Tin Giáo Hội Việt Nam
Tòa Giám Mục giáo phận Vinh góp ý Dự thảo 5 Luật Tôn giáo Tín ngưỡng
TÒA GIÁM MỤC XÃ ĐOÀI
Xã Nghi Diên, Huyện Nghi Lộc
Tỉnh Nghệ An, Việt Nam
Đt: +84 383 861 171
fax: +84 383 861 215
Email:
Số: 09.15/TGM.CV
Xã Đoài, ngày 11 tháng 11 năm 2015
Kính gửi: - Ban Tôn giáo Chính phủ - Bộ Nội vụ
- Văn phòng Quốc hội
Nếu phân tích mối tương quan giữa Nhà nước với các Tôn giáo tại Việt Nam từ năm 1975 cho đến nay, chúng ta phải công nhận rằng đây là tương quan phức tạp, với nhiều thăng trầm, căng thẳng và đôi khi bi thảm. Trong bối cảnh đó, phải nhìn nhận Sắc Lệnh về tôn giáo (2004) là một bước đầu trên con đường đổi mới. Dự thảo Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo là bước tiến quan trọng và cần thiết khác để đi đến chỗ công nhận tự do tôn giáo như quyền tự thân của con người, cũng như tạo điều kiện cần thiết trong tiến trình dân chủ hoá của đất nước. Chính vì vậy, không những chúng tôi đã tích cực đóng góp ý kiến cho Dự thảo 4 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (sau đây gọi là Dự thảo 4), mà còn muốn tiếp tục được đóng góp ý kiến cho Dự thảo 5 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (Sau đây gọi là Dự thảo 5).
Chúng tôi cảm ơn Ban soạn thảo và Văn phòng Quốc hội đã lắng nghe những góp ý của nhiều người, trong số đó có chúng tôi. Cũng rất vui khi thấy Dự thảo 5 đã có những sửa đổi tích cực như giảm bớt cơ chế “xin – cho”, bỏ hay thay thế một số điều khoản và từ ngữ quy định quá rộng hoặc mang tính mơ hồ. Chúng tôi cũng thấy Dự thảo 5 có tầm nhìn rộng hơn về quyền tự do tôn giáo như quyền tự thân của con người, quyền của tổ chức tôn giáo trong lĩnh vực giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội... , nhất là quyền tôn giáo của những người đang chấp hành án phạt tù.
Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy trong Dự thảo 5 một số ý kiến đóng góp hợp lý của nhiều người vẫn chưa được ghi nhận. Đặc biệt, Dự thảo 5 vẫn còn chứa đựng nhiều bất cập và qui định chưa phù hợp với Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR) và Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) cũng như Hiến pháp Việt Nam 2013.
Với ước mong có một luật phù hợp với chuẩn mực quốc tế, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của con người và thể hiện đúng đắn vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo, chúng tôi muốn tiếp tục góp ý cho Dự thảo 5 này. Dựa trên những lý do, luận chứng có cơ sở pháp lý cũng như tham chiếu pháp luật liên quan, chúng tôi đã phân tích những quy định của Dự thảo 5 một cách cụ thể và chi tiết như sau:
1. Điều 2, các khoản 7, 8 và 10
a. Khoản 7 và 8
Dự thảo 5:
Điều 2. Giải thích từ ngữ
7. Sinh hoạt tôn giáo là việc thờ cúng, cầu nguyện, bày tỏ niềm tin tôn giáo.
8. Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo.
Có sự chồng chéo về nội dung trong hai khoản luật này. Ví dụ như ở Giáo hội Công giáo, việc bày tỏ niềm tin được thể hiện trong việc làm dấu thánh giá, đọc kinh, cầu nguyện, thánh lễ hằng ngày, dạy giáo lý cho trẻ em... là các sinh hoạt tôn giáo. Nhưng khoản 8 lại xếp việc thực hành giáo lý, lễ nghi vào hoạt động tôn giáo. Như thế, việc dâng lễ hằng ngày, học giáo lý lại thuộc hoạt động tôn giáo chứ không còn là sinh hoạt tôn giáo nữa. Quy chế cho sinh hoạt tôn giáo và hoạt động tôn giáo có phạm vi hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, chúng tôi đề nghị sửa khoản 7 và 8 Điều 2 như sau:
Điều 2. Giải thích từ ngữ
7. Sinh hoạt tôn giáo là những hoạt động mang tính chất thường xuyên để biểu thị niềm tin tôn giáo.
8. Hoạt động tôn giáo là hoạt động quản lý tổ chức của tôn giáo, hoạt động giáo dục, đào tạo tại các trường tôn giáo, các cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo, truyền bá tôn giáo ngoài cơ sở tôn giáo.
b. Khoản 10
Dự thảo 5:
Điều 2. Giải thích từ ngữ
10. Cơ sở tôn giáo là nơi thờ tự, tu hành, nơi đào tạo người chuyên hoạt động tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và những cơ sở khác của tổ chức tôn giáo.
Dự thảo 5 công nhận quyền hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, từ thiện, bác ái của các tổ chức tôn giáo, vì vậy chúng tôi đề nghị đưa những cơ sở dùng cho các hoạt động này vào khoản 10 này. Vậy, Điều 2, khoản 10 nên sửa đổi như sau:
Điều 2. Giải thích từ ngữ
10. Cơ sở tôn giáo là nơi thờ tự, tu hành, nơi đào tạo người chuyên hoạt động tôn giáo, trụ sở, cơ sở giáo dục, y tế, từ thiện, bác ái và những cơ sở khác của tổ chức tôn giáo.
2. Điều 3
Dự thảo 5:
Điều 3. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người.
2. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
3. Nhà nước bảo đảm quyền hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan; khuyến khích các hoạt động nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo.
Vế thứ nhất của khoản 1, ghi nhận “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào” là chưa chính xác và đầy đủ. Quyền “theo hoặc không theo một tôn giáo nào” là nội hàm của quyền tự do tôn giáo chứ không phải là một quyền song song, ngang hàng với quyền tự do tôn giáo. Quy định này cũng đã bỏ sót hai nội hàm khác của quyền tự do tôn giáo là quyền tự do thay đổi tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do biểu thị tín ngưỡng, tôn giáo.
Vế thứ 2 của khoản 1 này quy định vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Để có sự đồng nhất về nội dung, nên chuyển vế này đi kèm với khoản 3 và tách thành một điều luật riêng biệt quy định vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo và nên đặt vào tiếp theo sau Điều 5.
Mặt khác, điều luật này cần cụ thể hóa quyền tự do biểu thị tín ngưỡng, tôn giáo thành những phần rõ rệt, cụ thể hơn. Theo khoản 1, Điều 5 và Điều 6, bản Tuyên bố xóa bỏ mọi hình thức không khoan dung và phân biệt đối xử dựa trên cơ sở tôn giáo hay tín ngưỡng của Liên Hợp Quốc (được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua tại nghị quyết số 36/55 ngày 25/11/1981), quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm những tự do sau đây:
Điều 5.
1. Cha mẹ, hoặc trong trường hợp có thể là người giám hộ hợp pháp của trẻ em, có quyền tổ chức cuộc sống trong phạm vi gia đình phù hợp với tôn giáo hay tín ngưỡng của họ và quan tâm đến việc giáo dục đạo đức trong môi trường mà họ tin tưởng rằng trẻ em sẽ được nuôi dưỡng tốt.
Điều 6.
Căn cứ theo Điều 1 của Tuyên bố này, và căn cứ theo các quy định tại Điều 1, khoản 3, quyền tự do tư tưởng, lương tâm, tôn giáo hay tín ngưỡng bao gồm những tự do sau đây:
1. Được thờ cúng hoặc tụ họp liên quan đến tôn giáo hay tín ngưỡng, và được thành lập và duy trì những cơ sở cho những mục đích trên;
2. Được thành lập và duy trì các cơ sở nhân đạo hoặc từ thiện thích hợp;
3. Được chế tạo, thu mua và sử dụng ở mức độ đầy đủ những đồ vật cần thiết và tài liệu liên quan đến phong tục hay tập quán của một tôn giáo hay tín ngưỡng;
4. Được viết, phát hành và phổ biến các ẩn phẩm có liên quan đến những lĩnh vực trên;
5. Được thuyết giáo về một tôn giáo hay tín ngưỡng ở những nơi phù hợp cho những mục đích trên;
6. Được xin và tiếp nhận những đóng góp tài chính tự nguyện và những đóng góp khác của các cá nhân và tổ chức;
7. Được đào tạo, bổ nhiệm, bầu hay chỉ định những lãnh tụ kế nhiệm phù hợp với những yêu cầu và tiêu chuẩn của bất cứ tôn giáo hay tín ngưỡng nào;
8. Được có những ngày nghỉ và kỷ niệm những ngày lễ và buổi lễ phù hợp với giáo luật tôn giáo hay tín ngưỡng của một người;
9. Được thành lập và duy trì cơ chế thông tin cho các cá nhân và cộng đồng trong những vấn đề về tôn giáo hay tín ngưỡng ở cấp quốc gia và quốc tế.
Chúng tôi đề nghị đưa những quy định vừa nêu vào điều luật này để cụ thể hóa quyền tự do tôn giáo.
Khoản 2, Điều 3 của Dự thảo 5 quy định “Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật” là đã bỏ quên nội dung “tín ngưỡng”, điều này có thể bị hiểu rằng, các tín ngưỡng thì không bình đẳng. Vậy, đề nghị thêm từ “tín ngưỡng” vào trong khoản này.
Vậy, đề nghị sửa Điều 3 như sau:
Điều 3. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào, tự do thay đổi tín ngưỡng, tôn giáo, tự do biểu thị tín ngưỡng, tôn giáo.
Cha mẹ, hoặc trong trường hợp có thể là người giám hộ hợp pháp của trẻ em, có quyền tổ chức cuộc sống trong phạm vi gia đình phù hợp với tôn giáo hay tín ngưỡng của họ và quan tâm đến việc giáo dục đạo đức trong môi trường mà họ tin tưởng rằng trẻ em sẽ được nuôi dưỡng tốt.
2. Quyền tự do biểu thị tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm:
a. Được thờ cúng hoặc tụ họp liên quan đến tôn giáo hay tín ngưỡng, và được thành lập và duy trì những cơ sở cho những mục đích trên;
b. Được thành lập và duy trì các cơ sở nhân đạo hoặc từ thiện thích hợp;
c. Được chế tạo, thu mua và sử dụng ở mức độ đầy đủ những đồ vật cần thiết và tài liệu liên quan đến phong tục hay tập quán của một tôn giáo hay tín ngưỡng;
d. Được viết, phát hành và phổ biến các ẩn phẩm có liên quan đến những lĩnh vực trên;
đ. Được thuyết giáo về một tôn giáo hay tín ngưỡng ở những nơi phù hợp cho những mục đích trên;
e. Được xin và tiếp nhận những đóng góp tài chính tự nguyện và những đóng góp khác của các cá nhân và tổ chức;
g. Được đào tạo, bổ nhiệm, bầu hay chỉ định những lãnh tụ kế nhiệm phù hợp với những yêu cầu và tiêu chuẩn của bất cứ tôn giáo hay tín ngưỡng nào;
h. Được có những ngày nghỉ và kỷ niệm những ngày lễ và buổi lễ phù hợp với giáo luật tôn giáo hay tín ngưỡng của một người;
i. Được thành lập và duy trì cơ chế thông tin cho các cá nhân và cộng đồng trong những vấn đề về tôn giáo hay tín ngưỡng ở cấp quốc gia và quốc tế.
3. Các tín ngưỡng, tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
3. Điều 4
a. Điều 4, khoản 1
Dự thảo 5
Điều 4. Quyền, nghĩa vụ của người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo
1. Người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo có quyền tự do bày tỏ niềm tin; tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo; thực hành nghi lễ tín ngưỡng, tôn giáo tại gia đình và cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo.
Khoản 1 Điều 4 này quy định quyền của người có tín ngưỡng, tôn giáo, nhưng chúng tôi nhận thấy nội dung vẫn chưa phản ánh đủ nội hàm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại Điều 18, UDHR và Điều 18, ICCPR. Người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo không chỉ có quyền tự do “bày tỏ niềm tin” mà là “tự do biểu thị tín ngưỡng, tôn giáo”; không chỉ “tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo; thực hành nghi lễ tín ngưỡng, tôn giáo” mà còn bao gồm quyền giảng dạy, truyền đạo. Việc bày tỏ tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ giới hạn “tại gia đình, cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo” mà có thể tại nơi công cộng hay tại nhà riêng. Ngoài ra, quyền biểu thị tín ngưỡng, tôn giáo còn bao gồm quyền tự do bày tỏ một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo.
Vì thế, chúng tôi đề nghị ở khoản này không nên dùng phương pháp liệt kê, vừa dài dòng vừa không đầy đủ, mà nên lấy lại những ý tưởng cô đọng nhưng đầy đủ của Điều 18, UDHR và Điều 18, ICCPR.
b. Điều 4, khoản 2
Dự thảo 5
2. Người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện được sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo mà mình tin theo.
