Tin nổi bật
Đức tân Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn trả lời phỏng vấn America Magazine: “Hãy mạnh dạn lên đường đến với người nghèo”
“Hãy mạnh dạn lên đường đến với người nghèo”
WHĐ (17.02.2015) –Ngay sau khi Toà thánh công bố danh tính 20 vị hồng y do Đức Thánh Cha Phanxicô tuyển chọn, tuần báo America Magazine của Hoa Kỳ đã liên hệ với trang tin điện tử của Hội đồng Giám mục Việt Nam (WHĐ) để xin phỏng vấn Đức tân Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn. Đức hồng y Tổng giám mục Hà Nội đã nhận trả lời America Magazine với nội dung sau đây*.
Toàn văn bài viết của America Magazine được công bố tại http://americamagazine.org/content/dispatches/take-courage-and-go-out-poor-archbishop-peter-nguyen-van-nhon-hanoi-vietnam
***
Theo Đức Tổng giám mục Hà Nội Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, châu Á “thích hợp hơn với cách nói về cuộc đời Đức Giêsu như chính Ngài đã rao giảng bằng dụ ngôn hai nghìn năm về trước. Một cách thế của phương Đông chứ không phải theo phong cách duy lý trí”.
Ở tuổi 76, Đức hồng y đã dành cả một đời xây dựng những chiếc cầu nối giữa Kitô giáo và đất nước Việt Nam, nỗ lực phát ngôn bằng con đường dẫn đến đối thoại và hiệp thông. Với xã hội Việt Nam, Công giáo đã từng bị cho là mơ hồ; vào thế kỷ thứ 19 thì được cho là tôn giáo của người Pháp - là những kẻ chiếm đóng đất nước. Vào cuối thế kỷ 20, đã có lúc chính quyền cộng sản cho rằng đây là mối đe dọa ngoại bang. Toà thánh không có một tiếng nói chính thức, cụ thể như việc tấn phong giám mục của Đức hồng y vào năm 1991, nhưng phải được sự chuẩn thuận của chính quyền. Nhiều linh mục và giáo dân bị cầm tù với những tội danh hoạt động chống chính quyền.
Những năm gần đây, Việt Nam đã cho phép nhiều tự do tôn giáo hơn trong một đất nước có 6 triệu người Công giáo, nhiều mâu thuẫn đã xảy ra, cụ thể là đối với những lời hứa trao trả tài sản đã tịch thu như nhà dòng và nhà thờ. Năm 2007, nhiều giáo dân và lãnh đạo Giáo hội đã phản kháng. Tuy nhiên theo Đức hồng y thì “những cuộc đấu và va chạm ấy chẳng mang lại ích lợi cho ai”.
Thừa nhận lo lắng của nhà cầm quyền, Đức hồng y đã trình bày với chính quyền rằng việc đòi lại tài sản của Giáo hội “không nhằm vào tư lợi, tích trữ hay làm giàu nhưng muốn bảo đảm rằng chúng mưu ích cho mọi người”. Quan điểm này không phải bao giờ cũng vừa lòng các tín hữu, nhất là đối với những quan ngại cho việc bổ nhiệm Tổng giám mục Hà Nội vào năm 2010.
Thế nhưng mối quan tâm của Đức hồng y đã đem lại những hoa trái: kể từ năm 1990, Toà thánh đã cử đặc sứ đến Việt Nam, mong muốn bình thường hóa quan hệ. Năm 2011, lần đầu tiên Việt Nam đã chấp thuận vị Đại diện Toà thánh không thường trú. Phát biểu sau Công nghị hồng y vào ngày thứ Bảy, Đức hồng y cho biết cuộc đối thoại “đòi hỏi kiên nhẫn và chân thành” và “tôi đã thấy những nỗ lực từ Toà thánh lẫn Chính phủ”; tuy nhiên cho dù “hướng đi có vẻ lạc quan nhưng lộ trình còn dài và chúng tôi cần thời gian”.
– Ngài cảm nhận thế nào khi được chọn làm hồng y? Gia đình của ngài đã phản ứng như thế nào?
– Tôi thật sự ngỡ ngàng khi được biết mình có tên trong danh sách những vị tân Hồng y của Giáo hội Công giáo. Lý do là tôi đã đến tuổi nghỉ hưu và đang chờ đợi sự chấp thuận của Toà thánh cho tôi nghỉ hưu. Tuy nhiên, vì là người con của Giáo hội, nên tôi đón nhận tất cả mọi biến cố trong tinh thần Giáo hội. Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, đối với Đức giáo hoàng Phanxicô. Tôi xem tước vị Hồng y là một vinh dự; và theo tinh thần Giáo hội, vinh dự là để phục vụ anh em mình hữu hiệu hơn. Với ơn Thiên Chúa và trong khả năng của tôi, tôi sẽ tiếp tục yêu thương và phục vụ Giáo hội và Quê hương tôi theo trách nhiệm mà tôi được trao phó. Tôi được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống Công giáo từ lâu đời. Cha mẹ tôi có 6 người con, 3 trai và 3 gái mà 3 người đã được dâng cho Chúa. Những người trong gia đình tôi cũng như các bạn hữu của tôi hiệp ý tạ ơn Thiên Chúa, tri ân Đức giáo hoàng Phanxicô và Giáo hội; chúc mừng tôi và khích lệ tôi tiếp tục yêu thương và phục vụ Giáo hội và Quê hương theo trách nhiệm của mình.
– Ngài hy vọng điều gì cho giáo hội hôm nay?
– Giáo hội do Chúa Kitô thiết lập trên nền tảng các Tông đồ và các Đấng kế vị Tông đồ, có Chúa Thánh Thần hướng dẫn, cùng với lời hứa của Chúa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20), nên tôi vững tin vào Giáo hội và đặt niềm phó thác cho Giáo hội. Có thể nói: “Đời sống của tôi là thuộc về Giáo hội và cho Giáo hội”. Tôi hy vọng Giáo hội chiếu toả khuôn mặt hiền lành, nhân từ, giàu lòng thương xót của Thiên Chúa bằng sứ mạng yêu thương và phục vụ của mình.
– Đâu là thông điệp mà ngài cảm nhận giáo hội cần gửi đến thế giới hôm nay?
– Tin mừng bình an đầy niềm vui và hy vọng là sứ điệp mà thế giới ngày hôm nay đang cần. Tôi tin tưởng Giáo hội của Chúa có thể loan báo và làm chứng về Tin mừng bình an cho nhân loại.
– Đâu là những vấn đề căng thẳng đang đối diện với địa phương và giáo phận của Đức hồng y?
– Quê hương Dân tộc của chúng tôi trải qua chiến tranh lâu dài và gánh chịu hậu quả của chiến tranh về nhiều phương diện. Tôi cầu nguyện cho Quê hương Dân tộc chúng tôi vượt qua những khó khăn thử thách để được phát triển tốt đẹp, đem lại niềm hạnh phúc và ổn định cho mọi người.
– Điều gì đã giúp Đức hồng y học biết về Chúa và Hội thánh?
– Trong số gần 90 triệu 5 trăm ngàn người của Cộng đồng Dân tộc Việt Nam, người Công giáo chúng tôi mới khoảng 7 triệu người, chiếm 7,5%. Như vậy, chúng tôi thực sự là thiểu số. Giáo hội có 3 giáo tỉnh và 26 giáo phận, 43 giám mục, trong đó có 13 vị đã nghỉ hưu. Hiện chúng tôi có 8 Đại chủng viện và nhiều cơ sở đào tạo ơn gọi chuẩn bị chủng sinh cho các Đại chủng viện; con số các Dòng tu, Tu đoàn Tông đồ và Tu hội đời khoảng gần 200. Về đời sống bình thường, chúng tôi chia sẻ hoàn toàn các sinh hoạt và vận mệnh của Dân tộc chúng tôi. Người Công giáo ở giáo tỉnh Hà Nội cũng như ở giáo tỉnh Huế, ở giáo tỉnh Saigon... chúng tôi vẫn sinh hoạt tôn giáo bình thường. Tôi có thể nói: Giáo hội Việt Nam hiệp nhất với nhau, sống động và hiệp thông với Giáo hội toàn cầu, với Toà thánh Vatican, với Đức giáo hoàng Phanxicô.
– Đâu là dung mạo của Chúa từ Kinh Thánh và lịch sử Hội thánh vốn nâng đỡ và thúc đẩy Đức hồng y?
– Giáo hội Việt Nam được sinh ra và lớn lên nhờ các Thừa sai và các Chứng nhân đức tin. Tin mừng của Chúa đã được loan báo cho Tổ tiên Việt Nam chúng tôi từ trên 400 năm rồi. Cuộc đời nghèo khổ và công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu mà đỉnh cao là cuộc tử nạn trên thập giá để làm chứng rằng: “Không ai có tình yêu cao cả hơn người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13); đồng thời gương sống thánh thiện của hơn 130.000 chứng nhân đức tin của Tổ tiên Việt Nam chúng tôi luôn là nguồn trợ lực và nâng đỡ chúng tôi trong cuộc lữ hành đức tin. Do đó, lời mời gọi của Đức giáo hoàng Phanxicô chạm tới thâm sâu của chúng tôi. Chúng tôi luôn nhắc nhở nhau mạnh dạn lên đường đến với người nghèo, người bị thiệt thòi, các dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa; chúng tôi cũng ý thức phải đi ra khỏi chính mình để đem niềm vui Tin mừng đến số đông đồng bào của chúng tôi. Bằng cuộc sống xác tín vào sức mạnh của Tin mừng, chúng tôi nỗ lực sống “đạo tình thương” để hương thơm tốt lành của Tin mừng tình yêu của Chúa có thể lan toả đến anh chị em đồng bào Việt Nam yêu quý của chúng tôi.
– Cuối cùng: Đức hồng y hy vọng gì nơi Thượng hội đồng giám mục trong tháng Mười sắp tới?
– “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để phàm ai tin vào Con của Người thì không phải diệt vong, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3,16). Theo gương của Chúa Giêsu, giáo huấn của Giáo hội, cụ thể trong Thông điệp “Đấng Cứu chuộc con người” (Redemptor Hominis) của Đức Thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II cho chúng ta thấy mọi suy nghĩ, quyết định của Giáo hội luôn nhắm đến sự sống và hạnh phúc của con người; vì “con người là con đường của Giáo hội”, bởi lẽ “tất cả mọi con đường của Giáo hội đều dẫn đến con người” (Redemptor Hominis, 14). Như vậy, tôi tin là Thượng Hội đồng Giám mục thế giới vào tháng 10 tới đây sẽ đem đến niềm vui, bình an và hạnh phúc cho Giáo hội, cách riêng cho các gia đình. ■
–––––––––––––––––––––––––––––––
* Đức hồng y trả lời bằng tiếng Việt;
Bài viết của America Magazine do Linh Vũ chuyển ngữ
America Magazine
Nguồn: Hdgmvn.org
Công nghị phong 20 Hồng Y và xác định lễ phong 4 hiển thánh
VATICAN. Sáng ngày 14-2-2015, ĐTC Phanxicô đã chủ sự công nghị tấn phong 20 Hồng Y mới, trong đó có ĐHY Nguyễn Văn Nhơn, đồng thời xác định sẽ tôn phong 4 thánh nữ vào ngày 17-5-2015.
Đây là công nghị lần thứ 2 ĐTC Phanxicô chủ sự tại Đền thờ Thánh Phêrô để tấn phong Hồng y Lần đầu tiên ngày 22-2 năm 2014 để phong 19 Hồng Y và lần này 20 vị thuộc 18 quốc tịch.
Giống như năm ngoái, hiện diện tại buổi lễ cũng có Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16, đáp lời mời của ĐTC Phanxicô. Ngài ngồi cạnh các Hồng Y đẳng Giám Mục và Thượng Phụ. Tiếp đến có 145 Hồng y, khoảng 100 giám mục và 8 ngàn tín hữu, trong đó có thân nhân, bạn hữu và giáo hữu của các tiến chức Hồng Y. Đặc biệt đến từ Việt Nam có Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc của Giáo phận Sàigòn, Chủ tịch HĐGM Việt Nam, Đức Cha Vũ Huy Chương GM giáo phận Đàlạt, Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân, GM Cao Bằng Lạng Sơn, Đức Cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp, GM Vinh. Ngoài ra có các cha quản hạt giáo phận Hà Nội, thân nhân, cộng tác viên và giáo hữu của Đức Tân Hồng Y Việt Nam, tổng cộng khoảng 60 người, không kể đông đảo LM, tu sĩ và chủng sinh Việt Nam ở Roma.
Có một tiến chức Hồng Y xin kiếu không đến dự công nghị được vì tuổi cao sức yếu, đó là ĐHY José de Jesus Pimiento Rodriguez, 96 tuổi, nên đã xin nhận Mũ Đỏ tại gia.
19 tiến chức Hồng y ngồi hai bên bàn thờ chính, trong khi các Hồng y và các GM ngồi phía trước bàn thờ. Trong số các tân Hồng Y có 15 vị dưới 80 tuổi và đến từ 14 quốc gia, gồm 5 vị người Âu, 3 vị Á châu, 3 vị Mỹ la tinh, 2 từ Phi châu và 2 vị từ Úc châu. 2 tiến chức Hồng Y Phi châu đến từ Etiopia và Capo Verde, hai vị người Úc đến từ New Zealand và quần đảo Tonga, 3 vị Á châu là người Việt Nam, Thái Lan và Myanmar, 3 vị Mỹ châu la tinh đến từ Mêhicô, Urugay và Panamá.
Ngoài ra, trong số các tân Hồng Y có 4 vị thuộc các dòng tu, gồm 2 vị Don Bosco, 1 vị dòng thánh Vinh Sơn Phaolô và một vị dòng thánh Augustino nhặt phép. Toàn Hồng y đoàn có 13 HY cử tri thuộc các dòng tu, trong đó đông nhất là 4 vị thuộc dòng Don Bosco.
Vị Hồng y duy nhất được ĐTC bổ nhiệm cho giáo triều Roma lần này là ĐHY Dominique Mamberti, sinh tại Maroc cách đây 63 năm, nhưng nguyên quán tại đảo Corse bên Pháp. Năm 2006 sau 4 năm làm Sứ thần Tòa Thánh tại Sudan, ngài được ĐTC Biển Đức 16 bổ nhiệm làm ngoại trưởng Tòa Thánh. Hồi tháng 11-2014 ĐTC Phanxicô chọn ngài làm Chủ tịch Tối cao Pháp Viện của Tòa Thánh.
Riêng Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, ngài đứng thứ 6 trong danh sách các vị được tấn phong lần này. Năm nay ngài 77 tuổi (1-4-1938), thụ phong linh mục ngày 21-12-1967 thuộc lớp đầu tiên của Giáo Hoàng Chủng viện thánh Piô 10 Đà Lạt và 24 năm sau, được bổ nhiệm làm GM Phó Đà Lạt ngày 11-10-1991, và trở thành GM chính tòa 3 năm sau đó (23-3-1994). Cách đây 5 năm (22-4-2010) ngài được bổ làm TGM Phó Tổng giáo phận Hà Nội, và chỉ 11 ngày sau đó, 13-5-2010, ngài trở thành TGM chính tòa Hà Nội, kế nhiệm Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt.
Cũng như hầu hết các Hồng Y khác trong đợt ngày, Đức TGM Nguyễn Văn Nhơn không hề được Tòa Thánh báo trước việc chọn ngài làm Hồng Y, và ngài chỉ được Đức TGM Girelli, Đại Diện Tòa Thánh không thường trú ở Việt Nam, chính thức báo tin việc bổ nhiệm này 1 giờ sau khi ĐTC công bố danh tánh các tiến chức Hồng Y trong buổi đọc kinh Tuyền Tin trưa chúa nhật 4-1 vừa qua tại Vatican.
Lễ phong Hồng Y được cử hành dưới hình thức một buổi phụng vụ lời Chúa. Khi tiến lên bàn thờ chính, ĐTC đã đến chào Đức nguyên Giáo Hoàng rồi tiến tới trước Mộ Thánh Phêrô cúi mình, thinh lặng cầu nguyện.
Sau lời chào phụng vụ của ĐTC, ĐHY Dominique Mamberti, vị đứng đầu danh sách các tiến chức đã đại diện mọi người chào mừng và cám ơn ĐTC, đồng thời cũng chào thăm vị Tiền Nhiệm của ngài đang hiện diện.
Tiếp đến, sau lời nguyện của ĐTC, cộng đoàn đã nghe đọc đoạn thư thứ nhất của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Corinto, đoạn thứ 12 và 13 (12,31-13,13), đề cao vai trò của đức bác ái: dù thông thạo mọi sự, dù làm những công trình to lớn hay bao công việc khác, nếu không có bác ái thì cũng vô ích...
Trong bài huấn dụ, ĐTC đã quảng diễn bài Thánh Thư vừa đọc và đề cao tầm quan trọng của đức bác ái trong đời sống các vị được giao phó trọng trách trong Giáo Hội.
Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha
Anh em Hồng Y thân mến,
Tước Hồng Y chắc chắn là một địa vị nhưng không phải là địa vị vinh dự. Nguyên danh từ Cardinale đã cho thấy điều đó, từ này gợi lại từ ”cardine”, bản lề; vì thế đây không phải là một cái gì phụ thuộc, trang trí, làm cho người ta nghĩ đến một huy chương danh dự, nhưng là một bản lề, một điểm tựa và sự chuyển động thiết yếu đối với đời sống của cộng đoàn. Anh em là ”những bản lề” và được tháp nhập vào Giáo phận Roma, là giáo phận chủ trì cộng đoàn hiệp thông bác ái hoàn vũ” (LG 13, Xc Ignatio Ant., Ad Rom. Prologo).
Trong Giáo Hội mỗi chức vị chủ tịch đều xuất phát từ đức bác ái, phải được thực thi trong tình bác ái và có mục đích là bác ái. Cả trong lãnh vực này, Giáo Hội ở Roma thi hành một vai trò gương mẫu: về cách thức chủ trì trong tình bác ái, để mỗi Giáo Hội địa phương được kêu gọi chủ trì trong tình bác ái nơi khuôn khổ của mình.
Vì thế, tôi nghĩ rằng ”bài ca đức ái” trong thư thứ I của Thánh Phaolô Tông đồ gửi các tín hữu thành Corinto là lời hướng dẫn buổi cử hành này và sứ vụ của anh em, đặc biệt đối với những người trong anh em hôm nay gia nhập Hồng y đoàn. Và để cho chúng ta được hướng dẫn như thế thật là tốt, bắt đầu từ tôi và anh em cùng tôi. Chúng ta được hướng dẫn bằng những lời linh hứng của thánh Phaolô Tông Đồ, đặc biệt khi thánh nhân liệt kê những đặc tính của đức bác ái. Ước gì Mẹ Maria giúp chúng ta trong sự lắng nghe này. Mẹ đã trao tặng cho thế giới Đấng là ”Con đường tuyệt hảo nhất” (Xc 1 Cr 12,31) là Chúa Giêsu, là Đức Bác Ái nhập thể; ước gì Mẹ giúp chúng ta đón nhận Lời này và luôn tiến bước trên Con đường là Chúa Giêsu. Xin Mẹ giúp chúng ta với thái độ khiêm tốn và dịu dàng của Mẹ, vì đức bác ái, hồng ân của Thiên Chúa, tăng trưởng tại nơi nào có khiêm tốn và dịu dàng.
Nhất là thánh Phaolô nói với chúng ta rằng đức bác ái thì ”đại đảm” và ”từ nhân”. Hễ trách nhiệm càng rộng lớn trong việc phục vụ Giáo Hội, thì con tim càng phải mở rộng, nở lớn theo mức độ của con tim Chúa Kitô. Đại đảm, theo một nghĩa nào đó, cũng đồng nghĩa với đặc tính công giáo: nghĩa là biết yêu thương vô biên, nhưng đồng thời trung thành với những hoàn cảnh đặc thù và với những cử chỉ cụ thể. Yêu thương những gì là cao cả nhưng không lơ là những gì là bé nhỏ; yêu những điều bé nhỏ trong chân trời của những điều lớn, bởi lẽ ”không nản chí vì những công trình vĩ đại, nhưng dấn thân vào những việc bé nhỏ nhất, đó thực là điều thần linh” (Non coerceri a maximo, contineri tamen a minimo divinum est). Biết yêu thương bằng những cử chỉ từ nhân. Từ nhân là ý hướng cương quyết và bền bỉ, luôn luôn muốn điều thiện và cho tất cả mọi người, kể cả những người không thích chúng ta.
Rồi Thánh Tông Đồ nói rằng, đức bác ái ”không ghen tương, không háo danh, không tự kiêu tự đại”. Đây thực là một phép lạ của đức bác ái, vì con người chúng ta, tất cả mọi người, ở mọi lứa tuổi trong cuộc sống, chúng ta có xu hướng ghen tương và kiêu ngạo do bản tính của chúng ta đã bị thương tổn vì tội lỗi. Và cả những địa vị trong Giáo Hội cũng không được miễn nhiễm khỏi cám dỗ này. Nhưng chính vì thế, anh em thân mến, sức mạnh thần linh của đức bác ái có thể càng nổi bật trong chúng ta, sức mạnh biến đổi con tim, đến độ không còn là bạn sống, nhưng là Chúa Kitô sống trong bạn. Và Chúa Giêsu là tất cả tình yêu.
Ngoài ra, đức bác ái ”không thiếu sự tôn trọng, không tìm tư lợi”. Hai đặc điểm này cho thấy ai sống trong đức bác ái thì không qui hướng vào mình. Ai tự qui hướng vào mình thì chắc chắn là điều tôn trọng và thường họ không nhận thấy điều đó, vì ”tôn trọng” chính là khả năng để ý đến người khác, đến phẩm giá, hoàn cảnh và những nhu cầu của họ. Ai tự tập trung vào mình thì chắc chắn sẽ tìm tư lợi, và dường như họ thấy đó là điều bình thường, hầu như là điều bắt buộc. ”Lợi lộc” ấy cũng có thể được bọc bằng những bộ áo cao thượng, nhưng bên dưới đó vẫn luôn luôn là tư lợi. Trái lại đức bác ái làm cho bạn không tự tập trung vào mình và đặt bạn ở nơi trung tâm đích thực là một mình Chúa Kitô. Và như thế, bạn có thể là một người tôn trọng và quan tâm đến thiện ích của tha nhân.
Thánh Phaolô nói: ”Đức bác ái không thịnh nộ, không để ý đến điều ác phải chịu”. Đối với người mục tử sống tiếp xúc với dân chúng, không thiếu những dịp để nổi giận. Và chúng ta càng có nguy cơ nổi giận trong những quan hệ với các anh em của mình, vì trong thực tế chúng ta ít có lý do để chữa mình. Cả trong trường hợp này, đức bác ái, và chỉ có đức bác ái mới giải thoát chúng ta. Giải thoát chúng ta khỏi nguy cơ phản ứng theo sự thúc đẩy của bản năng, nói và làm những điều sai lầm, và nhất là đức bác ái giải thoát chúng ta khỏi nguy cơ tử vong của sự giận dữ bị dồn nén, ”bị âm ỉ” bên trong, khiến bạn để ý đến những điều ác mà bạn phải chịu. Không, điều này không thể chấp nhận được nơi con người của Giáo Hội. Người ta có thể tha thứ sự nổi giận nhất thời rồi nguội đi ngay, nhưng đối với sự oán hận thì không. Xin Chúa giúp chúng ta tránh thoát và giải phóng chúng ta khỏi những điều ấy.
Thánh Phaolô nói thêm rằng đức bác ái ”không vui mừng vì điều bất công nhưng vui mừng vì chân lý”. Ai được kêu gọi thi hành công tác phục vụ là cai quản trong Giáo Hội thì phải có một ý thức mạnh mẽ về công lý, đến độ thấy rằng không thể chấp nhận bất kỳ điều bất công nào, cả điều bất công có lợi cho bản thân hoặc cho Giáo Hội. Và đồng thời, ”vui mừng vì chân lý”: thật là một thành ngữ đẹp dường nào! Người của Thiên Chúa là người được chân lý thu hút và tìm thấy chân lý trọn vẹn trong Lời và trong Thân Mình của Chúa Giêsu Kitô. Chúa là nguồn mạch niềm vui vô tận cho chúng ta. Ước gì Dân Chúa luôn có thể tìm thấy nơi chúng ta sự quyết liệt tố giác bất công và vui mừng phục vụ chân lý.
Sau cùng, đức bác ái ”tha thứ tất cả, tin tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”. Ở đây trong 4 lời này có chứa đựng một chương trình đời sống thiêng liêng và mục vụ. Tình yêu được Chúa Thánh Linh đổ vào tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta sống và trở thành thế này: thành người có khả năng luôn luôn tha thứ; luôn luôn tin tưởng, vì đầy tràn niềm tin nơi Thiên Chúa; có khả năng luôn luôn mang lại hy vọng vì tràn đầy hy vọng nơi Thiên Chúa; trở thành những người biết kiên nhẫn chịu đựng mọi tình trạng, mọi người anh chị em, trong niềm kết hiệp với Chúa Giêsu, Đấng đã yêu thương chịu đựng gánh nặng của tất cả tội lỗi chúng ta”.
Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh em thân mến, tất cả những điều ấy không đến từ chúng ta, nhưng từ Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình thương và Ngài thi hành mọi điều ấy, nếu chúng ta ngoan ngoãn đối với tác động của Thánh Linh của Ngài. Vì vậy chúng ta phải trở thành ”người được tháp nhập và ngoan ngoãn”. Hễ chúng ta càng được tháp nhập vào Giáo Hội ở Roma, thì chúng ta càng phải trở nên ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh, để đức bác ái có thể mang lại hình thái và ý nghĩa cho tất cả những gì chúng ta sống và làm. Được nhập tịch vào Giáo Hội chủ trì trong đức bác ái, ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh là Đấng đổ tràn tâm hồn chúng ta tình yêu của Thiên Chúa (Xc Rm 5,5). Amen
Nghi thức phong Hồng Y
Sau bài huấn dụ, ĐTC bắt đầu nghi thức tấn phong Hồng y mới. Ngài nói:
”Anh chị em rất thân mến, chúng tôi sắp thi hành một hành vi trọng đại và vui mừng trong thánh vụ của chúng tôi. Hành vi này có liên hệ trước tiên tới Giáo Hội tại Roma, nhưng cũng liên quan tới toàn thể cộng đồng Giáo Hội. Chúng tôi sắp gọi một số người anh em gia nhập Hồng Y đoàn, để các vị được hiệp nhất với Tòa thánh Phêrô bằng một mối dây bền chặt hơn, trở nên thành phần của hàng giáo sĩ Roma, và cộng tác mật thiết hơn với sứ vụ tông đồ của chúng tôi.”
”Mang mặc phẩm phục màu đỏ, các vị Hồng Y phải là những chứng nhân can trường của Chúa Kitô và Phúc âm của ngài tại thành Roma cũng như tại những nơi xa xăm nhất. Vì vậy với quyền của Thiên Chúa toàn năng của các thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và quyền của chúng tôi, chúng tôi tấn phong và long trọng tuyên bố các anh em chúng tôi sau đây là Hồng Y của Hội Thánh Roma.”
Đến đây, ĐTC lần lượt xướng tên 20 hồng y mới, cộng đoàn nhiệt liệt vỗ tay chào mừng khi tên mỗi vị được nhắc đến. ĐTC ấn định 3 vị tân Hồng y thuộc đẳng phó tế, 17 vị còn lại là các Hồng y thuộc đẳng Linh Mục, hầu hết là những vị đang coi sóc các giáo phận ở các nơi.
Nhà thờ hiệu tòa được ĐTC chỉ định cho ĐHY Phêrô Nguyễn Văn Nhơn là nhà thờ giáo xứ thánh Tômaso Tông Đồ ở khu ngoại ô phía Đông Nam Roma cách trung tâm chừng 30 cây số. Giáo xứ này được thành lập cách đây 51 năm, thánh đường mới của giáo xứ được khánh thành cách đây 2 năm và hồi năm ngoái đã được ĐTC Phanxicô viếng thăm. Trong những năm gần đây dân số giáo xứ gia tăng mạnh gồm hơn 6 ngàn gia đình với trên 20 ngàn dân. Phần lớn dân cư tại đây thuộc giai cấp trung lưu và thượng trung lưu.
Tiếp tục nghi thức, theo lời mời gọi của ĐTC, các tiến chức Hồng Y tuyên xưng đức tin và tuyên thệ trung thành với Chúa Kitô và Tin Mừng của Chúa, luôn luôn tuân phục Tòa Thánh và Thánh Phêrô nơi bản thân ĐTC Phanxicô và các đấng kế vị ngài được bầu lên hợp pháp; luôn bảo tồn bằng lời nói và hành động tình hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo; không bao giờ tiết lộ cho người nào những gì đã được ủy thác để gìn giữ, mà sự tiết lộ điều ấy có thể gây hại hoặc làm ô danh Hội Thánh; hết sức chuyên cần và trung tín thi hành các công tác được kêu gọi thi hành trong việc phục vụ Giáo Hội, theo các quy tắc luật định.
Kế đến, từng Hồng Y lần lượt tiến lên quì trước mặt ĐTC để ngài đội mũ đỏ Hồng Y, với lời nhắn nhủ:
”Để ngợi khen Thiên Chúa Toàn Năng và mang lại vinh dự cho Tòa Thánh, ĐHY hãy nhận mũ đỏ này như dấu chỉ phẩm vị Hồng Y, có nghĩa là ĐHY phải sẵn sàng cư xử can đảm, cho đến độ đổ máu đào, để làm tăng trưởng Đức Tin Kitô giáo, cho hòa bình và yên hàn của Dân Chúa, cho tự do và sự mở rộng Giáo Hội Roma Thánh”.
Và khi trao nhẫn, ngài nói:
”Đức Hồng Y hãy nhận chiếc nhẫn từ tay của Phêrô, và Đức Hồng Y hãy biết rằng nhờ yêu mến vị Thủ lãnh các thánh tông đồ mà lòng yêu mến Giáo hội của ĐHY được kiện cường”.
Sau cùng ĐTC trao sắc chỉ về việc phong Hồng Y cũng như việc chỉ định tước hiệu thánh đường của tân chức.
Sau khi lãnh mũ và sắc phong các Tân Hồng Y trao đổi cử chỉ bình an với ĐTC các vị đến chào các Hồng Y cũ rồi lên ngồi trên 19 chiếc ghế dành cho các vị phía tay trái của ĐTC, đối diện với hàng ghế của các Hồng Y cũ.
Nghi thức tấn phong các Hồng y mới kết thúc với Kinh Lạy Cha và lời nguyện của ĐTC xin cho các tôi tớ Chúa là các tân Hồng Y khi kiên trì xây dựng Giáo Hội, chiếu tỏa rạng ngời với đức tin toàn vẹn và tâm trí tinh tuyền.
Công nghị phong thánh
Phần thứ 2 của Công nghị là việc phong hiển thánh cho 3 nữ chân phước: 1 vị người Pháp và 2 vị người Palestine:
Mở đầu, ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, nhân danh Giáo Hội cùng với các Hồng Y và GM tụ họp nơi đây xin ĐTC ghi tên 3 vị chân phước vào sổ bộ các thánh trong tương lai gần đây, đó là Jeanne Emilie de Villeneuve, Maria Chúa Giêsu chịu đóng đanh Baouardy và Maria Alfonsa Danil Ghattas.
Rồi ĐHY tóm lược tiểu sử của 3 vị nữ chân phước:
- Đứng đầu là chân phước Jeanne Emilie de Villeneuve, sáng lập dòng các nữ tu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ở thành phố Castres, miền nam Pháp, sinh năm 1811 và qua đời năm 1854 lúc 43 tuổi đời. Năm 1836, khi được 25 tuổi, chị thành lập một cộng đoàn nữ tu với danh hiệu ”Các nữ tu xanh ở Castres”: giữa thời cách mạng công nghệ, chị và hai người bạn đồng chí hướng chăm sóc các phụ nữ nghèo khổ, các nữ công nhân, bệnh nhân và phụ nữ mại dâm, trong một căn nhà ở Castres. Dòng này hiện có hơn 600 nữ tu thuộc 120 cộng đoàn, hoạt động trong lãnh vực giáo dục, y tế, và xã hội tại nhiều nước Phi châu, Âu Châu, Mỹ la tinh và Á châu Thái Bình Dương.
- Thứ hai là chân phước Maria Chúa Giêsu chịu đóng đanh, tục danh là Maria Baouardy, nữ đan sĩ dòng Cát Minh nhặt phép, người Palestine. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, khi lên 13 tuổi Maria bị chú ruột ép cho một người họ hàng theo phong tục thời ấy, nhưng Maria quyết liệt từ khước vì muốn dâng mình cho Chúa. Chị là một nhà thần bí, với nhiều thị kiến. Chị qua đời năm 1878 tại Đan viện ở Bethlehem lúc 32 tuổi.
- Sau cùng là chân phước Maria Alphonsa Danil Ghattas, người Palestine, sinh tại Jerusalem năm 1843 và qua đời năm 1927, thọ 84 tuổi. Chị cũng là một nhà thần bí và đã sáng lập dòng nữ Đa Minh Mân Côi tại Thánh Địa. Chị được phong chân phước tại Nazareth ngày 22-11 năm 2009 (SD 6-2-2015)
Và ĐHY Amato kết luận rằng: Vì vậy, để làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho toàn Giáo Hội, con nồng nhiệt xin ĐTC, dùng quyền Tông Đồ, quyết định phong hiển thánh cho các vị chân phước này, và xác định ngày long trọng ghi tên các vị vào sổ bộ các thánh.
Lm. Jos. Trần Đức Anh OP
Đức tân Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn họp Công Nghị HY cùng phái đoàn Việt Nam đã tới Roma
ROMA - Từ buổi Angelus ( Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật) 04/01/2015, khi Đức Giáo Hoàng Phanxico công khai tuyên bố ngày 14/02/2015 sẽ trao mũ Hông Y cho 20 vị tân cử, trong số đó có Đức Tổng Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn của Tổng Giáo Phận Hà Nội, nhiều người trong và ngoài Việt Nam đặt trọng tâm chú ý vào Đức Tổng Phêrô, một vị tân cử, vào Giáo Phận Thủ Đô và vào ngày lịch sử tiên báo.
