Tin Việt Nam
- Viết bởi Dân Chúa
Vào tối ngày 8/11, giờ Việt Nam, Bộ Công An Việt Nam đã chính thức công bố danh sách của 39 người Việt bỏ mạng trên chiếc xe container đông lạnh vào Anh hôm 23/10 vừa qua.
Danh sách này được công bố sau khi Cảnh sát Essex của Anh công khai danh tính của các nạn nhân trên trang web của mình vào cùng ngày.
Trong 39 thanh thiếu niên Việt Nam tử nạn ở Essex vừa được cảnh sát Anh công bố có 8 nữ và 31 nam. Người trẻ nhất là em trai 15 tuổi ở Hải Phòng tên Đinh Đình Bình và người cao niên nhất là ông Lê Trọng Thanh, 44 tuổi ở Diễn Châu, Nghệ An. Về tỉnh, có 21 người Nghệ An, 10 người Hà Tĩnh, 3 người Quảng Bình, 3 người Hải Phòng, 1 người Hải Dương và 1 người Thừa Thiên Huế.
1. Pham Thi Tra My, 26-year-old woman from Ha Tinh
2. Nguyen Dinh Lurong, 20-year-old man from Ha Tinh
3. Nguyen Huy Phong, 35-year-old man from Ha Tinh
4. Vo Nhan Du, 19-year-old man from Ha Tinh
5. Tran Manh Hung, 37-year-old man from Ha Tinh
6. Tran Khanh Tho, 18-year-old man from Ha Tinh
7. Vo Van Linh, 25-year-old man from Ha Tinh
8. Nguyen Van Nhan, 33-year-old man from Ha Tinh
9. Bui Phan Thang, 37-year-old man from Ha Tinh
10. Nguyen Huy Hung, 15-year-old boy from Ha Tinh
11. Tran Thi Tho, 21-year-old woman from Nghe An
12. Bui Thi Nhung, 19-year-old woman from Nghe An
13. Vo Ngoc Nam, 28-year-old man from Nghe An
14. Nguyen Dinh Tu, 26-year-old man from Nghe An
15. Le Van Ha, 30-year-old man from Nghe An
16. Tran Thi Ngoc, 19-year-old woman from Nghe An
17. Nguyen Van Hung, 33-year-old man from Nghe An
18. Hoang Van Tiep, 18-year-old man from Nghe An
19. Cao Tien Dung, 37-year-old man from Nghe An
20. Cao Huy Thanh, 33-year-old man from Nghe An
21. Tran Thi Mai Nhung, 18-year-old woman from Nghe An
22. Nguyen Minh Quang, 20-year-old man from Nghe An
23. Le Trong Thanh, 44-year-old man from Dien Chau, Nghệ An
24. Pham Thi Ngoc Oanh, 28-year-old woman from Nghe An
25. Hoang Van Hoi, 24-year-old man from Nghe An
26. Nguyen Tho Tuan, 25-year-old man from Nghe An
27. Dang Huu Tuyen, 22-year-old man from Nghe An
28. Nguyen Trong Thai, 26-year-old man from Nghe An
29. Nguyen Van Hiep, 24-year-old man from Nghe An
30. Nguyen Thi Van, 35-year-old woman from Nghe An
31. Tran Hai Loc, 35-year-old man from Nghe An
32. Duong Minh Tuan, 27-year-old man from Quang Binh
33. Nguyen Ngoc Ha, 32-year-old man from Quang Binh
34. Nguyen Tien Dung, 33-year-old man from Quang, Binh
35. Phan Thi Thanh, 41-year-old woman from Hai Phong
36. Nguyen Ba Vu Hung, 34-year-old man from Thua Tien Hue
37. Dinh Dinh Thai Quyen, 18-year-old man from Hai Phong
38. Tran Ngoc Hieu, 17-year-old boy from Hai Duong
39. Dinh Dinh Binh, 15-year-old boy from Hai Phong
Trong danh sách được công bố, địa phương có nhiều nạn nhân nhất là Nghệ An với 21 người và Hà Tĩnh với 10 người.
Các địa phương khác cũng có người đi chung chuyến xe là: Quảng Bình – 3 người, Hải Phòng – 2 người, Hải Dương – 2 người và Thừa Thiên Huế – 1 người.
Trong số các nạn nhân, người lớn tuổi nhất là 44 tuổi từ Nghệ An, 2 người nhỏ tuổi nhất là 15 tuổi từ Hải Phòng và Hà Tĩnh. Ngoài ra còn có một nạn nhân mới 17 tuổi từ Hải Dương.
Theo truyền thông trong nước, bên hành lang Quốc hội vào sáng ngày 8/11, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn cho biết các cơ quan chức năng đã công bố chính thức về việc 39 nạn nhân tử vong đều là người Việt nhưng các cơ quan chức năng sẽ không công bố danh tính các nạn nhân. Ông Sơn đưa ra lý do là: “liên quan đến vấn đề nhân đạo nên chúng ta không công bố danh tính các nạn nhân mà chỉ công bố số lượng”.
Đại diện Bộ Ngoại giao cũng cho biết các cơ quan liên quan của Việt Nam và Anh đang bàn để xác định ngày cụ thể đưa xác các nạn nhân về nước.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc của Việt Nam hôm 7/11, sau khi Bộ Công An chính thức xác nhận tất cả 39 nạn nhân là người Việt Nam, đã gửi lời chia buồn đến gia đình các nạn nhân. Trong bức thư chia buồn được đăng tải rộng rãi trên báo chí và các trang mạng, Thủ tướng Việt Nam viết: “Đây không chỉ là nỗi đau thương vô hạn của gia đình người thiệt mạng mà cũng là nỗi đau chung của cả cộng đồng, của từng trái tim người Việt và nhân dân thế giới.”
Đồng thời, người đứng đầu chính phủ Việt Nam cũng lên án hành vi mua bán người, đưa người ra nước ngoài bất hợp pháp.
Người Việt tìm cách vượt biên trái phép vào Anh khá phổ biến trong những năm qua. Công việc họ thường làm khi vào Anh là trồng cần sa hoặc làm móng tay. Gia đình một số nạn nhân vừa qua cho báo chí biết họ đã phải trả đến 30.000 đô la cho đường dây đưa lậu người vào Anh.
Công an Hà Tĩnh và Nghệ An đã khởi tố vụ án tổ chức, môi giới người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép xảy ra trên địa bàn tỉnh. Tính đến lúc này, công an Nghệ An đã bắt giữ 9 người để điều tra do liên quan đến vụ 39 người thiệt mạng ở Anh.
Nguồn:https://www.essex.police.uk/…/murder-investigation-launch…/…
rfa.org
- Viết bởi Phạm Trần
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước CSVN biết sợ Tầu là nhục, nhưng còn hơn nghe dân để mất Đảng.
Tư duy này đã rõ như ban ngày trong cách hành xử ngoại giao và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, cả trên đất liền và biển đảo, trước áp lực của Trung Cộng, của các thế hệ lãnh đạo Việt Nam từ sau 1975.
TỪ THÀNH ĐÔ ĐẾN BIỂN ĐÔNG
Đầu tiên, phải kế đến cam kết Việt Nam không được nhắc lại cuộc chiến biên giới Việt-Trung năm từ 1979 đến 1989 mỗi khi họp với phía Trung Cộng; Không tổ chức kỷ niệm cuộc chiến này.
Lệnh này được Lãnh đạo tối cao Trung Cộng, Đặng Tiểu Bình, giao cho Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Cộng Giang Trạch Dân để giao kèo với Đoàn Việt Nam, tại cuộc họp kín ở Thành Đô (Tứ Xuyên) năm 1990. Đây là một trong 2 điều kiện để hai nước nối lại bang giao bị gián đoàn vì cuộc chiến biện giới. Điều kiện kia là Việt Nam phải rút quân khỏi chiến trường Cao Miên để xúc tiến giải pháp chính trị cho nước này.
Đòan Việt Nam khi ấy do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh cầm đầu, cùng với sự có mặt của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Đỗ Mười, và Cố vấn Phạm Văn Đồng.
Tuy nhiên đoàn Việt Nam đã vô cùng thất vọng khi Đặng Tiểu Bình tìm cách tránh gặp như kỳ vọng của phía Việt Nam.
Nạn nhân trực tiếp của Thỏa hiệp bí mật Thành Đô là Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch (tên thật là Phạm Văn Cương, Thân phụ của Bộ trường Ngoại giao Phạm Bình Minh), người đạ bị Trung Cộng ép phía Việt Nam loại khỏi Đại hội đảng kỳ VII thời Tổng Bí thư Đỗ Mười, vì có thái độ chống Tầu
Thứ hai, Việt Nam không được nêu vấn đề Hoàng Sa, đã bị Trung Cộng chiếm ngày 19/01/1974, mỗi khi thảo luận về Biển Đông.
Cụ Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, 103 tuổi, nguyên Đại sứ tại Trung Cộng từ 1974 đến 1987 là chứng nhân lịch sử của những “nỗi nhục” này trong quan hệ Việt-Trung.
Hai nguyên Tổng Bí thư đảng Lê Khả Phiêu (khóa VIII) và Nông Đức Mạnh (hai Khóa IX và X), những người có trách nhiệm ký và thi hành 3 Văn kiện:
-Hiệp ước Biên giới trên đất liền giữa Việt Nam- Trung Quốc ký ngày 30-12-1999.
- Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ, ký ngày 25/12/2000.
- Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ, ký 25/12/2000.
phải chịu chung trách nhiệm trước lịch sử cùng với Quốc hội, cơ quan đã nhắm mắt phê chuẩn mà không có bất cứ cuộc duyệt xét hay thảo luận nào, để cho những hệ lụy vẫn đang diễn ra ở Biển Đông.
Thứ ba, mặc cho Việt Nam tranh cãi, nhưng Lãnh đạo Trung Cộng gồm Đảng, Nhà nước và Quân đội vẫn khẳng định các bãi đá, đảo và vùng nước chung quanh là của tổ tiên họ để lại.
Thứ bốn, đảng và nhà nước CSVN cũng nói Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam, nhưng lại không dám đánh hay kiện Trung Cộng ra Tòa án Quốc tế để:
1) Lấy lại Hoàng Sa.
2) Đòi bồi thường khi ngư dân Việt Nam bị tấn công (nhiều khi có người chết và bị mất tài sản); bị ngăn cấm đánh bắt ở Biển Đông;
3) Không dám dùng biện pháp Quân sự để ngăn cản hay chống Trung Cộng đã ngang nhiên đưa Tầu khảo sát dầu khi xâm nhập sâu vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 Hải lý (lối 370 cây số tính từ bờ biển), như đã xẩy ra trong vụ Hải Dương 981 (HD-981) năm 2014 (từ 2/5 đến 16/07/2014) và Hải Dương 8 (HD-8) ở bãi Tư Chính băm 2019 ( từ ngày 3/7 đến 24/10/2019).
MIỆNG LƯỠI LÃNH ĐẠO
Trong khi đó, tam đầu chế gồm Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng; Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và Thủ tướng Chính phù Nguyễn Xuân Phúc đã không dám chỉ trích đính danh Trung Cộng khi xẩy ra vụ Tư Chính.
Trong hàng Bộ trưởng, duy nhất chỉ có Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoai giao Phạm Bình Minh đã công khai chí trích Trung Cộng 1 lần, tại Hội nghị cấp Bộ trường Ngoại giao ASEAN-Trung Cộng lần thứ 52 (AMM-52) ở Bangkok, Thái Lan ngày 31/7 (2019).
Ông Minh được trích lời đã bầy tỏ “quan ngại nghiêm trọng” về hoạt động khảo sát của tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 và các tàu hộ tống của Trung Hoa ở khu vực Bãi Tư Chính.
Ông cũng nói với Bộ trưởng Ngoại giao Trung Cộng, Vương Nghị rằng Trung Hoa đã “vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông, trong khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.”
Tuy nhiên, sau đó, trong diễn văn ngày 28/09 (2019) tại Liên Hiệp Quốc, ông Minh lại tránh nói đến Trung Cộng, ngược lại ông chỉ nói chung chung, vô tội vạ rằng:”Chúng tôi kêu gọi các bên liên quan ở Biển Đông tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982)… Việt Nam cũng đã nhiều lần nêu rõ sự lo ngại về những diễn biến phức tạp ở Biển Đông, trong đó có việc vi phạm các quyền chủ quyền, quyền tài phán tại các vùng biển của Việt Nam được xác định theo UNCLOS 1982. Các bên liên quan cần kiềm chế và tránh có những hành động đơn phương làm phức tạp tình hình và gia tăng căng thẳng, và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982.”
Nhưng “các bên liên quan” là những Quốc gia nào, ngoài Trung Cộng là nước duy nhất đã và đang “vi phạm các quyền chủ quyền, quyền tài phán tại các vùng biển của Việt Nam” ?
Đến lượt Đại tướng Bộ trưởng Quốc Phòng Ngô Xuân Lịch, cũng không khá hơn. Ông Tướng này cũng không dám nêu tên Trung Cộng là nước đã và đang gây ra bất ổn ở Biển Đông. Ông Lịch nói tại Diễn đàn Hương Sơn (Trung Cộng) ngày 21/10 (2019): ”Tình hình Biển Đông vẫn diễn biến phức tạp, nếu không được xử lý tốt sẽ tác động đến hòa bình, ổn định tại khu vực, làm xói mòn lòng tin giữa các quốc gia, cản trở những nỗ lực hợp tác của khu vực….Vấn đề Biển Đông phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực, trên cơ sở luật pháp quốc tế, tôn trọng lợi ích hợp pháp của mỗi nước với tinh thần đối tác, vì trách nhiệm cộng đồng...”
Nhưng ai đã gây ra tình hình “phức tạp”, ngoài Trung Cộng ? Tại sao không nói trắng ra cho thế giới biết ? Đoàn Quốc phòng Việt Nam, do tướng Lịch cầm đầu đã không dám bỏ phòng họp khi Thượng tướng, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Cộng, Ngụy Phượng Hòa tuyên bố thẳng thừng trước Hội nghị rằng:” Các đảo ở Biển Đông và quần đảo Điếu Ngư (ở biển Hoa Đông) là những phần không thể tách rời của lãnh thổ Trung Quốc. Chúng tôi sẽ không cho phép dù chỉ một tấc lãnh thổ mà tổ tiên của chúng tôi đã để lại bị lấy đi”.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đã có cuộc gặp với Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Khắc Cường tại Cuộc họp cấp cao của Tổ chức ASEAN (The Association of South East Asia Nations, Hiệp hội các ước Đông Nam Á) tại Bangkok, Thái Lan ngày 03/11/ (2019).
Theo báo Chính phủ Việt Nam, trước hết ông Phúc đã “khẳng định Việt Nam luôn coi trọng và mong muốn thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.”
Nhưng về vấn đề trên biển, Ông Phúc lại: ”Đề nghị hai bên cùng kiểm soát tốt bất đồng, không để ảnh hưởng tới quan hệ hai nước; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định tại khu vực… xử lý tốt vấn đề nghề cá và ngư dân; đề nghị Trung Quốc tôn trọng các hoạt động kinh tế biển bình thường, phù hợp với luật pháp quốc tế của Việt Nam; khẳng định Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, biển đảo theo luật pháp quốc tế…”
Toàn là những chuyện đầu môi, chót lưỡi viển vông không ăn nhập gì đến những hành động ngang ngược của Hải Dương 8 mà Trung Cộng đã gây ra cho Việt Nam ở bãi Tư Chính, mới chấm dứt 10 ngày trước đó (24/10 (2019).
Thái độ cúi đầu trước Lý Khắc Cường của ông Phúc không lạ, vì trước đó, vào ngày 21/10 (2019), Nguyễn Xuân Phúc cũng ấm ớ hội tề trong báo cáo trước Quốc hội rằng:”Tình hình biển Đông gần đây diễn biến phức tạp, trong đó có việc vi phạm nghiêm trọng các vùng biển của Việt Nam được xác định theo luật pháp quốc tế, trái với Tuyên bố DOC và các thỏa thuận cấp cao. Đảng và Nhà nước ta đã nhất quán chủ trương những gì thuộc về độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ chúng ta không bao giờ nhân nhượng.”
Nhưng mà ai, ngoài Trung Cộng, đã “vi phạm nghiêm trọng các vùng biển của Việt Nam” ? Tại sao ông Phúc lại sợ không dám nói thẳng với Quốc hội và Quốc dân rằng Trung Cộng đã có những vi phạm nghiêm trọng ở Tư Chính ?
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cũng chỉ ú ớ Diễn văn khai mạc Quốc hội ngày 21/10 (2019). Bà nói:” Tình hình Biển Đông thời gian gần đây có những diễn biến phức tạp, khó lường và những tác động không thuận khác... đã ảnh hưởng không nhỏ đến nước ta.”
Vậy ai đã làm cho tình hình Biển Đông “phức tạp”, chẳng lẽ ma nó làm à ?
Thậm chí, người đứng đầu Đảng và Nhà nước là ông Nguyễn Phú Trọng cũng không đả động gì đến chuyện bãi Tư Chính, khi HD-8 vẫn đang hòanh hành trong khu vực.
Trong diễn văn bế mạc Hội nghị Trung ương đảng kỳ 11, ngày 13/10/2019, ông Trọng chỉ nói mấy chữ:”Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo quốc gia trên cơ sở luật pháp quốc tế.”
Trong khi Thông báo cuối cùng của Ban Chấp hành Trung ương cũng chỉ nói rập khuôn: ”Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.”
Đến ngày 28/10 (2019), Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh ra trước Quốc hội báo cáo về tình hình ngoại giao năm 2019, trong đó có vấn đề Biển Đông. Nhưng Quốc hội lại họp kín. Nhân dân không biết ông Minh đã nói gì với Quốc hội. Báo chí đảng cũng nín thinh như gà mắc dây thun.
Như vậy thì còn trông mong gì ở Quốc hội, Cơ quan quyền lực cao nhất nước, nhưng lại là bù nhìn của Bộ Chính trị do ông Nguyễn Phú Trọng, một người thân Trung Cộng cầm đấu ?
Cho đến khi Hải Dương 8 tự ý rút về nước ngày 14/10 (2019) vì đã hoàn tất kế hoạch, theo loan báo của Trung Cộng, không ai biết phía Việt Nam đã thi hành những biện pháp bảo vệ biển đảo ra sao.
Chỉ biết rằng, vào ngày 30/10 (2019), trước phiên họp toàn thể của Quốc hội thảo luận về tình hình kinh tế, Đại biểu Nguyễn Lân Hiếu, đoàn An Giang, đã tiết lộ:”Các phương pháp chúng ta sử dụng trong thời gian vừa qua với phương châm vừa hợp tác vừa đấu tranh kiên quyết, kiên trì, xử lý các hành vi xâm phạm chủ quyền bằng các biện pháp hòa bình không làm giảm đi lòng tham của Trung Quốc. Do đó, cần có thêm những biện pháp mới.” (theo báo Thanh Niên Online, 30/10/2019)
Liệu ông Nguyễn Phú Trọng có sáng kiến gì mới không, hay ông cứ ì ra đấy để mặc kệ dân băn khoăn ?
MÃ LAI-PHI-MỸ
Nhưng cũng rất lạ là khi các viên chức Việt Nam, nạn nhận trực tiếp và thường xuyên của Trung Cộng ở Biển Đông, đã níu lưỡi, không dám nêu tên Trung Cộng thì Ngoại trưởng Mã Lai (Malaysia) Saifuddin bin Abdullah đã nhấn mạnh tại cuộc họp của ASEAN vào ngày 2/11 (2019) tại Bangkok, Thái Lan: “Malaysia lo ngại sâu sắc về sự tồn tại của Cục Cảnh sát biển Trung Quốc” trong vùng biển của Mã Lai.
Về phần mình, Tổng thống Phi Luật Tân Rodrigo Duterte cũng nói vào tối ngày 2 tháng 11: “Tự do hàng hải ở Biển Đông là ưu tiên hàng đầu của ASEAN”. Ngày hôm sau, tại hội nghị cấp cao ASEAN, 3/11, ông Duterte đã nói thẳng trước mặt Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường (Li Keqiang):“Trung Quốc cần phải giảm bớt các hoạt động quân sự ở Biển Đông”. (theo báo Nhật, Nihon Keizai Shinbun (Tin tức kinh tế Nhật Bản, ngày 3/11 (2019)
Về phía Mỹ, Cố vấn an ninh Quốc gia Roberts O’Brien cũng công khai chỉ trích Trung Cộng đã xách nhiễu các nước nhỏ ở Biển Đông.
Ông O’sBrien nói trong diễn văn với các Đại biểu ASEAN:” Beijing has used intimidation to try to stop Asean nations from exploiting the offshore resources, blocking access to $2.5tn of oil and gas reserves alone,”
“The region has no interest in a new imperial era where a big country can rule others on a theory that might makes right.”
(Bắc Kinh đã sử dụng hình thức đe dọa để cố gắng ngăn chặn các quốc gia ASEAN khai thác tài nguyên ngoài khơi, ngăn chặn việc tiếp cận nguồn dự trữ dầu khí trị giá 2,5 nghìn tỷ đôla.”
“Khu vực này không hứng thú với một kỷ nguyên đế quốc mới, nơi một quốc gia lớn có thể cai trị những nước khác theo lý thuyết chân lý thuộc về kẻ mạnh.” (VOA tiếng Việt)
Như vậy, có phải hai ông Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã khôn nhà dại chợ, hay hai ông cũng chỉ biết tuân lệnh cúi đầu trước Bắc Kinh để giữ Đảng, theo chỉ thị của ông Nguyễn Phú Trọng ? -/-
Phạm Trần
(11/019)
- Viết bởi Anh Ngọc
Tin Đức quốc -- Cảnh sát Đức chặn bắt ba ôtô chở 37 người Việt từ Đông Âu nhập cư trái phép vào nước này. Ba chiếc xe chở người Việt nhập cư lậu bị phát hiện khi cảnh sát liên bang Đức tiến hành một cuộc kiểm tra an ninh trên đường cao tốc A17, thành phố Dresden hôm 28/10.
Chiếc xe đầu tiên, chở 13 người Việt bị cảnh sát chặn bắt tại đường cao tốc A17, thành phố Dresden, Đức.
![]() |
Chiếc xe 2 bị bắt hôm 28/10 (Ảnh: Bild) |
Chiếc xe đầu tiên bị bắt hôm 28/10/2019.
Vào 16h50, tại bãi đỗ Am Heidenholz, họ chặn một chiếc xe mang biển số Czech do tài xế người Ukraine, 31 tuổi điều khiển. Trên xe, họ phát hiện hai người Việt ở sau cốp và 13 người khác ngồi trên băng ghế.
Một giờ sau đó, một chiếc xe khác chở 15 người Việt không có giấy tờ hợp pháp tiếp tục bị chặn bắt. Tài xế 22 tuổi, người Hungary cũng bị bắt ngay tại chỗ.
Đến 23h45 cùng ngày, giới chức phát hiện thêm 9 người Việt khi kiểm tra một chiếc VW do tài xế người Ukraine, 47 tuổi, điều khiển. Hai người đàn ông và ba phụ nữ Việt đều không có giấy tờ nhập cư.
Chiếc xe thứ ba, chở 9 người Việt, bị cảnh sát chặn bắt tại đường cao tốc A17, thành phố Dresden, Đức hôm 28/10/2019.
Cảnh sát liên bang đang điều tra những kẻ buôn người đứng sau các vụ nhập cư lậu này. Hiện chưa rõ 3 chiếc xe bị bắt có liên quan tới nhau hay không.
![]() |
Chiếc xe 3 bị bắt hôm 28/10 (Ảnh: Bild) |
Sự việc gây chú ý sau vụ 39 người di cư được phát hiện chết trên xe container sau khi từ Bỉ đến Anh rạng sáng 23/10. Các cơ quan của Việt Nam đang tích cực phối hợp với giới chức Anh để xác minh danh tính và quốc tịch của các nạn nhân này sau khi hàng chục gia đình ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh trình báo có con mất tích cùng thời điểm tại châu Âu.
Đức là một trong những điểm đến của nhiều người Việt nhập cư bất hợp pháp và đi qua các nước Đông Âu nằm trong khối Schengen là tuyến đường vượt biên tới Đức phổ biến nhất được các đường dây buôn người sử dụng.
Năm 2018, Đức đã bắt hơn 38.000 người nhập cư lậu, trong đó chủ yếu là bằng đường bộ và đi qua biên giới Czech, theo tờ DW.
(Nguồn: Anh Ngọc theo Bild)
- Viết bởi Nguyễn Đức Cung
Trong lịch sử hiện đại Việt Nam, có hai ngày được gọi là Quốc hận, đó là ngày 21 tháng 7 năm 1954 do Việt Minh Cộng Sản cấu kết với thực dân Pháp chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17 (Bến Hải, Quảng Trị) khiến cho một triệu người phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả, thân thích đề vào miền Tự do, qua đó hình thành hai thực thể chính trị đối kháng nhau: Miền Bắc gọi là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Miền Nam gọi là Việt Nam Cộng Hòa. Và ngày 30-4-1975 được gọi là ngày Quốc hận vì Hoa Kỳ đã cam tâm bỏ rơi người bạn đồng minh của họ, ném Việt Nam Cộng Hòa vào miệng chó sói Bắc Việt qua sự đạo diễn của Nixon và Kissinger khiến cả một Miền Nam điên đảo, điêu linh với hơn một triệu dân, quân, cán, chính VNCH vào tù CS, ba triệu người vượt biên, 500.000 người vùi xác dưới lòng biển cả hay trong rừng sâu núi thẳm và hệ quả khốc hại vẫn còn cho đến hôm nay. Tất cả đều có liên hệ ít nhiều đến một cái chết. Cái chết của Cố TT Ngô Đình Diệm qua vụ đảo chính quân sự ngày 1-11-1963 cũng do Mỹ đạo diễn với bàn tay Henry Cabot Lodge nằm trong tương quan mật thiết đến sự cáo chung của Việt Nam Cộng Hòa ngày 30-4-1975 qua mưu đồ độc hiểm của Henry Kissinger. Cái chết của Cố TT Ngô Đình Diệm liên hệ đến vấn đề chủ quyền của Việt Nam. Bài học chủ quyền của đất nước là bài học muôn thuở và cũng là lý tưởng đấu tranh của Cố TT Ngô Đình Diệm lãnh hội được từ huyết thống cha ông của dòng tộc và qua huấn giáo của những vị thầy trong lịch sử mà cố Tổng Thống của nền Đệ Nhất Cộng Hòa từng được thừa hưởng. Một con người sống và chết vì lý tưởng (chủ quyền của đất nước) nghĩ rằng là đơn giản nhưng thật sự không đơn giản tí nào mà phải được trải nghiệm qua biết bao cuộc huấn luyện từ trong gia đình đến ngoài xã hội, trên chính trường cũng như trong va chạm với thực tế mà sự giáo dục của môi trường tôn giáo và văn hóa xã hội ảnh hưởng vào không ít. Cái chết của Việt Nam Cộng Hòa ngày 30-4-1975 tức tưởi, ngập tràn oan khiên nhưng cũng lại là một tất yếu của lịch sử bởi vì những người lãnh đạo của nền Đệ Nhị Cộng Hòa không học được và cũng không biết được giá trị của bài học chủ quyền đất nước qua bản thân và qua kinh nghiệm của lịch sử.
1.- Một số định nghĩa hai chữ “chủ quyền quốc gia” theo tư liệu và sách vở.
Theo từ nguyên học (etymology) chữ Hán, chữ chủ 主 gồm chữ vương 王 là vua, và một dấu chấm丶 ở trên thường gọi là bộ chủ mà Thiều Chửu gọi là: “Phàm vật gì cần có phân biệt, sự cần biết nên chăng, lòng đã có định, thì đánh dấu chữ chủ để nhớ lấy… Chủ là một tiếng phân biệt mình với người trong khi giao tế, phàm sự gì mình khởi lên thì mình là chủ nhân” (Thiều Chửu, Hán Việt Tự-Điển, nhà xuất bản Đại Nam, tái bản lần thứ hai, trang 6).
Theo Linh mục Tiến sĩ Léon Wieger, chữ chủ 主 viết theo lối tượng hình gồm phần dưới tượng trưng chữ đăng 燈 cái đèn, và dấu chấm 丶 tượng hỏa 火. Bây giờ có người viết bên trái bộ hỏa, bên phải chữ chủ để chỉ cây đèn, chữ chủ có nghĩa prince (đấng quân vương), master (ông chủ); bởi vì nói như các viên thông ngôn, 首 出 庶 物 , 萬 民 所 望 之 意 (thủ xuất thứ vật, vạn dân sở vọng chi ý) đấng quân vương nổi lên trên đám quần chúng và được mọi người trông thấy, cũng như ngọn lửa nổi lên và chiếu sáng trên cây đèn. “The inferior part represents a lamp, the flame of which 王 像 燈, 丶像 火( Dr. L. Wieger, S.J. Chine Characters, Their Origin, Etymology, History, Classification and Signification. A Thorough Study From Chinese Documents, bản in năm 1965, trang 30; bản in lần đầu năm 1915).
Chữ 王 vương, qua LM. Léon Wieger (S.J) cho biết theo người xưa, gồm một nét sổ từ trên xuống dưới (tượng trưng cho một người là vua) nối ba nét nằm ngang tượng trưng cho thiên, địa và nhân “According to the ancients the 王 king is ! the one, the man who connects together 三 heaven, earth and humanity”, See L. 83 C. – Phonetic series 87. ( Dr. L. Wieger, S.J. Chine Characters, Their Origin, Etymology, History, Classification and Signification. A Thorough Study From Chinese Documents, 1965, trang 29; Paragon Book Reprint Corp., New York, Dover Publications, Inc., New York). Chữ vương còn có thể đọc một âm khác là vượng mà theo Thiều Chửu có nghĩa “cai trị cả thiên hạ như dĩ đức hành nhân giả vượng 以 德 行 仁 者 王 (lấy đức làm nhân ấy được đến ngôi trị cả thiên hạ, Thiều Chửu, Sđd, trang 391).
Chữ quyền 權 có tám nghĩa: 1. Quả cân, 2. Cân lường, 3. Quyền biến, (trái đạo thường mà phải lẽ gọi là quyền, đối lại với chữ kinh, 4. Quyền bính, (quyền hạn, quyền thế), 5. Quyền nghi , sự gì hãy tạm làm thế gọi là quyền thả như thử 權 且 如 此, tạm thay việc của chức quan nào cũng gọi là quyền, 6. Xương gò má (Thiều Chửu, Sđd, trang 317). 7. Họ Quyền. 8. Lực lượng và lợi ích. Ở đây nên dùng nghĩa số 4.
Tuy vậy, nhìn vào tự dạng, theo thiển ý của tác giả bài viết này có thể thấy chữ quyền 權 được viết theo lối hội ý: chữ mộc 木 là cây, chỉ cán cân (hệ thống đo lường Trung Hoa và VN dùng cái cân có cán gỗ, bộ thảo đầu ở trên, dưới có hai chữ khẩu 口, chỉ người mua và người bán. bộ phận chữ chuy 隹 ở dưới chỉ hai bàn cân. Quyền là sự thỏa thuận giữa hai người, là sự công bình của cán cân, và sự đồng thuận mới tạo nên vui vẻ, hòa bình, trong thương thảo.
Khi nói tới vấn đề chủ quyền, thông thường người ta hay liên tưởng đến chính trị, mà như Aristote có nói: “Con người là một con vật biết làm chính trị” (Man is a political animal). Với Tôn Dật Tiên, ông cho rằng: “chánh là việc của chúng nhơn, tức là việc của mọi người, trị là quản lý, và chánh trị là quản lý của tất cả mọi người." (Hùng Nguyên, Chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn, chủ nghĩa quốc gia khoa học, quyển 2, 1964, trang 9).
Chủ quyền của một cá nhân trên một vật sở hữu, trên bản thân mình hay có liên hệ tới gia đình, vợ con, thân bằng đã là một điều cao quý mà chủ quyền của một quốc gia lại càng quý trọng gấp bội.
Tự điển Larousse của Pháp có định nghĩa về chữ souveraineté nationale (chủ quyền quốc gia) như sau: “Souveraineté nationale, principe du droit public francais selon lequel la souveraineté, jadis exercée par le roi, l’est aujourd’hui par l’ensemble des citoyens.” (Tạm dịch: Chủ quyền quốc gia, nguyên tắc công pháp Pháp quốc theo đó chủ quyền, ngày xưa do vua điều hành, ngày nay nó là quyền của tập thể những công dân.” (Petit Larousse illustré, 1987, trang 950).
Tác giả Jay M. Shafritz trong Dictionary of American Government and Politics có đề cập đến chủ quyền (sovereignty) rằng “The quality of being supreme in power, rank, or authority. In the United States, the people are sovereign and government is considered their agent. The sovereignty of the sovereign states of the United States is largely a myth. However, because so much power on most crucial issues now lies with the federal government. The literature on sovereignty is immense and freighted with philosophy.” (Tạm dịch: Chủ quyền là tính cách cao nhất trong quyền lực, ngôi vị hoặc quyền thế. Ở Hoa Kỳ, người dân là chủ và chính quyền là đại diện. Chủ quyền của các tiểu bang Hoa Kỳ xem ra là một huyền thoại, tuy nhiên có biết bao quyền trong nhiều vấn đề then chốt lại nằm trong chính quyền liên bang. Tính cách văn chương về vấn đề chủ quyền thật là bao la và được chuyển tải trong phạm trù triết học.)
Trong tác phẩm Dân Tộc Sinh Tồn, chủ nghĩa quốc gia khoa học, Hùng Nguyên Nguyễn Ngọc Huy cho biết John Locke (1632-1704) triết gia Anh và Rousseau (1689-1755), triết gia Pháp đặt nền tảng quốc gia trên một bản dân ước theo đó mọi người cùng vui lòng chấp nhận nhường quyền thiên nhiên của mình cho xã hội, để bù lại, xã hội bảo đảm quyền lợi mình. Dựa vào ý này, họ nêu ra thuyết chủ quyền phải thuộc về toàn thể dân chúng. (Quyển I, 1964, trang 135). Tuy nhiên để bù đắp vào sự khiếm khuyết của chủ trương này người ta nêu ra sự phân quyền của Montesquieu kể cả của Locke để bảo đảm thêm quyền lợi của cá nhân của con người trong xã hội.
Chủ quyền của một quốc gia ngoài ngoài tam quyền (hành pháp, lập pháp và tư pháp) còn là một hệ thống tư tưởng chính trị, văn hóa được thừa hưởng từ các triều đại đi trước hay do chế độ hiện tại đưa ra. Khả năng và tư cách của vị lãnh tụ của đất nước không phải một sớm một chiều mà có nhưng được tích lũy theo thời gian và kinh nghiệm cá nhân cũng như gia đình. Nói như vậy để thấy rằng giữa nền Đệ I và Đệ II Cộng Hòa có những cái tương phản trong tư cách của những người lãnh đạo, đường lối xử trí công việc quốc gia biểu lộ qua khả năng, trình độ và phong thái nhân vật nói rõ hơn tư cách của vị lãnh tụ và tác phong của những kẻ tự nguyện đóng vai trò bù nhìn của ngoại bang.
2.- Bài học về “chủ quyền quốc gia” qua một số biến cố lịch sử.
Trong dòng lịch sử dân tộc, chủ quyền đất nước thể hiện qua nhiều biến cố với mỗi phong cách khác nhau. Truyền thống dân tộc thề hiện qua huyết thống, văn hóa và tôn giáo sẽ được khái quát phân tích qua một vài sự kiện lịch sử.
Trước hết có lẽ theo truyền thuyết người ta phải nhắc đến cuộc khởi nghĩa của bà Triệu Thị Trinh chống nhà Ngô năm 248 khi bà hiệu triệu nhân dân quận Cửu Chân (Thanh Hóa) nổi dậy khi bày tỏ ý chí kiên cường muốn nắm lấy chủ quyền đất nước và quyết định số mệnh của mình bằng câu nói: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người khác.” Cưỡi voi trận, mặc áo giáp vàng, bà đã cầm cự với quân Trung Quốc hàng sáu tháng nhưng cuối cùng lực lượng của bà bị đánh tan, bà tuẫn tiết khi ở tuổi hai mươi ba. Nếu câu nói trên (thực sự được kiểm chứng do phương pháp sử học) là của bà Triệu thì trong thế kỷ thứ ba của giai đọan Bắc thuộc, tư tưởng về chủ quyền đất nước nơi người dân cổ Việt đã xuất hiện đặt nền móng cho các cuộc khởi nghĩa giành độc lập về sau. Câu nói của bà Triệu, xem ra là một thổ dân ở quận Cửu Chân (Thanh Hóa) sao lại giống câu nói của Tông Xác, viên tướng được vua Tống phong chức Chấn Võ tướng quân, cử theo Đàn Hòa Chi đi đánh Lâm Ấp năm 436. Tác phẩm Tư Trị Thông Giám mà Tư Mã Quang đã bỏ ra trên 30 năm để hoàn thành, có ghi lại câu nói mà, thuở còn hàn vi, khi được người chú hỏi về chí bình sinh của mình, Tông Xác thường nói: “Nguyện thừa trường phong phá vạn lý lãng”, 願 乘 長 風 破 萬 里 浪 nghĩa là ‘ước gì được cưỡi ngọn gió dài để xông pha làn sóng muôn dặm’. (Nguyễn Đức Cung, Lịch sử vùng cao qua Vũ Man Tạp Lục Thư, Nhà xb. Nhật-Lệ, 1998, trang 116). Ngô Sĩ Liên khi viết Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, đã lấy câu nói này của Tông Xác có trong Tư Trị Thông Giám, thêm thắt một số ý kiến và biến thành lời bà Triệu. Đây phải chăng còn là một nghi vấn lịch sử?
Rồi bài thơ của Lý Thường Kiệt làm năm 1077 trên chiến tuyến sông Như Nguyệt để khích lệ quân Lý đánh nhau có thêm hùng khí đối với giặc Tống được một số sách báo CS xưng tụng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên, nhưng thực tế phải nhường bước cho câu nói của bà Triệu. Bài thơ được nói là của thần nhân cho, từ trong đền Trương Hát, vọng tới ba quân của Lý Thường Kiệt như sau:
南 國 山 河 南 帝 居
截 然 定 分 在 天 書
如 何 逆 虜 來 侵 犯
汝 等 行 看 守 敗 虛.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
(Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời !)
“Trong đêm tối, nghe vang lên từ trong miếu mấy câu thơ bí hiểm này, quân lính ai nấy đều nức lòng. Quân nhà Tống hoảng sợ tháo chạy trước khi bị tấn công.”
Năm 1283, khi giặc Nguyên Mông chuẩn bị sang xâm lăng nước ta lần thứ hai, Trần Hưng Đạo đã soạn xong cuốn Binh thư yếu lược trong đó có bài Hịch tướng sĩ, viết những câu tha thiết với sự tồn vong của đất nước như : “ Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa được sả thịt lột da của quân giặc, dẫu thân này phơi ngoài nội cỏ, xác này gói trong da ngựa, thì cũng đành lòng. Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền, cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho ăn, quan còn nhỏ thì ta thăng thưởng, lương có ít thì ta tăng cấp, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ thì cùng nhau vui cười… Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc sỉ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc mà không biết tức” (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, bản in lần thứ VII, Tân Việt xb, 1964, trang 138). Trần Hưng Đạo đã lồng chủ quyền đất nước vào chủ quyền của nhà Trần qua đó nói lên mối liên hệ hữu cơ giữa dòng tộc cầm quyền với thuộc hạ và quần chúng ở dưới. Trần Hưng Đạo đã thiết thực nói đến hệ quả tương ứng một khi kẻ thù bị đẩy lui “chẳng những là thái ấp của ta được vững bền, mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng lộc,, chẳng những là gia quyến của ta được yên ổn, mà các ngươi cũng đều được vui với vợ con…” Tư liệu được ghi lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên qua bản dịch của Trần Trọng Kim diễn tả rõ chủ quyền của một đất nước tiên vàn xuất phát từ trách nhiệm của nhà lãnh đạo đối với sự sống còn chẳng những của triều đại mà còn với tương lai của bá tánh nhân dân nữa.
Trong cuộc chiến tranh Nguyên Mông, chính nghĩa và chủ quyền của Đại Việt bộc lộ rõ nhất trong biến cố hội nghị Diên Hồng khi Toàn Thư chép rằng : “Tháng chạp… Thượng hoàng (tức Trần Thánh tông) triệu tập những người lớn tuổi trong nước lại ở trước điện Diên hồng, cho ăn tiệc để hỏi kế. Tất cả đều nói: Đánh. Muôn người rập một tiếng như thốt ra bởi một miệng vậy.” (Toàn Thư bản kỷ, q.5, tờ 44a). Qua sự kiện này rõ ràng chủ quyền nằm ở trong tay quần chúng.
Trong bài “Bình Ngô Đại Cáo” Nguyễn Trãi đã nói rõ chủ quyền, phương vị của đất nước Đại Việt như sau:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập, cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.”
Nếu chủ quyền vốn đã được hành sử trong tay của giới quý tộc nhà Trần và họ đang cố giữ cho khỏi mất đã là một vấn đề khó khăn thì đến giai đoạn kháng Minh của Lê Lợi thế kỷ XV, chủ quyền đất nước đã mất hẳn vào tay ngoại bang nên việc lấy lại quyền làm chủ non sông Đại Việt càng khó khăn gấp vạn lần, bởi lẽ Lê Lợi xuất thân chỉ là một nạn nhân như muôn nghìn nạn nhân khác dưới nền đô hộ của quân Minh. Qua 10 năm kháng chiến Lê Lợi đã thành công và lấy lại được chủ quyền bởi vì ông có một lòng kiên quyết, biết nhận định tình hình, mưu lược, biết tiến, biết thoái, biết sử dụng nhân lực, tài lực v.v… Nói như sử gia Nguyễn Phương : “Sự xuất hiện của Lê Lợi trên chiến trường Việt Nam là sự xuất hiện của một vị cứu tinh kiên gan, khôn khéo, và can đảm, mưu lược. Nhờ kiên gan, khôn khéo, ông đã kích động và quy tụ được tiềm lực kháng chiến của nhân dân, nhờ can đảm, mưu lược ông đã toàn thắng được giặc mạnh. Nhưng sự xuất hiện của Lê Lợi không phải nói lên chỉ có thế. Nó còn chứng minh tính cách tự tồn cố hữu của quốc gia Việt Nam.” (Nguyễn Phương, Đà lịch sử…Tập san Sử Địa số 1, Khai Trí xuất bản, Sài Gòn, 1966, trang 32).
Một biến cố trọng đại trong lịch sử Việt Nam nữa đó là việc Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh năm 1789 có liên quan mật thiết đến chủ quyền Việt Nam. Tháng mười năm Mậu Ngọ (1788), Tôn Sĩ Nghị lấy quân bốn trấn Quảng đông, Quảng tây, Quí châu, Vân nam khoảng 20 vạn người để tiến vào Đại Việt. Phản ứng của Nguyễn Huệ là nổi giận xung thiên không ngần ngại chửi bới: “Quân Ngô, đồ chó ấy, sang đây để mà chết.”
Trong lời hiệu dụ trước ba quân, Nguyễn Huệ đã làm sáng tỏ chân lý về chủ quyền đất nước và ý đồ tham hiểm của giặc phương Bắc như sau:
“Quân Thanh sang lấn nước ta, hiện chúng đã đóng ở thành Thăng long các người có biết hay không? Trong khoảng trời đất phận sao đã được định rõ phương nam phương bắc, nước nào cai trị nước ấy. Người Tàu không phải nòi giống nước ta, bụng họ ắt là khác hẳn. Từ đời nhà Hán đến nay họ đã mấy phen chiếm cướp đất cát, giết hại nhân dân, vơ vét của cải. Người nước ta không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi (…) Ngày nay quân Thanh lại sang, định lấy nước ta đặt làm đất quận huyện của chúng, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đuổi. Các người đều đủ lương tri, lương năng nên phải dốc lòng hết sức với ta để dựng công lớn, chớ quen thói cũ mang lòng nhị tâm. Nếu như phát giác, ta sẽ tức khắc giết chết, không tha một người nào. Đừng trách ta không bảo trước”. (Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, từ 1771 đến 1802, Văn Sử Học, 1973, trang 169).
Cũng trong lời hiệu dụ đó, Nguyễn Huệ khẳng định quyết tâm bảo vệ chủ quyền của đất nước: “
…Đánh cho nó chích luân bất phát;
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn;
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.”
Và với lực lượng của ông hơn 10 vạn, Nguyễn Huệ đã viết lịch sử chiến thắng một cách vẻ vang trước bọn Thanh xâm lược.
Tuy nhiên tác giả Tùng Phong (Ngô Đình Nhu) trong “Chính Đề Việt Nam” đã viết về “tâm lý thuộc quốc” từng ghi rằng: “Họa xâm lăng đe dọa dân tộc chúng ta đến nỗi, trong một một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lý thuộc quốc. Hai lần Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ tìm cách đả phá không khí lệ thuộc đó. Nhưng mặc dầu những chiến công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lãnh đạo trứ danh của dân tộc cũng phải khuất phục trước thực tế.” (Tùng Phong Ngô Đình Nhu, Sách đã dẫn, trang 77)
Cũng trong tác phẩm nổi tiếng đó, Tùng Phong (Ngô Đình Nhu) còn viết về tâm lý thuộc quốc một lần nữa và đưa ra một kiến giải mới như sau: “Tâm lý thuộc quốc bắt đầu từ hai sự kiện. Tương quan lãnh thổ và dân số giữa hai quốc gia là một nguyên nhân tự ty mặc cảm. Sự lệ thuộc của Việt Nam đối với văn hóa Tàu là một lý do khác. Tương quan lãnh thổ và dân số là hai điều kiện vật chất hiển nhiên khó thay đổi được. Tuy nhiên, trong khung cảnh chính trị của thế giới ngày nay, sự bang giao giữa Việt Nam và Trung Hoa không còn nằm trong khuôn khổ xưa nữa và không còn là một sự kiện chỉ liên quan đến hai quốc gia.
Trong lĩnh vực văn hóa, một dân tộc lớn hay nhỏ, do sự góp phần nhiều hay ít của dân tộc ấy vào di sản của văn minh nhân loại. Trong lịch sử cổ Hy Lạp, thành Athen nhỏ bé được tôn sùng là người hướng đạo của dân tộc hy Lạp, vì sự góp phần to tát vào di sản văn minh Hy Lạp. Điều kiện văn hóa này, chúng ta có thể chủ động được, miễn là công cuộc phát triển của dân tộc thực hiện được. Và thế hệ của chúng ta có thể có đủ điều kiện và hoàn cảnh để thực hiện ý chí của Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ, tiêu diệt tâm lý thuộc quốc đã mấy ngàn năm bao trùm dân tộc và ám ảnh các thế hệ lãnh đạo của chúng ta. Xem thế, chúng ta càng ý thức tính cách quan trọng của công cuộc phát triển dân tộc trong giai đoạn này.” (Tùng Phong-Ngô Đình Nhu, Sách đã dẫn, trang 110).
Trong lịch sử cận đại, chủ quyền đất nước giai đoạn Pháp thuộc nằm gọn trong tay người Pháp và đã có biết bao phong trào đấu tranh, tổ chức cách mạng, nhân vật lịch sử dấn thân tranh đấu để giành lại trong gần một thế kỷ. Những người muốn vinh thân phì gia hay cốt tìm miếng đỉnh chung thì dù hoạt động trong môi trường chính trị họ chỉ nhìn chủ quyền đất nước như là một chiêu bài để hoàn thành công việc của một đầy tớ với một ông chủ, còn những người có tâm huyết thực sự sống chết đối với đất nước, họ nhìn chủ quyền quốc gia là một lý tưởng phải tôn thờ, trân quý và xả thân phục vụ. Công cuộc phát triển dưới thời TT Ngô Đình Diệm cho thấy nỗ lực phá bỏ tâm lý thuộc quốc đối với Trung Hoa hay đối với Hoa Kỳ bộc lộ qua đoạn văn nói trên dưới ngòi bút của Ngô Đình Nhu vẫn còn giá trị hiện thực đối với đất nước VN ngày nay.
3.- Sự cần thiết trong rèn luyện kỹ năng chính trị và dấu ấn của những người đi trước…
Trong cuốn Tam Tự Kinh, một cuốn sách mà Tiến sĩ Phùng Hữu Lan (Fung Yulan 1895-1990) cho là căn bản của triết lý đạo học Trung Quốc, chúng ta đọc thấy câu “Nhân bất học, bất tri lý” để nói lên rằng sự học là rất cần thiết. Nghề nghiệp tay chân cũng phải học, phải rèn luyện huống chi là việc dấn thân vào con đường chính trị lại càng phải học nhiều hơn nữa, học nữa, học mãi.
Ở Hy Lạp, một nhà hiền triết, Plato (428-347 trước Công Nguyên) đã từng đề nghị đào tạo một lớp chuyên viên lãnh đạo chính trị, những người không phải chỉ được huấn luyện về nghệ thuật chỉ huy mà còn phải được huấn luyện và có một truyền thống về một triết lý sống tốt đẹp. (Barbara W. Tuchman, The March of Folly: From Troy to Vietnam (1984), Trần Bình Nam, Con đường tự diệt, Trang web Thông-Luận, 24-04-2006).
Một triết gia lừng danh thời cổ Hy-Lạp, học trò của Plato, Aristote (384-323) từng nói “Con người là một con vật biết làm chính trị” (Man is a political animal) và nhà cách mạng Tôn Dật Tiên của Trung Hoa (Sun Yat-sen 1866-1925) cũng có phát biểu : “Chánh là việc của chúng nhơn, trị là quản lý, và chánh trị là quản lý của tất cả mọi người.” (Hùng Nguyên, Chủ nghĩa Dân tộc Sinh tồn, chủ nghĩa quốc gia khoa học, Quyển II, 1964, trang 9).
Như vậy chính trị là việc ai cũng làm được vì đó là điều “sinh nhi tri chi” và là bổn phận của mọi người, trong khi đó một nhà đại hiền triết Á Đông, Khổng Tử, tuy không phản đối các quan niệm nói trên, nhưng lại nhấn mạnh rằng những người làm chính trị cần phải có khả năng và được huấn luyện nghĩa là : “Phải học trước rồi mới làm chính sự. “ Trong thiên Tiên Tiến của cuốn Luận Ngữ, có ghi lại câu chuyện như sau: “Tử Lộ sử Tử Cao vi Phí tể. Tử viết: “Tặc phù nhân chi tử”. Tử Lộ viết: “Hữu dân nhân yên, hữu xã tắc yên, hà tất độc thư nhiên hậu vi học?” Tử viết: “Thị cố ố phù nịnh giả”. 子 路 使 子 羔 爲 費 宰 . 子 曰 : 賊 夫 人 之 子. 子 路 曰, 有 民 人 焉 , 有 社 稷 焉 , 何 必 讀 書 , 然 後 爲 學.子 曰, 是 故 惡 夫 侫 者 .
Dịch : Tử Lộ (làm gia thần họ Quý), tiến cử Tử Cao làm quan tể đất Phí. Khổng tử trách: “Như vậy là làm hại con người ta” (vì Tử Cao chưa học được bao, chưa làm quan được). Tử Lộ bảo: “(Làm chức tể thì) có nhân dân để trị, có thần xã (đất đai), tắc (mùa màng) để thờ (đó là học), hà tất phải đọc sách rồi mới gọi là có học?”Khổng tử nói: “Vì thế mà ta ghét những lời lợi khẩu (cưỡng lý để tự biện hộ)”. (Nguyễn Hiến Lê, Khổng Tử & Luận Ngữ, Nhà xb Văn Học, 2003, trang 404).
Linh mục Tiến sĩ Séraphin Couvreur, S.J. trong bản dịch bộ Tứ Thư tái bản ở Paris năm 1981 (Les Quatre Livres de Confucius), đã bổ túc một vài chữ giải thích trong đoạn trích trên như sau: “Tzeu Iou avait nommé Tzeu kao gouverneur de la ville de Pi. Le Maitre dit: “C’est faire grand tort à ce jeune et à son père.”… (trang 193). Linh mục Couvreur là một nhà Trung Hoa học nổi tiếng trong thế kỷ trước, đã cho biết con người ta mà cụ Nguyễn Hiến Lê nói không rõ lắm đó là “người trẻ đó và cha anh ta” (ce jeune et son père).
Về sau người ta lại có thể hiểu đoạn văn đó là : Khổng tử chủ trương rằng ”phải học trước đã rồi mới làm chính sự được. Nếu kẻ vô học cai trị dân thì theo Khổng Tử, thế là “làm hại con người ta” (Tiên Tiến, XI/24). (Hoàng Văn Lân, 7 luận điểm về kẻ sĩ trong học thuyết Khổng Tử, Trang điện tử Talawas, 10-3-2007). Con người ta ở đây là bàn dân thiên hạ, là các thế hệ tương lai, khắp nơi, khắp chốn.
Lời nói của Khổng Tử thật là sâu sắc, tuy ngắn nhưng có nhiều gợi ý và điều này cũng nói lên giá trị ngàn đời của cuốn Luận Ngữ, và ngài được vua Khang Hi (1654-1722) phong bốn chữ “Vạn Thế Sư Biểu” cũng là đúng thôi.
Ngày nay trong các trường đại học trên thế giới nhất là Hoa Kỳ đều có dạy môn chính trị học, và chính trị được coi là một môn khoa học (Political Science). Alexis Tocqueville (1805-1859) một văn sĩ và chính khách người Pháp, một trong những nhà kinh điển hàng đầu của khoa chính trị học và từng được coi là “Montesquieu của thế kỷ XIX”, trong cuốn sách danh tiếng (De la Démocratie en Amérique) đã có nói: “Cần có một khoa học chính trị mới mẻ cho một thế giới hoàn toàn mới.” (Il faut une science politique nouvelle à un monde tout nouveau).
Đối với một quốc gia nhược tiểu như đất nước VN, người Pháp luôn luôn thẳng tay đàn áp các phong trào nổi dậy mà không thực tâm khai hóa để giúp dân tộc chúng ta tiến lên, vì thế không như Ấn Độ là nơi mà người Anh không nặng tay lắm nên Ấn Độ có một tầng lớp chính trị gia bản xứ đông đảo thuộc tầng lớp trung lưu, Việt Nam trái lại không được như vậy. Nhận định sau đây của sử gia Nguyễn Thế Anh cho thấy rõ hơn tình trạng khiếm khuyết về lãnh đạo khi dân tộc chúng ta có cơ hội giành được độc lập: “Chính sách của chính phủ bảo hộ có một hậu quả không mấy tốt đẹp là nó khiến những phần tử ôn hòa từ bỏ hoạt động chính trị vì không muốn bị khó khăn với chính quyền; trái lại, những người không bị ràng buộc bởi những liên hệ hay quyền lợi xã hội lại hướng tới các phương pháp bạo động của sự đấu tranh bí mật nhiều hơn trước. Tình trạng này làm cho nước Việt Nam có nhiều cán bộ cách mạng hơn là chính trị gia, nghĩa là thiếu những nhân vật có khả năng nghiên cứu và giải quyết những vấn đề hành chánh quốc gia, một khi giành được độc lập.” (Nguyễn Thế Anh, Việt Nam thời Pháp đô hộ, Tủ sách Sử-Địa học, Lửa Thiêng xb., 1970, trang 432).
TT Ngô Đình Diệm vốn xuất thân từ một gia đình có thân nhân làm quan triều Nguyễn, được huấn luyện kỹ càng trong lãnh vực quản trị hành chánh, tư cách đạo đức của người cầm quyền và đời sống gương mẫu của một tín đồ Công Giáo. Trong cuốn The Two Vietnams, sử gia Pháp Bernard B. Fall (Frederick A. Praeger, USA, 1967, trang 240) viết: “Ông Hồ vốn biết ông Diệm có thiên tài về hành chính và quản trị, và cũng thấy rõ sự kém khủng khiếp của đàn em mình trong lãnh vực khó khăn đó, nên đã cho mời vị quan này đứng về phe mình và đề nghị trao ông chính cái công việc mà ông đã làm dưới quyền Bảo Đại: Bộ Nội Vụ.”
Có ba người đã để lại dấu ấn trong chính sách và đường lối của TT Ngô Đình Diệm đó là cụ Ngô Đình Khả, cụ Nguyễn Hữu Bài và cụ Phan Bội Châu.
Một sử gia nổi tiếng của Hoa Kỳ, Mark Moyar, trong tác phẩm Triumph Forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, đã viết về dòng tộc của Cố TT Ngô Đình Diệm như sau : “The son of the famous mandarin Ngo Dinh Kha, Diem could trace his roots all the way back through Ngô Quyen, the first king of Vietnam.” (Cambridge University Press, 2006, trang 10). Dịch: “Là con trai của vị đại thần danh tiếng Ngô Đình Khả, Ngô Đình Diệm có thể vạch lại toàn bộ nguồn gốc của mình lên tới Ngô Quyền, vị vua tiên khởi của Việt Nam.”
Theo Lữ Giang, một tài liệu nói dòng họ Ngô Đình Diệm trước sinh sống ở Sơn Tây, một tỉnh ở phía tây bắc Hà Nội, cách Hà Nội khoảng 42 cây số. Dòng họ này đã di cư vào Quảng Bình khoảng thế kỷ 15 dưới thời Lê Tháng Tông, lúc đầu cư ngụ ở thôn Xuân Dục, xã Xuân Ninh, phủ Quảng Ninh, bên bờ sông Long Đại… Nhưng ông Ngô Vui, Chủ tịch Hội đồng Ngô tộc Việt Nam, cho biết hiện nay đã liên kết được 208 chi họ nhà Ngô có gia phả ở 29 tỉnh thành trong cả nước và được biết gia tộc giòng họ Ngô Đình Diệm phát xuất từ ông Ngô Trừng, Tham Đốc Nghị Quốc Công, hậu duệ là họ Ngô Lạc Nghiệp ở Thọ Nghiệp, Xuân Trường, Nam Định. Họ Lạc Nghiệp phân chi đi nhiều nơi, trong đó có họ Ngô Vạn Xuân đi vào xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Gia tộc của TT VNCH Ngô Đình Diệm phát xuất từ nhánh đó. Trong họ Ngô Vạn Xuân cũng có một nhánh đổi sang họ Vũ. (Lữ Giang, Đài RFA của Mỹ trúng kế Việt Cộng? Hãy nhìn lại số phận mình, Bài trên mạng, ngày 10-11-2015. Một vài người được cho là có nghiên cứu sử học đưa ra luận điệu sai lạc về dòng tộc Ngô Đình với mục đích “bần cùng hóa” và “cô độc hóa” gia thế cụ Diệm dần dần đã không che dấu nổi sự thật về việc làm và chủ đích của họ.
Trong cuốn La République du Việt-Nam et les Ngô-Đình, các tác giả Ngô-Đình Quỳnh, Ngô-Đình Lệ-Quyên (mất năm 2012), Jacqueline Willemetz đã ghi về cụ Ngô Đình Khả như sau: “ Homme de belle intelligence, de vaste culture et de grande probité, Ngô Đình Khả fonde une école privée avant d’entrer à la cour de Huế comme précepteur. Puis il devient ministre des cultes et enfin conseiller de l’empereur Thanh Thai à qui il restera toujours fidèle. En Asie, le rôle du maitre est tellement respecté qu’il précède même celui du père dans l‘échelle hiérarchique.” (Nhà xb. L’Harmattan, 2013, trang 13). Dịch: “Là một người rất thông minh, kiến thức văn hóa rộng, và rất mực thanh liêm, cụ Ngô Đình Khả đã xây dựng một tư thục làm quản giáo trước khi vào trong triều Huế. Cụ đảm nhận chức Thượng thư bộ Lễ và sau cùng thành cố vấn của vua Thành Thái người mà cụ trung thành cho đến suốt đời. Ở Á châu, vai trò của bậc thầy được coi trọng và kể theo thứ bậc thì còn đứng trước cả bậc cha mẹ.”
Ngôi trường nói ở đây thật sự không phải là trường tư mà là một trường công do nghị định của vua Thành Thái ban hành đó là Trường Quốc Học ở Huế rất nổi tiếng, nơi đào tạo biết bao nhân tài của đất nước. (Nguyễn Đức Cung, Diên-Lộc Quận Công NGUYỄN THÂN, Nhà xb. Nhật-Lệ, 2002, trang 380-387).
Trong cuốn sách Misalliance: Ngo Dinh Diem, the United States, and the Fate of South Vietnam, Edward Miller có viết về cụ Ngô Đình Khả như sau: “ Suốt thời thơ ấu của Diệm, cha ông là người có ảnh hưởng nhất trong gia đình họ Ngô ở Huế. Ngô Đình Khả là hiện thân của tất cả những trào lưu tôn giáo, văn hóa và chính trị định hình nên cuộc sống thời trẻ của Diệm. Ngoài việc là một tín đồ Công Giáo sùng đạo, ông Khả còn có một sự nghiệp thành công trong bộ máy chính quyền bảo hộ và sau lại trở thành quan đại thần trong triều nhà Nguyễn. Là người thông thạo cả chữ Latinh lẫn chữ Hán cổ, ông Khả quyết tâm bảo đảm cho các con trai mình được học cả kinh Công Giáo lẫn các tác phẩm kinh điển của Nho giáo. Nhưng ông Khả không phải là một “vị quan Công Giáo” nệ cổ cứng nhắc.” (Bản dịch Việt ngữ, nhóm Minh Thu-Trọng Minh-Kim Thoa, Nhà xb Chính Trị Quốc Gia - Sự Thật, Hà Nội, 2016, trang 34).
Cũng trong tác phẩm đó, Edward Miller viết tiếp: “Ngô Đình Khả là một người cha khắt khe và tác động của ông đối với thời trẻ của Diệm rất sâu sắc. Hồi còn bé, Diệm mắc chứng dị ứng với món cá. Thật không may, cái lệ Công Giáo ăn cá vào những ngày thứ Sáu được gia đình họ Ngô tuân thủ nghiêm ngặt, và ông Khả bắt Diệm ăn bằng hết những gì được bưng ra, dù rằng sau đó Diệm thường nôn mửa. Ngoài việc thực thi gắt gao chế độ ăn của gia đình, ông Khả còn kỳ vọng rất nhiều vào việc học hành của con trai mình. Trước yêu cầu cương quyết của ông Khả, Diệm buộc phải đăng ký vào học tại Trường dòng Bình Linh (cũng gọi Trường dòng Pellerin), một trường tiểu học Công Giáo ở Huế. Giống như Trường Quốc học, trường Bình Linh có chương trình học Pháp-Việt kết hợp và được giảng dạy bằng cả tiếng Pháp, tiếng Latinh lẫn tiếng Hán cổ. Diệm nhanh chóng thông thạo ba thứ tiếng này và sau này có người còn cho rằng ông học chăm chỉ đến mức gần như bị ám ảnh. Sự nỗ lực của ông xuất phát một phần từ tư tưởng ganh đua dữ dội của người một nhà với hai anh ruột của ông là Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Thục. Khôi lớn hơn Diệm 10 tuổi, quyết tâm theo nghiệp ông Khả, theo học quản lý hành chính để sau này tham gia vào bộ máy công chức, quan lại. Thục hơn Diệm bốn tuổi, lựa chọn con đường sự nghiệp mà ông Khả đã từ bỏ và trở thành một học sinh trường đạo.” (Edward Miller, Sách đã dẫn, trang 36).
Năm 1907, cụ Ngô Đình Khả quyết liệt phản đối việc người Pháp truất quyền và đày vua Thành Thái vì cho rằng nhà vua mắc chứng tâm thần. Sử gia Edward Miller viết: “Thất vọng vì những kế hoạch cải cách của mình bị phá hỏng, ông Khả từ quan và xin rút khỏi triều đình. Khi tin tức về những hành động của ông Khả lan rộng, các nhân vật chống thực dân trên toàn Đông Dương ngợi khen ông là nhà yêu nước. Trong số những người từng bày tỏ sự khâm phục dành cho ông Khả có người thanh niên mà sau này được thế giới biết đến với tên Hồ Chí Minh. Nhiều thập niên về sau sự phản kháng của vị quan già này vẫn được nhớ tới và tán dương trong một câu truyền miệng dân gian như sau: “Đày vua không Khả/ Đào mả không Bài.” (Edward Millers, Sách đã dẫn, trang 36).
Một người như Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi được Cụ Nguyễn Hữu Bài tiến cử với vua Bảo Đại để ra làm Thượng thư Bộ Lại và chủ tịch Hội Đồng Cải Cách năm 1933, vốn đã học hỏi rất nhiều và có lắm kinh nghiệm về vấn đề chính trị và quản trị hành chánh. Điều này dĩ nhiên ông phải học từ những vị được giao tiếp thường ngày như cụ Ngô Đình Khả, cụ Nguyễn Hữu Bài, rồi cụ Phan Bội Châu, và các vị giám mục, linh mục trong hàng ngũ chức sắc Công Giáo ngoại quốc cũng như Việt Nam, các vị bề trên dòng tu, các tu sĩ và giáo dân v.v… Ngoài việc học được những kinh nghiệm xử thế, kiến thức, chữ nghĩa, có lẽ ông cũng học được nơi các bậc tiền bối và nhiều người các đức tính khác của một nhà lãnh đạo một đất nước. Việc giới thiệu này chắc chắn đã được cân nhắc rất kỹ càng giữa người tiến cử và người được tiến cử. Hơn nữa, TT Ngô Đình Diệm đã chứng tỏ khả năng và tinh thần làm việc của mình từ thời gian làm công tác phiên dịch một số tài liệu Pháp Văn, Hán Văn (thời gian là học viên Trường Hậu Bổ ở Huế) cho Tòa báo Bulletin Des Amis Du Vieux Hué (Đô Thành Hiếu Cổ), mà đối với giới nghiên cứu sử học đó là những tư liệu rất quý. rồi đảm nhận chức vụ tri huyện Hải-Lăng (Quảng Trị), Quản đạo Ninh Thuận rồi Tuần phủ Bình-Thuận…
Theo gia phả của cụ Nguyễn Hữu Bài, thủy tổ của cụ là Nguyễn Trãi (1380-1442) tức Nhị Khê Hầu, đệ nhất công thần đời Hậu Lê. (Nguyễn Thúc, Thơ Nôm Phước Môn, Bảng Thế-hệ Họ NGUYỄN-HỮU, bản in lần thứ nhất, 1959, trang 26-30). Trong dòng tộc của cụ Nguyễn Hữu Bài, người ta đọc thấy các danh nhân như Nguyễn Triều Văn tước Triều-Văn Hầu thời Lê. Ông Nguyễn Triều Văn sinh ra tướng Nguyễn Hữu Dật giúp triều Nguyễn có công đánh Trịnh lấy được Nghệ An, Quảng Bình. Con ông Dật là Nguyễn Hữu Hào và Nguyễn Hữu Cảnh có công đánh Chiêm Thành, Chân Lạp. Nguyễn Hữu Cảnh xây dựng sự nghiệp lớn của mình trong cuộc Nam Tiến. Ông Nguyễn Hữu Cảnh (Lễ Thành Hầu) sinh ra Nguyễn Hữu Tứ (tính từ Nguyễn Trãi xuống ông nầy là 12 đời). Ông Tứ sinh ông Hiệp. Ông Hiệp sinh ra ba ông Nguyễn Hữu Hoãn, Nguyễn Hữu Ba, Nguyễn Hữu Quỳnh. Ông Nguyễn Hữu Quỳnh theo Công Giáo được chức Vệ-Úy dưới thời Gia Long, có nhiều công trạng nhưng vì trung thành với Đức tin Công Giáo, ông chịu bỏ đạo nên ông bị vua Minh Mạng xử giảo (thắt cổ) ngày 10-7-1840, được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong làm Hiển Thánh ngày 19-6-1988. Ông Hoãn sinh ra ông Nguyễn Hữu Trí và Nguyễn Hữu Huệ. Ông Trí sinh ra ông Nguyễn Hữu Tín đi tu làm linh mục.
Ông Nguyễn Hữu Ba sinh ra ông Đài. Ông Nguyễn Hữu Đài sinh ra ông Các. Ông Nguyễn Hữu Các sinh ra ông Nguyễn Hữu Bài. Theo cụ Nguyễn Hữu Bài cho biết dòng tộc chuyên nghề làm thuốc.
Ông Nguyễn Hữu Bài sinh ngày rằm tháng 8 năm quý hợi tức 28-9-1863 tại làng Cao-xá, tổng Xuân-hòa, phủ Vĩnh-linh, tỉnh Quảng-Trị, gia đình theo Công Giáo, cháu của Linh mục Nguyễn Hữu Thơ. Được bà mẹ hết lòng dạy dỗ và khi ông Bài lên 10 tuổi mẹ ông cho đi tu tại Tiểu chủng viện An Ninh. Trong thời gian 10 năm tu học ở đây, ông học rất thông minh, luôn luôn đứng đầu lớp và theo Nguyễn Thúc, biên giả cuốn Thơ Nôm Phước Môn chính Giám Mục Caspar “khen ông là một thanh niên anh tuấn, tương lai thành tài đạt đức, sẽ nên đại dụng.” Sau hòa ước Patenôtre, triều đình Huế cần sử dụng một số người biết tiếng Pháp để giúp việc tại Nha Thương bạc Huế, ông cùng nhiều tu sĩ khác (như các linh mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Cư) quyết tâm ra đảm đương việc nước. Lúc đầu ông làm thừa phái ở Thương Bạc Ty, rồi qua Ký lục và Thông sự tại Tòa Khâm Sứ. Năm 1886, Triều đình cử ông đi với phái bộ quan binh Pháp để phân định biên giới Bắc kỳ, tiếp giáp nước Tàu. Năm 1887, Nguyễn Hữu Bài đi quân thứ đánh dẹp thổ phỉ quấy nhiễu miền thượng du Bắc kỳ. Năm 1897 ông làm Ngự Tiền Thông Sự, hộ giá vua Thành Thái đi Sài gòn. Năm 1898 ông làm Bố chánh Thanh Hóa và chính tại đây ông gặp ông Ngô Đình Khả và được ông Ngô Đình Khả vận động cho về làm việc tại Huế chức Thị lang bộ Lại rồi Tham tri bộ Hình. Năm 1902 ông ở trong phái bộ của ông Nguyễn Thân sang chính thức viếng thăm nước Pháp. Ông Nguyễn Hữu Bài là người có cùng một lập trường với ông Ngô Đình Khả trong việc chống lại người Pháp phế bỏ vua Thành Thái. Ngày 17-01-1913, Khâm sứ Georges Mahé cho đào lăng vua Tự Đức để tìm vàng nhưng bị ông Nguyễn Hữu Bài phản đối quyết liệt nên người Pháp bỏ chiến dịch này. Dân gian có câu : “Đày vua không Khả, Đào mả không Bài” là đề khen cụ Ngô Đình Khả và cụ Nguyễn Hữu Bài”. Các đức tính liêm khiết, chính trực, “uy vũ bất năng khuất” của các bậc tiền bối chắc chắn có ảnh hưởng trên chính sách của TT Ngô Đình Diệm về sau.
Đối với một người ảnh hưởng phần nào trên chính sách của TT Ngô Đình Diệm có lẽ là cụ Phan Bội Châu, khi Bernard Fall cho biết sau vụ từ chức năm 1907, cụ Ngô Đình Khả đã bắt đầu vận động giúp đỡ cho Phan Bội Châu lúc bấy giờ hoạt động dưới ảnh hưởng của Tôn Dật Tiên qua các đồng chí của ông ở Hà Nội. (Fall, The Two Vietnams, trang 235 và chú thích trang 479). Năm 1925, người Pháp đưa cụ Phan Bội Châu về giam lỏng ở Bến Ngự, Huế và trong thời gian từ 1925-40, cụ Ngô Đình Diệm đã có nhiều dịp tiếp xúc với cụ Phan Bội Châu.
Edward Miller ghi nhận rằng: “Diệm thần tượng Phan Bội Châu về những gì ông đã làm được với tư cách là một nhà cách mạng, vậy nên không có gì ngạc nhiên khi hai người trở nên thân thiết kể từ khi Diệm từ chức vào năm 1933 đến khi Phan Bội Châu qua đời vào năm 1940. Diệm cũng rất kính trọng Phan Bội Châu về kiến thức Nho giáo, nhất la 2những bình luận thong thái của Phan Bội Châu về những bản văn Nho giáo kinh điển vào những năm tranh tối tranh sáng đó.” Ở một đoạn khác, sử gia này còn cho biết Phan Bội Châu “quả quyết rằng, Nho giáo, khi được gạn lọc về nội dung cốt lõi, có thể trở nên rất linh hoạt và có thể trả lời cho rất nhiều câu hỏi và vấn đề hiện thời.” Đối với tư tưởng này của “ông già Bến Ngự”, “Diệm hoàn toàn tán thành quan điểm của Phan Bội Châu về Nho giáo như một dạng triết lý xã hội linh hoạt, có thể áp dụng vào các vấn đề đương đại của Việt Nam. Sau năm 1954, người ta sẽ nhận thấy sự rập khuôn theo quan điểm của Phan Bội Châu trong quan điểm về chế độ dân chủ và các nỗ lực của Diệm nhằm đưa ngôn ngữ và những khái niệm Nho giáo vào các chương trình xây dựng quốc gia của mình.” (Edward Miller, Sđd, trang 42).
Một số tác giả Hoa Kỳ coi TT Ngô Đình Diệm là người theo chủ nghĩa Khổng tử cuối cùng (The Last Confucean) nhưng họ không hiểu con người Ngô Đình Diệm, nhất là những nhà báo trẻ trẻ tuổi ít kiến thức về Á châu học như David Halberstam, Neil Sheenan chẳng hạn.
4.- Tổng Thống Ngô Đình Diệm và vấn đề chủ quyền đất nước.
Trong cuốn Chính Đề Việt Nam, tác giả Tùng Phong (Ngô Đình Nhu) cho biết :“Thi hành đúng theo chủ nghĩa Đế quốc của họ chủ trương, người Pháp không bao giờ muốn, và cũng không bao giờ thực hiện việc đào tạo những người bản xứ có đủ khả năng để làm những công việc mà người Pháp đang làm và để, trong tương lai thay thế họ. Thoảng như có những người bản xứ, nhờ những nỗ lực riêng, mà thâu thập được một sự đào tạo lý thuyết ngang hàng với những nhân viên cao cấp của họ, thì không bao giờ người Pháp lại giúp cho những người ấy những hoàn cảnh thuận lợi để họ có thể thâu thập những kinh nghiệm lãnh đạo cần thiết.”(Tùng Phong, Nhà xb. Hùng Vương, trang 26, dựa theo bản in của Nhà xb Đồng-Nai).
Cụ Ngô Đình Diệm chính là điển hình của một người Việt Nam mà đoạn văn trên vừa mô tả. Là người đã thừa hưởng một nền giáo dục nghiêm túc trong gia đình, đã trải nghiệm nhiều năm trong vấn đề quản trị hành chánh, tiếp xúc nhiều với đủ hạng người trong xã hội, thu tập được nhiều kinh nghiệm với giới trí thức ngoại quốc cũng như quốc nội, đã được huấn luyện để có đủ khả năng điều hành một quốc gia và điều này trái ngược với chủ trương cố hữu của người Pháp như đã thấy ở trên, Cụ đã tự rèn luyện, tự học hỏi để trở thành một bậc xuất chúng, đã khiến cho nhiều sử gia ngoại quốc, nhiều chính khách phải đi từ ngạc nhiên đến thán phục.
Qua cuốn sách chính luận nói trên, tác giả Tùng Phong đã viết rằng: “Những nhà lãnh đạo xứng danh bao giờ cũng hành động theo một triết lý chính trị mà họ đã nghiền ngẫm lâu ngày, trước khi mang ra thực hành.” Vấn đề chủ quyền đất nước đối với TT Ngô Đình Diệm là một chủ đề đã được suy tư, biện giải, nghiền ngẫm để trở nên một lý tưởng, và bao lâu chưa làm hết sức mình để đạt cho được lý tưởng đó Cụ vẫn còn nhất quyết đấu tranh từ khởi thủy cho đến chung cuộc. Ý thức rằng chủ quyền nằm tản mạn trong dân chúng cho nên để có sức mạnh huy động được dân chúng, người lãnh đạo phải làm việc vì dân, sống chết vì dân, đi sát vào cuộc sống của người dân nhất là ở nông thôn.
Thời cụ trấn nhậm vùng Phan Rang là một thời bất an, vì bấy giờ Cộng sản bắt đầu bạo hành trên toàn cõi Đông Dương. Nhưng càng gặp khó khăn, cụ Diệm càng tỏ ra tài cán. Thay vì đục nước béo cò, nước càng đục phèn càng quý. Đang khi phòng Nhì Pháp bắt bớ dân chúng vì tình nghi Cộng sản, cụ lại càng ra tay bênh vực dân lành. Một tác giả không mấy tử tế với họ Ngô (Denis Warner, The Last Confucean, New York, MacMillan, 1963, tr. 70) đã phải nói tóm tắt về Cụ trong thời đó như sau: “Đối với Pháp, Ông là một công chức gương mẫu, đối với người Việt, Ông là một nhà cầm quyền trẻ tuổi mà tài cán, hết mực cần cù, làm tròn phận sự mà bàn tay không bị vấy bẩn.” (Nguyễn Phương, A parade of American puppets, trang 14).
Trong cương vị là quản đạo hay tuần phủ ở một tỉnh nhỏ hay tỉnh lớn, cụ được cấp phương tiện xe kéo, lính hầu nhưng cụ dùng ngựa, vừa nhanh và có thể đi sâu vào các vùng xa xôi, hẻo lánh, thấy rõ được dân tình.
Đồng liêu với cụ Ngô Đình Diệm vào giai đoạn này có cụ Tôn Thất Hoàn làm tri huyện Nghi Lộc, Nghệ An, đã bị Cộng Sản huy động dân quê trong Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh giết vào ngày 2-01-1931 khi cụ Hoàn tới hiểu dụ đám đông giải tán mặc dù có đem theo hộ vệ. Cuộc đời liêm chính của cụ Tôn Thất Hoàn và sự hiến thân vì lý tưởng đất nước của cụ cũng không khác gì tinh thần làm việc của cụ Ngô Đình Diệm; bởi vậy mà sau cái chết của cụ Hoàn, Thượng Thư Bộ Binh Phạm Liệu, người Quảng Nam, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1898) có đôi câu đối khắc treo ở miếu thờ cụ Tôn Thất Hoàn tại Nghi Lộc, Nghệ An đã được nhân dân lưu truyền như sau:
爲 國 亡 軀 勇 敢 一 身 行 獨 馬
出 家 化 佛 英 雄 千 古 塟 雙 魚
Phiên âm:
Vị quốc vong khu, dũng cảm nhất thân hành độc mã,
Xuất gia hóa Phật, anh hùng thiên cổ táng Song ngư.
Dịch nghĩa:
Vì nước quên thân, dũng cảm một mình lên đường với một ngựa.
Xuất gia hóa Phật, anh hùng muôn thuở vùi thây tại Song ngư (Cửa Lò).
Tinh thần làm việc vì quốc gia, vì dân tộc của các bậc tiền nhân dưới triều nhà Nguyễn thật đáng khâm phục, không như ‘cán bộ’ đảng Cộng sản Việt nam ngày nay chỉ biết tham nhũng mà thôi.
Nhìn vào mối liên hệ giữa Ngô Đình Diệm với cụ Nguyễn Hữu Bài rất mật thiết sau khi cụ Ngô Đình Khả mất (1923) người ta thấy được lý tưởng trong sáng đó. Theo Edward Miller, mặc dầu cụ Nguyễn Hữu Bài bị mất chức trong cuộc cải tổ nội các của Bảo Đại năm 1933, nhưng để xoa dịu vị quan già này, người Pháp đã đưa đệ tử ruột của cụ là Ngô Đình Diệm vào vị trí Thượng thư bộ Lại, nhưng chưa đầy hai tháng sau khi được đề bạt vào nội các, ông Diệm từ chức. “Trong một bức thư gửi vua nhà Nguyễn - một thiếu niên được gọi là Bảo Đại, người sẽ có nhiều mối tiếp xúc khác với Diệm vào những năm sau này - Diệm dẫn ra những lời phàn nàn về sự hà hiếp của Pháp đối với chủ quyền Việt Nam mà ông Bài đã dâng thưa trước đó…” (Edward Miller, Sđd, trang 39). Hành động từ quan, mà là một chức quan lớn đầu triều của cụ Ngô Đình Diệm, khi mới 32 tuổi, không chỉ khiến cho nhiều người trong triều Nguyễn và khắp nước thán phục mà còn làm một nhà cách mạng đã một đời dấn thân vì đất nước, cụ Phan Bội Châu cũng phải kính trọng với những lời như sau: “Ông Ngô Đình Diệm, con người có tâm huyết, biết thương giống nòi, biết nhục vong quốc, nên ông mới dám chống lại cường quyền, lui về ẩn tích, đợi thời tuyết sỉ. Đó mới là đáng bậc CHÍ SĨ, VĨ NHÂN, tất sau này cuộc Phục Hưng chỉ có hạng người ông Diệm mới làm nổi… Ta muốn tặng ông Diệm một bài thơ để tỏ lòng kính trọng bậc thiếu niên hiền triết… Ông Diệm bây giờ mới là ông lớn thật sự.” (Minh Võ, Ngô Đình Diệm: Lời khen tiếng chê, Thông Vũ tái bản lần thứ nhất, California, tháng 10-1998, trang 42). Biết rằng người Pháp còn quyết liệt nắm lấy chủ quyền đất nước và mình sẽ không làm được gì nên cụ Diệm đã từ chức.
Tháng 2 năm 1946, khi bị Hồ Chí Minh bắt và đưa về gặp họ Hồ ở Bắc Bộ phủ, cụ Ngô Đình Diệm lúc đó đang bị bệnh sốt rét nặng, đã từng tỏ khí phách can trường trong một cuộc đối thoại căng thẳng, giữa hai người qua đó cụ Ngô đã từ chối đề nghị cộng tác với Hồ Chí Minh qua chức vụ Bộ trưởng Nội vụ:
-“Không thể được, ông có chính sách cứu nước của ông, và tôi có chính sách cứu nước của tôi. Ông có cam đoan được rằng ông sẽ bỏ thuyết vô sản chuyên chính không? Khắp nơi, cán bộ ông đang thi hành thuyết đó. Họ giết hết các nhà quốc gia chân chính. Họ giết cả anh em tôi.”
Đến đây Hồ Chí Minh cảm thấy phải chữa mình. Ông nói:
-“Vậy mà tôi không hay biết gì cả. Nước đang lâm cảnh loạn ly. Xin ông ở lại với tôi để cùng nhau chống Pháp.” Dường như cả hai người đều hiểu rằng chỉ có vì sợ cụ Diệm mới chấp nhận. Cụ lên tiếng: “Ông biết tôi là ai không? Tôi không phải hạng hèn nhát”. Hồ Chí Minh vội vàng nói đỡ: “Không, ông không hề hèn nhát”. Cụ Diệm tiếp: “Vậy thì để cho tôi đi”. Và Hồ Chí Minh để cụ Diệm ra đi. (Trúc Long Nguyễn Phương, Sơ lược về thân thế & sự nghiệp của Cố TT Ngô Đình Diệm, Trích Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, số 118).
Edward Miller trong bài viết được Hoài Phi và Vy Huyền dịch ra Việt ngữ có tên “Viễn kiến, quyền lực và tính chủ động: Con đường lên nắm quyền của Ngô Đình Diệm, 1945-1954” (Talawas 9.8.2007) đã có viết: “Không có lý do gì để nghi ngờ việc Ngô Đình Diệm tuyên bố ông dùng những lời lẽ sắc bén và chua chát trong cuộc gặp đó, vì ông biết rằng quân Việt Minh bắt và xử tử người anh cả Ngô Đình Khôi của mình mấy tháng trước đó. Mặt khác, khi câu chuyện được Ngô Đình Diệm kể lại về cuộc gặp này vào sau năm 1954 lược bỏ sự thực rằng ông đã sẵn lòng tham gia một chính phủ Việt Minh nếu như Hồ Chí Minh chỉ cần đồng ý với yêu cầu để ông nắm giữ một số mặt trong chính sách.”
Trong chú thích số 13 ở dưới Edward Miller có viết : “Ngô Đình Diệm trước đó đã từng công nhận rằng mình hẳn đã tham gia chính phủ của Hồ Chí Minh để đổi lấy việc được nắm quyền trong chính sách an ninh của Việt Minh; xem Ellen J. Hammer, The Struggle for Indochina, 1940-1955 (Stanford: Stanford University Press, 1966), trang 149-150; và Memorandum of Conversation, Edmund S. Gullion, 8 May 1953, Foreign Relations of the United States [FRUS] 1952-1954, vol. 13 (Washington: Government Printing Office, 1982), trang 553-554.”
Một nhà nghiên cứu sử, Minh Võ cung cấp thêm một chi tiết cần được kiểm chứng là trong biến cố gặp gỡ này “Ông đòi quyền thay đổi, chi phối chính sách của ông Hồ, như một điều kiện để hợp tác.” (Minh Võ, Ngô Đình Diệm và chính nghĩa dân tộc, Hồng Đức xb. 2008, trang 122). Thật sự thì cụ Ngô đã thẳng thừng (carrément) bác bỏ đề nghị hợp tác của Hồ Chí Minh ngay trong vài phút của cuộc gặp gỡ đầu tiên và cũng là cuối cùng.
Đây là trận đánh cân não giữa một bên là chủ quyền dân tộc và một bên là chủ quyền của vô sản quốc tế. Cụ Ngô Đình Diệm thừa biết Hồ Chí Minh là tay sai của Cộng sản Quốc tế không hề có ý thức về chủ quyền mà chỉ làm việc theo lệnh của Liên Xô và Trung Cộng nên cụ đã không sợ chết một khi cần bảo vệ và công khai hóa lý tưởng và con đường đấu tranh của mình.
Lý tưởng bênh vực chủ quyền của đất nước vẫn luôn là điểm quy chiếu trong lịch trình hoạt động của TT Ngô Đình Diệm trong các giai đoạn tranh đấu trước khi nắm được chính quyền. Sử gia Edward Miller trong bài báo trích dẫn bên trên cho biết: “Vào tháng Hai năm 1948, Ngô Đình Diệm và các lãnh đạo khác thuộc phe quốc gia gặp tại Sài Gòn để thảo ra một khung đàm phán với Pháp về vấn đề độc lập của Việt Nam. Sau đó Ngô Đình Diệm quay trở lại Hồng Kông vào tháng Ba để cố gắng thuyết phục Bảo Đại ủng hộ kế hoạch này; ông cũng vận động các quan chức Pháp nhượng bộ thêm về phạm vi chủ quyền của Việt Nam…”
Ba năm sau, vấn đề chủ quyền đất nước cũng được chính khách Ngô Đình Diệm tỏ rõ một lần nữa. Theo tác giả Minh Võ, qua tờ Écho du Vietnam đăng lời tuyên bố của Ngô Đình Diệm ngày 16-6-1949 “ nhận định một cách chính xác rằng chỉ có dành được độc lập hoàn toàn và giữ đúng cương vị của một quốc gia có chủ quyền mới có thể thi đua với Việt Minh, và đánh thắng Việt Minh.” (Minh Võ, Ngô Đình Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc, Hồng Đức xb, 2008, trang 37).
Trong bản tuyên bố đó, cụ Diệm cho biết thêm: “Nên biết rằng cuộc tranh đấu hiện tại không chỉ là một cuộc chiến đấu cho độc lập Tổ quốc về phương diện chính trị, mà còn là một cuộc cách mạng xã hội để khôi phục độc lập cho nông dân và thợ thuyền Việt Nam. Để tất cả mọi người ở Việt Nam có đủ phương tiện sống xứng đáng với phẩm cách con người, con người tự do thực sự, tôi chủ trương những cải cách xã hội hết sức tân tiến và mạnh bạo, miễn là phẩm cách con người luôn được tôn trọng và tự do nảy nở.” (Lời tuyên bố của Chí-sĩ Ngô-đình-Diệm ngày 16 tháng 6 năm 1949”, trong CĐCN, 1:221-222, dẫn theo Edward Miller, Sđd, trang 54).
Ngày 16 tháng sáu năm 1954, ở Ba-Lê, khi nhận lập chính phủ, cụ tuyên bố “một nền hòa bình lâu dài và trù phú, đặt trên một nền tảng độc lập của quốc gia và tự do của dân tộc, đưa ra một vấn đề có một tính cách đáng quan ngại. Chỉ có một cuộc chuyển hướng chính trị mới mẻ, mới có thể đưa đến mục đích đó.” (Nguyễn Phương, Ánh sáng dân chủ, 1957, trang 121). Chỉ hơn một tuần sau, ngày 25 tháng sáu, khi đặt chân xuống Sài-gòn, cụ liền tuyên bố cụ về là để “cứu vãn tình thế, thực hiện hòa bình với sự thống nhất lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, hoàn bị một nền hòa bình trong tự do, trong sự tôn trọng nhân phẩm và gia đình. Vì chỉ nền hòa bình ấy mới phù hợp với nguyện vọng đồng bào là an cư lạc nghiệp trong một xã hội công bình dân chủ.” (Nguyễn Phương, Sđd, trang 122).
Trong bản Hiến pháp của nền Đệ Nhất Cộng Hòa, công bố ngày 26-10-1956, ở Thiên Thứ Nhất, mục Điều Khoản Căn Bản, Điều 2 có ghi: “Chủ quyền thuộc về toàn dân”.
Muốn hiểu rõ xin đọc đoạn văn trích dẫn sau đây của sử gia Nguyễn Phương đã làm sáng tỏ tinh thần “tôn trọng chủ quyền của dân” của TT Ngô Đình Diệm như sau:
“Như mọi người đều biết, Ông Ngô Đình Diệm đã đảm đương nhiệm vụ cứu nước trong những trường hợp độc nhất của lịch sử Việt Nam. Ở Bắc, Cộng-sản đang nắm chặt một nửa giang sơn, và như con hùm dữ, đang há miệng sặc nồng mùi máu đợi thời gian đem cả miền Nam dâng tiến cho. Và bấy giờ miền Nam lại là một con mồi như càng ngày càng hấp dẫn. Thực dân đang cố tiêu hủy những lực lượng quốc gia còn lại. Quân chủ phong kiến trước khi tàn tạ đang bộc lộ tất cả phần thối tha mục nát của mình ra. Thật là một mớ bong bong, nhìn vào đã đủ chóng mặt, không nói gì đến chuyện gỡ ra và xây dựng lại. Nhưng, lo ngại như một người ý thức rõ rệt tất cả sự quan trọng của tình hình, và đồng thời quả cảm như một kẻ đã nắm bí quyết của thành công trong tay, Ông Ngô Đình Diệm đã hiên ngang đương đầu với trở ngại một cách mạnh dạn và sáng suốt. Ngày 16 tháng sáu, 1954, ở Ba Lê, khi nhận lập chính phủ, Ông nói: ‘Giờ phút nầy là giờ phút quyết định. Cố nhiên, tôi quan tâm đến một tình hình quân sự rất nghiêm trọng; nhưng ta có thể và rất cần gỡ lại tình thế ấy, bởi vì nó chỉ là hậu quả dĩ nhiên của một chuỗi dài những sự không hiểu biết và lầm lỗi. Nền hòa bình, một nền hòa bình lâu dài và trù phú, đặt trên một nền tảng độc lập của quốc gia và tự do của dân tộc, đưa ra một vấn đề có một tính cách khác đáng quan ngại. Chỉ có một cuộc chuyển hướng chính trị mới mẻ, mới có thể đi đến mục đích đó.’
Thế rồi, Ông không để dân Việt Nam phải đợi lâu mới cho biết hướng chính trị mới mẻ Ông vừa đề xướng đó. Chỉ hơn một tuần sau, ngày 25 tháng sáu, khi đặt chân xuống Sài gòn, Ông liền tuyên bố Ông về là để “cứu vãn tình thế, thực hiện hòa bình với sự thống nhất lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, hoàn bị một nền hòa bình trong tự do, trong sự tôn trọng nhân phẩm và gia đình. Vì chỉ nền hòa bình ấy mới phù hợp với nguyện vọng đồng bào là an cư lạc nghiệp trong một xã hội công bình dân chủ.”
Khi lập nội các xong, ngày mồng 7 tháng 7, Ông còn cho quốc dân biết rõ hơn rằng : “Quốc dân mong mỏi công lý và an ninh. Quốc dân có thể tin cậy ở chính phủ tôi để tổ chức một nền hành chánh và tư pháp công minh và liêm chính. Quốc dân khát vọng những tự do và dân chủ. Chính phủ sẽ xây dựng một Quốc gia dân chủ có sức hấp dẫn mãnh liệt đối với dân chúng.” (Nguyễn Phương, Sđd, trang 122).
Còn có lời nào tha thiết hơn, chí tình hơn những lời nói của một vị nguyên thủ trong một chế độ dân chủ, tự do thấu hiểu khát vọng ngàn đời của người dân?
.” Điều 8 (cũng trong Thiên Thứ Nhất) của Hiến Pháp có ghi: “Nước Việt-Nam Cộng-Hòa chấp thuận những nguyên tắc quốc tế pháp không trái với sự thực hiện chủ quyền Quốc-Gia và sự bình đẳng giữa các dân tộc.”
Đây là một trong những nguyên tắc hành sử bất biến của TT Ngô Đình Diệm kể từ khi dấn thân vào con đường tranh đấu với các thế lực thù nghịch với chính nghĩa quốc gia, thí dụ thực dân Pháp, cộng sản và ngay cả sau này đối với ngoại bang khác như Hoa Kỳ. Cụ Diệm không chỉ thể hiện nỗ lực bảo vệ chủ quyền đất nước qua tư tưởng, suy nghĩ, nhận thức hay quan điểm mà còn bằng các hành động cụ thể của mình. Người Mỹ khi đổ tiền bạc vào giúp cụ Diệm, họ nghĩ rằng họ có quyền đưa ra những quyết định trong chính sách của Miền Nam nhưng với cụ Diệm việc đó không thể được vì chạm vào một nguyên tắc tối kỵ, và vì thế Hoa Kỳ bắt đầu nói xấu cụ bằng dư luận, bằng báo chí sau hết là bằng hành động. Họ sử dụng Phật giáo làm công cụ đánh phá chế độ qua những cuộc tự thiêu được dàn dựng trước để vu cho chế độ của TT Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo. Người Mỹ dùng báo chí làm công cụ đổi trắng thay đen chẳng hạn từ tình hình chống Cộng rất khả quan tháng 10-1963 trở thành trạng huống nguy ngập về một cuộc chiến tranh không thể thắng được nếu còn chế độ của Cụ Diệm. Một vị Bộ Trưởng của Cụ Diệm kể lại chuyện cụ với một nhà báo Mỹ: “Hình như cả thế giới nổi dậy chống chúng tôi. Không phải chỉ báo chí Mỹ, mà ngay đến cả Tiếng Nói Hoa Kỳ là cơ quan chính thức của chính phủ Mỹ cũng không ngớt nhã ra toàn là những lời tố cáo chúng tôi như là những kẻ dở, làm gì cũng là làm bậy hết. Tưởng như đài BBC trong Đệ Nhị Thế Chiến bỗng nhiên nổi dậy tố cáo Mỹ và hô hào lật đổ Roosevelt…” Tất cả chỉ vì vấn đề chủ quyền, nghĩa là cố vấn Mỹ phải ở khắp nơi, quân đội Mỹ phải vào Việt Nam, Cam Ranh phải được nhường, Cao nguyên phải được nhường. Nói cách khác, Việt Nam không còn chủ quyền nữa.
Trong cuộc đảo chính long trời lở đất dồn vào Dinh Gia Long ngày 1-11-1963, đã xảy ra cuộc đối thoại sau đây giữa TT Ngô Đình Diệm và Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge. Sau đây là báo cáo của Lodge gửi về Hoa Thịnh Đốn:
Ông Diệm: Vài đơn vị đã nổi loạn và tôi muốn biết thái độ của Hoa Kỳ.
Ông Lodge: Tôi cảm thấy không biết khá đủ để có thể nói cho ông hay. Tôi nghe tiếng súng nổ, nhưng không biết tất cả các dữ kiện. Bây giờ là 4 giờ 40 sáng tại Hoa Thịnh Đốn và chính phủ Mỹ không thể có một nhận định được.
Ông Diệm: Nhưng ông phải có một vài ý niệm tổng quát. Sau hết, tôi là quốc trưởng. Tôi đã cố gắng làm bổn phận của tôi. Bây giờ tôi muốn làm cái gì mà bổn phận và thiện ý đòi hỏi. Tôi tin tưởng vào bổn phận trên hết.
Ông Lodge: Chắc là ông đã làm bổn phận của ông. Như tôi đã nói với ông sáng nay, tôi thán phục lòng can đảm và sự đóng góp lớn lao của ông cho xứ sở. Không ai có thể lấy đi được danh tiếng về những gì ông đã làm. Bây giờ tôi lo âu về sự an ninh của ông. Tôi được báo cáo rằng những kẻ phụ trách vụ bạo động đang tiến hành đồng ý để hai anh em ông ra khỏi nước an toàn nếu ông từ chức. Ông đã nghe điều này chưa?
Ông Diệm: Không (rồi sau khi ngưng một chốc). Ông có số điện thoại của tôi?
Ông Lodge: Vâng. Vậy nếu tôi có thể làm gì được cho sự an toàn của ông, ông cứ điện thoại cho tôi.
Ông Diệm: Tôi đang cố gắng tái lập trật tự.
(The Pentagon Papers, Key Documents, văn kiện số 59, trang 232, dẫn theo bản dịch Việt ngữ của Hoàng Ngọc Thành & Thân Thị Nhân Đức, Những ngày cuối cùng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Quang Vinh & Kim Loan & Quang Hiếu xuất bản, in lần ba 1999, trang 432).
Lúc bấy giờ cũng như trước đây, chủ quyền đất nước là điều tối thượng đối với cụ Ngô Đình Diệm chứ không phải là sinh mạng của chính Cụ và Cụ tìm cách tái lập trật tự tức là tái lập chủ quyền đất nước đang bị ngoại nhân dùng bọn ngoại nô để phá hoại, chiếm đoạt.
Ngày 7 tháng 4 năm 1985, mười năm sau cái chết của Việt Nam Cộng Hòa, đài truyền thanh KFWB/98 thông báo nhiều lần kết qua thăm dò dư luận của hãng Gallup cho biết 63% dân chúng Mỹ đã công nhận rằng việc Mỹ can thiệp vào chiến tranh Việt Nam là một lầm lẫn. Dưới ngòi bút Trúc Long, sử gia Nguyễn Phương nhận định rằng: “”Mỹ đã lầm lẫn ngay từ nguyên nhân. Khi can thiệp vào Nam Việt Nam, họ đã tuyên bố là giúp Nam Việt Nam để đánh Cộng sản. Nhưng họ đã giúp Nam Việt Nam thật hay không? Tổng thống Nam việt Nam lúc bấy giờ là Cụ Ngô Đình Diệm đã dựa vào những lời tuyên bố như thế để xử sự. Cụ Diệm nghĩ rằng Mỹ giúp, tất nhiên Mỹ phải đóng vai phụ vì phụ là giúp, và Nam Việt Nam đóng vai chính, cả về chính trị, cả về quân sự. Với quan niệm đường đường chính chính như thế, Cụ đã không nhường một tấc đất cho Mỹ để làm căn cứ, cũng không để cho Mỹ nắm một quyền chủ động nào trong vùng đất nhỏ bé mà Cụ có bổn phận nắm giữ chủ quyền. Đang khi Cụ Diệm đinh ninh xử sự như vậy mới là làm xong phận sự thì Mỹ lại không cho rằng phận sự đó là đúng. Thế là Cụ Diệm bị tố là quan liêu lỗi thời, là cục bộ, là lạc hậu…Ở Hoa Thịnh Đốn, một Tổng Thống John được hoan nghinh vì dùng bào đệ Robert làm cố vấn nhưng ở Sài Gòn bào đệ Nhu bị coi như một ác quỷ nhất thiết phải trục xuất ra khỏi chính quyền chỉ vì lý do là làm cố vấn cho đại huynh Diệm. Và điều kiện dứt khoát của Hoa Thịnh Đốn là Cố vấn Nhu phải ra đi, nếu không Mỹ sẽ cắt đứt hết mọi viện trợ vừa kinh tế vừa quân sự cho Nam Việt Nam. Cuối cùng, chỉ vì không thể chịu được cái ức của kỳ thị mà Cụ Diệm đã bị đảo chánh và bị giết. Không may, Cụ Diệm chết thì chủ quyền của Nam Việt Nam cũng hết sống. Kể từ ngày 1-11-1963, cho đến ngày 30-4-1975, Nam Việt Nam chỉ còn là một cái xác không hồn…” (Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, số 224, bài Một lầm lẫn được thú nhận).
Mục đích Hoa Kỳ lật đổ chế độ hợp pháp của TT Ngô Đình Diệm là đổ quân vào Nam Việt Nam, dành toàn bộ công cuộc chống Cộng vào tay quân đội Mỹ, dưới tác động của nhóm siêu quyền lực để tiêu thụ số vũ khí còn lại trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Theo cụ Diệm như vậy là Miền Nam sẽ mất chính nghĩa và Cộng Sản Bắc Việt sẽ khai thác nhược điểm này để tuyên truyền trước mặt quốc tế. Với TT Ngô Đình Diệm, khi cần, VNCH sẽ thông qua quốc hội ký một thỏa ước kêu gọi Hoa Kỳ tham dự vào cuộc chiến ở VN và quân đội Hoa Kỳ sẽ chỉ đóng ở vùng biên giới thuộc vĩ tuyến 17.
Quả thật, sau cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chủ quyền đất nước đã không còn và Hoa Kỳ đã không hiểu rằng vì vấn đề chủ quyền của đất nước mà Việt Nam đã phải chống Tàu hơn một nghìn năm, chống thực dân Pháp trong một trăm năm, và đang long đong lận đận chống lại bọn Cộng Sản Việt Nam đang làm đầy tớ cho Trung Cộng, để giành lại chủ quyền của người dân.
Sau Tổng Thống Ngô Đình Diệm, những người do Hoa Kỳ đưa lên lãnh đạo VNCH không có đạo đức và khả năng cho nên việc mất nước vào tay Cộng Sản chỉ còn là vấn đề thời gian. Sau đây là nhận xét của Giáo sư Hoàng Ngọc Thành dựa trên sự phân tích của cơ quan tình báo Hoa Kỳ:
“Nhưng phân tích và tìm hiểu đến tận cùng, như cơ quan CIA đã làm về các tướng lãnh và nhân vật tại Nam Việt Nam, các ông Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Nguyễn Ngọc Lễ và một số khác nữa chỉ là về căn bản những người đánh thuê cho thực dân Pháp rồi vì thức thời nên đã theo ủng hộ ông Diệm. Họ đã được đổi đời nhưng tận đáy lòng họ, căn bản vẫn thế. Điều này không có nghĩa là họ không muốn trở thành người tốt, người “yêu nước”đúng nghĩa của danh từ. Nay ông Diệm gặp khó khăn vừa trong nội bộ và nhất là đối với đồng minh khổng lồ Hoa Kỳ, họ cũng lăm le muốn làm “cách mạng”, làm người yêu nước yêu nòi như ai. Nhưng như sự diễn tiến tình hình cho thấy, họ đâu có tầm vóc, đức tính và khả năng để làm đúng theo tham vọng của họ được. Nên họ cũng trở lại làm tay sai. Một số sách và báo chí ngoại quốc có chỉ trích tổng thống Diệm về sự thiếu cương quyết và cứng rắn trong cách đối xử với một số tướng tá. Điều nhận xét này có thể xem là đúng.” (Hoàng Ngọc Thành & Thân Thị Nhân Đức, Sách đã dẫn, trang 392).
Có ba nhân vật phải được thêm vào đây để mọi người nhớ đến, kể về quá trình có mặt trong lực lượng quân sự Pháp và chịu sự chỉ đạo của Tòa Đại sứ Mỹ cùng với các nhân vật nói trên đó là Nguyễn Văn Thiệu, Tôn Thất Đính và Đổ Mậu là ba nhân vật chủ chốt trong vụ đảo chính 1-11-1963.
Trong thực tế, TT Ngô Đình Diệm không kỳ vọng gì vào các lớp sĩ quan trong Quân lực VNCH ở chung quanh đã một thời phục vụ cho Pháp, mà Cụ chỉ nhắm và hy vọng nhiều vào thế hệ thanh niên trẻ đang được đào luyện ở Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, Trường Võ Khoa Thủ Đức. Rủi cho Cụ và cũng là cho đất nước khi các thế hệ trẻ này chưa có cơ hội cầm nắm giềng mối trong Quân đội, thì đã nổ ra vụ đảo chính 1-11-63, đưa đất nước ngày càng chìm xuống vực thẳm.
Dưới ngòi bút cẩn trọng, nhà biên khảo Minh Võ, khi trích dẫn đoạn văn sau đây của Giáo sư Hoàng Ngọc Thành, cho rằng “ông Thành đã so sánh một cách hết sức tế nhị và kín đáo người yêu nước Ngô Đình Diệm với những người lãnh đạo quốc gia sau ông như sau : ‘Lằn ranh giới giữa người yêu nước thực sự và tên tay sai là người yêu nước tìm đủ mọi cách để bảo vệ chủ quyền của xứ sở, đến tận cùng, dù phải hy sinh tính mạng, phú quý của cá nhân và dòng họ, còn tên tay sai dù có phản đối nhưng rút cục cũng buông xuôi theo thực dân để khỏi tổn thương đến tính mạng, phú quý của cá nhân và gia đình. Dù lỗi lầm gì đi nữa, người yêu nước thực sự NGÔ ĐÌNH DIỆM CÓ THÁI ĐỘ QUYẾT LIỆT TRONG SỰ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM.. Thái độ này làm chính quyền Mỹ John F. Kennedy mưu đồ đảo chính và sát hại ông. Và biến miền Nam thành một “xứ bảo hộ” của Hoa Kỳ.’ ” (Minh Võ, Sđd, trang 257).
Trong cuốn sách Ngô Đình Diệm, Lời khen tiếng chê, nhà biên khảo Minh Võ đã cho biết sự liên hệ rất mật thiết bộ ba Rufus Philip - Lê Văn Kim - Bùi Diễm (nhân viên CIA), mà Kim là người phụ trách vấn đề chính trị của cuộc đảo chính 1-11-1963 tất nhiên Bùi Diễm cũng là một trong những người quyết định số mạng của TT Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu (trang 54). Và đó cũng là những người đã góp công sức biến Nam Việt Nam trở thành “xứ bảo hộ” của Mỹ sau ngày TT Ngô Đình Diệm bị thảm sát cũng là ngày chủ quyền VN lâm vòng cáo chung.
Trong cuốn sách viết bằng Anh ngữ có tên A Parade of American Puppets, A story of South Vietnam from 1954 to 1975, (Cuộc diễn hành của những tên bù nhìn Mỹ, Câu chuyện Miền Nam Việt Nam từ 1954 đến 1975), sách dày 399 trang khổ 8/11, in ronéo năm 1978, gồm có một bài tựa, một bài dẫn nhập, mười bốn chương, và lời bạt.Trong phần Dẫn nhập ở trang XVIII, sử gia linh mục Nguyễn Phương có viết : “…But the man who resented most the partition of Vietnam was Ngo Dinh Diem who viewed the fate of his fatherland more important than his own” (…Nhưng người oán hận nhất về sự phân chia đất nước là cụ Ngô Đình Diệm vốn đã coi số phận của tổ quốc còn quan trọng hơn sinh mệnh của mình).
Ở trang 101, sử gia Nguyễn Phương viết tiếp: “Ngo Dinh Diem, on the other hand, was a mandarin proud of his career. He loved his country above anything else and tried his best to make it independent and unified. In his pursuit of national liberation, he was not alone, but his team did not count many. He had with him a handful of friends and especially his brother Ngo Dinh Nhu. He wielded, however, a great political power just because of his immense popularity. Man of integrity and righteousness, of heroic patriotism and thorough dedication, he was de eply loved and widely respected by his fellow countrymen.” (Ngô Đình Diệm, trái lại, là một vị quan tự hào về nghiệp vụ của mình. Ông yêu mến quê hương hơn bất cứ một cái gì khác và nỗ lực hết sức mình để làm cho đất nước được độc lập và thống nhất. Trong khi theo đuổi công cuộc giải phóng quốc gia, ông không cô đơn nhưng nhóm của ông cũng không mấy đông đảo. Ông có một ít bạn hữu và đặc biệt có em của ông, ông Ngô Đình Nhu. Tuy nhiên, ông vẫn tạo ra được quyền hành chính trị lớn bởi lẽ ông có uy tín trong quảng đại quần chúng. Là con người liêm khiết chính trực và với tấm lòng yêu nước nồng nàn, hoàn toàn tận hiến, ông được đồng bào yêu mến và kính trọng). (Nguyễn Phương, A parade of American Puppets, trang 249.)
Viết về người Mỹ tại Việt Nam, linh mục Nguyễn Phương có lúc bộc lộ tinh thần phẫn nộ và niềm uất ức của ngòi bút sử học như sau: “The work of the US in South Vietnam was, in summary, a work of destruction, systematic and thorough. There was the destruction of patriotism and nationalism in the case of Diem’s overthrow and assassination. There was the destruction of Vietnamese sovereignty by the establishment of a regime of American puppets by way of aid and advice. There was the destruction of the Vietnamese society by testing the ‘search and destroy’ strategy which was the cornerstone of the Kennedy’s counterinsurgency tactics, and which, as Barry Weisberg remarked, ‘has given way to the incentive to simply destroy.’ Finally, there was the destruction of all human rights by engineerring a total surrender of South Vietnam to the Communists.’ “I am uniting Vietnam”, had boasted Kissinger since 1972.”(Thành tích của Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam, tóm lại, là thành tích phá hủy có hệ thống và toàn diện. Đó là sự phá hủy lòng ái quốc và tinh thần quốc gia qua việc lật đổ và ám sát cụ Diệm. Đó là sự phá hủy chủ quyền của Việt Nam bằng cách dựng lên một chế độ gồm toàn những tay bù nhìn Mỹ qua viện trợ và cố vấn. Đó là sự phá hủy xã hội Việt Nam bằng cách thí nhiệm chiến lược “lùng và diệt” vốn là viên đá gốc trong chiến thuật phản nổi dậy của chính quyền Kennedy, và điều đó, như Barry Weisberg lưu ý, đã nhường bước cho sự kích hứng nhằm chỉ để diệt gọn mà thôi. Cuối cùng, đó là sự phá hủy mọi quyền con người bằng cách bố trí một cuộc đầu hàng của toàn bộ Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản. Từ năm 1972, chính Kissinger từng khoác lác khoe: “Tôi đang thống nhất Việt Nam.” ( Nguyễn Phương, A parade of American puppets, trang 350)
Sau đây chúng ta đọc một đoạn tiếp về Cựu Trung Tướng cũng là Cựu TT của VNCH Nguyễn Văn Thiệu, dưới ngòi bút của sử gia Nguyễn Phương để thấy sự tương phản trong tư cách của TT Ngô Đình Diệm, vị sáng lập nền Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam và Tướng N.V. Thiệu (của nền Đệ II Cộng Hòa) : “Thieu was malleable by nature. Extremely ambitious and perfidious, he was no devotee of any ideological or nationalistic cause… He was corrupt, but this did not bother the United States when corruption became a means to widen the American fre edom of action in another country.”(Bản chất Thiệu vốn dễ bảo. Rất đỗi tham vọng và hay lừa đảo, ông ta không phải là người có thể tận hiến bản thân cho một ý thức hệ hay chính nghĩa quốc gia… Ông ta tham nhũng nhưng điều đó không làm bận tâm người Mỹ khi vấn đề tham nhũng đã trở thành một phương thế giúp cho họ được tha hồ tự do hành động ở một quốc gia khác.)
Tướng Thiệu không phải là nhà chính trị vì ông không được học tập, rèn luyện có bài bản trong môi trường chính trị như TT Ngô Đình Diệm và các bào đệ của Cụ. Theo sự tiết lộ của Bác sĩ Hồ Văn Châm với báo chí vào năm 1973 (?) khi ông làm Tổng Trưởng Bộ Chiêu Hồi, là vào năm 1946, ông Nguyễn Văn Thiệu đã tham gia Mặt Trận Việt Minh với chức vụ Huyện Ủy Viên huyện Tri Thủy, Phan Rang. Vì sự tiết lộ này mà ông Châm bị thất sủng một thời gian. Mới đây ông Nguyễn Quang Duy ở Úc Đại Lợi có nhắc lại chuyện “ông Thiệu là huyện ủy” trên một số trang mạng trong đó có Web BBC tiếng Việt nhưng không nói rõ xuất xứ, vả lại câu chuyện cũng không phải mới mẻ gì với những người hiểu biết. Trong thời gian ở tù Cộng Sản tại trại Nam Hà (1976-1988, tỉnh Hà Nam Ninh, Bắc Việt), tôi có đọc một cuốn sách nhan đề Books Changed The World (lâu ngày nên quên tên tác giả) trong đó có một bài viết liên quan đến Đô đốc Hải quân Hoa Kỳ Charles Turner Joy vốn là Trưởng phái đoàn đàm phán của Liên Hiệp Quốc tại Hội Nghị Bàn Môn Điếm (trong chiến tranh Cao Ly). Đô đốc này về sau có viết một cuốn hồi ký ghi lại kinh nghiệm của ông đối với người Cộng sản, có lẽ trong đó có câu được trích dẫn như sau : “Do not believe in Communist words but look at Communist deeds”. Lúc bấy giờ khoảng 1985 khi đọc thấy câu nói này, tôi chợt liên tưởng đến câu khẩu hiệu mà Bộ Thông Tin Dân Vận Chiêu Hồi của ông Hoàng Đức Nhã ngày nào cũng phát trên hệ thống truyền thanh và truyền hình ở Nam Việt Nam: “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm”. Tôi tự hỏi không lẽ Bộ của ông Hoàng Đức Nhã lại “cầm nhầm” câu nói đó của Đô Đốc C. Turner Joy để biến ra làm câu danh ngôn cho ông Tướng Thiệu? Hồ Chí Minh từng ăn cắp câu nói của Quản Trọng, nhà chính trị có tài nhất thời Xuân Thu (722-479) : Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc, thập niên chi kế mạc như thụ mộc, bách niên chi kế mạc như thụ nhân . 一 年 之 計 莫 如 樹 穀 , 十 年 之 計 莫 如 樹 木 , 百 年 之 計 莫 如 樹 人 nghĩa là: Vì kế hoạch một năm thì trồng lúa, vì kế hoạch mười năm thì trồng cây, vì kế hoạch trăm năm thì trồng người. Hồ Chí Minh đã lấy nhiều câu nói của kẻ khác làm của mình, và việc này đã được nhiều học giả phanh phui. Không lẽ người quốc gia cũng bắt chước việc làm của người CS sao?
Tôi viết lại chuyện này trong tinh thần học hỏi và muốn làm sáng tỏ một câu nói lịch sử nên cũng rất mong đón nhận được kiến giải của giới trách nhiệm ngành truyền thông của VNCH trước năm 1975.
Một vị tướng khác, Nguyễn Cao Kỳ cũng nhảy vào chính trường Việt Nam với hai bàn tay trắng đến đổi Tổng Thống Pháp de Gaulle phải hỏi “Qui est Ky?” thì thật là xấu hổ cho nhân dân Miền Nam như thế nào!
Trong cuốn hồi ký chính trị Gọng Kìm Lịch Sử, (trang 222) Bùi Diễm từng cọng tác với Phan Huy Quát và thuộc nhóm “Đại Việt Quan Lại” ở Bắc Việt giai đoạn 1945-1954, bào chữa cho Cựu Thủ tướng Phan Huy Quát cho biết khi Hoa Kỳ đổ bộ quân vào Đà Nẵng ngày 8 tháng 3 năm 1965, Phan Huy Quát có thái độ không bằng lòng nên chỉ được sứ thần Manfull thông báo chứ không hề được Hoa Kỳ bàn thảo trước và như vậy có nghĩa rằng chủ quyền Nam Việt Nam đã chết, sau cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, như nhận định ở trên của sử gia Nguyễn Phương, hay là vĩnh viễn thống thuộc vào chủ quyền của Hoa Kỳ qua thực tế chứng minh. Với việc đổ quân lên bãi biển Đà Nẵng. Hoa Kỳ đặt chính phủ của Phan huy Quát trước sự đã rồi mặc dù trong hồi ký của Bùi Diễm tác giả này cho biết ông Quát phần nào chưng hửng và bối rối vì sự việc xảy ra quá đột ngột làm cho ông Quát có giọng nói hơi gắt gỏng, thiếu bình tĩnh (trang 223).
Trong cuốn hồi ký Bên Giòng Lịch Sử, hồi ký 1940-1965 của LM Cao Văn Luận (1908-1986) có đoạn kể cuối năm 1947, Cha Luận vào Huế gặp Ngô Đình Cẩn, Trần Điền (khuynh hướng Đại Việt), được Trần Văn Lý đề nghị làm Giám đốc Nha Văn hóa Miền Trung, rồi từ Huế đi ra Đồng Hới (ngụ tại Giáo xứ Tam Tòa) rồi từ đây đi ca-nô ra Quảng Khê lên Ba Đồn và về xứ Đan Sa trông coi giáo xứ này. Lúc bấy giờ một số giáo xứ đã liên lạc với người Pháp xin súng để rào làng chống Việt Minh. Từ tháng tư 1948 nghe nói Bảo Đại về nước. Linh mục Cao Văn Luận từ Quảng Khê vào Đồng Hới và mua vé máy bay vào Huế. Bửu Lộc đánh điện mời Linh mục Cao Văn Luận lên Đà Lạt ý chừng nhờ ngài thuyết phục ông Ngô Đình Diệm lúc đó đang ở Đà Lạt ra thành lập một chính phủ nhưng khi gặp, ông Diệm lắc đầu.
Trong lần gặp đầu tiên, ông Ngô Đình Diệm đã tỏ ra có những nhận định chính trị rất chính xác và sắc bén:
-Vùng Cao nguyên này có một tầm quan trọng lớn về chiến lược và kinh tế. Về chiến lược, nó nằm ở giữa ba quốc gia Việt Miên Lào. Ai chiếm giữ được cao nguyên này có thề gây áp lực được đối với cả ba quốc gia đó. Người Pháp gọi vùng Cao nguyên là Hoàng Triều Cương Thổ chỉ là một lối trá hình trên thực thể, chủ tâm của họ là biến vùng này thành thuộc địa Pháp. Về mặt kinh tế, thì vùng Cao nguyên hết sức quan trọng đối với Việt Nam trong tương lai. Ở đó chắc chắn có nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhiều khoáng sản chưa được khám phá và khai thác, nhưng chúng ta cần phải bảo vệ cho Việt Nam. Rồi còn vấn đề thể diện quốc gia, chủ quyền nữa. Không thể bỗng dưng nhường cho Pháp một vùng đất quan trọng như thế, nằm ngay giữa lãnh thổ quốc gia, người Việt Nam nào muốn lên lại phải xin thông hành!
Linh mục Cao Văn Luận tiếp lời:
-Cụ nói đúng. Tôi có đọc một cuốn sách đại ý rằng Pháp muốn ngăn chặn sức bành trướng của dân tộc Việt Nam về phía Tây, muốn để dân tộc Việt Nam dừng lại ở các miền duyên hải, còn Pháp thì phải giữ vững vùng Cao Nguyên Trường Sơn, vừa để ngăn chặn sức bành trướng của dân tộc Việt Nam, vừa canh phòng phía Lào. Như vậy khi lập Hoàng Triều Cương Thổ, đặt trực thuộc Pháp, thì Pháp đã bắt đầu thi hành đúng cái chính sách đó rồi.
Trong cuộc chiến tranh 55 ngày giữa Nam Việt Nam và CS Bắc Việt, Hà Nội đã chiếm được Ban Mê Thuột ngày 10-3-1975 và sau đó không lâu đã làm chủ Cao Nguyên. Nhiều tư liệu cho biết Tướng Thiệu làm mình làm mẩy với Hoa Kỳ khi bỏ Cao nguyên và với chiến thuật “đầu to đít teo” mặc cả với người Mỹ về số tiền viện trợ. Ông Thiệu đã hoàn toàn chối bỏ cương vị là Tổng Thống VNCH, phủ nhận chủ quyền của dân tộc để biến thành tên ngoại nô, hay tay sai của một cường quốc, bày đặt mặc cả này nọ với Hoa Kỳ vốn là “boss” của Thiệu từ khuya. “Khẳng khái tòng vương dị, thung dung tựu nghĩa nan 肯 慨 從 王 易 , 慵 容 就 義 難 “ (Theo vua đi kháng chiến thì dễ, Thong thả bước lên đoạn đầu đài thì thật là khó). Câu nói này trong sách Trung Dung của Khổng Tử vẫn là lời nhắc nhở và cũng là lời thẩm định giá trị của nhiều người trong lãnh vực chính trị.
Nhưng làm sao có thể buộc những người như Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Nguyễn Khánh, Đỗ Mậu v. v… và v… v. không biết chính trị là gì, nhưng lại muốn làm chính trị để được ăn trên ngồi trốc – làm sao khiến họ tỏ bày được khí phách can trường, coi thường cái chết như TT Ngô Đình Diệm không chỉ một lần mà nhiều lần, thí dụ cuộc đối đầu với Hồ Chí Minh năm 1946, vụ Hà Minh Trí ám sát cụ Diệm ở hội chợ Ban Mê Thuột 1957, cuộc đảo chính của Nguyễn Chánh Thi ngày 11-11-1960, cuộc dội bom của Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc năm 1962, và nhất là tinh thần quốc gia coi thường cái chết của mình, bảo vệ cuộc sống của dân lành, quân đội mà nhất quyết không phí phạm xương máu của người lính dưới quyền? Bọn cầm đầu đảo chính theo lệnh Mỹ đã khinh rẻ xương máu của những chiến hữu của họ như Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Đại Tá Lê Quang Tung, Thiếu Tá Lê Quang Triệu, thì họ ngại gì mà không giết TT Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Ngay cả những người như Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông vốn là những người đã tiêu diệt hầu hết cơ sở hạ tằng của CS đến nỗi Nguyễn Văn Linh đã phải thú nhận rằng từ 50,000 cán bộ CS chỉ còn khoảng 6,000 năm 1963. Công lao như vậy của Ông Ngô Đình Cẩn chỉ để bị Nguyễn Khánh theo lệnh của Thích Trí Quang là phải trả bằng cái chết mà thôi. Tài năng và khí phách như Phan Quang Đông từng làm cho hệ thống tình báo Bắc Việt phải nhiều phen xiểng liểng suốt từ 1954-1963 để rồi bị tử hình ở sân vận động Huế sau cuộc đảo chính bỉ ổi do Hoa Kỳ giật dây ngày 1-11-1963. Là một người chứng kiến được những việc làm vương đạo và cũng đầy bá đạo của Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, nhất là ở Trung Đông, do bị ám ảnh bởi cái chết của TT Ngô Đình Diệm, Tổng thống Pakistan Ayub Khan đã nói thẳng với TT Nixon năm 1964 câu nói chí lý sau đây: “that it is dangerous to be a friend of the United States; that it pays to be neutral; and that sometimes it helps to be an enemy.” nghĩa là: “thật là nguy hiểm khi làm bạn với Hoa Kỳ; đứng trung lập thì phải trả giá; và đôi khi làm kẻ thù mà hay hơn”. (Richard Nixon, In the arena, A memoir of victory, defeat and renewal, Simon and Schuster, New York, 1990, trang 71).
Cuối cùng, cái chết của TT Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu chính là cái chết có tính toán như lời ghi nhận của sử gia Nguyễn Phương. Trong cuốn A parade of American puppets, vị giáo sư sử học nhận định rằng: “He refused to ask asylum in a foreign country. He did not want to confide his fate into the hands of another, whosoever he could be. Lodge had tried hard to bring him to safety. The American ambassador had even asked the Apostolic Delegation to intervene for Diem to change his mind. But in vain. Diem kept his own counsel, until death and in spite of death, because by this gesture he meant to keep alive the sovereignty of his nation. That’s why he was assassinated in South Vietnam on November 2, 1963.” (Ông ta từ chối xin một chỗ tị nạn ở một nước ngoài. Ông không muốn giao phó số mệnh của mình vào tay người khác dù bất cứ là ai. Lodge đã cố thử để đem ông tới chỗ an toàn, kể cả việc viên đại sứ Mỹ này đã xin Tòa Khâm Mạng Tòa Thánh can thiệp để ông Diệm thay đổi ý kiến nhưng vô hiệu. Ông Diệm vẫn giữ ý định của mình cho đến chết và bất chấp cái chết, bởi vì với phong thái đó ông muốn giữa cho chủ quyền quốc gia của ông được sống. Đó chính là lý do vì sao ông bị ám sát chết ở Nam Việt Nam vào ngày 2 tháng 11, 1963.”46 (Nguyễn Phương, A parade of American puppets, trang 149).
Sau đoạn văn nêu trên, chúng ta có dịp đọc vào chú thích số 46 dẫn lời chú của sử gia Marguerite Higgins tác giả cuốn Our Vietnam Nightmare ( New York, Harper and Row, 1965) về một quan điểm có liên hệ đến vấn đề chủ quyền và cái chết của TT Ngô Đình Diệm: “Marguerite Higgins quoted a Vietnamese philosophy professor as saying about the reason why President Ngo Dinh Diem opted to be killed. “If Diem had sought help of a foreign power, he would have undermined everything he stood for. It would have destroyed the faith of the people in his integrity and character. It would have been craven and cowardly for Diem to seek help from the Americans; more so, because they had betrayed him. He kept faith with his principles concerning Vietnam’s national sovereignty. He surrended to the Vietnamese generals, not foreigners. History will applaud this. It may be that the Americans would have treated Diem more gently than the generals. But as a Vietnamese, it would have been wrong for Diem to put his trust publicly in outsiders. As a Vietnamese, he surrended to Vietnamese. The generals killed him and the onus is on them.” (Marguerite Higgins trích dẫn lời của một giáo sư triết học khi nói về lý do tại sao Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã chọn việc sẽ bị giết. “Nếu ông Diệm tìm sự giúp đỡ của một cường quốc bên ngoài thì như thế ông đã đạp đổ hết mọi cái mà ông từng tranh đấu. Điều đó cũng phá hủy niềm tin mà người dân đặt vào sự chính trực và cá tính của ông. Điều đó cũng nói lên sự hèn nhát của ông Diệm khi ông tìm sự giúp đỡ nơi người Mỹ, hơn nữa vì họ đã phản bội ông. Ông giữ vững sự tin tưởng vào những nguyên tắc của ông liên quan đến chủ quyền dân tộc Việt Nam. Ông đã đầu hàng các tướng lãnh Việt Nam chứ không đầu hàng người ngoại quốc. Lịch sử sẽ ca tụng điều đó. Cũng có thể rằng người Mỹ sẽ đối xử với ông nhã nhặn hơn các tướng lãnh. Nhưng là một người Việt Nam, ông Diệm cho rằng sẽ là một sai lầm khi đặt hết niềm tin vào người ngoại quốc một cách công khai. Là người Việt Nam, ông đầu hàng người Việt Nam. Các tướng lãnh đã giết ông và trách nhiệm lớn cho điều sai lầm trầm trọng này sẽ đổ xuống trên đầu họ.” (Nguyễn Phương, A parade of American puppets, trang 372).
Đây là lời giải đáp cho thắc mắc của cá nhân kẻ viết bài này vốn canh cánh từ lâu, và có lẽ cũng cho nhiều người khi có những bậc vĩ nhân, như TT Ngô Đình Diệm đã xem cái chết nhẹ tựa lông hồng vì trong con mắt họ lý tưởng ôm ấp mới là điều cao cả nhất, và bài học chủ quyền của đất nước cần phải là bài học suy tư, nghiền ngẫm đối với tất cả mọi người, nhất là những người nắm nhiệm vụ trọng yếu là lãnh đạo đất nước.
LỜI KẾT
Xét cho cùng, bài học chủ quyền không chỉ có tác động trong lãnh vực chính trị mà còn là tác nhân trong phạm trù luân lý nữa thí dụ tương quan giữa vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bằng hữu rộng ra là người trong một nước tức là tương quan giữa nhà với nước, hay gia với quốc. Bài học chủ quyền không chỉ có trên sách vở mà còn biểu lộ qua cách sống; nó không chỉ là một hữu thể nhưng phải thể hiện một tương quan. Có nhiều sắc thái trong tương quan của người này với kẻ khác, thí dụ như Henry Kissinger, Cố Vấn An Ninh của TT Nixon thể hiện mối tương quan hận thù, trù dập giữa y với nhân dân Miền Nam Việt Nam, năm 1975 sau ngày di tản Đà Nẵng, đã thốt lên: “Sao chúng không chết phứt cho rồi” (Why don’t these people die fast ?) (Nguyễn Tiến Hưng, Khi Đồng Minh tháo chạy, Cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh, 2005, trang 20). TT Ngô Đình Diệm đã thể hiện mối tương quan lo lắng, thương yêu giữa Cụ đối với đất nước trong thời khắc cuối đời Cụ, năm 1963, trong đó có hàng chục triệu sinh linh, đồng bào, đồng chí, chiến sĩ quốc gia, hàng chục vạn quân cán chính, những người mà Cụ đặt hạnh phúc của họ trong nồi cơm của chính họ qua câu hỏi thể hiện mối tương quan não lòng của Cụ được Đại Úy Đỗ Thọ, tùy viên của Tổng Thống ghi lại trong nhật ký của mình như sau: Khi rời bỏ Dinh Độc Lập, cũng lối 5 giờ chiều ngày 1-11-1963, “từ Dinh đi ra xe để đến nhà Mã Tuyên, cùng với Cụ Ngô Đình Diệm đi trước, có Cố vấn Nhu và ông Cao Xuân Vỹ. Theo ông Vỹ, Cụ vẫn không tỏ dấu lo lắng gì. Dọc hành lang, Cụ bỗng xé bầu im lặng, tự nhiên thốt ra: “Phận tui sao cũng được, nhưng đất nước này sẽ ra thế nào đây?” (Nguyễn Phương tự Trúc Long, Tưởng niệm một cái chết, Văn Nghệ Tiền Phong số 285).
Những người như Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, v.v… khi lên máy bay của Hoa Kỳ ra khỏi VN những ngày trước khi VNCH sụp đổ, đã nghĩ gì về số phận của một đất nước còn lại sau một thời gian dài hưởng thụ đã chán chê ?
Sau cái chết của TT Ngô Đình Diệm, giới sử học Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới đứng vào phía phe chiến thắng tha hồ chê trách, mạt sát, mạ lị, dèm pha chế độ của nền Đệ I Cộng Hòa, đạp xuống tận bùn đen trong khi đó cũng có rất nhiều cây bút có công tâm, cố gắng biện minh cho chế độ của Cụ Diệm trong đó phải kể đến Marguerite Higgins, Ellen Hammer, Suzanne Labin, Tướng Thomas A. Lane, nhất là các tài liệu được giải mật của Ngũ Giác Đài tức The Pentagon Papers… Càng ngày số tác giả truy tầm sự thật về chiến tranh Việt Nam đã đóng góp rất nhiều cho việc phục hồi sự thật và danh dự cho chế độ của Cụ Diệm, gần đây như tác phẩm của Mark Moyar, Geoffrey Shaw thuộc về trường phái phi chính thống để chống lại trường phái chính thống sau năm 1963. Sử gia Mark Moyar, trong tác phẩm Triumph Forsaken (Chiến thắng dang dỡ) 512 trang, đã công bình khi đặt lại giá trị của TT Ngô Đình Diệm và cuốn sách này đã gây chấn động lớn trong giới sử học Hoa Kỳ cũng như thế giới.
Gần đây, tác giả Geoffrey Shaw đã dành tất cả sự kính trọng để nói về cái chết của TT Ngô Đình Diệm như là một cuộc tử đạo (martyrdom) trong cuốn sách có tên The Lost mandate of Heaven, The American Betrayal of Ngo Dinh Diem, President of Vietnam (Ignatius Press, San Francisco, 2015, trang 23-24).
Một số sử gia ngoại quốc khi gọi TT Ngô Đình Diệm là “Nhà Khổng Học cuối cùng” (The Last Confucean) hay là “Vị quan cuối cùng” (The Last of The Mandarians) đã có vài hậu ý… nhưng một học giả Trung Hoa, Tiến Sĩ Phùng Hữu Lan (Fung-Yulan) (1895-1990) là người có quyền uy nhất trong việc trình bày và lý giải triết học Trung quốc chừng 50 năm trở lại đây, tác giả những bộ sách lớn về triết học Trung Quốc như Trung quốc Triết học sử, Triết học sử chính, Trung quốc triết học sử bổ, Tân lý học, Tân nguyên đạo, Tân thế huấn, Tân sự luận v.v… đã đưa ra một mẫu hình tượng về một bậc minh quân thánh chúa, có thể như Cụ Diệm, mà ông gọi tên là “nội thánh ngoại vương” 內 聖 外 王 . Giáo sư Phùng Hữu Lan viết : “Người ta thường bảo rằng nhân cách của thánh nhân là “nội thánh ngoại vương”. Tức là trong đức tính nội thánh, thánh nhân hoàn bị sự tu dưỡng tinh thần của mình, và trong địa vị ngoại vương, thánh nhân cải tạo xã hội. Thánh nhân không nhất thiết phải là một lãnh tụ chính trị. Trong thực tế, ít có cơ hội cho thánh nhân lên cầm quyền. Câu “nội thánh ngoại vương” chỉ có ý nghĩa trên mặt lý thuyết: người đạo đức nhất thì đáng làm vua. Còn trong thực tế người ấy có được làm vua hay không, cái đó không quan hệ.” (His character is described as one of “sageliness within and kingliness without.” That is to say, in his inner sageliness, he accomplishes spiritual cultivation; in his kingliness without, he functions in society. It is not necessary that the sage should be the actual head of the government in his society. From the standpoint of practical politics, for the most part, the sage certainly has no chance of being the head of the state. The saying “sageliness within and kingliness without” means only that he who has the noblest spirit should, theoretically, be king. As to whether he actually has or has not the chance of being king, that is immaterial.” (Fung Yu-lan, A Short History of Chinese Philosophy, A systematic account of Chinese thought from its origins to the present day, Edited by Derk Bodde, The Free Press, 1966, page 8).
TT Ngô Đình Diệm đã từ bỏ quyết định tiên khởi là sống đời tu hành làm linh mục để dấn thân vào việc nước, rất sùng đạo, tham dự thánh lễ hằng ngày, và trong chiếc cặp Đỗ Thọ mang theo cho Cụ chiều ngày 1-11 chỉ có một bộ y phục đàng hoàng nhất của Cụ để dùng vào cái nghi lễ trọng vọng nhất đối với Cụ: Lễ Các Đẳng Linh Hồn (La Fête Des Morts) vào ngày mai qua dự Lễ và chịu Lễ ở nhà thờ Cha Tam. Theo Đại úy Thọ, tâm hồn Cụ dường như tất cả để vào cuộc Lễ đó. Phong cách hành sử của Cụ khi ngồi uống trà ở nhà Mã Tuyên được ghi nhận: “Dáng diệu bệ vệ thường nhật, không thay đổi tí nào” rõ là cung cách của một thánh nhân hay một đấng quân tử nên việc xưng tụng TT Ngô Đình Diệm là một bậc “nội thánh ngoại vương” tưởng cũng rất hợp lý vậy.
NGUYỄN ĐỨC CUNG,
Philadelphia, ngày 19 tháng 5 năm 2017.
- Viết bởi Phạm Trần

Thậm chí có cả một ông Trung tướng lưỡi gỗ còn không dám nêu đích danh Trung Cộng trước diễn đàn Quốc hội.
Bằng chứng đã diễn ra tại kỳ họp 8 của Khóa Quốc hội 14, bắt đầu từ ngày 21/10 và dự trù kết thúc ngày 17/11/2019.
Trước hết, về tình hình bất ổn ở Biển Đông do Trung Cộng chủ động quanh bãi Tư Chính, cách Vũng Tầu khoảng 300 cây số hướng Đông Nam, từ ngày 3/7 đến 24/10/2019, chỉ được lồng trong báo cáo “về công tác đối ngoại của Nhà nước năm 2019” do Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh trình bầy trước Quốc hội.
Nhưng Quốc hội lại không họp công khai để “nghe” ông Phạm Bình Minh mà đã “họp riêng”, trong khoảng thời gian ngắn ngủi từ 10:15 sáng tới trưa ngày 28/10 (2019). Cũng vì chỉ “nghe” mà không được thảo luận nên không ai biết ông Phạm Bình Mình đã nói gì với Quốc hội về việc Trung Cộng xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam ở khu vực bãi Tư Chính.
Giải thích về lý do “họp riêng”, Tổng thư ký, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc, cho biết vì :”Trong báo cáo này của Chính phủ có một số thông tin nội bộ, cần báo cáo Quốc hội.”
Vậy “thông tin nội bộ” là thông tin gì mà phải giấu dân, những chủ nhân của đất nước ? Chẳng lẽ vì phải nói đến cái tên Trung Quốc nên “nhậy cảm”, hay sợ “phạm húy” nên phải che mặt khi mở miệng ?
Chỉ biết sau cuộc họp kín này, Quốc hội không có hành động nào khác ngoài thái độ im lặng chịu trận trước hành động của Trung Cộng đã đè Việt Nam xuống đáy vực nhục nhã ở Tư Chính trong suốt 114 ngày, trước khi Bắc Kinh nói Hải Dương 8 “đã hoàn tất công tác” để rút về nước ngày 24/10/2019.
So với vụ Hải Dương 981 năm 2014 thì lần này, tầu HD-8 đã ít nhất 3 lần ngang ngược tự do ra vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam như tắm trong ao nhà mình trước mắt các tầu Hải quân và Cảnh sát biển Việt Nam theo dõi từ xa.
ĐẠI BIỂU MUỐN GÌ ?
Do đó, trước thái độ nhút nhát của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng không dám chỉ trích Trung Cộng trong suốt thời gian HD-8 hoành hành ở Tư Chính, nhiều Trí thức, Đảng viên cao cấp và một số Tướng lãnh nghỉ hưu đã kêu gọi nhà nước kiện Trung Cộng ra Tòa án Quốc tế như Phi Luật Tân đã làm năm 2016.
Nhưng lãnh đạo Việt Nam lại run lên cho rằng “lúc này chưa thích hợp để kiện”, theo tiết lộ của Thiếu Tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, Bộ công An, tại cuộc Hội thảo ngày 06/10 (2019) tại Hà Nội.
Tại sao lại “chưa thích hợp”, và khi nào, với điều kiện nào, mới “thích hợp” ? Hay đây chỉ là thái độ ươn hèn, thiếu cương quyết và muốn câu giờ để cầu may của Lãnh đạo, đứng đầu là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ?
Về phần mình, một số Đại biểu Quốc hội đã bầy tỏ quan ngại về hành động của Trung Cộng đối với Việt Nam. Tiếng nói nổi bật trong số Đại biểu có ông Nguyễn Lân Hiếu, đoàn An Giang, đưa ra ngày 30/10 (2019).
Đại biểu Hiếu phê bình:”Các phương pháp chúng ta sử dụng trong thời gian vừa qua với phương châm vừa hợp tác vừa đấu tranh kiên quyết, kiên trì, xử lý các hành vi xâm phạm chủ quyền bằng các biện pháp hòa bình không làm giảm đi lòng tham của Trung Quốc. Do đó, cần có thêm những biện pháp mới.” (theo báo Thanh Niên Online, 30/10/2019)
Ông Hiếu nói:”Thực tế là Trung Quốc đã chuyển từ giai đoạn xây dựng, bồi đắp (các thực thể trên Biển Đông) sang giai đoạn quân sự hóa và khai thác, sử dụng. Chúng ta cần công khai, cập nhật chi tiết hoạt động lấn chiếm biển đảo, vi phạm luật pháp quốc tế của họ, để dư luận tiến bộ Việt Nam và trên toàn thế giới, bao gồm cả nhân dân Trung Quốc, được biết”
Nên biết, Ban Tuyên giáo của đảng CSVN đã cấm không cho báo-đài đưa tin về xung đột ở Tư Chính nên người dân không nắm vững tình hình. Tuy nhiên, theo lời Đại biểu Nguyễn Lân Hiếu thì:”
Rất nhiều ý kiến cử tri đã đề nghị đưa vụ việc ra tòa án quốc tế. Tuy nhiên, chúng ta không chỉ kiện Trung Quốc xâm phạm bãi Tư Chính, mà chúng ta sẽ đưa toàn bộ các hoạt động Trung Quốc vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam; xây dựng trái phép, quân sự hóa nhiều đảo, bãi đá trên Biển Đông trong suốt thời gian qua. Khi có chính nghĩa của dư luận quốc tế, ngay cả nhân dân Trung Hoa sẽ hiểu sự phi lý của chính quyền Trung Quốc, không thể phớt lờ lẽ phải hiển nhiên.”
Đại biểu Nguyễn An Trí (đơn vị Hà Nội) cho biết ông và nhiều cử tri “có nguyện vọng Quốc hội sẽ ra nghị quyết về tình hình biển Đông". (theo báo VNExpress,28/10/2019)
Đại biểu Dương Trung Quốc (đoàn Tỉnh Đồng Nai) ủng hộ việc Quốc hội ra nghị quyết, và nói thêm rằng:”Ứng phó với những hành vi xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông là "bài toán rất khó". Vì vậy, điều quan trọng nhất là phải có sự đồng thuận giữa Nhà nước và người dân…Giữ gìn hoà bình, hữu nghị với Trung Quốc là quan trọng. Nhưng tôi mong muốn Quốc hội thể hiện thái độ rõ ràng với những hành vi xâm phạm chủ quyền trên biển Đông.” (theo VNExpress, 28/10/2019)
Nhưng, bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, người từng bị lên án đã qụy lụy trước Tập Cận Bình trong cuộc họp ngày 12/07 (2019) tại Bắc Kinh, trong chuyến thăm Trung Cộng, đã không có phát biểu nào về tình hình Biển Đông, từ khi xẩy ra vụ Tư Chính.
Do đó, không ai hy vọng bà Ngân sẽ thúc đẩy việc Quốc hội ra Nghị quyết về tình hình Biển Đông trong khi Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng vẫn bình chân như vại.
Bằng chứng khi gặp họ Tập, bà Ngân đã không nói gì đến vụ HD-8, khi ấy, mới vào quấy phá ở Tư Chính được 9 ngày. Ngược lại, theo tường thuật của báo VNNET thì bà đã ngỏ ý:”Việt Nam mong muốn cùng Trung Quốc kiểm soát tốt bất đồng, xử lý thỏa đáng vấn đề Biển Đông để tạo cơ sở cho sự phát triển ổn định, bền vững của quan hệ hai nước.”
Về phần mình, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã nói nước đôi rằng:” Hai nước là láng giềng, cùng có ý thức hệ nên hai nước sẽ phối hợp trên tinh thần xây dựng; bày tỏ quan điểm, nếu cùng hợp tác thì ra sức thúc đẩy, còn bất đồng thì hai bên cần ra sức kiềm chế, kiểm soát. Nếu làm được như vậy sẽ giảm bớt va chạm vì đại cục lớn của hai nước.”
CHIẾC LƯỠI GỖ
Bên cạnh những tiếng nói tích cực của một số rất ít Đại biểu Quốc hội trong số ngót 500 Đại biểu, phần lớn chỉ biết ngồi nhìn, trốn họp hay xem Ipod, cũng xuất hiện phát biểu phản ảnh sự sợ hãi Trung Cộng của Đại biểu Quốc hội Trần Việt Khoa (đoàn Hà Nội), mang quân hàm Trung tướng.
Lên tiếng trong phiên họp ngày 30/10 (2019), tướng Khoa, 54 tuổi, Giám đốc Học viện Quốc phòng, đã không dám nêu tên Trung Cộng như thế này:”Từ tháng 5, khi chúng ta hoạt động dầu khí trên biển và đặc biệt từ đầu tháng 7 đến những ngày tháng 10 vừa qua, chúng ta thấy nước ngoài đã đưa lực lượng xuống phản đối chúng ta một cách hết sức phi lý. Đây là những cái chúng ta không thể chấp nhận được… Ngoài ra, họ còn đưa tàu xuống khảo sát thăm dò, có những thời điểm đưa tới 35-40 chiếc tàu để bảo vệ.”
Tại sao tướng Khoa lại né tên Trung Quốc, và ai đã chỉ thị cho ông làm như vậy ? Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch và ông Nguyễn Phú Trọng có trách nhiệm gì về thái độ “sợ địch” của tướng Khoa ?
Tuy nhiên, chuyện “nước ngoài” trong trường hợp này cũng không mới, nếu so với mấy chữ “tầu lạ”, hay “tầu nước ngoài” vẫn thường thấy xuất hiện trên báo đài Việt Nam, khi họ đưa tin tầu đánh cá Việt Nam bị tầu Trung Cộng tấn công ở Biển Đông.
Nhưng, trước diễn đàn Quốc hội, có truyền hình và truyền thanh trực tiếp cho cả nước xem, thì hành động của ông Tướng Trần Việt Khoa, người đươc thăng cấp nhanh như diều từ khi nhập ngũ năm 1983, không có nghĩa nào khác là hành động nhu nhược của một ông Tướng trước khi lâm trận . -/-
Phạm Trần
(10/019)
- Viết bởi Danlambao

- Viết bởi Phạm Trần
Cường độ sợ Tầu và miệt thị Trí thức đã gia tăng trong ngôn ngữ và hành động của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và của Ban Chấp hành Trung ương đảng CSVN.
Bằng chứng khép nép với Bắc Kinh lần này của Lãnh đạo Việt Nam đã hiện nguyên hình tại kỳ họp Trung ương 11 và trong Diễn văn bế mạc, và tuyên bố sau đó của ông Trọng.
Người đứng đầu bảo thủ, nghiện Chủ nghĩa Cộng sản hơn bất cứ ai ở Việt Nam và thân Trung Cộng, ông Nguyễn Phú Trọng còn không ngại bêu xấu những ai đòi nhà nước phải cấp thời hành động chống Trung Cộng, sau khi nước này đã cho tầu thăm dò dầu khí Hải Dương 8 (HD-8), xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở bãi Tư Chính, Trường Sa, từ ngày 03/07 (2019), và tiếp tục hoạt động ở khu vực, cách Vũng Tầu lối 370 cây số hướng đông nam.
Ông Trọng đã xếch mé bêu rêu họ: “Hiện nay có một số phần tử cố tình kích động, to tiếng lên, lên gân lên, ra vẻ ta là anh hùng, ra vẻ ta là yêu nước, vậy còn T.Ư Đảng, Chính phủ, Tổng bí thư không yêu nước à? Vô trách nhiệm à?...không phải cứ nói mạnh, làm liều mới là yêu nước… Do vậy, cần phải tỉnh táo để phản bác những luận điệu xuyên tạc của một số phần tử về vấn đề này”
Ông rao giảng:“Làm sao giữ đất nước yên bình, tiến lên nhưng đồng thời giữ đất nước độc lập thế mới là giỏi. Cha ông ta cũng thế thôi, các cụ khôn khéo lắm. Cố gắng giữ quan hệ nhưng cái gì về độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ ta không bao giờ nhân nhượng.” (theo các báo từ Việt Nam)
Ông Trọng đã đưa ra những lời nói mất bình tĩnh và chỉ trích bất nhã các Trí thức trong cuộc tiếp xúc cử tri Đơn vị bầu cử số 1 gồm 3 quận: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Tây Hồ ngày 15/10 (2019), 3 ngày sau Hội nghị Trung ương 11 kết thúc ngày 12/10 (2019).
ÔNG TRỌNG BỊ CHẠM NỌC ?
Tuy ông Trọng không nói đích danh, nhưng ai cũng biết những người bị ông Trọng nhắm vào là số nhân sỹ, tướng lãnh và các nhà ngoại giao nổi tiếng đã bất ngờ được mời tham dự cuộc thảo luận về tình hình Tư Chính do Viện nghiên cứu Chính sách Pháp luật và Phát triển ( tên viết tắt là PLD, Institute Research on Policy, Law and Development) tổ chức tại Hà Nội ngày 06/10 (2019), một ngày trước buổi khai mạc của Trung ương 11 (07/10/2019).
Viện PLD, do PGS. TS. Hoàng Ngọc Giao đứng đầu, thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt nam (VUSTA), được phép đảng thành lập. Nhưng ai trong Bộ Chính trị đã bật đèn xanh cho ông Giao tổ chức Hội thảo và còn được mời những “cái gai” trước mắt ông Trọng tham gia thảo luận về tình hình “nhậy cảm” Tư Chính mà không bị phá vẫn còn là một thắc mắc trong dư luận.
Từ trước tới nay, đã có một số cuộc thảo luận về tình hình Biển Đông và tình hình trong nước, do các nhân sỹ-trí thức tổ chức bị ngăn chận, hoặc phá đám phải bỏ cuộc. Lý do nhà nước chống vì Lãnh đạo không muốn nghe những tiếng nói trái chiều với lập trường “không dám đụng tới lỗ chân lông lãnh đạo Trung Cộng Tập Cận Bình”.
Lần này khác. Cuộc thảo luận ngày 06/10 (2019) đã diễn ra suôn sẻ, không khách mời nào bị chận đường hay bị bắt cóc như những lần trước. Nhiều người tham dự đã ra khỏi đảng, từng bị đảng bỏ tù, bị khai trừ vì chống đảng và công khai đốp lập với đảng. Cũng có những Trí thức từng bị đảng liệt kê trong danh sách “phản động” và “cơ hội chính trị”, hay bị các thế lực thù địch mua chuộc, xúi giục chống đảng như GS Chu Hảo và Nhà văn Phạm Viết Đào. (1)
Theo tường thuật của Nhà nghiên cứu Ngôn ngữ, Đào Tiến Thi từ trong nước thì tại cuộc Hội thảo này:”Các chuyên gia hàng đầu đều nhận định sự kiện bãi Tư Chính là VÔ CÙNG NGHIÊM TRỌNG. Bởi vì đây là “nút thắt của nút thắt” (Tư Chính là nút thắt vấn đề Biển Đông hiện nay và vấn đề Biển Đông lại là nút thắt của quan hệ Việt – Trung). Mất Tư Chính có thể dẫn đến mất toàn bộ quần đảo Trường Sa, và mất Trường Sa có thể dẫn đến mất nước.”
Do đó, vẫn theo ông Thi thì:”Các chuyên gia về luật biển, về biển và về ngoại giao đều cho rằng, kiện Trung Quốc là biện pháp tốt nhất hiện nay.’
Ông Thi viết:”Cái khó là Trung Quốc rất lì lợm, không chịu cùng nhau ra tòa, trong khi nhiều tòa án quốc tế chỉ thụ lý nếu cả hai bên cùng chấp nhận ra tòa. Theo một số chuyên gia, giới cầm quyền Trung Quốc đã nhiều lần “rỉ tai” giới lãnh đạo VN “đừng kiện để giữ đại cục”. Thế thì VN đã gặp khó khăn ngay từ chủ trương rồi.”
HAI TƯỚNG CƯƠNG VÀ LƯƠNG
Thiếu Tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, Bộ công An đã có bài phát biểu chi tiết nói về tham vọng đánh chiếm biển đảo Việt Nam của Tập Cận Bình, Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Cộng.
Ông nói:”Động thái lần này của Tập Cận Bình xuất phát từ 2 nguyên nhân. Một là ngăn chặn không cho bất kỳ nước nào vào đầu tư cho Việt Nam khai thác dầu khí. Lần này Tập Cận Bình đánh thẳng vào dạ dày Việt Nam rồi. Cho mày biết thế nào là lễ độ. Tao không đánh trên bộ như năm 1979. Lần này tao đánh thẳng vào. Mày phải phục, và khi mày phục, khi mà khó khăn chơi vơi thì buộc lòng phải ngả theo Trung Quốc thôi. Nên lần này so với lần HD 981 năm 2014 thì lần này nghiêm trọng gấp trăm triệu lần. Đây là cuộc đối đầu thực sự.
Không biết lãnh đạo Việt Nam ta đánh giá việc này thế nào. Nếu không nhận ra đúng vấn đề này thì phản ứng của ta sẽ khác.
Tướng Cương nói tiếp:”Nguyên nhân thứ hai là cho Việt Nam biết thế nào là lễ độ trước những phản ứng có vẻ hí hửng của Việt Nam trong cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung. Cho nên vấn đề thứ ba tôi muốn nói mục đích, ý đồ lần này của Trung Quốc cực kỳ nguy hiểm, nghiêm trọng gấp trăm lần so với sự kiện HD 981 năm 2014.”
Từ góc nhìn an ninh, Biển Đông là nút thắt, là cửa ngỏ của Trung Quốc. Bãi Tư Chính là nút thắt của nút thắt, vị trí đặc biệt như vậy. Xét trên phương diện quân sự, trên bản đồ, Bãi Tư Chính là nút thắt của nút thắt trên Biển Đông. Và Trung Quốc quyết tâm muốn biến thành chuyện đã rồi, biến cái không tranh chấp thành cái gọi là tranh chấp, làm cho thế giới nhìn nhận có tranh chấp tại đây, buộc Việt Nam phải nhân nhượng.
Thật ra nó đã phá ta từ năm 2000 cũng xung quanh Bãi Tư Chính. BP của Anh, ConocoPhilipps của Mỹ phải rút là vì Trung Quốc doạ. Tháng 7/2017, tập đoàn của Tây Ban Nha cũng phải rút.”
(Theo Facebook Bùi Quang Minh)
Cũng tại Hội thảo này, Tướng Cương còn tiết lộ: “Sau khi Tòa trọng tài quốc tế tuyên Trung Quốc thua kiện Philippines (phán quyết PCA năm 2016), Trung Quốc cử cán bộ sang làm việc với lãnh đạo cao cấp Việt Nam thực hiện "5 không".
Thứ nhất, không được ủng hộ phán quyết tòa trọng tài
Thứ 2, không được đưa ra Asean bàn thảo liên quan đến vấn đề Biển Đông
Thứ 3, trong đa phương quốc tế Việt Nam không đưa phán quyết này ra
Thứ 4, trong đàm phán Việt Trung- Trung Việt không được đưa vấn đề này.
Thứ 5, các đồng chí không được kiện Trung Quốc.
Như vậy thì lý do ông Nguyễn Phú trọng đã gay gắt với một số phát biểu trái chiều với đảng tại cuộc Hội thảo ngày 06/10 (2019) đã được bạch hóa vì ông Trọng sợ bị Tập Cận Bình cho là ông đã cho phép tổ chức cuộc Hội thảo để chống Trung Cộng.
KIỆN TẦU HAY KHÔNG ?
Người phát biểu thứ hai gây chú ý tại cuộc Hội thảo và trong dư luận sau đó là Thiếu tướng nghỉ hưu, anh hùng lực lượng võ trang nhân dân, Lê Mã Lương, người nổi tiếng trong cuộc chiến chống Trung Cộng xâm lược ở mặt trận biên giới 1979-1989.
Tướng Lương nói với mọi người:”Câu chuyện thứ nhất là tôi muốn nói là ngày mùng 2 vừa rồi chúng tôi dự Hội nghị do Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương chủ trì, thời gian suốt một ngày. Bộ Ngoại Giao thông báo tình hình quốc tế… và nhiệm vụ đối ngoại 2020… Nhiều vấn đề nhưng mà tôi chỉ muốn thông tin câu chuyện, kết thúc phần lên lớp của các quan chức thì tôi đặt ra những câu hỏi: “Một. Chúng ta có kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế không? Hôm nay có lãnh đạo Bộ Ngoại giao, lãnh đạo Ban Đối ngoại Trung ương. Đây không phải là câu chuyện của một nhóm, một bộ phận mà nó là câu chuyện của toàn dân rồi. Tôi muốn các anh nghiêm túc trả lời cái này và trả lời rõ. Nếu chúng tôi đến đây, đến dự họp nghe xong rồi không có ai có ý kiến phản hồi hoặc là không có cái trình báo gì, ra về thì nó […nghe không rõ hai tiếng, đoán là “lãng phí”] vô cùng….
Thứ hai, nếu như chúng ta để mất Bãi Tư Chính thì vấn đề nó sẽ là như thế nào. Tôi đặt giả thuyết thứ nhất, vấn đề có chiến đấu đến cùng hay không để giữ cho được Bãi Tư Chính. Giữ được Bãi Tư Chính là giữ được toàn bộ những cái đảo còn lại của chúng ta. Mất Bãi Tư Chính là đảo của chúng ta mất hết, chứ các anh đừng có nói rằng là nếu hiện thực có cái đường lưỡi bò thì Việt Nam chỉ còn 50% đặc quyền trên biển, (Philippins nó mất 70, Malaixia mất 80, Brunei mất 30). Nếu chúng ta bị mất thì nó không còn là đảo nằm trong của chúng ta.
Tôi nghĩ các anh trả lời rõ vấn đề này, vấn đề này cũng là vấn đề bức xúc của dân đấy. Và tôi cũng nói thêm với các anh rằng, nếu như để xảy ra chiến tranh thì lỗi lớn nhất là bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương và rồi đến Đối ngoại quốc phòng. Và thế hệ chúng tôi, những người trực tiếp tham gia chống Mỹ, bây giờ chúng tôi trên dưới 70 rồi, vào sinh ra tử, đổ xương đổ máu trên chiến trường, tôi sẽ cầm đầu, cầm đầu nhé, anh em đến hỏi thăm Bộ Ngoại giao. Quan điểm rất rõ ràng”.
(theo Nguyễn Ngọc Dương/Blogger Tễu, TS Nguyễn Xuân Diện)
Tướng Lê Văn Cương còn được trích dẫn đã nói thêm với cử tọa: "Tuy nhiên theo tôi biết, không có đồng chí lãnh đạo Việt Nam nói không kiện! Hiện này vẫn chuẩn bị đầy đủ, nhưng theo tôi ngửi mùi cấp trên lúc này chưa thích hợp để kiện!"
Tình hình Tư Chính khẩn trương như thế và giặc đã vào nhà mấy lần rồi mà vẫn ngu ngơ bảo “chưa thích hợp để kiện” thì đến bao giờ mới “thích hợp”, hỡi ông Nguyễn Phú Trọng ?
Trong khi đó, TS Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương đã nêu ý kiến tại Hội thảo:"Kiện Trung Quốc là giải pháp hòa bình, kiện là giải pháp ngăn chặn chiến tranh. Sử dụng luật pháp và dư luận quốc tế khi có mâu thuẫn giữa các bên là biện pháp cần thiết và đúng đắn trong thế giới văn minh và hội nhập."
Ông Hoàng đặt câu hỏi:"Vì sao ta lại sợ kiện, trong khi chính nghĩa thuộc về ta. Sợ kiện hay sợ Trung Quốc? Đặt câu hỏi như vậy là vì tôi nghe có ý kiến cho rằng, nếu ta kiện Trung Quốc thì họ làm căng hơn nữa, trong khi ta phải sống bên cạnh họ lâu dài, nếu để họ thù vặt thì rất khó ở….Mà họ cũng dọa ta như thế. Dọa để ta đừng kiện.”
Có lẽ những lời cảnh giác của giới trí thức đã khiến ông Trọng và Bộ Chính trị lên ruột như bị chạm nọc đến tận xương tủy, vì sợ bị Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình của Trung Cộng trả đũa chăng ?
PHÂN BUA CÓ CHỦ Ý
Ông Trọng cũng phân bua với cử tri Hà Nội rằng:”Hội nghị T.Ư lần thứ 11 vừa qua đã dành một buổi trong chương trình làm việc để nghe báo cáo về tình hình đối ngoại để có thông tin và tạo sự đoàn kết, thống nhất cao.
Nhưng nội dung thảo luận không được tiết lộ nên điều được gọi là “thống nhất cao” cũng chỉ là lối “tự biên” và “tự diễn” của ông Trọng. Đáng chú ý là “vấn đề Biển Đông”, dù được đông đảo nhân dân theo dõi và quan tâm, cũng chỉ được ghép chung vào “vấn đề quan hệ đối ngoại”, và được trình bầy vào buổi sáng của phiên họp ngày sau cùng, thứ 6, ngày 12/10 (2019), trước giờ bế mạc của Trung ương 11.
Việc sắp xếp vấn đề đáng lẽ phải “ưu tiên” vào “phấn chót” của chương trình dài 6 ngày họp chứng tỏ ông Nguyễn Phú Trọng và Ban chấp hành Trung ương đã có chủ tâm hạ thấp tầm quan trọng của biến cố Tư Chính để không làm phật lòng lãnh đạo Trung Cộng mà đảng CSVN Việt Nam vẫn cõng trên lưng để cao rao “vừa là đồng chí, vừa là anh em”.
Điều này còn được chứng minh trong Diễn văn bế mạc và trong Thông báo cuối cùng của Trung ương 11, khi cả ông Trọng và Ban Chấp hành Trung ương đã tránh nói đến 2 chữ Biển Đông.
Trong toàn diễn văn, ông Trọng chỉ nói mấy chữ:”Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo quốc gia trên cơ sở luật pháp quốc tế.”
Trong khi Thông báo cuối cùng cũng chỉ nói rập khuôn: ”Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.”
Vậy mà, theo tường thuật của các báo Việt Nam thì ông Nguyễn Phú Trọng đã tự khoe với cử tri Hà Nội ngày 15/10/2019 rằng:”Quan hệ đối ngoại của chúng ta vừa qua tốt rồi, nhưng mỗi khu vực, địa bàn cũng có những vấn đề phức tạp riêng, đặc biệt là vấn đề biên giới, biển đảo. Nước nào cũng có và nước nào cũng phải xử lý.
“Ta ký được biên giới với Trung Quốc bao nhiêu năm nay, phân định được vịnh Bắc Bộ, bây giờ đang đàm phán phân định cửa vịnh Bắc Bộ. Hay gì mà căng thẳng, cả đôi bên cùng thiệt”.
Ông Trọng còn cao giọng:”Phải đặt vấn đề trong tổng thể, vừa kiên quyết kiên trì bảo vệ đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, nhưng đồng thời cũng phải giữ được môi trường hòa bình, ổn định.”
Nhưng “tổng thế” hay “đại cục”, theo cách nói của Trung Cộng, dựa theo phương châm mà Bắc Kinh đã giao cho Việt Nam thời hai Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh gồm: 16 chữ: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, và tinh thần 4 tốt:“láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” ?
Ông Trọng còn bầy vẽ lên lớp với cử tri:”Việc xử lý mối quan hệ này không đơn giản chút nào, song như thế không có nghĩa là nhân nhượng bất cứ thứ gì vô nguyên tắc. “Nguyên tắc là độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ nhưng đồng thời phải giữ ổn định. Chưa có thời kỳ nào đất nước đang có không khí ổn định tốt như thế này. Phải giữ lấy nó”.
Ông Trọng còn khoe tiếp:” Trong vấn đề biển Đông, thái độ của Đảng và Nhà nước ta đã tuyên bố dứt khoát, đó là rất kiên quyết nhưng cũng phải rất khôn khéo.” (báo An Ninh Thủ Đô, ngày 15/10/2019)
Nếu Đảng và nhà nước CSVN đã “rất kiên quyết” và “rất khôn khéo” thì tại sao lại để cho HD-8 và các tầu hộ tống có võ trang Trung Cộng cứ tự do ra vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam như ao nhà mình, từ ngày 03/07 (2019) và chưa có dấu hiệu rút lui ?
Phải chăng lập trường “cứ nhũn như con chi chi” để chờ sung rụng từ Bắc Kinh còn hơn gây hấn để họa vào thân là thượng sách của ông Trọng trước hành động xâm lấn biển đảo ngày càng rõ rệt của Bắc Kinh, qua vụ Tư Chính ?
Người dân cũng muốn biết lực lượng chấp pháp của Việt Nam gồm một số tầu Cảnh sát biển có võ trang và tầu Hải quân đã và đang làm gì ở bãi Tư Chính, hay chẳng làm được gì trước sức ép của Trung Cộng ?
Thêm vào đó, ai cũng thấy Ban Tuyên giáo đã bưng bít thông tin về Tư Chính và các hoạt động của các tầu võ trang hộ tống của Trung Cộng không ngoài mục đích muốn giảm thiếu mức độ căng thẳng để tránh làm mất lòng Bắc Kinh.
Trung ương 11, khai mạc ngày 7/10 (2019) đã tập trung thảo luận chính về: Dự thảo Báo cáo chính trị và Báo cáo 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011; Về dự thảo Báo cáo kinh tế - xã hội trình Đại hội XIII của Đảng; Về dự thảo Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện công tác xây dựng Đảng; Về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2019 – 2020.”
Tình hình Biển Đông, quanh bãi Tư Chính dù rất khẩn trương đã không được Bộ Chính trị ghi vào chương trình họp trọn ngày của Trung ương 11. Một Nghị quyết riêng về tình hình Tư Chính, được chờ đợi trong dân cũng không có.
Lý do dân mong vì họ muốn nhà nước nên một lần dứt khoát với chủ trương chèn ép phi pháp của Trung Cộng. Hơn nữa, trong diễn văn khai mạc ngày 07/10 (2019), ông Nguyễn Phú Trọng đã gây ảo tưởng cho mọi người khi ông yêu cầu Trung ương: ”Phân tích, dự báo có căn cứ, cơ sở khoa học, tình hình thế giới và trong nước, nhất là tình hình Biển Đông; chỉ rõ các khả năng có thể xảy ra trong thời gian tới, lường trước những thời cơ, thuận lợi cần nắm bắt, những khó khăn, thách thức cần phải nỗ lực vượt qua. Từ đó, xác định sát hợp mục tiêu tổng quát, dự kiến các chỉ tiêu chủ yếu, cơ bản, quan trọng nhất cho năm 2020…”
Nhưng chuyện phân tích, có hay không đã được giữ kín để khỏi mất lòng phương Bắc, hay những điều ông Trọng phô trương, tưởng như nghiêm chỉnh, cũng chỉ là chiếc thùng rỗng để ông độc quyền yêu nước và tiếp tục được sống chung và hường bổng lộc của Trung Cộng. -/-
Phạm Trần
(10/019)
=============
(1) Theo ông Đào Tiến Thi từ trong nước thì những người tham dự nổi tiếng gồm có: Cụ Nguyễn Khắc Mai, GS. Nguyễn Đình Cống, Nhà văn Hoàng Quốc Hải, Nhà ngoại giao Nguyễn Trung, Anh hùng LLVT Lê Mã Lương, PGS. Trần Thị Băng Thanh, Nhà thơ Trần Nhương, PGS. Nguyễn Vi Khải, KTS. Trần Thanh Vân, PGS. Chu Hảo, Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, Nhà văn Nguyên Bình, Nhà văn – Cựu tù nhân lương tâm (vì chống Trung Cộng xâm lược) Phạm Viết Đào, GS. Trần Ngọc Vương, TS. Đinh Hoàng Thắng, TS. Công Nghĩa Tụ, TS. Nguyễn Đại, TS. Phạm Văn Chung, TS. Nguyễn Văn Vịnh, TS. Nguyễn Xuân Diện, Nhà báo tự do Lê Dũng.
Ngoài ra còn có PGS.TS, Thiếu tướng Lê Văn Cương, Nhà ngoại giao Nguyễn Trường Giang, Cựu quan chức Chính phủ Nguyễn Nam Cường, ThS. Hoàng Việt (một chuyên gia về luật biển, hiện đang là Giảng viên Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh),
- Viết bởi Phạm Trần

Phạm Trần
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Việt Nam Cộng sản Nguyễn Phú Trọng đã mơ hồ, viển vông và hão huyền khi tránh đương đầu với Trung Cộng ở bãi Tư Chính, Trường Sa.
Từ ngày 03/07/2019, Trung Cộng đã ngang nhiên đem tầu thăm dò dầu khí Hải Dương 8 (HD-8) đến vùng biển Bãi Tư Chính thuộc vùng đặc quyền kinh tế 200 Hải lý của Việt Nam với 3 mục đích rõ rệt:
Thứ nhất, muốn dành quyền chủ quyền không hề có của Trung Cộng trên vùng biển của Việt Nam.
Thứ hai, muốn đe dọa công tác tìm kiếm dầu khí liên doanh giữa Việt Nam với Nga và Ấn Độ, bắt đầu từ tháng 05/2019.
Thứ ba, nếu Việt Nam muốn thôi xung đột thì “hãy gác tranh chấp để cùng khái thác” như Phi Luật Tân đã đồng ý với Trung Quốc.
Trung Quốc đã tranh chấp chủ quyền biển đảo ở Biển Đông với 5 nước gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai và Brunei từ nghiều năm qua, nhưng Tòa án hòa giải Quốc tế đã không nhìn nhận quyền chủ quyền của Trung Cộng trong hình lưỡi Bò trong phán quyết năm 2016, khi xử vụ Phi kiện Trung Quốc.
Tư Chính nằm cách Vũng Tầu khoảng 370 cây số hướng Đông nam. Đây là điểm cực nam của hình tự vẽ lưỡi Bò của Bắc Kinh nhằm chiếm ¾ tổng diện tích trên 3 triệu cây số vuông của Biển Đông.
Trong suốt 3 tháng qua, ông Trọng và Bộ Chính trị của đảng CSVN, cơ chế nắm toàn quyền cai trị nước, đã không dám hé răng nửa lời lên án hành động ngang ngược của Trung Cộng. Ngược lại, ông đã để cho người phát ngôn của Bộ Ngoại giao, Lê Thị Thu Hằng, một mình chống Tầu bằng nước bọt và đòi Trung Cộng rút giàn khoan.
HD-8 và các tầu hộ tống võ trang của Cảnh sát biển Trung Cộng chẳng những không rút mà còn ngang nhiên đi về giữa Tư Chính và đảo Chữ Thập để nghỉ ngơi và nhận tiếp tế rồi quay lại hăm dọa như cũ.
Nên biêt đảo Chữ Thập, cách Tư Chính lối 230 hải lý ( lối 425 cây số) về phía bắc trước đây cũng chỉ là một bãi đá, nhưng sau khi chiếm của Việt Nam năm 1988, Trung Cộng đã tái tạo biến thành đảo kiên cố và xây dựng các cơ sở quân sự lớn nhất ở Trường Sa với sân bay, bến cảng, đài radar, vô tuyến viễn thông, cột hải đăng, trại lính v.v…
Do đó, dự đoán HD-8 có thể hoạt động lâu dài, không giống như Hải Dương 981 hồi năm 2014, vì không có nơi tiếp tế, đã phải quay về vùng biển Hải Nam sau 76 ngày (1/5 - 16/7/2014) thăm dò dầu khí ở cùng biển chỉ cách đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam) khoảng 120 hải lý (222 cây số) về phía đông. Hải Nam , cách Tư Chính khỏang 600 hải lý (1,111 cây số) phía bắc,
Vì vậy, phát ngôn viên Trung Cộng, Cảnh Sảng mới liều lĩnh nói vào ngày 18/09 (2019) rằng :"Việt Nam đã đơn phương tiến hành các hoạt động khai thác dầu khí từ tháng Năm tới nay, và việc này vi phạm nghiêm trọng các quyền và lợi ích của Trung Quốc, đồng thời vi phạm các thỏa thuận song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam."
Cảnh Sảng không nói rõ “các thỏa thuận song phương” nằm trong Hiệp ước nào, nhưng nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam nghi ngờ nó nằm trong Hiệp ước bí mật Thành Đô năm 1990 giữa Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh và Tổng Bí thư, Chủ tịch Nhà nước Giang Trạch Dân để nối lại bang giao giữa hai nước, sau 10 năm chiến tranh biên giới từ năm 1979 đến 1989.
Vì vậy, dù cuôc chiến nước bọt đôi bên tiếp diễn, nhưng tình hình trên biển đã cho thấy quyền chủ quyền của Việt Nam p73 Biển Đông đã bị đe dọa nghiêm trọng, sau khi HD-8 và các tầu võ trang Trung Cộng đã tự do ra, vào vùng biển của VN như ao nhà mà không hề bị ngăn chặn.
ÔNG TRỌNG MÙ MỜ
Do đó, khi thấy ông Nguyễn Phú Trọng bất ngờ nói đến 2 chữ Biển Đông trong diễn văn khai mạc Hội nghị Trung ương đảng kỳ 11, họp từ ngày 7 đến 13/10/2019, thì dư luận quan tâm bàn bạc, mặc dù ông đã cố tình nhét vào phần cuối của diễn văn khi yêu cầu Trung ương thảo luận về phát triển và xây dựng kinh tế năm 2020.
Ông Trọng nói với Trung ương cũng :”Đồng thời, phân tích, dự báo có căn cứ, cơ sở khoa học, tình hình thế giới và trong nước, nhất là tình hình Biển Đông; chỉ rõ các khả năng có thể xảy ra trong thời gian tới, lường trước những thời cơ, thuận lợi cần nắm bắt, những khó khăn, thách thức cần phải nỗ lực vượt qua. Từ đó, xác định sát hợp mục tiêu tổng quát, dự kiến các chỉ tiêu chủ yếu, cơ bản, quan trọng nhất cho năm 2020 và các chính sách, biện pháp phù hợp, có tính khả thi cao, nhất là các chính sách, biện pháp đột phá để thích ứng với những diễn biến và tác động mới của tình hình thế giới, khu vực đối với kinh tế - xã hội nước ta trong năm 2020.”
Nhưng tại sao ông Trọng không dành riêng một phiên họp để thảo luận về Biển Đông, trong đó quan trọng hàng đầu là việc Trung Cộng đem HD-8 câm nhập và quấy phá bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ?
Ngược lại, 4 Đề mục chính của Trung ương 11 đã tập trung thào luận về : Dự thảo Báo cáo chính trị và Báo cáo 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011 ; Về dự thảo Báo cáo kinh tế - xã hội trình Đại hội XIII của Đảng; Về dự thảo Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện công tác xây dựng Đảng; Về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2019 – 2020.”
Vậy phải chăng ông Trọng đã “chẳng đặng đừng” mà phải yêu cầu Trung ương đảng xem xét “tình hình Biển Đông”, nhưng có mấy Ủy viên nắm được tin tức những gì đã và đang diễn ra ở Tư Chính, nhất là những hoạt động ở Tư Chính thuộc hạng tin tối mật quốc phòng ?
Theo lề lối làm việc nội bộ thì ngoài Bộ Chính trị, các viên chức hàng đầu Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an, không ai có thể biết hơn ông Trọng về tình hình Tư Chính đang đe dọa chủ quyền của Việt Nam đến mức nào.
Vậy tại sao ông Trọng lại “đá bóng” qua sân Trung ương đế Trung ương phải gánh trách nhiệm chung với Bộ Chính trị, trong khi chính ông Trọng mới là người phải đứng mũi chịu sào.
Hành động mập mờ của ông Trọng khi đưa chuyện Biển Đông cho Trung ương giải quyết, do đó, bị nghi ngờ là một chiến lược “ném đá giấu tay” để ông không bị Trung Cộng lên án sau này.
KINH NGHIỆM HD-981
Còn nhớ khi xẩy ra vụ HD-981 năm 2014 thì Trung ương đảng khóa XI tuy đang họp kỳ thứ 9 (từ ngày 08-5 đến ngày 14-5-2014 ), nhưng đã không thảo luận vụ xung đột lớn này.
Khi đó có tin, theo Bách khoa Toàn thư mở, thì:”Bộ Chính trị chỉ đạo phải tiếp tục đấu tranh bằng biện pháp hòa bình, đúng theo luật pháp quốc tế. Riêng về giải pháp đấu tranh pháp lý, thời điểm nào hợp lý thì Bộ Chính trị sẽ quyết định, theo thông tin từ phiên họp Chính phủ cuối tháng 5.”
Nhưng sau khi bế mạc, Trung ương đảng đã ra Thông báo, trong đó có đoạn viết:”Ban Chấp hành Trung ương theo dõi sát tình hình, nghe báo cáo của các cơ quan chức năng về việc thực hiện các chủ trương, giải pháp của ta phản đối, đấu tranh đòi phía Trung Quốc phải dừng việc đặt giàn khoan thăm dò dầu khí Hải Dương 981 trong vùng biển nước ta và khẳng định: Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hoà bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và những thoả thuận giữa lãnh đạo cấp cao Việt Nam - Trung Quốc; đồng thời giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.”
Tựu trung là khi đó, cũng ông Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị đã quyết định không dùng biện pháp mạnh, kể cả việc kiện Trung Cộng, để duy trì hòa khí với người phương Bắc mà cả hai nước đã coi nhau “vừa là đồng chí, vừa là anh em”, theo phương châm 16 chữ: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” . và tinh thần 4 tốt:“láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
Quốc hội của CSVN khi ấy cũng đang họp nhưng Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng cũng nín thinh không dám thào luận vụ HD-981. Bộ Chính trị và ông Hùng là một Ủy viên, đã toa rập ngăn chặn Quốc hội ra nghị quyết lên án Trung Cộng. Nhưng sau đó, vào ngày 21 tháng 5, Quốc hội đã ra thông cáo tuyên bố "nhất trí cao với chủ trương của Đảng và Nhà nước".
Vậy, nay với vụ HD-8, xem như ông Trọng lại muốn rập khuôn cũ để buông tay, mặc dù vụ HD-8 ở Tư Chính nghiêm trọng gấp ngàn lần hơn vụ HD-981.
TRUNG CỘNG RỈ TAI AI ?
Trước biến cố Tư Chính, một số đông Trí thức, giới Khoa học, Cựu tướng lĩnh và Nhà văn nổi tiếng, khối người trong số này đã ra khỏi đảng và công khai đốp lập với đảng đã họp tại Hà Nội ngày 06/10 (2019) để thảo luận việc phài làm gì trong tình thế nguy nan này.
Cuộc Tọa đàm do Viện nghiên cứu Chính sách Pháp luật và Phát triển, do à PGS. TS. Hoàng Ngọc Giao đứng đầu tổ chức.
Theo tường thuật của Nhà nghiên cứu Ngôn ngữ, Đào Tiến Thi từ trong nước thì những người tham dự nổi tiếng gồm có: Cụ Nguyễn Khắc Mai, GS. Nguyễn Đình Cống, Nhà văn Hoàng Quốc Hải, Nhà ngoại giao Nguyễn Trung, Anh hùng LLVT Lê Mã Lương, PGS. Trần Thị Băng Thanh, Nhà thơ Trần Nhương, PGS. Nguyễn Vi Khải, KTS. Trần Thanh Vân, PGS. Chu Hảo, Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, Nhà văn Nguyên Bình, Nhà văn – Cựu tù nhân lương tâm (vì chống Trung Cộng xâm lược) Phạm Viết Đào, GS. Trần Ngọc Vương, TS. Đinh Hoàng Thắng, TS. Công Nghĩa Tụ, TS. Nguyễn Đại, TS. Phạm Văn Chung, TS. Nguyễn Văn Vịnh, TS. Nguyễn Xuân Diện, Nhà báo tự do Lê Dũng.
Ngoài ra còn có PGS.TS, Thiếu tướng Lê Văn Cương, Nhà ngoại giao Nguyễn Trường Giang, Cựu quan chức Chính phủ Nguyễn Nam Cường, ThS. Hoàng Việt (một chuyên gia về luật biển, hiện đang là Giảng viên Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh),
Theo các bài tương thuật của ông Đào Tiến Thi thì:”Các chuyên gia hàng đầu đều nhận định sự kiện bãi Tư Chính là VÔ CÙNG NGHIÊM TRỌNG. Bởi vì đây là “nút thắt của nút thắt” (Tư Chính là nút thắt vấn đề Biển Đông hiện nay và vấn đề Biển Đông lại là nút thắt của quan hệ Việt – Trung). Mất Tư Chính có thể dẫn đến mất toàn bộ quần đảo Trường Sa, và mất Trường Sa có thể dẫn đến mất nước.”
Ông Thi nhấn mạnh:”Thiếu tướng Lê Văn Cương cho rằng vụ Tư Chính nguy hiểm gấp cả trăm lần vụ Giàn khoan 981 hồi 2014. Ông cũng bác bỏ từng luận điệu sai trái hiện tồn tại trong chính giới Việt Nam như coi vụ Tư Chính chỉ là cuộc chơi giữa hai cường quốc, như cho rằng Trung Quốc to lớn đến mức ta không thể làm gì được, v.v…”
Vẫn tho ông Thi thì:”Các chuyên gia về luật biển, về biển và về ngoại giao đều cho rằng, kiện Trung Quốc là biện pháp tốt nhất hiện nay. Tuy nhiên kiện ở tòa nào, kiện về việc gì thì còn phải tính toán, cân nhắc để chắc thắng. Trên thế giới có những luật sư chuyên giúp các nước nhỏ kiện các nước lớn trong vấn đề chủ quyền. Nicaragua đã từng thắng Mỹ theo cách đó.
Cái khó là Trung Quốc rất lì lợm, không chịu cùng nhau ra tòa, trong khi nhiều tòa án quốc tế chỉ thụ lý nếu cả hai bên cùng chấp nhận ra tòa. Theo một số chuyên gia, giới cầm quyền Trung Quốc đã nhiều lần “rỉ tai” giới lãnh đạo VN “đừng kiện để giữ đại cục”. Thế thì VN đã gặp khó khăn ngay từ chủ trương rồi.”
Nhưng “rỉ tai” ai, nếu không phải là những người có trách nhiệm hàng đầu trong đảng và nhà nước CSVN ?
NHÂN NHƯỢNG HAY NẰM VÙNG ?
Ngoài phản ứng rất gay gắt của giới Trí thức tại cuộc Tọa đàm ngày 06/10 (2019), thỉnh thoảng đó đây cũng phát lên những phản biện thẳng thắn của nhiều Trí thức khác đứng trước nguy cơ ở Tư Chính.
Trong số này, phải kể đến bài phát biểu gây tiếng vang lớn của nguyên Đại sứ Nguyễn Trường Giang về Tư Chính, do báo An ninh Thủ đô (ANTĐ) thực hiện và được ViệtnamNet đăng lại ngày 05/08/2019, nhưng sau đó được lệnh gỡ bỏ.
Ông nói:"Tôi cho rằng, chúng ta không thể nào đánh mất biển được. Tôi đã nói điều này 10 ăm nay rồi. Chúng ta không có lý do gì đánh mất biển, mất đảo".
Báo ANTĐ kể rằng:”Đại sứ Nguyễn Trường Giang, người đã dành hơn 10 năm nghiên cứu về tình hình biển, đảo, chia sẻ những suy nghĩ của mình về những diễn biến quanh Bãi Tư Chính.”
“Cái cớ của họ là gì? Bãi Tư Chính là của họ? Chúng ta là kẻ cướp biển, cướp đảo của họ? Họ chứng minh được việc này thì họ mới có thể bắn. Nhưng làm sao họ chứng minh được! Họ không thể chứng minh được!
Tôi cho rằng, trong bất kỳ tình huống nào chúng ta cũng ngăn được các dàn khoan của họ vào vùng biển của chúng ta. Lý do là chưa một quốc gia nào trên thế giới này làm được việc đó. Nếu làm được thì người Mỹ, người Nhật đã chiếm sạch biển của thế giới rồi. Không một ai có thể dùng vũ lực để chiếm biển cả.
Tôi cho rằng, chúng ta không thể nào đánh mất biển được. Tôi đã nói điều này 10 năm nay rồi. Chúng ta không có lý do gì đánh mất biển, mất đảo.
Chúng ta có đầy đủ cơ sở pháp lý khách quan, thuyết phục để bác bỏ chủ quyền của họ ở Hoàng Sa, Trường Sa, đường lưỡi bò. Đây là công cụ vô cùng quan trọng, là niềm tin quan trọng. Nhất định chúng ta giữ được.”
Nhà ngoại giao nhấn mạnh:”Câu chuyện lòng dân là cực kỳ quan trọng. Nếu Biển Đông nằm trong trái tim của mỗi người Việt Nam, Biển Đông không bao giờ mất được. Nếu chúng ta dửng dưng, vô cảm, không quan tâm đến biển thì khả năng giữ là khó. Lòng dân quyết định tất cả. Chúng ta phải có được đoàn kết dân tộc, 96 triệu người như một, chúng ta sẽ giữ được biển bảo.
Tuy nhiên, chúng ta phải chuẩn bị những phương án cần thiết nhất, không chỉ đơn giản là gửi công hàm hay tiếp xúc… Sức mạnh của chúng ta lớn lắm, danh tiếng của Quân đội Nhân dân Việt Nam lớn tương đương 50 sư đoàn được trang bị hiện đại nhất. Nhiều nhà ngoại giao ở Liên Hiệp Quốc đã nói với tôi như vậy, họ kính nể Việt Nam.”
Đại sứ Nguyễn Trường Giang lưu ý:”Tuy nhiên, truyền thông của chúng ta về vụ việc này còn hơi khiêm tốn. Cần tuyên truyền rộng rãi hơn nữa để thấy, nếu họ đưa một chân sói vào được vùng biển của chúng ta, họ sẽ đưa tiếp chân sói thứ hai, chân sói thứ ba… từ đó chúng ta sẽ mất khu vực phòng ngự chiến lược trong vùng biển của chúng ta.”
Rồi ông cảnh giác:”Cuối cùng, thái độ nhân nhượng là không ăn thua, giữ đại cục không ăn thua. Chúng ta từng nhũn nhặn, nhân nhượng nhưng không có tác dụng, dẫn đến những diễn biến quanh Bãi Tư Chính ngày nay. Chúng ta phải có lòng tin, sự quyết tâm vì bất kỳ sự nhân nhượng nào sẽ không dẫn đến hòa bình.”
Vậy ông Nguyễn Phú Trọng và Ban Chấp hành Trung ương đảng CSVN có banh tai ra mà nghe, căng mắt ra để đọc những lời tâm huyết và chí lý của giới Trí thức về vụ Tư Chính chưa, hay vẫn cứ cố tình nhắm mắt, mũ ni che tai để sa vào cãi bẫy tiền tài và danh vọng của Bắc Kinh ?
Chắc ông Trọng và Bộ Chính trị chưa quên hồi tháng 10 năm 2017, Thiếu tướng Trương Giang Long, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị Công an Nhân dân, kiêm Giám đốc Học viện Chính trị, Công an Nhân dân phát biểu chống TQ mạnh mẽ, dài gần 30 phút.
Cuốn Video ghi lời ông nói: “Trung Quốc, không bao giờ từ bỏ dã tâm thôn tính chủ quyền của chúng ta. Mà không phải thời ông Tập Cận Bình đâu, ông khác lên cũng sẽ như vậy thôi.
Câu chuyện là, bao giờ họ sẽ lấy và lấy bằng cách nào…“.
Thiếu tướng cảnh giác người nghe: “Chính vì vậy mà chúng ta không loại trừ việc mà họ làm suy yếu từ bên trong. Chúng ta phải nói rõ với nhau như thế. Chúng tôi nói với các đồng chí là: bọn xấu nó cài cắm, nó móc ngoặc, nó lôi kéo đó. Hồi xưa chỉ một vài người là đã nguy hiểm rồi, đã chết rồi. Bây giờ, tôi thông báo với các đồng chí là, nó đã có con số đến hàng trăm, mà hàng trăm không chỉ là con số dừng lại ở hàng trăm. mà trăm này có thể cộng với trăm kia nữa. Mà nếu chúng ta không phát hiện, không nghiêm trị, thì xin thưa với các đồng chí là…”
Như vậy thì có ngạc nhiên gì khi thấy các báo chính thống như trang điện tử của Chính phủ, của đảng và 2 bài tường thuật diễn văn của ông Trọng tại Trung ường 11, do đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) và Thông tấn xã Việt Nam phổ biến đã “kiểm duyệt” bỏ 2 chữ “Biển Đông”.
Bằng chứng của TTXVN:”Tổng Bí thư, Chủ tịch nước yêu cầu phân tích, dự báo có căn cứ, cơ sở khoa học, tình hình thế giới và trong nước, từ đó xác định sát hợp mục tiêu tổng quát, dự kiến các chỉ tiêu chủ yếu, cơ bản, quan trọng nhất cho năm 2020, các chính sách, biện pháp phù hợp, có tính khả thi cao, nhất là các chính sách, biện pháp đột phá để thích ứng với những diễn biến và tác động mới của tình hình thế giới, khu vực đối với kinh tế-xã hội nước ta trong năm 2020.”
(Nguyễn Sự-Hồng Điệp (TTXVN/Vietnam+) 07/10/2019 )
Trong khi đó, bài của VOV chỉ viết:” Trên cơ sở phân tích, dự báo có căn cứ, cơ sở khoa học, tình hình thế giới và trong nước, xác định sát hợp mục tiêu tổng quát, dự kiến các chỉ tiêu chủ yếu, cơ bản, quan trọng nhất cho năm 2020 và các chính sách, biện pháp phù hợp, có tính khả thi cao, nhất là các chính sách, biện pháp đột phá để thích ứng với những diễn biến và tác động mới của tình hình thế giới, khu vực đối với kinh tế - xã hội nước ta trong năm 2020.”
Vậy lệnh kiểm duyệt 2 chữ “Biển Đông” trong câu nói quan trọng nhất của bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, do ai trong Bộ Chính trị hay Chính phủ chỉ thị ?
Nên biết, tuy các báo đài nhà nước đều có Tổng Biên tập, nhưng chỉ có “một Tổng Biên tập của các Tổng biên tập” là Trường ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng mới có toàn quyền quyết định sinh mạng của các báo.
Vậy thử hỏi ông Võ Văn Thưởng xem ai đã dám qua mặt ông để làm chuyện tầy trời đáng xử trảm này ? -/-
Phạm Trần
(10/019)
- Viết bởi Phạm Trần
Mỗi ngày qua đi là thêm một ngày nhà nước Cộng sản Việt Nam mất chủ quyền và không có đồng minh ở Biển Đông.
Bằng chứng này đang xẩy ra từ khi Trung Quốc đem tầu khảo sát dầu khí Hải Dương 8 (HD-8), có các tầu Hải quân và Hải giám võ trang hộ tống vào tìm dầu bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đồng thời đe dọa dự án đào dầu chung giữa Việt Nam-Nga và Ấn Độ ở khu vực bãi Tư Chính, cách Vũng Tầu khoảng 370 cây số hướng đông nam.
Việt Nam đã nhiều lần phản đối Trung Quốc và đòi rút HD-8 và các tầu hộ tống, nhưng Trung Quốc không chỉ làm ngơ mà còn tự ý ra vào vùng biển của Việt Nam, có lần chỉ cách Bình Thuận 185 cây số, như vào sân nhà mình.
Lực lượng Cảnh sát biển và Hải quân Việt Nam đã có mặt để một mặt theo dõi hoạt động của HD-8, mặt khác bảo vệ các giàn khoan dầu của mình. Tuy nhiên thông tin về các hoạt động của đôi bên không được loan báo nên không ai biết diễn biến ra sao.
Năm 2014, Trung Quốc đã đem giàn khoan Hải Dương 981 (HD-981) vào bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (200 hải lý tính từ bờ biển) để tìm dầu. Vị trí này cách đảo Lý Sơn, Tỉnh Quảng Ngãi, khoảng 120 Hải lý, hay lối 220 cây số, về hướng đông, và đứng nguyên ở đó từ ngày 01/05/2014 đến ngày rút lui 16/07/2014, vì vào thời điểm này Trung Quốc chưa tân tạo xong thành đảo bãi đá chữ Thập.
Nên biết sau cuộc tấn công chiếm đóng và thảm sát 64 quân sỹ Việt Nam ở Gạc Ma (Johnson South Reef) ,Trường Sa, ngày 14/03/1988, Trung Quốc đã chiếm thêm các đá Châu Viên (Cuarteron Reef ) , Chữ Thập (Fiery Cross Reef), Ga Ven (Gaven Reef), Tư Nghĩa (Hughes Reef), Vành Khăn (Mischief Reef) và Xu Bi (Subi Reef).
Sau đó, Trung Quốc đã tân tạo các vị trí chiếm đóng thành đảo nhân tạo với sân bay, bến cảng, trại đóng quân, hệ thống phòng không, radar và một số đài khí tượng và hải đăng
Vì vậy lần này HD-8 tự ý rút khỏi Tư Chính lần thứ nhất ngày 07/08 (2019) về nghỉ ngơi và nhận tiếp liệu ở Bãi Chữ Thập ở phía bắc rồi quay lại Tư Chính ngày 13/08 (2019). Sau đó HD-8 lại lần mò vào sâu trong vùng biển Bình Thuận rồi lại trở về Tư Chính.
Các tầu võ trang hộ tống của Trung Quốc đi theo HD-8 cũng đã thay phiên nhau quay về Chữ Thập để lấy tiếp liệu rồi lại quay xuống Tư Chính mà không bị tầu Việt Nam ngăn cản.
KHẢ NĂNG CHỮ THẬP
Vị trí của Chữ Thập do đó đã biến thành điểm cầu nối chiến lược quan trọng giữa Tư Chính và căn cứ Hải quân và tầu ngầm của Trung Quốc ở đảo Hải Nam ở phía bắc, trong khoảng cách ngót 2,000 cây số.
Vậy Trung Quốc đã biến đá Chữ Thập thành căn cứ quân sự như thế nào ?
Báo Thanh niên viết:”Tính đến tháng 5.2015, đảo nhân tạo đã có diện tích khoảng 280,3 ha với chiều dài khoảng 3.700 m (rộng nhất 1.100 m, hẹp nhất 60 m) và hồ nhân tạo ở phía đông bắc diện tích khoảng 52 ha với luồng dẫn vào dài khoảng 700 m, rộng 270 + 300 m.
Đến nay, căn cứ Chữ Thập đã hoàn tất với cụm 7 nhà lớn ở khu vực trung tâm (cao 5-6 tầng) và 30 công trình nhà trung bình, nhỏ khác; 1 đường băng sân bay dài hơn 3.000 m, rộng 50 m phục vụ các loại máy bay vận tải dân dụng, quân sự, du lịch loại nhỏ cất hạ cánh; các đài chỉ huy không lưu, tháp ra đa không lưu và khoảng 30 nhà chứa máy bay dọc đường băng…
Ngoài ra, căn cứ này còn có các công trình hiện đại như: tháp hải đăng, tháp điều độ cảng, tháp viễn thông (thu phát sóng 4G), tháp ra đa đối không - đối hải, hệ thống liên lạc vệ tinh, sân vận động trung tâm, trạm quan trắc hải dương, trạm lọc nước biển, bệnh viện tiêu chuẩn cấp 2.
Đặc biệt, tại đá Chữ Thập, phía Trung Quốc xây dựng hệ thống công trình ngầm rất lớn và 9 cầu tàu đảm bảo đón nhận tàu trọng tải hàng vạn tấn...
Do là căn cứ lớn nhất và quan trọng nhất ở Trường Sa nên phía Trung Quốc triển khai nhiều hệ thống, phương tiện bảo vệ. Các tàu thuyền nào vào gần đá Chữ Thập 12 hải lý đều bị xua đuổi, ngăn cản quyết liệt.” (Thanh Niên, ngày 13/06/2019)
Trong khi đó, theo Bách khoa toàn thư mở (BKTT) thì :”Từ năm 2014, Trung Quốc bắt đầu cải tạo mở rộng đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) thành đảo nhân tạo lớn nhất quần đảo Trường Sa, có diện tích 2,74 km2 (tính đến tháng 7/2015) với tổng kinh phí hơn 73 tỉ nhân dân tệ (11,5 tỉ USD)…”
BKTT viết thêm:“…Đặc biệt là việc xây dựng một đường băng dài 3.125m và rộng 60m, là đường băng duy nhất đủ lớn cho máy bay ném bom chiến lược tại Trường Sa, cho phép quân đội Trung Quốc bao quát không phận rộng lớn từ Tây Thái Bình Dương gồm cả Guam (nơi có các căn cứ của Mỹ) đến Ấn Độ Dương. Tư lệnh Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ (PACOM), Đô đốc Harry Harris, cho biết hiện các vỉa đá ngầm mà Trung Quốc chiếm giữ và xây dựng trái phép ở Biển Đông nhìn giống hệt các căn cứ cho máy bay chiến đấu, máy bay ném bom, tàu và hoạt động do thám.”
Như vậy, rõ ràng Trung Quốc đã sử dụng Chữ Thập qua vụ Tư Chính như một “phép thử” cho khả năng quân sự để đe dọa an ninh Biển Dông và riêng Việt Nam ở phía cực nam của hình Lưỡi bò tự vẽ của Bắc Kinh nhằm dành chủ quyền 90% của diện tích trên 3 triệu cây số vuông ở Biển Đông.
NGẬM MIỆNG ĂN TIỀN ?
Vì vậy, khi tình hình Tư Chính, sau hơn 2 tháng HD-8 và các tầu quân sự của Trung Quốc ra vào biển đảo của Việt Nam như đi chợ mà không thấy Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng hành động gì thì rất nhiều thức giả, trong và ngoài nước, đã bắt đầu hoài nghi về khả năng đối phó với Bắc Kinh của ông Trọng và của đảng CSVN.
Đã có nhiều ý kiến đề nghị Chính phủ Việt Nam phải cương quyết bảo vệ chủ quyền bằng mọi giá và phải dứt khoát một lần với Trung Quốc, thay vì “đại cục” , theo ý muốn của Trung Quốc, mà để bị nắm tóc phục tùng.
Một số bài viết của những người nổi tiếng như các ông Hà Sĩ Phu, nguyên Đại sứ Nguyễn Trung, Giáo sư Chu Hảo, Giáo sư Tương Lai, Giáo sư Nguyễn Đình Cống v.v… đã kêu gọi lãnh đạo đảng và nhà nước hãy can đảm “vượt qua chính mình” và đặt quyền lợi Tổ quốc lên trên quyền lợi của đảng và quyền lợi của cá nhân để thoát vòng nô lệ phương Bắc.
Trong số góp ý này, cũng đã có yêu cầu Việt Nam đưa vụ Tư Chính ra trước Liên Hợp Quốc, rồi sau đó, ra trước Tòa án Trọng tài Quốc tế, nếu cần, như Phi Luật Tân đã làm năm 2016. Nhưng xem ra, sau lưng hậu trường, các đào kép lãnh đạo, đứng đầu là ông Nguyễn Phú Trọng, đã bị nhóm “tư tưởng bàn đèn” trong Hội đồng Lý luận Trung ương và Ban Tuyên giáo níu áo ghìm lại, sợ phản ứng bất lợi của Tập Cận Bình, Tổng Bí thư, Chủ tịch nhà nước Trung Hoa.
Vì vậy, lần đầu tiên, ông Vũ Ngọc Hoàng, cựu Phó trưởng ban thường trực, Ban Tuyên giáo trung ương, cựu Ủy viên trung ương đảng đã viêt bài tâm huyết nói thẳng với lãnh đạo đảng và nhà nước về vụ Tư Chính.
Ông viết:”Âm mưu của Trung Quốc về việc cưỡng chiếm Biển Đông của VN đã có từ lâu. Âm mưu đó có nguồn gốc từ bản chất Đại Hán của đế chế Phương Bắc này".
Sau một thời gian tích cực chuẩn bị, đến nay cảm thấy đủ điều kiện nên họ đang quyết tâm thực hiện một bước nhảy vọt đáng kể để thực hiện âm mưu này.
Việc tàu Trung Quốc vào ra vùng biển chủ quyền của VN vài tháng nay không phải là một cuộc “dạo chơi” mà là một bước leo thang ngoạn mục.
Thế mà phía VN ta cũng có ý kiến cho rằng “nó vào rồi nó ra chứ đã làm được gì đâu”. Nghĩ vậy thật đơn giản và thơ ngây quá! Nó vào rồi nó ra, nó ra rồi nó lại vào. Nó muốn vào thì vào, muốn ra thì ra, vào nhà người ta mà cứ nhà của nó.
Một đất nước có chủ quyền mà sao có thể chịu vậy. Kiểu này thì có ngày nó bảo “hai nhà là một”, nhập chung thôi, rồi lấy tiếng Trung làm tiếng phổ thông vì đại đa số dân chúng đang nói thứ tiếng này. Thế là nó hoàn thành âm mưu thôn tính và đồng hóa, đạt mục đích mà hơn 4000 năm nay họ chưa làm được. Thật nhẹ nhàng, ít tốn công tốn sức.”
Biển của VN mà họ bảo của họ, yêu cầu cùng khai thác. Theo luận điệu đó thì VN mất biển. Mà mất Biển Đông là mất nước. Phần còn lại nhỏ hẹp, không gian sinh tồn của dân tộc mất đi hơn một nửa, lục địa bị bao vây tứ bề, phần tài nguyên khoáng sản lớn và quý giá nhất bị cướp hết, không còn cửa để ra đại dương - cái mà rất nhiều quốc gia đều cần đến để thành cường quốc, hàng không cũng mất tự do, con cháu muôn đời sẽ bị o ép và lệ thuộc họ đủ điều, mất lần này là mất hẳn, mãi mãi không bao giờ đòi lại được, niềm tự hào về lịch sử bất khuất của một dân tộc văn hiến cũng sẽ mờ nhạt và bị tan biến, đất nước anh hùng chỉ còn lại một cái xác như một mảnh nhỏ vô hồn, một dân tộc sẽ mãi tụt hậu, tủi nhục và đau đớn.”
Do đó, ông Hoàng nhấn mạnh:”Vào lúc này công việc lớn lao nhất, quan trọng nhất, hơn bất cứ thứ gì, là bảo vệ Đất nước, trước mắt là Biển Đông. Tổ Quốc trên hết! Có thể đình hoãn nhiều việc khác, kể cả việc quan trọng, để tập trung suy tính kỹ cả chiến lược, sách lược và giải pháp cụ thể (đừng chủ quan nói đã tính kỹ hết rồi). Đây mới chính là “đại cục” chứ còn cái đại cục gì nữa? Đây là nội dung quan trọng nhất và là cốt lõi, chính yếu của Đại hội lần nầy, chứ không thể nội dung nào hơn được.
Đây là phương hướng và quan điểm để chọn nhân sự chứ không có bất cứ tiêu chí gì quan trọng hơn vào lúc vận mệnh đất nước như thế này. Theo đó, tiêu chí đầu tiên để chọn cán bộ lãnh đạo các cấp các ngành là thái độ rõ ràng, mạnh mẽ và tư duy mạch lạc trong vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia ở Biển Đông.”
Phản ứng trong nước về phát biểu của ông Hoàng có nhiều, nhưng đáng chú ý nhất là những câu chữ của Giáo sư Chu Hảo, cựu Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam, nhà bất đồng chính kiến ra khỏi đảng CSVN.
Ông Hảo viết:”Chắc chắn đã có "một bộ phận không nhỏ" trong giới cầm quyền cản trở việc tháo gỡ các nút thắt này, nên lãnh đạo VN mới lúng túng và chần chừ đến như vậy. Có một Trần Ích Tắc dân tộc đã khổ , nếu có một bầy Trần Ích Tắc thì nhân dân ta khó lòng giữ được truyền thống quật cường, không khuất phục của Dân tộc ta đã được hun đúc từ khi dựng Nước. Họa mất Nước đang đe dọa dân ta! Phải vạch mặt bọn Trần Ích Tắc này, đừng sợ!
“…Nếu Dự án Đường cao tốc Băc Nam lại chủ yếu rơi vào tay các nhà thầu Trung Quốc thì liệu chừng ta không chỉ mất Biển mà còn mất nốt cả Đất. Đường về nô lệ đang hiển hiện, phải cùng nhau góp sức làm cho toàn dân thấy rõ nguy cơ này, đừng sợ!”
QÚA KHỨ ÔNG TRỌNG
Riêng ông Nguyễn Phú Trọng thì bài học Hải Dương 981 đã để lại bản lĩnh ù lì của ông, khi ông tự khoe với cử tri Hà Nội ngày 08/12/2015.
Ông nói:” Trên Biển Đông, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế dẫn đến hàng hoạt vấn đề bất ổn.
Tuy nhiên, về đại thể, Việt Nam vẫn giữ được ổn định, an sinh xã hội thậm chí được cải thiện; đường sá xây mới, nhiều trung tâm lớn, nhiều cao ốc mọc lên… Năm 2015, GDP ước đạt 6,5%, vượt mức đề ra.
"Các bác thấy vấn đề Biển Đông chúng ta giải quyết như thế có đúng không? Chuyện Biển Đông, càng ngày càng thấy tính đúng đắn của hướng giải quyết, vẫn đảm bảo được môi trường ổn định, hoà bình để phát triển.
Nếu để xảy ra đụng độ gì thì tình hình bây giờ bất ổn thế nào, chúng ta có ngồi đây mà bàn việc tổ chức đại hội Đảng được không? (Đại hội đảng XII năm 2016)
Ông khoe tiếp:”Ta xử lý mối quan hệ với Trung Quốc, Mỹ, Nhật… vừa qua như thế hợp lý không? Để đảm bảo độc lập tự chủ, chơi với mọi nước nhưng không phụ thuộc vào ai mà các nước ta quan hệ, hợp tác đều phải nể trọng như vậy."
Nhưng tình hình HD-981 năm 2014 khác với HD-8 năm 2019. Ông Trọng chắc phải biết như thế, nhưng ông lại sợ có đồng minh để đương đầu với cáo già Tập Cận Bình.
Từ khi lên cầm quyền năm 2011, ông Nguyễn Phú Trọng đã chứng minh là người trung thành với Bắc Kinh để đảng CSVN được tồn tại bằng mọi giá. Ông Trọng sẽ không thay đổi vì ông không có can đảm “vượt qua chính mình” để ngẩng mặt nhìn vào tương lai.
Do đó, ông rất khó để có đồng minh và sẽ mãi mãi là người cô đơn trong tư duy của một nhà độc tài. -/-
Phạm Trần
(09/019)
- Viết bởi Hà Minh Thảo
Năm 2016, cô giáo Trần Thị Lam, Trường Phổ thông Trung học chuyên Hà Tĩnh đã cho phổ biến bài ‘Ðất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh ?’.Thật vậy, trong thời gian hai tháng qua với vụ đương đầu tại bãi Tư Chính và trong tháng mười tới đây, cuộc gặp gỡ giữa hai ông Donald Trump và Nguyễn Phú Trọng có đem lại Dân Quyền cho đồng bào trong nước không ? Do đó, toàn dân Việt Nam ước mong người Mỹ gốc Việt yêu cầu Chính quyền Hoa Kỳ can thiệp hầu người dân Việt góp ý để xây dựng Ðất Nước và tham gia Bầu và Ưùng cử để tuyển chọn nhân tài đức điều hành Quốc sự.
I.- ÐỐI ÐẦU TẠI BÃI TƯ CHÍNH.
Sau khi thất bại trong việc cho Hà Nội một bài học vô cùng dã man đối với thường dân Việt tay không năm 1979, Trung cộng đã chấp thuận cho Việt Nam cộng sản tái lập bang giao năm 1990. Từ đó, hai nước anh em cộng sản hợp tác gây nên cái gọi là Phương châm 16 chữ vàng (Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai) và 4 tốt (Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt).
Thế rồi, lợi dụng hỏa lực mạnh hơn, ngày 03.07.2019, Trung cộng đưa tàu thăm dò ‘Hải Dương Địa chất 8’ (Haiyang Dizhi 8) vào gần Bãi Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa, trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Đi theo bảo vệ tàu này còn có ba tàu hải giám Tàu được vệ tinh phát hiện, đặc biệt là tàu hải giám trên 10.000 tấn ký hiệu 3901 và tàu dân quân biển Qiong Sansah Yu001. Do đó, sự kiện này đã tạo ra một cuộc đối đầu giữa các tàu của lực lượng hải cảnh Việt và Trung cộng trong thời gian qua vẫn đang tiếp diễn. Tại đây, một công ty Nga tên Rosneft đang thực thi việc thăm dò dầu khí tại Lô 06.1 của Việt Nam chiếu hợp đồng ký với Việt Nam. Công ty này thuê giàn khoan Hakuryu-5 của Công ty Khoan thăm dò Nhật Bản (JDC) hoạt động từ ngày 15.05.2019. Trrước đây, năm 2014, Trung cộng cũng đưa giàn khoan Hải Dương 981 xâm phạm chủ quyền lãnh hải quần đảo Hoàng Sa, đã gây nên những cuộc biểu tình đông đảo của đồng bào khắp Việt Nam và đã bị cộng phỉ sai công an côn đồ đàn áp dã man. Bởi thế, lần này, đồng bào đã ký Kiến nghị gởi đến Quốc hội ‘đảng cử dân bầu’ (mời xem dưới đây).
Ngày 25.07.2019, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng lặp lại lần thứ 3 rằng Việt Nam ‘kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền’ và đã trao công hàm phản đối cho phía Tàu về hoạt động bất hợp pháp của Hải Dương Địa chất 8. Đây được xem là phản ứng mạnh nhất từ trước đến nay từ phía Việt Nam liên quan đến những vụ xung đột căng thẳng với Tàu trên Biển Đông. Trong thời gian đó, từ ngày 10.07.2019, chủ tịch quốc hội Nguyễn thị Kim Ngân đã có những ngày thăm viếng thích thú tại Bắc Kinh và thảo luận với các lãnh đạo Tàu và Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nhà nước Nguyễn Phú Trọng thì hoàn toàn không có lời nào. Do đó, đàn em đã hành động…
Nhân dịp dự Lễ Kỷ niệm 92 năm ngày thành lập Quân đội Giải phóng nhân dân Trung cộng, do Đại sứ quán Tàu ở Việt Nam tổ chức, Trung tướng Ngô Minh Tiến, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam tuyên bố : « Vun đắp cho tình hữu nghị bền lâu không chỉ là tâm nguyện của nhân dân và quân đội Việt Nam và Trung Quốc mà còn là tâm nguyện, khát vọng của thế giới văn minh ngày nay ». Cử chỉ đã khuấy động dư luận trên mạng xã hội Việt ngữ : « Đó chỉ là tâm nguyện của chúng mày – lũ hèn nhát, bán nước – chứ không phải của nhân dân ». Từ đó, trong Quân đội này, chúng ta có thể nghĩ đến nhiều các tướng tá khác.
Ngày 19.07.2019, khi bình luận về phát biểu của ông Cảnh Sảng, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Tàu, bà Thu Hằng nêu rõ, đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển 1982 mà Việt và Tàu đều là thành viên. Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với Tàu ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu họ chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực. Chiều 25.07.2019, bà Hằng lập lại lời tuyên bố đó.
Chiều ngày 07.08.2019, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 đã ngưng hoạt động khảo sát và rút khỏi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ, exclusive economic zone) và thềm lục địa Việt Nam. Nhưng, ngày 13.08.2019, chúng đã trở lại hoạt động xâm phạm vùng biển Việt Nam. Ngày 22.08.2019, bà Hằng lại yêu cầu Tàu cộng chấm dứt ngay vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, không có những hành vi làm gia tăng căng thẳng, gây phức tạp tình hình, đe dọa đến hòa bình, ổn định và an ninh ở Biển Đông cũng như khu vực.
Ngày 29.08.2019, với tư cách là các quốc gia ký kết Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS, United Nations Convention on the Law of the Sea), Vuơng quốc Anh, Cộng hòa Pháp và Cộng hòa Liên bang Đức đã ra tuyên bố chung bày tỏ quan ngại về tình trạng căng thẳng ở Biển Đông và kêu gọi các bên thực hiện những biện pháp làm giảm sự căng thẳng đó và góp phần duy trì, thúc đẩy hòa bình và an ninh khu vực. Ba nước nhấn mạnh về ‘mối quan tâm đối với việc áp dụng một cách phổ quát’ văn bản này. Đặc biệt là việc tôn trọng phán quyết ngày 12.07.2016 của Tòa án Trọng tài Quốc tế La Haye. Theo đó, việc Bắc Kinh căn cứ vào bản đồ 9 đoạn* để khẳng định chủ quyền của Trung Quốc với hầu hết Biển Đông là ‘không có cơ sở về mặt pháp lý’.
* [bản đồ 9 đoạn còn được là Hình Lưỡi Boø, chiếm ¾ diện tích 3.447.000 cây số vuông Biển Ðông].
Lập tức, hôm 30.08.2019, khi họp báo, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Tàu, Cảnh Sảng khẳng định tình hình tại Biển Đông vẫn ‘ổn định’ và đang được ‘cải thiện’ nhờ họ và các đối tác ASEAN ‘phối hợp nỗ lực’ giải quyết bất đồng. Bắc Kinh kêu gọi Anh, Pháp, Đức nên ‘khách quan hơn’ về Biển Đông.
Ngày 01.09.2019, qua thư điện tử, bà Hằng viết : « Việt Nam kêu gọi các nước tham gia vào việc làm giảm căng thẳng, bảo đảm an ninh và tự do lưu thông tại vùng biển này. Biển Đông có tầm quan trọng đối với các nước bên trong và bên ngoài khu vực, trong các lĩnh vực kinh tế, an ninh, an toàn, tự do lưu thông hàng không và hàng hải. Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng làm việc với các nước và cộng đồng quốc tế để duy trì hòa bình, ổn định và an ninh trong khu vực ».
Văn phòng Quốc hội không tiếp dân
Ngày 30.07.2019, khi sự kiện Trung Quốc điều tàu thăm dò dầu khí Hải Dương 8 tới khu vực phía bắc Bãi Tư Chính mà chính quyền im lặng, bản Tuyên Bố Biển Đông đã ra đời với chữ ký của hơn một ngàn tổ chức xã hội dân sự và cá nhân. Trong đó có năm yêu cầu mà các nhân sĩ trí thức trong nước muốn ‘gửi gắm’ đến Nhà nước Việt Nam như sau:
1. Tăng cường nội lực của đất nước làm chỗ dựa cho an ninh quốc phòng, thực hiện kế sách giữ nước của Đức Thánh Trần Hưng Đạo: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”. Làm tất cả những gì có lợi cho mối đoàn kết dân tộc trong và ngoài nước; thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã cam kết và những điều được qui định trong Hiến pháp Việt Nam. Trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm, sửa các luật phản dân chủ như: luật đất đai, luật báo chí, luật an ninh mạng, ban hành luật lập hội, luật biểu tình... Tiến tới một Nhà nước Việt Nam có thể chế dân chủ pháp quyền phổ quát. Nâng cao sức chiến đấu và lòng trung thành bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Nhân dân của Quân đội, đặc biệt là Hải quân, Cảnh sát biển.
2. Trong các mối quan hệ với Trung Quốc, đặc biệt là quan hệ kinh tế thương mại, phải hết sức cẩn trọng, đề cao cảnh giác, đặt quyền lợi quốc gia trên hết.
3. Khẩn trương đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với Mỹ và các nước tôn trọng luật pháp quốc tế và hiện không cưỡng chiếm đất đai biển đảo của Việt Nam nhằm bảo vệ tổ quốc một cách hiệu quả.
4. Lên tiếng tố cáo trước Hội đồng Bảo an, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế việc Trung Quốc xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam ở khu vực bãi Tư Chính, Vũng Mây… vi phạm Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật biển (UNCLOS). Khẩn trương chuẩn bị hồ sơ kiện Trung Quốc ra các Toà án Quốc tế thích hợp.
5. Thông tin thường xuyên và kịp thời diễn biến tình hình biển Đông cho toàn thể nhân dân Việt Nam và thế giới, tranh thủ sự đồng thuận của công luận cho cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền của Việt Nam. Mặt khác, Nhà nước Việt Nam không được ngăn cản quyền công khai bày tỏ một cách ôn hoà lòng yêu nước, ý chí bảo vệ Tổ quốc của người dân Việt Nam.
Ngày 08.08.2019, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, đại diện Nhóm lập quyền dân ký tên trên bản Tuyên bố cho RFA biết: « Sáng nay tôi được anh em ủy nhiệm viết một thư ký tên thay mặt anh em đưa đến Quốc hội một bản tuyên bố có hơn 1.000 chữ ký của dân để cho Quốc hội biết những suy nghĩ, những tình cảm, những mong muốn của người dân hiện nay, mà họ lại muốn nhắm mắt bịt tai thì tôi cũng không hiểu họ là cái ‘giống người’ gì trên thế gian này và của dân tộc này. Đó là cái làm chúng tôi rất là đau xót ».
Nhà báo Sương Quỳnh không ngạc nhiên khi Quốc hội đóng cửa không tiếp dân vì đây không phải lần đầu. Bà nói: « Đấy là cách hành xử của họ từ xưa đến nay. Trước đây cũng có một vài lần họ tiếp nhưng gần như họ đều tìm cách từ chối nhận các văn bản kiến nghị của mình. »
Việc kiện Tàu ra tòa quốc tế do bị xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý của mình, Việt Nam rất quan ngại, dù theo giới chuyên viên công pháp thì Việt Nam có rất nhiều hy vọng thắng kiện, vì hai lý do :
1.- Tòa án quốc tế thiếu cơ chế thực thi phán quyết. Do phán quyết không có hiệu lực cưỡng hành nên ngày 17.07.2019, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Tàu Cảnh Sảng, đã yêu cầu Việt cộng ‘nghiêm túc tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Tàu đối với các vùng lãnh hải liên quan và không có bất kỳ hành động nào làm phức tạp thêm tình hình’.
Phi Luật Tân đã kiện năm 2013 và thắng kiện năm 2016. Nhưng phán quyết không có hiệu lực cưỡng hành nên ngày 17.07.2019, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Tàu Cảnh Sảng, đã yêu cầu Việt cộng ‘nghiêm túc tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Tàu đối với các vùng lãnh hải liên quan và không có bất kỳ hành động nào làm phức tạp thêm tình hình’.
2.- lo sợ phản ứng trả đũa mạnh mẽ của đàn anh Trung Quốc, như kiểu ‘cho bài học’ như năm 1979 với hỏa lực hùng hậu hơn nhiều.
Mỹ ũng hộ Việt cộng. Hai tướng không quân Mỹ David Goldfein, Tư lệnh Không quân, và Charles Brown, Tư lệnh Không quân Mỹ ở Thái Bình Dương, đã đến Hà nội và trong cuộc gặp với báo chí ngày 18.08.2019, Goldfein nhấn mạnh cam kết của Mỹ ở khu vực châu Á Thái Bình Dương và phản đối các hành động của Trung Quốc : « Tôi nhấn mạnh lại tuyên bố rất mạnh mẽ của Ngoại trưởng Mike Pompeo đã đưa ra. Đó là chúng tôi phản đối mạnh mẽ các hoạt động gây ảnh hưởng và thách thức những quyền lợi chính đáng cũng như chủ quyền Việt Nam trong khu vực. Chúng tôi hoàn toàn cam kết ủng hộ hoạt động hợp tác, đảm bảo quyền lợi hai nước ». Hay thật ‘lòng tốt của quý Quốc đối với nhà nước cộng sản’.
Rất tiếc, cách đây 45 năm, tháng 01/1974, khi đó chúng tôi vừa rời tuần dương hạm HQ.16 Lý Thường Kiệt, tên H. (hèn) Kissinger đã vi phạm Hiệp ước Paris để giúp Trung cộng đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam Cộng hòa. Hỏa lực HQ.16 đã nhận chìm hai chiến hạm Tàu đỏ. Ðiều đáng tiếc khác là nhà nước Mỹ có nhận thức trò đu giây giữa Hoa Thạnh Ðốn và Bắc Kinh của Hà Nội không ?
Ngày 03.09.2019, Tàu cẩu Lam Kình lắp đặt giàn khoan dầu Tàu cộng đã chỉ còn cách Việt Nam 30 hải lý. Ðây là chiếc tàu cẩu lớn nhất thế giới và hoạt động được ở khu vực nước sâu, thuộc quyền sở hữu của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Tàu, có năng lực nâng hạ các thiết bị đặc biệt nặng và các giàn khoan dầu. Tàu đã tham gia nhiều dự án, bao gồm các việc lắp đặt một số giàn khoan dầu lớn nhất thế giới, đặt đường dẫn dầu cũng như lắp đặt các cấu trúc ngoài khơi. Xuất hành từ Trạm Giang (Zhan Jiang) ngày 05.08.2019, Lam Kình tiến về phía nam và vào bờ biển Việt Nam từ ngày 01.09.2019, cách đảo Lý Sơn 30 hải lý về phía nam. Nơi đây là khu vực có các lô dầu 119, 120, và ở phía nam là lô dầu 118, nơi có dự án Cá Voi Xanh mà Việt Nam hợp tác với tập đoàn dầu khí Exxon Mobil (Hoa Kỳ).
Chính sách ‘Quốc Phòng Ba Không’ có hiệu lực từ ngày 01.01.2019 :
Nguyên tắc 1. Không tham gia các liên minh quân sự. Việt Nam chủ yếu tạo ra một kẽ hở ngay bên trong nguyên tắc này. Mục đích cuối cùng của Hà Nội là tránh công khai nói đến các quan hệ quân sự như là một sự thỏa thuận theo đó Việt Nam có thể hỗ trợ một quốc gia khác nếu họ bị tấn công và ngược lại.
Nguyên tắc 2. Không đi theo bất kỳ nước nào để chống lại một nước khác. Rất khó để luồn lách và là yếu tố chính giải thích sự ngập ngừng, miễn cưỡng của Việt Nam hợp tác quốc phòng toàn diện với Hoa Kỳ.
Nguyên tắc 3. Không có căn cứ quân sự của nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. hoàn toàn không đúng với việc Liên Xô (trước đây) và Nga sử dụng căn cứ hải quân chiến lược ở Biển Đông, đặt tại Vịnh Cam Ranh trong giai đoạn 1978 đến 2002.
Về đánh đấm Tàu – Việt. Nhiều tin tức, dựa theo các nguồn ngoại quốc, cho biết : Ngày 15.08.2019, chiến tàu 016 Quang Trung đã từ Cam Ranh đến Bãi Tư Chính để thẩm lượng tình hình. Ðây là tàu tối tân mua của Nga và thủ thủy đoàn được huấn luyện tại Nga. Có tin, tàu này đã đụng tàu khảo sát Hải Dương 8 ít nhất 10 lần, nhưng rồi cũng sớm trở vêà căn cứ. Trước đây, năm 1988, tại Trường Sa, các lính việt cộng đã được lịnh không nổ súng chống lại tàu cộng.
Hiện nay, ông Tập Cận Bình, Chủ tịch Nhà nước Tàu, có 3 vấn đề quan trọng cần giải quyết là thương chiến với Mỹ, khủng hoảng Hồng Kông và tranh chấp tại Bãi Tu Chính, ông sẽ thanh toán vụ nảo trước nhất?
II. – HIỆP ƯỚC DẪN ÐỘ.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc vừa phê chuẩn một Hiệp ước dẫn độ với Việt Nam được ký kết từ năm 2015, theo hãng tin thông tấn Xinhua của nhà nước Trung Quốc. Cơ quan lập pháp Bắc Kinh thông qua Quyết định hôm 26.08.2019 để phê chuẩn hiệp ước gồm 22 điều khoản, trong đó có các vấn đề như nghĩa vụ dẫn độ, tội phạm đủ điều kiện dẫn độ, quy định từ chối dẫn độ và giải quyết tranh chấp. Báo China Daily trước đó cũng cho biết Tàu cộng đã ‘mở rộng hợp tác pháp lý quốc tế’ bằng việc thông qua các hiệp ước dẫn độ với Việt Nam và Sri Lanka.
Theo Xinhua, Trung cộng và Việt cộng khởi sự thảo luận Hiệp ước dẫn độ từ tháng 10/2013 và hai quốc gia cộng sản láng giềng đã ký Hiệp định này vào ngày 07.04.2015 tại Bắc Kinh. Về phía Việt Nam, hiện tại chính quyền chưa có thông báo nào về vấn đề này.
Trong thời gian gần đây, dự luật dẫn độ Việt-Trung gây nhiều lo ngại trong công luận, thô,h tín viên đài Á châu Tự do (RFI) đặt câu hỏi với Luật sư Đặng Đình Mạnh (TP Hồ Chí Minh). Theo Luật sư, điểm đặc biệt đáng lo ngại của luật này là có thể khiến chính quyền Việt Nam gia tăng vi phạm các quy định về nhân quyền quốc tế, khi trả về Trung Quốc những người ‘tị nạn chính trị’, chạy trốn khỏi Hoa lục, do các đàn áp chính trị, tôn giáo hay sắc tộc. Luật sư cũng khẩn thiết lưu ý tình trạng Việt Nam ‘khước từ một phần chủ quyền quốc gia’, khi trả về Tàu những công dân Tàu phạm luật Việt Nam trên đất Việt Nam. Ông nhấn mạnh đến một điều căn bản khiến ‘luật dẫn độ’ ở Việt Nam, nếu được thông qua, sẽ đi ngược lại xu thế tiến bộ chung. Đó là Bộ Luật Hình sự ‘hết sức khe khắt’ của Việt Nam (và Tàu) khiến cho hiệp ước dẫn độ càng làm tăng thêm tính hà khắc của Bộ Luật Hình Sự, hạn chế quyền thể hiện quan điểm, quyền của mỗi công dân được tham gia vào các công việc chung của đất nước.
Gần đây, theo Bộ Công an Việt Nam, nhiều tin tức về các vụ triệt phá vụ đánh bạc, cá cược trên mạng, với sự tham gia của người Tàu ‘lớn nhất từ trước đến nay’ ở Hải Phòng, bắt giữ hơn 380 người. Hàng trăm nghi can Tàu bị cáo buộc đã ‘tham gia điều hành các website tổ chức cho công dân họ đánh bạc trực tuyến’. Các nghi can này được dẫn độ về Tàu xét xử ?
III. NGUYỄN PHÚ TRỌNG ÐẾN MỸ.
Ngày 27.02.2019, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã mời Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch Nước Nguyễn Phú Trọng công du Hoa Kỳ trong năm này để tiếp tục trao đổi về những biện pháp tăng cường quan hệ Đối tác Toàn diện giữa hai nước. Ban đầu, cuộc thăm viếng được dự trù vào tháng 5/2019, nhưng do Nguyễn Phú Trọng lâm trọng bịnh và ngày nay, thêm vào đó, Tàu cộng đã tạo ra sự kiện Bãi Tư Chính, khi ngang nhiên đem tàu thăm dò dầu khí vào khu vực này khiến, nếu chuyến đi có thể thực hiện được thì cũng chỉ có thể sớm nhứt là vào tháng 10/2019. Do đó, tình hình đã khác hẳn, kéo theo cán cân đàm phán Việt – Mỹ đã nghiêng hẳn về phía Mỹ, xét trên phương diện ‘ai cần ai hơn’ vào lúc này?
Vấn đề đặt ra với Nguyễn Phú Trọng hiện thời là trong khi ông ta vẫn tuyệt đối ‘cấm khẩu’ về vụ tàu Hải Dương 8 và giới quan chức cấp dưới của ông cũng ‘bắt chước như vậy’, ông phải gấp rút thời gian để lôi kéo nhà nước Mỹ tham gia bảo vệ không chỉ vùng biển mà cả vùng trời Việt Nam ở Biển Đông.
Cuối tháng 4/2019, Bộ trưởng Công an Tô Lâm đã đến Hoa Thạnh Ðốn để gặp Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ David Hale, và nói: « Việt Nam luôn coi Hoa Kỳ là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu và mong muốn tiếp tục thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thể chế chính trị của nhau ». Như vậy, điều quan trọng đặt ra ở đây là : Hoa Kỳ phải chấp nhận ‘thể chế chính trị Việt Nam vẫn là độc đảng cộng sản ?’. Nói một cách khác là nước Việt Nam thuộc quyền sở hữu của cộng đảng Việt, chứ không thuộc quyền Toàn Dân Việt Nam. Người Việt trong và ngoài nước chấp nhận điều đó ?
Hiện nay, trong giới người Mỹ gốc Việt, đã có nhiều nhân vật đề nghị thảo luận về các hành động đối với Nguyễn Phú Trọng : phản đối hay đối thoại ? Nhưng, đối với phía Mỹ, chúng ta có hành động nào nếu họ đồng ý với điều kiện chấp nhận ‘thể chế chính trị của nhau’.
Ngày 02.11.1963, thi hành lệnh Hoa Kỳ, người Việt (?) đã giết Tổng thống dân cử Ngô Ðình Diệm và người em Ngô Ðình Nhu để ngày nay, chính người Mỹ chấp nhận Nguyễn Phú Trọng tự cử để đàn áp tiếp người dân tài đức, phi đảng viên không được phục vụ Ðất Nước và Ðồng bào. Danh dự và tốt đẹp nhỉ !
Trong thời chiến Mỹ-Cộng, đôi bên đều dùng tất cả sự tàn bạo để tàn phá Quê hương Việt và đem lại sự nghèo đói cho người dân vô tội. Nhưng cộng nô đã thắng vì sự phản tuyên truyền do chính người Mỹ tạo ra :
- không chính nghĩa khi phô trương một đạo quân giàu mạnh viễn chinh đến đánh phá dân một nước nghèo như hình ảnh một kẻ Mạnh đàn áp người Yếu ;
- lương cao của lính Mỹ so với người Việt gây ra khủng hoảng kinh tế và xã hội như chính Tổng thống Ngô Ðình Diệm đã tiên đoán trước.
Thời điểm 30.04.1975, Ðại sứ Mỹ cuốn cờ chạy, người Việt chạy theo để xây dựng đất nước Cờ Hoa. Tại đây, chúng tôi chỉ ghi nhận một sự thật lịch sử, hiển nhiên vì trách nhiệm đối với con em. Nhưng đừng quên, chúng ta vẫn có trách nhiệm đối với nơi ‘chôn nhau cắt rún’. Nơi đó, các chuyên viên và người yêu nước ở lại phục vụ bị từ khước vì không ‘hồng hơn chuyên’. Những gì chính giới Mỹ hứa sự cải thiện Nhân Quyền cho người dân Việt không thu được bao nhiêu kết quả.
Nhân dịp mùa bầu cử năm 2020 tại Hoa kỳ, khi viết những dòng chữ này, chúng tôi ước mong người Mỹ gốc Việt sử dụng lá phiếu để vận động Hành pháp và Lập pháp để người Việt quốc nội có cơ hội ‘tay cầm lá phiếu tự do’
hầu chọn người tài đức điều hành quốc sự, không để Việt Nam rơi vào tay Trung cộng. Tại sao Người Mỹ lên án Venezuela tổ chức ‘bầu cử gian lận’, nhưng lại im lặng khi không có tổ chức cho người dân bầu cử ở Việt Nam ?
Hà Minh Thảo