Hình ảnh nối lửa đức tin cho đời
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm Giáo Hội Công giáo cử hành Ngày Thế giới Truyền giáo vào Chúa Nhật cuối tháng 10. nhắc nhớ đến bổn phận nếp sống truyền giáo, mà Chúa Giêsu Kito đã trao cho Giáo hội, cho mọi người tín hữu Chúa Kitô ở trần gian.
Năm nay chủ đề ngày Thế giới truyền giáo “Lòng bừng cháy, chân tiến bước”, được gợi hứng từ câu chuyện Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmaus (Lc 24,13-35), mà Đức Thánh cha Phanxicô đã chọn công bố làm chủ đề truyền giáo năm 2023.
Vậy hình ảnh “lòng bừng cháy, chân tiến bước” diễn tả điều gì?
Chúa Giêsu trước khi trở về trời đã căn dặn các Thánh Tông đồ, Giáo Hội của Chúa: “ Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Đức Chúa Thánh Thần xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.“ (CV 1,8)
Trải qua dòng thời gian hơn hai ngàn năm, Giáo hội Chúa Giêsu vẫn hằng luôn trung thành với sứ vụ Chúa đã trao phó cho. Và đời sống đức tin vào Chúa, vào ơn cứu độ của Chúa cho nhân loại, đã cùng đang luôn được loan truyền rộng rãi khắp mọi nơi, cho mọi dân tộc tới mọi vùng biên giới trên khắp địa cầu.
Nhưng những thách đố đặt ra cho bước chân việc truyền giáo không phải là không có, cùng không phải là ít. Trái lại nhiều cùng tế nhị khó khăn nữa. Trong dòng lịch sử Giáo hội đã cùng đang luôn có những Vị Thừa sai phải hy sinh dâng híến chính mạng sống mình làm chứng cho Tin Mừng đức tin vào Chúa xưa nay khắp mọi nơi trên bước chân truyền giáo. Xưa nay vẫn hằng có những nghi kỵ cấm cách gây khó dễ cho việc loan truyền tin mừng của Chúa.
Một trong những thách đố tế nhị khó khăn cho việc rao truyền ngọn lửa đức tin vào Chúa là công việc làm sao hòa hợp lồng khung tin mừng của Chúa vào trong nếp sống văn hóa của mỗi dân tộc đất nước.
Nói đến văn hóa là nói đến nếp sống đặc thù riêng của mỗi địa phương đất nước, của mỗi dân tộc. Văn hoá không là tất cả đời sống con người. Nhưng con người sinh ra, lớn lên cùng làm ăn sinh sống trong dòng sông cội nguồn quê hương đất nước của họ. Vì thế, văn hóa như gia sản tinh thần gắn liền với đời sống con người.
Nói đến văn hóa là nói đến mức độ phát triển đời sống xã hội nơi đất nước xã hội con người đang sinh sống. Chính sự phát triển đó củng cố xây dựng đời sống con người nơi đất nước đó thêm giầu mạnh về của cải vật chất cũng như tinh thần. Đây là kho tàng về các gía trị cho các thế hệ dân tộc con người nơi quê hương đất nước đó.
Nói đến văn hóa là nói đến tình tự tôn giáo tín ngưỡng. Đây là nhu cầu cùng là điểm tựa tinh thần cho tâm hồn đời sống con người có được bình an, cùng tìm nhận được sự quân bình cho đời sống.
Nói đến văn hóa là nói đến tiếng nói ngôn ngữ riêng của mỗi dân tộc. Đây là nhu cầu căn bản về thông thương giao hảo cho đời sống của mỗi dân tộc.
„ Hôm nay việc truyền giáo của Giáo Hội đang phải đối mặt với thách đố trong việc đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người để quay lại với cội nguồn của họ và để bảo vệ các giá trị nơi nền văn hóa của họ.
Điều này có nghĩa là phải biết tôn trọng các truyền thống khác nhau và các nền triết lý khác nhau và nhận ra rằng nơi tất cả các dân tộc và các nền văn hóa đều có quyền được trợ giúp từ bên trong truyền thống của chính mình để đi vào mầu nhiệm khôn ngoan của Thiên Chúa và đón nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng và là sức mạnh biến đổi tất cả các nền văn hóa.“ (Đức Thánh Cha Phanxico, Thông điệp Ngày khánh nhật truyền giáo).
Ngày xưa, cách đây gần bốn thế kỷ các vị Thừa Sai từ Âu châu sang truyền giáo ở vùng trời đất nước Á Đông bên Việt Nam. Các Vị đã rao truyền tin mừng đức tin Công giáo vào Chúa cho con người trong xã hội với cách sống hội nhập văn hóa Việt Nam.
Các Vị đã ưu tiên việc học hỏi ngôn ngữ tiếng nói của người dân địa phương cho nhu cầu gặp gỡ giao hảo thông thương trong đời sống xã hội. Và từ đó các Vị đã tìm ra con đường cung cách sống văn hóa truyền giáo. Cung cách các Vị cùng với những người dân bản xứ trong dòng thời gian làm quen gặp gỡ đã sáng tác thành lập ra chữ Quốc Ngữ thành chữ viết.
Chữ Quốc Ngữ mà các vị đã phát triển xây dựng làm ra dựa trên nền tảng tinh thần tâm hồn văn hóa dân tộc lúc đó là một công trình góp phần vào việc tôn trọng cùng duy trì phổ biến nếp sống văn hóa cho dễ dàng rộng rãi ra.
Những kinh sách các Vị viết đặt ra để giúp cầu nguyện thực hành đức tin vào Chúa không phải chỉ là những bản dịch từ tiếng Latinh, tiếng Pháp, tiếng Y pha nho, tiếng Tây ban nha sang tiếng Việt Nam, nhưng là những bản kinh tiếng Việt Nam chất chứa nội dung nề nếp văn hóa có vần điệu, cô đọng tâm tình người Việt Nam.
Việc hội nhập văn hóa của các Vị Thừa Sai lúc sang sinh sống truyền giáo ở Việt Nam, cùng những đóng góp của các ngài như đem kiểu xây dựng những thánh đường, những kiến thức kiểu mô thức văn hóa bên Âu Châu vào xã hội Việt Nam, không là những mảnh miếng xa lạ thừa thãi, hay ốc đảo giữa lòng xã hội đất nước Việt Nam. Trái lại, nó góp phần vào làm cho gia sản văn hóa Việt Nam thêm giầu có phong phú.
Đến tận cùng biên giới về không gian hình thể địa lý cây cối núi rừng, về thời gian dòng sông lịch sử, về hoàn cảnh sinh sống con người, về tâm tình nếp sống phong tục y phục, thực phẩm ăn uống, về hình ảnh âm nhạc mầu sắc biểu tượng văn hóa nơi mỗi dân tộc đất nước, về chữ viết ngôn ngữ âm thanh tiếng nói của mỗi dân tộc đất nước, về những lo âu trông mong chờ đợi của con người.
Đó là bước chân cùng tinh thần của các vị Thừa Sai hôm qua, hôm nay và ngày mai cho việc rao giảng làm chứng cho ngọn lửa tin mừng vào Chúa.
Ngọn lửa tình yêu mến Thiên Chúa đã khơi bừng cháy trong tâm hồn trí não các Vị Thừa sai thúc đẩy họ bước chân ra đi đến với nếp sống văn hóa ở một phương trời xa lạ. Và ngọn lửa đó đã soi dẫn chỉ đường cho các ngài sống hội nhập vào nền văn hóa xứ sở của con người địa phương nơi họ đến cùng sinh sống.
Qua đó các vị Thừa sai đã làm công việc góp phần nối lửa đức tin cho đời. Và đó là công việc truyền giáo hôm qua cũng như cho hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh cỗ máy thân thể con người
- Viết bởi Dân Chúa
Kinh thánh thuật lại Thiên Chúa tạo dựng Ông Adong đầu tiên: “ ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.8 Rồi ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra.”( Sách Sáng Thế 2,7-8)
Rồi đến Bà Evà “ 21 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào.22 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.23 Con người nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.”( Sách Sáng Thế 3,21-23).
Vậy hình ảnh con người đầu tiên Thiên Chúa tạo dựng nên như thế nào?
