Tin Việt Nam
- Viết bởi Phạm Trần
Sau 41 năm thắng Trung Cộng xâm lược, Việt Nam đã học được gì với hậu qủa của 10 năm đẫm máu và tàn bạo (1979-1989) của cuộc chiến này?
Không nhiều. Việt Nam Cộng sản vẫn chịu nhục để tồn tại bên cạnh những người phương Bắc mà họ gọi là “vừa là đồng chí vừa là anh em”.
Nhưng đàn anh khổng lồ, với 1.6 tỷ người Trung Cộng chưa hề từ bỏ mộng bá quyền muốn Việt Nam lệ thuộc toàn diện vào nhà nước theo Chủ nghĩa Cộng sản gọi là “đặc sắc Trung Quốc”, một bước “thuộc địa không văn bản”, hay “một nhà nước hai chế độ” không hiệp ước.
Trên thực tế, chưa thấy có manh động quân sự nào từ phía Trung Cộng để đạt tham vọng chính trị này, nhưng Bắc Kinh đã có kế hoạch kiểm soát Hà Nội từ Hội nghị Thành Đô năm 1990.
CHUYỆN THÀNH ĐÔ
Tài liệu của Bách khoa Toàn thư mở viết:” 10 năm chiến tranh tại biên giới Trung Quốc khiến Việt Nam hao tổn rất nhiều nhân lực và kinh tế. Ở thời điểm đó, thỏa hiệp với Trung Quốc để Việt Nam có thể tập trung phát triển là điều cần thiết. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc sẽ giúp chiến tranh ở biên giới chấm dứt.”
Do đó: “Hội nghị Thành Đô (hay gọi là Mật ước Thành Đô) là cuộc hội nghị thượng đỉnh Việt-Trung trong hai ngày 3-4 tháng 9 năm 1990, tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) giữa lãnh đạo cao cấp nhất hai Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam - Trung Quốc. Cuộc họp mặt này nhằm mục đích bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và hai Đảng. Cho đến nay, nội dung và các thỏa thuận trong cuộc họp của đôi bên vẫn chưa được công bố, tuy nhiên trên trang thông tin chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cho đăng hình ảnh chụp trong hội nghị, trong những cột mốc ngoại giao quan trọng.”
Thành phần tham dự:
Phía Việt Nam gồm có Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, và Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Phạm Văn Đồng.
Phía Trung Quốc có Giang Trạch Dân, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc.
Theo tin ngoại giao Tây phương vào thời điểm này thì Bắc Kinh đòi Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia là điều kiện tiên quyết để bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Cũng có tin phía Trung Cộng còn đòi Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh phải loại Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch (tên thật Phạm Văn Cương), một người có lập trường chống Trung Cộng, là điều kiện thứ hai. Tin này chưa bao giờ được xác nhận trước khi ông Thạch rời Bộ Ngoại giao và Bộ Chính trị năm 1991.
Dù vậy, vẫn có những tin đồn, được Đài Á Châu Tự do (RFA, Radio Free Asia, tiếng Việt) nói xuất phát vào năm 2014 từ Thời báo Hoàn Cầu và Tân Hoa Xã của Trung Cộng cho biết đã có một “Kỷ Yếu Hội Nghị” để lại nhiều điều bí mật.
Theo đó, Kỷ Yếu có ghi:”Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.” (theo Bách khoa Toàn thư mở).
Tuy nhiên tin này đã bị Ban Tuyên giáo Trung ương, Cơ quan tuyên truyền và bảo vệ tư tưởng đảng CSVN phủ nhận với Tuyên bố khẳng định: "Trong hội đàm, trao đổi không hề có vấn đề phía Trung Quốc gây sức ép với ta về nhân sự, không hề có cái gọi là sự thỏa thuận rằng: “Việt Nam sẽ thành khu tự trị thuộc Trung Quốc, giống như Nội Mông, Tân Cương và Quảng Tây vào năm 2020..." Đây là một luận điệu bịa đặt với ý đồ kích động, gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và trong các tầng lớp nhân dân”. (Tài liệu Tuyên giáo tháng 10/2014)
Cho đến nay (2020), những đồn đoán về Mật ước Thành Đô, được nói là của của Hoàn Cầu Báo và Tân Hoa Xã, đã chứng minh không đúng đối với Việt Nam.
TẠI SAO HƯƠNG KHÓI VẮNG TANH?
Nhưng có một việc xẩy ra, sau Hội nghị Thành Đô, là phía Việt Nam đã “tự quên” cuộc chiến tranh biên giới 10 năm với quân Tầu từ 1979 đến 1989.
Đại tá Công an Nguyễn Đăng Quang nói:” Trong 10 năm sau chiến tranh, Nhà nước tổ chức rất đàng hoàng các cuộc mít tinh kỷ niệm cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược 6 tỉnh biên giới phía Bắc, để Nhân dân được biết. Nhưng từ năm 1990, tức sau Hội nghị Thành Đô, thì cuộc chiến tranh này đã bị lãng quên, thậm chí hoạt động kỷ niệm của người dân bình thường để tưởng nhớ đến cuộc chiến tranh này, thì cũng không được hoan nghênh, hoặc là bị ngăn cản, bị trấn áp, hạn chế. (Đài RFI, ngày 6/09/2014)
Ngày kỷ niệm 40 năm cuộc chiến đẫm máu này năm 2019 và 41 năm nay, 2020, vẫn chỉ có các bài viết, nhưng càng ngày càng ít, kể những câu chuyện kháng chiến hào hùng của quân-dân 6 Tỉnh biên giới gồm Lai Châu, Quảng Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai và Hà Giang. Tuy nhiên, không có bất cứ cuộc truy điệu nào được tổ chức. Hương khói vẫn lạnh tanh ơ khắp nơi, nhất là tại vùng núi vôi ở mặt trận khốc liệt Vỵ Xuyên (Hà Giang) trước đây, nơi vẫn còn trên 4,000 người lính nằm mục xương cô đơn ở đó, có nơi nay đã do Tầu chiếm mất.
Theo tiết lộ của Cố Thiếu tướng, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Cộng từ 1974 đến 1987, Nguyễn Trọng Vĩnh, thì ngoài việc Trung Cộng ra lệnh cho Việt Nam “không được nhắc lại cuộc chiến biên giới”, còn “không được thào luận chuyện quân đảo Hoàng Sa” mỗi khi có họp với phía Trung Quốc.
Tướng Vĩnh không nhắc đến Trường Sa là nơi Trung Cộng đã chiếm 7 vị trí gồm : Gạc Ma (Johnson South Reef),, ngày 14/03/1988 sau khi tấn công hạ sát 64 binh sỹ. Sau đó, Trung Cộng xua quân chiếm thêm các đá Châu Viên (Cuarteron Reef ), Chữ Thập (Fiery Cross Reef), Ga Ven (Gaven Reef), Tư Nghĩa (Hughes Reef), Vành Khăn (Mischief Reef) và Xu Bi (Subi Reef).
Trung Quốc đã tân tạo các vị trí chiếm đóng thành đảo nhân tạo với sân bay, bến cảng, trại đóng quân, hệ thống phòng không, radar và một số đài khí tượng và hải đăng
XÂM LƯỢC BIÊN GIỚI
Cũng nên biết, chỉ vì sợ mất lòng Tầu mà Lãnh đạo CSVN đã muối mặt để thờ ơ, lạnh nhạt và cố tình vô ơn bạc nghĩa với những quân và dân đã hy sinh trong các cuộc chiến chống Tầu xâm lược ở Hoàng Sa (1974), Trường Sa(1978) và Biên giới từ 1979 đến 1989.
Tại Hoàng Sa đã có 74 chiền sỹ Hải quân của Việt Nam Cộng hòa đã bỏ mình vì nước. Đảng và nhà nước CSVN đã công khai kỳ thị không nhìn nhận họ là công dân Việt Nam. Ở Trường Sa có 64 chiến sỹ của lực lượng Quân đội Nhân dân hy sinh ở Gạc Ma khi họ bị lính Tầu thảm sát, chỉ vì phải tuân lệnh “không được nổ súng” của Đại tướng Lê Đức Anh, khi ấy là Bộ trường Quốc phòng, người ai cũng biêt thân Tầu đặc sản.
Tại mặt trận biên giới Việt-Trung, Việt Nam tuyên bố 10.000 dân thường bị thiệt mạng, nhưng chưa công bố số liệu chi tiết về thương vong quân sự.
- Trung Quốc tuyên bố 30.000 chết-57.000 lính chết, 70.000 du kích chết về phía Việt Nam.
- Phương Tây ước tính: khoảng 20.000 chết hoặc bị thương (trong đó 8.000 chết).
Ngược lại, phía Trung Quốc có thương vong gồm 6.954 chết, 14.800 bị thương (nguồn khác của Trung Quốc thống kê có 8.531 chết, 21.000 bị thương).
- Phương Tây ước tính: 28.000 chết hoặc hơn 20.000 chết hoặc 13.000 chết, chưa kể hàng chục ngàn bị thương
(Tài liệu Bách khoa toàn thư mở).
SÁCH SỬ BỊP BỢM-NƯỚC NÀO ĐE DỌA VIỆT NAM?
Nhưng quan trọng hơn là những gì đảng CSVN muốn để lại cho đời sau về công lao giữ nước và dựng nước của các Thế hệ đi trước.
Rất buồn và bi thảm, cuộc chiến biên giới kéo dài 10 năm mà sách sử của nhà nước Cộng sản chỉ ghi lại vỏn vẹn có 12 dòng nguyên văn:”5h sáng ngày 17-2-1979, 60 vạn quân Trung Quốc đồng loạt vượt biên giới kéo dài 1.400km tiến vào sáu tỉnh của Việt Nam gồm Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Lai Châu, điều động 9 quân đoàn chủ lực, 2.559 khẩu pháo, 550 xe tăng và thiết giáp tiến sâu vào đất Lạng Sơn, Lào Cai (30Km), Lai Châu (15km), Cao Bằng (50km).
Quân dân Việt Nam kiên cường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 tên địch, tiêu diệt, đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng, phá hủy 115 khẩu pháo và súng cối, thu nhiều vũ khí, bắt nhiều tên xâm phạm lãnh thổ Việt Nam”. (Trang 355, Tập 14, Lịch sử Việt Nam, NXB KHXH)
Vậy, cụ quân Tầu thàm sát dã man các thường dân trong cược chiến này đã bị vứt đi đâu?
Hãy đọc:”Tối 9/3/1979, lính Trung Quốc giết hại dã man 43 người, mà phần lớn là phụ nữ, trẻ em (ở thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, TP Cao Bằng) khi chúng đang trên đường rút quân về nước, tất cả thi thể sau đó đều bị quẳng xuống một cái giếng.
Quân Trung Quốc xâm lược dùng cọc tre, búa bổ củi đập chết 43 phụ nữ và trẻ em quăng xuống giếng nước”.
(Tài liệu của các báo Việt Nam)
Thiếu tướng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Mã Lương, nguyên Giám đốc Bảo tàng lịch sử quân sự VN kể:”Khi lực lượng chiến đấu của Trung Quốc đi trước hoặc chiếm được những vị trí, những đường phố của ta, thì phía sau là đội quân dân binh rất đông — vừa đảm bảo sức chiến đấu quân Trung Quốc, nhưng là đội quân ô hợp hôi của. Họ vào nhà dân vơ vét tất cả những gì có thể dùng được
Tướng Lương, gười từng chiến đấu tại những cứ điểm ác liệt nhất ở khu vực biên giới phía Bắc trong 8 năm (1979 — 1987), nói tiếp:”Trong lịch sử, tôi chưa từng thấy quân đội của một nước lớn nào phát động chiến tranh lại đưa dân binh đi để vơ vét của cải như thế.
Thậm chí họ còn bắt gà, bắt lợn và lội xuống các ao của dân bên đường để bắt cá, nếu không dùng được thì cho bộc phá giật nổ. Hành động của quân Trung Quốc khiến tôi liên tưởng đến năm 1945, khi quân Tưởng sang Việt Nam đi giải giáp quân đội Nhật.
Một điển hình cho việc đập phá — là khi tôi lên thư viện Lào Cai — nằm trên một sườn núi. Khi đó, quân Trung Quốc vào thư viện lấy sách ra xé và quẳng trắng xóa phía trước, rải dưới chân đồi.
Nhìn cảnh tượng ấy, tôi cảm nhận những kẻ đó hèn hạ, vô học đến mức nào.”
Ông Lương bùi ngùi:”Giờ đây, chiến tranh đã lùi xa, đã là một phần của lịch sử, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc đã mở sang một trang mới. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta được phép lãng quên sự thật.
Sự thật ở đây là dân tộc chúng ta rất anh dũng bảo vệ biên giới phía Bắc — không sợ hãi mặc dù đối phương đã bất ngờ tấn công và họ mạnh hơn chúng ta nhiều lần. Chúng ta đã chiến đấu và giành thắng lợi cho dù có những tổn thất rất lớn.
Hàng chục nghìn người lính và nhiều thường dân ngã xuống dưới làn đạn của quân xâm lược trong suốt giai đoạn 1979-1988.
Chúng ta không kích động, không gây hận thù, đơn giản là nói về lịch sử, nói về những gì cha anh đã phải trải qua để giữ gìn bờ cõi của Tổ quốc.
Đây là một phần của lịch sử và sự thật không ai được phép lãng quên, che mờ, chìm lấp. Còn nếu lãng quên cuộc chiến tranh biên giới 1979 là có tội với nhân dân, với những người đã ngã xuống vì mảnh đất thiêng liêng này.
(theo Trí Thức Trẻ)
Nhưng ai đã và đang lãng quên 10 năm chiến tranh bi thảm này, ngoài các thế hệ Lãnh đạo đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam từ các thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (khóa VI), Đỗ Mười (khóa VII), Lê Khả Phiêu (khóa VIII), Nông Đức Mạnh (hai khóa IX và X), và Nguyễn Phú Trọng từ khóa đảng XI năm 2011 đến khóa XII này.
Không những chỉ “mất trí nhớ” về chiên trường biên giới mà mới đây, vào ngày 19/12/2019, ông Nguyễn Phú Trọng, hiện kiêm cả chức Chủ tịch nước đã cảnh giác:”Hiện nay có những nước vẫn nhòm ngó, tranh chấp chủ quyền, muốn xâm phạm độc lập chủ quyền của chúng ta. Và do đó “mong nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày hội quốc phòng toàn dân, 75 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân với tất cả hoạt động, không chỉ giao lưu bề nổi mà Bộ Quốc phòng, Quân ủy tiếp tục đi sâu, làm sâu sắc bài học chiến tranh cách mạng, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”. (theo báo Pháp Luật Online)
Người đứng đầu Đảng, Nhà nước CSVN không nêu tên nước nào, nhưng con số “những” là cách nói tránh “phạm húy” của ông Trọng mà ai cũng biết, chỉ có Trung Cộng là nước duy nhất đang muốn ăn tươi nuốt sống con cá Việt Nam.
Trung Cộng, tuy chưa thật sự cai trị Việt Nam nhưng đã kiểm soát hầu như toàn bộ nền kinh tế của Việt Nam. Chỉ riêng năm 2019, Việt Nam đã nhập siêu hàng hóa từ Trung Quốc gần 30 tỷ Mỹ kim. Gần hềt linh kiện Việt Nam sử dụng phải nhập cảng từ Tầu và phần lớn nông-ngư sản của Việt Nam phải xuất khẩu sang Trung Hoa.
Việt Nam đã “cống” quặng Bauxite trên Tây Nguyên và “dâng”mỏ gang thép ở Hà Tĩnh cho Tầu, kể cả Đài Loan có các công ty Tầu hợp doanh đầu tư.
Ngoài ra còn hàng chục nhà máy, cơ sở thương mại và hàng nghìn công nhân Tầu đã có mặt ở Việt Nam để khai thác sức lao động và lợi dụng đất đai để trục lợi trên mồ hôi, nước mắt của người dân Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam cũng đã để cho dân Tầu nhập cư vô kiểm soát, chiếm cừ đất đai của Việt Nam ở những vùng bờ biển và điểm cao chiến lược tứ biên giới xuồng tận mũi Cà Mâu và hải đảo.
Như vậy thì thật sự Quân đội và Công an của đảng đang bảo vệ an ninh cho ai mà ông Nguyễn Phú Trọng còn kêu gọi:”Mong quân đội tiếp tục phát huy truyền thống Bộ đội cụ Hồ, truyền thống của nhân dân Việt Nam anh hùng. Đảng bộ quân đội phải trong sạch, đoàn kết thống nhất cao, đi đầu trong tất cả các lĩnh vực, gắn bó mật thiết với nhân dân. Nhân dân mọi vùng miền gắn bó với bộ đội, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, phối hợp với lực lượng an ninh, công an để giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
“Như thế đất nước mới trường tồn, không phải thế hệ này mà các thế hệ sau”. (báo Pháp Luật Online, ngày 19/12/2019)
Như vậy thì tuy Lãnh đạo Việt Nam đang làm tốt các biện pháp phòng, chống nạn dịch Virus Vũ Hán, nhưng lại sợ hãi đến co cụm để quên mất con vi khuẩn cực kỳ dã man và tàn bạo Trung Hoa đã từng cai trị dân ta 1,000 năm và ngày nay đang âm thầm gậm nhấm chủ quyền biển đảo của ta ở Biển Đông. -/-
Phạm Trần
- Viết bởi Phạm Trần
Lần đầu tiên trong 90 năm có đảng, chưa bao giờ có nhiều đảng viên nghỉ hưu đã bỏ đảng không mảy may luyến tiếc mà còn hối hận cho quyết định nông cạn đã vào đảng thời niên thiếu.
Hãy đọc:
Tôi là Phạm Đình Trọng, nhà văn, là đảng viên Cộng sản lớp Hồ Chí Minh từ 19.5.1970. Đến nay, 20.11.2009, tôi tự thấy đảng Cộng sản không còn phù hợp với lí tưởng thẩm mĩ và giá trị nhân văn mà tôi theo đuổi nên tôi tự rút ra khỏi đảng…Tình cảm của tuổi trẻ đưa tôi đến với đảng Cộng sản. Hiểu biết của nhận thức và thực tế cuộc đời đưa tôi đến quyết định từ bỏ sự lựa chọn cảm tính của tuổi trẻ. Tôi đã tự nguyện vào đảng, nay tôi tự rút ra khỏi đảng cũng là việc rất bình thường, lành mạnh đối với đảng cũng như với riêng tôi.”
Ông Phạm Đình Trọng, hiện cư ngụ tại Sài Gòn, sinh năm 1944, mang quân hàm Đại tá khi nghỉ hưu.
Đại tá Công an Nguyễn Đăng Quang viết vào ngày sinh nhật thứ 90 của đảng (3/2/1930-3/2/2020):”Tôi quyết định “thoái Đảng” (tức lẳng lặng bỏ Đảng, không chuyển sinh hoạt Đảng) từ giữa năm 2003 ngay sau khi nhận quyết định nghỉ hưu. Ngày 3/2/2020 này, tôi đã “thoái Đảng” được suýt soát 17 năm! Còn trong thực tế, xin tiết lộ điều “bí mật” sau đây: Ngay khi còn đang phục vụ trong LLVT (lực lượng võ trang), tôi đã âm thầm “khai trừ Đảng khỏi lòng tôi” rồi! Chính xác việc trên là từ khi nào, tôi không nhớ rõ, chỉ biết nó bắt đầu ngay sau khi nhận ra mình đặt lòng tin nhầm chỗ! …Tôi “thoái Đảng” vào thời điểm hiện tượng trên còn hãn hữu, nhưng đến nay nó đã trở nên phổ biến. Các đảng viên ĐCSVN, khi nhận quyết định nghỉ hưu, thường họ không chuyển giấy sinh hoạt cho các đảng bộ địa phương, mà lặng lẽ cất kỹ dưới đáy tủ như kỷ niệm của “một thời đáng quên!”. Họ lặng lẽ, âm thầm thực hiện hành động đó, không ồn ào và công khai với bất cứ ai, trừ khi là bạn rất thân của nhau. Đến nay, đã bao nhiêu đảng viên cộng sản chọn cách này để “tạm biệt” Đảng, không một ai có thể biết chính xác, bởi Đảng giấu rất kỹ. Nhưng theo nhiều người dự đoán, con số này ước khoảng 45%! Số còn lại, mang tiếng là “vẫn yêu Đảng”, nhưng thực tế đa số họ đã “chán Đảng”, họ miễn cưỡng phải tiếp tục ở lại sinh hoạt vì nhiều lý do khác nhau, trong đó phải kể đến lý do hàng đầu là sợ liên lụy đến con cháu, tiếp đến là sợ ảnh hưởng đến “sổ hưu”, tức kế sinh nhai hàng ngày của họ.”
Ông Quang tự hỏi:”Vậy phong trào “thoái Đảng” do đâu mà có? “
Ông trả lời:”Từ kinh nghiệm của bản thân, tôi có thể khẳng định nó bắt đầu từ lòng tin (vào ĐCSVN) bị giảm sút, đến chỗ hồ nghi sự lãnh đạo của Đảng, và cuối cùng là mất sạch lòng tin vào Đảng. Thế là bệnh “chán Đảng”, như một hệ lụy tất yếu, nó xuất hiện trong sâu thẳm tâm can rất nhiều đảng viên. Bệnh “chán Đảng” nhanh chóng trở thành phong trào “thoái Đảng”. Căn bệnh này lây lan rất nhanh, song nó không gây nguy hiểm cho đất nước và xã hội, nhưng lại rất nguy hiểm cho đảng cầm quyền.”
Người bỏ đảng nổi tiếng năm 2018 là Giáo sư Chu Hảo,80 tuổi, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam từ 1996 đến 2005. Trong tuyên bố ra đảng, ký ngày 26/10/2018 nhưng chỉ được lan truyền trên internet ngày 29/10 (2018), ông viết rằng Đảng Lao động VN (nay là Đảng Cộng sản) mà ông gia nhập 45 năm trước "không còn tính chính danh".
Ông Chu Hảo cho rằng đảng này (hiện có trên 4 triệu thành viên), "có nhiều khuất tất, ngày càng thoái hóa, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc và xu thế tiến bộ của nhân loại".
Trước đó, vào ngày 25/10/2018, Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề nghị kỷ luật Giáo sư Chu Hảo, và cáo buộc ông “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” khi xuất bản những cuốn sách có nội dung trái với quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng.
Đến ngày 15/11/2018, ông bị chính thức khai trừ khỏi đảng, sau khi ông đã tuyên bố bỏ đảng từ ngày 26/10/2018.
Sau sự việc đảng đối xử với một người được nhiều người trong và ngoài nước kính trọng như Giáo sư Chu Hảo, nhiều trí thức cũng tuyên bố ra khỏi đảng để phản đối, trong đó có Giáo sư Mạc Văn Trang và Nhà văn Nguyên Ngọc.
Trước Giáo sư Chu Hảo cũng đã có hai Giáo sư nổi tiếng khác ra khỏi đảng là Giáo sư Nguyễn Đình Cống và Giáo sư Tương Lai.
Giáo sư Cống, 83 tuổi, người đã nghỉ hưu từ Đại học Xây dựng, tuyên bố ra đảng từ ngày 03 tháng 02 năm 2016, sau khi lãnh đạo đảng không trả lời đề nghị đảng từ bỏ chủ nghĩa Cộng sán Mác-Lenin để thành lập một chế độ tự do và dân chủ với tam quyền phân lập.
Giáo sư Tương Lai (tên thật là Nguyễn Phước Tương, sinh năm 1936 tại Thừa Thiên, Huế), Cựu Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với Ðảng Cộng sản do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo từ ngày 02-09-2017. Ông Tương Lai từng là thành viên nhóm cố vấn cho các cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải là người có lập trường chống lệ thuộc vào Trung Hoa. Ông chỉ trích đảng Cộng sản của ông Trọng “không còn là một đảng của dân tộc”.
Nhưng trước tất cả, phải kể về quyết định ra khỏi đảng sau 45 năm là đảng viên của Luật sư Lê Hiếu Đằng (6/1/1944 – 22/1/2014), nguyên là phó Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Liên Minh các lực lượng Dân tộc, dân chủ và Hòa bình Việt Nam, Nguyên Tổng thư ký Ủy ban nhân dân Cách mạng khu Sài Gòn Gia Định, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam ở TP. HCM.
Trước 1975, ông Đằng từng là thành viên Ban chấp hành Tổng hội Sinh viên Sài Gòn và Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn. Ông đã cùng một số lãnh đạo phong trào sinh viên-thanh niên chống chiến tranh, chống Chính phủ Việt Nam Cộng hòa và chống Hoa Kỳ. Luật sư Lê Hiếu Đằng là khuôn mặt tiêu biểu của nhóm trí thức thân Cộng đã chạy ra bưng theo Mặt trận Giải phóng miền Nam. Nhưng sau đó thất vọng vì đảng CSVN đã không đem lại cho ông hy vọng ông từng ôm ấp khi đất nước hòa bình.
Vì vậy, theo Báck khoa toàn thư mở :”Vào tháng 8/2013, trong bài viết "Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh", ông Lê Hiếu Đằng đã công khai nói lên những suy nghĩ của mình. Về việc Đảng Cộng sản đã phản bội lý tưởng cách mạng, phản bội nhân dân, phản bội những người góp phần xây dựng nên chế độ, trong đó có ông, cũng như việc cần thiết phải dân chủ hóa, xây dựng thể chế đa đảng để cứu đất nước thoát khỏi tình thế nguy cấp hiện tại.”