Đức Tân Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn nguyên là Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, và từ ngày 13/05/2010 trong hoàn cảnh nóng bỏng đầy tế nhị của Thủ Đô, ngài được Toà Thánh thuyên chuyển ra làm Tổng Giám Mục Hà Nội. Tưởng rằng mọi việc sẽ êm đêm lặng lẽ trôi đi theo dòng thời gian của tuổi 77, nhưng ĐGH Phanxicô trong tháng vừa qua đã vinh thăng Hồng Y cho ngài. Tin vui này đã làm ai nấy rất phấn khởi và Giáo Phận Hà Nội nên như mùa xuân bừng dậy sau mùa đông dài lạnh giá.
Nhìn vào con số thống kê 2010 của Tổng Giáo Phận Hà Nội, người ta đọc được: 331,759 giáo dân, 141 giáo xứ 98 linh mục, 7000 km2 gồm các tỉnh Hà Nội, Hà Nam, một phần Nam Định, Hưng Yên và Hoà Bình. Đó chỉ là riếng Tổng Giáo Phận Hà Nội, còn nếu nói về giáo tỉnh Hà Nội mà ngài cũng đức đầu thì lớn hơn nhiều, vì gôm cả 10 giáo phận miền Bắc Việt Nam từ Sông Bến Hải trở ra.
Tuần vừa qua Ngài đã tới Roma cùng với phái đoàn TGP Hà Nội tháp tùng ngài. Dù có những khó khăn trong việc xin giấy tờ và mua vé máy bay vì các biện pháp ngặt nghèo chống khủng bố và dù thời tiết lạnh giá giữa mùa đông Roma, khoảng 2 độ bách phân, nhóm các linh mục Hà Nội 22 người đã tới Roma từ ngày 09/02/2015. Đức Hồng Y ngụ tại Foyer Phát Diệm cùng với Đức Cha Lạng Sơn Giuse Đặng Đức Ngân, Cha Gioan B. Nguyễn Ngọc Tiến SJ ( Linh Hướng Đại Chủng Viện), Cha Giuse Phạm Văn Dũng ( Thơ Ký riêng), Cha Bruno Phạm Bá Quế ( Giám Đốc Caritas). Còn 18 đấng khác thì ở khách sạn gần ga trung ương Roma, do hãng du lịch tại Việt Nam tổ chức.
Việc đầu tiên tại Roma là Đức Hông Y có cuộc "Hội Ngô" tại Foyer Phát Diệm ngay buổi chiều vừa đến với thánh lễ sốt sắng và bữa cơm trịnh soạn cho hơn 50 người tham dự, để liên kết các thành phần tu trì Hà Nội và Đà Lạt với những người con và bạn hữu hiện du học và phục vụ tại Roma. Bữa cơm càng trở nên đặc sắc với bánh chưng, giò chả, dưa hành và các đặc sản Hà Nội, mà phái đoàn vừa cố công khiêng tới.
Nếu đại diện Hà Nội gồm đa số các cha đủ các bậc, thì Đà Lạt được đại diện phần lớn do các Sơ các Dòng khác nhau: St Paul de Chartes, Dòng Mến Thánh Giá, Dòng Salesieng, v.v...
Sau lời chào mừng của cha Trần Mạnh Duyệt là Giám Đốc Foyer Phát Diệm, tiếp đến là phần phát biểu chúc mừng của các đại diện và kết thúc để nâng chén rượu mừng của Đức Cha Đặng Đức Ngân, là cựu linh mục Hà Nội. Ngài cũng thổ lô: vừa nghe tin Đức Tổng Phêrô làm Hồng Y, thì ngay 05/02/2015, ngài gọi điện thoại chúc mừng và Đức Hồng Y mời ngày đi Roma tháp tùng. Điều đó được vui mừng đón nhận và thành vị Giám Mục duy nhất sát cạnh Đức Hồng Y dịp này.
Một điều hay hay hiếm thấy: khi đến phiên Đà Lạt lên Micro chúc mừng, thì Đức Hồng Y bào là mọi người Đà Lạt hãy đểu ra cả: ôi, hầu hết là các Sơ, tới khoảng 20 chị đứng ra hát mừng; và Đức Hồng Y đầy hứng thú, cũng bước ngay ra đứng trước ca đoàn các chị cùng chung hát.
Đức tân Hông Y Hà Nội đến Roma sớm như vậy lý do là ngài cần thời giờ để may áo Hồng Y ở Roma, mua sắm phấm phục cần thiến và chuẩn bị những gì không thể làm được ở Hà Nội.
May mà có Đức Cha Ngân, cha Thơ Ký Dũng, với các Sơ và tu sĩ tại Roma, mà mọi việc diễn tiến suôn sẻ tốt đẹp. Sơ Kim Tuyến và Đức Cha Ngân đã hết sức phục vụ và sửa soạn những gì cần thiết cho Đức Hồng Y (Vì bận quá nhiều công việc nên khi đến Roma, Đức Hồng Y cũng không có phẩm phục áo Giám Mục và thánh giá đeo ngực nữa).
Cuộc phỏng vấn mà đài truyền hình RAI Ý - Vatican xin trước, cũng gặp trục trặc. Đức Hồng Y đinh ninh là vào sáng thứ 3, không ngờ lại đúng vào sáng thứ tư 11/02, vậy là ngày 10 /02 ngài có thể đi Bảo Tàng Viện Vatican, mà ngài nói là như "Cỡi ngữa xem hoa", vì quá lớn mà ít thời giờ. Nhưng đã dành nhiều thời phút hơn cho Cappella Sistina, nơi có bức hoạ thời danh Phán Xét của Michelangelo, là chỗ bầu Giám Hoàng; cha thơ ký nói đùa: Ngài xem trước chỗ sẽ đến ngồi sau này, khi vào bầu Đức Giáo Hoàng mới.
Mỗi ngày tại đây ngài bắt đầu với thánh lễ hồi 5 giờ 30, dùng điểm tâm sáng 7 giờ, rồi tiếp chuyện, hoạc lên xe Thầy Vượng đi thăm viêng và thực thì các chương trình định trước hoặc bât ngờ cần giải quyết.
Điểm mặt những vị đến Roma trong dịp hợp hoan này, ngoài Đức Cha Lạng Sơn, các nhân vật VN, con có Sơ Giám Tinh Dòng St Paul Hà Nội, Sơ St. Jean, có Sơ Nguyên Tổng Anna Nguyễn Thị Thanh( Dòng Mến Thánh Giá Gò Vâp) đại diện các Dòng Mến Thánh Giá tại Sài Gòn, Đức Ông Phanxico B. Trần Văn Khả. Ấy là không kể Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, cũng đến chung vui. Kế tiếp 13/02/2015 có phái đoàn hùng hậu hơn 50 người, đa số là linh mục thuộc Sai Gòn và Đà Lạt, và cả giáo dân, trong đó có Bà Chị Ruột của Đức Hồng Y, mà phái đoàn do Đức Tổng Giám Mục Phaolô Bui Văn Đọc, và cha Tổng Đại Diện Sai Gòn Inhaxi Hồ Văn Xuân hướng dẫn. Riêng Đức Tổng Đọc xưa là bạn cùng quê Đà Lạt với Đức Hồng Y Nhơn, cùng lớn lên trên con đường linh mục, nay vừa là Tổng Giám Mục Sài Gòn, đứng đầu cà giáo tỉnh Miền Nam, vừa là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, nên sự hiện diện mang nhiều ý nghĩa.
Đức Tân Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn của chúng ta được đón mừng long trọng như nói trên, phải chăng để tỏ lộ lời cầu chúc của Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, chủ nhà Foyer Phát Diệm, cũng như mọi người cho vị thượng khách là " NIỀM VUI" điều mà Đức Hồng Y Nhơn đã thể hiện rõ ràng như Kinh Thánh đã nói tới:
"Chúa ban niềm vui cho người Chúa chọn" (Qo 2,26);
" Chúa đã tăng thêm niềm vui" (Is 9,2);
"Niềm vui của Chúa là sức mạnh cho anh em" (Ne 8,10) và
"Hãy phụng sự Chúa trong vui mừng" ( Ps 100,2).
Tưởng cũng nên ghi lại các vị Hồng Y tiên nhiệm của TGP Hà Nội vì thời thế và hoàn cảnh xã hội khó khăn thời đó nên việc mừng đón rất đơn giản mà nhiều người còn nhớ là: ĐHY Giuse M. Trịnh Như Khuê, 1976; Đức Hồng Y Giuse M. Trịnh Văn Căn, 1979; Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng 1994.
Một vài nét chính về Đức Tân Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn: Ngài sinh tại Đà Lạt 01/04/1938 trong một gia đình đạo hạnh truyền thống đầy thế giá tại thành phố, mà cha mẹ là giáo dân gương mẫu đáng kính phục. Trong số 8 người con, 2 chị là Nữ Tu Dòng Kín và St. Paul de Chartes và ngài là em út. Mẹ ngài làm trưởng Hội Các Bà Mẹ Công Giáo suốt 13 khoá, còn cha ngài làm ông Trùm lâu năm, tốt lành đến nỗi được Đức Thánh Cha ban huân chương "Bene Meritis". Trong số 5 anh chị em còn sống, chị Nữ Tu Dòng Kín Carmel Sài Gòn làm Bà Mẹ người Việt đầu tiên và làm nhiều năm, nay đã 92 tuổi nhưng hằng chờ đợi ngài mỗi lần về Thành Phố đến thăm để cho một bài giảng huấn đức, như chính lời ngài tường thuật.
Sau thời gian chủng sinh tại Đại Chủng Viện Giáo Hoàng Pio X Đà Lạt, ngài chịu chúc linh mục ngày 21/12/1967. Tiếp theo những năm thi hành thánh chúc linh mục, đặc biệt tại nhà thờ Chính Toà nơi ngài làm cha sở, là giai đoạn lịch sử rất đặc biệt của đất nước trước và sau 1975, ngài thụ phong Giám Mục 11/10/1991. Tuy là Giám Mục của Đà Lạt nhỏ bé, nhưng các Giám Mục toàn quốc đã bầu ngài vào chúc Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, rồi ngày 13/05/2010 trong hoàn cảnh nóng bỏng đầy tế nhị của Thủ Đô, ngài được Toà Thánh thuyên chuyển ra làm Tổng Giám Mục Hà Nội.
Sứ mạng của người Việt tử tế
VRNs (13.02.2015) – California, USA – Thế nào là Người Việt Tử Tế?
Tử Tế có vài nghĩa chính: [a] có những gì phải có để được coi trọng; [b] hành động tinh-mật, rành rõi, cẩn mẫn, kỹ càng [Đào Duy Anh, Hán-Việt Từ-Điển]; [c] có lòng tốt trong cách đối xử đứng đắn, nhân đạo với nhau.
Vậy, ngay hai chữ “tử tế” tự nó có thể quy tụ những thành tố kết lực để định nghĩa Người Việt Tử Tế [NVTT]:
* Tự trọng, Tự Quyết, Tự Chủ về tư tưởng, chính trị, xã hội, kinh tế;
* Ưu đãi Dân Chủ Tự Do Chân Chính;
* Trọng Pháp, Trọng Nhân, Trọng Sinh một cách mạch lạch, chân chính;
* Êm thuận, hài hoà, sáng suốt, khiêm tốn, quân bình, không thái quá.
Chúng ta cần khẳng định ngay, Người Việt Tử Tế không thể là người cộng sản, vì căn bản của người cộng sản đi ngược lại với tất cả các kết tố của NVTT. Hơn nữa cũng không thể chờ mong người cộng sản “biến hoá” thành NVTT, ngoại trừ trường hợp họ thực sự, thực tâm thoái đảng và bỏ hẳn lối sống và tư duy cộng sản.
Nhưng đồng thời, không phải bất cứ ai cứ “chống cộng” đương nhiên là NVTT. Giả thử người chống CSVN lại [a] ngoi theo chủ nghĩa phát-xít, độc tài quân phiệt hay [b] hùa theo đường lối khủng bố của bá đạo Cực-Hồi [ISIS/Islamic State of Iraq and Syria], hay [c] vẫn quen mui áp dụng thủ đoạn tố khổ, chụp mũ, vu khống của CSVN, thì rõ rệt, chống cộng như thế cũng chả hơn gì, vì vẫn đắm đuối trong vòng luẩn quẩn của tội ác triệt hạ đời sống và phẩm giá con người.
Trước đây, người Việt Quốc Gia đã có công mở đường tới ý niệm dân chủ tự do, trọng pháp, trọng nhân. Nhưng trong một giai đoạn quá ngắn và nhiều trở ngại binh đao bất ổn, người Quốc Gia qua hai nền Cộng Hoà đã không kịp vẹn toàn sứ mạng giao phó. Danh hiệu và chức năng “Quốc Gia” chỉ là hình ảnh ngón tay chỉ dẫn tới “Dân Chủ Tự Do Chân Chính Nhân Bản”, nếu ngón tay đó thực sự là một “mẫu mực” thẳng thắn, nghiêm chỉnh, nhân từ, chính đáng, đích thực dẫn đường tới “con người tử tế, chân chính”.
Nên ngón tay chưa phải là cái “đích tìm kiếm” hay ngưng lại tại đó. Chất Người Tử Tế Chân Chính của ý niệm “Quốc Gia/không Cộng Sản” mới là cứu cánh của cuộc hành trình tìm lẽ sống, lẽ phải.
Vậy, người Việt Quốc Gia Tỵ Nạn Cộng Sản tại thế giới tư do tân tiến đã thực hiện được những gì, sau 40 năm sinh sống thoải mái với đầy đủ phương tiện an cư lập nghiệp, an sinh xã hội, với đầy đủ thời gian [gấp 2 lần nền Cộng Hoà 1 và 2] để hội nhập nền dân chủ chân chính trọng pháp, trọng nhân?
Người viết vẫn tin rằng, sau 40 năm hấp thụ nền nếp dân chủ tự do nhân bản nơi tá túc; sau 40 năm học hỏi kiến thức cởi mở, đa nguyên, đa dạng; sau 40 năm kinh nghiệm làm người Việt tự do, tử tế, tự tin, biết rõ quyền hành và trách nhiệm của mình, đa số công dân Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Hoa Kỳ và trên toàn thế giới đều cởi mở, thông minh và can trường hơn so với quá khứ đen tối trước đây.
Nhưng trong giai đoạn “chuyển tiếp” khá dài này, vẫn còn sót một thiểu số người Quốc Gia cực đoan, độc diễn với những thành tích không mấy rõ rệt, dẫm chân tại chỗ, tự mãn, không cần mở mang trí tuệ, bổ túc nhân cách; cùng không cần trau dồi kiến thức về mặt pháp lý và công lý nhân quyền, nên dễ trở thành độc đoán, độc tài, vô hình chung đã đi ngược lại với sứ mạng và đường lối Dân Chủ Tự Do Nhân Bản Chân Chính mà Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản thực sự muốn tìm kiếm và hoàn tất.
Người Việt Tử Tế Là Mẫu Số Chung
Trong 40 năm qua trên mặt công luân, qua báo sách, truyền thông trên mạng, người Việt chúng ta đã bỏ quá nhiều công sức “Chống Cộng”. Đó là điều cần để bác bỏ, khai trừ một căn bệnh văn hoá ý thức hệ điên cuồng, ác liệt, phá hoại nhân phẩm và đời sống con người hơn 80 năm qua tại Việt Nam. Nhưng nỗ lực kêu đau, gào thét, mắng chủi này chưa đủ, vì khiếm khuyết đường lối “Vượt Cộng”, “Chữa Cộng”.
Nếu chỉ chuẩn bệnh và hô hào thật to đó là bệnh “Cộng Sản” mà không tìm cách giúp con bệnh “thoát bệnh”, giúp đương sự khoẻ mạnh lại thì vô hình chung người “chống cộng xuông” chưa phải là một “lương y” hoàn tất trách nhiệm cứu người bị CSVN ám hại. Một lương y, một y sĩ giỏi phải cấp tốc cho đơn thuốc điều trị bệnh và chỉ dẫn những biện pháp cần thiết triệt bệnh và ngăn bệnh.
Nếu chúng ta muốn xóa đói giảm nghèo ngay trong gia đình chúng ta, thì:
* Hãy bớt thì giờ kêu gào, than thân trách phận hẩm hiu, đói nghèo;
* mà lập tức học hỏi; tìm hiểu thế nào là sung túc, là an khang, thịnh vượng; là hãnh diện gia đình, là hạnh phúc con người biết sống ra sống, biết ăn, biết mặc;
* và từ đó tìm cách giải đáp nhu cầu, chu toàn cấp bách giải pháp sinh sống căn bản/tạo nghiệp/đầu tư nhân sự/phát triển toàn diện /trao đổi/tích lũy cho tương lai v.v.
Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại hải ngoại, những vị cựu tù nhân chính trị/tù nhân lương tâm, những thành phần tranh đấu, bất đồng chính kiến trong nước đều có thể đảm nhận nghiệp vụ “lương y”, [a] một mặt xác định rõ thế nào là căn bệnh “cộng sản”, nhưng lập tức [b] phải điều nghiên, thử thách, phổ biến thuốc men và phương pháp trị bệnh, ngừa “bệnh cộng sản”.
