Tin nổi bật
Năm Mùi, tìm hiểu DÊ trong Kinh Thánh
VRNs (11.02.2015) – Sài Gòn – Năm 2015 là năm Ất Mùi, cầm tinh con Dê. Ất Mùi là sự kết hợp thứ 32 trong hệ thống Can Chi (Thiên Can, Địa Chi) của người Á Đông, và là sự kết hợp của “can” Ất là âm (đối với dương) với “chi” Mùi là Dê, theo “hành” Mộc (trong ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Thổ, Hỏa). Trong 12 con giáp, Dê là con vật thứ 8.
Cách đây 300 năm, năm 1715 (số La Mã: MDCCXV) cũng là năm Ất Mùi, bắt đầu vào thứ Ba theo lịch Gregory (hoặc một năm thường bắt đầu vào thứ Sáu theo lịch Julius, chậm hơn 11 ngày).
Dê là con vật hữu ích và hiền hòa, nhưng Dê luôn bị mang tiếng xấu. Dê được nuôi nhiều, cả thời xưa lẫn thời nay. Thịt Dê ngon, sữa Dê ngọt, tốt cho sức khỏe. Các món Dê không chỉ ngon, mà còn được dùng để chữa nhiều chứng bệnh. Đúng là “nhất cử lưỡng tiện” vậy!
Dê là một trong số ít các động vật được nhắc tới trong Kinh Thánh – cả Cựu ước và Tân ước. Trong Cựu ước, Dê là con vật được ưa thích, là biểu tượng đẹp. Trong Tân ước, Dê là con vật không được ưa thích, là biểu tượng xấu.
Xuân về, Tết đến, chúng ta có thời gian rảnh để vui chơi, nghỉ ngơi. Nhân dịp Xuân Ất Mùi, chúng ta cùng xem Dê xuất hiện trong Kinh Thánh như thế nào, tốt hay xấu, và cũng là dịp xem lại những phần Kinh Thánh mà có thể nói rằng hiếm khi chúng ta có thời gian ngó tới, đặc biệt là dịp để tự xét mình. Vui Xuân, ăn Tết, nhưng vẫn luôn tâm niệm lời Đức Giêsu Kitô vừa nhắn nhủ vừa khuyến cáo: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).
DÊ TRONG CỰU ƯỚC
- Thiên Chúa kêu gọi ông Áp-ram và hứa: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12:1-3).
Ông Áp-ram được 75 tuổi khi ông rời Kha-ran. Ông Áp-ram đem theo vợ là bà Xa-rai, cháu là ông Lót, và mọi tài sản họ đã gầy dựng được, cùng với gia nhân họ đã có tại Kha-ran, đi tới đất Ca-na-an.
Khi nạn đói hoành hành trong xứ ấy, và ông Áp-ram xuống trú ngụ ở Ai-cập. Khi gần vào Ai-cập, ông nói với bà Xa-rai: “Bà coi, tôi biết bà là một người phụ nữ có nhan sắc. Khi người Ai-cập thấy bà, họ sẽ nói: ‘Vợ hắn đấy!’, họ sẽ giết tôi và để cho bà sống. Vậy xin bà cứ nói bà là em tôi, để vì bà, người ta xử tốt với tôi, và nhờ bà, tôi được sống” (St 12:11-13). Quả đúng như ông Áp-ram dự đoán. Khi họ đến Ai-cập, người Ai-cập thấy vợ ông rất xinh đẹp. Quan lại của Pha-ra-ô thấy bà thì ca tụng bà trước mặt Pha-ra-ô, và bà bị đưa vào đền Pha-ra-ô. Vì bà, người ta đã xử tốt với ông Áp-ram. Ông được chiên, dê, bò, lừa, tôi trai tớ gái, lừa cái, lạc đà. Tại vì bà Xa-rai, Đức Chúa giáng những tai ương lớn xuống Pha-ra-ô và gia đình vua. Pha-ra-ô bèn cho gọi ông Áp-ram đến và nói: “Ngươi làm gì ta thế? Tại sao ngươi đã không khai với ta rằng: nàng là vợ ngươi? Tại sao ngươi lại nói với ta: ‘Nàng là em tôi’, khiến ta đã lấy nàng làm vợ? Bây giờ, vợ ngươi đấy, hãy nhận lấy và đi đi!” (St 12:18-19). Sau đó, Pha-ra-ô ra lệnh cho người của vua tống ông Áp-ram đi, cùng với vợ ông và tất cả những gì ông có.
Sau các việc đó, có lời Đức Chúa phán với ông Áp-ram trong một thị kiến rằng: “Hỡi Áp-ram, đừng sợ, Ta là khiên che thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn” (St 15:1). Người còn phán với ông: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu” (St 15:7). Ông thưa: “Lạy Đức Chúa, làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” (St 15:8). Người phán với ông: “Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non” (St 15:9). Ông làm theo lệnh Người truyền. Ông xẻ đôi những con vật ấy, đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì ông không xẻ.
Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. Hôm đó, Đức Chúa lập giao ước với ông Áp-ram: “Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai-cập đến Sông Cả, tức sông Êu-phơ-rát, đất của những người Kê-ni, Cơ-nát, Cát-môn, Khết, Pơ-rít-di, Ra-pha, E-mô-ri, Ca-na-an, Ghia-ga-si và Giơ-vút” (St 15:18-21). Ông Áp-ram trở thành Tổ phụ Áp-ra-ham.
- I-xa-ác là con của ông Áp-ra-ham. Khi ông I-xa-ác đã già, mắt ông loà không trông thấy nữa. Ông gọi con trai lớn của ông là Ê-xau đến, ông nói: “Con thấy không, cha già rồi, không biết chết ngày nào. Bây giờ con hãy lấy khí giới của con, ống tên và cây cung của con, ra đồng săn thú cho cha. Con hãy làm cho cha một món ăn ngon như cha thích, rồi đem đến cho cha ăn, để cha đích thân chúc phúc cho con trước khi chết” (St 27:2-4). Lúc đó, bà Rê-bê-ca nghe được. Khi Ê-xau đi ra đồng săn thú, bà Rê-bê-ca nói với con trai là Gia-cóp: “Này, mẹ vừa nghe cha con nói với anh con rằng: ‘Con hãy đem thịt rừng về cho cha và làm cho cha một món ăn ngon, để cha ăn và chúc phúc cho con trước mặt Đức Chúa, trước khi cha chết’. Giờ đây, con ơi, hãy nghe lời mẹ mà làm như mẹ dạy con. Con đến bầy súc vật bắt cho mẹ hai con dê đực non và mập; mẹ sẽ làm thành một món ăn ngon cho cha con như cha con thích. Con sẽ đem đến cho cha con và cha con sẽ ăn, để người chúc phúc cho con trước khi chết” (St 27:7-10).
Người Ê-xau đầy lông lá, người Gia-cóp nhẵn nhụi. Gia-cóp sợ cha sẽ rờ và biết bị lừa, cha nguyền rủa thay vì chúc phúc. Bà Rê-bê-ca bảo: “Con ơi, nếu con bị nguyền rủa, mẹ sẽ gánh cho; cứ nghe lời mẹ và đi bắt dê cho mẹ” (St 27:13). Gia-cóp đi bắt dê và làm theo lời mẹ dặn. Đàn bà nham hiểm khôn lường! Qquả thật, bà Rê-bê-ca lấy chiếc áo sang nhất của Ê-xau để mặc cho Gia-cóp. Bà lấy da dê non mà bọc lấy tay và phần cổ nhẵn nhụi của cậu, rồi bà đặt món ăn ngon và bánh đã làm vào tay Gia-cóp để đem dâng cho cha là ông I-xa-ác (St 27:16).
Gia-cóp được cha chúc phúc, cướp mất quyền gia trưởng của Ê-xau. Chuyện đời ngày nay cũng vẫn có những chuyện huynh đệ tương tàn, giành nhau đủ thứ, kể cả những gì nhỏ bé nhất. Thật buồn thay!
- Gia-cóp cất bước đi về đất Phương Đông để đến nhà ông La-ban, cậu nhìn và thấy một cái giếng ở ngoài đồng. Ở đó có ba đàn chiên đang nằm gần giếng, vì người ta cho các đàn vật uống nước giếng này. Trên miệng giếng, có một tảng đá lớn. Khi các đàn vật đã tụ tập đông đủ, người ta lăn tảng đá ra khỏi miệng giếng và cho chiên uống, rồi lại đưa tảng đá về chỗ cũ trên miệng giếng. Gia-cóp hỏi họ ở đâu đến. Họ cho biết từ Kha-ran đến. Cậu hỏi thăm về ông La-ban, con cháu ông Na-kho. Họ trả lời là biết. Cậu hỏi ông la-ban có được bình an không. Họ trả lời: “Ông ấy được bình an; cô Ra-khen, con gái ông ấy, đang đến cùng với chiên và dê kia kìa” (St 29:6).
Họ còn đang nói chuyện với nhau thì cô Ra-khen đến cùng với chiên và dê của cha cô, vì cô là người chăn súc vật. Gia-cóp vừa nhìn thấy cô Ra-khen, con gái ông La-ban, anh của mẹ cậu, cả chiên và dê của ông La-ban, cậu liền lăn tảng đá ra khỏi miệng giếng, cho chiên và dê của ông La-ban uống. Gia-cóp hôn cô Ra-khen rồi oà lên khóc. Gia-cóp nói cho cô Ra-khen biết cậu là anh em họ hàng với cha cô và là con trai bà Rê-bê-ca; cô liền chạy về báo tin cho cha. Ông La-ban vừa nghe nói đến Gia-cóp, con của em gái ông, liền chạy ra đón, ôm cậu mà hôn, rồi đưa vào nhà. Cậu kể lại cho ông La-ban hết mọi việc. Ông La-ban nói: “Cháu đúng là cốt nhục của bác” (St 29:10). Gia-cóp yêu Ra-khen nên bằng lòng làm việc không công 7 năm để được cưới nàng làm vợ, bởi vì Gia-cóp quá đỗi yêu nàng Ra-khen duyên dáng và có nhan sắc hơn cô chị, nàng Lê-a. Nhưng ông La-ban lừa Gia-cóp, không chịu giao Ra-khen, nên Gia-cóp vì yêu nàng Ra-khen mà phải làm không công thêm 7 năm nữa. Yêu có khác, bi nhiêu thì bi!
- Sau đó Gia-cóp được vợ là Ra-khen. Khi Ra-khen sinh được Giu-se, Gia-cóp xin ông La-ban cho về quê hương xứ sở. Ông La-ban muốn trả công cho con rể, nhưng Gia-cóp từ chối và chỉ đề nghị: “Hôm nay con sẽ đi qua tất cả đàn chiên và dê của cha, cha hãy để riêng ra mọi chiên con lốm đốm và lấm chấm, mọi chiên con đen tuyền trong số chiên, và con nào lấm chấm và lốm đốm trong số dê cái: đó sẽ là công xá của con. Mai ngày, khi cha đến kiểm soát công xá của con, sự lương thiện của con sẽ làm chứng cho con: Tất cả những con dê không lấm chấm và lốm đốm, những con chiên không đen tuyền trong đàn vật của con, sẽ là của ăn cắp” (St 30:32-33). Ông La-ban đồng ý. Ngày hôm ấy, ông để riêng ra các dê đực vằn và lấm chấm, mọi dê cái lốm đốm và lấm chấm, mọi con vật có vệt trắng, và mọi con chiên đen tuyền; và ông giao chúng cho các con trai ông. Rồi ông để khoảng cách ba ngày đường giữa ông và ông Gia-cóp. Ông Gia-cóp thì chăn những chiên dê còn lại của ông La-ban.
