán nản, muốn xuôi tay, hay bị lạc hướng. Đôi khi hình như thế gian của sự chết có vẻ thắng sự sống mà Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta. Mỗi ngày tin tức trên trang đầu các nhật báo đủ làm cho chúng ta chán nản. Bài phúc âm hôm nay nhắc chúng ta là cuộc hành trình dương thế không ai sẽ đi một mình. Mà sẽ cùng đi với nhau, với của ăn hằng sống được Thiên Chúa ban cho chúng ta.
46. Thánh lễ.
Thánh lễ là nơi chúng ta tham dự vào bàn tiệc Mình Máu Thánh Đức Kitô, là nơi lặp lại hy tế Núi Sọ.
Theo Công đồng Vatican II, hy tế này là cội nguồn và chóp đỉnh của toàn bộ đời sống Kitô hữu. Là cội nguồn vì tất cả đời sống Kitô hữu đều phát sinh từ đó. Là chóp đỉnh vì tất cả đời sống Kitô hữu đều phải qui về đó.
Thế nhưng, một số người đã coi việc tham dự thánh lễ như chuyện miễn cưỡng phải tuân giữ. Họ cảm thấy thánh lễ không liên quan gì đến cuộc sống của họ. Rốt cuộc thánh lễ bị bỏ rơi. Nhà thờ ngày Chúa nhật cũng vắng bóng người. Đó là điều đã và đang xảy ra tại các nước Phương Tây, nhưng rồi cũng sẽ là điều xảy ra cho chúng ta.
Khi đi tham dự thánh lễ, chúng ta mang theo thế giới mình đang sống như một hành trang, như một lễ vật. Rồi từ thánh lễ bước vào lại thế giới, để biến thế giới, biến cuộc đời thành một thánh lễ nối dài.
Nhiều khi vì nghĩ rằng cử hành thánh lễ là chuyện của linh mục, còn lễ vật dâng lên là hy tế của Đức Kitô, nên nhiều người đã đi tham dự lễ với hai bàn tay trắng.
Thực ra, thánh lễ đòi hỏi con người nhiều nỗ lực cả trước lẫn sau thánh lễ. Những nỗ lực đụng chạm đến cuộc sống thâm sâu của con người. Tham dự thánh lễ một cách nghiêm chỉnh, không dễ như chúng ta lầm tưởng. Càng được chuẩn bị kỹ lưỡng, thánh lễ càng sinh nhiều hiệu quả.
Cha Teilhard de Chardin đã dùng lễ vật của trái đất để dâng lễ khi viết:
“Tôi là linh mục của Ngài, trên bàn thờ là toàn thể trái đất, tôi sẽ dâng lên Ngài những lao công vất vả cùng với nỗi đau thương của thế giới. Tôi sẽ đặt trên đĩa thánh mùa gặt được đợi chờ từ những cố gắng mới. Tôi sẽ rót vào chén thánh nước cốt của tất cả những hoa trái sẽ được nghiền nát trong ngày hôm nay. Chén thánh và đĩa thánh của tôi là những phần thâm sâu nhất của một tâm hồn được mở rộng để đón nhận tất cả mọi năng lực, trong chốc lát, sẽ dâng lên từ muôn phương của địa cầu và sẽ qui tụ về thần linh”.
Việc dâng lễ sẽ trở nên xa lạ nếu thực sự bánh và rượu không tượng trưng cho chút đóng góp của người đến tham dự.
Công đồng Vatican II cũng đã nói nhiều đến việc dâng lễ. Lễ vật là bản thân tôi, là cuộc đời tôi, là mọi hoạt động của tôi. Như thế, việc dâng hy tế của Đức Kitô không loại bỏ việc chúng ta dâng hy tế đời mình lên cho Thiên Chúa.
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta đi tới hai kết luận.
Kết luận thứ nhất, đó là thánh lễ giúp chúng ta đón nhận thập giá đời thường. Bởi vì tất cả những khổ đau và bất hạnh, những đắng cay và buồn phiền sẽ được chúng ta góp lại, trở thành lễ vật của chúng ta, kết hiệp với lễ vật của Đức Kitô mà dâng lên Thiên Chúa.
Kết luận thứ hai, đó là thánh lễ dạy chúng ta biết bẻ bánh cho nhau, có nghĩa là biết yêu thương nhau trong đời thường. Bởi vì tất cả chúng ta cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Một số tín hữu ở Corinthô, khi tham dự nghi thức bẻ bánh, chỉ biết lo cho bữa ăn riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói khát, người thì lại no say. Thái độ ích kỷ này hoàn toàn trái ngược với tinh thần hiệp thông và chia sẻ của thánh lễ.
Sống tinh thần hiệp thông và chia sẻ với người khác, chính là dấu chỉ cho thấy chúng ta đã thực sự tham dự thánh lễ và đã biến cuộc sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài.
47. Không hư nát.
Một hôm, Napoleon, vị hoàng đế có đôi mắt rất sáng, nói chuyện với một người bạn của ông, người này thì lại có đôi mắt rất kém. Hai người nói chuyện với nhau về sự đời, bên cạnh một cửa sổ. Bất chợt, Napoleon chỉ tay lên trời, một bầu trời đầy sao, đang phát ra những ánh sáng lập lòe, và hỏi người bạn: “Anh có thấy những ngôi sao ở trên trời kia không?”. Người bạn trả lời: “Không, mắt tôi kém lắm rồi, tôi không thấy gì cả”. Napoleon nói: “Đó là sự khác biệt giữa anh và tôi”. Rồi Napoleon nói tiếp: “Những người nhìn bầu trời đen mà không thấy gì thì mới chỉ sống được nửa cuộc đời mà thôi. Muốn sống trọn cả cuộc đời, thì phải thấy được những ngôi sao giữa bầu trời đen”. Lời nhận xét trên đây của Napoleon là một lời gián tiếp chê bai người bạn của ông có đôi mắt kém.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đưa ra một lời chê bai những người đã tìm đến với Ngài. Ngài nói: “Các ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Khi quả quyết điều trên đây, Chúa Giêsu phân biệt hai lý do khiến người ta tìm đến với Ngài, đó là để thấy dấu lạ và được ăn bánh no nê. Bình thường chúng ta hiểu hai lý do đó là một, bởi vì làm sao có đủ bánh để cho hàng ngàn người ăn ở nơi vắng vẻ nếu không phải là một phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên Ngài thấy rõ tâm tư của những người tìm đến với Ngài, ở đây chỉ là vì muốn được ăn bánh no nê như đã được ăn hôm trước.
Chắc có người khi đọc đoạn Tin Mừng này sẽ cho rằng: những người tìm đến với Chúa để được ăn bánh nữa là những người thực tế. Điều đó đúng, vấn đề cơm ăn áo mặc, vấn đề nhà ở để che nắng che mưa, đó là những vấn đề ưu tiên của con người, những vấn đề thiết thân cho cuộc sống, ở đời này ai mà không quan tâm đến những vấn đề ấy. Nhưng ở đây, khi chê bai những người tìm đến với Ngài, Chúa Giêsu muốn nói với họ rằng: ngoài sự đói khát vật chất và thể lý còn có sự đói khát thuộc tinh thần và tâm linh nữa. Vấn đề này cũng cần phải được giải quyết. Và Chúa đã đưa ra cho họ một lời khuyên: “Các ông hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”.
Vì thế, nếu về phương diện vật chất và thể lý, để thỏa mãn những nhu cầu, cần phải làm việc vất vả, thì về phương diện tinh thần và tâm linh, con người cũng phải ra công làm việc. Đúng thế, sống ở đời, chúng ta phải làm việc, và làm việc với lý do gì hay vì lý do gì chăng nữa, thì trên hết vẫn phải là lý do vì lương thực không hư nát, vì chỉ có lương thực ấy mới còn lại trong cõi vĩnh hằng, cõi hằng sống. Đó là những việc lành, việc tốt, việc bác ái yêu thương, việc thông cảm tha thứ… Chỉ có những việc ấy mới theo chúng ta về thế giới bên kia mà thôi.
Như vậy, công việc làm ăn không phải là không quan trọng. Nhưng nếu ai chỉ miệt mài làm việc mà bỏ quên Nước Trời, quên hạnh phúc đích thực đời sau của mình, thì Chúa bảo: họ sẽ mất tất cả. Tại Pháp, có một thương gia rất giàu, phương châm của đời ông là làm tiền, ăn nhậu và chơi bời. Nhưng chẳng bao lâu ông bị bệnh trầm trọng: thần kinh chỉ huy thanh quản bị tê liệt, làm ông bị câm. Trên giường bệnh, ông luôn thở dài chán nản. Cuối cùng, trước khi chết, ông bảo gia nhân đem bút giấy cho ông. Cầm bút, ông ghi một hàng chữ và truyền khắc nó trên bia mộ của ông: “Đây là người dại dột, đã sống mà không biết sống. Hỡi những người đang sống, chớ gì sự vô phúc của kẻ khác mở mắt các ông”.”
Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng. Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì”. Thánh Gióp nói: “Từ lòng mẹ tôi sinh ra trần truồng và lại trần truồng để trở về đấy”. Thánh Phaolô cũng nói: “Vào thế gian ta chẳng mang gì, thì cũng không thể mang gì khi phải ra đi”. Và lời Chúa Giêsu: “Tất cả mọi sự sẽ qua đi, chỉ có việc lành mới tồn tại”.
Chúng ta đang sống, chúng ta đừng quên mối tương quan giữa cuộc sống đời này và cuộc sống đời sau. Hơn ai hết, người Kitô hữu phải luôn nhớ mối tương quan ấy. Chúng ta cần lợi dụng từng giây phút, cần hoàn tất từng công việc, dù nhỏ mọn hay to lớn, để làm giàu cho cuộc sống, để làm cho đời mình có được giá trị vĩnh cửu. Chỉ sống như thế chúng ta mới có thể đón nhận được lời diễm phúc này: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào chung hưởng niềm hoan lạc với chủ ngươi”.
48. Nhiều cơn đói.
Năm 1885, Vincent Van Gogh đã đến thăm một viện bảo tàng ở Amsterdam để xem một bức tranh nổi tiếng của Rembrandt, bức “Cô dâu người Do thái”. Sau khi nhìn ngắm bức tranh ông nói “Tôi sẵn sàng đổi mười năm của đời mình để được ngồi trước bức tranh này trong hai tuần, với lương thực là vụn bánh mì khô. Cơn đói đầu tiên của tôi không phải là đói thức ăn, dù tôi thường nhịn đói nhiều ngày. Lòng khao khát hội họa của tôi còn mạnh hơn nhiều, đến nỗi khi tôi có được ít tiền, tôi lập tức đi săn lùng những mẫu tranh cho đến khi tiền hết sạch”.
Không chỉ có thể xác làm người ta đói, tâm hồn và tinh thần cũng làm người ta đói. Bánh làm bằng vật chất không bao giờ có thể thỏa mãn tâm hồn con người. Nuôi dưỡng một con người không giống như việc vỗ béo gia súc. Chúng ta là những thụ tạo không chỉ có một cơn đói nhưng có hàng trăm cơn đói. Ngoài cơm bánh, chúng ta còn đói nhiều thứ.
Không phải mọi khao khát của chúng ta cần được thỏa mãn. Một số là dục vọng nếu được thỏa mãn, cơn đói và sự đòi hỏi càng lớn hơn. Chúng ta phải nhận thấy rằng những dục vọng ấy tồn tại trong chúng ta. Nhưng chúng ta hãy giữ lại những khao khát cần được thỏa mãn nếu chúng ta muốn nuôi dưỡng xứng đáng như những con người và như những con cái của Thiên Chúa.
Chúng ta khao khát được cảm thấy mình quan trọng. Không ai muốn mình chẳng là gì cả. Chúng ta đều muốn mình trở nên quan trọng, dù chỉ quan trọng đối với một người.
Chúng ta khao khát được chấp nhận. Nếu chúng ta không được chấp nhận, chúng ta hầu như mất khả năng nhận thức chính mình.
Chúng ta khao khát những mối quan hệ. Không có các mối quan hệ, chúng ta tha hồ bị những cơn gió rét của đau khổ và cô đơn rung chuyển. Chúng ta giống như một cây trơ trọi trên đỉnh đồi.
Chúng ta khao khát đức tin – vì chấp nhận những niềm tin tích cực hướng dẫn chúng ta. Nếu không thì chúng ta giống như chiếc tàu không có hải đồ và hải bàn.
Chúng ta khao khát niềm hy vọng. Gạt bỏ niềm hy vọng là tiếp tục đình chỉ sự khao khát tinh thần.
Chúng ta khao khát tình yêu. Nếu niềm khao khát này được no thỏa thì hầu hết mọi khao khát khác của chúng ta sẽ biến mất.
Tuy nhiên, có thêm một cơn đói nữa, một khao khát sâu xa hơn và là nền tảng cho mọi khát vọng khác của chúng ta, bao gồm khát vọng tình yêu. Đó là khát vọng sự sống đời đời. Nói cách khác, đó là khao khát Thiên Chúa. Cảm nghiệm được khao khát này không phải là một bất hạnh mà là sự chúc lành. Nó cứu chúng ta khỏi sự trì trệ và giữ cho dòng sông chảy ra biển cả.
Hàng ngày chúng ta thấy người ta xuất hiện trong các siêu thị với những xe đẩy hàng đầy thức ăn và đồ uống. Nhưng chúng ta không tìm thấy thứ lương thực khác đó trong các siêu thị. Nếu có thể, chúng ta sẽ được nuôi dưỡng tốt. Chỉ Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta lương thực ấy. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thỏa mãn những khao khát sâu xa nhất của chúng ta.
Bánh Manna đã nâng đỡ đời sống trần gian. Lương thực của Đức Giêsu nâng đỡ đời sống trường tồn. Đối với chúng ta – những người du hành trên con đường thời gian – đều được một khát vọng không thể cưỡng lại được hướng dẫn đến trường sinh. Đức Giêsu đến với một lời hứa: “Ai ăn bánh mà tôi ban cho sẽ được sống muôn đời”. Ai lại không muốn ăn bánh ấy?
49. Trông cậy.
Việc Thiên Chúa nuôi dân trong sa mạc bằng Manna được xem như ví dụ cổ điển về sự chăm sóc của Thiên Chúa đối với dân Người. Cho dù manna là một hiện tượng tự nhiên thì sự xuất hiện của manna vẫn là một quà tặng mà Thiên Chúa ban cho dân. Có thể có một thứ lương thực ngọt và dẻo như nhựa do một loại cây nào đó trong sa mạc tiết ra ban đêm và đông lại khi gặp cái lạnh. Người ta phải nhặt chúng vào sáng sớm trước khi nó tan chảy trong sức nóng ban ngày. Chim cút cũng thế: chúng di cư từ Bắc Au đến Châu Phi, và bắt buộc phải đáp xuống nghỉ đêm trong sa mạc, ở đó chúng dễ dàng bị bắt. Thiên Chúa nói với Môsê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời như mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày ấy; Ta muốn thử lòng chúng như vậy, xem chúng có tuân theo luật của Ta hay không”. Chúng ta phải giải thích những lời ấy như thế nào?
Nếu chúng ta hỏi một tín hữu bình thường xem người ấy có tin Chúa là Thiên Chúa duy nhất của thế gian không, người ấy sẽ không ngần ngại trả lời: “Dĩ nhiên rồi”. Nhưng nếu bạn hỏi người ấy có phải Thiên Chúa sẽ thấy hết mọi nhu cầu của người ấy để người ấy phó thác mọi sự cho Người thì người ấy sẽ lùi lại như muốn nói: “Vâng tôi chưa đạt đến trình độ đó”.
Chúng ta phải phân biệt giữa đức tin và phó thác hay tín thác. Dù chúng liên kết nhau chặt chẽ nhưng chúng không đồng nghĩa. Người nào tin tưởng vững vàng thì phó thác trọn vẹn. Nhưng nếu một người nào đó không phó thác trọn vẹn vào Thiên Chúa, thì niềm tin của họ rất yếu. Kinh nghiệm sa mạc là một cơ hội cho dân Do thái gần gũi với Thiên Chúa. Kinh nghiệm ấy dạy họ trông cậy vào Thiên Chúa, tín thác vào Đấng Quan Phòng mỗi ngày. Vì thế, Thiên Chúa bảo họ không được tích trữ bánh manna và bảo đảm họ sẽ có phần của ngày mai. Họ chỉ được lượm đủ nhu cầu của ngày hôm nay. Ngày mai, Thiên Chúa sẽ lại cung cấp cho họ.
Đức Giêsu cũng giảng dạy cùng một chân lý. Người nói chúng ta phải cầu nguyện “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Giáo huấn này nghe có vẻ lạ lùng, nếu không nói là điên rồ đối với những người hoàn toàn tín nhiệm vào các tài khoản tiết kiệm, các chính sách bảo hiểm. Chúng ta không dành đủ chỗ cho Thiên Chúa. Đó là đi ngược lại với cách sống đức tin.
Qua mọi lời nói và hành động, không phải bánh manna đã nâng đỡ dân Do thái trong suốt thời gian ở sa mạc. Chính đức tin và sự tín thác vào Thiên Chúa đã nâng đỡ họ. Đây là lương thực có giá trị với chúng ta – Đức tin và sự tín thác vào Thiên Chúa sẽ nuôi dưỡng chúng ta trong mọi lúc nhưng đặc biệt trong những khi bị thử thách. Không phải chính chúng ta gìn giữ đức tin mà chính đức tin gìn giữ chúng ta. Dù đời sống có khó khăn như thế nào đối với những người tín thác vào Thiên Chúa và sống mỗi ngày, mỗi lúc thì việc bánh manna rơi xuống mỗi ngày không có gì là ghê gớm lắm.
50. Hãy tìm Bánh Hằng Sống Giêsu
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Phúc Âm chương 6 Tin Mừng Gioan được đưa vào giữa năm phụng vụ, làm gián đoạn Tin Mừng Marcô đang được đọc trong mùa thường niên B. Khởi đi từ việc thấy dân chúng theo mình rất đông, Chúa Giêsu đã "chạnh lòng thương", làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng. Họ theo Chúa vì cái bụng, Chúa không hài lòng nên trách móc: "Các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê" (Ga 6, 26). Chúa gợi lên cho họ lòng khát vọng tìm kiếm thay lương thực trường tồn là chính Chúa là tin vào Người (x. Ga 6).
Manna của ăn trong sa mạc
Nếu như vào một buổi sáng nọ, con cái Israel thấy có một thứ gì nho nhỏ mịn màng như sương muối phủ mặt đất, họ liền hỏi nhau: "Man hu? " Nghĩa là: "Cái gì đây? " (Xh 16, 14) Ngày hôm nay chúng ta cũng hỏi nhau Manna là cái gì?
Trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân mà Ngài đã cưu mang và dẫn ra khỏi Ai cập. Trên hành trình về Đất Hứa để chứng tỏ tình thương và lòng thành tín của Chúa đối với dân giữa xa mạc khô cằn, Ngài đã ban cho họ Manna, theo Môsê, "Đó là bánh Thiên Chúa ban… làm của ăn" (Xh 16, 16), không chỉ làm lương thực đi đường mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương vô cùng của Chúa. Dân Israel vẫn quan niệm ông Môsê là người đã cho họ ăn bánh bởi trời, nhưng Chúa Giêsu đã chỉnh sửa lại là chính Thiên Chúa chứ không phải ông Môsê là Đấng cho họ của ăn trong sa mạc, đồng thời mời gọi họ nhìn nhận và tin vào chính Người là Bánh đích thực do Thiên Chúa của cha ông họ gửi đến lúc này đây.
Bánh Giêsu
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng được no nê tùy thích, tưởng rằng thời Mêssia đã đến, họ muốn tôn Chúa làm vua, nên tìm theo Chúa. Gặp họ, Chúa muốn họ đi xa hơn, đã mất công tìm kiếm, thì hãy "ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời" (Ga 6, 27). Chúa gợi lên nơi họ lòng khát vọng trường tồn, khiến họ đặt câu hỏi: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" (Ga 6, 28) Câu hỏi xem ra không có gì liên quan đến Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vẫn có một tương quan, đó là "công việc". Chúa chỉ cho họ: "Công việc của Thiên Chúa là các người hãy tin vào Đấng mà Ngài sai đến"(Ga 6, 29).
Đức tin là điều căn bản. Đây không phải là theo một ý tưởng, một dự án, mà là gặp gỡ Chúa Giêsu, một người sống động, để cho mình được Chúa và Tin Mừng của Chúa lôi cuốn. Chúa Giêsu mời gọi dân chúng không dừng lại ở chân trời thuần túy nhân loại, nhưng mở rộng tới chân trời của Thiên Chúa, chân trời của niềm tin. Người chỉ đòi hỏi một công việc duy nhất là: tiếp nhận chương trình của Thiên Chúa, nghĩa là "tin nơi Đấng Thiên Chúa đã sai đến" (Ga 6, 29). Chúa Giêsu đã tự hiến chính mình, trở nên bánh đích thật, "bánh từ trời xuống", chính Người là Lời hằng sống của Chúa Cha. Gặp gỡ Người là chúng ta gặp gỡ Một Thiên Chúa hằng sống.
Thật không phải dễ để dân chúng tin vào Người, họ đòi dấu lạ, gợi nhớ manna, bánh mà cha ông họ đã ăn trong sa mạc. Để giúp họ hiểu ý nghĩa sâu xa của phép lạ Chúa Giêsu đã làm thỏa mãn một cách lạ lùng cái đói thể lý của họ, Người mời gọi họ đón nhận lời loan báo chính Người là bánh từ trời xuống (x. Ga 6, 41) làm cho họ thỏa mãn một cách vĩnh viễn. Nếu như cha ông họ trong hành trình dài trong sa mạc đã sống kinh nghiệm về thứ bánh từ trời xuống là manna dưỡng nuôi họ cho tới khi vào Đất Hứa. Giờ đây Chúa Giêsu nói về chính Người là "bánh từ trời xuống", có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi. Người là lương thực ban sự sống vĩnh cửu, bởi vì Người là Con Một Thiên Chúa, ở trong lòng Thiên Chúa Cha, đến để trao ban cho con người sự sống tràn đầy, và đưa con người vào trong chính sự sống của Thiên Chúa. Chúa Giêsu khẳng định với họ rằng: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ" (Ga 6, 35). Người là bánh từ trời xuống làm no thỏa cái đói tinh thần con người. Người là Lời của Thiên Chúa nhập thể làm no thỏa cái đói khát của linh hồn con người một cách vĩnh viễn.
Theo thánh Agustinô: "Chúa Giêsu khẳng định Người là bánh từ trời xuống, và mời gọi dân chúng tin vào Người. Thật ra, ăn bánh hằng sống có nghĩa là tin vào Chúa, ai ăn thì tin và ai tin thì ăn. Trong một cách vô hình họ được no thỏa, cũng như trong một cách vô hình họ tái sinh vào một cuộc sống sâu xa hơn, đích thật hơn; họ tái sinh từ bên trong, trong nơi sâu thẳm của họ, và họ trở nên một con người mới" (Omelie su Vangelo di Giovanni, 26,1).
Thánh Thể thần lương vượt thế trần
Nếu như trong sa mạc, manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, thì hôm nay lòng thương xót ấy là Đức Giêsu Kitô Con Một Chúa, Đấng tự hiến mình làm Thần Lương không chỉ nuôi sống linh hồn mà còn củng cố khả năng hướng thiện của người rước lấy. Manna xưa chỉ là phương tiện cứu đói tạm thời, nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời vinh phúc. Trong sa mạc, manna chứng tỏ Chúa không bỏ dân của Chúa, ngày nay Chúa ở giữa Hội Thánh và trong thế giới bằng chính mình trong bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích ThánhThể, người cô đơn tìm được nguồn an ủi ; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ ; người đau yếu tìm được sự chữa lành ; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần ; người hấp hối tìm được sự đỡ nâng ; người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm… Và còn một ý nghĩa rất quan trọng, manna ngày xưa của ăn trong sa mạc, Thánh Thể thần lương vượt thế trần.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết ra đi tìm kiếm Chúa, biết quy tụ mọi sự về Chúa, biết tìm kiếm của ăn không hư nát là chính Chúa và đón rước Chúa hầu được sống muôn đời. Amen.
51. Tự do.
Sau mỗi lúc cao cả lại đến một lúc phản ứng lại và chính trong sự phản ứng lại này, nguy hiểm đang nằm chờ sẵn. Dường như có một qui luật của đời sống là ngay sau khi sức mạnh đề kháng lên điểm cao nhất, thì nó chúi xuống điểm thấp nhất.
Viết về kinh nghiệm Auschwitz, nhà văn Ý, Primo Levi nói: “Trong đa số các trường hợp, giờ giải phóng không phải là lúc vui tươi, phấn khởi. Nhiều vụ tự tử đã xảy ra ngay sau lúc giải phóng. Trái lại, các vụ tự tử hiếm khi xảy ra trong suốt thời kỳ bị giam cầm. Trong trường hợp của riêng tôi, được thả ra là một giây phút nguy kịch, nó trùng khớp với một cơn lũ của việc suy nghĩ lại và chán nản”.
Và Elie Wiesel, một người sống sót từ Auschwitz trở về nói: “Trong suốt thời kỳ thử thách, tôi đã sống trong sự chờ đợi… một phép lạ, hoặc cái chết. Chỉ sau này, sau khi cơn ác mộng đi qua tôi mới bị một cơn khủng hoảng đau đớn và thống khổ, tra hỏi mọi niềm tin của tôi”.
Về lý thuyết, khi họ đã được thả ra thì sau đó họ phải sống một cách hạnh phúc. Tuy nhiên, thường xảy ra việc những người trở về hầu như đã chết ngay sau khi họ “trở lại sự sống”. Người ta giải thích điều đó như thế nào? Trong lúc họ còn ở trong địa ngục thì giấc mơ được giải thoát đã cho họ sức mạnh để sống còn. Nhưng tự do không luôn luôn thực hiện những mong đợi của họ. Nhiều người trong số họ không có chỗ để về. Sự tàn bạo của nhà tù bắt đầu khi bạn ra khỏi nơi đó. (Oscar Wilde).
Dân Do thái đã có một kinh nghiệm tương tự. Họ rời bỏ ách nô lệ ở Ai cập trong niềm vui, và bắt đầu lên đường đi vào một tương lai mà họ tin là tươi sáng. Thế là một thời gian ngắn sau đó họ muốn trở về Ai cập. Họ muốn trở lại thân phận nô lệ. Điều này đã xảy ra?
Trong một ý nghĩa, những bối rối thật sự của họ đã bắt đầu sau khi được ra đi. Tự do không làm cho có điều họ nghĩ phải có. Họ thấy mình ở trong sa mạc và thiếu lương thực. Họ đã khám phá rằng tự do bao gồm một cuộc hành trình đến miền đất hứa xa xăm và mơ hồ. Còn lúc này họ phải đương đầu với khó khăn, thử thách và nguy hiểm.
Thật ra, dân Do thái thời Mosê không sẵn sàng đón nhận tự do, và Kinh Thánh đã trung thành thuật lại những cãi cọ và bối rối của họ. Cần có một thế hệ mới để sẵn sàng vượt qua sông Giocđan và vào miền đất hứa. Cho nên có câu nói: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái”.
Tự do đưa ra những thách đố của nó. Nó có nghĩa là nhận trách nhiệm về cuộc đời mình. Nó không là việc dễ dàng đặc biệt đối với những người quen để cho người khác quyết định mọi việc cho mình. Tự do đòi hỏi một kỷ luật cho bản thân. Để cho người khác đưa ra kỷ luật cho mình thì dễ dàng hơn mình đặt kỷ luật cho chính mình. Biến đổi một con người thành nô lệ dễ hơn một nô lệ trở thành con người.
Dân Do thái đã nhìn lại đàng sau và nghĩ: “Có lẽ chúng ta đã tốt hơn khi ở lại Ai cập; ít nhất ở đó chúng ta có đủ ăn?”. Và thế là họ bắt đầu càu nhàu Môsê. Giá mà họ đã đem theo những phẩm chất làm họ có thể chịu đựng cảnh nô lệ. Nhưng họ không dùng những phẩm chất ấy để sống tự do như khi họ sống trong cảnh nô lệ.
Chúng ta cảm thấy có thiện cảm với họ. Họ không thể tiên đoán rằng giấc mơ tự do của họ, một khi đã được thực hiện đưa đến những thách đố mới và những nguy cơ mới. Thái độ ù lỳ của họ thật đáng buồn khi nghĩ đến việc họ sẵn sàng từ bỏ tự do để được nhét vào bụng những món ăn ngày trước họ đã ăn ở Ai cập. Tuy nhiên, Thiên Chúa động lòng thương họ và đã cho họ bánh manna để nâng đỡ họ trong cuộc lữ hành băng qua sa mạc.
Điều này có quan hệ rất lớn đối với chúng ta. Là dân mới của Thiên Chúa, chúng ta hành trình trong đức tin hướng về miền đất hứa của sự sống đời đời. Bởi phép Rửa tội, chúng ta được mời gọi ra khỏi sự nô lệ – nô lệ cho tội, nô lệ cho tiện nghi và an toàn v.v… (Xem bài đọc 2). Chúng ta được hướng dẫn không phải bởi Môsê nhưng bởi Đức Giêsu. Chúng ta phải sống bởi đức tin chứ không phải bởi thị kiến.
Và chúng ta gắn bó với kinh nghiệm sa mạc của thử thách và khó khăn. Có lúc, chúng ta có thể cảm thấy Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Và vì thế, chúng ta khao khát sự xa hoa của thế gian này. Chúng ta bị cám dỗ rơi trở lại tình trạng nô lệ của tội lỗi hơn là sống trong tự do của con cái Thiên Chúa.
Nhưng vì Thiên Chúa đã nâng đỡ dân Do thái nên Người đã nâng đỡ chúng ta qua đức tin vào Đức Giêsu và Bánh là chính Người ban cho chúng ta trong Thánh Thể. Không phải chúng ta gìn giữ đức tin, mà là đức tin gìn giữ chúng ta. Dù cuộc đời có khó khăn đến mấy, đối với những người tín thác vào Thiên Chúa, và sống mỗi ngày trong mỗi lúc, bánh manna vẫn rơi xuống mỗi ngày.
52. Đức Giêsu là Bánh trường sinh - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Con người khác và hơn con vật ở những khả năng nào? Con người giống với Thiên Chúa ở chỗ nào? Vậy con người phải đặc biệt quan tâm phát triển những khả năng nào?
2. Con người thường tìm hạnh phúc nơi những gì? Khi đạt được những thứ ấy, con người đã thỏa mãn chưa? hay họ lại khao khát những thứ khác? Như vậy, tìm hạnh phúc nơi những thứ ấy có phải là cách khôn ngoan không? Tìm hạnh phúc ở đâu mới là khôn ngoan?
3. Đức Giêsu là «bánh trường sinh». Vậy ta phải làm gì với Đức Giêsu để đạt được «bánh trường sinh» ấy? Có phải là rước lễ? Những người rước lễ có ai đạt được «bánh trường sinh» chưa?
Suy tư gợi ý:
1. Đời sống tâm linh, cấp độ sống cao nhất của con người
Tất cả mọi sinh vật đều có sự sống. Nhưng sự sống ấy có nhiều cấp độ khác nhau, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Sự sống càng cao thì càng có những khả năng đặc biệt mà sự sống ở bậc thấp hơn không có, hay có rất ít. Cùng là sống, nhưng cái sống của một cây cổ thụ khác với cái sống của một cây cỏ, của một bụi gai; cái sống của con sư tử, một con cá heo khác với cái sống của con chó, con heo, và càng khác với cái sống của con giun, con dế. Cao hơn nữa là cái sống của con người. Và cao hơn cái sống của con người là cái sống của thiên thần, và cao nhất là cái sống của Thiên Chúa, nguồn phát sinh mọi sự sống.
Loài thực vật có khả năng tự dinh dưỡng, tự thích ứng, tự lớn lên, tự sinh sản, nhưng khả năng cảm giác rất ít. Loài động vật có đủ mọi khả năng của loài thực vật, nhưng khả năng cảm giác cao hơn rất nhiều, và còn có khả năng tự di chuyển. Nhưng các loài thú có rất ít trí tuệ, khả năng ý thức, không có khả năng tự quyết định hay sự tự do, chỉ biết làm theo bản năng. Còn con người có nhiều khả năng vượt rất xa loài động vật. Con người có đời sống tinh thần, trí thức, tình cảm, có khả năng tự do và tự quyết định, và nhất là có đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh càng phát triển thì con người càng khác xa con vật và càng giống Thiên Chúa hơn.
2. Đời sống tâm linh phát triển và hạnh phúc đích thực
Con người chỉ được hạnh phúc tràn đầy khi đạt được sự phát triển cao nhất của mình. Con người có đời sống tâm linh mà các loài động vật khác không có. Khi phát triển những khả năng cao cấp của mình như tinh thần, tình cảm, trí tuệ, thì con người có khả năng hạnh phúc cao hơn tất cả mọi loài, nhưng hạnh phúc ấy chưa tràn đầy, chưa đạt tới viên mãn. Chỉ khi nào phát triển tâm linh đầy đủ, con người mới đạt được giá trị cao nhất của mình, và mới được hạnh phúc một cách viên mãn.
Chưa được hạnh phúc viên mãn, con người sẽ không bao giờ thỏa mãn. Khi chưa đạt được hạnh phúc viên mãn, thì dù có đạt được những điều mình đang mong ước, con người cũng chỉ tạm hạnh phúc trong chốc lát, để rồi sau đó lại khao khát một cái khác cao hơn; nếu không đạt được cái cao hơn đó thì con người lại rơi vào đau khổ. Những khao khát bình thường ấy chỉ giống như những ly nước, những chén thức ăn. Uống xong ly nước ấy tuy đã khát, ăn hết thức ăn ấy tuy no và hết đói, nhưng rồi sẽ lại khát, lại đói nữa: «Ai uống nước này, sẽ lại khát» (Ga 4,13). Cứ thế, chẳng bao giờ con người hết đói và hết khát với những thức ăn thức uống bình thường ấy. Và con người cứ phải kiếm nước kiếm thức ăn mãi. Còn đói khát những ước vọng bình thường ấy, con người còn phải gặp biết bao đau khổ.
Những hạnh phúc do sự thỏa mãn những ước vọng ấy chỉ giống như một người bị bệnh ngứa, khi ngứa lên thì gãi hay hơ nóng chỗ ngứa, tuy đã ngứa nhưng chỉ được một thời gian rất ngắn, để rồi sau đó sẽ còn ngứa dài dài nữa. Chỉ khi nào chữa cho hết bệnh ngứa, thì con người mới thật sự thoải mái. Cũng vậy, chỉ khi nào hết ích kỷ, biết sống vị tha, có đời sống tâm linh phát triển, con người mới thật sự hết đau khổ và được hạnh phúc đích thật, thứ hạnh phúc không ai lấy mất được.
3. Con người mải mê tìm những hạnh phúc chóng qua
Khi con người chưa cảm nghiệm được hạnh phúc đích thực của một tâm linh phát triển, thì họ chỉ mải miết tìm kiếm những hạnh phúc chóng qua, nơi của cải, nhà cửa, địa vị, quyền lực… Đạt được hạnh phúc này thì lại khao khát hạnh phúc khác. Khi phải đi bộ thì họ mong có chiếc xe đạp, tưởng rằng có xe đạp thì sẽ hạnh phúc lắm. Nhưng khi có xe đạp thì họ chẳng hạnh phúc, vì họ lại mong ước chiếc xe máy… rồi xe hơi… rồi nhà cao cửa rộng… rồi địa vị quyền lực… Nhưng dẫu có trở thành một ông vua hay bà hoàng, họ vẫn cảm thấy đau khổ, và chẳng hạnh phúc.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu khuyên người ta không nên tìm thứ «lương thực mau hư nát» là những cái chỉ đem lại những hạnh phúc thoáng qua, mà hãy tìm loại «lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh». «Lương thực thường tồn» ấy chính là những gì nuôi sống đời sống tâm linh, làm cho sự sống ấy phát triển. Khi đời sống tâm linh phát triển, con người sẽ hạnh phúc mãi, và không gì trong cuộc đời có thể làm họ đau khổ hay mất hạnh phúc. Đó chính là thứ «nước» mà Đức Giêsu hứa ban cho ta: «Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời» (Ga 4,14).
4. Lương thực trường sinh ấy chính là Đức Giêsu
Để có đời sống tâm linh phát triển, nghĩa là để có hạnh phúc đích thực và lâu bền, Đức Giêsu giới thiệu cho chúng ta thứ «lương thực thường tồn» hay «bánh trường sinh», khiến chúng ta một khi đã «ăn» vào thì sẽ được thỏa mãn, hạnh phúc, không còn khao khát gì hơn nữa. «Lương thực» này khác với thứ «lương thực mau hư nát», >«ăn» vào rồi là chán ngay, và muốn «ăn» thứ khác. Lương thực thường tồn ấy chính là Đức Giêsu. Ngài nói: «Tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!». Rất nhiều Kitô hữu hiểu câu này một cách rất vật chất rằng để đạt được đời sống trường sinh, ta chỉ việc rước lễ, tức rước Mình Máu Đức Giêsu vào bụng là xong. Nhưng trong đời tôi, tôi thấy biết bao Kitô hữu rước lễ hằng ngày và suốt đời mà có biến đổi hay cảm thấy hạnh phúc đích thực và lâu dài bao giờ đâu! Điều đó khiến tôi phải hiểu câu nói trên theo cách khác. Tôi đã sống và áp dụng theo cách hiểu mới ấy, và tôi cảm thấy đời tôi ngày càng thấy mình hạnh phúc hơn.
Chúng ta chỉ «ăn» được «bánh trường sinh» là chính Đức Giêsu bằng cách làm cho tâm linh ta được cấu tạo bởi những gì đã làm nên con người Đức Giêsu. Ăn thức ăn nào là nhận chất bổ, năng lực từ thức ăn ấy. Đức Giêsu là năng lực thần linh, nên «ăn» Đức Giêsu là đón nhận vào mình năng lực thần linh của Ngài. Đương nhiên «ăn» Đức Giêsu không phải là «ăn» bằng miệng, bằng thể xác, mà bằng ý thức và tâm linh của ta. Thể xác không thể nào ăn được của ăn tâm linh. Muốn «ăn» Đức Giêsu, tức «bánh trường sinh», ta phải ý thức sự hiện diện đích thực và thường hằng của Đức Giêsu trong tâm hồn ta. Ngài luôn hiện diện trong ta, nhưng ta thường không ý thức sự hiện diện ấy. «Ăn» Ngài là ý thức rằng Ngài là một nguồn năng lực vô tận về tình yêu, trí tuệ, sức mạnh, can đảm, hạnh phúc… luôn hiện diện trong ta, sẵn sàng thể hiện tràn đầy qua con người của ta, qua tư tưởng, lời nói và hành động của ta. «Ăn» Ngài thật sự sẽ làm cho đời sống của ta trở nên hạnh phúc và khởi sắc hơn bao giờ hết. Đó cũng chính là kinh nghiệm của tôi, người viết bài này, xin chia sẻ với mọi người.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu chính là một lương thực bổ dưỡng hữu hiệu cho tâm linh con người. Nhưng «ăn» Ngài không phải là ăn theo kiểu vật chất, mà là ăn theo kiểu tâm linh. Xin Cha dạy cho con cách thức «ăn» Ngài, để con được sống trường sinh và hạnh phúc, thứ hạnh phúc đích thực và không bao giờ mất đi được. Đó là hạnh phúc đời đời. Amen.
53. Tôi là Bánh Ban Sự Sống – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Xem tại phần trình bày Ga 6,1-15.
Bài Diễn từ về Bánh trường sinh là phân đoạn 6,22-59, có cấu trúc như sau, gồm sáu cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và những người đối thoại:
a- cc. 22-27: Dẫn nhập: Caphácnaum, các yếu tố Thánh Thể
b- cc. 28-29: Cần có đức tin (như là “công việc” của con người và Thiên Chúa)
c- cc. 30-33: Bánh bởi trời
c’- cc. 34-40: Bánh bởi trời
b’- cc. 41-51: Cần có đức tin (như là “công việc” của con người và Thiên Chúa)
a’- cc. 52-59: Kết luận: Caphácnaum, các yếu tố Thánh Thể
Như thế, c. 35, “Tôi là bánh trường sinh” nằm tại trung tâm của bài diễn từ và của chương, tại đầu vấn nạn hoặc lời trao đổi thứ tư giữa Đức Giêsu và các thính giả.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Vấn nạn thứ nhất: đi tìm bánh (6,24-27);
2) Vấn nạn thứ hai: làm việc Thiên Chúa muốn (6,28-29);
3) Vấn nạn thứ ba: hỏi về dấu lạ Đức Giêsu làm (6,30-33);
4) Vấn nạn thứ tư: xin bánh ban sự sống (6,34-35).
3.- Vài điểm chú giải
- Thật, tôi bảo thật các ông (26): Kiểu nói này, với từ amên lặp lại 2 lần (amên amên legô hymin) là đặc điểm riêng của TM IV (25 lần. Xem chẳng hạn 1,51; 5,19.24.25; 6,26.32.47.53...). Amên do từ Hípri ’âmên có nghĩa là “vững vàng, chắc chắn”. Kinh nguyện Kitô giáo dùng công thức amên này để kết lời cầu, với ước mong là các lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Các kinh sư Do Thái dùng từ amên để diễn tả một lời tuyên thệ, sự đồng ý hay xác nhận, nhưng không bao giờ liên kết amên với “tôi bảo các ông”. Trong các TMNL, Đức Giêsu nói: “Amen, tôi bảo các ông” (dùng 1 lần “amen”). Kiểu nói đặc biệt của Đức Giêsu (amen amen...) có thể bao hàm ba khía cạnh: (1) Đức Giêsu bảo đảm tính xác thực của những lời Người nói (x. Ga 8,24); (2) Đức Giêsu muốn đồng hóa mình với “Amen”, nghĩa là với “sự thật”, với “chân lý” (x. Ga 14,6; Kh 3,14) (3) Đức Giêsu nhấn mạnh đến những gì đã nói hay những gì sẽ nói để người nghe chú ý; như thế amên mở đầu cho những mạc khải quan trọng[1].
- Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận (27): Có những nhà chú giải nghĩ rằng câu này nhắc đến phép rửa của Đức Giêsu. Nhưng có lẽ nghĩa đơn giản và rõ ràng hơn là: Con Người từ trời đến và các dấu lạ Người làm là những hành vi qua đó Thiên Chúa đảm bảo cho tính xác thực của sứ mạng của Người (3,33) cũng như đảm bảo rằng loài người có thể nhờ Người mà đạt được sự sống đời đời.
- chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn (28): Người Do Thái nghĩ là họ có thể tự mình đạt được sự sống đời đời, với điều kiện là hoàn tất một số việc buộc. Số phức “những việc Thiên Chúa muốn” có ý nhắm đến các điều khoản bó buộc trong nền luân lý của họ (Mt 19,16; 22,34-40).
- việc Thiên Chúa muốn … là tin vào Đấng Người đã sai đến (29): Đây là đòi hỏi đơn giản nhất nhưng cũng căn bản nhất gồm tóm mọi quy định của Lề Luật: tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến; trong các hành vi Đức Giêsu làm, phải nhìn thấy các công việc của Thiên Chúa thời cánh chung. Tác giả Ga đã sửa lại một chút một công thức của Phaolô (Rm 3,28) và tập trung tất cả lối sống Kitô hữu vào việc tin vào Đấng Thiên Chúa sai phái.
- tin (29.30): Các TMNL và các Thư Phaolô thường dùng danh từ “đức tin (pistis)”, TM Ga lại thường xuyên dùng động từ “[hành vi] tin” (pisteuô): công thức “tin vào” (pisteuô eis) được dùng 36 lần trong TM IV (kể chung pisteuô là 98 lần), 3 lần trong các Thư Gioan, và chỉ 8 lần trong phần còn lại của Tân Ước.
- Người đã cho họ ăn bánh bởi trời (31): Man-na được ban hằng ngày trong sa mạc được nhiều kinh sư coi như là việc diệu kỳ lớn lao nhất của thời Xuất Hành. Có bốn bản văn Cựu Ước có thể là nền tảng cho Ga 6,31: Xh 16,4; Xh 16,15; Nkm 9,15 và Tv 78 (77),24.
(a) Trong Xh 16,4, không có động từ “ban/cho” và chủ thể đang nói là Thiên Chúa. Đối tượng ở số phức. Không chắc bản văn này đã ảnh hưởng lên Ga 6,31.
(b) Xh 16,15 cũng vậy: dạng ngữ pháp là dạng của các lời Môsê ngỏ với con cái Israel. Ở đầu, ta gặp đại từ chỉ định houtos ho artos (bánh ấy). Tất cả những điểm này không có ở Ga 6,31.
(c) Nkm 9,15 có dạng một lời ngỏ: con cái Israel đang quay về cầu nguyện với Thiên Chúa.
(d) Bản văn gần nhất với Ga 6,31 là Tv 78 (77),24.
- bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống (33): Trong hy-ngữ, “bánh” (artos) ở nam tính, nên có thể dịch câu này hai cách: “bánh Thiên Chúa ban là sự gì (cái gì) từ trời xuống” (xem NTT); “bánh Thiên Chúa ban là Đấng từ trời xuống”. Cách dịch thứ nhất thì xuôi tai hơn, nhưng cách dịch thứ hai thì tốt hơn, bởi vì Đức Giêsu đang muốn đưa người ta chuyển đi từ man-na và bánh sang bản thân Người.
- Tôi là (egô eimi, 35): TM IV nói đến công thức này nhiều lần. Trong tình trạng tuyệt đối, các công thức “Tôi là” (Ga 8,24.28.58; 13,19) được trực tiếp cảm hứng từ các công thức mà Thiên Chúa của Cựu Ước đã dùng để giúp người ta biết Người (Xh 3,14; Hs 1,9; …). Khi nói “Tôi là”, Đức Giêsu khẳng định Người là nội dung mà chính Thiên Chúa đã mạc khải ra về chính Ngài cho dân Do Thái. Các khẳng định “Tôi là” giới thiệu Đức Giêsu như là giá trị sống vĩnh viễn. Ở đây, Người muốn nói rằng Người là thứ bánh vĩnh viễn, bánh cánh chung, bánh duy nhất quan trọng. Người chính là bánh đích thật ban sự sống viên mãn.
Trong diễn từ về Bánh ban sự sống ở Ga 6, có ba công thức “Tôi là” (cc. 35.48-50.51). Cả ba câu đều có kèm theo một lời mời tin vào Đức Giêsu, mời đến với Người hoặc đến ăn thứ bánh thiên giới này là chính bản thân Người. Những câu này giống với các phần triển khai của sách Châm ngôn ch. 8–9 và sách Huấn ca ch. 24, trong đó sự Khôn Ngoan thần linh tự giới thiệu mình và mời người ta lắng nghe mình, đến với mình, ăn mình (x. Cn 8,32; Hc 24,18). Trong Ga 6, động từ “đến với” được nhắc lại nhiều lần: cc. 35.37.44.65; x. cả c. 67.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Khi thấy Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều, đám đông cho rằng Người “là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian” (c. 14; x. Đnl 18,15; Ga 1,21). Họ muốn “tôn Người làm vua”, nhưng Đức Giêsu “lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (c. 15).
Hôm sau, họ lại đi tìm Người. Và xảy ra một cuộc đối thoại.
* Vấn nạn thứ nhất: đi tìm bánh (24-27)
Dường như Đức Giêsu không trả lời đúng câu hỏi của người Do Thái. Trong thực tế, câu trả lời của Người nhắm đến thái độ mà câu hỏi của họ đã tố giác. Họ đã thấy dấu lạ nhiều lần (6,2; x. 2,23-25), nhưng họ đã không quan tâm và đã không hiểu các dấu lạ ấy. Họ chỉ hoàn toàn quan tâm đến bánh, đến việc ăn no về vật chất thôi (c. 12). Phép lạ đã không cung cấp cho họ ánh sáng về bản thân Đức Giêsu (12,9). Bởi vì bánh (cũng như rượu ở Cana và nước trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari) tự nó không có giá trị; nó chỉ là một phương tiện để vén mở cho thấy mầu nhiệm bản thân Người.
* Vấn nạn thứ hai: làm việc Thiên Chúa muốn (28-29)
Người Do Thái hiểu sai ý nghĩa của động từ “làm việc”. Họ lẫn lộn giữa các công việc của Thiên Chúa với các công việc họ làm nhằm tôn vinh Thiên Chúa. Câu hỏi này cho thấy họ không hiểu gì cả. Họ nghĩ rằng họ có thể đạt được sự sống đời đời bằng sức lực riêng, miễn là họ chu toàn một số điều khoản Luật buộc. Tức khắc Đức Giêsu đưa các điều khoản ấy ra, đây là đòi hỏi đơn giản nhất nhưng cũng triệt để nhất: tin vào Đấng Thiên Chúa sai phái và nhìn thấy các hành vi Đức Giêsu làm là những công trình Thiên Chúa thực hiện vào thời cánh chung. Công việc duy nhất họ phải làm cũng là công việc duy nhất Đức Giêsu vẫn làm: chu toàn công việc của Chúa Cha.
Bằng cách dùng thường xuyên động từ “[hành vi] tin” thay vì danh từ “đức tin” (trừu tượng), tác giả Ga cho thấy rằng, thay vì đề cập đến đức tin trừu tượng, ngài nghĩ đến việc dấn thân người Kitô hữu phải thực hiện để trở thành môn đệ Đức Giêsu. Đây là một quyết định mang tất cả niềm tin tưởng đăt nơi Đức Giêsu.
* Vấn nạn thứ ba: hỏi về dấu lạ Đức Giêsu làm (30-33)
Người Do Thái hiểu là Đức Giêsu đang tự đặt mình trước mặt họ như là vị Sứ giả của Thiên Chúa. Nhưng vì cứ ham các bằng cớ nắm bắt được, họ hỏi tiếp: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông?” (c. 30). Ở đây, thay vì nói đến hành tin tưởng bắt họ dấn thân trọn vẹn (pisteuô eis), họ lại đặt vấn đề về uy tín của Đức Giêsu (pisteuô + tặng cách). Ít ra Người phải cho thấy Người ngang bằng Môsê là người đã nuôi dưỡng dân Do Thái suốt 40 năm (Xh 16,35).
Yêu cầu này không có câu trả lời, vì không thể có câu trả lời nào cả cho thứ yêu cầu như thế. Không có một dấu lạ nào có thể chứng minh rằng Đức Giêsu là Sứ giả của Thiên Chúa. Các dấu lạ bên ngoài có thể dẫn đưa người ta đến tận ngưỡng cửa đức tin (Ga 15,24; x. 10,25; 12,37t), nhưng tự chúng không đủ. Trước tiên, bởi vì nếu bị liên kết với các lý do duy lý, đức tin sẽ không đi xa hơn lý trí; kế đó, bởi vì đức tin sẽ chịu ảnh hưởng các ấn tượng (x. 4,48). TM IV, với truyện Tôma ở ch. 20, sẽ cho thấy rằng những dấu chỉ ấy không cần thiết cho hành vi tin (20,29).
Câu “Không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu” (c. 32) có thể là một phủ nhận về Môsê (không phải là Môsê, mà là Thiên Chúa) hoặc về bánh bởi trời (thứ bánh bởi trời ấy không phải là man-na). Trong thực tế, câu này là một phủ nhận về bánh: những gì Môsê đã ban cho tổ tiên các ông thì đúng là từ trời rơi xuống, nhưng không phải là bánh đích thực bởi trời. Bánh đích thực, bánh hoàn hảo, bây giờ Chúa Cha đang ban tặng, còn man-na chỉ là một tiền vị của thứ bánh ấy thôi.
Đức Giêsu là bánh của Thiên Chúa, bởi vì Người không đến từ một trung gian nhân loại, nhưng đến trực tiếp từ Thiên Chúa. Hình ảnh bị đẩy ra sau, nay tác giả nhấn mạnh trên các phẩm chất của bánh này của Thiên Chúa: từ trời xuống, ban sự sống vĩnh cửu.
* Vấn nạn thứ tư: xin bánh ban sự sống (34-35)
Giữa vấn nạn thứ ba (cc. 30-33) và vấn nạn thứ tư (cc. 34-40), có một sự tiến triển. Các câu đầu nói đến bánh bởi trời do Thiên Chúa hoặc Môsê ban cho. Người Do Thái liền xin Đức Giêsu một dấu lạ như dấu lạ ông Môsê đã thực hiện trong sa mạc khi ban cho họ bánh bởi trời (có lẽ quy chiếu về Tv 78,24). Nhưng Đức Giêsu lại loan báo một thứ bánh từ trời xuống, là “bánh đích thực”, bây giờ được Chúa Cha ban. Sang cc. 34-40, bản chất của bánh ấy được làm sáng tỏ.
Như chúng ta vẫn thấy, người Do Thái lại hiểu lầm về ý nghĩa của những lời nói ấy của Đức Giêsu. Họ chẳng quan tâm gì đến bản thân Con Người. Họ cứ tiếp tục mơ một thứ bánh vật chất từ trời rơi xuống cho họ. Như bà Samari (4,15) và như họ đã làm trong những hoàn cảnh tương tự, họ xin Đức Giêsu cứ ban cho họ đều đặn và liên tục, thứ bánh không tốn tiền ấy. Phần Đức Giêsu, Người lại công bố rằng chính Người mới là “bánh trường sinh”. Điều mà Người ban, thì ban một lần cho mãi mãi. Người không ban một điều gì khác, mà là ban tặng chính mình. Người là thứ bánh vĩnh viễn, bánh cánh chung, bánh duy nhất quan trọng. Người chính là bánh đích thực ban sự sống viên mãn, trong khi man-na không giải thoát người ta khỏi sự chết (6,49). Mọi người được mời gọi đến với Người, vì giống như Đức Khôn Ngoan trong sách Cn và Hc, Người có thể thỏa mãn mọi khát vọng tôn giáo của họ.
+ Kết luận
Bữa ăn lạ lùng sẽ phải được giải thích như là một dấu chỉ. Đấy là một sự kiện thực hữu, Đức Giêsu đã thực sự cho một đám đông ăn no; nhưng biến cố này tự nó không có ý nghĩa. Đức Giêsu không muốn chứng minh rằng người ta có thể nhận được bánh từ nơi Người mà không cần phải mệt nhọc và được nhận ê hề; Người không muốn thay thế các ông thợ làm bánh mì để rồi các ông này phải thất nghiệp mà bị đói. Bữa ăn lạ lùng nhắm đến một thực tại khác. Sự kiện Đức Giêsu có thể ban bánh và cho ăn no nê theo nghĩa trần thế phải cho thấy rằng bản thân Người chính là bánh ban sự sống và có thể ban sự sống vĩnh cửu, không bao giờ tàn lụi. Ở bên Người, chúng ta không được tìm kiếm bánh trần thế; trái lại, chúng ta phải nhìn nhận rằng Người có thể và muốn ban cho chúng ta một thứ vô cùng lớn lao hơn. Chúng ta cần phải để ý đến điều này và đón nhận quà tặng của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nếu không có bánh, chúng ta sẽ chết. Cơm bánh có khả năng duy trì sự sống cho chúng ta nhưng đó là một khả năng giới hạn. Khi nói “Tôi là bánh ban sự sống”, Đức Giêsu cho hiểu là tương quan giữa bản thân Người với loài người cùng một kiểu như tương quan giữa cơm bánh và chúng ta, nhưng sự sống Người ban là sự sống vĩnh cửu, chứ không chỉ là sự sống trần gian giới hạn. Người mạnh hơn cái chết, Người muốn đưa chúng ta đi sang bên kia cái chết. Nhưng chúng ta phải chạy đến với Người, phải tin vào Người.
2. Tôi tin vào Đức Giêsu khi tôi tự liên kết hoàn toàn với Người và để cho Người hoàn toàn quy định đời sống tôi. Đức tin có thể là như một dây liên kết mong manh và yếu kém; còn nếu một dây liên kết quan trọng, vững chắc và thiết yếu đối với cuộc sống, thì nó được diễn tả ra bằng một tình bạn chân thật hoặc một cuộc hôn nhân đích thực. Khi tin vào Đức Giêsu, dây liên kết ta có với Người sẽ có sức mạnh và có khả năng ban sự sống tối đa.
3. Chúng ta ngại để cho Thiên Chúa đi vào trong cuộc sống chúng ta và làm việc ở đó. Để biện minh cho việc chúng ta lùi lại trước đòi hỏi của Người, chúng ta vận dụng một chiến thuật khác để “câu giờ”, chúng ta đặt ra một điều kiện: “Ông đã làm dấu lạ nào…? Ông đã làm gì?” (c. 30). Chúng ta đã thấy hoạt động của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta, nhưng chúng ta vẫn tìm cách từ chối tin vào Người. Thiên Chúa lại chỉ thích nói với con tim chúng ta bằng những dấu chỉ kín đáo hầu chúng ta vẫn còn tự do mà từ khước tiếng gọi của Người. Thiên Chúa muốn được yêu mến bởi những người con tự do, chứ không phải được tôn thờ bởi những tên nô lệ khiếp nhược.
4. Đức Giêsu, Đấng Phục Sinh, đang nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời và Bí tích trong các cuộc cử hành phụng vụ. Chúng ta có biết chính Người là Đấng chúng ta đang tìm kiếm và không phải là dấu chỉ của sự thỏa mãn vật chất nào khác? Cơn đói mãnh liệt nhất của chúng ta là sự mật thiết với Thiên Chúa, là sự sống của Thiên Chúa bên trong chúng ta, thứ mà Đức Giêsu hôm nay gọi là “sự sống đời đời”. Đức Giêsu mời gọi chúng ta tin tưởng nơi Người với tất cả con người, tâm hồn và thân xác của ta.
54. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.
CHÚA GIÊSU – BÁNH TRƯỜNG SINH (cc. 22-59)
Giữa diễn từ mặc khải và trần thuật về phép lạ, rõ ràng có những khác biệt về lời văn và nội dung, và vài học giả muốn truy tìm nguốn gốc của bài diễn từ mặc khải trong số các bài giảng huấn Kitô giáo được thực hiện theo kiểu bài giảng huấn Do Thái. Có thể là như thế: thế nhưng sự duy nhất của toàn bài trần thuật cần phải được lưu ý. Từ đầu đến cuối Chúa Giêsu chỉ đeo đuổi một mục tiêu: làm cho dân chúng nhận biết Người; chính bởi vì Người không làm được điều này bằng phép lạ, nên sau đó Người thử thực hiện ý định bằng diễn từ: diễn từ và trần thuật đều dự vào cùng một chiến thuật.
Ghi chú về bản văn: Sự hợp lý liên kết chương này không rõ ràng. Điều đó hệ tại ở tầm vóc đồ sộ của bản văn, ở sự hợp lý đặc biệt của ngôn ngữ Sêmit và chắc chắn ở tận gốc cơ cấu của bản văn (có thể là một bài giảng huấn). Để cho bài đọc được dễ dàng, tôi đã ghi nhận điểm chuẩn của bản văn mà dựa theo đó độc giả sẽ có được nhiều lợi ích.
CHUYỂN TIẾP (cc. 22-25)
Giữa ngọn núi nơi mà việc mặc khải bằng dấu lạ của Chúa Giêsu đã thất bại và hội đường nơi mà việc mặc khải này đạt đến đích điểm, thì việc vượt qua Biển Hồ trở thành phần chuyển tiếp cũng như việc dân chúng tiếp tục công cuộc tìm kiếm Chúa Giêsu. Từ khi dấu lạ xảy ra, một ngày đã trôi qua, và dân chúng, cũng như các môn đệ, gặp lại Chúa Giêsu để nghe bài diễn từ trong hội đường ở Caphanaum. Người kể chuyện không xác định làm thế nào để năm ngàn người đã có thể vượt qua Biển Hồ: lại chi tiết “có vẻ thật” này không làm ông quan tâm. Còn sự quy chiếu vào việc “Chúa Giêsu dâng lời tạ ơn” (c. 23) củng cố cách hiểu về Thánh Thể của đoạn này. Đối với dân chúng, Chúa Giêsu là “Rabbi”, điều này hình như là đạo lý Do Thái, giống như đạo lý đã dẫn dắt ông Nicôđêmô, kẻ gọi Chúa Giêsu là “Rabbi”, Người đã thực hiện các dấu lạ (3,2).
1. Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 26-31).
Mặc khải: thấy các dấu lạ (c. 26)
Lương thực trường tồn (c. 27)
Được Con Người ban cho (c. 27)
Thiên Chúa đã ghi dấu xác nhận (c. 27)
Sự cứng lòng không chịu tin:
Ăn bánh no nê
Lương thực mau hư nát
Công việc nào?
Tổ tiên chúng tôi
Lời quở trách ở câu 26 (“không phải vì các dấu lạ”) xem ra trái nghịch với câu 2 (bởi họ đã từng chứng kiến những dấu lạ). Ta có thể hòa hợp cả hai nhận định trên bằng cách đối chiếu việc tìm kiếm điều kỳ lạ (những dấu lạ ở câu 2) với ý nghĩa sâu xa của dấu lạ về mầu nhiệm của Chúa Giêsu mà dân chúng không nhận ra. Trong phần này, Chúa Giêsu chỉ tỏ mình ra một cách gián tiếp, qua việc đề cập đến dung mạo Con Người vào thời cuối cùng. Đức tin hay việc làm? Ở đây Chúa Giêsu trả lời: không thể có đức tin mà không có việc làm, bởi vì đức tin là một việc quan trọng nhất trong các công việc Thiên Chúa muốn.
Chúa Giêsu và những người Do Thái cùng chia sẻ một dòng lịch sử chung: “Tổ tiên chúng tôi”, người Do Thái nói với Chúa Giêsu như thế. Tuy nhiên giữa bánh manna và bánh đích thực bởi trời, sự đối nghịch đã có sẵn rồi.
2. Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 32-46)
Mặc khải: Không phải ông Môsê, mà chính Cha tôi (c. 32)
Bánh đích thực bởi trời
Bánh Thiên Chúa ban là Bánh từ trời xuống (c. 33)
Bánh đem lại sự sống cho thế gian.
Hiểu lầm: xin cho chúng tôi mãi mãi (c. 34)
Mặc khải: Chính TÔI LÀ bánh trường sinh (c. 35)
Ai đến với Tôi không hề phải đói
Ai tin vào Tôi chẳng khát bao giờ
Tất cả những người Chúa Cha ban cho Tôi (c. 37)
Ý của Cha Tôi: Tôi sẽ cho họ sống lại (c.39)
Sự cứng lòng không chịu tin:
Thấy mà không tin (c. 36)
Xầm xì (c. 41)
Chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? (c. 42)
Làm sao ông ta có thể nói?
Mặc khải:
Chẳng ai đến với Tôi được nếu Chúa Cha không lôi kéo người ấy (c. 44).
Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết
Không ai thấy Chúa Cha. Chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha (c.46).
Được dẫn nhập cách trịnh trọng một lần nữa bằng “Thật, Tôi bảo thật các ông”, sự mặc khải được nhấn mạnh hơn, bằng cách tập trung vào Chúa Giêsu. Việc người Do Thái soi chiếu với bánh manna dẫn đưa bài diễn từ của Chúa Giêsu đến “Bánh bởi trời”. Cũng như người Do Thái đã lãnh nhận bánh manna làm dấu chỉ của Lời và của sự mặc khải, thì Chúa Giêsu, bánh từ trời xuống, tỏ mình như sự mặc khải chung cuộc cho loài người. Có nhiều từ được lặp lại trong phần thứ ba (cc. 47-52). Như được chứng tỏ khi đem so sánh các câu 33 và 51-52:
Bánh Thiên Chúa ban (c. 33) đó là:
Đấng từ trời xuống và đem lại sự sống cho thế gian.
Tôi là (c. 51)
Bánh từ trời xuống
Bánh Tôi sẽ ban tặng...
Là để cho thế gian được sống
Trong bối cảnh lịch sử của Chúa Giêsu thì rõ ràng diễn từ về bánh trường sinh này không thể trực tiếp chỉ Thánh Thể, không thể nào hiểu được trước khi có bữa ăn sau cùng, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Như vậy đúng là sự mặc khải, tiêu biểu bằng con người Chúa Giêsu. Tuy nhiên được viết sau Phục Sinh, với những lời lẽ ghi lại cụ thể từ việc cử hành Thánh Thể, thì rõ ràng toàn bộ chương 6 là một diễn từ gợi lên cùng một lúc Đức tin và Thánh Thể trở nên nổi bật, trong khi chính đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng mạc khải, chiếm ưu thế cho đến bấy giờ. Cựu ước sẵn sàng soi sáng lời với lương thực: Như Amôt: “Đây Thiên Chúa phán: Kìa, thời kỳ ấy là khi ta khiến lãnh thổ đói kém, không vì đói khát nước, nhưng bởi đói nghe lời Thiên Chúa” (Am 8,11). Cách nói về lương thực cũng gợi nhớ đến sự khôn ngoan trong Cựu ước: “Ai ăn vào càng đói, uống càng khát”, sự Khôn ngoan tự tán dương (Kn 24,21). Có thể xem thêm Cn 9,5.
Sự sống mà Chúa Giêsu cho là ân ban ngay lập tức và là lời hứa được sống lại trong ngày sau hết. Sự cánh chung ngay lập tức và bảo chứng sự sống đời đời được trao ban nhờ đức tin vào Chúa Giêsu.
Ẩn ý của biến cố Xuất hành biến hóa trong các từ được dùng để diễn tả sự đối nghịch của người Do Thái: “họ xầm xì” (ở đây nên dịch là “càu nhàu” c.41) như tổ tiên họ đã làm trong sa mạc (Xh 16,2.7; 17,3). Họ phản ứng “theo xác thịt”: làm sao “con ông Giuse” (c.42). Con Người bằng thịt bằng máu, có thể nhận mình là Con của Chúa Cha?
55. Chú giải của Noel Quesson.
BÁNH HẰNG SỐNG
Đức Giêsu đã không nhận vinh quang chính trị Người ta gán cho, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có mặt ở bờ Biển Hồ Galilê thì họ lên chuyến đi Ca-phác-na-um tìm Người. Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ.
Vinh quang chính trị, lương thực trần thế thuộc bến bờ khác, thuộc lãnh vực nhân loại. Muốn gặp được Chúa thực sự, phải tìm Chúa "trên bờ bên kia". Do đó một diễn từ dài về "Bánh hằng sống" sẽ bắt đầu và là nội dung của chương 6 Tin Mừng theo Thánh Gioan. Chúng ta sẽ đọc trong 4 Chúa nhật kế tiếp.
Diễn từ này rất khác với những gì ta thường nghe Chúa nói trong 3 Tin Mừng nhất lãm, như vậy thực sự là của Chúa hay của Gioan? Câu hỏi này đã được đặt ra từ thời các Giáo phụ tiên khởi trong Giáo Hội. Những nhà chú giải chân chính nhất ngày nay vẫn tôn trọng truyền thống và tóm lại trong câu trả lời như sau: "Chúng tôi luôn nghĩ rằng, bản chất của diễn từ nói về Bánh hằng sống chắc chắn là của Chúa, nhưng tư tưởng của Thầy được truyền lại cho chúng ta qua sự giải thích của Thánh Sử: Chính Thánh Gioan đã cho rằng phải thêm những điều đó vào. Đó cũng là điều Giáo Hội thường làm (A. Feuíllet).
Những gì Đức Giêsu thực sự đã nói, được thuật lại cho chúng ta bằng những ngôn từ, những kiểm nói soạn lại của Thánh sử. Được Chúa Thánh Thần linh hứng để viết Tin Mừng, Thánh Gioan chuyển tải cách trung thực những giáo huấn của Chúa Giêsu, nhưng không theo cách thuỷ như băng ghi âm. Nhờ suy ngẫm lâu dài người môn đệ trung thành, đã thấm nhuần giáo huấn của Thầy và chuyển đạt lại bằng những ngôn từ của chính mình. Ông vừa là chứng nhân, ta là người được linh hứng.
Đức Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng các ông đã được ăn bánh no nê".
Đức Giêsu nói chuyện với những nông dân miền Galilê đang vất vả để kiếm sống. Họ biết đói khổ và no đủ là thế nào, khi họ miệt mài làm việc để thùa thu hoạch có kết quả tốt. Cũng như với người đàn bà xứ Samaria bên bờ giếng, Đức Giêsu dựa vào một nhu cầu vật chất của thính giả làm khởi điểm, đó là những biểu tượng thông thường: đói khát bánh nước... Sự chẩn đoán của Đức Giêsu đối với những người nông dân này vừa đúng lại vừa khắt khe: Những gì họ mong đợi không phải là những "dấu chỉ của nước trời" mà là những "lợi lộc vật chất" họ có thể thu nhận được. Sự chẩn đoán này vẫn luôn mang tính thời sự nóng bỏng. Những nông dân này có lẽ ít "duy vật" hơn chúng ta ngày nay. Nếu chúng ta đón nhận sự chẩn đoán này của Đức Giêsu để duyệt xét lại chính mình chúng ta sẽ khám phá ra rằng, phải chăng chúng ta cũng đói tiền bạc, đói quyền lực, sự kính trọng, an toàn, tiện nghi, và tiêu khiển? Khi Đức Giêsu "giải gỡ" những vấn đề cho chúng ta, chúng ta sẵn sàng bước theo Người. Nhưng nếu Người thực hiện những "dấu chỉ gây rtgỡ ngàng" của nước Thiên Chúa không phù hợp với chúng ta, thì chắc chắn chúng ta cũng dễ dàng bỏ Người?
Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận".
Chúa Giêsu dùng lương thực để so sánh, giúp chúng ta hiểu những gì Người mang đến cho nhân loại. Có hai thứ sự sống và hai loại của ăn: của ăn thân xác, cho ta sự sống dễ ‘hư nát’ và của ăn từ trời, cho ta ‘sự sống đời đời’. Được Thiên Chúa tạo dựng và được dựng cho Thiên Chúa, nên con người đói khát Thiên Chúa. Ngoài Thiên Chúa, không gì có thể làm con người hoàn toàn thỏa mãn. Tất cả những lương thực trần gian không làm con người no thỏa. Đức Giêsu không dạy chúng ta khinh thường "lương thực hằng ngày" nhưng hãy ao ước "Bánh ban sự sống vĩnh cửu”. Đức Giêsu không xúi chúng ta biếng nhác trong công việc cần thiết cho sự sống nhân thế, nhưng Người muốn chúng ta "làm việc" cùng với sự nhiệt tình như thể để tìm kiếm sự sống không thể hư mất được. Khác với Bouddha, Đức Giêsu không bảo chúng ta phải diệt dục, nhưng ngược lại phải thăng hoa nó: Anh em chớ hài lòng với cuộc sống chẳng qua của anh em... Anh em hãy ước muốn sự sống đời đời. Hãy làm những gì cần thiết để chiếm được sự sống đó, và hãy sống sự sống vĩnh hằng ngay từ bây giờ.
Họ liền hỏi Người: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những điều Thiên Chúa muốn?" Đức Giêsu trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”.
Ở đây bắt đầu một mạc khải lạ lùng. Lương thực cốt yếu mà con người đói khát, đó chính là Đức Giêsu. Một quyết đáp có vẻ táo bạo và điên rồ, nhưng đã được kiểm chúng hằng triệu lần từ 2.000 năm qua. "Anh em hãy tin". Đó là công trình của Thiên Chúa nơi chúng ta. Tin, có đức tin đó là làm việc với Thiên Chúa, là cộng tác với Thiên Chúa Đấng muốn ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu của Người.
Họ lại hỏi: "Vậy chính ông, Ông đã làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? ông sẽ làm chi đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời". Đức Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực".
Họ vẫn còn dừng lại tại chân trời quen thuộc của họ, họ vẫn luôn ở bờ bên này, Đức Giêsu tìm cách gợi lên trong họ những khát vọng cao siêu, khởi đi từ những nhu cầu vật chất. Nhưng ngày nay, chúng ta đang đói cái gì? Mỗi ngày người ta nói với chúng ta rằng, con người sẽ có hạnh phúc khi mua một cái máy nào đó để làm việc nội trợ, ngậm một viên kẹo, dùng một thuốc khử mùi hay dầu gội dầu nào đó... Còn Đức Giêsu lại nói với chúng ta, những thứ "man-na" đó chỉ là một thứ thức ăn vật chất rất thô thiển, có thể nói là dành cho loài vật, nếu so với hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho ta. Các bạn có để ý đến một hiện tượng trong xã hội Tây phương mà chúng ta có thể gọi là hiện tượng "bú mút": Suốt ngày, trên các đường phố, chúng ta thấy người ta ăn, nhai, ngậm, nuốt kẹo, đặc biệt là mọc lên rất nhiều hiệu bánh kẹo đủ loại. Những nhà phân tâm học nhận thấy trong hiện tượng này một sự thoái hóa, trở về tình trạng trẻ nít: Đứa bé thường tự giải buồn bằng cách mút ngón tay cái của nó. Nhưng đó không phải là dấu hiệu biểu lộ con người chỉ thích thỏa mãn với những lạc thú phiếm diện, hời hợt sao?
Dĩ nhiên, Đức Giêsu đang đứng ở mức lãnh vực khác hẳn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đói khát lương thực cốt yếu.
Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.
Chúng ta nên suy gẫm về sự lạ lùng mà những chữ này gợi ra cho ta không? Chúng ta đã được tạo dựng cho Thiên Chúa. Dù muốn, dù không, cơn đói của chúng ta, chính là đói Thiên Chúa. Tiên tri Isaia đã nói "Tại sao phí tiền vào những của không làm no bụng". Sau khi đã đi tìm tất cả mọi lạc thú trần gian, Thánh Angustinô đã thú nhận rằng: "Lạy Chúa, tâm hồn con không nghỉ yên khi nó chưa được an nghỉ trong Chúa". Vâng, tâm hồn chúng ta rất rộng lớn, đến nỗi không gì có thể lấp đầy được ngoài một mình Thiên Chúa mà chúng ta được dựng nên vì Người. Sau mỗi lạc thú dục vọng lại sinh ra dục vọng, đó là dấu hiệu của sự đòi hỏi vô biên này.
“Bánh từ trời xuống" đó là man-na lương thực huyền siêu như bài đọc một Chúa nhật này đã nhắc cho chúng ta: Cái gì đây? Man-na? Người ta chờ đợi sự tái xuất hiện lương thực lạ lùng làm no thỏa, vào thời Đấng Mêsia. Nhưng khi lặp lại cách diễn tả truyền thống xa xưa, Đức Giêsu đã coi Man-na của thời Môisen chỉ là biểu tượng của "quà tặng từ trên cao", "lương thực bởi trời". Lời của Thiên Chúa. Theo sách Đệ nhi luật, mục đích sâu xa của phép lạ thời xuất hành không phải là để nuôi những người Do Thái về mặt vật chất trong sa mạc, nhưng nhằm giúp họ quen "tin tưởng" vào Chúa: "Con người không chỉ sống nhờ bánh mà còn nhờ những gì từ miệng Thiên Chúa phán ra" (Đnl 8,2-3) Đức Giêsu đã mượn câu này của sách Đệ nhị luật để nói với Satan: "Bánh vật chất" không đủ. Sự liên hệ này cho thấy, "Đấng Kitô" của Tin Mừng thứ 4 theo Thánh Gioan không khác với Đức Giêsu lịch sử đã được mô tả trong 3 Tin Mừng kia (Mt 4,4; Lc 4,4). Đức Giêsu cũng tuyên bố giáo thuyết của Người, hay hơn nữa, chính bản thân Người là lương thực: Con người không chỉ sống bằng bánh mà còn bằng lời Chúa.
Họ liền nói: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy". Đức Giêsu bảo họ: "Chính tôi là bánh trường sinh".
Quan niệm cho rằng lời Chúa, giới răn của Chúa là thức ăn thiêng liêng bổ dưỡng cho con người, cao quý hơn thức ăn thông thường đã có trong suốt Cựu Ước.
- A-mốt 8,11: "Sắp tới những ngày, Ta sẽ cho nạn đói đến trong xứ, không phải đói bánh, không phải khát nước, mà là đói khát nghe Lò Thiên Chúa".
- Giêrêmia 15,16: "Khi nghe lời của Người, tôi đã ăn ngấu nghiến. Lời Chúa là sự vui sướng hạnh phúc cho lòng tôi”.
- Đức Giêsu theo Thánh Gioan (4,32-34).
Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết, đó là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy.
Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ.
Trong bài Thánh thư Chúa nhật hôm nay, Thánh Phaolô nói với chúng ta về những người dân ngoại đã để cho sự hư vô dẫn đắt họ (Ep 4,17-24). Nếu những hiệu bánh ngọt cũng đủ làm thỏa mãn chúng ta, thì thật là đáng tiếc! Lạy Chúa, xin ban cho chúng con thứ bánh của Chúa, Này đây, tay con đang giơ lên cao...
56. Chú giải của Fiches Dominicales.
ĐỨC GIÊSU, BÁNH TRƯỜNG SINH
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1) Từ lương thực ‘mau hư nát’ đến lương thực ‘trường tồn’
Sau phép lạ hóa bánh, Đức Giêsu "đã lánh mặt đi lên núi một mình”. "Chiều đến", các môn đệ Người xuống thuyền đi sang "bên kia Biển Hồ”; còn Đức Giêsu lát sau đó "đi trên mặt biển" mà đến với các ông. Hôm sau đám đông cũng xuống thuyền vượt qua: Biển Hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Mọi người sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc "vượt qua" khác, sâu xa hơn nhiều: vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là bánh trường sinh.
Trước tiên Chúa cảnh giác đám thính giả của Người về mong muốn lệch lạc của họ. Họ có sự hiểu lầm về lương thực (xem sự hiểu lầm của phụ nữ Samari về nước uống): "Các ông đi tìm tôi, Chúa nói với họ, không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. X. Léon Dufour nhận xét: Động cơ thúc đẩy họ vẫn là mùi vi của bánh trần gian: họ đã không nhìn thấy trong ân huệ bánh dư thừa, dấu chỉ của một lương thực khác phải tìm kiếm, thứ lương thực trường tồn ban phúc trường sinh mà Con người sẽ ban cho" ("Lecture de l'evangile de Jean", cuốn 11, Seuil, trang 132). Chính thứ lương thực này mà con người phải khao khát được ăn; chính vì lương thực ấy mà con người phải "làm việc" để kiếm tìm.
Ngộ nhận mới do những từ ngữ "làm", "những việc" gợi lên. Dân chúng hỏi: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?" Theo họ nghĩ, đó là những việc bên ngoài mà Chúa đòi hỏi nơi những kẻ thờ phượng Người, như những nghi lễ và một số những việc khác.
Lập tức Đức Giêsu bắt họ bỏ qua "những việc" (số nhiều) để nghĩ đến "Việc Thiên Chúa" (số ít): bởi lẽ "việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Ngài đã sai đến”.
2. Từ “bánh bởi trời” đến chính Đấng là “bánh trường sinh”.
Những người đàm đạo với Chúa xem ra sẵn lòng tin nhận Người là Đấng Thiên Chúa sai đến, nhưng dẫu sao cũng có điều kiện: "Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông”. Dân chúng vừa mới được thấy dấu lạ là bánh hóa nhiều, thế mà họ còn đòi xem một dấu lạ khác, thì kể cũng là lạ thường. Nhưng ta đừng quên câu chuyện mới xảy ra gần đây, khi những người miền Galilê này đã coi Đức Giêsu như Vị Ngôn sứ, đó là: theo truyền thống tiên tri, một dấu lạ được chứng thực là đúng thì phải được Người thực hiện nó loan báo trước. X. Léon Dufour còn nhấn mạnh: "Thực ra người ta không đòi hỏi Chúa thực hiện ngay dấu lạ, mà chỉ cần nói cho biết Người sẽ làm dấu lạ nào" (OC. trang 134).
Giống như phụ nữ Samari nại đến tổ phụ Giacóp (4,12), những người Do Thái nại đến tổ phụ Apraham, thì đám đông người miền Galilê nại đến Môsê, người đã bầu cử với Chúa ban cho có manna: "Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc”.
Đức Giêsu đã bài bác lối giải thích của họ, dựa vào lời họ trưng dẫn trong sách Xuất Hành mà làm bằng cứ:
+ Người ban manna, "bánh bởi trời" không phải là Môsê, như ý họ muốn nói, nhưng là Đấng mà Người gọi là "Cha" của Người.
+ Điều cải chính trên về ai là kẻ ban phát manna không chỉ nói về thời dĩ vãng xa xưa của cha ông họ khi Xuất Hành, mà còn liên quan tới thời buổi này đối với những kẻ đang nghe Chúa nói. An huệ manna đó được ban cho chính họ ngay lúc này, ơn huệ đó là đích thực. Lương thực Chúa Cha ban cho hôm nay làm cho hình ảnh manna tiên báo và những lời hứa của Luật được ứng nghiệm. X. Leon Dufour viết tiếp: "Giữa quá khứ và tương lai thì đây là ‘hiện tại của Thiên Chúa’. Từ việc nhớ lại manna trong sa mạc" (hồi ức) và khao khát "được ăn mãi thứ bánh ấy" (trông mong) người ta đạt tới thực tại mang tính bản thể" (OC. trang 137).
+ Sau cùng “Bánh Thiên Chúa ban, bánh từ trời xuống" không chỉ dành riêng cho một mình dân Israel thôi. Bánh đem lại sự sống cho thế gian ấy, hết mọi dân tộc trên trái đất đều có quyền được hưởng.
-"Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy", dân chúng liền nói, giống như phụ nữ Samari đã nói với Đức Giêsu bên bờ giếng Giacóp: “Thưa Ngài, xin Ngài cho tôi thứ nước ấy (4, 15).
- Với lời lẽ trang trọng Chúa nói với họ "chính tôi đây là bánh trường sinh", bánh các ông ao ước ăn đó, là chính tôi đây. "Đức Giêsu làm ứng nghiệm nơi Người hình ảnh manna mang tính cánh chung vậy" (X.Léon-dufour, Sđd, trang 136).
Bởi vậy, điều kiện duy nhất để được ăn bánh đó là “đến" với Người và “tin" vào Người. Vì tự coi mình là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa (Kn 9,1: bài đọc 1 Chúa nhật 20), là Nguồn sống đáp ứng được sự đói, khát của con người, Đức Giêsu trân trọng mời gọi anh em Người tới dùng bữa: "Ai đến với Tôi, không hề phải đói, ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.
BÀI ĐỌC THÊM
1) "Từ bánh được ban tới Người ban bánh, từ dấu lạ tới Đấng mà dấu lạ biểu thị"
(R. Josse trong "Célébrer" tạp chí của CNPL, số 240, trang 41).
Câu hỏi tỏ vẻ quan tâm ghi ở đầu trình thuật này: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy”, cho thấy đám đông có phần nào bị lạc hướng. Họ đã tìm kiếm Đức Giêsu, nhưng không phải để hiểu biết Người: dấu lạ đã chỉ khơi dậy nơi lòng họ ước muốn có bánh ăn, chứ không phải niềm khao khát được ánh sáng soi rọi giúp hiểu biết về con người Đức Giêsu. Họ chẳng hiểu được ám chỉ về quyền năng của Con Người. Theo kiều đối thoại, Tin Mừng Gioan lần lượt trình bày cho biết sự ngộ nhận do họ không hiểu biết.
Họ ỷ mình đã từng được biết câu chuyện manna ghi trong sách thánh. Đức Giêsu vịn vào lý lẽ của họ và hướng người nghe chú tâm đến Thiên Chúa: Môsê xưa đã cho các ngươi ăn bánh bởi trời, nhưng không phải là bánh bởi trời đích thực, mà chỉ là bánh nếm thôi. Trong Xuất Hành, manna nói lên ân huệ cụ thể thật cần thiết, là lương thực được cung cấp sáng chiều: người ta hầu như nghĩ tưởng đến trình thuật về sáng tạo, lực sáng tạo của Chúa hoạt động một cách vô cùng rộng rãi. Nhưng ân huệ ấy vì là dấu chỉ thôi thúc lòng tin, nên phải nhắc nhở (con người thụ hưởng) nhở đến Đấng ban phát ơn tuy mắt không thấy, nhưng Ngài vẫn hiện diện và hoạt động, vẫn lèo lái con đường giải thoát. Bánh Chúa ban, lúc này đây, là chính Đấng từ trời xuống, Đấng đem lại sự sống cho thế gian.
Cuộc đối thoại sẽ còn dẫn đến một ngộ nhận mới cũng giống như ngộ nhận của phụ nữ Samari nơi Ga 4,15: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh đó!”. Nay Chúa không lấy một cái gì đó mà cho người ta, Chúa cho chính mình Người. Từ quan tâm đến việc Chúa làm, người ta chuyển quan tâm đến Người là ai, nghĩa là phải từ bánh được ban tới Người ban bánh, từ dấu lạ tới Đấng mà dấu lạ ấy biểu thị. Lòng tin vào Đức Kitô đòi phải có một chuyển biến sâu xa tự thâm căn con người vậy.
2) "Lương thực đích thực"
(Đức Cha L. Daloz, trong "Nous avons vu sa gloire", Desclée de Brouwer, trang 81-82).
"Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến". Lời khẳng định mạnh mẽ này phơi bày điều thầm kín từ đáy lòng họ. Họ đã biết đôi chút về Đức Giêsu. Họ đã muốn tôn Người làm vua, sau khi được thấy dấu lạ hóa bánh. Điều Chúa yêu cầu họ lúc này có tính cách bó buộc. Họ phải tin vào Người, phải từ bỏ những tính toán riêng tư để đem lòng tin cậy Người. Đó cũng chính là vấn đề quyết liệt được đặt ra cho tất cả những ai gặp gõ Đức Giêsu, cho cả chính chúng ta nữa. Ta có nhận là không nhờ Người để rà xem những ý tưởng riêng tư của ta đúng hay sai, để thực hiện những chương trình của ta, mà trái lại ta biết nhờ Người giúp đi vào chương trình Người hoạch định, đi theo Người đến nơi Người muốn đưa ta đến? Những người đàm đạo với Chúa khi ấy lẫn tránh không muốn sự lựa chọn quyết liệt này. Họ muốn được kiểm chứng, họ cần phải có được một cuộc “giám định lại”, một dấu lạ khác... Họ không muốn dấn thân: "Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tuy họ đã được thấy dấu lạ về bánh, nhưng họ chưa lấy làm đủ. Nhân danh Sách Thánh họ từ khước Người: tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc. Cần phải có cái gì hơn thế mới có thể lay chuyển được họ, những con người được liệt vào bậc thầy về Kinh Thánh. Đối với người không tin Đức Giêsu, luôn luôn có cách tìm thoái thác. Thế nhưng Đức Giêsu vẫn tiếp tục cuộc đối thoại. Người đi cho tới cùng mặc khải Người đã bắt đầu. Người biện bác khởi đi từ chính vấn để họ đặt ra: "Thật, tôi bảo thật các ông không phải ông mô sê đã cho các ông ăn bánh bởi trỏi đâu. Ơn manna khi ấy chỉ là một ân huệ tạm thời, chỉ là một loan báo mà giờ đây mới có ý nghĩa đích thực. Chính việc hóa bánh ra nhiều cũng chỉ là một dấu chỉ. Chính Đức Giêsu mới là bánh đích thực, từ trời xuống để cho thế gian được sống: Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian".
57. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Thiên Chúa đã niêm ấn": Con Người đến từ trời và các dấu chỉ Người hoàn tất là những hành vi qua đó Thiên Chúa bảo đảm rằng sứ mệnh Người là đích thực (3,33) và nhân loại có thể nhờ Người mà chiếm được sự sống vĩnh cửu. Một vài nhà chú giải coi công thức "niêm ấn" là một ám chỉ đến phép rửa của Chúa Giêsu, vì họ thấy cùng từ ngữ đó được dùng trong thần học phép Rửa tội (x. Ep 1, 13; 4,30; Kh 7,3-4).
"Công việc của Thiên Chúa... là các người tin vào Đấng Ngài đã sai đến": Gioan sử dụng, bằng cách nhuận sắc lại một thành ngữ của Phaolô (Rm 3,18) và duy nhất hóa tất cả thái độ của Kitô hữu thành đức tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến.
"Vậy thì ông làm dấu chỉ gì để chúng tôi thấy mà tin ông": Lời yêu cầu này không có đáp trả, bởi vì không thể đáp trả Chẳng một dấu chỉ nào có thể minh chứng (mặc dầu nhiều dấu chỉ gợi lên cho thấy) Chúa Giêsu là sứ giả Thiên Chúa sai. Một bằng chứng có tính cách ép buộc bất thành hóa công việc của Thiên Chúa là tin vào Chúa Giêsu. Ở đây những người đối thoại với Chúa Giêsu bắt đức tin lệ thuộc việc chứng kiến những điềm lạ vĩ đại; theo họ, Đấng Thiên sai phải hoàn tất được nhiều phép lạ trổi vượt các phép lạ mà Israel xưa từng mục kích (x. Mc 8,11; Mt 16,1; 12,38), đặc biệt những phép lạ thời Xuất hành. "Ngài đã cho họ ăn bánh bởi trời xuống": Việc ban manna hằng ngày trong sa mạc đã được nhiều tiến sĩ luật xem như là dấu lạ lớn nhất của thời Xuất Hành (Xh 16, 15; Ds 11,7; 21,5; Đn 8,3; Kn 16,20; ở đây, Gioan trích dẫn Tv 78,24.
KẾT LUẬN
Một lần nữa, Chúa Giêsu đưa thính giả của Người trở lại mầu nhiệm Con Người (c.27), nghĩa là nghĩ đến nhân vật thần thiêng mà Đanien đã thấy bên cạnh Thiên Chúa (Đn 7,13-14), nhân vật của tương lai thiên sai. Đến từ trời, Con Người, tức Chúa Giêsu, sẽ là sứ giả đích thực của Cha, được thánh hiến để thi hành sứ mệnh và được xác nhận qua các phép lạ của Người. Hơn hẳn Môisen trong các dấu lạ cũng như trong chính bản thân (c.32), Người sẽ phát ban một thứ lương thực siêu nhiên cho những kẻ theo Người.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) "Hãy lao công đừng vì lương thực hư nát, nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời (c.27). Y như nước luôn múc từ giếng không làm giảm cơn khát của người đàn bà xứ Samaria (4,13), thì "lương thực hay hư nát" cũng chẳng có sức làm chúng ta no thỏa, bảo đảm cho chúng ta một cuộc sống lâu dài và đích thực; vì một khi ăn vào, nó liền bị tiêu hóa và cuối cùng duy trì tính háu ăn của ta, nhận chìm chúng ta vào sự lệ thuộc bắt buộc, bất lực, tha hóa của khát vọng không bao giờ nguôi, của lòng ao ước đưa tới thất vọng vì sự chết. Của ăn trần thế, cho dù thú vị nhất thời đến đâu vẫn không thể làm no thỏa tâm hồn của con người. Thay vì cố gắng đổ đầy túi thèm khát vô đáy của xác thịt, chúng ta phải "ra công làm việc vì thức ăn lưu lại mãi đến sự sống vĩnh cửu, nghĩa là thức ăn biến đổi chúng ta nên những con người sống chính cuộc sống của Thiên Chúa và hiệp thông vào nguồn phát sinh không bao giờ cạn của Người. Lúc đó niềm ao ước và cơn đói khát của chúng ta sẽ không còn ám ảnh chúng ta nữa; và thay vì lo lắng thái quá cho việc sinh nhai (x. Mt 6,25tt), chúng ta sẽ "đói khát sự công chính" (Mt 5,6), sẽ tìm được của ăn là làm theo ý Thiên Chúa chúng ta (Ga 4,34).
2) "Chúng tôi phải lao công vào việc nào của Thiên Chúa” (câu 28). Câu hỏi xem ra nói lên thiện chí của những người đối thoại với Chúa Giêsu. Nhưng theo văn mạch, nó thật là hàm hồ để được "ăn no nê" (c.26), người ta tỏ ra sẵn sàng đặt một giá nào đó; những công việc tốt họ sẽ thực thi làm cho họ xứng đáng ăn bánh bởi trời, họ tưởng như vậy. Đó là phản ứng thuần bản năng của tôn giáo loài người trong việc "bán buôn" với Thiên Chúa. Chúng ta chấp nhận làm tròn mọi điều kiện Ngài đặt ra, miễn là về phía Ngài, Ngài bảo đảm lợi ích cho chúng ta.
3) Nhưng Chúa Giêsu không quan tâm đến lối tiểu xảo đó "Công việc của Thiên Chúa, tức là các ngươi tin vào Đấng Ngài đã sai" (câu 29). Người đảo ngược viễn tượng: không còn vấn đề các công việc của chúng ta, việc mặc cả thô bỉ của chúng ta với Thiên Chúa nữa, nhưng là công việc mà Thiên Chúa hoàn thành trong chúng ta: đức tin vào Đấng Ngài sai đến. Điều này đòi hỏi ở chúng ta một cái gì khác hơn điều chúng ta đã dự liệu: không còn là một cái tối thiểu khiến chúng ta nên sòng phẳng một cách rẻ tiền, cũng chẳng là những dấu lạ nhân đức làm cho Thiên Chúa trở thành người mắc nợ chúng ta, song là việc cởi mở đón nhận hoạt động của Ngài, hoạt động biến đổi chúng ta tự căn để, làm ta trở về với Chúa Giêsu và đem chúng ta vào trường học của Người. Để Thiên Chúa xâm nhập như thế vào đời sống chúng ta và ra công làm việc, điều đó làm chúng ta sợ hãi, Để biện minh cho sự thối lui trước đòi hỏi này, chúng ta dùng một chiến thuật để câu giờ và đặt một điều kiện mới: "Vậy thì Ngài làm dấu gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm việc chi?" (x. c.30). Trong lúc Chúa Giêsu vừa hoàn thành một dấu chỉ, thì chúng ta muốn ép Người làm nhiều phép lạ càng lúc càng kỳ diệu hơn để chúng ta trơ trẽn lợi dụng. Thật ra, chúng ta đã thấy hoạt động của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta, nhưng chúng ta luôn bị cám dỗ từ chối tin vào Ngài. Chúng ta luôn đòi hỏi những bằng cớ chứng minh sự hiện hữu và hoạt dộng của Ngài trong thế gian, những bằng cớ buộc chúng ta tin từ bên ngoài, trong lúc Thiên Chúa lại ưa nói cùng chúng ta từ bên trong bằng những dấu chỉ kín đáo vốn để chúng ta được tự do từ chối lời mời gọi của Ngài. Thiên Chúa muốn được những người con tự do mến yêu, chứ không muốn những tên nô lệ sợ hãi thờ kính.