Kinh Thánh không diễn tả chi tiết các cơ quan thân thể hai con người đầu tiên do Thiên Chúa tạo dựng nên như thế nào. Nhưng hai người đầu ntiên Adong và Evà được tạo dựng ban cho có hình hài thân xác hơi thở sự sống động cùng cảm gíac tình yêu chỉ do ý muốn hơi thở của Thiên Chúa. Và họ còn được Thiên Chúa trao ban cho mầm sự sống làm nhiệm vụ truyền sinh sự sống giống nòi tiếp tục cho các thế hệ con cháu chắt.
Đây là một mầu nhiệm, điều bí ẩn của công trình sáng tạo Thiên Chúa đã cùng luôn thực hiện trong thiên nhiên.
Người mẹ khi hay biết mình đang mang thai, một người con đang dần dần phát triển thành hình trong cung lòng mình, chị vui mừng sung sướng hạnh phúc. Vì từ nơi cung lòng chị hoa trái ân phúc đang trổ sinh, một mầm sự sống cùng cảm giác tình yêu mới đang phát triển lớn lên!
Nhưng cũng từ lúc đó lòng chị sao xuyến hồi hộp, nhiều khi đến độ mất ăn mất ngủ! Vì lo lắng cho đứa con đang thành hình trong cung lòng không biết sẽ ra sao. Và những thay đổi trong cơ thể mang đến những biến chuyển bất thường về tâm lý cho người mẹ.
Ôi huyền diệu thánh đức thay tình mẫu tử! Như lời kinh chúng ta vẫn đọc ca ngợi đức mẹ Maria: Và Giêsu con lòng bà đầy phúc lạ!
Khi người con mở mắt chào đời, hình hài thân thể, tuy còn non mỏng yếu ớt bé nhỏ, em bé đã có đủ mọi bộ phận cơ thể là một con người do Ðấng Tạo Hóa đã tạc dựng nên.
Thân thể em là cái gì riêng biệt làm nên em. Người ta không thể lẫn lộn em với người khác được. Cơ quan bộ phận thân thể một con người là một kỳ công tạo dựng của Trời cao.
Ðôi mắt em là một khác biệt với triệu tỉ người. Ðôi mắt với những đặc điểm ẩn hiện trong con ngươi tròng tử phản chiếu sự khác biệt thâm sâu kỳ diệu, mà ngày nay khoa học cũng căn cứ vào đó để nhận dạng mỗi người.
Con mắt cũng là khung cửa sổ phản chiếu những diễn tiến từ trong thâm tâm hay từ những cơ quan bộ phận ngũ tạng của một người. Chả thế mà nhiều nhà tâm lý hay nhà bác sĩ chữa bệnh thường nhìn vào đôi mắt để chẩn bệnh thể lý lẫn tinh thần.
Nhiều nhà chữa bệnh chuyên môn có nhiều kinh nghiệm, cũng xem xét bàn chân cùng các ngón chân bệnh nhân để có thể nhận ra bệnh lý nơi người đó.
Các ngón tay mang chứa nhiều ẩn số kỳ diệu. Những đường vân vòng xóay trên đầu ngón tay, nhất là nơi ngón tay trỏ, nơi mỗi người mỗi khác nhau, không ai giống ai, dù trên mặt đất hiện có cả hơn sáu tỷ người.
Chỉ với một sợi tóc, một gịot nước bọt, hay một dấu ngón dấu tay còn lưu lại nơi một đồ vật, với kỹ thuật phân tích khoa học DNA ngày nay, người ta có thể truy tìm phân biệt được tế bào của người nào đó cách tinh vi chính xác dễ dàng.
Trái tim mỗi người là một công trình kỳ diệu. Một bộ máy lọc cùng bơm luân chuyển máu sức sống đi khắp cùng thân thể con người không ngừng nghỉ, từ lúc thành hình là người trong cung lòng mẹ cho đến ngày sau cùng của đời sống.
Hằng ngày trái tim đập hơn một trăm ngàn lần chuyền dẫn máu trên các „xa lộ“ đường ống dẫn nhỏ li ti chi chít trong khắp cùng thân thể con người. Nếu tính chung lại đường máu luân chuyển đi về gần ba tỉ cây số trên các xa lộ mạch máu.
Trái tim là nôi nuôi dưỡng sự sống; là mái nhà của tình yêu cùng là tụ điểm của tình cảm con người.
Nhờ có máu chuyển từ tim dưỡng khí đến, bộ óc nuôi dưỡng bảy triệu tế bào trong số 14 tỉ tế bào trong một người.
Toàn thân mình tứ chi có tất cả 750 bắp thịt gân cốt. Nhờ thế ta mới có thể đi đứng cử động được.
Buồng phổi là nơi lọc khí trời thở ra hít vào với hai mươi ba ngàn lần hằng ngày. Hơi thở là nhiên liệu cho sức khoẻ trí óc tinh thần cùng tứ chi thân xác tồn tạ phát triển bung nở vươn lên.
Ðiều này chúng ta xem đó là tự nhiên. Nhưng có biết đâu đó là một công trình kỳ diệu có một không hai. Nó vượt xa hẳn khỏi những công trình, mà con người tự hào do tự mình chế tạo làm ra. Công trình do con người chế biến làm ra đâu có sự sống động, đâu có sự phát triển sáng tạo tự tái tạo làm mới chữa lành, cùng không có tình yêu cảm xúc.
Những công trình do óc sáng tạo, sáng kiến của con người làm ra hoặc tốt lành để phục vụ lợi ích cho cuộc sống, hay xấu xa để phá hủy sự sống, như máy móc vũ khí, thuốc độc hại giết người cùng hủy hoại thiên nhiên thôi. Nó luôn có giới hạn cùng đầy dẫy những lỗi lầm khiếm khuyết.
Cỗ máy thân thể sống động của con người hoạt động không ngừng nghỉ từ lúc còn là bào thai trong cung lòng mẹ, và rồi trong suốt dọc đời sống trên trần gian mà không phải cần đến chất năng lượng nào từ bên ngoài bơm vào, dù phải trải qua bao thăng trầm thử thách chịu đựng…
Những khả năng tinh thần của mỗi người cũng được Đấng Tạo Hóa phú bẩm khắc ghi vào tâm hồn trí óc. Và trong suốt dọc đời sống ai cũng có điều kiện cơ hội để phát triển vươn lên xây dựng đời sống riêng mình cũng như gia đình và xã hội chung.
Thánh Phaolô đã tâm tình: Thân xác anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần. Như thế thân xác chúng ta là đền thờ sự sống và tình yêu. Và con người có bổn phận yêu mến kính trọng gìn giữ tài nguyên thân xác mình cùng tài nguyên thân xác của người khác.
Lòng biết ơn Ðấng Tạo Hóa đã tạo dựng thân xác tinh thần và nuôi dưỡng ta là cung cách sống tình hiếu nghĩa với Ngài.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Đức mẹ Maria trong kinh Mân Côi năm Sự Sáng
- Viết bởi Dân Chúa
Xưa nay trong nếp sống phụng vụ đạo đức Công giáo việc lần chuỗi kinh Mân côi là cung cách cầu nguyện bình dân phổ biến dễ dàng cho mọi người tín hữu Chúa Kitô.
Khi đọc kinh Mân côi ngoài Kinh Lạy Cha, Kinh Kính mừng Maria, Kinh Sáng danh kinh cầu Đức Mẹ, nơi đó có lời ca tụng nguyện cầu: Nữ Vương truyền phép rất thánh Mân côi, và suy niệm những chặng đường đời sống của Chúa Giêsu Kitô và của Đức mẹ Maria khi xưa trên trần gian: 5 suy niệm mùa Vui, 5 suy niệm mùa Thương, 5 suy ngiệm mùa Mừng và 5 suy niệm Sự sáng.
Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị khi còn sinh thời đã sáng tác thiết lập thêm năm nguyện ngắm cho chuỗi tràng hạt mân côi về năm sự sáng trong cuộc đời Chúa Giêsu.
Ngắm thứ hai của Sự Sáng chúng ta cầu khẩn: Đức Chúa Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu tại Cana. Ta hãy xin cho được vững tin vào quyền năng của Đức Chúa Trời.
Ngày xưa ở làng quê miền Cana, đi dự tiệc cưới mừng cho đôi tân hôn ngày vui mừng trọng đại đời họ, Đức Mẹ Maria đã bầu cử xin Chúa Giêsu giúp họ thoát cảnh bối rối vì giữa tiệc hết rượu đãi khách. Chúa Giêsu đã dùng quyền năng Thiên Chúa của mình làm phép lạ biến hóa nước thành rượu ngon. Qua đó tiệc cưới được cứu giúp thoát khỏi tình trạng lúng túng bối rối bẽ bàng.