- Khi đã giàu có, ông Gia-cóp nghe được những lời của các con trai ông La-ban nói rằng: “Gia-cóp đã lấy tất cả tài sản của cha chúng ta, và nhờ tài sản của cha chúng ta mà làm nên cơ đồ ấy”. Ông Gia-cóp nhìn nét mặt ông La-ban và thấy nhạc phụ không còn như xưa nữa, ông vâng lời Đức Chúa trở về quê hương. Ông Gia-cóp sai người đi gọi bà Ra-khen và bà Lê-a ra ngoài đồng, đến chỗ đàn chiên dê của ông, và nói với họ: “Tôi thấy rằng nét mặt của cha các bà đối với tôi không còn như xưa nữa; nhưng Thiên Chúa của cha tôi đã ở với tôi. Chính các bà biết rằng tôi đã phục vụ cha các bà bằng tất cả sức lực của tôi. Cha các bà đã đánh lừa tôi, và đã đổi công xá của tôi mười lần, nhưng Thiên Chúa đã không để cho ông ấy làm hại tôi. Mỗi khi ông nói những con lốm đốm sẽ là công xá của tôi, thì tất cả chiên và dê đẻ ra những con lốm đốm; mỗi khi ông nói những con vằn sẽ là công xá của tôi, thì tất cả chiên dê đẻ ra những con vằn. Thiên Chúa đã lấy đàn vật của cha các bà mà cho tôi. Vào thời chiên và dê giao nhau, tôi ngước mắt lên và chiêm bao thấy những con dê đực phủ những con cái thì vằn, lốm đốm và khoang” (St 31:5-10). Quả thật, Thiên Chúa luôn bảo vệ và nâng đỡ những người thật thà và chân chính.
- Giu-se được mười bảy tuổi thì đi chăn chiên và dê với các anh. Cậu đi với các con trai bà Bin-ha và các con trai bà Din-pa, các bà vợ của cha cậu. Cậu mách cha tiếng đồn không hay về họ. Ông Ít-ra-en yêu Giu-se hơn tất cả các con, vì ông đã già mới sinh được cậu, và ông may cho cậu một áo chùng dài tay. Các anh cậu thấy cha yêu cậu hơn tất cả các anh thì sinh lòng ghét cậu và không thể nói năng tử tế với cậu. Lòng ghen ghét và đố kỵ thật đáng sợ!
Giu-se chiêm bao, cậu thuật lại cho các anh, khiến họ càng ghét cậu thêm. Cậu kể: “Em lại chiêm bao thấy mặt trời, mặt trăng và mười một ngôi sao đang sụp xuống lạy em” (St 37:9). Các anh ghen tức với câu, cha cậu cũng mắng câu. Khi đi chăn chiên, các anh định thả cậu xuống giếng để sát hại cậu, chỉ có Rưu-vên thương cậu. Những lái buôn người Ma-đi-an đi qua đó kéo Giu-se lên khỏi giếng, các anh bán cậu cho người Ít-ma-ên giá 20 đồng bạc. Những người này đưa Giu-se sang Ai-cập.
Các anh lấy áo chùng của Giu-se, giết một con dê đực, rồi nhúng áo chùng vào máu để chạy tội, làm chứng cớ giả là Giu-se bị thú dữ ăn thịt. Người cha tưởng con trai mình đã bị nạn thật. Ông Gia-cóp xé áo mình ra, quấn áo vải thô ngang lưng và để tang con trai lâu ngày. Tất cả các con ông đến an ủi ông, nhưng ông không chịu cho người ta an ủi; ông khóc thương cậu và nói: “Cha sẽ để tang mà xuống với con cha ở âm phủ” (St 37:35).
- Ngày tháng trôi qua, người con gái ông Su-a, là vợ ông Giu-đa, qua đời. Mãn tang vợ, ông Giu-đa cùng với bạn là ông Khi-ra, người A-đu-lam, lên Tim-na gặp các thợ xén lông chiên của ông. Người ta báo cho Ta-ma hay: “Cha chồng của chị đang lên Tim-na xén lông chiên của ông ấy!”. Nàng liền bỏ áo bà goá, lấy khăn trùm lên, phủ kín mình, rồi ngồi ở lối vào Ê-na-gim, một thành nằm trên đường đi Tim-na. Nàng làm thế vì thấy rằng Sê-la đã lớn mà người ta không cho nàng làm vợ cậu.
Ông Giu-đa trông thấy nàng, tưởng là một gái điếm, vì nàng đã che mặt. Ông rẽ qua phía nàng bên lề đường và nói: “Cho tôi đến với cô”. Ông không biết nàng là con dâu ông. Nàng hỏi: “Ông cho em gì để đến với em?”. Ông đáp: “Tôi sẽ bắt một con dê con trong đàn gửi đến cho cô”. Nàng lại nói: “Vậy xin ông cho em một vật làm tin, cho tới khi ông gửi đến”. Ông hỏi: “Tôi phải cho cô vật gì làm tin?”. Nàng đáp: “Chiếc ấn của ông, sợi dây đeo ấn và cây gậy ông cầm ở tay”. Ông đưa cho nàng những thứ đó, rồi đến với nàng, và nàng có thai với ông. Nàng đứng lên, đi khỏi, bỏ khăn trùm và mặc lại áo bà goá (St 38:15-19).
Ông Giu-đa nhờ người bạn ở A-đu-lam mang dê con đến, để lấy lại vật làm tin từ tay người đàn bà, nhưng ông này không tìm thấy nàng. Ông này hỏi người địa phương: “Cô điếm thần ở Ê-na-gim vẫn ngồi trên đường đâu rồi?”. Họ đã trả lời: “Ở đây chẳng hề có điếm thần”. Ông về nói với ông Giu-đa: “Tôi không tìm thấy cô ta. Người địa phương còn nói là ở đấy chẳng hề có điếm thần”. Ông Giu-đa nói: “Cô ta cứ việc giữ những thứ ấy! Miễn sao chúng ta đừng bị chê cười. Tôi quả đã gửi con dê con này, còn anh lại không tìm thấy cô ấy!” (St 38:20-23). Về sau, bà này sinh đôi là Pe-rét và De-rác.
- Sách Lê-vi cho biết cách thức dâng của lễ: (a) “Nếu người ấy tiến dâng chiên dê làm lễ toàn thiêu, một con chiên con hay một con dê, thì phải tiến dâng một con đực toàn vẹn. Người ấy sẽ sát tế nó bên cạnh bàn thờ, về phía bắc, trước nhan Đức Chúa” (Lv 1:10-11), (b) “Nếu lễ tiến của người ấy là một con dê, thì phải tiến dâng nó trước nhan Đức Chúa. Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật, và sẽ sát tế nó trước cửa Lều Hội Ngộ. Các con A-ha-ron sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ” (Lv 3:12).
- Giống như chiên, dê được dùng làm của lễ đền tội.
– Đối với chức sắc: “Nếu một đầu mục phạm tội, và vô ý làm một trong những điều mà mệnh lệnh Đức Chúa, Thiên Chúa của nó, cấm làm, khiến nó mắc lỗi, nếu người ta cho nó biết tội nó đã phạm, thì nó phải đưa đến một con dê làm lễ tiến, một con đực toàn vẹn. Nó sẽ đặt tay trên đầu con dê và sát tế trước nhan Đức Chúa, ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. Đó là lễ tạ tội. Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy máu lễ vật tạ tội và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ máu còn lại xuống chân bàn thờ dâng lễ toàn thiêu. Còn tất cả mỡ, tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, như mỡ của hy lễ kỳ an. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy khỏi tội của mình, và người ấy sẽ được tha” (Lv 4:22-26).
– Đối với thường dân: “Nếu một thường dân vô ý phạm tội, làm một trong những điều mà mệnh lệnh của Đức Chúa cấm làm, khiến nó mắc lỗi, nếu người ta cho nó biết tội nó đã phạm, thì vì tội đã phạm, nó sẽ đưa đến một con dê làm lễ tiến, một dê cái toàn vẹn. Nó sẽ đặt tay trên đầu lễ vật tạ tội và sát tế lễ vật tạ tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu (Lv 4:27-29).
– Các trường hợp phải dâng lễ đền tội: “Khi một người nào phạm tội, vì tuy là nhân chứng về một việc đã thấy hoặc đã biết, mà không chịu nói ra sau khi đã nghe lời khuyến cáo long trọng, thì nó phải mang lấy tội một mình; hoặc khi một người nào đụng đến bất cứ vật gì ô uế – như xác chết một dã thú ô uế, xác chết một gia súc ô uế, xác chết một con vật ô uế – mà không biết, thì nó trở nên ô uế và mắc lỗi; hoặc khi người ấy đụng đến một cái gì ô uế của người ta – những thứ ô uế khiến người ta trở nên ô uế – mà không biết, thì sau khi biết, nó mắc lỗi; hoặc khi một người nào lỡ lời mà thề làm điều gì bất kỳ tốt xấu – trong mọi điều một người có thể lỡ lời mà thề – nhưng không biết, thì sau khi biết, nó mắc lỗi về một trong những điều ấy. Vậy khi ai mắc lỗi về một trong những điều trên thì nó phải xưng thú tội mình đã phạm, rồi phải đưa đến dâng Đức Chúa lễ vật đền tội vì tội đã phạm, là một con chiên cái hay một con dê cái làm lễ tạ tội, và tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó khỏi tội (Lv 5:1-6).
- Đến ngày thứ tám, ông Mô-sê gọi ông A-ha-ron và các con ông ấy, cũng như các kỳ mục Ít-ra-en, và nói với ông A-ha-ron: “Ông hãy bắt một con bê để làm lễ tạ tội, với một con cừu đực để làm lễ toàn thiêu, cả hai còn toàn vẹn, và hãy tiến dâng chúng trước nhan Đức Chúa. Rồi ông hãy nói với con cái Ít-ra-en bắt một con dê đực để làm lễ tạ tội, một con bê với một con chiên, cả hai phải được một tuổi, toàn vẹn, để làm lễ toàn thiêu, một con bò đực và một con dê đực để làm lễ kỳ an dâng trước nhan Đức Chúa, và một lễ phẩm nhào với dầu; vì hôm nay Đức Chúa sẽ xuất hiện giữa anh em” ( Lv 9:2-4).
- Quy định đặc biệt về lễ tạ tội: “Ông Mô-sê hỏi đi hỏi lại về con dê đực dâng làm lễ tạ tội và thấy là nó đã bị thiêu. Ông nổi giận với hai người con còn lại của ông A-ha-ron là E-la-da và I-tha-ma, và nói: Tại sao các anh không ăn lễ vật tạ tội trong nơi thánh, vì đó là của rất thánh? Người đã ban nó cho các anh để xoá bỏ tội lỗi của cộng đồng, để cử hành lễ xá tội cho họ trước nhan Đức Chúa” (Lv 10:16-17).
- Việc làm trong ngày xá tội: A-ha-ron sẽ vào thánh điện như thế này: Nó phải bắt một bò tơ để làm lễ tạ tội và một cừu đực để làm lễ toàn thiêu. Nó sẽ mặc áo dài thánh bằng vải gai, mặc trên mình quần đùi vải gai, thắt đai lưng vải gai, đội mũ tế vải gai. Đó là phẩm phục thánh, nó sẽ lấy nước tắm rửa thân thể trước khi mặc vào. Nó sẽ nhận hai con dê đực để làm lễ tạ tội và một con cừu đực để làm lễ toàn thiêu, do cộng đồng con cái Ít-ra-en đem tới. A-ha-ron sẽ tiến dâng con bò tơ làm lễ tạ tội cho chính mình, và sẽ cử hành lễ xá tội cho mình và cho nhà mình. Nó sẽ lấy hai con dê và đặt trước nhan Đức Chúa, ở cửa Lều Hội Ngộ. Nó sẽ bắt thăm chọn giữa hai con dê: một thăm “dành cho Đức Chúa”, một thăm “dành cho quỷ A-da-dên”. A-ha-ron sẽ tiến dâng con dê trúng thăm “dành cho Đức Chúa” và dùng làm lễ tạ tội. Còn con dê trúng thăm “dành cho A-da-dên”, A-ha-ron sẽ để sống và đặt trước nhan Đức Chúa, để cử hành lễ xá tội trên nó và thả nó cho A-da-dên trong sa mạc (Lv 16:3-10).
- Thánh Vịnh cho biết rằng Dê được dùng làm lễ tế: “Con tiến dâng Ngài bò, chiên, dê béo tốt, làm lễ toàn thiêu nghi ngút bay lên” (Tv 66:15). Dân Ai-cập bị Thiên Chúa trừng phạt, Dê cũng bị vạ lây: “Người sai mòng đến cắn, ếch nhái làm tan hoang, cào cào ăn lúa má, châu chấu phá mùa màng; mưa đá huỷ vườn nho, sương muối diệt cây vả, dịch tàn sát chiên, dê, thời khí hại bò lừa” (Tv 78:45-48).