Người Việt Tử Tế tại Hải ngoại và trong nước là hiện sinh của giới “lương y” chữa bệnh cộng sản, khi đối xử với mình và tha nhân, khi quản trị việc công cũng như tư nghiệp với những nhận định và tiêu chuẩn như sau:
* Tự trọng, Tự Quyết, Tự Chủ về tư tưởng, chính trị, xã hội, kinh tế;
* Ưu đãi Dân Chủ Tự Do Chân Chính;
* Trọng Pháp, Trọng Nhân, Trọng Sinh một cách mạch lạch, chân chính;
* Êm thuận, hài hoà, sáng suốt, khiêm tốn, quân bình, không thái quá.
Chỉ những Công Dân Người Việt Tử Tế, những đồng bào, đồng hương “Chúng Ta” khi nghiêm nghị, cẩn mẫn, biết rõ quyền thế và trách nhiệm của mình; biết rõ gốc gác & sứ mạng nhân từ của chính mình; biết rõ cách sinh sống thuận hoà, khiêm tốn, quân bình mới thực sử đảm nhận cuộc sống đầy đủ ý nghĩa ngày hôm nay; đóng góp phúc lợi cho tương lai dân tộc, cho con cháu chúng ta.
Chúng ta hãy đặt trọng tâm vào giai đoạn Làm Người Tốt. Đó là một thứ Đạo-Việt “tân-ước” hay cập nhật thành một Cách-Sống nhân bản tự tin, nhân chủ và dân chủ; thành trạm tới của Người Việt Tử Tế, cái bến tạm dung, nhưng toàn mỹ, toàn bích, an lành, khả chấp và khả thi.
Đó sẽ là Không Gian Tử Tế, mở và bao dung, không quá khích, không miệt thị, không kỳ thị. Tất cả Người Việt chúng ta không cần làm thánh, làm siêu nhân; nhất là không cần làm “hung thần”, hung tướng, mà chỉ cần hoàn tất đúng và đủ vị thế của những con người tử tế, chân chính, mạch lạc; từ bi và hùng dũng. Thế đã là đủ.
Vậy chúng ta hãy níu kèo lại chúng ta theo hướng đi đó, từng bước ngắn, gọn, rõ rệt, chân thật, công minh. Không dối lòng. Không dối mình. Không dối người. Không dối đời.
Và trước tiên không thể tự bôi nhọ minh, bôi nhọ tha nhân, bôi nhọ cuộc đời còn lại hay sắp tới.
Chúng ta đều trách nhiệm như nhau, hay ít ra sẽ phải “đối mặt” với ngần ấy hậu quả, ngần ấy vận mệnh, ngay trong cuộc sống tập thể hay quan niệm sống từng người, dù chúng ta nhập cuộc hay không nhập cuộc cũng vậy. Điển hình, chúng ta đã một lần mất nước. Biết thế nào là mất tất cả, dù muốn, dù không.
Nhưng xin đừng mất nốt dân tộc chúng ta.
Vậy, khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống! Ít ra khi nhắm mắt sẽ không tiếc nuối đã bỏ lỡ cơ hội làm Người Việt Tử Tế.
Trân Trọng.
Lưu Nguyễn Đạt, PhD, LLB/JD, LLM
(Trích bài Từ Quốc Hận 30 Tháng Tư Tới Sứ Mạng Chân Chính Của Người Việt Tử Tế)
Nguồn: DCCT
40 năm sao mãi xa nhau?
VRNs (13.02.2015) – Washington DC, USA – Câu hỏi hàng đầu trong mỗi người Việt Nam ở hai đầu chiến tuyến sau 40 năm kết thúc chiến tranh ngày 30 tháng 04 năm 1975 là tại sao dân tộc Việt Nam vẫn chia rẽ để đất nước tiếp tục suy yếu trước đe dọa xâm lược của láng giềng Trung Quốc ?
Sau đây là những lý do căn cứ vào những việc đã xẩy ra:
Thứ nhất, đảng cầm quyền duy nhất Cộng sản Việt Nam không chịu chia chác quyền lực với ai và không chấp nhận “đa nguyên đa đảng”.
Các Nhà tư tưởng của Đảng tiếp tục lý luận cối chầy rằng: “Tính tất yếu cầm quyền của Đảng ta như là một vấn đề có tính quy luật – quy luật vận động của thời đại và xã hội nước ta, nhu cầu về tư tưởng, tình cảm của nhân dân ta, trực tiếp là sự phát triển của giai cấp công nhân, của phong trào yêu nước cách mạng và được thể hiện qua hoạt động của Đảng ta trong 85 năm qua.” (Trích ý kiến từ Hội thảo “Nâng cao vị thế, vai trò và trách nhiệm cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay” tại Qủang Ninh ngày 28.01.2015).
Nhưng “tất yếu” và “quy luật” nào hay toàn chuyện đảng vẽ ra để tự biên tự diễn, tiếm quyền và khoác vào mình “chiếc áo tình cảm của nhân dân” để xỏ mũi dân kéo đi vì giai cấp công nhân và nhân dân lao động, từ sau “Cách mạng tháng Tám 1945” có được chia cho miếng đỉnh chung nào đâu ?
Thứ hai, quyền làm chủ đất nước của dân đã bị tước bỏ để tuyên truyền cho chế độ qua các cuộc bỏ phiếu gỉa tạo “đảng cử dân bầu”, dù vẫn phải nghe tuyên truyền khống rằng “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, của dân, do dân và vì dân”.
Thứ ba, đất nước Độc lập rồi mà Tự do thì không, ngược với lời nguyền “không gì qúy hơn độc lập, tự do” của ông Hồ Chí Minh, người lập ra đảng CSVN cách nay 85 năm (03.02.1930 – 03.02.2015)
Thứ tư, đảng tiếp tục lấy chủ nghĩa phá sản Cộng sản Mác-Lênin và tư tưởng độc tài Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động đi ngược lại trào lưu tiến bộ của nhân loại để tiếp tục làm cho dân nghèo, nước mạt.
Thứ năm, quyền lợi của dân bị trắng trợn xâm hại bởi cán bộ, đảng viên mất phẩm chất đã được các cấp có chức có quyền bao che để thỏa mãn quyền lợi phe nhóm tạo thành mạng lưới tham nhũng để bóc lột nông dân và công nhân – hai lực lượng nồng cốt đã giúp đảng Cộng sản lên cầm quyền. Những vụ cán bộ bầy mưu chiếm đất, lấy ruộng của dân trong nhiều dự án đô thị, kinh tế, làm đường để bán lấy tiền bỏ túi và chia chác cho các nhóm lợi ích từ mấy năm qua là nguyên nhân của những vụ khiếu kiện đông người mỗi ngày một nhiều.
Thứ sáu, việc đảng tiếp tục độc quyền kiểm soát và điều hành nền kinh tế quốc gia dựa trên lý thuyết viển vông “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” mà thực chất chỉ làm thuê cho nước ngòai đã đưa kinh tế lệ thuộc vào Trung Quốc là chính.
Bằng chứng từ các thống kê chính thức của Việt Nam cho thấy hàng hoá nhập siêu từ Trung Quốc đã lên đến 23,7 tỉ USD.
Báo Thanh Niên ngày 14.05.2014 viết: “Điều đáng nói là, với cơ cấu nhập khẩu nguyên liệu từ Trung Quốc về gia công và xuất khẩu, chúng ta thực ra đang xuất khẩu giùm nước này và phần giá trị gia tăng được hưởng rất ít ỏi. Theo Tổng cục Hải quan, cả năm 2013, Việt Nam xuất khẩu 17,95 tỉ USD hàng dệt may, nhưng phải nhập tới 14,81 tỉ USD, trong đó nhập khẩu của Trung Quốc 5,56 tỉ USD. Công thức là, Việt Nam nhập nguyên liệu của Trung Quốc về gia công và xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ, EU ( European Union -Liên hiệp Châu Âu). Ở hoàn cảnh tương tự là điện thoại các loại và linh kiện, Việt Nam xuất được 21,24 tỉ USD cả năm 2013 nhưng phải nhập khẩu 8 tỉ USD, riêng Trung Quốc gần 5,7 tỉ USD…
Không chỉ bán hàng hộ, chúng ta còn tiêu thụ công nghệ cho các doanh nghiệp Trung Quốc. Năm 2013, Việt Nam nhập từ Trung Quốc tới 36,8 tỉ USD, chiếm tới 28% tổng kim ngạch nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất, máy móc, phụ tùng, nguyên vật liệu… Riêng 3 tháng đầu năm, nhóm hàng này nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam với tổng trị giá là 1,58 tỉ USD, tăng 29,7%.”
Đó là lý do tại sao nhà nước cứ “tái cơ cấu” mãi mà kinh tế vẫn lệ thuộc vào nước ngòai.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã nhìn nhận: “Mấy năm qua, tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào tăng vốn đầu tư, sử dụng nhiều tài nguyên và lao động với năng suất, chất lượng thấp… ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Lĩnh vực đầu tư công nhìn chung hiệu quả vẫn còn thấp, cơ sở hạ tầng mặc dù đã khá lên hơn rất nhiều nhưng vẫn còn kém so với các nước tiên tiến trong khu vực.
Sức cạnh tranh của Việt Nam sẽ khó cải thiện nếu cứ tiếp tục kéo dài tình trạng tỷ trọng gia công lớn trong nền kinh tế, sử dụng công nghệ trung bình và thấp, lao động không lành nghề và năng suất thấp… và không nhanh chóng đổi mới mô hình tăng trưởng.
Cũng cần nhấn mạnh đến những khó khăn trước mắt của ta trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng như nợ xấu, nợ công cao, bội chi lớn ngân sách nhà nước còn lớn, các nhà sản xuất kinh doanh trong nước còn nhiều khó khăn…, trong phát triển giáo dục, khoa học công nghệ, những hạn chế trong quản lý nhà nước của các cơ quan Trung ương và địa phương…”
(Phỏng vấn của TTXVN (Thông tấn xã Việt Nam).03.02.2015)
Vì vậy đến cuối năm 2014, tính bình quân mỗi người dân Việt Nam trong dân số trên 91 triệu người phải gánh nợ trên 937 Dollars.
Nợ xấu là món tiền vay Ngân hàng không trả nổi của các cơ sở thương mại và xí nghiệp, trong đó đáng kể là các Doanh nghiệp Nhà nước. Tính đến cuối năm 2014, nợ xấu của Việt Nam được ước tính là 240.000 tỷ đồng,.
Do đó khi nền kinh tế do Doanh nghiệp Nhà nước đóng vai chủ qủan và Chính phủ qủan lý xấu như thế thì dân đen phải lao động muôn năm cho tham nhũng xơi và tình trạng giầu nghèo giữa thành phố và nông thôn càng căng ra và sâu thêm.
Vậy nợ xấu ở đâu mọc ra ? Báo Diễn đàn Đầu tư đã dựa vào lời một chuyên gia không nêu tên nói rằng: “Bản chất của nợ xấu ở các ngân hàng Việt Nam được chia thành 3 nhóm: nợ doanh nghiệp Nhà nước, nợ liên quan đến bất động sản và nợ liên quan đến lợi ích nhóm. Trong 3 nhóm này đều có nợ xấu liên quan đến sở hữu chéo, bởi vậy, các ngân hàng không dám đưa ra phán quyết đối với những công ty con của mình, lợi ích nhóm. Do vậy, các ngân hàng không muốn xử lý vì điều đó có khác gì tự chặt chân, chặt tay của mình.”
“Để giải quyết được nợ xấu cần phải công khai, nếu không, giải pháp VAMC (Công ty Quản lý và Khai thác Tài sản Việt Nam) cũng không thể giải quyết được nợ xấu, mà chỉ chữa được những bệnh thời tiết, vì mầm mống gây bệnh nợ xấu vẫn tồn tại trong cơ thể của nền kinh tế” (báo Diễn đàn Đầu tư, 20.10.2014)
Vậy ai, nếu không phải là ông Nhà nước, chủ nhân của Doanh nghiệp Nhà nước, đã đốt tiền của dân vào những canh bạc đầu tư lấy lời để chia nhau, đến khi thua lỗ thì lại ì ra với chiêu bài “cha chung không ai khóc”. Cuối cùng chỉ còn lại dân đen phải è cổ ra lao động để cho đảng tiếp tục nuôi các nhóm lợi ích !
Như vậy thì làm sao mà dân còn kiên nhẫn để liên kết “máu thịt với đảng” như cán bộ Tuyên giáo vẫn khoe khoang ?
Thứ bẩy, đảng tiếp tục độc quyền ngôn luận, báo chí để phục vụ đặc quyền, đặc lợi cho đảng và dùng Công an và côn đồ đàn áp, không chế, bỏ tù những người dân bất đồng chính kiến, đòi tự do dân chủ và đòi quyền con người.
Thứ tám, khi đạo đức của đảng viên đã sa sút đến tận đáy của xã hội và những kẻ tham nhũng cứ sống phây phây trước mắt dân như hiện nay thì công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng làm theo Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” có còn giá trị gì không ?
Thứ chín , dân càng ngày càng nghi ngờ khả năng bảo vệ vẹn tòan lãnh thổ và chủ quyến quốc gia của đảng sau khi đã dành đặc quyền đặc lợi tại nhiều vùng kinh tế chiến lược cho Trung Quốc và còn bất lực trước kế họach lấn chiếm biển đảo và lãnh thổ Việt Nam của Trung Quốc.
Thứ mười, đảng đã vô ơn bạc nghĩa với 74 chiến sỹ Quân đội Việt Nam Cộng hòa, cũng là công dân nước Việt, đã bỏ mình trong cuộc chiến chống Quân Trung Quốc xâm lược chiếm đóng Quần đảo Hòang Sa năm 1975. Sao lãng tưởng niệm 64 người lính CSVN đã bỏ mình trong trận chống quân Tầu xâm lược chiếm đảo ở Trường Sa năm 1988. Và đặc biệt còn tuân theo lệnh Trung Quốc cấm không cho dân-quân tưởng niệm trên 40,000 chiến sỹ và đồng bào của 6 tỉnh dọc biên giới Việt-Trung đã hy sinh trong 2 cuộc chiến xâm lăng của 600,000 quân Trung Quốc từ 1979 đến 1989.
Từ năm 2011 đến 2013, đảng còn cho Công an đàn áp trí thức và một bộ nhân dân biểu tình tưởng niệm những người đã hy sinh trong các cuộc chiến chống quân Trung Quốc và lên án Bắc Kinh xâm lược tại Sài Gòn và Hà Nội, tiêu biều tại Tượng Đức Trần Hưng Đạo bên bờ sống Sài Gòn và tại Công viên Tượng đài Lý Thái Tổ ờ Hà Nội.
KỲ THỊ NAM-BẮC THẮNG-THUA
Bên cạnh 10 nguyên nhân là mầm mống chia rẽ trong dân kể trên, đảng còn nuôi khuyết tật kỳ thị Nam-Bắc và tiếp tục phân biệt giữa kẻ thắng và người thua sau 30 năm theo cuộc chiến nồi da xáo thịt do Đảng Cộng sản chủ động. Dù đảng đã phủ nhận và tiếp tục che đậy nhưng chúng vẫn thường xuyên là một bi kịch của xã hội trong suốt 40 năm qua.
Bằng chứng là Mặt trận Giải Phóng miền Nam hay Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, dù do đảng dựng lên nhưng số cán bộ lão thành gốc Nam vẫn là nòng cốt, đã bị giải tán không kèn không trống sau ngày thống nhất đất nước 1976.
Sau đó đến số phận của Câu lạc bộ Kháng chiến (tên nguyên thủy là Câu lạc bộ Những người Kháng chiến cũ), dù chỉ nhằm hoạt động “tương tế ái hữu” cũng bị đình chỉ hoạt động vào tháng 03 năm 1989 bởi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, người được coi là “khởi xuớng phong trào Cởi Mở” từ năm 1986.
Ông Linh lo sợ Câu lạc bộ sẽ biến thành một đảng đối lập chính trị vì chỉ sau 2 năm hoạt động số hội viên đã vượt lên 20.000, trong số này có những đảng viên nổi tiếng như Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Trần Nam Trung.
Một số sáng lập viên như các ông Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, Đỗ Trung Hiếu, Nguyên Phong Hồ Hiếu sau đó đã bị cô lập, bị bắt giam hay sa thải khỏi đảng.
Đối với hàng ngũ Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa thì đảng đã lừa dối hàng trăm ngàn người để bắt tập trung vào các trại giam lao động từ Nam ra Bắc sau ngày 30.04.1975. Nhiều người đã chết trong tù, tiêu biểu và nổi tiếng như nguyên Thủ tướng Phan Huy Qúat, nguyên Phó Thủ tướng Trần Văn Tuyên và Thi sỹ Vũ Hòang Chương.
Ngọai trừ những người trốn được ra nước ngòai hay đủ điều kiện được định cư ở Hoa Kỳ và các nước phương Tây, những người phải ở lại miền Nam, đặc biệt là những cựu thương binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa và con cháu họ đã bị kỳ thị không cho học hành đến nơi đến chốn, không cho công ăn việc làm dù khả năng vượt cao hơn con cán bộ, đảng viên.
Nhiều người còn không có sổ Hộ khẩu để được sống hợp pháp và không được chữa trị khi lâm bệnh.
