Hình ảnh cánh cửa mở rộng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cổng hay cửa nơi thành tường vách, đền đài, công sở, nơi nhà ở là biên giới ngăn giữa bên ngoài và bên trong. Khi cánh cổng, cánh cửa đóng khép lại sự thông tương giữa hai bên trong ngoài bị ngăn chặn lại. Nhưng khi cánh cửa mở ra, sự thông thương đi lại ra vào trong ngoài được khai thông.
Còn trong đạo giáo niềm tin tinh thần có hình ảnh cánh cửa tạo ra biên giới ngăn cách giữa người theo một đức tin và người không cùng một đức tin với nhau không?
Điều này có thể tìm hiểu suy nghĩ theo mỗi người. Nhưng xem ra không có hình ảnh cánh cổng, cánh cửa biên giới vật chất gỗ thép, hay kính..hữu hình như nơi tường vách đền đài, nhà cửa. Có chăng là cung cách thái độ sống chung với nhau thôi.
Ngày xưa khi đi rao giảng nước Thiên Chúa cho con người trần gian, Chúa Giêsu Kitô cũng đã gặp vấn đề này.
Như phúc âm thuật lại ( Mt 15,21-28) một người phụ nữ không thuộc dân tộc Do Thái trong lúc hoang mang lo âu, vì con gái bà bị bệnh qủy ám, theo bây giờ gọi là bị bệnh tâm thần kinh phong, đã đến gặp Chúa Giêsu kêu xin giúp đỡ chữa lành cho con mình.
Theo truyền thống thời lúc đó Chúa Giêsu hiểu là sứ vụ của Ngài chỉ cho người dân cộng đồng Do Thái thôi. Như thế Ngài không được chữa lành cho người không thuộc dân tộc Do Thái.
Điều này qủa là qúa ngạc nhiên xa lạ. Và có thể nói là cánh cửa biên giới tinh thần đạo gíao không mở ra cho người bên ngoài đi vào bên trong!
Nhưng người mẹ đó không nhường bước. Bà ta đến trước Chúa Giêsu qùi gối xuống nài nỉ: Lạy Thầy, chúng tôi cũng là con người, sao Ngài lại nỡ lòng nào như thế. Xin mở tấm lòng cứu giúp chúng tôi!
Chúa Giêsu dùng hình ảnh qủa là bình dân cụ thể nhưng không mấy văn hóa tốt đẹp đáp lạị: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con."
Bà ta dùng lại ngay hình ảnh đó đối đáp lại : "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống."
Có thể nói qúa ngạc nhiên cảm phục bà ta, Đức Giê-su đáp: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy." Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.”
Chúa Giêsu đã phá lệ tháo bỏ rào cản mở cánh cửa tâm hồn tinh thần cho gia đình bà được vào cùng hưởng ơn chữa lành trong nước Thiên Chúa. Nước của tình yêu Thiên Chúa, nước của ơn chữa lành cho mọi người.
Trong chuyến máy bay trở về Roma sau Đại hội thế giới giới trẻ vừa qua, 1.-6. Tháng Tám 2023 ở Lissabon, một nữ ký giả người Đức hỏi: “Đức Thánh Cha vẫn nhấn mạnh trong Giáo hội có chỗ cho tất cả mọi người, không trừ ai. Giáo hội mở rộng cho tất cả nhưng đồng thời, không phải tất cả đều có cùng các quyền, có cơ may như nhau, thí dụ các phụ nữ, những người đồng tính luyến ái không thể chịu tất cả các bí tích... Phải chăng có sự không nhất thống giữa “Giáo hội cởi mở”, và “Giáo hội không như nhau cho tất cả mọi người?”
Đức Thánh Cha giải thích rằng đó là hai quan điểm, hai khía cạnh khác nhau: Giáo hội cởi mở với tất cả mọi người, nhưng có những luật lệ điều hành cuộc sống bên trong Giáo hội. Người ở bên trong thì theo luật pháp...
Điều mà bạn nói “Không thể làm các bí tích”, điều này không có nghĩa là Giáo hội khép kín. Mỗi người gặp gỡ Thiên Chúa qua con đường của họ bên trong Giáo hội. Giáo hội là mẹ và là người hướng dẫn mỗi người theo con đường của mình.
Vì thế, tôi không thích nói: Tất cả mọi người đến, nhưng anh làm điều này, người khác làm điều khác. Tất cả. Mỗi người trong kinh nguyện, trong đối thoại nội tâm, trong đối thoại mục vụ, tìm cách thức để tiến bước. Do đó đặt một câu hỏi: tại sao những người đồng tính luyến ái thì không? Tất cả, và Chúa thật là rõ ràng: người bệnh, người lành mạnh, người già và người trẻ, người xấu và người đẹp, người tốt và người xấu!” ( Bản tin Việtcatholic ngày 11.08.2023).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh” Đức Mẹ sinh Chúa tạo thiên lập địa”.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Kinh thánh tường thuật sau khi Thiên Chúa, Đấng tạo thiên lập địa tạo thành vũ trụ trời đất, đã tạo thành ông Adong là con người đầu tiên từ bùn đất.
Đức mẹ Maria không có sử sách nào ghi thuật lại vào giai đoạn thời gian nào được sinh ra làm người trần gian. Nhưng chắc chắn là trễ muộn sau này. Maria có sau ông Adong cả hàng nghìn trăm năm.
Kinh thánh chỉ thuật lại Thiên Chúa muốn cứu chuộc con người khỏi hình phạt tội lỗi do Ông Bà nguyên tổ Adong Evà từ thuở tạo thiên lập đã gây ra cho nhân lọai, nên đã sai Thiên Thần Gabriel đến nhà Maria, một thiếu nữ vùng làng quê Nazareth mang tin : Maria được Thiên Chúa chọn làm mẹ hạ sinh Giêsu, con Thiên Chúa, Đấng mang ơn cứu độ cho linh hồn con người từ trời cao.
Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá mọi loài thụ tạo, mọi sự sống, có từ trước muôn đời. Ngài không có khởi đầu và tận cùng như con người trần gian chúng ta.
Nhưng tại sao trong kinh cầu đức mẹ Maria lại có hình ảnh ca tụng : Đức bà sinh Chúa tạo thiên lập địa?
Kinh thánh thuật lại; Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ cùng sự sống mọi loài trong thiên nhiên từ hư không, và chỉ do lời Ngài nói ra: Hãy có! Và liền có như Ngài muốn. ( Sáng thế ký 1, 1-31).
Ông Adong và Bà Evà, cha mẹ thủy tổ loài người. Họ là những con người đầu tiên được Thiên Chúa tạo thành do ý muốn của Ngài và ban cho đời sống của ông bà được hưởng niềm vui hạnh phúc trong khu vườn địa đàng trần gian. Nhưng hai ông bà đã không tuân giữ giới luật lệ Thiên Chúa ban ra: không được ăn cây trái biết lành biết dữ ở trong khu vườn.
Ông bà vì đã vượt qua ranh giới lề luật của Thiên Chúa. Họ đã ăn trái của cây biết lành biết dữ, nên Thiên Chúa đã phạt hai ông bà. Họ bị đuổi ra khỏi khu vườn địa đàng, và phải sống thân phận kiếp con người đau khổ, không chỉ cho ông bà mà còn cho tất cả mọi thế hệ dòng dõi con người nữa.
“Với Evà, Chúa phán:“Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi.”
