Tin Việt Nam
Đảng CSVN Vẫn Như Gà Mắc Giây Thun
- Viết bởi Phạm Trần
Hai Dự thảo “Báo cáo Chính trị” (BCCT) và “Tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng nhiệm kỳ Đại hội XII”, gọi ngắn là “Xây dựng, chỉnh đốn đảng”, dành cho Đại hội đảng XIII vào đầu tháng Giêng năm 2021, đã bộc lộ bản tính tham quyền cố vị và tư duy giáo điều, chậm tiến và lạc hậu của Lãnh đạo đảng CSVN, đứng đầu là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng.
Hội đồng Lý luận Trung ương (HĐLLTƯ) đã dành ra ít nhất 3 năm để soạn thảo 4 Văn kiện, được ông Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban Ban Văn kiện, tự khoe là “văn bia, còn để lại đời sau.” Ông Trọng còn là Trưởng Tiểu ban Nhân sự để chọn các Ủy viên Trung ương khóa XIII.
Chủ tịch Hội đồng 44 thành viên hiện nay là Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thắng, Bí thư Trung ương Đảng khóa XII, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. HĐLLTƯ được quy định “Là cơ quan tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về các vấn đề lý luận chính trị, làm cơ sở cho việc hoạch định, hoàn thiện, phát triển đường lối, chính sách của Đảng, về những chương trình, đề tài khoa học cấp nhà nước về lý luận chính trị, phục vụ trực tiếp công tác lãnh đạo của Đảng”.
(Theo Quyết định số 28-QĐ/TW, ngày 25 tháng 7 năm 2016)
Nhưng Bộ Chính trị dù chỉ có 17 người do ông Nguyễn Phú Trọng đứng đầu, đã nhiều lần họp thảo luận và chấp thuận các Văn kiện trước khi cho phép phổ biến lấy ý kiến.
Bốn Văn kiện, được được phổ biên thu ý kiến từ 20/10 đến 10/11/2020, gồm:
1) Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng.
2) Dự thảo Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030.
3) Dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025.
4) Dự thảo Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng nhiệm kỳ Đại hội XII.
Nhưng, kinh nghiệm qúa khứ đã chứng minh, việc lấy ý kiến nhân dân chỉ là hình thức dân chủ giả hiệu, vì đảng không bào giờ chấp nhận những ý kiến trái chiều, chưa nói đến chống lại quan điểm bảo thủ và giáo điều của Hội dồng lý luận Trung ương và Bộ Chính trị.
Bài viết này đặt trọng phân tích về 2 Văn kiện quan trọng là Báo cáo chính trị và Xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Trước hết, ông Nguyễn Phú Trọng đã đặt cái cầy trước con trâu khi khẳng định:” Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động.” (Bài viết “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới", ngày 31/08/2020)
Khăng khăng như thế vì ông Trọng là người độc tài cầm quyền và độc tôn tư tưởng đã buộc người dân phải chấp nhận Chủ nghĩa Cộng sản dù muốn hay không.
Vì vậy mà HĐLLTƯ đã khẳng định phải:” Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh... Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”
Báo cáo Chính trị còn viết:”Khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.”
Nhưng thế nào là “thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”? Định nghĩa mơ hồ “cả vú lấp miệng em” này không mảy may phản ảnh một Việt Nam không cho phép người dân có tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do báo chí, bên cạnh tiếp tục phủ nhận các quyền tự do lập hội, tự do nghiệp đoàn và tư do biểu tình đã được quy định tron Hiến pháp.
(Điều 25:”Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”)
Do đó, khi đảng tự khoác cho mình cái áo “lãnh đạo đúng đắn” là đảng tự “vạch áo cho người xem lưng“ để phơi ra cái mặt trái của chế độ, vì hơn 30 năm qua, từ khi có Đổi mới năm 1986, đã không thực hiện được lời hứa làm cho "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Vậy mà Báo cáo chính trị vẫn có thể ba hoa rằng:”
Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội…Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.”
TƯ TƯỞNG XUỐNG DỐC
Vậy những tệ nạn sau đây, không “của Đảng, do đảng và vì đảng” đã tạo ra thì ai vào đây?
Đứng đầu và quan trọng nhất là vấn đề “suy thoái tư tưởng” trong cán bộ, đảng viên.
Báo cáo Chính trị viết :”Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá.”
--“Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, "lợi ích nhóm", bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi.”
--"Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng.”
-- “Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp. Tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi còn hình thức. Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là của người đứng đầu chưa lan toả sâu rộng.”
XÂY DỰNG-PHÁT TRIỂN ĐẢNG HỤT HƠI
-- “Vẫn còn tình trạng nói không đi đôi với làm; không tuân thủ nguyên tắc của Đảng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cá nhân chủ nghĩa, cơ hội, thực dụng, bè phái, gây mất đoàn kết nội bộ, chưa nêu cao ý thức và trách nhiệm trước nhân dân.”
--"Tự phê bình và phê bình ở không ít nơi còn hình thức; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi; một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ được giao. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên còn thụ động, hiệu quả thấp.”
-- Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp, nhất là việc tổ chức thực hiện nghị quyết và khả năng phát hiện, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo giải quyết các vấn đề phát sinh ở cơ sở.”
--"Công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước còn lúng túng, hạn chế; công tác phát triển đảng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo còn nhiều khó khăn. Sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi vẫn còn hình thức, sinh hoạt chuyên đề chưa được coi trọng, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu.”
-- Việc thi hành kỷ luật đảng ở một số nơi chưa nghiêm, còn hiện tượng nể nang, né tránh, ngại va chạm. Giải quyết khiếu nại, tố cáo còn chậm, có nơi còn né tránh.”
THAM NHŨNG VẪN THĂNG HOA
--"Công tác phòng, chống tham nhũng ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có sự chuyển biến rõ rệt. Việc phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí vẫn còn hạn chế; tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị vẫn là khâu yếu; tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ công chưa được đẩy lùi.”
-“Thể chế về quản lý kinh tế - xã hội góp phần phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn nhiều bất cập; cơ chế kiểm soát quyền lực đối với tổ chức và người có chức vụ, quyền hạn chưa đủ mạnh; việc kiểm soát tài sản, thu nhập chưa chặt chẽ. Tham nhũng trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội.”
-“Công tác phòng, chống lãng phí chưa được chú trọng đúng mức; quy định và chế tài xử lý đối với tổ chức, cá nhân khi để xảy ra lãng phí chưa đầy đủ, đồng bộ. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ.”
Thêm vào đó, thêm lần nữa đảng nhìn nhận:”Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt gay gắt hơn”.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng báo động từ năm 2017 rằng:“Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ "diễn biến hoà bình" của thế lực thù địch nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và tệ nạn xã hội vẫn còn có những diễn biến phức tạp.” (Phát biểu tại Đại hội Cựu chiến binh Việt Nam tại Hà Nội ngày 14-12-2017. )
AN NINH-BIỂN ĐÔNG
Bước sang lĩnh vực an ninh, vẹn toàn lãnh thổ, cà hai Văn kiện Báo cáo Chính trị và Xây dựng, chỉnh đốn Đảng đều nhìn nhận:”Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hoà bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. ASEAN có vai trò quan trọng trong duy trì hoà bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn.”
Nhưng có nước nào trong khu vực đã và đang tranh chấp gay gắt và đe dọa trực tiếp Việt Nam ở Biển Đông bằng nước đàn anh Trung Cộng mà đảng CSVN vẫn oang oang cái mồm tung hô “vừa là đồng chí vừa là anh em”?
Văn kiện đảng đã không dám động đến lỗ chân lông Bắc Kinh để chỉ đích danh, mà chỉ dám hô hoán khơi khơi để lừa dân với tuyên bố ba phải:
--" Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước. Tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.”
Cũng với giọng điệu mơ hồ, chung chung, Văn kiện Đảng còn phô trương rằng:
--" Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch.”
Ngoài ra, đảng còn phải đối phó với những tệ nạn khác như:
-- “Tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn, tiêu cực, mâu thuẫn xã hội... chậm được khắc phục, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Giảm nghèo chưa bền vững.”
-- “Công tác quản lý, bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng còn hạn chế.”
-- “Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời.”
TÁI CƠ CẤU KINH TẾ
Bước qua lĩnh vực kinh tế, Văn kiện đảng tái khẳng định tiếp tục” Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, những “còn nhiều vướng mắc, bất cập chưa được tháo gỡ”.
Bởi vì, đảng nhìn nhận:
--”Công nghiệp vẫn chủ yếu gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng không cao; công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, tỉ lệ nội địa hoá thấp, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu hiệu quả còn hạn chế; tốc độ tăng trưởng nông nghiệp chậm lại; chất lượng nhiều dịch vụ thấp.
Nhiều doanh nghiệp nhà nước thực hiện tái cơ cấu và đổi mới cơ chế quản trị còn chậm; thoái vốn, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn gặp vướng mắc cả về thể chế và tổ chức thực hiện; hiệu quả sản xuất, kinh doanh còn thấp; tình trạng nợ, thua lỗ, lãng phí còn lớn.”
--"Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong Chiến lược 2011 - 2020 và việc tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt được mục tiêu đề ra.”
Vì vậy, đảng CSVN đã cam kết :”Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại tòan diện nền kinh tế”, theo thứ tự ưu tiên:”Cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả đầu tư. Cơ cấu lại, phát triển lành mạnh các loại thị trường, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất để huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Cơ cấu lại thị trường tài chính - tiền tệ đáp ứng yêu cầu huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. Cơ cấu lại thu, chi ngân sách nhà nước, bảo đảm an toàn nợ công. Cơ cấu lại thị trường bất động sản, đất đai, tài nguyên để đất, tài nguyên được sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả cao.”
Thêm vào đó, cũng sẽ tái cơ cấu :”Các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ theo hướng tập trung phát triển các lĩnh vực, các sản phẩm có tiềm năng, lợi thế, công nghệ cao, giá trị gia tăng cao, sức cạnh tranh cao trong hội nhập quốc tế. Cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp, phát triển lực lượng doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, tăng cường gắn kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung vào những lĩnh vực then chốt, quan trọng.”
Như vậy, xem ra sau 10 năm cầm quyền, Tổng Bí thư, Chủ nước Nguyễn Phú Trọng và toàn thế Lãnh đạo 2 Khóa đảng XI và XII, kể cả Quân đội và lực lượng Công an vẫn còn nhiều vướng mắc chưa khắc phục được, không khác gì đám Gà mắc giây thun. -/-
Phạm Trần
[Radio Tâm Ca] Thương lắm, miền Trung ơi!
- Viết bởi Ngọc Huynh, SJ - Vatican News
Ai đã từng đến miền Trung vào giữa những ngày hè đầy nắng thì mới hiểu cái khắc nghiệt của thời tiết vùng này ra sao. Cái nắng giữa hè vùng này nóng lắm, nó có thể thiêu đốt mọi vật. Cộng thêm những cơn gió Lào thổi sang, cái nóng như đổ lửa của miền trung như thể khiến cho người ta khô héo đi vậy. Ánh nắng xà xuống tới đâu là cảnh vật như rũ xuống. Rồi sang mùa Đông, cái lạnh cắt da cắt thịt ở vùng này khiến cho người ta phải rùng mình. Những cơn gió bấc từng hồi thổi về cộng với những cơn mưa dầm làm cho cái lạnh thấu vào tận xương. Nhưng con người ở đây chưa bao giờ chịu khuất phục. Họ làm lụng vất vả nhưng ít khi nào than vãn. Họ nỗ lực để biến những vùng đất đầy sỏi đá trở thành những vườn rau, vườn chè xanh ngát, cánh đồng vàng óng mùa lúa chín. Cái nắng hè mặc dầu làm cho dân vùng này đen xạm đi, nhưng cái nắng cũng làm cho con người nơi đây rắn rỏi hơn. Ngày hè oi ả, đông về lạnh lẽo, ngày nóng đêm chuyển trời, nhưng con người miền Trung dường như càng ngày càng được tôi luyện: họ mạnh mẽ hơn và kiên cường hơn.
Rồi sang những tháng nửa sau của năm, dân miền Trung lại phải vật lộn với những cơn mưa xối xả, bão gió thì liên miên. Hình ảnh những mái nhà xiêu vẹo, rồi đến khi mùa lũ về, đâu đó chỉ còn thấy nóc giữa biển nước đục ngàu xung quanh dường như đã dần trở thành quen. Sau mỗi đợt lũ về, cảnh màn trời chiếu đất lại xảy đến với nhiều người dân nghèo. Những mảng bùn đặc quánh còn lại sau đợt lũ như ghìm chân người miền Trung xuống. Mỗi năm, cùng với miền Bắc, miền Trung hứng chịu hơn chục cơn bão lớn nhỏ. Bão nhỏ thì ảnh hưởng đến mùa màng canh tác. Bão lớn thì tàn phá nhà cửa. Đất đai nhiều vùng miền Trung vốn chẳng tốt, vất vả canh tác cả năm trời, trông chờ đến ngày mùa thu hoa trái, nhưng chỉ một cơn bão hay trận lũ cũng có thể cuốn đi tất cả. Nó khiến cho miền Trung như bị khuỵ xuống. Lũ lụt đến cộng với bão gió về làm cho những người con mất cha mất mẹ, những người chồng mất đi vợ mất con.
Trong những ngày này, hình ảnh người đàn ông trẻ quỳ lạy giữa dòng nước lũ ào ạt phổ biến trên các mạng xã hội khiến cho nhiều người chạnh lòng. Đôi mắt của anh đã không còn rơi lệ. Nước mắt dường như đã hoà vào dòng nước lũ. Người chồng, người cha van lạy dòng nước lũ cuồng dại trả lại vợ con cho mình. Anh tìm kiếm, anh khóc, anh van xin…rồi anh tuyệt vọng! Dòng nước lũ đã lấy đi của anh tất cả. Nó vô tình như bao năm nay. Giữa những ngày mưa lụt, người vợ của anh trở dạ. Đang khi dòng nước cuồn cuộn chảy về, chị phải thuê thuyền để đến bệnh viện sinh. Nhưng thuyền chỉ đi đến một đoạn thì lật úp. Nước cứ một dòng nước chảy nào để cho người ta được lên tiếng van xin. Rồi người mẹ trong dạ vẫn còn đứa con chưa một lần nhìn ánh mặt trời đã vội đi vào dòng lũ cuồn cuộn, nước cuốn trôi tất cả. Người vợ và người mẹ đã bị cuốn trôi trong sự bất lực của người chồng người cha. Nỗi đau của anh cũng là nỗi đau của nhiều người miền Trung mỗi mùa mưa bão về. Nước cuồn cuộn, thiên nhiên nổi giận, người ta vùng vẫy giữa làn nước mênh mông. Giữa cơn bão bùng nước cuốn, người ta không có chỗ bấu víu. Chưa hết, bão đi, nước rút, những lớp bùn đặc làm cho người ta trượt, trượt dài. Người ta cầu nguyện xin ơn bình an và không phải nghe tin dữ.
Khó khăn chồng khó khăn, miền Trung mới đợt rồi bị dập dụi bởi cơn dịch bệnh covid 19 chưa dứt, nay lại phải căng mình sống với lũ lụt nặng nề. Đà Nẵng cách đây ít lâu thôi còn là tâm của cơn đại dịch, nay nước lại về, tràn vào tất cả, ngập lụt khắp nơi. Ở vùng Nghệ An, mới mấy tháng trước dòng sông Lam còn cạn trơ đáy, rồi ở nhiều vùng Hà Tĩnh còn chịu cơn hạn hán nặng nề, cây cối bị khô héo, hoa màu bị mất trắng, nay cả vùng lại trôi nổi trên những dòng nước lũ tràn về ào ạt như thác đổ.
Thương về miền Trung, tôi cũng đau đáu nghĩ về những nguyên nhân của các tai hoạ vẫn đang xảy ra, mỗi ngày một khốc liệt hơn. Thiên tai, lũ lụt xảy ra, đất trời cũng đang chất vấn con người về cách họ đối xử với thiên nhiên. Có những vùng nước ở miền Trung bị làm cho ô nhiễm nặng nề, từng ngày, từng giờ. Biển miền Trung vẫn tiếp tục hứng chịu sự xâm lăng của các loại hoá chất từ những ống nước ngầm chảy ra. Biển vốn lành vốn sạch nay nhiễm các loại chất độc hại. Miền Trung nhiều người bấy lâu nay tự hào về vùng biển dài phong nhiêu. Biển trao tặng cho họ nguồn cá, nguồn tôm. Thiên nhiên bao đời nay đã dung dưỡng dân miền Trung. Nhưng mấy năm nay, biển như đã ngoảnh mặt với họ. Hình ảnh từng đàn, từng lớp cá chết trắng dạt vào bờ biển dài khiến cho người ta chua xót. Người ngư phủ nay không ra khơi. Nếu cực chẳng đã không còn cách nào khác vẫn phải ra khơi thì cũng chỉ nghĩ may ra vớt vát chút để sống qua ngày. Người miền trung vẫn phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của đồng loại vô tình, vô tâm. Rồi,... rừng vẫn cứ bị chặt, bị mất đi từng ngày. Nước đến mùa vẫn cứ tràn về. Nước vì thế lại càng mạnh. Người miền trung lại càng phải căng mình ra để chống chọi với cơn nổi giận của thiên nhiên.
Người miền Trung họ thương mến nhau nhiều. Chính vì sống trong hoàn cảnh thời tiết khắc nghiệt, mùa hè thì nắng gắt, mùa bão lũ lại dữ dội...người miền Trung gắn bó với nhau bền chặt tình làng nghĩa xóm. Họ đồng lòng, đồng tâm với nhau, nhờ thế mà bao đời nay, dù phải chống chọi với những gì khắc nghiệt nhất của thiên nhiên, nhưng những khó khăn bên ngoài ấy chỉ càng làm cho họ đoàn kết yêu thương nhau nhiều hơn. Họ thấu hiểu những nỗi truân chuyên của đồng bào mình. Gặp những cảnh phong trần, họ dễ dàng động lòng trắc ẩn. Bởi thế, người miền Trung đi đâu cũng đoàn kết và tương trợ lẫn nhau. Họ rộng tay với nhau lắm và yêu thương con người lắm!
Miền trung lũ lụt tang thương, cuộc sống của người miền Trung đang bấp bênh như ngọn cây mong manh giữa dòng nước lũ… Đang khi viết những dòng này, tôi vừa nghe tin bão gió lại đang nổi lên hướng về miền Trung. Miền Trung ơi, nước lũ chưa yên bão gió lại nổi! Thương về miền Trung, tôi mong ngày mưa bão sớm qua đi, mong người miền Trung vẫn mạnh mẽ như bao thời nay và xin cho những người đang sống trong cảnh yên bình nghĩ về họ, giúp đỡ họ. Miền Trung sẽ lại đứng dậy, mạnh mẽ như vẫn là họ…
Ngọc Huynh, SJ - Vatican News
Thù Địch Nằm Ngay Trong Lòng Chế Độ
- Viết bởi Phạm Trần
Như con nước đến hẹn lại lên, đảng CSVN vẫn tối mặt đối diện với 3 “kẻ nội thù” hay “giặc nội xâm” gồm : Tha hóa quyền lực; Tham nhũng; và “thế lực thù địch” là một bộ phận cán bộ, đảng viên “biến chất”, “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”.
Ba “kẻ thù” này không lạ mặt với dân vì chúng là dòng chảy liên tục, kế thừa giữa các thế hệ cán bộ, đảng viên trong 34 năm qua, kể từ Đại hội đảng “Đổi mới” năm 1986. Nhưng khi Tuyên giáo đảng và Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phòng phải khơi lại, trước ngày Đại hội đảng XIII, tổ chức vào đầu tháng 1/2021, thì mọi chuyện lại nóng lên vì các chứng tật này vẫn chưa được chận đứng.
Để hạ nhiệt vấn đề, Tuyên giáo đảng còn đổ lỗi cho “các thế lực thù địch” trong và ngoài Việt Nam và các nước Dân chủ Tây phương, đứng đầu là Hoa Kỳ, đã cấu kết với nhau, sử dụng các phượng tiện tinh vi như Internet, diễn đàn Quốc tế, mạng xã hội và các nhà báo dộc lập để gia tăng hoạt động chống phá, xuyên tạc công tác nhân sự đảng XIII.
