Hình ảnh ngày thế giới truyền giáo
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Hằng năm Hội Thánh Công giáo dành một ngày Chúa nhật trong tháng 10. là Ngày thế giới truyền giáo, họăc vào giữa tháng hoặc vào cuối tháng 10 dương lịch.
Đâu là hình ảnh nguồn gốc và sự phát triển thành hình ngày thế giới truyền giáo trong dòng thời gian lịch sử Hội Thánh Chúa Kitô ở trần gian?
Hội Thánh Chúa do Chúa Giêsu Kitô thiết lập không chỉ giới hạn trong nước Do Thái, nhưng có bổn phận phải loan truyền lan rộng ra cho mọi dân tộc khắp nơi trong công trình vũ trụ trên trần gian, hiểu biết về giáo lý tình yêu nước Thiên Chúa.
Sứ mệnh bổn phận đó Chúa Giêsu trao ủy thác cho các Tông đồ. Những vị nầy là cột trụ nền tảng của Hội Thánh Chúa ở trần gian:
“ Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,18-20).
Dựa trên lời Chúa trao lại cùng lòng tin vào Chúa, các Vị Tông đồ, sau khi Chúa Giêsu trở về trời, đã chia nhau ra đi khắp các nơi, trước hết đến các nước vùng đế quốc Roma thời lúc đó cách đây hai ngàn năm, làm nhiệm vụ truyền giáo đã lãnh nhận trực tiếp từ nơi Chúa.
Và trong dòng thời gian lịch sử, Hội Thánh kế tiếp do các Tông đồ trao truyền lại, đã nối tiếp công việc truyền giáo đó suốt dọc từ hai ngàn năm nay trên khắp thế giới.
Công việc truyền giáo phát triển tùy theo mỗi hoàn cảnh thời đại, hoàn cảnh địa phương mỗi đất nước, mỗi nền văn hóa dân tộc khác nhau. Nhưng cùng chung một nguồn gốc đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, như Thánh Phaolo đã có suy niệm” Cùng vào một Chúa, một đức tin, một phép rửa.(Thư Epheso 4,5).
Cùng với đà phát triển việc truyền giáo trên khắp thế giới, cách đây 400 năm Giáo hội Công giáo ngày 06.01.1622 đã thiết lập một thánh Bộ lo việc truyền giáo chung có hệ thống, chất lượng nội dung cùng liên kết với nhau trong toàn thể Giáo hội khắp hoàn cầu. Nhưng Giáo hội cũng vẫn công nhận khuyến khích những nỗ lực hoạt động sáng kiến truyền giáo của mỗi dân tộc đất nước địa phương.
Đầu thế kỷ 19. phát sinh sáng kiến từ người Giáo dân một đường lối mới đầu tiên về việc truyền giáo. Phong trào truyền giáo mới này lan tỏa rộng gây bầu khí phấn khởi tích cự tham gia của người giáo dân trong lòng Hội Thánh.
Người đưa ra ý tưởng sáng lập đường lối mới là một chị Pauline-Marie Jaricot người Pháp. Năm 1819 chị khởi đầu kêu gọi quyên góp trợ giúp cho việc truyền giáo bên Trung Hoa.
Sáng kiến này mở ra con đường thành lập Hiệp Hội truyền giáo đầu tiên rộng rãi khắp nơi trên thế giới vào ngày 03.05.1822 ở thành phố Lyon bên nước Pháp ( Societe pour la Propagation de la foi). Đây là mầm cơ bản sau này cho Hội giáo hoàng truyền giáo như hiện đang có.
Để tuyên dương ghi nhớ tinh thần dấn thân đạo đức cùng gương sáng đức tính anh hùng nhiệt thành vịệc truyền giáo, ngày 22.05.2022 Chị Jaricot đã được Đức Hồng Y Tagle, đương kim Bộ trưởng bộ truyền bá phúc âm cho các dân tộc của Giáo hội, tuyên phong lên hàng Á Thánh ở Lyon.
Sáng kiến thành lập phong trào truyền giáo của chị Jaricot nhanh chóng lan tỏa dư âm tích cực khắp Âu châu. Năm 1832 vị Y sĩ Heinrich Hahn ở thành phố Aachen đã dựa trên gương mẫu đó thành lập Hội truyền giáo ở nước Đức.
Năm 1922 Hội truyền giáo Franz Xavier do Heinrich Hahn thành lập được Đức thánh cha Pio XI. công nhận là chi nhánh bên nước Đức của Hội giáo hoàng truyền giáo.
Từ ngày 01.01.1972 trở thành Hội Missio mang tính cách một Hội Công giáo trợ giúp quốc tế bên nước Đức. Hội Missio kế tục công việc của Hội giáo hoàng truyền giáo ở nước Đức.
Từ ngày đó Hội Missio luôn đề ra những chương trình chủ đề kêu gọi quyên góp trợ giúp việc truyền giáo trên tinh thần liên đới cùng giúp đỡ cho các Giáo Hội địa phương ở các nước khác trên thế giới. Missio bên Đức có hai văn phòng một ở Aachen, và một ở Muenchen kêu gọi quyên góp, phối hợp và điều hành công việc trợ giúp truyền giáo cho Giáo Hội các nước bên Phi Châu, Á châu, Nam Mỹ.
Ngoài ra, trong Giáo Hội, xưa nay ở các nước Âu Châu, Mỹ Châu cũng có những Dòng Tu, những hiệp Hội tư nhân khác sống theo đường hướng truyền giáo qua việc cầu nguyện, cùng trợ giúp về nhân sự cũng như tài chính cho những nơi cần thiết để xây dựng mở mang củng cố về cơ sở nhà cửa xứ đạo, trợ giúp đào tạo ơn kêu gọi chi nhánh Dòng tu…
Đức Thánh Cha Phanxicô đã lấy lời Chúa Giêsu nói với các Tông đồ ngày xưa trước khi trở về trời làm chủ đề ngày thế giới truyền giáo năm 2022: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari cho đến tận cùng trái đất” (Sách công vụ các Tông đồ 1, 8).
Lời nhắn nhủ sai đi này của Chúa Giesu không giới hạn trong phạm vi biên giới địa lý đất nước ở vùng châu lục nào, cũng không giới hạn trong một thời gian thiên niên kỷ, năm tháng ngày giờ nào, cũng không giới hạn nơi một dân tộc chủng loại con người, cũng không giới hạn vào một hoàn cảnh văn hóa xã hội hay tâm lý con người nào.
Nhưng trải rộng ra khắp mọi không gian biên giới nơi chốn hình thể địa lý, cho khắp mọi thời gian, mọi thời đại, mọi nền văn hóa, mọi hoàn cảnh đời sống xã hội cùng tâm lý của hết mọi dân tộc chủng loại con người.
Tin mừng tình yêu của Chúa phổ biến lan tỏa cho hết mọi tạo vật trong công trình vũ trụ thiên nhiên hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh kinh mân côi
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong nếp sống đạo đức của hội Thánh Công giáo tháng 10 hằng năm là tháng dành riêng về lòng sùng kính Đức Mẹ mân côi.
Theo dòng lịch sử, Thánh Daminh, vị sáng lập Dòng Daminh chuyên vể giảng thuyết, đã nhận trực tiếp từ Đức Mẹ, trong một phép lạ Đức mẹ hiện ra với ngài, kinh nguyện Mân Côi vào năm 1208. Và từ thời điểm đó thánh nhân đã truyền bá sâu rộng việc lần chuỗi mân côi kính Đức Mẹ trong Dòng của mình, và rồi dần dần lan truyền ra cho mọi người trong Hội Thánh Chúa Kitô.
Cũng theo truyền thuyết đạo đức kể lại, Đức mẹ đã truyền cho Thánh Daminh phải quảng bá việc lần chuỗi mân côi như vũ khí chống lại bè rối Albigenser lúc đó đang hòanh hành chống lại Hội Thánh Chúa Kito.
Và từ khởi điểm đó, chuỗi kinh mân côi trở nên linh đạo của Dòng Daminh.
Còn lịch sử ngày lễ kính Đức mẹ mân côi, ngày 07.10. hằng năm có sau này vào thế kỷ thứ 18. trong toàn thể Hội Thánh Công giáo.