17 Với Adong, Chúa phán:“Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: “Ngươi đừng ăn nó”, nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra.
18 Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng.19 Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.”( Sáng thế ký 3,16-19).
Đó là công trình thứ nhất của Thiên Chúa, Đấng tạo thiên lập địa. Nhưng công trình này vì lỗi phạm vượt ra ngoài lằn ranh giới, hay đúng hơn con người đã không vượt qua được cơn thử thách và đã lỗi phạm ăn trái Thiên Chúa cấm đoán. Nên sự dữ, hình phạt tội lỗi, sự đau khổ đã lan tràn xâm chiếm vào công trình sáng tạo này.
Dẫu vậy Thiên Chúa không muốn công trình sáng tạo của Ngài bị phá đổ do tội lỗi gây ra. Nên Ngài muốn tìm phương cách cứu giúp mang sự chữa lành cho con người. Vì thế ngài đã muốn sai Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời của Ngài, xuống trần gian làm người, mang tình yêu ơn cứu độ đến cho con người.
Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm mẹ Chúa Giesu, là ngôi lời cùng là Con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người. Và Chúa Giêsu được sinh ra từ cung lòng Maria do quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu phải sống kiếp con người trên trần gian giữa xã hội con người, như bao con người khác trong xã hội. Nhưng với nhiệm vụ loan báo tình yêu nước Thiên Chúa cho con người. Ngài đã sống không bị vướng mắc vào tội lỗi. Ngài đã sống vượt qua những thử thách do ma qủi gài đặt bày dương ra.
Sau cùng ngài cũng phải chết treo trên thập gía, rồi được mai táng trong mộ huyệt. Nhưng Thiên Chúa không để cho sự ý muốn sáng tạo ơn cứu độ của ngài chấm dứt với sự chết hết trong huyệt mộ nơi lòng đất đá. Nên Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.
Sự phục sinh sống lại của Chúa Giêsu Kitô từ cõi chết là sự sáng tạo mới, sự tạo thiên lập địa mới của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá thực hiện cho con người có niềm hy vọng được Thiên Chúa cứu độ ban cho sự sống lại, khi cuộc đời trên trần gian chấm dứt.
Nơi công trình sáng tạo thuở khởi nguyên, Thiên Chúa, đấng tạo thiên lập địa, đã sáng tạo mọi sự do ý muốn và lời của Ngài nói ra.
Nơi công trình sáng tạo mới với sự phuc sinh sống lại của Chúa Giêsu Kitô, Đấng là con Thiên Chúa xuống trần gian làm người, thể hiện sâu đậm tình yêu của Thiên Chúa cho con người. Họ được thoát khỏi hình phạt tội lỗi của Ông Bà nguyên tổ khi xưa lưu truyền lại. Họ cũng được cùng sống lại với Chúa Giêsu Kitô trong công trình tạo thiên lập địa mới của Ngài.
Nơi công tình sáng tạo mới này, đức mẹ Maria là người được Thiên Chúa tuyển chọn, cùng chung đóng góp thực hiện cho hoàn thành tốt đẹp.
Vì thế đức mẹ Maria được ca tụng là Mẹ sinh Chúa tạo thiên lập địa.
Mừng lễ Đức Mẹ Maria hồn xác lên trời.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Hình ảnh Chúa Giêsu Kitô biến hình
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm Giáo hội Công giáo mừng lễ Chúa Giêsu biến hình vào ngày 06.08. từ thời Đức giáo hoàng Calixto III. năm 1457.
Nguồn gốc lễ mừng này đã có từ thời Giáo hội Chính Thống Byzantin vào thế kỷ 5. sang 6.
Lễ mừng này có nền tảng dựa trên phúc âm Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mattheo:“Chúa Giêsu gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và đây ông Môsê và Êlia hiện ra và đàm đạo với Người.” ( Mt 17,1-3).
Theo truyền thống Giáo hội Byzantin Chúa Giêsu biến hình trên ngọn núi Tabor ở miền Bắc nước Do Thái. Kinh thánh Cựu ước có nhắc đến tên ngọn núi này là nơi thờ phượng các Thần Thánh của dân Canaan thưở cổ xa xưa.
Năm 348 Giám mục Kyrillo thành Jerusalem sau những nghiên cứu tìm hiểu đã qủa quyết Tabor là ngọn núi Chúa Giêsu Kitô đã leo lên và biến hình trên đó, như sách Phúc âm thuật lại. Các Thánh giáo phụ Origines và Hieronimus cũng đồng ý kiến qủa quyết trên núi Tabor Chúa Giêsu đã biến hình.
Ngày nay núi Tabor là địa điểm hành hương thu hút các khách hành hương sang thăm viếng đất thánh Do Thái. Họ mong muốn tìm lại dấu vết con đường lịch sử thánh thiêng, mà ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm Chúa Giêsu Kitô đã sống trải qua những nơi chốn đó.
Sứ điệp gì ẩn chứa nơi hình ảnh Chúa Giêsu biến hình ?
Phúc âm thuật lại : ba Tông đồ Phero, Gioan và Giacobê xuất hiện trước mặt họ diện mạo sáng rực như một hào quang chiếu sáng tựa ánh sáng mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết, và nói chuyện với hai vị Tiên Tri đã qua đời từ hằng bao thế kỷ trước đó Mose và Elia.
Qua biến đổi trong ánh sáng hào quang đó Chúa Giêsu chỉ cho các tông đồ đi theo thấy tận mắt bản tính con người của Chúa Giêsu là người Con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu chỉ cho con người trần gian trên mặt đất khuôn mặt con người thật của Ngài. Ngài nói chuyện, lắng nghe, hướng nhìn và sống động. Nơi con người với xương thịt máu huyết đó Thiên Chúa ở giữa con người trần gian.
Vinh quang của Chúa Giêsu Kitô không chiếu tỏa trước hết khi Ngài sống lại từ cõi chết, nhưng ngay bây giờ nơi cuộc sống ở dưới trần gian mặt đất.
Còn con người trần gian chúng ta có biến hình thay đổi không?
Thánh Phaolo đã nói đến sự biến hình của Chúa Giêsu, trong suy luận về niềm hy vọng sự sống lại củ Chúa Giêsu Kitô cho con người trần gian: “ Đây tôi nói cho anh em biết mầu nhiệm này: không phải tất cả chúng ta sẽ chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi.” ( 1 cor 15,51).
Như thế Thánh Phaolô xác tín sự biến đổi không hủy bỏ bản thân con người phải chết cùng chóng qua đi của chúng ta, nhưng nhiều hơn căn tính của con người được bảo tồn gìn giữ. Chúng ta sẽ bị biến đổi tận căn để sâu thẳm, dẫu vậy chúng ta vẫn còn là mình.
Trong thiên nhiên nơi lùm cây cỏ, một con sâu róm hình dạng xấu xí, nhưng theo chu trình tự nhiên nó từ từ phát triển biến dạng chui ra khỏi vỏ thân thể con sâu thành một con bươm bướm mầu sắc rực rỡ bay lượn trong thiên nhiên. Con sâu róm đã lột xác thay đổi hình dạng trở thành con bươm bướm đẹp rực rỡ.
Sự thay đổi biến hình dạng luôn là một hình ảnh nói về niềm hy vọng cho con người: sự chết không là sự tận cùng của bản tính con người, nhưng là trạm nghỉ yên. Nơi trạm đó có một nếp sống thanh thản tự do, cùng không bị giới hạn làm cho ra bị tiêu hủy. Nếp sống đó trái ngược với nếp sống trên trần gian luôn bị giới hạn vào một không gian cùng thời gian chóng qua đi.