Vào ngày 4 tháng 12 năm 2013, ông viết tuyên bố từ bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam vì theo ông, "Đảng Cộng sản Việt Nam bây giờ không còn như trước (đấu tranh giải phóng dân tộc) mà đang suy thoái biến chất, thực chất chỉ là đảng của những tập đoàn lợi ích, trở thành lực cản cho sự phát triển đất nước, dân tộc, đi ngược lại lợi ích dân tộc, nhân dân."
TIẾP TỤC QUAY LƯNG
Nhưng không chỉ có bấy nhiêu người nổi tiếng đã bỏ đảng được biết đến từ năm 2013 mà còn hàng hà sa số cán bộ, đảng viên khác, nhất là giới trẻ đã âm thầm “nhạt đảng”, “khô đoàn” từ lâu khiến đảng lo sót vó.
Trước biểu hiện ngại dấn thân gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, ngại học tập Chủ nghĩa Cộng sản Mác-Lenin, không muốn gia nhập đảng và suy thoái tư tưởng, lối sống của một bộ phận không nhỏ thanh niên, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói vào cuối năm 2017 (khi ấy ông chưa được trao chức vụ Chủ tịch nước) :”
Tôi chỉ xin lưu ý, nhấn mạnh thêm một vài điểm đặc biệt quan trọng là, hiện nay xã hội không khỏi băn khoăn trước thực trạng có một bộ phận thanh niên giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng cách mạng, sống thực dụng, xa rời truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc; thậm chí có một số ít thanh niên bị các thế lực xấu, thù địch tác động, lôi kéo, kích động, đã có những việc làm đi ngược lại bản chất, truyền thống vẻ vang của Đoàn và trái với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng và dân tộc.”
Ông Trọng lưu ý:”Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên diễn biến phức tạp. Trong khi đó, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh còn chậm và lúng túng trong nghiên cứu, đề xuất giải pháp để khắc phục, giải quyết các vấn đề đặt ra, chưa kịp thời có ý kiến và tham gia giải quyết các vấn đề bức xúc, tiêu cực, mặt trái tác động đến thanh thiếu nhi.”
Ông vạch ra rằng:”Công tác giáo dục của Đoàn tuy rộng nhưng chưa sâu, một số hoạt động còn nặng về "bề nổi", dàn trải, hình thức. Một số phong trào mới chỉ thu hút đoàn viên tích cực, thanh niên tiên tiến tham gia, kết quả thiếu tính bền vững.
Chất lượng tổ chức Đoàn cơ sở trên địa bàn dân cư, nhất là ở khu vực nông thôn, khu công nghiệp còn yếu. Một bộ phận cán bộ đoàn chưa bắt nhịp kịp thời với những thay đổi nhanh chóng trong nhận thức, đời sống của thanh niên. Đây là những vấn đề đáng lo ngại, trong đó có trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể, đặc biệt là trách nhiệm của tổ chức đoàn.”
Cuối cùng, người đứng đấu đảng khuyến cáo:”Đoàn phải coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, học tập, nghiên cứu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng vào thực tiễn công tác và đời sống thanh niên.
Đặc biệt, Đoàn cần định hướng, giáo dục thanh niên giữ vững bản lĩnh cách mạng, có ý thức nhạy bén chính trị, tích cực đấu tranh ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, tăng sức đề kháng cho thanh niên trước những biểu hiện tiêu cực, mặt trái của xã hội và sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch, nhất là trên mạng xã hội; tránh tình trạng "nhạt Đảng", "khô Đoàn", "xa rời chính trị".
(Trích phát biểu của Ô Nguyễn Phú Trọng tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XI, ngày 14/12/2017)
Nguyên do thanh niên đã phai nhạt lý tưởng với đảng vì đã có rất nhiều đảng viên, nhất là lớp cha, anh có chức có quyền đã làm gương mù cho lớp trẻ bằng những hành động tham nhũng, lãng phí của công, tranh chức, chạy quyền, mua quan bán tước, mua bằng, bán dự án, cướp đất, đàn áp dân như đã xẩy ra ờ Đồng Tâm ngày 9/1/2020.
Nhưng không chỉ có Thanh niên mới chán đảng như bịt mũi trước cơm thiu mà còn cả những đảng viên, cán bộ đương chức và nghỉ hưu cũng hoặc âm thầm, hay công khai muốn xa đảng chừng nào tốt chừng ấy.
Bằng chứng đã xuất hiện những dấu hiệu không bình thường bởi thái độ thờ ơ và chán nản của đảng viên trong công tác chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 01 năm 2021.
Tình trạng này là hậu quả của việc thi hành chưa thành công toàn diện “Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ”.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Bí thư Trần Quốc Vượng nhìn nhận:”Bên cạnh những thành tích đạt được… những hạn chế, khuyết điểm của ngành, cụ thể chất lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ chưa được như mong muốn; những biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến," "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn diễn biến phức tạp; đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ, đảng viên trước sự chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị kết quả chưa cao.”
(trích phát biểu tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác tổ chức xây dựng Đảng năm 2019, triển khai nhiệm vụ năm 2020 tổ chức sáng 25/12, tại Hà Nội.)
Về phần mình, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cũng nhìn nhận công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng vẫn còn dang dở, do đó ông hứa sẽ:”Đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, gắn với thực hiện có chiều sâu việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến," "tự chuyển hoá" theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng.”
Đặc biệt, tiếp tục thực hiện quyết liệt, đồng bộ, đi vào chiều sâu, không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Làm tốt hơn nữa công tác cán bộ, kiên quyết chống mọi biểu hiện tiêu cực, chạy chức, chạy quyền.”
( Bài phát biểu chúc Tết ngày 22/01/2020)
BỆNH KINH NIÊN
Bên cạnh những chứng tật ai cũng “biết rồi khổ lắm nói mãi” của cán bộ, đảng viên, báo chí đảng còn nhắc đến các biến chứng nan giải khác, từng được ông Hồ Chí Minh cảnh giác khi còn sống, lại đang nở hoa trong nội bộ đảng bao gồm “chủ nghĩa cá nhân”, “Óc bè phái, Bệnh kiêu ngạo- Bệnh hiếu danh, Óc hẹp hòi, Kéo bè kéo cánh, Bệnh tị nạnh, Tự kiêu, Ghen ghét, đố kỵ”
Phản ảnh tình trạng nan giải này là nội dung của bài viết trên báo Quân đội Nhân dân ngày 30/01/2020, theo đó:”
Thực tế là, những cảnh báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những tật bệnh nêu trên dường như không mất đi mà ngày càng có biểu hiện ăn sâu trong nhận thức và hành động của không ít người; trong đó, có một bộ phận không nhỏ CB, ĐV tại một số cơ quan, địa phương, đơn vị. Có thể thấy, những thói hư, tật xấu, như: Bè phái, kiêu ngạo, hiếu danh, hẹp hòi, kéo bè, kéo cánh, tị nạnh, tự kiêu nên sự ghen ghét, đố kỵ thường xuất hiện trong một bộ phận CB, ĐV thiếu tu dưỡng đạo đức cách mạng, sa vào CNCN. Vì ghen ghét, đố kỵ, nên khi thấy bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp, thậm chí cấp dưới, cán bộ trẻ giỏi hơn mình về chuyên môn, nghiệp vụ, đạt được kết quả cao hơn trong công tác, nhất là được cấp trên ghi nhận với sự tín nhiệm cao thì khó chịu, “không cam tâm” với những kết quả, thành tích người khác đạt được. Bộ phận những kẻ suy thoái này không chỉ luôn soi mói, dè bỉu, không công tâm, khách quan nhìn nhận, đánh giá năng lực, hiệu quả công việc của đồng chí, đồng nghiệp mà còn tìm mọi cách lôi kéo những người có chung những uẩn ức như mình để cùng tìm cách cản trở mọi người xung quanh phấn đấu, tu dưỡng, vươn lên. Vì chỉ yêu bản thân, nên họ thường so sánh mình với người khác; không những không hợp tác với những người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì tập thể mà còn hả hê, thậm chí tỏ vẻ thông cảm, thấu hiểu ngoài mặt nhưng trong lòng lại thỏa mãn trước thất bại của người khác. (báo QĐND, ngày 30/01/2020)
Bài báo viết tiếp :”Tuy nhiên, thực tế cho thấy những biểu hiện suy thoái này đã và đang hiện hữu tại một số địa phương, cơ quan đơn vị. Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã nêu rõ thực trạng này trong 27 biểu hiện suy thoái. Đó chính là biểu hiện đầu tiên trong 9 biểu hiện về suy thoái về đạo đức, lối sống: “Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình”.
Những biểu hiện suy thoái này không chỉ làm nản lòng, nhụt chí và cản trở sự phấn đấu của những nhân tố tích cực, nhất là lớp cán bộ trẻ mà còn gieo rắc sự hoài nghi lẫn nhau, gây mất đoàn kết nội bộ, làm xói mòn đạo đức, văn hóa Đảng, dẫn đến hiệu quả công việc kém và mất đoàn kết nội bộ. Đồng thời, làm ảnh hưởng tiêu cực đến việc xây dựng và củng cố sự đoàn kết, thống nhất, tạo nguyên cớ cho sự nhen nhóm bè phái, lợi ích nhóm, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.”
BỎ ĐẢNG TRÀN LAN
Bên cạnh chứng ung thư kinh niên này là hiện tượng cán bộ, đảng viên, kể cả quân nhân nghỉ hưu đã tìm mọi cách bỏ sinh hoạt đảng vì họ đã chán đảng lắm rồi.Đại tá Công an Nguyễn Đăng Quang tiết lộ số này ít nhất cũng chiếm 45% trong số những ngưởi nghỉ hưu, và số còn lại cũng chỉ tiếp tục sinh hoạt để không bị trù dập hay hại đến sổ lương hưu.
Dưới tiêu đề “Đảng viên bỏ sinh hoạt Đảng và những hệ lụy đáng lo ngại”, đài Tiếng nói Việt Nam (VOV, Voice of Vietnam) viết ngày 31/10/2017:”Gần đây, dư luận trong đảng và nhân dân tại nhiều địa phương băn khoăn, thậm chí bất bình về hiện tượng một số đảng viên sau khi nghỉ hưu không tham gia sinh hoạt Đảng ở địa bàn cư trú. Nhiều ý kiến cho rằng điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hình ảnh người đảng viên, cũng như uy tín của Đảng và phần nào thể hiện sự suy thoái về chính trị, tư tưởng của một bộ phận đảng viên như Nghị quyết TW4, khóa XII đã chỉ rõ. Đáng lo ngại hơn là hiện tượng này ngày càng phổ biến tại nhiều nơi.”
Bài báo nêu đích danh:”Đảng bộ phường Nam Hồng, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay có 527 đảng viên, phần lớn là cán bộ nghỉ hưu. Nhiều đảng viên mặc dù tuổi cao song vẫn tích cực tham gia sinh hoạt Đảng và là nòng cốt trong các phong trào, hoạt động ở khối phố, khu dân cư. Thế nhưng có đến 38 đảng viên mà đa số là cán bộ, công chức, viên chức trong đó có cả đảng viên là bộ đội sau khi nghỉ hưu lại không thực hiện thủ tục chuyển sinh hoạt Đảng tại Đảng bộ phường.”
VOV viết tiếp:”Ông Trần Quốc Toản, Bí thư Đảng ủy phường Nam Hồng cho rằng, thật đáng buồn khi có những đảng viên sau khi nghỉ hưu, đang còn sung sức, hoàn cảnh gia đình không khó khăn nhưng lại không nộp hồ sơ tham gia sinh hoạt Đảng ở nơi cư trú.
“Những đảng viên này trong quá trình sinh hoạt đảng viên ở nơi cư trú cũng đã thiếu gương mẫu, nên khi về nghỉ hưu, họ không nộp hồ sơ. Rồi họ viện nhiều lý do như phải đi làm kinh tế trong khi thực tế thu nhập thì cao, lương hưu 7,8 triệu đến 10 triệu; có người bảo phải đi thăm con, đi trông giữ cháu”
Thế rồi, dưới tiêu đề “Bỏ sinh hoạt đảng là biểu hiện cụ thể "tự diễn biến" "tự chuyển hóa", VOV cho biết:”Hiện nay, tuy chưa có số liệu thống kê chính thức nhưng đáng buồn là tình trạng đảng viên bỏ sinh hoạt Đảng sau khi nghỉ hưu diễn ra khá phổ biến không chỉ ở các địa phương mà ngay tại những đô thị lớn. Ông Nguyễn Anh Cường, Phó Bí thư Quận ủy Đống Đa, thành phố Hà Nội cho biết, trên địa bàn quận, tuy số lượng đảng viên không sinh hoạt Đảng sau khi nghỉ hưu không nhiều nhưng đang có chiều hướng gia tăng. Từ năm 2014 đến tháng 6/2017, có 16 đảng viên bị xóa tên, trong đó có 2 đảng viên bị xóa tên do bỏ sinh hoạt Đảng vì không chuyển hồ sơ về nơi cư trú và tỷ lệ này đang tăng lên.
Theo ông Nguyễn Anh Cường, tuy số lượng đảng viên bỏ sinh hoạt Đảng rất ít so với một quận có 27.000 đảng viên, nhưng đây cũng là thực tế cần phải cảnh báo.
“Đấy là một biểu hiện của tự diễn biến, tự chuyển hóa, suy thoái về chính trị, tư tưởng. Suy thoái về chính trị tư tưởng tức là động cơ, mục đích của người ta không đúng với khi vào Đảng, thề dưới cờ Đảng. Đang đương chức đi làm, người ta nghĩ rằng Đảng viên thì có quyền lợi này, quyền lợi kia, khi về hưu người ta bảo chả phấn đấu chức quyền gì, về có khi cũng chả muốn sinh hoạt nữa, đi sinh hoạt những chỗ khác. Ham muốn khác cao hơn lý tưởng thì người ta bỏ”, ông Cường nêu thực tế. (VOV.VN)
“Tính đến tháng 1-2019, Đảng bộ thành phố Hà Nội có 52 đảng bộ trực thuộc với 2.523 tổ chức cơ sở Đảng. Tổng số đảng viên của toàn Đảng bộ là 441.341 đồng chí, sinh hoạt tại 17.273 chi bộ. Theo Ban Tổ chức Thành ủy, hiện nay chưa có kết quả khảo sát cụ thể về tình hình đảng viên bỏ sinh hoạt đảng trong Đảng bộ, nhưng qua theo dõi trong thời gian gần đây, tình trạng đảng viên bỏ sinh hoạt có chiều hướng gia tăng. Trong đó, số đảng viên bỏ sinh hoạt chưa bị xem xét, xử lý nhiều nhưng mới chỉ nắm được số đảng viên bỏ sinh hoạt đã bị cấp ủy có thẩm quyền quyết định xóa tên trong danh sách đảng viên. Từ đầu nhiệm kỳ 2015 -2020 đến nay, các cấp ủy trực thuộc Thành ủy đã xem xét, quyết định xóa tên 1.141 đảng viên do bỏ sinh hoạt Đảng. Trong đó, từ tháng 6-2015 đến tháng 12-2015 là 125 đảng viên; năm 2016 là 195 đảng viên; năm 2017 là 339 đảng viên; năm 2018 là 396 đảng viên; từ tháng 1-2019 đến 3-2019 là 86 đảng viên.”
(theo Xây Dựng Đảng, ngày 18/08/2019)
Đến phiên Thành phố mang tên Hồ Chí Minh, Thủ phủ ở trong Nam thì có một báo cáo tiêu biểu đã khoe rằng :”Tính đến nay Quận 4 có 38 đảng bộ, chi bộ cơ sở với 3.915 đảng viên. Tình hình quản lý đảng viên có nhiều chuyển biến tích cực, việc chuyển sinh hoạt Đảng, giải quyết miễn công tác và sinh hoạt đảng viên ngày càng đi vào nền nếp, đúng quy định. Các cấp ủy khu phố đã phát huy vai trò của đảng viên, nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu tham gia xây dựng địa phương bằng những việc làm thiết thực gắn với chăm lo đời sống nhân dân, tích cực góp ý xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh….. Quận ủy cũng đã tổ chức nhiều cuộc giao ban chuyên đề, tập huấn nâng cao kỹ năng cho cấp ủy cơ sở, quản lý chặt chẽ tình hình diễn biến tư tưởng, góp phần ngăn chặn suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa trong cán bộ, đảng viên.”
“Tuy nhiên”, bài báo của Thành ủy lại mếu máo khai rằng, ”vẫn còn tình trạng nhiều đảng viên đã nghỉ hưu cư trú một nơi, sinh hoạt chi bộ tại một nơi khác; đảng viên vắng sinh hoạt chi bộ không có lý do hoặc lý do không chính đáng làm ảnh hưởng đến tỷ lệ đảng viên sinh hoạt chi bộ thấp (dưới 80%); một số đảng viên chuyển sinh hoạt Đảng từ nơi làm việc về nơi cư trú sau khi nghỉ hưu sa sút ý chí phấn đấu, thiếu gương mẫu, bỏ sinh hoạt Đảng nhiều lần; một số cấp ủy chi bộ chưa thường xuyên cập nhật kịp thời thông tin quản lý đảng viên…”
(Thanhuytphcm.vn, ngày 20/9/2019)
Với tình trạng bỏ đảng bơ vơ, hay “tình nghĩa đôi ta có thế thôi” đã báo hiệu đảng rã đám chưa hay mới tả tơi trước thềm Đại hội đảng XIII?
Lý do hỏi vậy vì chuyện chán đảng của những người nghỉ hưu ở Hà Nội và Sài Gòn chỉ là hạt cát trong vô số báo cáo của các Tỉnh, Thành khác trong cả nước.
Liệu ông Nguyễn Phú trọng có dám chỉ thị cho Ban Bí thư làm tổng kết tình trạng này cho toàn dân biết không?
Phạm Trần
- Viết bởi Phạm Trần
Nhân dân Việt Nam đã rất cảnh giác và năng động trong nỗ lực ngăn chận Virus Corona Vũ Hán, Trung Quốc, nhưng lại quên rằng Virus Cộng sản mới là thảm họa của nhân loại.
Bệnh viêm phổi Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, xẩy ra vào tháng 12 năm 2019, nhưng Trung Hoa đã không báo động đỏ cho đền khi Vũ Hán phải đóng cửa ngày 23/1 (2020). Đến đầu tháng 2/2020 dịch Vũ Hán đã làm chết gần 500 người, trong số hơn 23,000 người nhiễm bệnh ở tỉnh Hồ Bắc. Có lối 160 người mắc bệnh tại 26 nước trên Thế giới do lây nhiễm trực tiếp ở Vũ Hán, hay do tiếp xúc với người có bệnh từ Vũ Hán nhập cảnh.
Riêng tại Việt Nam đã ghi nhận có người thứ 10 nhiễm bệnh sau khi trở về từ Vũ Hán, nhưng chưa có ai tử vong. Riêng tại Nha Trang, số người bị cách ly là 268 người
vì nghi nhiễm vi trùng từ cuộc tiếp xúc với khách du lịch người Hoa đến từ Vũ Hán.
Nên nhớ 17 năm trước, giữa tháng 11 năm 2002 và tháng Bảy năm 2003, bệnh dịch SARS (Severe acute respiratory syndrome (SARS), xuất phát từ miền Nam Trung Hoa cũng đã gây cho 5,300 người mắc bệnh và 349 người chết.
Tổng số người mắc bệnh SARS tại 17 nước trên thế giới là 8,422, gây tử vong hơn 900 người.
Tại Việt Nam, SARS chính thức xâm nhập ngày 26/2/2003 với bệnh nhân đầu tiên là ông Johnie Chun Cheng nhập viện tại Bệnh viện Việt - Pháp với những triệu chứng sốt cao, ho khan và đau cơ. Trước khi tới Hà Nội, doanh nhân này đã qua Hong Kong (Trung Quốc).
Ngày 8/4/2003, Việt Nam không xuất hiện bệnh nhân SARS mới, nhưng cũng đã có 63 người mắc, trong đó có 5 người chết.
BỆNH UNG THƯ
Ngoài những bệnh dịch bất thường, bệnh ung thư cũng đã giết ngót 8,000 người mỗi năm trên toàn thế giới.
Tại Việt Nam, theo báo cáo của WHO (World Health Organization, số người mắc ung thư đã tăng lên mỗi năm
“từ 68.000 ca năm 2000 lên 126.000 năm 2010. Năm 2018, số ca mắc mới tăng lên gần 165.000 ca/96,5 triệu dân, trong đó gần 70% trường hợp tử vong, tương đương 115.000 ca.” (theo VietnamNet, ngày 24/09/2018)
Báo cáo viết tiếp:”Nhìn tổng quan trên bản đồ ung thư thế giới, tỉ lệ mắc của Việt Nam không cao, tuy nhiên tỉ lệ tử vong tương đối lớn, xếp vị 56/185 quốc gia và vùng lãnh thổ với tỉ lệ 104,4/100.000 dân. Vào năm 2016, tỉ lệ tử vong của Việt Nam ở mức 110/100.000 dân.”
“Tính chung cả 2 giới, 5 loại ung thư có tỉ lệ mắc nhiều nhất tại Việt Nam gồm: Ung thư gan, hơn 25.000 ca (15,4%), kế đó là ung thư phổi (14,4%), ung thư dạ dày (10,6%), ung thư vú, ung thư đại tràng.
5 loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới Việt gồm: Ung thư phổi (21,5%), ung thư gan (18,4%), ung thư dạ dày, ung thư đại tràng; ung thư hầu họng. Ở nữ giới, hàng đầu vẫn là ung thư vú, ung thư đại tràng, ung thư phổi, ung thư gan.”
Ô NHIỄM-CHẤT ĐỘC
Bên cạnh ung thư, người dân Việt Nam còn phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm không khí, trong nước và nạn chất độc hóa học trong thực phẩm xuất phát từ Trung Hoa.
Theo một báo cáo của Tổ chức Hòa bình xanh (GreenPeace), được Trung tâm phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) thuộc Liên hiệp Các hội khoa học kỹ thuật VN (VUSTA) công bố hồi tháng 3/2019 thì “Hà Nội đứng thứ 2 còn TP.HCM đứng thứ 15 về mức độ ô nhiễm không khí ở khu vực Đông Nam Á.” ( báo Thanh Niên, ngày 08/04/2019)
Mặc dù Việt Nam không đồng ý với báo cáo này, nhưng Thứ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường (TN-MT) Võ Tuấn Nhân đã thừa nhận: “Tình trạng ô nhiễm không khí ở Hà Nội và đặc biệt tại một số thời điểm diễn biến rất phức tạp. Tại Hà Nội, các thông số đo đạc được từ các trạm quan trắc cho thấy chỉ số bụi PM 2,5 vượt ngưỡng an toàn theo Quy chuẩn của VN, đặc biệt là trong 3 tháng đầu năm 2019.”
Báo Thanh Niên còn cho biết:” Theo nguồn từ Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội và chuẩn ô nhiễm không khí của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì riêng quý 1 năm nay và quý 3/2018, số ngày không khí vượt chuẩn an toàn của Hà Nội đã lên tới 120 ngày. Cụ thể, Báo cáo chất lượng không khí quý 1/2019 do GreenID tổng hợp và phân tích cho thấy: Có đến 91% số ngày trong 3 tháng đầu năm, mức độ ô nhiễm không khí của Hà Nội vượt tiêu chuẩn cho phép của WHO. Báo cáo quý 3/2018 cho biết thêm: Nồng độ PM 2.5 trung bình tính theo ngày 30,2 μg/m3 (microgam trên mét khối), thấp hơn Quy chuẩn quốc gia và chỉ có 1 ngày nồng độ PM 2.5 vượt Quy chuẩn quốc gia. Nhưng nếu so với hướng dẫn của WHO thì quý 3/2018, Hà Nội có 41 ngày nồng độ bụi PM 2.5 vượt giới hạn 25 μg/m3.”
Vì nhà nước Cộng sản Việt Nam đã không quan tâm đến bảo vệ môi trường, trong khi tìm mọi cách để đạt kế hoạch phát triển kinh tề bằng mọi giá nên người dân đã gánh hết hậu quả.
Theo một tin của Đài Phát thanh Á châu tự do (RFA, Radio Free Asia) ngày 25/12/2019 thì:”Một báo cáo mới đây của quốc tế cho thấy có hơn 71.300 người đã chết vì nguyên nhân ô nhiễm môi trường ở Việt Nam trong năm 2017, trong đó khoảng hơn 50.000 người chết vì ô nhiễm không khí.
Đây là số liệu mới nhất về ô nhiễm và các chỉ số sức khoẻ do Global Alliance công bố, dựa theo các dữ liệu của Viện Đánh giá các Chỉ số Sức khoẻ của Quỹ Bill and Melinda Gate. (Global, Regional, and Country Analysis December 2019)
Các dữ liệu được chia ra làm 4 mục là: không khí, nước, nghề nghiệp và chì.
