Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Vài nét về ngoại giao Tòa Thánh
Hiện nay, Tòa Thánh có quan hệ ngoại giao trên cấp Sứ thần và Đại sứ với 183 quốc gia, tức là với hầu hết các nước trên thế giới.
Con số vừa nói là tình trạng từ năm 2017, sau khi Myanmar thiết lập quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh, mở đường cho cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha Phanxicô tại nước này. Cuộc đảo chánh của giới quân đội ngày 01 tháng Hai năm ngoái (2021) đã đưa quốc gia này trở lại ác mộng bao nhiêu năm sống dưới chế độ độc tài quân phiệt và làm cho nội chiến gia tăng.
Hiện nay trên thế giới còn 13 nước chưa có quan hệ ngoại giao hoàn toàn với Tòa Thánh, trong đó có 5 nước có đại diện Tòa Thánh cạnh Giáo hội địa phương, nhưng không có tư cách ngoại giao trước mặt chính phủ, như trường hợp Việt Nam, Lào, Brunei, Comore, Somalia bên Phi châu. 8 nước còn lại hoàn toàn không có liên hệ nào với Tòa Thánh và cũng không có đại diện của Tòa Thánh, như trường hợp Afghanistan, Bắc Triều Tiên, Arập Sauđi, Bhutan, Maldive, Oman và Tuvalu.
Tòa Thánh hiện có 180 sứ bộ ngoại giao tại nước ngoài, trong đó có 73 nước không có Sứ thần thường trú của Tòa Thánh, 106 nước trong đó vị Sứ thần kiêm nhiệm nhiều nhiệm sở. Ví dụ, Đức Tổng giám mục Novatus Rugambwa, người Tanzania, mới được bổ làm tân Sứ thần tại New Zealand, kiêm Sứ thần tại 9 nước nhỏ khác trong Thái Bình Dương, như Fiji, Palau, Quần đảo Marshall, Kiribati, Nauru, Tonga, Samoa và Quần đảo Cook cũng như tại Micronesia.
Con số các nước lập quan hệ ngoại giao trên cấp đại sứ với Tòa Thánh gia tăng với thời gian: năm 1900, chỉ có khoảng 20 nước có quan hệ này, 78 năm sau, đầu triều đại của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, năm 1978 con số đó tăng lên 84, và cuối triều đại của ngài, năm 2005, lên tới 174 nước. Với Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, có 180 nước và dưới thời Đức đương kim Giáo hoàng Phanxicô lên tới 183 quốc gia.
Có 36 nước chấp nhận nguyên tắc vị Sứ thần Tòa Thánh cũng là niên trưởng ngoại giao đoàn tại quốc gia liên hệ, các nước còn lại theo nguyên tắc vị Đại sứ nào trình thư ủy nhiệm kỳ cựu nhất thì làm niên trưởng, theo công ước ngoại giao ký tại Vienne, bên Áo năm 1961. Tuy nhiên, mới đây Tổng thống Daniel Ortega của Nicaragua đơn phương hủy bỏ vai trò niên trưởng ngoại giao đoàn của Đức Sứ thần Tòa Thánh tại nước này, vì xung đột với Giáo hội Công giáo địa phương. Điều này bị coi là một dấu hiệu đoạn giao với Giáo hội.
Trong số 183 nước có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh, có 89 vị đại sứ thường trú tại Roma, các vị khác có nhiệm sở tại một thủ đô ở Âu châu.
Ngoài ra, Tòa Thánh có quan hệ ngoại giao đa phương với nhiều tổ chức quốc tế, như Liên Hiệp Quốc, Liên Hiệp Âu Châu, Liên minh các nước Arập, và những trường hợp đặc biệt như Palestine, Hội Hiệp Sĩ Malta, một thực thể có quan hệ ngoại giao trên cấp đại sứ với 110 nước.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Hong Kong trở lại với thánh lễ trực tuyến vì đại dịch
Từ thứ Hai, ngày 10 tháng Giêng này, các thánh đường ở Hong Kong trở lại các thánh lễ trực tuyến vì đợi sóng Covid-19 thứ 5, theo các biện pháp mục vụ mới phòng ngừa đại dịch, do Tòa Tổng giám mục Hong Kong ban hành.
Văn phòng thư ký của Tòa giám mục cho biết “dịch Coronavirus vừa bước vào đợt thứ 5 tại Hong Kong, biến thể Omicron đã lan vào các cộng đoàn. Tình trạng mau lẹ trở nên nguy kịch và chính quyền mời gọi các công dân tăng cường tinh thần trách nhiệm. Các vị lãnh đạo tôn giáo Hong Kong đã được chính quyền tiếp xúc, với hy vọng có thể cộng tác vào các biện pháp cách ly xã hội do chính phủ đề ra, xin ngưng bao nhiêu có thể các cuộc tập họp tôn giáo trực diện, từ ngày 07 đến ngày 20 tháng Giêng này, để Hong Kong có thể sớm ngăn chặn đại dịch”.
Cộng tác với các biện pháp cấp thiết trên đây của chính phủ, Đức cha Stephano Chu Thủ Nhân (Chow Sau-yan), Giám mục Hong Kong ra thông cáo cho biết: từ thứ Bảy, ngày 08 tháng Giêng đến Chúa nhật 09 tháng Giêng, tất cả các giáo xứ và nhà nguyện có thể cử hành thánh lễ ngày thường và Chúa nhật như mọi khi, nhưng từ thứ Hai 10 tháng Giêng đến thứ Năm 20 tháng Giêng, phải ngưng các thánh lễ công cộng và bất kỳ sự tụ tập tôn giáo trực diện nào. Các thánh đường và nhà nguyện có thể tiếp tục mở cửa để các tín hữu đến cầu nguyện riêng và thờ lạy Thánh Thể. Nhà thờ giáo xứ có thể đặt Mình Thánh Chúa mỗi ngày hoặc vào những ngày được thiết định, với sự tham dự của cá nhân các tín hữu. Dĩ nhiên, các nhà thờ và nhà nguyện phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa như mọi khi để các tín hữu và những người khác có thể vào cầu nguyện, chầu Mình Thánh hoặc dự lễ cưới hoặc đám tang. Vì thế, thánh lễ Chúa nhật được trực tuyến trên trang mạng của giáo phận (www.catholic.org.hk) và trang mạng của Công Giáo Báo (http://kkp.org.hk).
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Các tín hữu Công giáo tại Kazakhstan được bình an giữa biến động
Hôm 08 tháng Giêng vừa qua, Đức cha Athanasius Schneider, Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Đức Maria chí thánh, ở Astana bên Kazachstan cho biết các tín hữu Công giáo tại nước này được bình an giữa những biến động chưa từng có tại đây.
Bạo loạn tại Kazachstan bùng nổ từ ngày 02 tháng Giêng vừa qua, với các cuộc biểu tình, đập phá dữ dội bắt đầu tại thành phố Zhanaozen, rồi lan tới các thành phố khác, kể cả thành phố Almaty lớn nhất tại nước này. Họ phản đối vụ tăng giá xăng dầu và đòi Tổng thống Kassym-Jomart phải từ chức. Tổng thống tuyên bố tình trạng khẩn trương và kêu gọi Nga gửi quân tới giúp, chiếu theo Hiệp ước về an ninh giữa Nga và các nước đồng minh.