Sự biến đổi nơi sự sống lại khác với sự thay đổi biến hình vạn vật cơ thể của một con sâu róm biến thành con bươm bướm. Sự biến đổi của phục sinh sống lại không là giai đoạn có nhiều mắt xích của con người thiên nhiên tự tạo chế làm ra, nhưng hoàn toàn do Thiên Chúa tác thành. Chính Thiên Chúa biến đổi tạo thành ban cho sự sống mới.
Hình ảnh sự biến hình của Chúa Giêsu trên núi ẩn chứa hình ảnh sứ điệp niềm hy vọng cho con người cũng sẽ được biến đổi qua sự chết từ nếp sống trên con đường trần gian sang nếp sống con đường tinh thần bên Thiên Chúa, Đấng đã tạo thành ban cho con người sự sống.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh vội vã lên đường
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong dân gian có ngạn ngữ khôn ngoan: “Dục tốc bất đạt- Vội vã không đạt được đích điểm!”.
Nhưng có những trường hợp sự vội vã lại cần thiết cùng cấp bách, như trường hợp người bị thương, hay người bị bất tỉnh nằm ngã xuống đất, hỏa hoạn cháy nhà cháy rừng…lúc đó công việc cấp cứu chữa trị phải được vội vã thi hành ngay. Không thì sẽ trễ muộn, và sẽ xảy ra hậu qủa thê thảm kinh hòang bị tàn tật tê liệt hay tử vong!
Vậy hình ảnh sự vội vã tích cực là thế nào?
Trong đời sống cha mẹ, người có trách nhiệm hướng dẫn giáo dục thường khuyên bảo con cháu, học trò mình cần phải kiên nhẫn học bài tập luyện hằng ngày, đừng nên vội vã mà bỏ quên xót những chi tiết nhỏ mà cần thiết.
Nhưng các vị cũng nhắc nhở họ phải thực hành học làm bài ngay đừng để đến mai, không thì sẽ thành thói quen lơ là rồi quên ngay thôi, và sau cùng thành biếng nhác!
Nơi nhà ga xe tầu lửa, nơi phi trường mọi hành khách vội vã tới sớm hoặc đúng giờ cho kịp chuyến bay chuyến tầu. Nếu không sẽ trễ lỡ chuyến tầu!
Trong đời sống phụng vụ đạo gíao cũng có hình ảnh tương tự như thế. Tới giờ thánh lễ, hay nghe tiếng chuông thánh đường đổ hồi, mọi người tín hữu Chúa Kitô vội vã đi đến thánh đường đọc kinh dâng lễ. Nếu không sẽ trễ việc bổn phận thiêng liêng!
Ngày nay đời sống càng trở nên vội vã. Tốc độ làm việc hầu như trong mọi lãnh vực thay đổi liên tục cùng nhanh lẹ. Nên đòi hỏi người làm việc phải vội vã nhanh tay chân cùng cả trí óc suy nghĩ nữa.
Những người trẻ ngày hôm nay và trong tương lai, họ có những phương tiện thông tin điện tử nhanh lẹ luôn bên mình. Những phương tiện nhanh lẹ từng giây phút giúp họ có ngay thu thập những thông tin thời sự, những liên lạc cần thiết cập nhật, cho dù họ ở xa nhau nơi không gian phương trời cùng thời gian khác lạ. Và những phương tiện nhanh lẹ đó cũng chỉ đường huấn luyện cho trở nên người sống vội vã.
Có những người giáo dân tâm sự, tôi thích đi tham dự thánh lễ nơi nào đúng giờ và linh mục làm lễ nhanh lẹ. Vì nếu không, tôi phải vội vã chạy ra trạm đón xe cho kịp chuyến xe Bus. Vội vã làm tôi mệt nhọc thở không ra hơi!
Đại hội giới trẻ thế giới lần thứ 37. từ ngày 01.-06. tháng Tám 2023 ở thủ đô Lissabon bên nước Portugal diễn ra với chủ đề: “ Maria vội vã lên đường” ( Lc 1,39).
Đức Mẹ Maria ngày xưa đã vội vã lên đường đến thăm viếng người chị họ của mình Elisabeth ( Lc 1,40-44)ở vùng đồi núi El Karim miền Juda nước Do Thái.
Cung cách sống vội vã đó của Maria hướng về nếp sống bác ái tình người.
Cung cách sống vội vã đó của Maria thể hiện tâm tình quan tâm đến đời sống của người khác
Cung cách sống vội vã của Maria nói lên tình liên đới với người chị họ mình cùng vui với người chị có tin vui, và cùng muốn chị em gần bên nhau giúp đỡ nhau, lúc cần thiết.
Sự vội vã của Maria còn ẩn chứa cung cách nếp sống nhậy bén với việc thời sự. Vì Maria được Thiên Thần Chúa nói cho hay Elisabeth, người chị họ của mình ,đã luống tuổi mà bây giờ được chúc phúc cho có con đang thành hình là bào thai trong cung lòng. Vậy còn gì vui hơn nữa, thời sự hơn nữa!
Đời sống ngày nay diễn xảy ra với tốc độ càng nhanh lẹ, nên con người phải sống làm việc vội vã, phải có cung cách sống nhậy bén đón bắt kịp việc thời sự diễn xảy ra.
Khía cạnh bác ái tình người, tình liên đới với người khác, nhất là xây dựng hòa bình, bảo vệ thiên nhiên cũng cần phải vội vã thực hiện cho hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh trái tim biết lắng nghe
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trái tim là cơ quan trọng trung tâm của sự sống nơi cơ thể con người cũng như nơi thú động vật. Vì từ trái tim dòng máu luôn luôn không ngừng nghỉ từ lúc thành hình sự sống cho đến giây phút ngày tận cùng đời sống, được bơm lưu chuyển đi khắp cùng thân thể nuôi sống các cơ quan chân tay đầu mình tứ chi.
Đấng Tạo Hóa, thiên nhiên, đã tạo dựng nên như thế, để sự sống phát triển tồn tại. Và đó là một bộ máy kỳ diệu cao vời khôn ví. Phải, đó là một phép lạ bí ẩn mầu nhiệm với trí khôn hiểu biết của con người.
Nhưng Vua Salomon – vị Vua của nước Do Thái trị vì vào thế kỷ 10. trước Chúa giáng sinh- khi lên ngôi vua đã xin cùng Thiên Chúa một điều khác thường.
“ Lạy Thiên Chúa, Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một trái tim (tâm hồn) biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế?” ( 1. Sách các Vua 3,9).
Vậy thế nào là hình ảnh trái tim biết lắng nghe mà vua Salomon muốn xin cùng Thiên Chúa?
Phải chăng đôi tai có trái tim, hay một trái tim có tai để nghe được?
Theo tâm tính con người thời xa xưa lúc Kinh Thánh thành hình được viết ra , họ suy nghĩ cho “ trái tim”, mà chúng ta ngày nay nghiêng nhiều hơn về trí óc hay sự suy nghĩ, là nơi chốn phát xuất sự suy nghĩ, thảo lập chương trình, sự quyết định.
Nếu trái tim bao gồm trong ý nghĩa là trí óc sự suy nghĩ, thì một trái tim lắng nghe là một trí óc tỉnh thức, một sự suy nghĩ để tai lắng nghe nhiều hơn, trước khi có quyết định.