Ngày nay chắc không còn cảnh như thế diễn ra. Vì nếu có hết rượu giữa chừng, có thể gọi đặt mua là có ngay chuyển đến.
Vậy đâu là hình ảnh ý nghĩa Chúa Giêsu nhờ lời bầu cử của Đức Mẹ Maria cứu giúp bình rượu đời sống chúng ta ngày hôm nay?
Đời sống con người trải qua những giai đoạn chặng đường khác nhau. Càng sống trải qua những chặng đường lên xuống, nhất là với việc bổn phận cùng tuổi tác tăng thêm, hầu như ai cũng có kinh nghiệm cùng cảm nghiệm, như bình rượu đời sống của mình cạn dần. Phải, có lúc tưởng chừng như cạn trống không còn gì nữa!
Có những cha mẹ, vì cuộc sống lo toan làm ăn nuôi sống gia đình hay việc giáo dục đào tạo con cái, qúa mệt mỏi lại gặp điều không may mắn, không thành công… Những lúc đó bình rượu đời sống của họ như cạn hết. Họ chỉ còn biết than vãn, và đạo đức hơn thắp nến đọc kinh cầu nguyện xin ơn trợ giúp từ trời cao.
Trong hoàn cảnh đó, lời an ủi phấn chấn khác nào như làn gío mát, như nước rượu rót đổ vào cho bình đời sống được đầy trở lại.
Có những đôi vợ chồng sau một thời gian dài cùng nhau xây dựng mái ấm gia đình hạnh phúc, nhưng bỗng dưng gặp vướng trở vào cơn khủng hoảng. Lúc này họ cảm thấy bình rượu đời sống hôn nhân như cạn hết trống không!
Lời an ủi giúp vượt qua khủng hoảng cùng sự tha thứ nhường nhịn nhau là phương dược giúp ích rất nhiều như nhiều người đã có kinh nghiệm tâm sự. Và nhất là lời cầu xin khấn nguyện cho bình an trở lại, khác nào như nước rượu đổ vào cho bình đời sống được có trở lại.
Có những bạn trẻ đang trong lứa tuổi sống vươn lên, bỗng chốc gặp điều vướng trở. Tầm nhìn suy nghĩ của họ ngắn lại chùng xuống. Tinh thần và thể xác như thiếu nhựa sống nằm ngồi lỳ xuống tận nền đất. Lúc này bình đời sống trở nên trống rỗng.
Những lời khuyến khích, lời cầu nguyện trợ giúp tìm ra lối thoát làm cho tinh thần họ bừng tỉnh đứng dậy. Bình rượu đời sống được đổ đầy lại như trước.
Người chọn cuộc sống tu hành cũng rất nhiều khi vướng gặp phải hòan cảnh khủng hoảng… Bình đời sống như cạn trống rỗng hết nước rượu lý tưởng thưở khi xưa…
Những lúc như thế, bình đời sống cần phải được đổ đầy trở lại cho con đường đời sống vượt qua khủng hoảng. Lời cầu nguyện là cách giúp thiết thực nhất có trở lại quân bình.
Bình đời sống không chỉ cạn trống khi gặp khó khăn khủng hỏang. Nhưng còn cả khi sống tự mãn ngủ quên trên nơi mà cho nghĩ là đỉnh cao thành công!
Kinh nghiệm về bình trống rỗng cạn hết nứơc rượu, cạn hết niềm vui hứng khởi, ai cũng đã hay sẽ sống trải qua.
Và kinh nghiệm về bình đời sống được đổ tràn đầy trở lại như thế nào, cùng sức mạnh ảnh hưởng ra sao cho đời sống tiếp tục vươn lên đi tới, ai cũng có kinh nghiệm qúy báu cần thiết đó xưa nay.
Trong đời sống đạo giáo đức tin phương cách hữu hiệu thi hành làm được để cho bình đời sống được đổ đầy trở lại là lời cầu nguyện.
Đức Mẹ Maria có tâm hồn nhạy cảm với hoàn cảnh bình đời sống khô cạn hết, như ở tiệc cưới Cana ngày xưa. Khi thoáng nhìn thấy hoàn cảnh như thế, Đức Mẹ đã bầu cử xin Chúa Giêsu làm phép lạ cứu giúp cho bình rượu đời sống có tràn đầy trở lại.
Trong đời sống, tinh thần bình đời sống của con người cũng thường vướng trở vào hòan cảnh trống rỗng cạn ráo. Những lúc đó con người chúng ta cần lời bầu cử của Đức mẹ rất khẩn thiết.
Ngọn nến lung linh cùng lời kinh Kính mừng của chuỗi tràng hạt mân côi là lời cầu xin của con người xin sự cầu bầu trợ giúp của Đức Mẹ cho bình đời sống được đổ tràn đầy trở lại: Đức Chúa Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu tại Cana. Ta hãy xin cho được vững tin vào quyền năng của Đức Chúa Trời.
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh lễ Tết Trung Thu
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Theo phong tục tập quán văn hóa Việt Nam, hằng năm vào mùa Thu có ngày lễ Tết Trung Thu, 15.08. âm lịch. Ngày lễ này mang đậm mầu sắc lễ hội văn hóa xã hội cùng cho trẻ con thiếu nhi nhiều hơn.
Nhưng đâu là ý nghĩa mầu sắc tôn giáo của ngày lễ hội này trong đời sống đức tin đạo công giáo ?
Ở xã hội bên quê nhà Việt Nam, theo chu kỳ thời tiết tiếp theo sau mùa thu hoạch thóc lúa hoa qủa là mùa Thu.
Bên xã hội Âu châu cũng thế. Và vào dịp này có ngày, thường vào Chúa nhật đầu tháng Mười hằng năm, tạ ơn mùa màng đã thu hoạch xong.
Tập tục này nói lên lòng biết ơn của con người với Đấng Tạo Hóa đã ban cho con người lương thực sinh sống.
Tập tục này nói lên tâm tình lòng hy vọng cậy trông của con người vào bàn tay lo liệu gìn giữ của Đấng Tạo Hóa cho tương lai đời sống con người trên mặt đất ở những vụ mùa màng kế tiếp.
Tập tục này nói lên lòng kính trọng thiên nhiên, đất đai, sức lực con người, mà họ nhận được như qùa tặng, chứ không do con người chế biến làm ra.
Ngày lễ hội Tết Trung Thu dành cho thiếu nhi trẻ con theo phong tục văn hóa Á Đông vào mùa Thu mang nhiều mầu sắc huyền thoại, không mang mầu sắc tôn giáo. Nhưng dẫu vậy cũng phần nào gói ghém tâm tình ý tưởng kính trọng hướng về thiên nhiên, về sự sống con người.
Điều này thể hiện trong việc các em thiếu nhi rước lồng đèn ban đêm ngày 15. 08. âm lịch, có ánh sáng trong từ mặt Trăng chiếu tỏa xuống mặt đất.
Hình ảnh chiếc lồng đèn các em bé cầm đi rước thường làm bằng giấy bóng kiếng , giấy mỏng có vẽ hay cắt khắc dán hình các con vật như con cá, con tôm, con chó, con bươm bướm cả hình người trẻ con nữa ở chung quanh đèn.
Bên trong chiếc lồng đèn là ngọn nến cháy sáng hay ngọn đèn điện cũng được bật lên. Ngoài trời tối, ánh sáng trong chiếc lồng đèn tỏa ra chiếu rỏ nét hình vẽ cắt dán chung quanh lồng đèn. Ánh sáng tỏa ra từ lồng đèn không mạnh, không chiếu sáng ra xa. Nhưng đủ cho hình chung quanh chiếc lồng đèn hiện nổi lên, cùng đủ chiếu sáng gương mặt em bé đang cầm trong tay chiếc lồng đèn.
Nhìn chiếc lồng đèn có ánh sáng chiếu tỏa gợi nhớ đến cây nến Rửa tội, mà em bé cũng như những người Công Giáo đã nhận ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa tội lúc còn thơ bé.
Ánh sáng cây nến rửa tội được đốt thắp lên từ cây nến Chúa Giêsu phục sinh, Đấng là ánh sáng niềm tin, niềm hy vọng và tình yêu mến cho con người trên trần gian.