Ngày 07.10.1571 trong trận hải chiến giữa quân đội của đế quốc Osman Thổ nhĩ Kỳ và đạo binh thánh dưới thời đức giáo hoàng Pio V., ở vùng biển Lepanto bên Hy Lạp, đạo binh Thánh của Hội Thánh đã dành được chiến thắng cùng chặn đường tiến xâm lăng của đội quân hùng hậu Thổ nhĩ Kỳ.
Chiến thắng này có được là nhờ lời cầu nguyện lần chuỗi đọc kinh mân côi trong toàn Hội Thánh lúc đó. Qua đó Đức Mẹ đã cầu bầu cùng Chúa ban cho sức mạnh chiến thắng kẻ thù. Để nhớ ơn này, Đức giáo hoàng Pio V. đã lập ra ngày lễ kính Đức Mẹ mân côi vào ngày 07.10. 1572 một năm sau để kỷ niệm chiến thắng này.
Và từ thế kỷ 18. ngày lễ này vào ngày 07.10. hằng năm lan rộng trong khắp Hội Thánh là ngày lễ kính trong lịch Phụng vụ.
Việc lần chuỗi đọc kinh mân côi xưa nay là cung cách nếp sống đức tin phổ thông bình dân trong khắp Hội Thánh Chúa Kitô.
Khi đọc kinh mân côi, cùng với kinh Kính Lạy Cha, kinh kính mừng Maria chúng ta lần theo dõi cuộc đời Chúa Giêsu và Đức Mẹ qua những chặng đường suy niệm:
- 1. Năm ngắm suy niệm mùa Vui: Thiên Thần truyền tin, Đức mẹ đi viếng thăm Bà Eisabeth, Đức mẹ sinh Chúa Giêsu nơi hang đá, Đức Mẹ đem Chúa Giêsu vào đền thờ, và Đức mẹ Thánh Giuse tìm gặp lại được Chúa Giêsu đi lạc trong đền thờ.
Năm ngắm mùa Vui này gợi nhắc đến đời sống gia đình con người. Hai vợ chồng từ lúc thành lập gia đình với nhau ngày lễ thành hôn, mối liên hệ với gia đình họ hàng của hai bên, tiếng khóc nụ cười niềm vui mừng hạnh phúc có người con chào đời trong gia đình, bồng ẵm con đến thánh đường xin tiếp nhận làn nước bí tích rửa tội, và việc dạy dỗ uốn nắn con cái trong gia đình.
- 2. Năm ngắm suy niệm mùa Thương: Chúa Giêsu lo buồn, Chúa Giesu bị bắt chịu hành hạ bị đánh đập, Chúa Giêsu bị nhạo báng cho đội triều thiên có gai nhọn đâm vào da đầu, Chúa Giêsu phải vác thập gía đi đến pháp trường, và sau cùng Chúa Giêsu bị đóng đinh treo trên thập gía.
Những chặng đường đau thương này nhắc nhớ đến những đau khổ trong đời sống con người chúng ta. Lẽ dĩ nhiên ngày nay không còn cảnh bị xử dã man tàn ác thập gía như thế vào thời Chúa Giêsu nữa. Nhưng những đau khổ do chiến tranh gây ra, do khủng bố, do bị bệnh tật, do bị đối xửa bất công, bị kỳ thị, bị đe dọa bóc lột, lừa dối chèn ép, bị tuyên truyền đầu độc dưới nhiều hình thức…vẫn hằng luôn xảy ra trên thế giới vào mọi thời điểm.
- 3. Năm ngắm suy niệm mùa mừng thuật lạ việc Chúa Giêsu phục sinh sống lại sau khi chết, việc Chúa Giêsu trở về trời, Đức Chúa Thánh Thần, Đấng là nguồn an ủi, hiện xuống, Đức mẹ Maria được Chúa đưa về trời, Đức Mẹ Maria được đưa về trời là sự thưởng công của Chúa cho Đức mẹ.
Năm sự mừng đời Chúa Giêsu nói lên niềm vui mừng hy vọng cho con người chúng ta rồi cũng sẽ được cùng Chúa sống lại, như Đức Mẹ được Chúa thưởng công cho về trời sống bên Ngài, khi quãng đời đau thương khổ ải ở trần gian qua đi.
Đây không phải là sự an ủi xuông xa vời thực tế đời sống. Nhưng nói lên gía trị linh thiêng cho đời sống. Gía trị đó là niềm hy vọng. Gía trị đó là đời sống không chỉ có thân xác chết là hết là rơi vào hư vô. Nhưng con người còn có phần tâm linh linh hồn linh thiêng nữa, và được Thiên Chúa cứu chuộc, cho được cùng sống lại phục sinh với Chúa Giêsu Kitô.
- 4. Thánh giáo hoàng Gioan Phaolo II., khi còn sinh tiền , đã thiết lập „năm lần chuỗi mân côi", và đồng thời ngài cũng đã lập thêm năm sự sáng vào việc suy niệm lần chuỗi mân côi.
Năm chặng đường sự sáng lần theo những bước đường đời giảng đạo của Chúa Giêsu từ lúc Ngài chịu phép Rửa ở sông Jordan, Chúa Giêsu làm phép lạ cho nước hóa thành rượu ở tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu rao giảng nước trời và ơn thống hối, Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor và Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể.
Năm chặng của năm sự sáng suy niệm những rao giảng nước trời của Chúa Giêsu giúp ta nhớ đến nhân đức Chúa Giêsu đã thực hiện cho đời sống thiêng liêng con người, nhất là bí tích Thánh Thể, một nguồn ơn nuôi sống đức tin tâm hồn người tín hữu Chúa Kitô.
Lần chuỗi đọc kinh mân côi là lời cầu nguyện xin ơn bằng an cho đời sống mỗi người, cho gia đình mình và cho hòa bình trên thế giới. Trong mọi hoàn cảnh đời sống cùng ở mọi nơi, lúc nào cũng có thể cầu nguyện bằng đọc kinh mân côi đọc một mình, hoặc chung với những người khác cùng đọc .
Người tín hữu Công giáo có tập tục nếp sống đạo đức tốt lành mỗi khi có người qua đời, hay ngày lễ giỗ tưởng nhớ người đã qua đời, thường lần chuỗi mân côi năm ngắm mùa thương khó Chúa Giêsu cầu nguyện cho người qúa cố.
Nhiều người có kinh nghiệm khi lần chuỗi đọc kinh mân côi giúp cho dễ dàng ngủ thiếp đi, nhất là những khi trằn trọc không sao nhắm mắt ngủ đi được.
Như thế, có thể nghiệm ra được rằng, khi đọc kinh lần chuỗi mân côi không chỉ giúp phần thiêng linh hồn sống đức tin, nhưng cũng có thể còn là phương dược cho tinh thần được thanh thản nhẹ nhàng tìm được sức khoẻ cho thể xác trong giấc ngủ thiếp đi.
Những ngắm suy niệm kinh mân côi cùng với dấu thập giá, kinh lạy Cha, kinh kính mừng Maria, kinh sáng danh Thiên Chúa là những lời có nguồn gốc trong phúc âm kinh thánh về Chúa Giêsu Kitô. Và như thế kinh mân côi có thể nói đó là những bài giáo lý sống động cùng căn bản cho nếp sống đức tin vào Chúa.
Tháng kính Đức Mẹ Mân côi
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh các Thiên thần.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Trong đời sống hằng ngày có những điều trông thấy được bằng mắt thường.
Nhưng cũng có những vật thể không thể dùng mắt thường dù là có đeo kính có độ vào cũng không thể nhận ra rõ được. Những vật thể đó hoặc quá nhỏ như vi khuẩn, hoặc mang mầu sắc quá tối hay ở cách xa khỏi tầm nhìn của mắt, khiến con mắt thường không thể nhìn ra, nhất là vào ban đêm. Muốn nhìn ra những vật thể này, người ta phải dùng kính hiển vi, viễn vọng kính để nhân to ra hay phải dùng máy có tia hồng ngoại để nhìn vào ban đêm.