4. "Ai đến với Ta..." (c.35). Đức tin bao hàm một bước tự ý, một sự dấn thân. Người ta không thể chỉ ngồi nhìn như khán giả say sưa hay phê bình những gì Chúa Giêsu làm và nói để rồi tùy cơ lợi dụng. Chúa Giêsu chỉ cho no thỏa hoàn toàn và dứt khoát những ai dám bước cái bước quyết định của đức tin. Kẻ tài tử thích nhìn người từ xa thôi sẽ luôn đói. Những ai "đến cùng Chúa Giêsu” sẽ được tràn đầy hoan lạc và an bình. Kẻ ấy sẽ khám phá hương vị đích thực của cuộc sống, là sống bình dị như con cái Thiên Chúa giữa đại gia đình nhân loại được tụ tập quanh Cha.
58. Chú giải của William Barclay.
CUỘC SĂN TÌM SAI LẦM (Ga 6,22-27)
Đám đông dân chúng vẫn nán lại bên kia bờ hồ. Vào thời Chúa Giêsu, người ta không cần mở cửa văn phòng theo một giờ nhất định. Họ có thì giờ chờ Chúa Giêsu trở lại với họ, họ chờ vì họ thấy chiếc thuyền các môn đệ chèo đi không có Chúa trong đó nên họ kết luận rằng Chúa Giêsu phải ở gần đây thôi. Chờ đợi một lúc, họ mới biết Chúa không trở lại. Trong vịnh gần đó, có mấy chiếc thuyền nhỏ từ Tibêria đến đậu lại, chắc là tìm chỗ ẩn nấp cơn giông qua đêm. Thế là dân chúng lên các thuyền ấy, vượt biển hồ để trở qua Caphacnaum.
Đến nơi, họ vô cùng ngạc nhiên vì thấy Chúa ở đó rồi. Họ hỏi Ngài đến đó bao giờ. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi ấy. Đây không phải là lúc để trò chuyện về những việc như vậy. Đời sống thật ngắn ngủi, không có thì giờ để tán gẫu về những chuyến đi. Ngài đi thẳng vào trọng tâm vấn đề. Ngài phán “Các ngươi đã chứng kiến những việc lạ lùng, các ngươi đã thấy ân sủng của Thiên Chúa có thể làm cho cả một đoàn dân đông đảo được ăn no, đáng lẽ tâm trí các ngươi phải suy nghĩ về Thiên Chúa là Đấng đã làm những việc ấy, nhưng thay vào đó, các ngươi lại chỉ nghĩ đến bánh. Dường như Chúa Giêsu có ý nói “Các ngươi chỉ biết đến cái bụng nên không thể nghĩ đến linh hồn mình”.
Chrysostom đã nói: “Loài người vốn bị đóng đinh vào những việc thuộc về đời sống”. Đây là những người chẳng bao giờ ngước cao hơn bức tường thành của thế gian, chẳng biết phóng tầm mắt đến chân trời của cõi đời đời. Một đêm nọ, Nã Phá Luân nói chuyện với một người quen, bấy giờ đã khuya lắm, ngoài trời tối đen, hai người đến gần khung cửa, trên trời có những ngôi sao thật xa, trông nhỏ bằng đầu kim, nhấp nháy sáng. Mắt của Nã Phá Luân thì tinh, còn mặt bạn ông đã mờ. Nã Phá Luân chỉ lên trời hỏi: “Anh có thấy các ngôi sao ấy không?”. Người bạn đáp: “Tôi không thấy”, Nã Phá Luân nói: “Tôi thì thấy, đó là chỗ khác nhau giữa tôi với anh”. Người bị buộc chặt vào thế gian chỉ sống được phân nửa đời sống. Chỉ những ai có tầm mắt nhìn xa thấy rộng, nhìn ra các vùng trời xa xăm và thấy được các vì sao mới là người thật sự sống.
Chúa Giêsu dạy bằng một câu nói ngắn gọn: “Hãy làm việc không phải vì của ăn hư nát, nhưng vì của ăn còn lại đến sự sống đời đời”. Từ ngàn xưa, ngôn sứ Isaia đã nêu cùng một câu hỏi như vậy: “Sao các ngươi trả tiền để mua đồ không phải là bánh? Sao các ngươi đem công lao mình đổi lấy vật chẳng làm cho no?” (Is 55,2). Có hai thứ đói, đói thể xác mà thực phẩm vật chất có thể thỏa mãn được. Một người có thể giàu như Croesus mà vẫn thấy thiếu một cái gì trong đời.
Sau năm 60 SC, xã hội Roma sống trong xa hoa chưa từng thấy. Bấy giờ, người Roma đãi tiệc bằng óc chim công và lưỡi họa mi, người ta ăn uống cho nôn mửa giữa hai bàn ăn, để lần sau thấy ngon miệng hơn. Những bữa ăn đáng giá hàng ngàn Anh kim là chuyện thông thường. Pliny kể lại, thời ấy một mệnh phụ may một chiếc áo cưới dát vàng và dính nhiều châu ngọc trị giá tương đuơng 432.000 Anh kim. Nguyên do của những phung phí đó là sự bất mãn sâu xa, sự đói khát không gì thỏa mãn được. Họ tìm đến bất cứ điều gì khiến cuộc đời có được một rung động mới, hương vị mới, vì họ vừa giàu có nhưng lại vừa đói khát vô cùng.
Chúa Giêsu thấy quần chúng Do Thái chỉ chú ý đến thỏa mãn thể xác. Họ đã được đãi ăn một bữa dư dật, và họ muốn được ăn nữa. Nhưng có nhiều thứ đói mà chỉ một mình Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn được. Đó là đói chân lý, chỉ có Ngài mới ban chân lý cho loài người. Đó là đói tình yêu, chỉ có Ngài mới ban cho họ tình yêu vượt trên tội lỗi và sự chết. Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn sự đói khát không xoa dịu được của tâm linh con người.
Tại sao Ngài làm được điều đó? Có rất nhiều ý nghĩa qua câu “Bởi vì Thiên Chúa Cha đã đóng dấu trên Ngài”. Trong quyển Phong Tục Phương Đông Tại Xứ Thánh, H. B. Tristam cho biết vài điều thú vị về chiếc ấn trong thế giới cổ. Bên Phương Đông không phải là chữ ký mà là dấu ấn mới có giá trị. Các tài liệu chính trị và thương mại có giá trị khi được in bằng dấu trên mặt nhẫn. Dấu ấn chứng thực cho một bản di chúc, dấu ấn trên miệng bao hay thùng bảo đảm cho vật đựng bên trong. Tristam kể rằng đến người nghèo nhất cũng sử dụng chiếc ấn để chứng thực. Trong những chuyến du hành của ông, khi ký hợp đồng với những người cho thuê lừa, ngựa hoặc khuân vác, họ cũng đóng dấu của họ vào đó để xác nhận rằng họ bắt buộc phải tôn trọng và đồng ý như vậy. Ấn được làm bằng đất nung, kim khí hay kim cương. Trong bảo tàng viện Anh quốc, hầu như có đủ các chiến ấn của của vua Assyri. Dấu ấn được in lên đất sét và miếng đất được gắn vào tài liệu. Nhiều khi tài liệu đã mục nát từ lâu nhưng dấu ấn vẫn còn đó, nếu không có nó thì tài liệu vô giá trị.
Người Pharisêu có câu tục ngữ “Dấu ấn của Thiên Chúa là chân lý”. Kinh Talmud chép “Ngày nọ một đại hội các chuyên gia về luật Do Thái đang hội họp đông đảo, họ cùng nhau khóc lóc cầu nguyện, kiêng ăn, bỗng một cuốn sách nhỏ từ trên trời rơi xuống giữa họ. Họ mở cuốn sách ra, trong đó chỉ có một chữ Ameth, nghĩa là chân lý, cho nên các Pharisêu nói “đó là dấu ấn của Chúa”. Ameth do ba mẫu tự Hy Lạp chép lại: aleph là chữ đầu trong mẫu tự, min là chữ chính giữa, tau là chữ cuối cùng. Chân lý của Thiên Chúa là bắt đầu, chính giữa và kết thúc của đời sống.
Chính vì thế mà chỉ Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời. Ngài được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể, chỉ có một mình Thiên Chúa mới làm thỏa mãn cơn đói của tâm linh do chính Ngài tạo nên.
VIỆC LÀM DUY NHẤT (Ga 6, 28-29)
Khi Chúa Giêsu nói đến công việc của Thiên Chúa, người Do Thái nghĩ ngay đến việc lành, làm phước. Người Do Thái tin một người sống tốt lành thì được thưởng ân huệ của Thiên Chúa. Họ chủ trương loài người được chia thành ba hạng: người ngay lành, người xấu xa và người ở giữa hai hạng người đó. Nếu người hạng ba biết làm thêm chỉ một việc lành nữa, thì có thể được chuyển sang hạng người ngay lành. Nên khi hỏi Chúa Giêsu công việc của Thiên Chúa là gì, họ mong Ngài đưa ra các bản liệt kê những gì họ phải làm, nhưng Chúa Giêsu hoàn toàn không nói đến điều đó.
Chúa trả lời rất cô đọng, nên chúng ta cần phải khai triển và tìm xem những nghĩa nào trong đó. Chúa Giêsu dạy công việc của Thiên Chúa muốn loài người làm là tin Đấng đã được Ngài sai đến. Phaolô cũng đưa chúng ta vào thời điểm đó: Công việc duy nhất mà Thiên Chúa muốn loài người làm là đức tin. Đức tin là gì? Đức tin chính là “mối liên hệ với Thiên Chúa”, đến độ chúng ta trở thành bạn thân của Ngài, không còn sợ hãi Ngài nữa, nhưng xem Ngài là Cha và là bạn thân thiết, đến nỗi chúng ta tin cậy, vâng lời, phục tùng Ngài cách tự nhiên do mối liên hệ mới mẻ đó. Vậy, tin Chúa Giêsu có liên hệ với việc đó như thế nào? Chúng ta chẳng bao giờ biết được Thiên Chúa nếu Chúa Giêsu không đến, sống và chịu chết để dạy mỗi người chúng ta biết điều đó. Chính nhờ Chúa Giêsu đã đến, qua Ngài chúng ta biết Thiên Chúa là Cha chúng ta, yêu thương chăm sóc chúng ta, chẳng muốn gì khác hơn là tha thứ cho chúng ta, để sự xa lạ, khoảng cách thù nghịch và nghi ngờ Thiên Chúa không còn nữa, và chúng ta có được mối liên hệ với Ngài.
Một lối sống xuất phát từ mối liên hệ mới đó. Khi đã biết Thiên Chúa thế nào, thì đời sống chúng ta phải phù hợp với những gì mình biết về Ngài. Chúng ta phải đáp ứng theo ba hướng, mỗi hướng đều phù hợp với những gì Chúa Giêsu đã dạy về Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế đời sống chúng ta phải biết thương yêu và phục vụ tha nhân, phù hợp với tình yêu và sự phục vụ của Thiên Chúa, tha thứ cho người khác, phù hợp với sự tha thứ của Thiên Chúa.
2. Thiên Chúa là thánh thiện. Do đó, đời sống chúng ta phải thánh thiện, phù hợp với sự thánh thiện của Thiên Chúa.
3. Thiên Chúa là khôn ngoan. Do đó đời sống chúng ta phải kính phục và tin cậy hoàn toàn, phù hợp với sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu dạy tất cả căn bản của đời sống Kitô hữu ở trong mối liên hệ mới mẻ với Thiên Chúa, do Thiên Chúa khởi xướng, một liên hệ chỉ thực hiện được nhờ mặc khải về Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta, mối liên hệ xuất phát từ phục vụ, lòng thanh sạch và tin cậy, vốn là tấm gương phản chiếu hình ảnh của Thiên Chúa. Đây là công việc Thiên Chúa muốn chúng ta làm và giúp chúng ta đủ khả năng để thực hiện.
ĐÒI HỎI MỘT DẤU LẠ (Ga 6, 30-34)
Đến đây, phần lý luận trở thành đặc biệt có tính cách Do Thái trong ngôn ngữ, cách giả dụ và nói bóng. Chúa Giêsu vừa đưa ra một lời tuyên xưng quan trọng, Ngài bảo rằng công việc đích thực Thiên Chúa muốn họ làm là tin Ngài. Người Do Thái nói: “Hay lắm, quả thật đây là lời tự xưng mình là Đấng Mêsia, vậy ông hãy chứng minh đi”.
Bấy giờ họ vẫn còn nghĩ đến việc Chúa hóa bánh cho đám đông ăn, nên điều không tránh được là họ liên tưởng đến manna trong sa mạc. Họ kết hợp hai việc đó thật dễ dàng. Manna vẫn được xem là bánh của Thiên Chúa (Tv 78,24; Xh 16,15). Trong Do Thái giáo, có một niềm tin mạnh mẽ khi Đấng Mêsia đến, Ngài sẽ lại ban manna. Việc ban manna được coi là công việc tối quan trọng trong cuộc sống của Môsê, mà Đấng Mêsia thì phải làm hơn thế nữa. “Vị cứu tinh đầu tiên thế nào, thì vị cuối cùng cũng phải như thế: vị cứu tinh đầu tiên đã khiến manna từ trời xuống thế nào, thì vị sau cùng phải khiến được manna từ trời xuống như vậy”. “Các người không thể tìm manna trong đời này, nhưng sẽ tìm thấy manna trong thời sắp tới”. “Manna đã được chuẩn bị cho ai? Cho người công chính của thời sắp tới, mỗi người đều tin, đều xứng đáng được ăn bánh ấy”. Người ta tin có một bình manna được giấu kín trong hòm Giao Ước đặt trong ngôi Đền Thờ đầu tiên. Khi Đền Thờ bị phá hủy, Giêrêmia đã đem giấu đi. Khi Đấng Mêsia đến, dân chúng sẽ được thấy lại manna. Nói cách khác, dân Do Thái đang thách thức Chúa Giêsu hãy khiến bánh từ Thiên Chúa xuống để hậu thuẫn cho những lời tự xưng của Ngài. Họ không chịu xem số bánh năm ngàn người vừa ăn là bánh từ Thiên Chúa đến. Theo họ, manna phải khác hẳn và đó là trắc nghiệm cho Chúa Giêsu Kitô.
Câu trả lời của Chúa Giêsu gồm hai phương diện. Trước hết, Ngài nhắc họ không phải Môsê đã cho họ manna, mà là Thiên Chúa. Thứ hai, Ngài bảo họ manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, mà chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý nhưng là sự sống. Chúa Giêsu tuyên bố sự thỏa mãn duy nhất là ở trong Ngài.
59. Ẩm thực
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Ẩm thực là ăn uống (ẩm: uống, thực: ăn). Ăn uống cũng có “đạo lý ăn uống”, ăn uống còn là một nét văn hóa – gọi là văn hóa ẩm thực, và có cả một triết lý trong văn hóa ẩm thực. Ăn uống không chỉ là đưa thức ăn và thức uống vào miệng, là việc cần thiết để duy trì sự sống, mà còn thể hiện tính cách một con người. Tiền nhân dạy: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Xem ra việc “ăn uống” quá đơn giản nhưng cũng phức tạp, vì phức tạp nên mới phải học.
Có thể nhờ ăn uống mà người ta thêm hiểu nhau, nhưng cũng có thể do ăn uống mà sinh hiềm khích nhau. Vì sự sinh tồn, nghĩa là vì miếng cơm và manh áo, người ta có thể chém giết lẫn nhau. Chung quy thì chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì tranh giành quyền lợi, tranh giành sự sống lẫn nhau.
Kinh thánh nói về việc ăn uống: “Khi con ngồi ăn với kẻ có chức quyền, hãy để ý kỹ người đối diện. Nếu con vốn tham ăn, hãy đặt dao kề cổ. Đừng thèm thuồng cao lương mỹ vị của hắn, vì đó là thứ đồ ăn phỉnh gạt” (Cn 23:2-3). Còn ca dao Việt Nam cảnh báo:
Miếng ăn là miếng tồi tàn
Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu
TỪ BÁNH VẬT CHẤT…
Trong sa mạc, trên hành trình về Đất Hứa, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron. Họ vất vả khổ sở nên trách móc các ông: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16:3). Họ trách móc người khác và than thân trách phận vì thiếu thực phẩm, họ không thỏa mãn cái miệng. Chúa biết lắm, thế nên Ngài nói với ông Môsê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không” (Xh 16:4).
Rồi Ngài nói thêm với ông: “Ta đã nghe tiếng con cái Ít-ra-en kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Xh 16:12). Thật vậy, cứ chiều đến, chim cút bay đến rợp cả trại. Buổi sáng thì có lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan thì trên mặt hoang địa có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Khi dân Ít-ra-en thấy thế, họ liền hỏi nhau: “Man hu?”, nghĩa là: “Cái gì đây?” (Xh 16:15a). Ông Môsê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh chị em làm của ăn!” (Xh 16:15b). [Xin “mở ngoặc”: Loại bánh-từ-trời đó là Manna, còn được viết là Mana, hoặc al-Mann wa al-Salwa, tiếng Hy-lạp và Latin là Man hoặc Manna].
Đó là điều lạ lùng Chúa làm để thỏa mãn lòng dân, và còn biết bao điều kỳ diệu khác mà hằng ngày Ngài vẫn làm vì chúng ta. Vì thế, chúng ta phải tự hứa: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại cho mình, chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: Sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm” (Tv 78:3-4). Tác giả Thánh vịnh nhắc lại: “Chúa hạ lệnh cho mây tầng cao thẳm, lại truyền mở rộng cánh thiên môn; Người khiến man-na tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ. Kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực” (Tv 78:23-25). Thiên Chúa luôn chiều lòng chúng ta, dù đôi khi chúng ta rất ngỗ nghịch, cao ngạo hoặc phản bội Ngài, nhưng Ngài vẫn im lặng và kiên trì chờ mong chúng ta “giác ngộ” mà nhận biết Ngài là Đức Chúa duy nhất.
Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ” (Ep 4:17). Khi đã thay đổi lối sống, chúng ta “phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, phải để Thần Khí đổi mới tâm trí, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:22-24). Nhưng không thể “giả vờ” hoặc “ra vẻ” mà phải thay đổi từ đáy lòng, phải thay đổi theo ý Đức Kitô, phải “chết” cho con người cũ và “chết” cho tội lỗi. Tức là phải chịu đau đớn vì tự “banh da, xẻ thịt” của mình vì lý tưởng Kitô. Khó lắm, đâu phải chuyện đùa!
…TỚI BÁNH TRƯỜNG SINH
Khi dân chúng thấy Đức Giêsu và các môn đệ đều không có ở đó, họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Ngài. Khi thấy Ngài ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (Ga 6:25). Ngài nói toạc móng heo: “Thật, Tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm Tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6:26). Nghe rất “sốc”, rất đau, vì họ bị “chạm” vào chính “ý đồ” của họ.
Có lẽ chúng ta cũng chẳng hơn gì dân Ít-ra-en xưa. Liệu chúng ta đi hành hương có thực sự vì yêu mến Chúa, vì sùng kính Đức Mẹ hoặc các thánh? Chúng ta thường “rỉ tai” nhau: “Chỗ đó thiêng lắm, người ta xin được nhiều ơn lắm”. Và chúng ta cũng cố gắng đến để “được ơn” là chính. Nếu không được ơn thì sao? Chúng ta còn giữ vững đức tin? Những người có “của ăn, của để” mới đủ “khả năng” đi hành hương các Thánh địa hoặc Linh địa, còn những người nghèo thì sao? Vậy người nghèo thiệt thòi quá! Có đoàn hành hương về Thánh địa Giêrusalem với chi phí tới 9 tỷ VNĐ, còn đến các linh địa trong nước cũng tốn bạc triệu. Người nghèo có mơ cũng không thấy, vì họ lo kế sinh nhai hằng ngày còn “sất bất sang bang” thì làm sao có tiền đi hành hương để “xin ơn”? Nếu chỉ những ai đi hành hương mới được ơn thì Chúa bất công!
Liệu chúng ta đi làm việc thiện có vì yêu mến Chúa qua những anh chị em kém may mắn hơn mình? Liệu chúng ta hoạt động tông đồ, tham gia các hội đoàn hoặc các nhóm đạo đức có thực sự hy sinh và chỉ vì muốn vinh danh Chúa?
Chắc chắn những câu hỏi đó “khó” trả lời lắm, và có lẽ chúng ta cũng đang có những tư tưởng phù phiếm! Và chắc chắn Chúa không câu nệ hình thức như chúng ta tưởng hoặc “suy bụng ta ra bụng… Chúa”.
Chúa Giêsu nói: “Quý vị hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6:27). Có lẽ họ không hiểu nên liền hỏi: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6:28). Ngài trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6:29). Không biết vì không hiểu hay cố ý không chịu hiểu mà họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời” (Ga 6:30-31). Đức Giêsu đáp: “Thật, Tôi bảo thật quý vị, không phải ông Môsê đã cho quý vị ăn bánh bởi trời đâu, màchính là Cha Tôi cho quý vị ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6:32-33).
Ý Ngài hoàn toàn khác, thảo nào…! Nếu chúng ta được trực tiếp đối thoại với Ngài lúc đó thì chắc chắn chúng ta cũng chỉ “như vịt nghe sấm” chứ hiểu gì nổi.
Nhưng với dân Ít-ra-en lại khác, sau khi nghe Ngài nói đến “bánh đem lại sự sống” thì họ nói ngay: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy” (Ga 6:34). Đức Giêsu bảo họ: “Chính Tôi là bánh trường sinh. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35). Lại nghe quá “sốc”! Bánh gì kỳ lạ vậy chứ? Thế nên chúng ta đừng vội chê trách “người xưa”. Quả thật, nếu là chúng ta thì có lẽ Chúa Giêsu “không có đường về”. Cũng may là chúng ta “sinh sau, đẻ muộn”, được học hỏi và được lãnh nhận đức tin vào Chúa Giêsu từ ngàn xưa truyền lại. Thực sự chúng ta rất may mắn!
Thậm chí chúng ta còn may mắn hơn dân Ít-ra-en, vì họ chỉ được ăn bánh-từ-trời là man-na, còn chúng ta cũng được ăn bánh-từ-trời, nhưng đó là Bánh Trường Sinh, là chính Mình và Máu Đức Giêsu Kitô.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con, xin giúp chúng con xứng đáng lãnh nhận Bánh Trường Sinh là Thánh Thể Đức Giêsu Kitô, để được sống đời đời chứ không bị án phạt mãi mãi. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
SỐNG (CN XVIII TN, năm B – Ga 6:24-35)
Loanh quanh cơm, áo, gạo, tiền
Ngược xuôi ngày tháng, muốn điên cái đầu
Bon chen từ sáng tới chiều
Tóc xanh rũ xuống phai màu thời gian
Có lần Chúa nhắc nhở rằng:
“Sống không chỉ bởi của ăn đời này
Nhưng còn sống bởi lời Ngài
Chính Thiên Chúa phán hằng ngày, người ơi! (*)
Cơm giữa đời, bánh bởi trời
Ngài luôn phân phối, mọi người đủ no
Chuyện sinh nhai lắm nhiêu khê
Nhưng con tin Chúa liệu lo đúng thời
Giọt buồn chợt hóa tiếng cười
Cho con biết phải dâng lời tạ ơn
Man-na, lương thực luôn cần
Bánh Trường Sinh vẫn cần hơn rất nhiều
Diệu kỳ Thánh Thể tình yêu
Hằng ngày con được Ngài trao trọn tình
TRẦM THIÊN THU
(*) Đnl 8:3; Mt 4:4; Lc 4:4
60. Cái gì đây?
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Khi chưa biết về vật gì, người ta sẽ thắc mắc: “Cái gì đây?”. Rồi tìm hiểu, nghiên cứu, nhờ đó mà có thể biết đó là cái gì và để làm gì. Khi dân Ít-ra-en đi qua sa mạc để đến Đất Hứa, người ta cũng đã từng thắc mắc khi thấy “vật lạ” từ trời rơi xuống như mưa: “Cái gì đây?”.
Manna hoặc Mana là loại thực phẩm đặc biệt, ăn được, nhìn trắng như sương muối, rơi xuống từ trời vào ban đêm, trong như pha lê hoặc giọt sương, rồi cứng dần và dính, biến thành màu trắng, vàng, hoặc hơi nâu, giàu chất carbohydrates (chất cần thiết để cơ thể hoạt động), nhưng manna sẽ tan biến khi nắng lên. Từ ngữ manna được đề cập 5 lần trong sách Xuất Hành (Xh 16:26-35), được đề cập 3 lần trong Kinh Koran.
Một số học giả cho rằng manna do tiếng Ai Cập là mennu, nghĩa là “đồ ăn”. Theo Kinh Thánh, manna là “man hu”, có nghĩa là “cái gì đây?” – tương tự Anh ngữ là “what is it?”, hoặc Pháp ngữ là “qu'est-ce que c'est?”. Nhưng người ta cho rằng từ “man hu” có thể có từ nguyên là tiếng A-ram chứ không phải là tiếng Do Thái.
Trình thuật Xh 16:2-4. 12-15 cho biết: Trong sa mạc, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron. Họ nói: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!”. Khổ gì thì khổ, chứ khổ vì đói khát thì khổ lắm. Vì miếng ăn người ta có thể dám làm bất cứ điều gì, thậm chí không ngần ngại bán rẻ danh dự hoặc lương tâm. Bất chấp hết! Vì miếng ăn mà xảy ra tranh chấp, chiến tranh, ngay cả tình thân cũng có thể mất chỉ vì miếng ăn. Khốn nạn thật!
Nhà ngụ ngôn La Fontain (1621-1695, Pháp) nói: “Cái bụng đói không thể lắng nghe”. Và rồi, cũng chỉ vì cái bụng đói cồn cào, thằng Bờm chứ không cần thứ gì quý giá mà không thể ăn ngay, chỉ cần nắm xôi ăn ngay, thực tế là thế đó! Danh y Anthony: “Thực phẩm là cội rễ của vạn vật. Chính thực phẩm và chỉ có thực phẩm mới là thuốc chữa bách bệnh”. Ăn không chỉ để no bụng mà còn để duy trì sức khỏe. Chế độ ăn uống tốt khả dĩ ngăn ngừa bệnh tật.
Thiên Chúa cũng rất thực tế, Ngài thấu hiểu nỗi khổ của dân nên Ngài phán với ông Mô-sê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không”. Và Ngài cho ông Mô-sê biết: “Ta đã nghe tiếng con cái Ít-ra-en kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi”.
Thật vậy, vào buổi chiều, chim cút bay đến rợp cả trại. Buổi sáng có lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan đi, trên mặt hoang địa có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Khi con cái Ít-ra-en thấy thế, họ liền hỏi nhau: “Man hu? – Cái gì đây?”. Ông Mô-sê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn!”. Thật hay mơ? Nếu thật như thế thì đỡ khổ, khỏi lo đói khát nữa, vì đã có thịt chim cút và bánh để ăn. OK lắm!
Thiên Chúa thử thách chúng ta không phải vì Ngài không biết nên phải “dò sóng”, mà Ngài biết trước cả những gì chúng ta chưa nghĩ tới. Ngài thử thách để tôi luyện niềm Tin Cậy Mến của chúng ta mà thôi. Một khi nhận ra phép lạ của Thiên Chúa thì người ta không thể lặng im: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại cho mình, chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm” (Tv 78:3-4).
Với Thiên Chúa, tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”, một lời tuyên phán là có cả trời đất và muôn loài trong đó, nói chi chuyện rẽ nước cho dân Ít-ra-en băng qua và vùi lấp quân Ai Cập trong biển nước (Xh 14:15-31). Manna và chim cút chỉ là “chuyện nhỏ của chuyện nhỏ” mà thôi: “Chúa hạ lệnh cho mây tầng cao thẳm, lại truyền mở rộng cánh thiên môn; Người khiến man-na tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ. Kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực” (Tv 78:23-25). Manna được gọi là “bánh thiên thần”, nhắc chúng ta nhớ tới Bí tích Thánh Thể – bánh thiên thần đặc biệt mà chúng ta được tận hưởng, còn dân Ít-ra-en xưa không hề biết đến. Chúng ta hạnh phúc hơn họ mà không biết tạ ơn Chúa đấy!
Thánh Phaolô nói: “Đây là điều tôi nói với anh em, và có Chúa chứng giám, tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ” (Ep 4:17). Lời khuyên dành cho dân Êphêsô ngày xưa nhưng vẫn “nóng hổi” với chúng ta ngày nay, vì chúng ta vẫn chưa loại bỏ được sự ảo tưởng trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống – cả đời và đạo. Nói hay, muốn nhiều, làm chẳng bao nhiêu!
Chẳng oan ức gì đâu, như Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Còn anh em đã chẳng học biết về Đức Kitô như vậy đâu; ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giêsu và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu. Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:20-24). Quả thật, phàm nhân chúng ta vẫn mê muội, ù lì, viện nhiều cớ nên vẫn giậm chân tại chỗ – đôi khi còn thụt lùi mới đáng sợ. Bao Mùa Vọng, bao Mùa Chay, bao kỳ tĩnh tâm, bao lần xưng tội, bao lần quyết tâm,... Tất cả cứ theo nhau qua đi, con người cũ vẫn chẳng đổi mới được bao nhiêu! Đúng như tiền nhân ví von: “Chó đen giữ mực. Cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ”. Chắc hẳn đã nhiều lần chúng ta tự nhủ: “Tại sao vậy?”. Lý do thực tế và đơn giản lắm, vì “chiến thắng một đạo quân còn dễ hơn chiến thắng chính mình” (Đại đế Napoléon), và “sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:19). Khốn nạn thân tôi!
Thấy manna, dân Ít-ra-en lấy làm lạ, vì chưa hề thấy bao giờ, thế nên họ hỏi nhau: “Cái gì thế nhỉ?”. Tương tự, khi thấy người lạ, chúng ta thường hỏi: “Ai đây?”. Và còn nhiều câu hỏi tương tự như vậy trong cuộc sống đời thường này. Thắc mắc không chỉ vì tò mò mà để tìm hiểu. Biết thắc mắc đúng sẽ dẫn tới sự khôn ngoan.
Một hôm, khi dân chúng thấy Đức Giêsu và các môn đệ cũng không có ở đó, thế là họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Ngài. Khi gặp thấy Ngài ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (Ga 6:25). Ngài trả lời nhưng có ý trách họ: “Tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6:26-27). Khi cầu nguyện, chúng ta cũng thường chỉ muốn xin là chính, nhất là muốn “xin như ý mình”, mà lại quên chúc tụng và tạ ơn! Chúng ta có đáng trách không nhỉ? Chắc chắn ngại trả lời ghê đi!
Nghe Chúa Giêsu nói vậy, họ liền hỏi Ngài: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6:28). Thật lòng mà hỏi như vậy thì tốt lành biết bao, vì muốn vâng ý Chúa chứ không theo ý mình. Và Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6:29). Thế nhưng họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời” (Ga 6:30-31). Thì ra họ chẳng thành tâm chi cả, mà họ chỉ muốn “bắt bẻ” Chúa Giêsu mà thôi. Đúng là họ dốt mà chảnh. Và chúng ta cũng thế!
Đức Giêsu vẫn thản nhiên và nói thẳng: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6:32-33). Có lẽ lúc này họ đã “sáng mắt” nên họ liền xin Ngài cho họ được ăn mãi thứ bánh ấy. Biết xin như vậy là tốt. Và Chúa Giêsu xác định: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35). Và họ lại xì xầm với nhau, cho rằng Chúa Giêsu nói những lời “khó lọt lỗ tai”.
Tuy nhiên, đó là sự thật, thật hơn cả sự thật. Ngày nay, chúng ta may mắn hơn họ vì đã được hưởng di sản quý báu vô cùng: Đức tin Công giáo, đức tin tông truyền. Và chúng ta không phải thắc mắc như dân Ít-ra-en xưa: “Cái gì thế nhỉ?”. Vâng, chúng ta thực sự vô cùng may mắn!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết thắc mắc đúng và tìm hiểu cho thấu đáo, nhờ đó mà có thể duy trì ba nhân đức đối thần trong mọi hoàn cảnh. Vâng, lạy Thiên Chúa, xin thêm đức tin cho con, để nhờ vững tin mà con có thể trông cậy nơi Ngài, và yêu mến Ngài qua tha nhân. Xin cho con được no thỏa ân tình Thiên Chúa và Thánh Thể Đức Giêsu Kitô. Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Thiên Chúa Thánh Linh, đến muôn đời. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Để Trở Nên Kitô Hữu Tốt
Không ai dám nói rằng làm Kitô hữu quá dễ, chẳng có gì khó. Thiên Chúa trao ban cho chúng ta mọi thứ và cũng đòi chúng ta đáp trả mọi thứ – thời gian, tài năng, chính mình. Chúng ta được kêu gọi trở nên sứ giả của Đức Kitô, và phản ánh Thiên Chúa trong mọi động thái của chúng ta.
Nhưng trong cuộc sống thường nhật, chúng ta có đầy những trách nhiệm, bổn phận và những viẹc phải làm, chúng ta thường “mất dấu” tiếng gọi cao cả nhất.
Dưới đây là một số đề nghị về cách đến gần Thiên Chúa và sống yêu thương tha nhân. Một số điều dễ thực hiện, nhưng một số điều cần nỗ lực hơn. Nhưng tất cả đều có thể giúp bạn theo chân lý: Sống đời Kitô hữu, đó là cuộc sống của bạn – nhưng không là của riêng bạn.
1. Hãy sáng tác, nghiên cứu, vẽ, viết, hát,... và sáng tạo. Cứ thử nghiệm với sự sáng tạo ngay cả lúc bạn cảm thấy “trống rỗng”, và hãy làm nhân Danh Thiên Chúa. Tại sao? Vì bất cứ điều gì cũng được làm để dâng kính Thiên Chúa qua sự sáng tạo vô biên của Ngài. Một lý do khác là bạn có thể thấy rằng Thiên Chúa đã trao ban cho bạn những tặng phẩm mà chính bạn cũng không hề biết mình đang có.
2. Rất nhiều Kitô hữu coi nhà thờ như “điểm hẹn” hằng tuần: Cứ vào rồi ra và về nhà – đôi khi than vãn rằng nhà thờ là nơi không sống động. Nhưng các nhà thờ cũng sôi nổi như lời chúc mừng. Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng chúng ta là “chi thể của Nhiệm Thể Đức Kitô”, như vậy tất cả chúng ta đều được yêu cầu thi hành nhiệm vụ đặc biệt. Hãy tìm ra “cái tài riêng” của mình để có thể phục vụ Giáo hội địa phương tốt hơn.
3. Nghiền ngẫm Lời Chúa có thể là lĩnh vực quan trọng nhất trong việc trở thành một Kitô hữu trưởng thành. Mỗi ngày hãy dành một khoảng thời gian nhỏ để đọc Kinh thánh để có thể gợi hứng và hướng dẫn người khác, chính điều đó cũng giúp bạn tập trung vào những gì quan trọng nhất.
4. Điều này không có nghĩa là bạn phải làm việc gì to tát. Chỉ cần biết các Kitô hữu tôn kính Thiên Chúa thế nào. Nhiều tôn giáo thuộc Kitô giáo có sức thu hút khá mạnh, hãy tìm hiểu cách thờ phượng của họ để có thể hiểu thêm về các Kitô hữu, nhờ đó mà bạn đánh giá đúng về họ và chính mình.
5. Không gì tốt hơn là tự nhắc mình nhớ tới các tặng phẩm của Thiên Chúa hơn là lưu ý sự ngoạn mục và hùng vĩ của các tặng phẩm đó. Hãy ra bờ biển, lên núi, vào rừng, hoặc chỉ cần vào công viên, và dành thời gian chiêm ngắm những kỳ công của Thiên Chúa, cả điều to và nhỏ. Bạn sẽ nhận thấy Thiên Chúa quá đỗi kỳ diệu!
6. Hãy phục vụ nhau. Hãy dạy chữ cho các trẻ em chịu thiệt thòi và bất hạnh. Hãy trao tặng cho người khác tặng phẩm quý nhất: Thời giờ của bạn. Nhờ phục vụ người khác, bạn có thể noi gương cách phục vụ của Chúa Giêsu và chuyển tải tình yêu của Ngài, chỉ cần tập sống tình nguyện phục vụ.
7. Hơn 2.000 năm qua, một số người trí thức đã xử lý các nghịch lý “gai góc” của đức tin Kitô giáo. Qua những lời của Thánh Augustinô và Thánh Thomas Aquinas, hoặc của C. S. Lewis và nhiều người khác, đều có những cách giáo dục, sự thú vị, và sự kỳ lạ.
8. Thiên Chúa không bao giờ muốn chúng ta sống quá thoải mái và ung dung hưởng thụ. Để trở thành người như Thiên Chúa muốn, chúng ta phải luôn tìm kiếm sự thách thức mới – những dịp học hỏi đó là những bài học quan trọng mà chúng ta có thể thực hành vào lúc nào đó. Điều này không dễ, nhưng không gì hơn như vậy!
9. Một số ý tưởng, cảm xúc và hành động có thể trở nên sự hướng dẫn quan trọng trong “bước tâm linh” của bạn. Nếu nhìn lại quá khứ, bạn có thể ngạc nhiên vì chính bạn đã trưởng thành tâm linh hơn nhiều.
10. Hơn 2.000 năm rồi, Giáo hội Công giáo đã giúp một số Kitô hữu trở thành những tấm gương sáng sống động cho chúng ta. Nhiều vị đã được tôn phong hiển thánh, chân phước (á thánh), bậc đáng kính, tôi tớ Chúa. Một số các vị này, dù chính thức hay không, đều được tuyển chọn vì có đời sống anh dũng, dám quên mình hoặc xả thân vì công ích. Cuộc sống của họ có sức động viên chúng ta đấu tranh vì Chúa nhiều hơn.
11. Thánh Phaolô nói rằng “thân xác là đền thờ” – thân xác cần tập luyện để duy trì sức khỏe, linh hồn cũng vậy. Tập luyện thân xác (yoga, thiền, thể dục,…) giúp thăng tiến tinh thần, hãy tập trung vào những điều thuộc lĩnh vực tâm linh.
12. Bắt đầu với Chúa Giêsu và các Tông đồ, Kitô giáo luôn có đức tin chung, nghĩa là chúng ta cùng nhau tìm kiếm Thiên Chúa. Bằng cách chia sẻ sự hiểu biết, chúng ta xây dựng trên kiến thức của người khác – và có thể giúp đỡ nhau qua những mảng kiến thức riêng.
13. Kitô giáo mang tính cộng đoàn. Tân ước cho biết rằng các Kitô hữu đầu tiên quan ngại về bệnh tật, sự nghèo nàn và các vấn nạn của thời đó. Như vậy, chúng ta được kêu gọi quan tâm thế giới xung quanh, và nền dân chủ có nghĩa là bầu cử – bất kể nguồn gốc chính trị nào. Đó không chỉ là nhiệm vụ dân sự, mà còn là bổn phận Kitô hữu. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta trở nên chân và tay của Ngài để chúng ta có thể làm cho tình yêu Thiên Chúa được cảm nhận ở khắp mọi nơi.
14. Mỗi ngày, hãy đến với Thánh Thể, dành thời gian để tìm hiểu Lời Chúa và cầu nguyện liên lỉ. Điều này giúp chúng ta biến đổi dần dần.
15. Thiên Chúa vui thích khi chúng ta tận hưởng những tặng phẩm của Ngài. Không tặng phẩm nào quý giá bằng chính gia đình của mình. Hãy cùng nhau đồng bàn mỗi bữa ăn, không chỉ chia sẻ lương thực phần xác mà còn chia sẻ cả những món ăn tinh thần. Khi chúng ta làm cho người thân hạnh phúc, chúng ta cho họ thấy diện mạo yêu thương của Thiên Chúa, điều này thực sự quan trọng.
16. Bạn không cần phải tới Giêrusalem hoặc đi đâu xa mới có thể đánh giá đúng về Thiên Chúa. Ngài hiện diện ở bất cứ nơi nào chúng ta tới: Chúng ta thấy sức mạnh của Ngài trong biển cả, sự uy nghi của Ngài nơi núi rừng, tài nghệ của Ngài nơi nương đồng,... Thiên nhiên luôn mang dấu ấn của Ngài. Hãy cao rao lòng thương xót vô biên của Ngài.
17. Có thể một trong những điều khó nhất là làm Kitô hữu. Khi chúng ta bị tổn thương, điều cuối cùng chúng ta muốn là thoát khỏi đau khổ đó: Chúng ta muốn trừng phạt người đã làm chúng ta tổn thương. Nhưng khi làm vậy, chúng ta lại tự trừng phạt chính mình. Đức Kitô kêu gọi chúng ta nới lỏng nắm tay và tha thứ cho những người làm hại chúng ta. Nếu làm vậy, chúng ta không chỉ tha thứ người khác mà còn tha thứ chính mình.
18. Thiên Chúa có thể nói trong cơn động đất và bão tố, nhưng Ngài thường nói bằng tiếng nói nhỏ nhẹ. Hằng ngày hãy dành thời gian để giữ im lặng và lắng nghe Tiếng Chúa. Bạn sẽ ngạc nhiên về những gì bạn nghe được.
PAUL ASAY
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)
*****
Sự Thật về Tình Yêu Thương
Một vị giảng phòng cho ĐGH Biển Đức XVI đã nói: “Tình yêu con người và tình yêu Thiên Chúa luôn song hành, và phân tách hai tình yêu ấy dẫn đến những vấn đề tạo ra sự xa cách cả bên trong và bên ngoài giáo hội”.
Lm Raniero Cantalamessa, dòng Phanxicô (Capuchin), nói rằng người ta tin sai lầm đến nỗi mà tình yêu người ta dành cho nhau và dành cho Thiên Chúa không tương xứng với tình yêu vô điều kiện Thiên Chúa trao ban cho con người như thế đã góp phần tục hóa Tây phương và cả sự lệch lạc trong những người được thánh hiến.
Hai cách diễn tả tình yêu có thể được hòa giải bằng cách đặt tình yêu của Chúa Giêsu Kitô trước mọi thứ, Lm Cantalamessa nói trong lần suy niệm đầu tiên trong mùa Chay 2011 đã bày tỏ với ĐGH và các viên chức Tòa thánh.
Lm Cantalamessa, người giảng phòng cho ĐGH, đã được mời giảng và suy niệm trong những dịp đặc biệt – kể cả mùa Chay. ĐGH Biển Đức XVI đã cùng với một số tiến sĩ quan trọng của giáo hội giải thích tính đồng nhất của “hai gương mặt tình yêu: eros và agape”. Lm Cantalamessa đã nói về thông điệp “Deus Caritas Est” (Thiên Chúa là Tình yêu) năm 2006 của ĐGH Biển Đức XVI để giải thích tầm quan trọng của việc kết hợp các khái niệm được tiếng Hy Lạp xác định là eros, tình yêu giữa người nam và người nữ có thể nâng cao tình yêu lên Thiên Chúa, và từ agape, tình yêu quên mình được diễn tả rõ ràng nhất bằng sự hạ mình xuống làm người nơi Đức Kitô.
Lm Cantalamessa nói: “Sự tục hóa và nhần mạnh vào eros đã tách tình yêu nhân loại ra khỏi tình yêu Thiên Chúa trong mọi hình dạng, làm giảm tình yêu đó thành hoàn toàn ‘trần tục’, mà Thiên Chúa lại ‘yêu quá nhiều’ và thậm chí phiền toái”. Mặt khác, Tình yêu Thiên Chúa được phân biệt bởi “agape mà không eros” là phổ biến đối với một số người sống đời thánh hiến chỉ là “tình yêu lạnh nhạt”.
Lm Cantalamessa nói thêm: “Nếu tình yêu nhân loại dẫn đến các mối quan hệ và tình yêu xúc cảm đối với Thiên Chúa bị từ chối hoặc bị ngăn chặn thì hệ quả chỉ là để con người thực hiện với sự mệt mỏi vì trách nhiệm, hoặc để tìm kiếm sự đền bù có thể không phù hợp, kể cả những giai đoạn đau khổ nhất mà chúng ta đã thấy, một sự ám chỉ việc lạm dụng tình dục trẻ em của các người trong Giáo hội”.
Nguồn gốc của các động thái “lệch lạc luân lý” của một số người được thánh hiến là “khái niệm méo mó về tình yêu” (distorted and contorted concept of love). Lm Cantalamessa nói: “Nếu tình yêu trần tục giống như cơ thể không có linh hồn, kiểu sống tu này như linh hồn không có cơ thể”.
Ngài chỉ ra rằng, trong thông tri của ĐGH Biển Đức XVI đã nói: “Eros và agape là tình yêu hướng thượng và khiêm hạ có thể hoàn toàn không bao giờ tách rời nhau và chúng được kết hợp bằng nguồn tình yêu là Thiên Chúa”.
Việc chấp nhận tình yêu nhân loại và luyến ái được ĐGH giải thích có lợi cho những người đang yêu, kể cả các Kitô hữu trẻ đã kết hôn, bằng cách “cho thấy vẻ đẹp và sự xứng đáng của tình yêu kết hiệp”. Sứ điệp của ĐGH Biển Đức XVI là “niềm hy vọng cho thế giới”.
Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ từ National Catholic Register)
04/08 Chết vì sứ vụ
- Viết bởi Mt 14, 1-12
Chết vì sứ vụ.
Thứ bảy đầu tháng, tuần 17 thường niên – Thánh Gioan Maria Vianê, linh mục. Lễ nhớ.
"Hêrôđê sai người đi chặt đầu Gioan, và các môn đệ của Gioan đi báo tin cho Chúa Giêsu".
Lời Chúa: Mt 14, 1-12
Khi ấy quận vương Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: "Người này là Gioan Tẩy Giả, ông từ cõi chết sống lại, nên mới làm được các phép lạ như vậy".
Tại vì Hêrôđia vợ của anh mình mà vua Hêrôđê đã bắt trói Gioan tống ngục, bởi Gioan đã nói với vua rằng: "Nhà vua không được lấy bà ấy làm vợ". Vua muốn giết Gioan, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi Gioan như một tiên tri. Nhân ngày sinh nhật của Hêrôđê, con gái Hêrôđia nhảy múa trước mặt mọi người, và đã làm cho Hêrôđê vui thích. Bởi đấy vua thề hứa sẽ ban cho nó bất cứ điều gì nó xin. Được mẹ nó dặn trước, nên nó nói: "Xin vua đặt đầu Gioan Tẩy Giả trên đĩa này cho con". Vua lo buồn, nhưng vì đã trót thề rồi, và vì các người đang dự tiệc, nên đã truyền làm như vậy.
Ông sai người đi chặt đầu Gioan trong ngục, và để đầu Gioan trên đĩa đem trao cho cô gái, và nó đem cho mẹ nó. Các môn đồ của Gioan đến lấy xác thầy và chôn cất, rồi đi báo tin cho Chúa Giêsu.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tương Quan Giữa Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu
Trong Tin Mừng hôm nay, tác giả hai lần nhắc đến Gioan Tẩy giả trong tương quan với Chúa Giêsu.
Ở khởi đầu trình thuật, vua Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì ông cho đó chính là Gioan Tẩy giả, người mà ông đã cho chém đầu nay sống lại. Ơn gọi của Gioan Tẩy giả như chính miệng ông Zacaria loan báo trong ngày lễ đặt tên cho con mình: "Con là tiên tri của Ðấng tối cao, con sẽ đi trước dọn đường cho Ngài". Ơn gọi đó Gioan đã chu toàn một cách tốt đẹp. Gioan chuẩn bị cho Chúa Giêsu đến, không những bằng việc rao giảng thống hối, mà còn bằng chính cái chết vì trung thành với sự thật. Dung mạo của Gioan Tẩy giả loan báo dung mạo của Chúa Giêsu một cách tốt đẹp, đến nỗi khi Chúa Giêsu xuất hiện, vua Hêrôđê tưởng Ngài là hiện thân của Gioan Tẩy giả sống lại.
"Các con sẽ làm chứng về Thầy", đó là mệnh lệnh của Chúa Giêsu cho các Tông đồ, cho mỗi môn đệ của Chúa. Chúng ta cần trở nên một Chúa Kitô cho anh em mình, vận mệnh của Chúa sẽ là vận mệnh của chúng ta.
Một chi tiết nữa, đó là các môn đệ Gioan Tẩy giả, sau khi chôn cất ông xong, thì đến báo tin cho Chúa Giêsu. Chi tiết này nói lên mối liên hệ thân tình giữa Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Gioan Tẩy giả là hướng về Chúa Giêsu. Gioan Tẩy giả không phải là Chúa Giêsu, nhưng là người giúp anh em mình đến với Chúa. Chính Gioan Tẩy giả đã tuyên bố: "Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng".
Người Kitô hữu được mời gọi sống hướng về Chúa, kết hợp với Chúa, trở thành một Chúa Kitô thứ hai cho anh em. Nhưng đó là để giúp anh em đến với Chúa, chứ không dừng lại nơi mình. Người Kitô hữu không được chiếm chỗ của Chúa trong tâm hồn anh em: Chúa Kitô phải lớn lên trong tâm hồn anh em, còn tôi chỉ là phương thế, tôi không được cản trở anh em đến với Chúa.
Xin Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm và trung thành với sự thật, dù phải hy sinh chính mạng sống mình, để giúp người khác đến với Chúa và tin nhận Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Chết Cho Sự Thật (Mt 14,1-12)
Lịch sử nhân loại lúc nào cũng có chiến tranh, lúc nào cũng có hận thù. Khi thánh Gioan Tẩy Giả bị chém đầu cách đây hai ngàn năm, người ta cũng xôn xao bàn tán về cái chết của ngài. Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Mátthêu đã ghi lại hoàn cảnh cái chết của vị tiền hô. Ngài chết vì đã nói lên sự thật. Ngài chết cho sự thật. Tín hữu Kitô là những người đã đi theo Ðấng đã từng tuyên bố: "Ta là sự thật". Họ phải là những người sẵn sàng chết cho sự thật ấy.
Trong một cuộc thăm dò do viện Galup thực hiện, sáu mươi chín phần trăm người dân Mỹ cho biết họ tin là không có những chuẩn mực luân lý tuyệt đối. Trong một cuộc thăm dò khác, bảy mươi mốt phần trăm nói rằng không hề có một chân lý tuyệt đối. Không có chân lý tuyệt đối, cho nên theo họ chỉ có chân lý của số đông. Tiêu chuẩn của chân lý là số đông. Ðiều gì đám đông nghĩ, đám đông tin, đám đông bỏ phiếu, đám đông tán thành, là đúng. Chính vì tiêu chuẩn của chân lý là đám đông, nên có biết bao nhiêu hành động tội ác được hợp pháp hóa bởi vì đám đông đã tán thành. Còn gì độc ác dã man cho bằng hành động phá thai, nhưng nó đã được hợp pháp hóa bởi vì đám đông đã đồng tình.
Ðấng là sự thật đã chết trơ trụi một mình trên thập giá. Tuyên xưng mình là sự thật, sống cho sự thật, thường cũng đòi hỏi người tín hữu Kitô phải lội ngược dòng. Sự thật không có tính vụ lợi. Sự thật không được đánh giá bằng những lợi lộc hay đổi chác. Sự thật đòi hỏi con người phải hy sinh tất cả để nói lên sự thật và trung thành với sự thật. Sống chết cho sự thật, không có phần thưởng nào khác hơn là chính sự thật, bởi lẽ vì sống cho sự thật có thể mất hết mọi sự nhưng không đánh mất chính mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Chân Lý
Thời ấy tiểu vương Hê-rô-đê nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: “Đó chính là ông Gio-an Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết chỗi dậy, nên quyền làm phép lạ mới tác động nơi ông.” (Mt. 14, 1-2)
Đoạn này kề về cuối đời của thánh Gio-an Tiền Hô, một con người bảo vệ chân lý. Ngài đã trung thành sống với Lời Ngài giảng. Đó chính là đức tính của vị ngôn sứ.
Ngôn sứ là ai?
Ngày nay quá nhiều kẻ tuyên bố sự thật. Họ rêu rao sự thật đến rát cổ mỏi miệng.
Có kẻ tách khỏi Giáo Hội và xỉ nhục điều này điều kia của Giáo Hội, phỉ nhổ vị này vị kia. Kẻ đó không phải là kẻ chân chính.
Gio-an Tiền Hô thành chướng ngại vật, là lời khiển trách sống động đới với Hê-rô-đê và với chúng ta nữa. Ngài không nói: “Hãy làm như tôi!” nhưng Ngài nói: “Đó là huấn lệnh của Chúa!” Thính giả nghe Ngài, nhưng còn phải nhìn kỹ Ngài sống thế nào! cần phải chiêm ngắm chân lý của sứ ngôn và đời sống của Ngài, thì họ sẽ không còn dám sống ích kỷ nữa.
Ngày nay thì sao?
Ngày nay có nhiều ngôn sứ không?
Ngôn sứ là người loan báo Đức Giêsu Kitô. Ông phải làm chứng về Đức Kitô.
Đức Giêsu là ai? Ngôn sứ phải nói về Người như thế nào cho thế hệ hiện tại: trước hết chúng ta phải nói đến quá khứ, kể lại Tin Mừng: nói về sự sống lại của Người, về con người mới mà Người đã làm chúng ta trở lên con người mới đó.
Ngôn sứ không được vì mình, nhưng phải là chứng nhân cho thế hệ hiện tại.
J.M
Suy Niệm 4: CHỨNG NHÂN CHO SỰ THẬT (Mt 14, 1-12)
Khi xem các chương trình nhạc kịch, khán giả thường có những nhận xét đúng – sai cũng như đặc điểm của vai diễn qua các nhân vật. Ngoài ra, độc giả còn nhận thấy hình ảnh của mình thông qua con người và diễn xuất của các nghệ sĩ…
Hôm nay, trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy xuất hiện 4 nhân vật, mỗi nhân vật mang một nét đặc trưng riêng cả về nhân thân và lối sống. Các nhân vật đó là: Gioan Tẩy Giả; vua Hêrôđê; bà Hêrôđia; và, con gái bà Hêrôđia. 4 nhân vật đó như thế nào? Chúng ta cùng nhau tìm hiểu.
Thứ nhất là Gioan Tẩy giả:
Gioan Tẩy giả là ngôn sứ vĩ đại, đến để loan báo về Đấng Cứu Thế và chuẩn bị lòng dân đón nhận Ngài. Vì thế, ông đã biểu lộ vai trò ngôn sứ bằng một thái độ sống hết sức khiêm tốn, hy sinh, can đảm, mạnh mẽ và bất khuất trước bạo lực, cho dù phải chịu tù đày và chết tróc.
Thứ hai là vua Hêrôđê:
Ông được biết đến như một kẻ ác nhân. Ông đã lộng hành khi dùng quyền. Coi thường đạo lý và buông theo sắc dục mà bất chấp đúng - sai. Ông đã làm trái với lương tâm khi truyền lấy đầu ông Gioan để thỏa mãn điều thề hứa bất chính của mình.
Thứ ba là Bà Hêrôdia:
Vì ưa thích điều bất chính, nên đã không chấp nhận sự thật mà Gioan loan báo. Vì thế, lòng thù ghét nổi lên như nước thủy triều. Thay vì dạy dỗ con mình làm điều tốt, bà lại xúi con mình làm điều bất chính khi xin vua lấy đầu Gioan Tẩy Giả. Sự ác tâm này là con đẻ của hận thù và ghen ghét vì mối lợi trước mắt.
Thứ tư là con gái bà Hêrôdia:
Cô gái trẻ này được biết đến như một nhân vật có tài mà không có đức. Vì thế, thay vì sử dụng tài của mình để làm việc thiện, cô ta đã dùng nó như là một thứ mua vui thuần túy và phá hoại. Tệ hơn nữa là cô không hề áy náy khi biết rõ rằng việc mình làm chỉ là để thỏa nãm sắc dục của vua quan và phục vụ sự hận thù của mẹ cô với Gioan Tẩy giả.
Trong cuộc sống hôm nay, không thiếu gì những hình ảnh của Hêrôđê đang hiện ra qua những hành động của những người chỉ thích ham mê sắc dục, bất chấp sự thật để làm những điều lỗi lầm ghê tởm.
Cũng vẫn còn đó nơi ta hình ảnh của bà Hêrôdia. Nhiều lúc, thay vì dạy con làm điều tốt, thì lại chỉ vẽ cho trẻ những điều sai trái, miễn sao đạt được điều bất chính nơi ta mà thôi. Và cũng không thiếu những sự ngộ nhận nơi ta như con gái bà Hêrôdia…
Thế nhưng, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy mang trong mình hình ảnh và đặc tính của Gioan Tẩy Giả. Luôn tìm mọi cách để Lời Chúa được loan báo mọi nơi, mọi lúc. Sẵn sàng chấp nhận hy sinh và ngay cả cái chết để làm chứng cho Thiên Chúa và sự thật về Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được yêu mến Lời Chúa và sẵn sàng rao giảng Lời ấy cho mọi người, dù có phải hy sinh. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Vì đã trót thề
Suy niệm:
Theo các sách Tin Mừng, Gioan bị giết trong khung cảnh một bữa tiệc.
Đó là tiệc mừng sinh nhật Hêrôđê Antipas là tiểu vương vùng Galilê và Pêrê.
Nếu thế, bữa tiệc này hầu chắc diễn ra ở Tiberias,
một thành gần hồ Galilê, nơi Hêrôđê đặt trung tâm quyền lực của mình.
Gioan bị giết vì dám phản đối cuộc hôn nhân bất hợp pháp
giữa Hêrôđê với bà Hêrôđia là vợ của Philíp,
người anh cùng cha khác mẹ với mình.
Chuyện ngoại tình của Hêrôđê bị Gioan Tẩy giả kết án là có thể hiểu được.
“Ngài không được phép lấy bà ấy” (c. 4).
Lấy vợ của người anh em là phạm đến Luật Chúa (Lv 18, 16; 20, 21).
Gioan là một ngôn sứ không lùi bước trước sự bất công.
Ông đã sẵn sàng bênh vực sự thật, dù ông biết cái giá phải trả.
Hêrôđê đã dùng quyền lực để ép Gioan phải im miệng.
Ông bắt Gioan, xiềng lại và tống vào ngục.
Chỉ vì sợ phản ứng của dân chúng mà Hêrôđê chưa muốn giết Gioan.
Bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê hẳn có nhiều quan khách tham dự.
Chuyện cô công chúa như Salômê, con bà Hêrôđia, múa cho quan khách xem,
là một chuyện lạ, nhưng vẫn có thể đã xảy ra.
Không rõ vì cô xinh đẹp hay vì múa giỏi mà Hêrôđê ngây ngất (c. 6).
Từ đó Hêrôđê không còn đủ sáng suốt, tỉnh táo,
khi vội vã đưa ra một lời hứa kèm theo lời thề với cô.
Cô muốn xin gì, nhà vua cũng thề hứa ban cho (c. 7).
Chúng ta thấy Hêrôđê đã tự đưa mình vào thế kẹt dại dột và nguy hiểm.
Ông đã không lường được hậu quả của chuyện đó.
Hêrôđia chỉ chờ cơ hội này để thanh toán kẻ dám phá hạnh phúc của bà.
Bà đã xúi con gái xin ngay thủ cấp của Gioan, đặt trên mâm.
Hêrôđê hẳn đã lặng người khi nghe cô bé xin điều ấy.
Ông lấy làm đau buồn vì đây thật là chuyện không ngờ (c. 9).
Ông bị đặt trước một chọn lựa: giết hay không giết Gioan.
Đám đông quan khách tạo một áp lực vô hình trên ông.
Vì đã lỡ thề hứa trước mặt họ, nên ông không dám rút lại.
Ông sợ rút lại sẽ bị mang tiếng là nuốt lời, và sẽ bị mất uy tín.
Hêrôđê đã chọn mình, chọn danh dự và cái ghế của mình hơn.
Ông hy sinh Gioan để giữ được tiếng tăm và tình yêu với bà Hêrôđia.
Làm sao chúng ta có can đảm nhận ra mình sai lầm và dừng lại ?
Làm sao chúng ta không bị cuốn từ tội này sang tội khác ?
Rút lại một lời hứa có khi còn khó hơn giữ lời hứa ấy.
Hêrôđê là người bị nô lệ bởi nỗi sợ, sợ Gioan, sợ dân, sợ quan khách…
Đúng hơn là ông sợ mất chính mình, sợ người ta nghĩ xấu về mình.
Có những lúc chợt tỉnh ngộ, tôi vẫn ngần ngại không muốn nhận mình sai.
Tôi không dám nhận lỗi, vì tôi muốn mình vẫn đúng.
Xin Chúa đưa tôi ra khỏi cơn mê muội của tôi.
Cầu nguyện :
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Sống chết vì sứ vụ.
04/08 – Thứ bảy đầu tháng, tuần 17 thường niên – Thánh Gioan Maria Vianê, linh mục. Lễ nhớ. BỔN MẠNG CÁC LINH MỤC.
“Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ”
* Thánh nhân sinh năm 1786 tại Lyon. Sau biết bao khó khăn gian khổ, người làm linh mục và được giao phó nhiệm vụ làm cha sở họ Ars thuộc giáo phận Benle.
Người quả là vị mục tử gương mẫu: hoàn toàn lo việc loan báo lời Thiên Chúa, giải tội, cầu nguyện và hãm mình. Có nhiều lúc, khuôn mặt người rạng rỡ khác thường, nhờ tình yêu bắt nguồn từ bí tích Thánh Thể mà người đem hết lòng sốt sắng để vừa cử hành, vừa thờ phượng. Người qua đời năm 1859.
BÀI ĐỌC I: Ed. 3, 16-21 // ĐÁP CA: Tv 80, 3-4. 5-6ab. 10-11ab
ALLELUIA: Tv 24, 4c và 5a // PHÚC ÂM: Mt 9,35 – 10,1
Lời Chúa: Mt 9,35 – 10,1
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ: vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”.
Và Người liền triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền.
Suy niệm 1: Linh mục, bổn mạng các linh mục
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ thánh Gioan Maria Vianney. Đây là một vị đại thánh của Giáo Hội.
Thánh Gioan Maria Vianney, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1786 tại Lyon nước Pháp và sau bao nhiêu khó khăn gian khổ, Gioan Maria Vianney được chịu chức linh mục và được giao phó nhiệm vụ làm cha sở họ Ars, một giáo xứ vừa nghèo vừa khô khan nguội lạnh. Cha Gioan Maria Vianney đã lãnh nhận giáo xứ này với tinh thần vâng phục cao độ. Ngài quả là vị mục tử gương mẫu.
Cuộc đời của ngài là cuộc đời chỉ biết lo cho việc loan báo Lời Thiên Chúa, giải tội, cầu nguyện và hãm mình. Có nhiều lúc, khuôn mặt ngài rạng rỡ khác thường, nhờ tình yêu bắt nguồn từ bí tích Thánh Thể mà ngài đem hết lòng sốt sắng để vừa cử hành, vừa thờ phượng.
Khi mới 8 tuổi ngài mới học đọc và biết viết. Vì nhà nghèo nên được cha sở nuôi dạy, và sau đó đã đưa ngài vào chủng viện. Vào trong chủng viện ngài không học được gì cả.
Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức Linh mục không. Nhưng Vianney không thể trả lời câu nào.
Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn, nói: "Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì!"
Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: "Thưa thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3.000 quân Philitinh. Vậy với cả một con lừa này, chẳng lẽ Thiên Chúa không làm được việc gì sao?"
Cuộc cách mạng 1789 bùng nổ khiến thầy Vianney phải bỏ dở việc học. Nhưng sau đó thầy tìm hết cách để tự học dưới sự dìu dắt của cha xứ. Nhưng khổ thay, học mấy cũng chẳng nhớ. May lúc ấy địa phận gặp phải cảnh khan hiếm linh mục nên Vianney được bề trên gọi về để khảo hạch. Và lẽ dĩ nhiên là lần nào Vianney cũng trượt.
Vianney không nản lòng, cứ tiếp tục học. Cuối cùng, bề trên thấy thầy bền chí quá bèn gọi cha xứ đến để hỏi về thầy:
- Thầy có lòng đạo đức không?
- Thưa có.
- Thầy có kính mến phép Thánh Thể?
- Thưa có.
- Thầy có siêng năng lần hạt không?
- Thưa có.
Cha chính quyết định: “Thôi, cho thầy chịu chức vì thầy bền chí, chứ nếu cứ khảo hạch mãi thì không bao giờ đỗ được”.
Như vậy thầy Gioan Maria Vianney được làm Linh mục là nhờ "phép chuẩn". Vì tuy học hành kém cỏi, đầu óc mù tịt, nhưng nhờ có lòng đạo đức và sự bền chí mà ngài đã được thụ phong Linh mục.
Nhưng khi làm Linh mục rồi, Chúa đã ban cho ngài rất nhiều ơn đặc biệt đề cứu các linh hồn, đến nỗi một lần kia, quỷ Satan đã phải nói với ngài: "Nếu trên thế giới có hai đứa như mày thì bọn tao đành phải thất nghiệp mất".
Nhìn vào "cuốn tự điển cuộc sống" của thánh Vianney, người ta đọc thấy toàn là những chữ: ăn chay, hãm mình, đền tội, khổ hạnh... Nhìn vào gương mặt của ngài, người ta cũng gặp thấy toàn là những nét: gian truân, khắc khổ, lao nhọc, đau thương... Thế nhưng, trong con người ấy lại chói ngời một quả tim luôn tươi vui, từ ái và yêu thương đối với hết mọi người.
Hàng ngày, vào khoảng 12 giờ, cha Vianney rời nhà thờ và trở về nhà xứ để ăn trưa. Đến một giờ, ngài lại vào toà giải tội và ngồi ở đó mãi cho đến tối. Trong khoảng thời gian nghỉ ngơi vắn vỏi ấy, cha Vianney phải tranh thủ để làm nhiều bao công việc. Thường khi ăn cơm bao giờ ngài cũng đứng, vì ngồi thì sợ sẽ kéo dài giờ ra. Vừa ăn xong, ngài vội đi thăm các trẻ mồ côi, các em mẫu giáo... Ai cũng thấy ngài vui tươi âu yếm và sung sướng giữa những tâm hồn đơn sơ ấy. Từ giã các em, ngài rảo bước đến nhà các kẻ ốm liệt; gặp ai dọc đàng, ngài cũng ủi an thăm hỏi. Các gia đình đều mong cha sở đến thăm, vì đối với họ, dường như nơi ngài tàng ẩn một niềm vui không bao giờ cạn.
Lúc trở lại nhà thờ ngài thường trao đổi một vài lời vắn tắt, có lúc rất dí dỏm, hài hước với các khách hành hương đang đứng trước sân nhà thờ chờ đến lượt vào toà xưng tội.
Lần nọ, cha Vianney gặp một bà trong xứ đến chào ngài. Biết rõ bà là người thật lắm mồm lắm mép, ăn nói huyên thuyên suốt ngày, ngài liền hỏi:
- Trong suốt năm, có tháng nào con nói ít hơn mọi tháng không?
Bà ta bỡ ngỡ, ấp úng thưa:
- Thưa cha, con thì quen thói rồi, tháng nào cũng nói như nhau cả.
- Không, có một tháng con nói ít hơn, con biết tháng nào không?
Bà ấy ngẩn ngơ:
- Tháng nào thưa cha?
- Tháng Hai dương lịch, vì tháng đó chỉ có 28, 29 ngày thôi.
Ai nấy cười phá lên. Ngài vội vã bước vào toà giải tội.
Lần khác, cha Vianney thấy ở trước sân nhà thờ có một quầy hàng bán chuỗi, tượng ảnh và có cả hình của ngài nữa. Ngài bèn dừng lại, cầm lấy tấm hình của mình đưa lên cao cho mọi ngài xung quanh coi và nói:
- Thiên hạ dại dột thật. Cái hình nhăn nheo như con khỉ khô thế này mà cũng phải mua mất một đồng quan!
Các người chung quanh được dịp cười bể bụng vui vẻ. Cha Vianney cũng cười theo, trả tấm ảnh lại rồi bước vào nhà thờ.
Về sau, Vianney đã trở thành một vị thánh thời danh, thu hút nhiều tâm hồn trở về với Chúa.
Đời sống thánh Gioan Maria Vianney quả là một tấm gương hy sinh vì Chúa và các linh hồn, đúng như lời thánh nhân thường nói: "Hạnh phúc cho một vị linh mục được chết kiệt sức vì phục vụ Chúa và các linh hồn." Hạnh phúc ấy đã đến với thánh Gioan Maria Vianney vào ngày 2 tháng 8 năm 1859. Thánh nhân lãnh nhận Bí tích Xức dầu bệnh nhân và Bí tích Thánh Thể, ngài cầu nguyện: "Lạy Chúa, Chúa quảng đại quá khi con không đến với Chúa được, thì Chúa đến với con". Ngày 4 tháng 8 năm 1859, khi vị linh mục đọc kinh cầu nguyện cho người hấp hối đến câu: "Xin các thiên thần Chúa đến rước linh hồn Gioan vào thành thánh Giêrusalem”, thánh nhân trút hơi thở cuối cùng một cách êm ái. Ngài hưởng thọ 73 tuổi; làm cha sở họ Arc được 41 năm.
Tin thánh Gioan Maria Viannê qua đời đã lôi kéo cả một biển người đổ xô về giáo xứ Arc. Đoàn người đông đảo đã đi qua trước xác thánh nhân suốt 48 tiếng đồng hồ.
Đức Giám mục giáo phận đã đến chủ sự Thánh lễ an táng và giảng thuyết: ngài nhấn mạnh rằng bao thế kỷ mới được thấy một cuộc đời linh mục như Thánh Gioan Maria Vianney. Thánh nhân được an táng trong nhà nguyện thánh Gioan Tẩy Giả, bên cạnh toà giải tội mà người ta đã gọi là "phép lạ lớn nhất ở Arc".
Từ ngày ấy, biết bao nhiêu Hồng Y, Giám mục, linh mục đã đến quỳ cầu nguyện và đặt những cái hôn thành kính lên viên đá mộ thánh nhân. Ngày 31 tháng 5 năm 1925, thánh Gioan Maria Vianney được tuyên Hiển Thánh; và năm 1929, thánh nhân được đặt làm thánh bổn mạng các linh mục chính xứ trên toàn thế giới.
Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, Chúa đã làm cho thánh linh mục Gioan Maria nên một tấm gương tuyệt vời về lòng tận tụy hy sinh của một người mục tử. Vì lời thánh nhân chuyển cầu, xin cho chúng con hằng noi theo lòng bác ái của ngài mà cố gắng đem nhiều anh em về với Đức Kitô để muôn đời cùng nhau hưởng nguồn vinh phúc.
Suy niệm 2: BỔN MẠNG CÁC CHA XỨ (Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Chúa chọn một người nào là hoàn toàn tự do theo ý của Ngài. Chúa không theo sự hướng dẫn của con người, Chúa tuyển lựa con người là do ơn huệ của Ngài. Thánh Gioan Maria Vianney được Chúa mời gọi, được Chúa tuyển chọn để trở nên môn đệ trung kiên của Ngài.
THÁNH GIOAN MARIA VIANNEY TRONG CUỘC SỐNG THẾ TRẦN:
Thánh nhân được sinh ra trong một gia đình nông dân đạo đức, luôn biết kính sợ Thiên Chúa vào năm 1786 tại Dardilly thuộc địa phận Lyon nước Pháp. Vì là Người được Thiên Chúa để ý, nên ngay từ hồi còn thơ ấu, thánh nhân đã sống một đời sống thánh thiện, tuân theo ý Chúa; ngay từ 8 tuổi, đi chăn chiên, chăn cừu, thánh Vianney đã biết làm gương dậy các bạn cùng trang lứa quỳ trước ảnh mẹ Maria lần chuỗi và suy gẫm những sự trên trời. Thánh nhân có lòng chạnh thương người nghèo, lưu tâm và tìm mọi cách, mọi phương thế để giúp đỡ họ. Thánh Vianney luôn kiên tâm, can đảm để vượt thắng vấn đề học hành vì Ngài không được thông minh đặc biệt như nhiều người khác. Ngài rất vất vả trên đường học vấn để tiến tới chức linh mục. Tuy nhiên, thánh Vianney luôn cậy trông, phó thác và cầu nguyện, Ngài phấn đấu, chăm chỉ học thần học. Chúa luôn ghé mắt đoái thương những tâm hồn thành tâm thiện chí và yêu thương những con người quyết tâm theo Chúa. Thánh Vianney đã được lãnh sứ vụ linh mục năm 1815. Ba năm sau vào năm 1818, thánh Vianney được bổ nhiệm làm cha sở họ Ars, một giáo xứ bé nhỏ, ít giáo dân thuộc miền Dombes.
THIÊN CHÚA ĐÃ DÙNG MỘT CON NGƯỜI XEM RA KHÔNG TÀI TRÍ ĐỂ BIẾN ĐỔI GIÁO XỨ, BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI:
Thánh nhân nhận một giáo xứ dưới mắt người đời và dưới mắt các bạn hữu linh mục là một sự thua thiệt vì một linh mục chỉ có trong tay hơn trăm con chiên thử hỏi có bõ công gì ? Nhưng Thiên Chúa có cách của Người và đường lối của Người quả thực hoàn toàn khác lạ,hoàn toàn huyền nhiệm. Thánh Vianney luôn chu toàn trách nhiệm chủ chăn của mình Ngài chăm chỉ dậy giáo lý, hướng dẫn giáo dân, siêng năng đọc kinh nguyện gẫm chuyên cần giải tội. Thánh nhân đã được ơn Chúa đặc biệt, Ngài đã biến đổi giáo xứ nhỏ bé của Ngài trở nên điểm sáng chói ngời khắp thế giới, thu hút biết bao nhiêu người từ kắp nơi tới với Ngài nơi tòa cáo giải. Ngài đã ngồi tòa miệt mài từ giờ này qua giờ khác. Thiên hạ khắp nơi tuôn đến với Ngài như xưa dân chúng tấp nập tới với Chúa Giêsu để nghe Người giảng dậy khiến Người không có giờ nghỉ ngơi và cả không còn giờ ăn uống nữa. Thánh nhân đã làm việc không ngơi nghỉ, Ngài đã kiệt sức hơn là vì tuổi già. Thiên Chúa đã chọn những sự tầm thường để phá tan những sự cao sang.
THÁNH NHÂN RA ĐI VỀ VỚI CHÚA VÀ ĐƯỢC CHÚA THƯỞNG CÔNG:
Thánh nhân ra đi về cùng Chúa trong bình an vào ngày 04/8/1859. Chúa thưởng công Ngài bằng vô số những phép lạ sau khi Ngài qua đời.
Đức Thánh Cha Piô X nâng Ngài lên bậc chân phước. Đức Giáo Hoàng Piô XII trong dịp năm thánh 1925 phong Ngài lên bậc hiển thánh và đặt Ngài làm bổn mạng các cha xứ.
VÀI SUY NGHĨ VỀ THÁNH VIANNEY:
Thánh Gioan Maria Vianney đã thay đổi một giáo xứ nhỏ bé xem ra không là gì trước mắt thế gian, trở nên điểm sáng cho toàn thế giới về sự thánh thiện và đạo đức của Ngài. Nơi tòa giải tội, thánh nhân đã thực thi lòng bác ái tuyệt đỉnh của Ngài, thánh nhân họa lại chính con người thật của Đức Kitô, con người đầy tình thương xót và chạnh lòng tha thứ... Như Chúa Giêsu, Ngài đã cho nhân loại, cho những người đau khổ về phần hồn. Ngài đã miệt mài với sứ vụ, nhân loại sẽ không bao giờ quên được lời của Ngài nói:” Cái chết thật vô cùng tốt đẹp khi người ta đã chịu đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô”. Ơn gọi của thánh Vianney là do Chúa. Tất cả đều do sự chọn lựa nhưng không của Chúa. Tất cả do hồng ân của Chúa. Thánh Vianney đã sống ơn huệ tuyệt vời của Chúa và luôn sẵn sàng thông chia cho mọi người ơn huệ quí báu mà Ngài đã nhận được nơi Chúa.
Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, Chúa đã làm cho thánh linh mục Gioan Maria Vianney nên một tấm gương tuyệt vời về lòng tận tụy hy sinh của một người mục tử. Vì lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp, xin cho chúng con hằng noi theo lòng bác ái của Người mà cố gắng đem nhiều anh em về với Đức Kitô để muôn đời cùng nhau hưởng nguồn vinh phúc (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Gioan Maria Vianney).
Xin thánh Vianney cầu thay nguyện giúp cho chúng con các linh mục quản xứ luôn biết noi gương bắt chước thánh nhân để chúng con siêng năng, chuyên cần giải tội và chăm chỉ ban phát các Bí Tích.
Suy niệm 3: BỔN MẠNG CÁC LINH MỤC
(Lm Micae Trần Đình Quảng)
“Có một người được Thiên Chúa sai đến…”
Đề tựa cho một cuốn sách viết về cha sở xứ Ars, Giám mục Henri Mazerat đã trích dẫn lời Phúc âm Gioan: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan” (Ga 1,6). Gioan Tẩy Giả được sai đến, mở đầu một khúc quanh của lịch sử là thời kỳ cứu thế do Đức Kitô thực hiện.
18 thế kỷ sau, một Gioan khác, Gioan Maria Vianney, cũng được Thiên Chúa sai đến, không tạo ra một khúc quanh, nhưng chính là một hiện tượng nổi bật trong đời sống Giáo Hội. Ngài không chỉ làm biến đổi hoàn toàn bộ mặt của một giáo xứ nhỏ bé heo hút ở miền nam nước Pháp, mà còn gây ảnh hưởng lan rộng tới tầm mức Giáo Hội.
Cuộc đời và hoạt động của Gioan Maria Vianney phản chiếu tuyệt vời những khía cạnh của Vị Mục Tử tối cao là Đức Giêsu. Được như vậy một phần là vì ước vọng duy nhất của ngài là trở thành một mục tử tốt. Theo ngài, một mục tử tốt là “kho tàng lớn lao nhất mà Thiên Chúa có thể ban cho một giáo xứ”, đồng thời là “một trong những hồng ân cao quý nhất của lòng thương xót Chúa”. “Sau Thiên Chúa thì linh mục là tất cả hạnh phúc của người kitô hữu”, vì “chức linh mục là tình yêu của Trái Tim Chúa Kitô”.
Chương trình của ngài gói gọn trong những chữ : biết, yêu, tận tụy, hạnh phúc.
Ngài biết con chiên và con chiên biết ngài.
Ngài yêu thương con chiên và hết lòng lo cho họ.
Là người lãnh đạo giáo xứ, ngài nhiệt thành hướng dẫn và dạy dỗ họ. Là thừa tác viên của lòng thương xót, ngài luôn là bạn của các tội nhân. Là mục tử của đàn chiên, ngài trở thành lễ vật của tình yêu cho họ.
Tất cả đều nhằm đem sự sống và hạnh phúc đến cho con người.
Mục tiêu này đã hé mở và được xác quyết ngay trong câu nói đầu tiên của ngài vào ngày đến xứ Ars. Sau khi cám ơn một em chăn cừu đã chỉ đường cho mình, ngài nói với em: “Con đã chỉ cho cha đường về xứ Ars, cha sẽ chỉ cho con đường về quê trời”.
“Tôi sẽ đưa nhiều linh hồn về cho Chúa”
Những hoạt động biểu lộ lòng bác ái mục vụ sâu xa của cha Gioan thì rất nhiều, nhưng chỉ cần nhìn vào một công việc thôi cũng đủ cho thấy lòng bác ái ấy như thế nào. Đó là công việc ngồi tòa, việc giải tội. Nhiều người coi đây là chương đẹp đẽ nhất trong cuộc đời của cha thánh, là hoạt động sáng chói nhất trong nhiệm vụ của một mục tử.
Hồi còn trẻ, lúc mà chức linh mục mới chỉ là điều mơ ước, Gioan Maria Vianney đã có một tâm nguyện: “Nếu một ngày nào đó tôi được làm linh mục, tôi sẽ đưa nhiều linh hồn về cho Chúa”. Một khi làm linh mục, ngài đã thực hiện tâm nguyện ấy, và một trong những phương tiện ngài sử dụng là tòa giải tội. Chính tòa giải tội đã giúp ngài nhiều nhất trong việc đưa các linh hồn về cho Chúa. Chính tòa giải tội là nơi thể hiện rõ nhất lòng thương xót của Chúa cũng như của ngài đối với các chiên lạc. Chính tòa giải tội đã thu hút biết bao nhiêu người tìm đến với xứ Ars, để được ban ơn tha thứ cứu độ. Chính tòa giải tội, với hàng hàng lớp lớp tội nhân vây quanh, là phép lạ lớn nhất trong cuộc đời của vị thánh.
Các chứng nhân cho biết có nhiều ngày người cha tinh thần của họ đã ngồi tòa 18 giờ. Trong mùa đông, từ tháng 11 đến tháng 3, số khách hành hương ít hơn, ngài vẫn ngồi tòa 11-12 giờ. “Ngài chỉ rời khỏi đó khi đã làm hài lòng hầu như mọi người”.
Vào thời kỳ cao điểm, bình quân mỗi ngày có từ 300 đến 400 người xếp hàng xưng tội. Công việc vất vả và liên tục trong 30 năm này đã làm cho ngài kiệt lực, đến nỗi có lần ngài tự thú: “Khi tôi rời tòa giải tội, tôi phải lấy tay sờ vào đùi xem nó có còn ở đấy không. Đôi khi ra khỏi nhà thờ, tôi phải vịn vào tường mà đi cho khỏi ngã. Đầu tôi nặng trĩu. Thực sự tôi đã không biết mình chống lại như thế nào”. Cho tới cuối đời, ngài vẫn dành tất cả sức cùng lực kiệt để cứu tội nhân.
Những tội nhân này là ai ? Đủ mọi hạng người. Giám mục có, linh mục có, tu sĩ có, giáo dân có, sang hay hèn, học thức hay dốt nát, đều có tất. Họ kéo đến từ khắp nơi trong nước Pháp, kể cả từ Paris hoa lệ. Ở nhà ga Lyon, có loại vé tầu lửa riêng đi Ars, có giá trị trong 8 ngày, vì để có thể xưng tội, phải chờ đợi mấy ngày là chuyện thường. Cũng ở Lyon, mỗi ngày còn có những xe lớn chở khách hành hương đến Ars. Hầu hết đến đây vì thật lòng hoán cải, nhưng cũng có một số đến vì tò mò, hoặc miễn cưỡng đến vì một lý do nào đó, rồi cuối cùng cũng bị khuất phục. Sở dĩ thế vì họ được gặp không phải một cha sở bình thường, mà là một mục tử sẵn sàng làm mọi sự để giúp họ ăn năn trở lại mà được sống.
“Một chuyên viên thành thạo nhất về các tội nhân” (Đức Piô XII)
Đương nhiên sự thành thạo này không thể có được nơi một con người như Gioan Maria Vianney, học hành kém cỏi, trí thức còn chưa được xếp vào loại “thường thường bậc trung” nữa. Đây là ơn của Chúa Thánh Thần ban cho một mục tử thánh thiện dám sống chết với các tội nhân. Không khoan nhượng với tội lỗi, nhưng lại hết lòng yêu thương kẻ có tội. Nói như lời một bài hát: “Kẻ thù ta đâu có phải là người”, nhưng là gian ác, là mưu mô, là hờn căm, là hận thù và bao nhiêu hình thức khác nữa. Cần phải giải thoát con người khỏi những kẻ thù trên, để trả lại cho họ hình ảnh tốt đẹp của Thiên Chúa. Trung thành với mục tiêu đặt ra từ đầu, Gioan đã suốt đời tận tụy với công việc này.
Ngài đã thực hiện thế nào ?
Người ta thường nói về việc giải tội đến độ anh hùng của ngài mà có khi quên đi những việc khác cũng phát xuất từ tấm lòng của một người rất mực yêu thương kẻ có tội.
Trước hết là cầu nguyện cho họ. Xen lẫn với kinh nguyện hằng ngày, ngài thường khóc lóc mà thưa với Chúa đại khái: “Lạy Chúa, Chúa không muốn kẻ có tội phải chết… Những người có tội thật đáng thương. Ước gì con có thể thú tội thay cho họ”. Một người thân tín nói với ngài: “Cha cầu nguyện cho họ ít đi một tí được không? Thấy cha vất vả đau khổ quá!”, thì được trả lời: “Biết sao được. Cha đã hứa cầu nguyện cho họ, cha không thể bỏ…”. Lần khác ngài tâm sự: “Tôi chỉ thực sự là tôi khi tôi cầu nguyện cho những người tội lỗi”.
Điều đáng khâm phục hơn nữa là không những cầu nguyện cho họ mà ngài còn đền tội thay cho họ. Những hy sinh hãm mình thường là để chống lại những cám dỗ của Satan, những khuynh hướng xấu, những yếu đuối của con người xác thịt, mà không ai tránh khỏi, thì đối với ngài, còn là để đền bồi tội lỗi của biết bao nhiêu người. Trong những năm cuối đời, do ảnh hưởng của một số người, nhất là quan điểm khoan hòa trong thần học luân lý của Anphong Liguori, ngài thường ra việc đền tội nhẹ cho hối nhân, vì lòng nhân từ thương xót cũng có, vì không muốn cho những người đã quá vất vả phải vất vả thêm cũng có, nhưng nhất là vì như ngài nói: “Tôi ra việc đền tội nhẹ cho họ, phần đền tội còn lại, tôi sẽ làm thay”. Và ngài làm thay bằng chính sự khổ chế của mình. Tất nhiên, không phải lúc nào cũng vậy. Đối với những lỗi nặng mà cứ tái phạm mãi, ngài bắt hối nhân phải làm những việc đền tội nặng, để họ chứng tỏ sự chân thành và quyết tâm sửa đổi, hầu đem lại lợi ích cho chính họ. Chẳng hạn ngài bắt một mệnh phụ ở Paris phải đốt hết sách bậy bạ trong tủ sách của bà thì ngài mới ban phép xá giải.
Đối với những tội nhân cứng lòng, ngài tìm hết cách giúp họ thống hối : gặp gỡ, khuyên nhủ, khi nặng khi nhẹ, và ngay cả bằng nước mắt. Nước mắt và Thánh giá, nhờ ngài, có thể làm cho một trái tim chai đá trở thành trái tim thịt mềm. Có người lúc trước đã trả lời thẳng thừng: “Tôi không muốn xưng tội”, hoặc: “Tôi không đến đây để làm cái chuyện đạo đức của mấy bà”. Mặc kệ. Cuối cùng tất cả đều quỳ xuống dưới chân ngài và xưng thú. Chúa đã ban cho ngài một trực giác lạ lùng để nhận ra giữa đám đông hoặc giữa những người đi qua, ai là kẻ cần được đưa về với Chúa nhất để giúp họ, trước sự ngạc nhiên của chính họ. Do đó mà khi có người buột miệng hỏi: “Mỗi năm cha bắt được bao nhiêu cá lớn?”, ngài có thể trả lời ngay, không lưỡng lự: “Hơn 700”. Không nhớ con số sao được đối với những con cá như thế!
Một dù vất vả ngồi tòa và có những chuyện dễ làm người ta bực mình, nhưng ngài thì không. Ngược lại, ngài tỏ ra đặc biệt nhẫn nại. Đây là một trong những đức tính nổi bật nhất nơi ngài. Một linh mục đã nhận xét : Tôi đã từng quan sát kỹ xem ngài có tỏ ra bất nhẫn bực tức lúc nào không, mà không thấy. Đem chuyện này hỏi ngài thì được ngài trả lời: “Phải nhẫn nại mới có thể cho cái người ta cần chứ ! Bất nhẫn thì được cái gì ?” Ngài cũng nói với một cha bạn: “Hãy học tập sự nhẫn nại của Chúa”.
Cùng với sự nhẫn nại là thái độ hiền hòa, tế nhị, kính trọng đối với hối nhân, bất kể là ai. Có linh mục sa ngã nặng đến xưng tội vẫn được ngài yêu mến, kính trọng.
Lời khuyên dành cho Đức Giám mục giáo phận đến xưng tội với ngài là : xin Đức cha hãy yêu thương các linh mục của Đức cha.
Dù có đông người xếp hàng bên tòa giải tội, ngài vẫn dành cho mỗi người một thời gian cần thiết, bởi người nào cũng có vấn đề riêng của mình. Ngài không khuyên dài, nhiều khi chỉ một lời thôi, nhưng là lời làm cho hối nhân phải động tâm suy nghĩ, một lời tác động mạnh trên họ có khi cả đời. Chính sự thánh thiện và yêu thương đem lại sức mạnh và hiệu năng cho lời đó.
Thái độ và hành động của cha thánh Gioan Maria Vianney đối với kẻ có tội giống như người cha trong dụ ngôn về tình phụ tử (Lc 15,11-32), hoặc như người chăn chiên tìm lại được con chiên lạc (Lc 15,4-7) thật đáng là mẫu gương cho các linh mục hôm nay. Cùng với bác ái mục vụ nói chung được ngài thể hiện, ngài trở thành “le plus imitable des prêtres”, như tựa đề của một cuốn sách viết về ngài.
03/08 Tin nhận hay không tin nhận
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Tin nhận hay không tin nhận.
Thứ sáu đầu tháng, tuần 17 thường niên.
"Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?"
Lời Chúa: Mt 13, 54-58
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường, khiến người ta ngạc nhiên và nói rằng: "Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh em ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?" Và họ vấp phạm đến Người.
Nhưng Chúa Giêsu phán cùng họ rằng: "Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ nơi quê quán và nhà mình". Người không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tâm Thức Thời Ðại
Dư luận trong giới trí thức Âu Mỹ hiện nay đang nhắc nhiều đến cuốn sách bàn về tương lai nhân loại với tựa đề: "Ngỡ Ngàng Trước Tương Lai", trong đó tác giả nói về những thay đổi nhanh chóng hiện nay trên đời sống con người khiến ông cảm thấy ngỡ ngàng. Theo tác giả thì tâm lý thường tình của con người thích những khuôn sẵn có cho cuộc sống của mình nhờ đó con người dễ ổn định và dự liệu cho những gì xảy ra. Tắt một lời, dù có khuynh hướng sống thay đổi nhưng tận thâm tâm,con người sống và suy tưởng theo những khung sẵn có, và tệ hại hơn theo điều mà chúng ta gọi là thành kiến.
Tâm thức trên đây giúp chúng ta hiểu phần nào biến cố được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trở về giảng dạy tại quê hương của Ngài là Nazareth, nhưng dân chúng tại đây không tin nhận Chúa, bởi vì họ suy tưởng và hành động theo thói quen, theo thành kiến. Họ đã quen với Chúa Giêsu như là con bác thợ mộc Giuse sống giữa họ từ bao năm nay, do đó giờ đây phải nhìn Chúa và đón nhận giáo huấn của Ngài với một tâm thức mới thì họ bị vấp phạm. Quả thật, như lời cụ già Simêon đã nói trong biến cố dâng Chúa vào Ðền thánh: Chúa Giêsu luôn luôn là dấu gợi lên chống đối; trực diện với Ngài, con người phải chọn lựa hoặc tin nhận, hoặc chối từ.
Chúng ta hãy xét lại xem đức tin của chúng ta hiện nay đối với Chúa Giêsu có còn sống động hay đã trở thành một thói quen khô khan, nguội lạnh, chỉ vì quá quen thuộc như dân làng Nazareth ngày xưa? Phải chăng cuộc sống của chúng ta đã trở thành mù quáng hoặc nô lệ cho những thành kiến đến độ không còn tin nhận Chúa và không còn bén nhạy trước tác động của ơn Chúa?
Xin Chúa tha thứ cho thái độ lạnh nhạt của chúng ta. Xin ban Thánh Thần để chúng ta nhìn thấy những dấu chỉ Chúa thực hiện trong đời sống và trong những biến cố hằng ngày để chúng ta luôn tin nhận Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Nghĩa Vụ Ngôn Sứ (Mt 13,54-58)
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu về sứ vụ ngôn sứ của Chúa Giêsu mà các tín hữu Kitô đều tham dự vào. Sau một thời gian rao giảng làm phép lạ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, khi trở về làng cũ, những người quen biết với Ngài lại chỉ dành cho Ngài một sự tiếp đón lạnh nhạt. Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng là ở chính quê hương mình và gia đình mình. Ðây là lần đầu tiên áp dụng cho mình tước hiệu ngôn sứ; vị ngôn sứ mà Ngài tự đồng hóa là một ngôn sứ bị ngược đãi.
Ý niệm về ngược đãi và ngay cả bị bách hại được Chúa Giêsu nhiều lần nhắc tới trong những cuộc tranh luận với nhóm biệt phái. Nêu bật tư cách bị ngược đãi và bách hại ấy, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ rằng Ngài vẫn tiếp tục truyền thống ngôn sứ trong Cựu Ước. Ðược Thiên Chúa sai đến để thay cho Ngài nói lên sự thật, các ngôn sứ trong Cựu Ước không chỉ nói bằng lời nói mà còn bằng cả cuộc sống của mình. Ðộc đáo nhất hẳn phải là cung cách của một Giêrêmia. Không biết phải dùng lời lẽ nào để tố cáo sự bất trung và phản bội của cả một dân tộc, ông đã đeo một cái gông vào cổ và đi giữa phố chợ. Với cử chỉ ấy, vị ngôn sứ này muốn nói với mọi người rằng chính vì đã xé bỏ giao ước với Thiên Chúa mà họ phải bị xiềng xích trong gông cùm của ngoại bang.