Ánh sáng cây nến rửa tội không sáng mạnh như ánh sáng ngọn đèn điện. Nhưng đủ tỏa sức sáng cùng hơi nóng cho tâm hồn đức tin giúp nhận ra mình là con Thiên Chúa, giúp trí khôn tinh thần nhận biết giới hạn tâm trí con người, và cần sự trợ giúp từ Trời cao, nhất là trong những khi gặp đau khổ, khó khăn bối rối.
Ánh sáng yếu ớt của ngọn nến chiếc lồng đèn tuy vậy chiếu rõ nét hình dán vẽ chung quanh chiếc đèn.
Điều này khích lệ giúp ta thêm phấn khởi tin tưởng, dù là những việc nhỏ ta làm giúp người khác cũng mang đến hiệu qủa ích lợi, mà không sợ là chuyện nhỏ bé không có gía trị gì.
Điều này cũng nói lên ánh sáng cây nến rửa tội trong tâm hồn ta, dù yếu bé nhỏ, nhưng đủ sức soi chiếu giúp sống nhận ra điều ngay chính tốt lành là người con của Chúa. Và qua đời sống như thế, dù âm thầm, cũng chiếu tỏa tình yêu của Chúa, vẻ nét đẹp của Đấng Tạo Hóa nơi con người và trong thiên nhiên hòa lẫn dưới ánh trăng lung linh.
Theo huyền thoại ánh sáng mặt Trăng đêm Trung Thu, 15.08. Âm lịch, trong sáng hơn mọi ngày. Và trong đêm này có thể nhìn rõ Chị Hằng Nga cùng Chú Cuội tựa gốc cây đa trên cung trăng.
Ánh trăng trong đêm Rằm tháng Tám Âm lịch trong sáng thì có. Nhưng Chị Hằng Nga và Chú Cuội với cây đa trên cung trăng thì không lấy gì bảo đảm. Vì năm 1969 Phi thuyền Apollo 11. của Nasa Hoa Kỳ đã đổ bộ đưa các phi hành gia Neil Amstrong, Edwin Adrin và Michael Collins lên mặt Trăng đi bộ trên đó, và họ chỉ thấy toàn núi đất đá, chứ không thấy một người nào cả.
Theo sách Sáng thế ký tường thuật, mặt Trăng là một hành tinh trong thiên nhiên do Thiên Chúa tạo dựng trong công trình tạo dựng trời đất:“ 14 Thiên Chúa phán: "Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. 15 Ðó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất." Liền có như vậy. 16 Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao. 17 Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, 18 để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 19 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ tư.“( Sách Sáng Thế 1,14- 19).
Lẽ dĩ nhiên khoa học xưa nay vẫn luôn đi tìm hiểu khảo cứu về nguồn gốc hành tinh này, nhất là xem có sự sống trên hành tinh mặt trăng không.
Ánh sáng phát chiếu ra từ mặt trăng, theo khoa học khảo cứu là ánh phản chiếu lại ánh sáng mặt trời. Vì tự mặt trăng không có ánh sáng. Mặt trăng chiếu lại ánh sáng của mặt trời vào ban đêm theo như chu kỳ di chuyển xoay vần của vũ trụ một ngày có một nửa thời gian 12 tiếng là ban ngày được mặt trời chiếu sáng, và một nửa thời gian 12 tiếng là ban đêm được mặt Trăng chiếu sáng.
Điều này cũng nói lên đời sống con người lệ thuộc vào Thiên Chúa, như mặt trăng lệ thuộc vào mặt trời để tiếp nhận có ánh sáng.
Ánh sáng mặt trăng dịu mát hơn ánh sáng mặt trời nóng gay gắt. Vì thế có thể ngước mắt ngắm nhìn thẳng lên mặt trăng, nhưng lên mặt trời thì không thể được.
Mặt trăng di chuyển trong chu kỳ mỗi tháng tròn đầy rồi lại khuyết nhỏ như hình vòng lưỡi liềm. Điều này nói lên sự hay thay đổi không có gì là bền vững.
Và cũng như mặt trăng thay đổi hình dạng khi đầy tròn khi khuyết thu nhỏ lại và chìm dần trong khoảng không gian bao la. Đời sống con người cũng trải qua những giai đoạn sinh ra, tuổi thơ bé, tuổi thanh thiếu niên, tuổi trưởng thành, tuổi cao niên và giai đoạn đi trở về với lòng đất mẹ ngày sau cùng.
Như mặt Trăng có lúc tròn đầy, có lúc khuyết chỉ còn một nửa hay một phần nhỏ, có lúc bị hành tinh khác chạy ngang che lấp tối mù mịt. Lịch sử đời sống xã hội vào mọi không gian thời đại cũng thế đều có tiến triển, có luân chuyển thay đổi, có bóng tối có ánh sáng, có lúc thăng trầm, có thịnh vượng cũng như lúc khủng hoảng trì trệ...
Dòng sông, con đường đời sống mỗi người cũng lên xuống thay đổi như chu kỳ mặt trăng luân chuyển thay đổi theo trật của Đấng Tạo Hóa đã sắp đặt ấn định, mà không ai biết trước cùng chưa hay không sao khám phá ra được.
Dẫu vậy, Đấng Tạo Hóa đã nhìn thấy trước, nên Ngài đã tạo dựng nên Mặt Trời chiếu tỏa ánh sáng hơi nồng ấm cho sự sống được gìn giữ phát triển vào ban ngày. Và ban đêm có mặt Trăng cùng các Tinh Tú chiếu soi ánh sáng dịu mát thanh bình cho mọi loài sinh sống trên mặt đất.
Ánh sáng mặt Trời và ánh sáng mặt Trăng là ánh sáng chiếu tỏa niềm vui, niềm hy vọng cho con người cùng cây cỏ và thú vật trong thiên nhiên trên trần gian.
Mùa Trăng Trung Thu
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Thánh Mattheus
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm Giáo Hội mừng lễ kính Thánh Mattheus vừa là vị tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn kêu gọi trực tiếp đi theo Chúa lúc Ngài còn trên trần gian, và cũng là vị thánh sử viết phúc âm Chúa Giêsu Kitô, sau khi Ngài trở về trời.
Như vậy thánh Mattheus là nhân chứng trực tiếp đã sống sát gần Chúa Giêsu nghe Ngài rao giảng tin mừng, cùng được sống trải qua những lần Chúa Giêsu làm phép lạ, lập Bí Tích Thánh Thể, giờ phút đau khổ thương khó tử nạn của Chúa Giêsu, sự sống lại từ cõi chết và lên trời của Chúa.
Sau cùng thánh nhân cũng là người cùng với Đức mẹ Maria và các Tông đồ anh em đã đón nhận Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống ở nhà phòng tiệc ly bên Jerusalem.
Đâu là hình ảnh vị Tông đổ Thánh sử Mattheus?
Trong cả ba phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh Mattheus (10,3), Thánh Marcô (3,18), Thánh Luca ( 6,15) và Sách Công vụ các Tông đồ ( 1,13), tên Mattheus được liệt kê trong danh sách 12 Tông đồ của Chúa Giêu Kitô.
Theo phúc âm thánh sử Marcô Thánh Mattheus có tên là Levi hành nghề thu thuế cho người Roma. Và Khi Chúa Giêsu đi ngang qua trạm thu thế có ông đang ngồi ở bàn thu thuế , Ngài kêu gọi ông “ hãy theo Ta!” và Ông đứng dậy theo Người liền ( Mc 2,14).
Đức cố giáo hòang Benedicto 16. đã có suy tư về cung cách đầy nhiệt huyết không do dự của Levi bỏ mọi sự lại đàng sau đi theo tiếng kêu gọi của Chúa Giêsu “ Mattheus lập tức đứng dậy và theo Người. Câu tường thuật ngắn ngủi này diễn tả cung cách nếp sống triệt để cho câu trả lời sẵn sàng của Mattheus nghe theo tiếng gọi của Chúa Giêsu.
Điều này nói lên sự quyết tâm của Mattheus từ bỏ nguồn thu nhập tài chánh lợi nhuận hấp dẫn béo bở cho đời sống của mình, cho dù nguồn tài chính này thường không có gì trong sạch và cũng không hợp luật lệ nữa.
Nghe Chúa Giêsu gọi Hãy theo ta, Mattheus đã hiểu ra, nếu theo Ngài, thì Ngài không cho phép tiếp tục hành nghề thu thuế bất chính này nữa. Đó là điều Thiên Chúa không muốn.” ( Benedickt XVI. Auf dem Fundament der Apostel, Katechesen zum Ursprung der Kirche, 2007, Regensburg, tr. 93.)