Nhưng bên cạnh những ung nhọt “của đảng, do đàng và vì đảng” đã và đang làm tan hoang giá trị văn hóa và nhân phẩm trong xã hội Việt Nam thì những kẻ thù xuất phát từ nội bộ đảng còn góp sức phá hoại đất nước, làm hao mòn sức đề kháng còn sót lại trong dân trước những đe dọa ở Biển Đông của Trung Cộng.
Nhưng thù địch của đảng là những ai?
Theo Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng thì chúng lại là người của “đảng ta”.
Báo Thanh Niên tường thuật:“Nhận diện 3 nhóm đối tượng được gọi là “thế lực thù địch”, ông Thưởng chỉ rõ, chính những cán bộ, đảng viên, kể cả những đảng viên từng giữ chức vụ cao trong bộ máy nhưng suy thoái về tư tưởng chính trị, tự diễn biến, tự chuyển hóa là nhóm không khó để nhận ra nhưng rất khó để đấu tranh vì là lực lượng "len lỏi và phức tạp". (theo Thanh Niên, ngày 6/7/2019, trích Phát biểu của ông Thưởng tại Hội nghị báo cáo viên các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc T.Ư tháng 7, diễn ra ngày 5/7/2019).
Ngoài ra ông Thưởng còn cáo buộc rằng :”Các thế lực thù địch sử dụng các thủ đoạn, phương thức chống phá rất muôn hình vạn trạng, đặc biệt là sử dụng truyền thông đại chúng, sử dụng internet và truyền thông xã hội. Trong khi đó, những người làm công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lại thụ động hơn, rơi vào tình trạng phải chờ định hướng, thậm chí là chờ chế độ chính sách và đây là vấn đề cần lưu ý khắc phục sớm.”
ÔNG TRỌNG CÓ CÔNG GÌ?
Nhưng sau ngót 10 năm cầm quyền, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nên được đánh giá đã thành công trong nhiệm vụ mang lại phúc lợi cho dân tộc, và bảo vệ vững chắc độc lập và tòan vẹn chủ quyền lãnh thổ, hay ông đã thất bại như tất cả những lãnh đạo tiền nhiệm, từ thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh?
Lịch sử rồi sẽ phán xét công tội của từng Lãnh đạo, nhưng căn cứ vào những việc ông Trọng đã làm được hay vẫn còn vất vả chưa xong thì bên cạnh việc ông đã một bước thành công trong công tác phòng, chống Tham nhũng, lãng phí thì ông Trọng, 76 tuổi, vẫn chưa trị được những căn bệnh kinh niên của cán bộ, đàng viên đang đe dọa quyền lãnh đạo của đảng.
Đó là tình trạng :” Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá". Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi dụng sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý theo pháp luật. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội..., trong đó có cả cán bộ cao cấp, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi.”
(Trích Nghị quyết lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương đảng XII, ngày 19/05/2018)
Nhưng để chứng minh cho thành công của đảng trong lĩnh vực chống Tham nhũng, Tạp chí Dân vận của Ban Chấp hành Trung ương đảng đã cho biết:” Kết quả từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII (2016) của Đảng đến cuối 2018, UBKT các cấp đã kiểm tra 7.511 tổ chức đảng cấp dưới và 23.511 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; trong đó có 11.769 cấp ủy viên các cấp. Qua kiểm tra, UBKT các cấp đã kết luận 4.903 tổ chức đảng và 17.868 đảng viên có vi phạm, phải thi hành kỷ luật 355 tổ chức đảng và 8.841 đảng viên. Riêng UBKT Trung ương đã kiểm tra, xem xét thi hành kỷ luật và đề nghị thi hành kỷ luật 4 tổ chức đảng và 32 đảng viên diện Trung ương quản lý, trong đó có 1 người từng là Ủy viên Bộ Chính trị (Đinh La Thăng). Kết quả công tác kiểm tra, giám sát từ đầu nhiệm kỳ đến nay tiếp tục góp phần quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo thêm dấu ấn mới trên chặng đường phát triển, được Đảng và Nhân dân tin tưởng.”
Căn cứ vào việc khoe thành tích này mà ông Trọng, người được đàn em ca tụng là “người đốt lò”, đã đứng đầu bảng chống tham nhũng hơn tất cả 4 Tổng Bí thư tiền nhiệm gồm Nguyễn Văn Linh (1986 đến 1991), Đỗ Mười (1991-1997), Lê Khả Phiêu (1997-2001) và Nông Đức Mạnh (2001-2011).
Nhưng cũng nên biết, từ ngày 01/02/2013 Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng, chống Tham nhũng đã được thành lập trực thuộc Bộ Chính trị thì ông Trọng là Trưởng ban. Do đó, việc ông phải tích cực, dẫn đầu trong công tác này để làm gương là đương nhiên. Nhưng tại sao, sau một chặng đường dài chống Tham nhũng bắt đầu từ năm 2007, đến năm 2020 là 13 năm, mà công tác này cứ “vẫn còn nghiêm trọng” mãi?
VẪN NHƯ NGÀY ĐẦU
Bằng chứng đã được Tạp chí Tuyên giáo nhìn nhận :”Tham nhũng đang là vấn nạn, có xu hướng gia tăng và gây thiệt hại nặng nề về nhiều mặt, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của đất nước, làm giảm niềm tin của nhân dân vào các cơ quan công quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên đảm nhiệm các vị trí "có quyền".
Bài viết hồi Tháng 3/2019 cho biết các hành vi tham nhũng:” Đã và đang xảy ra không chỉ ở cấp Trung ương, ở những chương trình, dự án lớn có giá trị hàng ngàn tỷ đồng (tham nhũng lớn) mà còn xuất hiện nhiều tại các bệnh viện, các cơ quan công quyền ở cơ sở,v.v.. Tham nhũng không chỉ xảy ra trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai,v.v.. mà còn lan rộng sang các lĩnh vực văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục, thể thao; trong các chương trình trợ cấp cho thương binh, liệt sĩ, các gia đình chính sách; trong các chương trình cứu trợ cho đồng bào gặp thiên tai; trong quá trình xét duyệt công nhận di tích lịch sử, văn hoá, thi đua khen thưởng,v.v... Tham nhũng không chỉ làm xói mòn niềm tin của người dân đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mà còn "tiếp tay" cho các thế lực thù địch, phản động trong việc bôi nhọ, hạ uy tín, vị thế của Đảng trong phạm vi quốc gia cũng như trên trường quốc tế.”
Nhìn vào thực tại, Tuyên giáo viết thêm:”Tham nhũng - những lợi ích bất chính đã hoặc sẽ có được đã khiến nhiều cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo cấp cao “không giữ được mình”, không gương mẫu trong thực thi trọng trách được giao, nói một đằng, làm một nẻo, không còn xứng đáng với vai trò tiền phong. Họ đã bất chấp việc vi phạm pháp luật mà làm trái công vụ, trái lương tâm, đạo đức nghề nghiệp…để vụ lợi, trục lợi cho mình, người thân, cánh hẩu của mình, nhóm lợi ích của mình... dẫn đến làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, gây bất bình, bức xúc, thậm chí phản ứng của nhân dân đối với các cơ quan công quyền.”
(Theo Tạp chí Tuyên Giáo, ngày 15-03-2019)
Cũng trong năm 2019, Ban Nội chính Trung ương đàng CSVN cũng than van:”Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, xảy ra ở nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ.”
(Ban Nội chính, ngày 04/02/2019)
Như vậy thì ông Nguyễn Phú trọng có thành công trong chuyện “đốt lò” không? Chúng ta nên nhìn lại qúa khứ năm 2012, sau một năm ông Trọng lên nắm quyền, thay Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh để tìm câu trả lời.
Đầu tiên, Nghị quyết Trung ương 4 Khóa đảng XI, ban hành ngày 16/01/2012, đã phơi bầy một tình trạng nhiễu nhương do ông Nông Đức Mạnh để lại, theo đó:”Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”
Sau 5 tháng, ông Trọng đã tổ chức Hội nghị Trung ương 5 để nói riêng vể quốc nạn Tham nhũng. Kết luận ngày 25/05/2012 viết chi tiết:” Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, nhất là trong các lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý ngân sách; thu thuế, phí; quản lý, sử dụng vốn, tài sản trong doanh nghiệp nhà nước; tín dụng, ngân hàng; công tác cán bộ; quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với người dân, doanh nghiệp..., gây bức xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.” (Kết luận TƯ 5/XI)
Tại sao?, Hãy đọc giải thích của đảng CSVN:” Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, yếu kém nêu trên là: Không ít cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa thực hiện tốt trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Vai trò của nhiều chi bộ, tổ chức cơ sở đảng còn mờ nhạt; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành, kể cả cấp Trung ương, chưa nêu gương về đạo đức, lối sống, giảm sút sức chiến đấu và thiếu kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực vẫn còn sơ hở, bất cập; một số quy định thiếu nhất quán, thiếu chặt chẽ, vẫn còn tình trạng "xin - cho". Tổ chức và hoạt động của cơ quan, đơn vị chuyên trách về phòng, chống tham nhũng chưa đủ mạnh, có mặt chưa hợp lý.”
(Kết luận số 21-KL/TW ngày 25 tháng 5 năm 2012)
Hết nhiệm kỳ 5 năm (2011-2016), ông Trọng được tái đắc cử Tổng Bí thư cho nhiệm kỳ 2016-2021, tưởng đâu công tác “đốt lò chống Tham nhũng” của ông sẽ quét sạch rác rưởi trong đàng. Nào ngờ, tại Hội nghị Trung ương 4, Khóa XII, Trung ương lại than rát cổ:”Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao. Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.”
(Theo Nghị quyết, ngày 30 tháng 10 năm 2016)
Mới nhất tại Đại hội lần thứ II, nhiệm kỳ 2020-2025 của
Đảng bộ Cơ quan Ban Nội chính (08-09/6/2020), ông
Phan Đình Trạc, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, đã nhìn nhận thất bại của Đảng thêm lần nữa.
Ông nói:”Công tác Phòng, chống Tham nhũng còn nhiều khó khăn, phức tạp; cải cách tư pháp đang đặt ra những yêu cầu cao hơn, triệt để hơn. Tất cả những vấn đề đó sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề mới, phức tạp, chưa có tiền lệ, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải xử lý có hiệu quả, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đảm bảo lợi ích quốc gia và môi trường hòa bình, ổn định để phát triển.”
(Theo Ban Nội chính Trung ương)
NỊNH VỪA THÔI
Như vậy là loạn xà ngầu rồi còn gì nữa. Nhiệm kỳ hai khóa 10 năm của ông Trọng đã tan vào mây khói chưa, hay ông vẫn còn nước còn tát?
Vậy mà, Tạp chí Xây dựng Đảng vẫn tâng bốc ông lên tận mây xanh.
Báo này viết:”Người dân tin tưởng và cảm kích trước hình ảnh Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng - người cầm trịch, thổi ngọn lửa “công cuộc đốt lò, nhóm củi” luôn nhất quán giữa nói và làm, giữa chỉ đạo và hành động, thận trọng nhưng kiên quyết, kịp thời nhưng chắc chắn, răn đe để giáo dục, phòng ngừa… Người cầm trịch chẳng những bài bản trong chỉ đạo, kiên quyết trong hành động mà chính sự nêu gương hình ảnh cá nhân - một vị thủ lĩnh mực thước, thanh liêm, giản dị đã thực sự tạo dựng, làm nên điểm tựa tinh thần to lớn trong lòng dân.”
Tạp chí này hô tiếp:”Với sự vào cuộc quyết liệt, rốt ráo của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng dưới sự dẫn dắt, chèo lái của Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (PCTN), phong trào đấu tranh đã mang sắc diện mới cả về quan điểm, phương châm đến hành động. Rõ ràng “thủ lĩnh nào, phong trào đó”, và một khi PCTN đã trở thành phong trào, trở thành xu thế thì “không ai có thể đứng ngoài cuộc”, không ai có quyền đứng ngoài cuộc.”
Cuối cùng báo Đảng khuyến cáo :”Dấu ấn “thuyền trưởng” - Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trong cuộc chiến chống “giặc nội xâm” thuyết phục lòng dân chính bởi hội tụ giữa lời nói và hành động, giữa quan điểm và khí chất, giữa chỉ đạo và nêu gương. Đây cũng là bài học kinh nghiệm sâu sắc của Đảng ta trong việc lựa chọn những người kế tục chèo lái sau này, không chỉ trong PCTN. Đối với địa phương cũng cần phải lựa chọn cho được những thủ lĩnh xứng đáng, xứng tầm.”
(Tạp chí Xậy dựng Đảng, ngày 31/10/2019)
Ngoài chuyện báo Xây dựng Đảng đề cao ông Trọng, cũng thấp thoáng đây đó những tiếng nói của cử tri và cuộc vận động ngầm trong một số Ủy viên Trung ương muốn ông Trọng tiếp tục ở lại lãnh đạo đảng và nhà nước, mặc dù Điều lệ Đảng không cho phép ông giữ ghế qúa 2 nhiệm kỳ Tổng Bí thư. Hơn nữa ông sẽ đến tuổi 77 vào ngày 14/04/2021.
Ông Nguyễn Phú Trọng, người có bằng Tiến sỹ về Xây dựng Đảng, là một lãnh đạo cực kỳ giáo điều, bảo thủ, luôn luôn muốn sống chết với Chủ nghĩa Mac-Lenin và Tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh.
Trong 10 năm cầm quyến, ông nổi tiếng với chủ trương
“nhốt quyền lực vào lồng cơ chế, pháp luật” để kiểm soát nạn tha hóa quyền lực của đảng viên và quốc nạn Tham nhũng. Nhưng Đảng vẫn nhìn nhận còn phải đương đầu với:“4 nguy cơ, trong đó là tụt hậu xa hơn về kinh tế; Nguy cơ diễn biến hòa bình; rồi tham nhũng, quan liêu. Còn vấn đề hiện nay là tự diễn biến, tự chuyển hóa.”
Như vậy thì thù địch của đảng đang ở đâu, hay đang rong chơi ở ngay giữa Thủ đô Hà Nội?
Phạm Trần
Gần Một Năm Sau PGS.TS Sử Học Lê Cung Mới Rụt Rè Lên Tiếng
- Viết bởi Nguyễn Văn Nghệ
Ngày 23/10/2019 Nhóm trí thức Huế gồm 12 người, do PGS.TS. Lê Cung, Khoa Lịch sử, Đại học Sư phạm Huế, đứng đầu đã gửi một bản kiến nghị đến Thành ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng đề nghị không lấy tên hai linh mục là Alexandre de Rhodes và Francisco De Pina để đặt tên đường
Sau khi Bản kiến nghị công bố, PGS.TS.Nguyễn Tiến Dũng thuộc Khoa Triết xin xóa tên khỏi danh sách 12 trí thức Huế với lý do: Khi được PGS.TS. Lê Cung mời ký bản kiến nghị, ông đã từ chối nhưng lại vẫn có tên trong bản kiến nghị. Lạ, dân trí thức có học hàm học vị mà cũng bị chơi cái chiêu này! Rất nhiều ý kiến lên án Nhóm người này là vô ơn, ăn cháo đá bát…Mặc dù bị lên án nặng nề, nhưng Nhóm người này vẫn “thủ khẩu như bình”.
Tôi vốn không phải là độc giả thường xuyên của Tạp chí Hồn Việt, vừa qua tại Thư viện tỉnh Khánh Hòa, tình cờ tôi đọc Tạp chí Hồn Việt số 150 tháng 8 năm 2020 từ trang 40-45 có bài viết của PGS.TS. Lê Cung với tựa đề: “Nhận thức lịch sử cần được khẳng định về linh mục Dòng Tên Alexandre de Rhodes”.
Từ sau ngày 23/10/2019, tôi cố chờ xem Nhóm 11 trí thức Huế lên tiếng khi bị dư luận phê bình chỉ trích nhưng không thấy, nay mới thấy người đứng đầu là Lê Cung lên tiếng.
Nhìn chung những vấn đề mà Lê Cung nêu ra cũ rích không có gì là mới, nói theo như dân gian: “…Hát đi hát lại tối ngày một câu” không xứng tầm nghiên cứu của một PGS.TS Sử học. Tôi chỉ là một người dân thường, không học hàm học vị nhưng cũng xin mạo muội có đôi lời với ông. Nếu có gì không phải xin ông bỏ qua cho.
Ai là người “Tập đại thành” tiếng Việt đầu tiên?
Tôi hoàn toàn đồng ý với ông về vấn đề Giáo sĩ Alexandre de Rhodes không phải là người đầu tiên và duy nhất La tinh hóa tiếng Việt. Ông là PGS.TS. Sử học chắc ông cũng từng nghe cái cụm từ “Tập đại thành” rồi chứ! Nho giáo đã được hình thành từ thời Chu Công, trước Khổng tử rất lâu nhưng chưa thành hệ thống. Khổng tử đã “Tập đại thành” những tư tưởng ấy và Khổng tử chỉ nhìn nhận mình chỉ “thuật nhi bất tác”. Với công việc “Tập đại thành”của Khổng tử, hậu thế đã suy tôn Khổng tử là ông tổ của Nho giáo, là Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên vương, là “Tố vương” (vua không ngai), là Vạn thế sư biểu.
Cũng vậy, đối với chữ Quốc ngữ, trước Giáo sĩ Alexandre de Rhodes cũng có nhiều giáo sĩ khác quan tâm đến vấn đề dùng chữ La tinh để sáng chế ra chữ Quốc ngữ để phục vụ công việc truyền giáo. Việc làm của các vị giáo sĩ ấy còn rời rạc chưa thành hệ thống. Năm 1651 Giáo sĩ Alexandre de Rhodes mới “tập đại thành” cho ra đời tác phẩm Dictionarum Annamiticum Lusitanum et Latinum (Tự điển An Nam- Bồ Đào Nha- La Tinh). Tác phẩm này được xem là tác phẩm “tập đại thành” tiếng Việt đầu tiên vào thời điểm năm 1651. Do công “tập đại thành” như vậy cho nên dân Việt (trừ một số ít người vô ơn mang tư tưởng thù hận) tôn Giáo sĩ Alexandre de Rhodes là Ông Tổ của chữ Quốc ngữ
Nếu những người không chấp nhận Giáo sĩ Alexandre de Rhodes là ông Tổ chữ Quốc ngữ thì hãy chứng minh công trình của một vị nào đó đã “tập đại thành” tiếng Việt trước công trình của Giáo sĩ Alexandre de Rhodes để rồi chúng ta tôn vị đó là Đệ nhất Tổ của chữ Quốc ngữ.
Không thể tôn vinh Giáo sĩ Alexandre de Rhodes và lấy tên Giáo sĩ đặt tên trường, tên đường được!
Lê Cung cho rằng: Rhodes đã dùng những ngôn từ miệt thị văn hóa Việt Nam, thóa mạ chia rẽ dân tộc Việt Nam qua cuốn Phép giảng tám ngày, cho nên tư cách truyền giáo của linh mục Dòng Tên Rhodes như thế, làm sao chúng ta tôn vinh, đặt tên đường, tên trường được!
Chúng ta hãy đặt mình là một nhà truyền giáo, sống vào thời đại của Giáo sĩ Alexandre de Rhodes chúng ta mới có cái nhìn khách quan hơn. Là một nhà truyền giáo vào thời điểm ấy, ai là không khen đạo mình tốt và miệt thị đạo khác, xem các tôn giáo khác là tà đạo.
Về vấn đề này Wikipedia tiếng Việt nhận xét: “Alexandre de Rhodes từng gọi Phật Thích Ca là “thằng hay dối” trong sách Phép giảng tám ngày. Điều này dựa trên nhận thức của Đắc Lộ về bối cảnh xã hội thời đó, phản ánh thái độ chung của Nho giáo đối với Phật giáo, và cũng là do nhiệt tình truyền giáo của ông”.
