Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Một cây thánh giá có niên lịch cổ đại khoảng 1200 năm trước, nặng hơn 3 tấn được tìm thấy ở vùng đồi núi Skardu, phía bắc nước Pakistan.
Một nhóm thám hiểm gồm ba thành viên của Đại học Baltistan, Skardu, đã phát hiện ra cây thánh giá bằng đá cẩm thạch khổng lồ nằm cao trên dãy núi Kavardo ở vùng Baltistan.
Nhóm nghiên cứu – dẫn đầu là phó viện trưởng, tiến sĩ Muhammad Naeem Khan, cùng với giám đốc học viện Zakir Hussain Zakir và giám đốc phụ trách các phân ngành ngoài học viện Ishtiaq Hussain Maqpoon - đã cùng với dân địa phương và một số hướng dẫn viên leo núi thám hiểm địa điểm này nhằm nghiên cứu văn hóa.
Nhóm nghiên cứu cho biết trong một thông cáo báo chí: “Một cây thánh giá khổng lồ bằng đá cẩm thạch nặng 3-4 tấn với kích thước khoảng 2.2 mét chiều dài, và khoảng 1.9 mét chiều ngang (7x6 feet) được tìm thấy ngày 14 tháng 6 năm 2020, cách cứ điểm cắm trại khoảng hai cây số, trên dãy núi Kavardo vùng Baltistan, nhìn xuống sông Indus”.
Theo ước tính ban đầu, cây thánh giá được định tuổi khoảng 1.000 đến 1.200 năm.
Tiến sĩ Khan, phó viện trưởng mô tả việc phát hiện ra cây thánh giá này như một kỷ vật "từ trên trời rơi xuống vùng Karakarum."
Theo nhà khảo cổ học Wajid Bhatti, thì đây là một cây thánh giá trường phái thánh Toma và là một trong những cây thánh giá lớn nhất được phát hiện ở lục địa này.
Đây cũng là bằng chứng đầu tiên về cây thánh giá ở vùng Baltistan. Trong suốt nhiều thế kỷ, có nhiều cây thánh giá với nhiều hình dạng khác nhau, chúng là những biểu tượng cho nhiều Giáo hội tin vào chúa Kitô. Trong thời kỳ tiền Kitô giáo, thánh giá là một biểu tượng đời thường được tìm thấy ở khắp châu Âu và miền Tây Á.
Đại học có chương trình tiếp xúc với các đại học ở châu Âu và châu Mỹ, trước là nhằm phát triển mối liên đới học thuật với các nhà sử học địa phương nhằm xác định chính xác niên đại của cây thánh giá và mô tả một cách khoa học về cây "Thánh giá vùng Kavardo", như nó đã được gọi là tên...
“Quả là một tin tuyệt vời cho tất cả chúng ta, khi các nhà thám hiểm tìm ra cây thánh giá cổ ở Skardu. Nó cho thấy Kitô giáo đã có mặt tại khu vực này và điều hiển nhiên là chắc phải có bóng dáng một nhà thờ và nhà của những người theo đạo Thiên Chúa. Ông Mansha Noor, giám đốc điều hành Caritas Pakistan, cho biết hiện tại không có gia đình Kitô hữu nào trong khu vực cũng như có một giả thuyết nào họ đã từng hiện diện ở đây...
Thanh Quảng SDB
Nguồn: https://www.ucanews.com/news/ancient-christian-cross-found-in-northern-pakistan/88403
Ngày càng có nhiều người rời bỏ Giáo hội tại Thụy Sĩ
Hôm thứ Ba 01/12, tại Đại hội toàn thể trực tuyến, các Giám mục Thụy Sĩ đã thảo luận về tình hình của Giáo hội dựa theo số liệu thống kê mới nhất của Viện Xã hội học Mục vụ Thụy Sĩ (SPI, Viện có trụ sở ở Saint-Gall). Theo đó, chưa bao giờ ở Thụy Sĩ lại có nhiều người rời bỏ Giáo hội Công giáo như trong năm 2019. Số liệu thống kê năm ngoái cho thấy 31.772 trường hợp rời bỏ và tăng gần 25% so với năm 2018, với 25.366 trường hợp.
Các giám mục cho rằng đại dịch có thể đẩy nhanh hơn nữa sự gia tăng này trong những tháng tới. Xu hướng này là đáng lo ngại và sẽ dẫn đến những thay đổi trong trung và dài hạn. Tuy nhiên, các Giám mục xác tín rằng Giáo hội là thân thể của Chúa Kitô, không chỉ là các số liệu và sự việc. Thách đố của Giáo hội là cần phải bắt đầu một “sứ vụ loan báo Tin Mừng”.
Viện Xã hội học Mục vụ cho biết, tỷ lệ rời khỏi Giáo hội trung bình là 1,1%, nhưng sự khác biệt giữa các vùng là đáng kể. Các bang Geneva, Valais, Neuchâtel và Vaud có rất ít trường hợp ra đi, điều này có thể được giải thích bởi cách thu thuế Giáo hội khác nhau ở các bang. Tại các bang nói tiếng Pháp này, việc rời bỏ Giáo hội không liên quan đến thuế.
Báo cáo cho thấy có nhiều lý do khiến các tín hữu rời bỏ Giáo hội. “Quan trọng nhất” là mất hoặc không có đức tin, bất đồng với các quan điểm của cộng đoàn Giáo hội, lạm dụng tính dục. Trong những năm gần đây đã có một làn sóng rời bỏ lớn thứ hai. Các báo cáo về lạm dụng đã làm lung lay lòng tin đối với Giáo hội Công giáo. Ngoài ra, luân lý tính dục Công giáo, việc những người ly hôn và tái hôn được rước lễ hay vị trí của phụ nữ trong Giáo hội Công giáo đều là những vấn đề trở thành chủ đề tranh luận của công chúng và khiến số người rời bỏ tăng mạnh.
Điều khiến Viện Xã hội học Mục vụ lo lắng là sự gia tăng số người xa rời Giáo hội ở những người lớn tuổi, những người từ 51 đến 60 tuổi, đây là hiện tượng “đáng báo động”.
Về sự khác biệt giữa các nhóm tuổi, Báo cáo lưu ý rằng trong khi những người trẻ nói rằng họ chưa bao giờ có đức tin hoặc mất đức tin, thì những người trong độ tuổi từ 40 đến 75 có nhiều khả năng không đồng ý với các quan điểm của cộng đoàn.
Báo cáo cũng cho thấy vào năm 2019, có 885 người xin gia nhập Giáo hội Công giáo. Một tỷ lệ quá thấp để “khắc phục” những người rời bỏ, vì đối với 34 người rời bỏ chỉ có một người gia nhập.
Cuối cùng, Viện Xã hội học Mục vụ xác định rằng vấn đề rời bỏ Giáo hội không chỉ liên quan đến Giáo hội Công giáo. Ngay cả trong Giáo hội Tin lành, vào năm 2019, 26.198 người đã rời bỏ Giáo hội, tăng hơn 18% so với năm trước.
Trước xu hướng rời bỏ Giáo hội của các tín hữu ngày càng tăng, Hội đồng Giám mục mời gọi các tín hữu: Giáo hội được kêu gọi thực hiện “nỗ lực lấy lại uy tín và tiếng tốt đã bị tổn hại” và “trở thành người bạn đồng hành trung thành và đáng tin cậy cho đời sống của các tín hữu”. Để làm điều này, các giáo xứ được kêu gọi “xem xét và điều chỉnh lại các ưu tiên mục vụ”, cũng như mở rộng các đề xuất cho các cặp vợ chồng không con cái, độc thân và những người đã mất người bạn đời. (Sir. 02/11/2020)
Ngọc Yến - Vatican News
Phim tài liệu mới “Linh mục”
Trong bộ phim tài liệu mới, đạo diễn người Anh Michael Whyte chọn cách trình bày một góc nhìn cận cảnh về đời sống hàng ngày của linh mục.
Với tiêu đề đơn giản là “Linh mục”, bộ phim tài liệu theo chân cha Paul Grogan khi cha thực hiện sứ vụ của mình tại giáo xứ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, ở thành phố Bradford, miền bắc nước Anh. Cha Grogan, gốc Halifax, đã làm nhà báo sau khi tốt nghiệp Đại học Cambridge. Sau đó, vào cuối những năm 80 đến giữa những năm 90, cha theo học để trở thành linh mục tại Chủng viện ở Roma.