Thậm chí đảng còn kỳ thị cả với những chiến sỹ VNCH đã yên nghỉ tại các Nghĩa Trang Quân đội, không tôn trọng vong linh của họ mà còn gây khó khăn cho việc thăm viếng, tu bổ, bảo trì các ngôi mộ này.
Vậy mà đảng và nhà nước vẫn oang oang tuyên truyền cho Nghị quyết 36/NQ-TW ngày 26.3.2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
Nghị quyết viết “Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”, nhưng hành động thì chỉ muốn người Việt ra đi quay đầu về “hòa hợp” vào guồng máy cai trị của đảng và làm việc theo mệnh lệnh của Nhà nước.
Nghị quyết cũng hô hào mọi người hãy: “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.” Rồi hứa hẹn: “ Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.”
Nhưng sau 10 năm thi hành (2004-2014), đảng đã thất bại nặng nề vì “lời nói không đi đôi với việc làm”. Đảng không ngừng gửi cán bộ với nhiều dạng thức khác nhau ra nước ngòai để móc nối, mua chuộc, len lỏi phá họai và thao túng các Tổ chức xã hội và chính trị của người Việt ở nước ngòai.
Từ năm 2010, Ủy ban Người Việt Nam ở nước ngòai (NVNONN), thời Thứ trường Ngọai giao Nguyễn Thanh Sơn làm Chủ nhiệm đã thi hành kế họach: Chiêu dụ 300,000 trí thức, chuyên gia “Việt kiều” (nay đã tăng lên 400,000 người) về giúp nước; Tổ chức các Tổ hoạt động tại các Cộng đồng lớn của người Việt; Tổ chức các lớp dạy Việt ngữ và văn hóa Việt với thầy cô giáo gửi ra từ trong nước; Thành lập Hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngòai; Đem sách báo, lập Đài Phát thanh-Đài Truyền hình để tuyên truyền cho đảng; Tổ chức du lịch cho Kiều báo và Tổ chức các trại Hè cho Thanh thiếu niên Việt kiều về thăm Quế hương, thăm các Di tích lịch sử Cộng sản và thăm các đơn vị quân đội ở Trường Sa v.v…
Tuy nhiên kết qủa là con số không, hay chỉ đem lại kết qủa rất hạn chế vì cán bộ và lãnh đạo nhà nước còn duy trì nhiều mặc cảm với những người đã bỏ nước ra đi. Điển hình như số Trí thức, chuyên viên người Việt về giúp nước chỉ đếm tr6en đầu ngón tay.
Đảng cũng thất bại không mua chuộc được Thế hệ người Việt thứ hai và thứ ba ở nước ngoài vì thiếu thành thật và vẫn dựa vào tiêu chí “đảng viên” để lãnh đạo những Trí thức hải ngoại có trình độc học hàm và chuyên môn giỏi hơn mình cả chục lần.
Đã thế, còn nuôi dưỡng ấu trĩ “nghi ngờ” để “bảo mật quốc gia” để che đậy những thông tin ai cũng biết cả rồi !
NÓI HÒA GIẢI NUÔI HẬN THÙ
Vì vậy, cũng chính ông Nguyễn Thanh Sơn đã có những lời nói chỉ để chọc giận và gây chia rẽ dân tộc trong-ngòai trong suốt nhiệm kỳ của ông đến ngày đi làm Đại sứ ở Nga năm 2014.
Trong cuộc phỏng vấn của báo Quân đội Nhân dân ngày 12.09.2011, ông Sơn nói: “Các cơ quan đại diện (của Chính phủ ở nước ngòai) cần mạnh dạn mở rộng diện tiếp xúc cộng đồng, kết hợp công tác vận động cộng đồng với vận động chính quyền, bạn bè sở tại nhằm phân hóa cô lập các phần tử cực đoan. Đồng thời, tăng cường phối hợp với các cơ quan liên quan, chủ động trong công tác đấu tranh với các phần tử lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để chống phá đất nước.”
“…Hiện nay, còn lại bộ phận không nhiều những người đi ngược lại lợi ích dân tộc và họ càng bị phân hóa, bị yếu đi bởi khi chúng ta tổ chức càng nhiều hoạt động ở trong và ngoài nước, bà con càng có nhiều thông tin, càng hướng về quê hương đất nước, hiểu về quê hương đất nước thì càng không tin họ. Chính vì vậy, số lượng dù còn ít nhưng họ lại rất quyết liệt, kiên quyết chống phá chúng ta vì họ đang hoảng loạn trước nguồn cung cấp tài chính của quốc gia sở tại và chính vị thế và uy tín của họ đang bị giảm sút.
Không có lý gì mà chúng ta không giành thế chủ động, chìa bàn tay với những người còn hiểu lầm về đất nước, còn mơ hồ về việc họ có thể lật đổ chế độ chúng ta. Chúng tôi đã quyết định có đoàn liên ngành cùng với các cơ quan báo chí trong nước đi công khai, gặp gỡ những phần tử còn chống đối quyết liệt nhất, cố tình không hiểu tình hình trong nước. Chúng tôi đã nêu công khai với Đại sứ quán Mỹ, thông qua cơ quan đại diện Ngoại giao ở các quốc gia như Mỹ, Canada… để có thông tin đến các tổ chức, cá nhân này. Họ rất bất ngờ trước kế hoạch này và lúng túng, cố tình không gặp.
Khi nào họ thực sự muốn gặp công khai như họ nói (nhưng thực ra khi yêu cầu gặp công khai họ lại không dám gặp), thì chúng tôi sẽ sẵn sàng gặp. Chúng tôi đang muốn gặp họ công khai với sự chứng kiến của phóng viên trong và ngoài nước, bà con kiều bào để tìm hiểu xem vì sao họ còn hận thù với đất nước. Và cũng để họ hiểu rõ rằng, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn mở rộng vòng tay đối với họ, nếu họ thực sự muốn hướng về Tổ quốc, mang lại lợi ích cho cộng đồng và cho đất nước.”
Do đó khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm Mỹ và họp tại Tòa Bạch ốc với Tổng thống Barack Obama ngày 25.07.2013 thì hàng trăm đồng bào người Việt đã biểu tình bên ngoài lên án CSVN và kêu gọi Tổng thống Obama thảo luận và áp lực ông Sang thả tù nhân chính trị và tôn trọng nhân quyền.
Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn phản ứng: “Tôi thật sự không hiểu về cái sự cố tình đó của một số qúy vị, các bác, các anh các chị vẫn còn có tư tưởng hận thù đi ngược lại với lợi ích dân tộc… Tôi nghĩ rằng những cái hiện tượng mà còn đây đó chống đối cái chuyến thăm của chủ tịch nước Trương Tấn Sang, tức là các qúy vị, các bác, các anh các chị còn cố tình giữ trong lòng mình một cái “chút hận thù cuối cùng”. (Trích phỏng vấn của Phố Bolsa TV)
Viên chức ngọai giao mang nhiều mặc cảm vì đã bị nhiều người Việt ở Hoa Kỳ tứ chối tiếp xúc trong các lần công tác trước nói tiếp: “Qúy vị không có lý gì các vị “đứng ở ngang giữa đường các vị ngăn cản cái quan hệ Mỹ-Việt”. Điều đó chỉ làm cho các qúy vị thêm khổ tâm, thêm phiền não, thêm buồn bực và rồi chính bản thâm những người bạn Mỹ của chúng ta lại trách qúy vị là “cản cái con đường hội nhập của Việt Nam và cản cái quá trình quan hệ Mỹ-Việt” mà họ đang mong muốn….
“….Tôi cho là các bác, các anh chị –“những người đang còn có những tư tưởng như vậy hãy hết sức tĩnh tâm suy nghĩ lại để chúng ta xóa bỏ tất cả những cái hận thù …còn có những cái suy nghĩ cực đoan chống lại đất nước hoặc là có một cái suy nghĩ lệch lạc thì đó thực sự nó chỉ là ảo tưởng…. hãy gác lại những cái tư thù cá nhân, hãy gác lại những cái suy nghĩ cá nhân “.
Cuối cùng, ông Sơn bị đặt mà không biết mình đã nói láo vu cáo người đi biểu tình được trả tiền: ““Tôi cho rằng là những cái biểu tình chống đối của bà con cô bác ở bên ngoài đối với chủ tịch nước vừa qua nó chỉ là những cái hiện tượng. Tôi nghĩ rằng là tất cả mọi người không phải ai cũng muốn như vậy. Có những người chì vì đồng tiền,có những người chì vì nhu cầu cuộc sống, có những người chỉ vì một chút thu nhập thêm mà tham gia những hoạt động đó, chứ trong lòng tôi nghĩ qúy vị cũng không có những suy nghĩ muốn phá hoại quan hệ Mỹ-Việt.”
TRÍ THỨC VIỆT KIÊU QUAY MẶT
Nhưng tại sao Trí thức Việt Kiều đã không chịu về giúp nước thì
Giáo sư Nguyễn Quốc Vọng thuộc Đại học danh tiếng Kỹ thuật và Thiết kế RMIT của Úc Đại Lợi giải thích trong một bài viết: “ Qua thực tiễn 2 năm trở về nước được làm việc, tôi thấy có những nguyên nhân chính sau đây:
- Việt Nam chưa thực sự thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa khoa học kỹ thuật và phát triển kinh tế, nên một số chính sách và cơ chế để thu hút trí thức không được nghiêm chỉnh thực hiện. Một khi trí thức trong nước chưa được sử dụng đúng mức thì việc trở về của trí thức Việt kiều sẽ không bao giờ xảy ra vì họ đang được làm việc trong điều kiện tốt nhất của nước sở tại;
- Chưa làm tốt việc cung cấp thông tin về những vấn đề nhạy cảm (ví dụ như biên giới biển đảo, Hoàng Sa Trường Sa, quặng mỏ bauxit Tây Nguyên…) nên trí thức Việt kiều không thấy được Việt Nam đã có sự thay đổi, tiến bộ về mặt dân chủ, phản biện, tự do tôn giáo, từ đó đâm ra hoang mang, lo sợ… không muốn trở về nước;
- Chưa có đầu mối để tìm tòi, liên lạc, mời gọi… do chính trí thức Việt kiều đảm trách vì trong hàng trăm, hàng ngàn công nghệ cao của thế giới, phải là người có kiến thức mới có thể lựa chọn những công nghệ tốt nhất, thích hơp nhất và có lợi nhất cho đất nước;
- Thủ tục giấy tờ về nước phải thông qua nhiều Bộ ngành nên rất rườm rà, mất thời gian;
- Tinh thần “vọng ngoại” của một số ít người trong nước vẫn thích “mắt xanh mũi lõ” dù rằng có nhiều khi “mắt xanh mũi lõ” lại ở trình độ khoa học kỹ thuật thấp hơn, không hiểu Việt Nam hơn trí thức Việt kiều;
- Tính “địa phương” và “trong ngoài” còn khá phổ biến, môi trường làm việc dựa nhiều vào cảm tính nên nhiều khi không công bằng, thiếu tin tưởng làm trí thức Việt kiều trở thành những thứ trang trí, không có thực quyền và cơ hội đóng góp sở trường khoa học kỹ thuật của mình.
Giáo sư Vọng kết luận bài viết của ông trên Tạp chí Tia Sáng (Bộ Khoa học và Công nghệ) ngày 07.09.2010: “Từ những năm 1970 Hàn Quốc đã mạnh dạn triển khai chính sách mời gọi trí thức Hàn kiều ở Mỹ trở về đóng góp. Ba mươi năm sau Hàn Quốc vươn lên trở thành nền kinh tế thứ 13 của thế giới. Cũng thế Trung Quốc đã ứng dụng chính sách ưu đãi mời gọi trí thức Hoa kiều, và họ cũng đã tiến rất nhanh trong công cuộc hiện đại hoá công nghiệp hoá đất nước, trở thành nền kinh tế thứ ba trên thế giới. Chỉ có Việt Nam, đã hơn ba mươi năm sau ngày giải phóng, mà vẫn còn loay hoay mãi với câu hỏi về trí thức Việt kiều.”
Theo tổ chức ngọai vi của đảng CSVN là Mặt trận Tổ Quốc thì đến năm 2015, trên tòan Thế giới có: “4,5 triệu người sống và làm việc ở 103 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hằng năm có khoảng 500.000 lượt kiều bào về nước, trong đó khoảng hơn 300 chuyên gia, trí thức về làm việc và hàng nghìn người về tìm hiểu cơ hội đầu tư, kinh doanh.”
Tuy nhiên bản tin ngày 27.09.2014 của tổ chức này không cho biết 300 trí thức là những ai và họ đã làm gì ờ Việt Nam, nhưng có điều chắc chắc là “ rất ít người muốn trở về sống và làm việc cho đảng CSVN”.
Ngày cả số người Việt gìa ở nước ngoài về nước sống cho hết đời cũng rất ít oi, dù Mặt trận khoe: “Hiện có trên 3.500 doanh nghiệp trong nước do kiều bào thành lập hoặc góp vốn của kiều bào với tổng số vốn đăng ký khoảng 8,4 tỷ USD. Kiều hối gửi về nước tăng trung bình 10-15%.năm, Năm 2009 là 6,83 tỷ USD, năm 2010 đạt mức 8,6 tỷ USD, năm 2011 là 9 tỷ USD, năm 2012 đạt 10 tỷ USD, năm 2013 đạt gần 11 tỷ USD.”
Theo số thống kê ở Việt Nam thì phần lớn đầu tư của người Việt nhằm vào Du lịch và ngành Địa ốc.
Như vậy đủ biết cũng đã có sự dè dặt làm ăn với Việt Nam từ phiá các thương gia người Việt ở nước ngoài. Và tất nhiên, một sự quay về để bị kiểm soát và cai trị bởi chế độ Cộng sản vẫn còn xa vời đối với ước mơ “vắt được chanh thì bỏ vỏ” mà đảng đã nhắm vào khối người Việt Nam ở nước ngoài từ nhiều năm qua.
Đấy là nguyên do tại sao đã sau 40 năm kết thúc chiến tranh và qua 40 cái Tết mà người Việt Nam ở đôi bờ chiến tuyến vẫn còn xa mặt cách lòng, dù đang sống bên cạnh nhau ở trong nước.
Sự nghi ngờ và thờ ơ của đảng CSVN đối với sự quay về Việt Nam của nguyên Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ và Nhạc sỹ Phạm Duy là một bằng chứng cho đến ngày hai ông qua đời (Ông Kỳ qua đời ngày 23.07.2011 tại Kuala Lumpur, Malaysia. Nhạc sỹ Phạm Duy mất ngày 27.01.2013 tại Sài Gòn).
Lỗi ấy tại ai nếu không phải là vì đảng CSVN vẫn tiếp tục nói một đàng làm một nẻo và chưa muốn hỏa giải với đồng bào trong nước, vẫn nuôi dưỡng chính sách kỳ thị địa phương Nam-Bắc, vùng miền lãnh thổ và tiếp tục độc quyền cai trị để bảo vệ quyền lợi cho một thiêu số lãnh đạo, nhưng lại sẵn sàng thỏa hiệp chủ quyền lãnh thổ với ngoại bang Trung Quốc để được yên than.
Phạm Trần
Nguồn: DCCT
We march for freedom: Tâm thư của Nguyệt Ánh
VRNs (13.02.2015) – California, USA – Kính gửi quý Ông Bà Cô Bác, Bà Con Đồng Hương, quý Anh Chị Em Thanh Niên Sinh Viên, Văn Nghệ Sĩ và Bloggers tại Việt Nam
Trước thềm Năm Mới Ất Mùi 2015, Nguyệt Ánh trang trọng kính chúc quý vị và bửu quyến nhiều sức khoẻ, may mắn và hạnh phúc.
Xin cho phép Nguyệt Ánh được thay mặt người bạn quá cố Việt Dzũng để bày tỏ lòng tri ân đến quý Ông Bà Cô Bác, Bà Con Đồng Hương, quý Anh Chị Em Thanh Niên Sinh Viên, Văn Nghệ Sĩ và Bloggers đã dành cho Việt Dzũng và Nguyệt Ánh sự yêu thương, tin tưởng, yểm trợ và khích lệ tinh thần trong gần 40 năm qua. Dù Việt Dzũng không còn chung bước với Nguyệt Ánh nữa, nhưng ngọn lửa đấu tranh và tình yêu quê hương mà Việt Dzũng đã chia xẻ trên bước đường lưu lạc vẫn mãi mãi nồng nàn trong trái tim Nguyệt Ánh, vẫn tiếp tục sống trong từng lời ca tiếng nhạc.
Kính thưa quý vị, vào 2 tuần lễ cuối tháng 3-2015 tới đây, Nguyệt Ánh và một số văn nghệ sĩ thân hữu của Nguyệt Ánh sẽ cùng nhau thực hiện chuyến công tác tại một số quốc gia Âu Châu nhằm mở đầu chiến dịch “We March For Freedom”. Mục tiêu của chiến dịch này, qua các sinh hoạt văn nghệ và vận động dư luận quốc tế, là để góp thêm lửa đấu tranh, đòi Dân chủ và Nhân quyền cho quê hương Việt Nam, đòi Tự do cho các tù nhân lương tâm và Bloggers đang bị nhà cầm quyền cộng sản giam giữ đàn áp chỉ vì kiên cường bày tỏ lòng yêu nước và khát vọng Tự do Dân chủ. Chuyến đi này được cá nhân Nguyệt Ánh tổ chức, với sự tham dự của 14 văn nghệ sĩ thân hữu từ nhiều thành phố Bắc Mỹ, Âu Châu, Úc Châu, hoàn toàn độc lập với mọi đoàn thể, tổ chức và đảng phái chính trị. Tất cả chi phí từ di chuyển, ẩm thực cho đến cư trú và địa điểm sinh hoạt, đều do các anh chị em văn nghệ sĩ tự nguyện và tự túc.
