Hình ảnh con cá
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cá là loài thủy vật được Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, tạo dựng trong công trình sáng tạo vũ trụ vào ngày sáng tạo thứ năm. ( Sách Sáng Thế 1,20-23).
Không gian sinh sống , phát triển của loài cá là dòng nước ngoài biển khơi, trong lòng sông, khe suối, ao hồ…
Nước là một trong bốn yếu tố căn bản cho sự sống thiên nhiên phát triển tồn tại. Không chỉ cá cần có nước, nhưng các loài tạo vật trong thiên nhiên như các loại cây cỏ rau hoa, loài thú vật động vật và con người cũng luôn cần phải có nước cho sự sống phát triển tồn tại.
Đấng Tạo Hóa đã sáng tạo hàng trăm hàng ngàn không biết bao nhiêu loài cá hình thù to nhỏ, mầu sắc khác nhau, cùng ở những vùng biển châu lục đất nước khác nhau trong thiên nhiên, như loài cá sống trong nước mặn ngoài đại dương, loài cá sống trong vùng nước ngọt nơi sông hồ, có loài cá sống tận vùng sâu dưới nền lòng biển, hoặc nơi bùn đất sông hồ, có phần nhiều cá đẻ trứng, nhưng cũng có loài cá sinh con như cá ông voi, cá mập…và nuôi con bằng sữa mẹ. Có những loài cá có da trơn, nhưng cũng có loài cá da có vẩy đan chen xếp bao bọc thành từng lớp che chở cho thân thể của chúng.
Đây là điều lạ lùng cùng mầu nhiệm bí ẩn trong thiên nhiên mà Đấng Tạo Hoá sắp đặt sáng tạo thực hiện cho vũ trụ.
Loài cá gợi đến hình ảnh gì cho đời sống con người?
Xưa nay cá là thực phẩm dinh dưỡng nuôi sống trong thiên nhiên. Cá nhỏ là thực phẩm cho loài cá lớn, cho những thú động vật khác như loài Gấu, loài chim bay lượn trên bầu trời, và cùng cần cho cả con người nữa.
Cá được con người trong nền văn hóa dân gian xưa nay nấu nướng biến chế ra những món ăn thực phẩm thơm ngon hấp dẫn. Và càng ngày người ta phải nuôi các loại cá, nhất là loài cá qúi cao cấp, sao cho sinh sản ra nhiều cùng mau lớn, để kịp có đủ cung cấp cho nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng thêm nhiều.
Và cũng có mối lo âu là nếu không gìn giữ bảo vệ nước thiên nhiên, thì không gian môi trường sinh sống của loài cá bị hạn chế, bị phá hủy gây nguy hiểm cho thiên nhiên, cho sự sống trong vũ trụ.
Cá được cho là biểu tượng hình ảnh sự sống và hình ảnh về sự sinh sản phong phú nhanh theo cấp số nhân Một con cá mái sinh đẻ không biết bao nhiều trứng cá trong đời nó. Và trong nhiều nền văn hóa dân gian cá được cho là loài mang lại hạnh phúc không cùng và không có gì cản lại được.
Hình ảnh loài Cá đóng vai trò biểu tượng rất đặc biệt trong văn hóa Kitô giáo.
Tiếng Hylạp chữ cá ICHTHYS được đọc thành: JesousChristosTheouHyiosSoter
I Jesous: Giêsu,
C Christos: Kitô,
TH Theou: Thiên Chúa
Y Hyios: Con
S Soter , Đấng cứu thế
Chúa Giesu Kitô, Con Thiên Chúa, đấng cứu thế
Hình ảnh cá là biểu tượng cho linh hồn, nhất là chỉ về Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu thế trần gian
Ngôn sứ Jona theo kinh thánh thuật lại ( Sách Jona 2,1-11) bị các thủy thủ quăng ném xuống biển cho chết, nhưng ông được một con cá lớn nuốt vào bụng. Jona ở trong bụng con cá ba ngày đêm liền. Sau đó con cá này đưa ông vào gần bờ và nhả ném bắn ông lên bờ. Thế là ông được cứu sống không bị chết chìm dưới lòng nước đại dương. Đây là hình ảnh biểu tượng nói về nấm mồ chôn Chúa Giêsu ba ngày, và sự phục sinh sống lại của Người ra khỏi nấm mồ.
Cá và bánh , năm chiếc bánh và hai con cá mà Chúa Giesu Kitô dùng làm phép lạ cho năm ngàn người ăn dư thừa năm xưa bên bờ hồ Galileo, nước Do Thái, là hình ảnh chỉ về phép Thánh Thể. Địa điểm phép lạ này ngày nay còn vết tích có tên Tabgha.( Mc 6 ,35-44)
Sau khi sống lại Chúa Giêsu Kitô phục sinh đã hiện ra và nói cho các Tông đồ thả lưới bên phải thuyền sẽ bắt được cá. Các ông đã làm như vậy, và có được mẻ cá nhiều chưa từng có mà lưới không bị đứt rách. Rồi Chúa Giêsu nướng cá cho các Môn đệ cùng ăn bên bờ hồ. Nơi đây ngày nay còn di tích có ngôi nhà nguyện nhỏ tên là Mensa Christi ( Ga 21,3-12). Đây cũng là hình ảnh chỉ về Bí Tích Thánh Thể.
Trong số 12 Môn đệ mà Chúa Giêsu kêu gọi tuyển chọn có những Ông làm nghề chài lưới đánh cá như Ông Phero, Ông Anrê…cho Hội Thánh của Ngài ở trần gian.
Ở các hang toại đạo ( Catakomben) bên Roma vào thời kỳ các Kitô hữu bị cấm cách bắt bớ, vào khoảng thế kỷ thứ nhất cho đến thế kỳ thứ tư khi đạo Công giáo được loan truyền nơi đây, họ đã trốn vào những nơi đây để hội họp đọc kinh dâng thánh lễ, và họ đã vẽ hình con cá dọc trên tường vách là dấu hiệu bí mật chỉ đường từ cửa hầm ra vào. Hình con cá nơi các hang toại đạo là hình ảnh cổ xưa nhất trong lịch sử Hội Thánh Công giáo dùng nói chỉ về Chúa Giêsu Kitô.
Người tín hữu Chúa Kitô từ ngày lãnh nhận làn nước Bí tích rửa tội được hiểu như con cá, có đời sống đức tin mới trong dòng nước rửa tội nơi cộng đoàn hội Thánh Chúa ở trần gian.
Trong dân gian khi ai có nếp sống vững chắc vui vẻ hòa nhã, người đó được ca ví : “Hạnh phúc nhanh nhẹn như con cá bơi lội trong nước!”, hay “ Con cá sống vì nước” để nói lên nhu cầu sự cần thiết trong đời sống.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh hoài nghi thắc mắc
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong suốt dọc đời sống, nhất là nơi trẻ con bạn trẻ, thường có thắc mắc tại sao lại như thế, có thật đúng như vậy không?
Lớn lên đi học, rồi hội nhập vào cuộc sống trên trường đời, những thắc mắc hoài nghi vẫn không hết, và có khi còn nhiều hơn nữa.
Thắc mắc hoài nghi giúp tâm trí mở rộng hiểu biết thêm, dù câu trả lời nhiều khi không thể cắt nghĩa hết tất cả được, từ phía có thắc mắc và từ phía đưa ra câu trả lời.
Thắc mắc hoài nghi có trong đức tin tinh thần tôn giáo không, và điều đó vẽ nên hình ảnh gì?
Đức tin vào Thiên Chúa của đạo Công giáo là một con đường trong dòng sông con đường đời sống của con người trần gian. Vì thế sự thắc mắc hoài nghi của con người về các mầu nhiệm đức tin, về sự sống thiên nhiên không là điều ngoại lệ luật trừ.
Phúc âm Chúa Giêsu Kitô thuật lại ( Ga 20,19-31) biến cố Ông tông đồ Toma có thắc mắc hoài nghi về Chúa Giêsu Kitô đã sống lại"Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".( Ga 10,25)
Xưa nay cũng vì thế dân gian hay có hình ảnh so ví, để vui thôi: Sao yếu nhân đức tin như ông Thánh Tôma vậy!