Tổng cộng có hơn 164 người chết, trong số này có 103 người tại Amity, thủ đô kinh tế của Kazakhstan, 2.000 người bị thương và 5.800 người bị bắt, hơn 100 cửa tiệm và ngân hàng bị cướp phá và 400 xe bị thiêu hủy.
Trong sứ điệp, Đức cha Schneider nói rằng: “Các tín hữu Kazachstan cảm tạ Chúa vì được an toàn. Trong các nhà thờ, chúng ta tiếp tục cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh Chúa và cầu nguyện đặc biệt cho hòa bình tại đất nước chúng ta và cho sự hòa hợp trong đời sống xã hội mà nhân dân Kazachstan mong muốn.”
Kazachstan rộng 2 triệu 700.000 cây số vuông và là nước lớn nhất trên thế giới không có bờ biển, với 19 triệu dân cư, 70% là tín hữu Hồi giáo. Phần lớn các Kitô hữu theo Chính thống giáo và các tín hữu Công giáo vào khoảng 250.000 người, phần lớn là những người gốc BaLan, Đức và Lituani bị lưu đày tới đây trong thời lãnh cộng sản Liên Xô Joseph Stalin. Hầu hết các tín hữu Công giáo tại đây theo lễ nghi Latinh nhưng cũng có khoảng 3.000 tín hữu Công giáo nghi lễ Đông phương.
Trong buổi đọc kinh trưa Chúa nhật 09 tháng Giêng vừa qua, Đức Thánh cha cũng nhắc đến tình hình ở Kazakhstan và nói rằng: “Tôi đau buồn hay tin đã có các nạn nhân trong các vụ phản đối bộc phát những ngày qua tại Kazactan. Tôi cầu nguyện cho họ và các thân nhân, đồng thời tôi cầu mong sớm tìm được hòa hợp xã hội qua sự tìm kiếm đối thoại, công lý và ích chung. Tôi phó thác dân tộc Kazachstan cho sự bảo vệ của Đức Mẹ, Nữ Vương Hòa Bình Ozoiornoje”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Linh ảnh Đức Mẹ đến từ biển cả đặt trên bàn thờ Tuyên xưng Đức tin trong Đền thờ Thánh Phêrô
WGPHN - Tờ nhật báo L’Osservatore Romano kể lại câu chuyện về linh ảnh cổ xưa của Đức Trinh Nữ được đặt trên bàn thờ của Vương cung Thánh đường thánh Phêrô trong suốt các buổi cử hành phụng vụ ngày 31/12 cũng như ngày đầu năm mới 01/01.
Linh ảnh giống như một “người tị nạn”. Trốn thoát khỏi bạo lực, chiến tranh tàn phá thành Constantinople vào năm 1453, “người tị nạn” này lên một con tàu lái buôn tới thành phố Napoli, nước Ý. Tuy nhiên khi tới gần bờ biển Salerno, một cơn bão lớn đã khiến con tàu bị chìm. Giống như hầu hết thủy thủ đoàn cũng như hàng hóa trên thuyền, chẳng ai biết về “người tị nạn” ấy – linh ảnh Đức Mẹ. Mãi cho tới một thời gian sau đó, một người thợ nề khi đang tìm cát trên bờ biển bằng cuốc, anh chạm thấy thứ gì đó bất thường. Và, đó chính là linh ảnh Đức Mẹ thành Costantinople, hay ở Salerno còn gọi là “Đức Mẹ đến từ biển khơi”. Để kính nhớ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, linh ảnh được đặt cạnh bàn thờ Tuyên xưng Đức tin, trong Đền thờ thánh Phêrô vào ngày 31/12 và 01/01 vừa qua.
Đó có thể là phần kết của một trong số biết bao câu chuyện xảy ra thường nhật. Trong số đó có rạp hát Mare Nostrum, nơi mà hàng ngàn người tị nạn tìm kiếm nơi ẩn náu và trốn thoát khỏi chiến tranh, đói kém. Họ mạo hiểm lên đường, đôi khi phải trả giá bằng chính mạng sống mà Đức Thánh Cha Phanxicô gọi là một “nghĩa trang lạnh lẽo không bia mộ”. Tuy thế, “chuyến lưu hành” của linh ảnh cũng có một kết thúc có hậu. Bởi lẽ người thợ nề kia đã vô tình tìm thấy một “kho báu”, một “món quà” của Mẹ Maria dành cho thành phố Salerno. Như thế, “người tị nạn” là người mang phước lành và ân sủng, còn người thợ nề đã “cứu” Mẹ Maria khỏi những con sóng. Mẹ đã “trả ơn” bằng sự che chở, bảo vệ cho tất cả người dân thành phố.
Truyền thống kể lại rằng người thợ nề ấy sau khi dùng cuốc chạm vào tới chân tượng của Đức Mẹ, anh đã bị liệt cả hai tay. Vì thế anh ta bắt đầu la hét để được giúp đỡ. Khi mọi người tới giải cứu, anh ta đào sâu hơn nữa xuống cát và đã tìm thấy linh ảnh – được nhận ra bởi những thủy thủ sống sót đã mang linh ảnh đi khỏi thành Constantinople. Cảnh tượng này thu hút sự chú ý của các thầy dòng Augustinô có một cộng đoàn cạnh bãi biển nơi tìm thấy linh ảnh Đức Mẹ. Trong khi người dân reo hò vì phép lạ, các thầy muốn đưa linh ảnh về nhà thờ của nhà dòng và tổ chức một cuộc rước. Ngay cả những quả chuông, chẳng ai chạm vào nhưng cũng tự động ngân vang để mừng lễ. Linh ảnh được đặt trong nhà nguyện Chúa Thánh Thần của gia đình Mazza nhưng lại biến mất vào ngày sau đó. Rồi linh ảnh được tìm thấy trong chuồng ngựa của gia đình và các chú ngựa đang quỳ gối thờ lạy trước linh ảnh. Linh ảnh lại được đưa về nhà thờ nhưng một lần nữa lại xuất hiện trong chuồng ngựa. Giống như là “người tị nạn”, Maria muốn cùng chia sẻ chung cảnh ngộ với bao người tuyệt vọng, khốn khổ không thể tìm được chỗ ở trong những tòa nhà lộng lẫy, mà trong những nơi trú ẩn tạm bợ. Sau đó, các thầy dòng Augustinô đã biến chuồng ngựa thành một nhà nguyện, nơi các tín hữu có thể đến kính viếng. Với việc xây dựng nhà thờ thánh Augustinô, linh ảnh được đặt bên trong nhà nguyện cạnh, sau đó chuyển lên bàn thờ chính.
Linh ảnh “Đức Mẹ đến từ biển khơi” khắc họa Đức Maria trên ngai vàng. Mẹ mặc áo choàng xanh, viền đỏ diễm lệ với viền vàng. Tay trái Mẹ bế Chúa Hài Nhi, tay phải Mẹ chỉ vào Người để các tín hữu cùng thờ phượng. Chúa Giêsu mặc áo choàng đỏ, cánh tay phải Ngài giơ lên để ban phước lành cho dân chúng. Phía bên trên bức ảnh có hai Thiên Thần thờ lạy và trợ giúp Mẹ Maria.
