Hình ảnh con người Maria được tuyển chọn
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Trong đời sống nhiều trường hợp bỗng nhiên nhận được sự việc khác thường vượt qúa sự suy nghĩ tưởng tượng con người. Sự thể này gây ra ngạc nhiên cùng bối rối cho tâm trí.
Trường hợp như thế thiếu nữ Maria thành Nazareth miền quê bên nước Do Thái cách đây hơn hai ngàn năm đã sống trải qua: Bỗng dưng Thiên Thần Gabriel của Thiên Chúa hiện đến báo tin: chị được Thiên Chúa chúc phúc và Ngài muốn chọn chị, tuy còn là một thiếu nữ, làm mẹ hạ sinh Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người! ( Lc 1,26-36).
Trước sự bỡ ngỡ lạ lùng đó Maria đã có phản ứng sợ hãi bối rối:“Việc đó xảy ra thế nào được. Vì tôi không có chồng?”
Thiên Thần Chúa trấn an Maria: Xin chị đừng lo, Thánh Thần Thiên Chúa sẽ làm phép lạ tác dụng để cho Con Thiên Chúa thành người trong cung lòng Chị.
Và Maria đã ưng thuận với chương trình của Thiên Chúa, mặc dù tâm trí Maria không hiểu gì, cùng chỉ muốn nói lời từ chối!
Sự việc lạ lùng bất ngờ xảy đến với Maria như thế nói lên hình ảnh gì của Thiên Chúa với con người?
Đức giáo hoàng Pio IX. Ngày 08. Tháng 12. năm 1854 đã công bố tín điều đức mẹ Maria ngay từ giây phút đầu tiên thụ thai Con Thiên Chúa trong cung lòng mình đã được Thiên Chúa trao ban ân đức không bị vướng mắc vào tội tổ tông truyền. Thiên Chúa đã gìn giữ cho đời sống Maria đồng trinh vẹn sạch.
Giáo hội mừng ngày lễ Đức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội hằng năm vào ngày 08. Tháng 12. Mừng lễ và tin vào tín điều. Nhưng xưa nay trong dòng thời gian vẫn luôn có những hòai nghi về sự đồng trinh của đức mẹ Maria. Nội dung ngày lễ trọng này không có nghĩa đời sống của Đức mẹ Maria xảy diễn ra trên cách thức khác thường lạ lùng như truyện thần thoại cổ tích.
Thiếu nữ Maria cũng như bao trẻ em khác trên trần gian được dòng máu người cha - Ông Thánh Gioakim- và do người mẹ -Thánh Anna -thụ thai sinh ra đời, như trong dân gian lưu truyền thuật kể lại. Ngày nay sang hành hương cổ thành Jerusalem nơi lối vào cổng Sư Tử có đền thờ Thánh Anna, bên cạnh có tàn tích hồ Betsaida, nơi ngày xưa Chúa Giêsu đã chữa bệnh cho một người bị bại liệt đã 38 năm được lành mạnh đứng dậy đi lại được vào ngày Sabat( Ga 5,7-9) . Và địa điểm khu lối cổng Sư Tử, theo tương truyền, ngày xưa có nhà của Thánh nữ Anna và Thánh Gioakim, cha mẹ của đức mẹ Maria.
Quy trình truyền sinh sự sống Thiên Chúa đã sáng tạo ấn định cho con người cùng mọi giống nòi trong công trình thiên nhiên: sự sống mới nảy sinh do hỗn hợp giữa hai yếu tố mầm sự sống nam và nữ, âm và dương, giống cái và giống đực.
Nền tảng thần học đạo đức ngày lễ mừng đức mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội dựa trên mối dây liên kết với khởi đầu đời sống của Maria. Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, như đức tin Kitô giáo nói cho biết, không bị cho rơi xuống vào bờ mép vực thẳm của bản tính con người trần gian.
Như thế sự khởi đầu đã diễn xẩy ra thế nào ? Và như những người tín hữu Chúa Kitô ở những thế kỷ đầu tiên lúc khởi đầu Giáo Hội, đã nêu ra thắc mắc, phải chăng Con Thiên Chúa phải được sinh ra do người phụ nữ Maria này?
Suy nghĩ thần học đạo đức này đưa đến kết luận: Thiếu nữ Maria ngay từ lúc khởi đầu thụ thai thành hình sự sống trong cung lòng mẹ đã được chọn là mẹ Con Thiên Chúa sau này, như Thánh Phaolô tông đồ đã có xác tín: “ được tuyển chọn ngay từ trước khi tạo thành vũ trụ” ( Thư Epheso 1,4).
Mừng lễ Đức Mẹ Maria giúp tâm trí hướng lên Thiên Chúa trên trời cao, Đấng Tạo Hóa, cùng đặt niềm hy vọng tin tưởng vào ý muốn của Người cho con đường đời sống con người.
Thiên Thần Gabriel đã chào kính Maria được Thiên Chúa ban ân sủng chúc phúc. Như thế Maria qua đó được sống trong mối tương quan gần bên Thiên Chúa.
Con người loài thụ tạo cũng được Thiên Chúa trao ban mối tương quan giao hảo với Người. Là con người do Thiên Chúa tạo dựng, có gía trị qúy báu. Con người có chỗ đứng trong vũ trụ, trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa.
Đời sống đức mẹ Maria, dù trải qua những đọan đường đau khổ sầu bi, nhưng thành công trong vai trò làm mẹ Con Thiên Chúa. Vì Maria đã để cho Thiên Chúa xây dựng đời sống mình trong niềm tin tưởng hy vọng.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Hình ảnh người canh cửa cổng.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm lịch phụng vụ trong Giáo hội Công giáo bắt đầu từ mùa Vọng. Năm phụng vụ mới, chu kỳ B, khởi đầu từ Chúa Nhật I. mùa Vọng, ngày 03.12.2023.
Mùa Vọng có bốn tuần lễ cho tới ngày lễ mừng Chúa Giêsu giáng sinh làm người trên trần gian, đêm ngày 24. tháng 12. Năm nay mùa Vọng ngắn nhất. Tính từ ngày Chúa nhật I. mùa Vọng chỉ có 21 ngày tới lễ mừng Chúa giáng sinh, và 28 ngày là tới ngày cuối năm cũ 31.12. 2023.
Thời gian mùa Vọng chuẩn bị tâm hồn đón mừng lễ Chúa giáng sinh, nhưng theo nếp sống văn hóa xã hội thời bây giờ, nhất là bên xã hội Tây phương, cũng là mùa vội vàng, hấp tấp đi săn lùng mua sắm qùa tặng, đồ dùng, thực phẩm…vừa mừng lễ và vừa để đón mừng Tết năm mới Dương lịch tiếp theo sau đó một tuần lễ.
Khác với Giáo hội Công giáo, bên Giáo hội Chính Thống thời gian mùa Vọng kéo dài 40 ngày cho tới ngày mừng lễ Chúa giáng sinh, và mùa Vọng thời gian chuẩn bị mừng lễ mang mầu sắc đặc tính ăn chay nhiều hơn.
Giáo hội Chính thống giáo thành Constantinople, thành Alexandia, Antiochien, bên Rumania, bên Bulgaria, bên đảo Zyp, bên Hylạp, bên Albania và bên Phầnlan mừng lễ Chúa giáng sinh ngày 24.& 25. Tháng 12 như bên giáo hội Công giáo theo niên lịch Gregorianer. Họ bắt đầu mùa Vọng từ ngày 15. tháng mười một cho tới chiều ngày 24. tháng mười hai sang ngày 25. tháng mười hai.
Các Giáo Hội Chính thống bên Nga, bên Serbia mừng lễ Chúa giáng sinh theo niên lịch Juliano vào ngày 6. - 7. tháng Một. Vì thế họ mừng mùa Vọng, thời gian chuẩn bị trước lễ giáng sinh, từ ngày 28. Tháng mười một cho tới ngày 06. Tháng Một.
Trong Phúc âm, Chúa Giêsu Kitô đưa ra hình ảnh nếp sống thấm nhuộm tâm tình tĩnh tâm: “Anh em hãy canh chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì anh em không biết lúc đó là lúc nào!” ( Mt 13,33-37) khác hẳn với lối sống vội vàng hấp tấp đi săn lùng mua sắm trong mùa vọng trong đời sống xã hội.
Vậy đâu là hình ảnh cho nếp sống tĩnh tâm mùa vọng?
