Tin Việt Nam
Vừa Hồng Vừa Chuyên Là Giáo Điều Lạc Hậu
- Viết bởi Phạm Trần
Với bản lĩnh giáo điều, bảo thủ và cực đoan ngoại hạng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng sản Nguyễn Phú Trọng là lãnh đạo đầu tiên công khai chính trị hóa giáo dục để “nhuộm đỏ” thầy cô, học sinh và sinh viên.
Bằng chứng được phơi bầy trong thư gửi ngành giáo dục nhân dịp khai giảng năm học mới 2019-2020.
Ông Trọng đã yêu cầu: ”Tăng cường giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc, đạo đức, lối sống, lý tưởng cách mạng cho học sinh, sinh viên.” (theo Thông tấn xã Việt Nam,TTXVN, ngày 01/09/2019)
Tuy ông không nói ra, nhưng ai cũng biết điều gọi là “truyền thống lịch sử” bao giờ cũng phải ưu tiên ca tụng vai trò giữ nước và dựng nước của đảng CSVN và người thành lập đảng là ông Hồ Chí Minh. Ngược lại, mặt trái của “truyền thống” ấy, bao gồm cả những sai lầm và hệ lụy của 30 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn do đảng CSVN chủ động lại chưa bao giờ được ghi trong sách sử Việt Nam Cộng sản.
Vì vậy cả thầy, cô, học sinh và sinh viên qua nhiều thế hệ đã bị đánh lừa bởi thứ lịch sử một chiều do đảng dựng lên.
Do đó, khi ông Trọng đòi phải giáo dục cả “lý tưởng cách mạng cho học sinh, sinh viên” là ông muốn tẩy não cả một thế hệ bằng mớ giáo điều Cộng sản để làm cách mạng và xây dựng đất nước dựa trên Chủ nghĩa Mác-Lenin.
Nhưng ông Trọng lại làm như không biết rằng tuyên truyền Chủ nghĩa Cộng sản cho học sinh, từ tiểu học đền lớp 12 là hành động giáo điều, bảo thủ và đầu độc tuổi trẻ. Ông tưởng rằng, càng nhồi sọ sớm bao nhiêu thì càng dễ uốn nắn thiếu niên đi theo lề đảng chăng ?
Không những ông sai mà cả hệ thống giáo dục của đảng cũng sai nên mới có chuyện học sinh, sinh viên Việt Nam không muốn học môn lịch sử vì nội dung thiếu trung thực và đầy rẫy tuyên truyền, khi nào cũng “ta thắng địch thua”.
Ông Nguyễn Phú Trọng còn viết trong thư:”Tôi mong các thầy giáo, cô giáo, cán bộ quản lý, người lao động ngành giáo dục luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tâm huyết với nghề, không ngừng đổi mới, sáng tạo, đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp “trồng người”.
Nhưng “giữ vững bản lĩnh chính trị” là “chính trị” gì ? Có phải ông đòi mọi người phải tuyệt đối trung thành với Đảng và kiên định Chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tường Cộng sản Hồ Chí Minh như quy định trong Cương lĩnh đảng ? Hay ông còn muốn răn đe không được quan liêu, suy thoái đạo đức, tham nhũng, “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” như ông từng ra rả với cán bộ, đảng viên trong 2 năm qua ?
Đối với học sinh, sinh viên, ông Nguyễn Phú Trọng ngỏ ý:” Mong các em học sinh, sinh viên tiếp tục phát huy truyền thống hiếu học, “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, noi theo các thế hệ cha anh đi trước, phấn đấu học tập tốt, rèn luyện tốt để sau này trở thành những người vừa “hồng” vừa “chuyên” như di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.”
Tại sao cho đến bây giờ, khi Thanh, thiếu niên thế giới đã ăn sâu, bám rễ với nền khoa học điện tử thay đổi từng giây mà ông Trọng vẫn còn âm u trong cõi vừa “hồng”, vừa “chuyên” với tuổi trẻ Việt Nam ? Chẳng lẽ ông lại muốn xiềng xích chân tay họ để ông mặc sức độc tài ở tuổi 75 thời “đổi mới” ?
TRẦN ĐẠI QUANG-TRƯƠNG TẤN SANG
Vậy ta thử so sánh những lời “đao búa” của ông Trọng với vài bức thư gửi thầy cô, học sinh và sinh viên của hai Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Trương Tấn Sang xem khác nhau ở chỗ nào ?
Trong thư phổ biến ngày 31 tháng 8 năm 2018, Chủ tịch Trần Đại Quang viết những điều phi chính trị rằng: ”Bước vào năm học mới, ngành Giáo dục cần phát huy những kết quả đã đạt được, tiếp tục triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng tốt nhất yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của đất nước. Tăng cường quản lý nhà nước, kiểm tra, thanh tra, kịp thời phát hiện, có giải pháp khắc phục hiệu quả những thiếu sót, hạn chế, đưa nền giáo dục nước ta phát triển vững chắc. Chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Quan tâm hơn nữa con em các đối tượng chính sách, đảm bảo cơ hội tiếp cận giáo dục bình đẳng cho mọi người dân.”
Kết luận, ông Quang tâm tình:”Tôi mong các thầy giáo, cô giáo giữ vững ngọn lửa đam mê với sự nghiệp giáo dục, không ngừng đổi mới, sáng tạo trong dạy học; các em sinh viên, học sinh phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc, nuôi dưỡng hoài bão, ý chí vươn lên, thi đua học tập tốt, rèn luyện tốt để mai sau cống hiến cho nước nhà.”
Ông Trần Đại Quang đã đột ngột qua đời ngày 21/09/2018.
Trong khi đó, trong thư gửi ngành Giáo dục nhân dịp khai giảng năm học mới 2015 – 2016, ông Trương Tấn Sang đã viết như cảm ơn:” Trong điều kiện còn rất nhiều khó khăn, các thầy giáo, cô giáo, nhất là các thầy giáo, cô giáo ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, đã vượt lên mọi khó khăn, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục đào tạo, có những đóng góp thầm lặng nhưng hết sức to lớn cho đất nước. Tôi mong các thầy giáo, cô giáo tiếp tục cố gắng, có nhiều đóng góp hơn nữa cho sự nghiệp “Trồng người” cao cả, hết sức vẻ vang.”
Đối với học sinh và sinh viên, ông Sang bắt đầu:”
Các em học sinh, sinh viên yêu quý!
Các em là những chủ nhân tương lai của đất nước, những người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.
Tôi mong các em tiếp tục phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc ta, noi gương các thế hệ cha anh đi trước, phấn đấu học tập tốt và rèn luyện tốt để mai này lập thân, lập nghiệp, trưởng thành, góp phần đưa đất nước ta sánh vai với bè bạn năm châu.”
Tuyệt nhiên, không thấy hai Chủ tịch nước này viết điều gì “nổ” như ông Trọng.
NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY
Vậy học sinh, sinh viên và lớp Thanh niên, Thiếu nữ đoàn viên của Tổ chức Thnh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, thành phần được gọi là “đội dự bị tin cậy của Đảng” đã làm nên cơm cháo gì theo trông đợi của đảng ?
Trong bài viết trên Tạp chí Cộng sản, cơ quan ý luận của Đảng, Lê Quốc Phong, Ủy viên dự khuyết Trung ương đảng, Bí thư thứ nhất của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (TNCSHCM) đã kiểm điểm thành tích sau 10 năm thức hiện “Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/07/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X” về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.”
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, theo Lê Quốc Phong, vẫn còn hạn chế, đó là:
-Việc học tập, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin, triển khai học tập 6 bài học lý luận chính trị vẫn chưa đồng bộ, chưa có nhiều giải pháp sáng tạo.
-Công tác giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa cao. Công tác dự báo và nắm bắt tình hình tư tưởng, định hướng cho thanh niên ở nhiều nơi chưa kịp thời; việc xử lý các vấn đề nổi cộm phát sinh trong thanh niên còn lúng túng.
-Hệ thống báo chí, xuất bản của Đoàn đôi lúc còn chạy theo thị hiếu, phản ánh tiêu cực mà chưa quan tâm định hướng, giáo dục thế hệ trẻ, giới thiệu gương người tốt, việc tốt.
-Việc tổ chức phong trào hành động cách mạng tại một số cấp bộ đoàn còn có biểu hiện dàn trải, hình thức, thiếu kiên trì, thiếu hấp dẫn, mới chỉ thu hút một bộ phận thanh niên tích cực tham gia, kết quả thiếu tính bền vững. Hiệu quả triển khai một số phong trào thi đua không rõ nét, thiếu tính thường xuyên. Chất lượng, hiệu quả công tác giới thiệu việc làm cho thanh niên chưa cao.
Tổ chức cơ sở đoàn ở một số nơi chưa quan tâm đến công tác bồi dưỡng, nâng cao chất lượng kết nạp đoàn viên. Công tác quản lý đoàn viên còn lỏng lẻo. Phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác xây dựng, phát triển tổ chức và đoàn kết, tập hợp thanh niên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước chuyển biến chậm.
Vẫn còn một bộ phận thanh niên thiếu ý chí phấn đấu, có biểu hiện tiêu cực về đạo đức, lối sống. Một bộ phận thanh niên yếu thế về cơ hội phát triển. Tình hình vi phạm pháp luật, mắc tệ nạn xã hội trong thanh niên diễn biến phức tạp.
Trước đó, vào ngày 23/01/2016, tại phiên thảo luận các văn kiện Đại hội XII,người tiền nhiệm Nguyễn Đắc Vinh nói thẳng:” Cần thẳng thắn thừa nhận, công tác giáo dục thanh thiếu nhi vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhiều tổ chức, cá nhân chưa nhận thức đúng và đầy đủ tầm quan trọng của nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ, nhất là trong bối cảnh đất nước có nhiều thay đổi. Một bộ phận giới trẻ giảm sút niềm tin, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, thiếu lý tưởng, xa rời truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Một số ít thanh niên bị các thế lực thù địch lôi kéo, kích động chống sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta. Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong giới trẻ diễn biến phức tạp.
Đặc biệt, nguy cơ "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp rất đáng lo ngại. Những yếu tố đó tác động mạnh mẽ đến thanh thiếu niên và đặt ra yêu cầu cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ.”
XÔI HỎNG BỎNG KHÔNG
Trong khi đó, tại Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Quyết định số 1501/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống (LTCMĐĐLS) cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng giai đoạn 2015-2020”, do Bộ Giáo dục-Đào tạo tổ chức tại Hà Nội ngày 27/12/2018, nhiều thất bại cũng đã được công khai.
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thị Nghĩa nhấn mạnh tại Hội nghị: “Sau 3 năm triển khai thực hiện Quyết định 1501, công tác giáo dục LTCMĐĐLS cho thanh thiếu niên nhi đồng vẫn còn nhiều hạn chế bất cập: Một bộ phận thanh thiếu niên thiếu bản lĩnh dễ bị lôi kéo, tham gia tệ nạn xã hội. Một số thanh thiếu niên thiếu động cơ học tập rèn luyện đúng đắn. Bạo lực học đường diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng. Sử dụng mạng xã hội chưa đúng mục đích và công tác truyền thông chưa đạt hiệu quả mong muốn...”
Báo cáo tại Hội nghị cũng cho biết:”Trong khi đó, nhiều sinh viên dành quá nhiều thời gian cho việc sử dụng Internet, games online, mạng xã hội nên ngại tham gia hoạt động đoàn thể, hoạt động giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống. Việc áp dụng học chế tín chỉ ở cơ sở đào tạo nên không còn mô hình lớp niên chế (có sĩ số ổn định) nên sinh hoạt Chi đoàn theo lớp gặp khó khăn, nhiều sinh viên lơ là sinh hoạt Đoàn, gây khó khăn trong công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống ở một số trường.”
Chỉ ra một số nguyên nhân, Bộ GD&ĐT lý giải: “Sự phát triển của nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế kéo theo những mặt trái đã tác động tiêu cực đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, lối sống của thanh thiếu niên, HSSV, tạo ra nhiều nguy cơ, thách thức đến công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống. Việc kiểm soát, ngăn chặn những tác động tiêu cực đến tư tưởng chính trị của thanh thiếu niên, HSSV, đặc biệt là trên Internet, mạng xã hội rất khó khăn. Đời sống vật chất và tinh thần của thanh thiếu niên, HSSV vẫn còn thiếu thốn…”
Như vậy, điều mà ông Nguyễn Phú Trọng từng cảnh giác nhiều lần rằng tình trạng “nhạt Đảng, khô đoàn, xa rời chính trị” trong giới Thanh niên cần phải được ngăn chặn đã như cơn mưa lũ vỡ bờ.
Do đó, không ai ngạc nhiên khi nghe ông báo động tại Hà Nội ngày 11/12/2017 rằng: ”Hiện vẫn còn một bộ phận thanh niên giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng cách mạng, sống thực dụng.”
Sở dĩ hàng hàng, lớp lớp Thanh niên đã “phai nhạt lý tưởng cách mạng” vì cuộc cách mạng của đảng đã, đang và chỉ để cho đảng viên, nhất là những kẻ có chức và có quyền, có sân chơi để tranh giành quyền lợi và địa vị.
Bằng chứng đã cho thấy càng “hồng” và càng “chuyên” bao nhiêu thì hủ bại tham nhũng, mua quan bán tước, lợi ích nhóm, kèn cựa, cấu xé lẫn nhau, tranh giành quyền lợi càng đẻ ra như dòi bọ làm cho người dân đã nghèo càng nghèo thêm và đất nước đã tụt hậu cảng lạc hậu hơn. -/-
Phạm Trần
(09/019)
Giới trẻ Việt sống xanh cùng Đức Phanxicô
- Viết bởi An Duyên - tình nguyện viên của Vatican News
Cho đến những ngày gần đây của năm 2019, chúng ta rục rịch thương tiếc cho đám cháy tại cánh rừng Amazon. Và rồi, chúng ta phải nhìn nhận thẳng rằng thứ chúng ta đang đối mặt không còn là “biến đổi khí hậu” nữa nhưng là “thảm họa khí hậu”. Bên cạnh những lý thuyết lớn lao để hiểu sâu vấn đề môi trường, những người trẻ Việt chúng ta có thể sống xanh thế nào từ khi mở mắt dậy và dắt xe máy ra con đường nhiều khói bụi?
Hãy biết từ chối
“Nói không với túi nilon” – một khẩu hiệu đến ‘mòn miệng’ cho những chiến dịch tuyên truyền sống xanh mà chúng ta thường làm. Nhưng, những khẩu hiệu ấy lại được in trên bạt nhựa, cùng với băng rôn, cờ hoa phấp phới sẽ đi về bãi rác sau khi sử dụng. Và dĩ nhiên, nhựa lại trở thành vi nhựa rồi leo đến tận miệng bạn mỗi bữa ăn.