Nhưng cũng có những vật thể dù là kính viễn vọng hay kính hiển vi, máy có tia hồng ngoại cũng không thể nhận ra nhân to ra được. Đó là tình yêu, là tình cảm là không khí. Không thể nhìn thấy, nhưng những sự thể này có đó và là điều cần thiết gắn liền với đời sống.
Trong niềm tin đạo giáo cũng có những điều này. Thiên Chúa, Thiên Thần là những nhân vật có đó. Nhưng lại không có chút gì gọi là hình ảnh hay mầu sắc cụ thể, khiến ta có thể dùng các phương cách khoa học tối tân hòng mong nhìn ra các ngài.
Không thể nhìn ra bằng mắt thường các ngài, nhưng ta vẫn có thể nhận ra họ, cảm nghiệm thấy họ nơi những dấu chỉ trong cuộc sống.
Ai là con người cũng có nhu cầu cần được bảo vệ chăm sóc. Từ khi mới thành hình sự sống trong bào thai mỗi người đã được mẹ mình săn sóc bảo vệ rồi. Rồi khi mở mắt chào đời, họ lại cần sự săn sóc bảo vệ của những người khác hơn khi nào hết cho đến khi họ có thể tự đứng lên đi lại, tay cầm mang, miệng nói năng diễn tả được điều mình mong muốn, hoặc tự làm lấy được…
Cả khi đã khôn lớn trưởng thành, ai cũng cần sự bảo vệ săn sóc trong đời sống. Trong gia đình, ngoài đường xá, trong trường học, trong xưởng thợ nơi làm việc có những luật lệ trật tự đặt ra nhằm giúp bảo vệ nhu cầu sự sống của con người. Những luật lệ này nhằm giúp bảo vệ tất cả mọi người, nhất là những người yếu kém, bệnh nạn, người già cả, người bị cô đơn bỏ rơi.
Và có những bảo vệ tuy không có luật lệ gì viết thành văn bản và cũng không thể bàn cãi mổ xẻ được, nhưng những bảo vệ săn sóc đó hằng có đó cho mỗi con người. Đó là nhu cầu được bảo vệ săn sóc về phần tinh thần tâm linh.
Ai có thể cho chúng ta sự bảo vệ săn sóc này ?
Niềm tin tôn giáo giúp mang laị cho con người câu trả lời này. Trong sách Xuất hành Thiên Chúa bảo đảm: Ta sẽ sai Thiên Thần đi trước dẫn đường cho con. Thiên Thần ta sẽ bảo vệ con đi đến nơi, về đến chốn. ( Xh 23, 20).
Và Chúa Giêsu đã khẳng định: Đừng bao giờ khinh dể các trẻ con, vì các Thiên Thần của chúng hằng ở bên ngai Thiên Chúa ( Mt 18,10).
Thiên Thần là những sứ giả của Thiên Chúa được gửi đến cho mỗi người. Thiên Thần đồng hành với ta trong đời sống như Tổng lãnh Thiên Thần Raphael cùng đồng hành bảo vệ dẫn đường cho Tobias đi tìm thuốc chữa bệnh mù lòa cho cha mình.
Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel mang sứ địệp Thiên Chúa cho đức mẹ Maria, cho ông Zacharias trong đền thờ, Thiên Thần hiện trong trong giấc mộng báo tin cho Thánh Giuse phải đem con trẻ Giêsu và mẹ người sang tỵ nan bên xứ Ai Cập, rồi sau lại hiện ra báo tin thúc giục Giuse đưa gia đình thánh gia trở về quê hương Nazareth sinh sống.
Tổng lãnh Thiên thần Michael có tên là sức mạnh của Thiên Chúa chiến thắng thần dữ ma quỉ. Vị tổng lãnh Thiên Thần Michael này được Thiên Chúa cắt đặt sai canh giữ cửa vườn địa đàng sau khi hai Ông Bà nguyển tổ Adong Evà phạm tội bị đuổi ra khỏi vườn. Vị tổng lãnh Thiên Thần Michael này cũng được cho là n gày xưa đã dẫn đường cho dân Do Thái đi băng quay sa mạc, vượt qua biển đỏ trở về quê hương đất nước Thiên Chúa hứa ban từ nước Ai Cập.
Ca đoàn các thiên Thần hiện ra báo tin Chúa Giêsu sinh ra cho các mục đồng nơi hang đá Bethlehem. Hai thiên thần hiện ra canh mồ Chúa Giêsu đã báo tin Chúa Giêsu đã sống lại cho Magdalena.
Khi một em bé ngoan hiền dễ thương, chúng ta hay nói: Em giống như một thiên thần! Hay khi em bé chạy ngã té nằm xoài ra, em khóc kêu la gọi ba má, nhưng không có gì xảy ra thương tích cho em, chúng ta cũng nói ngay: Thiên Thần bản mệnh em gìn giữ che chở em!
Trong đời sống bản thân mỗi người, ai nấy cũng đều có kinh nghiệm về sự bảo vệ này của Thiên Thần bản mệnh, khi bị tai nạn mà thân xác được bình an không bị thương tích gì, hay khi bất ngờ nhận được niềm an ủi từ một người xa lạ.
Và ngay cả mỗi người chúng ta cũng có thể là thiên thần cho nguời khác, khi rộng tay giúp đỡ lẫn nhau, an ủi nhau, trao tặng nhau niềm vui tình người, như Mẹ Terexa thành Calcutta là thiên thần cho những trẻ em, cho những người già yếu bệnh nạn bị bỏ rơi.
Thiên Thần của Chúa là những sứ giả, là sự bảo vệ săn sóc của Chúa cho mồi con người. Nhưng các Thiên Thần là những nhân vật vô hình, vô sắc, vô thanh, không có cánh bay lượn như thấy trong các tranh vẽ.
Chúng ta cảm nhận thấy có Thiên Thần trong tâm hồn, trong mọi biến cố của đời sống.
Thấy mà xem chẳng thấy!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Hình ảnh Thánh sử Mattheo
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cuộc đời Chúa Giêsu ngày xưa trên trần gian được ghi chép thuật lại trong bốn cuốn sách phúc âm.
Cuốn phúc âm thứ nhất do Thánh sử Mattheo viết. Phúc âm của ông viết vào khoảng giữa những năm 80 và 90 sau Chúa giáng sinh, và được Hội Thánh Công giáo xếp vào danh sách là cuốn sách phúc âm thứ nhất tường thuật về cuộc đời Chúa Giêsu.
Đâu là hình ảnh con người Mattheo và sách phúc âm của Ông?
Mattheo là một trong 12 vị Tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu và là người làm nghề thu thuế ( Mt 10, 2-4). Ông đang ngồi bàn viết giấy thu thuế cho chính quyền khi Chúa đi ngang qua gọi “ hãy theo tôi”, Mattheo liền đứng dậy đi theo Chúa Giêsu liền ( Mt 9,9).
Ngoài ra ông còn có tên khác nữa là Levi như Thánh sử Marcô cho biết( Mc 2,14). Ông rời bỏ bàn giấy thu tiền viết giấy chứng nhận thuế theo Chúa Giêsu làm môn đệ, và sau khi Chúa Giêsu trở về trời đã ra đi giảng đạo viết sách phúc âm giáo lý về cuộc đời Chúa Giêsu, những gì ông đã trực tiếp nghe cùng nhìn xem trong cuộc đời 3 năm giảng đạo của Chúa Giêsu ở nước Do Thái.
Tên của Ông theo tiếng Do Thái có nghĩa là “ Qùa tặng của Thiên Chúa”.
Phúc âm của Thánh Mattheo ngay chương mở đầu ( Mt 1,1-17) tường thuật về nguồn gốc gia phả dòng dõi Chúa Giêsu từ Tổ phụ Abraham.
Theo trình thuật này con số 14 ( Mt 1,17) và con số 3 là những con số nổi bật đặc điểm của Thánh sử Mattheo.
Gia phả Chúa Giêsu Kitô được tường thuật trải qua 3 thế hệ, mỗi thế hệ có 14 đời. Theo chỉ dẫn tường thuật đó, ngôi sao Chúa Giêsu giáng sinh có 14 cánh được khắc vẽ trênh nền đền thờ Chúa Giáng sinh bên thành Bethlehem, nơi ngày xưa hài nhi Giesu sau khi sinh ra được đặt nằm trong máng cho xúc vật ăn.