Việc thực hiện bức ảnh diễn ra khoảng giữa thế kỷ XIV. Linh ảnh diễn tả Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa và là “Người dẫn đường, chỉ lối”. Linh ảnh cũng “nói” với các tín hữu và cho thấy dưới sự chuyển cầu của Mẹ, Chúa Con đã nhận lời, và Người đã giơ tay lên chúc lành. Mẹ Maria chỉ cho toàn thế giới biết Chúa Hài Đồng, mời gọi tất cả theo Người, trong khi Chúa Giêsu ngắm nhìn Mẹ – môn đệ đầu tiên của Người.
Theo truyền thống, vào mỗi Chúa nhật đầu tiên tháng 8 hàng năm, thánh lễ được tổ chức long trọng cùng một cuộc rước kiệu trên bờ biển để kỷ niệm sự kiện tìm thấy linh ảnh Đức Maria. Bức ảnh cũng được rước trên một chiếc thuyền đánh cá để ghi nhớ việc linh ảnh dạt vào bờ biển Salerno.
Qua nhiều thế kỷ, lòng sùng kính đối với linh ảnh “Đức Mẹ đến từ biển khơi” ngày một lớn thêm. Ngày 15/12/1901, Kinh sĩ Tòa Thánh đã công bố sự đăng quang và đính vương miện trên linh ảnh, diễn ra vào ngày 6/8/1922. Năm 1972, theo sắc lệnh của Đức Tổng Giám mục, nhà thờ giáo xứ thánh Augustinô được nâng lên thành Đền thờ kính Đức Maria đầu tiên của thành phố Salerno.
Theo tờ L’Osservatore Romano
Phỏng vấn sơ Jeannine Gramick về việc bị Vatican kiểm duyệt, 50 năm sứ vụ và hy vọng của sơ với người công giáo L.G.B.T
americamagazine.org, Linh mục Dòng Tên Jim McDermott, 2022-01-07
Sơ Jeannine Gramick và Cha Robert Nugent, ngày 10 tháng 12 năm 1999 (Ảnh CNS của Nancy Wiechec)
Sơ Jeannine Gramick dành trọn 50 năm làm việc cho người công giáo L.G.B.T. Cùng với cha Robert Nugent, sơ Gramick bắt đầu với tổ chức Những Con đường Sứ vụ Mới, tổ chức các buổi hội thảo cho người công giáo, nói về các nghiên cứu khoa học và thần học về đồng tính và những người ủng hộ quyền và nhu cầu của người L.G.B.T. Vì công việc này, cuối cùng sơ Gramick và cha Nugent bị Bộ Giáo lý Đức tin cấm làm việc với người L.G.B.T., một lệnh mà sơ không vâng lời. Sơ phải đổi Dòng để tiếp tục sứ vụ của mình.
Gần đây Đức Phanxicô đã gởi cho sơ Gramick một bức thư mừng 50 năm sứ vụ của sơ, mô tả công việc của sơ là theo “phong cách của Chúa”. Điều đặc biệt là sơ hoàn toàn không ác ý hay có cái tôi khi đối diện với tất cả những gì sơ đã trải qua. Sơ có một tính hài hước dễ dàng, tự trào, sơ nói sơ giống người phụ nữ trong Phúc Âm, không ngừng đi gõ cửa quan tòa.
Ngay cả khi sơ Gramick nhớ lại một số thời điểm đau khổ sơ đã trải qua, sơ vẫn nói về những thập kỷ sứ vụ của mình với hy vọng và thấu hiểu. Tweet
Ngay cả khi sơ Gramick nhớ lại một số thời điểm đau khổ sơ đã trải qua, sơ vẫn nói về những thập kỷ sứ vụ của mình với hy vọng và thấu hiểu. Sơ nói với tôi: “Chúng ta là dân của Chúa, chúng ta luôn lớn lên về kiến thức và nhận thức của chúng ta.”
Cuộc nói chuyện diễn ra qua ba cuộc điện thoại, đã được chỉnh sửa theo độ dài và cho rõ ràng.
Sơ có cảm giác như thế nào khi đã làm sứ vụ này trong 50 năm?
Sơ Jeannine Gramick: Cảm giác chính là lòng biết ơn và niềm vui. Chúng tôi đã đi một đoạn đường dài. Đúng vậy, chúng tôi không làm việc trong tư cách là Giáo hội, đặc biệt ở Hoa Kỳ với việc sa thải các giáo viên và những người ủng hộ người L.G.B.T. Nhưng thành thật mà nói, cách đây 50 năm, thậm chí chúng tôi không thể nói từ “đồng tính”.
Lần đầu tiên sơ tham dự vào công việc gần với người L.G.B.T. là như thế nào?
Tôi học tiến sĩ toán học ở Đại học Pennsylvania, và tôi gặp một ông Dominic Bash, một người đồng tính trong thánh lễ tại nhà. Dominic ở trong dòng Phanxicô một thời gian ngắn. Khi còn nhỏ anh đã biết mình đồng tính, nhưng tất nhiên vào thời đó người ta không nói gì về chuyện này. Nếu mình đi xưng tội, điều anh đã đi, thì sẽ bị tống ra ngoài.
Tôi đề nghị: “Vì sao chúng ta không làm một thánh lễ tại căn hộ của bạn và bạn có thể mời các bạn đồng tính của mình đến?” Đó là bước đầu.
Dù đã rời Giáo hội, Dominic có đời sống thiêng liêng sâu đậm. Sau thánh lễ, anh nói: “Tôi có nhiều bạn bè rất thích dự thánh lễ này, nhưng họ sợ. Họ nghĩ rằng nhà thờ không muốn họ. Tôi đề nghị: “Vì sao chúng ta không làm một thánh lễ tại căn hộ của anh và anh có thể mời các bạn đồng tính của anh đến?” Chúng tôi bắt đầu có những buổi phụng vụ hàng tuần tại căn hộ của anh ấy. Đó là bước đầu.
Sơ hiểu gì về đồng tính vào thời đó?
Tôi đã nghe thấy từ này, nhưng tôi hầu như không biết nó có nghĩa là gì. Tôi đã có tất cả những lầm tưởng và khuôn mẫu của xã hội năm 1971. Tôi nghĩ người đồng tính nữ và đồng tính nam là những người tốt, nhưng tôi nghĩ họ có một cái gì đó mất thăng bằng về mặt tâm lý. Và đó cũng là những gì mọi người nghĩ. Nhưng khi tôi bắt đầu gặp Dominic và các bạn của anh, tôi thấy họ dường như là những người bình thường. Tôi nhớ một nữ luật sư, bà làm việc cho Liên đoàn Tự do Dân sự Hoa kỳ A.C.L.U. (American Civil Liberties Union). Tôi rất ngưỡng mộ bà. Bà thật thông minh. Tôi nghĩ: “Người phụ nữ đó không bị mất cân bằng.”
Lúc đầu, sơ có lo lắng các thánh lễ này có được nhìn nhận như các thánh lễ theo nghĩa rộng không?
Không, tôi đơn sơ trong việc này; tôi không thực sự nhìn về phía trước hay dự đoán nhiều. Tôi như đi theo dòng chảy. Tôi biết đây là điều mà nhà thờ cần phải làm vì đây là những người công giáo ngại đến nhà thờ.
Tôi biết đây là điều mà nhà thờ cần phải làm vì đây là những người công giáo ngại đến nhà thờ.