Reduce – Re-use – Recycle (Tiếng Việt: Giảm thiểu – Tái sử dụng – Tái chế) là thông điệp được lặp lại trong việc bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, mình còn muốn thêm một từ nữa là: Refuse (Từ chối). Hãy biết từ chối trước những cơn cám dỗ “mua hàng đi”. Chủ nghĩa tiêu dùng hàng ngày dội vào trong tâm trí chúng ta dẫn đến thói quen mua hàng quá mức cần thiết. Để đáp ứng cho nhu cầu mua hàng giá rẻ (tức là hàng sử dụng trong thời gian ngắn), các doanh nghiệp phải đào “thiên nhiên” lên mà ăn.
Việc mua nhiều đồ sản xuất nhanh quá mức cần thiết, bạn đã gián tiếp góp phần vào việc chặt phá rừng “lách luật” cũng như “có luật”. Bạn cũng đồng tính với nạn buôn người để có những công nhân với giá lương rẻ mạc, tại các xưởng lớn ở Trung Quốc chẳng hạn. Hẳn bạn cũng đồng tình rằng, đồ giá rẻ - sau khi bỏ đi vì không thể dùng đến hết - sẽ tác động đến môi sinh của đất đai và nguồn nước. Và như bạn biết, nguyên nhân cháy rừng Amazon được các nhà khoa học đưa ra là chuyển đổi đất lâm nghiệp thành nông nghiệp. Sản phẩm tại đây phục vụ cho thị trường chăn nuôi do nhu cầu tiêu thụ thịt công nghiệp quá lớn.
Vậy, trước khi giảm thiểu hay tái chế, chúng ta hãy biết nói “từ chối” với những đồ không thực sự cần thiết với nhu cầu bản thân.
Bước chậm lại giữa đời đang vội
Tuy nhiên, việc nói không với những đồ hàng bày ra trước mắt với những đòn tâm lý truyền thông tinh xảo không phải là một điều dễ dàng. Khó lòng mà lắc đầu khi chúng ta chưa hình thành cho mình một lối sống. Bạn có thể bắt đầu bằng việc hiểu về vấn đề môi trường qua việc đọc sách, xem phim, đọc báo khoa học…
Để có những hướng dẫn cho một vài suy tư tích cực trong cuộc sống, bạn có thể tìm đến cuốn “Muốn ít đi, hạnh phúc nhiều hơn” của Michelle. Hoặc chuỗi phim “Tydying” (Dọn dẹp) của Marie Kondo, một phụ nữ Nhật hướng dẫn quản lý đồ đạc trong phòng, trong nhà. “Lối sống tối giản người Nhật” cũng là một hành trang thú vị để phòng gọn hơn và đời thì ngay ngắn nhiều thứ.
Và để hiểu sâu hơn về vấn nạn môi trường, bạn có thể tìm đến những bộ phim tài liệu như “Blood in the mobile phone” (Giá máu trong những chiếc điện thoại) để thấy việc thay đổi điện thoại xoèn xoẹt của bạn ảnh hưởng đến cuộc sống của những đứa trẻ tại Congo ra sao. “Đời không plastic” là những ghi chép thú vị. Cuốn sách “Cách mạng một cọng rơm” cũng là một hướng dẫn thú vị để trở về nguồn nông nghiệp tự nhiên.
Thay vì những hàng tin mới trên Facebook, Instagram là chuỗi cửa hàng quần áo, bạn có thể theo dõi những người có lối sống xanh. Một số người trẻ có sức ảnh hưởng như người mẫu Helly Tống, chủ tiệm The Yên Concept và Lại đây Refill station; chị Trang Nguyen, tác giả của cuốn Trở về nơi hoang dã; Hay blogger Chuyến đi của Vịt, Tâm An, Sọ Dừa…
Chúng ta có quyền chọn một thái độ sống chậm như ăn chậm vì phải lọ mọ ra tận quán thay vì gọi ship đồ ăn kèm đồ nhựa. Chúng ta có quyền mua chậm, chọn những sản phẩm “slow fashion” (thời trang chậm) với những nguyên liệu, đồ nhuộm tự nhiên và có độ sử dụng lâu bền. Chúng ta có quyền đi chậm vì phải đi bộ thay vì di chuyển bằng xe máy không cần thiết. Chúng ta có quyền sống chậm giữa dòng đời vội vã này.
Xanh như một cây tre Việt
Đứng trước cảnh rác chồng rác ở Việt Nam chúng mình thường bất lực và để mọi sự “buông theo chiều gió”. Khi đọc về những bài viết liên quan đến môi trường, mình nhận ra rằng chúng ta, những người trẻ Việt có thể “sống xanh như ông bà anh”.
Bạn có nhớ bố mẹ ở quê từng biết đến cách làm phân bón từ gốc cây lúa thay vì phân bón hóa học không? Bạn có nhớ ông bà chúng mình từng có những vườn cây mùa nào thức ấy, hái rau trong vườn, nấu một nồi canh mướp với tôm đồng; vỏ chuối để gốc cây và biến thành phân không? Bạn có nhớ hình ảnh cầm chiếc giỏ mây đi chợ, con cá được treo bằng lạt mây và không cần đến túi nhựa không? Ông bà, bố mẹ chúng ta đã có quãng thời gian sống xanh và thật gần với thiên nhiên như thế.
Vậy, làm sao để sống xanh giữa thành phố không còn bóng cây? Sống xanh không chỉ là một khẩu hiệu nhưng còn là sự chọn lựa phong cách sống dựa trên tri thức và văn hóa. Tri thức không phải bạn có bao nhiêu điểm 10 nhưng là những hiểu biết về giá trị và mối liên kết giữa cuộc sống. Hãy biết nói từ chối và chọn những sản phẩm địa phương, có giá trị sử dụng lâu bền. Hiểu những đồ dùng và nó thực sự có ích gì trong cuộc sống của bạn. Nhìn thực thể sống trong mối liên kết tuyệt hảo của tự nhiên. Và chúng ta có thể sống xanh như một cây tre Việt, giống thế hệ trước nhưng trong thời đại của mình.
Trên đây là những chia sẻ trong tầm hiểu biết hạn hẹp về vấn đề lớn lao này. Chính mình cũng đang cố gắng để tập một lối sống xanh và thân thiện hơn với Mẹ thiên nhiên. Hành động nhỏ gầy đắp mỗi ngày sẽ “chữa lành” từng vết thương mà trái đất đang phải chịu và chuyển trao lại cho thế hệ sau một môi trường không bị cha anh khai thác cạn kiệt. Đừng quên tìm hiểu thêm để đào sâu vấn đề bởi nó còn nằm trong chuỗi liên hệ giữa đạo đức kinh tế, chính trị và xã hội mà thông điệp Laudato sì đã chỉ ra.
Và cũng đừng quên nhé, hãy tranh thủ mỗi ngày ôm mình vào cây xanh rồi tạ ơn Tạo hóa tuyệt vời của vũ trụ này nhé!
An Duyên - tình nguyện viên của Vatican News
Càng Học Bác, Càng Nhếch Nhác
- Viết bởi Phạm Trần
Trong Di chúc, ông Hồ viết :”Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.”
Đảng trả lời:” Trong những năm gần đây, việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI, Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và các Quy định, Điều lệ Đảng,v.v.. cho thấy, vẫn còn một số tổ chức Đảng có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ. Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở, không thống nhất giữa nói và làm. Trong khi đó, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ xuất hiện ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty...” (Tạp chí Tuyên giáo, ngày 10/4/2019)
HẾT CÒN TIN ĐẢNG
Trong khi đó, theo Nghị quyết Trung ương 4/Khóa đảng XII thì trong đảng đã có “Biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị” như :
1) Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
2) Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ hoạ theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.
3) Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
4) Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao.
Ngoài ra còn: ” Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu.”
Và :” Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác. Tham vọng chức quyền v.v…”
Tình hình như thế mà Tổng Bí thư đảng, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng lại hồ hởi lạc quan:”Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.” (bài viết Nguyễn Phú Trọng, 31/01/2019
Ngược lại, Trương Ngọc Nam (PGS, TS), Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền lại bảo rằng :”Trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới, Đảng cần phải đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tập trung khắc phục những mặt còn hạn chế, khuyết điểm, đặc biệt là cuộc đấu tranh phòng, chống suy thoái, biến chất, quan liêu, tham nhũng…” (Tạp chí Cộng sản, 02/04/2019))
Như thế là thế nào ? Lãnh đạo nói một đàng, đảng viên làm một nẻo là tại ai ? Ai nói thật và ai nói dối ?
TỪ PHÊ BÌNH ĐẾN LIÊM CHÍNH
Thế tồi ông Hồ lại khuyên:”Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.”
Nhưng tại sao ông Hồ chỉ muốn có “dân chủ trong Đảng” mà không cho toàn dân quyền có dân chủ ? Vì ông độc tài và chỉ muốn đảng do ông lập ra giữ độc quyền lãnh đạo, như đã viết trong Cương lĩnh đảng, Điều lệ đảng và Hiến pháp quốc gia, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.
Do đó không lạ khi thấy “con cháu Bác” đã quay đầu không nghe Bác như Nghị quyết 4/XII tự khai:”Trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng.”
Như thế thì còn gì là “các cháu ngoan” hay “học trò của Bác” ?, Cán bộ, đảng viên mà hư hỏng như thế thì làm gì có :” Đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”, như Điều lệ Đảng năm 2011 đã quy định ?
Tình hình rệu rã, mất định hướng, chia năm xẻ bảy trong nội bộ còn được phản ảnh trong Nghị quyết Trung ương 4/Khóa đảng XII :” Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hoá".
Nghị quyết còn cảnh giác rằng:”Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ.”
Vậy, khi ông Hồ căn dặn:”Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” thi đảng đã làm gì để hương linh ông được thảnh thơi ?
Đảng chẳng làm gì cả mà còn tham nhũng ngập đầu từ trên xuống dưới. Mọi đẳng cấp tham nhũng. Lợi ích nhóm, tranh giành quyền lực, chạy chức chạy quyền, xài bằng giả không còn là điều hiếm thấy ở Việt Nam.
Đảng cũng ra lệnh cho cán bộ lãnh đạo, nhất là “cấp chiến lược” phải kê khai tài sản, nhưng khai xong lại trao cho cơ quan chủ qủan, hay cơ sở làm việc để chỉ công khai nội bộ, thay vì công bố cho dân biết thì khai cũng như không.
Do đó, hành động chống tham nhũng mị dân này đã đưa đến kết luận “tình hình vẫn còn nghiêm trọng” từ năm này qua năm khác, kể từ khi có lệnh phòng, chống tham nhũng năm 2005.
VẪN TRƠ NHƯ ĐÁ
Thế rồi, trước thềm Đại hội đảng địa phương để tiến đến Đại hội đảng tòan quốc Khóa XIII vào tháng Khóa/2021, đảng đã ra rả ngày đêm :”Kiên quyết không để lọt vào cấp ủy khoá mới những người có tham vọng quyền lực, chạy chức, chạy quyền, chạy phiếu bầu, chạy cơ cấu, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", quan liêu, tham nhũng; bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói không đi đôi với làm; bản thân hoặc vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính.”
Nhưng vào ngày 16/07 (2019), trong kết luận “tiếp tục chấn chỉnh công tác cán bộ để chuẩn bị tốt nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIII của Đảng” Ban Bí thư lại nói toạc móng heo thế này:” Qua nắm tình hình, ý kiến phản ánh của một số cấp uỷ, tổ chức đảng và thực tiễn công tác cán bộ những nhiệm kỳ vừa qua cho thấy: Mỗi khi đến thời điểm chuẩn bị kết thúc nhiệm kỳ đại hội đảng bộ các cấp, công tác cán bộ lại xuất hiện biểu hiện "tư duy nhiệm kỳ", "cục bộ", "thân quen", "lợi ích nhóm", mất dân chủ, thiếu gương mẫu, "nể nang, dễ dãi", "chạy chọt, vận động, tranh thủ lẫn nhau" trong quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, thăng cấp bậc hàm, thực hiện chính sách đối với cán bộ... Bên cạnh đó, có nơi, cấp uỷ viên, uỷ viên ban thường vụ, nhất là người đứng đầu cấp uỷ còn đủ điều kiện tái cử có hiện tượng giữ mình, né tránh, ngại va chạm, không chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận; thiếu tích cực triển khai các mặt công tác, nhất là những việc khó, nhạy cảm, phức tạp vì sợ "mất phiếu", ảnh hưởng đến bản thân, gây ra sự trì trệ trong xử lý, giải quyết công việc chung. Cá biệt có nơi người đứng đầu đến tuổi nghỉ hưu, nhưng không chủ động chuẩn bị người thay thế; có cán bộ ý thức tổ chức kỷ luật kém, không chấp hành sự phân công, điều động của cấp có thẩm quyền...”
Như vậy là các cấp đảng không còn coi ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị ra gì nữa. Các cấp địa phương đã “anh đi đường anh, tôi đi đường tôi” với Trung ương, nên Ban Bí thư mới cảnh giác :”Những hạn chế, yếu kém trên đã gây khó khăn, làm mất nhiều công sức của cấp có thẩm quyền và các cơ quan chức năng trong công tác cán bộ, tạo dư luận không tốt.”
Tốt hay xấu, như đã thấy trước mắt, không còn được ai quan tâm nữa, ngay cả lời Di chúc của ông Hồ nói về Đoàn viên và Thanh niên Cộng sản. Ông bảo:” Đảng cần phải chǎm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.”
THANH NIÊN CHÁN ĐẢNG
Nhưng thực tế đã chứng minh Thanh niên, thiếu nữ của thời đại Internet Thế kỷ 21 không còn u mê như cha anh họ của thời chiến tranh bị đảng xỏ mũi kéo vào chỗ chết.
Giới trẻ ngày nay đã tỉnh ngộ để nhìn ra lừa bịp của đảng sau 30 năm huynh đệ tương tàn. Rất nhiều người đã nhạt đảng, xa đoàn, không còn muốn gia nhập Tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, lớp dự bị của đảng.
PGS.TS Vũ Văn Phúc - Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương, khi được Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV, Voice Of Viiệt Nam) hỏi:” Từ năm 2011-2017, toàn Đảng kết nạp hơn 1,4 triệu đảng viên, nhưng trong giai đoạn này cũng có gần 51.000 đảng viên bị sàng lọc, đưa ra khỏi Đảng bằng hình thức xóa tên, trong đó gần 12.500 đảng viên bị kỷ luật khai trừ. Con số này nói lên điều gì, thưa ông?
Đáp:”Việc kết nạp quần chúng ưu tú vào Đảng và đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng là việc làm bình thường, thường xuyên của một Đảng chân chính. Những con số trên cho thấy, số quần chúng ưu tú được kết nạp trong 6 năm qua vẫn lớn hơn 23 lần so với số đảng viên bị đưa ra khỏi Đảng bằng hình thức xóa tên hay khai trừ.