Khoản 2, Điều 4 này quy định quyền tự do tôn giáo của những người đang bị hạn chế một số quyền dân sự. Qua góp ý cho Dự thảo 4, chúng tôi nhận thấy đã có một vài thay đổi tích cực, nhưng vẫn chưa đủ. Việc hạn chế một số quyền dân sự của một số công dân không bao gồm việc hạn chế quyền tôn giáo là một quyền mang tính tự thân của con người. Mặt khác, điều luật này cần thiết định sao cho phù hợp với chuẩn mực của công ước quốc tế. Tại các quy tắc 41 và 42 của Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân của Liên Hợp Quốc (Được thông qua tại Cuộc họp lần thứ nhất của Liên Hợp Quốc về Ngăn ngừa Tội phạm và Đối xử với Người phạm tội, tổ chức tại Geneva năm 1955, và được Hội đồng Kinh tế - Xã hội phê chuẩn bằng các Nghị quyết 663C (XXIV) ngày 31/7/1957 và 2076 (LXII) ngày 13/5/1977) quy định như sau:
41. a. Nếu nhà tù có đủ số tù nhân cùng theo một tôn giáo thì một đại diện đủ tư cách của tôn giáo đó phải được chỉ định hoặc chấp thuận. Nếu số lượng tù nhân là thỏa đáng và nếu điều kiện cho phép thì cần thỏa thuận để người đại diện đó làm việc toàn thời gian.
b. Người đại diện đủ tư cách được chỉ định hoặc chấp thuận theo khoản 1 điều này phải được phép tổ chức hành lễ thường xuyên và được đi thăm tù nhân theo tôn giáo của người đó một cách riêng tư vào những thời điểm thích hợp.
c. Không được từ chối cho bất kỳ tù nhân nào tiếp xúc với đại diện đủ tư cách của một tôn giáo. Mặt khác, nếu bất kỳ tù nhân nào phản đối sự viếng thăm của bất kỳ đại diện của một tôn giáo nào thì thái độ của tù nhân đó phải được tôn trọng hoàn toàn.
42. Trong chừng mực có thể thực hiện được, mọi tù nhân phải được thỏa mãn những nhu cầu đời sống tôn giáo bằng việc tham gia các buổi lễ tổ chức trong nhà tù, được sở hữu sách kinh của tôn giáo và giáo phái của người đó.
Vậy, ngoài những quyền mà khoản 2, Điều 4 này quy định, những người trong trường hợp này còn được biểu thị tín ngưỡng, tôn giáo của mình qua việc tham dự lễ nghi tôn giáo và được sự viếng thăm, phục vụ nhu cầu tôn giáo của đại diện đủ tư các của tôn giáo mà người đó tin theo.
c. Điều 4, khoản 3
Dự thảo 5
3. Người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo là công dân Việt Nam được hưởng mọi quyền công dân và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân.
Đề nghị đổi cụm từ “được hưởng” thành “có đầy đủ”, vì công dân Việt Nam có tín ngưỡng, tôn giáo vẫn đương nhiên là công dân Việt Nam với đầy đủ quyền và nghĩa vụ chứ ở đây không phải là chuyện “xin – cho”.
d. Điều 4, khoản 4
Dự thảo 5
4. Người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; giữ gìn truyền thống, bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc và tuân thủ pháp luật.
Đề nghị bỏ các cụm từ “không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân” và “tuân thủ pháp luật”. Bất cứ ai hoặc tổ chức nào cản trở việc thực hiện nghĩa vụ công dân hoặc vi phạm pháp luật đều bị xử lý bằng pháp luật, điều đó là đương nhiên. Vì vậy quy định này không phải là quy định đặc thù cho những người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo nên khi đặt vào đây, một cách tế nhị, có thể bị hiểu lầm.
Tóm lại, đề nghị sửa toàn bộ Điều 4 như sau:
Điều 4. Quyền, nghĩa vụ của người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo
1. Người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo có quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, công khai hoặc kín đáo, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.
Quyền tự do biểu thị tín ngưỡng, tôn giáo có thể bị giới hạn bởi Luật này hoặc các luật khác có liên quan với điều kiện khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác.
2. Người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện có quyền thực hành tín ngưỡng, tôn giáo mà mình tin theo, có quyền sử dụng kinh sách, quyền được gặp đại diện đủ tư cách của tôn giáo đó để được đáp ứng nhu cầu tôn giáo của mình.
3. Người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo là công dân Việt Nam có đầy đủ mọi quyền công dân và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân.
4. Người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; giữ gìn truyền thống, bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
4. Điều 6, khoản 4
Dự thảo 5
Điều 6. Các hành vi bị nghiêm cấm
4. Cản trở tổ chức, cá nhân thực hiện hoặc tham gia hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp.
Theo khoản 7 và 8 Điều 2, sinh hoạt tôn giáo và hoạt động tôn giáo là khác nhau, ở khoản 4 Điều 6 này đã bỏ quên “sinh hoạt tôn giáo” là quyền tôn giáo cần được bảo vệ. Vậy đề nghị bổ sung nội dung “sinh hoạt tôn giáo” vào khoản 4, Điều 6 này.
Điều 6. Các hành vi bị nghiêm cấm
4. Cản trở tổ chức, cá nhân thực hiện hoặc tham gia hoạt động tín ngưỡng, sinh hoạt tôn giáo, hoạt động tôn giáo hợp pháp.
5. Điều 13, khoản 3, điểm c; Điều 14, khoản 5; Điều 24, khoản 3, điểm b; Điều 32, khoản 2 và Điều 34, khoản 2, điểm b
a. Điều 13, khoản 3, điểm c; Điều 14, khoản 5 và Điều 24, khoản 3, điểm b
Dự thảo 5
Điều 13. Đăng ký sinh hoạt tôn giáo
3. Điều kiện đăng ký sinh hoạt tôn giáo
c) Người đại diện là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Điều 14. Điều kiện để cấp đăng ký hoạt động tôn giáo
5. Có người đại diện là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Điều 24. Việc tuyển sinh của cơ sở đào tạo tôn giáo
3. Điều kiện theo học tại cơ sở đào tạo tôn giáo
b) Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Mệnh đề “nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật” có nội hàm rất rộng và nhiều khi mơ hồ. Một vi phạm nhỏ, ví dụ như không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng xe gắn máy, cũng có thể được xem như không nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Khi những lỗi như vậy được làm căn cứ để ngăn cản cấp đăng ký hoạt động cho một tổ chức tôn giáo thì, theo khoản này, nó vẫn hợp pháp. Nếu như vậy, quy định này là không thể chấp nhận được.
Vì vậy, đề nghị sửa khoản này cụ thể, rõ ràng hơn đó là những vi phạm thuộc loại nào, ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng theo Bộ Luật Hình sự hay ít nhất là phải có quyết định xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực liên quan đến lĩnh vực tôn giáo. Vậy, đề nghị sửa điểm c, khoản 3, Điều 13 như sau:
Điều 13. Đăng ký sinh hoạt tôn giáo
3. Điều kiện đăng ký sinh hoạt tôn giáo
c) Người đại diện là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không có án tích về một tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của Bộ Luật Hình sự hoặc không có quyết định xử phạt hành chính trong lĩnh vực tôn giáo đang có hiệu lực.
Đề nghị sửa tương tự với cùng lý do như trên đối với Điều 14, khoản 5 và Điều 24, khoản 3, điểm b.
b. Điều 32, khoản 2
Dự thảo 5
Điều 32. Điều kiện phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử trong tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
2. Điều kiện đối với người được phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử:
a) Là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
b) Có tinh thần đoàn kết, hòa hợp dân tộc
c) Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật
- Điểm b, khoản 2 Điều này quy định người được phong chức, phong phẩm... phải “Có tinh thần đoàn kết, hòa hợp dân tộc” nhưng không đưa ra tiêu chí cụ thể để đánh giá và thẩm quyền đánh giá tiêu chí này. Vì vậy, nó mang tính mơ hồ, không rõ ràng.
Các tôn giáo có tiêu chí đánh giá một cách khắt khe cho các ứng cử viên giữ chức vụ quan trọng trong tôn giáo đó. Khi hội đủ các điều kiện cần thiết theo nội quy, hiến chương, giáo luật thì các tổ chức tôn giáo tiến hành hoạt động trên. Việc đánh giá ứng cử viên là quyền tự quyết của tổ chức tôn giáo và tín đồ của họ, nhà nước không nên can thiệp vào điều này với một khoản luật mơ hồ. Vậy yêu cầu bỏ điểm b trong khoản luật này.
- Điểm c, khoản 2 điều này lặp lại một tiêu chí đánh giá rất rộng mà chúng tôi vừa góp ý sửa đổi ở trên.
Vậy, yêu cầu sửa Điều 32, khoản 2 thành như sau:
Điều 32. Điều kiện phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử trong tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
2. Điều kiện đối với người được phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử:
a) Là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
b) Không có án tích về một tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của Bộ Luật Hình sự hoặc không có quyết định xử phạt hành chính trong lĩnh vực tôn giáo đang có hiệu lực.
c. Điều 34, khoản 2, điểm b
Dự thảo 5
Điều 34. Phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài
2. (...) Riêng người có quốc tịch nước ngoài đang hoạt động cho tổ chức tôn giáo của Việt Nam khi được phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử phải đáp ứng các điều kiện sau:
b) Tuân thủ pháp luật Việt Nam
Nội hàm của “Tuân thủ pháp luật Việt Nam” là quá rộng. Tương tự như vừa góp ý ở trên, để nghị đưa ra những tiêu chuẩn đánh giá và thẩm quyền đánh giá cụ thể để dễ dàng và chính xác khi áp dụng.
6. Điều 21, Điều 29 và Điều 30
a. Điều 21
Dự thảo 5
Điều 21. Chấp thuận thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc
1. Thẩm quyền:
a) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc chấp thuận thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc có hoạt động trong một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương quyết định việc chấp thuận thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc có hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
2. Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục chấp thuận việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Thứ nhất: Điều 21 này quy định cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc khi họ có đủ các điều kiện quy định tại Điều 20. Vì vậy đề nghị sửa từ “Chấp thuận” trong điều luật thành “Thẩm quyền công nhận” để hợp lý hơn và tránh cơ chế “xin – cho”.
Thứ hai: Thời hạn để cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của tổ chức tôn giáo là rất quan trọng. Mặc dù điều này có thể hiểu là đã bao hàm trong khoản 2, giao cho Chính phủ quy định, nhưng vì nó quan trọng và thuộc quyền lập pháp nên không được giao quyền này cho Chính phủ. Vậy nên thêm một khoản luật quy định cụ thể thời hạn của mỗi cấp là bao nhiêu.
Chúng tôi đề nghị sửa điều luật này như sau:
Điều 21. Công nhận việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc
1. Thẩm quyền:
a) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền ra quyết định công nhận việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc có hoạt động trong một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có thẩm quyền ra quyết định công nhận việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc có hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
2. Thời hạn
a) Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại điểm a, khoản 1 điều này ra quyết định công nhận thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ quy định tại Điều 20 luật này. Trường hợp không công nhận, phải trả lời bằng văn bản trong đó nêu rõ lý do không công nhận.
b) Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại điểm b, khoản 1 điều này ra quyết định công nhận thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ quy định tại Điều 20 luật này. Trường hợp không công nhận, phải trả lời bằng văn bản trong đó nêu rõ lý do không công nhận.
3. Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục chấp thuận việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc.
b. Điều 29 và Điều 30
Hai điều này quy định tạm đình chỉ hoạt động tôn giáo, giải thể tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tạm đình chỉ hoạt động đào tạo, giải thể cơ sở đào tạo tôn giáo, nhưng trong nội dung không quy định thời hạn bị tạm đình chỉ bao lâu, gia hạn như thế nào, hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ như thế nào, bị tạm đình chỉ bao lâu thì bị ra quyết định đình chỉ. Tương tự như góp ý cho Điều 21 ở trên, chúng tôi đề nghị đưa các quy định này vào luật một cách cụ thể, không giao các trách nhiệm lập pháp này cho Chính phủ.
7. Điều 22, khoản 1, điểm d; Điều 23, khoản 1, điểm c và Điều 26, khoản 1
Dự thảo 5
Điều 22. Thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo
1. Điều kiện thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo:
d) Có dự kiến cụ thể về chương trình, nội dung đào tạo trong đó môn học về lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam là môn học chính khóa, số lượng, cơ cấu đội ngũ giảng viên và người quản lý đáp ứng tiêu chuẩn về chất lượng và trình độ đào tạo.
Quy định “môn học về lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam là môn học chính khóa” trong chương trình đào tạo của cơ sở tôn giáo là một quy định bất hợp lý.
Đây là các môn học chính trong hệ thống giáo dục quốc dân và trách nhiệm dạy học các môn này thuộc hệ thống này. Với tư cách công dân, tín đồ đã nộp thuế để Nhà nước duy trì hệ thống giáo dục quốc dân nên không thể đẩy nhiệm vụ sang cho tổ chức tôn giáo.
Mặt khác, khoản 4, Điều 22 ghi rõ: “Cơ sở đào tạo tôn giáo không thuộc hệ thống giáo dục quốc dân”. Khi buộc các cơ sở tôn giáo phải dạy các môn học này là không phù hợp với chức năng của cơ sở đào tạo tôn giáo. Lý do khác là những học viên của cơ sở đào tạo tôn giáo đã học các môn này trong chương trình phổ thông, đại học vì thế không thể buộc họ học lại các môn này.
Vậy, đề nghị bỏ nội dung “môn học về lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam là môn học chính khóa” trong điểm d, khoản 1, Điều 22; điểm c, khoản 1, Điều 23 và khoản 1, Điều 26.