Dĩ nhiên, tôi có nói chuyện này với bề trên của tôi ở Baltimore. Cám ơn Chúa, tôi có những phụ nữ có tầm nhìn. Một số bề trên tỉnh dòng của tôi biết về đồng tính nhiều hơn tôi. Họ khuyến khích tôi làm những gì tôi có thể. Họ nói: “Đây là một nhóm người mà nhà thờ đã bỏ quên. Sơ hãy làm những gì sơ có thể vì nhà thờ phải ở đó với họ”.
Và được nhìn ánh mắt của họ sau các thánh lễ đó, niềm hạnh phúc trên gương mặt họ, thật là tuyệt vời.
Làm thế nào mà sơ và cha Robert Nugent thành lập Những Con đường Sứ vụ mới?
Bob (Robert) gia nhập vào nhóm Salvator, và trong quá trình chuyển giao, cha xuống Washington, D.C., làm việc bán thời gian tại Trung tâm Quixote, một trung tâm hòa bình và công lý. Họ muốn làm điều gì đó về công lý cho những người đồng tính nữ và đồng tính nam trong nhà thờ. Vì vậy, tôi tham gia vào nhóm, Bob và tôi bắt đầu làm các buổi hội thảo giáo dục về đồng tính. Chúng tôi gọi đó là hội thảo “Những con đường mới” vì trong năm đó, giám mục Francis Mugavero đã viết một thư mục vụ có tên “Tình dục, Món quà của Chúa”. Trong lá thư đó, ngài nói về sự cần thiết phải tìm “những con đường mới” để mang chân lý của Chúa Kitô đến với những người đồng tính nữ và đồng tính nam.
Các hội thảo mở ra cho mọi người và nội dung rất đầy đủ: Chúng tôi nói về nguồn gốc của đồng tính, các khía cạnh y tế. Chúng tôi cung cấp rất nhiều dữ liệu từ nghiên cứu xã hội học đang được thực hiện về đồng tính và vấn đề kỳ thị đồng tính.
Khi chúng tôi bắt đầu Con đường Mới năm 1977, chúng tôi đã đi xuyên nước Mỹ. Có một lần Bob đã kiểm kê, chúng tôi đã đến với ba phần tư giáo phận Mỹ.
Chúng tôi đã xem tất cả các trích dẫn tiêu cực về đồng tính trong Kinh thánh và cho thấy các học giả Kinh thánh đã xử lý như thế nào. Và chúng tôi đã nói các lập trường thần học về xu hướng và hành vi tình dục.
Khi chúng tôi bắt đầu Con đường Mới năm 1977, chúng tôi đã đi khắp nước Mỹ. Có một lần Bob đã kiểm kê, chúng tôi đã đến với ba phần tư giáo phận Mỹ. Tất cả được làm vào cuối những năm 70, 80 và những năm 90.
Tôi ngạc nhiên khi biết các bạn được chào đón ở rất nhiều giáo phận; điều đó có vẻ khác với những gì có thể có ở Giáo hội Hoa Kỳ ngày nay.
Ồ, rất nhiều giám mục đuổi chúng tôi. Chúng tôi tổ chức những buổi hội thảo này chủ yếu tại các nhà mẹ của các cộng đồng phụ nữ hoặc các trung tâm tĩnh tâm. Tôi rất vui khi nói rằng các nữ tu là những người đầu tiên trong Giáo hội đề cập đến vấn đề đồng tính .
Nhưng cũng có một vài giám mục đến. Như giám mục Leroy Matthiesen của giáo phận Amarillo hay giám mục Thomas Gumbleton của giáo phận Detroit.
Có vẻ như hồi đó Giáo hội cởi mở hơn với những buổi nói chuyện về đồng tính.
Vào cuối những năm 60, 70 và đầu những năm 80, mọi người thực sự nồng nhiệt với Công đồng Vatican II và công bằng xã hội. Các giám mục có do dự, nhưng các linh mục, nữ tu và giáo dân phụ trách các cơ sở công giáo, họ sẵn sàng hơn để đón nhận một cái gì đó gây tranh cãi hoặc mới mẻ.
Vào cuối những năm 60, 70 và đầu những năm 80, mọi người thực sự nồng nhiệt với Công đồng Vatican II và công bằng xã hội.
Khi Đức Gioan-Phaolô II bắt đầu bổ nhiệm nhiều giám mục vào đầu những năm 80 và 90, mọi thứ thực sự trở nên căng thẳng. Vào thời điểm đó, các cấp “quản lý cấp trung” trong Giáo hội – các nhà lãnh đạo công giáo điều hành các trung tâm tĩnh tâm, bệnh viện hoặc các tổ chức khác – am hiểu về người L.G.B.T., thân thiện và cởi mở hơn nhiều. Nhưng họ sợ những gì giám mục của họ có thể nói.
Chính vào thời điểm đó, Vatican đã đưa ra chỉ thị cho cha Nugent và tôi.
Quá trình đó diễn ra như thế nào?
Đầu tiên các giám mục gây áp lực lên Dòng chúng tôi. Họ muốn cộng đoàn làm việc thay cho họ, vì vậy, họ đã ba lần yêu cầu cộng đoàn điều tra chúng tôi và đề xuất các biện pháp trừng phạt, nhưng không có biện pháp trừng phạt nào được khuyến nghị.
Tôi đã sống qua một nửa tá bề trên tỉnh dòng và các bề trên tổng quyền thời còn ở Dòng Nữ tử Đức Bà và tất cả đều ủng hộ công việc của tôi.
Tại một số thời điểm, những lời phàn nàn này đã được đưa lên cấp trên tiếp theo.
Đúng. Năm 1985, Bộ Giáo lý Đức tin đã chỉ định một ủy ban Vatican điều tra chúng tôi và đưa ra các khuyến nghị. Ủy ban do hồng y Adam Maida ở Detroit đứng đầu. Ngài là một người tốt, rất tốt. Tôi không nghĩ ngài thích nhiệm vụ này. Ngài được bổ nhiệm năm 1985, nhưng chúng tôi đã không thực sự bắt đầu cho đến năm 1991, khi ngài nhận thư của Bộ Giáo lý Đức tin đặt nhiều câu hỏi về cuộc điều tra.
Chúng tôi đã có một số cuộc họp với ủy ban, và họ đã chuyển một số thứ đến Bộ Giáo lý Đức tin. Rõ ràng những điều này đã không làm hài lòng Bộ, vì sau đó họ gởi cho chúng tôi một loạt câu hỏi, Bob và tôi phải trả lời. Và chúng tôi đã không trả lời theo cách họ muốn, vì vậy về cơ bản họ đã cho chúng tôi biết câu trả lời họ muốn.
Năm 1999, họ đưa ra thông báo cho tôi và Bob không được phép làm việc với những người đồng tính nữ hoặc đồng tính nam nữa. Chúng tôi không liên quan đến vấn đề này.
Họ muốn chúng tôi nói rằng hoạt động tình dục đồng giới về mặt khách quan là vô đạo đức và cá nhân chúng tôi tin điều đó. Và tôi không thể nói điều đó. Tôi đã nói với họ, tôi sẽ không đưa ra ý kiến cá nhân của tôi về chủ đề này. Tôi là nhà giáo dục. Tôi có thể trình bày huấn giáo của Giáo hội, nhưng tôi sẽ không nói ý kiến của lương tâm tôi.
Năm 1999, họ đưa ra thông báo cho tôi và Bob không được phép làm việc với những người đồng tính nữ hoặc đồng tính nam nữa. Chúng tôi không liên quan đến vấn đề này.