Song, con số gần 51.000 đảng viên bị đưa ra khỏi Đảng bằng hình thức xóa tên, trong đó gần 12.500 đảng viên bị kỷ luật khai trừ trên tổng số gần 5 triệu đảng viên là con số quá lớn đối với một Đảng. Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền mà con số bị xóa tên và kỷ luật nhiều như vậy là điều đáng buồn.”
H: Số lượng kết nạp đảng viên mới tăng nhanh, nhưng thực tế ở nhiều nơi, công tác phát triển đảng vẫn là một thách thức lớn, có chi bộ 5 năm liền không kết nạp được đảng viên nào. Lo ngại hơn là một bộ phận thanh niên ngại vào Đảng. Theo ông, nguyên nhân của vấn đề trên do đâu?
Đ:” Có điều kiện đi một số địa phương trong cả nước, tôi thấy kết nạp đảng viên mới hiện nay là vấn đề khó khăn ở một số nơi, kể cả những địa phương là cái nôi của cách mạng Việt Nam, kể cả thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM.
Có mấy nguyên nhân quan trọng sau đây: Tổ chức Đảng từ Trung ương tới cơ sở nhận thức về vấn đề bồi dưỡng quần chúng để kết nạp vào Đảng cũng còn chưa thực sự chú trọng. Nhiều tổ chức, cơ sở Đảng, nhiều chi bộ không quan tâm đến việc kết nạp đảng viên, nên có những chi bộ mấy năm không kết nạp được đảng viên mới nào.
Thực tế những năm qua, sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng, nhất là tổ chức đảng cơ sở có những biểu hiện chưa tốt nên việc bồi dưỡng quần chúng kết nạp Đảng cũng chưa tốt.
Về đảng viên, bên cạnh đại bộ phận đảng viên tốt, còn một bộ phận không nhỏ đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, đặc biệt là đảng viên cấp cao không có sự nêu gương, nhiều đồng chí bị xử lý kỷ luật, xóa tên ra khỏi Đảng, thậm chí có đồng chí bị truy tố hình sự, vào tù.
Nhiều thanh niên nhìn vào đó mà không phấn đấu vào Đảng. Họ băn khoăn vào Đảng mà như những đồng chí ấy thì vào Đảng làm gì….”
Ngay đến việc học về Chủ nghĩa Cộng sản Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh là môn bắt buộc, nếu muốn có bằng khi tốt nghiệp, sinh viên đã phải “ngậm đắng nuốt cay” bước qua cầu để quên đi mau chóng. Không ai muốn nhắc lại hay đeo vào thân làm gì.
Tình trạng tương tự cũng xẩy ra cho công tác "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" sau 3 năm, theo Chỉ thị của Bộ Chính trị (khóa XII).
Ông Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đã nêu ra những mặt hạn chế, yếu kém của một số cấp ủy, địa phương, đơn vị như :” Chưa thực sự chủ động trong việc lựa chọn nội dung đột phá để thực hiện Chỉ thị; những vấn đề bức xúc, nổi cộm chưa được quan tâm đúng mức; còn lúng túng, chưa quyết liệt trong tổ chức thực hiện…Việc cảnh báo, phòng ngừa sai phạm thiếu kịp thời; chưa phát hiện sớm những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống để kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh, dẫn đến vi phạm kỷ luật đảng hoặc bị xử lý theo pháp luật.” Như vậy thì nội bộ đảng CSVN đã nát chưa, hay mới mục thôi ?
Nếu vẫn còn khỏe và anh hùng như vẫn tuyên truyền thì hà cớ chi chưa giám “truy tố” Trung Quốc ra trước Liên Hiệp Quốc hay Tòa Hòa giải Quốc tế về vụ đem Tầu thăm dò dầu khí Hải Dương 8 và nhiều Tầu chiến hộ tống vào Bãi Tư Chính, bên trong thềm lục địa của Việt Nam, cách Vũng Tầu 370 cây số, từ ngày 03/07 (2019) ?
Nên nhớ, trong Di chúc, ông Hồ còn căn dặn rằng:”Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.”
Vậy ông Nguyễn Phú Trọng và toàn đảng CSVN hãy đấm ngực xét mình xem đã làm được điều ông Hồ mong ước chưa ?
Nếu chưa thì hãy ngồi xuống cho dân đứng lên. -/-
Phạm Trần
(08/019)
Lời Kêu Gọi Quốc Nội Hải Ngoại Xuống Đường Chống Trung Quốc Xâm Lược
- Viết bởi Dân Chúa
Nói Dóc Vượt Chỉ Tiêu
- Viết bởi Phạm Trần
Trong nhiều năm qua, mỗi dịp đến ngày 19 tháng Tám, các dư luận viên Tuyên giáo đảng Cộng sản lại thi đua tự ca điều gọi là thành tích kỳ diệu của “Tổng khởi nghĩa Tháng Tám”, hay còn được gọi là “cách mạng Tháng Tám” năm 1945.
Năm nay, 2019, cũng không ngoại lệ, nhưng càng khoe, càng chìm sâu vào cái bẫy “nói dóc vượt chỉ tiêu” và không thể nào lấp được cái hố “cướp Chính quyền” từ tay Chính phủ Trần Trọng Kim.
Họ viết:”Cách đây 74 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam triệu người như một nhất tề vùng lên tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Hào khí, tinh thần bất diệt của Cách mạng Tháng Tám đã hun đúc tinh thần quật khởi của dân tộc trong hơn 7 thập kỷ qua, đưa dân tộc Việt Nam vượt qua bao khó khăn thách thức, giành được từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là sự thật hiển nhiên. Thế mà, hiện nay vẫn còn có kẻ tung ra luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả đó…. Cũng như nhiều năm trước, năm nay, gần đến ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám-Ngày hội của dân tộc, một số người lại “đem chuyện cũ kể lại”, nhưng thực chất là xuyên tạc lịch sử. Họ cho rằng, Việt Nam giành được chính quyền là do “ăn may”, “Đảng Cộng sản Việt Nam đã tranh công, đổ tội”... (báo QĐND, ngày 12/08/2019)
Sự thật có đúng như thế không ?
Thứ nhất, không làm gì có chuyện “cả dân tộc Việt Nam triệu người như một nhất tề vùng lên tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám”.
Lại càng không có những lời tự chế của tài liệu chính thức vẫn được lưu hành như thế này: ” Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam từ Bắc đến Nam đồng loạt đứng lên tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa, giải phóng toàn bộ đất nước.” (TTXVN, ngày 18 tháng 8 năm 2015)
Hay:” Cuộc cách mạng được diễn ra trong bối cảnh miền Bắc vừa thoát khỏi nạn đói kinh hoàng với 2 triệu người chết và Đồng Minh vừa kết thúc cuộc Đại chiến Thế giới thứ hai. Cuộc cách mạng xảy ra dưới sự lãnh đạo của Đảng, 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa dành lại chính quyền….
Việc “giành lại chính quyền” được các sử gia Việt Nam ví như là “cuộc chạy đua nước rút với quân đội Đồng Minh”. Các bản Hiến pháp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau này là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đều ghi nhận sự thành công của cách mạng tháng Tám là nền tảng khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.”
Nói năng như thế mà không sợ bị Thánh Thần cắt lưỡi thì chỉ có những người dám bẻ cong lịch sử mới dám làm. Nhưng có thật lực lượng Việt Minh đã phải “chạy đua nước rút với quân đội Đồng Minh”, khi mà quân Anh chưa vào kiểm soát toàn vùng phía nam vĩ tuyến 16 và quân đội Trung Hoa Dân quốc cũng chưa nắm quyền ở phía bắc vĩ tuyến 16 của Việt Nam, theo như Quy định đầu hàng của quân Nhật ngày 15-8-1945 ?
Thứ hai, lực lượng Việt Minh không hề giao chiến, hay xô xát với với ai mà dám gọi cuộc “cướp chính quyển Trần Trọng Kim không súng, không quân” là “Cuộc cách mạng” ?
Do đó những con số như: “cả dân tộc Việt Nam triệu người như một nhất tề vùng lên ”, hay “20 triệu nhân dân đã nhất tề vùng dậy” chỉ là những số ma tự biên và tự diễn của những Sử gia Cộng sản lắm điều nhiều chuyện.
Về điểm này, nên đọc một tỷ dụ của Giáo sư, Tiến sỹ Lịch sử Việt Nam Cộng hòa, Phạm Cao Dương, trong bài “Việt Minh Cướp Chính Quyền, 73 Năm Nhìn Lại”.
Giáo sư Dương viết:” Nguyên đại tá Bùi Tín, trong bài viết trên trang mạng của ông, đã đặt vấn đề nghiên cứu sâu thêm sự kiện lịch sử của thời gian này để trả lời câu hỏi Tổng Khởi Nghĩa hay Cách Mạng Tháng Tám, hay Cướp Chính Quyền, gọi sao cho chính xác? Đặt câu hỏi nhưng ông đã lập tức trả lời ngay sau câu hỏi do ông đặt ra và trả lời một cách khẳng định:
Sau 70 năm, nhìn lại không thể gọi biến cố đó là Cách mạng tháng Tám. Gọi vậy là “ngoa ngôn”, là “đại ngôn”, vì “cách mạng” là phải thay đổi hẳn chế độ cai trị, đổi mới hoàn toàn bản chất chế độ, đem lại dân chủ, tự do cho mọi công dân, quyền tự do bình đẳng trong kinh doanh, cốt lõi là tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Ông lý luận nguyên văn như sau:
Gọi là cách mạng trước hết là không chính xác. Cách mạng là một cuộc thay đổi chế độ trong đấu tranh quyết liệt, thường có bạo lực chống đối, giằng co nhau, có đổ máu, như cách mạng ở Pháp, ở Hoa Kỳ mà ông Hồ chí Minh đã dẫn ra trong bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945.
Biến cố gọi là Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam hoàn toàn không đổ máu, không có đấu tranh giằng co bằng bạo lực quyết liệt. Chính quyền thực dân Pháp đã bị phát xít Nhật lật đổ ngày 9/3/1945 trong một cuộc đảo chính nhẹ nhàng. Trước đó cả Đông dương thuộc Pháp đã đầu hàng phát xít Đức, Việt Nam trở thành thuộc địa của nước Pháp thua trận đã đầu hàng phát xít, cho nên bị khối Đồng minh xếp vào loại bị quân Đồng minh là quân đội Anh và quân đội Trung Hoa Dân quốc chiếm đóng để giải giáp quân đội Nhật đã đầu hàng Đồng minh. Quân đội Trung Hoa vào miền Bắc, quân Anh vào miền Nam.
Việt Nam trở thành đất trống về quyền lực cai trị, chính phủ Trần Trọng Kim vừa thành lập được 6 tháng còn non yếu, tuy về danh nghĩa đã giành được nền độc lập từ tay phát xít Nhật đã buông súng đầu hàng Đồng minh. Do sức ép của quần chúng xuống đường theo lời hiệu triệu của Mặt Trận Việt Minh do đảng CS Đông Dương tổ chức ra. Vua Bảo Đại thoái vị nhanh chóng, bày tỏ niềm vui “từ bỏ ngai vàng để trở thành một công dân tự do”.
Ông Bùi Tín (29/12/1927 – 11/08/2018) là nguyên Phó tổng biên tập báo Nhân dân, kiêm Tổng biên tập tuần báo Nhân dân Chúa Nhật, đã xin tị nạn chính trị ở Pháp tháng 09/1990 nhân khi sang Pháp dự hội hàng năm của báo L'Humanité (Nhân Đạo), báo của Đảng Cộng sản Pháp.
Thân phụ ông là Cụ Bùi Bằng Đoàn, nguyên Thượng thư Bộ Hình của triều đình Huế và nguyên Chủ tịch Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
CƯỚP GIỮA BAN NGÀY
Vậy việc ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã thay Vua Bảo Đại và Chính phủ Trần Trọng Kim để đưa đất nước vào vòng loạn ly trong 30 năm (1945-1975) đã xẩy ra trong trường hợp nào ?
Trước hết nên biết, chính phủ Đế quốc Việt Nam, còn được gọi là Nội các Trần Trọng Kim, hay Chính phủ Trần Trọng Kim, do phát xít Nhật dựng lên, thành lập ngày 17 tháng 4 năm 1945, ra mắt ngày 19/04/1945. Danh sách nội các được trình vua Bảo Đại phê chuẩn, sau Tuyên cáo Việt Nam độc lập vào ngày 11 tháng 3 năm 1945. (Theo Bách khoa toàn thư mở)
Để hậu thuẫn chính trị cho Chính phủ cụ Trần Trọng Kim và mừng độc lập hoàn toàn, thâu hồi toàn vẹn lãnh thổ, Tổng Hội Công Chức đã tổ chức cuộc biểu tình chiều ngày 17/08/1945.
Nhà văn, nhà biên khảo Đoàn Thêm, một Công chức cao cấp thời bấy giờ đã tham dự cuộc biểu tình. Ông viết lại trong hồi ký “Những ngày chưa quên” như sau:”Trước Nhà Hát Lớn, 15 giờ ngày 17-8, trời kéo cơn mưa, nhưng hàng vạn công chức đã sắp thành đoàn đứng chặt đường Paul Bert, kéo dài suốt Hàng Trống. Dân chúng tới xem, chen chúc trên các ngả phụ cận, Bobillot, Amiral Courbet.
Trên bao-lan Nhà Hát, cờ ba vạch gãy Quẻ Ly được từ từ đưa lên, trong tiếng đồng ca vang dội Tiếng gọi Thanh-Niên... Mây xám giãn dần; chợt thấy giọng ai như của L. béo ngập ngừng qua ống phóng thanh: “mặt trời tỏ, một điềm vui… Hôm nay chúng ta họp mặt tại đây để `mừng cho chủ- quyền đã thâu hồi toàn-vẹn, và hoan hô Chánh-phủ Trần-Trọng-Kim…”
Hoan-hô! V.N. độc-lập muôn năm!
Hoan-hô VM! (Việt Minh)
Những tiếng sau là của kẻ nào lén vào hàng ngũ công-chức. Những người quanh đó sửng-sốt ngơ-ngác… Còn đa-số vẫn mải reo to: Hoan hô V.N. muôn năm.”
Tác giả Đoàn Thêm viết tiếp:”Rồi đoàn biểu-tình được lịnh chuyển bước tuần-hành qua nhiều đường lớn, nhưng mỗi lúc những tiếng lạ tai khi nãy lại được gào thét nhiều hơn. Tới ngã sáu Cửa-Nam, vài anh áo cộc quần đen, chắc chắn không phải là công-chức, vừa chạy vừa phất là cờ đỏ giữa có ngôi sao vàng, anh khác giơ một vật ít thấy có cỏ thời đó là khẩu súng lục, bắn vài phát chỉ-thiên như để thị-uy: anh em hãy cùng chúng tôi hô Mặt Trận Giải Phóng muôn năm!