Khi nghe các anh em tông đồ nói Chúa Giêsu thầy mình đã sống lại, Thánh Toma không vội tin ngay. Ông không đòi phải có dấu chỉ biến cố to lớn phép lạ lùng nào làm bằng chứng thuyết phục. Nhưng Toma chỉ muốn cảm nhận được đau khổ nơi những vết thương của Chúa Giêsu qua nhìn cùng đụng chạm vào, mà người ta đã vì không tin Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, đã hành hạ lên án đóng đinh Người vào thập giá. Toma theo suy nghĩ thực dụng và muốn chính thần kinh nơi tay mình cảm nhận sự đau khổ của Chúa Giêsu nơi những vết thương hành hạ ở thân xác.
Chúa Giêsu Kitô sống lại hiện ra có cả Toma hiện diện, nhưng Ngài đã không trách cứ Toma vẫn còn hoài nghi thắc mắc. Ngài thông hiểu sự đau buồn, sự bơ vơ hoang mang của các học trò môn đệ mình bây giờ không còn Thầy mình nữa, như ngày trước lúc nào Thầy trò hằng bên nhau.
Chúa Giêsu Kitô sống lại hiện ra không với uy quyền sức mạnh, không với ánh hào quang vinh hiển chói sáng, không với vòng triều thiên vương miện và không với cây gậy chỉ huy.
Chúa Giêsu Kitô sống lại cũng không hiện ra như ở nơi phòng bũa biệc ly sau cùng chiều hôm trước đó, để khiến Toma phải lúng túng ngượng ngùng. Không, Ngài hiện đến với lời chào chúc bình an và với những vết thương nơi thân thể mình.
Chúa Giêsu Kitô sống lại hiện ra không trách cứ Toma là người cứng lòng không có nhân đức tin. Nhưng tiến đến gần bên Toma thân thiện tình nghĩa thầy trò ngỏ lời: Đây là những viết thương nơi thân thể của Thầy, mà con muốn nhìn thấy tận mắt. Hãy dùng ngón ta của con đụng chạm vào đó đi, con sẽ cảm nghiệm nhận ra sự đau khổ của Thầy đã chịu đựng, như lòng con mong muốn! Và hãy tin Thầy đã sống lại rồi, Thầy vẫn hằng sống động trong trái tim tâm hồn đời sống con người trần gian, như các anh em của con đã làm chứng báo tin cho mọi người!
Chúng ta trong đời sống không phải tin hết những gì người ta nói thuật kể lại. Vì luôn hằng có những chuyện thuật kể hoang đường bày bịa thêu dệt không đúng sự thật. Biến cố Chúa Giêsu Kitô sống lại xử sự với Thánh Toma chỉ cho ta bài học trong đời sống sự hoài nghi thắc mắc không là điều xấu, có khi còn quan trọng nữa, và cũng quan trọng như thế là tìm hiểu cho rõ về điều thắc mắc hoài nghi nữa.
Ờ đây đức tin vào Chúa Giêsu sống lại là điều quan trọng, là trung tâm cốt lõi của đức tin, chứ không phải những chi tiết nhỏ nhặt không quan trọng, như hỏi xem cây cỏ, lá cây hay bầu trời mầu xanh.
Như trường hợp của Ông Toma ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa Giêsu chấp nhận sự hoài nghi thắc mắc của con người, cùng thông hiểu sự hoài nghi thắc mắc của con người.
Người tin, mà không nhìn thấy bằng con mắt, nhưng bằng trái tim tâm hồn có thể cảm nhận được niềm vui hạnh phúc từ tận trong tâm hồn. Dẫu thế, những ai không có khả năng được như vậy, cũng không phải là người yếu kém lòng tin, người thua kém.
Người nào, như tông đồ Toma không đơn giản tin vào Chúa Giêsu Kitô như được các vị tông đồ báo tin, được phép đặt niềm hy vọng cậy trông vào lòng thương xót của Chúa, Ngài sẽ trợ giúp nâng đỡ đức tin cho. Tình yêu của Chúa như nơi phúc âm thuật lại, là cốt lõi trung tâm của đức tin.
Trong suốt dọc đời sống dù có thắc mẵc hoài nghi về mầu xanh của cây cỏ, của bầu trời, mầu xám của da con voi, hay tô vẽ về người khác với mầu khác, nhưng cỏ vẫn là cỏ, bầu trời vẫn là bầu trời, con voi vẫn là con voi.
Với Chúa Giêsu Kitô cũng vậy, Ngài vẫn là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã sống lại từ cõi chết. Ngài là Đấng mang ơn cứu chuộc đến cho trần gian, và trao tặng con người chúng ta tình yêu thương không cùng tận. Tình thương yêu thần thánh đó chiếu tỏa bao phủ đời sống con người, cho dù con người có thắc mắc hoài nghi về tin mừng tình yêu thương thần thánh của Chúa.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh 12 cây nến chung quanh cây nến Chúa phục sinh
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
12 cây nến chung quanh cây nến Chúa phục sinh nhắc ta nhớ lại 12 Thánh Tông đồ Chúa Giêsu cùng những người khi thấy Chúa bị bắt phải vác thập giá và sau cùng chết trên đó, đã hoang mang sợ hãi chối bỏ ngài.
Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại mang ánh sáng niềm vui phục sinh ơn cứu độ đến cho nhân loại. Ngài là ánh sáng trần gian soi chiếu vào đêm tối nghi nan lo âu sợ hãi.
- Cây nến thứ nhất: Các phụ nữ có cảm tình với Chúa Giêsu theo dõi cuộc khổ nạn của ngài. Họ trung thành với ngài cho tới giây phút cuối cùng, khi ngài bị đóng đinh trên thập giá.
Hoang mang lo âu buồn sầu, nhưng họ không bỏ Chúa. Họ ngậm ngùi đứng dưới chân thập giá với Chúa.
Sau khi chôn cất Chúa, rạng sáng ngày thứ nhất trong tuần, họ là những người đầu tiên tới mộ nơi chôn Chúa Giêsu. Họ muốn thăm viếng mộ ngài và bất ngờ họ được Thiên Thần hiện ra báo tin: Chúa Giêsu đã sống lại rồi! Sao các chị em lại đi tìm người sống nơi kẻ chết.
Thế là họ vui mừng hối hả chạy đi loan báo tin mừng Chúa đã sống lại cho các Tông đồ.
Ánh sáng cây nến Chúa phục sinh trong thánh đường chiếu tỏa lời loan báo như Thánh Phaolô đã có tâm tình nhắn nhủ tuyên xưng: Nếu Chúa Giêsu Kitô không sống lại, thì đức tin của mọi người chúng ta trở nên vô ích trống rỗng.
- cây nến thứ hai: Khi nghe các người phụ nữ loan tin Chúa Giêsu đã sống lại, Thánh Gioan, môn đệ duy nhất trung thành cùng với đức Mẹ Maria đứng dưới chân thập giá khi Chúa bị đóng đinh, cùng với ông Phêrô chạy tới ngôi mộ.
Nhìn vào trong, hai ông thấy ngôi mộ nơi chôn Chúa Giêsu giờ đây trống trơn không còn xác Chúa Giêsu nữa. Bấy giờ các ông mới tin lời Mai-đệ liên và các phụ nỡ khác đã nói: Quả thực Chúa Giêsu, Thầy chúng ta đã sống lại !
Ánh sáng cây nến Chúa phục sinh trên bàn thờ là lời nguyện cầu của dân Chúa: Lạy Chúa, Chúa đã sống lại là niềm hy vọng cho con người chúng con. Xin ánh sáng Chúa phục sinh sưởi ấm tâm hồn chúng con trong những khi gặp buồn sầu đau khổ.
- Cây nến thứ ba: Khi cây nến được thắp sáng lên từ ngọn lửa cây nến phục sinh. Sức nóng ngọn lửa sẽ làm chất sáp khô cứng của cây nến trở nên mềm dẻo sống động.
Cũng vậy, Chúa phục sinh ban phần thưởng ánh sáng sự sống vĩnh cửu cho những người đã qua đời. Sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu cứu linh hồn con người khỏi hình phạt tội lỗi.
Ánh sáng cây nến Chúa phục sinh loan báo sứ điệp : qua cái chết chôn trong mồ dưới lòng đất, Chúa Giêsu đã đi sâu vào nơi cùng tận tối tăm sự chết. Ngài đã chỗi dậy từ trong cõi kẻ chết.
