Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
07/09 Vui tươi vì Chúa đồng hành
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Vui tươi vì Chúa đồng hành.
Thứ sáu đầu tháng, tuần 22 thường niên.
“Khi tân lang phải đem đi khỏi họ, bấy giờ họ ăn chay”.
Lời Chúa: Lc 5, 33-39
Khi ấy, những người biệt phái và luật sĩ nói với Chúa Giêsu rằng: “Tại sao môn đồ của Gioan năng ăn chay và cầu nguyện, cả môn đồ của những người biệt phái cũng vậy, còn môn đệ của Thầy lại cứ ăn uống?” Người đáp lại rằng: “Các ông có thể bắt các bạn hữu đến dự tiệc cưới, ăn chay, đang khi tân lang còn ở với họ chăng? Nhưng sẽ đến những ngày mà tân lang phải đem đi khỏi họ, bấy giờ họ sẽ ăn chay trong những ngày ấy”.
Người còn nói với họ thí dụ này rằng: “Không ai xé miếng vải áo mới mà vá vào áo cũ; chẳng vậy, áo mới đã bị xé, mà mảnh vải áo mới lại không ăn hợp với áo cũ. Cũng chẳng ai đổ rượu mới vào bầu da cũ; chẳng vậy, rượu mới sẽ làm vỡ bầu da, rượu chảy ra và bầu da hư mất. Nhưng rượu mới phải đổ vào bầu da mới, thì giữ được cả hai. Và không ai đang uống rượu cũ mà lại thèm rượu mới, vì người ta nói: 'Rượu cũ thì ngon hơn'”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Dứt khoát tận căn
Kỷ luật hay cách sống của Chúa Giêsu đề ra cho các môn đệ Ngài khiến nhiều người khó chịu. Ngài và các môn đệ sống theo một lề lối hoàn toàn khác với những tuân giữ của những người Biệt phái và ngay cả với Gioan Tẩy giả: trong khi Gioan Tẩy giả và các người Biệt phái tuân giữ một số ngày chay tịnh trong tuần, thì các môn đệ Chúa Giêsu xem chừng không biết thế nào là chay tịnh.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hai dụ ngôn để biện minh cho thái độ ấy. Trước hết, Ngài nói đến sự hiện diện của Tân Lang: bao lâu Tân Lang còn đó, thì việc chay tịnh được miễn chuẩn. Trong Cựu Ước, việc giữ chay gắn liền với việc mong đợi Ðấng Cứu Thế. Chay tịnh là thể hiện của lòng mong đợi. Gioan Tẩy giả đã lấy chay tịnh làm qui luật cơ bản cho cuộc sống của ông và của các môn đệ. Như vậy khi miễn chước cho các môn đệ của Ngài khỏi chay tịnh, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế, họ không còn phải mong đợi gì nữa; thời cứu thế đã đến, con người không còn phải chay tịnh, trái lại, họ phải vui mừng hoan hỉ.
Dụ ngôn thứ hai Chúa Giêsu đưa ra để giải thích tại sao các môn đệ Ngài không phải giữ chay, đó là hình ảnh chiếc áo mới và rượu mới: Không nên lấy áo cũ mà vá vào áo mới, không nên đổ rượu mới vào bầu da cũ. Dĩ nhiên, ở đây Chúa Giêsu không có ý bảo rằng cái mới thì đương nhiên tốt hơn cái cũ; Ngài không có ý so sánh cho bằng đưa ra một sự bất tương hợp. Bài học thật rõ ràng: không nên có thái độ nước đôi hoặc thỏa hiệp, mà phải dứt khoát tận căn. Bài học này được Chúa Giêsu lặp lại nhiều lần khi nêu ra những điều kiện để vào Nước Trời: "Hãy bán tất cả, bố thí cho người nghèo, rồi đến theo Ta", "Ai cầm cày mà còn ngó lại sau, thì không xứng với Nước Thiên Chúa", "Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta". Tựu trung, vì Ngài, con người phải chấp nhận hy sinh tất cả, ngay cả mạng sống mình.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại niềm tin cơ bản trong cuộc sống hàng ngày. Thỏa hiệp vốn là cơn cám dỗ triền miên trong cuộc sống đạo của chúng ta: Muốn làm môn đệ Chúa Kitô, nhưng lại đeo đuổi những gì nghịch với Tin Mừng; đi theo Chúa Kitô, nhưng lại không muốn sống theo giáo huấn của Ngài; muốn là thành phần của Giáo Hội, nhưng lại chống báng Giáo Hội. Thỏa hiệp để được cả đạo lẫn đời như thế cũng chỉ là đánh mất bản thân mà thôi. Lời sách Khải huyền đáng được chúng ta suy nghĩ: Thà ngươi nguội lạnh hay nóng hẳn đi; nhưng vì ngươi hâm hâm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta mửa ngươi ra khỏi miệng.
Xin Chúa nâng đỡ đức tin chúng ta để chúng ta tiến bước theo Chúa, làm môn đệ Chúa với một đức tin tinh tuyền và làm chứng cho mọi người xung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Kim chỉ nam của cuộc sống
Theo sách Giảng Viên: "Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời, một thời để chào đời, một thời để lìa thế, một thời để khóc lóc, một thời để vui cười, một thời để than van, một thời để múa nhảy". Trong Tin Mừng hôm nay khi giải thích về lý do tại sao Ngài và các môn đệ của Ngài không ăn chay, có lẽ Chúa Giêsu cũng muốn lặp lại lời dạy của sách Giảng Viên: "Mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời. Có một thời không ăn chay và một thời để ăn chay". Thời gian của Giáo Hội là thời gian vừa ăn chay vừa không ăn chay. Ðúng hơn, thời gian của Giáo Hội là thời gian của cử hành.
Khi chúng ta nói về cử hành, chúng ta thường dễ nghĩ đến lễ lạc, trong đó chúng ta có thể quên đi những khó khăn của cuộc sống và hòa mình vào đàn ca múa nhảy, ăn uống, cười vui. Thật ra, trong ý nghĩa Kitô giáo, cử hành hoàn toàn xa lạ với bầu khí ấy. Trong Kitô giáo, cử hành chỉ có thể có được khi chúng ta ý thức một cách sâu xa rằng sự sống và cái chết là hai thực tại không bao giờ tách lìa nhau. Cử hành chỉ thực sự đến khi nào tình yêu và nỗi lo sợ, niềm vui và nỗi buồn, nước mắt và nụ cười, có thể hiện hữu chung với nhau. Cử hành chỉ có thể đến khi nào chúng ta ý thức được rằng sự sống là điều quí giá vô cùng. Và sự sống quí giá không những vì nó có thể được thấy, được sờ, được cảm nghiệm, mà còn ngay cả khi nó mất. Khi chúng ta cử hành một đám cưới, chúng ta cử hành sự kết hợp và chia tay cùng một lúc; khi chúng ta cử hành cái chết, chúng ta cử hành một tình bạn đã mất nhưng đồng thời cũng cử hành một sự tự do và có được. Có thể có nước mắt sau đám cưới và những nụ cười đám tang. Thật thế, chúng ta có thể làm cho những nỗi buồn cũng như niềm vui của chúng ta trở thành một phần của cuộc cử hành cuộc sống với ý thức sâu xa rằng sống và chết không phải là hai điều đối nghịch nhau mà là bạn hữu thân tình với nhau trong mỗi một phút giây của cuộc sống chúng ta. Khi chúng ta chào đời, chúng ta được tự do để hít thở khí trời, nhưng chúng ta lại đánh mất sự an toàn trong lòng mẹ. Khi chúng ta đi học, chúng ta được tự do để đi vào một xã hội rộng lớn hơn nhưng lại đánh mất một chỗ đặc biệt trong gia đình chúng ta. Khi chúng ta lập gia đình, chúng ta tìm được một người bạn đường nhưng lại đánh mất mối liên kết đặc biệt với cha mẹ chúng ta. Khi chúng ta tìm được công ăn việc làm, chúng ta có được sự độc lập để làm ra tiền, nhưng lại đánh mất khung cảnh vô tư của trường học. Khi chúng ta có con cái, chúng ta khám phá ra một thế giới mới, nhưng lại đánh mất đi một phần tự do đi lại. Khi chúng ta được thăng cấp trong công việc, chúng ta trở nên quan trọng hơn trước mắt người khác nhưng lại đánh mất những cơ may khác. Khi chúng ta về hưu, cuối cùng chúng ta có cơ may làm điều chúng ta muốn nhưng lại đánh mất niềm vui trong công việc. Khi chúng ta có thể cử hành sự sống trong mọi giây phút quyết liệt, trong đó cái được và cái mất quyện lấy vào nhau, lúc ấy chúng ta có thể cử hành ngay cả cái chết của chúng ta, bởi vì chúng ta đã học được từ cuộc sống rằng ai mất sẽ tìm thấy.
Trong mọi sự, lời của thánh Phaolô trong thư gởi cho giáo đoàn Philipphê 4,4 đáng được chúng ta lấy làm kim chỉ nam cho cuộc sống: "Anh em hãy vui lên trong Chúa, tôi nhắc lại một lần nữa, anh em hãy vui lên vì Chúa ở gần chúng ta".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Mỗi thời mỗi khác
Họ nói với Người: “Môn đệ ông Gio-an năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pha-ri sêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống!” Đức Giêsu trả lời: “Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi; ngày đó họ mới ăn chay.” (Lc. 5, 33-35)
Mỗi thời mỗi khác!
Câu nói đó xưa như trái đất. Những luật sĩ và biệt phái hình như quên đi khi họ trách các môn đệ của Đức Kitô không ăn chay như môn đệ của Gio-an và không cầu nguyện như họ.
Mỗi thời mỗi khác, có thời để vui, có thời để hy sinh. Có thời để làm việc, có thời để nghỉ ngơi. Người ta đến đám cưới không phải để khóc! Đức Giêsu nói: lúc này là tiệc cưới của tôi. Vậy phải vui mừng. Buồn sẽ đến lúc tôi ra đi các ông sẽ không bao giờ tìm thấy tôi.
Mỗi thời mỗi khác. Có thời cho quần áo mới. Nhưng quần áo mới không luôn mới. Chúng đẹp khi mới dùng. Dùng lâu, chúng sẽ thành đồ phế thải. Chúng rách khó vá, nên không ai lấy vải mới vá vào áo rách.
Bình cũ không còn có thể chứa được rượu mới, rượu mới sẽ làm bể bình cũ. Đừng quên rằng rượu mới không bao giờ ngon như rượu cũ.
Sự so sánh đó có thể rút ra bài học rất tế nhị. Đức Kitô không muốn xúc phạm đến họ, nhưng Người không ưa những thứ quá khích. Đối với kẻ thù khích bác và cố chấp, họ không thể hiểu được sự khẩn thiết về những đổi mới. Người thử giải thích bằng hình ảnh hôn nhân để thấy sự không thể thích nghi của con người cựu ước với thời tân ước của Ngài. Ngài không chối bỏ họ, nhưng họ có thời của họ. Ngài thiết lập thời tân ước như Thiên Chúa đã tuyển chọn một dân tộc xưa và nay cho mọi người.
Không phải chỉ có luật sĩ và biệt phái xưa, cả những Kitô hữu ngày nay cũng không biết nhận ra sự cần thiết phải tái sinh lòng mộ đạo theo Thánh Thần Thiên Chúa và công đồng Va-ti-can II hướng dẫn. Không phải tái sinh là chấp vá, nhưng là công việc lâu dài, kiên nhẫn đôi khi phải chịu đau khổ để thêu dệt nên một tấm áo mới không có đường may. Một hy vọng sống lại chan hòa vui mừng.
GF
Suy Niệm 4: Chàng rể ở với họ
Suy niệm :
Sau khi Lêvi, người thu thuế, được Thầy Giêsu mời gọi đi theo,
ông đã tổ chức bữa đại tiệc khoản đãi Thầy và các môn đệ.
Ông còn mời các bạn đồng nghiệp đến dùng bữa để từ giã.
Ăn uống vui vẻ, hòa đồng cả với những người bị xã hội tránh xa,
đó là một nét đặc biệt của nhóm Thầy Giêsu.
Đừng quên chính Thầy cũng bị mang tiếng là tay ăn nhậu (Lc 7, 34).
Như thế nhóm của Thầy không có nét khắc khổ,
như các nhóm môn đệ của Gioan hay của người Pharisêu.
Các nhóm này thường hay ăn chay và cầu nguyện.
“Còn môn đệ Thầy thì ăn với uống !” (c. 33).
Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo hỏi Thầy về lý do có sự khác biệt đó.
Thầy trả lời: vì bầu khí của nhóm Giêsu là bầu khí vui của tiệc cưới.
Chú rể chính là Thầy, còn các môn đệ là những khách dự tiệc.
Chẳng ai dự tiệc cưới mà lại ăn chay.
Chẳng ai buồn khi chàng rể còn đang ở bên cạnh (c. 34).
Bởi đó thật là dễ hiểu nếu các môn đệ không ăn chay một tuần hai lần,
nếu họ có nét mặt tươi tắn và sẵn sàng chung vui với người khác.
Chuyện Thầy Giêsu ăn uống hồn nhiên với những tội nhân
cho thấy Thiên Chúa không khinh, nhưng quý họ và mời họ trở về.
Thầy cho thấy mình đang rao giảng Tin Mừng, loan báo Tin Vui.
Đến với Thầy là gặp được niềm vui cứu độ.
Thầy Giêsu và các môn đệ đều mời gọi người ta hoán cải (Mc 1,15; 6,12)
Nhưng hoán cải ở đây không phải là chuyện buồn, mà là chuyện vui,
bởi lẽ hoán cải là thay đổi tận căn cái nhìn về Thiên Chúa và người khác.
Chẳng ai vui bằng người thoát ra khỏi được cảnh nô lệ tội lỗi.
Cả thiên đàng cũng mừng vui khi một người hoán cải (Lc 15, 7. 10).
Thầy Giêsu đã trao cho các môn đệ niềm vui của chính mình.
Ba lần Ngài nói đến niềm vui trọn vẹn (Ga 15,11; 16,24; 17,13).
Kitô giáo bắt nguồn từ niềm vui phục sinh và sống mãi nhờ niềm vui ấy.
Các tông đồ bị đánh đòn mà lại vui, bởi họ chịu vì Đức Giêsu (Cv 5,41).
Niềm vui là đặc nét của người Kitô hữu qua mọi thách đố.
Niềm vui là quà tặng lớn của chúng ta cho một thế giới muộn phiền.
Chàng rể Giêsu đang ở với chúng ta cho đến tận thế và mãi mãi,
nên “anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa” (Pl 4, 4).
Chúng ta chỉ có thể là sứ giả của Tin Mừng nếu ta có niềm vui nội tâm.
Niềm vui này phải tỏa ra như hương thơm làm mọi người ngây ngất.
Ông Nietzsche một triết gia vô thần người Đức viết cho các Kitô hữu:
“Nếu niềm tin của các anh làm các anh hạnh phúc,
thì hãy cho tôi thấy hạnh phúc ấy trên khuôn mặt của các anh…
Nếu Tin Mừng của Sách Thánh được viết trên khuôn mặt của các anh rồi,
thì các anh chẳng cần phải cố nhấn mạnh đến giá trị của Sách ấy nữa.”
Nietzsche không tin một Kitô hữu buồn, mà bảo mình tin vào sự phục sinh.
Chúng ta có bao giờ để ý soi khuôn mặt Kitô hữu của mình không?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
có những ngày con cảm thấy
đời sống thật nặng nề;
có những lúc con muốn buông trôi,
để mặc cho dòng đời đưa đẩy;
có những khoảng thời gian dài,
con như mảnh đất khô khan cằn cỗi.
Xin cho con ánh sáng của Chúa
để con biết lối mà đi.
Xin cho con tấm bánh của Chúa
để con có sức mà dấn bước.
Xin cho con Lời của Chúa
để con vững một niềm tin.
Xin cho con sự sống của Chúa
để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn,
niềm vui và sáng tạo.
Lạy Chúa Giêsu,
con thấy mình cần Chúa
trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp được sự hiện diện của Chúa.
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
06/09 Kẻ chinh phục con người
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Kẻ chinh phục con người.
Thứ năm đầu tháng, tuần 22 thường niên.
“Các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người”.
Lời Chúa: Lc 5, 1-11
Khi ấy, dân chúng chen nhau lại gần Chúa Giêsu để nghe lời Thiên Chúa, lúc đó Người đứng ở bờ hồ Ghênêsarét. Người trông thấy hai chiếc thuyền đậu gần bờ; những người đánh cá đã ra khỏi thuyền và họ đang giặt lưới. Người xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông đưa ra khỏi bờ một chút. Rồi Người ngồi trên thuyền, giảng dạy dân chúng.
Vừa giảng xong, Người bảo ông Simon rằng: “Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu và thả lưới bắt cá”. Ông Simon thưa Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới”. Các ông đã thả lưới và bắt được rất nhiều cá; lưới các ông hầu như bị rách. Bấy giờ các ông làm hiệu cho các bạn đồng nghiệp ở thuyền bên cạnh đến giúp đỡ các ông. Những người này tới, họ đổ cá đầy hai chiếc thuyền, đến nỗi những thuyền chở nặng gần chìm.
Thấy thế, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Ông kinh ngạc và tất cả mọi người ở đó với ông cũng kinh ngạc trước mẻ cá mà các ông vừa mới bắt được; cả ông Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, bạn đồng nghiệp với ông Simon cũng thế. Nhưng Chúa Giêsu phán bảo ông Simon rằng: “Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Sự hiện diện và tác động của Chúa
Ý nghĩa của mẻ cá và ơn gọi của các môn đệ đầu tiên được Luca ghi lại trong Tin Mừng hôm nay sẽ được sáng tỏ, nếu chúng ta nắm bắt được quan niệm của người Do thái về biểu tượng của nước, nhất là của biển cả. Người Do thái tin rằng biển cả là nơi cư ngụ của Satan và những lực lượng chống đối Thiên Chúa. Trong niềm mong đợi chung, người Do thái tin rằng chỉ có Ðấng Cứu Thế được Thiên Chúa sai đến mới có đủ uy quyền để chế ngự biển cả và giải thoát tất cả những ai đang bị chôn vùi trong đó.
Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ thấy được quyền năng giải thoát của Ngài khi thực hiện mẻ cá lạ lùng trước mặt các ông. Chiếc lưới được thả vào lòng biển khơi để vớt cá lên, đó là hình ảnh của công cuộc cứu thoát mà Ngài đang thực hiện. Ngài đến là để lôi kéo con người khỏi vực sâu của tội lỗi và sự dữ. Chính trong ý nghĩa ấy, Chúa Giêsu dùng kiểu nói "đánh lưới người" mà Ngài sẽ trao phó cho các môn đệ và Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập; trở thành ngư phủ đánh lưới người có nghĩa là tham dự vào công trình cứu rỗi của Chúa Giêsu.
Qua mẻ cá lạ lùng, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ cho các môn đệ thấy rằng tự sức họ, họ không thể làm được gì. Thánh Phêrô đã ý thức được điều đó: "Chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả". Thánh Phêrô không chỉ nói lên cái giới hạn bất toàn của con người, mà còn nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình: "Lạy Thầy, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi". Ý thức về thân phận ấy và sống cho đến cùng thân phận ấy là cả một cuộc chiến đấu cam go. Hơn ai hết, thánh Phêrô đã cảm nghiệm được sự yếu đuối mỏng giòn của con người khi chối Thầy; cả cuộc đời ngư phủ đánh lưới người của Phêrô chỉ trở thành hữu hiệu với ý thức ấy. Càng thấy mình yếu hèn, con người càng sống gắn bó với Chúa; càng thấy mình vô dụng, con người càng trở nên hữu hiệu trong quyền năng của Chúa. Ra đi tản mát khắp nơi để trở thành ngư phủ đánh lưới người, tất cả các môn đệ đều nhớ lại bài học của mẻ cá lạ ấy và tâm niệm lời Chúa Giêsu: "Không có Thầy, các con không làm được gì".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng nhìn vào tác động của Chúa qua Giáo Hội. Ngài vẫn hiện diện trong con thuyền Giáo Hội, và ngoài mọi suy nghĩ, tính toán của chúng ta, Ngài vẫn tiếp tục thực hiện những điều cả thể, ngay cả những lúc Giáo Hội tưởng mình bị bó tay không làm được gì. Lời nhắn nhủ của Ðức Hồng Y Etchegaray đáng cho chúng ta suy nghĩ: Người ta dễ chú ý đến tiếng động của cây rừng ngã đổ, mà lại quên đi âm thanh nhỏ bé của những mầm non đang mọc lên.
Nguyện xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm tin vững vào sự hiện diện và tác động của Chúa trong Giáo Hội. Xin Ngài ban cho chúng ta đôi mắt tinh tường bén nhạy để nhận ra biết bao điều cả thể Ngài đang thực hiện trong những biến cố âm thầm, mất mát, thua thiệt của Giáo Hội.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Chấp nhận chính mình
Triết gia hiện sinh Pháp Albert đã có lần nói rằng: "Con người là tạo vật duy nhất không chấp nhận là mình". Ông có ý nói rằng con người không chấp nhận những giới hạn và bất toàn của mình.
Con người luôn muốn nổi loạn để vượt qua chính mình. Sự nổi loạn ấy rõ ràng nhất là trong lĩnh vực khoa học. Những khám phá khoa học và những ứng dụng kỹ thuật ngày càng làm cho chính con người chóng mặt. Chúng ta thử nhìn vào dự tính sản sinh con người theo phương pháp vô tính mà hiện một số nhà khoa học đang muốn lao mình vào. Những hệ lụy của một cơn cám dỗ như thế là vô cùng khủng khiếp. Chính tính cách không dự đoán và không lường trước được ấy của những hệ lụy là cho thấy những giới hạn và bất toàn của trí khôn cũng như khả năng của con người. Con người càng tiến bộ lại càng nhận ra giới hạn của mình. Ðây phải là thái độ tự nhiên của con người. Muốn hay không, con người không thể chối cãi được những giới hạn của mình.
Con người chỉ là người khi nhận ra những giới hạn của mình và chấp nhận chính mình. Tin Mừng không ngừng lập lại chân lý ấy. Càng khiêm hạ, con người càng được nâng cao. Càng nhận biết những giới hạn của mình, con người càng nhận ra mối giây liên kết và lệ thuộc của mình với Ðấng Tạo Hóa, con người càng thấy được sự cao cả đích thực của mình. Ðây là lý tưởng mà Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta.
Sau một đêm vất vả, các môn đệ không bắt được một con cá nào. Hơn ai hết, những người đánh cá có kinh nghiệm về thời tiết, về sóng nước và có lẽ cũng hơn ai hết, lênh đênh giữa đại dương mênh mông, họ dễ cảm nhận được thân phận nhỏ bé bất toàn của con người. Nhưng thánh Phêrô chỉ thực sự ý thức được thân phận ấy khi chứng kiến mẻ cá lạ do Chúa Giêsu thực hiện. Ði sâu vào thân phận ấy, thánh nhân không chỉ thấy những giới hạn và bất toàn của mình về phương diện nghề nghiệp hay nhân bản, mà còn nhận ra một sự bất lực khác của bản thân, đó là bất lực trong ơn thánh. Thật thế, thánh Phêrô khám phá ra thân phận tội lỗi của mình.
Con người có thể nhận ra những giới hạn, bất toàn, và ngay cả lầm lỡ của mình, nhưng để thấy mình là người tội lỗi, con người phải nhận ra mối giây liên kết với Ðấng Tạo Hóa. Tội lỗi thiết yếu nói lên mối liên kết với Ðấng Tạo Hóa mà con người đã cắt đứt. Mẻ cá lạ vừa cho thánh Phêrô thấy quyền năng của Ðấng Tạo Hóa, vừa là phơi bày con người tội lỗi yếu hèn của mình. Phản ứng của thánh Phêrô là mẫu mực cho cuộc sống đức tin của người tín hữu Kitô. Phản ứng này cũng là hằng số trong cuộc đời của vị Giáo Hoàng tiên khởi này. Sau này, kinh nghiệm chối Chúa lại càng cho thánh nhân ý thức được thân phận tội lỗi của mình và đồng thời cảm nhận được quyền năng của Thiên Chúa.
Một thi hào người Ðức đã nói: "Ai biết chấp nhận những giới hạn của mình, người đó đang đi gần đến sự hoàn hảo". Thánh Phêrô được nên cao trọng có lẽ không do tài lãnh đạo hay chính sự thánh thiện cá nhân của mình mà trước tiên là ở tấm lòng khiêm tốn sám hối và tin tưởng ở quyền năng và tình yêu của Chúa. Tựu trung, đó cũng chính là tâm tình tôn giáo đích thực của con người. Có tôn giáo thiết yếu là ý thức được thân phận thụ tạo, bất lực và tội lỗi của mình, đồng thời cũng cảm nhận được tình yêu và sự tha thứ của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Chài lưới người
Thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tấ cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô bê và Gio-an, bạn chài với ông Simon cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giêsu bảo ông Simon: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người cứu sống người ta.” Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà đi theo Người. (Lc. 5, 9-11)
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy ông Phê-rô tốt lành đã từ kinh ngạc này sang kinh ngạc khác.
Trước hết, Đức Giêsu đã chọn thuyền của ông như là thứ ngai tòa để Người ngồi giảng cho dân trên bờ chú ý nghe Người. Có thể tưởng tượng xem anh ngư phủ này hãnh diện, vinh dự chừng nào được Thầy mà mọi người đã hăm hở đi tìm.
Tiếp theo là một mẻ cá lạ lùng! dẫu bao nhiêu bạn bè với mình suốt đêm vất vả đánh cá mà chẳng được gì. Chẳng ăn gì, chẳng có gì ăn! và này đột nhiên, thật lạ chỉ một lời phán của Đức Giêsu, họ đi kéo lưới. Thật vững chắc, Phê-rô đã làm một cử chỉ đẹp để tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu đầy quyền năng. Ông không do dự, lần nữa ông đã thử thời vận ra khơi thả lưới, lưới gần rách, thuyền gần chìm vì cá đầy lưới. Lạ thay phần thưởng lớn lao dành cho một hành động vâng lời nhỏ bé! Phê-rô kinh sợ. Ông té xuống chân Đức Kitô và van nài Ngài xa ông vì ông chỉ là kẻ tội lỗi, quá bất xứng đối với một vị tôn sư cao cả.
Tuy nhiên, Phê-rô không phải kinh sợ đến tận cùng. Đức Kitô chẳng những không lìa bỏ ông mà còn tuyên bố làm thay đổi đời của ông mãi mãi: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ đi chài lưới cứu sống người ta”. Quả thực anh là hạng người vô danh tiểu tốt thất học lại được Đức Kitô trao phó nhiệm vụ lớn lao bao quát cả biển người, anh đã cùng với Ngài và các bạn tông đồ khác không ngừng thực hiện nhịêm vụ cứu vớt người đời cho tới tận thế.
Tại sao có sự chọn lựa này! Tại sao không trao nhiệm vụ lớn lao đó cho người học thức, cho người tiến sĩ các khoa học tôn giáo đương thời của Đức Giêsu. Sự phong ban trao phó nhiệm vụ lớn lao này thật ngược đời, gây quá nhiều bối rối, khúc mắc: Một mầu nhiệm của Đức Giêsu, mầu nhịêm của Giáo Hội. Lý lẽ đức tin, nghịch hẳn lại lý lẽ của lý trí loài người. Đấng Cứu Thế bắt đầu lôi cuốn tất cả về Ngài ngay cả lúc tất cả như xa lánh Ngài như ông tiên tri báo về Ngài. Có thể Ngài đã cho phép xảy ra thách đố như thế.
GF
Suy Niệm 4: Từ nay anh sẽ bắt người
Suy niệm :
Chẳng ai ngờ cuộc đời Simon có thể chuyển hướng.
Ông đã có nghề nghiệp ổn định và đã lập gia đình.
Thế giới của ông là hồ Ghênêxarét,
là những con cá quẫy đuôi trong lưới,
là gia đình cần phải chăm nom.
Ông yêu vợ con, ông yêu biển cả.
Chúa đã đặt ông vui sống trong thế giới ấy,
nên chỉ có Ngài mới có thể kéo ông ra,
và bất ngờ đưa ông vào một thế giới mới,
một đại dương bao la hơn nhiều,
một gia đình rộng lớn hơn vạn bội.
Chỉ Chúa mới có thể
làm trái tim ông say mê một Ai khác,
yêu một Ai đó hơn những người ông đã từng yêu.
Ðức Giêsu đã đến với Simon thật tự nhiên.
Ngài chọn thuyền của ông làm nơi giảng dạy.
Sau đó Ngài mời ông thả lưới bắt cá,
Simon có nhiều lý do để khước từ.
Ông có thể nhân danh kinh nghiệm của mình
để thấy tốt hơn nên chờ dịp khác,
hay nại lý do mệt mỏi, sau một đêm ra khơn.
Nhưng Simon đã vâng lời, chỉ vì tin Lời Thầy Giêsu,
Lời đầy quyền uy, Lời trừ được quỷ (Lc 4,30).
Lời mạnh mẽ đã chữa cho mẹ ông khỏi bệnh (4,39).
Mẻ cá lạ lùng, mẻ cá chỉ có trong mơ.
Mẻ cá làm Simon run rẩy nhận ra mình tội lỗi,
và nhận ra Ðấng ở gần bên.
Mẻ cá bất ngờ mở đường cho một lời mời gọi mới:
“Ðừng sợ, từ nay anh sẽ thành kẻ bắt người.”
Simon lại có nhiều lý do hơn để từ chối.
Chuyện gia đình bề bộn, tương lai bấp bênh.
Kẻ quen bắt cá đâu có khả năng bắt người.
Kẻ tội lỗi đâu xứng với sứ mạng.
Nhưng một lần nữa, Simon dám tin vào Lời Chúa,
để cho Chúa tự do lôi kéo mình.
Ông đã bỏ lại bao điều ông yêu mến.
Khi bỏ lại hai thuyền đầy cá,
ông tin rằng những mẻ cá mới đang đợi ông.
Chúa vẫn gọi tôi ra khỏi lối mòn quen thuộc,
khỏi những điều tưởng như không thể đổi.
Tôi có sẵn sàng lên đường theo Ngài không?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
05/09 Tiếp tục rao giảng Tin Mừng
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Tiếp tục rao giảng Tin Mừng.
Thứ tư tuần 22 thường niên.
"Ta còn phải rao giảng Tin Mừng cho các thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến".
Lời Chúa: Lc 4, 38-44
Khi ấy, Chúa Giêsu chỗi dậy ra khỏi hội đường, Người đến nhà Simon. Nhạc mẫu ông Simon phải cơn sốt nặng, và người ta xin Người chữa bà ấy. Người đứng bên bà, truyền lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến khỏi bà. Tức thì bà chỗi dậy, và dọn bữa hầu các ngài.
Khi mặt trời lặn, mọi người có bệnh nhân đau những chứng bệnh khác nhau, đều dẫn họ đến cùng Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân, và chữa họ lành. Các quỷ xuất khỏi nhiều người và kêu lên rằng: "Ông là Con Thiên Chúa". Nhưng Người quát bảo không cho chúng nói, vì chúng biết chính Người là Đức Kitô.
Đến sáng ngày (hôm sau), Người ra đi vào hoang địa, dân chúng liền đi tìm đến cùng Người, họ cố cầm giữ Người lại, kẻo Người rời bỏ họ. Người bảo họ rằng: "Ta còn phải rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa cho những thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến". Và Người giảng dạy trong các hội đường xứ Giuđêa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chữa Trị Bệnh Tật
"Chúng ta hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" đó là lời phát biểu của Mẹ Têrêsa Calcutta để gián tiếp chấp nhận lời yêu cầu của một số ký giả và những người làm phim muốn làm một cuốn phim tài liệu trình bày những công việc từ thiện do Mẹ và các Nữ tu Dòng Thừa sai bác ái thực hiện. Từ mấy chục năm nay, tinh thần và tình yêu của Mẹ Têrêsa đối với những người đau khổ bệnh tật đã được lan ra khắp nơi trên thế giới, như một tiếp tục công tác chính Chúa Giêsu đã thực hiện mà chúng ta có thể đọc thấy trong Tin Mừng hôm nay.
Thuật lại biến cố Chúa Giêsu chữa bệnh bà mẹ vợ ông Simon và nhiều người khác, thánh sử Luca ghi lại: "Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người nhà đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, tật nguyền, đều đưa tới Ngài. Ngài đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa lành họ". Những dòng kế tiếp cho thấy Chúa Giêsu có uy quyền trên sự dữ. Ở đây sự dữ xuất hiện dưới hai hình thức: bệnh tật và ma quỉ. Chúa Giêsu ra lệnh và quở mắng để chế ngự, nhưng Ngài không tiêu diệt chúng. Ngoài ra, trong nhiều cơ hội khác, Chúa Giêsu làm gương bằng sự ân cần của Ngài đối với các bệnh nhân, kể cả những người mang chứng bệnh khiếp sợ nhất lúc bấy giờ là bệnh phong cùi.
Trong giáo huấn của Ngài, Chúa Giêsu còn đi xa hơn: Ngài đồng hóa mình với những người bệnh tật, những người nghèo đói, những kẻ sa cơ lỡ bước, những người bị cầm tù. Ngài nói: "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta". Qua cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đem lại cho đau khổ và bệnh tật ý nghĩa và giá trị cứu rỗi.
Xin cho công trình giải phóng và cứu rỗi của Chúa được nhiều người quảng đại dấn thân tiếp tục. Xin cho đôi mắt đức tin chúng ta sáng suốt để nhận ra Chúa nơi những người đang cần được giúp đỡ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Mến Chúa Và Yêu Người
Năm 1990, trong chuyến viếng thăm Phi Châu, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến Gia Mô Su Cô, thủ đô nước Qua Tê Ðô Bu A để kính viếng Vương Cung Thánh Ðường Ðức Mẹ Nữ Vương Hòa Bình do tổng thống nước này cho xây cất và dâng tặng cho Tòa Thánh.
Ðược mô phỏng từ Vương Cung Thánh Ðường ở Rôma, ngôi giáo đường vĩ đại này có thể chứa đến tám ngàn chỗ ngồi và mười ngàn chỗ đứng. Người ta không biết rõ kinh phí xây cất ngôi thánh đường này là bao nhiêu, nhưng tổng thống Kufues cho biết mọi chi phí đều do gia đình ông đài thọ. Vào giữa lúc dân chúng Qua Tê Ðô Bu A vẫn còn sống trong nghèo nàn lạc hậu, nhiều người đã có lý để chất vấn ông Kufues tại sao không dùng số tiền kếch sù ấy để xây cất trường học và đẩy mạnh công cuộc phát triển có lợi cho dân nghèo. Ðây cũng chính là điều kiện để Tòa Thánh đón nhận món quà của tổng thống nước này.
Ðức Thánh Cha đã đến thánh hiến Vương Cung Thánh Ðường Ðức Mẹ Nữ Vương Hòa Bình nhưng đồng thời cũng kêu gọi tổng thống Kufues quan tâm tới công tác giáo dục và xã hội cho dân nghèo. Do đó, tổng thống Kufues đã tặng cho Giáo Hội một khu đất gần nhà thờ để thiết lập một bệnh viện cho người nghèo.
Ðức Thánh Cha đã thánh hiến ngôi giáo đường nguy nga nhưng đồng thời cũng đặt viên đá đầu tiên để xây cất bệnh viện. Cử chỉ này mang một ý nghĩa tượng trưng cao độ, nó nói lên mối quan tâm của Giáo Hội đối với vấn đề phát triển toàn diện con người.
Rao giảng Tin Mừng không chỉ có nghĩa là công bố những chân lý liên quan đến phần rỗi linh hồn, sống đạo không chỉ có nghĩa là xây cất nhà thờ và chu toàn những việc đạo đức đóng khung trong bốn bức tường nhà thờ. Góp phần phát triển xã hội, tranh đấu cho công bình, nỗ lực mang lại no cơm ấm áo và xoa dịu bao vết thương đau của con người, đó cũng là thành phần thiết yếu của công cuộc rao giảng Tin Mừng.
Giáo Hội trong thế giới ngày nay như hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng khẳng định không thể xa lạ hay làm ngơ trước những vui mừng và hy vọng, đau thương và sầu khổ của con người thời đại, và những vấn đề sống còn của con người. Giáo Hội hành động như thế là vì tính cách toàn diện của ơn cứu rỗi. Thiên Chúa không chỉ cứu rỗi phần linh hồn mà cả con người với hồn lẫn xác. Giáo Hội loan báo ơn cứu rỗi toàn diện như thế là bởi vì chính Chúa Giêsu đã loan báo và thực hiện một ơn cứu rỗi như thế. Ngài không chỉ rao giảng và hứa hẹn một Nước Trời hoàn toàn xa lạ với những thực tại trần thế. Nước Trời mà Ngài rao giảng đến ngay trong những thực tại trần thế và trong cuộc sống cụ thể của con người. Ngài không chỉ tha tội trừ quỉ, chữa phần linh hồn mà còn dâng bánh và cá cho nhiều người được ăn no nê, cũng như chữa lành mọi thứ tật bệnh của con người.
Cử chỉ của Chúa Giêsu đối với nhạc mẫu của thánh Phêrô và việc Ngài đặt tay chữa những người bệnh tật ốm đau được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay là điển hình của một tình yêu được trải rộng đến mọi người, từng người, từng nhu cầu của con người mà Chúa Giêsu muốn Giáo Hội tiếp tục trong thế giới ngày nay. Cần có nhà thờ để qui tụ lại, tôn vinh Thiên Chúa và thỏa mãn nhu cầu thiêng liêng của con người, nhưng càng cần có nhà thương và trường học để phục vụ con người hơn. Gặp gỡ Thiên Chúa trong nhà thờ đã đành, nhưng gặp gỡ Ngài trong tha nhân và cuộc sống hàng ngày mới thiết thực hơn. Có những giây phút tĩnh lặng để cầu nguyện, nhưng cầu nguyện là để được tỉnh thức hơn hầu gặp gỡ, yêu thương và phục vụ người anh em trong cuộc sống hàng ngày. Con đường nào cũng phải dẫn tới nhà thờ nhưng nhà thờ nào cũng có lối thông với cuộc đời. Người tín hữu Kitô gặp gỡ Chúa để múc lấy sức sống và trở lại cuộc sống hàng ngày hầu gặp gỡ và yêu thương người anh em của mình nhiều hơn.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết thống nhất hai giới răn mến Chúa và yêu người và ý thức rằng cốt lõi của Ðạo là Tình Yêu.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Tin mừng cho toàn thế giới
Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Ngài bỏ họ mà đi. Nhưng Người nói với họ: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng cho thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm, việc đó.” (Lc. 4, 42-43)
Đức Kitô đã nói:” Tôi còn phải loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa cho các nơi khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó”. Người không chỉ đến một thành, là Ca-pha-na-um, hay những vùng lân cận đó, nhưng đến tận cùng thế giới.Chữa những bà mẹ vợ và còn bao nhiêu bà khác nữa!Chữa những người bị quỷ ám và còn phải đuổi bao nhiêu thần ôuế khác nữa!
Đừng nên bóp nghẹt Người vào một chỗ: đừng nên độc quyền nắm giữ sứ điệp nước trời cho riêng mình. Cần phải loan truyền Tin Mừng cho khắp mọi nơi như Người đã muốn, như chính Người đã làm. Chúng ta không thể là những người sở hữu độc nhất và đặc quyền khai thác Tin Mừng. Hiến chế về Giáo Hội của công đồng Va-ti-can II nói với chúng ta: “ Mỗi môn đệ của Chúa Kitô, tùy theo địa vị của mình, đều phải làm tròn trách nhiệm gieo hạt giống đức tin”. (số 17). Phép rửa tội làm cho chúng ta trở nên những nhà truyền giáo. Chúng ta không chỉ là Kitô hữu cho nơi của mình. Về phần chúng ta phải mang Tin Mừng đi khắp mọi nơi chúng ta đến.
Giáo Hội phát triển nhờ những cuộc bách hại thời sơ khai thúc đẩy các môn đệ Chúa Kitô đi lập cơ sở mới ra khỏi thế giới Do-thái. Những bất mãn hiện thời của nhiều nhóm công giáo lâu đời buộc chúng ta phải cởi mở ra thế giới khác chúng ta, họ khao khát Thiên Chúa, có sức thấm nhuần và thăng tiến lời Chúa mạnh mẽ. Xưa, Đức Giêsu đã truyền lệnh cho các tông đồ: “ Nếu họ từ chối các con, thì các con hãy đi sang làng khác”. Thiên Chúa không còn áp đặt. Con Chúa cũng vậy. Suốt dòng lich sử Giáo Hội, chúng ta đã quên điều đó. Công đồng Va-ti-can II đã nhắc nhở chúng ta trong một tuyên ngôn cách mạng về tự do tôn giáo.
Thật chính đáng khi nhận biết rằng: tất cả là ơn Chúa, tất cả là sự quan phòng của Chúa, tất cả qui hướng về vinh quang cao cả của Chúa. Những người bị bỏ rơi đã được Chúa chọn, khiến chúng ta phải hiểu ơn gọi của người Kitô chúng ta là: Hãy đi đến với mọi người không trừ ai, vì không có một người nào mà Chúa không ghé mắt đoái nhìn. Còn chúng ta, phải nói gì với họ.
GF
Suy Niệm 4: Phải loan báo Tin Mừng
Suy niệm :
Sáng ngày sabát Đức Giêsu đã giảng dạy ở hội đường Caphácnaum.
Lời của Ngài đầy uy quyền và uy lực.
Lời ấy đã trục được quỷ khỏi một người đàn ông (Lc 4, 31-37).
Có lẽ đến trưa, Đức Giêsu rời khỏi hội đường để về nhà ông Simôn.
Tiếc thay bà mẹ vợ của ông lại bị sốt nặng, nằm một chỗ.
Người ta yêu cầu Ngài chữa cho người phụ nữ này.
Ngài đã lại gần và cúi xuống trên bà.
Ngài quát mắng cơn sốt như đã quát mắng thần ô uế (c. 39).
Lập tức cơn sốt phải rút lui.
Bà có thể đứng dậy được để phục vụ cơm nước cho Đức Giêsu và môn đệ.
Một lần nữa, chúng ta lại thấy sức mạnh của Lời Ngài.
Ngài chữa bệnh cho người phụ nữ chỉ bằng một lời ra lệnh.
Bệnh tật, dù nhẹ đi nữa, cũng làm phiền con người,
làm cản trở mọi sinh hoạt bình thường, và làm con người mất tự do.
Đức Giêsu đã nâng dậy một người đang nằm, mất sức làm việc.
Khi mặt trời lặn, lúc đã hết ngày sabát là ngày lễ nghỉ,
người ta mới đem cho Ngài những người bị đau đủ thứ bệnh.
Ngài chữa cho họ bằng cách đặt tay trên từng người (c. 40).
Đức Giêsu cúi xuống và chạm vào nỗi đau của từng thân xác.
Không rõ khi nào Ngài dừng tay để đi ngủ.
Chỉ biết khi trời hừng sáng, Ngài đã thức dậy ra đi, đến một nơi vắng vẻ.
Hẳn là Ngài cần chút thinh lặng, để xa đám đông, để gặp gỡ Cha,
Ngài cần dâng cho Cha một tuần mới đang đến.
Đức Giêsu không chỉ mê phục vụ cho đám đông,
Ngài còn mê ở một mình, mê cầu nguyện, mê chỗ vắng.
Nhưng các đám đông hối hả đi tìm Ngài, vì nhiều người cần chữa bệnh.
Khi bắt được Ngài, họ không cho Ngài lìa bỏ họ (c. 42).
Thành công và tiếng tăm, thiện cảm và sự thân quen gần gũi,
là những điều có thể giữ chân người tông đồ.
Trước sự chèo kéo của những người đau yếu đang thực sự cần Ngài,
Đức Giêsu vẫn muốn giữ cho mình sự tự do của người được Cha sai.
Ngài nhìn thấy cánh đồng mênh mông của thế giới.
Ngài hiểu là mình không được phép dừng chân ở một chỗ, để đặt trụ sở.
Ngài biết là mình được mời gọi lên đường mỗi ngày.
Đâu phải chỉ có thành Caphácnaum hay Nadarét hay vùng Galilê.
“Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa
cho các thành khác nữa, vì tôi được sai cốt để làm chuyện đó” (c. 43).
Chữ phải đến như một mệnh lệnh từ Cha, kéo Đức Giêsu đi không nghỉ.
Ngài vượt qua bao biên giới của gia đình, làng quê, tỉnh thành…
Rồi có ngày việc loan báo Tin Mừng sẽ trải dài đến tận cùng thế giới.
Khi chữa lành cho con người, Đức Giêsu cho thấy Nước Thiên Chúa đến.
Con người hôm nay cũng bị đau yếu về nhiều mặt.
Mong mỗi tông đồ hôm nay cũng có khả năng chữa lành như Thầy Giêsu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta)
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
04/09 Chúa Giêsu giải phóng người bị quỷ ám
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chúa Giêsu giải phóng người bị quỷ ám.
Thứ ba tuần 22 thường niên.
"Tôi biết Ngài là ai rồi, là Đấng Thánh của Thiên Chúa".
Lời Chúa: Lc 4, 31-37
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thành Capharnaum, xứ Galilêa, và ở đó Người giảng dạy họ trong các ngày Sabbat. Người ta bỡ ngỡ về giáo lý của Người, vì lời giảng dạy của Người có uy quyền. Bấy giờ trong hội đường, có một người bị quỷ ô uế ám, thét to lên rằng: "Hỡi Giêsu Nadarét, giữa chúng tôi và Ngài có chuyện chi đâu? Ngài đến tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết Ngài là ai rồi, là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Nhưng Chúa Giêsu trách mắng nó rằng: "Hãy câm đi và ra khỏi người này". Và quỷ vật ngã người đó giữa hội đường và xuất khỏi nó, mà không làm hại gì nó.
Mọi người kinh hãi và bảo nhau rằng: "Lời gì mà lạ lùng vậy? Vì Người dùng quyền năng mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất ra". Danh tiếng Người đồn ra khắp nơi trong xứ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lời nói và cuộc sống
Ðược bầu làm Bề trên cộng đoàn, một tu sĩ nọ đến hỏi một vị ẩn sĩ nổi tiếng khôn ngoan và thánh thiện:
- Thưa cha, thế nào là một bài giảng hay?
Vị ẩn sĩ trả lời:
- Một bài giảng hay phải là bài giảng có nhập đề và kết luận hay, nhất là phần nhập đề và kết luận càng gần nhau càng tốt.
Khi nói đến khoảng cách giữa nhập đề và kết luận trong một bài giảng, hẳn vị ẩn sĩ muốn nói đến sự trung thực của lời nói. Một lời nói được xem là trung thực khi giữa lời nói và thực tế không có khoảng cách, nhưng có sự thống nhất giữa lời nói và cuộc sống.
Lời nói vốn là phạm trù cơ bản nhất trong Kitô giáo. Ở khởi đầu Kinh Thánh, chúng ta thấy rằng hoạt động đầu tiên của Thiên Chúa là nói, nhưng khi Thiên Chúa nói thì liền có vạn vật. Không có khoảng cách giữa lời của Thiên Chúa và hành động của Ngài. Lời của Thiên Chúa là lời chân thật, nghĩa là luôn được thể hiện bằng hành động và có hiệu quả. Khởi đầu Tin Mừng của ngài, thánh Gioan cũng xác quyết: "Từ khởi thủy đã có Lời và Lời đã hóa thành nhục thể". Nơi Chúa Giêsu, lời là thực tế, nghĩa là không có khoảng cách giữa lời Ngài và cuộc sống của Ngài. Và đó có thể là ý tưởng mà Tin Mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta.
Chúa Giêsu giảng dạy như Ðấng có uy quyền. Uy quyền ấy không phải là thứ uy quyền được áp đặt trên người khác. Uy quyền của Chúa Giêsu phát xuất từ chính sự thống nhất giữa lời nói và hành động của Ngài: Ngài chỉ cần nói với tên quỉ câm: "Câm đi, hãy ra khỏi người này", thì phép lạ liền xẩy ra. Những người chứng kiến phép lạ đã thấy được sự khác biệt giữa lời giảng dạy của Chúa Giêsu và của các Luật sĩ đương thời.
Phép lạ của Chúa Giêsu cũng là một lời giảng dạy. Thật thế, sứ điệp trọng tâm trong lời rao giảng của Chúa Giêsu chính là sự giải phóng. Ngài không chỉ nói về sự giải phóng, mà còn chứng thực cho những người nghe Ngài biết được thế nào là giải phóng. Phép lạ người câm được giải thoát mang một ý nghĩa đặc biệt đối với Chúa Giêsu: giải phóng trước tiên là giải phóng con người khỏi xiềng xích của dối trá. Chúa Giêsu đã có lần nói với người Do thái: "Sự thật sẽ giải phóng các ngươi".
Lời Chúa là lời chân thật. Ước gì lời ấy giải thoát chúng ta khỏi mọi thứ xiềng xích của dối trá, để lời tuyên xưng và cuộc sống của chúng ta luôn được thống nhất. Trong một xã hội đầy trói buộc và dối trá thì chứng tá cuộc sống là lời nói có giá trị nhất.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Bộ mặt đích thực của Giáo Hội
Khi Giáo Hội sống đúng ơn gọi và sứ mệnh của mình, Giáo Hội là một sức mạnh tinh thần khiến cho các chế độ chính trị phải trọng nể hay lo sợ. Sức mạnh ấy không tới từ thế giới hay những phương tiện Giáo Hội có trong tay.
Giáo Hội múc lấy sức mạnh từ chính uy quyền của Ðấng sáng lập là Chúa Kitô. Thật thế, Chúa Kitô đã hứa ngay cả cửa hỏa ngục cũng không thắng nổi Giáo Hội. Chúa Giêsu đã phú bẩm cho Giáo Hội uy quyền của chính Ngài. Tin Mừng hôm nay ghi lại phản ứng của dân chúng khi họ lắng nghe lời giảng dạy của Ngài và nhất là khi Ngài trừ quỉ. Họ thán phục vì Ngài giảng dạy như Ðấng có uy quyền.
Trong cách đánh giá thông thường, một người xem là có uy tín khi tài năng hay đức độ của người đó được nhìn nhận, lời nói của một người có uy tín có sức thuyết phục người khác, việc làm có uy tín của một người có thể tạo được niềm tin nơi người khác. Nói chung, nơi một người có uy tín, lời nói và việc làm thường đi đôi với nhau, hoặc việc làm và cuộc sống có giá trị thuyết phục và lôi kéo. Chúa Giêsu giảng dạy như Ðấng có uy quyền là bởi vì Ngài chỉ giảng dạy những gì Ngài đã sống và sống những gì Ngài rao giảng. Lời nói của Ngài lại được củng cố bởi cuộc sống và những việc làm của Ngài. Ðây chính là uy quyền mà Chúa Giêsu đã mặc cho Giáo Hội của Ngài. Giáo Hội chỉ thực sự thể hiện được uy quyền của Chúa Giêsu khi Giáo Hội sống và rao giảng những gì Ngài đã sống và rao giảng. Giáo Hội chỉ thực sự thể hiện được bộ mặt đích thực của mình khi sống phục vụ mà thôi. Càng thể hiện được bộ mặt thật ấy, Giáo Hội càng tỏ ra là một sức mạnh có sức đạp đổ mọi thứ khí giới và sự dữ và trở thành chỗ dựa cho mọi người.
Là thành phần của Giáo Hội, mỗi người tín hữu có nghĩa vụ phải bày tỏ bộ mặt đích thực của Giáo Hội. Sức mạnh và uy quyền của Giáo Hội được thể hiện không phải qua con số các tín hữu hay qua các biểu dương của số đông mà thiết yếu qua cuộc sống có tính thuyết phục của các tín hữu. Giữa một xã hội trống rỗng những giá trị đạo đức, các tín hữu Kitô phải thể hiện một niềm tin có sức mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Giữa một xã hội băng giá về ích kỷ, các tín hữu Kitô cần phải sống một tình mến có sức sưởi ấm tâm hồn con người. Giữa một xã hội chao đảo về thiếu định hướng, các tín hữu Kitô phải bày tỏ một niềm hy vọng có sức soi rọi vào tăm tối của cuộc sống mọi người.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Ðấng giảng dạy với uy quyền, củng cố niềm tin, gia tăng đức mến và bảo toàn niềm trông cậy nơi chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Một người đầy uy quyền
Trong hội đường có một người bị quỷ thần ô uế nhập, la to lên rằng: “Ông Giêsu Na-gia-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”quỷ vật người ấy xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta, nhưng không làm hại gì anh. (Lc. 4, 33-35)
Ngay từ buổi đầu cuộc giảng đạo công khai, Đức Giêsu tỏ ra một người đầy uy lực. Lời và hành động của Người biểu lộ quyền bính phi thường.
Chỉ trong một thời gian ngắn, Đức Giêsu đã tỏ ra là bậc thầy dạy một giáo lý vững chắc có sức đáng động và gây ấn tượng mạnh ngay tại những người Do-thái chịu ảnh hưởng của nhiều trường luật sĩ giảng dạy rất đông đệ tử. Dân chúng say mê nghe lời Người. Không phải chỉ nhờ lời nói hay. Người còn liên kết sứ điệp của Người với quyền phép trừ quỷ bằng một sức mạnh làm những người chứng kiến kinh ngạc.
Từ hai ngàn năm, Đức Giêsu không bao giờ ngừng tạo thế lực vừa bằng đạo lý, vừa bằng hành động giải phóng nhân loại, không chỉ cứu thân xác bệnh hoạn mà nhất là cứu tâm trí con người được hạnh phúc. Ngày nay hơn bao giờ hết, Người lôi cuốn mọi người khám phá về Người. Không bao giờ người ta nói về Người nhiều như ngày nay, hoặc để thử loại bỏ Người, chối không có Người hoặc bảo vệ Người rất nhiệt tình. Báo chí, truyền thanh, truyền hình, sách vở, nghệ thuật âm nhạc, quảng cáo đã thấm nhập về Đức Kitô và tuyên truyền làm cho người ta hiểu biết về Đức Kitô một cách tiêu cực hay tích cực.
Dù người ta nói gì, Người vẫn là một bậc Thầy vĩ đại trong các bậc Thầy cho mọi người trên trái đất phải suy nghĩ. Đúng như câu kết thúc đoạn Tin Mừng hôm nay:
“Tiếng đồn về Người lan ra khắp mọi nơi”. Và như ông Si-mê-on đã nói tiên tri: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en, vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà,thì một mũi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra”. (Lc. 2, 34-35)
Suy Niệm 4: Lời có uy quyền
Suy niệm :
Phép lạ đầu tiên được kể trong Tin Mừng Luca là một phép lạ trừ quỷ,
diễn ra tại hội đường Caphácnaum vào một ngày sabát (c. 31).
Đức Giêsu dạy dỗ dân chúng, và họ sửng sốt trước lời dạy của Ngài,
bởi lẽ lời của Ngài là lời đầy quyền uy (c. 32).
Quyền uy làm sửng sốt ấy đến từ con người Ngài,
vì Ngài chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Trong hội đường ngày hôm đó, có một người bị quỷ thần ô uế nhập.
Anh ta tự nhiên la to, vì thấy mình bị đe dọa: “Ông Giêsu Nadarét,
chuyện chúng tôi can gì đến ông ? Ông đến tiêu diệt chúng tôi sao?”
Sự hiện diện và lời dạy quyền uy của Đức Giêsu, làm quỷ xuất đầu lộ diện.
Nhưng nó sợ, muốn tránh Ngài trong cuộc chiến không cân sức.
Quỷ biết rõ đối thủ có sức tiêu diệt mình là ai.
Nó biết được điều mà dân chúng không biết về căn tính của Đức Giêsu.
Ngài không phải chỉ là ông Giêsu ở Nadarét,
mà còn là Đấng Thánh của Thiên Chúa (c. 34).
Có một sự đối lập gay gắt giữa thần ô uế và Đấng Thánh tinh tuyền.
Đức Giêsu trừ thần ô uế chỉ bằng một lời quát mắng (c. 35).
“Câm đi, hãy xuất ra khỏi người này !”
Ngài không cho quỷ nói lên danh tánh của Ngài,
vì Ngài không muốn sự thật được nói lên bởi miệng những kẻ dối trá.
Lời truyền lệnh của Ngài khiến thần ô uế phải xuất ra.
Nó không còn được ở lại hay có quyền gì trên người này nữa.
Quỷ vật anh ngã xuống, xuất ra, nhưng lại không làm hại được anh.
Người trong hội đường kinh ngạc, không vì chuyện Đức Giêsu trừ quỷ,
nhưng vì họ thấy uy quyền và uy lực nơi lời nói của Ngài (c. 36).
Lời nói ra như một mệnh lệnh, và quỷ phải vâng nghe.
Thế giới hôm nay dễ bị tấn công và thống trị bởi các thần ô uế.
Thần ô uế có mặt ở khắp nơi, và có sức hấp dẫn mê hoặc con người.
Ô uế nơi thân xác, nơi trí tưởng tượng, nơi những ám ảnh không ngơi.
Ô uế trở thành một thứ văn hóa, xâm nhập vào mọi ngõ ngách,
chi phối mọi lối nghĩ và lối hành xử của con người.
Chúng ta phải nhìn nhận sức mạnh của thần ô uế trong thế giới hôm nay.
Rất nhiều bạn trẻ đã phải thú nhận mình không đủ sức kháng cự lại.
Đức Giêsu cho chúng ta niềm tin vào sự chiến thắng.
Sự hiện diện của Ngài làm thần ô uế không thể giấu mặt.
Sự thánh thiện của Ngài làm nó phải run sợ cúi đầu.
Uy quyền và uy lực nơi Lời quát mắng của Ngài khiến nó phải tháo lui.
Hãy để cho Đức Giêsu thánh thiện có chỗ trong đời chúng ta.
Hãy tin vào sức mạnh giải phóng của Lời Ngài.
Hãy để Lời Ngài nâng chúng ta dậy và cho chúng ta được tự do.
Một người ở trong hội đường hay nhà thờ cũng có thể bị thần ô uế ám.
Chúng ta mong Chúa cho ta khả năng trục được sự ô uế ra khỏi đời ta.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự :
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao. Amen.
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
03/09 Tin mừng của Chúa Giêsu
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Tin mừng của Chúa Giêsu.
Thứ hai tuần 22 thường niên – Thánh Grêgôriô Cả, giáo hoàng, tiến sĩ hội thánh. Lễ nhớ.
"Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó... Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình".
* Thánh nhân sinh quãng năm 540 tại Rôma. Người theo con đường công danh, nhưng đã từ chối chức thái thú Rôma. Người gia nhập đan viện và sau khi làm phó tế, người nhận nhiệm vụ sứ thần Công-tăng-ti-nốp. Ngày 3 tháng 9 năm 590, người được chọn làm người kế vị thánh Phêrô suốt mười bốn năm phục vụ Hội Thánh (590-604).
Dầu sức khỏe không dồi dào, người đã tận tụy chu toàn bổn phận, giúp đỡ người nghèo, củng cố và truyền bá đức tin. Người đã biên soạn nhiều tác phẩm về luân lý và thần học. Hoạt động của người được nuôi dưỡng nhờ chiêm niệm. Người qua đời ngày 12 tháng 3 năm 604.
Lời Chúa: Lc 4, 16-30
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày Sabbat, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse sao?"
Và Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: "Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình"; "điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông". Người nói tiếp: "Ta bảo thật các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Êlia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Êlia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Êlisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria".
Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Bụt Nhà Không Thiêng
Không thể làm tiên tri mà không trải qua bách hại, khổ đau thử thách. Ðó là số phận chung của các tiên tri từ Cựu Ước qua Tân Ước. Những kẻ không được sai đi, tự lấy danh mình mà nói, đó là những tiên tri giả; còn các tiên tri thật ý thức mình được Chúa sai đi và chỉ nói những gì Ngài muốn, một sứ mệnh như thế thường tạo ra nơi vị tiên tri một cuộc chiến nội tâm mãnh liệt. Môsê và Êlia trải qua khủng hoảng và ngay cả thất vọng khi phải trung thành với Lời Chúa; Yêrêmia đã nhiều lần ca thán và có lúc chỉ muốn đào thoát. Ðau khổ nhất cho các tiên tri là thấy lời nói của mình không được lắng nghe.
Chúa Giêsu không chỉ đến để làm cho lời các tiên tri được ứng nghiệm, Ngài cũng là vị tiên tri đúng nghĩa nhất. Nơi Ngài cũng có những đặc điểm của các tiên tri: đối đầu với những giá trị sẵn có, Ngài tỏ thái độ như các tiên tri: Ngài nghiêm khắc với những kẻ khóa Nước Trời không cho người khác vào. Ngài nổi giận trước sự giả hình của những người Biệt phái. Ngài đặt lại vấn đề tư cách là con cháu Tổ phụ Abraham mà người Do Thái vẫn tự hào. Nhất là Ngài rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc sống của Ngài; do đó, bị chống đối, bị bách hại là số phận tất yếu của Ngài.
Tin Mừng hôm nay là lời tiên báo về sự chống đối và bách hại mà Chúa Giêsu sẽ trải qua. Sau một thời gian rao giảng và làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Thế nhưng, khi trở về quê hương, Ngài chỉ nhận được sự hững hờ và khinh rẻ của người đồng hương mà thôi. Quả thật, như Ngài đã trích dẫn câu tục ngữ quen thuộc: "Không tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của mình", đó là định luật tâm lý mà chính Ngài cũng không thoát khỏi. Nhưng quê hương đối với Chúa Giêsu không chỉ là ngôi làng Nazaréth nhỏ bé, mà sẽ là toàn cõi Palestina. Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà của Ngài đã không đón tiếp Ngài. Cái chết trên Thập giá là tuyệt đỉnh sứ mệnh tiên tri của Chúa Giêsu, là lời nói cuối cùng của Ngài như một vị tiên tri.
Là thân thể, là sự nối dài của Chúa Kitô, Giáo Hội cũng đang tiếp tục sứ mện tiên tri của Ngài trong trần thế, do đó, Giáo Hội không thoát khỏi số phận bị chống đối và bách hại. Một Giáo Hội không bị chống đối và bách hại là một Giáo Hội thỏa hiệp, nghĩa là đánh mất vai trò tiên tri của mình.
Nhờ phép Rửa, người Kitô hữu cũng được tham dự vào sứ mệnh tiên tri của Chúa Kitô: bằng lời nói, và nhất là chứng tá cuộc sống, chúng ta thực thi vai trò tiên tri của mình trong xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta được Thánh Thần xức dầu và sai vào trần thế. Ước gì chúng ta luôn kiên trì rao giảng Tin Mừng của Chúa dù gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, vì biết rằng mình đang sống ơn gọi tiên tri.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Bí Quyết Nên Thánh (Lc 4,16-30)
Sau một thời gian rao giảng Tin Mừng ở vùng gần Giêrusalem bên bờ sông Giócđan nơi Gioan Tẩy Giả làm phép rửa, Chúa Giêsu trở về thăm làng cũ. Ở đó dân chúng đã nghe nói về nội dung lời rao giảng của Ngài, ở đó người ta cũng nghe nói tới một số phép lạ Ngài đã làm. Tin đồn này làm cho những người đồng hương bỡ ngỡ: "Ông ta đã học được những điều đó ở đâu? Ông không phải là con ông Giuse đó sao?" Ðó là một thắc mắc rất chính đáng.
Người dân Nazareth, nhất là những người đã từng quen biết và lớn lên với Chúa Giêsu hẳn có đủ lý do để tỏ ra ngỡ ngàng khi nghe kể về thành tích của Ngài, bởi vì trong suốt ba mươi năm sống trong ngôi làng nhỏ bé ấy, Ngài đã chẳng tỏ ra bất cứ một dấu thánh thiện siêu phàm nào. Chúng ta có thể tự hỏi làm sao Chúa Giêsu đã có thể sống trong ngôi làng bé nhỏ ấy trong suốt ba mươi năm mà không để lộ bản tính của Ngài? Làm sao Con Thiên Chúa lại có thể sống trong ngôi làng hẻo lánh nghèo nàn ấy trong bao nhiêu năm mà dân chúng không hề thắc mắc? Câu trả lời chỉ có thể là Chúa Giêsu chỉ có một ý niệm về thánh thiện hoàn toàn khác với những người Do Thái đồng hương và cả chúng ta nữa. Thời Ngài, thánh thiện có nghĩa là tuân giữ chi ly mọi Lề Luật, trung thành với truyền thống và phong tục vốn được xem là biểu thị của đời sống đạo đức, nhưng Chúa Giêsu đã không nghĩ như thế. Chính vì vậy mà khi Ngài bắt đầu rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ, tất cả những ai đã từng biết Ngài trong ngôi làng nhỏ bé ấy đều thắc mắc và bỡ ngỡ. Quả thật, tất cả những ai đã từng quen biết Ngài chỉ xem Ngài như một người như họ mà thôi, Ngài không để lộ bất cứ một dấu thánh thiện hay siêu phàm nào.
Ðiều đáng làm cho chúng ta suy nghĩ là không nơi nào trong các sách Tin Mừng viết rằng Chúa Giêsu là một con người đạo đức, chúng ta chỉ đọc được rằng Ngài đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng và làm việc thiện mà thôi. Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng Chúa Giêsu có một quan niệm về sự thánh thiện hoàn toàn khác với những người Do Thái đương thời. Ðối với Ngài, thánh thiện là sống hoàn toàn như một con người, là làm người như Thiên Chúa đã dựng nên, đó là câu giải đáp thắc mắc tại sao những người Do Thái đồng hương của Chúa Giêsu thắc mắc và bỡ ngỡ khi Ngài bắt đầu rao giảng và chữa bệnh. Ðối với lối suy tư của họ, Ngài xem ra quá trần tục, quá là người cho nên không thể làm được những chuyện cả thể như người ta đã đồn thổi. Tuy nhiên đây chính là một mạc khải sâu xa: Thiên Chúa nhập thể làm người để sống như một con người như mọi người, hầu dạy chúng ta biết sống cho ra người. Chính cuộc sống đơn giản và bình thường ấy lại chứa đựng một sự thánh thiện tuyệt vời.
Trong các thứ học thì hẳn học làm người là điều khó nhất, người ta có thể đỗ đạt thành tài trong cuộc sống, người ta có thể nắm vững được lãnh vực chuyên môn của mình, nhưng học làm người là một thứ trường học mà con người sẽ chẳng bao giờ tự cho là mình đã tốt nghiệp và thôi học. Sống như một con người, như Chúa Giêsu đã sống ba mươi năm âm thầm tại Nazareth, âm thầm đến độ những người quen biết không thấy có gì đáng chú ý trong cuộc sống ấy. Sống như một con người chính là sống một cách sung mãn từng giây phút của cuộc sống. Sống một cách phi thường những việc tầm thường nhất trong đời thường, sống bằng một tình yêu cao cả những việc làm nhỏ bé nhất hàng ngày, đó chính là bí quyết để nên thánh vậy.
Suy Niệm 3: Không có thứ thanh niên đó nơi chúng tôi
Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?” (Lc. 4, 21-22)
Giờ Thiên Chúa đã điểm cho Đức Kitô xuất hiện. Ngài vừa chuẩn bị sứ mệnh trong một cuộc tình lâu dài và kham khổ trong hoang địa. Ngài định thi hành sứ vụ công khai bằng cuộc thăm viếng ngôi làng nhỏ bé nơi sinh trưởng của Ngài là Na-gia-rét. Ngài vào hội đường lúc giờ kinh phụng vụ và lên tiếng giải thích bài sách tiên tri I-sai-a: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ, cho kẻ bị tù đầy được tự do và cho người mù được thấy ánh sáng, giải phóng cho kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”
Đức Giêsu nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh” những người đồng hương ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài, họ chưa hiểu Ngài. Ngài nói với họ: Tôi, Người đang nói với ông bà anh chị em là chàng thanh niên của ông bà và anh chị em đều biết rõ tôi, tôi là Người Chúa đã truyền đi thực hiện những điều lạ lùng như tiên tri I-sai-a đã nói.
Nhưng bây giờ tôi không còn là chàng thanh niên đó nữa nên các ông bà anh chị em không chấp nhận tôi, không nghe tôi, không muốn có tôi. “Tôi bảo thật: không có một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Quá khứ đã chứng tỏ hùng hồn cho điều đó. Bao nhiêu ngôn sứ như Ê-li-a và E-li-sê đã không thể làm điều gì lạ ở nơi quê mình và các ông bà anh chị em tiếp tục theo lề thói xưa nên đã khinh thường tôi. Tôi chỉ là con ông Giu-se. Tôi không thể thông thái hơn các ông bà. Không có gã thanh niên nào nơi các ông bà, giám yêu sách đòi làm ngôn sứ cho các ông bà. Đó có phải là trò đùa không.
Đó là thứ dỡn mặt quá trớn, cần phải trừ khử đi! Quả thực, “Họ đã phẫn nộ phải đứng dậy, lôi Ngài ra khỏi làng, khéo lên tận đỉnh núi để xô Ngài xuống vực. Nhưng Ngài băng qua giữa họ mà đi”. Vì giờ rao giảng của Ngài đã tới, giờ chết của Ngài chưa điểm.
Chúng ta cũng có những ngôn sứ của chúng ta. Những gã thanh niên, thanh nữ này... Họ đang mang sứ điệp của Đức Kitô đến mọi nơi. Họ âm thầm, hiền lành và khiêm nhường trong lòng! nhưng lại không có nơi chúng ta sao?
Chúng ta đối xử với họ thế nào?
GF
Suy Niệm 4: Trả lại tự do
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca kể chuyện Đức Giêsu
đến giảng tại hội đường Nadarét, vào một ngày sabát (c. 16),
Dù trước đó Ngài đã giảng tại Caphácnaum và nhiều nơi khác (cc. 15. 23),
nhưng thánh Luca đã cố ý đặt ngay ở đầu sứ vụ công khai
cuộc gặp gỡ đặc biệt này giữa Ngài với người đồng hương ở Nadarét.
Đây là nơi Đức Giêsu tuyên bố chương trình sắp tới của Ngài.
Chương trình ấy được gói trong những câu trích dẫn từ ngôn sứ Isaia.
Được thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần (Lc 1, 35),
và được lãnh nhận Thần Khí khi chịu phép rửa (Lc 3, 22),
Đức Giêsu đã được xức dầu để nhận lãnh sứ mạng làm ngôn sứ.
Sứ mạng này chủ yếu là loan báo Tin Mừng cho người nghèo.
Loan báo Tin Mừng là động từ hay được Luca sử dụng (4, 43; 7, 22; 8,1…)
Tin Mừng này trước hết dành cho người nghèo theo nghĩa đen,
nghĩa là những người không có thu nhập cao, không đủ ăn, đủ mặc.
Ai là người nghèo nữa dưới mắt của Đức Giêsu?
Đó là những người nghèo tự do, phải chịu cảnh giam cầm.
Họ có thể là những người bị tù đày chỉ vì không có tiền trả nợ.
Đó là những người nghèo sức khỏe,
họ bị coi là chịu sự trói buộc của Xatan (Lc 13, 16),
Đó là những người nghèo đời sống tâm linh,
họ phạm tội nên thấy mình xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn.
Đức Giêsu đến để giải thoát những người nghèo này khỏi áp bức.
Ngài kéo họ ra khỏi cảnh nô lệ và trả lại tự do cho họ.
Chính vì thế Tin Mừng của Nước Thiên Chúa luôn đem lại niềm vui.
Đức Giêsu đã loan báo: Phúc cho anh em là người nghèo (Lc 6, 20).
Ngài đã chữa bệnh cho những kẻ ốm đau thân xác,
đã mở mắt người mù để họ thấy ánh sáng của ơn cứu độ.
Ngài cũng đã giao du và ăn uống với những tội nhân để đưa chiên lạc về.
Bởi đó thời của Đức Giêsu là Năm hồng ân, Năm Thánh.
Lời giảng của Đức Giêsu bước đầu đã được dân làng thán phục.
Họ có vẻ hãnh diện vì một người trong làng được lừng lẫy tiếng tăm.
Nhưng Đức Giêsu không muốn mình bị chi phối bởi dân làng.
Ngài không muốn bị buộc phải dành chút ưu tiên nào cho Nadarét (c. 23).
Đức Giêsu còn nhìn xa hơn đến sứ vụ nơi dân ngoại (cc. 25-27).
Ngài nhắc đến hai vị ngôn sứ trong Cựu Ước là Êlia và Êlisa.
Hai vị này đã giúp bà góa ở Xiđôn và tướng Naaman ở Xyri.
Dân Nadarét phẫn nộ và định giết Đức Giêsu khi Ngài nói rằng
Thiên Chúa chỉ sai hai ngôn sứ trên đến với dân ngoại mà thôi.
Thế giới hôm nay giàu hơn, nhưng vẫn còn lắm người nghèo như xưa.
Nghèo vì thiếu những điều kiện sống cơ bản, thiếu những quyền lợi căn bản.
Nghèo vì chưa được nghe biết về Đức Giêsu,
hay nghèo vì đã gạt Thiên Chúa ra khỏi đời mình.
Loan báo Tin Mừng là làm con người thực sự thêm giàu có.
Cầu nguyện :
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
02/09 Giới răn Thiên Chúa – tập tục phàm nhân
- Viết bởi Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23
Giới răn Thiên Chúa – tập tục phàm nhân.
Chúa Nhật tuần 22 Thường Niên năm B.
"Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân".
Lời Chúa: Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng.
Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?"
Người đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: 'Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người'. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người".
Và Người lại gọi dân chúng mà bảo rằng: "Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Dnl 4,1-2.6-8; Gc1,17-18.21b.22-27; Mc 7,1-8a.14-15.21-23
1. Giả hình
Bọn biệt phái và luật sĩ đã bắt bẻ Chúa Giêsu về việc các môn đệ của Ngài đã dùng bữa mà không rửa tay. Cách chung đối với mọi người, thì việc rửa tay trước khi ăn là một việc hợp với phép vệ sinh và chúng ta đã được căn dặn, đã được dạy bảo từ bé. Thế nhưng đối với bọn biệt phái thì việc làm này không chỉ còn là phép vệ sinh bình thường, mà đã trở thành một thứ nghi lễ của tôn giáo. Dưới mắt họ, việc dùng bữa mà không rửa tay là một vi phạm, một sai lỗi lớn đối với những quy định của cha ông. Họ không thể nào nhắm mắt làm ngơ cho việc vi phạm và sai lỗi này được.
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy bọn biệt phái và luật sĩ đã quá chú trọng vào những chi tiết nhỏ mọn mà quên mất điều chính yếu của lề luật đó là mến Chúa và yêu người. Dưới con mắt của Chúa Giêsu, thì bỏ điều chính yếu để chỉ giữ những cái nhỏ mọn bên ngoài, chỉ có thể là hạng giả hình, bôi bác mà thôi. Và đó cũng chính là điều Chúa Giêsu không thể chấp nhận. Ngài đã vạch mặt những kẻ giả hình, phơi bày lòng dạ của họ, dù họ thuộc vào hàng những người lãnh đạo của dân Chúa và cầm cân nẩy mực trong lãnh vực tôn giáo.
Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: Ngài đến không phải để phá bỏ lề luật, nhưng để làm cho lề luật nên trọn. Và Ngài đã làm cho lề luật nên trọn không phải bằng cách cổ võ cho người ta tuân giữ đủ mọi thứ tập tục lỉnh kỉnh do tiền nhân để lại, nhưng bằng cách kêu gọi mọi người thực hiện trọn vẹn nội dung và ý nghĩa của lề luật như chính Thiên Chúa đã thiết lập và truyền đạt cho dân Ngài.
Với chúng ta thì sao? Ngay ngày hôm nay, chúng ta không phải là đã không còn bị cám dỗ để quên lãng phần chính yếu của Tin Mừng, của đức tin, của đạo giáo để chỉ chú trọng vào một số việc làm, một số nghi thức. Chúng ta có thể áy náy vì đã không đọc một số kinh, làm một số việc đạo đức vào những ngày giờ nhất định, nhưng lại không hề thắc mắc về thái độ và cách cư xử của chúng ta đối với anh em. Đọc kinh, rước kiệu, làm những việc đạo đức khác là những điều rất tốt nhưng chưa phải là điều chính yếu. Nhưng việc làm ấy chỉ có giá trị khi chúng ta lưu tâm thực hiện điều chính yếu là mến Chúa và yêu người.
2. Giả hình
Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng. Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay kể lại cuộc xung đột giữa Chúa Giêsu và bọn biệt phái. Họ là những kẻ bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu, để bắt lỗi Chúa Giêsu. Thế nhưng mưu toan ấy đã bị thấ bại, và chính Chúa Giêsu cũng đã có lần thách thức họ: Các ngươi cứ việc bắt bẻ xem Ta lỗi phạm điều chi. Thất bại với Chúa Giêsu, họ quay sang hạch sách các môn đệ: Tại sao các môn đệ của ông lại không tuân giữ tập tục của cha ông. Dùng bữa mà không rửa tay. Thế nhưng Chúa Giêsu đã lên tiếng quở trách họ: Hỡi bọn giả hình, tiên tri Isaia đã nói thật chí lý về các ngươi như sau: Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta.
Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy Chúa Giêsu đã tỏ ra rất nhân từ và khoan dung đối với các tội nhân, nhưng Ngài lại tỏ ra nghiêm khắc với bọn biệt phái và luật sĩ. Nhiều lần Ngài đã lên tiếng trách cứ họ nặng lời. Tại sao thế? Tôi xin thưa vì họ là những kẻ kiêu căng và tự phụ, bôi bác và giả hình. Khắt khe với người khác mà lại rộng rãi với chính mình. Nói tới giả hình là chúng ta nghĩ ngay đến sự gian tham tà ý, khẩu phật tâm xà, miệng nam mô bụng bồ dao găm. Tư tưởng không đi đôi với lời nói và lời nói không đi đôi với việc làm. Ngôn hành không có hợp nhất. Nói một đàng làm một nẻo. Vì thế Chúa đã nghiêm khắc kết án: Khốn cho các ngươi hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, các ngươi giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy giòi bọ cùng mọi thứ xú uế.
Nói tới kẻ giả hình, chúng ta nghĩ ngay tới những kẻ kính Chúa bằng môi bằng miệng nhưng cõi lòng họ thì lại xa lìa Chúa. Họ tuân giữ cặn kẽ những tập tục của cha ông mà quên đi những giới luật của Chúa. Họ chỉ lo giữ gìn tiếng tăm trước mặt người đời, mà không lo giữ gìn tâm hồn khỏi mọi vết nhơ của tội lỗi trước mặt Thiên Chúa. Họ bấu víu vào những hình thức đạo đức bên ngoài như đọc kinh, xưng tội, rước lễ, rước kiệu, dâng hoa... nhưng trong cuộc sống ngoài xã hội, thì lại tỏ ra gian tham độc ác với những người chung quanh. Đúng như Chúa Giêsu đã diễn tả họ kinh kệ dài dòng nhưng lại nuốt trửng gia tài của các bà goá. Họ lo lau chìu chén đĩa bên ngoài, mà không lo gìn giữ tâm hồn mình trong trắng.
Nguyên nhân chính yếu khiến họ trở nên đáng trách, đó là vì họ thiếu vắng lòng mến chân thành, dù họ có làm gì chăng nữa, thì những hành động của họ cũng chẳng có được một chút giá trị và đến một lúc nào đó, chiếc mặt nạ đạo đức rơi xuống, khiến họ chỉ còn là những kẻ giả dối, bôi bác mà thôi.
Có hai thiếu phụ, mỗi người sinh được một mụn con trai. Chẳng may đêm hôm đó bà này nằm ngủ và đè chết con mình, bèn đánh tráo đứa con của bà kia. Sáng dậy bà kia nhận ra đứa con đã chết không phải là đứa con của mình. Thế là hai bà cãi cọ với nhau. Nội vụ được đưa tới vua Salomon. Nhà vua bèn truyền xẻ đứa nhỏ còn sống ra làm đôi, mỗi bà một nửa. Bà này bằng lòng còn bà kia thì xin nhường miễn là người ta đừng giết đứa nhỏ. Và rồi nhà vua đã trao đứa nhỏ còn sống cho bà kia, bởi vì nhờ tình thương mà nhà vua đã nhận ra bà kia chính là người mẹ thực của đứa nhỏ.
Đừng bôi bác giả hình, nhưng hãy sống thật với Thiên Chúa, sống thật với bản thân và sống thật với anh em đồng loại.
3. Tình mến.
Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.
Qua lời xác quyết của Chúa Giêsu chúng ta ghi nhận một sự thật đó là vì yêu thương và muốn cho chúng ta được cứu rỗi, Ngài đã truyền cho chúng ta tuân giữ điều này điều nọ. Và như chúng ta cũng đã biết, tình thương phải được đáp trả lại bằng tình thương. Bởi đó, việc chúng ta tuân giữ những lệnh truyền của Chúa cũng phải được xuất phát từ lòng mến chân thành. Một đi khi đã có lòng mến chân thành rồi, nó sẽ phản chiếu ra những hành động bên ngoài và làm cho những hành động ấy có một giá trị siêu nhiên và vĩnh cửu. Bằng không thì những hành động ấy sẽ chỉ như tiếng não bạt ầm vang, nhọc nhằn mà chẳng nên cơm cháo gì, còn bản thân chúng ta chẳng bao lâu sẽ bị lột mặt nạ, vì chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác và giả hình mà thôi.
Đúng thế, Chúa bảo chúng ta hãy xa tránh men bột biệt phái, vì họ là những kẻ vụ hình thức bên ngoài, họ quá chú trọng đến những chi tiết vụn vặt mà quên đi cái yếu tố căn bản của lề luật, đó là lòng mến bên trong. Người biệt phái quan tâm đến việc tắm gội thân xác, giặt giũ quần áo, lau chùi chén bát, tẩy uế chum vò nhưng lại coi thường lòng mến đối với Thiên Chúa và tình thương đối với anh em, khiến cho Chúa Giêsu đã phải mượn lời tiên tri Isaia mà quở trách họ: Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta. Họ gạt bỏ lề luật của Chúa, để bấu víu vào những tập tục của cha ông. Cái chính thì họ không làm không giữ, nhưng lại đi gữ và làm những cái vô nghĩa. Họ đã đảo lộn bậc thang giá trị.
Đối với Chúa Giêsu thì khác, tâm tình bên trong mới là yếu tố quyết định. Từ cái tâm địa xấu mà phát sinh ra những tội gian dâm, trộm cắp, thù oán, nhưng từ cái tâm địa tốt, chúng ta sẽ có được những hành động yêu thương, giúp đỡ và bố thí đối với anh em. Như thế, tư tưởng của chúng ta sẽ đi đôi với lời nói và lời nói thì đi đôi với việc làm. Chúng ta sẽ trở nên những người đôn hậu và chân thành, chúng ta không phải là những kẻ bôi bác và giả hình.
Có một nhà triệu phú chết đi để lại một gia tài to lớn với một người con đi du học ở ngoại quốc từ nhỏ, nên không ai còn nhớ được khuôn mặt. Sau khi mẩu tin được đăng báo thì người ta thấy có ba chàng thanh niên tự nhận mình là con và xin được lãnh phần sản nghiệp. Viên quan toà suy nghĩ, sau cùng ông nhờ hoạ sĩ vẽ bức chân dung của nhà triệu phú. Ông trao cho ba chàng thanh niên, mỗi người một khẩu súng và bảo: Nếu ai bắn trúng một điểm nhỏ trên khuôn mặt nhà triệu phú thì sẽ được lãnh phần gia nghiệp. Chàng thanh niên thứ nhất đến và giơ súng bắn. Chàng thanh niên thứ hai cũng thế. Cả hai viên đạn chỉ cách chấm nhỏ có chút xíu. Chàng thanh niên thứ ba, vẻ mặt rất buồn, cầm súng, yên lặng suy nghĩ và sau cùng đã nói: Tôi không bắn vì đây là bức chân dung của ba tôi. Viên quan toà chạy đến và nói: Chính anh là người con của nhà triệu phú và anh được lãnh phần gia nghiệp.
Nếu không có tình mến, thì rồi một lúc nào đó chúng ta sẽ bị lật tẩy, vì chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác giả hình mà thôi.
4. Cội nguồn của sự ác – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh, có hàng ngàn người xuống đường tuần hành qua các đường phố, hô to các khẩu hiệu chống chiến tranh. Ban đầu người ta hô: "đả đảo bom giết người!"
Sau đó, trong đám đông tham gia biểu tình có cuộc tranh luận nhỏ: "Làm gì có bom giết người! Bom đạn có giết ai đâu? Chỉ có những con người ác tâm tạo ra bom đạn, rồi đem bom bỏ lên đầu người khác mới gây nên tội giết người."
Thế là sau đó, người ta hô khẩu hiệu khác, hợp tình hợp lý hơn: "Đả đảo những kẻ giết người!"
Nhưng rồi lại có người bàn thêm: "Đâu phải tự dưng mà người lại giết người. Phải có động cơ nào đó thúc đẩy mới có chuyện giết người. Nếu không có lòng tham lam, ghen tị và những dục vọng xấu xa thúc đẩy, nào có ai lại đi giết người?" Nhiều người đáp lại: "Chí lý! Chí lý!"
Thế là cuối cùng, mọi người hô to khẩu hiệu khác: "Đả đảo lòng tham lam! Đả đảo lòng ghen tị! Đả đảo lòng hận thù!" (dựa theo Cha Anthony de Mello)
Thưa quý ông bà anh chị em,
Chính những dục vọng đen tối trong lòng người mới là nguyên nhân chính gây nên mọi xấu xa trong cuộc đời.
Vì chưa hiểu điều nầy, những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu cứ lo rửa cho sạch bên ngoài mà không lo rửa sạch nội tâm. Họ luôn rửa tay trước khi dùng bữa, hô hào mọi người hãy làm như họ, cho rằng đó là việc quan trọng cần làm và họ trách các môn đệ Chúa Giêsu vì các ông nầy bỏ qua tập tục đó.
Nhân cơ hội đó, Chúa Giêsu dạy cho các ông một bài học: "Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: 15 Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. 21 Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, 22 ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. 23 Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế."
Để hiểu rõ hơn bài học nầy, chúng ta hãy nhìn lại trường hợp Cain và Aben. Cain và Aben là hai anh em ruột thịt hằng ngày vẫn thường yêu mến nhau, vui đùa với nhau, hoà thuận với nhau.
Thế rồi, sau khi thu hoạch hoa màu lợi tức, hai anh em cùng nhau dâng của lễ đầu mùa lên Thiên Chúa. Thiên Chúa nhận lễ vật của Aben mà từ khước lễ vật của Cain.
Thế là từ đó, trong lòng Cain phát sinh một mối ghen tị, hận thù. Lòng ghen tị lớn dần lên lấn át cả tình anh em ruột thịt khiến Cain dụ em ra đồng và xông vào đánh chết người em.
Chính lòng ghen tị trong tâm hồn Cain là nguyên nhân chính xui khiến anh giết chết Aben.
Một trường hợp tương tự khác là vua Sao lê và Đavít.
Thời ấy, Gô-li-át là kiện tướng của quân Philitinh, một con người khổng lồ lại có sức mạnh vô địch khiêu chiến với người Israel. Trong hàng ngũ quân Ít- ra-en không ai có thể đương đầu được với con người khổng lồ ấy.
May thay, Đavít xuất hiện kịp thời. Cậu dùng ná bắn lủng trán Gô-li-át, rồi dùng chính gươm của y mà chặt đầu y. Thừa cơ hội tốt, quân Israel xông lên đánh tan quân địch không còn manh giáp.
Dân chúng Israel tuôn ra đường tung hô ca tụng vị anh hùng trẻ tuổi Đavít. Họ ca lên rằng: "Vua Sao-lê giết được một ngàn, còn Đavít giết được hàng vạn".
Lời ca tụng đó vẳng đến tai vua Sao-lê. Lòng ghen tị xuất hiện và nung nấu tâm hồn ông. Thế là vua thay lòng đổi dạ: trước đây vua yêu thương Đavít bao nhiêu thì giờ đây vua căm thù Đavít bấy nhiêu. Nhà vua bất thần lấy giáo phóng vào Đavít khi cậu gảy đàn cho vua nghe. Đavít lách mình tránh thoát cái chết trong gang tấc. Sau đó vua đem quân truy lùng tận những hang núi sâu để tiêu diệt vị anh hùng tài năng và dũng cảm nầy.
Đúng là những gì xấu xa bên trong lòng người mới làm cho người ta ra nhơ uế.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn thật sâu tận đáy lòng mình để quan sát những ham muốn xấu xa, những kiêu căng và ghen tị, những tham lam và thù ghét đang âm ỉ trong lòng. Chính những thứ đó mới là nguyên nhân gây nên tội ác, tạo nên mọi điều xấu xa.
Nếu chúng ta không nhận diện được chúng, không nhổ bỏ chúng khỏi tâm hồn mình, thì dần hồi chúng sẽ lớn dần lên và xô đẩy chúng ta vào tội ác, khiến tương quan giữa chúng ta với người khác ngày càng tồi tệ, làm cho đời sống thiêng liêng của chúng ta suy sụp hoàn toàn.
5. Canh tân tâm hồn – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có người nhìn đời mà ngao ngán bảo rằng: sao Thiên Chúa không tạo dựng "thế thật" mà lại tạo dựng "thế gian"? Thế gian nên lắm gian tà. Thế gian nên con người hay sống gian dối, lừa lọc với nhau và thiếu hẳn lối sống đơn sơ, chân thành. Thực ra thế gian ở đây không phải là thế giới gian tà mà là trần thế, dương gian. Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sư đều tốt đẹp. Sự xấu do ma qủy gieo vào thế gian qua tâm hồn con người. Trước tiên nó gieo vào trong con người sự ngờ vực Thiên Chúa. "Cứ ăn đi chẳng chết chóc gì đâu! Cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa". Con người đã để cho hạt giống ước muốn phản bội Thiên Chúa lấn chiếm vị trí số 1 trong tâm hồn. Thay vì bình an vô tư sống trong sự che chở của Thiên Chúa, con người lại nuôi dưỡng sự ngờ vực và ấp ủ những toan tính bất trung, phản bội. Hậu quả là sự xấu đã đi vào trần gian. Sự xấu chìm sâu trong bản tính con người. Sự xấu có thể bộc phát và thống lĩnh con người, nếu con người buông mình theo thói đam mê dục vọng và sống lười biếng ươn hèn. Quyền lực của sự dữ đã thống trị con người đến nỗi con người dễ làm điều xấu hơn điều thiện. Từ ngày nguyên tổ nghi ngờ Thiên Chúa cho đến hôm nay con nguời vẫn luôn nghi ngờ lẫn nhau. Từ nghi ngờ đến lối sống "bằng mặt nhưng không bằng lòng", và tệ hại nhất là sống giả hình với nhau.
Một thế giới "vàng thau lẫn lộn" nên khó phân biệt đâu là thiệt đâu là giả. Và càng khó phân biệt ai là người tốt ai là người xấu. Thế giới hôm qua cũng như hôm nay luôn có những ngừơi sống giả dối, sống hai mặt: "Đi với Chùa mặc áo Càsa - Đi với ma mặc áo giấy". Vẻ bên ngoài thường nguỵ trang cho những ý đồ đen tối đầy bất chính và gian tà bên trong.
Lời Chúa hôm nay cảnh cáo lối sống giả hình của nhóm biệt phái và luật sĩ năm xưa. Họ chú trọng đến việc canh tân hình thức bên ngoài mà quên đi việc canh tân tâm hồn. Họ nhạy cảm với sự dơ bẩn bên ngoài như đồ ăn, thức uống và vật dụng mà quên đi điều quan yếu của lề luật là gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn. Lề luật không nhằm bảo đảm cho con người được sạch sẽ thân thể, được bảo đảm an toàn thực phẩm mà nhằm gìn giữ nét đẹp của phẩm giá con người và bảo vệ con người khỏi những sự ô uế của tâm hồn. Thế nên, gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn quan trọng hơn là sự sạch sẽ bên ngoài. Thanh tẩy tâm hồn khỏi những bợn nhơ tội lỗi cần thiết hơn là những nghi lễ bên ngoài. Philatô đã từng rửa tay nhưng liệu rằng tâm hồn ông có thanh thản bình an khi dối mình "vô can trong cái chết của người công chính?". Biết bao người đã dùng bàn tay để làm sự ác như giết người, cướp của... và họ cũng đã từng rửa tay cho sạch, nhưng làm sao họ rửa được tội ác mà họ đã gây nên? Bàn tay chỉ là dụng cụ. Bàn tay không làm nên tội. Bàn tay bị sai khiển bởi tâm địa gian ác và lưu manh của con người.
Chính vì thế, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: "Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế". Thế nên, điều cần rửa là rửa tâm hồn sạch mọi những toan tính bất chính, cần phải loại bỏ những ý đồ dơ bẩn, và tránh xa những cám dỗ tội lỗi của ma qủy luôn dẫn dụ con người đi ngược lại với giáo huấn của Chúa.
Con người ngày nay dường như cũng chỉ chú trọng đến hình thức bên ngoài. Ngừơi ta trau truốt vẻ đẹp bên ngoài bằng biết bao mỹ phẩm. Chấp nhận tiêu hao tiền của nơi các thẩm mỹ viện để chăm sóc sắc đẹp, nhưng ít ai nghĩ đến phải trau dồi nhân đức cho xứng với phẩm giá con người. Người ta có thể hy sinh, khổ luyện hàng tháng, hàng năm để gìn giữ vẻ đẹp thân xác, nhưng có mấy ai chịu khổ chế để gìn giữ vẻ đẹp tâm hồn. Ngày xưa người ta chú trọng đến cái nết, vì "cái nết đánh chết cái đẹp", nhưng hôm nay "cái đẹp đang đánh dẹp cái nết".
Con người ngày hôm nay quá chú trọng đến vẻ đẹp bên ngoài mà lãng quên phẩm chất đạo đức nên con người đã đánh mất hướng đi của mình. Hậu quả là cả một trào lưu ăn chơi truỵ lạc, thoái hoá đạo đức đang làm băng hoại xã hội, đánh mất đi biết những thuần phong mỹ tục nơi gia đình và xã hội. Tội lỗi ngày một gia tăng. Sự ác ngày một lan tràn.
Vâng, vẻ đẹp bên ngoài là cần thiết nhưng điều quan yếu mà chúng ta phải phấn đấu là sống sao cho nên người. Thiết tưởng lời dạy của tiền nhân năm xưa: "đói cho sạch, rách cho thơm". "Làm người phải có lòng nhân" phải là lời dạy cho con người hôm nay. Đẹp thể xác và đẹp cả tâm hồn mới có ích cho xã hội, bằng không chỉ là hoa, là cỏ, là vật vô tri vô giác, có khi còn có hại cho gia đình và xã hội.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết thanh luyện tâm hồn của mình khỏi những bợn nhơ tội lỗi, những toan tính bất chính và đam mê thấp hèn, để tâm hồn luôn thanh khiết vẹn toàn. Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết trân trọng, yêu qúy phẩm giá cao qúy của con người là hình ảnh Thiên Chúa để biết sống cao thượng, sống đúng với luân thường đạo lý và nhất là biết sống theo lề luật của Chúa để bình an của Chúa luôn cư ngụ mãi trong cuộc đời chúng ta. Amen.
6. Cái nết đánh chết cái đẹp
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Có người nhìn đời mà ngao ngán bảo rằng: sao Thiên Chúa không tạo dựng “thế thật” mà lại tạo dựng “thế gian”? Thế gian nên lắm gian tà. Thế gian nên con người hay sống gian dối, lừa lọc với nhau và thiếu hẳn lối sống đơn sơ, chân thành. Thực ra thế gian ở đây không phải là thế giới gian tà mà là trần thế, dương gian. Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sư đều tốt đẹp. Sự xấu do ma qủy gieo vào thế gian qua tâm hồn con người. Trước tiên nó gieo vào trong con người sự ngờ vực Thiên Chúa. “Cứ ăn đi chẳng chết chóc gì đâu! Cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa”. Con người đã để cho hạt giống ước muốn phản bội Thiên Chúa lấn chiếm vị trí số 1 trong tâm hồn. Thay vì bình an vô tư sống trong sự che chở của Thiên Chúa, con người lại nuôi dưỡng sự ngờ vực và ấp ủ những toan tính bất trung, phản bội. Hậu quả là sự xấu đã đi vào trần gian. Sự xấu chìm sâu trong bản tính con người. Sự xấu có thể bộc phát và thống lĩnh con người, nếu con người buông mình theo thói đam mê dục vọng và sống lười biếng ươn hèn. Quyền lực của sự dữ đã thống trị con người đến nỗi con người dễ làm điều xấu hơn điều thiện. Từ ngày nguyên tổ nghi ngờ Thiên Chúa cho đến hôm nay con nguời vẫn luôn nghi ngờ lẫn nhau. Từ nghi ngờ đến lối sống “bằng mặt nhưng không bằng lòng”, và tệ hại nhất là sống giả hình với nhau.
Một thế giới “vàng thau lẫn lộn” nên khó phân biệt đâu là thiệt đâu là giả. Và càng khó phân biệt ai là người tốt ai là người xấu. Thế giới hôm qua cũng như hôm nay luôn có những người sống giả dối, sống hai mặt: “Đi với Bụt mặc áo cà sa - Đi với ma mặc áo giấy”. Vẻ bên ngoài thường nguỵ trang cho những ý đồ đen tối đầy bất chính và gian tà bên trong.
Lời Chúa hôm nay cảnh cáo lối sống giả hình của nhóm biệt phái và luật sĩ năm xưa. Họ chú trọng đến việc canh tân hình thức bên ngoài mà quên đi việc canh tân tâm hồn. Họ nhạy cảm với sự dơ bẩn bên ngoài như đồ ăn, thức uống và vật dụng mà quên đi điều quan yếu của lề luật là gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn. Lề luật không nhằm bảo đảm cho con người được sạch sẽ thân thể, được bảo đảm an toàn thực phẩm mà nhằm gìn giữ nét đẹp của phẩm giá con người và bảo vệ con người khỏi những sự ô uế của tâm hồn. Thế nên, gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn quan trọng hơn là sự sạch sẽ bên ngoài. Thanh tẩy tâm hồn khỏi những bợn nhơ tội lỗi cần thiết hơn là những nghi lễ bên ngoài. Philatô đã từng rửa tay nhưng liệu rằng tâm hồn ông có thanh thản bình an khi dối mình “vô can trong cái chết của người công chính?”. Biết bao người đã dùng bàn tay để làm sự ác như giết người, cướp của... và họ cũng đã từng rửa tay cho sạch, nhưng làm sao họ rửa được tội ác mà họ đã gây nên? Bàn tay chỉ là dụng cụ. Bàn tay không làm nên tội. Bàn tay bị sai khiển bởi tâm địa gian ác và lưu manh của con người.
Chính vì thế, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được ; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng... Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế". Thế nên, điều cần rửa là rửa tâm hồn sạch mọi những toan tính bất chính, cần phải loại bỏ những ý đồ dơ bẩn, và tránh xa những cám dỗ tội lỗi của ma qủy luôn dẫn dụ con người đi ngược lại với giáo huấn của Chúa.
Con người ngày nay dường như cũng chỉ chú trọng đến hình thức bên ngoài. Ngừơi ta trau truốt vẻ đẹp bên ngoài bằng biết bao mỹ phẩm. Chấp nhận tiêu hao tiền của nơi các thẩm mỹ viện để chăm sóc sắc đẹp, nhưng ít ai nghĩ đến phải trau dồi nhân đức cho xứng với phẩm giá con người. Người ta có thể hy sinh, khổ luyện hàng tháng, hàng năm để gìn giữ vẻ đẹp thân xác, nhưng có mấy ai chịu khổ chế để gìn giữ vẻ đẹp tâm hồn. Ngày xưa người ta chú trọng đến cái nết, vì “cái nết đánh chết cái đẹp”, nhưng hôm nay “cái đẹp đang đánh dẹp cái nết”.
Con người ngày hôm nay quá chú trọng đến vẻ đẹp bên ngoài mà lãng quên phẩm chất đạo đức nên con người đã đánh mất hướng đi của mình. Hậu quả là cả một trào lưu ăn chơi truỵ lạc, thoái hoá đạo đức đang làm băng hoại xã hội, đánh mất đi biết những thuần phong mỹ tục nơi gia đình và xã hội. Tội lỗi ngày một gia tăng. Sự ác ngày một lan tràn.
Vâng, vẻ đẹp bên ngoài là cần thiết nhưng điều quan yếu mà chúng ta phải phấn đấu là sống sao cho nên người. Thiết tưởng lời dạy của tiền nhân năm xưa: “đói cho sạch, rách cho thơm”. “Làm người phải có lòng nhân” phải là lời dạy cho con người hôm nay. Đẹp thể xác và đẹp cả tâm hồn mới có ích cho xã hội, bằng không chỉ là hoa, là cỏ, là vật vô tri vô giác, có khi còn có hại cho gia đình và xã hội.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết thanh luyện tâm hồn của mình khỏi những bợn nhơ tội lỗi, những toan tính bất chính và đam mê thấp hèn, để tâm hồn luôn thanh khiết vẹn toàn. Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết trân trọng, yêu qúy phẩm giá cao qúy của con người là hình ảnh Thiên Chúa để biết sống cao thượng, sống đúng với luân thường đạo lý và nhất là biết sống theo lề luật của Chúa để bình an của Chúa luôn cư ngụ mãi trong cuộc đời chúng ta. Amen.
7. Tập tục và Lời Chúa – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.
Có những người chẳng để ý đến lề luật, nên không tôn trọng quyền lợi người khác; nhưng cũng có những người quá để ý đến luật, đến trở thành nô lệ lề luật. Đức Yêsu trách một số người thời đó “bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.
I. Lời Thiên Chúa và lời con người
Thiên Chúa đã ban mười điều luật cho dân Israel qua Môsê, và ông đã dạy dân Do Thái: “các ngươi chớ thêm bớt điều gì trong các điều ta đã truyền, nhưng hãy tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi mà ta đã truyền cho các ngươi”. Đừng thêm và cũng đừng bớt vào những điều Thiên Chúa dạy. Đừng làm lẫn lộn lời của con người với Lời Thiên Chúa. Chỉ có Lời Thiên Chúa mới phải giữ một cách tuyệt đối, còn lời của con người thì tùy thuộc thời đại và tùy thuộc văn hóa của mỗi dân tộc.
Tuy nhiên, có Lời Chúa nào mà không phải là lời của con người? Để con người nghe được Lời Chúa, thì Lời Chúa cũng phải là lời của con người, phải được truyền qua trung gian con người. Để dân có thể nghe được Lời Chúa, Lời Chúa đã qua trung gian là lời Môsê. Lời của Môsê nhưng không phải là lời của Môsê, nên Môsê cũng phải phục tùng Lời Chúa mà Môsê đã được trao để truyền lại cho dân.
Vấn đề chính yếu là phải nhận định được đâu là Lời Chúa và đâu là lời của con người, xét như phương tiện chuyển tải Lời Chúa. Đâu là Lời Chúa, đâu là lời của Môsê, đâu là văn hóa của thời đại chuyển tải Lời Chúa? Thập giới là Lời Chúa, và thập giới cho con người biết con người phải có tương quan như thế nào đối với Thiên Chúa. Vào thời cánh chung, Lời Thiên Chúa đã làm người. Đức Yêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể, nên con người cũng là Lời Thiên Chúa, vì Lời Thiên Chúa đã làm người.
II. Tập tục con người và giới răn Thiên Chúa
Con người là vật chất và tinh thần. Thân xác vật chất bị giới hạn, nên con người cũng bị giới hạn. Khi Lời Thiên Chúa nhập thể, thân xác giới hạn của con người có thể che khuất làm con người khó nhận ra chân tướng của Lời Thiên Chúa nhập thể; cũng tương tự vậy, lời con người cũng có thể làm lu mờ Lời Chúa khi Lời Chúa được diễn đạt qua trung gian lời con người.
Trong lịch sử, Lời Thiên Chúa đã được con người giải thích, với mong ước con người hiểu biết hơn về Lời Chúa, để có thể sống theo Lời Chúa. Tuy nhiên, vì có quá nhiều những lời giải thích nên người ta không còn nhận ra đâu là điểm chính yếu mà lề luật hay Lời Chúa muốn nói. Rồi tới một mức độ nào đó, người ta lấy những lời dạy của con người và coi đó như là tuyệt đối quan trọng (như thể đó là Lời Chúa). Đó là lý do tại sao Đức Yêsu nói: “Dân này sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người. Vì các ngươi bỏ qua giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.
Con người phải được thanh tẩy liên tục để có thể nghe được Lời Chúa nói với mỗi người, và giữ mình khỏi bị ràng buộc bởi những lời giải thích Lời Chúa và luật Chúa. Truyền Lời Chúa lại cho con cháu, đó là bổn phận mà mỗi người thực thi. Tuy nhiên, con người phải phân biệt Lời Chúa và những giải thích về Lời Chúa. Cần thiết phải giữ Lời Chúa, chứ không phải giữ tập tục của con người. Thiên Chúa luôn muốn điều tốt lành cho con người, nên Lời Thiên Chúa làm con người được giải phóng khỏi mọi ràng buộc, giúp con người tự do và sống hạnh phúc với Thiên Chúa; ngược lại, tục lệ con người làm người ta trở thành nô lệ. Không được nhân danh Lời Chúa để bắt con người trở nên nô lệ cho những điều thuộc trần thế.
III. Thiên Chúa Đấng ban luật lệ cho con người
Luật Thiên Chúa ban cho con người, không phải để cưỡng ép con người, nhưng để giúp con người được tự do thực sự. Con người có thể bị ràng buộc bởi lòng ham mê tiền bạc, lòng ham mê sắc dục, sợ chết, v.v. Mười Lời (thập giới) được ban cho con người, giúp con người nhận ra mình bị nô lệ khi thấy mình đã vi phạm thập giới. Luật Chúa là dấu chỉ cho con người biết về chính mình.
Đấng ban luật cho con người, là Đấng muốn con người được tự do. Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo muốn loài, Ngài là chủ, là vua. Ngài không nô lệ bất cứ điều gì nhưng tự do với tất cả để yêu thương. Thiên Chúa yêu thương, và muốn con người nên giống Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn con người làm chủ tất cả, tự do với tất cả. Thiên Chúa muốn con người sống hạnh phúc như Thiên Chúa.
Khi con người còn quy tất cả về chính mình, thì con người chưa thể yêu thương thật sự. Khi con người muốn đặt mình trên tất cả, thì con người chưa thực sự được tự do. Yêu thương và phục vụ, là dấu chỉ của một người đang trở nên giống Thiên Chúa. Hạnh phúc không thể có được chỉ bằng thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người. Hạnh phúc đòi hỏi điều gì thâm sâu hơn, và chính Đức Yêsu đã sống hạnh phúc trong chính cuộc đời dương thế của Ngài. Hạnh phúc của Đức Yêsu, liên hệ đến tất cả con người của Ngài, và là tình trạng mẫu mực con người phải đạt. Khi đó con người sống an bình và hòa hợp với Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tự do nội tâm là gì? Bạn có bị ràng buộc bởi điều gì “bất chính” không?
2. Theo bạn, luật lệ đời giúp gì cho con người? Luật Chúa giúp gì cho con người?
3. Với bạn, bạn cần tự do để yêu thương, hay chính khi bạn yêu thương thì bạn tự do?
8. Chúa Nhật 22 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Từ trước đến giờ chắc anh chị em dự nhiều đám tang. Nếu nhớ lại, không chỗ nào giống nhau cả. Có nơi chôn ban ngày, có nơi chôn ban đêm. Tôi cũng nhận thấy có những điều hơi lạ ở một số nơi. Người chết được đưa đi đến nơi an nghĩ cuối cùng vào lúc ban đêm, có đèn đuốc để thấy đường đi, đó là lẽ tự nhiên. Nhưng tôi hơi ngạc nhiên, vì có khi quan tài được mang đi giữa ban ngày mà vẫn có những bó đuốc dẫn đường. Lại còn bở ngở hơn nữa, khi mọi việc lo cho người chết đã xong, cho dù vẫn còn đêm tối, nhưng không một ánh lửa nào được đốt lên, mọi người cứ lần mò trong trong bóng đêm dầy đặt mà trở về nhà. Điều ngạc nhiên đó được giải đáp như thế nầy:
Việc đưa người chết đến nơi an nghĩ cuối cùng, dù ngày hay đêm, đều có bó đuốc dẫn đường, để người chết biết đường đi đến nơi của mình.
Còn việc những người làm xong nhiệm vụ, cho dù ban đêm vẫn không được có một ánh lửa để soi đường về, là vì sợ người chết sẽ theo ánh lửa mà quay trở về phá rối những người còn sống.
Sợ người chết quay trở về, vậy mà có rất nhiều người, sau khi chôn người chết được ba ngày, thì có một việc làm gọi là mở cửa mả. Trong những món đồ đem đến mở cửa mả có một cái thang, để cho người chết dùng leo lên trở về nhà mình. Tôi nhận thấy đó là một việc làm vô lý: sợ trở về, rồi lại tìm phương tiện cho trở về. Vậy mà trải qua biết bao nhiêu thời đại, rất nhiều người đều thực hiện cái phi lý đó.
Chúa Giêsu nhìn thấy những điều phi lý trong xã hội của Ngài thời bấy giờ, Ngài không thể lặng thinh ngồi nhìn những người mà Ngài thương yêu phải nô lệ cho những điều phi lý đó. Ngài muốn những việc làm của con người không chỉ là những cử chỉ vô tri bên ngoài, nhưng nó luôn được thực hiện bằng cả tâm tình thật sự của một con tim nồng cháy. Để việc làm có giá trị, không hệ tại hình thức bên ngoài, nhưng do tâm tình bên trong.
Chúng ta đang sống trong một xã hội gọi là văn minh khoa học, con người luôn chạy đua, tìm kiếm những tiện nghi vật chất cho cuộc sống. Con người luôn tìm những hào nhoáng bên ngoài, để rồi khi nhìn lại, họ không còn thấy được con tim của mình đang ở đâu.
Thử nhìn lại xem, biết bao lần chúng ta khó chịu với những người có hành động và ý tưởng không giống như mình, thế là, chúng ta tìm đủ mọi thứ lý do để kết tội họ: nào là vô lễ, không lịch sự, không có giáo dục, kém văn minh, vô đạo đức. Nếu khi đó, có Chúa Giêsu đang nhìn thấy, Ngài sẽ bảo chúng ta như thế nào? Tôi thiết nghĩ, chắc Ngài không quá khắc khe như chúng ta. Còn những việc chúng ta làm, gọi là những việc đạo đức tốt lành, chúng ta bắt mọi người phải công nhận, noi theo. Nếu có người nào có ý kiến phê bình, chỉ trích, hay có hành động trái ngược lại, chắc là chúng ta không vui, hay tệ hơn nữa, chúng ta tìm mọi cách loại trừ kẻ ấy. Nếu khi đó có Chúa Giêsu đang nhìn thấy, Ngài sẽ bảo chúng ta như thế nào?
Nếu giờ nầy đây, chúng để ra một ít phút suy tư, nhìn lại những việc làm đã qua của mình, chúng ta sẽ dể dàng nhận thấy: đâu là những việc làm phát xuất từ con tim biết yêu thương, còn đâu là những việc làm hào nhoáng chỉ để thỏa mản những tham vọng, như Chúa Giêsu đã nói: “Từ bên trong con người mới phát ra những ý tưởng xấu."
Biết bao nhiêu điều vô lý chúng ta đã làm trong cuộc sống, nhưng không thấy. Trái lại, chúng ta nhìn thấy những điều người khác làm, có những lúc chúng ta cho là vô lý, là không đúng chỉ theo ý muốn riêng tư của mình, không theo một nguyên tắc chung nào cả.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết hành động bằng con tim chân thật, để chúng ta biết tôn thờ Chúa không chỉ bằng môi miệng, nhưng bằng cả con tim biết yêu thương mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta.
9. Lề luật và tấm lòng
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
"Cái gì từ trong con người xuất ra mới là cái làm cho người ta ô uế" (Mc 7,15)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ngày xưa Ðức Giêsu đã dùng lời ngôn sứ Isaia để trách dân Do Thái rằng: "Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta". Phải chăng chúng ta cũng đáng bị trách như thế? Mỗi ngày Chúa nhật, chúng ta đến đây đọc kinh và rước lễ. Nhưng đó chỉ mới là bằng môi bằng miệng thôi. Tôn kính Chúa bằng một tấm lòng chân thành còn đòi buộc chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa, kết hợp với Mình Thánh Chúa và sống theo ý Chúa nữa. Chúng ta hãy dâng Thánh lễ này với cả tấm lòng chân thành yêu kính như vậy.
II. Gợi ý sám hối
Nhiều lần chúng ta dự thánh lễ nhưng lòng trí không ở với Chúa.
Chúng ta nghe Lời Chúa rất nhiều nhưng chẳng thực hành bao nhiêu.
Chúng ta cố gắng giữ luật vì sợ phạm tội chứ không vì lòng yêu mến Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Ðnl 4,1-2.6-8)
Dân Do Thái rất hãnh diện vì có Thiên Chúa làm Chúa của họ và vì được Thiên Chúa ban Luật cho họ: "Có dân tộc vĩ đại nào được Thần minh ở gần như Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh như tất cả Lề luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?"
Nhưng Ông Môsê lưu ý: (1) Không được thêm cũng không được bớt gì vào những Lề luật của Chúa; (2) Phải đem những lề luật đó ra thực hành.
2. Ðáp ca (Tv 14)
Thánh vịnh này ca tụng những người luôn cố gắng sống công chính theo chỉ dẫn của lề luật.
3. Tin Mừng (Mc 7,1-8a.14-15.21-23)
Ðức Giêsu và nhóm biệt phái cùng kinh sư tranh luận với nhau về vấn đề sạch dơ.
Họ bám sát mặt chữ những quy định của luật lệ về sự phân biệt cái gì sạch cái gì dơ và về những đòi buộc phải rửa tay chân chén dĩa...
Ðức Giêsu nói đó chỉ mới là sạch dơ bề ngoài, không quan trọng bằng sạch dơ trong tâm hồn.
Ngài nhận xét đạo đức của họ chỉ là đạo đức giả: "Dân này kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta".
Ngài còn kết án họ lấy tập tục của loài người để thay thế lệnh truyền của Thiên Chúa. Ngài lấy tục lệ Corban ra làm thí dụ điển hình: Corban là của dâng cúng cho Thiên Chúa. Mặc dù Xh 20,12 buộc con cái phải phụng dưỡng cha mẹ. Nhưng để khuyến khích người ta đóng góp cho Ðền thờ, biệt phái và kinh sư đã dạy rằng nếu ai khấn hứa đem những gì phải giúp cha mẹ để dâng cho Ðền thờ thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Quả thật đây là một cách bóp méo luật Chúa.
4. Bài đọc II (Gc 1,17-18.21b-22.27)
Thánh Giacôbê bảo rằng được đón nhận Lời Chúa quả là một ân huệ to lớn. Nhưng Ngài khuyên tín hữu "đừng nghe suông mà phải đem ra thực hành". Cụ thể là hãy "thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian".
IV. Gợi ý giảng
* 1. Chớ giả hình
Năm 587, trước khi Chúa ra đời, thủ đô Giêrusalem bị thất thủ, nước Do Thái sụp đổ, người Do thái bị bắt đi đày bên nước Babylon. Sống bên xứ lạ quê người, đền thờ không còn, tế tự không còn, niềm tin của người Do thái yếu kém đi. Hơn nữa sống giữa người ngoại, nhiều người Do thái đã dần dà bỏ đạo Chúa và theo các bụt thần. Trước hoàn cảnh đó, các luật sĩ Do thái đã hết sức cứu vãn niềm tin của dân mình bằng cách đặt ra những luật lệ nhằm bảo vệ đức tin cho tinh tuyền. Vì thế, có những khoản luật cấm tiếp xúc với kẻ tội lội, với những gì gọi là ô uế xấu xa.
Thế nhưng sau khi lưu đày trở về, các luật sĩ đã đi quá trớn, đưa ra những khoản luật rất là tỉ mỉ. Thí dụ:
Một người đàn ông bị đi lính thì bị coi là ô uế. Tất cả mùng mền chiếu gối của họ đều bị coi là dơ. Ai đụng tới cũng bị dơ và phải giặt quần áo của mình, và cho dù đã tắm giặt như vậy vẫn còn bị coi là dơ cho đến chiều tối. Xe họ ngồi cũng bị coi là dơ, phải rửa cho sạch.
Ðàn bà tới chu kỳ kinh nguyệt thì bị coi là ô uế suốt 7 ngày. Ai đụng tới họ cũng bị lây ô uế, có tắm giặt cũng còn ô uế tới chiều.
Nếu kẻ bị coi là ô uế hay lây ô uế khi tắm giặt cũng phải theo những luật tỉ mỉ: lấy nước thì lấy bằng bình đồng, bình sành hay bình gỗ chứ không được dùng bằng thứ bình nào khác. Ðụng tới một người ô uế thì phải rửa từ khuỷu tay trở xuống, và phải rửa 2 lần: 1 lần vì tay bẩn, lần thứ hai để tẩy đợt nước thứ nhất đã bị bẩn khi dính vào tay bẩn của mình.
Trước khi ăn thì phải rửa tay cho khỏi những ô uế mà có thể vì vô tình mình đã chạm phải. Người ta kể rằng có 1 luật sĩ tên là Aqiba đã thà chết khát trong tù còn hơn vi phạm luật này: trong tù nước rất ít, nhưng ông cũng dùng để rửa tay trước khi ăn dù rửa xong thì không còn nước để uống.
Ði tới chỗ quá trớn đó thì trở thành thói vụ hình thức. Và nếu chỉ coi trọng hình thức mà quên phần nội tâm thì trở thành chứng giả hình. Vụ hình thức và giả hình, đó là 2 điều mà Ðức Giêsu cực lực công kích trong bài Tin mừng hôm nay.
Nhưng dù sao giữ hình thức cũng dễ hơn giữ nội tâm, cho nên không riêng gì người Do thái thời xưa, mà cả chúng ta ngày nay cũng dễ mắc thói vụ hình thức và giả hình.
Thiếu gì người thích làm đám cưới linh đình, lễ cưới có nhiều cha đồng tế nhưng chẳng lo phần giáo lý cho đôi tân hôn bao nhiêu.
Thiếu gì người cha mẹ già còn sống thì bỏ bê, nói nặng nói nhẹ. Chỉ khi cha mẹ nằm xuống mới lo làm tang lễ um sùm, than khóc bù lu bù loa..
Thiếu gì người không khuyến khích con cái đi học giáo lý, nhưng tới ngày Rước lễ, Thêm Sức thì tới xin xỏ, làm áp lực cho con mình cũng có mặt trong ngày lễ trọng đại ấy.