Vài công-chức, có lẽ hoảng sợ quá, đành “muôn năm” theo một các gượng-gạo và máy-móc. Mấy cảnh binh đứng cạnh dọc đường lấm lét hỏi nhau với vẻ kinh ngạc, nhưng không can thiệp, tuy nhiều đám người khác trên các vỉa hè cũng nắm tay giơ chào như Phát-xít Ý, và hoan hô một đoàn-thể mà nhân-viên công-lực cũng không biết là gì.
Nhưng cần chi biết? Hàng chục, hàng trăm, rồi hàng ngàn người cứ việc “muôn năm” mãi cho tới khi giải-tán, vào khoảng sáu bảy giờ chiều.
Ông tham Đ dừng lại hỏi ông phán N: tưởng là bìểu-tình hoan-hô Trần-Trọng-Kim, mà chẳng thấy ai kêu cụ Trần cả? V.N. chứ sao lại mặt-trận VM? Một số ông nữa xen vào câu chuyện: ai bảo hoan-hô như thế, bây giờ còn băn khoăn? Người ta hô, thì làm sao khác được? – Thôi, nó bắn, ông mất hết vía rồi!
Mất vía còn ít. Như thế này thì mất cả những gì đáng quí hơn tâm hồn tham phán. Đó là cảm-tưởng sám ngắt như trời mây phủ, nó theo đuổi tôi trên lối về nhà. Đêm hôm ấy, tôi trằn trọc khó ngủ, vi đầu óc rối ren như cảnh đã mục-kích ban trưa, và như cảnh hỗn độn mà tôi ngại cho những ngày sắp tới.”
(theo Phạm Cao Dương trong “Việt Minh Cướp Chính Quyền, 73 Năm Nhìn Lại”.
Mưu mô đánh cướp của Việt Minh cũng đã được chính người Cộng sản xác nhận: ”Ở Hà Nội, ngày 17 tháng 8, Tổng hội Công chức vẫn còn tổ chức một cuộc mít tinh để ủng hộ Nội các Trần Trọng Kim. Nhờ mưu trí, sáng tạo và quyết đoán, Ủy ban Quân sự Cách mạng đã huy động quần chúng đến tham dự và cướp diễn đàn cuộc mít tinh này, sau đó biến cuộc mít tinh thành cuộc biểu tình quần chúng ủng hộ Việt Minh.” (GS.TS Phạm Hồng Tung-Đại học Quốc gia Hà Nội-Khoa Lịch sử, ngày 07/10/2015)
CƯỚP TÁO TỢN
Chi tiết và cụ thể trắng trợn hơn còn được thiếu tướng Nguyễn Đồng Thoại, nguyên Phó Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu, là một trong những người chứng kiến sự kiện nói trên, kể lại với báo Dân Trí, ngày/09/2016: ”
Thiếu tướng Nguyễn Đồng Thoại, khi ấy 13 tuổi, nói:”Những ngày tháng 8/1945 tình hình ở Hà Nội rất căng thẳng. Lúc đó, Chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim đề nghị Việt Minh tham gia Chính phủ Trần Trọng Kim, nhưng Việt Minh từ chối. Để lấy lại tinh thần, Chính phủ Trần Trọng Kim đã ra lệnh tất cả các công chức phải tham gia mít tinh ngày 17/8 ủng hộ Chính phủ Trần Trọng Kim, vận động đồng bào tham gia cuộc mít tinh của Tổng hội công chức chính quyền Trần Trọng Kim tại quảng trường Nhà hát Lớn thành phố.
“Lúc đó, hàng vạn người đứng đầy đường Paulbert (nay là phố Tràng Tiền), người đi xem rất đông, công chức thì mặc áo trắng. Tôi còn nhỏ mới 13 tuổi, hôm đó tôi mặc áo đen nhưng cũng len vào xem thế nào, thì thấy không khí rất nhốn nháo, vì mọi người đã có kế hoạch là phá cuộc mít tinh này.
Các đội viên đội Tuyên truyền Giải phóng quân cũng giương cờ đỏ sao vàng và hô to “Ủng hộ Việt Minh”. Họ tạo ra một sự hỗn loạn cực độ phá vỡ chương trình tổ chức. Ban tổ chức cố gắng lập lại trật tự nhưng không thể nào kiểm soát nổi tình hình”
Khi ban tổ chức cuộc mít tinh nói trên mới tuyên bố lý do, người của Việt Minh xông lên giành micro. Hai phụ nữ là Kiều Trang (Từ Trang Anh, thành viên đội cứu quốc thành Hoàng Diệu) và Nguyễn Khoa Diệu Hồng (thành viên Đảng Dân Chủ) lên sân khấu thông báo Nhật đã đầu hàng, kêu gọi đồng bào ủng hộ Việt Minh cướp chính quyền, giành độc lập.
Tiếp theo, nhiều đội viên đội danh dự của Việt Minh xông lên khán đài, cầm súng ngắn trong tay dồn các viên chức Đế quốc Việt Nam (chính phủ bù nhìn do Nhật dựng lên) vào một góc, hạ cờ Đế quốc Việt Nam xuống, giương cờ đỏ sao vàng lên. Từ trên tầng hai Nhà hát Lớn, lá cờ đỏ sao vàng to, rộng được buông xuống.
Sau đó, ông Nguyễn Khang – Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ phát biểu kêu gọi nhân dân ủng hộ Việt Minh, đồng thời kết tội Chính phủ Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam phục vụ quyền lợi nước ngoài và kêu gọi dân chúng ủng hộ Việt Minh đánh đổ chính quyền tay sai, đấu tranh cho độc lập dân tộc.
“Ngay sau đó, một thành viên trong đội danh dự đã lấy từ trong người ra lá cờ đỏ sao vàng to, có cán, quay đầu hô “tiến lên”, do tôi đứng ở cuối đoàn nên khi quay đầu trở thành người dẫn đường. Hàng vạn người tham dự mít tinh cũng xoay người theo. Cả đoàn đi về hướng Tràng Tiền. Đi đến đâu, người dân từ hai bên đường gia nhập đến đó. Vừa đi, mọi người vừa hô “Ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Việt Minh, Việt Nam độc lập…”
“Sáng ngày 18/8, Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội chuyển trụ sở về số nhà 101 Gambetta (nay là phố Trần Hưng Đạo). Các ủy viên tích cực chuẩn bị cho công việc sáng hôm sau. Cuộc mít tinh của Chính phủ Trần Trọng Kim đã nhanh chóng biến thành biểu tình, tuần hành của quần chúng cách mạng. Hội nghị của Thành ủy và Ủy ban Quân sự cách mạng mở rộng được triệu tập, ngay sau đó quyết định khởi nghĩa vào ngày 19/8.
Sáng 19/8/1945, cuộc mít tinh lớn ở quảng trường Nhà hát lớn (Hà Nội) do Việt Minh tổ chức đã nhanh chóng chuyển thành cuộc biểu tình do các đơn vị chiến đấu đi đầu, đánh chiếm phủ Khâm sai, Tòa Thị chính, Sở Cảnh sát… Cuộc khởi nghĩa Hà Nội thắng lợi hoàn toàn trong ngày 19/8/1945.”
Như vậy thì có cướp hay không cướp ? Khởi nghĩa hay cách mạng gì mà không có tiếng súng và máu đổ, bất chiến tự nhiên thành thì có phải là “ăn may” hay”phỗng tay trên” quyền bính của một chính quyền hợp pháp không ?
Bằng chứng “cướp” của Việt Minh-Hồ Chí Minh còn được Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Đình Cống, nhà giáo tại Đại học Xây dựng đã nghỉ hưu kể lại:”Đêm 9 tháng 3-1945 Nhật đảo chính Pháp. Trên đất VN không còn người Pháp cai trị. Ngày 11-3 vua Bảo Đại tuyên bố Việt Nam độc lập, xóa bỏ mọi hiệp ước đã ký với Pháp. Tháng 4-1945 giải tán triều đình phong kiến với các Thượng thư, lập Chính phủ do Thủ tướng Trần Trọng Kim đứng đầu và các Bộ trưởng. Ngày 15-8 Nhật đầu hàng Đồng minh. Ngày 17-8 Chính quyền Hà nội tổ chức mit tinh, treo cờ Quẻ Ly để chào mừng nước Việt Nam độc lập. Cuộc mit tinh này đã bị người của VM (Việt Minh) “cướp” đoạt, hạ cờ Quẻ Ly xuống, giương cờ đỏ sao vàng lên và kêu gọi đi theo VM. Từ trước ngày 17-8 thủ tướngTrần Trọng Kim, Bộ trưởng Hoàng Xuân Hãn đã 5 lần tiếp xúc, hội đàm với đại diện của VM tại Hà nội (Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Khang) với đề nghị mời người của VM tham gia Chính phủ hoặc hợp tác lập Chính phủ liên hiệp để chuẩn bị đón tiếp quân Đồng minh, nhường quyền kiểm soát phần lớn đất nước cho VM một cách hòa bình. Nhưng cả 5 lần đều bị đại diện VM từ chối với tuyên bố là VM đủ lực lượng để “cướp” toàn bộ chính quyền mà không cần sự hợp tác nào hết, chỉ có đấu tranh một mất một còn. Để tỏ rõ thiện chí không dùng bạo lực, chính phủ ông Kim và Bảo Đại không thành lập quân đội, không có Bộ Quốc phòng.
Ngày 19-8 VM “cướp” chính quyền ở Hà nội. Sau đó việc “cướp” chính quyền lan rộng ra toàn quốc. Việc “cướp” này diễn ra dễ dàng, nhanh chóng vì không gặp phải sự chống đối. Ngày 25-8 vua Bảo Đại thoái vị.”
(Trích Bauxite Việt Nam, ngày 18/08/2016)
Giáo sư Cống, 82 tuổi, quê Quảng Bình (sinh ngày 12/12/1937) tuy là người đã công tác nhiều năm trong hệ thống giáo dục nhà nước CSVN, nhưng sau khi về hưu, ông đã viết nhiều bài chỉ trích chính sách cai trị của đảng và lên án những sai lầm của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Ông còn công khai ũng hộ đa nguyên đa đảng.
Ông thông báo từ bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày 03 tháng 02 năm 2016.
Giáo sư, Tiến sỹ Sử học Phạm Cao Dương bổ túc thêm:”Trong năm lần gặp gỡ kể trên, ngoại trừ cuộc gặp gỡ lần thứ năm, bốn lần đầu lần nào phía chính phủ cũng đưa ra những đề nghị mời Việt Minh vào chính phủ làm việc để cứu nước nhưng tất cả đều bị từ chối. Lý do là Việt Minh với Đảng Cộng Sản đứng đằng sau đã chủ trương cướp chính quyền từ đó một mình lãnh đạo đất để thực hiện cuộc cách mạng riêng của mình bất chấp mọi nguy hiểm có thể xảy ra cho dân tộc, phản ảnh qua những câu trả lời của người đại diện Việt Minh cho những câu hỏi do chính Thủ Tướng Trần Trọng Kim đặt ra và kể lại. Biến cố 19 tháng 8 do đó đã xảy ra.”
(Trích “Trước khi bão lụt tràn tới -BẢO ĐẠI - TRẦN TRỌNG KIM và ĐẾ QUỐC VIỆT NAM (9/3/1945 - 30/8/1945)” (Phạm Cao Dương-Nhà xuất bản Truyền Thống Việt 2017)"
Như vậy thì còn chối vào đâu được nữa mà Tuyên giáo Đảng cứ ồn ào để đổi trắng thay đen mãi ?
Nhưng cũng thật khôi hài, trong chỉ thị tuyên truyền Cách mạng Tháng Tám lần thứ 74 năm nay 2019, Tuyên giáo đã yêu cầu: ”Tuyên truyền khẳng định giá trị lịch sử và tầm vóc thời đại của Cách mạng tháng Tám, trong đó có các vấn đề “nắm bắt thời cơ”, “chuẩn bị lực lượng”, và “sẵn sàng chớp thời cơ” làm nên thành công của Cách mạng tháng Tám.”
Như vậy rõ ràng từ “nắm bắt” đến” chuẩn bị” để “chớp thời cơ” đã phản ảnh đúng diễn tiến mà đảng CSVN đã thực hiện để “cướp chính quyền Trần Trọng Kim” trong cuộc biểu tình của Công chức ngày 17/08/1945.
Chữ nghĩa vì vậy đôi khi cũng vận vào người như một định mệnh của những kẻ nói phét. -/-
Phạm Trần
(08/019)
Phỏng vấn Giáo Sư Nguyễn Mạnh Hùng : Trung Quốc Vào Tư Chính Là Để Thách Đố Mỹ Và Việt Nam ?
- Viết bởi Phạm Trần
TRUNG QUỐC VÀO TƯ CHÍNH LÀ ĐỂ THÁCH ĐỐ MỸ VÀ VIỆT NAM ?
*Nga và ASEAN có thể làm gì cho hòa bình Biển Đông ?
Lời giới thiệu: Trung Quốc đã bất chấp luật pháp Quốc tế để đem tầu Hải Dương 8 vào thăm dò dầu khí bên trong vùng Đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam ở khu vực bãi Tư Chính, cách Vũng Tầu khoảng 370 cây số về hướng Đông nam, từ ngày 03/07/2019
Việt Nam đã khẳng định chủ quyền vùng biển này và đòi Trung Quốc rút lui, nhưng Trung Quốc vẫn ở lại và còn quả quyết đây là lãnh thổ của họ.
Vậy Hoa Kỳ, cường quốc số một Thế giới, đang đứng ở đâu trong cuộc tranh chấp này, và liệu chính quyền Donal Trump có sẵn sàng đối đầu với Bắc Kinh ở Biển Đông ?
Để trả lời cho câu hỏi này và vì sao đã không có biểu tình chống Trung Quốc ở Việt Nam, xin mời bạn đọc theo dõi toàn văn bài Phỏng vấn độc quyền của tôi với Giáo sư ngoại hạng (Professor Emeritus), Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, người từng giảng dậy nhiều năm về Quan hệ Quốc tế tại Đại học George Mason, gần Thủ đô Hoa Thịnh Đốn.
Giáo sư Hùng là Học giả cao cấp bất thường trú của Trung tâm nghiên cứu Chiến lươc và quan hệ Quôc tê ở Washington, D.C. (Center for Strategic and International Studies, CSIS). Ngoài ra ông còn là Học giả vãng lai hai niên khóa 2015-2016 tại viện nghiên cứu nổi tiếng ISEAS-Yusof Ishak Institute, Tân Gia Ba.
Các bài nghiên cứu của ông, phần lớn về Á Châu và Đông Nam Á đươc đăng trên các Tạp chí chuyên môn (professional journals) như World Affairs, Asian Survey, Pacific Affairs, Global Asia, The Diplomat, Asia Pacific Bulletin và CogitAsia.