Nếu nói Giáo sĩ Alexandre de Rhodes dùng những ngôn từ miệt thị văn hóa Việt nam, thóa mạ chia rẽ dân tộc Việt Nam cho nên không thể tôn vinh, lấy tên Giáo sĩ đặt tên đường, tên trường được thì xin hỏi cụ Nguyễn Đình Chiểu viết tác phẩm Dương Từ Hà Mậu, cụ thóa mạ Phật giáo, Công Giáo. Cụ đã viết về Đức Phật: “Ta nghe Phật ở Tây phương/ Vốn người mọi rợ luân thường chẳng ưa”[1] Vậy thì không nên tôn vinh cụ Nguyễn Đình Chiểu và lấy tên cụ đặt cho tên đường, tên trường?
Các vua chúa Việt Nam có những ngôn từ miệt thị các dân tộc thiểu số, gọi đồng bào thiểu số là man di, mọi rợ. Vậy chúng ta không tôn vinh các vị vua chúa ấy và không lấy tên các vua chúa ấy đặt cho tên đường, tên trường?
Trước đây trên các phương tiện thông tin đại chúng thường bôi nhọ các tôn giáo, xem “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, gọi Trời là “Thằng trời”, “địch trời”, “trời phản động”[2] nào thấy PGS.TS Sử học Lê Cung lên tiếng trách cứ các vị chủ trương làm việc ấy đâu!
Lê Cung bảo: “Như chúng ta biết ở Việt Nam, Tam giáo: Nho-Phật-Lão được xem như rường cột của chế độ phong kiến, nhưng trong mắt Rhodes: “Bởi Tam giáo này, như bởi nguồn độc”.
Đọc qua đoạn này, tôi xin thưa với PGS.TS Lê Cung là ông nên kiểm tra lại cái học hàm học vị PGS.TS. Sử học của ông. Chế độ phong kiến ở Việt Nam (trừ nhà Lý) chưa bao giờ xem Phật giáo, Lão giáo là rường cột nước nhà cả. Xin ông xem lại chiếu chỉ của vua Gia Long định điều lệ hương đảng cho các xã dân ở Bắc Hà vào tháng giêng năm Giáp Tý (1804): “Đến như việc thờ Phật thì sách Truyện nói: “Say mê dị đoan, chỉ hại mà thôi”. Lại nói: “Có tội với trời thì cầu đảo vào đâu được”.Người có thờ Phật là cốt để phúc báo. Sách nhà Phật nói: “Có duyên Phật độ, không duyên Phật chẳng độ”. Lại nói: “Thờ cha mẹ chẳng ra gì, tuy hằng ngày ăn chay niệm Phật cũng vô ích. Trung với vua mà đến thế, dẫu không cúng Phật cũng không sao”. Như thế thì người có duyên cần gì phải Phật độ, mà người không duyên thì Phật độ làm sao được? Thử xem những tổ đã thành Phật như là Mục Liên[3] mà cũng không độ được mẹ, chuộng Phật giáo như Tiêu Diễn[4] mà cũng không giữ được thân, huống chi những bọn bất trung bất hiếu, không biết quân vương là Phật hiện thời, bỏ cả cha mẹ là Phật sinh thành, mà đi cầu Phật vô hình xa ngoài muôn dặm, để mong phúc may chưa đến, có lẽ ấy được chăng? Gần đây có kẻ sùng phụng đạo Phật, xây dựng chùa chiền quá cao, lầu gác rất là tráng lệ, đúc chuông tô tượng rất đỗi trang hoàng, cùng là làm chay, chạy đàn, mở hội, phí tổn về cúng Phật nuôi sư không thể chép hết, để cầu phúc báo viển vông, đến nỗi tiêu hao máu mỡ. Vậy từ nay về sau, chùa quán có đổ nát mới được tu bổ, còn làm chùa mới và tô tượng đúc chuông, đàn chay hội chùa, hết thảy đều cấm. Sư sãi có kẻ chân tu thì lý trưởng sở tại phải khai rõ tính danh quán chỉ, đem nộp ở quan trấn để biết rõ số. Lại đời sống của dân đều có định mệnh, tai không thể giải được, phúc không thể cầu được, cái thuật cầu đảo giải trừ đều vô ích cả”[5]
Giáo sĩ Alexandre de Rhodes xin cấp binh lính để chinh phục toàn Phương Đông
Lê Cung viết: “Do đó khi trở về Pháp năm 1652, Rhodes đã đề nghị triều đình Louis XIV hãy cung cấp binh lính để nhằm giúp ông mở rộng nước Chúa, không những chỉ riêng Việt nam mà toàn cõi Phương Đông. Trong cuốn Hành trình truyền giáo (Divers voyages et mission, Paris, 1653) Rhodes viết: “ J’ai cru que la France, étant le plus pieux royaume de monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l’Orient pour l’assujetter à Jésus Christ”. Trong bài viết Ai làm ra chữ quốc ngữ? đăng trên báo Tuổi trẻ ngày 31-1-1993 GS Hoàng Tuệ đã dịch câu đó như sau: “Tôi nghĩ nước Pháp, vương quốc mộ đạo nhất, có thể cấp cho tôi binh lính để chinh phục toàn Phương Đông, đặt nó dưới quyền Jésus Christ”.
Trong một câu nói nhiều khi ngoài nghĩa đen còn có nghĩa bóng. Ở Giáo xứ Chính Tòa Phủ Cam- Huế, có Nhóm Chiến sĩ Chúa Ki tô. Vậy ở giáo xứ ấy có một nhóm binh lính được trang bị vũ khí chăng? Xin thưa đó là nhóm người tình nguyện gìn giữ trật tự trong khu vực nhà thờ.
Hoặc như trong chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay, thường sử dụng cái từ “Ra quân” để làm công tác này hoặc công tác nọ, nếu hiểu theo như Lê Cung thì toàn binh lính làm công tác, còn người dân “ngồi chơi, xơi nước”!
Wikipedia tiếng Việt nhận xét đoạn văn ấy: “Tuy nhiên trên thực tế, cách dùng từ ngữ trong đoạn văn trên đề cập đến việc truyền giáo. Việc cố tình diễn giải thành ý đồ xâm lược là một suy luận “chủ quan võ đoán” thể hiện lập trường hận thù tôn giáo”
Thật là buồn cho một người có học hàm học vị là PGS.TS. Sử học mà cho tới giờ nầy vẫn khư khư hiểu “plusieurs soldats” trong mạch văn trên là “binh lính”. Chắc là ông Lê Cung không cập nhật hóa hay cố tình quên sự kiện vào cuối tháng 3/1993 tại Hội thảo “Tưởng niệm Alexandre de Rhodes nhân 400 năm ngày sinh của ông” do Hội Khoa học Lịch sử Việt nam tổ chức tại Hội trường Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Giáo sư Đinh Xuân Lâm đã đề cập câu trên đây của Alexandre de Rhodes và dịch lại plusieurs soldats là “chiến sĩ truyền giáo” “coi như lần cuối cùng đính chính lại sự sai lầm”[6]
Đừng học thói “bới lông tìm vết”, “ăn cháo đá bát”
Trong một lớp học, thầy giáo cầm một miếng vải trắng to đưa lên và hỏi học sinh: Các em có thấy gì không? Cả lớp cùng trả lời: Thưa thầy có vết mực nhỏ. Thầy giáo bảo: Sao các em không nhìn thấy cả miếng vải trắng mà chỉ nhìn thấy vết mực mà thôi! Tục ngữ có câu “Dễ lòa yếm thắm, khó lòa trôn kim” là vậy! Dân tộc ta có truyền thống vị tha, “chín bỏ làm mười” và quan niệm “nhất thanh phá cửu trọc” (Người ấy có 9 điểm xấu nhưng chỉ có một điểm tốt và điểm tốt ấy khỏa lấp 9 điểm xấu kia). Ông bà ta luôn dạy con cháu “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “ăn một bát cơm nhớ người cày ruộng”.
Tôi đã từng đọc đâu đó một câu danh ngôn khuyết danh: “Lòng biết ơn không chỉ là đức tính vĩ đại mà còn là khởi nguồn của mọi đức tính tốt đẹp khác”
Nguyễn Văn Nghệ
Giáo xứ Cây Vông- Nha Trang
Chú thích:
[1]- namkyluctinh.info/nguyen-dinh-chieu-duong-tu-ha-mau-phan-11/
Việt Nam Giữa Hai Lằn Đạn Ở Biển Đông
- Viết bởi Phạm Trần
Trung Cộng luôn luôn coi Biển Đông là “lợi ích cốt lõi”, như Tân Cương, Tây Tạng, Đài Loan và sẽ dùng Quân sự để chiếm toàn bộ khi có điều kiện, nhưng Việt Nam chưa biêt phải xoay xở ra sao, hay nương nhờ vào ai khi bị tấn công.
Đó là khẳng định đan xen băn khoăn đang lan rộng trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam trước thềm Đại hội đảng XIII, diễn ra đầu tháng 01/2021.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nói ra tính “phức tạp” của tình hình Biển Đông trong bài viết ngày 31/08/2020, “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới".
Ông nói:” Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng. Tại Đông Nam Á, môi trường an ninh, tình hình tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông tiếp tục diễn ra phức tạp.”
Ông Trọng không nói ra chi tiết tình hình hiện tại ở Biển Đông phức tạp như thế nào, cũng như đã tránh chỉ đích danh Trung Cộng là nước duy nhất đã gây ra tình trạng bất ổn hiện nay.
Khối 10 nước của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (the Association of South East Asia Nations, ASEAN), trong đó có 5 nước tranh chấp chủ quyền biển đảo với Bắc Kinh gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương và Brunei đã cáo buộc Trung Cộng không ngừng dọa nạt, tấn công và nuôi mưu đồ độc quyền chiếm trọn Biển Đông.
Các nước bên ngoài như Nhât Bản, Úc, Ấn Độ, khối Liên hiệp Châu u và Hoa Kỳ cũng đã lên tiếng ủng hộ lập trường của khối ASEAN.
Bắc Kinh còn bị lên án tại nhiều diễn đàn Quốc tế đã gây ra sự bất ổn định ở Biển Đông từ Thế kỷ XX, khi các Lãnh đạo Trung Cộng liên tục tự nhận quyền làm chủ 85% vùng biển rộng trên 4 triệu cây số vuông từ thời Cổ đại.
Vì vậy, trong bài viết chủ tâm nói về “phương hướng, nhiệm vụ của nhiệm kỳ Đại hội XIII và giai đoạn sắp tới”, công bố ngày 31/08/2020, ông Trọng đã, thêm lần nữa, báo động rằng: “Đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ còn phức tạp.”
Ông nói”: Dự báo trong những năm tới, bối cảnh quốc tế, khu vực tiếp tục có nhiều thay đổi phức tạp, nhanh chóng, khó lường”, vì vậy phải “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những nhân tố bất lợi, nhất là những nhân tố có thể gây đột biến; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch.”
SẴN SÀNG CHƯA?
Người đứng đầu đảng và nhà nước CSVN đã vẽ ra đủ thứ hiểm họa và nêu lên ý tưởng chuẩn bị lực lương và khí tài để đối phó, nhưng trên thực tế, không có bằng chứng nào được nhìn thấy là Việt Nam đã sẵn sàng chiến đấu để thắng, nếu bị Trung Cộng tấn công, trên đất liền hay ở Biển Đông.
Thêm vào đó, cũng chưa thấy có kế hoạch học tập đại trào trong dân, tuyên truyền về hiểm họa Trung Cộng trên báo chí, truyền thông hay công tác chuẩn bị tinh thần “sẵn sàng chiến đấu, quyết chiến quyết thắng” trong lực lượng võ trang gồm Quân dội và Công an, lực lượng dân phòng về hiểm họa từ Bắc Kinh.
Mọi chuyện ở Việt Nam bây giờ, trước ngày khai mạc Đại hội đảng XIII, đều tập trung vào công tác nhân sự với 2 việc cốt lõi là mọi người phải tuân thủ là : (1) “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” gồm kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh, chủ trương và chính sách của đảng. (2) “Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.”
Hai nhiệm vụ “then chốt “của then chốt” (chữ của ông Nguyễn Phú Trọng) này, không có gì liên quan đến chuyện giữ nước và dựng nước mà chỉ có một mục đích duy nhất là bằng mọi cách phải bảo vệ quyền tiếp tục độc tôn lãnh đạo phản dân chủ của đảng CSVN.
Trong khi đó, Trung Cộng đã biến Hoàng Sa, chiếm từ tay quân đội Việt Nam Cộng hòa tháng 1/1974, thành một thành phố thương mại và quốc phòng kiên cố với bến cảng và sân bay dùng cả cho dân sự và quân sự. Bước sang năm 2020, Bắc Kinh cho biết quân đội nước này đã sẵn sàng hoạt động phòng tuyến “nhận diện phòng không” (Air defense identification zone (ADIZ) ở Biển Đông để kiểm soát lưu thông trên không, song song với việc dùng Tầu hải giám và cánh sát biển để kiểm soát hải sản và tầu bè qua lại trên Biển Đông.
Tuy nhiên năm 2020 gần hết mà chưa thấy Bắc Kinh công bố thời điểm được đưa vào hoạt động chủ trương này. Hoa Kỳ, nước duy nhất có lực lượng Hải quân hùng hậu lâu đời ở Á Châu-Thái Bình Dương, đã bác bỏ tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Cộng.
Tuy nhiên, khối ASEAN, đặc biệt là Việt Nam, nước nhìn ra Biển Đông, đã tỏ ra rất lo ngại nếu Trung Cộng thi hành kế hoạch kiểm soát nguy hiểm này. Bởi vì, vùng trời và vùng biển đều có quyền lợi kinh tế như không lưu, vận chuyển hàng hải, khoáng sản, hơi đốt và các giàn khoan dầu cùng quốc phòng quan trọng của Việt Nam
Nên biết, để làm hậu phương cho kế hoạch chiếm trọn Biển Đông, Trung Cộng đã tân tạo và quân sự hóa xong 8 đá và bãi san hô trong vùng Trướng Sa từ sau trận chiến ở Trường Sa với Hải quân CSVN năm 1988.
Các vị trí bị quân Trung Cộng chiếm gồm Châu Viện, Chữ Thập, Ga Ven, Gạc Ma, Tư Nghĩa, Xu Bi và Vành Khăn ( mất năm 1995). Sau khi Vành Khăn mất, Việt Nam coi như mất luôn quyền kiểm soát bãi Cỏ Mây, một rạn san hô vòng thuộc cụm Bình Nguyên của quần đảo Trường Sa nằm về phía đông nam của đá Vành Khăn. Hiện bãi Cỏ Mây đang bị tranh chấp giữa Phi Luât Tân và Trung Cộng.
PHÍA TRUNG CỘNG NÓI GÌ?
Tuy nhiên, trong bài phát biểu viễn tuyến từ Bắc Kinh tới kỳ họp thứ 75 của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc hôm 23/09/2020, Chủ tịch Trung Cộng, Tập Cận Bình, đã nhắc lại lập trường cũ của Trung Quốc về vấn đề tranh chấp với nước khác.
Ông nói:” Là nước đang phát triển lớn nhất thế giới, đi con đường phát triển hoà bình, phát triển cởi mở, phát triển hợp tác và phát triển chung. Trung Quốc mãi mãi không xưng bá, không bành trướng, không mưu cầu phạm vi thế lực, không có ý định Chiến tranh Lạnh hay Nóng với bất cứ nước nào, kiên trì hàn gắn bất đồng bằng đối thoại, giải quyết tranh chấp qua đàm phán."”(Theo CRI, China Radio International-Tiếng Việt).
Thông điệp của ông Tập là nhằm nói với Mỹ, vì cuộc chiến thương mại Trung-Mỹ đã tăng cao từ khi ông Donal Trump đắc cử Tổng thống năm 2016. Hai nước cũng đã căng thẳng ở Biển Đông, sau khi Ngoại trưởng Hoa Kỳ, Mike Pompeo lên án Trung Quốc đã đe dọa các nước nhỏ ở Đông Nam Á để dành phần lớn chủ quyền và nguồn tài nguyên ở Biển Đông.
Trong tuyên bố cứng rắn nhất của Mỹ từ trước đến nay, đưa ra ngày 13/07/2020, ông Pompeo đã nói:"Trung Quốc không có bất cứ quyền gì để áp đặt ý muốn của mình ở Biển Đông, cũng như không có căn bản pháp lý nào để dành quyền chủ quyền về Đường 9 Đoạn (hay còn gọi là đường Lưỡi bò) mà Bắc Kinh công bố năm 2009.”
Người đứng đầu Bộ Ngoại giao Mỹ còn nhắc nhở Bắc Kinh rằng “yêu sách vô căn cứ của họ cũng đã bị Tòa hòa giải Quốc tế bác bỏ hoàn toàn ngày 12/07/2016 trong vụ kiện về đường 9 đoạn của Phi Luật Tân.”
(“The PRC has no legal grounds to unilaterally impose its will on the region. Beijing has offered no coherent legal basis for its “Nine-Dashed Line” claim in the South China Sea since formally announcing it in 2009. In a unanimous decision on July 12, 2016, an Arbitral Tribunal constituted under the 1982 Law of the Sea Convention – to which the PRC is a state party – rejected the PRC’s maritime claims as having no basis in international law. The Tribunal sided squarely with the Philippines, which brought the arbitration case, on almost all claims.”)
Để kết luận, ông Pompeo nói thẳng với Trung Quốc:”Thế giới sẽ không cho phép Bắc Kinh coi Biển Đông là đế chế hàng hải của riêng mình. Hoa Kỳ sát cánh với các Đồng Minh và Đối tác ở Đông Nam Á để bảo vệ chủ quyền và các nguồn lợi ngoài khơi, phù hợp với lợi ích và nghĩa vụ theo luật pháp quốc tế.”
Ngoại trưởng Hoa Kỳ nói (tạm dịch):”Chúng tôi sát cánh với Cộng đồng thế giới trong việc bảo vệ tự do hàng hải và tôn trọng chủ quyền, đồng thời bác bỏ bất kỳ nỗ lực nào để áp đặt ý muốn của kẻ mạnh ở Biển Đông hay vùng rộng lớn hơn.”
(“The world will not allow Beijing to treat the South China Sea as its maritime empire. America stands with our Southeast Asian allies and partners in protecting their sovereign rights to offshore resources, consistent with their rights and obligations under international law. We stand with the international community in defense of freedom of the seas and respect for sovereignty and reject any push to impose “might makes right” in the South China Sea or the wider region”, State Department, 07/13/2020).
Trong khi đó, các Tướng lĩnh, Học giả diều hâu của Trung Quốc và tờ Hoàn Cầu Thời báo, quản lý bởi Nhân dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã nhiều lần cảnh cáo nếu phải đánh Việt Nam để bảo vệ quyền lợi “cốt lõi” của Trung Quốcở Biển Đông thì sẽ “dậy cho Việt Nam bài học thứ hai” khốc liệt hơn bài học thứ nhất năm 1979. Hồi đó Trung Cộng, dưới thời Đặng Tiểu Bình đã tung 600,000 quân có xe tăng và đại bác yểm trợ đánh vào 6 tỉnh miền biên giới Việt Nam gồm Lai Châu, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên và Quảng Ninh.
Sau 10 năm chiến tranh dai dẳng, nhưng không liên tục 2 lần (1979-1989), Trung Cộng bị tổn thất nặng, nhưng lại thắng về chiến lược là CSVN đã biết sợ Trung Quốc, không còn dám quấy phá như trước năm 1979.
Vì vậy, hầu như để thể hiện sự quan tâm đặc biệt về tính nghiêm trọng của tình hình Biển Đông, Phó chủ tịch thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương (HĐLLTƯ) Phùng Hữu Phú, đã tiết lộ vấn đề Biển Đông, là “điểm mới” được ghi vào Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIII.
Tại cuộc họp của Ban Tuyên giáo Trung ương ngày 10/06/2020, ông Phú nhìn nhận:”Vấn đề Biển Đông vẫn là một thách thức rất lớn.”