Được thực hiện trước khi đại dịch Covid-19 bùng nổ, bộ phim cho thấy vị linh mục trợ giúp các giáo dân trong những khoảnh khắc khác nhau của cuộc sống của họ, từ cảnh mở đầu là một đám tang cho đến việc cử hành các Nghi thức cuối cùng.
Nghi thức Cuối cùng
Nói về cảnh cha Grogan cử hành các Nghi thức Cuối cùng cho một giáo dân, đạo diễn Whyte chia sẻ: “Ở trong phòng đó là một đặc ân và tôi đã nghĩ tôi không nên ở trong phòng này, tôi không có quyền ở trong phòng này bởi vì… đó là một thời khắc rất mật thiết. Đồng thời, tôi nghĩ: tốt, đây chính xác là những gì tôi cần quay phim để cho thấy là một linh mục là như thế nào và cuộc sống hàng ngày của một linh mục bao gồm những gì. Vì vậy, bạn có những loại cảm giác trái ngược nhau, nhưng điều đó theo một nghĩa nào đó làm nổi bật loại đặc ân mà một người có khi làm phim, làm phim tài liệu”.
Những điểm cao và điểm thấp trong đời linh mục
Đạo diễn Michael Whyte giải thích tại sao ông muốn làm một bộ phim khám phá những điểm cao và thấp của sứ vụ linh mục. Ông nói: “Tôi nghĩ rằng mọi người có cái nhìn khá đơn giản về công việc của một linh mục; họ có xu hướng coi đó là một cuộc sống khá dễ dàng: các ngài có một mái nhà trú ẩn, có một công việc suốt đời, có Chúa ở bên... Tôi muốn chứng tỏ rằng nó còn nhiều hơn thế nữa, và cũng để chứng tỏ rằng các linh mục là con người, họ có cảm xúc, họ không bị loại bỏ khỏi những lo lắng và căng thẳng hàng ngày của cuộc sống”.
Giá trị của đức tin
Bộ phim “Linh mục” không phải là bước đột phá đầu tiên của đạo diễn Whyte trong lĩnh vực làm phim dựa trên đức tin. Trên thực tế, đây là tác phẩm cuối cùng của bộ ba phim, theo sau hai bộ phim No Greater Love – Không có tình yêu lớn hơn -, một bộ phim tài liệu về một đan viện dòng Cát Minh ở Luân Đôn, và Relics and Roses –Thánh tích và Hoa hồng, ghi lại hành trình của thánh tích của thánh Têrêsa thành Lisieux trong chuyến thánh du tại nước Anh.
Đạo diễn Whyte chia sẻ rằng ông muốn người dân nhìn thấy giá trị của đức tin…, sự thoải mái của niềm vui và sự hiệp nhất mà nó mang lại cho mọi người. Đó là tinh thần của tình yêu và chăm sóc, vẻ đẹp và sự thật, nếu bạn thích. Ngoài ra, có sự thật rằng cha Paul là một con người; cha không khác với phần còn lại của chúng ta, cha có cảm xúc và bị khó chịu, cha có thể tức giận... Đạo diễn nói thêm rằng ngay cả khi bạn không phải là “một người kính sợ Chúa, bạn có thể xem bộ phim này và thấy rằng đức tin của những người này có giá trị."
Hồng Thủy - Vatican News
Vatican đưa ra các hướng dẫn cho các giám mục về vấn đề đại kết
Tài liệu “Chỉ nam đại kết” dài 26 trang có tựa đề “Giám mục và Hiệp nhất Ki-tô hữu: một chỉ nam đại kết”, đã được Đức Thánh Cha Phanxicô phê chuẩn và được Hội đồng Tòa Thánh Hiệp nhất các Ki-tô hữu ban hành ngày 4/12, nhân kỷ niệm 25 năm thông điệp về đại kết Xin cho họ nên một của thánh Gioan Phao-lô II và 60 năm thánh Gioan XXIII thành lập Hội đồng Tòa Thánh về hiệp nhất các Ki-tô hữu.
Văn kiện nhấn mạnh trách nhiệm của các giám mục giáo phận trong việc thúc đẩy sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu trong phạm vi quyền hạn của họ và đưa ra những gợi ý thực hành về cách thức đạt được điều này.
Tài liệu giải quyết các câu hỏi như hôn nhân giữa một người Công giáo và một Ki-tô hữu không Công giáo, việc rước lễ và việc các cộng đồng Ki-tô giáo khác sử dụng tài sản của Giáo hội Công giáo.
Việc rước lễ của một Ki-tô hữu không Công giáo
Về việc rước lễ với một cộng đoàn Ki-tô không phải Công giáo, chỉ nam nhắc lại luật của Giáo hội, trong đó nói rằng một giám mục Công giáo có thể cho phép một Ki-tô hữu không phải Công giáo lãnh nhận Bí tích Thánh Thể trong những trường hợp “ngoại lệ”, ví dụ như nguy cơ tử vong hoặc “sự cần thiết nghiêm trọng”, miễn là người đó có chung niềm tin Công giáo về Bí tích Thánh Thể.
Đức Hồng y Kurt Koch nói rằng đó là lý do giáo luật điều số 844 nói rằng một Ki-tô hữu không hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo phải “biểu lộ đức tin Công giáo” về Bí tích Thánh Thể và được chuẩn bị hợp lệ.
Chỉ nam nhấn mạnh rằng “các bí tich không bao giờ có thể được chia sẻ chỉ vì phép lịch sự”.
Việc cho sử dụng tài sản của Công giáo
Một điểm mà tài liệu thấy có thể tạo hiểu lầm cho các tín hữu đó là việc cho phép một cộng đồng Ki-tô giáo khác sử dụng nhà thờ Công giáo. Chỉ nam nói rằng các Giám mục có thể đưa ra khả năng đó nếu có nhu cầu, nhưng phải phân định rằng việc này “sẽ không gây ra tai tiếng hoặc nhầm lẫn cho các tín hữu”.
Hôn nhân giữa tín hữu Công giáo với một Ki-tô hữu không Công giáo
Về hôn nhân giữa một tín hữu Công giáo và một Ki-tô hữu không phải Công giáo, chỉ nam nói rằng những cuộc hôn nhân này “không nên bị coi là vấn đề, vì chúng thường là nơi từ đó xây dựng sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu". Tuy nhiên, các mục tử không thể thờ ơ trước nỗi đau của sự chia rẽ của Ki-tô giáo mà những gia đình này trải qua. Chỉ nam khuyến nghị các giám mục gặp gỡ và lắng nghe các gia đình hôn nhân hỗn hợp trong giáo phận của họ, đặc biệt là trong thời gian chuẩn bị hôn nhân và khi các cặp vợ chồng có con và chuẩn bị cho các em lãnh nhận các bí tích. (CSR_8883_2020)
Hồng Thủy - Vatican News
Cập nhật tình trạng sức khỏe của Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI
Theo hãng tin Công giáo Áo, hôm ngày 4/12 Đức tổng giám mục Gänswein đã xác định rằng Đức nguyên giáo hoàng 93 tuổi vẫn có thể nói rõ ràng, tuy là rất yếu và nhẹ.
Các tin liên quan đến việc này xuất hiện sau khi Đức nguyên Giáo hoàng gặp gỡ các tân Hồng y tại đan viện Mater Ecclesiae, nơi ngài đang cư trú ở nội thành Vatican, vào ngày 28/11. Đức nguyên Giáo hoàng đã dùng micro khi ngỏ lời với các tân Hồng y và gửi đến các vị những lời động viên.
Vào tháng 8, các phương tiện truyền thông Đức đưa tin rằng Đức nguyên Giáo hoàng bị viêm da ở mặt, một bệnh nhiễm trùng da do vi khuẩn gây ra phát ban đỏ và gây đau đớn, sau khi ngài về Đức vào tháng 6 để từ biệt Đức ông bào huynh Georg Ratzinger. Nhưng Vatican cho biết tình trạng sức khỏe của ngài không trầm trọng.
Đức tổng giám mục Gänswein cho biết rằng tình trạng sức khỏe của Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức không đáng lo ngại đặc biệt, trừ những điều xảy ra với một người ở tuổi 93 đang trải qua giai đoạn đặc biệt của bệnh tật đau đớn, nhưng không trầm trọng”. (CNA 04/12/2020)
Hồng Thủy - Vatican News
Bài Giảng Mùa Vọng đầu tiên của Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa trước Đức Thánh Cha và Giáo triều Rôma
Hôm thứ Sáu 4 tháng 12, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, Giảng Thuyết Viên Phủ Giáo Hoàng, đã trình bày Bài Giảng Mùa Vọng đầu tiên của ngài cho Đức Thánh Cha Phanxicô và Giáo triều Rôma. Trong bài thuyết giảng này, ngài đã trình bày những suy tư về ý nghĩa của cái chết như một nhịp cầu dẫn đến cuộc sống vĩnh cửu.