Và thiếu gì người hết sức sùng kính ảnh thánh này, tượng thánh nọ, mà khi đối xử với người khác thì chẳng thấy có chút gì giống tinh thần bác ái vị tha của các vị thánh đó.
Với những kẻ giả hình thời trước cũng như thời nay, Lời Ðức Giêsu trách sứ vẫn luôn luôn nghiêm nhặt: "Hỡi bọn giả hình, Isaia đã nói thật chí lý về các ngươi rằng: dân này kính ta bằng môi miệng, còn lòng nó thì ở cách xa ta, vì nói sùng kính ta cách giả dối".
Nhưng thực ra, chúng ta không muốn giả hình mà chỉ vì có bề ngoài thì dễ hơn có bề trong. Bề ngoài và bề trong đều quan trọng, nhưng bề trong quan trọng hơn. Giữ đạo mà không thật lòng mến Chúa yêu người thì vô ích, bởi vì công phúc không phải từ bên ngoài mà tự trong lòng mà ra, không phải do đọc kinh dự lễ mà có nhưng do tâm tình sốt sắng khi đọc kinh dự lễ.
* 2. Bàn về luật lệ
Năm 336 trước Chúa Giáng Sinh, nước Hy Lạp nổi lên một vị anh hùng, đó là Alexandre đại đế. Mới có 20 tuổi, ông đã chứng tỏ tài thao lược của mình khi nổi lên bẻ gãy ách đô hộ của đế quốc Ba Tư lúc đó đang đè nặng trên nước Hy Lạp. Chẳng những thế, ông còn quật ngược lại tình hình, biến Ba Tư trở thành một nước chư hầu và đưa Hy Lạp lên ngôi bá chủ. Ông đánh đâu thắng đó, trăm trận trăm thắng, xâm chiếm nhiều nước khác, đế quốc Hy lạp trải rộng cho tới Ấn Ðộ,. Nước Do thái bé nhỏ cũng rơi vào vòng thống trị của đế quốc Hy Lạp. Loé mắt trước nền văn minh Hy Lạp, nhiều người Do Thái đua nhau học đòi kiểu sống Hy Lạp: nói tiếng Hy Lạp, mặc theo kiểu Hy lạp, ăn uống theo kiểu Hy Lạp và thờ các thần Hy Lạp. Mặt khác các quan thái thú Hy Lạp dùng sức mạnh để buộc người Do thái bỏ đạo Chúa để thờ đạo Hy Lạp, họ bắt đầu ăn thịt heo và đốt nhang trước các tượng thần. Ai không làm theo thì bị xử tử. Văn hóa dân tộc và đức tin vào Chúa có nguy cơ bị huỷ diệt. Vì thế, những nhà lãnh đạo tinh thần của dân đã hết sức cố gắng giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân. Họ đặt ra những khoản luật buộc dân giữ mình khỏi bị lây nhiễm nọc độc của ngoại bang, trong đó có những luật về ăn uống, về cách giữ các lễ nghi. Từ đó dấy lên một phong trào đề cao lề luật.
Nhưng phong trào này càng ngày càng đi tới chỗ quá trớn. Tới thời Chúa Giêsu thì luật lệ đã quá sức tỉ mỉ, nhất là luật về sạch dơ: đi đâu về trước khi vào nhà cũng đều phải rửa tay rửa chân, trước khi ăn uống cũng phải rửa tay chân, và những chén dĩa ly tách dùng để ăn uống cũng phải rửa nhiều lần trong ngày. Ðiều đáng ta chú ý là những luật này không phải để giữ vệ sinh hay bảo vệ sức khoẻ, mà chỉ để giữ nghi thức thôi, cho nên dù không dơ nhưng cũng phải tắm rửa, ai không làm vậy thì bị coi là người tội lỗi, bị người khác chỉ trích và kết án nặng nề.
Như một lần kia, các môn đệ Chúa Giêsu đã ăn mà không rửa tay trước. Lập tức họ bị những luật sĩ và biệt phái chỉ trích. Nhân dịp đó Chúa Giêsu đã lên tiếng vừa để bênh vực môn đệ mình, vừa để nói lên quan điểm của Chúa về vấn đề lề luật cách chung và cách riêng về vấn đề sạch dơ. Ðại khái Chúa Giêsu cho rằng luật lệ chỉ là hình thức để diễn tả tấm lòng. Tấm lòng mới quan trọng, còn hình thức không quan trọng. Bởi vì dơ hay sạch là do tự tấm lòng bên trong. Nếu lòng dạ dơ dấy xấu xa thì cho dù hình thức bên ngoài có đẹp đẽ mấy thì cũng chỉ là vô ích, là giả hình.
Ðức Giêsu đã nói rất đúng. Luật lệ giống như cái khuôn khổ, giống như những bức tường, những hàng rào, như sợi dây cương để lèo lái con ngựa chỉ được chạy một hướng, như chiếc đường rày không cho chiếc xe lửa chạy lệch hướng. Thành ra luật lệ có tính cách gò bó, ép buộc. Còn tấm lòng thì dự do và thoải mái, cũng giống như tình cảm người ta thì không có hàng rào, không có bánh lái. Dĩ nhiên luật lệ cũng cần thiết và hữu ích để gìn giữ không cho tấm lòng đi lệch lạc. Nhưng coi luật trọng hơn tấm lòng, dùng luật lệ để bóp chết tấm lòng, hoặc chỉ chú ý đến luật lệ mà bỏ hẳn tấm lòng thì quả là một sai lầm to lớn.
Sai lầm đó, các luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giêsu đã phạm. Và ngày nay nhiều người vẫn phạm. Thí dụ như mới đây thôi tôi gặp một người rất lâu không thấy đi xưng tội, hỏi tại sao thì người ấy đáp: "Có chứ con xưng tội một năm một lần, đúng luật mà"
Khi đã có tấm lòng thì có thể chẳng cần lề luật. Cũng như cha mẹ đối với con cái. Tình thương của cha mẹ lúc nào cũng bao la lai láng, vì thế cha mẹ đã lo cho con ăn, lo cho con mặc, chăm sóc con cái mọi chuyện.... chỉ do sự thúc đẩy của tình thương chứ không do một luật lệ nào bắt buộc. Ðứa con nào biết thương cha mẹ thực lòng thì cũng tận tuỵ phụng dưỡng cha mẹ như vậy. Nhưng có một số gia đình mà con cái không còn tấm lòng với cha mẹ nên khi cha mẹ già yếu phải đề ra những quy luật giao cho đứa này phải lo gạo, đứa kia lo tiền chợ, đứa khác lo tiền điện nước trong nhà. Khi đã không có tình nghĩa thì người ta phải xài tới luật lệ. Nhưng mà luật lệ cũng không bảo đảm làm cho tình nghĩa sống lại, chúng chỉ là một mớ hình thức lỏng lẽo, héo khô. Như gia đình mà tôi đang nói, các đứa con tuy giữ đúng quy định phân chia trách nhiệm như thế, nhưng khi cha mẹ đau yếu, cha mẹ cần tiền để đi dự một đám cưới, cha mẹ có khách tới ở nhà... thì không đứa nào chịu bỏ tiền ra đưa cho cha mẹ, bởi vì những khoản đó không có kể trong quy luật gia đình. Những đứa con ấy giữ luật rất đúng nhưng đâu phải là những đứa con hiếu thảo.
Nếu chúng ta là những tín hữu đã tuân giữ luật Chúa và luật Giáo Hội một cách chu đáo thì chúng ta cũng không được tự mãn cho rằng mình đã làm đầy đủ tất cả. Bởi vì có thể chỉ là đầy đủ về hình thức thôi, chứ chưa hẳn là đầy đủ tình nghĩa yêu mến kính thờ Chúa. Chúng ta cũng nên áp dụng nhận thức trên vào một việc cụ thể là việc đọc kinh và dự lễ.
Luật dạy chúng ta đọc kinh sáng tối mỗi ngày: đọc những kinh gì, và đọc lúc nào, đó là hình thức. Người chỉ để ý tới hình thức thì đọc thật nhanh, đọc cho có cho rồi. Ngày nào có cớ để không đọc thì chộp ngay lấy cớ đó để bỏ. Nhưng ta phải biết tinh thần của luật ấy là gì? Ðó là muốn chúng ta tỏ lòng kính mến Chúa mỗi ngày vào khoảng khắc đầu tiên và cuối cùng trong ngày. Ai có tinh thần đó thì không nhất thiết là phải đọc những kinh gì, đọc bao lâu. Mỗi ngày khi vừa thức dậy và khi sắp đi ngủ họ nâng tâm hồn lên tới Chúa, có thể họ đọc kinh mà có khi cũng không đọc kinh, chỉ nói với Chúa đôi lời, những lời đơn sơ, thực tình nhưng rất hiếu thảo.
Luật buộc đi lễ Ngày Chúa Nhật: Ði lễ cũng chỉ là hình thức. Còn tinh thần chính là dành ra một ngày trong tuần để đặc biệt cho Chúa, lo việc thờ phượng Chúa. Người nào đi lễ mà chỉ đứng ở ngoài nhà thờ, hay đến thì trễ mà về thì sớm thì đúng là người chỉ chú ý đến hình thức. Kẻ coi trọng tinh thần ngày Chúa Nhật nếu vì một cản trở nào đó mà không đến nhà thờ được thì cũng biết cách để thánh hóa ngày Chúa Nhật, như cầu nguyện riêng ở nhà, như làm một vài việc lành dâng lên Chúa trong ngày đó.
Xin Chúa giúp chúng ta kính mến Chúa thực sự trong lòng chứ không phải chỉ bằng những hình thức giữ lề luật bên ngoài, để chúng ta không bị Chúa trách như đã trách các biệt phái và luật sĩ ngày xưa "Dân này kính ta ngoài môi miệng, mà lòng nó ở cách xa ta".
* 3. Ðức Kitô và KARMELIUK
Có một cuốn phim truyền hình mang tên Karmeliuk,, kể chuyện một vị anh hùng dân tộc Nga: khi ấy nước Nga còn sống trong chế độ nông nô, một số ít phú nông địa chủ chiếm hầu hết đất đai, còn đa số dân chúng không có đất, thì phải đi làm nô lệ cho các phú nông địa chủ trên, đời sống của họ hết sức cơ cực, họ bị bóc lột, đàn áp dã man. Lúc bấy giờ có một chàng thanh niên có tâm huyết tên là Karmeliuk. Chàng cũng là một nông nô, nhưng không chịu nỗi cảnh đàn áp, bất công đó nên đã trốn vào bưng biền để cùng với một số bạn tâm huyết khác nổi loạn. Họ tổ chức đánh cướp nhà các phú nông địa chủ và lấy tài sản của chúng đem chia cho các người nghèo. Danh tiếng Karmeliuk loan truyền khắp nước. Có những bài thơ, những bài hát được lưu truyền trong dân gian để ca ngợi chàng. Chàng Karmeliuk trên những dặm đường gió bụi cũng đã gặp gỡ nhiều thanh niên. Lúc đầu họ không biết chàng. Nhưng khi họ hỏi "Anh là ai?" và Karmeliuk trả lời "Tôi là Karmeliuk", thì những thanh niên ấy vô cùng sung sướng, bỏ lại sau lưng tất cả để theo chàng. Họ hãnh diện vì đã đi theo một vị anh hùng dân tộc.
Bài Tin mừng hôm nay, nếu được diễn tả bằng ngôn ngữ thời đại, thì cũng tương tự như câu chuyện trên. Thuở bấy giờ dân chúng đang sống khổ sở, không phải họ chỉ mang một ách nô lệ, mà tới hai cái ách nô lệ: Nô lệ đế quốc La mã, và nô lệ đế quốc tội lỗi. Ðức Giêsu xuất hiện, Ngài đi đó đi đây khắp nơi để xoa dịu những cực khổ thể xác, và giải phóng khỏi cách tội lỗi. Có nhiều tiếng đồn, nhiều dư luận về Ngài. Một ngày kia, trên con đường từ Betsaiđa đến thành phố Xêxarê Philip, Ðức Giêsu đột ngột hỏi các môn đệ mình: "Còn anh em, anh em nghĩ Ta là ai?" Các môn đệ bối rối trước câu hỏi đột ngột ấy nên không trả lời được, khi ấy, Phêrô lên tiếng: "Thầy là Ðức Kitô". Ðức Kitô, đó là một danh xưng theo tiếng Hy Lạp, ý nghĩa của nó, nói theo ngôn ngữ thời nay, chính là "Vị anh hùng giải phóng". Lời Phêrô nói: "Thầy là Ðức Kitô", có nghĩa là "Thầy chính là vị Anh Hùng giải phóng mà toàn dân đã từ lâu mong đợi". Chắc hẳn Phêrô và các bạn ông rất hãnh diện vì được đi theo một Vị Anh Hùng như vậy. Họ dám bỏ lại sau lưng tất cả, nhà cửa, nghề nghiệp, gia đình, vợ con mà không hề tiếc nuối, bởi vì họ đi theo một Vị Anh Hùng, họ vô cùng hãnh diện.
Thế nhưng vấn đề không phải chỉ đơn giản có thế. Ði theo một Vị Anh Hùng không phải chỉ để được hãnh diện, mà còn phải chia xẻ tất cả những gian truân nguy hiểm trên con đường dài mà vị Anh Hùng ấy đã vạch ra. Trong chuyện Karmeliuk, nhiều thanh niên đã hãnh diện khi được đi theo chàng. Thế rồi gian truân nguy hiểm đã phân họ thành hai hạng: có một người đã không chịu nỗi những gian khổ nên cuối cùng đã phản bội, nghe theo âm mưu của địch để đầu độc Karmeliuk, rất may là chàng không chết; hạng thứ hai là những kẻ trung thành với chàng cho đến chết. Thánh Phêrô và các bạn cũng hãnh diện vì đi theo Ðức Kitô. Nhưng Ðức Kitô phải nhắc họ: Ði theo Ngài không phải chỉ để hãnh diện, mà còn phải cùng Ngài dấn thân vào con đường Thập Giá đầy đau khổ. Rõ ràng là các môn đệ chưa được biết điều đó, cho nên nghe vậy thì họ sợ nguy ngay. Và một lần nữa Phêrô lên tiếng thay các bạn "Thưa Thầy, đừng, không được như vậy đâu?" Ðức Giêsu nghiêm khắc rầy Phêrô và xác định lại dứt khoát "Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác Thập Giá mà theo". Từ đó trở đi, các môn đệ dần dần hiểu được con đường của Thầy. Nhưng họ cũng phân ra thành hai hạng: 1 hạng gồm những kẻ trung thành với Thầy cho đến chết, và hạng kia là Giuđa cuối cùng đã phản lại Thầy.
Ðoạn kết của câu chuyện Karmeliuk và câu chuyện Ðức Giêsu cũng giống nhau: cả 2 đều bị giết. Kể như cả 2 đều thất bại. Nhưng thực ra đó không phải là thất bại, mà là thành công: Karmeliuk đã gây được ý thức giải phóng nơi dân chúng, với ý thức đó, về sau họ đã đứng lên và dành lại được quyền sống cho mình. Còn Chúa Giêsu thì đã vạch ra một con đường cứu thoát rõ ràng: phải dám vác Thập giá, phải dám chết đi, rồi sau đó sẽ sống lại và toàn thắng. Con đường ấy ngày nay đang được hàng trăm triệu người đi theo.
Trong số đó có chúng ta.
Nhưng hôm nay, chúng ta hãy đặt lại 2 vấn đề cơ bản:
1. Chúng ta có hãnh diện vì đã đi theo Ðức Kitô không?
Người ta thường hãnh diện khi đi theo một Vị Anh Hùng đang nổi tiếng, đang thành công, đang đứng giữa vòng hào quang. Nhưng những vị "Anh Hùng Mạt lộ" thì thường bị đệ tử bỏ rơi. Khi Chúa Giêsu bị chống đối, rất nhiều người đã bỏ Ngài. Khi các thủ lãnh dân Do thái âm mưu giết ngài, Giuđa đã trở mặt, nộp Ngài cho chúng giết đi, còn Phêrô thì xấu hổ không dám nhận là môn đệ của Ngài. Có thể coi đó là tâm lý thường tình. Và chắc chúng ta cũng rơi vào thứ tâm lý thường tình đó khi thấy đạo của mình hình như không được vinh dự lắm, khi nghe thấy những lời chỉ trích, chế nhạo, lên án Ðạo mình. Có người đã làm như Giuđa, trở mặt bỏ Ðạo; có người làm như Phêrô không dám để cho người ta biết mình có Ðạo.
Giuđa thì một lần phản bội đã hư mất luôn. Còn Phêrô chỉ chối Thầy 3 lần. Sau đó đã ý thức được điều mà tôi đã trình bày ở phần trước: Chúa Giêsu xem ra đã thất bại vì đã bị Vác Thập Giá và đã bị giết chết; nhưng thực ra đó chính là thành công: Thập giá là đường đưa tới Phục Sinh, đau khổ là đường đưa tới vinh quang. Vì ý thức như vậy nên sau đó Phêrô (và các tông đồ khác) đã kiên trì theo Thầy cho đến cùng, và hãnh diện mà đi theo Thầy: vẫn hãnh diện khi bị bắt bớ, vẫn hãnh diện khi bị giết, luôn luôn hãnh diện. Thánh Phaolô đã nói "Vinh dự của chúng tôi là Thập Giá Ðức Kitô".
Ðó là điều thứ nhất chúng ta nên nghiền ngẫm suy nghĩ.
2. Và điều thứ hai cần xác định: chúng ta đi theo Chúa không phải chỉ để được hãnh diện.
Theo ai, chủ yếu là để cùng chia vui, xẻ buồn với người đó, đồng lao cộng khổ để đồng hưởng vinh quang. Như lời Thánh Phaolô "Nếu ta cùng chết với Ngài. Ta sẽ sống lại với Ngài; nếu Ta cùng chịu đau khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài chia xẻ vinh quang". Ai có dám cùng bước với Chúa Giêsu trên những đoạn đường gian khổ thì mới có thể cùng đứng với Ngài trên đài Vinh quang.
Nhưng Vinh Quang, chiến thắng chỉ là bước cuối cùng, có thể còn xa xôi vời vợi. Còn trước khi đó là cả một đoạn đường thánh giá dài lê thê. Theo Chúa là phải theo cả con đường thánh giá ấy thì mới có thể đến cuối đường vinh quang kia. Chúa Giêsu đã nói trước "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác Thập Giá mà theo".
Liệu chúng ta có kiên trì để theo Chúa như vậy không?
Xin Chúa giúp chúng ta tìm ra câu trả lời,. Và nếu đó là câu trả lời: "Có" thì xin Chúa ban thêm sức cho chúng ta qua Bí tích Thánh Thể này mà chúng ta tiếp tục cử hành.
* 4. Tẩy rửa trái tim (Mc 7,1-8a. 14-15. 21-23)
Văn hào Dostoevski trong tác phẩm "Anh em nhà Karamazov" có kể lại câu chuyện sau đây: "Vào thời đại của tòa phán quan ở Tây ban Nha, người ta đã dựng những hỏa đài để thiêu sống những kẻ tà giáo. Ðức Kitô dịu hiền đột nhiên đến thăm con cái của Người ở Seville, Người về giữa loài người như một dân thường. Ðức Giêsu bước xuống những con đường sôi bỏng của thành phố phương Nam. Nơi đây, mới hôm trước, vị phán quan vĩ đại đã cho thiêu sống trăm tên tà giáo "Ad majorem Gloriam Dei".
Hỏa đài ngay trước khán đài danh dự có đông đủ vô số triều đình, các hiệp sĩ, các mệnh phụ xinh đẹp và cả Ðức hồng Y giáo chủ. Ðức Giêsu nhẹ nhàng bước trên đường bằng dáng điệu trầm tĩnh, nhưng lạ lùng tất cả đã nhận ra Người. Dân chúng xô đẩy nhau quấn quít bước chân Người. Người lặng lẽ vào giữa đám đông với nụ cười và ánh mắt từ bi. Một cụ già mù van xin: "Lạy Chúa, xin cho con được sáng để con nhìn thấy Người". Một cái vẩy rơi xuống và cụ nhìn thấy được. Dân chúng vui mừng chảy nước mắt và hôn lên mảnh đất chỗ Người đi qua. Những em bé tung hoa trên lối Người đi.
Ðức Kitô đứng lại trước giáo đường Seville ngay lúc có đám tang một cô bé bảy tuổi. Cạnh cỗ áo quan màu trắng phủ đầy hoa, người mẹ đang nức nở. Trong đám đông có người hô lớn: "Con bà sẽ hồi sinh". Người mẹ tha thiết: "Nếu đúng là Người xin hãy hồi sinh đứa con của con". Ðức Giêsu nhắc lại lời thuở trước: "Talitha Kum" và em bé ngồi lên.
Ðúng lúc đó, Hồng Y giáo chủ và phán quan vĩ đại đi ngang qua. Từ xa ông đã thấy hết. Ông thấy chiếc áo quan đặt xuống, đứa bé hồi sinh. Mặt ông xịu xuống, mắt ông chớp tia sáng ghê hồn. Ông lấy ngón tay chỉ vào Ðức Giêsu và ra lệnh cho bọn lính bắt người. Thế lực ông quá lớn nên ông khuất phục cả quần chúng. Phán quan ra lệnh tống giam Giêsu. Ông vào ngục một mình gặp Người. Ông thương cảm nhưng "Luật là luật, trật tự của Giáo hội phải được bảo tồn bằng mọi giá". Ông tuyên bố "Tôi chẳng rõ Người là ai. Hình như Người là Ðức Giêsu, nhân danh Giáo hội, Ad majorem gloriam Dei, ngày mai Ngài cũng lên giàn hỏa".
****
Vị phán quan trong câu chuyện trên cũng chỉ đi theo vết xe cũ của các biệt phái và ký lục Do thái. Bài Tin mừng hôm nay chứng minh điều ấy, Ðức Giêsu đang ở Galilê, các Biệt phái và Ký lục từ Giêrusalem tới, nghĩa là họ phải vượt qua 170 Km đường bộ để chỉ hỏi tại sao các môn đệ Người không rửa tay trước khi ăn. Ðiều đó cho thấy người Do thái rất coi trọng việc tuân giữ các tập tục tiền nhân về vấn đề thanh tẩy.
Thực ra, lúc đầu luật rửa tay trước khi vào nơi thánh dành cho các tư tế. Mục đích là tẩy rửa các ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa. Sau này, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Với suy nghĩ tương tự họ cũng rửa tay trước khi ăn. Ý tưởng này rất cao đẹp vì nó làm cho tôn giáo thâm nhập vào hành vi con người trong cuộc sống.
Khốn thay trong quá trình thực thi luật này, tôn giáo đã thoái hóa đến chỗ chỉ còn giữ nghi thức bên ngoài, nghĩa là ai tuân giữ các nghi thức này thì được xem là đạo đức, là đẹp lòng Thiên Chúa, còn không tuân giữ là phạm tội. Nói như nhà thần học William Barclay: "Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tuỷ mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác". Tôn giáo không phải là một mớ luật lệ. Tôn giáo là một diễn tả tình yêu, một phát minh của Thiên Chúa nhân từ.
Thế nên, Ðức Giêsu mới vạch mặt sự giả hình của họ, vì họ chẳng quan tâm đến chuyện tẩy rửa trái tim. Họ rửa tay để được an tâm. Họ rửa tay để khỏi phải rửa tâm hồn. Rửa tay thì dễ chứ rửa tâm hồn mới thực là khó. Nhưng cái ô uế thực lại không từ bên ngoài vào, nó ở ngay trong trái tim mỗi người. Ðức Giêsu đã kể ra 12 ý định xấu từ trong trái tim. Từ ý định xấu xa sẽ dẫn đến những hành vi tội lỗi (x.Mc.7,21-22). Michael Taeboit nói: "Khi cái dằm tội lỗi ra khỏi mắt ta, tất cả thế giới sẽ tỏa sáng".
Vậy điều quan trọng là phải đổi mới trái tim. Ðổi mới được trái tim là đổi được tất cả. Ðiều cốt lõi trong đạo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Việc đọc kinh dự lễ, suy niệm Lời Chúa, làm việc bác ái... tự chúng không bảo đảm rằng chúng ta thánh thiện, nếu chúng ta làm vì một lý do không mấy đúng đắn. Nó chỉ trở nên thánh thiện trước mặt Chúa khi những hành động ấy phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Thánh Phaolô đã quả quyết: "Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà tôi không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi" (1Cr.13,3).
****
Lạy Chúa, xin nhắc cho chúng con nhớ rằng: luật lệ và nghi thức là cần thiết, nhưng đừng quên điều cốt lõi của luật Chúa là yêu thương. Xin dạy chúng con chỉ biết có một điều: là chúng con làm mọi sự chỉ để kính mến Chúa và yêu thương anh em. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
5. Mảnh suy tư
a/ Ðầu và tim
Trong trường học, người ta để ý huấn luyện cái đầu hơn là trái tim, vì người ta cho rằng cái đầu mới biết suy nghĩ. Bởi đó người ta lo đào tạo nên những đứa trẻ giỏi hơn là những đứa trẻ tốt, vì công việc và nghề nghiệp sau này của đứa trẻ đòi hỏi hiệu năng hơn là tấm lòng. Kết quả của lối giáo dục trên là nền văn minh khoa học kỹ thuật ngày nay, rất hiệu quả nhưng cũng rất lạnh lùng, ích kỷ và tàn nhẫn.
Tuy nhiên trong trường đời thì trái tim lại quan trọng hơn, vì sống ở đời và giao tiếp với người đời, "được việc" mà thôi chưa đủ, còn phải "được người" nữa. Nền văn minh mang lại hạnh phúc cho con người không phải là văn minh của khoa học kỹ thuật mà là văn minh của tình thương.
b/ Chăm sóc bề ngoài
Hàng ngày xem TV, chúng ta thấy quảng cáo rất nhiều sản phẩm: các loại xà bông mới, các loại dầu gội mới, nhiều loại nước hoa v.v. Tất cả đều nhằm chăm sóc cho làm da, mái tóc, cơ thể... nhưng đều là bề ngoài. Ngày nay, người ta cũng để ý nhiều hơn đến chất lượng của những thức ăn và thức uống... Mọi thứ phải đáp ứng đúng tiêu chuẩn thực phẩm an toàn và bổ dưỡng. Tuy nhiên, tất cả chỉ là những thứ từ bên ngoài được đưa vào trong cơ thể con người.
Nhưng xem ra người ta rất ít lo chăm sóc cái bề trong của con người, như lương tâm, lòng nhân ái, ý thức về tội... và cũng rất ít để ý tới những cái từ trong lòng phát ra.
6. Chuyện minh họa
Một sư phụ hỏi các đệ tử của mình: "Cái gì ta phải lo tránh nhất trong cuộc đời?" Sau đây là những câu trả lời của các đệ tử:
Một con mắt xấu
Một người bạn xấu
Một người láng giềng xấu
Một trái tim xấu.
Sư phụ đánh giá câu trả lời thứ tư là đúng nhất, bởi vì một trái tim xấu chứa đựng tất cả những sự xấu khác.
Sau đó sư phụ lại hỏi: "Và cái gì ta cần bồi dưỡng nhất trong cuộc đời?" Cũng có những câu trả lời tương tự:
Một con mắt tốt.
Một người bạn tốt.
Một người láng giềng tốt
Một trái tim tốt.
Vị sư phụ cũng đánh giá câu trả lời thứ tư là đúng nhất, vì một trái tim tốt chứa đựng tất cả mọi thứ tốt khác.
Nhưng sư phụ lưu ý thêm: Một trái tim tốt không chỉ là một trái tim sạch mà còn phải là một trái tim đầy, bởi vì một trái tim sạch có thể chỉ là một trái tim trống rỗng, còn một trái tim đầy thì chan chứa tình thương.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, người biệt phái Do thái tranh luận với Ðức Giêsu về sự ô uế và trong sạch Ðức Giêsu đã bảo họ: "Tất cả những điều xấu xa đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người thành ô uế". Chúng ta hãy khiêm tốn cầu nguyện:
1. Xin cho các Ðức Giáo Hoàng, Giám mục, Linh mục và cá giáo lý viên / biết hướng dẫn mọi người sống theo tinh thần lề luật của Chúa / và tránh mọi lối sống vụ hình thức cũng như giả hình.
2. Xin cho các người lãnh đạo các dân tộc / biết ứng xử với nhau và với đồng bào của mình trong tinh thần và sự thật / để đôi bên luôn tín nhiệm và đoàn kết với nhau.
3. Xin cho những người quen sống lối sống vụ hình thức và giả hình / biết nhận thức rằng chính lối sống đó chỉ làm cho họ trở nên ô uế xấu xa.
4. Xin cho anh chị em trong giáo xứ chúng ta / biết yêu mến và tuân giữ lề luật của Chúa / hơn là chạy theo những thói quen ngoại giao giả hình.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, Chúa đã dạy chúng con rằng: tất cả những điều xấu xa đều từ bên trong mà xuất ra. Xin Chúa giúp chúng con luôn thanh tẩy tâm hồn cho trong sạch, để chúng con biết phục vụ Chúa và mọi người trong thần khí và sự thật. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước lúc rước lễ: Chúng ta hãy nhớ lời Ðức Giêsu nói trong bài Tin Mừng: "Chính cái từ trong con người xuất ra là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng". Xin Chúa thương tẩy xóa mọi thứ ô uế đó khỏi lòng chúng ta để chúng ta xứng đáng rước Chúa vào lòng.
VII. Giải tán
Anh chị em hãy ghi nhớ một lời Tin Mừng hôm nay: "Dân này thớ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng thì lại xa Ta". Ước gì tuy Thánh lễ đã kết thúc và chúng ta sắp ra khỏi nhà thờ, nhưng lòng chúng ta luôn gắn bó với Chúa.
10.Sao bỏ luật Chúa mà giữ tục lệ phàm nhân - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Người ta kể một luật sĩ nổi tiếng tên là Aquila đã chịu chết đói trong tù, chứ không chịu ăn vì không có nước rửa tay. Thời nay coi luật sĩ đó là cuồng tín, khùng điên, nhưng người Do thái thời đó đã tôn vinh ông như một đấng thánh tử đạo.
Thời nào cũng có hạng người cuồng tín như thế. Có hàng ngàn hàng ngàn người cuồng tín theo những giáo phái, những chủ nghĩa, những chế độ để rồi lao mình vào chỗ chết như con thiêu thân. Con thiêu thân đã lao mình vào lửa, tưởng đó là ánh sáng vinh quang của nó.
Những người Phát xít Đức, Phát xít Nhật đã cuồng tín theo chủ thuyết chủng tộc thống trị thế giới, đã lao mình vào lửa chiến tranh, và thiêu thân hàng chục triệu người. Bao nhiêu người đã hy sinh chết cho những bạo chúa như Tần thủy Hoàng, Nerôn, cho những kẻ độc tài dã man như Hít-le, Stalin, Pôn-pốt … Họ đã nắm giữ những giáo điều, những giới luật của phàm nhân.
Những Pharisiêu, luật sĩ Do thái cũng bị mê hoặc theo các giáo điều của tục lệ tiền nhân để trói buộc dân chúng vào những luật lệ khắt khe như tục lệ thanh tẩy, rửa tay trước khi ăn, ở nơi công chúng về phải tắm rửa. Tắm rửa phải lấy nước ở bình đồng, bình sành, hay bình gỗ, tùy nố luật dạy, phải rửa từ khuỷu tay trở xuống hay phải giặt cả quần áo, phải rửa hai lần: một lần rửa tay bẩn, một lần rửa lại cho sạch hết nước bẩn dính ở tay. Tắm rửa rồi, còn tùy từng trường hợp được sạch ngay hay tới chiều, tới tối mới được sạch.
Luật thanh tẩy được coi là luật thánh của tôn giáo, chứ không phải là phép vệ sinh giữ gìn sạch sẽ bình thường. Ai vi phạm là mắc trọng tội như tội ngoại tình, đáng phải ném đá, hay bị khai trừ khỏi quốc giáo. Vì tính cách quan trọng như thế, cho nên không lạ gì các thầy Pharisiêu và luật sĩ của thủ đô Giêrusalem phải chính thức thân hành đến kiểm tra, xem xét, hạch tội Chúa Giêsu và các môn đệ để có lý do tố cáo và kết án: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa”. Đức Giêsu đã trưng dẫn lời tiên tri Isaia để trả lời họ, giúp họ thấy việc tôn thờ Thiên Chúa của họ vô ích và giả hình, họ chỉ dạy tục lệ phàm nhân.
Sau đó, Người gọi dân chúng lại để phân biệt cho họ thấy đâu là nguồn gốc sinh ra tội lỗi, đâu là không. Những cái bên ngoài vào trong con người, không biến con người thành ô uế tội lỗi được. Từ lòng con người xuất ra mới làm con người mắc tội như tà dâm, trộm cướp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ghen tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.
Tuy nhiên, với sứ mệnh là Đấng Cứu Thế, Đức Giêsu còn đi xa hơn nữa, Người cương quyết cởi trói nhân loại khỏi luật lệ vô nhân đạo của truyền thống loài người để thăng tiến con người sống theo luật bác ái, luật phổ biến và luật Thiên Chúa.
1. Vì bác ái, Đức Giêsu đã bảo vệ những con người bị loại trừ khỏi hội đường Do thái. Những người bị coi là phường tội lỗi, thu thuế và ô uế. Người ngồi đồng bàn với quân thu thuế và tội lỗi. Người nói chuyện với phụ nữ Samaria có bảy đời chồng. Người tha thứ cho người ngoại tình mà họ muốn kết án ném đá. Người đón nhận anh mù từ khi mới sinh bị hội đồng Do thái khai trừ.
2. Vì Tin mừng cứu độ được phổ biến cho muôn dân, Đức Giêsu đã giải thoát khỏi cái ách tục lệ của Do thái. Người đã đào tạo các môn đệ đi với Người đến với lương dân miền Thập tỉnh, miền Samaria, và người La mã. Người đến cứu thoát người lương dân bị quỷ ám hành hạ cực khổ miền Giêrasa. Người nêu gương nhân hậu của người Samaria đã cứu kẻ bị cướp đánh nằm nửa sống nửa chết giữa đường. Người tuyên bố chưa từng thấy ai trong dân Israel có đức tin mạnh mẽ như viên đại đội trưởng Rôma. Trước khi về trời, Người truyền dạy cho các môn đệ phải đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân, chứ không thể sống hẹp hòi, cố chấp, kiêu ngạo như Pharisiêu và luật sĩ coi chư dân là vô đạo, Samaria là ô uế, Rôma là kẻ thù. Luật Do thái dạy: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới là con cái Cha ngự trên trời, là Đấng đã cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống cho người công chính cũng như kẻ bất chính … Vậy anh em hãy nên toàn thiện như Cha anh em trên trời” (Mt. 5, 43-45 … 48).
3. Vì luật toàn thiện của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã bác bỏ những luật bất toàn của phàm nhân. Người đã chống lại luật thanh tẩy giả hình bên ngoài và dạy phải thanh tẩy tâm trí bên trong. Người cứu chữa kẻ tàn tật để vạch ra những mù quáng của biệt phái hiểu sai lầm về ngày nghỉ lễ Sabat. Người cảnh cáo lối thờ phượng Thiên Chúa bằng môi, bằng miệng mà lòng thì xa Thiên Chúa. Người đuổi những con buôn biến đền thờ thành hang trộm cướp do những tư tế lạm dụng lễ thánh để trục lợi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sẵn sàng chịu chất vấn, tra hỏi của những kẻ cuồng tín theo luật lệ phàm nhân, để rao giảng Tin mừng, loan báo luật bác ái và sự toàn thiện của Thiên Chúa cho muôn dân được cứu độ. Xin soi sáng cho chúng con biết cởi bỏ những đam mê cố chấp, những thành kiến mù quáng phàm trần, để thực thi công bình, bác ái và nên hoàn thiện như Cha chúng con ở trên trời.
11. Đường hay pháo đài – Lm. GB. Văn Hào
Có một Rabbi Do Thái tên là Agiba, bị giam trong một trại tù ở Rôma. Ông rất trung thành với lề luật và truyền thống tổ tiên để lại. Tù nhân vẫn được cho ăn uống tử tế và đầy đủ, nhưng chỉ một thời gian ngắn, sức khoẻ ông bị giảm sút nghiêm trọng. Sau một thời gian theo dõi, giám thị trại giam đã tìm ra nguyên nhân. Lý do đơn giản, vì phạm nhân đã dùng hầu hết số nước được cấp phát thay vì uống, lại để rửa tay trước khi ăn. Cơ thể ông ta thiếu nước một cách trầm trọng. Vị Rabbi Do Thái này đã cương quyết tuân thủ lề luật bằng bất cứ giá nào.
Giai thoại trên do tác giả Barlay kể lại, dẫn chúng ta đi vào bối cảnh câu chuyện được trình thuật trong Tin mừng hôm nay. Những người biệt phái tỏ ra rất khó chịu khi thấy các môn đệ Đức Giêsu dùng bữa mà không rửa tay trước. Câu trả lời của Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải canh tân nội tâm để thực hiện những giới luật của Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ tỏ ra xơ cứng, chỉ thỏa mãn trên việc thực thi lề luật cách máy móc theo hình thức bên ngoài.
Lex Occidit (chữ viết luật lệ thì giết chết)
Trong các sách Tin mừng nhất lãm, các thánh ký khá nhiều lần thuật lại sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các đầu mục Do Thái, đặc biệt nhóm biệt phái. Trình thuật trong Tin mừng hôm nay là một ví dụ điển hình. Những người biệt phái “nhắc khéo” Chúa Giêsu: “Tại sao môn đệ ông không rửa tay trước khi ăn?”. Có lẽ lời nhắc nhở này phát xuất từ lòng thương hại của họ hơn là để phê phán hay chỉ trích. Đối với họ, phải giữ lề luật cách cẩn trọng và tỉ mẩn, con người mới trở nên công chính và thánh thiện. Cũng vậy, có lần họ thấy những học trò của Chúa Giêsu bứt lúa để ăn cho đỡ đói trong ngày hưu lễ. Họ bực bội khó chịu, và không thể chấp nhận một hành vi phạm luật như thế. Ngày Sabat theo luật viết, là một ngày để nghỉ ngơi, không được làm bất cứ công việc gì. Nhóm biệt phái còn soạn thảo thêm 36 chi tiết tỉ mỉ, nêu ra những điều cấm kỵ tuyệt đối không được đụng tay vào trong ngày hưu lễ. Gặt lúa bị nghiêm cấm, quạt thóc cũng không, ngay cả nấu nướng cũng chẳng được phép làm. Họ tự nghĩ ra những rào cản rất vô lý, không những để tự trói buộc mình, mà còn chất bao gánh nặng lên vai người khác. Chúa Giêsu phản kháng hoàn toàn. Ngài chống đối kịch liệt, và cao điểm nhất, Ngài kết án thái độ giả dối của họ một cách thẳng thừng. Thánh Matthêu đã liệt kê 7 điều “chúc dữ” Chúa đã nói một cách gay gắt nhắm vào họ, không một chút khoan nhượng. “Khốn cho các ngươi, các kinh sư và các Pharisiêu giả hình, các ngươi khóa cửa nước trời không cho ai vào. Các ngươi làm bộ để nuốt hết tài sản của các bà góa... Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bề ngoài ra vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác…” (xem Mt 23,13-32).
Xem ra mũi dùi tấn công của Chúa Giêsu nhắm vào họ quá cứng rắn và đanh thép, biểu tỏ một thái độ bất nhân nhượng, không thể chấp nhận. Nhưng Chúa có lý do. Ngài ghét cay ghét đắng những con người giả dối chỉ biết giữ lề luật một cách cứng ngắc và giả dối bề ngoài, còn tâm hồn bên trong lại rỗng tuếch. Ngài khẳng định rằng, Ngài đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn, tức mặc cho lề luật một chiều kích nội tâm. Biệt phái ngày xưa đã hết từ lâu, nhưng kiểu cách biệt phái vẫn còn nơi cuộc sống chúng ta, nơi từng mỗi giáo dân, đặc biệt nơi anh em linh mục hay tu sĩ. Chúng ta giữ ngày Chúa nhật bằng việc lê xác tới nhà thờ cho có lệ, nhưng tâm hồn vẫn để ở đẩu ở đâu. Chúng ta vẫn ăn chay kiêng thịt vào ngày hội thánh buộc, bao tử có thể trống rỗng và đói cồn cào, nhưng tâm hồn lại chất đầy hận thù và tham lam bẩn thỉu. Chúng ta đến nhà thờ đấm ngực thật to và cùng đọc với mọi người: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi.., nhưng vừa bước chân ra bên ngoài, chúng ta lại đấm lộn qua ngực người khác bằng cách chỉ trích hết người này, đến kết án người nọ. Việc tuân thủ lề luật một cách xơ cứng và vô nghĩa như thế có khác gì thái độ của những người Pharisiêu năm xưa. Quả thật, Lex Occidit, luật lệ cứng ngắc sẽ giết chết chúng ta.
Spiritus Vivificat. (tinh thần lề luật mới làm cho sống).
Tuân giữ lề luật một cách máy móc sẽ giết chết, sẽ nhấn chìm chúng ta trong bóng tối của mù lòa, nhưng thực thi tinh thần lề luật sẽ làm cho chúng ta sống. Đây là điều Thánh Phaolô đã khẳng quyết trong thư Rôma. Thánh giáo phụ Irênê cũng nói “Vinh quang của Thiên Chúa là con người chúng ta được sống”, hoặc tác giả sách Khôn ngoan cũng diễn tả: “Thiên Chúa chẳng vui gì khi thiên hạ tiêu vong” (Kn 1,13). Đức Giêsu đến trần gian để cho chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10,10). Vì muốn chúng ta được sống, nên Đức Giêsu đã mặc cho lề luật một chiều kích nội tâm. Ngài gọi mời chúng ta đi vào tinh thần lề luật để được sống. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô đã khẳng định khá nhiều lần: “Anh em cần phải cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần lề luật, chứ không phải theo chữ viết của lề luật (Rm 2,29b)”. “Chúng ta phục vụ Thiên Chúa theo tinh thần mới, chứ không theo bản văn cũ của lề luật (Rm 7,6). Cuối cùng, thánh tông đồ đã tóm kết toàn bộ lề luật vào một định thức giản đơn. Ngài viết “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13.16).
Như vậy, tinh thần của lề luật, chính là tình yêu. Trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu đã chuyển giao cho các học trò lề luật mới này: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”. Lề luật mà Đức Giêsu thiết định bằng máu Ngài đổ ra trên Thập giá chính là tình yêu, tình yêu mà Ngài đã thực thi như một nguyên mẫu. “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương anh em.”
Nói tóm lại, không phải Đức Giêsu đả kích lề luật cũ của cựu ước, nhưng Ngài kiện toàn và nội tâm hóa lề luật, đồng thời Ngài mời gọi chúng ta đi vào cốt lõi của lề luật, đó là thực hành yêu thương.
Thiên Chúa thấu rõ tâm hồn mỗi người. Thánh Augustinô đã thưa với Chuá: “Lạy Chúa, Ngài biết rõ con hơn cả chính con biết con”. Chúng ta không thể giấu diếm Thiên Chúa được một điều gì. Thiên Chúa không bao giờ đo đếm những thành tích đạo đức bề ngoài để đánh giá con người chúng ta, nhưng Ngài thấu tỏ mọi bí ẩn trong tâm can từng người. Thước đo duy nhất để Ngài định giá chúng ta chính là thước đo tình yêu. Những biệt phái ngày xưa, bề ngoài rất đạo đức, không chê vào đâu được: “Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần 2 lần, con dâng cúng một phần mười huê lợi của con…”, nhưng Chúa nói thẳng vào mặt họ: “Đồ giả hình và gian ác” (Mt 23,30). Chúng ta hãy lục soát lương tâm để xem có bao giờ Chúa phải nói với chúng ta như thế hay không?
Cha Anthony de Mello, một tu sỹ dòng Tên đã viết một câu chuyện khá ý nghĩa. Một ông vua nọ chơi bời tác tráng, cả ngày chỉ nhậu nhẹt và lao đầu vào những cuộc ăn chơi trụy lạc, chẳng lo gì cho dân. Khuôn mặt của ông lúc nào cũng đỏ gay và sặc sụa mùi rượu. Một bữa nọ, nhà vua cưỡi ngựa đi ra ngoài thành. Ông gặp một tu sỹ già khuôn mặt nhợt nhạt xanh xao, áo quần lôi thôi lếch thếch. Nhà vua dừng lại và trịch thượng chào vị tu sỹ với giọng điệu mỉa mai: “Xin chào ông tu sỹ. Nhìn áo quần nhàu nát và khuôn mặt cáu bẩn của ông, tôi thấy ông chẳng khác gì một con heo”. Vị tu sỹ cúi đầu lắng nghe, gương mặt bình thản và cũng chẳng tỏ vẻ khó chịu chút nào. Một lát sau, ngài ngẩng đầu lên, nhìn chăm chú vào đức vua và đáp lễ: “Thần xin cám ơn bệ hạ, còn bề tôi thấy khuôn mặt đức vua giống như một vị thánh”. Nhà vua kinh ngạc hỏi lại: “Ta miệt thị ngươi, ngươi không buồn cũng chẳng giận, còn khen ta có khuôn mặt giống một vị thánh, tại sao thế?. Vị tu sỹ điềm nhiên và thong thả trả lời: “Tâu đức vua, một con người sống với trái tim và tâm hồn của loài heo, nhìn thấy ai cũng giống heo. Ngược lại, một con người có tâm hồn và trái tim của một ông thánh, sẽ thấy mọi người giống các vị thánh. Nói xong vị tu sỹ lặng lẽ bỏ đi còn nhà vua đứng chết lặng.
Chúng ta giữ đạo và giữ luật với trái tim của loài heo hay của một ông thánh? Chúng ta tuân thủ các điều luật trong giáo hội với tâm hồn của những người Pharisiêu năm xưa hay với trái tim nhân hậu của của Chúa Giêsu? Chúng ta hãy tự lục soát lương tâm và nhìn thẳng vào nội tâm chính mình để tìm câu trả lời.
Đường hay pháo đài?
Đây là tựa đề của một quyển sách do Nguyễn Ngọc Lan biên soạn. Ông là một cựu tu sỹ Dòng Chúa Cứu Thế, đã suy tư và viết cuốn sách này năm 1972. Trong tác phẩm, ông đặt vấn đề với tất cả chúng ta, đạo Công giáo là đường hay pháo đài? Pháo đài là một thứ lô cốt cứng ngắc chúng ta chui vào đó để cố thủ, để ôm giữ. Nếu chúng ta chỉ giữ đạo một cách khô cứng với những lề luật hình thức bên ngoài, chẳng khác nào chúng ta đang khăng khăng ôm giữ một pháo đài. Điều đó cũng giống như những anh chàng Hồi giáo IS quá khích ngày nay quyếtgiữ bom trong mình để liều chết. Còn nếu chúng ta không phải giữ đạo mà sống đạo, thì đạo đích thực là một con đường. Con đường trước mắt luôn mở rộng thênh thang để chúng ta bước đi, đi đến gặp gỡ Thiên Chúa và đi đến gặp gỡ anh em. Đạo công giáo của Chúa Giêsu là đường, chứ không phải pháo đài.
Kết luận
Nếu bình thản đọc lại bộ giáo luật 1983, chúng ta thấy ngay từ lời tựa đầu tiên, Giáo hội đã đưa ra những tiêu chí chung cho tất cả 1752 khoản luật viết trong đó. Tiêu chí đó là: “ Để giúp việc chăm sóc các linh hồn, không chỉ là đức công bằng, nhưng luôn phải dành chỗ cho đức ái, tiết độ, nhân đạo...Vì thế, các mục tử nên loại bỏ các khoản quá cứng ngắc. Hơn nữa, mỗi khi không cần những khoản luật nhằm phục vụ công ích và kỷ luật chung của Giáo hội, chỉ nên sử dụng lời khuyên hay khuyến cáo mà thôi”. Chúng ta hãy đọc kỹ lại những hướng dẫn này.
Lời nhắc nhở này dành cho mọi tín hữu, đặc biệt cho các anh em linh mục là những “người quản lý các mầu nhiệm Thiên Chúa” (1 Cor 4,1-2), để trong công việc mục vụ, chúng ta luôn mang chở nơi mình một trái tim giống trái tim của Vị Mục Tử Nhân Lành, là nguyên mẫu cho tất cả chúng ta.
12. Tẩy rửa trái tim – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Văn hào Dostoevski trong tác phẩm "Anh em nhà Karamazov" có kể lại câu chuyện sau đây: "Vào thời đại của tòa phán quan ở Tây ban Nha, người ta đã dựng những hỏa đài để thiêu sống những kẻ tà giáo. Ðức Kitô dịu hiền đột nhiên đến thăm con cái của Người ở Seville, Người về giữa loài người như một dân thường. Ðức Giêsu bước xuống những con đường sôi bỏng của thành phố phương Nam. Nơi đây, mới hôm trước, vị phán quan vĩ đại đã cho thiêu sống trăm tên tà giáo "Ad majorem Gloriam Dei".
Hỏa đài ngay trước khán đài danh dự có đông đủ vô số triều đình, các hiệp sĩ, các mệnh phụ xinh đẹp và cả Ðức hồng Y giáo chủ. Ðức Giêsu nhẹ nhàng bước trên đường bằng dáng điệu trầm tĩnh, nhưng lạ lùng tất cả đã nhận ra Người. Dân chúng xô đẩy nhau quấn quít bước chân Người. Người lặng lẽ vào giữa đám đông với nụ cười và ánh mắt từ bi. Một cụ già mù van xin: "Lạy Chúa, xin cho con được sáng để con nhìn thấy Người". Một cái vẩy rơi xuống và cụ nhìn thấy được. Dân chúng vui mừng chảy nước mắt và hôn lên mảnh đất chỗ Người đi qua. Những em bé tung hoa trên lối Người đi.
Ðức Kitô đứng lại trước giáo đường Seville ngay lúc có đám tang một cô bé bảy tuổi. Cạnh cỗ áo quan màu trắng phủ đầy hoa, người mẹ đang nức nở. Trong đám đông có người hô lớn: "Con bà sẽ hồi sinh". Người mẹ tha thiết: "Nếu đúng là Người xin hãy hồi sinh đứa con của con". Ðức Giêsu nhắc lại lời thuở trước: "Talitha Kum" và em bé ngồi lên.
Ðúng lúc đó, Hồng Y giáo chủ và phán quan vĩ đại đi ngang qua. Từ xa ông đã thấy hết. Ông thấy chiếc áo quan đặt xuống, đứa bé hồi sinh. Mặt ông xịu xuống, mắt ông chớp tia sáng ghê hồn. Ông lấy ngón tay chỉ vào Ðức Giêsu và ra lệnh cho bọn lính bắt người. Thế lực ông quá lớn nên ông khuất phục cả quần chúng. Phán quan ra lệnh tống giam Giêsu. Ông vào ngục một mình gặp Người. Ông thương cảm nhưng "Luật là luật, trật tự của Giáo hội phải được bảo tồn bằng mọi giá". Ông tuyên bố "Tôi chẳng rõ Người là ai. Hình như Người là Ðức Giêsu, nhân danh Giáo hội, Ad majorem gloriam Dei, ngày mai Ngài cũng lên giàn hỏa".
****
Vị phán quan trong câu chuyện trên cũng chỉ đi theo vết xe cũ của các biệt phái và ký lục Do thái. Bài Tin mừng hôm nay chứng minh điều ấy, Ðức Giêsu đang ở Galilê, các Biệt phái và Ký lục từ Giêrusalem tới, nghĩa là họ phải vượt qua 170 Km đường bộ để chỉ hỏi tại sao các môn đệ Người không rửa tay trước khi ăn. Ðiều đó cho thấy người Do thái rất coi trọng việc tuân giữ các tập tục tiền nhân về vấn đề thanh tẩy.
Thực ra, lúc đầu luật rửa tay trước khi vào nơi thánh dành cho các tư tế. Mục đích là tẩy rửa các ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa. Sau này, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Với suy nghĩ tương tự họ cũng rửa tay trước khi ăn. Ý tưởng này rất cao đẹp vì nó làm cho tôn giáo thâm nhập vào hành vi con người trong cuộc sống.
Khốn thay trong quá trình thực thi luật này, tôn giáo đã thoái hóa đến chỗ chỉ còn giữ nghi thức bên ngoài, nghĩa là ai tuân giữ các nghi thức này thì được xem là đạo đức, là đẹp lòng Thiên Chúa, còn không tuân giữ là phạm tội. Nói như nhà thần học William Barclay: "Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tuỷ mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác". Tôn giáo không phải là một mớ luật lệ. Tôn giáo là một diễn tả tình yêu, một phát minh của Thiên Chúa nhân từ.
Thế nên, Ðức Giêsu mới vạch mặt sự giả hình của họ, vì họ chẳng quan tâm đến chuyện tẩy rửa trái tim. Họ rửa tay để được an tâm. Họ rửa tay để khỏi phải rửa tâm hồn. Rửa tay thì dễ chứ rửa tâm hồn mới thực là khó. Nhưng cái ô uế thực lại không từ bên ngoài vào, nó ở ngay trong trái tim mỗi người. Ðức Giêsu đã kể ra 12 ý định xấu từ trong trái tim. Từ ý định xấu xa sẽ dẫn đến những hành vi tội lỗi (x.Mc.7,21-22). Michael Taeboit nói: "Khi cái dằm tội lỗi ra khỏi mắt ta, tất cả thế giới sẽ tỏa sáng".
Vậy điều quan trọng là phải đổi mới trái tim. Ðổi mới được trái tim là đổi được tất cả. Ðiều cốt lõi trong đạo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Việc đọc kinh dự lễ, suy niệm Lời Chúa, làm việc bác ái... tự chúng không bảo đảm rằng chúng ta thánh thiện, nếu chúng ta làm vì một lý do không mấy đúng đắn. Nó chỉ trở nên thánh thiện trước mặt Chúa khi những hành động ấy phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Thánh Phaolô đã quả quyết: "Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà tôi không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi" (1Cr.13,3).
****
Lạy Chúa, xin nhắc cho chúng con nhớ rằng: luật lệ và nghi thức là cần thiết, nhưng đừng quên điều cốt lõi của luật Chúa là yêu thương. Xin dạy chúng con chỉ biết có một điều: là chúng con làm mọi sự chỉ để kính mến Chúa và yêu thương anh em. Amen.
13. Đừng thêm thắt và cũng đừng nhập nhằng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa Chúa" (Đnl 4,2). Trong Cựu Ước, người ta đếm được có những 248 điều truyền và 365 điều cấm, một pho luật xem ra khá đồ sộ nhưng đâu thấm gì so với các luật lệ của con nguời trong các xã hội dân sự hiện nay trên thế giới. Thế mà đã có ngài tiến sĩ luật cảm thấy oải trước khối lề luật ấy, nên đã từng có lần hỏi Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?". Và Chúa Giêsu đã trả lời cách long trọng rằng: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là: ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình ngươi. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai giới răn ấy" (Mt 22,36-40).
Tất cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật dữ kiện này và Tin Mừng Maccô và Luca lại thêm kết luận rằng người ta đã "tâm phục, khẩu phục" trước câu trả lời của Chúa Giêsu (x.Mt 22,34-40; Mc 12,28-34; Lc 10,25-28). Như thế, chắc hẳn đoàn dân Chúa xưa ít nhiều cũng nhận thức được điều này. Thế mà chước cám dỗ muốn thêm bớt vẫn có đó khiến cho Môsê đã cảnh báo dân, đúng hơn là cảnh báo những người lãnh đạo, vốn là những người thường có quyền ra lề luật. Ở đây, xin được đề cập đến chước cám dỗ thêm thắt luật lệ và nhập nhằng, kiểu đánh lận con đen.
1. Cám dỗ thêm thắt luật lệ: Theo nhãn quan của thần học luân lý, xét về nguồn gốc của lề luật, thì có luật của Thiên Chúa (thiên luật), và luật của con người (nhân luật). Dù rằng luật của Thiên Chúa chỉ có hai luật chính là mến Chúa và yêu người, nhưng để triển khai và áp dụng hai lề luật ấy theo từng hoàn cảnh cụ thể, với những đối tượng cụ thể thì cần có những khoản luật thích ứng. Tuy nhiên, những người làm luật rất có thể bị cám dỗ thêm thắt nhiều khoản luật đi lệch trọng tâm và hướng nhắm của hai giới răn chính ở trên. Đã là luật của Thiên Chúa thì chỉ có mình Thiên Chúa mới có quyền ra luật. Thế mà khi chúng ta thêm thắt nhiều luật lệ đi lệch với ý Chúa hoặc sai trọng tâm mà gọi đó là luật của Thiên Chúa thì vô tình chúng ta tự đặt mình như Thiên Chúa. Các sứ ngôn đã từng nhiều lần nói thay Thiên Chúa rằng: Ta muốn lòng nhân từ chứ không muốn hy lễ; Ta chán ngấy mỡ dê bò các ngươi dâng tiến, hãy xé lòng chứ đừng xé áo các ngươi... (x.Mt 12,7; Ge 2,13).
2. Cám dỗ làm nhập nhằng kiểu đánh lận con đen: Biết rằng với luật lệ của con người thì rất cần được bổ túc, thêm thắt cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Một trong những mục đích của lề luật là nhằm phục vụ ích chung, gìn giữ sự công bằng và trật tự trong đời sống xã hội, đặc biệt bảo vệ kẻ cô thế, kém phận khỏi cảnh "cá lớn nuốt cá bé, mạnh được-yếu thua". Xã hội càng phát triển thì các mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể, giữa tập thể với tập thể ngày càng phong phú và đa dạng, do đó cần có thêm nhiều luật lệ để gìn giữ các mối quan hệ ấy trong sự bình đẳng và hài hòa. Hình thái xã hội đã thay đổi thì các luật lệ cũng phải đổi thay cho tương hợp. Chính vì thế mà luật lệ không ngừng được chỉnh sữa, thậm chí được đổi thay. Việc có thể đổi thay cho ta thấy luật con người mang tính bất cập và bất toàn. Linh mục Gioan Bùi Thái Sơn, một chuyên gia về Giáo Luật của Tổng Giáo phận Sài Gòn đã nói rằng một trong những tính chất của luật là tính bất công. Với lối nói "ngoa ngữ", ngài chỉ muốn nhấn mạnh đến sự bất cập của lề luật con người. Luật của con người không thể và không bao giờ có thể tiên liệu hết mọi tình huống, hoàn cảnh của con người và xã hội, do đó nhân luật không thể đem lại sự công bằng cho mọi người cách đúng nghĩa, cũng như áp dụng một cách đồng đều cho mọi người.
Khi hiểu được điều này, ắt hẳn chúng ta sẽ tránh được thái độ thượng tôn và tuyệt đối hóa lề luật mà trả nó về lại vị trí của nó là một trong những phương tiện để phục vụ con người chứ không phải con người có ra vì lề luật (x.Mc 2,27). Sự thường, lề luật được lập nên do những người đang nắm quyền lực trong các thể chế, tổ chức xã hội lẫn tôn giáo. Và người làm luật khó tránh được chước cám dỗ làm luật có lợi cho mình. Khi thượng tôn lề luật, biến lề luật do mình làm ra trở thành thiên ý thì vô tình hay hữu ý, lợi ích của người làm luật được bảo vệ và hợp pháp hóa, cho dù nhiều khi các lợi ích ấy là bất chính. Đây là trường hợp mà Chúa Giêsu đã cực lực phê phán khi nói rằng "các ông đã gạn lọc con muỗi để nuốt cả con lạc đà"(Mt 23,24). Đâu chỉ có việc rửa tiền của các tổ chức tội phạm mới là hợp pháp hóa điều bất chính, vẫn có đó nhiều người dùng một số tiền nhỏ để dâng cúng cho nhà Chúa hay để làm việc từ thiện hầu an tâm sử dụng số tiền kếch xù có được bằng cách thế gian dối, phi nghĩa. Vẫn có đó nhiều cá nhân và tập thể tìm cách ra một luật lệ nào đó, vốn dễ được xem là khách quan, để cho tài sản của mình được bảo vệ cách hợp pháp.