Sự sống lại của Ngài đã cứu chuộc lôi kéo những người chết được chỗi dậy cùng sống lại với Người.
- Cây nến thứ tư: Ông Thánh Tôma còn hoài nghi vào tin mừng Chúa đã sống lại. Chúa Giêsu đã hiện ra với Ông, và cho ông được đặt tay vào những vết thương của ngài. Bấy giờ lòng trí ông bừng tỉnh dậy và tin Chúa đã sống lại. Ông cung kính thốt lên lời: Lạy Chúa, Lạy Thầy!
Ánh sáng Chúa phục sinh là ánh sáng niềm tin, đã sưởi ấm biến đổi tâm hồn ông từ chỗ hoài nghi đến tin tưởng vào ngài.
Lạy Chúa, xin chiếu vào tâm trí chúng con ánh sáng niềm tin, sưởi ấm tâm hồn chúng con đang trong cơn lạnh lùng hoài nghi, để chúng con biết mở cánh cửa tâm hồn tin nhận Chúa đã sống lại.
- Cây nến thứ năm: Trong đời sống có nhiều lo âu sợ hãibao phủ. Khi phải sống trong hoàn cảnh bệnh tật, khó khăn thiếu thốn, khác nào người phải lần mò đi trong đêm tối mù mịt. Sự trợ giúp, an ủi khác nào như ánh sáng soi đường trong đêm tối.
Các Tông đồ ngày xưa cũng hoang mang sợ hãi bỏ trốn khi Chúa Giêsu bị bắt, bị kết án tử hình đóng đinh vào thập gía. Nhưng khi Chúa Giêsu phục sinh, ánh sáng phục sinh Chúa chiếu vào trái tim tâm hồn thất vọng sợ hãi của họ. Và từ đấy họ có lại sức can đảm.
Ánh sáng cây nến Chúa phục sinh mang đến niềm hy vọng, chỉ đường tìm ra lối thoát khỏi cảnh cùng quẫn.
- Cây nến thứ sáu: Ai cũng trông mong được kính trọng, đựợc tha thứ và sống trong bình an với Chúa, nhất là khi sống trong lo âu thất vọng và tội lỗi. Ánh sáng cây nến Chúa phục sinh toả ra hơi nóng sưởi ấm, mang ơn tha thứ cho tâm hồn con người.
Mỗi khi cầu nguyện, chúng ta thường thắp sáng cây nến trên bàn thờ. Ánh sáng cây nến nguyện cầu cũng là ánh sáng đốt thắp từ cây nến Chúa phục sinh. Ánh sáng cây nến nguyện cầu Chúa phục sinh chiếu tỏa hơi nóng niềm an ủi, sự bình an sưởi ấm cho tâm hồn đức tin người thành tín cầu nguyện
Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa đã ban cho chúng con ánh sáng tha thứ bình an.
- Cây nến thứ bảy: Cây nến khi được thắp lên, soi chiếu ánh sáng và toả ra hơi nóng. Nhưng cùng lúc đó thân xác là chất sáp làm nên cây nến cũng dần dần bị cháy tiêu hao mòn.
Hình ảnh này diễn tả đời sống phục vụ quên mình của cây nến. Chúa Giêsu đã sống hạ mình cho đến bị chết trên thập giá. Đời sống khiêm hạ và sự chết của ngài mang đến ánh sáng ơn cứu chuộc cho con người khỏi tội lỗi.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin giúp chúng con nhận ra ý nghĩa tích cực của một đời sống lòng khiêm nhượng dấn thân là vị tha cho đi.
- Cây nến thứ tám: Ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, cây nến Rửa Tội của mỗi người được đốt thắp lên từ cây nến Chúa Phục Sinh. Cùng với làn nước bí tích rửa tội em bé người được rửa tội lãnh nhận ánh sáng Chúa Kitô phục sinh cho tâm hồn mình.
Ánh sáng Chúa phục sinh luôn hằng đồng hành với trong đời sống đức tin. Và với thời gian lớn lên thành người trưởng thành, người đã được rửa tội có bổn phận mang ánh sáng đó đến cho mọi người trong gia đình, trong xứ đạo, cộng đoàn nơi mình đang cùng sinh sống, qua đời sống bác ái.
- Cây nến thứ chín: Chúa Giêsu đã nhắn nhủ những người tin theo Chúa: Các con là ánh sáng trần gian. Chúa Giêsu từ trời cao xuống thế làm người đã mang ánh sáng tình yêu đến cho trần gian.
Là em bé trong gia đình, là bạn trẻ đang lớn lên đi vào đời, là bậc Ông Bà, cha mẹ gia đình, chúng ta những người tin theo Chúa cũng phải là ánh sáng cho mọi người qua lời nói, việc làm trong đời sống của mình.
Ánh sáng cây nến đức tin ngày rửa tội năm xưa đốt thắp từ cây nến Chúa Giêsu Phục sinh được củng cố thêm lên qua dầu Thánh bí tích Thêm Sức. Ơn đức Chúa Thánh Thần, Đấng là sức sống, gây niềm phấn khởi giúp cho mạnh dạn làm chứng cho ánh sánh sáng Chúa Giêsu phục sinh.
10. Cây nến thứ mười: Bóng tối, sự lo âu hoài nghi trên trần gian này không thể chống lại ánh sáng Chúa phục sinh lan tràn đến mọi nơi. Ánh sáng Chúa phục sinh chiếu dọi vào đêm tối,vào tận tâm hồn con người. Ánh sáng này thức tỉnh tâm trí bừng dậy sau giai đoạn thất vọng, hồ nghi dao động.
Ngày còn tuổi thanh xuân, hai người nam nữ cùng dắt tay nhau đến trước bàn thờ Chúa trong thánh đường. Trước Cộng đoàn Hội Thánh, họ trao cho nhau lời thề ước nhận nhau làm vợ chồng. Và họ cùng đốt thắp cây nến hôn nhân cho mình từ ngọn lửa cây nến Chúa Phục sinh.
Ánh lửa Chúa phục sinh là ánh sáng soi chiếu niềm vui cho đời sống gia đình chúng. Gia đình luôn cần hơi nóng sự an ủi trong những khi gặp hoàn cảnh khó khăn, nhất là trong việc nuôi dưỡng dậy bảo giáo dục con cái.
- Cây nến thứ mười một: Chúa Giêsu phục sinh đã mạc khải về mình cho hai tông đồ trên đường Em-maus, khi Ngài cùng ngồi vào bàn ăn chia sẻ tấm bánh với họ.
Trong chao đảo bối rối, một tia sáng nhỏ thôi cũng đủ làm tâm trí thức tỉnh nhận ra lối ngõ đi ra khỏi vòng nghi nan.
Ánh sáng cây nến Chúa Phục sinh không sáng mạnh cùng có chu vi lan rộng như bóng đèn điện ngoài đường phố hay chiếc đền xe hơi. Nhưng đủ ánh sáng giúp tâm hồn nhận ra thế nào là sự tốt lành thánh thiện, nhất là nhận ra có Chúa hằng cùng đồng hành trong đời sống.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin khơi dậy trong tâm hồn chúng con ngọn lửa ánh sáng tình yêu, khi chúng con đọc, nghe Lời Chúa cùng cử hành Thánh Lễ, và chia sẻ cuộc sống tình người với nhau.
- Cây nến thứ mười hai: Ngày lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, Đức Mẹ Maria và các Thánh Tông đồ đã nhận được ánh sáng ngọn lửa Chúa Thánh Thần. Ánh sáng ngọn lửa này đã gây phấn khởi, củng cố niềm tin, giúp họ can đảm ra đi làm chứng cho ánh sáng Chúa Phục sinh đến khắp cùng bờ cõi trái đất.
Trong đời sống làm người, con người rất nhiều khi vướng vào những hoàn cảnh lạnh lùng do dự cùng thiếu lòng can đảm, hay có khi chán nản buông xuôi bỏ cuộc. Những lúc như thế, họ cần sức mạnh cho tinh thần chí khí được vươn lên vững mạnh. Ngọn lửa Đức Chúa Thánh Thần chiêu tỏa hơi nóng làm tan sự lạnh lùng do dự, giúp tâm hồn lấy lại nhiệt độ chí khí vươn lên.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin gây niềm phấn khởi vào tin mừng ánh sáng Chúa phục sinh trong chúng con, giúp chúng con cũng mang niềm vui phấn khởi đến cho người khác.