Nguyên bản tiếng Ý có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Giuseppe Ungaretti, một nhà thơ người Ý, đã thể hiện tâm trạng của những người lính trong chiến hào hồi chiến tranh thế giới lần thứ nhất bằng một bài thơ vỏn vẹn chỉ có mười chữ
Chúng ta như
Những chiếc lá
Trên cây
Mùa thu.
Tại thời điểm này trong cuộc sống của chúng ta, toàn thể nhân loại đang trải qua cùng cái cảm giác bấp bênh và bất định do đại dịch coronavirus gây ra.
“Như Thánh vương Grêgôriô đã viết: ‘Chúa đôi khi hướng dẫn chúng ta bằng lời nói, và đôi khi Ngài chỉ đường cho chúng ta bằng các sự kiện’. Trong năm được đánh dấu bằng ‘sự kiện’ coronavirus choáng ngợp và kinh hoàng này, chúng ta hãy cố gắng rút ra từ đó giáo huấn cho cuộc sống cá nhân và tinh thần của riêng mình. Chúng ta chỉ có thể chia sẻ những suy tư này giữa những tín hữu, vì sẽ hơi thiếu khôn ngoan nếu đề xuất những suy tư ấy với tất cả mọi người mà không có sự phân biệt, vì làm thế sẽ làm tăng thêm sự bất an đối với đức tin vào Chúa mà đại dịch gây ra ở một số người.
Những chân lý vĩnh cửu mà chúng ta muốn tập trung vào trong những suy tư của mình là: Thứ nhất, chúng ta chỉ là người phàm, và ‘chúng ta không có thành trì bền vững trên trái đất này’ (Dt 13:14); Thứ hai, cuộc sống đó không kết thúc bằng cái chết, bởi vì cuộc sống vĩnh cửu đang chờ đợi chúng ta; Thứ ba, chúng ta không cô đơn đối diện với những đợt sóng trên con thuyền nhỏ hành tinh chúng ta vì ‘Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.’ (Ga 1,14). Chân lý đầu tiên trong ba chân lý này là đối tượng của kinh nghiệm, hai chân lý còn lại thuộc về niềm tin và hy vọng.
“Memento mori!” – “Hãy nhớ rằng bạn sẽ chết.”
Chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách suy ngẫm về câu đầu tiên trong số những ‘châm ngôn vĩnh cửu’, là cái chết. “Memento mori’, “Hãy nhớ rằng bạn sẽ chết”. Các tu sĩ Dòng Xitô Nhặt Phép đã chọn những từ này làm phương châm cho Dòng của họ và họ viết nó ở khắp mọi nơi trong tủ quần áo của họ.
Bạn có thể nói về cái chết theo hai cách khác nhau: dưới ánh sáng của việc loan báo Tin Mừng hoặc dưới ánh sáng của trí tuệ. Cách thứ nhất bao gồm việc công bố rằng Chúa Kitô đã chiến thắng sự chết; rằng nó không còn là một bức tường mà mọi thứ phải đâm vào, nhưng nó là một cây cầu dẫn đến cuộc sống vĩnh cửu. Trong khi đó, cách thứ hai, liên quan đến trí tuệ hay hiện sinh bao gồm việc phản ánh thực tại của cái chết là điều con người có thể tiếp cận được, để từ đó rút ra những bài học ngõ hầu sống một cuộc sống tốt đẹp. Chính từ góc độ này, chúng ta muốn bắt đầu các suy tư của mình hôm nay.
Cách hiện sinh là cách tiếp cận cái chết trong Cựu Ước và đặc biệt là trong các sách Khôn ngoan: ‘Xin dạy chúng con biết đếm ngày tháng của mình, để chúng con có được sự khôn ngoan trong lòng’, như tác giả Thánh Vịnh cầu xin Chúa (Tv 90: 12). Cách nhìn về cái chết này không chỉ giới hạn trong Cựu Ước, nhưng còn được tiếp tục trong Tin Mừng của Chúa Kitô. Chúng ta hãy nhớ lời cảnh báo của Người: ‘Anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào’ (Mt 25:13), câu kết trong dụ ngôn người giàu có lo toan xây các kho lẫm lớn hơn cho mùa thu hoạch là: ‘Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? (Lc 12:20), và một lần nữa Chúa Giêsu nói: ‘nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?’(x. Mt 16:26).
Truyền thống của Giáo hội đã coi giáo huấn này trở thành giáo huấn của chính mình. Các Giáo phụ Sa mạc trân trọng ý nghĩ về cái chết đến nỗi họ đã biến nó thành một thực hành thường xuyên và canh tân nó bằng bất cứ cách nào cần thiết. Một trong số các vị, là người đánh sợi len để kiếm sống, đã có thói quen thỉnh thoảng lại đánh rơi trục quay và ‘ngẫm nghĩ về cái chết trước mắt mình trước khi nhặt lại’. Trong tác phẩm Bắt Chước Chúa Kitô, chúng ta tìm thấy lời khuyên sau đây: ‘Vào buổi sáng, hãy giả định rằng bạn sẽ không sống được đến buổi tối. Khi đã sống được đến buổi tối, đừng nên trông cậy sẽ có sáng hôm sau’ (I, 23). Thánh Anphongsô Maria de Liguori đã viết luận thuyết Chuẩn bị cho cái chết, trong nhiều thế kỷ là một tác phẩm kinh điển của linh đạo Công Giáo.
Cách nói khôn ngoan này về cái chết có thể được tìm thấy trong mọi nền văn hóa, không chỉ trong Kinh thánh và trong Kitô Giáo. Phiên bản thế tục hóa của nó cũng có mặt trong tư tưởng hiện đại và thật đáng để nhắc đến những kết luận được rút ra bởi hai nhà tư tưởng có ảnh hưởng vẫn còn mạnh mẽ trong nền văn hóa của chúng ta.
Nhà tư tưởng hiện đại đầu tiên được đề cập là Jean-Paul Sartre. Ông đã lật ngược mối quan hệ cổ điển giữa bản chất và hiện hữu, cho rằng hiện hữu có trước và thắng thế trên bản chất. Nói một cách đơn giản, điều này có nghĩa là phủ nhận trật tự hay quy mô của các giá trị khách quan - Thiên Chúa, những điều tốt đẹp, các giá trị, quy luật tự nhiên - là những gì có trước mọi thứ khác và con người phải phụ thuộc vào, nhưng cho rằng mọi thứ phải bắt đầu từ sự hiện hữu và tự do cá nhân của chính người ấy. Mỗi người phải tự quyết định và hoàn thành số phận của mình, giống như một dòng sông tự chảy và tự đào sâu đáy sông của chính nó. Kế hoạch của cuộc đời không được viết ra ở bất cứ đâu, nhưng nó được quyết định bởi sự lựa chọn của chính mỗi người.
Cách hiểu như vậy về sự hiện hữu hoàn toàn bỏ qua cái chết như một sự thật và do đó nó bị bác bỏ bởi chính thực tại của sự hiện hữu mà nó muốn khẳng định. Con người có thể lên kế hoạch gì nếu họ không biết cũng như không thể kiểm soát được ngày mai họ có còn sống hay không? Nỗ lực của Sartre tương tự như nỗ lực của một kẻ phạm tội dành toàn bộ thời gian của mình để lập kế hoạch cho các biện pháp tốt nhất cần tuân theo để di chuyển từ bức tường này sang bức tường khác của phòng giam.
Hợp lý hơn về điểm này là suy nghĩ của một triết gia khác, Martin Heidegger, người bắt đầu từ những tiền đề tương tự và hoạt động trong cùng bối cảnh của chủ nghĩa hiện sinh. Bằng cách định nghĩa con người là “sinh mệnh dành cho cái chết”, anh ta không biến cái chết thành một tai nạn chấm dứt sự sống, mà trở thành bản chất của cuộc sống, nghĩa là nó được tạo ra từ cái gì. Con người không thể sống mà không đốt cháy cuộc sống và làm cho nó ngắn lại. Mỗi phút trôi qua đều được lấy đi từ sự sống và trao cho cái chết, giống như khi chúng ta lái xe dọc theo một con đường, chúng ta thấy những ngôi nhà và cây cối nhanh chóng biến mất sau lưng chúng ta. Sống cho cái chết có nghĩa là chết không chỉ là sự kết thúc, như một chung cuộc; nhưng là sự kết thúc, hiểu theo nghĩa đó là mục tiêu của cuộc sống. Người ta sinh ra để mà chết chứ không phải vì bất cứ điều gì khác.