Ông nói:” Sau Covid-19, chúng ta đã thấy thái độ của Trung Quốc ở Biển Đông. Điều này khẳng định chắc chắn Trung Quốc không bao giờ từ bỏ ý đồ thao túng Biển Đông. Cao nhất là độc chiếm theo hình lưỡi bò. Không làm được thì ít nhất là kiểm soát, thao túng, khai thác. Vậy phải ứng phó thế nào? …Biển Đông không phải là câu chuyện ngày một, ngày hai mà là vấn đề lâu dài.”
Ông được báo chí dẫn lời nói rằng:“Bảo vệ cho được độc lập chủ quyền nhưng không để xảy ra chiến tranh xung đột là bài toán hóc búa của thế hệ chúng ta và cả con em chúng ta”.
Ông Phú, một trong 43 người của HĐLLTƯ còn cho rằng:”Dự báo tình hình trong văn kiện đại hội lần này có nhiều điểm mới, và phải tiếp tục được làm rõ để toàn Đảng, toàn dân thấy hết được thời cơ đang rất lớn ở phía trước nhưng khó khăn, thử thách cũng ngày càng gay gắt hơn.” (theo báo Thanh Niên, ngày 11/06/2020)
Cũng nên biết, Hội đồng Lý luận Trung ương là “cơ quan tham mưu cho Đảng về các vấn đề lý luận chính trị, chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Xã hội, định hướng và hoạch định các chính sách, chuẩn bị văn kiện cho Đại hội Đảng Toàn quốc” (theo Bách Khoa Toàn thư mở).
Tuy nói mạnh như thế, nhưng liệu Ban Chấp hành tương lai XIII có đủ trí tuệ, sự hiểu biết và sáng kiến để bảo vệ Tổ quốc hay sẽ cứ ì ra đấy như bấy lâu nay, vì tư duy nhu nhược quen thuộc “mọi chuyện đã có nhà nước lo”.
QUỐC PHÒNG VIỆT NAM
Cũng cần biết thêm, trong bối cảnh Việt Nam Cộng sản bị kẹt cứng giữa tư duy bạc nhược và lệ thuộc “vừa là đồng chí, vừa là anh em” với láng giềng đàn anh xảo quyệt Trung Cộng, Việt Nam đã theo đuổi chính sách quốc phòng 4 “không” gồm: (1)Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; (2) không liên kết với nước này để chống nước kia; (3) không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác. (4) không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.”
CSVN cũng đã thanh minh không “bài Trung, thân Mỹ”, hay chọn phe trong vấn đề Biển Đông. Việt Nam chủ trương “là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế.”
Do đó, trong lĩnh vực Quốc phòng, Bộ Quốc phòng tuyên bố:”Việt Nam chủ trương mở rộng đối ngoại quốc phòng, tham gia ngày càng tích cực vào các hoạt động hợp tác quốc phòng, an ninh của khu vực và của cộng đồng quốc tế.”
Chính sách này nói thêm:”Quân đội nhân dân Việt Nam chủ trương mở rộng và nâng cao hiệu quả các mối quan hệ quốc phòng song phương đồng thời tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc phòng đa phương. Việt Nam đẩy mạnh quan hệ đối ngoại quốc phòng dưới mọi hình thức như trao đổi các đoàn quân sự các cấp, tham vấn - đối thoại quốc phòng, tham gia các diễn đàn khu vực và quốc tế... nhằm tăng cường tình hữu nghị, sự hiểu biết lẫn nhau, xây dựng lòng tin và ngăn ngừa xung đột.”
(Tài liệu chính thức của Bộ Quốc phòng Việt Nam)
Tài liệu này cũng cho biết:” Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng chính thức với 65 nước trong đó có các cường quốc trên thế giới; đã thiết lập tuỳ viên quốc phòng tại 31 nước và đã có 42 nước thiết lập tuỳ viên quốc phòng tại Việt Nam.”
“Việt Nam đã tiến hành đối thoại quốc phòng - an ninh thường xuyên ở nhiều cấp độ với các quốc gia trong khối ASEAN, Trung Quốc, Nga, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Ấn Độ… Cùng với việc tăng cường trao đổi các đoàn quân sự cấp cao, giao lưu giữa các sĩ quan trẻ, hợp tác giữa các nhà trường, các viện nghiên cứu của Bộ Quốc phòng Việt Nam với các nước cũng được coi trọng.”
TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG
Vậy nếu xẩy ra chiền tranh trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Cộng thì nước nào có cơ hội chiến thắng?
Trước hết, “Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (APL) được cho là một đội quân đông đảo nhất thế giới với khoảng 2,18 triệu quân nhân--- ưu tiên được dành cho hải quân và không quân.” (theo Bách khoa Toàn thư mở)
Tài liệu về Hải Quân viết:” Trước thập niên 1990, Hải quân Trung Quốc đóng vai trò thứ yếu so với Lục quân. Từ thập niên 1990 đến nay, lực lượng hải quân được Trung Quốc nhanh chóng hiện đại hóa; phát triển nhanh chóng, đến nay bao gồm thêm 35.000 Hải quân Biên phòng và 56.000 Thủy quân Lục chiến, cùng 56.000 quân thuộc Lực lượng Hải quân Không chiến với hàng trăm chiến đấu cơ trên bờ. Tổng cộng lối 250,000 người.
Trung Cộng có : 14 Tàu khu trục;28 Tàu frigate, 3 SSBN, 5 đến 7 SSN, 56 SSK, 58 tàu đổ bộ, 80 tàu chiến duyên hải (hỏa tiễn), 27 Tàu đổ bộ lớn, 31 Tàu đổ bộ vừa và khoảng 200 tầu tấn công nhanh.”
Trong khi đó, tài liệu phổ biến trân Internet cho biết:
Hải quân nhân dân Việt Nam có các binh chủng: Tàu mặt nước, Hải quân đánh bộ, Tên lửa-Pháo bờ biển, Không quân Hải quân, Tàu ngầm, Đặc công Hải quân... nhưng không tổ chức bộ tư lệnh riêng. Bao gồm các cấp đơn vị: hải đội, hải đoàn, binh đoàn Hải quân đánh bộ, binh đoàn tàu mặt nước, binh đoàn tàu ngầm, binh đoàn không quân, tên lửa bờ và các binh đoàn bộ đội chuyên môn, các đơn vị bảo đảm phục vụ ra đa, thông tin, kỹ thuật, hậu cần..
Từ năm 2010 Hải quân Nhân dân Việt Nam được đầu tư để tiến thẳng lên hiện đại theo hướng “tinh, gọn, mạnh, linh hoạt” đến nay đã có đủ 5 thành phần lực lượng là: Tàu mặt nước; tàu ngầm; không quân Hải quân; pháo binh - tên lửa bờ; hải quân đánh bộ, đặc công Hải quân và lực lượng phòng thủ đảo..
Về số quân, Sách Trắng Quốc phòng của Việt Nam, công bố 3 lần trong các năm 1998, 2004 và 2009 không tiết lộ số quân. Tuy nhiên, theo Internet, Cổng Thông tin Điện tử Bộ Quốc phòng cho biết : Tổng Quân số lực lượng chính quy khoảng 450.000 người. Lực lượng dự bị khoảng 5 triệu người.
Tài liệu này cũng chia ra Lục quân : khoảng 800.000; Không quân: 60,000; Hải quân: khoảng 70.000; Biên phòng: khoảng 50.000; Cảnh sát biển: 30.000; Không gian mạng lối 10,000 người.
Ngoài ra, theo globalfirepower, chuyên về xếp hạng quân sự của các quốc gia, thì Việt Nam còn có một lực lượng phục vụ quốc phòng ngót 42.000 người.
Về kinh nghiệm chiến đấu, nhiều chuyên gia quân sự Quốc tế cho điểm Quân đội Việt Nam cao hơn lính Trung Cộng, lấy kết quả từ cuộc chiến biên giới giữa hai nước năm 1979.
Tuy nhiên, nếu xẩy ra chiến tranh ở Biển Đông thì Hải quân và Không quân Trung Cộng có lợi điểm địa thế tấn công và tiếp viện hơn quân Việt Nam, nhờ vào một số sân bay, bến cảng Trung Cộng đã xây dựng trên một số trong 8 đá, bãi san hô chiếm của Việt Nam ở Trường Sa.
TRÔNG VÀO AI?
Như vậy, từ viễn ảnh biết rõ ý đồ của Trung Cộng ở Biển Đông, liệu Việt Nam có đủ sức chống lại một cuộc tấn công quân sự hay không? Hơn nữa, Việt Nam không có đồng minh quân sự và thỏa hiệp an ninh chung với nước khác thì ai sẽ giúp Việt Nam bảo vệ Biển Đông.?
Vì vậy, dù giới chuyên gia ở Bộ Ngoại giao Việt Nam băn khoăn, lo lắng nhưng đồng thờ họ cũng tự đặt ra hy vọng chiến tranh Việt-Trung sẽ không xẩy ra, dù trên đất liền hay Biển Đông, nếu Việt Nam biết khôn khéo trong ứng xử với Trung Cộng.
Về mưu đồ của Trung Cộng đối với Việt Nam lúc này, theo nhận định của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đinh Công Tuấn, Viện nghiên cứu châu u (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) thì :”Là quốc gia giàu tài nguyên, có dân số trẻ lớn thứ 3 ở Đông Nam Á, có quân đội thực chiến bậc nhất ở châu Á, có vị trí địa chiến lược cực kỳ quan trọng, Việt Nam được xem như "lực lượng trấn giữ con đường Nam tiến cả trên bộ, trên biển của TQ", vì vậy, TQ bao giờ cũng luôn coi Việt Nam là đối thủ tranh đoạt, kiềm chế, kiểm soát của mình.” (theo báo Thê giới & Việt Nam, Bộ Ngoại giao Việt Nam, ngày 16/06/2020)
Ông Tuấn nói rõ rằng:”Chính sách chủ đạo của TQ với Việt Nam sẽ vừa là cân bằng vừa can dự, vừa kiềm chế, vừa lôi kéo. Mục tiêu trong quan hệ với Việt Nam nhằm không để Việt Nam có thể mạnh lên, thoát khỏi sự chi phối của TQ, nhưng cũng không để Việt Nam quá bất mãn, tìm đến các liên kết chống lại TQ.”
Chi tiết hơn, chuyên gia này cho rằng :”Chính sách cơ bản của TQ với Việt Nam có thể đi theo các hướng sau:
Thứ nhất, hòa dịu với Việt Nam, để tránh quan hệ căng thẳng xấu thêm, gia tăng các hoạt động trao đổi ngoại giao cả thượng đỉnh và các cấp.
Thứ hai, tăng cường hợp tác trên mọi phương diện đặc biệt là kinh tế, giao thương buôn bán nhằm dùng lợi ích kinh tế đưa Việt Nam vào quỹ đạo của TQ, ít nhất đảm bảo Việt Nam giữ thế trung lập giữa TQ và Mỹ.
Thứ ba, gây sức ép cho ASEAN, chia rẽ khối thông qua các thành viên nhỏ dễ chịu tác động từ TQ để cản trở lập trường đối lập với lợi ích TQ và ngăn chặn sự hình thành của một "khối chống TQ".
Ông Tuấn kết luận:”Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam cần điều chỉnh, xác định rõ cách thức ứng phó với chiến lược toàn cầu, khu vực của TQ. Đó là thích nghi với sự trỗi dậy, lớn mạnh của TQ, xác định rõ ràng mục tiêu của Việt Nam phải đảm bảo an ninh quốc gia, không ngừng phát triển, tạo thế và lực đa dạng hóa, đang phương hóa quan hệ với các nước trên thế giới, giữ vững môi trường hòa bình để phát triển, khôn khéo đặt lợi ích quốc gia lên trên hết trong ứng xử với TQ.”
Đó là lời khuyên của một chuyên gia, nhưng liệu giới lãnh đạo Việt Nam có khả năng hóa giải tham vọng bành trướng lãnh thổ của Trung Cộng bằng đướng lối ngoại giao hay không?
Và nếu Việt Nam tiếp tục chính sách ngoại giao đu giây với quan điểm :“Bài Trung, thân Mỹ” hoàn toàn không có trong đường lối đối ngoại hay trong quan điểm giải quyết vấn đề Biển Đông của Đảng, Nhà nước ta”, như đã thanh minh trên báo Công an Nhân dân (CAND) ngày 3/8/2020, thì liệu Hà Nội có thoát khỏi gọng kìm của Trung Cộng hay không?
Phạm Trần
Chúc mừng kỷ niệm 350 năm Dòng Mến Thánh Gía.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Năm nay Hội Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam mừng kỷ niệm 350 năm Hội Dòng được thành lập do Đức Cha truyền giáo Pierre Lambert de la Motte cho Giáo hội Việt Nam.
Chi nhánh hội Dòng Mến Thánh Giá Gòvấp, tu viện lòng Chúa thương xót ở thành phố Bonn bên nước Đức mừng kỷ niệm thánh đức này vào ngày chúa nhật 27.09.2020 ở Bonn.
- Nhớ về nguồn gốc
Từ thế kỷ 17. các Vị Thừa Sai từ Âu châu sang loan truyền giáo lý Công giáo trên quê hương đất nước Việt Nam.
Vì giáo lý đạo Công giáo qúa mới lạ khác với văn hóa tôn giáo Việt Nam thời chế độ vua chúa lúc đó, và nỗi lo sợ bị đe dọa thách thức không chỉ về phương diện tập tục văn hóa tôn giáo cha ông xưa nay trong dân gian, mà còn cả về phương diện chính trị kinh tế lúc đó. Nên đã xảy ra sự hiềm khích kỳ thị đưa đến cấm cách bắt bớ trục xuất không cho các vị Thừa Sai giảng đạo Công giáo trong xã hội Việt Nam. Dẫu vậy, các vị Thừa sai vẫn tìm cách lẩn trốn dấn thân hy sinh, dù gặp những khó khăn bị cấm cách bắt bớ hằng nỗ lực tiếp tục công việc truyền giáo đạo Công giáo giữa lòng xã hội đất nước Việt Nam.
Về phương diện truyền giáo đạo đức tinh thần, các Thừa Sai là những vị linh hướng thầy dậy khai mở truyền đạt con đường đức tin giáo lý Công giáo cho người tín hữu Công Giáo Việt Nam.
Về phương diện xây dựng tổ chức thành lập cấu trúc sao cho đời sống sinh hoạt đạo giáo được phát triển vươn lên và duy trì, các Vị là những „người cha đẻ, những kiến trúc sư sáng tạo mở đường“ cho những tổ chức sinh hoạt văn hóa đạo trong lòng Giáo Hội Công giáo Việt Nam.
Từ năm 1615 đã có những vị Thừa sai sang mở đường truyền giáo bên Việt Nam, và sau đó có hàng trăm, cũng có thể hằng ngàn những vị Thừa sai khác cũng đã theo chân bậc cha ông đàn anh nốt gót sứ vụ đạo đức dấn thân sang truyền giáo bên Việt Nam.
Các vị Thừa sai đã không chỉ nỗ lực hy sinh giảng dạy rao truyền giáo lý Công giáo cho con người, nhưng các ngài còn vận dụng xây dựng mở mang nước Chúa qua những công trình xây dựng các ngôi thánh đường nguy nga mang nét đặc trưng văn hóa Kitô giáo theo phong cách nghệ thuật Âu châu.
Hai khuôn mặt nổi bật với công trình sáng tạo cấu trúc văn hóa cho sinh hoạt đạo đức Công giáo phát triển duy trì sống động được biết nói đến nhiều hơn cả là Cha Alexander De Rhodes và Đức Cha Pierre Lambert De la Motte .
- Linh mục Alexander de Rhodes - theo tiếng Việt Nam chuyển âm gọi ngài bằng tên Alịch Sơn, hay cũng bằng tên Cha Đắc Lộ - là tu sỹ Dòng Chúa Giêsu sinh ngày 15. 01. 1591 hay 1593 ở Avignon bên nước Pháp, và qua đời ngày 05.11. 1660 ở Isfahan bên nước Iran.
Cha Đắc lộ sang truyền giáo bên Việt Nam ở Đàng Trong từ năm 1624 đến năm 1626. Đến truyền giáo ở Đàng Ngoài từ ngày 19.03.1627 cho tới tháng Năm 1630. Bị trục xuất trở sang Macao truyền giáo. Trở lại truyền giáo ở Đàng trong từ tháng 12.1640 đến tháng 7.1645. Từ tháng 12.1645 ngài trở về Âu châu rồi đi truyền giáo bên Iran và qua đời tại Ispahan ngày 05.11.1660.
Những năm tháng dấn thân hy sinh truyền giáo ở Việt Nam, ngoài việc truyền dậy gíao lý, ban các phép Bí Tích, ngài là người đã có công hoàn thành Chữ Quốc Ngữ, viết theo những vần mẫu tự Latinh, mà trước đó các vị Thừa Sai đi trước đã có công sáng tạo ra chỉ với mục đích để cho công việc rao truyền dậy giáo lý cho dân chúng được thuận tiện dễ dàng thôi.
Nhưng không ngờ Chữ Quốc Ngữ do các Vị Thừa Sai sáng tạo ra lại phổ biến rộng rãi trong mọi tầng lớp dân chúng xã hội, và được công nhận dùng là chữ chính thức của quốc gia thay cho Chữ Nôm.
Đây là một công trình sáng tạo, một dấu vết văn hóa bén rễ sâu trong nếp sống xã hội Việt Nam. Công trình văn hóa Chữ Quốc Ngữ khai sinh mở ra con đường căn cước tính riêng biệt cho dân tộc Việt Nam về phương diện chữ viết.
Sang truyền giáo Cha Alexander de Rhodes cũng đã nghĩ đến việc có người giúp cùng nối tiếp công việc truyền gáo duy trì cho bên vững. Vì thế ngài tiếp tục phát triển Hội Các Thầy Giảng, cho phái nam mà trước đó năm 1637 Cha thừa sai Gapar de Amaral đã thành lập. Các Thầy Gỉang được tuyển chọn giữa các nam thanh thiếu niên có đời sống đạo đức muốn hiến thân hy sinh phục vụ nhà Chúa. Họ có nhiệm vụ giúp các Cha và thay thế các Cha giảng dậy giáo lý trong trường hợp các cha không thể có mặt vì bị cấm cách, bị trục xuất.
Hội các Thầy Giảng là tiền thân Domus Dei mà sau này được thành lập dưới quyền của vị Giám mục địa phương, để đào tạo ơn kêu gọi linh mục bản xứ.
- Về phía nữ tu, Đức Cha Pierre Lambert de la Motte năm 1670 đã thành lập Dòng Mến Thánh Gía.
Cha Pierre Lambert de la Motte sinh ngày 16.01.1624 ở Lisieux bên nước Pháp. Lớn lên ngài theo học ngành luật và trở thành luật sư làm việc tại Nghị Viện Paris. Nhưng Lambert de la Motte vẫn có chí hướng nghiêng thiên về tâm linh sinh hoạt tôn giáo và xã hội. Đã có lần ngài viết ra tâm tư của mình: chỉ thiết tha một điều là chết đi cho trần gian và sống cho một mình Thiên Chúa.
Với tâm nguyện đó, ngài từ bỏ con đường sự nghiệp luật sư, xin vào sống theo đuổi con đường tu trì và trở thành linh mục thừa sai cho vùng Đông Á.
Ngày 29.07.1658 Đức giáo hoàng Alexander VII. đã cắt cử linh mục Lambert de la Motte làm Giám mục đại diện Tông Tòa miền truyền gíao Đàng Trong Việt Nam và miền Nam Trung Hoa
Là Giám mục truyền giáo, nên Đức Cha Lambert de la Motte nỗ lực xây dựng hàng Giáo sĩ Việt Nam rất tích cực. Ngài lập chủng viện thánh Giuse, phong chức linh mục cho những linh mục Việt nam đầu tiên ở Tháilan Juthia, rồi ở Việt nam địa phận Đàng Ngoài và địa phận Đàng Trong.
Ngài tổ chức Công Đồng Phố Hiến năm 1670, phát triển Giáo Phận Đàng Ngoài lập ra cơ chế „ Nhà Đức Chúa Trời“ để đào tạo nhân sự phục vụ cho công việc truyền giáo.