DÊ TRONG TÂN ƯỚC
- Giá trị tuyệt đối của Máu Đức Giêsu Kitô: “Người [Đức Kitô] đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta. Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy” (Dt 9:12-14).
- Máu giao ước của Thiên Chúa: “Sau khi ông Mô-sê công bố cho toàn dân mọi điều răn như đã ghi chép trong Sách Luật, ông lấy máu các con bê, con dê hoà lẫn với nước, rồi dùng len đỏ thắm và cành hương thảo mà rảy trên chính cuốn Sách Luật cũng như trên toàn dân và nói: Đây là máu giao ước, Thiên Chúa đã truyền cho anh em tuân giữ. Rồi, cũng theo cách thức đó, ông rảy máu vào lều thánh và mọi đồ phụng tự” (Dt 9:19-21).
- Máu bò và máu dê có giá trị trong Cựu ước, nhưng không còn giá trị trong Tân ước: “Năm này qua năm khác, chính những hy lễ đó nhắc cho người ta nhớ mình có tội. Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10:4-7).
- Vì Đức Tin, có nhiều người phải chịu đau khổ: “Có những người phải chịu nhạo cười và roi vọt, hơn nữa còn bị xiềng xích và bỏ tù; họ bị ném đá, bị cưa đôi, bị chết vì gươm; họ phải lưu lạc, mặc áo da cừu, da dê, chịu thiếu thốn, bị áp bức và hành hạ” (Dt 11:36-37).
- Trong dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” (Lc 15:29), trước đây gọi là dụ ngôn “Đứa Con Hoang Đàng”, người em đòi chia gia tài rồi đi ăn chơi hoang đàng chi địa. Miệng ăn, núi lở. Ở bước đường cùng, hết cách xoay xở, người em hối hận và quyết trở về với cha. Người em được cha đón nhận mà không trách móc, còn bảo các đầy tớ mở tiệc ăn mừng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng. Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Khi người anh từ ngoài đồng về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, hỏi người đầy tớ thì biết “thằng em trời đánh” vừa trở về và được cha cho làm thịt con bê béo để ăn mừng. Người anh liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng người cha ra năn nỉ. Anh ta so kè: “Cha coi đó, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, cha lại giết bê béo ăn mừng!”.
Người cha phân tích và giải thích chi li ngọn nguồn, người anh hiểu ra. Cả nhà cùng vui mừng đoàn tụ trong tình yêu thương của Thiên Chúa. Hình ảnh người anh và người anh là chính chúng ta, có khi chúng ta tội lỗi ngập đầu mà vẫn “chảnh”, có lúc chúng ta lại so hơn tính thiệt với chính những người xung quanh, thậm chí còn trách cả Thiên Chúa. Quả thật, “lỗi tại tôi mọi đàng” mà thôi!
- Dê là biểu tượng của những người bị nguyền rủa, trái ngược với chiên – biểu tượng của những người được chúc phúc trong ngày Chúa quang lâm. Trình thuật Mt 25:31-46 cho biết như vậy. Lúc đó, thật diễm phúc cho ai được phân loại là Chiên và ở bên phải, nhưng thật khốn nạn cho ai bị phân loại là Dê và ở bên trái!
Khi Con Người đến trong vinh quang, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Những người là Chiên được Thiên Chúa chúc phúc và cho hưởng trường sinh. Còn những người là Dê ở bên trái, Thiên Chúa tuyên án: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng”. Thế là hết đường cứu chữa, biện hộ kiểu nào cũng vô ích mà thôi. Từ đó, “người dê” phải ra đi để chịu cực hình muôn kiếp!
VĨ NGÔN
Hình ảnh con chiên và con dê rất gần gũi với người Do Thái từ xa xưa. Chúa Giêsu đã giáng sinh nơi máng cỏ tại một hang động có nhiều dê, chiên, lừa… Chúng thở hơi làm ấm Ngài trong hơi sương giá lạnh. Ngoài ra, hình ảnh con chiên và con dê chịu sát tế làm lễ hy sinh, trở thành của lễ đền tội cho dân Do Thái, mà không một lời than van. Trong Tân ước, tế vật đó chính là hình ảnh Chúa Giêsu gánh chịu mọi tội lỗi của nhân loại, Đấng mà Ngôn sứ Isaia gọi là “Người Tôi Trung” (Is 42, 49, 50 và 52), đã được Ngôn sứ Isaia tiên báo: “Tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50:5-6).
Và hằng ngày, trong các Thánh Lễ ở khắp thế giới đều vang lên lời kinh cầu nguyện tha thiết: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con…”.
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con, đặc biệt là trong mùa Xuân này, Tết Ất Mùi này. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Nguồn: DCCT
Tết, Thập Giá và Sự Chết
VRNs (08.02.2015) – Sài Gòn – Tết đang đến, Xuân đang về, chắc hẳn mọi người chộn rộn – dù ít hay nhiều. Đó là lẽ thường tình của con người. Nhưng Tết Nguyên Đán đặc biệt là hay trùng với Mùa Chay, đặc biệt hơn là ngày 30 Tết Ất Mùi (2015) lại là Thứ Tư Lễ Tro. Có lẽ Thiên Chúa đã cho Việt Nam lời nhắc nhở đặc biệt: Ăn Tết nhưng ĐỪNG QUÊN phận bụi tro của kiếp phàm nhân.
Ăn chay để hiệp thông với Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu Kitô. Cái chết của Ngài là ơn cứu độ của chúng ta. Đây là sự thật về cái chết của Ngài:
Cái chết của Chúa Giêsu là hoạt động yêu thương
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Nhiều Kitô hữu hiểu câu này và biết sức mạnh của câu này. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, đến nỗi bắt Con Ngài chết trên Thập Giá chuộc tội chúng ta, lòng thương xót quá đỗi kỳ lạ.
Cái chết của Chúa Giêsu làm chúng ta nhận biết tội lỗi
“Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (1 Pr 2:24). Chúa Giêsu nhận vác gánh nặng của chúng ta. Ngài chịu hình phạt vì tội lỗi của chúng ta.
Cái chết của Chúa Giêsu là lòng thương xót của Thiên Chúa
“Đức Giêsu cầu nguyện rằng: ‘Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm’. Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm” (Lc 23:34). Ngay trong khi chịu khổ nạn và hấp hối, Ngài vẫn nghĩ tới chúng ta. Ngài chịu đòn vọt, sỉ nhục, phỉ báng, nhưng Ngài vẫn tha thứ cho chúng ta. Lòng thương xót của Thiên Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của chúng ta. Điều đó dạy chúng ta phải tha thứ cho nhau như Chúa Giêsu đã làm.
Cái chết của Chúa Giêsu đem chúng ta trở về với Chúa Cha
“Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời. Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người” (Ep 2:4-7). Chúa Cha muốn Chúa Con sống trên thế gian và chịu chết. Qua cái chết của Ngài, chúng ta được tái lập mối quan hệ với Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa ban sự sống đời đời, lời hứa đó nhờ Máu của Chúa Giêsu đã đổ ra.
Cái chết của Chúa Giêsu chuyển thành sự phục sinh
“Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại. Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giêsu đã nói” (Lc 24:6-8). Chúa Giêsu phục sinh. Cái chết chỉ tạm thời. Vương quốc của Ngài ở trên trời. Chúng ta chờ mong ngày Chúa Giêsu quang lâm, ngày Ngài chiến thắng và hiển trị muôn đời.
TRẦM THIÊN THU
(Viết theoBeliefnet.com)
Đức Thánh Cha thăm Quốc hội lưỡng viện Hoa Kỳ ngày 24-9-2015
VATICAN. ĐTC Phanxicô sẽ phát biểu tại quốc hội lưỡng viện Hoa Kỳ ngày 24-9 năm nay. Đây sẽ là lần đầu tiên trong lịch sử một vị Giáo Hoàng đọc diễn văn trong một phiên nhóm chung của lưỡng viện quốc hội Mỹ.
Chủ tịch Hạ viện Mỹ, Ông John Boehner, tuyên bố như trên hôm 5-2-2015 và Phòng Báo chí Tòa Thánh xác nhận tin này.
Tổng giáo phận thủ đô Washington cũng ra thông cáo bày tỏ ”niềm vinh dự và vui mừng rất lớn được đón tiếp ĐTC Phanxicô tại Tổng giáo phận này, trong chương trình viếng thăm của ngài tại Hoa Kỳ vào tháng 9-2015.
”Chúng tôi vui mừng vì lời loan báo hôm nay (5-2-2015) của Chủ tịch Hạ nghị viện Hoa Kỳ, Ông John Boehner, cho biết ĐGH Phanxicô sẽ phát biểu trong phiên nhóm chung của Quốc hội, ngày 24-9-2015. Biến cố lịch sử này sẽ là một thời điểm ân phúc cho tất cả chúng ta. Chúng tôi cũng chờ đợi loan báo chính thức với nhiều chi tiết hơn về cuộc viếng thăm”
Cuộc viếng thăm của ĐTC tại trụ sở quốc hội Hoa Kỳ diễn ra trong khuôn khổ cuộc viếng thăm của ngài tại nước này, nhân dịp Đại hội các Gia đình Công Giáo thế giới lần thứ 8, diễn ra tại thành phố Philadelphia, bang Pennsylvania từ ngày 22 đến 25-9-2015.
Tuy chưa có chương trình chính thức, nhưng giới báo chí cho rằng ĐTC cũng sẽ viếng thăm và phát biểu tại trụ sở LHQ ở New York, viếng thăm giáo phận địa phương, và tại Đền thánh quốc gia Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Washington, ngài sẽ chủ lễ phong Hiển thánh cho chân phước Junipero Serra OFM, trước khi đến Đại hội gia đình Công giáo thế giới ở Philadelphia (SD 6-2-2015)
G. Trần Đức Anh OP
Lịch sử đạo Hồi
VRNs (05.02.2015) – Vietcatholic – Trong lịch sử thế giới, chưa từng có một tôn giáo nào bành trướng một cách mạnh mẽ và nhanh chóng cho bằng đạo Hồi. Từ một nhóm người du mục sống trong một ốc đảo heo hút giữa sa mạc Syro-Arabia đã mau chóng biến thành những con người đầy quyền lực tung hoành từ Cận Đông đến Âu Châu và từ Bắc Phi đến tận các nước Châu Á:
– Chỉ trong vòng 10 năm kể từ ngày giáo chủ Muhammad qua đời (632-642) quân Hồi Giáo Ả Rập đã chiếm trọn bán đảo Arabia (rộng gấp 8 lần Việt Nam), chiếm Iraq, Syria, Palestine, Ai Cập và phía Tây nước Iran.
- Trong 2 năm (648-649), quân Hồi chiếm Carthage, Tunisia.
Một điều làm cho cả thế giới kinh ngạc là lần đầu tiên người Ả Rập chiếm một nước Âu Châu, đó là Hy Lạp.
- Thừa thắng xông lên, người Hồi Giáo Ả Rập mở cuộc chiến tranh đánh Tây Ban Nha. Sau 5 năm, người Hồi chiến thắng đã chiếm trọn nước Âu Châu rộng lớn và nổi tiếng sùng đạo Công Giáo nhất thời bấy giờ.
- Năm 712, quân Hồi Giáo chiếm trọn Iran (Ba Tư) và dùng nước này làm bàn đạp tiến quân đánh chiếm các nước Trung Á ở phía nam nước Nga, chiếm vùng Bắc Ấn rộng lớn (nay là Pakistan và Afganistan) và xâm nhập phía Tây Trung Quốc – Quân Hồi bị quân nhà Đường chận lại tại sông Talas nên phải rút về Trung Á.
Sự xuất hiện và bành trướng của đạo Hồi trong thế kỷ 7 hung bạo dữ dội như cơn gió xoáy (tornado) khiến cho cả thế giới phải kinh hoàng.