Thiên Chúa như sách Kinh thánh viết thuật lại như đã có mẩu đối thoại với vua Salomon.
Thiên Chúa hỏi: Tại sao là Vua một dân nước con lại xin Ta một trái tim tâm hồn biết lắng nghe, mà không xin quyền lực vinh quang, tiền bạc giầu sang danh vọng, sống lâu trường thọ ?
Vua Salomon: Con xin Thiên Chúa ban cho con một trái tim tâm hồn biết lắng nghe, là để con hiểu được sự đau khổ buồn phiền của con người.
Con cần một trái tim tâm hồn biết lắng nghe, để con có thể cùng vui mừng, khi những người khác có niềm vui mừng.
Con cần một trái tim tâm hồn biết lắng nghe, để con cảm nhận ra được sự lo âu sợ hãi của người khác. Và như thế con có thể giúp đỡ họ được, khi họ lâm vào hoàn cảnh bị tổn thương, túng quẫn khốn cùng, bị khinh miệt bỏ rơi, đau đớn bệnh tật.
Con cần một trái tim tâm hồn biết lắng nghe, để con hiểu nhìn ra nhu cầu của đời sống con người trong xã hội.
Con cần một trái tim tâm hồn biết lắng nghe, vì con phải thực thi những gì tốt đẹp hữu ích mang lại sự hòa giải bình an, khi những người khác tranh cãi kiện tụng nhau.
Con cần một trái tim tâm hồn biết lắng nghe, để con có thể hiểu những gì Thiên Chúa nói với con trong tâm hồn, nơi những dấu chỉ ngoài thiên nhiên.
Thiên Chúa nói: 12 thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp.13 Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: giàu có, vinh quang, đến nỗi suốt đời ngươi không có ai trong các vua được như ngươi.14 Và nếu ngươi bước theo các đường lối của Ta, là tuân giữ các giới răn và mệnh lệnh của Ta, như Đa-vít thân phụ ngươi, thì Ta sẽ kéo dài ngày đời của ngươi.” ( 1 Các Vua 3, 12-14(
Một Trái tim tâm hồn biết lắng nghe là cung cách sống đạo đức theo chiều hướng thượng vươn lên Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa nơi trời cao, và theo chiều ngang đường chân trời đậm nét văn hóa gìn giữ chăm sóc vũ trụ thiên nhiên, và đậm lòng kính trọng, tình bác ái với con người cùng chung sống trong xã hội hôm nay, ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh hạt giống đức tin tôn giáo
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Niềm tin tôn giáo nơi những xã hội đất nước có nếp sống văn minh phát triển cao như càng bị đẩy lùi ra một bên trong đời sống con người.
Và những khủng hoảng, những xìcăngđan nội bộ nơi các tôn giáo càng làm cho tốc độ hoài nghi đến mất tin tưởng cùng xa lánh tôn giáo càng rõ nét, nhất là nơi người trẻ tuổi.
Thật là một hình ảnh ảm đạm gây lo ngại không chỉ nơi các tôn giáo, mà cùng cả nơi đời sống con người nói chung nữa: một nếp sống tinh thần thiếu hướng chỉ dẫn!
Văn sĩ triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre thuật lại trong tập tuyện „ Les Mots“ về đời sống tôn giáo của mình thời thơ bé niên thiếu trong gia đình: „ Tôi thuật lại câu chuyện về một ơn gọi không may mắn. Tôi cần Thiên Chúa, người ta đã nói cho tôi về Ngài. Tôi đón nhận Ngài, nhưng không hiểu biết gì về ngài mà tôi đang đi tìm kiếm.Vì gốc rễ cây tôn giáo không ăn sâu tỏa lan trong trái tim tâm hồn tôi, nên nó mọc lên một thời gian, rồi sau đó khô héo chết tàn dần…Và không còn dấu vết gì trong chúng tôi nữa!“
Những lời thuật lại của Jean Paul Sartre phần nào diễn tả đời sống đức tin ngày hôm nay đang tẻ nhạt thưa dần trong xã hội tân tiến Âu Mỹ, nhất là bên Âu Châu, trong nhiều gia đình trẻ.
Đời sống lam lũ vất vả phải làm việc sinh sống ngày đêm suốt hết cả tuần lễ, khiến việc đạo đức tinh thần, nếu không muốn nói là một vướng trở về thời giờ, bị đẩy dần vào quên lãng.
Và như thế mầm rễ đức tin không sao bén ăn sâu vào tâm hồn cuộc sống nữa.
Phải làm việc mệt nhọc cả thể xác lẫn tâm trí, phải cạnh tranh với cuộc sống sinh tồn cùng vươn lên, khiến hạt giống đức tin đạo giáo đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội không có thời giờ được chăm sóc vun trồng nữa.
Và như thế hạt giống đức tin không phát triển vươn lên thành cây được.
Rồi trong xã hội càng ngày càng có nhiều hoài nghi thắc mắc về đức tin tôn giáo, về những gía trị đạo đức nhân bản, chưa kể đến những tranh luận chế diễu bài bác khinh miệt, gạt bỏ ra ngoài những gì có chút liên quan tới đức tin đạo giáo.
Những điều này không giúp gì cho hạt giống đức tin nẩy nở phát triển. Trái lại, nó làm cho bị chết ngạt dần mòn.
Trong đời sống càng ngày càng nhiều với những lý luận cùng cung cách quảng cáo trình diễn cho rằng: hầu như tất cả mọi hình ảnh, mọi lời nói, mọi lối sống đều có gía trị ngang bằng như nhau, hay những gía trị đạo đức nhân bản cũng bị suy diễn cùng đánh gía cao thấp tùy theo sở thích ý muốn, tùy theo thời đại!
Trong đời sống, khi làm việc trồng cây, gieo mạ cấy lúa, cả trong việc học hành tìm tòi luyện tập nghề nghiệp, luyện tập thể dục thể thao, chơi nhạc cụ….nếu không liên tục thường xuyên luyện tập, vun xới, tưới nước, mài dũa, sẽ không có ngày đạt tới thành công thu gặt kết qủa tốt được.
Nếu chỉ chạy theo sở thích, theo cung cách suy diễn thay đổi lên xuống thời đại, giống như con thuyền không có bánh lái bị mất định hướng, tâm hồn đời sống cũng mất bình an, sống trong bấp bênh chao đảo.
Ngày xưa Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh dụ ngôn hạt giống nói về tình trạng niềm tin tinh thần bị xuống dốc mất hướng đi:
"Nước trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa lớn lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng lộ ra. Đầy tớ chủ nhà đến nói với ông rằng: 'Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có?' Ông đáp: 'Người thù của ta đã làm như thế'. Đầy tớ nói với chủ: 'Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ'. Chủ nhà đáp: 'Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: "Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta". ( Mt 13,24-30)
Đức tin vào Thiên Chúa lẽ tất nhiên không là một giải đáp cho nhu cầu bao tử được no đầy, hay làm cho trở nên giàu có về tiền bạc vật chất hay đạt được danh vọng thành công. Nhưng giúp tâm hồn con người tìm ra ý nghĩa sống hướng thượng vươn lên trời cao.
Đức tin vào Thiên Chúa không là một hứa hẹn giải đáp hết mọi chuyện , mọi thắc mắc trong đời sống. Nhưng giúp cho tâm hồn con người tìm đến nguồn an ủi thiêng liêng, nhất là những khi gặp cảnh khó khăn đường cùng.