Ngài qua đời ở Juthia Thailan ngày 15.06.1679
Trước đó thời Cha Alenxander de Rhodes và các vị Thừa Sai khác, cũng đã có những người phụ nữ tụ họp sống chung với nhau theo tôn chỉ đạo đức muốn dâng mình cho Chúa, phục vụ việc nhà Chúa.
Ngày Thứ Tư lễ Tro,19.02.1670 đức Cha Lambert de la Motte chính thức tiếp nhận Lời Khấn của hai chị nữ tu Ane và Paula tại Phố Hiến điạ phận Đàng Ngoài, và xác định tên gọi cùng hiến pháp của tu hội với danh hiệu „ Dòng Nữ Mến Thánh Giá Đức Giesu Kitô“. Đó là ngày khai sinh Dòng Nữ Mến Thánh giá đầu tiên trên Á Châu và trên Việt Nam.
Sau đó năm 1671 đức Cha De la Motte còn lập Dòng Mến Thánh Giá ở An Chỉ địa phận Đàng Ngoài
Năm 1672 ngài lập Dòng Mến Thánh Gía ở Thailan. Trong dòng thời gian lịch sử, Dòng mến Thánh Giá đã lan tỏa sang Campuchia năm 1772, sang Nhật Bản năm 1878 và vương quốc Lào năm 1887.
Cho tới ngày nay các giáo phận trong Giáo hội Công giáo Việt Nam đều thành lập Dòng Mến Thánh giá riêng cho mỗi giáo phận.
Hai Vị Thừa Sai này là cha đẻ góp công xây dựng phát triển Giáo Hội Công giáo Việt Nam còn để lại dấu tích văn hóa cùng cung cách sinh hoạt đạo đức rõ nét nổi bật nhất:
Linh mục Thừa sai Alexander de Rhodes với công trình sáng tạo Chữ Quốc Ngữ và Hội Thầy Giảng cho phái nam.
Đức Cha Pierre Lambert de la Motte với công trình sáng lập Dòng Mến Thánh Giá cho phái nữ, và cơ chế Nhà Đức Chúa Trời cho việc đào tạo linh mục trong lòng Giáo Hội Công giáo Việt Nam.
Sự sáng lập Dòng nữ Mến Thánh Giá của Đức Cha Lambert de la Motte năm 1670 mang ý nghĩa tầm vóc rất to lớn, và chỉ có thể so sánh với Hội Thầy Giảng do Dòng tên cùng cha Alexandre de Rhodes sáng lập ra trước đó. ( Klaus Schatz, P. Alexander de Rohes und die fruehe Jesuitenmission in Viet Nam, Aschendorf Muenster 2015, tr. 211)
Năm 2009 Giáo hội Việt Nam đã đệ đơn xin Tòa Thánh phong Chân phước cho Đức Cha Lambert de la Motte, vì công đóng góp xây dựng phát triển Giáo hội Công giáo Việt Nam.
- 2. Châm ngôn linh đạo
Khi thành lập hội Dòng Mến Thánh Giá, Đức Cha Lambert de la Motte đã chọn châm ngôn linh đạo cho hội Dòng: „ Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng con .“
Châm ngôn linh đạo căn bản này nói lên tâm tình lòng xác tín, như Thánh Phaolô tông đồ đã viết : „ Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-tô, mà là Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá. ( 1. cor, 2,2)
Thập giá không chỉ là hình ảnh dấu chỉ riêng của người tín hữu Chúa Kitô. Hình ảnh thập gía có lịch sử cổ lâu hơn trước đó, và là hình ảnh đã được lan truyền rộng rãi dưới nhiều hình dạng khác nhau, như là vòng bánh xe mặt trời, như thập gía chéo hình chữ X Thánh Andre, thập giá Giáo Hội Chính Thống, hay như hình chữ T ( Tau) trong mẫu tự Hylạp.
Cây thập gía trải ra bốn chiều hướng: trời , đất, phải, trái. Nên diễn tả dấu chỉ nói về bốn phương hướng trong trời đất cũng như bốn mùa thời tiết thiên nhiên thay đổi tuần hoàn, những yếu tố theo như sự hiểu biết khoa học thời cổ đại xa xưa : nước, lửa, khí, đất, bốn góc vườn địa đàng, và dấu chỉ bốn sách phúc âm Chúa Giêsu.
Thập gía hình vòng bánh xe mặt trời diễn tả dấu chỉ về ánh sáng và sự sống, về sự sáng tạo và thống nhất, cũng là dấu chỉ nói về con người và mối tương quan giữa con người với vũ trụ.
Thập gía từ lâu đời là hình ảnh dấu chỉ và dụng cụ phương tiện của hình phạt, về sự chết. Nó cũng được dùng để nói lên sự bị kết án xử tử hành quyết. Và như thế trở thành dấu chỉ diễn tả sự hạ nhục lăng mạ bắt phục tùng, như trong thư Philippe nói về sự chết của Chúa Giêsu trên cây thập giá:
„Người hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.“ ( Philipphe 2,8)
Thập gía là hình ảnh dấu chỉ ơn cứu rỗi của người tín hữu Chúa Giêsu Kitô. Chiều thẳng đứng cây thập gía Chúa Giêsu hướng lên trời cao liên kết mối tương quan liên hệ giữa Thiên Chúa và con người: Thiên Chúa đi xuống trần gian đến với con người, và con người từ dưới trần gian hướng lên Thiên Chúa trên trời cao thẳm.
Chiều hình ngang đường chân trời cây thập gía nối kết mối tương quan giữa con người với nhau trong vũ trụ.
Hình ảnh Thập gía là dấu chỉ niềm tin tôn giáo được lưu truyền rộng rãi, và từ năm 431 sau Chúa giáng sinh thời công đồng Epheso hình ảnh dấu chỉ thập gía được chính thức lưu truyền dùng trong Hội Thánh Công giáo.
- 3. Mầu nhiệm lòng tin nơi thập gía
Kính thờ hình ảnh dấu chỉ thập gía Chúa Giêsu diễn tả sâu xa lòng tin vào tình yêu của Thiên Chúa đối với con người:
„ Dấu thập gía là dấu chỉ hữu hình và công khai tuyên xưng niềm tin:
- vào Đấng đã chịu khổ hình bị đóng đinh vào trên đó vì chúng ta,
- vào Đấng đã diễn tả tình yêu Thiên Chúa tỏ hiện ra tận bên ngoài qua chính sự sống thân xác mình,
- vào Thiên Chúa điều hành không dùng sự hủy diệt phá đổ, nhưng qua đời sống khiêm hạ chịu đau khổ và tình yêu. Tình yêu tuy vô hình, nhưng mạnh hơn tất cả sức mạnh của trần gian, và khôn ngoan hơn tất cả sự thông thái của con người.“
……
Thập gía là dấu hiệu nói về sự đau khổ, và đồng thời cũng là dấu chỉ sự phục sinh sống lại. Có thể nói được rằng đó là chiếc gậy chỉ huy sự cứu rỗi mà Thiên Chúa nắm giữ trong tay ngài, là nhịp cầu giúp chúng ta có thể bước vượt qua từ bờ vực sâu thẳm sự chết và sự đe dọa của sự dữ sang tới thành công.“ ( Joseph Ratzinger, Benedickt XVI., Theologisches ABC, Herder 2012, tr. 137- 138).
- 4. Thập gía thôi thúc dấn thân
Hội Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam mừng kỷ niệm 350 năm thành lập vào giữa thời cơn khủng hoảng do đại dịch Corona lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ đời sống con người trên khắp thế giới. Biến cố khủng hoảng này gây chao đảo làm đảo lộn ngưng trệ tất cả mọi trật tự, mọi dự định cùng mọi sinh hoạt đạo đời, từ phạm vi chính trị kinh tế tới văn hóa tinh thần.
Biến cố đại dịch Corona làm biến đổi đời sống sâu rộng và trở thành nặng nề gây đau khổ, như cây thập gía đè nặng. Cơn khủng hoảng đại dịch càng kéo dài, con người càng cảm thấy hoang mang bất lực, tựa như cây thiếu nước đang héo tàn dần.
„ Thập gía (vi trùng Corona) “ chập chờn vô hình đè nặng đời sống làm cho tinh thần lẫn thể xác mệt nhọc mòn mỏi. Dẫu vậy cũng vẫn có lực vô hình đối chiếu thôi thúc kêu gọi dấn thân chịu đựng vươn lên, để cho đời sống luôn là cây cỏ có cành lá xanh tươi. Vì sự đau khổ khốn khó hằng luôn có trong đời sống xưa nay ở mọi nơi chốn cùng ở mọi thời đại, không tránh được. Đó là mầu nhiệm bí ẩn, mà Đấng Tạo Hóa phú bẩm khắc ghi vào sự sống mỗi sinh vật trong công trình sáng tạo vũ trụ thiên nhiên, để tạo nên sự cân bằng quân bình cho đời sống
„Thập gía (vi trùng Corona) “ không phải là cây thập gía cuối cùng. Nhưng còn có những cây thập gía khác tiếp sau nữa. Sự sống từ cổ chí kim xưa nay vẫn luôn hằng tiếp tục từ thế hệ này sang những thế hệ kế tiếp.
Chị em nữ tu Hội Dòng Mến Thánh Giá xưa nay hằng sống trải qua trong chịu đựng những cây „ thập giá cuộc đời“. Nhưng không để cho bị khủng hoảng nhận chìm xuống.
Trái lại trong tin tưởng phó thác tìm nhận được sức lực trợ giúp phấn khởi vươn lên dấn thân hy sinh cầu nguyện và phục vụ con người làm nhân chứng cho tình yêu Chúa Giêsu Kitô giữa dòng đời sống xã hội quê hương nơi sinh sống.
Lịch sử Hội Dòng tựa như một tấm thảm có chiều dài cùng chiều ngang sâu rộng, được đan bện dệt thêu nên bằng những sợi chỉ „ thập gía" nỗ lực sống hy sinh dấn thân âm thầm ở từng vị trí khung ô nhỏ. Tất cả nối kết đan bện tạo thành tấm thảm bức tranh lịch sử đạo đức sinh động.
Tấm thảm bức tranh lịch sử Hội Dòng Mến Thánh Gía Việt Nam thành hình từ 350 năm nay là do những sợi chỉ đời sống dấn thân tận hiến yêu mến Thập Giá Chúa Giêsu của mỗi Nữ Tu thành viên Hội Dòng đan bện thêu dệt nên.
Xin chúc mừng Hội Dòng Mến Thánh Gía Việt Nam.
Cùng chúc mừng chi nhánh Hội Dòng Mến Thánh Giá Gòvấp thuộc Tu viện lòng Chúa thương xót thành Bonn, dịp mừng kỷ niệm thánh đức này.
Ad multos annos!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ông Trọng Không Có Lý Do Để Lạc Quan
- Viết bởi Phạm Trần
Đảng CSVN đang phải đối mặt với tình trạng “thù trong giặc ngoài” nghiêm trọng nhất từ trước đến nay trước thềm Đại hội đảng lần thứ XIII và dịch nạn Covid 19, nhưng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng lại vẽ ra bức tranh lạc quan viển vông để lừa dân.
Cùng với chủ tâm che giấu các mặt xấu trong đảng và xã hội, ông Trọng đã tô hồng điểm phấn cho đường lối lãnh đạo của đảng trong bài viết "Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới", công bố trên hệ thống báo và truyền thông của đảng ngày 31/08/2020.
Tuy nhiên, ông Trọng đã quên đi, hay cố tình bỏ sót những tệ nạn đang làm cho uy tín của đảng cầm quyền độc tài nhạt dần.
Trong khi đảng chuẩn bị tổ chức Đại hội vào đầu tháng 01 năm 2021 thì Trung Cộng tiếp tục sử dụng Quân sự để gia tăng áp lực các nước có tranh chấp chủ quyền với Bắc Kinh ở Đông gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai và Brunei.
BỨC TRANH ĐEN-TRẮNG
Về đời sống nhân dân, ông Trọng viết ngày 31/08/2020:”Xã hội cơ bản ổn định, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. (tỉ lệ hộ nghèo từ 58% (năm 1993), 9,88% (năm 2016) giảm xuống còn dưới 3% vào năm 2020).”
Kết luận này của người đứng đầu đảng cầm quyền không đúng với tình hình thực tế. Bằng chứng trong Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của Tổng cục Thống kê Việt Nam (TKVN) cho thấy:” Ảnh hưởng của dịch Covid-19 lên thị trường lao động hiện rõ: tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm gia tăng trong khi số lao động làm việc trong nền kinh tế và thu nhập giảm.
Tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước sáu tháng đầu năm ở mức 2,26%, tăng cao hơn mức 1,99% của năm 2019. Đặc biệt tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị trong quý II cao kỷ lục của 10 năm, chạm mốc 4,46%.
Quý II năm nay ghi nhận lực lượng trong độ tuổi lao động ước 46,8 triệu người, giảm 2,1 triệu người so với quý trước và giảm 2,2 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Tính chung sáu tháng đầu năm 2020, con số này chạm ngưỡng 47,9 triệu người, thấp hơn 1,1 triệu người so với năm ngoái.” (theo báo Thanh Niên, ngày (01/06/2020)
Trong khi đó, theo Ngân hàng Phát triển châu Á (Asian Development Bank, ADB) và Tổ chức Lao động quốc tế (International Labour Organization, ILO) thì:“Ở Việt Nam, tỷ lệ thất nghiệp trong giới trẻ được báo cáo dự đoán sẽ ở mức 10,8% đến 13,2%, tức là gần gấp đôi so với mức 6,9% của năm 2019. Người trẻ tuổi tại Việt Nam sẽ chứng kiến sự biến mất của 370.000 việc làm nếu dịch bệnh sớm được kiểm soát. Trong trường hợp xấu, con số này có thể lên tới 548.000 việc làm.” (báo Hà Nội Mới, ngày 18/8/2020)
Ngoài ra, vẫn theo Tổng cục Thống kê Việt Nam (TKVN) thì:” GDP (Gross Domestic Product, Mức sản xuất Nội địa) quý II vừa được ghi nhận tăng 0,36%, đưa mức tăng trưởng GDP của sáu tháng đầu năm nay ở mức 1,81% - là mức tăng thấp nhất tính trong sáu tháng trong ít nhất 30 năm gần đây.” (Công bố ngày 29/6/2020)
Cũng nên biết, báo cáo số người thất nghiệp và mức suy giảm kinh tế của TKVN không bao gồm số hàng ngàn công nhân Việt Nam ở nước ngoài đã được đưa về nước vì mất việc và không được bảo vệ sức khỏe tại các nước cũng bị dịch bệnh Covid-19 như ở Viết Nam.
Thêm vào đó, theo một Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (World Bank) thì:”Mặc dù đã đạt được thành công chưa từng có, hành trình phát triển của Việt Nam vẫn chưa hoàn thành. Thu nhập bình quân đầu người của người dân Việt Nam hiện nay (năm 2019 khoảng 2.800 USD) chỉ bằng 40% mức trung bình toàn cầu, 20% mức trung bình của Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và 5% mức trung bình của các nền kinh tế có thu nhập cao. Việt Nam sẽ mất khoảng 30 năm để đạt được tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người hiện nay của Hàn Quốc và 10 năm để đạt được như Trung Quốc.” (Báo cáo: “Việt Nam 2035: Từ chiến lược đến hành động” —World Bank, báo Thanh Niên, ngày (01/06/2020)
PHÚC TẠP CHÓNG MẶT
Như thế rõ ràng xã hội không “ổn định” và đời sống ngưới dân cũng không “ngày càng được nâng cao” như ông Trọng đã hồ hởi khoe ẩu.
Đáng chú ý là trong bài viết được coi là “kim chỉ nam” cho hành động trong 5 năm tới của khóa đảng XIII, ông Trọng đã phớt lờ những tệ nạn trong xã hội đang làm xáo trộn đời sống người dân ở Việt Nam.
Bằng chứng trong Báo cáo trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 14/9/2020, Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Công an Lê Quý Vương đã vạch ra sự thiếu sót của ông Trọng, đồng thời đưa ra ánh sáng nhiều mảng đen trong xã hội Việt Nam bây giờ.
Về tổng quát, Tướng Vương nói:”Dù đã có nhiều nỗ lực, cố gắng nhưng tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật vẫn diễn biến phức tạp.”
Nhưng tính “phức tạp” không chỉ hạn chế trọng hai lĩnh vực “tội phạm” và “vi phạm pháp luật” mà còn lan rộng sang các lĩnh vực khác, mặc dù ông Vương khoe Công an đã làm tròn công tác “không để hình thành tổ chức chính trị đối lập.”
Chuyện này không mới vì đảng CSVN không chấp nhận đa nguyên, đa đảng chính trị. Ông Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cũng đã nói điều này từ lâu để bảo vệ độc quyền lãnh đạo và đặc lợi cho đảng.
Hãy nghe tướng Vương vừa khoe thành tích vừa thừa nhận tình hình còn nhiều khó khăn:”Từ ngày 1/10/2019 đến 31/7/2020, Bộ Công an phối hợp với các bộ, ngành, địa phương đã ngăn ngừa âm mưu bạo loạn, khủng bố, phá hoại, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước; bảo đảm an ninh chính trị nội bộ, an ninh văn hóa tư tưởng, an ninh thông tin, truyền thông, an ninh mạng, an ninh kinh tế, an ninh xã hội, an ninh các địa bàn chiến lược, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
“Tuy nhiên, các thế lực thù địch trong và ngoài nước vẫn tiếp tục gia tăng các hoạt động chống phá trên nhiều lĩnh vực. An ninh nội địa còn tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây bất ổn; an ninh kinh tế diễn biến phức tạp.”
Ông Vương không nêu tên “các thế lực thù địch trong và ngoài nước”, nhưng đây có lẽ là lần đầu tiên đã có một viên chức cao cấp thẩm quyền của Bộ Công an tiết lộ có cả “thế lực thù địch trong nước” chống đảng.
Từ trước đến nay, từ ông Nguyễn Phú Trọng đến các cơ quan báo chí đảng, mỗi khi nói đến những người bất đồng chính kiến với đảng, hay đã “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” thì họ gọi là “những kẻ cơ hội chính trị”.
Vậy “các thế lực thù địch trong và ngoài nước” là những tổ chức nào, do ai cầm đầu hay chỉ là lời bịa ra để khoe công, hoặc chỉ cốt gây ra ấn tượng nghiêm trọng của tình hình để hù họa, nhằm gắn với kế hoạch gọi là “diễn biến hòa bình” chống đảng mà Ban Tuyên giáo nói “do Hoa Kỳ cầm đầu”.
Nhưng trước khi nêu ra thêm những điều gọi là “phức tạp” trong Báo cáo của ông Tướng Công an Lê Qúy Vương, hãy tìm hiểu “phức tạp” là gì?
Theo định nghĩa chung thì cụm từ này hàm ý “có nhiều thành phần hoặc nhiều mặt kết hợp, đan xen với nhau, khó giải quyết.”
Vậy tại sao Công an lại khó giải quyết những tệ nạn trong xã hội Việt Nam khi lực lượng này tự phong cho mình là“thanh bảo kiếm” của Đảng, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân”, theo phương châm “còn đảng còn mình”?
Hãy nghe Thứ trưởng Lê Quý Vương than tiếp:”Tình trạng lộ, lọt bí mật Nhà nước trên không gian mạng ngày càng nghiêm trọng. Hoạt động nhập cảnh trái phép diễn biến phức tạp, nhất là trong thời điểm dịch Covid-19 tái bùng phát. Tình hình khiếu kiện vẫn còn rất phức tạp...”
Tội phạm giết người tiếp tục có xu hướng gia tăng, nhất là giết người thân với tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả nghiêm trọng hơn…Còn xuất hiện tình trạng các băng, nhóm tụ tập dùng hung khí để giải quyết mâu thuẫn với nhau. Tội phạm hoạt động “tín dụng đen” truyền thống vẫn hoạt động rải rác, nhỏ lẻ ở một số địa phương và đang chuyển dịch theo phương thức, thủ đoạn cho vay trực tuyến”.