***********
Sau đây là toàn văn Bài Phỏng vấn:
TẠI SAO TƯ CHÍNH ?
H: Thưa Giáo sư, tại sao Trung Quốc chọn vùng biển bãi Tư Chính mà không phải nơi khác để tìm kiếm dầu khí vào thời điểm này?
Đ: Trung Quôc đưa tầu thăm dò địa chất Hải Dương 8 vào vùng biển bãi Tư Chính với mục đích áp lực không cho Việt Nam khai thác dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và áp đặt chủ quyền của Trung Quốc trên vùng biển nằm trong đường lưỡi Bò của Trung Quốc, một đòi hỏi căn cứ trên lịch sử sai lầm (theo Bill Hayton của viện nghiên cứu Chatham House) và trái với luât quốc tế (Luật Biển 1982 và phán quyết của Tòa án Trọng tài Thuờng trực Quốc tế năm 2016).
(Chú thích: Hình lưỡi Bò,còn được gọi là Đường 9 đoạn, chiếm ¾ của diện tích 3.447.000 cây số vuông Biển Đông).
Trong liền hai năm, 2017 và 2018, Trung Quốc đã thành công trong áp lực không cho Việt Nam khai thác dầu khí ở hai lô (lô 136/03 và 07/03) thuộc vùng biển bãi Tư Chính. Lần này, Việt Nam khởi động khoan dầu ở môt lô khác, lô 06/01, cũng trong vùng biển bãi Tư Chính nên Trung Quốc lại tìm cách ngặn chặn.
H: Việc Trung Quốc đem tầu thăm dò dầu khí Hải Dương 8 vào bên trong vùng đặc quyền kinh tế 200 Hải lý của Việt Nam có ý nghĩa chính trị và địa lý như thế nào đối với tham vọng chủ quyền Biển Đông của Bắc Kinh?
Đ: Trung Quốc muốn áp đặt chủ quyên của mình và khai thác tài nguyên trên vùng biển trong đường lưỡi Bò bằng chính sách “tầm ăn dâu.” Sau khi đã đặt đươc chân đứng trong quần đảo Trường Sa, Trung Quôc bắt đầu xây 7 đảo nhân tạo của họ từ năm 2014. Sau đó, với việc cải tạo bồi đắp và quân sự hóa đá Chữ Thập, bãi Vành Khăn và bãi Xu Bi năm 2017 Trung Quốc đã đạt được thế thượng phong để áp dụng chiến thuật mà giáo sư Carl Thayer gọi là “chiến thuật vùng xám” (grey zone tactics) phối hơp các phương tiện chính trị, kinh tế và quân sự, đặc biệt là dùng các tầu đánh cá dân sự đươc hỗ trợ bởi các tầu Hải giám và lực lương Dân quân biển để biến vùng biển thuộc chủ quyền các nước khác thành vùng tranh chấp. Trung Quôc đã làm viêc ấy đối với Philippines ở vùng biển đảo Thị Tứ hồi tháng 3, với Malaysia ở vùng biển đảo bãi Luconia hồi tháng 5, và với Việt Nam bây giờ.
H: Ông lý giải ra sao về việc Bộ Ngoại giao Việt Nam phải đợi cho đến ngày 19/07 (2019), tức sau 16 ngày sau khi Trung Quốc đem tầu tìm dầu và các tầu có võ trang hộ tống vào vùng Tư Chính hoạt động (từ ngày 03/07/019), mới chính thức lên án Trung Quốc “vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông” và “yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam” ?
Đ: Việt Nam bắt đầu khoan dầu tử tháng 5. Đầu tháng 7 Trung Quóc mới đưa tầu Hải Dương 8 đến khảo sát địa chất. Hai bên vờn nhau cả tuần nhưng không bên nào công bố vì không muốn làm lớn chuyện. Cho đến khi Việt Nam thấy cần công khai lên tiếng chỉ trích Trung Quốc “vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam”, và đòi Trung Quôc rút toàn bộ tầu ra khỏi vùng này. Đó là tiến trình tự nhiên, theo thứ tự thời gian.
TỪ HẢI DƯƠNG 981 ĐẾN HẢI DƯƠNG 8
H: Nếu so với vụ Trung Quốc đem tầu Hải Dương 981 vào thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam năm 2014 (từ ngày 01 tháng 5, 2014 - 16 tháng 7, 2014) thì Giáo sư đánh giá vụ Hải Dương 8 vào vùng Tư Chính năm 2019 có mức độ nghiêm trọng như thế nào ?
Đ: Sự kiện năm 2014 nghiêm trọng hơn. Năm ấy, tầu HYSY 981 được khoảng 100 tầu lớn nhỏ của Trung Quốc bảo vệ trong số đó có 7 tầu quân sự; tầu hai bên xô xát và bắn nước vào nhau dữ dội, công thêm với các cuộc biểu tình và bạo động ở trên đất liền. Lần này, tầu Hải Dương 8 lúc đầu chỉ được hai tầu hải giám hộ tống, Ngoài ra, lần này viêc khoan dầu đươc Việt Nam trao phó cho công ty Rosneft, môt công ty mà chính phủ Nga là một cổ đông. Và thế của Rosneft mạnh hơn thế của công ty tư nhân Repsol của Tây Ban Nha.
H: Khi xẩy ra vụ Hải Dương 981, người Việt Nam cả trong và ngoài nước, kể cả giới trí thức, không phân biệt chế độ chính trị, đã lên tiếng phản đối Trung Quốc. Nhiều cuộc biểu tình chống các Công ty của Trung Quốc cũng đã xẩy ra ở Việt Nam. Ngược lại, năm nay (2019) người dân đã không có phản ứng như thế sau vụ Tư Chính.
Giáo sư nghĩ sao về sự kiện này? Chẳng lẽ tinh thần “bài Trung”, trước hiểm họa chủ quyền lãnh thổ và biển đảo bị mất vảo tay Bắc Kinh đã mờ nhạt trong tâm trí người Việt? Hay là vì bị Chính quyền đàn áp trong các vụ biểu tình chống Tầu trong qúa khứ mà người dân đã làm ngơ, mặc cho nhà nước lo?
Đ: Không phải không có chỉ trích chính quyền, nhưng biểu tình lớn thì không có. Mệt mỏi và chán nản như ông nghĩ cũng có lý. Ngoài ra, có thể có nhiều lý do khác:
Thứ nhất, cuôc khủng hoảng lần này không nghiêm trọng bằng lần trước.
Thư hai, chính quyền Việt Nam đã học được bài học và kinh nghiệm đối phó với Trung Quôc cũng như đối với ngươi dân. Lần này, họ công khai chông đôi Trung Quôc. Họ nêu đích danh Trung Quôc để chỉ trich trươc thế giới và trên diễn đàn khu vực ASEAN chứ không còn phải nấp sau từ “tầu lạ” hay “hũu nghị viển vông.”
Thư ba, nội bô đảng Công sản không chia rẽ trầm trọng như 5 năm trước để người ngoài có thể dễ khai thác.
Thứ tư, môt số nhân vật có quá khứ cách mạng và uy tín có thể gây cảm hứng và làm lá chắn cho các cuộc biểu tình hoặc đã qua đời hoăc quá già.
Thư năm, trong thởi điểm này không có các công ty Trung Quốc ở Việt Nam có hành động gây căm phẫn biến họ thành cái đích rõ rệt để chông đối và bạo động.
MỸ VÀ BIỂN ĐÔNG
H: Vào ngày 20/7 (2019) vừa qua, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ (MORGAN ORTAGUS) đã đưa ra lời tuyên bố lên án hành động của Trung Quốc trong vụ Tư Chính, có lợi cho lập trường ở Biển Đông của Việt Nam. Giáo sư có nghĩ rằng khi Chính quyền Mỹ lên tiếng như thế là họ muốn kéo Việt Nam ra khỏi qũy đạo của Trung Quốc, hay vì lý do nào khác?
Đ: Với tuyên bố ấy, họ vửa chỉ trích và răn đe Trung Quốc vừa hỗ trợ lập trường của Việt Nam đồng thời khuyến khích Việt Nam và các quôc gia Đông Nam Á mạnh dạn chống sự bắt nạt và cưỡng chế của Trung Quốc. Trươc đó, tháng 10 năm ngoái trong một cuộc phỏng vân với Hugh Hewitt khi còn là cô vấn an ninh quốc gia của Hoa Kỳ, Dick Bolton coi viêc Trung Quốc quấy nhiễu tầu tuân tra của Mỹ ở Biển Đông là hành động“nguy hiểm,” và khẳng định Hoa Kỳ không chấp nhận để Trung Quốc biến vùng này thành “một tỉnh của Trung Quốc.” Ông còn tuyên bố “chúng tôi sẽ tim cách khai thác thêm các tài nguyên khoáng sản ở Biển Đông dủ có hay không có sự họp tác của Trung Quốc.”
Đôi với Việt Nam, dự án khai thác dầu khí Cá Voi Xanh ở lô 118, cách Việt Nam 88 cây số và nằm ngoài đường lưỡi bò, sẽ là thử nghiêm xem lời nói của Hoa Kỳ có đi đôi vơi việc làm hay không. Từ tháng 3 năm 2017, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Tập đoàn ExxonMobil của Mỹ đã ký kết thỏa thuận hơp tác trong dư án mỏ khí Cá Voi Xanh. Năm tháng sau, Thủ Tương Viêt Nam Nguyễn Xuân Phúc thúc dục ExxonMobil “chính thức khởi động” dự án này để đánh dấu thời điểm lịch sử khi Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump thăm Việt Nam và dự Hội nghị Thương Đỉnh Họp tác Kinh tế Á châu Thài Binh Dương (APEC) vào tháng 11 năm 2017 (tại Đà Nẵng). Lúc ấy cựu Chủ Tịch ExxonMobil ( Rex W. Tillerson) đang là Ngoại trưởng Hoa Kỳ nhưng tập đoàn này không nhúc nhích. Phải đợi một ngày sau khi hội nghị bắt đầu, đương kim chủ tịch của tập đoàn Exxon Mobil mới thông báo dư án sẽ hoàn thành “thủ tục ban đầu vào cuối năm nay (2017), và năm 2018 sẽ chuẩn bị các điều kiện kỹ thuật cần thiết. Đến 2019, dư án sẽ đưa vào khai thác mỏ này.” Chỉ còn 4 tháng là hết năm 2019. Thử xem Hoa Kỳ sẽ làm gì để hỗ trợ cam kết của ExxonMobil.
H: Xin Giáo sư đánh giá chính sách ở Biển Đông của Chính quyền Trump trước sự bành trướng ảnh hưởng kinh tế và quân sự của Trung Quốc ở Á Châu-Thái Bình Dương dưới thời Tập Cận Bình?
Đ: Mỹ muốn đóng vai trò trội yếu và không muốn Trung Quôc độc chiếm Biển Đông. Để thưc hiện mục tiêu này, chính quyên Obama (năm 2008) đưa ra chính sách “xoay trục” về Á châu Thái Bình Dương đươc hỗ trợ bằng Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP, Trans-Pacific Partnership), tái phối trí lực lượng quân sự từ Trung Đông sang Á châu, tăng cường hơp tác chiến lược vơi các đối tác Á châu, và các cuộc tuần tra bảo vệ tư do hàng hải. Chính quyền Trump đưa ra chiến lược Ân Đô-Thái Bình Dương nhằm lôi kéo Ấn Độ vào chính sách ngăn chặn sự bành trương của Trung Quốc và muôn có cái tên khác với tên do chính quyền Obama đặt ra.
Ngay từ đầu, chính sách này vấp phải hai điều bất lợi. Việc đơn phương rút khỏi hiêp đinh TPP khiến Hoa Kỳ mất một đòn bẩy kinh tế của chiến lươc quân sự đồng thời làm xói mòn lòng tin của các đồng minh và đối tác của mình về quyêt tâm và khả năng giúp họ chống lại sức ép của Trung Quốc. Hành động này tạo khoảng trống giúp Trung Quôc cơ hội khai thác vai trò lãnh đạo kinh tế khu vực của mình với chủ trương thương mại tư do và kế hoạch “môt vòng đai, môt con đường” nối liền Á châu với Âu Châu và Phi Châu mà trung tâm là Trung Quốc. Ngoài ra, việc Trung Quốc thành công trong việc cải tạo bồi đắp và quân sự hóa tam giác đá Chữ Thập-bãi Vành Khăn-bãi Xu Bi đã tạo đươc thế thương phong chiến lược của Trung Quốc trong vùng biển này khiến Tư Lệnh Lưc Lương Thái Binh Dương cũa Mỹ, Đô đôc Philip Davidson phải kết luận rằng “Ngày nay, Trung Quôc có khả năng kiểm soát Biển Đông trong mọi tình huống trừ khi có chiến tranh với Hoa Kỳ.”
Chiến lược Ân Độ-Thái Bình Dương là môt chiến lươc mà nội hàm đang đươc khai triển nên phải theo dõi kỹ. Có những điểm cần để ý sau đây:
Thư nhất, vì kinh nghiêm và khả năng cá nhân, Tổng Thống Donald Trump quan tâm đến quyên lợi kinh tế, đến việc buôn bán và đổi chác (making deals) hơn là quan tâm chiến lược.
Thứ hai, hầu hết các tuyên bố cứng rắn đôi với Trung Quôc từ phia Hoa Kỳ đều do giới quân sự phát biểu, nhưng vị Tổng tư lệnh tối cao của họ lại tập trung vào viêc chỉ trích Trung Quôc về chính sách kinh tế trong khi vẫn ve vuốt, khen ngợi Chủ tich Trung Quốc Tập Cận Bình, ngay cả cách ông này đối phó với cuộc biểu tình chông Trung Quôc ở Hong Kong.
Gân đây, nhất là sau vụ bãi Tư Chính, có một số thay đổi trong các tuyên bố của Mỹ. Bên ngoài thì, cùng với bộ Quốc phòng, cả bộ Ngoại Giao và Quốc Hội Mỹ đều nhập cuộc, lên án hành động “bắt nạt” của Trung Quôc ở Biển Đông. Bên trong Nhà Trắng, một số cố vấn Tổng Thống, như đại diên thuơng mại Robert Lighthizer và cố vân thương mại PeterNavarro đều có thái độ cưng rắn với Trung Quôc.
Thư Ba, hành đông đơn phương, và đôi khi dường như bất nhất của Tổng Thông Trump làm xói mòn lòng tin và, do đó, sư hơp tác chân thành của các đông minh và đối tác của Mỹ trong viêc đối phó với Trung Quốc.
Thư tư, quan hệ đặc biêt của Tổng Thống Trump với lãnh đạo Do Thái và Á Rập cuốn Mỹ vào tranh chấp với Iran. Nếu Mỹ bị sa lầy ở Trung Đông thì chiến lược Ân Độ-Thái Bình Dương khó có thể thực hiện đến nơi đến chốn.