Trở lại với nguồn lề luật của Thiên Chúa. Là Kitô hữu, chúng ta tin nhận rằng luật Chúa thì bất biến và có tính bó buộc tuyệt đối. Tuy nhiên tính bó buộc tuyệt đối và bất biến này chủ yếu ở hai luật chính là tôn thờ, yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình. Tôn thờ và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự nghĩa là nhìn nhận những gì mình đang là, đang có đều do bởi Thiên Chúa trao ban và mình chỉ có thể sống, tồn tại, phát triển trong hạnh phúc viên mãn khi gắn bó với Thiên Chúa và thực thi huấn lệnh của Người.
Cầu nguyện là một hình thức căn bản để bày tỏ sự gắn bó với Thiên Chúa, thờ phượng, thần phục Người. Anh em Hồi giáo đặt việc này lên hàng đầu. Kitô hữu Công giáo chúng ta còn nhấn mạnh đến việc tham dự Thánh lễ, đặc biệt trong ngày Chúa Nhật, vì đó là đỉnh cao của hành vi thờ phượng. Và để tỏ bày lòng mến yêu đối với Thiên Chúa, thì không gì hơn là thực thi giới luật của Người. Việc anh chị em yêu thương, sống đùm bọc lẫn nhau chính là cách thế tốt nhất để tỏ bày lòng thảo hiếu đối với mẹ cha. Tương tự như thế, khi chúng ta biêt yêu thương nhau như Chúa Kitô dạy là chúng đang mến yêu Thiên Chúa (x.Ga 15,12).
Yêu thương cũng có nhiều đường, nhiều cách. Với kiểu, với cách nào đi nữa, khi sống yêu thương, phải đặt nền tảng trên đức công bình và đức ái. Xin được muợn lời của Đức Khổng Tử và lời của sách Tobia để giữ đức công bình: Đừng làm cho tha nhân những gì mình không muốn tha nhân làm cho mình (x.Tb 4,16). Xin được nhớ lại lời của Chúa Giêsu để sống đức ái: Tất cả lề luật và lời ngôn sứ đều tóm ở điều này: Hãy làm cho tha nhân những gì mà anh em muốn tha nhân làm cho mình (x.Mt 7,12; Lc 6,31).
14. Chúa Nhật 22 Thường Niên
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do Thái giữ đạo theo hình thức. Họ rất trọng lề luật theo bề ngoài. Họ cho rằng giữ hình thức bề ngoài là đủ. Theo họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch. Người Do Thái có nhiều cấm kỵ ô uế. Bị coi là ô uế như những người mắc bệnh phong, phụ nữ sau khi sinh con, người ngoại đạo. Ai tiếp xúc với người ô uế sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ngay cả đồ vật bị người ô uế động đến cũng trở thành ô uế. Ô uế là tội. Người ô uế sẽ không được dâng lễ vật cho Chúa. Để tránh ô uế, người Do thái luôn rửa tay, rửa bát bên ngoài cho sạch.
Đức Giêsu chê trách họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Đức Giêsu sánh ví họ với mồ mả, bên ngoài tô vôi, sơn phết đẹp dẽ nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám xấu xa.
Vì quá chú trọng đến luật lệ tỉ mỉ bên ngoài, họ biến đạo thành một mớ nghi thức trống rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện. Ăn chay để giữ đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu. Làm việc bác ái để phô trương hơn là để chia sẻ với người anh em nghèo khổ. Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không thật lòng yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Đức Giêsu đã nặng lời chỉ trích họ: "Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng lại xa Ta".
Hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết. Nhưng hình thức bên ngoài, muốn có giá trị cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong. Nội tâm con người là nguồn mạch của mọi hành vi. Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt. Nội tâm có chân thật thật hành vi mới có giá trị.
Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: "Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng... Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chả có ích gì cho tôi".
Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực. Nhất là phải làm sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến chân thành. Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành thực muốn chia sẻ. Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn chế ngự các nết xấu. Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối. Có như thế, khi môi miệng đọc kinh, lòng ta mới gần Chúa. Khi ăn chay, tâm hồn ta mới tan nát vì tội lỗi. Khi làm việc bác ái, ta tránh được thói phô trương. Khi rửa tay, tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên trong trắng.
Lạy Chúa, xin ban cho con trái tim của Chúa để con biết thở phượng Chúa cho phải đạo và yêu người như Chúa muốn.
15.Sống đạo thể hiện tâm tình yêu mến Chúa chân thật
Người Do Thái có thói quen truyền thống giữ luật lệ rất tỉ mỉ, đặc biệt là luật thanh sạch. Họ rất câu nệ vào hình thức bên ngoài. Đối với họ đạo là phải giữ lề luật. Thế nhưng như thế, họ không còn thể hiện tình thương, lòng bác ái khi cư xử với anh em đồng loại.
Thật thế, vì quá chú trọng đến luật lệ tỉ mỉ bên ngoài nên những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do Thái giữ đạo theo hình thức. Họ biến đạo thành một mớ nghi thức trống rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện. Ăn chay để giữ đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu. Làm việc bác ái để phô trương hơn là để chia sẻ với người anh em nghèo khổ. Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không thật lòng yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Chúa Giêsu đã nặng lời chỉ trích họ: "Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng lại xa Ta". (Mt 15, 8; Mc 7, 6). Chúa Giêsu chê trách họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Chúa Giêsu sánh ví họ với mồ mả, bên ngoài tô vôi, sơn phết đẹp dẽ nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám xấu xa.
Chúng ta đồng ý rằng: hình thức tôn giáo bên ngoài không phải là không cần thiết nhưng muốn nó có giá trị cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong. Nội tâm con người là nguồn mạch của mọi hành vi tôn giáo. Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt. Nội tâm có chân thật thật hành vi mới có giá trị.
Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: "Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng... Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chả có ích gì cho tôi" (1Cr 13, 1- 3).
Chúa Giêsu đã đảo ngược hoàn toàn cái gọi là tôn giáo của người Biệt phái và Luật sĩ Do Thái. Đạo không phải là thi hành những tập tục, tuân giữ các nghi thức mà chính là thể hiện một thái độ sống, sống Lời Chúa, sống yêu thương. Cái cám dỗ thường xuyên của người Kitô hữu là lấy việc đạo đức bề ngoài làm bức màn che đậy tính ích kỉ, giả dối, độc ác, tham lam,... thích được mang danh hiệu hơn là dám sống sứ mạng chứng nhân. Điều cốt yêu là phải có tấm lòng yêu mến chân thành bên trong chứ không phải là hình thức giả dối bên ngoài. Chính tình yêu bên trong mới làm cho những hình thức bên ngoài có giá trị đích thực. Thiếu tình yêu bên trong mọi việc bên ngoài chỉ là giả dối.
Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực. Nhất là phải làm sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến chân thành. Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành thực muốn chia sẻ. Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn chế ngự các nết xấu. Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối. Có như thế, khi môi miệng đọc kinh, lòng ta mới gần Chúa. Khi ăn chay, tâm hồn ta mới tan nát vì tội lỗi. Khi làm việc bác ái, ta tránh được thói phô trương. Khi rửa tay, tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên trong trắng.
Người Kitô hữu đích thật là người có lòng tin, đồng thời có những việc làm cụ thể phù hợp với đức tin của mình. Trước mặt Chúa, mọi hình thức bên ngoài không quan trọng bằng tấm lòng yêu thương tận đáy lòng bên trong bởi vì Chúa là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn. Chúng ta hãy sống chân thành, yêu thương và phục vụ tha nhân trong tinh thần của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con trái tim của Chúa, trái tim yêu thương để biết thờ phượng Chúa cho phải đạo và yêu người như Chúa muốn. Xin cho chúng con sống đạo bằng tâm tình yêu mến Chúa chân thật tự đáy lòng mình để chúng con đối xử bằng tâm tình đó với anh chị em chung quanh chúng con. Amen.
16. Lề luật và tấm lòng
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Thiếu nước uống
Một tiến sĩ luật Do thái giáo phạm lỗi nên bị bắt bỏ tù. Thời gian trôi qua, sức khỏe ông ngày càng yếu. Ông chỉ nằm mãi mà chẳng làm gì được. Người ta phải nhờ bác sĩ đến khám bệnh cho ông. Khám xong, bác sĩ bảo rằng có thể ông bị thiếu nước.
Báo cáo của bác sĩ khiến viên cai ngục ngạc nhiên. Họ không hiểu tại sao ông tiến sĩ luật lại có thể thiếu nước, vì cổ phần nước mỗi ngày cho tù nhân vẫn tương đối đủ, bằng chứng là tất cả các tù nhân khác không ai bị bệnh thiếu nước. Thế là viên cai ngục ra lệnh cho lính gác theo dõi thử xem ông tiến sĩ luật đã làm gì với số nước được phân phối cho ông. Và họ đã khám phá ông đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn! Thế nên ông chỉ còn lại số ít nước để uống…
Câu chuyện trên minh họa tuyệt vời Tin mừng hôm nay. Nó giúp chúng ta hiểu rõ tại sao các kinh sư và biệt phái cảm thấy chướng tai gai mắt khi thấy các môn đệ Chúa Giêsu ăn uống mà không rửa tay, theo truyền thống. Và điều đó đã dẫn đến việc họ tranh chấp với Chúa Giêsu.
Thực ra, lúc đầu luật rửa tay chỉ dành cho các tư tế trước khi vào nơi thánh trong đền thờ. Mục đích là để tẩy rửa đi tất cả những gì ô uế về mặt tôn giáo, để các tư tế xứng đáng làm việc thờ phượng Chúa. Dần dần dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Rồi với ý nghĩ tương tự như thế, họ cũng rửa tay trước khi dùng bữa. Thật sự “không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế” (Mc 7:15) như Chúa Giêsu quả quyết trong Tin mừng hôm nay.
Theo ý nghĩa tích cực, việc tuân giữ này không có gì xấu mà rất tốt đẹp, vì nó làm cho tôn giáo thâm nhập vào mọi hành vi con người trong cuộc sống thường ngày. Nhưng trong quá trình thực thi luật đó, tôn giáo lần hồi thoái hóa đến nỗi chỉ còn biết những nghi thức bề ngoài, nghĩa là ai tuân giữ nghi thức này thì được xem là đạo đức đẹp lòng Chúa, còn ai không tuân giữ là mắc tội. Nhà thần học William Barclay đã phê phán lối đạo đức giả đó, “Người ta có thể thù ghét tha nhân mà không một chút áy náy, vì họ đã tuân giữ nghi thức rửa tay và các nghi thức khác về việc thanh tẩy.”
Chúa Giêsu đã vạch mặt nạ giả hình đó của nhóm kinh sư và biệt phái. Họ chỉ lo tẩy rửa bên ngoài mà chẳng quan tâm gì đến việc thanh tẩy tâm hồn. Rửa tay thì dễ chứ rửa tâm hồn thật khó hơn. Nhưng Chúa cần chúng ta thanh tẩy tâm hồn, vì ô uế không từ bên ngoài vào, mà nó ở ngay trong cõi lòng mỗi người như Chúa Giêsu xác quyết trong Tin mừng hôm nay (Theo “Sunday homilies”).
2. Chẳng có gì để nghe
Một người nữ đạo đức có giấc mơ kỳ lạ. Bà thấy được thiên thần đưa vào nhà thờ đọc kinh cầu nguyện. Bà thấy người đánh đàn dạo đàn, các nớt đàn nhảy lên nhảy xuống mà bà chẳng nghe âm thanh nào phát ra. Ca đoàn hát, miệng họ mở ra ngậm lại liên hồi mà bà chẳng nghe được lời nào. Và cộng đoàn trong nhà thờ đọc kinh, môi họ động đậy mãi mà bà chẳng nghe tiếng nào. Ngạc nhiên, và hỏi thiên thần, “Thưa thiên thần, người ta đọc kinh cầu nguyện và ca hát ngợi khen Chúa, mà sao tôi chẳng nghe gì hết?” Thiên thần hồn nhiên đáp, “Vì chẳng có gì để nghe cả.”
3. Quỳ gối cầu kinh
Nhà thần học William Barclay kể câu chuyện có lẽ có trong sách Ngụy Thư sau đây: Một người Hồi giáo bị dũng sĩ nọ xúc phạm. Anh ta giận quá, rượt đánh người đó. Đang khi rượt theo kẻ thù, anh chợt nghe chuông báo đã đến giờ cầu nguyện. Anh vội vàng dừng ngựa, nhảy xuống, mở Thánh Kinh ra, quỳ gối cầu kinh theo luật định một cách hết sức lẹ làng. Đọc xong, anh lại vội vả leo lên lưng ngựa tiếp tục rượt theo kẻ thù.
4. Được thưởng vì thành thật
Có người cha gia đình giàu sang sắp chết. Ông nghĩ cách chia gia tài cho bảy người con. Ông định phân phối theo mức độ tình thương của các con đối với ông. Nhưng vấn đề khó là làm sao biết mức độ tình thương của các con ông. Sau nhiều ngày suy nghĩ, cuối cùng ông nói với luật sư:
- Ông hãy gọi bảy đứa con tôi vào đây và cho chúng biết tôi sẽ chia gia tài cho chúng. Ông quan sát xem đứa nào khóc to nhất là đứa thương tôi nhất, và ông sẽ chia gia tài cho nó nhiều nhất.
Trong khi ông nói thì có sáu người con ông nghe, còn đứa con út đi vắng. Lúc sáu người con được gọi vào thì cả sáu người tranh nhau khóc lóc to tiếng. Ai cũng muốn khóc to nhất để được hưởng gia tài nhiều nhất. Người cha thấy vậy thì đoán là chúng đã biết bí mật của ông, chúng chỉ khóc giả tạo mà thôi. Một lúc sau người con út về, nghe sáu anh tranh nhau khóc mà không biết chuyện gì. Sáu người anh cho biết là cha sắp chết. Người em út thản nhiên nói, “Dù sao thì cha chúng ta cũng phải chết, vì không ai thoái khỏi cái chết.”
Nghe đứa con út nói thế, người cha liền bảo luật sư, “Ông hãy chia cho đứa con út tôi gia tài nhiều nhất.” Luật sư ngạc nhiên hỏi, “Tại sao ông làm thế? Ông không thấy người con út này vui mừng vì tôi chết sao?” Người cha giàu có giải thích, “Tôi cho nó nhiều, để thưởng lòng thành thật của nó.”
5. Chôn người sống
Một người Do thái qua đời. Sau khi xét nghiệm, bác sĩ xác nhận anh chết thật và cấp giấy chứng để chôn cất. Lúc sắp hạ huyệt, người ta nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người ngạc nhiên thấy người chết đã sống lại. Nhưng vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người im lặng rồi nói với kẻ chết sống lại, “Chúng tôi không biết chắc ông chết hay sống. Nhưng theo giấy chứng thực của bác sĩ thì ông đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo xác định của bác sĩ.” Nói xong, ông ra lệnh cho ban tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục nghi thức an táng.
17. Hành luật – Lm Giuse Trần Việt Hùng
Luật lệ ghi dấu khả năng phát triển của xã hội loài người. Luật tự nhiên là tiếng nói trong lương tâm mà Tạo Hóa đã đặt để trong tâm hồn của mỗi người. Từ rất sớm, khi xã hội loài người hình thành và phát triển, các quốc gia và các tôn giáo đã có những bộ luật riêng để hướng dẫn mọi người. Con người sống chung với nhau đã từ từ phát sinh ra nhiều thứ luật lệ để bảo vệ quyền lợi cho nhau và cho xã hội. Trong đạo Do-thái xưa có bộ luật Torah trong Ngũ Thư (Pentateuch). Năm cuốn sách đầu trong Kinh Thánh Cựu Ước (Sách Sáng Thế Ký, Sách Xuất Hành, Sách Lêvi, Sách Dân Số và Sách Đệ Nhị Luật) bao gồm những luật lệ căn bản của dân Do-thái, hiên nay một số đông các cộng đoàn Do-thái vẫn áp dụng.
Chúng ta biết pháp luật là một hệ thống của các qui luật để hướng dẫn con người sống chung trong xã hội. Luật pháp giúp phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội qua nhiều cách khác nhau như một trung gian liên hệ giữa con người. Dân Luật là hệ thống hợp pháp được qui định bởi tòa án của các quốc gia. Luật này được sự đồng thuận của các nhà Lập Pháp riêng mỗi quốc gia. Ngoài những luật riêng của các quốc gia, cộng đồng nhân loại có luật chung quốc tế. Về tôn giáo, có Giáo luật là những luật lệ đặt ra để hướng dẫn các tín đồ trong đạo giáo. Các Điều luật về tôn giáo đặt nền tảng trên những khái niệm về niềm tin trong tôn giáo như Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo….
Sách Đệ Nhị Luật là cuốn sách thứ năm trong Bộ Ngũ Thư. Người Do-thái và các Kitô hữu tin rằng sách này bao gồm những luật lệ, bài giảng và hướng dẫn dân Do-thái bởi ông Môisen trước khi bước vào miền Đất Hứa. Sách Đệ Nhị Luật gồm ba phần chính: Phần thứ nhất nói về 40 năm ròng rã lữ hành trong sa mạc của dân Do-thái đã chấm dứt, kêu gọi mọi người tiếp tục tuân giữ các giới răn Chúa đã truyền dạy:Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh. Khi được nghe tất cả những thánh chỉ đó, họ sẽ nói: "Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông minh!(Đnl 4, 6).Phần thứ hai nhắc nhở người Do-thái đặc biệt tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất và giữ các lệnh truyền để được sở hữu miền đất mà Chúa sẽ đã hứa ban. Phần ba, nếu dân bất trung thì sẽ bị tước đoạt phần đất hứa, nhưng khi dân biết ăn năn sám hối và hoán cải thì mọi sự sẽ được hoàn trả lại. Đây là nguồn an ủi và hy vọng.
Ngoài những luật lệ thành văn, xã hội còn nhiều những điều luật riêng tư như tục lệ, truyền thống, phép tắc, tập tục, thói quen, lệ làng và cả hủ tục… Xã hội càng văn minh càng có thêm nhiều luật lệ. Luật như những hàng rào để bảo vệ môi trường an toàn chung quanh và quyền lợi lẫn cho nhau. Luật làm ra để bảo vệ sự sống và quyền sống của con người. Nếu có những luật lệ đi ngược với những quyền thiêng liêng, giới hạn hay hủy hoại sự sống của con người, không buộc lương tâm con người phải chấp hành. Chúng ta còn có một luật có giá trị hơn, đó là luật lương tâm. Không ai có thể tước đoạt quyền tiếng nói của lương tâm. Cho dù bị tù đầy, khổ ải, đánh đập và giết chóc cũng không thể áp đặt. Đây là giá trị tự do cao quí nhất của con người. Mẫu gương của các đấng tử đạo vì niềm tin, thà chết chứ không chối Chúa, không bỏ đạo và không dẵm đạp lên thánh giá.
Khi Chúa Giêsu ra rao giảng, Ngài đã đối diện với xã hội con người với cách sống và tập tục của tiền nhân qua bao đời để lại. Có những tập tục đã trở thành thói quen được lặp đi lặp lại mà không mang ý nghĩa nội tâm:Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng (Mc 7, 3-4). Các Luật sĩ ghi chú và áp dụng thật tỉ mỉ những khoản luật này. Họ đặt lên vai dân chúng những gánh nặng của lề luật. Dựa vào những luật lệ do các luật gia đặt ra để tìm phạt vạ và bắt bẻ những người phạm lỗi. Các Biệt Phái và Luật sĩ hỏi Chúa Giêsu: "Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa? (Mc 7, 5). Để trả lời cho họ, Chúa Giêsu đã đưa họ trở về nguồn là các giới răn của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu dẫn chúng ta đi vào chính trong tâm hồn, nơi phát sinh điều lành và dữ. Tâm hồn như tâm địa là nơi được gieo trồng điều thiện cũng như điều ác. Việc thiện phát xuất từ tâm tốt. Trong cõi tâm có thiện tâm, đạo tâm và chánh tâm. Cõi tâm có mặt trái là tà tâm, ác tâm, nhẫn tâm và đưa đến khổ tâm. Thiện tâm sẽ hun đúc điều lành và việc tốt. Chúa Giêsu nhìn thấu tâm hồn con người và Ngài đã vạch ra những tà tâm từ tận sâu đáy lòng: Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng (Mc 7, 21-22). Đúng thế, đôi khi chúng ta đánh giá con người theo sự xuất hiện hình thức bên ngoài. Chúng ta đâu thấu hiểu được nội tâm sâu kín. Người ta thường nói:Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng. Rất nhiều khi chúng ta sống như đóng kịch, đối xử gian dối và sống giả hình. Bên ngoài thì chăm chăm chú chú nguyện cầu, nhưng trong lòng đầy những uẩn khúc giận hờn, ghen ghét và thù nghịch.
Chúa Giêsu phơi bầy sự thật của lòng người, Ngài nói:Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế (Mc 7, 23). Những điều xấu xa là từ bên trong tâm là tham thân si, ý nghĩ, ước muốn, lời nói và hành động xấu phát xuất ra. Các con ma quái dị rình rập bên cạnh để kéo lôi chúng ta như tài, sắc, danh, thực và thùy (ngủ). Ngũ dục này giống như con đẻ nằm sẵn trong tâm, chỉ chờ cơ hội là xuất đầu lộ diện. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự thật trong sáng của tâm hồn. Chúng ta phải tu tâm, tu thân và dưỡng tánh thường xuyên. Như Chúa căn dặn các môn đệ là hãy cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ. Phấn đấu với sự yếu đuối của bản thân là một trận chiến đấu không ngừng.
Thánh Giacôbê tông đồ khuyên dạy chúng ta: Mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận vì khi nóng giận, con người không thực thi đường lối công chính của Thiên Chúa (Giac 1, 19-20). Mau nghe, chậm nói và khoan giận là sự khôn ngoan. Giacôbê đã chia sẻ những kinh nghiệm sống thật mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Sự hài hòa và nhẫn nại luôn là những hoa trái tốt lành cần được đón nhận và trân quí. Mỗi người chúng ta đều mong cầu có được một cuộc sống hạnh phúc và an lạc. Chúng ta phải tự cố gắng xây đắp cho chính cuộc đời của mình. Không gieo thì sẽ không có gặt. Khi chúng ta làm việc lành phúc đức, phúc đức sẽ báo đáp. Giáo Hội đã giới thiệu cho chúng ta những huấn lệnh, giới răn và những mối phúc như Mười Điều Răn, thương người có Mười Bốn Mối và Tám Mỗi Phúc Thật…
Lạy Chúa, mọi giới luật đều qui tóm về hai giới răn trọng, đó là mến Chúa và yêu người. Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em không phải bằng môi miệng nhưng bằng chính trái tim cảm mến. Chúng ta có thể làm được mọi việc mà nếu không có lòng mến, tất cả trở thành vô ích. Chúng ta hãy xin cho hạt giống yêu thương nẩy nở và sinh hoa kết qủa trong tâm hồn. Thánh Giâcôbê mời gọi: Hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em (Giac 1, 21).
18. Nghi thức bên ngoài.
Có một thầy tiến sĩ luật Do Thái bị cầm tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua và ông ta yếu dần. Cuối cùng người ta phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng: cơ thể ông ta bị thiếu nước. Thế nhưng đám lính canh lại thắc mắc không hiểu vì sao vị Rabbi này lại có thể thiếu nước, vì khẩu phần nước tương đối đầy đủ.
Và thế là họ kín đáo quan sát ông ta. Cuối cùng họ đã khám phá ra lý do. Sở dĩ cơ thể ông ta thiếu nước vì ông ta đã dùng phần lớn số nước được cung cấp để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và dùng bữa.
Câu chuyện trên cho thấy các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã bực bội như thế nào, khi các môn đệ Chúa ăn uống mà chẳng chịu rửa tay theo đúng tập tục tiền nhân.
Ngược dòng thời gian chúng ta thấy người Do Thái có hai thứ luật. Luật thành văn và luật truyền khẩu. Luật thành văn vừa cổ lại vừa quan trọng vì nó căn cứ trên những sách của Cựu ước và đôi khi còn được gọi là luật Maisen. Một số luật này mang tính cách cụ thể và đặc thù, còn lại thì rất chung chung giống như những kiểu mẫu phải theo hơn là lề luật. Trong một thời gian dài, người Do Thái bằng lòng với những kiểu mẫu này và họ áp dụng vào đời sống vì thấy nó thích hợp.
Tuy nhiên, tới thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, một nhóm chuyên nghiên cứu về luật đã tạo được một ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân. Họ thấy những điều luật tổng quát quá sơ sài, mơ hồ cần phải được soạn thảo lại. Từ đó phát sinh ra bộ luật thứ hai, gồm những luật truyền khẩu. Rất nhiều người Do Thái muốn bắt chước các tư tế về sự thánh thiện bên ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn: theo luật thành văn thì mọi tư tế đều phải rửa tay trước khi vào nơi thánh trong đền thờ, mục đích là tẩy rửa đi những gì ô uế để xứng đáng thờ phượng Chúa. Dần dần dân chúng cũng bắt chước rửa tay trước khi cầu nguyện và khi dùng bữa.
Vào thời Chúa Giêsu, họ tuân giữ cặn kẽ thứ luật truyền khẩu này, để rồi tôn giáo dần dần thái hóa và biến thành một hoạt động đơn thuần chỉ là chu toàn những nghi thức bên ngoài. Theo họ, tuân giữ nghi thức bên ngoài là đẹp lòng Chúa, bằng không thì phạm tội và những kẻ tuân giữ được coi là người đạo đức. Họ có thể căm ghét kẻ khác nhưng lại chẳng hề áy náy bao lâu còn tuân giữ việc rửa tay và những nghi thức khác về sự thanh tẩy.
Họ giống như một người Hồi giáo đang phi ngựa rượt theo kẻ thù, chợt nghe chuông báo giờ cầu nguyện. Thế là anh ta xuống ngựa, quì gối cầu nguyện theo luật định, rồi sau đó lên ngựa tiếp tục đuổi theo kẻ thù.
Từ đó chúng ta đi tới kết luận: đừng đồng hóa tôn giáo với việc chu toàn những hành vi bên ngoài như đi lễ, đọc kinh, xưng tội… Tự chúng chưa bảo đảm rằng chúng ta đã thánh thiện đâu. Lý do rất đơn giản là chúng ta có thể làm tất cả những việc này vì lý do không mấy ngay thẳng, hay làm không phải vì yêu thương. Điều quan trọng không phải là việc chúng ta làm mà chính là tình yêu trong trái tim thúc đẩy chúng ta làm việc đó. Nếu trái tim chất đầy kiêu căng thì mọi nghi thức bên ngoài trước mặt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho chúng ta trở nên thánh thiện trước mặt Chúa. Bởi vì như lời Chúa đã quở trách người Do Thái: dân này thờ kính Ta ngoài môi ngoài miệng, còn lòng họ thì lại xa Ta.
Tóm lại, điều cốt lõi trong tôn giáo không phải là làm việc này việc kia, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Hành động của chúng ta phải được xuất phát từ con tim, từ tình yêu: Mến Chúa và yêu người, thì mới thực sự có giá trị.
19. Chúa Nhật 22 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Thu Băng)
Ngày nọ vào hồi 2 giờ sáng, Cha Murray thấy chuông điện thoại báo và nghe có tiếng rên rỉ:"Ông nội con ở trong nhà thương sắp chết, xin cha đến giúp". Vì cách nhà thương có 2 block, cha Murray quyết định đi bộ tới thăm bệnh nhân. Đang đi, thình lình một người lạ mặt từ trong bóng tối nhảy ra chìa súng vào cha quát lớn: "Đưa hết tiền đây cho tôi". Vị linh mục trả lời: "Chiếc ví của tôi ở trong áo coat". Tên cướp phanh áo ngài để tìm chiếc ví tiền, chợt nhìn thấy chiếc cổ áo trắng linh mục: "Trời ơi, Tôi không biết đây là ông cha. Xin cha tha tội cho tôi và cha giữ lấy liền". Với lòng biết ơn, vị linh mục tặng cho anh ta một điếu xì gà, nhưng anh ta lắc đầu từ chối: "Xin cám ơn cha, tôi kiêng hút thuốc trong mùa chay".
Tên ăn cướp này cũng giống như người Pharisiêu. Họ cặn kẽ giữ những điều luật nhỏ mọn, nhưng lại bỏ qua những giới răn rất quan trọng. Họ giữ những lề luật bề ngoài, nhưng họ căm ghét kẻ khác không giữ một cách sâu đạm trong trái tim. Họ tuân giữ những nghi thức bề ngoài này và được đánh giá là họ đạo đức, biết phụng sự Thiên Chúa mà khinh miệt những người khác. Cũng như kiêng không hút thuốc trong mùa chay, nhưng lại đi ăn cướp. Vì thế Chúa Giêsu thường phê bình họ khiến họ rất ghét Ngài, theo dõi để bắt bẻ, gài bẫy và công kích Ngài. Ngày nay cũng còn có những thứ người Pharisiêu tân thời như họ. Thí dụ: họ đi lễ trễ mà nếu có ai phê bình thì họ tức tối và cho rằng thế là hạ nhục họ đang khi họ không biết đi lễ trễ là xúc phạm đến Chúa và làm chi trí cho những người khác. Đến nhà thờ, họ tươi cười bắt tay những người bắt tay họ, nhưng lại không biết nói, không biết chào hỏi Thiên Chúa trên bàn thánh. Điều đó cũng như đi dự tiệc mà chỉ trò chuyện với khách mà không hề biết chào hỏi chủ tiệc. Cũng vậy, người khác đi dự tiệc chỉ biết chê trách, bắt bẻ chủ nhà rằng: Khăn bàn xấu, ly chén không sạch, đồ ăn nguội không ngon... nhưng chính họ chỉ toàn nói những chuyện thiếu thanh tao, kéo kẹt, cũng chẳng bao giờ dâng cúng cho chủ tiệc, cho Chúa lấy một đồng. Người khác đi ra ngoài gặp ai thì luôn miệng "Cám ơn, xin lỗi" rất lịch sự, nhưng về nhà lại chẳng hề biết nói một lời nhỏ nhẹ, lịch sự với vợ với con. Nếu trái tim chúng ta chất đầy những nỗi chua chát hoặc kiêu căng thì tất cả những nghi thức bề ngoài trước mắt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho chúng ta nên thánh thiện trước mặt Chúa. Tất cả họ là những pharisiêu chỉ biết phô trương và giữ luật trước công chúng để được ca tụng, được tôn kính... Nhưng khi sống riêng tư thì lại bê bối, bỏ luôn cả những điều quan trọng nhất trong đời sống. Xin Chúa đừng để chúng ta là một pharisiêu như vậy.
20. Cao cả và bi đát – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh với phàm, thiêng với tục là những phạm trù tôn giáo mà mọi thời và mọi nơi đều biết đến.
Cái thánh thiêng là cái cao cả siêu việt, khác lạ, đáng kính và nhiều khi đáng sợ.
Cái phàm tục là cái thông thường, cái tầm thường, nhiều khi còn có thể đáng khinh và bị coi là ô uế dơ dáy.
Trong các tôn giáo sơ khai, cái thánh thiêng hiện diện ở khắp nơi trong mọi sự từ núi cao đến sông dài, từ đền thờ tới gốc đa, gốc đề, từ tượng thần đến cái bình vôi, từ cá sấu đến các tinh tú.
Trái lại, ngày nay trong thế giới tục hoá, mọi sự đều được giải thiêng, chẳng có gì thánh thiêng ngoài khoa học thực nghiệm duy lý với các định luật, các công thức.
Trong tiếng Do thái,Thánh có nghĩa là tách biệt. Cái linh thiêng là cái gì tách biệt khỏi cái thường ngày, tách khỏi cái tầm thường thông tục.Cái thánh thiêng là cái gì khác lạ cao xa, ở bên ngoài, ở bên kia, ở bên trên cái thông thường. Do đó,Thiên Chúa được gọi là Đấng Thánh, bởi vì Người cao cả, siêu việt tuyệt đối khác lạ. Người là Đấng siêu việt. Đấng cao cả, linh thiêng phải ngự ở những nơi linh thiêng cao cả. Đó là những ngọn núi thánh, những Đền thờ, những nơi tách biệt khỏi chốn phàm trần. Những người được tuyển chọn để phục vụ Đấng Thánh cũng phải là những người tách biệt khỏi người phàm. Hàng Tư tế trong dân Do thái chỉ được chọn từ chi tộc Lêvi. Họ phải là những người không tỳ vết, không tật nguyền, phải giữ những luật lệ khắt khe hơn người thường.Tất cả những gì dành riêng cho Đấng Thánh, những gì được coi như thuộc về Người, đều là những cái thánh: núi thánh, đền thánh, nơi thánh, ngày thánh, đồ vật thánh. Phạm đến những cái đó là phạm đến chính Đấng Thánh.
Quan niệm linh thánh như vậy muốn tách biệt cái thánh thiêng ra khỏi cái phàm tục.Từ đó người ta đẩy xa Đấng Thánh ra khỏi cuộc đời và ngày càng đóng khung Người vào trong phạm vi của núi thánh, Đền thờ, nơi thánh, nơi cực thánh. Không gian của Người ngày càng bị thu hẹp lại.
Dân Israel được gọi là Dân Thánh, dân riêng của Chúa, thuộc về Chúa. Họ tự coi mình là sở hữu Thiên Chúa: Người là của riêng họ, thuộc về họ. Dân Israel chờ đợi một vị thiên sai ngự đến trong cung thánh đền thiêng.
Trong một thế giới mà cái thánh thiêng và cái phàm tục được xác định rạch ròi tỉ mỉ như thế, chúng ta mới thấy việc Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng Thánh làm người, một người phàm ở giữa những người phàm gặp phải sự chống đối quyết liệt.
Ngay từ giây phút nhập thể, Đức Giêsu đã không đến trong Đền thờ mà lại đến trong căn nhà nhỏ bé ở Nazareth. Thiên Chúa làm người trong lòng một thôn nữ vô danh đối với người Do thái. Rồi khi chào đời, Người đã lấy chuồng bò lừa làm nhà ở, lấy máng cỏ làm nôi, lấy những kẻ mục đồng vốn bị người Do thái coi là uế tạp làm bầu bạn.Trong suốt cuộc đời, Đức Giêsu sống như một người tầm thường giữa những người nghèo khổ, đồng hành ăn uống với những người bị coi là tội lỗi, thâu nhận người thu thuế làm môn đệ.
Trang Tin mừng hôm nay kể về một sự kiện trong chuỗi những chống đối quyết liệt đó. Các Biệt phái Kinh sư trách các môn đệ Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn. Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Pharisiêu và Kinh sư nói riêng và dân Do thái nói chung, thường rất khắt khe với tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ triệt để, chứng tỏ mình thanh sạch trước mặt mọi người. Vì thế, họ chất vấn Đức Giêsu: Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay mà dùng bữa?
Đức Giêsu đã cho biết thế nào là sạch thế nào là dơ, thế nào là thánh thiêng, thế nào là phàm tục. Của ăn được nấu chín là sạch. Cái làm cho dơ đó là lòng người. Cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, tốt hay xấu, sạch hay dơ.
Có câu chuyện trong sách Tông đồ công vụ (10,11-16). Vào trước giờ ăn trưa, Thánh Phêrô cầu nguyện và xuất thần: “Ông thấy trời mở ra và một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, đang được thả xuống, trong đó có mọi giống vật bốn chân, rắn rết và mọi thứ chim trời. Có tiếng phán bảo ông: Phêrô, đứng dậy làm thịt mà ăn! Phêrô thưa: lạy Chúa, không thể được, vì không bao giờ con ăn những gì ô uế và không thanh sạch. Có tiếng phán với ông lần thứ hai: những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch, ngươi đừng gọi là ô uế. Việc đó xảy đến ba lần, và lập tức vật ấy được đưa lên trời.”. Như vậy những gì Thiên Chúa sáng tạo đều là sạch, con người không thể coi là nhơ bẩn.
Đức Giêsu bác bỏ hoàn toàn quan niệm về sạch dơ của người Do thái. Đối với Người, không có gì bên ngoài lại làm cho con người ra dơ trước mặt Thiên Chúa. Cái gì dơ, cái gì tội lỗi chính là từ trong lòng người mà phát xuất ra. Đó là: tà dâm, trộm cắp giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác xảo trá, trác táng, ganh tị, kêu ngạo, ngông cuồng.Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người ra ô uế.
Người đời đã phải than thở rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho tường”; “Lòng người thăm thẳm mù khơi, không bờ không bến biết nơi nào dò”. Tục ngữ có câu: “Khẩu Phật tâm xà” hay “ Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm” để diễn tả hạng người mang mặt nạ che dấu lòng dạ ác độc bên trong, loại người mà “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Một trong những đặc trưng của kỹ thuật hiện đại là kỹ thuật làm đồ giả. Chân giả, tay giả, tóc giả, lông mi giả, hoa giả, trái cây giả…. Những thứ giả ấy đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như mâm ngũ quả, hoa nến nhang đèn đều giả… Mức độ “giả” còn tinh vi nên lắm khi cái giả xem ra còn đẹp hơn cái thật, khó mà phân biệt được thực hư, tốt xấu. Nhưng tệ nhất vẫn là thứ “Giả nhân giả nghĩa”, thứ “giả hình” mà Chúa đã nặng lời khiển trách (Mt 23,13-29). Thánh Gioan đã lật tẩy: “Ai nói rằng mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1Ga 2,4); “Ai bảo mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu người anh em mà mình trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (Ga 4,20).
Cõi lòng hay thế giới nội tâm làm cho con người nên cao cả nhưng nó cũng làm nên sự bi đát. Cao cả và bi đát đan xen trong lòng người như ánh sáng và bóng tối.
Con người nên cao cả là nhờ thế giới nội tâm với tư duy, cảm xúc, phân tích, đúc kết, kinh nghiệm… Nhờ có thế giới nội tâm mới có khoa học, có sáng tạo văn hoá nghệ thuật. Cũng chính cái thế giới nội tâm này làm cho con người trở nên bi đát. Bề ngoài và bề trong liên quan với nhau và tác động lẫn nhau, nhưng về mặt luân lý đạo đức, bề trong mới là phần quyết định. Chỉ có con người mới có giả hình, lừa đảo, gian dối, mưu mô, thủ đoạn. Đức Giêsu đã nhận xét: “ Không phải những gì từ bên ngoài vào làm cho người ta ra ô uế, nhưng từ trong lòng mới xuất phát những cái làm cho người ta ra ô uế” (Mt 15,19).
Đức Giêsu nhấn mạnh sự thanh tẩy từ bên trong. Người chẳng phản đối chuyện rửa tay. Người chỉ phê bình thói hình thức bên ngoài. Điều quan trọng là rửa cõi lòng. Cái ô uế thực sự đáng sợ không đến từ việc đụng chạm hay ăn uống mà nó lại nằm trong lòng người. Nó không từ ngoài vào mà từ bên trong ra.
Đối với Đức Giêsu, yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bên ngoài. Ý hướng bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có gía trị hay không. Đức Giêsu luôn sống tình thương với mọi người, luôn “chạnh lòng thương”.Tình thương chính là sự thánh thiện. Tình thương là thanh sạch. Đấng Thánh hôm nay có tên gọi là Tình Thương.Tình thương là chia sẽ, là hiệp nhất. Sự thánh thiện của Đức Giêsu luôn rộng mở lan toả hương thơm tình thương, thanh sạch.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có viết trong cuốn “Giọt máu” một câu rất sâu sắc “Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa. Đấy là chí thánh”.Tác giả hiểu ý nghĩa của từ chí thánh theo đúng những gì là phàm tục, thế gian là cõi hồng trần bụi bặm. Cái chí thánh chính là dìm mình, hoà vào trong bùn lầy, trong tội lỗi để làm cho từ vũng bùn lầy, từ vực thẳm tội lỗi ấy nở hoa, rực lên sự thánh thiện. Tôn giáo nhắm trực tiếp vào nội tâm con người, vì thế có lẽ nó còn hữu hiện hơn xã hội rất nhiều trong việc chế ngự cái xấu, cổ vũ cái tốt. Bởi vì tôn giáo chân chính nào cũng đều kêu gọi, động viên, giáo dục con người làm lành lánh dữ, vươn lên làm chủ phần hạ đẳng nơi mình để thăng hoa phần cao thượng trong sáng. Người ta có thể không sợ dư luận hay luật pháp (vì còn có thể che dấu luồn lách), nhưng một khi đã tin vào Đấng Linh Thiêng và nếu đó là một niềm tin sống động, người ta khó có thể không sợ sự phán xét của lương tâm và nhất là của Đấng họ thờ kính.
Thường thì khi vừa sinh ra, người ta có cái tâm hồn hậu nhưng cái trí dại khờ. Càng lớn lên, trí càng khôn ngoan nhưng tâm càng vẩn đục. Đi cho trọn đường trần là trí học biết được càng nhiều càng tốt những khôn ngoan mà tâm vẫn giữ được cái hồn hậu của tuổi ấu thơ.
Đối với người Kitô hữu, nếu như xã hội mong muốn và chờ đợi chúng ta sống đạo đức một, thì chính Chúa còn đòi buộc chúng ta phải "thánh thiện" trăm ngàn lần hơn: "Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5,48); "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mắt thiên hạ, để họ nhìn thấy công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,14.16).
Con người sống ở đời cần có một tấm lòng, một trái tim yêu thương chân thành. Thiên Chúa đã ra lệnh truyền cho con người: “Hãy tạo cho mình một trái tim mới” (Ed 18,31). Người còn phán: “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi, Ta sẽ ban cho các ngươi môt trái tim mới” (Ed 36,25). Một trái tim mới biết yêu thương hay một tấm lòng để người ta sống tốt đẹp với nhau.
Tình thương của Chúa Giêsu là tình thương cứu thế, muốn thanh tẩy con người tội lỗi, rửa sạch tâm hồn và trao ban sự sống mới.
Trong đời sống tâm linh, người Kitô hữu cần phải tu dưỡng cái tâm, phải có tâm ngay lành, luôn tôn trọng sự công bằng, yêu thương mọi người. Cần có một tấm lòng, tâm tốt thì mọi việc làm sẽ đẹp lòng Chúa.
Người Kitô hữu mỗi ngày đến nhà thờ dự tiệc Thánh Thể. Đưa tay đón nhận Bánh Thánh là đón nhận tình thương và thanh sạch của Chúa.Bàn tay đón nhận Bánh Thánh cũng là bàn tay bác ái yêu thương góp phần thánh hoá trần gian.
21. Đạo tại tâm - Lm. Anphong Trần Đức Phương
Khi nói "Đạo tại tâm", chúng ta thường hiểu theo ý nghĩa giữ đạo do tự trong lòng, chứ không hệ tại ở những việc làm bề ngoài. Chúng ta cũng thường kết án những người 'giữ đạo bề ngoài' mà tâm hồn thì trống rỗng, không thành thật; đó là "giả hình" hoặc "Pharisêu". Thật ra, "Đạo tại tâm" không phải chỉ giữ ở trong lòng mà không cần giữ các lề luật bên ngoài, dù đó là luật đạo hay luật đời; nhưng "Đạo tại tâm" là "sống đạo và thực hành các giới răn của Chúa" với cả tấm lòng của chúng ta, chứ không phải chỉ để phô trương bề ngoài. Sống đạo thực sự là yêu mến và tuân giữ các giới răn của Chúa, và thực thi lòng yêu mến đó bằng cách yêu thương giúp đỡ mọi người, nhất là những người sống trong hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật.
Danh từ "Pharisêu" chỉ một nhóm người trong đạo Do Thái xưa. Họ thật sự là những người muốn tuân giữ chặt chẽ các lề luật Chúa do Môisê truyền lại, như chúng ta thấy trong Bài Đọc I hôm nay (Sách Đệ Nhị Luật 4: 1-2, 6-8): "Anh em chớ thêm bớt điều gì trong các điều mà tôi đã truyền cho anh em... Anh em hãy tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa anh em... Anh em phải tuân giữ và thực hành..." Tuy nhiên, có nhiều người quá câu nệ vào hình thức bề ngoài, và cũng có nhiều người thích phô trương ra ngoài để chứng tỏ ta đây là người đạo đức, là những người biết sống theo lề luật cha ông để lại, nhưng trong lòng họ lại đầy những nham hiểm, mưu kế, dối trá, thù hận: "Họ làm mọi việc chỉ cốt để thiên hạ thấy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài!..." (Đúng là 'thích khoe quần, khoe áo!') (Matthêu 23: 25-28, Luca 11:39-44).
Những người "Biệt Phái" (tức Pharisêu) và Luật sĩ thời Chúa Giêsu thường hay rình mò và xét đoán các hành vi của Chúa và các môn đệ, và chỉ trích Chúa Giêsu và các môn đệ là những người 'phá luật lệ'. Hôm nay, trong bài Phúc Âm (Matcô 7: 1-8, 14-15, 21-23), nhóm Biệt phái và Luật sĩ chỉ trích môn đệ của Chúa là "ăn uống với những bàn tay không trong sạch vì không chịu rửa tay trước khi ăn như luật lệ dạy..." Nhân dịp này, Chúa Giêsu muốn dạy họ một bài học thực tế về việc 'giữ luật' không nên quá câu nệ vào hình thức bề ngoài, nhưng quan trọng là do tự trong lòng (Đạo Tại Tâm). Chúa Giêsu không phá luật lệ Cha Ông để lại: "Con Người đến không phải để phá bỏ luật lệ, nhưng để kiện toàn!". Cứ lo "rửa tay, rửa chén, rửa bình" mà không lo sống đạo đức thực sự thì thật là cách giữ đạo bề ngoài, là gỉa hình, như Thiên Chúa đã nói về họ qua lời tiên tri Isaia: "Dân này kính Ta bằng môi, bằng miệng mà lòng chúng xa Ta!" (Isaia 29:13). Nhân tiện, Chúa Giêsu cũng bảo họ: "Đừng bỏ giới răn Chúa để chỉ nắm giữ những luật lệ bề ngoài, vì sống đạo là thực thi giới răn Chúa, xa lánh tội lỗi như: ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, tỵ hiềm, ngạo mạn, ngông cuồng!..." (Matcô 7: 21-23).
Thánh Giacôbê trong Bài Đọc II (Giacôbê 1: 17-18, 21-22, 27) cũng nhắn nhủ chúng ta sống đạo bằng cách thực hành, đó là xa tránh tội lỗi và thực hành Đức Bác Ái: "Anh em hãy tẩy trừ mọi điều ô uế, gian ác... Anh em hãy mau mắn lãnh nhận Lời Chúa và đem ra thực hành, chứ đừng nghe xuông... Hãy giữ lòng mình khỏi mọi ô uế ở đời này... Hãy thăm viếng cô nhi, quả phụ trong cơn quẫn bách..."
Tác giả Thánh Vịnh 14 trong Bài Đáp Ca hôm nay cũng chỉ cho chúng ta biết thế nào là sống đạo thực sự: "Ai sẽ được sống trước Nhan Thánh Chúa: Đó là những người thanh liêm và và thực hiện điều công chính, trong lòng luôn suy nghĩ điều ngay, lưỡi không bịa lời vu khống, không làm điều sai trái cho người anh em, không nhục mạ những người lân cận, coi thường những kẻ bất nhân, mến yêu những người biết tôn thờ Chúa; đó là những người không xuất tiền đặt nợ thu lời, không ăn hối lộ để làm hại những người hiền lương. Những người thực thi những điều đó thì muôn đời đứng vững, không bị lung lay!"
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện xin Chúa là Cha nhân từ tha thứ mọi lỗi lầm của chúng ta trong quá khứ, giúp chúng ta thật lòng ăn năn chừa cải. Xin Chúa cho chúng ta sống đạo với cả tâm hồn chúng ta, với lòng yêu mến Chúa và yêu thương mọi người. Xin Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh là những vị đã thành tâm sống đạo và đã nên Thánh sau cuộc đời gian nan trần thế, chuyển cầu cho chúng ta. Trong "Năm Linh Mục" này, chúng ta cũng tiếp tục cầu nguyện nhiều cho các Chủ Chăn, các Linh mục luôn được lòng nhiệt thành phục vụ Chúa và mọi người. Xin đặc biệt cầu nguyện nhiều cho các Chủ Chăn, Linh Mục đang gặp nhiều khó khăn, thử thách; nhất là ở Việt Nam hiện nay.
22. Tôn kính bằng môi miệng
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Cuốn Christian Community Bible chú thích đoạn Lời Chúa hôm nay (Mc 7:1) như sau: “Không một nhóm nào, kể cả Giáo Hội, có thể đứng vững mà không có truyền thống tập quán. Nhưng dù tốt đến mấy, các truyền thống này đều do con người tạo ra. Như cách cử hành thánh lễ, các ngày lễ, các tuần cửu nhật v.v…, tất cả những gì một giáo hoàng, một giám mục, một cộng đoàn Kitô hữu đã đặt ra trong quá khứ, thì một vị giáo hoàng khác, một giám mục khác, một cộng đoàn Kitô hữu khác có thể thay đổi được. Chính vì tất cả những điền này có thể thay đổi nên ta hiểu ngay rằng đây không phải là điều chính yếu của đời sống Kitô giáo.” Cũng theo chú thích của hai anh em nhà Hurault, ta đừng lẫn lộn các truyền thống phức tạp, hay nói đúng hơn các tập tục và thói quen trải dài qua các thế kỷ của lịch sử Giáo Hội, với truyền thống của Hội Thánh; “Có một cách thức hiểu Kinh Thánh mà Chúa Giêsu và các Tông Đồ cũng đã hiểu như thế: đó là điều mà người ta gọi là truyền thống các Tông Đồ (Apostolic Tradition). Và Hột Thánh được các Tông Đồ thành lập luôn gìn giữ truyền thống này, tức là Tinh Thần của các Tông Đồ.”
Những lời khảng định trên thật xác đáng và quan trọng. Đức Giêsu và sau đó là các Tông Đồ, đặc biệt Tông Đồ Phao-lô - cách riêng trong thư gửi các tín hữu Ro-ma và Ga-lat - đã không ngừng phân biệt rõ giữ đạo - là giữ các tập tục (mà rất nhiều khi khoác cho danh nghĩa ‘truyền thống’) - với sống niềm ‘tin’ đích thực. “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm”…, như thế giữ đạo có thể khác xa sống đức tin chân chính; “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.”
Đối với người Do Thái của Cựu Ước thì tinh thần kính sợ và tôn thờ Đức Chúa Gia-vê là điều quan trọng hơn hết. Không có tinh thần này thì việc tuân giữ khắt khe mọi lề luật, qui định - điển hình như các luật liên quan tới việc thanh tẩy và ngày Sa-bát – thì cũng kể bằng không… Hoặc cùng lắm, cũng chỉ được coi như nắm giữ các tục lệ - tập quán do con người xuôi dòng lịch sử bày ra mà thôi.
Thế còn đối với Kitô hữu - ta tự hỏi - điều răn Thiên Chúa hay truyền thống Tông Đồ cụ thể là gì? Đức Giêsu, cho dầu tuyên bố không phá bỏ giới răn hay lề luật cũ, đã hơn một lần khảng định điều răn mới mà Người để lại cho các môn đệ chính là giới luật yêu thương: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là, anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34). Không sở đắc trong thâm sâu cõi lòng giới luật mới này thì việc giữ căn kẽ mọi qui định của Giáo Hội (kể cả việc đi lễ ngày Chúa Nhật hay giữ các ngày chay tịnh) cũng sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Truyền thống Tông Đồ đã không ngừng đề cao điều đó: “Giả như... tôi biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non… mà không có đức mến… thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” (1 Cr 13:1-3). Và chính vì để duy trì và phát huy tình mến này trong lòng mà toàn bộ cuộc sống Kitô hữu đều không ngừng qui hướng về hiến tế Thập Giá, nhất là qua việc cử hành Thánh Lễ. Khi dâng lễ, tín hữu cử hành ‘như Thầy yêu thương anh em’ hầu có thể ‘hãy yêu thương nhau’ trong cuộc sống. Một khi đã hiểu được ‘Thầy yêu thương’ như thế nào, và có được ‘đức mến trong lòng’, họ sẽ “cứ yêu đi, và bạn làm gì cũng được ”, như Thánh Âu-tinh đã từng tuyên bố. Tất cả các qui định của Giáo Hội lúc đó sẽ không còn được coi như gánh nặng luật lệ áp đặt từ bên ngoài (không giữ thì mắc tội), nhưng được đón nhận như những chỉ dẫn khơi nguồn tình yêu trong con tim.
Chỉ khi đó, phải, chỉ khi đó mà thôi, các tín hữu mới thật sự hiểu được lời Đức Giêsu đã từng tuyên bố “Thầy đến không phải là để bãi bỏ Luật, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5:17)… Kiện toàn không phải vì khắt khe chi li hơn, nhưng là vì đưa tới sức mạnh tình yêu; và như thế đương nhiên là họ cảm thấy thảnh thơi trong việc giữ đạo, “vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11:30).
Thế nhưng chính tôi, sau bao nhiêu năm sống niềm tin Kitô hữu, tôi vẫn chưa cảm thấy hoàn toàn thảnh thơi thoải mái, ấy là vì… tôi chưa có được khả năng thực sự ‘tin và thờ phương Thiên Chúa tình yêu trong tinh thần và chân lý’.
Lạy Chúa! Trong hơn 70 năm cuộc đời, con đã trải nghiệm không biết bao nhiêu là đổi thay về luật lệ, truyền thống và tập tục, về mặt dân sự cũng như Giáo Hội, cả về thời gian lẫn không gian. Phải chăng điều này là một hồng ân Chúa ban, hầu con nhận ra rằng: điều quan trọng hơn hết trong niềm tin Kitô hữu là biết Chúa yêu con và con được sống chan hòa trong yêu thương với hết mọi người? Xin cho con không bao giờ để cho bất cứ điều luật nào lấn lướt luật tình yêu này, và còn dạy cho các tín hữu biết sống như thế nữa. Amen.
23. Lề Luật là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật thứ XXII thường niên B đưa chúng ta trở lại với Tin Mừng Marcô, với sứ điệp Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận ra rằng, giữa bao nhiêu phong tục tập quán của loài người còn có những Luật Lệ của Thiên Chúa. Lề Luật ấy là yếu tố nòng cốt của Do thái giáo cũng như Kitô giáo, nơi Lề Luật, chúng ta tìm thấy sự hoàn hảo trong tình yêu (x. Rm 13,10). Và Lề Luật của Thiên Chúa không phải là một gánh nặng hay sự gò bó đối với con người, đúng hơn Lề Luật là hồng ân quý giá, vì nó chứng tỏ thấy tình yêu của Thiên Chúa là Cha luôn gần gũi với con người là thần dân của Chúa, cùng với họ viết lên một lịch sử tình yêu.
Vì yêu mến con người Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa (x. St ). Cũng vì muốn con người vui sống hạnh phúc, Thiên Chúa đã ban truyền các Thánh chỉ của Ngài là Lề Luật để hướng dẫn con người, đưa con người ra khỏi tình trạng nô lệ của ích kỷ và dẫn vào trong "miền đất" của sự tự do và sự sống đích thật. Những người Do thái đạo đức thường cầu nguyện như sau: "Nơi các luật điều của Người, tôi vui khoái, tôi sẽ không quên lời lẽ của Người… Xin cho tôi vững bước trên nẻo đi lệnh truyền, vì nó là nguồn sung sướng của tôi" (Tv 119,16.35).
Thánh chỉ của Chúa được ban qua trung gian Môisen, và Môisen có bổn phận phải thông truyền cho dân như sau: "Và bây giờ, hỡi Israel, hãy nghe các luật điều và phán quyết ta dạy các ngươi thi hành, ngõ hầu các ngươi được sống mà vào chiếm lấy đất Thiên Chúa của cha ông các ngươi muốn ban cho các ngươi" (Đnl 4,1).
Với dòng thời gian, con người trở nên hư hỏng và bị cám dỗ tôn thờ ngẫn tượng, gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài, và đương nhiên họ không còn tuân giữ Lề Luật Chúa nữa. Như thế tôn giáo lạc mất ý nghĩa đích thật của nó là sống trong thái độ lắng nghe Thiên Chúa để làm theo ý muốn của Ngài. Tôn giáo tự giản lược vào việc thi hành các thói quen phụ thuộc làm thỏa mãn nhu cầu của con người cảm thấy yên ổn với Thiên Chúa. Đã đành với thời gian qua đi con người có xu hướng bóp méo những lời khuyên Tin Mừng, và sau khi đã suy xét, họ thay đổi hoặc bóp nghẹt bởi do dự: "Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng …" (Mc 7, 4). Vì thế những người sống đạo bình dân, đã không nghe lời các tiến sĩ luật và những người pharisiêu, họ gắn bó với Lời Chúa hơn là vấn đề con người chú trọng. Chúa Giêsu lấy các lời của ngôn sứ Isaia làm của mình chống lại các kinh sĩ và các Pharisiêu: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: 'Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người'. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người" (Mc 7, 7; x. Is 29,13). Và Người kết luận: "Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người" (Mc 7, 8). Cả tông đồ Giacôbê, trong thư của người, cũng cảnh cáo nguy cơ của một tôn giáo giả. Người viết cho các kitô hữu như sau: "Anh em hãy là những người thực hành Lời Chúa, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình" (Gc 1,22).
Lúc sinh thời, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhân danh toàn thể Giáo hội ngỏ lời xin lỗi vì những điều không tốt con cái mình đã gây ra trong suốt chiều dài của lịch sử, trong nghĩa đó ngài bộc bạch rằng con cái mình "đã đi quá xa Tin Mừng".
Lời Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế" (Mc 7,15). Chỉ có những gì từ lòng người xuất ra, từ trong tòa án lương tâm của chúng ta mới có thể làm chúng ta ra ô uế. Chính sự độc ác này làm hư hỏng cả và nhân loại. Lòng thương xót của chúng ta không chính đáng với chính mình, nhưng giữ tâm hồn chúng ta không bị nhơ bẩn, "rửa tay" (của Philatô dẫn đến cái chết cả Chúa Giêsu nhắc lại cho chúng ta điều đó).
Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu diễn tả điều ấy cách chắc chắn trong cuốn Nhật Ký Tâm Hồn: "(…) Khi chiêm ngắm thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, tôi đã hiểu rằng Giáo hội có một trái tim tình yêu cháy bỏng". Từ trái tim ấy, Tin Mừng tình yêu trào dâng những điều tốt hảo, cụ thể là giúp đỡ những ai cần giúp "vì ta đói, các người đã cho ăn..." (Mt 25,35).
Xin Đức Trinh Nữ Maria cầu thay nguyện giúp cho chúng ta là con cái Mẹ biết lắng nghe Lời Chúa với con tim rộng mở và chân thành, để Mẹ hướng dẫn các tư tưởng, các lựa chọn và hành động của chúng ta mỗi ngày. Amen.
24. Sống đạo có chiều sâu
"Thức đêm mới biết đêm dài,
Ở lâu mới biết lòng người dở hay"
"Ngựa chạy đường dài mới biết ngựa hay"
"Có công mài sắt có ngày nên kim".