Lễ mừng Chúa Giêsu Kitô phục sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh bái qùi gối
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Người tín hữu Công giáo khi đến thánh đường đọc kinh cầu nguyện dâng thánh lễ có tập tục đạo đức bái qùi gối trước bàn thờ Thiên Chúa.
Cung cách bái qùi gối như vậy diễn tả hình ảnh gì về đức tin ?
Trong nền văn hóa dân gian ngày xưa thời cổ, người Hy lạp cũng như người Roma chối bỏ, không chấp nhận việc bái qùi gối trước cả các vị Thần Linh, mà họ tôn thờ.
Họ cho rằng cung cách bái qùi gối không phù hợp, không xứng đáng, làm mất gía trị con người. Nó ngược lại với lối nếp sống của người sống tự do. Cung cách này nói lên tình trạng còn mọi rợ bán khai không văn minh.
Những nhà thông thái như Plutarch và Theophrast cho rằng cung cách bái qùi gối mang biểu tượng về sự mê tín dị đoan. Cả nhà hiền triết lỗi lạc Aristoteles của Hylạp cũng cho việc bái qùi gối thuộc về phong thái lối sống của người bán khai không có văn hóa.
Nhưng cử chỉ bái qùi gối, hay cả phủ phục mình trước Thiên Chúa, Đấng cao cả toàn năng của người Do Thái cũng như người Kitô hữu lại diễn tả tâm tình sâu thẳm lòng tin yêu, lòng khiêm nhượng.
Điều này không là lối sống cách thức việc hội nhập văn hóa. Nhưng ngược lại đó là đặc điểm nếp sống đạo đức của Kitô giáo bắt nguồn từ Kinh Thánh.
Vua Thánh David đã tuyên xưng lòng tin yêu khiêm nhượng qua cung cách qùy gối trước Đấng Tạo Hóa:“ Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan CHÚA là Đấng dựng nên ta.” ( Tv 95,6)
Vua Salomon đã biểu lộ tâm tình tạ ơn cùng lòng khiêm nhượng trước Thiên Chúa Giavê với cung cách qùi gối :“ Rồi vua Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ ĐỨC CHÚA, trước toàn thể cộng đồng Ít-ra-en và giang tay ra. Vua đã làm một cái bục bằng đồng đặt ở giữa sân; bục dài hai thước rưỡi, rộng hai thước rưỡi, cao một thước rưỡi. Vua đứng trên đó, rồi quỳ gối xuống. Trước toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, vua giơ tay lên trời.” ( 2 Biên niên sử 6,12-14).
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, trong cơn thống khổ trước giờ phút hy sinh chịu tử nạn, nơi vườn Gethsemany đã qùi gối phủ phục xuống nền đất cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. ( Mt 26, 39)
Hàng năm vào ngày lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu Kitô, khi đọc kinh Tin Kính tới câu: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng trinh nữa Maria, và đã làm người.” mọi người trong thánh đường qùi gối tôn kính thờ lạy mầu nhiệm Con Thiên Chúa xuống thế làm người.
Cũnng hằng năm vào ngày thứ Sáu tuần thánh, bài thương khó Chúa Giêsu Kitô được đọc hay hát, khi đến đoạn “ Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.” , mọi người trong thánh đường qùi gối giữ thinh lặng kính thờ mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô hy sinh chịu chết trên thập gía mang lại ơn cứu độ cho linh hồn con người. Và sau đó thập gía Chúa Giêsu Kitô được long trọng rước lên trước cung thánh bàn thờ cho mọi người tôn kính thờ lạy.
Trước thập giá Chúa Giêsu Kitô, người tín hữu bái qùi gối xuống để tỏ lòng tôn kính phượng thờ Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã tự nguyện hy sinh chấp nhận chết trên cây thậy gía đền tội thay cho con người. Cây thập gía Chúa Giêsu Kitô vì thế đã trở nên cây mang lại niềm hy vọng sự sống ơn cứu chuộc cho phần rỗi linh hồn con người thoát khỏi hình phạt tội lỗi.
“Vào ngày thứ sáu tuần thánh, ngày tưởng niệm Chúa Giêsu Kitô năm xưa bị đóng đinh treo trên thập gía. Cung cách tôn kính bái qùy gối trước cây thập gía Chúa Giêsu Kitô diễn tả tâm tình xúc động vì tội lỗi của con người chúng ta, nên Ngài đã bị chết trên đó.
Chúng ta bái qùy gối hay phủ phục mình trước cây thập gía Chúa Giêsu Kitô nói lên cung cách cùng tham dự chia sẻ vào sự xúc động, cùng sự hạ mình sâu thẳm của Ngài trong cơn đau khổ khốn khó.
Cung cách qùi bái gối phủ phục của chúng ta như thế nói lên tâm tình chúng ta là ai và đứng ở vị trí chỗ nào: bị ngã xuống nằm xuống, nhưng chỉ có Ngài mới có thể vực dậy đứng lên.
Cung cách qùi bái gối phủ phục của chúng ta như thế, như chính Chúa Giêsu Kitô trong vườn Gethsemany trước mầu nhiệm của sức mạnh Thiên Chúa đã thực hiện, giúp cho hiểu ra rằng, cây thập gía Chúa Giêsu Kitô là bụi gai cháy trong sa mạc thời Mose. Ở nơi chốn đó ngọn lửa tình yêu của Thiên Chúa cháy bừng lên mà không thiêu hủy bụi gai cùng các cây cỏ chung quanh.” ( Joseph Kardinal Ratzinger, Der Geist der Liturgie, eine Einfuehrung, Herder Verlag Freiburg i. Br. 2000, trang 161).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh rửa chân
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào ngày Thứ Năm tuần thánh, Hội Thánh mừng kỷ niệm Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể (Mt 26, 26-29).Trong bữa ăn tiệc ly lập Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ của mình tại bàn ăn. (Ga 13, 1-15).
Đâu là sứ điệp hình ảnh rửa chân?
Chúa Giêsu Kitô ngày xưa đã cúi mình rửa chân cho các môn đệ, một cử chỉ truyền đi hình ảnh rất ấn tượng sâu sắc về tính cách sống lòng khiêm nhượng của người phục vụ.
Cử chỉ rửa chân thời Chúa Giêsu mang nhiều ý nghĩa. Đó là cung cách giữ vệ sinh trước bữa ăn. Nhưng cũng nói lên cung cách lịch sự lòng tôn trọng hiếu khách. Rửa chân dĩ nhiên là việc thấp hèn. Chủ nhà không làm công việc này, nhưng những người (đầy tớ) giúp việc làm công việc này.
Cung cách rửa chân của Chúa Giêsu Kitô còn ẩn chứa dấu hiệu tiên tri nữa: Chúa Giêsu, là thầy và Chúa, rửa chân, lau chân cho các môn đệ học trò mình. Tất nhiên Ngài làm việc này theo lòng tự nguyện.
Và cung cách rửa chân tự nguyện của Ngài đồng thời diễn tả sứ điệp tâm tình sâu thẳm: dấu chỉ tình yêu cho nhau, lối sống hy sinh dấn phục vụ lẫn nhau, như chính ngài đã nói về sứ mạng của mình: “ Con Người ( Chúa Giêsu)đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”( Mc 10,45).
Theo gương đó đức thánh cha Phanxicô vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh đã đi rửa chân cho anh chị em trong trại tù, cho cả các người phụ nữ, cho cả người tỵ nạn không phải Công giáo nữa. Qua cử chỉ khiêm nhượng mang dấu ấn phục vụ kính trọng như thế, đức giáo hoàng muốn gửi đi sứ điệp, như ngài có lần đã tâm sự: Ai muốn là người đứng đầu, phải phục vụ người khác!
Cha mẹ nào, nhất là người mẹ, luôn hằng ngày rửa chân, lau khô chân cho con mình, từ lúc chúng chào đời cho tới khi khôn lớn tự làm việc này lấy được.
