- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Phúc âm thuật lại ( Lc 2, 1-14) hài nhi Giêsu, Con Thiên Chúa, hạ sinh trong chuồng thú vật ngoài cánh đồng thành Bethlehem. Và trong hang chuồng thú vật không thể không có rơm cỏ khô cho xúc vật ăn.Vì thế nơi hang đá mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh ngày nay luôn có những cọng rơm khô rải trong đó. Rơm cỏ khô là chất vật liệu thực phẩm cho xúc vật ăn cùng cho sưởi ấm không có gía trị gì cho lắm. Nhưng lại là quan trọng, không thể thiếu trong hang đá mừng lễ Chúa Giêsu gíang sinh.
Vậy cọng rơm cỏ khô trong hang đá Chúa giáng sinh diễn tả hình ảnh gì?
Theo gương các Mục đồng ngày xưa, vào ngày lễ kỷ niệm Chúa Giêsu giáng sinh một vài em thiếu nhi rủ nhau đến thăm viếng hang đá trong Thánh đường. Các em đến viếng Hang đá Chúa thường hay bỏ một vài đồng tiền đã để dành vào hộp dựng ngay bên hang đá, để giúp cho các trẻ em nghèo thiếu thốn khác. Nghĩa cử đạo đức tình người này rất tốt và hợp với khung cảnh lễ Chúa giáng sinh. Lễ tình yêu mến!
Sau khi thăm viếng hang đá các em ra về thường thì tay không. Nhưng một em trong đám rút cầm về một cọng rơm trong hang đá. Dọc đường chúng bạn nhìn thấy bạn đó cầm vật gì trong tay. Tò mò họ hỏi xem cái gì. Bạn đó trả lời ngay: Tôi rút được một cọng rơm từ hang đá Chúa Giêsu, cầm về làm kỷ niệm!
Các chúng bạn có vẻ cười nhạo, sao người bạn bé nhỏ này lại rút một cọng rơm khô về làm kỷ niệm! Họ bắt đầu nói chế diễu bạn nhỏ này về cử chỉ có vẻ khác người.
Bạn nhỏ mặt đỏ tía tai biện hộ: „ Tôi chỉ rút có một cọng rơm khô thôi về làm kỷ niệm. Vì tôi thấy trên cỏ rơm khô này Chúa Giêsu hài nhi nằm. Tôi thấy có cái gì dễ thương gần gũi với Chúa với cả tôi nữa. Nên tôi thích và rút mang về. Tại sao các Bạn lại cười chê tôi?“
Hai người bạn trong đám cười to tiếng hơn nói chen vào: Cọng rơm khô đem về làm kỷ niệm! Mày biết rơm khô đâu có gì đáng qúy gía đâu. Thôi vất đi cho rồi. Chỉ là rác bẩn nhà thôi. Ðem về nhà thế nào trước sau chính mày hay mẹ mày cũng quăng vào thùng rác thôi!“
Bạn nhỏ lắc đầu nói lại: Bạn nói cái gì? Nó là rác, đem vứt quăng nó đi ư? Không, tôi không làm chuyện đó. Tôi đã nói đó là một kỷ niệm yêu qúi. Vì Chúa Giêsu hài đồng nằm trên đó. Mỗi lần tôi cầm cọng rơm khô này trên tay, tôi nhớ lại Chúa hài đồng, nhớ lại lời Thiên Thần ngày xưa đã nói với các Mục đồng.“
Hai ngày sau, gặp lại nhau, các chúng bạn khác hỏi người bạn về cọng rơm khô đêm giáng sinh: Này Bồ, bồ có còn giữ cọng rơm khô nữa không đấy?
Bạn nhỏ: Có chứ, có muốn xem không, đây này!
Chúng bạn: Chúng tao chỉ hỏi vậy thôi, chứ ai đâu muốn xem làm gì. Thôi vất bỏ đi cho rồi, giữ làm gì cho bẩn nhà, bẩn túi áo ra. Rơm cỏ khô có gía trị gì đâu mà giữ làm kỷ niệm!
Bạn nhỏ: Không, nó không là vật vô gía trị đâu. Trên cọng rơm khô Chúa hài đồng nằm.
Chúng bạn: Thì đã có ảnh hưởng gì? Chúa Hài đồng có gía trị cao cả, nhưng cọng rơm cỏ khô thì không đâu đấy nhé bạn nhỏ!
Bạn nhỏ: Có chứ sao không! Cọng rơm khô đó có gía trị lắm chứ. Trên cỏ rơm khô Chúa hài đồng đã nằm. Trong chuồng súc vật, có cái gì khác hơn đâu, nên khi sinh ra, Ngài đã nằm trên đó. Ðấng cao cả gía trị cao sang nằm trên cỏ khô vô gía trị. Như thế chưa đủ có gía trị sao? Không phải chỉ vậy thôi đâu. Thiên Chúa trở nên người bé nhỏ, một hài nhi. Người cần sự gì nhỏ bé. Vâng, sự gì bị cho là vô gía trị. Thiên Chúa cần con người như tôi, như chúng ta tất cả, những người nghèo hèn bé nhỏ, người không có thể làm gì được nhiều, người bị cho là không có gía trị kí lô gì!
Bạn nhỏ đó qúy trọng gìn giữ cọng rơm đêm giáng sinh, cọng rơm đêm thánh rất cẩn thận. Vì nó quan trọng với bạn ta.
Một ngày khác, một người bạn đến chơi, thấy cậu ta cầm cọng rơm đó trên tay. Anh ta xin được cầm cọng rơm. Có cơ hội anh ta liền gấp bẻ cọng rơm lại và vất quăng xuống đất trong thái độ tức giận khiêu khích: Mày là thằng điên rồi hả? Cọng rơm khô nào có gía trị gì đâu mà giữ mãi!
Người bạn nhỏ chủ cọng rơm đứng nhìn bạn mình hành động vội vã đầy tức giận. Quan sát xong, bạn nhỏ cúi mình xuống nhặt cọng rơm khô lên kéo thẳng lại ra và nói:
„Nhìn đây, cọng rơm vẫn còn là cọng rơm như lúc trước. Sự giận dữ của anh đâu có thay đổi được cọng rơm. Cọng rơm nhỏ mềm dễ bị uốn cong. Tôi đã nói: trên cọng rơm khô Hài nhi Giêsu đã nằm. Từ một trẻ thơ bé nhỏ, hài nhi Giêsu đã trở thành người trợ giúp mạnh mẽ đầy quyền năng, không ai có thể giết chết Người được. Dù con người có tức giận khinh khi Người, nhưng Người vẫn can đảm chịu đựng vượt qua và trước sau vẫn đứng vững giữa mọi thử thách. Hài nhi đó là Ðấng Cứu độ của Thiên Chúa cho con người.
Tình yêu Thiên Chúa không bị dập tắt, bị uốn cong làm cho nhỏ bé đi.“
Phỏng theo một truyện về lễ mừng Chúa Gíang sinh xứ Mexicô
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Một người tín hữu ( NTH) có thói quen đạo đức đến thánh đường viếng thăm cầu nguyện không chỉ nơi bàn thờ nhà Chầu Mình Thánh Chúa hay bàn tòa kính Đức Mẹ Maria, nhưng còn tìm đến bàn tòa kính Thánh Gioan tiền hô. Trong cầu nguyện NTH bày tỏ tâm tình mình với vị Thánh qua cuộc nói chuyện tâm linh.
- 1. NTH: Con xin chào Thánh nhân. Con là người tín hữu hôm trước đã có lần đến đây và tò mò nói chuyện với Thánh nhân. Về nhà suy nghĩ nhớ lại những gì Thánh nhân đã nói với con. Con rất đỗi vui mừng. Con cám ơn Thánh nhân. Hôm nay con lại đến muốn nói chuyện cùng Thánh nhân nữa. Vậy Thánh nhân có cho phép con không?
Thánh Gioan: Ta chào Bạn. Sao lại không ? Ta vui mừng được nói chuyện với Bạn. Có Bạn đến nói chuyện, ta không cảm thấy lẻ loi một mình đứng trên đế đài này với hoa nến héo tàn ngày này qua ngày khác, năm tháng này qua năm tháng khác... Như vậy còn gì vui hơn nữa.
Có một điều ta muốn nói với Bạn. Đúng hơn ta khen Bạn. Bạn không xin xỏ gì với ta như những người khác hay than thở kêu xin. Lẽ dĩ nhiên ta cũng lắng nghe họ than thở kêu xin, và sẵn sàng cầu bầu xin Thiên Chúa ban ân phúc lành cho họ. Nhưng ta vẫn thích người như Bạn có tâm tâm hồn tìm hiểu đức tin không chỉ cho trái tim tâm hồn mà còn cho cả trí óc hiểu biết nữa. Bạn là người có nếp sống quân bình. Tin kính nhưng cũng có nhu cầu hiểu biết của lý trí về điều mình tin. Xin Bạn cứ tự nhiên.
- 2. NTH: Thưa Thánh nhân. Không dám đâu, xin cám ơn Thánh nhân. Con chỉ là người tò mò thôi đấy mà.
Hôm trước Thánh nhân đã cắt nghĩa cho con về nhiệm vụ tiền hô của Thánh nhân. Nhưng cũng qua đó Thánh nhân nói đến công việc làm phép Rửa cho dân chúng bên bờ sông Jordan. Có phải vì thế mà người ta cũng còn gọi Thánh nhân với danh xưng Tẩy gỉa nữa không?