Triết gia đặt câu hỏi rằng: Vậy thì đâu là ‘điều cốt lõi - điều chắc chắn và tối thượng’ cho một hiện sinh ‘chân thực’, mà con người được lương tâm kêu gọi, và đóng vai trò như nền tảng cho sự hiện hữu của họ? Câu trả lời: Đó là sự hư vô của nó! Tất cả những khả năng của con người thực ra đều là những điều “không thể được.” Bất kỳ nỗ lực nào để lập kế hoạch cho bản thân và nâng cao bản thân đều là một bước nhảy bắt đầu từ hư vô và kết thúc trong hư vô. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là cần phải có một đức tính tốt, đó là yêu mến Định Mệnh của mình. Đây là một phiên bản hiện đại từ thuyết ‘amor Fati’, nghĩa là ‘yêu mến Định Mệnh’, của những người theo trường phái Khắc kỷ!
Thánh Augustinô đã đoán trước được cả nhận định này trong tư tưởng hiện đại về cái chết, nhưng ngài đã rút ra một kết luận hoàn toàn khác với nó. Thánh nhân không kết thúc trong chủ nghĩa hư vô, nhưng vươn đến niềm tin vào cuộc sống vĩnh cửu.
Ngài viết rằng khi con người chào đời, nhiều giả thuyết được đưa ra: có lẽ họ sẽ đẹp, có lẽ họ sẽ xấu; có lẽ họ sẽ giàu, có lẽ họ sẽ nghèo; có lẽ họ sẽ sống lâu, có lẽ họ sẽ có một cuộc sống ngắn ngủi. Nhưng không ai nói rằng: có lẽ họ sẽ chết hoặc có lẽ họ sẽ không chết. Đây là điều duy nhất chắc chắn về cuộc sống. Khi một người bị chứng cổ chướng, là căn bệnh nan y vào thời đó, ngày nay cũng có những bệnh nan y khác, chúng ta nói: “Tội nghiệp quá, người đó phải chết; họ tới số rồi, vô phương cứu chữa”. Nhưng liệu chúng ta có nên nói như thế không với những hài nhi sắp chào đời? “Thật tội nghiệp, đứa bé phải chết, vô phương cứu chữa, thế nào nó cũng phải chết!”. Cuộc sống dài hơn hoặc ngắn hơn thì có khác biệt gì? Cái chết là một căn bệnh hiểm nghèo mà chúng ta mắc phải khi chúng ta được sinh ra.
Dante Alighieri đã tóm tắt toàn bộ quan điểm này của Thánh Augustinô trong một câu thơ duy nhất, khi ông định nghĩa cuộc sống con người trên trái đất trong câu: “cuộc sống là một cuộc chạy đua với cái chết.”
Tại trường học của ‘Chị chết’
Với sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ và các thành tựu khoa học, chúng ta có nguy cơ giống như người đàn ông trong dụ ngôn này, là người tự nói với chính mình: ‘Ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” (Lc 12:19). Tai họa hiện nay ập đến nhắc nhở chúng ta rằng ý chí con người chẳng ‘hoạch định’ hay xác định tương lai được bao nhiêu.
Sau Chúa Giêsu, quan điểm khôn ngoan về cái chết đóng một vai trò tương tự trong lề luật, chỉ sau quan điểm về ân sủng. Lề luật cũng được sử dụng để bảo vệ tình yêu và ân sủng. Lề luật - như đã viết - được ban cho những tội nhân (x. 1Tm 1: 9) và chúng ta vẫn là những kẻ có tội, nghĩa là phải chịu sự dụ dỗ của thế gian và của những thứ hữu hình, chúng ta luôn bị cám dỗ để ‘rập theo đời này’ (x. Rm 12: 2). Không có điểm thuận lợi nào tốt hơn là cái chết để chúng ta nhìn thế giới, nhìn thấy bản thân và mọi sự kiện, trong chính sự thật của chúng. Mọi thứ sau đó diễn ra đúng chỗ của nó.
Thế giới thường xuất hiện như một bó chặt chẽ những bất công và hỗn loạn, đến mức mọi thứ dường như xảy ra một cách ngẫu nhiên mà không có bất kỳ sự nhất quán hay kế hoạch nào. Đó là một loại tranh không có hình dạng, trong đó tất cả các yếu tố và màu sắc dường như được đặt ngẫu nhiên, giống như trong một số bức tranh hiện đại. Bạn thường chứng kiến những chiến thắng của kẻ gian ác trong khi những người vô tội lại bị trừng phạt. Tuy nhiên, để ngăn chặn niềm tin rằng có bất cứ điều gì đó cố định và bất biến trên thế giới này, triết gia Bossuet nhận xét rằng đôi khi bạn thấy điều ngược lại: người vô tội được đăng quang và kẻ bất công bị treo trên giá treo cổ!
Có một điểm thuận lợi để nhìn vào bức tranh khổng lồ này và hiểu được ý nghĩa của nó không? Thưa, có: đó là “sự kết thúc”, tức là cái chết, ngay sau đó là sự phán xét của Thiên Chúa (x. Dt 9:27). Nhìn từ đó, mọi thứ đều đạt đúng giá trị của nó. Cái chết là dấu chấm hết cho mọi khác biệt và mọi hình thức bất công hiện hữu giữa con người. Cái chết, như diễn viên hài người Ý Totò thường nói, giống như một ‘độ sôi’, có khả năng san bằng mọi đặc quyền.
Nhìn cuộc sống từ vị trí thuận lợi của cái chết giúp ích rất nhiều để sống tốt. Bạn đang đau khổ bởi những vấn đề và những khó khăn? Hãy tiến về phía trước, đặt mình vào đúng chỗ: hãy nhìn những điều này từ giường bệnh của bạn. Bạn muốn cư xử như thế nào? Bạn coi những thứ này quan trọng đến mức nào? Bạn có gặp vấn đề gì với ai đó không? Hãy nhìn mọi thứ từ giường bệnh của bạn. Bạn muốn làm gì khi đó: thắng cho bằng được hay chấp nhận sự sỉ nhục? Muốn chinh phục hay muốn được tha thứ?
Ý nghĩ về cái chết ngăn cản chúng ta quá tha thiết với sự vật, và đừng đặt lòng mình vào những thứ trên trần gian này đến mức quên mất rằng ‘chúng ta không có thành trì bền vững trên trái đất này’ (Dt 13:14). Như một Thánh Vịnh đã nói, ‘vì khi chết, nó đâu mang được cả, kiếp vinh hoa chẳng theo xuống mộ phần.’ (Tv 49:18). Trong thời cổ đại, các vị vua thường được chôn cất với đồ trang sức của họ. Điều này tất nhiên đã khuyến khích hành vi xâm phạm lăng mộ để lấy trộm những kho báu đó. Để ngăn ngừa kẻ trộm, người ta khắc một dòng chữ trên nhiều ngôi mộ rằng “Chỉ có tôi ở đây.” Dòng chữ đó rất đúng, cho dù trên thực tế, ngôi mộ đã chôn giấu những đồ trang sức đó! “Lúc chết, chẳng ai mang theo được bất cứ thứ gì”.
“Hãy tỉnh thức!”
Chị Chết thực sự là một người chị tốt và một giáo viên tốt. Cô ấy dạy chúng ta nhiều điều nếu như chúng ta nhẹ nhàng lắng nghe. Giáo hội không ngại gửi chúng ta đến trường của cô ấy. Trong phụng vụ Thứ Tư Lễ Tro có một điệp ca nghe rất mạnh mẽ, thậm chí còn mạnh hơn phiên bản gốc Latinh của nó: “Emendemus in melius quae ignoranter peccavimus; ne subito praeoccupati die mortis, quaeramus spatium poenitentiae, et invenire non possimus”. ‘Nếu ngày chết bất ngờ ập đến, liệu chúng ta còn sửa đổi được chăng những gì mình đã phạm bởi ngu muội, liệu chúng ta có còn tìm được thời gian mà sám hối hay chăng’. Một ngày, một giờ duy nhất, một lời xưng tội tốt: những thứ này sẽ trông khác đến thế nào vào thời điểm đó! Chúng ta khao khát những điều đó biết bao hơn là một cuộc sống lâu dài, giàu có và khỏe mạnh!