Ngoai ra, ông Vương còn báo cáo:”Tội phạm xâm hại tình dục, nhất là xâm hại tình dục trẻ em còn diễn biến phức tạp, nhiều trường hợp đối tượng là thân nhân, người quen của nạn nhân. Tội phạm sử dụng công nghệ cao, giả danh các cơ quan tư pháp để lừa đảo chiếm đoạt tài sản diễn biến phức tạp. Xảy ra một số vụ cướp tiệm vàng, ngân hàng với thủ đoạn liều lĩnh, manh động. Tội phạm mua bán người diễn biến phức tạp.
Nguy cơ xuất hiện tội phạm kinh tế, tham nhũng xuyên quốc gia… Cạnh đó, nguy cơ xuất hiện tội phạm kinh tế, tham nhũng có tổ chức, xuyên quốc gia, một số hành vi phạm tội kinh tế, tham nhũng được thực hiện bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Tội phạm buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm diễn ra phức tạp.
“Đã đấu tranh, triệt phá nhiều đường dây buôn lậu lớn, làm rõ sự tiếp tay của cán bộ trong cơ quan quản lý nhà nước”, tội phạm và vi phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông diễn biến ngày càng phức tạp với nhiều phương thức, thủ đoạn phạm tội mới, hoạt động có tính chất xuyên quốc gia và xảy ra trên nhiều lĩnh vực, gây thiệt hại lớn.
“Hành vi ngày càng đa dạng, gia tăng về quy mô và tính chất nguy hiểm, gây thiệt hại lớn về kinh tế, xâm phạm quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân”, ông Vương nói.
Ngoài ra, hoạt động của tội phạm ma túy xuyên quốc gia, có yếu tố nước ngoài giảm, song ma túy tổng hợp từ Lào, Campuchia được vận chuyển vào Việt Nam tiếp tục có xu hướng gia tăng….” (theo báo Thanh Tra, ngày 14/09/2020)
CÓ XÂY NỔI KHÔNG?
Qủa thật là xã hội Việt Nam thời Cộng sãn có nhiều chuyện “phức tạp” quá, Vậy với tình trạng xã hội không “cơ bản ổn định” như bài viết lạc quan tếu của ông Trọng, tất nhiên các lĩnh vực khác cũng bị ảnh hưởng, trong đó đứng đầu là công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Ông Trọng khoe trong bài viết ngày 31/08/2020 rằng hai việc làm này, đã được “tiến hành toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, tạo dấu ấn nổi bật.”. Ông còn nói:” Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí chuyển biến mạnh mẽ, được triển khai quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước đột phá và đạt nhiều kết quả cụ thể, rõ rệt, tích cực.”
Thế nhưng, chính ông Nguyễn Phú Trọng đã nhìn nhận tình hình cán bộ, đảng viên không lạc quan như thế.
Trong bài viết “Một số vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng”, phổ biến ngày 27/04/2020, ông cho toàn dân biết:Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy phiếu bầu, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội..., trong đó có cả cán bộ cấp cao, tuy đã được ngăn chặn nhưng vẫn chưa hoàn toàn bị đẩy lùi. Làm việc gì, giữ chức vụ gì cũng chỉ tính đến lợi quyền, bổng lộc cho cá nhân mình, gia đình mình trước nhất, quên cả thanh liêm, danh dự.”
Ông còn nói:”Tình hình tư tưởng trong Đảng và tâm trạng trong nhân dân, bên cạnh mặt tích cực là cơ bản, cũng có những biểu hiện đáng lo ngại. Nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức mới chỉ bước đầu được ngăn chặn, đẩy lùi…”
Nguy hiểm hơn, theo lời ông, đã có :”Một bộ phận cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, thậm chí có người suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".”
Bốn tháng sau lời nói của ông Trọng, không có bất cứ báo cáo nội bộ nào xác nhận cán bộ, đảng viên đã hết suy thoái tư tưởng. Nói cách khác, đã “hồi chánh” để tiếp tục kiện định Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sàn Hồ Chí Minh theo lệnh đảng.
Vì vậy, một lần nữa, ông Nguyễn Phú Trọng phải gân cổ lên để nhắc với toàn đảng :”Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động.”
Lệnh này của ông Trọng có ý nghĩa gì?
Trước hết, phản ảnh rõ nét hậu qủa không nhỏ của tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và “tự bỏ sinh hoạt đảng của số đông cán bộ, đảng viên nghỉ hưu”.
Thứ hai, ông Trọng muốn nhắc nhở các cấp Ủy, khoảng 600 người, đã được quy hoạch vào đội ngũ lãnh đạo cấp chiến lược, đặc biệt đối với lối 180 Ùy viên tương lai của Ban Chấp hành Trung ương đảng XIII, trong bất ký hoàn cảnh nào cũng phải tuyệt đối trung thành với đảng và phải kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
VẪN CỨ LUNG TUNG
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã tự đưa mình lên để nói rằng Văn kiện đảng XIII lả “văn bia, còn để lại đời sau”, bởi vì ông giữ cả hai chức quan trọng nhất trong việc chuẩn bị Đại hội đảng XIII, vừa là Trưởng tiểu ban Nhân sự, vừa giữ chức Trưởng tiểu ban Văn kiện Đảng.
Tất nhiên ông Trọng là người có tiếng nói quyết định trong việc chọn nhân sự, đồng thời quyết định đường lối lãnh đạo tương lại của Trung ương đảng XIII.
Tuy nhiên, một bài viết trên báo Quân đội Nhân dân (QĐND) ngày 04/06/2020 đã chỉ ra không ít khuyết tật vẫn tồn tại từ nhiều khóa trước.
Đó là:
-Vẫn không ít đảng viên chưa nhận thức đúng hệ trọng của việc bầu cấp ủy, chưa thực sự nghiêm túc, khách quan, sáng suốt trong bầu cử, dẫn đến bầu người chưa thực sự xứng đáng; bên cạnh đó còn có hiện tượng "chạy phiếu".
-- Những cán bộ, đảng viên (CB, ĐV) thực sự nghiêm túc, trách nhiệm với công việc tập thể thì bị nhiều người coi là “khó tính” và thường nhận được sự ủng hộ ít hơn so với những CB, ĐV “dễ tính”. Không ít đảng viên vô tư trần tình: Lãnh đạo dễ tính thì mình cũng được thoải mái, “dễ thở”, dễ làm ăn; còn lãnh đạo nghiêm túc thì mình sẽ gò bó, vất vả. Vậy đơn giản là cứ ủng hộ những người “dễ tính”!
Bái báo vạch ra:”Chính vì khá nhiều đảng viên, nhân viên có tâm lý như trên nên dẫn đến một bộ phận CB, ĐV cố tình chọn lối sống và phong cách làm việc xuê xoa, “dĩ hòa vi quý” để lấy lòng mọi người; thậm chí, có cán bộ còn suy nghĩ tiêu cực: Chẳng dại gì thẳng thắn, nghiêm túc, đặt ra yêu cầu cao mà bị cấp dưới quy vào “khó tính, khắt khe”, rồi sẽ không ủng hộ.
Việc sợ mất phiếu, sợ mất lòng cấp dưới là nguyên nhân chính của tình trạng “mũ ni che tai”, nhắm mắt làm ngơ trước những khuyết điểm, vi phạm trong cơ quan, đơn vị. Cá biệt, có cán bộ còn a dua, hùa theo cái sai, kiểu sống “hai mặt” hay “nín thở chờ... đại hội”.
Báo QĐND nói tiếp chuyện bầu bán như sau:
--Bên cạnh xu hướng “bầu người dễ tính” thì có khá nhiều đảng viên còn ưu tiên bầu người quý mình, người gần gũi thân quen với mình vào cấp ủy.
-- Thực tế có khá nhiều biểu hiện của việc đặt lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm lên trên lợi ích chung trong bầu cấp ủy đảng cũng như bầu cử cơ quan lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành. Có những cán bộ khi bầu chi ủy ở đại hội chi bộ thì “suýt trượt” vì các đảng viên thấy còn nhiều khiếm khuyết về phẩm chất, năng lực, thậm chí “xấu tính”, khiến nhiều đảng viên bức xúc. Nhưng đến lúc bầu đảng ủy trong đại hội đảng bộ thì chính cán bộ ấy lại được các đảng viên trong chi bộ ủng hộ tuyệt đối, bởi họ bảo nhau “dù không xứng đáng nhưng vẫn cứ bầu người nhà mình, vì lợi ích của chi bộ, đơn vị mình”.
Ngoài ra còn có hiện tượng: “Một kiểu lợi ích cá nhân khác là thỏa thuận ngầm, kiểu “ông vận động mọi người bầu tôi, tôi cũng vận động mọi người bầu ông để… cùng có lợi”. Thực tế là có khá nhiều đảng viên không biết hết thông tin về các ứng cử viên trong danh sách bầu cử (nhất là ở các đảng bộ đông đảng viên, hoạt động phân tán, ít liên quan đến nhau), nên khi được nghe cán bộ “rỉ tai” nói tốt hay nói xấu về người này, người kia thì đảng viên dễ tin theo. Hệ lụy là những ứng cử viên thực sự trong sáng, không vận động gì, thậm chí còn bị cố tình nói xấu thì dễ trượt, còn “con lươn, con chạch” thì lại trúng cử!
-Biểu hiện nữa của chủ nghĩa cá nhân trong bầu cấp ủy, bầu ban thường vụ là sợ người khác hơn mình nên cố tình “dìm hàng”, tung tin xấu, dù biết rõ người đó rất tốt, rất xứng đáng được bầu. Lý do đơn giản là nếu người đó được bầu vào cấp ủy thì mình hoặc “người của mình” sẽ không cạnh tranh nổi, không có cơ hội để vào ghế nọ ghế kia.
-- Có một biểu hiện của “lợi ích nhóm” cũng khá phổ biến (đặc biệt là với các đảng bộ địa phương, vùng nông thôn) là việc các phe nhóm tìm cách vận động bầu cho “người của mình” với mục đích khi “người của mình” vào vị trí lãnh đạo thì sẽ tạo thuận lợi cho làng mình, nhóm mình làm ăn, phát triển. Đây là việc hết sức nguy hiểm, thể hiện rõ sự suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống và "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". (QĐND, ngày 4/6/2020)
Sự thật của chuyện bầu các cấp Ủy đã phơi bầy những mánh mung, thủ thuật bất chính như thế, nhưng ông Nguyễn Phú Trọng vẫn tự khoe rằng:” Công tác tổ chức, cán bộ phải là điểm đột phá, là "then chốt" của nhiệm vụ "then chốt", có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ; sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Phải hết sức chú trọng xây dựng và làm trong sạch đội ngũ cán bộ, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; chức vụ càng cao càng phải gương mẫu.”
Với phương châm: Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo Phát triển, Đại hội đảng XIII được quy định là bước chuyển giao lãnh đạo từ thế hệ sinh ra trong chiến tranh, trưởng thành trong nền giáo dục của Thế giới Cộng sản sang thế hệ sinh ra trong thời bình, sau chiến tranh và được đào tạo ở nhiều nước có các chế độ chính trị khác nhau, đa phần tại các nước có nền dân chủ pháp trị u-Mỹ.
Nhưng với tư duy bảo thủ, giáo điều xơ cứng, ông Nguyễn Phú Trọng có gì để lạc quan giữa tình trạng “thù trong giặc ngoài” lên cao như hiện nay.
Hơn nữa khi ông Nguyễn Phú Trọng chỉ biết tiếp tục chũi đấu xuống cát để tôn thờ Chủ nghĩa Cộng sản đã bị chính các nước Cộng sản hàng đầu như Nga và khối Đông u vứt vào sọt rác từ những năm 1989 đến 1991 thì Văn kiện đảng XIII có xứng đáng là “Văn bia” không, hay chỉ là mớ giẻ rách? -/-
Phạm Trần
Tại Sao Việt Nam Chưa Kiện Trung Quốc Về Biển Đông ?
- Viết bởi Phạm Trần
Quan điểm xuyên suốt này đã được lan tỏa trong nội bộ những nhà ngoại giao có thẩm quyền nhất của Việt Nam về xung đột ở Biển Đông hiện nay.
Tuy nhiên lập trường này chưa bao giờ được nói chính thức bởi Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh. Do đó khi Bộ Ngoại giao không lên tiếng bình luận thì coi như lời nói của người trong cuộc đã được bật đèn xanh.
TẠI SAO LÚC NÀY?
Nhưng câu hỏi đặt ra là tại sao hai vấn đề được đưa ra cùng một lượt vào lúc này, khi hai nước Việt-Trung không có bất cứ cuộc họp song phương nào về Biển Đông. Nhưng cũng không vô ích khi để cho Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV, Voice of Vietnam) phổ biến bài viết quan trọng này vào dịp kỷ niệm 75 năm thành lập Bộ Ngoại giao (28/8/1945-28/8/2020), là nhằm trấn an Ban Chấp hành Trung ương dự bị khóa XIII an tâm về đường lối đối ngoại cơ bản giữa Việt Nam - Trung Cộng và Việt Nam-Hoa Kỳ sẽ không thay đổi trong nhiệm kỳ tới.
Đáng chú ý là bài viết của VOV xuất hiện 2 tháng sau khi Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị của Trung Quốc cảnh cáo Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 12 của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc, ngày 21/07 (2020).
Đài Phát thanh quốc tế Trung Hoa (CRI, China Radio International) đưa tin trong bản tiếng Việt ngày 22/07 (2020) đã trích lời họ Vương nói với Phó Thù tướng, Bộ trường Ngoại giao Phạm Bình Minh rằng:”:”Trung Quốc và Việt Nam cần kiên trì kiểm soát bất đồng thông qua đối thoại và hiệp thương song phương theo nhận thức chung đạt được giữa Lãnh đạo tối cao hai Đảng và hai nước, tìm kiếm giải pháp công bằng và hợp lý theo một loạt thỏa thuận ký giữa hai bên. Trung Quốc và Việt Nam còn cần cùng các nước ASEAN, tuân thủ “Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Nam Hải” (DOC, Declaration on the Conduct of the Parties in the South China Sea )., thúc đẩy tham vấn về “Bộ Quy tắc ứng xử trên Nam Hải” (COC, Code of Conduct), không dành bất cứ cơ hội nào cho sự quấy rối và phá hoại của thế lực bên ngoài.”
Vương Nghị không nói tên “thế lực bên ngoài”, nhưng ai cũng hiểu là Hoa Kỳ, đồng minh của khối ASEAN, đã tăng cường các cuộc tuần duyên và tập trận của Hạm đội số 7 ở Biển Đông từ đấu năm 2020.
Nhưng Trung Cộng lại không có quyền chủ quyền ở Biển Đông như trong hình Bắc Kinh tự vẽ được gọi là Lưỡi bò, để tiếm nhận ¾ điện tích trên 3 triệu cây số vuông biển đảo ở Biển Đông, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cho đến tháng 1/1974, cả hai Quần đảo này thuộc quyền kiểm soát và bảo vệ bởi Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam. Sau năm 1975, bắt đầu từ năm 1988, Trung Cộng đã đánh chiếm thêm 8 vị trí dá và bãi san hô ở quần đào Trường Sa, sau 13 năm hoàn toàn kiểm soát bởi Thủy Quân CSVN.
Các vị trí bị quân Trung Cộng chiếm gồm Châu Viện, Chữ Thập, Ga Ven, Gạc Ma, Tư Nghĩa, Xu Bi và Vành Khăn ( mất năm 1995). Sau khi Vành Khăn mất, Việt Nam coi như mất luôn quyền kiểm soát bãi Cỏ Mây, một rạn san hô vòng thuộc cụm Bình Nguyên của quần đảo Trường Sa nằm về phía đông nam của đá Vành Khăn. Hiện bãi Cỏ Mây đang bị tranh chấp giữa Phi Luât Tân và Trung Cộng.
Trong khi đó phía Việt Nam kiểm soát 21 thực thể địa lý ở Trường Sa, gồm 7 đảo san hô/cồn cùng 14 rạn san hô.
Theo Tiến sỹ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ cho biết Trường Sa được chia thành thành 2 nhóm đảo, tuyến Bắc Trường Sa và Nam Trường Sa.
Ông nói:”Các đảo Bắc Trường Sa mà Việt Nam đang canh giữ, thực thi chủ quyền gồm 10 đảo, đá lực lượng gồm: Song Tử Tây, Đá Nam, Đá Thị, Sơn Ca, Nam Yết, Len Đao, Cô Lin, Sinh Tồn, Sinh Tồn Đông, Đá Lớn. Các đảo Phía Nam Trường Sa mà Việt Nam đang bảo vệ gồm 11 đảo, đá sau: Trường Sa,Trường Sa Đông, An Bang, Phan Vinh, Thuyền Chài, Tiên Nữ, Núi Le, Tốc Tan, Đá Tây, Đá Đông, Đá Lát.” (theo Infonet)
KHI NÀO KIỆN?
Tuy nhiên, từ đầu năm 2020, tình hình Biển Đông đã đột biến căng thẳng với các hoạt động đe dọa Mã Lai, Nam Dương, Brunei, Phi Luật Tân và Việt Nam của Hải quân Trung Cộng khiến Mỹ phải lên tiếng.
Trong tuyên bố cứng rắn nhất từ trước đến nay, đưa ra ngày 13/07/2020, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo đã quyết liệt bác bỏ yêu sách của Trung Quốc dành làm chủ các nguồn tài nguyên ở hầu hết Biển Đông, cũng như việc nước này mở chiến dịch đe dọa để kiểm soát. Ông nói hành động của Bắc Kinh là hoàn toàn phi pháp.
(“Beijing’s claims to offshore resources across most of the South China Sea are completely unlawful, as is its campaign of bullying to control them.” –State Department, July 13/2020)
Tuyên bố của ông Pompeo lưu ý rằng Trung Quốc không có bất cứ quyền gì để áp đặt ý muốn của mình ở Biển Đông, cũng như không có căn bản pháp lý nào để dành quyền chủ quyền về Đường 9 Đoạn (hay còn gọi là đường Lưỡi bò) mà Bắc Kinh công bố năm 2009. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng nhắc nhở Bắc Kinh rằng yêu sách vô căn cứ của họ cũng đã bị Tòa hòa giải Quốc tế bác bỏ hoàn toàn ngày 12/07/2016 trong vụ kiện về đường 9 đoạn của Phi Luật Tân.
(“The PRC has no legal grounds to unilaterally impose its will on the region. Beijing has offered no coherent legal basis for its “Nine-Dashed Line” claim in the South China Sea since formally announcing it in 2009. In a unanimous decision on July 12, 2016, an Arbitral Tribunal constituted under the 1982 Law of the Sea Convention – to which the PRC is a state party – rejected the PRC’s maritime claims as having no basis in international law. The Tribunal sided squarely with the Philippines, which brought the arbitration case, on almost all claims.”)
Nhiều nước lớn trên Thế giới, kể cá khối Liên hiệp Châu u, Úc, Tân Tây Lan, Ấn Độ, Nhật Bản v.v…đã lên án Trung Cộng lợi dụng nạn dịch phát xuất từ Vũ Hán (Trung Quốc), tên khoa học là Covid 19, để gia tăng áp lực lên các nước có tranh chấp ở Biển Đông với Bắc Kinh, bao gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương và Brunei, để dành phần thắng.
Vì ở vào vị trí chiến lược quan trọng và chiếm phần lớn cửa ngõ ra Biển Đông, Việt Nam đã biến thành đối tượng mà Trung Cộng muốn khống chế, hay chiếm đóng nếu có cơ hội. Trong vòng 5 năm qua, kể từ năm 2014, Trung Cộng đã đem tầu thăm dò dầu khí Hải dương 981 vào hoạt động bên trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam có chiều rộng 200 hải lý (1 hải lý = 1,852 km). Vụ thứ hai xẩy ra năm 2019, với Hải Dương 8 tại bãi Tư Chính, chỉ cách Vũng Tấu khoảng 370 cây số hướng Đông Nam.
Ngoài ra, Trung Cộng cũng đã ép buộc Việt Nam phải hủy bỏ các dự án tìm kiếm dầu và khí đốt với một sống Công ty nước ngoài ở khu vục nam Hoàng Sa và ở Trường Sa. Trong số này có nhiều Đại công ty gồm BP (Anh, 2008) Chevron (Mỹ, 2015), Repsol (Tây Ban Nha, 2018), ConocoPhillips (2012).
Mới đây, ngày 9/7/2020, liên doanh dầu khí Rosneft Việt Nam đã hủy hợp đồng khoan dầu với công ty Noble Corporation tại Lô 06-01 vì bị áp lực từ Trung Cộng.
Vị trí Lô 06-01 nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại Bãi Tư Chính mà Trung Cộng tự coi thuộc khu vực Đường Chín Đoạn, hay Đường lưỡi bò do Bắc Kinh tự vẽ để dành quyền chủ quyền.
Ngoài ra lính Trung Cộng, giả dạng thường dân đánh cá và tầu Hải giám có võ trang đã liên tục đàn áp hay đâm chìm nhiều thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam trong nhiều năm qua ỏ vùng biển Hoàng sa và Trường Sa.
Mỗi lần quân Trung Cộng hành hạ, hay sát hại ngư dân là thêm một lần người dân Việt Nam, trong và ngoài nước, đổ tội hèn nhát không dám chống trả của Hải quân và Lực lượng Biên phòng Việt Nam.
Đó đó, đã có nhiều kiến nghị và đề nghị của Trí thức và người dân yêu cầu nhà nước CSVN phải kiện Trung Cộng ra trước Tòa trọng tài Quốc tế như Phi Luật Tân đã làm và thắng kiện năm 2016. Cho đến nay, phía Việt Nam chỉ nói miệng là đã chuẩn bị mọi phương án và chỉ áp dụng pháp lý khi cần thiết.
Nói thế, nhưng ai cũng biết lãnh đạo đảng CSVN rất sợ bị Trung Cộng trả đũa nên chưa dám nhúc nhích.
Vì vậy, trong cuộc phỏng vấn ngày 7/9/2020, Đài VOV đã đặt vấn đề “kiện Trung Quốc” với ông Nguyễn Quốc Cường, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Đốn.
VOV viết:“Khi Trung Quốc liên tiếp có các hành vi ngang ngược, gây hấn, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông, đã có nhiều ý kiến cho rằng ta nên khởi kiện nước này lên tòa quốc tế. Về vấn đề này, Đại sứ Nguyễn Quốc Cường nói: “Theo tôi hiểu đó là một phương án, và không ai loại trừ phương án đó cả. Ta cần chuẩn bị sẵn sàng cho mọi tình huống, kể cả phương án khởi kiện khi cần thiết cũng như nhiều phương án khác nữa. Nhưng khởi kiện vào lúc nào và khởi kiện như thế nào thì ta cần tính toán hết sức kỹ lưỡng với cái đầu lạnh và tỉnh táo để nếu có làm thì phải đạt được hiệu quả cao nhất”.
Đại sứ Cường nói tiếp:”Không thể phủ nhận một phán quyết công tâm của Tòa sẽ tạo tiền lệ cho các nước theo đuổi một giải pháp pháp lý khi một bên chỉ muốn dùng sức mạnh cơ bắp thay vì đưa ra bằng chứng thuyết phục để chứng minh yêu sách của mình là có cơ sở. Tuy nhiên, giải pháp pháp lý nên chỉ là lựa chọn cuối cùng khi đàm phán bế tắc và chiến tranh đã gần kề.”
Trên thực tế thì các cuộc đàm phán về tranh chấp biển, đảo giữa Việt Nam và Trung Cộng đã bế tắc từ lâu. Lập trường khư khư của Bắc Kinh là : Hãy gác tranh chấp để cùng khai thác. Nhưng khi Trung Cộng không có quyền chủ quyền ở Biển Đông mà lại muốn biến vùng “không có tranh chấp” thành “tranh chấp” thì có phải Bắc Kinh đã xấm lăng nhà hàng xóm rồi bắt người chủ nhà phải thương lượng chia phần thì có vô lý không?
Phía Việt Nam biết rõ như thế nhưng vẫn không dám có hành động chống Trung Cộng, phần chính vì sợ bị Bắc Kinh trừng phạt kinh tế, vì kinh tế của Việt Nam phải lệ thuộc phần lớn vào nguyên liệu và máy móc nhập vào từ Trung Cộng.
Ngoài ra, Việt Nam còn gánh nợ khổng lồ với Trung Cộng mỗi năm. Theo nghiên cứu của Tiến sỹ Vũ Quang Việt, nguyên Vụ trưởng Vụ Tài khoản Quốc gia thuộc Cục Thống kê Liên Hợp Quốc, thì:”Tổng số nợ của Việt Nam với Trung Quốc (bao gồm cả Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư) có thể đã lên tới 4 tỉ đô la Mỹ, chỉ có thể tính đến hết năm 2013.
Trên cơ sở đó, với ước tính tổng nợ nước ngoài của quốc gia hiện đang ở mức khoảng 100 tỷ USD (năm 2016 là 86,9 tỷ USD – theo WorldBank), thì số nợ mà Việt Nam đang vay mượn từ Trung Quốc vào năm 2018 có thể lên tới hơn 6 tỷ USD.
Thậm chí số nợ Trung Quốc có thể còn vượt xa con số trên, bởi từ sau năm 2010 Bộ Tài chính chỉ theo dõi và công bố nợ công – bao gồm nợ chính phủ và nợ của các doanh nghiệp nhà nước do chính phủ bảo lãnh.”
(Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 03/09/2018)
Với những ràng buộc về chính trị, ngoại giao và kinh tế mỗi ngày một lún sâu vòng lệ thuộc Trung Cộng, Việt Nam tỏ ra dè dặt đến mức phải ngậm đắng nuốt cay chịu trận.
Đó là lý do tại sao Đại sứ Nguyễn Quốc Cường đã cắn răng thừa nhận rằng:”Ngay cả khi Tòa ra một phán quyết bất lợi cho Trung Quốc mà nước này không thực thi thì cũng không mang đến hiệu quả như mong muốn. Đó là còn chưa kể đến việc cán cân công lý có thể bị các thế lực tác động cho mưu đồ riêng.”
ĐỨNG VỀ PHE NÀO?
Vậy vị trí chiến lược của Việt Nam giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh đang ở đâu? Nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Đốn, Nguyễn Quốc Cường trả lời:” Rõ ràng cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung là một thực tế, dù có muốn hay không muốn thì cuộc cạnh tranh đó vẫn đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra một cách gay gắt, toàn diện. Ta muốn đứng ngoài cuộc cũng không được. Chọn bên thì chắc chắn là không. Lựa chọn đúng đắn nhất cho Việt Nam, đó chính là lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc. Đó là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”.
Nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nguyên Đại sứ tại Hoa Kỳ, Phạm Quang Vinh cũng cho rằng: “Trong cạnh tranh Mỹ-Trung, rõ ràng chúng ta không nên đứng về phía nào mà nên soi chiếu vào luật pháp quốc tế, vào các nguyên tắc, lợi ích chung của khu vực mà đặc biệt là ASEAN, soi chiếu vào lợi ích của ta. Việt Nam cũng như ASEAN muốn quan hệ tốt với cả Mỹ và Trung Quốc vì đây là 2 đối tác rất quan trọng cả về kinh tế, cả về chính trị - an ninh. Chúng ta cần phải tiếp tục tranh thủ”.
(Phỏng vấn của VOV, ngày 7/9/2020)
Vậy cơ bản chính sách ngoại giao của nhà nước CSVN, trong bối cảnh không còn Thế giới Cộng sản sau khi khối Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa Đông u tan rã từ 1989 đến 1991, như thế nào?
Việt Nam Cộng sản tuyên bố:”Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển
Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, trong đó ưu tiên cho việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, với các nước và trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc.”
(theo Bộ Ngoại giao, Tháng 8/2004)
Tuy nói như thế, nhưng đảng CSVN có quan hệ ngoại giao và nhiều mặt khác, trong đó có sự lệ thuộc vào kinh tế với Trung Cộng chặt chẽ hơn với nhiều nước khác. Việt Nam và Trung Cộng, vẫn nói với nhau ngoài miệng “vừa là đống chí, vừa là anh em”, có chung một biên giới dài 1,449.566 cây số, nhưng người Việt Nam không bao giờ quên mối hận lịch sử từng bị các Triều đại người Hán đô hộ 1,000 năm.
Trong khi ấy thì các lãnh đạo Tầu, từ thời đại Đặng Tiểu Bình (13/9/1982-2/11/1987) vẫn luôn nuôi mộng có ngày sẽ “dạy cho Việt Nam bài học” thứ hai khốc liệt hơn” bài học thứ nhất của Đặng Tiểu Bình, xẩy ra ngày 27/2/1979. Hồi ấy, họ Đặng đã xua 600,000 quân với xe tăng và đại pháo yểm trợ tràn qua biên giới đánh vào 6 Tỉnh của Việt Nam gồm Lai Châu, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên và Quảng Ninh.
Cuôc chiến đẫm máu này chỉ kéo dài đến ngày 16/3/1979 là một thất bại cho Trung Cộng, nhưng sau đó, Đặng Tiểu Bình lại cho mở cuộc tấn công qua Việt Nam lần thứ hai, bắt đầu ác liệt từ 1984, tập trung vào vùng biên giới Vị Xuyên, Tỉnh Hà Giang, kết thúc năm 1989.
Bách khoa Toàn thư mở viết về mặt trận ác liệt Vị Xuyên:”Số liệu Việt Nam công bố gần đây ghi nhận khoảng 4.000 bộ đội hy sinh và hơn 9.000 người khác bị thương tại khu vực này trong giai đoạn từ năm 1984 đến 1989. Phía Trung Quốc tuyên bố con số thương vong tương ứng của họ là 4.100, trong đó có hơn 2.000 binh sĩ tử trận.”
Không có thống kê chính thức nào về thiệt hại nhân mạng của đôi bên trong 10 năm chiến tranh biên giới (1979-1989), nhưng ước tính có lối 45,000 quân và dân người Việt Nam thiệt mạng và bị thương. Phương Tây ước tính có 28,000 lính Trung Cộng chết và nhiều ngàn khác bị thương.
VẾT THƯƠNG CHƯA LÀNH
Dù chiến tranh biên giới đã qua 41 năm, nhưng tang thương và đổ vỡ vẫn sống lại vào mỗi dịp 27/2. Thế mà đảng CSVN đã không dám tổ chức truy điệu để ghi ơn những người đã nằm xuống vì chống quân Tầu xâm lược để bảo vệ Tổ quốc. Đảng và nhà nước CSVN cũng vô ơn bạc nghĩa đối với 74 Chiến sỹ Quân đội Việt Nam Cộng hòa đã bỏ mình trong trận chiến bào vệ Hoàng Sa chống quân Tầu đánh chiếm ngày 19/01/1974.
Không những thế, Chính phủ còn cho Công an, Mật vụ và côn đồ khủng bố, đe dọa và ngăn cấm người dân không được tổ chức ghi ơn những chiến sỹ của đôi bên trong cuộc chiến đã hy sinh chống quân Tầu xâm lăng từ Hoàng Sa đến Biên giới (1979-1989) và ở Gạc Ma năm 1988.
Những hành động phản bội này nên được đưa ra tòa nào xét xử để cho các Tử sỹ và dân lành vô tội được ngậm cười nơi Chín suối, hay Việt Nam còn muốn đợi cho đến khi Trung Cộng dạy cho bài học nữa rồi mới vác đơn đi kiện? -/-
Phạm Trần
(09/020)
Nội bộ đảng CSVN không bình yên
- Viết bởi Phạm Trần
Chỉ còn 5 tháng nữa tới kỳ Đại hội XIII của đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng 4 căn bệnh nan y “suy thoái tư tưởng-đạo đức, lối sống”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và “tham nhũng” trong cán bộ, đảng viên chưa hề thuyên giảm khiến Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ăn ngủ không yên.
Lý do vì những vấn đề nan giải này đã không mờ nhạt trong gần 10 năm qua, từ khi ông Trọng lên cầm quyền thay Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, sau Đại hội đảng XI năm 2011.
Bằng chứng chỉ một năm sau, Nghị quyết Trung ương 4, khóa đảng XI, ra đời ngày 16/01/2012, đã khẳng định phải:” Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội.”
Lý do thì nhiều, nhưng có phần tồn tại từ các Khóa đảng trước, theo lời ông Nguyễn Phú Trọng. Khi nói câu này, ít ai không nghĩ là ông Trọng muốn đỗ lỗi cho những người tiền nhiệm, đặc biệt là trong thời kỳ 10 năm cầm quyền (Khóa IX, Khóa X) của ông Nông Đức Mạnh, vì ông Mạnh đã để cho Tham nhũng và suy thoái đạo đức lan tràn khắp nơi.
Do đó, Nghị quyết 4/XI đã thừa nhận:“Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”
Ngoài ra, tính thờ ơ, vô trách nhiệm của các cấp cũng đã được Nghị quyết bêu ra, theo đó:”Cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ.”
Vì vậy, Nghị quyết hứa:” Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên…Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.”
NƯỚC ĐỔ ĐẦU VỊT
Vậy, ba năm sau, khi ông Nguyễn Phú Trọng tiếp tục đứng đầu Đảng khóa XII (2016-2021) thì tình trạng “suy thoái tư tưởng” và “tự diễn biến”, tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên có giảm sút không?
Không tụt xuống mà còn leo lên cao hơn. Hãy đọc vài đoạn trong Nghị quyết 4 của khóa đảng XII ngày 30/10/2016, chín tháng sau ngày ông Trọng tái đắc cử nhiệm kỳ hai.
Theo đó:“Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước.
“Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty.
“Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao.”
Do đó, Nghị quyết này cảnh giác:“Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.”
Ban chấp hành Trung ương XII kết luận:”Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ.”
Như vậy thì ông Trọng có lỗi gì không, hay cái đảng hổ lốn này đã rách như xơ mướp sau gần 10 năm ông Trọng hô hào xây dựng, chỉnh đốn đảng?
Phải chăng đây là lý do tại sao ông Nguyễn Phú Trọng chỉ dám nhìn nhận:”Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hoá trong Đảng và hệ thống chính trị từng bước được kiềm chế.” (Bài viết “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới”, ngày 31/08/2020)
Nhưng tại sao chỉ mới “từng bước được kiềm chế” trong thời gian dài gần 10 năm trời? Ông Trọng không đưa ra bất cứ bằng chứng nào để bảo vệ cho kết quả này. Nhưng báo Quân đội Nhân dân xác nhận căn bệnh nguy nan này đã lan ra toàn xã hội và đang đe dọa sự sống còn của đảng cầm quyền.
Hãy đọc:”Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam hiện nay không phải là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh địch-ta một mất, một còn như một số người đang rêu rao, mà là cuộc đấu tranh trong nội bộ tổ chức đảng, bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội (CT-XH), trong các tầng lớp nhân dân và diễn ra trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội để chống lại cái ác, cái xấu, cản trở công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.” (báo Quân đội Nhân dân (QĐND), ngày 27/08/2020)
Nhưng “cái ác, cái xấu” lại chui ra từ trong lòng cán bộ, đảng viên, nhất là những kẻ có chức, có quyền vì tham nhũng chỉ do những kẻ này chủ động để vinh thân phì gia, bóc lột đồng bào và hủy hoại đất nước.
Do đó báo QĐND đã hô hào cả nước chung tay “ngăn ngừa, triệt tiêu nguồn gốc, nguyên nhân làm nảy sinh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ… khắc phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên…”
Nhưng những “biểu hiện” ấy là gi? Đó là tình trạng đã có nhiều đảng viên không ngần ngại để công khai :”Phản bác, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”; phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN), Nhà nước pháp quyền XHCN; đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”, phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai….” (báo QĐND, ngày27/08/2020)
CHŨI ĐẦU XUỐNG CÁT
Nhưng khi đã có “một số không nhỏ” cán bộ, đảng viên phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh và đường lối cai trị phản dân chủ của đảng thì tương lai đảng CSVN đi về đâu?
Hãy đọc để biết sự lo âu của đảng này:”Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là sự tự thay đổi theo hướng tiêu cực trong tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang diễn ra ngày một mạnh mẽ trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; là một thách thức to lớn đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. “Tự diển biến”, “tự chuyển hóa” là một loại kẻ thù giấu mặt, một thứ “giặc nội xâm” rất khó nhận diện và vô cùng nguy hiểm. Vì thế phòng chống“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang là nhiệm vụ cấp bách của Đảng, Nhà nước Việt Nam hiện nay.” (Theo Ban Cán sự Bộ Nội vụ, ngày 23/12/2018)
Bài viết của Phạm Thanh Hà - Học viện Chính trị Khu vực I, tiếp theo:”Theo nghĩa thông thường thì “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” là một quá trình sự vật tự thay đổi về chất. Nhưng các khái niệm “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” được sử dụng trong văn kiện của Đảng và trên sách báo chính trị-xã hôi ở nước ta không theo nghĩa như vậy, mà theo nghĩa là sự suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị, về đạo đức và lối sống của cán bộ và đảng viên. Như vậy, “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” là quá trình tự thay đổi của chủ thể theo hướng tiêu cực. “Tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” của cán bộ và đảng viên nếu không được ngăn chặn sẽ dẫn đến sự chuyển hóa của cả chế độ.”
Vì 4 căn bệnh nguy hiểm “suy thoái tư tưởng-đạo đức, lối sống”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và “tham nhũng” đang đe dọa sự sống còn của đảng nên ông Nguyễn Phú Trọng, đồng thời là Trưởng ban Văn kiện của Đại hội đảng XIII, sẽ tổ chức vào thượng tuần tháng 1/2021, đã chỉ thị cho trên 4 triệu đảng viên:”Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động.” (Bài viết ” Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới”, ngày 31/08/2020)
Nhưng tại sao ông Trọng đã cao giọng phách lối như thế cả với nhân dân, tầng lớp bị trị bởi đảng CSVN? Ngôn từ của ông Trọng nói với dân như những đảng viên để buộc họ không được “ngả nghiêng, dao động” mà phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là bất xứng. Bởi vì nhân dân chưa bao giờ muốn đi theo Chủ nghĩa Cộng sản mà họ chỉ bị đảng áp chế tròng vào cổ.
Từ lâu đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) coi đất nước là của riêng, đối xử với dân như bầy tôi để độc quyền cai trị và dành đặc lợi, nhưng lại vênh váo bảo đó là “lựa chọn tất yếu của lịch sử”, hay “là ý nguyện của nhân dân Việt Nam.”
Khi còn sinh thời, nhà bất đồng chính kiến, đấu tranh dân chủ, Tiến sỹ Địa Chất-Vật Lý Nguyễn Thanh Giang đã nói thẳng:“Không có nhân dân nào giao phó quyền lãnh đạo cho Đảng cả.”
“Tôi nhận thức ít nhất nếu không có tội thì Đảng Cộng sản cũng không làm được cái gì hay cho đất nước, cho dân tộc.”
Ngoài ra ông Giang còn cho rằng:” Đảng Cộng sản đã 'lừa mị nhân dân'.
BBC viết:”Ông Giang không đồng ý rằng Việt Nam đa đảng sẽ ‘dẫn đến loạn’ và cho rằng đây là ‘sự hù dọa’ của Đảng đối với nhân dân.” (Phỏng vấn của BBC tiếng Việt ngày 01/02/2015).
Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Giang sinh ngày 6/7/1936 tại Thanh Hóa. Ông là nguyên Ủy viên Thường vụ Hội Địa Vật lý Việt Nam, Hội viên Hội Địa Vật lý Thăm dò Hoa Kỳ.
Ông qua đời ngày 28 tháng Bảy năm 2019, thọ 84 tuổi.
Những câu nói để đời của cố Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang xuất hiện 5 năm sau ngày Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, khi còn giữ chức Chủ tịch Quốc hội, đã tuyên bố với báo Express trong chuyến thăm Ấn Độ rằng:” Ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan phải có chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ.” (theo TTXVN (Thông tấn xã Việt Nam), ngày 27/02/2010).