Và Thánh sử cũng còn tường thuật những Nhà Chiêm Tinh – còn gọi là Ba Vua- từ Phương Đông tìm đến Bethlehem thờ lạy Hài nhi Giêsu. Họ mang 3 món qùa tặng “vàng, nhũ hương và mộc dược” kính biếu dâng tiến ( Mt 2, 11). Căn cứ theo ba món qùa tặng đó, xưa nay có truyền thống trong Hội Thánh cho là có ba vị, rồi có cả phụng vụ lễ mừng Ba Vị Vu vào ngày 06.01. hằng năm sau lễ mừng Chúa giáng sinh. Và trong dòng lịch sử thời gian người ta đã lần tìm ra tên của Ba Vị: Caspar, Melchior và Balthasar
Con số 7 cũng là con số đặc điểm của phúc âm Thánh Mattheo. Nơi toàn thể chương 13 Ông thuật lại n hững bài giảng của Chúa Giesu về nước trời qua 07 hình ảnh dụ ngôn: Người gieo giống ( 3-9), Cỏ lùng ( 24-30), Hạt cải (31-32), Men trong bột (33), Kho báu (44), Viên ngọc qúy ( 46) và Chiếc lưới đánh cá ( 47-50).
Nơi chương 23 về những lời khiển trách răn đe các vị Kinh Sư và người Phariseo qua 07 lời “Khốn cho các người là những người gỉa hình” ( 23, 13-32).
Con số 10 cũng là con số đặc điểm trong phúc âm Thánh Mattheo. Nơi toàn thể hai chương 8 và 9 Thánh sử viết thuật lại 10 phép lạ Chúa Giêsu chữa lành cho:
1.Người bị phong cùi (8,1-4)
2.Đầy tớ của viến Đại đội trưởng (8,5-13)
3.Bà nhạc phụ Thánh Phero ( 8,14-15)
4.Mọi kẻ đau bệnh ốm ( 16-17)
5.Hai người bị qủy ám( 28-34)
6.Người bị bại liệt ( 9,1-7)
7.Người phụ nữ bị bệnh băng huyết kinh niên ( 9,18-22)
8.Con gái một vị thủ lãnh sống lại Talitha Kumi( 9,23-26)
9.Hai người mù ( 9,27-30)
10.Người câm bị qủy ám ( 9,32-34).
Con số 10 được Thánh sử Mattheo trình bày nổi bật rõ nét trong dụ ngôn về hình ảnh 10 cô trinh nữ cầm đèn đi đón chú rể. ( 25,1-13).
Và trong dụ ngôn khen thưởng nói về người được trao phó ban cho những khả năng như những nén bạc và đã đi làm ăn sinh lời ra thành 10 nén. (25, 20).
Thánh sử Mattheo viết phúc âm về cuộc đời Chúa Giêsu thường hay có câu ” để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ” như bằng chứng đã có từ thời xưa mà Chúa đã định liệu sắp đặt từ trước rồi.
Thánh sử Mattheo là người làm nghề thu thuế, ngày xưa bị dân chúng cho là những người tội lỗi toa rập với người Roma hà hiếp dân chúng. Nhưng ông đã nghe theo tiếng Chúa kêu gọi” Hãy theo Ta” bỏ bàn giấy thu tiền bạc đi theo Chúa Giêsu.
Là người thu thuế có kiến thức học vấn và biết cách thức làm sổ sách thứ tự rõ ràng. Nên ông đã nghiên cứu truy tầm nguồn gốc tổ tiên dòng tộc Chúa Giêsu , và sắp xếp thứ tự viết thành gia phả dòng tộc Chúa Giêsu ngay nơi chương đầu tiên của phúc âm. Trình bày Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa từ trời xuống trần gian làm người có nguồn gốc dòng dõi như tất cả những con người trong công trình vũ trụ của Thiên Chúa.
Căn cứ theo hình ảnh đó, phúc âm của Ông được trình bày với một biểu tượng hình ảnh một người có hai cánh như một Thiên Thần tay cầm bút viết.
Phúc âm của Theo Thánh Mattheo là cuốn dài nhất trong bốn sách phúc âm với 28 chương , và kết thúc với lời Chúa Giesu đoan hứa bảo đảm:
“ Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28,20).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh suy tôn Thập gía Chúa Giesu
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nhân loại từ hơn hai năm nay sống trong khủng hoảng chao đảo. Vì bệnh đại dịch Covid 19 lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ đời sống con người.
Thời sự lúc này cảnh chiến tranh bên Ukraina đang xảy ra đe đạo khốc liệt đời sống con người, nền hoà bình thế giới trở nên mong manh, đời sống kinh tế khủng hoảng đình trệ…
Và còn thêm tình trạng biến đổi khí hậu, làm cho trái đất nóng lên, hạn hán lũ lụt…khiến đời sống bị đe dọa thêm nữa.
Những cảnh tiêu cực chao đao đảo, khốn khó đau khổ đó là những bước đường “thập gía giăng ngang lối cuộc đời” con người.
Trong đời sống mỗi người đều có thập gía đau khổ. Nhưng không mấy ai muốn nói về thập gía đau khổ. Con người ai cũng mến chuộng mong muốn sự bình an xuôi chẩy hạnh thông cho đời sống mình.
Hầu như nơi mỗi người, từ khi biết nhìn nhận suy nghĩ, đều đã có lần thắc mắc về ý nghĩa của thập gía. Thập gía ẩn hiện trong đời sống. Thập gía có nhiều bộ mặt khác nhau. Thập gía gắn liền trong đời sống dưới nhiều hình thức trong nhiều giai đoạn đời sống.
Người Công giáo tôn thờ suy tôn thập gía Chúa Giêsu. Thập gía Chúa Giêsu là Logo biểu hiệu của đức tin người Công giáo.
Thánh Phaolô đã viết nói lên tâm tư của mình về thập gía với niềm xác tín: “ Thật thế, lời rao giảng về thập gía là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại lại sức mạnh của Thiên Chúa.” ( 1 cr 1, 18)
Nhưng đâu là hình ảnh ý nghĩa thập gía Chúa Giêsu?
Trong dòng lịch sử Giáo Hội Công giáo, ngày 13.09.335 ngôi đền thờ ở Giêrusalem xây trên phần mộ an táng Chúa Giêsu ngày xưa, được khánh thành để suy tôn Thập gía Chúa Giêsu.
Ngày 13.09. cũng là ngày tìm thấy Thập gía Chúa Giêsu đã vác ra pháp trường chịu tử hình. Và ngày 14.09. cây Thập gía Chúa Giêsu Kitô được dựng dương cao trong ngôi đền thờ ở Jerusalem để cho toàn dân chiêm ngưỡng suy tôn.
Từ thế kỷ thứ 05. bên Konstantinopel, rồi thế kỷ thứ 07. bên Roma mừng ngày lễ suy tôn Thập gía Chúa Giêsu.
Khi nói đến dâng nâng một vật gì lên cao, ta nghĩ ngay đến vật đó đã bị hạ nằm xuống dưới mặt đất, và được cất dựng lên khỏi mặt đất.
Kinh nghiệm cảm nghiệm này, con người chúng ta hầu như cũng đều đã có, khi tinh thần hay thân xác mệt mỏi yếu đau, ta ngồi nằm xuống ghế, xuống tận mặt đất nền nhà. Và lúc bừng tỉnh khoan khoái trong người ngồi bật đứng dậy lên cao.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng trước khi được Thiên Chúa Cha nâng lên cao, ngài đã bị hạ xuống từ trời cao xuống trần gian làm người với những đau khổ yếu hèn của một con người. Và sau cùng bị vật nằm đóng đinh trên thập gía cho tới chết. Vào thời Chúa Giêsu cách đây hai ngàn năm thập gía là nhục hình cho người bị kết án, như người Do Thái “ coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ.”( 1 cor 1, 23)
Chúa Giêsu đã bằng lòng chấp nhận khổ hình thập gía thay cho mọi tội lỗi. Vì thế ngài đã có thể giaỉ thoát con người tội lỗi khỏi hình phạt sự chết.
