Hình ảnh năng lượng từ Chúa Giêsu Kito
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Cây nến phục sinh cao to dựng trên cung thánh nơi các thánh đường, từ đêm mừng lễ Chúa phục sinh đến lễ mừng Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống với những hình biểu tượng mầu đỏ khắc vẽ trên đó, loan báo tin mừng ánh sáng Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã phục sinh sống lại từ cõi chết, chiếu tỏa xóa tan bóng tối tội lỗi trần gian. Đây là cung cách mừng lễ Chúa phục sinh của Giáo hội.
Lễ nghi thắp rước cây nến Chúa Phục sinh từ bên ngoài tiến vào thánh đường công bố tin mừng Chúa phục sinh với bài ca ngợi Exultet- Mừng vui lên, diễn tả hình ảnh biểu tượng tràn đầy ý nghĩa đạo đức thần học cùng rất cảm động!
Cây nến phục sinh trong nếp sống phụng vụ Giáo hội Công giáo có từ thế kỷ 04. sau Chúa giáng sinh. Nhưng trước đó từ thời cổ đại người Roma đã có tập tục dùng cây nến to cao trong ngày lễ kính thờ Thần Minh của họ rồi.
Hình ảnh Ánh sáng cây nến Chúa Kitô phục sinh phát tỏa tia sáng bừng lên trong đêm tối tội lỗi, và đồng thời chiếu tỏa năng lượng sức sống và tình yêu của Người ra chung quanh.
Chúa Giêsu Kitô trước đó, lúc còn đi rao giảng nước Thiên Chúa nơi trần gian, đã dùng hình ảnh nói về năng lượng từ nơi Ngài chiếu lan tỏa trong đời sống tinh thần cùng cả sức khoẻ nơi thân thể - đã chữa lành những người bị bệnh tật, đã cho Lazaro, cho cậu thanh niên thành Naim, cho em bé gái con của vị Đội trưởng quân đội chỗi dậy sống lại- cho những người tin yêu gắn bó với Ngài.
Đâu là hình ảnh biểu tượng năng lượng từ Chúa Giesu?
Trong dòng thời gian xưa nay, các bậc học gỉa môn ngành Kinh Thánh luôn khảo cứu Phúc âm Chúa Giesu được viết thuật lại do bốn Thánh sử Mattheo, Marco, Luca và Gioan. Người ta nhận thấy Chúa Giêsu thường hay dùng dụ ngôn hình ảnh để rao giảng loan báo tin mừng, cắt nghĩa về nước Thiên Chúa cho dễ hiểu với thính gỉa, với độc gỉa mọi thời đại tìm hiểu đọc phúc âm, sống trong giữa lòng xã hội trần gian.
Chúa Giêsu dùng Dụ ngôn hình ảnh cây nho để diễn tả về năng lượng đời sống đức tin tinh thần giữa Ngài và người tín hữu tin yêu theo Ngài.
Nhiều vùng, nhất là nơi sườn đồi núi có những vườn nho bát ngát được cấy trồng theo những hàng song song thẳng lối. Những cây nho được vun trồng chăm sóc cắt tỉa kỹ lưỡng. Trái nho được thu hoạch mang về ủ nấu thành rượu thơm ngon qúy gía. Và trái nho cũng là hoa qủa ngon cùng cao cấp qúi để ăn tráng miệng sau bữa ăn…Như thế chất nước trái nho không chỉ ngon ngọt, nhưng còn chất chứa giầu năng lượng nữa.
Dụ ngôn hình ảnh cây nho Chúa Giêsu dùng cắt nghĩa diễn tả ba khía cạnh: Ngài là cây nho, Đức Chúa Cha là người trồng săn sóc cây nho, và chúng ta là cành nhánh cây nho.
Chúa Giesu nói: Thầy là cây nho thật. ! muốn nhấn mạnh khía cạnh nơi Ngài có sự thật, chính Ngài là sự thật. Những tuyên truyền cảo quáng của những tiên tri gỉa thời xưa tìm cách mê hoặc lôi kéo con người đi theo, trái ngược với sự thật của Ngài loan báo.
Nơi Chúa Giêsu người tin theo Chúa được phép đi tìm kiếm nhận được sự thật. Ngài muốn dẫn đưa chúng ta tới sự sống tốt lành bình an, nếu chúng ta hướng theo tin mừng ngài rao giảng loan báo. Có thế con người chúng ta đạt được đời sống trọn vẹn tràn đầy.
Đức cố giáo hoàng Benedicto 16. có suy tư về hình ảnh dụ ngôn của Chúa Giêsu: Ta * Thầy* là cây nho thật ( Ga 15,1):
“ Thật ra và quan trọng trong câu nói nói này của Chúa Giêsu ở nơi Ngài qủa quyết: “Ta, Thầy!” : Người Con của Thiên Chúa nhận đồng hóa mình với thân cây nho để trở thành cây nho. Ngài đã để mình được trồng nơi thửa đất trên trần gian. Ngài đã biến mình thành cây nho: qua mầu nhiệm nhập thể xuống trần gian làm người, mà thánh sử Gioan đã nói đến trong chương mở đầu – Prolog- , phúc âm Chúa Giesu theo Thánh Gioan. Cây nho này không còn chỉ là một thụ tạo trong công trình thiên nhiên được chiếu cố nhìn đến, rồi có ngày có thể lại tàn lụi bị nhổ vứt bỏ đi. Nhưng nơi người Con của Thiên Chúa, Đấng đã trở thành cây nho, Đấng tự nhận đồng hóa mình là cây nho không chỉ một lần nhưng luôn luôn cho mãi mãi.
Cây nho này không bao giờ có thể bị nhổ vứt bỏ quăng đi: Cây nho Giesu là thuộc vĩnh viễn về Thiên Chúa, sự sống Thiên Chúa lưu chuyển sống trong cây nho này. Lời đoan hứa không bị rút lại, sự hiệp nhất không bị phá đổ.
Đó là chiều kích rộng lớn, là bước lịch sử mới của Thiên Chúa, mà Ngài gói ghém nội dung sâu thẳm nơi dụ ngôn hình ảnh này: Nhập thể xuống trần gian làm người, chết và phục sinh sống lại trở nên sáng tỏ trong toàn thể tầm nhìn sâu rộng. Như Thánh Phaolo đã xác tín: Vì Đức Ki-tô Giê-su, Con Thiên Chúa, Đấng mà chúng tôi, là Xin-va-nô, Ti-mô-thê và tôi, rao giảng cho anh em, đã không vừa là “có” vừa là “không”, nhưng nơi Người chỉ toàn là “có”.20 Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là “có” nơi Người. Vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên “A-men” để tôn vinh Thiên Chúa (2. Cor 1,19-20).“ (Josep Ratzinger, Benedickt XVI. JESUS von Nazaretth, 1. Teil, Herder Verlag 2007, tr. 303 ).
Để cho cây nho được phát triển xanh tốt thành công mang lại hoa trái mầu mỡ xum xuê, phải cần có sự chăm sóc vun xới cắt tỉa. Chúa Giêsu đã ví nhận mình là cây nho và Đức chúa Cha, cha của người, là người chăm sóc cây nho. Và như thế cây nho Chúa Giêsu gắn bó chặt chẽ mật thiết với Cha của người. Đức Chúa Cha hợp nhất trong người, và người liên kết chặt chẽ với Chúa Cha.
Hình ảnh dụ ngôn cây nho “Giesu” được khép lại cách tròn đầy qua lời đoan hứa của Chúa Giesu : “Anh em, các con là cành nhánh nho!”
Là môn đệ, là người tin yêu theo Chúa Giêsu, chúng ta là thành phần của cây nho Giesu, tất cả là phần tử trong toàn thể cây nho Giesu, được đón nhận vào sức sống tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa săn sóc nuôi sống đời con người do Ngài tạo dựng nên.
Cành nhánh nho cần cần phải gắn bó liên kết với thân cây nho. Có thế mới sinh hoa lá kết trái tươi tốt. Cành nho nào gẫy xa lìa không còn gắn liền với thân cây nho, nó sẽ héo tàn không thể phát triển sinh hoa kết trái được nữa. Cũng vậy, là người tín hữu, là môn đệ tin yêu theo Chúa, như cành nhánh cây nho, chúng ta cần phải sống gắn bó liên kết với cây nho Giesu: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” . (Ga 15,5.)
Dụ ngôn Chúa Giesu là cây nho, chúng ta là những nhánh cành nho gắn bó liên kết với cây nho Giesu diễn tả vẽ ra hình ảnh sức sống thần linh từ Chúa Giesu Kitô truyền năng lượng cho đời sống tinh thần đức tin người tín hữu môn đệ tin theo Chúa trong suốt dọc cuộc sống lữ hành trên trần gian cho hôm nay, và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Thiên Thần trong đời Chúa Giesu
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lễ Phục sinh ngày 31.03.2024, đại lễ mừng Chúa sống lại vừa qua được một tuần lễ, nhưng mùa phục sinh còn kéo dài tới lễ mừng Đức Chúa Thánh thần hiện xuống sẽ vào ngày 19.05.2024.
Tuần lễ (tám ngày) liền sau chúa Nhật lễ Phục sinh là tuần bát nhật phục sinh tới ngày Chúa Nhật thứ hai phục sinh, ngày này cũng có tên gọi Chúa Nhật áo trắng. Tập tục này có từ thế kỷ 13. trong nếp sống phụng vụ của Giáo hội Công giáo.