Theo báo cáo, số người chết do các nguyên nhân liên quan đến ô nhiễm không khí là 50.232 người, số người chết vì ô nhiễm nước là 3.097 người; 9.809 người chết vì ô nhiễm nghề nghiệp và có 8.227 người chết vì ô nhiễm chì.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, ô nhiễm không khí đã khiến khoảng 60.000 người chết ở Việt Nam trong năm 2016.”
THỰC PHẨM BẨN-ÔNG TRỌNG ĐÂU?
Sau không khí bẩn, nước bẩn là chuyện thực phẩm bẩn lan tràn khắp nơi khắp chốn mà chả thấy ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước quan tâm. Người ta chỉ thấy ông hồ hởi tự ca “hết thắng lợi này đền thắng lợi khác” và thành công vượt chỉ tiêu nhân dịp đảng kỷ niệm 90 năm ngày ra đời (3/2/1930 – 3/2/2020)
Hãy đọc quan sát của Greenfeed ngày 16/08/2018:”Thực phẩm bẩn là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh ung thư, chiếm tỷ lệ 35% trong số các nguyên nhân” TS Hoàng Đình Chân, GĐ Bệnh viện ung bướu Hưng Việt nhận định.”
“Bàn về thực phẩm trong thời đại hiện nay”, Greenfeed viết tiếp, “ ăn bẩn sống lâu” giờ được xem như là một sự thỏa hiệp, bất lực của người tiêu dùng khi thực phẩm “tẩm” hóa chất độc hại xuất hiện trong từng bữa cơm từ miếng thịt, rau củ cho đến gia vị,… gây ra những tác hại cho sức khỏe mà chúng ta không thể ngờ tới. Về lâu dài, các chất hóa học, thuốc trừ sâu, chất tăng trọng,… trong thực phẩm bẩn sẽ từ từ ngấm vào tế bào, cơ thể sau đó tích tụ lại, gây các bệnh mãn tính và có khả năng bùng phát bất cứ lúc nào.”
“Theo số liệu của Bộ Y tế, Việt Nam đang là một trong những nước có tỷ lệ ung thư tăng cao nhất trên thế giới, chiếm tới 35%.
Trong quý I năm 2016, cả nước có 969 người bị ngộ độc thực phẩm trong đó 669 người nhập viện, 2 người tử vong.
Số ca bị ngộ độc thực phẩm hàng năm trong khoảng 250 – 500, 7.000 – 10.000 người nhập viện và 100 – 200 người tử vong.
Mỗi năm, Việt Nam dành 0,22% GDP chi trả cho 6 căn bệnh ung thư mà nguyên nhân chính là do thực phẩm bẩn.”
Trong khi đó,Eurofins Sắc Ký Hải Đăng - Trung tâm kiểm nghiệm thực phẩm, giám định sản phẩm và quan trắc môi trường hàng đầu Việt Nam, viết :” Chỉ trong 5 tháng đầu năm 2019, hàng loạt vụ tiêu thụ thực phẩm bẩn quy mô lớn được điều tra, phát hiện. Trong đó, khu vực miền Bắc đang là tâm điểm của thị trường tiêu thụ thực phẩm bẩn:
• Theo báo Người lao động, tháng 3 năm 2019, dư luận sôi sục bất bình vì hàng trăm em học sinh ở Thuận Thành, Bắc Ninh có kết quả xét nghiệm dương tính với bệnh sán lợn gạo, nghi do ăn phải thực phẩm bẩn lâu ngày tại trường. Khi vụ việc được phát hiện, thức ăn của trẻ là phần thịt đông lạnh lâu ngày đã nát vụn. Được biết thêm, cơ sở cung cấp nguồn thực phẩm bẩn này còn cung cấp thức ăn cho hơn 19 trường mầm non khác trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
• Báo 24h đưa tin, chiều ngày 14/5 khi bất ngờ kiểm tra đột xuất cơ sở chế biến thực phẩm An Phát, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, đoàn kiểm tra đã phát hiện tại kho sân của cơ sở này đang tập kết 10 bao tải dứa bên trong có chứa 800 kg lòng lợn đã chuyển màu đen, chảy nước, bốc mùi hôi thối, không đảm bảo vệ sinh thú y, vệ sinh an toàn thực phẩm. Toàn bộ số hàng hóa này đều không xuất trình được hóa đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc, không có tem vệ sinh thú y và cũng không có giấy chứng nhận kiểm dịch theo quy định của pháp luật.
• Cũng theo 24h, tối ngày 9/1, Công an môi trường và Chi cục quản lý chất lượng nông lâm thủy sản Hải Phòng đột kích bất ngờ vào cơ sở sản xuất hải sản tại quận Hải An, Hải Phòng phát hiện có hơn 60 kg tôm đã được bơm tạp chất xếp trong các thùng xốp ướp đá cùng 1 máy nén khí nối liền hệ thống van bơm và 12 xi lanh đã qua sử dụng, 15 xi lanh mới chưa bóc, 3 túi bột màu trắng, mỗi túi 1 kg và một số gói bột. Chủ cơ sở sản xuất này cho hay hằng ngày người này đi mua tôm chết trên địa bàn quận Hải An, quận Đồ Sơn, quận Dương Kinh mang về bơm tạp chất làm tăng trọng lượng rồi đem bán.
• Vào những ngày cận Tết Nguyên Đán 2019, Vietnamnet cũng đưa tin một phóng sự của VTV về quá trình hô biến lợn chết thành những món đặc sản thịt lợn hun khói, thịt trâu gác bếp, lạp xưởng… tại một cơ sở trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc khiến dư luận vô cùng hoang mang. Chỉ sau 1 đêm, những con lợn lở mồm long móng, chết thâm đen, bốc mùi hôi thối nồng nặc đã được lột da, lọc lấy phần thịt nạc chưa bị thối rữa. Sau khi thái lát và trộn thêm đủ loại gia vị tạo mùi thơm, ngâm tẩm trong khoảng 2 giờ, số thịt này được cho vào lò sấy. 48 tiếng sau, những miếng thịt lợn sấy khô, thơm phức ra lò và không còn bất kỳ dấu vết nào của thịt lợn chết được chất lên xe tải, chở thẳng về Hà Nội.
Và còn rất, rất nhiều những vụ việc liên quan đến việc tiêu thụ thực phẩm bẩn gây rúng động dư luận trong thời gian dài.”
Toàn là những chuyện chết dân mà ông Trọng chỉ biết mơ màng nói đổng:” Chín mươi năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, thế và lực của nước ta đã được tăng cường, nhiều tổ chức quốc tế đánh giá Việt Nam là một quốc gia kinh tế - văn hóa phát triển, chính trị - xã hội ổn định, có nhiều triển vọng tốt... Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ to lớn, vai trò và vị thế cao như ngày nay.” (Phỏng vấn của TTXVN --Thông tấn xã Việt Nam, 03/01/2020)
Tại lễ kỷ niệm ở Hà Nội ngày 3/2/ (2020), người đứng đầu đảng còn vênh vang:”Một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tuỵ, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên.”
Hay:”Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Với tất cả sự khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có thể nói rằng: "Đảng ta thật là vĩ đại! Nhân dân ta thật là anh hùng!".
Nhưng với sức khỏe của dân, tương lai của thế hệ trẻ (là rường cột của đất nước) đang suy yếu, bạc nhược vì phải hít thở không khí bẩn, uống nước bẩn và ăn thực phẩm bẩn, với hóa chất từ Trung Quốc, thì chỉ tàn lụi nhanh chóng trước bất cứ cuộc xâm lăng nào của Bắc Kinh.
Như vậy thì đảng đang “dẫn dắt dân tộc đi lên”, hay đi xuống dưới đáy tầng địa ngục?
Vậy mà thảm hại thay cho đất nước, ông Nguyễn Phú Trọng vẫn kên kên :”Cần quán triệt tinh thần: Dứt khoát phải đổi mới, song đổi mới mà không xa rời những vấn đề có tính nguyên tắc, không chệch hướng, đổi màu; chủ động và tích cực hội nhập mà vẫn giữ vững bản sắc của dân tộc.”
Câu nói hoa mỹ, lấp lửng này đã được ông Trọng nói khác đi từ chủ trương “đổi mới nhưng không đổi mầu, hội nhập mà không hòa tan”
PHẠM ĐÌNH TRỌNG-NGUYỄN ĐĂNG QUANG
Nhưng ông Trọng và cả đảng CSVN hãy khoan vội mặc áo thụng vái nhau mà hãy bình tĩnh nghe Đại tá, Nhà văn Phạm Đình Trọng phát biểu trong bài viết “90 Năm Đảng Búa Liềm”.
Ông nói:”Đảng búa liềm Việt Nam chọn ngày 3.2.1930 là ngày khai sinh tổ chức của họ. Từ đó, sau khi cướp được chính quyền và cướp được một vùng lãnh thổ để vỗ ngực xưng hùng xưng bá và ngạo ngược cưỡi đầu cưỡi cổ dân, hàng năm, cứ đến ngày sinh của đảng búa liềm, cả hệ thống truyền thông dối trá, lừa bịp của nhà nước búa liềm lại chạy hết công suất kể công lao tưởng tượng của họ. Nhờ có đảng, đất nước mới có độc lập, người dân mới có được cuộc sống như ngày hôm nay.
Ngoài những tội ác man rợ với người dân, đảng búa liềm khát máu đã để lại những trang đau thương đẫm máu nhất trong lịch sử Việt Nam. Ngoài những tội tày trời với quá khứ dựng nước và giữ nước vẻ vang của cha ông, đảng búa liềm ô nhục đã xẻ hàng ngàn cây số vuông đất biên cương, hàng vạn hải lí biển dâng cho vương triều búa liềm Đại Hán. Đảng búa liềm Việt Nam còn tội ác thăm thẳm không thể định lượng, không thể cân đo bằng đại lượng vật chất mà chỉ có thể tính bằng đại lượng vô giá là thời gian, bỏ phí thời gian vàng phát triển, giết hại, đọa đày, uổng phí những thế hệ vàng người Việt.”
Nhà văn Phạm Đình Trọng, hiện cư ngụ tại Sài Gòn là người vào đảng CSVN ngày 19/05/1970 và ra khỏi đảng ngày 20/11/2009.
Đến phiên Đại tá Công an Nguyễn Đăng Quang, người mới bị Huyện ủy Cầu Giấy (Hà Nội) xóa tên khỏi danh sách đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam “do đã vi phạm quy định chuyển sinh hoạt Đảng”, cũng lên tiếng ngày đảng sinh nhật 90.
Ông viết:”Các đảng viên ĐCSVN, khi nhận quyết định nghỉ hưu, thường họ không chuyển giấy sinh hoạt cho các đảng bộ địa phương, mà lặng lẽ cất kỹ dưới đáy tủ như kỷ niệm của “một thời đáng quên!”. Họ lặng lẽ, âm thầm thực hiện hành động đó, không ồn ào và công khai với bất cứ ai, trừ khi là bạn rất thân của nhau. Đến nay, đã bao nhiêu đảng viên cộng sản chọn cách này để “tạm biệt” Đảng, không một ai có thể biết chính xác, bởi Đảng giấu rất kỹ. Nhưng theo nhiều người dự đoán, con số này ước khoảng 45%! “
Về chuyện ông Trọng khoe đã tiến được một bước trong công tác chống tham nhũng, Đại tá Quang trả lời:”Thực trạng tham nhũng ở nước ta rất khủng khiếp. Bản chất thể chế chính trị của ta là sinh ra tham nhũng, ngược lại, bọn tham nhũng ra sức bảo vệ cho cơ chế đã sinh ra chúng tồn tại. Đảng chỉ giỏi chống tham nhũng trên giấy, và chỉ chống tham nhũng bằng các nghị quyết sáo rỗng. Càng hô hào chống tham nhũng, thì tham nhũng càng lớn mạnh. Trong suốt 30 năm qua, ĐCSVN chỉ giỏi nói mồm, giỏi tuyên truyền, kêu gọi “toàn Đảng, toàn dân” diệt trừ tham nhũng. Tưởng rằng tham nhũng sẽ sớm “toi đời”, nhưng chẳng hiểu sao, cứ sau mỗi kỳ Đại hội Đảng, tệ nạn này lại càng sống khỏe. Từ chỗ chỉ là một vài con sâu đơn lẻ, chúng đã sớm trở thành một bầy sâu, và nay đã lớn mạnh thành những tập đoàn sâu, chúng ăn của dân “không chừa một thứ gì” thì hỏi làm sao không “chết cái đất nước này”?.
Để kết luận trong ngày đảng thọ 90, Đại tá Quang nói thẳng:”ĐCSVN ngày nay đang tha hóa, biến chất và suy thoái toàn diện. Có thể khẳng định,100% các “con sâu cỡ bự” này đều là đảng viên cao cấp của ĐCSVN. Người viết bài này xin nói thật điều sau đây: “ĐCSVN sẽ khó tránh khỏi số phận sụp đổ như các ĐCS ở các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô trước đây. Lý do duy nhất là nó đã và đang dung dưỡng cả một bầy sâu bọ tham nhũng trong lục phủ ngũ tạng của mình”! Vâng, câu “Sư tử thân trung trùng thực sư tử nhục” là rất nhỡn tiền, bởi đây là quy luật hoàn toàn tự nhiên và khách quan.”
100 TRIỆU NẠN NHÂN CỘNG SẢN
Tại sao ông Quang có thể khẳng định như thế, bởi vì Cộng sản Việt Nam đã phạm ngập đầu tội ác với dân tộc trong suốt 90 năm qua. Từ 10 đến 50,000 người dân vô tội đã bị giết oan trong 3 năm Cải cách ruộng đất (1953-1956) ở miền Bắc đến khoảng 5,000 người bị quân Cộng sản hành quyết khi họ tấn công vào Huế, dịp Tết Mậu Thân năm 1968.
Ngoài ra còn có từ 2 đến 4 triệu người Việt Nam bị thiệt mạng trong 30 năm chiến tranh (1945-1975), trong đó tàn bạo nhất là cuộc xâm lăng Việt Nam Cộng hòa từ năm 1960, do đảng CSVN chủ động, theo lệnh của Nga-Tầu.
Vì vậy mà một Đài Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản đã được dựng lên ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn ngày 12/06/2007 có mục đích: "để lịch sử về sự tàn bạo của cộng sản sẽ được dạy cho các thế hệ tương lai"[1], và được ghi nhận là "để tưởng nhớ hơn 100 triệu nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản".
Trong buổi lễ khánh thành, Tổng thống Geogr W. Bush đã nêu ẩn danh của những người từng là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản: "Họ gồm có các nạn nhân Ukraina bị chết đói trong Nạn đói Vĩ đại dưới thời Stalin; hoặc những người Nga bị giết trong các cuộc thanh trừng của Stalin; những người Litva, Latvia và Estonia bị quăng lên xe chở trâu bò và bị đầy khổ sai trong các trại tử thần vùng giá rét của chủ nghĩa Cộng sản Xô Viết. Họ bao gồm những người Trung Hoa bị giết chết trong Đại nhảy vọt và Cách mạng Văn hóa; những người Campuchia bị tàn sát trong những cánh đồng chết của Pol Pot; những người Đông Đức bị bắn chết trong lúc cố trèo qua Bức tường Berlin để tìm tự do; những người Ba Lan bị tàn sát tại rừng Katyn; và những người Ethiopia bị tàn sát trong cuộc "Khủng bố Đỏ"; những người da đỏ Miskito bị giết chết bởi chế độ độc tài Sandinista ở Nicaragua; và những người Cuba, Việt Nam bị chết chìm trong lúc vượt thoát bạo quyền.”
Tổng thống Bush cũng nói: "Thủ đô Hoa Kỳ chưa từng có đài tưởng niệm nào cho nạn nhân của chế độ cộng sản" và "Trước sự hiện diện của những người, nam cũng như nữ, đã đấu tranh cưỡng lại cái ác và tiếp tay đưa đến sự sụp đổ của đế quốc cộng sản, tôi hãnh diện nhận lấy Đài Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản, thay mặt cho nhân dân Hoa Kỳ".
Như vậy, nếu dich Virus Vũ Hán đang là nỗi lo âu hàng đầu ở Việt Nam thì người dân Việt cũng nên nhớ Chủ nghĩa Cộng sản và đảng CSVN còn nguy hiểm gấp ngàn lần hơn với tiền đồ Tổ quốc. -/-
Phạm Trần
(02/020
- Viết bởi Hà Minh Thảo
Trước ngày 30.04.1975, đồng minh đã tháo chạy kéo theo những ‘Người’ của họ. Sau ngày đó, nhà nước cộng nô đã giết hàng triệu đồng bào bị lường gạt đến các ‘khu kinh tế mới’, ‘trại học tập cải tạo’, những người ra đi tìm tự do đã chết trên biển cả hay ở rừng sâu… Ở lại Quê hương ư? Chúng cướp nhà, đoạt đất của đồng bào… Phản đối, chúng sai bọn công an, côn đồ, ăn lương do người dân đóng thuế, dùng võ khí Nga Tàu và, gần đây, thêm từ Mỹ trả bằng tiền dân nộp thuế để cướp đất ở Cồn Dầu cố tình giết chết giáo dân Nguyễn Thành Nam, trước sự van lạy của vợ anh, cướp tài sản của gia đình giáo dân Ðoàn Văn Vươn bởi tướng ‘cướp’ Ðỗ Hữu Ca tại Tiên Lãng… và còn, còn rất nhiều không thể kể xiết.
Thời gian trôi qua, cộng phỉ tiếp tục dùng võ lực và mưu mẹo để ‘cướp’, công dân Cấn Thị Thêu phản đối, chúng bắt và bỏ tù Chị. Phải chờ đến những ngày gần đây, đồng bào Ðồng Tâm (một địa danh đầy ý nghĩa) đã có những hành động can đảm, thật ý nghĩa và đáng nhận lời tạ ơn.
Ðối với cá nhân tôi, tôi từng đề cao các Tướng Mỹ gốc Việt, nhưng vì Công bình, tôi rất ngưỡng mộ những Vị tay không tấc sắt đã can đảm bảo vệ đồng bào khi bị cường quyền cướp nhà ở và đất đai, nơi gia đình cư ngụ và làm ruộng vườn để sinh sống. Tại các nước xã hội thứ thật, chính phủ trợ cấp nhà cửa cho dân. Nếu không, đến kỳ tuyển cử… mất phiếu tín nhiệm. Nếu thấy có những người sống dước gầm cầu vì họ thích sống tựdo với thiên nhiên.
I.- SỰ KIỆN ÐỒNG TÂM.
A. Nguyên nhân.
Năm 1980, Đỗ Mười, phó thủ tướng, ký quyết định thu hồi 47,36 mẫu đất nông nghiệp của xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, để phục vụ cho Dự án an ninh quốc gia (sân bay Miếu Môn) và tạm giao cho Lữ đoàn 28, Phòng không - Không quân quản lý. Năm 2007, Dự án làm sân bay Miếu Môn không khả thi, nên Lữ đoàn 28 vẽ sơ đồ và cắm mốc giới bàn giao toàn bộ diện tích đất nông nghiệp đã thu hồi cho Uûy ban Nhân dân (UBND) xã Đồng Tâm. Ngày 30.07.2007, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Mỹ Đức và UBND xã Đồng Tâm ký xác nhận và quản lý. Cùng ngày, UBND xã Đồng Tâm xác nhận mốc giới, phân định rõ ràng giữa đất Quốc phòng và đất nông nghiệp. Tuy nhiên đến tháng 10/2014, Bộ Quốc phòng giao cho Quân chủng phòng không không quân tiếp tục sử dụng làm vị trí đóng quân của Lữ đoàn 28 (đất quốc phòng), với các mốc giới trên thực địa không thay đổi.
Sau đó, Bộ Quốc phòng đã thu hồi 50,03 mẫu đất quốc phòng do Quân chủng Phòng không không quân đang quản lý, sử dụng để giao cho Tập đoàn viễn thông quân đội Vietel tiếp nhận quản lý sử dụng vào công trình quốc phòng A1 (Quyết định số 551/QĐ-TM ngày 27.03.2015), trong đó bao gồm 46 mẫu đất thuộc xã Đồng Tâm. Người dân nơi đây không đồng ý, bởi họ đang canh tác trên đất nông nghiệp, không phải ‘đất quốc phòng’.
Thu hồi đất nông nghiệp của xã Đồng Tâm để phục vụ cho Dự án quốc phòng (sân bay Miếu Môn) và, sau khi Dự án không khả thi, tại sao chúng không trả lại cho người dân mà cướp để trao cho Vietel, một nhóm lợi ích kinh tế?
B. Diễn biến tranh chấp.
Cuộc tranh chấp khởi sự từ cuối năm 2016 khi bạo quyền quyết định giải tỏa một khu đất của dân tại xã Đồng Tâm, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 30 cây số, để giao bán cho công ty viễn thông quân đội Viettel. Tổng giám đốc Viettel là Thiếu tướng Nguyễn Mạnh Hùng, ủy viên trung ương đảng, cơ quan bao gồm hơn 100 người có quyền lực nhất Việt Nam. Ngoài ra, ông còn là ủy viên Quân ủy trung ương, cơ quan đảng đầy quyền lực của quân đội Việt Nam. Một nguồn tin giấu danh tính cho biết rằng vụ việc ở Đồng Tâm nằm ngoài tầm tay của các nhà lãnh đạo của thành phố Hà Nội.
Ngày 21.11.2016, Ðại diện nông dân Đồng Tâm mang văn bản lên gặp ông Nguyễn Văn Hoạt, Chủ tịch UBND huyện Mỹ Đức, khiếu nại việc chính quyền lấy đất của dân. Ðầu tháng 4/2017, nông dân về hưu Lê Đình Kình 82 tuổi, dân thôn Hoành, xã Đồng Tâm, Hà Nội, vốn hiền hòa nhưng cương nghị, đang làm nên lịch sử của quyền tư hữu đất đai cũng như quyền sống và quyền tự do dân chủ trong sinh hoạt chính trị của người dân.
Ngày 15.04.2017, lúc 10 giờ, nhà cầm quyền đã mời 5 đại diện cho dân khiếu kiện chuyện tham nhũng đất đai đến khu vực đang tranh chấp để gọi là ‘đo đạc, xác định mốc giới giữa đất quốc phòng và đất nông nghiệp của xã’. Nhưng khi vừa đến, 5 người này, hầu hết lớn tuổi, trong đó có cụ Lê Đình Kình, cựu thương binh, đã bị công an ập tới đá gẫy chân và bắt đi mà chẳng hề có lệnh. Dân làng đuổi theo đòi thả thì bị công an bắt thêm 4 người nữa và còn đánh đập một người trọng thương phải nhập viện. Ngay lập tức, nhà cầm quyền sai phái một lực lượng đông đảo gồm cán bộ, cảnh sát cơ động đến xã Đồng Tâm để trấn áp. Bạo động bùng nổ khi bạo quyền đưa công an cơ động và côn đồ đến cưỡng chế đất của người dân để giao cho bọn công ty viễn thông quân đội Viettel. Người dân dùng gạch đá chống trả lại lực lượng cưỡng chế, bắt giữ hơn 30 người thi hành công vụ. Người dân kiên quyết phản đối lịnh tịch thu đất, 9 nông dân bị phía công an bắt giữ. Hôm sau, cảnh sát cơ động được tăng cường đến Đồng Tâm, yêu cầu người dân thả các người của họ vì họ đã thả những người dân bị bắt giữ hôm trước. Người dân Đồng Tâm lập kênh phát thanh riêng, tố cáo chính quyền tìm mọi cách để lấy đất của dân; đồng thời kêu gọi người dân bình tĩnh, tranh đấu trong ôn hòa, đúng pháp luật.
Qua Bản tin Thông tấn xã nhà nước loan tin ngày 16.04.2017, ban tuyên giáo thành ủy Hà Nội đã ra tuyên bố chính thức về vụ này. Theo đó, ngày 15.04.2017, công an đã bắt 4 người dân Đồng Tâm vì tội gây rối trật tự và, sau đó, dân xã này đã bắt giữ khoảng 20 công an trái luật. Thành phố Hà Nội kêu gọi người dân thả các nhân viên công an và đừng để bị kích động dẫn tới những hành vi phạm luật. Họ cho là vụ việc xung đột này có nguyên nhân là do dân chúng cứ biểu tình khiếu kiện kéo dài, không chấp nhận những quyết định của chính quyền. Ðiều quan trọng khác là họ khẳng định khu đất mà nông dân Đồng Tâm đang đòi là thuộc khu vực quốc phòng. Trong khi trước đó, liên tục trong 3 năm, từ 2014 đến 2016, sau nhiều lần giải quyết, Hà Nội đã công nhận khu đất mà người dân đòi là thuộc đất nông nghiệp chứ không thuộc đất quốc phòng.
Do đó, ‘Bà con bảo tôi không tin ai cả vì tôi bị lừa nhiều lắm rồi. Bây giờ ông Kình với ông Chung về đây thì chúng tôi còn tin. Chúng tôi bị lừa, cướp nọ cướp kia, nên chúng tôi chiến đấu một sống một chết, bây giờ chúng tôi chả còn gì nữa’. Người dân bảo rằng các nhân viên công an đang bị bắt giữ được đối xử tử tế, và họ muốn chính quyền thả những người bị bắt, và giải quyết chuyện thu hồi đất đai một cách đúng qui định.