Nó giống như một chuyện rất đau khổ đã phải trải qua.
Theo một nghĩa nào đó, tôi cảm thấy bị vạ tuyệt thông. Bởi vì vạ tuyệt thông nghĩa là gì? Nghĩa là ở ngoài cộng đồng. Là bị xa lánh. Đó là cảm nhận của tôi sau lần bị khiển trách năm 1999, đó là cảm giác của tôi. Có những nơi tôi không được chào đón, mà trước đó tôi được chào đón.
Sơ đã làm gì sau đó?
Tôi đã đi khắp nước và kể cho người công giáo câu chuyện điều tra của Vatican. Và tôi nói với họ: “Nếu quý vị nghĩ rằng chúng tôi không được phản ảnh đúng, xin quý vị viết thư về Vatican và xin họ xem lại quyết định của họ.” Vào cuối năm đó, Vatican đã nhận được hàng ngàn thư từ khắp nơi trên thế giới gởi về. Những người chính gởi thư là các nữ tu.
Vatican viết thư cho bề trên của tôi và nói mọi sự phải dừng lại. Tôi đã bị bề trên tổng quyền ở Rôma triệu tập. Thật đau lòng. Tôi biết các bề trên cộng đoàn của tôi ủng hộ tôi, nhưng họ xin tôi ngừng nói công khai về cuộc điều tra. Rõ ràng nếu tôi không vâng lời, họ sẽ mời tôi ra khỏi Dòng.
Tôi nhận ra mình giống như một người phụ nữ bị vùi dập. Tôi chưa từng bị đánh đập về mặt thể chất, nhưng về mặt tình cảm, tôi đã bị vùi dập từ năm 1985 đến năm 1999.
Tại cuộc gặp đó, Tôi nhận ra mình giống như một người phụ nữ bị vùi dập. Tôi chưa từng bị đánh đập về mặt thể chất, nhưng về mặt tình cảm, tôi đã bị vùi dập từ năm 1985 đến năm 1999. Nhưng đi khắp đất nước để kể câu chuyện của mình, tôi đã được tiếp thêm sức mạnh. Tôi nghĩ điều đó cũng đúng với những phụ nữ bị đánh đập và những người L.G.B.T. Mỗi lần họ kể câu chuyện của họ, họ như được tiếp thêm sức mạnh.
Và tôi nhận ra, tôi sẽ tiếp tục không những chỉ kể câu chuyện của tôi với Vatican, mà cả câu chuyện của tôi với những người L.G.B.T. Tôi cần phải tiếp tục vận động cho họ vì họ không có người bênh vực trong Giáo hội.
Chắc hẳn sơ đã rất giận với Bộ Giáo lý Đức tin và các giám mục đã đối xử với sơ như thế.
Tôi không đồng ý với hồng y Joseph Ratzinger khi ngài đưa ra chỉ thị, nhưng tôi tôn trọng ngài. Tôi nghĩ ngài chân thành làm những gì ngài nghĩ là đúng.
Cha có khi nào nghe câu chuyện tôi gặp hồng y Y Ratzinger không?
Không.
Năm 1998, mọi thứ trông thật ảm đạm, bề trên tỉnh dòng của tôi nghĩ, bà và tôi nên có một chuyến hành hương đến Munich, nơi có mộ của người sáng lập Dòng Nữ tử Đức Bà và cầu nguyện ở mộ của ngài để xin phép lạ. Bà nói, “Vì sơ cần phép lạ.”
Tôi không đồng ý với hồng y Joseph Ratzinger khi ngài đưa ra chỉ thị, nhưng tôi tôn trọng ngài. Tôi nghĩ ngài chân thành làm những gì anh nghĩ là đúng.
Khi chúng tôi đổi máy bay ở Rôma để đi Munich, chúng tôi thấy người này đang đi trước chúng tôi. Và bề trên của tôi nói, “Đó là hồng y Ratzinger.” Tôi nói: “Ồ không, có lẽ là một giám chức cấp thấp ở Vatican trông giống như hồng y Ratzinger.” Ngài có vẻ mệt mỏi, mặc sơ mi giáo sĩ, nhưng không mặc y phục để mọi người “biết đến”.
Chúng tôi lên máy bay, và tôi thấy ghế bên cạnh ngài trống. Tôi ngồi xuống bên cạnh ngài và bắt đầu nói chuyện với ngài. Tôi nói tôi là nữ tu Dòng Nữ tử Đức Bà và tôi sẽ đến Munich viếng mộ của nhà sáng lập.” Ngài nói: “Dì của ngài cũng là nữ tu của Dòng đó.” Tôi nói: “Ồ, dì của ngài tên gì?” Ngài trả lời: “Ratzinger.” Tôi nói: “Ngài có phải là hồng y Ratzinger không?” “Đúng.” “Con là sơ Jeannine Gramick.”
Ngài mỉm cười: “Tôi đã biết sơ từ 20 năm nay.” [Sơ Gramick cười]
Chúng tôi nói chuyện với nhau khoảng 20 phút. Ngài rất thân thiện. Tôi muốn nói ngài rất dễ thương. Ngài hỏi tôi làm thế nào tôi làm sứ vụ này. Tôi nói với ngài về Dominic. Và ngài nói như thế là tốt; ngài chấp nhận chúng tôi họp nhau và có thánh lễ tại nhà cho những người đồng tính.
Tôi yêu hồng y Ratzinger, Đức Bênêđíctô. Tôi nghĩ ngài là người thánh thiện. Tôi thực sự yêu ngài.
Sau cuộc gặp đó, tôi nghĩ đến bài Phúc âm Thánh Gioan trong Bữa Tiệc Ly, khi Chúa Giêsu nói “Ta là cây nho, các ngươi là cành.” Nhưng thay vì một cây nho, tôi hình dung ra một cây rất to lớn với nhiều cành chung quanh nó. Hồng y Ratzinger ở trên một cành, và tôi ở trên một cành có lẽ là 180 độ chung quanh cái cây đó. Chúng tôi đã có thể xa nhau trong suy nghĩ thần học của mình. Nhưng chúng tôi bắt nguồn từ một cây. Chúng tôi có một đức tin chung vào Chúa Kitô và đó là điều làm chúng tôi kết hiệp với nhau. Chúng ta đâu đó ở chung quanh cây này.
Tôi yêu hồng y Ratzinger, Đức Bênêđíctô. Tôi nghĩ ngài là người thánh thiện. Tôi thực sự yêu ngài.
Sơ cởi mở hơn với những người đã bức bách sơ hơn đa số chúng tôi có thể làm.
Chúng ta là con dân Chúa, chúng ta luôn lớn lên trong kiến thức và nhận thức của chúng ta. Chúng ta nhạy cảm hơn vì chúng tôi biết nhiều hơn.
Tôi thích câu trích này của hồng y John Henry Newman. Ngài nói: “Sống là phải thay đổi. Để trở nên hoàn hảo là phải thường xuyên thay đổi”. Đúng, chúng tôi đã từng mắc sai lầm trong quá khứ, nhưng trong quá khứ chúng tôi không có nhiều kiến thức như bây giờ. Người L.G.B.T. là những người đi ra ngoài và kể cho chúng ta câu chuyện của họ. Khoa học đang cho chúng ta biết nhiều điều hơn nữa.