Không có sử sách nào nói đến chi tiết về thân thế của Thánh Mattheus như trong phúc âm viết thuật để lại.
Nhưng cũng có những tương truyền huyền thoại thuật lại Thánh Mattheus vào khoảng năm 42 sau Chúa giáng sinh đã rời bỏ phần đất nước Palestina và đi truyền giáo bên nước Ba Tư và bên nước Aethiopia. Rồi sau cùng tử vì đạo làm chứng cho cho Chúa ở Aethiopia. Di tích hài cốt của ngài được an táng ở Aethiopia. Sau đó được đưa về Paestum, và khoảng thế kỷ 10. được đưa về chôn cất ở Salerno bên nước Ý.
Theo ý kiến các nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng Mattheo là một nhà trí thức Do Thái tin theo Chúa Giêsu Kitô thuộc vào thế hệ thứ hai. Là người Do Thái trở thành tín hữu Chúa Kitô nên Ông có cung cách cởi mở với những người không phải là Kitô giáo, điều này thể hiện rõ nét nơi nội dung bản văn phúc âm Ông viết ra.
Sách phúc âm Mattheus được viết trước tác vào khoảng từ năm 80 đến năm 90 sau Chúa giáng sinh ở Antiochia, nơi người tín hữu Chúa Kitô sống chung với những cộng đoàn người Do Thái, Hy Lạp và những nhóm dân tộc khác.
Nơi Phúc âm theo thánh sử Mattheo, Chúa Giêsu được trình bày trong tương quan với Do Thái giáo, là người chính thực cắt nghĩa về lề luật từ thời Mose.
Phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh Mattheo nhấn mạnh đến lòng nhân từ thương xót của Chúa. Thánh sử Mattheo trích dẫn lời Ngôn sứ Hosea ( 6,6): Hãy đi và học cho biết ý nghĩa câu này: Ta muốn lòng nhân từ chứ đâu cần lễ tế. Vì ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi. ( Mt 9,13 và 12,7).
Phúc âm Chúa Giêsu Kitô theo thánh sử Mattheus là bản vân phúc âm dài nhất với 28 chương.
Phúc âm Chúa Giêsu theo thánh sử Mattheus tình bày nhấn mạnh đến con người của Chúa Giêsu Kitô. Vì thế ngay chương mở đầu ông viết tường thuật chi tiết Gia phả của Chúa bắt đầu từ tổ phụ Abraham. Gia phả gốc tích dòng dõi con người Chúa Giêsu được chia làm ba phần, mỗi phần trải qua 14 đời: từ tổ phụ Abraham đến vua David có 14 đời, từ Vua David đến thời lưu đầy ở Babylon với 14 đời, và từ thời lưu đầy ở Babylon đến Chúa Giêsu Kitô cũng có 14 đời ( Mt 1,1-17).
Thánh sử còn tường thuật ba lần Thiên Thần Chúa hiện ra báo cho Giuse. Lần thứ nhất báo cho Giuse đừng bỏ trốn, nhưng hãy nhận Maria làm vợ để trở thành cha nuôi Chúa Giêsu Kitô trong xã hội con người. ( Mt 1,18-25).
Và sau khi các nhà chiêm tinh từ Phương Đông xa xôi đến tìm thờ lạy hài nhi Giêsu ở Bethlehem, Thiên Thần Chúa lại hiện ra lần thứ hai báo cho Ông Giuse đem gia đình đi di cư tỵ nạn sang nước Ai cập. Vì vua Herode truy lùng tìm giết hài nhi Giêsu. ( Mt 2, 13-18).
Và lần thứ ba Thiên Thần Chúa hiện ra báo cho Giuse hãy đem gia đình Chúa Giêsu trở về quê quán Nazareth miền Galileo. Vì vua Herode truy lùng tìm giết hài nhi Giesu đã qua đời. ( Mt 2,19-23).
Một đặc điểm nổi bật nhất trong phúc âm Chúa Giêsu theo thánh sử Mattheus là bài giảng của Chúa Giêsu trên núi, mà xưa nay gọi là Tám mối phúc thật. ( Mt 5,1-15).
Bản văn tường thuật bài giảng này chất chứa phương châm hướng dẫn căn bản về cung cách nếp sống Kitô giáo trong tương quan chiều hướng thượng với Thiên Chúa, và chiều ngang đường chân trời giữa con người với nhau trong xã hội nhân loại.
Bài giảng Tám mối phúc thật trở thành lời kinh cầu nguyện mà người tín hữu Công giáo Việt Nam đọc hằng tuần trước thánh lễ Misa vào ngày Chúa Nhậthay ngày lễ trọng. Đọc để cầu nguyện cùng để ôn nhớ nhắc lại giáo lý sống đức tin người Kitô giáo trong đời sống xã hội.
Rồi phúc âm Chúa Giêsu theo thánh sử Mattheus cũng là bản phúc âm duy nhất viết tường thuật về quang cảnh ngày phán xét chung ( Mt 25,31-46).
Bài tường thuật này không phải là một đe dọa, nhưng diễn tả nhấn mạnh đến cung cách sống đức tin Kitô: bác ái tình người là điều căn bản quan trọng nhất.
Bác ái tình người mang đến cho con người giữa nhau niềm an ủi, niềm vui hạnh phúc. Và công việc bác ái tình người làm cho người khác là cân lạng thước đo trước tòa Thiên Chúa, Đấng Thẩm Phán chí công, khi mỗi người đến trình diện trước Ngài vào ngày sau cùng đời sống.
Trên tường phía bàn thờ ở nhà nguyện Sixtin trong Museum Vatican, nơi diễn ra mật nghị bầu chọn vị Giáo Hoàng mới, có bức ảnh huyền thoại Ngày phán xét chung dựa trên bài tường thuật của Phúc âm Thánh Mattheus, do danh hoạ Michel Angelo vẽ. Ông vẽ bức danh họa này từ năm 1535 đến năm 1541, và trong bức tranh thần thánh này có tất cả 300 khuôn mặt.
Theo lịch sử tường thuật lại, mỗi Vị Hồng Y cử tri khi bỏ phiếu bầu vị Giáo hoàng mới phải đến trước bức danh họa tuyên tín thề trước Đấng Thẩm phán toàn năng…rồi mới bỏ lá phiếu kín vào chén thánh thùng phiếu.
Thánh sử Mattheus ngay từ chương đầu với Gia phả Con người Chúa Giêsu cùng trong toàn bản văn tường thuật nhấn mạnh đến khía cạnh con người, nên ông được chọn hình tượng là một người có đôi cánh như một Thiên Thần, và tay đang cầm bút viết sách làm biểu tượng cho phúc âm Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mattheus.
Lễ kính Thánh tông đồ Mattheus 21.09.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh nếp sống kiên nhẫn
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ở đời cha mẹ thường khuyên con cháu mình làm việc gì cũng cần phải có kiên nhẫn mới mong đạt được kết qủa tốt.
Nhưng những người trẻ, và nhất là cuộc sống xã hội ngày hôm nay đòi hỏi phải nhanh lẹ, không để mất thì giờ.
Theo cách cày cấy trồng tỉa cổ truyền xưa nay, nhà nông luôn phải có kiên nhẫn trong việc trồng tỉa vun xới lúa mạ, cây cối, nuôi thú vật lâu hằng năm mới có vụ mùa thu hoạch và thú vật mới lớn đủ.
Nhưng ngày nay, theo phương mới, việc trồng tỉa chăn nuôi thú vật lại không cần nhiều thời gian lâu như trước nữa, chỉ cần ba hay sáu tháng là có mùa thu hoạch, có thú vật để bán rồi. Tiêu chuẩn nhanh lẹ là thước đo thành công.
Dẫu vậy, người mẹ vẫn luôn phải kiên nhẫn chờ đợi con mình phát triển chín tháng trong cung lòng, mới tới ngày em bé mở mắt chào đời. Và cha mẹ em bé cũng phải kiên nhẫn chờ đợi con mình cần thời gian hằng năm sáu năm trời mới phát triển đầy đủ về thể xác lẫn tâm trí trước khi cắp sách vở đi học.
Nếp sống kiên nhẫn trở thành đức tính Trời cao phú ban khắc ghi trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa.
Theo phương pháp khoa học phát triển ngày nay, người ta đốt giai đoạn thời gian có thể chế biến những khúc cây còn non thành gỗ cứng sơn phết mầu như gỗ đã trồng lâu năm. Nhưng gỗ của cây trồng lâu năm vẫn có gía trị cao đẹp gấp nhiều hơn thứ gỗ đốt giai đoạn do biến chế ghép ráp lại.