Ngày 17.04.2017, Chủ tịch UBND Hà Nội Nguyễn Đức Chung nói chuyện qua điện thoại với người dân Đồng Tâm, đề nghị dân chúng hợp tác tránh làm phức tạp tình hình, và cam kết sẽ xử lý công bằng cho dù là cán bộ hay dân. Công an và cảnh sát cơ động được tăng cường đến khu vực. Người dân tiếp tục cầm giữ các nhân viên công lực, yêu cầu chính quyền giải quyết thỏa đáng sự việc. Hiện tình hình vẫn còn rất căng thẳng, ông Chung cho biết có thể ông sẽ đến Đồng Tâm vào 18.04.2017 để trực tiếp giải quyết sự việc.
Ngày 18.04.2017, mặc dù có gần một nửa con tin được dân làng trả tự do, đi về nhà. Căng thẳng vẫn tiếp tục phủ bóng lên vùng đất ven đô Hà Nội, vì người dân không còn lòng tin nữa. Thiếu tướng Bạch Thành Định, Phó giám đốc công an Hà Nội nói với báo chí rằng sẽ giải quyết chuyện Đồng Tâm theo đúng pháp luật, và chính quyền sẽ không nhân nhượng. ‘Mọi người đang chờ là sau những lời lẽ đó sẽ là một cuộc tấn công như từng làm, như Văn Giang, hay các nơi mà họ chiếm đất. Ngày xưa vụ sân golf Đông Anh cũng dạng như thế. Sau khi dân lập hào lũy, họ tìm cách chia dân ra, rồi sau đó kiểu gì họ cũng chiến thắng, chiến thắng trong ngoặc kép, giành thế áp đặt lên người dân theo cái cách của họ‘.
Xung đột đất đai giữa nông dân và bạo quyền các địa phương tại Quê hương không phải lần đầu tiên xảy ra. Ðã có rất nhiều cuộc xung đột như Văn Giang, Đông Anh, Tiên Lãng, Trịnh Nguyễn, … đều ít nhiều mang tính chất bạo lực và đã kết thúc bằng những lời hứa của chính quyền cộng sản, thường là những lời hứa ‘đừng tin những gì cộng sản hứa, hãy nhìn những gì cộng sản làm. Tuy nhiên, lần này khác với những lần trước, trong vụ xung đột tại Đồng Tâm, người dân chỉ liên lạc với bên ngoài qua một số rất ít các luật sư đại diện quyền lợi của họ. Ngoài việc bắt giữ các nhân viên nhà nước, họ còn không cho bất cứ người lạ được quyền vào làng, kể những nhà báo, lề trái lẫn lề phải. Một nhà báo ở gần làng Đồng Tâm cho biết rằng người dân Đồng Tâm khi đó không tin chính quyền, nhà báo.
Trong cơ chế quyền lực chính trị tập trung Việt Nam, việc quyết định thường mang tính tập thể, do đó một cá nhân đứng trước một việc thuộc trách nhiệm của mình thường rất khó đưa ra một quyết định chính xác hay một lời hứa có thể thực hiện được. Ngoài ra với cơ chế xã hội hiện nay được đảng cầm quyền gọi là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, người ta cho rằng tham gia vào các quyết định còn có các nhóm lợi ích đầy quyền lực. Chúng vô cùng lúng túng khi giai quyết sự việc này và luôn họ chờ lệnh cấp trên, và những việc họ làm là chỉ để xoa dịu đúng thời điểm đó thôi.
Chiều ngày 20.04.2017, Chủ tịch Nguyễn Đức Chung cùng đoàn công tác mời đại diện người dân xã Đồng Tâm ra đối thoại tại trụ sở Huyện ủy Mỹ Đức. Tuy nhiên, không có người dân nào tới dự. Họ chỉ muốn gặp ông Chung tại Ðồng Tâm. Sao ông không ‘dám’ đến?
Ngày 21.04.2017, Trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy Mỹ Đức được cho về. Ðồng thời, người dân Đồng Tâm ký đơn kiến nghị và tâm thư gửi Chủ tịch Nguyễn Ðức Chung. Ngày 22.04.2017, ông Chung đã dẫn đầu đoàn công tác, gồm cả hai đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc và Lưu Bình Nhưỡng, về thôn Hoành đối thoại với người dân và cam kết sẽ trực tiếp làm việc, theo dõi việc thanh tra toàn diện quá trình sử dụng, khai thác diện tích đất gây tranh cãi. Sau cùng, ông Chung ký Bản Cam kết gồm 3 điểm :
1. Trực tiếp kiểm tra Ðoàn Thanh tra, chỉ đạo làm đúng sự thực khách quan và đúng pháp luật. Khu vực đất rõ ràng đâu là đất quốc phòng, đâu là đất nông nghiệp, không mập mờ, đảm bảo đúng quyền lợi cho nhân dân Ðồng Tâm, theo quy định của pháp luật;
2. Không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với toàn thể nhân dân xã Ðồng Tâm;
3. Cam kết chỉ đạo điều tra xác minh việc bắt giữ và gây thương tích cho cụ Lê Ðình Kình, xử lý theo quy định của pháp luật.
Ngay sau cam kết của ông Chung, người dân đã thả 19 cán bộ, chiến sĩ cuối cùng. Tại sao lúc đó phương án đối thoại lại được chấp thuận?
- 1. Đồng Tâm là một xã có truyền thống yêu nước trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Dân nơi đây tuy phản đối bạo quyền cướp đất nông nghiệp, nhưng không tranh chấp đất quốc phòng. Khi bộ đội xây tường bao quanh đất sân bay, họ đã kéo đến hỗ trợ.
- 2. Ông Lê Đình Kình là một lão thành cách mạng có uy tín với dân, có 58 năm tuổi đảng, từng là bí thư đảng ủy nhiều năm. Tuy phản đối bạo quyền, nhưng cụ tin vào đảng và vẫn là đảng viên đến khi bị giết.
- 3. Lúc đó ông Nguyễn Đức Chung đang lên, được lãnh đạo ủng hộ, vì sau đại hội Đảng, lãnh đạo thường muốn xây dựng hình ảnh để củng cố quyền lực.
C. Ðổ máu.
Gần ba năm sau, lời khuyên ‘Ðừng tin những gì cộng sản nói, hãy nhìn những gì họ làm’ tái xuất hiện khi ông Chung không giữ cam kết với dân Đồng Tâm, nên làm mất cơ hội đối thoại. Phe cực đoan nhà nước muốn thanh toán cụ Kình để cảnh cáo những ai dám thách thức. Nhóm lợi ích không chịu ngồi yên để mất cơ hội. Xu thế đối đầu cực đoan trong bối cảnh tranh giành quyền lực trước Đại hội Đảng sắp tới… Mục tiêu dùng bạo lực đánh úp Đồng Tâm là ‘phải tiêu diệt ông Kình, tịch thu hết hồ sơ, tài liệu, chứng cứ mà đương sự đang cất giữ, và bắt bằng hết phe nhóm Đồng Tâm’. Cụ Kình đã nhiều lần nói với báo chí: « Cho dù có bị chặt đầu, tôi vẫn khẳng định 59ha đất ở Đồng Sênh là đất nông nghiệp ». Cụ nói trong tay nắm đầy đủ hồ sơ, tài liệu, giấy tờ để chứng minh. Cụ vẫn chủ trương đấu tranh ôn hòa, theo ba nguyên tắc (dứt khoát không dùng vũ lực; phải đấu tranh pháp lý (kiện ra tòa án; phải đối thoại và hòa giải). Nhóm của cụ Đồng thuận luôn khẳng định không chống Đảng và Nhà nước, mà chỉ chống bọn tham nhũng và các nhóm lợi ích.
D. Ngày tang tóc cướp đất, giết người.
Xin ghi tóm tắc lời bà Dư Thị Thành, hiền thê ông Lê Đình Kình, tường thuật lại việc công an đàn áp gia đình bà ngày 09.01.2020 (rằm tháng chạp). Bà cho biết : « Lúc đó, tôi rất minh mẫn, và đầu óc tôi tỉnh táo, tôi khoẻ ».
« Hôm đó vào khoảng 3 giờ sáng, tôi nghe thấy nhịp chân nhiều người ở ngoài đường. Ttôi mở cửa, ngó ra thì thấy công an, cảnh sát đứng đầy đường. Vào nhà thì thấy bắn hơi cay và súng vào nhà tôi. công an ném hơi cay và khói vào rất nhiều, mù mịt nhà, tôi và ông cay hết mồm, mắt mũi. Tôi với nghĩ ra tôi đi lấy nước, tôi vào để cho ông (chồng bà), nhưng chưa kịp, thì tôi bị sặc hơi cay tôi không ‘ấy’ được thì tôi thấy ông ở trong cứ sằng sặc ông kêu là ‘ấy’ quá, đi lấy nước khăn cho ông, tôi bảo ông là ông quàng vào cho nó đỡ, thì là tôi thấy bắn nhiều quá, tôi lại đi ra, bắt đầu tôi đi ra cửa tôi ngó, ngó thì bắn mù mịt vào nhà tôi, thì tôi lại ‘thụt’ vào trong chỗ ông, xong thì bắt đầu tôi lại thấy bắn nhiều quá thì tôi lại đi ra, bắt đầu thấy công an phá cửa, trèo tường, các thứ vào trong phòng, xong lôi tôi ra.
Con cháu nhà tôi nó ngủ ở đây từ ngày ông gãy chân, lúc nào nó cũng ở trông nom bảo vệ để cho công an không bắt cóc ông, nên khi nó thấy bắn nhiều quá nó chạy lên chạy xuống tum, lên bàn thờ, nhưng vì hơi cay nhiều quá nó không chịu được thì nó khép cửa lại, công an uà vào bắt hết.
Hôm đó, nhiều công an bắn súng tơi tả vào nhà, các anh ấy sấn vào đông lắm, bắt kéo tôi ra, bịt mồm bịt miệng, xong rồi tống tôi lên xe cùng các cháu ngủ ở đây, lôi các con cháu của tôi đi. Khi tôi bị bắt ở ngoài đường, ông nhà tôi vẫn còn sống, tôi trông thấy công an đánh con cháu tôi rất dã man, xong rồi lôi ra ngoài đường. Tất cả đều bị chở lên cái đồn Miếu Môn. Tại đồn, tôi nhìn thấy các anh lại đánh con cháu tôi tơi tả ra, cứ đá cứ đấm vào mặt vào bụng, đánh coi như là tôi cứ nghĩ là Công nhà tôi nó chết ngay ở trên đồn, thì không nghĩ đâu là nó còn sống.
Cứ tát tôi, đá đi đá lại, còn thằng Chức nhà tôi thì tôi không nhìn thấy đâu tất cả, tôi nhìn thấy ở trên đồn các anh ấy đánh, tra tấn người dân ghê lắm, còn lấy bút kẹp ngón tay, các thứ xong rồi bảo không được ấy, đánh xong, xong lại bắt vào ký cái giấy là không mớm cung, không tra tấn, đêm hôm đấy là bắt đầu cho bịt mồm hết lại xong rồi cho lên xe kem, xong rồi chở đi đâu thì tôi cũng không biết nữa.
Còn tôi và mấy đứa trẻ con được về lúc 2 giờ sáng (ngày 10/01/2020), chúng nó bảo cho mày về để mày lo hậu sự cho chồng cho con mày, chúng nó còn bảo chúng tao mà không nhân đạo thì chúng tao bắn chết hết chúng mày, từ lúc ông nhà tôi bị đánh gẫy chân, thì các con các cháu nó cứ đến, nó ở để trông nom, mà người ta nói là nhà tôi nuôi bọn nghiện mấy chục người, đang ngủ như mọi ngày thì công an vào là bắt bớ là mang hết con cháu, người thân của chúng tôi đi. Tôi cũng không hiểu là đến để bắt cóc hay thế nào nữa, vì không thấy giấy tờ gì đưa ra cả.
Đây là những gì tôi nhớ thì tôi kể ra, sau này nếu như tôi kể sai thì đó tôi bị ảnh hưởng nhiều tới mất trí nhớ hoặc tôi bị áp lực khiến tôi phải kể sai, mong bà con thông cảm hết cho tôi ».
Đ. Cụ Lê Đình Kình bị bắn chết ngay trên giường ngủ
Theo báo cáo của Công an Hà Nội, khi giảo nghiệm tử thi nạn nhân đã bị chết trong vụ công an tập kích hôm 09.01.2020, phát hiện trên tay ‘vẫn đang nắm giữ quả lựu đạn’. Theo báo chí Việt côäng, chiều 10.01.2020, thi thể cụ Kình, đã được đại diện UBND xã Đồng Tâm bàn giao cho bà Lê Thị Nhung, con gái cụ Kình để mai táng theo phong tục địa phương. Theo phúc trình của Công An thành phố Hà Nội, khi giảo nghiệm tử thi, trên tay của cụ Kình còn ‘cầm giữ quả lựu đạn’, nhưng không có hình ảnh chứng minh.
Buổi chiều cùng ngày, công an cũng đã thả tám người bị cáo buộc ‘có liên quan đến việc chống người thi hành công vụ tại xã Đồng Tâm’, gồm bốn người trong gia đình cụ: vợ, con dâu và cháu dâu. Cùng lúc, trên Facebook, video trình chiếu clip quay lại thi thể cụ Kình với vết mổ chạy dọc phía trước cơ thể, trên phần ngực ngay tim có dấu đạn bắn. Thi thể cụ bị đánh gãy rời chân trái, đầu be bét máu, bị trúng một viên đạn ngay tim, máu me đầy giường cụ nằm.
E. Tuyên dương công trạng.
Ngay sau khi tử trận do té giếng, ba đồng chí công an được ông Nguyễn Phú Trọng ban huy chương cao quý và tướng Tô Lâm thăng hàm và vì không quên thủ tướng, nên xin nhắc đến điện thư bài ‘Niễng ơi: Thà mình không nói để người ta tưởng mình ngu!’ viết bởi Ngô Trường An. Xin được tóm tắc : Khi vào giết ông Kình, ba quan công an, vì tối quá, té giếng chết, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vinh danh ‘Sự hy sinh của 3 chiến sĩ công an ở Đồng Tâm là tấm gương về xả thân bảo vệ đất nước’
Tác giã than ông thủ tướng không phân biệt được thế nào là hy sinh, là xả thân, là bảo vệ đất nước… Cứ mở miệng ra là nói càn nói đại thì, hoặc là xảo ngôn hoặc là không biết gì. Rồi than ‘Khổ!’.
Theo báo chí quốc doanh, các công an chết vì rớt xuống giếng trời của nhà ông Kình và bị bom xăng thiêu cháy, thì đây là điều rủi ro cho họ, chứ không là hành động xả thân bảo vệ đất nước.
Ông Lê Đình Kình, đại diện người dân Đồng Tâm tranh chấp đất đai với quân đội. Nếu ông thắng thì 59 héc ta đất Đồng Tâm thuộc về nhân dân xã Đồng Tâm và nó cũng nằm trong lãnh thổ Việt Nam và, như vậy, người xả thân bảo vệ đất nước chính là ông Kình chứ.
II. QUYỀN SỞ HỮU.
Quyền này được dạy bởi Thầy Chí Thánh và Giáo hội Người. Trong những Vị đó, người Công Giáo Việt lưu ý lời dạy của Hồâng y Ðáng Kính P.X Nguyễn Văn Thuận, qua Giáo huấn xã hội và đã chia sẻ niềm vui, nổi buồn với Ðất Nước, Dân Tộc và Giáo hội Việt Nam.
A. Mục đích Phổ quát của Của cải Vật chất.
Mời đọc Kinh Thánh: « Hãy lan tràn khắp mặt đất, khắc phục trái đất » (St 1, 28). Vũ trụ này được tạo dựng cho con người, nên họ có bổn phận phải dùng tài năng của mình để tăng giá trị của nó, và dùng việc làm của mình mà hoàn thành vũ trụ để hưởng dùng. Nếu trái đất đã tạo dựng để cung cấp phương tiện sinh sống và công cụ thăng tiến cho mỗi người, thì mỗi người có quyền tìm thấy ở đó những điều kiện cần thiết cho mình. Công Ðồng Vatican II đã nhắc lại điều đó : « Thiên Chúa đã tạo dựng trái đất và mọi vật trên đó là để mọi người và mọi dân tộc sử dụng, vì thế của cải trần gian phải tràn đầy đồng đều trong tay mọi người, theo luật công bằng, là một luật đi liền với bác ái » (Vui Mừng và Hy Vọng số 69). Ðịnh luật này phải được ưu tiên trên mọi quyền hạn khác, kể cả quyền tự do buôn bán. Các quyền khác không những không được cản trở mà trái lại phải giúp định luật này thể hiện dễ dàng, và bổn phận xã hội quan trọng và cấp bách nhất là phải qui hướng các quyền nói trên về cùng đích tiên khởi của chúng. (Phát triển các dân tộc, Populorum Progressio, số 22)
Nhờ lao động và nhờ tận dụng khả năng trí tuệ, con người có khả năng thống trị trái đất và biến nó thành một nơi thích hợp : « Bằng cách đó, con người biến một phần trái đất thành của mình, chính xác hơn là biến phần trái đất mà mình đã thu được thông qua lao động; đây chính là nguồn gốc của sở hữu » (Thông điệp Bách Niên, Centesimus Annus, số 31).
« Sở hữu hay một quyền lợi nào đó trên tài sản vật chất đảm bảo cho mỗi người một lãnh vực cần thiết cho tự lập cá nhân và gia đình, cần thiết phải coi đó như một mở rộng tự do con người, là một trong những điều kiện của tự do chính trị. Sau cùng, quyền này thôi thúc thi hành trách nhiệm. Nó có một vai trò xã hội nội tại là nền tảng trong luật dụng đích tài sản công cộng. Một khi lãng quên tính cách xã hội đó thì lắm khi quyền sở hữu trở nên cơ hội cho những tham vọng và nguyên nhân đưa đến những xáo trộn trầm trọng và nên cớ cho nhiều người phủ nhận quyền sở hữu… Trong một vài miền kinh tế đang phát triển, có những chấp hữu ruộng đất mênh mang mà vì lý do tư lợi, nên chỉ được khai thác một phần hoặc hoàn toàn bỏ hoang, trong khi một số lớn dân chúng thiếu ruộng đất hoặc chỉ có một phần nhỏ ».
B. Giáo huấn của Ðức Kitô.
Người đã không kết án chế độ tư hữu. Nếu chế độ này gây bất công và đi ngược luật tự nhiên thì chắc chắn Người đã phê phán rồi, như đã kết tội bè đảng Biệt phái giả hình, những chính sách công bình giả tạo, những thái độ kiêu căng, chế độ ly hôn… Trái lại, trong nhiều dịp khác nhau, Chúa đã mặc nhiên chấp nhận cho con người quyền thủ đắc của cải và gia tài tư hữu.
Chúa Giêsu đã xác định bổn phận xã hội của quyền sở hữu khi Người nói đến những nhiệm vụ mà người có của phải thi hành đối với tha nhân, Trái ngược với chủ trương của phái Rabbini cho rằng người có của được hưởng dùng của cải mình một cách vô giới hạn. Người nói: « Phải làm phúc bố thí những của còn dư dật ». (Luc. 9, 4). Kh nói lời đó, Chúa đã dùng thể cách mệnh lệnh «Hãy làm phúc». Mặt khác, đặc tính xã hội của quyền sở hữu đã mặc nhiên chứa đựng trong một quan niệm phổ quát là tình Huynh đệ đại đồng, một trong những chân lý trọng yếu Phúc m Ðức Kitô. Trong tình nghĩa anh em chân thành thì những danh từ ‘của anh, của tôi’ đã mất hẳn ý nghĩa vị kỷ của câu nói, vì một người anh em giầu có không thể nhẫn tâm để anh em mình bị nghèo nàn đói khổ.
C. Học thuyết xã hội của Giáo Hội Công Giáo.
Trong Thông điệp ‘Tân Sự’, (Rerum Novarum, số 14 và 15), Ðức Lêô XIII đã viết: « Chúng ta không nên đối nghịch tính hợp pháp của quyền tư hữu với sự kiện Thiên Chúa đã ban đất cho toàn thể nhân loại sử dụng và thụ hưởng. Nếu người ta nói rằng Thiên Chúa đã ban đất để sử dụng chung cho mọi người, điều này có nghĩa là con ngươi không phải chiếm giữ nó cách hồ đồ, nhưng hàm ý là Thiên Chúa không ấn định phần riêng cho người nào ».
Thiên Chúa đã ban cho con người và các dân tộc, tùy theo sự khôn ngoan mà ấn định giới hạn của cải. Hơn nữa, dù bị phân chia thành những tư sản, đất đai vẫn để phục vụ công ích cho mọi người, bởi vì không người nào mà không được nuôi sống bằng hoa lợi đồng ruộng. Ai không có đất thì bổ sung bằng lao động. Do đó, chúng ta có thể khẳng định rằng lao động là phương tiện phổ quát để lo cho nhu cầu sự sống, hoặc người ta lao động trên phần đất của mình hay là trong nghề nào đó mà phần thù lao chỉ lấy từ những sản phẩm đất và dùng những sản phẩm đó trao đổi với nhau. Do tất cả điều nói đó, một lần nữa chúng ta thấy quyền sở hữu hoàn toàn phù hợp với luật thiên nhiên ».
Các Ðức Giáo Hoàng kế vị Ðức Lêo XIII đã lặp lại xác quyết hai phần này: sự cần thiết và sự hợp pháp của quyền sở hữu, và những giới hạn đặt ra cho quyền đó. Công Ðồng minh bạch nhắc lại học thuyết lâu đời qua những lời lẽ lặp lại như sau: « Khi sử dụng những vật bên ngoài mà ta làm chủ một cách hợp pháp, phải coi nó không phải chỉ là của riêng chúng ta nhưng còn là của chung, theo nghĩa nó có thể làm lợi không những cho người làm chủ mà còn cho những người khác nữa » (Vui Mừng và Hy Vọng số 69). Và xa hơn: « Quyền tư hữu cũng như quyền làm chủ của cải bảo đảm cho mỗi người một lãnh vực cần thiết để cá nhân và gia đình được tự trị. Các quyền này cũng phải được coi như nằm trong phạm vi quyền tự do của con người. Theo bản chất, tài sản riêng cũng có tính cách xã hội, đặt trên luật lệ hưởng chung của cải" (Vui Mừng và Hy Vọng số 71).
Qua Thông điệp ‘Divini Redemptoris’ (19.03.1937), Ðức Piô XI đã viết: « Những ai giàu có không nên xem của cải trần gian như là hạnh phúc duy nhất, nhưng họ phải coi mình như những người quản lý sau này sẽ phải trả lẽ với Ðấng gia chủ tối cao; họ phải sử dụng gia sản của mình như những phương tiện quí báu Thiên Chúa đã ủy thác để làm việc phúc đức, họ phải phân chia những của dư dật cho người nghèo khổ, thể theo huấn giới của Phúc Aâm ».
Tóm tắc, Giáo Hội Công Giáo, căn cứ vào lời giảng dạy của Chúa Cứu thế, luôn xác định: ‘Quyền sở hữu là một quyền tự nhiên, do Thiên Chúa, Ðấng Sáng tạo vạn vật đã thiết lập. Quyền đó rất phù hợp với lý lẽ tự nhiên vì:
a. Tài sản riêng là một động cơ thúc đẩy con người siêng năng làm việc để đem lại lợi ích cho bản thân, rất cần thiết cho việc tăng gia mức sản xuất về mọi ngành hành động;
b. Chế độ sở hữu lại là một biện pháp cần thiết để dung hoà trật tự xã hội với tự do cá nhân, cần lao với phẩm giá con người;
c. Sự phân chia của cải một cách công bình là một yếu tố quan trọng để củng cố và phát huy an ninh xã hội, trái lại chế độ cộng đồng tài sản thường phát sinh những tình trạng thù ghét và bất bình.
Bởi thế, Giáo Hội Công Giáo bác bỏ những chủ nghĩa hay chính sách kinh tế liên quan đến quyền sở hữu như:
a. Chủ nghĩa tự do vì quá đề cao quyền tự do cá nhân nên không ấn định những giới hạn quyền lợi và nhiệm vụ cho vấn đề sở hữu. Do đó, đã gây nên nhiều bất công trong xã hội;
b. Chủ nghĩa cộng sản vì muốn phá hủy quyền sở hữu đất đai của mọi người để tập trung vào một tay chính phủ, nên đã đi đến chỗ thất bại trong áp bức và đau thương (dân oan, đất đai của các tôn giáo…).
Do đó, thật rõ ràng cho mọi Kitô, cái gọi là ‘Ðất đai thuộc quyền sở hữu của Toàn Dân do nhà nước quản lý’ chỉ là một trò gian dối, rồi với bạo lực, cướp đất đai của dân lành. Xin đừng nhân danh nguyên tắc CÔNG ÍCH để ngụy biện những vụ ‘cướp đất’ này.
TRƯỚC KHI DỪNG BÚT.