Đức tin vào Thiên Chúa không là một toa thuốc hay một thứ loại thuốc tiên chữa khỏi, xóa bỏ hết mọi thứ bệnh , mọi đau khổ, cùng giúp cho sống lâu trường thọ. Không, không phải như vậy., Nhưng giúp tâm hồn con người nhận ra giới hạn đời sống mình. Và từ đó đặt niềm tin tưởng vào Đấng là nguồn đời sống.
Đức tin vào Thiên Chúa không là một ảo thuật, một lối cảnh sống thiên đàng ở trần gian. Nhưng giúp tâm hồn con người xây dựng tìm đường về thiên đàng trong lối sống bác ái tình người với nhau.
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh người gieo hạt giống trên nương đồng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đời sống sinh hoạt, con người xưa nay thường đều hoạch định phác họa chương trình trước khi thực hiện, hay điều chỉnh thay đổi sửa lại chương trình đã phác họa cho thích hợp với hoàn cảnh cụ thể. Vì đó là điều cần thiết, là điều khôn ngoan.
Còn trong đời sống đức tin tinh thần đạo giáo thì có như vậy không?
Trong dòng lịch sử truyền giáo về nội dung chất lượng đức tin vào Chúa, Đấng là nguồn đời sống, là tình yêu, là bến bờ bình an ơn cứu chuộc sau cùng đời sống cho con người thì trước sau vẫn là một.
Nhưng cung cách thực hành nếp sống đức tin vẫn cần có những chương trình, những điều chỉnh thay đổi cho phù hợp với cánh đồng truyền giáo về văn hóa địa lý cùng tâm lý xã hội của con người mỗi thời đại trên hoàn vũ.
Vào những thời kỳ thịnh vượng, như thời Trung Cổ nền thần học, văn chương Công giáo, các nghệ thuật thánh, xây dựng thánh đường phát triển nở rộ thịnh hành không ngừng, số người tín hữu tin theo đức tin Công giáo ngày càng đông đảo sầm uất…
Nhưng vào lúc này, bước sang thế kỷ 21. cung cách nếp sống đức tin trong Giáo hội Công giáo và cả đạo Tin lành đang trong tiến trình khủng hỏang xuống dốc về số lượng có khi cả chất lượng nữa. Vì thế Giáo hội cần phải đề ra chương trình thay đổi, điều chỉnh lại cung cách sống thực hành đức tin.
Nhiều nơi, như bên Âu Châu là nôi của văn mình Kitô giáo, ở các Giáo phận đã cùng đang suy tính đề ra những chương trình 05 năm, hay 10 năm tới, nhằm thu gọn các xứ đạo gần nhau lại thành một trung tâm, đơn giản cách thức sống thực hành theo thói quen xưa nay sao cho sống động thu hút con người trở lại, nhất là trình bày hình ảnh tình yêu của Chúa Giêsu Kitô cho rõ nét …
Công đồng chung Vaticano 2. năm 1965 là khởi đầu cho tiến trình điều chỉnh thay đổi lại chương trình cung cách sống thực hành đức tin vào Chúa trong thời đại xã hội ngày hôm nay.
Có nhiều ý kiến khác biệt đối nghịch nhau về sự điều chính thay đổi chương trình. Đó là sự tự do của con người mà Thiên Chúa tạo dựng phú ban cho nhân loại.
Chúa Giêsu Kitô cách đây hơn hai ngàn năm khi rao giảng nước Thiên Chúa cho con người trần gian đã dùng hình ảnh người gieo giống trên nương đồng diễn tả mầu nhiệm bí ẩn sự phát triển hạt giống Lời Chúa trên trần gian.
"Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên liền khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi.” ( Mt 13,1-23).
Người nông dân nào khi tung gieo vãi hạt giống trên đồng ruộng cũng đều mong mùa thu hoạch được trúng mùa bội thu nhiều hoa qủa. Họ có cả chương trình, làm cỏ, bón phân, xịt thuốc trừ sâu trừ cỏ dại…nhưng có năm thu hoạch được vụ mùa tốt đẹp, và cũng cả những năm mùa thu hoạch không được như mong đợi, có khi thất thu nữa…
Giáo hội Chúa ở trần gian được Chúa trao cho nhiệm vụ ra đi tung gieo vãi hạt giống Lời Chúa trên thửa đất cánh đồng truyền giáo cho con người. Nhưng để cho hạt giống mọc lớn lên, hay bao nhiêu hạt mọc phát triển sinh hoa kết qủa, không là việc của Giáo Hội, của người đi gieo vãi hạt giống, mà là công trình của Chúa.
Thánh Phaolô có xác tín:“ 6 Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên.7 Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể.8 Kẻ trồng người tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao theo công khó của mình.9 Thật vậy, chúng tôi là cộng sự viên của Thiên Chúa. Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên.” ( 1 Cor 3,6-9).
Thời sự nhìn vào hình ảnh bức tranh đời sống Giáo Hội, ít là bên Âu châu, đang xảy ra những khủng hoảng từ trong nội bộ, tiêu cực, có cả chia rẽ chống đối nhau, cùng đang xuống dốc vể số lượng cũng như chất lượng…thật ảm đạm buồn phiền, lo âu tư lự…rồi sẽ ra sao, đi về đâu???
Nhưng hình ảnh người gieo giống như Chúa Giêsu Kitô diễn tả trong phúc âm, và trong thực tế đời sống con người giúp nhắc nhớ đến đời sống của con người có nhiệm vụ ra đi tung gieo vãi làm việc và nuôi niềm hy vọng.
Nhà danh họa Vincent van Gogh đã viết suy tư của mình cho người em của ông bằng hình ảnh người gieo giống:” Gieo vãi cầy cấy là việc làm vất vả cực nhọc với cả nước mắt. Nhưng lâu dài xa hơn chúng ta cảm nhận ra niềm hy vọng trong âm thầm về mùa thu hoạch bội thu. Đời sống của con người chúng ta là thời gian tung gieo vãi hạt giống.”
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh mùa nghỉ hè
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nếp sống văn hóa nghỉ hè ngày càng phổ thông trong đời sống xã hội hầu như khắp mọi nơi, đầu tiên cho các học sinh trung tiểu học sau mỗi niên học kéo dài chín tháng .
Nhu cầu nghỉ hè dần lan rộng trong đời sống nhất là ở những đất nước làm việc sản xuất theo công nghiệp kỹ nghệ có đời sống phúc lợi kinh tế cao, có bảo đảm an ninh trật tự. Và theo dòng thời gian người ta càng nhận ra, người lao động làm việc chân tay cũng như tinh thần trí óc cũng cần có nhu cầu nghỉ ngơi dưỡng sức., nghỉ hè.
Vậy hình ảnh nếp sống mùa nghỉ hè như thế nào?
Tùy theo mỗi vùng chu lục đất nước, hay hãng xưởng, hay còn cả tùy nhu cầu đời sống mỗi người nữa, những ngày nghỉ được ấn định khác nhau trong chu kỳ hằng năm.