Chúng ta thử tìm hiểu những nguyên nhân nào đã khiến cho đạo Hồi có thể bành trướng với tốc độ vũ bão như vậy. Các sử gia đã phân tích 3 nguyên nhân sau đây:
Nguyên nhân 1: Qua nhiều ngàn năm sống trên các cánh đồng cỏ ở sa mạc Syro-Arabia, kiếp sống lang thang của những người Ả Rập càng ngày càng trở nên khó khăn vì đất đai ngày càng trở nên khô cằn. Từ thế kỷ 6, bộ lạc Quraysh (tổ tiên của Muhammad) có sáng kiến bỏ nghề du mục để chuyển hẳn sang nghề thương mại. Họ tổ chức các cuộc đi buôn đường xa với những đoàn lữ hành (caravans) gồm hàng trăm người và rất nhiều ngựa, lạc đà để chở hàng hóa lương thực, lều vải, vũ khí… Dần dần, thị trường ngày càng được mở rộng, nhu cầu thương mại gia tăng, những đoàn lữ hành có thể gia tăng lên tới nhiều ngàn người.
Do nhu cầu tự vệ, mọi người trong đoàn lữ hành đều phải học cưỡi ngựa, cưỡi lạc đà, luyện tập sử dụng các thứ vũ khí như gươm giáo cung tên, kể cả võ thuật và chiến thuật quân sự. Ngoài ra, họ học nói nhiều ngoại ngữ, học cả địa lý và phong tục tập quán của các nước lân cận để gia tăng khả năng giao dịch thương mại. Trải qua nhiều thập niên, những thương gia (traders) Ả Rập trở thành những người đa tài, đa năng và đa hiệu. Họ chẳng những là những thương gia rành nghề mà còn là những quân nhân thiện chiến, kỹ luật và còn là những người lãnh đạo quần chúng.
Vào đầu thế kỷ 7, Mecca là thủ phủ của những người Quraysh đã trở nên một trung tâm thương mại lớn nhất tại Trung Đông. Những người Quraysh không còn có dáng dấp quê mùa nghèo khổ của thế kỷ trước nữa trái lại họ đã trở thành những người văn minh giàu có. Điều đó làm cho nhiều bộ lạc Ả Rập khác phải thèm muốn và cố gắng noi theo. Một trong những bộ lạc nổi tiếng hung dữ là bộ lạc Bedouins bắt chước bộ lạc Quraysh đã bỏ nghề du mục và tham gia vào các đoàn caravanscủa Mecca.
Vào giữa thế kỷ 7, gặp cơ hội đạo Hồi phát triển, các bộ lạc Ả Rập, nhất là Quraysh và Bedouin, đã nô nức nhập cuộc dùng tôn giáo làm phương tiện bành trướng lãnh thổ để thay đổi môi trường sống tại bán đảo Ả Rập quá cằn cỗi.
Nguyên nhân 2: Từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 7, toàn vùng Trung Đông và Bắc Phi bị hai đế quốc Byzantine và Sassanian thay phiên nhau thống trị. Đế quốc Byzantine là hậu thân của đế quốc La Mã, được Đại Đế Constantine thành lập năm 330, đặt thủ phủ tại hải cảng Byzantine của Hy Lạp. Từ đời Constantine (thế kỷ 4) đến đời hoàng đế cuối cùng của đế quốc Byzantine vào giữa thế kỷ 15, tất cả đều là những hoàng đế theo Ki Tô Giáo Đông Phương (Eastern Christian Church) sau này trở thành Chính Thống Giáo. Đế Quốc Sassanian là đế quốc Ba Tư, tồn tại 427 năm (từ năm 224 đến 651). Các hoàng đế của đế quốc Sassanian đều theo đạo Hỏa Giáo (Zoroastrianism). Cả hai đế quốc nói trên đánh nhau liên miên suốt 4 thế kỷ, đến đầu thế kỷ 7 thì cả hai đế quốc này đều bị kiệt quệ tạo nên một khoảng trống quyền lực (a power vacuum) tại Trung Đông và Bắc Phi. Do đó, những đoàn kỵ binh của Hồi Giáo Ả Rập đã tiến vào lãnh thổ của cả hai đế quốc này như tiến vào chỗ không người.
Nguyên nhân 3: Giáo lý đạo Hồi là sản phẩm của người Ả Rập nên được người Ả Rập đón nhận một cách dễ dàng và tự nhiên. Từ thời xa xưa, người Ả Rập đã chấp nhận niềm tin của Abraham, nghĩa là tin có Thiên Chúa (tiếng Ả Rập gọi là Allah) tin có Thiên đàng, Hỏa ngục, tin có các thiên thần v.v… Cho nên người Ả Rập không coi Hồi Giáo như một đạo ngoại lai mà là đạo cổ truyền của dân tộc. Văn thơ trong kinh Koran đối với người Ả Rập là những áng thơ văn tuyệt tác. Mỗi khi họ đọc kinh Koran là một dịp họ ngâm thơ, họ cảm thấy những vần thơ đó rất hấp dẫn vì rất hợp với khiếu thẩm mỹ văn chương của họ. Ý niệm thánh chiến (Jihad) và ý niệm tử đạo (martyrdom) hoàn toàn phù hợp với tâm lý vốn hung bạo của người Ả Rập vì họ rất quen thuộc với cuộc sống đầy bất trắc tại sa mạc. Kinh Koran mô tả thiên đàng rất hấp dẫn đối với các chiến binh trẻ tuổi: Sau khi chết trận, được coi như tử đạo, sẽ được Chúa cho lên thiên đàng để hưởng đủ lạc thú cho đến muôn đời. Lạc thú độc đáo nhất mà chỉ đạo Hồi mới có, đó là những người chết trận hoặc tử đạo đều được những cô gái trinh tuyệt đẹp đón tiếp và phục vụ lạc thú tình dục cho đến muôn đời vì mọi người ở thiên đàng đều trẻ mãi không già! Niềm tin đặc biệt này đã là một yếu tố tâm lý quan trọng khiến cho những người lính Hồi Giáo trở thành những chiến sĩ rất dũng cảm trong các cuộc thánh chiến. Chỉ vì cuồng tín, những đoàn quân Hồi Giáo đã lập nên những chiến công oanh liệt như những kỳ tích vượt xa sự dự tưởng của mọi người.
Những cuộc chiến tranh mở rộng nước Chúa của Hồi Giáo (Kingdom of Allah) từ ngày lập đạo tới nay có thể được chia ra làm hai thời kỳ:
- Thời kỳ I- từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 13: Đạo Hồi bành trướng và phát triển tạo thành một số quốc gia theo đạo Hồi, đứng đầu cộng đồng Hồi Giáo là một vị vua được gọi là Caliph, có nghĩa là “người kế vị giáo chủ Muhammad về phương diện thế quyền “. Xin ghi thêm ở đây là đạo Hồi tin giáo chủ Muhammad là thiên sứ cuối cùng của Allah cho nên không một ai có quyền tự xưng là kẻ thừa kế của Ngài về phương diện thần quyền.
- Thời kỳ II- từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20: Do những biến cố đặc biệt của thế giới đã đưa đến sự hình thành ba đế quốc Hồi Giáo. Trước hết là sự xâm lăng của quân Mông Cổ chiếm các nước Trung Đông và sau đó chiếm các nước Bắc Ấn và nhiều nước Á Châu khác tạo thành một đế quốc Mông Cổ rộng lớn. Từ cuối thế kỷ 13, nhiều hoàng đế Mông Cổ theo đạo Hồi đã tạo nên đế quốc Hồi Giáo Mughul (do chữ Mongol mà ra). Trong thế kỷ 15, tại Âu Châu, người Thổ Nhĩ Kỳ Hồi Giáo chế ra thuốc súng và lập ra binh chủng pháo binh đầu tiên trên thế giới. Dựa vào sức mạnh quân sự, người Thổ Hồi Giáo xua quân đánh chiếm nhiều nước trên cả 3 lục địa Âu, Á, Phi và lập nên đế quốc Ottoman. Cuối cùng, dân tộc Azerbaizan ở tây nam biển Caspian bỗng nhiên trở nên hùng mạnh vào đầu thế kỷ 16, cất quân đánh chiếm nhiều nước Âu Châu và Trung Đông tạo thành đế quốc Safavids theo giáo phái Shiite.
I. THỜI KỲ CAI TRỊ CỦA CÁC CALIPHS (The Caliphate Rulers)
Bốn người kế vị đầu tiên của Muhammad (632-661):
Danh từ Hồi Giáo Ả Rập gọi chung cả bốn vị thừa kế đầu tiên của giáo chủ Muhammad là RASHIDUN – Họ được coi là 4 trụ cột của Hồi Giáo trong thời kỳ sơ khai. Họ đã lần lượt thay thế nhau trong 29 năm kể từ khi Muhammad qua đời, nhưng những việc làm của họ đã có những ảnh hưởng hết sức lớn lao cho sự tồn vong của đạo Hồi. Bốn vị đó là : Abu Bakr, Umar Khattab, Uthman Affan và Ali Talib.
1. Abu Bakr (632-634). Sau khi Muhammad qua đời, cộng đồng Hồi Giáo non trẻ lâm vào tình trạng hỗn loạn vì không có lãnh đạo. Không một ai được đa số tín đồ Hồi Giáo tín nhiệm bầu lên làm nguời kế vị Muhammad. Trước tình thế bế tắc đó, Abu Bakr tự động đứng lên dành quyền lãnh đạo. Ông là một thương gia giàu có và có uy tín bậc nhất ở Mecca. Ông đã nghiêm khắc ra 2 lệnh cấm khẩn cấp để bảo vệ đạo Hồi và cộng đồng Hồi Giáo:
- Tuyệt đối cấm không một tín đồ nào được rời bỏ cộng đồng Hồi Giáo (Islamic confederacy)
- Không một ai được tự xưng là tiên tri vì Muhammad là vị tiên tri cuối cùng của Thiên Chúa trên thế gian này.
Abu Bakr đã mau chóng phá tan các âm mưu chia rẽ cộng đồng Hồi Giáo và chỉ sau 2 năm, toàn bán đảo Ả Rập đã theo đạo Hồi. Bán đảo Ả Rập rất rộng lớn, (gấp 8 lần diện tích Việt Nam) hiện được chia thành nhiều quốc gia độc lập: Saudi Arabia, Yemen, Quatar, Omar và Emerite.
2. Umar Khattab (634-644). Sau khi Abu Bakr qua đời, Umar được bầu làm người kế vị (Caliph) cai quản cả một cộng đồng Hồi Giáo rộng lớn trên toàn bán đảo Ả Rập.
Umar là một thiên tài quân sự kiệt xuất trong lịch sử Hồi Giáo. Ông đã ban hành trên toàn lãnh thổ Ả Rập những biện pháp sau đây:
- Để bảo toàn lực lượng Hồi Giáo, các bộ lạc trong Cộng đồng đạo Hồi tuyệt đối không được đánh nhau.
- Mọi người nam giới trong các bộ lạc trên lãnh thổ bán đảo Ả Rập đều là các binh sĩ, tất cả đều được huấn luyện quân sự và được sắp xếp thành các đơn vị quân đội. Umar tự xưng là “Tư lệnh của các tín đồ” (The commander of the faithful). Sau hai năm huấn luyện các binh sĩ và trang bị vũ khí đầy đủ, Umar bắt đầu mở mang nước Chúa bằng sức mạnh quân sự:
* Năm 636, Umar đích thân chỉ huy quân Hồi Giáo chiếm Iraq và Syria.
* Năm 637, Umar chiếm toàn lãnh thổ của đế quốc Sassanian (Ba Tư) và chiếm thành phố lớn nhất của đế quốc Byzantine là Anatolia.
* Năm 638, Umar xua quân chiếm Palestine và thánh địa Jerusalem.
* Năm 641, Umar chiếm toàn bộ các nước Bắc Phi gồm Ai Cập, Algeria, Tunisa và Maroc.