Chuyến công tác đầu tiên của anh chị em chúng tôi sẽ kéo dài 14 ngày, từ 18 tháng 3-2015 đến 31 tháng 3-2015, tại 9 thành phố thuộc 8 quốc gia vùng Tây Âu và Đông Âu. Riêng tại Genève (Thụy Sĩ) và Bruxelles (Vương quốc Bỉ), anh chị em chúng tôi đã liên lạc và đã được các giới chức điều hành Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc và Liên Hiệp Âu Châu đồng ý dành cho 2 cuộc tiếp xúc, để phái đoàn “We March For Freedom” đệ nạp kháng thư tố cáo các hành động vi phạm Nhân quyền trắng trợn của chế độ cộng sản Việt Nam, đồng thời chuyển giao danh sách và đơn thư khiếu tố của thân nhân những người tù lương tâm cũng như các Bloggers bị trấn áp, giam cầm. Bên cạnh đó, anh chị em văn nghệ sĩ chúng tôi sẽ đi đến một số thành phố của Pháp, Bỉ, Đức, Hòa Lan, Thụy Sĩ, Ba Lan, Cộng Hòa Tiệp, Hung Gia Lợi, với hy vọng được gặp gỡ và tâm tình cùng Bà Con Đồng Hương tại địa phương qua các ca khúc đấu tranh.
Nguyệt Ánh xin thay mặt các anh chị em văn nghệ sĩ trong phái đoàn “We March For Freedom”, chân thành mong đợi sự hỗ trợ tinh thần của Bà Con Đồng Hương, quý Anh Chị Em Thanh Niên Sinh Viên, Văn Nghệ Sĩ và Bloggers cho chuyến công tác này, và thiết tha kêu gọi quý gia đình của các tù nhân lương tâm cũng như của các Bloggers bị trấn áp, giam cầm tại Việt Nam, hãy cung cấp thêm cho chúng tôi những đơn thư khiếu tố, để chúng tôi trực tiếp chuyển giao những Tiếng Nói Của Sự Thật đến các tổ chức quốc tế và các quốc gia cấp viện, hầu góp phần đẩy mạnh cuộc vận động đòi Tự do Dân chủ Nhân quyền cho đồng bào Việt Nam.
Một lần nữa, Nguyệt Ánh xin được bày tỏ lòng tri ân đến toàn thể quý vị, những người đã luôn yêu thương, tin tưởng và khích lệ tinh thần Nguyệt Ánh trên bước đường đấu tranh. Ân tình đó, Nguyệt Ánh sẽ vĩnh viễn ghi khắc trong lòng.
Trân trọng kính chào quý vị.
Nguyệt Ánh
E-mail liên lạc Nguyệt Ánh:
Nguồn: DCCT
Người Công giáo tốt là người biết tham gia chính trị
VRNs (11.02.2015) – Sài Gòn – KHÁI NIỆM
Chính trị, hiểu đơn giản nhất là việc trị nước hay lo việc chung cho toàn xã hội. Làm chính trị là thuật ngữ để chỉ tất cả những hoạt động có liên quan đến việc trị nước giúp đời, xưa gọi là kinh bang tế thế. Theo nghĩa hẹp, làm chính trị là tham gia vào các thể chế phục vụ đất nước trong hệ thống chính quyền.
Ở những xã hội mà nhà cầm quyền không muốn người dân quan tâm đến việc trị nước của họ, do bản chất độc tài toàn trị hay do yếu kém về nội lực, thì chính trị được hiểu như là việc thay đổi hệ thống cai trị. Và do đó, những hành động đóng góp xây dựng công ích đều bị gán cho từ “chính trị”, coi như hành động đen tối và đáng lên án.
Trong bối cảnh đó, các khái niệm bị đánh tráo, và người dân chỉ muốn an thân làm ăn (dù làm không an và thân không có ăn). Nghe những từ “chính trị”, “làm chính trị”, thì người dân sợ hãi. Họ quên mất rằng mỗi người công dân có bổn phận xây dựng quê hương, góp phần đem lại công lý hòa bình thật sự cho xã hội.
Hài hước nhất và cũng bi đát nhất là việc những người dám lên tiếng thực hành điều Giáo huấn Xã hội Công giáo dạy là “lên tiếng tố cáo bất công” liền bị gán cho từ “phản động”. Từ này nghĩa gốc là chống lại sự tiến bộ. Nhưng trong xã hội độc tài toàn trị, nó được gán cho những người yêu quê hương đất nước, muốn thúc đẩy xã hội tiến bộ.
Có những người tự nhận mình là trí thức, nhưng khi thấy ai có tâm huyết lo việc xã hội thì cũng gọi người ta là phản động. Trên các mạng xã hội, người ta đọc thấy những comment chê trách các linh mục rằng “tu hành thì lo việc nhà thờ, đừng dây vào chính trị”, khi các linh mục này lên tiếng cho công lý hòa bình. Sự ngu dốt và hèn hạ ấy làm cho đất nước thiệt thòi rất nhiều, đồng thời làm bàn đạp cho sự tàn ác nẩy mầm và vươn cao.
Một trong những khí cụ mà xã hội này dùng để kết án con người là cắt xén. Vầng trăng có thể xẻ làm đôi, nhưng một câu nói hay một đoạn văn, nhất là một định nghĩa thì không thể cắt xén được. Mọi cắt xén để phục vụ cho những ý đồ sai trái là tội ác, hay ít ra là trái ngược với liêm sỉ trí thức. Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã “bị cắt xén” một cách thô bạo và bây giờ toàn thể lương tri nhân loại đã nhìn thấy sự thật.
Đức Thánh Cha Benedictô XVI bị cắt rời câu nói “một người Công Giáo tốt cũng là một công dân tốt” không theo kiểu người ta cắt xén Đức Tổng Giuse, nhưng bị cắt theo kiểu định nghĩa sai lạc. Gần đây nhất, trong vụ việc tại Mỹ Luông, Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp và các vị chủ chăn của giáo phận Vinh cũng bị cắt xén cách này cách khác.
Vậy thế nào là một người Công giáo tốt theo đúng ý nghĩa mà Chúa Giêsu là Hiền Thê của Người là Hội Thánh giảng dạy? Và bổn phận người Công giáo đối với “chính sự” ra sao?
Nhân đây xin chú ý một nguyên tắc: người ngoài một tổ chức không có tư cách để quy định bất cứ điều gì về thành viên của tổ chức đó, dù họ có thể nhận xét hay phê bình. Chẳng hạn một người đi đường không thể vào một trường học để quy định: giáo viên tốt của trường phải là một giáo viên biết nhảy đầm (!). Cũng tương tự như thế, không có một con người hay tổ chức nào của thế gian u tối có quyền quy định tư cách “công dân Nước Trời”. Anh không thể là một người vừa chống đối Thiên Chúa và Giáo Hội, vừa lên mặt định nghĩa “người Công giáo tốt”.
Vậy chúng ta phải hiểu “Người Công giáo tốt là một người công dân tốt” như thế nào?
Người Công giáo tốt là người công dân tốt
Người Công Giáo tốt trước hết là người yêu mến Chúa và luôn tuân giữ lề luật của Chúa, nhất là luật yêu thương. Lý tưởng của người Công giáo là nên thánh, nên trọn hảo như Chúa Giêsu truyền dạy (cf. Mt. 5,48). Và khi chu toàn luật mến Chúa yêu người, người Công giáo tái hiện cuộc sống và Lời giảng dạy của Chúa Giêsu để làm chứng cho Người giữa thế gian. Chính việc làm chứng tá theo lệnh truyền của Thầy mình, người Công giáo thể hiện mối tương quan của mình đối với xã hội trần thế. Nói khác đi, một người Công giáo tốt là người thực hiện trọn vẹn bổn phận của mình xét như thành phần của xã hội.
Ngày 27/6/2009, khi tiếp kiến các Giám Mục Việt Nam, Đức Thánh Cha Benedicto XVI trong diễn từ của mình đã khích lệ người Công Giáo Việt Nam hãy thể hiện qua cuộc sống hàng ngày tình bác ái, sự chân thật và tình yêu mãnh liệt của họ cho thiện ích chung của xã hội để mọi người nhận ra chân lý rằng “Người Công Giáo tốt là người công dân tốt”.
Ở đây cần phải nói rằng cái khẩu hiệu “tốt Đạo đẹp đời” được giăng mắc ở một số nơi trên đất nước này, nhất là cái trong thời thông tin bị chặn nhiều năm trước là khẩu hiệu rỗng tuếch và mị dân, được phổ biến do cái tờ báo rau xanh có cái tên rất kêu “Công giáo và Dân tộc” cùng với ông tổ của nó là “nhóm đàn két” đặt ra.
Cái loại đẹp đời theo kiểu hùa theo và hưởng thụ ấy không khác là bao so với kiểu bà Eva một đàng muốn sống tốt như một sinh linh được Thiên Chúa tạo thành, đàng khác lại muốn “đẹp cuộc đời” con rắn. Bao nhiêu bi luỵ và khốn khổ cũng từ việc đẹp mặt thế gian ấy mà ra. Phải hiểu rằng “đẹp đời” trong cái khẩu hiệu đó không phải là làm đẹp cho cuộc sống mà là đẹp lòng đời, đẹp lòng thế gian.
Trong cái não trạng ấy thì câu nói của Đức Thánh Cha Benedicto XVI được đón nhận và giải thích một cách rất trần tục, thiếu sót và thậm chí sai lạc nữa. Người ta cố tình giải thích rằng người công dân tốt là người sẵn sàng chấp nhận mọi mệnh lệnh và luật lệ trần thế, bất kể mệnh lệnh luật lệ ấy có trái ngược luật Chúa hay không.
Một người mẹ sắp sinh đứa con thứ ba sẵn sàng giết chết đứa con trong bụng mình là một người “công dân tốt” của nước xã hội chủ nghĩa vì thực hành luật về kế hoạch hoá gia đình! Một thanh niên cúi mặt khoanh tay khi đồng loại của mình bị áp bức là người “công dân tốt” vì biết “giữ gìn an ninh trật tự” theo định hướng này định hướng kia! Một linh mục hay tu sĩ không lên tiếng cho công lý là người “công dân tốt” vì biết an phận, lo cho phần rỗi chính mình là đủ mà không cần biết rằng Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo dạy phải chăm lo cho cả phần xác của đàn chiên!
Thế nhưng, trước mặt Thiên Chúa và trong lòng Hội Thánh, những con người sống như thế lại không phải là người Công giáo tốt, trước hết vì họ không sống cho tình yêu, hoặc ghê gớm hơn nữa, họ là kẻ giết người hay đồng loã với những kẻ đàn áp con người. Mà có tôn giáo nào coi kẻ sát sinh là tín đồ tốt đâu. Trong những xã hội coi trọng văn minh sự sống thì những con người ấy vẫn không thể là công dân tốt. Dù là thầy tư tế hay người tự nhận là ngoan đạo thì vẫn bị lên án nếu họ đi ngang qua một người bị lâm nạn mà lại rẽ đường khác, không sẵn sàng cứu giúp nạn nhân như người Samaritanô nhân hậu.
Người Công giáo tốt là người biết tham gia vào chính trị
Ngay từ thời Chúa Giêsu, các môn đệ vẫn được Người khuyến khích xây dựng trần thế theo những cách thức phù hợp. Các ông cùng với Người chăm sóc cho người đau yếu, bệnh tật và nghèo túng. Các ông cũng quan tâm đến các vấn đề xã hội như việc đóng thuế chẳng hạn.
Sách Tông đồ Công vụ thuật lại rằng sau khi Chúa Giêsu về Trời, các Tông đồ bị lãnh đạo thời bấy giờ cấm rao giảng Tin Mừng và bị họ hành xích, bách hại. Thánh Tông đồ Phêrô đã cương quyết trả lời: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người”.
Khi Đức Thánh Cha nói “một người Công giáo tốt là một người công dân tốt” là ngài muốn nói đến ý nghĩa khách quan và phổ quát của từ ngữ người “công dân tốt”, ấy là người biết góp phần xây dựng xã hội trên nguyên tắc công bằng, yêu thương và tôn trọng nhân phẩm. Điều này lại ngược với tiêu chí “công dân tốt” theo chiều hướng xã hội chủ nghĩa.
Người ta cố ý cắt xén và hiểu sai lời Đức Thánh Cha Benedicto XVI theo chiều hướng xã hội chủ nghĩa, và do vậy một số người, kể cả người Công giáo, tưởng rằng là người Công giáo tốt là người thụ động, cam chịu bất công và tuân theo luật đời bất chấp luân thường đạo lý.
Mà khi sống đúng tinh thần Kytô giáo, theo đúng giáo lý, lề luật, Kinh Thánh và Giáo huấn xã hội Công giáo, thì người môn đệ Chúa Giêsu góp phần làm thăng tiến xã hội trần thế. Khi đóng góp cho xã hội trần thế như vậy, thì người Công giáo làm chính trị. Làm chính trị theo nghĩa rộng là quan tâm đến các vấn đề xã hội, tìm cách loại bỏ những gian tà và ác độc để hướng xã hội đi lên theo con đường yêu thương, con đường tự do, con đường tôn trọng và bảo vệ công lý và sự thật.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã lấy cảm hứng từ thư của Thánh Phaolô gửi Timôthê để nói về trách nhiệm của nhà cầm quyền lãnh đạo và lời mời gọi tín hữu cầu nguyện cho họ. Ngài nói như sau:
“Một người Công Giáo tốt là người biết tham gia vào chính trị”, tham gia và đóng góp nhiều điều tốt nhất có thể như: “ý tưởng, kiến nghị, nhưng trên hết là lời cầu nguyện” cho những viên chức chính quyền, để họ biết yêu thương người dân, khiêm nhường, lắng nghe những ý kiến khác nhau của người dân để chọn ra phương cách tốt nhất.
Đài phát thanh Vatican dẫn lời Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: Những nhà cầm quyền “phải yêu thương người dân của họ” bởi vì “một lãnh đạo mà không yêu thương dân thì chẳng thể nào cầm quyền được. Họ có thể cầm trong tay kỷ luật, họ có thể chi phối an ninh trật tự, nhưng họ không thể quản trị.”
Ví dụ như vua David, “ông rất yêu thương dân của mình”, mặc dù ông lỗi phạm rất nhiều nhưng ông vẫn cầu xin Chúa đừng trừng phạt người dân mà hãy trừng phạt ông. Vì thế, hai nhân đức của một nhà lãnh đạo là biết yêu thương người dân và có sự khiêm nhường.”
Trong bài giảng lễ ngày 16 tháng 9, 2013 tại nhà nguyện Santa Marta, Đức Giáo hoàng Phanxicô bác bỏ ý kiến cho rằng “một người Công giáo tốt không can thiệp vào các vấn về chính trị”. Ngài nói Người Công Giáo không nên thờ ơ với chính trị, nhưng cần đưa ra các đề nghị, cũng như cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo biết phục vụ lợi ích chung trong khiêm nhường và lòng mến.
Ngay cả hàng giáo sĩ trong Giáo Hội dù không được làm chính trị theo nghĩa hẹp là tham gia vào công việc chính quyền, nhưng các ngài vẫn phải lên tiếng cho người nghèo, cho những người bị bỏ rơi ngoài lề xã hội và cho tất cả mọi con người đau khổ. Mới đây tại Ukraina, Đức Tổng Giám mục Sviatoslav Shevchuk, nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Giáo Hội Công Giáo đã trả lời với nhà cầm quyền trong vụ việc các linh mục dâng lễ nơi có biến loạn như sau:
“Mặc dù Giáo Hội không làm chính trị, nhưng Giáo Hội không thể khoanh tay đứng nhìn khi các tín hữu yêu cầu được chăm sóc tinh thần. Giáo Hội của chúng tôi luôn luôn đứng về phía sự thật bất chấp tất cả các mối đe dọa và sẽ làm như vậy vì đó là sứ mệnh đã được Chúa Cứu Thế trao phó. Chúng tôi nghĩ rằng thời áp bức đã trôi qua, nhưng lá thư này khiến chúng tôi đâm ra nghi ngờ. Chúng tôi không xấu hổ về sự hiện diện của chúng tôi tại quảng trường Maidan và sẽ tiếp tục ở lại đó”.
GIÁO HUẤN HỘI THÁNH VỀ CHÍNH TRỊ
Người Công giáo là người mang hai “quốc tịch”, trước hết họ là công dân của Nước Trời. Được sinh ra và định cư trong một vùng đất nhất định của trần thế này, họ cũng là công dân của một đất nước trên thế giới. Nhưng cuộc sống của người Công giáo được điều khiển và chi phối bởi lề luật của Vương quốc Thiên Chúa. Và họ hiểu rằng lề luật ấy là tuyệt đối và bất biến.