Em bé, bạn trẻ lúc còn nhỏ có nhu cầu được tắm rửa, được rửa chân cho sạch sẽ vệ sinh, cho sức khoẻ thể xác cũng như tinh thần tâm trí được khoẻ mạnh. Người mẹ vui mừng hãnh diện làm công việc phục vụ cho nhu cầu đời sống của con mình.
Người mẹ làm công việc này vì tình yêu thương con mình. Đó không chỉ là việc bổn phận, nhưng còn là niềm vui hạnh phúc thiên đàng cho đời sống người mẹ.
Người con có niềm vui hạnh phúc, vì được mẹ yêu thương qua cung cách phục săn sóc cho nhu cầu đời sống của mình.
Và qua cung cách tình yêu thương của mẹ, em bé bạn trẻ với thời gian học hỏi nhận ra gía trị qúy báu cao cả của cung cách phục vụ, mà mẹ đã làm cho mình.
Cử chỉ rửa chân của Chúa Giêsu, của một người hầu hạ, truyền đi hình ảnh tích cực: cung cách uy quyền về tình yêu thương.
Cung cách uy quyền tình yêu thương này không bắt người khác phải qùy xuống, phải hạ thấp mình xuống. Nhưng chính người làm đầu là người chót sau cùng, là người hạ thấp mình xuống phục vụ hầu hạ người khác. Như Chúa Giêsu đã tâm tình cắt nghĩa“ Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con".
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh biến cố sau cùng đời Chúa Giêsu
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào Chúa nhật đầu tuần thánh, ngày lễ Lá, có tập tục lễ nghi phụng vụ rước Lá, nơi các thánh đường.
Lễ nghi phụng vụ này có nền tảng trong kinh thánh do Thánh sử Matheo ( 21,1-11, Marco ( 11,1-11), và Gioan ( 12,12-15) viết phúc âm Chúa Giêsu Kitô tường thuật lại.
Từ giữa thế kỷ 9. sau Chúa giáng sinh tập tục phụng vụ đạo đức này bắt đầu ở Jerusalem nơi các cộng đòan đầu tiên rồi dần lan rộng trong toàn Giáo Hội Công giáo.
Trong ngày này nhắc nhớ lại kỷ niệm những biến cố Chúa Giêsu ngày xưa trước khi dấn thân chịu khổ hình chết trên thập gía, đi vào thành Jerusalem được dân chúng nồng nhiệt tung hô vạn tuế:” Hosianna”( Mt 211-11), nhưng sau đó lại bị chính dân chúng kêu la lên án” đóng đinh nó vào thập gía!” (Mt 26, 14 - 27, 66. Những lời trái nghịch nhau này được long trọng đọc lên trong thánh lễ ngày lễ Lá.
Hai biến cố với hai lời trái nghịch nhau này nhắc nhớ hình ảnh gì cho đời sống đức tin đạo giáo?
Hai bài phúc âm tường thuật về hai biến cố trái ngược nhau vẽ lên hai hình ảnh ánh sáng có cành lá lời tung hô chào mừng “Hosianna!”, và bóng tối với lời nhục mạ kết án số phận “đóng đinh vào thập gía!”.
Con đường đời sống của Chúa Giêsu Kitô trên trần gian là con đường thập gía, con đường bóng tối sự đau khổ sự chết bao phủ.
Trên con đường thập gía bóng tối âm u có những khuôn mặt cùng tích cực góp phần tham gia vào. Đó là Juda Iscariot, người phản bội bán Chúa Giêsu, thầy mình
những khách qua đường bị lôi kéo vào la ó phản đối Chúa Giêsu,
những quân lính nhục mạ người tù tội Giesu,
quan tổng trấn Pilatus, người đã nhượng bộ, chạy trốn trách nhiệm để mặc cho Chúa Giêsu bị kết án đóng đinh vào thập gía,
Ông Phero đã công khai chối Chúa Giêsu ba lần,
và các môn đệ của chính Chúa Giêsu đã bỏ trốn khi thấy Chúa Giêsu thầy mình bị bắt đem đi xử án.
Nhưng con đường cuộc đời Chúa Giêsu Kitô trên trần gian dẫu vậy cũng vẫn có ánh sáng tỏa chiếu nơi bóng tối bao phủ. Đó là những khuôn mặt giữ lòng trung tín với Chúa Giêsu, dù hoàn cảnh con đường của Chúa Giêsu có nguy hiểm đau khổ:
Maria, người mẹ đã sinh thành nuôi dưỡng Chúa Giêsu ngày xưa trên trần gian, cùng chịu đựng đau khổ hằng theo sát bên con mình cho tới giờ phút cuối cùng con mình chết trên thập gía.
Ông Gioan, người môn đệ duy nhất đã cùng với mẹ Maria đứng dưới chân thập gía Chúa Giêsu,
những người phụ nữ đã cùng thương cảm tuôn đổ những dòng nước mắt than khóc đi theo lúc Chúa Giêsu vác thập gía chịu khổ hình,
bà Veronica, người phụ nữ thần thoại bỗng xuất hiện đã can đảm, vì lòng thương cảm trắc ẩn, chen lướt rẽ đám đông quân lính đến trao tấm khăn cho Chúa Giêsu lau khô dòng giọt máu và mồ hôi đang tuôn chẩy trên khuôn mặt,
Ông Simon Syrene, người đi đường bị bắt cùng vác nâng đỡ cây thập tự nặng nề cho Chúa Giêsu,
và giờ sau cùng trên thập gía bỗng còn có thêm ông Giuse Arimathia, Ông Nicodemo cùng đến hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập gía, tẩm liệm và mang đi an táng trong mộ huyệt.
Kỷ niệm biến cố con đường đời sống sau cùng của Chúa Giêsu với những đau khổ buồn tủi. Nhưng có gía trị mang đến ân đức chúc lành thần thánh ơn cứu chuộc cho con người trần gian.
Những khuôn mặt sống trung thành có lòng can đảm thương cảm với Chúa Giêsu trên con đường đau khổ của Ngài là mẫu gương hình ảnh sống động nhắc nhớ đến cung cách nếp sống nhân đức ngay chính tốt lành với tình yêu Thiên Chúa,
với những người gặp hoàn cảnh đau khổ trong xã hội,
và với những nghịch cảnh hoạn nạn luôn hằng xảy ra xưa nay trong dòng lịch sử đời sống vũ trụ.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh lời “xin vâng” của Maria
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm ngày 25.tháng Ba lễ Thiên Thần truyền tin cho đức mẹ Maria được mừng kính trọng thể trong toàn thể Giáo Hội, chín tháng trước lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu Kito ngày 25. Tháng Mười hai. Lễ mừng kính mầu nhiệm này có căn bản nền tảng trong kinh thánh, như phúc âm Chúa Giêsu Kitô do Thánh sử Luca viết thuật lại ( Lc 1,26-38).
Giáo Hội Đông phương Hylạp mừng lễ Thiên Thần truyền tin từ năm 550 sau Chúa giáng sinh. Còn Giáo hội bên Tây phương Roma mừng lễ này từ thế kỷ thứ 7.
Hằng ngày người Công giáo đọc kinh Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức mẹ Maria. Trong kinh truyền tin có lời của Maria thưa cùng Thiên Thần:” Này tôi là tôi tớ Chúa, xin vâng như lời Thiên Thần truyền!” ( Lc 1,38).
Lời xin vâng của Maria diễn tả hình ảnh vai trò gì trong đời sống đức tin đạo đức?
Biến cố Thiên Thần mang tin của Thiên Chúa, Giêsu Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người trong cung lòng Maria, mở đầu chương trình cứu chuộc Thiên Chúa thực hiện cho con người trần gian.
Từ khi Ông Bà nguyên tổ Adong Evà lỗi luật Thiên Chúa ngăn cấm không được ăn trái biết lành biết dữ trong vườn địa đàng, sự dữ tội lỗi đã lan tràn vào đời sống con người trên trần gian.
Hậu qủa đời sống con người mất thăng bằng, không còn bình an, phải chịu đựng đau khổ, đời sống trở nên cực nhọc cùng yếu đau bệnh tật, đời sống thể xác cũng như tâm trí tinh thần bị giới hạn về mọi khía cạnh, và sau cùng phải chết.