Một điều đáng chú ý là những đoàn quân Hồi Giáo đã tiến chiếm những vùng đất xa xôi thuộc nhiều hướng khác nhau nhưng vị chỉ huy tối cao là Umar vẫn đặt bản doanh ở Medina, một ốc đảo trong sa mạc Syro – Arabia. Ông chỉ huy các đoàn quân Hồi Giáo trên những sa bàn và những bản đồ tại văn phòng của ông. Dưới sự lãnh đạo kiệt xuất của Umar trong 10 năm, Hồi Giáo từ một giáo phái nhỏ ở sa mạc đã biến thành một đế quốc rộng lớn. Các tín đồ Hồi Giáo cho đó là một phép lạ của Allah, trong khi Âu Châu bắt đầu cảm thấy e ngại trước sự lớn mạnh của một tôn giáo mới.
Họ gọi đạo Hồi là “đức tin của bạo lực” (A violent faith) hoặc là một “tôn giáo quân phiệt” (a militaristic religion). Vào một ngày định mệnh trong tháng 11 năm 644, trong khi Umar đang cầu nguyện trong đền thờ tại Medina thì bị một tù binh người Ba Tư đâm chết.
3. Uthman (644-656). Uthman là cánh tay mặt và phục vụ dưới trướng của Umar 10 năm. Uthman đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm về tài thao lược quân sự của người tiền nhiệm. Vào lúc nầy, Hồi Giáo là một quyền lực quân sự lớn ở trong vùng vì họ đã tịch thu được rất nhiều chiến lợi phẩm quân sự và tích lũy được rất nhiều tài nguyên kinh tế dự trữ tại các vùng chiếm đóng. Dưới sự lãnh đạo tài ba của Uthman trong 12 năm, quân Hồi đã lập nên nhiều kỳ tích chưa từng thấy:
- Trước hết, quân Hồi chiếm Hy Lạp và nhiều nước phía đông Địa Trung Hải.
- Mấy năm sau, một cánh quân tiến về phía Tây chiếm Libya.
- Một cánh quân khác tiến về phía đông chiếm nước Âu Châu Armenia, tiến vào miền Caucase của Nga. Trong khi đó một cánh quân khác tràn xuống phía nam đánh chiếm Bắc Ấn Độ (tức Afganistan và Pakistan ngày nay).
Tới lúc này, Hồi Giáo đã thành một đế quốc mênh mông kéo dài từ Âu sang Á tới Bắc Phi. Những quân lính Ả Rập Hồi Giáo hầu hết đều đã xa nhà trên 10 năm, phần đông đều cảm thấy chán nản. Nhiều tướng lãnh Hồi Giáo xa chủ tướng đã quá lâu nên cũng mất đi tình thân ban đầu.
Năm 656, một nhóm tướng và binh sĩ bất mãn đã bất thần trở về Medina vây bắt và giết chết Uthman tại chỗ. Nhóm này đưa Ali Talib lên làm vị Caliph thứ tư của Hồi Giáo.
4. Ali Talib (656-662). Vụ sát hại Uthman để đưa Ali lên thay là một biến cố vô cùng tai hại cho Hồi Giáo trong suốt nhiều thế kỷ qua và có thể còn kéo dài mãi mãi về sau. Ali là em họ và đồng thời là con rể của Muhammad. Khi vừa được bầu lên làm Caliph, Ali đã gặp phải sự chống đối của Muawiyah là người nhà của Uthman. Muawiyah lúc đó là quan toàn quyền Hồi Giáo cai trị Syria lên tiếng chỉ trích Ali đã không trừng phạt kẻ sát hại Uthman. Ali mang quân đến đánh Muawiyah nhưng hai bên đánh nhau khá lâu không phân thắng bại nên phải ngưng chiến. Năm 662, Ali bị ám sát chết. Muawiyah tự cho mình là người đang nắm quyền lực quân sự mạnh nhất nên tự xưng là Caliph lãnh đạo cộng đồng Hồi Giáo. Y tự ý dời thủ đô Hồi Giáo từ Medina về Damacus lúc đó là thủ đô của Syria. Muawiyah mở đầu cho một triều đại Hồi Giáo kéo dài tới 6 thế kỷ. Đó là triều đại Umayyad (Umayyad Dynasty) gồm những vị vua cai trị các nước Hồi Giáo, tất cả đều tự xưng là Caliph (661-1250). Do đó, tất cả các vua Hồi Giáo thuộc triều đại Umayyad đều được gọi chung là “Caliphate Rulers”, có nghĩa là các nhà lãnh đạo cộng đồng với tư cách là người kế vị Muhammad.
Riêng cá nhân Muawiyah cai trị toàn bộ cộng đồng Hồi Giáo rộng lớn trong 19 năm. Ông biến những người theo ông thành một giai cấp quí tộc mới, nói đúng hơn là một giai cấp thống trị (a ruling class). Chủ thuyết của Muawiyah là cai trị dân bằng sức mạnh quân sự (military aristocracy). Muawiyah chết vì bệnh năm 680.
Trong thời gian đó, những người Hồi Giáo thân Ali đã lập ra một giáo phái mới là giáo phái Shiite. Số tín đồ Hồi Giáo còn lại được gọi chung là Sunni, có nghĩa là Đa số. Năm 680, vua Yazid (con của Muawiyah) đến Medina chặn bắt con trai của Ali là Husayn và giết nhiều người thuộc giáo phái Shiite. Năm sau (681), Yazid mang quân trở lại Medina (nơi ở cuối cùng của Muhammad) tàn phá và dìm thành phố thánh địa này trong biển máu. Để trả thù, giáo phái Shiite mang quân chiếm thánh địaMecca và tàn phá nặng nề thành phố này. Từ đó đến nay, trải qua trên 13 thế kỷ, hai giáo phái Sunni và Shiite thường xuyên xung đột nhau nhiều trận đẫm máu. Số người tử trận cả hai bên có thể lên tới nhiều chục triệu người. Đây là một thảm họa lớn nhất trong lịch sử thế giới Hồi Giáo.
II. THỜI KỲ CỦA NHỮNG ĐẾ QUỐC HỒI GIÁO – TỪ THẾ KỶ 13 ĐẾN THẾ KỶ 20.
1. Đế Quốc Mughul :
Mughul là tiếng phiên âm Ả Rập để gọi người Mông Cổ (Mongol). Người sáng lập đế quốc Mông Cổ là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan 1162-1227). Thoạt đầu ông thống nhất các bộ lạc du mục Mông Cổ vốn có tài cưỡi ngựa và bắn cung. Sau đó ông huấn luyện và tổ chức họ thành quân ngũ và biến họ thành những đoàn kỵ binh bách chiến bách thắng. Với đoàn quân hùng mạnh này, Thành Cát Tư Hãn đã lần lượt đánh chiếm nhiều nước từ Á sang Âu tới tận Trung Đông và Phi Châu. Luật tác chiến rất nổi tiếng của Thành Cát Tư Hãn là : Hễ tới nơi nào ngoan ngoãn đầu hàng thì tha, bất cứ một thành phố hay làng mạc nào chống cự đều bị phá bình địa và tất cả mọi người dân không kể già trẻ lớn bé đều phải chết!
- Năm 1219, quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn đánh chiếm Thổ Nhĩ Kỳ. Vua Thổ cùng đoàn tùy tùng bỏ chạy bị quân Mông Cổ truy kích qua Iran tới tận Azerbaizan thì bị bắt. Quân Mông Cổ tới đâu đều để lại phía sau sự đổ nát hoang tàn.
- Năm 1231, hàng loạt các thành phố nổi tiếng của Hồi Giáo như Baghdad, Bukhara, Damacus… đều bị đốt phá bình địa với những xác chết la liệt trên đường phố. Dân chúng sợ hãi lũ lượt kéo nhau chạy qua các nước lân cận.
- Năm 1255, Mông Cổ hoàn thành một đế quốc rộng lớn bao la bao gồm Trung Quốc, Cao Ly, Ngoại Mông, hàng chục nước Trung Á và Bắc Ấn Độ, Syria, Palestine, Thổ Nhĩ Kỳ.
Nhưng một biến cố quan trọng đã xảy ra cho cả Hồi Giáo lẫn Mông Cổ, đó là vào năm 1295, hoàng đế Mông Cổ Ghazan Khan theo đạo Hồi thuộc giáo phái Sunni. Từ đó về sau, các hoàng đế Mông Cổ đều theo đạo Hồi. Càng về sau, các quan và cả triều đình Mông Cổ trong đế quốc đều thành những tín đồ Hồi Giáo thành tín. Các học sĩ Hồi Giáo Ả Rập (Ulama) được trọng dụng, nhất là trong việc soạn thảo các bộ luật hình sự và dân sự phỏng theo luật Hồi Giáo Sharia.
Hoàng đế Mông Cổ Timur Lenk đóng đô tại Thổ Nhĩ Kỳ xua quân đánh chiếm Iran năm 1387, chiếm hải cảng Golden Horde của Nga năm 1395, chiếm Ấn Độ năm 1398, tàn phá thủ đô New Delhi và giết hàng chục ngàn tù binh Hindu tại đây. Năm 1400,Timur chiếm hai nước Iran và Iraq. Tại đây, Timur ra lệnh tàn sát hàng triệu người thuộc giáo phái Shiite. Vì quá say máu chiến thắng, năm 1404, Timur kéo quân ngược về phía Trung Á rồi vượt biên giới tiến đánh vào phía Tây Trung Quốc. Cuộc chiến kéo dài qua năm sau, Trung Quốc phản công giết quân Mông Cổ rất nhiều và bản thân Timur cũng bị tử trận trong năm 1405.
Những hoàng đế Mông Cổ kế tiếp chú trọng việc mở rộng đế quốc ở Châu Á:
- Năm 1478, đế quốc Mughul chiếm Indonesia và biến nước này thành nước Hồi Giáo. Ngày nay, Indonesia là một nước đông dân nhất của thế giới đạo Hồi với trên 200 triệu dân.
- Từ 1520 đến 1837, đế quốc Mughul cai trị toàn Ấn Độ. (Ấn Độ mang tên Mughul Empire of India). Hoàng đế Mông Cổ đóng đô tại New Delhi. Năm 1643, hoàng đế Mông Cổ cho xây ngôi mộ của hoàng hậu ở ngoại ô New Delhi rất nổi tiếng, đó là ngôi mộ Taj Mahal..
- Năm 1747, đế quốc Mughul chiếm Afganistan và cai trị nước này 100 năm.
Năm 1831, người Anh chiếm Ấn Độ và chấm dứt đế quốc Mughul trên lục địa Châu Á.
2. Đế quốc Ottoman (1289-1924)
Danh từ Ottoman xuất phát từ tên của một bộ lạc du mục là OSMAN ở phía tây Thổ Nhĩ Kỳ. Bộ lạc này bắt đầu khởi binh từ năm 1280. Chỉ trong 9 năm, họ chiếm một vùng lãnh thổ rộng lớn gồm có Tây Nam Á Châu, Đông Nam Âu Châu và Đông Bắc Phi Châu. Họ gọi đế quốc của họ là OTTOMAN. Những người lãnh đạo đế quốc này đều theo đạo Hồi thuộc giáo phái Sunni.Họ chẳng những nổi tiếng về tài năng thao lược quân sự mà còn nổi tiếng về khả năng chính trị rất khéo léo của họ. Nhờ vậy, đế quốc Ottoman đã tồn tại qua 7 thế kỷ.
- Năm 1389, quân Ottoman chiếm Albania và Kosovo, biến vùng này thành những nước theo Hồi Giáo.
- Năm 1444, quân Ottoman đánh tan Thập Tự Quân của giáo hoàng La Mã tại Bulgaria.
- Tháng 4.1453, quân Hồi Giáo Ottoman xóa sổ đế quốc Byzantine, tức đế quốc Ki Tô Giáo Đông Phương và chiếm thủ đô của đế quốc này là thành phố Constantinople. Điểm son của Ottoman là sau khi chiếm Constantinople và nhiều lãnh thổ của Byzantine, Ottoman công bố chính sách khoan dung tôn giáo đối với Do Thái Giáo và Ki Tô Giáo. Nhờ vậy, trong nhiều thế kỷ sau, Ottoman đã mở rộng thương mại với các nước Âu Châu Ki Tô Giáo và trong lãnh thổ đế quốc không có một cuộc nổi loạn nào. Tuy nhiên, đối với giáo phái Shiite, Ottoman có một chính sách quyết liệt không khoan nhượng.
- Năm 1467, Ottoman công bố thánh chiến với giáo phái Shiite, các tín đồ Shiite trong đế quốc bị lùng giết.