Riêng tiên tri Hôsê thì lại triệt để hơn trong sứ mệnh của mình khi ông đi cưới một cô gái điếm về làm vợ. Với hành động này ông cũng muốn nói với dân Do Thái rằng họ đã bất trung với Thiên Chúa. Không thể chọn lựa thái độ thinh lặng, thỏa hiệp hay sợ hãi, ông đã lên tiếng tố cáo bất công, tội ác hay bạo quyền và hành động của ông đã gây nên phẫn nộ trong dân.
Chính vì thế và cũng như các ngôn sứ trong Cựu Ước; cũng như thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, và nhất là cũng như chính Chúa Giêsu, tất cả những ai dám lên tiếng nói lên sự thật cũng đều được liên kết chung với nhau trong cùng một số phận là bị khinh rẻ, ngược đãi, oán ghét, sỉ vả và khai trừ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Vẫn chỉ có từ chối.
Người về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được nhiều phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Gio-xép, Simon và Giu-đa sao?” (Mt. 13, 54-55)
Người ta không còn cảm thấy giật mình khi nghe tư tưởng này: “Giả như hôm nay Chúa Giêsu trở lại với chúng ta…”
Tôi nghĩ rằng, nếu hôm nay Chúa Giêsu trở lại, thì Người cũng sẽ chẳng có được may mắn hơn với những người đồng hương của Người đâu.
Chẳng có được may mắn đâu.
Giả như hôm nay Người trở lại làm người Do-thái? Liệu Người có được những đồng bào của mình ở Giê-ru-sa-lem hay ở Tel-Aviv lắng nghe không? Liệu Người có được các thành viên Liên Hiệp Quốc hay các nghị viện trong các thượng hạ viện của chúng ta lắng nghe không?
Liệu Người có phải dành một chỗ ở sân thế vận hội để công bố sứ điệp của Người không. Còn chúng ta, những người có đức tin, những người tin vào Chúa Giêsu liệu chúng ta có chấp nhận để cho Người thôi thúc ta, chấp nhận sống triệt để sứ điệp của Người chăng?
Chúa có cần đến một bộ máy tuyên truyền để thu hút quần chúng? Có lẽ Người phải làm những phép lạ hoàn toàn “giật gân” như có người nói. Rồi sau màn “trình diễn” và những phép lạ, người ta có nghe Chúa không?
Bởi vì có lẽ Chúa sẽ nói cho ta hay, dù rằng chúng ta chọn sống chế độ nào: tư bản, dân chủ, độc tài, quân phiệt, thì Người cũng sẽ nói: “Lệnh truyền của tôi là anh em hãy yêu thương nhau” Dù anh em là người Phật Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo, Công Giáo “Anh em hãy yêu thương nhau”
Dù anh em là công nhân của một nghiệp đoàn nào đó, hay dù là ông chủ của xí nghiệp “Anh em hãy yêu thương nhau.” Rồi có lẽ Người sẽ nhắc nhở ta nhớ đến Mười Điều Răn y như Người đã dạy ta vậy.
Giả như Người trở lại.
Người có trở lại không? có lẽ người ta sẽ gọi vấn đề này là một Xì-căng-đan! Ngay trong chúng ta, có nhiều người không tin điều này, họ muốn chúng ta sống trung thực.
Đức Kitô đã chết và đã sống lại, Người đã gửi Thần Khí Người đến với ta để nhắc nhở ta tình yêu Cha Người dành cho ta! Như vậy mà còn không đủ thúc đẩy ta sống yêu thương, thì giả như Chúa Kitô có trở lại, Người cũng chẳng hoán cải nổi chúng ta đâu.
Suy Niệm 4: LOAN BÁO TRONG MỌI HOÀN CẢNH (Mt 13, 54-58)
Xem lại lễ Thánh Giuse Thợ ngày 1/5
“Không ai được tôn trọng ở quê hương của mình”. Đây chính là câu nói nổi tiếng của Đức Giêsu và có tính tiên tri. Thật vậy, trải qua biết bao thế hệ, từ những bậc tiền nhân đến chúng ta, hẳn mọi người đều biết hay đã cảm nghiệm được tính tiên tri của Đức Giêsu qua câu nói trên hoàn toàn ứng nghiệm.
Hôm nay, chính Đức Giêsu cũng đã trải qua sự thật đó khi về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
Khi biết rõ về thân thế, gia cảnh của Đức Giêsu, những người Dothái sinh thời với Ngài đã không thể chấp nhận được, và như một lẽ tất yếu, họ không tin và cũng chẳng tôn trọng Ngài. Vì thế, Đức Giêsu đã không làm được phép lạ nào tại quê hương của mình vì sự cứng lòng tin nơi họ.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhớ cho chúng ta rằng: trong cuộc đời và trên hành trình loan báo Tin Mừng của người môn đệ, chúng ta cũng sẽ gặp phải những khó khăn, thất bại và chống đối, hiểu lầm và cô đơn… Tuy nhiên, hình ảnh Đức Giêsu lướt qua họ khi những người này muốn xô Ngài xuống vực đã dạy cho chúng ta một bài học: bổn phận của chúng ta là loan báo Lời Chúa, nên chúng ta cứ can đảm và sẵn sàng loan báo cho dù có những cản trở, khó khăn đến từ mọi phía…
Chúng ta không bận tâm đến quá nhiều kết quả, vì thành công hay không là việc của Chúa. Chúng ta chỉ là người thợ trong bàn tay Chúa và chỉ biết làm những việc phải làm mà thôi. Có được tâm tình ấy, chúng ta sẽ rao giảng Lời Chúa: “... lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tm 4,2).
Lời Chúa hôm nay còn nhắc cho chúng ta biết: hậu quả của sự thành kiến đã làm chúng ta bỏ lỡ hay cố tình không chấp nhận nhiều việc tốt của người khác. Hoặc nhất định không làm việc hữu ích chỉ vì điều đó được khởi xướng từ một người mà chúng ta không ưa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con vững tin rằng: Chúa là tất cả đời con, nên mọi khó khăn thử thách sẽ không làm cho chúng con chùn chân bước theo Chúa. Xin cho chúng con xóa bỏ thành kiến để công cuộc loan báo Tin Mừng đạt được nhiều kết quả. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Đức Giêsu về quê
Suy niệm :
Sau khi đã chịu phép Rửa, vào hoang địa để cầu nguyện, ăn chay,
có một ngày nào đó, Đức Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên đường.
Lên đường là bỏ lại ngôi làng Nadarét dấu yêu với bao kỷ niệm.
Chính tại đây Ngài đã sống hơn ba mươi năm trong bầu khí gia đình.
Chính tại nơi này, Ngài đã lớn lên quân bình về thân xác, trí tuệ, tâm linh.
Nadarét như một ngôi trường lớn, chuẩn bị cho Ngài chững chạc đi sứ vụ.
Tại đây, Đức Giêsu đã là con bác thợ Giuse (c. 55),
và đã trở thành thợ theo truyền thống cha truyền con nối.
Ngài đã được dạy nghề và hành nghề để kiếm sống cho bản thân và gia đình.
Đức Giêsu là một người thợ tại Nadarét, phục vụ cho nhu cầu dân làng.
Ngài biết đến cái vất vả của công việc chân tay nặng nhọc.
Đức Giêsu không thuộc giới trí thức, thượng lưu, quyền quý.
Lao động làm Ngài gần với người nghèo và thấy sự đơn sơ của tâm hồn họ.
Cũng tại Nadarét, đời sống cầu nguyện của Đức Giêsu được nuôi dưỡng.
Ngài học được lối cầu nguyện một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức Giêsu có khả năng thấy sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự,
nơi một bông hoa, nơi chim trời, nơi ánh nắng và cơn mưa.
Tình thân của Con đối với Cha ngày càng trở nên sâu đậm.
Ngài tìm ý Cha mỗi lúc và để Cha chi phối trọn vẹn đời mình.
Hôm nay Đức Giêsu trở về làng cũ sau một thời gian đi sứ vụ.
Ngài vào lại hội đường quen thuộc, gặp lại những khuôn mặt đồng hương.
Không rõ trước đây có lần nào bác thợ Giêsu được mời giảng ở đây chưa.
Nhưng lần này, khi trở về với tiếng tăm từ những phép lạ làm ở nơi khác,
Đức Giêsu đã khiến dân làng sửng sốt vì sự khôn ngoan trong lời giảng dạy.
Hai lần họ đặt câu hỏi: Bởi đâu ông ta được như thế? (cc. 54. 56).
Một câu hỏi rất hay, nếu được tìm hiểu một cách nghiêm túc.
Câu hỏi này có thể đưa họ đi rất xa, để gặp được căn tính của Đức Giêsu.
Tiếc thay, dân làng Nadarét lại không quên được nghề nghiệp của cha Ngài.
Họ nhớ rất rõ họ hàng gần xa của Ngài là mẹ và các anh chị.
Họ có thể kể tên từng anh chị em của Ngài, vì đều là bà con lối xóm (c. 55).
Đức Giêsu là người mà họ biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm sao con người bình thường, ít học đó lại có thể là một vị ngôn sứ?
Làm sao từ ngôi làng Nadarét vô danh này lại xuất hiện ngôn sứ được?
Và họ vấp ngã vì Đức Giêsu, nghĩa là họ đã không tin vào Ngài.
Cái biết gần gũi của họ về Ngài lại trở nên thành kiến
khiến họ không thể tiến sâu hơn vào mầu nhiệm con người Đức Giêsu.
Người đồng hương của Ngài đã không trả lời được câu hỏi: Bởi đâu…?
Mỗi con người là một mầu nhiệm mà ta phải khám phá mãi.
Có những mầu nhiệm lớn ẩn trong lớp áo tầm thường.
Dân làng Nadarét đã không nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng.
Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi,
để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nadarét đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
02/08 Tự do chọn lựa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Tự do chọn lựa.
Thứ năm đầu tháng, tuần 17 thường niên.
"Người ta lựa cá tốt bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài".
Lời Chúa: Mt 13, 47-53
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Đến ngày tận thế cũng như vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?" Họ thưa: "Có".
Người liền bảo họ: "Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái cũ, mới trong kho mình". Khi Chúa Giêsu phán các dụ ngôn đó xong, thì Người rời khỏi nơi ấy.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Thái Ðộ Bao Dung
Có một Bác sĩ nọ tìm đến với một vị Giám mục cao niên và tuyên bố: "Thưa Ðức Cha, con đến để thông báo cho Ðức Cha biết con đang nghĩ đến chuyện ra khỏi Giáo Hội, Ðức Cha nghĩ sao?".
Vị Giám mục yêu cầu ông cho biết một vài lý do khiến ông có ý định đó. Viên Bác sĩ nhìn thẳng vào mắt vị Giám mục và nói: "Thưa Ðức Cha, Ðức Cha nghĩ coi: Giáo Hội đã có mặt trên trần gian này 2,000 năm nay, thế mà con người có khá hơn không?".
Vị Giám mục bình tĩnh trả lời: "Bác sĩ nói thật chí lý, nhưng Bác sĩ hãy thử nghĩ lại: nước đã xuất hiện trên mặt đất này từ bao nhiêu triệu năm nay, vậy mà ngày nào Bác sĩ cũng như tôi, ai cũng phải rửa tay".
Nghe thế, viên Bác sĩ thinh lặng ra về, ông không còn nghĩ đến chuyện rời bỏ Giáo Hội nữa.
Với bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy có thái độ kiên nhẫn bao dung hơn đối với Giáo Hội của Ngài. Qua hình ảnh chiếc lưới thả xuống biển, kéo lên với đủ loại cá, trong đó người ta giữ lại những con cá tốt và ném đi những con cá xấu, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người chỉ được thực hiện trọn vẹn vào ngày cánh chung mà thôi, trong khi chờ đợi, thì người môn đệ của Ngài cần có thái độ kiên nhẫn, bao dung.
Giáo Hội là Thân Thể của Chúa Kitô. Tự bản chất, Giáo Hội là thánh thiện, như chúng ta vẫn tuyên xưng trong Kinh Tin Kính, nhưng Giáo Hội thánh thiện ấy lại gồm những con người tội lỗi. Ý thức cơ bản và quan trọng nhất của người Kitô hữu chính là luôn nhận biết mình là tội nhân, để từ đó kêu cầu lòng thương xót của Chúa và sự tha thứ của anh em. Thiếu ý thức ấy, người Kitô hữu sẽ rơi vào thái độ kiêu căng giả hình của những người Biệt phái bị Chúa Giêsu lên án gắt gao. Ðồng hành với nhân loại, mang đến cho nhân loại Tin Mừng cứu rỗi, cũng như Chúa Giêsu, Ðấng cứu độ, Giáo Hội chỉ có thể thực thi sứ mệnh của mình với thái độ kiên nhẫn, cảm thông, yêu thương, tha thứ mà thôi. Không ngôn ngữ nào hùng hồn hơn, không sứ điệp nào có tính thuyết phục hơn lòng nhân từ, sự khoan dung và tha thứ. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là tuyệt đỉnh của hành động cứu rỗi của Ngài và lôi kéo mọi người lên với Ngài.
Luôn ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, không ngừng cảm thông với những thiếu sót bất toàn trong Giáo Hội, cố gắng thực thi lòng nhân từ bao dung với mọi người, đó là thách đố đang đặt ra cho người Kitô hữu chúng ta hơn bao giờ hết. Xin Chúa khơi dậy trong tâm hồn chúng ta lòng yêu mến Giáo Hội được thể hiện bằng những cử chỉ cảm thông bao dung, kiên nhẫn mỗi ngày.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Tự do
“Nước Trời còn giống như chuyện một chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các Thiên Thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính. Và quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (Mt. 13, 47-50)
“Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?” Đó là loại câu hỏi chỉ có thể gây bối rối. Khi ta hiểu biết rồi, mà sau đó lại không hành động theo, thì người ta có quyền chất vấn ta. Nếu hiểu biết sao anh lại làm ngược lại điều anh biết? Anh không chữa mình được. Nếu không hiểu biết sao anh không nói ra điều đó? Vì thế hiểu biết là điều quan trọng, chính sự hiểu biết biện minh họăc kết án cho thái độ, hành vi của ta.
Tôi chọn lựa.
Giống như trong các dụ ngôn khác, ta phải lưu ý điều này là ttc không xét xử cũng chẳng kết án: Người nhìn thấy mọi sự, Người biết hết tất cả rồi, và theo thiển ý tôi, “đương nhiên” có sự tách biệt hạt giống tốt với cỏ lùng, thì phải chăng chính sự thể rõ ràng như vậy rồi trước khi ông chủ có ý kiến? Trong mớ cá đủ loại có cá tốt cá xấu. Nhưng không phải Thiên Chúa xét xử và phân loại; cỏ lùng và cây lúa chúng đã khác nhau và phân biệt nhau rồi. Cũng vậy đến ngày tận thế, kẻ xấu sẽ bị tách ra khỏi hàng ngũ những người công chính, thì cũng không phải là do Chúa lên án, là bởi vì chính hành động của con người đã biết sống tự do hay nô lệ cho một chúa tể nào đó mà họ sùng bái.
Chúa hỏi chúng ta: “Anh em có hiểu không?” Hiểu cho rõ để rồi lựa chọn và lựa sự thiện bằng tất cả lòng thành tâm, thiện chí và trung thành. Đó chính là ý nghĩa thực của đời ta!
Tôi hiểu biết.
Chúa kết thúc dụ ngộn với lời: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào được học hỏi về Nước Trời thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ” Cái cũ đó là chủ đề về vương quyền của Thiên Chúa, chủ đề lớn thống lĩng toàn bộ lịch sử của dân Ít-ra-en. Chúa Giêsu đã đến cùng với Tin Mừng của Người làm cho vương quyền của Thiên Chúa nên trọn, đó là cái mới.
Như vậy truyền thống vẫn luôn luôn được sống động, như thường phải được giải thích theo sự am hiểu sâu xa hơn để có thể đạt cái mới đích thực và việc thực hiện luôn được hoàn hảo hơn.
Suy Niệm 3: CHÚA YÊU HẾT MỌI NGƯỜI (Mt 13, 47-53)
“Thiên Chúa là Tình yêu” (1 Ga 4, 8), vì thế, Ngài luôn yêu thương hết mọi người không phân biệt tốt xấu, giàu nghèo hay chức vị cao thấp.
Bản chất đó hôm nay được Đức Giêsu mặc khải qua dụ ngôn “chiếc lưới”.
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói: chiếc lưới như là Nước Trời. Chụp xuống biển là hành động Lời Chúa được trao ban. Bắt được đủ mọi thứ cá chính là mọi người đều được Lời Chúa dạy dỗ. Cá tốt, là những người nghe và thực hành Lời Chúa. Cá xấu là những người không nghe, hay có nghe nhưng Lời Chúa không biến đổi được họ vì sự ích kỷ và kiêu ngạo. Tuy nhiên, cá tốt và cá xấu đều tồn tại! Chỉ khi chiếc lưới chụp xuống và được kéo lên, lúc ấy chúng mới bị phân biệt. Cá tốt thì cho vào giỏ. Cá xấu thì quăng ra ngoài.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy là cá tốt trong chiếc lưới của Ngài. Đồng thời cũng dạy ta bài học về sự kiên nhẫn và sẵn sàng yêu thương hết mọi người. Biết mở lòng để đón nhận sự bất toàn của anh chị em mình, hầu chờ cơ hội để Chúa và cả chúng ta cải hóa anh chị em.
Cuối cùng chúng ta cần xác định quyền xét xử là của Chúa và do Chúa. Bổn phận của chúng ta là tin tưởng, cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tin tưởng, phó thác nơi Chúa, cậy dựa vào ơn Chúa để can đảm biến đổi. Xin cho chúng con được trở thành cá tốt trong ngày sau hết để được Chúa cho vào giỏ của Chúa là Nước Trời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Cá tốt cho vào giỏ
Suy niệm :
Dụ ngôn chiếc lưới được coi là dụ ngôn cuối cùng
trong một chuỗi bảy dụ ngôn của chương 13 theo Tin Mừng Mátthêu.
Dụ ngôn này có nhiều điểm tương đồng với dụ ngôn lúa và cỏ lùng.
Cả hai đều nói đến sự tách biệt kẻ xấu và người tốt vào ngày tận thế,
và kẻ xấu sẽ bị Thiên Chúa luận phạt nghiêm minh (cc. 42. 50).
Đức Giêsu đã dùng những hình ảnh quen thuộc, gần gũi để nói về Nước Trời.
Có khi là hình ảnh nông nghiệp như dụ ngôn người gieo giống,
dụ ngôn lúa và cỏ lùng, hay dụ ngôn hạt cải.
Có khi là hình ảnh về chăn nuôi như dụ ngôn về người mục tử.
Có khi là hình ảnh về ngư nghiệp như trong dụ ngôn chiếc lưới.
Một số môn đệ của Ngài đã sống bằng nghề chài lưới ở hồ Galilê.
Thời xưa việc đánh cá ở hồ này cũng đơn giản như ở quê ta ngày nay.
Những ngư phủ đi trên những chiếc thuyền nhỏ.
Họ quăng lưới vào những nơi thấy dấu hiệu có cá đang đi.
Lưới với những hòn chì nặng sẽ chụp xuống đàn cá và họ chỉ cần kéo vào bờ.
Một chi tiết đáng chú ý ở đây là họ gom được mọi loại cá, cả tốt lẫn xấu.
Hình ảnh này gợi cho ta về việc mọi người, bất luận tốt xấu,
đều được mời gọi tham dự bàn tiệc Nước Trời (Mt 22, 9-10).
Trong Hội Thánh, cũng có sự pha trộn giữa người tốt, kẻ xấu,
như được ám chỉ trong dụ ngôn lúa và cỏ lùng.
Ở các tỉnh ven hồ Galilê, ta dễ thấy cảnh tượng các ngư phủ ngồi trên bờ,
gom cá đánh được trong ngày, giữ lại cá tốt, quăng đi cá xấu.
Chỉ khi lưới đầy, họ mới làm công việc lựa cá như vậy (c. 48).
Tương tự như trên, chỉ khi đến ngày tận thế, các thiên thần mới xuất hiện
để tách biệt kẻ xấu ra khỏi người công chính (c. 49).
Như thế tình trạng hiện nay của Hội Thánh vẫn là chưa hoàn hảo.
Không phải mọi Kitô hữu đều đã sống tinh thần Bài Giảng trên núi.
Có những Kitô hữu không sinh trái, vì hạt giống nhận được đã bị thui chột,
bởi thử thách gian nan hay mối lo toan vật chất (Mt 13, 18-22).
Có những Kitô hữu tuy vẫn kêu Đức Giêsu là Lạy Chúa ! (Mt 7, 21-23),
vẫn nhân danh Ngài mà nói tiên tri, trừ quỷ hay làm phép lạ,
nhưng lại không thi hành ý muốn của Cha trên trời và làm điều gian ác.
Có những Kitô hữu dự tiệc cưới mà không mặc áo cưới (Mt 22, 11-13).
Có những Kitô hữu là muối nhạt, đã trở thành vô dụng (Mt 5, 13).
Như thế gia nhập Hội Thánh không phải là một bảo đảm để được cứu độ.
Còn cần sống hoàn thiện như Cha trên trời (Mt 5, 48).
Thời nay chúng ta không thích nghĩ đến những chuyện bị coi là xa xôi,
như chuyện tận thế, chuyện Thiên Chúa phán xét và luận phạt.
Chúng ta thích sống yên ổn với một Thiên Chúa nhân hậu vô cùng,
đến độ có vẻ như hỏa ngục chỉ là chuyện viển vông để dọa con nít.
Nhưng dù sao cũng không tránh được ngày cỏ lùng bị tách khỏi lúa,
cá xấu bị tách khỏi cá tốt, kẻ bất lương bị tách khỏi người lành.
Cuối cùng Nước Trời sẽ không còn chút bóng dáng của sự dữ,
và Thiên Chúa sẽ là mọi sự cho mọi người (1 Cr 15, 28).
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
01/08 Kho tàng – ngọc quý
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Kho tàng – ngọc quý.
Thứ tư tuần 17 thường niên – Thánh Anphong Maria Ligôri, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó".
* Thánh nhân sinh năm 1696 tại Napôli. Người từ bỏ nghề luật sư để làm linh mục, rồi sau lại nhận trách nhiệm giám mục để loan báo tình yêu của Chúa Kitô. Người đi giảng không mỏi mệt, siêng năng giải tội và rất nhân từ với các hối nhân. Người đã lập Dòng Chúa Cứu Thế nhằm mục đích loan báo Tin Mừng cho dân các miền quê (1732). Người đã giảng dạy luân lý và viết nhiều tác phẩm về đời sống thiêng liêng. Người qua đời năm 1787.
Lời Chúa: Mt 13, 44-46
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy.
Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh trở về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Kho Tàng Quý Giá
Bài thơ "Viên Ngọc Quý Giá Nhất" của thi hào Tagore có nội dung như sau:
Sanathan cầu nguyện đang lúc đi bách bộ dọc theo bờ sông, bỗng có một thanh niên tiến đến và thành khẩn van xin ngài bố thí. Nhà hiền triết đáp: "Ta không có gì cả. Ta đã cho đi tất cả rồi, Ta chỉ còn cái bị ăn mày này thôi".
Người thanh niên tiếp tục nài nỉ: - Thiên Chúa đã cho tôi đến gặp ngài, vì chỉ có ngài mới có thể giúp tôi và làm cho tôi nên giàu có.
Nhà hiền triết mới sực nhớ ngày nọ ông đã cất giấu bên cạnh bờ biển một viên ngọc quý mà ông đã tình cờ tìm được. Ông nghĩ rằng biết đâu viên ngọc này một ngày nào đó sẽ giúp ích cho một ai đó. Ông liền chỉ cho người thanh niên nơi cất giấu viên ngọc.
Người thanh niên ra đi đào bới và đã tìm được viên ngọc quý. Cầm viên ngọc sáng ngời trong tay, người thanh niên ngồi trên bãi biển và suy nghĩ suốt đêm. Khi bình minh vừa ló dạng, anh tìm đến với nhà hiền triết và khẩn khoản nài xin:
- Thưa ngài, xin hãy cho tôi viên ngọc quý hơn mọi viên ngọc quý. Xin hãy cho tôi thứ của cải vượt trên mọi thứ của cải.
Nói xong, anh ném viên ngọc xuống dòng sông và đứng dậy đi theo nhà hiền triết.
Bài thơ trên đây có thể minh họa cho chúng ta cái nghịch lý chạy xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng: mất mát là được lợi lộc, cho là được nhận lãnh, chết là được sống. Ðó là cái nghịch lý mà Chúa Giêsu đã quảng bá và sống cho đến tận cùng: cái chết trên Thập giá và sự Phục sinh vinh hiển của Ngài là một thể hiện của cái nghịch lý ấy.
Trong Tin Mừng hôm nay, với hai dụ ngôn có nội dung gần như nhau, một lần nữa, Chúa Giêsu muốn đề ra cái nghịch lý ấy: vì Nước Trời, con người phải bán đi tất cả, phải chấp nhận mất tất cả. Thế nhưng Nước Trời là gì? Chúa Giêsu xem ra đã không mất giờ và dài dòng trong những lý thuyết khô khan. Với các môn đệ, Ngài nói như một mệnh lệnh: "Hãy theo Ta" và họ đã bỏ mọi sự để đi theo Ngài. Với người thanh niên giàu có, Ngài mời gọi: "Hãy về bán tất cả tài sản, phân phát cho người nghèo, và trở lại đi theo Ta".
Hãy đi theo Ngài, vì Ngài là tất cả. Hãy đánh đổi mọi sự để được sống với Ngài. Chúa Giêsu chính là hiện thân của Nước Trời: nơi Ngài, con người tìm được kho tàng quý giá nhất; nơi Ngài, con người được sống và sống sung mãn. Chính Chúa Giêsu đã nói: "Ta đến để cho chúng được sống và sống dồi dào". Các môn đệ được kêu gọi trước tiên để sống với Ngài. Ðược sống với Ngài, đi theo Ngài, lấy Ngài làm lẽ sống, đó là nội dung đích thực của tư cách làm môn đệ.
Kitô giáo do đó thiết yếu chính là Chúa Giêsu Kitô. Làm Kitô hữu có nghĩa là chọn Chúa làm gia nghiệp và sẵn sàng đánh đổi tất cả để sống cho Ngài và vì Ngài. Làm Kitô hữu có nghĩa là đặt Ngài vào trọng tâm cuộc sống, để dù khi ăn, dù khi uống, dù làm bất cứ việc gì, luôn luôn tôn vinh Ngài. Làm Kitô hữu là sống cho Ngài và sống bằng chính sức sống của Ngài, để có thể thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi". Một cuộc sống như thế chắc chắn đòi hỏi nhiều hy sinh, phấn đấu, mất mát.
Dù sống trong hoàn cảnh nào, bất cứ người môn đệ nào của Chúa Kitô cũng đều cảm nghiệm được lời tiên báo của Ngài: "Vì Danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghét bỏ". Không bị bách hại công khai, thì cũng bị chống đối hay loại trừ, đó là số phận của người Kitô hữu.
Nguyện xin Chúa Kitô, Ðấng chúng ta đã chọn làm gia nghiệp, luôn gìn giữ chúng ta trên bước đường theo Chúa, và củng cố chúng ta trong nghịch lý mà Ngài đã sống: mất mát là lợi lộc, cho là lãnh nhận, chết là được sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Kho Tàng Và Viên Ngọc Quý
Bài dụ ngôn về kho tàng và viên ngọc quý có thể gợi lên cho chúng ta những qui luật về đầu tư hay kinh tế thị trường.
Có một số yếu tố mà kinh tế thị trường cần phải tuân thủ mới mong thành công.
Trước hết và quan trọng hơn cả là động lực và sự hy sinh của con người. Ðây là qui luật cơ bản để cho kinh tế thành công. Thiếu sự cần cù siêng năng của con người, kinh tế không thể nào tiến.
Kế đó là sự thanh liêm và chữ tín của con người. Người đầu tư cũng như công nhân cần phải tôn trọng các khế ước mà họ đã cam kết thi hành.
Yếu tố thứ ba giúp cho kinh tế được thành công là tinh thần kỷ luật. Thời gian và những cố gắng đầu tư vào trong các dự án có khi chỉ được đền đáp trong tương lai.
Nhưng một yếu tố khác không kém phần quan trọng để giúp cho kinh tế được vững mạnh đó là sự cộng tác giữa các công nhân. Dĩ nhiên, chỉ có cộng tác thực sự khi con người biết tôn trọng nhau và lấy sự tử tế mà đối xử với nhau mà thôi.
Cuối cùng, các nhà làm luật phải thông qua luật đầu tư một cách công bình và hợp lý.
Tựu trung, kinh tế thị trường tùy thuộc rất nhiều vào các chuẩn mực đạo đức, các giá trị đạo đức không nằm bên lề của kinh tế mà là linh hồn và nền móng của kinh tế.
Tìm kiếm và xây dựng những giá trị đạo đức là nền tảng cho cuộc sống con người. Gia tài quý giá nhất để lại cho con cái không phải là của cải vật chất mà chính là chuẩn bị cho chúng một vốn liếng tri thức và đạo đức đầy đủ. Với hình ảnh của kho tàng được chôn giấu trong thửa ruộng hay một viên ngọc quý mà người ta phải bán tất cả để mua cho bằng được. Chúa Giêsu muốn nói tới tính cách triệt để của niềm tin. Tin là đầu tư và đầu tư là sẵn sàng hy sinh tất cả. Một nền kinh tế lành mạnh là một nền kinh tế được xây dựng trên chuẩn mực đạo đức. Một niềm tin vững mạnh là một niềm tin đòi hỏi con người phải sẵn sàng hy sinh tất cả những gì mình có.
Sức sống của một Giáo Hội không được đánh giá dựa trên những ngôi thánh đường nguy nga, các cuộc biểu dương rầm rộ hay ngay cả con số đông các linh mục mà Giáo Hội chỉ có thể phong chức nhờ mặc cả bằng quà cáp hay lót đường. Nếu cốt lõi của một nền kinh tế lành mạnh là những giá trị đạo đức thì chắc chắn sức sống đích thực của một Giáo Hội sẽ chẳng bao giờ được đánh giá dựa trên những sự kiện bên ngoài, có khi chỉ là những thỏa hiệp với kết quả của trần đời và những sức mạnh của tăm tối. Sẵn sàng đánh mất tất cả vì Tin Mừng của Chúa Kitô phải chăng đó không là đòi hỏi mà qua bài dụ ngôn về kho báu và viên ngọc quý Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho Giáo Hội và các tín hữu Kitô chúng ta, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Hai Thái Độ
“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thuở ruộng ấy.”
“Nước Trời lại giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.” (Mt. 13, 44-46)
Hai thái độ của con người đối với Nước Trời. trong trường hợp kho báu bị chôn vùi, đó là thái độ của một người tình cờ nhận ra được một giá trị; khá nhiều người có thái độ này đối với Đức Giêsu; họ chẳng mấy bận tâm đến chuyện gặp Chúa Giêsu; họ không đi tìm Người. Thế mà bỗng dưng họ bị Người nắm bắt, cuốn hút dường như bởi một sức mạnh không sao cưỡng lại được. Còn trong dụ ngôn viên ngọc quý, đó chính là tâm trạng của một người đang đi tìm chân lý, giống như phần đông chúng ta, như Đi-cô-đê-mô đi tìm Chúa trong đêm tối.
Hai hạng người.
Không phải chỉ là hai thái độ, hai tâm trạng mà cũng là hai “Hạng” người nữa. Trong con người cày ruộng phát hiện ra được kho báu vùi dấu trong ruộng, chúng ta gặp được hình ảnh con người của sinh hoạt đời thường; đó là con người không thắc mắc đặt vấn đề, con người “nghèo khó” chỉ biết rất ít về Chúa. Tình cờ người ấy khám phá ra Thiên Chúa và có một cái gì làm thay đổi đời sống của người ấy mà người chung quanh không hiểu biết được, người ấy “Vui mừng bán đi tất cả những gì mình có mà mua thuở ruộng ấy.” Ai có thể hay chăng tại sao người ấy lại có cử chỉ như vậy?
Còn người thương gia đi tìm ngọc đẹp gợi nhớ lại hình ảnh một người buôn bán một thứ gì quan trọng lắm, một người buôn đồ nữ trang có một vụ buôn bán quan trọng, người ấy biết đúng giá cả những mặt hàng.
Niềm vui khám phá.
Bao lâu chưa tìm gặp, con người phải mang tâm trạng xao xuyến lo âu. Nhưng khi đã gặp được rồi, thì người ta sẵn lòng cho đi tất cả miễn là dành được sự thiện vô giá ấy. Chính kho báu ấy đòi người ta phải hy sinh tất cả những gì mình có, hy sinh tất cả con người của mình thì mới có được kho báu ấy. Đó phải là một sự dấn thân hoàn toàn, một đòi hỏi triệt để. Chúa Giêsu không nhượng bộ chút nào, nhưng Người cũng tỏ cho thấy sự hấp dẫn lạ lùng của ơn cứu độ, và niềm vui vô biên dành cho người tìm gặp được ơn cứu độ ấy.
Hai dụ ngôn này còn gợi cho ta một suy nghĩ khác. Khi đã tìm được kho báu kia, viên ngọc đẹp ấy, người ta đều cảm nhận được niềm vui vô biên, khôn tả, và chính niềm vui ấy mới khiến người ta dấn thân hết sức, hết mình. Có nghĩa là phải làm tất cả để giữ mãi được niềm vui và phấn khởi của sự khám phá này.
Có được Thiên Chúa là có được tất cả, chỉ mình Chúa là đủ rồi. Người ta có thể hiểu được chân lý này nhờ kinh nghiệm mà thôi.
SUY NIỆM 4: KHO TÀNG VÀ VIÊN NGỌC QUÝ (Mt 13, 44-46)
Xem lại CN 17 TN A
Thánh Phanxicô X. là con một người giàu có. Ngài thuộc thành phần quý tộc. Vì thế, không lạ gì khi còn trai trẻ, thánh nhân ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng trần gian! Tuy nhiên, nhờ người bạn thân của ngài là thánh Inhaxiô Loyola, một hôm đã gieo Lời Chúa vào tai Phanxicô: “... được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16,26).
Nhờ câu Lời Chúa trên mà ngài được ơn biến đổi hoàn toàn. Từ con người ham mê của cải trần thế trở thành một tu sĩ nghèo khó. Từ một người ham mê khoa bảng trần gian trở thành một người chỉ biết rao giảng chân lý Tin Mừng.
Hôm nay, Đức Giêsu muốn mỗi người chúng ta hãy xác định lại căn tính ơn gọi của mình, đó là đi theo Ngài. Đi theo Đức Giêsu là đón nhận Ngài làm gia nghiệp, lấy lời Ngài làm kim chỉ nam hướng dẫn. Sẵn sàng sống những giá trị Tin Mừng ấy trong cuộc đời dù gặp những khó khăn. Quyết tâm từ bỏ những điều bất chính trái với thánh ý Chúa. Làm được điều đó, ấy là lúc chúng ta khôn ngoan như người lái buôn và chàng thanh niên trong Tin Mừng đi tìm “kho tàng” và “viên ngọc quý” hôm nay.
Mong sao mỗi người chúng ta hiểu rằng: Nước Trời là “kho tàng” bền vững và Ðức Giêsu là “viên ngọc quý” đích thực. Đạt được “kho tàng” là Nước Trời; chiếm hữu được “viên ngọc quý” là chính Đức Giêsu thật là điều không dễ! Muốn đạt được điều đó, chúng ta phải đánh đổi bằng những hy sinh, cố gắng và tin tưởng tuyệt đối, ngay cả cái chết.
Lạy Chúa Giêsu, có Chúa là có tất cả, không có Chúa kể như không có gì. Xin cho chúng con hiểu được điều đó, quyết tâm và đánh đổi bằng mọi giá để có Chúa làm gia nghiệp của cuộc đời chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Vui mừng bán tất cả
Suy niệm :
Tất cả bắt đầu từ một sự tình cờ may mắn.
Người nông dân nghèo phải làm thuê cho điền chủ
tình cờ gặp được kho báu chôn trong ruộng.
Người buôn ngọc tình cờ gặp được viên ngọc tuyệt vời,
có giá trị lớn lao mà người bán không hề biết.
Sau đó phản ứng của cả hai rất giống nhau:
ra đi, bán tất cả những gì mình có và mua...
Không thấy có dấu vết của sự nuối tiếc
hay ngần ngại giằng co.
Tất cả diễn ra thật nhanh
và tràn ngập niềm vui thanh thản.
Ai cũng rõ họ hạnh phúc biết chừng nào
khi chiếm được kho báu và viên ngọc.
Cuộc đời họ chuyển sang một giai đoạn mới.
Thái độ của hai người trên được coi là bình thường.
Ở địa vị ta, ta cũng làm như thế.
Kho báu và viên ngọc là những thứ thấy được,
có giá trị hiển nhiên và hết sức hấp dẫn.
Chúng hứa hẹn một sự giàu sang mà ai cũng thèm thuồng,
nên người ta dễ bán tất cả để mua được chúng.
Bị ảnh hưởng bởi não trạng hưởng thụ vật chất,
chúng ta thường coi kho báu duy nhất ở đời này
là tiền bạc, quyền uy và khoái lạc.
Khi nói Nước Trời là kho báu bền vững,
Ðức Giêsu là viên ngọc quý đích thực,
chúng ta lại thấy đó là cái gì mơ hồ,
xa xôi, ít lôi cuốn, thậm chí không có thật.
Chính vì thế chúng ta thường ngần ngại khi từ bỏ,
dè sẻ, nuối tiếc khi phải hy sinh cho Chúa.
Vậy vấn đề là khả năng thấy, nhờ lòng tin.
Bản thân tôi có thấy Ðức Giêsu là viên ngọc quý,
và Nước Trời là kho báu không?
Chỉ ai thấy được những thực tại vô hình
và ngây ngất trước giá trị của chúng,
người ấy mới hồn nhiên và vui tươi
đánh đổi tất cả kho báu phù phiếm của đời này
để lấy kho báu bất diệt trên trời (x. Mt 6,20).
Có khi tình cờ, qua một biến cố, một người bạn,
qua một cuốn sách, một đoạn Lời Chúa, một kỳ tĩnh tâm,
tôi chợt gặp Ðức Giêsu như viên ngọc ngời sáng,
hấp dẫn, mời gọi tôi bay lên khỏi cái tôi tầm thường:
tôi có dám bán nỗi đam mê ích kỷ của mình
để mua lấy tình bạn với Ngài không?
Nếu ta còn ngần ngại khi phải bán đi tất cả
thì chỉ vì ta chưa thấy.
Nhưng nếu ta cứ can đảm bán đi,
ắt ta sẽ thấy.
Niềm vui chỉ đến với người dám bán tất cả.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc càng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
31/07 Bài học kiên nhẫn
- Viết bởi Mt 13, 36-43
Bài học kiên nhẫn.
Thứ ba tuần 17 thường niên - Thánh I-nha-xi-ô Lôi-ô-la. linh mục. Lễ nhớ.
"Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy".
* Sinh năm 1491 tại Lôiôla miền Can-ta-bơ-ri-a. Lúc còn thanh niên, Inhaxiô theo binh nghiệp, phục vụ trong triều đình. Khi đã trở lại, người học thần học ở Pari. Tại đây, cùng với mấy người bạn, người đã sáng lập dòng Chúa Giêsu, thường gọi tắt là Dòng Tên (1534). Nhưng chính tại Rôma, người nỗ lực làm cho dòng lan rộng khắp châu Âu và hăng hái truyền giáo, nêu gương phục vụ Hội Thánh, hết lòng tuân phục Đức Giáo Hoàng. Phương pháp linh thao của người vạch ra một con đường cho ai muốn hiến thân để làm cho vinh quang Thiên Chúa ngày một sáng ngời hơn. Người qua đời ở Rôma năm 1556.
Lời Chúa: Mt 13, 36-43
Khi ấy, sau khi giải tán dân chúng, Chúa Giêsu trở về nhà. Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng: "Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe".
Người đáp lại rằng: "Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần.
Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Bài học kiên nhẫn
Ngày 13/5/1917 Ðức Mẹ hiện ra với ba trẻ mục đồng tại Fatima và cho biết Nước Nga sẽ trở lại. Cũng chính năm đó, Lénine đã thực hiện cuộc cách mạng tháng mười để xóa bỏ mọi bất công của chế độ quân chủ và xây dựng thiên đàng tại thế. 80 năm trước đây, lắng nghe và tin vào những lời tiên báo của ba trẻ Fatima thật là phi lý. Nhưng thời giờ của Thiên Chúa không phải là thời giờ của con người. Lucia, một trong ba trẻ đã được diễm phúc chứng kiến sự ứng nghiệm của lời tiên báo; các bức tường đã sụp đổ, bạo động và máu nhường chỗ cho sự tha thứ, lòng nhân từ, tinh thần hòa giải.
Kiên nhẫn là một trong những bộ mặt của niềm hy vọng Kitô giáo. Con người làm lịch sử, nhưng chính Thiên Chúa mới là Ðấng hướng dẫn mọi nẻo đường về với Ngài. Ðó là bài học mà có lẽ Giáo Hội muốn nhắn gửi chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay.
Dụ ngôn về cỏ lùng thoạt tiên gợi lên cho chúng ta một trong những thảm kịch lớn của nhân loại. Ở thời đại nào cũng có những người muốn thanh tẩy xã hội bằng các cuộc sàng lọc không tiếc xót: từ Tần Thủy Hoàng đến Hitler, Pônpốt qua các cuộc chiến hiện nay. Khi người ta muốn loại bỏ cỏ lùng, thì người ta cũng nhổ đi cả cây lúa tốt tươi.
Qua dụ ngôn cỏ lùng, có lẽ Chúa Giêsu còn muốn nói đến một thảm kịch khác sâu sắc hơn, đó là thảm kịch của lòng người. Trong đáy thẳm tâm hồn, ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm được sự giằng co xâu xé giữa một bên là khả năng hướng thiện và một bên là sức mạnh của tối tăm. Cỏ lùng vẫn cố gắng vươn lên trong cánh đồng tâm hồn chúng ta. Thánh Phaolô đã diễn tả chân lý ấy một cách chính xác khi Ngài nói: "Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, còn sự ác không muốn thì tôi lại làm". Sức mạnh của tội ác, của ma quỷ, của sự dữ trong tâm hồn mỗi người chúng ta là một thực tại không thể chối cãi được. Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đã chẳng dạy chúng ta cầu nguyện: Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ đó sao?
Cảm nghiệm sâu sắc về nỗi yếu hèn và khốn khổ của mình, con người mới cảm thấy cần cảm thông, kiên nhẫn và tha thứ cho người khác hơn. Ðó là bài học thực tiễn mà có lẽ mỗi người chúng ta cần đào sâu, đồng thời cầu xin để mỗi ngày chúng ta phát hiện ra những tia sáng tình thương của Chúa và chia sẻ tình yêu với những người xung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Kiên nhẫn chờ đợi
Sách Xuất Hành chương 33,7-11; 34,5-9 nhắc đến việc ông Môsê nói chuyện trực tiếp với Thiên Chúa như người với người, đó là mẫu gương cho việc cầu nguyện của mọi người Kitô hôm nay. Cầu nguyện là nói chuyện trực tiếp với Chúa. Chúng ta có thể xét mình xem đời sống cầu nguyện của tôi hiện nay ra sao? Cái gì giúp tôi dễ dàng cầu nguyện tiếp xúc với Thiên Chúa?
Một người Kitô mà mất liên lạc với Thiên Chúa thì giống như là sống nơi ngõ hẽm cụt, giống cùng hoàn cảnh như kẻ chối bỏ Thiên Chúa. Hơn nữa, càng cầu nguyện chúng ta càng được biến đổi, trở nên giống như Chúa, nhất là bắt chước được thái độ kiên nhẫn và nhân từ của Thiên Chúa đối với từng tật xấu của anh chị em chung quanh. Thái độ kiên nhẫn nêu gương của Thiên Chúa được Chúa Giêsu mạc khải qua dụ ngôn Cỏ Lùng trong ruộng lúa được kể lại nơi Phúc Âm thánh Mátthêu hôm nay.
Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi cho tới ngày cuối cùng Ngài mới ra tay phán xét phân biệt kẻ lành người dữ trong khi đó thì các tôi tớ không có đủ kiên nhẫn chờ đợi, muốn nhổ bỏ cỏ lùng ngay khi vừa phát hiện ra chúng. Phải, mỗi người chúng ta cần noi gương kiên nhẫn của Thiên Chúa và người Kitô học được sự kiên nhẫn đó nhờ qua việc cầu nguyện.
Lạy Chúa,
Chúng con chúc tụng Chúa là Thiên Chúa nhân từ và kiên nhẫn bởi vì Chúa tuy là Ðấng toàn năng nhưng lại phán xét con người một cách đại độ, nhân từ. Chúa dạy chúng con sống nhân từ, kiên nhẫn như Chúa, lúc nào cũng sẵn sàng yêu thương tha thứ những sơ sót lỗi lầm của anh chị em chung quanh.
Lạy Chúa,
Xin dạy chúng con biết chấp nhận những giới hạn của chính mình cũng như của anh chị em chung quanh như chính Chúa đã chấp nhận chúng con. Xin dạy con biết dấn thân làm việc cho Chúa nhưng đồng thời biết kiên nhẫn chịu đựng chờ đợi tới ngày hạt giống Lời Chúa trổ sinh hoa trái tốt lành nơi chính chúng con và trong xã hội chung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Màn chung cuộc vĩ đại
“Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cò lùng trong ruộng cho chúng con nghe.” Người đáp: “Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần. Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các Thiên Thần. Vậy như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến ngày tận thế thì cũng xảy ra như vậy.” (Mt. 13, 36b. 37-40)
Phúc Âm trình bày cho ta màn chung cuộc vĩ đại của Tấn Tuồng Nhân Loại. Lần cuối cùng người ta được gặp lại Con Người, các người lành và kẻ dữ. Các Thiên Thần được phái xuống ngay để thi hành lệnh chọn lựa!
Tôi mừng vì biết rằng nếu tôi thi hành đúng từng chữ một mà bài học Phúc Âm dạy tôi thì tôi chẳng phải dục lòng tin về thực tại những hình ảnh thánh sử dùng.
Lại nữa tôi không thể sử dụng Phúc Âm mà áp đặt những phạm trù của tôi để phân loại người lành kẻ dữ, làm như vậy có lẽ sẽ gây những ngạc nhiên, vả lại, nhiều nơi trong Phúc Âm, Chúa cũng lưu ý tôi về điều này:
Tôi nhớ hai điều Chúa gợi ý cho chúng ta.
Điều thứ nhất.
Chúa Giêsu nói: “Ai có tai hãy nghe!” không phải là lần đầu, Chúa nhắc nhở chúng ta điều này. Chúng ta có tai nghe để nghe, có mắt để nhìn, có trí khôn để hiểu biết! Chúa ngỏ lời với những người nghèo khó của Nước Trời. Người không để mình chìm đắm trong những suy nghĩ trừu tượng và không và không hiểu nổi. Ta không viện cớ biện minh cho sự ta không biết. Bởi lẽ, hết thảy chúng ta đều biết Chúa đòi hỏi nơi ta điều gì, chúng ta hiểu biết cả đấy. Nhưng ta cũng giống những người Do-thái xưa nói rằng: “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi.” Hoặc giống như những người Co-rin-tô nói với thánh Phao-lô: “Thôi để khi khác chúng tôi sẽ nghe ông nói”
Điều thứ hai.
Chúa Giêsu nói: “Khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã”. Người không sợ hãi gương xấu, không tôn trọng lề luật họ sẽ nhận ra những nỗi khủng khiếp của hành động chối từ tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì làm gương xấu là hành động phản bội tình yêu, đi ngược với sự thật, và ai không tôn trọng luật pháp, người ấy chối bỏ những giới răn của Chúa, những giới răn của tình yêu! Một tình yêu cũng gây tổn thương như tình yêu Đức Kitô đối với ta vậy. Một tình yêu vốn tra vấn ta trong từng giây phút cuộc đời ta. Nếu yêu mến, ta không thể sống lì trong gương xấu làm cớ cho người khác sa ngã; nếu yêu mến Chúa, ta tuân giữ lệnh truyền của Chúa.
SUY NIỆM 4: CÓ NÊN CHĂNG KHI NHỔ CỎ LÙNG SỚM? (Mt 13,36-43)
Ở đời, người ta thường nguyền rủa những người ác độc, bất nhân. Họ cũng không ngừng đặt ra với Chúa những vấn nạn như: “Tại sao ông này bà nọ tội lỗi như vậy mà vẫn được Chúa thương, sao Chúa không phạt quách đi cho rồi?”; Hay “tại sao buôn gian bán lận, ăn trên ngồi trước, tham nhũng, bóc lột mà không gặp phải tai ương, ngược lại, họ vẫn suôn sẻ, chót lọt và thành công? Trong khi mình đạo đức, liêm chính, tốt lành thì lại không được may mắn như thế?”.
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc các môn đệ xin Đức Giêsu giải thích dụ ngôn cỏ lùng cho các ông hiểu thêm.
Trước khi đi vào nội dung của phần giải thích, chúng ta lược qua bản chất của cỏ lùng để thấy được tại sao Đức Giêsu lại kể dụ ngôn trên.
Cỏ lùng là một loại cỏ dại thường mọc chung với lúa. Lúc còn nhỏ, chúng giống và rất khó phát hiện. Đến ngày đơm bông thì chúng mới lộ rõ ra, bởi vì thân chúng thường cao và nhỏ hơn lúa, hạt chúng cũng nhỏ và râu dài hơn. Tuy nhiên, đã nhận ra, nhưng để nhổ cũng khó, vì rễ nó và lúa đã ăn quyện lại với nhau, khi nhổ cỏ lùng, không chừng lúa cũng lên theo. Người ta chỉ có thể tách biệt giữa cỏ lùng và lúa khi thu hoạch. Nhưng lý do tại sao lại phải tách biệt như vậy? Thưa vì hạt cỏ lùng là một loại rất độc, ăn nhiều sẽ gây chóng mặt, đau ốm, nếu nặng sẽ hôn mê.
Khi giải thích dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy khởi đầu là thuần chủng, tốt lành, nhưng sau có sự pha tạp. Lý do là vì kẻ thù phá hoại nên đã gieo trộm cỏ lùng vào ruộng lúa. Điều này cho thấy: Giáo Hội và mỗi người chúng ta luôn gặp phải những chống đối, thù nghịch, thế lực tội lỗi luôn tìm cách để làm hại linh hồn ta.
Mặt khác, dạy cho ta bài học về sự kiên trì, đừng nóng vội. Nếu nóng vội, nhiều khi chúng ta nông nổi và vô tình làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa trên cuộc đời ta và tha nhân.
Sự thật đã nhiều lần chứng minh cho chúng ta thấy: có nhiều người tội lỗi tầy trời, nhưng vào một thời điểm nhất định, họ nhận ta tình thương của Thiên Chúa và tội lỗi của họ quá nhiều. Vì thế, họ đã sẵn sàng thay đổi cuộc đời, nên lối sống của họ đẹp lòng Thiên Chúa. Ngược lại. cũng không thiếu gì nhiều người một thời được mệnh danh là “thánh sống”, nhưng kết cục lại chìm đắm trong tội do bị sa đà và nằm lỳ trong kiêu ngạo.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết quay trở về với Thiên Chúa vì Ngài rất nhân từ và khoan dung, trừ khi chúng ta không đón nhận sự tha thứ của Ngài mà thôi. Mặt khác, Lời Chúa khuyên răn chúng ta hãy bình tĩnh trong việc xét đoán anh chị em mình. Hãy để cho anh chị em ta có cơ hội hoán cải, hầu trở nên con người tốt lành. Cần nhớ rằng: sự phán quyết cuối cùng thuộc về Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn sám hối với chính mình và sự khoan nhân, kiên nhẫn đối với anh chị em chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Chói lọi như mặt trời
Suy niệm :
“Chẳng phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng của ông sao?
Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?” (Mt 13, 27).
Có lẽ một số Kitô hữu trong Hội Thánh sơ khai đã đặt câu hỏi tương tự
khi họ thấy có những phần tử xấu trong cộng đoàn của mình.
“Ông có muốn chúng tôi nhổ đi không?”
Ông có muốn chúng tôi trục xuất họ ra khỏi cộng đoàn không?
Có người tưởng rằng một Hội Thánh phải gồm toàn những thánh nhân.
Hội Thánh không có chỗ cho tội nhân, cho con cái Ác Thần (c. 38).
Lời từ chối của ông chủ ruộng cho thấy sự nhẫn nại của Thiên Chúa.
“Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa.
Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt” (Mt 13, 28-29).
Thiên Chúa chấp nhận cỏ lùng mọc chung với lúa,
con cái Nước Trời sống chung với con cái Ác Thần cho đến tận thế.
Nhẫn nại và bao dung là dấu hiệu của sự thánh thiện đích thực,
sự thánh thiện này biết chờ đợi, biết tôn trọng tự do của con người.
Đôi khi chúng ta cũng có thái độ nóng nảy của Giacôbê và Gioan,
khi đòi đốt cả làng người Samari khi họ không chịu đón Chúa (Lc 9, 54).
Chúng ta vẫn sống trong một thế giới vàng thau lẫn lộn.
Có khi không phân biệt được lúa với cỏ lùng,
vì trong cái tốt vẫn ẩn hiện bóng dáng của cái bất toàn,
và trong cái xấu thi thoảng cũng lóe lên những tia sáng của chân lý.
Một người tốt có thể trở nên cỏ lùng.
Một người xấu có thể trở nên gié lúa trĩu hạt.
Chúng ta chưa thể nói gì về một con người khi người ấy chưa nhắm mắt,
và khi chưa nghe lời phán xử cuối cùng của Thiên Chúa.
Người đầu tiên được bảo đảm vào Nước Trời lại là một tên gian phi.
Nhiều vị thánh hôm nay là những người trước đây đã làm điều gian ác.
Nếu tôi tự đặt câu hỏi: Tôi là lúa hay cỏ lùng?
Tôi sẽ thấy lúng túng khi tìm câu trả lời.
Nơi trái tim tôi, tôi thấy có sự giằng co giữa chọn Chúa và Ác Thần.
Có lúc tôi thấy mình như đã thuộc trọn về Chúa,
có lúc lại thấy thế gian và xác thịt như hoàn toàn thống trị mình.
Ngay trong điều tốt tôi làm, vẫn có điều gì không tuyệt đối trong suốt.
Tôi hiểu rằng cỏ lùng vẫn có chỗ trong thửa ruộng của lòng tôi.
Thiên Chúa vẫn chấp nhận tôi như thế đó.
Nếu Ngài nghiêm phạt tôi thì tôi đâu còn sống đến nay.
Dụ ngôn trên nhắc chúng ta không được tiếm quyền xét xử của Thiên Chúa,
không đòi xóa sạch sự dữ trong một sớm một chiều.
Nhưng chúng ta lại không được để mặc cho sự dữ thao túng.
Chúng ta dám hy sinh mạng sống để xây dựng một thế giới công bình.
Đức Giêsu đã bị sự dữ nuốt chửng, nhưng cuối cùng Ngài đã chiến thắng.
Cuộc đời Kitô hữu là một nỗ lực không ngừng để nhổ cỏ lùng nơi mình,
và khao khát vươn tới sự thánh thiện của chính Thiên Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
inh thần đồng trách nhiệm.
31/07 – Thứ ba tuần 17 thường niên – Thánh Phêrô Đoàn Công Quý và thánh Emmanuel Lê Văn Phụng. Lễ TRỌNG ở Giáo Phận Long Xuyên.
"Ai mất mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống".
* Thánh Phêrô Đoàn Công Quí
Ngài là con của ông Antôn Đoàn Công Miêng và bà Anê Nguyễn Thị Trường, sinh năm 1826, tại họ đạo Búng, Thủ Dầu Một ( Bình Dương).
Ngay từ nhỏ, cậu Phêrô đã có lòng ước ao dâng mình cho Chúa. Sau khi đã nhập vào Đại Chủng Viện Thánh Giuse (Thị Nghè), Thầy Phêrô được gởi đi tu học tại đại chủng viện Thừa Sai Paris ở Pénang (Malaysia), năm 1848; hoàn tất chương trình đào tạo, trở về quê hương vào ngày 11/04/1855. Lúc bấy giờ các vua triều Nguyễn, nhất là vua Tự Đức, đang cấm đạo rất gắt gao. Vào tháng 9 năm 1858, Thầy được chịu chức một cách âm thầm tại Thủ Dầu Một; sau đó, được cử đi phục vụ tại các giáo xứ Lái Thiêu, Gia Định, Kiến Hòa, làm Cha Phó họ đạo Cái Mơn (Vĩnh Long), và là Cha Sở họ đạo Đầu Nước (Cù Lao Giêng, An Giang), từ ngày 27/12/1858, trú ngụ tại nhà ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng.
Cùng với lòng nhiệt thành tông đồ, hăng hái phục vụ bổn đạo, Cha còn có lòng yêu mến Đức Mẹ một cách đặc biệt. Nhờ có tài hát xướng, Cha đã sáng tác những bài thánh ca để phổ biến lòng tôn sùng Đức Mẹ. Ngoài ra, Cha luôn khao khát tử đạo để làm chứng cho Chúa. Bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu, khi có dịp là cha sẵn sàng dâng hiến mạng sống, để làm chứng cho Chúa. Và Cha đã thực hiện được ý nguyện khi được Bề Trên cử về Cù Lao Giêng làm Cha Sở.
Về nhiệm sở mới được 10 ngày, Cha bị bắt cùng với ông Câu Emmanuel Lê Văn Phụng, và 32 giáo dân khác, vào ngày 07/01/1859 và bị giam giữ tại nhà tù Châu Đốc cho đến ngày 31/07/1859.
Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng
Ngài sinh năm 1796, tại họ đạo Đầu Nước (Cù Lao Giêng), làng Tấn Đức, tổng An Bình, tỉnh An Giang, thuộc Trấn Châu Đốc.
Là một gia đình gương mẫu, cùng với vợ là bà Anna Của, ông đã nuôi dạy 9 người con và 2 người con nuôi nên những người đạo đức, tốt lành. Với lòng bác ái cao quý, ông thường chia sẻ, giúp đỡ những người nghèo khổ, túng thiếu,… nhất là trong thời dịch bệnh và ngay cả khi bị giam tù ở Châu Đốc.
Với tinh thần tông đồ cao, ông hăng say hy sinh, phụng sự Chúa và phục vụ anh em. Trong thời gian cấm đạo rất gắt gao, ông vẫn âm thầm dâng đất cất nhà thờ, chủng viện và nhà các dì phước. Trong nhà ông, thường xuyên có các linh mục trú ngụ. Có thời gian, có 5 linh mục cùng một lúc; trong đó có các vị thừa sai nước ngoài (Tây dương đạo trưởng).
Ngoài ra, ông còn có tài ngoại giao rất đặc biệt. Ông có mối quan hệ rất tốt với chính quyền địa phương, cụ thể là Quan Huyện. Nhờ đó, mà giáo dân Cù Lao Giêng vẫn được an bình trong thời điểm cấm đạo rất khó khăn.
Vì có người tố cáo, ngày 07 tháng 01 năm 1859, Ông bị bắt cùng với cha Phêrô Đoàn Công Quí và 32 giáo dân khác. Các ngài bị điệu về Châu Đốc giam giữ.
Gương sáng tử đạo
Trong suốt 7 tháng trời, Tổng trấn và quan quân Triều đình ra sức dụ dỗ Cha Phêrô và ông Emmanuel bỏ đạo, để được thăng quan, tiến chức và tưởng thưởng. Nhưng các ngài vẫn một mực yêu mến Đức Kitô, nhiệt tình với Tin Mừng Phúc âm và trung thành với Giáo Hội.
Không thuyết phục được, Tổng Trấn gởi sớ về triều đình xin án lệnh. Vua Tự Đức châu phê và gởi về Châu Đốc ngày 30/07/1859. Ngày hôm sau, 31/07/1859, tại Bến Chà Và (Bến Cây Mét), các ngài đã hiến dâng mạng sống để làm chứng cho Đức Kitô và Tin Mừng Phúc âm.
Để tuyên dương công trạng, nhân đức và tinh thần tông đồ đầy nhiệt huyết, vào ngày 02/05/1909, Đức Giáo Hoàng Piô X đã tôn phong các ngài lên bậc Chân phước (Á thánh).
Sau đó, vào ngày 19/06/1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng các ngài lên bậc Hiển Thánh cùng với 115 vị tử đạo khác tại Việt Nam.
Các ngài đã nêu gương sáng về Đức Tin kiên vững, Đức Mến nồng nàn, Đức Cậy vững vàng, nhất là lòng nhiệt thành loan báo cho mọi người Tin Mừng tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Đây còn là mẫu gương sống động về tinh thần đồng trách nhiệm giữa linh mục và giáo dân, giữa Cha sở và Hội Đồng mục vụ giáo xứ mọi thời và mọi nơi.
Cũng còn đúng với đường hướng xây dựng giáo phận theo mô hình của một Hội Thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm.
Lời Chúa: Lc 9, 23-26
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng mọi người rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày và theo Ta. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất nó; còn ai mất mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian mà phải thua thiệt và mất mạng sống mình, thì được ích gì? Bởi lẽ kẻ nào hổ thẹn vì Ta và vì lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn khi họ đến trước tôn nhan Ngài, tôn nhan Chúa Cha và các Thiên Thần".
Thánh Phêrô Đoàn Công Quý và Emmanuel Lê Văn Phụng
(Giáo Phận Long Xuyên được mừng trọng thể)
- Thánh Phêrô Đoàn Công Quý sinh năm 1862 tại họ Búng, hạt Thủ Dầu Một, dưới triều Minh Mạng. Cha ngài là ông Antôn Đoàn Công Miêng và mẹ là bà Anrê Nguyễn Thị Trường, vốn dòng quyền quý, nguyên quán ở Đàng Ngoài; nhưng vào cuối đời Gia Long (1802-1820), cả gia đình đã di cư vào Nam và đến lập nghiệp tại họ Búng.
Năm 1847, ngài nhập Chủng Viện thánh Giuse tại Thị Nghè. Sang năm 1848, ngài được gửi học bên Pénang (Mã Lai). Sau bảy năm học tập và tu luyện, ngài trở về quê hương vào năm 1855, giữa lúc vua Tự Đức cấm đạo gắt gao. Ngài lần lượt lãnh nhận các chức, và đến tháng 9/1858, được phong chức linh mục tại nhà thờ Thủ Dầu Một. Sau một thời gian phục vụ tại các họ Lái Thiêu, Gia Định, Kiến Hòa, ngài được cử làm phó sở Cái Mơn (Vĩnh Long). Cuối tháng 12/1858, ngài đổi về họ Đầu Nước, Cù Lao Giêng, họ chính thuộc tỉnh An Giang.
Ngày 07/01/1859, trong một cuộc lùng xét "Tây Dương đạo trưởng", ngài bị bắt cùng với ông Emmanuel Phụng, câu phủ họ Đầu Nước, và 32 giáo hữu khác. Tất cả bị xiềng xích giải về Châu Đốc.
- Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng sinh năm 1796. Lúc cha Phêrô Đoàn Công Quý được cử tới họ Đầu Nước, ngài đang làm câu phủ, rất nhiệt thành việc đạo và quý mến các linh mục. Ngày 07/01/1859, ngài cùng 32 giáo hữu khác cùng bị bắt với cha Phêrô Quý, và bị điệu về giam ở Châu Đốc.
Trong tù hai đấng đã chịu nhiều cực hình với một đức tin sắt đá. Ngày 30/7/1859, án tử hình của các ngài được gửi từ kinh về tới Châu Đốc. Hai ngài đã hiên ngang đổ máu đào để nên chứng nhân nước Trời vào ngày 31/7/1859.
Đức Thánh Cha Piô X đã tôn phong ngài lên bậc Chân Phước ngày 02/5/1909. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong Hiển Thánh ngày 19/6/1988.
Suy Niệm 1: Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng: chứng nhân đời thường của Đức Kitô
Lúc sinh thời, thánh Emmanuel Lê Văn Phụng giữ chức Lý trưởng, là chức thứ nhì trong làng. Vì thế, ngài được gọi là ông Lý Phụng. Đồng thời, ngài coi sóc việc đạo cho cả phủ nội tỉnh An Giang (Châu Đốc), gọi là Câu Phủ; cho nên, người đương thời cũng quen gọi ngài là Ông Câu Phụng. Với những chức vụ đạo, đời khá quan trọng như thế, ngài đã làm việc hết mình để đem lại hạnh phúc cho mọi người. Cuộc đời của thánh nhân có những nét đặc biệt sau đây.
Trước hết, là một tín hữu ngoan đạo, ngài luôn luôn tỏ ra là một gia trưởng gương mẫu. Dù rất bận chuyện làng-xã và họ đạo, thế nhưng, cùng với người vợ rất đảm đang là bà Anna Của, ngài đã nỗ lực sinh dưỡng, dạy dỗ một cách tốt đẹp tất cả 9 người con, năm trai, bốn gái, ngoài ra còn có hai người con nuôi cũng được ngài đùm bọc, cưu mang, giáo dục đầy đủ. Ngài quan tâm đặc biệt đến vấn đề giáo lý, đạo đức, học hành của con cái. Ngài lưu ý chỉ dạy cách ăn nết ở theo luân thường, đạo lý từ ngàn xưa. Thật là gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Điều đó đã được các linh mục lưu trú trong nhà khẳng định và ca ngợi.
Thứ đến, ngài có một tinh thần tông đồ rất nhiệt thành, hăng hái. Với tư cách là người đứng đầu trong họ đạo, ngài luôn luôn sống hết mình với Thiên Chúa, với Hội Thánh và với bà con bổn đạo, ngài rất hăng say trong việc mở mang Nước Chúa, cho dù phải gặp nhiều khó khăn, gian nan, thử thách.
Trong thời gian cấm đạo gắt gao nhất, ngài vẫn âm thầm dâng hiến đất đai, xây dựng nhà thờ, nhà xứ và nhà các nữ tu. Mái ấm của ngài là nơi lưu trú thường xuyên của các linh mục, kể cả các vị thừa sai nước ngoài.. sinh hoạt đạo đức của họ đạo, với các lễ nghi phụng vụ, với các bí tích được trao ban đều đặn, hầu như luôn luôn được diễn biến bình thường, là nhờ ở sự khôn khéo và tài đức của ngài.
Đồng thời, nhờ lòng đạo đức sâu sắc và sự am hiểu giáo lý một cách vững vàng, ngài đã được Bề trên chọn làm giảng viên giáo lý của họ đạo Cù Lao Giêng, và sau đó, của cả tỉnh An Giang. Với vai trò đặc biệt này, ngài ra sức dạy giáo lý cho các thiếu nhi, thanh niên và cả những người lớn tuổi. Ngài thường xuyên thăm hỏi, khuyên nhủ, giải thích và giúp đỡ những người khô khan, nguội lạnh trở về với Chúa. Ngài nhiệt tình lo lắng cho những người hấp hối, nguy tử được lãnh nhận các bí tích sau cùng, chuẩn bị chu đáo trước khi ra trình diện với Chúa.
Ngoài ra, lòng bác ái của ngài cũng là một nhân đức nổi trội. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngài vẫn tỏ ra tâm hồn nhân ái đặc biệt. Gặp thời dịch bệnh hoành hành, ngài đã sắm ghe, mua thuốc, phân phát, cứu giúp những người bệnh, cách riêng là những người nghèo khổ… trong thời gian tù đày, ngài cũng sẵn lòng chia sẻ những gì mình có cho các bạn tù, cho lính canh và cai tù… Ngay cả với kẻ thù, ngài cũng tỏ ra tấm lòng quảng đại, bao dung. Sở dĩ ngài bị bắt và bị giam giữ, cùng với cha sở Phêrô Quí là do hai tên bất lương tố cáo, hãm hại. thế nhưng, khi hai tên này đến xin bà vợ của ngài giúp đỡ tiền bạc, từ trong tù, ngài đã khuyến khích và yêu cầu bà thực hiện… Nhìn vào cung cách sống đó, tất cả mọi người đều thán phục người tông đồ của Chúa.
Sau cùng, với sự khôn khéo, tế nhị đặc biệt, với tinh thần trách nhiệm cao độ của người đứng đầu với những phương tiện vật chất mà Chúa trao ban, ngài đã xây dựng được những mối quan hệ tốt đẹp với tất cả những người chung quanh, kể cả quan quyền lúc bấy giờ. Ngài sẵn sàng hy sinh, dâng hiến những gì mình có để làm sáng danh Chúa, để loan báo Tin Mừng cho mọi người. Nhờ đó, mà ngài đã giúp cho họ đạo được bình yên, ngay cả trong thời buổi khó khăn nhất.
Và như thế, với tình yêu son sắt với Chúa và anh em, với sự trung tín kiên vững của người môn đệ, với niềm xác tín vào ơn cứu độ của thiên chúa, ngài đã hiến dâng mạng sống, để xứng đáng là sứ giả của Chúa Kitô tại quê hương thân yêu của ngài. Ngài đã trở nên một mẫu gương chứng nhân tiêu biểu của Đấng Cứu Thế cho đồng bào của ngài.
Noi gương của Thánh nhân, chúng ta hãy nỗ lực sống tin Mừng mỗi ngày trong cuộc sống đời thường, một cách cụ thể, thiết thực và hiệu quả.
Hãy sống trọn vẹn ơn gọi mà Chúa trao ban trong gia đình. Hãy là những người cha có trách nhiệm, người mẹ đảm đang, người con hiếu thảo để tạo bầu khí yêu thương, hạnh phúc trong mái ấm. những lời nói, cử chỉ, việc làm thắm đượm tình bác ái sẽ giúp đem lại bình an, niềm vui và hy vọng. Sự quan tâm, chăm sóc cho nhau sẽ đan dệt nên những tâm tình yêu thương, liên đới, chia sẻ, hy sinh và phục vụ…
Nên nhớ rằng, qua bí tích rửa tội, mỗi người đã lãnh nhận sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ của Đức Ki-tô cho những anh em chung quanh. Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta có thể chu toàn sứ mạng đó bằng đời sống gương mẫu của chúng ta qua nhữn việc làm cụ thể. Chính nhờ đời sống đầy tình yêu thương bác ái của chúng ta mà người ta có thể nhận ra Chúa, yêu mến Chúa, tin Chúa và đến với Chúa.
Ngoài ra, tinh thần tông đồ cũng mời gọi chúng ta nhiệt tình cộng tác với Đức Giám Mục giáo phận, với các linh mục phụ trách giáo xứ, với các thành phần dân Chúa, để giúp mọi người thăng tiến về mọi mặt, nhất là trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến. Hãy dùng tất cả những phương tiện mà Chúa trao ban, hãy biết chia sẻ những gì mình có, như: tài năng, thời giờ, sức khỏe, công ăn việc làm, tiền của vật chất… để làm vơi nhẹ những khổ đau, đem lại niềm an ủi, nâng đỡ tinh thần, tạo nên sự phấn khởi, lạc quan… cho những người đang gặp khó khăn, thử thách. Không ai nghèo túng đến nỗi không có gì để chia sẻ cho người khác. Một nụ cười tươi tắn, một sự đón tiếp niềm nở, một lời nói động viên hay một lời khen ngợi chân thành, một cái bắt tay thân tình, một sự giúp đỡ nho nhỏ… tất cả đều có một giá trị vô cùng lớn lao và cao quí. Tất cả đều là dấu chỉ chắc chắn loan báo hạnh phúc đích thực, sung mãn và vĩnh viễn của Nước trời. Sống được như thế, chúng ta sẽ là những chứng nhân đời thường của Đức Kitô, theo gương của thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, và sẽ được chung hưởng hạnh phúc viên mãn với ngài, trong vinh quang Thiên Chúa.
Suy Niệm 2: Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng & thánh Phêrô Đoàn Công Quí: Tinh thần đồng trách nhiệm trong sứ mạng của Hội Thánh
(Đức cha Giuse Trần Xuân Tiếu 31-07-2010)
Thật tự hào cho giáo phận Long Xuyên, khi mô hình Hội thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm đã được thực hiện trước công đồng Vaticanô II cả trên 100 năm tại họ Đầu Nước, nay là Cù Lao Giêng, một trong những họ đạo cổ kính và điển hình của giáo phận, do cha sở họ đạo là linh mục Phêrô Đoàn Công Quí, và đại diện giáo dân là ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng.
Thật vậy, cha sở Phêrô và ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm trong sự cộng tác với nhau để điều hành sinh họat của họ Đầu Nước - Cù Lao Giêng. Đặc biệt là ông câu Phụng đã dâng hiến tài sản của gia đình mình cho Giáo Hội, để xây cất cơ sở vật chất như chủng viện, nhà dòng. Hơn nữa, cha sở Phêrô và ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm bằng sự đoàn kết với nhau trong chức linh mục của Chúa Kitô, để mỗi người theo sứ mạng của mình, phục vụ nhiệm thể Chúa Kitô. Riêng ông câu Phụng đã biến gia đình mình trở thành một Hội thánh tại gia, nơi mà trong thời bách hại, hàng giáo sĩ thường lui tới để trú ngụ, để ẩn náu và thi hành tác vụ linh mục, cụ thể là cử hành các bí tích cho giáo dân trong vùng. Nhất là cha sở Phêrô cùng với ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm bằng sự hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô trong cuộc tử đạo của mình. Máu của hai thánh đã hòa trộn với Máu Thánh của Chúa Kitô, cùng thấm đẫm tại phần đất của vùng Châu Đốc, An Giang. Như vậy, sự cộng tác, sự đoàn kết và hiệp thông là những bài học cho giáo phận Long Xuyên, cho hàng giáo sĩ cũng như giáo dân, về tinh thần đồng trách nhiệm được biểu hiện từ cuộc đời và cuộc khổ nạn của hai thánh Quí - Phụng.
Thực ra, không phải là do hai thánh Quí - Phụng, cũng không phải là do công đồng Vaticanô II đưa ra những bài học về tinh thần đồng trách nhiệm trong cộng đoàn Kitô hữu. Chính Chúa Kitô đã sống và đã dạy bài học này cho những người theo Chúa trong bầu khí của cộng đoàn các Tông đồ. Chúa đã muốn các ông cộng tác với nhau và với mọi người nên sai các ông đi từng hai người một. Chúa muốn các ông đoàn kết với nhau và với mọi người nên đề ra chương trình hành động chung là làm chứng và loan báo Tin mừng bình an. Và Chúa muốn các ông hiệp thông với nhau và với mọi người trong lý tưởng của Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.
Chúa Kitô đã dạy bài học tinh thần đồng trách nhiệm. Công đồng Vaticanô II và Liên Hội đồng Giám mục Á Châu trở về nguồn với tinh thần tham gia và hiệp thông. Như vậy, giáo phận Long Xuyên không có con đường nào khác ngoài con đường trở về xây dựng giáo phận thành một Hội thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm.
Sẽ rất hài lòng cho hai thánh tử đạo nếu giữa anh chị em và cha sở đã có những hợp tác chặt chẽ trong mục vụ, và đã có những nỗ lực giải quyết những chia rẽ, những bất hòa, để tránh tình trạng kình chống nhau trong họ đạo. Và ước mơ rằng họ đạo Cù Lao Giêng sẽ là nơi hành hương cấp giáo phận để tinh thần đồng trách nhiệm của hai đấng Thánh được suy tư, chiêm ngưỡng và được tiếp tục học hỏi như bài học cho các cộng đoàn Kitô hữu trong và ngoài giáo phận.
Xin hai thánh tử đạo là cha sở Phêrô và ông câu Phụng chúc lành cho chúng con, và tiếp tục giúp chúng con biết học bài học xây dựng Nước Thiên Chúa bằng tinh thần đồng trách nhiệm. Amen.
30/07 Hạt cải và nắm men
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hạt cải và nắm men.
Thứ hai tuần 17 thường niên – Thánh Phêrô Kim Ngôn, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình”
* Chào đời khoảng năm 380 ở miền I-mô-la, Ê-mi-li-a, cũng tại đó, người đã làm linh mục, rồi khoảng năm 424-431 được chọn làm giám mục Ra-ven-na. Trong tư cách mục tử, người nuôi dưỡng đoàn chiên đặc biệt bằng những bài giảng uyên thâm. Chắc hẳn vì thế mà người được mệnh danh là Kim Ngôn. Khi giảng, người luôn tâm niệm rằng: “Phải giảng cho dân chúng bằng ngôn ngữ của dân chúng”. Người qua đời khoảng năm 450.
Lời Chúa: Mt 13, 31-35
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".
Người lại nói với họ một dụ ngôn khác nữa mà rằng: "Nước trời giống như nắm men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men".
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: "Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn: Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Hạt Cải, Nắm Men
Dụ ngôn hạt cải và nắm men trong Tin Mừng hôm nay đều nhấn mạnh đến sự bất tương xứng của thời kỳ đầu của Nước Trời và của thời kỳ kết thúc. Dụ ngôn hạt cải nói đến sự tăng trưởng của Nước Trời theo chiều rộng, còn dụ ngôn nắm men trong bột ám chỉ chiều sâu, tức là sự biến đổi bên trong. Cũng như cây cải nhỏ bé thường thấy ở miền giáp hồ Tibêria có thể cao tới ba thước, Nước Trời cũng bắt đầu hiện diện từ thời kỳ truyền giáo của Chúa Giêsu và của Giáo Hội tiên khởi trong sự khó nghèo và thiếu thốn. Và đó là giáo huấn nền tảng của dụ ngôn hạt cải và nắm men.
Dựa vào những hình ảnh này, Chúa Giêsu cho thấy kiểu cách truyền giáo của Ngài không phù hợp với những chờ đợi của người Do thái, nghĩa là Nước Trời đến trong thầm lặng, như Chúa Giêsu đã nói: "Nước Thiên Chúa ở giữa các ngươi". Bởi vì thánh sử viết Phúc Âm sau thời kỳ truyền giáo của Chúa Giêsu trên đất Palestin, chúng ta có thể thấy ngay sự bành trướng đầu của Nước Trời và của Tin Mừng nơi các cộng đoàn Kitô tiên khởi. Thánh sử nói rõ: trên cành cây cải, chim trời có thể đến trú ngụ, điều này ám chỉ các dân ngoại được kết nạp vào Giáo Hội do Chúa Giêsu sáng lập.
Dụ ngôn men trong bột, một nắm men có thể làm dậy cả khối bột. Ý nghĩa và bài học của dụ ngôn này đi song song với dụ ngôn hạt cải. Men Nước Trời tức ơn thánh, dù ngấm ngầm, nhưng hiệu nghiệm nơi tâm hồn con người và trong sứ điệp của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã nói rõ về sức mạnh của men Nước Trời. Ngài không đến theo kiểu cách lôi kéo sự chú ý của con người. "Nước Thiên Chúa ở giữa các ngươi". Trong cử hành Thánh Lễ, Lời Chúa và Mình Chúa như men có sức làm lớn lên và biến đổi tâm hồn con người. Ai biết lãnh nhận với tâm hồn ngay thẳng, người đó sẽ được biến đổi nên giống Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy cầu xin cho Dân Chúa tức là Giáo Hội trở nên dấu chỉ của hạt giống và men của Nước Trời trong thế gian này, cho tới ngày Nước Chúa được hoàn tất trong vinh quang.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Một thân thể có tầm vóc Thiên Chúa.
Đức Giêsu còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác. Người nói: “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo vào ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được.” (Mt. 13, 31-33)
Hai dụ ngôn này (dụ ngôn hạt cải và nắm men) tóm tắt tất cả lịch sử cuộc đời và sứ điệp Đức Giêsu! sẽ là lầm lạc khi kêu gào cho chủ nghĩa chiến thắng, hoặc hiểu rằng dụ ngôn này chỉ áp dụng cho đời sống thiêng liêng của ta thôi. Khi nói về “Nước Thiên Chúa” Chúa Giêsu không nghĩ đến cá nhân nào, mà chỉ nhìn thân thể mầu nhiệm của Người trong tất cả quá trình khổ nạn và phục sinh, một thân thể ấy không ngừng lớn lên và phát triển.
Thân thể mầu nhiệm.
Thân thể ấy sẽ trải qua những cơn khủng hoảng, tất cả những cơn khủng hoảng của sự phát triển như những nổi loạn để tỏ tính độc lập tự chủ, những cơn bừng dậy của tuổi trưởng thành mà lại phủ nhận mình trưởng thành, không dám nhận trách nhiệm, từ chối cả những niềm vui của tuổi ấy.
Một thoáng nhớ lại lịch sử Giáo hội như thế, cho ta thấy rõ rằng tất cả chúng ta là Nước Thiên Chúa. Khi khẳng định như vậy, thiết tưởng ta không nên kết án lời cự tuyệt mạnh mẽ của những người khác, là tự kiêu tự đại về ưu thế, về chủng tộc được tuyển chọn của họ. Có lẽ đó chỉ là thái độ của một số cá nhân thôi, chứ không phải là giáo huấn của Chúa Giêsu.
Cây mà “Chim trời tới làm tổ trên cành được” Cây ấy đón nhận mọi loài chim chóc, không hề có sự phân biệt, vì cây không loại trừ một con chim nào, nhưng che chở tất cả, là nơi có muôn mầu muôn vẻ thanh bình.
Hạt giống Phúc Âm ấy, nắm men bé nhỏ kia là Đức Kitô và Nước Trời chính là lẽ sống của ta, là nguyên lý cho ta tìm được hạnh phúc và tình yêu.
Hãy làm thành những tế bào của con người.
Một người hoàn toàn hiến thân cho Nước Thiên Chúa, để cho Nước ấy biến đổi, tái tạo mình, thì đúng là tấm men vùi trong môi trường người ấy sống và ảnh hưởng tốt đến môi trường ấy. Sức sống nơi người ấy tác động đến tất cả những người chung quanh. Không phải những biến cố lịch sử lớn lao mới có tác động mạnh mẽ đến đời sống con người, nhưng cả đến những sinh hoạt rất đời thường vẫn diễn ra hằng ngày cũng khiến chúng ta cảm nhận được sức sống này. Khi một người có trái tim đầy tràn yêu thương thì tình yêu của người ấy luôn bộc lộ và tỏa làn sang người khác vậy.
SUY NIỆM 3: HÃY LÀ MEN CHO ĐỜI (Mt 13, 31-35)
Xem lại CN 16 TNA, CN 11 TN B
Ở đời, người ta thường xem nhẹ những điều nhỏ mọn và coi đó như là chuyện không cần quan tâm!
Tuy nhiên, những điều tưởng chừng như bé nhỏ ấy lại là nguyên nhân cần thiết để trở thành những điều lớn lao.
Thật vậy, trong nhà Phật có câu:
“Hãy nhìn một em bé
Xin người chớ xem thường
Trong em có chất liệu
Của một bậc đế vương”
Hay;
“Hãy nhìn một đốm lửa
Xin người chớ xem thường
Dù nhỏ bằng đầu đũa
Đốt cả rừng lẫn nương”.
Hôm nay, Đức Giêsu muốn dùng dụ ngôn“men trong bột” để ám chỉ Nước Trời. Thật vậy, được khởi đi từ những gì là nhỏ bé, đơn sơ, âm thầm trong sự khiêm tốn. Nhưng một khi đã hội đủ những cơ hội thuận tiện, Nước ấy sẽ lớn mạnh và lan rộng khắp nơi, khiến cho quyền lực của thế gian và ma quỷ có mạnh đến đâu cũng không thể thắng nổi.
Qua hình ảnh này, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta rằng: hãy bắt đầu hành trình đi tìm và sống những giá trị Tin Mừng trong sự khiêm tốn và âm thầm, chúng ta sẽ gặp được chân lý. Nước Trời chỉ đến với những người thực sự đơn sơ, chân thành.
Mỗi người Kitô hữu, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều được mời gọi trở nên chứng tá của Tin Mừng thông qua đời sống gương sáng của mình.
Mong sao mỗi chúng ta ý thức điều đó và thi hành cách xuất sắc như “men” được trộn vào trong bột và làm cho bột dậy men.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết mau mắn đón nhận thánh ý Chúa và sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng, nhờ đó, chính chúng con được biến đổi và những ai gặp chúng con cũng được biến đổi theo. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 4: Tất cả bột dậy men
Suy niệm:
Hội nhập văn hóa là việc mà nhà truyền giáo thời nay quan tâm.
Làm sao đưa Tin Mừng vào nền văn hóa của người bản xứ?
Làm sao đưa những nét đẹp của nền văn hóa bản xứ vào việc sống Tin Mừng?
Làm sao để Kitô giáo vừa mang nét mới mẻ của ơn cứu độ có tính phổ quát,
vừa mang tinh túy của từng vùng, từng nền văn hóa, tôn giáo, xã hội?
Đó là một nỗ lực đòi hỏi nhiều thời gian, trí tuệ và tình yêu.
Nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày qua đời của cha Matteo Ricci (1552-1610),
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã đề cao gương của vị tu sĩ Dòng Tên này.
Với thiện cảm sâu xa đối với văn hóa và tôn giáo của người Trung Hoa,
cha Matteo đã đem Tin Mừng đến để bổ sung những truyền thống tốt đẹp.
Cha hiểu biết về Khổng giáo như một nho gia uyên thâm,
và chấp nhận việc cúi mình để tôn kính Khổng Tử và các bậc tổ tiên.
Dùng kiến thức về khoa học của mình để phục vụ,
Cha là người vẽ bản đồ thế giới đầu tiên với nước Trung Hoa nằm ở giữa.
Mười năm cuối đời sống ở Bắc Kinh, cha viết sách biện giáo,
quen biết với nhiều học giả trong triều đình và đưa họ vào Kitô giáo.
Cách truyền giáo của cha Matteo khiến ta nghĩ đến dụ ngôn men và bột.
Người phụ nữ đã trộn men vào một lượng bột rất lớn.
Ba đấu bột bằng khoảng 50 ký bột, làm bánh đủ cho cả trăm người ăn.
Điều đáng ta để ý ở đây là chuyện trộn men vào bột.
Một lượng men nhỏ được người phụ nữ trộn đều với khối bột lớn.
Đây là một công việc vất vả, làm bằng tay.
Khi được trộn nhuyễn, ta không còn phân biệt được men với bột
Qui trình lên men đòi hỏi thời gian.
Men phát huy sức mạnh tiềm ẩn của nó, khi làm cả khối bột lên men, nở ra.
Bấy giờ ta mới nhận ra sự hiện diện ẩn dấu và tác động của men trong bột.
Khi ăn những tấm bánh thơm, chẳng ai thấy men, vì men đã thành bánh rồi.
Nhưng không có men thì cũng chẳng có bánh.
Đức Giêsu dùng dụ ngôn này để nói về Nước Trời.
Khởi đầu chỉ là một số lượng nhỏ bé,
nhưng với thời gian sẽ gây được một ảnh hưởng lớn lao và tốt lành.
Tỷ lệ người Công giáo tại Việt Nam không đông, một lượng men nhỏ.
Nhưng nếu chúng ta khiêm tốn có mặt và phục vụ giữa lòng dân tộc,
tôn trọng những giá trị văn hóa và tâm linh của đồng bào,
chúng ta có hy vọng làm cho khuôn mặt của Công giáo
trở nên phong phú hơn, dễ mến hơn và hấp dẫn hơn.
Phải chấp nhận như men bị chôn vùi, biến mất trong đống bột.
Phải có mặt ở mọi nơi, mọi ngành nghề, mọi lãnh vực nghiên cứu.
Nhưng cũng phải kiên nhẫn chờ men phát huy tác dụng.
Nếu chúng ta chẳng làm cho đất nước này thành tấm bánh thơm ngon,
nếu môi trường chúng ta đang sống, đang làm việc chẳng có gì tiến bộ,
chẳng công bằng hơn, huynh đệ hơn, hạnh phúc hơn, trong sạch hơn…
thì có khi chúng ta phải tự hỏi xem mình có còn là thứ men tốt không.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối,
và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian
một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến ru bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui
của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
29/07 Năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá
- Viết bởi Ga 6, 1-15
Năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá.
Chúa Nhật tuần 17 Thường Niên năm B.
"Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích".
Lời Chúa: Ga 6, 1-15
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật.
Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?" Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm.
Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút". Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người". Chúa Giêsu nói: "Cứ bảo người ta ngồi xuống". Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn.
Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích.
Khi họ đã ăn no nê, Người bảo các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi". Họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.
Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: "Thật ông này là Đấng tiên tri phải đến trong thế gian". Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: 2V. 4, 42-44; Ep. 4, 1-6; Ga. 6, 1-15
1. Bánh hóa nhiều
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe tôi ghi nhận hai thái độ để chúng ta suy nghĩ, đó là thái độ của các tông đồ và thái độ của dân chúng.
Thực vậy, Chúa Giêsu thương xót dân chúng vì đã ba ngày trời họ đi theo Ngài mà không có lấy một hột cơm bỏ vào bụng. Ngài biết mình sẽ giải quyết như thế nào. Có ông đề nghị: Thôi hãy giải tán mỗi người mỗi đường để họ tự lo lấy. Có ông đưa ra một giải pháp không thể thực hiện được: dẫu có đến 200 đồng bạc cũng không mua đủ thức ăn. Có ông đưa ra giải pháp tưởng như vô lý: ở đây chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá làm sao nuôi đủ đám đông. Các tông đồ của Chúa Giêsu đã thực thi bác ái như thế đấy. Phải chăng vì các ông không có tình yêu nên không làm phép lạ được.
Còn chúng ta, những tông đồ của Chúa trong ngày hôm nay, chúng ta sẽ nghĩ gì? Chắc chắn chúng ta không có hũ gạo như tiên tri Elia, phân phát hoài mà không hết. Chúng ta cũng chẳng có túi tiền không bao giờ cạn. Nhưng có lẽ vì không có tình yêu nên không làm được phép lạ nào cả. Một lời nói, một cử chỉ cũng có thể hoá nên phép lạ để người khác được ấm bụng, được an lòng.
Còn đối với đám đông dân chúng theo Chúa Giêsu, họ đang đói bụng, đang dao động, đang băn khoăn, đang lo âu, thế mà Chúa Giêsu lại bảo họ: Các con hãy ngồi xuống. Như thế, Ngài đòi hỏi dân chúng một điều khó khăn nhất, đắt giá nhất, đó là điều họ không muốn làm là phải ngồi xuống. Vì bao lâu họ còn đứng, còn đi lại được, họ còn có cơ may hy vọng kiếm chút gì để ăn. Một vài người, bằng hành vi phó thác đã bắt chước làm theo. Họ ngồi xuống tức là họ đã từ bỏ mình, từ bỏ ý riêng để cùng nhau làm một hành vi đức tin và đức mến. Chính vì họ mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ tình yêu, cho bánh hoá ra nhiều để nuôi sống họ giữa chốn hoang vu.
Có tình yêu mới phát sinh ra phép lạ. Bánh được chuyền tay nhau. Phép lạ đã xảy ra và mọi người được ăn no nê.
2. Chia sẻ
Quan đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy em nhỏ mà Philipphê giới thiệu đã nhường cho Chúa Giêsu 5 chiếc bánh và 2 con cái, để rồi từ chút lương thực khiêm tốn này, Chúa Giêsu đã làm phép lạ nuôi sống một đám đông cả ngàn người nơi hoang địa. Chúng ta ca ngợi thái độ của em nhỏ vì đó là thái độ chia sẻ, thắm tình bác ái và yêu thương, bởi vì nếu em nhỏ ấy vì ích kỷ, bo bo gữ lấy khẩu phẩn của mình, thì chưa chắc là phép lạ đã xảy ra.
Từ ý tưởng này, chúng ta đi vào bí tích Thánh Thể. Chúng ta có thể nói bí tích Thánh Thể chính là bí tích của sự chia sẻ, chính là bí tích của tình bác ái yêu thương. Thực vậy, khi lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ: Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là mình Thầy. Các con hãy cầm lấy mà uống, vì này là chén máu Thầy. Như vậy khi lên rước lễ, chúng ta cùng chia sẻ một của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn, đó là Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Hay như lời thánh Phaolô đã viết: Chúng ta tuy nhiều nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và trở nên một thân thể Đức Kitô.
Tinh thần chia sẻ và yêu thương này được biểu lộ một cách rõ ràng hơn qua nghi thức bẻ bánh, tức là bí tích Thánh Thể của những thế kỷ đầu. Thời ấy mỗi khi đi tham dự Thánh lễ, người ta đem theo bánh rượu và lương thực. Một phần được dùng để cử hành nghi thức, một phần được dùng để nuôi sống những người phục vụ bàn thờ, còn một phần được dùng để làm phúc bố thí cho kẻ nghèo. Rồi trong đời sống, người ta gom góp mọi sự làm của chung và phân phối cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của mình.
Mặc dù hình thức ấy ngày nay không còn nữa, nhưng tinh thần chia sẻ và yêu thương vẫn còn là điều chúng ta phải thực hiện mỗi khi chúng ta lãnh nhận bí tích Thánh Thể. Tinh thần ấy không phải chỉ được biểu lộ trong nhà thờ, khi chúng ta lên rước lễ, khi chúng ta chia sẻ Mình Thánh Đức Kitô, mà còn phải được biểu lộ trong đời sống bằng những hành động nhường cơm sẻ áo, kích lệ và nâng đỡ những người chung quanh, cho dù sự chia sẻ và nâng đỡ ấy chỉ là nhỏ bé như tục ngữ đã bảo: Miếng khi đói bằng gói khi no. Lá lành đùm lá rách. Vậy chúng ta đã thực hiện cái tinh thần ấy như thế nào.
Nhiều khi ở trong nhà thờ chúng ta rất đạo đức và sốt sắng, nhưng khi bước xuống lòng cuộc đời, chúng ta không chịu chia sẻ và giúp đỡ người khác, trái lại còn bóc lột, hà hiếp người khác bằng những hành động gian tham và bất công, bằng những cách đối xử tệ bạc và hận thù. Bởi đó, từ hình ảnh em nhỏ dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và 2 con cái, chúng ta hãy kiểm điểm xem chúng ta đã thực hiện được tinh thần chia sẻ và yêu thương mà bí tích Thánh Thể đòi buộc chúng ta hay chưa?