Sơ có nghĩ, công việc của sơ chủ yếu là về các mối quan hệ cá nhân hơn là chính trị không?
Có, nhưng nó cũng là chính trị. Chính trị có nghĩa là những người được trao quyền lực. Nếu họ đàn áp những người bạn muốn giúp đỡ, bạn phải can thiệp về mặt chính trị.
Tôi sẽ kể cho cha nghe một câu chuyện ngắn khác. Vào thời điểm để làm hài lòng hồng y James Hickey giáo phận Washington, D.C., bề trên tỉnh dòng đề nghị tôi nên nghỉ một năm sa-bát. Tôi được gởi đến New York, và Hội đồng Thành phố New York đã có dự luật về quyền của người đồng tính, đã có hiệu lực từ nhiều năm. Tôi đã làm chứng để bênh vực quyền công dân cho những người đồng tính. Và tôi nhận được một cuộc gọi của sơ bề trên tỉnh dòng tôi ngay sau đó.
Chính trị có nghĩa là những người được trao quyền lực. Nếu họ đàn áp những người bạn muốn giúp đỡ, bạn phải can thiệp về mặt chính trị.
Sơ nói: “Jeannine, có người nói sơ đã làm chứng cho dự luật về quyền của người đồng tính và sơ mang lúp dòng. Tôi nói: ‘Đúng, tôi đã làm.’ Sơ nói: ‘Nhưng sơ không được mang lúp dòng! Sơ không được nhân danh dòng.’ Tôi nói: “Dĩ nhiên tôi ở trong dòng. Dòng là để làm gì? Dòng là để giúp đỡ mọi người. Đó là lý do duy nhất mà chúng ta có dòng, vì lợi ích cho mọi người. Vì vậy, tất nhiên tôi sẽ mang lúp để cho mọi người thấy tôi đại diện cho quan điểm công giáo đối với người đồng tính nữ và đồng tính nam.”
Đó là những gì tôi muốn nói về chính trị.
Đã mấy tháng nay với sơ và với Những Con đường mới, với cả hai sứ vụ và bây giờ là cá nhân sơ nhận thư hỗ trợ của Đức Phanxicô. Làm thế nào chuyện này đã xảy ra với sơ?
Tôi vui mừng khôn xiết khi ngài biết công việc chúng tôi, ngài thích những gì chúng tôi làm, ngài thấy chúng tôi đang tham dự vào sứ vụ của Giáo hội.
Bob là linh mục rất tốt, đã hiến cả cuộc đời mình cho những người sống bên lề, và bây giờ cha có một giáo hoàng cũng làm điều tương tự.
Thành thật mà nói, tôi mong cha viết toàn bộ bài báo này về Đức Phanxicô. Ngài là nguồn cảm hứng của tôi.
Vào cuối năm 2013, khi Bob sắp chết vì bệnh ung thư, Bob đã nói với tôi: “Tôi rất hạnh phúc khi được chết dưới triều giáo hoàng này.” Vì Bob là linh mục rất tốt, đã hiến cả cuộc đời mình cho những người sống bên lề, và bây giờ cha có một giáo hoàng cũng làm điều tương tự.
Nhìn lại 50 năm qua, đâu là phần đẹp nhất của sơ?
Điều tuyệt vời nhất là nhìn thấy sự thay đổi đã có, khi thấy ngày càng nhiều người bắt đầu nói: “Tôi ủng hộ người L.G.B.T., ” và phản đối khi nghe họ bị nghỉ việc. Tôi biết hơn 100 trường hợp giáo viên đã bị sa thải khỏi các trường công giáo vì họ là người đồng tính hoặc kết hôn dân sự. Và bây giờ ở nhiều nơi, có những lời kêu gọi công khai. Các giáo dân đang bắt đầu đứng lên. Điều này làm cho tôi hy vọng.
Hy vọng của tôi với người công giáo L.G.B.T. là họ cảm thấy được đón nhận và thoải mái ở bất cứ giáo xứ nào trên thế giới. Rằng họ có thể cảm thấy mình là một phần của Giáo hội giống như mọi người.
Những người đồng tính nói với tôi: “Giáo hoàng Phanxicô thật tuyệt vời, nhưng ngài đã không thay đổi giáo huấn Giáo hội.” Nhưng đó không phải là công việc của ngài lúc này. Cuối cùng, đó là công việc của ngài, nhưng bây giờ, đó là công việc của chúng ta, những người nói lên đức tin của mình. Chúng ta tin vào điều gì?
Chúng ta phải đứng lên để bảo vệ những gì chúng ta tin và không đẩy banh. Chúng ta phải làm theo lương tâm của mình. Chúng ta cần những người trong hàng ngũ, bắt đầu viết thư cho các giám mục của mình, nói rằng họ sẽ không đóng góp cho đến khi các giám mục cư xử với người L.G.B.T. như con người và ngừng tẩy chay họ, vì làm như vậy các ngài không những làm tổn thương họ mà còn làm tổn thương nhiệm thể Chúa Giêsu Kitô.
Đôi khi chúng ta phải làm ngược lại những gì các nhà lãnh đạo của Giáo hội chúng ta nói. Chúng ta phải hoạt động vì tình yêu và không sợ hãi. Đức Phanxicô không muốn có những con rô-bốt nhỏ. Vatican II cũng không.
Sơ hy vọng gì cho người công giáo L.G.B.T.?
Hy vọng của tôi với người công giáo L.G.B.T. là họ cảm thấy được đón nhận và thoải mái ở bất cứ giáo xứ nào trên thế giới. Rằng họ có thể cảm thấy mình là một phần của Giáo hội giống như mọi người.
Điều quan trọng là chúng ta giữ các Mối Phúc như thế nào. Chúng ta có giúp người nghèo không? Có cho người trần truồng ăn mặc không? Có đi thăm người ở tù không? Có lòng thương xót không? Đó là điều tôi hy vọng trên hết, không phải giới tính, bản sắc giới tính hay xu hướng tình dục của mỗi người.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Bài đọc thêm: Đức Phanxicô viết thư tay ca ngợi 50 năm phục vụ người L.G.B.T của nữ tu Jeannine Gramick
Đức Phanxicô viết thư tay ca ngợi 50 năm phục vụ người L.G.B.T của nữ tu Jeannine Gramick
americamagazine.org, Linh mục Dòng Tên Jim McDermott, 2022-01-07
ĐTC Phanxicô (ảnh CNS) và sơ Jeannine Gramick ngày 30 tháng 5 năm 2000 (ảnh CNS của Nancy Wiechec)
Trong một cử chỉ ủng hộ khác cho người công giáo L.G.B.T. và những người bảo vệ họ, ngày 10 tháng 12, Đức Phanxicô đã viết thư tay gởi sơ Jeannine Gramick, S.L., người đồng sáng lập dịch vụ tông đồ công giáo Những Con đường Mục vụ mới, New Ways Ministry.
Sơ Gramick kỷ niệm 50 năm làm việc và ủng hộ những người L.G.B.T. Mừng ngày kỷ niệm của sơ là lý do ngài viết thư cho sơ. Ngài viết bằng tiếng Tây Ban Nha về “50 năm gần gũi, với lòng trắc ẩn và sự dịu dàng” trong một mục vụ mà ngài mô tả là theo ‘phong cách’ của Chúa.”