Một hình phạt to lớn đè nặng trên toàn thể nhân loại từ ngày đó. Nhưng Thiên Chúa, Đấng sinh thành tạo dựng nên con người không muốn con người phải sống triền miên như thế. Vì thế Ngài muốn sai Con của Ngài, Chúa Giêsu Kitô, đến trần gian mang ơn cứu chuộc lại cho linh hồn con người. Chương trình đó được thực hiện qua con đường Con Thiên Chúa phải được sinh ra làm người với thân xác yếu hèn nơi trần thế.
Thiên Chúa đã chọn Maria là người cùng cộng tác với cho chương trình con đường này trên trần gian được thực hiện.
Maria, trong bỡ ngỡ hốt hoảng bối rối, đã nói lời ưng thuận chấp nhận chương trình thần thánh của trời cao bằng lòng làm mẹ hạ sinh nuôi dưỡng Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người trong cung lòng mình.
Lời ưng thuận xin vâng của Maria phản ánh ý muốn của Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, vâng lời Thiên Chúa Cha, từ trời cao xuống trần gian làm người.
Sự vâng lời của Giêsu Con Thiên Chúa được thể hiện chiếu tỏa rõ nét qua lời Xin vâng của Maria, một người trần thế. Điều này nói lên sự hòa hợp đồng điệu của trời cao với trần thế, mà ngày xưa Ông Bà nguyên tổ Adong Evà vì không vâng lời Thiên Chúa đã vấp phạm làm mất.
Và điều này diễn tả mầu nhiệm Thiên Chúa xuống trần gian làm người.
Sự xin vâng của Maria cho chương trình của Thiên Chúa được thực hiện nói lên tình thương xót của Thiên Chúa luôn hiện diện giữa con người.
Trong ngôi nhà gia đình thánh gia Nazareth – có những di tích lịch sử ngày xưa gia đình thánh Giuse cùng với mẹ Maria và Chúa Giêsu sinh sống, được khoa khảo cổ khai quật còn bảo quản giữ lại - ở tầng hầm bên dưới đền thờ Thánh Giuse ở Nazareth. Nơi cửa sổ trên tường có vẽ tạc bức hình trên kính mầu lễ hôn phối của Đức mẹ Maria và Thánh Giuse đang cầm tay nhau nói lời ưng thuận và trao nhẫn cho nhau trước sự chứng giám của một Thầy cả thượng phẩm.
Hình ảnh này diễn tả sự hòa hợp xin vâng của Giuse và Maria không chỉ cho đời sống của hai người với nhau, nhưng còn cho cả chương trình của Thiên Chúa quan phòng dự liệu cho đời sống con người trần gian. Họ xin vâng chấp nhận chương trình của Thiên Chúa trong niềm tin tưởng cậy trông vào Ngài.
Để lưu lại dấu vết kỷ niệm biến cố mầu nhiệm thần thánh này, ngôi Vương cung thánh đường Thiên Thần truyền tin cho Maria mới được xây dựng trên nền ngôi thánh đường cũ đã có từ thời thế kỷ 12. do Đạo binh Thập Tự xây dựng. Ngôi Vương cung thánh đường mới được xây dựng theo hình ba cánh có chiều dài 67,5 mét, và cao 35 mét. Ngôi vương cung thánh đường truyền tin to rộng được xây dựng từ 1954-1969, và được cung hiến khánh thành ngày 23.tháng Ba 1969.
Những cánh của vòm vòng tròn khối hình chiếc nón trên nóc trung tâm thánh đường tỏa xuống bên dưới như những cánh hoa huệ của cây gậy Thánh Giuse cầm trên tay chiếu tỏa ánh sáng, cùng nét thanh bình dịu hiền che chở cho ngôi nhà thánh đường.
Bên dưới tầng hầm vương cung thánh đường có một căn phòng nhỏ tường vách xây dựng bằng gạch thô sơ mộc mạc như thuở ngày xưa, một bàn thờ nhỏ với ngọn đèn đốt thắp sáng ngày đêm được đặt ở nơi đó. Tương truyền đây là căn nhà lịch sử nơi mẹ Maria ngày xưa đã sinh sống, và Thiên Thần Gabriel đã hiện đến nơi căn phòng này truyền tin cho Maria. Tại căn phòng này Maria đã nói lời xin vâng với chương trình của Thiên Chúa chấp nhận làm mẹ cho Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người trong cung lòng mình.
Khách hành hương khi đến thăm viếng vương cung thánh đường đều cung kính đến trước căn phòng lịch sử thần thánh nhiệm mầu này với tâm tình vui mừng cảm động cúi đầu qùy gối xuống nền nhà khấn nguyện đọc kinh Truyền tin: “Chốc ấy ngôi Thứ Hai xuống thế làm người. Và ở cùng chúng tôi.”
Xưa nay trong dòng lịch sử Giáo hội luôn hằng có những vị Thánh Nữ cũng như Nam đã chọn sống theo gương mẫu mẹ Maria “xin vâng” theo ý Thiên Chúa sắp đặt mong muốn.
Như Maria, các vị Thánh, các người tín hữu Chúa Kitô chọn sống con đường xin vâng theo ý Thiên Chúa, đã cùng đang góp phần cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa mang tình yêu ơn cứu độ của Ngài đến trong trần gian, nơi thiếu vắng tình yêu cùng có nhiều bóng tối sự dữ tội lỗi bao phủ đe dọa.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Thánh cả Giuse, người khôn ngoan
- Viết bởi Dân Chúa
Kinh cầu Thánh cả Giuse có lời cầu xin ca ngợi: Thánh Giuse cực khôn, cực ngoan!
Tại sao lại ca ngợi Thánh cả như vậy?
Khôn ngoan là cung cách nếp sống. Phải, đó là một nhân đức tốt lành thánh thiện trong chiều tương quan hoà nhịp với Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, và chiều tương quan giữa con người với nhau trong xã hội cùng với thiên nhiên.
Thời xa xưa thượng cổ hai nhà hiền triết Platon (*428/427 v. Chr. in Athen oder Aigina; † 348/347 v. Chr. in Athen), và Aristoteles * 384 v. Chr. in Stageira; † 322 v. Chr. in Chalkis auf Euböa) đã có suy tư về 4 nhân đức căn bản đời sống con người, mà khôn ngoan là một trong những nhân đức đó.Và cho rằng ai có nếp sống nhân đức khôn ngoan, người đó đạt được hạnh phúc.
Khi nhận lãnh Bí Tích Thêm Sức, bảy ơn Đức Chúa Thánh Thần được ban xuống trong tâm hồn người lãnh nhận. Ơn khôn ngoan đứng vị trí hàng đầu trong bảy ơn.
Trước Quốc Hội nước Đức, đức Giáo hoàng Benedictô 16. trong bài diễn văn với các chính trị gia hàng đầu đã nói đến hình ảnh sự khôn ngoan qua mẫu gương đời sống của Vua Salomon, như trong kinh thánh viết thuật lại, về nghệ thuật cai trị của Vua.
“Kinh thánh sách Các Vua quyển thứ nhất ( 3,9) thuật lại chi tiết cụ thể về cung cách sống theo ơn khôn ngoan:Khi Vua Salomon được phong vương lên ngôi cai trị dân, Thiên Chúa đã cho ông được tự do xin cùng Thiên Chúa điều nhà Vua muốn xin.
Điều gì quan trọng trong lúc này đối với vị Vua trẻ tuổi mới đăng quang lên ngôi? Sự thành công, vinh quang giầu sang, sống lâu muôn năm ở đời, sức mạnh uy quyền tiêu diệt kẻ thù?
Không, vị vua trẻ Salomon không xin những điều này. Nhưng Ông cầu xin Thiên Chúa ban cho mình, người tôi tớ của Chúa, một trái tim biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế?”( Giáo hoàng Benedicto 16., Diễn văn ở Quốc Hội nước Đức, 22.09. 2011).
Trong sự nghiệp cai trị dân nhà Vua đã có những quyết định hành vi khôn ngoan sáng suốt. Vì thế dân gian xưa có ngạn ngữ: Sự khôn ngoan Salomon!
Thánh cả Giuse hậu duệ của dòng dõi Vua David, vua Salomon, cũng đã sống theo cung cách một trái tim biết lắng nghe, như thuở xa xưa Vua Salomon đã cầu xin cùng Thiên Chúa ban cho mình.