Thư năm, trươc áp lực của giơi tư bản và nông dân Mỹ bị thiêt hại vì cuôc “chiên tranh thương mại” Mỹ-Trung và vì nhu cầu tranh cử năm 2020, chính quyên Trump cần môt nhân nhượng của Trung Quôc đê có môt cái gọi là thắng lơi ngoai giao, Tổng Thông Trump có thể đổi chác để bám lấy thị trương Trung Quốc. Đổi chác ấy, nếu có, sẽ thiệt hại cho ai?
NGA-ASEAN-BIỂN ĐÔNG
H: Nước Nga trong thời đại của Vladimir Putin có tạo được ảnh hưởng gì với Mỹ, Trung Quốc và ASEAN trong nỗ lực giải quyết tranh chấp ở Biển Đông?
Đ: Sưc mạnh quân sư và kinh tê của Nga thua xa Mỹ. Putin chỉ có khả năng làm kẻ phá bĩnh (a spoiler), gây khó khăn cho Mỹ ở cả Á châu và Âu châu. Đối vơi Biển Đông, vì mối quan hệ đặc biệt với cả Trung Quốc và Việt Nam, Putin, có thể giúp Việt Nam tăng cường khả năng quân sự, và nếu Trung Quốc đồng ý, có thể đóng vai trò con thoi, can gián, và làm trung gian hòa giài giưa Việt Nam và Trung Quôc
H: Thưa Giáo sư, tôi không thấy có nước nào trong khối ASEAN 10 quốc gia lên tiếng về vụ Tư Chính của Việt Nam. Tại sao?
Đ: Chỉ trích Trung Quốc thì có, nhưng họ chỉ nói đến sự xâm phạm của Trung Quốc tới vùng biển của họ, như Phi luật Tân đôi với vùng biển đảo Thị Tứ (tháng 3) và bãi Scarborough (tháng 7), Malaysia với vùng biển bãi Luconia (tháng 5), chứ không lên án Trung Quốc về vụ bãi Tư Chính. Ngay cả thông cáo chung ngày 31 tháng 7 của ASEAN cũng chẳng đả động đến vụ bãi Tư Chính, chẳng chỉ đích danh Trung Quốc mà chỉ nói mù mờ về “những sự cố nghiêm trọng đang diễn ra trên Biển Đông”. Đó là thái độ “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại,” nghi ngờ quyêt tâm bảo vệ của Mỹ, không muốn làm mếch lòng Trung Quốc với hy vọng đươc nươc này ban riêng cho môt nhượng bộ nào đó.
Riêng Phi luật Tân, Tổng Thông Rodrigo Duterte đã nói rõ ông không tin vào cam kêt của Mỹ dù họ đã ký hiệp ươc phòng thủ chung với Phi, vì thê Phi phải hòa hoãn với Trung Quôc. Ông tuyên bố một mình Phi không đánh nổi Trung Quốc, và thách thức nếu Hoa Kỳ thực sự muôn đẩy Trung Quốc ra khỏi Biển Đông thi hãy “đưa toàn thể Hạm đội 7 vào Biển Đông.” Lúc ấy Phi” sẽ theo ngay sau lưng Hoa Kỳ” và còn hô hào đánh bom tan nát hạm đôi Trung Quôc.
Nói tóm lại, quyền lơi ích kỷ, áp lực và chính sách chia để trị của Trung Quốc cùng với sự nghi ngờ về khả năng và quyêt tâm của Hoa Kỳ khiến cho các quốc gia trong khối ASEAN không dám bênh nhau để cùng đương đầu vơi Trung Quốc. -/-
Phạm Trần
(08/019)
Bãi Tư Chính : Nghĩ Gì ? Làm Gì ?
- Viết bởi Lê Đình Thông
Bãi Tư Chính là địa danh riêng của nước ta. Bãi này rộng 33,88 km², từ trước 1975 đến nay được đặt trực thuộc tỉnh Bà Rịa. Bản đồ của Tầu ghi là 万安滩 (Vạn An than -> than: bãi). Trong năm 1994, Việt Nam thiết trí hai đặt giàn khoan DK1/11, DK1/12. Năm 1995 thêm giàn khoan DK1/14. Ngoài ra, còn hai ngọn hải đăng cao 22 m, có độ chiếu 2 hải lý.
Tuy Bắc Kinh tự ý đặt tên cho bãi cạn này là Vạn An nhưng lại luôn khuấy động, gây bất ổn. Theo trang twitter ngày 10/07/2019 của giáo sư Ryan Martinson, Học viện Nghiên cứu Hàng hải Trung Quốc thuộc Đại Học Hải chiến Hoa Kỳ tại Newport, Rhode Island, tầu Hải dương Địa chất Bát Hào (Hai Yang Di Zhi Ha Hao) đã thực hiện hoạt động thăm dò địa chất ở vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam ở phía tây quần đảo Trường Sa, có các tầu chiến hộ tống, theo công lệnh của Cơ quan Khảo sát Địa chất Trung Quốc (China Geological Survey).
Ngày 19/07, tuyên bố của bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết: ‘‘Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía nam Biển Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật biển (UNCLOS) 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên’’.
Ta nghĩ gì về những sự việc vừa kể ? Các suy nghĩ này phải chăng gợi ý một số hành động cần thiết để đối phó với tình thế ?
I - Bãi Tư Chính: nghĩ gì ?
Trong tháng 07/2019, trong vụ bãi Tư Chính, người ta chỉ đề cập đến yếu tố quân sự (tầu chiến Hoa Kỳ) mà bỏ qua khía cạnh chính trị. Thời sự ‘‘Bãi Tư Chính’’ hiện nay có khác gì bối cảnh lịch sử nước ta vào năm 1284: đại quân nhà Nguyên 50 vạn binh lính từ phương Bắc, kết hợp với 10 vạn quân của Toa Đô từ Chiêm Thành, hai mặt giáp công thôn tính nước ta. Năm 1284, thượng hoàng Trần Thánh Tông triệu tập hội nghị Diên Hồng tại kinh thành Thăng Long để trưng cầu dân ý. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, quyển 5, trong hội nghi, các vị phụ lão đồng thanh hô vang ‘‘Đánh’’.
Địa danh ‘‘Tư Chính’’ của miền Nam từ trước 1975 mang các ý nghĩa như sau:
- chữ TƯ (諮) có nghĩa là tư tuân dân ý (諮詢民意), cũng giống như là trưng cầu dân ý trong lịch sử nước ta, thể hiện qua hội nghị Diên Hồng.
- chữ CHÍNH (政) vừa có nghĩa là chính trị: muốn giải quyết các tranh chấp ở bãi Tư Chính, yếu tố quân sự không đủ, cần có cả yếu tố chính trị. Chữ CHÍNH còn có nghĩa là chính đạo (正道).
Xuyên suốt lịch sử nước ta từ thời lập quốc đến nay, việc gìn giữ bờ cõi là nhiệm vụ thiêng liêng, bất thành văn của toàn dân, sau này được ghi trong hiến pháp:
- Hiến pháp VNCH năm 1967, điều 5, khoản 2 định rằng: ‘‘Việt Nam Cộng Hòa cương quyết chống lại mọi hình thức xâm lược và nỗ lực góp phần xây dựng nền an ninh và hòa bình thế giới.’’
- Hiến pháp Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 64 ghi rằng: ‘‘Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân.’’
Trong thực tế, nhiều sự kiện chứng minh rằng chính quyền hiện nay đã vi phạm quy định này của hiến pháp:
1) Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng đã gửi Thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai công hàm ngày 14/09/1958, nguyên văn như sau:
‘‘Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.’’
Chính quyền Trung Quốc cho rằng công hàm của Phạm Văn Đồng là bằng chứng cho thấy chính quyền Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nội dung văn kiện kể trên đã quá rõ ràng. Có hai điểm sau đây cần lưu ý về hình thức:
- Công hàm (公函: Correspondance diplomatique) là yếu tố cấu thành hiệp ước, có khả năng phát sinh những quyền lợi và nghĩa vụ trong luật quốc tế.
- Cách xưng hô (appellation): ‘‘Thưa Đồng chí Đổng lý’’ chứng minh quan hệ mật thiết giữa hai đảng cộng sản Tầu và Việt (trước đây gọi là đảng Lao động Việt Nam). Mao Trạch Đông đã gọi quan hệ này là ‘‘môi hở răng lạnh’’. Công hàm chứng minh đảng cộng sản Việt Nam thần phục đảng cộng sản Tầu. Chừng nào còn đảng cộng sản Việt Nam, mối quan hệ bất bình đẳng này vẫn không thay đổi.
2) Ba văn kiện ký tại Bắc Kinh ngày 18/11/2009:
- Hiệp định về quy chế quản lý biên giới trên đất liền giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa;
- Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa;
- Nghị định thư phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Các văn bản nói trên đưa đến việc Hữu Nghị Quan hiện nay không còn giữ nguyên trạng Ải Nam Quan trước đây, mà lấn sâu về lãnh thổ Việt Nam.
Cổng Hữu Nghị Quan xây năm 1957 có khắc ba chữ Hữu Nghị Quan (友誼關) là của Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Trần Nghị. Tại sao phía Việt Nam lại không có bút tự quốc ngữ nào trên công trình này ?
3) Dự thảo luật (sau đây gọi tắt là dự luật) đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc (gọi tắt là đặc khu) gồm 6 chương 85 điều. Điều 58 quy định:
– đặc khu Vân Đồn trực thuộc tỉnh Quảng Ninh;
– đặc khu Bắc Vân Phong trực thuộc tỉnh Khánh Hòa;
– đặc khu Phú Quốc trực thuộc tỉnh Kiên Giang.
Ba đặc khu ở ba miền đất nước mở đường cho Bắc Kinh từng bước thôn tính Bắc, Trung, Nam. Về mặt địa lý chiến lược, việc thiết lập ba đặc khu còn cho phép Bắc Kinh xâm nhập vùng lãnh hải, chiều rộng 12 hải lý của nước ta, theo quy định của công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, công bố ngày 10/12/1982.
4) Việc người Hoa mua nhà đất, biến nhiều thành phố Việt Nam thành ‘‘China Town’’ cuỉa Tầu. Các sự kiện trên đây khiến những ai ưu tư đến vận mệnh đất nước có ý nghĩ phải làm gì ?
II - Bãi Tư Chính: làm gì ?
Chỉ với tên gọi Tư Chính, biến cố đang diễn ra tại bãi Tư Chính gợi ý một giải pháp chính trị. Vào thế kỷ XIII, nước ta chiến thắng quân Nguyên là nhờ yếu tố toàn dân. Trong bối cảnh hiện nay, thật là thiếu sót nếu chỉ trông cậy vào sự can thiệp của hải quân Hoa Kỳ mà không đếm xỉa gì tới yếu tố toàn dân.
Toàn dân nói đây là 97,5 triệu đồng bào ruột thịt trong nước, sát cánh cùng 1,8 triệu người gốc Việt sinh sống tại Hoa Kỳ, 180 ngàn người tại Canada, 150 ngàn người tại Úc, 250 ngàn tại Pháp, 90 ngàn tại Đức và cộng đồng người Việt ở rải rác trên khăp năm châu. Ngày nay, họ là các cử tri, tác động lên chính sách ngoại giao của nước sở tại.
Toàn dân không phải chỉ là 24 ủy viên bộ chính trị, không do dân cử, mà chỉ đại diện cho đảng cộng sản, ‘‘đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.’’ (điều 4 Hiến pháp 2013). Trong thực tế, bộ chính trị đảng cộng sản hiện nay gồm toàn là thành phần tư sản mại bản, làm giàu phi pháp trên giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã khiến đất nước chìm đắm suốt nửa thế kỷ trong ‘‘chuyên chính vô sản’’, từ 1945 đến 1994 là năm Mỹ bỏ cấm vận. Biến cố Tư Chính gợi ý một giải pháp triệt để cho đất nước: tu chính Hiến pháp.
2.1. Từ TƯ CHÍNH đến TU CHÍNH (修正):
Trị liệu pháp chính trị cũng giống như trị liệu pháp áp dụng trong y khoa: cắt bỏ phần thối nát trong một bộ phận (ablation d’une partie d’un organe). Những người có lương tri đều nhận thấy trong hiện tình đất nước, điều 4 hiến pháp không còn lý do tồn tại nữa. Đảng cộng sản Việt Nam tỏ ra khiếp nhươc trước sự uy hiếp thường xuyên của đảng cộng sản Tầu. Chỉ có thế toàn dân với sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế và khu vực mới làm cho nước Tầu phải chùn bước.
Nếu bỏ điều 4, ta sẽ thay bằng quy định mới nào ?
Ngày 27/01/1973, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tiền thân của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã ký tại Paris hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Điều 11 của hiệp định quy định việc
- ‘‘thực hiệp hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thủ hận, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xứ với những cá nhân hoặc tồ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia;
- Bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín ngưỡng, tự di đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh.’’
Hà Nội đã ký mà không tôn trọng bất cứ một quy định nào ghi trên. Nếu điều 11 của hiệp định thay thế điều 4 hiến pháp hiện nay, cái lợi trước mắt là tạo được thế toàn dân, làm sống lại tinh thần của hội nghị Diên Hồng năm 1284. Ngoài ra, với những biến chuyển hiện nay, làm sao tránh được việc chế độ cộng sản sụp đổ. Điều khoản mới sẽ là lá chắn pháp lý, bảo đảm để các thành viên của chế độ cũ (cộng sản) không phải vùi thân trong tù ngục cải tạo như trường hợp các cựu viên chức VNCH bị cộng sản đầy ải, bức tử sau năm 1975.
Về thủ tục tu chính, điều 120 hiến pháp quy định quy định như sau:
‘‘Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.’’
Quốc hội hiện nay có 494 đại biểu. Như vậy cần có hai phần ba số đại biểu, tức 333 vị, bỏ phiếu tán thành. Ba con số 3: ‘‘Tam Tam Tam’’ thật là có có nghĩa. Người dân kêu gọi lương tri của quý vị đại biếu để Quốc hội có các hành động kịp thời, thích hợp; đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của thời cuộc.
Quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách. Huống hồ là các vị đại biểu quốc hội ?
Lê Đình Thông
Bài Viết Của Châu Hiền Lý, Bộ Đội Tập Kết 1954
- Viết bởi Châu Hiền Lý, Bộ Đội Tập Kết 1954
Đã hơn 3 thập kỷ trôi qua, làm ăn cực nhọc là thế, thành tựu không thể nói là nhỏ, thế mà khoảng cách phát triển của VN so với thế giới sao vẫn xa vời ! Không định thần nhìn nhận lại tất cả, không khéo chúng ta sẽ ngày càng đi sâu vào con đường đi làm thuê, đất nước có nguy cơ trở thành đất nước cho thuê với triển vọng là bãi thải công nghiệp của các quốc gia khác (!) giữa lúc thế giới đang bước vào thời kỳ kinh tế trí thức !