Ngay trong một đất nước, các trường học cũng có những ngày nghỉ hè khác nhau. Chia ra từng vùng nghỉ hè trước sau để tránh đường xá giao thông không bị qúa tải kẹt xe, cùng khách sạn bãi biển, vùng rừng đồi núi không bị qúa đông người chen chúc chật chội…
Ngày nghỉ không chỉ giới hạn vào những ngày trong mùa hè nóng bức, nhưng còn trong cả những mùa khác của năm.Nghỉ hè, theo tiếng Đức „Ferien“ có nguồn gốc từ tiếng Latinh „feriae - ngày lễ nghỉ“. Vào thời Trung cổ và thời Cận đại người ta phân biệt thành hai „feriae sacrae - ngày lễ nghỉ thánh thiêng và feriae profanae - ngày lễ nghỉ theo dân sự xã hội đời thường.“
Ngày xưa mùa nghỉ hè „ferien, Urlaub“ cũng mang ý nghĩa là mùa tự do, mùa trống không làm việc. Ý nghĩa này bắt nguồn từ tiếng Latinh „vacans, vacare“. Trong tiếng Anh „Vacation“ ,và Pháp „vacance“ chỉ về mùa lễ nghỉ (hè ).
Từ năm 1749 kỳ nghỉ hè ở các trường học được chính thức công nhận là những ngày nghỉ không có lớp học giảng dạy, các học sinh được nghỉ học. Và từ thế kỷ 19. ngày nghỉ tạm ngưng làm việc áp dụng cho những người làm việc lao động.
Bây giờ theo niên lịch trong tuần là ngày thứ Hai, thứ Ba, thứ Tư...nhưng trong phụng vụ thần học của Giáo hội gọi những ngày trong tuần là ngày lễ feria prima, feria secunda, feria tertia...Như thế mỗi ngày là ngày lễ mừng. Điều này thật là đặc biệt và có ý nghĩa gì ?
Theo ý nghĩa đạo đức thần học, sự cứu độ của Chúa đã thể hiện nơi trần gian cho nhân loại, có tự do được giải thoát cứu độ khỏi vòng tội lỗi. Vì thế, đó là lý do mỗi ngày là ngày lễ mừng lễ nghỉ. Và điều này biểu hiện cho thời gian và đời sống con người.
Trong đời sống chúng ta không chỉ nguyên được tạo dựng cho trường học, cho lao động làm việc, nhưng còn có điều gì ngoài hơn nữa. Vậy phải hiểu ý nghĩa mùa hè, nghỉ ngơi như thế nào?
Con người cần nghỉ ngơi tĩnh dưỡng sức lực. Chúng ta cần kín múc thu thập sức lực mới. Có thế mới luôn trong trạng thái tỉnh táo khoẻ mạnh (fit) được, để có niềm vui trong đời sống và làm việc có hiệu qủa thành tích cao tốt.
Con người cần khoảng cách thời gian cho thư giãn, để có thể chịu đựng được những áp lực căng thẳng trong đời sống hằng ngày. Thư giãn cho tâm trí không bị qúa căng thẳng, giúp tinh thần cũng như gân cốt bắp thịt còn có thể gánh chịu đựng những căng thẳng khác tiếp theo.
Và nếu như vậy thì nghỉ hè có chức năng làm nhẹ bớt gánh nặng do làm việc sinh ra, tựa như vòng bánh xe quay trong khâu sản xuất nâng cao thành tích. Để mang lại thành tích hiệu qủa tốt, con người phải nghỉ ngơi dưỡng sức.
Con người chúng ta có thể làm được nhiều việc, nhiều sự. Nhưng tất cả mọi sự, mọi điều chúng ta không thể làm được. Ý nghĩa của đời sống chúng ta không thể tự mình vẽ tạo ra thúc ép bắt buộc được. Và chúng ta cũng không cần phải như thế. Vì đời sống con người chúng ta nhận được là món qùa tặng từ trời cao. Đời sống của con người đã có bao gồm ý nghĩa trước khi chúng ta đã có thể mang tạo ra thành tích.
Thế giới vũ trụ và chính con người chúng ta được đón nhận trong vòng tay của Thiên Chúa. Đó chính là nền tảng ý nghĩa của đời sống. Trên khía cạnh đó, con người có thể hiểu mùa nghỉ hè hoàn toàn khác.
Mùa nghỉ hè, hay những ngày nghỉ không như là vòng chiếc xe quay trong sản xuất nâng cao thành tích. Mùa nghỉ hè, ngày nghỉ hướng chúng ta đến sự tự do giải thoát khỏi những ràng buộc, mà đích điểm là sự cứu chuộc.
Xin kính chúc mọi người mùa nghì hè, mùa nghỉ ngơi dưỡng sức là thời gian được chúc lành, một nơi chốn dừng chân tốt lành kín mức sức lực cho hôm nay cùng ngày mai.
Mùa nghỉ Hè - Mùa Kiết Hạ
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh cơn khủng hoảng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đời sống con người xưa nay hằng xảy những cơn khủng hoảng trong mọi lãnh vực đạo giáo cũng như đời sống xã hội, cá nhân cũng như hội đoàn quốc gia đất nước…
Đời sống Giáo hội của Chúa Giesu Kitô xưa nay trong dòng lịch sử thời gian luôn hằng phải đối diện với những cơn khủng hoảng bàn cãi tranh chấp, có cả ganh tỵ hận thù, và cả đến mức độ ly giáo tách biệt ra khỏi nữa.
Từ những năm nay Giáo hội Công giáo bên nước Đức phải đối diện với làn sóng khủng hoảng hầu như liên tục về sự mất niềm tin vào Giáo hội. Có nhiều người tín hữu Công giáo từ bỏ ra đi quay lưng lại với Giáo hội càng rõ rệt cùng sâu rộng nhiều.
Theo bản tin thống kê của Hội Đồng Giám mục nước Đức hôm 28.06.2023 cho biết chi tiết những con số nói lên sự đau buồn
tiêu cực cho năm 2022:
Giáo hội Công giáo nước Đức gồm có 27 Tổng và giáo phận, với 20.937.590 người tín hữu, chiếm 24,8 phần trăm dân số nước Đức.
Năm 2021 có 359.338 người tín hữu từ bỏ xin ra khỏi cộng đoàn Giáo hội Công Giáo.
Năm 2022 con số đó tăng lên tới mức kỷ lục 522.821 người tín hữu quay lưng lại với Giáo hội.
Số Linh mục trông coi việc mục vụ nơi các xứ đạo cũng giảm: năm 2021 có 12.280 vị, nhưng năm 2022 giảm còn 11.987 vị.
Năm 2022 có 45 tân ứng sinh nhận chức linh mục: 33 vị thuộc linh mục giáo phận, 12 vị là linh mục Dòng.
Các Giáo phận Công giáo nước Đức từ nhiều năm nay đề ra những cung cách tổ chức thu nhỏ lại cơ cấu nhiều xứ đạo bên cạnh gần nhau về địa lý chung hợp liên kết lại với nhau thành một.
Năm 2021 có 9.790 liên xứ đạo, năm 2022 xuống còn 9.624 liên xứ đạo.
Như tổng giáo phận Koeln đã chung hợp cho đến bây giờ có 182 liên xứ đạo. Nhưng cho tới 2030 sẽ chỉ còn 67 vùng khu vực xứ đạo.Trong mỗi vùng khu vực xứ đạo đó gồm có nhiều nhà thờ, và sẽ do một “Team” gồm linh mục, thầy phó tế, những Bà, Ông giảng viên Giáo lý, lo việc mục vụ.
Những con số thống kê như thế vẽ ra hình ảnh không tích cực sáng sủa. Trái lại, hình ảnh cơn khủng hoảng càng rõ nét đi sâu vào nội bộ đời sống Giáo Hội hơn.