Ngay ngày 09.01.2020, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Quốc tế (HRW, Humain Right Watch) ra thông cáo kêu gọi chính quyền Việt Nam phải mở một cuộc điều tra công khai và khách quan về vụ đụng độ giữa người dân và công an tại xã Đồng Tâm, khiến ít nhất 4 người chết. Việt Nam cần tiến hành điều tra minh bạch và khách quan về những vụ việc này để tìm được gốc rễ của vấn đề, ai là người chịu trách nhiệm cho vụ bạo lực, liệu cảnh sát có sử dụng lực lượng quá mức. Những người sử dụng bạo lực phải chịu trách nhiệm. Xin chính quyền Việt Nam cho phép các nhà báo, các nhà ngoại giao và các quan chức thuộc Liên Hiệp Quốc đến tìm hiểu tình hình ở Đồng Tâm… ûa chính phủ. Chuyện nực cười : ‘Trong khi HRW chỉ là một Tổ chức Phi Chính phủ phải can thiệp cho các nhà ngoại giao và các quan chức Liên Hiệp Quốc được trả lương cao để làm việc đó. Ðúng là ‘Ðất nước mình ngộ quá, phải không anh?’
Bằng cách tập kích Đồng Tâm khi trời còn tối như tấn công đồn địch. Giết dân (cụ Kình) được coi như kẻ thù của đảng, nhà nước đang đánh mất lòng tin đồng bào và chứng minh ‘cộng sản đang tâm cướp và giết dân mình’.
Chúng không chỉ dùng bạo bạo quyền đối với người già, phụ nữ và trẻ em, mà sau đó còn ra lịnh Vietcombank phong tỏa tài khoản tiền phúng điếu, chia buồn của thân nhân, đồng bào gửi cho gia đình cụ Kình với lý do đó là ‘tổ chức khủng bố’.
Quyết định đàn áp Đồng Tâm và giết đảng viên Lê Ðình Kình bất chấp Việt Nam là Chủ tịch Hiệp hội các Nước Ðông Nam Á (ASEAN) và Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc tháng 01/2020. Ngoài ra, cộng đảng cũng khinh thường việc Nghị viện Châu u sẽ quyết định số phận Hiệp định Tự do Thương mại Việt Nam-Liên Aâu (EVFTA) trong tháng 02/2020 hay đảng tin rằng những chai champagne sẽ có hiệu lực. Do thương mại thường mang tính bất nhân và trái nhân quyền, nên Ðức Kitô đã xua đuổi những người buôn bán tại Ðền thờ Giêrusalem.
Hà Minh Thảo
- Viết bởi Phạm Trần
Máu Đồng Tâm đêm ngày 09/01/2020 đã lôi ra ánh sáng bản chất gian dối, buộc sợ hãi vào người dân của một nhà nước chỉ muốn được sùng bái không khác gì thời của thảm kịch Cải cách Ruộng đất 1953-1956.
Gian dối Đồng Tâm do báo, đài Công an chủ đạo bịa đặt tất cả, từ bị tấn công nên phải phản công để bảo vệ lực lượng, bảo vệ chính quyền nhân dân nhưng thực chất là tiêu diệt Cụ Lê Đình Kình, người lãnh đạo công cuộc chống tham nhũng, cường quyền để bảo vệ 59 mẫu đất nông nghiệp của dân.
Cụ Kình, 84 tuổi, 58 tuổi đảng, không còn đi đứng bình thường sau lần bị Công an đánh gẫy chân năm 2017, nhưng được dân làng tín nhiệm và kính trọng. Hương linh cụ đã bị bôi nhọ sau khi bị hành quyết dã man bằng 4 phát đạn ngay tại nhà. Thủ phạm Công an không nói một câu về cái chết của cụ Kình, nhưng lại bịa chuyện phản khoa học rằng khi chết trên tay cụ vẫn còn cầm qủa lựu đạn.
Công an cũng lờ đi không giải thích tại sao lại tự động mổ bụng cụ Kình để làm gì, và ai đã cho phép làm chuyện bất nhân này?
Công an còn bịa đặt không hổ thẹn rằng:”Cơ quan điều tra thu giữ được các tài liệu chứng minh rằng, ông Lê Đình Kình giữ vai trò “đầu tàu”, tập hợp những người khác, trong đó có các thành phần bất hảo, nghiện ngập tụ tập về Đồng Tâm, phân chia ra các bè mảng để “thề ăn đủ”! Số này đã kêu gọi việc đóng góp từ nhiều nơi, trong đó có nguồn tài trợ từ tổ chức phản động hải ngoại, biến việc đòi đất ở Đồng Tâm thành cái cớ để gây sức ép với chính quyền, chống phá Nhà nước.”
(theo báo Công an Nhân dân (CAND), ngày 10/01/2020)
Vậy bằng chứng đâu mà đến nay chưa dám trưng ra?
Báo này viết tiếp với giọng lưỡi Hổ mang rằng:”Có chống phá là có tiền từ bên ngoài rót về, vì thế những đối tượng này đã kiếm sống bằng nguồn tiền phi pháp dựa trên vỏ bọc khiếu kiện đất đai. Đây là vấn đề hết sức nguy hiểm, chỉ vì động cơ vụ lợi thấp hèn, kiếm những đồng tiền nhơ bẩn mà chà đạp lên pháp lý, đạo lý, biến mình thành con rối trong tay kẻ địch để phản dân, hại nước. Do đó, chúng ta không thể gọi từ nhân dân Đồng Tâm nói chung mà phải tách biệt nhân dân với những kẻ phạm tội, gây tội ác. Mượn cớ đòi đất để gây sức ép với chính quyền, rồi thực hiện các hành vi phạm tội, đặc biệt là gây trọng tội giết người là hành vi đặc biệt nguy hiểm. Không thể bao biện, không thể ngụy trang dưới hình thức đòi đất, khiếu kiện để gây tội ác như vậy. Nhẫn tâm ra tay với cán bộ, với công an, cái đó phải thấy rõ để lên án và nghiêm trị trước luật pháp.”
Nhưng ai giết ai? Công an nói cả 3 Công an chết vì cùng “rơi xuống hố kỹ thuật”sâu 4 mét, hay còn gọi là “giếng trời” giữa hai căn nhà, nên cạnh nhà cụ Kình, rồi bị con cháu cụ Kình đổ xăng xuống, ném bom xăng đốt chết. Thế nhưng tại sao các bức tường của cái hố này lại không có vết cháy và khói đen bám vào? Xác cháy đen đâu?
Đã có nghi vấn cả 3 chết vì đạn cháy đeo theo người phát nổ, hoặc trúng đạn phe mình.
TẠI SAO CÔNG AN CHẾT?
Nên nhớ, kể từ khi lối 3,000 Công an và Quân đội đột phá Thôn Hoành, chưa có cuộc điều tra công khai, minh bạch và độc lập nào của Báo chí nước ngoài, của các Tòa Đại sứ nước ngoài, hoặc các Cơ quan Quốc tế có Đại diện ở Hà Nội về biến cố Đồng Tâm.
Về cái chết của 3 Công an, Facbooker Lã Minh Luận tiết lộ trong bài viết “Tôi đã đến được thôn Hoành, xã Đồng Tâm, ngày”, 28-1-2020, trong cuộc đối thoại với Cụ bà Dư Thị Thành (qủa phụ Lê Đình Kình):
“Tôi hỏi tiếp: “Thế hôm ấy, mấy anh công an đã chết như thế nào, cụ và gia đình có biết không? Có phải mấy anh em nhà mình ném bom xăng xuống cái giếng trời làm họ bị chết cháy không?” Cụ Thành lại vật ra kêu giời ơi…!
Đúng lúc ấy, mấy người hàng xóm và hai người con gái của cụ Thành bước vào, mọi người đồng thanh đáp: “Cả làng không ai nhìn thấy, không ai biết họ chết thế nào, không ai biết họ chết lúc nào, khi nào, sau này chỉ nghe công an nói…” (mấy người quả quyết)…
Tôi hỏi tiếp: “Vậy, vì sao mấy anh em, chú cháu lại nhận là ném bom xăng xuống giếng trời đốt cháy họ?” Cụ Thành và mấy người nói: “Cũng chả biết, chắc họ đánh đau quá, bắt phải nhận thôi, chứ thằng Uy vừa ló mặt ra sân thượng đã bị người ta bắn gãy tay, còn thả chó ra đuổi cắn… thì ai có thể chạy sang tận sân nhà bên để ném bom xăng…?”
Vậy mà báo Công an Nhân dân ngày 10/01 (2020) đã cảng cổ ra vu khống rằng:” Chúng ta thấy rõ tính chất hung hãn, mất nhân tính, giết hại cán bộ của những đối tượng chống đối, các đối tượng phải trả giá cho hành vi tội ác của mình và dư luận cần nhận diện rõ điều đó để lên án, không thể ngụy biện với bất cứ lý do gì.”
NHỚ VỀ BÀ NGUYỄN THỊ NĂM
Lời cáo buộc “ngậm máu phun người” của Công an trong vụ thảm sát cụ Lê Đình Kình đã nhắc ta nhớ về vụ án bà
Cát Hanh Long (tên hiệu buôn của Bà ở Hải Phòng), tức Nguyễn Thị Năm, trong giai đoạn đầu gọi là “tiêu diệt địa chủ cường hào ác bá” ở Thái Nguyên (miền Bắc Việt Nam) giữa năm 1953, trước khi phong trào Cải cách ruộng đất lan rộng đến năm 1956.
Trước tháng 8/1945 thì:”Bà Năm đã ủng hộ Việt Minh 20.000 đồng tiền Đông Dương (giá trị bằng 700 lượng vàng) không kể vải vóc, lương thực. Tại “Tuần lễ vàng” ở Hải Phòng theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 9/1945, bà Năm cũng đã ủng hộ 100 lạng vàng nữa. Bà được cử làm Hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Thái Nguyên ba năm liền. Các ngôi biệt thự của bà ở Hà Nội, Hải Phòng, ở đồn điền Đồng Bẩm đều là nơi qua lại, ăn ở, địa điểm liên lạc của cán bộ Việt Minh cao cấp. Hai con trai bà là Nguyễn Văn Hanh, Nguyễn Văn Cát đều theo Việt Minh đi bộ đội. Nguyễn Hanh từng tháp tùng đoàn đại biểu Chính phủ do các ông Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận...vào Huế nhận ấn kiếm khi vua Bảo Đại thoái vị.” (theo Tạp chí Luật sư Việt Nam, 18/9/2017)
Tài liệu khác còn cho biết Bà từng là ân nhân của nhiều cán bộ cấp cao Cộng sản như Lê Đức Thọ, Hoàng Hữu Nhân (Bí thư Thành uỷ Hải Phòng), Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế Thiện, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh v.v…
Thế mà, bất nhẫn thay, tài liệu viết tiếp:”Bà Nguyễn Thị Năm (Cát Hanh Long), 47 tuổi, đã bị quy là “địa chủ cường hào ác bá” và đã bị đem ra xử bắn ở Đồng Bẩm, tỉnh Thái Nguyên vào 29 tháng 5 âm lịch (tức 9 tháng 7) năm 1953 và được báo chí đương thời coi là phát súng hiệu cho một cuộc vận động "long trời lở đất".
Khi mẹ phạm tội ác tày trời, bị xử tử hình ở quê hương, hai người con trai là Nguyễn Văn Hanh, đang học tập ở Nam Ninh (Trung Quốc) bị điệu về nước, đưa ngay vào trại cải tạo; Nguyễn Văn Cát - chỉ huy bộ đội của Đại đoàn 308 đang chỉnh huấn ở nước bạn cũng bị bắt giải về giam ở Việt Bắc, không có bản án rõ ràng. Vợ ông Cát là Đỗ Ngọc Diệp đang hoạt động ở vùng địch hậu Bắc Ninh nên không bị bắt, nhưng lại được người ta khuyên cắt đứt quan hệ với con trai một địa chủ cường hào ác bá; bà Diệp không chịu,khi sửa sai sau này vợ chồng ông Cát - bà Diệp mới được đoàn tụ.
AI GIẾT BÀ NĂM -ÔNG HỒ LÀM GÌ?
Nhưng ai muốn giết Bà Năm và ông Hồ Chí Min có trách nhiệm gì không?
Theo Hoàng Tùng, nguyên Bí thư Trung ương đảng khóa V, nguyên Tồng Biên tập báo Nhân Dân viết trong hồi ký Những kỷ niệm về ông Hồ thì: “Thấy cố vấn Trung Quốc bảo phải xử tử Nguyễn Thị Năm, Hoàng Quốc Việt ủy viên Trung ương Đảng, ủy viên ban lãnh đạo Cải cách Ruộng đất trung ương, phụ trách Cải cách ở Thái Nguyên đến báo cáo với Hồ Chí Minh ý kiến của cố vấn. Hồ Chí Minh hứa với Hoàng Quốc Việt sẽ nói với Trường Chinh, Trưởng ban chỉ đạo trong cải cách ruộng đất nhưng ông không làm. Hơn nữa, Hồ Chí Minh đã giữ im lặng vì sợ gây mâu thuẫn với cố vấn Trung Quốc. Hồ Chí Minh nói: "Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ, mà người phụ nữ ấy lại là người từng nuôi cán bộ cộng sản, là mẹ một trung đoàn trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam đang tại chức !". Cũng theo hồi ký của Hoàng Tùng thì: "Chọn địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước là do có người mách cho cố vấn Trung Quốc". Họp Bộ Chính trị Hồ Chí Minh nói: "Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy lại giúp đỡ cho cách mạng.", "Người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa". Sau cố vấn Trung Quốc là La Quý Ba đề nghị mãi, Hồ Chí Minh nói: "Thôi, tôi theo đa số chứ tôi vẫn cứ cho là không phải", và họ cứ thế làm.”
Mặt khác, trong hồi ký Làm người là khó, Đoàn Duy Thành, Phó Thủ tướng giai đoạn 1982-1990 viết: "Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp, Bác nói đại ý "Chẳng lẽ Cải cách Ruộng đất không tìm được một tên địa chủ cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?" Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời "Hổ đực hay hổ cái đều ăn thịt người cả !" Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm".
ĂN CHÁO ĐÁ BÁT
Nhưng câu hỏi của lịch sử là, tại sao khi ấy, trong cương vị lãnh đạo cao nhất của đảng và nhà nước mà ông Hồ Chí Minh không giám ra lệnh “ngưng hành quyết bà Nguyễn Thị Năm”. Và tại sao ông Hồ lại nghe theo ý phải giết bà Năm của Cố vấn Tầu La Qúy Ba?
Chẳng nhẽ ông Hồ khi ấy cũng chỉ là bù nhìn của Tầu hay sao?
Nhưng chuyện đảng “ăn cháo đá bát” bà Nguyễn Thị Năm vẫn kéo dài cho đến bây giờ, 67 năm sau ngày bà bị xử bắn.
Tài liệu về vụ án bà Năm trên Bách khoa Toàn thư (BKTT) mở viết:”Trong nhiều năm, ông Nguyễn Hanh cùng bà Diệp vẫn đứng đơn đề nghị các cá nhân và cơ quan có trách nhiệm thực hiện Nghị định số 28/CP của Chính phủ ban hành ngày 29 tháng 04 năm 1995, theo đó đề nghị của gia đình ông Hanh nhiều năm nay là nên xét thưởng Huân chương Kháng chiến chống Pháp và truy tặng danh hiệu Liệt sĩ cho bà Nguyễn Thị Năm. Dù đã nhiều lần lên tiếng yêu cầu từ năm 1995 đến năm 2014 qua những lá thư gửi lên địa phương và trung ương đòi phục hồi danh dự cho mẹ nhưng gia đình hoàn toàn không được hồi âm.” (BKTT)
Duy nhất, “từ tháng 3 năm 1987, Ban Tổ chức Trung ương đã chỉ đạo tỉnh Bắc Thái để ra văn bản (ngày 11.6.1987), nhưng cũng chỉ làm cái việc duy nhất là xác định lại thành phần giai cấp của bà Nguyễn Thị Năm là “tư sản địa chủ kháng chiến” (theo Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc (viết trên báo Lao Động), ngày 22/07/2012)
Vậy tại sao lại có sự cố tình lảng tránh ghi công bà Nguyễn Thị Năm, mặc dù từ ông Hồ Chí Minh trở xuống đểu biết bà là ân nhân của đảng, là người đã đóng góp tài sản và nuôi ăn bộ đội trong nhiều năm?
Phải chăng, với thái độ kiêu ngạo Cộng sản gốc bần cố nông, lãnh đạo đảng CSVN chỉ biết lợi dụng lòng tốt của dân để củng cố quyền lực khi còn phải chiến đấu gian khổ. Nhưng sau khi thành công thì kết qủa là của riêng mình như đảng đã trở mặt với các thành viên của Câu Lạc Bộ Truyền thống kháng chiến (tên ban đầu là Câu lạc bộ Những người Kháng chiến cũ) ở miền Nam, trong đó có các đảng viên kỳ cựu như Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng và Trần Nam Trung.
Câu lạc bộ này, chính thức ra đời ngày 23/09/1986, nhưng bị Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh ra lệnh đình chỉ hoạt động tứ tháng 03/1989 vì đảng cho rằng “các hoạt động đòi cởi mở của Câu Lạc Bộ đã đi qúa đà.”
Nên biết lệnh giải tán Câu Lạc Bộ của ông Nguyễn Văn Linh được thi hành sau khi có Phong trào sinh viên xuống đường đòi tự do ở Bắc Kinh, và các biến động chính trị làm tan rã Thế giới Cộng sản ở Đông u và khối Liên Xô.
Vì vậy, nếu vụ Đồng Tâm đã quy tụ được một khối quần chúng đứng sau cụ Lê Đình Kình để đấu tranh bảo vệ chủ quyền đất, biến cụ thành một nông dân anh hùng ngay giữa Thủ đô Hà Nội thì không khỏi khiến Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, khó chịu. Do đó mà dư luận nhân dân có tư duy văn hóa đã không loại bỏ nghi ngờ là chính ông Trọng đã ra tay hạ sát cụ Kình để tiêu diệt uy tín và ngăn chặn ảnh hưởng của cuộc tranh đấu ở Đồng Tâm đến những vùng dân cư khác.
Cũng như bà Nguyễn Thị Năm bị đảng phản bội, nhưng vẫn được lịch sử ghi công thì Cụ Lê Đình Kình, dù bị mạ lỵ và vu khống nhưng con tim của dư luận người Việt trong và ngoài nước đã đứng về phía Cụ trong vụ Đồng Tâm. -/-
Phạm Trần
(01/020)
- Viết bởi Phạm Trần
Cuộc hành quân của lối 3,000 Công an và Quân đội vào Thôn Hoành, Xã Đồng Tâm, gần Thủ đô Hà Nội lúc 4 giờ sáng ngày 09/01/2020 đã để lại vết nhơ rõ nét của một nhà nước ngụy ngôn và không ngại dùng bạo lực, dù dã man, tàn bạo để giữ quyền lợi bất chính.
Nạn nhân của những kẻ ăn gian nói dối, không còn xứng đáng là lãnh đạo của cả hệ thống Chính trị cường quyền trong vụ Đồng Tâm, gồm có Cụ Lê Đình Kình, người đứng đầu “nhóm đồng thuận” bảo vệ 59 mẫu đất nông nghiệp, và 3 Công an tấn công vào nhà cụ Kình.
Trong khi cụ Kình, 84 tuổi, có 60 tuổi đảng, nguyên Huyện ủy viên và nguyên Bí thư đảng bộ Xã Đồng Tâm, chưa hề trong đời bị kỷ luật Đảng, đã bị Công an vu khống “cấu kết với thế lưc lưu vong bên ngoài” để chống đảng và tư lợi, thì nhà nước lại vội vã vinh danh 3 Công an tham gia tập kích cụ Kình.
LƯỠI RẮN
Nhưng 3 Công an gồm Thượng tá Nguyễn Huy Thịnh, Phó Trung đoàn trưởng, Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động, Bộ Công an; Thiếu úy Dương Đức Hoàng Quân, Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động, Bộ Công an và Trung úy Phạm Công Huy, Phòng Cảnh sát PCCC&CNCH Công an TP.Hà Nội thiệt mạng ở đâu?
Ban đầu, Công an đưa tin ám chỉ như cả Cụ Kình và 3 Công an đều chết ở khu vực đang có thi công xây dựng tường rào ở khu đồng Sênh, cách nhà Cụ Kình ít nhất 3 cây số.
Thông báo đầu tiên của Công an viết:“Từ ngày 31-12-2019, một số đơn vị của Bộ Quốc phòng phối hợp với lực lượng chức năng tiến hành xây dựng tường rào bảo vệ sân bay Miếu Môn theo kế hoạch. Trong quá trình xây dựng, sáng 9-1-2020, một số đối tượng có hành vi chống đối, sử dụng lựu đạn, bom xăng, dao phóng... tấn công lực lượng chức năng, chống người thi hành công vụ, gây rối trật tự công cộng, dẫn đến hậu quả 3 cán bộ, chiến sĩ công an hy sinh; 1 đối tượng chống đối chết, 1 đối tượng bị thương.
Các đơn vị chức năng đã khống chế và bắt giữ các đối tượng vi phạm pháp luật nghiêm trọng để xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Hiện nay, các đơn vị liên quan đang tiến hành xây dựng tường rào sân bay Miếu Môn theo kế hoạch.”
Tiếp tay cho tin bịa đặt của Công an, Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV, Voice of Vietnam) phụ họa:”Dư luận bàng hoàng, căm phẫn và mong muốn các cơ quan chức năng sớm xử lý nghiêm minh các đối tượng mạo danh “nhân dân” đã sát hại một cách dã man 3 chiến sĩ công an làm nhiệm vụ bảo vệ công trình xây dựng tường rào khu vực sân bay quân sự Miếu Môn và đảm an ninh trật tự xã hội, giữ gìn sự bình yên cho nhân dân tại Đồng Tâm hôm 9/1 vừa qua.” (VOV, 13-01-020)
Nhưng khi bị chất vấn tại sao lại xây tường vào ban đềm và có thật là dân đã tập trung chống “người thi hành công vụ” lúc 4 giờ sáng, khi thực tế dân đang ngủ trong nhà thì Công an lại đổi giọng để “di chuyển” vụ gây ra án mạng 4 người, từ đồng Sềnh về khu nhà cụ Kình ở Thôn Hoành.
Thứ trường Bộ Công an, Trung tướng Lương Tam Quang nói với Báo chí sáng ngày 14/01/2020:” Theo kế hoạch, sáng 9/1 sẽ xây tới khu vực xã Đồng Tâm nên Công an Hà Nội phối hợp với các lực lượng của Bộ tiến hành triển khai các chốt nhằm đảm bảo an toàn cho trụ sở xã, cán bộ xã, cán bộ thôn. Xác định 20 đối tượng trọng điểm để ngăn ngừa. mTrong khi thực hiện nhiệm vụ, tổ công tác bị các đối tượng trong "tổ đồng thuận" tấn công bằng lựu đạn và bom xăng cùng nhiều vũ khí khác…Trong quá trình truy đuổi đối tượng trực tiếp cầm lựu đạn chạy về nhà Lê Đình Chức và sang nhà ông Hợi, đã có một tổ công tác gồm 3 chiến sỹ bị rơi xuống hố kỹ thuật với chiều cao 4m. Ngay lập tức, các đối tượng đã đổ xăng và đốt các chiến sỹ dưới sự chỉ đạo của Lê Đình Kình.”
Rõ như ban ngày : cả 3 Công an đều rơi xuống hố một lượt khi họ truy đuổi các đối tượng, nhưng không có tin họ đã bị “tổ đồng thuận” tấn công.
Thế nhưng, đến chiều cùng ngày 14/01 (2020), tại lễ phát động phong trào gọi là “học tập tấm gương dũng cảm hi sinh” của 3 công an trong quá trình làm nhiệm vụ tại thôn Hoành, ông Tướng Lương Tam Quang lại nói khác.
Ông kể:”Tổ công tác đã truy đuổi, triển khai bắt giữ, các đối tượng tiếp tục sử dụng bom xăng, gạch đá, tuýp sắt dài 2m có gắn lưỡi dao đâm vào tổ công tác khiến 3 cán bộ công an bị thương, rơi xuống hố giữa nhà Lê Đình Hợi và Lê Đình Chức. Các đối tượng đã ném bom xăng, đổ xăng xuống hố, phóng hỏa, khiến 3 cán bộ, chiến sĩ công an hi sinh.”
Đáng chú ý: tên người chỉ đạo tấn công Lê Đình Kình không còn trong lần cáo cuộc này.
HÌNH “LIỆT SỸ” ĐU?
Nghe thì “thê thảm” và “dã man” tầy trời đấy, nhưng Nhà văn, Đại tá Phạm Đình Trọng đã nghi vấn:”Nhưng các tướng công an ở sở chỉ huy trận đánh đưa thông tin về ba cái chết mà không có nổi một tấm hình đủ sức thuyết phục, đủ sức chứng minh xác thực về cái chết của công an ở Đồng Tâm rạng sáng 9.1.2020. Có cái chết thực thì nơi ba công an ngã xuống không thể tùy tiện di chuyển hết nơi này đến nơi khác. Cái chết đau lòng có thực đó cũng đã được ghi lại bằng nhiều tấm ảnh xúc động và đầy sức thuyết phục, không mơ hồ và giả tạo như hai, ba tấm ảnh nghèo nàn do dư luận viên tung lên mạng.”