Giuse không là vị vua như Salomon được Thiên Chúa đặt làm vua cai trị dân nước của Chúa. Nhưng Giuse là người được Thiên Chúa cắt đặt làm trưởng gia đình lo cho đời sống mẹ Maria và Chúa Giêsu ở miền Nazareth nước Do Thái.
Giuse cũng có cung cách nếp sống như ngày xưa vua Salomon đã cầu xin cùng Thiên Chúa ban cho có được trái tim tâm hồn biết lắng nghe. Trong thinh lặng Giuse lắng nghe tiếng Thiên Chúa nói qua lời Thiên Thần hiện đến trong lúc ngủ ba lần, như phúc âm thuật lại:
” Này Giuse, đừng ngại đón Maria về nhà mình.” ( Mt 1,18-25)
“ Này Giuse, dậy đem hài nhi và mẹ người trốn sang Ai Cập…( Mt 2,13-14)
“ Này Giuse, dậy đem hài nhi và mẹ người trở về đất Israel…( Mt 2, 19-23)
Cả ba lần trong giấc ngủ, Giuse đã nghe tiếng Thiên Chúa nói chỉ dẫn, và khi tỉnh dậy ông đều thi hành như lời Chúa nói trong tâm hồn ông.
Giuse không có quyền hành như vua Salomon trong việc kinh bang tế thế cho dân nước Do Thái. Nhưng Giuse là một công dân sống âm thầm chịu đựng, cần mẫn làm việc bổn phận lo cho gia đình mình có đời sống an toàn vượt qua mọi nguy hiểm khốn khó.
Giuse không đi tìm kiếm sự khôn ngoan sáng suốt từ suy nghĩ riêng mình hay từ lời khuyên và từ sách vở nào. Nhưng Giuse lắng nghe tiếng Thiên Chúa nói thầm trong lòng mình. Vì với Giuse đó là chỉ dẫn minh bạch trong sáng cụ thể nhất. Và sự chỉ dẫn thần thánh đó mang lại hạnh phúc cho bản thân cùng gia đình Giuse.
Năm 2015 khi sang thăm viếng mục Hội Thánh nước Philuật Tân, trong cuộc gặp gỡ các gia đình, Đức giáo Hoàng Phanxicô đã nói chuyện thân mật với họ, và kể về lòng sùng kính mộ mến của ngài với Thánh Giuse: “Cha là người rất yêu mến Thánh cả Giuse. Vì thánh cả là một người mạnh mẽ và đồng thời lại là người biết sống giữ thinh lặng. Nơi bàn làm việc của cha có đặt tấm hình Thánh Giuse nằm ngủ.”
Và ngài bộc bạch tâm sự tiếp về cung cách nếp sống bình dân lòng sùng kính Thánh Giuse của mình: “ Khi cha có vấn đề lo lắng gặp khó khăn nào, cha thường hay viết điều đó trên một tấm giấy nhỏ, và đặt dưới hình Thánh Giuse, để cho được ngủ yên nơi đó, và lời cầu xin tốt lành được dâng lên Chúa.”.
Cha mẹ nào, các vị lãnh đạo nếp sống tinh thần cũng như nơi xã hội, hay khi ai chọn nghề nghiệp nếp sống…đều mong muốn làm sao có quyết định việc làm đúng tốt ngay chính, hầu mang lại hạnh phúc sự ích lợi cho bản thân, cho gia đình, cùng cho xã hội. Ơn khôn ngoan soi sáng chỉ dẫn cho tâm trí chọn lựa quyết định đi đến thực hành là điều cần thiết trong mọi hoàn cảnh đời sống.
Sự khôn ngoan là ơn Chúa ban cho tâm trí tinh thần con người.
Sự khôn ngoan không là tiếng bên ngoài ồn ào với sức mạnh quyền uy. Nhưng là tiếng nói thần linh âm thầm nhỏ nhẹ trong trái tim tâm hồn con người.
Và mỗi người được Thiên Chúa ban cho khả năng ơn đức sống xử sự cách khôn ngoan không là một công thức chung cho ai cũng giống ai.
Thánh cả Giuse là mẫu gương về cung cách nếp sống khôn ngoan. Vì ngài có tâm hồn trái tim mở rộng biết lắng nghe tiếng Chúa nói.
“Thánh Giuse cực khôn, cực ngoan!”
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh dòng nước hằng sống
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nước là tặng vật châu báu trong dòng lịch sử vũ trụ do Đấng Tạo Hóa tạo dựng ban cho mọi loài thụ tạo.
Hình ảnh dòng nước đóng vai trò gì trong đời sống thiên nhiên cùng đức tin tinh thần?
Khi vũ trụ được Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa sáng tạo, nước là chất vật thể tiên khởi được tạo dựng nên (St 1, 1-2) làm căn bản cho sự sống được Ngài sáng tạo tiếp sau đó.
Có nước sự sống mới nẩy sinh, mới phát triển tồn tại. Nước là chất lỏng, không hình hài khuôn khổ cùng mầu sắc. Nhưng rất cần thiết không thể thiếu hay bỏ qua được cho sự sống trong thiên nhiên.
Nước không có mùi vị gì. Nhưng là thực phẩm nền tảng căn bản cho cây cỏ thảo mộc, lúa mạ hoa trái mùa màng, cho thú động vật mọi giống loại sinh vật và con người luôn luôn cần phải có.
Trong vũ trụ thiên nhiên, nơi nào không có nước, như nước mưa, nước chảy ở núi rừng, trong dòng suối sông ngòi chảy tới, nơi đó trở nên khô cằn hoang vu, và khí hậu trở nên nóng bức.
Khi có nước chảy tới không chỉ sự sống được nẩy sinh phát triển, mà cả khí hậu trở nên tươi mát dễ chịu, mang lại sức khoẻ lành mạnh phấn khởi cho thể xác lẫn trí khôn tinh thần con người, cùng mọi loài thụ tạo khác trong thiên nhiên.
Nước giữ vai trò chủ chốt hàng đầu cho sự sống được nẩy sinh phát triển cùng tồn tại không chỉ về phương diện thể lý, mà nơi con người cùng loài thú vật cả phần tâm lý trí khôn tinh thần nữa.
Một em bé mới sơ sinh, khi khát, em kêu la khóc lóc đòi nước uống. Có nước uống, hay sữa mẹ, nét mặt em trở nên tươi mát toát lộ vẻ đẹp thanh bình hạnh phúc. Và từ căn bản đó em dần lớn lên khoẻ mạnh cả cơ quan phần thân xác cũng như trí khôn tinh thần.
Khi làm việc lao động tay chân hay đi đường lúc trời nắng nóng, một vài giọt nước hay một ly nước uống, cũng đủ làm cho gân cốt thể xác lẫn tinh thần con người có sức khoẻ phấn khởi hăng say thêm lên, và cả nơi thú vật cũng tương tự như vậy.
Nước thiên nhiên không do ai chế biến tạo ra. Nhưng khi một người tự nhiên xay xẩm mặt mày ngã hay ngồi xuống nền đất, vội vàng người ta mang nước dội trên khuôn mặt người đó và cho uống, sau ít phút họ tỉnh lại. Nước trở thành phương thuốc tự nhiên chữa trị hiệu qủa trong lúc nguy cấp. Và nước có sức mạnh tẩy rửa chất dơ bẩn vướng cản cho trở nên trong sạch thông thoáng.
Khi đi hành hương ở những nơi khí hậu nắng nóng nhiều, như bên đất thánh Do Thái, luôn luôn được căn dặn nhắc bảo phải mang theo chai nước để uống dọc đường.
Ngày xưa khi dân Do Thái trên đường xuất hành từ đất nước Aicập trở về quê hương đất Chúa hứa ban, trong sa mạc hoang vu không có suối nước, dòng sông, họ khát nước kêu la than trách Ông Mose và cả Thiên Chúa nữa. Và Thiên Chúa đã làm phép lạ cho họ có nước cần dùng chảy vọt lên từ lòng núi đất trong sa mạc cho suốt hành trình. Có nước uống họ có sức khoẻ phấn khởi tiếp tục con đường xuất hành . (Xh 17,7).