- Từ 1467 đến 1520, quân Ottoman tiến chiếm Syria, Ai Cập, Bắc Phi và toàn bán đảo Arabia.
- Từ 1520 đến 1534, quân Ottoman chiếm Nam Tư và một phần Âu Châu tới thủ đô Vienne của Áo.
- Năm 1606, Ottoman chiếm Romania, Hungaria, Ba Lan và Tiệp Khắc. Tới lúc này, đế quốc Ottoman trở thành siêu cường quốc tế (World Power).
Từ đầu thế kỷ 19, các cường quốc Âu Châu (Anh, Pháp, Đức) bắt đầu xâm chiếm các phần đất của Ottoman và dồn đế quốc này vào chỗ suy tàn.
3. Đế quốc Safavids của giáo phái Shiite (1501-1779)
Thoạt đầu Safavids là một nhánh của giáo phái Shiite xuất phát tại nước Azerbaizan ở tây nam biển Caspian.
Năm 1501, lãnh tụ của giáo phái Safavids là Esmail khởi binh chiếm luôn cả nước Azerbaizan. Esmail tự xưng là “Vua Hồi Giáo” (Sha/Sultan) và ra lệnh cho toàn dân phải theo đạo Hồi (giáo phái Shiite). Ít lâu sau, Esmail xua quân đánh chiếm các nước lân cận theo Chính Thống Giáo là Armenia, Georgia và vùng núi Caucase của Nga. Trong thời gian chiếm đóng, quân Hồi Safavids đã giết hại rất nhiều người Chính Thống Giáo. Riêng tại Armenia, số tín đồ Chính Thống Giáo bị giết lên tới một triệu người. Sau đó quân Safavids chuyển qua phía đông tấn công thành phố Anatolia để dằn mặt đế quốc Ottoman theo giáo phái Sunni. Trong khi đó, một nhóm khác thuộc giáo phái Shiite ở Ba Tư nỗi lên cướp chính quyền của giáo phái Sunni. Nhóm nổi loạn ra lệnh cho cả nước Ba Tư phải theo Shiite, ai bất tuân lệnh đều bị giết. Tất cả các học sĩ (Ulamas) lãnh đạo giáo phái Sunni đều bị chém đầu, không sót một ai. Kể từ đó, nước Ba Tư (Iran) trở thành một quốc gia toàn tòng theo giáo phái Shiite. Các vua Hồi Giáo Ba Tư được gọi là SHA, vừa là vua vừa là giáo chủ, phần đông đều cực đoan và hung dữ.
Phần đông các học sĩ Hồi Giáo Ba Tư đều theo môn phái triết học thần bí (mystical philosophy) tóm tắt như sau: “Chính trị và tôn giáo là một, không thể tách rời. Mọi cải cách xã hội không thể vượt quá tư tưởng tôn giáo”.
Với bản chất cuồng tín cực đoan cố hữu của giáo phái Shiite, nay lại có thêm chủ thuyết thần bí của các Mullahs (học sĩ) giáo phái Shiite càng ngày càng trở nên cực đoan nguy hiểm. Họ luôn luôn có thái độ bất khoan dung với các tôn giáo khác, nhất là đối với giáo phái Hồi Giáo Sunni, chiếm 80% dân số đạo Hồi.
* * *
Như đã trình bày trên đây, từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20, trong thế giới Hồi Giáo đã xuất hiện ba đế quốc riêng biệt và luôn tranh chấp với nhau. Cả ba đế quốc Hồi Giáo đã được thành lập và suy tàn vào những thời điểm khác nhau:
- Đế quốc Mughul thành lập đầu thế kỷ 13, suy tàn cuối thế kỷ 19.
– Đế quốc Ottoman thành lập cuối thế kỷ 13, suy tàn đầu thế kỷ 20.
– Đế quốc Safavids thành lập đầu thế kỷ 16, suy tàn trong thế kỷ 18.
Như vậy, hai đế quốc Hồi Giáo lớn mạnh nhất là Ottoman và Mughul đã cùng tồn tại song hành và chia nhau thống trị thế giới Hồi Giáo bao la trong 7 thế kỷ. Ít nhất là trong 200 năm, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, cả ba đế quốc Mughul, Ottoman và Safavids cùng tồn tại trong thế giới đạo Hồi (The Islamic World).
Từ thế kỷ 18 trở đi, các nước Âu Châu trở nên hùng cường mọi mặt đã đẩy lùi các đế quốc Hồi Giáo đến chỗ suy tàn. Khởi đầu là nước Nga đánh tan quân Ottoman ở vùng Biển Đen năm 1774, chiếm lại Armenia và vùng núi Caucase. Năm 1792, Nga chiếm Georgia và Romania từ tay Ottoman.
Đầu thế kỷ 19, Nga chiếm toàn bộ miền Trung Á gồm nhiều nước theo đạo Hồi thuộc đế quốc Mughul. (Sau Cuộc Cách Mạng Tháng Mười Nga năm 1917, các nước Hồi Giáo Trung Á đều biến thành các tiểu bang thuộc Liên Bang Xô Viết).
- Cũng trong đầu thế kỷ 19, Hòa Lan chiếm Indonesia và Mã Lai. Anh chiếm Ấn Độ bao gồm cả một tiểu lục địa (sau 1947, Ấn Độ bị chia thành nhiều nước: Pakistan, Bangladesh, Tích Lan và Ấn Độ).
- Cuối thế kỷ 19, Anh chiếm Ai Cập và Sudan. Pháp chiếm Algeria, Tunisia và Maroc.
- Đầu thế kỷ 20, Ý chiếm Lybia. Anh và Pháp chiếm Palestine, Jordan, Iraq, Syria và Liban.
Tóm lại, từ đầu thế kỷ 20, chỉ ngoại trừ một nước duy nhất là Thổ Nhĩ Kỳ, còn lại toàn bộ thế giới Hồi Giáo đều trở thành những thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Âu Châu.
Lịch sử bành trướng và phát triển của đạo Hồi luôn luôn gắn liền với chiến tranh và bạo lực. Vì thế đạo Hồi nổi tiếng là “tôn giáo của lưỡi gươm” (Religion of Sword) hoặc “tôn giáo quân phiệt” (Militaristic Religion). Kinh Thánh Koran của Hồi Giáo được gọi là “Cuốn sách của tử thần” (The Book of Death) và đức tin Hồi Giáo là: “đức tin hung bạo” (a violent faith). Trong hơn một thế kỷ qua, thế giới Hồi Giáo đã bị Tây Phuơng dồn vào thế suy kiệt mọi mặt. Họ không còn con đường nào khác hơn là thực hiện chủ nghĩa khủng bố. Về hình thức thì ngày nay chiến tranh có khác với ngày xưa, nhưng về thực chất thì chủ nghĩa khủng bố cũng là một hình thái của chiến tranh và bạo lực. Chỉ khác một điều: chủ nghĩa khủng bố là hình thái chiến tranh của những kẻ đã bị dồn vào thế yếu nhưng buộc phải chiến đấu với kẻ thù lớn mạnh hơn mình để tồn tại.
Nhìn về tương lai, chúng ta khó đoán được cuộc chiến tranh khủng bố sẽ đưa nhân loại đi về đâu, nhưng nhìn về quá khứ chúng ta phải công nhận sức mạnh của Hồi Giáo đã tạo nên nhiều thành tích quan trọng:
- Trong thế kỷ 7, Hồi Giáo Ả Rập tiêu diệt đế quốc Sassanian đã từng làm mưa làm gió ở Trung Đông trong 10 thế kỷ trước đó.
- Trong thế kỷ 15, Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt đế quốc Ki Tô Giáo Byzantine (hậu thân của đế quốc La Mã) chặn đứng sự bành trướng của Ki Tô Giáo xuống bán đảo Ả Rập và Trung Đông.
Đức Tổng Giusse Ngô Quang Kiệt chủ sự Thánh lễ Ngày đời sống Thánh hiến
PM Bài giảng của Đức Tổng Giusse Ngô Quang Kiệt Tại Đan viện Châu Sơn Lễ dâng Chúa trong Đền thờ 02/02/2015 Ngày đời sống Thánh hiến - ÁNH SÁNG CHIẾU SOI TRẦN GIAN(Mt 3, 1-4; Lc 2, 22-40)
Đức Mẹ và thánh Giuse mang Chúa Giêsu vào Đền thờ dâng cho Thiên Chúa theo luật Môsê. Chẳng ai chú ý tới các ngài. Vì các ngài là những người bé nhỏ nghèo hèn. Nhưng hai cụ già Simeon và Anna lại nhận ra trẻ thơ Giêsu chính là Đấng Cứu Thế và xưng tụng Người là ánh sáng chiếu soi trần gian.
Chúa Giêsu là ánh sáng niềm vui. Hai cụ già tượng trưng cho Cựu Ước. Bao năm sống trong tăm tối đợi chờ. Nay gặp Chúa Giêsu các ngài thấy bừng lên ánh sáng. Thiên Chúa đến viếng thăm Dân Người. Thân phận nghèo hèn bé nhỏ được quan tâm. Phẩm giá con người được phục hồi. Các ngài đã nhìn thấy ánh sáng không chỉ cho bản thân, nhưng chiếu soi muôn dân muôn nước. Ánh sáng vui tươi vì đem lại sự sống.
Chúa Giêsu là ánh sáng sự sống. Hài nhi bé nhỏ là mầm sự sống. Thiên Chúa hạ mình để trở nên bé nhỏ để con người được lớn lên. Thiên Chúa trở nên yếu ớt để con người được mạnh mẽ. Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa sẽ chịu chết cho con người được sống. Cụ già Simeon đã nhìn thấy trước cuộc khổ nạn và Phục sinh. Con trẻ trở nên cớ cho nhiều người vấp phạm. Nhưng chính cái chết của Thiên Chúa làm người đem lại sự sống cho con người. Vì thế Chúa Giêsu là ánh sáng hy vọng.
Chúa Giêsu là ánh sáng hy vọng, bị tội lỗi giam cầm con người không còn hy vọng thoát ra. Nhưng Thiên Chúa xuống thế giải thoát con người khỏi nô lệ ràng buộc, khỏi xiềng xích tù đày. Bị thần chết canh giữ con người, bị chôn vùi trong nấm mồ sự chết. Nhưng Thiên Chúa đến chịu chết để chiến thắng tử thần. Để đưa con người đến sự sống. Chúa Giêsu chính là ánh sáng chiếu lên niềm hy vọng cho con người.
Đặt lễ Dâng Chúa trong Đền thờ làm ngày đời sống thánh hiến, Đức thánh giáo Hoàng Gioan Phaolo II mong ước người sống đời thánh hiến nên giống Chúa Giêsu. Trở thành ánh sáng cho trần gian. Thế giới đang chìm trong bóng tối buồn sầu phiền não. Càng tân tiến thì con người càng nhiều lo âu. Số người tự tử không ngừng gia tăng. Số người bệnh tim mạch, trầm cảm, tự kỷ ngày càng nhiều. Trong thế giới buồn thảm ấy, anh chị em sống đời thánh hiến phải chiếu sáng niềm vui. Ai có Chúa thì chiếu tỏ niềm vui. Chúng ta vừa xem bộ phim Bảy Đan sĩ Xitô tử đạo tại Algérie. Dân làng bị phiến quân đe dọa nhưng vẫn vui, vì các cha các thầy là niềm vui của họ. Bóng tối sự chết đang đe dọa thế giới: Giết người trực tiếp trong phá thai, khủng bố. Giết người gián tiếp trong vu cáo, chụp mũ. Trong cạnh tranh thương mại thiếu lành mạnh. Trong đàn áp bất công. Con người hủy diệt lẫn nhau. Trong bóng tối sự chết đó anh chị em sống đời thánh hiến phải chiếu tỏa ánh sáng sự sống. Sự sống đến từ sự quên mình. Hiến dâng thân mình. Sẵn sàng chịu chết vì tha nhân. Đó chính là cổ võ nền văn hóa sự sống. Và xây dựng nền văn minh tình thương. Thế giới hôm nay đang thiếu niềm hy vọng. Hết chiến tranh nóng đến chiến tranh lạnh. Hết chiến tranh lạnh đến chiến tranh khủng bố. Hết Đế quốc đến độc tài. Hết độc tài đến mỵ dân. Hết nạn đói lại đến ô nhiễm. Hết nghèo khổ lại đến khủng hoảng kinh tế. Những người bé nhỏ nghèo hèn bị bỏ rơi, bị lợi dụng, bị áp bức bóc lột. Giữa bóng tối thất vọng đó đời sống thánh hiến chiếu lên ánh sáng hy vọng. Vì sống đời thánh hiến là quan tâm đến người khác. Là quên mình phục vụ. Giữa bóng tối của sự vô cảm dửng dưng, người sống đời thánh hiến chiếu lên đời ánh sáng hy vọng khi đi đến những nơi xa xôi. Phục vụ những người nghèo khổ bị bỏ rơi.