Trong một cử chỉ ủng hộ khác cho người công giáo L.G.B.T. và những người bảo vệ họ, ngày 10 tháng 12, Đức Phanxicô đã viết thư tay cho sơ Jeannine Gramick, S.L., người đồng sáng lập dịch vụ tông đồ công giáo Những Con đường Mục vụ mới.
Bức thư Đức Phanxicô gởi sơ Gramick là bức thư mới nhất trong loạt các bức thư ngài viết cho những người công giáo đồng tính và những người phục vụ và bênh vực cho người L.G.B.T.
Trong thư, ngài ca ngợi sơ Gramick, sơ luôn sẵn sàng chịu khổ vì tình yêu. Ngài viết: “Sơ không sợ gần gũi, khi đến gần sơ đã chịu khổ và không lên án bất cứ ai, nhưng với tấm lòng dịu dàng của một người chị, một người mẹ”. Ngài kết thúc bức thư: “Cám ơn sơ Jeannine vì tất cả sự gần gũi, lòng trắc ẩn và tấm lòng dịu dàng của sơ”.
Ngay từ khi bắt đầu làm việc ở tổ chức Những Con đường Mục vụ mới, sơ Gramick và cha Robert Nugent, người đồng sáng lập cơ quan đã vấp phải sự phản đối của thẩm quyền giáo hội về các chương trình mà họ đưa ra trên khắp đất nước, giáo dục người công giáo về khoa học, xã hội học và thần học về đồng tính. Một số giám mục ở Hoa Kỳ đã gây áp lực buộc các bề trên của sơ phải loại sơ ra khỏi mục vụ.
Đức Phanxicô kết thúc bức thư: “Cám ơn sơ Jeannine vì tất cả sự gần gũi, lòng trắc ẩn và tấm lòng dịu dàng của sơ”.
Khi các bề trên từ chối làm, Bộ Giáo lý Đức tin đã mở cuộc điều tra kéo dài 11 năm kết thúc bằng một thông báo, trong đó tuyên bố các bài thuyết trình của sơ Gramick và Cha Nugent về đồng tính không thể hiện chính xác “sự xấu xa nội tại của các hành vi đồng tính và rối loạn khách quan của khuynh hướng đồng tính” và cấm cả hai tham gia vào bất kỳ công việc mục vụ nào liên quan đến người L.G.B.T.
Một năm sau, sơ Gramick kể kinh nghiệm của sơ với Vatican là kinh nghiệm của một phụ nữ bị đánh đập. Trả lời cho những yêu cầu của Vatican xin sơ ngừng nói về cuộc điều tra, sơ trả lời: “Sau khi có được tiếng nói để kể câu chuyện của tôi, tôi quyết định không hợp tác vào chính sự áp bức tôi qua việc hạn chế quyền cơ bản của con người”. Cuối cùng sơ Gramick rời Dòng Nữ tu Đức Bà ban đầu của sơ và vào Dòng Nữ tu Loreto để tiếp tục sứ vụ.
Chỉ vào tháng trước, sau khi Ban Thư ký của Thượng hội đồng Giám mục xóa một liên kết của trang web Những Con đường Mục vụ mới thì tổ chức này mới tiết lộ Đức Phanxicô đã viết cho họ hai bức thư năm nay ca ngợi sứ vụ của họ. Liên kết sau đó đã được khôi phục. Trong các bức thư này, Đức Phanxicô viết cho sơ Gramick, ngài công nhận “sơ đã chịu khổ nhiều như thế nào” và mô tả sơ là “người phụ nữ dũng cảm, đã đưa ra quyết định của mình trong lời cầu nguyện.”
“Sau khi có được tiếng nói để kể câu chuyện của tôi, tôi quyết định không hợp tác vào chính sự áp bức tôi qua việc hạn chế quyền cơ bản của con người”.
Sơ Gramick nói với trang America, nhiều người công giáo sẽ đọc các bức thư này như lời khẳng định của thể chế về công việc của sơ. Sơ lưu ý sẽ gặp nhiều khó khăn hơn với các giám mục và những người công giáo khác, “những người không đánh giá cao công việc của Những Con đường Mục vụ mới, họ đưa ra những nhận xét xúc phạm”.
Đầu tháng này, ông Francis DeBernardo, giám đốc điều hành Những Con đường Mục vụ mới khi nói về giáo hoàng, ông đã tuyên bố: “Chúng tôi nghĩ ngài muốn những người L.G.B.T.Q. nói lên.” Nhưng sơ Gramick chống lại ý kiến cho rằng bức thư này tiêu biểu cho sự “phục hồi” đời sống hoặc sứ vụ của sơ, vì sơ luôn làm việc cho Giáo hội, sơ giải thích: “Tôi luôn cảm thấy như Chúa Thánh Thần đang hướng dẫn tôi.”
Sơ nói về bức thư viết tay này: “Tất nhiên là tôi rất cảm kích. Nhưng lời đến với tôi là lời của Thánh Gioan: ‘Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu’. Đó là cảm giác của tôi, giống như tôi nhận được một bức thư của một người bạn. Tôi nghĩ đó là cách Đức Phanxicô muốn chúng ta sống. Và đó là điều tôi hy vọng chúng ta sẽ trở thành dân của Chúa: một cộng đồng bằng hữu.”
Nguyên văn bức thư
Ngày 10 tháng 12 năm 2021
Sơ Jeannine Gramick, SL
Sơ thân mến,
Tôi xin cám ơn về bức thư của sơ. Tôi rất vui khi nhận tin sơ kỷ niệm 50 năm thành lập tổ chức của sơ.
Bức thư của sơ nhắc cho tôi nhớ “phong cách” của Chúa … Chúa có phong cách riêng để giao tiếp với chúng ta. Và chúng ta có thể tóm tắt phong cách này trong ba chữ: gần gũi, trắc ẩn, dịu dàng.
Và tôi nghĩ đến 50 năm sứ vụ của sơ, 50 năm với “phong cách của Chúa”, 50 năm của gần gũi, của lòng trắc ẩn và của dịu dàng.
Sơ không sợ “gần gũi”, và khi gần gũi, sơ đã làm với tấm lòng trắc ẩn, không lên án ai, nhưng với “tấm lòng dịu dàng” của một người chị, người mẹ.
Tôi xin cám ơn sơ Jeannine về tất cả sự gần gũi, trắc ẩn và dịu dàng của sơ.
Tôi cầu nguyện cho sơ. Và xin sơ đừng quên cầu nguyện cho tôi. Cho tôi gởi lời chào đến Yayo (Obdulio).
Xin Chúa Giêsu chúc lành cho sơ và xin Đức Trinh Nữ Maria che chở sơ.
Thân ái,
Phanxicô
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Bài đọc thêm: Phỏng vấn sơ Jeannine Gramick về việc bị Vatican kiểm duyệt, 50 năm sứ vụ và hy vọng của sơ với người công giáo L.G.B.T
Bức thư bất ngờ từ Đức Phanxicô
fr.aleteia.org, Isabella Habhesiack de Carvalho, 2022-01-08
Các nữ tu Dòng Clara khó nghèo ở Tortosa (Tây Ban Nha) hẳn đã vô cùng ngạc nhiên khi nhận được lá thư do chính Đức Phanxicô viết tay. Theo tin của phương tiện truyền thông Aleluya, Tây Ban Nha, ngày thứ năm 30 tháng 12, Đức Phanxicô đã viết bức thư rất thân tình để cám ơn các nữ tu Dòng Clara đã gởi bánh ngọt cho ngài vào tháng 9 năm ngoái, và đã làm ngài cầm bút lên. Với giọng văn hóm hỉnh, ngài trả lời sau hơn ba tháng nhận quà: “Như các sơ thấy đó, thư này mất nhiều thời gian hơn thư của ông Christopher Columbus gởi cho dì của ông ở St. Dominic.”