Trong cuộc lữ hành giữa trần gian, người Công giáo với tư cách là công dân một đất nước, cũng tuân hành theo luật định của đất nước đó. Nhưng có một nguyên tắc mà không một người Công giáo tốt nào dám vi phạm: ấy là khi luật lệ trần gian đi ngược lại với lề luật của Thiên Chúa và Hội Thánh, thì người Công giáo trung thành với lề luật mà Thiên Chúa thiết định.
Hãy lấy một ví dụ đơn giản. Luật Chúa dạy là không được giết người. Các nước xã hội chủ nghĩa quy định gia đình tốt chỉ có từ một đến hai con, ai có thai đứa con thứ ba thì phải giết từ trong bụng mẹ, hay là phá thai, dùng từ hoa mỹ thì gọi là thực hiện sinh đẻ có kế hoạch. Và như vậy một người Công giáo tốt không thể là công dân tốt trong trường hợp linh tinh này, như chúng ta phân tích ở đoạn trên.
Cũng tương tự như thế, một số nhà nước độc tài không muốn công dân của mình tham gia vào các hoạt động chính trị theo nghĩa dám nói lên sự thật và tình thương. Những nhà nước đó chỉ muốn người dân làm chính trị theo nghĩa cộng tác vào những đoàn hội do họ lập ra, nói tiếng nói mà họ viết sẵn lời, tham gia những trò mà họ điều khiển.
Nhưng Hội Thánh là Mẹ hiền của chúng ta luôn có cái nhìn xa rộng và nhân ái. Hội Thánh muốn con cái mình làm chứng cho Tin Mừng bằng việc thực thi huấn lệnh của Đức Kytô là Thầy và là Chúa.
Trong thời cận đại, Đức Giáo Hoàng Leo XIII, một nhà thông thái, một chính trị gia lỗi lạc và là một chủ chăn thánh thiện, trong triều đại của mình đã hết lòng vì một xã hội trần thế hoà bình và công bằng. Ngài dạy rằng mọi cơ chế triều đại của thế gian cần phải được thay đổi để nên tốt hơn.
Ngài viết: “Chỉ có Giáo hội Kitô đã và sẽ đang bảo tồn chắc chắn hình thái cai trị của mình. Vì được thiết lập trên nền tảng là Đấng đã có, đang có và vẫn có đời đời, Giáo hội ngay từ đầu đã nhận được những gì cần thiết để theo đuổi sứ mạng thần linh ngay giữa dòng lưu chuyển của vạn vật nhân trần. Còn đối với các xã hội thuần túy nhân loại, thì thời gian là yếu tố biến đổi vĩ đại cho mọi sự trần gian, như một sự kiện đã ghi khắc cả trăm lần trong lịch sử, tạo nên những thay đổi sâu xa về cơ chế chính trị…” (Thông điệp “Giữa Muôn Điều Lo Ngại”, 1892).
Nhưng nổi bật hơn cả, thông điệp “Rerum Novarum’ (Tân Sự) năm 1891 của ngài đã thúc giục con cái của Hội Thánh lên tiếng về mọi vấn đề trong xã hội. Thông điệp lừng danh này đã đặt nền móng cho Giáo huấn Xã hội Công giáo mà sau này Đức Hồng Y Tôi Tớ Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã có công tóm lược thành hệ thống.
Sau này Thánh Công Đồng Vatican II và các vị Giáo hoàng sau đó cũng lên tiếng về các vấn đề chính trị xã hội một cách rõ ràng và dứt khoát.
Chẳng hạn Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes của Thánh Công Đồng giới thiệu khuôn mặt của một Giáo Hội “thấy mình thật sự liên đới sâu xa với loài người và lịch sử nhân loại”.
Xin trích lại số 96 của bản Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội Công Giáo: “Gaudium et Spes trình bày một cách hệ thống các chủ đề về văn hoá, về đời sống kinh tế và xã hội, hôn nhân và gia đình, về cộng đồng chính trị, về hoà bình và cộng đồng các dân tộc, dựa trên quan điểm nhân học Kitô giáo và sứ mạng Giáo Hội. Mọi sự đều được xem xét bắt đầu từ con người và hướng tới con người, “thụ tạo duy nhất mà Thiên Chúa muốn vì chính nó”.
Xã hội, cơ cấu và sự phát triển xã hội phải được hướng tới chỗ giúp “con người tiến bộ”. Lần đầu tiên, Huấn Quyền Giáo Hội, ở cấp cao nhất, nói nhiều về các khía cạnh thế trần khác nhau của đời sống Kitô hữu: “Phải công nhận rằng sự quan tâm của Hiến chế đối với những sự thay đổi về xã hội, tâm lý, chính trị, kinh tế, luân lý và tôn giáo càng ngày càng thúc đẩy… mối quan tâm mục vụ của Giáo Hội đối với các vấn đề của con người và việc đối thoại với thế giới”. (HTXHCG, 96)
Ngày hôm nay Giáo Hội vẫn lên tiếng trước các vấn nạn của con người: việc đàn áp, hạn chế tự do, phá thai, sông vô luân, tệ nạn xã hội, tham nhũng, các vấn đề hôn nhân v.v…
Giáo Hội không làm chính trị và Giáo Hội cũng cấm hàng giáo sĩ làm chính trị nghĩa hẹp là tranh giành quyền lực, tham gia các chính đảng hay tham gia công quyền. Nhưng nếu xét chính trị theo nghĩa thăng tiến phẩm giá con người và trả lại cho con người quyền tự do mà Thiên Chúa phú ban như bản chất của con người, thì Giáo Hội đang thực hiện một cách hoàn hảo.
Ở đây cũng cần mở ngoặc để giải thích thêm rằng những linh mục tham gia vào các tổ chức chính trị như ủy ban đoàn kết mà người dân hay gọi là đàn két, là làm sai luật Giáo Hội. Cũng có linh mục nói: “Tôi vào cho có chứ tôi làm gì đâu ngoài chuyện đi họp”. Ông linh mục ấy nói thế còn thiếu một điều quan trọng: nói không làm gì là sai, vì có làm gương xấu!
Việc tham gia vào các thể chế trần thế trong lãnh vực của mình là bổn phận của người tín hữu giáo dân.
Cần phải lưu ý ngay là Học Thuyết Xã Hội Công Giáo nhắc nhở: “Đức Giêsu – vị Mêsia được hứa trước – đã phản đối và đã vượt thắng sự cám dỗ của chủ nghĩa cứu thế bằng chính trị, mà điển hình là bắt các dân tộc chịu khuất phục mình (x. Mt 4,8-11; Lc 4,5-8). Người là Con Người xuất hiện “để phục vụ và để hy sinh tính mạng mình”
Điều này có thể làm cho một số người lầm tưởng rằng phải yêu thương kẻ thù, nghĩa là chấp nhận mọi thua thiệt để cứu rỗi họ. Nhưng vấn đề là yêu thương và đồng lõa là hai khái niệm khác biệt. Không bắt người khác khuất phục mình, không có nghĩa là mình phải chịu khuất phục để làm theo những điều sai lạc.
Tham gia chính trị trước hết là “Xem con người là nền tảng và mục tiêu của cộng đồng chính trị”. Điều này có nghĩa là trước hết phải nỗ lực làm cho phẩm giá con người được nhìn nhận và tôn trọng, bằng cách bênh vực và phát huy các quyền căn bản và không thể tước đoạt của con người. (HTXHCG 388).
Từ việc nhìn nhận nhân phầm con người và tôn trọng con người, việc tham gia chính trị sẽ thúc đẩy phát triển xã hội và làm cho xã hội thành cộng đoàn yêu thương như Thiên Chúa mong muốn.
Việc tham gia chính trị còn là “Không được cộng tác, dù chỉ là hình thức, vào những việc ngược với luật Chúa, dù đã được luật pháp dân sự cho phép, đó là một nghĩa vụ quan trọng của lương tâm”.
Không những người Công giáo phải tố cáo và lên án điều trái với lương tâm, với luật Chúa, mà còn phải phản kháng khi có thể. Có người cho rằng phải phản kháng ôn hòa trong mọi trường hợp. Thưa không. Giáo Hội dạy:
“Phản kháng bằng vũ khí trước sự đàn áp của chính quyền là điều không chính đáng, trừ khi thoả mãn được các điều kiện sau đây: 1/ có sự xâm phạm các quyền căn bản của con người cách chắc chắn, nghiêm trọng và kéo dài; 2/ đã sử dụng hết mọi phương thế khác để sửa đổi mà không kết quả; 3/ phản kháng như thế sẽ không gây ra những bất ổn tệ hại hơn; 4/ có hy vọng thành công với những lý do vững chắc; 5/ theo lý trí, không thể dự kiến một giải pháp nào hay hơn”(Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo 2243).
Ngoài ra, “sử dụng vũ khí được coi như giải pháp sau cùng để chấm dứt “một chế độ độc tài công khai và kéo dài, gây thiệt hại lớn cho các quyền căn bản của con người và làm tổn thất nghiêm trọng cho lợi ích chung của đất nước”(Thông điệp Populorum Progressio, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI).
Tạm kết luận
Chúng ta vừa đi lướt qua những nét chính trong Giáo Huấn của Hội Thánh về một lãnh vực rất quan trọng và cũng thật tế nhị. Như chúng ta vừa điểm lại, rõ ràng những cách nói “yêu thương” bâng quơ, Giáo Hội phải đứng bên lề chính trị, người Công Giáo không được dùng vũ lực trong bất cứ trường hợp nào… tất cả đều trái ngược Giáo Lý Công Giáo và trái với quan điểm của Giáo Hội.
Thật ra tất cả những kiểu nói đó thường là do tâm lý cầu an, muốn “bảo vệ vị thế của mình hơn là muốn thế mình để bảo vệ nhân vị”.
Không những Giáo Hội khuyến khích con cái mình tham gia vào chính trị để làm cho cuộc sống thêm đẹp hơn, mà Giáo Hội còn xem chính trị là việc thực hành đức ái.
Chính trị là một hình thức “tận tụy vì thiện ích chung” và như thế, là “một sự biểu hiện của bác ái” Đó là những lời tuyên bố của Đức Hồng Y Angelo Bagnasco, Tổng Gám Mục giáo phận Gênôva.
Trong Tông Huấn “Niềm Vui Của Tin Mừng” của Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Nếu quả thực “việc điều hoà trật tự công bằng của xã hội và nhà nước là một trách nhiệm chính trị”, thi Hội Thánh “không thể đứng bên lề cuộc đấu tranh cho công lý”. Mọi Kitô hữu, bao gồm cả các mục tử của họ, được kêu gọi bày tỏ quan tâm đối với việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Đây là điều cơ bản, vì tư tưởng xã hội của Hội Thánh chủ yếu là tích cực: Hội Thánh cống hiến các đề nghị, Hội Thánh hoạt động cho sự thay đổi và theo nghĩa này Hội Thánh vạch ra niềm hi vọng phát sinh từ trái tim yêu thương của Đức Giêsu Kitô. Đồng thời, Hội Thánh nối kết “sự dấn thân của chính mình với sự dấn thân trong lãnh vực xã hội của các Hội Thánh và các Cộng Đồng Hội Thánh khác, dù trên bình diện suy tư về học thuyết hay bình diện thực hành”. (số 182)
Trong số 205, Đức Thánh Cha viết: “Chính trị, dù thường bị chê bai, vẫn là một ơn gọi cao cả và một trong những hình thức cao quí nhất của bác ái, khi nó tìm kiếm lợi ích chung”.
Vâng, khi dân Chúa, nhất là mục tử, dấn thân cho công lý, cho người nghèo, thì vẫn “thường bị chê bai”, nhưng con cái Chúa phải dấn thân, vì đó là “ơn gọi cao cả” và “một trong những hình thức cao quý nhất của bác ái”, Đức Thánh Cha của chúng ta đã khẳng định điều ấy.
Gioan Lê Quang Vinh, VRNs
Nguồn: DCCT
CLB nhà báo tự do chính thức hoạt động trở lại
VRNs (11.02.2015) – California, USA – Các blogger Điếu Cày và Uyên Vũ đã chính thức thông báo Câu lạc bộ nhà báo tự do (CLBNBTD) hoạt động trở lại tại Hải Ngoại, vào Chúa nhật 08.02.2015 vừa qua, tại Nam California.
Phóng viên Ngọc Trinh của SBTN cho biết: “Hai blogger Điếu Cày và Uyên Vũ đã trình bày những lý do thành lập CLBNBTD, quá trình hoạt động trong nước, những đàn áp, bắt bớ đối với các thành viên của CLB. Trong phần thảo luận các thân hữu và thành viên CLB đều đồng ý giữ nguyên tên CLBNBTD mà trong và ngoài nước cũng như quốc tế đều rất quen thuộc. Nhiều góp ý của những thành viên hay thân hữu về vấn đề quy chế hoạt động, quản trị website, cách thức tuyển mộ thành viên, v.v. đã được đưa ra bàn thảo sôi nổi”.
CLBNBTD được một nhóm các nhà báo, blogger, nhiếp ảnh gia, đạo diễn và người viết tự do thành lập tại Sài Gòn vào tháng 9 năm 2007. Các hoạt động gây chú ý đầu tiên của CLB này là biểu tình phản đối Hoa Lục cắm cờ trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam nhân chuẩn bị mùa Thế vận hội năm 2008 do Hoa Lục đăng cai. Hoạt động này ngay sau đó bị ngăn cản và trở thành lý do chính bắt tù blogger Điếu Cày, sau đó là các blogger AnhbaSaigon và Tạ Phong Tần.
Các thành viên khác của CLB cũng được nhiều người biết đến là Song Chi, Diệp Lê, Uyên Vũ, Tào Lao, Huỳnh Công Thuận …
Tuy chỉ cùng nhau hoạt động công khai trong một thời gian ngắn, nhưng tinh thần và hướng dấn thân của CLBNBTD đã thực sự khơi lên lòng hăng say phục vụ quốc gia trong giới trẻ và giới trung niên tại Việt Nam, bất chấp những đàn áp và bắt bớ, nhất là tại các thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế …
Sự tham gia phản đối của dân chúng tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm xét xử các nhà báo thuộc CLBNBTD đã cho cả nước và thế giới thấy cách tổ chức một phiên tòa công khai của nhà nớc CHXNCNVN là dùng công an, an ninh và các lực lượng khác được huy động bằng tiền thuế của dân để ngăn không cho các công dân tự do đến dự khán phiên tòa. Ngay blogger Uyên Vũ trong tư cách là nhân chứng cũng bị an ninh ngăn cản từ nhà không cho đến Tòa làm chứng cho các đồng bạn của mình.
Khởi đi từ blog Freedom Lê Công Định, các nhà báo thuộc CLB này đã tự hình thành một mạng lưới các blog độc lập, trong đó blog của cô Tạ Phong Tần là đa dạng và phong phú nhất.
Hiện nay nhà báo Tạ Phong Tần vẫn đang bị giam tại Thanh Hóa trong mùa rét của Miền Bắc.
Được biết, cuối năm 2014, hai thành viên sáng lập CLBNBTD là blogger Điếu Cày và blogger Uyên Vũ phải tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ. SBTN cho biết : “Trong một môi trường sống mới giữa lòng thế giới tự do, CLBNBTD đã nhận được sự cổ vũ và ủng hộ của các tổ chức quốc tế, của giới truyền thông và các hội đoàn tại hải ngoại”, nên việc phục hoạt CLB này tại Hoa Kỳ đã được thực hiện.
VRNs
Nguồn: DCCT
Lần đầu tiên “xóa sổ” vi rút HIV khỏi tế bào của người
VRNs (12.02.2015) – Daily Mail – Các nhà khoa học đã tìm ra cách xóa sổ vi rút HIV khỏi bộ gen của người bằng cách sử dụng một enzym để cắt nhỏ chúng.
Một khi HIV xâm nhập vào tế bào người, nó sẽ ở lại đó mãi mãi. Vi rút “chèn” vĩnh viễn bộ gen chết người của nó vào DNA của nạn nhân, khiến họ phải điều trị suốt đời để giữ tính mạng.
Nhưng mới đây, lần đầu tiên các nhà nghiên cứu ở Philadelphia (Mỹ) đã tìm ra cách “xóa sổ” hoàn toàn HIV ra khỏi tế bào của người bằng cách “cắt nhỏ” chúng.
Họ đã huy động một phối hợp gồm enzym cắt DNA có tên là Cas9 và một chuỗi RNA dẫn đường (gRNA) để “truy lùng” bộ gen của vi rút và xóa sổ DNA của nó.
Sau đó, bộ máy sửa chữa gen của tế bào sẽ tiếp quản công việc, “hàn” các đầu của bộ gen bị đứt rời lại với nhau – kết quả là tế bào sẽ ‘sạch” vi rút.
“Vì hệ miễn dịch không thể tiêu diệt hết HIV-1, nên việc loại trừ vi rút là cần thiết để chữa khỏi bệnh”, nhóm nghiên cứu giải thích.
Trên thế giới hiện có 33 triệu người nhiễm HIV, bao gồm hơn 1 triệu người ở Mỹ. Mỗi năm nước này có thêm 50.000 người nhiễm vi rút.
Ở Anh, có khoảng 100.000 người nhiễm HIV trong năm 2013.
Mặc dù các thuốc điều trị HIV đã giúp kiểm soát vi rút ở những người nhiễm trong 15 năm qua, song vi rút sẽ bùng phát trở lại nếu ngừng điều trị.