3. Cộng tác với Chúa.
Hãy cộng tác với ơn Chúa.
Thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta, Ngài cần chúng ta đồng ý và cộng tác với Ngài, bởi vì Ngài sẽ không thể cứu độ những ai không muốn. Và như thế, sự cộng tác của chúng ta dường như là một điều kiện cần thiết luôn đòi buộc mỗi người.
Hẳn chúng ta còn nhớ, trong hoang địa, ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu: Hãy làm cho những hòn đá này trở nên bánh mà ăn. Thế nhưng qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã không hành động như vậy. Ngài đã làm phép lạ từ năm chiếc bánh và hai con cá của một em nhỏ, hay nói đúng hơn từ một khẩu phần khiêm tốn mà một bà mẹ khôn ngoan và đầy tình thương đã đặt vào tay em, trước khi em lên đường. Sự góp phần của em tuy nhỏ bé nhưng Chúa đã làm cho trở nên to lớn, khả dĩ hàng ngàn người được no đủ giữa một nơi hoang vắng. Đó cũng là cách thức Chúa thường làm trong dòng lịch sử.
Thực vậy, trong Cựu Ước Đavít chỉ là một cậu bé chăn chiên tầm thường, nhưng cộng tác với Chúa, cậu đã đánh thắng tước Goliat và trở nên một vị vua nổi tiếng của dân Do Thái. Cũng vậy, Giêrêmia chỉ là một cậu bé còn nói cà lăm, nhưng vâng lệnh Chúa, đã trở nên một tiên tri sáng chói.
Bước sang Tân Ước, chúng ta cũng thấy được một lề lối, một cách thức hành động như thế. Mẹ Maria chỉ là một cô thôn nữ âm thầm bé nhỏ, không được ai biết đến. Nhưng sau lời xin vâng, cộng tác với Chúa, Mẹ đã trở nên Mẹ của Đức Kitô, Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của chính Thiên Chúa.
Mười hai tông đồ cũng vậy. Các ông phần đông chỉ là những ngư phủ quê mùa và dốt nát, đơn sơ và chất phác. Thế nhưng, một khi đã đáp trả lại tiếng gọi của Chúa, thì Chúa đã biến đổi để các ông trở thành những sứ giả Tin Mừng, những chứng nhân của tình thương và chân lý. Tiếng nói của các ông đã vang vọng khắp nơi và ảnh hưởng của các ông trải dài trong dòng thời gian.
Nhìn vào lịch sử Giáo Hội, chúng ta cũng nhận thấy biết bao nhiêu kẻ tội lỗi, biết bao nhiêu kẻ tầm thường, nhưng một khi quay trở về cùng Chúa và nhất là cộng tác tích cực với Chúa, đã làm nên những việc trọng đại và kỳ diệu.
Rất có thể phần cộng tác của chúng ta thì nhỏ bé và tầm thường, nhưng dưới tác động của Chúa, nó sẽ trở nên to lớn và có một giá trị đáng kể dưới mắt Chúa. Một giọt nước lã, thì chẳng có gì đáng kể, nhưng nếu giọt nước lã ấy được hoà tan trong chén rượu, và sau lời truyền phép của vị linh mục, cũng sẽ trở nên máu thánh Đức Kitô.
Bởi đó điều quan trọng là chúng ta đã thực sự sống theo những hướng dẫn của Chúa hay chưa? Chúng ta đã thực sự cộng tác với Ngài trong việc thánh hoá bản thân cũng như cải tạo môi trường xã hội hay chưa?
4. Sống quảng đại
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu này được thể hiện rõ nhất và cụ thể nhất nơi con người Đức Giêsu. Thế nên, đến trong thế trần Đức Giêsu vừa rao giảng Nước Trời, vừa làm nhiều phép lạ chữa mọi thứ tật bệnh cho dân chúng. Không những Ngài quan tâm đến phần rỗi nhân loại mà Ngài còn quan tâm đến thân xác con người. Ngài đem lại ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác. Và hôm nay Ngài làm phép lạ để cho dân chúng ăn no nê. Ngài đã cho các môn đệ cộng tác trong phần của mình để có phép lạ xảy ra.
Con người cần sống liên đới trong tình thương. Từ phép lạ này, Thánh Gioan trình bày cho chúng ta biết các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông cũng có lòng thương nhưng chỉ ở mức "tội nghiệp" họ nên thưa với Chúa: "Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn". Đó là thứ yêu thương bình thường. Nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, vì thế, Chúa Giêsu muốn các môn đệ đi xa hơn, thể hiện tình thương bằng việc làm cụ thể, liên đới với tha nhân trong đó có phần của các ông đóng góp tích cực, có phần các ông cộng tác "các con hãy cho họ ăn".
Thực tế, có tấm lòng thương người khác là một điều tốt rồi nhưng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, thực sự. Chúa Giêsu thể hiện và Ngài muốn chúng ta làm như thế. Như vậy, có lòng trắc ẩn, cảm thông là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất là biết chia sẻ, biết san sẻ, giúp đỡ một cách cụ thể. Chúa không đòi chúng ta phải làm quá sức mình, hay những việc ngoài khả năng nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, giúp đỡ, phải biết làm những gì có thể làm được trong tầm tay, trong khả năng của mình, phần còn lại Chúa sẽ tiếp tay thực hiện. Điều khác cũng quan trọng không kém là không phải cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra người khác cũng là con Thiên Chúa, là anh em của chúng ta.
Hơn nữa, chúng ta hãy biết cộng tác. Thật thế, nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng ngàn người ăn no nê, thoải mái. Có thể nói cũng vậy, nếu không có bánh, Chúa Giêsu vẫn có thể làm được phép lạ. Nói tóm lại, một mình Chúa có thể làm được mọi sự, không cần ai cộng tác, không cần vật liệu nào cả, với quyền năng vô biên, bởi vì theo Thánh kinh, từ thuở ban đầu Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ từ trong hư vô (Stk 1, 1 - 24) Chúa chỉ cần phán một lời là tức khắc có ngay, tức khắc có dư thừa bánh cho mọi người ăn. Tuy nhiên ở đây Chúa muốn cho các môn đệ và tất cả chúng ta thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, dù rất nhỏ của một em bé. Em đã trao tất cả cho Chúa và Ngài dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Vì thế, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm phép lạ.
Như vậy, Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh, nên Chúa bảo các ông: "Anh em hãy cho họ ăn", nên chúng ta thấy khi các môn đệ tìm được năm chiếc bánh và hai con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta là Chúa cần có sự cộng tác của mỗi người trong chương trình của Thiên Chúa. Đối với chúng ta, bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng hy sinh, không phải chỉ trong đời thường thôi, nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Augustinô nói: "Thiên Chúa tạo dựng con, Ngài không cần hỏi ý kiến con, nhưng để cứu chuộc con, Ngài cần có sự cộng tác của con".
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa Giêsu bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng chúng ta để Ngài sử dụng theo ý Ngài muốn? Nói rộng hơn, chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi khả năng của mình như người đàn ông trong bài đọc thứ nhất và như cậu bé trong bài Phúc Âm hôm nay đã làm chưa? Chúa Giêsu đang ngỏ lời với chúng ta "Ta cần lòng quảng đại của các con". Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh Thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì. Chẳng hạn như thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta. Ngài sẽ sử dụng nó để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã biến đổi những ổ bánh và hai con cá trong bài Phúc Âm hôm nay vậy. Đấy chính là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta trong những bài đọc hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa cho chúng con biết quảng đại bằng cách cộng tác với nhau và nhất là cộng tác với ơn Chúa để làm cho cuộc đời này lan tràn tình thương của Chúa và phép lạ được tiếp tục thể hiện.
5. Cơm bánh hằng ngày
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Cơm bánh ai cũng cần mỗi ngày để sống. Lời Chúa cho thấy tiên tri Elisha cho dân bánh ăn, nhưng lần tới cội nguồn thì chính Thiên Chúa mới là Đấng cho dân bánh ăn. Thiên Chúa nuôi nấng và dưỡng dục dân Người. Thiên Chúa cũng mời gọi mỗi người hãy giúp người khác sống.
I. Tiên tri cho dân ăn theo lệnh của Đức Chúa
Để có một chén cơm miếng bánh, con người đã phải tốn bao công lao. Từ mảnh đất khô cằn, con người đã phải cày xới, gieo hạt, vun trồng; một khi hạt lúa chín, con người tốn công lao sức lực để thu lượm, làm ra hạt, phơi nắng để có hạt lúa đạt yêu cầu. Để đến được với người dùng, bao người đã phải làm công tác chuyên chở; và rồi nhờ người nghiền bột hay nấu cơm, với bao tâm sức và tình yêu, mới có miếng cơm tấm bánh cho con người ăn và bồi bổ sức lực. Với bao công sức và tình yêu của tha nhân, tôi mới có cơm bánh để sống mỗi ngày.
Tiên tri Elisha cho dân ăn bánh theo lệnh của Đức Chúa, tuy chỉ có hai mươi ổ bánh nhưng cả trăm người ăn mà còn dư. Đây là dấu lạ tiên tri Elisha đã làm. Lịch sử dân Do Thái cho thấy, ngay thời dân ra khỏi Aicập, khi họ lang thang trong hoang địa không nước uống không bánh ăn, Thiên Chúa cũng đã ban Manna để nuôi sống dân. Đức Giêsu trong một lần đối đáp với người Do Thái, đã nói: không phải Môsê ban bánh bởi trời nhưng chính Cha Ta ở trên trời đã ban bánh nuôi cha ông các ngươi (Ga.6, 32).
“Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề khó nhọc cũng là uổng công; thành kia mà Chúa không gìn giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm” (Tv.127, 1). Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho cây hạt nẩy mầm, đơm bông kết trái. Con cái được cha mẹ thương yêu, được nuôi nấng giáo dục; nhưng truy tới ngọn nguồn, chính Thiên Chúa là cha là mẹ, chính Thiên Chúa là Đấng yêu thương và nuôi dưỡng con người qua cha mẹ mỗi người.
II. Đức Giêsu là bánh nuôi sống con người
Đức Giêsu cũng hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn. Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều vì Ngài thương cảm dân chúng đói khát. Khi dân chúng nhận ra Ngài là một tiên tri và muốn tôn Ngài làm vua, Ngài đã trốn lên núi một mình cầu nguyện. Chính vì thương dân chúng, nên Ngài đã cho dân ăn. Đức Giêsu chỉ hóa bánh ra nhiều cho một số rất ít người ăn; và đây là dấu chỉ cho điều gì tuyệt vời hơn Ngài sẽ làm sau này.
Đức Giêsu không chỉ hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng, nhưng Ngài đã ban chính thân mình Ngài làm của ăn của uống nuôi sống con người. Đức Giêsu đã là tấm bánh bẻ ra cho con người, để con người được sống. Bàn tiệc Mình Máu Thánh Đức Giêsu Kitô quy tụ Kitô hữu, nuôi sống đời sống đức tin của mỗi Kitô hữu, và cùng trong bàn tiệc Thánh Thể dân Chúa được Lời Chúa dạy dỗ mỗi ngày.
Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa thành người. Chính vì yêu con người mà Lời Thiên Chúa đã thành người. Ngài thành người để nên mẫu gương sống cho mọi con người. Ngài vẫn luôn kết hiệp với Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, Ngài cũng phải đói phải khát, Ngài cũng sống những nặng nề của thân xác con người. Ngài là một người trọn vẹn như bao người trên trần gian này, như mỗi người chúng ta. Ai cảm thấy gì, Ngài cũng cảm thấy như vậy. Ngài chỉ khác hầu hết người ta trong việc sử dụng tự do: không bao giờ Ngài phạm tội. Không bao giờ Ngài làm điều gì mà Ngài thấy không được phép làm. Hơn nữa, Ngài sẵn sàng hủy bỏ chính mình, để ích lợi cho con người, những người mà Ngài chấp nhận như anh em mình.
III. Mỗi người được mời gọi để trở nên tấm bánh giúp tha nhân sống
Một người đói khi được cho ăn “nhưng không” sẽ dễ dàng cảm nhận tình yêu được trao ban qua miếng cơm tấm bánh hơn một người sung túc đầy đủ cơm bánh hằng ngày. Một người nghèo đói mà có cơm bánh, sẽ dễ dàng rung động và hạnh phúc trước tình yêu của Thiên Chúa và ân nhân hơn là những người giầu có sung túc. Dưới khía cạnh này, nghèo là một mối phúc vì nó giúp con người cảm nhận tình yêu và hạnh phúc.
Mỗi người được mời gọi để trở thành tấm bánh cho người khác, để giúp người khác sống và sống triển nở hạnh phúc. Để có thể trở thành tấm bánh giúp nuôi sống người khác, mỗi người cũng phải hy sinh công sức thời gian như một người làm nông vất vả, như một người nội trợ làm bánh, như một người dọn bàn, như một người phục vụ, để trở thành dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa cho tha nhân.
Mỗi Kitô hữu được gọi để trở nên một Giêsu khác, nên giống thầy Giêsu chí thánh, sống vì mọi người và cho mọi người. Một người làm cha làm mẹ được mời gọi trở nên tấm bánh cho con cái mình; những mục tử được mời gọi trở nên tấm bánh cho đoàn chiên, để đoàn chiên có thể được sống, sống triển nở và hạnh phúc. Mỗi người là con cái Thiên Chúa, có Thiên Chúa là Cha mình, và Thiên Chúa mời gọi mỗi người trong cách sống cách cư xử hãy trở nên giống Thiên Chúa, trở nên giống Đức Giêsu. Khi mỗi người nên giống Đức Giêsu, cuộc sống của họ và của những người sống với họ sẽ bình an và hạnh phúc hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Một người nói: “Qua miếng cơm tấm bánh con người có thể nhận ra Thiên Chúa hiện diện và yêu thương”. Theo bạn, người nói câu này có là người thực tế không? Tại sao?
2. Lời mời gọi trở nên tấm bánh cho tha nhân, là gánh nặng hay vinh dự cho bạn? Tại sao?
6. Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)
CHÚA GIÊSU CẦM LẤY BÁNH TẠ ƠN
VÀ PHÂN PHÁT CHO HỌ ĂN NO NÊ
Từ ngày 18 tháng 06 đến ngày 18 tháng 07 năm 1994, màn hình ti vi thế giới chiếu hai cảnh trái ngược nhau. Một cảnh hàng triệu người Rwanda tị nạn, đói khổ, đang chạy trốn cuộc tàn sát chủng tộc đẫm máu. Một cảnh hơn ba triệu rưỡi người kéo nhau đi xem 52 trận đấu bóng đá cúp thế giới tại nước Mỹ, họ tiêu xài cả chục tỷ dollars. Hai phần ba nhân loại đói khổ vì tầng lớp cường quyền tham vọng gây ra cảnh chiến tranh, đàn áp, bóc lột. Một phần ba giàu có, không biết chia sẻ cho người nghèo, mà chỉ lo ăn chơi phung phí. Họ lấy đâu ra tiền của đó? Không phải lấy ở loài người vì người ta sinh ra trần trụi như ông Gióp nói: “Tôi sinh ra trần truồng”. Không phải moi của trời đất, vì trời đất vô tri vô giác, biết gì mà cho. Phải nói như Kinh Thư của tổ tiên các dân tộc phương Đông rằng: “Thiên sinh chư dân hữu vật, hữu tắc” – Trời sinh muôn dân, cho có muôn vật, phép tắc. Người Việt Nam cũng nói: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Như vậy, tất cả của cải trong trời đất đều do Thiên Chúa ban. Thế mà họ dư tiền của, họ không biết chia sẻ cho đồng loại nghèo đói. Họ sẽ bị Thiên Chúa đòi đến mà bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, Ta đã tha hết nợ cho ngươi … thì ngươi, ngươi cũng phải thương xót đồng loại như chính Ta đã thương xót ngươi chứ?” (Mt. 18, 32-33). Họ chẳng khác gì như những tá điền sát nhân, giết người cướp vườn nho của chủ (Mt. 21, 33-41). Họ sống trái ngược với Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy đám dân chúng đói khát, Người liền hỏi môn đệ Philip: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?” Philip đã cố gắng đáp với giọng bất lực: “Dạ, dù có mua đến hai trăm đồng bánh cũng không đủ cho mỗi người một chút”.
Thời đó hai trăm đồng có thể mua được 4.000 chiếc bánh như ngày nay. Nhưng Thầy và môn đệ lấy đâu ra số tiền lớn đó. Dù có tiền, thì ở nơi đồi núi hoang vu, lấy đâu ra bánh cho họ ăn, vì chỉ kể số đàn ông đã tới năm ngàn.
Anrê còn bồi thêm một câu tuyệt vọng nữa: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá”. Cho thấy đám dân chúng quá nghèo. Họ theo Chúa chỉ có hai bàn tay trắng. Họ lấy đâu ra ăn. Tin mừng nói: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ ăn”. Người đã dâng lời tạ ơn Chúa Cha. Người biết Chúa Cha giàu lòng thương yêu dân chúng. Người đã cầu xin Chúa Cha nhìn đến nỗi khổ của dân chúng. Nhờ đó, họ muốn ăn bao nhiêu tùy ý. Họ được ăn no nê thỏa thích, nên ào ào chạy đến tôn vinh Chúa Giêsu làm vua.
Chúa Giêsu lánh mặt, đi lên núi một mình, vì đó là thói tôn vinh thế gian. Trước kia, Người đã thẳng tay đuổi tướng quỷ đem bả vinh hoa cai trị cả thiên hạ ra cám dỗ Người.
Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho họ ăn, không phải để được tôn vinh, mà để cho họ thấy tình thương của Thiên Chúa hằng nuôi sống loài người từ khi tạo thành vũ trụ vạn vật, như Thánh vịnh 144, 16: “Chúa thương mở tay ra và thi ân cho mọi sinh vật được no nê”. Suốt chiều dài lịch sử loài người hoàn toàn sống nhờ vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa không dựng nên vũ trụ vạn vật, như một kho tàng vô tận, con người phải tự lực cánh sinh thì có lẽ chỉ năm mười phút, cả loài người đều bị tiêu diệt. Thật vậy, những thứ con người cần thiết nhất, cần nhiều nhất, như không khí, nước uống, ánh sáng, nhiệt lượng, môi sinh v.v… thì con người hoàn toàn hưởng không, không phải làm gì. Thiên Chúa chỉ muốn con người cộng tác một chút xíu, như cày cấy, chăm bón, gặt hái, biến chế cho có lương thực ăn uống và đồ dùng tạm bợ. Sự cộng tác đó quá bé nhỏ, như em bé chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá dâng lên Chúa Giêsu để Người làm phép lạ cho hơn chục ngàn người ăn, nếu kể cả nữ giới và thiếu nhi.
Nhưng một chút đóng góp đó thôi cũng đủ cho Thiên Chúa hài lòng để Ngài ban cho những phép lạ vô cùng lớn lao hơn nữa như phép lạ, phép Thánh Thể. Không phải vô tình mà thánh Gioan viết: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua”. Nói đến lễ Vượt qua là nói đến cuộc giải phóng dân Do thái thoát ách nô lệ Ai cập, nói đến cuộc phục sinh cả một dân tộc chết trong nơi lưu đầy, chết trong thờ tà thần. Thánh Gioan nói đến lễ Vượt qua, chính là để cho mọi Kitô hữu nhớ đến Đức Giêsu đã vượt qua cái chết để sống lại, và tín hữu muốn vượt qua cái chết để sống lại vinh hiển với Đức Giêsu thì phải ăn bánh hằng sống, “chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga. 6, 51).
Lạy Chúa, Chúa không ngừng kêu gọi con như hiền triết Diogène đã khuyên: “Đừng bao giờ sung sướng được làm con heo vỗ béo”. Đừng bao giờ quên rằng Đức Giêsu đã cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho họ ăn no nê. Xin cho con biết dâng lên Chúa hằng ngày một chút bánh như em bé có năm chiếc bánh và hai con cá để Chúa làm phép lạ nuôi sống muôn người.
7. Những người thiện nguyện – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Hàng năm, cứ vào ngày 5-12 toàn thế giới mừng ngày "Những Người Thiện Nguyện Quốc Tế". Đây là ngày dành để tri ân những con người hiến thân phục vụ không công cho đồng loại, và cũng là ngày mời gọi mọi người dấn thân phục vụ tha nhân.
Được thành lập từ năm 1986, đến nay tổ chức đã có khoảng 35 cơ quan thiện nguyện chiêu mộ và gửi người đi khắp nơi để phục vụ mọi tầng lớp trong xã hội.
Từ một thanh niên làm việc tại các nước nghèo cho đến chuyên viên tổ chức các cuộc lạc quyên. Từ một cán sự y tế phục vụ thổ dân Châu Phi cho đến các chuyên gia phục vụ dự án phát triển các nước thuộc Thế giới thứ ba. Tất cả đều được thúc đẩy bởi một tinh thần phục vụ yêu thương, một tấm lòng nhân ái vị tha.
Ngày Quốc Tế Những Người Thiện Nguyện là bài ca dành cho một nhân loại đang nỗ lực vươn tới một thế giới đầy tình nhân ái.
***
Đức Giêsu chính là mẫu gương sáng ngời của những con người thiện nguyện. Người không chỉ sống nghèo, mà còn sống cho người nghèo. Người không chỉ rao giảng Nước Trời, mà còn chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người đem ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Hôm nay, Người "nuôi năm ngàn người ăn no". Người biết lòng họ rất vui khi nghe giảng, nhưng Người cũng biết bụng họ rất đói, Người muốn tặng họ một bữa ăn đơn giản, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời. Bữa ăn tràn đầy niềm vui.
Nhưng niềm vui chỉ được trọn vẹn khi có những con người thiện nguyện: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?" (Ga.6,5). Đức Giêsu đặt các tông đồ vào nỗi bận tâm của Người. Người cần sự cộng tác của họ. Người cần những con người thiện nguyện. Người cần một Anrê giới thiệu một bé trai. Người cần một bé trai dâng tặng bữa ăn trưa của mình. Người cần các tông đồ ổn định chỗ ngồi. Chính nhờ những con người thiện nguyện ấy, mà phép lạ được thực hiện.
Năm 1999 Giải Nobel Hòa Bình đặc biệt dành cho tập thể những con người thiện nguyện. Đó là "Tổ Chức Các Thầy Thuốc Không Biên Giới". Những con người này suốt đời hiến thân cho tha nhân không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị. 980.000 đôla tiền thưởng của họ cũng sẽ được dành cho những con người bất hạnh trên toàn trái đất.
Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giàu sang phú quí. Vậy cái đói trên thân xác vẫn còn làm quay quắt con người thời nay. Có biết bao tâm hồn thiện nguyện xót xa trước cảnh đói nghèo đã bắt tay vào cuộc với niềm tin: dù chỉ với "năm chiếc bánh và hai con cá". Thiên Chúa cũng sẽ làm cho con người được no nê ân phúc. Người sẽ biến đổi gương mặt thế giới trở nên nhân bản hơn. Người sẽ tô điểm cho bộ mặt trái đất trở nên tươi tốt hơn.
Thế giới này cần những con người thiện nguyện dám sống chết cho tha nhân. Thế giới này cần các tín hữu Kitô dám đưa những bàn tay ra để chia sẻ nâng đỡ. Thế giới này cần có những Phanxicô Assisi, Mahatma Gandhi, Albert Shcweitzer, Têrêxa Calcutta… để ra đi phục vụ muôn người khốn khổ bất hạnh.
****
Lạy Chúa, Chúa không ngừng khơi dậy trong chúng con những tâm hồn quảng đại, những con tim hiến thân cho đồng loại. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng góp phần bé nhỏ của mình trong công việc phục vụ anh em nghèo đói chung quanh chúng con. Amen.
8. Ước mơ bình thường được đáp đền đặc biệt
Hạnh phúc đâu chỉ có cơm ngon và áo đẹp! Khi đời sống con người ngày càng không đơn giản, quan niệm về hạnh phúc cũng lắm phức tạp. Khi nhu cầu mỗi ngày một cao thì quan niệm về hạnh phúc cũng dần dần đổi khác. Người sống trong đói nghèo hạnh phúc chỉ là bữa cơm no. Người sống trong binh biến, hạnh phúc là nỗi khát mong xoá bỏ hận thù, im bặt tiếng súng. Nhưng khi mọi nhu cầu thường ngày được đáp ứng người ta lại hướng về những ước vọng cao hơn, xa hơn: nhu cầu chiếm hữu, nhu cầu muốn trổi vượt hay chinh phục vũ trụ thiên nhiên.
Ngày 20.7.2009 vừa qua thế giới kỷ niệm 40 năm lần đầu tiên con người đặt chân lên cung trăng ngày 20.7.1969. Hai tên tuổi được nhắc đến là Amstrong và Buzz Aldrin là những người khai màu cho những ước mơ lớn và đã trở thành hiện thực. Con người đã làm được điều mình ước mơ.
Nhìn đoàn dân đi theo Chúa Giêsu mỗi người mang một ước mơ khác nhau. Người theo vì sự hiếu kỳ muốn chứng kiến điềm lạ. Người theo kiểu "phong trào" để giống với bao nhiêu người khác. Người theo với hy vọng đổi đời theo nghĩa trần thế. Người theo với ý hướng tôn giáo như Tin Mừng mời gọi: Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần. Phép lạ hoá bánh ra nhiều hôm nay là dấu hiệu đáp đền cho những ước vọng dân chúng. Đây là bữa ăn đặc biệt vì có nhiều điểm đặc biệt.
Đặc biệt vì không mất "tiền"
Nói đến bữa ăn không mất tiền không mang ý nghĩa tính toán thiệt hơn, lời lỗ cho bằng nhắc nhớ đây là ân ban của Thiên Chúa. Một ân ban mà con người có được không tốn một đồng xu. Ân ban vừa đáp ứng nhu cầu tâm linh vừa lắp đầy cả nhu cầu vật chất.
Những ai bước đi theo Chúa, cách này cách khác đều có quà tặng của Người. Có những bệnh nhân được chữa khỏi dọc đường. Có kẻ tội lỗi được kêu mời hoán cải. Khi thấy họ còn khắc khoải về phận người thì Chúa Giêsu nói cho họ về Tám Mối phúc thật.
Nhu cầu tâm linh đã được chú ý nhưng nhu cầu vật chất cũng được quan tâm. Chúa Giêsu đã thấy được cái đói rã rời, mệt lã và cả cái đói khắc khoải, lo âu. Nhiều cái đói hoà trộn với nhau làm choán ngợp phận người. Có cái đói có tiền mới thoát khỏi, có cái đói có tiền cũng chẳng ăn thua. Chính Chúa xuất hiện đã làm tan biến mọi điều mà không cần con người phải vay trả trả vay.
Đặc biệt vì cần đến "tình"
Tình thương Thiên Chúa luôn dạt dào nhưng công việc của Ngài không làm cách đơn phương. Ngài muốn con người có phần cộng tác. Dù đóng góp nhỏ nhoi nhưng đó là dấu hiệu của lòng thành. Chữ "tình" muốn nói đến ở đây đó là tình thương chia sẻ, tình thương quan tâm đến người. Quan tâm bằng cái nhìn thấu hiểu, chia sẻ bằng những gì sẵn có trong tay.
Theo William Barclay, năm chiếc bánh lúa mạch của bé trai là loại bánh rẽ tiền. Bánh lúa mạch là loại bánh bị khinh chê, vì lúa mạch là lương thực của gia súc. Do đó bánh lúa mạch là bánh của người nghèo. Còn cá cũng vậy, kẻ nghèo đâu được ăn cá tươi. Cá đứa bé chỉ là thứ cá thường, được ngâm muối, bắt lên từ biển Galilê. Đây là thức ăn phổ thông mà người trong vùng thường sử dụng.
Chúa không khinh chê sự đóng góp nho nhỏ của con người. Năm chiếc bánh cho năm ngàn người, tỉ lệ một phần ngàn thấm tháp vào đâu. Phải thừa nhận của cho ở đây không đáng giá nhưng cái tình thì quý biết bao. Tình của người quan tâm đóng góp, tình dân chúng quay quần trong bữa ăn, tình của Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót họ.
Đặc biệt vì cần đến "tin"
Phép là sẽ là niềm vui thoáng qua nếu nhiều người xem Chúa Giêsu như một ông Bụt trong chuyện cổ tích. Ông Bụt thường xuất hiện để ban bố khi con người cầu xin. Niềm tin đưa con người nhận ra Chúa Giêsu còn vượt xa ông Bụt nhiều. Từ bữa ăn trên thảm cỏ hôm nay Ngài mời gọi họ đến một bữa ăn ấm cúng trên Nước trời. Thức ăn bánh và cá sẽ được đổi bằng Thịt Máu Ngài.
Đức tin giúp con người thấy được sự thánh thiêng trong những gì thuần vật chất, thấy được phục vụ là niềm vui, thấy được cho có phúc hơn nhận. Phân phát bánh có vẻ vui hơn, chứ thu lại những mãnh vụn thì chẳng thích thú gì. Trong đức tin ta mới tìm thấy niềm vui trong phục vụ. Tình nhiều khi không cũng có nhưng đức tin cần có sự góp nhặt ân ban từng ngày mới có kinh nghiệm đức tin và sống đức tin.
Từ bữa ăn đặc biệt Chúa Giêsu muốn hình thành nơi mỗi người chúng ta một cách sống đặc biệt. "Chúng con sống giữa thế gian nhưng chúng con không thuộc về thế gian". Sự phục vụ vô vị lợi, giúp người không tính toán, sống với nhau trọn chữ tình, sống với Chúa trong cậy tin đó là dấu hiệu đặc biệt chứng nhận ta thuộc về Đức Kitô. Ước mơ lớn nhất của chúng ta là được tham dự trong tiệc vui Nước Chúa. Bữa ăn đặc biệt cần có những con người đặc biệt.
9. Hãy cảm tạ ơn Chúa
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CMC)
Ông Tâm là một nông gia. Ngày kia, sau khi bán hết nông phẩn chở từ Cái Sắn lên thành phố Hồ Chí Minh, ông ghé vào tiệm để ăn một bữa trước khi trở về. Ông ngồi gần bàn một nhóm cán bộ đang hạch hỏi làm khó dễ người chủ tiệm và chọc ghẹo cô chiêu đãi viên. Khi món ăn đã đem đến cho ông, ông nghiêm trang làm Dấu Thánh Giá và cúi đầu thầm thĩ đọc kinh trước khi dùng bữa như thường quen. Thấy thái độ đạo đức của ông, bọn cán bộ tỏ vẻ tức tối khó chịu muốn gây sự với ông, thế là một tên trong bọn quát thật lớn như muốn cho mọi người trong tiệm ăn đều có thể nghe được: "Này bác già nhà quê kia ơi, bác từ đâu tới vậy? Trong thời buổi văn minh Xã Hội Chủ Nghĩa này mà còn kinh với kệ như vậy sao?" Rất bình thản, ông Tâm quay lại, với giọng ngọt ngào nhưng trịnh trọng cũng nói lớn tiếng, cốt ý cho mọi người có thể nghe được: "Thưa đồng chí cán bộ, tôi thiết tưởng, chỉ có bày heo, bày chó mới không đọc kinh cảm tạ ơn Chúa như vậy trước khi dùng bữa thôi!"
Mẩu truyện trên đây xảy ra giữa một Xã Hội Chủ Nghĩa mà kẻ thống trị đang ở thế mạnh, thì thật là một điều nguy hiểm đáng sợ. Không biết rồi ra số phận ông nông gia sẽ đi về đâu. Nhưng dầu sao, thái độ can đảm của ông cũng nêu cho chúng ta một mẫu gương đức tin sống động và lòng biết ơn Thiên Chúa, khiến chúng ta phải suy nghĩ và hết lòng cảm phục.
I. NHÂN LOẠI ĐANG ĐÓI KHÁT
Bài sách Các Vua chúng ta vừa nghe, thuật lại mối cảm thương của nhà tiên tri trước cảnh đói khát của hàng trăm người đang chờ đợi ông, nên khi vừa nhận được lễ vật là 20 chiếc bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa do một người từ Baal Salisa đem đến dâng, người của Thiên Chúa đã truyền ngay cho các đệ tử ngài phân phát cho dân chúng ăn. Chỉ có 20 chiếc bánh mà hàng trăm người ăn no mà vẫn còn dư đúng như lời Chúa đã phán trước.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng tường thuật một phép lạ vĩ đại, Chúa đã dùng 5 cái bánh lúa mạch và 2 con cá, nuôi 5000 người đang đói, ăn no thỏa thích mà phần còn dư thu lại được đầy 12 thúng. Thấu tỏ nỗi thống khổ của nhân loại đang đói khát, không phải họ chỉ đói khát cơm bánh mà thôi, mà còn đói khát lương thực thiêng liêng, đói khát Chân Lý và Lời Hằng Sống, nên Chúa rất động lòng thương phán với các môn đệ: "Thầy thương xót đám dân đông đảo này, vì họ bơ vơ như Đoàn Chiên không người chăn dắt".
Ngày nay, thảm cảnh đói khát ấy vẫn còn đang diễn ra khắp đó đây trên thế giới. Cảnh đói khát cơm bánh thuốc thang và những nhu cầu vật chất tại các nước nghèo nàn chậm tiến đã khiến hằng năm có từng triệu, từng triệu người bị chết đói, nhất là ở Ấn Độ, Phi Châu hoặc nơi các nước thuộc quyền đảng cộng sản thống trị, như các nước Nga Sô, Trung Cộng, Việt Nam chẳng hạn, lại càng thảm khốc hơn nhiều. Nhưng còn một cơn đói khát thảm khốc hơn bội phần, đó là cơn đói khát lương thực thiêng liêng, đói khát chân lý, đói khát tình thương yêu, đói khát sự công bình xã hội, đói khát quyền tự do nhân bản... Cơn đói khát này đã làm cho con người phải héo hắt mòn mỏi, đến nỗi nhiều người đã trở nên điên khùng, và vì quá khổ đau, quá căng thẳng khiến họ bị quẩn trí, đến phải quyên sinh, tự vẫn cách tất tưởi.
II. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA THẾ NÀO
Chúng ta phải chân thành thú nhận rằng: Chúa ban cho chúng ta được may mắn hơn nhiều người, được thoát ách cộng sản độc tài, đến mảnh đất tự do này. Chúng ta được đầy đủ về mọi phương diện cả tinh thần lẫn vật chất hơn biết bao người khác. Ngoài những nhu cầu vật chất, cơm ăn, áo mặc, đồ dùng, nhà cửa, xe cộ... Chúng ta còn được hưởng tình thương yêu, đức công bình xã hội, sự tự do: Tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do cư trú... Chúng ta không bị chèn ép, bị đe dọa, bị nhòm ngó rình rập như số phận của đồng bào chúng ta đang phải chịu bên quê nhà.
Đành rằng, có một số người trong chúng ta cũng phải chịu cảnh thiệt thòi đôi chút, vì thời vàng son không còn nữa, chức vị Tướng Tá, Bộ Trưởng, Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng... không còn nữa. Nhưng bù lại, con em chúng ta lại có nhiều cơ hội tiến thân, được hội nhập vào xã hội văn minh tân tiến, mở mang kiến thức, trau dồi nghệ thuật, thăng tiến cuộc sống, để trong tương lai khi được trở về quê hương, xây dựng đất nước, làm nở mặt rạng danh cha mẹ; con em chúng ta sẽ thay thế chúng ta tất cả những gì chúng ta chưa thể làm cho dân tộc như lòng chúng ta mong muốn.
Nhiều người trong số đồng bào Việt Nam chúng ta ở hải ngoại này chưa nhìn nhận ra ơn Chúa ban, họ chỉ biết phàn nàn trách móc thời cuộc, trách móc người lãnh đạo, trách móc cả Thiên Chúa nữa... Còn chúng ta, là con cái Chúa, chúng ta cần có thái độ nào trước những ơn phúc Chúa đã ban cho chúng ta? Trong khi chúng ta được may mắn, hưởng biết bao ơn lành Chúa ban, mà đồng bào và thân nhân chúng ta ở bên quê nhà, cũng như biết bao người nghèo đói thiếu thốn khổ cực trên thế giới không được hưởng, họ thèm khát số phận của chúng ta mà không được.
Thiết tưởng, không gì hơn, chúng ta hãy noi gương Chúa, động lòng trắc ẩn trước cảnh đói khát, trước nỗi khổ đau của nhân loại, nhất là của đồng bào và thân nhân nghèo khổ của chúng ta còn ở bên quê nhà, mà rộng tay quảng đại cứu giúp họ, bằng bất cứ cách nào có thể vừa tầm tay của chúng ta.
Thứ đến, chúng ta hãy cảm tạ ơn Chúa vì những ơn Chúa đã ban cho chúng ta, nhất là chúng ta hãy lo sống đạo, thánh hóa cuộc sống, tìm Nước Thiên Chúa và sự Công Chính của Người trước hết; đồng thời, chúng ta hãy hoàn toàn đặt niềm tin tưởng nơi lòng nhân từ quảng đại của Thiên Chúa, luôn thuần phục thánh ý Người trong mọi cảnh huống của cuộc đời, Người sẽ định liệu và ban cho chúng ta những ơn cần thiết, miễn sao lợi ích cho linh hồn chúng ta theo sự khôn ngoan quan phòng của Người.
Kết Luận
Trước mỗi lần Chúa Kitô làm một phép lạ thương giúp nỗi khốn cùng của người nào, hoặc mỗi khi Chúa dọn bữa cho dân chúng ăn, như trường hợp Chúa làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều nuôi dân chúng, Chúa luôn dâng lời ngợi khen chúc tụng lên Thiên Chúa Cha để tạ ơn Người và xin Người rộng tay ban ơn giáng phúc cho nhân loại những nhu cầu cần thiết.
Chúng ta cũng hãy cố giữ thói quen đạo đức này và tập cho con em chúng ta duy trì việc dâng lời ngợi khen và cảm tạ Chúa trước sau bữa ăn; cũng như dâng lời ngợi khen cảm tạ Chúa vì muôn ơn lành Chúa ban cho chúng ta trong cả cuộc sống; đồng thời, biết can đảm làm chứng nhân cho Chúa như ông nông gia trong câu truyện trên, cho dù sẽ phải trả một giá đắt mấy đi nữa, miễn sao Chúa được nhận biết, được tôn thờ, được phụng sự và yêu mến.
10. Chính anh em hãy dọn cho họ ăn
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sống trong một thế giới khoa học phát triển tột bậc mệnh danh là thời hậu @, con người đã đạt được những bước tiến vĩ đại với những công trình táo bạo, vượt quá sức tưởng tượng như thám hiểm sao Hỏa, tiếp cận sao Diêm Vương, rất tự hào về sự dư dật của cải và lương thực. Báo chí ngày nay cũng cho biết, chưa bao giờ con người có nhiều của cải như thế. Ông Billgate, tỷ phú người Mỹ gốc Do thái, người chuyên bán phần mềm của vi tính, có tài khoản tại các ngân hàng trên thế giới tương đương với thu nhập quốc dân của 40 nước nghèo. Một tên lửa được Mỹ bắn lên đốt cháy hàng bao tỷ đô la. Chiến tranh tại Irắc, Syria và nhiều nơi trên thế giới tiêu huỷ biết bao tiền của, giết chết bao sinh mạng con người. Ấy vậy mà, chưa bao giờ có nhiều người nghèo đói như ngày nay. Tại sao có sự chênh lệch giầu nghèo trên thế giới như thế?
Thời Êlia, đứng trước đám đông dân chúng đói khát, Êlisê người của Thiên Chúa nói: "Xin dọn cho dân chúng ăn" (2V 4, 42). Đầy tớ của người trả lời: "Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao?" (2V 4, 43) Đến thời Chúa Giêsu, các môn đệ Chúa khi được yêu cầu lo cho đám dân chúng ăn, họ thưa: "Bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người". Êlisê ra lệnh: "Cứ dọn cho dân chúng ăn " (2V 4, 44). Còn Chúa Giêsu thì bảo các môn đệ mình: "Cứ bảo người ta ngồi xuống"… Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích" (Ga 6, 10-12).
Chúa Giêsu thấy đám đông đến với Người, từ ánh mắt đến trái tim, Người nhìn họ không phải với ánh mắt loài người, nhưng với cái nhìn Mục Tử Nhân Lành đầy lòng từ bi và thương xót, chứa đầy cảm xúc nảy sinh ước muốn nuôi dưỡng đám đông. Họ theo Chúa vì họ thấy Người từ Thiên Chúa mà đến. Đám đông không chạnh lòng thương Chúa Giêsu, nhưng Chúa Giêsu chạnh lòng thương họ. Chúa thấy dân chúng đói khổ, đang cầu cứu, với gánh nặng mỗi ngày, ốm đau bệnh tật và đang chạy vạy. Chúa Giêsu "Chạnh lòng thương" đám đông, tình yêu và lòng thương xót của Đấng Cứu Thế trào dâng. Người đã mời gọi các môn đệ cộng tác với Người vào công trình cứu chuộc và yêu thương ấy, ngày nay Người vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta.
Đối diện với nhu cầu của biết bao người anh em nghèo đói, thiếu thốn chung quanh ta và rộng lớn hơn là trên thế giới, chúng ta có thể nói: không thể nào đương đầu với những tình trạng như vậy, và thế là sự co cụm, thiếu tình liên đới, nhất là tuyệt vọng bắt đầu xâm chiếm tâm hồn chúng ta. Một lần nữa sứ điệp Lời Chúa nói với chúng ta rằng: "Cứ dọn cho dân chúng ăn!" (2V 4, 42)
Lời mời gọi trên vẫn đang vang vọng mạnh mẽ và cấp bách đối với chúng ta. Thiên Chúa tiếp tục yêu cầu chúng ta: "Cứ dọn cho dân chúng ăn!" (2V 4, 42) Chúa Giêsu không chấp nhận sự thoái thác khi nói: "Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao?" (2V 4, 43) hay: "Bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người" (Ga 6, 9).
Lệnh Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải làm ngay lập tức. Chúa không cần những phép tính vĩ mô. Năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh? Những tính toán lớn lao là không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá" (Ga 6, 9). Thật là ít ỏi, nghèo nàn, Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn ấy. Có ít hãy đóng góp ít.
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy nhìn những người chung quanh bằng cái nhìn của tình liên đới, đừng dửng dưng, vô cảm. Hãy nhìn anh em nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ, hãy an ủi họ, đừng có thờ ơ. Triệu chứng của sự thờ ơ xuất hiện, gặp người có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn mà không thấy xót xa, thương cảm, không muốn ra tay giúp đỡ dù có điều kiện; đứng trước sự bất công, xấu xa, gian dối mà không thấy phẫn nộ, nhức nhối; thấy những điều tốt đẹp, cao thượng mà không ngưỡng mộ, cảm phục. Dù là thờ ơ, dửng dưng, hay mặc kệ, bất cần đều là vô cảm (x. Sứ Điệp Mùa Chay 2015).
Chúa muốn loại bỏ sự vô trách nhiệm, phủi tay nơi các môn đệ. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ, nhưng đã đồng cảm thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn bàn tay làm việc. Chính Chúa Giêsu đã nêu gương và chỉ đường cho chúng ta. "Người cầm lấy cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích" (Ga 6, 11). Đó chính là con đường phép lạ. Chắc chắn đây không phải là ma thuật. Qua các hành động ấy, Chúa Giêsu đã biến đổi được căn bệnh vô cảm, thoái thác trách nhiệm của con người đối với đồng loại.
Phép lạ Chúa Giêsu làm là để thể hiện tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Vì yêu thương, Chúa chữa lành các bệnh nhân, cho kẻ chết sống lại, nuôi sống đám đông dân chúng. Cũng vì yêu thương, Chúa đến cứu giúp con người: phục hồi sự sống, sức khỏe và phẩm giá con người cho họ. Các phép lạ Chúa Giêsu làm minh chứng lòng thiện hảo của Thiên Chúa. Chúa đầy tràn sự sống, ánh sáng và tình yêu! Hết thảy mọi người đều ăn no nê, nếu mọi người quan tâm đến nhau.
Trong một lá thư mục vụ mùa chay của Đức cố Hồng y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng, ngài viết: "Hãy mở mắt ra mà nhìn, mở lòng ra mà thương, rộng tay mà chia sẻ với 5 chiếc bánh và hai con cá mà Chúa đã đặt vào tay ta". 5 chiếc bánh và hai con cá ấy là sức khoẻ, là tuổi trẻ, là con đàn cháu đống, là điều kiện hơn người…" Ngài viết tiếp "vì Đạo của chúng ta là Đạo của tình thương, về khoa học chúng ta vụng về, về văn hoá chúng ta thấp kém, về văn minh chúng ta quê mùa. Chúng ta có thể thua họ nhiều điều, nhưng Đạo không cho phép chúng ta thua họ về Tình Thương...".
Noi gương bé trai trong Tin Mừng hôm nay, dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và 2 con cá mà ta đang có, Chúa sẽ thực hiện những điều kinh ngạc. Ước gì mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực hành lời Chúa dạy, sống bác ái yêu thương, cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh tình thương như lòng Chúa mong ước. Amen.
11. Tham gia xây dựng phúc lợi cộng đồng
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
"Năm 1997, nhân dân Hàn Quốc (Korea) và Mã Lai (Malaysia) đã cùng nhà nước kiềm chế lạm phát bằng việc chủ động tiêu dùng hàng nội, hạn chế tối đa dùng hàng xa xỉ từ nước ngoài. Hơn thế nữa, rất nhiều phụ nữ của hai quốc gia nầy còn ủng hộ nhà nước những đồ trang sức quý giá như vàng bạc, kim cương... để cứu vãn nền kinh tế.
Những việc làm thể hiện lòng yêu nước sâu sắc với ý chí tự cường mạnh mẽ nầy đã góp phần tích cực giúp Hàn Quốc và Malaysia sớm vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng".
Sau khi nghe bản tin nầy, người bạn của tôi bình luận: "Ở xứ người, khi gặp lạm phát, người dân ủng hộ vàng bạc, kim cương và những đồ trang sức quý giá để cứu vãn quốc gia; còn tại xứ mình, khi đất nước gặp lạm phát, việc đầu tiên của nhiều người là đổ xô mua vàng, mua đô để thủ thân làm cho tình hình kinh tế thêm tồi tệ. Chủ trương của một số đồng bào ta là "sống chết mặc bây, tao no trước đã". Nếu não trạng nầy không được thay đổi, thì không bao giờ đất nước chúng ta theo kịp các lân bang."
Chúa Giêsu hiến thân xây dựng phúc lợi cộng đồng
Mang lại phúc lợi cho cộng đồng nhân loại là ưu tiên hàng đầu của Chúa Giêsu. Do đó, Người đã hạ mình xuống thế, hóa thân làm người để phục vụ nhân loại và hiến ban cả mạng sống mình cho muôn người được sống.
Trong ba năm bôn ba rao giảng Nước Trời, Chúa Giêsu luôn sống vì mọi người và cho mọi người: "cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kể điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng" (Lc 7, 22)
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng đặc biệt lưu tâm đến phúc lợi cộng đồng. Người không dừng lại ở việc trao ban những lời đem lại hạnh phúc và sự sống đời đời cho đoàn dân đông đảo đang theo Người mà còn chăm lo cho cả cái bao tử trống không của họ nữa.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tham gia xây dựng phúc lợi cộng đồng.
Xây dựng phúc lợi cộng đồng là sự nghiệp chung của mọi người, thế nên Chúa Giêsu không thực hiện một mình mà còn kêu mời các môn đệ cùng tham gia vào việc nuôi ăn đoàn dân đông đảo đang theo Người ngày hôm ấy.
Trước hết Chúa hỏi Phi-líp-phê, để mời gọi ông cùng chung lo với Người: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?"
Ông Phi-líp-phê đáp: "Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút."
Bấy giờ môn đệ thứ hai là An-rê vào cuộc: "Thưa Thầy, ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu! "
Thế là đứa bé sở hữu số thực phẩm nầy được đưa đến với Chúa Giêsu. Người đã thuyết phục em chịu hy sinh phần ăn quý hóa của mình cho tập thể. Thế là ngay cả trẻ con cũng được Chúa Giêsu mời gọi góp phần cho phúc lợi của cộng đồng.
Có lẽ đây là điều không dễ vì khi đói, miếng bánh còn quý hơn vàng và thói đời vẫn cho rằng: "sống chết mặc bây, tao no trước đã." Vậy mà em bé nầy đã quảng đại trao năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ vào tay Chúa Giêsu.
Sau khi có sự tham gia của các môn đệ và đứa bé, "Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy".
Thế là phép lạ xảy ra: bánh và cá liên tiếp được trao tay từ người nầy qua người khác, mọi người được ăn no nê, "ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý."
Số phận cá nhân tùy thuộc vào số phận cộng đồng
Số phận của mỗi tế bào trong cơ thể tùy thuộc vào số phận của toàn thân. Khi thân thể lâm trọng bệnh thì các tế bào cũng bị ảnh hưởng nặng nề và khi thân thể chết đi thì các tế bào không thể nào tồn tại.
Cá nhân là những tế bào tạo thành xã hội nên số phận của từng cá nhân hoàn toàn tùy thuộc vào số phận chung của xã hội, của cộng đồng.
Khi các cá nhân góp công góp sức xây dựng cộng đồng hưng thịnh hơn thì sẽ được hưởng nhiều phúc lợi do cộng đồng mang lại.
Chính vì thế, "hiện nay các chiến lược gia của các công ty lớn đều nhìn nhận rằng nghĩa vụ đóng góp cho phúc lợi xã hội phải là một mục tiêu cốt lõi của công ty mình" (theo lời Tiến sĩ Nguyễn Công Phú, Tổng Giám Đốc Cty Apave Việt Nam & Đông Nam Á)
Ngồi chờ xã hội mang đến nhiều phúc lợi cho mình mà không tham gia cống hiến cho cộng đồng xã hội sẽ bị chê trách là ký sinh.
Ai biết hy sinh quyền lợi riêng để lo cho lợi ích của tập thể là người có tầm và có tâm. Người biết vượt ra ngoài vòng lợi ích cá nhân và gia đình để chăm lo cho phúc lợi cộng đồng là người có nhân cách cao đẹp.
Và đó cũng là mẫu người mà Chúa Giêsu muốn đào tạo qua nội dung Tin Mừng hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin dạy chúng con biết noi gương Chúa, học với Chúa để trở nên người biết chăm lo cho phúc lợi của anh chị em chung quanh mình. Amen.
12. Anh em hãy cho họ ăn.
(Suy niệm của Lm. GB. Văn Hào SDB)
Hai mươi năm trước, báo chí thế giới đăng tải một bức hình chụp khá nổi tiếng, đã từng đoạt giải Pulitzer. Bức ảnh nói về thảm trạng nạn đói ở Somalia năm 1994. Trong bức ảnh, một chàng thanh niên gầy gò đang ôm xác đứa con trai duy nhất của mình đem đi chôn. Đứa bé gầy trơ xương vì nhiều tháng qua nó không có gì để ăn. Nó đã chết vì đói. Người thanh niên, bố của đứa bé, với khuôn mặt đau khổ hốc hác cũng đang đói. Phía sau là một con quạ đen đậu gần đó. Nó chờ khi người cha vùi xác đứa con trong cát, sẽ bới lên tìm cái gì để ăn vì nó cũng đói. Cả người và vật đều đói. Cái đói lộ rõ trên khuôn mặt trơ xương của ông bố. Cái đói hằn sâu trên thân thể còm cõi của đứa trẻ, và cái đói cũng lồ lộ nơi cặp mắt hau háu của con quạ. Cái đói luôn là một tai họa khủng khiếp đè nặng trên thân phận hiện sinh của con người.
1. Cái đói trong phận người
Mọi người chúng ta ít nhiều đều kinh qua cái đói. Các cụ lớn tuổi đã từng có kinh nghiệm về cơn đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945. Những tháng ngày sau biến cố năm 1975, nhiều gia đình đã từng phải ăn độn hoặc đi vay mượn ít gạo để cầm cự sống qua ngày. Những trải nghiệm về cái đói luôn là một ám ảnh sợ hãi nơi cuộc sống chúng ta.
Khi mang thân phận làm người, Đức Giêsu cũng từng nếm trải cơn đói. Sau 40 ngày chay tịnh trong hoang mạc, Chúa đói. Ma quỷ đến tấn công vào bao tử xẹp lép của Ngài. “Nếu ông là con Thiên Chúa, hãy truyền cho những hòn đá này biến thành bánh đi” (Mt 4,3). Vì thế, trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chạnh lòng cảm thương thực sự khi đối diện trước một đám đông khổng lồ đang vật vã trong cơn đói. Phép lạ đã xảy ra, và 5000 người đã được ăn no nê. Phép lạ không nhằm phô diễn một kỳ tích để thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người. Nhưng trong cái nhìn thần học của thánh Gioan, phép lạ mang chở những dấu chỉ nhằm khải thị một thực tại sâu xa hơn. Thánh Gioan muốn chúng ta chiêm ngắm dung mạo của một Thiên Chúa làm người luôn diễn bày tình yêu mục tử của Ngài cho đoàn chiên. Phép lạ nhân bánh ra nhiều khởi dẫn chúng ta đi đến một chân trời rộng lớn hơn: Đó là chân trời ơn cứu độ được thể hiện qua cái chết của Đức Giêsu trên Thập giá. Mầu nhiệm Thập giá chính là cách diễn bày tình yêu của Thiên Chúa cách tròn đầy nhất.
2. Sự cộng tác của con người.
Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện trong tin mừng hôm nay cũng được phác vẽ trước qua phép lạ của tiên tri Elisêu mà chúng ta sẽ nghe trong bài đọc thứ nhất. Vị ngôn sứ nhận 20 chiếc bánh từ tay một người hảo tâm dâng tặng. Với 20 chiếc bánh, Êlisêu đã phân phát đủ cho cả trăm người. Quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện qua vị tiên tri. Cũng vậy, sức mạnh và tình yêu của Thiên Chúa cũng được diễn bày nơi Đức Giêsu, vị “ngôn sứ đặc thù” của Chúa Cha. Cả hai phép lạ đều hàm ngậm những sứ điệp quan trọng mời gọi chúng ta suy gẫm và thực hành.
Trước hết, đó là bài học về sự cộng tác của con người. Chúng ta có thể mạnh dạn nói rằng, Đức Giêsu đã không làm phép lạ nuôi sống 5000 người ăn no, nếu đã không có lòng quảng đại của một đứa bé. Em nhỏ đã trao cho Chúa 5 cái bánh và 2 con cá, là khẩu phần lương thực ít ỏi nó mang theo. Cũng thế, với 20 chiếc bánh do một người tốt bụng dâng tặng, Elisêu đã phân chia đủ cho cả trăm người. Thiên Chúa có thể thực hiện những điều kỳ diệu bắt đầu từ sự cộng tác nhỏ nhoi khiêm tốn của con người. Trong cuốn ‘Confessio’, Thánh Augustinô ghi lại lời cầu nguyện mà Ngài đã thưa với Chúa “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con, không cần có con. Nhưng để cứu rỗi con, Chúa lại cần có con cộng tác”. Con người chúng ta vẫn được Thiên Chúa mời gọi cộng tác để hoàn thiện công trình sáng tạo và cả công trình cứu chuộc mà Ngài đã khởi sự.
Trong một bài giảng, Cha Gioan Maria Vianney có kể một câu chuyện. Một buổi chiều nọ, Chúa Giêsu và Thánh Phêrô cùng rảo bước trên con đường làng. Hai Ngài gặp một người nông dân đang đánh chiếc xe bò cũ kĩ. Chiếc xe chở nặng và bị mắc lầy. Người nông dân này khá đạo đức. Ông ta bước xuống, sấp mình sát đất và xì sụp cầu nguyện xin Chúa đến giúp. Ông cứ sụp lạy và cầu khẩn mãi, nhưng chẳng ai đến giúp ông ta. Còn chính ông cũng chẳng buồn đụng tay vào để lôi chiếc xe lên. Chúa nói với Phêrô “Thôi hãy đi và mặc kệ hắn”. Đi đến cuối làng, hai Ngài cũng gặp một tình huống tương tự. Gã đánh xe bò là một thanh niên trông nét mặt khá bặm trợn. Khi chiếc xe bị lầy, anh ta bước xuống, mồ hôi nhễ nhãi, miệng thì văng tục nhưng cố gắng hết sức để đẩy chiếc xe lên. Chúa nói với Phêrô “Nào hãy đến phụ anh ta một tay”. Cuối cùng, chàng thanh niên đã kéo được chiếc xe ra khỏi vũng bùn. Về đến nhà, Phêrô hỏi Chúa tại sao Chúa lại hành xử như thế. Chúa trả lời: “Ta không giúp những ai lười biếng. Phải cố gắng, rồi ta sẽ giúp”. Phải tự giúp mình trước, rồi Chúa sẽ đến giúp đỡ chúng ta sau (Aide-toi, le ciel t’aidera).
Chúa cũng đã nói với Phaolô: “Ơn Ta thì đủ cho ngươi”. Ơn Chúa luôn đủ và dư tràn trên mọi người, nhưng nếu chúng ta lười biếng, không mở lòng ra để cộng tác, Chúa cũng chịu thua. Mặc dầu sức lực con người yếu đuối, khả năng chúng ta giới hạn, nhưng Chúa vẫn luôn cần chúng ta cố gắng vươn lên để cộng tác với Ngài. Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, một khẩu phần quá ít ỏi và chẳng đáng gì, nhưng Đức Giêsu đã làm phép lạ nhân bánh và cá lên gấp cả ngàn lần. Đó là bài học rất thực tế cho mỗi người chúng ta về nỗ lực cũng như sự cộng tác của con người.
3. Chúng con hãy cho họ ăn.
Báo cáo của Liên Hiệp Quốc cho thấy, mỗi năm trên thế giới có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì đói. Hàng chục triệu trẻ em sống vất vưởng đầu đường xó chợ, không được cắp sách đến trường. Chúng đói về thức ăn vật chất, nhưng cũng đói cả về tình thương. Nói theo thuật ngữ của Đức Thánh Cha Phanxicô, đây là những con người ở tận vùng ven, những con người đang bị xã hội gạt bỏ ra bên ngoài. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng luôn nghe vang vọng bên tai lời thét gào não nùng của Chúa Giêsu trên Thánh Giá trước khi Ngài tắt thở: “Ta khát”. Đức Giêsu ngày nay vẫn còn đang đói, đang khát, giống như đám đông năm ngàn người sau những ngày lang thang đi theo Chúa. Chúa nói với các tông đồ: “Anh em hãy cho họ ăn”. Lời cầu ngỏ đó vẫn đang được lặp lại và gởi trao đến mỗi người. Một vị Thánh nọ sau một ngày đi bách bộ qua nhiều dãy phố, thấy quá nhiều người đói nghèo, quần áo tả tơi, ngồi ăn xin bên vệ đường. Buổi tối về nhà, Ngài cầu nguyện và hỏi Chúa “Tại sao trên thế giới này còn nhiều người đau khổ như thế? Chúa không làm gì hay sao?” Chúa trả lời “Có chứ, Ta đã làm. Điều Ta đã làm là dựng nên con. Ta dựng nên con với đôi bàn tay để biết trao ban, với một trái tim rung cảm để biết yêu thương và dâng tặng.
Kết luận: Phép lạ nhân bánh ra nhiều mà Chúa đã thực hiện 2000 năm trước là dấu chỉ tiên báo phép lạ vĩ đại Chúa đang thực hiện ngay ngày hôm nay nơi bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta được mời tới tham dự. 5000 người ngày xưa Chúa cho ăn bánh no nê, nhưng họ vẫn còn đói, vẫn chưa no thỏa thực sự. Còn nơi bàn tiệc hôm nay, Chúa xác quyết rằng: “Tôi là Bánh Hằng sống, ai ăn bánh này sẽ không còn đói, ai uống chén này sẽ không còn khát”. Đó là bữa tiệc thịnh soạn nhất diễn bày tình yêu bất tận của Thiên Chúa. Một nhà tu đức đã diễn tả có vẻ hơi cường điệu nhưng rất chính xác: “Thiên Chúa đã thực hiện một giấc mơ rất điên rồ là phân thây xẻ thịt chính con một yêu quý của Ngài để thiết đãi chúng ta”. Đó quả là một sự điên rồ và táo bạo. Chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được sự điên rồ ấy khi đi vào quỹ đạo tình yêu sâu xa của Thiên Chúa. Muốn nếm cảm tình yêu này, chúng ta phải có cảm thức đức tin. Trước khi làm phép lạ, Chúa nói với các môn đệ “Anh em hãy bảo họ ngồi xuống”. Đám đông phải ngồi xuống để có thể lắng nghe và lãnh nhận. “Ngồi xuống” là một hình tượng diễn bày đức tin, tín thác vào tình yêu Thiên Chúa. Xin Chúa khơi dậy lòng tin yếu kém nơi chúng ta để chúng ta có thể lãnh nhận quà tặng tình yêu, và để chúng ta cũng biết chia sẻ tình yêu đó cho mọi người.
13. Hãy cho họ ăn
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Vào một đêm nọ, có một người đàn ông đến nhà chúng tôi và nói: “Có một gia đình với tám đứa con. Họ đã chẳng có gì ăn suốt mấy ngày nay.” Tôi đem theo môt ít thức ăn và ra đi. Khi tôi đến gia đình đó, tôi thấy khuôn mặt của những đứa bé méo xệch đi vì đói. Không có một nỗi buồn đau nào trên những gương mặt ấy, chỉ có vết hằn sâu của sự đói khát. Tôi đưa gạo cho người mẹ. Bà chia túi gạo ra làm hai, rồi đi ra ngoài, mang theo một nửa. Khi trở lại, tôi hỏi: “Chị đi đâu vậy?” Bà bình thản trả lời: “Sang những người hàng xóm của tôi, họ cũng đang đói!” Tôi không ngạc nhiên vì bà đã san sẻ số gạo ấy, vì quả thực những người nghèo rất hào phóng. Tôi chỉ ngạc nhiên là bà ấy biết họ đang đói. Vì một lẽ tự nhiên, khi chúng ta chịu đựng một nỗi thống khổ nào đó, chúng ta có xu hướng quá tập trung vào bản thân mình, đến nỗi chẳng có thời gian cho người khác.
Cách đây một thời gian, tôi đã có một chuyến đi đến Ethiopia. Các chị em chúng tôi đã làm việc ở đó suốt mùa hạn kinh khủng năm ấy. Khi sắp rời đi, tôi nhận thấy có rất nhiều trẻ em vây quanh mình. Mỗi em đều cầm trên tay một thứ gì đó, nói: “Hãy đem thứ này về cho các em! Hãy đem thứ này về cho các em!” Chúng có nhiều món quà muốn gửi đến người nghèo của chúng tôi. Rồi một đứa bé, vốn dĩ lần đầu tiên trong đời có được một thỏi sôcôla, đã đến bên tôi nói: “Con không muốn ăn nó, Mẹ hãy đem nó về cho các bạn.” Đứa bé ấy đã cho thật nhiều, vì miếng kẹo ấy là tất cả những gì quý giá mà em có.
Một bữa nọ, tôi nhận được mười lăm đô la từ tay một người đàn ông đã bị bại liệt trong hai mươi năm. Căn bệnh quái ác đã khiến ông chỉ còn dùng được tay phải của mình. Bầu bạn duy nhất của ông là thuốc lá. Ông nói với tôi: “Tôi đã ngưng hút thuốc lá một tuần nay. Tôi gửi cho Mẹ số tiền mà tôi tiết kiệm được nhờ không mua thuốc.” Đó hẳn phải là một hy sinh vô bờ bến của ông ta. Tôi mua bánh mì bằng tiền của ông, đem cho những người đang đói. Thế là cả người cho và người nhận đều có được niềm vui.
Trao tặng là chia sẻ. Tôi không muốn bạn cho tôi thứ mà bạn đã bỏ đi, mà cho đi thứ bạn muốn, thứ bạn cần. Tôi muốn bạn cho đi bản thân mình. Tình yêu mà bạn đặt vào sự ban tặng là điều quan trọng nhất. Cơ hội chia sẻ tình yêu của chúng ta với người khác chính là một món quà của Chúa. (Bích Nga, Ngọc Sáu, Hoa Phượng, Mẹ Têrêsa, Trên Cả Tình Yêu)
Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay thuật lại Đức Giêsu làm phép lạ năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người đàn ông ăn no dư thừa, chưa kể phụ nữ và trẻ em, còn dư mười hai thúng. Đôi bờ đói no của nhân loại hôm nay vẫn còn xa cách vời vợi hơn bao giờ. Nên năm chiếc bánh và hai con cá của cậu bé dâng hiến hẳn âm thầm gửi đến Kitô hữu nhiều thông điệp sâu xa thấm thía.
Chiếc bánh thứ nhất: Yêu thương
Vừa gặp lại các Tông Đồ trở về sau một hành trình Đi Gieo, Đức Giêsu vui mừng thân thương nhắc nhở các ông vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi. Nhưng thấy đám người đông lũ lượt tìm đến, thì Người chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. (Mc 6, 34) Tình yêu tha nhân, lòng thương xót của Đức Giêsu, vô cùng mãnh liệt, ưu tiên trổi vượt, lấn át và vô hiệu hóa những chương trình, dự tính, ý muốn riêng tư của ngay chính Người.
Chiếc bánh thứ hai: Trách nhiệm
Đức Giêsu hăng say giảng dạy dân chúng cho đến nhá nhem tối mới tạm ngừng. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?"Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm.“(Ga 6, 5) Thánh Maccô ghi lại chi tiết khá minh bạch: Vì bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Người và thưa: “Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm, làng mạc chung quanh mà mua gì ăn.” Người đáp: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi.” (Mc 6, 35-37) Tuy câu nói của Đức Giêsu qua hai thánh sử khác nhau về hình thức, nhưng cùng chung một ý tưởng. Đó là thay vì để các môn đệ tránh né bổn phận chăm sóc cộng đoàn, thì Đức Giêsu trao trách nhiệm chính thức cho các ông phải quan tâm giải quyết những nhu cầu chính đáng, cấp bách của cộng đoàn, không thể vịn cớ gì lạnh lùng lảng tránh, từ chối.
Chiếc bánh thứ ba: Quảng đại
“Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người."(Ga 6, 9) Đây là điều Đức Giêsu đang trông chờ ngay từ đầu vụ việc. Tuy Chúa quyền năng vô song, tác tạo và biến hóa mọi sự, nhưng Chúa luôn đòi hỏi, cần có sự đồng điệu, hợp tác, dâng hiến của con người, vì Người tôn trọng sự tự do, không ép buộc bất cứ ai.
Cậu bé rộng rãi, quảng đại, nhân ái, đã không ích kỷ giữ bánh và cá cho riêng mình, mà với cả tấm lòng thành, hoàn toàn dâng hiến tất cả, chia sẻ, cho đi mọi sự cho Chúa. Người luôn chờ đợi một tấm lòng hiến dâng trọn vẹn như thế. “Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu. “(Hs 6, 6) Chính Đức Giêsu cũng tái xác nhận: “Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế.” (Mt 9, 13)
“Kitô giáo là cho đi.” Chúng ta phải cho đi, dù phải đến mức đau đớn nhất. Để trở thành một tình yêu thương thật, thì tình yêu thương phải có cái giá của nó. Đối với Chúa Giêsu, cái giá đó là tình yêu chúng ta. Ngay cả Thiên Chúa cũng có cái giá của tình yêu: Ngài đã trao ban con một Ngài cho chúng ta.” (Mẹ Têrêsa Calcutta)
Chiếc bánh thứ tư: Nhân hậu
“Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích.” (Ga 6, 11) Từ năm chiếc bánh và hai con cá dâng hiến của cậu bé, Đức Giêsu đã biến ra nhiều cho cả vạn người ăn dư thừa. Sự cho đi dẫu nhỏ bé, chẳng đáng kể, lại được tình yêu hồi đáp bằng đại lượng kỳ diệu. Lòng nhân hậu của Chúa khôn lường vô cùng. Người tiếp tục chạnh lòng thương dân chúng đói khát, làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều thêm lần thứ hai.(Mc 8, 1-10) Bởi vì “Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không nỡ với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta.” (Tv 103, 8-10)
Đức Giêsu giảng dạy và hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng hôm nay, là dấu chỉ Người sẽ còn tận tình chiêu đãi dân chúng bữa tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh thể sau này. Các Tông đồ sau khi tham dự sứ mạng rao giảng, cũng được Đức Giêsu trao phó công việc chăm sóc và nuôi dưỡng đoàn chiên.
Chiếc bánh thứ năm: Công bình
“Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích.” Không phân biệt nam nữ, già trẻ, giầu nghèo, chức tước, địa vị, Đức Giêsu phân phát bánh và cá tùy theo nhu cầu mỗi người. Hết thảy đều no đầy phúc đức. Hồng ân Thiên Chúa luôn phổ quát, công bình và phong phú cho mọi người, như hạt giống gieo vãi, như mưa sa, nắng ấm. Bởi vì“Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5. 45)
Con cá thứ nhất: Thanh bần
Trong tinh thần nghẻo khó, thanh bần, Đức Giêsu không muốn hoang phí bỏ đi bánh và cá dư thừa, vì còn bao kẻ đói khát đang còn mong chờ được trao tặng lương thực. “Khi họ đã ăn no nê, Người bảo các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi". Họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.” Tần tiện, tiết kiệm để chia sẻ với người cơ nhỡ, cũng như trân trọng dành dụm của ngọc thực để tích cốc phòng cơ, đó chính là một khía cạnh của đức thanh bần.
“Đừng rộng rãi với của người ta, đừng keo kiệt với của riêng con, đừng phung phí với của công cộng.” (Đường Hy Vọng, số 412)
Con cá thứ hai: Thiên Quốc
“Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: “Thật ông này là Đấng tiên tri phải đến trong thế gian.” Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.“ (Ga 6, 15) Hưởng phúc lợi tràn trề, được chữa bệnh, được cho ăn no nê, dân chúng hăm hở muốn tôn vinh Đức Giêsu làm hoàng đế, vì thấy Người đúng là Đấng Messia mà họ hằng mong đợi, sẽ giải thoát dân Do Thái khỏi ách đô hộ của La Mã. Đó cũng là cơn cám dỗ thứ ba của Đức Giêsu trong hoang mạc, quyền lực thế gian.
Lúc này, Đức Giêsu nhìn thấy rõ tà tâm trong lòng dân chúng háo lợi, thực dụng, chỉ muốn người lãnh đạo cung phụng cho họ, theo ý muốn thấp hèn của họ mà thôi. "Các ông đi tìm tôi, không phải vì các ông đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê" (Ga 6, 26). Trong khi Nước Chúa đâu lệ thuộc vào thế gian phù phiếm, mau biến đổi và hư nát. Bơi chưng,“Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc Trong Thánh Thần.” (Rm 14, 17)
“Với năm cái bánh và hai con cá của em bé, Chúa đã làm phép lạ nuôi năm ngàn người. Chúa vẫn toàn năng, nhưng Chúa yêu thương thiện chí của con.” (Đường Hy Vọng, số 824)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường thiếu lòng quảng đại, không dám cho đi những gì chúng con đang có, chỉ vì sợ mất mát, thua thiệt, chì vì thiếu Tình Yêu, thiếu niềm tin và thiếu lòng cậy trông vào Chúa Quan Phòng. Xin Chúa mở lòng trí chúng con, thấu hiểu ý nghĩa cao trọng của phép lạ hóa bánh ra nhiều, để chúng con sẵn sàng cho đi mọi sự, kể cả bản thân, với tình yêu tha thiết chân tình, như cậu bé dâng hiến tất cả bánh và cá cho Chúa dưỡng nuôi tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã dâng hiến trọn đời cho Chúa, xin cầu bầu, dạy bảo, hướng dẫn chúng con noi theo Mẹ, hiến dâng lên Chúa tất cả mọi sự, từ thân xác, tâm hồn đến linh hồn, để có thể phục vụ hữu ích cho tha nhân. Amen.
14. Quà mọn
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Trận động đất kinh hoàng 8.9 Ritcher xảy ra tại Nhật Bản vào ngày 11, tháng 3, năm 2011, tiếp theo sau là những cơn sóng thần đã quét đi những làng ven biển. Ngày hôm sau, tại Fukushima, cách nhà máy điện nguyên tử khoảng 25 km, một cảnh sát Nhật, gốc Việt, gặp cháu bé 9 tuổi, học lớp 3, đang đứng cuối cùng hàng người rồng rắn, chờ phát chẩn. Em mất cả cha lẫn mẹ và em trong thiên tai.
Thấy em co ro áo thun, quần đùi, anh cảnh sát thương tình cởi áo khoác, trùm lên em. Vô tình làm rơi gói lương khô, khầu phần ăn tối của anh. Nhặt lên, anh đưa cho bé: "Đợi tới phiên của con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói."
Tưởng em bé sẽ ngấu nghiến ăn ngay. Nào ngờ em ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm, và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát, rồi lại quay lại xếp hàng. Ngạc nhiên vô cùng, anh cảnh sát hỏi em, tại sao không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Em trả lời: "Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ".
Câu chuyện cảm động của cháu bé Nhật Bản 9 tuổi, gợi lại hình ảnh chú bé trong Tin Mừng, có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá khô, sẵn sàng hiến dâng cho Chúa Giêsu.
Trong trích đoạn Tin Mừng hôm nay, có ba thái độ khác nhau trước yêu cầu của Chúa Giêsu, muốn cho dân chúng được ăn.
1. Thái độ thoái thác
Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?"… Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút." (Ga 6, 5, 7)
Tông đồ Philipphê chân thành thưa với Chúa như vậy, không có gì sai trái, mà trái lại còn quá chính xác, rất thực tế, rất thuyết phục. Nhưng vô tình biểu lộ một thái độ có vẻ như buông xuôi, tránh né, thoái thác trách nhiệm với cộng đoàn. Thay vì trả lời trực tiếp câu hỏi của Chúa: “Mua bánh ở đâu?” thì ông đáp lại bằng một câu phủ định khá tiêu cực. Một cách từ chối mệnh lệnh rất khéo léo.
2. Thái độ hoài nghi
Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người."(Ga 6, 8-9).
Tông đồ Anrê có vẻ tích cực hơn, gần gũi hơn với cộng đoàn, mới phát hiện một em bé có mang theo 5 chiếc bánh và 2 con cá. Tuy ông cũng thành thật, cũng suy luận rất thực tế, nhưng lại bộc lộ thái độ có vẻ hoài nghi, thiếu tin cậy vào quyền năng Chúa. Ông cũng không chịu giải quyết thấu đáo đề nghị của Chúa. Mặc dù thừa hiểu Chúa muốn gì, nhưng cũng như Tông đồ Philipphê, ông đã chọn cách đối đáp bằng một câu khẳng định ẩn ý nghi hoặc.
3. Thái độ dâng hiến.
Tương tự cậu bé Nhật Bản nói trên, em bé trai ở đây có thái độ rất hồn nhiên, nhân hậu, phó dâng và tín thác hoàn toàn. Em bé đã mau mắn dâng hiến món quà mọn của mình cho Chúa. Dù em nghèo, chỉ vỏn vẹn có bấy nhiêu để làm của ăn đi đường, em vẫn chân thành dâng lên Chúa tất cả, không mảy may tính toán, giữ lại chút nào cho riêng mình. Chính từ tấm lòng trong sáng, phó thác, tin cậy, nhân từ, cùng tinh thần hợp tác chặt chẽ này, Chúa Giêsu đã vui vẻ đón nhận bánh và cá, để đáp ứng lại gấp vạn lần.
“Con trẻ không giữ gì riêng, ai cho gì nó cũng giao cho cha mẹ. Con hãy phó thác cho Chúa và Đức Mẹ, con sẽ được an toàn hạnh phúc.” (ĐHV, số 731)
Trong tâm tình đó, Đức Đáng Kính Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã dâng lên Chúa món quà nhỏ mọn, 13 năm ngục tù, với tự truyện vắn tắt “Năm Chiếc Bánh Và Hai Con Cá,” chan hòa tình yêu và hy vọng.
Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn trẻ thơ, luôn phó thác trông cậy vào Chúa, không so đo hơn thiệt, không tránh né tránh nhiệm, để con tìm thấy Chúa trong mọi người.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con sống đơn sơ, hồn nhiên, biết dâng lên Chúa tất cả những gì mình có, dù nhỏ mọn, bất xứng, để được Chúa thánh hóa cuộc đời. Amen.
15. Hãy xót thương người
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong cuộc thi viết chuyện dưới 100 chữ, có câu chuyện kể rằng: Hai đứa trẻ nghèo đói đang bới móc đống rác ở ven đô thị. Mắt hai đứa sáng rực lên khi nhìn thấy miếng bánh kem thơm ngon của một đứa bé ngồi trên xe hơi vất xuống lề đường. Thằng anh chạy vội đến nhặt, nhưng bánh quá lấm láp bởi đất bụi. Đứa con gái nuốt nước miếng bảo thằng con trai rằng: "Anh hai thổi sạch rồi mình ăn". Thằng anh phùng má thổi. Bụi đời đã dính chẳng chịu đi cho. Đứa em sốt ruột cũng ghé miệng thổi tiếp. Chính cái miệng háu đói của nó làm bánh rơi tõm xuống cống rãnh hôi hám và chìm hẳn. Con bé thút thít: "Ai biểu anh hai thổi chi cho mạnh". Thằng anh ngậm ngùi: "Ừ, tại anh! Nhưng kem còn dính tay nè. Cho em ba ngón, anh chỉ liếm hai ngón thôi!"
Chuyện quá ngắn mà lòng quặn đau. Chuyện không biết thực hư đến đâu? Nhưng cảnh đời người thừa thải đổ đi. Kẻ nghèo bòn nhặt lấy mà ăn thì vẫn còn quá nhiều ở xung quanh chúng ta. Là người môn đệ của Chúa, chúng ta phải làm gì trong hoàn cảnh hôm nay?
Năm xưa Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót đám dân theo Ngài. Họ nghèo đói tinh thần lẫn vật chất. Họ đói cơm và đói cả tình thương. Thiếu cơm thì không có bữa ăn ngon. Thiếu tình thương thì bữa ăn mất ngon và cuộc sống chỉ là những tháng ngày buồn chán và thất vọng. Hai vấn đề nhưng chung quy vẫn là một. Không có tình thương sẽ không có chia sẻ. Khi có tình thương thì "bánh ngon bẻ đôi", "chị ngã em nâng", người ta sẽ sống đùm bọc lẫn nhau đến mức độ "tối lửa tắt đèn có nhau" và ngay cả khi nghèo đói họ vẫn có thể chia sẻ cho nhau, vì "lá lành đùm lá rách".
Chúa Giêsu đã khéo léo gợi lên trong lòng các môn đệ một vấn nạn lương tâm: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?". Dường như các môn đệ đã lặng thinh trước vấn nạn Thầy Giêsu đặt ra. Họ im lặng vì "lực bất tòng tâm". Họ im lặng vì chưa cảm thấy trách nhiệm liên đới với người khổ đau. Philipphê đã nhanh trí thoái thác trách nhiệm khi ông nói: "Thưa Thầy, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.". Môn đệ Anrê cũng ủng hộ lập trường của bạn ông: "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!"
Khi người ta không cảm thấy liên đới, người ta sẽ tìm trăm ngàn lý do để né tránh, để an phận thủ thường, để bình an lương tâm. Các môn đệ muốn nại vào khó khăn để biện minh cho sự thờ ơ của mình. Nhưng Chúa đã tận dụng chính khó khăn đó để dạy các ông: hãy bắt đầu bằng nỗ lực của bản thân và chính Thiên Chúa sẽ hoàn tất mọi sự trong tình yêu quan phòng của Ngài. Vì "mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên".
Thực vậy, sau khi đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá từ lòng quảng đại của một em bé. Chúa Giêsu đã có thể nhân rộng ra thành hàng trăm, hàng ngàn tấm bánh. Với quyền năng của một vì Thiên Chúa có thể tạo dựng mọi sự từ hư vô. Ngài có thể làm tất cả nhưng Thiên Chúa lại muốn hành động ngang qua con người. Bởi vì con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa. Ngài muốn con người tiếp tục thay Ngài gieo yêu thương vào trong thế gian. Hay nói cách khác, con người được tạo dựng để yêu thương. Do đó, ai không yêu thương là vong thân, là đang chết dần trong ích kỷ và cô đơn. Người ta sống để yêu, mà không còn khả năng yêu thương, tức là con người đã mất giá trị đích thực của đời người.
Có lẽ nhân loại hôm nay không chết đói cho bằng chết vì thiếu tình thương. Những người đang chờ chết cũng là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương, san sẻ của đồng loại. Con người cần cơm bánh để sống. Nhưng con người lại rất cần tình thương để tồn tại. Thật là một bất hạnh cho con người, nếu hai chữ tình yêu không còn có ở trên đời. Và cũng thật bất hạnh cho những ai không có ai đó để thương, để nhớ. Tình yêu là lẽ sống còn của con người. Con người không có tình yêu sẽ đầy đoạ mình và làm khổ anh em.
Lịch sử còn đó những cuộc tương tàn huynh đệ. Bởi thiếu tình yêu người ta đã đối xử bất khoan dung với nhau. Hằng ngày trên thế giới vẫn còn đó hàng ngàn người chết vì chiến tranh và nghèo đói. Họ đã chết bởi sự vô tâm đến tàn nhẫn mà con người dành cho nhau. Chính trong giờ phút này, trên thế giới vẫn có biết bao trẻ em chết vì đói, biết bao em bé sinh ra suy dinh dưỡng đang khi đó hàng tấn lương thực dư thừa của người giầu, của các nước giầu đang đổ ra biển khơi. Theo thống kê thì nhân loại hôm nay kinh tế đã phát triển không ngừng. Của ăn của để luôn thừa mứa. Trung bình cứ 6 người đủ ăn thì có một người nghèo đói. Nhưng đáng tiếc, 6 người lại không đùm bọc được một người. Người đói vẫn van xin, vẫn đợi chờ lòng thương xót, vẫn rã rời vì thiếu tình thương của đồng loại. Kẻ đói vẫn sống lây lất. Người giầu sang vẫn dư thừa đổ đi.
Lời Chúa hôm nay dường như đang chất vấn bạn và tôi về những thiếu sót của chúng ta trước sự khốn cùng của tha nhân. Chúng ta hãy hành động nhân danh Chúa để bánh và cá tiếp tục được nhân rộng đến cho mọi người, để tình yêu đem lại hạnh phúc cho con người hôm nay.
Xin Chúa giúp chúng con luôn giầu lòng quảng đại để có thể trao ban niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân trong đời sống bác ái yêu thương. Amen.
16. Đừng bỏ lỡ cơ hội – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Thiên Chúa là tình yêu. Con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa. Con người cũng phải trở nên dấu chỉ của tình yêu Chúa giữa thế gian. Thế gian cần có tình yêu để tồn tại. Không có tình yêu, thế gian sẽ là một kiếp đoạ đầy.
Thật là một bất hạnh cho con người, nếu hai chữ tình yêu không còn có ở trên đời. Và cũng thật bất hạnh cho những ai không có ai đó để thương, để nhớ. Tình yêu là lẽ sống còn của con người. Con người không có tình yêu sẽ đầy đoạ mình và làm khổ anh em.
Tình yêu sẽ giúp cho con người nhớ đến nhau, quan tâm đến nhau và hy sinh cho nhau. Tình yêu sẽ khiến người ta chạnh lòng thương với những mảnh đời bất hạnh chung quanh. Không có tình yêu người ta sẽ dửng dưng vô cảm với nhau. Nhưng nhờ tình yêu người ta sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để thi thố tình yêu.
Em bé trong tin mừng hôm nay đã không bỏ lỡ cơ hội giúp người. Có thể em không nghĩ rằng mình sẽ giúp được cho hơn 5000 người có bánh và cá ăn. Em chỉ trao ban một phần nhỏ của em cho ai đó đang quặn đau vì đói. Em đã dâng cho Chúa một cách vô vị lợi, không toan tính thiệt hơn. Em đã làm tất cả vì tình yêu đối với đồng loại của mình. Chính lòng quảng đại của em đã được Chúa làm phép lạ nhân rộng bánh và cá cho hơn năm ngàn người ăn.
Thế nhưng, trong cuộc sống chúng ta thường bỏ lỡ cơ hội giúp người. Đôi khi chúng ta cũng áy láy vì từ chối giúp người ăn xin, người cơ nhỡ. Đôi khi chúng ta cũng tiếc nuối vì việc thiện chúng ta đã bỏ qua. Và đôi khi chúng ta cũng ân hận vì sự vô tâm của mình mà ai đó đã chết dần vì chúng ta.
Người ta kể rằng: vào một đêm đông gió tuyết lạnh lùng. Một ông lão đến gõ cửa nhà phú hộ. Người phú hộ trông thấy ông lão đang co ro trong chiếc áo rách tả tơi. Ông biết ông lão rất lạnh, nhưng ông nghĩ để ông ấy đi thì hơn. Vì nhà mình sạch, ông lão thì bẩn và hôi hám, chi bằng cho ít tiền để ông lão ra đi. Người phú hộ đã quyết định như thế và đã cho ông lão vài đồng xu để ra đi.
Mấy ngày sau, một thi thể đã được phát hiện ở đầu làng, bị chôn vùi dưới tuyết. Người bị chết cóng chính là ông lão ăn xin trong làng. Người phú hộ nghe tin cảm thấy tiếc nuối vì mình bỏ lỡ cơ hội cứu sống một mạng người.
Vâng, bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện là một thiếu sót của chúng ta. Đôi khi vì đó mà chúng ta ân hận cả đời. Thiên Chúa luôn tạo cho chúng ta biết bao cơ hội để trao ban những nghĩa cử cao đẹp cho tha nhân, để thi thố tình thương đến với những anh em bất hạnh. Có thể là những cơ hội cứu sống người khác. Có thể là những cơ hội mang lại niềm vui cho tha nhân. Có thể chỉ là những cơ hội nhỏ nhoi khi chúng ta biết chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau từ ngay chính gia đình của mình. Thiên Chúa muốn chúng ta vào được nước trời phải biết lập công qua việc giúp đỡ tha nhân. Tha nhân là hiện thân của Chúa. Ai giúp đỡ tha nhân là giúp đỡ Chúa. Vì thế, hãy thi thố tình thương trong khả năng, trong hoàn cảnh của mình. Đừng đánh mất cơ hội vào Nước trời khi bỏ rơi đồng loại và sống dửng dưng với những bất hạnh của tha nhân.
Thế nhưng, chúng ta vẫn đang bỏ đi biết bao cơ hội giúp người. Biết bao người già đã chết trong sự cô đơn vì con cháu bỏ rơi. Biết bao người chồng, người vợ đang bị đối xử bằng những đòn roi, những lời thoá mạ, làm nhục lẫn nhau. Biết bao lần chúng ta đã ngoảnh mặt làm ngơ khi ai đó van nài chúng ta. Biết bao lần chúng ta bước qua những mảnh đời bất hạnh mà không hề xót thương.
Chúa Giêsu Ngài luôn chạnh lòng thương với những mảnh đời bất hạnh. Ngài không bỏ lỡ cơ hội giúp người. Từ mọi thành phần. Từ mọi tầng lớp. Ngài đều thi ân giáng phúc. Hôm nay, Ngài cũng nhắc nhở các môn sinh: “chính anh em hãy cho họ ăn”. Cho dù các ông nại vào lý do số đông để từ chối, để nói rằng: “lực bất tòng tâm”. Nhưng Chúa muốn các ông phải bắt đầu. Bắt đầu từ việc thu gom một phần bánh nhỏ bé. Mọi việc dù nhỏ, dù lớn cũng phải được bắt đầu. Bắt đầu không nhất thiết phải hoành tráng, phải đánh trống khua chiêng. Bắt đầu từ những việc nhỏ bé âm thầm nhưng với thời gian, với ơn Chúa sẽ trở thành những việc phi thường.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết bắt đầu việc thiện từ những việc nhỏ bé tầm thường, và để Chúa sẽ kiện toàn những điều tốt đẹp đó theo ý Ngài. Xin cho chúng ta đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện cứu đời, nhưng luôn biết tận dụng mọi cơ hội lớn nhỏ để dâng cho Chúa như những chiếc bánh, con cá hầu mang lại niềm vui cho mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả những hy sinh, những nghĩa cử bác ái mà chúng ta đã làm cho Chúa và cho tha nhân. Amen.
17. Bánh Hằng Sống – Cố Lm. Hồng Phúc
Hai bài đọc Chúa Nhật hôm nay chú trọng đến việc bánh được biến hóa ra nhiều, để nuôi dân chúng ăn no nê. Xứ Do thái là xứ lúa mì, đến nỗi có những nhà vạn vật học cho rằng xứ Palestine là thủy tổ lúa mì. Bài đọc thứ nhất trích ở truyện Tiên tri Êlisê làm cho 20 chiếc bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa, biến hóa ra nhiều cho dân chúng ăn no nê mà lại còn dư nữa. Đó là dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa đối với con cái Người, và hứa hẹn những ngày sung túc khi Đấng muôn dân mong đợi đến.
Hôm nay, Thánh Gioan thuật lại việc Chúa làm cho 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá, biến hóa ra nhiều cho năm ngàn người ăn, không kể đàn bà và trẻ con, và còn dư 12 thúng bánh vụn.
Đây là một phép lạ, một trong những phép lạ cả thể mà Chúa Giêsu đã làm. Tất cả bốn nhà Thánh Sử đều ghi lại. Các nhà chú giải vô thần tìm cách giải thích bằng những phương pháp tự nhiên nhưng lập luận của họ đều không đứng vững. Đối với Gioan, đây là một dấu chỉ, danh từ mà Gioan hay dùng và chúng ta thấy rõ Ngài muốn hướng dẫn chúng ta về Chúa Giêsu và phép Thánh Thể.
Vậy trong câu truyện, Chúa Giêsu là vai chính, là trung tâm điểm. Việc Chúa biến hóa bánh ra nhiều và bài giảng sau đó, có mục đích bạch lộ con người của Chúa Giêsu. Ngài là Đấng quyền năng và rộng rãi. Mỗi người muốn dùng bao nhiêu tùy ý. Ngày xưa dưới sự hướng dẫn của Môsê, trong cuộc lưu lạc lâu ngày lâu tháng trong sa mạc, dân chúng chỉ được nhận số manna cần dùng (Xh. 15, 4. 16-18). Trái lại, ở đây thật là thừa thãi dư dật, cũng như trong tiệc cưới Cana, để nói rằng với Chúa Giêsu thời viên mãn đã đến, Đấng Messia đã xuất hiện. Các môn đệ, vâng lời Thầy, còn “thu lượm được 12 thúng bánh vụn”. Con số 12 theo Thánh Kinh là con số ám chỉ sự đầy đủ: Gioan muốn ám chỉ rằng phép lạ hóa bánh ra nhiều để dân chúng được ăn no nê, sẽ còn tiếp diễn.
Nhất là, như rượu Cana, như bánh biến hóa, không phải chỉ để nuôi năm ngàn người, mà để nuôi cả nhân loại qua mọi thế hệ. Như vậy phép lạ là dấu chỉ phép Thánh Thể. Bánh ấy là bánh ban sự sống, quần chúng đông đảo vô số kể, đó là Giáo hội qua các thời đại. Chúa Giêsu hiện diện trong Giáo hội sẽ thực hiện lại phép lạ mà Ngài làm hôm nay là biến bánh rượu nên Thịt và Máu để nuôi linh hồn chúng ta. Và nhân danh Ngài, “các thủ hạ của Đức kitô và những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” còn tiếp tục ban phát Bánh hằng sống cho nhân loại (ICor. 4, 1).
Sau khi phép lạ xảy ra, “Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Ngài để tôn lên làm Vua, nên Ngài lại trốn trên núi một mình”.
Lại tái diễn ảo mộng một Đấng Messia chính trị đến để cứu vãn quốc gia! Không. Ngài đến để cứu vãn con người. Ngài là Vua, nhưng là Vua các tâm hồn. Ngài hằng kêu gọi một cuộc trở lại với Thiên Chúa. Nước Ngài là nước tự do, hòa bình và bác ái, như đã được vang vọng giữa sao trời đêm Ngài xuống thế.
Chúa là Bánh hằng sống, là của nuôi tâm hồn đau khổ nhưng “đói” Chúa. Một tù nhân cải tạo viết: “năm 1986, từ khi trại chúng tôi có một linh mục tuyên úy, hoạt động tôn giáo có đều đặn và tổ chức hơn, được xưng tội và rước Mình Thánh mỗi ngày Chúa nhật, được suy niệm bài Phúc Âm bằng… một hai câu thơ lục bát tóm gọn truyền miệng cho nhau. Mình Thánh Chúa được bỏ trong các hộp dầu cù là, rượu được đưa vào trại qua các ve dầu Nhị Thiên Đường, còn bánh lễ là các rẻo bánh. Hàng tuần cha PVL dâng Thánh lễ ban đêm một mình trong mùng ngủ, chuyển Mình Thánh trong hộp dầu cù là cho một người gần nhất và chuyển tiếp ra các đội khác trong toàn trại. Chúng tôi đã được Chúa bổ dưỡng và ban ơn sức mạnh trong những ngày sống trong đau khổ”.
“Lạy Chúa, Chúa mở rộng bàn tay ra và thi ân cho chúng tôi được no nê” (Tv. 144, 16 – Đáp ca).
18. Chúa nuôi dưỡng dân Ngài
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều. Có lẽ chúng ta ao ước phải chi mình là người cùng thời với Đức Giêsu để cũng được ăn bánh no nê như dân Do Thái xưa. Thực ra phép lạ này ngày nay vẫn được tái diễn trong Thánh Lễ. Dự Thánh lễ là quy tụ quanh Đức Giêsu như dân Do Thái này xưa, Rước lễ là được ăn thứ lương thực kỳ diệu quý hơn cả manna của dân Do Thái.
Chúng ta hãy tham dự Thánh lễ này trong tâm tình sốt mến tạ ơn.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta lười biếng tham dự Thánh lễ.
Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta rước lễ không xứng đáng.
Xin Chúa tha thứ vì chúng ta ích kỷ không chia sẻ với anh chị em chúng ta.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (2 V 4,42-44)
Ngôn sứ Êlisê đã làm phép lạ 20 chiếc bánh lúa mạch hóa nên nhiều cho 100 người ăn no nê.
2. Đáp ca (Tv 144)
Tv này mô tả Thiên Chúa như một vị vua lý tưởng. Một vị Vua tốt luôn chăm lo đến đời sống của thần dân mình, nhờ đó mọi người đều có thức ăn đúng giờ và luôn no nê. "Chúa mở rộng bàn tay và thi ân cho chúng tôi được no nê".
3. Tin Mừng (Ga 6,1-15)
Phép lạ hóa bánh ra nhiều theo cách tường thuật của Thánh Gioan có một số chi tiết mang ý nghĩa đặc biệt:
Phép lạ này diễn ra trong thời gian lễ Vượt Qua. Chi tiết này nhằm cho thấy thứ lương thực mà Đức Giêsu ban cho dân chúng trổi vượt thứ manna mà dân Do Thái được ăn trong thời gian ở sa mạc.
Không phải dân chúng xin Đức Giêsu, cũng không phải các môn đệ can thiệp, mà chính Đức Giêsu thấy dân chúng đói và chính Ngài gợi ý tìm thức ăn cho họ.
Đức Giêsu làm phép lạ này từ phần đóng góp 5 chiếc bánh và hai con cá của một em bé.
Lương thực được phân phát qua trung gian của các tông đồ.
4. Bài đọc II (Êp 4,1-6)
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Êphêxô sống hòa thuận hiệp nhất với nhau.
Lời kêu gọi này rất tha thiết, bởi vì lúc đó Phaolô đang ngồi tù mà vẫn phải băn khoăn lo lắng cho họ.
Muốn hòa thuận hiệp nhất thì phải khiêm tốn, hiền hòa, nhẫn nại và chịu đựng nhau.
Lý do phải hoà thuận và hiệp nhất là vì mọi người cùng một thân thể, một tinh thần, một niềm hy vọng, một phép rửa, một đức tin và một Thiên Chúa là Cha.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Lòng rộng rãi của Chúa
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là hình bóng của bí tích Thánh Thể. Nhưng trước khi là hình bóng đó, tự nó, phép lạ này cũng có một ý nghĩa được nhiên, nó biểu lộ tấm lòng rộng rãi của Chúa đối với loài người.
Thánh Gioan ghi lại rất nhiều chi tiết về lòng rộng rãi ấy:
Trước đó Đức Giêsu đã chữa cho rất nhiều người bệnh tật.
Chính Đức Giêsu ngước mắt nhìn dân chúng và Ngài biết họ đói, chính Ngài nẩy ra ý định kiếm cái gì cho họ ăn.
Chẳng những Ngài lo cho họ ăn no, mà còn thừa thải.
Chi tiết Đức Giêsu bảo họ ngồi xuống trên thảm cỏ là một so sánh kín đáo Đức Giêsu với người mục tử nhân lành nuôi dưỡng đoàn chiên mình.
Trong Tin Mừng, đây không phải là chỗ duy nhất nói đến lòng rộng rãi của Chúa. Ở chương 6 Tin Mừng Mt, Đức Giêsu cũng bảo chúng ta đừng bận tâm lo lắng đến những nhu cầu vật chất của cuộc sống này, vì Cha trên trời đã biết chúng ta cần những thứ đó và đã lo sẵn tất cả cho chúng ta.
Tài nguyên của trái đất này vẫn còn dư thừa đối với những nhu cầu của nhân loại. Ngoài ra còn rất nhiều nguồn tài nguyên chưa khai thác hết. Sở dĩ ở miền này miền nọ có những dân tộc còn đói, và sở dĩ trong cùng một miền có những người còn đói, đó là vì còn nhiều người chưa đủ tin tưởng vào lòng rộng rãi của Chúa: họ sợ thiếu, nên họ dành giật và tích trữ.
Em bé trong đoạn Tin Mừng này đã không sợ như thế nên em đã dám chia sẻ 5 chiếc bánh và hai con cá của em. Kết quả: chẳng những bản thân em mà tất cả hàng mấy ngàn người đều no nê thừa thải.
Chúa rất rộng rãi, nhưng con người lại hẹp hòi. Đó là lý do của thảm cảnh nhân loại hiện nay.
* 2. Phép lạ hóa bánh ra nhiều
Đây là một phép lạ lớn: Đức Giêsu đã làm cho có lương thực cho một số đông người ăn no nê thừa thải: đàn ông là 5000, nếu cộng thêm độ 5000 đàn bà và khoảng 2000 trẻ em mà thánh Gioan không kể ra, thì con số lên tới khoảng 12.000. 12.000 người ăn no nê và dư lại 12 thúng đầy. Quả là một phép lạ to lớn.
Nhưng có một điều chúng ta phải lưu ý, đó là Chúa muốn cho phép lạ lớn lao này có sự góp phần của loài người:
Chúa đã làm phép lạ từ 5 cái bánh và 2 con cá của một em nhỏ.
Khi bánh và cá đã hóa ra nhiều rồi, Chúa nhờ các tông đồ đi phân phát cho dân chúng.
Dĩ nhiên, với quyền phép vô biên, Chúa có thể một mình làm được phép lạ này, nhưng Chúa đã cố ý dành phần cho con người góp tay hợp tác vào.
Đây là lề lối hành xử hầu như thường xuyên của Chúa:
Phép lạ đầu tiên Chúa làm ở Cana biến nước thành rượu: Chúa cũng nhờ các gia nhân xách nước đổ sẵn vào các lu.
Các phép lạ khác cũng vậy, Chúa đều đòi người ta hợp tác, hợp tác ít ra cũng bằng một thái độ tin tưởng vào Chúa. Thường trước khi làm một phép lạ, Chúa hỏi "Con có tin không?", và sau khi làm phép lạ, Chúa nói "Đức tin của con đã cứu con".
Công cuộc lớn lao nhất của Chúa là cứu chuộc loài người. Chúa cũng đòi loài người hợp tác. Cho nên thánh Augustinô nói "Khi tạo dựng con Chúa không cần hỏi ý con, nhưng khi cứu chuộc con Chúa cần con phải góp phần vào đó".
Phần Chúa thì mặc dù có quyền phép vô biên, muốn làm gì cho loài người chúng ta cũng được, nhưng Chúa muốn chúng ta góp phần của chúng ta vào. Còn về phần chúng ta thì thường chúng ta quên ý muốn đó của Chúa. Khi chúng ta muốn Chúa giúp chúng ta điều gì, chúng ta thường chỉ biết cầu xin, cầu xin rồi chờ Chúa ban ơn chứ không chịu khó góp phần cố gắng của chúng ta vào. Thậm chí phần hợp tác tối thiểu là tin tưởng trọn vẹn vào Chúa thì ta cũng có khi không tin mấy nữa, có người vừa cầu xin với Chúa vừa chạy tới các thầy bói thầy bùa giúp sức. Có lẽ chính vì thế nghĩa là vì ta không góp phần và không tin cho đủ nên nhiều khi những lời cầu xin của chúng ta đã không đem lại kết quả như ta mong muốn.
Ơn Chúa lúc nào cũng sẵn sàng ban, kể cả phép lạ Chúa cũng sẵn sàng làm. Nhưng biết bao lần chúng ta đã không chịu hưởng nhờ, là vì ta đã không góp phần của ta với ơn Chúa, hoặc ta không tin đủ vào ơn Chúa.
Cụ thể:
Nếu chúng ta xin Chúa giúp cho gia đình chúng ta được hoà thuận, thì đừng có cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa có những cố gắng làm hoà lại với nhau như cặp vợ chồng trong câu chuyện vừa kể trên.
Nếu chúng ta xin Chúa giúp gia đình chúng ta thoát cơn túng thiếu, thì cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa cố gắng dẹp bỏ những nguyên nhân gây cảnh túng thiếu ấy như ăn xài hoang phí, rượu chè, cờ bạc... và đồng thời cần cù làm ăn, tiêu xài cố suy tính cân nhắc cẩn thận...
Nếu chúng ta xin Chúa hoán cải tâm hồn của một đứa con hoang đàng, chúng ta cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin, vừa tìm cách tách nó khỏi những bạn bè xấu, những môi trường xấu và làm nhiều gương tốt trước mặt nó.
* 3. Phép lạ của lòng quảng đại
Một vị linh mục kia đã giảng rằng: phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của lòng quảng đại. Trước hết là lòng quảng đại của em bé đã hiến năm chiếc bánh và hai con cá cho Đức Giêsu. Số bánh và cá đó không nhiều. Nhưng với em bé thì nó nhiều lắm vì đó là tất cả những gì em có. Có rất nhiều người sẵn sàng cho đi từ cái có nhiều của mình, nhưng rất ít người chịu cho đi từ cái có ít của họ. Vì thế, việc em bé cho hết năm chiếc bánh và hai con cá là một phép lạ của lòng quãng đại. Kế đến là lòng quảng đại của Đức Giêsu. Chẳng những Ngài cho mọi người được ăn, mà còn muốn ăn bao nhiều tuỳ thích, rồi còn dư lại 12 thúng nữa.
Giảng xong, vị linh mục rất hài lòng, nghĩ rằng mình đã giảng một bài rất hay. Khi vị linh mục vào phòng áo, một bà cụ già cũng vào và hỏi xem có ai thấy cái túi xách của bà để quên trong nhà thờ không. Cậu bé giúp lễ trả lời là không ai thấy cả. Vị linh mục cứ tưởng bà sẽ mỉa mai, đại khái như "Cái hạng người đã đến nhà Chúa mà còn ăn cắp thì hết nước nói". Nhưng bà cụ không nói thế, bà chỉ nhỏ nhẹ: "Chắc là người lấy cái túi đó cần đến nó hơn tôi". Vị linh mục hỏi tiếp: "Thế trong túi có gì vậy?". Bà đáp: "Chỉ có hai chiếc bánh".
Câu trả lời khiến vị linh mục vui vui vì thấy câu chuyện hơi trùng hợp với bài giảng của mình. Nhưng đồng thời ngài cũng thấy xấu hổ, vì nếu ở vào hoàn cảnh của bà thì chắc ngài không thể quảng đại như vậy. Ngài cũng còn xấu hổ khi nghĩ rằng ngài chỉ giảng bằng miệng, còn bà cụ thì thực hành điều ngài giảng. Quả thực bà rất có lòng quảng đại.
Quảng đại phải là một nhân đức của người kitô hữu. Nhân đức này lại có nhiều dịp thể hiện, vì hằng ngày ta gặp biết bao người và bao nhiêu dịp để thể hiện nó. Và chúng ta có thể thể hiện quảng đại bằng nhiều cách: cho đi tiền bạc, cho đi của cải, cho đi thời giờ, cho đi công sức, cho đi sự quan tâm, cho đi lòng thương mến v.v.
Và quảng đại cũng trổ sinh niềm vui. Ít khi ta gặp một người nào quảng đại mà buồn. Cũng như ít khi ta gặp người nào bủn xỉn mà vui. (Viết theo Flor McCarthy)
* 4. Những người thiện nguyện
Hàng năm, cứ vào ngày 5-12 toàn thế giới mừng ngày "Những Người Thiện Nguyện Quốc Tế". Đây là ngày dành để tri ân những con người hiến thân phục vụ không công cho đồng loại, và cũng là ngày mời gọi mọi người dấn thân phục vụ tha nhân.
Được thành lập từ năm 1986, đến nay tổ chức đã có khoảng 35 cơ quan thiện nguyện chiêu mộ và gửi người đi khắp nơi để phục vụ mọi tầng lớp trong xã hội.
Từ một thanh niên làm việc tại các nước nghèo cho đến chuyên viên tổ chức các cuộc lạc quyên. Từ một cán sự y tế phục vụ thổ dân Châu Phi cho đến các chuyên gia phục vụ dự án phát triển các nước thuộc Thế giới thứ ba. Tất cả đều được thúc đẩy bởi một tinh thần phục vụ yêu thương, một tấm lòng nhân ái vị tha.
Ngày Quốc Tế Những Người Thiện Nguyện là bài ca dành cho một nhân loại đang nỗ lực vươn tới một thế giới đầy tình nhân ái.
***
Đức Giêsu chính là mẫu gương sáng ngời của những con người thiện nguyện. Người không chỉ sống nghèo, mà còn sống cho người nghèo. Người không chỉ rao giảng Nước Trời, mà còn chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người đem ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Hôm nay, Người "nuôi năm ngàn người ăn no". Người biết lòng họ rất vui khi nghe giảng, nhưng Người cũng biết bụng họ rất đói, Người muốn tặng họ một bữa ăn đơn giản, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời. Bữa ăn tràn đầy niềm vui.
Nhưng niềm vui chỉ được trọn vẹn khi có những con người thiện nguyện: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?" (Ga.6,5). Đức Giêsu đặt các tông đồ vào nỗi bận tâm của Người. Người cần sự cộng tác của họ. Người cần những con người thiện nguyện. Người cần một Anrê giới thiệu một bé trai. Người cần một bé trai dâng tặng bữa ăn trưa của mình. Người cần các tông đồ ổn định chỗ ngồi. Chính nhờ những con người thiện nguyện ấy, mà phép lạ được thực hiện.
Năm 1999 Giải Nobel Hòa Bình đặc biệt dành cho tập thể những con người thiện nguyện. Đó là "Tổ Chức Các Thầy Thuốc Không Biên Giới". Những con người này suốt đời hiến thân cho tha nhân không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị. 980.000 đôla tiền thưởng của họ cũng sẽ được dành cho những con người bất hạnh trên toàn trái đất.
Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giàu sang phú quí. Vậy cái đói trên thân xác vẫn còn làm quay quắt con người thời nay. Có biết bao tâm hồn thiện nguyện xót xa trước cảnh đói nghèo đã bắt tay vào cuộc với niềm tin: dù chỉ với "năm chiếc bánh và hai con cá". Thiên Chúa cũng sẽ làm cho con người được no nê ân phúc. Người sẽ biến đổi gương mặt thế giới trở nên nhân bản hơn. Người sẽ tô điểm cho bộ mặt trái đất trở nên tươi tốt hơn.
Thế giới này cần những con người thiện nguyện dám sống chết cho tha nhân. Thế giới này cần các tín hữu Kitô dám đưa những bàn tay ra để chia sẻ nâng đỡ. Thế giới này cần có những Phanxicô Assisi, Mahatma Gandhi, Albert Shcweitzer, Têrêxa Calcutta… để ra đi phục vụ muôn người khốn khổ bất hạnh.
***
Lạy Chúa, Chúa không ngừng khơi dậy trong chúng con những tâm hồn quảng đại, những con tim hiến thân cho đồng loại. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng góp phần bé nhỏ của mình trong công việc phục vụ anh em nghèo đói chung quanh chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. "Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn"
Tạ ơn Chúa trước khi ăn là một thói quen tốt, bắt chước việc Đức Giêsu đã làm ngày xưa: "Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn".
Một gia đình nọ cũng có thói quen tốt ấy. Khi mọi người đã ngồi vào bàn, ai nấy cúi đầu, đứa con gái út đọc lời cầu nguyện "Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì ơn lành Chúa đã ban cho chúng con. Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con có bữa ăn ngon này".
Mỗi lần như thế, người cha đều sung sướng trong lòng. Nhưng một hôm, lời cầu nguyện của đứa con lại khiến ông ray rứt. Hôm đó, sau khi nghe con cầu nguyện, ông chợt nghĩ tới bài báo ông vừa đọc: trên thế giới có tới 40 triệu người đói, và một phần ba trẻ con Châu Phi bị suy dinh dưỡng. Ông suy nghĩ: Bởi đâu mà gia đình ông no đủ đang khi biết bao người khác phải đói rách? Phải chăng gia đình ông tốt hơn hay xứng đáng hơn những người ấy? Phải chăng gia đình ông có ăn vì gia đình ông được Chúa thương hơn những người khác? Hôm đó, những câu hỏi như thế cứ ám ảnh tâm trí ông khiến ông ăn mà chẳng thấy ngon miệng tí nào.
Tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài ban cho ta thì chưa đủ, việc tạ ơn này phải đi kèm với ý thức về trách nhiệm mà ơn lành Chúa đã trao phó cho ta nữa. Nói cách khác, ta không thể tạ ơn Chúa đã ban cho ta có cơm ăn hằng ngày mà không nghĩ đến trách nhiệm của ta đối với những người đói khát; ta không thể tạ ơn Chúa đã cho ban cho ta có tiền bạc, công ăn việc làm mà không nghĩ đến trách nhiệm đối với những người nghèo túng và thất nghiệp.
Chúng ta không thể làm phép lạ hóa bánh ra nhiều như Đức Giêsu đã làm, nhưng chúng ta có thể chia bánh của ta cho nhiều người khác, hoặc lấy tiền mua bánh cho nhiều người khác. Đức Giêsu vẫn còn tiếp tục hỏi ta như đã hỏi Philíp ngày xưa: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?"
* 6. Phải biết thế nào là đói
Dưới triều vua Salomon, ở Giêrusalem có một người tên là Simeon rất giàu nhưng rất keo kiệt. Hắn đối xử rất tệ với các đầy tớ, bắt họ làm việc thật vất vả nhưng chỉ cung cấp lương thực ở mức tối thiểu. Bởi đó con cái họ thường đói.
Thế rồi trong nước xảy ra nạn đói. Những người nhà giàu khác mở kho lúa của mình phân phát cho người nghèo. Nhưng Simeon thì không, hắn còn lấy thêm khóa để khóa chặt các kho lúa của hắn.
Việc làm của Simeon đến tai vua Salomon. Nhà vua nghĩ ra một diệu kế: ngài sai sứ giả đi mời Simeon đến dùng bữa với ngài tối hôm sau. Hắn rất hãnh diện. Và để có thể ăn uống no nê những thức ăn hoàng gia, cả ngày hôm sau hắn nhịn không ăn vì cả nên đói rát cả ruột. Đến tối hắn vội vàng vào cung. Một người hầu mời hắn vào phòng khách và thông báo một vài quy định: thứ nhất không được xin nhà vua hoặc các người hầu bất cứ điều gì cả; thứ hai không được hỏi cũng không được than phiền một câu nào cả; thứ ba, nếu nhà vua có hỏi ăn ngon không thì phải trả lời là ngon vô cùng. Sau khi giải thích rõ 3 điều đó rồi, người hầu hỏi: "Ông có đồng ý những điều kiện ấy không?". Hắn đáp "Đồng ý". Người hầu nói: "Vậy thì ông hãy ngồi đợi ở đây. Khi tới giờ ăn thì tôi sẽ gọi ông".
Trong khi hắn ngồi đợi, mùi thức ăn thơm phức từ nhà bếp bay lên khiến hắn đang đói lại càng đói thêm, đến nỗi chảy cả nước miếng. Và rồi giờ ăn cũng đến. Vua Salomon bảo hắn: "Hãy ngồi xuống và muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý". Simeon ngồi xuống. Một người hầu mang đến cho nhà vua một con cá chiên đựng trong một đĩa bằng vàng. Nhà vua vừa ăn vừa nói "Món cá này ngon tuyệt". Sau khi vua ăn xong, người hầu mang đến cho Simeon một đĩa cá y như vậy. Nhưng hắn chưa kịp đưa tay ra thì người hầu đã vội vàng rút đĩa cá lại mang xuống bếp. Simeon tức quá định phản đối, nhưng nhớ lại những quy định mà mình đã đồng ý nên phải ngậm miệng.
Tiếp đến, người hầu mang tới cho nhà vua một tô canh thơm phức. Nhà vua uống cách rất ngon lành. Sau khi vua uống xong, người ta cũng mang cho Simeon một tô y như thế, và cũng vội vàng rút lại mang xuống nhà bếp y như thế. Khi đến món tráng miệng, sự việc lại tiếp tục giống như vậy. Simeon ức vô cùng nhưng cũng chẳng dám làm gì.
Cuối bữa ăn, vua Salomon hỏi: "Hy vọng là ông đã ăn ngon miệng". Tên nhà giàu vội vàng đáp: "Vâng tâu bệ hạ, ngon vô cùng". Và hắn vội vàng đứng dậy cáo từ để sớm về nhà giải quyết cơn đói đang cồn cào trong bụng. Nhưng nhà vua ngăn lại: "Còn sớm chán mà. Hãy ở lại nghe các nhạc công của trẫm. Họ muốn trình diễn cho ông thưởng thức". Buổi hòa nhạc kéo dài tới mấy tiếng đồng hồ. Hắn lại đứng dậy định ra về, nhưng nhà vua lại bảo "Đã khuya quá rồi ông bạn ạ. Ta cho phép ngươi ngủ lại đêm nay trong hoàng cung". Chẳng thể làm cách nào khác, tên nhà giàu keo kiệt đành phải ở lại.
Nằm trên giường mà bụng đói cồn cào, hắn không tài nào ngủ được. Hắn cứ suy nghĩ: "Sao nhà vua mời mình dùng bữa mà lại chẳng cho mình ăn cái gì cả?" Và hắn đã tự tìm được câu trả lời: Nhà vua muốn hắn có dịp cảm thấy đói thì khổ như thế nào. Từ đó, Simêon quyết định sẽ không bao giờ để các đầy tớ của mình bị đói nữa. (Viết theo Flor McCarthy)
* 7. Chứng từ về chia xẻ
"Để an ủi gia đình chị Tuyết góa bụa trong cảnh thiếu thốn, trong một dịp lễ, gia đình tôi làm thịt thỏ có dành cho gia đình chị Tuyết vài ký thịt đã nấu sẵn, gọi là để khuyến khích 3 cháu nhà chị ấy đang phải học hành vất vả để thi cuối năm. Chính trong dịp mang thịt thỏ biếu gia đình chị Tuyết, gia đình chúng tôi cảm động được biết thêm về hoàn cảnh đặc biệt của chị Tuyết. Chúng tôi hết lòng tạ ơn Chúa đã an bài để luôn có người tới giúp đỡ gia đình chị Tuyết.
Ba năm về trước: Dịp xin tiền trợ cấp cho 3 cháu nhỏ nhà chị Tuyết đi học, gia đình chúng tôi có cử người đến thăm gia đình chị Tuyết và được biết:
Thứ nhất, nhà chị Tuyết đúng là một túp lều tranh, không có sự an toàn tối thiểu để khỏi mất ngay cả cái chậu hay cái nồi trong nhà. Chưa nói đến tình trạng thiếu bàn ghế để mời khách ngồi.
Thứ hai, chồng chị Tuyết là thương phế binh chế độ cũ, từ lâu không có khả năng đảm đang lo cho kinh tế gia đình.
Thứ ba, các cháu ở cỡ tuổi 11, 14 và 16 còn cần phải đi học.
Thêm vào đó là một bầu khí tự ti mặc cảm do người gia trưởng là thương phế binh chế độ cũ. Cả việc hợp thức hoá hôn nhân nơi xã ấp cũng gây ngại ngùng nên không được thực hiện.
Ba năm về sau: - Ba năm về sau khi gia đình chúng tôi mang thịt tới biếu, gia đình chị Tuyết vẫn túng thiếu, nhưng ít nhất về nhà ở đã được cải thiện. Điều quan trọng là có những người thân quen gần xa góp phần giúp đỡ chị Tuyết. Chúng tôi chỉ có thể nêu một số những giúp đỡ cụ thể.
+ Nhà mới xây 5m x 13m với cửa kiếng và nền lát gạch tầu tráng men. Điều quan trọng là người đảm đang việc xây cất đã cho thấy lòng tốt trước sau như một với gia đình chị Tuyết. Ông Dương chỉ thân quen với chồng chị Tuyết, không những đã lo hết giấy tờ để chị Tuyết có thể đưa xác chồng về mai táng sau cái chết đột ngột nơi bệnh viện (rắc rối một phần do hôn nhân chưa được hợp thức hoá), mà còn xây cho gia đình chị Tuyết căn nhà nói trên như ông đã hứa với chồng chị Tuyết khi mua nền nhà cũ của gia đình chị Tuyết.
Tay phải làm tay trái chẳng biết
+ Tay phải làm tay trái chẳng biết: - Được biết dịp an táng chồng chị Tuyết, tiền phúng điếu gia đình, nhà hiếu nhận được trên 10 triệu đồng, một phần do các bạn học của chồng chị Tuyết ở trường Đồng Công xưa. Khi người gia đình chúng tôi mang thịt thỏ tới biếu, thì một cô giáo viên mẫu giáo cũng vừa bước vào. Cô này vẫn hay lui tới, khi mang nải chuối, lúc mang ký thịt, lúc khác mang theo tấm vải để chị Tuyết may áo quần cho các cháu. Tất cả những quà tặng đó đều theo tinh thần Tin Mừng tay phải làm tay trái chẳng biết. Sau cô giáo là chính bà Dương đưa tặng chị Tuyết cái chạn bằng nhựa có đựng bát đĩa mới. Được biết trước đó, ông bà Dương đã tặng các cháu nhà chị Tuyết máy TV đen trắng để coi. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, dân chúng xưa đói khát, cả tâm hồn lẫn thể xác, và Đức Giêsu đã rộng lòng để thỏa mãn họ cả xác hồn. Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Người:
1. Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn sống hiệp thông với Chúa nhờ Bí tích Thánh Thể / để có thể quan tâm chia sẻ cho những người đang đói khát về tinh thần cũng như vật chất.
2. Xin cho các chính quyền trên thế giới / biết tận tâm lo thỏa mãn các nhu cầu vật chất như cơm ăn, áo mặc, nhà cửa / và các nhu cầu tinh thần như tự do, hòa bình, văn hóa, tôn giáo / để mọi người dân sống đúng phẩm giá con người hơn.
3. Xin cho những người đang là nạn nhân của chậm tiến, đói nghèo và dốt nát / được nhiều người khá giả hơn quan tâm giúp đỡ / để sớm thoát khỏi cảnh lầm than cơ cực.
4. Xin cho mọi người trong cộng đồng xứ đạo chúng ta biết giúp đỡ và chia sẻ cho nhau / noi gương cộng đồng các tín hữu đầu tiên / để không còn ai trong cộng đồng chúng ta còn dốt nát và đói nghèo.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, chúng con họp nhau dâng lễ tạ ơn Chúa, vì đã quan tâm nuôi dưỡng cả xác hồn chúng con. Xin cho chúng con biết chia sẻ những hồng ân đã lãnh nhận cho mọi người chung quanh chúng ta. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị...
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi chúng ta cầu xin cho có "lương thực hằng ngày", một mặt chúng ta xin Chúa quan tâm đến những nhu cầu đời sống chúng ta, nhưng mặt khác chúng ta cũng hãy xin cho mình biết phó thác cuộc sống trong tay Chúa quan phòng.
- Trước Rước lễ: Mình Thánh Chúa mà chúng ta sắp rước còn quý giá gấp bội so với những chiếc bánh và những con cá mà dân Do Thái ngày xưa được ăn. Chúng ta hãy rước lễ trong tâm tình yêu mến và tạ ơn sốt sắng.
VII. GIẢI TÁN
Chúa đã nuôi dưỡng chúng ta trong Thánh lễ này và hằng nuôi dưỡng chúng ta mãi mãi. Chúng ta cũng hãy rộng rãi chia xẻ với anh chị em chúng ta.
19. Được ăn no nê
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Hầu hết các nhà Thánh Kinh học đều cho rằng chương sáu của sách Tin Mừng thứ tư là diễn từ về đề tài ‘Bánh Trường Sinh’, mà phép lạ Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều chỉ là phần dẫn nhập, hay là dịp để Người đề cập tới đề tài quan trọng này. Đúng là Đức Giêsu đã tự giới thiệu mình là ‘Bánh bởi trời, bánh trường sinh, bánh làm no thỏa…’, thế nhưng - tôi vẫn thườnng tự hỏi - chủ đề đích thực của bài thuyết pháp quan trọng này của Ráp-bi Giêsu có phải là để chứng minh ‘bánh vật thể’ trở thành một ‘Ki-tô hữu thể’, hay chỉ đơn giản là một ‘lời mời ăn Bánh’, tức là chủ đề của bài diễn từ nhằm diễn tả mối quan tâm, tình yêu chăm sóc của Thiên Chúa dành cho con người?
Phối hợp với tường thuật của Phúc Âm Mác-cô, cũng chương sáu, ta có thể thấy trình tự vấn đề được tác giả Gioan đặt ra như sau: - Đức Giêsu tỏ rõ mối quan tâm chăm sóc các tông đồ nhọc mệt trở về sau cuộc hành trình truyền giáo; mối quan tâm của Người sau đó còn rộng mở cho đám dân chúng, khi Người ‘chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn’ (Mc 6:34). Phép lạ làm bánh hóa nhiều để cho dân chúng ăn no chẳng qua là dấu hiệu cụ thể của mối bận tâm từ ái đó; chính vì vậy mà khi nhận thấy đám đông dừng lại ở việc được ăn bánh thỏa thích, Đức Giêsu đã phải cất công giải thích, chỉ cho họ thấy được sự chăm sóc từ nhân của Thiên Chúa mới chính là điều họ cần tìm kiếm. Phần mình, khi tự đồng hóa với ‘bánh trường sinh’, điều duy nhất Người muốn nhấn mạnh đó là: sự quan tâm chăm sóc của Thiên Chúa đối với loài người đã lên tới đỉnh điểm… “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Từ một biểu lộ chăm sóc được cụ thể hóa qua phép lạ hóa bánh ra nhiều để đám đông dân chúng được ăn no thỏa, Đức Giêsu rõ ràng muốn họ nhận ra rằng họ đang được Thiên Chúa từ ái yêu thương chăm sóc tới mức nào. Chính Đức Ki-tô, và toàn bộ sự hiện diện của Người nơi trần gian, là một thứ ‘Bánh bởi trời’, nhưng không phải là thứ ‘Thánh Thể’ để người ta phải khúm núm tôn thờ, cho bằng là của ăn nuôi sống để làm cho họ được no thỏa; và so sánh này chỉ đạt ý một khi qua đó nhân loại nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ hết tình.
Từ kinh nghiệm cụ thể được ăn bánh, các môn đệ và nhiều người Do Thái thành tâm lẽ ra phải khám phá ra chân lý vĩ đại: Thiên Chúa là Người Cha đầy yêu thương, hằng quan tâm tới con cái, và ra tay chăm sóc chúng (xem Mt 7:11; Lc 11:13). Nội dung này chính là cuộc hành trình đức tin mà mọi Ki-tô hữu chúng ta cần làm. Tiến trình này phải đưa chúng ta tới việc tin nhận Đức Ki-tô Giêsu – Bánh hằng sống như một biểu hiện tột đỉnh của tình yêu chăm sóc của Chúa Cha. Tiến trình này quả thực đầy thách đố đối với các tông đồ nói riêng và người Do Thái nói chung, đơn giản là vì khái niệm Thiên Chúa như là người Cha yêu thương chăm sóc còn rất lu mờ và khá xa lạ đối với cách suy nghĩ của Cựu Ước.
Thế còn đối với Ki-tô hữu chúng ta ngày nay thì sao? Cảm nghiệm thiêng liêng nền tảng này của Tân Ước có lẽ lại bị chúng ta đảo ngược trái chiều chăng?
Ít nhất về khái niệm, Ki-tô hữu đã quá quen thuộc với việc gọi Thiên Chúa là Cha. Cả ngàn lần họ kêu lên ‘Lạy Cha chúng con ở trên trời!’ Thế nhưng khái niệm này đa phần vẫn còn nằm trên mặt lý thuyết trừu tượng như một công thức; cũng thế, ý tưởng ‘Đức Ki-tô - bánh trường sinh’ vẫn chỉ là một khái niệm thần học mang tính suy luận (speculative). Cái cảm nghiệm thực tế rằng, với việc trao ban ‘Bánh trường sinh’, Thiên Chúa đã thực sự đặt tôi trong sự no thỏa của tình yêu Người, rằng Người là cha nhân ái hằng chăm sóc tới từng chi tiết đời sống con người, chăm sóc tới độ gần như thừa bứa ‘thu những miếng thừa của năm chiếc bánh người ta ăn còn lại… cũng chất đầy được mười hai thúng’; đó chính là cảm giác đã từng được Phao-lô diễn đạt như sau: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng ban tất cả cho chúng ta” (Rm 8:32). Cảm giác này có lẽ còn quá xa lạ đối với phần đa Ki-tô hữu chúng ta ngày nay; thay vì chỉ ngưỡng mộ Thiên Chúa là Cha cách chung chung, tôi thiết nghĩ, mỗi Ki-tô hữu nên cụ thể có những giây phút nhìn sâu vào đời sống mình để nhận ra, đàng sau mọi thành công hay may nắm lớn nhỏ, kể cả đàng sau những thất bại ê chề hay đại họa, đều có cả một dàn xếp tinh vi và tế nhị của một ‘Ai Đó’ đầy từ tâm và nhân ái. Đó mới chính là chiều sâu đức tin của Ki-tô hữu chúng ta, một chiều sâu đích thị mang lại vui mừng và hy vọng, bình an và phó thác trong mọi tình huống cuộc đời. Trọn đời người Ki-tô hữu, nếu được đặt trên nền tảng vững chắc này, thì kể cả trong các thử thách gian truân của cuộc sống thường ngày, sẽ luôn phải là an bình và vui tươi (xem Rm 8:38-39).
Phải chăng đó mới đích thực là niềm tin sống động và trưởng thành mà mọi Ki-tô hữu chúng ta cần cất công vun đắp hàng ngày, nhất là trong thế giới và xã hội hiện đại?
Lạy Chúa! Lúc được ăn, con cần hiểu bàn tay nào đang cho con ăn, cõi lòng nào đang nuôi nấng con. Mỗi khi rước lễ, xin cho con không chỉ nghĩ tới thứ bánh nào con đang được ăn (dầu đó là bánh trường sinh Thánh Thể đi nữa), nhưng ngày càng nghiệm ra rõ hơn cõi lòng nhân ái của Cha trên trời đang âu yếm dưỡng nuôi con bằng chính Người Con Chí Thánh. Xin cho việc cử hành Thánh Thể sẽ gia tăng niềm tin tưởng phó thác nơi con mỗi ngày. Amen.
20. Bánh hóa nhiều – Phêrô Trần Đình Phan Tiến
Phép lạ bánh hóa nhiều (I) mà Chúa Giêsu (Ga 6,1-15) đã thực hiện, không phải là một sự thách thức đối với Người. Vì nguyên mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Người là một phép lạ vĩ đại rồi, cũng là phép lạ duy nhất mà Thiên Chúa đã ban cho loài người. Đó là một sự mặc khải lớn lao và là một quà tặng duy nhất mà Thiên Chúa đã ban cho loài người. Vì ngoài Đấng cứu độ,Thiên Chúa không còn món quà nào lớn hơn như thế nữa.
Nhưng tiếc thay! nhãn quan của loài người thì luôn đối nghịch với nhãn quan Nước Trời, để hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai phải chu tất sứ mạng của Người. Đó là mầu nhiệm cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện. Vì vậy, sự xung đột giữa nhãn quan trần thế và nhãn quan Nước Trời là điều tất yếu. Bởi vì, nếu nhãn quan trần thế có cùng một điểm chung với nhãn quan Nước Trời, thì Thiên Chúa đã không dùng Thập gía để cứu độ nhân trần.
Nên chi Thiên Chúa luôn nhượng bộ trần thế, với một lý do duy nhất đó là, vì Ngài là Thiên Chúa. một Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương, dù nhãn quan bất đồng.
Còn ngược lại đối với nhân thế, Thiên Chúa càng yêu thương thì họ càng phản nghịch, bởi vì họ là nhân thế. Nhân thế thì luôn luôn nhìn đời bằng nhãn quan thế trần. Nhãn quan thế trần thì không thể nhìn ra Đức Kitô Giêsu, vì thế họ không tin Người từ Thiên Chúa mà đến. Suốt cuộc đời Chúa Cứu Thế là suốt một hành trình bị "chối từ". Mặc dù Người không bị mắc lừa, không bị kích động để làm phép lạ, nhưng Khi cần thiết Người vẫn biểu hiện những dấu lạ đúng lúc, đúng nơi, đúng thời điểm. Dù vậy, họ nhiều lần chứng kiến quyền năng Thiên Chúa thể hiên nơi Người, nhưng họ cũng không tin Người là "CON THIÊN CHÚA". Bởi vì sự đối nghịch giữa trần thế và Thiên Chúa, mặc nhiên họ không dám chống lại Thiên Chúa, nhưng nhãn quan trần thế của họ không đón nhận nhãn quan thiên quốc, đó là Đấng Thiên Sai. Dù Thiên Chúa đã mặc khải chính Đấng Thiên Sai cho họ,nhưng Thiên Chúa đã mặc khải một cách phổ quát, phần còn lại khi Đấng Thiên Sai xuất hiện thì họ phải biết đón nhận Người, như nhu cầu "đói" ăn của thân xác họ. Nhưng tiếc thay! điều nầy đã không xảy ra, vì họ chỉ biết tiếp nhận nhu cầu của trần thế là lương thực phải tiêu hao. Rõ ràng họ biết mở lòng để đón nhận nhu cầu thể xác là bánh, nhưng họ không mở lòng để đón nhận nhãn quan Nước Trời là Chính Đấng Cứu Thế.
Như vậy, sự mâu thuẫn ở nơi họ là quá rõ ràng, họ đòi hỏi nơi Đấng Thiên Sai một sự nghịch lý là Người phải cung cấp lương thực thân xác cho họ. Rõ ràng họ không mở lòng để đón nhận nhãn quan Nước Trời, thì Thiên Chúa không thể nào ban ơn cứu độ cho họ được.
Nhìn lại kẻ có nhãn quan Nước Trời là thiểu số, số ít mà thôi, chỉ có số ít đi theo Chúa Giêsu và tin Người là Đấng Thiên Sai. Những người ấy, ngay cả cùng thời với Chúa Giêsu, hay bây giờ và về sau nầy nữa, mãi mãi cũng là thiểu số. Vì "kẻ được gọi thì nhiều, mà kẻ được chọn thì ít". Như vậy kẻ được chọn là kẻ có nhãn quan Nước Trời, vì kẻ có nhãn quan Nước Trời thì họ mới đón nhận Đấng Cứu Thế và tin vào Người là "GIÊSU"! Vì Những ai không tin vào "GIÊSU" thì làm sao họ tin Người là "BÁNH HẰNG SỐNG". Nhưng chính Người đã nói: "CHÍNH TÔI LÀ BÁNH HẰNG SỐNG"(Ga 6, 35). Khi và chỉ khi, người nào có nhãn quan Nước Trời thì họ mới tin vào "Lời" của Chúa Giêsu.
Như vậy, muốn có nhãn quan Nước Trời, nhân thế phải biết mở lòng ra để đón nhận, dù là Thiên Chúa đã mặc khải, nhưng nhân thế không hợp tác với Ngài, thì ơn ích thiêng liêng là ân sũng của Thiên Chúa cũng không thể xảy ra được. Phép lạ Bánh hóa nhiều là một minh chứng cụ thể về việc nầy. TIN vào Đức Kitô, đồng thời là nhãn quan Nước trời, là một ân sủng của Thiên Chúa dành cho nhân thế, nhưng đòi hỏi sự hợp tác của nhân thế như: "năm chiếc bánh và hai con cá của em bé" trong đoạn Tin Mừng (Ga 6,1-15) hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tin vào Chúa là chúng con đã mở lòng ra để đón nhận nhãn quan Nước trời, trong mọi, nơi mọi lúc xin ban cho chúng con biết chu toàn phận sự chứng nhân cho Chúa ở trần thế nầy. Amen.
21. Ăn bao nhiêu tùy ý – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy niệm:
Có người coi tôn giáo như một thứ duy tâm, duy linh,
chỉ để ý đến chuyện linh hồn, chuyện đời sau,
mà hững hờ với cái đói cái no của thân xác, với chuyện áo cơm thường nhật.
Kitô giáo hẳn không phải là thế.
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã khai mở Nước Thiên Chúa trên trần gian
không phải chỉ bằng việc rao giảng như một thầy dạy,
mà còn bằng việc chữa bệnh thân xác như một thầy thuốc.
Ơn cứu độ do Ngài mang lại có tính toàn diện, cả xác lẫn hồn,
và ơn cứu độ ấy đã bắt đầu ngay từ đời này rồi.
Trong Mùa Phục sinh, Giáo hội cho ta nghe đọc chương 6 của Tin Mừng Gioan,
bởi lẽ chương này nói về Đức Giêsu là Bánh hằng sống, Bánh ban sự sống.
Chương này khởi đầu bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Phép lạ diễn ra ở bên kia hồ Galilê, vào mùa xuân, cỏ mọc xanh mướt.
Đám đông đến với Đức Giêsu đang ở trên núi với các môn đệ.
Tất cả bắt đầu bằng câu hỏi bất ngờ của Thầy Giêsu:
“Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Các câu trả lời của hai ông Philípphê và Anrê thật đáng thất vọng.
Hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút (c. 7).
Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá khô thì thấm vào đâu (c. 9).
Nhưng Đức Giêsu lại cần năm cái bánh và hai con cá đó.
Ngài đón nhận sự đóng góp của con người, dù là rất nhỏ mọn.
Nhỏ mọn nhưng là tất cả những gì tìm được ở chốn hoang vu này.
Không có sự đóng góp của một em bé, không chắc phép lạ đã xảy ra.
Khi mọi người đã ngồi xuống trên cỏ theo lệnh các tông đồ,
Đức Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ.
Chắc các tông đồ đã giúp Ngài phân phát đến tay dân.
Chính khi bẻ ra để phân phát thì bánh và cá hóa nhiều.
Chúng ta không hiểu được điều gì đang diễn ra.
Mầu nhiệm chia sẻ vẫn làm chúng ta ngỡ ngàng, sửng sốt.
Chia sẻ là biến điều ít ỏi ta đang có trở thành kho báu vô tận cho mọi người.
Chia sẻ làm chúng ta chẳng vơi đi, nhưng còn mãi.
Hơn năm ngàn con người đã được ăn tùy ý, được no nê, được dư thừa.
Gần một tỷ con người sống trên trái đất hôm nay cũng mong được như vậy.
Đức Thánh Cha coi việc liên đới chia sẻ
như một cách thức để thoát ra khỏi nạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Ước gì việc chúng ta chia sẻ Tấm Bánh thánh trong nhà thờ
giúp chúng ta tiếp tục chia sẻ những tấm bánh vật chất ngoài cuộc sống.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.
22. Bánh và cá – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Suốt cuộc lữ hành của dân Do-thái trong hoang địa, Thiên Chúa đã ban Manna từ trời rơi xuống để dân chúng thu lượm lại làm bánh nuôi sống. Bánh trở thành dấu chỉ hồng ân Thiên Chúa ban cho con người. Sách Các Vua nói đến một người từ Baal-Salisa đến dâng của đầu mùa là bánh mạch nha và lúa mì. Thiên Chúa đã chúc lành cho bánh này được dư đầy và cả trăm người ăn mà còn dư.Nhưng tiểu đồng hỏi ông: "Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được? " Ông bảo: "Cứ phát cho người ta ăn! Vì Thiên Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư (2 Vua 4, 43). Bánh trở thành biểu tượng của sự dâng hiến và hợp nhất. Muôn ngàn hạt lúa miến làm thành một tấm bánh.
Từ rất sớm, con người đã biết dùng khả năng để biến đổi hoa trái và hạt miến, lúa mì thành cơm bánh để nuôi thân. Con người cần có thực phẩm nuôi sống. Thiên Chúa đã quan phòng mọi sự trong vũ trụ để con người và súc vật có thực phẩm mà dùng. Mọi nguồn trong thiên nhiên đều có công dụng tương trợ nuôi sống lẫn nhau. Thiên Chúa không tạo dựng bất cứ loài nào một cách thừa thãi và vô dụng. Trật tự lạ lùng sinh sống trong vũ trụ là cả một sự hài hòa hỗ tương giúp muôn vật được tồn tại. Không có một loài nào bị dư thừa loại bỏ. Chỉ vì khả năng của con người còn giới hạn chưa thể khám phá ra hết những nhiệm mầu ẩn tàng nơi các sự vật chung quanh.
Chúa biến 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá ra thật nhiều để nuôi hơn 5 ngàn người. Chúa nhân bánh và cá lên gấp bội cho nhiều người được ăn thỏa thuê. Biết rằng Chúa không làm phép lạ hóa bánh thường xuyên để nuôi sống mỗi ngày. Chúa đã trao ban cho con người có thân xác khỏe mạnh, có trí khôn, có khả năng và có môi trường để lao động. Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen, để cày cấy và canh giữ đất đai (Stk. 2, 15). Chúa muốn con người cộng tác vào công trình sáng tạo với Chúa để làm cho trái đất thêm trù phú và phì nhiêu. Con người phải lao động với sức mình để nuôi thân. Chúng ta không thể ngồi đó chỉ để xin xỏ khấn vái mà phải xả thân lao động. Sau khi tổ tông trái lệnh Chúa, ông bà nguyên tổ đã nhận được lời truyền:Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất. (Stk. 3,19).
Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh nuôi nhiều ngàn người ăn no nê. Đây là dấu chỉ lòng thương xót và sự quan tâm đặc biệt của Thiên Chúa đối với các loài thụ tạo, nhất là loài người. Đã có lần Chúa đã nói về sự quan phòng rằng:Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao (Mt. 6,26). Chúa Giêsu có quyền năng trên mọi tạo vật. Ngài có quyền tác tạo và biến đổi mọi sự vượt trên tiến trình tự nhiên. Mọi sự vật trong vũ trụ cần có thời gian để sinh nở, phát triển và chín mùi. Với uy quyền trong ý tưởng, lời nói và hành động, Chúa Giêsu rút bớt thời gian để có hiệu qủa ngay tức khắc. Đó là các phép lạ.
Chúng ta quan sát mọi loài từ thực vật cho đến các loài động vật, tạo hóa đã đặt để trong mỗi loài một sự truyền sinh giống nòi tùy theo nhu cầu của cuộc sống. Có những cây trổ sinh hoa trái theo mùi vị khác nhau: Chua, cay, mặn, ngọt, đắng, chát và nồng. Một cây lúa miến sinh hằng trăm hạt. Một giàn nho trổ sinh muôn ngàn trái. Một con cá lóc dẫn theo cả mấy trăm con rồng rồng. Một con cua ôm cả ngàn con. Một con nhền nhện ôm bầu trứng cả ngàn con… Các con vật sinh xôi nẩy nở gấp trăm gấp ngàn tùy theo giống loại. Theo tiến trình tự nhiên, với thời gian được ấn định, mọi loài đều có cơ hội sinh hoa kết qủa. Ngay từ thuở sơ khai, con người biết dùng khả năng mình để trồng cấy và biến đổi hạt lúa thành cơm bánh nuôi thân.
Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều hai lần. Chúa đã dùng bánh trong bữa tiệc ly để biến đổi thành Mình Thánh Chúa nuôi hồn:Cũng trong bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy (Mt 26, 26). Manna là bánh ban xuống bởi trời nhưng tổ tiên đã ăn và đã chết. Giờ đây Thiên Chúa sẽ ban cho họ bánh trường sinh, ai ăn sẽ được sống đời đời:Đức Giêsu bảo họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ (Ga 6, 35). Chúa Giêsu là bánh trường sinh từ trời xuống để nuôi dưỡng hồn xác chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể.
Chúng ta được kết hợp với Chúa Giêsu qua sự hiện diện nhiệm mầu trong Bí Tích. Chúng ta tôn thờ, kính viếng, kết hợp và nhận lãnh Thánh Thể làm của ăn. Chúng ta trở nên một trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một, cùng chia sẻ chung một tấm bánh và uống chung một chén rượu. Thánh Phaolô đã xác tín rằng: Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa (Eph 4, 4-5). Trong Chúa Kitô, chúng ta không còn phân biệt nam nữ, giầu nghèo và tự do hay nô lệ. Chúng ta không chỉ thuộc về Hội này hay Hội nọ, mà chỉ có một hội, đó là Hội Thánh Chúa:Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người (Eph 4, 6).
Ngày nay, Chúa vẫn có thể tiếp tục làm các phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Chúa cần 5 chiếc bánh nhỏ và 2 con cá. Ai trong chúng ta cũng có thể dâng cho Chúa chút ít tấm bánh và vài con cá nhỏ. Chúa sẽ chấp nhận, chúc tụng, tạ ơn và đem ra phân phát cho nhiều người. Mỗi năm Tổng Giáo Phận Nữu Ước đều có cuộc vận động gây quỹ cho Đức Hồng Y để giúp các nhu cầu cần thiết trong Giáo Phận. Tuy dù cuộc sống khó khăn và kinh tế đang xuống dốc, nhưng lòng quảng đại của con người không giảm. Từ những đồng xu của các bà góa nghèo tới những tấm lòng rộng lượng bao la, mỗi năm một tăng, số tiền dâng cúng năm nay 2012 của Tổng Giáo Phận đã lên tới 19 triệu 30 ngàn đôla.
Chúa sẽ nhận những lễ dâng nho nhỏ hằng ngày của mỗi người như đã nhận 5 tấm bánh và 2 con cá của một bé trai dâng cúng. Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta:Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy (Mt 10, 8). Chúng ta biết rằng góp gió thành bão. Của lễ dâng cho dù có ít ỏi vẫn có thể sinh ra nhiều hoa trái bông hạt. Chỉ cần 50 xu hay một đồng đô cũng có thể nuôi sống một trẻ mồ côi, một em khuyết tật, một người phong cùi hay một cụ già neo đơn trong một ngày tại quê hương nghèo ở Việt Nam. Ai cho đi thì sẽ được ban thêm: Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi (Mt 25, 29).
Lạy Chúa, Chúa hóa bánh ra nhiều cho dân chúng được ăn no thỏa. Xin cho tấm bánh được tiếp tục bẻ ra phân phát cho những người túng đói. Chúa đã ban cho chúng con lương thực hằng ngày đầy đủ, xin cho chúng con cùng biết chia sẻ những miếng bánh vụn từ bàn rớt xuống cho những người đang đói khổ. Xin cho chúng con biết nghĩ đến người khác, xin đừng để chúng con phí phạm của ăn thức uống hằng ngày. Xin Chúa chúc lành cho chúng con.
23. Bánh hóa nhiều.
Ngày kia có một phụ nữ trung niên đến với những người nghèo khổ tại Ấn Độ. Nhìn thấy tình cảnh bi đát của họ, bà tự nhủ: Mình phải làm một điều gì đó mới được. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn dơ dáy. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm đám con nít đem về dạy dỗ chúng. Bà dùng căn nhà cũ ấy làm phòng học dù không có lấy một chiếc bàn, một chiếc ghế. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết. Đó là phương thế bà đã sử dụng để chiến đấu chống lại sự nghèo dốt. Và đó cũng là câu trả lời cảm động nhất mà bà có thể thực hiện. Thế rồi điều gì đã xảy ra cho người phụ nữ và công việc của bà? Hiện nay, bà đã có tám mươi trường học được trang bị đầy đủ. Năm trăm nhà phát chẩn lưu động hiện đại. Bảy mươi bệnh viện cho người cùi. Ba mươi nhà chăm sóc kẻ hấp hối. Ba mươi viện chăm sóc những trẻ em bị bỏ rơi và hơn bốn mươi ngàn người người tình nguyện trên khắp thế giới sẵn sáng giúp đỡ bà. Người phụ nữ đó không ai khác hơn là chính mẹ Têrêxa thành Calcutta.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay và chúng ta thấy: Cậu bé nọ có năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa đã yêu cầu cậu mang đến để Ngài thiết đãi đám đông dân chúng. Cậu bé liền trao bánh và cá cho Chúa để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Cuối cùng, hơn năm ngàn người đã được no nê. Đó cũng là điều mẹ Têrêxa đã làm. Bà trao cho Chúa bánh và cá của bà để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Thế là Chúa đã nhân chúng lên gấp bội vượt mọi điều mơ ước của bà.
Cũng trong chiều hướng đó, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phát biểu: Nếu phải một mình đối đầu với những thách đố khó khăn của cuộc sống, chúng ta sẽ cảm thấy mình không đủ khả năng và lo sợ trước viễn cảnh tương lai. Nhưng tôi xin nói điều này: Hãy đặt cuộc đời chúng ta trong bàn tay của Chúa. Ngài sẽ chấp nhận và chúc lành cho chúng ta cũng như biến đổi cuộc đời chúng ta một cách tốt đẹp, vượt trên điều chúng ta có thể mơ ước. Giờ đây chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đã đặt vào bàn tay của Chúa bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng của chúng ta để cho Ngài xử dụng theo ý Ngài muốn. Chúng ta có dâng hiến chính bản thân và mọi năng lực của mình như mẹ Têrêxa, như cậu bé trong đoạn Tin Mừng hôm nay hay chưa? Có lẽ lúc này Chúa cũng muốn nói với chúng ta ngày hôm nay Thầy cần đôi chân, đôi tay và môi miệng của các con. Vì ngày hôm nay, Thầy chỉ biết nhờ đôi chân các con để mang Thầy đến với những kẻ bất hạnh. Thầy chỉ biết nhờ đôi tay các con để vươn tới những kẻ yếu đuối. Thầy chỉ biết nhờ miệng lưỡi các con để nói cho mọi người về tình thương của Thầy.
Tóm lại, Ngài mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài để thực hiện những phép lạ, y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Phúc âm. Bất cứ chúng ta trao tặng Ngài điều gì, Ngài sẽ sử dụng nó để đem lại những kết quả to lớn vượt qua sự mong ước của chúng ta.
24. Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Có người cho rằng Kitô giáo là một thứ duy tâm, chỉ biết có đời sau, chỉ lo cho linh hồn.
Khi đọc Tin Mừng, ta thấy một điều khác hẳn. Đức Giêsu vừa rao giảng Nước Trời, vừa chữa mọi thứ tật bệnh cho dân chúng. Ngài quan tâm đến thân xác con người. Ngài đem lại ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Đức Giêsu đã từng nếm cái đói trong hoang địa, cái khát bên bờ giếng, cái mệt khiến Ngài ngủ vùi, cái lạnh của những đêm không chỗ trọ, Ngài biết con người có thân xác và là thân xác.
Khi thấy đám đông kiên trì theo Ngài, Đức Giêsu biết lòng họ rất vui, nhưng bụng họ thì đói. Ngài muốn tặng họ một bữa ăn đơn sơ, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời, trên thảm cỏ xanh tươi sau những trận mưa xuân. Bữa ăn khiến niềm vui được trọn vẹn.
"Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?"
Đức Giêsu đưa các môn đệ đi vào nỗi bận tâm của Ngài. Ngài cần sự cộng tác của họ. Nhưng câu hỏi trên lại là một bài toán khó. Nó giúp các môn đệ nhận ra sự bất lực của mình. Dù có một số tiền lớn cũng chẳng thấm vào đâu.
Khi con người bất lực thì Thiên Chúa bày tỏ quyền năng. Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ, từ tay một cậu bé con đến tay Đức Giêsu, đã trở nên lương thực nuôi năm ngàn người.
Thế giới tiến bộ hôm nay vẫn là một thế giới đói. Đừng vội nói đến cái đói tinh thần. Cái đói trên thân xác vẫn làm con người quay quắt. Đói cơm ăn áo mặc, đói nhà ở, đói thuốc men, đói chút nước sạch, rau sạch để dùng, đói an toàn và bảo hộ khi lao động, đói một bầu khí trong lành và yên tĩnh để nghỉ ngơi...
Có bao Kitô hữu đã xót xa trước cảnh đói, và đã bắt tay vào cuộc với niềm tin, dù họ chỉ có năm cái bánh và hai con cá.
Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người đều là việc thánh thiêng, việc của Chúa. Khi thân xác con người được sống xứng hợp, tâm hồn con người dễ vươn lên các giá trị tinh thần.
Thiên Chúa đã ban một trái đất đủ nuôi sống mọi người. Đừng trách Thiên Chúa đã tạo ra nghèo khổ. Chỉ nên nhận rằng bất công nằm ngay nơi lòng mình. Xã hội còn nhiều người nghèo đói vì tôi không dám chia sẻ cả điều mình dư thừa, vì tôi bị hút vào cơn lốc của thời trang và mua sắm, vì tôi xa lạ với những Giêsu quanh tôi đang đói khát, không nhà, trần trụi và đau yếu. Ước gì tôi biết yêu mến con người như Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có nghĩ rằng cái đói của thân xác dễ dẫn đến những hư hỏng và sa đọa không? Theo ý bạn, đâu là những điều kiện sống tối thiểu để sống cho ra người?
Bạn nghĩ gì về sự chênh lệch quá mức giữa người giàu và người nghèo, nước giàu và nước nghèo? Đó có phải là sự bất công không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước không còn những La-da-rô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.
Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.
25. Đào tạo trái tim – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Đài VTV1 đã chiếu lại bộ phim truyền hình nhiều tập “Bản Tin Sớm”. Nhân vật chính trong phim là Gary Hopson, một người thường xuyên theo dõi tin tức hằng ngày qua tờ báo “Chicago”. Khi đọc tin tức, anh thường chú ý tới những người đang gặp nạn. Mỗi khi thấy có người bị nạn, anh luôn băn khoăn tự hỏi xem mình phải làm gì để giúp đỡ nạn nhân. Và lập tức, bất kể những khó khăn, anh lên đường tìm giúp người bị nạn.
Tâm hồn người thanh niên dũng cảm và quảng đại ấy có những nét giống với tâm hồn của Đức Giêsu. Mỗi khi nhìn thấy những cảnh khổ ở đời, Đức Giêsu không sao cầm được lòng thương. Hôm nay, nhìn thấy đám đông đói khát, Người không thể để mặc họ ra về. Người cảm thấy có trách nhiệm phải lo cho họ ăn uống đầy đủ. Dù giữa nơi hoang vu không có hàng quán. Mà nếu có hàng quán cũng chẳng ai đủ tiền mua cơm bánh cho hàng chục nghìn người đang đói khát. Nên người đã làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân. Qua phép lạ lớn lao này, Đức Giêsu hé mở cho ta thấy trái tim đầy tình thương xót của Người, quyền năng cao cả của Người. Nhưng đồng thời Người cũng nhân dịp này đào tạo trái tim con người.
Bài học thứ nhất mà Người muốn dạy ta, đó là lòng cảm thương phải biến thành việc làm cụ thể. Lòng cảm thương là một tình cảm tốt. Nhưng cảm thương suông thì chưa đủ. Thiếu việc làm cụ thể, lòng cảm thương nhiều khi trở thành hình thức, giả dối. Lòng cảm thương ai cũng có. Nhưng số người thực sự ra tay hành động vì lòng cảm thương lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu thốn phương tiện. Các tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động. Nhưng Đức Giêsu bắt họ vào cuộc. Đã thấy việc tốt thì cố gắng làm. Dù khó khăn cách mấy cũng phải vượt qua. Chỉ có việc làm cụ thể mới minh chứng một lòng cảm thương đích thực. Thế là các môn đệ phải đi tìm bánh và cá mang đến cho Chúa. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người. Các ông đi thu lượm những mẩu bánh còn dư. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Bài học thứ hai mà Người muốn dạy ta, đó là hãy cộng tác vào công trình của Chúa. Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng Người muốn ta cộng tác vào chương trình của Người. Người có thể biến đá thành bánh. Nhưng Người vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc. Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ Pháp có câu: “Hãy tự giúp mình, rồi trời sẽ giúp bạn”. Sự cộng tác của ta nói lên nhu cầu thật sự bức thiết. Sự cộng tác tích cực nói lên lòng ta tha thiết mong muốn. Nỗ lực của con người là khởi đầu phải có. Rồi Chúa sẽ làm nốt phần còn lại. Ở đây ta phải ghi nhận lòng quảng đại của em bé. Có lẽ em đi bán bánh. Giữa nơi hoang vu vắng vẻ, trước một đoàn người đói khát, em có thể lợi dụng thời cơ nâng giá bánh để tìm lợi nhuận. Nhưng em đã quảng đại dâng hết cho Chúa. Chính sự quảng đại của em đã góp phần làm nên phép lạ nuôi sống hàng vạn người.
Bài học thứ ba mà Người muốn dạy ta, đó là hãy biết tiết kiệm. Đói khát và thừa mứa. Thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái ngược hiện nay trên thế giới. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh dư thừa. Đức Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh thừa. Chúa dậy cho mọi người hãy biết tiết kiệm. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Tiết kiệm để chia sẻ. Tiết kiệm vì công bình. Tiết kiệm vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Thế giới còn những người đói nghèo không phải là vì thiếu tài nguyên, nhưng vì phân phối chưa đồng đều, vì những người giầu có tiêu xài phí phạm.
Bài học thứ bốn mà Người muốn dạy ta, đó là phải tìm lương thực thiêng liêng. Vật chất là cần thiết cho đời sống hiện tại. Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con người sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời. Về lâu về dài, muốn con người phát triển, cần phải giải quyết các nạn đói khác. Đó là nạn đói văn hóa. Đó là nạn đói đạo đức. Và trên hết, đó là nạn đói lương thực thiêng liêng. Nhu cầu tâm linh của con người ngày càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện. Chúa bỏ trốn, không chịu để được tôn làm vua, vì Người muốn những kẻ tìm Người tỉnh ngộ, vượt thoát khỏi vòng nô lệ vật chất, vươn lên những giá trị tâm linh.
Với những bài học kèm theo việc hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu muốn đào tạo trái tim chúng ta. Người muốn trái tim ta hãy mở ra để cảm thương anh em đồng loại. Người muốn lòng cảm thương ấy đi đến cùng bằng những việc làm cụ thể, bằng sự cộng tác quảng đại, bằng sự tiết kiệm để giúp ích cho nhiều anh em. Người muốn trái tim ta vươn lên khao khát những chân trời cao thượng của đời sống tâm linh. Người muốn đào tạo ta nên những con người phát triển toàn diện xứng đáng là những người con của Thiên Chúa. Người muốn nuôi dưỡng không chỉ thân xác nhưng nhất là linh hồn ta.
Lạy Chúa, xin nâng tâm hồn con lên tới Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể lại những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua bài Tin Mừng hôm nay.
2) Bạn có thể góp phần phát triển xã hội bằng cách tiết kiệm. Bạn có thấy việc đó là cần thiết không?
3) Nhiều lần bạn đã xin Chúa cho được cơm no áo ấm. Nhưng có bao giờ bạn xin Chúa cho được nên người tốt, biết sống đạo đức hơn không?
4) Lòng cảm thương của bạn có đi đến những việc làm cụ thể không?
26. Nuôi đám đông
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Khi tổ chức tiệc chúng ta thường phải chuẩn bị nhiều thứ. Tiệc càng đông người việc chuẩn bị càng nhiều và nếu có người phụ giúp gánh nặng sẽ giảm bớt nhiều nhưng nhiệm vụ của người quản tiệc vẫn đòi hỏi nhiều tính toán, chuẩn bị, nhờ đúng người, đúng việc.
Đám đông lắng nghe Đức Kitô hầu như cả ngày, thích thú đến độ không cần ăn uống. Các môn đệ xin Ngài giải tán đám đông để họ đi tìm chỗ ăn uống, nghỉ ngơi vì ngày đã gần tàn. Đức Kitô đáp các anh hãy lo cho họ ăn. Các ông la hoảng, tìm đâu ra của ăn nuôi năm ngàn người ở nơi quạnh hưu này, hàng quán thì không có, mà nếu có thì đào đâu ra tiền mua thức ăn. Một trong số các vị mạnh dạn thưa. Em bé kia có dăm cái bánh và hai con cá nhưng bằng đó thì thấm vào đâu cho số người khổng lồ này? Các môn đệ theo Thầy đã lâu nhưng vẫn không thể tưởng tượng, chưa nói đến hiểu, quyền phép Thiên Chúa. Các ông không biết Chúa có thể hoá ít ra nhiều bằng một lời nguyện cùng Chúa Cha. Các ông không biết Chúa chọn kẻ bé nhỏ nhất, hèn mọn nhất là em bé với hộp đồ ăn trưa để nuôi năm ngàn người lớn ăn no, số bánh dư, vất vương vãi trên cỏ thu lại thành nhiều thúng đầy. Không phải các môn đệ làm sự lạ cả thể mà chính Đức Kitô. Cũng không phải vì lời cầu xin của các ông mà Đức Kitô làm phép lạ mà chính là do tình thương mến Đức Kitô dành cho đám đông. Khi nghe Đức Kitô bảo các ông hãy nuôi đám đông, các ông sửng sốt đến ngạc nhiên tự hỏi không biết mình có nghe sai không? Nhưng khi nghe Đức Kitô bảo hãy nói với dân chúng ngồi xuống từng đám năm mươi lúc đó thì không còn nghi ngờ gì nữa. Các môn đệ vâng lời Đức Kitô nhưng không hiểu việc Thầy làm. Dù không hiểu nhưng vẫn vâng lời đó là điều Kitô cần suy gẫm khi cuộc sống gặp gian nan, khi đức tin gặp hoàn cảnh khó xử bởi việc Chúa làm không thể hiểu, ngoài mức hiểu của con người nhưng ai vâng lời sẽ kinh ngạc trước những việc Chúa làm. Họ sẽ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, từ trầm trồ này đến trầm trồ nọ vì sức mạnh tình thương cao cả Chúa.
Giảng cho năm ngàn người nơi bãi biển mà không cần khí cụ khuyếch đại âm thanh, khi tiếng sóng vỗ ầm ầm, tiếng gió hú vù vù bên tai, Đức Kitô có thể làm cho mọi người nghe và hiểu điều Ngài muốn nói, yêu mến lời Ngài giảng dậy là một phép lạ. Họ nghe đến quên thời gian, quên ngay cả đói khát, quên đau lưng, chồn chân, mỏi gối. Tất cả những điều đó là những phép lạ phụ, tuy nhỏ nhưng rất thực tế dẫn đến phép lạ vĩ đại cuối ngày. Phép lạ cả thể là dùng bữa ăn trưa của em nhỏ nuôi năm ngàn người lớn. Phép lạ cuối ngày dẫn chúng ta liên tưởng đến bữa Tiệc Li Đức Kitô dùng với các môn đệ và trong bữa tiệc này Chúa lập Bí Tích ngày nay chúng ta hiểu là Bí TíchThánh Thể. Với quyền năng cao vời Chúa hoá ít bánh ra nhiều bằng một lời cảm tạ Chúa Cha. Kitô hữu không nên và cũng không cần thắc mắc sự việc Chúa làm, làm sao sau khi truyền phép bánh thường trở thành Thịt Máu Đức Kitô. Nếu có thắc mắc thì nên đặt câu hỏi làm thế nào để cám ơn tình thương Chúa cho được. Có lẽ cách hữu hiệu nhất, thích hợp nhất và làm đẹp lòng Chúa nhất để đáp lại tình thương Chúa là với lòng chân thành, yêu mến chúng ta hãy chia sớt trong khả năng mỗi người để Chúa biến những vật chất giới hạn của ta thành tình yêu vô biên của Chúa cho tha nhân. Đó là cách thực hành tinh thần bác ái Kitô, thực hành tinh thần người quản lí tốt lành trong Giáo Hội Chúa.
27. Vụn bánh
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Phúc Âm đọc trong lễ Chúa Nhật năm B thường trích từ thánh Marcô. Tuần này và bốn Chúa Nhật kế tiếp có sự thay đổi đột ngột. Chúng ta nghe đọc Phúc Âm thánh Gioan, chương sáu, nói về Đức Kitô, Đấng ban Bánh Hằng Sống, là chính Máu và Thịt Ngài làm của ăn nuôi linh hồn ta. Bánh Hằng Sống vì Đức Kitô phán
Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời Gn 6,51
Chỉ có hai con cá và năm cái bánh, Đức Kitô làm phép lạ, dư bánh nuôi năm ngàn người. Phép lạ nuôi đám đông còn huyền diệu hơn, trường cửu hơn, khi Ngài dùng chính Mình và Máu Thánh Ngài để nuôi muôn dân. Không phải một lần mà nhiều lần, vô tận. Mình, Máu Chúa ban không giới hạn thời gian, kéo dài từ đời nọ đến đời kia, thế hệ này sang thế hệ nọ. Vô tận. Bao lâu còn người kêu cầu Danh Thánh dâng lễ tế; bấy lâu còn Mình Máu Thánh.
Tất cả vì yêu
Đức Kitô ban bánh hằng sống vì Ngài yêu ta. Tình yêu Ngài không chỉ giới hạn riêng cho linh hồn. Tình yêu Ngài thể hiện tài tình qua các phép lạ chữa lành bệnh thân xác. Ngài diễn tả tình yêu cao vời bằng nhiều cách, vượt thời gian, không gian. Mọi cử chỉ, lời nói, việc làm, lời giảng cũng như phép lạ đều phục vụ một mục đích duy nhất. Diễn tả tình Chúa yêu ta.
Đức Kitô xuống thế nhận thân phận làm người, chung sống với nhân loại. Sống gần kề con người. Ngài đến để cảm thông nỗi đau khổ, vất vả của con người và mở đường dẫn con người về cùng Chúa Cha, Đấng trọn tốt, trọn lành vô cùng.
Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Gn 14,6
Là con người, Đức Kitô trải qua vui buồn, sướng, khổ như chúng ta. Qua kinh nghiệm bản thân, Ngài an ủi kẻ sầu khổ, hạnh phúc cho kẻ bất an, hy vọng cho người tuyệt vọng. Kẻ mù mừng vui thấy ánh sáng, vẻ đẹp thiên nhiên của Đấng Hóa công. Ngài chữa lành mọi ốm đau, bệnh tật. Người điếc reo hò chân nhảy điệu nhạc vui. Kẻ câm cất tiếng hát vang lời cảm tạ. Người què vất nạng xó bếp, chân bước đều, đồng hành cùng mọi người. Đức Kitô diễn tả tình yêu Chúa cao vời, vượt trên trí hiểu biết con người. Khôn ngoan, trí óc tưởng tượng không nổi, nói chi đến giải thích, phân tích. Để tạm hiểu tình yêu Chúa, có một cách duy nhất: dùng tình yêu đáp trả tình yêu. Ngoài cách này ra, không còn cách nào khác.
Tình yêu cao vời
Ngoài cách diễn tả tình yêu gần gũi, bình thường như chữa bệnh, và các dấu lạ. Đức Kitô còn diễn tả tình yêu Chúa một cách lạ thường. Ngài cho người chết sống lại. Ban ơn tha tội cho những ai thống hối. Bênh vực kẻ nghèo hèn. Ngài xin Chúa Cha coi sóc và thánh hiến kẻ tin vào Ngài. Xin Chúa Cha tha cho kẻ phản bội, giết Ngài. Ban ơn tha thứ cho kẻ trộm ăn năn, thống hối. Vì yêu ta Đức Kitô hi sinh chết thay cho ta đuợc sống. Thánh Phaolô nói chết thay cho người công chính đã hiếm, Chúa chết thay cho kẻ tội lỗi, còn ban Bí Tích nâng đỡ, ban ân sủng, sức mạnh giúp người đó an tâm trở về.
Cao vời khôn ví
Ngoài trí tưởng tượng của ta. Tình Chúa cao vời khôn ví. Chúa lập phép Thánh Thể, hiện diện trong hình bánh nhỏ, trong giọt rượu nho, trong lời kinh, để gần người yêu.
Tình Ngài bất biến
Ngoài mối tình gia đình. Chúng ta yêu nhau có điều kiện, hoặc là hợp tính nết, cùng lứa tuổi, chung sở thích, gặp nhau do cách nói chuyện, thân thiết vì cùng kiến thức. Tình Chúa yêu ta không thay đổi theo thời gian. Trước sau luôn như một. Từ muôn thuở Chúa đã yêu ta bằng mối tình yêu không biên giới. Vì yêu mà chúng ta có mặt trên đời. Vì yêu Chúa cùng đồng hành với ta trong mọi biến cố lớn nhỏ của cuộc sống. Vì yêu Chúa không chọn người đẹp; chê người xấu. Chúa đón nhận và mong mỏi ngự vào mọi tấm lòng. Dù tấm lòng đó luôn thay đổi lúc trắng, lúc đen. Khi trung thành, lúc bất trung. Khi thương mến, lúc giận hờn. Khi sốt sắng đón chào, lúc khác lại xua đuổi. Lúc đuổi Ngài lúc đuổi anh chị em Kitô hữu tôn thờ Ngài. Đức Kitô đón nhận mọi tâm hồn khi tâm hồn đó có dấu chỉ thống hối. Tất cả vì Chúa yêu ta.
Phép lạ bánh ít hoá nhiều, con người xịa của, ăn dư vất đầy sân cỏ. Các môn đệ thu được mười hai thúng đầy. Ngày nay, trong một số trường hợp, người ta vẫn đối xử với Chúa như miếng bánh rơi sân cỏ năm xưa. Đón nhận Mình Máu Thánh một cách ơ hờ, thiếu chuẩn bị, thất kính. Chúa không chấp, vẫn một mực yêu thương. Nếu có thất kính là bất kính với người đồng đạo hơn là bất kính với Chúa.
Tự hào
Con người tự hào vì biết vẽ chân dung để nhớ lại người thân quá cố. Tài giỏi hơn nữa là chế tạo máy chụp chân dung người thân, lộng kiếng treo trong phòng. Tân tiến hơn là quay hình ảnh sống động các sinh hoạt của từng người, trong các biến cố cuộc sống. Tất cả đều là những hình ảnh không cảm giác, không sự sống. Tương lai còn chế tạo những gì chưa ai rõ. Điều rõ ràng, chắc chắn là trước khi con người biết vẽ, chế tạo máy chụp hình lưu niệm và máy quay phim hình ảnh di chuyển. Thiên Chúa, ngay lúc khởi nguyên, đã đi trước con người hàng triệu thế kỉ. Ngài sáng chế ra hình ảnh sống động, biết cảm xúc, biết yêu thương. Đó là sự hiện hữu của mỗi chúng ta. Chúa tạo dựng ta theo hình ảnh Chúa để qua ta Chúa nhìn thấy chính Chúa.
Xin ban ơn giúp con nhìn ra chân dung Chúa nơi mọi người.
28. Có thực mới vực được đạo
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Trọng Khẩn)
Lịch sử dân Chúa thời Cựu ước đã được ăn no nê bánh manna từ trời rơi xuống. Bánh đó tượng trưng cho ân huệ Thiên Chúa thương dân Người. Ngài không muốn họ phải chết đói chết khát.
Hôm nay và mãi mãi Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương chăm sóc cuộc đời chúng ta. Ngài không bỏ rơi con người. Ngài chăm sóc chúng ta từng chi tiết nhỏ mọn như một người mẹ hiền thương con và còn hơn thế nữa. Chúa Giêsu chính là hiện thân tình thương ấy của Thiên Chúa Cha.
Các bản văn Kinh Thánh CN 17 TN đều thuật lại việc Thiên Chúa chăm sóc son người một cách cụ thể liên quan đến miếng cơm manh áo. Bài đọc 1 sách các vua quyển thứ 2 kể lại việc hồi ấy có nạn đói lớn trong miền, người ta đem biếu ông Êlisa người của Thiên Chúa 20 chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông bảo ‘phát cho người ta ăn’. Nhưng tiểu đồng hỏi ông: ‘Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?’ Ông bảo: ‘Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: họ sẽ ăn mà vẫn còn dư’. Tiểu đồng phát cho người ta. Họ đã ăn, mà vẫn còn dư, như lời Đức Chúa phán (x. 2 V 4,42-44). “Chúa thương rộng mở tay ban, đoàn con hết thảy muôn vàn thoả thuê” (Tv 144). Bài Tin Mừng Thánh Gioan thuật lại phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều từ phần đóng góp phần ăn của một cháu bé so với đám đông mấy ngàn người cũng chẳng thấm vào đâu; nhưng kết quả diễn ra thật lạ lùng.
Trước khi cho chúng ta ăn no phần xác Chúa phải cho ăn phần hồn. Họ phải hy sinh vất vả theo Chúa để nghe Lời Chúa trước đã rồi Chúa mới làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho họ ăn. Chúa biết 'có thực mới vực được đạo'. Chúa bồi dưỡng, cứu độ con người cả hồn lẫn xác; chăm lo cả cuộc sống chúng ta.
Đám đông dân chúng, một khối người khổng lồ vây quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng. Chúa đã nuôi họ bằng Lời hằng sống. Chúa còn muốn nuôi họ bằng lương thực vật chất nữa. Chúa biết kinh nghiệm khi đói khát, người ta dễ cáu gắt, khó chịu, bực bội; thậm chí vì miếng ăn có thể chém giết nhau. Chúa Giêsu biết rõ điều ấy nên không nỡ để đám đông sau khi nghe Chúa giảng dạy lâu giờ mà phải ra về khi bụng còn đói. Rất có thể họ sẽ phê bình, chỉ trích, nổi cáu, đả đảo Chúa vì đói quá thì sao!
Nhưng cũng không phải là ‘theo đạo lấy gạo mà ăn’. Đám đông dân chúng và các môn đệ đâu có biết sau đó Chúa làm phép lạ cho họ ăn no nê. Họ chỉ biết theo Chúa để nghe giảng thôi. Mà ở địa bàn lúc bấy giờ là nơi hoang vắng cũng chẳng có quán ăn nào.
Phép lạ có được là nhờ sự quảng đại của một em bé đã dám bỏ phần ăn của mình là 5 chiếc bánh và 2 con cá (x. Ga 6,1-15). Phép lạ đòi hỏi có sự cộng tác, chia sẻ. Phép lạ đòi có sự quảng đại, hy sinh. Chúng ta luôn có đủ khả năng để giúp đỡ người khác cách này cách nọ. Đừng sợ mình cho đi ít quá hay không có gì để cho. Chỉ cần vài miếng ăn của đứa bé thế là có một phép lạ vĩ đại mà chúng ta không tin sao?
Thời đại chúng ta, vấn đề ăn uống có lẽ ít còn là chuyện ăn cho no, vì thóc gạo lương thực không đến nỗi thiếu thốn như ngày xưa, nên phải tìm kiếm ăn sao cho ngon. Vì thế, có nhiều nghệ thuật ăn uống, mỹ thuật trình bày món ăn sao cho hấp dẫn nữa. Ấy thế mà lại thiếu trầm trọng bữa ăn mang tính huynh đệ, bác ái thực sự. Thành thử ra, ngay cả khi không đói khát, người ta vẫn tranh giành nhau từng miếng ăn nhỏ nhen, bất chấp tương quan anh chị em, cha mẹ con cái... Thực tế trong con người chúng ta vẫn có khuynh hướng xấu ấy. Hôm nay Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để dạy chúng ta về sự chia sẻ trong tình liên đới. Bằng chứng là một em bé đã dám bỏ ra 5 chiếc bánh và 2 con cá của mình để đưa cho Chúa phân phát cho đám đông là một điều hơi lạ, vì đối với trẻ em, chuyện này là hơi khó. Chúa Giêsu đã biến từ một sở hữu cá nhân, sự tham lam ích kỷ của con người thành sự chia sẻ, cho đi và hưởng dùng cho cả cộng đồng, tập thể lớn.
Thiên Chúa đã dựng nên thế giới này rất phong phú, dồi dào tài nguyên khoáng sản không những nuôi sống mấy tỉ người mà nuôi sống cả muôn loài muôn thú nữa. Chỉ cần người ta đừng lãng phí, đừng ích kỷ, tham lam độc ác; nhưng biết cộng tác, chia sẻ thì ai cũng sẽ được hưởng cao lương mỹ vị. Chẳng hạn như Mẹ Têrêxa hằng ngày nuôi 9.000 người nghèo ở Calcutta. Nhưng một nghiên cứu có tính quốc tế cho biết: mỗi 1 giờ đồng hồ có khoảng 1.500 trẻ em chết vì đói khát, bệnh tật; nửa triệu dân số thế giới không được cung cấp đủ nước sạch; 450 triệu người mỗi đêm phải đi ngủ mà bụng vẫn đói meo!
Thế giới vẫn còn nghèo đói, lạc hậu, dốt nát do chiến tranh và các tệ nạn xã hội. Đức Giêsu luôn cần những con người cộng tác để trẻ em được dạy dỗ, người nghèo được nuôi nấng, người ốm đau được chăm sóc. Vì thế, một cá nhân có thể trở thành dụng cụ cho phép lạ, nếu chúng ta biết chia sẻ điều mình có với Chúa như là của cải, sức khoẻ, tài năng, thời giờ, tình yêu, địa vị, quyền hành. Chúa sẽ biến thành kết quả khôn lường. Một ông giám đốc, một nhà khoa học, một thầy giáo, một diễn viên, một linh mục, tu sĩ hay giáo dân có thể giúp ích, nuôi sống bao nhiêu người. Một chương trình nghệ thuật hay quảng cáo thu được rất nhiều tiền do sự đóng góp của nhiều người, sau đó người ta có thể dành cho những mục tiêu cao đẹp, chính đáng nào đó chẳng hạn. Như giúp người nghèo đói, bệnh tật. Chúng ta hãy cộng tác với những tổ chức từ thiện bác ái trong đạo ngoài đời để làm nên những phép lạ hằng ngày. Với niềm xác tín rằng “nếu chúng ta dâng cho Chúa một tia lửa Chúa sẽ biến thành ngọn lửa. Nếu chúng ta dâng cho Chúa một sợi dây Chúa sẽ biến nó thành cây đàn. Nếu chúng ta dâng cho Chúa một giọt nước Chúa sẽ biến nó thành một dòng suối...”.
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, 5 chiếc bánh và 2 con cá là con số tuợng trưng cho 7 bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, là nguồn lương thực Chúa nuôi dưỡng chúng ta mãi cho đến ngày tận thế, không bao giờ cạn kiệt. Chúa chăm lo cho chúng ta cả hồn lẫn xác. Chúng ta hãy để cho Lời Chúa và các bí tích của Chúa hướng dẫn và nuôi sống chúng ta, chắc chắn sẽ có những phép lạ thường xuyên xảy ra.
Cử chỉ Chúa làm khi hoá bánh ra nhiều cũng giống như cử chỉ khi Chúa lập Bí tích Thánh Thể. Rõ ràng Chúa Giêsu là tấm bánh như chính Ngài đã nói “Ta là bánh hằng sống”, đã dám bẻ cuộc đời mình ra cho nhân loại chia nhau ăn để họ được sống muôn đời. Quả thật, nhân loại sẽ còn đói khát Chúa Giêsu mãi. Đói khát Lời Ngài, Thịt Máu Ngài. Hôm nay Chúa vẫn đang cần những con người cộng tác trao ban Lời Ngài, bẻ bánh trao cho nhân loại để họ hết đói khát. Những người cộng tác không ai khác là các môn đệ, là Kitô hữu chúng ta, hãy hiến thân để phục vụ anh chị em đồng loại đang đói khát vật chất, tinh thần, đức tin. Chúng ta hãy cho họ ăn để họ được sống dồi dào cả hồn lẫn xác như Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta.
29. Dịp may bỏ lỡ – Maurice Brouard.
Từ vài năm nay, những chiến sĩ của một đảng chính trị đã bỏ nhiều công sức cho chiến lược của họ: Thăm dò, họp báo, quảng cáo không ngừng, chẳng thiếu gì cả. Họ thu hút được dư luận: Càng ngày người ta càng nói đến người sẽ là vị lãnh đạo của đảng. Mặc dù có những sự thối lui trong cuộc thăm dò, nhưng cơn sốt vẫn lên cao. Và này đây một cơ hội bất ngờ: Quần chúng náo nức, họ yêu cầu người ấy làm lãnh đạo của đảng. Đến phút chót, người ấy từ chối. Các đảng viên chua xót và thất vọng vì quần chúng đã không biết nắm lấy thời cơ.
Qua dụ ngôn trên đây, tôi muốn hình dung cách mà các bạn hữu của Chúa Giêsu đã phản ứng trước sự từ chối của Ngài. Thực ra Chúa Giêsu cứ luôn luôn bỏ lỡ những cơ hội đưa Ngài tới thành công: Ngài lẩn trốn. Quả thật Ngài không sinh ra để làm chính trị.
Sự lẩn tránh của Chúa Giêsu.
Sau bữa ăn no nê ở giữa thiên nhiên, đám đông không ngớt ngạc nhiên về phép lạ mà qua đó họ nhận ra dấu chỉ đáp ứng sự chờ mong sâu xa của họ. Chúng ta biết rằng người Do Thái chờ đợi sự tái diễn phép lạ manna vào ngày tận thế – vào thời Mêsia. Họ chờ đợi một Môisê mới, một vị ngôn sứ, sẽ tái diễn phép lạ manna. Vì vậy, phản ứng của đám đông là chuyện bình thường. Nhìn thấy dấu lạ Chúa Giêsu vừa mới làm, họ nói: ông này thật sự là ngôn sứ, kẻ sẽ đến trong thế gian. Nhưng Chúa Giêsu biết họ sẽ bắt Ngài để tôn lên làm vua, vì thế Ngài lại rút lui lên núi một mình.
Tại sao phải lẩn tránh?
Tại sao Chúa Giêsu lại tránh làm vua? Bởi vì quần chúng chỉ nghĩ đến bánh, còn Ngài lại quan tâm mặc khải cho họ Thiên Chúa thật. Ngài sẽ không cho họ nhận ra được Ngài là ai: Đấng Chúa Cha sai đến mang sự sống mới cho nhân loại. Đây sẽ là bi kịch của đời Ngài. Trong diễn từ vĩnh biệt đêm tiệc ly, Chúa Giêsu tâm sự với những kẻ thân thích của Ngài: “Người Do Thái đã không nhận biết Chúa Cha và cũng không nhận biết Thầy” (16,3). Trong lời cầu nguyện với Chúa Cha, Ngài nói: “Lạy Cha Chí Thánh, thế gian không nhận biết Cha” (17,25). Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần đã không được nhìn nhận. Quần chúng chỉ quan tâm đến phép lạ, phép lạ, đến những ân huệ hoàn toàn vật chất mà thôi. Đối với Chúa Giêsu, điều chính yếu là loài người được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, và như vậy, họ sẽ cởi mở đối với Thiên Chúa, đối với niềm hy vọng về một thế giới sắp đến. Điều chính yếu trước hết là những kẻ nghi ngờ, tuyệt vọng không thấu hiểu được mầu nhiệm của đau khổ, sự dữ, sự tội và sự chết, tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha của họ. Điều chính yếu, là họ kết hợp với Thiên Chúa và cộng tác với Ngài để xây dựng một thế giới dễ thở hơn. Họ sẽ làm được điều này khi nỗ lực giải phóng anh em mình khỏi tất cả những sự dữ đang giam cầm họ trong sự nô lệ, và khỏi mọi ngẫu tượng: Tiền bạc, tiện nghi, quyền thế.
Câu hỏi.
Chúng ta tin vào Chúa Giêsu có phải là tin vào vị ngôn sứ cao cả, Đấng giải phóng đến trong trần gian để thỏa mãn những ước vọng sâu xa nhất của chúng ta (ước vọng được cứu rỗi, được sống vĩnh cửu, được hiệp thông với Thiên Chúa) và để lôi cuốn chúng ta giải phóng những người anh em đang phải nô lệ cho sự bất công, thù ghét và cho các ngẫu tượng không?
Lời Chúa và Thánh Thể.
Thánh Thể là bữa tiệc được Chúa Giêsu thiết lập để nuôi dưỡng ước muốn hiệp thông của chúng ta với Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, và để tăng cường ý chí chúng ta muốn phục vụ hết thảy mọi người.
30. Để phép lạ được tiếp tục – Lm. Nguyễn Nguyên
Thiên Chúa là Tình Yêu, đó là một định nghĩa thật chính xác về Thiên Chúa của Kitô giáo chúng ta. Tình yêu ấy bao trùm toàn thể vũ trụ này. Không một thụ tạo nào có thể sống và tồn tại nếu không nằm trong quỹ đạo yêu thương của Ngài. Là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, nên khi đến trần gian, trong những ngày tháng công khai rao giảng, Chúa Giêsu đã thể hiện tình yêu ấy một cách cụ thể như trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thật thế, nhằm đáp ứng nhu cầu khát khao chân lý của dân chúng, Chúa sẵn sàng dạy dỗ họ nhiều điều. Rồi khi thấy đám đông đi theo mãi mê nghe Chúa giảng dạy mà quên cả ăn, khiến Ngài không đành lòng để họ ra về giữa cơn đói cồn cào. Nên Chúa đã hỏi: “Philipphê, ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Câu hỏi làm toát lên một sự quan tâm, lo lắng được xuất phát từ tình yêu chân thành. Dù rằng, chính Tông đồ Philipphê, khi được hỏi đã thú nhận sự bất lực của mình khi trả lời Chúa Giêsu: “Đến hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”. Khi nói “hai trăm bạc bánh”, Philipphê muốn nói rằng cho dù có một số tiền lớn tương đương với tiền công 200 ngày của một người Do Thái lúc bấy giờ hoặc tính theo giá trị của hôm nay là 100.000 đồng/công, số tiền này lên đến 20 triệu đồng, thì “cũng chẳng đủ cho mỗi người được một chút”.
Tuy nhiên, tất cả những khó khăn đó không cản trở được tình yêu, lòng thương xót của Chúa Giêsu đối với đám đông đang mệt lả vì đói. Ngài đã vượt qua tất cả mọi trở ngại, để thực hiện một phép lạ thật tuyệt vời. Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé, Ngài đã làm ra số lương thực đủ cho cả đám đông đang bị cơn đói hành hạ, hơn nữa còn dư lại 12 thúng đầy. Điều con người không thể tưởng, không thể nghĩ, không thể làm được, thì Chúa Giêsu với tình thương Ngài đã thực hiện cách dễ dàng. Nhưng chúng ta cũng lập tức nhận ra rằng Chúa đã thực hiện phép lạ không phải từ số không, nhưng từ chất liệu của con người, đó là bánh và cá. Chúa Giêsu không dùng lời quyền năng để biến từ không ra có, mà phép lạ được khởi đi từ một khẩu phần ăn ít ỏi của một em bé. Vậy là đã quá rõ Chúa muốn qua phép lạ hôm nay nói với mọi người chúng ta rằng: Chúa muốn dùng tình thương của con người, để qua đó Ngài thi thố tình thương của Thiên Chúa cho con người gấp bội. Cũng như sự quảng đại của em bé đã làm cho nhiều người được no nê, những đóng góp của biết bao người thiện chí, dù là ít ỏi, giới hạn, chẳng đáng là bao nhưng thực hiện với lòng yêu thương, sẽ khiến Thiên Chúa làm cho sự quảng đại này được nhân lên, nhân lên mãi trong cuộc sống.
Thế nên, lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem, chúng ta đang đặt trong tay Chúa bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng để Ngài sử dụng theo như ý Ngài muốn? Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm xưa. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì - chẳng hạn thời gian, tài năng, tiền của, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta - Ngài sẽ sử dụng tất cả để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng vượt lên trên mọi niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã bội nhân 5 chiếc bánh và 2 con cá của cậu bé trong Tin Mừng. Có lẽ đây là điều không dễ vì khi đói, miếng bánh còn quý hơn vàng, và thói đời thường cho rằng “sống chết mặc bây, tao no trước đã”. Nhưng cậu bé sau khi đã quảng đại, sẵn sàng trao khẩu phần ăn của mình cho Chúa, em không chỉ được ăn no nê, mà còn nhận lại được niềm sung sướng khi thấy món quà nhỏ mọn của mình đã đem lại niềm vui bất ngờ cho biết bao người khác.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn giàu lòng quảng đại để có thể trao ban niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân trong đời sống bác ái yêu thương. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được toả lan rộng rãi khắp nơi. Amen.
31. Phúc Âm đã phản ánh trong Thánh Lễ.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” – Charles E. Miller)
Thời gian thánh Gioan đã viết Phúc Âm của Ngài vào khoảng sau mười năm sau cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, việc cử hành bí tích Thánh Thể vào Chúa Nhật đã được hình thành và thiết lập như một sự diễn tả những gì có nghĩa là một môn đồ của Đức Kitô. Thánh Gioan đã viết chương sáu của ngài theo cách để cho những người đọc mường tượng thấy ngày Chúa Nhật của họ khi suy niệm Phúc Âm của ngài. Hầu như hai mươi thế kỷ sau chúng ta vẫn còn thể thấy rõ được thực tại này.
Chương thứ sáu mở ra bằng việc kể lại sự kỳ diệu Chúa Giêsu nuôi năm ngàn người với năm chiếc bánh và hai con cá. Theo những lời của Thánh Gioan, đó là một đám đông khổng lồ. Thánh Lễ không phải là một việc sùng kính riêng, hoặc là một cuộc hành hương với một vài người. Đó là một việc cử hành với một đám đông người, xuyên qua khắp thế giới là những dân của Thiên Chúa.
Thánh Gioan đã chú ý đến lễ Vượt Qua của người Do thái thì gần đến. Đó không phải là một sự tình cờ mà là một thời gian trong năm đã được đề cập đến như là ý nghĩa của bí tích Thánh Thể. Hy tế Tạ ơn là một cuộc Vượt Qua của người Kitô giáo chúng ta, việc cử hành hy tế này đã ban cho chúng ta như môt dân của Thiên Chúa. Trong kinh nguyện thứ bốn chúng ta kêu lên rằng: “Lạy Chúa bởi thánh giá và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng con, Ngài là Đấng cứu độ thế gian.”
Thánh Gioan đã tiếp tục quan sát khi diễn ra việc nuôi sống đám đông, một cậu bé đã hiến dâng năm chiếc bánh và hai con cá cho Chúa Giêsu. Điều đó có vẻ như là không có gì khi so sánh với nhu cầu của một số đông người như thế. Trong cùng cách đó nơi Thánh Lễ, một số người đã mang rượu và bánh để bắt đầu chuẩn bị những của lễ. Họ là cậu bé của Phúc Âm và những của lễ dâng cho vị linh mục thì không ý nghĩa gì khi so sánh với những gì chúng sẽ trở thành.