Trong dụ ngôn Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh người chủ nhà trẩy đi phương xa, và hình ảnh người ở nhà canh giữ cửa. Nhưng hình ảnh người canh giữ cửa nhà, chị hay anh ta ở nhà, thích hợp với cung cách nếp sống tĩnh tâm mùa vọng.
Mùa vọng tuy con người phải đi ra ngoài làm việc, sinh hoạt mua sắm, nhưng vẫn ở nhà nhiều hơn. Phúc âm nói tới nhiệm vụ người “ canh giữ cửa nhà” phải luôn tỉnh thức.
Nghề nghiệp canh giữ cửa nhà, cổng dinh thự đền đài… ít được nói đến xưa nay trong đời sống thế giới làm việc, cùng không mấy là hình ảnh của một nghề nghiệp được nói đến nhiều cùng có sức hấp dẫn cho lắm.Nhưng dẫu vậy vẫn luôn cần có người làm công việc này.
Nơi một vài hãng xưởng, bệnh viện, tu viện nhà Dòng vẫn còn cần người làm nghề nghiệp canh cửa cổng. Họ túc trực ở cửa cổng ra vào không chỉ ban ngày mà cả ban đêm nữa.
Ai đã có lần giữ nhiệm vụ canh cửa cổng, đều biết quy luật khi nào được mở cửa cổng và đóng cửa cổng, và họ cũng không thể biết trước trong thời gian đó chuyện gì xảy ra, lúc có nhiều lúc có ít việc, bận rộn tiếp khách đến hỏi, nghe trả lời điện thoại, nối đường dây điện thoại, cũng có lúc vắng vẻ nhàm chán đến độ buồn ngủ gật, nhất là vào ban đêm khuya…
Cũng có những công việc làm theo thông lệ thói quen, và cũng có nhiều xảy ra bất ngờ. Cũng có những người khách vui vẻ lịch sự, và cũng có những vị khách khó chịu đòi hỏi.
Có những người mang đồ dụng cụ đến gửi, nhưng cũng có những người đến nhận hàng đồ, có người đến hỏi chìa khóa nhà vệ sinh,nhà kho… hay có những trường hợp đến trao thư, trao thùng đồ, hoặc trao đổi vài mẩu chuyện. Và khi có sự cố xảy ra người canh giữ cửa cổng phải báo động…
Tóm lại có rất nhiều công việc to cũng như nhỏ diễn xẩy ra. Nên cần phải có người ở đó túc trực canh giữ cửa cổng. Họ cần có cung cách nếp sống thái độ cởi mở mềm dẻo, thích nghi theo từng hoàn cảnh xảy ra.
Chủ nhà căn dặn người canh giữ cửa cổng nhà phải luôn túc trực tỉnh thức cho mọi trường hợp. Cũng thế mùa Vọng là thời gian, người tín hữu Chúa hiểu nếp sống tinh thần của mình giống tựa như công việc của người canh giữ cửa cổng ra vào: túc trực tỉnh thức!
Nữ chiệm niệm người Pháp Madeleine Delbrel đã trình bày suy tư về nếp sống của việc canh giữ cửa phải tính đến việc Thiên Chúa đến gõ cửa và đi vào đời sống:” Bất kể chúng ta làm gì: dùng chổi quét lau nhà. Nói chuyện hay giữ thinh lặng, diễn thuyết hay săn sóc người đau bệnh, hay đánh máy viết thư... Tất cả những việc đó chỉ là rãnh nhỏ của thực tế trong đời sống hằng ngày, nơi đó tâm hồn gặp được Thiên Chúa, đón nhận được ân đức của Ngài. Thiên Chúa đến và yêu thương chúng ta…”
Công việc của người canh giữ cửa cống cũng là hình ảnh trong phúc âm của Chúa nhật I. mùa vọng nói đến: hãy luôn tỉnh thức chú ý đến những gì xảy đến trong đời sống, trong tất cả bao nhiêu việc phải làm, những cuộc gặp gỡ nói chuyện trong đời sống hằng ngày trong mùa Vọng.
Đàng sau dòng rãnh nhỏ nơi thực tế đời sống thường nhật đó, Thiên Chúa chờ đợi con người chúng ta. Người đến và yêu thương ta.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh tiếng Sư Tử gầm thét
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Sư tử là loài thú vật hoang dã, có sức mạnh dũng mãnh cùng uy phong to lớn lực lưỡng, nên được phong gọi là „ chúa sơn lâm“.
Loài thú vật bốn chân này phóng chạy rất nhanh như vũ bão, săn vồ những thú vật khác làm mồi ăn thịt sống, răng và móng chân nanh vuốt nhọn, nên rất nguy hiểm cho các thú vật khác.
Loài thú vật này là hình ảnh tượng trưng cho sức mạnh uy dũng thống trị, tiếng gầm thét vang vọng gây kinh hãi. Giống như loài mèo, nó có khả năng không chỉ nhìn tinh tường ban ngày mà cả ban đêm tối trời nữa.
Theo văn hóa thời bên Ai Cập cổ xưa, loài thú này là hình ảnh vị gìn giữ Nước, và đồng thời cũng được tôn kính là vị thần Mặt Trời. Vì thế, nơi ghế ngai của các vị Vua Pharao thời đại đó đều khắc hình Sư Tử để nói lên sức mạnh quyền uy.
Ở vùng văn hóa viễn Đông bên Trung Hoa, bên Ấn Độ, Sư Tử như con Rồng, được cho là người bảo vệ đền thờ chống lại ma qủy sự dữ.
Trong văn hóa tôn giáo Do Thái và Kitô giáo hình ảnh Sư Tử được nói đến nhiều cả hai khía cạnh tiêu cực lẫn tích cực.
Sư tử bị cho là ma quỷ thần dữ và nguy hiểm cho người cùng các loài thú vật khác.
„ Xin cứu con khỏi nanh sư tữ hãi hùng“ ( Tv 22,22)
„ Tôi phải nằm giữa bầy sư tử, loài thú ăn thịt người, nanh vuốt chúng là đầu tên mũi giáo, lưỡi thì sắc bén tựa gươm đao.“ ( Tv 57,5)
Tuy nhiên hình ảnh sư tử trong Kinh Thánh cũng có khía cạnh tích cực: Juda con Ông Giacóp được ví như một con sư tử non trẻ ( St, 49,9).
Và Chúa Giêsu Kitô được trình bày là hình ảnh một con sư tử dòng dõi chi tộc Juda: „ Này đây, Sư Tử xuất thân từ chi tộc Juda, Chồi non của David đã chiến thắng, Người sẽ mở cuốn sách và bảy ấn niêm phong. „( Kh 5,5)
Trong nghệ thuật văn hóa Kitô giáo Sư Tử là hình ảnh kẻ canh gác, mang ý nghĩa nói về sức mạnh.Có thể vì thế nơi hai đầu của phần bia mộ các người qúa cố vị vọng thời xưa trong thánh đường, như thấy ở bên trong nhà thờ chính tòa Tổng giáo phận Bamberg nước Đức nơi phần mộ xây nổi trên nền nhà thờ của vợ chồng hoàng đế Heinrich II. và Kunigunde, họ đã được tôn phong lên hàng Hiển Thánh.
Theo Ngôn sứ Isaia hình ảnh con Sư Tử là hình ảnh hòa bình đang đến: Chiên con và Sư Tử an bình nằm cạnh nhau,“ Một cậu bé chăn dắt chúng, Sư Tử cùng ăn rơm như bò.“ ( Isaia 11,6-7).
Và sau cùng Con Sư Tử được dùng là hình ảnh biểu tượng Phúc âm Chúa Giesu theo Thánh Marcô, mà trong suốt năm phụng vụ B ( từ 03.12. 2023 đến 01.12. 2024) được đọc trong các thánh lễ Misa.
Nguồn gốc hình ảnh biểu tượng của bốn phúc âm Chúa Giêsu có nguồn gốc trong thần thoại thời Babylon. Bốn vị Thần: Nergal = Cánh sư tử, Marduk = Cánh thú vật, Nabu = hình người và Mimurta = Chim đại bàng diễn tả sức mạnh thần thánh.