Đã cùng đang có nhiều suy nghĩ, bàn thảo nhiều cách thức đề ra, để làm sao thoát ra khỏi cơn khủng hoảng sâu rộng kéo dài này. Nhưng cho tới bây giờ chỉ là những suy luận phỏng đoán mong ước thôi, chưa có kết qủa tích cực như mong muốn chờ đợi.
Ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm Chúa Giêsu Kitô trao chìa khóa quyền mục vụ cho Thánh Phero với lời nhắn nhủ đoan hứa:
“ Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. “ ( Mt 16, 18-19).
Khủng hoảng gây ra buồn phiền lo nghĩ cùng bối rối... Nhưng không vì thế buông xuôi đầu hàng. Trái lại vững lòng tin vào công việc thiêng liêng do Chúa thành lập nuôi sống là Giáo hội của Ngài ở trần gian.
Chúa Giesu Kitô là trung tâm sức sống của Giáo Hội đã luôn hằng gìn giữ cứu giúp Giáo hội xưa nay trong dòng lịch sử vượt qua khỏi những cơn khủng hoảng do con người gây tạo làm ra, như lịch sử đã minh chứng thuật lại.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh tình anh em
- Viết bởi Dân Chúa
Ngạn ngữ dân gian có ca ví khôn ngoan: Anh em như thể tay chân!
Ca ví này diễn tả tình thân nghĩa thiết anh em cùng máu mủ gắn bó với nhau trong suốt dọc đời sống. Điều này thật đẹp có gía trị nhân bản cao qúi cùng cần thiết đạo đức.
Nhưng rất tiếc, rất đáng buồn thảm thương, vì trong thực tế đời sống lại có trường hợp xảy ra giữa hai anh em không chỉ không thuận hòa với nhau, mà còn đi đến thảm kịch làm hại đời sống của nhau.
Những thảm họa bi kịch như thế, không bao giờ là điều tốt, không là đạo đức, không là điều mong muốn trong đời sống. Nhưng đã có xảy ra từ thời nguyên thủy nhân loại cùng trong suốt dọc đời sống con người xưa nay trên trần gian.
Nguyên nhân do đâu đưa đến hình ảnh bi kịch thảm họa như thế?
Kinh Thánh nơi sách Sáng Thế ký thuật lại Ông bà nguyên tổ Adong Evà có hai người con Cain và Aben. Họ là anh em ruột thịt máu mủ do cha mẹ sinh ra. Nhưng bi thảm kịch đau thương đầu tiên của nhân loại đã xảy ra cảnh máu chảy sự sống bị hủy hoại giữa tình anh em họ: Cain là anh đã giết chết em mình là Aben.( St 4,1-6).
Anh Cain giết em Aben do lòng ghen tỵ thù hận.Vì của lễ Cain dâng lên Thiên Chúa là hoa qủa ruộng đồng không được nhận. Đang khi của lễ của Aben dâng tiến là những con vật đầu lòng còn non trẻ béo tốt được chấp nhận.
Kinh thành muôn thuở Roma được thành lập nên từ thời cổ đại xa xưa ( 754. trước Công nguyên) cũng có câu chuyện lịch sử thần thoại về sự rạn nứt bi thảm kịch đẫm máu giữa tình anh em Romulus và Remus.
Theo lịch sử thần thọai thuật kể lại, hai anh em song sinh Romulus und Remus là con của vị Thần chiến tranh Mars và nữ thầy cả Rhea Silvia sinh ra. Sau khi mở mắt chào đời, hai anh em bị cha mẹ bỏ rơi bên bờ sông Tiber, và họ được một con chó sói cái cho bú nuôi lớn lên. Ngày nay khi sang thăm viếng kinh thành Roma, có tượng hình ảnh hai đứa trẻ bú sữa con cho sói cái bằng đồng cao 57 centimét, rộng dài 114 centimét ở Capitolinische Museen. Bức tượng thần thoại này nhắc nhớ đến thủy tổ xây dựng nên thành phố muôn thuở Roma, và trở thành nổi tiếng khắp thế giới.
Ngay nơi bờ sông Tiber, nơi ngày xưa thời còn thơ bé Romulus và Remus đã được con chó sói cái cho bú sữa nuôi sống, theo thần thoại thành phố Roma đã được xây dựng thành hình trong dòng lịch sử thời gian.
Đầu tiên Romulus bắt đầu xây dựng khu tường thành chỗ mình ở. Remus thấy vậy sinh lòng ganh tỵ thèm muốn. Thấy tường rào còn thấp, Remus bèn nhẩy vượt qua. Thấy hành động của em mình như vậy, Rolumus sinh lòng nghi ngờ rồi thành giận dữ hận thù... Nên Romulus nóng giận đã xông đến đánh giết Remus em mình.
Bi thảm kịch đẫm máu phá hủy sự sống đã xảy ra tàn phá tình nghĩa anh em của họ.
Cain đã giết em ruột thịt của mình Aben thời thủy tổ nhân loại Adong -Evà.
Romulus đánh giết em mình Remus cũng là hai anh em ruột thịt theo thần thoại là thủy tổ đã xây dựng nên thành phố muôn thuở Roma.
Và trong dòng lịch sử nhân loại xưa nay vẫn hằng có những bi thảm kịch phá đổ tình anh em xảy ra…
Còn trong nếp sống đạo gíao tinh thần niềm tin thì sao, có hình ảnh như thế xảy ra không?
Lịch sử cho hay có những trường hợp đã xẩy ra, nhưng không đến mức độ hận thù đổ máu giết hại nhau, mà chỉ tranh cãi nhau thôi, có chăng đến mức độ gay gắt “mặt đỏ tía tai thôi!”, hay mỗi người đi sống một ngả đường riêng rẽ. Hay có thể họ cùng tìm một con đường hoà giải với nhau, tìm ra một mẫu số chung với nhau cho việc chung.
Hình ảnh như thế tìm thấy cụ trong Kinh Thánh nơi sách Công vụ Tông đồ viết thuật lại về cung cách sống tình anh em Tông đồ Chúa Giêsu Kitô của hai vị Thánh tông đồ Phero và Phaolô, mà Giáo hội hằng năm mừng kính lễ của hai vị vào ngày 29. Tháng Sáu.
Ở nước Do Thánh nơi thành phố thánh địa Jerusalem, Chúa Giêsu Kitô đã thành lập Giáo hội và cử sai các Tông đồ đi loan truyền làm chứng cho tin mừng nước Chúa khắp nơi trên trần gian.
Hai vị Tông đồ này không là anh em ruột thịt máu mủ cùng cha mẹ với nhau.
Nhưng hai vị này cùng là người thuộc dòng máu dân tộc Do Thái. Hai vị này cùng có những thời gian giai đoạn đen tối về đức tin vào Chúa: Phero chối Chúa Thầy mình, còn Phaolô đi lùng bắt cấm cách những tín hữu tin theo Chúa Giêsu thuở ban đầu, hai vị cùng có đức tin vào Chúa Giêsu Con Thiên Chúa và họ nhiệt thành ra đi ra giảng làm chứng cho tin mừng ơn cứu độ sự sống lại của Chúa Giêsu, dù con đường cùng cách thế loan truyền tin mừng của Chúa có khác nhau giữa họ.