Từ năm 2000 Đức Thánh giáo hoàng Phaolo II. đã thiết lập thêm vào ngày Chúa Nhật áo trắng cũng là ngày lễ kính Lòng Chúa thương xót.
Từ 1969 với cuộc cải tổ canh tân phụng vụ trong Giáo hội chỉ còn hai ngày đại lễ chính quan trọng trong nếp sống đức tin là lễ Chúa phục sinh và lễ Chúa giáng sinh.
Cũng trong tập tục nếp sống phụng vụ của Giáo hội, hằng năm có lễ Thiên Thần truyền tin cho Đức mẹ Maria, Chúa Giesu con Thiên Chúa xuống trần gian làm người trong cung lòng mẹ Maria, vào ngày 25. Tháng Ba, chín tháng trước lễ Chúa giáng sinh ngày 25.tháng 12.
Năm nay 2024 ngày lễ 25.03. này vào ngày thứ hai tuần thánh. Theo luật lệ của Giáo hội trong tuần thánh và tuần bát nhật mừng Chúa phục sinh không được phép cử hành lễ mừng nào khác. Vì thế lễ Thiên Thần truyền tin cho Đức mẹ Maria được dời lại mừng vào ngày thứ hai 08.04.2024.
Hai lễ quan trọng chính yếu Chúa giáng sinh và Chúa phục sinh có nội dung khác biệt nhau. Hai lễ diễn tả hai mầu nhiệm riêng biệt:
Lễ giáng sinh về mầu nhiệm Thiên Chúa qua Chúa Giesu xuống trần gian làm người, mang ánh sáng tình yêu ơn bình an của Thiên Chúa từ trời cao xuống trần gian cho con người.
Lễ phục sinh loan báo mầu nhiệm sự sống ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người khỏi hình phạt phải chết vì tội lỗi qua sự chết và sống lại của Chúa Giesu Kito.
Như thế hai lễ quan trọng loan báo ánh sáng niềm vui, niềm hy vọng cho sự sống con người đời này trên trần gian, cùng đời sống con người ngày sau khi đời sống hành trình trên con đường trần gian chấm dứt.
Theo tập tục phụng vu của Giáo hội lễ mừng Chúa Giáng sinh ngày 25.thang12 vào mùa Đông tối trời với nhiều ánh sáng ngôi sao đèn nến cùng đèn điện rực rỡ. Những trang trí như thế diễn tả hình ảnh mầu nhiệm ánh sáng sự sống, mà Chúa Giesu con Thiên Chúa mang chiếu soi vào đêm tối địa lý mùa Đông cùng đêm tối tâm linh trong tâm hồn con người có nhiều bóng tối tội lỗi.
Còn lễ phục sinh hằng năm được mừng kính theo thời tiết địa lý vào cuối mùa Đông bắt đầu bước sang mùa Xuân. Vào mùa Xuân ngoài thiên nhiên bông hoa lá sau mùa Đông giá lạnh sống tiềm ẩn như đã chết, bắt đầu sống lại vươn nhú chồi chui bung ra khỏi thân cành cây.
Hình ảnh này diễn tả Chúa Giesu đã chết được an táng trong huyệt mộ, nhưng sức mạnh của Thiên Chúa đã đánh thức cho Ngài chỗi dậy sống lại chui ra khỏi huyệt mộ.
Lễ mừng Chúa giáng sinh trang trí với hang chuồng súc vật, có chiếc nôi cho hài nhi Giesu nằm, có tượng mẹ Maria, Thánh Giuse, các mục đồng, ba vị Vua xa lạ, có ngôi sao chổi, có các con thú vật, bông hoa mầu đỏ, và không thể thiếu hình tượng các Thiên Thần của Chúa.
Theo phúc âm thuật lại Thiên Thần Chúa hiện ra báo tin hướng dẫn các mục đồng tìm đến thăm viếng hài nhi Giesu vừa sinh ra đời. Rồi ca đoàn các Thiên Thần xuất hiện ca hát mừng hài nhi Giesu sinh ra. ( LC. 1)
Còn lễ phục sinh có trang trí đơn giản hơn. Cùng với bông hoa mầu vàng Cây Nến Chúa Phục sinh to cao lớn là trung tâm điểm tin mừng Chúa Phục sinh: Ánh sáng Chúa Kito!
Theo Phúc âm thuật lại Thiên Thần Chúa cũng có mặt, ngồi canh huyệt mộ và nói cho các người phụ nữ biết tin: Chúa Giesu đã chỗi dậy sống lại rồi. Ngài không còn nằm trong mộ huyệt này nữa! ( Mc )
Thiên Thần Chúa đóng vai trò quan trọng trong hai ngày lễ mừng kính mầu nhiệm căn bản của Đức tin Kito giáo.
Nhưng Thiên Thần Chúa ngay từ khởi đầu, trước khi có hai (lễ) mầu nhiệm Đức tin quan trọng vào Thiên Chúa, đã đóng vai trò trung gian là Sứ giả của Thiên Chúa hiện đến đàm thoại thuyết phục Maria nhận vai trò là người mẹ sinh thành nuôi dưỡng Chúa Giesu, Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người nơi cung lòng mình, một người phụ nữ, theo như công trình Thiên Chúa, mà Đấng Tạo Hóa, đã khắc ghi nơi các loài thụ tạo trong công trình thiên nhiên.
Thiên Thần Gabriel, Sứ giả của Thiên Chúa, đã xuất hiện nơi nhà của Maria ở làng quê Nazareth, miền Galileo phía Bắc nước Do Thái.Thiên thần Gabriel báo một tin đặc biệt khác thường cho thiếu nữ trẻ tuổi Maria còn đồng trình chưa sống chung kết hôn với một người đàn ông nào: Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, muốn chọn Maria làm mẹ Con Thiên Chúa, Chúa Giesu xuống trần gian làm người trong cung lòng Maria.
Chúa Giesu, Con Thiên Chúa, thành hình thân xác sự sống như bao trẻ em khác trong cung lòng người mẹ trên trần gian. Nhưng bào thai tế bao gốc mầm sự sống của em bé Giesu, Con Thiên Chúa, không do tế bào gốc máu mủ của một người đàn ông nào, mà do quyền phép Đức Chúa Thánh Thần tác động.
Thấy Maria hoảng sợ, Thiên Thần Chúa trấn an: Maria chị đừng sợ, chị không phải sống với một người đàn ông nào. Bào thai thành hình phát triển trong cung lòng chị là Con Thiên Chúa.
Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, có thể làm được hết mọi sự, mà con người trần gian cho là không thể.
Sau cùng Maria chấp nhận chương trình của Thiên Chúa muốn thực hiện qua đời sống mình với lời: Vâng, xin xảy ra như lời Thiên Thần truyền cho tôi!
Đức cố giáo hoàng Bêndicto 16. đã có suy tư về biến cố Thiên Thần truyền tin, lễ mừng kính ngày 25.thang Ba hằng năm
“ Biến cố Thiên Thần Chúa truyền tin, như phúc âm Chúa Giesu Kito theo Thánh sử Luca viết thuật lại, diễn tả sự việc thể hiện lòng khiêm nhường cùng ẩn chứa thầm kín -không ai biết ngoài Đức mẹ Maria- nhưng đồng thời lại mang chiều kích lịch sử nhân loại.
Lời Xin Vâng của Maria, một thiếu nữ trẻ tuổi nói với Thiên Thần, bào thai mầm sự sống của Giesu, Con Thiên Chúa do quyền năng của Chúa Thánh Thần, được gieo cấy vào cung lòng Maria. Từ lúc đó khởi đầu một thời đại lịch sử mới với Chúa Giesu, mà biến cố phục sinh sống lại của Chúa Giesu như Giao ước vĩnh cửu mới được thể hiện khắc ghi in dấu ấn.
Trong thực tế lời Xin Vâng của mẹ Maria năm xưa ngày Thiên Thần truyền tin phản ảnh lại hoàn toàn lời Xin vâng của chính Chúa Giesu với Đức Chúa Cha, xuống trần gian làm người, như trong thư gửi Do Thái đã cắt nghĩa về Thánh vịnh 40.: Vâng, này con xin đến, như đã viết về con trong sách thánh, để thực thi ý Thiên Chúa muốn (Thư Do Thái 10,7).
Sự vâng lời của Chúa Giesu, Con Thiên Chúa phản ảnh lại tâm tình sự vâng lời của người mẹ Maria. Qua hai lời xin vâng đó Thiên Chúa đã có thể chấp nhận dáng vẻ khuôn mặt loài người. Và như thế lễ Thiên Thần truyền tin cho Maria là lễ mừng Chúa Giesu Kito, một trung tâm mầu nhiệm Đức tin vào Chúa Kito: Ngài đã làm người.”
Thiên Thần Chúa luôn hằng có mặt trong mọi biến cố đời sống Chúa Giesu từ lúc xuống trần gian làm người, chịu bị ma quỷ cám dỗ trong hoang địa cho đến ngày sau cùng chịu đau khổ cô đơn trong vườn Cây dầu Getsemany và canh nơi mộ huyệt cùng chứng kiến biến cố phục sinh sống lại.