Ông Trọng còn thắc mắc:”Kéo đại quân bất ngờ đánh vào một làng quê nhỏ bé, quyền chủ động hoàn toàn thuộc về công an khai chiến. Trong trận đánh, người dân bị khống chế, giam trong nhà, người dân chỉ tự vệ cũng bất lực. Công an hoàn toàn làm chủ tình thế, làm chủ diễn biến trận đánh mà có tới ba sĩ quan công an cấp tá, cấp úy nối nhau lao xuống “hố kĩ thuật” chết thảm thì kĩ năng, nghiệp vụ của những sĩ quan công an đó quá tồi dẫn đến cái chết quá lãng nhách, không đáng.
Cơm ăn, áo mặc từ tiền thuế của dân, nhận đồng lương ưu đãi từ tiền thuế của dân mà nỡ cầm khẩu súng có được cũng từ tiền thuế của dân bắn vào dân rồi nhận cái chết do tự té xuống “hố kĩ thuật”. Dù đau lòng, thương tâm nhưng đó là những cái chết tầm thường của những con người công cụ phản bội nhân dân, chống lại nhân dân.”
BẢO VỆ TỔ QUỐC NÀO?
Nhưng trước mắt đảng và chính phủ thì “những cái chết tầm thường” vẫn xứng đáng được vinh danh “liệt sỹ” vì đã “góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Rất tiếc 3 “liệt sỹ” Công an không hy sinh ở biên cương lãnh thổ hay ngoài Biển Đông chống quân Tầu xâm lược mà lại ở “mặt trận đàn áp dân, chiếm đất” ở Thôn Hoành !
Phải chăng “sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” đã bị đặt sai chỗ, hay Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã hết còn biết Thôn Hoành không phải là Tổ quốc?
Vì vậy việc tâng công có chủ ý cấp tốc và trái thông lệ phải qua nhiều qúa trình cứu xét đã được tuyên truyền như sau:
“ Ngày 10-1, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã có Tờ trình gửi Thủ tướng Chính phủ về việc cấp Bằng Tổ quốc ghi công cho 3 cán bộ Công an, đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ tại xã Đồng Tâm (huyện Mỹ Đức, Hà Nội).
Tờ trình nêu rõ: Thực hiện Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng sửa đổi, bổ sung ngày 16-7-2012 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 9-4-2013 của Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị xác nhận liệt sỹ và cấp Bằng Tổ quốc ghi công đối với 3 cán bộ, chiến sỹ thuộc Bộ Công an.
Cũng trong ngày 10-1, Chủ tịch Nước Nguyễn Phú Trọng đã ký Quyết định truy tặng Huân chương chiến công Hạng nhất cho ba cán bộ, chiến sỹ công an đã lập chiến công đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
(báo Công an Nhân dân(CAND), ngày 12/01/2020)
BẤT NHÂN-BẤT NGHĨA
Bên cạnh những vu cáo, mạ lỵ Cụ Lê Đình Kình và dân Đồng Tâm chống Chính quyền Hà Nội cưỡng chế 59 mẫu đất nông nghiệp được “tổ chức lưu vong nước ngoài hướng dẫn cách bạo động”, Thứ trưởng Công an Lương Tam Quang còn nói :”Qua tài liệu thu thập được tại nhà Lê Đình Kình cho thấy, một số tổ chức lưu vong, phần tử chống đối đã hướng dẫn "tổ đồng thuận" cách làm bom xăng, tạo quả nổ, hướng dẫn mua sắm vật tư làm vũ khí… Nhiều đối tượng tự gắn mác đại diện nhân dân Đồng Tâm, hỗ trợ nhóm đồng thuận gây thanh thế, quyên góp tiền bạc. Về tiền quyên góp được, gần một nửa chia cho bố con, anh em ông Kình.”
Toàn là ngôn ngữ tố cáo riêng của Công an, không ai biết thực hư ra sao vì Công an không đưa ra bằng chứng. Báo chí nước ngoài ở Việt Nam và cả “làng báo, đài” của đảng cũng không dám xông mình điều tra lời cáo buộc của Lương Tam Quang.
Nhưng sau khi cụ Kình bị Công an hành quyết bằng 4 phát đạn vào đầu (2), tim (1) và vào chân (1), nhiều người dân trong và ngoài nước đã gửi tiền Phúng Điếu đến Gia đình cụ Kình như một nghĩa cử “nghĩa tử là nghĩa tận”, theo phong tục của người Việt Nam. Tuy nhiên Bộ Công an đã yêu cầu Vietcombank phong tỏa, không cho người đứng tên tài khoản Nguyễn Thúy Hạnh lấy ra trao lại cho Gia đình Cụ Kình.
Ngày 17/01 (2020), Bộ Công an loan báo:”Để phục vụ yêu cầu điều tra, mở rộng vụ án, trong đó có hành vi tài trợ khủng bố, Cơ quan điều tra đã đề nghị các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước phối hợp rà soát, phong tỏa một số tài khoản có liên quan.
Bộ Công an thông báo và đề nghị các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước nâng cao cảnh giác, không gửi tiền vào tài khoản của những người có hành vi kêu gọi tài trợ và thông báo kịp thời cho cơ quan chức năng xác minh, xử lý.
Hiện cơ quan chức năng đã phong tỏa tài khoản số 0611001987139 mở tại ngân hàng VCB mang tên NGUYEN THUY HANH.
Danh sách các tài khoản nghi vấn liên quan, Bộ Công an sẽ thường xuyên cập nhật khi có thông tin.
Trong bản tin phát trên VTV, Nguyễn Văn Tuyển, đối tượng được giao nhiệm vụ thường xuyên phát trực tiếp trên Facebook các thông tin sai lệch về nguồn gốc đất sân bay Miếu Môn, đã khai nhận được những đối tượng ở nước ngoài liên lạc tài trợ tiền để thực hiện các hoạt động gây rối an ninh trật tự như: Việt Tân, chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời, Triều Đại Việt.
Số tiền nhận từ các tổ chức khủng bố, nhóm đối tượng sử dụng một phần để mua lựu đạn, hung khí, chế tạo bom xăng để sẵn sàng chống trả lực lượng chức năng, phần lớn số tiền còn lại sử dụng vào các hoạt động chi tiêu cá nhân.
Các tổ chức khủng bố còn chỉ đạo nhóm đối tượng tìm mua vũ khí, nghiên cứu các tài liệu trên mạng Internet để chế tạo bom xăng nhằm chống lại các lực lượng chức năng khi bảo vệ việc xây dựng tường rào sân bay Miếu Môn. Trong số các đối tượng tấn công lực lượng chức năng thời gian qua, có những trường hợp vì thiếu hiểu biết mà bị nhóm đối tượng cầm đầu kích động, lôi kéo.”
Tin của Công an viết thêm:” 528 triệu đồng là số tiền mà Nguyễn Thúy Hạnh đã kêu gọi được sau 3 ngày phát động từ các cá nhân trong và ngoài nước. Ngoài một số tài khoản ghi nội dung phúng điếu, có nhiều tài khoản có lời lẽ kích động, ca ngợi số chống đối tại Đồng Tâm...
Nguyễn Thúy Hạnh là đối tượng chống đối chính trị, tháng 12/2019 Nguyễn Thúy Hạnh được tổ chức Việt Tân trao giải thưởng Lê Đình Lượng, đã 3 lần bị lực lượng chức năng của Việt Nam xử phạt hành chính về hành vi tụ tập trái phép và biểu tình trái phép.”
“Đại tá Phan Nguyên Hùng, Phó cục trưởng Cục An ninh nội địa, Bộ Công an cho biết: "Qua theo dõi thấy rằng, có rất nhiều đối tượng trong và ngoài nước trong đó có một số đối tượng tổ chức khủng bố Việt Tân đã chuyển tiền vào tài khoản của Nguyễn Thúy Hạnh. Để kịp thời ngăn chặn, ý đồ của các đối tượng, Bộ Công an đã tiến hành phong tỏa tài khoản của Nguyễn Thúy Hạnh để tiếp tục điều tra, làm rõ mục đích sử dụng số tiền thu được".
Kể cũng lạ, trước cuộc tấn công, giết cụ Lê Đình Kình sáng ngày 09/01 (2020), không thấy Bộ Công an tố cáo Cụ Kình hay Tổ Đồng Thuận đã nhận tài trợ từ các Tổ chức lưu vong, trong đó có Việt Tân.
TƯỚNG THƯỚC-ĐẠI TÁ QUANG
Nhưng trước những tin hỏa mù một chiều và độc quyền về Đồng Tâm của Bộ Công an, dư luận trong và ngoài nước vẫn hoang mang không biết tin ai thì lác đác đó đây đã có những phát biểu “tát nước theo mưa”, ủng hộ nhà nước của một số cò mồi dư luận.
Trong số này, nổi bật hơn cả có Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên đại biểu Quốc hội, nguyên Tư lệnh Quân khu 4.
Ông nói :”Đây không phải là vụ án hình sự thông thường mà là có dấu hiệu chống phá Nhà nước. Theo dõi diễn biến sự việc ở xã Đồng Tâm suốt thời gian qua, tôi thấy rằng, hơn hai năm vừa qua, chính quyền đã thể hiện sự kiên nhẫn, nhân nhượng rất nhiều lần. Ai sai thì phải giáo dục để sửa, nhưng nếu khi đối tượng vẫn ngoan cố thì phải xử lý theo pháp luật. Vì chính quyền càng nhân nhượng thì kẻ địch đứng đằng sau càng giật dây để nhóm đối tượng càng lấn tới. Nên không thể nhân nhượng nữa mà phải hành động quyết liệt. Đây không chỉ là tội giết người trong vụ án hình sự đơn thuần mà theo tôi còn là tội chống phá chế độ, chống phá Nhà nước, đi ngược lại lợi ích quốc gia và nhân dân. Nhóm đối tượng đã giết hại những cán bộ, chiến sĩ công an đang vì nhân dân phục vụ.
Vụ việc tại xã Đồng Tâm có dấu hiệu cho thấy thế lực thù địch bên ngoài đứng đằng sau để bày mưu kế, bơm tiền, đưa vũ khí cho nhóm chống đối. Đã là mâu thuẫn đối kháng có bàn tay của địch ở đằng sau thì phải kiên quyết trấn áp bằng sức mạnh và mưu lược, chứ không thể theo cách tuyên truyền, thuyết phục thông thường.”
“Mục đích của thế lực thù địch, của tổ chức khủng bố ở bên ngoài là muốn tạo ra ở xã Đồng Tâm một nhóm phản loạn nhằm chống lại Nhà nước của chúng ta.”
(báo Quân đội Nhân dân (QĐND), ngày 21/01/2020)
Lời nói của Tướng Thước giống hệt như tố cáo không bằng chứng của Công an. Ông Thước đã đóng vai quan tòa để buộc tội “nhóm chống đối”, trong đó có cụ Lê Đình Kình, người đã qua đời và không thể phản bác vạch ra sai trái và chủ quan, một chiều của Tướng Thước.
Như vậy, nói xấu và đổ tội cho người đã chết thì người sống có vinh dự gì, nhất là đối với một Tướng lĩnh như Nguyên Tư lệnh Quân khu 4, Nguyễn Quốc Thước?
Trái với quan điểm một chiều và chủ quan của Tướng Thước, Đại tá Công an Nguyễn Đăng Quang, người đã về Đồng Tâm nhiều lần thảo luận vụ tranh chấp 59 mẫu đất với Cụ Lê Đình Kình, đã lên tiếng trong bài viết của ông phổ biến trên Internet ngày 22/01/2020.
Ông Quang qủa quyết :”Tôi khẳng định ĐCSVN đã phạm sai lầm cực kỳ nghiêm trọng khi quyết định sử dụng bạo lực thay cho đối thoại ôn hòa hoặc tranh tụng pháp lý trước tòa, dẫn đến một kết cục đẫm máu cho cả 2 phía, gây chia rẽ trong xã hội và làm ly tán lòng dân. Thử hỏi, 93 triệu người dân Việt Nam, nhất là 4,5 triệu kiều bào ta ở nước ngoài, từ nay có ai tin vào “chính sách đại đoàn kết và hòa hợp, hòa giải dân tộc” của Đảng nữa hay không, khi Đảng đã ra tay sử dụng vũ lực để giết hại người dân ngay trong thời bình? Qua vụ thảm sát Đồng Tâm này, có thể thấy rõ câu trả lời là: KHÔNG!
Theo Đại tá Quang thì:”Họ có thể đã đạt được điều họ muốn: Đã tiêu diệt được kẻ chủ mưu, rắn đã bị đánh dập đầu, từ nay sẽ vĩnh viễn không còn những buổi họp thường kỳ của “nhóm Đồng thuận” được tổ chức trong ngôi nhà này nữa!
Cũng với chính mục đích và mục tiêu như vậy nên họ mới ra tay hủy hoại tan hoang nhà riêng cụ Kình lẫn tư gia của 2 người con trai, cướp và mang đi mọi tài sản có giá trị trong 3 căn nhà này, như: TV, tủ lạnh, máy vi tính.v.v… cho đến chiếc ô tô mới mua của cháu Lê Đình Uy (đăng ký xe mang tên vợ là Nguyễn Thị Duyên), đặc biệt là chiếc tủ gỗ mà bên trong “cất giữ một lượng lớn tiền mặt mà gia đình dành dụm được trong những năm qua cùng mọi hồ sơ, tài liệu, văn bản, chứng cứ của cụ Kình lưu giữ hàng chục năm nay”!
Sự tàn ác, dã man đã đạt đến đỉnh điểm mà ngay chính các thành viên trong 3 ngôi nhà này, khi được thả về để lo hậu sự cho cụ Kình, không còn có thể nhận ra đây là 3 căn nhà mà chỉ vài hôm trước họ đã từng sinh sống!
Sao các người có thể tàn ác như vậy với đồng chí của mình, một đảng viên chưa hề bị kỷ luật đảng, một công dân chưa có tiền án, tiền sự, và chưa bị kết án là tội phạm trước bất cứ tòa án nào? Đây chính là sự tàn độc, dã man, thú tính, không còn tính người!”
Liệu những lới ta thán và lên án gay gắt Đảng và Nhà nước của Đại tá Quang có đánh thức lương tâm Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng không, hay cũng chỉ là nước đổ đầu vịt như đã từng xẩy ra với những Lãnh đạo Cộng sản đã cạn máu Việt Nam? -/-
Phạm Trần
(01/020)
- Viết bởi Dân Chúa
Mỗi năm chúng ta nhớ về ngày mừng năm mới theo truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đây là nếp sống văn hóa của cội nguồn dân tộc tính chúng ta.
Nếp sống văn hóa này không chỉ thể hiện ra bên ngoài ở nơi cung cách đón mừng ngày đầu năm mới theo lễ nghi truyền thống , nhưng còn ẩn chứa nền tảng tâm linh tinh thần nữa.
Đón mừng năm mới với tâm tình tạ ơn Đấng là chủ trời đất, chủ mùa xuân năm mới. Vì tin rằng trời đất, không khí, nước, thời tiết, sự sống trong thiên nhiên, không do con người chế biến làm ra. Nhưng được Đấng Tạo hoá tạo dựng nên cùng ban cho khả năng nối tiếp sinh sống.
Con người với những khám phá mới,tiến bộ khoa học là điều tốt cần thiết cho đời sống, nhưng không thay thế cho sự sáng tạo sự sống trong thiên nhiên được. Tiến bộ khoa học cần thiên nhiên, và thiên nhiên cũng cần có tiến bộ khoa học, để cho đời sống được phát triển tốt đẹp được bảo vệ gìn giữ.
Đón mừng mùa xuân năm mới, con người chúng ta cũng nhớ đến cội nguồn cây gia phả đời sống gia đình của mình. Vì không ai là không có gốc rễ của một dòng máu thân xác hình hài. Tổ tiên ông bà cha mẹ là gốc của cây gia phả, là dòng sông máu mủ chảy sang thế hệ con cháu chắt. Nhớ về cội nguồn của mình với lòng biết ơn, vì công ơn sinh thành dưỡng dục đã nhận được từ nơi cha mẹ, với lòng kính trọng ngưỡng phục, vì những đầu tư hy sinh dấn thân cùng gương sống ông bà cha mẹ đã sống đóng góp cho đời sống thế hệ con cháu được phát triển thịnh vượng.
Đón mừng mùa xuân năm mới, con người chúng ta cùng tưởng nhớ tới những ân tình, sự giúp đỡ trong đời sống đã nhận được từ những người khác cách này hay cách khác đã góp phần xây dựng làm cho đời sống mình. Nhớ tới với lòng vui mừng và biết ơn.
Đón mừng mùa xuân năm mới cũng là dịp tốt thuận tiện nhớ về những kỷ niệm mùa xuân năm nào khi xưa đã cùng sống trải qua với những người thân yêu ruột thịt, với những bạn bè người quen biết, mà bây giờ họ đã ra đi về bên kia thế giới thành người thiên cổ.
Họ đã ra đi, nhưng hình ảnh lời nói của họ vẫn sống động trong tâm trí lòng yêu mến của những người còn sống đang mừng mùa xuân năm mới trên mặt đất. Nhớ về họ với lòng ngậm ngùi biết ơn. Giữa họ và ta khoảng cách thung lũng xa xăm không bờ bến, nhưng tâm hồn ta luôn gần bên họ.
Đón mừng mùa xuân năm mới trong niềm vui, nhưng cũng có chút suy tư, vì không biết thời gian tương lai tới sẽ ra sao. Vì thế tâm hồn ta nuôi niềm hy vọng, cầu xin cho năm mới được chúc phúc lành của Đấng là chủ mùa xuân năm mới cho hôm nay và ngày mai.
Chúc mừng năm mới Canh Tý
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Viết bởi Vi Hữu
Xuân về, cánh én lượn bay
Trăm hoa đua nở ngất ngây lòng người… (Đỗ Lan)
Mùa Xuân đang đến rất đẹp, rất hân hoan, và năm nay, mùa Xuân đã khởi đi từ tháng Giêng dương lịch 2020, một tháng Giêng đặc biệt bao trùm cả hai cái Tết – Tết dương lịch vào ngày 1-1 và Tết âm lịch vào ngày 25-1.
XUÂN CANH TÝ
Tết âm lịch 2020 có tên là Tết Canh Tý. Cách đây 1980 năm, tức là cách nay đúng 33 lục thập hoa giáp (33 chu kỳ can chi: 33 x 60 = 1980), cũng vào năm mang tên Canh Tý (năm 40), Hai Bà Trưng đã phất cờ khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của ngoại bang, đánh đuổi thái thú Tô Định chạy về Nam Hải. Đây là cuộc khởi nghĩa thắng lợi đầu tiên trong thời Bắc thuộc, mà lãnh đạo lại là nữ giới, đã lên ngôi để trở thành vị nữ vương đầu tiên của Việt Nam: Trưng Vương. Vì thế Xuân Canh Tý 2020 ắt phải tràn ngập niềm vui hào hùng của dân Việt.
Năm Tý 2020 cũng làm dân Việt hãnh diện nhớ đến hai năm Tý oanh liệt khác trong quá trình dựng nước và giữ nước đầy gian khổ và kiên cường:
- Năm Giáp Tý (544): Lý Bôn đánh đuổi ngoại xâm, lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, niên hiệu là Thiên Đức.
- Năm Mậu Tý (1228): Trần Hưng Đạo đại thắng trên sông Bạch Đằng, bắt sống tướng nhà Nguyên là Ô Mã Nhi, làm sụp đổ giấc mộng xâm lăng của nhà Nguyên.
ĐỨNG ĐẦU 12 CON GIÁP
Năm Canh Tý 2020 mang tên con chuột, con giáp đầu tiên của một chu kỳ mới 12 con giáp. Nói đến chuột thì phải nói đến mèo:
Con mèo mà trèo cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo.
Những câu ca dao dí dỏm về ‘chuột và mèo’ trên đây của dân Việt khiến ta liên tưởng đến loạt phim hoạt hình ‘Tom và Jerry’ của Mỹ, được thực hiện suốt từ năm 1940 đến nay (80 năm), đã sản xuất được hơn 160 tập.
Loạt phim này diễn tả cuộc chiến bất tận giữa một chú mèo nhà và một chú chuột con. Mỗi tập phim đều tập trung vào mưu đồ của mèo Tom, thực hiện vô vàn kế hoạch tinh vi để bắt cho được chú chuột Jerry, nhưng thường là thất bại vì chú chuột Jerry quá thông minh, nhanh nhẹn và may mắn.
Điều thú vị là, ít khi mèo Tom có ý định bắt giữ chuột Jerry để ăn thịt mà thường là đuổi bắt Jerry do những mâu thuẫn cùng với trách nhiệm đương nhiên "mèo là phải bắt chuột": Jerry ăn đồ ăn trong tủ lạnh khiến Tom bị mắng, Tom trả thù vì Jerry cứu những con thú khác khỏi cạm bẫy của Tom... Dù vậy, trong suốt quá trình rượt đuổi, giữa Tom và Jerry đã phát triển một mối quan hệ thân thiết không thể thiếu.
ĐÁM CƯỚI CHUỘT
Để nói lên quan hệ giữa chuột và mèo, dân Việt ta cũng tạo ra một bức tranh Đông Hồ nổi tiếng mang tên “Đám cưới chuột”, thường dùng để treo trong nhà vào ngày Tết.
Bức tranh mô tả Ông Nghè Chuột vinh quy về làng. Dân hàng tổng hàng huyện hò nhau đem cờ quạt, võng lọng, trống phách ra đón rước, và theo thông lệ thì “ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau”. Lại có cả một anh chuột vênh váo vác cờ biển vua ban đi giữa đám rước.
Đám rước thật linh đình, long trọng, vui vẻ, nhưng có một điều hơi làm phiền lòng Ông Nghè Chuột một chút, đó là sự hiện diện của một Ông Mèo to tướng, đang ung dung ngồi vểnh râu giữa đường cản lối! Ông Nghè Chuột là người “biết điều” nên đã cho hai chú chuột - một chú đem chim, một chú xách cá - để dâng kính Ông Mèo. Lại có hai chú chuột khác đang phùng mang thổi kèn “tò toe, tí toe” - vừa để át những tiếng mèo dọa nạt “meo, meo” giúp cho Bà Nghè bớt run, lại vừa làm cho đám rước thêm phần nhộn nhịp náo nhiệt.
Như vậy, bức tranh này cũng diễn tả tệ nạn tham nhũng hối lộ. Không biết Ông Mèo sau đó có nhận hối lộ hay không, vì có vẻ như Ông Mèo đang giơ tay ra, không biết là để xua tay khước từ hay để đón nhận.
Về tệ nạn tham nhũng, Việt Nam ta cũng có câu chuyện cổ tích mang tên “Chuột Vàng (Kim Thử)”.
Chuyện kể rằng: Ngày xửa ngày xưa, có một viên tri phủ rất mực thanh liêm, suốt cả đời làm quan không bao giờ nhận của đút lót. Ngài lại rất nhân hậu, thương yêu dân như con cái cháu chắt trong nhà; ai cũng một lòng mến phục.
Khi quan sắp về hưu, tổng lý trong phủ sắm lễ vật vào từ tạ, nhưng biết tính ngài, nên không dám tới văn phòng bái yết, mà theo cửa sau ra mắt quan bà. Nhìn đống lễ vật lù lù trên bàn, quan bà cằn nhằn:
- Các thầy hẳn đã biết cụ lớn nhà tôi liêm khiết như thế nào rồi. Thế mà còn đem những món này vào đây. Tôi không dám nhận đâu.
Tổng lý hàng phủ năn nỉ hết lời, quan bà vẫn nhất định không nhận. Nhưng rồi khi thấy các vị này quả là chí tình, quan bà bèn nghĩ giúp cho một tuyệt kế:
- Tôi thấy các thầy có lòng tốt, không quên công ơn của cụ lớn tôi. Vậy ngài tuổi Tý, các thầy thử làm một con chuột bằng vàng để biếu làm vật kỷ niệm xem sao. Rồi lúc đó tôi sẽ cố nói thêm vào, may ra ngài nghĩ lại mà nhận chăng.
Các vị tổng lý ra về, vội vã hùn tiền nhau đến tiệm kim hoàn ở phố phủ, nhờ đúc một Ông Tý bằng vàng ròng. Sau đó lệ khệ mang Ông Tý vào hầu quan theo lối cửa hậu như cũ. Quan bà vui vẻ nhận Ông Tý đem cất kỹ vào hòm, không nói cho quan ông biết.
Làm quan thanh liêm, nên sau khi về hưu được vài năm, gia đình ngày càng túng thiếu. Bấy giờ quan bà mới lôi Ông Tý bằng vàng ra, đem bán. Thấy của lạ, quan ông hỏi lấy vật này ở đâu ra. Quan bà vui vẻ kể lại đầu đuôi câu chuyện. Sau khi nghe rõ sự tình, quan ông nổi trận lôi đình, đập bàn quát mắng:
- Đàn bà thật ngu như con bò! Sao bấy giờ mụ không bảo với chúng là tao tuổi Sửu, mà dại dột đi nói tao… tuổi Tý!
Không biết quan ông quát nạt như thế chỉ để chọc ghẹo quan bà cho vui thôi, hay là đang nói thật lòng - vì đang túng thiếu quá mà bỗng thấy ‘chuột vàng’ trở thành cứu tinh của mình trong lúc cùng quẫn này?