8. Điều 27, khoản 2
Dự thảo 5
Điều 27. Mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo
2. Trình tự, thủ tục mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo
a) Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuôc mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo gửi văn bản đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh nơi mở lớp. Văn bản đề nghị nêu rõ tên lớp, địa điểm mở lớp, lý do mở lớp, thời gian học, nội dung, chương trình, thành phần tham dự, danh sách giảng viên.
b) Cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị hợp lệ.
Hoạt động mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo là hoạt động không thường xuyên nhưng lại đa dạng và thông thường với quy mô nhỏ. Việc quy định thẩm quyền “chấp nhận” thuộc về cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh là quá mức. Điều này sẽ gây khó khăn lớn cho các tổ chức tôn giáo trực thuộc khi ở xa trung tâm tỉnh lỵ. Vậy đề nghị chuyển quyền này cho cơ quan cấp huyện để thuận tiện hơn cho tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc khi thực hiện quyền này.
Mặt khác, hoạt động mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo thuộc về quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, vì vậy không nên thiết lập cơ chế “đề nghị - chấp thuận” (hình thức xin – cho) mà chỉ cần văn bản thông báo cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền là đủ.
Thời hạn trả lời của cơ quan nhà nước trong trường hợp này quy định 15 ngày làm việc là quá dài.
Vậy, góp ý sửa điều khoản này như sau:
Điều 27. Mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo
2. Trình tự, thủ tục mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo
a) Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo gửi văn bản thông báo đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp huyện nơi mở lớp. Văn bản thông báo nêu rõ tên lớp, địa điểm mở lớp, lý do mở lớp, thời gian học, nội dung, chương trình, thành phần tham dự, danh sách giảng viên.
b) Cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp huyện có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản thông báo hợp lệ.
9. Điều 30 và Điều 33
a. Điều 30
Điều luật này quy định thủ tục tiến hành hội nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, quy định thẩm quyền, thời hiệu chấp thuận của cơ quan nhà nước.
Việc tổ chức đại hội, hội nghị của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc đã có trong điều lệ, hiến chương khi đăng ký hoạt động tôn giáo (Điều 15), trong hồ sơ đề nghị công nhận tổ chức tôn giáo (Điều 19) và cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã biết những thông tin này. Ngoài ra, những hoạt động này nằm trong quyền của tổ chức tôn giáo. Vì thế, ở đây không nên sử dụng cơ chế “Đề nghị - cấp phép / từ chối” mà chỉ cần tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trước khi tiến hành hội nghị, đại hội, gửi thông báo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền là đủ. Khi có lý do chính đáng như quy định tại khoản 3 điều này thì cơ quan nhà nước mới ra quyết định tạm đình chỉ tổ chức hội nghị, đại hội.
Vậy, cần thay cụm từ “Văn bản đề nghị” trong Điều 30 này bằng cụm từ “Bản thông báo” để tránh cơ chế “xin – cho”.
b. Điều 33
Điều này quy định việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận đăng ký người được phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Để bảo đảm quyền hoạt động tôn giáo, tính độc lập của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc và tránh cơ chế “xin – cho”, yêu cầu đổi chế độ “đăng ký – chấp thuận / từ chối” sang phương thức “thông báo”, nghĩa là thay các từ “bản đăng ký” thành “bản thông báo”.
10. Điều 38
Dự thảo 5
Điều 38. Giảng đạo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành
1. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành được thực hiện lễ nghi tôn giáo trong phạm vi phụ trách, được giảng đạo tại cơ sở tôn giáo; có trách nhiệm tuyên truyền, hướng dẫn tín đồ thực hiện quyền, nghĩa vụ công dân và ý thức chấp hành pháp luật.
2. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành giảng đạo ngoài cơ sở tôn giáo gửi hồ sơ đến cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp huyện nơi dự kiến giảng đạo.
Hồ sơ gồm:
a) Văn bản đề nghị, trong đó nêu rõ lý do thực hiện giảng đạo ngoài cơ sở tôn giáo, nội dung, chương trình, thời gian, địa điểm thực hiện, người tổ chức, thành phần tham dự;
b) Ý kiến bằng văn bản của tổ chức tôn giáo trực thuộc hoặc tổ chức tôn giáo trực tiếp quản lý chức sắc, nhà tu hành.
3. Cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp huyện có trách nhiệm trình Ủy ban nhân dân cấp huyện về việc giảng đạo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị của cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp huyện.
- Khoản 1 quy định chức sắc, chức việc, nhà tu hành “có trách nhiệm tuyên truyền, hướng dẫn tín đồ thực hiện quyền, nghĩa vụ công dân và ý thức chấp hành pháp luật”. Việc hướng dẫn người khác thực hiện quyền, nghĩa vụ công dân cũng như ý thức chấp hành pháp luật là điều tốt. Tuy nhiên, khi luật đã quy định “trách nhiệm” thì buộc chủ thể pháp luật đó phải thực hiện. Chúng tôi cho rằng đã có sự nhầm lẫn về nhiệm vụ ở đây. Nhiệm vụ của chức sắc, chức việc và nhà tu hành là hoạt động trong lĩnh vực tôn giáo của họ. Việc hướng dẫn nói trên họ cần thực hiện với tư cách công dân Việt Nam và nên xem đây là một khuyến khích, gợi ý chứ không nên gắn thành một trách nhiệm. Đề nghị bỏ mệnh đề này.
- Khoản 2: Việc giảng đạo ngoài cơ sở tôn giáo có nhiều cấp độ và quy mô khác nhau. Khoản 2 Điều này quy tất cả thẩm quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện đã gây khó khăn đối với những hoạt động nhỏ lẻ tại địa phương. Vì vậy nên chia quyền này cho cả Ủy ban nhân dân cấp xã để dễ dàng hơn trong hoạt động tôn giáo.
- Khoản 3: Khoản này quy định thẩm quyền và thời hạn nhưng lại không có căn cứ pháp lý để áp dụng trong trường hợp từ chối. Vậy, cần bổ sung điều này để rõ ràng minh bạch khi áp dụng.
Vậy, đề nghị sửa Điều 38 thành như sau:
Điều 38. Giảng đạo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành
1. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo trong phạm vi phụ trách, giảng đạo tại cơ sở tôn giáo.
2. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành dự kiến giảng đạo ngoài cơ sở tôn giáo gửi hồ sơ đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nơi dự kiến giảng đạo quy định tại khoản 3 Điều này.
Hồ sơ gồm:
a) Văn bản đề nghị, trong đó nêu rõ lý do thực hiện giảng đạo ngoài cơ sở tôn giáo, nội dung, chương trình, thời gian, địa điểm thực hiện, người tổ chức, thành phần tham dự;
b) Ý kiến bằng văn bản của tổ chức tôn giáo trực thuộc hoặc tổ chức tôn giáo trực tiếp quản lý chức sắc, nhà tu hành.
3. Thẩm quyền
a) Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ quy định tại khoản 2 điều này đối với trường hợp hoạt động giảng đạo có phạm vi trong một xã. Trường hợp từ chối phải nêu rõ lý do.
b) Cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp huyện có trách nhiệm trình Ủy ban nhân dân cấp huyện về việc giảng đạo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành đối với các trường hợp không thuộc quy định tại điểm a, khoản 3, Điều này trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị của cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp huyện.
4. Trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe cộng đồng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều này quyết định tạm đình chỉ tổ chức giảng đạo ngoài cơ sở tôn giáo.
11. Điều 39
Dự thảo 5
Điều 39. Tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động tôn giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành
1. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành bị tạm đình chỉ hoạt động tôn giáo trong trường hợp hoạt động không đúng hiến chương, điều lệ, quy định của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận.
2. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành bị đình chỉ hoạt động tôn giáo khi vi phạm quy định tại khoản 5 Điều 6 Luật này.
3. Cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 33, cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương đối với các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 33, khoản 3 Điều 34 tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động tôn giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành khi vi phạm một trong các trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này.
4. Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động tôn giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành.
- Khoản 1: Thẩm quyền và trình độ chuyên môn để xác định chức sắc, chức việc, nhà tu hành có vi phạm hiến chương, điều lệ, quy định của tổ chức tôn giáo là thuộc về tổ chức tôn giáo đó. Việc vi phạm cũng có những cấp độ khác nhau, có thể là cảnh cáo, tạm đình chỉ thi hành chức vụ, đình chỉ thi hành chức vụ hay buộc ra khỏi tổ chức tôn giáo. Vì thế, chế tài trong khoản 1 này phải được dành cho tổ chức tôn giáo xử lý. Sau khi xử lý, tổ chức tôn giáo thông báo cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền biết để áp dụng trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về tôn giáo.
- Khoản 2: Vi phạm trong khoản này thuộc thẩm quyền xử lý của cơ quan Nhà nước, tuy nhiên, nó sẽ có nhiều cấp độ vi phạm và sự nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Ở đây quy định tất cả mọi vi phạm đều bị đình chỉ (vĩnh viễn) là không thực tế. Yêu cầu chia hình thức xử lý trong khoản 2 Điều này thành hai cấp độ: Tạm đình chỉ và đình chỉ hoạt động tôn giáo.
- Khoản 3: Quy định thẩm quyền tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động tôn giáo của cơ quan Nhà nước nhưng lại không quy định thời hạn. Đề nghị thêm thời hạn vào trong Điều này, không giao quyền này cho Chính phủ (như trong khoản 4).
Vậy, đề nghị sửa Điều 39 thành như sau:
Điều 39. Tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động tôn giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành
1. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành bị tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động tôn giáo trong trường hợp hoạt động không đúng hiến chương, điều lệ, quy định của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận hoặc vi phạm quy định tại khoản 5 Điều 6 Luật này.
2. Thẩm quyền
a) Tổ chức tôn giáo tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động tôn giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành trong trường hợp hoạt động không đúng hiến chương, điều lệ, quy định của tổ chức tôn giáo;
Sau khi có quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động tôn giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tổ chức tôn giáo đó có trách nhiệm gửi thông báo bằng văn bản đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
b) Cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động tôn giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành vi phạm khoản 5 Điều 6 Luật này đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 33 Luật này.
c) Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động tôn giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành vi phạm khoản 5 Điều 6 Luật này đối với các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 33, khoản 3 Điều 34 Luật này.
3. Thời hạn
a) Đối với trường hợp quy định tại điểm a, khoản 2 Điều này, thời hạn tạm đình chỉ căn cứ theo hiến chương, điều lệ, quy định của tổ chức tôn giáo.
b) Đối với trường hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều này, thời hạn tạm đình chỉ không quá 90 ngày kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ.
4. Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động tôn giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành.
12. Điều 47
Dự thảo 5
Điều 47. Xuất bản phẩm liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo
Tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động xuất bản sách kinh, ấn phẩm tín ngưỡng, tôn giáo; sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tín ngưỡng, tôn giáo, đồ dùng việc đạo theo quy định của pháp luật có liên quan.
Đây là một trong những quyền quan trọng trong lĩnh vực hoạt động tôn giáo mà chúng tôi đã đề cập trong mục 2 (góp ý Điều 3) ở trên. Điều 47 này quy định tổ chức, cá nhân có quyền tham gia hoạt động trong lĩnh vực này “theo quy định của pháp luật có liên quan”. Tuy nhiên, khi tra cứu Luật Xuất bản đang có hiệu lực hiện hành (Luật số 19/2012/QH13 ngày 20 tháng 11 năm 2012), chúng tôi nhận thấy:
Điều 4, Giải thích từ ngữ
4. Xuất bản phẩm là tác phẩm, tài liệu về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật được xuất bản thông qua nhà xuất bản hoặc cơ quan, tổ chức được cấp giấy phép xuất bản bằng các ngôn ngữ khác nhau, bằng hình ảnh, âm thanh và được thể hiện dưới các hình thức sau đây:
a) Sách in;
b) Sách chữ nổi;
c) Tranh, ảnh, bản đồ, áp-phích, tờ rời, tờ gấp;
d) Các loại lịch;
đ) Bản ghi âm, ghi hình có nội dung thay sách hoặc minh họa cho sách.
Điều 12. Đối tượng thành lập nhà xuất bản và loại hình tổ chức nhà xuất bản
1. Cơ quan, tổ chức sau đây được thành lập nhà xuất bản (sau đây gọi chung là cơ quan chủ quản nhà xuất bản):
a) Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương và cấp tỉnh;
b) Đơn vị sự nghiệp công lập ở trung ương, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp ở trung ương trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và tài liệu khoa học, học thuật.
Điều 36. Hoạt động phát hành xuất bản phẩm
1. Cơ sở phát hành xuất bản phẩm bao gồm doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập, hộ kinh doanh xuất bản phẩm (sau đây gọi chung là cơ sở phát hành).
Nhà xuất bản được thành lập cơ sở phát hành xuất bản phẩm.
Như vậy, theo “pháp luật liên quan” thì:
- “Sách kinh, ấn phẩm tín ngưỡng, tôn giáo” không được xem (hoặc không được quy định rõ) là xuất bản phẩm trong Luật Xuất bản (khoản 4, Điều 4, Luật Xuất bản).
- Tổ chức tôn giáo không được thành lập nhà xuất bản và hoạt động phát hành ấn phẩm (Điều 12 và 36 Luật Xuất bản).