Ngôn sứ Ezechiel trong thị kiến đã nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi bốn sinh vật ( Ez 1,1-14), giống như Thánh Gioan thuật lại trong sách Khải Huyền thuật lại ( Kh 4,6-8)
Các Giáo phụ Irenaeus và Hippolytus đã đem bốn sinh vật trong thị kiến của Ngôn sứ Ezechiel và nơi sách Khải Huyền làm hình ảnh biểu tượng cho bốn vị Thánh sử viết phúc âm Chúa Giêsu.
Thánh giáo phụ Hieronymus đã căn cứ theo nội dung của phúc âm sắp xếp Con Sư tử là hình ảnh biểu tượng cho phúc âm theo Thánh Marco. Vì phúc âm này khởi đầu với Thánh Gioan tiền hô rao giảng là tiếng hô trong sa mạc, Ông sống giữa thiên nhiên trong rừng hoang dã thú vật. Lời rao giảng đang thép của Gioan nơi hoang địa về ăn năn sám hối giống như tiếng sư tử gầm thét trong rừng hoang đã
Thánh sử Marco được đặt cho hình ảnh biểu tượng con sư tử, vì khởi đầu thuật lại Chúa Giêsu ra đi rao gỉang nước Thiên Chúa loan báo thời thái bình, bò con và sư tử bên nằm cạnh nhau, cùng được chăn nuôi ăn trên đồng cỏ, và sư tử cũng ăn cỏ như chiên bò.
Ở thành phố Venezia bên nước Ý có vương cung thánh đường kính Thánh Marco thánh sử. Ngoài công trường ở mặt tiền thánh đường có cây cột trụ cao, trên đó có tượng con sư tử mầu vàng với đôi cánh là hình ảnh biểu tượng cho Thánh Marco thánh sử viết phúc âm Chúa Giêsu.
Ở bên trong đền thờ Thánh Phero bên Vatican, nơi vị trí bàn thờ đức tin hay gian cung thánh, ở bốn góc có vẽ khắc bốn hình biểu tượng 4 Thánh sử viết phúc âm Chúa Giêsu. Thánh sử Marco được khắc vẽ với hình con sư tử có đôi cánh và cuốn sách Phúc âm.
Tác gỉa viết phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh Marco ngay từ thời Giáo hội sơ khai có tên là Gioan Marco.
Theo truyền thống từ thời Gịáo hội lúc ban đầu, Marco và Thánh Tông đồ Phero có liên hệ mật thiết với nhau. Giám mục Papias thành Hieropolis vào thời năm 120. sau Chúa giáng sinh, cho rằng Marco là học trò, người thông ngôn những bài giảng của Thánh Phero từ tiếng Do Thái sang tiếng Hylạp, tiếng Latinh cho những người lương dân thời đó, mà họ không thuộc về vùng nền văn hóa Do Thái giáo. Marco viết lại những gì Thánh Phero đã nghe Chúa Giêsu rao giảng khi xưa, lúc sống đã theo chân đồng hành với Chúa Giêsu ba năm.
Dựa theo mạch văn cùng ngôn ngữ Hylạp và những thành ngữ tiếng latinh trong phúc âm, người ta phỏng đoán Marco đã viết Phúc âm ở Roma hay trong vùng của đế quốc Roma.
Thời điểm Marco viết phúc âm được cho là vào năm 65. sau Chúa giáng sinh, trước khi thành Gierusalem bị quân đội Roma xâm chiếm tàn phá năm 70. sau Chúa giáng sinh. Nhưng Giáo sư Kinh thánh Gioakim Gnilka lại cho rằng sau khi thành Gierusalem năm 70. bị tàn phá, phúc âm theo Marco mới được viết ra.
Dẫu vậy, niên đại khi nào phúc âm theo Marco được viết ra không là vấn đề quan trọng bằng sứ điệp Chúa Giêsu mà Marco viết trong phúc âm.
Phúc âm Chúa Giêsu theo thánh Marco là cuốn sách phúc âm cổ nhất, được viết đầu tiên trước những 3 sách phúc âm khác và cũng là phúc âm ngắn nhất có 16 chương.
Thánh sử Marco viết phúc âm Chúa Giêsu, như cuốn sách giáo lý. Và cuốn sách giáo lý đó không chỉ là sách lịch sử, nhưng còn chứa đựng ý nghĩa thần học đạo đức nữa.
Xưa nay nhiều nhà chú giải kinh thánh, nhà thần học đã có những suy tư khảo cứu về khía cạnh ý nghĩa thần học khác nhau chứa đựng trong phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh sử Marcô.
Ngoài những khía cạnh, mà các nhà chú giải, các nhà thần học suy tư khảo cứu, khi đọc tin mừng Chúa Giêsu của Thánh sử Marcô còn nhận ra khía cạnh giáo lý phổ thông như trung tâm sứ điệp phúc âm: cho những con người sẵn sàng dấn thân bước theo chân Chúa Giêsu.
Người môn đệ tin theo Chúa Giêsu Kitô không loại bỏ con đường đau khổ vác thập gía. Vì họ tin rằng Chúa Giêsu Kitô chết trên cây thập gía đã chiến thắng sức mạnh của ma qủi thần dữ tội lỗi, và đã mở ra lối cho con người đi vào con đường sống trong tự do bình an.
Đời sống con người ai cũng muốn có thành công, nhưng thất bại lại luôn xảy ra trên con đường đời sống, và sau cùng chấm dứt với sự chết, mà không ai có thể tránh thoát được. Chả thế mà dân gian có suy tư về đời sống con người qua những giai đọan: sinh - lão - bệnh- tử!
Chúa Giêsu Kitô khi xưa đã khởi đầu con đường sứ vụ rao giảng ở miền Galileo và đã đạt nhiều thành công. Nhưng con đường đời sống của Ngài trên trần gian lại chấm dứt với sự đau khổ, bị từ chối và sau cùng cái chết bị treo trên thập gía ở Jerusalem.
Nhưng tin mừng theo Thánh sử Marcô viết để lại cho Giáo hội, cho con người: Chúng ta không mãi mãi ở trong nấm mồ sự chết, như Chúa Kitô đã chết và đã sống lại ra khỏi mồ. Thiên Thần Chúa mặc áo trắng đã loan tin cho chị phụ nữa Magdalena: Chúa Giesu Kitô đã sống lại không còn nằm trong nấm mồ nữa.
Cũng vậy trên nấm mồ của chúng ta, Thiên Thần Chúa mặc áo trắng loan tin: Chúng ta cũng được sống lại với Chúa Giêsu Kitô.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh „Giêsu, Vua dân Do Thái“
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Thời xưa trong các xã hội đất nước ở các châu lục có nhiều hoàng đế, vua chúa, ông hoàng… Nhưng ngày nay chỉ còn một số ít quốc gia đất nước trên thế giới còn duy trì chế độ quân chủ vua chúa hoàng đế, như bên Anh quốc,bên Tây ban Nha, bên các nước Danmạch, Thụy Điển và Nauy, bên nước Jordanien, bên nước Thái lan…
Khi nhận xét về người nào đó sống như một vị „ vua“ , chúng ta có suy nghĩ, người đó có cùng chiếu tỏa nhân phẩm và tư cách cao thượng chú ý tới người khác rất đáng kính trọng nể vì. Một ấn tượng thán phục!
Nhưng khi đưa ra nhận xét người nào đó như một ông hay bà „hoàng“, lại gây ra suy nghĩ phản ứng không tốt đẹp về người đó. Một ấn tượng trái ngược không muốn biết đến! Vì vị được gọi là „hoàng „ có cung cách lối sống muốn mình là điểm trung tâm được chú ý tới, được cung phụng cùng muốn là chủ biết hết mọi sự.
Vị vua trong các truyện cổ tích thần thoại luôn luôn được diễn tả là hình ảnh một người cha tổ phụ cho toàn thể con người. Vị vua người cha tổ phụ này có nếp sống tự quyết, tự làm chủ lấy mình, chứ không để cho các thế lực khác làm chủ lèo lái.
Cũng trong truyện cổ tích thần thoại thuật lại ba người con trai của một vị vua từ gĩa hoàng cung ra ngoài xã hội sinh sống như mọi người đi tìm nước cho đời sống. Đây là hình ảnh nói về con người cũng phải thay đổi để tự tìm về chính bản thân đời sống mình. Vị triết gia người Hylạp, Platon đã nhìn thấy nơi vị vua này là một người khôn ngoan. Vì trí óc hiểu biết của vị vua này có những tư tưởng sáng tạo. Vị vua đó biết sự lên cao, xuống thấp của đời sống. Và đó là điều giúp khám phá nhận ra mầu nhiệm bí ẩn của ánh sáng cùng bóng tối trong đời sống.