Tôi cũng đang nghĩ đến một bối cảnh khác ngoài lãnh vực khổ hạnh, trong đó chúng ta khẩn thiết cần đến Chị Chết như một người thầy: đó là lãnh vực truyền giáo. Ý nghĩ về cái chết gần như là vũ khí duy nhất còn lại để rũ bỏ cơn buồn ngủ khỏi xã hội xa hoa của chúng ta, đang có cùng một trải nghiệm giống hệt như những người Do Thái vừa được giải thoát khỏi Ai Cập: ‘Gia-cóp ăn uống no thỏa, Giơ-su-run mập ra.. họ đã từ bỏ Thiên Chúa, Đấng đã tác tạo ra họ, và khinh miệt Núi Đá độ trì họ’ (Đnl 32:15).
Vào một thời điểm tế nhị trong lịch sử của “dân được chọn”, Thiên Chúa đã nói với tiên tri Isaia: ‘Hãy hô lên!’ ‘Hãy hô lên!’. Vị tiên tri trả lời: ‘Tôi phải hô lên điều gì?’ Và Thiên Chúa phán “Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi Thiên Chúa thổi qua” (Is 40: 6-7). Tôi tin rằng ngày nay Thiên Chúa cũng đưa ra lời chỉ dạy tương tự cho các vị tiên tri của Ngài và Ngài làm như vậy vì Ngài yêu thương con cái mình và không muốn thấy con người ‘như đoàn vật nhốt trong âm phủ, chính tử thần canh giữ chăn nuôi’ (x. Tv 49:15).
Câu hỏi về ý nghĩa của cái chết đóng một vai trò quan trọng trong việc Phúc âm hóa ban đầu ở Âu Châu và chúng ta không nên loại trừ khả năng nó có thể đóng một vai trò tương tự trong nỗ lực tân Phúc âm hóa hiện nay. Thực sự có một điều gì đó không hề thay đổi kể từ đó và nó chính là điều này: con người phải chết. Bậc Đáng Kính Bede đã kể lại việc Kitô Giáo thâm nhập được vào miền bắc nước Anh, bằng cách vượt qua sự phản kháng của ngoại giáo. Nhà vua triệu tập đại hội đồng vương quốc để quyết định về vấn đề có cho phép các nhà truyền giáo Kitô vào hay không. Có những quan điểm trái ngược nhau về điều này, cho đến khi một trong những quan chức của nhà vua nói thế này:
Thưa Hoàng Thượng, cuộc sống của con người trên trái đất có thể được mô tả như sau. Hãy tưởng tượng đó là mùa đông. Bệ hạ đang ngồi ăn tối với các công tước và các trợ lý của mình. Giữa cung điện có một ngọn lửa làm nóng căn phòng, trong khi bên ngoài có một cơn bão, mưa và tuyết đang hoành hành. Một con chim sẻ đột nhiên đến cung điện của bệ hạ; nó đi vào từ một cửa sổ đang mở và bay nhanh về cái cửa sổ đối diện. Khi vào bên trong, nó được che chở khỏi cái lạnh giá của mùa đông, nhưng một lúc sau, kìa, nó bị đưa trở lại bóng tối mà nó đến và biến mất khỏi tầm mắt. Cuộc sống của chúng ta chỉ có vậy thôi! Chúng ta không biết điều gì đến trước hay sau đó. Nếu lời dạy này có thể cho chúng ta biết điều gì đó chắc chắn hơn về cuộc sống chúng ta, hạ thần nghĩ rằng chúng ta nên lắng nghe.
Câu hỏi do chính cái chết đặt ra, như một vết thương mở trong trái tim con người, đã mở đường cho Tin Mừng. Một nhà tâm lý học nổi tiếng đã viết chống lại Freud rằng từ chối cái chết, chứ không phải bản năng tình dục, là gốc rễ của mọi hành động của con người.
Ngợi khen Ngài, Lạy Chúa của tôi, qua Chị Chết thể xác của chúng ta
Như thế, chúng ta không phục hồi nỗi sợ hãi về cái chết. Chúa Giêsu đã đến để ‘giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời phải chịu làm nô lệ’ (Dt 2:15). Ngài đến để giải thoát chúng ta khỏi nỗi sợ hãi về cái chết chứ không phải để gia tăng nó. Tuy nhiên, một người cần phải trải qua nỗi sợ hãi đó để được giải thoát khỏi nó. Chúa Giêsu đến để dạy về nỗi sợ hãi cái chết đời đời cho những ai không biết gì khác hơn là nỗi sợ hãi về cái chết thể xác.
Chết đời đời! Trong Sách Khải huyền hay sách về Cánh Chung, nó được gọi là ‘cái chết thứ hai’ (Kh 20: 6). Nó là cái duy nhất thực sự xứng đáng với tên gọi là cái chết, bởi vì nó không phải là một cuộc vượt qua, không phải mầu nhiệm Vượt Qua của lễ Phục sinh, nhưng là một nhà ga cuối cùng thật khủng khiếp. Để cứu những người nam nữ khỏi số phận bi thảm này, chúng ta phải quay lại rao giảng về cái chết. Không ai hơn Thánh Phanxicô Assisi đã từng biết đến khuôn mặt Vượt qua mới của cái chết theo Kitô giáo. Cái chết của chính ngài thực sự là một sự chuyển tiếp Vượt qua, một “quá cảnh”, như được cử hành trong phụng vụ lễ Thánh Phanxicô. Khi cảm thấy cận kề với cái chết, Người Nghèo Đơn Sơ này đã từng kêu lên: 'Chào mừng, Chị chết của tôi!' Tuy nhiên, trong Bài Ca Mặt Trời hay Bài Ca Tạo Vật, cùng với những lời nói rất ngọt ngào về cái chết, thánh nhân đã đề cập đến một vài điều đáng sợ nhất, đó là:
Ngợi khen Ngài, Lạy Chúa của tôi, qua Chị Chết thể xác của chúng ta
Không một sinh vật nào có thể thoát khỏi:
Thật khủng khiếp cho những ai chết trong tội trọng!
Thật may mắn biết bao khi những ai chết trong thánh ý cực trọng của Người
Vì cái chết thứ hai không thể làm hại họ.
“Thật khủng khiếp cho những ai chết trong tội trọng!” Thánh Phaolô nói: ‘Tử thần có độc là vì tội lỗi’ (1Cor 15:56). Điều khiến cái chết có sức mạnh đáng sợ nhất ám ảnh một tín hữu và khiến người đó sợ hãi chính là tội lỗi. Nếu một người sống trong tội trọng, sự chết có nọc độc của nó, có chất độc của nó, giống như trước khi Chúa Kitô xuống thế, và do đó nó gây thương tích, giết chết và ném vào Âm Phủ. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: Đừng sợ cái chết thể xác và sau đó không thể làm gì hơn. Hãy sợ cái chết mà sau khi giết chết thân xác chúng ta, nó còn có sức mạnh ném chúng ta vào Âm Phủ (x. Lc 12: 4-5). Khi tránh xa tội lỗi bạn cũng sẽ loại bỏ được vết nhói tồi tệ nhất của nó là cái chết!
Với việc thiết lập Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã vô hiệu hóa cái chết của chính mình. Chúng ta cũng có thể làm tương tự. Trên thực tế, Chúa Giêsu đã phát minh ra phương tiện này để khiến chúng ta tham gia vào cái chết của Ngài, để hợp nhất chúng ta với chính Ngài. Theo thuật ngữ của Thánh Alphonsô đệ Liguori, tham dự Bí tích Thánh Thể là cách thức chân thực, chính xác và hiệu quả nhất để ‘chuẩn bị’ cho cái chết,. Trong đó, chúng ta cũng cử hành cái chết của chính mình, và ngày ngày chúng ta dâng cái chết của chúng ta lên Chúa Cha. Trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta có thể dâng lên Chúa Cha tiếng ‘amen’, tiếng ‘xin vâng’ của chúng ta đối với những gì đang chờ đợi chúng ta, đối với kiểu chết mà Người muốn dành cho chúng ta. Trong đó, chúng ta viết “di chúc của chúng ta”: chúng ta quyết định chúng ta muốn từ giã cuộc sống của mình cho ai, chúng ta muốn chết cho ai.