Trong câu chuyện về những chiếc bánh mà Chúa Giêsu đã thực hiện những hành động hy tế. Chúa Giêsu đã cầm lấy những chiếc bánh và dâng lời tạ ơn. “Từ Eucharist có nghĩa là dâng lời tạ ơn”. Ở điểm này, thánh Matthêu trong Phúc Âm của ngài đã kể lại cho chúng ta một chi tiết rất quan trọng. Ngài kể rằng sau khi Chúa Giêsu nhìn lên trời, dâng lời tạ ơn, Ngài cầm lấy bánh bẻ ra và trao cho các môn đệ để phân phát cho dân chúng. Cái nhìn này chính xác giống như những gì đã xảy ra nơi Thánh Lễ khi vị linh mục được trợ giúp bởi một vị thừa tác viên Thánh Thể đặc biệt.
Còn cá thì thế nào? Chúng không phải là một phần trong bữa ăn hy tế của chúng ta nhưng cá là một dấu hiệu rất cổ xưa mà nay vẫn còn lưu hành, biểu tượng của người Kitô hữu. Những chữ đầu trong tiếng Hy lạp là Giêsu Kitô: “Giêsu Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ”. Là những mẫu tự đầu vẫn được đánh vần bởi tiếng Hy lạp của chữ cá: “ICHTHUS.” Vì thế mọi người đều rất thích với ý nghĩa dấu hiệu này, họ chú ý đến cá là cho họ nhớ rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài đã ban Con duy nhất của Ngài, để cứu độ chúng ta qua hy tế mà Ngài đã dâng chính mình Ngài trên thánh giá. Hy tế Thánh Thể là một tưởng nhớ sống động của lễ hy sinh này. Trong lúc cử hành hy lễ chúng ta tuyên xưng cùng Đức Kitô: “Chính bằng sự chết Ngài đã phá huỷ sự chết của chúng ta, bằng sự sống lại, Ngài đã phục hồi sự sống của chúng ta”.
Vì Chúa Nhật thứ bốn kế đó chúng ta sẽ nghe tiếp chương thứ sáu của thánh Gioan, và mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta lại càng đi sâu hơn vào hy tế Thánh Thể.
32. Chúng ta đợi gì nơi Tin Mừng?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Phép lạ bánh hóa nhiều mà thánh Gioan kể lại trường hợp với phép lạ thứ nhất bánh hóa nhiều trong các Phúc âm nhất lãm. Xem Hc 6,30-43. Các Phúc âm Nhất lãm – nhấn mạnh đến lòng Chúa Giêsu thương xót dân chúng. Thánh Gioan lưu ý đến giá trị dấu chỉ chứa đựng trong biến cố.
Đàng khác, chúng ta thấy ở đây Chúa Giêsu sử dụng một phương pháp tâm lý. Chúa Giêsu biết rõ điều Ngài sẽ làm, nhưng Ngài làm như không biết, và Ngài đặt một vấn đề. Đặt vấn đề là một cách thức tốt để khơi dậy sự chú ý. Làm thế nào để dân chúng hỏi về đói lả? Làm sao kiếm thức ăn cho họ? Những dự kiến của vấn đề rất đơn giản người ta chỉ có 5 cái bánh mà người ăn có đến từng ngàn. Sự chênh lệch quá lớn lao. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh sự chênh lệch vô giới hạn giữa các phương thế hành động với sự đói lả của đám đông – Những phương tiện nhân loại càng quá ít ỏi, sự can thiệp của Chúa sẽ tỏ ra thật cảm kích xét về thành quả.
Biến cố sẽ đánh động mạnh mẽ các môn đệ và đám đông. Dân chúng, sau một lúc hân hoan cảm kích, sẽ mau lẹ trở về với đời sống vất vả thường xuyên của họ. Các môn đệ ghi nhận phép lạ nhưng lòng trí chưa hiểu ngay tất cả ý nghĩa, nhưng đó sẽ là một yếu tố quan trọng trong việc giáo dục của Chúa Giêsu đối với họ. Cho được như vậy, phải đợi Chúa sống lại. Nhưng phép lạ ấy cũng đã gây ra nơi họ một ấn tượng sâu xa giúp họ trung thành với Chúa, mặc dầu những thử thách lớn họ sẽ gặp sau này.
Bài tường thuật của thánh Gioan tỏ cho thấy hai điều quan trọng:
1) Từ một trường hợp cụ thể, Chúa Giêsu đòi các Tông đồ một niềm tin tuân phục, lương tri buộc Philipphe hỏi Chúa: ‘Chúng con phải mua bánh ở đâu để có họ ăn? Chúa Giêsu đáp: ‘Hãy bảo họ ngồi xuống’. Các Tông đồ vâng lệnh Thầy và có lẽ tự hỏi sự gì sẽ xảy ra. Họ nghĩ rằng có lẽ với Thày họ, không được tìm hiểu. Chuyện kể lại: Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ. Chắc chắn là Chúa Giêsu dùng các Tông đồ để phát cho dân chúng’ (Mc 6, 41). Điều gì xảy ra nếu các tông đồ trước sự không thể được, đã chống lại Chúa Giêsu? Chắc là họ sẽkhông phải là những người cộng tác với công việc của Chúa.
Đó là kết quả của niềm tin vâng phục. Nó làm cho kẻ tin trở nên người cộng tác với Thiên Chúa để làm những việc ấy vượt qua những phương tiện nhân loại.
Chúng ta có biết vâng lời để thi hành những nhiệm vụ mà Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta, nhất là lúc những việc ấy vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta?
2) Niềm tin vâng phục phải được sống thực sự.
Tình trạng tâm lý của các tông đồ ngay lúc đó không cho phép họ hiểu được đúng đắn dấu chỉ mà Chúa Giêsu ban cho họ.
Chúa Giêsu muốn ban cho họ một khởi điểm cho niềm tin phục sinh sau này. Còn họ, ngay lúc đó, họ phản ứng theo niềm hy vọng ấp ủ trong lòng. Họ hy vọng một Đấng Cứu thế sẽ lập lại vương quốc Israel. Một cách chân thành, nhưng cũng sai lầm, họ thấy trong phép lạ một cơ hội để tôn Chúa Giêsu lên làm vua. Ngày nay chúng ta đang sống niềm tin vào Chúa Giêsu sống lại. Nhưng chúng ta hiểu niềm tin chúng ta theo chiều hướng những tư tưởng nào, quyền lợi nào và nguyện vọng nào?
Chúng ta đợi gì nơi Chúa Giêsu và Tin Mừng?
33. Góp phần làm nên phép lạ.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Jay Kesler trong tác phẩm mang tựa đề “Những vùng đang phát triển” (Growing places) có kể một câu chuyện: Một đêm nọ ông từ máy bay bước xuống một phi trường ở Ấn Độ. Ngay khi máy bay vừa chạm đất, ông nhận thấy những bóng người đang nằm ngủ xếp lớp hai bên đường bay. Jay Kesler liền hỏi người bên cạnh thì được anh ta trả lời: đó là những kẻ sống vô gia cư. Suốt ngày đường bay hấp thụ sức nóng để về đêm trở thành máy sưởi ấm cho đám người ấy đỡ lạnh. Rời khỏi máy bay, Jay Kesler đi nhận hành lý và lên xe buýt về thành phố lân cận. Sau nửa đêm xe buýt mới đến nơi. Khi bước xuống con phố hoang vắng dẫn đến khách sạn, ông nhận thấy chung quanh ông toàn là lũ dân nghèo khổ. Thế rồi thình lình ông nghe có tiếng động kỳ lạ vang lên: Lịch kịch, lịch kịch, lịch kịch… ông liền quay lại và thấy một thằng bé có cặp giò bị cưa hầu như lên tới tận háng. Thằng bé đang cố trườn mình tới trên hai chiếc nạng bé tí. Khi đến gần Jay Kesler, thằng bé chìa tay ra xin. Jay Kesler liền cho nó tất cả số tiền lẻ trong người rồi tiếp tục đi về khách sạn. Vừa đi được thêm quãng mười bước, ông lại nghe một âm thanh kỳ lạ khác. Ông quay đầy lại nhìn thì nhận ra một vài thằng ăn xin khác đang đánh thằng bé hồi nãy bằng chính đôi nạng của nó. Chúng đang cưỡng bức thằng bé bắt nó phải trao lại cho chúng những đồng tiền mới xin được. Jay Kesler nói rằng suốt đêm ông không hề chợp mắt ngủ được.
Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến với lũ người nghèo khổ, hung dữ này. Nhìn thấy tình trạng bị đát trước mắt, bà tự nhủ lòng: “Tôi phải làm một điều gì mới được”. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ bẩn. Tuy căn nhà không khang trang lắm, nhưng có thể ở được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm lũ con trẻ đem về dạy dỗ chúng. Bà dùng căn nhà cũ kỹ làm phòng học, dù không có lấy một chiếc bàn, một chiếc ghế. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết phấn, bà dùng tấm vải rách nát cũ kỹ lau sạch nền rồi viết lên trên đó cho lũ trẻ học. Đó là phương cách bà dùng để chiến đấu sự nghèo dốt và hung dữ chung quanh bà và là câu trả lời gây cảm động nhất mà bà có thể thực hiện.
Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện chăm sóc người hấp hối, 30 viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000 nhân viên thiện nguyện khắp thế giới sẵn lòng giúp đỡ bà. Người phụ nữ đó không ai khác, chính là Mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng lập Dòng Thừa Sai Bác Ái.
Thưa anh chị em,
Tôi cho rằng không có câu chuyện nào hay hơn để làm sáng tỏ chủ đề của bài đọc 1 và bài Tin Mừng hôm nay: 20 cái bánh của một nông dân góp phần cho Ngôn Sứ Êlizê nhân lên để dọn cho 100 người ăn mà còn dư thừa. Năm cái bánh và hai con cá của cậu bé góp phần cho Chúa Giêsu thực hiện phép lạ cho 5000 người ăn no nê mà còn dư đến 12 thúng.
Đó cũng là điều Mẹ Têrêxa đã làm. Bà đã trao cho Chúa khẩu phần “bánh và cá” của bà để Chúa Giêsu thực hiện điều kế tiếp. Thế là Chúa đã nhân chúng lên gấp bội vượt mọi niềm mơ ước của bà. Đó cũng là điều Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II ngỏ cùng các bạn trẻ tại Edingburgh trong lần Ngài đến thăm Scotland vào năm 1982: “Giờ đây Cha xin nhấn mạnh chủ đề này: Cậu bé trong Tin Mừng đã trao cho Chúa tất cả khả năng cậu có thể rồi Chúa Giêsu thiết đãi đám đông 5000 người ăn no nê một cách lạ lùng và vẫn còn dư. Đời sống của các bạn cũng y hệt như thế. Nếu phải một mình đối đầu với những thách đố khó khăn của cuộc sống, các viễn cảnh tương lai. Nhưng cha xin nói với các bạn điều này: hãy đặt cuộc đời các bạn trong tay Chúa Giêsu. Ngài sẽ chấp nhận và sẽ chúc lành cho các bạn và sẽ biến đổi cuộc đời các bạn một cách tốt đẹp hơn, vượt mọi kỳ vọng lớn lao nhất của các bạn”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa Giêsu bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng chúng ta để Chúa sử dụng ý Ngài muốn? Nói rộng hơn, chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi năng lực của mình như mẹ Têrêxa Calcutta, như người nông dân trong bài đọc 1 và như cậu bé trong Tin Mừng hôm nay đã làm chưa? Hôm nay Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta: “Tôi cần tài năng của anh chị em, tôi cần lòng quảng đại của anh chị em, nói chung, tôi cần đến anh chị em: cần đôi chân, đôi tay, môi miệng của anh chị em. Vì hôm nay tôi chỉ biết nhờ đôi chân của anh chị em để mang tôi đến các khu xóm tồi tàn, các xưởng thợ và phòng làm việc ở các thành phố của anh chị em. Tôi chỉ biết nhờ đôi tay của anh chị em để vươn tới những người yếu đuối bơ vơ, những người trẻ em đường phố, những người không cửa không nhà và đang lâm và tình trạng tuyện vọng. Tôi chỉ biết nhờ vào miệng lưỡi anh chị em để nói cho các anh chị em tôi lý do tôi đã đến trên trái đất này, đã mang thân phận con người, đã chịu đau khổ và chịu chết cho mọi người”.
Tóm lại, thưa anh chị em, hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh Thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì – chẳng hạn thời gian, tài năng, tiền của, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta – Ngài sẽ sử dụng tất cả để đem lại kết quả vượt mọi kì vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã bội nhân năm cái bánh và hai con cá của cậu bé trong Tin Mừng hôm nay. Cậu bé vì quảng đại, đã sẵn sàng trao khẩu phần trưa của em cho Chúa thì lại được ăn no nê, hơn nữa lại được sung sướng nhận thấy món quà nhỏ mọn của mình đã đem lại những thích thú bất ngờ cho bao nhiêu người khác. Cha Mckarns nói: “Tôi tưởng chừng như sau đó Chúa Giêsu sẽ bảo các Tông Đồ gởi về nhà cậu bé ấy vài thùng bánh còn dư để tỏ lòng biết ơn”.
Anh chị em thân mến,
Cậu bé chính là anh chị em, là chúng ta, là tất cả các Kitô hữu. Trước nỗi thống khổ của biết bao người, chúng ta thường nghĩ rằng tài sản của chúng ta chẳng thấm thía gì, quá ít. Điều đó đúng. Thế nhưng, nếu chúng ta trao tặng tài sản đó, thì như một số vốn, lòng quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại, sự chia sẻ sẽ thúc đẩy sự chia sẻ, tình yêu sẽ khơi dậy tình yêu… Làm như vậy, chúng ta đặt nền móng cho Nước Trời, Nước của những người quảng đại biết yêu thương chia sẻ cho nhau.
Như thế, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chia sẻ tình yêu để chuẩn bị cho Nước Trời là tình yêu vĩnh cửu; hãy chia sẻ với lời cảm tạ để bánh trần gian được Đức Kitô biến đổi thành Bánh Bởi Trời, thành chình Ngài: Bánh ban sự sống muôn đời.
34. Cám ơn – Arthur Tone.
Một nông dân chở lúa mì đến kho lúa ở thành phố kế cận. Anh dừng xe lại một quán ăn và đến ngồi gần một nhóm bạn trẻ đang quậy phá, la ó người đầu bếp, chất vấn cô bồi bàn. Khi bữa ăn dọn ra trước mặt, người nông dân cúi đầu dâng lời cầu nguyện.
Một kẻ ngạo nghễ trong bọn nghĩ rằng y sẽ chọc quê bác nông dân, nên y la lớn để mọi người nghe được: Ê, Bố! Ở quê bố ai cũng làm vậy sao?”.
Bác nông dân bình tĩnh quay về phía gã thanh niên và lớn tiếng đáp lại: “Không, con ơi, những con heo không biết làm như vậy!”.
Câu chuyện này có thể chạm tự ái những ai không đọc kinh trước khi dùng bữa. Nhưng nó có thể khởi đầu cho tất cả chúng ta nghĩ đến việc cám ơn Chúa vì Chúa ban của ăn. Nghĩ đến bao lợi ích, bao ơn huệ, đặc ân để dâng một lời cảm tạ khi chúng ta ngồi vào bàn ăn.
Đức Giêsu cho chúng ta một tấm gương hoàn hảo trong câu chuyện hôm nay về việc Chúa nuôi năm ngàn người ăn no vời 5 tấm bánh và 2 con cá. “Đức Giêsu cầm lấy bánh và sau khi đã tạ ơn. Người phân chia cho họ”… Chúa chúng ta cũng cảm tạ trong bữa ăn tối sau cùng. Như chúng ta nhắc lại trong lời Truyền phép mỗi Thánh Lễ.
Khi chúng ta noi gương Chúa Kitô dâng lời cầu nguyện trước bữa ăn. Chúng ta sẽ thấy rõ lòng nhân hậu của Chúa đã làm cho chúng ta có của ăn và đồng thời cũng giúp chúng ta thấy rõ sự khổ sở vì đói bụng. Cũng thế, chúng ta phải biết ơn Chúa vì của ăn thiêng liêng là chân lý của Chúa. Và bánh của Chúa. Sự rước lễ giúp ta thấy rõ lòng quảng đại của Chúa.
Năm 1976, Đại Hội Thánh Thể thế giới ở Philadelphia. Đề tài trong 8 ngày đại hội là: “Những cái đói trong gia đình nhân loại”.
Nhiều người thuộc mọi quốc tịch đã hội thảo về cái đói của con người: Đói Chúa, đói bánh, đói tự do, đói công lý, đói hòa bình và chân lý. Nhất là đói Đức Giêsu, bánh ban sự sống. Ít người trong chúng ta có thể đến Philadelphia, nhưng mọi người chúng ta có thể nghĩ, cầu nguyện và giải quyết những cái đói của trái tim con người.
Việc biết ơn Chúa tại bàn ăn có thể là một bước đầu: Tôi có đủ đồ ăn và có dư nữa trong khi hàng triệu người đói lả. Tôi thật may mắn, họ thật bất hạnh. Tôi muốn hỏi câu hỏi Đức Giêsu hỏi trong bài Tin Mừng hôm nay: “Chúng ta phải mua bánh cho họ ăn làm sao?”. Chúng ta sẽ ý thức rằng chúng ta phải mua bánh chia sẻ, phải tránh hoang phí. Chúng ta phải khuyến khích, nâng đỡ những tổ chức trợ cấp người nghèo đói như Thánh bộ truyền bá đức tin, cơ quan viện trợ Công giáo hải ngoại. Chúng ta sẽ xin chính phủ nuôi người đói khát bằng mọi giá.
Còn quan trọng hơn nữa tôi phải biết ơn Chúa trong Thánh Lễ khi tôi rước Mình, Máu Chúa Kitô. Hàng triệu người không biết gì về của ăn này. Bạn có biết danh từ “tạ ơn” được dùng bao nhiêu lần trong Thánh Lễ. Hợp ý trong lời cầu nguyện đó và bạn sẽ khao khát chia sẻ bánh ban sự sống với những ai chưa có. Hợp ý với Đại Hội Thánh Thể bằng cách đọc kinh trước bữa ăn và đặc biệt bằng lời nguyện tạ ơn trong bàn tiệc Thánh Thể.
Xin Chúa chúc lành bạn.
35. Mua đâu ra bánh cho những người này ăn.
(Suy niệm của Noel Quesson)
Một toán du khách đi thăm dấu vết của trại Đa-sô (Dachau), một trại giam nổi tiếng của phát xít Đức thời Hitler. Người hướng dẫn khách du lịch hôm đó là một cựu tù nhân của Đa-sô xưa, ông đã bị nhốt lâu năm và may mắn thoát chết. Hôm đó là Chúa nhật, nhiều toán du lịch khách đến thăm di tích lịch sử này. Khắp nơi vương vãi những rác rưởi lẫn với đồ ăn thức uống. Gặp một mẩu bánh mì nằm bên lề đường, người hướng dẫn toán du lịch nhào tới lượm lên, ông nói giọng run run: “Một mẩu bánh mì! Tôi không thể chịu được khi thấy một mẩu bánh mì bị bỏ phí. Mấy năm thoi thóp trong tù, đối với tôi mẩu bánh mì đồng nghĩa với sự sống. Nó là ranh giới giữa sống và chết”.
Trong các bản năng Chúa trao ban cho con người, có lẽ bản năng sinh tồn là tha thiết nhất. Bất cứ ai đã có lần bị xâu xé trong cơn đói thì sẽ ghi nhớ suốt đời. Chắc Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm trong bốn mươi ngày đêm ăn chay nơi sa mạc, nên người rất cảm thương những người bị đói. Đám dân lũ lượt đi theo Chúa vào sa mạc, có những người vì tin tưởng muốn nghe lời Chúa, nhưng cũng có người chỉ vì tò mò, vui chân theo bạn bè, họ cứ đi mà không nghĩ đến ăn uống. Giờ này, Chúa biết họ đói bụng, và Chúa nghĩ phải kiếm gì cho họ ăn. Và có lẽ qua niềm cảm thông với tình cảnh đói khát của con người như vậy, Chúa đã nghĩ tới việc lập Bí Tích Thánh Thể. Qua Bí Tích này, Chúa ở lại gần gũi với nhân loại hơn. Đồng thời cũng là để thỏa mãn phần nào sự đói khát tâm linh của tín hữu. Từ lương thực no đủ cho thân xác, con người nghĩ về Chúa như một nhu cầu thiết yếu của linh hồn mình. Chúa đã mở rộng cõi lòng và cái nhìn của ta để ta dễ tiếp nhận mầu nhiệm Thánh Thể bằng một phép lạ vĩ đại: Bánh hóa nhiều. Chúa làm cho 5 ổ bánh hóa nhiều để nuôi 5 ngàn người, cốt cho chúng ta nhớ tới Chúa là bánh thật, bánh trường sinh, là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta. Sự đói khát Chúa khó cảm thấy, nhưng cũng gây mệt mỏi cho con người như đói cơm bánh vậy.
Tại sao Chúa phải hỏi Philipphê về việc mua bánh? Ngài có thể phán một lời là có ngay nhiều bánh nhiều cá. Tuy nhiên Chúa muốn thực hiện một phép lạ với sự cộng tác của Tông đồ và thiện chí của một em bé. Đó cũng là một qui luật tự nhiên mà Chúa hằng tôn trọng: do lòng tin mà có phép lạ. Chúng ta còn nhớ phép lạ trong tiệc cưới Cana. Chúa có thể từ không mà làm ra rượu, nhưng Chúa đã đợi người ta đổ nước lã đầy các chum. Những người giúp việc đang mệt mỏi mà phải đi múc nước từ giếng sâu, cũng là một cố gắng, có thể nói được là một hành động biểu lộ đức tin.
Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban lời Chúa và Thánh Thể làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng con. Xin giúp chúng con hiểu và tin những mầu nhiệm Chúa muốn mạc khải cho chúng con. Chúng con xin tạ ơn Ngài.
36. Tặng phẩm trong tay Chúa
(Suy niệm của Lm. J.B. Nguyễn Minh Hùng)
Đọc câu chuyện Chúa làm phép lạ hoá nên nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá làm lương thực nuôi, chỉ với số lượng đàn ông thôi, đã có đến 5.000 người, người ta hay chú ý đến: sự động lòng yêu thương của Chúa Giêsu, nên ban lương thực cho đám đông đang đói; hay lời của thánh Anrê giới thiệu một em bé có trong tay bánh và cá; hay sự cộng tác của con người khi trao bánh và cá để Chúa làm phép lạ; hay Chúa đưa các môn đi vào mối bận tâm của Chúa khi hỏi: “Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”…
Nhưng ít có ai nói đến chính sự tự hiến mình của năm chiếc bánh và của hai con cá để, nhờ chúng mà phép lạ diễn ra. Đành rằng, sự hiến dâng, cũng chính là sự hy sinh của em bé đã góp phần làm nên phép lạ. Nhưng chính bánh và cá mới thực là chất thể của phép lạ. Bánh và cá (chứ không phải bản thân em bé) mới thực sự làm cho phép lạ nên hiện thực.
Trong quyển “Năm chiếc bánh và hai con cá” (xuất bản năm 1998), Đức cố Hồng y Phanxicô Saviê Nguyễn Văn Thuận đã không nhìn phép lạ của Chúa Giêsu nuôi hơn 5.000 người ăn chỉ là phép lạ của quá khứ. Bằng tất cả nỗ lực thánh hoá mọi giây phút sống, mọi biến cố, mọi hoàn cảnh… xảy ra trong đời mình, Đức Hồng y nhìn thấy phép lạ của Chúa trên chính cuộc đời và trong chính sự sống, trong từng nhịp thở của bản thân mình. Bằng tất cả sự hiến dâng mọi giây phút sống, mọi biến cố, mọi hoàn cảnh… Đức Hồng y đã biến mình thành một thứ “bánh” và “cá” trong tay Chúa. Và cũng vì thế, Đức Hồng y nhìn thấy cuộc đời mình là một cuộc đời phép lạ. Bằng cách thánh hiến mọi giây phút sống, mọi biến cố, mọi hoàn cảnh…, Đức Hồng y đã nhận ra sự cao cả trong tình yêu của Chúa khôn xiết: vừa lạ lùng bởi không thể hiểu nổi, nhưng cũng quá đỗi thân quen bởi nó chạm đến chính mình; vừa nhiệm mầu bởi biết rằng nó đến từ Chúa, nhưng cũng gần gũi quá đỗi bởi cũng cảm nhận nó là chính mình… Đức Hồng y đã thấy Chúa thăng hoa đời mình chẳng khác gì “năm chiếc bánh và hai con cá” trong tay Chúa năm xưa: rất ít nhưng lại hoá nên rất nhiều.
Vì sao nhìn lại chính mình, Đức Hồng y lại có thể thấy phép lạ của Chúa? Bởi Đức Hồng y đã hoàn toàn đặt mình trong tay Chúa: ngài chính là tặng phẩm chính mình dâng lên Chúa, tặng phẩm chính mình dành cho Chúa. Đối với người được tặng quà, một khi đã có tặng phẩm trong tay mình, người chủ của món quà ấy sẽ thể hiện ý mình, thể hiện cách sử dụng của mình trên món quà. Nếu cuộc đời, sự sống và tình yêu của Đức Hồng y đã là của Chúa Giêsu, đã là quà tặng dành cho Chúa Giêsu, đã thuộc về Chúa Giêsu, đã nằm trong bàn tay Chúa Giêsu, thì Chúa Giêsu có quyền có mọi sáng kiến trên tặng phẩm ấy. Và sáng kiến của Chúa Giêsu được thể hiện nơi tặng phẩm của chính Người, một tặng phẩm mang tên Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, đó là:
- Tất cả ân ban ôm trọn cuộc đời Đức Hồng y.
- Tất cả tình thương kỳ diệu, tình thương vừa nhiệm mầu, nhưng cũng vừa cụ thể mà Đức Hồng y cảm nghiệm trên tất cả mọi thử thách, dẫu những thử thách ấy rát buốt nhất, thương đau nhất trong suốt đời mình.
- Tất cả niềm hy vọng sáng chói vọt lên giữa cảnh đời đen bạc, giữa những hận thù, những tăm tối và ác độc nhất của lòng người…
- Tất cả niềm tin vào Đấng đã khởi sự tốt đẹp, thì Người sẽ hoàn tất tốt đẹp giữa cái vô lý cực độ của một tù nhân không bản án, hay những năm tháng lưu vong, hay chính nỗi niềm xót xa vô hạn về sự vắng mặt của mình trong vai trò là mục tử giữa đàn chiên mà mình được trao phó.
- Tất cả lòng tha thứ, không gợn một chút oán hận nào trong trái tim của một con người chất chứa đầy tâm tư, trăn trở, nghĩ ngợi. Nhất là những tâm tư, trăn trở, nghĩ ngợi đó không phải vì chính mình, mà vì trách nhiệm, vì đoàn chiên, vì lòng yêu mến cả những người đang ngày đêm thù hằn và cư xử độc ác với mình.
- Tất cả sự chiến thắng trên chính hoàn cảnh. Dẫu đó là hoàn cảnh bế tắt nhất, mất hy vọng nhất, để sống cách tuyệt hảo phút hiện tại mà Chúa ban và nỗ lực làm việc không mệt mỏi, không để cho sự bị giam cầm có thể giam cầm tâm trí, giam cầm nhiệt huyết, giam cầm ý chí. Nhưng luôn vươn tới, luôn biến mình thành người tự do để hoàn thành cách xuất sắc nhất giây phút hiện tại mà Chúa ban.
- Tất cả hồng ân của hy tế thập giá trong từng thánh lễ. Nhất là những thánh lễ được cử hành với ba giọt rượu và một giọt nước, cùng với Mình Thánh Chúa là những chiếc bánh lễ được xé nhỏ nằm gọn trong chiếc túi nylon nhỏ xíu. Những hy tế hằng ngày được hiến dâng ấy đã tạo nên sức mạnh vô song để cây thập giá đời mình tháp nhập vào thánh giá Chúa Kitô tuyệt đẹp.
- Tất cả niềm hoan hỉ lớn lao khi Mình Thánh Chúa được kiệu khắp nơi giam cầm, trên chính ngực áo của những con người tưởng chừng mất tự do, và những giờ Thánh trong đêm tối tĩnh mịch để cùng nhau nhận lãnh Phép Lành Mình Thánh Chúa. Chúa Giêsu trở nên người bạn sớt chia nỗi nhục nhằn của những con người đau khổ. Ôi, niềm vui Chúa ban sao quá thiêng liêng nhưng lại ấm áp cách lạ thường! Hồng Ân Thánh Thể làm nên nghị lực quật cường nơi những con người tưởng chừng đã bị tiêu diệt tận cùng.
- Tất cả niềm bình an lớn lao trong những giây phút chìm đắm cầu nguyện. Không phải bằng lời, nhưng bằng đời cầu nguyện. Cầu nguyện giữa những hoang mang trong thương đau, lẫn niềm vui trong trách nhiệm mà Hội Thánh đặt lên vai mình. Đó là sáng kiến ngoạn mục mà Chúa Giêsu tạo nên trong lòng một con người. Con người đó là con người của niềm hy vọng và bình an.
- Tất cả sự khải hoàn của một tâm hồn rao giảng Tin Mừng ở mọi nơi mọi lúc. Nhất là những lúc đưa được những anh em đồng đạo và đang đồng phận khổ đau với mình thoát khỏi tình trạng đức tin nguội lạnh; hay những lúc rửa tội lén lút cho những anh em lương dân để họ trở về với Chúa Kitô; hoặc hoán cải lòng những anh em đối nghịch với mình, những anh em canh gác mình, những anh em nghi ngờ mình… để họ nhận biết Hội Thánh là Hội Thánh của Chúa Kitô, luôn tha thứ cho tất cả mọi người, tha thứ cho cả những kẻ bách hại mình.
- Tất cả lòng yêu mến đối với Đức Trinh Nữ cách tuyệt diệu. Với một tràng chuỗi Mân Côi trong túi, để lên đường vác thánh giá trong chính ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Người Con của Đức Mẹ đã trở thành dáng đứng kiêu sa và tấm gương soi chiếu trên tất cả Hội Thánh, để giữa những cùng khốn nhất, những người con của Hội Thánh cũng hãy biết để Đức Mẹ đứng cạnh mình, như xưa Đức Mẹ đã từng đứng cạnh Thánh Giá Chúa Giêsu trong giờ Người lâm tử.
- Tất cả tình yêu thông hiệp với Hội Thánh Chúa Kitô. Đó là tấm lòng canh cánh nặng trĩu với sứ mạng giám mục mà đoàn chiên đang trông chờ giữa thời buổi khó khăn gay gắt. Đó là lời cầu nguyện liên lỉ cho Đức Thánh Cha. Đó là niềm ý thức không bao giờ phai: mình là Giám mục của Hội Thánh Chúa Kitô. Đó là sự sốt sắng cầu nguyện bằng Lời Chúa, bằng các nhạc phẩm của Hội Thánh. Đó là những cử hành thánh lễ theo ý hướng của Hội Thánh…
Nhiều lắm những sáng kiến mà Chúa đã tạo nên nơi tặng phẩm của Người. Chắc chúng ta không thể kể hết trong một vài con chữ. Tuy nhiên, bấy nhiêu cũng đủ để chứng minh rằng, chỉ cần chúng ta hiến dâng chính mình như “con cá”, như “tấm bánh” trong tay Chúa Giêsu, để nên tặng phẩm của Người, thì Người sẽ có những sáng kiến độc đáo, những sáng kiến có một không hai trên chính cuộc đời của ta, đến mức ta không thể hiểu hết, không thể ngờ nổi…
Hiến dâng Chúa đời mình như những chiếc bánh, như những chú cá năm xưa, Đức Hồng y đã nằm gọn trong tay Chúa, để Chúa bẻ mình ra phân phát, trao ban cho con người, cho nhân loại mọi thời, mọi nơi.
Cuộc “bẻ mình” nào mà không đau đớn, không để lại những dấu tích của thánh giá?! Chúa Giêsu tự hiến chính mình, Người trở thành tấm bánh bẻ ra cho muôn người, thì cuộc hiến tế chính mình để thành tấm bánh bẻ ra, cũng đã đòi Chúa Giêsu phải chấp nhận hy sinh, chấp nhận nát tan, chấp nhận mọi đớn đau, chấp nhận cả cái chết đầy tủi nhục. “Hai chữ ‘thập giá’ đã gợi lên, cho mọi người thời Chúa Giêsu, một cây khổ giá trần trụi với hình ảnh một người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn và nhục nhã ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, giữa sống và chết, trước những cái nhìn thù ghét và khinh bỉ, trước những con mắt tò mò và dửng dưng. Thế mà, Đức Kitô, con Thiên Chúa, đã chọn "thập giá” để hiến thân trọn vẹn, ban chính mạng sống mình đến tận cùng cho đến độ chịu đóng đinh trên thập giá, nơi đó Ngài gánh tất cả tội lỗi của trần gian. Mặc dù "vô tội” (Mt 27,4), là "người công chính” (1 Pr 3,18), Ngài đã chấp nhận trở nên giống như người tội lỗi” (Hà Minh Thảo, Kính nhớ Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Radio Veritas Asia, Philippines).
Làm tặng phẩm cho Chúa để tuỳ nghi Chúa sử dụng, Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận biến mình trở thành “tấm bánh”, thành “con cá” mang lại sự hữu ích cho sáng danh Chúa và mở rộng Nước Trời. Sự “bẻ mình” trong tay Chúa của Đức Hồng y đã giúp Đức Hồng y cả một đời làm giám mục, bước theo Chúa đến mức vẹn toàn, đến trọn con đường thập giá. Con đường thập giá đó chính là một đời với một dòng họ quyền quý, nhưng sau đó đã vội tan tác. Con đường thập giá đó cũng là một định mệnh nghiệt ngã đã đưa Đức Hồng y qua mọi thăng - trầm, được - mất, sống - chết, bình an - tủi nhục, hạnh phúc - cô đơn, hy vọng - đau khổ, sức khoẻ - bệnh tật…
Chính tặng phẩm là hiến tế đời mình mà Đức Hồng y dâng lên Chúa như 5 chiếc bánh và 2 con cá trong tay Chúa, đã thổi bùng lên một linh đạo mà tất cả chúng ta đều có thể bước theo, có thể noi gương. Vậy chúng ta cũng hãy bắt chước mà sống theo linh đạo của Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: hiến tế đời mình qua từng ngày sống, thành tặng phẩm dâng lên Chúa, để tuỳ sáng kiến mà Chúa muốn thực hiện đúng theo thánh ý của Người trên chính cuộc đời và sự sống của ta. Tặng phẩm như những chiếc bánh, những con cá trong tay Chúa:
- Chiếc bánh thứ nhất: Sống phút hiện tại. Sử dụng cách tối đa giây phút mà tôi đang có đây để làm được bất cứ điều gì cho sáng danh Chúa, cho tình yêu Hội Thánh, cho Nước Trời, tôi dẽ thực hành ngay, không chần chừ.
- Chiếc bánh thứ hai: Phân biệt giữa Chúa và việc của Chúa. Chúng ta hay bị cám dỗ lao vào công việc. Lắm lúc mất ăn, mất ngủ vì công việc. Đến khi phải chuyển công tác, ta lại cảm thấy thất vọng, muốn buông xuôi. Sự năng động ấy tốt, nhưng đó không phải chính Chúa. Thậm chí, nhiều lúc lao vào công ciệc, dễ làm ta kiêu ngạo. Ví thế, điều quan trọng trong đời ta là vâng theo Thánh ý Chúa. Ta cần tìm chính Chúa, khám phá Chúa trong mọi hoàn cảnh, mọi thái độ vâng phục của mình. Chúa muốn ta tìm chính Chúa chứ không phải tìm việc của Chúa.
- Chiếc bánh thứ ba: Một bí quyết: Cầu nguyện. Hãy cầu nguyện. hãy chuyện trò với Chúa để Chúa soi sáng, Chúa dạy dỗ từ trong nội tâm. Cầu nguyện sẽ mang lại một niềm bình an vô song, sẽ bù đắp tất cả những gì thiếu thốn nơi con người mỏng dòn của ta.
- Chiếc bánh thứ tư: Sức mạnh duy nhất: Phép Thánh Thể. Sống và kết hợp với Thánh Thể Chúa phải là một việc đạo đức hàng đầu, không bao giờ quên. Thánh Thể Chúa sẽ là sức mạnh huyền diệu giúp ta vững vàng trong mọi nguy biến. Thánh Thể Chúa sẽ tăng lực để ta đạp dưới chân mình mọi đá sỏi gai góc nhất. Thánh Thể Chúa là liều thuốc cực mạnh đưa ta đến bến bờ bình an.
- Chiếc bánh thứ năm: Yêu thương đến hiệp nhất. Chúc thư Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu yêu thương hết mọi người, chúng ta yêu thương không phân biệt bất cứ người ngay, kẻ gian. Như Chúa Giêsu tha thứ cho hết mọi người, chúng ta tha thứ cho cả những địch thù, cả những kẻ sát hại ta. Như Chúa Giêsu cầu nguyện cho hết mọi người. Chúng ta cầu nguyện cho cả những người không thiện cảm với mình. Như Chúa Giêsu hiến mình cho hết mọi người. Chúng ta không chối từ hy sinh, nếu hy sinh ấy cứu được linh hồn hay sự sống của đồng loại quanh mình… Tình yêu sẽ là sợi dây siết chặt mọi trái tim con người. Tình yêu sẽ biến đổi thù hận thành bạn bè. Tình yêu sẽ mang lại tươi vui, bình an. Tình yêu sẽ làm cho cuộc đời này đáng sống, đáng phục vụ.
- Con cá thứ nhất: Mối tình đầu của tôi: Mẹ Maria vô nhiễm. Đức Mẹ đã từng hạnh phúc và đau khổ khi đồng hành cùng thánh ý Chúa trong cuộc đời. Hạnh phúc và đau khổ đan xen suốt cuộc đời Đức Mẹ từ khi Người được Chúa Chọn làm mẹ của Chúa, trải dài trong Mầu nhiệm Giáng Sinh, Mầu nhiệm Ẩn Dật, Mầu nhiệm Công Khai, Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa, đến tận cùng cuộc đời dương thế của Đức Mẹ. Đức Mẹ hiểu chúng ta. Trong vui - buồn - sướng - khổ của đời mình, hãy chạy đến cùng Đức Mẹ để được Đức Mẹ cùng đồng hành, cùng sớt chia, cùng hiến dâng và cùng chấp nhận.
- Con cá thứ hai: Tôi chọn Chúa. Chúa là giá trị độc nhất vô nhị trong đời tôi. Chỉ có Chúa và chỉ vì Chúa mà tôi yêu; tôi hoạt động; tôi thao thức; tôi suy tư; tôi cảm thông; tôi vui; tôi làm việc; tôi có tương quan với mọi người, với thiên nhiên, với muôn vật, với mọi cảnh huống…; tôi cầu nguyện cho tôi, cho con người, cho sự vật…; tôi học tập; tôi rao giảng; tôi truyền giáo… Chúa là khởi và đích của tôi, để trong tất cả, tôi ra đi từ Chúa và quay về với Chúa.
Bạn thân mến,
Với hình ảnh “5 chiếc bánh và 2 con cá” trong trình thuật Tin Mừng của Thánh Gioan (Ga 6,1-15), qua tấm gương và những gợi ý của Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, chúng ta cùng nhau bước theo Chúa Giêsu, dâng chính đời mình trong tay Chúa. Xin Chúa làm cho chúng ta như đã làm cho “5 chiếc bánh và 2 con cá” sinh lợi ích cho chính Chúa, cho Hội Thánh của Chúa, cho linh hồn mỗi người chúng ta và cho cả vũ trụ này.
Con người chúng ta - bánh và cá mới: tặng phẩm mới đáng yêu trong tay Chúa!!
37. Tình thương.
Trước đám đông đói mệt nơi hoang địa, Chúa Giêsu đã phán:
- Ta thương dân này.
Qua Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ lãnh đạm trước những khổ đau của con người. Ngài đã xót thương người đàn bà góa, theo sau chiếc quan tài chôn táng đứa con duy nhất nơi cổng thành Naim. Ngài đã thổn thức trước nấm mồ Lagiarô. Ngài muốn chia sẻ nỗi đớn đau với hai chị em Matta và Maria.
Hôm nay, khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, Ngài muốn tỏ ra rằng Ngài lo lắng đến con người chúng ta, cả hồn lẫn xác.
Thực vậy, trong kinh Lạy Cha, lời kinh tuyệt vời do Ngài truyền dạy, Ngài đã bảo chúng ta cầu xin với Chúa Cha ban cho lương thực hằng ngày, trước cả lời cầu xin tha thứ tội lỗi. Và như thế, Kitô giáo không phải là một tôn giáo yếm thế, chán đời, chê ghét những thực tại trần gian.
Không phải chúng ta chỉ cầu xin cho những nhu cầu tinh thần, mà còn phải cầu xin cho những nhu cầu vật chất, vì chúng ta không phải là những thiên thần, như một câu danh ngôn đã bảo:
- Ai tưởng rằng mình là thiên thần, thì sẽ trở thành một con vật.
Trong Phúc âm Chúa Giêsu thường bảo:
- Ta nêu gương cho các con để các con cũng làm như Ta đã làm cho các con.
Ngài đã xót thương những người đói khổ và rồi đã xoa dịu và an ủi họ. Bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải xót thương những kẻ khổ đau chung quanh chúng ta. Cầu nguyện cho họ mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải giúp đỡ họ tùy theo khả năng chúng ta. Tiền bạc của cải chúng ta đang có là do Chúa ban và chúng ta chỉ là những người quản lý.
Bởi đó, hãy lắng tai nghe và hãy mở mắt nhìn, nhờ đó chúng ta ghi nhận được những khổ đau của những người chung quanh, rồi ra sức an ủi, khích lệ và giúp đỡ. Thật là đáng buồn, nếu trong ngày sau hết, chúng ta tiến đến cùng Chúa với hai bàn tay trống rỗng không một chút công nghiệp, và với một cuộc đời cũng trống rỗng, không một hành vi bác ái.
Thế nhưng, Chúa Giêsu không phải chỉ dừng lại ở sự túng thiếu và đói khát thể xác, mà Ngài còn tiến tới một sự túng thiếu và đói khát tâm hồn.
Phúc âm đã kể lại: ngày hôm sau, những người Do Thái đã hăng hái tìm gặp Chúa Giêsu. Cái ấn tượng của phép lạ bánh hóa nhiều còn ghi lại một cách sâu đậm trong tâm hồn họ, thế nhưng Chúa Giêsu đã phán với họ:
- Ta là bánh hằng sống, cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Bánh ta ban là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ không phải chết. Ta là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Bánh Ta sẽ ban là thịt Ta cho thế gian được sống.
Khi thấy những người Do Thái bàn tán xôn xao về những lời ấy, Chúa Giêsu còn quả quyết một cách mạnh mẽ hơn:
- Quả thật, quả thật Ta nói với các ngươi, ai không ăn thịt Ta và không uống máu Ta thì sẽ không có sự sống trong mình.
Và như thế, chúng ta đã thấy, nếu chúng ta muốn sống sự sống thần linh, chúng ta phải siêng năng rước lễ. Có siêng năng rước lễ và rước lễ một cách sốt sắng, chúng ta mới có được sự sống của Chúa trong tâm hồn.
Đồng thời khi tiến tới bàn thánh Chúa, chúng ta mới cảm thấy mình thực sự là bè bạn, là anh em với nhau cũng như cùng là chi thể trong nhiệm thể Đức Kitô.
Từ bàn thánh trở về giữa lòng cuộc đời, chúng ta hãy yêu thương giúp đỡ nhau, như các tín hữu sơ khai xứng đáng với lời khen:
- Kìa xem họ thương nhau biết chừng nào.
38. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Ăn là nhu cầu của sự sống. Sự sống thể xác được duy trì và phát triển là nhờ ăn uống. Cũng vậy, đời sống thiêng liêng cần những của ăn tinh thần. Thiên Chúa ban cho ta thức ăn nuôi dưỡng thể xác thì Người cũng ban cho ta Lời của Người (Đnl 8:3) để dưỡng nuôi linh hồn. Hai phép lạ được thuật lại trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay về việc làm cho bánh hóa nhiều có những điều để ta suy nghĩ về Chúa cũng như về bản thân ta.
1. Nghĩ về lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa dành cho ta (bài đọc Cựu Ước – 2 Vua 4:42-44)
Ta bắt đầu với câu truyện ngôn sứ Ê-li-sa lấy hai mươi chiếc bánh lúa mạch và một bị cốm mà nuôi hằng trăm người đang khốn khổ vì nạn đói. Điều khiến ta không thể không chú ý chính là câu trả lời của vị ngôn sứ khi tiểu đồng hỏi ông phải làm thế nào trước tình trạng bánh quá ít mà số người cần ăn lại quá đông. Ông nói: “Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Nói như thế, ngôn sứ Ê-li-sa đã cảm nhận được tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa.
Bối cảnh câu truyện là nạn đói đang hoành hành tại miền Ghin-gan. Giữa lúc bao người lâm cảnh khốn cùng, ngôn sứ Ê-li-sa là người may mắn vì “có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa: hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị”. Nhưng ông không giữ lại để lo cho mình, mà bảo tiểu đồng đem phân phát cho những người đang thiếu thốn đói ăn. Ông cảm nhận Thiên Chúa đã đặc biệt thương và chăm sóc ông giữa cơn khốn cùng khi ông nhận lấy những chiếc bánh và bị cốm người ta đem biếu ông. Tuy nhiên tình thương của Chúa dành cho ông không thể bị giới hạn, mà cần được lan tỏa tới những người chung quanh. Những chiếc bánh lúa mạch và bị cốm là hình ảnh nói lên tình thương ấy đã được đem chia sẻ với mọi người. Bao nhiêu người ăn mà chúng vẫn còn dư thừa. Cũng vậy, lòng thương yêu chăm sóc của Thiên Chúa dành cho ta chan hòa và bao bọc ta trong bàn tay quan phòng của Người. Lòng yêu thương của Thiên Chúa là đề tài cho tác giả Thánh Vịnh viết thành bao lời chúc tụng tôn vinh. Đó cũng là đề tài rao giảng của Chúa Giêsu khi Người khai triển những giáo lý của Tám Mối Phúc, nói về tình yêu quan phòng của Thiên Chúa Cha (Mt 6:25-34; Lc 12:22-31).
Ngôn sứ Ê-li-sa chính là hình ảnh báo trước vị Ngôn Sứ vĩ đại Thiên Chúa sẽ sai đến với nhân loại, là Chúa Giêsu Ki-tô. Người là chính Tình Yêu Thiên Chúa nhập thể để tỏ ra cho nhân loại biết Thiên Chúa yêu thương họ biết chừng nào (Ga 3:16). Câu truyện Tin Mừng hôm nay nói với ta về việc biểu lộ tình yêu thương của Thiên Chúa.
2. Chúa Giêsu cho ta thấy tình yêu chăm sóc của Thiên Chúa qua phép lạ hóa bánh ra nhiều (bài Tin Mừng – Gio-an 6:1-15)
Trong hành trình rao giảng của Chúa Giêsu, dân chúng thường đến tụ họp quanh Người để lắng nghe những lời dạy dỗ. Nhưng mỗi lần Người di chuyển từ nơi này tới nơi khác, họ cũng không ngại đi theo Người vì họ đã say mê giáo lý của Người và luôn cảm thấy đói khát lời Người. Thánh Gio-an kể lại là “Chúa Giêsu sang bên kia biển hồ Ga-li-lê” và “có đông đảo dân chúng đi theo”. Tới nơi, nhìn cảnh dân chúng đói khát, Người làm phép lạ hóa năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều để họ được ăn no nê. Sau phép lạ, khi chiều đến, các môn đệ Chúa xuống thuyền đi sang phía Ca-phác-na-um, còn Chúa Giêsu thì “lánh mặt, đi lên núi một mình” để cầu nguyện, vì “biết dân chúng sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua”. Tiếp đến, thánh sử kể việc Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến gặp các môn đệ trên thuyền, gợi lại biến cố Thiên Chúa đưa dân Người vượt qua Biển Đỏ. Đó là những gì xảy ra chung quanh phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Quả thực thánh Gio-an đã sắp đặt câu truyện như thế, mục đích để nói lên hình ảnh Chúa Giêsu là Thiên Chúa yêu thương chăm sóc ta. Thiên Chúa đã đưa dân Ít-ra-en vượt qua Biển Đỏ và nuôi dưỡng họ trên đường về đất hứa. Cũng thế, Chúa Giêsu là Tình Yêu Thiên Chúa xuống thế làm người để nuôi dưỡng ta và dẫn ta vượt biển trần gian trên đường về quê trời. Ta hãy hiện diện trong khung cảnh Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để chiêm ngưỡng cung cách của Người. Từ ánh mắt cho đến lời nói của Chúa, hết thảy đều nói lên nỗi lo lắng thương yêu Người dành cho đám dân chúng đang mệt nhọc vì đói khát. Người không chỉ nhìn thấy một đám đông lũ lượt theo Người vì ngưỡng mộ, nhưng là một đám đông khao khát được biết phải làm gì để sống cho đúng với ước mong của Cha trên trời. Người cũng lợi dụng chính cơ hội này để dạy các môn đệ bài học yêu thương chăm sóc anh chị em. Vì thế, Người đã gợi ý cho ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Nói như vậy là vì Người mời gọi các môn đệ hãy mở lòng nhận ra những nhu cầu và thiếu thốn của người khác. Trước gợi ý của Chúa, mỗi môn đệ có một sáng kiến riêng. Ông Phi-líp-phê thì thực tế tính toán, để cuối cùng đi tới câu trả lời là đành bó tay. Nhưng thật là may mắn, vì ông An-rê đưa ra một giải quyết của lòng tin khi ông nói với Chúa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”. Rồi ông cũng làm một bài toán giống như ông Phi-líp-phê: “Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” Chắc là ông An-rê tin rằng việc còn lại phải làm là thuộc quyền năng của Chúa Giêsu. Đúng vậy, Chúa Giêsu đã nhập cuộc và làm phần thuộc về Người. Phép lạ hóa bánh ra nhiều là do quyền năng của Thiên Chúa, nhưng Người cũng muốn bàn tay con người của ta góp phần vào phép lạ của tình Chúa chăm sóc yêu thương.
Cũng giống như trong phép lạ ngôn sứ Ê-li-sa, dân chúng ăn no nê mà bánh vẫn còn dư. Bánh còn dư nói lên sự phong phú đầy tràn của tình yêu Thiên Chúa chăm sóc ta. Chúa Giêsu dạy các môn đệ hãy thu nhặt những miếng thừa “kẻo phí đi”. Tình yêu Thiên Chúa ta nhận lãnh là để sinh ích lợi cho ta và cho những người khác, chứ không phải để phung phí đi một cách vô ích. Về điểm này, chắc chắn mỗi người đều phải xét mình. Ta lãnh nhận tình yêu và sự chăm sóc của Chúa nhiều không kể xiết, từ vật chất cho đến tinh thần. Nhưng ta cũng phải thú nhận rằng mình đã phung phí những ơn lành của Chúa một cách vô bổ. Ta đã phí phạm thì giờ, tiền bạc, đồ ăn thức uống quá đáng. Một thí dụ, mỗi lần đi ăn tiệc cưới ở Hoa-kỳ, ta thấy những người hầu bàn đổ đi bao nhiêu đồ ăn đắt tiền vào thùng rác. Nhưng liệu ta có tự hỏi: Nếu như những người nghèo đói có được những đồ ăn dư thừa kia thì họ sung sướng biết mấy? Chính vì thế, Chúa Giêsu cũng muốn nhắc nhở ta hãy chia sẻ tình thương của Chúa với anh chị em, kẻo phí đi tình thương Người đã dành cho ta.
3. Sống tình yêu thương chăm sóc lẫn nhau (bài đọc Tân Ước – Ê-phê-xô 4:1-6)
Bài học Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải biết nhận ra những nhu cầu của anh chị em và giúp đỡ họ đã được thánh Phao-lô lập lại và ngài xin anh chị em tín hữu Ê-phê-xô hãy thực hành trong đời sống cộng đoàn. Trước hết, ngài khuyên họ hãy sống theo “ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ”. Đúng vậy, Thiên Chúa đã kêu gọi họ bỏ lối sống của thế gian để sống lối sống Ki-tô, tức là sống “khiêm tốn, hiền từ, nhẫn nại, lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau, duy trì sự hiệp nhất bằng cách thuận hòa gắn bó với nhau”. Nói tóm lại, Thiên Chúa kêu gọi họ hãy sống theo gương Chúa Ki-tô mà yêu thương chăm sóc cho anh chị em.
Lý do tại sao ta phải sống như vậy là vì ta là thân thể Chúa Ki-tô, chia sẻ cùng một niềm tin và một niềm hy vọng, hành động theo cùng một Thần Khí là tinh thần của Chúa Ki-tô và làm con cùng một Cha trên trời. Chúa Giêsu là người Anh Trưởng đã sống yêu thương chăm sóc cho các em thế nào, ta cũng phải theo gương Người mà sống như vậy. Ta bắt chước Người, ngước mắt lên để nhìn thấy anh chị em chung quanh đang thiếu thốn, chứ không chỉ nhìn vào mình để nuôi thêm tính ích kỷ và để thấy ta là trên hết. Ta không phí tình yêu Chúa dành cho ta, nhưng sử dụng nó để phục vụ, giúp đỡ anh chị em. Một cái bánh lúa mạch hay một con cá nhỏ, đối với ta có lẽ chẳng đáng là bao, nhưng đối với anh chị em thiếu thốn lại có giá trị hết sức lớn lao. Chúa sử dụng những hy sinh, chia sẻ nhỏ bé ấy của ta để Người thực hiện những phép lạ phi thường. Phép lạ bánh và cá hóa nhiều cần phải được tiếp diễn ở ngay tại nơi và ngày giờ ta đang sinh sống, nếu ta nhận biết mình là một chi thể đích thực của Nhiệm Thể Chúa Ki-tô.
4. Sống Lời Chúa
Bài học ngôn sứ Ê-li-sa dạy cho tiểu đồng của ông cũng như bài học Chúa Giêsu dạy các môn đệ yêu thương và chăm sóc dân chúng đã cho ta cơ hội nhìn lại thái độ của ta đối với những người anh chị em thiếu thốn cùng khổ đang cần đến sự giúp đỡ của ta. Tình yêu thương của Chúa thật bao la vô bờ. Nhưng tình yêu ấy cần phải được chuyên chở qua chúng ta là những người làm môn đệ Chúa Ki-tô. Ta đem tình thương của Chúa đến cho anh chị em, không chỉ qua những giúp đỡ vật chất, nhưng còn là những an ủi, khích lệ hay nâng đỡ tinh thần và tâm lý nữa. Trái tim yêu thương và nhậy cảm của Chúa Giêsu trước đám dân chúng thiếu thốn và đói khát cũng phải là trái tim của ta, những Ki-tô hữu đích thực hôm nay vậy.
Suy nghĩ: Thánh Phao-lô khuyên tín hữu Ê-phê-xô “hãy sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban”. Vậy “ơn gọi” Thiên Chúa đã ban cho tôi là gì? Và tôi đã sống thế nào theo ơn gọi ấy?
Cầu nguyện: Lạy Chúa là sức mạnh và là niềm trông cậy của chúng con, không có Chúa, chẳng có chi vững bền, không có chi thánh thiện; xin mở lòng nhân hậu hướng dẫn chúng con, để khi biết cách dùng những của cải chóng qua đời này, chúng con được gắn bó với của cải muôn đời tồn tại. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 17 mùa Thường niên).
39. Hóa bánh.
Việc hóa năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều đã gây ra một tác động mạnh trên mọi môn đệ. Vì thế, biến cố này được cả bốn vị thánh sử: Matthêu, Máccô, Luca và Gioan thuật lại.
Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Gioan có ghi lại những chi tiết mang ý nghĩa thần học. Ngài phác họa một đám đông giống như đám dân Israen trong sa mạc ngày xưa. Rồi ngài nói Chúa Giêsu đi lên núi, chi tiết này giống như ông Môsê đi lên núi để lãnh nhận từ Thiên Chúa một sinh lực quan trọng cho đời sống tôn giáo của dân Israen. Chúa Giêsu cũng thực hiện một dấu chỉ tiên trưng cho phép Thánh thể, một bí tích ban sức sống cho cuộc đời của chúng ta. Chỉ có thánh Gioan tường thuật phép lạ trong bối cảnh của lễ Vượt Qua: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái”. Hơn thế nữa, ngài còn viết: “Chỗ ấy có nhiều cỏ”. Quang cảnh này chỉ có thể xảy ra vào mùa xuân, thời gian cử hành lễ Vượt Qua. Phần sau của chương này sẽ nói đến Bánh Hằng Sống, tức là bí tích Thánh Thể, và chỉ có thánh Gioan dùng động từ “eucharistêsas”, tạ ơn (câu 11). Người gợi lên ý tưởng cho cả đám đông dân chúng ăn, là chính Chúa Giêsu. Người hỏi ông Philip: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây”. Cũng như bí tích Thánh Thể sau này là sáng kiến của Chúa Giêsu. Đối với thánh Gioan. Việc hóa bánh ra nhiều là hình ảnh tiên trưng cho bí tích Thánh Thể. Trong bí tích này, Chúa Giêsu ban chính thịt máu của Người làm của ăn, của uống cho nhiều người.
Một chi tiết nữa cũng của riêng thánh Gioan, ngài nói rõ đó là bánh lúa mạch, thứ bánh của người nghèo. Chi tiết này gợi lên sự nghèo hèn, hơn nữa cũng chỉ có năm chiếc bánh thôi, số lượng ít ỏi như thế càng làm nổi bật sự bất lực của tài sức con người. Nhưng Thiên Chúa lại sử dụng sự yếu hèn như thế để thực hiện một kỳ công tuyệt diệu, vượt quá mọi sự tưởng tượng của con người. Với thứ bánh của người nghèo và chỉ có năm cái thôi, Chúa Giêsu đã cho năm ngàn người đàn ông ăn no, và số phụ nữ cùng với các trẻ em còn nhiều hơn nữa. Tương tự như vậy, Chúa Giêsu dùng bánh và rượu là những sản phẩm vật chất của con người để biến nên Thịt và Máu của Chúa, trở nên lương thực thiêng liêng cho nhiều người. Trong các bí tích khác cũng vậy, Chúa dùng các dấu chỉ vật chất để ban những hiệu quả thiêng liêng cho các linh hồn. Chúa Giêsu bảo các môn đệ thu lại những miếng thừa, và họ thu lại được mười hai thúng đầy. Chi tiết này cho thấy từ những yếu hèn của chúng ta, Chúa có thể tạo nên một sự phong phú tràn đầy.
Phép lạ làm cho người ta nhớ đến lời tiên báo của ông Môsê trong Đệ Nhị Luật 18: 15-18. Thiên Chúa sẽ ban cho anh em một vị ngôn sứ giống như tôi. Vì ông Môsê nuôi dân trong sa mạc bằng Manna, còn Chúa Giêsu bây giờ nuôi dân từ năm chiếc bánh lúa mạch. Sự kiện đúng như lời tiên báo của Môsê. Quả thực, Chúa Giêsu là chính Đấng mà Môsê loan báo. Nhưng Chúa Giêsu không phải là một thủ lãnh chính trị như suy nghĩ của dân chúng. Dân chúng không hiểu đúng vai trò của Đấng Mêsia. Chúa Giêsu cũng không muốn quan niệm sai lầm của họ làm cho Người đi lệch ra khỏi đường lối mà Chúa Cha muốn Người phải đi. Nếu Chúa nhượng bộ theo ý muốn của dân chúng, thì phép Thánh thể sẽ không được thiết lập, và phép lạ tiên trưng này sẽ chẳng còn ý nghĩa gì. Chúa Giêsu thích trở nên Bánh Hằng Sống nuôi dưỡng chúng ta hơn.
Lạy Chúa, xin ban lương thực hàng ngày cho những người nghèo khổ trong đất nước của chúng con. Xin Chúa cũng ban cho chúng con biết nuôi dưỡng tâm hồn mình bằng Bánh Hằng Sống là Lời Chúa và Mình Máu Chúa.
40. Cộng tác.
Có người cho rằng phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh hóa ra nhiều kể lại trong Tin Mừng là chuyện không có thực mà chỉ là tác dụng tâm lý, nghĩa là họ cho rằng: em bé có năm chiếc bánh và hai con cá đã chia phần ăn của mình cho người bên cạnh, và thế là theo gương em bé này, mọi người chia phần ăn của mình cho nhau, nên ai cũng đủ bánh ăn.
Nhưng sự thật không phải như vậy, vì Tin Mừng đã kể lại những chi tiết rất rõ ràng và cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại, đây là một phép lạ thực sự của Chúa Giêsu. Các nhà chú giải Kinh Thánh đã quả quyết: “Phải chối bỏ cả Tin Mừng thì mới có thể loại bỏ khỏi Tin Mừng sự kiện hóa bánh ra nhiều”. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là tìm hiểu phép lạ này có thực hay không mà là tìm hiểu xem Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì khi làm phép lạ này. Có nhiều điều lắm, chúng ta hãy ghi nhận và suy nghĩ hai điều.
Điều thứ nhất Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về lòng thương xót.
Trong bối cảnh của phép lạ này, chúng ta thấy có hai thứ thương xót. Các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ và đã thưa với Chúa: “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn”. Đó là thứ thương xót như thế, thứ thương xót nhập đề, lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, vì thế, Chúa muốn các môn đệ bước qua thứ thương xót khởi điểm đó, đem thứ thương xót nhập đề vào thứ thương xót thứ hai, thứ thương xót nhập cuộc: “Anh em hãy cho họ ăn”.
Quả thực, có tấm lòng thương xót người khác là một điều tốt rồi nhưng chưa đủ, có những lời nói thương xót người khác cũng là một điều tốt rồi nhưng cũng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, cần phải có hành động thương xót thực sự nữa. Chúa Giêsu đã thể hiện như thế và Ngài dạy chúng ta hãy sống như thế. Cũng vậy, có lòng trắc ẩn hay những lời nói an ủi, khích lệ, cảm thông là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là biết chia sẻ, biết san sẻ giúp đỡ. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì trong tầm tay, trong khả năng của mình, phần còn lại chúng ta sẽ được Chúa tiếp tay thực hiện. Điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra những người khác cũng là con Thiên Chúa, cũng là anh em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết động lòng trắc ẩn trước những đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi hơn.
Điều thứ hai Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta qua phép lạ hóa bánh này là sự cộng tác.
Trước hết, chúng ta phải xác nhận chắc chắn rằng: nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng ngàn người ăn no nê, thoải mái. Cũng vậy, không cần có sự cộng tác của các môn đệ trong việc đi tìm bánh, Chúa Giêsu vẫn có thể làm được phép lạ dễ dàng. Nói tóm lại, một mình Chúa có thể làm được mọi sự, không cần ai cộng tác, không cần vật liệu nào cả, với quyền năng vô biên, Chúa chỉ cần phán một lời là tức khắc có ngay, tức khắc có dư thừa bánh cho mọi người ăn. Nhưng ở đây Chúa muốn cho mọi người thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một em bé. Em có thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay cho những người thân quen. Làm như thế thì chỉ một mình em hay một vài người được ăn, nhưng em đã trao tất cả cho Chúa và Ngài đã dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Như vậy, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm phép lạ.
Cũng vậy, Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh, nên Chúa bảo các ông: “Anh em hãy cho họ ăn”, nên chúng ta thấy khi các môn đệ tìm được năm chiếc bánh và hai con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết: cần có sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa đối với chúng ta, nghĩa là bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng kiên nhẫn, bằng hy sinh, không phải chỉ trong đời thường thôi, nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”.
Trong cuộc sống, chúng ta hãy cộng tác với nhau và nhất là cộng tác với ơn Chúa để hoàn thành trách nhiệm đời mình và cùng nhau xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
41. Sự biến đổi lạ lùng.
Cách đây khá lâu, Earnest Gordon thuộc trường đại học Princeton University đã viết một bài báo với tựa đề: "Nó xảy ra bên dòng sông Kwai". Bài báo tả lại một kỷ niệm của ông trong khi ông là một tù nhân tại Thái Lan bên dòng sông Kwai. Dòng sông này sau này đã trở nên một bối cảnh cho một cuốn phim nổi tiếng tên "Bridge Over The River Kwai" (Chiếc Cầu Trên Dòng Sông Kwai).
Gordon bị bắt làm việc để làm một đường rầy xe lửa dài 250 miles, gọi là "Đường Rầy của Sự Chết" do người Nhật xây. Gordon đã diễn tả: "Chúng tôi làm việc từ rạng đông đến mặt trời lặn... chúng tôi lao công với đầu trần và chân không dưới ánh nắng gắt đến 120 độ. Nhiều người lính phải lảo đảo vì những cơn bệnh sốt mà vẫn phải làm công việc của mình. Những người này khi ngã qụy thì phẳi nằm luôn ở chỗ đó và cho đến khi mặt trời lặn mới được bạn đồng nghiệp khiêng về trại tù. Nhưng, Gordon kể rằng, kẻ thù số một không phải là người Nhật hoặc là cuộc sống khó khăn, nhưng chính là những tù nhân. Các tù nhân đã bị mắc chứng bệnh hoang tưởng do sự sợ hãi quá sức đối với người Nhật. Họ đã sống bằng luật rừng. Họ đã ăn cắp đồ của nhau. Họ không còn tin tưởng nhau. Và để lấy một chút thiện ý của người Nhật, họ đã tố cáo nhau. Những người lính Nhật đã té ra cười khi họ nhìn thấy các tù nhân cắn xé lẫn nhau.
Nhuệ khí của các tù nhân đã đi đến chỗ kiệt quệ. Họ cần phải làm một điều gì đó để lấy lại nhuệ khí đó, nhưng họ có thể làm gì trong cảnh khó khăn như thế này? Sau cùng, đã có hai người, được coi là còn giữ được niềm tin vào Thiên Chúa, đứng lên và cố gắng làm một việc gì. Họ có được một cuốn Thánh Kinh và tổ chức nhóm cầu nguyện vào mỗi tối. Nhóm cầu nguyện được phát triển từ mười hai người lên đến con số một trăm.
Qua những bài đọc và chia sẻ, họ đã dần dần biết Chúa Giêsu một cách sâu xa. Những khó khăn trong cuộc đời của họ cũng giống như những khó khăn mà Chúa Giêsu đã từng trải qua. Chúa Giêsu cũng đã trải qua những lúc đói bụng, mệt mỏi, bị phản bội, và những lằn roi đau đớn in vào sau lưng. Tất cả những gì về Chúa Giêsu, việc Ngài làm, điều Ngài nói, Con Người của Ngài, trở nên ý nghĩa và sống động. Các tù nhân đã từ từ không còn nghĩ rằng mình là những nạn nhân trong một hoàn cảnh tàn bạo nữa. Họ ngừng tố cáo và giết chết lẫn nhau. Từ đó, cuộc sống của họ được biến đổi hoàn toàn thấy rõ. Họ bắt đầu cầu nguyện không cho chính bản thân cho bằng cầu nguyện cho người khác. Và khi họ cầu nguyện cho chính họ thì chẳng phải là để lãnh một ơn gì nhưng là để xin cho mình được biết chia sẽ những gì mình lãnh nhận được.
Họ tụ họp hát Thánh Vịnh. Những bài Thánh Vịnh đã làm cho đêm tối trở nên sống động và hy vọng. Cái khác biệt giữa những tiếng vui hân hoan và những ngày tháng thinh lặng ngột ngạt chính là giữa cái chết và sống.
Câu truyện của hai người lính tiền phong đã biến đổi cả một doanh trại tù nhân mang một ý nghĩa rất đặc sắc dẫn vào bài đọc Phúc Âm hôm nay.
Cũng giống như hai người lính xung phong đã làm gì mình có thể, em bé trong bài Phúc Âm cũng đã làm điều mình có thể. Em đã dâng cho Chúa Giêsu những gì mình có và để cho Chúa Giêsu làm tất cả.
Trong hoàn cảnh của em bé, Chúa Giêsu đã biến đổi vài chiếc bánh đơn sơ của em thành rất nhiều phần ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Trong hoàn cảnh của hai người lính xung phong ở trên, Chúa Giêsu đã lấy danh dự và niềm tin nhỏ bé của họ để làm nên những việc lạ lùng không ai nghĩ đến.
Điều mà Chúa Giêsu đã làm cho đám đông trong bài Phúc Âm hôm nay, và những gì Ngài đã làm cho những người tù nhân trong thời thế chiến, thì cũng là điều mà Chúa Giêsu muốn làm cho chúng ta hôm nay. Ngài muốn nuôi sống hàng triệu người đang đói khổ trên thế giới. Ngài muốn biến đổi hàng triệu người đang sống trong cảnh thù hận. Nhưng Chúa Giêsu cần đến em bé để đưa cho Ngài mấy chiếc bánh đơn sơ và những con cá cỏn con. Ngài cần có những người giống như quí vị và tôi để cho Ngài những chiếc bánh và những con cá nho nhỏ. Ngài cần chúng ta cho Ngài những tài năng, những lời cầu nguyện hằng ngày, và những hy sinh chúng ta kiếm được.
Nếu chúng ta biết dâng những điều này cho Chúa Giêsu, thì Ngài sẽ lãnh nhận và chúc lành cho chúng ngoài sự tưởng tượng của chúng ta.
42. Đi bước trước
Ngày nọ, có một anh thanh niên chở vợ cùng đứa con 5 tuổi đi trên một chiếc xe Honđa, từ Bến Tre đi Thành Phố Hồ Chí Minh. Đang chạy ngon trớn bỗng nhiên chiếc xe của anh bị nổ bánh xe trước. Do tốc độ hơi cao nên anh đã không làm chủ được tay lái để xe của mình đâm vào một chiếc xe tải cùng chiều. Sau khi đâm vào xe tải thì cả hai vợ chồng đã chết tại chỗ còn lại đứa con của họ may mắn được cứu sống.
Điều đáng nói là đứa nhỏ này giờ đây bơ vơ không ai chăm sóc. Cùng lúc đó có một bác gái thấy vậy nên đã nhận đem về nuôi dưỡng như con của mình. Đúng là đứa nhỏ này thật may mắn. May mắn vì chính bác gái tốt bụng này đã đi bước trước đến với em. Nhờ đó em được lớn lên trong sự chăm sóc đầy tình thương của bác ấy.
Đoạn Tin mừng hôm nay nói về phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều nuôi hơn năm ngàn người ăn no nê. Đây là một phép lạ quan trọng nên đã được cả bốn Thánh sử ghi lại. Nếu đem so sánh bản văn Tin mừng của Thánh Gioan hôm nay với bản văn của Thánh Matthêu chúng ta sẽ thấy có sáu chi tiết khác nhau.
Trong sáu chi tiết khác nhau có hai chi tiết cho thấy Chúa Giêsu thật sự đã đi bước trước đến với dân chúng. Chi tiết thứ nhất là trong Tin mừng Matthêu khi thấy dân chúng đói thì các Tông đồ đã đề nghị với Chúa Giêsu (Mt 14, 15), còn ở đây chính Chúa Giêsu gợi ý (Ga 6, 5b). Chi tiết thứ hai là trong Tin mừng Matthêu sau khi làm phép lạ xong Chúa Giêsu đã bảo các Tông đồ đem phân phát cho dân chúng (Mt 14, 19), còn ở đây chính Chúa Giêsu đem phân phát cho dân chúng (Ga 6, 10).
Đi theo Chúa Giêsu được nghe giảng dạy quả là điều hết sức cao quý cho người Do thái thời ấy. Điều cao quý ấy lại càng được tăng lên gấp bội khi họ được Chúa Giêsu quan tâm lo cho ăn no nê về phần xác. Nhớ lại tuần trước, khi các Tông đồ về trình diện cũng chính Chúa Giêsu đã lên tiếng kêu các ông đi nghỉ ngơi (Mc 6, 31)
Thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta được làm con của Chúa. Chúa luôn ban cho chúng ta những ơn lành cần thiết trước khi chúng ta cầu xin hay chẳng dám cầu xin. Qua Bí tích Hòa giải Chúa đã sẵn sàng tha thứ cho trước khi chúng ta xưng thú. Vậy còn chần chừ gì nữa mà chúng ta không mau mắn đến với Tòa giải tội mỗi khi lỡ phạm tội.
Đồng thời, chúng ta cũng hãy biết đi bước trước để tha thứ cho anh chị em mỗi khi họ lỡ xúc phạm đến mình.
43. Cho kẻ đói ăn – Lm. Gioan Nguyễn
Tin Mừng chủ nhật tuần qua, chúng ta thấy Chúa Giêsu chạnh lòng thương đến dân chúng, vì họ giống như đàn chiên bơ vơ không có người chăn dắt, còn Lời Chúa hôm nay chúng ta lại được nhìn thấy Chúa Giêsu thương đến đoàn người đang đói ăn, khi họ đi theo Ngài. Điều đó cho thấy rằng, Chúa Giêsu không chỉ cho người ta ăn của ăn tinh thần mà còn là thức ăn của thể xác.
Trong khung cảnh buổi chiều tàn hoang vắng, khi mọi người đã mệt mỏi và đói khát, Chúa Giêsu quan tâm đến nhu cầu của họ, vì họ cần được ăn. Ngài hỏi ông Philipphê có gì cho họ ăn không. Ngài thừa biết việc gì sẽ xảy ra khi nhìn thấy đoàn người đang đói. Và sau đó phép lạ đã xảy ra, Ngài hoá bánh ra cho khoảng 5.000 người đàn ông ăn no nê, còn dư lại 12 thúng đầy, không tính trẻ con và đàn bà, từ 2 con cá và 5 chiếc bánh của một cậu bé. Chúa Giêsu thết đãi một bữa tiệc lớn cho đoàn người đông đảo trong ngày hôm đó.
Từ biến cố vĩ đại này, chúng ta rút ra được điều gì cho đời sống đức tin hôm nay khi nghĩ đến sự chêch lệch giữa người giàu và kẻ nghèo vẫn đang diễn ra trong thế giới này. Có hàng triệu người không có miếng ăn, chết vì nghèo đói, bệnh tật; có kẻ lại quá dư thừa hoang phí. Phải chăng phép lạ hoá bánh không còn nữa cho những người đang đói ăn! Đây cũng là vấn nạn mà con người thường đặt ra và tìm câu trả lời.
Vào một ngày mùa đông, một người đàn ông đi ngang qua cây cầu, ông ta nhìn thấy một em bé đang ngồi xin ăn, nó đang bị cảm lạnh vì rét và cần được có cái gì đó ăn cho đỡ đói. Khi nhìn thấy cậu bé đáng thương này, ông ta đã tức giận và hỏi Chúa: Lạy Chúa, tại sao Chúa không làm cái gì đó cho đứa bé này? Và Chúa trả lời: Ta đã làm nhiều điều cho cậu bé này, con không thấy sao? Người đàn ông ấy ngạc nhiên nói rằng ông ta không thấy Chúa làm gì cho nó cả. Chúa nói: Ta đã dẫn con đến với đứa bé này, nhưng con vẫn làm ngơ.
Trở lại với Tin Mừng của Thánh Gioan hôm nay, chúng ta lại thấy phép lạ được xảy ra khởi đi từ 5 chiếc của một cậu bé. Khi Chúa Giêsu cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng, thì bánh đã hoá ra nhiều. Như vậy, bánh được hoá ra nhiều là có nhờ sự cộng tác của bàn tay con người. Điều đó cho ta thấy rằng, Chúa cần cộng tác và chia sẻ của con người. Mỗi khi linh mục dâng lễ vật lên Thiên Chúa, ngài đọc: “Lạy Chúa là Chúa Tể trời đất, chúc tụng đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa màu ruộng đất và công lao của con người…”. Rồi các tông đồ đem đi và phân phát cho dân chúng ăn và còn dư lại 12 thúng đầy.
Theo Kinh Thánh, con số 12 là biểu tượng của 12 chi tộc Itrael, 12 vị Tông đồ và đồng thời nó cũng ám chỉ đến tất cả mọi người chúng ta. Như vậy, ơn thánh của Chúa không chỉ dành cho các dân tộc, cho đám đông đi theo Ngài, mà là cho tất cả chúng ta hôm nay. Chúa Giêsu không trực tiếp ban phép lạ hoá bánh bằng của ăn vật chất, nhưng Ngài vẫn ban phát cho chúng ta của ăn thiêng liêng bằng chính Thịt và Máu của Ngài cho nhân loại, đó là Bí tích Thánh thể và là dấu tích tình yêu của Thiên Chúa ban cho con người.
Lạy Chúa, khi gặp đau khổ, hoạn nạn, thử thách, chúng con thường rơi vào tâm trạng của kẻ phẫn nộ, than van, oán trách…, và cũng giống như người đàn ông kia nhìn thấy đứa bé cần cái ăn, cần áo ấm, cần một chút lòng hảo tâm, ông ta lại bảo Chúa không làm gì cho đứa bé. Và chúng con cũng làm như vậy, chúng con không biết tự hỏi mình đã làm gì cho Chúa và cho tha nhân. Chúng con vẫn thờ ơ, lạnh lùng và khép kín khi nhìn những người đau khổ, kẻo đói ăn đang sống chung quanh. Chúng con có đôi mắt để nhìn, nhưng không thấy; có đôi tai để nghe, nhưng đã bị điếc; có đôi tay để làm, nhưng đã bị tê liệt; có trái tim để yêu thương và chạnh lòng, nhưng đã bị chai sạn và khô cứng.
Xin Chúa cho chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy: “Vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta tù đày các người đã viếng thăm…”.
44. Đức Giêsu hoá bánh ra nhiều – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Giêsu có quan tâm và dấn thân cho những nhu cầu cụ thể - như ăn uống, sức khỏe, sự thoải mái thể chất - của dân chúng không? Nếu không quan tâm đến những nhu cầu cụ thể ấy, Ngài có thể loan báo Tin Mừng một cách hiệu quả không? dân chúng có chịu đến để nghe Ngài dạy dỗ không?
2. Trong một xã hội đầy bất công, áp bức, nhiều tệ nạn xã hội, người dân phải chịu đựng nhiều đau khổ, mà người tông đồ lại chỉ quan tâm đến nhu cầu tâm linh của họ, không đếm xỉa gì đến những đau khổ, những nhu cầu cụ thể và cấp bách của họ, thì việc tông đồ ấy có kết quả không? Tại sao?
3. Trong những xã hội đầy bất công như thế, nhu cầu cụ thể và cấp bách của dân chúng là gì? Chúng ta chỉ cần xoa dịu những đau khổ cho dân chúng hay cũng cần giải quyết tận gốc những đau khổ ấy?
CHIA SẺ
1. Đức Giêsu quan tâm tới cả nhu cầu thể chất của dân chúng
Bị cám dỗ sau khi ăn chay 40 ngày, Đức Giêsu nói với Satan: «Người ta sống không nguyên bởi bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra» (Mt 4,4). Nghĩa là con người không chỉ sống bằng thể chất, mà còn sống bằng tinh thần. Hành động của Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay dường như muốn nói một câu đồng nghĩa như vậy, nhưng theo chiều ngược lại: Người ta sống không nguyên bởi Lời Chúa, mà còn sống bởi bánh nữa. Nghĩa là con người không chỉ sống bằng tinh thần, mà còn sống bằng thể chất. Vì con người không chỉ thuần túy là tinh thần hay thần khí, cũng không chỉ là thể chất, mà là cả hai. Nên con người vừa có nhu cầu tinh thần, vừa có nhu cầu thể chất. Đức Giêsu quan tâm tới con người toàn diện, nghĩa là quan tâm tới cả nhu cầu tinh thần lẫn thể chất.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy điều ấy. Mặc dù sứ mạng của Ngài là cứu độ nhân loại khỏi nô lệ tội lỗi, nghĩa là chủ yếu về mặt tâm linh, nhưng không vì thế mà Ngài quên đi nhu cầu thể chất của con người. Thật vậy, khi «nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình», Ngài liền hỏi môn đệ: «Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?» Thật ra, Ngài có thể để mặc họ trở về nhà với cái bụng lép xẹp, và chắc chắn chẳng ai lên tiếng trách móc Ngài vì đã để mặc họ như vậy. Nhưng Ngài không làm như vậy. Tình thương và sự nhạy cảm đối với đau khổ và hạnh phúc của con người đã thúc đẩy Ngài đáp ứng nhu cầu của họ. Họ cần nghe Ngài rao giảng, nhưng để có thể nghe Ngài, họ cũng cần phải no bụng.
Chính vì Ngài tỏ ra yêu thương họ, quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của họ, mà họ đến với Ngài, sẵn sàng nghe Ngài dạy dỗ. Nếu Ngài không làm như vậy, sẽ có nhiều người chẳng đến với Ngài và chẳng nghe Ngài dạy bảo. Ở Việt Nam, nhiều người truyền đạo trong các tôn giáo khác cũng phần nào làm tương tự như Đức Giêsu: họ mở phòng thuốc, khám bệnh, chữa bệnh và cho thuốc miễn phí, và khi thuận tiện thì nói về đạo pháp cho những ai muốn nghe.
Như vậy, Đức Giêsu không chỉ lo phần rỗi đời sau cho con người, mà còn lo cả những gì cần thiết cho đời sống hiện tại của họ nữa. Ngài cũng ra lệnh cho các môn đệ ngoài việc rao giảng Tin Mừng, còn phải giải quyết những nhu cầu thể chất và cấp bách của họ: «Anh em hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ» (Mt 10-7-8). Lo cho người ta về thể chất chính là cách biểu lộ tình thương đối với họ, đó là tạo điều kiện để lo cho họ một cách hữu hiệu về tâm linh.
2. Tình yêu đòi buộc ta phải ưu tiên đáp ứng những nhu cầu bức thiết nhất của người chung quanh ta
Nếu ta thật sự yêu thương những người chung quanh ta, ta sẽ hành xử với họ giống như ta vẫn hành xử với những người ta yêu thương. Yêu thương ai, ta sẽ đáp ứng đúng nhu cầu của họ. Cho dù ta là một thầy giáo, một giáo sư đại học, một linh mục hay giám mục, không khi nào ta thấy người thân của ta đói, khát, hoặc bị một ai đó ức hiếp, đánh đập mà ta lại tặng họ một cuốn sách hay một cuốn Thánh Kinh, cho dù những thứ đó cũng rất cần thiết cho họ. Nếu ta hành xử như vậy, mọi người sẽ nghĩ ta là người mất trí. Trường hợp đó, trước tiên, ta phải cho họ ăn, uống, hoặc nhảy vào can thiệp để người thân ta khỏi bị đánh đập đau đớn. Thế nhưng hiện nay, có biết bao người mang danh hiến thân phục vụ con người, lại chỉ biết lo cho họ về mặt tâm linh, chẳng đếm xỉa gì đến nhu cầu hết sức cụ thể, bức thiết và trước mắt của họ. Thế mà lúc nào những người ấy cũng vẫn tự hào mình đang hiến thân cho một sứ mạng cao cả là phục vụ con người.
Quả thật, trong xã hội và Giáo Hội vẫn luôn luôn có những con người «cao cả» theo kiểu đó, nghĩa là cao cả một cách phi thực tế. Họ có thể «bình tâm như vại» trước những đau khổ, thiếu thốn, trước những cảnh bất công, áp bức mà những người chung quanh mình phải chịu, trước những bàn tay giơ lên xin họ cứu giúp một cách khẩn thiết và tuyệt vọng. Nhưng những người «cao cả» này vẫn cảm thấy mình không cần phải làm gì cho những người khốn khổ ấy khác hơn là những việc gọi là tâm linh. Và một khi quan tâm lo những chuyện về tâm linh ấy, họ cảm thấy lương tâm mình bình an vì mình đã làm được những việc bác ái rất cao cả. Ngay cả khi làm những việc được gọi là bác ái cao cả ấy, có nhiều vị còn đòi hỏi đối tượng mình phục vụ phải bù đắp lại cho mình một cách cụ thể như những điều kiện phải có, nếu không thì họ sẽ chẳng làm. Nói cách khác, phải được bù đắp cụ thể họ mới chịu làm những việc «cao cả» ấy.
3. Nhu cầu bức thiết của con người trong những xã hội lầm than, nghèo khổ, đầy dẫy bất công áp bức
Trong những xã hội hay đất nước nghèo khổ, đầy dẫy những tệ nạn xã hội, những bất công áp bức, thì nhu cầu bức thiết của người dân rất là cụ thể. Là những người theo Chúa, tuy ta đặt rất nặng mặt tâm linh - đó là điều hợp lý - nhưng ta không thể hoàn toàn lãnh đạm hoặc không biết đến những nhu cầu khẩn thiết và cụ thể của người dân chung quanh ta. Thiết tưởng sống trong một đất nước càng nghèo khổ, càng đầy dẫy sự bất công áp bức, càng lan tràn những tệ nạn xã hội, thì người theo Chúa càng phải quan tâm và dấn thân nhiều hơn cho những vấn đề ấy. Nói cách khác, người theo Chúa đúng nghĩa phải quan tâm đến sự phát triển của con người, sự công bằng của xã hội, và sự tiến bộ của thế giới. Đó là một chiều kích nhân bản không thể thiếu trong việc nên thánh, hay việc nên giống Chúa Giêsu, Đấng «muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ» (Hs 6,6; Mt 9,13). Lại càng không thể thiếu trong việc tông đồ, trong việc mở mang Nước Trời.
Tông huấn Giáo Hội tại châu Á viết: «Không thể cắt đứt việc thờ phượng Thiên Chúa với việc chăm sóc người yếu kém, được Kinh Thánh mô tả một cách điển hình là “cô nhi, quả phụ và ngoại kiều” (x. Xh 22,21-22; Đnl 10,18; 27,19), là những người dễ bị tổn thương nhất khi có bất công đe dọa» (số 41§2). Thánh Gioan Kim Khẩu viết: «Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ thứ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói “Đây là mình Thầy” cũng chính là Đấng đã nói "Các ngươi thấy ta đói mà không cho ăn"… Có ích gì khi bàn tiệc Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!» (Tông huấn GHTCA trích dẫn, số 41§2).
Chính vì để ta dễ dấn thân cho anh em đồng loại của ta hơn, đặc biệt trong những hoàn cảnh nguy hiểm của những xã hội đầy áp bức bất công mà Đức Giêsu đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải từ bỏ nhiều thứ thế gian hằng gắn bó. Thật đáng hổ thẹn cho những người tông đồ đã từng cam kết từ bỏ mọi thứ mà lại dấn thân cho anh em không bằng những người không hề cam kết! Thật là mỉa mai khi người tông đồ chủ trương sống độc thân để dễ dàng dấn thân cho đồng loại hơn, lại không thể dấn thân mạnh dạn bằng những người có gia đình! Rất có thể tại vì họ đang sợ mất đi những gì mà họ đã từng cam kết từ bỏ khi dấn thân làm tông đồ!
Cầu nguyện
Lạy Cha, chúng con theo Đức Giêsu nhưng lại chẳng làm theo gương Ngài. Ngài dùng tình thương để đến với mọi người hầu dẫn họ về với Cha. Còn chúng con, chúng con chỉ muốn dẫn họ về với Cha mà không thèm đến với họ, không cần tỏ ra yêu thương và quan tâm đến những nhu cầu cụ thể bức thiết của họ. Phải chăng chúng con đang làm một chuyện vô ích? và công sức của chúng con đổ ra sẽ chỉ là «công dã tràng»? Xin giúp chúng con noi gương Đức Giêsu, biết yêu thương và quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của đồng loại trước khi muốn dẫn họ về với Cha.
45. Tiết kiệm.
Sau khi đã làm phép lạ, từ năm chiếc bánh và hai con cá, nuôi sống hàng ngàn người giữa nơi hoang vắng, Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh vụn, đừng để nó vương vãi phí hoài.
Từ lệnh truyền đơn sơ vắn vỏi này, tôi muốn chia sẻ một vài ý tưởng về sự tiết kiệm, một nhân đức rất cần thiết trong hoàn cảnh kinh tế gia đình chúng ta đang gặp phải nhiều khó khăn.
Tại sao gia đình chúng ta lại lâm vào cảnh nghèo túng? Dĩ nhiên có nhiều lý do, vì thế này, vì thế kia. Nhưng một nguyên nhân chính tạo nên cảnh nghèo túng, đó là sự thiếu cần kiệm.
Thực vậy, tục ngữ đã bảo:
- Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa,
Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày.
Nhiều khi chúng ta tiêu xài một cách hoang phí, theo kiểu con nhà lính, tính nhà quan, bóc ngắn cắn dài, mua sắm và ăn nhậu một cách quá lố, khiến cho công nợ chồng chất, lãi mẹ đẻ ra lãi con, lãi con đẻ ra lãi cháu, không biết đến bao giờ mới trả cho hết nợ.
Trong khi đó, sự tiết kiệm lại là một điều kiện cần thiết để ổn định đời sống vật chất trong gia đình, đem lại nếu không phải sự giàu sang thì cũng là sự ấm no. Bởi vì, tiền bạc như núi, ăn hoài thì cũng phải hết. Do đó từ ngàn xưa người ta đã đưa ra những lời khuyên bảo:
- Tích tiểu thành đại.
- Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn.
- Nhiều dòng nước nhỏ sẽ tạo nên con sông lớn.
- Đại phú do thiên, tiểu phú do cần.
Dân Ý Đại Lợi thì nói:
- Sự sung túc có được do hai bàn tay. Bàn tay này, đó là tài năng, Còn bàn tay kia, đó là sự tiết kiệm.
Trong khi đó người Thổ Nhĩ Kỳ thì bảo:
- Sở dĩ người ta trở nên giàu có, một là do cần cùlao động, hai là do tiết kiệm trong việc chi tiêu.
Tại nơi mở chương mục tiết kiệm ở các ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái ấp quả trứng vàng, có ý muốn nói những đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó sẽ sinh nhiều lợi lộc, sẽ đem lại cho chủ nhân những trái trứng bằng vàng.
Lafontaine có kể lại một câu chuyện ngụ ngôn như thế này:
Con ve sầu suốt mùa hè chỉ biết ca hát, cho nên khi mùa đông trở về và gió bấc thổi tới, liền bị chết đói. Trong khi đó giòng họ nhà kiến, suốt ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt gạo, dù có mưa bão hay lạnh giá, đời sống vẫn được bảo đảm an toàn.
Sự tiết kiệm, như người xưa diễn tả có ba cái lợi chính:
Thứ nhất, tự mình an phận không cần đến kẻ khác là giữ lấy chữ liêm. Thứ hai giảm việc phụng dưỡng cho bản thân để cấp đỡ người khác là mở cái đức. Thứ ba nhịn cái không đủ trước mắt, hầu lưu chỗ còn thừa cho tương lai, là lo đến việc phòng thân.
Có một thanh niên tới một ngân hàng xin việc, lúc đầu ông Giám đốc đã từ chối, nhưng khi chàng đi ra, ông Giám đốc thấy chàng cúi xuống nhặt một chiếc kim gút bị rơi trên đất, liền gọi lại và thâu nhận chàng, vì ông Giám đốc đánh giá chàng là một người tiết kiệm, sẽ không làm hao tốn tài sản của ngân hàng sau này.
Để kết luận tôi xin đưa ra một nguyên tắc trong việc tiêu dùng như thế này: Đối với những việc cần thiết và hữu ích, dù có phải tốn bao nhiêu cũng không xót, trái lại đối với những việc xa xỉ và thừa thãi thì một đồng, một cắc cũng không.
Đừng tiêu xài một cách hoang phí. Bởi vì, cái hôm nay không cần, biết đâu ngày mai sẽ cần. Cái chúng ta bỏ đi biết đâu lại là cái lợi ích cho người khác.
46. Chia sẻ.
Có một lần phát biểu trước quốc hội, ông Ma-ha-mát-Gan-đi, vị anh hùng dân tộc của An Độ, đã kêu gọi nhân dân dùng chính sách bất bạo động chống lại quân Anh, giành độc lập cho đất nước, đã nói: “Theo quan niệm của tôi, về một ý nghĩa nào đó, bất cứ người nào trong chúng ta đều có thể là tên ăn cắp. Bởi vì chúng ta có quá nhiều vật dư thừa, trong khi những người khác thiếu thốn những cái tối thiểu. Chúng ta có một vật nào đó không cần thiết, thì vật đó chính là của ăn cắp mà chúng ta lấy từ những nghèo khó cần đến nó”.
Những lời phát biểu trên đây có thể giúp chúng ta hiểu và sống Lời Chúa hôm nay. Bởi vì nếu muốn rút ra một câu làm lẽ sống cho ngày hôm nay, thiết nghĩ chúng ta phải chọn câu Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Các con hãy cho họ ăn”. Lời đề nghị này đã đánh tan não trạng của các môn đệ muốn giải quyết vấn đề cơm bánh cho những người nghèo đói một cách dễ dàng, là cho họ về để họ đi vào các làng mua thức ăn. Hành vi giải tán đám đông là một hành vi lẩn tránh, vì giải tán thì quá dễ, Chúa và các môn đệ không còn phải bận tâm gì nữa. Nhưng Chúa không chấp nhận thái độ lánh mặt làm ngơ, bưng tai giả điếc.
Chúa muốn cho các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh. Các ông đã tích cực cộng tác và kết quả là mọi người được no nê và phấn khởi. Đây là hình ảnh tiêu biểu cho việc Chúa ân cần dìu dắt dưỡng nuôi dân mới và sự dìu dắt ấy thành công nhờ có sự cộng tác nhiệt thành của nhóm cộng sự viên. Chính vì thế, điều này cũng nhắc nhở chúng ta đặc biệt nhớ đến các mục tử trong Giáo Hội để cầu nguyện cho các ngài; để cảm tạ Chúa đang tin tưởng vào sự cộng tác của con người trong việc dẫn dắt Giáo Hội.