Sự chết của Chúa Giêsu trên thập gía trở thành nơi chốn của vinh quang. Thập gía là dấu chỉ của chết chóc đã trở thành biểu tượng của sự sống.
Thập gía trong đời sống con người chúng ta không vì được Chúa Giêsu cứu độ khỏi hình phạt sự chết mà không còn nữa. Trái lại, thập gía gắn liền trong đời sống mỗi người. Vì thế, trong dân gian có câu nói: “Mỗi người đều có thập gía riêng phải vác!”. Nhưng niềm tin nói cho biết, đàng sau những đau khổ thập gía đó có niềm hy vọng sự sống mới vươn lên.
Phải, hầu như ai cũng đều có kinh nghiệm, đời sống con người chúng ta không dừng lại nơi chặng đau khổ, khó khăn thập gía. Nhưng trái lại con đường đời sống tiếp tục đi tới phía trước.
Thiên Chúa, Đấng tạo thành sự sống, nuôi dưỡng đời sống con người, không để cho đời sống bị lún xuống chìm sâu. Nhưng Ngài muốn cứu độ giải thoát khỏi tội lỗi hình phạt. Điều này thể hiện nơi Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa, đã vác thập gía và chịu chết trên đó mang trao tặng sức lực và niềm hy vọng cho con người sống trong đau khổ bệnh tật yếu hèn, trong bơ vơ chao đảo…phải vác thập gía lần bước đi trong đời sống.
Mừng kính suy tôn thập giá Chúa Giêsu cùng suy tư về ý nghĩa thập gía muốn nói lên tâm tình Chúa Giêsu ở giữa chúng ta trong đời sống.
Qua cảm nghiệm cùng kinh nghiệm về thập gía Chúa Giêsu cùng của mỗi người, chúng ta nhận ra đời sống con người có hai chiều mặt khác nhau, cũng tựa như một tấm huy chương có hai mặt. Hai chiều mặt khắc ghi trong đời sống. Con người chúng ta không thể chỉ mừng vui, và cũng không thể chỉ vác thập gía chịu đựng đau khổ .
Chính vì thế, hằng ngày hay vào ngày Chúa Nhật chúng ta tụ họp dâng thánh lễ mừng kính mầu nhiệm đức tin vào Đấng đã cùng với con người vác thập gía, và không để con người cô đơn lạc lõng trong lúc vui cũng như khi gặp đau khổ vác thập gía.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh giá trị đời sống
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ai cũng đề cao qúi trọng gía trị.
Nơi một đồ vật thể gía trị được nhanh chóng đánh gía bằng tiền bạc, như chiếc xe hơi gía vài chục ngàn, hay vài ngàn… Điều này nói lên gía trị của chiếc xe. Và bằng tiền có thể mua tậu được chiếc xe đó.
Nhưng có những đồ đạc vật thể yêu mến qúi trọng không thể thay thế, hay mua được bằng tiền bạc. Không phải gía trị của vật thể gía mua bán nhiều ít bao nhiêu. Nhưng là gía trị tinh thần gói ẩn trong đó.
Cô Vân đi hành hương, lúc về quên chiếc nhẫn nhỏ bằng vàng ở khách sạn. Về đến nhà thấy không còn chiếc nhẫn, cô thẫn thờ tiếc xót. Sốt ruột cô gọi điện thoại nhờ hỏi bên khách sạn nơi phòng đã trú ngụ, để mong tìm kiếm xin lại chiếc nhẫn bỏ quên bằng mọi gía.
May cho cô. Khách sạn theo chỉ dẫn đã tìm lại được đúng chiếc nhẫn cô để quên trong phòng. Nhận lại được, cô rỡ mừng rỡ hạnh phúc khôn tả. Vì tìm lại được chiếc nhẫn gía trị qúy báu. Cô cho biết chiếc nhẫn theo thời gía không bao nhiêu tiền. Điều này cô không màng tới.
Nhưng điều cô quan tâm gắn bó tới gía trị chiếc nhẫn, vì đó là món qùa tặng của mẹ cho cô, mà bây giờ bà đã qua đời. Đó là chiếc nhẫn kỷ niệm, chiếc nhẫn tình yêu mến mẹ cô dành cho đời cô. Mỗi khi nhìn, đeo chiếc nhẫn đó, cô nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ mình, đến tình mẫu tử.
Cô yêu mến qúi trọng giá trị chiếc nhẫn. Vì món qùa tặng này ẩn hiện hình ảnh người mẹ.
Còn con người có giá trị thế nào? Có thể đánh giá bằng tiền bạc mua bán được không?
Xưa nay không thể mua con người bằng tiền bạc được, dù vẫn có những trường hợp người khác muốn nhận một em bé làm con nuôi,và thỏa thuận trả cho gia đình ruột thịt của em một số tiền... Nhưng thân thể hình hài sự sống em bé không là gía trị hệ tại nơi số tiền trả đó. Em là một con người,. Thân xác sự sống của em có gía trị linh thiêng qúi báu cao cả klhông có gì có thể so sánh được, mà Đấng Tạo Hóa ban cho đời em. Không có gì có thể thay thế cho sự sống linh thiêng của em được.
Người con trai thứ hai bỏ nhà ra đi sống đời tội lỗi ăn chơi phung phí hoang đàng, như dụ ngôn Chúa Giêu Kitô kể trong phúc âm thuật lại ( Lc 15,1-32). Hết tiền sinh sống, anh ta lâm cảnh đói khát bơ vơ hoang mang. Anh thấy mình không còn gì, như không có gía trị gì nữa! Qúa mắc ở xấu hổ. Nhưng hoàn cảnh bó buộc, nên đành trở về nhà để cầu xin sao có miếng ăn no đủ cho khỏi bị chết đói giữa đường…
Nhưng người cha sinh thành ra anh không nhìn qúa khứ hoang đàng đưa đến cảnh nghèo túng đói khát, thân thể tiều tụy của con mình, hầu như làm cho bị mất gía trị nhân phẩm con người. Trái lại, ông vẫn nhìn nhận gía trị của con mình. Với ông giá trị con mình vẫn luôn tồn tại, cho dù cuộc sống bề ngoài sa đoạ tội lỗi, đói rách nghèo khổ của con mình thế nào đi chăng nữa.
Người cha không nói lời gì. Nhưng tâm hồn ông xúc động thổn thức. Ông chạy đến ôm hôn người con mình, sai cho người đi lấy quần áo tốt đẹp mặc cho, trao vào tay chiếc nhẫn tình yêu niềm vui mừng cha con, và còn tổ chức bữa ăn thịnh soạn ăn mừng.
Những cử chỉ này của người cha nhân hậu là hình ảnh không chỉ nói lên niềm vui hạnh phúc, cùng lòng nhân hậu thương xót. Nhưng còn sâu xa hơn nữa: Ông nhìn nhận ra gía trị cao đẹp qúi báu của người con là tài sản linh thiêng cao qúi. Không có gì có thể thay thế, hay đánh đổ tàn phá làm mất đi giá trị cao qúi linh thiêng đó được.
Người cha giầu lòng nhân hậu thương cảm với con mình là hình ảnh tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Ngài không chối từ bỏ rơi ai. Ngài luôn công nhận bảo vệ gía trị của con người, cho dù họ có nếp sống tội lỗi xa lìa hay chối bỏ Ngài, và hằng mong chờ họ trở về với Ngài.
Con người có kinh nghiệm sống sâu xa, vật chất là phương tiện sinh sống. Nó không là tất cả. Nó không làm nên giá trị con người. Nhưng chính con người làm ra nó, và khoác cho nó một gía trị tương đối trong đổi chác mua bán để phục vụ đời sống.
Thánh Phaolô nói lên niềm tin tưởng xác tín: “ Không phải của ăn vật chất làm cho chúng ta có gía trị trước mặt Thiên Chúa.” ( 1 cr 8,8).