Người Công giáo chúng ta tôn vinh Chúa Giêsu là vua. Nhưng hình ảnh Vua Giêsu của chúng ta như thế nào?
Trong Kinh Thánh có những dụ ngôn và bài thương khó nói đến xưng tụng Chúa Giêsu là một vị Vua.
Bài giảng dụ ngôn về ngày phán xét chung ( Mt 25,34), Chúa Giêsu đã nói mình là vị Vua đứng ra như vị thẩm phán: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa“
Trên đầu cây thập gía Chúa Giêsu bị đóng đinh có bản án do quan Tổng Trấn Philatô truyền viết: „ Giêsu, Vua dân Do Thái! ( Lc 23,37)
Dân chúng đi ngang qua thấy vậy, có người còn nói nhạo báng: Nếu Ông là Vua dân Do Thái, hãy tự cứu lấy mình đi!“ ( Lc 23,37. Với người Roma, Chúa Giêsu bị xử lên án đóng đinh, vì Chúa Giêsu có tước hiệu là Vua. Tước hiệu này cạnh tranh với vua, hoàng đế của đế quốc Roma thời lúc đó.
Còn với người Do Thái, hình ảnh Vua Giêsu không phù hợp ăn khớp với sự trông mong chờ đợi của họ. Nên họ có lý do để nhạo báng. Cây hình phạt thập gía đặt ra thắc mắc hoài nghi về bản chất của một vị vua bị đóng đinh treo trên đó.
Nhưng Chúa Giêsu là vị vua theo cách thế khác không như người Do Thái mong mỏi chờ đợi.
Trước mặt quan tổng trấn Philatô Chúa Giêsu đã trả lời khẳng định. „ Phải, tôi là Vua. Nhưng vương quốc tôi không thuộc về trần gian này. Nếu như vương quốc tôi thuộc về trần gian, chắc chắn thần dân tôi sẽ chiến đấu bảo vệ, để tôi không bị bắt trao nộp cho người Do Thái. Nhưng vương quốc tôi không ở nơi trần gian này!“ ( Gioan 18,36).
Với lời khẳng định đó, Chúa Giêsu nói đến vương quốc của ngài theo một cách thế hoàn toàn mới. Ngài là một người tự bản chất là vua rồi. Thiên tính tước hiệu vua của ngài không do con người tôn phong trao cho, nhưng thần thánh thiêng liêng là do Thiên Chúa. Vì thế không ai có thể tranh cãi về điều này được. Điều Chúa Giêsu nói về mình là điều hứa hẹn bảo đảm cho mỗi người tín hữu Chúa Kitô.
Mỗi người tín hữu Chúa Kitô cũng có thể nói được rằng „ vương quốc tôi không ở nơi đây“. Tại sao? Vì có một lãnh vực trong mỗi con người, mà trần gian không có quyền hành sức mạnh trên đó. Nơi mỗi người có thiên tính tước hiệu vua, mà không ai có thể lấy đi mất được. Đó là vương quốc ở tận trong tâm hồn. Nơi đó là lãnh vực riêng của mỗi người. Trong vương quốc thiêng liêng tâm hồn mỗi người, Chúa Giêsu Kitô có mặt cùng với uy quyền tước vị Vua của Ngài.
Hình ảnh Giêsu bị bắt, bị đánh đòn rồi bị lên án đóng đinh treo trên thập gía hoàn toàn trái ngược với một vị vua trần thế. Dẫu vậy, Chúa Giêsu vẫn là vua. Vua Giêsu không phải chỉ được tung hô vạn tuế. Nhưng vị Vua Giêsu đã chịu đựng bước vượt qua những khổ nhục, những thương tích nơi thể xác và tinh thần cách anh hùng can đảm trong cuộc đời thương khó của ngài.
Điều này nói lên một ý nghĩa về đời sống cho con người. Dù có phải chịu đựng trải qua con đường đau khổ vác thánh gía trong đời sống làm người, nhân phẩm tước vị vua của mỗi người trong tâm hồn vẫn luôn còn có đó, vẫn luôn sống trong họ.
Vương quốc của mỗi con người không thuộc nơi trần gian này là sự tự do, lòng tin tưởng, sức mạnh tâm hồn, sự bình an.
Ngày lãnh nhận làn nước Bí Tích Rửa tội, em bé hay người được rửa tội đưoc xức dầu Chrisam để „ mãi mãi là chi thể của Chúa Giêsu Kitô, là Tư tế, Tiên Tri và là Vua đến cõi sống muôn đời.“.
Lễ Chúa Kitô Vua
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh khả năng được ban cho
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong lịch sử đời sống nhân loại vào mọi không gian thời gian xưa nay luôn luôn có những công việc kho tàng tốt đẹp to nhỏ ích lợi cho đời sống do con người đã thực thi để lại trong mọi lãnh vực đạo tôn giáo cũng như xã hội.
Như vậy phải chăng chỉ có những người có trí khôn trổi vượt mới làm được như thế?
Không hẳn là như thế. Vì con người ai cũng có những khả năng suy nghĩ, khả năng phát triển thực hiện những điều suy nghĩ ra, cùng học hỏi thêm được, hay được tin tưởng trao phó cho.
Khả năng tiềm tàng trong mỗi người, cùng mỗi người có khả năng khác nhau. Và khả năng vẫn luôn trong đời sống phải trau dồi học hỏi cho tinh xảo trong sáng thêm.
Khả năng càng trải qua nhiều thách đố khó khăn phải vận dụng thi hành, càng trở nên bén nhậy giầu có kinh nghiệm thêm ra. Chả thế mà dân gian có ngạn ngữ khôn ngoan: Lửa thử vàng, gian nan thử đức!
Một em bé từ khi cắp sách đi học sống chung với bạn bè chung quanh cùng trang lứa có cơ hội được học hỏi thêm nhiều. Khả năng suy nghĩ tiềm tàng nơi em dần được đánh thức bung mở ra. Và cứ như thế em không chỉ lớn lên về thân xác hình thể, mà còn cả tâm trí khả năng tinh thần đang tiềm tàng nơi em nữa.
Một người kể về khả năng của bạn mình ngày xưa lúc còn đi học ở những lớp trung học, người bạn đó không có thành tích gì khác thường nổi bật trong nấc thang điểm học hành. Có thể nói người bạn đó trong lớp học được xếp vào thứ lớp hạng từ trung bình trở xuống thôi. Nhưng sau này lớn lên lại trở thành người có tài hùng biện diễn thuyết nổi tiếng hấp dẫn người khác.
Và cho rằng khả năng tiềm tàng của người bạn đó phát triển trễ không như nơi những người khác, cùng xác tín rằng mỗi người được Thiên Chúa ban cho khả năng tinh thần cho mỗi chặng đời sống của họ.
Trong đời sống có nhiều người ngày còn trẻ không lộ ra điều gì trổi vượt khác thường. Nhưng vào giai đoạn trễ trong đời sống bỗng dưng họ tỏ ra người có bản lĩnh khả năng vượt trội làm được những việc to lớn, nổi bật khiến mọi người nể phục.
Vì thế, trong đời sống xã hội từ xưa nay mới có những người đem khả năng tài giỏi ra làm được những việc hữu ích, cùng đưa đời sống phát triển đi lên.
Mỗi người đều được Thiên Chúa tạo dựng ban cho thân xác hình hài sự sống cùng khả năng tiềm ẩn trong tâm trí tinh thần. Những khả năng đó giúp cho đời sống được phát huy triển nở cho bản thân, cùng cho nhân quần xã hội.
Khả năng được ban cho tùy theo mỗi người. Và khả năng được ban cho ai, thì người đó cũng phải có trách nhiệm với khả năng mình có. Như lời Chúa Giêsu nói đến trong dụ ngôn nén bạc:
„Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ theo khả năng của mỗi người, đoạn ông ra đi. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác“. (Mt 25,14-15,19-20).
Trong dân gian có suy nghĩ khôn ngoan diễn tả tràn đầy tin tưởng và khích lệ: Không ai không có gì. Và cũng không ai có tất cả!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh lối sống khôn ngoan
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc long
Cung cách lối sống khôn ngoan xưa nay luôn được ca ngợi cùng khuyến khích cầu chúc cho nhau trong đời sống.