Chúng ta đã được sinh ra, để rồi chết, đó là sự thật; nhưng cái chết không chỉ là sự kết thúc, như là một chung cuộc, nhưng còn là sự kết thúc, theo nghĩa là mục tiêu của cuộc sống. Tuy nhiên, điều này không giống như một sự lên án, như nhà triết học nói trên đã tuyên bố, trái lại dường như là một đặc ân. ‘Như Thánh Grêgôriô thành Nyssa đã nói - Chúa Kitô được sinh ra để chết’, nghĩa là để có thể hiến mạng sống của mình làm giá cứu chuộc cho tất cả mọi người. Chúng ta cũng đã nhận được cuộc sống với những gì là độc đáo, có giá trị, xứng đáng với Thiên Chúa, để có thể lần lượt trao lại cho Ngài như một món quà và một của lễ hy sinh. Người ta còn có thể dùng cuộc sống mình cách nào hay hơn là trao tặng nó, vì tình yêu, cho Đấng Tạo Hóa, là Đấng vì tình yêu, đã ban nó cho chúng ta? Từ những lời truyền phép của vị chủ tế trên bánh và rượu trong Thánh lễ, chúng ta có thể sửa lại để nói: ‘Nhờ lòng nhân từ của Chúa, chúng con có cuộc sống này để hiến dâng. Chúng con dâng lên Chúa. Xin cho cuộc sống của chúng con trở thành của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Chúa’(x. Rm 12: 1).
Với tất cả những điều này, chúng ta đã không loại bỏ được sự nhức nhối khi nghĩ về cái chết và không loại bỏ được khả năng nó gây ra đau khổ cho chúng ta mà Chúa Giêsu cũng muốn trải nghiệm tại vườn Giệt-si-ma-ni. Nhưng ít ra chúng ta cũng sẵn sàng hơn để chấp nhận sự bảo đảm đến từ đức tin và điều mà chúng ta công bố trong Kinh Tiền Tụng Thánh lễ cầu cho tín hữu qua đời:
Nhờ lòng trung tín của Chúa, đối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi, và khi nơi nương náu ở trần gian bị hủy diệt tiêu tan, thì lại được một chỗ ở vĩnh viễn trên trời.
Nếu Chúa muốn, chúng ta sẽ nói về sự cư ngụ vĩnh cửu trên thiên đàng này, trong bài suy niệm tiếp theo.
1. Các trích dẫn Kinh thánh được trích từ Thánh Kinh của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ.
2. Các bài giảng về Phúc Âm, XVII.
3. Apofthegms of ms. Coislin 126, n. 58.
4. Xem. M. Heidegger, Being and Time, § 51.
5. Thượng dẫn. II, c. 2, § 58.
6. Xem Thánh Augustinô, Sermo Guelf. 12, 3..
7. Purgatorio, XXXIII, 54 (Mandelbaum’s English translation, 1982).
8. Xem Ecclesiastical History, II,13.
9.E. Becker, Denial of Death, New York: Free Press. 1973.
10. Celano, Vita secunda, CLXIII, 217.
11. St Gregory of Nyssa, hay. cat., 32 (PG 45, 80).
Source:Raniero Cantalamessa
Điềm tốt xuất hiện trong muà Giáng Sinh 2020: sẽ có Sao Bê Lem kể từ ngày 21 tháng 12
Đây không phải là ‘Ngôi Sao Lạ’ cuả 2020 năm trước, ngôi sao đó chỉ xuất hiện có một lần để báo tin vui Chuá Cứu Thế giáng trần, nhưng một hiện tượng hiếm hoi mà người ta đặt tên là “Sao Bê Lem” sẽ bắt đầu xuất hiện vào ngày 21 tháng 12 này, tức là vào ngày Đông Chí, khởi đầu cuả muà Đông, và kéo dài một tuần lễ.
Gọi là ‘hiện tượng’ vì đây không phải là một ngôi sao mà chỉ là sự trùng lặp cuả hai ngôi sao Mộc và Thổ ở trên trời, tạo ra cái cảnh quan như có một ngôi sao mới, to và sáng rực rỡ. Kể từ thời Trung Cổ người ta đã đặt tên hiện tượng ấy là “Sao Bê Lem” vì nó xuất hiện đúng vào dịp Giáng Sinh.
Theo nhà thiên văn học Patrick Hartigan của Đại học Rice thì sự gặp nhau giữa Sao Mộc và Sao Thổ là hiếm, xảy ra khoảng 20 năm một lần. Tuy nhiên, sự trùng lặp đặc biệt này (tức là những người từ dưới đất nhìn lên chỉ thấy có một ngôi sao) được chứng kiến lần cuối cách đây hơn 800 năm, tức là vào thời Trung Cổ.
"Bạn sẽ phải quay trở lại ngày 4 tháng 3 năm 1226, ngay trước bình minh, để thấy sự trùng lặp chặt chẽ hơn giữa các vật thể này trên bầu trời đêm,” Ông Hartigan nói.
Nhà thiên văn học cuà NASA, cô nữ tiến sĩ Amber Straughn, giải thích thêm như sau: “Thái Dương Hệ hoạt động giống như những chiếc kim đồng hồ. Chúng ta có thể theo dõi chu kỳ các hành tinh di chuyển trên bầu trời, và từ đó chúng ta có thể chạy kim đồng hồ để tính xem vào ngày nào thì các hành tinh xếp hàng như thế nào”.
“Đây thực sự là một lần trong đời.” Cô Straughn cho biết, “Nhưng hai ngôi sao chỉ ở gần nhau như thế này mỗi 800 năm. Lần kế tiếp mà chúng ở kha khá gần nhau để có thể được gọi là ‘Sao Bê Lem’ sẽ là khoảng 60 năm kể từ bây giờ.”
Như vậy những người hiện đang sống ngày hôm nay là những người may mắn được chứng kiến một hiện tượng ‘duy nhất trong đời’…thực ra phải nói là 32 đời thì mới đúng (vì mỗi thế hệ là 25 năm). Còn các hậu duệ cuả chúng ta thì phải đợi 32 đời nữa lại mới có dịp.
Ở bắc bán cầu, những ai muốn ngắm sao thì hãy nhìn về phía tây nam của bầu trời khoảng 45 phút sau khi mặt trời lặn, bắt đầu từ ngày 21 tháng 12 cho đến 1 tuần sau đó. Nếu trời trong, Sao Bê Lem sẽ nhìn thấy ở gần chân trời, rất sáng không thể nhầm lẫn được, và sẽ lặn xuống dưới chân trời khoảng vài giờ sau.
"Vào buổi tối ngày 21 tháng 12 là lúc hai ngôi sao tiếp cận gần nhau nhất, chúng sẽ trông giống như một hành tinh đôi, cách nhau chỉ bằng 1/5 đường kính của trăng tròn," nhà thiên văn học Hartigan cho biết. “ Còn đối với những người có kính thiên văn, thì họ có thể thấy không những cả hai hành tinh (Mộc và Thổ) mà còn thấy một số vệ tinh lớn nhất của chúng vào buổi tối hôm đó."
ĐTC Phanxicô: Nếu chúng ta có thói quen nguyền rủa, hãy thay đổi nó thành thói quen chúc lành
Trong bài giáo lý tại buổi tiếp kiến chung trực tuyến sáng thứ Tư 2/12 Đức Thánh Cha Phanxicô suy tư về việc ngợi khen chúc tụng Chúa như một chiều kích quan trọng của việc cầu nguyện.
Động từ benedire trong tiếng Ý - “chúc tụng, chúc lành” - có nghĩa là nói một điều tốt, mong muốn điều tốt cho một người. Khi tạo dựng và nâng đỡ thế giới, Thiên Chúa đã nói một lời tốt lành; Người “chúc lành” cho công trình sáng tạo và thấy rằng nó tốt đẹp. Thiên Chúa không rút lại lời chúc lành ngay cả khi con người sa ngã trong tội lỗi, quay lưng lại với Người; trái lại, Người vẫn tiếp tục mong muốn điều tốt lành cho chúng ta.
Trong lịch sử cứu độ, phúc lành lớn nhất của Thiên Chúa chính là Chúa Giê-su Ki-tô. Thánh Phao-lô khuyên chúng ta hãy chúc tụng Thiên Chúa, Đấng đã chúc phúc cho chúng ta trong Chúa Kitô, và làm cho chúng ta trở thành những người con yêu dấu của Người (x. Ep 1, 3-6). Để đáp lại các chúc lành của Thiên Chúa, đến lượt chúng ta chúc tụng Người, nguồn cội của mọi điều tốt lành, bằng những lời cầu nguyện ngợi khen, tôn thờ và cảm tạ của chúng ta. Như Sách Giáo lý dạy: “Lời cầu nguyện chúc tụng là sự đáp trả của con người đối với các ân ban của Thiên Chúa” (số 2626).