Giá trị của con người không thể đem ra so sánh được bằng tiền bạc, hay vật thể đổ chác được. Giá trị con người linh thiêng cao qúi bao la sâu thẳm không có cùng tận.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh chương trình của Thiên Chúa
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Con người xưa nay ai cũng mong muốn có đời sống khoẻ mạnh, có hạnh phúc bình an niềm vui trong đời sống.
Nhưng rất tiếc, nhiều điều không diễn xẩy ra như mong muốn. Đời sống phải đối diện gặp nhiều khó khăn, nhiều thử thách khủng hoảng chao đảo…
Như từ hơn hai năm nay bệnh đại dịch Covid 19 truyền nhiễm lây lan đe dọa sức khoẻ đời sống nhân loại trên hoàn cầu, nạn lũ lụt, hạn hán cháy rừng tàn phá rừng cây, ruộng đồng hoa mầu, đe doạ ngôi nhà thiên nhiên, rồi chiến tranh bên đất nước Ukraina gây cảnh tử vong, tàn phá đường xá nhà cửa, đời sống kinh tế và nền hòa bình thế giới bị đe dọa…
Tất cả đã cùng đang diễn xẩy ra không như con người ao ước mong muốn sự tốt đẹp thịnh vượng, bình an cho đời sống! Thực trạng đó đưa đến suy nghĩ thắc mắc tại sao lại xảy ra những hình ảnh tiêu cực như thế cho đời sống ?
Kinh Thánh sách Khôn Ngoan ( Kn 9,13-18) có tin tưởng suy tư: Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa có chương trình tốt đẹp cho đời sống con người.
Nhưng con người chúng ta không thể luôn luôn nhận ra và cùng không hiểu nổi chương trình của Thiên Chúa:” Ai trong loài người có thể biết được ý định của Thiên Chúa? Hay ai có thể suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn? “ ( Kn 9,13).
Chúng ta phải sống chịu đựng cảnh thử thách, sự tiêu cực không như mong muốn, nhưng làm sao có thể hiểu được chương trình tốt đẹp của Thiên Chúa cho đời sống mình?
Kinh Thánh nơi sách Khôn Ngoan đưa ra hướng dẫn:” Ai hiểu thấu Thánh ý của Chúa, nếu Chúa không ban sự khôn ngoan, và không sai Thánh Thần Chúa từ trời cao xuống.” ( Kn 9,17).
Như vậy phải chăng với sự khôn ngoan của Thiên Chúa và Thần linh của Ngài chúng ta có thể hiểu được nhiều sự tốt hơn?
Được cho là khôn ngoan, khi người nào đó từ tận trong trái tim tâm hồn có thể hiểu nhận ra nếp sống hài hòa tốt đẹp với những người khác, với thiên nhiên trong trời đất.
Cũng được cho là khôn ngoan, khi người nào đó có thể đi đến quyết định tốt đẹp đúng đắn trong những hòan cảnh tế nhị khó khăn có nhiều đòi hỏi thách đố.
Kinh Thánh trình bày trong niềm xác tín, sự khôn ngoan của Thiên Chúa to lớn bao la, Ngài là người ban phát, là Thầy dậy là mẫu mực của khôn ngoan. Thiên Chúa tự chính mình là sự khôn ngoan.
Sự khôn ngoan của Ngài thể hiện nơi sự sáng tạo trong vũ trụ, sáng tạo sự sống con người và nuôi dưỡng sự sống con người về thân xác, hơi thở cùng trí khôn suy nghĩ phát triển suy nghĩ.
Người Kitô giáo chúng ta tin nhận rằng Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xuống trần gian sống làm người giữa chúng ta, đã chỉ ra sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu Kitô là người khôn ngoan nhất trên vũ trụ. Ngài đã đến trần gian sống gây mang niềm vui hạnh phúc. Sự khôn ngoan của ngài thể hiện nơi sự chữa lành, nơi sự nâng đỡ ủi an con người.
Như thế, dù không sao hiểu được những tiêu cực trong đời sống xẩy ra, nhưng với sự tin tưởng vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng là sự khôn ngoan, Đấng không bỏ rơi con người, nhưng hằng đưa bàn tay ra nâng đỡ che chở công trình vũ trụ cùng con người trong mọi trường hợp.
Thiên Chúa ban tặng con người Thần Linh của Người, mà chúng ta gọi là Đức Chúa Thánh Thần. Thần linh Thiên Chúa giúp tâm trí hiểu nhận ra chương trình của Ngài cho đời sống.
Con người qua Chúa Giêsu Kitô là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, trong Chúa Thánh Thần hiểu nhận ra, Thiên Chúa cùng hằng đồng hành với trên con đường đời sống.
Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho con người trên đường lữ hành trần gian.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh cung cách sống lòng khiêm nhượng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cung cách sống lòng khiêm nhượng là một đức tính tốt, một nhân đức thánh thiện anh hùng luôn được khuyến khích đề cao. Nhưng trong thực tế đời sống đức tính nhân đức khiêm nhượng, nhất là ngày hôm nay, thường bị cho là cổ hủ, là thụt lùi dậm chân tại chỗ…
Vì đời sống cạnh tranh trong xã hội đòi buộc phải tỏ ra có bản lĩnh vượt thắng những khó khăn thách đố, rào cản chắn lối, phải tiến tới phía trước, phải trổi vượt có thành tích, sáng kiến hay mới lạ!
Còn trong lãnh vực tinh thần đạo giáo thì hình ảnh cung cách nếp sống này như thế nào?
Hiểu ý nghĩa lòng khiêm nhượng không dễ dàng đơn giản, vì liên quan gắn bó với nếp sống của con người.
Có người tự nguyện sống đơn giản. Họ bằng lòng với hiện tại với điều có, họ không đòi hỏi gì khác. Cung cách nếp sống khiêm nhượng đơn giản này, không có gì trổi vượt sáng chói, nhưng mang đến cho đời sống sự bằng lòng trong niềm vui. Đây là cung cách nếp sống lòng khiêm nhượng chống lại sự kiêu ngạo.
Có người vì hòan cảnh đời sống, không tự nguyện, nhưng phải chấp nhận như mình có. Họ khép mình cùng thích nghi với môi trường hoàn cảnh sống. Một nếp sống khiêm nhượng trong tương quan với hoàn cảnh đời sống.
Sách Jesus Sirach 3, – Sách Huấn ca – nói về lòng khiêm nhượng trên căn bản cung cách nếp sống nơi con người trong chiều tương quan với Thiên Chúa và với con người.
Trong tương quan với Thiên Chúa, lòng khiêm nhượng thể hiện trong sự kính trọng và lòng tin tưởng: Vì quyền năng Thiên Chúa thì lớn lao, Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. ( Huấn ca 3, 20).
Người tin tưởng vào Chúa, nhận hiểu ra sự khác biệt giữa Thiên Chúa, đấng Tạo Hoá, và con người, loài thụ tạo.
Con người là tạo vật yêu qúi được Thiên Chúa tạo thành nuôi dưỡng. Không có Thiên Chúa con người chẳng là gì. Nhưng con người không phải là hình nộm diễn kịch trên sân khấu của Thiên Chúa. Trái lại họ là người có tự do, có trí tuệ suy nghĩ phát triển do Thiên Chúa tạo dựng sinh thành.
Tâm tình lời cầu nguyện cậy trông, cung cách tôn kính tuân phục thờ phượng Thiên Chúa trình bày diễn tả lòng khiêm nhượng. Và như thế nói lên danh vọng, tiếng tăm thành tích qua đi, nhưng duy chỉ có Thiên Chúa vẫn luôn tồn tại. Ngài là khởi đầu, hiện tại và cùng tận. Ngài là Đấng ban tặng con người sự sống hôm nay và ngày mai.
Trong chiều tương quan với con người, tác gỉa sách Huấn ca nêu ra lời kinh nghiệm khôn ngoan: “: Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách nhũn nhặn, thì con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng.” ( Huấn ca 3, 17).
Cung cách nếp sống thực tế lịch sự nhũn nhận này tỏ ra sẵn sàng quên mình, không cho mình là chính, là quan trọng. Cung cách nếp sống nhũn nhặn này hướng tầm nhìn tới người chung quanh mình trong tình bác ái liên đới.