Là con người chúng ta luôn hằng cần có Thiên Thần cùng đồng hành gìn giữ che chở từ khi thành hình hài sự sống trong cung lòng mẹ, và trong suốt dọc con đường đời sống trần gian cùng mai sau hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Hình ảnh nếp sống đức tin có hạnh phúc
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Trong đời sống dân gian nhiều khi nói với nhau: Ai tin vào điều đó, thì đó là chuyện riêng của họ, hay tin vào điều đó, có mà bán cả lúa giống! Một cung cách thái độ hồ nghi, hay chối bỏ.
Nhưng cũng có câu nói khác: Người nào tin, sống có hạnh phúc! Một câu nói đầy lòng tin tưởng.
Đâu là hình ảnh nếp sống niềm tin có hạnh phúc?
Sống có hạnh phúc là điều tốt đẹp, là lối sống tích cực thành công. Và như thế ai cũng đều mong muốn đạt được trong đời sống. Nhưng có thật sự và đơn giản hễ sống có đức tin, là sống có hạnh phúc?
Con người thường hay đòi có bằng chứng cụ thể mắt xem, tai nghe, mũi ngửi, cảm nghiệm, tay đụng chạm vào mới có thể tin.
Nhà văn hào Wolfgang Goethe trong vở kịch Faust có suy tư: Tin mừng tôi đã nghe, nhưng còn thiếu niềm tin nơi tôi !
Phúc âm Chúa Giesu phục sinh thuật lại cảnh Ông Tông đồ Toma nghe anh em tông đồ kể lại đã nhìn thấy Chúa sống lại, nhưng ông không tin. Ông còn như thách thức đòi phải có bằng chứng mắt thấy, tai nghe, tay đụng chạm vào chính Chúa Giesu mới có thể tin Chúa Giesu đã sống lại thật: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin.” ( Ga 20, 19-31).
Trong đời sống khi ta thoáng nhìn thấy chỉ hình tấm so co la, mà ta ưa thích ăn, tự nhiên nước miếng trong miệng từ từ chảy ra rồi, cho dù chưa có để nhai nuốt nơi miệng. Chỉ mới nhìn thấy hình ảnh tấm Sô-co-la thôi, là đã có vị giác kích thích thơm ngon ngọt về nó rồi ngay nơi đầu lưỡi. Sự thể này có là do kinh nghiệm đã có (về Sô-cô-la…).
Ai cũng đều có kinh nghiệm về mọi hoàn cảnh đời sống từ khi còn nhỏ tuổi. Như cha mẹ nào cũng ôm con mình, xoa dịu an ủi, khi chúng khóc. Nên chúng chỉ chạy cần đến với cha mẹ để được an ủi xoa dịu. Khi cha mẹ hay ông bà, cô bác, dì …cười với em bé, em có kinh nghiệm cảm nhận được niềm vui vẻ và nhoẻn miệng cười lại. Kinh nghiệm đời sống này khắc ghi vào đời sống của em bé.
Ông Tông đồ Toma cũng vậy. Ông phải có kinh nghiệm về Chúa Giesu qua mắt nhìn thấy, nghe ngài nói cùng đối thoại với, tay đụng chạm tới. Kinh nghiệm này dẫn đưa ông đến niềm tin vào Chúa Giesu phục sinh.
Còn con người chúng ta thì sao? Chúng ta có thể nhìn thấy Chúa Giesu bằng mắt mình, tai nghe được lời Ngài nói, tay đụng chạm sờ vào Ngài được không ?
Không, con người chúng ta không có thể làm được như Ông Toma ngày xưa đã làm được. Vậy làm sao chúng ta có thể tin vào Chúa Giesu Kito ở giữa chúng ta hằng cùng đồng hành với?
Nếu muốn tin, con người chúng ta lệ thuộc vào yếu tố khác: vào con mắt tâm hồn. Vào kinh nghiệm, cảm nghiệm nội tâm sâu thẳm trong trái tâm hồn.
Nếu qua kinh nghiệm sâu thẳm nội tâm cảm nhận ra gặp được Chúa Giesu, trong cầu nguyện, nơi thiên nhiên, nơi thánh đường, nơi thánh địa hành hương, là cảm nhận được có sức mạnh niềm vui phấn khởi trào dâng trong tâm hồn cùng lan ra nơi cơ thể.
Tin mừng của Chúa Giesu mang đến trần gian là tin mừng tình yêu, ơn tha thứ cứu độ. Nên khi nghe tin mừng như thế, ta cảm thấy an vui. Và qua đó có thể cảm nhận ra: Chúa Giesu Kito ở bên cạnh đời sống mình trên con đường lữ hành trần gian với bao thử thách cùng thăng trầm lên xuống.
Và như thế con người chúng ta có thể tin vào Chúa, dù không nhìn thấy, không nghe, không đụng chạm sờ vào Ngài được. Nhưng con mắt tâm hồn nội tâm giúp dẫn đưa đi vào con đường niềm tin vào Chúa
Chúa Giesu phục sinh nói với ông Toma ngày xưa, và cũng với con người chúng ta ngày nay: Hạnh phúc cho người không thấy mà tin!
Xưa nay khi nói hay nghĩ đến Thánh Tông đồ Toma, chúng ta thường đơn giản nhớ biệt danh riêng thêm cho ngài: Ông Thánh Toma yếu lòng tin!
Nhưng Đức cố giáo hoàng Benedicto 16. đã có suy tư tích cực về vị Tông đồ này: “ Trường hợp đời sống hoài nghi của Tông đồ Toma vẽ ra cho chúng ta ít nhất ba điểm quan trọng:
Thứ nhất, Ông an ủi chúng ta trong hoàn cảnh không có sự bảo đảm chắc chắn.
Thứ hai, Ông chỉ cho chúng ta nhận ra mỗi sự hoài nghi về những điều gì không có bảo đảm chắc chắn có thể dẫn đưa đến ánh sáng.
Và sau cùng lời của Chúa Giesu nói với Ông Toma nhắc nhở chúng ta đến ý nghĩa sâu thật của đức tin, và giúp chúng ta can đảm, tiếp tục sống trung thành tin yêu làm chứng cho Chúa, dù có những khó khăn trên con đường đời sống.”
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
31. Hình ảnh ngôi mộ trống
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ở các nghĩa trang, các ngôi mộ của người đã qua đời tuỳ theo nếp sống văn hóa, phần trên mặt đất thường được xây phủ kín bằng xi mang Bêtông hay lát đá kín và có tấm bia ghi khắc tên tuổi nơi sinh, nơi cùng ngày qua đời của người qua đời nằm trong nấm mồ sâu dưới lòng đất.
Nấm mồ người qua đời là ngôi nhà trạm cuối cùng của đời sống họ cư ngự vĩnh viễn cho tới nghìn thu. Vì thế ngôi nhà trạm cuối cùng của họ được xây kín vững chắc để người bên trên, bên ngoài không thể chui vào trong mồ mả được, mà làm việc đen tối với thân xác người qua đời nằm yên nghỉ trong đó.
Và thân nhân người qua đời những khi có cơ hội thường đi ra thăm viếng quyét dọn chưng hoa đèn cho ngôi nhà trạm cuối cùng của họ, để tỏ tấm lòng biết ơn buồn thương nhớ tiếc cùng kính trọng người thân yêu, ngày xưa đã cùng chung sống làm ơn cho nhau, cùng sống trải qua với bao ân tình kỷ niệm.
Theo kinh thánh phúc âm thuật lại ( Mc 16,1-8) có ngôi mộ trống, dù trước đó thân xác người qua đời đã được an táng với băng vải quấn phủ kín, lối cửa huyệt mộ theo nếp sống văn hóa Do Thái có phiến đá to nặng che kín lối ra vào. Yên trí thân xác người đã qua đời an táng vẫn nằm yên nghỉ trong đó, nhưng sự việc lại xảy ra khác, không như những người đến thăm viếng ngôi mộ đó tin tưởng:
“Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su.2 Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.
3 Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?”4 Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.5 Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ.6 Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!7 Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông.”8 Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi.”
Ngôi mộ chôn Chúa Giesu trở thành ngôi mộ trống không còn xác Chúa Giesu nữa, mà trước đây ba ngày họ đã an táng Ngài nơi đó, như lời Thiên Thần nói: Ngài đã chỗi dậy rồi không còn đây nữa!
Như vậy hình ảnh ngôi mộ trống không còn xác Chúa Giesu trong đó nữa có đủ sức cùng bằng chứng thuyết phục những người tin theo Chúa Jesus Kito tin rằng Chúa Giesu Kito đã sống lại, như xưa nay Giáo hội chúng ta hằng loan báo tin mừng Halleluia Chúa đã sống lại rồi?
Chỉ nguyên hình ảnh ngôi mộ trống không còn xác Chúa Giesu không đủ thuyết phục tin vào mầu nhiệm Chúa Giesu đã sống lại. Chính Chúa Giesu phục sinh đã nhiều lần phải hiện ra gặp gỡ các Môn đệ của mình cho tới khi họ có thể tin Chúa Giesu Kito, Thầy mình, đã sống lại thật rồi. Và Thánh tông đồ Phero đã xác tín sự thay đổi nơi lòng tin của ông: “Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy và cho Người xuất hiện tỏ tường.”( Công vụ Tông đồ 10,40). Ngài đã gặp gỡ chúng tôi, chúng tôi đã tận mắt nhìn thấy Người và đã cùng ăn uống với Người.
Người đầu tiên gặp gỡ Chúa Giesu phục sinh là Maria Magdalena ngay nơi ngôi mộ trống, rồi đến các chính Môn đệ Chúa Giesu là những nhân chứng cho sự phục sinh sống lại của Chúa Giesu Kito. Họ có sứ vụ đi loan tin ra toàn thế giới tin mừng quá lạ lùng không thể tưởng tượng nổi cho tâm trí con người.
Ngày nay nơi ngôi mộ chôn Chúa Giesu Kito ở đồi Golgotha bên thành Jerusalem từ thế kỷ 4. Sau Chúa giáng sinh một ngôi đền thờ Mộ Chúa được xây dựng to lớn vững chắc. Ngôi đền thờ mộ Chúa Giesu này có sáu tôn giáo Kito giáo: Chính Thống giáo Hylạp, Công giáo, Chính thống giáo Armenia, Chính Thống giáo Syria, Chính Thống giáo Kop Ai Cập, Chính thống giáo Aethiopia đều có phần chỗ cùng đồng quản trị sử dụng, mỗi tôn giáo có nhà nguyện bàn thờ riêng của mình trong ngôi đền thờ Mộ Chúa, mà họ đã thỏa thuận chia với nhau.
Không chỉ các tôn giáo Kito giáo cùng có phần tham dự nơi thánh địa ngôi đền thờ Mộ Chúa, mà cả Hồi Giáo cũng góp phần tham gia nữa. Từ thế kỷ 12. hai gia đình người Hồi giáo được tín nhiệm trao cho việc giữ chìa khoá cửa chính đền thờ. Chỉ người hai gia đình này được giữ chiếc chìa khóa này, và hằng ngày vào mỗi sáng lúc 05.00 giờ đến mở khóa cửa ra vào, và chiều tối lúc 21.00 giờ đến đóng khóa cửa lại. Rồi mang chiếc chìa khóa “thánh” đó về nhà cất giữ, không được trao lại cho bất cứ ai khác. Vì đã có luật lệ của khế ước đạo đời thỏa thuận ấn định như thế.
Năm 1853 các bên Tôn giáo lo giữ việc quản trị đền thờ đã làm ra bản khế ước có tên Status quo, cái gì trong ngoài đền thờ, sau khi ký kết thỏa ước, đang ở đâu thì phải để giữ nguyên ở chỗ đó, và khi có sự gì cần thay đổi sửa chữa trong ngoài đền thờ, các bên liên hệ phải họp nhau lại cùng thỏa thuận chung mới được thi hành. Vụ việc xảy ra là sau khi ký thỏa ước Status quo mới khám phá ra trên tường phía mặt tiền bên ngoài đền thờ còn chiếc thang đang ở trên đó. Biết thế nhưng không ai được leo lên gỡ đem xuống, và các bên ký kết thỏa ước Status quo cũng không bàn họp để gỡ nó đem xuống. Thành ra cho tới bây giờ chiếc thang “ lịch sử “ vẫn còn đó như nhân chứng của thỏa ước Status quo, và bên trong đền thờ cũng còn một vài cây cột bằng đá nằm ngổng ngang dưới nền nhà.
Vì ngôi đền thờ chung của sáu tôn giao cùng đồng thời quản trị sử dụng, rồi mỗi tôn giáo trang trí phần chỗ góc tôn thờ của mình theo ý riêng của đạo mình, nên không có sự hài hòa với nhau về nghệ thuật trang trí. Vì thế bầu khí đền thờ trở nên sặc sỡ nhiều màu mè, không có thứ tự hài hòa, và còn đen tối tăm u ám nữa, vì khói của đèn nến tỏa ra bám vào cột tường vách trần nhà.
Ngôi mộ thánh, nơi diễn xảy ra biến cố phục sinh sống lại của Chúa Giesu, là nơi cực thánh của Kito giáo, một nhà nguyện nhỏ với hai ngăn phòng như văn hóa Do Thái về việc xây dựng mộ huyệt, ngăn phòng bên trong có tấm phiến đá Cẩm thạch là phần mộ nơi Chúa Giesu đã nằm và đã chỗi dậy sống lại.
Năm 1927 một trận động đất đã xảy ra khiến cho ngôi đền thờ bị hư hại nhiều. Nhưng may nhờ có khung dây sắt chằng tấm phiến đá cẩm thạch đó, nên tấm phiến đá thánh mộ Chúa Jesus không bị tan vỡ ra nhưng vẫn còn nguyên vẹn.
Điều này có thể là dấu chỉ về đức tin vào sự phục sinh của người tín hữu Kito giáo trong thời đại ngày hôm nay. Có người suy nghĩ cho rằng đức tin vào sự phục sinh sống lại từ cõi chết của Chúa Giesu cũng có chiều hướng bị thử thách hồ nghi đặt thành thắc mắc như ngôi nhà nguyện mộ Chúa ở Jerusalem một thời do động đất làm rung chuyển gây ra cảnh đổ nát, rồi sau đó phải xây dựng lại.
Ngày nay không chỉ những người không tin vào Thiên Chúa đã đành, nhưng có cả những tín hữu Chúa Kito, nhất là ở bên xã hội văn minh Tây phương, số người hồ nghi hay không tin vào sự phục sinh sống lại của Chúa Giesu ngày càng tăng thêm lên, như kết quả của những khảo sát điều tra thẩm vấn cho biết.
Nếu đức tin Kito giáo mà không có sự phục sinh sống lại của Chúa Giesu Kito thì, như Thánh Phaolo xác tín, trở thành trống rỗng.
Không có sự phục sinh sống lại của Chúa Giesu Kito, đức tin ít hay thiếu nội dung và chỉ còn là một chút lễ hội mừng mùa Xuân.
Không có sự phục sinh sống lại của Chúa Giesu Kito, không có sức năng động của niềm hy vọng phát xuất đến từ sự phục sinh sống lại, sẽ không thành công trong việc thay đổi đời sống con người trên địa cầu.
Ngôi mộ chôn Chúa Giesu Kito thành ngôi mộ trống, vì Ngài đã chỗi dậy sống lại rồi. Từ xưa nay hằng ngày biết bao nhiêu đoàn người hành hương khắp nơi trên thế giới lũ lượt đến kính viếng ngôi mộ thánh trống ở Jerusalem vừa thực hành hâm nóng đức tin của mình cho sống động, và cũng vừa là dịp thực hành tình liên đới bác ái với người dân cùng Giáo Hội Chúa Giesu Kito bên đất thánh Bethlehem, Jerusalem có phương tiện tài chánh để sinh sống.
Ngôi mộ thánh của Chúa Giesu ở trong đền thờ ngôi mộ bên Jerusalem là ngôi mộ trống không có xác Chúa Giesu nữa. Nhưng thân thể con người là đền thờ của Chúa có Thần Linh Chúa, Đấng là nguồn sự sống, nguồn tình yêu thương luôn hằng cùng đồng hành với trên đường lữ hành trần gian hôm nay cùng ngày mai sau.
Mừng lễ Chúa Kito phục sinh 2024
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
30. Hình ảnh câu hỏi về sự thật
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Hằng năm trong nếp sống phụng vụ của Giáo hội tuần thánh là cao điểm mừng tưởng nhớ những biến cố đau thương sau cùng cuộc của đời Chúa Giesu trên trần gian. Những biến cố đau thương tủi nhục đó con người Chúa Giesu phải gánh chịu và sau cùng bị chết tủi nhục trên thập tự, nhưng lại trở thành nguồn suối thiêng liêng ơn cứu độ, nguồn tình yêu của Thiên Chúa mang lại cho phần cứu rỗi linh hồn con người.
Ngày Thứ Sáu tuần thánh là ngày buồn thảm tưởng nhớ kỷ niệm biến cố đau thương Chúa Giesu Kito tử nạn trên cây thập tự năm xưa ở đồi Golgotha bên ngoài thành Jerusalem nước Do Thái như phúc âm theo thánh Marco thuật viết lại ( Mc 15,22-25).
Giáo hội thời sơ khai sau khi Chúa Giesu Kito về trời đã có tập tục đạo đức mừng kính tưởng nhớ biến cố Chúa Giesu bị đóng đinh vào thập tự rồi phục sinh sống lại trùng vào dịp lễ Vượt Qua của Do Thái giáo. Từ thời Giáo phụ Tertullian ( 160 -240 sau Chúa giáng sinh) lễ mừng Chúa phục sinh tập trung vào ngày thứ Sáu và thứ Bẩy tuần thánh.
Bài thương khó Chúa Giesu Kito ( Ga 18,1-19,42) được long trọng đọc trong nghi lễ tưởng niệm ngày thứ sáu tuần thánh, trong đó có câu của quan Philato hỏi Chúa Giesu: Sự thật là gì vậy( Ga 18,38) vào cuối phiên thẩm vấn xử án.
Xưa nay trong đời sống con người luôn đi tìm sự thật. Vì nào ai biết sự thật ra làm sao. Nhưng lại hay vướng vấp gặp phải cảnh hồ nghi hoang mang. Vì có những suy luận qủa quyết của cùng một sự việc vấn đề lại trái ngược nhau.
Vào tháng Ba năm 2021 Giáo Hội Công giáo Roma, qua Bộ Tín lý đức tin, đã khẳng định không thể ban chúc lành cho những người đồng giới tính sống chung với nhau.
Nhưng ngày 18.12.2023 cũng qua Bộ Tín lý đức tin của Giáo hội Công giáo Roma, đưa ra tuyên bố Fiducia Supplicans, lại có quyết định khác ngược lại của cùng một vấn đề: đồng ý cho phép chúc lành cho những người đồng tính.
Một vấn đề gây hoang mang tranh cãi rộng rãi trong lòng Giáo hội, dù đã và đang có những giải thích làm sáng tỏ thêm ra. Vì không biết sự thật nằm ở vị trí nào đây trong vấn đề tinh thần đạo giáo liên quan tới đạo đức luân lý truyền thống xưa nay trong Giáo Hội!
Rồi đã có nhiều trường hợp tương tự xảy ra trong đời sống nhân loại xưa nay nơi mọi khía cạnh. Phải chăng tất cả cũng tương đối thôi sao …?
Quan Tổng Trấn Philato, người được yêu cầu, đại diện hoàng đế Roma thời lúc đó làm quan tòa xét xử vụ án Chúa Giesu Kito. Ông đã nghe người ta, dân Do Thái, đưa ra những bằng chứng luận tội kết án Chúa Giesu. Và Ông cũng thừa biết những luận cứ đưa ra cáo buộc tội Chúa Giesu thiếu nền tảng pháp lý cùng sự thật. Ông muốn tha Chúa Giesu, nhưng đám đông dân chúng biểu tình hò hét gây áp lực trên ông không được tha cho Chúa Giesu. Nếu Ông ta tha cho Chúa Giesu thì kể như người không trung thành với hoàng đế Roma..Một nhà chính trị hàng đầu đại diện cho hoàng đế Roma không thể không nghĩ tới quyền lợi địa vị chỗ ngồi của mình. Vì thế ông phải tìm cách củng cố bảo vệ cho quyền lợi của riêng mình, không làm mất lòng dân chúng Do Thái cùng hoàng đế Roma.
Đức Giê-su đáp: "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” (Ga 37.)
Nghe Chúa Giesu nói đến sự thật Ông liền hỏi lại: Sự thật là gì?
Có thể hiểu câu hỏi của Philato không là ý hướng chân thành của ông muốn biết về sự thật. Câu hỏi đó có thể nói lên sự giận dữ, hay sự chế nhạo hay cũng có thể biểu lộ cung cách buông xuôi đầu hàng!
Philato hỏi để hỏi thôi, với ông lúc đó sự thật sau cùng là làm sao tìm cách giữ bảo vệ được quyền lợi địa vị chính trị riêng của mình trước mặt hoàng đế Roma mới quan trọng.
Với Chúa Giesu không phải sự thật là như thế. Vì đó là sự dối trá lừa lọc, sự ích kỷ tự đề cao chính mình, nó hướng dẫn con người vào con đường sống sai lạc.
Đó là sự thật vĩnh viễn của Thiên Chúa, chứ không có gía trị thay đổi tương đối hôm nay thế này, nhưng mai lại khác. Sự thật thiên chúa thần linh có giá trị cho mọi người. Sự thật đó là ánh sáng tình yêu thần linh thiêng liêng nước Thiên Chúa soi đường cho đời sống con người trên trần gian. Nước Thiên Chúa là nước sự thật, nơi đó Thiên Chúa ngự trị, và chính Ngài là sự thật.
Chúa Giesu là Vua của một vương quốc không có tên cùng ranh giới hình thể địa lý trên bản đồ thế giới trần gian. Nhưng lại hiện diện ở khắp mọi nơi, vào mọi không gian, thời gian, nơi con người đi tìm kiếm sự thật, như Chúa Giesu nói : Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” (Ga 37.)
Trong đời sống con người chúng ta thường hay vướng vào những trường hợp hoang mang hồ nghi, nhất là trong lãnh vực nếp sống tinh thần phải lựa chọn giữa đạo đức hướng về Thiên Chúa và vật chất trần gian, giữa công bình ngay chính và quyền lợi riêng tư, giữa sự thánh thiện và tội lỗi, giữa bề trong nội tâm khiêm nhường và chú trọng nét vẻ bề ngoài, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa lối sống quý trọng gìn giữ bảo vệ thiên nhiên và cung cách coi thường không kính trọng thiên nhiên gây ô nhiễm…
Có lẽ câu hỏi sự thật là gì giúp gợi suy nghĩ trên đường đi tìm sự chân thật cho đời sống hôm nay và ngày mai.
Thứ Sáu tuần thánh 2024
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
29. Hình ảnh gía trị tấm bánh mì
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Có câu chuyện kể : “ Một ký giả người Anh có ý tưởng làm một thí nghiệm ngộ nghĩnh: Ông mua ba tấm bánh mì đặt ở góc đường có nhiều người qua lại nơi những thành phố khác nhau. Ông kêu mời những người qua lại dành ra một tiếng đồng hồ để làm việc cho tấm bánh mì này. Kết quả như sau:
Ở thành phố Hamburg bên Đức ông bị người ta cười chế nhạo.
Ở thành phố New York bên Hoa Kỳ ông bị Cảnh sát bắt giữ.
Ở nước Nigeria bên Phi châu nhiều người đồng ý bằng lòng bỏ ra ba tiếng đồng hồ làm việc cho tấm bánh mì này.
Ở thành phố New Delhi bên Ấn Độ nhanh chóng có hàng trăm người tụ tập lại, sẵn sàng muốn làm việc cả ngày cho tấm bánh mì này.” ( Willi Hoffsümmer, Kurz Geschichten 1, Nr. 61. Der Wert eines Brotes, GrünewaldVerlag1992, S.46.)
Đây là một thí nghiệm, một cuộc khảo sát ngộ nghĩnh khác thường, nhưng kết quả nói lên sự khác biệt về nhận xét gía trị với cùng một tấm bánh mì mà những con người ở các nơi khác nhau bày tỏ nói lên. Có những người cho rằng tấm bánh mì không có ý nghĩa, đang khi lại có những người trái lại nhìn cân đo tấm bánh mì với gía trị quý báu, và để nhận được nó đã phải sẵn sàng hy sinh nỗ lực làm việc nhiều .
Đó là hình ảnh tấm bánh mì lương thực nuôi sống bao tử thân xác con người hằng ngày. Còn hình ảnh tấm bánh mì đức tin Thánh Thể tình yêu Chúa Giesu Kito thì sao?
Hằng năm vào ngày Thứ Năm tuần thánh Giáo Hội - từ thế kỷ 04. Sau Chúa giáng, ngày thứ Năm tuần thánh những người tín hữu phải phạt đền tội công khai được thâu nhận trở lại vào cộng đoàn Giáo hội xứ đạo. Và từ ngày đó họ được phép tiếp nhận Tấm Bánh Thánh thể Chúa Kito - mừng kỷ niệm Chúa Giesu Kito năm xưa trước khi chịu khổ nạn rồi sẽ từ giã trần gian trở về trời, đã dùng tấm bánh mì thiết lập Bí tích Thánh Thể làm lương thực nuôi dưỡng đời sống đức tin tinh thần người tín hữu Chúa Kito trên trần gian.
Tấm bánh mì bữa tiệc ly mà Chúa Giesu Kito dùng nhìn bên ngoài không có gì khác lạ hơn một tấm bánh mì được dùng làm lương thực trong đời sống. Nhưng trong tấm bánh mì đó ẩn chứa một gía trị linh thiêng cao cả, mà con người chúng ta không thể nào lấy công sức thời giờ sản xuất chế biến làm ra được.
Tấm bánh mì đó là món quà tặng chan chứa tình yêu thương của Thiên Chúa cho con người, như sách kinh thánh từơng thuật lại về tấm bánh mì bữa tiệc ly:” trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.”(1.Cor 11, 23-24).
Từ ngày đó Lời này của Chúa Giesu và Tấm Bánh mì đó trở nên người cùng đồng hành, trở thành lương thực tình yêu cho đời sống tinh thần đức tin người tín hữu trên đường lữ hành trần gian. Đây là hình ảnh dấu chỉ về Bí tích Thánh Thể, mà Chúa Giesu đã thực hiện trong Bữa tiệc ly.
Việc Ngài chọn tấm bánh mì là lương thực thiêng liêng nói lên dấu chỉ ý hướng Ngài luôn hiện diện trong đời sống sinh hoạt của con người nơi mọi tầng lớp, qua mọi không gian và thời gian thế hệ thời đại. Và như chúng ta cầu nguyện trong Kinh Lạy Cha:Xin cho chúng con lương thực hằng ngày !
Bánh mì được nói đến trong Kinh thánh là thực phẩm nuôi sống đời sống con người cho có sức khỏe thể xác cũng như tinh thần. Cho dù có những thứ thực phẩm khác lạ ngon thơm hơn, nhưng bánh mì vẫn là thực phẩm chính yếu căn bản và không thể thiếu được.
Tấm bánh mì Thánh thể Chúa Giesu Kito mang đến sức sống thần linh cho đời sống tinh thần đức tin đời sống nơi trần gian cùng đời sống mai sau trên trời.
Tấm bánh mì Thánh Thể Chúa Giesu Kito giúp đời sống tinh thần con người phát triển cho sống động trong cộng đoàn những người cùng tin theo Chúa Giesu
“Con người chúng ta cần cơm bánh cho đời sống. Ai trong hoàn cảnh thiếu lương thực bị đói, họ không đòi hỏi thứ thực phẩm cao cấp đắt giá, nhưng mong cần có tấm bánh mì. Những người thất nghiệp không đòi hỏi tiền lương cao nhiều, nhưng họ cần cơm bánh mì. Chúa Giesu mặc khải chính Ngài là bánh mì cần thiết cho đời hằng ngày. Không là một thứ loại bánh mì trong nhiều thứ loại, nhưng là tấm bánh mì mang lại sự sống thiêng liêng.” (Đức giáo hòang Phanxico)
Thứ Năm tuần thánh 2024
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Hình ảnh vị trí chỗ đứng tốt
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong sinh hoạt đời sống hầu như ai cũng mong muốn cùng cố gắng nỗ lực đạt được vị trí chỗ đứng tốt trong công ăn việc làm ở mọi lãnh vực.
Vị trí chỗ đứng tốt ít hơn về khía cạnh không gian văn phòng chỗ ngồi làm việc rộng rãi tiện nghi thoải mái, nhưng nhiều hơn tình trạng bầu khí sinh hoạt tốt thân thiện với những người cùng sinh hoạt làm việc chung. Nhiều hơn nữa chỗ đứng vị trí có thể gây ảnh hưởng với tiếng nói có trọng lượng cùng chất lượng bàn thảo trong quyết định đưa đến quy định kết luận.
Điều này thể hiện sự cạnh tranh mạnh cùng sâu rộng nơi những người đứng đầu các cơ quan cấu trúc lãnh đạo văn phòng, hãng xưởng khu vực trong đời sống xã hội con người xưa nay.
Có hình ảnh như thế nơi nếp sống đạo giáo tinh thần không?
Văn phòng cơ cấu dù nhỏ luôn cần phải có người ở vị trí đứng đầu. Vì thế vị trí chỗ đứng ở lãnh vực tôn giáo tinh thần đều cần có người đứng đầu.
Nhưng những vị ở vị trí lãnh đạo trong tôn giáo được tuyển chọn cắt cử sai đến, như Đức giáo hoàng được các vi Hồng Y bầu chọn, Đức giám mục được các linh mục giáo phận chọn đề cử và được Đức giáo hoàng chứng nhận bổ nhiệm sai đến làm việc ở giáo phận, các cha xứ được đức giám mục cũng vậy sai đến giáo xứ làm việc mục, nơi các nhà Dòng Tu viện càc Vị Bề Trên được các thành viên nhà Dòng tu viện bầu tuyển chọn. Các vị này có trách nhiệm quyền hành, có nhiều ảnh hưởng, nhưng các Vị luôn cần đến bầu khí tốt thân thiện cùng làm việc cộng tác của mọi người tín hữu Chúa Kito nơi sinh hoạt.
Qua Bí tích Rửa tội người tín hữu Chúa Kito có vị trí chỗ trong cộng đoàn Giáo hội Chúa ở trần gian. Nhưng Thánh Phaolo còn có xác tín sâu xa hướng về tương lai thieng liêng vượt qua khỏi cuộc sống trần gian: Chúng ta được cùng chung sống lại và đồng ngự trị trên nước trời trong Ðức Giêsu Kito.( Epheso 2,4-10).
Là con người tạo vật do Thiên Chúa tạo dựng nuôi sống, không chỉ trên trần gian có được vị trí chỗ đứng làm việc sinh, có tiếng nói ảnh hưởng, nhưng cũng còn có vị trí chỗ đứng tốt ở trên trời bên Thiên Chúa nguồn sự sống, nguồn tình yêu, sau khi đời sống trên trần gian kết thúc.
Vì con người xưa nay không ai sống mãi mãi với thân xác hình hài như đang có. Cuộc đời dọc đường gió bụi trong thung lũng trần gian đầy nước mắt của bất kỳ ai có ngày kết thúc với sự chết. Chúa Giesu Kito là Con Thien Chúa xuống trần gian làm người cũng đã phải sống trải qua con đường đời như bao con người xưa nay. Nhưng Thiên Chúa không để cho Chúa Giesu Kito phải mãi mãi nằm trong nấm mồ sự chết, trái lại đã cho ngài chỗi dậy sống lại và lên trời lại.
Sự sống lại từ cõi chết của Chúa Giesu Kito là sự sáng tạo mới, sự sáng tạo thứ hai cho trần gian: sự cứu độ, sự sống mới cho linh hồn con người thoát khỏi hình phạt sự chết vì tội lỗi !
Người tín hữu Chúa Kito ở trần gian tin tưởng theo Chúa trong suốt dọc đời mình, sau khi chết, qua tình yêu, lòng thương xót của Chúa, không do thành tích của riêng mình tạo làm ra, cũng được Thiên Chúa cứu độ cho một vị trí chỗ đứng ngồi tốt trên nước trời cùng với Chúa Kito, Đấng đã sống lại từ cõi chết.
Ngày xưa dân Israel phải chịu cuộc sống cảnh lưu đày sang xứ đất nước Babylon xa quê hương xứ sở, họ đau buồn tủi nhục tưởng mình như đã chết, và chỉ còn biết đứng ngồi than van khóc lóc. Nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi. Ngài qua Ngôn sứ Ezechiel đã mang đến cho họ lời đoan hứa chan hòa sự sống niềm hy vọng: “Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en.” (Ez 37,12).
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Hình ảnh nếp sống mùa chay
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Mùa Chay theo nếp sống văn hóa đạo Công giáo kéo dài 40 ngày, từ thứ Tư lễ Tro đến đại lễ mừng Chúa phục sinh. Trong những ngày này người tín hữu Chúa Kitô sửa dọn chuẩn bị tâm hồn cung cách sống không chỉ để đón mừng đại lễ Chúa phục sinh, nhưng còn là cơ hội tập luyện sống theo tinh thần kỷ luật của đạo đức Kito giáo.
Trong mùa Chay chúng ta dâng lời cầu nguyện” Lạy Chúa, với lòng tin tưởng vào Chúa, chúng con muốn sống mùa chay 40 ngày trong cung cách ăn năn thống hối và đền tội. Xin ban sức mạnh giúp chúng con sống theo nếp sống Kitô giáo, là từ bỏ lối sống chiều theo sự dữ tội lỗi, và quyết tâm sống theo sự tốt lành thánh thiện.”
Hình ảnh cung cách nào giúp sống mùa Chay?
Đức cố Giáo hoàng Benedictô 16. đã có suy niệm về nếp sống mùa chay: “Chúa Giêsu Kitô đưa ra ba bài tập thực hành, mà xưa kia Thánh Ngôn sứ Mose đã ban hành như lề luật hướng chỉ dẫn cho dân chúng trong đời sống: Làm việc bác ái, cầu nguyện và ăn chay. Những lưu truyền này cho mùa chay phù hợp như lời mời gọi ăn năn trở về tận trong tâm hồn trái tim với Thiên Chúa.”.
Làm việc bác ái giúp đỡ người khác trong đời sống là cung cách lối sống tương quan tình liên đới gần gũi với người khác, khi cùng chia sẻ với họ về sự cần thiết cho đời sống, mà họ đang gặp khó khăn thiếu thốn.
Trong ý nghĩa như thế, làm việc bác ái chia sẻ giúp đỡ người khác đang gặp hoàn cảnh thiếu thốn không chỉ về thực phẩm miếng ăn áo mặc, nhưng còn muốn mang đến cho họ chút niềm vui, khuôn mặt niềm hy vọng, và như thế đề cao tôn trọng phẩm giá con người của họ.
Cầu nguyện cùng Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa nguồn đời sống của mọi loài thụ tạo là cung cách sống tương quan gần gũi với Ngài. Chân nhận Ngài là nguồn mạch chủ đời sống mình. Con người chỉ là tạo vật do Ngài tạo dựng nên và nuôi sống. Con người là người đón nhận sự sống ân đức từ nơi Ngài.
Nên những thần tượng vật chất như của cải tiền bạc, tuy là cần thiết trong đời sống, nhưng không là chủ, là cùng đích đời sống, cần phải đặt sang một bên cạnh. Chúng chỉ là phương tiện cho đời sống.
Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, mới là thần tượng, là cùng đích của đời sống. Sống tương quan gần gũi Ngài không là cách sống chỉ nói về Ngài, nhưng là bước theo chân Ngài, sống theo tiếng gọi làm chứng cho tình yêu của Ngài giữa dòng sông đời sống xã trần gian.
Ăn chay không là cung cách thái độ sống khó chịu buồn sầu, vì sống hy sinh từ bỏ ý thích cùng nhịn ăn. Nhưng là cách sống gần gũi tương quan trở về đời sống chính mình, để cảm nhận nhận ra đời sống chân thật thiên nhiên của mình.
Ăn chay là lời mời gọi con người trở về gần gũi với chính mình. Hy sinh từ bỏ không là chối bỏ hóa giải mình, hay làm mình ra thấp kém bé nhỏ thành ra thiếu thốn, hay làm cho mình thành buồn bã u sầu. Nhưng để tìm lại chính mình là hình ảnh của Thiên Chúa tình yêu, Đấng Tạo Hóa mọi loài trong công trình thiên nhiên hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Ba bài luyện tập thực hành này ẩn chứa khuôn khổ một nếp sống sự tự do niềm vui thanh thản, tình yêu và hữu ích cho đời sống thể xác cũng như tinh thần.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh chước cám dỗ
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Năm 2017 Đức thánh cha Phanxico đã đưa ra suy nghĩ khác về lời cầu trong kinh Lạy Cha. Ngài không cho rằng “ xin đừng dẫn chúng con sa vào chước cám dỗ “ là lời cầu nguyện tốt.
Trước đó bản dịch kinh Lạy Cha bằng tiếng Pháp xóa bỏ câu “ ne nous soumets pas la tentation-đừng để chúng con bị cám dỗ đè bẹp quật ngã “, nhưng thay bằng lời cầu xin “ ne nous laisse pas entrer dans la tentation-xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy của cám dỗ “
Theo ý tưởng đó Đức giáo hoàng Phanxico cho rằng như thế tốt hơn: Tôi bị vấp té ngã, nhưng không phải người để tôi sa vào cám dỗ. Một người cha không làm như thế. Trái lại người cha liền ra tay cứu giúp cho đứng chỗi dậy. Người cám dỗ chúng ta là ma quỷ.
Hình ảnh Chúa Giesu Kito bị cám dỗ như thế nào?
Phúc âm viết thuật lại: Chúa Giesu phải đi vào sa mạc, nơi hoang địa sống trải nghiệm cho có kinh nghiệm tâm linh chịu để bị ma quỷ cám dỗ! ( Mc 1,12-.15).
Ma quỷ cám dỗ Chúa Giesu, theo thánh sử Marco, là kẻ đóng vai trò đối ngược chống lại Thiên Chúa. Chúa Giesu vào trong sa mạc hoang vu sống cô đơn một mình giữa khung cảnh sức mạnh của satan cám dỗ, của sự dữ bao vây. Và Ngài phải chống chọi để vượt qua. Đây là điều thánh sử Marco không muốn làm ngơ không viết thuật lại. Vì điều này thuộc về bản tính đời sống con người của Chúa Giesu.
Điều này mang lại kinh nghiệm bản thân cho Chúa Giesu, mà sau này Ngài dạy các Tông đồ cầu nguyện : xin đừng để chúng con sa vào con đường sự cám dỗ. Như kinh thánh viết về Ngài:” Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách.” (Thư Do Thái 2,18).
Ngày xưa Kinh thánh cũng nói đến “ cám dỗ thử thách ”. Trường hợp điển hình tổ phụ Abraham bị thử thách “ mang con Isaak giết làm hiến lễ như Thiên Chúa đòi hỏi “ (St 22,1).
Abraham đã làm như ý Thiên Chúa. Nhưng thật may mắn phước đức, mạng sống của Isaak không bị sát hại. Vào giây phút chót chính Thiên Chúa sai Thiên Thần đến cứu giúp can ngăn không để Abraham cầm dao đâm giết chết Isaak.
Sự cám dỗ này được hiểu là sự thử thách về đức tin vào Thiên Chúa của Abraham. Trong trường bi thảm này Tổ phụ Abraham được trình bày là người sống gương mẫu có lòng tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, cho dù ông không hiểu được ý định chương trình của Ngài. Vì nào ai có thể hiểu được, dù là sứ mạng thần thiêng thánh đức, phải giết sát hại chính con của mình làm của lễ dâng hiến cho thần thánh?
Một hình ảnh gương mẫu khác về sự thử thách đức tin trong kinh thánh thuật lại là trường hợp đời sống của Ông Giop. Thiên Chúa để cho những bất hạnh đau khổ tệ nạn không thể tưởng tượng được xảy ra cho gia đình đời của ông.
Satan hiện hình là người vợ của ông, người bạn của ông trình bày xúi đòi hỏi ông phải chối bỏ đức tin vào Thiên Chúa trong lúc đau khổ sầu thảm. Nhưng Ông nhất quyết không làm chiều theo cám dỗ của Satan ma quỷ xúi bày ra.
Giop một mực giữ vững lòng tin tưởng trông cậy vào Thiên Chúa. Lòng xác tín trung thành của ông thể hiện qua câu tuyên tín thời danh làm phương châm đạo đức khôn ngoan cho con người trên trần gian qua mọi thế hệ thời đại xưa nay :“Thân trần truồng sinh ra từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. ĐỨC CHÚA đã ban cho, ĐỨC CHÚA lại lấy đi: xin chúc tụng danh ĐỨC CHÚA!”
Trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa.”( Sách ong Giop 1,1-22).
Vậy ai là người cám dỗ chúng ta? Satan ma quỷ hay Thiên Chúa?
Đức giáo hoàng Phanxico đã xác định: Satan ma quỷ là thủ phạm của cám dỗ, còn Thiên Chúa là người cứu giúp chữa lành “ Thiên Chúa là người cha nhân lành, như thư của Thánh Tông đồ Giacobe : Khi bị cám dỗ, đừng ai nói: “Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ”, vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Người cũng không cám dỗ ai.”( Thư Giacobe 1,13)
Thực tế đời sống con người xưa nay luôn sống trong vòng bị thử thách chịu đau khổ, như trường hợp của Tổ phụ Abraham, của Ông Giop trong kinh thánh thuật lại. Và luôn còn không biết bao nhiêu trường hợp xưa nay rất nhiều người đã đang và sẽ gặp phải những vướng mắc thử thách cám dỗ với những mức độ cay đắng cực kỳ đau khổ khốc liệt khác nhau dưới những hình thức thay đổi khác nhau…
Dĩ nhiên trong hoàn cảnh đau khổ bị thử thách con người sinh ra hoang mang chao đảo, có khi muốn rời xa bỏ đức tin vào Thiên Chúa nguồn sự sống, nguồn ơn cứu giúp.
Nhưng hình ảnh Thiên Chúa của đức tin Kito giáo nói cho biết, con người chúng ta qua đau khổ thử thách sẽ đạt được vinh quang sự phục sinh sống lại với Thiên Chúa.
Mỗi khi đọc lời cầu nguyện của kinh Laycha: xin chớ để chúng con sa vào cạm bẫy chước cám dỗ là muốn thân thưa cùng Chúa: Xin Chúa gìn giữ con trước những cám dỗ thử thách. Xin cứu giúp con, lúc con gặp thử thách. Xin đừng để sự thử thách vượt quá sức chịu đựng của con. Nếu không, con có thể rơi vào hồ nghi lầm lạc rồi bỏ xa lìa đức tin vào Chúa.
Và trong dân gian có kinh nghiệm khôn ngoan như kim chỉ nam cho đời sống:Lửa thử vàng, gian nan thử đức!
Lời cầu xin nơi kinh Laycha đọc hằng ngày, và kinh nghiệm khôn ngoan của dân gian như kim chỉ nam khích lệ giúp tinh thần thêm sức mạnh can đảm trên con đường đời sống làm người về mặt thể lý, cũng như tinh thần tâm linh cho hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Hình ảnh Con Rồng trong văn hóa và trong Kinh Thánh
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Theo Dương lịch năm mới có niên hiệu năm 2024 sau Chúa Gíang sinh. Nhưng theo Âm lịch năm mới có tên là Giáp Thìn. Ngày đầu năm mới âm lịch 01. tháng Giêng, Tết Nguyên Đán Giáp Thìn sẽ vào ngày 10.02.2024.
Thìn – còn có tên gọi là Rồng - là tên của một con vật theo như truyền thuyết trong cổ tích thần thoại diễn tả xưa nay, có nhiều chân mình uốn khúc như con rắn, có cánh bay được, có đuôi dài, miệng phun nước và lửa ra xa, bộ dạng dữ tợn kinh dị. Nó là một con vật có hình dạng của nhiều con vật hợp lại giữa loài rắn rết, loài cá sấu, loài chim khủng long độc dữ thời xa xưa cách đây hàng triệu thế kỷ, loài thú dữ ăn thịt như cọp beo sư tử...
Con Rồng được nói diễn tả trong các truyện thần thoại cổ tích theo như suy nghĩ cùng lòng tin tưởng của dân gian nhiều hơn. Và theo đó ngày nay người ta với kỹ thuật dựng đóng phim làm con Rồng như là một con vật sống động có thật.
Bên vùng các nước Đông Nam châu Á với ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, cứ 12 năm lại mừng hay nhận con Rồng thần thọai này đứng làm chủ cho thời gian một năm.
Hình ảnh con vật này là gì? Nó có liên quan gì tới đời sống con người, nhất là đời sống tinh thần không?
Theo thần thoại bên Đông phương và Tây phương, con Rồng là hình ảnh của sự lộn xộn mất trật tự chao đảo, là hình ảnh của con quái vật thù địch với Thượng Đế và con người. Vì con vật này hút nước phun lửa cho khô cạn làm tê liệt sự sống phát triển, cùng đe dọa ăn nuốt trửng mặt trời và mặt trăng. Một vị anh hùng nào đó hay chỉ Thiên Chúa mới có thể trị thắng con vật này được.
Trái lại bên vùng Đông Nam châu Á, con Rồng tuy là con vật không có hình dạng rõ rệt, nhưng là con vật có những đặc điểm tốt tích cực. Con vật này mang đến điều may mắn, là hình ảnh dấu hiệu của sự sinh sản phát triển phì nhiêu, và là hình ảnh chỉ sức mạnh của vua chúa hoàng đế.
Theo quan niệm thời cổ xưa, con Rồng tạo nên một hình ảnh ghê sợ rùng rợn, cùng là dấu hiệu của sự thống trị. Vì thế vua chúa thời xưa, hay thêu vẽ hình con rồng trên lá cờ, trên mũ áo khi đi đâu ra mắt công chúng, ăn mừng chiến thắng, hay khi ra quân đánh trận. Nhiều vua chúa thời xa xưa cũng cho thêu hay in vẽ trên huy hiệu hình con rồng như biểu dương sức mạnh oai hùng của mình.