Thánh giáo phụ Toma Aquino, như nhà hiền triết Aristoteles, đã hiểu sự khôn ngoan không ở đích điểm cuối cùng, nhưng trên con đường đi đến đích điểm. Nếp sống khôn ngoan được hiểu là cung cách xử sự của con người theo hợp với lý trí suy luận cùng tình cảm lành mạnh trong đời sống.
Chúa Giêsu Kitô đưa ra hình ảnh lối sống khôn ngoan trong dụ ngôn 10 cô trinh nữ đi đón chàng rể trong đêm như phúc âm Thánh sử Mattheo thuật lại ( Mt 25,1-13). Dụ ngôn chia thành hai bên: 05 cô có lối sống khôn ngoan được tưởng thưởng ca ngợi, và 05 cô không sống khôn ngoan phải hứng chịu thiệt thòi.
Thế nào là hình ảnh nếp sống của năm cô khôn ngoan ?
Xưa nay dụ ngôn này thường được hiểu nếp sống của năm cô khôn ngoan trong trạng thái sự tỉnh thức. Nhưng dụ ngôn này muốn vẽ rõ nét nên hình ảnh sự khôn ngoan nhiều hơn sự tỉnh thức qua nếp sống của năm cô khôn ngoan: họ không chỉ mang đèn có dầu thắp sáng mà còn mang theo bình dầu dự bị.
Dầu trong dụ ngôn xưa nay cũng được cắt nghĩa theo nhiều cách hiểu. Thánh giáo phụ Chrysostomos cắt nghĩa dầu đó là” sự nhiệt thành trong việc giúp đỡ bố thí cho kẻ nghèo khó và tình yêu đối với người thân cận.”
Thánh giáo phụ Augustino có suy nghĩ đó là dầu của niềm vui mà một người có tận trong trái tim tâm hồn mình.
Marin Luther cho rằng dầu trong bình dự trữ như là sức mạnh của niềm tin.
Và cũng thường được hiểu dầu đó là những việc tích lũy theo cung cách nếp sống Kitô giáo.Có thể nói được rằng: Dầu trong những bình chứa đó là những công việc tâm linh có gía trị mang ánh sáng vào trần gian.
Trong dụ ngôn 05 cô sống không khôn ngoan, vì không mang theo bình dầu dự trữ, trong tình trạng khủng hoảng bối rối, đã yêu cầu 05 chị em có dư dầu chia sẻ cho mình để có thể thắp đèn cho sáng lên lúc cạn hết dầu.
05 chị em có bình dầu dự trữ đã từ chối khôn khéo:"Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn.".
Sự chối từ tế nhị khôn khéo này như có vẻ chút nào nói lên sự ích kỷ thiếu bác ái. Nhưng không hẳn là như thế. Nếu hiểu dầu tích lũy trong bình là hình ảnh của tình yêu thương cho người thân cận, là niềm vui tận trong trái tim tâm hồn của đức tin, là hình ảnh của tất cả những công việc, mà qua đó mang ánh sáng vào trong trần gian.
Như vậy kho tàng tâm linh riêng biệt cá nhân của đời sống mỗi người đã thi hành, đã gặt hái không thể chia cắt sẻ ra được.
Và như vậy cuối cùng mỗi người chịu trách nhiệm cho chính đời sống mình. Một cha gìa hưu dòng Phanxicô đã có có suy nghĩ: “ Hãy chia sẻ nhiều như bạn có thể. Nhưng không thể chia sẻ trách nhiệm chính đời sống bạn được.”.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc long
Hình ảnh đời sống vĩnh cửu
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm trong nếp sống đức tin của Giáo hội Công giáo dành tháng 11. tưởng nhớ đến những người đã qua đời. Đó là nếp sống đức tin trong Hội Thánh Công giáo.
Cung cách sống đức tin này nói lên nếp sống văn hóa lòng biết ơn giữa người còn sống với người đã qua đời.
Cung cách sống đạo đức này thể hiện thâm sâu lòng xác tín: sự sống thay đổi chứ không mất đi, cho dù sự chết gây ra sự chia lìa xa cách đau buồn nơi cuộc sống trên trần gian.
Cung cách sống này diễn tả niềm hy vọng: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại! Như Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại. Sự sống lại của Chúa Giêsu là tin mừng hy vọng cho linh hồn con người sau khi thân xác chết cũng được sống lại.
Trước nấm mồ hay trước di ảnh người qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc, những kỷ niệm ngày xưa đã cùng chung sống trải qua với nhau xuất hiện trở lại trong tâm trí. Con người hầu như ai cũng có thắc mắc về sự chết là gì vậy. Nhưng người tín hữu Chúa Kitô không cần phải tìm cách cắt nghĩa về sự chết, nhưng họ tìm hiểu về sự sống. Vì qua đời sống chúng ta tìm được ý nghĩa đích thật của toàn thể đời sống con người.
„ Trong khu rừng gìa yên tĩnh, chim chóc gục đầu rũ cánh, lim dim tìm giấc ngủ trưa trên các cành cây thưởng thức hương vị yên tĩnh buổi trưa hè nóng nực.
Đàng xa thình lình một chú chim Yến ngẩng đầu tư lự cất tiếng hỏi: ‘’ Đời sống là cái gì vậy?’’
Mọi loài chợt tỉnh thức vì câu hỏi vang lên giữa bầu khí yên lặng. Câu hỏi thật khó mà trả lời. Cây Hồng dưới thung lũng vươn mình khoe hương sắc qua nhánh lá non tươi xinh vừa nhú khỏi thân cây và nụ hoa vừa chớm nở, lên tiếng trả lời:’’ Đời sống là một chuỗi phát triển. Không có phát triển không có sự sống mới!’’
Chú Bươm Bướm mầu sắc óng ánh rực rỡ tung tăng bay lượn qua lại trên các nụ hoa tươi mới nở đang hút nhựa, thưởng thức hương hoa ngọt ngào từ các nhánh hoa nhí nhảnh lên tiếng: ‘’ Xem này, đời sống là niềm vui. Xem kìa ánh sáng mặt trời chiếu tỏa mọi nơi mang niềm vui đến cho mọi loài.’’
Dưới gốc cây chú Kiến càng đang mệt nhọc bò từng đoạn đường, miệng tha ống hút mật. Có lẽ ống to hơn chú gấp năm mười lần, uể oải lên tiếng:’’ À, đời sống đâu là cái quái gì. Tất cả chỉ là cố gắng, hy sinh và làm việc...’’
Chú Ong vàng bay lượn hút mật hoa kêu vo ve cũng góp lời: Đời sống ư. Đời sống là một chuỗi biến chuyển, thay đổi, lúc làm việc, lúc nghỉ ngơi thưởng lãm!’’
Chú Sâu đất trồi mình lên khỏi mặt đất thều thào lên tiếng: ‘’ Đời sống là một cuộc chiến đấu liên tục trong u tối!’’
Chú Chim bắt sâu hóm hỉnh lên tiếng: ‘’ Các bạn nói phải quá và hay lắm đấy. Nhưng có biết không, biết bao nhiêu lần người ta phải làm những cái, mà không biết điều đó là cái gì!
Nghe thế mọi loài gục đầu tư lự suy nghĩ tiếp. Và họ hoài nghi ngay cả chính kinh nghiệm về đời sống của mình nữa...Thình lình một cơn mưa rào kéo đến làm tan bầu khí nặng nề sôi nổi. Anh ta lên tiếng:’’ Đời sống ư, nào có là gì khác hơn nước mắt, nước mắt và nước mắt!’’
Những gịot nước mưa tụ lại thành một giòng nước nhỏ chảy theo các đường rãnh quanh co từ trên đồi cao xuống con suối bên dưới gần đó. Và từ đó lại tiếp tục chảy ra ngoài sông lớn. Sau nhiều tuần, nhiều tháng dòng nước chảy trôi xuôi ra tới biển cả mênh mông.
Ngoài đại dương những làn sóng bạc đầu dâng cao, đuổi nhau, chạy xô đập vào bờ biển làm bắn tung toé bọt sóng nước trắng phau lên bờ đá gồng ghềnh. Và rồi lại từ bờ đá sóng nứơc lấy đà tăng tốc độ chạy ngược trở ra ngoài khơi mênh mông. Ngọn sóng nước ầm vang như muốn gào thét thành lời:’’ Đời sống là một cuộc đuổi chạy vòng vo tiêu hao công lao sức lực đi tìm tự do.’’
Trên bầu trời cao, xa tít tận mây xanh chú Phượng Hoàng dương đôi cánh bay lượn, chao đi chao lại, oai nghi hùng dũng cất tiếng quát:’’ Đời sống là vươn lên, vươn lên và vươn lên cao mãi!’’
Một cơn giông kéo tới sườn đồi, tạt mạnh qua cánh đồng cỏ mọc xanh rì. Khiến thảm cỏ xanh nằm rạp xuống tận mặt đất theo chiều gío và phát ra những âm thanh rì rào như lời phát vào không gian: Đời sống là một cuộc uốn mình: có lúc phải ngả nghiêng theo chiều gío, có lúc phải khép mình theo một trật tự; có lúc phải âm thầm im lìm ẩn khuất, nhất là những khi đường đời có nhiều gánh nặng, lo âu, có nhiều khó khăn phải vượt qua...
Mặt trời đã lặn sang phía chân trời bên kia. Và màn đêm buông xuống bao phủ khắp cánh rừng. Trong lùm cây rậm rạp chú chim Cú mèo nhẹ nhàng chuyền từ cành này sang cành khác tìm mồi, thỏ thẻ lên tiếng: Đời sống chẳng qua là những cơ hội cho ta, khi những con vật khác đi ngủ!
Khu rừng bây giờ chìm hẳn trong đêm tối và trở nên yên lặng tĩnh mịch. Đêm đã khuya, xa xa trong một ngôi làng bên cạnh khu rừng, một cha xứ vừa thổi tắt ngọn đèn dầu hoa kỳ và nhủ thầm: Đời sống ư, quanh năm ngày tháng bận bịu với việc đọc sách báo, suy tư, cầu nguyện và dọn bài. Đời sống có khác gì là một bài giảng!
Cũng trong ngôi làng đó một thầy giáo ngồi chấm bài, âm thầm suy nghĩ: Đời sống cũng chẳng khác gì hơn là suốt đời gắn liền với việc dậy dỗ con em học sinh nơi trường học!
Đêm đã về khuya, trên con đường vắng bóng người, một chàng trai lầm lũi, dáng điệu mệt mỏi thất thểu bước đi lẩm bẩm một mình: Cuộc đời nói cho cùng có nhiều giai đoạn: lúc hứng khởi rộn ràng, lúc sống dửng dưng lạnh lùng, lúc có niềm vui, lúc sống trong âu lo sầu buồn thất vọng...!
Một cơn gío nhẹ trong đêm khuya thổi tạt qua, như muốn nói cùng chàng trai này: Phải rồi, cuộc đời là một chuỗi vô định, nào có ai biết được sẽ đi về đâu!
Đêm dài qua đi. Ánh bình minh ló dạng. Mặt trời mỉm cười lên tiếng: Các bạn hãy xem đây, tôi mang niềm vui, ánh nắng sức sống cho vạn vật. Tôi là dấu hiệu khởi đầu cho một ngày mới. Cuộc đời là khởi đầu bước vào ngưỡng cửa đời sống vĩnh cửu!’’ (Theo truyện thần thoại xứ Thụy Điển: Das Maerchen vom Leben).
Đời sống như thế có nhiều bộ mặt khác nhau cùng có gía trị cao qúy. Vì đời sống không do con người hay một công thức máy móc nào tính toán ấn định làm ra. Nhưng do Thiên Chúa, Đấng tạo Hóa tạo dựng ban cho con người, mà chúng ta tự hào cho đó là công trình thiên nhiên. Mỗi người với chương trình đời sống của mình đi vào lòng thế giới tiến bước vào đời sống vĩnh cửu ngày mai.
Tháng 11. hằng năm dành thời giờ để cầu nguyện tưởng nhớ các linh hồn, những người thân yêu của ta đã chấm dứt quãng đường hành trình trên trần gian ra đi về đời sau, là cơ hội tâm linh hướng lòng nhìn lên Chúa Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết, với lòng tin tưởng biết ơn: người thân yêu đã qua đời cũng cùng được sống lại với Chúa Kitô phục sinh trên nước Thiên Chúa hằng sống!
Tin tưởng vào sứ điệp phục sinh của Chúa Giêsu, ta hướng nhìn lên Mặt Trời trên cao chiếu tỏa ánh quang báo hiệu một đời sống mới không bao giờ tận cùng, như Chúa đoan hứa cho hết mọi người tin tưởng vào Ngài.
Tháng 11. Tháng lòng hiếu thảo tưởng nhớ các Linh hồn
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh bài giảng từ nấ
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Xưa nay trong dòng lịch sử thời gian khắp nơi trên hoàn vũ luôn có những kiểu cách xây dựng nhà cửa dinh thự to nhỏ khác nhau tùy theo văn hóa phong tục mỗi dân tộc, mỗi thời đại, để đáp ứng cho nhu cầu sinh sống của con người. Và nhu cầu này là một trong những nhu cầu căn bản cho đời sống con người.
Đời sống con người xưa nay có ngày khởi đầu sinh ra sống trên trần gian với nhu cầu nhà ở. Và con đường đời sống trên trần gian của mỗi người cũng có ngày chấm dứt. Đó là định luật thiên nhiên không có luật trừ cho một người nào. Không phải lúc còn sống cần nhà ở, nhưng người đã chết cũng cần một ngôi nhà, một nơi xứng đáng cho thân xác. Người đã qua đời không thể tự xây dựng cho mình ngôi nhà ở được. Nhưng thân nhân ngườì qúa cố làm công việc đạo đức hiếu thảo này cho họ, để tỏ lòng yêu mến kính trọng.
Trong dòng lịch sử thời đại nhân loại có nhiều kiểu cách phát triển khác nhau trong việc xây dựng ngôi nhà, theo dân gian là ngôi hay phần mộ cho người đã qúa cố ra đi về đời sau, về thế giới bên kia. Họ không còn hiện diện với thân xác hình hài, mầu da tiếng nói, tình cảm nữa trong cuộc sống trên trần gian.
Cho dù căn nhà, ngôi mộ cao to, nhỏ bé thấp được xây dựng cho người đã qúa cố bằng xi măng, cát đá, phủ vùi lấp sâu trong lòng đất mẹ, nhưng không vì thế mà không truyền vọng tín hiệu sứ điệp nào cho người thân của họ còn đang sinh sống trên trần gian.
Vậy đâu là hình ảnh một bài giảng, hay một tín hiệu sứ điệp từ ngôi mộ của người đã qua đời?
Khoa khảo cổ đã đang đào xới tìm ra những cánh đồng có những lăng tẩm kiên cố to lớn, sang trọng danh tiếng chôn cất những vị Vua Pharao giầu sang quyền bính thời cổ đại xa xưa bên xứ Ai Cập. Người chết được chôn cất ngay tại khu đất nhà riêng của họ, hay được an táng trong lăng tẩm kim tự tháp nơi sa mạc. Nghĩa địa phần mộ theo ý nghĩa cung cách như ngày nay không có.
Người Hylạp và người Roma có lối sống văn hóa khác. Những người qua đời thuộc lớp thứ dân thường được an táng bên bìa ngoài thành phố. Phần mộ của họ thô sơ chỉ bằng đá vôi hay đất nung. Chỉ những bậc vua chúa vị vọng quyền thế được mai táng trong những lăng tẩm làm bằng đá hiếm qúy cẩm thạch sang trọng bên trong thành phố. Ở thành phố Roma dọc con đường Via Appia còn những ngôi mộ cổ lịch sử như thế bằng đá cẩm thạch vinh danh những bậc vị vọng quan quyền ngày xưa. Những người nghèo, người nô lệ không có tiền mua đất mai táng, thân xác họ được thiêu đốt thành tro bụi.
Từ khi Kitô giáo lan truyền rộng rãi, cung cách lối sống an táng người qua đời cũng được thay đổi. Người Kitô giáo tin rằng không chỉ lúc còn sống mà cả khi đã qua đời họ cùng hợp nhất lại thành cộng đoàn trong ngày phán xét chung để trông chờ cùng được sống lại: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Từ lối sống niềm tin đó thành hình khu nghĩa trang, đất thánh, để mọi người tín hữu Chúa Kitô qua đời được cùng an táng chung với nhau nơi đó.
Trong thời đạo Công giáo bị cấm cách bắt bớ cho tới thế kỷ thứ 4.sau Chúa giáng sinh, ở thành phố Roma, những tín hữu Công giáo được an táng trong những hang toại đạo ( Catacombe)ở sâu trong lòng đất. Ngày nay khi sang thăm viếng những nơi di tích lịch sử này, còn thấy những dấu vết ngôi mộ của người qúa cố được mai táng nơi đây.
Từ khi Kitô giáo được hoàng đế Constantino của đế quốc Roma vào thế kỷ thứ 4. công nhận cho tự do sống đạo là một tôn giáo, nhiều nơi dành khu sân gần hay bên cạnh thánh đường làm thành nghĩa trang, đất thánh để chôn cất người tín hữu đã qua đời, như ngày nay còn thấy ở nhiều thánh đường bên Âu Châu. Điều này muốn nói lên niềm tin người đã qua đời không còn sinh sống trên mặt đất, nhưng họ vẫn gần bên cạnh Thiên Chúa nguồn sự sống.
Ngày nay các nghĩa trang an táng người qua đời được xây dựng quy hoạch riêng biệt ở những thành phố lớn bên Âu Châu trở thành khu vườn rộng lớn với những con đường tráng nhựa có hàng cây cổ thụ rợp bóng lan tỏa không khí bình an nơi yên tĩnh thích hợp cho thân nhân người qúa cố đến thăm viếng đi dạo trong đó.
Và khi đi dạo qua những hàng ngôi phần mộ, những hàng cây xanh tốt gợi nhớ đến lịch sử đời sống xưa kia của người qúa cố. Nhớ đến họ với lòng ngậm ngùi biết ơn. Vì những gì họ đã làm ơn cho ta khi xưa. Và cũng với tâm tình ăn năn hối hận, xin sự tha thứ. Vì xưa kia đã có thời gian cùng sống với nhau không được hòa thuận êm ấm, đã có lúc thiếu xót bổn phận cho nhau, cư xử thiếu tình tự lòng hiếu thảo hay tình thân thiện, và cũng có khi thiếu bác ái cùng lòng nhường nhịn nhau...
Người đã qua đời nằm sâu trong lòng đất hay được thiêu ra thành tro bụi. Họ không còn có thể nói lên được bằng âm thanh tiếng nói như khi xưa lúc còn sinh tiền. Nhưng từ phần mộ nấm mồ, từ ngăn có tro bụi của thân xác họ như vọng lên sứ điệp tín hiệu nhắn gửi:
“ Tôi đã là con người được Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, tạo dựng ban cho thân xác, sự sống, tình cảm, ý chí khi xưa.
Tôi cũng được Ngài ban cho cơ hội cùng chung sống với mọi người trên trần gian. Ngài ban cho tôi sức lực, khả năng cùng tình yêu để xây dựng đời sống của tôi và cùng cho người khác nữa.
Ngài cho tôi sinh ra làm người ở đời khởi đầu với hai bàn tay không từ cung lòng mẹ mở mắt đi vào đời. Và quãng đường đời sống trên trần gian của tôi đến ngày chấm dứt theo ý định chương trình của Ngài, tôi trở về với Ngài cũng vẫn với hai bàn tay không.
Tôi xác tín rằng Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã tạo dựng nên thân xác tôi từ bụi đất cho sinh sống trên trần gian. Và sau quãng đường đời hành trình trên trần gian thân xác tôi cũng tiêu tan hay thiêu thành bụi đất. Nhưng sự sống thần linh của tôi do Thiên Chúa phú ban cho không tiêu tan biến mất bị hủy đi. Tôi trở về bên Ngài với lịch sử đời sống khi xưa trên trần gian.
Tôi tin rằng Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, mở rộng vòng tay đón nhận tôi, yêu thương tha thứ cho tôi. Vì tôi là người con của Ngài, là tác phẩm do Ngài tạo dựng nuôi sống khi xưa trên trần gian.
Ngày xưa trên trần gian tôi hằng ghi nhớ câu tâm niệm :
“Nhục thể ly trần lưu cát bụi.
Hồn thiêng thoát tục nhập thiên cung.”
Lễ tưởng nhớ các Linh Hồn.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh được chúc phúc lành.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Con người chúng ta thường hay nói thật có phúc, khi người nào đó có được điều may mắn, sự thành công tích cực vui mừng trong đời sống. Và khi nói như vậy còn ẩn chứa ý nghĩ tâm linh là được Trời cao chúc phúc lành.
Chúa Giêsu Kitô đi rao giảng nước Thiên Chúa cho con người nói đến 09 lần phúc thay, nhưng lại không cho những ai gặp được điều vui mừng tích cực, điều may mắn thành công. Mà trái ngược lại.
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. –
Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp. –
Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. –
Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. –
Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. –
Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. –
Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. –
Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.
"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời". ( Mt 5,1-12a).
Vậy những chúc phúc của Chúa Giêsu như vậy ẩn chứa hình ảnh gì?
Những lời chúc mừng Phúc thay của bài giảng Chúa Giêsu như trên với những lý do như vậy thật là khác thường. Nó làm người nghe không chỉ qúa đỗi ngạc nhiên, mà còn đến mức độ không sao hiểu nổi nữa. Vì xa lạ không theo lý luận trong thực tế đời sống.
Nhưng có phải Chúa Giêsu nói rao giảng chân lý xa lạ với thực tế đời sống, với suy nghĩ lý luận của xã hội đời sống con người không?
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người sinh sống giữa xã hội con người, tất nhiên Ngài đã nhìn thấy, nghe thấy cùng cảm nhận ra những thực trạng đời sống con người như thế nào. Chính Ngài và ai ai cũng đều mong muốn có cuộc sống êm đẹp bình an. Nhưng thực tế lại khác.
Khi vừa mở mắt chào đời ở Bethlehem, như kinh thánh thuật lại, gia đình Chúa Giêsu đã phải sống cảnh di cư tỵ nạn từ nước Do Thái sang bên xứ xa lạ Ai Cập ( Mt 2, 13-18). Vì nhà Vua Herode đi truy lùng tìm bắt hài nhi Giêsu, và giận cá chém thớt, ông sai giết luôn hết các trẻ em cùng tuổi với hài nhi Giêsu. Vua Herode như vậy đã làm điều tội phạm giết người gây thảm họa đau khổ cho biết bao gia đình, cho con người.
Đó là thực tế trong đời sống mà Chúa Giêsu đã chứng kiến trải qua ngay từ lúc ngài còn thơ bé. Và rồi trong suốt dọc đời sống xã hội nơi gia đình ngài sinh sống xưa kia ở Bethlehem, ở bên Ai Cập , ở Nazareth, ở Jerusalem cũng còn biết bao cảnh bất công xảy ra giữa con người với nhau…
Trong dòng lịch sử thời gian không gian xưa nay những bất công, lấn lướt chèn ép, đối xử thiếu bác ái tình người, chiến tranh, di cư tỵ nạn, bị khinh khi chê cười, bị bỏ rơi, phải sống cảnh nghèo túng đói khổ , bị hồ nghi giam hãm… luôn hằng diễn xảy ra. Những điều tiêu cực này gây ra những thảm họa đau khổ đe dọa con người làm đời sống mất bình an. Vì thế con người luôn cần đến sự an ủi nâng đỡ không chỉ về vật chất, nhưng hơn hết niềm hy vọng cho đời sống tinh thần.
Chúa Giêsu với sứ mạng mang đến cho con người trần gian sống trong thung lũng đầy nước mắt đau khổ niềm hy vọng được chúc phúc chữa lành an ủi vượt qua lằn ranh đời sống trên trần gian bước sang con đường đời sống mai ngày bên kia, sau khi đã qua đời.
Những người được chúc phúc như Chúa Gêsu nói đến, là những người trong cuộc sống trần gian đã không có cơ hội được sống trải qua đời sống tích cực may mắn và thành công. Họ là những người phải chịu đựng hoàn cảnh đời sống không có bình an hạnh phúc.
Mừng kính chung các Thánh Nữ Nam trên trời bên ngai Thiên Chúa, chúng ta nhớ đến tổ tiên Ông Bà cha mẹ, anh chị em bạn hữu của chúng ta. Đời sống của họ khi xưa trên trần gian không phải luôn luôn hạnh thông may mắn, niềm vui, nhưng chắc chắn đã phần nhiều phải sống chịu đựng đau khổ tủi hổ trong nước mắt..