Sau đó ngài cám ơn các nữ tu đã cầu nguyện cho ngài, và nói ngài cần thêm nhiều lời cầu nguyện vì “công việc của ngài quay vòng còn hơn trò đu quay. Quỷ nó leo lên người tôi mọi lúc.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Ấn Độ thu hồi việc cấm các nữ tu Thừa sai bác ái nhận ngoại viện
Chính phủ Ấn Độ đã thu hồi việc cấm các nữ tu dòng Thừa sai bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta nhận ngoại viện để giúp đỡ người nghèo tại nước này.
Hãng tin Công giáo Á châu Ucan, truyền đi hôm 08 tháng Giêng năm 2022 vừa qua, đưa tin trên đây và cho biết phát ngôn viên của dòng, bà Sunita Kumar, bày tỏ hài lòng vì quyết định bất ngờ này.
Hôm 27 tháng Mười Hai năm 2021 trước đó, chính phủ Ấn, do đảng Quốc gia Ấn giáo BJP, đã tuyên bố dòng Thừa sai bác ái “không đủ tiêu chuẩn” theo luật, về các tổ chức phi chính phủ mới được ban hành, để được tiếp tục nhận tài trợ từ nước ngoài nhằm thi hành các hoạt động bác ái tại Ấn trên toàn quốc, với những nhà giúp người nghèo và những người vô gia cư, các trung tâm khuyết tật và các viện cô nhi...
Báo “The Hindu”, Người Ấn giáo, cho biết trong tài khóa 2020-2021, đã có 750 triệu Mỹ kim, tương đương 662 triệu Euro từ nước ngoài được gửi tới hỗ trợ hoạt động bác ái của các nữ tu dòng Thừa sai bác ái. Do lệnh cấm này, một số hoạt động của các nữ tu đã bị giảm bớt. Các quan sát viên cho rằng việc cấm đoán này nằm trong chính sách của Đảng quốc gia Ấn giáo xách nhiễu các tôn giáo thiểu số, đặc biệt là Kitô giáo.
Mẹ Têrêsa Calcutta là người gốc Albani, sinh tại nơi nay là miền bắc của nước Bắc Macedonia và đến phục vụ tại Ấn Độ từ năm 1949. Năm 1979, Mẹ được tặng giải Nobel Hòa Bình vì các hoạt động này. Mẹ Têrêsa qua đời hồi đầu tháng Chín năm 1997, thọ 87 tuổi và được Đức Thánh cha Phanxicô phong hiển thánh ngày 04 tháng Chín năm 2016.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Gần 100.000 trẻ em Peru mồ côi vì cha mẹ chết do Covid-19
Covid-19 đã tạo nên gần 100.000 trẻ mồ côi tại Peru, quốc gia có tỷ lệ tử vong cao nhất thế giới vì đại dịch hiện nay.
Peru đứng đầu thế giới: cứ một triệu dân cư thì có 6.000 người chết vì Covid-19. Quốc gia này có 33 triệu dân và đang bước vào đợt dịch thứ ba làm cho hai triệu người bị lây nhiễm. Kể từ đầu đại dịch đến nay đã có gần 210.000 người chết. Ông Anahi Durand, với con số trên đây đăng trên tạp chí y khoa The Lancet của Anh quốc, nói rằng: “Rất tiếc đất nước chúng tôi có hơn 98.000 trẻ em bị mất cha, mất mẹ hoặc người bảo trợ trong đại dịch hiện nay”.
Chính phủ Peru đã đặt mua 55 triệu liều vắcxin chống Covid-19 trong năm nay (2022) để chích mũi thứ tư cho các nhân viên y tế và những người dễ bị tổn thương. Bộ trưởng y tế Peru, ông Hernando Cevallos nói rằng “Chúng tôi đã thỏa thuận với nhiều công ty dược phẩm để mua số lượng vắcxin vừa nói. Điều này có thể giúp chúng tôi chích mũi thứ tư cho những người dễ bị tổn thương nhất và các nhân viên y tế. Mũi thứ tư được chích ba tháng sau mũi thứ ba, nhưng cũng tùy thuộc diễn biến của đại dịch ở Peru”.
Ông Bộ trưởng cho biết đã mua vắcxin Pfizer và đầu tháng Giêng này bắt đầu chích cho các trẻ em từ 5 đến 11 tuổi.
Lẽ ra, Giáo hội tại Peru là nơi cử hành Ngày Quốc tế giới trẻ lần thứ 30, vào ngày 11 tháng Hai tới đây, ở thành phố Arequipa nhưng biến cố này bị hủy bỏ vì đại dịch. Chính Đức Thánh cha đã thông báo việc hủy bỏ này, trong Sứ điệp Ngày Thế giới bệnh nhân sắp tới và buổi lễ sẽ được cử hành tại Đền thờ thánh Phêrô ở Roma.
Trong tháng vừa qua, số người bị lây nhiễm Covid-19 tăng quá gấp đôi, với hơn 1.500 ca mỗi ngày, trong khi số người chết tăng lên hơn 50 người mỗi ngày. Chính quyền Peru đã cấm các buổi hội họp gia đình và các buổi lễ Giáng sinh và đầu năm Dương lịch. Lệnh giới nghiêm mỗi ngày, từ 11 giờ đêm đến 4 giờ sáng. Với các biện pháp này, Peru hy vọng giảm bớt mức độ lan lây biến thể Omicron. Ngoài ra chính phủ gia hạn tình trạng khẩn trương cho đến 31 tháng Giêng này.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha rửa tội cho mười sáu em bé
Lúc 9 giờ 30 sáng Chúa nhật 09 tháng Giêng năm 2022, Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, Đức Thánh cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ và ban phép rửa tội cho mười sáu hài nhi, phần lớn là con của các nhân viên làm việc tại Vatican.
Đây là thói quen của các vị Giáo hoàng từ bốn mươi năm nay (1981). Năm ngoái, vì đại dịch nên Đức Thánh cha Phanxicô không ban phép rửa tội, nhưng năm trước đó 2020, ngài đã rửa tội cho một nhóm ba mươi hai hài nhi, gồm mười bảy nam và mười hai nữ.
Buổi lễ diễn ra tại Nhà nguyện Sistina trong dinh Tông Tòa, nơi có những bích họa nổi tiếng của Michele Angelo và cũng là nơi diễn ra mật nghị bầu Giáo hoàng.
Phụ giúp Đức Thánh cha trong việc ban bí tích cho các em, còn có Đức Hồng y Konrad Krajewski, người Ba Lan, Chánh sở từ thiện của Đức Thánh cha và một giám mục.
Trong bài giảng ngắn ứng khẩu, Đức Thánh cha nhắn của các cha me cùng với những người đỡ đầu hãy duy trì căn tính Kitô của con cái. Đó là một công việc hằng ngày, giúp con cái tăng trưởng trong ánh sáng các em đã nhận lãnh.
Thánh lễ dài 1 tiếng rưỡi đồng hồ và kết thúc lúc 11 giờ.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu