Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Không có đồng hành thiêng liêng cho người chịu án tử là tàn nhẫn
Trừng phạt nhưng luôn tôn trọng sự sống và nhân phẩm
Trong đơn khiếu nại gửi đến Tòa Phúc phẩm, Đức cha Daniel Flores, Giám mục Brownsville nói: “Người phạm tội ác phải chịu án tù, như một hình phạt công bằng để sửa chữa những xáo trộn đạo đức luân lý và để bảo vệ xã hội, tuy nhiên cần phải nhớ rằng hình phạt luôn phải tôn trọng sự sống và phẩm giá con người”.
Trong vai trò là ủy viên hội đồng giám mục cho Mạng lưới Huy động Công giáo (CMN), một tổ chức Công giáo quốc gia đang đấu tranh để chấm dứt án tử hình và thúc đẩy phục hồi công lý, Đức cha Daniel Flores giải thích: “Không cho phép một tù nhân đang chờ thi hành án tử được hướng dẫn và đồng hành thiêng liêng và tôn giáo là tàn nhẫn và vô nhân đạo. Đây là một sự lăng nhục đối với chiều kích đạo đức và tôn giáo của phẩm giá con người, điều đã được ‘Tu chính Hiến pháp đầu tiên’ bảo vệ rõ ràng”.
Tử hình không bao giờ được chấp nhận
Trong một thông cáo, bà Krisanne Vaillancourt Murphy, giám đốc điều hành Mạng lưới Huy động Công giáo cũng lên tiếng lấy làm tiếc về quyết định của Tòa án, đồng thời tái khẳng định rằng: “Đức tin của chúng tôi dạy, án tử hình không thể chấp nhận được vì đó là một cuộc tấn công vào quyền bất khả xâm phạm của con người. Và điều này càng gây thêm xúc phạm khi không cho phép họ được đồng hành thiêng liêng, bỏ qua phẩm giá thánh thiêng của con người”. (CSR_4646_2020)
Ngọc Yến - Vatican News
Hương thơm thánh thiện của Rohan Kemu, một thanh niên 18 tuổi bị khuyết tật nhưng có lòng yêu mến Thánh Thể
Từ khi chào đời Rohan đã phải chịu đựng đau khổ do căn bệnh liên quan đến cơ, tay chân bị co rút trong đau đớn. Đau khổ nhân lên gấp bội khi chỉ mới lên ba tuổi thì người mẹ qua đời. Cha của Rohan là người nghiện rượu không quan tâm chăm sóc Rohan lại còn thường xuyên đánh đập và bỏ đói Rohan. Em sống trong đau khổ và sợ hãi cho đến một ngày kia, dân làng phát hiện hoàn cảnh khốn khổ của em đã mời các nữ tu đến đưa em về cộng đoàn chăm sóc.
Được yêu thương
Ngôi nhà bác ái ở Uttan là nơi Rohan được đón nhận. Cơ sở được xây dựng trong năm 1992. “Ngôi nhà Đức Maria Bác ái” do cha Mario Prand, linh mục người Ý thành lập. Hiện các nữ tu chăm sóc 11 người khuyết tật về thể chất và tâm trí. Người lớn tuổi nhất 82 tuổi, nhỏ nhất mới 5 tuổi nhưng được các nữ tu đón nhận khi chỉ mới được một tháng tuổi.
Thời gian đầu khi được đưa đến cộng đoàn chăm sóc, do những chấn thương khủng khiếp đã phải chịu đựng, Rohan sống khép kín, không chịu tiếp xúc bất cứ ai. Em có phản ứng hoảng loạn sợ hãi khi nghe giọng nói của một người đàn ông nào đó, âm thanh gợi nhớ lại hình ảnh người cha độc ác. Rồi dần dần, được chăm sóc và sinh hoạt chung cùng với những em khuyết tật khác Rohan đã học được cách tận hưởng cuộc sống, cảm nhận hạnh phúc, vui vẻ, luôn mỉm cười.
Yêu mến Thánh Thể
Sau khi tham gia lớp giáo lý với các bạn nhỏ khác, Rohan biết Chúa Giêsu và tình yêu của Ngài dành cho mình. Em đã trải nghiệm giây phút lần đầu tiên được rước Chúa với niềm vui lớn lao. Tình yêu của em dành cho Chúa Giêsu Thánh Thể rất mạnh mẽ đến mức nếu không được rước Chúa, em rất buồn và khóc. Khi tham dự Thánh lễ, em kết hiệp với tất cả thân xác, tâm trí và linh hồn.
Dâng hiến cho Cha Thánh Pio và Thánh Gioan Phaolô II
Em để dưới gối bức ảnh Cha Thánh Pio và Thánh Gioan Phaolô II, hai vị thánh em rất yêu mến và tin rằng hai vị sẽ chuyển cầu cho em để Chúa cho em sức mạnh chiến đấu với đau khổ.
Rohan cũng có những sở thích như các thiếu nhi khác; em thích phim hoạt hình và sôcôla. Sức chịu đựng đau khổ cùng với nụ cười của em có khả năng lan truyền đến mọi người đặc biệt là các bác sĩ, y tá. Mọi người được truyền cảm hứng khi nhận được nụ cười trong đau khổ của em. Ai cũng muốn làm một điều gì đó cho em, một số nhân viên y tế đã lấy tiền riêng để giúp đỡ thêm cho việc điều trị cho em.
Món quà cho mọi người
Sơ Julie Pereira, Bề trên cộng đoàn nữ tu cho biết: “Từ khi đến đây khi chỉ mới 3 tuổi cho đến nay 18 tuổi, trong 15 năm sống với chúng tôi, Rohan thực sự là món quà của chúng tôi. Em đã cho chúng tôi niềm vui được chạm đến Thân Mình Đức Kitô”.
Trong đau đớn, Rohan dạy cầu nguyện
Trong 20 ngày cuối cùng trước khi về với Chúa, Rohan bị sốt liên tục, sơ Julie Pereira chăm sóc bồng Rohan ngày đêm như một em bé, không dám bỏ hoặc đặt Rohan lên giường một mình. Sơ nói: “Tôi ngồi trên ghế ôm em trong vòng tay và cầu nguyện với chuỗi Lòng Thương Xót. Trong những giây phút đó, tôi cảm thấy sự hiện diện của Chúa, của Chúa Giêsu, Ngài nói với tôi: Ta đây; đây là thân xác Ta mà con đang chăm sóc; hãy làm điều này và nhớ đến Ta; tất cả những gì con làm cho Rohan, con đã làm cho chính Ta. Rohan dạy chúng tôi dâng lên Chúa Kitô những đau khổ phải chịu đựng. Em dạy chúng tôi chiêm ngắm Chúa và cách cầu nguyện với Chúa. Càng đau khổ, lời cầu nguyện của em càng chân thành. Ngay cả trong giây phút hấp hối, em đã dạy chúng tôi cầu nguyện.
Nếu bạn nhìn vào Rohan, tâm hồn bạn tràn đầy lòng trắc ẩn
Rohan qua đời vào ngày 4/6 tại Uttan, được các nữ tu chăm sóc cho đến giây phút cuối cùng. Mọi người đều nói, sau khi em chết đều cảm thấy "một hương thơm thánh thiện" lan tỏa xung quanh. Cha Godfrey, linh mục giáo xứ gần đó, người đã biết Rohan trong tám năm, kết luận: “Rohan đã được Chúa chọn trước khi sinh ra, để trở thành mẫu gương về lòng kiên nhẫn, sức chịu đựng, lòng thương xót và tình yêu Thiên Chúa. Nếu ai đó nhìn vào Rohan, trái tim lập tức tràn đầy lòng trắc ẩn. Nhưng khi bạn nhìn vào sự nhiệt tình, tinh thần phấn khởi mặc cho những hạn chế về thể lý, bạn sẽ phải xấu hổ”.
Ngợi khen Chúa vì một cuộc đời được ghi dấu bằng những đau khổ của người trẻ Rohan Kemu.
Ngọc Yến - Vatican News
Các Giám mục Nam Phi với các bạn trẻ: Hãy tin tưởng và hãy bay lên
Hãy tin và hãy biết cất cánh như đại bàng
Do đại dịch, lễ hội được tổ chức trực tuyến qua Facebook. “Các bạn hãy tin và hãy biết cất cánh như đại bàng”, với những lời động viên này Đức cha Phalana khuyến khích các bạn trẻ không đầu hàng, không mất hy vọng, kiên trì đối diện với những thách đố trong cuộc sống. Không quên những mẫu gương của những người đi trước, như các bạn sinh viên của ngày 16/6/1976 đã thực hiện cuộc nổi dậy chống phân biệt chủng tộc Soweto và sau đó đã đưa đến thất bại của chủ nghĩa apartheid. Chủ tịch Ủy ban Công lý và Hòa bình viết: “Sự hy sinh của những người trẻ cách đây 44 năm không vô ích và góp phần thay đổi ‘lịch sử và số phận’ của Nam Phi. Do đó, bài học mà những người trẻ ngày nay có thể rút ra được lấy từ Tin Mừng Gioan: ‘Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình’” (Ga 15,13).
Từ người tìm việc trở thành người tạo việc cho người khác
Tiếp đến, Đức cha nhắc đến một số thách đố mà người trẻ phải dối diện. Trước hết là tình trạng thất nghiệp đang ảnh hưởng đến 30% thanh niên độ tuổi từ 16-24 và 46% thanh niên độ tuổi từ 25-34. Đức cha Phalana nói: “Trong lúc này, xin các bạn đừng bỏ cuộc. Hãy phân định các cơ hội, tham khảo ý kiến của các cố vấn và những người trợ giúp tinh thần của các bạn. Bởi vì theo cách này, các bạn sẽ có thể đi từ một người tìm kiếm công việc trở thành người tạo việc làm cho người khác”. Vị giám mục Nam Phi đồng thời kêu gọi chính phủ thực hiện các can thiệp phối hợp để đào tạo thích hợp các bạn trẻ.
Đại dịch chỉ là một trở ngại tạm thời
Sau đó, hướng đến các bạn sinh viên, những người đã lên kế hoạch nhưng “bị virus Covid-19 làm hỏng”, vị giám chức kêu gọi các bạn trẻ “đừng nhượng bộ”, vì đại dịch chỉ là “một trở ngại tạm thời”. Điều tương tự cũng xảy ra với các sinh viên năm 1976, nhưng “không ai bị bỏ lại phía sau: mọi người đã tiếp tục việc học”.
Bạo lực giới
Cuối cùng, Chủ tịch Công lý và Hòa bình hướng đến một thảm trạng khác của xã hội Nam Phi, đó là bạo lực giới: “Đây là một tai họa với những hậu quả tàn phá gia đình và xã hội. Tai ương này phải được những người trẻ đấu tranh. Các bạn phải dám nói và hành động, đem lại lợi ích cho phụ nữ, để nhân phẩm và quyền của họ luôn được tôn trọng. Những người trẻ phải trở thành tác nhân thay đổi lịch sử Nam Phi”. Đức cha Phalana kết luận: “Các bạn hãy sẵn sàng trao ban chính mình vì thành công của các bạn, bởi vì những khó khăn và đau khổ trong cuộc sống nói với chúng ta rằng, để đạt được mục tiêu của mình, chúng ta phải dang rộng đôi cánh, giống như đại bàng”. (CSR_4642_2020)
Ngọc Yến - Vatican News
ĐTC chúc lành cho cuộc đọc kinh Mân Côi tiếp sức toàn cầu cầu nguyện cho các linh mục
Các đền thánh tham dự sự kiện đọc một mầu nhiệm Mân Côi vào nửa giờ đã định để cảm ơn các linh mục và xin Mẹ Maria bảo vệ các ngài. Các đền thánh cầu nguyện nối tiếp nhau qua các múi giờ cho đến khi toàn cầu được bao bọc trong lời cầu nguyện.
Đức Thánh Cha hiệp thông cầu nguyện cho các linh mục
Sứ điệp được Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, gửi đến Đức tổng giám mục Michael Neary của Tuam, có viết: “Đức Thánh Cha Phanxicô hài lòng biết về cuộc đọc kinh Mân Côi tiếp sức toàn cầu hàng năm cầu cho các kinh mục được diễn ra vào ngày lễ trọng Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Ngài hiệp thông với tất cả, tham gia cầu nguyện để các linh mục ở mọi nơi được củng cố trong sứ vụ loan báo và cử hành tình yêu thương xót của Chúa Kitô Cứu độ, và trở nên những mục tử hoàn toàn hơn theo lòng Chúa mong muốn.” Đức Hồng y Parolin cho biết Đức Thánh Cha ban Phép lành Tòa Thánh cho tất cả mọi người.”
Kinh Mân Côi "tiếp sức" toàn cầu cầu nguyện cho các linh mục
Đức tổng giám mục Neary là cố vấn giám mục của phong trào Linh mục Thế giới được thành lập năm 2003 bởi doanh nhân người Ai Len, cô Marion Mulhall. Cô đã thành lập tổ chức để “khẳng định phẩm giá, vẻ đẹp và ân huệ của chức tư tế Chúa Giêsu ban cho nhân loại.” Năm 2009, cô Mulhall giám sát việc phát động việc đọc kinh Mân Côi tiếp sức toàn cầu, được thực hiện mỗi năm vào ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Do đại dịch Covid-19, các nhà tổ chức khuyến khích những đền thánh tham gia chiếu trực tiếp giờ đọc kinh của họ, hoặc nếu không thể, thì cầu nguyện theo nhóm nhỏ trong các nhà thờ khi tuân giữ các biện pháp ngăn ngừa lây lan dịch bệnh.
Các tín hữu có thể tham gia bằng cách tham gia giờ cầu nguyện được chiếu trực tiếp trên radio, Facebook và YouTube.
Năm ngoái có 255 địa điểm tại 70 quốc gia tham dự cuộc đọc kinh Mân Côi tiếp sức này. Năm nay dự kiến các tín hữu tại 85 quốc gia sẽ tham gia. (CNA 02/06/2020)
Hồng Thủy - Vatican News
ĐTC Phanxicô cầu nguyện cho tự do lương tâm được tôn trọng
Sau bài giáo lý trong buổi tiếp kiến chung ngày 17/06, Đức Thánh Cha nhắc đưa ra lời kêu gọi nhân “Ngày Lương tâm”, được cử hành vào ngày 17/06 hàng năm.
Đức Thánh Cha nói: Hôm nay là "Ngày Lương tâm", được cảm hứng từ chứng tá của nhà ngoại giao người Bồ Đào Nha, ông Aristides de Sousa Mendes, người đã quyết định nghe theo tiếng nói của lương tâm và cứu sống hàng ngàn người Do Thái và những người bị bách hại khác."
Đức Thánh Cha nói: “Cầu xin cho tự do lương tâm có thể được tôn trọng mọi lúc và mọi nơi; và mỗi Kitô hữu có thể là gương mẫu về sự nhất quán bằng lương tâm ngay chính và được chiếu sáng bởi Lời Chúa.”
Chứng tá của ông Aristides de Sousa Mendes
Những lời của Đức Thánh Cha được đan xen với câu chuyện của ông Aristides de Sousa Mendes, một nhà ngoại giao người Bồ Đào Nha sinh năm 1855 trong một gia đình quý tộctại Cabanas de Viriato. Năm 1940, ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ông được bổ nhiệm làm Lãnh sự của thành phố Bordeaux, Pháp.
Ông đã tận mắt nhìn thấy vô số người tị nạn, trong đó có nhiều người Do Thái, đang tìm cách thoát khỏi cơn thịnh nộ giết người của Đức quốc xã. Chính quyền Lisbon do António de Oliveira Salazar lãnh đạo đã ra lệnh từ chối cấp thị thực cho "người nước ngoài không có quốc tịch". Và không cấp cho cả những người không quốc tịch và "người Do Thái, đã bị trục xuất khỏi quốc gia nguyên quán hoặc nước mà họ là công dân. " Nhưng ông Aristides de Sousa Mendes đã cấp thị thực, đặc biệt là cho người Do Thái, cho phép họ vào một quốc gia trung lập như Bồ Đào Nha.
Hồng Thủy - Vatican News
ĐTC Phanxicô: Đừng lên án nhưng hãy cầu nguyện, ngay cả cho người tội lỗi nhất
Sách Xuất hành miêu tả ông Mô-sê như một người thất bại, theo cái nhìn của con người. Nhưng ông được Thiên Chúa gọi để đưa Dân Người khỏi ách nô lệ, đến sự tự do. Ông từ chối trách nhiệm này với lý do mình không xứng đáng. Tuy nhiên, Thiên Chúa ủy thác cho ông trách nhiệm thông truyền lề luật Chúa cho dân Israel và ông đã trở thành người cầu thay nguyện giúp cho dân, đặc biệt khi họ gặp thử thách và phạm tội. Ông trở thành trung gian, cầu nối giữa đất và trời, cầu khẩn cho dân khi họ gặp khốn khó. Theo cách này, ông là hình ảnh báo trước của Chúa Giê-su, Đấng chuyển cầu vĩ đại và là thượng tế của chúng ta.
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha
Bắt đầu bài giáo lý, Đức Thánh Cha nhận xét rằng “Thiên Chúa không bao giờ thích liên lạc với những người cầu nguyện cách ‘dễ dàng’. Và ngay cả ông Mô-sê cũng không phải là một người đối thoại ‘yếu đuối’, ngay từ những ngày đầu trong ơn gọi của ông.
Thiên Chúa gọi ông Mô-sê, con người "thất bại", cho sứ vụ giải thoát dân Israel
Đức Thánh Cha giải thích: Khi Thiên Chúa gọi ông Mô-sê, ông đang là người "thất bại". Sách Xuất hành mô tả ông ở vùng đất Midian như một kẻ chạy trốn. Khi còn trẻ, ông đã cảm thấy thương xót người dân của mình, và ông cũng đã chọn lựa bảo vệ những người bị áp bức. Nhưng chẳng bao lâu sau, ông phát hiện ra rằng, mặc dù có ý tốt, từ đôi bàn tay ông không nảy sinh công lý mà chỉ có bạo lực. Giấc mơ vinh quang của ông tan vỡ như thế: ông không còn là một quan chức đầy triển vọng, được định sẵn cho một sự nghiệp thăng tiến nhanh chóng, mà là một người đã tận dụng các cơ hội, và giờ đây chăm sóc một đàn vật thậm chí không phải là của mình. Và chính trong sự thinh lặng của hoang địa Midian, Thiên Chúa gọi ông Mô-sê đến mặc khải của bụi gai cháy đỏ: “‘Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp.” Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa.” (Xh 3,6).
Ông Mô-sê từ chối vì thiếu tin tưởng vào Chúa
Một lần nữa, ông Mô-sê đáp lời Thiên Chúa, Đấng đang nói, Đấng mời gọi ông chăm sóc dân Israel, bằng sự sợ hãi. Ông đưa ra vấn nạn: ông không xứng đáng với sứ mệnh đó, không biết tên của Thiên Chúa, sẽ không được dân Israel tin tưởng, có tật nói lắp bắp ... Từ ngữ thường xuyên xuất hiện trên môi của ông Mô-sê nhất, trong mỗi lời ông cầu nguyện với Thiên Chúa, là câu hỏi: "tại sao?". Tại sao Chúa sai con đi? Tại sao Chúa muốn giải thoát dân tộc này? Trong Bộ Ngũ thư, thậm chí còn có một đoạn sách kịch tính, khi Thiên Chúa quở trách ông Mô-sê vì ông thiếu tin tưởng; sự thiếu lòng tin này sẽ khiến ông không được vào đất hứa (x. Ds 20,12).
Dù yếu đuối, ông Mô-sê không bao giờ bỏ rơi dân của mình
Với những nỗi sợ hãi này, với trái tim thường xuyên dao động này, làm thế nào ông Mô-sê có thể cầu nguyện? Thật ra, ông Mô-sê cũng là người phàm như chúng ta. Chúng ta cũng có những nghi ngờ, làm thế nào chúng ta có thể cầu nguyện? Chúng ta có ấn tượng mạnh không chỉ vì sự mạnh mẽ của ông nhưng cả vì sự yếu đuối này. Được Thiên Chúa trao trách nhiệm thông truyền Lề luật cho dân Chúa, là người thành lập việc phụng tự Thiên Chúa, là trung gian của các mầu nhiệm cao cả nhất, nhưng không vì lý do này mà ông sẽ không còn mối liên kết chặt chẽ với dân của mình, nhất là khi họ bị cám dỗ và phạm tội. Ông luôn gắn bó với dân. Ông không bao giờ quên dân. Đây là sự vĩ đại của các mục tử: không bao giờ quên dân, không bao giờ quên nguồn cội. Như thánh Phao-lô nói với môn đệ Ti-mô-thê thân yêu của ngài: “Hãy nhớ mẹ và bà của con, nhớ nguồn cội và dân tộc của con” . Ông Mô-sê gần gũi với Thiên Chúa đến nỗi ông có thể nói chuyện trực tiếp với Người (x. Xh 33,11); và ông sẽ vẫn gần gũi với con người đến mức cảm thấy xót xa cho tội lỗi của họ, cho những cám dỗ của họ, cho nỗi nhớ bất chợt về quá khứ của những người lưu vong, nhớ lại khi họ ở Ai Cập.
Ông Mô-sê là người có tinh thần nghèo khó
Ông Mô-sê không chối từ Thiên Chúa, cũng không chối từ dân tộc của mình. Do đó, ông Mô-sê không phải là một nhà lãnh đạo độc tài và chuyên chế; trái lại, sách Dân số định nghĩa ông "khiêm tốn và hiền lành hơn mọi người trên trái đất" (x. 12.3). Bất chấp điều kiện đặc quyền của mình, ông Mô-sê vẫn thuộc về nhóm người nghèo khó trong tinh thần, những người sống bằng cách biến niềm tin tưởng vào Thiên Chúa thành lương thực trong cuộc hành trình của họ.
Cách cầu nguyện của ông Mô-sê: chuyển cầu cho dân
Cách cầu nguyện thích hợp nhất của ông Môsê sẽ là sự chuyển cầu (x. Giáo lý Hội thánh Công giáo, 2574). Niềm tin vào Thiên Chúa của ông trở nên một với cảm thức ông là một người cha của dân tộc mình. Kinh Thánh thường mô tả ông với đôi bàn tay vươn lên, hướng về Thiên Chúa, bằng chính con người mình, ông trở thành chiếc cầu nối giữa trời và đất. Ngay cả trong những thời khắc khó khăn nhất, ngay cả vào ngày mà mọi người chối từ Thiên Chúa và từ chối xem ông như một người lãnh đạo, và tạc cho họ một con bò vàng, ông Mô-sê không cảm thấy muốn bỏ dân của ông. Đó là dân của con. Đó là dân của Chúa. Ông không chối bỏ Thiên Chúa và cũng không chối từ dân của mình. Và ông thưa với Chúa: "Dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng! Nhưng giờ đây, ước gì Chúa miễn chấp tội họ… Bằng không, nếu Chúa không tha thứ cho tội lỗi này, thì xin Chúa xoá tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết.” (Xh 32,31-32). Ông Mô-sê không thương lượng với dân chúng. Ông là cây cầu, là người cầu khẩn. Ông là người đứng giữa dân Chúa và Chúa. Ông không bán đứng dân mình vì sự nghiệp. Ông không phải là người tìm cách leo thang danh vọng, ông là người chuyển cầu: vì dân của mình, vì máu thịt của mình, vì lịch sử của dân, vì dân tộc và vì Thiên Chúa Đấng đã gọi ông. Ông là cây cầu nối.
Ông Mô-sê là gương mẫu cho các mục tử
Theo Đức Thánh Cha, ông Mô-sê là một gương mẫu cho tất cả các mục tử, những người phải là "cầu nối". Vì thế, họ được gọi là pontifex, những cây cầu. Mục tử là cầu nối giữa những người mà họ thuộc về với Thiên Chúa, Đấng mà theo ơn gọi, họ thuộc về. Ông Mô-sê cũng vậy. “Xin Chúa tha thứ cho tội lỗi của họ, nếu Chúa không tha thứ, xin hãy xóa con khỏi cuốn sách mà Chúa đã viết. Con không muốn dùng dân của mình để tiến thân."
Không lên án nhưng cầu nguyện cho người thiếu sót, tội lỗi
Đây là lời kinh nguyện mà các tín hữu chân chính cũng phải thực hiện trong đời sống tâm linh của họ. Ngay cả khi họ nhìn thấy những thiếu sót và sự xa cách của con người với Thiên Chúa, khi cầu nguyện, họ không lên án những người này, không từ chối họ. Thái độ cầu thay nguyện giúp là thái độ của các vị thánh, những người, khi bắt chước Chúa Giêsu, trở thành những "cầu nối" giữa Thiên Chúa và dân của Người. Theo nghĩa này, ông Mô-sê là vị ngôn sứ vĩ đại nhất của Chúa Giêsu, người bênh vực và khẩn cầu của chúng ta (x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 2577).
Ngay cả ngày nay, Chúa Giê-su là cầu nối giữa chúng ta và Chúa Cha. Và Chúa Giê-su khẩn cầu cho chúng ta, cho Chúa Cha thấy các vết thương, cái giá Người chịu vì ơn cứu độ chúng ta và khẩn cầu cho chúng ta. Và ông Mô-sê là hình ảnh của Chúa Giê-su Đấng khẩn cầu ngày nay, cầu nguyện cho chúng ta và chuyển cầu cho chúng ta.
Khi tức giận ai, hãy cầu nguyện cho họ
Ông Mô-sê kêu gọi chúng ta cầu nguyện nhiệt thành như Chúa Giêsu, cầu xin cho thế giới, nhớ rằng bất chấp mọi yếu đuối của nó, thế giới luôn thuộc về Thiên Chúa. Tất cả thuộc về Thiên Chúa. Đức Thánh Cha giải thích: Những người tội lỗi xấu xa nhất, những người gian ác nhất, những lãnh đạo tham nhũng nhất, những người con của Thiên Chúa và Chúa Giê-su cảm thấy điều này và cầu nguyện cho tất cả. Và thế giới sống và phát triển nhờ phúc lành của người công chính, nhờ lời cầu xin lòng thương xót mà thánh nhân, người công chính, người chuyển cầu, linh mục, giám mục, Đức Giáo hoàng, giáo dân, bất cứ ai đã được rửa tội, không ngừng dâng lên vì con người, ở mọi nơi và mọi thời điểm trong lịch sử. Chúng ta hãy nghĩ đến ông Mô-sê, người chuyển cầu. Và khi chúng ta có ý muốn kết án ai và chúng ta cảm thấy tức giận trong lòng… Bạn phải làm gì khi tức giận? Hãy đi cầu nguyện cho người đó. Điều này giúp chúng ta rất nhiều.
Hồng Thủy - Vatican News
Sứ điệp của các nhà lãnh đạo các tôn giáo hoàn cầu nhân đại dịch Covid-19: hợp nhất và tương liên
Theo hãng tin Zenit, trong bản tin ngày 12 tháng 6, Viện Liên Tôn Elijah và Hội Đồng Các Nhà Lãnh đạo Tôn giáo Thế giới của nó đã qui tụ các nhà lãnh đạo tôn giáo lỗi lạc nhất của thế giới để đưa ra các hướng dẫn liên quan đến các thách thức tâm linh của đại dịch Covid-19 và đề ra một viễn kiến cho thế giới sau cuộc khủng hoảng. Một trong các sứ điệp chủ chốt xuất hiện trong “Coronaspection” — cuốn video thu thập cái nhìn tâm linh nội quan của 40 nhà lãnh đạo tôn giáo hoàn cầu dưới góc độ đại dịch Covid-19, là sứ điệp liên đới và tương liên.
Các nhà lãnh đạo tôn giáo từ bảy tôn giáo trải khắp mười lăm quốc gia, bao gồm Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tổng Giám mục Canterbury, các giáo sĩ Hồi giáo hàng đầu, các Trưởng Giáo sĩ Do Thái giáo, giáo sĩ Ấn giáo, Hồng Y và thầy giáo đã tham gia dự án.
Đoạn phim giới thiệu tựa là Coronaspection trình bầy tình liên đới và đoàn kết như các thông điệp chính xuất phát từ đại dịch hoàn cầu, các thông điệp thậm chí càng trở nên có liên quan hơn dưới góc độ các sự kiện hoàn cầu gần đây.
Như Trưởng Thượng Jeffrey Holland của Giáo Hội Chúa Giêsu của Các Thánh Ngày Sau Hết tuyên bố trong cuộc phỏng vấn này, “Sự sống là điều quý giá. Mọi người đều quan trọng. Những khoảnh khắc này có tính hoàn vũ”. Tâm tình này được lặp lại bởi các nhà lãnh đạo các tín ngưỡng lớn của mọi tôn giáo. Giáo sĩ Hồi giáo Fealu Abdul Rauf nói rằng “Tất cả nhân loại đều là một”, hay như Thượng phụ Mashalian của Armenia nhận định một cách ngắn gọn, “tình huynh đệ của nhân loại là một sự kiện khoa học”. Yahya Cholil Staquf, tổng thư ký của tổ chức Hồi giáo lớn nhất thế giới, có trụ sở tại Indonesia (Nahdlatul Ulama), quả quyết “các biên giới vật lý và xã hội ngày càng trở nên không có liên quan”. Thành thử, Giáo sĩ Do thái giáo Jonathan Wittenberg, đứng đầu Phong trào Masorti ở Anh, xác nhận “Điều xảy ra cho một người cuối cùng sẽ xảy ra cho mọi người”. Đức Tổng Giám Mục Justin Welby của Canterbury kết luận, “Có một tính nối kết qua lại giúp truyền bá tội ác và tội lỗi, sợ hãi và đề kháng người khác...thách thức là, liệu chúng ta có thể biến tính nối kết này thành sự nối kết lòng trắc ẩn, lòng quảng đại và tình yêu hay không? "
Các cuộc phỏng vấn, được điều hợp bởi Giám đốc của Viện Liên tôn Elijah, Giáo sĩ Do Thái Giáo Alon Goshen-Gottstein, sẽ được công bố ba lần một tuần trong tháng tới trên Tạp chí The Tablet trong một loạt gồm 12 bài.