Câu tuyên bố đã phản ảnh trung thực ông Trọng là một người bảo thủ, độc tài và chống dân chủ nên những gì ông làm trong gần 10 năm qua chỉ giúp cho tình trạng “suy thoái tư tưởng-đạo đức, lối sống”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và “tham nhũng” trong cán bộ, đảng viên tồi tệ hơn mà thôi. -/-
Phạm Trần
Lịch Sử 1945 Không Thể Nói Ngược, Bẻ Cong
- Viết bởi Phạm Trần
75 năm lặng lẽ trôi qua như nước chảy qua cầu, nhưng cái gọi là “Cách mạng tháng Tám 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”, như Tuyên giáo đảng tuyên truyền năm này qua năm khác có thật hay đồ giả?
Căn cứ theo diễn tiến có các nhân chứng tham dự ngày 19/08/1945 tại Hà Nội thì đó chỉ là ngày Việt Minh đã cơ may “cướp” được Chính quyền Trần Trọng Kim không có quân lính bảo vệ. Biến cố lịch sử này không có súng nổ, hay bạo động đổ máu nên không thể bảo đó là “cách mạng”.
Là người Việt Nam sinh ra trước và sau biến cố này đều biết rõ như thế, nhưng đảng Cộng sản do ông Hồ Chí Minh thành lập từ năm 1930 thì không nhận đã đi “cướp” sợ mất chính nghĩa nên đã phịa ra là “giành lại Chính quyền”.
Vậy đầu đuôi chuyện 19 tháng Tám của 75 năm trước như thế nào?
GS NGUYỄN ĐÌNH CỐNG
Hãy đọc Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Đình Cống :”Đêm 9 tháng 3-1945 Nhật đảo chính Pháp. Trên đất VN không còn người Pháp cai trị. Ngày 11-3 vua Bảo Đại tuyên bố Việt Nam độc lập, xóa bỏ mọi hiệp ước đã ký với Pháp. Tháng 4-1945 giải tán triều đình phong kiến với các Thượng thư, lập Chính phủ do Thủ tướng Trần Trọng Kim đứng đầu và các Bộ trưởng. Ngày 15-8 Nhật đầu hàng Đồng minh. Ngày 17-8 Chính quyền Hà nội tổ chức mit tinh, treo cờ Quẻ Ly để chào mừng nước Việt Nam độc lập. Cuộc mit tinh này đã bị người của VM (Việt Minh)cướp đoạt, hạ cờ Quẻ Ly xuống, giương cờ đỏ sao vàng lên và kêu gọi đi theo VM. Từ trước ngày 17-8 thủ tướngTrần Trọng Kim, Bộ trưởng Hoàng Xuân Hãn đã 5 lần tiếp xúc, hội đàm với đại diện của VM tại Hà nội (Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Khang) với đề nghị mời người của VM tham gia Chính phủ hoặc hợp tác lập Chính phủ liên hiệp để chuẩn bị đón tiếp quân Đồng minh, nhường quyền kiểm soát phần lớn đất nước cho VM một cách hòa bình. Nhưng cả 5 lần đều bị đại diện VM từ chối với tuyên bố là VM đủ lực lượng để cướp toàn bộ chính quyền mà không cần sự hợp tác nào hết, chỉ có đấu tranh một mất một còn. Để tỏ rõ thiện chí không dùng bạo lực, chính phủ ông Kim và Bảo Đại không thành lập quân đội, không có Bộ Quốc phòng.
Ngày 19-8 VM cướp chính quyền ở Hà nội. Sau đó việc cướp chính quyền lan rộng ra toàn quốc. Việc cướp này diễn ra dễ dàng, nhanh chóng vì không gặp phải sự chống đối. Ngày 25-8 vua Bảo Đại thoái vị.”
Vậy Việt Minh Cộng sản Việt Nam có công gì không?
Giáo sư Cống khẳng định:”Câu chuyện vào CM tháng 8 VM đã đánh Pháp, đã đuổi Nhật để giành độc lập mà trên 70 năm qua nhiều người Việt vẫn tin và khẳng định như vậy thì thực tế lịch sử đã chỉ ra rõ ràng là không đúng. Trong thời gian diễn ra CM tháng 8 VM không hề đánh một đơn vị Pháp nào, không hề đuổi một đơn vị Nhật nào. VM quả thực đã lợi dụng được thời cơ và điều kiện rất thuận lợi để cướp chính quyền của chính phủ Trần Trọng Kim khi Pháp đã bị Nhật loại bỏ, Nhật đã đầu hàng, chính quyền hợp pháp không có quân đội, không chống lại. Hơn nữa khi CM sắp nổ ra, tổng chỉ huy quân Nhật tại VN có đề nghị với Bảo Đại và Trần Trọng Kim, rằng nếu phía VN yêu cầu thì quân đội Nhật sẽ giúp bảo vệ chính quyền và đánh tan VM. Nhưng các ông Bảo Đại và Trần Trọng Kim đã không đồng ý, cho rằng như thế là huynh đệ tương tàn, là làm đổ máu của người Việt một cách không cần thiết. Ông Kim còn đòi Nhật thả nhiều thanh niên VM bị Nhật bắt giam trước đó. Nhật đã thả họ. Trong tuyên ngôn thoái vị, Bảo Đại nêu cao tình đoàn kết dân tộc, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân.” (trích bài “Vài đánh giá nhầm trong cách mạng tháng 8”, ngày 18/08/2016)
Theo Bách khoa toàn thư mở, Giáo sư Nguyễn Đình Cống, sinh ngày 12/12/1937 tại Quảng Bình, từng là nhà giáo nhân dân tại Đại học Xây dựng. Ông là một trong những kỹ sư đầu tiên ở Việt Nam chuyên về nghiên cứu Bê tông và các lĩnh vực khác trong Xây dựng. Ông đã có nhiều đóng góp cho công tác nghiên cứu giảng dạy đào tạo trong lĩnh vực Xây dựng.
Tuy nhiên, sau khi nghỉ hưu ông đã có nhiều bài viết phê bình nghiêm khắc chính sách cai trị phản dân chủ của đảng CSVN. Ông còn thẳng thắn nêu ra những sai lầm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, và kêu gọi thực hiện đa nguyên, dân chủ.
Vào ngày 03 tháng 02 năm 2016, ông tuyên bố từ bỏ Đảng.
CỐ ĐẠI TÁ BÙI TÍN
Trong khi đó, khi còn sống, cựu Đại Tá Bùi Tín, cựu Phó Tổng Biên tập báo Nhân Dân của Trung ương đảng CSVN viết trên trang cá nhân của ông:” Sau 70 năm, nhìn lại không thể gọi biến cố đó là Cách mạng tháng Tám. Gọi vậy là “ngoa ngôn”, là “đại ngôn”, vì “cách mạng” là phải thay đổi hẳn chế độ cai trị, đổi mới hoàn toàn bản chất chế độ, đem lại dân chủ, tự do cho mọi công dân, quyền tự do bình đẳng trong kinh doanh, cốt lõi là tự do ngôn luận, tự do báo chí.”
Nhà bất đồng chính kiến với đảng CSVN nói thêm:”Biến cố gọi là Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam hoàn toàn không đổ máu, không có đấu tranh giằng co bằng bạo lực quyết liệt. Chính quyền thực dân Pháp đã bị phát xít Nhật lật đổ ngày 9/3/1945 trong một cuộc đảo chính nhẹ nhàng. Trước đó cả Đông dương thuộc Pháp đã đầu hàng phát xít Đức, Việt Nam trở thành thuộc địa của nước Pháp thua trận đã đầu hàng phát xít, cho nên bị khối Đồng minh xếp vào loại bị quân Đồng minh là quân đội Anh và quân đội Trung Hoa Dân quốc chiếm đóng để giải giáp quân đội Nhật đã đầu hàng Đồng minh. Quân đội Trung Hoa vào miền Bắc, quân Anh vào miền Nam.
Việt Nam trở thành đất trống về quyền lực cai trị, chính phủ Trần Trọng Kim vừa thành lập được 6 tháng còn non yếu, tuy về danh nghĩa đã giành được nền độc lập từ tay phát xít Nhật đã buông súng đầu hàng Đồng minh. Do sức ép của quần chúng xuống đường theo lời hiệu triệu của Mặt Trận Việt Minh do đảng CS Đông Dương tổ chức ra. Vua Bảo Đại thoái vị nhanh chóng, bày tỏ niềm vui “từ bỏ ngai vàng để trở thành một công dân tự do”.
(trích theo GS-TS Phạm Cao Dương: “Việt Minh Cướp Chính Quyền, 73 Năm Nhìn Lại”, ngày 17/08/2018)
Ông Bùi Tín, sinh ngày 29/12/1929, đã tị nạn chính trị tại Pháp năm 1990 và qua đời tại Paris ngày 11/8/2018
NHẠC SỸ TÔ HẢI
Đến lượt nhân chứng, cố Nhạc Sỹ Tô Hải, tác giả bài ca nổi tiếng Nụ Cười Sơn Cước đã kể:” Chỉ đơn cử 2 ngày 17 và 19/8/1945 là đã có sự lẫn lộn rồi. Thì ra 17/8 là cuộc Mít tinh của công chức biểu tình ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim. Còn ngày 19/8 là ngày Mít tinh ủng hộ Việt Minh. Bọn thanh niên chúng tớ ngơ ngác về chính trị, cứ thấy Mít tinh là ào ào đổ ra đường chẳng hiểu ai lãnh đạo?
Theo Bách khoa Toàn thư mở thì ông Tô Hải, tên thật là Tô Đình Hải, sinh ngày 24/09/1927, qua đời ngày 11/08/2018, từng phụ trách các hoạt động văn nghệ và mỹ thuật, là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, tham gia công tác tại Khu 4 và Nhà xuất bản Mỹ thuật
Trước khi xuất bản “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn” năm 2009, ông đã ra khỏi đảng. Ông cho biết không khí hoang mang của ngày 19/08/1945 như thế này :” Ai hô thế nào thì hô theo thế ấy. Cờ vàng, cờ đỏ chẳng có gì quan trọng. Miễn là đi qua trại lính Nhật chẳng thấy đứa nào dám nổ súng dù có hô to “Đả đảo Phát xít Nhật!” “Việt Nam muôn năm!” Cả hai cuộc mít tinh nói trên đều có mặt cái thằng tớ. Cũng may là tớ chẳng vướng vào các cuộc mít tinh có lính Tầu Tưởng đứng gác ở chợ Đồng Xuân để bị nghe “Tỉu cái là ma lồng pào!” khi bị Việt Minh giải tán!...”
Với lời tự nhận “Tớ đúng là một tên gà mờ”, ông Tô Hải kể tiếp:”Có phải chính những người như bọn tớ, tay cầm cờ vàng ba sọc đỏ, miệng hát “Này thanh niên ơi ! Quốc gia đến ngày giải phóng“ kéo nhau đi biểu tình ủng hộ chính phủ TTK đã “quáng gà cách mạng” nên, giữa chừng đã a-dua, khi thấy người ta trương lên lá cờ đỏ sao vàng to tướng và phát cho chúng tớ những lá cò đỏ nhỏ bằng cái quạt mo là những người đã được “Đảng giáo dục” và “đồng lòng cùng đi tiếc gì thân sống“ để thực hiện nghị quyết của Đại Hội Quốc Dân (? ) họp ở Tân Trào? Không! Hoàn toàn không! Chúng tớ, lúc ấy, dù bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào, đã đưa ra đường lối chống Pháp, đã hứa hẹn Độc Lâp-Tự Do cho đất nước, đều sẵn sang đi theo! Đến cựu Hoàng Bảo Đại cũng còn tuyên bố “Làm dân một nước tự do còn hơn là làm vua một nước nô lệ!” nữa là…!”
Cuối cùng Nhạc sỹ Tô Hải đã thẳng tay bác chuyện đảng CSVN “nhận vơ” đã lãnh đạo cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 như sau:
“Nói trắng ra rằng, dân Việt Nam chẳng hề biết đến cái sự lãnh đạo tài tình nào của Đảng Cộng Sản trước cái ngày 19 tháng 8 năm 1945 ấy! Vả lại lúc đó Đảng các ông có mấy người? Làm sao chỉ có gần 60 chục mống, (trong đó có cả ông anh họ tớ, Tô Kim Châu, Ban Bình Dân Học Vụ cùng Nguyễn Hữu Đang, không hề là Đảng viên CS, sau này bỏ vô Nam, làm cái gì đó ở toà án quân sự VNCH, nên đi học tập “có” 11 năm!) đi họp ở Tân Trào về mà động viên được cả triệu người, đủ mọi thành phần từ Bắc vô Nam, đứng lên đòi Độc Lập Tự Do kia chứ!
-- Tóm lại, theo tớ, 19 tháng 8 năm 45 nếu tớ là nhà viết sử có lương tâm tớ sẽ viết hẳn một chương; CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM VÀ CUỘC ĐẢO CHÍNH 19 THÁNG 8 NĂM 45. Tiếp theo đó là những trang bi tráng nhất về lịch sử dân tộc Việt Nam sau cuộc Đảo Chính này… Vì:
Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã bắt đầu bị đổi mầu từ đây. Máu đổ xương rơi cũng bắt đầu từ đây!”
(theo GS-TS Phạm Cao Dương: “Việt Minh Cướp Chính Quyền, 73 Năm Nhìn Lại”, ngày 17/08/2018)
LUẬT SƯ TRẦN THANH HIỆP
Cuối cùng, nguyên Luật sư Tòa Thượng thẩm Sài Gòn và Paris, Trần Thanh Hiệp phát biểu về ngày 19/08/1945 như sau:
“Tôi nhớ là nhân có một cuộc biểu tình do công chức, dân chúng tổ chức để ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, thì trong cuộc biểu tình ấy Việt Minh cướp cờ nổi lên và giành lấy như là cuộc biểu tình của Việt Minh để mà làm cuộc Cách mạng tháng Tám. Nhưng mà thực sự ra không có cách mạng gì cả, mà chỉ là một sự cướp chính quyền thôi."
Ông nhấn mạnh:"Đối với tôi đó là một hành động cướp chính quyền chứ không phải là cái mà người ta gọi là Cách mạng tháng Tám vì không có gì thay đổi, cách mạng cả, chỉ có cướp quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim để mà Đảng Cộng sản dưới tên gọi là Mặt trận Việt Minh hay Việt Nam Mặt trận Đồng minh, cướp lấy chính quyền..."
“…Đảng Cộng sản Việt Nam khi cướp chính quyền thì giữ luôn chính quyền cho riêng mình và giành lấy độc quyền, rồi từ đó đến nay mở ra đường lối toàn trị. Thành ra Đảng Cộng sản tự cho mình quyền thay dân chúng để sử dụng chủ quyền quốc gia.”
(BBC Tiếng Việt, 31/08/2018)
VẪN NÓI DỐI QUANH
Với 3 nhân chứng cựu đảng viên đảng Cộng sản Nguyễn Đình Cống, Bùi Tín, Tô Hải và Luật sư Trần Thanh Hiệp nói về ngày 19 tháng Tám năm 1945, thiết tưởng đã qúa đủ để thấy ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN chẳng có công trạng gì với cái gọi là “Cách mạng tháng Tám 1945”.
Chẳng qua là nhóm cán bộ Việt Minh ở Hà Nội khi ấy đã nhanh chân chốp lấy thời cơ để biến cao trào quần chúng xuống đường ủng hộ Chính phủ Trần Trọng Kim và ăn mừng đất nước đã được độc lập, sau tuyên bố của Vua Bảo Đại ngày 11-3-1945, để cướp chính quyền cho Cộng sản cai trị độc quyền.
Thế mà Tuyên giáo của đảng CSVN, qua báo Quân đội Nhân dân, đã huyênh hoang:” Phủ nhận thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm xuyên tạc lịch sử, hướng lái con thuyền cách mạng nước ta theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, là thủ đoạn không mới, nhưng vô cùng thâm độc của các thế lực thù địch. Do đó, luận giải và kiên quyết đấu tranh làm thất bại mưu đồ phản động ấy là vấn đề cấp thiết và thời sự hiện nay.
Cách mạng Tháng Tám giành thắng lợi cách đây 75 năm là dấu mốc lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam thời hiện đại.”
(báo QĐND, ngày 18/08/2020)
Tại sao lại cay cú đến thế? Vĩ đại chỗ nào? Lý do tiếp tục bị phủ nhận vì cái gọi là Cách mạng tháng Tám 75 năm trước đầy đã không đem lại cơm no áo ấm và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Ngược lại, vì tham vọng quyền lực và vì phải chu toàn điều gọi là “nghĩa vụ quốc tế Cộng sàn” với hai đàn anh Nga-Tầu, đảng CSVN đã đưa đất nước vào 30 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn, gây chia rẽ hận thù và tiếp tục chậm tiến lạc hậu như ngày này.
Điều này được Giáo sư, Tiến sỹ Lịch sử Phạm Cao Dương tóm tắt trong bài viết năm 2018 của ông như sau:
“Cách đây đúng 73 năm, hai biến cố lớn đã xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam, đã đưa dân tộc Việt Nam vào một khúc quanh lịch sử vô cùng quan trọng: Biến Cố 19/8/1945, Việt Minh cướp chính quyền và Biến Cố 2/9/1945, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc lập.
Hai biến cố này đã đưa tới sự thay thế chính quyền của Hoàng Đế Bảo Đại và Thủ Tướng Trần Trọng Kim bằng chính quyền Việt Minh do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản lãnh đạo, từ đó tới Cuộc Chiến Ba Mươi Năm, đầy đau thương, chết chóc, chia rẽ và hủy diệt, kéo dài từ năm 1946 đến năm 1975.”
GS Phạm Cao Dương, sau nhiều năm giảng dạy tại các trường Đại học ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975, và sau 1975 tại Mỹ, đã nghĩ hưu nói thêm:”Hai biến cố này thực ra là đều không cần thiết vì ít nhất hai lý do:
Thứ nhất: Người Pháp đã bị nguời Nhật loại trừ ra khỏi chính quyền Đông Dương từ sau ngày 9/3/1945, ngày Nhật đảo chính Pháp. Tiếp theo đến lượt người Nhật đầu hàng, Việt Nam đương nhiên độc lập với chính quyền Bảo Đại–Trần Trọng Kim là chính quyền đương nhiệm và hợp pháp. Sau này khi người Pháp muốn trở lại, người ta vẫn có thể dùng các phương tiện ngoại giao để điều đình nhưng với một tư thế hoàn toàn khác trước.
Thứ hai: Chính quyền của Hoàng Đế Bảo Đại và Thủ Tướng Trần Trọng Kim không phải là một chính quyền tệ hại, như bị CS tuyên truyền, trái lại gồm toàn những trí thức ưu tú đương thời, có khả năng, nhiệt tâm và sự hiểu biết cần thiết để điều hành đất nước, khác với các chính quyền sau đó. Chính quyền này đã và đang thực hiện được nhiều công trình quan trọng như thu hồi và cụ thể hóa nền độc lập và thống nhất quốc gia, thiết lập những cơ chế căn bản cho một chế độ dân chủ, tự do trong một tuần lễ được báo chí đương thời mệnh danh là Tuần Lễ Của Các Tự Do, đặc biệt và tồn tại cho đến tận ngày nay là công cuộc Việt hóa và xây dựng nền giáo dục quốc gia...dù chỉ mới cầm quyền được trên dưới bốn tháng, những gì chính quyền Cộng Sản cho đến tận ngày nay vẫn chưa muốn làm hay chưa làm được.”
(trích bài Phạm Cao Dương : “Việt Minh Cướp Chính Quyền, 73 Năm Nhìn Lại”, ngày 17/08/2018)
Như thế thì ngày 19/08/1945 nên được đặt vào chỗ nào trong lịch sử giữ nước và dựng nước của Việt Nam, và những tang thương, đỗ vỡ của dân tộc do đảng CSVN gây ra từ sau biến cố này có cách gì hàn gắn được không?
Lịch sử đã là như thế thì tất nhiên không thể bị bẻ cong hay đổi trắng thay đen tùy tiện. -/-
Phạm Trần