Thánh Gioan: Bạn đúng là người tò mò. Nhưng sự tò mò của Bạn là điều tốt giúp tâm trí rộng mở hiểu biết thêm. Ta không biết có đúng như thế không. Nhưng ta nghĩ, người ta đặt thêm danh hiệu như thế, có thể họ căn cứ theo sự kiện ta đã làm phép rửa cho dân chúng và cho cả Chúa Giêsu nữa, mà đặt thêm danh hiệu tẩy giả này cho ta. Và biết đâu cũng để phân biệt với những vị Gioan khác. Nhưng điều đó không quan trọng.
Quan trọng ở chỗ, phép rửa ta làm là dấu hiệu nói lên lòng ăn năn thống hối từ bỏ con đường sự dữ tội lỗi trở về con đường ngay chính tốt lành, dọn con đường tâm hồn đón tiếp Đấng là ánh sáng cứu độ đến trong trần gian, của người lãnh nhận phép rửa.
- 3. NTH: Thưa Thánh nhân ngoài hai danh hiệu Tiền hô và Tẩy gỉa, còn có thêm danh hiệu nào đặt cho Thánh nhân nữa không?
Thánh Gioan: Bạn đúng là người tò mò chính hiệu. Không có danh hiệu nào nữa đặt thêm cho ta đâu. Như vậy đủ rồi, và đã nói lên hết nhiệm vụ chính yếu của ta nữa.
Có điều khi người ta nghe tin ta rao giảng phép rửa ăn ăn thống hối, người ta đến hỏi ta: Ông là ai?. Ta không chút do dự nói ngay: Các ngươi an tâm và đừng lẫn lộn: Ta rao giảng, nhưng ta không phải là Đấng Kito cứu thế, cũng chẳng phải là vị Ngôn sứ nào đâu.
Họ vặn hỏi mãi, ta nói ngay “ Ta là tiếng hô trong sa mạc hãy dọn đường cho thẳng để Thiên Chúa đến. Họ vẫn chưa chịu bằng lòng với câu trả lời của ta. Họ vặn hỏi thêm: Thế tại sao Ông làm phép rửa?
Ta cũng không ngần ngại nói ngay: Các Ông nên biết cho điều này. Ta rao giảng làm phép rửa trong nước. Nhưng có Đấng quyền thế hơn ta. Người đang ở giữa các ông mà các ông không nhận ra Người. Còn ta, ta đâu có xứng đáng hầu hạ cởi quai dép cho Người.
- 4. NTH: Như thế Thánh nhân còn có thêm danh hiệu là tiếng hô trong sa mạc nữa. Tiếng hô của Thánh nhân là lời loan báo, tiếng kêu gọi con người trở về với con đường đời sống ngay chính. Nhưng tiếng hô đó của ngài còn loan báo gì khác hơn nữa không?
Thánh Gioan: Phải, tiếng hô là lời rao giảng loan báo của ta không chỉ dừng lại nơi đó. Nhưng quy tới một đích điểm, đúng hơn tới một con người. Con người đó là Thiên Chúa xuống trần gian làm người giữa xã hội con người .
- 5. NTH: Vị Thiên Chúa làm người đó là ai vậy?
Thánh Gioan: Vị Thiên Chúa làm người đó chính là Con Thiên Chúa tên là Giêsu Kitô.
Vị đó là Ánh sáng của Tiên Chúa từ trời cao xuống hiện thân làm người. Ánh sáng của Ngài không là ánh sáng đèn điện chiếu tỏa tia sáng cực mạnh nóng bỏng làm chói mắt. Không, không phải như thế. Ánh sáng chiếu tỏa từ nơi Ngài là ánh sáng đức tin vào Thiên Chúa, ánh sáng tình yêu mến của Trời cao, ánh sáng niềm hy vọng cho con người, ánh sáng ơn tha thứ làm hòa giữa Trời và đất, giữa Thiên Chúa với con người.
- 6. NTH: Làm sao Thánh nhân có thể qủa quyết thuyết phục người nghe như thế được?
Thánh Gioan: Nhiệm vụ của ta là rao giảng làm chứng cho Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng đến trong trần gian.
Mốc điểm thời tiết là hình ảnh tốt, giúp cắt nghĩa hiểu về ánh sáng của Chúa Giêsu. Bạn biết không, theo dòng tộc gia đình, ta là anh em họ hàng với Chúa Giêsu sinh ra làm người. Ta sinh ra đời trước Chúa Giêsu vào ngày 24.06. Còn Chúa Giesu sinh ra vào ngày 25.12. Đây là theo cách tính của niên lịch phụng vụ Kitô giáo.
Theo luật tuần hoàn trong vũ trụ thiên nhiên, vào cuối tháng Sáu thời tiết bắt đầu vào mùa Hè, mặt trời chiếu sáng ngày dài hơn ban đêm. Và cũng từ thời cao điểm đó, mỗi ngày thời tiết xuay chuyển mặt trời ngày ngắn lại, ban đêm tối trời dần dài hơn thêm ra. Và cao điểm ngày ngắn ít ánh sáng mặt trời chiếu, ban đêm dài nhất trong năm là những ngày cuối tháng Mười Hai.
Giáo Hội mừng ngày ta sinh ra vào ngày 24.06. ngày cao điểm trời sáng, Và sau ngày đó từ từ ngày ngắn lại, đêm tối dài thêm ra.
Lễ mừng Chúa Giêsu sinh ra làm người vào đêm tối trời nhất trong năm ngày 25.12. Và từ sau ngày này ánh sáng ban ngay từ từ dài thêm ra, đêm tối trời ngắn lại.
Chúa Giêsu sinh ra làm người vào thời gian đêm tối trời. Sự sinh ra của Ngài vào thời điểm đó nói lên: Ngài đem ánh sáng từ trời cao soi chiếu vào đêm tối trần gian. Đêm tối trần gian trong không gian thời gian thời tiết hình thể địa lý, và đêm tối trong tâm hồn con người vì sự dữ tội lỗi che khuất làm ra cho tối tăm.
Ngài đến trần gian mang ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa cho con người. Sau này khi ra rao giảng, chính Ngài đã nói Ngài là ánh sáng cho trần gian.
Rồi cũng vào ngày 25.12. thời thượng cổ xa xưa dân tộc Roma dành kính thờ Thần Mặt Trời. Và từ khi đạo Kitô được hoàng đế Roma Vua Constantino năm 313 công nhận cho tự do sống đức tin công khai, Giáo hội Công giáo đã rửa tội ngày 25.tháng 12. hằng năm thành ngày mừng sinh nhật Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng Mặt Trời công chính đã xuống trần gian.
Nên ngày lễ kỷ niệm Chúa giáng sinh ngày 25.12. nói lên ý nghĩa căn bản của Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng, đi vào soi chiếu ánh sáng trong đêm tối trần gian. Ánh sáng ơn cứu độ của Chúa xóa tan bóng tối, đem lại sự an bình cho con người.
- 7. NTH: Thưa Thánh nhân, Kinh Thánh đề cập đến Thánh nhân với ánh sáng như thế nào?
Thánh Gioan : Ta rao giảng kêu gọi con người dọn con đường tâm hồn cho Chúa đến. Nhưng Vị Thánh tên là Gioan, người Tông đồ trực tiếp của Chúa Giêsu, và sau này đã phụng dưỡng nuôi đức mẹ Maria sau khi Chúa Giêsu về trời, đã viết Phúc âm Chúa Giêsu. Trong đó Ông nói đến ta ngay trong phần đầu của sách Phúc âm: „Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng cho ánh sáng.“ Ga 1,6-8.
- 8. NTH: Thưa Thánh nhân, Thánh nhân có biết mình sinh ra vào thời nào không?
Thánh Gioan: Thời của ta lúc sinh ra không có giấy khai sinh như bây giờ. Nên ta không biết mình sinh ra thời nào.
Sau này trong đời sống, theo khoa học người ta làm ra lịch năm tháng ngày giờ cho phân biệt rõ ràng như đang dùng ngày hôm nay. Theo cách tính niên lịch, người ta lấy năm Chúa Giêsu giáng sinh là năm thứ nhất sau Chúa giáng sinh, khoa học gọi là năm thứ nhất sau Công nguyên. Như thế biến cố Chúa Giêsu sinh ra làm người là mốc điểm giữa hai thời đại trước và sau Công nguyên. Ta sinh ra đời trước Chúa Giêsu nửa năm. Vậy ta chào đời vào nửa năm cuối cùng thời trước Chúa Giêsu. Nên người ta còn nói ta là vị Ngôn sứ cuối cùng thời cựu ước, thời trước công nguyên, chuyển tiếp sang thời Tân ước với Chúa Giêsu Kitô, thời sau công nguyên.