Bước đột phá của nhóm nghiên cứu thuộc Trường Y Đại học Temple đánh dấu nỗ lực thành công đầu tiên trong việc loại trừ vi rút HIV-1 thể ẩn ra khỏi tế bào của người – và có thể là cách để chữa khỏi hoàn toàn HIV và những bệnh nhiễm trùng thể ẩn khác.
Cẩm Tú
Theo Daily Mail
Nguồn: DCCT
Sớ Táo Quân 2015
Muôn tâu Ngọc Hoàng
Thần đang nấu bếp
Vội lết lên chầu
Trình tâu bẩm báo
Thần là thần Táo
Cả đạo lẫn đời
Một thời ngang dọc
Sợ cóc gì đâu
Của cả năm Châu
Dân thích từ lâu
Nên mới yêu cầu
Thần đây viết sớ.
Giờ thần xin tâu
Chuyện Việt Nam trước
Rồi sẽ từng bước
Tiếp rước theo sau
Cái chuyện khá đau
Quân tàu quậy phá
Khắp cả biển đông
Chất chồng năm trước
Giàn khoan từng bước
Ngạo ngược đem vào
Như ao nhà chúng
Việt cộng lúng túng
Lạy lục xin tha
Tàu cộng rút ra
Kẻo em chết mất
Cắm đầu xuống đất
Sợ ngất tái xanh
Tượng đái* Phùng Thanh
Cái mặt chành bành
Đại diện ban ngành
Lầu xanh chính trị
Ngoại giao gậy bị
Ủy mị xin tha
Dân Việt Nam ta
Từ trẻ tới già
Tỏ ra khinh bỉ
Lũ vô liêm sỉ
Bởi đục khoét nhiều
Tiêu điều đất nước
Bắc Quan bán trước
Chúng rước giặc vào
Đổi trao tất cả
Thật là buồn bã.
Chuyển qua chuyện tiếp
Phát khiếp khui ra
Vụ Vinashin
Rồi Vinaline
Đảng ăn hối lộ
Rầm rộ khai ra
Bạc tỉ Đô la
Một nhà lũ bọ
Qúy Ngọ, Đại Quang
Nên chúng vội vàng
Hiểm nham bịt miệng
Qúy Ngọ bỗng nhiên
Lăn đùng ra chết
Chẳng biết ra sao
Hay đã bay cao
Cõi nào ai biết?
Chỉ dân là thiệt.
Giờ thần xin tiếp
Những chuyện Việt nam
Biểu tình tràn lan
Từ Nam chí Bắc
Dày đặc dân oan
Từng đoàn khiếu kiện
Như kiến khắp nơi
Nghèo đói tả tơi
Chiếu đất màn trời
Hơn thời ly loạn
Tiếng oan dậy đất
Vì mất cửa nhà
Đảng là quân cướp
Làm sao xử được
Nên chúng ngang ngược
Sách lược trong bưng
Luật rừng Tưởng thú*
Của chú Ba Dũng
Thật đúng ác quan
Ăn càn nói dối
Vô đối nhân gian
Chúng lùa côn an
Cắn càn dày đặc
Như giặc nhà Nguyên
Chúng chuyên phá đám
Tội ác chúng làm
Bắt giam đánh đập
Bầm dập dân lành.
Vang danh thế giới.
Giờ thần tấu tới
Chuyện mới vang danh
Kỷ niệm chiến tranh
Nhân dân hùng anh
Đồng thanh chống giặc
Vòng hoa đem đặt
Trước mặt Thái Tổ
Đảng nhổ nước miếng
Rồi liệng vòng hoa
Viếng cha ông chúng
Đảng cũng không tha
Chúng đem người ra
Cưa đá, nhảy đầm
Như một lũ hâm
Vừa câm vừa bệnh
Chỉ biết theo lệnh
Quan thầy Bắc kinh
Cả đám Ba đình
Giặc khinh dân ghét
Như loài bọ chét.
Chưa hết chuyện sầu
Đoàn sâu tham nhũng
Đục thủng Việt Nam
Những chuyện chúng làm
Trang mạng Ba Sàm
Đưa tin bắt sạch
Nào Người Lót Gạch
Ngọc Già, Quê Choa
Chúng cũng không tha.
Trí tụê đảng ta
Nửa đêm đem ra
Điếu Cày bán qua
Nước U S A
Quần áo như ma
Chân đi dép rọ
Mặt lọ da đen
Nên đảng được khen
Thấp hèn tu hú
Cù Huy Hà Vũ
Một vụ như nhau
Mặt đảng nát nhàu
Thương đau đất nước
Chỉ ăn lấy được
Ngạo ngược biết bao.
Còn chuyện tôn giáo
Đảng qúa tào lao
Đủ chuyện xem vào
Ai đời vô đạo
Bố láo kiểm duyệt
Qủy quyệt bày trò
Biết chó gì đâu
To đầu ngu muội
Nói dối như cuội
Củ chuối chẳng nghe
Bày đặt le te
Kết bè cướp cạn
Mặt dạn mày dầy
Cứ đầy trong đảng
Trọng lú nổ sảng
Tư Sang cù cưa
Hùng sói nói bừa
Dũng vừa lớp bốn
Đã trốn vào bưng
Cư nhân luật rừng
Tưng bừng qúa cỡ
Không biết mắc cở
Nhà thờ chúng gỡ
Cấm việc tôn thờ
Thế giới bỡ ngỡ
Chuyện còn dang dở
Thần tấu sơ sơ
Kẻo sợ Ngọc Hoàng
Nghe nhiều phát hoảng.
Giờ thần tấu sang
Chuyên trang thế giới
Chuyện Ukrain
Tên trùm Putin
Gây nên nghiệp chướng
Đem quân sang nướng
Nhiễu nhương khắp cùng
Chém giết tàn hung
Chiếm vùng bán đảo
Hắn bảo Crima
Là của nước Nga
Ba hoa qúa cỡ
Nhưng có ai ngờ
Mỹ chẳng làm ngơ
Bất ngờ cấm vận
Âu Châu vào trận
Hợp cận cùng nhau
Giá dầu tụt dốc
Tiền bốc hơi đi
Thế giới khinh khi
Coi chừng tắt thở
Giờ chết dang dở
Biết ở hay đi
Mặt cứ đen sì
Lầm lì đe dọa
Hàng không mang họa
Malaysia
Máy bay bị hạ
Dân lành chết khối
Vậy mà hắn chối
Tội lỗi gấy ra
Thật là thảm họa.
Từ họa máy bay
Tới họa thực phẩm
Ướp tẩm đủ màu
Của bọn giặc tàu
Làm đau thế giới
Nhắc tới phát rầu
Nhức đầu đau bụng
Xử dụng chất độc
Lợi lộc trên hết
Dân chết mặc bay
Người nghèo đắng cay
Ăn mặn, ăn chay
Đều chạy trối chết
Cái kết thảm thương
Trăm đường đau khổ
Bao giờ chầu tổ
Thuyết Mác tam vô
Tham ô vô tận
Đổi vận thay mới
Để dân tiến tới
Phơi phới tự do
Toàn dân ấm no
Hết lo thực phẩm
Chúng tẩm thuốc độc
Cái gốc nhân tâm
Thoát tầm băng hoại.
Giờ thần tấu lại
Nhân loại đau thương
ISIS Vô lương
Chém giết tứ phương
Thảm thương khắp cùng
Người lớn chôn chung
Tàn hung qúa cỡ
Dân tình khổ sở
Khắp ở trung đông
Bọn chúng đóng gông
Trôi sông tập thể
Giết nhiều vô kể
Trời bể có hay
Con nít đầu bay
Vẫn say chém giết
Thật là khủng khiếp
Hãm hiếp xảy ra
Khắp cả gần xa
Như là qủy dữ.
Ở xứ Bắc Hàn
Dân đói lầm tham
Bắt giam rất nhiều
Dân chúng tiêu đều
Tay chân bủn rủn
Từ ngày chú Ủn
Được đủn lên ngôi
Biết bao chuyện tồi
Lôi thôi cỏ đủ
Dân chủ mất tiêu
Thần chẳng báo nhiều
Bấy nhiêu cũng đủ.
Chuyện bao năm cũ
Dân chủ Phi Châu
U đầu sứt trán
Vũ khí buôn bán
Tuôn đến tràn lan
AK đầy tràn
Nga Tàu ác gian
Muôn ngàn vũ khí
Viện trợ tức thì
Sang Phi Châu đó
Chứng tỏ quan tâm
Đúng tầm giúp đỡ.
Bây giờ thần trở
Về nước Cờ Hoa
Tông Obama
Xông pha thế giới
Nào tới Trung Đông
Nào gồng Châu Á
Gánh cả Châu Phi
Khi nhiều khi ít
Trừng trị ISIS
Sang tít Irak
Đã là xuất sắc
Đáng bậc anh hai
Gánh nặng đôi vai
Không tài đâu dễ
Bốn bể Năm Châu
Quậy đên cả đầu
Kinh tế đầu tầu
Không ngầu sao được
Khi trước xem thường
Nay dương mắt ngó
Biết bao chuyện khó
Chứng tỏ năng lực
Rõ thực hiện ra
Rằng Obama
Thật là rõ nết.
Nối kết Âu Châu
Bà thủ tướng ngầu
Dẫn đầu nước Đức
Chỉ mặt anh Tầu
Chỉ đầu Putin
Hãy nên tử tế.
Thế giới kính nể
Kinh tế nước Đức
Vung sức bao thầu
Để Âu Châu vững
Nhiều nước chập chững
Kinh tế lửng chửng
Nổi chứng cứng đầu
Nhưng đâu có dễ
Hy Lạp đặt để
Cứu giúp nhiều bề
Kinh tế cạn kiệt
Làm thiệt cho nhau.
Một chuyện thương đau
Xảy ra chưa lâu
Ban bầu tờ báo
Charlie Hebdo
Vạch mặt khủng bố
Râu xồm cắt cổ
Bom nổ giết bừa
Bởi không ưa chúng
Mang súng đến nơi
Bắn nổ vang trời
Giết mười bảy người
Khơi khơi bên Pháp
Độc ác hãi hùng
Thật khùng kinh khủng
Dân chúng Âu Châu
Âu sầu thương tiếc
Liên kết biểu tình
Chứng minh đoàn kết
Phần đời xin hết.
Gần tết sang trang
Thần tấu rõ ràng
Bước sang phần đạo
Giáo Hoàng Francis
Ngủ ít làm nhiều
Muôn điều giải quyết
Tha thiết bình dân
Làm đủ thứ cần
Vào thăm công nhân
Giữa sân trời nắng
Ngài rất công bằng
Đi thẳng vô trong
Mua xong phần ăn
Ra căn tin trả
Tiền như người ta
Rất là thoải mái
Không gì ái ngại
Cô gái tính tiền
Thấy liền nhận ra
Vỡ òa rơi lệ
Ngài không cậu nệ
Bưng kệ mâm ra
Cái bàn giữa nhà
Chan hòa vui vẻ
Từ già tới trẻ
Lanh lẹ chụp hình
Ngài cũng hòa mình
Như chính công nhân
Ân cần thăm hỏi
Ăn nói vui tươi
Mọi người yêu qúy.
Cái chuyện ý nhị
Hoa kỳ - Cu Ba
Mấy mươi năm qua
Xảy ra căng thẳng
Ngài chẳng ngại ngần
Nhiều lần thơ qua
Giữa Obama
Cùng Rau Cu Ba
Đứng ra hòa giải
Qua lại có phần
Cấm vận nới ra
Ngài chính là nhà
Tài ba xuất chúng
Ngài đứng trung gian
Dẫu ngàn nguy khó
Chỉ nhìn việc đó
Chứng tỏ năng quyền
Chủ chiên vững chắc.
Từ chuyện Irak
Cho đến Iran
Sang Thổ Nhĩ Kỳ
Rồi đi Do Thái
Ngoại giao mền mại
Nhưng lại thẳng thắn
Bao nhiêu lo lắng
Đã lặng đi nhiều
Trái tim tình yêu
Thật nhiều kết qủa
Ánh sáng lan tỏa
Tới khắp gần xa
Hơn một năm qua
Tông du đây đó
Chứng tỏ rõ ràng
Gọn gàng muôn nỗi
Thay đổi giáo dân
Dự lễ thêm phần
Ân cần tôn kính
Điểm chính là đây
Bậc thầy thế giới
Ngài tới Đại Hội
Cơ hội Nam Hàn
Xe sang đón rước
Nhưng ngài từ khước
Chỉ bước lên xe
Nhỏ bé đơn sơ
Bất ngờ lắm kẻ
Mới mẻ chưa từng
Tin Mừng loan báo
Truyền đạo là đây
Theo Thầy qúa rõ
Chứng tỏ năng quyền
Mực tử gần chiên
Thuận Thiên rõ nét
Chẳng Mercedes
Nhưng là Kia
Với Đức Thánh Cha
Xa hoa đã đủ
Nhắn nhủ chủ chiên
Hãy sống nhân hiền
Đồng tiền cẩn thận
Làm bận cõi tâm
Làm hâm cõi tạm
Làm xám cõi lòng
Làm hỏng cõi tu
Khiêm nhu là chính
Quyền bính độc tài
Tay sai ma qủy
Làm hủy ơn Cha
Nên ta cẩn thận.
Ngài thật là bận
Nhưng vẫn chu toàn
Vũ hoàn bầu chọn
Ăn mặc rất gọn
Tươm tất trong năm
Số một thế giới.
Ngài mới tông du
Về khu Châu Á
Nước Sri Lanka
Dân khắp gần xa
Thật là phần khởi
Là bởi có duyên
Thánh Thần rọi xuyên
Năng quyền hướng dẫn
Cao tăng kính cẩn
Ngài vẫn an nhiên
Chùa chiền thăm viếng
Nổi tiếng chân tình
Hòa bình kiến tạo
Cả đạo lần đời
Muôn người qúy mến
Ngọn nến mang đi
Hòa bình thực thi.
Tiếp đến sang Phi
Kể gì sóng gió
Cần ngài đây đó
Soi tỏ đêm đen
Thế giới ngợi khen
Sang hèn yêu qúy
Ngài luôn chú ý
Thành thị thôn quê
Tuôn về thủ đô
Trầm trồ tham dự
Số người đầy ứ
Nhưng cứ tươi cười
Hơn sáu triệu người
Đầy trời tham dự
Nhưng vẫn trật tự
Dưới sự mưa gió
Điều này chứng tỏ
Chỉ có Chúa làm
Mới kham cho nổi
Khu vực nóng hổi
Bão thổi năm qua
Hải yến xóa nhòa
Càn qua tất cả
Thật là tơi tả
Ngài đã đến thăm
Xa xăm báo tố
Dân khổ ngài thương
Ngôi trường trẻ nhỏ
Bị bỏ ngoài đời
Tuyệt vời! rơi lệ.
Bây giờ thần kể
Chuyện về Việt Nam
Công Giáo hân hoan
Nhờ Chúa ban ơn
Mừng Đức cha Nhơn
Tước Hồng Y mới
Ban bởi Thánh Cha
Tin đã loan ra
Gần xa hoan hỷ.
Thần thêm một tý
Những gì nơi đây
Sớ báo đã dầy
Đủ đầy không thiếu
Giờ thần xin kiếu
Dâng chiếu lên Ngài
Xin sai Thánh chỉ
Trị vì năm mới
Tiến tới tự do
Người dân ấm no
Hết lo tai họa
Năm Ngọ sắp về
Năm Dê tiến tới
Dương gian đổi mới
Phơi phới hân hoan
Công lý làn tràn
Huy hoàng xuân đến
Lửa mến thắp lên
Lấy hên ngày tết
Thần tâu đã hết.
Câu kết viết to
Xin Ngài ban cho
Toàn dân ấm no
Ở trong năm mới
Thế giới hòa bình
Trái đất đẹp xinh
Bình Minh chiếu sáng
Lòng người quang đãng
Sáng sủa tươi hoa
Bao la quảng đại
Đừng mãi hận thù
Hãy sống khiêm nhu
Xây dựng hoà bình
Chân tình mong đợi
Lòng người đổi mới
Năm tới Ất Mùi
Thần vui kính chúc
Thánh Thượng vạn phúc
Muôn dân phủ phục
Thiên Chúa cửu trùng
Vạn phúc, vạn tuế
Vạn tuế, vạn tuế!!!
Vạn vạn tuế!!!
Thanh Sơn 11-02-2015
23 tháng chạp
- Năm Mùi, tìm hiểu DÊ trong Kinh Thánh
- Tết, Thập Giá và Sự Chết
- Đức Thánh Cha thăm Quốc hội lưỡng viện Hoa Kỳ ngày 24-9-2015
- Lịch sử đạo Hồi
- Đức Tổng Giusse Ngô Quang Kiệt chủ sự Thánh lễ Ngày đời sống Thánh hiến
- Đức Hồng Y Phêrô dâng lễ cầu nguyện cho đời sống thánh hiến tại giáo xứ Thái Hà
- Có hàng triệu trẻ em vô tội tử đạo ngày nay
- ĐGM Kontum: Nền giáo dục VN coi trọng chữ mà xem thường nghĩa
- Ngày Thánh Hiến 2015 tại TGP Sàigòn
- Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ nhân Ngày Đời Sống Thánh Hiến