Để quyền được quy định trong Điều 47, Dự thảo 5 này có thể thực hiện trên thực tế, trước tiên phải bảo đảm nó được thể hiện trong “pháp luật liên quan” (ở đây là Luật Xuất bản). Vậy phải sửa đổi Luật Xuất bản cũng như các luật khác liên quan để tổ chức tôn giáo có thể thực hiện quyền của mình, nếu không thì nó sẽ mãi mãi chỉ nằm trên giấy!
13. Điều 48
Dự thảo 5
Điều 48. Hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
1. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được thực hiện các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội theo quy định của pháp luật có liên quan.
2. Không truyền bá tôn giáo, tiến hành các nghi thức tôn giáo tại cơ sở giáo dục, đào tạo, y tế và bảo trợ xã hội do tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc thành lập, quản lý.
- Khoản 1: Tương tự như Điều 47 ở trên, khoản 1, Điều 48 này quy định quyền hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc “theo quy định của pháp luật liên quan”. Tra cứu “pháp luật liên quan” ta thấy khoản 1, Điều 48, Luật Giáo dục hiện hành (Số 38/2005/QH11, ngày 14 tháng 6 năm 2005) quy định như sau:
Điều 48. Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân
1. Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được tổ chức theo các loại hình sau đây:
a) Trường công lập do Nhà nước thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên;
b) Trường dân lập do cộng đồng dân cư ở cơ sở thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động;
c) Trường tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước.
Như vậy, tổ chức tôn giáo không có quyền thành lập bất cứ trường nào, thuộc loại hình nào.
Tương tự góp ý cho Điều 47 ở trên, chúng tôi yêu cầu sửa đổi Luật Giáo dục và “pháp luật liên quan” để quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc quy định tại Điều 48 này có thể thi hành trên thực tế.
- Khoản 2, Điều 48: “Không truyền bá tôn giáo, tiến hành các nghi thức tôn giáo tại cơ sở giáo dục, đào tạo, y tế và bảo trợ xã hội do tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc thành lập, quản lý.”
Chúng tôi đã góp ý cho khoản luật này trong Dự thảo 4, nhưng đáng tiếc trong Dự thảo 5 vẫn lặp lại. Chúng tôi có lý do chắc chắn và chính đáng để bảo vệ luận cứ này. Căn cứ vào khoản 1 và 3, Điều 18, ICCPR thì quyền biểu thị tôn giáo có thể công khai hoặc kín đáo, một mình hay với người khác, tại nhà riêng hay nơi công cộng miễn là không bị luật giới hạn trong trường hợp cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác.
Vậy, không thể cấm “truyền bá tôn giáo, tiến hành nghi thức tôn giáo” vì lý do nơi đó là “cơ sở giáo dục, đào tạo, y tế và bảo trợ xã hội”.
Quy định tại khoản 2, Điều 48 này, một cách minh nhiên, đã vi phạm Điều 18, ICCPR, vậy chúng tôi yêu cầu bỏ khoản luật này.
14. Về đất của tổ chức tôn giáo
Nhiều điều khoản của Dự thảo 5 quy định liên quan đến đất của tổ chức tôn giáo, cụ thể như sau:
Dự thảo 5:
Điều 13. Đăng ký sinh hoạt tôn giáo
3. Điều kiện để đăng ký sinh hoạt tôn giáo
b) Có địa điểm hợp pháp về nhà đất để sinh hoạt tôn giáo;
Điều 14. Điều kiện cấp đăng ký hoạt động tôn giáo
4. Có địa điểm hợp pháp về nhà đất để đặt trụ sở.
Điều 18. Điều kiện công nhận tổ chức tôn giáo
3. Có trụ sở, tổ chức và người đại diện hợp pháp.
Điều 20. Điều kiện thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc
2. Điều kiện thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc:
d) Có địa điểm hợp pháp về nhà đất để đặt trụ sở;
Điều 22. Thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo
1. Điều kiện thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo:
c) Có cơ sở vật chất, thiết bị, tài chính bảo đảm cho việc đào tạo;
Điều 51. Hoạt động quyên góp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
1. Cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được tổ chức quyên góp, nhận tài sản hiến, tặng, cho trên cơ sở tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân ngoài nước theo quy định của pháp luật.
Điều 52. Đất cơ sở tín ngưỡng, đất cơ sở tôn giáo
Việc quản lý và sử dụng đất cơ sở tín ngưỡng, đất cơ sở tôn giáo theo quy định của pháp luật về đất đai.
Như vậy, nhà, đất gắn liền với những hoạt động chính yếu và quan trọng của tổ chức tôn giáo. Là điều kiện để đăng ký sinh hoạt (Điều 13), đăng ký hoạt động (Điều 14), để công nhận (Điều 18), thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo (Điều 20), là điều kiện để thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo (Điều 22). Tóm lại, nếu không có nhà đất thì tổ chức tôn giáo không được công nhận, không được sinh hoạt, hoạt động.
a. Điều 52
Điều 52, Dự thảo 5 ghi nhận việcquản lý và sử dụng đất cơ sở tín ngưỡng, đất cơ sở tôn giáo “theo quy định của pháp luật về đất đai”. Tuy nhiên, khi tra cứu các quy định của Luật Đất đai hiện hành (Luật số: 45/2013/QH13, ngày 29 tháng 11 năm 2013), ta thấy:
- Khoản 1, Điều 169 Luật Đất đai quy định tổ chức tôn giáo chỉ được nhận quyền sử dụng đất thông qua 3 trường hợp:
1) Thông qua việc Nhà nước giao đất (điểm g).
2) Thông qua việc Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất đối với đất đang được sử dụng ổn định (điểm i)
3) Theo kết quả hòa giải thành, quyết định, bản án hoặc quyết định thi hành án trong vụ tranh chấp đất đai (điểm l)
- Khoản 1, Điều 191 Luật Đất đai quy định: cơ sở tôn giáo không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất đối với trường hợp mà pháp luật không cho phép chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất.
- Điểm c, khoản 4, Điều 102 Luật Đất đai quy định:
“4. Cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất khi có đủ các điều kiện sau đây:
c) Không phải là đất nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho sau ngày 01 tháng 7 năm 2004.”
Điều này có nghĩa là nếu đất của cơ sở tôn giáo là đất được tặng, cho sau ngày 01 tháng 7 năm 2004 thì Nhà nước không công nhận đất này là đất của cơ sở tôn giáo và không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Khoản 2, Điều 181 Luật Đất đai: Cơ sở tôn giáo không được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho quyền sử dụng đất; không được thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Tóm lại, để có địa điểm hợp pháp, nghĩa là phù hợp với quy định của Luật Đất đai, thì cơ sở tôn giáo chỉ có 4 trường hợp:
1. Được Nhà nước giao đất
2. Đã có đất sử dụng ổn định từ trước và được Nhà nước công nhận
3. Là bên thắng trong vụ việc tranh chấp đất đai (nghĩa là đất đã tồn tại từ trước)
4. Đã nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho của tổ chức, cá nhân nào đó trước 01/7/2004
Trong bốn trường hợp này, thì chỉ có trường hợp 1 là được giao đất mới (nhưng điều này là quá khó trên thực tế!), 3 trường hợp còn lại chỉ là xác nhận một thửa đất đã có từ trước.
Nếu một cơ sở tôn giáo mới lập tại một địa điểm thì chỉ có con đường duy nhất là xin Nhà nước cấp đất. Nếu Nhà nước không cấp (vì nhiều lý do) thì không đủ điều kiện để tổ chức tôn giáo đó tiến hành bất cứ một sinh hoạt, hoạt động nào. Vậy quy định về quyền quản lý, sử dụng đất của cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo tại Điều 52, Dự thảo 5 chẳng còn lại ý nghĩa bao nhiêu.
Rõ ràng, các quy định tại các Điều 13, 14, 18, 20, 22 kết hợp với Luật Đất đai đã hạn chế một cách nghiêm trọng quyền sinh hoạt, hoạt động tôn giáo.
b. Điều 51
Dự thảo 5
Điều 51. Hoạt động quyên góp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
1. Cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được tổ chức quyên góp, nhận tài sản hiến, tặng, cho trên cơ sở tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân ngoài nước theo quy định của pháp luật.
Điều 51 này quy định quyền được nhận tài sản quyên góp, dâng cúng, hiến tặng của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Theo Điều 163 Bộ luật Dân sự (Luật số 33/2005/QH11, ngày 14 tháng 6 năm 2005), quyền tài sản cũng là một loại tài sản, cụ thể ở đây, quyền sử dụng đất cũng là tài sản và tổ chức tôn giáo có quyền nhận nó từ cá nhân, tổ chức hiến tặng. Tuy nhiên, theo các quy định của Luật Đất đai vừa trích dẫn trên đây, tổ chức tôn giáo không được nhận quyền sử dụng đất qua việc nhận chuyển nhượng, hiến tặng, dâng cúng kể từ thời điểm sau ngày 01 tháng 7 năm 2004; không được nhận thừa kế quyền sử dụng đất trong mọi trường hợp.
Đối với các cơ sở tôn giáo đã có đất hợp pháp cũng không có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho quyền sử dụng đất; không được thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Điều này đã hạn chế hết sức to lớn các quyền quy định tại Điều 51, Dự thảo 5.
Tóm lại, các Điều 51 và 52 của Dự thảo 5 có vẻ mở ra quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất cho tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, nhưng khi quy chiếu đến pháp luật liên quan, chính các luật này đã đóng lại làm cho các quyền quy định tại hai điều này rất khó thể hiện trên thực tế.
15. Tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
Dự thảo 5 quy định nhiều quyền cho tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc như hoạt động độc lập, có tài sản, có quyền tham gia vào lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, từ thiện... Nhưng để có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách đầy đủ, nghĩa là có thể độc lập thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc phải có tư cách pháp nhân.
Điều 84 và Điều 100 Bộ luật Dân sự (Luật số 33/2005/QH11, ngày 14 tháng 6 năm 2005) quy định về pháp nhân như sau:
Điều 84. Pháp nhân
Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Được thành lập hợp pháp;
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Điều 100. Các loại pháp nhân
1. Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân.
2. Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
3. Tổ chức kinh tế.
4. Tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
5. Quỹ xã hội, quỹ từ thiện.
6. Tổ chức khác có đủ các điều kiện quy định tại Điều 84 của Bộ luật này.
Có thể nhận thấy tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có đủ điều kiện để được công nhận là pháp nhân (Điều 84) nhưng trong Điều 100, về các loại pháp nhân, thì không được nói đến. Đây là một bất bình đẳng nghiêm trọng. Vậy cần quy định rõ tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc khi có đủ điều kiện thì có tư cách pháp nhân. Chỉ khi được công nhận quyền và nghĩa vụ một cách độc lập và đầy đủ như vậy, tổ chức tôn giáo mới tự nhân danh mình để tham gia các quan hệ pháp luật một cách bình đẳng, tự bảo vệ quyền lợi của mình và chịu trách nhiệm một cách độc lập trước pháp luật. Một cách đặc biệt, những khó khăn trong lĩnh vực đất đai nói ở trên, khi công nhận tổ chức tôn giáo có tư cách pháp nhân, tổ chức tôn giáo có đủ quyền tham gia các giao dịch dân sự theo như quy định của Bộ Luật Dân sự thì vấn đề sẽ được giải quyết.
16. Đề nghị giải pháp cho mục 20 và 21 ở trên
Chính sách hạn chế trong Luật Đất đai và sự đối xử bất bình đẳng khi không công nhận tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo trong Bộ Luật Dân sự cần được sửa đổi, đó là điều kiện cần thiết. Khi xây dựng Luật tín ngưỡng, tôn giáo cần dự liệu những vấn đề này để tạo tiền đề cho những sửa đổi trong các luật liên quan nhằm đồng bộ hóa pháp luật.
Trong Dự thảo 5, ở Chương IV (Tổ chức tôn giáo), Mục I (Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc), sau các Điều 18, 19, 20 và 21 (Điều kiện, thủ tục, thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo, thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc) chúng tôi cho rằng cần phải có thêm một điều luật quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc. Vì điều tất yếu sau khi công nhận một tổ chức là tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc thì nó phải được hưởng những quyền lợi nào và có những nghĩa vụ nào. Phải cho tổ chức tôn giáo đó thấy lợi ích mà họ có được khi tiến hành thủ tục công nhận một tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc. Mặc dù điều này đã được quy định ở Điều 5, nhưng về nội dung còn sơ sài và đặt quy định này nơi Chương I (Những quy định chung) xem ra không đảm bảo sự thống nhất về nội dung của điều luật này.
Vậy, đề nghị chuyển Điều 5 về sau Điều 21 và sửa đổi như sau:
Điều 21. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
1. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có quyền sinh hoạt tôn giáo, hoạt động tôn giáo theo hiến chương, giáo luật, điều lệ, quy định của tổ chức tôn giáo đó.
2. Có quyền và nghĩa vụ đầy đủ theo như quy định của Luật này.
3. Được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện do Bộ Luật Dân sự quy định.
17. Bổ sung một số điều luật để cụ thể hóa một số quyền khác của tổ chức tôn giáo
Như chúng tôi đã góp ý sửa đổi Điều 3 (Mục 2 ở trên), nội hàm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm cả quyền có các ngày nghỉ lễ, và quyền thành lập, duy trì cơ chế thông tin (quyền báo chí). Đây là các quyền quan trọng không thể thiếu. Trong Dự thảo 5 chưa đề cập đến các quyền này. Vậy, đề nghị thêm các điều luật vào trong Chương VII, Dự thảo 5 để cụ thể hóa các điều nói trên.