Các cuộc phỏng vấn ấy cung cấp một cửa sổ so sánh rất hấp dẫn về việc các nhà lãnh đạo tôn giáo khác nhau, thuộc nhiều truyền thống đa dạng, giải thích và đi đến chấp nhận ra sao các sự kiện hiện đang diễn ra trên khắp thế giới. Nhìn chung, dự án vừa có tính giáo huấn so sánh các tôn giáo vừa là nguồn cảm hứng xuyên tôn giáo đối với đời sống tâm linh. Nó vừa liên quan đến các vấn đề trực tiếp xuất phát từ cuộc khủng hoảng COVID-19 vừa liên quan đến các thách thức liên tục của cuộc sống, trong đó có cả cuộc đấu tranh cho quyền bình đẳng chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Các cuộc phỏng vấn không chỉ tập chú vào các quan điểm lý thuyết mà còn tìm cách gây cảm hứng tôn giáo nữa. Để đạt mục đích này, hầu hết các cuộc phỏng vấn kết thúc bằng lời cầu nguyện và đôi khi bài suy niệm, có thể giúp người xem đối phó với những thách thức tâm linh đương thời do coronavirus nêu ra.
Giám đốc Viện, Giáo sĩ Goshen-Gottstein, cho biết: “vào lúc này, chắc chắn thế giới không phải chỉ đang cần mặt nạ. Nó cần ý nghĩa. Nó cần định hướng. Nó cần hy vọng. Nó cần các khí cụ để vượt qua không những các thách thức thể lý do coronavirus tạo ra mà cả các thách thức tinh thần. Nếu cuộc khủng hoảng có tính hoàn cầu, thì giáo huấn cũng phải có tính hoàn cầu. Trong khi mọi bậc thầy đều ngỏ lời với cộng đồng của mình, thì không vị nào tìm cách tập hợp các tiếng nói của các tôn giáo khác nhau để cung hiến lời dạy, ý nghĩa và hy vọng”.
Các phiên bản dài của các cuộc phỏng vấn cũng như các viên đá qúy khôn ngoan ngắn hơn đều có sẵn trên trang mạng www.coronaspection.org của Viện Elijah và trên kênh YouTube cũng như trên các phương tiện truyền thông xã hội và diễn đàn quốc tế.
Viện Liên tôn Elijah là một tổ chức liên tôn phi lợi nhuận, quốc tế, được tài trợ bởi UNESCO, do Giáo sĩ Do Thái giáo Alon Goshen-Gottstein thành lập vào năm 1997. Sứ mệnh của Viện Liên tôn Elijah, được gói ghém trong khẩu hiệu của nó “Chia sẻ Khôn ngoan, Phát huy Hòa bình”, là đào sâu sự hiểu biết giữa các tôn giáo.
Vũ Văn An
Shahbaz, “Đại bàng xứ Pakistan”, nhà chính trị - truyền giáo
Tên anh, Shahbaz có nghĩa là đại bàng. Và giống như một con đại bàng anh ấy luôn bay cao, anh hướng cái nhìn của mình vượt xa những thực tế khó khăn, những sự chia rẽ, định kiến và bạo lực. Một cuốn sách kể về Shahbaz vừa được xuất bản bởi Nhà xuất bản Messaggero Padova. Tiêu đề chính xác của cuốn sách là “Shahbaz Bhatti. Đại bàng xứ Pakistan”, được viết bởi hai tác giả Paolo Affatato, một nhà báo-nhà văn, và Emmanuel Parvez. Tác giả Emmanuel Parvez là một linh mục người Pakistan, là anh họ và là cha linh hướng của Shahbaz Bhatti, người đã chia sẻ những thông tin và là nhân chứng chính cho những gì đã xảy ra với Shahbaz và trên tất cả là người có thể phác họa hoàn chỉnh gương mặt của Shahbaz với cả những diễn biến nội tâm.
Shahbaz sinh ra trong một gia đình Công giáo ở Khushpur, một ngôi làng ở tỉnh Punjab. Một làng quê nhỏ giữa những cánh đồng lúa, bông vải (cotton) và mía bất tận. Những chân trời rộng lớn đó hướng người ta đến những cái nhìn vô hạn; vượt xa những con đường làng, nhà cửa, quảng trường nhỏ nơi mọi người đều biết và sống như một cộng đồng duy nhất. Khushpur có một điểm đặc biệt là: ở một quốc gia đa số là người Hồi giáo, thì nơi đây quy tụ gần như hoàn toàn chỉ có người Công giáo, một sự thực hiếm gặp. Và ở ngôi làng ấy người ta sống an hòa, đoàn kết với nhau. Hơn thế nữa nữa, tên của ngôi làng trong ngôn ngữ Urdu có nghĩa là “vùng đất hạnh phúc”. Ở đó, nhà lãnh đạo tương lai nhỏ bé đã lớn lên trong hạnh phúc, và ngay từ nhỏ đã ý thức rõ ràng về đức tin của mình, là người biết phấn đấu, có những hoài bão lớn lao và những dự phóng cho những ý tưởng và ước mơ của mình.
Và thực thế, bất chấp những bình yên và hạnh phúc hàng ngày, Shahbaz cảm thấy rằng những chân trời đó, nơi mà anh thấy vượt xa những cánh đồng trồng trọt và đung đưa trong gió, mời gọi anh đến một cuộc sống khác, cuộc sống mà những giá trị và lý tưởng, niềm tin và tình yêu của anh dành cho xóm làng được sống trọn vẹn hơn.