Kiên nhẫn gắn liến với thời gian phát triển mà Đấng Tạo Hóa đã viết ghi vào trong công trình tạo dựng thiên nhiên.
Chúa Giêsu Kitô dùng hình ảnh con số nói về cung cách nếp sống đạo đức, nhân văn lòng kiên nhẫn: Ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" Đức Giê-su đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy."( Mt 18,21).
Chuỗi con số 70 x 7 = 490 nói lên sự gì nhiều, sự gì to lớn. Và đó là hình ảnh biểu tượng diễn tả cung cách nếp lòng kiên nhẫn trong việc bác ái tình liên đới giữa con người với nhau
Thánh Giacôbê dùng hình ảnh nhà nông trồng tỉa cấy lúa nói về nếp sống kiên nhẫn ( Gc 5. 7-10). Trong đoạn thư ngắn này ông đã nhắc đến kiên nhẫn bốn lần.
Thánh Giacobê nói đến nếp sống kiên nhẫn trong thư có ý muốn nhắc nhở người tín hữu Chúa Kitô đừng quên đích điểm Chúa Giêsu sẽ đến trở lại. Trông mong chờ đợi là việc tốt cần thiết cho đời sống đức tin cùng trong cả cuộc sống làm người hằng ngày nữa.
Thế giới, lịch sử nhân loại, và đời sống con người chưa phải là tất cả. Nhưng còn phải trông mong chờ đợi nơi Chúa nữa trong tương quan tình bác ái yêu thương giữa con người với nhau.
Kiên nhẫn chờ đợi nơi Chúa chính là lòng tin tưởng nơi Ngài trong đời sống hằng ngày. Đức cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn văn Thuận đã có suy tư xác tín:
Nr. 25 „Các Thánh không nên thánh vì nói tiên tri hay làm phép lạ. các ngài đâu làm gì lạ! Họ chỉ chu toàn bổn phận.“
Nr. 26: „Song bổn phận hiện tại không phải là thụ động, nhưng
là liên lỉ canh tân,
là quyết định chọn hay chối Chúa,
là tìm nước Chúa,
là tin ở tình yêu vô bờ của Chúa,
là hành động với tất cả hăng say,
là thể hiện mến Chúa yêu người, „ ngay trong giây phút này“ (Đường Hy Vọng)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh theo hướng mặt trời mọc
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Hape Kerkeling trong tác phẩm „ Ich bin mal weg“ ( Piper-Verlag, München, 34. Auflage 2007) đã thuật lại cảm nhận của ông về cây Thánh gía: „ Tôi bước vào hành lang nhà thờ chính tòa Santiago de Compostela. Một mình trong yên lặng quan sát khắp nơi, bất chợt tôi thấy cây Thánh Gía như một con chim bồ câu bay lơ lửng ngay phía trên bàn thờ. Và đây cũng là lần thứ nhất tôi chú ý đến cây Thánh gía, tò mò tôi thấy đầu Chúa Giêsu treo trên đó được chạm trổ trình bày theo hai hướng nhìn với hai ý nghĩa khác nhau.
Theo hướng nhìn từ chúng ta đứng trứơc cây Thánh Gía, đầu Chúa Giêsu gục nghiêng sang bên trái, hướng phía Tây. Đó là hướng mặt trời lặn, hướng về chiều ban đêm hay đồng nghĩa với tối tăm sự chết, một sự chấm dứt.
Nhưng theo hướng từ Chúa Giêsu trên Thánh Gía lại ngược lại. Ngài chết gục đầu sang phía bên phải, hướng Đông, hướng mặt trời mọc. Điều này cũng nói lên ý nghĩa một khởi đầu sáng lạn chiếu tỏa ánh mặt trời của một bình minh….“
Đâu là ý nghĩa đích thực của cây Thánh Gía Chúa Giêsu?
Ngày nay, khi đứng trứơc cây Thánh Gía, chúng ta đều có tâm tình gợi nhớ đến giờ phút sau cùng đen tối đau thương nhất của đời sống Chúa Giêsu thành Nadarét khi xưa.
Theo tương truyền, ngày xưa Thánh nữ hòang Helena đã tìm thấy cây Thánh Gía Chúa Giêsu, trên đó Ngài bị đóng đinh vào, trong một phần mộ ở thành Giêrusalem. Vào năm 335 sau Chúa giáng sinh đã long trọng dựng cao cây Tháh Gía đó cho mọi người chiêm ngắm tôn kính.
Rồi trong khi chiến đấu đánh trận thời trung cổ xa xưa, thời thập tự quân, với lòng nhiêt thành tìn tưởng, người ta thường mang cây Thánh Gía đó đi đầu, để từ câyThánh Gía một sức mạnh lạ lùng mầu nhiệm thần thánh của Thiên Chúa phát tỏa chiếu ra giúp thắng trận. Nhưng phép lạ mầu nhiệm thần thánh đâu có phát tỏa ra từ cây cột gỗ.
Ngày nay tôn kính Thánh Gía không phải vì cây cột mảnh gỗ hay mảnh sắt thép làm nên Thánh gía, nhưng là tôn kính Chúa Giêsu, Đấng đã hy sinh chịu chết trên cây thánh gía cho chúng ta, trong một ý nghĩa đầy ánh sáng khác lạ: tình yêu Thiên Chúa và thánh gía nơi gặp gỡ bản tính Thiên Chúa cùng con người. Nơi đó theo suy hiểu của con người là điều đau khổ bất hạnh nhất, nhưng trong thực tế lại là một dấu chỉ của một khởi đầu mới đầy ánh sáng chiếu tỏa.
Thánh Phaolô trong thư gửi Giáo đoàn Philippe (2,6-11) đã diễn tả con đường thánh gía Chúa Giêsu là một con đường tự hạ mình. Chúa Giêsu đã từ bỏ mọi sức mạnh quyền hành cao trọng và bước xuống dưới thấp của đời sống, Ngài chấp nhận sự chết. Ngài không trốn tránh đau khổ, lo âu sầu muộn, dù là con Thiên Chúa, nhưng đã tự hạ mình chấp nhận điều đó.
Chúa Giêsu từ bỏ địa vị cao sang trên trời xuống thế làm người, sống hòa đồng, muốn mở ra lối sống cộng đoàn xã hội con người.
Sự khiêm hạ mình của Chúa Giêsu sống làm người thấp hèn không phải là sự đầu hàng trước sức mạnh quyền thế, nhưng là sự gần gũi liên đới bên cạnh với những người bị nằm ngã qụy trên nền đất.
Sự khiêm hạ vâng lời của Chúa Giêsu nói lên ý nghĩa, chính Ngài đã mang vác lấy gánh nặng đời sống, chứ không đổ chất gánh nặng cho người khác gánh vác.
Chúng ta tôn kính Thánh gía Chúa Giêsu không phải là ca ngợi dụng cụ kiểu cách gây đau khổ hành hạ thân xác tinh thần con người của đế quốc Rôma thời xa xưa.
Không, Thánh gía Chúa Giêsu là dấu hiệu , là „Logo“ của người Công giáo hàm chứa ý nghĩa về sự sống theo không gian ba chiều: đôi bàn chân Đấng treo trên Thánh gía cắm trên nền đất, đỉnh đầu của Ngài vươn lên trời cao, đôi tay dang rộng ra hai phía trái và phải sang tới con người xã hội.
Cùng qua cung cách đó chúng ta còn nhận ra nơi Thánh gía Chúa Giêsu là một dấu chỉ quan trọng nói về tình yêu của Thiên Chúa với con người, một tình yêu tự hy sinh quên mình cho đến tận cùng của sự sống.
Trong đời sống, lẽ tất nhiên đây chỉ là một hình ảnh nhỏ đem ra so sánh cho dễ hiểu thôi, tình yêu lòng hy sinh dấn thân nuôi nấng dạy dỗ của cha mẹ cho đời sống con cái mình suốt dọc đời sống phần nào phản ảnh tình yêu lòng hy sinh dấn thân của Chúa Giêsu chịu đau khổ trên thánh gía cho con người.
Cha mẹ hy sinh chịu đựng cho con cái mình với hy vọng đời sống con cái mình được có kết qủa tốt đẹp sau này.