18. Giữ lại khoản luật về quan hệ quốc tế như trong Dự thảo 4
Điều 5 trong Dự thảo 4 quy định quan hệ quốc tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo. Đặc biệt trong khoản 2 quy định việc ưu tiên thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đây là một điều luật quan trọng và đúng với quy tắc xây dựng, thực thi pháp luật nhưng Dự thảo 5 lại bỏ mất điều luật này. Vậy, đề nghị đưa Điều 5 của Dự thảo 4 trở lại trong Dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
***
Cuối cùng, xin được lưu ý rằng, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền tự thân của con người. Con người khi sinh ra đã đương nhiên có quyền đó chứ không phải là ân huệ được ban phát hay cho phép từ bất kỳ tổ chức, cá nhân nào. Mọi vi phạm đến quyền tự do tôn giáo là xúc phạm đến con người và quyền thiêng liêng tối thượng của con người. Vậy, mục đích trước nhất của việc ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là để đảm bảo quyền tín ngưỡng, tôn giáo. Luật này phải thể hiện được vai trò Nhà nước trong việc bảo vệ quyền tự do dân chủ, tạo hành lang pháp lý an toàn để quyền tín ngưỡng, tôn giáo của con người được thể hiện trên thực tế cuộc sống mà không bị tổ chức, cá nhân nào xâm phạm. Việc quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo cũng nhằm đến mục đích vừa nêu trên.
Tuy nhiên, khi đọc Dự thảo 5, chúng tôi có thể nhận thấy mục tiêu trên chưa được đặt lên hàng đầu, mà chỉ nhấn mạnh đến quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo, thậm chí nhiều chỗ khoanh vùng tôn giáo bằng cơ chế “xin – cho”, nhìn tôn giáo dưới khía cạnh nghi ngại, đặt tôn giáo vào các khung pháp lý chật hẹp bằng cách lợi dụng sự hạn chế của các luật liên quan. Trong khi đó Dự thảo 5 chưa chú trọng đến quy định trách nhiệm, chế tài cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở bên ngoài tôn giáo có hành vi xâm phạm đến quyền tôn giáo.
Vậy, đề nghị xem lại mục đích của luật này cũng như xét lại cách nhìn nhận về nhân quyền, về quyền tín ngưỡng, tôn giáo một cách đúng đắn, trên cơ sở đó mới mong xây dựng một luật phù hợp với chuẩn mực được.
Trên đây là những góp ý đầy thiện chí của chúng tôi với mong muốn có một văn bản Luật tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với Hiến pháp, đồng nhất với chuẩn mực Quốc tế, tiến bộ, đảm bảo nhân quyền để tạo điều kiện cho đất nước, con người Việt Nam được phát triển. Ước mong Ban soạn thảo và những cá nhân, cơ quan liên quan lắng nghe một cách nghiêm túc và có những đáp ứng phù hợp.
Chân thành cảm ơn!
_________
Nơi nhận:
- Như trên;
- Đức Hồng y GB. Phạm Minh Mẫn;
- Đức Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn;
- Đức Giám mục Chủ tịch HĐGM Việt Nam;
- Đức Giám mục Tổng thư ký HĐGM Việt Nam;
- Linh mục Chánh văn phòng HĐGM Việt Nam;
- Tòa Giám mục của các giáo phận;
- Lưu VP.
Caritas nhà thờ Tu Hội Đắc Lộ thăm Mái Ấm Tình Thương Tân và La Gi Nha Trang
“Lạy Chúa. Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”
Hôm nay 10/12/2015 vào lúc 5 giờ 30, ban Caritas nhà thờ Tu Hội Đắc Lộ lên đường với khỏang 30 thành viên mang theo tình thương, lòng đầy nhiệt huyết, đến thăm và chia sẻ bác ái tại cơ sở bảo trợ XH MÁI ẤM TÌNH THƯƠNG, TÂN AN, LAGI, Bình Thuận thuộc Hội Dòng Mến Thánh Giá Nha Trang.
//www.flickr.com/photos/137123395@N05/sets/72157660106639563/">Xem Hình
Như lời chia sẻ của Cha linh hướng Vinh Sơn Nguyễn Bá Quí , trước khi xe chuyển bánh: Để sống tinh thần phục vụ năm thánh, tinh thần trong mùa vọng này đem Chúa đến cho mọi người bằng chính hành động, nghĩa cử bác ái yêu thương, trong năm thánh lòng Chúa thương xót, xin cho mỗi người biết xót thương nhau.
Khoảng 8 giờ 30’ đoàn đến nơi,Lúc này có hai Sơ hướng dẫn chúng tôi tới nghĩa trang Đồng Tiến, nơi chôn cất trên 25 ngàn thai nhi của nạn nạo phá thai, mỗi mộ được xây chia thành nhiều ô, mỗi ô một thai nhi, có mộ có cả hàng 100 thai nhi. Nhìn nghĩa trang lặng lẽ, lòng người lắng đọng xót thương, thắp từng nén nhang lên phần mộ đọc kinh cầu nguyện cho các thai nhi.
Viếng mộ xong,Đoàn quay lại mái ấm Tình Thương mọi người nhanh chóng chuyển hàng xuống. Đón tiếp chúng tôi, Sơ Giám Đốc Mary Nguyễn Thị Thanh Mai phụ trách cô nhi viện MÁI ẤM TÌNH THƯƠNG,mọi người nghỉ mệt một lúc thi các em lớn tuổi đi học về đã cùng với sơ Giám Đốc đón tiếp đoàn rất là nồng nhiệt bàng những bài hát, điệu múa của các em làm cho mọi người rất là phấn khích và vui vẻ.
Đoàn được các sơ dẫn đi thăm các em cô nhi hiện đang sống dưới sự bao bọc, che chở, chăm sóc dưỡng nuôi của các sơ, có khoảng 110 cháu từ 2 ngày tuổi cho đến tuổi trưởng thành.
Đến nơi đây Ban Caritas đại diện nhà thờ Tu Hội Đắc Lộ, Các ân Nhân, Thân Nhân, của biết bao nhiêu bàn tay công sức đã đóng góp và hôm nay ban caritas đã chuyển đến quí sơ món quà với ý nghĩa “Chúa Giáng Sinh” với món quà Trên 50 Triệu Đồng, trong đó 20 triệu đồng là tiền mặt, trên 30 triệu đồng là Mì Gói, Đường, Sữa, Bánh, Dầu ăn, Quần áo.v.v. Sơ Giám Đốc cũng đại diện cám ơn các anh chi trong ban Caritas nhà thờ Tu Hội Đắc Lộ và Sơ cũng chúc mọi người một mùa Giáng Sinh An Lành của Chúa , một năm mới An Khang Thịnh Vương.
Nhìn những ánh mắt thơ ngây, cô đơn, hiu quạnh thiếu vắng tình cha mẹ, những mảnh đời bất hạnh, mà thấy đắng long. Có những em bị cha mẹ bỏ rơi khi vừa mới lọt lòng vì tình cảnh gia đình, vì bị tàn tật, vì sự lầm lỡ của người mẹ hay bị hãm hiếp, v.v… làm sao có thể bù đắp nỗi đau trong lòng các em. Ôm ấp các em trong vòng tay yêu thương, các sơ đã ngày đêm chăm sóc, nhất là khi các em bị bệnh, các sơ phải thức thâu đêm lo cho các bé. Những đêm nằm bên cạnh các em, các bé hỏi: “Cha con đâu? Mẹ con đâu?”. Câu hỏi thơ ngây, trong trắng mòn mỏi, chờ đợi trong vô vọng.
Thấu hiểu những nỗi cô đơn, đau xót đó, ban Caritas nhà thờ Đắc Lộ hôm nay đã nối vòng tay lớn với các sơ HĐMTG Nha Trang, chia sẻ bớt phần nào nỗi đau mà các bé đang phải gánh chịu.
Được biết trước khi ra về các thành viên đã đóng góp khỏang trên 10 triệu để gởi đến Sơ để mua xe lăn. Theo nhu cầu của mái ấm đang cần.
Ước mong sao mỗi ngày có thêm nhiều tấm lòng, để mảnh đời các em được hạnh phúc tươi sáng hơn.
Chia tay với các sơ, mọi người lên xe ra về lòng cảm thương vui vì biết cho đi, vì “cho thì có phúc hơn là nhận”.
Thánh lễ tạ ơn của đức tân Giám Mục Phêrô Huỳnh Văn Hai tại quê hương xứ Thạnh Phú
"Hồng ân Thiên Chúa bao la, muôn đời con sẽ ngợi ca danh Người"
Đó chính là tâm tình mà cộng đoàn dân Chúa họ đạo Thạnh Phú cất lên trong Thánh Lễ tạ ơn của Đức Tân Giám Mục Phêrô Huỳnh Văn Hai hôm nay.
//www.flickr.com/photos/137123395@N05/sets/72157662340756776/">Xem Hình
Từ sáng sớm hôm nay, 14 tháng 12 năm 2015, cộng đoàn dân Chúa không chỉ thuộc giáo phận Vĩnh Long mà còn ở những giáo phận khác đã quy tụ lại tại ngôi thánh đường nhỏ bé Thạnh Phú thân thương.
Phải nói rằng Thạnh Phú quá nhỏ bé hôm nay vui mừng đón nhận hồng phúc quá lớn. Thạnh Phú hôm nay vui hơn mọi ngày bằng những chiếc bong bóng, hoa tươi, cờ xí thật đẹp.
Tâm tình thận dễ thương được gợi lên cho cộng đoàn: "Từ ngàn xưa Thiên Chúa đã yêu thương và để mắt trông coi đoàn dân của Người. Nhìn lại chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã thực hiện qua nhiều cuộc lựa chọn: từ đám đông du mục của vùng lưỡng hà địa, Thiên Chúa đã tuyển chọn Ápraham; từ những người con của ông Isaac, Thiên Chúa đã chọn ông Giacóp; từ giữa đám dân nô lệ, Thiên Chúa đã chọn ông Môsê; từ giữa những người con của Giêsê, Thiên Chúa đã chọn Davít; và hôm nay đây, từ giữa những người con trong Giáo Phận Vĩnh Long, Thiên Chúa đã tuyển chọn Đức Cha Phêrô Huỳnh Văn Hai làm chủ chăn cho đoàn chiên trong Giáo Phận.
Quả thật, đây là một hồng ân mà Chúa đã dành cho Giáo Phận Vĩnh Long sau hơn 2 năm vắng bóng chủ chăn, và đây cũng là niềm tự hào cách riêng cho Họ Đạo Thạnh Phú. Một người con trong Họ Đạo được cất nhắc lên trong trọng trách chủ chăn của Giáo Phận, một niềm vinh dự cho mảnh đất vùng sâu được Chúa để mắt trông và một niềm hy vọng "hãy ra khơi" cho tương lai của Giáo Phận.
Mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa bao la vô cùng vô tận. Trong sự quan phòng sếp đặt, trong sự yêu thương cất nhắc, trong sự đồng hành nâng đỡ và trong sự yêu thương gìn giữ. .. biết nói sao hết những ân tình mà Thiên Chúa đã ban và sẽ ban cho Giáo Phận, cho Họ Đạo và cách riêng cho Đức Cha Phêrô.
Cùng với tâm tình đó, cộng đoàn bước vào Thánh Lễ tạ ơn hôm nay.
10 giờ, cộng đoàn dân Chúa hướng về đoàn rước cất bước từ ngôi nhà xứ thân thương của họ đạo và cùng nghe một chút về cuộc đời của tân Đức Cha Phêrô.
Với 61 năm của cuộc đời là 61 năm trong hành trình ơn gọi, giờ đây tại ngôi thánh đường trên mảnh đất quê hương, Đức Tân Giám Mục hợp đoàn cùng anh em thân hữu và cộng đoàn dâng lời tạ ơn Thiên Chúa.
Khi cộng đoàn an vị, cộng đoàn được nghe Cha sở giới thiệu thành phần tham dự Thánh lễ hôm nay gồm có Đức Tân Giám Mục Phêrô, cha Tổng Đại Diện giáo phận Mỹ Tho, Cha Tổng Đại Diện giáo phận Sài Gòn, Cha G.B. Huỳnh Công Minh - Quản Đốc nhà thờ Chính Tòa Sài Gòn - quý cha bề trên, quý bề trên các dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn, Mến Thánh Giá Cái Nhum, Phaolô. .. và cộng đoàn dân Chúa từ nhiều nơi trong và ngoài giáo phận.
Sau lời giới thiệu của Cha sở họ đạo Thạnh Phú, cộng đoàn bắt đầu bước vào Thánh Lễ.
Bài Tin Mừng theo Thánh Luca được công bố và sau đó là lời chia sẻ của Đức Tân Giám Mục Phêrô.
Kính thưa quý cha và tất cả anh chị em, có thể nói đây là lần thứ hai tôi giảng tại nhà thờ Thạnh Phú. Lần đầu tiên năm 1994, hôm nay 2016 tôi có dịp giảng. Lần thứ nhất đâu có 5, 7 người; lần này khá khá hơn.
. .. Thiên Chúa có sáng kiến. .. Thiên Chúa chọn mỗi người theo ơn gọi của mình. .. Tôi, tôi là người đáp trả tiếng gọi. Nhờ đó tôi có ngày hôm nay, tôi được chọn làm giám mục và Ngài sai tôi đi. Tôi muốn chia sẻ với anh chị em đó là: Không phải các con đã chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con. Chúa đã chọn tôi làm giám mục. .. Chúa chọn lựa như thế có thể đưa câu hỏi. Chúa có thể chọn hết và không loại bỏ người nào. .. chúng ta chọn theo sở thích, theo ý tưởng. Thiên Chúa đã chọn Israel làm dân tộc của mình. Qua Tân Ước, Chúa chọn các môn đệ theo Chúa. Các môn đệ nghe Chúa, Chúa chọn 72 và sau đó Chúa chọn 12 Thánh Tông Đồ. .. Thiên Chúa có quyền chọn lựa.
Thiên Chúa đã chọn các tông đồ để các tông đồ đi thả lưới. Các tông đồ đi thả lưới và chúng ta có Hội Thánh. Các thánh tử đạo lên đến hàng triệu người. .. Ngày hôm nay ra chỗ nước sâu có nghĩa là gì ? có nhiều nghĩa. Vùng sâu là vùng các Kitô hữu đối diện với sự phát triển kinh tế. .. của đời sống xã hội. ..
Đức Cha mời gọi cộng đoàn cùng với Đức Cha và cùng với nhau ra khơi cũng như đến những chỗ nước sâu để loan báo Tin Mừng. ...
Lời nguyện hiệp Lễ được cất lên và sau đó là lời chúc mừng của vị đại diện họ đạo Thạnh Phú. Thay lời muốn nói, cộng đoàn gửi đến Đức Tân Giám Mục Phêrô chút quà mọn và lẵng hoa tươi gói gém tất cả tấm lòng của giáo dân Thạnh Phúc.
Đức Tân Giám Mục Phêrô đáp lời bằng lời cảm ơn của Đức Cha gửi đến quý cha, quý cộng đoàn, quý chức sắc tôn giáo bạn, chính quyền. .. đã thương đến dự Thánh Lễ cũng như không quên cảm ơn cha Sở họ đạo Thạnh Phú và ban tổ chức đã vất vả tổ chức Thánh Lễ tạ ơn này. Đức Cha cũng không quên xin cộng đoàn cầu nguyện nhiều cho Đức Cha.
Sau lời cảm ơn là phép lành của Đức Tân Giám Mục.
Lời bài hát kết lễ khép lại và những tấm hình chung kỷ niệm được lưu lại ngày hồng phúc hôm nay.
Nhiều và rất nhiều người muốn có những tấm hình lưu lại với Đức Cha.
Sau những tấm hình lưu niệm, cộng đoàn cùng nhau chia sẻ với nhau bữa cơm gia đình do cộng đoàn dân Chúa Thạnh Phú khoản đãi.
Niềm vui lớn của giáo dân Thạnh Phú cũng như Vĩnh Long còn lan tỏa nơi hồng ân của Đức Tân Giám Mục Phêrô. Kèm theo lời tạ ơn của cộng đoàn dân Chúa là lời xin ơn Chúa để Chúa gìn giữ Đức Tân Giám Mục Phêrô trong sứ vụ mới đầy trọng trách này.
Người La Mã
Trên 3000 anh chị em khuyết tật về tham dự Đại hội mừng Noel 2015 tại Gp. Thái Bình
"Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7), tinh thần đó đã được Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ - Giám Mục Giáo phận Thái Bình – không những chỉ ấp ủ trong lòng, mà còn được ngài hành động cụ thể qua việc yêu thương, gần gũi và hằng năm vẫn tạo điều kiện để các anh chị em khuyết tật có những ngày hội ngộ thật là ý nghĩa.
Chương trình của Đại hội mừng Noel 2015 dành cho những người khuyết tật được tổ chức tại Giáo phận Thái Bình, kéo dài trong hai ngày: 12 và 13 tháng 12 năm 2015.
//www.flickr.com/photos/137123395@N05/sets/72157660020680144/">Xem Hình
Về tham dự Đại hội mừng Noel 2015 dành cho những người khuyết tật năm nay, có trên 3000 tham dự viên là những mảnh đời kém máy mắn thuộc trên 60 nhóm khuyết tật từ mọi nơi và gần 500 thành viên đưa dẫn, đồng hành. Ngoài ra, còn có sự giúp đỡ tư vấn sức khỏe cho các bệnh nhân từ đoàn các Bác sĩ thiện nguyện và quý ân nhân.
Ngay từ sáng sớm ngày 12 tháng 12, khu đường phố Trần Hưng Đạo trở nên vui nhộn lạ thường, xen lẫn với cờ hoa và hang đá được trang trí chuẩn bị đón mừng lễ Giáng Sinh, từng đoàn người đi trong tiếng cười vui, hân hoan tiến vào Nhà chung dưới sứ tiếp đón nồng hậu của chính Đức Cha Phêrô. Và với những nụ cười tươi đầy thân thiện, các bạn tình nguyện viên chào đón, trao gửi những chiếc nón ông già Noel tới mọi người và dẫn từng nhóm tới phòng nghỉ.
Theo chương trình của Ban tổ chức, hồi 7g30 (ngày 12.12.2015), đoàn các Bác sĩ thiện nguyện đã tranh thủ bắt tay vào làm việc. Chỉ trong buổi sáng đầu tiên đã có reất nhiều bệnh nhân được các bác sĩ tư vấn sức khỏe và cấp phát thuốc miễn phí.
Chương trình của Đại hội mừng Noel 2015 – dành riêng cho những người khuyết tật - chính thức được khai mạc vào hồi 11g00, qua tâm tình nhắn nhủ và lời tuyên bố của Đức Cha Phêrô – Chủ chăn Giáo phận Thái Bình. Liền sau đó, anh chị em lắng nghe cha Vinc. Ngô Thái Phong phổ biến chương trình.
Hồi 11g30, mọi người cùng sum vầy bên nhau trong bữa cơm gia đình tại sân cỏ quảng trường Nhà chung Giáo phận. Sau giờ nghỉ trưa, tất cả các anh chị em khuyết tật được nhận những tấm vé số để tham gia hội chợ. Chương trình hội chợ kéo dài trên 3 giờ đồng hồ, với những trò chơi dân gian thật hấp dẫn và bổ ích. Trong khi diễn ra hội chợ, các bác sĩ lại tiếp tục tư vấn sức khỏe và cấp phát thuốc miễn phí.
Sau một buổi chiều vui chơi nhộn nhịp, anh chị em lại quây quần với nhau tại sân vòm Nhà chung để dùng bữa tối; cuối bữa ăn có chương trình mà ai cũng hào hứng, đó là chương trình “Rút số trúng thưởng” với nhiều phần quà hấp dẫn, đặc biệt là những chiếc xe điện dành cho người tàn tật.
Sau giờ cơm tối là chương trình hoan ca mừng Chúa Giáng Sinh tại sân khấu quảng trường Nhà chung Giáo phận. Mỗi nhóm khuyết tật cũng như các nhóm Tình nguyện viên, các Hội Dòng nữ, quý thầy chủng sinh và tu sinh đều góp vui với những tiết mục đặc sắc của mình. Những điệu múa và tiếng hát được cất lên hòa nhịp với nhau, dường như không còn phân biệt tuổi tác hay tôn giáo, người khỏe hay bệnh nhân.
Xen kẽ giữa các tiết mục văn nghệ là chương trình “Rút số trúng thưởng”. Tất cả mọi người ai nấy đều cầm sẵn trên tay những tấm vé số và hồi hộp chờ đợi tham gia chương trình này. Nhiều chiếc xe điện dành cho người tàn tật lại được trao gửi tới tay những người có vé số may mắn. Đêm hoan ca được khép lại với phép lành của Đức Cha Phêrô zNguyễn Văn Đệ.
Hương Lúa
Lễ Khai Mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót tại Sydney
Chiều thứ Bảy 12/12/2015 rất đông đủ giáo dân trong Cộng Đồng đã đến Trung Tâm Hành Hương Thánh Mẫu Bringelly Sydney tham dự tĩnh tâm và Thánh lễ Khai mạc năm Thánh Lòng Thương Xót 2015 – 2016.
//www.flickr.com/photos/137123395@N05/sets/72157659997540604/">Xem Hình
Tất cả mọi người tập trung nơi tượng đài Đức Mẹ. Cha FX. Nguyễn Văn Tuyết Linh hướng Phong Trào Lòng Chúa Thương Xót TGP Sydney hướng dẫn giờ đền tạ Đức Mẹ và sau đó kiệu cung nghinh Thánh tượng Lòng Chúa Thương Xót về hội trường Trung Tâm. Cuộc kiệu rất long trọng và trang nghiêm, mọi người cùng dâng lên Đức Mẹ chuỗi Mân Côi mùa Vui, nguyện xin Mẹ chúc lành cho Gia đình và Cộng Đồng.
Kiệu Thánh tượng Lòng Chúa Thương Xót về đến hội trường Trung Tâm, an vị trên bàn thờ. Cha FX Nguyễn Văn Tuyết thay mặt Ban Tuyên Úy ngỏ lời chào mừng tất cả mọi người đã đến Trung Tâm tham dự Lễ Khai mạc năm Thánh Lòng Thương Xót và Cha tuyên bố khai mạc năm Thánh Lòng Thương Xót, đồng thời tất cả mọi người cùng sốt sắng dâng giờ kinh nguyện kính Lòng Chúa Thương Xót. Sau đó Cha FX. Nguyễn Văn Tuyết thuyết giảng tĩnh tâm với chủ đế về Năm Thánh Lòng Thương Xót:
Vào năm 1470 Đức Giáo Hoàng Phalô II ban hành sắc lệnh năm Thánh phải được cử hành mỗi 25 năm một lần, điều này đã trở thành truyền thống của Giáo Hội kể từ đó, và mục đích Năm Thánh Lòng Thương Xót là tái đưa Bí tích Hòa giải về lại trung tâm cuộc sống mục vụ của Giáo Hội. Tông thư giải thích Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha nói như sau: “ Điều quan trọng là thời điểm này, trước hết và trên hết, cần phải liên hệ với Bí tích Hòa giải, cũng như việc cử hành Thánh Thể kèm theo việc suy niệm tình thương. Thương xót là một biểu lộ rõ ràng về tình yêu của Chúa trong thế giới, chúng ta sẽ tìm được sức mạnh, can đảm và lòng thương xót để trở thành dụng cụ của lòng thương xót cho người khác..
Sau khi kết thúc thuyết giảng tĩnh tâm. Cha FX Nguyễn Văn Tuyết Chủ tế dâng Thánh lễ Khai Mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót và Thánh lễ kết thúc trong tình đoàn kết thân thương trong tình yêu của Chúa Giêsu KiTô.
Diệp Hải Dung.
GP Lạng Sơn – Cao Bằng: Thánh lễ khai mạc Năm Thánh và truyền chức Phó tế
Sáng ngày 12 tháng 12 năm 2015, hòa chung vào bầu khí vui mừng của Giáo Hội bước vào Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa, giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng long trọng tổ chức thánh lễ khai mạc Năm Thánh và truyền chức phó tế cho ba thầy.
//www.flickr.com/photos/137123395@N05/sets/72157659997726154/">Xem Hình
Giữa những ngày đông mưa lạnh gió rét, hôm nay Chúa ban cho một ngày tương đối ấm áp và mây nhẹ như dấu chỉ về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đã và đang tuôn đổ trên miền truyền giáo Lạng Sơn - Cao Bằng này. Đúng 9h30’, tại nhà truyền thống giáo phận (nhà thờ Chính Toà cũ), Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân đã chủ sự nghi thức khai mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót.
Sau nghi thức khai mạc, đoàn nhập lễ tiến về nhà thờ Chính Toà trong tiếng trống nhạc vang lừng. Khi tiến tới của chính thánh đường Chính Tòa, đoàn nhập lễ dừng lại, Đức Cha Giuse trong vai trò vị chủ chăn giáo phận đã mở mở cửa Năm Thánh Lòng Thương Xót để mỗi tín hữu bước qua và chạy đến múc lấy nhiều ơn lành từ Lòng Thương Xót Chúa.
Đến 10h00’ thánh lễ được bắt đầu. Cùng hiện diện với Đức Cha Giuse trong thánh lễ hôm nay có cha Tổng Đại Diện, cha Đại Diện, quý cha trong và ngoài giáo phận, quý Dì, quý chủng sinh, ứng sinh, quý ông bà cố,…cùng hàng ngàn giáo dân trong và ngoài giáo phận.
Với ý nghĩa trọng đại của thánh lễ, nên trong những diễn từ đầu tiên, Đức Giám Mục giáo phận đã nêu lên tầm quan trọng của một Năm Thánh, đồng thời ngài không ngừng cầu xin ơn Thánh Thần xuống trên tất cả mọi người cách đặc biệt là cho ba tân Phó tế trong thánh lễ hôm nay.
Sau bài Tin Mừng là nghi thức tuyển chọn ứng sinh. Cha Tổng Đại Diện thay mặt cho con cái giáo phận thỉnh cầu lên Đức Cha về ý định truyền chức Phó tế cho ba thầy:
1. Thầy Giuse Vũ Anh Tuấn
2. Thầy Giuse Nguyễn Văn Tiệc
3. Thầy Tôma Aquinô Nguyễn Huy Sản
Đức Cha Giuse chấp nhận lời thỉnh cầu và truyền chức phó tế cho ba thầy trong niềm vui sướng tràn đầy của Giáo Hội nói chung và cách riêng với giáo phận truyền giáo Lạng Sơn – Cao Bằng. Như thế, trong ngày đầu tiên của Năm Thánh, giáo phận đã gặt hái được hồng ân đặc biệt từ cạnh sườn bị đâm thấu của Chúa Giê-su. Với ý nghĩa cao cả như thế nên trong những huấn từ của mình, Đức Cha Giuse đã đề cập tới hai chiều kích của thánh lễ hôm nay.
Thứ nhất, huấn từ về vấn đề khai mở Năm Thánh Lòng Thương Xót. Ngài nêu lên những điểm chính yếu:
Ngày 13 tháng 3 năm 2015, tại Đền thờ Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố mở một “Năm Thánh Ngoại Thường” gọi là “Năm Thánh Lòng Thương xót”. Năm Thánh bắt đầu với việc mở Cửa Thánh tại Đền thờ Thánh Phêrô vào ngày 08/12/2015, Đại lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, và kết thúc vào ngày 20/11/2016, Đại lễ Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã chính thức khai mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót với nghi thức Mở Cửa Thánh tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô vào ngày lễ Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội vừa qua, ngày 8 tháng Mười Hai 2015.
Cũng trong những huấn từ về Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Cha Giuse đã giúp cộng đoàn hiểu rõ thêm về từ “Cửa Thánh” đã được sử dụng nhiều trong những văn kiện về Năm Thánh Lòng Thương Xót. Bốn Đại Vương cung thánh đường ở Rôma đều có Cửa Thánh, đó là các Vương cung thánh đường: Thánh Phêrô, Thánh Gioan Latêranô, Thánh Phaolô Ngoại thành và Đức Bà Cả. Nghi thức mở Cửa Thánh muốn nói lên rằng trong Năm Thánh, các tín hữu được ban cho một “con đường đặc biệt” để hưởng Ơn cứu rỗi.
Với “Năm Thánh Lòng Thương Xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô muốn đặt trọng tâm nơi lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng mời gọi các tín hữu trở về với Người. Gặp gỡ Chúa sẽ giúp chúng ta biết thực thi lòng thương xót.
Thứ hai, huấn từ về việc truyền chức Phó tế. Ngài nhấn mạnh: việc các thầy được lãnh nhận hồng ân phó tế trong một ngày đặc biệt như hôm nay chứng tỏ Thiên Chúa đang và sẽ tuôn đổ dồi dào ơn phúc của Ngài xuống trên mảnh đất truyền giáo này. Riêng đối với các tiến chức, Đức Cha mời gọi quý thầy khi lãnh nhận chức phó tế cũng biết nhìn vào gương các tiền nhân, để tha thiết với sứ vụ và liên kết với tình yêu Đức Kitô. Khi chấp nhận cuộc sống độc thân, các tiến chức diễn tả một tình yêu không chia sẻ dành cho Đức Kitô; khi đọc kinh phụng vụ, các tiến chức liên kết với Chúa Kitô từng giây phút; và khi rao giảng Lời Chúa, các thầy thi hành nhiệm vụ với đức tin, ý thức, lòng mến vì có Chúa là Đường là Sự thật và là Sự Sống. Đức Cha ước mong ngày lễ này các thầy luôn ghi nhớ để sống từng giây phút thật tốt trong đời hiến dâng.
Sau bài giảng, là phần chính yếu của nghi thức phong chức phó tế. Đức Giám Mục thẩm vấn từng tiến chức về: thi hành tác vụ của Hội thánh, cử hành nghi thức phụng vụ, gìn giữ mầu nhiệm đức tin bằng lời nói và việc làm, đời sống độc thân, gia tăng tinh thần cầu nguyện, trung thành với giờ kinh phụng vụ, sống theo mẫu gương Chúa Giêsu, và sự vâng phục đối với Đức Giám Mục Giáo phận cũng như những vị kế nhiệm ngài. Tiếp đến, cộng đoàn khẩn nài Thiên Chúa cho các tiến chức qua lời bầu cử của các thánh. Các tiến chức phủ phục trước cung thánh trong khi cộng đoàn quỳ hát Kinh Cầu Các Thánh. Tiếp đó, các tiến chức tiến lên và quỳ trước Đức Giám Mục để ngài đặt tay lên đầu và đọc lời nguyện phong chức. Các tiến chức giờ đây trở thành phó tế. Đức Giám Mục mặc phẩm phục cho các tiến chức, trao sách Phúc Âm và hôn bình an như dấu chỉ ngài nhận quý thầy vào hàng giáo sĩ của Giáo phận. Từ nay, các tiến chức sẽ lãnh nhận sứ mạng phục vụ Lời Chúa và bàn thánh trong chức phó tế.
Thánh lễ tiếp tục với phần phụng vụ Thánh Thể. Các tân chức phục vụ bàn thánh, trao Mình Chúa và chúc bình an cuối lễ.
Cuối thánh lễ, cha Tổng Đại Diện thay lời cho toàn thể Giáo phận, cách riêng các tân chức và gia đình các tân chức, dâng lời tri ân Đức Cha Giuse, Đức tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, cha Đại Diện, quý cha, quý tu sĩ nam nữ, quý ban ngành, ca đoàn, nhạc đoàn, quý hội đoàn, quý ân nhân, thân nhân…cùng toàn thể cộng đoàn đã tới cùng hiệp dâng thánh lễ và cầu nguyện cách đặc biệt cho các tân chức hôm nay. Đặc biệt, cha Tổng Đại Diện cũng không quên gửi lời cám ơn tới quý ông bà cố và những người thân của quý thầy, đã góp phần rất lớn trong hành trình ơn gọi của các thầy, để hôm nay Giáo phận có thêm những thợ gặt mới.
Đáp lời, Đức Cha Giuse cảm ơn mọi thành phần dân Chúa đã về dự lễ khai mạc năm thánh Lòng Thương Xót như lời mời gọi của ngài. Đức Cha cũng chúc mừng tới các tân chức và gia đình các tân chức. Sau cùng, ngài nhấn mạnh tới tầm quan trọng của Năm Thánh Lòng Thương Xót và không ngừng kêu gọi công đoàn: “mỗi người chúng ta trong Năm Thánh này hãy trở nên men, muối và ánh sáng để ướp mặn và tỏa sáng Lòng Thương Xót của Chúa giữa trần gian”.
Thánh lễ kết thúc trong lời tạ ơn dâng lên Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria. Mọi người cùng chia sẻ niềm vui với các tân phó tế tại hội trường nhà thờ chính tòa.
SOS: Nhà cầm quyền Cộng Sản ngang nhiên phá dỡ Chủng Viện Ba Đông, giáo phận Hải Phòng
GNsP– Cha Nguyễn Văn Nguyên, Hạt Trưởng Hạt Kẻ Sặt và cha Đặng Văn Hoàng, chính xứ Kẻ Bượi, quản nhiệm xứ Ba Đông, thuộc Giáo phận Hải Phòng đã viết đơn đề nghị khẩn cấp gửi các cấp chính quyền tỉnh Hải Dương yêu cầu “Dừng ngay việc chính quyền tự ý phá dỡ Chủng Viện Ba Đông- Giáo phận Hải Phòng”.
Truyền Thông GNsP gửi tới quý vị Đơn đề nghị này và xin quý vị hiệp ý, cầu nguyện để nhà cầm quyền biết tôn trọng tài sản của Giáo hội, cụ thể ở đây là tài sản của Giáo phận Hải Phòng.
Thời gian gần đây nhà cầm quyền Cộng Sản tiếp tục cưỡng chiếm và đập phá những cơ sở từng là của Giáo hội Công Giáo như: Dòng Chúa Cứu Thế Nha Trang, Tòa Khâm Sứ Hà Nội và mới nhất là Chủng Viện Ba Đông- Giáo phận Hải Phòng.
Những ước mong cho giáo phận khi có Giám Mục mới
Giáo phận Vĩnh Long đang sống trong những ngày đầy tràn hồng ân, tràn trề ước mong cho giáo phận khi có giám mục mới. Thật vậy, cùng với Giáo Hội hoàn vũ, Giáo phận Vĩnh Long sống đầy niềm vui mừng hưởng dạt dào hồng ân năm thánh "Lòng Chúa thương xót" vừa được Đức Thánh Cha Phanxicô khai mạc 08. 12. 2015 tại Roma và ngày hôm nay 11. 12. 2015, sau 780 ngày "trống tòa" Giám mục, Giáo phận Vĩnh Long được Chúa thương ban cho vị Tân Giám Mục là Đức Cha Phêrô Huỳnh Văn Hai, người con ưu tú của giáo phận xuất thân từ họ đạo Thạnh Phú Bến Tre, Chúa đã chọn ngài lên làm Đức Cha, người từ giữa anh em hàng linh mục.
Hòa cùng niềm vui và sống tâm tình cảm tạ, giáo phận đang tràn trề ước mong khi có vị Giám mục mới.
Đức Cha Phêrô làm Tân Giám Mục chánh tòa Giáo phận Vĩnh Long như "luồng gió mới" làm "đổi mới" giáo phận sau những ngày thiếu vắng vị Mục Tử, luồng gió của Chúa Thánh Thần làm hồi sinh, phát triển và tiến triển mọi mặt. Đổi mới trong cách thức làm việc, trong cả về nhân sự,...theo thánh y Chúa. Là Đấng kế vị các Thánh Tông đồ, trong vai trò mục tử, Đức Cha Phêrô của chúng con phải chăn dắt gần 200,000 con chiên; mà trong đoàn chiên nầy còn nhiều con chiên lạc xa đàn, ... và chưa kể cánh đồng truyền giáo thật mênh mông của miền đồng bằng đang cần Đức Cha và nhiều người chung tay góp sức, chung tay "ra khơi và thả lưới bắt cá" (Luca 5, 4). Do đó, mong cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo phận sống hiệp nhất yêu thương, biết vâng phục và ngoan ngoãn lắng nghe tiếng vị chủ chăn, biết nhiệt thành cộng tác với Ngài, để cùng với Ngài "ra khơi dám tiến ra chỗ nước sâu và thả lưới", hầu đem nhiều linh hồn về cho Chúa.
Đức Cha từng là Phó Giám Đốc Đại Chủng viện Thánh Quy Cần Thơ, ngài đã miệt mài, thao thức giảng dạy. Nhờ trung thành với truyền thống cùng giáo huấn của Giáo Hội, công cuộc đào tạo linh mục mới mang lại nhiều kết quả tốt đẹp như hôm nay. Thế nhưng, hoàn cảnh xã hội đổi thay làm phát sinh những thách đố mới cho công cuộc đào tạo linh mục cũng như cho đời sống linh mục và công việc mục vụ chăm sóc và dẫn dắt đoàn chiên của Chúa. Tâm lý thế hệ trẻ hôm nay có lẽ ít nhiều khác với những thế hệ trước. Đồng thời, những khuynh hướng tục hóa, duy vật chất, tự do cá nhân hưởng thụ, ..., cũng tác động nơi thế hệ trẻ nhiều hơn. Và những tác động đó tạo thêm khó khăn cho việc tiến bước theo Chúa Giêsu trên con đường tình yêu quảng đại hy sinh và khiêm tốn phục vụ cho Tin Mừng cứu độ cùng sự sống mới của Chúa Phục Sinh, tạo thêm chướng ngại cho việc chung sức xây dựng Giáo Hội Hiệp thông của Chúa Kitô.
Chính vì thế, mong ước mọi người cùng thao thức và góp phần với Đức Cha đào tạo chủng sinh, linh mục, tu sĩ, giáo dân, theo chỉ dẫn của Giáo Hội trong thiên niên kỷ mới, theo y Chúa trong thời đại mới.
Vì yêu thương con người, Thiên Chúa là người chủ ruộng gieo nhiều hạt mầm ơn thánh, hạt mầm Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, hạt mầm ơn đức tin, ơn gọi linh mục, tu sĩ...Từ 5 thế kỷ trước, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót đã gửi những nhà thừa sai đến khai hoang thửa đất Việt Nam, và chăm sóc cho những hạt mầm ơn thánh mà Thiên Chúa đã gieo.
Kế đến, nhiều chứng nhân đức tin đã đổ máu đào làm cho thửa đất Việt Nam nói chung và mảnh đất Giáo phận Vĩnh Long nói riêng đã trở nên màu mỡ. Đặc biệt Giáo phận Vĩnh Long có những người con ưu tú đổ máu đào làm chứng đức tin là cha thánh Philipphê Phan Văn Minh Minh và Giuse Nguyễn Văn Lựu Lựu đã được tôn phong hiển thánh. Ngoài ra còn có những vị khác là đấng đáng kính như Louis Cả Ngò và ông Câu Vinh. Vì thế, là con cháu của các ngài phải tiếp nối truyền thống đức tin, sống đức tin mà vẻ vang làm chứng cho đức tin. Và các thế hệ tín hữu Việt Nam qua dòng thời gian, đã dầy công vun trồng qua nhiều giai đoạn khó khăn gian khổ, cho những hạt mầm ơn thánh tồn tại và phát triển cùng đơm bông kết trái như ngày nay. Nhờ đời sống chuyên cần cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích. Và nguồn phân bón là lòng bác ái mến Chúa yêu người, cùng đời sống quảng đại cống hiến, hy sinh, chia sẻ với mọi người anh em đồng đạo, đồng bào, đồng loại.
Thế nhưng, đời sống nhân loại luôn biến chuyển, đổi thay, làm phát sinh những thách đố mới với những khó khăn và thử thách mới, cho đời sống đạo cũng như cho công cuộc loan báo Tin Mừng. Cần chung lòng chung sức tìm phương pháp mới, những biện pháp mới cho công cuộc ra khơi bắt cá và bổn phận làm người hôm nay.
Nguyện xin Chúa qua lời bầu cử của Mẹ Maria, các thánh tử đạo Việt Nam, đặc biệt 2 thánh tử đạo Philipphê Phan Văn Minh và Giuse Nguyễn Văn Lựu cho Đức Cha Phêrô và Giáo Phận Vĩnh Long càng thêm có những người nhiệt thành và đạt nhiều kết quả tốt đẹp trong việc ra khơi thả lưới bắt cá.
Nguồn: Giaophanvinhlong.net
Giáo phận Vĩnh Long: Hân hoan mừng Lễ tấn phong Giám mục Đức Cha Phêrô Huỳnh Văn Hai
Đã hơn 2 năm trôi qua, kể từ ngày Đức cha Tôma đột ngột ra đi để lại một trống vắng lớn cho Giáo phận Vĩnh Long, con dân Vĩnh Long khát mong Chúa qua Giáo hội ban cho Giáo phận một vị chủ chăn để dẫn dắt con thuyền Giáo phận. Niềm khao khát ấy được thể hiện nơi cộng đồng dân Chúa qua việc cầu nguyện chung hằng ngày nơi các họ đạo, cầu nguyện riêng nơi mọi người tín hữu.
Ngày 7 tháng 10 năm 2015 vừa qua niềm khao khát ấy được vỡ òa khi Tòa thánh công bố Đức Thánh Cha Phanxicô đã chọn Cha Phêrô Huỳnh Văn Hai, một người con ưu tú của Giáo phận làm người dẫn dắt con thuyền Giáo phận. Tất cả mọi thành phần dân Chúa ai cũng vui mừng, vui mừng vì Chúa đã nhậm lời cầu nguyện của đoàn dân Chúa, vui mừng vì từ nay Giáo phận đã không còn “mồ côi”, vui mừng vì đoàn dân Chúa tin chắc rằng qua vị “tông đồ của Chúa” Chúa sẽ ban nhiều hồng ân xuống trên Giáo phận, trên mọi tín hữu.
Niềm vui có Vị cha chung, niềm vui có người dẫn dắt Giáo phận được lan tỏa nơi mọi người tín hữu, ai cũng mong đến ngày lễ tấn phong giám mục, ai cũng mong được tận mắt nhìn thấy “cha của mình”, ai cũng mong đến ngày 11 tháng 12 năm 2015, ngày trọng đại của Giáo phận, ngày tấn phong “tông đồ” Phêrô Huỳnh văn Hai.
Hơn 1 tháng qua, từ ngày Tòa Giám mục công bố chính thức ngày lễ tấn phong Giám mục thì các họ đạo đã lên “kế hoạch” để “thẳng tiến” Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long để dự Thánh lễ long trọng này.
Như đoán trước được sự ao ước được tham dự Thánh lễ Tấn phong Giám mục của bà con giáo dân, các ban tổ chức lễ đã lên kế hoạch để phục vụ từ bên trong Nhà thờ Chánh tòa cho đến bên ngoài nhằm giúp ngày lễ được diễn ra một các tốt đẹp và trang nghiêm.
Từ chiều ngày 10 tháng 12 Giáo phận đã được vinh dự đón tiếp những vị khách phương xa như Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli, đại diện Đức Thánh Cha tại Việt Nam, Đức cha Giuse Giám mục Giáo phận Hưng Hóa, Đức cha Giuse Giám mục Giáo phận Hải Phòng, Đức Tôma và Đức Cha Emmanuel Giám mục Giáo phận Bà Rịa, Đức cha Stêphanô Giám mục Giáo phận Cần Thơ và nhiều vị khách quý từ phương xa đã đến để chia vui với Giáo phận Vĩnh Long.
Và ngày 11 tháng 12 năm 2015 cũng đã đến, từ tờ mờ sáng những người con của Giáo phận đã thẳng tiến hướng về Nhà thờ Chánh tòa, nơi chút ít thời gian nữa sẽ diễn ra Thánh lễ Tấn phong Giám mục của Đức cha Phêrô Huỳnh Văn Hai. Những họ đạo xa xôi như Mặc Bắc, Bãi Xan, Vĩnh Kim, Cái Đôi, Bình Đại, Ba Tri…đã có những đoàn xe để bà con giáo dân có thể đi chung với nhau, và từng đoàn từng đoàn người tiến về Nhà thờ với tâm trạng hân hoan phấn khởi.
Giáo phận cũng được vinh dự tiếp đón những vị khách quý là Quý Đức Hồng Y, Quý Đức Giám mục thuộc các Giáo tỉnh Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Cùng chung vui với Giáo phận còn có sự hiện diện của Quý Viện phụ, Quý Cha Tổng Đại Diện, Quý linh mục thuộc các Giáo phận bạn, Quý Bề Trên Các Dòng Tu…và đông đảo các linh mục, các Thầy Đại chủng sinh, nam nữ tu sĩ, bà con giáo dân trong và ngoài giáo phận cùng về tham dự Thánh lễ.
Thánh lễ được cử hành với Chủ tế là Đức Tổng Giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc và cũng là Giám mục chủ phong cùng hai Giám mục phụ phong là Đức Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh và Đức Cha Stêphanô Tri Bửu Thiên. Thánh lễ được cử hành hết sức trang nghiêm và sốt sắng trong tâm tình hân hoan tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho Giáo phận Vĩnh long một vị mục tử để dẫn dắt con thuyền Giáo phận.
Cuối lễ, Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli, đại diện Đức Thánh Cha tại Việt Nam đã có vài lời chung vui và nhắn nhủ với Giáo phận hãy cộng tác với ơn Chúa, hãy vâng nghe Chúa Thánh Thần qua vị mục tử để làm cho Giáo phận được phát triển và lan rộng. Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn đã dùng giọng điệu “rặt miền nam” nhắn nhủ mọi người tại Vĩnh Long là hãy gìn giữ Chúa Thánh Thần đừng để Chúa Thánh Thần “đi mất”. Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, phó Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng có đôi lời chúc mừng và đón nhận Đức cha Phêrô Huỳnh Văn Hai là thành viên mới của Hội Đồng Giám mục. Cha Phêrô Dương Văn Thạnh đại diện cho toàn thể linh mục, tu sĩ, anh chị em giáo dân chúc mừng và hứa vâng phục và cộng tác với Đức cha Phêrô trong sứ vụ mục tử. Sau cùng Đức cha Phêrô đã dâng lời tạ ơn Thiên Chúa và cám ơn mọi người đã ưu ái đến Giáo phận và bản thân ngài. Ngài xin mọi người hãy cầu nguyện cho Giáo phận và cho ngài để toàn tâm toàn lực phục vụ sứ mạng mục tử.
Thánh lễ tuy kéo dài gần 3 tiếng đồng hồ nhưng trong lòng ai cũng thấy ấm áp và hân hoan vì tình Chúa tuôn tràn và tình người chứa chan. Nguyện xin Chúa tiếp tục tuôn tràn ơn thánh của Ngài xuống trên Đức cha Phêrô trong sứ vụ đã lãnh nhận và cho Giáo phận Vĩnh Long ngày một phát triển trong sự hiệp nhất và thánh thiện.
Nguồn: giaophanvinhlong.net
Phỏng vấn Đức Cha Nguyễn Hồng Sơn, Tân Giám mục phó giáo phận Bà Rịa
Trước hết, Cha Giám Đốc, Ban Biên Tập, cộng tác viên và độc giả VietCatholic chúng con xin tạ ơn Chúa và chúc mừng Đức Cha trong sứ vụ mới. Chúng con xin Đức Cha vui lòng cho chúng con biết một số thông tin nhân dịp này.
PV. Kính thưa Đức Cha, xin Đức Cha vui lòng chia sẻ cho chúng con vài tâm tình của Đức Cha khi nhận được tin Đức Thánh Cha bổ nhiệm Đức Cha làm Giám Mục Phó Giáo Phận Bà Rịa.
Đức Cha Emmanuel: Chỉ là ý tưởng: lại thêm một trường hợp Chúa đi qua, với ánh nhìn ‘miserando atque eligendo’. lại thương xót và chọn gọi, như với Matthêô và Đức Phanxicô. Việc tuyển chọn tôi vào hàng giám mục chỉ có thể là một quyết định của lòng thương xót, và cũng chính vì thế mà tôi vẫn an tâm, vì biết là khi Chúa đã thương thì Người sẽ thương đến cùng.
PV. Giáo phận Bà Rịa nổi tiếng hào hùng với các Anh Hùng Tử Đạo, có tổng số giáo dân bị chết thiêu là 444 người, điều này có ý nghĩa như thế nào đối với Giáo Hội địa phương cũng như đối với Giáo Hội Việt Nam, thưa Đức Cha?
Đức Cha Emmanuel: Bà Rịa là đồng lúa trổ sinh từ dòng máu tử đạo. Trang sử của đêm 7 rạng sáng ngày 8 tháng 1 năm 1862, không chỉ là một ký ức của quá khứ, nhưng là chứng từ đức tin cho các thế hệ tín hữu, như lời bài thơ còn ghi trên ngôi mộ của các ngài: “vì Chúa, tù lao dư ba tháng – cam lòng chịu cháy chết chỗ này - lập mộ táng chung vào một huyệt – giáo nhơn coi đó nhớ hàng ngày”. Trong bản danh sách các vị Tử đạo Bà Rịa, không có tiểu sử, chỉ ghi tên thánh, tên gọi, nơi bị giam giữ và tử đạo. Không có những chi tiết riêng, điều này càng làm nổi rõ ý nghĩa của một hiến lễ chung, vì thế không chỉ các tín hữu hiện đang ở Bà Rịa, nhưng tất cả những người con của Giáo phận ở nhiều nơi khác, đều được mời gọi để sống xứng đáng với hồng phúc cha ông đã để lại. Cầu mong những hạt giống vùi trong lòng đất Bà Rịa hơn trăm năm qua, sẽ trổ sinh mùa lúa dồi dào cho Giáo phận ngày nay.
PV. Xin Đức Cha cho độc giả chúng con biết về khẩu hiệu và biểu tượng huy hiệu Giám mục của Đức Cha.
Đức Cha Emmanuel: Ý nghĩa huy hiệu giám mục
Ý tưởng chung: Đức Ái Mục Tử
- cây gậy chăn chiên mang hình Thánh Giá: người mục tử theo mẫu gương của Chúa Giêsu, yêu thương đến cùng (x. Ga 13,1)
- ngọn lửa luôn bừng cháy mang hình ảnh trái tim của Thiên Chúa là Tình yêu (x. 1Ga 4,8)
- những ánh lửa tạo nét cho biểu tượng Chúa Thánh Thần qua hình chim bồ câu, không phải trong tư thế “ngự xuống”, nhưng là đang bay để dẫn đường (x. Cv 13,2)
- đầu gậy xoay theo cùng hướng nhìn của chim bồ câu: mục tử tiến bước nhờ Thánh Thần (x. Gl 5,25) để dẫn chiên đến và giữ chiên ở lại mãi trên đồng cỏ xanh với dòng suối mát của ân sủng, để chiên được sống, và sống dồi dào (x. Ga 10,10)
Phương châm sống: “Vâng nghe Thánh Thần" (Docilis Spiritu Sancto)
Ý nghĩa trọn vẹn là “ngoan ngoãn vâng nghe Thánh Thần”, dễ dạy, dễ bảo trước sự soi dẫn của Thánh Thần
- dễ dàng đón nhận tác động, mau mắn làm theo sự thúc đẩy, vâng nghe những soi dẫn của Chúa Thánh Thần (Thánh Gioan-Phaolô II)
- vâng theo tác động của Thánh Thần để trung thành bước theo Chúa Kitô, tận tâm phục vụ Nước Trời, xây dựng Nhiệm Thể Giáo Hội (Đức Thánh Cha Benêđictô XVI)
- để cho Chúa Thánh Thần thăng tiến bản thân, hoạt động cách sáng tạo và cuộc sống được vui tươi, an bình (Đức Thánh Cha Phanxicô)
Có thể nói thêm là những biểu tượng trên huy hiệu có thể nhìn cả từ hướng mục tử và từ phía đoàn chiên: nếu mục tử phải dẫn chiên đi theo Chúa Thánh Thần với Đức Ái mục tử trọn vẹn xuất phát từ Tình yêu Thiên Chúa và hy sinh Thánh giá, thì đoàn chiên cứ luôn an tâm vì người đang dẫn chiên đi cũng được hướng dẫn bởi Thánh Thần, và nhất là ví cả mục tử lẫn đoàn chiên đều được bao bọc trong lòng thương xót vô biên của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Xin cám ơn cha Giám Đốc, Ban biên tập, cộng tác viên và các độc giả Vietcatholic. Xin mọi người tiếp tục cầu nguyện nhiều cho Giáo phận Bà Rịa.
PV. Chúng con xin chân thành cám ơn Đức Cha và cầu xin Chúa ban tràn đầy ơn lành cho Đức Cha trong sứ vụ mới.