Anh cảm nhận sâu sắc sức nặng của sự bất công, của bạo lực và phân biệt đối xử. Anh rời khỏi làng quê và giống như một con đại bàng anh bay xa. Anh đã hiểu rằng để có thể tạo nên một tác động cụ thể đến thực tế, anh ta phải tham gia vào chính trị, không được nhượng bộ, phải sống như người phục vụ và chắc chắn không phải là một công cụ quyền lực hay tham gia vào một hệ thống chính trị để tạo dựng sự nghiệp cho riêng mình. Anh quyết định thành lập một đảng được gọi là “Mặt trận giải phóng nhân dân Pakistan”, anh trở thành thành viên của Đảng Nhân dân Pakistan và năm 2008 anh được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Dân tộc thiểu số Pakistan. Cách sống chính trị này cũng thể hiện hết con người của anh, anh thu hút được sự nhiệt tình và hỗ trợ của nhiều người, nhưng cũng làm nảy sinh lòng thù hận và mong muốn trả thù anh từ phe thù nghịch. Anh đứng về phía những người nghèo, người thiệt thòi và phụ nữ.
Đới với Shahbaz, những hoạt động chính trị và dấn thân dân sự sẽ không có ý nghĩa và nền tảng nếu nó không được thực thi đúng như bản chất vốn có dưới một sự hướng dẫn đích thực. Thước đo cuộc sống của anh luôn luôn là Tin Mừng. Trong phần tiểu sử của anh được viết bởi Affatato với sự cộng tác của cha Parvez và trong một chương của cuốn sách có tên “Câu chuyện của một tâm hồn” được bắt đầu bằng câu này: “Đó là câu chuyện của Shahbaz Bhatti, một đời sống truyền giáo đích thực”. Cuộc đời anh là một sự phó thác trọn vẹn cho Chúa Quan Phòng. Anh luôn tin chắc rằng Thiên Chúa vẫn luôn hành động để khiến cho thực tại trần thế cũng như lịch sử nhân loại tích cực hơn. Câu Kinh Thánh vang vọng trong anh chính là Thánh vịnh 23:
“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì,
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Ðầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương Chúa
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên”.
(Acistampa 15/05/2020)
Hoài Thương - CTV Vatican News
Vua Tây Ban Nha cám ơn hoạt động bác ái của Giáo hội Công giáo trong đại dịch
Theo báo ABC của tiếng Tây Ban Nha, khoảng 100 linh mục Tây Ban Nha đã qua đời vì virus corona.
Theo niên giám hàng năm, Giáo hội Công giáo Tây Ban Nha phục vụ 1,2 triệu người trong các cơ sở y tế và 2,8 triệu người trong các trung tâm dịch vụ xã hội vào năm 2018.
Các dịch vụ được cung cấp cho người nghèo, người già, người khuyết tật, bệnh mãn tính, người thất nghiệp, người nhập cư và người tị nạn, phụ nữ bị lạm dụng và người nghiện ngập.
Mặc dù Giáo hội bị hạn chế bởi các biện pháp cách ly trong đại dịch, nhưng vẫn có thể chăm sóc mục vụ cho người bệnh, cử hành nghi thức lễ tang cho người quá cố và phân phát thực phẩm cho người nghèo ở nước này. (CNA 15/06/2020)
Hồng Thủy - Vatican News
Đức tổng giám mục của Lima cử hành Thánh lễ với hình của 5.000 nạn nhân của Covdi-19
Các tấm hình được gắn đầy trên các băng ghế của nhà thờ và trên cả các tường nhà thờ, và là các tham dự viên duy nhất trong Thánh lễ được truyền chiếu trực tiếp qua đài truyền hình quốc gia và trên các mạng lưới xã hội.
Qua khẩu hiệu “Lạy Chúa Kitô, với Mình Ngài, xin chạm đến và hồi sinh những người đã qua đời vì đại dịch của chúng con”, thông cáo báo chí của tổng giáo phận Lima viết: “chúng ta hiệp nhất trong một tiếng nói để chào từ biệt những người thân yêu của chúng ta, tôn vinh ký ức về họ và cảm ơn về những điều họ đã để lại trong cuộc sống của chúng ta”.
Đức cha Castillo phê bình hệ thống y tế ích kỷ, vì lợi nhuận
Peru đã trở thành một trong những tâm dịch toàn cầu của đại dịch. Trong bài giảng, Đức tổng giám mục Castillo đã phê bình một hệ thống y tế “dựa trên sự ích kỷ và lợi nhuận chứ không dựa trên tình huynh đệ và liên đới.” Ngài cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho Mình Ngài chạm vào và hồi sinh những thi thể bị đau đớn của chúng con, kết quả của đại dịch này, và trên hết, để thay đổi sự ích kỷ của chúng con, là loại virus khủng khiếp mà chỉ có thể giải độc được nhờ Mình Thánh Chúa. Xin Chúa chúc lành cho dân tộc của chúng con và giúp chúng con bước đi với sự kiên định, khiêm nhường và sâu sắc, vì Chúa sống ở Peru.” (cath 15/06/2020)
Hồng Thủy - Vatican News