CHUỘT VÀ THÁNH MARTIN DE PORRES
Con chuột thường là nỗi sợ hãi của con người vì nó xấu xí, hôi hám, bẩn thỉu, phá hoại mùa màng và đồ đạc, gây ra bệnh truyền nhiễm, tạo ra những đại họa như nạn dịch hạch nhiều lần giết chết bao nhiêu con người.
Tuy nhiên nó cũng có ích, được các nhà khoa học sử dụng trong các phòng thí nghiệm, và được một số vị thánh cưng chiều vì nó cũng là tạo vật của Chúa.
Các sách viết về Thánh Martin de Porres - người da đen, gốc châu Mỹ La Tinh - có thuật lại rằng: Thánh nhân là một thầy tu được giao nhiệm vụ coi bếp cho nhà dòng. Các chú chuột thấy thầy hiền lành, mỗi tối kéo tới cả sư đoàn để được thầy cho ăn, nhảy múa và ca hát chít chít với chúng.
Khi biết chuyện này, cha bề trên đã ra lệnh cho thầy Martin phải lập tức di tản đoàn chuột ra khỏi nhà dòng trong thời gian ngắn nhất. Thầy chờ đến nửa đêm, họp đại hội đồng chuột, báo cáo tình hình khẩn trương, ra lệnh di tản và khuyên anh em không được phá phách một tí gì trên đường rút lui khỏi nhà dòng.
Thế là sau giờ Tý canh ba, thầy Martin đi trước dẫn đầu, sư đoàn chuột hàng ngũ chỉnh tề theo sau, vừa hát vừa nhảy múa, vui vẻ kéo nhau ra cánh đồng, trước sự chứng kiến đầy kinh ngạc của cha bề trên và các tu sĩ khác.
HÌNH TƯỢNG LOÀI CHUỘT
Ai cũng biết tính cách chính xác của loài chuột là xấu xí, hôi hám và nhỏ nhoi, được mô tả cách sống động trong văn chương bình dân, ví dụ trong những câu ca dao, tục ngữ:
Chuột chù chê Khỉ rằng hôi,
Khỉ lại trả lời: cả họ mày thơm?
Đi cùng bốn bể chỉn chu
Trở về xó bếp, chuột chù gặm chân.
Nhăn nhó như chuột. Lù rù như chuột chù phải khói. Mặt như chuột kẹp. Cháy nhà ra mặt chuột. Đầu voi đuôi chuột. Nhí nhắt như chuột ngày. Mắt dơi, tai chuột.
Hoặc truyện “Rùa và Chuột” trong quyển Quốc Văn Giáo Khoa Thư:
Con chuột chạy nhung nhăng khắp nhà, gặp con rùa đang lịch kịch kéo cái mai, ra bộ nặng nề lắm. Chuột liền đến bên cạnh, quật đuôi, nhếch miệng, than thở hộ cho con rùa rằng:
- Mày ở trong cái mai ấy khác gì ở trong ngục tối, thế mà mày chịu được! Tao đây, cả một tòa lâu đài trang hoàng rực rỡ, trên dưới, trong ngoài, tao chơi đâu cũng được.
Rùa nghe nói đáp rằng:
- Nơi tôi trú thân chật chội thật, nhưng đúng là nhà của tôi. Bác ở trong nhà cao rộng thật, nhưng là nhà của người khác. Nhà của mình, mình ở, dầu bé nhỏ cũng hơn lâu đài của người khác.
Đề cập khá nhiều về tính cách xấu xí của loài chuột, nhưng ông bà ta xưa cũng có lúc rất thâm thúy khi biến loài chuột nhỏ nhoi thành một hình tượng tốt đẹp, được đưa ra để dạy đời trong truyện ngụ ngôn “Hổ và Chuột”:
Một hôm, con chuột nhắt chạy qua gần con hổ. Hổ thò chân ra chộp được. Chuột năn nỉ: “Trăm lạy ông, thân con bé bỏng, ông tha cho làm phúc.”
Hổ bảo rằng: “Ừ mày bé thế này, tao chẳng thèm ăn thịt. Thôi tha cho.”
Chuột sung sướng thỏ thẻ: “Cảm ơn ông, cái ơn tái tạo ấy, con không dám quên. Chắc ông ở hiền rồi sẽ gặp lành!”
Được ít lâu, hổ bị mắc vào lưới. Hổ gầm thét, vùng vẫy hết sức cũng không thoát ra được, đành nằm ép một bề để chờ chết. May sao, chuột nhắt đi qua đấy, trông thấy, chạy về gọi cả nhà chuột ra cắn một lát đứt mặt lưới, hổ mới thoát ra được.
Ngoài ra, còn có những ca dao, tục ngữ mô tả những điều thú vị về loài chuột, hoặc dùng hình tượng chuột để diễn tả những điều lãng mạn, những tình huống đặc biệt của con người, hay những điều cần cảnh giác:
Cần chi cá Lóc, cà Trê,
Thịt Chuột, thịt Rắn nhậu mê hơn nhiều.
Chuột kêu chút chít trong rương,
Anh đi cho khéo, đụng giường mẹ hay.
Chuột chạy cùng sào. Chuột đi vỏ trứng. Chuột sa hũ nếp. Chuột sa chĩnh gạo. Chuột sa lọ mỡ. Ném chuột vỡ bình. Chuột gặm chân Mèo.
Từ những hình ảnh phong phú ấy về Xuân Canh Tý và loài chuột nhỏ bé, chúng ta cùng nhìn về Mục vụ Giới Trẻ đã được Hội đồng Giám mục đề ra cho những năm Canh Tý sắp tới.
MỤC VỤ GIỚI TRẺ
Giáo hội Việt Nam đã đề ra hướng đi mục vụ giới trẻ cho ba năm 2020 - 2022 với những điểm nhấn theo tinh thần Á Đông “tu thân, tề gia, trị quốc”:
- Tu thân: đồng hành với người trẻ hướng tới sự trưởng thành toàn diện;
- Tề gia: đồng hành với người trẻ trong đời sống gia đình;
- Trị quốc: đồng hành với người trẻ trong đời sống Giáo hội và xã hội. [xem: ĐGM Luy Nguyễn Anh Tuấn: Gợi ý mục vụ năm 2020 – Bài 01: “Các con là hiện tại của Thiên Chúa”]
Như vậy, hướng mục vụ của năm Canh Tý 2020 mang nét tu thân: đồng hành với người trẻ để giúp họ hướng tới sự trưởng thành toàn diện cả xác và hồn.
Về việc giúp cho giới trẻ tu thân, phát triển và trưởng thành, Thượng Hội Đồng Giám mục Thế giới 2018 nhấn mạnh: Tâm hồn của mỗi người trẻ phải được xem là “đất thánh”, nơi mang các hạt giống của sự sống thần linh; do đó, chúng ta cần phải “cởi giày ra” để trân trọng đến gần và đi sâu vào mầu nhiệm” (CV 67).
Nơi người trẻ có thể có nhiều va vấp, thất bại, có những ký ức buồn bã hằn sâu trong tâm hồn, có cả những thương tích tinh thần, tức là sức nặng của những lỗi lầm đã phạm, của mặc cảm tội lỗi sau khi phạm sai lầm. Nhưng giữa những thập giá người trẻ đang vác lấy này, có Đức Giêsu đang sống ở đó và tặng cho họ tình bạn, niềm an ủi và sự đồng hành có sức chữa lành.
Vì thế, Giáo hội phải là khí cụ của Đức Giêsu trên con đường hiệp hành này, con đường dẫn đến phục hồi nội tâm và bình an cho tâm hồn.
Trước những người trẻ có vấn đề, Giáo hội và các bậc phụ huynh cần phải “tìm ra những ngọn lửa còn cháy leo lét, tìm thấy con đường nơi những bức tường ngăn lối, nhận ra tiềm lực nơi những hiểm họa…” Về điều này, ta đã có thể tìm thấy được những minh họa khi bàn về hình ảnh ‘Canh Tý’ của mùa Xuân mới 2020, với hình tượng chú chuột mang nhiều tính cách nhỏ nhoi thấp bé, nhưng đã tạo ra nhiều niềm vui trong “Tom và Jerry”, “Đám cưới chuột”, “Hổ và Chuột”, nhiều nét hào hùng của những năm Tý đại thắng của dân tộc, với các chiến công lẫy lừng của Hai Bà Trưng, Lý Bôn, Trần Hưng Đạo… là những thần tượng rất đẹp của người trẻ Việt Nam.
Và để trao đổi với người trẻ, Giáo hội không nên đưa ra những câu trả lời có sẵn, nhưng khơi gợi để người trẻ tự đặt ra những câu hỏi mới mẻ, đặc biệt khi bàn về ba đề tài lớn mà hầu hết các người trẻ hằng quan tâm: thế giới kỹ thuật số, di dân, và mọi hình thức lạm dụng người trẻ.
- Thế giới kỹ thuật số là đặc trưng của thế giới hôm nay, một thế giới đang được “số hóa toàn diện”. Tại nhiều quốc gia, internet và các mạng xã hội là nơi không thể thiếu để tiếp cận giới trẻ và mời gọi họ tham gia. Nhưng thế giới kỹ thuật số cũng là một không gian đầy cô đơn, thao túng, khai thác và bạo lực, mà cực điểm là các trang web đen. Để tránh những tai hại khi đưa bất cứ điều gì lên mạng xã hội, cần phải luôn tự hỏi: điều này có đúng, có ích lợi và có thích hợp để đăng lên hay không?
- Hiện tượng di dân đang ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực trên rất nhiều người trẻ. Các cuộc di dân có thể diễn ra trong cùng một quốc gia hay giữa các quốc gia khác nhau, nhắc chúng ta nhớ lại thân phận “ngoại kiều và lữ khách trên mặt đất” của tất cả mọi người (Dt 11,13) (CV 91). Di dân luôn cần phải được hỗ trợ từ nơi đi và nơi đến.
- Chấm dứt mọi hình thức lạm dụng phải là nỗ lực của mọi người. Tai họa lạm dụng trẻ vị thành niên là một hiện tượng phổ biến trong tất cả các nền văn hóa và xã hội, đặc biệt là ngay trong các gia đình và trong nhiều tổ chức. “Hiện tượng này nhan nhản trong xã hội, nhưng khi xảy ra trong Giáo hội, nó càng lộ ra tính quái gở, và trong cơn giận dữ chính đáng của mọi người, Hội Thánh nhìn thấy sự phản chiếu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, Đấng bị phản bội và xúc phạm” (CV 96). Có nhiều loại lạm dụng khác nhau: lạm dụng quyền lực, lạm dụng kinh tế, lạm dụng lương tâm, lạm dụng tình dục. Hội Thánh thấy cần phải xóa sạch những hình thức thực thi quyền bính tạo điều kiện cho sự lạm dụng, và phải chống lại tinh thần thiếu trách nhiệm và thiếu minh bạch vốn đã dẫn đến nhiều trường hợp lạm dụng như chủ nghĩa giáo sĩ trị.
NGƯỜI TRẺ & MÙA XUÂN
Giáo hội đồng hành cùng giới trẻ với xác tín của Đức Thánh Cha Phanxicô: Người trẻ không chỉ là tương lai của thế giới. Họ đã là hiện tại của thế giới, đã bắt đầu đảm nhận những trách nhiệm, cùng với người lớn tham gia vào việc phát triển gia đình, xã hội và Giáo hội. Họ chính là mùa Xuân của nhân loại.
Tác giả: Vi Hữu
Trích sách: Nhịp Sống Tin Mừng - Mừng Xuân Canh Tý
Nguồn: tgpsaigon.net
- Viết bởi Phạm Cao Dương
Do sự xuất hiện của Việt Minh, đúng hơn, Đảng Cộng Sản Việt Nam, do đảng này cướp chính quyền ngày 19/8/1945, do sự phức tạp của thời thế và sự nóng nảy muốn giành độc lập nhất thời của một số người Việt, lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đã không những không biến chuyển như mọi người mong muốn mà còn đầy rẫy những ngộ nhận, từ đó những oan khuất cần phải được giải toả và làm sáng tỏ. Đây là một việc làm vô cùng khó khăn mà một vài cá nhân khó có thể làm nổi. Tuy nhiên, tuy gọi là khó nhưng những người quan tâm và hiểu biết ít nhiều vẫn phải làm để sau này sẽ có người tiếp tục và điều chỉnh. Vì là một khoa học, sử học luôn luôn tiến bộ. Những gì gọi là đúng ngày hôm nay có thể sẽ cần phải được ít ra là điều chỉnh và bổ khuyết ngày mai, để phơi bầy sự thực lịch sử, không có gì gọi là chân lý vĩnh cửu trong môn học này. Người học sử không thể chủ quan nhất định cho rằng điều mình nói, viết ra hay được học mãi mãi là đúng, là chân lý bất di bất dịch.
Trong bài này cũng như một số bài trước, người viết xin gửi tới các bạn đọc, đặc biệt là các nhà tranh đấu cho một nước Việt Nam Tự Do và Dân Chủ, một vài nhận định về những gì Hoàng Đế Bảo Đại và vị Thủ Tướng đầu tiên của nước Việt Nam độc lập là Nhà Giáo kiêm Học Giả Trần Trọng Kim cùng với các bộ trưởng của ông, đã làm, trong một thời gian ngắn ngủi hơn ba tháng của năm 1945, từ ngày 8 tháng 5 đến ngày 6 tháng 8 năm 1945, để xây dựng một chính thể dân chủ lâu dài cho đất nước và ban hành các quyền tự do cho người dân từ cách nay trên 70 năm bằng những đạo luật phải nói là rất tiến bộ. Đây là một việc làm mà ba phần tư thế kỷ sau, với ít nhất ba thế hệ đã qua đi một cách uổng phí, với hàng triệu sinh mạng đã bị hy sinh cùng với máu và nước mắt của người dân lành vô tội, người ta vẫn chưa muốn làm hay chưa làm được.
BỐN BƯỚC TIẾN NGOẠN MỤC
Bốn bước tiến đã được Vua Bảo Đại thực hiện trong thời gian này gồm có:
Thứ nhất: Ban hành dụ “Dân vi Quý”
Thứ hai: Đích thân tham khảo ý kiến của các quan lại, các thân hào, nhân sĩ có uy tín để thành lập một chính phủ mới
Thứ ba: Thành lập các hội đồng chuyên môn để mọi người có thể tham gia việc soạn thảo hiến pháp và các sinh hoạt quan trọng của quốc gia
Thứ tư: Ban hành các đạo dụ liên quan đến các quyền tự do cơ bản của người dân
Sau đây là những chi tiết liên hệ tới bốn bước tiến kể trên:
Khẩu hiệu “Dân Vi Quý” của Hoàng Đế Bảo Đại
Đây là khẩu hiệu của vị vua cuối cùng của Nhà Nguyễn mà ai đã từng học sử Việt Nam đều biết và cũng là bước tiến đầu tiên của vị hoàng đế này trên đường thực hiện chế độ dân chủ của ông. Khẩu hiệu này được trích dẫn từ sách Mạnh Tử, một trong Tứ Thư của các Nhà Nho ta thời xưa , nguyên văn là “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” có nghĩa là “Dân là quý, sau đó là xã tắc, vua là nhẹ”, được nhà vua chính thức đưa ra trong Dụ Số 1, mở đầu cho một giai đoạn mới trong triều đại của ông. Dụ này được ban hành ngày 17 tháng 3 dương lịch năm 1945, nguyên văn như sau:
Dương Lịch ngày 17 tháng 3 năm 1945
Nước Nhật muốn hoàn toàn thực hiện chương trình xây nền thịnh vượng chung ở Đại-Đông-Á đã giải phóng cho nước Nam ta, và Trẫm tuyên bố Việt Nam độc lập rồi.
Nay Trẫm có trách nhiệm đối với lịch sử và thần dân, nên tự cầm lấy quyền để bảo vệ lấy quyền lợi cho Tổ-quốc và giáng dụ rằng
1) Chế độ chính trị từ nay căn cứ vào khẩu hiệu “DÂN VI QUÍ’
2) Trong chính giới sẽ chiêu tập các nhân tài đích đáng để chỉnh đốn lại nền tảng Quốc gia cho xứng đáng là một nước độc lập chân chính có thể hợp tác với Đại-Nhật-Bản trong công cuộc kiến thiết Đại-Đông-Á.
3) Trẫm sẽ tài định và tuyên bố các cơ quan chính trị để ban hành những phương pháp hợp với nguyện vọng của Quốc dân.
Nhận định về đạo dụ này, Nguyễn Tường Phượng trong bài “Một Đạo Dụ, Một Chế Độ” đăng trên Tri Tân Tạp Chí số ra ngày 20 tháng 4 năm 1945, trên trang đầu, đã viết như sau:
“Ba điều ban bố trên đáng ghi vào lịch sử xứ này, thật là trên thuận lòng giời, dưới đẹp lòng dân, quốc dân rất trông mong ở sự thi hành triệt để khác nào như đói mong ăn và khát mong uống vậy.
“Nếu một khi nhà nước dùng được người tài, đức vẹn hai ra gánh vác, đảm đương những trọng trách, lại thêm vào đấy cái chính sách thân dân, thể tất đến dân nguyện thời nền tảng quốc gia xứ này có thể phục hưng.
“Được như vậy, đạo dụ ngày 17 tháng ba đáng ghi vào trang đầu lịch sử của nước Việt-Nam độc lập.”
Còn Luật Sư Bùi Tường Chiểu, trong bài “Đạo Dụ Số 1 Của Đức Bảo Đại Hoàng Đế” đăng trên Thanh Nghị, số 107, “Số Đặc-San Chính Trị”, ra ngày 5 tháng Năm 1945, cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của đạo dụ này. Ngay những dòng mở đầu ông viết:
“Đạo dụ trên đối với chế độ chính trị nước ta sau này có một tính cách quan trọng đặc biệt mà ta có thể nói rằng đạo dụ này đã nêu lên một cách tóm tắt những quả quyết rõ ràng những nguyên tắc kiến thiết chính thể nước Việt-Nam sau này.”
rồi nhấn mạnh hơn đến ba chữ Dân Vi Quý, ông phân tích:
“Nay đạo Dụ số 1 đã nêu lên khẩu hiệu Dân vi quí có nghĩa là đức Bảo-Đại đã hủy bỏ cái lý thuyết cũ mà đến nay hầu hết các nước văn minh đã cho là không hợp thời. Đã lấy dân làm trọng, đã lấy quyền lợi dân để trên tất cả thì vua tất chỉ là một cơ quan tối cao trong nước điều khiển những cơ quan chính trị khác để phụng vụ quốc gia, tìm những phương pháp hợp với nguyện vọng của cả quốc dân mà thi hành. Như thế là trong nền chính trị đức Bảo-Đại Hoàng-Đế đã định đặt quốc dân ta đi vào một con đường mới.”
Cuối cùng đi xa hơn nữa, vị luật gia này còn nói tới hiến pháp. Ông viết:
“Xong chúng ta có thể căn cứ vào điều thứ 3 của bản Dụ mà nói rằng đức Bảo-Đại sẽ tuyên bố các cơ quan chính trị mới mà trong câu cơ quan ấy sẽ có một cơ quan có quyền lập pháp. Muốn tổ chức một cách phân minh các cơ quan hành chính, lập pháp và tư pháp, tất nhiên phải có một đạo hiến-luật để ấn định rõ ràng những quyền hành của các cơ quan chính trị.”
Đúng như vậy, Hoàng Đế Bảo Đại sau đó đã từng bước tiến hành những biện pháp mang tính cách dân chủ để xây dựng một thể chế mới với sự đóng góp của nhiều người thay vì của một thiểu số quan lại trong triều. Sau đây là những nét chính của những nỗ lực này.
Đích thân tham khảo ý kiến của các quan lại, các thân hào, nhân sĩ có uy tín để thành lập một chính phủ mới
CHÍNH PHỦ MỚI
Nhằm thành lập một chính phủ mới, ngay từ chiều ngày 19 tức mười ngày sau khi Nhật đảo chánh Pháp và tám ngày sau khi tuyên bố Việt Nam độc lập, Bảo Đại đã họp với Phạm Khắc Hoè, lúc này là người thân cận duy nhất bên cạnh nhà vua, để “bàn việc chiêu tập nhân tài một cách cụ thể.” Phạm Khắc Hoè, sau khi đã trao đổi ý kiến với Tôn Quang Phiệt, Tạ Quang Bửu, Bùi Bằng Đoàn và Ưng Úy, đã đề nghị lên nhà vua một danh sách 14 nhân vật sau đây:
- Nhà cách mạng lão thành Huỳnh Thúc Kháng (Huế)
- Giáo Sư Tôn Quang Phiệt (Huế)
- Bác Sĩ Trần Đình Nam (Đà Nẵng)
- Giáo Sư Lê Ấm (Qui Nhơn)
- Bác Sĩ Hồ Tá Khanh (Phan Thiết)
- Kỹ Sư Cầu Cống Lưu Văn Lang (Saigon)
- Luật Sư Vương Quang Nhường (Saigon)
- Ô. Ngô Đình Diệm, nguyên Thượng Thư Bộ Lại (Saigon)
- Giáo Sư Thạc sĩ Toán Học Hoàng Xuân Hãn (Hà Nội)
- Luật Sư Vũ Văn Hiền (Hà Nội)
- Luật Sư Phan Anh (Hà Nội)
- Ô. Trịnh Văn Bính, tốt nghiệp Cao Học Thương Mại Pháp (Hà Nội)
- Ô. Hoàng Trọng Phu, nguyên Tổng Đốc Hà Đông
- Ô. Trần Văn Thông, nguyên Tổng đốc Nam Định
Sau gần một giờ bàn thảo, 8 người đã được Bảo Đại lựa chọn. Tám người này gồm có:
- Trần Đình Nam (bác sĩ)
- Hồ Tá Khanh (bác sĩ)
- Lưu Văn Lang (kỹ sư)
- Hoàng Trọng Phu (nguyên tổng đốc Hà Đông)
- Trần Văn Thông (nguyên tổng đốc Nam Định)
- Hoàng Xuân Hãn (giáo sư thạc sĩ toán Học)
- Phan Anh (luật sư)
- Vũ Văn Hiền (luật sư) hay Trịnh Văn Bính (tốt nghiệp Cao Học Thương Mại Pháp) tùy theo Hoàng Xuân Hãn lựa chọn vì Bảo Đại chỉ quen Hoàng Xuân Hãn trong số những người ở Pháp về.
Điều cần để ý ở đâylà tất cả các vị này đều là những cựu quan lại hay những trí thức hay chuyên viên nổi tiếng đương thời và có gốc từ cả ba miền Nam, Trung, Bắc, thay vì chỉ có hai miền Trung và Bắc theo đúng như thẩm quyền của nhà vua ở thời điểm này vì xứ Nam Kỳ chưa được người Nhật trao trả. Các nhà hoạt động chính trị, kể cả những người được coi là thân Nhật đều không có tên trong danh sách này. Sự kiện này cho phép người ta nghĩ rằng quyết định và sự lựa chọn các nhân vật để tham khảo ý kiến kể trên của Vua Bảo Đại và phía người Việt là hoàn toàn do nhà vua quyết định, không có sự can thiệp của người Nhật vì chỉ có hai người hiện diện là chính nhà vua và Phạm Khắc Hoè. Không những thế, tinh thần và ý chí thống nhất ba miền đã luôn luôn được nhà vua tôn trọng. Ngoài ra ta cũng nên để ý tới nhận xét của Luật Sư Bùi Tường Chiểu về ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc tham khảo ý kiến này khi ông viết trong bài tham luận kể trên.
Cũng nên để ý thêm là những cuộc tiếp xúc kể trên chỉ là những cuộc tiếp xúc với những nhân vật tên tuổi, có chức vị đương thời. Ngoài những người này, Bảo Đại, cũng qua Phạm Khắc Hoè, còn mời gặp thêm nhiều nhân vật khác nữa trong đó có Tôn Quang Phiệt, Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Hoàng Sử, Nguyễn Lân…Tất cả, theo hồi ký của Trần Thị Như Mân (Bà Đào Duy Anh), đều đã “có vào”và Tôn Quang Phiệt có được cử “nói lên lời chúc mừng nước nhà độc lập và hứa nếu cần gì thì chúng tôi sẽ giúp không công cho nhà vua”. Phạm Khắc Hoè không nói tới chuyện có vào này. Nói là giúp không công cho nhà vua như vậy nhưng sau này trong hồi ký của mình, Tôn Quang Phiệt lại ghi thêm là “Cũng nói thế thôi, chứ trong bụng thì đã có kế hoạch.” Tuy nhiên dù thế nào đi chăng nữa đây cũng là một bằng chứng cụ thể của thiện chí dân chủ hoá đất nước của Hoàng Đế Bảo Đại.
Cuối cùng thì Học Giả Trần Trọng Kim đã được lựa chọn để lập chính phủ mới và ngày 8 tháng 5 năm 1945, chính phủ này đã được chính thức trình diện.