Tuy nhiên, trong Đức Kitô, mọi tín hữu đều tham dự vào chức linh mục, nghĩa là mọi người đều được mời gọi để sống cho tha nhân. Chúng ta hãy góp phần của mình, dù chỉ ít oi, nhỏ bé, không đáng kể, nhưng sự đóng góp của chúng ta sẽ là những xúc tác cần thiết để Thiên Chúa tiếp tục thực hiện các phép lạ. Nói rõ hơn: chỉ cần một chút quảng đại và góp phần của con người là đủ để Thiên Chúa thực hiện những phép lạ.
Vì thế, qua phép lạ hóa bánh này, chúng ta có thể suy diễn rằng: Em bé có năm chiếc bánh và hai con cá hoặc tông đồ Anrê hay các tông đồ khác chính là bạn, là tôi, là chúng ta, là tất cả các Kitô hữu. Nhưng chúng ta đã thường có những thái độ thế nào trước những nỗi đau của con người; trước những túng thiếu của người anh em? Đành rằng ngoảnh mặt làm ngơ là thái độ dễ thực hiện hơn. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay yêu cầu chúng ta suy nghĩ.
Hoặc là chúng ta có thể biện minh: làm sao tôi có thể giải quyết được những hoàn cảnh nghèo khó, đen tối đầy dẫy trong xã hội? Làm sao tôi có khả năng để xóa đói giảm nghèo? Điều đó vượt ngoài tầm tay của tôi. Những lời biện minh đó hay những lời biện minh khác thì cũng giống như lời biện minh xưa kia của các tông đồ: “Làm sao có đủ bánh cho từng ấy người ăn?”.
Qua phép lạ hóa bánh, một lần nữa, Chúa Giêsu giải thích cho chúng ta hiểu mỗi người phải làm gì. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì nằm trong tầm tay, nằm trong khả năng của mình. Phần còn lại, chúng ta sẽ được Chúa tiếp tục thực hiện. Hiểu như thế chúng ta mới thấy rằng: dù nghèo hèn đến đâu, ai cũng có một cái gì đó để chia sẻ. Và giá trị của quà tặng không tùy thuộc ở số lượng của vật chất mà chính là ở tấm lòng của con người. Một nụ cười thân ái, một lời nói cảm thông, một cữ chỉ tha thứ… có giá trị hơn những của cải vật chất mà một người giàu có bỏ ra như của bố thí.
Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi người cứ cố gắng thể hiện lòng quảng đại của mình, phần còn lại Chúa sẽ làm tiếp, nghĩa là lòng quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại; sự chia sẻ sẽ thúc đẩy sự chia sẻ; tình yêu sẽ khơi dậy tình yêu. Làm như vậy là chúng ta đã đặt nền móng cho nước trời, nước của những con người quảng đại biết yêu thương chia sẻ cho nhau.
Điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra những người khác cũng là con cái Thiên Chúa, cũng là anh chị em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết động lòng trắc ẩn trước những nỗi đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi.
47. Lương thực.
Trong các bài đọc chúng ta thấy Thiên Chúa lo cho người đói. Trong bài đọc 1, chúng ta thấy ông Elisa đã gạt bỏ những thói tục rườm rà và nhấn mạnh rằng bánh phải được phát cho dân, mặc dù bánh ấy làm từ hoa mầu đầu vụ dành để dâng cho Thiên Chúa. Và trong Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu phân phát bánh cho dân, họ đã đi theo Người vào nơi hoang địa.
Lương thực là nhu cầu đầu tiên của đời sống. Không có lương thực, không thể có đời sống, kể cả một đời sống cao hơn. Cho kẻ đói ăn là mối đầu tiên của việc thương yêu phần xác con người. Vào ngày phán xét sau cùng, Đức Giêsu sẽ nói: “Khi Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn” hoặc “Khi Ta đói, các ngươi đã không cho Ta ăn”.
Khi Đức Giêsu gặp dân đang đói. Người cho họ lương thực, và khi làm thế, Người biểu lộ lòng quảng đại cao cả của Người – mọi người ăn no nê và còn dư mười hai thúng đầy.
Đức Giêsu cầm năm cái bánh và dâng lời tạ ơn, chúng ta cũng phải dâng lời tạ ơn khi chúng ta ăn. Trong một thế giới có hàng triệu người đang đói, chúng ta không thể coi lương thực ta dùng là chuyện đương nhiên.
Mỗi ổ bánh (có thể dùng một ổ bánh thật cho cộng đoàn nhìn thấy) cũng là cả một phép lạ như những ổ bánh Đức Giêsu đã ban cho dân. Nó được làm nên bởi bàn tay của nhiều người và bàn tay của Thiên Chúa. Điều này được diễn tả rất đẹp trong lời nguyện dâng bánh trong thánh lễ “Lạy Chúa, chúng con chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của mọi loài thụ tạo. Nhờ lòng nhân hậu của Chúa chúng con có được bánh này để tiến dâng. Được làm bởi hoa màu của đất và lao công của con người, nó sẽ trở thành bánh sự sống cho chúng con”.
Thiên Chúa làm cùng một phép lạ qua thời tiết bốn mùa và thời vụ. Trong cánh đồng, Người nhân lên nhiều không phải bánh mà là những hạt ngũ cốc, đến nỗi nếu chúng ta góp phần của mình sẽ có đủ cho mọi người. Chỉ một hạt lúa mì có thể sinh ra bảy mươi hạt khác.
Ngày nay, người ta có mối bận tâm về lương thực nhưng vấn đề rất khác nhau tùy từng khu vực của thế giới.
Trong thế giới phát triển, chúng ta có quá nhiều lương thực. Lo lắng chính của nhiều người là làm thế nào giảm bớt phần ăn để được giảm cân. Nhưng những người cứ mãi lo lắng bận tâm về mình với vấn đề đó, không còn có chỗ dành cho yêu thương. Còn trong thế giới thứ ba, vấn đề là làm sao có được cái ăn cho mọi người.
Phép lạ của Đức Giêsu phải làm cho chúng ta biết ơn Thiên Chúa về lương thực mà chúng ta có được và cẩn thận không hoang phí nó. Phép lạ ấy cũng phải làm cho chúng ta tích cực quan tâm đến những người không có lương thực. Người ta biết rằng có hơn 700 triệu người trên thế giới ngày nay không đủ ăn. Một phần ba trẻ em Châu Phi bị suy dinh dưỡng.
Phải làm gì với lương thực dư thừa là một vấn đề gây bối rối cho các Kitô hữu. Một câu trả lời là dự trữ lương thực. Nhưng chắc chắn việc dự trữ lương thực dư thừa cũng gây ra sự phẫn nộ lớn như dự trữ các vũ khí hạt nhân. Một câu trả lời khác là giảm số lượng lương thực sản xuất. Nhưng điều này dẫn đến sự phẫn nộ của các nông dân được trả tiền để bỏ không đất đai mầu mỡ. Hầu hết nông dân không hài lòng với sự dàn xếp ấy.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của lòng quảng đại. Chúng ta cảm nghiệm sự quảng đại ấy mỗi lần chúng ta ngồi xuống dùng bữa và đặc biệt khi chúng ta tiếp nhận Thánh Thể. Kinh nghiệm của lòng quảng đại phải là kết quả của việc mở rộng tâm hồn, và ước muốn quảng đại với những người khác, những người không may mắn như chúng ta.
48. Quảng đại.
Một linh mục cử hành thánh lễ trong một giáo xứ ở Dublin và giảng bài Tin Mừng hôm nay, đã cho rằng phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều là một phép lạ của lòng quảng đại. Và cũng dễ hiểu được tại sao.
Trước hết có lòng quảng đại lạ lùng của một cậu bé đã cho năm cái bánh và hai con cá, làm cho phép lạ có thể được thực hiện. Quà tặng ấy tuy nhỏ, nhưng đối với cậu bé là một vật to lớn bởi vì đó là tất cả những gì cậu bé có. Nhiều người muốn đóng góp cho sự sung túc của người thân, nhưng không muốn cho khi không có họ.
Rồi đến sự quảng đại lạ lùng của Đức Giêsu. Người không chỉ nuôi tất cả mọi người, nhưng Người còn cho họ muốn ăn bao nhiêu tùy ý, và vẫn còn dư lại mười hai thúng đầy.
Vị linh mục rời bàn thờ vào cuối thánh lễ, lòng sung sướng vì nghĩ rằng mình đã giảng một bài giảng hay. Khi ông đang cởi áo lễ trong phòng áo thì một bà đứng tuổi đến hỏi xem có người nào đã để lại một bao mua hàng ở đó không. Bà nói bà đã mang nó vào nhà thờ, nhưng giờ đây bà không tìm thấy nó. Cậu bé giúp lễ đưa cho bà một cái bao mới: không ai để lại một cái bao nào trong phòng áo.
Linh mục đang chờ đợi bà nói một câu như sau: “Hạng người nào mà lại ăn cắp đồ của người khác trong nhà của Chúa” hoặc đại loại như thế. Nhưng bà không nói như thế. Không có một vẻ gì tức giận hay cay cú, bà nói đơn giản: “Có lẽ người ấy cần nó hơn tôi”.
“Trong bao có gì?” Linh mục hỏi.
“Hai ổ bánh mì” bà đáp.
Câu trả lời của bà làm vị linh mục thích thú. Nhưng cũng làm cho ông cảm thấy phải khiêm nhường, bởi vì ông biết rằng ở địa vị của bà, chắc là ông không quảng đại như thế. Ông cũng phải khiêm nhường vì một lý do khác. Ông đã rao giảng lòng quảng đại và người phụ nữ này đã thực hành nó. Lòng quảng đại của bà xuất phát từ tâm hồn.
Chúa nuôi dưỡng chúng ta ở đây trong bữa tiệc Thánh Thể vừa chắc chắn, vừa quảng đại như khi Người nuôi dân trong hoang địa. Người nuôi dưỡng chúng ta nhiều đến nỗi khi chúng ta ra đi, chúng ta có thể nuôi dưỡng những người khác.
Lòng quảng đại phải có vị trí trung tâm trong đời sống của mỗi Kitô hữu, và chúng ta mỗi ngày cố tìm những cơ hội để thực hành lòng quảng đại với một người khác. Không chỉ bằng việc cho tặng những đồ vật, nhưng đặc biệt hơn bằng việc cống hiến – thời gian, năng lực và sự yêu thương của chính mình.
Niềm vui là một hoa trái yêu thương của lòng quảng đại. Bạn hiếm khi gặp một người quảng đại mà xấu xa. Bạn cũng sẽ không bao giờ gặp một người keo kiệt mà hạnh phúc.
49. Nhân hậu.
Việc đọc lời cảm ơn trước mỗi bữa ăn là một điều rất tốt. Khi mô tả phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều, các thánh sử nói với chúng ta rằng “Đức Giêsu cầm lấy bánh và dâng lời tạ ơn”. Chúng ta cũng phải dâng lời cảm tạ khi chúng ta ăn. Trong một thế giới mà hàng triệu người đang đói, chúng ta không nên dùng bữa mà coi đó là chuyện đương nhiên.
Một buổi tối nọ, một người đàn ông ngồi xuống cùng với gia đình trước một bàn đầy thức ăn, ông và vợ ông cúi đầu trong lúc con gái họ đọc lời cảm tạ: “Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì lòng nhân hậu của Chúa đối với chúng con. Đặc biệt chúng con cám ơn Chúa đã cho chúng con nhiều lương thực. Amen”
Bình thường, nghi thức nhỏ này đem lại niềm vui to lớn cho người cha. Nhưng tối nay vì những lý do kỳ lạ, ông cảm thấy khó chịu. Ông nhận thức rằng chúng ta đang sống trong một thế giới phát triển và có quá nhiều lương thực, trong lúc những người sống trong thế giới thứ ba lại có quá nhiều thiếu thốn. Vừa rồi, ông có đọc trên báo rằng hàng năm có khoảng bốn mươi triệu người chết vì đói và những bệnh tật có liên quan và một phần trẻ em Châu Phi bị suy dinh dưỡng. Và ông tự hỏi: “Tại sao chúng ta là những người được Thiên Chúa ban cho nhiều quà tặng như thế? Phải chăng chúng ta xứng đáng được nhiều lương thực hơn những người khác đêm nay sẽ đói, và thay vì cám ơn Thiên Chúa, họ sẽ vào giường với tấm lòng cay đắng?”
Ông đưa ra một câu hỏi sâu xa đầy phiền nhiễu ấy, làm ông không còn thấy ngon miệng nữa. Phải chăng việc chúng ta có lương thực để ăn có nghĩa là chúng ta được hưởng ân huệ đặc biệt trước mặt Thiên Chúa? Phải chăng điều đó có nghĩa là Người nuôi sống những con cái mà Người ưa thích và để những kẻ bất xứng phải đói? Xin Thiên Chúa giữ gìn để chúng ta không chấp nhận một quan điểm như thế. Tốt hơn, xin Người hướng dẫn để chúng ta có một nhận thức đúng về lòng nhân hậu của Người.
Lòng nhân hậu của Thiên Chúa trở thành một lời báng bổ nếu nó khiến cho chúng ta có những ý nghĩ như thế và nếu chúng ta cám ơn Thiên Chúa vì lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta mà không ý thức về trách nhiệm mà lòng nhân hậu ấy đòi buộc chúng ta.
Để hiểu được lòng nhân hậu của Thiên Chúa trong việc Người ban ơn, chúng ta phải suy nghĩ với niềm tin rằng Thiên Chúa ban cho anh chị em của chúng ta. Vì thế không một ai được nói rằng: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa đã chúc lành cho con với tiền bạc và của cải”, để rồi cứ tiếp tục sống như thể chỉ có một mình ta ở thế gian. Đến một lúc nào đó, người ấy nhận ra mình đã tôn thờ ngẫu tượng là của cải và tính ích kỷ của mình. Của cải dĩ nhiên là dấu chỉ sự chúc lành của Thiên Chúa và lòng nhân hậu của Người, nhưng của cải cũng là những cơ hội để phục vụ mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta.
Chúng ta không thể nhân lương thực lên nhiều như Đức Giêsu đã làm. Nhưng chúng ta cũng không bắt buộc phải làm thế. Tất cả điều chúng ta phải làm là chia sẻ lương thực hoặc tiền bạc. Đức Giêsu tiếp tục hỏi chúng ta như đã hỏi Philipphê:”Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?”.
Trong ánh sáng đó, còn gì thích hợp hơn một lời cảm tạ trước mỗi bữa ăn? Đại khái như lời cảm tạ sau đây: “Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì lòng nhân hậu của Chúa đối với chúng con, và đặc biệt vì lương thực dồi dào này. Xin cho chúng con biết sử dụng quà tặng của Chúa sao cho những người khác cũng biết lòng nhân hậu của Chúa và cảm tạ Chúa như chúng con”.
50. Phép lạ.
Đây là một phép lạ lớn: Đức Giêsu đã làm cho có lương thực cho một số đông người ăn no nê thừa thãi: đàn ông là 5000, nếu cộng thêm độ 5000 đàn bà và khoảng 2000 trẻ em mà thánh Gioan không kể ra, thì con số lên tới khoảng 12.000. 12.000 người ăn no nê và dư lại 12 thúng đầy. Quả là một phép lạ to lớn.
Nhưng có một điều chúng ta phải lưu ý, đó là Chúa muốn cho phép lạ lớn lao này có sự góp phần của loài người:
. Chúa đã làm phép lạ từ 5 cái bánh và 2 con cá của một em nhỏ.
. Khi bánh và cá đã hóa ra nhiều rồi, Chúa nhờ các tông đồ đi phân phát cho dân chúng.
Dĩ nhiên, với quyền phép vô biên, Chúa có thể một mình làm được phép lạ này, nhưng Chúa đã cố ý dành phần cho con người góp tay hợp tác vào.
Đây là lề lối hành sử hầu như thường xuyên của Chúa
. Phép lạ đầu tiên Chúa làm ở Cana biến nước thành rượu: Chúa cũng nhờ các gia nhân xách nước đổ sẵn vào các lu.
. Các phép lạ khác cũng vậy, Chúa đều đòi người ta hợp tác, hợp tác ít ra cũng bằng một thái độ tin tưởng vào Chúa. Thường trước khi làm một phép lạ, Chúa hỏi “Con có tin không?”, và sau khi làm phép lạ, Chúa nói “Đức tin của con đã cứu chữa con”.
. Công cuộc lớn lao nhất của Chúa là cứu chuộc loài người. Chúa cũng đòi loài người hợp tác. Cho nên thánh Augustinô nói “Khi tạo dựng con Chúa không cần hỏi ý kiến con, nhưng khi cứu chuộc con Chúa cần con phải góp phần vào đó”.
Phần Chúa thì mặc dù có quyền phép vô biên, muốn làm gì cho loài người chúng ta cũng được, nhưng Chúa muốn chúng ta góp phần của chúng ta vào. Còn về phần chúng ta thì thường chúng ta quên ý muốn đó của Chúa. Khi chúng ta muốn Chúa giúp chúng ta điều gì, chúng ta thường chỉ biết cầu xin, cầu xin rồi nhờ Chúa ban ơn chứ không chịu khó góp phần cố gắng của chúng ta vào. Thậm chí phần hợp tác tối thiểu là tin tưởng trọn vẹn vào Chúa thì ta cũng có khi không tin mấy nữa, có người vừa cầu xin với Chúa vừa chạy tới các thầy bói thầy bùa giúp sức. Có lẽ chính vì thế (nghĩa là vì ta không góp phần và không tin cho đủ), nên nhiều khi những lời cầu xin của chúng ta đã không đem lại kết quả như ta mong muốn.
Ơn Chúa lúc nào cũng sẵn sàng ban, kể cả phép lạ Chúa cũng sẵn sàng làm. Nhưng biết bao lần chúng ta đã không chịu hưởng nhờ, là vì ta đã không góp phần của ta với ơn Chúa, hoặc ta không tin đủ vào ơn Chúa.
Cụ thể:
. Nếu chúng ta xin Chúa giúp cho gia đình chúng ta được hòa thuận, thì đừng có cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa có những cố gắng làm hòa lại với nhau như cặp vợ chồng trong câu chuyện vừa kể trên.
. Nếu chúng ta xin Chúa giúp gia đình chúng ta thoát cơn túng thiếu, thì cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa cố gắng dẹp bỏ những nguyên nhân gây cảnh túng thiếu ấy như ăn xài hoang phí, rượu chè, cờ bạc… và đồng thời cần cù làm ăn, tiêu xài có suy tính cân nhắc cẩn thận…
. Nếu chúng ta xin Chúa hoán cải tâm hồn của một đứa con hoang đàng, chúng ta cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin, vừa tìm cách tách nó khỏi những bạn bè xấu, những môi trường xấu và làm nhiều gương tốt trước mặt nó.
51. Yêu quý mảnh bánh vụn.
(Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Hữu An)
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt. 14,13-21; Mc. 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm Chúa làm phép lạ lần thứ hai nữa (Mt 15,32-38;Mc 8,1-10).
Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Họ đói khát, nghèo khổ, bệnh tật, bơ vơ. Họ đi tìm Chúa để được chữa lành, được an ủi, được dạy dỗ. Chúa đã yêu thương họ và muốn tặng cho họ một bữa tiệc đơn sơ bất ngờ ở ngoài trời. Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây? Chúa muốn đưa các môn đệ đi vào mối bận tâm của Ngài, cần sự cộng tác. Các môn đệ thất vọng vì chỉ có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhỏ. Phản ứng các môn đệ được ghi lại trong 4 phúc âm: - Matthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá thôi. - Marcô: Thế chúng tôi phải đi mua 200đ bạc bánh mà cho họ ăn sao? - Luca: Chúng tôi không có hơn 5 chiếc bánh và 2 con cá, hoạ chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này - Gioan: Philipphê thưa: Có mua hết 200đ bạc bánh cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ. Anrê nói: Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!
Phản ứng của các môn đệ là bế tắc, muốn thoái thác phủi tay. “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15) Đó là giải pháp hợp lý. Lo cho hàng ngàn người ăn là ngoài khả năng các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng, ai lo phần nấy, tự đi mua lấy thức ăn. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa Giêsu chấp nhận. Chúa muốn các môn đệ nhận lấy trách nhiệm: Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn đi.
Đức Giêsu cầm 5 chiếc bánh và 2 con cá hướng nhìn về trời cao, đọc lời chúc tụng thì những bế tắc âu lo của các môn đệ đã được giải toả. Đám đông ăn no nê.
Phép lạ xảy ra do quyền năng Thiên Chúa và sự cộng tác của con người. Chúa không làm phép lạ ngay tức khắc biến bánh và cá thành một núi thức ăn để người ta tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ.Các môn đệ trao cho mọi người. Mọi người trao cho nhau. Đó là bài học lớn lao của phép lạ hoá bánh. Khi mọi người chia sẻ cho nhau, quan tâm giúp đỡ nhau trong tình thương, biết bẻ ra, trao đi thì Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nhiều.
Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi. Với 5000 người không để đàn bà con nít, vậy số người rất đông, cả một rừng người. Có cả ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy tại sao Chúa lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mảnh vụn?
Chắc chắn nguyên nhân của phép lạ hoá bánh ra nhiều là “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32). Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ của Chúa. Nó là tình thương, là ơn sủng, là ơn cứu độ của Chúa trao ban. Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời thành trăm ngàn vụn nhỏ thì càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ nó trở thành nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh. Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra, vóc dáng Người sụp xuống thì cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra chảy tràn kín vũ trụ.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn, Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sức khoẻ, thời gian, tài năng, trí tuệ đều là ân huệ được ban tặng, cần trân trọng nâng niu gìn giữ. Trong ơn sủng của Chúa không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường.
Đức Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên thánh, con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con”(ĐHV 814). “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816). “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy-mã-lạp-sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày mới đạt được đích họ hy vọng” (ĐHV 817).
52. Bài học tiết kiệm
(Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Hữu An)
Phép lạ “Hóa bánh ra nhiều” có nội dung phong phú về Thần học và Giáo lý Bí Tích Thánh Thể, đồng thời cũng chứa đựng rất nhiều bài học về Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, tình liên đới, sự cộng tác...
Hôm nay xin được chia sẽ về bài học Tiết Kiệm.
1. Chúa dạy bài học tiết kiệm
Phép lạ hoá bánh ra nhiều, được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm lần thứ hai Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).
Lần thứ nhất, Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; cả ba thánh sử Mátthêu, Máccô, và Luca đều ghi nhận: sau khi dân chúng được ăn bánh no nê, người ta đã không bỏ phí những mẫu bánh còn dư thừa nhưng “đã thu lại tất cả được mười hai thúng đầy” (Mt 14, 20; Mc 6,43; Lc 9, 17). Riêng thánh Gioan nhấn mạnh, chính Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các môn đệ: "Anh em (hãy đi) thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” (Ga 6,1-12). “Họ liền đi thu những miếng thừa…và được mười hai thúng đầy”.
Lần thứ hai, Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, người ta cũng thu lượm lại tất cả những mẫu bánh thừa, tất cả “được bảy thúng đầy” (Mt 15,37; Mc 8,8).
Năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà con nít. Số người phải là đông lắm. Hơn cả chục ngàn người. Có ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy, tại sao Chúa Giêsu lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mãnh vụn: “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi”?.
Chắc chắn nguyên nhân của phép lạ hoá bánh ra nhiều là: “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32).
Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ Chúa đã làm. Những phép lạ là tình thương, là ơn sủng, là ơn cứu độ của Chúa trao ban.Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời tạo thành trăm ngàn vụn nhỏ càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ, bánh thánh nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh. Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra, vóc dáng Chúa Cứu Thế sụp xuống, đó cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra, chảy tràn kín vũ trụ.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo thu lại để dạy các môn đệ và chúng ta bài học tiết kiệm.
Những người vừa trải qua cơn đói, nay được một bữa no nê. Họ vất bỏ những mẫu bánh dư thừa. Khi dư giả, người ta dễ phung phí. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẫu bánh thừa. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Tiết kiệm thể hiện sự quý trọng kết quả lao động của bản thân và của người khác.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sự sống, sức khoẻ, thời gian, tài năng, trí tuệ, tài nguyên đều là ân huệ được ban tặng, cần trân trọng nâng niu gìn giữ. Trong ơn sủng của Chúa, không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường. Đức Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên Thánh,con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con” (ĐHV 814); “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước, nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816); “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy Mã Lạp Sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày, mới đạt được đích họ hy vọng” (ĐHV 817).
2. Tiết kiệm và lãng phí
Tác giả Gã Siêu viết:
Muốn phát triển, phải cần kiệm. Đó là qui luật của muôn đời. Các nước văn minh đã sống qui luật này một cách nghiêm ngặt và chặt chẽ.
Ở bên Mỹ, trong các trường tiểu học, người ta đã dạy cho con nít biết: Muốn có một đồng thì phải bắt đầu từ một xu; Muốn có một triệu thì phải bắt đầu từ một đồng. Ở bên Nhật cũng vậy. Trong các gia đình, người ta luôn nhắc nhở con cái sống theo phương châm: Mua gì ăn nấy; Ăn đâu hết nấy; Không để thừa mứa, lãng phí. Ở bên Israel cũng thế. Vào các nhà hàng, khách sạn, người ta không thấy đồ ăn thức uống để dư. Ngay tại các bến xe, bến tàu đều có những khẩu hiệu:Hãy tiết kiệm điện; Hãy tiết kiệm nước… Tại các công sở và xí nghiệp, để trừ khử thói lề mề, người ta trừ ngay vào lương những ai đến làm việc chậm trễ.
Thấy người mà nhớ tới ta.
Trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, tác giả Phạm đình Nghiệp đã đưa ra một vài trường hợp lãng phí điển hình.
Trước hết, đó là việc lãng phí sức người, được thể hiện dưới nhiều dạng vẻ khác nhau: thất nghiệp, lao động trái ngành, chéo nghề được đào tạo, sử dụng nhân lực bất hợp lý, nhân tài không được trọng dụng, chảy máu chất xám… Tiếp đến là việc lãng phí tài sản, tiền bạc của dân và của nước. Người ta sẵn sàng tiêu phí hàng chục triệu đồng “của chùa” cho một đêm liên hoan gặp gỡ hay chia tay nào đó.
Việt Nam chúng ta là một đất nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người vào loại thấp nhất, nhưng đã “hội tụ” được đủ mặt các loại bia ngon nhất.Trong nhiều cuộc “bù khú” nhậu nhẹt, người ta thi nhau không phải uống bia, mà là “gội bia”, “tắm bia” với hàng chục, thậm chí hàng trăm lít.
Hằng ngày, chúng ta đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh lãng phí tiền bạc, làm nghèo cho dân cho nước. Cơ quan nào, xí nghiệp nào cũng cố xây cho mình những cơ sở bề thế và lộng lẫy.
Hễ có chức một tí là vội sắm cho mình những chiếc xe đời mới đắt tiền, trang bị cho mình điện thoại di động đúng với “mô đen” thời thượng mà nghênh ngang với đời.
Mới đây, trên báo “Tuổi trẻ cười”, có một bài mang tựa đề “hình như là lãng phí”, tác giả đưa ra một sự kiện… rất bình thường, nhưng lại rất xót xa. Đó là bộ giáo dục năm nào cũng đổi mới, năm nào cũng cải cách, nên năm nào, số sách giáo khoa mới in ra cũng được tha hồ đem bán ký.
Tác giả viết:“Ai ngờ đâu, tôi bỗng trở thành người thu gom giấy phế liệu để kiếm sống và đến nay tôi đã cân cả tấn sách giáo khoa còn thơm mùi giấy mới. Ở đủ mọi lớp, thuộc đủ loại môn học. “Vốn dòng họ “tiếc”, mỗi khi gặp loại sách mới này (mà gặp hoài), tôi đều lấy mẫu về cho con tôi, nhưng chúng lại bảo: Không phải loại sách của trường con (dù đúng cấp, đúng lớp của chúng). Nhìn lại bìa thì thấy là của bộ Giáo dục và năm xuất bản, mới cách đó một hai năm mà thôi!!!
“Tôi nhớ ngày xưa, khi anh tôi vào lớp 12, tôi vẫn xài sách lớp 7 của ảnh để lại. Và khi tôi lên lớp 12, tôi vẫn xài sách ảnh đã xài mà không có trở ngại gì và vẫn “anh dũng” thi đậu, cha mẹ vui mừng khỏe re…Ôi sao mà dễ dàng tiện lợi và đỡ tốn kém quá cho cho mẹ và lớp học sinh thập niên 60, 70.
“Tôi đã qua cái cảnh ba ngày ròng đi tìm một cuốn sách học cho đứa cháu mới lớp 4. Nhiều lần nhịn ăn nhịn uống để dành tiền mua sách học cho con và bây giờ đứng trước hằng trăm ký sách giáo khoa chưa có tay người lật mà đành cân ký làm giấy gói đồ, hỏi sao không xót cho học sinh, phụ huynh đất nước?
“Tôi cũng rất ngạc nhiên phát hiện ra chỉ một môn học ở lớp 3, lớp 4, mà có đến ba, bốn thứ sách. Nào là quyển bài giải, bài mẫu … rồi quyển cho giáo viên … tất cả còn mới nguyên mà đem cân ký, không biết vì lý do gì và có lãng phí không?
“Năm nào, đọc báo cũng thấy bộ giáo dục than thiếu tiền, thiếu giấy in, thiếu sách cho học sinh đến độ có những cuộc phỏng vấn tùm lum về vấn đề này. Ấy thế mà năm nào, tôi cũng có dịp cân hết trăm ký lô này đến trăm ký lô khác sách giáo khoa … lòng tôi không khỏi cảm thấy bùi ngùi”.
Trên đây là những chuyện lãng phí của quí vị có chức, tai to mặt lớn. Còn trong phạm vi cá nhân, gã cũng nghiệm ra còn có nhiều loại lãng phí khác nữa, mà chính bản thân gã cũng đã từng mắc phải. Gã chỉ xin đưa ra một thí dụ điển hình mà thôi, đó là lãng phí thời gian.
Người Tây thì bảo: Le temps, c’est l’argent. Thời giờ là bạc. Còn người Tàu thì nói: Nhất thốn quang âm nhất thốn kim. Một tấc thời gian là một tấc vàng.
Thế nhưng, lắm lúc người ta đã không ý thức được sự quí giá của thời gian nên đã lãng phí nó một cách lãng xẹt.
Nơi gã đang cắm dùi là một thị trấn chỉ nhỏ bằng chiếc móng tay, thế mà có đến mấy chục quán cà phê. Đường nào cũng có, góc phố nào cũng có. Bất kể sáng, trưa, chiều và tối, hễ đặt chân ra đường hay xuống phố, đều thấy quí vị thanh niên ngồi thiền ở trong những quán ấy. Đáng lẽ ra: Đâu cần, thanh niên có; đâu khó, có thanh niên. Thế nhưng, quí vị này lại chẳng biết làm gì cả, ngoài việc giết thời giờ trong quán, nhấm nháp vị đắng cà phê và đốt những điếu thuốc, lim dim thả hồn theo khói, ra dáng siêu nhân hay người cõi trên chi đó.
Tiếp đến là quán nhậu. Mỗi bữa nhậu kéo dài hai ba tiếng đồng hồ, quả là lãng phí. Hồi xưa, thấy một kẻ say xỉn ngoài đường phố, quả là chuyện họa hiếm, còn hôm nay lại là chuyện thường ngày ở huyện.(Nguồn: dunglac.org).
La Fontaine kể câu chuyện ngụ ngôn. Con ve sầu suốt mùa hè, chỉ biết ca hát, khi mùa đông trở về, gió bấc thổi tới, nó bị chết đói. Trong khi đó, dòng họ nhà kiến, suốt ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt gạo, dù có mưa bão hay lạnh giá, đời sống vẫn được bảo đảm an toàn.
3. Cần phải tiết kiệm
Linh mục Nguyễn Hồng Giáo viết:
Ý thức về tiết kiệm (một hình thức của sống nghèo) nói chung, còn kém nơi tu sĩ, chủng sinh và linh mục ngày nay. Có vẻ như nhiều người không coi đó là chuyện quan trọng, được nhắc nhở thì để ý, xong rồi lại đâu vào đó, rất khó “đưa vào bộ nhớ”. Trời không lấy gì làm nóng, nhưng hễ vào phòng là mở quạt máy. Nhiều khi tập vở viết chưa hết, cái áo, cái quần, đôi dép cũ còn dùng tốt được, nhưng đã bị phung phí vất đi. Cả một chồng sách báo cũ có thể để cho người thu mua đồ vụn hay ít nhất đưa cho nhà bếp làm mồi lửa, vẫn đem đốt một cách “vô tư”. Từ xưa, tục ngữ Việt Nam có câu: xài của chùa. Nghĩa là xài mà không phải trả tiền, nên cứ việc thoải mái, khỏi cần chừng mực, tiết kiệm. Và cha chung, không ai khóc, của chung, không ai quan tâm. Tâm lý đó không chỉ phổ biến nơi cán bộ công chức (như được phản ánh trên Tuổi Trẻ) mà cả nơi quần chúng nhân dân và … trong các tập thể Giáo Hội ta nữa. Trong nội bộ chúng ta, cũng có những lãng phí rất quen thuộc. Như khi làm thiệp báo tin một lễ mừng nào đó, người ta thích in thật hoành tráng (giấy sang, in hai ba màu…) dù biết rằng người nhận coi xong là bỏ.
Thật tế nhị, nhưng tôi xin nói tới tiệc tùng trong giới Công giáo ta. Tiệc quá to, rất tốn kém và thường là thừa thãi. Nước ta xưa kia rất nghèo, người dân ăn không no, mặc không ấm, nên rất chú trọng chuyện ăn uống. Tuy thế, hay chính vì thế mà lại có tâm lý coi miếng ăn là miếng nhục (muốn ăn lắm, nhưng phải làm ra vẻ không cần để tránh làm cho người khác đánh giá mình vì chuyện ăn uống…). Tây phương thì khác. Họ giàu, nên các tiệc tùng của họ thường rất đơn giản, chỉ dọn vừa đủ ăn. Ăn uống, chỉ là một phần của cuộc họp mặt. Ở nước ta, dù đã bắt đầu có thay đổi, nhưng tâm lý chung của người Việt vẫn còn thích phô trương, thích giữ thể diện bằng vẻ hào nhoáng bên ngoài, đặc biệt trong tổ chức tiệc tùng, phải mâm cao, cỗ đầy, càng nhiều món, càng sang, cho dù biết trước là sẽ thừa mứa. Và tục lệ xã hội vẫn còn gây áp lực nặng nề. Có những lễ tạ ơn tân linh mục, dọn bảy, tám chục mâm, thậm chí cả trăm và hơn nữa.
Thời nay, việc truyền chức linh mục trở thành chuyện bình thường, có nên bình thường hoá việc ăn mừng không? Thay đổi một tục lệ xã hội là rất khó. Có khi chính người trong cuộc cũng rất ngại, rất lo khi phải tổ chức linh đình tốn kém, nhưng họ khó có thể làm “cách mạng” …! Tôi nghĩ nếu có một chủ trương chung nào đó từ trên xuống, - dòng tu, giáo xứ, địa phận - thì người giáo dân chắc sẽ chấp nhận. Đây mới chỉ nói tới tạ ơn tân linh mục, nhưng khấn dòng, lễ vàng, lễ bạc, các lễ kỷ niệm này nọ, và lễ cưới cũng thuộc diện này. Giáo Hội Việt Nam có nên đi trước xã hội trong vấn đề này không? Nhờ cơ cấu tổ chức rất chặt chẽ và uy tín rất lớn của hàng giáo sĩ đối với giáo dân, thiết nghĩ nếu Giáo Hội quyết tâm và quyết liệt, cơ may thành công sẽ rất lớn. Đây cũng là nhiệm vụ giáo dục con người của Giáo Hội có thể làm ngay, không cần đợi đến khi được phép chính thức mở trường mở lớp. (Nguồn: nguoitinhuu.com).
Tiết kiệm khác với hà tiện, keo kiệt, bủn xỉn.
Tiết kiệm là biết sử dụng một cách hợp lý, đúng mức của cải vật chất, thời gian, sức lực của mình và của người khác. Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm tiền của.
Người Ý nói: Sự sung túc có được do hai bàn tay. Bàn tay này là tài năng, bàn tay kia là tiết kiệm. Người Thổ Nhĩ Kỳ bảo: Người ta trở nên giàu có, đó là do cần cù lao động và biết tiết kiệm trong chi tiêu. Tại nơi mở trương mục tiết kiệm ở các ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái ấp quả trứng vàng, có ý muốn nói những đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó, sẽ sinh nhiều lợi lộc, sẽ đem lại cho chủ nhân những trái trứng bằng vàng.
Tiết kiệm đi chung với giản dị.
Sống giản dị là sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội. Người giản dị thì không xa hoa, không lãng phí, không chạy theo những nhu cầu vật chất và hình thức bề ngoài. Sống giản dị, sẽ tiết kiệm được thời gian, tiền của, công sức để làm những việc có ích cho bản thân, cho gia đình và xã hội. Người tiết kiệm sẽ biết sống giản dị phù hợp với hoàn cảnh bản thân, gia đình, xã hội.
Việc nhỏ mà mỗi người chúng ta có thể thực hiện dễ dàng trong cuộc sống thường nhật, đó là sử dụng điện, nước, của cải vật chất một cách hợp lý, biết dùng thời gian vào những việc có ích và biết gìn giữ của công.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.
Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen. (Mana).
53. Chúa Giêsu cầm lấy bánh,
tạ ơn và phân phát cho họ ăn no nê
Từ ngày 18 tháng 06 đến ngày 18 tháng 07 năm 1994, màn hình ti vi thế giới chiếu hai cảnh trái ngược nhau. Một cảnh hàng triệu người Rwanda tị nạn, đói khổ, đang chạy trốn cuộc tàn sát chủng tộc đẫm máu. Một cảnh hơn ba triệu rưỡi người kéo nhau đi xem 52 trận đấu bóng đá cúp thế giới tại nước Mỹ, họ tiêu xài cả chục tỷ dollars. Hai phần ba nhân loại đói khổ vì tầng lớp cường quyền tham vọng gây ra cảnh chiến tranh, đàn áp, bóc lột. Một phần ba giàu có, không biết chia sẻ cho người nghèo, mà chỉ lo ăn chơi phung phí. Họ lấy đâu ra tiền của đó? Không phải lấy ở loài người vì người ta sinh ra trần trụi như ông Gióp nói: “Tôi sinh ra trần truồng”. Không phải moi của trời đất, vì trời đất vô tri vô giác, biết gì mà cho. Phải nói như Kinh Thư của tổ tiên các dân tộc phương Đông rằng: “Thiên sinh chư dân hữu vật, hữu tắc” – Trời sinh muôn dân, cho có muôn vật, phép tắc. Người Việt Nam cũng nói: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Như vậy, tất cả của cải trong trời đất đều do Thiên Chúa ban. Thế mà họ dư tiền của, họ không biết chia sẻ cho đồng loại nghèo đói. Họ sẽ bị Thiên Chúa đòi đến mà bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, Ta đã tha hết nợ cho ngươi … thì ngươi, ngươi cũng phải thương xót đồng loại như chính Ta đã thương xót ngươi chứ?” (Mt. 18, 32-33). Họ chẳng khác gì như những tá điền sát nhân, giết người cướp vườn nho của chủ (Mt. 21, 33-41). Họ sống trái ngược với Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy đám dân chúng đói khát, Người liền hỏi môn đệ Philip: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?” Philip đã cố gắng đáp với giọng bất lực: “Dạ, dù có mua đến hai trăm đồng bánh cũng không đủ cho mỗi người một chút”.
Thời đó hai trăm đồng có thể mua được 4.000 chiếc bánh như ngày nay. Nhưng Thầy và môn đệ lấy đâu ra số tiền lớn đó. Dù có tiền, thì ở nơi đồi núi hoang vu, lấy đâu ra bánh cho họ ăn, vì chỉ kể số đàn ông đã tới năm ngàn.
Anrê còn bồi thêm một câu tuyệt vọng nữa: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá”. Cho thấy đám dân chúng quá nghèo. Họ theo Chúa chỉ có hai bàn tay trắng. Họ lấy đâu ra ăn. Tin mừng nói: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ ăn”. Người đã dâng lời tạ ơn Chúa Cha. Người biết Chúa Cha giàu lòng thương yêu dân chúng. Người đã cầu xin Chúa Cha nhìn đến nỗi khổ của dân chúng. Nhờ đó, họ muốn ăn bao nhiêu tùy ý. Họ được ăn no nê thỏa thích, nên ào ào chạy đến tôn vinh Chúa Giêsu làm vua.
Chúa Giêsu lánh mặt, đi lên núi một mình, vì đó là thói tôn vinh thế gian. Trước kia, Người đã thẳng tay đuổi tướng quỷ đem bả vinh hoa cai trị cả thiên hạ ra cám dỗ Người.
Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho họ ăn, không phải để được tôn vinh, mà để cho họ thấy tình thương của Thiên Chúa hằng nuôi sống loài người từ khi tạo thành vũ trụ vạn vật, như Thánh vịnh 144, 16: “Chúa thương mở tay ra và thi ân cho mọi sinh vật được no nê”. Suốt chiều dài lịch sử loài người hoàn toàn sống nhờ vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa không dựng nên vũ trụ vạn vật, như một kho tàng vô tận, con người phải tự lực cánh sinh thì có lẽ chỉ năm mười phút, cả loài người đều bị tiêu diệt. Thật vậy, những thứ con người cần thiết nhất, cần nhiều nhất, như không khí, nước uống, ánh sáng, nhiệt lượng, môi sinh v.v… thì con người hoàn toàn hưởng không, không phải làm gì. Thiên Chúa chỉ muốn con người cộng tác một chút xíu, như cày cấy, chăm bón, gặt hái, biến chế cho có lương thực ăn uống và đồ dùng tạm bợ. Sự cộng tác đó quá bé nhỏ, như em bé chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá dâng lên Chúa Giêsu để Người làm phép lạ cho hơn chục ngàn người ăn, nếu kể cả nữ giới và thiếu nhi.
Nhưng một chút đóng góp đó thôi cũng đủ cho Thiên Chúa hài lòng để Ngài ban cho những phép lạ vô cùng lớn lao hơn nữa như phép lạ, phép Thánh Thể. Không phải vô tình mà thánh Gioan viết: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua”. Nói đến lễ Vượt qua là nói đến cuộc giải phóng dân Do thái thoát ách nô lệ Ai cập, nói đến cuộc phục sinh cả một dân tộc chết trong nơi lưu đầy, chết trong thờ tà thần. Thánh Gioan nói đến lễ Vượt qua, chính là để cho mọi Kitô hữu nhớ đến Đức Giêsu đã vượt qua cái chết để sống lại, và tín hữu muốn vượt qua cái chết để sống lại vinh hiển với Đức Giêsu thì phải ăn bánh hằng sống, “chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga. 6, 51).
Lạy Chúa, Chúa không ngừng kêu gọi con như hiền triết Diogène đã khuyên: “Đừng bao giờ sung sướng được làm con heo vỗ béo”. Đừng bao giờ quên rằng Đức Giêsu đã cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho họ ăn no nê. Xin cho con biết dâng lên Chúa hằng ngày một chút bánh như em bé có năm chiếc bánh và hai con cá để Chúa làm phép lạ nuôi sống muôn người.
54. Bánh và cá – Lm. Mark Link.
Chủ đề: "Chỉ cần chúng ta trao phó cho Chúa Giêsu phần ít ỏi của mình, Ngài sẽ biến phần ít ỏi ấy thành bội phần vượt quá những kỳ vọng lớn lao nhất của chúng ta"
Jay Keler có viết một quyển sách nhan đề Growing Places (Những vùng đang phát triển), trong đó ông kể: Một đêm nọ, ông từ máy bay bước xuống một phi trường ở Ấn Độ. Ngay khi máy bay vừa chạm đất, ông nhận thấy những bóng người đang nằm ngủ xếp lớp hai bên lề đường bay. Jay liền hỏi người ngồi bên cạnh thì anh ta trả lời: Đấy là những kẻ sống vô gia cư. Suốt ngày đường bay hấp thụ sức nóng để về đêm trở thành máy sưởi ấm cho đám người ấy đỡ lạnh. Rời khỏi máy bay, Jay đi nhận hành lý và lên xe buýt về một thành phố lân cận. Sau nửa đêm xe buýt mới đến nơi. Khi bước xuống con phố hoang vắng dẫn đến khách sạnh, ông nhận thấy chung quanh ông toàn là lũ dân nghèo khổ. Thế rồi thình lình ông nghe có tiếng động kỳ lạ vang lên: Lịch kịch, lịch kịch, lịch kịch, ông liền quay lại và thấy một thằng bé có cặp giò bị cưa hầu như lên tận háng. Thằng bé đang cố trườn mình đi tới trên hai chiếc nạng bé tí. Khi đến gần Jay, thằng bé chìa tay ra xin: Jay liền cho nó tất cả số tiền lẻ trong người rồi tiếp tục đi về khách sạn. Vừa đi được một quãng mười bước, ông lại nghe âm thanh kỳ lạ khác. Ông quay đầu lại nhìn thì nhận ra một thằng ăn xin khác đang đánh thằng bé hồi nãy bằng chính đôi nạng của nó. Chúng đang cưỡng bức thằng bé nọ giao cho chúng những đồng tiền xu mới xin được. Jay nói rằng suốt đêm ấy ông không hề chợp mắt ngủ được.
Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến với lũ người nghèo khó, hung dữ này. Nhìn thấy tình trạng bi đát trước mắt, bà tự nhủ lòng: "Ta phải làm một điều gì mới được", thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ dáy bẩn thỉu. Tuy căn nhà không khang trang lắm nhưng có thể dùng được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm lũ con nít đem về để dạy dỗ chúng. Bà dùng căn nhà cũ kỹ làm phòng học, dù không có lấy một chiếc bàn giấy, một chiếc ghế hoặc một cái bàn. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết phấn, bà dùng một tấm vải rách nát cũ kỹ lau sạch nền rồi viết lên trên đó cho lũ trẻ học. Đấy là phương cách bà dùng để chiến đấu sự nghèo dốt và hung dữ chung quanh bà. Nó là câu trả lời gây cảm động nhất mà bà có thể thực hiện.
Thế rồi điều gì đã xảy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà ấy? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại. 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện chăm sóc người hấp hối, 30 mươi viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40,000 tình nguyện viên khắp thế giới sẵn lòng giúp đỡ bà. Người phụ nữ đó không ai khác chính là Mẹ Têrêsa.
Tôi cho rằng không có câu chuyện nào hay hơn để làm sáng tỏ chủ điểm của bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm hôm nay. Ta hãy suy gẫm bài Tin Mừng hôm nay; cậu bé nọ có 5 ổ bánh và 2 con cá, Chúa Giêsu đã yêu cầu cậu mang đến để Ngài thiết đãi đám đông dân chúng. Cậu bé liền giao bánh và cá cho Chúa Giêsu để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Cuối cùng Ngài đã thết đãi hơn 5000 người no nê.
Đấy cũng chính là điều Mẹ Têrêsa đã làm. Bà giao cho Chúa "Bánh và Cá' của bà để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Thế là Ngài đã nhân chúng lên gấp bội vượt mọi điều mơ ước của bà. Câu chuyện Mẹ Têrêsa, câu chuyện người đàn ông trong bài đọc thứ nhất hôm nay cũng như câu chuyện Phúc Âm hôm nay đều nêu lên cùng một chủ điểm giống nhau. Đó cũng là chủ điểm bài phát biểu của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II với các thanh niên tại Edinburg trong lần Ngài đến thăm Scotland vào năm 1982. Đức Giáo Hoàng nói với họ: "Giờ đây tôi xin nhấn mạnh chủ điểm này: cậu bé trong Phúc Âm đã trao cho Chúa tất cả khả năng cậu có để rồi Chúa Giêsu thết đãi đám dân 5000 người no nê một cách thật lạ lùng và đồ ăn vẫn còn dư. Đời sống của các bạn cũng y hệt như thế. Nếu phải một mình đối đầu với những thách đố khó khăn của cuộc sống, các bạn sẽ cảm thấy mình không đủ khả năng và lo sợ trước viễn cảnh tương lai. Nhưng tôi xin nói với các bạn điều này: 'Hãy đặt cuộc đời các bạn trong tay Chúa Giêsu. Ngài sẽ chấp nhận và sẽ chúc lành cho các bạn và sẽ biến đổi cuộc đời các bạn một cách tốt đẹp hơn, vượt mọi kỳ vọng lớn lao nhất của các bạn'."
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa Giêsu bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng chúng ta để Ngài sử dụng theo ý Ngài muốn? Nói rộng hơn, chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi khả năng của mình như Mẹ Têrêsa, như người đàn ông trong bài đọc thứ nhất và như cậu bé trong bài Phúc Âm hôm nay đã làm chưa? Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta, "Tôi cần tài năng các anh, tôi cần lòng quảng đại của các anh, tóm lại tôi cần các anh, cần đôi chân, đôi tay, môi miệng các anh. Vì hôm nay tôi chỉ biết nhờ đôi chân các anh để mang tôi đến các khu xóm tồi tàn, các xưởng thợ và phòng làm việc ở các phố thị của các anh. Tôi chỉ biết nhờ đôi tay các anh để vươn tới những người yếu đuối bơ vơ, những người vô gia cư và lâm vào tình trạng tuyệt vọng. Tôi chỉ biết nhờ miệng lưỡi các anh để nói cho các anh chị em tôi lý do tôi đã đến trên trái đất này, đã chịu đau khổ và chịu chết cho họ"
Tóm lại trong sứ điệp Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh Thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì: chẳng hạn thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta- Ngài sẽ sử dụng nó để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã biến đổi những ổ bánh và 2 con cá trong bài Phúc Âm hôm nay vậy. Đấy chính là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta trong những bài đọc hôm nay.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời Kinh nguyện rất được Thánh Ignatiô de Loyola yêu chuộng. Xin mời yên lặng hiệp ý cùng tôi:
"Lay Chúa, xin hãy nhận lấy tự do, trí nhớ, sự hiểu biết và toàn bộ ý chí của con. Xin hãy nhận lấy toàn thân con và tất cả sở hữu của con. Ngài đã ban tặng cho con, giờ đây con xin hiến tặng hết cho Ngài để Ngài tùy nghi sử dụng. Chỉ xin ban cho con tình yêu và ân sủng như thế là đủ cho con rồi và con không còn mong muốn điều chi khác nữa."
55. Minh họa Lời Chúa
CHÚA DƯỠNG NUÔI HỒN XÁC LOÀI NGƯỜI
1. Thống kê của cơ quan lương thực
Thống kê của cơ quan lương thực Liên Hiệp quốc cho biết:
“Mỗi ngày có khoảng 400 triệu người đi ngủ với bụng đói, và 15 ngàn người chết vì đói khát.”
Thế giới văn minh với khoa học kỹ thuật tân tiến này vẫn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải đang nằm trong tay 20% người giàu có.
Thế giới nghèo đói không phải vì thiếu tài nguyên, nhưng vì tài nguyên bị cất giấu trong túi những người ích kỷ, những kẻ tham lam!...
***
Tin mừng hôm nay nói đến cả 5000 người đàn ông, không kể đàn bà trẻ em chẳng có gì ăn. Nếu không có 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em nhỏ, làm sao Chúa nhân thêm đủ nuôi sống họ mà còn dư? Phải chăng em nhỏ này có lòng rộng lượng hơn người lớn. Một tâm hồn đơn sơ không nghĩ riêng mình, chẳng ích kỷ tham lam, hy sinh đóng góp cho Chúa vào việc nuôi sống con người, mặc dầu chỉ đóng góp một phần nhỏ nhoi thôi.
“Chúng con hãy lo cho họ ăn”. Đó là mệnh lệnh của Chúa Giêsu đã truyền cho các tông đồ, và cũng là mệnh lệnh của Chúa cho mỗi Kitô hữu chúng ta. Chúng ta phải hoàn thành trách nhiệm, không thể chạy trốn, không thể phủi tay đổ trách nhiệm cho người khác. Phải biết đóng góp những gì mình có với Chúa, để Người nhân lên thêm nuôi sống đồng bào đồng loại.
Thánh Gioan hôm nay mô tả phép lạ của Chúa Giêsu giống như việc Người thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc ly: “Người cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn…” Bí tích Thánh thể được gọi là “Bữa tiệc bẻ bánh, là bữa tiệc chia sẽ tình thương”. Chúa Giêsu thông ban tình thương của Người cho chúng ta, để chúng ta bẻ chia cho anh chị em, nhất là những anh chị em nghèo đói tình thương, nghèo đói cơm bánh xung quanh chúng ta. (Theo “Lẽ sống”, 2).
2. Vương quốc của ta đã suy đồi
Một vị vua đang cai trị vương quốc của mình. Một hôm vua rảnh rỗi nên nói với các quan cận thần:
- Hôm nay ta rảnh rỗi, ta muốn thử lòng dân xem họ quảng đại hay ích kỷ thế nào. Ta sẽ cải trang thành người ăn mày nghèo khổ đi khắp nơi. Ai có lòng quảng đại, ta sẽ thưởng bội hậu.
Thế là nhà vua cải trang đi khắp nơi, nhưng không ai chú ý trợ giúp. Buồn bã trở về cung điện, nhà vua tâm sự với các quan:
- Vương quốc ta đã đến lúc suy đồi, vì thần dân đối xử với nhau tệ bạc quá, không biết thương yêu giúp đỡ nhau. Ai có tiền thì trọng vọng, kẻ không tiền bị khinh rẻ bỏ bê!...
***
Nếu Chúa Giêsu đến thăm viếng chúng ta trong dung mạo một người bần cùng nghèo khổ, chúng ta có tiếp đón Người không?
Là môn đệ Chúa, chúng ta biết rõ Lời Người đã mạc khải cho chúng ta; Người đồng hóa với anh chị em nghèo đói đau khổ xung quanh chúng ta: “Ta đói, các con đã cho ăn. Ta khát, các con đã cho uống… Bấy giờ các người công chính thưa: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống… Ta bảo thật các con, mỗi lần các con làm như thế cho một trong những an hem bé nhỏ nhất của Ta là các con đã làm cho chính Ta” (Mt.25,35-40).
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều nhờ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé, để cho dân chúng đói khát ăn no. Đó là dấu chỉ người cần nhờ chúng ta cộng tác với Người, để đem lại niềm an vui hạnh phúc cho anh chị em chúng ta, nhất là những anh chị em nghèo đói bất hạnh. Người không đòi hỏi chúng ta phải làm những công việc to lớn, nhưng chỉ những điều nhỏ bé đơn sơ, như 5 chiếc bánh và 2 con cá, như một nụ cười, một lời thông cảm, một miếng khi đói… (Theo “Ánh sáng thế gian”).
3. Bánh và cá
Trong tác phẩm “Những vùng đang phát triển”, tác giả Jay Kesler kể:
Đêm nọ ông từ máy bay đang bước xuống một phi trường ở Ấn độ. Ông thấy nhiều người nằm ngủ dọc theo đường bay, hỏi ra ông mới biết họ là những người vô gia cư. Đi được một lúc, ông nghe sau lưng có tiếng động. Quay lại, ông thấy một chú bé cụt chân đang đi tới với hai cái nạng. Nó chìa tay ra trước mặt. Ông liên cho nó số tiền lẻ còn trong túi rồi đi đến khách sạn. Đi khoảng mười bước, ông lại nghe có tiếng động kỳ lạ khác. Ông quay nhìn lại thì thấy một đám trẻ ăn mày khác đang đánh thằng bé lúc nãy bằng những chiếc nạng của nó. Chúng bắt thằng bé phải giao số tiền xin được cho chúng… Và suốt đêm đó ông không sao ngủ được vì thảm cảnh đó!
Nhưng rồi một ngày nọ có một người nữ trung niên đến với đám trẻ nghèo khổ hung dữ đó. Bà dồn hết tiền bạc của bà thuê một căn nhà cũ để dạy dỗ chúng. Và hiện nay bà đã có 80 trường trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện chăm sóc kẻ hấp hối, 30 viện chăm sóc trẻ bị bỏ rơi và 40.000 tình nguyện viên giúp đỡ bà lo cho người nghèo đói bệnh tật trên khắp thế giới. Người nữ đó không ai khác hơn là mẹ Têrêsa Calcutta.
***
Tin mừng hôm nay thuật lại một chú bé dâng cho Chúa Giêsu 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá, để Người thực hiện việc Người muốn làm: cả 5000 người ăn no nê mà còn dư 12 thúng bánh vụn.
Đấy cũng là điều Mẹ Têrêsa đã làm. Bà giao cho Chúa “bánh và cá” của bà, để Người nhân lên gấp bội.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại mình và tự vấn: chúng ta đã đặt vào tay Chúa được gì? Bao nhiêu? Để Người nhân lên giúp đỡ anh chị em nghèo đói bất hạnh xung quanh chúng ta. Chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi năng lực của mình như mẹ Têrêsa, như người đàn ông trong bài đọc thứ nhất và như em bé trong Tin mừng hôm nay chưa?
Chúa Giêsu luôn cần đôi tay, đôi chân, môi miệng chúng ta. Người cần nhờ đôi chân chúng ta để đến với những kẻ nghèo đói bệnh tật, Người cần đôi tay chúng ta để trao ban cho họ: Người cần nhờ môi miệng chúng ta để nói cho họ biết tình thương vô cùng của Người. (Theo “Sunday Homilies”).
4. Nhà truyền giáo ăn mày
“Hàng giám mục chúng tôi không xấu hổ khi phải ngửa tay xin anh chị em giúp đỡ cho công cuộc truyền giáo. Đức Giêsu, Thầy của chúng ta đã từng mượn thuyền của ông Simon để ngồi giảng, mượn con lừa ở Bếtphagê để vào thành Giêrusalem, căn nhà của bà Maria để làm phòng Tiệc ly. Và cuối cùng đã được an táng trong ngôi mộ của một người bạn” (Đức Giáo hoàng Phaolô VI).
Kế hoạch hành khất để phát triển công tác truyền giáo tại Năm Căn đang sôi sục trong tim. Mình nghĩ ngay đến một ông giám đốc ở đầu đường P. Sáng nay mình đi thẳng tới đó. Trước mắt mình là một tòa nhà nhiều tầng, ông giám đốc đang đứng nói chuyện với ai đó ở một góc sân. Ông cao lớn và lực lưỡng. Cả con người của ông toát ra uy quyền và giàu sang. Mình không quen ông, nhưng biết rất nhiều về ông, qua bạn bè của ông. Mình đon đả đón chào:
- Chào ông bảy.
- Cha có chuyện gì thế?
- Con đi truyền giáo ở Năm Căn thiếu thốn về mọi phương diện. Con đến xin ông Bảy giúp đỡ.
- Cha muốn tôi giúp cái gì.
Giáo điểm của chúng ta chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm cần có xuồng để di chuyển. vậy ông Bảy giúp chúng con một cái máy Kohler 7.
Ông giám đốc nhún vai một cái theo kiểu Tây phương, rồi đi vào hành lang và biến mất trong tòa nhà đồ sộ. Còn mình thì đứng trơ ra đó. Hụt hẫng!…
***
Thế là nhà truyền giáo lủi thủi về nhà viết thư tâm sự với thầy cũ của mình:
Thầy kính mến,
Hôm nay noi gương Đức Phao lô VI, con hiên ngang chìa tay xin tiền bố thí để làm công tác truyền giáo. Nhưng con bị “nhún vai” một cách tàn nhẫn. Chính vì thế mà con nhớ lời Thầy đã dạy chúng con, khi chúng con còn mài đũng quần trên ghế Chủng viện. Thầy dạy rằng: “Các giáo xứ giàu phải chia tài nguyên cho các giáo xứ nghèo. Nhưng trong thực tế người giàu ít khi nào chịu mở hầu bao. Người giàu luôn luôn từ chối một cách khéo léo rằng; “Sông to thì gió cả”, nghĩa là kẻ giàu thì có trăm công nghìn việc phải làm…
Đúng thế, cái ông giám đốc của tòa nhà đồ sộ kia đang có trăm công nghìn việc phải làm. Việc của ông là những việc lớn. Cái máy Kohler nhỏ mọn của giáo điểm truyền giáo chỉ làm rày chuyện lớn của ông. (Trích “Nhật ký truyền giáo”).
5. Đây là cậu học sinh dễ thương
Một thương gia Mỹ, kể lại:
Lúc nhỏ tôi học rất kém, đội sổ mãi đến khi vào trung học.
Ngày nọ nhân một lớp học nhảy, cô giáo tôi có mời người chị đến tham dự. Vừa bước vào phòng nhảy, cô giáo dẫn người chị đi thẳng đến chỗ tôi, đặt tay trên vai tôi giới thiệu:
- Đây là cậu học sinh có nụ cười dễ thương nhất.
Cô đã không nói: “Đây là cậu học sinh dở nhất lớp…”, mà cô lại bảo: “Đây là cậu học sinh có nụ cười dễ thương nhất”. Lời đó đã biến đổi hoàn toàn cuộc sống của tôi. Từ đó tôi đạt được nhiều thành tích khả quan: tốt nghiệp cao học, làm giáo sư, và nay đang phát đạt trong lãnh vực kinh doanh. Tất cả đều nhờ cô giáo đó. Cô cho tôi biết tôi là người có giá trị, tôi cũng có thể trao ban cho người khác cái gì đó, chẳng hạn một nụ cười dễ thương…
***
Trong cái nhìn đức tin, mỗi người sinh ra trên cõi đời này là một giá trị độc nhất vô nhị. Vì mỗi người là hình ảnh Thiên Chúa. Giàu sang, nghèo hèn, thông minh hay đần độn cũng bình đẳng trong phẩm giá con người. Và giá trị đích thực của con người không hệ tại những gì họ có mà ở những gì họ trao ban. Chân lý này đã được Chúa Giêsu minh chứng trong toàn bộ cuộc sống của Người, mà cao điểm là cái chết của Người trên khổ giá vì phần rỗi nhân loại.
Đặc biệt Người đã trao ban lương thực cho những kẻ theo Người trong Tin mừng hôm nay. Và lương thực nuôi phần xác này tiên báo lương thực thiêng liêng Người sẽ trao ban, đó là Người lấy Thịt Máu Thánh Người làm của ăn nuôi linh hồn con cái Người.
Câu chuyện của cậu học sinh trên đây còn minh họa tuyệt vời cho phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều. Nhờ một lời khen đơn sơ mà cậu học sinh dở nhất lớp đã thành tài. Nhờ 5 chiếc bánh và 2 con cá mà Chúa cho cả mấy ngàn người ăn no nê và còn dư. Như thế, nhờ một trao ban nhỏ bé, Chúa nhân lên gấp bội.
Hiểu được như thế, chúng ta mới thấy: dù nghèo hèn đến đâu, ai cũng có cái gì đó để trao ban. Và với ơn Chúa, trao ban nhỏ bé của chúng ta sẽ có giá trị vô cùng, sẽ nhân lên to lớn, sẽ đem lại niềm an vui hạnh phúc cho đồng loại.
(Theo “Như lòng Chúa khoan dung”).
56. Bánh người nghèo.
Tưởng tượng tại một nơi nào đó trên thế giới, có một nhân vật tài ba có thể làm cho quần chúng dân nghèo hết đói khổ. Nhờ phép mầu của ông mà dân chúng sống an vui ca hát, không còn phải lo cái ăn cái mặc nữa. Chắc chắc nhân vật ấy sẽ được tôn vinh lên tận mây xanh.
Sau khi được Chúa đãi một bữa ăn no nê với những tấm bánh thơm và những con cá ngon vào một buổi chiều muộn trên bãi cỏ xanh ven hồ, dân chúng cũng đã trầm trồ thán phục và nói với nhau một cách rất thành thật rằng: "Ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!".
Đã đành một vị ngôn sứ có thể dùng phép mầu để giúp dân qua cơn túng quẫn như ngôn sứ Êlia đã làm cho một quả phụ, nhưng chỉ trông chờ vào phép màu để được cứu thì là điều Chúa không muốn. Chúa không muốn người dân lệ thuộc vào tài phép của Ngài. Ngài muốn hơn thế nữa. Có thể Chúa sẽ giải thích cho dân chúng rõ ý Ngài như thế này: "Các bạn bảo tôi là ngôn sứ và muốn tôi làm vua. Các bạn muốn lật đổ chính quyền và lên nắm quyền lực. Tôi hiểu. Đất nước ta đang gặp cơn bĩ cực. Bọn ngoại bang đang giày xéo đất nước ta về quân sự và kinh tế. Tôi biết, các bạn nghèo khổ lắm. Nhiều người không có việc làm. Nhiều tầng lớp dân chúng chỉ được chia nhau những mảnh bánh vụn rơi rớt từ bàn ăn người giàu. Nhưng tôi đến không phải để làm thay cho các bạn, cho dù tôi có thể làm cho bánh và cá có nhiều mãi mãi. Tôi đến để mang lại cho các bạn thứ bánh khác, được kêu là "bánh từ trời", tức là bánh tình thương chia sẻ. Ăn thứ bánh này, các bạn sẽ có sức vóc, sẽ tự đứng lên bằng đôi chân của mình. Các bạn sẽ đoàn kết lại và cùng nhau giải quyết các vấn đề đói nghèo trong xã hội".
Chúa không muốn mình là một người phát chẩn, một nhà từ thiện. Nên Chúa đã lánh lên núi. Là ngôn sứ, Chúa cảnh giác với cạm bẫy của vinh quang và quyền lực mà dân chúng đang muốn khoác cho Ngài. Chúa chỉ muốn dành cho dân chúng những chiếc bánh tình thương chia sẻ và những con cá của tự do và giải thoát. Thánh Gioan đã nhắc chúng ta điều đó khi ông thuật lại bối cảnh thời gian của phép lạ: "Lúc ấy sắp gần đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái". Người Do Thái mừng đại lễ Vượt qua để kỷ niệm cuộc xuất hành đi tìm tự do, kỷ niệm sự giải thoát của dân tộc họ.
Những cử chỉ của Đức Giêsu: "Cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn và phân phát cho những người ngồi đó" nhắc chúng ta đến bí tích tạ ơn, bí tích Thánh Thể, trong đó Chúa phân phát thân mình Ngài cho mọi người.
Biểu tượng 12 thúng đầy nhắc chúng ta đến mười hai chi họ Israel và nhắc chúng ta nhớ rằng ân huệ của Chúa luôn luôn tràn đầy dư dật cho dân tộc Israel mới là các Kitô hữu, những người theo Chúa. Chính trong mười hai thúng đầy ơn điển này, chúng ta nhận được tình thương không bao giờ cạn. Nhất là khi chúng ta đến gần bàn thờ dự tiệc Thánh Thể.
57. Suy niệm của Lm. Thu Băng.
Chủ đề: Chỉ cần chúng ta trao cho Chúa phần nhỏ nhoi của mình, Ngài sẽ biến phần ít ỏi ấy thành bội phần vượt quá những kỳ vọng lớn lao nhất của chúng ta.
Ai cũng biết Martin Porre là đứa con rơi của một người nô lệ da đen, sống cái kiếp sống bần dân trong xã hội, nhưng cậu có một tâm hồn rộng mở, ai xin gì cũng cho, ai nhờ vả gì cậu cũng không từ chối. Cậu có một tấm lòng quảng đại đến độ bớt xén số tiền mẹ sai đi mua đồ ăn, để giúp người nghèo khổ. Cậu đã cố gắng học nghề thầy thuốc để có dịp phục vụ đồng loại. Vì hành động quảng đại đó mà Chúa đã làm bao điều trọng đại nơi con người hèn mọn đó.
Đức cha Cassese, một vị thừa sai có tâm hồn rộng mở, đến nỗi đang làm Giám Mục Sàigòn (1957), nhân một dịp đi thăm và tiếp xúc với người thượng ở Lâm Đồng, ngài đã quyết định xin Tòa Thánh từ chức Giám Mục, để đi giúp dân nghèo thiểu số không nhà không cửa, giúp những người cùi người hủi trên cao nguyên Di Linh, Đà Lạt. Nhờ việc làm bé nhỏ của Ngài mà Chúa đã làm biết bao sự lạ lùng nơi dân tộc thiểu số.
Ngày nọ, một phụ nữ trung niên Ấn Độ đã có một tâm hồn rộng mở khi đi thăm một khu phố nghèo, sống chui rúc bẩn thỉu. Bà đã nảy ra ý định phải làm một cái gì để giúp họ. Thế rồi bà dành dụm được một số tiền vừa đủ để mua một căn nhà cũ, sửa sang cho khang trang, rồi bà đi khắp các nơi đưa về những trẻ em mồ côi nơi hè phố để dạy dỗ, để nuôi nấng. Nhà không có lấy một cái bàn, cái ghế. Bà đã cho lấy sàn nhà làm bảng viết dạy lũ trẻ. Đây là câu trả lời gây cảm động nhất mà bà có thể thực hiện.
Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà? Ngày nay bà đã có hàng 100 trường học trang bị đầy đủ. 300 nhà phát thuộc lưu động, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện săn sóc cho người hấp hối, 30 viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000 người trên thế giới tình nguyện theo chí hướng và giúp đỡ bà. Người thiếu nữ đó không ai khác ngoài Mẹ Terêsa Calcuta.
Một điều lạ nữa ngay trước mắt mà chúng ta nhận thấy: Một Linh Mục gầy ốm, khẳng khiu, Ngài có một tâm hồn rộng mở, Ngài đã nghĩ đến cách lập Dòng bản quốc để giúp họ nên thánh. Nhờ ý nghĩ nhỏ nhoi đó, mà Chúa đã làm cho phần ít đó nên đầy dẫy những người có chí hướng nên thánh. Đó là Cha Quorum Primus, người sáng lập nên Hội Dòng Đồng Công của chúng ta.
Và không có câu chuyện nào hay hơn để làm sáng tỏ chủ điểm của bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm hôm nay. Ta hãy suy gẫm bài Tim Mừng ấy: Một cậu bé nọ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, người ta đã yêu cầu cậu đem đến cho Chúa để Ngài thiết đãi dân chúng. Cậu liền trao bánh và cá cho Chúa để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Cuối cùng Ngài đã thiết đãi hơn 5000 người ăn no nê và còn dư được 12 thúng đầy.
Đấy cũng là điều Mẹ Têrêsa đã làm. Mẹ trao phó cho Chúa "công việc nhỏ mọn của Mẹ ", để Ngài thực hiện kế tiếp. Ngài đã nhân chúng lên gấp bội vượt quá ước mơ của Mẹ. Câu chuyện của thánh Martin, của Cha Bề Trên sáng lập Dòng Đồng Công, hay của người đàn ông trong bài đọc thứ nhất hôm nay, cũng như câu chuyện Phúc Âm, đều nêu lên cùng một chủ điểm giống nhau: Nếu một mình đối đầu với những thách đố khó khăn, và lo sợ, trước viễn cảnh tương lai, thì thật là rùng rợn. Nhưng nếu: "Đặt cả cuộc đời mình vào trong tay Chúa Giêsu thì Ngài sẽ tiếp nhận, và sẽ chúc lành cho nó, sẽ biến đổi cuộc đời chúng ta nên tốt đẹp hơn, vượt mọi kỳ vọng lớn lao nhất của chúng ta".
Bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình, và tự vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa bao nhiêu phần trăm: Cuộc sống và khả năng của chúng ta, để Ngài sử dụng theo thánh ý Ngài?
Nói rộng hơn, chúng ta đã dâng hiến chính mình và mọi năng lực của mình, như Mẹ Têrêsa, như thánh Martin, như Cha Bề Trên sáng lập, như cậu bé trong bài Phúc Âm hôm nay cho Thiên Chúa chưa?
Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta, "Cha cần khả năng của anh chị em, Cha cần lòng quảng đại của anh chị em. Cha muốn anh chị em hiến cho Cha đôi bàn tay vạm vỡ, đôi chân dẻo dai. Hiến cho Cha môi miệng ngọt ngào, hiến cho Cha trí năng sắc sảo và tâm hồn quảng đại... để Cha thực hiện những điều lớn lao và cần thiết gấp bội, cho thế nhân, cho các linh hồn đang cần đến sự hy sinh và lòng quảng đại của anh chị em".
Tóm lại, trong sứ điệp Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài, để Ngài thực hiện những phép lạ cả thể. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì, - chẳng hạn thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, mọi việc làm, sự hy sinh và nguồn sinh lực của chúng ta - Ngài sẽ sử dụng nó, để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên, vượt khỏi niềm mơ ước của chúng ta, giống như Ngài biến đổi 5 tấm bánh và 2 con cá. Đấy mới chính là lời mời gọi Chúa ngỏ với chúng ta qua bài đọc hôm nay.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời kinh nguyện rất được thánh Ignatio de Loyola yêu chuộng. "Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tất cả tự do, trí nhớ, sự hiểu biết, và toàn bộ ý chí của con. Xin hãy nhận lấy toàn thân con, và tất cả sở hữu của con. Ngài đã ban tặng cho con, giờ đây con xin hiến tặng hết cho Ngài, để Ngài tùy ý sử dụng, như thế là đủ cho con rồi và con không còn mong muốn điều chi khác nữa".
58. Phần đóng góp của tôi
(Suy niệm của Lm. Louis Kim Nguyen)
Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, Đức Giêsu đã làm một phép lạ cho hơn năm ngàn người no thỏa cơn đói của thể lý; hơn nữa, người ta còn thu lại được 12 thúng bánh dư. Phép lạ kỳ diệu ấy đã thực sự xảy ra qua bàn tay quyền năng của Thiên Chúa.
Trước hết là sự ân cần thương yêu, chăm lo cho đoàn dân của Thiên Chúa được thể hiện qua cái nhìn của Đức Giêsu, ở lúc khởi đầu của phép lạ. Thánh sử Gioan viết: “Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với Ngài”. Chính từ cái nhìn đó Đức Giêsu hiểu những nhu cầu cần thiết của họ, Ngài cảm thông với họ và Ngài hiểu rõ họ cần gì, họ muốn gì. Họ đã đi theo Ngài, lắng nghe Ngài. Ngài đã làm họ no thỏa nơi đời sống tinh thần qua những lời giảng dạy. Giờ là lúc Ngài chăm lo cho đời sống thể lý của họ. Chúng ta thấy lòng nhân từ và sự thương xót của Thiên Chúa được thể hiện qua Đức Giêsu thật sâu sắc như thế nào. Đây là lúc chúng ta nhận thức được chân lý Thiên Chúa luôn ưu ái, yêu thương, chăm sóc dân Ngài, từ vật chất lẫn tinh thần.
Có khá nhiều chi tiết thú vị trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Nhưng chúng ta sẽ chỉ dừng lại ở hai hình ảnh: việc Anrê tiến cử một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá, và việc em đã quảng đại trao ban phần mình đang có để Đức Giêsu thực hiện phép lạ vĩ đại ấy. Chúng ta dừng lại để suy nghĩ thêm về sự đóng góp, dâng hiến của mình cho Thiên Chúa để Ngài tiếp tục thực hiện những phép lạ cả thể trong cuộc sống hiện tại.
Đức Giêsu biết chắc các môn đệ không có tiền để mua bánh khoản đãi toàn dân nhưng Ngài vẫn hỏi, một câu hỏi thật tế nhị: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” và với cách đặt vấn đề này, Ngài mời gọi các ông mở lòng để cộng tác với Ngài trong việc thực thi phép lạ. Các môn đệ, cụ thể là Anrê đã tiến cử cho Ngài một em bé với 5 chiếc bánh và 2 con cá. Đức Giêsu đã đón nhận và từ đó, qua tay Ngài, chúng đã làm thỏa mãn cơn đói thể lý của đoàn dân.
5 chiếc bánh và 2 con cá thì chẳng có giá trị gì nhiều, chỉ là khẩu phần ăn cho vài người. Tuy nhiên, chính từ những chất liệu ít ỏi ấy, Đức Giêsu đã làm một việc cả thể cho toàn dân, chỉ tính riêng đàn ông thôi cũng đã là năm ngàn người. Tông đồ Anrê hay chính xác hơn là em bé đã trao cho Ngài những gì họ có. Họ
đã không giữ lại cho riêng mình. Họ đã trao ban mà không một chút hoài nghi Ngài sẽ làm gì. Họ đã trao ban chỉ vì họ tin tưởng nơi Ngài, và họ biết rằng trong tay Ngài chúng sẽ hữu ích cho toàn dân.
Phép lạ đã thực sự xảy ra. Dân chúng đã được no thỏa cơn đói của thể lý và còn thu lượm được 12 thúng bánh dư. Người ta đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, từ bất ngờ này đến bất ngờ kia. Họ bắt đầu nhận ra “…hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian”. Nói cách khác, họ có ý nói hẳn vị này mới làm chúng ta mãn nguyện về những thiếu thốn của đời sống tâm linh và thể lý, chỉ trong Ngài chúng ta mới được an lòng, no thỏa.
Phép lạ vẫn xảy ra trong cuộc sống của chúng ta hôm nay. Với con mắt đức tin, chúng ta có thể nhận ra được điều ấy bởi rõ một điều là Thiên Chúa không ngừng yêu thương nhân loại và vẫn âm thầm thực thi lòng thương xót của Ngài cho nhân loại. Phép lạ vẫn xảy nếu chúng ta biết quảng đại dâng hiến và cộng tác với Ngài trong việc thi ân giáng phúc.
Khi tôi chia sẻ quỹ thời gian của tôi qua việc phục vụ cộng đoàn và tha nhân chung quanh, tôi đang đóng góp phần sức của mình trong việc xây dựng và làm thay đổi cuộc sống sinh hoạt của cộng đoàn mà tôi thuộc về. Chúng chẳng là bao, đôi khi chỉ vài tiếng đồng hồ nhưng vô cùng hữu dụng.
Khi tôi dâng cúng những đồng tiền tiết kiệm hay hy sinh một chút ít lợi tức của riêng mình cho người nghèo; khi tôi làm những nghĩa cử bác ái yêu thương, nâng đỡ, giúp phần an ủi, xoa dịu những nỗi thống khổ của anh em chung quanh, tôi đang như em bé trong bài Tin Mừng, dâng cúng phần bánh ít ỏi của mình để Thiên Chúa làm nên những phép lạ lớn lao. Phần đóng góp, dâng cúng của tôi chẳng nhiều gì, có khi chỉ là một vài trăm bạc nhưng chắn hẳn chúng có giá trị lớn lao trước mặt Thiên Chúa và trong tay Thiên Chúa.
Khi tôi hy sinh thời gian thăm viếng những người đau ốm, những người đang gặp đau khổ, thử thách trong cuộc sống hẳn cũng có giá trị ít nhiều. Qua những lần thăm viếng ấy, tôi chia sẻ đức tin, tôi động viên, tôi khích lệ họ tin tưởng và phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa. Sự hiện diện của tôi là dấu chứng của sự hiệp nhất, của tình huynh đệ và chắc hẳn Thiên Chúa muốn dùng sự hiện diện ấy để chúc lành và nâng đỡ họ trong đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng.
Chúng ta vẫn cầu nguyện hằng ngày và chúng ta vẫn thường xin cho mình được nhiều ơn lành, bình an, mạnh khỏe và hạnh phúc. Chúng ta xin cho mình và chúng ta mong đợi những sự kỳ diệu xảy ra, điều mà chúng ta vẫn hay gọi là phép lạ. Phép lạ vẫn xảy ra nếu chúng ta có lòng tin vào lòng nhân từ hay thương xót của Thiên Chúa, và nếu chúng ta biết cộng tác với Chúa chứ không khoán trắng tất cả mọi sự cho Ngài, không ngồi yên một chỗ đợi chờ phép lạ xảy ra, không áp đặt Ngài chiều theo ý chúng ta.
Nếu chúng ta trao dâng cho Ngài phần đóng góp nhỏ bé của mình. Chúng có thể là thời gian, là nhiệt huyết, là tình yêu, là những hy sinh vật chất, là tài năng, là công sức thì chắc chắn từ đó Ngài sẽ làm nên những điều kỳ diệu vượt quá trí hiểu của chúng ta.
Chúng ta được mời gọi trở nên như Anrê, người đã giới thiệu cho Chúa em bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá, và như em bé đã quảng đại dâng cho Chúa những gì thuộc về em. Chúng ta cũng được mời gọi dâng hiến cho Thiên Chúa thời gian, công sức, của cải vật chất và những gì thuộc về mình để Ngài tiếp tục thi ân lòng nhân từ của mình.
Thiết nghĩ đó là lời mời gọi của Đức Giêsu, của Lời Chúa mà chúng ta nghe trong bài Tin Mừng hôm nay. Vậy hãy xin cho mình ơn quảng đại để đừng tiếc nuối gì với Chúa, để cộng tác với Chúa trong việc thi ân giáng phúc cho mọi người trong xã hội hôm nay, một xã hội vốn có quá nhiều đau khổ, có quá nhiều thiếu thốn và đói khát về tinh thần lẫn thể xác, một xã hội còn có quá nhiều sự thiếu thốn về tình thương và lòng nhân ái. Phần đóng góp của chúng ta chẳng là gì nhưng Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thích tấm lòng hơn hy lễ, chính Ngài sẽ nhận lấy và làm những phép lạ sinh ích cho muôn người.
59. Bánh cho đám đông
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Từ chút đóng góp nhỏ nhoi
Chương 6 của Tin Mừng Gio-an được trích đọc trong mấy Chúa nhật liên tiếp, khởi đầu với trình thuật phép lạ hoá bánh ra nhiều, tiếp đó là những lời giải thích về đề tài Bánh Trường Sinh.
Trong phần sau này, Đức Giêsu tuyên bố rõ ràng: "Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời" (6,51). Lời tuyên bố này là chìa khoá để giải thích phép lạ hôm nay: việc hoá bánh ra nhiều là sự kiện báo trước về bí tích Thánh Thể.
Các môn đệ của Đức Giêsu cũng tham gia vào việc chuẩn bị bữa ăn. Quanh Đức Giêsu, có các ông Phi-líp-phê, An-rê là anh ông Phê-rô, và có lẽ cả các môn đệ khác nữa. Ngoài ra, lẫn trong đám đông, còn một cậu bé có mang theo năm chiếc bánh và hai con cá; ông An-rê đã giới thiệu cậu bé với Đức Giêsu.
Chắc chắn rằng, nếu không có những chiếc bánh và mấy con cá của cậu bé, Đức Giêsu cũng có thể làm phép lạ để nuôi sống đám đông. Thế nhưng, Đức Giêsu muốn cho thấy một khía cạnh đặc biệt: phép lạ luôn là lời đáp trả trước một đề nghị hay một lời mời.
Như thế, Đức Giêsu muốn tôn trọng trật tự của sự việc: việc hoá bánh ra nhiều không xuất phát từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một cậu bé. Ai mong muốn chính mình trở thành phúc lành cho người khác, thì phải đem đến cho Đức Giêsu điều mình có. Người không yêu cầu người ta điều họ không có, nhưng trong đôi tay thánh thiện và nhân ái của Người, điều người ta chia sẻ sẽ trở thành phép lạ, dư tràn và phong phú.
Về phần mình, cậu bé có thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay những người thân quen. Làm như thế, cậu chỉ nuôi sống một vài người, chứ không góp phần làm cho việc hoá nhiều được dễ dàng. Trong hoang địa, một nơi ở xa các làng mạc, thì phần thức ăn dù nhỏ nhoi của cậu cũng là một điều rất quý giá, giúp cậu vượt qua cơn đói. Nhưng cậu đã trao tất cả cho Đức Giêsu, và Người đã dùng quyền năng mà làm cho bánh và cá hoá ra nhiều để nuôi cả đám đông. Không phải chỉ một mình cậu được nuôi sống, mà tất cả mọi người đều được ăn no...
"Có mua đến hai trăm đồng bạc bánh, cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút" (Ga 6,9). Một đồng bạc là tiền công của một ngày làm việc, thế mà có bỏ ra một số rất lớn cũng chẳng đủ chia cho mỗi người... Năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá "với bằng ấy người thì thấm vào đâu!" Như thế, theo cái nhìn con người, tình trạng này quả là bất lực, không thể nào giải quyết nỗi. Điều này làm rõ lên một chủ đề lớn trong Tin Mừng thứ tư: chỉ có Thiên Chúa mới có khả năng nuôi sống một đám đông như vậy. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể đem lại cho mỗi người phần của họ, làm cho họ được no nê, thoả mãn.
Thiên Chúa có thể làm những điều kỳ diệu, lớn lao, nhưng Người lại muốn nhân loại đóng góp phần của mình. Chính từ phần đóng góp ít ỏi ấy, Thiên Chúa lại ban cho họ những hồng ân khác, nhất là sự sống.
Người không muốn làm vua
Những người chứng kiến phép lạ Đức Giêsu đều nhận ra đây là một điều hết sức kỳ diệu. Mọi người đều nhìn nhận Đức Ki-tô có uy quyền của Thiên Chúa: Người đã bày tỏ uy quyền qua việc hoá bánh ra nhiều. Sự kiện này làm cho người ta nhớ ngay đến những kỷ niệm thời xuất hành: ông Mô-sê đã can thiệp và Thiên Chúa đã ban cho dân Do-thái có bánh ăn trong hoang địa. Do đó, dân chúng nghĩ rằng thời gian cứu độ đã đến và Đức Giêsu là "vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian". Họ tính bắt Người để tôn làm vua, nhưng "Người lánh mặt, đi lên núi một mình".
Những kỷ niệm thời Xuất Hành
Người ta có thể so sánh ngôn sứ Ê-li-sê trong bài đọc 1 với Đức Giêsu. Tuy nhiên, những chi tiết trong trình thuật Tin Mừng hôm nay có vẻ gần gũi hơn với những biến cố thời xuất hành. Từ bờ bên này sang bờ bên kia - đi qua Biển Đỏ; xa khỏi làng mạc; - không còn những của ăn của đất Ai-cập; ông Phi-líp-phê bị thử thách - dân Do-thái bị thử thách; Đức Giêsu cho đám đông ăn no - Thiên Chúa nuôi dân bằng man-na.
Xưa kia, dân Do-thái đã trải qua những biến cố này để tiến đến giao ước; đối với các độc giả đã được nghe nói về mầu nhiệm Phục Sinh, thánh Gio-an nhấn mạnh rằng sự kiện này xảy ra ít lâu trước lễ Vượt Qua. Rõ ràng tác giả muốn các độc giả hiểu rằng dấu chỉ của giao ước chính là bí tích Thánh Thể. Như vậy, con người sẽ trở thành hòm bia, thành căn lều để Thiên Chúa cư ngụ.
Ngôn sứ hay vua
Trong hoang địa, dân Do-thái nhìn nhận ông Mô-sê là thủ lãnh của mình. Họ đi theo ông vì họ đã chứng kiến những dấu lạ ông làm. Giờ đây, đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu, vì họ đã thấy Đức Giêsu chữa lành các bệnh nhân và làm nhiều dấu lạ khác. Hôm nay, Đức Giêsu không chỉ chữa lành, Người còn nuôi sống họ. Trước mắt họ, Đức Giêsu là "Vị Ngôn Sứ, là Đấng phải đến thế gian".
Thế nhưng, thay vì tiếp tục đi theo Đức Giêsu trên con đường Người muốn họ đi - con đường đi đến cái chết và sự phục sinh -, đám đông lại muốn thu nhỏ con người thiên sai này, bằng cách đưa Người vào trong cơ chế của họ. Họ muốn tôn Người làm vua.
Biết được điều đó, Đức Giêsu đã lánh đi. Người là Vua, là Vua ngay từ khi mới sinh (x. Mt 2,2), nhưng Vương quyền của Người phát xuất từ thập giá chứ không do ý thích của người phàm. Con đường của Người vẫn còn dài ở phía trước, chứ không phải là kết quả của những việc đã làm, nên Người đã lánh đi, đã từ chối, như trước đây Người đã từ chối với Xa-tan, và sau này, với Phi-la-tô. Mỗi lần một người hay một thể chế muốn nắm lấy Đức Giêsu để phục vụ những chương trình riêng của mình, Người cương quyết khước từ.
Tôn Đức Giêsu lên làm vua, đó là một sự cắt đứt, bởi vì việc hoá bánh ra nhiều là một dự báo về Nước Trời, nhưng là Nước của Thiên Chúa, chứ không phải nước của loài người đang muốn tái lập quyền lực chính trị của mình.
Do đó, Đức Giêsu đã lên núi một mình...
Hãy đóng góp phần của mình
"Một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá".
Cậu bé đó chính là bạn, là chúng ta, là tất cả các Ki-tô hữu. Trước nỗi thống khỗ của biết bao người, chúng ta thường nghĩ rằng tài sản của chúng ta chẳng thấm thía gì, quá ít. Điều đó đúng. Thế nhưng, nếu ta trao tặng tài sản đó, thì như một số vốn, lòng quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại, sự chia sẻ sẽ thúc đẩy sự chia sẻ, tình yêu sẽ khơi dậy tình yêu. Làm như vậy, ta đã đặt nền móng cho Nước Trời.
Đàng khác, bạn thấy đó, trước khi phân phát bánh, Đức Ki-tô đã dâng lời tạ ơn - tiếng hy-lạp là Eucharistia. Người tạ ơn ai, nếu không phải là Chúa Cha, như Người vẫn quen làm. Nhờ lời tạ ơn của Đức Giêsu, năm chiếc bánh và hai con cá trở thành lương thực nuôi sống cả đám đông, lại còn dư mười hai thúng đầy. Nhờ lời tạ ơn của Đức Giêsu, phần đóng góp nhỏ nhoi của cậu bé trở thành nguồn mạch dồi dào.
Như thế, trình thuật Tin Mừng mời gọi chúng ta: hãy chia sẻ tình yêu để chuẩn bị cho Nước Trời là Tình yêu vĩnh cửu; hãy chia sẻ với lời cảm tạ để bánh trần gian được Đức Ki-tô biến đổi thành bánh bởi trời, thành bánh là chính Người, bánh ban sự sống muôn đời.
"Ngày nay, Thiên Chúa đòi chúng ta làm tăng thêm cho chính chúng ta cũng như người khác những tấm bánh đem lại sự sống, những tấm bánh bao trùm mọi hình thức của cuộc sống, những tấm bánh tròn, những tấm bánh dài, cả những tấm bánh có hình dáng lạ kỳ. Theo nghĩa này, chiếc bánh không chỉ là cung cấp năng lượng cần thiết để sống, nhưng còn là những chiếc bánh tràn đầy Thần Khí, tràn đầy niềm vui.
"Cho dù con người thời nay không diễn tả rõ, nhưng chắc chắn, người ta không chỉ cần bánh ăn, mà cả hoa hồng nữa.
"Chúng ta được dựng nên để hưởng hạnh phúc, để được sung mãn, nhưng chúng ta cũng phải biết rằng hạnh phúc luôn ở bên kia hạnh phúc. Hạnh phúc không phải là một mục đích, nhưng là một chân trời để hướng tới. Bạn có muốn đi xa hơn nữa không?..." (theo P.Talec.)
60. Cộng tác
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Có người cho rằng phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh hóa ra nhiều kể lại trong Tin Mừng là chuyện không có thực mà chỉ là tác dụng tâm lý, nghĩa là họ cho rằng: em bé có năm chiếc bánh và hai con cá đã chia phần ăn của mình cho người bên cạnh, và thế là theo gương em bé này, mọi người chia phần ăn của mình cho nhau, nên ai cũng đủ bánh ăn.
Nhưng sự thật không phải như vậy, vì Tin Mừng đã kể lại những chi tiết rất rõ ràng và cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại, đây là một phép lạ thực sự của Chúa Giêsu. Các nhà chú giải Kinh Thánh đã quả quyết: “Phải chối bỏ cả Tin Mừng thì mới có thể loại bỏ khỏi Tin Mừng sự kiện hóa bánh ra nhiều”. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là tìm hiểu phép lạ này có thực hay không mà là tìm hiểu xem Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì khi làm phép lạ này. Có nhiều điều lắm, chúng ta hãy ghi nhận và suy nghĩ hai điều.
Điều thứ nhất Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về lòng thương xót. Trong bối cảnh của phép lạ này, chúng ta thấy có hai thứ thương xót. Các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ và đã thưa với Chúa: “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn”. Đó là thứ thương xót thứ nhất, thứ thương xót nhập đề, lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, vì thế, Chúa muốn các môn đệ bước qua thứ thương xót khởi điểm đó, đem thứ thương xót nhập đề vào thứ thương xót thứ hai, thứ thương xót nhập cuộc: “Anh em hãy cho họ ăn”.
Quả thực, có tấm lòng thương xót người khác là một điều tốt rồi nhưng chưa đủ, có những lời nói thương xót người khác cũng là một điều tốt rồi nhưng cũng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, cần phải có hành động thương xót thực sự nữa. Chúa Giêsu đã thể hiện như thế và Ngài dạy chúng ta hãy sống như thế. Cũng vậy, có lòng trắc ẩn hay những lời nói an ủi, khích lệ, cảm thông là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là biết chia sẻ, biết san sẻ giúp đỡ. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì trong tầm tay, trong khả năng của mình, phần còn lại chúng ta sẽ được Chúa tiếp tay thực hiện. Điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra những người khác cũng là con Thiên Chúa, cũng là anh em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết động lòng trắc ẩn trước những đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi hơn.
Điều thứ hai Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta qua phép lạ hóa bánh này là sự cộng tác. Trước hết, chúng ta phải xác nhận chắc chắn rằng: nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng người ăn no nê, thoải mái. Cũng vậy, không cần có sự cộng tác của các môn đệ trong việc đi tìm bánh, Chúa Giêsu vẫn có thể làm được phép lạ dễ dàng. Nói tóm lại, một mình Chúa có thể làm được mọi sự, không cần ai cộng tác, không cần vật liệu nào cả, với quyền năng vô biên, Chúa chỉ cần phán một lời là tức khắc có ngay, tức khắc có dư thừa bánh cho mọi người ăn. Nhưng ở đây Chúa muốn cho mọi người thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một em bé. Em có thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay cho những người thân quen. Làm như thế thì chỉ một mình em hay một vài người được ăn, nhưng em đã trao tất cả cho Chúa và Ngài đã dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Như vậy, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm phép lạ.
Cũng vậy, Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh, nên Chúa bảo các ông: “Anh em hãy cho họ ăn”, nên chúng ta thấy khi các môn đệ tìm được năm chiếc bánh và hai con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết: cần có sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa đối với chúng ta, nghĩa là bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng kiên nhẫn, bằng hy sinh, không phải chỉ trong đời thường thôi, nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”.
Trong cuộc sống, chúng ta hãy cộng tác với nhau và nhất là cộng tác với ơn Chúa để hoàn thành trách nhiệm đời mình và cùng nhau xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
61. Ngôn Sứ Vĩ Đại
(Suy niệm của Như Hạ, OP)
Sau bao nhiêu thập niên chờ đợi, cuối cùng mọi người đã thấy tất cả sự thật về bí mật Fatima. Đức Mẹ đã đóng vai ngôn sứ của thế kỷ 20. Mẹ đã đóng vai ngôn sứ tuyệt vời vì Mẹ đã học nơi Đức Giêsu Con Mẹ khi còn sống trên trần gian. Lời Mẹ vang vọng cả một nguồn mạc khải đã được Đức Giêsu truyền đạt cho nhân loại. Kitô hữu vui sướng lắng nghe. Cũng như Mẹ, họ mong trở thành ngôn sứ cho thời đại.
NHẬN DIỆN VỊ NGÔN SỨ
Sau khi chứng kiến "dấu lạ Đức Giêsu làm", dân chúng kháo láo: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!" (Ga 6:14). Dấu lạ đó chính là một hành vi bác ái phát xuất từ một quả tim biết động lòng trắc ẩn trước những nhu cầu quần chúng. Người là một vị ngôn sứ đến thế gian, không phải để "cứu rỗi các linh hồn" mà thôi. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa không làm những dấu lạ thiêng liêng, nhưng toàn là "những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm" (Ga 6:3) và cho hàng ngàn người "no nê" cá và bánh. Dĩ nhiên Chúa không dừng lại ở các dấu lạ đó, nhưng hướng tới một mục đích cao hơn. Không dừng lại không có nghĩa là không quan trọng. Trái lại, thân xác giữ một vai trò tất yếu. Nếu không có thân xác không thể đọc ý nghĩa dấu lạ. Nếu không cần thân xác, Chúa đã không mất nhiều thời giờ đi đây đó tìm kiếm những người đau ốm và đói khát. Cứ để hết thời giờ vào việc suy tư cầu nguyện có lẽ sẽ cứu rỗi nhiều linh hồn hơn. Nhưng có lẽ sẽ chỉ làm vui tai mấy nhà trí thức kinh viện mà thôi.
Đức Giêsu không xuống trần gian để cứu rỗi các linh hồn. Đúng hơn, Người đến cứu con người toàn diện. Thứ tự không phải đi từ trên xuống dưới, nhưng từ thấp lên cao. Thực tế, có thực mới vực được đạo. Nếu bỏ tất cả những dấu lạ trong Tin Mừng, chắc chắn Đức Giêsu không thể qui tụ nhiều người và tạo được một thế đứng lớn lao trong lịch sử cứu độ như thế. Dân chúng đã đánh giá Đức Giêsu như "vị ngôn sứ" chỉ vì đã thấy được hành vi bác ái rất cụ thể của Người. Như vậy, đức ái có tính ngôn sứ. Thánh Gioan khẳng quyết: "Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau yếu." (Ga 6:3)
Người làm được những dấu lạ đó không phải từ hư vô, nhưng từ những chiếc bánh và con cá có sẵn. Những cái có sẵn đó chỉ là một số lượng ít ỏi. Nhưng đó là sự đóng góp của con người. Rất cần thiết. Rất quan trọng. Nhưng phần cần thiết, quan trọng và chính yếu hơn chính là Thiên Chúa. Bởi thế, sau khi các môn đệ gom được "năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá" (Ga 6:9) từ chiếc giỏ của một em bé, "Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn" (Ga 6:11) Thiên Chúa Cha. Nhờ đó thần lực đã hoạt động mãnh liệt và cấp thời, biến số lượng bánh và cá nhỏ nhoi đó thành những thúng bánh khổng lồ nuôi sống muôn dân giữa cơn đói khát. Thật là ngoài sức tưởng tượng của các môn đệ và dân chúng. Trong cái tính toán bình thường, trước một đám đông dân chúng, các ông chỉ có thể suy nghĩ: "Có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút," (Ga 6:7) hay "ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!" (Ga 6:9) Đúng là tính toán của con người! Nhưng Thiên Chúa có những tính toán khác hẳn. Người không bị lệ thuộc bất cứ hoàn cảnh nào, vì Người toàn năng. Tin chắc như thế, nên "Đức Giêsu nói: 'Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi'." (Ga 6:9) Việc gì phải đến đã đến. Người đã làm được tất cả những gì Người muốn.
Từ một nhu cầu tầm thường vật chất, Người đã có thể hướng người ta về một điểm cao hơn. Tự lòng đầy khâm phục Chúa, dân chúng đã phải thốt lên: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!" (Ga 6:15) Thấy Đức Giêsu tài tình như thế, họ tìm cách "tôn làm vua." (Ga 6:15) Tôn làm vua không phải vì Người, nhưng vì chính tương lai của họ. Mặc dầu đầu óc còn trần tục khi muốn tôn phong Đức Giêsu làm vua, nhưng ít nhất dân chúng cũng thấy nơi Người dấu chỉ về lòng Chúa xót thương. Chỉ cần được hướng dẫn một chút, tâm trí họ có thể bay cao hơn để nhận ra Người chính là "Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!" (Mt 21:9) Nếu Người được tôn làm vua, còn đâu vai trò ngôn sứ?! Bởi thế, Người đã "lánh mặt, đi lên núi một mình" (Ga 6:15) để trọn vẹn sống ơn gọi làm ngôn sứ. Ngôn sứ đã ở một vị trí thật đẹp: trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Một vị trí như thế không thể lệ thuộc vào bất cứ cơ chế hay vinh hoa trần gian nào. Có thế, ngôn sứ mới có thể nhân danh Thiên Chúa (Đnl 18:22) nói với những người đang sống bám vào cơ cấu. Chính vì thế thân phận ngôn sứ luôn bị cơ chế bách hại. Cuộc đời Đức Giêsu chứng minh tất cả sự thật về thân phận ngôn sứ.
CHIỀU KÍCH NGÔN SỨ
Đức Giêsu đã không làm dấu lạ một mình. Chung quanh Người có các môn đệ, những người trực tiếp góp phần vào việc tạo thành dấu lạ đó. Cảnh tượng dân chúng ồn ào vì hành trình mệt mỏi khiến Thày trò xốn xang. Các môn đệ lo ra mặt khi Thày đề nghị: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?" (Ga 6:5) Ông Philipphê đi xục xạo khắp nơi để tìm bánh và cá cho Thày. Cuối cùng các ông cũng tìm được với niềm thất vọng trước nhu cầu lớn lao của quần chúng. "Chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!" (Ga 6:9) Tất cả chỉ có thế. Đó lại là phần đóng góp của "một em bé."(Ga 6:9) Em bé đã sẵn sàng dâng cho Chúa, mặc dầu cũng đang đói khát như mọi người xung quanh. Không ai từ chối đóng góp vào việc tạo dấu lạ cho muôn dân nhận ra Đức Kitô là Ngôn sứ. Dĩ nhiên Chúa chẳng cần đến chất liệu cũng như con người để tạo nên những dấu lạ đó, vì Người là Đấng Toàn Năng. Nhưng Người muốn cho mọi người cùng tham gia vào công cuộc cứu độ. Người muốn mọi người "đều là ngôn sứ." (Ds 11:27)
Nếu đức bác ái mang tính ngôn sứ, thì không ai có thể từ chối trở thành ngôn sứ. Mỗi hành vi bác ái, dù nhỏ bé nhất, đều là một dấu lạ, là một phương tiện cần thiết để "sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban."(Ep 4:1) Nếu không sống bác ái, dù có mọi nhân đức khác, chúng ta không thể hiệp nhất với Thiên Chúa, vì "chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người." (Ep 4:5-6) Chính trong sự hiệp nhất với Chúa Kitô và với anh em, chúng ta sẽ làm được những dấu lạ mang tính ngôn sứ, và làm cho mọi người nghe được tiếng nói Thiên Chúa. Có hiệp nhất mới có hi vọng. Bởi thế, thánh Phaolô khuyên: "Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau. Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hi vọng." (Ep 4:3-4) Thần Khí là Đấng "đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy." (Kinh Tin Kính) Người cũng đang tiếp tục phán dạy muôn dân qua những hành vi hiệp nhất đầy tính ngôn sứ của các Kitô hữu.
Sức mạnh hiệp nhất các Kitô hữu chính là Thánh Thể, tấm bánh bẻ ra cho muôn dân. Thánh Thể chính là dấu lạ Chúa đã thiết lập để duy trì và phát triển cộng đoàn Kitô hữu. Chỉ có Kitô hữu mới nhìn ra ý nghĩa và hình bóng dấu lạ này nơi dấu lạ hóa bánh. Nếu dấu lạ hóa bánh đã qui tụ được dân chúng, chắc chắn Thánh Thể còn hiệp nhất được muôn dân hơn nữa, vì nơi Thánh Thể, sức mạnh Thiên Chúa đang hoạt động để thực hiện giao ước đối với nhân loại. Nơi đây cũng thể hiện sự hiệp nhất với đầu là Đức Kitô và với tất cả những ai là chi thể của Người (Fink 1990:439). Nhờ đó Thiên Chúa được hoàn toàn vinh quang và con người được nên thánh. Dấu lạ tìm kiếm dấu lạ. Dấu lạ Thánh Thể đang kêu mời những dấu lạ tình yêu nơi các Kitô hữu. Bạn có muốn trở thành dấu lạ giữa muôn dân như Thánh Thể đang ở giữa chúng ta không?
62. Suy niệm của Giuse Đỗ Huy Hoàng, OP
CHÚA LÀM PHÉP LẠ HOÁ BÁNH RA NHIỀU ĐỂ NUÔI DÂN ĐÓI KHỔ
Trình thuật tin mừng theo thánh Gioan, kể lại việc Chúa làm dấu lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Khởi đầu, tác giả miêu tả toàn cảnh trên bãi biển miền Ga-li-lê-a. Ở đó có rất đông dân chúng từ các làng mạc và các vùng phụ cận đi theo Đức Giêsu và nghe Người giảng dạy. Trong khi nghe Chúa nói, họ không cảm thấy mệt mỏi và đói khát, họ không nghĩ đến việc thiếu lương thực và không thể mua khi chung quanh không có làng mạc.
Với tấm lòng của người mục tử nhân lành, Người đã quan tâm đến nhu cầu vật chất của những người đang nghe Người giảng đây, bởi Người đã từng trải qua cái đói khi ở trong hoang địa, cái khát bên bờ giếng. Người muốn cho họ ăn. Vì thế, Người quay lại hỏi ông Phi-líp-phê: “chúng ta có thể mua bánh ở đâu cho họ ăn đây?” (Ga 6,5) Điều Ngài muốn các môn đệ cùng chia sẻ nỗi bận tâm và ưu tư của Ngài.
Có lẽ, đây là bài toán khó đối với các môn đệ, trong khi họ ở cách xa làng mạc. Qua đó, giúp các ông nhận ra giới của con người như cách ông Phi-líp-phê trả lời Đức Giêsu: “thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6,7).
Ngay lúc con người bất lực là lúc Thiên Chúa tỏ lộ quyền năng của Người. Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, người đã nuôi sống hơn 5000 người. Qua dấu lạ này, Người muốn nhắn giử thông điệp tình yêu đến mỗi người chúng ta, và ẩn sâu trong đó, Chúa mời gọi con người cùng cộng tác, cùng cho đi, cùng chia sẻ những gì mình đang có.
Lạy Chúa Giêsu thánh thể, ngày hôm nay, chúng con đang sống trong thế giới mà con người không chỉ đói khát lương thực nhưng còn đói khát tinh thần. Cái đói đã làm cho bao người đánh mất chính mình, vì thế họ đã bán rẻ lương tâm để có cái ăn, cái mặc.
Họ quay quắt với cái đói ăn, đói thuốc men để chữa bệnh, đói nước sạch để dùng và đói cả một bầu khí trong lành để nghỉ ngơi. Tất cả đều diễn ra trước mắt con, con đã làm ngơ và coi như không thấy. Con đã khoanh tay, khi gặp một người anh em vấp ngã bên đường cần con nâng đỡ, và con đã …
Chúa đã cho chúng con thấy tấm lòng quảng đại của Người. Nhưng đôi khi chúng con trách Người tại sao đã tạo ra nghèo khổ, và có lẽ chúng con nên tự trách mình, bởi bất công đang nằm ngay nơi lòng mình, vì thế, xã hội còn nhiều người nghèo đói, bất công… do chúng con không dám chia sẻ những của cải dư thừa. Con biết, Người không cần chúng con chia sẻ cho mọi người những gì vượt quá khả năng, nhưng chỉ những gì chúng con có. Và có thể thế giới này sẽ khác, nếu chúng con dám chạy đến chia sẻ cho người anh em những gì chúng con có?
Lạy Chúa! xin cho con nhận thức rằng, khi con có thực phẩm để ăn, có quần áo để mặc, có một mái nhà để che đầu và một nơi nghỉ qua đêm là con đã giàu có hơn 75% thế giới.
Khi con có dư thừa vật chất, của cải để chia sẻ với mọi người là con thuộc 8% những người giàu nhất thế giới.
Khi con chưa phải trải qua nguy hiểm của chiến tranh, cô đơn của tù tội hay vật vã của đói khát là con hạnh phúc hơn 500 triệu người trên thế giới.[1]
Và lạy Chúa, xin cho con nhận thức được tất cả những gì chúng con có là do hồng ân Chúa thương ban, chứ không phải do tài năng và công trạng của mình. Vì vậy, chúng con phải mau mắn chia sẻ với mọi người để thế giới bớt nghèo đói và đau khổ. Amen.
63. Mua đâu ra bánh cho những người này ăn
(Suy niệm của Noel Quesson)
Một toán du khách đi thăm dấu vết của trại Đa-sô (Dachau), một trại giam nổi tiếng của phát xít Đức thời Hitler. Người hướng dẫn khách du lịch hôm đó là một cựu tù nhân của Đa-sô xưa, ông đã bị nhốt lâu năm và may mắn thoát chết. Hôm đó là Chúa nhật, nhiều toán khách du lịch đến thăm di tích lịch sử này. Khắp nơi vương vãi những rác rưởi lẫn với đồ ăn thức uống. Gặp một mẩu bánh mì nằm bên lề đường, người hướng dẫn toán du lịch nhào tới lượm lên, ông nói giọng run run: “Một mẩu bánh mì! Tôi không thể chịu được khi thấy một mẩu bánh mì bị bỏ phí. Mấy năm thoi thóp trong tù, đối với tôi mẩu bánh mì đồng nghĩa với sự sống. Nó là ranh giới giữa sống và chết”.
Trong các bản năng Chúa trao ban cho con người, có lẽ bản năng sinh tồn là tha thiết nhất. Bất cứ ai đã có lần bị xâu xé trong cơn đói thì sẽ ghi nhớ suốt đời. Chắc Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm trong bốn mươi ngày đêm ăn chay nơi sa mạc, nên người rất cảm thương những người bị đói. Đám dân lũ lượt đi theo Chúa vào sa mạc, có những người vì tin tưởng muốn nghe lời Chúa, nhưng cũng có người chỉ vì tò mò, vui chân theo bạn bè, họ cứ đi mà không nghĩ đến ăn uống. Giờ này, Chúa biết họ đói bụng, và Chúa nghĩ phải kiếm gì cho họ ăn. Và có lẽ qua niềm cảm thông với tình cảnh đói khát của con người như vậy, Chúa đã nghĩ tới việc lập Bí Tích Thánh Thể. Qua Bí Tích này, Chúa ở lại gần gũi với nhân loại hơn. Đồng thời cũng là để thỏa mãn phần nào sự đói khát tâm linh của tín hữu. Từ lương thực no đủ cho thân xác, con người nghĩ về Chúa như một nhu cầu thiết yếu của linh hồn mình. Chúa đã mở rộng cõi lòng và cái nhìn của ta để ta dễ tiếp nhận mầu nhiệm Thánh Thể bằng một phép lạ vĩ đại: Bánh hóa nhiều. Chúa làm cho 5 ổ bánh hóa nhiều để nuôi 5 ngàn người, cốt cho chúng ta nhớ tới Chúa là bánh thật, bánh trường sinh, là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta. Sự đói khát Chúa khó cảm thấy, nhưng cũng gây mệt mỏi cho con người như đói cơm bánh vậy.
Tại sao Chúa phải hỏi Philipphê về việc mua bánh? Ngài có thể phán một lời là có ngay nhiều bánh nhiều cá. Tuy nhiên Chúa muốn thực hiện một phép lạ với sự cộng tác của Tông đồ và thiện chí của một em bé. Đó cũng là một qui luật tự nhiên mà Chúa hằng tôn trọng: do lòng tin mà có phép lạ. Chúng ta còn nhớ phép lạ trong tiệc cưới Cana. Chúa có thể từ không mà làm ra rượu, nhưng Chúa đã đợi người ta đổ nước lã đầy các chum. Những người giúp việc đang mệt mỏi mà phải đi múc nước từ giếng sâu, cũng là một cố gắng, có thể nói được là một hành động biểu lộ đức tin.
Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban lời Chúa và Thánh Thể làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng con. Xin giúp chúng con hiểu và tin những mầu nhiệm Chúa muốn mạc khải cho chúng con. Chúng con xin tạ ơn Ngài.
64. Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Truyền thống Tin Mừng rõ ràng đã gán một tầm quan trọng đặc biệt cho phép lạ hóa bánh ra nhiều, bởi vì đây là phép lạ duy nhất được cả bốn Tin Mừng ghi lại. Đàng khác, bài tường thuật về biến cố này chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong mỗi Tin Mừng: có thể nói bài này là một đỉnh cao trong chương trình của Đức Giêsu nhằm bày tỏ quyền năng thiên sai của Người và cũng là khoảnh khắc các thính giả phải quyết định tin vào Người. Riêng trong TM IV, chương 6 là một tổng hợp sứ vụ của Đức Giêsu tại Galilê, là một trong những mạc khải sâu sắc nhất về Đức Giêsu và cho thấy cách rõ nét nhất chọn lựa đức tin mà con người phải thực hiện là như thế nào.
Tuy nhiên, nhìn vào chi tiết, ta thấy bản văn TM Ga khác với các bản văn TMNL ở nhiều điểm. Điểm khác biệt đầu tiên và chính yếu nằm nơi cách giải thích câu truyện (xem bài diễn từ của Ga 6, từ c. 26). Sự cố xảy ra được TM IV xác định bằng những chi tiết chính xác hơn: “bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria” (c. 1); “có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm” (c. 2; x. 2,23: tương đương với Mc 6,31-33; Mt 14,13-14 và 15,30-31); đám đông không có đức tin chân thật (sau 2,23 cũng như về cuối truyện ch. 6); khái niệm “dấu lạ” (c. 14) để gọi “phép lạ” đặc biệt của TM IV, với ý nghĩa là “đặc tính hiện tượng bên ngoài cần vượt quá để nắm được ý nghĩa đích thực” (dân chúng chỉ quan tâm tới chuyện lạ lùng thôi: x. cc. 14-15.26).
“Sách các Dấu lạ” của TM Ga là từ ch. 2 đến hết ch. 12. Chương nói về “Bánh trường sinh” (6,1-71) nằm trong phân đoạn có bố cục sau đây:
Các công việc, các dấu lạ và các cuộc tranh luận của Đức Giêsu (dịp các đại lễ Do Thái) (5,1–10,42)
B (5,1-47): Công việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, chữa người nằm liệt (vào một ngày sa-bát)
C (6,1-71): Dấu lạ nuôi năm ngàn người ăn no do bánh hằng sống (trước lễ Vượt Qua)
D (7,1–8,59): Đức Giêsu, nguồn nước hằng sống và ánh sáng cho trần gian (dịp lễ Lều)
D’(9,1-41): Hành vi ban khả năng nhìn cho một người mù bởi ánh sáng của trần gian (vào một ngày sa-bát)
C’ (10,1-21): Các dụ ngôn về đàn chiên, cửa, việc trao ban mạng sống và người mục tử nhân lành
B’(10,22-42): Các công việc và chân tính của Đức Giêsu, Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (dịp lễ Cung hiến).
Có thể xác định bố cục tổng quát của chương 6 theo một lược đồ đồng tâm như sau:
a) cc. 1-15: Cảnh với các môn đệ, được nhắc đích danh
b) cc. 16-21: Cảnh với Đức Giêsu và các môn đệ
c) cc. 22-59: Diễn từ của Đức Giêsu
b’) cc. 60-65: Cảnh với Đức Giêsu và các môn đệ
a’) cc. 66-71: Cảnh với các môn đệ, được nhắc đích danh
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh (6,1-4);
2) Dấu lạ bánh hóa nhiều (6,5-13);
3) Phản ứng của dân chúng và của Đức Giêsu (6,14-15).
3.- Vài điểm chú giải
- Đức Giêsu lên núi (3.15): Quả núi này không có trên bản đồ, nhưng được dùng thường xuyên trong Kinh Thánh và các Tin Mừng (x. Mc 9,2; Mt 5,1; 15,29; 28,16) như là khung cảnh cho một mạc khải.
- và ngồi đó (3): Đây là tư thế của người cai trị và giảng dạy.
- quan tiền (6): Một quan tiền là lương của một ngày làm công.
- thu lại (12): Đây không phải chỉ là “nhặt lại” (như trong Mc 6,43 và các bản văn song song) mà là “quy tụ” (synagein) các miếng vụn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh (1-4)
Các chi tiết tác giả cung cấp khiến ta có cảm tưởng đây là một bài tường thuật chính xác. Tuy nhiên, chúng ta sẽ gặp nhiều yếu tố gợi tới một quá khứ, hoặc mang tính biểu tượng: giống như Môsê, có một đám đông đi theo Đức Giêsu; đám đông đi theo Người vì cùng lý do như dân Israel khi họ theo Môsê: những dấu lạ lớn lao Người đã làm; Đức Giêsu lên núi và ngồi xuống, tương tự Môsê lên núi để dạy dỗ dân chúng. Ngoài ra, chi tiết “lễ Vượt Qua” vừa kín đáo gợi đến cái chết của Đức Giêsu (là lúc Đức Giêsu ban mình Người làm bánh đích thực ban sự sống), vừa gợi lại việc Môsê đưa con cái Israel ra khỏi Ai Cập và phép lạ man-na. Điều này không phải là gán ghép, vì tác giả TM IV thích tháp các mạc khải của Đức Giêsu vào trong khung các đại lễ như Vượt Qua, Lều, Cung hiến. Đức Giêsu vừa hoàn tất vừa vượt quá tất cả những gì các đại lễ của Israel nhắm tới và loan báo. Người là Môsê mới sẽ dẫn đưa dân Người trong một cuộc xuất hành mối để đi từ kiếp nô lệ sang tự do.
* Dấu lạ bánh hóa nhiều (5-13)
Trong các TMNL, chính các tông đồ lưu ý Đức Giêsu rằng đám đông không có gì ăn cả. Còn ở đây sáng kiến lại phát xuất từ Đức Giêsu: “Người đã biết mình sắp làm gì rồi” (c. 6). Trong các TMNL, các tông đồ chỉ được nhắc đến như một nhóm; ở đây, ta có Philípphê, rồi Anrê. Đức Giêsu hỏi Philípphê một câu đơn giản: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6,5). Rồi trong một lời bình luận riêng (c. 6), tác giả TM IV giải thích rằng Đức Giêsu hỏi vậy không phải là ngẫu nhiên. Câu hỏi được nêu ra là để thử (peirazô) Philípphê về đức tin của ông, còn Người thì Người biết Người sắp làm gì. Động từ này khiến ta nhớ tới biến cố Xuất Hành, trong đó Thiên Chúa “thử” dân Ngài: Rõ ràng tác giả giải thích truyền thống Đức Giêsu nuôi đám đông dưới ánh sáng của truyền thống Kinh Thánh nói về Đức Chúa (Yhwh) ban man-na cho dân Ngài ăn trong thời Xuất Hành (x. Ga 6,25-40). Sách Đnl giải thích các biến cố Xuất Hành vừa như là dấu chỉ vừa như là những thử thách (x. Đnl 4,34; 7,19; 29,2; so sánh với 8,16; 13,4; x. Xh 16,4; 15,25; 20,20). Theo cùng một cách như thế, tác giả tuy rõ ràng thấy việc nuôi đám đông là một dấu chỉ (sêmeion, Ga 6,26.30), ở đây lại công bố rằng việc này cũng là một thử thách.
Mẩu đối thoại với Philípphê cho thấy thật rõ là con người không có khả năng hiểu được và giải quyết được vấn đề. Riêng Đức Giêsu thì đang làm chủ tình thế (như ở các dịp khác: 10,18; 11,6-15; 13,1; 18,4; 19,28). Nếu câu hỏi được đặt ra cho Philípphê thì chắc là vì các sự việc đã xảy ra như thế. Còn nếu Philípphê và Anrê được nhắc tới đích danh ở đây hẳn là vì các ông là người Bétxaiđa, tức thuộc vùng Biển Hồ, nơi Đức Giêsu đang hiện diện, nên các ông biết rõ là vào lúc này, khó mong tìm được lương thực ở vùng này.
Sự can thiệp của Anrê cũng nhắm cho thấy rằng hoàn cảnh này không có lối thoát về phương diện con người; như vậy, ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa. Ngoài ra, có nhiều chi tiết nhắc lại Cựu Ước: từ ngữ “em bé” (paidarion) và cụm từ “năm chiếc bánh lúa mạch” đưa ta trở về với 2 V 4,42-44: Êlisa hóa bánh ra nhiều; “cá nhỏ” (opsaria) nhắc đến Ds 11,22: nêu bật sự yếu đuối của loài người và quyền năng của Thiên Chúa.
Trong các TMNL, các môn đệ phân phát bánh và cá; ở đây, chính Đức Giêsu phân phát (c. 11). Đây là cách tác giả TM IV tập trung chú ý vào Đức Giêsu. So sánh với các TMNL, chúng ta thấy rõ điểm này. Trong khi các TMNL quan tâm đến Nước Thiên Chúa và lời rao giảng của Thầy chí thánh, TM IV lại chủ yếu nhắm đến “con người” Đức Giêsu, và điều này đã xuất hiện ngay ở những dòng đầu tiên của TM: tác giả chỉ nói qua về phép rửa, nhưng nói rõ Đức Giêsu là ai (Ga 1,29-34); nhân tiện nói đến các môn đệ đầu tiên, thì nói cho biết Đức Giêsu là ai và Người có thể cống hiến điều gì (1,35-51); và khi nói về các điều kiện để trở thành môn đệ, thì ngài nêu bật tình yêu đối với Đức Kitô (phải đi tìm Đức Kitô, phải khao khát Người).
Có nhiều chi tiết khiến bài tường thuật có một màu sắc Thánh Thể. Trước tiên, cử chỉ Đức Giêsu cầm lấy bánh và phân phát (c. 11) dường như gợi nhắc đến bữa tối cuối cùng. Quả thật tác giả TM IV không kể lại việc thiết lập Bí tíchThánh Thể, nhưng cả ngài lẫn nguồn của ngài không thể không biết đến biến cố này. Động từ “phân phát” (diadidonai) có thể đã được vay mượn từ nghi thức Thánh Thể. Công thức “tạ ơn” (eucharistein: c. 11) cũng thế. Cuối cùng, cc. 12-13 có chứa hai yếu tố độc đáo là động từ “thu lại” (synagein) và danh từ “các miếng thừa” (klasmata) thuộc về nghi thức Thánh Thể và ta thấy có trong sách Điđakhê (9,4). Còn công thức “kẻo phí đi” (c. 12b) khiến ta nghĩ tới sự cẩn thận của Hội Thánh khi thu lại các mẩu Mình thánh Chúa.
Khi dùng động từ “thu lại” theo nghĩa “quy tụ” (khác với Mc 6,43 và các bản song song dùng động từ “nhặt lại”), hẳn tác giả TM IV muốn nhắc đến Bí tíchThánh Thể có mục đích tưởng niệm cái chết của Đức Giêsu “để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,52).
Ở đây chúng ta thấy TM IV muốn gợi lại phép lạ man-na trong sa mạc cho đoàn dân bước đi dưới sự lãnh đạo của Môsê. Nhưng Đức Giêsu không chỉ là Môsê tái hiện, Người là Môsê chân chính cao trọng hơn Môsê ngày xưa. Trong sa mạc, người ta chỉ có thể lượm được lượng man-na cần thiết (Xh 16,4.16-18). Ở đây, lượng bánh được ban dồi dào: thu lại được mười hai thúng cũng dồi dào như lượng rượu tại Cana, nhằm chứng tỏ Đức Giêsu là đích điểm của nỗi niềm chờ mong của Israel. Mười hai là con số hoàn hảo: phép lạ bánh nuôi no nê đám đông, có thể làm no thỏa các thế hệ sẽ đến.
Phép lạ bánh này còn nhắc nhớ đến việc Êlisa cho một đám đông ăn no, vì ở hai nơi đều có các bánh lúa mạch, em bé trai, vấn nạn về số lương thực quá ít so với nhu cầu, sự no nê lạ lùng. Như thế là sự nối tiếp từ Cựu Ước sang Tân Ước, từ Êlisa sang Đức Giêsu, như từ hành trình đến đích điểm.
* Phản ứng của dân chúng và của Đức Giêsu (14-15)
Người Do Thái vẫn chờ đợi là vào thời đại thiên sai, phép lạ man-na được tái diễn. Do đó, khi Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều, đám đông cho rằng Người “là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian” (c. 14; x. Đnl 18,15; Ga 1,21). Họ muốn “tôn Người làm vua”, nhưng Đức Giêsu “lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (c. 15). Chi tiết này hoàn toàn có thể mang tính lịch sử. Tại Paléttina vào thời ấy, do niềm hy vọng vào Đấng Mêsia, thường xuyên xảy ra những cuộc nổi loạn về chính trị, những cuộc bạo loạn thường xuyên bị người Rôma đàn áp tàn bạo. Đức Giêsu muốn tránh thứ hiểu lầm này.
Tuy nhiên, tác giả TM IV ghi lại sự cố này không chỉ vì quan tâm đến lịch sử, nhưng còn muốn nêu bật tính phù phiếm của lòng nhiệt thành của đám đông. Lẽ ra bánh vật chất phải giúp họ hiểu Đức Kitô là ai. Họ không thấy phép lạ là một “dấu chỉ” chứng thực Đức Giêsu là Đấng Mêsia chân chính, nhưng là một xác nhận định kiến sai lầm của họ về Đấng Mêsia. Họ chỉ quan tâm đến bánh, chứ không quan tâm đến Đấng Mêsia ban bánh. Họ đã “đọc” dấu chỉ theo lược đồ riêng của họ, nên không nắm được ý nghĩa đích thật của dấu chỉ. Do đó, Đức Giêsu lánh mặt. Người muốn cho dân chúng hiểu rằng tư cách Mêsia của Người thuộc về một bình diện khác. Tuy nhiên, vị Thiên Chúa đi trốn sự chờ đợi của loài người đó lại có mặt ngay để giải thoát các môn đệ khỏi sợ hãi (x. 6,12.21).
+ Kết luận
Dấu chỉ giới thiệu Đấng Mêsia không phải chỉ có phép lạ hóa bánh ra nhiều, nhưng là toàn bộ các sự kiện: phép lạ, niềm hứng khởi của đám đông và việc Đức Giêsu đi trốn. Muốn hiểu Đức Giêsu là ai, phải hiểu được sự tương phản giữa ý nghĩa của việc hóa bánh ra nhiều theo cách hiểu của đám đông và ý nghĩa theo cách hiểu của Đức Giêsu. Ngoài ra, chúng ta phải hiểu mục tiêu Đức Giêsu nhắm khi làm “dấu lạ” này: tấm bánh thuộc về một người phải trở thành lương thực cho tất cả mọi người. Chúng ta chỉ có thể có một thế giới mới, khi người ta từ khước tính ích kỷ, và chấp nhận đề nghị của Đức Giêsu là chia sẻ của cải của mình cho những người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Con số những người theo Đức Giêsu đạt tới đỉnh cao với việc làm cho bánh hóa nhiều: khoảng năm ngàn người đàn ông. Nhưng sau Bài giảng về bánh ban sự sống từ trời xuống, chỉ còn lại Nhóm Mười Hai (Ga 6,67). Chính Đức Giêsu hướng dẫn một tiến trình làm sáng tỏ. Người khẳng định rõ ràng những gì Người phải làm, chứ không làm một vài chuyện thỏa hiệp tùy theo sự chờ đợi của dân chúng. Tiêu chuẩn Người nhắm không phải là con số các kẻ đi theo Người, nhưng là sứ mạng đã được Chúa Cha giao phó. Nếu chúng ta đặt nơi Người những chờ đợi sai lầm, chúng ta sẽ thất vọng về Người. Nếu ngược lại, chúng ta lắng nghe Người và đón nhận các ân huệ Người ban, Người sẽ đưa chúng ta đến sự sống viên mãn.
2. Mọi sự bắt đầu nơi Đức Giêsu. Không ai yêu cầu Người cung cấp lương thực cho đám đông ấy. Trong thời gian hoạt động công khai, Đức Giêsu luôn cho người ta thấy như vậy: Người tự mình mà đến, không cần lệnh hoặc lời cầu xin, theo trách nhiệm Chúa Cha giao. Người hành động theo sáng kiến riêng, phù hợp với ý muốn của Chúa Cha. Người quyết định cho đám đông ăn; Người truyền lệnh và các môn đệ mời dân chúng ngồi xuống. Bánh thì chưa có, thế mà người ta đã phải ngồi xuống, có thứ tự và gần nhau, để được phục vụ, như trong một bữa tiệc. Kế đó Đức Giêsu đã cư xử như một người cha gia đình khi bắt đầu bữa ăn: cầm lấy bánh, đọc lời kinh chúc tụng, tạ ơn, rồi phân phát bánh. Từ số tài nguyên nghèo nàn, Người cho đám đông ăn no nê. Sau đó, Người ra lệnh cho các môn đệ thu gom các mẩu thừa. Mỗi việc đều được Người bố trí và quyết định và đều diễn tả sứ mạng của Người.
3. Đức Giêsu đã chứng tỏ khả năng giúp đỡ của Người là một khả năng không giới hạn: không chỉ có thể phục vụ các cá nhân hay các nhóm nhỏ, mà còn có thể đáp ứng nhu cầu của một một đoàn người rất đông. Không một trở ngại nào có thể giới hạn quyền lực của Người. Phần Người, Người có thể quy tụ tất cả mọi người lại quanh Người và cho mọi người được no thỏa; Người không loại trừ một ai, Người có đủ cho mọi người. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra cho loài người là: họ có biết trân trọng và muốn chấp nhận những gì Người sẵn sàng ban cho không?
4. Đám đông đã muốn tôn Đức Giêsu làm vua. Bởi vì Người đã xử sự một cách uy quyền và tự khả năng riêng, Người không chấp nhận để cho người ta áp đặt cho Người một vai trò trong đó họ có thể trục lợi theo ý riêng của họ. Các việc quyền lực Người thực hiện càng to lớn, các hiểu lầm của dân chúng càng trầm trọng. Đức Giêsu tránh khỏi đám đông. Trong Bài giảng về bánh hằng sống, Người sẽ giải thích dấu lạ bánh hóa nhiều. Rõ ràng chúng ta không được quy định cho Người điều Người phải ban cho chúng ta. Chúng ta không được cư xử y như thể chúng ta biết rõ hơn Người điều gì tốt cho chúng ta. Đứng trước Đức Giêsu, Đấng uy quyền và tốt lành đến thế, chúng ta chỉ có thể bày tỏ hai thái độ, là cởi mở và tin tưởng.
65. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.
HÓA BÁNH RA NHIỀU
Tương quan với sách Nhất Lãm
Bài trần thuật này là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng thuật lại. Rất có thể Gioan có trước mắt một truyền khẩu rất cổ xưa, song song với truyền khẩu của các sách Nhất Lãm, đặc biệt với các phần sau đây: hoá bánh ra nhiều, đi qua biển hồ, ông Phêrô tuyên xưng đưc tin (x. Mc 8). Tuy nhiên Gioan vẫn ghi dấu ấn riêng của mình.
Dẫn nhập (cc. 1-4)
Bài trần thuật được dẫn nhập bởi một công thức mập mờ “chung chung”, quen thuộc với Gioan: “sau đó” (từ gặp công thức này trong 3,22; 5,1.14; 6,1; 7,1; 19,38; 21,1). Chúa Giêsu, các môn đệ, dân chúng (“đông đảo dân chúng”, dụng ngữ bất thường nơi Gioan), ngọn lửa bên kia Biển Hồ, thời điểm lễ Vượt Qua: các nhân vật, hoàn cảnh, địa điểm và thời gian được xác định ngay từ đầu. Đồng thời chủ đề “đi theo Chúa Giêsu” cũng được dẫn nhập vào; chủ đề này sẽ được lặp đi lặp lại trong suốt chương này. Việc sắp đến lễ Vượt Qua, việc xác định địa điểm ở trên núi, việc nhắc lại các dấu lạ (chữa lành những kẻ đau ốm), tất cả đều tạo cho các độc giả thân quen một sự gần gũi (ngày càng sẽ trở nên rõ ràng hơn) với biến cố Xuất hành và với ông Môsê.
Dấu lạ (cc. 5-13)
Ngay từ đầu, bài trần thuật tập trung vào Chúa Giêsu. Người là nhân vật điều hành mọi sự: Người nhìn thấy đám đông, hỏi ông Philipphê khi biết rõ mình sắp làm gì. Người ra lệnh cho ngồi xuống. Chính Người cũng khởi đầu việc phân phát bánh. Luôn luôn được sự thông hiểu của mình hướng dẫn, “Người biết họ sắp tôn mình làm vua” (c. 15), nên lánh mặt đi lên núi một mình.
Có hai ẩn ý liên quan đến Kinh Thánh: trước hết liên tưởng đến Elisê (2V 4,42-44), hoá bánh lúa mạch ra nhiều đến nỗi “ăn xong hãy còn dư như lời Chúa phán”, nhất là so chiếu với manna mà Thiên Chúa ban cho dân Người theo số lượng quy định. Khác hẳn với thời kỳ Xuất hành, ở đây không có định lượng (còn lại được mười hai thúng bánh), mà có sự kỳ diệu (cỏ tươi xanh tốt nhắc đến những đồng cỏ xanh tươi của Tv 23,1-2 nơi mục tử thời Mêsia sẽ chăn dắt đoàn chiên của mình. Thời kỳ Xuất hành, mà người Do Thái mong đợi cho thời cuối cùng, được lặp lại; vị ngôn sứ đang ở kia và dân chúng muốn tôn Người làm vua.
Chúng ta cũng nên thêm rằng, trong khi được biến cố Xuất hành làm sáng tỏ, bài trần thuật này thường khiến ta nghĩ đến bí tích Thánh Thể: từ ngữ này là thứ từ ngữ mà các Kitô hữu thuộc cộng đoàn của Gioan có thói quen nghe được qua việc cử hành Thánh Thể, “Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn” (c. 11). Đúng là Gioan không sử dụng công thức truyền thống mà ta gặp thấy trong các sách Nhất Lãm và quả thiếu dụng ngữ (“Người bẻ bánh ra”). Tuy nhiên nơi thánh Giuttinô ta cũng bắt gặp chính công thức đó và cũng thấy thiếu dụng ngữ đó. Cũng giống như vào buổi chiều bữa tiệc ly, chính Chúa Giêsu phân phát bánh (chứ không phải các môn đệ như trong các bản văn Nhất Lãm). “Đừng để gì phải phí đi” (c. 12): ghi chú này bộc lộ nỗi niềm lo lắng vượt quá thời kỳ lịch sử của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu trao ban dư dật (2,6) hầu cho Giáo Hội hưởng nhận ân huệ của Người. Chúa Giêsu đến “để mọi người được sống và sống dồi dào” (10,10). Cần phải có đầy đủ ân huệ cho mọi thế hệ Kitô giáo.
Bài trần thuật kết thúc bằng một sự hiểu lầm. Qua dấu lạ, Chúa Giêsu đã bày tỏ điều gì đó về căn tính của mình và về sự ăn rễ sâu của mình trong lịch sử thánh: Là ngôn sứ, Người cũng là Đấng Mêsia (4, 19.26). Gioan là người duy nhất trong các thánh sử thuật lại cho chúng ta phản ứng của dân chúng trước dấu lạ. Dân chúng đồng hoá Chúa Giêsu với vị ngôn sứ mà ông Môsê loan báo trong Đnl 18,15: “Ngay trong dân tộc mình, giữa đồng bào ngươi, Chúa sẽ gây dựng cho ngươi một tiên tri như ta: người phải theo người”. Tuy nhiên người Do Thái vào thời của Chúa Giêsu lại không thống nhất về vai trò chính xác của vị ngôn sứ này. Bởi vậy cho nên Chúa Giêsu trốn đi, vì lẽ Người không phải là vị ngôn sứ như dân chúng cầu mong trong sự đợi trông một Đấng Mêsia trần thế.
Từ bài trần thuật đầu tiên này, chúng ta ghi nhận có ba thời kỳ khác biệt được khéo léo đan xen vào nhau: thời kỳ Xuất hành lúc bắt đầu cuộc thăng trầm của Israel, cuộc gặp gỡ lịch sử với Chúa Giêsu tạo nên tiến trình của bài trần thuật và thời kỳ của Giáo Hội. Điều đó muốn nói lên rằng qua ba cảnh huống lịch sử khác nhau này, tồn tại một câu hỏi căn bản: làm cách nào để tin vào Thiên Chúa trong sa mạc (bánh manna)? Qua việc nhập thể (Chúa Giêsu)? Trong Giáo Hội (Thánh Thể)?
Mục tiêu của Chúa Giêsu trong Gioan nhằm tỏ lòng thương xót dân chúng thiếu thốn lương thực ít hơn là tỏ lộ căn tính đích thực của Người; thực hiện điều này, Gioan đặt để các môn đệ ra sau để tập trung toàn bộ bài trần thuật vào nhân cách đầy uy quyền của Chúa Giêsu, đưa dẫn đến mọi biến cố và giải thích chúng. Bài trần thuật kết thúc bằng một thất bại, thế nhưng phần tiếp theo cố gắng làm cho sự mặc khải được thành công bằng cách đào sâu biểu tượng bánh đã hiện rõ trong dấu lạ. Như vậy ta sẽ hiểu rằng Đấng ban bánh, chính Người là bánh trao ban cho mọi người.
66. Chú giải của Noel Quesson.
Trong suốt 5 Chúa nhật mùa hạ, chúng ta gián đoạn việc đọc Tin Mừng theo Thánh Maccô, để đọc chúng 6 nổi tiếng của Thánh Gioan. Đó là trình thuật về Bánh Hằng Sống: Bắt đầu bằng “sự hóa bánh ra nhiều" và tiếp tục bằng "bài giảng về Bánh hằng sống”. Gioan cho chúng ta một suy niệm về Bí tích Thánh Thể và về đức tin do chính Đức Giêsu diễn giải.
Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia biển hồ Galilê cũng gọi là biển hồ Tibêria. Có đông đảo dân chúng theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm và chữa lành kẻ đau ốm.
Đoạn cuối của câu chuyện này (Ga 6,66) cho chúng ta thấy rõ đám đông đang ham muốn xem phép lạ, là một đám đông "không tin": Họ từ chối theo Đức Giêsu trong đức tin.
Ngày nay chúng ta cũng vẫn thích "những sự lạ" như đám đông ở Galilê. Những phép lạ của Đục Giêsu, có thể trở thành một cái bẫy, một con đường sai lạc đối với đức tin chân chính. Lạy Chúa, xin giúp chúng con theo Chúa đến cùng, ngay trong đời thường và trong những cái tầm thường, không có gì lạ lùng qua cuộc sống hằng ngày. Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được "ý nghĩa" thâm sâu những phép lạ của Chúa, vượt trên những ấn tượng trước mắt.
Lúc ấy sắp đến lễ Vượt qua là đại lễ của người Do Thái.
Ở đây ám chỉ đến công cuộc vượt qua của Chúa đã tới gần, cũng như lời chúc lành trên bánh mà lát nữa Chúa sẽ dùng ("Eucharistèsas" trong tiếng Hy Lạp) đã mang “ý nghĩa" mà Thánh Gioan muốn nói lên trong việc hóa bánh ra nhiều: Hiển nhiên Người nghĩ đến Bí tích Thánh Thể. Khi viết trình thuật này, Thánh Gioan đã cử hành Bí tích Thánh Thể, lễ Vượt qua của Kitô hữu, từ 40 hay 50 năm rồi nghĩa là từ khi Đức Giêsu đã sống Bữa tiệc Ly như một bữa ăn vượt qua.
Ngước mắt lên Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?" Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết là mình sắp làm gì rồi.
Thiên Chúa là tình yêu, Đức Giêsu giới thiệu Thiên Chúa cho chúng ta biết. Ngài thấy nhu cầu của nhân loại.
Phép lạ Người sẽ thực hiện là một nghĩa cử yêu thương. Việc trao ban Thánh Thể là một tác động yêu thương. Chúng ta hãy nghe câu hỏi của Người. Câu hỏi này luôn mang tính thời sự. Vâng, lạy Chúa, Chúa yêu cầu chúng con hãy nhìn xem con người đang đói khát, với những nhu cầu tự nhiên nhất. Chúa nói: "Hãy cho họ có cái ăn"... cho ăn, đơn giản thế thôi! Còn chúng ta, lại thường nghĩ tưởng đến một Thiên Chúa xa xôi trên các tầng mây. Chính Chúa đã đem chúng con trở về với cuộc sống "thường nhật" với lương thực hằng ngày. Đó là chúng ta phải khiêm tốn phục vụ.
Ông Philípphê đáp: "Dạ có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút". Một trong các môn đệ là ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, thưa với Người: "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu!".
Trước những vấn đề lớn của nhân loại: "đói khát", “hòa bình", "công lý", chúng ta thường trả lời: "Chúng ta có thể làm gì được? Việc này quá sức chúng ta". Quả thật, một mình tôi không thể giải quyết toàn bộ vấn đề. Nhưng có vì thế mà tôi được miễn khỏi phải làm một việc nhỏ cần thiết để giải quyết vấn đề không? Tôi có được miễn khỏi phải tiếp tay với các nhóm, các hiệp hội đã hoạt động để giải quyết các vấn đề trên không?
Dù sao đi nữa, điều đáng chú ý là vào ngày hôm ấy, Đức Giêsu đã không muốn làm một hành vi sáng tạo "từ không mà có" (Người cũng có thể làm thế được lắm chứ!). Người đã dùng những thức ăn do loài người chế biến. Điều này nhắc chúng ta rằng: Thông thường Thiên Chúa không thay thế chúng ta. Vả lại còn một điều kiện cần thiết khác nữa cho việc hóa bánh ra nhiều là cậu bé đó chấp thuận cho những gì cậu đã có thể dành riêng cho cậu từ khi cậu lên đường.
Qua những chi tiết đó, ngày nay Thiên Chúa của Đức Kitô cũng kêu gọi chúng ta. Con người thường kết tội Chúa, vì để hai phần ba nhân loại phải đói khát. Chúa trao trách nhiệm đó cho chúng ta. Bình thường Thiên Chúa không thay thế cho tạo vật. Chúng ta đang thuộc về thế giới phương Tây, nơi những siêu thị đầy ắp thức ăn. Và chúng ta tiếp tục dự trữ, thu góp rồi than phiền. Chúng ta tiếp tục đòi hỏi không cùng để thêm tiện nghi, gia tăng lợi tức, lợi nhuận. Chúng ta từ chối giảm bậc lương để bớt tài sản những người giàu và tăng tài sản cho những người kém may mắn. Chúng ta có thể tán rộng trình thuật Tin Mừng này: "Thuở xưa có một cậu bé có năm chiếc bánh và hai con cá, trong khi đó 5.000 người đã không có gì ăn. Cậu ta giữ cho mình năm ổ bánh đó và đi xa khỏi đám đông để ăn bánh đó một mình, một cách vụng trộm.
Điều tệ hại là chúng ta không ăn cách vụng trộm. Ngày nay, những người bị đói trên thế giới biết chúng ta không bao giờ bị đói.
Đức Giêsu nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi". Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoản năm ngàn. Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá, Người cũng phân phát như vậy ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý.
Theo sự khôn ngoan tự nhiên, ông An rê nói: “Với bằng ấy thì thấm vào đâu?". Trước lý trí con người, Chúa vẫn đòi hỏi thái độ vượt lên của đức tin: Đó là thái độ mạo hiểm cao đẹp, mãnh liệt tin cậy đối với một người khác. Người "tín hữu” trở thành người cộng tác với Chúa, trong những hành động vượt xa phương tiện của con người.
Đức Giêsu đã "tạ ơn" (Euchanstèsas). Người đang ở trong âm vực của đức tin, trong tương quan mật thiết với Chúa Cha. Đó là cảm tưởng của Người trong lúc đó. Diễn từ “Bánh hằng sống" tiếp theo, sẽ cho thấy Người đã nghĩ đến mầu nhiệm vô biên của bữa ăn vượt qua mà một ngày kia Người sẽ trao ban cho loài người qua mọi thời đại. Đức Giêsu không coi thường "cơn đói của thể xác" nhưng Người nghĩ đến "cơn đói Thiên Chúa" mà dưới cái nhìn của Người, còn trầm trọng hơn.
Khi họ đã ăn no nê rồi, Người bảo các môn đệ: Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi".
Đây không phải là một chi tiết phụ. Sự dư thừa này đã từng xảy ra ở tiệc cưới Cana: Đức Giêsu đã hóa ra nhiều. Hóa "bánh" và "rượu” ra nhiều? Quả thật, Đức Giêsu đã nhìn xa hơn đám đông những người Galilê hay những thực khách ở tiệc cưới Cana. Bánh và rượu của Thiên Chúa dành cho mọi người. Nhưng ai là người thực sự đói và khát? Người ta thu lại những miếng thừa. Tôi tưởng tượng những giỏ đầy (12 giỏ). Ai đã có thể có mặt ở đó để ăn những giỏ bánh này, và ai đã không có ở đấy?
Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian".
Con người ở mọi thời đại vẫn mong chờ một người “được Chúa sai đến", chờ một "giải pháp lạ lùng" có thể miễn trách nhiệm cho họ. Trong thâm tâm, chúng ta vẫn còn tư tưởng của những người thời sơ khai, hy vọng rằng những "công thức ma thuật" sẽ giải quyết khó khăn của chúng ta. Người ta không còn thi hành những nghi lễ hủ tục nhưng lại là nạn nhân của nhưng khẩu hiệu, những lời hứa điên rồ những ý thức hệ mang tính ma thuật của “tiến bộ", của "ngày mai vui tưới". Chúng ta hãy đổi cơ cấu và tất cả sẽ được giải quyết Những nhà ma thuật nói như vậy Chúa thì bảo: "Hãy thay đổi lòng dạ các ngươi ". Lúc bấy giờ những sự thay đổi cơ cấu sẽ là một cái gì khác hơn là một sự thay đổi chế độ nô lệ.
Nhưng, Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm Vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Cơn cám dỗ "chính trị" của những người đồng thời với Chúa không có gì là không hợp thời. Nó không phải là một hiện tượng thuộc quá khứ. Biết đến bao giờ chúng ta mới hết những cơn sốt mong đợi Đấng Mêsia giả? Bao giờ chúng mới hiểu rằng, Chúa đã luôn luôn từ chối không để cho người ta "đóng khung" Người trong những quan điểm trần thế? Không phải vì những việc trần thế không có giá trị, nhưng người ta không thể giảm thiểu con người trong chiều kích đó. Chúa vẫn không ngừng kêu lên, như triết gia Diogène, rằng: "Các người sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu chỉ là những con heo được ăn no bụng". Cái đói cơ bản của con người không phải là đói lương thực. Các bạn đừng bỏ bê công việc trần thế, hay những quyết định chính trị, xã hội, kinh tế mà các bạn phải thể hiện. Nhưng xin làm ăn đừng quên rằng phẩm giá cao quý nhất của con người là khả năng kỳ diệu mở rộng lòng hướng tới siêu việt hướng đến Thiên Chúa. Chúa nói: Xin làm ơn cho Ta đóng vai của Ta, vai trò mà chỉ có Ta mới đóng được để “giúp các con", để xóa cơn đói cho các con. Chúa khước từ kế đồ "giải phóng" chính trị mà không người đương thời với Chúa đã muốn lôi kéo Chúa vào. Bên bờ vinh quang và thành công, "Người lui vào thanh vắng một mình", Người nghĩ về vai trò khác mà Người sẽ phải làm tròn. Sáng mai cũng với đám đông này, Người sẽ cố gắng giúp cho họ hiểu "Người là ai", là Bánh ban sự sống đích thực. Nhưng ai "đói Thiên Chúa"? Chương VI của Thánh Gioan sẽ kết thúc với nỗi cô đơn bi thiết của Chúa trước nhóm Mười Hai (Ga 6,66-71).
67. Chú giải của William Barclay.
BÁNH VÀ CÁ
Có những lúc Chúa Giêsu muốn tránh khỏi đám đông. Ngài bị căng thẳng liên tục nên cần được nghỉ ngơi. Hơn nữa, đôi lúc Ngài cần ở riêng với các môn đệ để hướng dẫn họ hiểu biết sâu nhiệm hơn về chính Ngài. Ngài cũng cần có thì giờ để cầu nguyện. Trong cơ hội đặc biệt này, tốt nhất là tránh đi xa trước khi xảy ra sự va chạm với các người cầm quyền, vì thời điểm xung đột cuối cùng vẫn chưa đến.
Chúa Giêsu xuống thuyền và ra đi. Từ Caphacnaum qua bên kia bờ biển Galilê cách chừng bốn dặm. Dân chúng đã chứng kiến những điều lạ lùng Ngài làm, nên họ vội vã chạy vòng theo dọc bờ qua mé bên kia, vì rất dễ thấy hướng thuyền Chúa đi. Sông Giođan chảy vào mạn bắc biển hồ Galilê. Cách đó hai dặm về phía thượng lưu, có chỗ cạn. Gần chỗ cạn này, có một làng, gọi là Bétxaiđa để phân biệt với làng Bétxaiđa khác ở Galilê, và Chúa Giêsu đang nhắm đi đến điểm ấy (Lc 9,10). Gần Bétxaiđa có một cách đồng nhỏ cạnh bờ biển, lúc nào cũng có cỏ xanh, tên là Enbatigia. Đó là nơi phép lạ này xảy ra.
Thoạt tiên Chúa Giêsu đi lên ngọn đồi phía sau cánh đồng và ngồi với các môn đệ. Đám đông bắt đầu xuất hiện. Họ đã đi thật nhanh, vượt qua chín dặm đường vòng lên phía trên biển hồ, qua chỗ sông cạn mới đến nơi. Gioan cho biết lúc ấy đã gần đến Lễ Vượt Qua, nên các nẻo đường chắc có đông người bình thường. Có thể là nhiều người đang theo con đường ấy lên thành Giêrusalem. Nhiều khách hành hương từ Galilê lên phía bắc, vượt chỗ sông cạn, qua Bêrê đi xuống phía nam, rồi trở lại bên này sông Giođan gần Giêricô để đến Giêrusalem. Con đường đó dài hơn, nhưng tránh được vùng đất của dân Samari mà họ rất ghét. Dường như đám đông này càng ngày càng đông thêm, do số khách hành hương đang trên đường đi dự Lễ Vượt Qua.
Khi thấy đoàn người đông đảo ấy, Chúa Giêsu động lòng thương xót. Họ đang đói và mệt, phải cho họ ăn. Ngài quay sang Philipphê là điều tự nhiên, vì quê ông ở Bétxaiđa (Ga 1,44), ông biết rõ địa phương này. Ngài hỏi ông có thể đi tìm thức ăn ở đâu. Câu trả lời của ông đầy thất vọng, ông bảo cho dù có đi tìm được thức ăn đi nữa cùng phải tốn hơn hai trăm đồng mới đủ cho đám đông đó, mỗi người một ít. Một đồng là tiền lương một ngày của một công nhân. Theo tính toán của ông, phải có hơn sáu tháng lương của một công nhân mới dám nghĩ đến chuyện cho một đám đông như thế ăn mỗi người một chút.
Bấy giờ, Anrê xuất hiện. Ông đã phát hiện được một cậu bé có năm chiếc bánh lúa mạch với hai con cá. Chắc cậu bé đi chơi và mang theo các món ấy để ăn. Rồi như mọi trẻ nhỏ, cậu bị lôi cuốn nhập theo đám đông. Anrê có tính tốt là thường đưa người khác đến giới thiệu với Chúa.
Thức ăn cậu bé mang theo chẳng bao nhiêu. Bánh lúa mạch là loại bánh rẻ tiền nhất, bị coi thường. Trong kinh Mishnah có một điều về lễ vật mà một người đàn bà phạm tội ngoại tình phải dâng. Dĩ nhiên, người đó phải dâng lễ chuộc tội. Thêm vào đó là lễ chay gồm bột, rượu và dầu trộn lẫn với nhau. Thông thường bột dùng là bột mì, nhưng theo luật định cho trường hợp dâng lễ vật vì tội ngoại tình, thì bột có thể là bột lúa mạch, là thức ăn gia súc, và tội ngoại tình của người đàn bà là tội của súc vật. Bánh lúa mạch là bánh của người thật nghèo.
Còn cá chắc chẳng lớn hơn cá nục. Cá muối xứ Galilê vốn nổi tiếng khắp Roma. Vào thời đó, cá tươi là xa xỉ phẩm, ít có, vì không có phương tiện chuyên chở đi xa và khó bảo quản tươi được. Những loại cá nhỏ như cá nục thì nhiều vô kể trong biển Galilê. Người ta đánh bắt, sau đó đem muối. Cậu bé cũng có cá muối nhỏ để nuốt cho trôi khẩu phần bánh lúa mạch khô khan.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ cho đám đông ngồi xuống. Ngài cầm lấy bánh và Ngài chúc phúc. Khi hành động như thế là Ngài đã làm như một người cha trong gia đình. Lời tạ ơn mà Ngài dâng lên là câu thông thường vẫn được người Do Thái sử dụng trong mỗi nhà: “Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, chúng con tạ ơn Ngài, Đấng đã khiến đất sinh ra bánh”. Đám đông được ăn no nê. Ngay đến từ no nê cũng rất gợi ý. Theo nguyên văn tiếng Hy Lạp cổ, chữ đó chỉ việc cho súc vật ăn rơm, và khi dùng cho người có nghĩa là ăn no đến ngán.
Khi dân chúng đã no rồi, Chúa Giêsu dạy các môn đệ thu nhặt những mẩu bánh vụn còn thừa. Tại sao lại có các mẩu bánh vụn? Theo phong tục Do Thái, khi ăn tiệc người ta có thói quen để lại chút gì đó cho các đầy tớ giúp việc. Phần thừa đó được gọi là Peah, chắc đám đông đó đã để lại phần thường lệ cho số người đã phục vụ họ trong bữa ăn.
Số thức ăn còn dư thừa, người ta đã lượm được mười hai giỏ đầy. Chắc mỗi môn đệ đều có một giỏ (kophinos). Các giỏ ở đây có hình giống cái chai, người Do Thái luôn đem theo cái giỏ này khi đi đường. Sách Juvenal (3,14; 6,542) hai lần nói về “người Do Thái với cái giỏ và cuộn rơm” (gói cỏ khô dùng làm đệm nằm, vì rất nhiều người Do Thái sống đời du mục). Người Do Thái với chiếc giỏ bất ly thân là một hình ảnh rất đặc trưng. Một mặt vì cá tính hay thu nhặt, mặt khác vì họ phải đem theo khẩu phần của mình để giữ đúng luật Do Thái về vấn đề tinh sạch và không tinh sạch. Với các thức ăn còn thừa, mỗi môn đệ đều nhặt đầy giỏ mình. Thế là cả đám đông đã được ăn no nê, dư dật.
Ý NGHĨA CỦA MỘT PHÉP LẠ
Có ba cách người ta nhìn và giải thích phép lạ này.
1. Chúng ta có thể xem phép lạ này là một việc có thực, xảy ra đúng như nghĩa đen là Chúa Giêsu đã làm cho bánh và cá của em bé tăng lên cho hơn năm ngàn người ăn và còn dư đến mười hai giỏ. Câu 5 cho biết khi nhìn thấy đoàn dân đông đảo đến cùng mình, Chúa Giêsu đặt vấn đề thức ăn cho họ với Philipphê ngay. Phần tường thuật trong Phúc Âm Mc 6,34-38 ghi lại: Chúa động lòng thương “vì họ như chiên không có người chăn”. Ngài dạy dỗ, lo cho họ thức ăn tâm linh xong, lại truyền cho các môn đệ “anh em cứ bảo người ta ngồi xuống”. Lòng trắc ẩn sâu xa trong Chúa Kitô không thể chối từ hay lơ là một nhu cầu thể chất và tâm linh lớn lao của đoàn dân lúc bấy giờ. Do đó phép lạ này xảy ra như dân chúng đã chứng kiến, và Gioan ghi lại trong câu 14.
Tuy nhiên, có người cũng đặt câu hỏi, tại sao Chúa Giêsu từ chối hóa đá thành bánh trong lúc ma quỷ cám dỗ (Mt 4,3-4). Thật ra, Chúa Giêsu làm phép lạ để bày tỏ vinh hiển và quyền năng Thiên Chúa, và đáp ứng nhu cầu đích thực của một người hoặc một đám đông dân chúng. Chúa không ích kỷ để chỉ thấy lợi riêng. Ngài đang bị đói sau 40 ngày không ăn. Đây là điều mà mỗi chúng ta cần bén nhạy, nhìn thấy rõ vấn đề, khi làm bất cứ công tác hoặc chương trình gì: (a) Công tác đó có tôn vinh, làm sáng danh Chúa không? (b) Nhằm thỏa đáng nhu cầu lớn lao của công việc nhà Chúa, của cộng đoàn, hay chỉ vì lợi ích riêng của cá nhân, của đoàn thể mình, hoặc chỉ làm “để điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa”. Từ câu hỏi trên, chúng ta cũng có thể giải thích hai cách khác nhau sau đây:
2. Đây có thể là bữa Tiệc Thánh. Vì trong phần kế tiếp lúc nói về ăn Thịt và uống Máu Ngài, ngôn ngữ Chúa dùng đúng là ngôn ngữ của bữa Tiệc Thánh. Có thể trong bữa ăn này, mỗi người chỉ nhận một mẩu bánh nhỏ như bánh của Tiệc Thánh, và sự cảm xúc về sự hiện diện của Chúa Giêsu cùng sự thực hữu của Thiên Chúa đã biến những miếng bánh thành thức ăn bổ dưỡng cho tấm lòng và linh hồn của họ, như trong Tiệc Thánh chúng ta ngày nay.
3. Cũng có một lối giải thích thật dễ thương khác như sau. Khó có thể nghĩ rằng đám người theo Chúa suốt mười lăm cây số mà không chuẩn bị lương thực gì. Nếu có thêm những người hành hương nữa thì chắc chắn họ phải có đem theo bánh để ăn riêng, chẳng ai muốn đưa bánh mình ra. Lúc ấy Chúa Giêsu với nụ cười trên môi, đưa số bánh của Ngài và các môn đệ ra, Ngài tạ ơn Thiên Chúa rồi bẻ ra phân chia cho mọi người. Đám đông thấy thế cảm động, ai nấy đều đưa thức ăn của mình ra. Cuối cùng thì mọi người đều được ăn no nê và còn dư nữa. Có thể đây là phép lạ trong đó sự hiện diện của Chúa Giêsu đã biến đám động ích kỷ thành một tập thể những người biết chia sẻ cho nhau. Câu chuyện này tượng trưng cho một phép lạ lớn hơn, đó là phép lạ thay đổi lòng người.
Dù hiểu thế nào đi nữa thì cũng cần phải lưu ý đến một số nhân vật.
a. Anrê: có sự tương phản giữa Anrê và Philipphê. Philipphê nói: “Hoàn cảnh thật là tuyệt vọng, chẳng có thể làm gì được cả. “Anrê thì nói: “Để tôi coi có thể làm gì, và phần còn lại tôi trao cho Thầy mình làm”. Chính Anrê đã đưa cậu bé đến Chúa Giêsu. Chúng ta không thể biết được sẽ có gì xảy ra khi đưa một người nào đó đến với Chúa Giêsu. Nếu cha mẹ giáo dục con cái mình trong sự nhận biết, yêu thương, kính sợ Chúa, biết đâu một ngày nào đó đứa con sẽ có thể làm được những việc lớn lao cho Thiên Chúa và loài người. Khi một giáo lý viên đem một em bé đến với Chúa Giêsu, không ai biết được một ngày kia, em bé ấy sẽ làm được gì cho Chúa Giêsu và Hội Thánh. Có một câu chuyện kể rằng, một giáo lý viên người Đức mỗi sáng bước vào lớp học của mình đều trịnh trọng ngả mũ chào cả lớp. Có người hỏi tại sao ông làm như thế, ông đáp: “Có ai biết được một ngày nào đó, một trong các em đây sẽ làm nên công trạng”. Ông đã nói đúng.
b. Cậu bé: Cậu bé chẳng có gì nhiều để dâng cho Chúa. Nhưng với lễ vật đơn sơ của cậu, Chúa Giêsu đã có chất liệu để thực hiện phép lạ. Nếu cậu cứ giữ lại bánh và cá cho riêng mình, thì sao?
Chúa Giêsu cần những gì chúng ta đem đến cho Ngài. Ngài không cần mỗi chúng ta mang đến thật nhiều, nhưng cần những gì chúng ta đang có. Có thể là thế giới đã không nhận được phép lạ này đến phép lạ khác, chiến thắng này để chiến thắng khác, chỉ vì chúng ta đã không chịu đem đến cho Chúa những gì mình có, không chịu đến với Chúa bằng chính con người hiện tại của mình. Nếu chúng ta bằng lòng dâng chính mình trên bàn thờ để phục vụ Chúa Giêsu thì Ngài dùng chúng ta. Có thể chúng ta hối tiếc và hổ thẹn vì mình không có gì nhiều để dâng, hối tiếc và hổ thẹn như vậy là đúng. Nhưng chúng ta không có lý do gì để từ chối dâng cho Ngài những gì mình có. Dù ít, bao giờ cũng thành nhiều trong tay Chúa.
ĐÁP ỨNG CỦA ĐÁM ĐÔNG
Đến đây, chúng ta thấy phản ứng của đám đông. Dân Do Thái đang trông chờ vị ngôn sứ mà Môsê đã hứa. “Từ giữa anh em ngươi, Đức Chúa và là Thiên Chúa ngươi sẽ lập nên một Đấng ngôn sứ như ta, các ngươi hãy theo Đấng ấy”. (Đnl 18,15). Dân Do Thái đang trông đợi Đấng Mêsia, Đấng được chọn của Thiên Chúa. Qua cả lịch sử, họ đã chờ đợi và đến bây giờ vẫn còn chờ đợi. Lúc ấy tại Bétxaiđa Giulia, họ đã sẵn sàng thừa nhận Chúa Giêsu là ngôn sứ đã được hứa ban, và biểu tình tung hô, tôn Ngài lên nắm chính quyền. Nhưng chẳng bao lâu sau, một đám đông khác lại reo hò: “Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!” Tại sao lúc đó đám đông lại hoan hô Chúa Giêsu?
Họ nhiệt tình ủng hộ Chúa Giêsu vì Ngài đã ban điều họ muốn. Ngài đã chữa bệnh tật, đã cho ăn no nê nên họ muốn tôn Ngài lên làm lãnh tụ. Ngài ta có thể mua được lòng trung thành theo cách đó, một sự trung thành lệ thuộc vào ân huệ, tặng vật, hay nói rõ hơn là bằng của hối lộ. Người ta có thể mua được tình thương theo cách đó, một tình thương bởi thức ăn thức uống. Trong những giây phút cay cú nhất, tiến sĩ Johnson đã định nghĩa lòng biết ơn là “một cảm thức sinh động về những ân huệ mà người ta hy vọng sẽ còn được nhận thêm”.
Thái độ của đám đông làm chúng ta ghê tởm. Nhưng chúng ta có hơn họ? Mỗi chúng ta muốn được an ủi khi đau buồn, muốn có sức mạnh khi gặp khó khăn, muốn được bình an trong cơn xáo trộn, muốn được sự trợ giúp lúc đời mình xuống dốc, thì chẳng hề có ai kỳ diệu bằng Chúa Giêsu, và chúng ta đến nói chuyện với Ngài, đi cùng Ngài, mở lòng mình ra cho Ngài. Nhưng khi Ngài đến cùng chúng ta với một đòi hỏi hy sinh, với một thách thức nỗ lực, với đề nghị vác thập giá, thì bấy giờ chúng ta chẳng muốn liên hệ gì với ngài. Nếu tự xét lòng mình, chúng ta sẽ thấy mình cũng chỉ yêu mến Chúa Giêsu vì những gì mình nhận được từ Ngài, còn khi Ngài đến với chúng ta bằng những thách thức, những đòi hỏi quan trọng, chúng ta lờ đi, có khi còn tỏ ra oán ghét, chống lại sự quấy rầy và đòi hỏi của Ngài.
Một lý do nữa để họ tung hô Chúa Giêsu là vì họ muốn lợi dụng Ngài cho mục đích riêng của họ, uốn nắn Ngài theo các ước mơ của họ. Họ đang trông chờ Đấng Mêsia theo ý riêng của họ. Họ tìm một Đấng Mêsia để làm vua và làm nhà chinh phục. Đấng đó sẽ đặt chân lên cổ chim phương hoàng và đánh đuổi người Roma khỏi xứ Palestine, sẽ thay đổi tình thế của Israel từ một nước bị trị thành một cường quốc thế giới, sẽ giải phóng họ khỏi số phận bị chiếm đóng để nâng lên thành một dân tộc đi chiếm đóng nhiều xứ khác. Họ đã chứng kiến những gì Chúa Giêsu làm và họ nghĩ: “Người này có quyền phép kỳ diệu lạ lùng. Nếu chúng ta ép được ông theo các giấc mơ, kế hoạch của chúng ta thì mọi sự sẽ bắt đầu xảy ra theo như điều chúng ta muốn”. Nếu thành thật, chắc họ đã phải thú nhận họ muốn lợi dụng Chúa Giêsu.
Một lần nữa, chúng ta có gì khác họ chăng? Khi chúng ta kêu cầu Chúa, có phải là để được sức lực tiếp tục thực hiện các mưu đồ, ý định của mình không? Hay là để có sự khiêm nhường, vâng phục, chấp nhận các chương trình, ý muốn của Ngài? Lời cầu nguyện của chúng ta là: “Lạy Chúa, xin ban cho con năng lực để thực hiện những điều Ngài muốn con làm” hay “Lạy Chúa, xin ban cho con năng lực để thực hiện điều con muốn làm?”.
Đám đông dân chúng theo Chúa lúc đó vì Ngài đã ban điều họ muốn, và họ ao ước sử dụng Ngài theo mục đích riêng của họ. Thái độ ấy ngày nay vẫn còn. Chúng ta muốn các tặng vật của Chúa mà không muốn thập giá, chúng ta muốn sử dụng Chúa thay vì để Ngài sử dụng chúng ta.
68. Chuyện ăn uống
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
“Xin Cha cho chúng con hôm nay LƯƠNG THỰC hằng ngày…”. Đó là một trong những điều thiết yếu trong lời cầu nguyện mà chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta qua Kinh Lạy Cha (Mt 6:9-13; Lc 11:2-4).
Người ta thường nói: “Có thực mới vực được đạo”. Điều đó cho thấy chuyện ăn uống là điều cần thiết và cơ bản nhất để con người khả dĩ duy trì sự sống. Trước tiên, người ta cần ăn no và mặc ấm; sau đó mới có thể phấn đấu để ăn ngon và mặc đẹp. Vả lại, chuyện ăn uống được người ta coi là “đệ nhất khoái” trong “tứ khoái” của một con người bình thường. Trong bốn thứ cần học khi vào đời, ăn uống là thứ cần phải học đầu tiên: Học ăn, học nói, học gói, học mở.
Ăn uống cũng được chú ý khi người ta có “văn hóa ẩm thực”. Tuy nhiên, cái gì cũng có hai mặt, như con dao hai lưỡi vậy. Miếng ăn thực sự cần thiết nhưng cũng có thể là vinh hoặc nhục: “Người trí quý cái sức, kẻ dại quý cái ăn”. Ăn không lượng thì hại sức khỏe, ngủ không cân thì hại trí tuệ. Tục ngữ có câu: “Ăn được, ngủ được là tiên; không ăn, không ngủ, mất tiền, đâm lo!”. Ăn để có sức khỏe, có sức khỏe thì an tâm sống: “Sức khỏe là vàng”.
Chúa Giêsu cũng rất thực tế. Ngài chăm lo những gì cần thiết và cơ bản nhất: Ăn uống. Ngài luôn quan tâm người nghèo, tại nhà ông Si-môn Cùi ở Bêtania, khi có một phụ nữ xức dầu chân Ngài bằng dầu thơm cam tùng hảo hạng, Chúa Giêsu đã xác định: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Ga 12:8; Mt 26:11; Mc 14:7). Và rồi Thánh Giacôbê cũng khuyên chúng ta “phải kính trọng người nghèo” (Thư Thánh Giacôbê, chương 2).
Người khổ chưa chắc là người nghèo. Nhưng người nghèo thì chắc chắn là người khổ – thậm chí còn hóa khốn, vì luôn bị người đời khinh miệt, nhìn bằng nửa con mắt, bị xa lánh vì sợ “hãm tài”. Vả lại, đáng quan ngại là vì “lý lẽ của người nghèo không được ai nghe thấy” (Sử gia Thomas Fuller, 1608-1661). Có lẽ vì vậy mà người Việt thường “ghép đôi” hai tình trạng này thành một: Nghèo khổ. Quả thật, “sự nghèo đói là hình thức bạo lực tồi tệ nhất” (Mahatma Gandhi, 1869-1948).
Tuy nhiên, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi người nghèo, vì thế họ luôn tin tưởng và nhủ thầm: “Có Thiên Chúa phù trì, thân con đây, Chúa hằng nâng đỡ” (Tv 54:6). Đồng thời họ luôn tâm niệm: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo, vì Chúa giải thoát con khỏi mọi gian nguy, và con đã dám nghênh bọn địch thù” (Tv 54:8-9).
Chuyện ăn uống rất bình thường mà lại quan trọng. Thật vậy, chuyện ăn uống còn liên quan vấn đề kinh tế và chính trị, đồng thời cũng là vấn đề cơ bản trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo.
Hiền triết Trang Tử (Zhuang Zhou hoặc Zhuangzi, 365-290 trước công nguyên) đã nhận định: “Cản trở con người sống vui vẻ, tước đoạt khả năng dệt vải, may mặc, cày cấy, ăn uống, mà lại tô vẽ nó như là nhân nghĩa, đó là tội ác của thánh nhân”. Đó là một dạng giả nhân giả nghĩa, Chúa Giêsu rất ghét loại người này và Ngài đã 8 lần nguyền rủa họ là “đồ khốn” (Mt 23:13-29) và còn gọi họ là “đồ ngu si mù quáng”. Nhức óc quá chừng!
Trình thuật 2 V 4:42-44 đề cập chuyện ăn uống. Đó là chuyện về “nồi cháo độc”. Đã đói meo mà lại gặp loại chao này thì… chết sớm! Kinh Thánh cho biết: Khi ông Ê-li-sa trở về Ghin-gan, nạn đói đang xảy ra trong xứ. Lúc anh em ngôn sứ đang ngồi trước mặt ông, ông nói với tiểu đồng bắc nồi lớn lên bếp và nấu cháo cho anh em ngôn sứ. Một người trong nhóm ra đồng hái rau, tìm thấy một thứ cây giống như nho dại thì hái trái dưa đắng ấy đầy một vạt áo, rồi về nhà, thái nhỏ ra, bỏ vào nồi nấu cháo, vì họ không biết đó là thứ gì. Sau đó, họ múc ra cho mọi người ăn. Vừa ăn chút cháo, họ kêu lên: “Người của Thiên Chúa ơi, thần chết ở trong nồi!”. Thế là họ không thể ăn được nữa. Nhưng ông Ê-li-sa bảo cứ đem bột đến cho ông. Ông bỏ bột vào và bảo múc ra cho mọi người ăn. Lạ thay, trong nồi không còn chất độc nữa. Phép lạ nhãn tiền!
Tiếp theo là “phép lạ hoá bánh ra nhiều”. Kinh Thánh kể rằng có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Thiên Chúa. Đó là 20 chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Ê-li-sa bảo đem phát cho người ta ăn. Tiểu đồng nói chỉ có chừng nấy thì không thể đủ cho cả trăm người ăn được. Nhưng ông bảo cứ phát cho người ta ăn, vì Đức Chúa đã phán: “Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Tiểu đồng vâng lời đem phát cho người ta. Họ đã ăn mà vẫn còn dư, đúng như lời Đức Chúa đã tuyên phán. Lại một phép lạ nhãn tiền nữa. Kỳ diệu quá!
Đối với Thiên Chúa, “không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37), Ngài có thể làm cho những hòn đá trở nên con cháu ông Áp-ra-ham kia mà (Mt 3:9). Vâng, với Thiên Chúa, tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”. Tác giả Thánh Vịnh đã tin nhận như vậy nên đã dâng lời xưng tụng: “Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng” (Tv 145:10-11).
Thiên Chúa biết rõ phàm nhân cần có cái ăn để duy trì sự sống, thế nên Ngài luôn tạo cơ hội làm việc để con người mưu sinh. Không có Ngài thì chúng ta chẳng làm được gì, chắc chắn như vậy. Với kinh nghiệm sống, tác giả Thánh Vịnh chia sẻ với chúng ta qua lời cầu nguyện chân thành: “Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê. Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người” (Tv 145:15-18). Thiên Chúa chẳng chấp lách gì đối với những cái đầu nhỏ mọn, thiển cận và nông cạn của phàm nhân chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta biết khiêm nhường và chân thành cầu xin thì mọi sự đều đâu vào đó. Mà có làm vậy cũng chỉ lợi ích cho chúng ta mà thôi, chứ điều đó cũng chẳng thêm gì cho Ngài.
Với kinh nghiệm đầy mình, nhưng là kinh nghiệm “xương máu”, Thánh Phaolô chia sẻ: “Tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4:1-2). Những lời lẽ rất chân thành, nhưng NGHE là một chuyện, BIẾT là một chuyện, LÀM lại là chuyện khác. Những khoảng cách rất gần mà cũng rất xa!
Thánh Phaolô động viên thêm: “Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. Chỉ có MỘT thân thể, MỘT Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có MỘT Chúa, MỘT niềm tin, MỘT phép rửa. Chỉ có MỘT Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4:3-6). Những cái “một” rất kỳ diệu, đòi buộc chúng ta phải NÊN MỘT, vì thế mà không thể ba bè, năm nhóm hoặc bảy phe, không thể tiêu cực như chúng ta vẫn có “xu hướng” ngay trong các gia đình, các hội đoàn, các cộng đoàn, các giáo xứ,… Chắc chắn kiểu phe nhóm như vậy là đối lập với Thiên Chúa! Tại sao? Vì chúng ta cùng ĂN MỘT TẤM BÁNH – Thánh Thể của Đức Kitô.
Trình thuật Ga 6:1-15 nói về phép lạ hoá bánh ra nhiều mà Đức Giêsu đã làm (Mt 14:13-21; Mc 6:30-44; Lc 9:10-17). Trong phép lạ này có sự hiệp nhất: Đủ loại người đồng tâm nhất trí tụ họp nhau theo Chúa để cùng NÊN MỘT và được nghe lời khôn ngoan của Ngài. Thế nên Ngài thương họ lắm, thương biết sao cho vừa!
Địa danh là bên Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Hôm đó có đông đảo dân chúng đi theo Chúa Giêsu, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Ngài đã làm cho những kẻ đau ốm. Ngài lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Thời gian đó sắp đến lễ Vượt Qua, đại lễ của người Do-thái. Ngước mắt lên, Ngài nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Ngài không bất ngờ mà Ngài thấy thương họ. Ngài hỏi ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”. Ngài nói thế là để thử ông, chứ Ngài đã biết mình sắp làm gì rồi.
Nghe vậy, ông Phi-líp-phê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Các ông vừa gãi đầu vừa nghĩ bụng: “Mèn ơi! Phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh cho họ ăn sao? Tiền đâu mà mua chứ!”. Hai trăm quan tiền là số tiền lớn, dù chưa bằng số tiền giá chiếc bình dầu thơm mà người phụ nữ tội lỗi xức chân Chúa Giêsu tại nhà ông Simôn Cùi ở làng Bêtania: Ba trăm quan tiền (Mt 26:6-13; Mc 14:3-9; Ga 12:1-8), nhưng lại gấp nhiều lần số tiền ông Giuđa đã bán Thầy trong đêm định mệnh năm xưa: Ba mươi đồng (Mt 26:15).
Lúc đó, không biết ông Phêrô nhanh tay lẹ mắt thế nào mà ông liền thưa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!”. Đức Giêsu cười: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”. Chả biết Thầy tính mần chi, nhưng các ông cũng vâng lời Thầy, bảo người ta ngồi xuống cỏ, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Tính cả phụ nữ và trẻ em có thể lên tới cả chục ngàn người.
Mọi người đã yên vị, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho họ. Cá nhỏ, Ngài cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Khi họ đã no nê rồi, Ngài bảo các môn đệthu lại những miếng thừa kẻo phí. Chúa Giêsu rất tiết kiệm, không hề lãng phí, điều này nhắc chúng ta phải biết quý miếng ăn, biết nghĩ đến những người đang đói khổ.
Các môn đệ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. Phần dư còn nhiều hơn phần gốc. Quá đỗi kỳ diệu! Thế nên mọi người rỉ tai nhau: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!”. Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Ngài lại lánh mặt, đi lên núi một mình. Lại một bài học đắt giá nữa: Đừng coi trọng danh vọng, đừng tự tôn, đừng thấy người ta khen mà tưởng mình “ngon” hơn hoặc tài giỏi hơn người khác. Quan nhất thời, dân vạn đại. Tất cả sẽ qua đi, ngay cả những gì mình sở hữu cũng không thuộc về mình. Cuộc đời cũng chỉ còn lại tình yêu thương nhờ biết thương xót, ba nhân đức đối thần cũng “cô đọng” chỉ còn Đức Mến (Đức Ái) mà thôi.
Việc Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều là “dấu chỉ” báo trước về Bí tích Thánh Thể, đồng thời cho chúng ta biết rằng nhu cầu ăn uống liên quan chuyện sinh tồn – cả thể lý và tâm linh. Biết chăm lo cho mình thì cũng phải biết chăm lo cho người khác: Yêu người như yêu mình. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải biết chạnh lòng thương mà quan tâm nhu cầu thiết yếu của người khác. Vâng, quả thật là “có thực mới vực được đạo”. Thể lý yếu đuối có thể ảnh hưởng tinh thần, trí tuệ và tâm linh. Thể xác cần ăn uống để sống khỏe mạnh thì linh hồn cũng cần nuôi dưỡng để sinh tồn.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, con không dám xin Ngài ban cho con những điều con muốn, mà con xin được can đảm chấp nhận và mau mắn thay đổi theo đúng Thánh Ý Ngài. Xin ban cho mọi người có đủ lương thực hàng ngày, để nhờ đó mà họ có thể sống xứng đáng kiếp làm người, đồng thời họ có thể an tâm phụng sự Ngài hết linh hồn và hết sức lực. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
THỎA THUÊ
(CN XVII TN-B – Tv 145:15-18; Ep 4:1-6; Ga 6:1-15)
Muôn loài ngước mắt trông lên
Chúa thương lo liệu cho ăn đúng giờ
Khi Ngài rộng lượng ban cho
Mọi sinh vật được thoả thuê muôn vàn
Lối đường Thiên Chúa chí nhân
Mọi việc Người làm đầy ắp yêu thương
Những ai đau khổ đoạn trường
Chúa luôn gần gũi đỡ nâng đêm ngày
Kiên tâm cầu khẩn Chúa hoài
Ngài không nỡ để lạc loài mãi đâu
Hãy luôn khiêm tốn trước, sau
Hiền từ, nhẫn nại, thương yêu hết lòng
Quyết tâm chịu đựng, chờ mong
Sẽ được no lòng, thỏa khát tâm linh
Hằng ngày có Bánh Ân Tình
Thánh Thể tốt lành, đừng có quên ăn!
Chúa Giêsu vẫn ân cần
Muốn cho ai cũng được luôn no lòng
TRẦM THIÊN THU
69. Có mấy chiếc bánh?
(Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Hữu An)
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm Chúa làm phép lạ lần thứ hai nữa (Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).
Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Họ đói khát, nghèo khổ, bệnh tật, bơ vơ. Họ đi tìm Chúa để được chữa lành, được an ủi, được dạy dỗ. Chúa đã yêu thương họ và muốn tặng cho họ một bữa tiệc đơn sơ bất ngờ ở ngoài trời. “Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây?”. Chúa muốn đưa các môn đệ đi vào mối bận tâm của Ngài, cần sự cộng tác. Các môn đệ thất vọng vì chỉ có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhỏ. Phản ứng các môn đệ được ghi lại trong 4 phúc âm:
- Matthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá thôi.
- Marcô: Thế chúng tôi phải đi mua 200đ bạc bánh mà cho họ ăn sao?
- Luca: Chúng tôi không có hơn 5 chiếc bánh và 2 con cá, hoạ chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này.
- Gioan: Philipphê thưa: Có mua hết 200đ bạc bánh cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ. Anrê nói: Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!
Phản ứng của các môn đệ là bế tắc, muốn thoái thác phủi tay. “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15). Đó là giải pháp hợp lý. Lo cho hàng ngàn người ăn là ngoài khả năng các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng, ai lo phần nấy, tự đi mua lấy thức ăn. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa Giêsu chấp nhận. Chúa muốn các môn đệ nhận lấy trách nhiệm: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn đi”.
Đức Giêsu cầm 5 chiếc bánh và 2 con cá hướng nhìn về trời cao, đọc lời chúc tụng thì những bế tắc âu lo của các môn đệ đã được giải toả. Đám đông ăn no nê và còn dư dả.
Phép lạ xảy ra do quyền năng Thiên Chúa và sự cộng tác của con người. Chúa không làm phép lạ ngay tức khắc biến bánh và cá thành một núi thức ăn để người ta tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ.Các môn đệ trao cho mọi người. Mọi người trao cho nhau. Đó là bài học lớn lao của phép lạ hoá bánh. Khi mọi người chia sẻ cho nhau, quan tâm giúp đỡ nhau trong tình thương, biết bẻ ra, trao đi thì Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nhiều.
Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm loá mắt thiên hạ bằng sự lạ lùng. Khi chống lại sự cám dỗ của Satan trong sa mạc, Chúa không làm ảo thuật ngoạn mục là khiến đá biến thành bánh trong nháy mắt hay gieo mình xuống từ nóc đền thờ.
Chúa Giêsu làm phép lạ chỉ để cứu giúp người khác và từ sự cộng tác của họ. Tại Cana, Chúa không khiến cho sáu chum đầy rượu tức khắc mà lại bảo các gia nhân: “Hãy đổ nước đầy các chum!”(Ga 2, 7). Các môn đệ sau một đêm vất vả chẳng bắt được con cá nào, Chúa không truyền lệnh cho cá đầy thuyền mà bảo Simon “ra khơi mà thả lưới đánh cá” (Lc 5, 4 -7). Trong phép lạ hoá bánh ra nhiều cũng vậy, Chúa hỏi: “Các anh có mấy chiếc bánh?” (Mc 6,38). Và Chúa đã làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé. Như thế, Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều với mục đích là đào tạo lòng tin của các môn đệ. Chúa tỏ ra cho các môn đệ thấy lòng xót thương của Người đối với dân chúng “vì họ như cừu chiên không người chăn giữ”. Chúa chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân chứng tỏ Người là vị Mục tử mà ngôn sứ Edêkien đã nói đến (Ed 34). Chúa muốn các môn đệ nhận ra Người là Chúa Chiên, là Mục tử nhân lành. Phép lạ hoá bánh là cả một bài dạy bằng thực hành về người chăn chiên tốt lành. Chính các môn đệ còn được “tập sự” chia sẽ công việc của chủ chăn. Họ phải đi kiếm bánh, phân phát cho dân chúng và thu lượm những gì còn sót lại. Phép lạ hoá bánh là dấu chỉ báo trước Thánh Thể “Người cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời,dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ” (Mt 14,20). Trong Tiệc Ly “Ngài cấm lấy bánh,chúc tụng” (Mc 14,22).Cử chỉ Bẻ Bánh đã trở thành nét đặc trưng của Chúa Giêsu (Lc 24,30) và của Giáo hội (Cv 2,42).
Được bánh ăn no nê, dân chúng muốn “bắt lấy Người tôn lên làm vua” (Ga 6,15).Họ tiếp nối Satan cám dỗ Người lần nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở họ rằng “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”; “Hãy ra công làm việc, đừng vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ngươi” (Ga 6,27). Họ xin cho được ăn mãi thứ bánh ấy và Chúa đã bảo họ: “Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với ta không hề phải đói, ai tin vào ta,chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35). Chóp đỉnh của mạc khải về Bánh Hằng Sống chính là “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”(Ga 6,54). Ăn thịt, uống máu nhấn mạnh đến cái chết trên thập giá của Chúa.
“Bánh ta sẽ ban” hướng về cái chết của Chúa Giêsu và gợi đến Tiệc Thánh Thể lưu niệm vĩnh viễn Hy tế Thập giá. Giá trị cứu rỗi của của hiến lễ Golgôtha được hiện tại hoá lụôn mãi trong Tiệc Tạ Ơn của Giáo Hội. Người tín hữu được sống dồi dào khi ăn uống Mình Máu Chúa Giêsu.
Chúa vẫn tiếp tục đồng hành cùng Giáo hội, thực hiện công trình cứu độ trong Giáo hội, qua Giáo hội và với Giáo hội.
”Các anh có mấy chiếc bánh?” (Mc 6,38). Đó vẫn mãi mãi vừa là câu hỏi,vừa là lời mời gọi khẩn thiết của Chúa Kitô.Trao cho chúng ta Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể, Chúa mời gọi chúng ta bẻ ra và trao cho anh em mình.
Bánh Lời Chúa
Các con có mấy chiếc Bánh Lời Chúa để trao cho anh em? Chúa vẫn luôn hỏi chúng ta điều ấy mỗi ngày. Bởi đó cần trau dồi Lời Thiên Chúa. Vì người được sai đi để công bố Lời Thiên Chúa chứ không phải lời của thế gian. Cho dẫu lời ấy có khôn ngoan đến đâu chăng nữa. Đồng thời cũng phải trau dồi lời con người,là khả năng nói, loan báo,kỹ năng diễn đạt tư tưởng và rao giảng để Lời Chúa chinh phục các tâm hồn. Công bố Lời Chúa vừa là một hồng ân vừa là một trách nhiệm. Là hồng ân vì con người tầm thường được Thiên Chúa mời gọi làm ngôn sứ. Là trách nhiệm vì phải nổ lực để chu toàn sứ vụ.
Bánh Thánh Thể Bánh và rượu tương trưng đầy đủ chính con người chúng ta. Bánh là kết quả công lao khó nhọc của con người. Người ta thường nói: “Đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có mà ăn”. Bánh như thế tượng trưng công lao khó nhọc của con người và chính sự sống con người. Bên cạnh đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần. Vì thế cùng với bánh chúng ta dâng rượu. Rượu tượng trưng cho mọi nỗi vui buồn sướng khổ của đời người: khi vui ta uống chén rươụ mừng nhưng khi buồn ta uống chén rượu giải khuây. Dâng lên Chúa bánh và rượu là là chúng ta dâng lên tất cả đời sống với mọi nỗi vui buồn sướng khổ. Tất cả dệt nên cuộc sống hiện tại của chúng ta.
Đến Nhà Thờ dâng lễ, mỗi tín hữu mang lễ vật riêng là chính đời sống của mình. Khi dâng lễ, đời sống riêng tư được thu hợp lại thành lễ vật chung của cộng đoàn dâng lên Chúa.Tấm bánh được hình thành bởi trăm ngàn hạt lúa miến đã được xay nát ra và hoà trộn với nhau. Ly rượu là kết quả của nhiều trái nho được ép ra và hoà tan với nhau. Cả hai tượng trưng đầy đủ ý nghĩa cộng đồng cho lễ vật mỗi người cũng như lễ vật toàn thể cộng đoàn. Qua Lời Truyền Phép của Linh mục, Chúa Kitô làm cho bánh rượu trở thành Thịt Máu của Người. Đồng thời Người cũng biến đổi những hy sinh, những hạnh phúc đau khổ, những trách nhiệm của cộng đoàn trong hiến lễ để rồi khi mỗi người rước lễ họ đón nhận Mình và Máu Chúa Giêsu là đón nhận lại của lễ mình dâng lên mà giờ đây đã được thánh hiến.
Người tín hữu được lớn lên trong đức tin, trong lòng mến nhờ ân sủng của Thánh Thể Chúa Kitô “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói;ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35); “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51). Thánh Thể như thế là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người; là quà tặng Thiên Chúa trao ban cho nhân loại. Thánh Thể là lương thực thiêng liêng, bảo đảm hạnh phúc trường cửu của chúng ta.
Tham dự thánh lễ cách đầy đủ tích cực trọn vẹn với tất cả con người là cách tốt nhất đáp lại tình thương của Chúa và nhiệt thành cộng tác với ơn Chúa.
Chúa Giêsu vẫn luôn vẫn hỏi chúng ta mỗi ngày “Các anh có mấy chiếc bánh” để trao cho tha nhân?