Bài phúc âm Phúc thật của Chúa Giêsu trong ngày lễ mừng kính các Thánh 01.11. nói lên niềm hy vọng được chúc phúc được cứu độ bên Thiên Chúa không chỉ cho người còn sống mà cho cả những người đã qua đời.
Hình ảnh bài giảng Phúc thật trong một ý nghĩa tích cực như nói đến một thế giới xa lạ. Xa lạ với thế giới, vì người chịu đựng đau khổ sau cùng cảm nhận được niềm vui hạnh phúc.
Và bài giảng kinh thánh Phúc thay còn nói đến một thế giới xa lạ nữa: Nước Trời hay nước Thiên Chúa, nơi đó người đau khổ buồn sầu được an ủi có niềm vui hạnh phúc, người đói khát được no đủ, người nghèo túng có đời sống giầu có.
Niềm hy vọng, niềm an ủi là hình ảnh trung tâm của hiến chương Nước Trời trong bài giảng “Phúc thay”, mà Chúa Giêsu rao giảng cho nhân loại vào mọi thời đại.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Đức mẹ Maria với đời sống người di cư
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đời sống con người thường hay chạy đến tâm sự kêu cầu than vãn với mẹ mình nhiều hơn ngay từ lúc còn tuổi thơ ấu, và rồi trong suốt dọc đời sống, nhất là những lúc gặp buồn phiền lo âu khủng hoảng….
Đời sống nhân loại xưa nay hầu như trên khắp hoàn cầu luôn gặp vướng trở khó khăn khủng hoảng. Một trong những điều đó là nếp sống phải đi di cư tỵ nạn, phải sống lưu lạc bỏ quê hương xứ sở, quê cha đất tổ của mình tìm cách đi sinh sống sang nơi đất nước châu lục khác xa lạ về mọi phương diện.
Sang sinh sống lập nghiệp nơi xa lạ, người di cư tỵ nạn có nhiều lo âu bấp bênh chao đảo. Họ cần sự an ủi giúp đỡ được thu nhận, để có đời sống bình an. Và xưa nay Liên Hiệp quốc, cùng các nước có đời sống phúc lợi giầu có hằng mở rộng vòng tay tiếp nhận, tạo điều kiện cơ hội cho họ hội nhập vào xã hội mới, dần dần kiến tạo xây dựng có đời sống an cư lạc nghiệp trở lại.
Đây là điều quan trọng cần thiết trong nếp sống bác ái tình người, như trong kinh Tám mối Phúc Thật có phương châm hướng dẫn: “ Cho kẻ đói ăn. Cha khách đỗ nhà.”.
Và trong kinh cầu Đức Mẹ Loreto có lời cầu khấn ca nguyện : “Đức Bà nâng đỡ người di cư.”
Vậy đâu là hình ảnh Đức Mẹ Maria trong nếp sống lưu lạc của người đi di cư tỵ nạn?
Xưa nay trong đời sống xã hội có những người phụ nữ quảng đại hy sinh dấn thân đến những nơi nghèo khổ thiếu thốn, đến những nơi trại có người di cư tỵ nạn, người bị bỏ rơi…giúp đỡ an ủi họ. Gương sống bác ái dấn thân của Mẹ Thánh Teresa thành Calcutta và Dòng của Mẹ Thánh sống giữa người nghèo khổ bị bỏ rơi trong xã hội là một hình ảnh sống động bừng cháy ngọn lửa tình yêu thương bác ái trong lòng xã hội và Giáo hội. Và hằng có những vị nữ tu, các vị phụ nữ khác nữa trên thế giới dấn thân ra đi đến tận các trại tỵ nạn sống giúp đỡ an ủi những người nghèo khổ sống cảnh bơ vơ.
Bàn tay bác ái lòng từ mẫu của các vị nữ tu, hay của những người phụ nữ giầu lòng từ tâm bác ái không xóa hết cảnh nghèo khổ thiếu thốn. Nhưng truyền gửi đến tín hiệu sự an ủi niềm thông cảm cho con người trong cảnh bơ vơ chao đảo. Điều này đáp ứng cho nhu cầu đời sống tinh thần con người.
Bàn tay chan chứa tình người của các người phụ nữ giầu lòng từ bi nhân ái không là tất cả. Nhưng là sứ điệp niềm vui mừng hy vọng cho con người: tôi không bị bỏ rơi, có người cùng đồng hành với trong mọi hoàn cảnh!
Bàn tay dịu hiền của những vị phụ nữ giầu lòng cảm thương với mọi người trong cảnh bơ vơ khốn khó, tuy không là nơi chốn đất nước tiếp nhận họ vào sinh sống, nhưng giữa bước đường di cư bơ vơ tỵ nạn lại là bến bờ chiếu tỏa hơi ấm tình người cho họ.
Đời sống có cơm ăn áo mặc, có nhà ở được thu nhận vào sống trong một đất nước bình an là khát vọng mong ước của người đi di cư tỵ nạn.
Ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm, như Kinh Thánh thuật lại ( Mt 2, 13-23), Đức Mẹ Maria sau khi hạ sinh hài nhi Giêsu ở Bethlehem cũng đã phải trải qua cảnh sống di cư tỵ nạn từ nước Do Thái sang đất nước AiCập. Không có chi tiết nào thuật nói về cảnh đời sống di cư tỵ nạn của gia đình Đức mẹ Maria hồi thời đó bên xứ Ai cập. Nhưng chắc một điều là gia đình sống cảnh thiếu thốn giữa hoàn cảnh xa lạ bơ vơ. Và chắc cũng có những tấm lòng từ tâm bác ái mở rộng bàn tay giúp đỡ những người tìm đến sống đời di cư tỵ nạn giữa họ.
Đức mẹ Maria là người phụ nữ, người mẹ nhạy cảm với những nhu cầu cần thiết cho con thơ bé mình, cho gia đình hơn hết. Nên chắc rằng người mẹ tìm mọi cách mang lại sự vỗ về yêu thương cho con thơ mình dù trong hoàn cảnh bơ vơ thiếu thốn. Bàn tay lòng từ mẫu sự yêu thương săn sóc của người mẹ mang đến cho người con sự an ủi, sự bình an.
Qua được giúp đỡ ủi an của người khác cho gia đình trong bước đường tỵ nạn, và chính bàn tay đức mẹ đã giúp gia đình mình, con mình có được sự an ủi bình an, là những kinh nghiệm qúy báu Đức mẹ Maria không bao giờ quên.
Đức mẹ Maria theo niềm tin đã được Thiên Chúa thưởng công cho về trời cả hồn lẫn thân xác. Và Giáo hội, người tín hữu Chúa Kitô hằng đặt lòng tin tưởng nơi Đức mẹ Maria là người xưa kia đã sống trải qua hoàn cảnh đời sống di cư tỵ nạn trên trần gian, nên đã thấu hiểu biết rõ nhu cầu cho đời sống người di cư tỵ nạn thế nào.
Nơi trần gian xưa nay luôn hằng có hoàn cảnh di cư tỵ nạn. Làn sóng di cư tỵ nạn ngày càng tăng thêm lên theo nhận định của Liên hiệp quốc về di cư tỵ nạn.
Các quốc gia đất nước có đời sống xã hội bình an thịnh vượng hằng theo khả năng mở rộng vòng tay đón tiếp giúp đỡ. Nhưng như vị cựu Tổng thống nước Đức Ông Joakim Gauck đã nói lên tâm tình: Trái tim của chúng tôi rộng mở, nhưng khả năng của chúng tôi có giới hạn!
Và bây giờ nơi trần gian mọi người, người tín hữu Chúa Kitô cùng rộng mở bàn tay bác ai đóng góp giúp đỡ, và trong niềm tin dâng lời cầu khấn nguyện xin: Đức Bà nâng đỡ người di cư! Cầu cho chúng con.
Tháng Mân Côi kính Đức Mẹ Maria
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hình ảnh nối lửa đức tin cho đời
- Hình ảnh cỗ máy thân thể con người
- Hình ảnh Đức mẹ Maria trong kinh Mân Côi năm Sự Sáng
- Hình ảnh lễ Tết Trung Thu
- Hình ảnh Thánh Mattheus
- Hình ảnh nếp sống kiên nhẫn
- Hình ảnh theo hướng mặt trời mọc
- Hình ảnh lễ mừng sinh nhật Đức Mẹ Maria
- Hình ảnh thập gía trong đời sống
- Hình ảnh cánh cửa mở rộng