Người ta không biết rõ năm nào Chúa Giêsu sinh ra. Có thuyết cho rằng, vì sau này mới làm lịch, nên tính sai năm Chúa sinh ra đời, và có lẽ Chúa Giêsu sinh ra vài năm trước đó rồi, năm 07. trước Công nguyên! ( Joseph Ratzinger, Benedikt XVI., JESUS von Nazareth, Prolog die Kindheitsgeschichten, Herder Freibug i. Breisgau 2012, tr. 106 -110)
Thánh sử Luca viết trong Phúc âm Chúa Giêsu có nói đến thời điểm lịch sử chính trị và tôn giáo lúc ta đi ra rao giảng làm phép rửa ăn năn thống hối dọn đường cho Chúa:
„ Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tiberio, thời quan Pontius Pilatus làm tổng trấn miền Judea, Herode làm tiểu vương miền Galileo, người em là Philiphe làm tiểu vương miền Iture và Khana va Caipha làm Thượng tế, có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là Ông Gioan trong hoang địa. Ông đi khắp vùng ven sông Jordan, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.“ (Lc 3, 1-3).
- 9. NTH: Con xin chào tạm biệt và cám ơn Thánh nhân qua nói chuyện đã chỉ dẫn cho con hiểu rõ về vai trò của Thánh nhân trong công việc xây đắp gìn giữ đức tin vào Chúa. Qua đó con dần hiểu rõ ra hơn, tại sao Hội Thánh hằng năm vào mùa Vọng lấy hình ảnh cùng đời sống của Thánh nhân ra làm trung tâm cho giáo lý chuẩn bị tâm hồn mừng lễ ánh sáng Chúa Giesu Kitô giáng sinh làm người…
Thánh nhân cùng với đức mẹ Maria là hai nhân vật chính yếu trong mùa Vọng. Cả hai trông mong chờ đợi Chúa đến, và giúp mọi người hướng tâm hồn trông chờ Chúa đến. Và chúng con nhìn học được nơi Thánh nhân cung cách nếp sống lòng khiêm nhượng: nhận mình chỉ là công cụ Thiên Chúa dùng để mở đường giới thiệu cho Thiên Chúa đến.
Thánh Gioan: Ta cũng cám ơn Bạn đã đến thăm viếng ta và trò truyện với ta. Điều này thật đáng qúi lắm.
Ta cầu chúc Bạn khoẻ mạnh, lòng tràn đầy niềm vui cùng sự hăng say nhiệt thành nếp sống tinh thần cho trái tim cùng trí khôn suy biết nữa. Chúc bằng an thành công. Gioan, người bạn của các Bạn!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Vào dịp lễ mừng Chúa giáng sinh, khắp nơi hang đá được tạo dựng trang hoàng theo nhiều kiểu khác nhau. Lễ mừng Chúa giáng sinh mà không có hang đá, thì kể như chưa là lễ giáng sinh, ở bên ta cũng như bên tây!
Người ta dựng hang đá mừng lễ không phải chỉ trong thánh đường hay tại các tư gia. Nhưng ngày nay hang đá được bày dựng trong cả các cửa tiệm hoặc để trang hoàng hấp dẫn khách qua lại đến xem mua hàng hóa, hoặc làm việc thương mại bán hang đá.
Như thế, Chúa sinh ra làm người mang chúc lành từ trời cao: Sứ điệp tình yêu của Chúa cho tâm hồn con người và niềm vui lợi nhuận kinh tế trong cuộc sống!
Ngày nay ở những nước văn minh tiêu thụ, mùa mừng lễ Chúa giáng sinh là dịp rất thuận tiện bán được nhiều hàng hóa và qua đó thúc đẩy mãi lực nền kinh tế quốc gia phát triển tích cực. Đó cũng là tin mừng cho nhân gian. Nhưng mừng kỷ niệm Chúa sinh ra làm người đâu có thể chỉ dừng lại ở điểm đó.
Hang đá mừng lễ Chúa giáng sinh diễn tả hình ảnh gì cho nếp sống tâm linh đạo đức?
Tin mừng thánh Luca (2,7) thuật lại: Đức Mẹ Maria hạ sinh hài nhi Giêsu giữa cánh đồng Bethlehem trong chuồng thú vật ngoài cánh đồng và nôi nằm của hài nhi là một máng đựng thức ăn cho súc vật. Có những chuồng thú vật thời đó trên cánh đồng Bethlehem được xây dựng trong một hang của gò núi đá hay được làm bằng gạch đá.
Ngày nay sang hành hương kính viếng địa điểm hang đá Chúa giáng sinh bên thành Bethlehem chỉ còn thấy một đền thờ to lớn được xây dựng lại từ thế kỷ 18. Và bên dưới tầng hầm đền thờ, theo tương truyền nơi ngày xưa hài nhi Giêsu sinh ra được đặt nằm trong một nôi máng cỏ cho thú vật ăn, có khắc hình ngôi sao 14 cánh trên nền đất đánh dấu địa điểm lịch sử biến cố thần thánh nơi hài nhi Giêsu đã nằm lúc mở mắt chào đời cách đây hơn hai ngàn năm. Ngôi sao có 14 cánh là hình ảnh biểu tượng nói đến 14 thế hệ trong gia phả Chúa Giêsu Kitô.( Mt 1, 1-17).
Hang đá cùng chiếc máng cỏ hài nhi Giêsu đêm giáng sinh nằm như thế nào, không ai biết rõ. Dựa theo phúc âm và theo dòng lịch sử người ta đã làm ra nhiều kiểu về hang đá cùng máng cỏ Chúa giáng sinh.
Theo tập tục bên Đông phương máng cỏ, nôi Chúa nằm lúc sinh ra, được làm bằng đá có hình thể trông giống như một quan tài. Và hài nhi Giêsu được quấn khăn tã đặt nằm trong đó như xác một người qua đời.
Hình ảnh này muốn diễn tả Chúa Giesu sinh ra trong hang đá và lúc qua đời cũng được mai táng trong mồ đá. Trong hang đá sự sống đã khởi đầu khi Chúa Giêsu sinh ra làm người, và cũng trong mồ đá Chúa Giêsu đã sống lại, khởi đầu một đời sống mới. Đời sống ơn cứu độ.
Nghệ thuật cùng tập tục bên phương tây xây dựng hang đá máng cỏ như một bàn thờ. Hình ảnh này muốn diễn tả lễ tế tạ ơn, bí tích thánh thể. Bethlehem có nghĩa là “ nhà làm bánh mì“. Khi cử hành bí tích Thánh thể là tưởng nhớ lại sự sinh ra làm người của Chúa khi xưa trong hang đá ngoài cánh đồng Bethlehem. Và trong mỗi thánh lễ chúng ta cùng tiếp nhận tấm bánh thánh thể từ trời cao, ngày xưa đã sinh xuống trên đồng Bethlehem “ngôi nhà làm bánh mì“, là lương thực cho niềm tin tâm hồn vào Chúa.
Hang đá máng cỏ vì thế không nhất thiết phải bằng đá thiên nhiên, nhưng đa số làm bằng gỗ. Trong đó Chúa Giêsu được đặt nằm trên rơm cỏ, có đàn súc vật bò lừa ngồi nằm thở hơi ấm chung quanh. Hình ảnh này nói lên sự khó nghèo, khiêm hạ của Chúa.
Người ta cũng không biết rõ hình thù hang đá máng cỏ lúc Chúa sinh ra như thế nào. Máng cỏ ( có năm mảnh ván nhỏ ghép lại) Chúa Giêsu nằm khi sinh ra ở Bethlehem, theo tương truyền còn lưu giữ ở đền thờ Đức Bà cả S. Maria Maggiore bên Roma. Điều này không có gì chắc chắn đúng trăm phần trăm cả.
Lòng đạo đức kính thờ Chúa sinh ra làm người đã thúc đẩy con người vẽ kiểu làm ra hang đá máng cỏ Chúa giáng sinh. Việc này không có gì xấu cả, trái lại tốt lành và nâng đỡ niềm tin con người rất nhiều.
Thánh Phanxicô Assisi năm 1223 ở vùng Walde von Greccio đã cùng với các anh em Dòng của ngài dựng làm ra hang đá Chúa giáng sinh đầu tiên dựa theo những lời thuật lại trong phúc âm về đêm Chúa sinh ra năm xưa và theo kiểu ru con trong một chiếc nôi. Hang đá là một ngôi nhà hay chòi lều của một cái hang cho thú vật nghỉ ngơi trong đêm khuya có tượng những nhân vật thần thánh như thuật trong phúc âm: Hài nhi Giêsu, mẹ Maria, thánh cả Giuse, các Thiên Thần, các người mục đồng và các con thú vật chiên bò lừa của họ. Khung cảnh này diễn tả mầu sắc lung linh thần thánh thật sống động cùng thi vị huyền thoại: “Trong chuồng bò nửa đêm tăm tối Chúa giáng sinh đã ra đời!” ( Lm. Hoàng Kim)
Từ thời điềm đó hang đá mừng lễ Chúa Giesu giáng sinh làm người trở thành truyền thống nhất định trong nếp sống phụng vụ văn hóa của Giáo hội hoàn vũ.
Năm nay 2023, kỷ niệm 800 năm hang đá Chúa giáng sinh đầu tiên được xây dựng làm ra do Thánh Phanxicô thành Assisi và anh em Dòng, hang đá mừng lễ Chúa giáng sinh 2023 ở quảng trường Thánh Phero, và trong đại thính đường Phaolo bên Vatican cũng được xây dựng theo tinh thần kiểu mẫu hang đá Greccio thần thoại đầu tiên này từ ngày 09.12.2023 đến ngày 07.01.2024.