Đây là ba trong số những câu nói lên sự kiên trì và sức bền bỉ cần có của một người. Những Chúa nhật liên tiếp vừa qua, chúng ta đã cùng nhau suy niệm chương 6 Tin mừng theo Thánh Gioan. Điều chính yếu trong chương 6 này Chúa Giêsu muốn những người theo Người cần có lòng tin. Tin vào Người là Đấng sẽ ban cho Thịt và Máu để làm lương thực thiêng liêng đem lại sự sống đời đời. Việc tin vào Chúa không phải một ngày hay một bữa mà cần phải có một thời gian dài.Vì thế, tin vào Chúa cần có sự kiên trì. Sự kiên trì này cũng chắc chắn không thể dựa trên bề nổi mà cần phải có chiều sâu.
Đoạn tin mừng của Thánh Marcô hôm nay cho thấy những người Pharisêu và các kinh sư theo Chúa nhưng chỉ quan tâm đến mặt nổi bên ngoài. Do đó, khi thấy những môn đệ của Chúa Giêsu không rửa tay trước khi ăn thì đã lên tiếng trách móc. Họ quên rằng điều cần thiết khi theo Chúa là tấm lòng bên trong. Bởi lẽ, Thiên Chúa thấu suốt mọi bí ẩn.
Chúa Giêsu nói: "Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,còn lòng chúng thì lại xa Ta.Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm." (Mc 7, 6b - 9)
Những người kinh sư và Pharisêu này chỉ tuân giữ luật sạch dơ bên ngoài chứ không quan tâm đến chuyện sạch dơ bên trong. Do đó, Chúa Giêsu nói: "Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế.Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người,ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế." (Mc 7, 20 - 23)
Cho nên, ta có thể nói họ sống đạo chưa có chiều sâu. Ngày nay, nhiều tín hữu Công giáo cũng còn sống theo cách này. Họ quan tâm đến những nghi lễ rườm rà bên ngoài còn ý nghĩa thiêng liêng bên trong thì dường như họ xem rất thường. Đến khi gặp khó khăn thử thách trong đời sống đức tin thì họ lại kêu trách Chúa, kêu trách Giáo hội. Vì đời sống đạo của họ chưa được bám rễ sâu trong ơn thánh của Chúa. Họ giống như những người xây nhà mình trên cát.
Vì vậy, muốn đời sống đạo của chúng ta có được chiều sâu không cách nào khác là khiêm tốn để cho Chúa uốn nắn mình. Chúa sẽ uốn nắn chúng ta qua Lời của Người cũng như qua các Bí tích mà Người đã thiết lập nên.
25. Thiên Chúa nơi con người – An Phong
Đoạn Tin mừng hôm nay cho thấy cuộc đối đầu giữa Đức Giêsu và những người Biệt phái cũng như Luật sĩ đến từ Giêrusalem về vấn đề thanh sạch và không thanh sạch. Hơn nữa, Đức Giêsu bắt đầu hành trình đi đến các vùng đất dân ngoại. Thánh Maccô đã đưa ra một nguyên tắc mà Giáo hội sơ khai áp dụng. Thiên Chúa không muốn bất cứ một rào cản nào giữa con người với nhau. Người không phân biệt "sạch và dơ". Người chỉ muốn thâu thập tất cả nhân loại vào Vương quốc duy nhất của Thiên Chúa, miễn là họ sống đúng tinh thần của luật Thiên Chúa, thay vì bảo thủ tự mãn với các tục lệ do con người đặt ra.
Dường như con người dễ dàng phân loại tốt, xấu hoặc hay, dở…? Dường như con người dễ dàng phân chia người lành với kẻ dữ, linh thánh với phàm tục theo một tiêu chuẩn chủ quan nào đó? Còn Đức Giêsu lại nói với chúng ta: linh thánh ở ngay nơi tận cõi lòng con người - nơi con người đối diện với chính Thiên Chúa - nơi có được những chọn lựa và quyết định sâu xa nhất.
Vì linh thánh ở ngay nơi thâm sâu cõi lòng mình, nên mọi sự trong đời sống chúng ta trở thành linh thánh. Bởi lẽ khi chúng ta làm việc, ăn uống, nghỉ ngơi, chúng ta mang cả cõi lòng mình vào trong đó. Đối với người kitô hữu, không có gì là "phàm phu tục tử", bởi lẽ không có gì nằm ngoài chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Hơn nữa, từ ngày Đức Giêsu vào trần gian, mọi giá trị nhân loại được nâng lên hàng linh thánh.
Vì linh thánh ở ngay nơi những chọn lựa và quyết định sâu xa nhất, nên những hành vi bên ngoài chỉ là diễn tả thái độ bên trong. Một đức tin sâu thẳm được thể hiện ra bên ngoài với những hình thức nghi lễ đúng mực. Thiên Chúa muốn "con người thờ phượng Người trong tinh thần và chân lý" (Ga 4,23). Người chán ghét những kẻ "thờ" Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta" (Mc 7,6).
Phải chăng chúng ta nhận ra Thiên Chúa hiện diện nơi cuộc đời mình, nhất là trong chính cõi thâm sâu lòng mình, để biến đời sống mình trở thành một đời sống "linh thánh"?
Phải chăng chúng ta có được những chọn lựa và quyết định phù hợp với ý Thiên Chúa, để biến đời sống mình thành đời sống tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý?
Lạy Chúa Giêsu,
Xin dạy chúng con hiểu được mối phúc
"Phúc cho những người nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ";
không thành kiến, không cố chấp, nhưng rất đơn thành,
mở rộng tâm hồn đón nhận và thực thi ý Chúa,
ngõ hầu Chúa hiện diện trong đời sống chúng con.
26. Đáp lại ơn cứu độ bằng toàn bộ đời sống của mình
(Suy niệm của Đức ông James M. Reinert - Đan Quang Tâm dịch)
Trong đoạn văn Tin Mừng Thánh Máccô, ta nghe đọc điều rất có thể là một trong những lập luận được Đức Giêsu đưa ra nhiều lần. Đức Giêsu kiên định trong việc dẫn đưa dân chúng đến chỗ hiểu biết chân lý về sự hiện diện của Thiên Chúa và làm thế nào đáp lại trước chân lý đó. Đồng thời, Người chỉ trích các tập tục phàm nhân được giảng dạy và thực hiện như những hành vi thờ phượng. Khi nói rằng “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”, Người thông báo rằng các tập tục cũ đã lỗi thời rồi. Người cũng lên án truyền thống và thói tục thêm thắt vào các điều răn do Thiên Chúa ban… thái độ biến tập tục hoặc “ý tốt” trở thành lề luật.
“Thật vậy, lời Tin Mừng không phải chỉ để nghe mà còn để tuân giữ và thi hành (x. Mt 7,24; Lc 6,46-47; Ga 14,21.23-24; Gc 1,22): sự kiên định trong hành vi chứng tỏ điều mình tin và không chỉ giới hạn trong những việc có liên quan chặt chẽ đến Giáo hội hoặc thuần tuý thiêng liêng, mà còn liên hệ đến con người trong toàn bộ kinh nghiệm sống và trong toàn bộ các trách nhiệm của họ. Tuy nhiên dù mang tính trần thế đến đâu, chủ thể của các trách nhiệm này vẫn là con người, đó là con người, thông qua Giáo hội, được Thiên Chúa kêu gọi tham gia vào ơn cứu độ.
Con người phải đáp lại ơn cứu độ không phải bằng sự chấp nhận một phần, trừu tượng hoặc chỉ bằng lời nói suông, mà bằng toàn bộ đời sống của mình – trong mọi quan hệ làm nên đời sống – để không sao lãng điều gì, khiến cho điều ấy ở lại trong lĩnh vực phàm tục và trần thế mà không có liên quan gì hay xa lạ với ơn cứu độ. Vì thế, đối với Giáo hội, học thuyết xã hội của Giáo hội không phải là một đặc ân, một sự đi lạc đề, một tiện lợi hay một sự can thiệp: Giáo hội có quyền loan báo Tin Mừng trong bối cảnh xã hội, làm cho lời giải phóng của Phúc âm vang lên trong thế giới phức tạp của sản xuất, lao động, kinh doanh, tài chính, thương mại, chính trị, pháp luật, văn hoá, truyền thông xã hội, nơi con người sống” (Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo,70).
Phản ứng mà các kỳ mục và lãnh đạo tôn giáo có đối với lời của Đức Giêsu chứng tỏ rằng họ đã đánh mất cái nhìn về các giáo huấn của Môsê. Từ Sách Đệ nhị luật, ta nghe Môsê bảo dân Israel về tầm quan trọng của các thánh chỉ và quyết định được trao ban cho họ. Có lẽ sứ điệp quan trọng nhất trong bản văn là ở phần cuối… có quốc gia hoặc dân tộc nào có được “thần minh ở gần, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta?”
Ta phải trở lại cách đây một vài tuần để hiểu rõ điều này hơn. Như diễn ra trong Tin mừng Thánh Máccô, cách đây mấy tuần, ta đã nghe đọc rằng các môn đệ vừa mới đi truyền giáo trở về, miệng còn mải bàn luận tất cả những gì họ đã thấy và đã làm… và thành thực mà nói, liệu việc rửa tay có liên quan gì đến đức tin và việc giữ các điều răn?
Bỗng nhiên, mọi thứ dường như bị đảo ngược. Thay vì nghe về việc làm thế nào đám đông phản ứng trước lời giảng dạy của các Tông đồ, ta lại nghe những tiếng lầm bầm càm ràm. Đám đông thay vì đến với Đức Giêsu để nghe thêm, họ lại ca cẩm và cãi lý.
Trong Thư của Giacôbê, ta có thể nói rằng tác giả nối tiếp phần giảng dạy của Môsê. Vấn đề được nêu trong thư cũng rất hợp với đoạn văn Tin mừng hôm nay. Trong Thư Giacôbê, ta thấy có một loại thách đố cho các thành viên của cộng đồng Kitô giáo. Ông nhắc họ rằng tự gọi mình là Kitô hữu không thôi thì chưa đủ. Họ phải chứng tỏ điều đó. Họ phải thực hành đức tin, không phải chỉ có cầu nguyện mà còn phải có hành động.
Môsê nói với dân chúng về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời của họ. Trong Thư Giacôbê, ta được nhắc về sự hiện diện đó nhưng ta cũng được kêu gọi đáp lại vì ơn đức tin ta đã được ban.
Ta hầu như có thể nghe những lời này xuất phát từ Đức Giêsu cố ý nhắm đến những người Pharisêu và “các nhà thông luật”. Người tố giác họ chỉ có đức tin trống rỗng. Họ chỉ có biết làm theo thói tục – rủi thay, các thói tục này chẳng có liên quan gì đến việc đáp lại sự hiện diện của Thiên Chúa.
Thư của Giacôbê đặt nền tảng trên các Phúc âm. Thiên Chúa Cha đã tạo dựng nên chúng ta và ở lại trong thế giới. Đức Giêsu ban sự sống của Người cho chúng ta. Ta đáp lại như thế nào đây?
27. Từ trái tim con người.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đoạn Tin Mừng hôm nay khởi đi từ một chuyện nhỏ: chuyện các môn đệ không rửa tay trước khi ăn.
Đối với người Pharisêu, sau khi ra nơi phố chợ, người ta thường trở nên ô uế do đụng chạm. Phải rửa tay, vì tay ô uế làm đồ ăn ô uế, và đồ ăn ô uế sẽ khiến cả con người ô uế.
Đức Giêsu đã long trọng khẳng định: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế" (c.15).
Khẳng định này là một cuộc cách mạng trong Do Thái giáo, bởi lẽ đời sống người Do Thái bị bao vây bởi nhiều cấm kỵ: không được ăn thịt heo, hay thịt thú chết ngạt; không được đụng vào xác chết, vào người phong cùi; không được ăn chung với dân ngoại hay vào nhà người tội lỗi... Đụng vào hay ăn vào là ô uế ngay.
Đức Giêsu đã phạm nhiều điều cấm kỵ, đã phá đổ nhiều bức tường ngăn cách kẻ xấu - người tốt, dân Do Thái và dân ngoại, nam và nữ, nô lệ và tự do... Ngài hồn nhiên đến với những người bị coi là ô uế để làm họ nên sạch.
Thật ra Đức Giêsu chẳng phản đối gì chuyện rửa tay, nhưng Ngài thấy nó có vẻ giả hình vì người ta chẳng để ý đến chuyện tẩy rửa trái tim.
Rửa tay để được yên tâm, mãn nguyện, tránh khỏi phải rửa tâm hồn là điều khó hơn.
Đức Giêsu cho ta thấy cái ô uế thực sự lại không đến từ đụng chạm hay ăn uống. Cái ô uế đáng sợ nằm ngay trong trái tim mỗi người. Nó không từ ngoài vào, nhưng từ trong ra.
Ngài kể ra 12 ý định xấu xa bắt nguồn từ trái tim, ý định xấu dẫn đến hành động không đẹp (cc.21-22).
Cần trở về với trái tim của mình.
Đó không phải là một cuộc dạo chơi, nhưng là một thách đố dám nhìn cái tôi sau lớp mặt nạ.
"Hãy tạo cho mình một trái tim mới" (Ed 18,31).
Đó là lệnh truyền của Đức Chúa, nhưng con người chẳng thể tự mình thay tim. "Ta sẽ thanh tầy các ngươi. Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới" (Ed 36,25tt).
Đổi được trái tim là đổi được tất cả.
Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc nhở Hội Thánh: Truyền thống, luật lệ và nghi thức là điều cần thiết, nhưng không được quên điều cốt tủy của luật Chúa là yêu thương.
Tôn kính Thiên Chúa qua phụng vụ là điều phải làm, nhưng phải đặt trái tim và cuộc sống mình trong đó.
Chúng ta vẫn có thể lẫn lộn cái chính với cái phụ.
"Xin mọi người nghe tôi nói đây và hiểu cho rõ" (c.14).
Đó là lời Đức Giêsu nhắn nhủ đám đông ngày xưa và chúng ta hôm nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn làm một cuộc hành trình vào trái tim của bạn chưa? Bạn thường thấy trái tim của bạn thích những điều gì và sợ những điều gì? Có điều gì sâu kín nơi trái tim mà bạn muốn chia sẻ không?
Hiện nay có những hàng rào hay bức tường nào còn ngăn không cho bạn đến với mọi người?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin dẫn con vào nhà của con, căn nhà của trái tim, căn nhà vừa quen vừa lạ.
Xin hãy cho con thấy những phức tạp, rắc rối, những che đậy, giằng co, những mâu thuẫn và vô lý nơi con. Xin hãy cho con thấy những nhỏ mọn, ích kỷ, những yếu đuối, khô khan, những cứng cỏi và tự ái nơi con.
Xin cho con ý thức những lo âu, sợ hãi đang đè nặng làm con ngột ngạt, những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui, những vết thương không biết bao giờ lành, những đỗ vỡ khiến lòng con khép lại.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con. Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn, hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người, bằng trái tim bao dung của Chúa. Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình, trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn để yêu mến mọi người. Amen.
28. Với cả tâm tình – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Truyện thiền kể có hai nhà sư xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một thiếu nữ đứng bên vũng nước sâu. Thiếu nữ muốn đi qua mà không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư liền bế thiếu nữ vượt qua vũng nước. Trở về gần đến chùa, nhà sư kia trách bạn: “Sao anh lại bế một thiếu nữ như thế?” Nhà sư trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng nước, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa”.
Câu chuyện ý nhị trên đã minh họa rõ nét về hai lối sống đạo. Lối sống đạo theo hình thức và lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương. Thế mà ông vẫn yên tâm cho rằng mình đã giữ trọn luật giới sắc. Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi phạm luật tu hành. Ông đã hoàn toàn giữ luật theo hình thức bề ngoài mà không xét đến nội tâm của mình.
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do Thái cũng giữ đạo theo hình thức như thế. Họ rất trọng những lề luật theo hình thức bề ngoài. Họ cho rằng giữ những hình thức bề ngoài là đủ. Theo họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch. Người Do Thái có nhiều cấm kỵ ô uế. Bị coi là ô uế những người mắc bệnh phong, những người phụ nữ sau khi sinh con, người ngoại đạo. Ai tiếp xúc với những người ô uế sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ngay cả những đồ vật bị người ô uế động đến cũng trở thành ô uế. Ai động đến những đồ vật đã bị ô uế cũng sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ô uế là tội lỗi. Những người bị ô uế sẽ không được dâng lễ vật cho Chúa. Để tránh ô uế, người Do thái luôn rửa tay, rửa bát bên ngoài cho sạch.
Đức Giêsu chê trách họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Đức Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi, sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám xấu xa.
Vì quá chú trọng đến những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài, họ biến đạo thành một mớ những nghi thức trống rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện. Ăn chay để giữ đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu. Làm việc bác ái để phô trương hơn là để chia sẻ với người anh em cơ nhỡ. Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không thật lòng yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Đức Giêsu đã nặng lời chỉ trích họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”.
Những hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết. Nhưng những hình thức bên ngoài, muốn có giá trị, cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong. Nội tâm con người là nguồn mạch của mọi hành vi. Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt. Nội tâm có chân thật thì hành vi mới có giá trị
Đạo Chúa không phải là hình thức. Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”.
Vì thế, khi làm việc gì, điều cần thiết là cho cử chỉ phản ánh trung thực tâm hồn. Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực. Nhất là phải làm sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến chân thành. Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành thực muốn chia sẻ. Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn chế ngự các nết xấu. Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối. Có như thế, khi môi miệng đọc kinh, lòng ta mới gần gũi Chúa. Khi ăn chay, tâm hồn ta mới tan nát vì tội lỗi. Khi làm việc bác ái, ta tránh được thói phô trương. Khi rửa tay, tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên trong trắng.
Với tất cả tâm tình, những nghi thức mới trở nên có hồn, thành thực. Với tất cả tâm tình, ta mới thực sự sống đạo. Với tất cả tâm tình, đạo mới đưa ta đến gần Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con thêm lòng yêu mến Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Rửa tay hay rửa linh hồn, điều nào quan trọng hơn?
2) Điều gì quan trọng nhất trong đạo? Làm những việc phi thường hay là mến yêu Chúa và yêu thương anh em?
3) Bạn thường đi lễ cho đầy đủ bổn phận hay đi lễ vì yêu mến Chúa?
4) Bạn làm việc thiện vì yêu mến người nghèo hay vì muốn khoe khoang?
29. Chúa Nhật 22 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CMC)
Người ta kể rằng: Hồi trước năm 1960 ở Sàigòn, các tiệm ăn thường có tấm bảng đề mấy chữ sau đây: "Cấm không được khạc nhổ xuống sàn nhà". Một hôm, có một chàng thanh niên ngang tàng đọc bảng cấm đó, tức bực lắm, anh ta đã ngạo nghễ khạc nhổ lên vách tường quán ăn trước mặt mọi người. Các thực khách tại các bàn ăn khác xôn xao khó chịu. Chủ tiệm vội chạy tới, định cảnh giác anh ta, nhưng anh ta giơ tay chỉ vào tấm bảng và nói: "Tôi đâu có nhổ xuống sàn nhà". Người chủ tiệm rất tức bực, nhưng cũng đành chịu vậy, bỏ đi. Khi nhìn luật lệ như những điều trói buộc, thì người ta sẽ tìm ra những kẽ hở để phá luật.
Lái xe trên xa lộ, mà người tài xế không tuân giữ luật giao thông, sẽ gây ra biết bao tai nạn, làm xáo trộn trật tự xã hội và gây nguy hại cho sinh mạng con người. Từ hơn một tháng nay, trên đường đi tới tòa thị sảnh thành phố Springfield, chúng ta thấy ở góc đường ngay phía tay phải, một chiếc xe hơi bị tai nạn hư hỏng 100% cắt đôi ngay chỗ tài xế ngồi, ở dưới để một tấm bảng sơn ghi rõ sự bất tuân luật cấm uống rượu trong khi lái xe... Vậy, luật giao thông có phải là một cấm đoán bất công, hạn chế sự tự do của cuộc sống con người, hay nó là phương tiện giúp con người hưởng được sự an toàn?
I. NIỀM HÃNH DIỆN CỦA DÂN DO THÁI
Bài sách Đệ Nhị Luật hôm nay, chúng ta thấy thật có lý khi dân tộc Do Thái hãnh diện được các dân tộc khác khen ngợi: "Thật dân tộc vĩ đại này là một dân khôn ngoan sáng suốt". Tại sao vậy? Vì: Không một dân tộc nào có diễm phúc được các thần minh ở bên cạnh mình, như Chúa là Thiên Chúa ở bên cạnh họ khi họ kêu cầu Người. Có dân tộc thời danh nào khác có lễ nghi, huấn lệnh công chính và bộ luật là Thánh Kinh như dân Do Thái không?
Như chúng ta biết: Do Thái là Dân Riêng Chúa tuyển chọn. Chúa luôn xuất hiện với các tổ phụ họ, để truyền ban các huấn lệnh và lề luật cho dân tuân giữ. Chúa còn luôn che chở, bênh vực họ trong mọi bước đường họ đi; Người dùng cánh tay uy hùng, làm nhiều phép lạ để giải thoát họ khỏi ách nô lệ, bênh chữa, trợ giúp họ chiến thắng quân thù cách oanh liệt, khiến các kẻ thù của họ phải bàng hoàng kinh sợ.
II. ĐÁNG LỜI CHÚA QUỞ TRÁCH
Được vinh dự là Dân Riêng của Chúa, nhưng dân Do Thái có sống xứng đáng với ơn Chúa ban, bằng việc tuân giữ các huấn lệnh và lề luật Chúa truyền qua Maisen, khi ông thừa lệnh Chúa nói với họ: "Các ngươi phải tuân giữ và thực hành các điều Chúa truyền dạy, vì đó là sự khôn ngoan sáng suốt của các ngươi trước mặt muôn dân". Nhưng dân Do Thái có tuân giữ lệnh truyền đó không?
Lịch sử đã chứng minh sự bất trung và phản bội của dân tộc Do Thái. Chính vì thế mà qua bài Tin Mừng hôm nay, họ đã bị Chúa Kitô nặng lời quở trách: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng xa cách Ta. Chúng sùng kính Ta cách giả dối, bởi chúng dạy những giáo lý và những lề luật do loài người bày tạo ra".
Dầu vậy, họ vốn tự cao tự đại lên mặt dạy đời, bằng cách sai những người Pharisiêu, biệt phái, luật sĩ là những bậc thầy trong dân đến nhòm ngó, rình rập, để bắt bẻ hạch sách Chúa về các hành động của các môn đệ Người: “Tại sao các môn đệ Ngài lại không tuân giữ các tập tục của tiền nhân, mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" Chúa đã cho họ một bài học khi nói với họ: "Các ngươi đã bỏ qua giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của loài người". Chúa còn trịnh trọng bảo dân chúng rằng: "Hết thảy các ngươi hãy nghe và hãy hiểu rõ lời Ta. Không có cái gì bên ngoài vào trong con người, mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những cái từ trong con người xuất ra, chính cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí, người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở bên trong mà ra, đã làm cho người ta ra ô uế".
III. CÔNG GIÁO, DÂN RIÊNG CỦA CHÚA
Là thành phần của Giáo Hội Công Giáo, chúng ta làm nên Dân Riêng Chúa tuyển chọn, như một dân Do Thái mới. Chúa muốn chúng ta hãy là những người con ngoan thảo, vui lòng lãnh nhận các huấn lệnh và thánh chỉ của Chúa qua các Thánh Luật của Người truyền dạy và đem ra thực hành trong đời sống. Vì luật pháp là nơi chứa đựng thánh ý Thiên Chúa. Tuân giữ luật pháp là sống theo thánh ý Thiên Chúa, như lời Thánh Giacobê Tông Đồ nhắn nhủ: "Anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh Lời đã gieo trong lòng anh em, Lời có sức cứu rỗi linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi Lời đã nghe, chớ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình".
Ngày nay, chúng ta vốn còn phải thú nhận cái sự thật đau lòng này, là nhiều người trong các Tín Hữu cũng chẳng hơn gì những người Pharisiêu, biệt phái, luật sĩ Do Thái xưa, họ đọc kinh nhiều, tham dự các giờ phụng vụ, đền tạ, các cuộc biểu dương Đức Tin, ghi tên vào nhiều đoàn thể; nhưng họ lại rất ít quan tâm đến việc sống những tinh thần của các lời kinh, lơ là việc tuân giữ các điều luật của các hội đoàn họ gia nhập, không thực thi Đức Bác Ái Huynh Đệ... Tệ hơn nữa, họ còn tin kiêng dối trá, mê tín, dị đoan và cặn kẽ giữ các tập tục cha ông lưu truyền, phản lại cả những giới răn của Chúa, giáo huấn và luật lệ của Giáo Hội: Chẳng hạn họ cứ bắt buộc con cái phải chu toàn luật tang chế, do tập tục xã hội cổ truyền bày tạo, trong khi sa phạm luật Chúa và Giáo Hội thì họ chẳng quan tâm, chẳng kể là gì. Ví dụ: Chồng đã chết, bố mẹ cứ bắt con gái phải để tang chồng đủ ba đã, rồi mới được tái hôn. Trong khi đó, con gái sa ngã, mang bầu, sinh con rồi, mà vẫn không được phép tái hôn. Họ kết án con cái là hư thân mất nết, nhưng chính họ đã không khôn ngoan đề phòng để con cái lỗi phạm giới răn Chúa, gây nên gương xấu làm hổ mặt cho dòng họ, bởi bắt con cái giữ tập tục của tiền nhân, mà không màng tới giới răn Chúa và Giáo Hội. Tội lỗi đó, ai phải chịu trách nhiệm?
Kết Luận
Là con cái Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng: “Sống theo luật Chúa là chúng ta sống cho Chúa" (Qui Regulae vivit, Deo vivit). Chúng ta đã được Chúa Thánh Linh chúc phúc: "Phúc cho những ai tiến thân trong luật pháp của Chúa". Vì Luật Chúa là khuôn vàng thước ngọc, là lẽ sống, là kim chỉ nam, là vị hướng đạo soi sáng hướng dẫn cho chúng ta sống theo thánh ý Chúa, giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu, để chúng ta có thể quả quyết được như lời Thánh Kinh: "Luật Chúa là đèn dọi bước chân tôi".
Thánh Phaolô còn quả quyết: “Yêu mến và chu toàn lề luật, là yêu mến và chu toàn thánh ý Chúa". Chu toàn thánh ý Chúa, sẽ được Chúa chúc phúc: "Phúc cho những ai suy ngắm luật Chúa đêm ngày" (Prov 29:18). Vậy chúng ta hãy ghi nhớ và làm cho Lời Chúa được thấm nhuần và chi phối mọi tư tưởng, lời nói, việc làm trong cuộc sống chúng ta, theo giáo huấn Chúa dạy: "Con hãy ghi tạc lề luật vào lòng con, thích trên trán con, đặt trước mắt con, buộc vào ngón tay con" (Prov 7:2-3).
30. Những lời kết án khắt khe hay là hy vọng.
(Suy niệm của Camille Gagnon)
Những câu nói hiểm hóc.
Một số câu trích từ Kinh Thánh đôi khi gợi lên nơi chúng ta những kỷ niệm khó chịu. Chúng ta có hai câu trong các bài đọc hôm nay. Hai câu thường dùng để nói lên sự không nhân nhượng và đòi hỏi khắt khe về mặt tôn giáo.
Câu thứ nhất trích từ Sách đệ nhị luật nói thế này: “Các ngươi sẽ không thêm gì vào những gì tôi truyền cho các ngươi và các ngươi không bớt gì cả nhưng các ngươi sẽ giữ mệnh lệnh của Chúa như tôi truyền dạy”. Khi đọc câu này, tôi nhớ đến những cuộc tranh cãi về phụng vụ đủ loại đã xảy ra từ mười năm nay, như vụ Lefebvre, hoặc những vụ khác, ít trầm trọng hơn, về việc thực hành những nghi thức Thánh lễ. Tôi cũng nhớ lại những lời tâm sự đau đớn của những người bị từ chối không cho xưng tội. Có thể nào một lời Tin Mừng, một lời giải phóng, được nói nhân danh Thiên Chúa, lại gây ra điều trái ngược không?
Câu thứ hai trích từ Tin Mừng, nói thế này: “Các ông bỏ giới răn của Thiên Chúa để theo truyền thống của loài người”.
Gần đây một được cháu gái, được rửa tội lại “trong Giáo Hội Tin Lành”, đã dùng câu này mà nói với tôi. Những cặp vợ chồng ly dị và tái giá, cũng đã cho tôi thấy nỗi đau đớn của họ trước sự nghiêm khắc của luật Giáo Hội về việc rước lễ. Tôi cũng nghe người trẻ nói như thế nữa; Sau khi đã sống đức tin Kitô thực sự, họ đã thấy mình không thể theo Giáo Hội và những tập tục của Giáo Hội nữa.
Mỗi người theo cách của mình mà hiểu về ý nghĩa của “giới răn Thiên Chúa” và “truyền thống của loài người” và tìm cách biện minh cho tư tưởng hoặc hành động của mình. Dù tỏ ra không nhân nhượng nữa. Vậy nên tôi xin nhắc lại câu hỏi này: chúng ta có một Tin Mừng giải phóng không? Làm sao lắng nghe những câu hiểm hóc này mà vẫn duy trì được niềm hy vọng của chúng ta.
Những lời hy vọng.
Ta hãy tìm cách đọc lại tường thuật cuộc gặp gỡ giữa những người biệt pháivà Chúa Giêsu, mà không kết án ai cả, không ra vạ tuyệt thông cho ai cả. Chúng ta cũng tìm cách kiểm tra xem Chúa Giêsu có nói lời nào không bao dung đối với con người chăng?
Chúng ta hãy nhìn xem quang cảnh này. Mọi người có mặt tại đó, xung quanh một bàn ăn. Chúng ta đừng biến những cuộc trao đổi, dù gay gắt đi nữa, thành những lời buộc tội của tòa án. Rồi chúng ta hãy xem có những ai ở đó. Chúa Giêsu, các môn đệ của Ngài, những người biệt phái và ký lục “từ Giêrusalem đến”. “Từ Giêrusalem đến” nghĩa là gì? Nghĩa là họ là những đại diện cho quyền bính chính thức, họ đến tranh luận với Chúa Giêsu và bắt lỗi Ngài? Và nếu họ cũng là những người đơn sơ, chân thành nhưng lo lắng thì sao? Là những người mộ đạo ngạc nhiên vì thấy những người thuộc cộng đoàn của họ, thuộc niềm tin của họ, quên đi những nghi lễ và tập tục văn hóa truyền thống thì sao? Theo quan điểm này thì họ sẽ không khác chúng ta lắm, phải không? Hơn nữa, họ đã đi cả một đoạn đường dài để gặp Chúa Giêsu. Vậy Ngài có xua đuổi họ bằng một lời kết án dứt khoát không? Hay Ngài có tìm cách giải phóng họ và nói với họ một lời hy vọng không?
Bây giờ chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa Giêsu nói với tất cả mọi người, biệt phái, môn đệ, quần chúng, trong đó có chúng ta nữa. Với những người muốn trung thành chu toàn giới răn của Thiên Chúa, không thêm không bớt gì cả, Chúa Giêsu nhắc lại rằng đối với Thiên Chúa, giới răn nhắm vào thâm tâm con người. Sự thật của con tim bao giờ cũng hơn những việc tế tự. Và những việc này không bao giờ thay thế được cho một con tim dối trá và mù quáng cả. Không được thêm gì vào lòng con người cũng không được rút bớt gì cả. Không rút bớt gì trong những nỗi yếu hèn của họ, không thêm gì vào sự phức tạp cũng như mặc cảm tội lỗi của họ. Đây là lời giải phóng và hy vọng: không ai kết án bạn cả, không phải lòng tôi, không phải lòng bạn, cũng không phải lòng kẻ khác. Không có luật nào thay thế được luật của con tim. Điều này có giá trị đối với hết thảy mọi người.
31. Bên trong là những gì đáng kể.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” - Charles E. Miller).
Vào một buổi chiều nơi sân bóng rổ, một đám đông đã đứng lên để hát bài quốc ca, một đứa trẻ đã không bỏ mũ của mình ra. Một người đàn ông vạm vỡ đứng ngay đằng sau đứa bé đã nói: “Này chú bé, hãy lấy mũ ra chứ”. Cha của đứa bé là một người có bộ râu rậm nhưng ông đã chờ đợi cho đến khi kết thúc bài hát, cố gắng với sự tự chủ và giọng run run, ông nói một cách nhỏ nhẹ với người đàn ông: “Con trai của tôi đang hóa trị vì bệnh ung thư và nó không còn chút tóc nào!”.
Đứa trẻ đã không kính trọng trong khi hát bài quốc ca, đơn giản vì em lúng túng khi bỏ mũ của mình ra. Người đàn ông vạm vỡ có thể rút ra môt bài học: bên ngoài thì không luôn luôn cho thấy những gì ở bên trong. Đó cũng là bài học đối với những người Pharisêu khi nghe bài Phúc Âm trong Thánh Lễ chúa nhật hôm nay.
Họ đã bực bội với các môn đệ của Chúa Giêsu bởi vì các người này đã không theo tục lệ rửa tay trước khi ăn, những điều họ quan tâm không phải là những điều vệ sinh nhưng là tính cách cứng nhắc giữ luật theo từng chữ.
Khi những người Pharisêu đòi hỏi Chúa Giêsu vì sao môn đồ của Ngài lại không thực hiện như họ đã làm. Chúa Giêsu đã từ chối trả lời, thay vào đó Ngài đã cảnh cáo họ bằng những lời của tiên tri Isaia: “Dân này thờ Ta chỉ bằng môi bằng miệng còn lòng dạ chúng thì xa Ta”. Ngài đã tiếp tục cắt nghĩa những gì ở bên trong thì quan trọng hơn những công việc bên ngoài, tâm tình bên trong thì quan trọng hơn công việc ở bên ngoài
Như một dân tộc của phụng vụ, chúng ta cần phải suy niệm giáo huấn về Chúa Giêsu. Phụng vụ là một vấn đề của sự kiện liên quan đến những điều kiện bên ngoài, ví dụ như những cử chỉ đứng, ngồi, quỳ, tiến lên, hát và đọc kinh, cũng tốt giống như khăn bàn thờ, nến, những vật trang trí khác. Thật ra, Giáo Hội đã dạy trong Hiến chế về phụng vụ rất đầy đủ về hoạt động và tham dự có ý thức trong những nghi thức phụng vụ thánh, là nguồn mạch không thể thay thế của tinh thần Kitô giáo đích thật, và cũng như Hiến chế làm rõ ràng việc tham dự phải được hoàn thành bằng cách tuyên xưng, đáp trả, hát Thánh Vịnh và các bài thánh ca, cũng như là bằng các hoạt động, cử chỉ và thái độ của thân xác (14-30).
Yếu tố chính yếu của việc thờ lạy như Đức Giáo Hoàng Piô XII đã dạy đó là bên trong, điều đó có nghĩa là những gì chúng ta làm bên ngoài thì không có dự định diễn tả nhưng để tăng tình trạng chân thành bên trong, như đức tin, đức cậy và tình yêu của chúng ta. Đôi khi việc đo lường sự sốt sắng của chúng ta tốt nhất không phải là những gì chúng ta làm trong Thánh Lễ nhưng là chúng ta đã hành động bên ngoài Thánh Lễ thế nào.
Có phải đức tin chúng ta diễn tả theo phụng vụ là quy tắc hướng dẫn chúng ta sống theo cách mà nếu Thiên Chúa không hiện diện trong đời sống của chúng ta thì chúng ta sẽ không có những tâm tình như thế? Có phải đức tin của chúng ta làm cho chúng ta khác với những người khác, mà giá trị của họ là thế tục hoặc vật chất? Có phải nhân đức trông cậy chiếu sáng vẻ bên ngoài của chúng ta và làm cho chúng ta cơ bản thành những người lạc quan không? Có phải niềm trông cậy của chúng ta đã cho chúng ta một niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng thúc đẩy chúng ta trân trọng ý muốn của Ngài không? Có phải tình yêu mà chúng ta diễn tả với Thiên Chúa trong lúc chúng ta thờ phượng đã hướng dẫn một cách trực tiếp trong đời sống của chúng ta? Có phải đời sống của chúng ta đã phản ảnh chân lý mà chúng ta đã được dạy dỗ là tất cả anh chị em của chúng ta nên một trong Đức Kitô không?
Bên ngoài thì quan trọng nhưng chính chúng không làm cho chúng ta nên thánh hơn là những người yêu nước, đã kiên bền cố gắng trở nên một công dân tốt. Ngày hôm nay thánh Giacôbê đã nói với chúng ta: “Hãy tiếp nhận những lời mà những lời đó có sức mạnh để cứu thoát anh em. Hãy thực hành những lời đó. Nếu tất cả những gì anh em thực hiện là lắng nghe thì anh em đã tự lường gạt chính mình”. Đó là con đường của người nói rằng, việc thờ lạy phải dẫn đến đời sống, những việc bên ngoài phải diễn tả sự chân thành kính trọng của tình trạng bên trong. Những gì bên trong của chúng ta mới đáng kể.
32. Chưa hết biệt phái.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Đoạn Phúc âm của thánh Marcô cho thấy sự tuân giữ lề luật đã đưa những người Biệt phái rẽ vào một khuynh hướng rút cục là giả đạo đức như thế nào. Trách cứ họ theo lối vơ đũa cả nắm là bất công, là quá đáng nếu so sánh với sự quở mắng của Đức Giêsu khi Người xét đoán họ. Dù sao họ cũng từng đóng vai bảo tồn lòng trung thành với Thiên Chúa trong những thời buổi khó khăn. Chúng ta nhắc lại rằng giới Biệt phái đã cung cấp cho nhóm môn đệ Chúa mấy người, đáng kể là Nicôđêmô và thánh Phaolô. Nhưng bất hạnh thay cho đại đa số Biệt phái, nhất là cho tầng lớp Biệt phái trí thức, họ quá chú trọng đến việc tuân giữ Lề luật về phương diện vật chất và giải nghĩa Lề luật về phương diện vật chất và giải nghĩa Lề luật theo quan niệm con người – hơn là tôn trọng tình thần Lề luật, đề cao việc thờ phụng và tình thương. Chúa Giêsu không chấp nhận lối giữ đạo bề ngoài theo tập tục thế gian, vì nó không phù hợp với những đòi hỏi của một tâm hướng về thờ phụng Thiên Chúa, thật lòng yêu tha nhân và thành tâm gắn bó với Lời Chúa. Cầu nguyện, cử chỉ, cách đứng ngồi, tất cả phải biểu thị một thái độ nội tâm thành khấn. Trái lại là giả hình.
Đàng khác, Chúa Giêsu lên án kẻ Biệt phái nào xem ý kiến những luật sĩ giải thích Kinh thánh trọng ngang với Lề luật. Thậm chí, Người không chịu được thái độ tự kiêu tự mãn của họ. Thật vậy, họ tự cho mình là am tường Lề luật, rồi sinh ra kinh miệt kẻ tầm thường, kẻ hèn kém. Ta có thể trên quan điểm này tự đặt vài câu hỏi về xã hội ngày nay. Trong một số hội đồng, ủy ban nào đó, trong phần lớn giới báo chí chẳng có những ký lục và Biệt phái rất tự tín, rất vững tâm khi họ giải thích Phúc âm, muốn độc quyền hướng dẫn dư luận sao? Ngày nay đang có một sự uốn nắn đích thật đó là sự biệt phái tái xuất hiện dưới bộ áo mới, sự giả nhân giả nghĩa mà Chúa Giêsu đã nghiêm khắc lên án.
1) Do đâu mà có những khuynh hướng biệt phái bị Chúa tố giác?
Các ông đã gạt giới luật của Thiên Chúa sang một bên, để cố thủ lấy tập tục. Biệt phái phát sinh từ một tham vọng của kẻ vô tình hay hữu ý, muốn tự đặt ra lề luật cho mình. Khi nào con người vi phạm luật Chúa, y trở thành một kẻ tội lỗi giản dị thế thôi. Khi nào con người tuyên bố chấp nhận luật Phúc âm nhưng lại bẻ cong Phúc âm theo lối suy tưởng của y, lúc đó y trở thành Biệt phái. Tính biệt phái đặt cơ sở trên một vận dụng trí thức giải nghĩa Phúc âm qua bảng giải mật mã của một ý thức hệ con người. Kitô hữu biệt phái là kẻ tự đặt mình làm nhà lập pháp cho mình, bằng cách mượn những từ ngữ Phúc âm. Y đặt lấy một pháp điển mượn ý của một hệ ý thức con người, dù cho hệ này đại lượng đến mức nào đi nữa. Từ một thứ phúc âm trống rỗng vì bị lấy đi Đức Kitô sống động, và thật, y trích ra những từ, những câu, những đoạn giảng huấn, để cố che đậy một sự giả hình đích thật.
2) Tính biệt phái là một sự uế tạp cực độ.
Sau khi lên án những kẻ biệt phái, Chúa Giêsu giảng về điều nó làm cho con người ra uế tạp trước mặt Thiên Chúa. Đó là những tình cảm xấu xa nuôi dưỡng trong lòng. Chúa kể ra 1 số tình cảm trong đó có kiêu ngạo và phi lý. Vậy mà có tội kiêu ngạo nào độc hại hơn tội phi lý nào bại hoại hơn tội của kẻ gác sang một bên giới luật Thiên Chúa, để tự đặt ra những giới luật riêng cho mình? Chúa Giêsu gạch nối xếp thái độ đó vào tội ô uế trước mặt Thiên Chúa.
Vậy ai là kẻ có lòng thanh sạch? Thưa đó là những tâm hồn đơn sơ, họ thấy Thiên Chúa thế nào thì nghênh đón Người như vậy, họ giãi bầy nỗi niềm riêng tư với Chúa bằng một tấm lòng ngay thẳng thực tế.
33. Rửa tay hay rửa tâm hồn?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Nhà Thần học William Barclay kể lại câu chuyện: Một Kinh sư Do Thái (Rabbi) bị cầm tù ở Rôma. Trong tù, ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm mục đích kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua, vị Kinh sư ấy ngày càng yếu dần. Cuốc cùng người ta buộc phải mời bác sĩ đến khám bệnh. Bác sĩ bảo rằng cơ thể tù nhân bị thiếu nước. Họ không hiểu nổi tại sao vị Kinh sư ấy lại có thể thiếu nước, bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu nhưng vẫn tương đối đủ chứ đâu đến nỗi tệ! Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát người tù này một cách kỹ lưỡng hơn để thử xem ông ta làm gì với số lượng nước ấy. Cuối cùng người ta đã khám phá ra bí mật: Vị Kinh sư Do Thái này đã sử dụng phần lớn số lượng nước để rửa tay theo nghi thức Do Thái giáo trước khi ăn và cầu nguyện. Như thế đương nhiên ông ta không còn đủ nước để uống.
Anh chị em thân mến, câu chuyện này giúp chúng ta hiểu rõ hơn thái độ bực bội của những người Biệt Phái Pharisêu và Kinh sư Do Thái đối với Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài khi nhìn thấy các môn đệ Chúa Giêsu ăn uống mà chẳng chịu rửa tay theo đúng nghi thức. Rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, đó là điều sơ đẳng trong phép giữ vệ sinh phòng bệnh. Người Do Thái và nhất là người Biệt Phái Pharisêu giữ tập tục rửa tay trước khi ăn rất kỹ. Họ không dùng bữa, nếu chưa rửa tay trước. Ở nơi công cộng về, họ không ngồi và bàn ăn nếu chưa tắm rửa sạch sẽ. Họ còn giữ nhiều tập tục tẩy rửa này, đối với họ, không nhằm giữ vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ, mà được coi là những nghi thức tôn giáo và nhằm để phân loại con người trong sạch hay do bẩn theo luật. Lòng đạo đức của con người được đánh giá tuỳ thuộc và việc tuân giữ các tập tục này, đều bị kể là hạng người dơ bẩn, bị loại ra ngoài cộng đoàn tôn giáo, mất quyền tham dự nghi lễ phụng tự trong đền thờ. Họ còn để mắt dòm ngó xem xét người khác có tuân giữ các tập tục đó không. Trong Tin Mừng hôm nay, họ đã thấy một số môn đệ của Chúa Giêsu không rửa tay trước khi ăn. Điều này đã nên cớ cho người Biệt Phái và Kinh sư hạch sách Chúa Giêsu và lên án Ngài.
Đáp lại, Chúa Giêsu đã vạch trần tâm địa của người Biệt Phái và Kinh sư; Ngài đã phơi bày cho thấy cái họ cho là đạo đức chỉ là một thứ giả hình. Họ tôn thờ Thiên Chúa một cách giả dối ngoài môi miệng nhưng lòng họ thì chẳng tôn thờ Ngài, chẳng màng tuân giữ các giới răn của Ngài. Nhân dịp này, Chúa mở ra cho người ta thấy cái làm cho người ta ra dơ bẩn và bất xứng trước Thiên Chúa không phải ở chỗ rửa tay hay không rửa tay trước khi ăn, mà chính là ở tâm địa xấu xa của con người, chính là những tư tưởng xấu, “từ đó phát xuất những hành động ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, vu khống, kiêu căng…” Qua đó, Chúa Giêsu muốn nói rằng: sự dơ bẩn bên ngoài không làm cho tâm hồn ra dơ bẩn, không tác hại và đáng lo cho bằng sự dơ bẩn trong tâm hồn do những ý muốn xấu xa, độc ác. Vậy thì việc tẩy rửa bên ngoài không quan trọng bằng việc tẩy rửa bên trong, bằng việc thanh tẩy tâm hồn, hoán cải cuộc sống. Sự trong sạch của tâm hồn quan trọng và cần thiết hơn sự sạch sẽ bên ngoài của thể xác. Tập tục tẩy rửa bên ngoài không tẩy xoá được sự dơ bẩn trong tâm hồn, chỉ có việc tuân giữ luật Chúa mới thúc đẩy con người sám hối tội lỗi để được tẩy rửa trong sạch, xứng đáng trước mặt Chúa. Do đó cần phải tuân giữ luật Chúa hơn những tập tục của con người.
Nhà thần học William Barclay còn kể thêm một câu chuyện về một người Hồi Giáo đang đuổi theo để giết kẻ thù của mình. Đang khi đuổi theo kẻ thù, chợt nghe vang lên hồi chuông báo giờ cầu nguyện, lập tức người Hồi Giáo nhẩy ngay xuống ngựa, mở sách Thánh Kinh Coran ra, quì xuống và cầu kinh theo như luật định một cách hết sức lẹ làng. Cầu kinh xong, anh ta lại leo lên ngựa tiếp tục đuổi theo kẻ thù. Câu chuyện này minh hoạ cho chúng ta chủ nghĩa câu nệ lề luận. Nó cảnh các chúng ta đừng rơi vào chủ nghĩa đồng hoá tôn giáo với việc chu toàn những hành vi đạo đức bên ngoài.
Chúa Giêsu đã đảo ngược hoàn toàn cái gọi là tôn giáo của người Biệt Phái và Kinh sư Do Thái. Đạo không phải là thi hành những tập tục, tuân giữ các nghi thức, mà chính là một thái độ sống, là thi hành luật Chúa, là sống Lời Chúa. Cái cám dỗ thường xuyên của người Kitô hữu vẫn là lấy việc đạo đức bề ngoài là bức màn che đậy tính ích kỷ, giả dối, độc ác, gian tham, trốn tránh nhiệm vụ của mình trong gia đình, ngoài xã hội, thích được mang đanh hiệu là tín hữu hơn là sống đúng theo Tin Mừng của Chúa Kitô; mượn việc đi nhà thờ, đọc kinh, dự lễ để trốn tránh bổn phận bác ái, phục vụ người khác; làm ra vẻ hăng hái, nhiệt thành để được tiếng khen; chà đạp người khác để nâng mình lên… Nói chung là lấy những hình thức bên ngoài để thay thế cho nhiệm vụ đích thực của người Kitô hữu là thi hành luật tình yêu của Chúa: sống công bằng, bác ái, phục vụ, trong sạch, hiền lành, hoà thuận. Đó là kết quả có lòng yêu mến chân thành. Điều cốt yếu là phải có lòng yêu mến chân thành bên trong chứ không phải hình thức giả dối bên ngoài. Con người chỉ nhìn thấy bên ngoài, còn Chúa thấu suốt tận tâm can. Chính tình yêu bên trong sẽ làm cho mọi việc bên ngoài có giá trị đích thực. Thiếu tình yêu bên trong, mọi việc bên ngoài chỉ là bôi bác, giả dối.
Chúa Giêsu có lần mượn hình ảnh những mồ mả quét vôi trắng tinh để nói cho những người Biệt Phái hiểu: cái lối đạo đức giả của họ trong thể che đậy được tội lỗi của họ. Mồ mả dù có quét vôi trắng tinh, sạch sẽ đến đâu cũng không làm cho ai quên được cái thây ma thối tha bên dưới (x. Mt 23,27-32). Chúa còn nói thẳng với họ: “Không phải môi miệng cứ lâm râm lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là phải làm theo ý Cha trên trời”. Chính việc làm theo ý Chúa Cha mới được vào Nước Trời chứ không phải việc tôn thờ giả dối ngoài môi miệng: “Dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, còn lòng trí chúng lại xa cách Ta”.
Thưa anh chị em, để áp dụng cụ thể, Thánh Giacôbê Tông Đồ hôm nay kêu gọi chúng ta hãy thực thi luật yêu thương của Chúa bằng việc phục vụ những người nghèo khó, nhất là những cô nhi, quả phụ. Bởi vì họ phải chịu nhiều thiệt thòi bất công và ít được nâng đỡ, bênh vực hơn những người khác. Thánh Giacôbê cũng mời gọi chúng ta phải xa tránh “tinh thần thế tục” vì đó là điều kiện cần thiết để sống chúng ta được “trong sạch, không tì vết”: “Lòng đạo đức tinh tuyền và không chê trách được trước mặt Thiên Chúa Cha, đó là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cơn cùng khốn và giữ mình cho khỏi vết nhơ của thế gian”.
Anh chị em thân mến,
Người Kitô hữu đích thực là người có lòng tin, đồng thời có những việc làm cụ thể để diễn tả lòng tin của mình. Trức mặt Chúa, cách chưng diện, thời trang, không quan trọng bằng tâm hồn trong trắng, đầy tình yêu mến và thể hiện trong nếp sống yêu thương, phục vụ anh em, đặc biệt là những người cô thế cô thân. Nếu rửa tay sạch trước khi ăn là vấn đề vệ sinh thưởng thức của cuộc sống con người, thì tẩy rửa tâm hồn trong sạch trước khi dự Tiệc Thánh Thể là điều kiện cần thiết của con cái Chúa để xứng đáng tiếp rước Ngài.
34. Cái nào quan trọng – Gm. Arthur Tone.
Khoảng 2 giờ, một buổi sáng lạnh và gió lớn, chuông điện thoại nhà xứ reo, có tiếng hốt hoảng la lên: “Tôi tưởng ông ngoại qua đời”. Vì chỉ cách 2 căn phố. Cha Murray đi bách bộ, khi ngài qua một ngõ hẻm, chợt xuất hiện một bóng hình cầm cây súng bước tới truyền lệnh: “Đưa tiền đây!”. Vị linh mục nói với người cầm súng: “Ví của tôi để ở trong túi áo khoác”. Khi ngài mở nút áo khoác để lấy ví, để lộ chiếc cổ áo Roma. Kẻ cướp ấp úng: “Ôi con không biết cha là linh mục, con xin lỗi, cha cất tiền đi”. Bình tĩnh lại vị linh mục đưa cho y một điếu thuốc xì gà, nhưng y lắc đầu: “Không, cám ơn cha, trong mùa chay con không hút thuốc”.
Kẻ cướp đường đã hành động như một người Biệt phái. Người Biệt phái giữ hết sức chi tiết những điều lệ nhỏ nhặt của luật Do Thái, trong khi đó lại bỏ bê những giới răn quan trọng. Đó là lý do Đức Kitô khiển trách họ. Họ ghét Chúa Giêsu vì Người đe dọa địa vị của họ, như những người lãnh đạo tôn giáo. Họ dò xét Chúa, cố gắng bắt bẻ Người trong lời nói. Họ chỉ trích Người đã hòa mình với người thu thuế và tội lỗi. Người đã bỏ qua lệ rửa tay chân như trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ nói Chúa Giêsu không thể tha tội. Người dùng quyền lực của quỷ mà trừ quỷ. Họ làm điều lành chỉ cốt cho người ta thấy.
Ngày nay còn người Biệt phái không? Bất hạnh thay, vẫn còn. Đây là một vài kiểu Biệt phái tân thời: Những người Công giáo lẫn lộn những cái không quan trọng với cái thật sự quan trọng.
Giả sử tôi nói với một người nào đến trễ lễ: “Bạn bất lịch sự”. Chắc người ấy cho rằng bị xỉ nhục. Nhưng vì lỗi mình, đến lễ trễ, là một sự xúc phạm đến Chúa, làm lo ra những người trong nhà thờ và cho vị chủ lễ. Có người mỉm cười với bất kỳ ai gặp trong nhà thờ, dĩ nhiên điều đó tốt. Nhưng họ không nói một lời với Chúa trên bàn thờ cũng như đi dự đại tiệc, chỉ nói chuyện với mọi người, trừ ông chủ tiệc. Cái nào quan trọng?
Có những người Công giáo và những người khác nữa, họ không nghĩ rằng họ sẽ tổ chức hay dự một bữa tiệc nêu có một vết nhơ trên bàn, hay trên dĩa hoặc trên quần áo của họ. Nhưng ngôn ngữ của họ không phải chỉ có vết nhơ, mà nó thật sự thô bỉ, một sự thô bỉ bên trong hơn là bên ngoài như Chúa Giêsu đã chỉ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay.
Có người trong chúng ta ra ngoài thì hoang phí, rộng rãi với anh bồi ở quán rượu, hào phóng với cô chaỵ bàn; nhưng lại rất keo kiệt với người thân thương, và với Chúa.
Nhiều người không bao giờ quên câu nói: “Xin vui lòng, cám ơn, xin lỗi”, khi ở ngoài gia đình. Nhưng giữa những người thân yêu, ít khi bạn nghe được những từ quan trọng ấy.
Bạn có thể nghĩ đến những hoàn cảnh, trong đó bạn phải sạch sẽ, lịch sự, hào hiệp, chỉ khi nào những hoàn cảnh đó được trình diễn trước mặt mọi người, để đạt được tín nhiệm hoặc tránh khỏi phê bình. Hãy cố gắng đừng làm Biệt phái.
Cám ơn Chúa vì phần lớn những người chân thành, họ đặt người khác và sự vật vào đúng vị trí trật tự của nó. Như đặt Thánh Lễ lên đầu bảng danh sách những việc quan trọng.
Xin Chúa chúc lành bạn.
35. Phải thờ Chúa trong tâm hồn – Noel Quesson.
Cha Murray (Muy-rây) lủi thủi đi trên phố vắng đêm khuya, ngài đang đưa Mình Thánh cho một bệnh nhân nguy kịch. Tới góc phố, chợt một tên cướp nhảy ra chĩa súng quát: “Đứng lại, đưa tiền đây!”. Cha Murray mở áo khoác, lấy ví tiền. Tên cướp ngó thấy ngài mặc áo đen và mang cổ trắng, nhận ra đó là một linh mục, hắn ấp úng nói: “Thưa cha, con không biết. Con xin lỗi, cha cất tiền đi”. Cha Murray bình tĩnh lại, ngài móc gói thuốc mời hắn một điều. Nhưng ngài lại ngạc nhiên lần nữa nghe hắn nói: “Cám ơn cha, bây giờ đang Mùa Chay, con không hút thuốc”.
Có những người coi việc giữ luật là quan trọng, còn tình trạng tâm hồn mình là không đáng kể. Họ thấy cần thiết phải giữ chay, còn có đi ăn trộm, ăn cướp cũng chả sao. Đó là một sai lầm mà Chúa Giêsu luôn tìm cách sửa đổi. Có thể coi đây là một trong những khác biệt giữa tâm tình giữ đạo của các Biệt phái và nhóm môn đệ sống theo Lời Chúa. Các Biệt phái nghiêm chỉnh giữ luật tắm rửa, lau chùi, rửa bình… không phải vì lý do vệ sinh, nhưng là nghi lễ thanh tẩy. Họ khó chịu, chê trách Chúa và các môn đệ vì không tuân giữ luật cũ. Dù nhóm môn đệ rất nhiệt thành giữ đạo, nhưng đôi khi trong nếp sống cũng bị nhiễm lây một vài thói tục mà người Biệt phái cho là phóng túng. Chúa Giêsu coi những chuyện này là không quan trọng. Chủ yếu là do cõi lòng. Chúa luôn bảo vệ, bênh vực những kẻ mà nhóm bảo thủ cho là người xấu, người tội lỗi, những người thu thuế, các cô gái điếm. Chúa tỏ lòng nhân từ và khoan dung với người nghèo khó, bé mọn… nhất là khi những người này bị xét đoán gắt gay.
Một lý do khác nữa là Chúa Giêsu nghĩ tới một Giáo Hội phổ quát chứ không đóng khung trong dân tộc Do Thái. Những phong tục, tập quán của Do Thái là tốt, nhưng đến lúc phải mở rộng hơn để đón nhận mọi nếp sống, mọi nền văn minh trên toàn thế giới. Vậy phải sàng sảy, chọn lọc, chỉ giữ lại những gì cốt yếu và coi nhẹ những điểm phụ thuộc. Chúa bảo có một số cổ lệ không do Thiên Chúa mà chỉ do con người. Những cổ lệ đó cần đổi thay, điều chỉnh cho sáng tỏ tinh thần tôn kính Thiên Chúa và chu toàn bác ái đối với anh em. Nếu không sẽ chỉ đáng nghe lời quở trách của ngôn sứ Isai: “Dân này tôn thờ ta ngoài môi miệng mà lòng trí ở xa Ta”.
Phải làm sao cho sáng tỏ tinh thần, không bị lu mờ che khuất vì nếp sống bên ngoài. Phải làm sao cho mọi người, tín đồ cũng như người chưa tin, thấy điều quan trọng là ở tâm tình, chứ không ở luật lệ, hay lễ nghi thờ tự. Những điều này chỉ có giá trị nếu làm nổi bật tinh thần bên trong, là việc mến Chúa, yêu người.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy chúng con để chúng con biết tôn trọng tinh thần hơn tục lệ, biết nhìn anh em theo hướng nhìn cởi mở của Chúa.
36. Cõi lòng.
Trong cuộc sống thường ngày, đối với người Tây Phương thì con tim, còn đối với người Đông Phương chúng ta, thì cõi lòng là yếu tố quan trọng cho mọi hoạt động của chúng ta. Vì thế, chúng ta thường nói:
- Thèm lòng chứ không thèm thịt. Hay của ít lòng nhiều.
Cho dù chúng ta có làm được những việc tốt lành, mà nếu không có sự góp phần của con tim, của cõi lòng, thì chúng ta cũng chỉ là những kẻ bôi bác, giả hình và dối gạt mà thôi.
Ca dao tục ngữ đã diễn tả về hạng người này như sau:
- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
- Miệng thì thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không gươm.
Chính vì thế mà chúng ta cần phải đề cao cảnh giác đối với hạng người nham hiểm này.
Trong Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng có những ý nghĩ như vậy. Ngài coi cái tâm, cái lòng là yếu tố chi phối mọi việc làm của chúng ta, như chúng ta thường bảo:
- Tư tưởng thì hướng dẫn hành động.
Hay như Chúa đã phán dạy:
- Lòng đầy thì mới tràn ra ngoài.