Dù hai vị được tuyển chọn kêu gọi là những người đi rao giảng nước Chúa ở trần gian, nhưng họ có những khác biệt:
Phero người xuất thân từ miền nhà quê bình dị vùng Galileo, còn Phaolo xuất thân ờ vùng Tarsus một thành phố sinh động, nơi có nhóm thiểu số người Hylạp với mức văn hoá cao đến lập cư sinh sống.
Phero là người nông dân sống bằng nghề chài lưới đánh bắt cá nơi biển hồ Genezareth ở Galileo. Còn Phaolô là một nhà trí thức nơi ngưỡng cửa trường lớp đại học, học trò của Thầy Rabbi Gamaliel.
Phero được Chúa Giêsu tuyển chon kêu gọi đầu tiên làm Tông đồ của Ngài. Còn Phaolô được kêu gọi tuyển chọn là vị Tông đồ sau chót cùng của Chúa Giêsu.
Phero là thành viên tiên khởi của Giáo đoàn xứ đạo thành thánh Jerusalem ngay từ lúc Giáo hội thuở ban đầu. Còn Phaolô là thành viên được kết nạy trễ sau này vào Giáo đoàn xứ đạo thành Damaskus rồi Cộng đoàn xứ đạo thành Antiochia.
Hai vị “Tông đồ anh em” này với những khác biệt như thế có những suy nghĩ, cùng tầm nhìn khác biệt nhau rất nhiều trong lãnh vực thần học.
Dù vậy họ không để cho sự khác biệt giữa họ làm suy yếu phá đổ tin mừng tình yêu của Chúa: Sự hiệp nhất là giới luật căn bản quan trọng cho công việc mục vụ làm chứng loan báo tin mừng nước Chúa cho muôn dân.
Sách kinh thánh Công vụ Tông đồ thuật lại biến cố tranh cãi quyết liệt ở Antiochia, nơi Phaolô loan truyền tin mừng nước Chúa Kitô, về thắc mắc những người trở lại xin gia nhập vào Giáo Chúa Kitô có phải giữ luật Mose không. Tông đồ Phero lưỡng lự không có quyết định chính xác.
Phaolô và Barnaba được cử đến Jerusalem trình bầy sự thể tranh luận gay gắt đó giữa nhóm người ủng hộ phải giữ luật Mose là phải chịu phép cắt bì, khi trở lại Giáo hội Chúa Kitô, và phe chống đối cho là không phải giữ luật này do Phaolo và Barnaba đứng đầu.
Tại Jerusalem sau tranh luận gay gắt, họ đã tìm ra mẫu số chung để có được sự hiệp nhất trong Giáo hội:
“ Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này:29 là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh.” ( CV 15,28-29)
Sự khác biệt giữa anh em Tông đồ Phero và Phaolô không đi đến hồi kết thúc với bi thảm kịch đổ máu phạm tội phá hủy sự sống, như Cain và Aben, như Romulus và Remus. Nhưng hai vị đã tìm ra chân lý sự hiệp nhất đồng thuận cho cung cách sống đức tin vào Chúa.
Hai vị không vì thế gây ra cảnh bi thảm kịch đổ máu hại nhau. Nhưng hai vị đã lấy chính máu mình, sự sống của mình làm chứng cho tin mừng nước Chúa Giêsu, cho sự hiệp nhất tình bác ái huynh đệ trong đời sống.
Hai vị cùng đến thành Roma, nơi ngày xa xưa Romulus và Remus theo thần thoại kể thuật lại là Ông thủy tổ của thành Roma.
Nơi kinh thành muôn thuở Roma hai vị đã thiết lập cơ cấu Giáo Hội Công giáo của Chúa. Quốc gia Vatican về địa lý nằm trong thành phố Roma, là thủ đô của Giáo hội Công giáo hoàn vũ.
Trên đồi Vatican có ngôi đền thờ Thánh Phero nguy nga to lớn nhất thế giới, và bên dưới tầng hầm ngay nơi cung thánh bàn thờ có ngôi mộ của Thánh giáo hoàng tiên khởi Phero.
Ở vùng bên ngoài thành Roma có ngôi đền thờ Thánh Phaolô to lớn nguy nga, nơi đây có ngôi mộ Thánh Phaolô và vòng dây xích mà ngày xưa Phaolô bị trói đem đi tù.
Cả hai vị Tông đồ Phero và Phaolô cùng bị bắt tù tội và chịu án tử hình ở Roma, vì hai vị đã trung thành với Giáo lý tin mừng của Chúa Giêsu Kitô trong thờikỳ đạo Công giáo bị cấm cách khoảng những năm 64-67 sau Chúa giáng sinh, thời hoàng đế Nero.
Thành phố Roma thời đế quốc Roma, trước Chúa Giêsu, trải rộng từ Âu châu sang khắp vùng tiểu Á miền Trung Đông là trung tâm thủ đô của thế giới đế quốc (vương quốc) Roma., và là thủ đô chính trị của nước Ý ngày nay.
Ngày nay Vatican- nằm trong thành phố Roma- là thủ đô của Giáo hội Công giáo hoàn vũ.
Cuối năm 2022 đức cố Giáo hoàng Benedictô 16. đã có suy tư về hai vị Tông đồ anh em Phero và Phalo:hai vị được liệt kê vào danh sách những vị Thánh của thành phố Roma. Vì hai vị đã tử đạo chết ở Roma, và cùng được mai táng ở nơi đây. Ở Roma có đền thờ Thánh Phero lớn nhất và đền thờ Thánh Phaolo lớn thứ nhì.
Thánh phố Roma được nhìn theo góc cạnh anh em song sinh:
Thành phố muôn thuở Roma theo thần thoại được thành lập nên từ thời hai vị thủy tổ Romulus và Remus, họ là anh em song sinh với nhau.
Giáo hội Công giáo Roma được thành lập nên nơi đây từ thời hai Tông đồ Phero và Phaolo đến đây loan truyền tin mừng giáo lý của Chúa, họ là hai tông đồ anh em của Chúa Giêsu Kitô.
Tại thành phố thủ đô Roma có hình tượng hai vị thủy tổ anh em song sinh Romulus và Remus. Cũng tại Roma có hai đền thờ to lớn cùng với hai ngôi mộ của hai vị Tông đồ anh em Phero và Phaolô.
Hai vị Tông đồ anh em Phero và Phaolô dù có những tầm nhìn suy nghĩ khác biệt nhau, nhưng hai vị đã tìm ra con đường hiệp nhất cho đời sống làm chứng loan truyền tin mừng tình yêu của Chúa, cho nếp sống hòa bình giữa con người với nhau, như biến cố Antiochia năm xưa đã được thuật lại trong kinh thánh.
Lễ mừng kính hai vị Thánh Phero và Phaolo cùng chung một ngày, 29.06., nói lên hình ảnh căn bản quan trọng cho đời sống chung: Anh em như thể tay chân!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
- Hình ảnh vị Tiên Tri sống khắc khổ
- Hình ảnh hành hương những thánh tích
- Hình ảnh bánh sự sống bởi trời
- Hình ảnh về Thiên Chúa
- Hình ảnh lễ mừng kính trái tim Chúa Giêsu
- Hình ảnh truyền thông thần linh
- Hình ảnh ngọn lửa Đức Chúa Thánh Thần
- Hình ảnh tình mẫu tử thần thánh.
- Hình ảnh nguồn suối nước sự sống
- Hình ảnh bông hoa ngọn nến kính mừng Đức mẹ Maria