Lôgô của năm đời sống thánh hiến thật ý nghĩa. Chim bồ câu tung cánh trên sóng nước nói lên đời sống theo Thần khí sẽ biến đổi thế giới. Cánh chim nâng đỡ địa cầu là đời sống thánh hiến vực dậy thế giới. Ba ngôi sao là sống kết hợp với Thiên Chúa Ba Ngôi bằng giữ ba lời khuyên Phúc Âm.
Ba châm ngôn cho biết khi sống đúng lý tưởng, đời sống thánh hiến trở thành Tin Mừng chiếu sáng niềm vui. Khi hiến dâng thân mình đến dám chấp nhận cái chết, người sống đời thánh hiến trở thành ngôn sứ, tố cáo bất công, chiếu lên ánh sáng sự sống. Khi quan tâm phục vụ tha nhân, người sống đời thánh hiến trở thành hy vọng cho thế giới.
Anh chị em sống đời thánh hiến thân mến, tôi mời gọi anh chị em hãy chiêm ngắm khuôn mặt rạng rỡ niềm vui của hai cụ già Simeeon và Anna biết bao người dân khiêm tốn, bé nhỏ, thiệt thòi đang mong chờ anh chị em.
Hãy tiến lên hỡi anh chị em sống đời thánh hiến. Khi đến với tha nhân anh chị em hãy đem ánh sáng niềm vui. Khi tự hiến thân, anh chị em đem lại sự sống. Khi quan tâm đến người nghèo khổ anh chị em đem lại hy vọng. Khi mặc lấy Chúa Giêsu anh chị em tràn ngập ánh sáng. Ánh sáng của anh chị em sẽ chiếu vào đêm tối trần gian. Xin ánh sáng của Chúa Giêsu ở cùng anh chị em. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em.
(WGP.Phát Diệm 04.02.2015)
Đức Hồng Y Phêrô dâng lễ cầu nguyện cho đời sống thánh hiến tại giáo xứ Thái Hà
VRNs (04.02.2015) – Hà Nội – lúc 18g30 (02.02.2015) tại Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Dòng Chúa Cứu Thế, Giáo xứ Thái Hà, Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn cử hành thánh lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh, ngày mà Thiên Chúa đến gặp gỡ dân Ngài.
Cùng đồng tế với Đức Hồng Y có cha Antôn Phạm Văn Dũng, Thư ký riêng của Đức Hồng Y, quý cha trong Nhà Dòng, quý nam nữ tu sĩ của 20 hội dòng thuộc Giáo hạt Chính tòa. Tham dự thánh lễ có khoảng 2000 tín hữu.
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Hồng Y nhấn mạnh tới niềm vui của những người dâng hiến. Ngài nhắc tới các lời khấn khiến tịnh, vâng lời và khó nghèo: khi các tu sĩ sống các lời khấn thường ngày là Chúa kitô đang hiện diện trong hội đoàn. Có Chúa hiện diện, ta cảm thấy niềm vui, sự bình an trong đời tu trì. Đức Hồng Y nói tiếp, làm thế nào chúng ta sống gắn kết với nhau nếu không có sự hiện diện của Chúa Kitô. Trong một hội đoàn, chúng ta không chỉ gặp gỡ chung trong các giờ kinh nguyện, trong các giờ chia sẻ, nhưng chúng ta hãy dành thời gian để gặp gỡ cá nhân với Chúa để Chúa biến đổi chúng ta, làm cho cộng đoàn trở nên gắp kết với nhau hơn.
Cuối thánh lễ, Đức Hồng Y ban huấn từ cho cộng đoàn. Ngài nói sự hiện diện của 20 hội dòng thuộc giáo hạt chính tòa Hà Nội là một niềm vui lớn của ngày hôm nay. Sự đóng góp của các hội dòng cho Giáo hội là rất lớn. Tu sĩ là muối ướp cho đời sống ở thế gian, người Tu sĩ ở giữa thế gian đem lại niềm hy vọng. Đức Hồng Y kêu gọi các tu sĩ hãy thể hiện đặc sủng của dòng một cách chân thật ở trong cuộc sống hằng ngày. Người tu sĩ là người theo sát Chúa Kitô. Chúng ta hãy đem tình yêu của Đức Kitô đến với mọi người, để mọi người sống hiệp nhất với nhau. Chính đời sống cụ thể ở giữa đời là sự rao giảng rất mạnh mẽ. Nếu anh chị em tin vào đặc sủng của hội dòng thì hãy dấn thân và hãy phục vụ trọn vẹn cho đặc sủng đó.
Sau thánh lễ là buổi Hội thảo với chủ đề: “Chúng ta có thể làm gì để giúp nhau sống đời thánh hiến?”
Khai mạc buổi chia sẻ là tiết mục “Du ca tình yêu” của Đệ tử Dòng Thánh Phaolô
Mở đầu buổi chia sẻ, cha Giuse Nguyễn Văn Phượng, Phó bề trên DCCT Hà Nội gửi lời chào mừng đến tất cả các tu sĩ nam nữ trong Giáo hạt Chính tòa đã về tham dự buổi tọa đàm để cùng chia sẻ thao thức, băn khoăn trong đời sống thánh hiến, để cùng giúp nhau thăng tiến hơn, giúp cộng đoàn phát triển hơn.
Trong buổi hội thảo có nhiều các ý kiến được các hội dòng đưa ra để góp ý xây dựng đời sống tu trì mỗi ngày một vững mạnh hơn.
Sơ Bề trên Dòng Thánh Phaolô nhắc tới ba mục tiêu của Năm thánh hiến, thứ nhất ôn lại quá khứ, thứ hai hãy sống hiện tại cách say mê, thứ ba nhắm đến tương lai với niềm hy vọng. Trong đời sống thánh hiến, chúng ta hãy cùng nhau gắn bó qua lời cầu nguyện, qua việc phục vụ để chúng ta sống gắn kết với nhau hơn trong đời sống thanh hiến.
Tiếp đến là sơ Bề trên Dòng mến Thánh Giá Hà Nội chia sẻ các hội dòng cần phải nhìn lại và đi đúng linh đạo, mục đích và sứ mạng của hội dòng, đồng thời sơ nhắc lại lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Người tu sĩ phải có niềm vui”
…………………………
Ý thức đời sống đi theo Chúa là đời sống cầu nguyện thân thiết với Chúa Giêsu. Đáp lại lời mời gọi gắn bó cuộc đời mình với Chúa để trổ sinh hoa trái, buổi hội thảo mục đích để các tu sĩ nâng đỡ nhau, cùng đón nhận ơn Chúa, chung lời cầu nguyện để trở nên mạnh mẽ hơn và làm chúng nhân cho đời sống thường ngày.
Jos.Kim
Nguồn: http://www.chuacuuthe.com/
Có hàng triệu trẻ em vô tội tử đạo ngày nay
Phỏng vấn Linh Mục Fortunato Di Noto, người thành lập Hiệp hội Meter, chống nạn lạm dụng tính dục trẻ em và phim ảnh trẻ em mại dâm trên mạng
** Chúa Nhật 28 tháng 12 vừa qua là lễ Các Thánh Anh Hài, tưởng niệm biến cố các trẻ em Bếtlêhem đã bị vua Hêrốt tàn sát xưa kia, vì nhà vua tin rằng trong số các trẻ em từ hai tuổi trở xuống cũng có Hài Nhi Giêsu, Vua Cứu Thế, là Đấng khiến cho nhà vua lo sợ cho địa vị của mình. Tuy nhiên trong ngày này Giáo Hội cũng tưởng niệm tất cả các trẻ em tử đạo vô tội thuộc mọi thời đại. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Cả ngày nay nữa sự thinh lặng bất lực của các em kêu khóc dưới lưỡi gươm của biết bao nhiêu Hêrốt”. Đức Thánh Cha đã nhắc tới biết bao nhiêu trẻ em bị giết trước khi chào đời, bị tàn sát dưới các trận mưa bom, phải di tản, bị lạm dụng, khai thác bóc lột, bị đối xử tàn tệ, và không có cha mẹ trong sự ích kỷ của một nền văn hóa không yêu thương sự sống.
Qủa thật, đã không có thời đại nào trong lịch sử nhân loại trong đó trẻ em lại bị đối xử tàn nhẫn như trong thời đại tân tiến của ngàn năm thứ ba. Theo tổ chức UNICEF nạn bạo hành trẻ em xảy ra tại khắp nơi, trong mọi quốc gia và xã hội trên thế giới này. Chính các trẻ em cho biết cả các hành động bạo lực nhỏ và lạm dụng lập đi lập lại trong cuộc sống thường ngày cũng khiến cho các em đau khổ, gây chấn thương cho sự tự trọng, sự an bình thanh thản và lòng tin tưởng của các em nơi người khác. Đa số các bạo hành chống lại trẻ em là do chính cha mẹ, các hôn phu và hôn thê, các người chồng vợ hay người chung sống, các bạn học cùng lớp cùng trường, các thầy giáo cô giáo và các người cho việc.
Đa số các vụ bạo hành trẻ em bị dấu nhẹm: các trẻ em nạn nhân cũng như những người chứng kiến cảnh bạo lực thinh lặng vì sợ hãi bị trừng phạt hay vì sợ dư luận xã hội lên án. Rất nhiều người, trong đó có các trẻ em, chấp nhận bạo lực như một khía cạnh không thể tránh dược của cuộc sống. Thường khi các trẻ em bị bạo hành im lặng, vì các em không có phương cách chắc chắn hay đáng tin cậy để tố cáo hay kêu cứu.
** Trên bình diện quốc tế không có các dữ kiện thường xuyên được thống kê, do đó các con số chỉ có tính cách phỏng đoán. Dựa trên các nghiên cứu và các dữ kiện dân số năm 2000 tổ chức Sức Khỏe Thế Giới ước tính có khoảng 73 triệu trẻ nam và 150 triệu trẻ nữ là nạn nhân của các giao hợp tính dục cưỡng bách, và các hình thức bạo lực khác bao gồm các đụng chạm tới thân xác.
Tại 16 nước phát triển trên thế giới được phân tích do một nghiên cứu toàn cầu về sức khỏe, do tổ chức Sức Khỏe Thế Giới và Trung tâm Hoa kỳ kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật đảm trách, có từ 20 tới 65% trẻ em là nạn nhân của các hành động hay lời nói ức hiếp xúc phạm của người khác.
Hằng năm có khoảng 275 triệu trẻ em chứng kiến các cảnh bạo lực trong gia đình. Các cảnh bạo lực này ảnh hưởng tiêu cực trên sự phát triển của các em trong thời gian gần và trong thời gian xa.
Trong số 218 triệu trẻ em lao động trong năm 2004 có 126 triệu em phải làm các việc nguy hiểm tới tính mạng. Các thống kê mới của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế cho biết trong năm 2000 có 5,7 triệu trẻ em bị cưỡng bách lao động để trừ nợ nần cho gia đình, 1,8 triệu trẻ em là nạn nhân của kỹ nghệ tình dục mại dâm hay phim ảnh dâm ô, khoảng 1,2 triệu trẻ em nạn nhân của dịch vụ buôn bán trẻ em; và có hàng triệu trẻ em lao công khác hàng ngày bị bạo hành tại nơi làm việc bởi các chủ nhân hay bạn bè.