150 năm đã trôi qua, nhưng bài học này còn nguyên vẹn. Đó là 80 năm nô lệ, 40 năm với 4 cuộc chiến tranh lớn (Pháp, Mỹ, Cam Bốt, Tàu) – trong đó 3 thế hệ liên tiếp gánh chịu những hy sinh khốc liệt, 43 năm xây dựng trong hòa bình với biết bao nhiêu lận đận, và hôm nay VN vẫn còn là một nước chậm tiến.
Thảm kịch của đảng cộng sản thực ra đã bắt đầu ngay từ ngày 30-4-1975. Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt.
“Tính hơn hẳn” của chủ nghĩa Mác-Lênin đã trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.Nhìn lại sau hơn nửa thế kỷ dưới chế độ CS, hàng loạt các câu hỏi được đặt ra:
😥- Năm 1954 sau khi thắng Pháp, tại sao hơn 1 triệu người Bắc phải bỏ lại nhà cửa ruộng vườn di cư vào miền Nam ?
😥- Sau năm 1975, tại sao dân miền Nam không ồ ạt di cư ra Bắc sinh sống để được hưởng những thành quả của CNXH mà chỉ thấy hàng triệu người Bắc lũ lượt kéo nhau vào Nam lập nghiệp ?
😥_ Tại sao sau khi được “giải phóng” khỏi gông cùm của Mỹ-Ngụy, hàng triệu người phải vượt biên tìm tự do trong cái chết gần kề, ngoài biển cả mênh mông ?
😥_ Tại sao nhân viên trong các phái đoàn CS đi công tác thường hay trốn lại ở các nước tư bản dưới hình thức tị nạn chính trị ?
Tất cả những thành phần nêu trên, họ muốn trốn chạy cái gì ?
😮_ Tại sao đàn ông của các nước tư bản Châu á có thể đến VN để chọn vợ như người ta đi mua một món hàng ?
😲_ Tại sao Liên Xô và các nước Đông âu bị sụp đổ ?
😲_ Tại sao lại có sự cách biệt một trời một vực giữa Đông Đức và Tây Đức, giữa Nam Hàn và Bắc Hàn ?
😯-Tại sao nước ta ngày nay phải quay trở lại với kinh tế thị trường, phải đi làm "lao công" cho các nước tư bản ?
😲_ Tại sao các lãnh tụ CS lại gởi con đi du học tại các nước tư bản thù nghịch ?
Hỏi tức là trả lời, người VN đã bỏ phiếu bằng chân từ bỏ một xã hội phi nhân tính. Mọi lý luận phản biện và tuyên truyền của nhà nước cộng sản đều trở thành vô nghĩa !
Sự thực đã quá hiển nhiên nhưng đảng cộng sản VN không thể công khai nhìn nhận.
😪Họ không thể nhìn nhận là đã hy sinh 4 triệu sinh mệnh trong một cuộc chiến cho một sai lầm ! Nếu thế thì họ không còn tư cách gì để nắm chính quyền, ngay cả để hiện diện trong sinh hoạt quốc gia một cách bình thường.
Để Nhìn nhận một sai lầm kinh khủng như vậy
-đòi hỏi một lòng yêu nước
-một tinh thần trách nhiệm
-và một sự lương thiện ở mức độ quá cao đối với những người lãnh đạo cộng sản.
Hơn nữa, họ đã được đào tạo để chỉ biết có bài bản cộng sản, bỏ chủ nghĩa này họ chỉ là những con số 0 về kiến thức.
Cũng phải nói là trong bản chất con người, ít ai chịu từ bỏ quyền lực khi đã nắm được.
Thế là sau cuộc cách mạng long trời lở đất với hơn 30 năm khói lửa, máu chảy thành sông, xương cao hơn núi, Cộng Sản Hà Nội lại phải đi theo những gì trước đây họ từng hô hào phá bỏ tiêu diệt.
Từ 3 dòng thác cách mạng chuyên chính vô sản, hy sinh hơn 4 triệu mạng người, đi lòng dòng gần nửa thế kỷ, Cộng Sản Hà Nội lại phải rập khuôn theo mô hình tư bản để tồn tại.
Hiện tượng “Mửa ra rồi nuốt lại” này là một cái tát vào mặt các nhà tuyên giáo trung ương CSVN.
Cách mạng cộng sản đã đưa ra những lí tưởng tuyệt vời nhất, cao cả nhất, đã thực hiện những hành động anh hùng vô song, đồng thời cũng gieo vào lòng người những ảo tưởng bền vững nhất.
Nhưng thực tế chuyên chính vô sản đã diễn ra vô cùng bạo liệt, tàn khốc, chà đạp man rợ lên đạo lý, văn hóa và quyền con người ở tất cả các nước cộng sản nắm chính quyền. Sự dã man quỷ quyệt mánh lới và sự bất nhân khéo che đậy của Cộng sản chưa hề thấy trong lịch sử loài người.
Con người có thể sống trong nghèo nàn, thiếu thốn. Nhưng người ta không thể sống mà không nghĩ, không nói lên ý nghĩ của mình. Không có gì đau khổ hơn là buộc phải im lăng, không có sự đàn áp nào dã man hơn việc bắt người ta phải từ bỏ các tư tưởng của mình và “nhai lại” suy nghĩ của kẻ khác.
Nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối, những kẻ mù chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ giáo điều …
Công dân của nhà nước cộng sản luôn luôn sợ hãi, luôn luôn lo lắng không biết mình có làm gì sai để khỏi phải chứng minh rằng mình không phải là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội.
Cơ chế quyền lực cộng sản tạo ra những hình thức đàn áp tinh vi nhất và bóc lột dã man nhất. Vì vậy, công dân trong các hệ thống cộng sản hiểu ngay điều gì được phép làm, còn điều gì thì không. Không phải là luật pháp mà là quan hệ bất thành văn giữa chính quyền và thần dân của nó đã trở thành “phương hướng hành động” chung cho tất cả mọi người.
Cơ chế hiện nay đang tạo kẽ hở cho tham nhũng, vơ vét tiền của của Nhà nước. Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là mất tiền, mất của, dù số tiền đó là hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ. Cái lớn nhất bị mất, đó là suy đồi đạo đức. Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống …
Bác và đảng đã gần hoàn thành việc Vô sản hóa và Lưu manh hóa con người VN.
-Vô sản lưu manh là lời của Lênin.
Vô sản chuyên chính (đảng viên) thì chuyển sang làm tư bản đỏ.
-còn vô sản bình thường (người dân) trở thành lưu manh do thất nghiệp, nghèo đói.
Nền kinh tế Việt Nam bây giờ chủ yếu là dựa trên:
- Việc vơ vét tài nguyên quốc gia.
- Bán rẻ sức lao động của công nhân và nông dân cho các tập đoàn kinh tế ngoại bang, vay nước ngoài do nhà nước CS làm trung gian.
Huyền thoại giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp do cộng sản Việt Nam dày công dàn dựng đã tan thành mây khói khi giai cấp “vô sản” âm thầm lột xác trở thành các nhà Tư bản đỏ đầy quyền lực và đô la.
Do vậy, lý thuyết CS dần dần mất đi tính quyến rũ hoang dại. Nó trở nên trần trụi và lai căng. Tất cả điều đó đã làm cho các ĐCS trên toàn thế giới dần dần chết đi. Dù GDP có tăng lên, nhiều công trình lớn được khánh thành do vay mượn quỹ tiền tệ Quốc Tế nhưng đạo đức xã hội cạn dần. Thực tế cho thấy rằng sức mạnh không nằm ở cơ bắp. Vũ khí, cảnh sát và hơi cay chỉ là muỗi mòng giữa bầu trời rộng lớn nếu như lòng dân đã hết niềm tin vào chính quyền.
Học thuyết về xây dựng một xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa chỉ là một loại lý tưởng hóa, nó là chiếc bánh vẽ để lừa gạt dân, không hơn không kém; đảng nói một đằng, làm một nẻo.
Chẳng hạn đảng nói “xây dựng xã hội không có bóc lột” thì chính những đảng viên lại là những người trực tiếp tham nhũng bóc lột người.
-đảng nói ” một xã hội có nền dân chủ gấp triệu lần xã hội tư bản” thì chính xã hội ta đang mất dân chủ trầm trọng.
-đảng nói “đảng bao gồm những người tiên phong nhất, tiên tiến nhất” nhưng thực tế thì đảng đầy rẫy những người xấu xa nhất, đó là những kẻ đục khoét tiền bạc của nhân dân.
Sở dĩ ĐCSVN còn cố giương cao ngọn cờ XHCN đã bị thiêu rụi ở tất cả các nước sản sinh ra nó vì chúng đang còn nhờ vào miếng võ độc “vô sản chuyên chính” là… còng số 8, nhà tù và họng súng để tồn tại !
Nhân dân đang hy vọng rằng Đảng sớm tự ý thức về tội lỗi tầy trời của mình. Đảng sẽ phải thẳng thắn sám hối từ trong sâu thẳm chứ không chỉ thay đổi bề ngoài rồi lại tiếp tục ngụy biện, chắp vá một cách trơ trẽn.
Người dân chẳng còn một tí ti lòng tin vào bất cứ trò ma giáo nào mà chính phủ bé, chính phủ lớn, chính phủ gần, chính phủ xa đưa ra nữa. Họ nhìn vào ngôi nhà to tướng của ông Chủ tịch xã, chú công an khu vực, bà Thẩm phán, ông Chánh án, bác Hải quan, chị Quản lý thị trường, kể cả các vị “đại biểu của dân” ở các cơ quan lập pháp “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà kết luận:
“Tất cả đều là lừa bịp!” Do đó XHCN sẽ được đánh giá như một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử VN. Con, cháu, chút, chít chúng ta nhắc lại nó như một thời kỳ… đồ đểu ! vết nhơ muôn đời của nhân loại.
Một thời kỳ mà tâm trạng của người dân được thi sĩ cách mạng Bùi Minh Quốc tóm tắt qua 2 vần thơ:
“Quay mặt phía nào cũng phải ghìm cơn mửa !
Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi!”
-Chẳng lẽ tuổi thanh xuân của bao người con nước Việt dâng hiến cho cách mạng để cuối cùng phải chấp nhận một kết quả thảm thương như thế hay sao ?
-Chẳng lẽ máu của bao nhiêu người đổ xuống, vàng bạc tài sản của bao nhiêu kẻ hảo tâm đóng góp để cuối cùng tạo dựng nên một chính thể đê tiện và phi nhân như vậy?
Tương lai nào sẽ dành cho dân tộc và đất nước Việt Nam nếu cái tốt phải nhường chỗ cho cái xấu?
Một xã hội mà cái xấu, cái ác nghênh ngang, công khai dương dương tự đắc trong khi cái tốt, cái thiện phải lẩn tránh, phải rút vào bóng tối thì dân tộc đó không thể có tương lai!
Một kết cục đau buồn và đổ vỡ là điều không tránh khỏi.
Châu Hiển Lý
Bộ đội tập kết 1954
Tàu Cảnh sát biển Việt Nam và Trung Quốc đối đầu ở Bãi Tư Chính
- Viết bởi GNsP
Có ít nhất 2 tàu hải cảnh Trung Quốc và 4 tàu Cảnh sát biển Việt Nam đang đối đầu với nhau ở Bãi Tư Chính trong khoảng một tuần qua, nơi Việt Nam có nhà giàn DK1 do Tiểu đoàn DK1 trực thuộc Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân kiểm soát.
Thông tin này được mạng báo Bưu điện Hoa Nam Buổi Sáng (South China Morning Post – SCMP) đăng tải vào chiều 12/7.
Mạng báo tiếng Anh có trụ sở ở Hồng Kông trích dẫn đoạn Tweet của ông Ryan Martinson – Trợ lý giáo sư tại Trường Hải Chiến Mỹ cho hay, hôm 3/7, tàu thăm dò dầu khí Trung Quốc mang tên Haiyang Dizhi 8 (Marine Geology 8) đã đi vào vùng biển gần rạn san hô do Việt Nam kiểm soát để thực hiện một cuộc khảo sát địa chấn.
Ông Ryan Martinson đăng tải ảnh chụp màn hình về thông tin theo dõi dữ liệu tàu trong một tweet hôm 11/7 chỉ ra, khu vực trên có sự xuất hiện của các tàu hộ tống tàu thăm dò Trung Quốc gồm tàu bảo vệ bờ biển vũ trang 12 ngàn tấn số hiệu 3901 mang theo trực thăng và tàu 2.200 tấn số hiệu 37111.
Trong khi đó, sáng 11/7, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và các thành viên Chính phủ đột nhiên đi thăm Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển và nói chuyện qua điện thoại vệ tinh với các chiến sĩ làm việc trên các tàu CSB 4031, 4034, 9001, 8002, 4038, 4039.
Theo SCMP, cuộc đối đầu có thể dẫn đến đụng độ lớn nhất trên Biển Đông trong vòng 5 năm trở lại đây và có thể kích động làn sóng chống Trung Quốc chưa từng thấy ở Việt Nam kể từ vụ giàn khoan Hải Dương 981 kéo vào vùng biển nước này.
Theo Wikipedia, Bãi Tư Chính là một cụm rạn san hô ở phía nam Biển Đông mà Việt Nam cho lắp đặt các cấu trúc thép có tên là nhà giàn DK1 và giao cho Tiểu đoàn DK1 trực thuộc Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân kiểm soát.
Việt Nam tuyên bố bãi Tư Chính nằm trên thềm lục địa phía nam, không thuộc quần đảo Trường Sa và bác bỏ sự gán ghép bãi này vào quần đảo Trường Sa.
Đài Loan và Trung Quốc quan niệm bãi này thuộc quần đảo Nam Sa. Khu vực bãi Tư Chính đã nhiều lần là đối tượng tranh cãi giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Năm 1994, tàu vũ trang Việt Nam đã buộc tàu thăm dò Shiyan 2 rời đi sau 3 ngày đối đầu.
Hiện phía Việt Nam cũng như Trung Quốc chưa có bình luận gì về vụ việc này.
Vào ngày 11 tháng 7, ông thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có cuộc làm việc với Bộ Tư Lệnh Cảnh sát Biển Việt Nam và lên tiếng cho rằng cơ quan này không được để bị động, bất ngờ trước các tình huống xảy ra trên biển.
Cũng vào chiều ngày 11 tháng 7, tại cuộc gặp ở Bắc Kinh giữa bà chủ tịch quốc hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân với ông chủ tịch Nhân Đại Trung Quốc Lật Chiến Thư hai phía lặp lại cám kết sẽ tiếp tục tuân thủ nhận thức chung của hai lãnh đạo cao cấp hai đảng, hai nước ‘thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam- Trung Quốc’.
Nguồn: GNsP
Tài Sản Trôi Sông Lạc Chợ
- Viết bởi Phạm Trần
Bằng chứng không do ai bịa đặt để bôi nhọ chế độ mà viết rành mạch trong Luật, quan trọng nhất ở hai lĩnh vực :Kê khai tài sản; và không dám tịch thu tài sản có nguồn gốc bất minh.
KHAI XONG GIẤU ĐI
Thứ nhất, Luật quy định (Điều 34) người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập gồm :
1. Cán bộ, công chức.
2. Sĩ quan Công an nhân dân; sĩ quan Quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp.
3. Người giữ chức vụ từ Phó trưởng phòng và tương đương trở lên công tác tại đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, người được cử làm đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
4. Người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Điều 35. Tài sản, thu nhập phải kê khai bao gồm:
a) Quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng và tài sản khác gắn liền với đất, nhà ở, công trình xây dựng;
b) Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá và động sản khác mà mỗi tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên;
c) Tài sản, tài khoản ở nước ngoài;
d) Tổng thu nhập giữa 02 lần kê khai.
Luât giải thích tiểu điểm (đ) :”Kê khai bổ sung được thực hiện khi người có nghĩa vụ kê khai có biến động về tài sản, thu nhập trong năm có giá trị từ 300.000.000 đồng trở lên so với tài sản, thu nhập đã kê khai lần liền trước đó.”
Nhưng khai rồi, công khai với ai, ai giữ và làm gì với lời khai?
Luật quy định tại Điều 39, theo tuần tự như sau:
1. Bản kê khai của người có nghĩa vụ kê khai phải được công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó thường xuyên làm việc.
2. Bản kê khai của người dự kiến được bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý tại cơ quan, tổ chức, đơn vị phải được công khai tại cuộc họp lấy phiếu tín nhiệm.
3. Bản kê khai của người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân phải được công khai theo quy định của pháp luật về bầu cử.
4. Bản kê khai của người dự kiến bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân phải được công khai với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trước khi bầu, phê chuẩn. Thời điểm, hình thức công khai được thực hiện theo quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
5. Bản kê khai của người dự kiến bầu giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý tại doanh nghiệp nhà nước được công khai tại cuộc họp lấy phiếu tín nhiệm khi tiến hành bổ nhiệm hoặc tại cuộc họp của Hội đồng thành viên khi tiến hành bầu các chức vụ lãnh đạo, quản lý.
6. Chính phủ quy định chi tiết về thời điểm, hình thức và việc tổ chức công khai bản kê khai quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều này.
Như vậy, nhân dân –người đóng thuế nuôi cán bộ, đảng viên—không được dòm ngó vào bản kê khai tài sản của những kẻ được đảng khiêm nhượng gọi láu cá là đầy tớ của nhân dân.
Vì vậy, với chủ trương che mắt dân để đóng cửa bênh nhau, đảng đã tự bôi tro trát phấn vào mặt qua câu tuyền truyền sáo rỗng “nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, của dân, do dân và vì dân”.
Cũng nên biết, tuy luật PCTN không có hiệu lực về mặt Đảng, nhưng vì hệ thống cầm quyền ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chi phối nên tất cả các cấp Lãnh đạo gọi là “chủ chốt” từ Tổng Bí thư, Chủ tịch nước xuống cho đến cấp Ủy địa phương đều vừa là Đại biểu Quốc hội (Lập pháp), kiêm luôn các chức lãnh đạo trong cơ cấu nhà nước (Hành pháp) và cả Tư pháp. Do dó, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng; Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đều phải kê khai tài sản.
Nhưng chưa bao giờ người dân được đọc các tờ khai của họ, hay của các đời lãnh đạo cấp cao trước họ.
XÁC MINH VỚI NHAU
Ngay cả khi những người ra ứng cử Hội đồng Nhân dân và Đại biểu Quốc hội làm bản kê khai tài sản thì cũng chỉ có cơ quan tổ chức bầu cử là các cấp Mặt trận Tổ quốc, từ địa phương lên Trung ương, được xem rồi cất vào tủ khóa lại !
Vì vậy, đến khi cần xác minh xem lời khai có đúng không thì lại ngựa quen đường cũ, cứ nhắm mắt đi theo đường đảng vẽ như quy định tại Điều 42, viết rằng :
a) Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội bầu, phê chuẩn hoặc bổ nhiệm, người dự kiến được bổ nhiệm Phó Tổng Kiểm toán nhà nước;
b) Chủ tịch nước yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bổ nhiệm Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
c) Thủ tướng Chính phủ yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bổ nhiệm Thứ trưởng và chức vụ tương đương thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan thuộc Chính phủ, người dự kiến được bầu hoặc đề nghị phê chuẩn chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
d) Chánh án Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bổ nhiệm Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân các cấp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bổ nhiệm Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản này;
đ) Thường trực Hội đồng nhân dân yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn;
e) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bầu hoặc đề nghị phê chuẩn chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp;
g) Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban bầu cử hoặc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam yêu cầu xác minh đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân;
h) Cơ quan thường vụ của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bầu tại đại hội của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
i) Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người có thẩm quyền quản lý cán bộ đối với người có nghĩa vụ kê khai yêu cầu hoặc kiến nghị xác minh đối với người có nghĩa vụ kê khai thuộc thẩm quyền quản lý, sử dụng trực tiếp của mình, trừ trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g và h khoản này.
2. Cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác có quyền yêu cầu Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập xác minh tài sản, thu nhập nếu trong quá trình kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án xét thấy cần làm rõ về tài sản.
Nhưng sau khi xác minh thì đảng công khai với ai ?
Một lần nữa, bàn tay lông lá của đảng lại can thiệp để chỉ công khai bản xác minh trong nội bộ cơ quan, tổ chức với nhau, như ấn định trong Điều 39 ở trên.
XỬ PHẠT NỘI BỘ
Tưởng như giấu dân nhiêu đó chưa đủ, luật PCTN còn vẽ thêm chân rết làm trò hề như trong quy định của Điều 51 về việc “Xử lý hành vi kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực.”
Theo đó :
1. Người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân mà kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực thì bị xóa tên khỏi danh sách những người ứng cử.
2. Người được dự kiến bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử giữ chức vụ mà kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực thì không được bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử vào chức vụ đã dự kiến.
3. Người có nghĩa vụ kê khai không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, bị xử lý kỷ luật bằng một trong các hình thức cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc hoặc bãi nhiệm; nếu được quy hoạch vào các chức danh lãnh đạo, quản lý thì còn bị đưa ra khỏi danh sách quy hoạch; trường hợp xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm thì có thể xem xét không kỷ luật.
Cuối cùng, luật PCTN cũng ấn định không công khai cho dân biết mà chỉ:”Quyết định kỷ luật được công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người bị xử lý kỷ luật làm việc.”
Sau cùng, để bảo mật tuyệt đối các hồ sơ kê khai tài sản, luật PCTN quy định “Cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập được xây dựng và quản lý tập trung tại Thanh tra Chính phủ (TTCP) .”
Có điều là TTCP cũng đã nổi tiếng bê bối, bênh che, làm hình thức và đã đôi lần cán bộ ngành này bị bắt qủa tang tham nhũng, tiếp tay cán bộ vi phạm chạy tội. Do đó, quyết định của luật PCTN cho phép TTCP được “Xây dựng, quản lý, khai thác và bảo vệ cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập trong phạm vi cả nước” không làm ai ngạc nhiên.
Vì vậy, khi còn thảo luận tại Quốc hội, nhiều Đại biểu đã đã đòi phải đưa vào luật điều cho phép tịch thu tài sản có nguồn gốc không minh bạch của những cán bộ, đảng viên bị tố cáo tham nhũng. Nhưng phe “đi hàng hai” đã thắng cuộc khiến cho Điều 93 chỉ còn lại nội dung “lửng lơ con cá vàng”, theo đó:
1. Tài sản tham nhũng phải được thu hồi, trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc tịch thu theo quy định của pháp luật.
2. Thiệt hại do hành vi tham nhũng gây ra phải được khắc phục; người có hành vi tham nhũng gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
TRÒ HỀ DIỄN TUỒNG
Ở Việt Nam, nhóm chữ “theo quy định của pháp luật” được diễn nghĩa sẽ kéo dài vô tận, hay chẳng đi đế đâu.
Bằng chứng trong báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2018, có gần 1,137 triệu người kê khai tài sản, đạt tỷ lệ 99,8, so với số người phải kê khai. Xác minh bản kê của 44 người thì cơ quan chức năng phát hiện 6 trường hợp vi phạm, tăng 1 trường họp so với năm 2017. (báo Dân Trí, ngày 10/12/2018)
Báo này viết tiếp:”Ngay tại Hà Nội, trong báo cáo mới nhất về minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức thành phố, qua báo cáo của trên 34.300 người, chỉ phát hiện có một trường hợp kê khai không trung thực.
Sự vô lý này được phát hiện ngay khi đó, khi một nhóm nghiên cứu của Ủy ban Tư pháp cuả Quốc hội có khảo sát là riêng tại tỉnh Bạc Liêu, đã có 19 trường họp không kê khai tài sản, thu nhập, trong đó chỉ ở 1 đơn vị cấp huyện đã có đến 17 trường hợp không kê khai nhưng không có lý do.”
Đó là chuyện quá lạ, báo cáo chính thức là một đằng, nhưng qua kiểm tra, thẩm tra lại, kết quả ở một đơn vị cấp huyện, số người vi phạm về kê khai tài sản lại lớn hơn gần 3 lần con số báo cáo về người kê khai sai của toàn quốc. Thế thì ai còn tin được vào báo cáo được nữa?
Dân Trí là báo của Hội Khuyến học Việt Nam nhấn mạnh rằng:”Có một điều khá rõ cần nói ở đây là sở dĩ số người vi phạm quy định về kê khai tài sản được phát hiện rất ít có phần do có quá ít người được xác minh bản kê khai tài sản, thu nhập của họ. Trong báo cáo của Chính phủ cũng đã nêu rất rõ: Trong hơn 1,1 triệu hồ sơ kê khai, chỉ có 44 người được xác minh và phát hiện 6 trường hợp vi phạm quy định về kê khai, minh bạch tài sản. Và những người này phải xác minh là để phục vụ công tác tổ chức cán bộ, bổ nhiệm.
Thế thì rõ rồi, nếu số người còn lại được xác minh thì chắc chắn, số người vi phạm sẽ phải lớn hơn nhiều. Và ở đây, có một vấn đề lớn đặt ra: Nếu kê khai chỉ để ở... ngăn bàn, hơn 1 triệu người chỉ xác minh vài chục người thì việc kê khai tài sản quả thực là việc làm quá hình thức.”
Thực tế tuồng diễn chống tham nhũng nhêch nhác như thế mà báo Quân đội Nhân dân (QĐND), một trong những cái loa tuyên truyền của Bộ Quốc phòng vẫn oang oang nói rằng:”Có thể nói công cuộc PCTN của chúng ta tuy còn rất gian nan nhưng đã thu được những thành quả rất quan trọng.” (báo QĐND, ngày 01/07/2019)
Trước khi phản công những phê bình, báo QĐND thừa nhận:”Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác PCTN vẫn còn những tồn tại, hạn chế, vẫn còn tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, nể nang, né tránh, ngại va chạm; việc phát hiện, xử lý tham nhũng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu; tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng trong nội bộ cơ quan, đơn vị vẫn là khâu yếu… Đồng thời, việc chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực; công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn chưa được quan tâm thực hiện nghiêm đã tạo “kẽ hở” cho việc lạm quyền để trục lợi của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thiếu rèn luyện đạo đức, tham lợi, vụ lợi bất chính...”
SỰ THẬT TRÊN SÂN NHÀ
Nhưng những “kẽ hở” này không chỉ nhất thời mà là căn bệnh kinh niên của một số không nhỏ cán bộ đảng viên trong cuộc chiến ăn chia với quốc nạn tham nhũng, lãng phí. Do đó, báo QĐND đã tự kỷ ám thị khi cố tình đánh lạc hướng để che đậy thất bại khi viết rằng:”Khoét sâu” vào những hạn chế nói trên, một số người đưa thông tin trên mạng xã hội hoặc báo chí nước ngoài rằng “việc PCTN ở Việt Nam thất bại”, “chỉ đưa ra ánh sáng những vụ việc không thể che đậy được”, “chống tham nhũng ở Việt Nam như nước đổ đầu vịt”… Có lẽ những người đưa ra các thông tin này không hiểu hoặc cố tình không hiểu công tác PCTN ở Việt Nam.”
Chả cần phải “cầy sâu cuốc bẫm” mới thấy được thửa đất tham nhũng của nhà nước CSVN có nhiều sỏi đá thế nào. Hãy đọc lời thừa nhận của ông Nguyễn Phú Trọng, người đứng đầu Đảng và Nhà nước:”Bên cạnh những kết quả đạt được, chúng ta cũng phải thẳng thắn nhìn nhận công tác phòng, chống tham nhũng vẫn còn những tồn tại, hạn chế …Công tác phòng, chống tham nhũng ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có sự chuyển biến rõ rệt, vẫn còn tình trạng "trên nóng, dưới lạnh", nể nang, né tránh, ngại va chạm; việc phát hiện, xử lý tham nhũng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu; tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng trong nội bộ cơ quan, đơn vị vẫn là khâu yếu. Tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ công vẫn gây bức xúc trong người dân, doanh nghiệp” (Diễn văn ngày 25/06/2018)
Ông nói:”Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế là do nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa nhận thức sâu sắc mức độ nghiêm trọng của tình hình tham nhũng ở địa phương, lĩnh vực mình quản lý; chưa thực sự gương mẫu, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong đó có cả những người là lãnh đạo, quản lý thiếu tu dưỡng, rèn luyện, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, tham nhũng.”
Nhưng nhân dân cũng muốn biết những khối lượng tài sản khổng lồ, những dinh thự ngàn tỷ đồng của những kẻ bảo rằng họ có được là do tự lao động,do nuôi lợn, bán rau, vay mượn dòng họ hay “của cha mẹ để lại cho” phải được chứng minh thế nào cho phải đạo làm người và hợp tình hợp lý.
Nếu ông Nguyễn Phú Trọng còn muốn muốn xứng đáng được coi là “người đốt lò vĩ đại”, như câu viết “nâng bi” qúa cỡ thợ mộc của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV, Voice of Vietnam) ngày 10/02/2019 thì ông hãy mau chóng trả lại cho dân những tài sản đã bị đám tham ô đảng cho trôi sông lạc chợ ở khắp vùng đất nước.
Bằng không, Luật Phòng, chống Tham nhũng mới cũng chỉ là tờ giấy lộn mà thôi. -/-
Phạm Trần
(07/019)