Chúc tụng là một chiều kích thiết yếu của việc cầu nguyện
Đức Thánh Cha bắt đầu bài giáo lý bằng việc trưng dẫn một số ví dụ từ sách Sáng Thế cho thấy chúc tụng là một chiều kích thiết yếu của việc cầu nguyện. Trong các trình thuật về sáng tạo (x. St 1-2), Thiên Chúa luôn luôn chúc lành cho sự sống. Người chúc lành cho các loài vật (1,22), cho người nam và người nữ (1,28), cuối cùng Người chúc lành cho ngày Sa-bát, ngày nghỉ ngơi và giải trí của mọi tạo vật (2,3). Đức Thánh Cha nhận xét: Trong những trang đầu tiên của Kinh Thánh, các lời chúc lành được lập lại liên tục. Thiên Chúa chúc lành, nhưng loài người cũng chúc tụng, và chẳng bao lâu người ta phát hiện ra rằng phúc lành có một sức mạnh đặc biệt, đồng hành với người nhận được nó trong suốt cuộc đời, và giúp trái tim con người sẵn sàng để mình được Thiên Chúa biến đổi (VAT. II, Sacrosanctum Concilium, 61).
Hình ảnh Thiên Chúa nơi con người không thể bị xóa bỏ
Đức Thánh Cha giải thích ý nghĩa của từ chúc lành – “benedire” trong tiếng Ý – có nghĩa là “nói tốt”: Do đó, vào thuở ban đầu của thế giới, có một Thiên Chúa Đấng "nói-điều tốt", chúc lành, nói-điều lành. Người thấy rằng mọi công việc do tay Người làm đều tốt đẹp, và khi Người tạo dựng con người, và công trình sáng tạo được hoàn thành, Người nhận thấy rằng con người "rất tốt" (St 1,31)
Hình ảnh “tốt” của Thiên Chúa trong con người không thể bị xóa bỏ dù con người phạm tội. Đức Thánh Cha giải thích: Nhưng không lâu sau đó, vẻ đẹp mà Thiên Chúa đã in sâu trong tác phẩm của Người bị thay đổi, và con người trở thành một tạo vật suy thoái, có khả năng gieo rắc sự dữ và sự chết trên thế giới; nhưng không gì có thể xóa được dấu ấn đầu tiên của Thiên Chúa, một dấu ấn của sự tốt lành mà Thiên Chúa đã đặt trên thế giới, trong bản chất con người, trong tất cả chúng ta: khả năng chúc tụng và được chúc lành. Thiên Chúa không sai lầm trong công trình sáng tạo cũng không sai khi tạo dựng con người. Niềm hy vọng của thế giới hoàn toàn nằm trong chúc lành của Thiên Chúa: Người tiếp tục mong muốn điều tốt cho chúng ta, như nhà thơ Péguy nói, Thiên Chúa là người đầu tiên tiếp tục hy vọng điều tốt lành cho chúng ta.
Chúa Giê-su Ki-tô là phúc lành vĩ đại nhất
Đó là lý do mà phúc lành vĩ đại nhất của Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô, món quà tuyệt vời của Thiên Chúa. Đó là một phúc lành cho toàn thể nhân loại, một phúc lành đã cứu độ tất cả chúng ta. Người là Ngôi Lời vĩnh cửu, qua Người Chúa Cha đã chúc phúc cho chúng ta "khi chúng ta còn là tội nhân" (Rm 5,8) Thánh Phaolô đã nói: Ngôi Lời đã làm người và hiến dâng cho chúng ta trên thập giá.
Thánh Phao-lô xúc động công bố kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa và nói: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần...” (Ep 1,3-6).
Thiên Chúa không bao giờ ngừng chúc lành cho chúng ta
Theo Đức Thánh Cha, không có tội lỗi nào có thể xóa bỏ hoàn toàn hình ảnh Chúa Kitô hiện diện trong mỗi người chúng ta, hình ảnh Chúa Ki-tô đã ban cho chúng ta. Tội lỗi có thể làm cho hình ảnh này bị biến dạng, nhưng không thể xóa đi lòng thương xót của Thiên Chúa. Một tội nhân có thể sống trong sai lỗi trong thời gian dài, nhưng Thiên Chúa kiên nhẫn đến cùng, với hy vọng rằng cuối cùng trái tim đó sẽ mở ra và thay đổi. Thiên Chúa giống như một người cha tốt, một người mẹ hiền: họ không bao giờ hết yêu thương người con của mình, dù cho nó có thể làm điều gì sai đi nữa.
Đối với Thiên Chúa, chúng ta quan trọng hơn các tội đã phạm
Đức Thánh Cha chia sẻ một cảm nghiệm riêng tư khi ngài còn làm tổng giám mục Buenos Aires, nhiều lần ngài nhìn thấy rất nhiều bà mẹ xếp hàng dài để vào nhà tù thăm con của họ. Họ không hết yêu thương con và họ biết rằng những người ngồi trên xe buýt đi ngang qua sẽ nhìn họ và nói: “À đây là bà mẹ của tên tù nhân...”. Họ không xấu hổ vì điều này, bởi vì con của họ quan trọng hơn sự xấu hổ họ gặp phải. Cũng thế, đối với Thiên Chúa, chúng ta quan trọng hơn mọi tội lỗi mà chúng ta đã phạm. Thiên Chúa là cha, là mẹ, và luôn chúc lành cho chúng ta. Người sẽ không bao giờ ngừng chúc lành cho chúng ta.
Ân sủng của Thiên Chúa thay đổi cuộc sống
Đức Thánh Cha chỉ ra ấn tượng mạnh mẽ của những bản văn Kinh Thánh về phước lành khi được đọc ở trong một nhà tù hay trong một nhóm phục hồi. Những người ở đó nhận ra rằng họ vẫn được chúc lành bất chấp những lỗi lầm nghiêm trọng của họ, cảm thấy rằng Cha trên trời tiếp tục mong muốn điều tốt đẹp cho họ và hy vọng rằng cuối cùng họ sẽ mở lòng với điều tốt đẹp. Ngay cả khi những người thân nhất của họ bỏ rơi họ vì cho rằng họ là những người không thể hoán cải hay thay đổi, thì đối với Chúa, họ vẫn luôn là những người con. Thiên Chúa không thể xóa nhòa hình ảnh người con trong chúng ta, mỗi người chúng ta là con trai, con gái của Người. Đó là lý do có những phép lạ xảy ra: những người nam người nữ được tái sinh nhờ phúc lành của Chúa. Bởi vì ân sủng của Thiên Chúa thay đổi cuộc sống.
Chúa Giê-su nhìn thấy phúc lành của Chúa Cha nơi chúng ta
Liên quan đến điều này, Đức Thánh Cha trích dẫn câu chuyện về ông Gia-kêu, người bị xem là kẻ tội lỗi (x. Lc 19, 1-10). Mọi người đều nhìn thấy sự xấu xa trong ông; nhưng Chúa Giê-su nhận thấy một tia sáng tốt lành, và từ sự tò mò muốn thấy Chúa Giê-su của ông, Người để cho lòng thương xót cứu độ đi qua và thay đổi trái tim và cuộc sống của ông. Đức Thánh Cha nói: Trong những người bị từ chối, Chúa Giê-su đã nhìn thấy chúc lành không thể xóa nhòa của Chúa Cha. Hơn nữa, Người đến để đồng hóa với mọi người thiếu thốn đau khổ (x. Mt 25,31-46).
Chúc tụng, thờ lạy và tạ ơn Chúa
Đức Thánh Cha kết luận rằng chúng ta đáp lại phúc lành của Chúa bằng lời chúc tụng được thực hiện qua lời cầu nguyện ngợi khen, thờ lạy, tạ ơn. Ngài nói: Cầu nguyện là niềm vui và lòng biết ơn. Thiên Chúa không đợi chúng ta hoán cải trước khi Người bắt đầu yêu thương chúng ta, nhưng Người đã làm điều đó thật lâu trước đó, khi chúng ta vẫn còn trong tội lỗi.
Không nguyền rủa, nhưng hãy chúc phúc
Đức Thánh Cha lưu ý rằng chúng ta không chỉ chúc tụng Thiên Chúa, Đấng chúc lành cho chúng ta, nhưng chúng ta phải chúc lành cho mọi thứ trong Người, tất cả mọi người, chúc tụng Thiên Chúa và chúc lành cho các anh em, chúc lành cho thế giới và đây là gốc rễ của sự hiền dịu Ki-tô giáo. Ngài nhấn mạnh: Nếu tất cả chúng ta đều làm như thế, chiến tranh chắc chắn sẽ không tồn tại. Thế giới này cần phúc lành và chúng ta có thể chúc lành và nhận phúc lành. Chúa Cha yêu thương chúng ta. Và điều chúng ta có là niềm vui chúc tụng Người và tạ ơn Người, và học từ Người không nguyền rủa, nhưng hãy chúc phúc.