Nhạc điệu và nôi ru con là một hình thái rất phổ thông được qúy trọng trong dân gian. Và từ thế kỷ 14 xuất hiện nhiều kiểu hang đá Chúa giáng sinh theo hình thức này. Hài nhi Giêsu được đặt trong một máng như một nôi cho em bé nằm, trong đó có lót cỏ rơm khô cho êm ấm,..có Mẹ Maria và Thánh Giuse đứng bên cạnh. Chung quanh là các thú vật bò, lừa, cừu, các mục đồng đến thăm viếng trò truyện, trên cao chỗ tường vách có Thiên Thần bay lượn ca hát.
Hình ảnh này thật đẹp, thơ mộng và mang tính trẻ thơ thần thoại hoang đường. Nhưng nó gợi lên tâm tình đầm ấm trong một mái nhà, tuy nghèo hèn đơn sơ, nhưng là quê hương tổ ấm cho con người.
Rơm cỏ lót cho hài nhi nằm êm ấm trong máng cỏ cũng là sứ điệp nhắn gửi: Hang đá máng cỏ do con người chế biến làm ra và tâm hồn con người cũng có thể là nơi Chúa Giêsu sinh ra. Khi sống bác ái tình người, khi làm việc thiện hảo tốt lành cho người đồng loại.
Ngày nay, người dựng hang đá máng cỏ Chúa giáng sinh phần nào theo truyền thống hang đá Thánh Phanxicô khó khăn đã nghĩ làm ra lần đầu tiên năm xưa1223.Nhưng vật liệu xây dựng khác nhau hoặc bằng gỗ, hoặc bằng giấy rồi sơn phết mầu xám của đá. Ngoài những bộ tượng giáng sinh đặt trong đó, đèn điện cũng được chăng mắc thêm vào tùy theo văn hóa, thẩm mỹ cùng lòng cung kính đạo đức của từng dân tộc thời đại.
Hang đá máng cỏ Chúa giáng sinh dù xây dựng bằng vật liệu gì , theo kiểu cách nào và trang trí thế nào đi nữa, đều muốn gợi lại tình yêu cùng lòng khiêm hạ của Thiên Chúa xuống trần gian làm người, và cũng phần nào nói lên tâm tình yêu mến của con người với Đấng là tình yêu cho tâm hồn con người.
Mừng lễ Chúa giáng sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngày xưa cách đây hơn 500 năm nhà thám hiểm Christoph Columbus ( 1451-1506) đã dùng thuyền buồm vượt biển từ Âu châu khám phá ra các quốc gia đất nước vùng châu mỹ Latinh ( Nam Mỹ).
Nhà vạn vật học Charles Darwin ( 1809-1882) sau nhiều năm tìm hiểu nghiên cứu động vật và thực vật thiên nhiên, đã suy tìm khám phá ra lý thuyết tiến hóa nơi sự sống của các giống nòi„On the origin of species by means of natural selection, or the preservation of favoured races in the struggle for life“.
Nhà vật lý học Albert Einstein ( 1879-1955) đã nghiên cứu tìm ra thuyết tương đối trở thành nền tảng trong khoa học vật lý về không gian và thời gian.
Có hình ảnh người dọn đường khám phá như thế trong đời sống đạo giáo tâm linh không?
Xưa nay cũng có những người như vậy trong lãnh vực tâm linh đạo gíao. Giáo Hội Công giáo tôn kính Ông Thánh Gioan tiền hô là người có cung cách nếp sống thám hiểm dọn đường cho Thiên Chúa đến trần gian trong lãnh vực tâm linh như thế.
Có thể nói những nhà thám hiểm trong lãnh vực khoa học như trên là những người dấn thân nỗ lực tiên phong đi trước hàng đầu tìm cách xây dựng con đường, bắc cây cầu cho những nghiên cứu tìm hiểu phát triển tiếp theo sau.
Những thành qủa nghiên cứu mở đường của họ mở ra chân trời mới cho nghiên cứu khám phá mới. Việc làm khám phá của họ là đà cho bước nhảy vọt tiến về phía trước.
Thánh Gioan, người anh em với Chúa Giêsu Kitô, theo kinh thánh thuật lại, con trai thầy cả thượng phẩm ông Zacharia và Bà Elisabeth, sinh ra đời sáu tháng trước Chúa Giêsu.
Gioan có danh hiệu tiền hô. Vì ông sau khi đã thành người trưởng thành, từ bỏ nếp sống hàng tư tế thời lúc đó của cha mẹ ở nhà vùng En Karim, chỗ ở của những nhà vị vọng vương giả quyền qúi. Ông tự nguyện lui đi vào vùng sa mạc hoang vắng sống cuộc đời ẩn dật khắc khổ, chay tịnh nghèo khó một mình, xa tránh nơi thành thị có lối sống nhộn nhịp tranh đua.
Samạc như Kinh thánh diễn tả về địa lý không chỉ là nơi chốn âm thầm vắng vẻ cô đơn, chỉ toàn cát cùng nắng nóng, gía lạnh buốt ban đêm, thiếu vắng cây cỏ, nước và sức sống … nhưng cũng còn là nơi chốn nhuốm mầu tâm linh tốt thuận lợi cho gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa nữa.
Theo kinh thánh cựu ước, dân Do Thái ngày xa xưa đã hai lần sống trong sa mạc hoang vu. Đầu tiên họ đã trải qua cuộc sống người di cư trong sa mạc ròng rã 40 năm trên đường từ đất nước nô lệ bên Aicập trở về quê hương đất nước Thiên Chúa hứa ban cho. Và sau này họ cũng phải đi băng qua sa mạc hoang vu từ cuộc sống lưu đày thành Babylon ( nước Irac) trở về quê hương nước Do Thái.
Phúc âm nhắc nhớ đến sách Cựu ước viết về vai trò của người đi trước mở dọn đường cho Chúa trong sa mạc hoang vu:”Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.” (Isaia 40,3).
Xây dọn mở đường trong sa mạc hoang vu tựa giống như xây xa lộ đường cao tốc, để lưu thông được mau chóng dễ dàng thuận lợi.
Núi đồi thung lũng san cho bằng phẳng ( Isaia 40,4) vang vọng một con đường rộng để đón tiếp khách tới.
Có thế Thiên Chúa mới có thể vượt qua đến với trong sự vui mừng.
Những lời cùng chỉ dẫn trong kinh thánh cựu ước trên được thể hiện thành hiện thực với lời rao giảng công khai của Ông Gioan tiền hô trong sa mạc, bên bờ sông Jordan. Ông rao giảng kêu gọi con người phải thay đổi lối sống bất chính cũ, ăn năn trở về với Thiên Chúa. Phải sẵn sằng cho nếp sống thanh sạch không tội lỗi. Xưa kia đã sống sai phạm, cần thành tâm hối lỗi sửa đổi lại. Hãy tỉnh thức cố gắng đừng để đời sống đi lạc lối, nhưng theo con đường chân chính thẳng lối!
Rất ngạc nhiên, lời rao giảng đanh thép của Gioan không rơi vào thinh không, nhưng được mọi người nghe theo từ người sốt sắng đạo đức tới người tội lỗi, người dân bình thường và cả những người trí thức học giả:” Dân cả miền Giuđêa và Giêrusalem tuôn đến với người, thú tội và chịu phép rửa trong sông Giođan.” ( Mc 1,5).
Phép Rửa do Ông Gioan tiền hô thực hiện theo nghi thức được ấn nhận chìm trong dòng nước sông Jordan diễn tả lại hình ảnh ngày xa xưa dân Do Thái trên đường từ Ai Cập trờ về quê hương đất nước Do Thái cũng đã đi qua lòng Biển Đỏ, cùng nói lên từ bỏ những gì là cũ để có khả năng thu nhận cái mới. Điều mới mang lại sự cứu rỗi bình an cho tâm hồn đời sống của con người.
Gioan tiền hô không dừng lại nơi lời rao giảng cùng việc làm của mình đang nổi tiếng được mọi người kính trọng yêu mến. Ông không đứng lại cản đường, cản lối cho Thiên Chúa đến.Trái lại Ông mở đường lấy ngón tay chỉ về hướng con đường khác phía trước: "Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần". ( Mc1,8).
Gioan tiền hô không phủ nhận hay hạ gía phép Rửa do ông thực hiện. Nhưng ông nhấn mạnh đến vai trò người mở đường của mình muốn làm nổi bật rõ nghĩa sự chính yếu đang đến: Phép Rửa do Chúa Giêsu Kitô thực hiện.
Thánh Gioan tiền hô không như những nhà khoa học mở đường trong lãnh vực nghiên cứu phát minh như Christoph, Darwin, Einstein…Nhưng Ông có nếp sống theo con đường chay tịnh cầu nguyện trở về với Thiên Chúa nguồn sự thánh thiện.
Thánh Gioan tiền hô cũng không nhận lãnh giải thưởng Nobel vì lời rao giảng cùng công việc cho Thiên Chúa. Nhưng dẫu vậy Ông là người chỉ đường mở lối khám phá ra con đường mới xây dựng đời sống tâm linh cho con người hướng về Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn đời sống .