Phúc âm thuật lại Chúa Giêsu Kitô buổi trưa nóng đã đến bờ giếng Giacóp gặp các người phụ nữ xứ Samaria đến kín múc nước về cho sinh hoạt cần dùng trong nhà, đã nói với chị phụ nữ "Nếu chị nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với chị: 'Xin cho tôi uống nước', thì chắc chị sẽ xin Người, và Người sẽ cho chị nước hằng sống"( Ga 4,10).
Qua đó Chúa Giêsu muốn nói: Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, là nguồn nước sự sống cho thể lý cùng tâm lý tinh thần thiêng liêng của mọi loài thụ tạo trong vũ trụ thiên nhiên.
Dòng nước của Thiên Chúa, do Chúa Giêsu loan báo cho con người là dòng nước hằng sống linh thiêng, dòng nước ơn cứu độ, dòng nước tha thứ tội lỗi chữa lành những vết thương trong tâm hồn con người mang lại bình an.
Đời sống con người trần gian không chỉ cần dòng nước thiên nhiên cho sự sống thân xác trí tuệ phát triền cùng sức khoẻ lành mạnh, nhưng còn cả dòng nước thiêng liêng hằng sống của Thiên Chúa do Chúa Giêsu Kitô mang đến cho trần gian, qua sự hy sinh chịu chết và sống lại của Ngài cho sự sống thần linh tâm hồn.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh cuộc gặp gỡ trên đỉnh núi cao
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Những cuộc họp thượng đỉnh giữa chính phủ các quốc gia đất nước, giữa các khối liên hội đoàn…thường được tổ chức với những vị trách nhiệm đứng đầu ngày càng cần thiết, để cùng nhau thảo luận về một cung cách sinh hoạt chung với nhau, và giảm bớt như có thể những trái ngược gây ra hiểu lầm hay thiệt hại cho nhau!
Trong nếp sống tinh thần đức tin có cuộc gặp gỡ thượng đỉnh không?
Từ mấy thập niên nay, sau thời Công đồng Vaticanô 2. đã có những cuộc gặp gỡ liên tôn giáo giữa các vị chức sắc đứng đầu các tôn giáo trên bình diện các nước trên thế giới. Các Vị gặp nhau trong tình huynh đệ cùng nhau cầu nguyện chung, cùng tìm hiểu tôn trọng xích lại gần nhau, nhất là cùng xây dựng nếp sống hoà bình giữa nhau, dù có những khác biệt về niềm tin, về cung cách con đường thực hành niềm tin…
Ngày xưa Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người cũng đã có cuộc gặp gỡ ở trên đỉnh núi cao, ngọn núi Tabor bên nước Do Thái với hai vị chức sắc Thánh thời Cựu ước trước Chúa Giêsu, như kinh thánh viết thuật lại. ( Mt 17,1-8)
”Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao.2 Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.3 Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người.4 Bấy giờ, ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”
5 Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”6 Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.7 Bấy giờ, Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!”8 Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi.”
Phúc âm nói đến con số sáu “Sáu ngày sau”. Trong bài tường thuật về sáng tạo trời đất, thú vật, cây cỏ và con người, Thiên Chúa sáng tạo xây dựng công trình trong sáu ngày. Con số sáu là con số kinh thánh, và con người được Thiên Chúa tạo dựng nên vào ngày thứ sáu, ngày cao điểm của công trình sáng tạo thiên nhiên, và con người cũng là triều thiên cao điểm của công trình sáng tạo.
Sáu ngày trước cuộc gặp gỡ trên núi cao Tabor cùng với ba Tông đồ Phero, Giacobe và Gioan, Tông đồ Phero đã tuyên xưng đức tin với Chúa Giêsu ” Thầy là Đức kitô Con Thiên Chúa hằng sống!” ( Mt 16,16).
Như thế với thông tin về thời gian nói lên cuộc gặp gỡ biến hình của Chúa Giêsu quy hướng vào bản tính thiên chúa ( thiên tính) của Chúa Giêsu cùng nói lên sự linh thiêng cao cả.
Chúa Giêsu cùng với ba Tông đồ lên một ngọn núi cao. Phúc âm không nói đến tên ngọn núi, nhưng thời cựu ứơc đã nói đến tên ngọn núi Tabor ( sách Thẩm Phán 4-5) và Thánh Vịnh 89,13 đã nói đến ngọn núi Tabor là ngọn núi thánh của Thiên Chúa.
Ngay từ thế kỷ 4. sau Chúa Giêsu, khi nghiên cứu địa lý kinh thánh Đức giám mục Cyillo thành Jerusalem ( +386) đã qủa quyết ngọn núi Chúa Giêsu lên gặp gỡ biến hình là núi Tabor. Ngày nay đến hành hương lên núi Tabor cao 588 mét ở miền bắc nước Do Thái vùng Galiliee, có thánh đường lớn với ba khung cửa phía mặt tiền do Dòng Phanxicô xây dựng năm 1924 trên nền hoang tàn để nát dấu vết còn xót lại của những đền thờ, tu viện thời xa xưa đã xây dựng ở đây.
Ngọn núi cao xưa nay là hình ảnh nơi chốn gần gũi với Thiên Chúa. Trong cuộc đời Chúa Giêsu ở trần gian cũng đã sống trải qua nơi những ngọn núi: núi cám dỗ, núi bài giảng Tám mối phúc thật, núi Golgotha, nơi Ngài bị đóng đinh vào thập giá, và sau cùng cũng trở về trời từ đỉnh núi Sion.
Trên đỉnh núi khi biến hình áo của Chúa Giêsu trở nên trắng tinh sáng chói. Tấm áo mầu trắng nói lên sự trong sạch tinh tuyền cùng niềm vui mừng, ánh sáng mầu trắng trong thấu suốt.
Thánh Gioan tông đồ trong sách Khải Huyền trong những thị kiến trên trời đã nói đến ” Như thế, ai thắng sẽ được mặc áo trắng” (KH 3,5), “ Bấy giờ mỗi người trong số họ đã được lãnh một áo trắng…”. (Kh 6,11). Đó đây cũng bắt gặp hình tượng các vị Thiên Thần của Chúa có phẩm phục mầu trắng. Và ngày nhận lãnh làn nước Bí tích Rửa tội, em bé hay người lớn được rửa tội cũng khoác mặc áo mầu trắng.
Hình tượng Chúa Giêsu Kitô phục sinh được khắc vẽ với y phục mầu trắng sáng chói như tuyết. Lễ mừng Chúa Giêsu phục sinh và trong suốt 40 ngày sau lễ mừng cho đến lễ mừng kính Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, phẩm phục phụng vụ trong thánh lễ là mầu trắng.
Trong Kinh Tin Kính có câu tuyên xưng về Chúa Giêsu Kitô” Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng” diễn tả mầu ánh sáng trắng trong tinh tuyền phát ra từ nơi Ngài.
Cuộc biến hình gặp gỡ thượng đỉnh không chỉ ở trên đỉnh ngọn núi cao, nhưng còn có hai vị cao cả thời Cựu ước trước Chúa Giêsu cùng hiện đến đàm đạo với Ngài nữa : Tiên tri Mose và Tiên tri Elija ( Mt 17,3).
Hai vị Tiên tri thời Cựu ước xa xưa trong Do Thái giáo là hai vị chức sắc lãnh đạo hàng đầu dân Thiên Chúa. Các Vị không còn trên trần gian nữa. Tiên tri Mose đã qua đời trên đường dẫn dân Do Thái trở về quê hương Do Thái từ đất nước Ai Cập ( Sách dân số 34,10). Tiên tri Elija đã được Thiên Chúa cho cỡi xe có lửa cháy sáng rực trở về trời ( 2 Các Vua 2,11). Hai Vị Tiên tri lãnh đạo hàng đầu này là những vị gần gũi với Thiên Chúa cách khác thường đặc biệt.
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa khai mở thời tân ước, cùng đàm đạo với hai Vị tiên tri chức sắc hàng đầu, thời Cựu ước qúa khứ đã qua, nhưng có vị trí chỗ đứng sát gần Thiên Chúa, nói lên sự liên tục trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa cho con người trên trần gian.
Và Thiên Chúa qua Chúa Giesu Kitô trong dòng lịch sử thời gian nhân loại luôn gần bên con người nơi Lời giảng dậy, sự hy sinh dấn thân chịu chết và sống lại của Người.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long