Đức Thánh Cha mời gọi nếu chúng ta có thói quen nói những lời xấu xa, nguyền rủa, hãy xin Chúa ban ơn để thay đổi thói quen này để chúng ta có một trái tim được chúc lành và từ một trái tim được chúc lành sẽ không phát ra những lời nguyền rủa. Xin Chúa dạy chúng ta đừng bao giờ nguyền rủa nhưng hãy chúc phúc.
Caritas: Gởi trao một Giáng sinh 2020 an toàn
CARITAS VIỆT NAM (3.12.2020) – Đại dịch COVID-19 đang thay đổi thế giới. Cuộc sống đã ngừng lại ở nhiều quốc gia khi biên giới đóng cửa và tất cả trừ các dịch vụ thiết yếu đóng cửa. Tỷ lệ nghèo đói đang gia tăng đáng kể và người dân, đặc biệt ở các nước bị ảnh hưởng COVID nặng nhất, đang phải đấu tranh cho các nhu cầu cơ bản nhất của họ.
Caritas trên khắp thế giới tiếp tục điều hành các chương trình của mình, phân phát lương thực cho người đói, tạo chỗ ở cho người vô gia cư, giúp những người di dân và người xin tị nạn và chăm sóc cho người bệnh.
Công việc của Caritas
Từ khi bắt đầu đại dịch vào đầu năm 2020, Caritas Quốc tế đã đi đầu trong việc ứng phó với thảm hoạ COVID- 19.
Caritas Quốc tế là một phần của uỷ ban COVID -19 do Đức Thánh Cha Phanxicô thiết lập. Caritas Quốc tế sẽ phối hợp với Bộ Thúc Đẩy Phát Triển Con Người và nhóm làm việc của Uỷ Ban chuyên lắng nghe và hỗ trợ các Caritas địa phương.
Aloysius John, Tổng thư ký Caritas quốc tế nói, “Tại Châu Phi, Châu Á, Trung Đông, Châu Mỹ Latinh, Châu Đại Dương và Châu Âu, Caritas đi đầu trong việc ứng phó với COVID-19, ngay cả ở những khu vực không có tổ chức nào đang hoạt động. "Công việc của chúng tôi là bằng chứng sống động về sứ mạng của Giáo Hội là phục vụ những người dễ bị tổn thương nhất và gia đình toàn nhân loại.”
Qua 162 tổ chức thành viên của chúng ta đàm làm việc ở cấp cơ sở, hàng triệu người đang nhận được lương thực, xà phòng, khẩu trang, chất khử trùng và được hướng dẫn cách tránh lây nhiễm. Chúng ta đang nỗ lực để đảm bảo các quyền cơ bản của mọi người được bảo vệ - như quyền có thực phẩm, quyền sức khoẻ, quyền được bảo vệ và quyền được thông tin.
Đến nay Caritas đã thực hiện được những gì
Đến nay Caritas đã nhận được 39 dự án yêu cầu từ các nước đang phát triển với sự trung gian của các tổ chức địa phương.
Cho đến nay, Caritas đã ủng hộ hơn 8,4 triệu người, cung cấp những nhu cầu cơ bản nhất và ngăn chặn sự lây lan của coronavirus. Nhưng hàng triệu người vẫn còn đang chờ được giúp đỡ bằng những hỗ trợ cụ thể.
Chuyển Ngữ: PTT Caritas Việt Nam
Nguồn: caritasvietnam.org
Nhà khảo cổ người Anh tin rằng ông đã tìm thấy ngôi nhà thời thơ ấu của Chúa Giêsu
WHĐ (4.12.2020) - Ngôi nhà có tất cả các dấu ấn của một nghệ nhân lành nghề như Thánh Giuse.
Năm năm nghiên cứu chuyên sâu về dữ liệu khảo cổ học đã củng cố bằng chứng cho thấy một ngôi nhà thuộc thế kỷ thứ nhất ở Nazareth thuộc về Thánh Gia Thất, một nhà nghiên cứu người Anh kết luận.
Ngôi nhà, được phát hiện cách đây hàng chục năm bên dưới một tu viện, được khai quật lần đầu vào những năm 1880, nhưng một cách không chuyên nghiệp.
Các Nữ tu ở Nazareth đã xây dựng một tu viện, phát hiện ra một bể chứa nước cổ và tiến hành công việc đào xới sơ sài với sự hỗ trợ của công nhân và học sinh.
Tu viện vẫn đang hoạt động, gần Vương cung Thánh đường Truyền tin của Nazareth.
Trong một cuốn sách mới, The Sisters of Nazareth Convent: A Roman-period, Byzantine and Crusader site in central Nazareth, (ND: Các Nữ tu của Tu viện Nazareth: Một địa điểm thời La Mã, Byzantine và Thập tự chinh ở trung tâm Nazareth), Giáo sư Ken Dark, một nhà khảo cổ học đến từ Đại học Reading ở Anh, nói rằng rất có thể Thánh Giuse là người đã xây dựng ngôi nhà, một nơi trú ngụ bằng đá và vữa, một phần được khoét sâu vào sườn đồi đá vôi.
Dark, người đã dành 14 năm nghiên cứu địa điểm này, nói rằng có khả năng là Thánh Giuse đã xây dựng ngôi nhà. Các tường thuật trong Phúc âm đề cập đến Cha nuôi của Chúa Giêsu là một tekton, một từ tiếng Hy Lạp có nghĩa vừa là thợ mộc và vừa là thợ thủ công liên quan đến xây dựng.
“Rõ ràng rằng bất cứ ai xây dựng ngôi nhà này đều hiểu rất rõ về công năng của đá,” Dark nói với Daily Mail.
Lịch sử sau đó của địa điểm cho thấy nó có ý nghĩa to lớn đối với những người theo Chúa Giêsu. Đến thế kỷ thứ 4, một nhà thờ dạng hang động đã được xây dựng ở đó, được trang trí bằng các bức khảm và có một bức bình phong ngăn cách với cung thánh.
Gần như bị bỏ qua
Ngoài một số vật thủ công mà các nữ tu trưng bày trong bảo tàng của họ, người ta ít chú ý đến địa điểm này, ngoại trừ một số nghiên cứu được thực hiện vào năm 1936 bởi một tu sĩ Dòng Tên người Pháp, Henri Senès. Những ghi chép của ông chỉ được các nữ tu biết đến mãi cho đến năm 2006, khi họ chia sẻ chúng với Dark và Dự án Khảo cổ Nazareth của ông. Một số bằng chứng gây phấn khích và hấp dẫn bắt đầu xuất hiện khi nhóm của Dark khảo sát lại toàn bộ địa điểm.
Cụ thể, họ đã tìm thấy "các mảnh vỡ có thể là của các bình đựng bằng đá vôi" tại địa điểm. Theo lề luật Do Thái, các bình đựng bằng đá vôi không được dùng cho việc không thanh sạch, cho thấy rằng những người ở ngôi nhà từ thế kỷ thứ nhất này có thể là người Do Thái.
Đồ gốm cũng cung cấp bằng chứng về sự phân chia văn hóa rộng rãi hơn trong khu vực Nazareth, nơi Chúa Giêsu lớn lên. Các địa điểm khảo cổ ở phía bắc có nhiều đồ thủ công, bao gồm cả đồ gốm nhập khẩu, cho thấy đó là thế giới thị tứ của đế chế La Mã, trong khi các địa điểm gần Nazareth có các đồ thủ công bao gồm các bình đựng bằng đá vôi như nói trên cho thấy đó là văn hóa Do Thái. Điều này cho thấy “một thái độ dè dặt hơn giữa niềm tin tôn giáo cùng các quan niệm về sự thanh sạch và văn hóa “La Mã”, nói chung, bị khước từ”, Dark đã nói như thế trong quá khứ.
Không nơi nào khác trong Đế chế La Mã có một ranh giới dường như rõ ràng như vậy giữa những người chấp nhận và những người từ chối văn hóa La Mã, ngay cả dọc theo biên giới của đế quốc La Mã. Điều này gợi ý rằng khu vực Nazareth là khác lạ, cho thấy sức mạnh của tình cảm chống lại La Mã và / hoặc sức mạnh của bản sắc Do Thái của nó.
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung
Từ: aleteia.org