Chúa Giêsu hy sinh chịu đau khổ chết trên Thánh gía đã sống lại mang ánh sáng sự sống, ánh sáng ơn cứu độ lại cho linh hồn con người. Trên Thánh gía Chúa Giêsu gục đầu nghiêng về bên phải, hướng Đông phía mặt trời mọc. Ánh sáng bình minh chiếu tỏa bắt đầu một ngày mới: ánh sáng mặt trời phục sinh.
Nhưng dẫu vậy, như Hape Kerkeling suy tư: „ Hoàn toàn hiểu biết cảm nhận được hết điều này, con người chúng ta chắc chắn không thể nào!“
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh lễ mừng sinh nhật Đức Mẹ Maria
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Bây trong nếp sống phong tục văn hóa xã hội không chỉ bên tây phương, nhưng hầu như khắp mọi nơi trên thế giới, người ta đều mừng ngày sinh nhật hằng năm. Lẽ dĩ nhiên cũng có nhièu người không mừng ngày sinh nhật.
Trong đời sống đức tin của Giáo hội, không có tập tục mừng ngày sinh nhật của các Thánh, nhưng mừng ngày các vị Thánh qua đời.
Dẫu vậy Giáo Hội mừng ba ngày lễ sinh nhật của ba vị cao cả: Sinh nhật Thánh Gioan tiền hô ngày 24.06., sinh nhật đức mẹ Maria ngày 08.09. và sinh nhật Chúa Giêsu Kitô ngày 25.12.
Mừng ngày sinh nhật của ba vị Thánh cao cả có liên quan đến tội nguyên tổ Adong Eva.
Thánh Gioan tiền hô ngay từ khi còn đang thành hình sự sống trong cung lòng bà Elisabeth đã được Đức Mẹ đang cưu mang thai Chúa Giêsu đến thăm viếng và được Thiên Chúa chúc lành cho khỏi tội tổ tông trở nên là vị thánh ngôn sứ dọn đường cho Chúa Giêsu đến.
Đức Mẹ Maria được Thiên Chúa tuyển chọn làm mẹ Chúa Giêsu Kitô, được Thiên Chúa thánh hiến cho khỏi tội tổ tông truyền.
Chúa Giêsu, đấng Thánh Con Thiên Chúa, xuống thế làm người mang ơn cưú chuộc cho con nười khỏi hình phạt tội tổ tông Adong Eva.
Vì thế Giáo hội chỉ mừng ba ngày lễ sinh nhật của ba vị Thánh cao cả này.
Theo tương truyền bên vùng thành cổ Jerusalem lối cổng Sư Tử, có thánh đường Thánh Anna và bên cạnh thánh đường còn di tích lịch sử khô cạn hồ Bethsaida. Chính tại nơi đây ngày xưa Chúa Giêsu chữa một người bị đau ốm bại liệt được lành bệnh đi lại : Anh hãy chỗi đậy vác chõng và bước đi.” ( Ga 5, 1-8), là nơi sinh ra của đức Mẹ Maria. Cha mẹ sinh thành của đức mẹ Maria là Thánh Gioakim và thánh nữ Anna.
Ngày người có kỷ niệm mừng sinh nhật, thông thường họ được chúc mừng, được thổi tắt nến, cắt bánh mừng sinh nhật, được tặng qùa và khách được mời tham dự cùng tham dự tiệc mừng. Nhưng mừng sinh nhật đức mẹ không có những nghi thức như vậy. Dẫu vậy cung cách mừng lễ sinh nhật đức mẹ có hình ảnh nội dung tâm linh nhiều hơn
Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ Maria, bây giờ là người mẹ của chúng ta trên trời cao, là cơ hội nhắc nhớ ta đến ơn kêu gọi đời sống của mình. Vì mỗi đời sống của con người đều có ơn kêu gọi riêng.
Đời sống mỗi người được Thiên Chúa tạo thành và nuôi dưỡng. Sự sống con người là qùa tặng từ trời cao. Cha mẹ sinh thành ra con mình, nhưng cha mẹ không làm ra sự sống con mình. Cha mẹ là người đón nhận sự sống của con mình do Thiên Chúa ban cho.
Cha mẹ nào khi sinh con ra đời cũng đều mong muốn con mình sau này sẽ trở thành người thế nọ thế kia. Nhưng từ hình hài thân xác, tới tính tình và nhất là con đường đời sống của người con đều khác với lòng mong muốn của cha mẹ. Đấng Tạo Hóa đã có một chương trình sẵn cho mỗi người, không ai giống ai. Chương trình đời sống mỗi người xưa nay luôn là một mầu nhiệm không ai có thể hiểu thấu đáo biết trước được.
Vì thế, mới có nhiều dân nước chủng tộc, nhiều ngôn ngữ văn hóa, văn minh, nhiều ngành nghề, ơn kêu gọi khác biệt nhau.
Chương trình đời sống riêng mỗi người trên trần gian làm cho bức tranh đời sống trong công trình sáng tạo thiên nhiên trở nên sống động, có sức năng động phát triển.
Lời Thiên Chúa nói với con người vể mầu nhiệm bí ẩn sự sống : Từ bụi đất con được tạo thành và sau cùng con sẽ trở về cùng bụi đất, là căn bản sự sống con người, nhắc nhớ đến sự sống con người do Thiên Chúa tạo thành. Tuy là bụi đất, nhưng bụi đất đó được Thiên Chúa thánh hóa chúc lành, cùng con người là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa. Điều này nói lên mầu nhiệm sự sống thánh đức cùng cao cả của sự sống con người.
Thánh Toma Aquino đã có suy tư về đời sống của người phải chịu đựng đau khổ: Cũng vậy đời sống đau khổ nhất, bất hạnh nhất vẫn luôn tốt hơn là không có đời sống. Vì đời sống là do Thiên Chúa muốn, và trở về với Thiên Chúa như Ngài muốn.
Đức Mẹ Maria được sinh ra không vướng mặc tội tổ tông truyền Adong Evà. Nhưng cuộc đời Đức Mẹ không phải không có đau khổ, không có nước mắt, không có chịu đựng. Trái là lưỡi gươm đâm thâu qua tâm hồn Đức Mẹ từ ngày Chúa Giêsu sinh ra cho đến ngày sau cùng của Chúa Giêsu trên trần gian.
Mừng lễ sinh nhật đức mẹ Maria con người chúng ta cũng nhớ đến với lòng biết ơn sâu thẳm hình ảnh tình mẫu tử của mẹ mình, người đã sinh thành, nuôi dưỡng lo lắng chăm sóc đời sống mình từ lúc chúng ta còn là bào thai trong cung lòng mẹ và rồi trong suốt dọc đời sống trên trần gian.
Và người mẹ cũng là người đã sống trải qua chịu đựng nhiều đau khổ trong chính đời sống của bà.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh thập gía trong đời sống
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Các em học sinh trường tiểu học hằng ngày đeo trên vai chiếc cặp hình chữ nhật chứa những sách vở có vẻ như to hơn vai lưng em, với các lọai sách, bút viết cùng cả hộp đựng bánh mì, trái cây, quần áo tập thể thao và chai nước uống...đến trường học.
Chiếc cặp học trò đó giống như một chiếc Balô nặng nề. Nhưng các em mang đeo vác nó hằng ngày đi học trở thành thói quen. Các em vừa đi vừa trò truyện vui cười với nhau. Một cảnh tượng thật hồn nhiên vui tươi!
Có hình ảnh như thế trong đời sống đạo gíao đức tin không?
Chúa Giêsu Kitô ngày xưa đi rao giảng tin mừng nước Thiên Chúa đã đưa ra đòi hỏi: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” ( Mt 16,21-27)
Lẽ dĩ nhiên thập gía mà Chúa Giêsu Kitô nói đến không giống tương tự như chiếc cặp đựng sách vở của học sinh. Nhưng cũng có thể so sánh với một vài hình ảnh thập giá trong đời sống.
Chiếc cặp sách học sinh bạn trẻ mang vác nói lên em là học sinh nữ hay nam. Và khi nhìn thập gía chúng ta cũng khám phá ra điều gì.
Đó đây nhiều người mang vòng dây vàng, hay bạc trang trí nơi cổ có tượng hình thập gía. Đeo mang hình tượng thập gía đó, nhưng họ không nghĩ liên tưởng đến điều Chúa Giêsu Kitô nói, mà với họ chỉ là đồ trang sức đẹp thôi. Nhưng họ quên rằng không có sự gì đẹp bằng thập gía. Vì đó là hình ảnh biểu tượng nói lên Chúa Giêsu Kitô đã hy sinh chịu chết trên cây thập gía. Như thế người nào mang hình ảnh thập gía, muốn nói lên Chúa Giêsu Kitô là người quan trọng cho đời sống của mình.