BƯỚC TIẾN THỨ BA
Đặt nền tảng cho việc xây dựng chế độ mới và sửa soạn cho những công trình tái dựng đất nước lâu dài (sửa lại chính thể và toàn bộ guồng máy chính quyền)
Đây là bước tiến quan trọng thứ ba trong tiến trình xây dựng chế độ dân chủ bằng cách tạo dịp cho người dân mà đại diện là các nhân sĩ, trí thức và chuyên viên các ngành được tham gia việc nước, đồng thời thực hiện khẩu hiệu Dân Vi Quý của Hoàng Đế Bảo Đại. Với bước tiến thứ ba này, vào khoảng từ trung tuần tháng sáu đến thượng tuần tháng bảy, vừa nhằm chiêu dụ nhân tài, vừa nhằm tạo cơ hội cho người dân được góp phần vào việc đặt nền tảng và thiết lập các cơ chế căn bản cho mọi phạm vi sinh hoạt lâu dài của đất nước, bốn hội đồng đã được thành lập qua ba đạo dụ và một đạo sắc với đầy đủ nhân sự để ngay lập tức có thể thực thi. Bốn hội đồng này gồm có:
Hội Đồng Dự Thảo Hiến Pháp, do Phan Anh, Luật Sư, Bộ Trưởng Bộ Thanh Niên, người từ lâu đã nghiên cứu về hiến pháp và các thể chế đương thời làm Thuyết Trình Viên gồm có các ông Phan Anh, Hoàng Đạo tức Nguyễn Tường Long, Vũ Đình Hoè, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Tá Khanh, Nguyễn Huy Lai, Đặng Thái Mai, Vương Quang Nhường, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Văn Sâm, Nhượng Tống, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Văn Thinh và Nguyễn Trác (Dụ số 60 ngày 7 tháng 7 năm 1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 7 tháng 7 năm 1945).
Hội Đồng Cải Cách Cai Trị, Tư Pháp và Hành Chính, do Vũ Văn Hiền, Luật Sư, Bộ Trưởng Bộ Tài Chánh, tác giả của nhiều bài nghiên cứu liên hệ, làm Thuyết Trình Viên, gồm có các ông Vũ Văn Hiền, Trần Văn Ân, Trần Văn Chương, Phạm Khắc Hoè, Lê Quang Hộ, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Khoát, Trần Văn Lý, Trần Đình Nam, Nguyễn Khắc Niêm, Đặng Như Nhơn, Dương Tấn Tài, Nguyễn Hữu Tảo, Trịnh Đình Thảo và Phan Kế Toại (Dụ số 70 ngày 30 tháng 6 năm 1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 9 tháng 7 năm 1945).
Hội Đồng Cải Cách Giáo Dục, do Hoàng Xuân Hãn, Giáo Sư, Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục và Mỹ Nghệ làm Thuyết Trình Viên, gồm có Bà Hoàng Thị Nga, các ông Hoàng Xuân Hãn, Tạ Quang Bửu, Kha Vạng Cân, Nguyễn Văn Chi, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Thành Giung, Ngụy Như Kontum, Bùi Kỷ, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Quang Oánh, Ưng Quả, Nguyễn Mạnh Tường, Hồ Đắc Thắng, Nguyễn Văn Thích, Hoàng Đạo Thúy và Nguyễn Xiển (Dụ số 71 ngày 30 tháng 6 năm 1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 10 tháng 7 năm 1945).
Hội Đồng Thanh Niên. Hội Đồng này gồm có
Chủ Tịch: Hoàng Đạo Thúy, Huynh Trưởng Hướng Đạo
Phó Chủ Tịch: Trần Duy Hưng, Bắc Chi Bộ
Phó Chủ Tịch: Tạ Quang Bửu, Nam Chi Bộ
Cố Vấn Bắc Chi Bộ: Bà Nguyễn Thị Thục Viên, các ông Nguyễn Xiển, Phạm Thành Vinh, Vũ Văn Cẩn,Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Xuân Phương, Trần Văn Quý, Phan Huy Quát, Ngụy Như Kon-tum, Phạm Ngọc Khuê, Nguyễn Tường Bách.
Cố Vấn Nam Chi Bộ: Bà Nguyễn Đình Chi, các ông Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ, Tôn Quang Phiệt, Kha Vạng Cân, Nguyễn Tư Vinh, Huỳnh Văn Tiểng, Nguyễn Văn Thích, Nguyễn Kinh Chi và Thái Can (Sắc số 65 ngày 15 tháng 6 năm 1945)
Khi đọc danh sách các hội viên được đề nghị tham gia các hội đồng kể trên để trình lên Hoàng Đế Bảo Đại phê duyệt, Phạm Khắc Hoè tỏ ý thắc mắc là có tên những người ông “chưa từng thấy bao giờ” nên đã hỏi Trần Trọng Kim và được Trần Trọng Kim cho biết là các danh sách này “đã được toàn thể Nội các và nhất là các ông bộ trưởng thuyết trình viên đồng ý cả rồi, tuy chưa hỏi được ý kiến của tất cả những người hữu quan, song chắc họ vui lòng nhận cả, vì lúc này ai mà chẳng sẵn sàng ra thờ vua giúp nước” và nói thêm “Vậy ông chịu khó xin Hoàng Đế phê chuẩn đi cho kịp thời, đừng nên hỏi đi hỏi lại nữa.” Kết quả, theo lời Phạm Khắc Hoè, là “chỉ mấy phút sau, bốn dự thảo của nội các trở thành ba đạo dụ và một đạo sắc chính thức.” Những lời đối thoại này cho ta thấy khả năng, tính cách hữu hiệu và làm việc chạy theo thời gian của Trần Trọng Kim và nội các của ông dù đó mới chỉ là ban hành được những đạo dụ hay đạo sắc, những văn kiện có giá trị như những đạo luật được quốc hội thông qua trong một nước dân chủ hiện đại, để làm nền tảng pháp lý cho những bước kế tiếp trong tương lai. Nó cũng nói lên tính cách hữu hìệu của chế độ quân chủ chuyên chế và sự tin tưởng của Hoàng Đế Bảo Đại vào vị thủ tướng và nội các đương thời, vì bình thường những quyết định liên hệ đến thể chế và những cơ chế tương lai trong một quốc gia dân chủ không thể nào có thể thực hiện được trong vòng trên dưới hai tháng tính từ ngày Nội Các Trần Trọng Kim họp phiên họp đầu tiên, ngày 8 tháng 5, đến ngày 10 tháng 7, ngày đạo dụ cuối cùng trong bốn đạo sắc dụ này được đệ trình, rồi được vị nguyên thủ quốc gia phê chuẩn trong có “mấy phút sau”. Một thời gian kỷ lục mà một quốc gia dân chủ hiện đại khó có thể làm nổi. Cũng nên để ý là các vị bộ trưởng được Trần Trọng Kim nói đến ở đây là Bộ Trưởng Thanh Niên Phan Anh, Bộ Trưởng Tài Chánh Vũ Văn Hiền và Bộ Trưởng Giáo Dục và Mỹ Thuật Hoàng Xuân Hãn. Cả ba, ngoài bằng cấp chuyên môn, đều là những chuyên viên hàng đầu của Việt Nam về các vấn đề liên hệ thời đó. Họ là những người từ lâu đã tìm hiểu, nghiên cứu và viết những những bài tham khảo bàn về những lãnh vực riêng của mình và là những cây bút nòng cốt của tờ Thanh Nghị, một thứ “think tank” của chính phủ đương thời. Đây cũng là dịp để các vị này thi thố tài năng và thực thi hoài bão mà từ lâu họ đã từng thai nghén và mọi người mong đợi. Cũng nên nhớ là thành ngữ “thờ vua giúp nước” cho đến thời điểm này vẫn chưa trở thành lạc hậu. Điều nên để ý là trái với nhận định của một vài tác giả, tất cả những nỗ lực kể trên, người viết xin được nhấn mạnh, đều là những thành tích cụ thể của Hoàng Đế Bảo Đại và Nội Các Trần Trọng Kim nhằm thiết lập những cơ chế mới với nhân sự để chỉ còn thực thi là đầy đủ.
BƯỚC TIẾN THỨ BỐN
“Tuần lễ của các Tự Do”
Bước tiến thứ tư là ban hành một số những đạo dụ ấn định những nguyên tắc liên hệ đến các quyền tự do căn bản của người dân. Ba đạo dụ sau đây đã được báo Thanh Nghị số 117, ra ngày 21 tháng Bảy năm 1945 ghi nhận theo thứ tự thời gian gồm có:
1. Dụ số 73, ngày 26 tháng 5 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 5 tháng 7 dương lịch năm 1945 về tự do lập nghiệp đoàn.
2. Dụ số 78, ngày 1 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 9 tháng 7 năm 1945 về tự do lập hội.
3. Dụ số 79, ngày 1 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 9 tháng 7 năm 1945 về tự do hội họp.
Cả ba đạo dụ với nội dung phải nói là rất tiến bộ này đã được ban hành trong một thời gian ngắn là thượng tuần tháng bảy năm 1945 và báo Thanh Nghị đã gọi tuần lễ này là “Tuần của các Tự Do.”
Về chi tiết, báo Thanh Nghị tóm tắt như sau:
Tự do lập hội: Từ nay phàm người công dân Việt Nam ai nấy đều có quyền lập những hội có mục đích chính trị, văn hóa, tôn giáo hay xã hội, ngoài những hội có mục đích kiếm lợi. Chỉ cần mục đích của hội không trái với pháp luật, luân lý hoặc là có hại đến nền duy nhất và sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia. Nhưng cần phải báo trước với nhà chức trách ít nhất là 30 ngày trước khi hoạt động
Muốn phân biệt các hội do đạo Dụ số 78 với các hội có mục đích kiếm lợi phải xét xem các hội viên có chia lãi cho nhau hay không? Nếu chia lãi thì tất phải theo những luật lệ hiện hành về các hội buôn.
Nhiều người hội họp với nhau nhiều lần cũng lại không họp thành một hội vì không có điều lệ để hội viên theo. Cho nên trong tờ khai phải đính theo cả bản điều lệ của hội mình định sáng lập.
Hội có thể tự giải tán (theo điều lệ hay theo ý muốn toàn thể hội viên) hay bị toà án giải tán, nếu mục đích trái với pháp luật, luân lý, hại tới quốc gia, nếu không khai báo cho đúng thể lệ (chưa kể những sự trừng phạt về tội hình những người có trách nhiệm). Tài sản của hội khi đó sẽ phân phát theo điều lệ của hội, theo quyết định của đại hội đồng của hội hay theo lệnh của toà.
Có hai thứ hội: hội thường và hội được Hội Đồng Nội Các công nhận là một hội có ích lợi chung. Hội thường có quyền tố tụng, thu nhập tiền đóng góp của hội viên, có quyền mua, quyền sở hữu và quản lý nhà hội quán, quản trị những bất động sản mà bộ Nội Vụ và Tài Chính cho phép mua. Còn hội được chính quyền công nhận là có ích lợi chung thì ngoài những quyền này còn có quyền được nhận những tặng dữ.
Tự do hội họp: Người dân được quyền tự do hội họp nhưng Dụ số 72 phân biệt hai thứ hội họp là hội họp trong tư gia có tính cách gia đình hay lễ nghi và các hội họp ở những nơi công cộng.
Đối với các hội họp trong gia đình hay lễ nghi hay những hội họp của các hội tư nhóm họp trong tư gia với số người tham dự không quá 30 người, người triệu tập không cần phải khai báo. Các cuộc hội họp khác cũng được tự do nhưng phải khai báo với nhà chức trách. Tất cả các cuộc hội họp ở các nơi công cộng như họp ở ngoài đượng phố, trong các công viên hay các thị xã đều phải xin phép trước. Giờ họp không được quá 12 giờ đêm trừ khi có phép riêng. Ngoài ra một nhân viên hành chánh hay tư pháp cũng có quyền tới dự.
N: Việc lập nghiệp đoàn cũng được coi như quyền tự do của nguời dân với những quy luật được ấn định trong Dụ số 73, theo đó, để tránh không cho những hội kiếm lợi giả danh làm nghiệp đoàn với mục tiêu trốn thuế, các nghiệp đoàn bị cấm không được chia lời cho các đoàn viên và khi giải tán thì của cải không được đem chia cho các đoàn viên. Đồng thời để bảo vệ những người trong nghề, dụ này cấm không cho nghiệp đoàn cưỡng ép những người này phải gia nhập hay bắt đoàn viên phải ở lại trong nghiệp đoàn vĩnh viễn nhưng ngược lại cho phép nghiệp đoàn được từ chối không nhận một người làm đoàn viên theo điều lệ của mình. Mặt khác, nghiệp đoàn có tư cách pháp nhân trong việc bảo vệ các quyền lợi của mình, có quyền sở hữu các động sản hay bất động sản nếu xin phép, có quyền liên kết với nhau để thành lập các liên đoàn và về phía chính quyền, chính quyền có quyền cử nguời kiểm soát việc quản lý tài chánh của nghiệp đoàn hay liên đoàn. Cuối cùng vì nghiệp đoàn là một tổ chức có thể dùng để tranh đấu nên người sáng lập bắt buộc phải có quốc tịch Việt Nam và phải ở trong nghề ít nhất một năm.
Vì ba đạo luật kể trên đã được ban hành trong thượng tuần tháng 7 năm 1945 nên tác giả của bài báo gợi ý gọi tuần lễ này là “Tuần Lễ Của Các Tự Do”. Mặt khác nếu người ta theo dõi những cuộc hội họp của người dân ở cả hai miền Trung và Bắc đã diễn ra liên tiếp từ ngày 10 tháng 3, sau ngày Nhật đảo chánh Pháp, đặc biệt là ở Huế và Hà Nội với hàng vạn người tham dự một cách tự do, thoải mái, thì sự ban hành các đạo dụ này “đã làm hợp pháp một tình trạng riêng của các tỉnh ở Bắc Bộ Việt Nam vì từ sau ngày 9 tháng 3 các hội, các đoàn mọc lên như nấm, các cuộc hội họp công khai tự do vô cùng”.
Kết Luận
Tất cả các công trình lớn lao kể trên đã được đã được Hoàng Đế Bảo Đại, Thủ Tướng Trần Trọng Kim và các vị bộ trưởng trong chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn và trong một thời gian kỷ lục chưa tới ba tháng ngắn ngủi kể từ ngày 8 tháng 5 khi chính phủ này được trình diện đến ngày 6 tháng 8 năm 1945 khi chính phủ này từ chức và được Hoàng Đế Bảo Đại cho phép, ngắn hơn nữa nếu tính đến ngày 9 tháng 7, ngày các Dụ số 78 về Tự Do Lập Hội và số 79 về Tự Do Hội Họp được nhà vua chấp nhận. Đây là một phần của một cuộc cải cách rộng lớn hơn bao trùm mọi phạm vi sinh hoạt đương thời, gọi theo Sử Gia Na Uy Stein Tonnesson là “từ trên xuống”, còn gọi theo Vũ Ngự Chiêu thì đó là một cuộc cách mạng nhưng cũng từ trên xuống: “cách mạng từ trên xuống”. Cả hai sử gia này đều có lý vì tính cách nhanh chóng ít ai có thể ngờ của nó. Câu hỏi được đặt ra ở đây là làm sao nó có thể xảy ra được trong một chế độ quân chủ chuyên chế đã từng tồn tại cả ngàn năm như vậy? Có ba sự kiện người ta có thể nghĩ tới để trả lời câu hỏi này. Đó là ý muốn và sự hiểu biết của người cầm đầu hay đúng hơn vị nguyên thủ quốc gia, ước vọng và khả năng của những người lãnh nhiệm vụ thực hiện cuộc cải cách theo ý muốn của vị nguyên thủ quốc gia ấy và cuối cùng là sự đón nhận của dư luận đương thời. Cả ba sự kiện này, Đế QuốcViệt Nam ở thời điểm đương thời đều có đủ. Từ Vua Bảo Đại đến Thủ Tướng Trần Trọng Kim và các vị bộ trưởng đều là những người được huấn luyện đầy đủ, có kiến thức và nhất là có thực tâm, tha thiết với nền độc lập và sự tiến bộ của nước nhà.
Điều đáng tiếc là biến cố 19 tháng 8 đã xảy ra, Việt Minh Cộng Sản cướp chính quyền và tất cả đều đã bị dẹp bỏ, điển hình là ngày 22 tháng 9 năm 1945, chỉ 20 ngày sau khi tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh “bãi bỏ các nghiệp đoàn trong toàn cõi Việt Nam” và Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Võ Nguyên Giáp ký Nghị Định ngày 14 tháng 9 giải tán Hội Khai Trí Tiến Đức trong khi cùng ngày lại ký một nghị định khác “cấp năng lực pháp luật” cho hội “Văn Hoá Cứu Quốc Việt Nam” (Việt Minh) . Điều này cho ta thấy chế độ mới rất sợ các nghiệp đoàn, các hiệp hội và đặc biệt các cuộc biểu tình hay tụ tập đông người, đồng thời muốn độc quyền hoạt động trong mọi sinh hoạt quốc gia. Cuối cùng thì sau 75 năm, cho đến tận ngày hôm nay khi bài này được viết, bất chấp hai cuộc chiến kéo dài cả ba mươi năm, bất chấp mọi sự hy sinh, gian khổ, máu và nước mắt của hàng triệu người dân, Nhân Quyền, Tự Do và Dân Chủ, từ đó thống nhất dân tộc, vẫn nguyên vẹn chỉ là niềm mơ ước hầu như còn lâu mới đạt được của Quốc Dân Việt Nam. Trong khi đó hình ảnh của một xã hội Việt Nam theo xã hội chủ nghĩa vẫn tuyệt mù tăm tích hay có thì cũng chẳng có gì đáng lạc qua như các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng Sản vẫn từng hứa hẹn, nếu không nói chỉ là bánh vẽ.
Phạm Cao Dương
Ngày Ông Táo lên chầu Trời,
- Viết bởi rfa.org
Người dân Việt Nam gần đây luôn lo lắng trước thông tin tình trạng chất lượng không khí của đất nước, đặc biệt tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, bị ô nhiễm trầm trọng.
Theo báo cáo thường niên The Environmental Performance Index (EPI) của Mỹ thực hiện, Việt Nam hiện đang đứng trong top 10 các nước ô nhiễm không khí ở Châu Á. Đáng lưu ý, tổng lượng bụi ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đang liên tục tăng cao khiến chỉ số chất lượng không khí (AQI) luôn ở mức báo động.
Năm 2016, GreenID công bố báo cáo Sơ lược tình trạng môi trường Hà Nội và TP.HCM:
- Hà Nội: chỉ số AQI trung bình là 121, nồng độ bụi PM2.5 là 50.5 gấp đôi quy chuẩn quốc gia (25 µg/m3) và gấp năm lần khuyến nghị từ WHO (10 µg/m3).
- TP.HCM: chỉ số AQI trung bình là 86, nồng độ bụi PM2.5 là 28.3 cao hơn so với quy chuẩn quốc gia và gấp ba lần khuyến nghị từ WHO.
Nồng độ bụi trung bình trong không khí ở Hà Nội và TP.HCM vượt mức cho phép từ hai đến ba lần và có xu hướng duy trì ở ngưỡng cao.
“Sát thủ giấu mặt”
Một số nhà khoa học đã “vạch mặt chỉ tên” một trong các nguồn chính gây ô nhiễm không khí ở Việt Nam đó là từ các nhà máy nhiệt điện than.
Vậy vì sao nhiệt điện than nguy hiểm như vậy, nhưng chính phủ Việt Nam vẫn cho phép ngành điện tiếp tục phát triển ngành công nghiệp này?
Câu trả lời là nó liên quan đến một Sáng kiến vĩ đại của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình với tên gọi Vành đai Con đường (viết tắt tiếng Anh là BRI).
Dự án BRI do chủ tịch Tập Cận Bình khởi xướng vào năm 2013 nhằm thúc đẩy các mối quan hệ thương mại và đầu tư chặt chẽ với các quốc gia ở Châu Á, Châu Âu, Châu Phi và Châu Mỹ Latinh.
Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra hai cam kết rằng họ sẽ thực hiện các dự án mang tên “Vành đai Con đường” một cách bền vững và tài trợ cho các dự án năng lượng hóa thạch ở Đông Nam Á ngay cả khi các nhà tài chính phương Tây, Nhật Bản và Hàn Quốc ngày càng tránh xa họ bởi những lo ngại mang tính bền vững.
Viện phân tích Tài chính và Kinh tế Năng lượng có trụ sở tại Mỹ cho biết vào tháng 1 năm nay, Trung Quốc tài trợ cho hơn một phần tư các nhà máy năng lượng than với công suất 399 gigawat và chúng đang được phát triển bên ngoài lãnh thổ của Trung Quốc.
Trong tổng số 35,9 tỷ USD mà Trung Quốc đổ vào nhiệt điện than ở các nước, Bangladesh là nước nhận được cam kết tài trợ nhiều nhất với tổng trị giá hơn 7 tỷ USD, tiếp theo là Việt Nam, Nam Phi, Pakistan và Indonesia. Hầu hết tài trợ cho nhiệt điện than bên ngoài Trung Quốc đang được cung cấp bởi các ngân hàng quốc Trung Quốc hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc xây dựng các nhà máy với lực lượng lao động chủ yếu là người Trung Quốc.
Martin David – Trưởng nhóm thực hiện các dự án Châu Á tại công ty luật quốc tế Baker McKenzie khi trả lời phỏng vấn của báo Bưu điện Hoa nam Buổi sáng, cho biết “Khi hai trong số những đơn vị ủng hộ tích cực cho các dự án năng lượng tài trợ ở khu vực Đông Nam Á là các ngân hàng Nhật Bản và Hàn Quốc đã tránh xa việc tài trợ cho dự án than đốt, chúng tôi lại thấy họ được thay thế bởi các tổ chức tài chính Châu Á trong khu vực bao gồm các ngân hàng Malaysia và Trung Quốc.”
Trung Quốc thúc đẩy việc đầu tư xây dựng các nhà máy nhiệt điện tại Việt Nam hay các quốc gia đang phát triển khác nằm trong chiến lược lâu dài của họ. Thứ nhất, việc đầu tư xây dựng các dự án này nhưng luôn kèm theo điều kiện sử dụng các nhà thầu Trung Quốc, nguyên vật liệu từ Trung Quốc và công nhân thi công cũng từ Trung Quốc. Việc này sẽ dẫn tới Trung Quốc sẽ được lợi mọi đường, còn các quốc gia nhận dự án đứng trước nguy cơ trở thành “con nợ” của Trung Quốc, và do đó sẽ “lệ thuộc” mọi mặt vào Trung Quốc.
Bên cạnh việc trở thành một “nạn nhân” của bẫy nợ từ Trung Quốc thì như trong trường hợp Việt Nam, quốc gia này cũng đang trở thành một “bãi rác thải công nghệ” từ Trung Quốc. Trong khi thế giới đang cắt giảm điện than do chi phí cao và ô nhiễm môi trường, chính bản thân Trung Quốc cũng đang cho dừng hàng loạt nhà máy nhiệt điện, thậm chí là cấm cửa nhiệt điện thì trong nước, thì nhiệt điện than đang ngày càng phát triển và được sự cổ vũ của các nhóm lợi ích quan trọng trong nhà nước. Việc Trung Quốc cấm nhiệt điện than trong nước có thể khiến các dây chuyền nhà máy điện than chuyển sang Việt Nam. Việc này không phải là mới, khi trước đây Việt Nam đã phải gánh chịu các thiệt hại bởi các nhà máy đường và nhà máy xi măng có cộng nghệ lạc hậu từ Trung Quốc chuyển sang. Hiện nay, trong số 14 dự án nhà máy nhiệt điện than đang khai thác ở đồng bằng sông Cửu Long thì có tới 10 nhà máy do Trung Quốc đầu tư. Có những dự án nguồn vốn vay Trung Quốc chiếm tới 80% tổng vốn đầu tư.
Lợi bất cập hại
Nghiên cứu mới nhất của Đại học Kinh tế Quốc dân chỉ ra ô nhiễm không khí khiến hàng chục nghìn người Việt Nam tử vong mỗi năm, thiệt hại 240.000 tỷ đồng, chiếm gần 5% GDP cả nước. mỗi năm, Việt Nam có hàng chục nghìn người tử vong do ô nhiễm môi trường, 2/3 trong số đó tử vong do ô nhiễm không khí.
Theo đó, năm 2018, 71.000 người chịu tác động của ô nhiễm môi trường, trong đó 50.000 người tử vong vì ảnh hưởng bởi không khí độc hại. Thiệt hại kinh tế do ô nhiễm không khí ở thời điểm này ước tính 10,82-16,63 tỷ USD, tương đương 240.000 tỷ đồng, chiếm 4,45-5,64% GDP cả nước.
Vào cuối tháng 6 vừa qua tại Kenya, các thẩm phán của Tòa án môi trường quốc gia đã tạm dừng kế hoạch xây dựng một nhà máy nhiệt điện than trị giá 2 tỷ USD của Trung Quốc ở gần thị trấn ven biển Lamu – Di sản thế giới Unesco vì các vấn đề liên quan đến môi trường.
Mới đây, chính quyền tỉnh Long An kiên quyết không chấp nhận các dự án nhiệt điện than, cho dù chính phủ Việt Nam chấp thuận và đã cho phê duyệt quy hoạch phát triển các dự án điện này.
nguồn: rfa.org