Thánh Phaolô có suy tư về cung cách nếp sống bác ái lòng khiêm nhượng: ”Anh em đừng làm gì vì cạnh tranh hoặc háo danh, nhưng mỗi người với tất cả sự khiêm tốn, hãy coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm tư lợi, nhưng hãy tìm lợi ích của người khác nữa” (Pl 2,1-4).
Mẹ Thánh Terexa thành Calcutta cả đời hiến thân phục vụ người nghèo trong xã hội bên Ấn Độ, đã có tâm tình về khía cạnh cung cách nếp sống lòng khiêm nhượng:
“ Thực ra công việc của chúng ta không quan trọng, nhưng là công việc đơn giản khiêm nhượng nhất. Gíá trị công việc hệ tại nơi tinh thần tình yêu hướng về Chúa nơi tâm hồn. Người ta không thể yêu mến Chúa, mà không có tình yêu mến người khác.
Mặt khác người tu sĩ truyền giáo cho tình yêu vì người khác không bao giờ được quên lời Chúa Kitô Giêsu nhắn nhủ trong dụ ngôn ngày phán xét chung thẩm:” Ta đói , con đã cho ta ăn…” Điều nay chúng ta cố gắng thực hiện: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc. Tìm kiếm Chúa Kitô Giêsu nơi những người nghèo hèn khốn cùng, nơi người hấp hối sắp qua đời, nơi người người bệnh, nơi người mồ côi bơ vơ bị bỏ rơi.
Công việc của chúng ta khởi đầu với những trẻ em bị bỏ rơi bên lề đời sống. Những trẻ em này không phải chỉ có ở một nơi, nhưng rất tiếc buồn thảm thay luôn có trở lại. Có một lần trong những năm đầu tiên hoạt động bác ái của Dòng chúng tôi, cảnh sát dẫn đến cho chúng tôi một nhóm trẻ em trong trại tù bị giam hãm. Vì chúng bị bắt gặp phạm tội ăn cắp. Tôi hỏi các em, tại sao các em làm như vậy. Chúng trả lời, mỗi ngày từ 17 giờ tới 20 giờ chúng con được người lớn dậy cho kỹ thuật ăn trộm ăn cắp.” ( Mutter Teresa, Leben, um zu lieben. Jahreslesebuch, Herder 1999, trang 51.).
Cung cách nếp sống khiêm nhượng không tỏa ra thành tích sáng chói, nhưng mang lại niêm vui sự bình an cho con người.
Sách Huấn ca có suy niệm sâu xa hơn về cung cách đối nghịch với nhân đức lòng khiêm nhượng “ Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xẩy xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó. ( Huấn ca, 3, 28).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh cửa hẹp
- Viết bởi Dân Chúa
Cửa thành phố thường rộng thênh thang cho nhiều người cùng đi vào, đi ra cùng một lúc.
Cửa thánh đường cũng rộng, nhưng không to rộng bằng cửa thành phố.
Cửa nhà ở cũng rộng, nhưng nhỏ hẹp hơn nhiều về chiều cao cũng như chiều rộng cửa thành phố, cửa thánh đường.
Cửa dinh Tổng Thống, dinh Thủ Tướng, dinh Tỉnh trưởng…rộng cao cùng đẹp. Nhưng lại mang hình ảnh biểu tượng là cửa hẹp. Vì chỉ một người nào được người dân đất nước tín nhiệm chọn bầu làm Tổng Thống, làm Thủ tướng, làm tỉnh trưởng được vào thôi.
Hình ảnh cửa trong nếp sống niềm tin tôn giáo thì thế nào?
Chúa Kitô Giesu khi đi rao giảng nước Thiên Chúa cho trần gian đã qủa quyết chính Ngài là cửa dẫn vào sự sống ơn cứu độ cho con người.
Và Ngài vạch ra cung cách lối sống chọn lựa cửa: “ Có kẻ hỏi Chúa Giesu: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Nhưng Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy cố gắng chiến đấu vào qua cửa hẹp…” ( Lc 13, 24).
Cửa rộng hay hẹp đều ẩn chứa ý nghĩa cho đời sống. Con người thường ai cũng thích muốn đi qua lối cửa cao rộng cho dễ chịu thông thoáng cùng nhanh chóng.
Đi qua lối cửa hẹp chật chội phải thứ tự chờ đợi tới phiên, rồi còn phải thu mình, thu đồ đạc mang theo lại cho gọn mới qua lọt được. Như thế theo bản tính tự nhiên của con người không dễ chịu, nên ngại không muốn đi qua lối cửa chật hẹp...
Trong đời sống luôn có cửa hẹp làm bằng chất liệu vật lý, và nơi mỗi người cũng đều có những cửa hẹp tinh thần.
Nơi đền thờ Chúa giáng sinh bên Bethlehem chỉ có một cửa duy nhất ra vào, mà cửa đó vừa nhỏ lại vừa thấp chật hẹp. Khi ra cũng như khi vào, chỉ một người qua lọt được thôi, và phải khom lưng cúi đầu xuống để không bị va chạm đụng vào đố xà cửa bằng đá phía bên trên.
Chúa Kitô Giesu, Con Thiên Chúa là Đấng cao cả, đã từ trời cao hạ mình sinh xuống trần gian làm người như một em bé sơ sinh được đặt nằm trong máng đựng rơm cỏ cho xúc vật ăn. Vì thế, chiếc cửa nhỏ chật hẹp nơi đền thờ của Chúa muốn nhắc bảo cho người đi vào cũng phải có thái độ khiêm cung khom lưng cúi đầu xuống để vào bái kiến thờ lạy Đấng đã khiêm nhường từ trời cao hạ mình xuống mặt đất làm người.
Rồi khi vào đền thờ có ngôi mộ trống nơi Chúa Kitô Giêsu đã được an táng ở Jerusalem, mà Ngài đã chỗi dậy sống lại, người hành hương cũng phải khom mình cúi xuống đi chui qua ngõ cửa nhỏ thấp chật hẹp chỉ cho một người, mới vào tới căn phòng huyệt mộ có ngôi mộ thánh trống.
Cửa nhỏ thấp chật hẹp nơi ngôi mộ thánh trống nhắc nhớ đến cung cách sống cúi mình xuống đất là nguồn gốc con người được tạo thành từ đất cát. Khi vào tới ngôi mộ trống nhắc nhớ đến Đấng được an táng nằm trong ngôi mộ dưới lòng đất đã sống lại lên trời cao, nơi là ngai chỗ ở của Ngài. Và trời cao cũng là quê hương con người mong đợi được đạt tới, sau quãng đời hành trình trên trần gian.
Cuộc sống ở đời, con người trong bất cứ lãnh vực nào cũng đều phải trải qua cửa hẹp, nhất là cung cách nếp sống tinh thần đạo giáo đòi hỏi nhiều hy sinh cố gắng liên tục.
Người tập luyện thể thao, thể lực phải giữ đều đặn kỷ luật chương trình huấn luyện đề ra, người học sinh, sinh viên, nhà giảng thuyết, nhà khoa học…phải luôn luôn mài rìu công việc sách vở, nghiên cứu tìm hiểu khám phá. Họ phải nỗ lực liên tục chiến đấu ép mình vượt qua tính khí luôn thích muốn sự dễ dãi nhanh chóng. Sống theo kỷ luật hy sinh từ bỏ là hình ảnh biểu tượng cửa hẹp. Vượt qua được cửa hẹp đó, họ mới đạt tới đích điểm gặt hái được thành công.
Ngày 28. Tháng Hai năm 2013 đức giáo hoàng Benedictô 16. đã từ bỏ cửa rộng cao ngôi giáo hoàng bước xuống thu mình đi vào khung cửa hẹp nhà Dòng Mẹ Thiên Chúa sống đời ẩn dật cầu nguyện.
Ngày 29.07.2022 ngày cuối cùng chuyến thăm đất nước Canada, Đức thánh cha Phanxicô đã có buổi trò truyện gặp gỡ các tu sĩ Dòng Tên. Ngài đã dùng hình ảnh “ sự mong manh” của bản tính con người nói về cửa hẹp đời sống con người:
“Này Marc, tôi có ấn tượng về một chữ cha đã nói, "sự mong manh." Đã rất nhiều lần chúng ta nghe người ta nói rằng Dòng Tên là đội quân của Giáo hội, đội quân hùng mạnh… tất cả chỉ là tưởng tượng! Chúng ta không bao giờ nên nghĩ về sự tự mãn của mình. Tôi tin rằng sức mạnh thực sự của một tu sĩ Dòng Tên bắt đầu bằng việc tự ý thức được tính mong manh của chính mình. Chính Chúa là Đấng ban sức mạnh cho chúng ta.” ( Cùng nhau bước đi: Đức Phanxicô trò truyện với các tu sĩ Dòng Tên, Vietcatholic, 13. Aug. 2022)
Trong đời sống tinh thần luôn đòi buộc phải đi qua cửa hẹp khi:
giữ kỷ luật tập luyện thói quen nhân đức, tính tình tốt lành thánh đức,
kính trọng sự sống trong vũ trụ thiên nhiên
từ bỏ điều chiều theo ý thích ham muốn cảm quan và sự dễ dãi nhanh chóng.
chu toàn việc bổn phận hằng ngày
Cửa hẹp, con người ai cũng ngại cùng sợ phải đi qua lối này. Vì phải tập luyện giữ kỷ luật liên tục, hy sinh chiến đấu cố gắng chịu đựng cả đau khổ nữa. Nhưng khi đi qua được, lại đạt tới cửa thành công cho đời sống, cửa bình an cho tâm hồn, và cửa ơn cứu độ của Chúa cho linh hồn.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh niềm hy vọng ủi an.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nhân loại đang sống trong hoang mang lo sợ, vì bệnh đại dịch lây lan truyền nhiễm kéo dài từ hơn hai năm nay, rồi chiến tranh lúc này bên đất nước Ukraina gây cảnh tàn phá tử vong, bỏ quê hương xứ sở di cư đi tỵ nạn, đời sống tinh thần văn hóa cùng kinh tế xuống dốc, chao đảo xáo trộn mất an ninh... Và bây giờ tình trạng khí hậu thiên nhiên, môi trường đời sống trong vũ trụ cành lúc càng nóng lên, nước trở nên khan hiếm, rừng cây bị cháy bị tàn phá hủy hoại, đời sống kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề…là đề tài nóng bỏng thời sự, là nỗi lo âu to lớn của nhân loại khắp hoàn cầu.
Trong hoàn cảnh như thế, con người đi tìm kiếm bến bờ niềm an ủi hy vọng không chỉ cho đởi sống lúc này, nhưng họ còn có tâm tình suy nghĩ tin tưởng sâu xa hơn nữa: một đời sống bên kia sau quãng đời trên trần gian! Họ trông mong một đời sống thiên đàng bên kia thế giới trần gian này…
Khi đọc kinh lần chuỗi mân côi, nơi chặng thứ năm mùa Mừng có lời suy ngắm cầu xin: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời. Ta hãy xin Đức Mẹ phù hộ cho ta được thưởng cùng Đức Mẹ trên nước thiên đàng.
Lời suy niệm cầu xin này diễn tả tâm tình mừng kính Đức mẹ được Thiên Chúa đưa lên trời hồn xác sau cuộc sống trên trần gian, mà Giáo hội mừng lễ này hằng năm vào ngày 15. Tháng Tám giữa mùa hè nóng bức.
Con người được Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, sinh thành tác tạo cho sống trên trần gian có giới hạn về thời gian sinh sống. Vì thế, tâm hồn con người, nhất là người tín hữu Chúa Kitô, có suy nghĩ hướng về một đời sống sau này trên trời.
Nhưng hình ảnh trời được hiểu như thế nào? Phải chăng đến một lúc nào đó trong đời sống trời bỗng dưng ụp xuống trên ta?
Theo trí tưởng tượng Trời được vẽ trình bày là một không gian xa xôi tận trên cao, vượt xa khỏi tầm nhìn của con mắt vươn tới, cùng cả trí hiểu biết tưởng tượng ra nữa. Trời có chiều kích không gian luôn ẩn hiện trong tâm trí đầu óc con người.
Theo đức tin Kiô giáo, Trời thể hiện cụ thể với hình hài nơi thân thể của Đấng đã từ trời cao xuống trần gian làm người ở thành Nazareth bên nước Do Thái từ trước đây hơn hai ngàn năm: Chúa Kitô Giesu, Con Thiên Chúa. Nơi Chúa Kitô Giesu, Thiên Chúa ở giữa con người trần gian. Trời cao đã xuống sinh sống với con người trần gian.
Thiên Chúa nơi Chúa Giesu Kitô đã chia sẻ thân phận nếp sống với con người, để con người trần thế có được đời sống không còn bị là nô lệ cho tội lỗi nữa. Chúa Giêsu Kitô mang đến sự bình an, niềm vui và sự sống cho con người trần gian.
Chúa Giêsu Kito đến trần gian không phải để nhân danh Thiên Chúa luận tội kết án, nhưng để cứu độ trần gian cho khỏi hình phạt của tội lỗi. Vì thế con người không cần hoài nghi lo âu đến một lúc nào đó trời bỗng dưng ụp xuống trên thân thể. Trời đang ở giữa trần gian.
Hằng năm người tín hữu Chúa Kitô mừng kính lễ Đức mẹ Maria về trời, sau quãng đường đời sống trên trần gian. Đức mẹ Maria là con người tiên khởi, trong số những người đã đi vào giấc ngủ ngàn thu, được Thiên Chúa cất nhắc đưa về trời cả hồn lẫn thân xác.
Đức Mẹ Maria đã đạt tới đích điểm về tới trời, đó là niềm tin của chúng ta, và cũng nói lên niềm hy vọng sau cuộc sống giới hạn trên trần gian, con người cũng được Thiên Chúa cứu độ thâu nhận như Đức mẹ: xin Đức Mẹ phù hộ cho ta được thưởng cùng Đức Mẹ trên nước thiên đàng!
Lễ mừng kính Đức mẹ Maria về trời là lễ của tất cả mọi tín hữu tin theo Chúa Giêsu Kitô, với niềm trông mong, sau quãng đời hành trình trên trần thế, cũng được Thiên Chúa cứu độ cho về trời như Đức mẹ Maria.
Như Đức mẹ Maria đã bước qua ngưỡng cửa sự chết nghìn thu sang vào sự sống, con người chúng ta cũng xin được như vậy. Đức mẹ Maria đã trở nên hình ảnh dấu chỉ niềm hy vọng an ủi cho con người.
Trời cao đã không ụp xuống trên Đức mẹ Maria. Nhưng Đức mẹ đã cưu mang Trời cao là Chúa Giesu Kitô ngay trong cung lòng mình. Lời xin vâng bằng lòng cho chương trình như ý Thiên Chúa muốn thực hiện đã khiến Maria trở thành mẹ của con Thiên Chúa, Đấng từ trời cao xuống trần gian làm người với thân xác hình hài một con người giữa trần gian.
Con người có thể gặp được trời ngay trong đời sống. Đức giáo haòng Benedictô 16. đã có suy niêm:” Trời không phải là một nơi chốn vượt xa khỏi trên những vì tinh tú. Trời là điều gì lớn lao hơn nhiều. Qua Chúa Giêsu Kitô, Đấng bị đóng đinh và đã sống lại, con người có chỗ ở nơi Thiên Chúa…Có Thiên Chúa là có trời.”
Trong Chúa Giêsu Kitô trời đã xuống trần gian, để con người qua gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô tìm được trời và sự sống cho tương lai mai sau.
Mừng lễ Đức Mẹ hồn xác về trời
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hình ảnh ngọn đèn cháy sáng
- Hình ảnh Thánh lễ Misa
- Hình ảnh hành trang trong đời sống
- Hình ảnh sai đi tới con người
- Hình ảnh „Năm xưa cây sồi làng Fatima“
- Hình ảnh với trái tim và linh hồn.
- Hình ảnh đặt tay truyền chức thánh
- Hình ảnh thời sự Giáo Hội Công giáo nước Đức
- Hình ảnh hai khuôn mặt của Thánh Phero và Phaolo
- Hình ảnh công trình thiên nhiên