Cung cách thái độ sống khiêm nhượng của Gioan tiền hô luôn có gía trị thần thánh cao cả trước Thiên Chúa và con người xưa nay.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Trong đời sống nhiều trường hợp bỗng nhiên nhận được sự việc khác thường vượt qúa sự suy nghĩ tưởng tượng con người. Sự thể này gây ra ngạc nhiên cùng bối rối cho tâm trí.
Trường hợp như thế thiếu nữ Maria thành Nazareth miền quê bên nước Do Thái cách đây hơn hai ngàn năm đã sống trải qua: Bỗng dưng Thiên Thần Gabriel của Thiên Chúa hiện đến báo tin: chị được Thiên Chúa chúc phúc và Ngài muốn chọn chị, tuy còn là một thiếu nữ, làm mẹ hạ sinh Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người! ( Lc 1,26-36).
Trước sự bỡ ngỡ lạ lùng đó Maria đã có phản ứng sợ hãi bối rối:“Việc đó xảy ra thế nào được. Vì tôi không có chồng?”
Thiên Thần Chúa trấn an Maria: Xin chị đừng lo, Thánh Thần Thiên Chúa sẽ làm phép lạ tác dụng để cho Con Thiên Chúa thành người trong cung lòng Chị.
Và Maria đã ưng thuận với chương trình của Thiên Chúa, mặc dù tâm trí Maria không hiểu gì, cùng chỉ muốn nói lời từ chối!
Sự việc lạ lùng bất ngờ xảy đến với Maria như thế nói lên hình ảnh gì của Thiên Chúa với con người?
Đức giáo hoàng Pio IX. Ngày 08. Tháng 12. năm 1854 đã công bố tín điều đức mẹ Maria ngay từ giây phút đầu tiên thụ thai Con Thiên Chúa trong cung lòng mình đã được Thiên Chúa trao ban ân đức không bị vướng mắc vào tội tổ tông truyền. Thiên Chúa đã gìn giữ cho đời sống Maria đồng trinh vẹn sạch.
Giáo hội mừng ngày lễ Đức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội hằng năm vào ngày 08. Tháng 12. Mừng lễ và tin vào tín điều. Nhưng xưa nay trong dòng thời gian vẫn luôn có những hòai nghi về sự đồng trinh của đức mẹ Maria. Nội dung ngày lễ trọng này không có nghĩa đời sống của Đức mẹ Maria xảy diễn ra trên cách thức khác thường lạ lùng như truyện thần thoại cổ tích.
Thiếu nữ Maria cũng như bao trẻ em khác trên trần gian được dòng máu người cha - Ông Thánh Gioakim- và do người mẹ -Thánh Anna -thụ thai sinh ra đời, như trong dân gian lưu truyền thuật kể lại. Ngày nay sang hành hương cổ thành Jerusalem nơi lối vào cổng Sư Tử có đền thờ Thánh Anna, bên cạnh có tàn tích hồ Betsaida, nơi ngày xưa Chúa Giêsu đã chữa bệnh cho một người bị bại liệt đã 38 năm được lành mạnh đứng dậy đi lại được vào ngày Sabat( Ga 5,7-9) . Và địa điểm khu lối cổng Sư Tử, theo tương truyền, ngày xưa có nhà của Thánh nữ Anna và Thánh Gioakim, cha mẹ của đức mẹ Maria.
Quy trình truyền sinh sự sống Thiên Chúa đã sáng tạo ấn định cho con người cùng mọi giống nòi trong công trình thiên nhiên: sự sống mới nảy sinh do hỗn hợp giữa hai yếu tố mầm sự sống nam và nữ, âm và dương, giống cái và giống đực.
Nền tảng thần học đạo đức ngày lễ mừng đức mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội dựa trên mối dây liên kết với khởi đầu đời sống của Maria. Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, như đức tin Kitô giáo nói cho biết, không bị cho rơi xuống vào bờ mép vực thẳm của bản tính con người trần gian.
Như thế sự khởi đầu đã diễn xẩy ra thế nào ? Và như những người tín hữu Chúa Kitô ở những thế kỷ đầu tiên lúc khởi đầu Giáo Hội, đã nêu ra thắc mắc, phải chăng Con Thiên Chúa phải được sinh ra do người phụ nữ Maria này?
Suy nghĩ thần học đạo đức này đưa đến kết luận: Thiếu nữ Maria ngay từ lúc khởi đầu thụ thai thành hình sự sống trong cung lòng mẹ đã được chọn là mẹ Con Thiên Chúa sau này, như Thánh Phaolô tông đồ đã có xác tín: “ được tuyển chọn ngay từ trước khi tạo thành vũ trụ” ( Thư Epheso 1,4).
Mừng lễ Đức Mẹ Maria giúp tâm trí hướng lên Thiên Chúa trên trời cao, Đấng Tạo Hóa, cùng đặt niềm hy vọng tin tưởng vào ý muốn của Người cho con đường đời sống con người.
Thiên Thần Gabriel đã chào kính Maria được Thiên Chúa ban ân sủng chúc phúc. Như thế Maria qua đó được sống trong mối tương quan gần bên Thiên Chúa.
Con người loài thụ tạo cũng được Thiên Chúa trao ban mối tương quan giao hảo với Người. Là con người do Thiên Chúa tạo dựng, có gía trị qúy báu. Con người có chỗ đứng trong vũ trụ, trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa.
Đời sống đức mẹ Maria, dù trải qua những đọan đường đau khổ sầu bi, nhưng thành công trong vai trò làm mẹ Con Thiên Chúa. Vì Maria đã để cho Thiên Chúa xây dựng đời sống mình trong niềm tin tưởng hy vọng.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm lịch phụng vụ trong Giáo hội Công giáo bắt đầu từ mùa Vọng. Năm phụng vụ mới, chu kỳ B, khởi đầu từ Chúa Nhật I. mùa Vọng, ngày 03.12.2023.
Mùa Vọng có bốn tuần lễ cho tới ngày lễ mừng Chúa Giêsu giáng sinh làm người trên trần gian, đêm ngày 24. tháng 12. Năm nay mùa Vọng ngắn nhất. Tính từ ngày Chúa nhật I. mùa Vọng chỉ có 21 ngày tới lễ mừng Chúa giáng sinh, và 28 ngày là tới ngày cuối năm cũ 31.12. 2023.
Thời gian mùa Vọng chuẩn bị tâm hồn đón mừng lễ Chúa giáng sinh, nhưng theo nếp sống văn hóa xã hội thời bây giờ, nhất là bên xã hội Tây phương, cũng là mùa vội vàng, hấp tấp đi săn lùng mua sắm qùa tặng, đồ dùng, thực phẩm…vừa mừng lễ và vừa để đón mừng Tết năm mới Dương lịch tiếp theo sau đó một tuần lễ.
Khác với Giáo hội Công giáo, bên Giáo hội Chính Thống thời gian mùa Vọng kéo dài 40 ngày cho tới ngày mừng lễ Chúa giáng sinh, và mùa Vọng thời gian chuẩn bị mừng lễ mang mầu sắc đặc tính ăn chay nhiều hơn.
Giáo hội Chính thống giáo thành Constantinople, thành Alexandia, Antiochien, bên Rumania, bên Bulgaria, bên đảo Zyp, bên Hylạp, bên Albania và bên Phầnlan mừng lễ Chúa giáng sinh ngày 24.& 25. Tháng 12 như bên giáo hội Công giáo theo niên lịch Gregorianer. Họ bắt đầu mùa Vọng từ ngày 15. tháng mười một cho tới chiều ngày 24. tháng mười hai sang ngày 25. tháng mười hai.
Các Giáo Hội Chính thống bên Nga, bên Serbia mừng lễ Chúa giáng sinh theo niên lịch Juliano vào ngày 6. - 7. tháng Một. Vì thế họ mừng mùa Vọng, thời gian chuẩn bị trước lễ giáng sinh, từ ngày 28. Tháng mười một cho tới ngày 06. Tháng Một.
Trong Phúc âm, Chúa Giêsu Kitô đưa ra hình ảnh nếp sống thấm nhuộm tâm tình tĩnh tâm: “Anh em hãy canh chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì anh em không biết lúc đó là lúc nào!” ( Mt 13,33-37) khác hẳn với lối sống vội vàng hấp tấp đi săn lùng mua sắm trong mùa vọng trong đời sống xã hội.
Vậy đâu là hình ảnh cho nếp sống tĩnh tâm mùa vọng?
Trong dụ ngôn Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh người chủ nhà trẩy đi phương xa, và hình ảnh người ở nhà canh giữ cửa. Nhưng hình ảnh người canh giữ cửa nhà, chị hay anh ta ở nhà, thích hợp với cung cách nếp sống tĩnh tâm mùa vọng.
Mùa vọng tuy con người phải đi ra ngoài làm việc, sinh hoạt mua sắm, nhưng vẫn ở nhà nhiều hơn. Phúc âm nói tới nhiệm vụ người “ canh giữ cửa nhà” phải luôn tỉnh thức.
Nghề nghiệp canh giữ cửa nhà, cổng dinh thự đền đài… ít được nói đến xưa nay trong đời sống thế giới làm việc, cùng không mấy là hình ảnh của một nghề nghiệp được nói đến nhiều cùng có sức hấp dẫn cho lắm.Nhưng dẫu vậy vẫn luôn cần có người làm công việc này.
Nơi một vài hãng xưởng, bệnh viện, tu viện nhà Dòng vẫn còn cần người làm nghề nghiệp canh cửa cổng. Họ túc trực ở cửa cổng ra vào không chỉ ban ngày mà cả ban đêm nữa.
Ai đã có lần giữ nhiệm vụ canh cửa cổng, đều biết quy luật khi nào được mở cửa cổng và đóng cửa cổng, và họ cũng không thể biết trước trong thời gian đó chuyện gì xảy ra, lúc có nhiều lúc có ít việc, bận rộn tiếp khách đến hỏi, nghe trả lời điện thoại, nối đường dây điện thoại, cũng có lúc vắng vẻ nhàm chán đến độ buồn ngủ gật, nhất là vào ban đêm khuya…
Cũng có những công việc làm theo thông lệ thói quen, và cũng có nhiều xảy ra bất ngờ. Cũng có những người khách vui vẻ lịch sự, và cũng có những vị khách khó chịu đòi hỏi.
Có những người mang đồ dụng cụ đến gửi, nhưng cũng có những người đến nhận hàng đồ, có người đến hỏi chìa khóa nhà vệ sinh,nhà kho… hay có những trường hợp đến trao thư, trao thùng đồ, hoặc trao đổi vài mẩu chuyện. Và khi có sự cố xảy ra người canh giữ cửa cổng phải báo động…
Tóm lại có rất nhiều công việc to cũng như nhỏ diễn xẩy ra. Nên cần phải có người ở đó túc trực canh giữ cửa cổng. Họ cần có cung cách nếp sống thái độ cởi mở mềm dẻo, thích nghi theo từng hoàn cảnh xảy ra.
Chủ nhà căn dặn người canh giữ cửa cổng nhà phải luôn túc trực tỉnh thức cho mọi trường hợp. Cũng thế mùa Vọng là thời gian, người tín hữu Chúa hiểu nếp sống tinh thần của mình giống tựa như công việc của người canh giữ cửa cổng ra vào: túc trực tỉnh thức!
Nữ chiệm niệm người Pháp Madeleine Delbrel đã trình bày suy tư về nếp sống của việc canh giữ cửa phải tính đến việc Thiên Chúa đến gõ cửa và đi vào đời sống:” Bất kể chúng ta làm gì: dùng chổi quét lau nhà. Nói chuyện hay giữ thinh lặng, diễn thuyết hay săn sóc người đau bệnh, hay đánh máy viết thư... Tất cả những việc đó chỉ là rãnh nhỏ của thực tế trong đời sống hằng ngày, nơi đó tâm hồn gặp được Thiên Chúa, đón nhận được ân đức của Ngài. Thiên Chúa đến và yêu thương chúng ta…”
Công việc của người canh giữ cửa cống cũng là hình ảnh trong phúc âm của Chúa nhật I. mùa vọng nói đến: hãy luôn tỉnh thức chú ý đến những gì xảy đến trong đời sống, trong tất cả bao nhiêu việc phải làm, những cuộc gặp gỡ nói chuyện trong đời sống hằng ngày trong mùa Vọng.
Đàng sau dòng rãnh nhỏ nơi thực tế đời sống thường nhật đó, Thiên Chúa chờ đợi con người chúng ta. Người đến và yêu thương ta.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Sư tử là loài thú vật hoang dã, có sức mạnh dũng mãnh cùng uy phong to lớn lực lưỡng, nên được phong gọi là „ chúa sơn lâm“.
Loài thú vật bốn chân này phóng chạy rất nhanh như vũ bão, săn vồ những thú vật khác làm mồi ăn thịt sống, răng và móng chân nanh vuốt nhọn, nên rất nguy hiểm cho các thú vật khác.
Loài thú vật này là hình ảnh tượng trưng cho sức mạnh uy dũng thống trị, tiếng gầm thét vang vọng gây kinh hãi. Giống như loài mèo, nó có khả năng không chỉ nhìn tinh tường ban ngày mà cả ban đêm tối trời nữa.
Theo văn hóa thời bên Ai Cập cổ xưa, loài thú này là hình ảnh vị gìn giữ Nước, và đồng thời cũng được tôn kính là vị thần Mặt Trời. Vì thế, nơi ghế ngai của các vị Vua Pharao thời đại đó đều khắc hình Sư Tử để nói lên sức mạnh quyền uy.
Ở vùng văn hóa viễn Đông bên Trung Hoa, bên Ấn Độ, Sư Tử như con Rồng, được cho là người bảo vệ đền thờ chống lại ma qủy sự dữ.
Trong văn hóa tôn giáo Do Thái và Kitô giáo hình ảnh Sư Tử được nói đến nhiều cả hai khía cạnh tiêu cực lẫn tích cực.
Sư tử bị cho là ma quỷ thần dữ và nguy hiểm cho người cùng các loài thú vật khác.
„ Xin cứu con khỏi nanh sư tữ hãi hùng“ ( Tv 22,22)
„ Tôi phải nằm giữa bầy sư tử, loài thú ăn thịt người, nanh vuốt chúng là đầu tên mũi giáo, lưỡi thì sắc bén tựa gươm đao.“ ( Tv 57,5)
Tuy nhiên hình ảnh sư tử trong Kinh Thánh cũng có khía cạnh tích cực: Juda con Ông Giacóp được ví như một con sư tử non trẻ ( St, 49,9).
Và Chúa Giêsu Kitô được trình bày là hình ảnh một con sư tử dòng dõi chi tộc Juda: „ Này đây, Sư Tử xuất thân từ chi tộc Juda, Chồi non của David đã chiến thắng, Người sẽ mở cuốn sách và bảy ấn niêm phong. „( Kh 5,5)
Trong nghệ thuật văn hóa Kitô giáo Sư Tử là hình ảnh kẻ canh gác, mang ý nghĩa nói về sức mạnh.Có thể vì thế nơi hai đầu của phần bia mộ các người qúa cố vị vọng thời xưa trong thánh đường, như thấy ở bên trong nhà thờ chính tòa Tổng giáo phận Bamberg nước Đức nơi phần mộ xây nổi trên nền nhà thờ của vợ chồng hoàng đế Heinrich II. và Kunigunde, họ đã được tôn phong lên hàng Hiển Thánh.
Theo Ngôn sứ Isaia hình ảnh con Sư Tử là hình ảnh hòa bình đang đến: Chiên con và Sư Tử an bình nằm cạnh nhau,“ Một cậu bé chăn dắt chúng, Sư Tử cùng ăn rơm như bò.“ ( Isaia 11,6-7).
Và sau cùng Con Sư Tử được dùng là hình ảnh biểu tượng Phúc âm Chúa Giesu theo Thánh Marcô, mà trong suốt năm phụng vụ B ( từ 03.12. 2023 đến 01.12. 2024) được đọc trong các thánh lễ Misa.
Nguồn gốc hình ảnh biểu tượng của bốn phúc âm Chúa Giêsu có nguồn gốc trong thần thoại thời Babylon. Bốn vị Thần: Nergal = Cánh sư tử, Marduk = Cánh thú vật, Nabu = hình người và Mimurta = Chim đại bàng diễn tả sức mạnh thần thánh.
Ngôn sứ Ezechiel trong thị kiến đã nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi bốn sinh vật ( Ez 1,1-14), giống như Thánh Gioan thuật lại trong sách Khải Huyền thuật lại ( Kh 4,6-8)
Các Giáo phụ Irenaeus và Hippolytus đã đem bốn sinh vật trong thị kiến của Ngôn sứ Ezechiel và nơi sách Khải Huyền làm hình ảnh biểu tượng cho bốn vị Thánh sử viết phúc âm Chúa Giêsu.
Thánh giáo phụ Hieronymus đã căn cứ theo nội dung của phúc âm sắp xếp Con Sư tử là hình ảnh biểu tượng cho phúc âm theo Thánh Marco. Vì phúc âm này khởi đầu với Thánh Gioan tiền hô rao giảng là tiếng hô trong sa mạc, Ông sống giữa thiên nhiên trong rừng hoang dã thú vật. Lời rao giảng đang thép của Gioan nơi hoang địa về ăn năn sám hối giống như tiếng sư tử gầm thét trong rừng hoang đã
Thánh sử Marco được đặt cho hình ảnh biểu tượng con sư tử, vì khởi đầu thuật lại Chúa Giêsu ra đi rao gỉang nước Thiên Chúa loan báo thời thái bình, bò con và sư tử bên nằm cạnh nhau, cùng được chăn nuôi ăn trên đồng cỏ, và sư tử cũng ăn cỏ như chiên bò.
Ở thành phố Venezia bên nước Ý có vương cung thánh đường kính Thánh Marco thánh sử. Ngoài công trường ở mặt tiền thánh đường có cây cột trụ cao, trên đó có tượng con sư tử mầu vàng với đôi cánh là hình ảnh biểu tượng cho Thánh Marco thánh sử viết phúc âm Chúa Giêsu.
Ở bên trong đền thờ Thánh Phero bên Vatican, nơi vị trí bàn thờ đức tin hay gian cung thánh, ở bốn góc có vẽ khắc bốn hình biểu tượng 4 Thánh sử viết phúc âm Chúa Giêsu. Thánh sử Marco được khắc vẽ với hình con sư tử có đôi cánh và cuốn sách Phúc âm.
Tác gỉa viết phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh Marco ngay từ thời Giáo hội sơ khai có tên là Gioan Marco.
Theo truyền thống từ thời Gịáo hội lúc ban đầu, Marco và Thánh Tông đồ Phero có liên hệ mật thiết với nhau. Giám mục Papias thành Hieropolis vào thời năm 120. sau Chúa giáng sinh, cho rằng Marco là học trò, người thông ngôn những bài giảng của Thánh Phero từ tiếng Do Thái sang tiếng Hylạp, tiếng Latinh cho những người lương dân thời đó, mà họ không thuộc về vùng nền văn hóa Do Thái giáo. Marco viết lại những gì Thánh Phero đã nghe Chúa Giêsu rao giảng khi xưa, lúc sống đã theo chân đồng hành với Chúa Giêsu ba năm.
Dựa theo mạch văn cùng ngôn ngữ Hylạp và những thành ngữ tiếng latinh trong phúc âm, người ta phỏng đoán Marco đã viết Phúc âm ở Roma hay trong vùng của đế quốc Roma.
Thời điểm Marco viết phúc âm được cho là vào năm 65. sau Chúa giáng sinh, trước khi thành Gierusalem bị quân đội Roma xâm chiếm tàn phá năm 70. sau Chúa giáng sinh. Nhưng Giáo sư Kinh thánh Gioakim Gnilka lại cho rằng sau khi thành Gierusalem năm 70. bị tàn phá, phúc âm theo Marco mới được viết ra.
Dẫu vậy, niên đại khi nào phúc âm theo Marco được viết ra không là vấn đề quan trọng bằng sứ điệp Chúa Giêsu mà Marco viết trong phúc âm.
Phúc âm Chúa Giêsu theo thánh Marco là cuốn sách phúc âm cổ nhất, được viết đầu tiên trước những 3 sách phúc âm khác và cũng là phúc âm ngắn nhất có 16 chương.
Thánh sử Marco viết phúc âm Chúa Giêsu, như cuốn sách giáo lý. Và cuốn sách giáo lý đó không chỉ là sách lịch sử, nhưng còn chứa đựng ý nghĩa thần học đạo đức nữa.
Xưa nay nhiều nhà chú giải kinh thánh, nhà thần học đã có những suy tư khảo cứu về khía cạnh ý nghĩa thần học khác nhau chứa đựng trong phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh sử Marcô.
Ngoài những khía cạnh, mà các nhà chú giải, các nhà thần học suy tư khảo cứu, khi đọc tin mừng Chúa Giêsu của Thánh sử Marcô còn nhận ra khía cạnh giáo lý phổ thông như trung tâm sứ điệp phúc âm: cho những con người sẵn sàng dấn thân bước theo chân Chúa Giêsu.
Người môn đệ tin theo Chúa Giêsu Kitô không loại bỏ con đường đau khổ vác thập gía. Vì họ tin rằng Chúa Giêsu Kitô chết trên cây thập gía đã chiến thắng sức mạnh của ma qủi thần dữ tội lỗi, và đã mở ra lối cho con người đi vào con đường sống trong tự do bình an.
Đời sống con người ai cũng muốn có thành công, nhưng thất bại lại luôn xảy ra trên con đường đời sống, và sau cùng chấm dứt với sự chết, mà không ai có thể tránh thoát được. Chả thế mà dân gian có suy tư về đời sống con người qua những giai đọan: sinh - lão - bệnh- tử!
Chúa Giêsu Kitô khi xưa đã khởi đầu con đường sứ vụ rao giảng ở miền Galileo và đã đạt nhiều thành công. Nhưng con đường đời sống của Ngài trên trần gian lại chấm dứt với sự đau khổ, bị từ chối và sau cùng cái chết bị treo trên thập gía ở Jerusalem.
Nhưng tin mừng theo Thánh sử Marcô viết để lại cho Giáo hội, cho con người: Chúng ta không mãi mãi ở trong nấm mồ sự chết, như Chúa Kitô đã chết và đã sống lại ra khỏi mồ. Thiên Thần Chúa mặc áo trắng đã loan tin cho chị phụ nữa Magdalena: Chúa Giesu Kitô đã sống lại không còn nằm trong nấm mồ nữa.
Cũng vậy trên nấm mồ của chúng ta, Thiên Thần Chúa mặc áo trắng loan tin: Chúng ta cũng được sống lại với Chúa Giêsu Kitô.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Thời xưa trong các xã hội đất nước ở các châu lục có nhiều hoàng đế, vua chúa, ông hoàng… Nhưng ngày nay chỉ còn một số ít quốc gia đất nước trên thế giới còn duy trì chế độ quân chủ vua chúa hoàng đế, như bên Anh quốc,bên Tây ban Nha, bên các nước Danmạch, Thụy Điển và Nauy, bên nước Jordanien, bên nước Thái lan…
Khi nhận xét về người nào đó sống như một vị „ vua“ , chúng ta có suy nghĩ, người đó có cùng chiếu tỏa nhân phẩm và tư cách cao thượng chú ý tới người khác rất đáng kính trọng nể vì. Một ấn tượng thán phục!
Nhưng khi đưa ra nhận xét người nào đó như một ông hay bà „hoàng“, lại gây ra suy nghĩ phản ứng không tốt đẹp về người đó. Một ấn tượng trái ngược không muốn biết đến! Vì vị được gọi là „hoàng „ có cung cách lối sống muốn mình là điểm trung tâm được chú ý tới, được cung phụng cùng muốn là chủ biết hết mọi sự.
Vị vua trong các truyện cổ tích thần thoại luôn luôn được diễn tả là hình ảnh một người cha tổ phụ cho toàn thể con người. Vị vua người cha tổ phụ này có nếp sống tự quyết, tự làm chủ lấy mình, chứ không để cho các thế lực khác làm chủ lèo lái.
Cũng trong truyện cổ tích thần thoại thuật lại ba người con trai của một vị vua từ gĩa hoàng cung ra ngoài xã hội sinh sống như mọi người đi tìm nước cho đời sống. Đây là hình ảnh nói về con người cũng phải thay đổi để tự tìm về chính bản thân đời sống mình. Vị triết gia người Hylạp, Platon đã nhìn thấy nơi vị vua này là một người khôn ngoan. Vì trí óc hiểu biết của vị vua này có những tư tưởng sáng tạo. Vị vua đó biết sự lên cao, xuống thấp của đời sống. Và đó là điều giúp khám phá nhận ra mầu nhiệm bí ẩn của ánh sáng cùng bóng tối trong đời sống.
Người Công giáo chúng ta tôn vinh Chúa Giêsu là vua. Nhưng hình ảnh Vua Giêsu của chúng ta như thế nào?
Trong Kinh Thánh có những dụ ngôn và bài thương khó nói đến xưng tụng Chúa Giêsu là một vị Vua.
Bài giảng dụ ngôn về ngày phán xét chung ( Mt 25,34), Chúa Giêsu đã nói mình là vị Vua đứng ra như vị thẩm phán: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa“
Trên đầu cây thập gía Chúa Giêsu bị đóng đinh có bản án do quan Tổng Trấn Philatô truyền viết: „ Giêsu, Vua dân Do Thái! ( Lc 23,37)
Dân chúng đi ngang qua thấy vậy, có người còn nói nhạo báng: Nếu Ông là Vua dân Do Thái, hãy tự cứu lấy mình đi!“ ( Lc 23,37. Với người Roma, Chúa Giêsu bị xử lên án đóng đinh, vì Chúa Giêsu có tước hiệu là Vua. Tước hiệu này cạnh tranh với vua, hoàng đế của đế quốc Roma thời lúc đó.
Còn với người Do Thái, hình ảnh Vua Giêsu không phù hợp ăn khớp với sự trông mong chờ đợi của họ. Nên họ có lý do để nhạo báng. Cây hình phạt thập gía đặt ra thắc mắc hoài nghi về bản chất của một vị vua bị đóng đinh treo trên đó.
Nhưng Chúa Giêsu là vị vua theo cách thế khác không như người Do Thái mong mỏi chờ đợi.
Trước mặt quan tổng trấn Philatô Chúa Giêsu đã trả lời khẳng định. „ Phải, tôi là Vua. Nhưng vương quốc tôi không thuộc về trần gian này. Nếu như vương quốc tôi thuộc về trần gian, chắc chắn thần dân tôi sẽ chiến đấu bảo vệ, để tôi không bị bắt trao nộp cho người Do Thái. Nhưng vương quốc tôi không ở nơi trần gian này!“ ( Gioan 18,36).
Với lời khẳng định đó, Chúa Giêsu nói đến vương quốc của ngài theo một cách thế hoàn toàn mới. Ngài là một người tự bản chất là vua rồi. Thiên tính tước hiệu vua của ngài không do con người tôn phong trao cho, nhưng thần thánh thiêng liêng là do Thiên Chúa. Vì thế không ai có thể tranh cãi về điều này được. Điều Chúa Giêsu nói về mình là điều hứa hẹn bảo đảm cho mỗi người tín hữu Chúa Kitô.
Mỗi người tín hữu Chúa Kitô cũng có thể nói được rằng „ vương quốc tôi không ở nơi đây“. Tại sao? Vì có một lãnh vực trong mỗi con người, mà trần gian không có quyền hành sức mạnh trên đó. Nơi mỗi người có thiên tính tước hiệu vua, mà không ai có thể lấy đi mất được. Đó là vương quốc ở tận trong tâm hồn. Nơi đó là lãnh vực riêng của mỗi người. Trong vương quốc thiêng liêng tâm hồn mỗi người, Chúa Giêsu Kitô có mặt cùng với uy quyền tước vị Vua của Ngài.
Hình ảnh Giêsu bị bắt, bị đánh đòn rồi bị lên án đóng đinh treo trên thập gía hoàn toàn trái ngược với một vị vua trần thế. Dẫu vậy, Chúa Giêsu vẫn là vua. Vua Giêsu không phải chỉ được tung hô vạn tuế. Nhưng vị Vua Giêsu đã chịu đựng bước vượt qua những khổ nhục, những thương tích nơi thể xác và tinh thần cách anh hùng can đảm trong cuộc đời thương khó của ngài.
Điều này nói lên một ý nghĩa về đời sống cho con người. Dù có phải chịu đựng trải qua con đường đau khổ vác thánh gía trong đời sống làm người, nhân phẩm tước vị vua của mỗi người trong tâm hồn vẫn luôn còn có đó, vẫn luôn sống trong họ.
Vương quốc của mỗi con người không thuộc nơi trần gian này là sự tự do, lòng tin tưởng, sức mạnh tâm hồn, sự bình an.
Ngày lãnh nhận làn nước Bí Tích Rửa tội, em bé hay người được rửa tội đưoc xức dầu Chrisam để „ mãi mãi là chi thể của Chúa Giêsu Kitô, là Tư tế, Tiên Tri và là Vua đến cõi sống muôn đời.“.
Lễ Chúa Kitô Vua
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong lịch sử đời sống nhân loại vào mọi không gian thời gian xưa nay luôn luôn có những công việc kho tàng tốt đẹp to nhỏ ích lợi cho đời sống do con người đã thực thi để lại trong mọi lãnh vực đạo tôn giáo cũng như xã hội.
Như vậy phải chăng chỉ có những người có trí khôn trổi vượt mới làm được như thế?
Không hẳn là như thế. Vì con người ai cũng có những khả năng suy nghĩ, khả năng phát triển thực hiện những điều suy nghĩ ra, cùng học hỏi thêm được, hay được tin tưởng trao phó cho.
Khả năng tiềm tàng trong mỗi người, cùng mỗi người có khả năng khác nhau. Và khả năng vẫn luôn trong đời sống phải trau dồi học hỏi cho tinh xảo trong sáng thêm.
Khả năng càng trải qua nhiều thách đố khó khăn phải vận dụng thi hành, càng trở nên bén nhậy giầu có kinh nghiệm thêm ra. Chả thế mà dân gian có ngạn ngữ khôn ngoan: Lửa thử vàng, gian nan thử đức!
Một em bé từ khi cắp sách đi học sống chung với bạn bè chung quanh cùng trang lứa có cơ hội được học hỏi thêm nhiều. Khả năng suy nghĩ tiềm tàng nơi em dần được đánh thức bung mở ra. Và cứ như thế em không chỉ lớn lên về thân xác hình thể, mà còn cả tâm trí khả năng tinh thần đang tiềm tàng nơi em nữa.
Một người kể về khả năng của bạn mình ngày xưa lúc còn đi học ở những lớp trung học, người bạn đó không có thành tích gì khác thường nổi bật trong nấc thang điểm học hành. Có thể nói người bạn đó trong lớp học được xếp vào thứ lớp hạng từ trung bình trở xuống thôi. Nhưng sau này lớn lên lại trở thành người có tài hùng biện diễn thuyết nổi tiếng hấp dẫn người khác.
Và cho rằng khả năng tiềm tàng của người bạn đó phát triển trễ không như nơi những người khác, cùng xác tín rằng mỗi người được Thiên Chúa ban cho khả năng tinh thần cho mỗi chặng đời sống của họ.
Trong đời sống có nhiều người ngày còn trẻ không lộ ra điều gì trổi vượt khác thường. Nhưng vào giai đoạn trễ trong đời sống bỗng dưng họ tỏ ra người có bản lĩnh khả năng vượt trội làm được những việc to lớn, nổi bật khiến mọi người nể phục.
Vì thế, trong đời sống xã hội từ xưa nay mới có những người đem khả năng tài giỏi ra làm được những việc hữu ích, cùng đưa đời sống phát triển đi lên.
Mỗi người đều được Thiên Chúa tạo dựng ban cho thân xác hình hài sự sống cùng khả năng tiềm ẩn trong tâm trí tinh thần. Những khả năng đó giúp cho đời sống được phát huy triển nở cho bản thân, cùng cho nhân quần xã hội.
Khả năng được ban cho tùy theo mỗi người. Và khả năng được ban cho ai, thì người đó cũng phải có trách nhiệm với khả năng mình có. Như lời Chúa Giêsu nói đến trong dụ ngôn nén bạc:
„Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ theo khả năng của mỗi người, đoạn ông ra đi. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác“. (Mt 25,14-15,19-20).
Trong dân gian có suy nghĩ khôn ngoan diễn tả tràn đầy tin tưởng và khích lệ: Không ai không có gì. Và cũng không ai có tất cả!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc long
Cung cách lối sống khôn ngoan xưa nay luôn được ca ngợi cùng khuyến khích cầu chúc cho nhau trong đời sống.
Thánh giáo phụ Toma Aquino, như nhà hiền triết Aristoteles, đã hiểu sự khôn ngoan không ở đích điểm cuối cùng, nhưng trên con đường đi đến đích điểm. Nếp sống khôn ngoan được hiểu là cung cách xử sự của con người theo hợp với lý trí suy luận cùng tình cảm lành mạnh trong đời sống.
Chúa Giêsu Kitô đưa ra hình ảnh lối sống khôn ngoan trong dụ ngôn 10 cô trinh nữ đi đón chàng rể trong đêm như phúc âm Thánh sử Mattheo thuật lại ( Mt 25,1-13). Dụ ngôn chia thành hai bên: 05 cô có lối sống khôn ngoan được tưởng thưởng ca ngợi, và 05 cô không sống khôn ngoan phải hứng chịu thiệt thòi.
Thế nào là hình ảnh nếp sống của năm cô khôn ngoan ?
Xưa nay dụ ngôn này thường được hiểu nếp sống của năm cô khôn ngoan trong trạng thái sự tỉnh thức. Nhưng dụ ngôn này muốn vẽ rõ nét nên hình ảnh sự khôn ngoan nhiều hơn sự tỉnh thức qua nếp sống của năm cô khôn ngoan: họ không chỉ mang đèn có dầu thắp sáng mà còn mang theo bình dầu dự bị.
Dầu trong dụ ngôn xưa nay cũng được cắt nghĩa theo nhiều cách hiểu. Thánh giáo phụ Chrysostomos cắt nghĩa dầu đó là” sự nhiệt thành trong việc giúp đỡ bố thí cho kẻ nghèo khó và tình yêu đối với người thân cận.”
Thánh giáo phụ Augustino có suy nghĩ đó là dầu của niềm vui mà một người có tận trong trái tim tâm hồn mình.
Marin Luther cho rằng dầu trong bình dự trữ như là sức mạnh của niềm tin.
Và cũng thường được hiểu dầu đó là những việc tích lũy theo cung cách nếp sống Kitô giáo.Có thể nói được rằng: Dầu trong những bình chứa đó là những công việc tâm linh có gía trị mang ánh sáng vào trần gian.
Trong dụ ngôn 05 cô sống không khôn ngoan, vì không mang theo bình dầu dự trữ, trong tình trạng khủng hoảng bối rối, đã yêu cầu 05 chị em có dư dầu chia sẻ cho mình để có thể thắp đèn cho sáng lên lúc cạn hết dầu.
05 chị em có bình dầu dự trữ đã từ chối khôn khéo:"Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn.".
Sự chối từ tế nhị khôn khéo này như có vẻ chút nào nói lên sự ích kỷ thiếu bác ái. Nhưng không hẳn là như thế. Nếu hiểu dầu tích lũy trong bình là hình ảnh của tình yêu thương cho người thân cận, là niềm vui tận trong trái tim tâm hồn của đức tin, là hình ảnh của tất cả những công việc, mà qua đó mang ánh sáng vào trong trần gian.
Như vậy kho tàng tâm linh riêng biệt cá nhân của đời sống mỗi người đã thi hành, đã gặt hái không thể chia cắt sẻ ra được.
Và như vậy cuối cùng mỗi người chịu trách nhiệm cho chính đời sống mình. Một cha gìa hưu dòng Phanxicô đã có có suy nghĩ: “ Hãy chia sẻ nhiều như bạn có thể. Nhưng không thể chia sẻ trách nhiệm chính đời sống bạn được.”.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc long
- Hình ảnh đời sống vĩnh cửu
- Hình ảnh bài giảng từ nấ
- Hình ảnh được chúc phúc lành.
- Hình ảnh Đức mẹ Maria với đời sống người di cư
- Hình ảnh nối lửa đức tin cho đời
- Hình ảnh cỗ máy thân thể con người
- Hình ảnh Đức mẹ Maria trong kinh Mân Côi năm Sự Sáng
- Hình ảnh lễ Tết Trung Thu
- Hình ảnh Thánh Mattheus
- Hình ảnh nếp sống kiên nhẫn