Vào giai đoạn cao điểm thời Trung cổ chủ đề vượt trổi nổi bật là hình ảnh trình bày trận chiến chống con rồng, một biểu trưng chống sự dữ xấu xa tội lỗi, tội nguyên tổ. Vì con rồng là hình ảnh con rắn đã cám dỗ Bà Evà phạm tội chống lại Thiên Chúa gây ra hậu qủa tội nguyên tổ cho cả nhân loại. Hình ảnh vẽ về ngày tận thế cũng có cái hang động hỏa ngục nhốt con rồng vào trong đó. Con rồng là hình ảnh của thần qủy dữ.
Ngay ở bên vùng Đông Nam Châu Á cũng có nhiều hình dạng về con rồng tùy theo mầu sắc và số móng chân. Hình con rồng mầu vàng với năm móng chân chỉ dành để thêu trên áo mũ của vua chúa, như các vị vua thuộc triều đại nhà Minh bên Trung Hoa ngày xưa thường mặc.
Theo niềm tin Ấn giáo và Lão giáo con rồng biểu hiệu của bản thể tinh thần có thể biểu hiện sự trường sinh bất tử.
Bên Trung Hoa và Nhật bản, con Rồng mang đến điều may mắn hạnh phúc và được tôn thờ như chống lại qủy thần. Con Rồng biểu hiệu sự sinh sôi nẩy nở phát triển, mùa xuân và nước mưa. Nó có sức mạnh như dòng thác nước chảy, cùng được xếp vào nguyên lý Yang- một nguyên lý chỉ về tích cực, dương tính, nam tính, trong sáng, trời, sự họat động, đường thẳng kéo dài không bị đứt khúc –
Theo văn hóa cùng tập tục với chút niềm tin dân gian, con Rồng trong âm lịch bên vùng Đông Nam Châu Á, là con vật biểu trưng đứng chủ trì một năm trong vòng chu kỳ 12 năm một lần.
Cũng theo sự tin tưởng trong dân gian, năm con Rồng (Thìn) là một năm tốt cho sinh sản và cho lập gia đình.
Theo nhà phân tâm C. Jung trận chiến con Rồng trong các truyện thần thoại dân gian là hình ảnh sự chiến đấu tranh giành giữa bản thể cái tôi và sức lực hung hãn nằm tiềm ẩn trong mỗi người.
Hình ảnh con Rồng trong Kinh Thánh được trình bày với tính chất dữ tợn xấu xa, một con vật to lớn quái dị dưới nhiều dạng hình thù khác nhau. Nó là con vật gây đảo lộn mất trật tự, sát hại mạng sống con người và thù địch với Yaweh Thượng Đế
Ngôn Sứ Isaia diễn tả nó là một con vật bay được: “Hỡi toàn cõi Phi-li-tinh, chớ vội vui mừng, vì cây gậy đánh ngươi đã bị bẻ gãy; bởi chưng từ dòng dõi rắn sẽ vọt ra một con rắn hổ mang, và con của nó sẽ là một con rồng bay.” ( Isaia 14,29)
Ngôn sứ Daniel đã thuật lại tập tục :“ Bấy giờ có một con rồng lớn được dân Ba-by-lon sùng bái” ( Daniel 14,23). Nhưng Daniel đã chứng minh ngược lại là con rồng không phải là thần thánh phải sùng bái. Ông đã giết chết con rồng này. (Daniel 14. 24-27).
Ngôn sứ Giêremia diễn tả ví vua Babylon như con rồng đầy sức mạnh tranh giành nuốt trôi tất cả: “ Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, đã xâu xé, đã loại trừ tôi, gạt tôi ra như chiếc bình rỗng; tựa con rồng, nó đã nuốt trửng tôi,các miếng ngon của tôi, nó nhét đầy bụng, rồi xua đuổi tôi đi.” ( Geremia 51,34)
Con Rồng như một con thuồng luồng sống ở dưới nước: ”Xin thức dậy, xin Ngài thức dậy đi, lạy Ðức Chúa, xin vung mạnh cánh tay của Ngài! Xin thức dậy như những thời trước, như những ngày xưa. Chẳng phải chính Ngài đã phanh thây thủy thần Ra-háp, đã xé xác thuồng luồng đó sao?” ( Isaia 51,9)
“Chính Ngài đã ra oai xẻ đôi lòng biển,
trên làn nước biếc, Ngài đập vỡ sọ thuồng luồng;
chính Ngài đã nghiền nát bảy đầu con giao long,
vứt nó làm mồi cho thủy quái;” ( Thánh vịnh 74, 13-14)
Con Rồng hiện hình như con rắn tinh quái bò chui luồn dưới đất: “Người thở hơi làm trong sáng bầu trời, và đưa tay xả thây con rắn chui nhủi” (Sách Ông Gióp 26,13)
Thánh Giaon Tông đồ trong sách Khải huyền đã ví con rồng như con mãng xà, con rắn thần dữ ma qủy ngày xưa đã đường mật dụ dỗ bà nguyên tổ Eva phạm tội lỗi luật Thiên Chúa. Con rồng rắn ma qủy này đã bị Tổng lãnh Thiên Thần Michael trong một trận giao chiến trên trời đè bẹp đuổi khỏi thiên đàng.
“Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Micaen và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến. (8) Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không có chỗ trên trời nữa. (9) Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Xatan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó.” ( Khải huyền 12, 7-9).
Dù bị tống xuống khỏi thiên đàng, con mãng xà là con rắn ma qủy hằng theo dõi dụ dỗ sát hại con người trong hình ảnh một người phụ nữ sinh con, và dòng dõi hậu duệ của bà từ bỏ sống xa Thiên Chúa. Hình ảnh này là hình ảnh Đức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội mình mặc áo xanh da trời, đầu đội triều thiên 12 ngôi sao vàng sáng chói ánh mặt trời, chân đạp mặt trăng hình lưỡi liềm đạp trên đầu con rắn.
“Khi Con Mãng Xà thấy mình đã bị tống xuống đất, nó liền đuổi bắt người Phụ Nữ đã sinh con trai. (14) Bà được ban cho đôi cánh đại bàng, để bay vào sa mạc, vào nơi dành cho bà, tại đó bà được nuôi dưỡng một thời, hai thời và nửa thời, ở xa Con Rắn. (15) Từ miệng, Con Rắn phun nước ra đàng sau bà như một dòng sông, để cuốn bà đi. (16) Nhưng đất cứu giúp bà: đất há miệng ra uống cạn dòng sông từ miệng Con Mãng Xà phun ra. (17) Con Mãng Xà nỗi giận với người Phụ Nữ và đi giao chiến với những người còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của Ðức Giêsu.” ( Khải huyền 12,13-17)
Trong nghệ thuật hình ảnh con rồng là thần qủy dữ Lucife bị Tổng lãnh ThiênThần Michael chiến thắng cầm đao kiếm đâm đứng đạp trên nó rất thịnh hành ở thời Trung cổ bên Âu châu.
Sau này có hình ảnh Thánh Georg chiến thắng cưỡi ngựa, tay cầm đao nhọn đâm đè bẹp con rồng ma qủy đang phun lửa nằm dưới mặt đất.
Và Đức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội cũng được vẽ trình bày là người chiến thắng đứng đạp trên đầu con rồng rắn ma qủy cám dỗ phạm tội chống lại Thiên Chúa.
Nghệ thuật này dựa theo lời kinh thánh trong sách Khải huyền “ et proiectus est draco ille magnus serpens antiquus qui vocatur Diabolus et Satanas qui seduit universum orbem proiectus est in terram et angeli eius cum illo missi sunt- Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Xatan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó.”. ( KH 12, 9).
Theo sự tin tưởng trong dân gian người nào sinh vào năm con Rồng ( Thìn) có những đức tính tích cực như quảng đại, chân thành, óc sáng tạo biến báo, thích mạo hiểm, ngay thẳng… Nhưng ngược lại cũng có những đức tính tiêu cực như bồng bột không suy nghĩ chín chắn, quá lạc quan, hoang phí, ít thiếu mềm dẻo… Đây chỉ là suy đoán theo cảm tính tin tưởng bình dân hay theo tập tục tử vi bói toán đoán vận mạng xưa nay trong dân gian thôi.
Với người Công giáo năm tháng ngày giờ do Thiên Chúa tạo dựng nên. Trong dòng thời gian năm tháng ngày giờ nào cũng có những lúc may mắn hạnh thông xuôi chẩy, và những thách đố thử thách, những thử luyện mà con người phải sống trải qua.
Những thách đố thử thách không là những bước gây hoang mang đổ vỡ chao đảo. Nhưng trái lại giúp tinh thần con người sống vững chắc có thêm kinh nghiệm trưởng thành hơn vào ngày mai.
“ Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.” ( Thánh vịnh 90 ,12)
Chúc mừng Năm Mới Giáp Thìn
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hình ảnh hướng tâm hồn về mùa Xuân mới
- Hình ảnh sức khỏe
- Hình ảnh theo tiếng gọi
- Hình ảnh Con chiên Thiên Chúa
- Hình ảnh „chúng ta là người hành khất!“
- Hình ảnh lễ Chúa giáng sinh, ngày lễ hòa bình.
- Hình ảnh lễ Chúa giáng sinh, ngày lễ hòa bình.
- Hình ảnh cọng rơm hang đá Chúa giáng sinh.
- Hình ảnh Thánh Gioan Tẩy gỉa, người sống lòng khiêm nhượng
- Hình ảnh hang đá Chúa giáng sinh