Chính vì thế, rất nhiều lần Ngài đã lên tiếng phê bình chỉ trích thói giả hình của bọn Biệt phái và luật sĩ. Bởi vì, họ chỉ có cái vỏ bên ngoài, còn bên trong thì lại rỗng tuếch, thiếu vắng cái tâm, cái lòng.
Họ giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng xóa, nhưng bên trong thì lại đầy dòi bọ và xú khí. Họ chuộng hình thức bề ngoài, nhưng lại chẳng có tinh thần bên trong.
Chẳng hạn, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, họ cẩn thận rửa tay trước khi ăn, nhưng tâm hồn họ thì lại bị hoen ố bởi gian tham và tội ác, khiến Chúa đã phải mượn lời tiên tri Isaia mà nói về họ:
- Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.
Rồi Ngài còn xác quyết chính yếu tố bên trong mới là yếu tố quyết định tính cách tốt hay xấu của một hành động:
- Bởi vì từ bên trong từ cõi lòng xuất phát ra những ý định xấu như tà dâm, trộm cướp, giết người… Chính những điều xấu xa này, từ bên trong xuất ra và làm cho con người trở thành ô uế.
Với chúng ta cũng vậy. Chúa đòi hỏi nơi chúng ta tấm lòng chân thành khiêm cung, như lời Ngài đã phán:
- Ta muốn lòng nhân lành chứ không muốn lễ vật.
Nơi khác, Ngài cũng bảo:
- Lòng sám hối khiêm cung Chúa chẳng khinh chê.
Và hơn thế nữa, chính tình yêu xuất phát từ cõi lòng, từ con tim sẽ làm cho những việc làm nhỏ bé tầm thường của chúng ta có được một giá trị to lớn và cao cả trước mặt Chúa.
Bởi vì, tình yêu xuất phát từ bên trong sẽ là như chiếc đũa thần, biến những việc làm nhỏ bé tầm thường của chúng ta trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời chúng ta.
37. Giáp mặt.
Có một cuộc triển lãm lấy tên là “Hàng thật hàng giả”. Cuộc triển lãm này nhằm giới thiệu bộ mặt hàng hóa trong bối cảnh thị trường hiện nay, để nhà sản xuất và người tiêu dùng có cơ hội nắm vững tình hình. Qui mô triển lãm không lớn, thời gian trưng bày không lâu, nhưng ý nghĩa của nó được đánh giá không phải là nhỏ. Bởi lẽ nó gợi mở một dư luận đúng đắn trong đạo đức kinh doanh, nhằm tẩy chay hàng giả và cổ võ hàng thật, đồng thời góp phần hình thành một cung cách làm ăn sao cho chữ tín được tôn trọng và bảo vệ. Nhiều tờ báo đã đánh giá cao cuộc triển lãm này, có báo cho rằng đó là “một cuộc giáp mặt đầy lý thú”.
Bài Tin Mừng hôm nay, dầu chẳng liên quan gì đến cuộc triển lãm, nhưng cũng diễn ra như một cuộc giáp mặt giữa một bên là những người Pharisêu và kinh sư, còn bên kia là Chúa Giêsu và các môn đệ, với câu hỏi mở đầu xoay quanh vấn đề “sạch và dơ” theo luật lệ, để rồi cuối cùng trong câu trả lời mang tính cật vấn, Chúa Giêsu đã trực tiếp tố giác một lối sống đạo đức giả hình, và qua đó gián tiếp dạy bảo một lối sống mới trong đạo đức đích thực.
Trong Tin Mừng chúng ta hay nghe nói đến những người Pharisêu và kinh sư. Đây là những người sinh ra và lớn lên trong bầu khí đạo giáo, có người lại được huấn luyện nâng cao để trở thành những chuyên viên luật lệ, cuộc đời họ dường như gắn bó với luật lệ. Nếu chỉ có thế thì chẳng có gì phải nói, nhưng đàng này, dần dần họ cấu kết với nhau thành một nhóm nắm quyền giải thích và áp dụng luật lệ, để rồi tha hồ thao túng đến nỗi lấn lướt cả quyền lập pháp khi họ tự ý thêm bớt đủ điều, làm cho luật lệ mất đi dáng dấp nguyên thủy, đành lép vế dưới lớp áo truyền thống phàm nhân. Trên cơ sở đó, Chúa Giêsu đã tố giác: “Các ông gạt bỏ điều răn Thiên Chúa mà giữ lấy tập tục loài người”.
Rồi như một hệ lụy, những người Pharisêu và kinh sư thường xuất hiện công khai qua dáng vẻ tự phụ, cánh tay họ thò vào mọi ngõ ngách của cuộc sống: dòm ngó, xét nét, hạch sách người khác ngay trong những điều nhỏ nhặt như việc các môn đệ không rửa tay trước khi ăn kể lại trong Tin Mừng hôm nay.
Nhưng chính ở đây, bằng thái độ không khoan nhượng, Chúa Giêsu đã giật rơi chiếc mặt nạ đạo đức trên khuôn mặt họ, để trần trụi ra họ chỉ là những kẻ giả hình. Rõ trơ trẽn, xấu mà hay làm tốt. Điều làm cho người ta thành dơ bẩn không phải ở chỗ giữ hay không giữ tập tục rửa tay trước khi ăn mà chính là tâm địa của người ta. Đạo đâu phải là tuân giữ các tập tục và thực hành các nghi thức mà là một thái độ sống.
Thế là người cật vấn bây giờ trở thành kẻ bị cật vấn. Qua những người Pharisêu và kinh sư, Chúa Giêsu tố giác một lối sống giả hình, giả dối: thể hiện bên ngoài thì khác và trong lòng thì nghĩ khác, như tục ngữ đã nói: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm” để diễn tả những người mang mặt nạ giả danh tốt đẹp, bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong. Hạng người như hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Chúng ta thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của những người Pharisêu và kinh sư không? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan trọng hơn thứ gỗ bên trong không? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ có bề ngoài không? Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình.
Không những chúng ta không được giả hình, giả dối mà còn phải đấu tranh chống lại những cái giả chung quanh nữa. Những cái giả này ngày nay xuất hiện dưới nhiều hình thức và ở nhiều cấp độ khác nhau giữa chốn chợ đời, cụ thể nhất là hàng giả và thuốc giả. Mỗi cái giả đều có cái giá của nó trong sự tác hại: hàng giả gây nên “tiền mất” cho người mua sắm, thuốc giả gây thêm “tật mang” cho kẻ tin dùng. Còn người ta, một khi đã trở thành giả, như giả nhân giả nghĩa thì quả là một thảm họa không chỉ cho bản thân mà còn cho những người lân cận nữa. Trong cuộc chơi, như trong bóng đá chẳng hạn, động tác giả được xem là mưu trí, nhưng trong cuộc đời, động tác giả chỉ có thể là trò trí trá của những con người đã đánh mất phẩm chất đạo đức nơi mình.
Cuộc giáp mặt giữa những người Pharisêu và kinh sư với Chúa Giêsu và các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta liên tưởng tới những cuộc giáp mặt khác trong cuộc đời. Quả thực, dù muốn dù không chúng ta cũng sẽ thấy, sẽ gặp, sẽ chứng kiến những cuộc giáp mặt cụ thể và quyết liệt, như giữa hàng thật và hàng giả, của công và của tư, phim sạch và phim đen, mặt phải và mặt trái v.v… không có sẵn giải pháp cho từng trường hợp, nhưng vẫn có lời gọi hãy đứng về phía chân lý và hãy sống trung thực trong bất cứ trường hợp nào.
Dĩ nhiên sự thật tất thắng, nhưng đường đi đến sự thật là cả một cuộc đấu tranh sinh tử một mất một còn. Phân biệt thật giả đã khó, yêu mến và thi hành sự thật lại càng khó hơn, nó đòi hỏi lý trí và ý chí cũng như sự trợ giúp của ơn thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhận diện lại cuộc sống đạo đức của mình, đồng thời cũng là lời mời gọi hãy giành lấy phần thắng giữa những cuộc giáp mặt trong đời.
38. Giả hình.
Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng nhưng lòng họ thì xa Ta.
Cái sai lầm lớn nhất của bọn Biệt phái và luật sĩ, theo tôi nghĩ, đó là họ đã đảo lộn bậc thang giá trị. Lấy cái phụ làm chính và lấy cái chính làm phụ. Họ tuân giữ những tập tục của cha ông mà quên đi giới luật của Thiên Chúa. Họ bám víu vào những nghi thức bên ngoài mà quên đi tình mến bên trong.
Tôi xin đưa ra những thí dụ cụ thể:
Chẳng hạn, họ thấy các môn đệ của Chúa ngồi vào bàn mà không rửa tay. Đối với họ đó là một trọng tội không thể nào tha thứ. Người ta kể lại rằng: một luật sĩ tên là Aquiba, thà chết khát trong tù còn hơn là sai lỗi tập quán này. Ông đã lấy nước đổ trên tay dù rằng nước đó rất cần cho ông để được sống.
Từ đó chúng ta thấy họ còn là những con người hẹp hòi và thiển cận, đã quan trọng hóa những điều nhỏ mọn. Bên ngoài họ tắm gội, giặt giũ rất là cẩn thận, nhưng bên trong thì lại chất đầy những gian tham và tội ác, khiến cho Chúa Giêsu phải lên tiếng cảnh cáo:
- Khốn cho các ngươi, hỡi những biệt phái và luật sĩ giả hình, các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài thì đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy giòi bọ và xú khí.
Lần khác, thấy các môn đệ bứt những bông lúa chín ở dọc đường mà ăn trong ngày Sabbat, và họ đã lên tiếng bắt bẻ vì đã vi phạm ngày nghỉ lễ, khiến Chúa phải đặt lại vấn đề:
- Luật lệ vì con người hay con người vì luật lệ. Ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?
Lòng nhiệt thành của họ có đấy nhưng lại quá vụ về hình thức. Trong khi chú trọng vào những chi tiết bên ngoài, họ quên mất tình yêu thương bên trong, là điều Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta:
- Các ngươi kinh kệ dài dòng mà lại nuốt trửng gia tài của các bà góa.
Và rồi Chúa đã chỉ trích:
- Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.
Nhìn vào đời sống, nhiều người trong chúng ta cũng chẳng hơn gì bọn biệt phái. Chúng ta cũng đảo lộn bậc thang giá trị, lấy cái chính làm phụ và lấy cái phụ làm chính. Chúng ta cũng bấu víu vào nghi thức bên ngoài mà quên đi tình mến bên trong. Chúng ta cũng sống một cuộc sống bôi bác giả hình. Có người thì sùng bái ảnh tượng nhưng lại coi thường sự công bằng. Có người ưa đọc kinh dài dòng nhưng lại gian tham và hà khắc với anh em. Họ thật giống với mẫu người mà tục ngữ đã diễn tả:
- Khẩu Phật tâm xà.
- Miệng nam mô bụng bồ dao găm.
Có người thì tang ma cỗ bàn dềnh dang, cho cha mẹ, nhưng khi cha mẹ còn sống, thì lại hắt hủi và đối xử tệ bạc:
- Còn sống thì chẳng cho ăn,
Đến khi đã chết làm văn tế ruồi.
Có người lập gia đình thì chỉ nhắm tới tiền bạc và địa vị, mà quên rằng, tình yêu thương và tinh thần đạo đức mới là đảm bảo vững chắc cho cuộc sống lứa đôi.
Tất cả những sự kiện trên đều do thiếu lòng yêu mến chân thành mà sinh ra. Lòng yêu mến chân thành mới là yếu tố bên trong, mới là nền tảng vững chắc, thiếu nó thì việc làm của chúng ta chỉ là não bạt ầm vang, thiếu nó bản thân chúng ta chỉ là phường bôi bác giả hình. Vì thế, thánh Augustinô đã nói:
- Ama et fac quodvis. Hãy yêu rồi muốn làm gì cũng được.
Có một ông triệu phú chết đi để lại một gia tài to lớn. Ông sinh được một cậu con trai, nhưng cậu con này được gửi đi du học từ bé, nên không một ai biết mặt. Vì thế, tòa án phải nhắn tin trên báo cho cậu trở về.
Đúng ngày hẹn, người ta thấy có ba chàng thanh niên tự nhận là con của nhà triệu phú. Viên chánh án bèn lấy tấm hình của nhà triệu phú, rồi nói với ba chàng thanh niên:
- Ai bắn trúng thì được lãnh nhận gia tài.
Chàng thanh niên thứ nhất giơ súng và bắn, chàng thanh niên thứ hai cũng giơ súng và bắn. Còn chàng thanh niên thứ ba cũng giơ súng, nhưng rồi lại bỏ xuống và nói:
- Mặc dù đây chỉ là một tấm ảnh, nhưng nó gợi nhớ đến ba tôi, tôi không thể bắn.
Nhờ lòng yêu mến chân thành, viên quan tòa đã nhận ra chàng thanh niên thứ ba mới đúng là người con đích thực của nhà triệu phú và trao gia tài cho chàng.
Lòng yêu mến chân thành, được biểu lộ qua những việc làm cụ thể, chứng tỏ chúng ta là những người môn đệ đích thực của Chúa, bằng không, khuôn mặt đạo đức của chúng ta sẽ bị rơi xuống và chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác giả hình.
39. Giả hình.
Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Pharisêu và kinh sư nói riêng và dân Do thái nói chung, thường rất khắt khe với tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ triệt để, để tỏ ra mình thanh sạch trước mọi người. Cái tục rửa tay của họ rất phức tạp chứ không đơn giản như kiểu chúng ta rửa tay để ăn uống: rửa ngón tay, bàn tay, cổ tay. Phải đổ nước từ từ cẩn thận từng chút, từng chỗ… thật cầu kỳ, phiền phức. Khi rửa tay như vậy, họ nghĩ rằng họ đã làm đẹp lòng Thiên Chúa vì đã làm đúng luật lệ và họ tin rằng một nghi thức bên ngoài như vậy có sức làm cho họ được thanh sạch. Vì thế, khi thấy các môn đệ của Chúa ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay, không làm theo tập tục của họ, họ bực tức khó chịu, nên đã hạch hỏi và bắt bẻ Chúa.
Nhân dịp này Chúa Giêsu đã dạy cho họ một bài học thế nào là bẩn hay sạch. Trước hết, Chúa trưng lời ngôn sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Chúa nhắc lại lời này để tố cáo họ đã khoác bên ngoài một bộ áo đạo đức để che lấp đi những hành vi xấu xa tội lỗi bên trong. Như thế là giả hình, giả dối. Họ đã coi cái võ quan trọng hơn cái ruột; cái hình thức hơn nội dung; cái bên ngoài cần hơn tấm lòng. Vấn đề rửa tay trước khi ăn. Thử hỏi việc rửa tay cần hay rửa tấm lòng là cần? Thật tình, nếu tay bẩn, chúng ta có thể dùng đũa, dùng thìa, chúng ta có ăn bốc đâu. Còn của ăn, tự nó là sạch, và được nấu nướng vệ sinh là sạch. Vì thế, Chúa nói cái làm cho bẩn là tấm lòng. Đúng vậy, lòng có đầy mới tràn ra ngoài bằng lời nói hay hành động: miệng nói ra những tư tưởng chất chứa trong lòng. Nếu đó là những tư tưởng tốt đẹp sẽ hướng dẫn con người hành động thiện hảo. Ngược lại, tư tưởng xấu sẽ dẫn người ta đến những hành vi độc ác, xấu xa. Thực vậy, chính cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, việc tốt hay xấu. Chính từ cõi lòng này mà sinh ra mười hai nết xấu Chúa kể trong Tin Mừng. Đó là mười hai tội chính và còn biết bao ác quả phụ tùng kèm theo nữa. Cho nên, người đời đã phải than rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò. Lòng người nham hiểm ai đo cho tường”, “Lòng người thăm thẳm mù khơi. Không bờ không bến biết nơi nào dò”. Tục ngữ còn nói: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm”. Để diễn tả người mang mặt nạ giả danh bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong; hạng người như hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Câu chuyện sau đây là một bằng chứng: Trịnh Tụ là vợ của vua nước Sở, ghen tức với một mỹ nữ đã lọt vào mắt đen của nhà vua. Bà đã nghĩ ra một kế để hạ tình địch của mình. Một hôm, bà làm ra vẻ thân mật nói với mỹ nữ rằng: “Nhà vua có tính không thích người khác thở hơi vào mình. Nên khi vào hầu vua, thì phải giữ ý bịt mũi lại”. Mỹ nữ tưởng thật nghe theo. Mỗi lần tới hầu vua là lấy tay bịt mũi. Nhà vua lấy làm lạ hỏi tại sao vậy? Trịnh Tụ mau mắn trả lời: “Dạ thưa, người ấy sợ đại vương thân thể hôi hám, nên mới có cử chỉ như vậy”. Vua Sở nổi giận truyền đem mỹ nữ cắt mũi đi.
Lòng dạ con người thật nham hiểm. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: loài người không dò thấu được lòng nhau, nhưng Thiên Chúa thấu suốt cõi lòng mỗi người: “Ta là Thiên Chúa, Ta thấu suốt tâm can mỗi người từng gang tấc”. “Thiên Chúa, Đấng thấu suốt nơi kín nhiệm, sẽ thưởng công cho ngươi”, “Loài người nhìn bên ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn bên trong”, “Không có gì có thể che giấu được Thiên Chúa”… Lời Chúa thật rõ ràng, chúng ta không thể sống che giấu Thiên Chúa được. Chúng ta có thể sống đóng kịch, giấu diếm một số người, một số nơi, một số năm tháng, nhưng chúng ta không thể che giấu nổi Thiên Chúa. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: chúng ta có thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của những người Pharisêu và Kinh sư không? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan trọng hơn thứ gỗ bên trong không? Chúng ta nghĩ gì về một đời sống đạo đức, sốt sắng đọc kinh dâng lễ, nhưngc có thể bị đánh giá là chỉ tôn kính Chúa ngoài môi miệng, còn lòng thì xa Chúa? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ có bề ngoài không? Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình. Ít nhất một bài học chúng ta có thể rút ra từ bài Tin Mừng là: cố gắng thành thật với chính mình và lo hoán cải sửa đổi bên trong hơn là lo trang điểm, trình diễn bên ngoài. Thà “xanh vỏ đỏ lòng” còn hơn là “tốt mã rã đám”.
40. Con tim.
Trong giáo dục, chúng ta gắn tầm quan trọng tim cho cái đầu, cho trí óc nhiều hơn cho con tim, cho tình cảm. Dĩ nhiên tình cảm ít khi được xét đến. Chúng ta đào tạo một đứa trẻ thông minh hơn một đứa trẻ tốt. Thế giới kinh doanh và chính trị tưởng thưởng cho sự thông minh hơn cho lòng nhân hậu. Tuy nhiên trong ngôn ngữ hàng ngày chúng ta thừa nhận sự ưu tiên của con tim, của tâm hồn. Sau đây là một số ví dụ.
Chúng ta xét đoán một người bằng tâm hồn. Chúng ta có thể nói những điều chê trách như “ông ta không có tâm hồn” hoặc “ông ta có một tâm hồn băng giá” hoặc “một tâm hồn khô cứng”. Ngược lại, chúng ta có thể nói tốt về một người như “ông ấy có một tâm hồn”, hoặc “ông ta có tâm hồn nồng nhiệt hoặc dịu dàng”.
Chúng ta xét đoán mức độ cam kết của một người với một công việc bằng những từ ngữ chỉ tâm hồn. Chúng ta nói một người “không để tâm vào công việc” hoặc “chỉ đặt vào đó một nửa tâm hồn”. Và kết quả là người ấy sẽ bỏ cuộc. Cho dù không bỏ cuộc, người ấy sẽ không làm tốt công việc. Chúng ta nói về một người khác “chú tâm vào một công việc” hoặc “toàn tâm toàn ý vào công việc”. Và rồi người này có mọi khả năng không chỉ bền bỉ trong công việc mà còn làm cho công việc trở nên tốt nhất.
Chúng ta mô tả niềm vui và nỗi buồn bằng những từ ngữ chỉ tâm hồn. Chúng ta nói “Chị ấy có tâm hồn tan nát” hoặc “Chị ấy ra đi với con tim nặng trĩu”. Chúng ta nói “Tâm hồn của chị ấy bay bổng bởi niềm vui” hoặc “Chị ấy đã ra đi với tâm hồn thanh thản”.
Chúng ta cũng mô tả các gánh nặng và thương tích bằng những từ ngữ chỉ tâm hồn. Một “tâm hồn nặng trĩu” là một tâm hồn mệt mỏi gánh vác mọi thứ. Một “tâm hồn đau thương” mang trong mình một thương tích đau đớn nhất.
Người ta còn có thể đưa ra nhiều ví dụ khác nữa. Tuy nhiên chúng ta hãy trở lại xem xét hai ví dụ được nói đến trong Tin Mừng hôm nay.
Ví dụ thứ nhất liên quan đến việc thờ phượng. Người ta có thể chỉ trích sự thờ phượng của một người là người ấy không đặt tâm hồn vào việc thờ phượng. Trong trường hợp này, sự thờ phượng chỉ trên môi miệng, giống như những người Pharisêu đã làm. Trái lại một sự thờ phượng tốt nhất là sự thờ phượng của một người đặt hết tâm trí vào đó. Sự thờ phượng này xuất phát từ trong tâm hồn.
Ví dụ thứ hai liên quan đến điều xấu và điều tốt. Một tâm hồn hư hỏng là một hình thức tồi tệ nhất của điều xấu. Nó có nghĩa là xấu từ trong xương tủy. Một tâm hồn thanh khiết là thứ tốt nhất của điều tốt. Nó có nghĩa là tốt từ trong xương tủy.
Tin Mừng nhấn mạnh sự đề cao tâm hồn và chúng ta hiểu được tại sao. Tâm hồn là suối nguồn từ đó chảy ra dòng suy nghĩ, lời nói và công việc. Nếu tâm hồn trong sạch thì mọi dòng chảy phát xuất từ đó sẽđược trong sạch, giống như nước phun ra từ một suối nguồn tinh khiết. Những người Pharisêu quan tâm đến bề ngoài hơn bên trong. Họ quan tâm đến việc làm sạch bàn tay hơn làm sạch tâm hồn.
Vấn đề quan trọng là tâm hồn. Nhưng chỉ Thiên Chúa có thể nhìn thấy sự việc ở trong tâm hồn. Và chỉ Người có thể làm cho tâm hồn trở nên hoàn thiện.
41. Bên trong.
Chỉ có một người điên mới rửa một cái tách ở bên ngoài mà không rửa ở bên trong. Ít ra chúng ta phải chắc chắn bên trong đã được rửa sạch, còn bên ngoài thế nào cũng được. Đức Giêsu nói chúng ta cũng phải làm như thế đối với chính mình. Chúng ta phải có bên trong sạch sẽ, bên ngoài thế nào cũng được. Thật vậy, nếu bên trong (tâm hồn) đã thanh sạch thì bên ngoài (thái độ của chúng ta) cũng sẽ thanh sạch. Nhưng nếu bên trong không thanh sạch thì bên ngoài cũng sẽ không thanh sạch. Bên ngoài sẽ phản ảnh tình trạng của bên trong.
Những người Pharisêu đã nhìn điều xấu như một vật ở bên ngoài họ – trong các sự vật và đặc biệt trong những người khác. Họ tự hào mình là những người đạo đức và xem thường những người khác. Nếu điều xấu ở bên ngoài họ, thì họ có thể bảo vệ họ khỏi điều xấu bằng cách tránh tiếp xúc với dân chúng, hoặc nơi nào làm họ không thể thực hiện việc tắm rửa theo đúng nghi thức.
Những người Pharisêu là những người chân thành. Chỉ có điều là các nỗ lực của họ hướng về mục đích sai lầm. Đối với họ, cái bên ngoài là tất cả. Vì thế họ quan tâm đến sự thanh sạch bên ngoài mà bỏ quên điều quan trọng hơn – sự thanh sạch nội tâm hoặc sự thanh sạch của tâm hồn.
Đức Giêsu nói rằng căn nguyên của điều xấu ở bên trong chúng ta. Nó có gốc rễ trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta không thể bảo vệ mình khỏi điều xấu bằng việc cách ly với những người khác. Tất cả những điều ghê tởm mà Người liệt kê và chúng ta đọc trên báo chí: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng – tất cả những điều xấu xa đó đều xuất phát từ bên trong con người. Mầm mống của chúng ở bên trong tất cả chúng ta. Những điều đó làm cho một người trở nên ô uế trước mặt Thiên Chúa.
Đó là sự thật rất khó chịu và mỗi người chúng ta không biết đến hiểm họa của chính mình. Một vấn đề lớn của thời đại chúng ta là sự hiểu biết thiếu sót của chúng ta về chính mình, về điều xấu để nhận ra và đối phó với nó bên trong chúng ta. Dù sao cũng có một thứ an ủi và tự do khi biết được và chấp nhận sự thật khiêm nhường ấy.
Ngày nay, có một sự quan tâm to lớn đối với việc làm sạch sẽ thân thể. Vì thế mới có mọi thứ quảng cáo về xà bông và nước hoa. Và cũng có sự quan tâm về môi trường – với chất lượng của nước uống, thực phẩm, và không khí. Điều đó không phải là không quan trọng. Chỉ có điều là có một môi trường khác còn quan trọng hơn: môi trường đạo đức. Điều xấu là thứ ô nhiễm tồi tệ nhất trong mọi thứ ô nhiễm.
Nhưng nếu nguồn gốc điều xấu ở bên trong chúng ta, thì nguồn gốc của điều tốt cũng thế. Mọi tư tưởng lời nói và công việc của chúng ta tuôn trào từ tâm hồn như nước từ một dòng suối giấu kín. Nếu dòng suối trong sạch thì dòng chảy phát xuất từ đó sẽ trong sạch. Chúng ta phải làm thanh sạch suối nguồn.
Có một câu chuyện về một vị thầy một ngày nọ đặt những câu hỏi sau đây cho một số môn đệ: “Người ta phải tránh điều gì nhất trong đời?”
“Một con mắt xấu xa”, môn đệ thứ nhất nói.
“Một người bạn phản bội”, môn đệ thứ hai nói.
“Một người láng giềng xấu”, môn đệ thứ ba nói.
“Một tâm hồn xấu”, môn đệ thứ tư nói.
Vị thầy thích câu đáp cuối cùng nhất bởi vì nó bao hàm mọi câu khác. Rồi ông nói: “Và điều gì đáng ao ước nhất mà người ta cố gắng đạt đến trong đời?”
“Một con mắt tốt”, một người nói.
“Một người bạn tốt”, người thứ hai nói.
“Một người láng giềng tốt”, người thứ ba nói.
“Một tâm hồn tốt”, người thứ tư nói.
Vị thầy thích câu đáp cuối cùng nhất, vì nó bao hàm mọi câu khác.
Chúng ta phải cố gắng đạt đến sự trong sạch của tâm hồn. Sự trong sạch hoàn toàn của con người là điều không thể đạt được ở đây trên trần gian này. Nó là một cuộc đấu tranh liên tục. Một tâm hồn trong sạch, tinh tuyền không giống với một tâm hồn trống rỗng. Một tâm hồn đầy lòng yêu thương là một tâm hồn tinh tuyền và lành mạnh.
42. Phục vụ.
Một cái máy trả lời tự nó là một vật tốt. Nhưng khi chúng ta gọi điện thoại, chúng ta thích được nghe tiếng chào của một con người hơn là của một cái máy. Tuy nhiên, hãy cám ơn kỳ công của kỹ thuật hiện đại, tiếng nói của một người có thể ở đó trong khi người ấy vắng mặt.
Đã lâu rồi, trước khi những đồ dùng như cái máy trả lời được phát minh, người ta đã có thể làm điều đó tức là chỉ hiện diện trong tiếng nói. Không nơi nào mà điều đó nhận thấy rõ ràng như trong trường hợp thờ phượng. Đức Giêsu nói về những người Pharisêu: “Dân này tôn thờ Thiên Chúa bằng môi miệng, nhưng lòng của họ thì xa Người”.
Người ta có thể hiện diện trong nhà thờ chỉ bằng tiếng nói, nhưng sự thờ phượng của họ trở thành một nghi thức hầu như bằng môi miệng. Và điều làm cho vấn đề xấu hơn là tiếng nói ấy không còn là tiếng nói thường ngày của họ. Hẳn phải là tiếng nói long trọng và nghiêm trang, đặc biệt dành riêng cho ngày Chúa nhật. Những người như thế không tốt hơn những cái máy trả lời. Yếu tố quan trọng nhất ấy là sự vắng mặt của tâm hồn.
Điều này cũng được áp dụng cho bất cứ cuộc gặp gỡ hoặc tập họp nào. Hầu như nó cũng biểu lộ trong các cuộc họp mặt công cộng. Người ta ở đó, nhưng không thật sự ở đó. Đó là một cái tôi giả tạo như thể được dựng lên. Gặp gỡ những người như thế là gặp một cái bóng. Bạn rơi vào một cảm giác trống rỗng.
Sự hiện diện thật thì khác hẳn! Tâm hồn có mặt, và lời nói tuôn trào từ tâm hồn. Để lời nói chúng ta vang lên sự thật, chúng ta phải được nói từ tâm hồn. Nếu chúng chỉ từ môi miệng, chúng sẽ là một âm thanh trống rống. Và khi chúng là những lời nói thông minh, chúng cũng không thuyết phục và tạo hứng khởi cho ai.
Ví dụ hãy lấy những lời tha thứ. Nếu chúng không xuất phát từ tâm hồn phỏng có ích gì? Nó sẽ không đem lại tự do cho người gây ra xúc phạm. Hoặc sẽ không đạt đến kết quả là sự hòa giải thật sự giữa đôi bên.
Và những lời hòa bình. Nếu chúng không nói từ trong tâm hồn, làm sao có thể đem lại hòa bình? Dĩ nhiên là không rồi. Và những lời chào mừng. Tôi có thể mở cánh cửa nhà tôi cho một người với những lời nói tử tế, nhưng nếu tôi không dành chỗ cho người ấy trong trái tim tôi, người ấy vẫn cứ là một người xa lạ với tôi.
Chỉ với tâm hồn, chúng ta mới có thể nói những lời ngay thẳng. Và một sự hiện diện không có tâm hồn giống như một bếp lò không có lửa.
Sự hiện diện của tôi ở đây vào ngày Chúa nhật này có phẩm chất như thế nào? Tôi có thể hỏi liệu có sự tham dự của tâm hồn tôi hay không. Vậy đặt tâm hồn mình vào việc thờ phượng có nghĩa là gì? Điều này bao hàm sự chân thành, cam kết sâu xa và trên hết, lòng yêu mến.
43. Bài giảng thứ ba mươi hai.
Trong một buổi cấm phòng, vị linh mục 72 tuổi đã biết đến một cha xứ mới được bổ nhiệm đến một nhà thờ ở tiểu bang Kentucky, không xa một chỗ chạy đua Churchill Downs cho mấy:
Vào ngày Chúa Nhật đầu tiên, cha xứ mới đã giảng về cái xấu của cờ bạc, đánh cá độ và những tai họa do cờ bạc gây nên cho một số gia đình.
Sau Thánh lễ, ông chủ tịch hội đồng giáo xứ liền gọi cha xứ lại và bảo rằng những người dâng cúng cho nhà thờ đa số là những người đua cá ngựa và cờ bạc.
Vào Chúa Nhật thứ hai kế tiếp, cha xứ giảng về nạn hút thuốc và những tai họa do hút thuốc gây nên, như bị ung thư phổi và chết sớm.
Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ lại và bảo rằng đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những người trồng cây thuốc lá, và tiểu bang Kentucky là nổi tiếng nghề này.
Vào Chúa Nhật thứ ba kế tiếp, cha xứ giảng về nạn uống rượu bia và tai họa do rượu bia gây nên cho các gia đình, như gây tai nạn xe cộ và đập phá nhà cửa.
Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ lại và bảo rằng đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những nhà nấu rượu và tiểu bang Kentucky nổi tiếng về công việc này.
Cha xứ thất vọng mới hỏi lại ông chủ tịch rằng: "Vậy tôi có thể giảng về vấn đề gì?" Ông chủ tịch liền trả lời: "Hãy giảng chống lại các nhà chính trị lừa đảo, mà trong giáo xứ chúng ta không có những hạng người này."
Câu chuyện trên nói lên một điểm là nhiều người đi lễ giữ đạo nhưng không thích nghe những điều động đến cuộc sống của họ, không muốn sửa đổi cuộc sống để thực sự sống đạo, sống theo những điều Chúa Kitô dạy.
Đây chính là chủ nghĩa tuân theo luật pháp mà Chúa Giêsu đã lên án kịch liệt trong thời của Ngài.
Để diễn tả những cách đạo đức giả của chủ nghĩa tuân theo luật pháp này, William Barclay đã kể cho chúng ta một câu truyện sau đây. Câu truyện này tả về một người Hồi giáo đuổi giết kẻ thù của anh.
Trong khi đang đuổi giết kẻ thù của mình, người Hồi giáo nghe chuông báo giờ cầu nguyện. Anh liền ngừng ngựa lại, trải tấm chiếu ra, quì xuống và cầu nguyện nhanh bao nhiêu có thể. Sau khi đọc xong lời nguyện, anh liền nhảy lên ngựa và tiếp tục đuổi giết kẻ thù của mình.
Theo đạo không chỉ là làm những gì buộc vào các ngày Chúa Nhật. Không chỉ là giữ một số luật lệ, đọc một số kinh, hoặc làm một vài cử chỉ đạo đức.
Chúa Giêsu đã nói rất rõ theo đạo không chỉ là làm một số nghi thức theo luật buộc vào một số giờ trong ngày. Sống đạo không chỉ là giữ một số luật lệ, đọc một số kinh, hoặc làm một vài cử chỉ đạo đức. Nhưng sống đạo là ở trong tâm hồn. Sống đạo là một việc làm của trái tim kêu gọi yêu mến Thiên Chúa và nhân loại. Chúa Giêsu trưng lại Cựu Ước: "Dân này thờ Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng thì xa Ta".
Hơn nữa, các bài đọc còn mời gọi chúng ta hãy nhìn vào tâm hồn của mình để xét mình coi trong phạm vi nào mà lời của Thánh Giacôbê viết trong bài đọc thứ hai hôm nay áp dụng với chúng ta: "Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chớ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình."
44. Tiến sĩ luật bị tù – Lm. Mark Link.
Chủ đề: "Trọng tâm tôn giáo không ở tại nghi thức và lề luật mà ở tại yêu mến Chúa và tha nhân"
Nhà thần học William Barclay kể lại câu chuyện một Rabbi (tiến sĩ Luật Do Thái giáo) lão thành nọ bị tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm mục đích kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua, vị Rabbi ấy ngày càng yếu dần. Cuối cùng người ta buộc phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng cơ thể ông ta bị thiếu nước.
Báo cáo của y sĩ khiến đám sĩ quan cai ngục bối rối. Họ không hiểu nổi tại sao vị Rabbi ấy lại có thể thiếu nước, bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, song vẫn tương đối đủ chứ đâu đến nỗi tệ! Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát "Ông già" ấy một cách kỹ lưỡng hơn để thử xem ông ta làm gì với số nước ấy. Cuối cùng người ta đã khám phá ra bí mật. Ông Rabbi ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn. Như thế đương nhiên ông ta chỉ còn lại rất ít nước để uống.
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được bài Phúc Âm hôm nay. Nó giúp ta hiểu rõ hơn các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã cảm thấy chướng tai gai mắt và bực bội thế nào khi nhìn thấy các môn đệ Chúa Giêsu ăn uống mà chẳng chịu rửa tay theo đúng nghi thức.
Đấy chính là điểm quan trọng của bài Phúc Âm hôm nay. Điểm quan trọng này được biểu lộ trong một tranh luận sôi nổi giữa chúng ta và những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Chúng ta hãy xét kỹ hơn cuộc tranh luận đặc biệt này.
Khi Chúa Giêsu nói về "Lề luật", thì từ ngữ này có một trong hai ý nghĩa: Hoặc là lề luật thành văn hoặc là lề luật "truyền khẩu". Trong hai thứ lề luật này cái cổ hơn và quan trọng hơn là lề luật thành văn. Lề luật này căn cứ trên sách Torah (Ngũ Thư) nghĩa là 5 quyển sách đầu tiên của Cựu Ước, đôi khi còn gọi là luật Môisê. Một số lề luật này mang tính cụ thể và đặc thù, số còn lại thì rất chung chung giống những kiểu mẫu phải theo hơn là luật lệ. Trong một thời gian dài, dân Do Thái bằng lòng với những "kiểu mẫu" này. Họ áp dụng chúng vào đời sống vì thấy chúng thích hợp.
Tuy nhiên, tới thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, có một nhóm chuyên nghiên cứu về Luật đã tạo được một ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân chúng Israel. Họ thấy những điều luật tổng quát trong bộ luật ấy quá mơ hồ, thiếu tính rõ ràng, cần phải được soạn thảo lại cho rõ ràng, với nhiều chi tiết hơn. Và họ đã tiến hành làm công việc ấy. Từ đó phát sinh ra bộ luật thứ hai, gồm những luật truyền miệng, hay những truyền thống khẩu truyền. Trong khoảng thời gian này, trong dân chúng Do Thái, có rất nhiều người muốn bắt chước các tư tế của họ về sự thánh thiện bề ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn theo lề luật thành văn, mọi tư tế đều phải rửa tay trước khi vào nơi thánh trong đền thờ. Mục đích của luật này là tẩy rửa đi tất cả những gì là ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa hơn. Dần dần, dân chúng cũng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Và bằng những suy nghĩ tương tự như thế, họ cũng rửa tay trước khi dùng bữa nữa.
Vào thời Chúa Giêsu, dân Do Thái tuân giữ những lề luật truyền khẩu này cũng tỉ mỉ và thành tín chẳng khác nào lề luật thành văn của Ngũ Thư. Ý tưởng hàm chứa đàng sau việc tuân giữ này quả thực cao đẹp, bởi nó nhằm mục đích làm cho tôn giáo thấm nhập vào mỗi hành vi của cuộc sống. Nhưng trong quá trình thực thi luật lệ này, một điều bi đát đã xảy ra vì tôn giáo đã dần dần thoái hoá thành một hoạt động chỉ đơn thuần là chu toàn những nghi thức bên ngoài: Tuân giữ những nghi thức này thì được kể là đạo đức, là biết phụng sự Chúa. Để nói lên sự nguy hiểm của thói nệ luật ấy, William Barclay chứng tỏ rằng xét về mặt lý thuyết, người ta có thể căm ghét kẻ khác một cách sâu sắc từ trong trái tim, nhưng họ chẳng hề áy náy gì cả "bao lâu họ còn tuân thủ chặt chẽ nghi thức rửa tay và những nghi thức đúng đắn khác về vấn đề thanh tẩy".
Để minh hoạ thói nệ luật này rõ hơn, Barclay kể thêm một câu chuyện có lẽ có ghi trong Nguỵ thư nói về một người Hồi Giáo đuổi theo để giết kẻ thù của anh ta. Đang khi rượt theo kẻ thù ấy, chợt hồi chuông báo giờ cầu nguyện vang lên. Lập tức anh hồi giáo này nhảy ngay xuống ngựa, mở thánh kinh ra quì gối xuống và cầu kinh theo như luật định một cách hết sức lẹ làng. Đoạn, anh ta lại leo lên ngựa tiếp tục rượt theo kẻ thù. Đó chính là chủ nghĩa câu nệ lề luật mà Chúa Giêsu cực lực phản đối.
Tất cả những chuyện ấy dạy chúng ta điều gì? Nó cảnh cáo ta đừng rơi vào chủ nghĩa đồng hoá tôn giáo với việc chu toàn những hành vi bên ngoài. Chẳng hạn việc đi lễ, đọc kinh, đọc sách thánh, làm việc bố thí… tự chúng chưa bảo đảm rằng chúng ta thánh thiện đâu.
Lý do rất đơn giản là chúng ta có thể làm tất cả những điều này vì một lý do không mấy đúng đắn, hoặc chúng ta có thể làm tất cả điều này mà không phải do yêu thương, vì điều quan trọng không phải là việc chúng ta làm, mà chính là tình yêu trong trái tim đã thúc đẩy chúng ta làm việc đó. Nếu trái tim chúng ta chất đầy nỗi chua chát hoặc kiêu căng thì tất cả mọi nghi thức bề ngoài trước mắt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho chúng ta thánh thiện trước mặt Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình, tự vấn xem mình đã áp dụng những lời trong bài đọc thứ hai chưa?
"Anh chị em đừng đánh lừa mình khi cho rằng chỉ cần nghe lời Chúa là đủ… Tôn giáo tinh tuyền và chân thực phải là biết lo lắng cho kẻ mồ côi goá bụa.. và giữ mình khỏi bị băng hoại hư hỏng".
Và liệu những lời của tiên tri Isaia mà Chúa Giêsu dùng trong bài Phúc Âm hôm nay bao gồm cả chúng ta không? "Đám dân này thờ Ta ngoài môi miệng, còn lòng dạ chúng thì quả thực là xa Ta".
Tóm lại, điều cốt lõi trong tôn giáo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Hành động của chúng ta phải phát xuất từ tình yêu, từ con tim: yêu Thiên Chúa và thương tha nhân.
Để kết thúc, chúng ta hãy nghiêm trang đọc lại những lời nói về Tình yêu của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô.
"Dù cho tôi có biệt tài giảng thuyết… Dù cho đức tin tôi cực kỳ mạnh mẽ có thể dời núi chuyển non, mà nếu chẳng có Đức Ái thì tôi sẽ chẳng là gì cả. Dầu tôi dâng hiến tất cả mọi điều tôi có mà tôi không có Đức Ái thì điều ấy cũng chả lợi lộc gì cho tôi.
"Tình yêu đòi hỏi sự kiên nhẫn và tử tế, không ganh tị, kiêu căng xấc láo, tình yêu khiến ta không vụng xử, không ích kỷ hay dễ nóng giận, tình yêu không để bụng chấp nhất những sai trái. Tình yêu không bao giờ lùi bước, tình yêu thì bất diệt. Vì thế, tình yêu chính là điều anh em phải nổ lực tìm kiếm". (1Cr 13, 2-8; 14,1)
45. Nét đẹp của tâm hồn - Lm. Vũ Xuân Hạnh.
Cách đây chừng hơn một tháng, dư luận cả nước xôn xao về một vụ hãm hại người khác mang tính cách gia đình mà mới nghe qua, người ta khó lòng tin đó là sự thật. Cùng lắm nó chỉ có thể xuất hiện trong tiểu thuyết được trí tưởng tượng phi thường của ai đó hư cấu mà có. Có ai ngờ chuyện như tiểu thuyết ấy lại xảy ra thật. Bởi thế, hình như ai nghe cũng sửng sốt, bàng hoàng.
Chuyện tưởng không mà có ấy, chính là câu chuyện về người mẫu Võ Thị Thu Trâm bị chính mẹ ruột của mình đổ dầu sôi vào mặt. Theo báo Công an, sáng hôm ấy, trong khi Thu Trâm còn đang ngủ, mẹ của cô đã đi mua một chai dầu ăn cỡ một lít, mang về nhà nấu sôi khoảng 5 phút, sau đó đem nguyên chảo dầu sôi ấy tưới vào mặt con gái mình. Mẹ mà rắp tâm hãm hại con đã là chuyện quá sức bi đát. Nhưng bên cạnh còn một điều đáng lưu ý hơn, bởi một thái độ quá tàn nhẫn, và thái độ tàn nhẫn đó, lại chính là thái độ của một người mẹ dành cho con mình. Nó làm cho ta nhói đau: Sau khi tưới dầu sôi vào mặt con, bà đã ung dung ra khỏi nhà mua một lố dầu nhị thiên đường, để chuẩn bị khi vào tù, bà có dầu xức vì bà thích xức dầu nhị thiên đường. Người ta tự hỏi, vì lý do nào, một người mẹ rứt ruột sanh ra đứa con của mình nuôi cho nó lớn, nên vóc, nên hình, bây giờ lại tàn nhẫn đến mức không còn một chút lương tâm như thế. Mẹ của Thu Trâm trả lời: Vì tức giận con đã cư xử tệ bạc, vô ơn. Bà buồn con mình đã quên mất người mẹ nghèo tần tảo đã từng lặn lội khắp nơi với gánh ve chai trên vai bất kể mưa nắng, bất kể sự mệt nhọc để nuôi chị em Thu Trâm thành tài: chị cả làm giáo viên, anh hai làm tài xế, và Thu Trâm, một người đẹp đến nỗi có thể bước chân vào nghành người mẫu. Nghe đâu, Thu Trâm còn được đề cử tham dự cuộc thi "Hoa hậu liên lục địa". Vậy mà đã có lần, bạn bè tới nhà chơi, Thu Trâm xấu hổ không dám giới thiệu mẹ của mình.
Đi từ câu chuyện nhỏ bé trong cuộc đời như thế, tôi lại bắt gặp Lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng Chúa nhật XXII hôm nay: "Hết thảy các ngươi hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế". Bạn có thấy câu chuyện của hai mẹ con Thu Trâm là một sự dữ lớn không? Sự dữ lớn ấy chính là do tận đáy lòng người ta mang đầy sự kiêu ngạo, sự khinh dể người thân của mình, hơn nữa đó lại là người đã từng rứt ruột sinh thành và dưỡng dục mình. Đó cũng là sự oán hận chất chứa bấy lâu trong tâm, nó đã bào mòn tình mẹ con cho đến mức phát triển thành nỗi căm thù và đan tâm trả thù của một người mẹ. Có lẽ hành động tàn nhẫn ấy của một người mẹ là kết thúc của một quá trình mâu thuẫn kéo dài mà bà đã không thể vượt qua. Sự ác đã hình thành trong lòng của một người mẹ. Nhưng một cách nào đó, khi bỏ rơi mẹ mình, trước hết, sự ác cũng đã xuất hiện trong lòng của một người con. Suy nghĩ như thế, sao tôi thấy Lời Chúa Giêsu nói hay quá, đúng quá: "Từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăn loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế". Đúng thế, trong tâm người ta toàn sự dữ, thì hành động của họ nguy hiểm khôn lường.
Vẻ đẹp trong tâm hồn là vẻ đẹp quý giá. Đẹp trong tâm hồn là nét đẹp không dễ gì nhìn thấy. Người ta chỉ có thể nhận ra một tâm hồn đẹp qua kết quả của đời sống nơi một ai đó. Đó mới chính là vẻ đẹp cần thiết làm cho con người nên cao trọng, đáng quý, đáng yêu. Đức tin là vẻ đẹp của tâm hồn. Và đức tin cũng không thể nhìn thấy, nếu không có kết quả bằng chính cuộc sống của mỗi người. Và nếu đức tin của ta vững mạnh, dù cho cuộc đời có vùi giập, cái chết oan nghiệt đến ngay trước mắt, hay kẻ thù có kề dao tận cổ, hoặc cám dỗ bởi phù phiếm, sa hoa, ngay cả tội lỗi đi nữa, ta vẫn cứ là một người không dễ lay chuyển, vẫn một lòng kiên trung, một lòng vươn lên sống thánh thiện. Chỉ sợ lòng ta yếu tin, cho nên ta nghi ngờ tình yêu của Chúa, ta thất vọng vì phải đương đầu với sóng gió trong đời mình. Chỉ sợ rằng ta đã đánh mất vẻ đẹp của lòng tin trong tâm hồn, vì thế không còn đủ sức, không còn can đảm chống lại cám dỗ của cuộc đời, cám dỗ của tội lỗi và của chính bản thân ta. Khi không đủ sức để vương lên sự thánh thiện, quả là ta đã thành ra một kẻ đầy nguy hiểm. Lúc đó chính là lúc rất thuận tiện để vi khuẩn của tội lỗi dễ bề đánh gục ta. Nó tấn công vào chính đời sống đức tin, làm cho ta trở nên yếu nhược. Và khi đó, không cần phải có bất cứ một lực xấu nào tác động, trái lại ngay tâm hồn của ta đã có sẵn cả một ổ vi khuẩn của tội đầy nguy hiểm. Chính vì sự nguy hiểm khôn cùng của nó mà Chúa Giêsu đã lên tiếng cảnh báo: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăn loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế". Nói những lời này, Chúa Giêsu đòi phải có vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của đức tin, của sự thánh thiện, từ đó cuộc đời ta sẽ tỏa sáng lung linh bằng tất cả những gì là lành thánh, là phù hợp thánh ý Chúa, là sự trong sạch của tư tưởng, sự thành thật của lời nói, sự trung tín trong từng hành động. Nói một cách ngắn gọn, đó là tất cả hương thơm của vẻ đẹp tâm hồn. Chúa Giêsu đòi hỏi điều đó nơi chính bạn và chính tôi khi nói những lời như trên.
Từ câu chuyện ngoài đời thực về cô người mẫu Võ Thị Thu Trâm, không những nó soi sáng để dễ hiểu hơn Lời Chúa nói hôm nay, bên cạnh đó, nó còn cho ta một bài học về lòng hiếu thảo, về sự tha thứ, nhất là thái độ cảnh giác về sự dữ trong chính tâm hồn ta. Từ câu chuyện ngoài đời thực đến Lời Chúa mà bạn vừa cùng tôi suy niệm giúp ta mỗi một lần cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha, sẽ ý thức hơn về điều mà mình nguyện xin: "Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Sự dữ mà ta xin Cha thương cứu đó là tội lỗi, là hành vi và hậu quả của tội. Hoặc không phải là tội thì cũng là những rủi ro bất trắc xảy đến với ta. Nếu sự dữ bên ngoài ta, ví dụ: Tôi biết tôi sẽ chết, cái chết làm tôi kinh hãi, thì sự dữ khách quan ấy, đã đáng sợ, nhưng vẫn chưa đáng sợ nhất. Điều đáng sợ nhất là sự dữ nội tại trong ta. Chính sự dữ này biến ta thành kẻ nô lệ tội lỗi, thay vì phục vụ sự sống, có khi ta lao thân phục vụ cái chết, ném mình vào những đam mê hèn hạ, Bởi thế mỗi lần cầu nguyện: "Xin cứu con cho khỏi sự dữ", là chính lúc ta xin Chúa gìn giữ mình thoát khỏi mọi nguy hại, đúng như Lời Chúa Giêsu hôm nay: "Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế".
Để cho mình bị ô uế tận trong lòng là một nguy hiểm lớn. Chỉ có vẻ đẹp trong lòng mới là vẻ đẹp của tình yêu, của sự thánh thiện. Bởi thế ta xin Chúa cứu thoát mọi sự dữ để tâm hồn ta luôn là tâm hồn đẹp.
46. Truyền thống và chữ ‘Tâm’.
(Suy niệm của Lm. Gérard Bessière & Hyacinthe Vulliez)
"Các ông đã bỏ điều răn của Thiên Chúa mà giữ truyền thống của phàm nhân"
Trong bài Tin Mừng theo thánh Marcô hôm nay, các vị kinh sư, luật sĩ từ Giêrusalem kéo tới để chất vấn Chúa về chuyện truyền thống. Đức Giêsu đã bài bác họ, sau đó Ngài bày tỏ lập trường dứt khoát của mình.
Mấy vị đó chỉ làm bộ hỏi, thực ra là họ muốn lên án, vì họ nghĩ là họ nắm vững lẽ phải trong tay, dĩ nhiên là lẽ phải do họ đặt ra, áp đặt người khác phải chấp nhận.
Họ đề cập đến truyền thống rửa tay trước khi dùng bữa. Theo Sách Xuất Hành (Xh 30,17-21), các tư tế bắt buộc phải rửa tay trước khi cử hành các nghi lễ phụng tự. Các luật sĩ đã thêm vào giới luật này nhiều chi tiết rắc rối. Họ bắt buộc mọi người trước khi dùng bữa phải rửa tay, vì "mỗi bữa ăn đều là hành vi tôn giáo và toàn dân Israel là một dân tộc tư tế". Đức Giêsu đã phản bác họ. Ngài nói: "Ngôn sứ Isaia thật đã nói rất đúng về các ông là những kẻ giả hình, khi viết rằng: "Thiên Chúa phán: "dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta"... Họ đã bỏ điều răn của Thiên Chúa mà chỉ giữ truyền thống của phàm nhân. Do đó mà họ có thờ phượng Thiên Chúa thì cũng vô ích, vì giáo lý của họ chỉ là giới luật phàm nhân, đúng như ngôn sứ Isaia nhận xét.
Thật vậy, Thiên Chúa chỉ ban mười giới luật, tóm lại là hai điều rút lại chỉ còn một điều duy nhất là mến Chúa yêu người. Còn luật sĩ và Pharisêu thì tạo ra hằng trăm khoản luật để khoác vào cổ dân chúng. Tất cả có 613 điều luật! Rõ ràng, truyền thống mà các vị đó đề cập chỉ là truyền thống người đời đã đặt ra. Cũng như luật kiêng cữ một số đồ ăn (như thịt heo) rõ ràng là một truyền thống phàm nhân đặt ra một cách tùy tiện. Theo truyền thống thì những thực phẩm này được coi là ô uế, dơ bẩn. Đức Giêsu phản bác lại bằng lập trường của Ngài: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người, lại có thể làm ô uế con người được. Nhưng cái gì từ con người xuất ra, mới là cái làm cho con người trở thành ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, xuất phát những ý đồ xấu xa...".
Đức Giêsu đã phân biệt rõ rệt cái tục với cái thanh, cái ô uế với cái trong sạch, cái trong với cái ngoài, cũng như ta nói cái hình với cái tâm. Khi ta đã có cái tâm trong trắng, thì chẳng có cái gì là dơ bẩn cả. Nhưng một khi cái tâm đã bị ô nhiễm những ý đồ xấu xa, thì mọi sự trở nên ô uế. Và truyền thống đích thực là giữ sao cho cái tâm của ta được đập cùng một nhịp với thánh tâm Đức Giêsu, là "lò lửa mến hằng cháy", mọi tà tâm sẽ bị thiêu rụi trong ngọn lửa mến rực cháy ấy.
47. Suy niệm của Chiara Lubich.
"Giờ đây, hỡi Israel, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống"
Một Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta như những người bạn của Người! Dân Israel hãnh diện có được một Thiên Chúa rất gần gũi với họ, Đấng ban cho họ lề luật và những quy tắc rất công minh, như ta có thể đọc thấy trong đoạn này của sách Đệ Nhị Luật là một phần của Cựu Ước hoặc Giao Ước Đầu Tiên (xem Đnl 4,7-8).
Chính vì Lời Chúa có sức lôi cuốn phi thường, nên ta có nguy cơ tin rằng chỉ cần nghe không là đã đủ. Thay vào đó, Lời Chúa phải đem ra thực hành. Đó là điều quan trọng.
Cả trong Tân Ước, tông đồ Giacôbê cũng đã cảnh báo các Kitô hữu tiên khởi rằng: "Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình" (Gc 1,22). Môsê cũng dạy như vậy khi ông tuyên đọc những lời này với người Israel: "Giờ đây, hỡi Israel, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống"
Vậy ta hãy lắng nghe và sống Lời Chúa.
Hơn nữa, chính Đức Giêsu hiện diện trong lời của Người; những lời đó là chính Đức Giêsu. Những lời của Người là vĩnh cửu, và do đó chúng thích hợp với mọi thời đại. Chúng phổ quát, có giá trị đối với mọi người, vượt qua mọi chủng tộc và mọi nền văn hóa. Chúng không đơn thuần chỉ là những lời khuyên nhủ, những đề nghị hoặc lệnh truyền. Lời của Người chứa đựng và ban truyền sự sống.
Cuối Bài Giảng Trên Núi, Đức Giêsu để lại cho ta một dụ ngôn nổi tiếng (xem Mt 7,24-27). Người so sánh những ai hồ hởi phấn khởi khi nghe Lời của Người nhưng rồi không thực hành trong cuộc sống với ngôi nhà xây trên cát. Khi gió mưa ập đến - nghĩa là những đề nghị, tư tưởng khác dễ dãi hơn, có sức cuốn hút và lừa dối bằng thứ ánh sáng lấp lánh chóng qua - thì những người này gục ngã rất đáng thương bởi vì sứ điệp Phúc Âm đã không trở thành sự sống nơi họ.
Đức Giêsu sau đó so sánh những ai biết đem Lời của Người ra thực hành với ngôi nhà xây trên đá: thử thách, cám dỗ, nghi nan, và hoang mang có thể xảy ra, nhưng những người này vẫn vững vàng tiến bước trên con đường Phúc Âm. Họ tiếp tục tin vào Lời Chúa bởi vì họ đã cảm nghiệm được những lời ấy chân thật ra sao.
Việc sống Lời Chúa sẽ đưa lại một cuộc cách mạng thực sự trong đời của ta và trong đời của những ai mà ta chia sẻ cuộc sống Phúc Âm này.
Phải đem những lời của Đức Giêsu ra thực hành với lòng đơn sơ của trẻ nhỏ! Người dạy ta: "Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại" (Lc 6,38). Biết bao lần ta đã cảm nghiệm rằng càng cho đi thì càng nhận được! Chưa bao giờ ta bị trắng tay, bởi vì mỗi lần ta cho một người thiếu thốn thì ta lại nhận được gấp trăm. Thế còn khi ta chẳng có gì để cho đi thì sao? Đức Giêsu đã chẳng nói rằng: "Anh em cứ xin thì sẽ được" (Mt 7,7) hay sao? Ta đã xin và ngôi nhà của ta lại đầy mọi thứ của cải mà Thiên Chúa gửi đến để ta lại có thể cho đi.
Khi bị đè bẹp bởi nỗi lo âu về một hoàn cảnh vượt qúa sức mình hoặc khi nỗi lo lắng làm ta bị tê liệt, hãy nhớ lại những lời của Đức Giêsu: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi" (Mt 11,28), và khi đã quẳng cho Người mọi gánh lo, ta sẽ thấy bình an trở lại, và cùng với nó là giải pháp cho các vấn đề của ta.
Lời Chúa làm tiêu tan cái tôi của ta, khử trừ tính ích kỷ của ta, và thay thế cách ta nghĩ tưởng, ước muốn, hành động bằng chính tâm tư và hành động của Đức Giêsu. Bằng cách sống Lời Chúa, thì một lối lý luận theo Thiên Chúa và một tâm thức Phúc Âm sẽ hình thành và ta sẽ nhìn mọi sự bằng đôi mắt mới. Các mối quan hệ của ta cũng thay đổi: bằng cách sống Lời Chúa và chia sẻ những kinh nghiệm đó với nhau, những người trước đó không biết nhau nay trở nên anh chị em với nhau, họ trở thành một dân tộc, một Hội Thánh sống động. Chỉ một Lời Phúc Âm nhưng được nhiều người đem ra thực hành thì vẫn có thể làm thay đổi cả chiều hướng của lịch sử.
Lời Chúa khi đem ra thực hành sẽ làm ra những phép lạ. Như thế trong tâm hồn ta sẽ tràn ngập một niềm tin tưởng mới, tin tưởng vô hạn vào tình yêu của Chúa Cha, Đấng can thiệp và trợ giúp con cái của Người hàng ngày. Lời của Người là chân thực; nếu ta sống những lời này, thì về phần Người, Người cũng thực hiện chúng, theo đúng từng câu chữ, và ban cho ta điều Người hứa: được gấp trăm ở đời này, cuộc sống hoàn hảo và niềm vui thiên đàng vô tận.
48. Không chỉ tôn kính bằng môi miệng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Cuộc kiểm tra
Sau mấy Chúa nhật đọc chương 6 Tin Mừng Gio-an, phụng vụ trở lại với Tin Mừng Mác-cô. Bản văn của phần phụng vụ lời Chúa tuần này thuật lại cuộc đối đầu kịch liệt giữa Đức Giêsu và nhóm biệt phái.
"Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?" Vấn đề đặt ra có vẻ buồn cười, xa lạ. Đàng khác, từ lâu rồi, Hội Thánh sơ khai đã vượt qua thói quen cứng ngắc là tuân giữ tỉ mỉ các khoản luật xa xưa. Dầu vậy, vấn đề vẫn chưa được giải quyết.
Cách chung, các kinh sư và biệt phái được trao nhiệm vụ công bố những lệnh truyền và tập tục, đồng thời có quyền xác định và giải thích luật Mô-sê. Một ý hướng rất đáng khen. Về phần Đức Giêsu, Người không chối bỏ nhiệm vụ này. Tuy vậy, theo Đức Giêsu, nhiệm vụ và quyền bính này không bao giờ được phép che giấu điều cốt yếu, tức là tình trạng của tâm hồn; nói cách khác, đó là sự trong sáng của lương tâm, là thái độ thành thực và tự do dấn thân trước Thiên Chúa. Trước Thiên Chúa, mỗi người đạt được giá trị tùy theo tình trạng tâm hồn của mình, và người ta bày tỏ tâm tình thờ phượng là chính hiện hữu của mình. Các thái độ tôn giáo của mỗi người phải được xuất phát từ những quyết định tự do, từ chính hiện hữu của mỗi người. Nếu như trong những thập niên gần đây, Hội Thánh bãi bỏ nhiều quy định, đó chính là nhằm mục đích đưa người tín hữu trở lại điểm cốt yếu này.
Như vậy, tinh thần Tin Mừng hoàn toàn khác hẳn thái độ duy luật cũng như thái độ bất chấp. Lề luật mà không có tâm hồn: đó là thái độ duy luật giả hình, muốn tìm an toàn trong những việc tuân giữ bề ngoài và không có sự dấn thân toàn diện, năng động của lòng tin. Ngược lại, nếu chỉ có tâm hồn mà không có lề luật: đó là thói bừa bãi, là thái độ không thấy cần phải sửa lại tình trạng cả con người cũ lẫn con người mới đang hiện diện trong mỗi người. Để kiểm tra sức khoẻ, ngày nay người ta dùng phương pháp siêu âm. Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi mỗi người thực hành cuộc kiểm tra này trong tâm hồn để thực sự biết mình là ai trước Thiên Chúa và anh em.
Truyền thống và thích nghi
Khi trả lời nhóm biệt phái và các kinh sư, Đức Giêsu đã quở trách họ là những kẻ đạo đức giả: "Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm." Thực ra Đức Giêsu không có ý bác bỏ những truyền thống, những tập tục đã có từ xưa, Người chỉ muốn cho thấy là tất cả những tập tục ấy phải đi kèm với một tấm lòng. Con người phải thích ứng với xã hội, nhưng vẫn phải là một con người chân thành.
Truyền thống
Mỗi cộng đoàn tôn giáo, cũng như mọi cộng đoàn xã hội, đều lập ra một bản quy tắc để diễn tả nét đặc trưng và độc đáo trong niềm tin của mình. Dân Do-thái, và sau này, Hội Thánh Công Giáo cũng làm như vậy để đào sâu mặc khải, đồng thời để củng cố mối liên lạc giữa các tín hữu. Những khoản luật này dựa vào nhau và với thời gian, càng lúc chúng càng xa rời nguồn gốc nguyên thủy của mình.
Sự thích nghi
Đây là thái độ của mỗi người để hòa nhập vào cơ thể xã hội hay tôn giáo. Sự thích nghi được thể hiện trong mọi lãnh vực, kể cả về ý kiến và quan điểm. Bên cạnh những người có thái độ thích nghi vào xã hội, cũng có những nhóm người chống lại sự thích nghi.
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu nhấn mạnh đặc biệt đến sự thích nghi của nhóm sau này: nó làm cho con người không còn tự do cũng như trách nhiệm với xã hội, với cộng đoàn. Những người này nghĩ rằng chỉ cần tuân theo những khoản luật "được phép" hay "không được phép", và do đó, chỉ cần loại trừ sự ô uế bên ngoài là đủ.
Trong sạch và ô uế
"Rửa tay" là xoá đi những dấu vết còn lưu lại sau khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài. "Rửa tay" còn có nghĩa là không chịu trách nhiệm, không quan tâm gì đến cuộc sống, coi như mình ở ngoài các sinh hoạt của thế giới.
Đối với Đức Kitô, sự ô uế không phải là một tính chất gắn liền với sự vật, nhưng là cách thức con người giải thích về thế giới và áp dụng vào sự vật. Theo Đức Giêsu, sự ô uế và do đó cả sự chọn lựa, diễn ra trong tâm hồn con người chứ không phải là bản thu tóm các quy tắc.
Như thế, ngoài việc nhấn mạnh đến tình trạng tâm hồn, Đức Giêsu còn nghĩ tới một Giáo Hội phổ quát, một Giáo Hội vượt khỏi biên giới của dân tộc Do-thái. Nhiều phong tục tập quán của Do-thái là tốt, nhưng đến lúc phải mở rộng hơn để đón nhận mọi nếp sống, mọi nền văn minh trên toàn thế giới. Cần phải sàng sảy, chọn lọc để chỉ giữ lại những điều cốt yếu và loại bỏ, hay ít ra giảm nhẹ, những điều phụ thuộc. Những tập tục nào do con người tạo nên thì cần được thay đổi, điều chỉnh hầu làm sáng tỏ tinh thần tôn kính Thiên Chúa và chu toàn luật bác ái đối với người khác (theo Quesson).
Vậy, con người luôn được mời gọi và thúc đẩy vượt lên phía trước, đồng thời phải hoán cải không ngừng để đón nhận những điều mới. Truyền thống vẫn cần được tuân giữ, nhưng cũng cần được thích nghi cho phù hợp với thời đại. Truyền thống vẫn cần được tuân giữ, nhưng cũng cần được thích nghi cho phù hợp với thời đại đồng thời làm sáng tỏ điều cốt yếu.
Từ ý hướng đến hành động
Thắc mắc của nhóm biệt phái là một cơ hội tốt để Đức Giêsu xác định trật tự trong các cử chỉ và nghi lễ.
Thoạt đầu, người ta có cảm tưởng rằng chính ý hướng trong "tâm hồn" quyết định giá trị của việc làm, và người ta sẽ nêu lên câu ngạn ngữ "hoả ngục được lát bằng những ý hướng tốt".
Thực ra, phải nhìn vấn đề theo một góc cạnh khác: cử chỉ diễn tả được bao nhiêu ý hướng trong tâm hồn, và ngược trở lại, hành vi bên ngoài có phải là sự bày tỏ của tâm hồn không? Bạn có luôn yêu mến người mà bạn bắt tay hay tỏ vẻ thân thiện? Chúng ta muốn diễn tả thực tại nào bên trong khi trao cho người khác một cử chỉ hữu nghị? Chúng ta có thực sự muốn hoà giải khi cười với người giận ghét mình không?
Đối với Thiên Chúa cũng vậy. Bao nhiêu lời cầu nguyện, bao nhiêu hành vi đạo đức có phải thực sự phát xuất từ mối tương giao với Thiên Chúa, và có hướng về mục đích đó không? Chúng ta đã nhiều lần đọc lên "con yêu mến Chúa", thế mà cuộc sống của chúng ta vẫn đầy dẫy những xung đột, những hận thù, cả trong đời sống cá nhân lẫn đời sống cộng đoàn...
Quả thế, cả tôi lẫn các bạn, chẳng có ai hoàn hảo. Vấn đề của chúng ta không phải chỉ là làm một điều gì đó, nhưng là thay đổi tình trạng tâm hồn của chúng ta.
Dù vậy, với tình yêu Thiên Chúa đổ tràn trong lòng chúng ta, ít ra chúng ta có thể thực hiện một cách nào đó sự hoà hợp giữa ý hướng và hành động. Rửa tay hay không, điều đó không quan trọng, nhưng chúng ta phải ý thức rằng tâm hồn chúng ta cũng có chút xấu xa bẩn thỉu và chúng ta phải xin Đức Kitô ban cho chúng ta thứ nước có thể thanh tẩy chính tâm hồn. Đàng khác, cũng cần nhớ rằng, cuộc đời vẫn ở phía trước và chúng ta luôn phải giữ lấy điều cốt yếu, trong khi cuộc đời luôn có những đổi thay.
49. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng
Luật Chúa ban hành nhằm thăng tiến đời sống con người
Luật Chúa được ban hành là để hướng dẫn đời sống con người và nhắc nhở cho loài người bước đi theo đường lối chính trực nhằm thăng tiến hoá đời sống con người. Như vậy mục đích của việc giữ luật là nhằm giải phóng con người khỏi sống theo bản năng và khỏi áp dụng luật rừng. Trong bài trích sách Đệ nhị luật, Môsê nhắc nhở cho họ: Hãy tuân giữ những mệnh lệnh của Chúa là Thiên Chúa chúng ta mà tôi truyền cho anh em (Đnl 4:2). Theo ông Môsê thì nhờ việc giữ luật, họ sẽ được các dân tộc coi là khôn ngoan và thông minh (#nl 4:6) vì họ có Chúa ở gần kề và hướng dẫn đời sống họ.
Tuy nhiên nhóm người Pharisêu và kinh sư lại toan đè nặng trên dân chúng với nhiều khoản luật chi tiết của tiền nhân. Theo Phúc âm thì nhóm người Pharisêu là phe biệt phái, nằm trong Do thái giáo. Theo sử gia Josephus, có chừng sáu ngàn người Pharisêu thời vua Hêrôđê. Họ thường phê bình chỉ trích, bắt bẻ và chống đối Đức Giêsu và các môn đệ. Thánh Phaolô tông đồ là cựu thành viên của phái Pharisêu. Ông Nicôđêmô (Ga 3; 7:45-48) và ông Ga-ma-li-ên (Cv 5:34) cũng là người Pharisêu. Còn nhóm kinh sư là những học giả và trí thức trong đạo Do thái, được nhận tước hiệu ráp-bi hoặc người chỉ đạo. Họ không thuộc phe đảng nào. Tuy nhiên trong thực tế, nhiều người kinh sư thuộc phái Pharisêu nên họ cũng tỏ thái độ và hành động chống đối Chúa như phái Pharisêu.
Trong Phúc âm hôm nay, hai nhóm Pharisêu và kinh sư quan sát thấy vài môn đệ của Đức Giêsu dùng bữa mà không rửa tay nên bèn thắc mắc, đặt vấn đề với Chúa. Mối bận tâm của họ không có liên quan đến vấn đề vệ sinh, nhưng chỉ là hình thức đạo đức bề ngoài. Họ nhấn mạnh đến việc rửa tay cho được sạch bên ngoài, mà không quan tâm đến việc tẩy rửa tâm hồn bên trong. Việc rửa tay bên ngoài của họ là một việc làm trống rổng, không có ý nghĩa và không có giá trị thiêng liêng. Vì thế Đức Giêsu cảnh giác thái độ giả hình của họ vì họ giữ luật vụ vào hình thức bên ngoài.
Theo luật truyền khẩu và tập tục Do thái trong sách Tan-mút thì nghi thức rửa tay trước khi ăn không buộc hết mọi người, mà chỉ có hàng tư tế mới phải theo. Sách Tan-mút sưu tầm luật truyền khẩu và tập tục Do thái không được ghi trong Bộ luật viết ra của sách luật Tora, cũng gọi là sách Ngũ kinh, là năm cuốn sách đầu của Kinh thánh Cựu ước. Theo nghi thức rửa tay được kể lại trong sách Tan-mút, thì nước phải đổ trên mỗi tay hai lần. Lượng nước cũng được qui định đổ cho tới cổ tay. Tại Galilê, vì thiếu nước nên người ta thường bỏ qua việc rửa tay trước khi ăn. Tuy nhiên nhóm người Pharisêu và kinh sư từ Giêrusalem lên vẫn đòi phải áp dụng luật này.
Đức Giêsu cảnh giác nhóm người Pharisêu và kinh sư vì họ đã đi lạc đường lối, toan nô lệ hoá con người bằng việc giữ tập tục của tiền nhân. Họ giữ luật theo hình thức bên ngoài, mà tâm hồn họ xa Chúa và họ còn sống đời bất công. Do đó Đức Giêsu cảnh giác họ: Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm (Mc 7:8a). Người còn trích lời ngôn sứ Isaia để quở trách họ: Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta (Mc 7:6).
Chúa Giêsu còn dùng cơ hội này để cảnh giác dân chúng và các môn đệ là chỉ có gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế như: Những ý định xấu, tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ bánh, kiêu ngạo, ngông cuồng (Mc 7:21-22).
Lời Chúa cảnh giác nhóm người Pharisêu và kinh sư trong Phúc âm phải nhắc nhở ta dùng những cơ hội có thể để tự xét và tự kiểm. Kết quả của việc tự xét và tự kiểm về đời sống nội tâm, có thể làm ta hài lòng hay trách mình. Tuy nhiên ta phải trung thực với lòng mình, nghĩa là phải biết chấp nhận sự thực về mình dù sự thật có đau lòng. Nếu tự xét, ta có thể khám phá ra thái độ giả hình của người Pharisêu và kinh sư cũng có thể ăn rễ sâu trong đời sống đạo đức của ta. Ta có thể tuân giữ luật Chúa mà không phát xuất từ nội tâm, không do lòng mến thúc đẩy, như là giữ luật Chúa vì sợ tội hoặc giữ luật Chúa để được tiếng khen là mình đạo đức chứ không phải do lòng mến.
Giữ luật theo kiểu người Pharisêu và kinh sư khiến người ta trở thành nô lệ cho luật, làm cho đời sống trở nên cằn cỗi. Giữ luật vị luật khiến cho luật trở thành bất động và bất biến. Giữ luật vì yêu mến thì luật sẽ trở thành luật biến đổi, luật trổ bông. Việc giữ luật như vậy có tính cách biến đổi, mang lại hoa quả thiêng liêng cho đời sống. Đối với người con thảo có tâm hồn đạo hạnh thì việc tuân giữ luật Chúa và tìm sống theo thánh chỉ của Chúa phải là khát vọng của họ. Và phần thưởng dành cho người tuân giữ giới răn Chúa và sống theo thánh chỉ của Chúa là có được tâm hồn bình an và thư thái trong cõi siêu việt.
Lời cầu nguyện xin cho tâm hồn và đời sống được biến đổi trong việc tuân giữ giới răn:
Lạy Chúa là Thiên Chúa, Đấng thông biết mọi sự,
và thấu suốt cõi lòng người.
Chúa là Đấng đáng tôn thờ, chúc tụng và yêu mến.
Xin tha thứ những lần:
con chỉ thờ Chúa bằng môi miệng bên ngoài,
mà lòng thì xa Chúa.
Xin giúp con làm mọi việc vì yêu mến Chúa
đễ lời cầu nguyện của con được đi đôi với việc làm,
cho đời sống con được thăng tiến hoá. Amen.
*******
Lạy Chúa là Đấng thông biết mọi sự, Chúa thấu suốt lòng con. Chúa là Đấng đáng tôn thờ, chúc tụng, ngợi khen và cảm mến
Xin tha thứ
* những lần con chỉ thờ Chúa bằng môi miệng bên ngoài, mà lòng con xa Chúa,
* những lần con cầu nguyện cách máy móc mà thiếu tâm tình xác tín.
* những lần con chỉ đóng vai trò bàng quan mà không thực sự tham dự vào việc thờ phượng.
* những lần con tiếc rẻ thời giờ với Chúa bằng cách luôn đi lễ trễ và ra về sớm
Xin tha thứ
* những lần con quá quan tâm đến lỗi lầm của ngưòi khác
* những lần con nhạo cười người khác khi họ bày tỏ đức tin bằng lòng đạo đức chân thành
Lạy Chúa, xin thương xót con theo lượng từ bi của Chúa.
Xin giúp con thiết lập được mối liên hệ gần gũi với Chúa đễ những lời cầu nguyện và ca tụng của con được đi đôi với việc làm.
Xin Chúa đến ngự trị trong tâm hồn con. Xin Chúa là niềm vui, niềm hi vọng và là nguồn ơn cứu độ đời con.
50. Suy niệm của JKN.
Sự công chính và thánh thiện theo quan niệm của Đức Giêsu
Câu hỏi gợi ý:
1. Nhiều người quan niệm: càng giữ luật cho nhiệm nhặt, thậm chí đến từng chi tiết, thì càng nên công chính thánh thiện. Quan niệm như thế có đúng không? Người quan niệm như thế thường gặp những nguy hiểm nào?
2. Đức Giêsu thánh thiện hơn các kinh sư Do thái rất nhiều, nhưng Ngài có giữ luật Thiên Chúa nhiệm nhặt hơn họ không? Tại sao vậy? Ngài quan niệm việc giữ lề luật Thiên Chúa như thế nào?
3. Hành động bên ngoài tự nó có giá trị không? Hay nó còn tùy thuộc vào cái tâm ở bên trong? vào động cơ thúc đẩy ta thực hiện hành động ấy? Vậy: phải có những hành động tốt hay phải làm sao có cái tâm cho tốt?
Suy tư gợi ý:
1. Quan niệm của các kinh sư Do thái về sự công chính
Đọc bốn sách Tin Mừng, tôi phải nể phục sự nghiêm túc giữ luật của các kinh sư Do thái: họ giữ luật Môsê cẩn thận từng chi tiết, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ngoài những điều khoản của lề luật, họ còn giữ cả những chi tiết nhỏ mọn trong truyền thống Do thái giáo. Bài Tin Mừng hôm nay cho biết: «Người Pharisêu cũng như mọi người Do thái đều giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng». Họ hành động như vậy vì họ cho rằng sự công chính và thánh thiện hệ tại việc giữ luật và tuân theo truyền thống tôn giáo cho thật cẩn thận. Càng giữ luật kỹ lưỡng đến từng chi tiết nhỏ nhặt thì càng công chính hay thánh thiện.
Chắc chắn trong họ có những người nghĩ và thực hành như vậy một cách rất chân thành, với mục đích rất tốt lành là nên công chính hay nên thánh. Họ nghĩ rằng tất cả những ai thánh thiện thì đều phải giữ luật như họ. Nếu có ai thánh thiện hơn họ, ắt người ấy phải giữ luật và những tập tục truyền thống một cách nhiệm nhặt và chi ly hơn họ. Chính vì thế, họ ngạc nhiên khi thấy các môn đệ của một thầy dạy đạo như Đức Giêsu lại không giữ luật và truyền thống như họ. Họ hỏi Ngài: «Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?»
2. Sự công chính và thánh thiện theo quan niệm của Đức Giêsu
Nhưng Đức Giêsu đã cho họ - và cả ta nữa - thấy rằng sự thánh thiện không hệ tại việc giữ luật một cách chi tiết như thế, hay giữ theo hình thức bên ngoài, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều. Cái đó ở trong nội tâm, chứ không phải ở bên ngoài. Người ta vẫn nói: «Đạo tại tâm!». Cái đó chính là cái quan trọng nhất trong lề luật, là cốt tủy của lề luật.
Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những chi tiết hay những hình thức bên ngoài của lề luật, thì lại thường coi nhẹ cái cốt tủy của lề luật. Đức Giêsu đã tố giác điều ấy: «Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng (=tức những điều phụ thuộc), mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23). Như vậy, theo Đức Giêsu, ba điều quan trọng nhất trong lề luật, tinh thần của lề luật, cũng là cốt tủy của sự thánh thiện, chính là chân lý, công lý và tình thương.
Thiết tưởng người Kitô hữu không nên đi vào vết xe đổ của người Do thái là cứ quan trọng hóa những điều phụ thuộc, mang tính bên ngoài, như giữ cho thật kỹ lưỡng đến từng chi tiết luật này luật nọ, mà coi nhẹ cốt tủy của lề luật, vốn là tinh thần ở bên trong. Điều thiết yếu là phải có tinh thần hay cốt tủy đó ở bên trong đã, rồi tinh thần đó sẽ tự nhiên thúc đẩy ta thể hiện nó ra bên ngoài thành thái độ hay hành động.
3. Hãy nắm vững cái cốt tủy và ưu tiên thực hiện cốt tủy ấy trước
Nếu chỉ có những hành động giữ luật bên ngoài mà không có tinh thần cốt tủy bên trong, thì việc giữ luật đó sẽ ít giá trị trước Thiên Chúa. Còn những người mà luật Chúa thì không giữ, lại chỉ lo giữ những tập tục tôn giáo truyền thống, chẳng hạn một số thói quen quen được gọi là «việc đạo đức», những nghi thức do con người sáng tạo, việc rước sách đình đám… thì việc giữ những tập tục ấy lại càng ít giá trị hơn. Nên nhớ: tất cả những tập tục này đều tốt, nhưng không phải là cốt tủy: thực hiện được thì tốt mà không thực hiện được cũng chẳng sao. Đức Giêsu đã chỉ cho những người này thấy cái sai của họ: «Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”(Is 29,13). Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm».
Tôi thấy trong nhiều hội nghị Kitô hữu, người ta thường tuân thủ những qui ước minh nhiên (= được qui định rõ ràng) hoặc mặc nhiên (= tự nhiên phải hiểu, phải biết, không cần nói ra). Chẳng hạn như: vấn đề thuộc phạm vi của người nào thì chính người ấy phải nêu lên để bàn. Tuân thủ những qui định ấy là điều rất tốt để bảo vệ trật tự trong hội nghị. Nhưng có những trường hợp mà những vấn đề rất quan trọng có liên quan đến lương tâm của cả hội nghị thì lại không được đem ra bàn, lý do là người có trách nhiệm chính vì một lý do nào đó không chịu đưa ra bàn. Những người khác tuy bị lương tâm thúc giục phải đưa vấn đề ra, nhưng lại vị nể hay quá tôn trọng quyền ưu tiên của người có trách nhiệm chính, nên cuối cùng vấn đề lương tâm cần thiết phải bàn lại bị cho «chìm xuồng», vì thế công ích bị thiệt hại nặng nề. Khi vị nể hay tôn trọng qui ước kiểu ấy phải chăng người ta đã coi qui ước của phàm nhân quan trọng hơn cả luật của lương tâm, cũng là luật của Thiên Chúa? Đạo đức kiểu đó là đạo đức gì?
4. «Đạo tại tâm». Đúng rồi! nhưng coi chừng… tâm giả!
Tuy nhiên, nhiều người lại đi đến một thái cực khác là không thèm làm những thể hiện tốt đẹp bên ngoài. Họ ngụy biện rằng «Đạo tại tâm». Họ cho rằng họ đã có cái cốt tủy của lề luật ở bên trong, nên đủ giá trị trước Thiên Chúa rồi. Nhưng thánh Giacôbê tố cáo họ: «Đức tin không có hành động là đức tin chết» (Gc 2,17.26). Nếu tinh thần cốt tủy kia không được thể hiện ra thành những hành động bên ngoài, thì đó là một nghịch lý, mâu thuẫn. Hãy coi chừng cốt tủy kia chỉ là cốt tủy giả hay tâm giả.
5. Điều quan trọng là bên trong chứ không phải bên ngoài
Đức Giêsu nói: «Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình… Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế». Ngài cho thấy: yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bên ngoài. Chính ý hướng ở bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có giá trị hay không. Nhiều người có những hành động rất tốt nhưng lại làm vì những động lực ích kỷ hay gian ác, thì hành động ấy trở nên xấu. Chẳng hạn những hành động giả nhân giả nghĩa nhằm được một lợi lộc nào đó, như bố thí thật nhiều để được khen, để có tiếng là đạo đức hầu lừa đảo người khác, hay làm việc tích cực chỉ nhằm để được lên chức, để nắm được quyền hành hầu thao túng lũng đoạn tập thể. Ngược lại, có những người «tình ngay mà lý gian», hành động thì có vẻ như xấu, bị kết án, nhưng ý hướng thì tốt lành, nhằm ích lợi cho tha nhân. Họ tuy bị người đời kết án, nhưng lại được Thiên Chúa chúc lành.
Vì thế, trong đời sống tâm linh, người ta phải tu dưỡng cái «tâm» ở bên trong trước: phải có tâm ngay thẳng, thành thật, luôn tôn trọng sự công bằng, biết yêu thương mọi người không phân biệt sang hèn tốt xấu. Khi đã có tâm tốt thật sự, những việc làm của người ấy sẽ tự nhiên đẹp lòng Chúa. Thánh Âu Tinh nói: «Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm!» (Ama et fac quod vis). Khi tâm đã quanh quéo, ích kỷ, sẵn sàng hại người, thì bất kỳ việc làm do tâm ấy thúc đẩy - dù bên ngoài có tốt lành đến đâu - cũng đều mang dấu ấn của tâm ấy, nên không mấy giá trị trước Thiên Chúa.
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin cho chúng con hiểu rằng sự thánh thiện hệ tại tình trạng tốt đẹp tâm hồn hơn là tại những hành động bên ngoài. Xin cho chúng con biết quan tâm đến việc tu tâm dưỡng tánh, nghĩa là có một tâm hồn ngay thẳng, luôn thành thật, luôn tôn trọng và bênh vực công lý, luôn yêu thương mọi người. Tâm tốt lành ấy mới chính là điều cốt yếu làm nên sự công chính thánh thiện của chúng con, hơn là việc giữ luật lệ một cách chi tiết hay việc làm cho thật nhiều những hành động tốt.
51. Giải thích và suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long
TRONG SẠCH VÀ Ô UẾ: TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI PHÀM VÀ ĐIỀU RĂN CỦA THIÊN CHÚA
1.- Ngữ cảnh
Bản văn 7,1-23 là một phân đoạn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Đoạn văn này đã được tác giả Mc đặt ngay trước đoạn tường thuật hoạt động của Đức Giêsu bên đất Dân ngoại. Rõ ràng tác giả đã dùng bản văn này như một lời công bố nguyên tắc: Đức Giêsu đã loại bỏ sự phân biệt giữa “trong sạch và ô uế”. Không có hàng rào nào mà lại do Thiên Chúa muốn có giữa loài người. Chỉ có những hàng rào đã được loài người dựng lên (mà như thế là không biết ý muốn của Thiên Chúa), mà bây giờ phải lật đổ, bởi vì “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (1,15).
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành hai phần:
1) Tranh luận giữa Đức Giêsu và các Pharisêu về trong sạch và ô uế (7,1-8);
2) Giáo huấn của Đức Giêsu về trong sạch và ô uế (7,14-15.21-23).
3.- Vài điểm chú giải
- tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa (2): Giới Pharisêu và kinh sư trách các môn đệ của Đức Giêsu không chịu tuân theo các tập tục truyền thống Do Thái về thanh tẩy. Vậy đây không phải là quan điểm vệ sinh, mà là một nhận định liên hệ đến phượng tự lê-vít (Lv 11–15; x. thêm 19,23-25; 20,7; Đnl 14,3-21; 19; 5,1-4). Lời giải thích của Mc (“nghĩa là chưa rửa”) chứng tỏ ngài viết cho một khối độc giả không quen với những tập tục này. Các câu 3-4 là một giải thích trong ngoặc đơn, cũng vì lý do này.
Trong não trạng người xưa, điều ô uế và điều thánh thiêng là hai khái niệm liên kết với nhau. Cả hai đều hàm chứa một sức mạnh huyền bí và đáng sợ, được phát huy do sự tiếp xúc. Cái ô uế và cái thánh thiêng đều “không thể đụng chạm được”; kẻ nào tiếp xúc với hai “cái” này cũng trở thành “không thể đụng chạm đến được”. Trong Cựu Ước, ta thấy: người ta không thể đụng chạm đến Hòm Bia Giao Ước, cũng như không được chạm đến một tử thi; người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con, vì việc sinh nở đã làm cho bà ra ô uế; vị tư tế phải thay y phục sau khi dâng hy lễ, vì hy lễ đã làm cho vị này ra thánh thiêng. Đây không phải là một sự hoen ố về thể lý hoặc luân lý, và sự thánh thiện đạt được như thế không phải là một nhân đức của tâm hồn, đó là những “trạng thái”, mà người ta phải ra khỏi để trở vào đời sống thông thường (R. de Vaux). Chính khái niệm về “ô uế” và “thánh thiêng” cũng có vai trò trong việc phân biệt Do Thái với các “dân nước” (lương dân). Đây không phải là những khái niệm lý thuyết rút từ Lề Luật, nhưng là những khái niệm diễn tả một kinh nghiệm sống: bình diện của cái “trong sạch” chính là những lãnh vực của sự sống (tượng trưng bằng phượng tự), còn lãnh vực của cái “ô uế” là lãnh vực của sự chết (được tượng trưng bằng các nền phượng tự ngoại quốc).
- rửa tay cẩn thận (3): Từ “cẩn thận” được diễn dịch từ từ ngữ Hy Lạp pygmê (“nắm tay”). Zerw. & Grosv. ghi chú là: ý nghĩa không rõ; dịch sát là: “với nắm tay” [Bản dịch Weymouth: “carefully, diligently” (cẩn thận, chu đáo); BJ: “jusqu’au coude” (tới tận cùi chỏ); NAB: “carefully”; TOB: “soigneusement”; NJBC không dịch nhưng ghi chú: có thể đây là một kiểu nói La-tinh dựa trên pugnus / pugillus là “handful; một nắm, nhúm, bốc, vốc, nghĩa là “với mọt vốc”. Tác giả Mc đang mô tả khối nước được dùng trong nghi thức rửa tay của người Do Thái]. Như vậy, “rửa cẩn thận” có nghĩa là rửa đúng quy cách, theo đúng nghi thức.
- truyền thống của tiền nhân (3): Các “tiền nhân” là các vị tôn sư của Israel kể từ Môsê tại núi Sinai cho đến hôm nay. Tác giả giải thích cho các độc giả Kitô hữu gốc Dân ngoại biết lối thực hành luật trong sạch của người Do Thái bằng cách nêu ra một vài ví dụ chọn lọc. Tuy nhiên, khẳng định rằng mọi người Do Thái đều giữ các quy tắc về trong sạch thì không đúng về mặt lịch sử. Trong thực tế, chỉ người Pharisêu mới đặc biệt bám vào đó, dân thường không quan tâm lắm, còn phái Xađốc đã đả kích việc chuyển các tập tục của hàng tư tế vào đời sống tôn giáo của dân chúng. Thật ra, người Pharisêu đang tìm cách áp dụng luật trong sạch theo nghi thức mà các tư tế trong Cựu Ước phải giữ, cho mọi người Israel, để toàn thể Israel trở thành dân tư tế.
- rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng (4): Một vài nhà chú giải cho rằng giọng văn của Mc ở đây có vẻ châm biếm. Nhiều thủ bản thêm “và giường” vào danh mục (x. Lv 15); ở đây, tình cờ chi tiết này bị quên, hay đã bị cố tình bỏ đi vì nghe không thuận.
- đạo đức giả (6): Nghĩa chữ của từ hypokritês là “một diễn viên”, “người đeo một mặt nạ”.
- Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng: Câu trích Is 29,13 này được lấy từ Bản LXX, chứ không từ bản Híp-ri, nhưng cũng có những khác biệt. Có thể Mc (hoặc truyền thống của ngài) đã sử dụng một bản dịch Hy Lạp khác.
- Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa … (8): Lời Đức Giêsu nói đây minh hoạ những gì được hàm chứa trong câu trích. Hẳn là người Pharisêu và các kinh sư sẽ cực lực phản đối lời kết án này, bởi vì chính họ đang thấy là họ có công trong công việc làm cho những giáo huấn không rõ ràng trong Lề Luật trở thành thực tiễn và cụ thể!
- Không có gì từ bên ngoài … (15): Đức Giêsu đã nói theo kiểu một mâshâl, chứ không phải là một tuyên ngôn. Người không chọn đứng về phía “bên trong” để chống lại phía “bên ngoài”, Người không trực diện đối lập với luật của Cựu Ước. Người mời con người đi ra khỏi tình trạng tồi tệ của họ, không phải nhờ những nỗ lực trí tuệ, mà là bằng một sự hoán cải tận căn. Bằng câu nói này, Đức Giêsu khẳng định con người có một tự do phi thường. Như vậy, con người phải có ý thức về trách nhiệm của mình trước mặt Thiên Chúa và loài người.
- những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp… (22): Danh mục này kể ra 12 tật xấu và tội lỗi. Trong phần Tân Ước còn lại, cũng có những danh mục như thế (x. Gl 5,19-21; Rm 1,29-31; 1 Pr 4,3). Trong danh mục Mc, có những từ ngữ tương tự với các danh mục Phaolô. “Thể văn danh mục” là thể văn quen thuộc trong thế giới hy-la và cũng có xuất hiện trong thế giới Do Thái giáo (x. 1 QS 4,9-11).
- Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong … (23): Câu này tóm tắt sứ điệp của phần thứ hai.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Tranh luận giữa Đức Giêsu và các Pharisêu về trong sạch và ô uế (1-8)
Vấn đề hôm nay không còn là: điều gì làm cho chúng ta nên trong sạch hoặc ra ô uế, mà là: Chúng ta phải đánh giá lối sống của chúng ta dựa trên điều gì? Điều gì có một trọng lượng quyết định cho tương quan của chúng ta với Thiên Chúa?
Đức Giêsu đặt điều răn của Thiên Chúa ở ngay trung tâm (c. 8). Tất cả lối cư xử của chúng ta đều được quy định bởi các điều răn: tất cả những gì chống lại các điều răn hoặc ngăn cản thực thi các điều răn đều là lời nói của loài người.
* Giáo huấn của Đức Giêsu về trong sạch và ô uế (14-15.21-23)
Trước tiên, Đức Giêsu khẳng định rằng các hành vi gian tà phát xuất từ trái tim gian tà. Do đó, mối bận tâm đầu tiên của con người là có được một trái tim trong sạch. Trái tim trong sạch làm cho con người sẵn sàng tức khắc đến gặp Thiên Chúa và sống bền vững trong tình hiệp thông với Ngài. Khi kể ra những ý hướng xấu xa có thể phát xuất từ trái tim con người (7,21t), Đức Giêsu đã đan cử vài ví dụ để cho thấy trái tim phải được giải thoát khỏi điều gì để nên trong sạch, tức là để sẵn sàng thấy Thiên Chúa (x. Mt 5,8). Các điều được kể ra (tà dâm, trộm cắp, giết người) là những điều bị cấm theo Mười Điều Răn, cùng với một số thái độ xấu phát sinh từ các tội đó (tham lam, ganh tị, xảo trá). Như thế, giáo huấn về trong sạch và ô uế có thể nói là một bài bình giải Mười Điều Răn. Những thiếu sót được Đức Giêsu nhắc tới có thể giải thích như sau: sự phỉ báng là điều ngược lại với việc ca ngợi và thờ phượng Thiên Chúa. Còn trong thái độ kiêu ngạo, con người nghĩ mình không cần Thiên Chúa, mình có thể làm và sắp xếp mọi sự. Sự ngông cuồng (rồ dại) đây là không sẵn sàng nhận biết Thiên Chúa là Đấng vĩ đại và toàn năng.
+ Kết luận
Ngày hôm nay, có khi còn hơn bao giờ hết, các Kitô hữu cũng đang bị cám dỗ bỏ rơi lệnh truyền của Thiên Chúa mà chọn truyền thống của loài người, bị cám dỗ tôn thờ Thiên Chúa chỉ bằng môi miệng, còn lòng trí thì ở xa Ngài. Do đó, lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải vẫn còn rất hợp thời. Trái tim con người cần được thanh thoát với mọi sự, để có thể đầy tràn cảm thức về Thiên Chúa, để có thể nhìn nhận với lòng biết ơn sự lệ thuộc của mình vào Ngài. Cần phải tức khắc, ngay hôm nay, ngay tại vị trí này, lắng nghe lại các lề luật của Thiên Chúa và đưa ra thực hành.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hôm nay, chúng ta cũng có thể bị Đức Giêsu trách: chúng ta tự đặt ra cho mình những luật lệ loài người, những luật lệ được tính ích kỷ tạo ra hoặc những luật lệ chúng ta áp đặt cho mình từ bên ngoài. Chúng ta thường để mình đi theo những gì được coi là đáng chuộng, là cần thiết, là tân thời, là hiện đại. Thế giới hiện đại với chủ trương duy vật và khai thác xu hướng tiêu thụ có thể khiến chúng ta lạc xa đường lối của Thiên Chúa, là đường lối duy nhất bảo đảm cho chúng ta được sống muôn đời.
2. Nẻo đường duy nhất giúp ta đạt tới đó là sống không phải theo những quy tắc của loài người, nhưng theo ý muốn của Thiên Chúa. Và như thế có nghĩa là giữ điều răn bên ngoài mà thôi thì không đủ; chính trái tim con người phải quy hướng về thánh ý Thiên Chúa. Cũng nên ý thức về tính đòi hỏi, bó buộc, của các điều răn của Thiên Chúa, vì các điều răn không bảo: Nếu ngươi muốn, ngươi có thể làm điều này điều nọ, nhưng bảo: Ngươi phải làm, ngươi không được làm.
3. Tuy nhiên, con người chúng ta dễ rơi vào thói ỷ lại, qua việc để cho ai đó quyết định mọi sự cho mình. Chúng ta yêu cầu có những quy luật và nguyên tắc rõ ràng để tuân giữ, nhưng chúng ta cằn nhằn bởi vì chúng ta không thể thấy lý do vì sao có những quy luật và nguyên tắc đó hoặc vì thấy chúng quá khó giữ. Cuối cùng, chúng ta lại bị cắn rứt hoặc đi xưng tội chỉ để trấn an lương tâm. Kitô hữu không coi thường bất cứ “truyền thống”nào, nhưng muốn kiểm chứng tất cả. Họ muốn xem là các “truyền thống” có thật sự là cách diễn tả và là kết quả của các yêu cầu theo Tin Mừng chăng, hay chúng chỉ là những thói tục (ít nhiều khôn ngoan), là kết quả của những nhạy cảm hoặc là những đường lối suy nghĩ của những nhóm người nào đó. Nếu gặp một quy luật nào đó không có liên hệ gì với Tin Mừng, các Kitô hữu phải bỏ ngay đi, cho dù những người trình bày cam kết rằng chúng là thánh ý của Thiên Chúa!
4. Sự lây nhiễm không đến từ bên ngoài nhưng đến từ bên trong, từ trái tim. Đức Giêsu đã kể ra các tật xấu làm cho người ta trở thành ô nhơ. Điều làm cho một hành vi nên tốt hoặc thành xấu không phải là sự phù hợp với một quy luật hay một nguyên tắc nào, nhưng là nó có tôn vinh Thiên Chúa và mưu ích cho người khác không.
52. Chú giải của Noel Quesson.
Có những người Pharisêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những người từ Giêrusalem đến
Đối với Maccô, nơi chốn luôn có một giá trị biểu tượng Giêrusalem là nơi chống đối Đức Giêsu. Qua mười một chương đầu của Tin Mừng trong suốt phần đầu của sứ vụ Đức Giêsu, mỗi lần kể tên thành phố này là nhắc đến sự chống đối: Chính từ Giêrusalem, Thủ đô chính trị và tôn giáo này, đã xuất phát mọi cuộc công kích đầy ác ý. Chính nơi đó, những nhà hữu trách của đất nước sau này sẽ kết án tử hình Chúa, và giao nộp Chúa cho dân ngoại.
Lạy Chúa, đây là mầu nhiệm việc loài Người ruồng bỏ Chúa. Và theo đó, Giêrusalem cũng tượng trưng cho toàn thế giới.
Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Do thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng.
Đây là vấn đề không phải chỉ là vệ sinh, mà là tập tục tôn giáo về "sạch" và "nhơ", được ghi thành luật của Môsê trong sách Lêvi (11), được thêm vào nhiều chi tiết và quy định qua truyền thống. Người Pharisêu đã thành lập một thứ đảng phái tôn giáo mà chúng ta có thể lầm lẫn nếu tự động xem họ như những người giả hình. Ngược lại, để trung thành với lề luật tổ tiên, họ tuân giữ kỹ lưỡng từng chi tiết truyền thống: Họ đã kê ra hơn 600 giới răn phải tuân giữ! Để tìm hiểu sự thánh thiện và thể hiện tình yêu tinh tế đối với Chúa, lúc nào trong ngày họ cũng nghĩ về Chúa, dù phải làm đủ thứ việc.
Vậy, người Pharisêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?”.
Có nhiều cách giải thích cho thái độ này:
1) Môn đệ của Đức Giêsu và chính Đức Giêsu, là những người xứ Galilê, những người thuộc tỉnh lẻ, dù vẫn là những tín hữu sốt sắng, nhưng đã cho chen vào tục lệ chung một vài truyền thống địa phương bị những người "trong sạch" ở Giêrusalem coi như những thái độ buông thả. Chúng ta biết rằng Đức Giêsu thường bênh vực những người bị đăt ra "ngoài lề", những người bị khinh chê: Đó là loại người tội lỗi thu thuế, gái điếm. Đức Giêsu đã bày tỏ quan điểm mạnh mẽ về lòng xót thương và độ lượng với những kẻ hèn mọn, nghèo khổ... nghịch lại thái độ xét đoán khắt khe của Giêrusalem. Còn chúng ta thì sao?
2) Nhưng có một lý do khác, có lẽ quyết định hơn: Đó là Đức Giêsu có một đường hướng sâu sắc về "tính phổ quát”. Người huấn luyện dần dần các môn đệ để thành thừa sai trong những quốc gia có văn hóa khác với môi trường Do Thái cổ truyền: Những khuôn khổ chật hẹp và rất cá biệt của đạo Do Thái cần phải bung ra, để chỉ còn giữ những điều cốt yếu, nhằm cho người ngoại giáo có thiện chí, không có những tục lệ về ăn uống như người Do Thái, có thể đón nhận đức tin.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết phân biệt những gì là cốt yếu trong sứ điệp của Chúa với những gì là tục lệ cổ truyền của những thế kỷ trước, thường làm cho những người thuộc thời đại chúng con chán ngán một cách vô lý. Lạy Chúa, sống giữa thời đại biến đổi văn hóa này, xin cho chúng con nhận biết những gì là bất di bất dịch và những gì phải thay đổi, để cho hậu thế không bị nhũng lại trước đức tin, chỉ vì chúng con quá ràng buộc họ vào những "tập tục người xưa".
3) Nhưng lát nữa, Đức Giêsu còn đưa ra một lý do thứ ba cho thái độ mới mà Người đề cao: Đó là những "tục lệ” không phải do Chúa, mà phát sinh từ con người của những thời trước. Vậy, những tập tục này cần phải tùy thuộc vào sự tiến hóa.
Người trả lời họ: "Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”
Câu trả lời của Chúa thật là mạnh mẽ. Người bắt đầu tấn công. Người dựa trên Kinh thánh để trả lời cho những kẻ tấn công môn đệ của Người (Is 29,13). Các ngôn sứ cũng thường lên án thứ tôn giáo duy hình thức đó. Đối với Thiên Chúa, không phải những cử chỉ bên ngoài là quan trọng, mà là "tấm lòng". Thờ phượng chỉ để thờ phượng, thì không có giá trị. Việc phụng tự phải nói lên những xác tín sâu xa.
Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: "Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ:
Đức Giêsu kêu gọi, cần phải hiểu biết và suy tư. Không cần phải lặp lại những cử chỉ hay tập tục, chỉ vì người ta đã làm như vậy từ lâu.
Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.
Trong Do Thái giáo, luật về sự thanh sạch theo nghi thức có nhiều ảnh hưởng đối với chế độ ăn uống: Cấm ăn thịt một số động vật, chẳng hạn theo sách Lêvi 11. thì bất cứ thịt nào cũng là dơ bẩn, hay những con thú không bị cắt tiết (Lc 17,10-14). Những quy định này làm cho sự đồng bàn đồng tịch giữa người Do Thái và không phải Do Thái không thể nào thực hiện được, nếu không chấp nhận theo tục lệ người Do Thái. Đó là một thứ rào cản để bảo vệ Người Do Thái không được tiếp cận với thế giới ngoại đạo. Còn Đức Giêsu thì tuyên bố: "Tất cả các thức ăn đều thanh sạch" (Mc 7,19). Quan điểm này lúc bấy giờ có vẻ cực kỳ lạ lùng, táo bạo, và phóng khoáng. Như ngày nay chúng ta vẫn thường nói. Chúng ta biết rằng, trong Giáo Hội sơ khai, vấn đề này chưa được giải quyết (Cv 10,15).
Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu:
Yếu tố làm cho con người ra nhơ bẩn thực sự, không phải cái người ta ăn, mà là điều người ta nghĩ. Sự nhơ bẩn không nằm trong vật chất bên ngoài của một hành vi nào đó mà là trong lòng chúng ta? ở đây, Đức Giêsu đưa vào luân lý một nguyên tắc hết sức cốt yếu, nhưng không được tâm tri người thời nay áp dụng thực sự: Có những kiêng kỵ vẫn còn tồn tại, là rất trái ngược với Tin Mừng. Hai hướng tinh thần giáo phái "Cathare" vẫn tồn tại. Giáo phái này lên án thân xác và vật chất. Nhưng Kitô hữu đầu tiên hẳn là đã phải chiến đấu chống lại Ngộ đạo thuyết và thuyết "Ma-nét" là nhưng chủ thuyết khinh bỉ phái tính: “Tất cả những gì Chúa đã dựng nên đều là tốt và không có gì là độc hại nếu ta đón nhận những điều đó trong thái độ tạ ơn".
Thánh Phaolô đã nói như vậy (1Tm 4,4). Chúng ta cần ghi nhận rằng, Đức Giêsu không vì thế mà cố biện minh cho chứ quan thuyết có lẽ sẽ làm mất bản chất tư tưởng của Chúa, nếu hiểu những lời này như là một sự biện minh cho chủ trương "tự do phong tục": Nghĩa là mỗi người có quyền làm những gì theo tiếng nói con tim! Đức Giêsu không loại tự ý niệm về "điều xấu”. Người xác định vị trí điều xấu đó ngay bên trong con người, trong sự thiếu tình thương. Đó là nguyên tắc căn bản của mọi thứ đạo đức mọi nền luân lý không phải sơ đẳng: Chỉ cần làm một cử chỉ nào là tự động phạm một tội thì chưa đủ. Cái xấu không phải ở trong sự vật, nó ở bên trong chúng ta. Vâng, tâm hồn chúng ta là nguồn phát sinh ra thứ nước ô nhiễm do lòng ích kỷ hãy nước trong sạch do tình yêu của chúng ta. Do đó chúng ta không thể xét đoán Người anh em theo bề ngoài, vì chúng ta không thấy được tâm hồn người ấy, lương tâm người ấy.
Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.
Đây là danh mục duy nhất về tội lỗi mà Chúa Kitô đã cho chúng ta biết, ngang qua đời sống của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Tất cả những tội lỗi này liên quan đến tình yêu, đến tha nhân. Đức Giêsu kể ra 4 nhóm mỗi nhóm 3 tật xấu. Trong tiếng Hy Lạp 6 tật xấu đầu tiên được nói theo số nhiều và 6 tật xấu sau được nói theo số ít. Điều đó chỉ nhằm giúp dễ đọc để dễ thuộc lòng. Vậy thì có 12 tội: Con số của sự sung mãn. Tất cả đều ở đấy. Chúng ta phải thương yêu. Chúng ta sẽ bị xét đoán dựa theo tình yêu và tấm lòng của chúng ta (Mt 25).
Rất có thể con người ngày nay không thích kể ra những tật xấu. Thời đại của chúng ta đã đánh mất quá lớn ý thức về một điều cốt yếu trong mọi nền văn minh cổ đại: Đó là vẻ đẹp của đức tính và cái xấu của tội lỗi. Chúng ta cần lưu ý rằng, luân lý của Đức Giêsu là một thứ luân lý phổ quát biết bao! Đức Giêsu biết rõ lòng người. Đó là luân lý căn bản tự nhiên nhất mà Đức Giêsu đặt lại thành giá trị vượt lên trên những tập tục riêng của một nền văn minh. Không có một tục lệ quốc gia nào, một tập truyền tổ tiên nào có thể đi ngược lại những luật căn bản này mà mọi người đều phải công nhận trong thâm tâm của mình.
Hỡi người anh em, không nên lướt đọc quá nhanh danh mục trên, như nó không liên quan gì đến bạn. Bạn hãy tự hỏi sự tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, kiêu ngạo, ngông cuồng đã mang một hình thức rõ rệt nào, hay đội lốt gì đối với bạn?
Lạy Chúa, xin hãy thanh tẩy chúng con và giúp chúng con được gần Chúa hơn.
53. Chú giải của William Barclay.
SẠCH VÀ KHÔNG SẠCH (Mc 7,1-4)
Chỗ khác nhau về cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với người Pharisêu và các Kinh sư mà chương sách này ghi lại vô cùng quan trọng. Vì nó cho ta thấy hai đường hướng trái ngược nhau giữa Chúa Giêsu với người Do Thái chính thống giáo vào thời của Ngài.
Vấn đề đặt ra là: Tại sao Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài không giữ theo truyền thống của người xưa? Truyền thống đó là gì và tinh thần vận dụng đó là gì?
Đối với dân Do Thái, thì luật có hai nghĩa. Thứ nhất và quan trọng hơn hết là Mười Điều Răn và thứ hai là năm quyển sách đầu của Cựu Ước hoặc gọi theo cách của họ là Ngũ Kinh (Pentateuch). Sự thật, Ngũ Kinh hàm chứa một số quy tắc và chỉ dẫn chi tiết, nhưng về các vấn đề đạo đức, những gì được nêu lên chỉ là một loạt nguyên tắc mà người ta phải tự cắt nghĩa và ứng dụng cho riêng mình. Qua một thời gian dài, dân Do Thái bằng lòng với việc làm ấy.
Nhưng đến thế kỷ thứ tư và năm TCN, một giai cấp các chuyên gia về luật xuất hiện, được biết với biệt danh là “các Kinh sư”. Nhóm người này không hài lòng với các nguyên tắc lớn về đạo đức, họ có một đam mê có thể gọi là chứng bệnh thích định nghĩa. Họ muốn triển khai, phóng đại, phân tích các nguyên tắc lớn ấy biến chúng thành hàng ngàn luật lệ, quy tắc nhỏ nhặt, để điều khiển từng hành động, từng hoàn cảnh riêng lẻ của đời sống. Các luật lệ và quy tắc ấy không hề được viết ra, cho đến sau thời Chúa Giêsu một thời gian dài. Chúng vẫn được gọi là Luật Truyền Khẩu. Đây chính là cái gọi là tương truyền của người xưa.
Người xưa đây là các đại chuyên viên về luật của các thời kỳ về trước, chẳng hạn như Hillel và Shammai. Đến cuối thế kỷ 3 SCN, người ta mới tóm tắt tất cả các luật lệ và quy tắc đó và viết lại thành sách, phần tóm lược đó gọi là Kinh Mishnah.
Các luật lệ, quy tắc của đoạn sách này có hai điểm thường xuất hiện trong cuộc tranh luận. Một là việc rửa tay. Các Kinh sư và Pharisêu tố cáo các môn đệ của Chúa đã ăn với bàn tay ô uế. Từ Hy văn là koinos, có nghĩa là bình thường, thông thường, rồi nó được dùng để mô tả vật gì thông thường theo nghĩa là không thánh, vật gì phàm tục, đối lập với vật thánh, thiêng liêng. Và cuối cùng như ở đây, nó mô tả một việc ô uế về mặt lễ nghi, không thích hợp cho việc phụng vụ và thờ phượng Thiên Chúa.
Có nhiều luật lệ rõ ràng và nghiêm nhặt về việc rửa tay. Nhưng cần ghi nhận là việc rửa tay ở đây không nhằm quan tâm vấn đề sạch sẽ về phương diện vệ sinh, nó là sạch sẽ về mặt lễ nghi. Trước khi dùng bữa và giữa hai món ăn, người ta phải rửa tay và phải rửa theo một cách thức nhất định. Để bắt đầu, phải làm cho đôi bàn tay không còn dính đất cát với vữa đá sỏi vụn hay các vật tương tự. Nước rửa tay phải được đựng trong những ché đá lớn đặc biệt để chính chúng không hề được dùng vào việc nào khác và chẳng có vật gì rơi rớt hay lẫn lộn, pha trộn vào đó. Trước hết bàn tay được xòe ra, các đầu ngón tay chỉ lên trên, nước phải được đổ phía trên và chảy xuống ít nhất là đến cổ tay, lượng nước tối thiểu phải dùng là ¼ log, tương đương với số nước đựng đầy một vỏ quả trứng rưỡi. Trong lúc hai bàn tay hãy còn ướt, phải rửa tay này bằng mu bàn tay kia. Đây là câu cắt nghĩa cách thức rửa tay này bằng mu bàn tay kia: mu bàn tay này phải kỳ cọ vào lòng bàn tay kia và toàn thể bề mặt của bàn tay kia. Như thế có nghĩa là trong giai đoạn này, hai bàn tay đã ướt nước, nhưng bây giờ nước đó đã bị dơ vì đã tiếp xúc với hai bàn tay dơ rồi. Một lần nữa, phải chụm các ngón tay lại, chúc xuống dưới rồi đổ nước lên, sao cho nước từ cổ tay chảy xuống khắp các đầu ngón tay. Sau khi đã làm đúng như thế, thì hai bàn tay mới được sạch.
Dưới mắt người Do Thái, nếu ai không làm đúng như vậy, chẳng những là kẻ cư xử xấu xa, dơ dáy theo nghĩa có hại cho sức khỏe, nhưng còn là kẻ ô uế trước mặt Chúa. Ai ăn với đôi tay không rửa sạch thì bị con quỷ gọi là Shibta tấn công. Không rửa tay như vậy sẽ có thể bị nghèo khổ, tán gia bại sản. Ăn bánh với đôi tay không sạch, chẳng khác gì ăn phân. Có lần nọ, một Rabbi quên giữ nghi lễ đó đã bị khai trừ có nghĩa là được làm lễ an táng với nghi thức dứt phép thông công. Một Rabbi khác, trong lúc bị người Roma cầm tù, đã dùng nước để rửa tay vì để uống, cuối cùng ông ta đã gần chết vì khát, vì ông ta nhất định giữ luật rửa tay thay vì uống cho đỡ khát.
Với người Do Thái theo Pharisêu và Kinh sư, thì đó là tôn giáo. Đó là nghi thức, nghi lễ, luật lệ, quy tắc, được xem như chính việc phụng vụ. Tôn giáo đạo đức đã bị chôn sâu dưới một khối khổng lồ những cấm kỵ, quy tắc và luật lệ.
Những câu sau của đoạn sách này đề cập sâu xa hơn quan niệm về sự ô uế này. Một vật theo nghĩa thông thường là hoàn toàn sạch sẽ, nhưng lại kể là ô uế theo nghĩa luật lệ. Có vài điểm liên quan đến sự ô uế này được chép trong Lêvi 11,15. Dân số 19. Một vật theo nghĩa bình thuờng là hoàn toàn sạch sẽ. Ngày nay chúng ta thường nói đến những điều bị cấm thay vì bảo rằng chúng bị ô uế. Có một số thú vất vốn là ô uế (Lv 11); một sản phụ bị xem là ô uế sau khi sanh nở; một người phong bị ô uế; ai chạm đến một xác chết bị ô uế. Mà đã ô uế thì làm ô uế luôn những vật nào mình chạm đến. Một người ngoại là ô uế, thức ăn mà người ngoại chạm đến cũng ô uế, bất ký cái chén, cái bình, vật dụng nào người ngoại chạm đến đều là ô uế cả. Cho nên, mỗi khi một người Do Thái giữ đạo nghiêm nhặt đi chợ về, anh ta phải ngâm toàn thân trong nước để được sạch.
Những vật dụng như bình, lọ, chén, bát rất dễ bị ô uế. Một người ô uế có thể chạm vào đó, hoặc người ta dùng nó đựng một thức ăn ô uế. Đây chính là điều đoạn
01/09 Trung tín và sáng kiến
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Trung tín và sáng kiến.
Thứ bảy đầu tháng, tuần 21 thường niên.
"Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
Lời Chúa: Mt 25, 14-30
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy theo khả năng mỗi người, đoạn ông ra đi.
Người lãnh năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Cũng vậy, người lãnh hai nén cũng làm lợi ra hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình.
Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc, đây tôi đã làm lợi được hai nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
"Còn người lãnh một nén bạc đến và nói: "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt chỗ không gieo và thu nơi không phát, nên tôi khiếp sợ đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Đây của ông, xin trả lại ông". Ông chủ trả lời người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra ngươi phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc, nghiến răng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Trách nhiệm của các bậc cha mẹ
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến việc một ông chủ trước khi đi xa, đã trao cho đầy tớ, mỗi người một số nén bạc để làm lợi thêm, và khi trở về, ông chủ đã gọi các đầy tớ đến tính sổ. Ðã có nhiều lối giải thích suy tư về các nén bạc; ở đây chúng ta lồng dụ ngôn trong khung cảnh: ông chủ là Thiên Chúa, đầy tớ là các bậc cha mẹ, nén bạc là con cái.
Ðiều răn thứ tư dạy con cái phải thảo kính cha mẹ; điều này có nghĩa là nếu con cái lỗi phạm giới răn này thì sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt. Bổn phận của con cái là tôn kính, yêu mến và đền đáp công ơn cha mẹ: đó là bài học cơ bản của các kẻ làm con. Tuy nhiên, Thiên Chúa sẽ không phải là vị thẩm phán chí công, nếu không xét xử những bậc cha mẹ không làm tròn bổn phận của mình. Nếu con cái phải thảo kính cha mẹ, thì cha mẹ cũng phải tôn trọng yêu thương con cái. Mỗi người con là một nén bạc Chúa trao, cha mẹ là những đầy tớ có nghĩa vụ canh giữ và làm lợi nén bạc này. Dĩ nhiên, chỉ một mình Thiên Chúa mới là chủ duy nhất và tuyệt đối trên mỗi người con: bổn phận của cha mẹ là cộng tác dưỡng nuôi thân xác, hướng dẫn tinh thần và thiêng liêng, để con cái lớn lên trong sự thật và trong niềm kính sợ yêu mến Thiên Chúa.
Nếu con cái là hình ảnh của cha mẹ tiếp liền sau hình ảnh của Thiên Chúa, thì điều này nhắc nhớ cha mẹ phải là những người sinh con hai lần: một lần cho trần gian, và một lần cho Thiên Chúa. Ðịnh mệnh vĩnh cửu của con người không phải ở trần gian này, nhưng là trời cao. Do đó, cha mẹ phải luôn hướng dẫn tâm hồn con cái hướng về trời cao khi chúng còn thơ bé, và cả khi chúng đã lớn khôn nữa.
Trách nhiệm của các bậc cha mẹ thật nặng nề, nhưng cũng vô cùng cao cả. Nếu cha mẹ chu toàn bổn phận Chúa trao, chắc chắn trong ngày Chúa đến, họ sẽ được nghe lời này: "Hỡi tôi tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi". Và đó là điều chúng ta phải cầu xin cho các bậc làm cha mẹ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Cộng tác với ơn Chúa (Mt 25,14-30)
Qua đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Thiên Chúa như ông chủ đi công tác xa trao lại cho mỗi chúng ta một số bạc, tượng trưng cho tất cả những gì Ngài ban cho chúng ta và bổn phận chúng ta là dùng số bạc đó để sinh lợi. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Ðấng dựng nên ta và ban cho chúng ta những khả năng riêng, những nén bạc nhiều ít tùy ý Ngài. Chúa cũng chỉ đòi hỏi chúng ta sinh lợi theo khả năng của mình. Thiên Chúa không bắt chúng ta phải làm những gì vượt quá khả năng Ngài đã ban cho chúng ta, chỉ cần một chút trung thành là chúng ta có thể làm trọn công việc của Ngài trao cho chúng ta.
Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến và thanh toán sổ sách. Kẻ sinh lợi được năm nén cũng được khen như người sinh lợi được hai nén: "Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành, được giao ít mà anh đã trung thành thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào hưởng niềm vui của chủ anh", vì cả hai cùng làm tròn nhiệm vụ của chủ giao với hết khả năng của mình. Nhưng khả năng Chúa ban cho không phải chỉ để được chôn vùi dưới đất, không phải để được cất giữ nhưng phải để được sinh lợi, phục vụ anh em.
Vậy mỗi chúng ta hãy cố gắng sống trung thành và trọn vẹn với những gì mình đã lãnh nhận, tức là chúng ta tích cực cộng tác với ơn của Chúa, với tinh thần trách nhiệm để làm cho những ân huệ, những khả năng Chúa ban và ngay cả sự hiện hữu của ta được sinh hoa kết quả trong cuộc sống hàng ngày, là thời gian dường như Chúa vắng mặt. Chúng ta không nên có thái độ như người lãnh một nén, xem Chúa như người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, nên đã lo sợ và đem chôn giấu nén bạc dưới đất, để rồi đến lúc đem trả lại y nguyên. Chúa sẽ trách chúng ta như ông chủ trong dụ ngôn trách người đầy tớ biếng nhác: "Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác, anh đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi sổ bạc của tôi cho các chủ ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu hồi của thuộc về tôi cùng với số lời chứ. Vậy, các ngươi hãy lấy nén bạc khỏi tay nó mà đưa cho người có mười nén". Chúng ta không nên nghĩ xấu cho Chúa để rồi sống mà lúc nào cũng nơm nớp lo sợ Ngài. Nhưng hãy sống đơn sơ phó thác như con thảo đối với cha mình và yêu thương anh chị em. Khi sống trong tình thương và gắn bó với Thiên Chúa, chúng ta sẽ chẳng bao giờ thấy sợ hãi nhưng là luôn sống tích cực trong phận vụ của mình trong sự cậy trông và tin tưởng vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa.
Lạy Chúa,
Xin ban cho chúng con một đức tin vững bền để chúng con trung thành với ơn mình đã lãnh nhận là làm phát sinh những điều thiện hảo, nhờ đó mọi người sẽ được hưởng niềm vui của ngày Chúa đến trong vinh quang.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Sau một thời gian
Đức Giêsu nói: “Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ riêng của mình đến, mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy khả năng riêng mỗi người.” (Mt. 25, 14-15)
Dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, Chúa nhắc nhở chúng ta là: trong suốt đời sống của chúng ta không phải chỉ có trung tín làm theo ý Chúa mà còn phải biết sáng kiến và làm theo những điều Chúa mong đợi mỗi người chúng ta.
Tùy theo phương tiện mỗi người.
Điều đáng chú ý là Chúa không đòi cái gì quá sức chúng ta, quá khả năng chúng ta. Không thể đòi ta phải làm cho ta lớn lên một tấc! khi người ta đòi phải “ vượt mức chỉ tiêu” thì đó chỉ là đòi theo sức tương đối không hiểu như một bổn phận. Cũng thế, Chúa đòi ta phải đổi mới con người, có ý nghĩa là sửa chữa, đào tạo, giáo dục con người đã dựng lên và con người tạo vật của mình.
Chúng ta được biết rằng chủ sẽ về sau một thời gian. Chúa cho chúng ta thời gian để thực hiện đời sống mình và sống theo thánh ý Chúa. Nếu chúng ta làm những điều xấu, sống trong lầm lạc, Chúa không đến treo giò không kết án ngay đâu.
Chúa cho chúng ta thời gian làm cho sinh hoa kết quả những ơn mà Chúa cho chúng ta mượn để rồi lại ban tất cả cho chúng ta. Ngài nắm giữ thời gian, Ngài để cho chúng ta bắt tay vào việc. Đầy tớ trung tín lo làm trọn điều mình phải làm, chủ có thể về tùy theo lúc chủ muốn, chủ sẽ vui mừng khi ý chủ đã được thực hiện, mọi sự đều tốt đẹp.
Lòng yêu mến nồng nàn.
Khi ta trung thành vui vẻ theo ý Chúa, Ngài có thể đòi hỏi ta tùy lúc Ngài thỏa lòng, Ngài mong chúng ta luôn sẵn sàng.
Vậy mọi sự đều tùy thuộc lòng mến của ta.
Đầy tớ xấu thì sao? Tại sao nó không được thưởng? Nó không làm gì, chẳng yêu ai, chỉ biết đổ lỗi thất bại cho người khác: “Thưa ông, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo thu nơi không vãi...”. Ai đáng trách? chủ hay đầy tớ lười biếng vô dụng? Ai trong chúng ta đáng trách? nếu chúng ta từ chối Thiên Chúa và thánh ý Ngài?
Ước chi chúng ta can đảm một chút để nhận lỗi, hãy chân thành thú nhận những ti tiện của mình.
JM
SUY NIỆM 4: SUY NIỆM 4: …
…
Ngọc Biển ssp
SUY NIỆM 5: Vào mà hưởng niềm vui
Suy niệm:
Người ta vẫn hay có cái nhìn tĩnh và buồn về đời sống Kitô hữu.
Đó là một đời sống cam chịu, nhẫn nhục, cúi đầu vâng phục Ý Chúa,
một đời sống khổ đau vì phải bước theo Chúa Giêsu vác thánh giá.
Nhìn như thế đúng nhưng không đủ.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một cái nhìn khác,
tươi tắn hơn nhiều, chủ động và tích cực hơn nhiều.
Thiên Chúa được ví như một ông chủ sắp đi xa.
Vì tin tưởng các đầy tớ của mình, nên khi vắng nhà (c. 14),
ông không ngại giao phó cho họ những món tiền rất lớn, tùy khả năng.
Người được năm yến, kẻ được hai, người được một (c. 15).
Mỗi yến bạc tương đương với sáu ngàn ngày công.
Hẳn các đầy tớ hiểu ý chủ muốn mình đầu tư sinh lợi.
Anh nhận được năm yến đã đi ngay lập tức và làm ăn với số vốn ấy.
Chúng ta không rõ anh đã đầu tư thế nào và bao lâu,
chỉ biết anh đã sử dụng cách hiệu quả những gì anh nhận được.
Sau một thời gian, tiền lời bằng số vốn bỏ ra.
Anh nhận được hai yến cũng vậy, cũng sinh lợi được hai yến khác.
Anh được một yến cũng đi,
nhưng là đi đào lỗ dưới đất để chôn giấu yến bạc (c. 18).
Anh không dám đầu tư vì sợ làm ăn lỗ lã.
Anh sợ số bạc lớn bị mất, nên anh muốn chôn giấu nó cho an toàn.
Khi ông chủ trở về để nghe báo cáo sổ sách của các đầy tớ,
ông đã khen hai anh đầy tớ vất vả làm ăn bằng những lời giống nhau:
“Khá lắm! Anh đúng là tôi tớ tốt lành và trung tín!
Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh.
Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (c. 21. 23).
Còn anh đầy tớ chôn giấu yến bạc dưới đất vì sợ hãi ông chủ,
đã bị chủ chê là đầy tớ xấu xa và biếng nhác.
Yến bạc của chủ còn nguyên chẳng hề là điều đáng tự hào.
Ông chủ ngạc nhiên vì tại sao anh lại không gửi tiền vào ngân hàng
để đồng vốn có thể sinh lợi (c. 27).
Anh bị tước mất yến bạc anh đã giữ kỹ, và tống vào chỗ tối tăm.
Một đầy tớ không sinh lợi từ số vốn được trao là một đầy tớ vô dụng (c. 30).
Mỗi Kitô hữu cũng là một người đầy tớ, một quản lý của Chúa,
được tin cậy giao phó, được yêu cầu đầu tư, được mong mỏi sinh lợi.
Sống đời Kitô hữu là chấp nhận dùng tất cả khả năng của mình (c. 15)
để làm cho những gì Chúa ban sinh lợi nhiều nhất.
Điều đó cần đến công sức, tính toán, sáng tạo, và nhất là tình yêu.
Yến bạc là khả năng và hoàn cảnh thuận lợi để ta làm việc cho Chúa.
Kitô hữu không phải là người thích an nhàn hay hưởng thụ.
Họ nỗ lực phấn đấu từng ngày để đời mình sinh hoa trái cho Chúa.
Ngày Phán xét, chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên nỗ lực sinh lợi của mình.
Mỗi người chúng ta không rõ mình đã nhận bao nhiêu yến bạc.
Điều quan trọng là không được giấu đi, và vui vẻ tận dụng điều mình có.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
31/08 Chờ đợi Chúa Giêsu
- Viết bởi Hanh Cac Thanh
Chờ đợi Chúa Giêsu.
Thứ sáu tuần 21 thường niên.
"Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người".
Lời Chúa: Mt 25, 1-13
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó, có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả.
"Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: "Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả". Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: "E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn". Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng, thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Nhưng người đáp lại: "Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi". Vậy hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào, giờ nào".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tích cực sống đức tin
Ðời người là một cuộc đợi chờ và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó. Ðợi chờ chính là một cuộc thử nghiệm tình yêu, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hoặc điều gì mà mình hết lòng yêu thương hoặc quí chuộng. Với ý nghĩa đó, đợi chờ phải là một cuộc chuẩn bị thực sự.
Dụ ngôn mười trinh nữ chờ đợi chàng rể đến lúc bắt đầu tiệc cưới mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, làm nổi bật thái độ tỉnh thức đợi chờ, nghĩa là các trinh nữ hướng về chàng rể với tâm hồn yêu thương, với đèn dầu để cháy sáng.
Chúa Giêsu được mô tả qua dung mạo chàng rể và tiệc cưới là Nước Thiên Chúa. Chàng rể đến chậm và vào lúc bất ngờ, tức là việc Chúa Kitô đến trong vinh quang vào lúc cuối cùng lịch sử là điều bất ngờ, không ai có thể đoán trước được. Các trinh nữ được bước vào tiệc cưới với đèn cháy sáng. Ðèn cháy sáng là dấu chỉ của một đức tin sống động. Các trinh nữ khôn ngoan đã lãnh lấy và chu toàn trách nhiệm của mình để giữ đèn của mình được luôn cháy sáng, cho đến khi chàng rể là Chúa Kitô đến, dù chàng rể có đến chậm.
Những chi tiết của dụ ngôn cho hiểu thêm trách nhiệm của cá nhân trong việc giữ cho đèn đức tin được luôn cháy sáng. Mỗi Kitô hữu phải tích cực sống đức tin, chứ không thể vay mượn hay nhờ người khác làm thay được; mỗi Kitô hữu cần đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa để vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời, để luôn sống trong hy vọng, sống theo ánh sáng sự sống, chứ không bị mê hoặc bởi những cám dỗ của thời đại đã bị trần tục hóa và đầy tinh thần hưởng thụ.
Xin Chúa mở rộng đôi mắt chúng ta để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong lịch sử. Xin ban sức mạnh để chúng ta chu toàn bổn phận cho phù hợp với thánh ý Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Ánh lửa huy hoàng
Thầy Rabbi dạy các học trò của mình phải luôn nhớ rằng mỗi một điều xảy ra đều có thể dạy cho chúng ta đôi điều gì đó. Một học trò hỏi lại:
- Thưa thầy, một chuyến xe lửa đi qua thì có thể dạy chúng ta điều gì?
Thầy bảo:
- Nó dạy ta rằng chỉ trong một phút giây, chúng ta có thể sẽ đánh mất tất cả.
Kinh nghiệm của thầy Rabbi có thể giúp chúng ta hiểu Lời Chúa hôm nay hơn. Có thể nói chỉ vì một chút thiếu cảnh giác vì ngủ quên hay vì không mang dầu mà các cô dại khờ đã không gặp được chàng rể. Hệ quả là các cô đã bị loại trừ vĩnh viễn. Ngày nay, mỗi chúng ta là những trinh nữ đương thời, đang trông chờ chàng rể là Chúa Giêsu đến lần thứ hai trong cuộc giáng lâm vinh hiển của Người. Trong khi chờ đợi ngày Chúa quang lâm vào giờ phút cuối cùng của lịch sử, mỗi người đồ đệ được Chúa viếng thăm hàng ngày trong Lời Chúa, trong các bí tích và trong những biến cố, sự kiện, xảy ra trong cuộc sống thường nhật. Thử hỏi, chúng ta có đủ tỉnh thức, sẵn sàng để nhận ra những lần Chúa viếng thăm này không?
Kinh nghiệm của thầy Rabbi là mỗi một điều xảy ra đều có thể dạy chúng ta đôi điều gì đó và chúng ta có thể sẽ đánh mất tất cả. Chỉ trong một phút giây cũng dạy cho chúng ta bài học khôn ngoan để luôn tỉnh thức và sẵn sàng như các trinh nữ khôn ngoan trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe.
Mỗi giây phút trong cuộc đời ta đều có tính quyết định cho cả cuộc đời.
Hãy sẵn sàng có nghĩa là mỗi giây phút sống và là giây phút chúng ta sống tốt đẹp nhất, hạnh phúc nhất, bình an nhất, trọn vẹn nhất, tưởng chừng như đó là phút giây cuối cùng của ta trên cuộc đời lữ hành trần thế, là giây phút chàng rể đến, giây phút chúng ta chờ đợi đã đến, giây phút chúng ta được gặp Ðấng là nguồn ánh sáng. Chúng ta sẽ hưởng hạnh phúc viên mãn khi chúng ta đem ánh lửa của mình hòa nhập vào nguồn ánh sáng để nó được bừng lên trong ánh sáng huy hoàng.
Vì thế, chúng ta hãy tích cực cộng tác với ơn Chúa, hãy giữ lấy ngọn lửa đã được thắp lên trong lòng chúng ta trong ngày chúng ta lãnh bí tích thánh tẩy, để cho lòng chúng ta lúc nào cũng bừng cháy lên ngọn lửa hy vọng được gặp Chúa Kitô, chàng rể. Khi chúng ta chắc rằng chúng ta luôn đầy tràn dầu của tình yêu và nhiệt thành, chính ngọn lửa ấy sẽ soi rọi mọi nẻo đường chúng ta đi. Dầu của tình yêu và nhiệt thành sẽ làm cho ngọn lửa hy vọng được tỏ rạng giúp chúng ta nhận ra ý định của Thiên Chúa nơi thế giới quanh ta và ngay cả những gì thuộc về mình. Trong một tầm nhìn rộng hơn, chúng ta sẽ đọc được những dấu chỉ của thời đại, chúng ta có thể thức tỉnh khi lòng chúng ta luôn sẵn sàng để lắng nghe tiếng Chúa nói với chúng ta qua những dấu chỉ đó và chúng ta sẵn sàng đáp trả ở mức độ trọn vẹn nhất.
Ước gì chúng ta đừng để cho mỗi một giây phút nào qua đi mà không giúp chúng ta nghe rõ tiếng của chàng rể, là Ðấng mà ta hằng mong đợi và là niềm hạnh phúc viên tròn của cuộc đời ta. Chúng ta hãy gặp Người trong từng phút giây của cuộc đời ta, rồi giây phút trọng đại diện đối diện ấy cũng sẽ đến, đó là lúc chúng ta đã sẵn sàng được theo chàng rể vào dự tiệc cưới.
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con luôn nhận ra tiếng Chúa trong cuộc sống. Xin ban cho chúng con ân sủng, sức mạnh và lòng nhiệt thành để mỗi giây phút sống là mỗi giây phút chúng con kết hiệp thân tình với Chúa và sống trọn vẹn cho anh chị em.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Nhìn xa trông rõ
Đức Giêsu nói: “Bấy giờ Nước Trời cũng giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn của mình ra đón chú rể. Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn các cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo.” (Mt. 25, 1-4)
Kết thúc bài giảng trên núi, Chúa đã so sánh hai hạng người một khờ dại, một khôn ngoan. Kẻ khờ dại đã xây nhà trên cát, kẻ khôn ngoan xây nhà trên đá. Trong dụ ngôn này, chúng ta thấy sự đối nghịch giữa khờ dại. Những kẻ khôn ngoan thì nghe lời Tin Mừng và đem ra thực hành. Những kẻ khờ dại nghe Tin Mừng mà không sống theo.
Dàn cảnh.
Những cô trinh nữ theo cô dâu ra đón chàng rể và các cô đưa dâu về tới nhà chàng rể để dự tiệc cưới.
Điều đáng chú ý trong câu chuyện dụ ngôn kể hoàn toàn hợp lý, không tìm thấy một chi tiết nhỏ nào bị thay đổi. Nhưng bản văn tin mừng nhấn mạnh hơn đến ánh sáng đức tin. Mỗi Kitô hữu đều biết rõ ai là chàng rể, những ai là cô khờ dại hay cô khôn ngoan, đám cưới có ý nghĩa gì và cổng đóng lại tượng trưng cho sự khủng khiếp nào.
Hình ảnh và sự thực.
Trong những dụ ngôn này của Đức Giêsu luôn luôn nhắc đi nhắc lại điều này: dầu đầy bình, áo cưới khi dự tiệc cưới, xây nhà trên đá đều làm nổi bật một đời sống độc nhất đó là đời sống đức tin sẽ được Đấng phán xét đón nhận.
Chúa còn muốn dạy chúng ta một bài học khác nữa: đó là chúng ta tự do làm điều ta muốn, và không phải Chúa từ chối, chính chúng ta không sẵn sàng tiếp nhận Ngài hoặc tiếp nhận Ngài, nhưng đòi Ngài phải theo điều kiện mình, phải theo tính nông cạn của chúng ta. Có khi ta sẵn sàng đi theo một bước nào đó, trong đường lối của Chúa, nhưng chúng ta lại không chấp nhận đi đến cùng đường với Ngài! như vậy, chúng ta đều là kẻ khờ dại. Bao giờ chúng ta là những kẻ khôn ngoan.
JM
SUY NIỆM 4: …
…
Ngọc Biển ssp
SUY NIỆM 5: Vừa mang đèn, vừa mang dầu
Suy niệm :
Chẳng ai nghĩ đi ăn sinh nhật là để chết.
Chẳng ai nghĩ mình sẽ chết vào ngày sinh nhật của mình.
Vụ chìm tàu du lịch Dìn Ký tại Bình Dương hồi cuối tháng 5/2011 vừa qua
nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết.
Cái chết đến khi mọi người đang vui vẻ chúc mừng nhau
trong bữa tiệc mừng sinh nhật của cháu bé 3 tuổi.
16 người chết vì bị kẹt lại trong chiếc tàu du lịch bị mưa to gió lớn đánh chìm.
Vụ cháy ở nhà hàng Hoàng Hôn đường Ðiện Biên Phủ (tháng 10/1996),
nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết.
Cái chết đến khi mọi người đang say ngủ,
lúc 3 giờ sáng ngày 17-10, sau bữa tiệc sinh nhật.
Chín người chết vì không thể ra khỏi căn nhà bốc cháy.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay nhắc ta rằng Chúa đến bất ngờ,
như chú rể đến lúc nửa đêm.
Chúng ta phải sẵn sàng như năm cô phù dâu khôn ngoan,
hân hoan ra đón chú rể, tay cầm đèn thắp sáng.
Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự.
Chắc họ đã lo trang điểm cho mình.
Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn.
Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya.
Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới.
Nhưng muộn quá!
“Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”
Chẳng nên đổ lỗi cho chú rể đến chậm,
khiến đèn của mình hết dầu.
Chẳng nên trách móc các cô khôn ngoan,
vì họ cần có đủ dầu để thắp sáng cho tiệc cưới giữa đêm khuya.
Chỉ nên nhận mình đã chểnh mảng,
không mang dầu dự trữ.
Có đèn. Không đủ!
Ðèn cần phẳi sáng, sáng lúc Chúa đến bất ngờ.
Như thế cũng có nghĩa là phải luôn luôn sáng.
Mang danh là Kitô hữu. Không đủ!
Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ!
Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa.
Ðòi hỏi lớn nhất là yêu thương.
Trong Hội Thánh, vẫn có những cô khôn và cô dại,
có những người đèn đã hết dầu từ lâu...
Cần chăm chút cho ngọn đèn đời mình.
Cần nuôi dưỡng nó bằng thứ dầu của tình yêu bao dung,
của niềm hy vọng vững vàng, của niềm tin sắt đá.
Cần châm thêm dầu mỗi ngày...
Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Tỉnh thức không phải là không ngủ...
Cả mười cô trinh nữ phù dâu đều đã thiếp ngủ.
Tỉnh thức không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa,
nhưng là để Lời Chúa chi phối mình suốt ngày.
Chẳng ai biết lúc nào tận thế.
Chẳng ai biết giờ chết của mình.
Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu,
trong biến cố nào, nơi con người nào.
Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Người ta biết mình bắt đầu tỉnh thức,
khi nhận ra mình đã mê muội.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
30/08 Tỉnh thức và sẵn sàng
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Tỉnh thức và sẵn sàng.
Thứ năm tuần 21 thường niên.
"Các con hãy sẵn sàng".
Lời Chúa: Mt 24, 42-51
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến. Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến.
"Vậy các con nghĩ ai là đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cứ giờ mà phân phát lương thực cho họ? Phúc cho đầy tớ ấy, khi chủ nó đến thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người ấy lên coi sóc tất cả gia sản ông. Nhưng nếu đầy tớ ấy xấu, nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", rồi nó đánh đập các bạn đầy tớ, lại còn chè chén với lũ say sưa: chủ đầy tớ ấy trở về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, ông sẽ xé xác nó ra, và cho nó chung số phận với những kẻ giả hình: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tỉnh thức chờ Chúa
Các nhà chú giải thường đề nghị đọc và suy niệm những dụ ngôn của Chúa Giêsu về việc Chúa trở lại trong vinh quang trên hai bình diện: Kitô học và Giáo Hội học. Trên bình diện Kitô học nhấn mạnh đến việc Chúa trở lại vào cuối lịch sử như một quan tòa xét xử mọi người. Trên bình diện Giáo Hội học nhắc đến thời giờ của Giáo Hội trong thời gian, từ khi Chúa lên trời cho đến lúc Ngài trở lại; trong thời gian này, mỗi Kitô hữu phải tích cực chờ đợi và chu toàn bổn phận của mình một cách tốt đẹp.
Hai dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay cho thấy ý nghĩa bổ túc cho nhau: dụ ngôn thứ nhất nói về kẻ trộm đến bất ngờ trong đêm, do đó người chủ phải sẵn sàng luôn; sự sẵn sàng này được giải thích trong dụ ngôn thứ hai về người đầy tớ trung tín và khôn ngoan thi hành mệnh lệnh của chủ, cứ đúng giờ mà cấp phát lương thực cho người nhà.
Thật không dễ dàng mà có thái độ sẵn sàng theo đúng ý Chúa muốn. Vào thời các Tông đồ, có những tín hữu quá sốt sắng chờ đợi Chúa trở lại đến độ lơ là việc bổn phận của mình. Ðó là thái độ của tín hữu cộng đoàn Thessalonica mà thánh Phaolô đã phải khuyến cáo: "Thưa anh em, về ngày Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm và tập hợp chúng ta về với Ngài, thì tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Ðừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào".
Sống chờ đợi Chúa lại đến không phải bằng thái độ thụ động, nhưng bằng thái độ tích cực. Thánh Phaolô mô tả thái độ đó như sau: "Anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, là con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ, hãy mặc áo giáp là đức tin và đức mến, hãy đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ".
Sống đức tin, đức cậy, đức mến, trong khi chờ đợi Chúa đến, không có nghĩa là chúng ta bỏ quên sự dấn thân của mình. Mỗi người chúng ta cần phải luôn tỉnh thức với thái độ tích cực, đồng thời nỗ lực góp phần xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
SUY NIỆM 2: Người quản lý trung tín
Bài Tin Mừng hôm nay gồm có hai phần: Phần thứ nhất là lệnh truyền của Chúa là hãy sống tỉnh thức; và phần thứ hai là câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu muốn nói về người quản lý trung tín, để chỉ cho chúng ta phải biết sống tỉnh thức như thế nào.
Sống tỉnh thức, chờ mong Chúa đến không có nghĩa là án binh bất động, không làm gì cả, chỉ ngồi yên mà chờ. Ðây là một thái độ tỉnh thức thụ động không được Chúa Giêsu khuyến khích qua dụ ngôn người quản lý trung tín. Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta một thái độ tỉnh thức tích cực, luôn sinh động, thực hiện công việc Chúa muốn chúng ta thực hiện với hết khả năng của mình. Chúng ta biết rằng tất cả những gì Chúa ban cho ta là bảo chứng cho sự tốt lành và tình thương của Ngài, đồng thời cũng là lời nhắc nhở chúng ta nhớ đến Chúa và gắn bó với Ngài. Ðó cũng là phương tiện để chúng ta tự hoàn thiện bản thân và đạt được cùng đích cuối cùng là Nước Trời. Hơn nữa, những gì Chúa ban cho chúng ta không chỉ nhằm sinh ích cho chúng ta, mà chúng ta còn phải chia sẻ cho anh chị em chung quanh. Những gì Chúa ban cho chúng ta đều do lòng quảng đại của Ngài. Ngài ban cho chúng ta một cách nhưng không, và đến lượt chúng ta, chúng ta có bổn phận phải sẵn lòng chia sẻ những điều tốt lành ấy cho anh chị em chung quanh một cách quảng đại.
Vai trò của chúng ta như Chúa muốn thì chúng ta là những người quản lý trung tín và tốt lành, là những người quản lý ân sủng thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa trong thời gian chúng ta chờ đợi Chúa tỏ bày vinh quang của Ngài cho chúng ta. Khi chúng ta chia sẻ cho anh chị em, chúng ta phải luôn ý thức rằng chúng ta phải có bổn phận và trách nhiệm trong vai trò của một người quản lý và phân phát, rồi hãy để cho Chúa được tỏ lộ. Tất cả những gì chúng ta làm phải được định hướng và làm cho danh Chúa được rạng rỡ vinh quang.
Xác định mọi sự là của Chúa, còn mình chỉ là người quản lý và phải làm người quản lý trung tín và khôn ngoan thì sẽ bảo quản những gì Chúa trao cũng như coi sóc gia nhân và cấp phát lương thực cho họ đúng giờ, đúng lúc. Hơn nữa, khi ý thức mình là người quản lý thì cũng sẽ cho đi một cách khiêm nhường và vị tha như Chúa đòi hỏi, chúng ta sẽ không thể có thái độ kẻ cả hay coi thường người khác.
Khi tiếp xúc với những người mà họ chưa biết Chúa, chưa biết Tin Mừng Chúa, chưa nhận ra ân sủng và tình thương của Chúa, chúng ta không được hành xử như người quản lý xấu xa trong dụ ngôn trên là đánh đập các đồng bạn và chè chén với những bọn say sưa. Mỗi chúng ta hãy luyện cho mình có được thái độ sống, sống cho tròn bổn phận Chúa đã trao cho chúng ta như một người quản lý tốt lành và khôn ngoan, luôn thức tỉnh, sẵn sàng bảo quản ân huệ Chúa ban để không hao hụt mà còn biết sinh lợi và chia sẻ với anh chị em. Thái độ đó sẽ giúp chúng ta sống trọn vẹn hơn, dám đi ra khỏi chính mình, luôn hăng say và nhiệt thành đến với anh chị em ở mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh, để gặp gỡ, chia sẻ tình thương, ân sủng và tất cả những gì Chúa ban cho chúng ta. Nhờ đó chúng ta và mọi anh chị em sẽ được lãnh phần thưởng muôn đời mà Chúa đã hứa cho những ai trung thành.
Lạy Chúa,
Mọi sự con có là của Chúa, xin ban cho chúng con luôn sống đúng vai trò người quản lý trung tín của Chúa, để qua chúng con, mọi người sẽ nhận ra lòng quảng đại và yêu thương cũng như sự tốt lành của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Khi nào chủ về?
Đức Giêsu nói: “Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Mt. 24, 43-44)
Người ta đặt tên cho những dụ ngôn này là tỉnh thức: hôm nay bàn về người quản lý, mai là mười cô trinh nữ, thứ bảy đến những nén bạc. Người ta nói toàn bộ chương này là tối tăm nhất của sách Tin Mừng, nhưng may thay chương này không phải là chương quan trọng nhất.
Phải, khi nào?
Trước hết câu dụ ngôn nói: “Anh không biết bao giờ chủ về”. Vì thế, cần phải thỉnh thức, phải canh gác luôn luôn. Đức Giêsu nói thêm: “Con Người sẽ đến vào giờ người ta không ngờ”. Vậy phải canh thức thật đặc biệt, nếu người ta không muốn bỏ lỡ giờ này. Sự canh gác này không chỉ có nghĩa đến ngày tận thế, còn hiểu là giờ chết mỗi người chúng ta. Không ai biết ngày giờ nào mình chết, không ai có thể tính toán, thấy trước lúc nào mình chết, chuẩn bị chết cũng là chuẩn bị ngày giáng lâm của Chúa.
Nếu ta không ngừng chuẩn bị đón Chúa đến, ta sống với thái độ Công giáo chân thành để đón rước Chúa.
Người đầy tớ trung tín
Những câu dụ ngôn này rõ ràng liên quan trước nhất đến những người có trách nhiệm với cộng đoàn Giáo Hội. Phải truyền lại cho tín hữu những của cải bởi trời mà họ có bổn phận phải phân phát. Sự trung tín này và để xứng đáng với sự tin cậy chứng tỏ họ sẵn sàng luôn luôn với chủ nước trời đang trông đợi họ. Sự tỉnh thức của họ chứng tỏ lòng trung tín hăng say phục vụ Ngài. Sự phục vụ này, quả thật không để cho họ có thể lo nghĩ đến thân phận mình; Hằng ngày, họ được hướng dẫn tới mức chỉ chuyên cần thi hành trách nhiệm họ đã nhận.
Ngược lại, thật kinh khủng cho kẻ phí phạm thời giờ, thật kinh khủng cho kẻ bỏ bê nhiệm vụ đã được trao phó, thật kinh khủng cho kẻ sống bê bối, buông thả và lạm dụng những người đồng nghiệp. Nó bị đồng hóa với những kẻ giả hình và sẽ bị trừng phạt dành sẵn cho nó. Một đời sống đào sâu cái hố giữa lời nói và việc làm, giữa dáng vẻ bên ngoài với thực thể con người đều bị xét xử.
JM
SUY NIỆM 4: …
…
Ngọc Biển ssp
SUY NIỆM 5: Hãy sẵn sàng
Suy niệm :
Châm ngôn của hướng đạo sinh là Sắp Sẵn, nghĩa là hãy sẵn sàng.
Không rõ ông tổ của phong trào hướng đạo
có được gợi hứng từ bài Tin Mừng hôm nay không.
Nhưng hãy sẵn sàng đúng là châm ngôn của mọi Kitô hữu,
từ những Kitô hữu sống ở thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ 21 và cho đến tận thế.
Hãy sẵn sàng vì từng Kitô hữu cũng như cả Kitô giáo
vẫn luôn ở trạng thái chờ Chúa Kitô trở lại.
Ngài đã đến làm người cách đây hai ngàn năm,
Ngài đã cứu độ nhân loại bằng cuộc sống và cái chết trên thập giá,
Ngài vẫn đang ở với Giáo Hội nhờ Thánh Thần,
nhưng Ngài sẽ trở lại trong vinh quang như Đấng phán xét cả thế giới.
Đó là điều chúng ta chờ mong, điều duy nhất Ngài chưa thực hiện.
Nếu chủ nhà biết canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông sẽ canh thức,
không để nó khoét vách nhà mình (c. 43).
Còn người Kitô hữu, vì không biết ngày nào, giờ nào Chúa trở lại,
nên họ phải canh thức luôn luôn, phải sẵn sàng liên lỉ.
Canh thức không phải là không ngủ.
Canh thức là sống đời sống Kitô hữu của mình cách trung tín, quảng đại.
Canh thức không làm chúng ta bị căng thẳng thường xuyên,
vì thấy mình như bị đe dọa bởi một tai họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Chúa cũng không cố ý đến bất ngờ, để ta không kịp trở tay.
Đơn giản là chúng ta biết chắc chắn Ngài sẽ đến,
nên chúng ta luôn sẵn sàng.
Chuyện khi nào Ngài đến, không làm chúng ta lo âu và sợ hãi nữa,
vì cả cuộc sống của chúng ta đã là một chuẩn bị, một đợi chờ.
Canh thức cũng có nghĩa là làm tròn phận sự được Chúa trao.
Ông chủ đi vắng nên trao cho người đầy tớ quyền cấp phát lương thực.
Đó là quyền hành mà cũng là phận sự trên các gia nhân.
Nếu khi trở về, ông chủ thấy người đầy tớ ấy đang phục vụ nghiêm chỉnh,
thì phúc cho anh ấy, vì anh sẽ được coi sóc toàn bộ tài sản của ông (c. 47).
Nhưng nếu anh ấy nghĩ rằng ông chủ sẽ về muộn,
anh còn nhiều thời giờ để vui chơi hơn là chu toàn bổn phận.
Nếu anh ấy lạm dụng quyền lực trong tay để đánh đập các đầy tớ khác,
nếu anh ấy nhậu nhẹt với bọn say sưa, nên không còn tỉnh thức đủ,
thì ông chủ sẽ về bất ngờ, vào ngày và giờ sớm hơn anh nghĩ.
Lúc ấy khuôn mặt thật của anh sẽ lộ ra, khuôn mặt giả hình.
Và anh sẽ chịu chung số phận với những người đạo đức giả (c. 51).
Anh đầy tớ xấu xa nghĩ chủ sẽ về trễ, nào ngờ chủ về sớm.
Kitô giáo đã chờ Chúa quang lâm từ gần hai mươi thế kỷ.
Có người nản lòng, nên cho rằng chắc còn lâu lắm mới đến ngày đó.
Có người đồn thổi lung tung về ngày tận thế sắp đến tới nơi rồi.
Cả hai thái độ đều không đúng.
Điều quan trọng đối với người môn đệ là trung tín chu toàn công việc.
Tỉnh thức và sẵn sàng giúp ta luôn bình an, dù ngày mai tận thế.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
29/08 Cái chết của một tiên tri
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Cái chết của một tiên tri.
Thứ tư tuần 21 thường niên – Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết. Lễ nhớ.
"Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu của Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa".
* Thánh Gioan Tẩy Giả đã bị chém đầu ở Makêron, gần Biển Chết, do lệnh của vua Hêrôđê Antipa. Cái chết của người, vị Tiền Hô của Chúa Kitô, cho thấy rõ người có tâm hồn quả cảm như thế nào và người đã đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa trọn vẹn ra sao.
Khi chết cũng như khi còn rao giảng, người đều làm chứng cho chân lý. Người quả là “ngọn đèn cháy sáng” như lời Đức Giêsu đã nói.
Lời Chúa: Mc 6, 17-29
Khi ấy, Hêrôđê đã sai đi bắt Gioan và giam ông trong ngục: nguyên do tại Hêrôđia, vợ của Philipphê anh vua mà vua đã cưới lấy. Vì Gioan bảo Hêrôđê: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình". Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng nghe.
Dịp thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi vua thết tiệc các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa. Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: "Con muốn gì, cứ xin, trẫm sẽ cho", và vua thề rằng: "Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho".
Cô ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì?" Mẹ cô đáp: "Xin đầu Gio-an Tẩy Giả". Cô liền vội vàng trở vào xin vua: "Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa". Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ.
Nghe tin ấy, các môn đệ Gioan đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Cái chết của một tiên tri.
Qua lệnh truyền của một bạo chúa, một chiếc gươm gieo, một chiếc đầu rơi trong ngục tối. Ðó là những diễn tiến đã kết thúc cuộc đời của thánh Gioan Tẩy Giả, một biến cố mà Giáo Hội mời gọi chúng ta tưởng niệm hôm nay.
Chúng ta đã thấy một lời thề thiếu khôn ngoan, một quan niệm thiển cận về danh dự của một bạo chúa cũng như lòng hận thù của một hoàng hậu lăng loàn đã đưa Gioan Tẩy Giả vào cái chết. Nhưng đây là cái chết đã nâng ngài lên cao trên đài danh vọng, danh vọng của các vị tiên tri đích thực, vì Gioan cũng bị đau khổ, giam cầm và chết vì lời mình rao giảng.
Gioan Tẩy Giả cũng đã tự ví mình là "tiếng kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường lối cho ngay thẳng" và ngài đã đóng trọn vai trò này qua việc tích cực rao giảng và làm Phép Rửa thống hối. Tích cực vì ngài đã dám vạch mặt chỉ tên những vấp phạm của tất cả mọi người, không nể nang, không khiếp sợ, kể cả những tội lỗi của các vua chúa là những người nắm toàn quyền sanh sát thời bấy giờ, cụ thể là tội loạn luân của vua Hêrôđê và hoàng hậu Hêrôđiađê.
Qua đó, Gioan Tẩy Giả đã sống để nói lên sự thật và đã chết để bảo vệ sự thật: sự thật về hiện tình của xã hội, sự thật về thực trạng của từng cá nhân và sự thật về chính mình. Gioan tuyên bố rõ ràng ngài không phải là Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ là người được kêu gọi để đóng vai trò Tiền Hô chuẩn bị cho ngày Ðấng Cứu Tinh sẽ đến.
Mọi Kitô hữu chúng ta cũng được kêu mời để đáp lại tiếng gọi. Và mặc dù không ai có thể tái diễn vai trò của thánh Gioan Tẩy Giả, nhưng mọi Kitô hữu phải tiếp diễn sứ mệnh của ngài trong mọi hoàn cảnh mình đang sống. Ðó là sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ của R. Veritas)
SUY NIỆM 2: Vị Thánh Can Đảm Và Cương Quyết
Những trang Tin Mừng của thánh sử Marcô nói về Gioan Tẩy Giả quả thực gây ấn tượng mạnh cho những ai tìm gương một vị thánh can đảm dám nói lên sự thật, mặc dầu khi biết rằng nói lên điều mình phải nói sẽ nhận lại hậu quả không lường trước: “Vị Thánh đó là Gioan Baotixita, vị ngôn sứ kiên cường không bao giờ sợ chết”. Phúc Âm của thánh Marcô 6, 14 viết: “Vua Hêrôđê nghe biết về Đức Giêsu, vì Người đã nổi danh. Có kẻ nói: “Đó là ông Gioan Tẩy Giả từ cõi chết chỗi dậy, nên quyền làm phép lạ mới tác động nơi ông. “Kẻ khác nói: “Đó là ông Êlia”. Kẻ khác nữa lại nói: “Đó là một ngôn sứ như một trong các ngôn sứ”. Vua Hêrôđê nghe thế liền nói: “Ông Gioan, ta đã cho chém đầu, chính ông đã chỗi dậy!” (Mc 6, 14-16).
Những câu Tin Mừng của thánh Marcô chúng ta vừa nghe trên đây minh chứng: “Vua Hêrôđê đang lo âu về sự hiện diện của Chúa Giêsu và cho thấy sự tàn ác của một cường bạo Hêrôđê đã đang tâm truyền lệnh chém đầu Gioan Tẩy Giả vì Người dám nói lên sự thật: Vua không được lấy vợ của anh Ngài” (Mc 6, 18).
Đọc đoạn Tin Mừng 6, 17-29 của thánh Marcô trong ngày lễ kính nhớ thánh Gioan Tẩy Giả chúng ta thấy thật chua xót và mỉa mai. Cái chua xót bởi vì chỉ với một lời hứa với đứa con gái riêng của người vợ loạn luân của mình bà Hêrôđia (Mc 6, 23). Vua sẵn sàng cho lệnh chém đầu Gioan Tẩy Giả. Cái chua xót càng dâng cao khi Vua Hêrôđê cho thị vệ chém đứt đầu Gioan Tẩy Giả và đặt trên mâm theo lời xúi giục của bà Hêrôđia (Mc 6, 24-25). Sự việc càng mỉa mai hơn khi Vua vừa tỉnh vừa say và để hồn mình mê ly theo điệu vũ của đứa con gái của bà Hêrôđia (Mc 6, 22). Đối với chúng ta đọan Tin Mừng của thánh Marcô 6, 26 càng làm chúng ta ngao ngán vì con người dâm ô, bạo tàn và chà đạp sự thật, chà đạp công lý và vượt trên cả pháp luật của đất nước mà Hêrôđê trị vì: “Nhà Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề, và khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với con gái Hêrôđia”.
Một lệnh truyền của một bạo Chúa trong lúc say sưa chè chén với bọn bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê trong ngày sinh nhật của mình (Mc 6, 21). Một lời hứa dựa trên cảm tính, hết sức thô bạo và coi thường luật pháp của mình, Hêrôđê đã làm một việc hết sức tàn nhẫn, giết chết một vị ngôn sứ vô tội để thỏa mãn thú tính đê hèn của mình. Cái chết của Gioan Tẩy Giả đã là một lời cảnh tỉnh tất cả những ai quyết định thiếu khôn ngoan, thiển cận, ích kỷ, đê hèn chỉ nghĩ tới mối lợi đê tiện của cá nhân mình mà quên đi việc lớn lao hơn: “đại nghĩa”. Thánh Gioan Tẩy Giả đã chết đi nhưng sự ra đi của Ngài được nâng cao trên đài danh vọng, danh vọng của những vị ngôn sứ đích thực, những ngôn sứ dám nói lên sự thật, vì Gioan Tẩy Giả cũng đã chịu cầm tù, đau khổ trong tù ngục, và chết để làm chứng cho những lời rao giảng của mình.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã sống hoàn toàn đúng nghĩa của một vị ngôn sứ chân chính, đích thực, Ngài đã hoàn toàn đáp trả lại lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa: “Ngài đã không sợ hãi, lớn tiếng trước mặt các Vua Chúa. Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý”. Thánh Gioan Tẩy Giả đã vạch mặt chỉ tên mọi người sống bê tha, tội lỗi. Lời rao giảng sám hối và phép rửa cải tà qui chánh, cải hoá nội tâm của Ngài đã nói lên một sự thực muôn đời: “Tất cả đều phải sám hối và ăn năn”. Thánh nhân đã không chùn bước trước những thế lực mạnh nhất lúc đó là Hêrôđê. Ngài đã can đảm nói lên việc Hêrôđê cướp vợ của anh mình là Philíp, nàng Hêrôđia… Sự can đảm và cương quyết của Ngài đã bị cường bạo đè bẹp bằng lời hứa thật đê hèn và thô bạo. Nhưng cái chết của thánh Gioan Tẩy Giả đã minh chứng cho chân lý ngàn đời: “Sự thật sẽ giải phóng tất cả”.
Gioan Tẩy Giả đã chết đi để bảo vệ cho sự thật, minh chứng cho Chúa Giêsu: “Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14, 6).
Gioan Tẩy Giả chỉ là vị ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế: “Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, để dọn đường cho Chúa đến” (Mc 1,23) và khi Đấng Thiên Sai đến, thánh nhân xác định rõ ràng: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3, 30). Thánh Gioan Tẩy Giả đã trở nên chứng nhân tuyệt vời và hoàn hảo nhất nơi Đức Kitô Giêsu.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cầu bầu cho chúng con trước ngai toà Chúa để niềm tin của chúng con được nâng cao hầu chúng con luôn sẵn sàng đáp trả lại lời mời gọi của Chúa: “làm chứng nhân cho Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời”. Amen.
Lm Nguyễn Hưng Lợi
SUY NIỆM 3: Lễ thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết
Thánh Gioan tẩy giả là người anh họ của Đức Chúa Giêsu. Thân mẫu ngài là thánh nữ Êlizabeth và thân phụ ngài là ông Zacaria. Chương đầu tiên của Tin mừng theo thánh Luca thuật lại biến cố sinh nhật tuyệt vời của thánh Gioan. Và Tin mừng theo thánh Marcô, nơi chương thứ 6, các câu 14-29, kể lại những chi tiết tàn bạo về cái chết của Gioan tẩy giả.
Vua Hêrôđê lấy vợ của anh mình là bà Hêrôđia. Gioan nói cho Hêrôđê biết điều ấy là sai, nhưng Hêrôđê và Hêrôđia không muốn nghe và giữ giới luật của Thiên Chúa. Họ chỉ muốn làm theo ý riêng mình. Và Gioan tẩy giả đã phải trả giá cho lòng tốt của ngài! Tuy nhiên, thánh nhân không thể hành động theo cách khác được. Ngài không im lặng trước tội lỗi và bất công. Sứ mệnh của Gioan là mời gọi người ta cải hối cuộc đời; và ngài mong muốn cho hết thảy mọi người được ơn giao hòa cùng Thiên Chúa.
Hêrôđia đã giữ mối hận thù đối với Gioan. Và khi dịp thuận tiện xảy đến, bà đã ra tay sắp đặt để Gioan bị chém đầu. Gioan đã phải chấp nhận những hậu quả nghiệt ngã cho việc giảng dạy chân lý Phúc âm.
Thánh Gioan tẩy giả rao giảng phép rửa sám hối, chuẩn bị cho người ta đón nhận Đấng Mêsia. Ngài đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu trong dòng sông Giođan và được hưởng kiến niềm vui vì sứ mệnh công khai của Chúa Giêsu đã khởi sự. Gioan tẩy giả đã khích lệ các môn đồ của mình đi theo Đức Chúa Giêsu. Ngài biết rằng danh Chúa phải tỏa sáng ra, còn danh mình phải lu mờ đi. Trong chương thứ nhất Phúc âm theo thánh Gioan, thánh Gioan tẩy giả nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, chỉ thức tỉnh người ta hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng mà thôi! Thánh nhân mời gọi mọi người hãy sẵn sàng để chuẩn bị đón nhận Đấng Mêsia. Sứ điệp của Gioan tẩy giả phải chăng cũng là sứ điệp của mỗi người chúng ta?
Chúng ta hãy nài xin thánh Gioan tẩy giả giúp chúng ta luôn sẵn sàng để đón nhận Chúa Giêsu ngự đến trong cuộc sống của mình.
SUY NIỆM 4: Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết
Bài tường thuật của Mác-cô về cái chết của Thánh Gioan Tẩy giả rất rõ ràng và dễ hiểu. Ta cần ghi nhớ 2 điều:
- Gioan đã chết vì can đảm nói sự thật, theo đúng chức năng ngôn sứ của mình.
- Cái chết của Gioan có nhiều nét tiên báo cái chết của Chúa Giêsu, vị ngôn sứ tiêu biểu: chết do can đảm sống sứ mạng của mình, chết do ác tâm của con người, chết trong sự thương tiếc của các môn đệ.
1. Trước hết, ta hãy nhìn vào Hêrôđê: Một con người vẫn còn lương tâm (“vua nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính thánh thiện; vua che chở ông. Khi nghe Gioan nói, nhà vua rất phân vân nhưng lại cứ thích nghe”), nhưng rồi lại không can đảm làm theo tiếng lương tâm của mình.
Văn hào Chateaubriand của Pháp vào thế kỷ 19 đã viết về lương tâm con người như sau: “Con sư tử sau khi giết và ăn thịt con mồi có thể nằm lăn ra ngủ, nhưng con người không thể ngủ yên sau khi giết hại một người đồng loại của mình”.
Thi hào Victor Hugo trong bài thơ “Lương tâm” đã mô tả tâm trạng vô cùng đau thương của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: “Cho dẫu Cain có đi đâu, cho dẫu ông có đào một huyệt sâu trong lòng đất để trú ẩn, ánh mắt lương tâm cũng không bao giờ buông tha cho ông”.
Con người có phẩm giá cao cả vì con người có lương tâm. Lương tâm chính là ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa không ngừng dõi theo con người để mời gọi thôi thúc con người vươn lên. Thảm trạng đau thương nhất của cá nhân cũng như của xã hội chính là tiếng nói của lương tâm bị bóp nghẹt. Xét cho cùng, thảm trạng ấy cũng đồng lõa với việc loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống. Khi ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa không còn nhìn xuyên qua tâm hồn con người nữa, thì đó là lúc con người đang dãy chết.
2. Ta nhìn tiếp đến bà Hêrôđia: Một người đàn bà hoàn toàn để cho dục tình lôi cuốn. Vì dục tình, bà đã loạn luân. Vì thế, khi Gioan vạch tội bà, bà không ngại tìm dịp giết Gioan để không ai còn ngăn cản được cộc sống loạn luân của mình nữa.
Bà Hêrôđia đã làm những điều mà có lẽ ai trong chúng ta cũng lên án. Thế nhưng, xét cho kỹ thì trong thiên hạ cũng chẳng thiếu gì những người như thế. Không phải chỉ là loạn luân mà còn biết bao nhiêu tội ác khác nhiều khi còn tệ hơn nữa.
Tại một xứ Hồi giáo nọ, có người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ vì ăn trộm thức ăn của người khác. Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ từ tội liền xin nhà vua:
- Tâu bệ hạ, xin cho thần được chồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, mọc thành cây và có trái ăn tức khắc. Đây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là khi thần chết đi rồi, bí quyết này sẽ không truyền lại cho hậu thế được.
Nhà vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn chồng táo. Đến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói:
- Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm của người khác mới trồng được hạt giống này. Vì tôi đã lỡ ăn trộm nên không trồng được.
Nhà vua tin lời, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa:
- Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu thần cũng đã có lần lấy của người khác. Thần cảm thấy không đủ điều kiện trồng hạt táo này.
Nhà vua đảo mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ kho trong triều là người nổi tiếng trong sạch có thể đủ điều kiện. Nhưng quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng ông cũng đã có lần gian tham trong chuyện tiền bạc.
Bấy giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng:
- Các ngài là những kẻ quyền thế cao trọng, không thiếu thốn điều gì. Vậy mà các ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của người khác. Còn tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác ăn cho đỡ đói, thế mà các ngài lại kết án treo cổ tôi.
Nghe thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xao trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh phóng thích người ăn trộm.
3. Ta hãy nhìn nàng Salômê: một người có tài mà không có đức. Cô đã dùng tài múa nhảy của mình để đòi phần thưởng là cái đầu của một vị ngôn sứ.
Tài năng của con là những nén bạc Chúa trao để cho con sử dụng mà làm việc tốt phụng sự Chúa và phục vụ mọi người. Phục vụ chứ không khai thác để thỏa mãn những đam mê hay vơ vét vào cho mình. Chỉ khi nào, con người biết phục vụ thì lúc đó họ mới thấy cuộc đời của mình đậm đà ý nghĩa.
Dương Chấn, người đất Quan Tây đời nhà Hán, làm quan Thái Úy, tính tình thanh liêm, chánh trực. Khi đang làm Thứ Sử, ông có tiến dẫn Vương Mật làm Lệnh Doãn huyện Xương Ấp.
Một hôm, trời tối đi ngang qua Xương Ấp, Dương Chấn nghỉ lại đó một đêm. Vương Mật lén đem 10 lượng vàng đến để đền ơn thuở trước. Dương Chấn thấy vậy, trách Vương Mật:
- Ta biết tài ngươi, mà ngươi không biết được lòng ta.
Vương Mật cố năn nỉ:
- Đêm hôm khuya khoắt, không có một ai hay biết, ngài sợ gì?
Dương Chấn nghiệm mặt đáp:
- Sáng thì có trời đất biết, tối thì có quỷ thần soi biết, trong có ta biết, ngoài có ngươi biết. Chỗ hay biết có nhiều như vậy, sao ngươi gọi là không ai biết?
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta biết sống tốt đối với mọi người để cho lương tâm của chúng ta lúc nào cũng được thanh thản và bình an.
SUY NIỆM 5: Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết
Có những cái chết để lại cho đời niềm thương nhớ khôn nguôi. Có những sự ra đi làm cho con người thương nhớ, nhắc nhớ tên người chết mãi mãi không ngơi. Có những cái chết khiến người khác trề môi, phỉ nhổ. Chết là trở về nơi cũ. Chết là ra đi. Chết là trở về với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và tác sinh. Cái chết của thánh Gioan tẩy Giả, Giáo Hội mừng kính hôm nay khiến nhân loại phải ghi nhớ, khiến nhiều người thương tiếc, nhưng cũng không khỏi nguồn rủa sự điên rồ, ngạo nghễ và dại gái, khôn nhà dại chợ của Hêrôđê, một vị vua tàn ác và thiếu tư cách làm người.
Một cái đầu, một sự trả giá vô biên
- Hêrôđê đã đi vào con đường tội lỗi. Sự dại gái, khôn nhà, dại chợ của Hêrôđê đã khiến vị vua này trở nên ngông cuồng điên dại. Sống trong tội lỗi,tâm hồn của Hêrôđê đã trở nên mù quáng, tối tăm. Ở trong bóng tối, Hêrôđê đã không còn biết phân biệt đâu là phải, đâu là trái. Ông đã hành động tùy tiện việc nước, đã ăn chơi, chè chén trác táng. Ông không còn biết nhận ra sự thật. Số là Hêrôđê đã cướp vợ của ngay người em mình. Sự loạn luân không thể tha thứ, đã làm cho Gioan Tẩy Giả phải lên tiếng quở trách nặng lời hành động vô luân của Hêrôđê và Hêrodias, vợ loạn luân của Hêrôđê. Đúng như lời Kinh Thánh nói: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng…” (Ga 1,6-7).
- Gioan không phải là ánh sáng, nhưng Gioan tới để minh chứng về ánh sáng. Vì chứng minh cho Chúa Giêsu là sự thật, là ánh sáng. Gioan đã không bao giờ chịu khuất phục trước những việc chướng tai gai mắt của con người, của xã hội đương thời và của nhân loại. Gioan đã có lần nói: “Có Đấng đến sau ông và ông không xứng đáng cởi giây dép của Ngài”. Gioan quả thực đã tới trần gian để dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Làm công tác dọn đường, Gioan đã sống đích thực sứ mạng của vị tiên tri. Ngôn sứ phải nói lên sự thật và không bao giờ sợ nguy hiểm cho dù công tác của vị ngôn sứ luôn gặp sự hiểm nguy. Để làm chứng cho Đấng cứu thế, Ngài đã nói công khai với mọi người khi họ lầm tưởng Gioan là Đức Kitô: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Gioan đã lớn lên trong sự minh chứng cho sự thật. Chống lại hành động loạn luân và dâm dật của đôi dâm phụ Hêrôđê và Hêrodias. Gioan Tẩy Giả đã phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời ngôn sứ của mình: cái chết. Hêrôdias vì không chấp nhận sự thật, không chịu nổi lời quở trách của vị tiên tri. Nên đã căm thù tìm cơ hội khử trừ vị ngôn sứ đầy uy tín. Với sự nhảy múa cuồng nhiệt nhân ngày sinh nhật, Hêrodiađê đã làm ngây ngất vua Cha. Cái đầu, vẫn là sự căm tức ngông cuồng của Hêrôdias. Đầu của vị ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã nằm gọn trong chiếc dĩa trước mặt Hêrôđê.
Lời chứng đáng giá nhất của ngôn sứ Gioan Tẩy Giả
- Dù biết rằng mình sẽ phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời, Gioan Tẩy Giả vẫn nói lên tiếng nói bất khuất của vị ngôn sứ. Mọi tiên tri đều phải trả giá cho lời chứng của mình. Gioan Tẩy Giả đã sống anh dũng, can trường với lời nói của mình. Cái đầu phải trả là giá nặng nề và đáng nguyền rủa nhất của vị ngôn sứ sau cái chết chịu đóng đinh nơi thập giá đối với người Do Thái lúc đó. Gioan Tẩy Giả đã tự xóa nhòa mình để cho Đấng cứu độ lớn lên trong lịch sử nhân loại. Lời chứng và cái chết của Ngài, đã nói lên sự thật muôn đời là Gioan đã hoàn toàn đáp trả hoàn toàn lời mời gọi của Thiên Chúa: “Ngài không sợ hãi, lớn tiếng trước mặt các vua chúa. Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý”.
(Lm Nguyễn Hưng Lợi)
SUY NIỆM 6: Đầu Gioan Tẩy giả
Suy niệm :
Ngày sinh nhật của một người lại dẫn đến cái chết của một người khác.
Nếu sự kiện xảy ra đúng như truyền thống mà Máccô nhận được và ghi lại
thì thật là khủng khiếp.
Ai có thể tưởng tượng nổi chuyện trong bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê,
một cô bé dám bưng mâm, trên có cái đầu vừa bị chặt của một người,
máu còn chảy ròng ròng, mắt đang nhắm hay mở?
Cô bưng và vui vẻ trao cho mẹ cô.
Mẹ cô sẽ bưng và trao cho ai cái đầu của Gioan, người mà bà căm ghét?
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho ta một số kinh nghiệm của Hêrôđê.
Trước hết là kinh nghiệm bị giằng co giữa cái tốt và cái xấu.
Hêrôđê Antipas đã bắt ông Gioan tẩy giả và xiềng ông trong ngục.
Lý do vì Gioan đã cản trở cuộc hôn nhân sai trái của ông với Hêrôđia.
Dầu vậy Hêrôđê vẫn biết Gioan là người công chính thánh thiện,
vẫn sợ ông và che chở ông khỏi sự trả thù của Hêrôđia (cc. 19-20).
Hêrôđê còn lương tâm khi ông thích nghe Gioan nói, dù rất bối rối khi nghe.
Kế đến là kinh nghiệm về sự thiếu chín chắn của Hêrôđê khi thề hứa.
Cái gì đã xui khiến ông nói câu dại dột này với cô bé Salômê:
“Con xin gì ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được” (c. 23)?
Bầu khí cuồng nhiệt của bữa tiệc sinh nhật, hay điệu vũ đẹp mê hồn,
hay rượu đã ngà ngà say, hay muốn chứng tỏ mình đầy quyền lực?
Hay sự cộng hưởng của mọi yếu tố trên?
Có những lời nói vội vã mà sau đó ta phải hối tiếc và trả giá.
Cuối cùng là kinh nghiệm về sự mất tự do trước khi quyết định.
Khi cô bé xin cái đầu của Gioan, Hêrôđê hẳn đã sửng sốt ngỡ ngàng.
Ông buồn hết sức vì mình đã lỡ thề hứa như vậy (c. 26).
Ông có thể rút lại lời đã nói không? Dĩ nhiên là có.
Nhưng nỗi sợ đã khiến ông không dám làm.
Sợ từ chối cô bé, làm cho cô buồn và mẹ cô nổi giận,
sợ bị mang tiếng là nuốt lời trước mặt bá quan văn võ.
Nói chung ông sợ mất danh dự của mình, mất thiện cảm của người khác.
Bởi vậy, dù Hêrôđê thấy việc giết Gioan là điều sai trái,
ông vẫn không dám xin rút lại lời thề thiếu suy xét của mình.
Cần can đảm để giữ lời hứa, nhưng có khi cần can đảm hơn để không giữ.
Danh dự hão của Hêrôđê được mua bằng máu của một vị ngôn sứ lớn.
Hêrôđê đã can dự vào cái chết của Gioan.
Ông chịu áp lực từ khách dự tiệc và mẹ con Hêrôđia.
Philatô đã can dự vào cái chết của Đức Giêsu.
Ông này chịu áp lực từ dân chúng và các thượng tế.
Cả hai ông đều không có tự do, không có can đảm để tha cho người vô tội.
Cả hai ông đều nghĩ đến mình, cái ghế của mình, danh dự của mình.
Quyền lực được sử dụng như bạo lực, khiến người lành phải chết oan.
Chúng ta xin cho mình luôn có tự do, để mọi quyết định phù hợp với ý Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn
để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Đấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh
lối nghĩ và lối sống của mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,
thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con
niềm vui của Giakêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.