Trong đời sống hằng ngày nếu người nào than thở nói phải “ mang vác thập gía” là muốn nói : Tôi phải chịu đựng sự khó khăn, hay sự gì không vui, sự gì buồn sầu… như bệnh tật nặng đau đớn, cô đơn buồn tủi bị bỏ rơi, vướng gặp hoàn cảnh túng thiếu, xa vắng mất người thân, thiệt hại mất của cải…
Những điều này làm cho đời sống trở nên nặng nề u buồn rồi sinh ra thất vọng chán nản. Tình trạng đó giống như bị cây thập gía đè nặng tâm hồn đời sống.
Nhưng tại sao Chúa Giêsu Kitô lại đòi buộc các người theo Chúa phải tử bỏ chính mình vác thập gía mà theo Chúa? Mà vác thập gía có gì đẹp đâu?
Các em học sinh hằng ngày đi học phải mang vác chiếc cặp với những dụng cụ cần thiết cho từng giờ học từng ngày theo như thời khóa biểu nhà trường ấn định. Nhưng nếu mang tất cả nhét vào trong cặp cả những vật dụng không cần thiết cho giờ học ngày học hôm đó thì vừa không ích lợi lại vừa thêm nặng nề cho thân thể đôi vai.
Với thập gía trong đời sống cũng tương tự như thế. Có những điều, những sự trở nên thập gía gánh nặng cho đời sống, mà không thể nào đơn giản quăng vứt bỏ làm cho biến mất đi được, như bệnh tật, lo âu sợ hải, mất thiếu vắng người thân yêu…
Nhưng có những điều, những sự khác, tuy nó làm cho đời sống trở thành thập gía gánh nặng, con người có thể thay đổi được, như tìm ra con đường hòa giải cho sự cãi vã tranh chấp được giải quyết ổn thỏa, cùng nói chuyện để giải quyết vấn đề mang lại hòa thuận bình an cho nhau.
Chúa Giêsu Kitô không muốn nói chúng ta phải đơn gỉa mang vác tất cả những sự khốn khó. Nhưng nếu chúng ta có thể thay đổi được, nên cùng được phép thực hiện. Như cung cách sống thêm bạn bớt thù nghịch, cung cách xử sự chín bỏ làm mười, cung cách nhường nhịn làm chủ chính mình một câu nhịn chín câu lành…
Trong đời sống con người chúng ta rất hay thường phải sống từ bỏ, hay phải cố gắng để đạt tới điều quan trọng hữu ích tốt đẹp cho đời sống chung với người khác nữa, như nếp sống mang lại hòa bình vui tươi, bác ái giúp người, nếp sống lịch sự hòa nhã…
Đời sống tin yêu theo Chúa Giêsu Kitô không là một đời sống không có vấn đề, không có thập gía. Nhưng là một đời sống biết phân biệt xử sự vấn đề cho trở nên hữu ích bớt gáng nặng mang lại niềm an ủi, niềm vui cho chính mình và cho người khác,
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh cánh cửa mở rộng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cổng hay cửa nơi thành tường vách, đền đài, công sở, nơi nhà ở là biên giới ngăn giữa bên ngoài và bên trong. Khi cánh cổng, cánh cửa đóng khép lại sự thông tương giữa hai bên trong ngoài bị ngăn chặn lại. Nhưng khi cánh cửa mở ra, sự thông thương đi lại ra vào trong ngoài được khai thông.
Còn trong đạo giáo niềm tin tinh thần có hình ảnh cánh cửa tạo ra biên giới ngăn cách giữa người theo một đức tin và người không cùng một đức tin với nhau không?
Điều này có thể tìm hiểu suy nghĩ theo mỗi người. Nhưng xem ra không có hình ảnh cánh cổng, cánh cửa biên giới vật chất gỗ thép, hay kính..hữu hình như nơi tường vách đền đài, nhà cửa. Có chăng là cung cách thái độ sống chung với nhau thôi.
Ngày xưa khi đi rao giảng nước Thiên Chúa cho con người trần gian, Chúa Giêsu Kitô cũng đã gặp vấn đề này.
Như phúc âm thuật lại ( Mt 15,21-28) một người phụ nữ không thuộc dân tộc Do Thái trong lúc hoang mang lo âu, vì con gái bà bị bệnh qủy ám, theo bây giờ gọi là bị bệnh tâm thần kinh phong, đã đến gặp Chúa Giêsu kêu xin giúp đỡ chữa lành cho con mình.
Theo truyền thống thời lúc đó Chúa Giêsu hiểu là sứ vụ của Ngài chỉ cho người dân cộng đồng Do Thái thôi. Như thế Ngài không được chữa lành cho người không thuộc dân tộc Do Thái.
Điều này qủa là qúa ngạc nhiên xa lạ. Và có thể nói là cánh cửa biên giới tinh thần đạo gíao không mở ra cho người bên ngoài đi vào bên trong!
Nhưng người mẹ đó không nhường bước. Bà ta đến trước Chúa Giêsu qùi gối xuống nài nỉ: Lạy Thầy, chúng tôi cũng là con người, sao Ngài lại nỡ lòng nào như thế. Xin mở tấm lòng cứu giúp chúng tôi!
Chúa Giêsu dùng hình ảnh qủa là bình dân cụ thể nhưng không mấy văn hóa tốt đẹp đáp lạị: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con."
Bà ta dùng lại ngay hình ảnh đó đối đáp lại : "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống."
Có thể nói qúa ngạc nhiên cảm phục bà ta, Đức Giê-su đáp: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy." Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.”
Chúa Giêsu đã phá lệ tháo bỏ rào cản mở cánh cửa tâm hồn tinh thần cho gia đình bà được vào cùng hưởng ơn chữa lành trong nước Thiên Chúa. Nước của tình yêu Thiên Chúa, nước của ơn chữa lành cho mọi người.
Trong chuyến máy bay trở về Roma sau Đại hội thế giới giới trẻ vừa qua, 1.-6. Tháng Tám 2023 ở Lissabon, một nữ ký giả người Đức hỏi: “Đức Thánh Cha vẫn nhấn mạnh trong Giáo hội có chỗ cho tất cả mọi người, không trừ ai. Giáo hội mở rộng cho tất cả nhưng đồng thời, không phải tất cả đều có cùng các quyền, có cơ may như nhau, thí dụ các phụ nữ, những người đồng tính luyến ái không thể chịu tất cả các bí tích... Phải chăng có sự không nhất thống giữa “Giáo hội cởi mở”, và “Giáo hội không như nhau cho tất cả mọi người?”
Đức Thánh Cha giải thích rằng đó là hai quan điểm, hai khía cạnh khác nhau: Giáo hội cởi mở với tất cả mọi người, nhưng có những luật lệ điều hành cuộc sống bên trong Giáo hội. Người ở bên trong thì theo luật pháp...
Điều mà bạn nói “Không thể làm các bí tích”, điều này không có nghĩa là Giáo hội khép kín. Mỗi người gặp gỡ Thiên Chúa qua con đường của họ bên trong Giáo hội. Giáo hội là mẹ và là người hướng dẫn mỗi người theo con đường của mình.
Vì thế, tôi không thích nói: Tất cả mọi người đến, nhưng anh làm điều này, người khác làm điều khác. Tất cả. Mỗi người trong kinh nguyện, trong đối thoại nội tâm, trong đối thoại mục vụ, tìm cách thức để tiến bước. Do đó đặt một câu hỏi: tại sao những người đồng tính luyến ái thì không? Tất cả, và Chúa thật là rõ ràng: người bệnh, người lành mạnh, người già và người trẻ, người xấu và người đẹp, người tốt và người xấu!” ( Bản tin Việtcatholic ngày 11.08.2023).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hình ảnh” Đức Mẹ sinh Chúa tạo thiên lập địa”.
- Hình ảnh Chúa Giêsu Kitô biến hình
- Hình ảnh vội vã lên đường
- Hình ảnh trái tim biết lắng nghe
- Hình ảnh hạt giống đức tin tôn giáo
- Hình ảnh người gieo hạt giống trên nương đồng
- Hình ảnh mùa nghỉ hè
- Hình ảnh cơn khủng hoảng
- Hình ảnh tình anh em
- Hình ảnh vị Tiên Tri sống khắc khổ