Ngoài ra tổ chức Sức Khỏe Thế Giới cũng cho biết hàng năm có từ 100 tới 140 triệu bé gái và phụ nữ bị chặt cắt bộ phận sinh dục. Và chỉ nội trong năm 2002 đã có 53.000 trẻ em từ 0 tới 17 tuổi bị sát hại.
Các bé trai thường bị bạo hành trên thân xác, trong khi các bé gái thường bị bạo hành tính dục, bị bỏ rơi và sa vào vòng mại dâm. Theo một nghiên cứu tại một vài quốc gia có tới 21% nữ giới bị lạm dụng tình dục trước khi lên 15 tuổi. Trẻ em các nước có lợi tức thấp và trung bình có nguy cơ bị giết cao gấp đôi trẻ em các nước có lợi tức cao. Các thanh thiếu niên lứa tuổi 15-17 và trẻ em 0-4 tuổi thường gặp nguy hiểm hơn cả. Sau cùng có một vài nhóm trẻ em đặc biệt dễ bị thương tích hơn cả, trong đó có các trẻ em tàn tật, các trẻ em thuộc các nhóm thiểu số, các trẻ em bụi đời, các trẻ em có vấn đề pháp lý và các trẻ em di cư tỵ nạn.
Hiện nay có ít nhất 106 quốc gia không cấm các hình phạt thể lý trong các trường học. Có 145 nước không cấm các hình phạt thân xác trong các trung tâm trợ giúp; tại 78 nước các hình phạt thể lý được chấp nhận như biện pháp kỷ luật; và tại 31 nước chúng được chấp nhận như phần của các án hình sự.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị một số nhận định của linh mục Fortunato Di Noto, người thành lập Hiệp hội Meter, chống nạn lạm dụng tính dục trẻ em và phim ảnh trẻ em mại dâm trên mạng.
Hỏi: Thưa cha, ngày nay có biết bao nhiêu trẻ em vô tội tử đạo, có đúng thế không?
Đáp: Chắc chắn rồi, các trẻ em vô tội tử đạo ngày nay là các trẻ em bị chết dưới các vụ bỏ bom, khi các em ở trong nhà mình, khi các em đang học hành, khi các em đang ngủ trong giường. Các trẻ em tử đạo vô tội cũng là các trẻ em bị xung vào quân ngũ để chiến đấu, bị tra tấn, bị hãm hiếp bạo hành, bị bán đi như nô lệ, hay trở thành nạn nhân của các hình thức nô lệ mới là nạn lạm dụng tính dục trẻ em và phim ảnh dâm ô trẻ em trên mạng. Các thánh anh hài tử đạo ngày nay cũng là các trẻ
em bị giết vì niềm tin kitô của mình.
Hỏi: Các trẻ em tử đạo cũng là các trẻ em bị giết vì nạn phá thai và không bao giờ được chào đời, có phải vậy không thưa cha?
Đáp: Vâng đúng thế. Có biết bao nhiêu trẻ em không được sinh ra, hàng triệu và hàng triệu nạn nhân trên thế giới này. Và phá thai không phải là một lựa chọn văn hóa, lại càng không phải là kế hoạch hóa gia đình. Người ta biện minh cho phá thai bằng cách nói rằng có lẽ các trẻ em sinh ra sẽ không có gì ăn, sẽ thiếu dinh dưỡng, nhưng đó là một biện minh vô lý mà chúng ta không thể im lặng chấp nhận được, chúng ta phải lên tiếng, chúng ta phải nói to lên.
Hỏi: Sự thinh lặng của biết bao nhiêu trẻ em – Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói – kêu khóc dưới lưỡi gươm của biết bao nhiêu vua Hêrốt ngày nay nữa, cha nghĩ sao?
Đáp: Quý vị hãy nghĩ tới tệ nạn buôn cơ phận trẻ em, nạn khai thác tình dục trẻ em, hay khi các vua Hêrốt đi cả tới chỗ kế hoạch hóa giết trẻ em một cách êm dịu. Đó, biết bao nhiêu vua Hêrốt của thế giới ngày nay. Họ không chỉ không cúi đầu trên nhân loại như Đức Thánh Cha nói, mà họ chỉ cúi đầu trước các lợi nhuận là tiền bạc. Và tiền bạc chúng ta biết – như thánh Phaolô nói – là rác ruởi, là rác rến của ma qủy.
Hỏi: Nhưng mà sự vô tội còn có thể bị hãm hiếp, bị giết chết cả trên bình diện tâm lý nữa thưa cha…
Đáp: Chắc chắn rồi. Chỉ cần nghĩ tới sự kiện truyền hình lèo lái con người làm sao, khi chuyển tải các sứ điệp bạo lực. Thế rồi còn có các khu xóm ổ chuột mới hiện hữu trên mạng vi tính nữa. Nghĩa là các trẻ em là đối tượng của một cuộc sống bị xâm lăng bởi kỹ thuật không biết quản lý, và thế là các em bị đắm tầu trong các vùng ngoại biên vi tính. Các người thiện chí phải ở trong các vùng ngoại biên đó, không phải chỉ để truyền thông, mà cũng để đồng hành với nỗi khổ đau của các trẻ em vị thành niên bị đắm chìm trong thế giới vi tính ấy.
Hỏi: Thưa cha Di Noto, khi năm 2014 kết thúc và nó đã là một năm khủng khiếp, cha tố cáo biết bao nhiêu nạn nhân vô tội...
Đáp: Chúng ta có thể liệt kê chúng ra như một loại chuỗi hạt của khổ đau… Tôi tin rằng chính vì lễ các Thánh Anh Hài mà chúng ta phải nâng lời cầu nguyện và khẩn nài lên Chúa và lãnh nhận một dấn thân cụ thể. Thật thế, không bao giờ được thiếu hy vọng đứng trước các vấn đề kinh khủng này, trong đó các trẻ em không được sống cả ngày trong đó các em sinh ra. Cần hy vọng rằng có biết bao nhiêu người thiện tâm… Tôi xin chấm dứt bằng cách kể cho qúy vị nghe một điều. Tôi đã trồng các cây trước giáo xứ của tôi, và người ta thường nhổ mất chúng. Vậy tôi làm gì? Tôi trồng chúng trở lại. Và người ta lại nhổ chúng đi. Và tôi đã làm gì? Tôi lại trồng chúng trở lại nữa. Thật thế, trong cuộc sống người ta nhổ các trẻ em đi. Nhưng chúng ta không bao giờ có thể quên tiếp tục hy vọng và tiếp tục làm sao để các trẻ em ở chỗ nhất, vì các em được Chúa Giêsu đặc biệt yêu thương, các em là các người có đặc ân trong một xã hội không được trở thành vô nhân, nhưng phải luôn luôn hy vọng nơi con người.
Hỏi: Thưa cha, Giáo Hội mời gọi chúng ta tưởng niệm các Thánh tử đạo vô tội. Các vị có giá trị nào đối với chúng ta?
Đáp: Giáo Hội đã luôn luôn có một tình yêu lớn đối với trẻ em. Chính Đức Chân phước Giáo Hoàng Phaolô VI trưóc khi chết có nói rằng dấn thân của Giáo Hội cho nhi đồng không phải là một mốt mau qua, nhưng là một dấn thân thường xuyên, chính vì một trẻ thơ đã được sinh ra cho chúng ta. Quý vị hãy tưởng tượng rằng trong Giáo Hội ngoài các Thánh Anh Hài, đã có biết bao nhiêu trẻ em tử đạo. biết bao nhiều trẻ em chứng nhân của đức tin, biết bao nhiêu trẻ em được nâng lên danh dự bàn thờ như là các vị tử đạo, như là các Thánh, các Chân phước, các Tôi tớ Chúa. Điều này chứng minh cho thấy một cuộc cách mạng có thể xảy ra cả qua các trẻ em nữa. Thật đúng thế, người ta có thể xúc phạm đến các trẻ em, nhưng cũng đúng thật là chúng ta có thể tưởng niệm các em vì các em là thí dụ sống cho tất cả mọi người. (RG 28-12-1014)Linh Tiến Khải
ĐGM Kontum: Nền giáo dục VN coi trọng chữ mà xem thường nghĩa
RNs (02.02.2015) – Kontum – Ngày 31.01 vừa qua, Giáo phận Kontum đã tổ chức Ngày Nhà Giáo Công Giáo nhân dịp Hội thánh mừng lễ thánh Gioan Bosco, bổn mạng các nhà giáo dục.
Trong bức thư gởi đến toàn thể giáo sư, giảng viên và giáo viên trong giáo phận, Đức cha Micael Hoàng Đức Oanh, Giám mục Kontum đã nói ngay đến hình ảnh của hai người trẻ vừa qua tuổi 17 đang được cả thế giới quan tâm là Malala Yousafzai và Joshua Wong, những người trong độ tuổi học sinh của quý thầy cô. Cả hai em này đã chọn lựa phần thiệt về mình để đạt được sự công bằng cho các trẻ em gái (Malala), và việc đúng và cần thì phải làm chứ không đùn đẩy cho người sau (Joshua).
Trong văn thư, Vị mục tử của giáo phận Kontum cũng nhắc lại bản chất của nền giáo dục vô thần xem trọng chữ, mà xem thường nghĩa dẫn đến giá trị con người không còn là mục tiêu phát triển.
Trong bối cảnh đó, nhà giáo Công giáo cần phải làm gì dưới hướng dẫn của Thông điệp Niềm Vui Tin Mừng.
Ngày Thánh Hiến 2015 tại TGP Sàigòn
Saigon, 2g30 chiều dù cái nắng như đổ lửa nhưng không ngăn nổi những bước chân của các nam nữ tu sĩ đang đổ về trung tâm tâm mục vụ của tổng Gp. Saigon ngày một đông.
Cùng với Giáo Hội Mẹ trên toàn thế giới và các giáo phận tại Việt Nam, ngày hôm nay khắp nơi cùng cử hành ngày Ơn gọi Thánh Hiến.
Ban tổ chức cho biết, số tu sĩ hôm nay khoảng năm ngàn rưỡi trong số tám ngàn tu sĩ thuộc 150 dòng tu hiện diện tại Tổng giáo phận Saigon. Theo tác giả được biết, tất cả các Dòng tu có nhà Mẹ ngoài tổng giáo phận Saigon, trừ dòng MTG. Hà Nội và Gioan Thiên Chúa, đều có một cộng đoàn tại Saigon dành cho việc học hành hoặc giúp mục vụ.
Cái nắng như đổ lửa lúc 2.30 đến 5g chiều, thế mà những điệu múa, và những cử điệu các bài hát như: Con đường Giê-su, Đừng sợ, Hãy vui lên, Hiến tế 22…. cứ nối tiếp hoạt náo trung tâm mục vụ. Tiếng cười nói, tiếng chào hỏi í ới, vẫy tay.. khi nhận ra người quen từ các hàng ghế.
Chủ đề của ngày hôm nay là Thánh Hiến và Sứ Vụ và câu nói: “Hãy thắp sáng thế giới bằng chứng từ ngôn sứ và lội ngược dòng của anh chị em” của Đức Giáo Hoàng Phanxicô được phóng thật to trên khán đài.
Mỗi người đều được phát cho một dải khăn trắng trượng trưng cho lời khấn thanh khiết, xanh biển tượng trưng lời khấn khó nghèo và đỏ tượng trưng cho lời khấn vâng phục. Và khi múa, những dải khăn này làm thành một rừng lụa phất trong tiếng hát, trong lời ca, trong tiếng cười và những bước chân. Niềm vui của tu sĩ là sự giản dị, là niềm vui hoà cùng niềm vui của anh chị em, chung chia tiếng hát, tiếng cười và những tâm tư trong chia sẻ để cùng đồng hành, cùng tạ ơn Thiên Chúa.
Sự hiện diện của cha Giuse Trần Hoà Hưng, chủ tịch liên hiệp bề trên thượng cấp; cha Toma Vũ Quang Trung, đại diện giám mục đặc trách tu sĩ giáo phận; cha Stêphanô Phạm Cao Đích, chủ tịch lien tu sĩ giáo phận làm cho anh chị em tu sĩ cảm thấy được khích lệ tinh thần
Đan Viện Phụ Dòng Xitô Thánh Mẫu Tâm Mỹ Ca, Nha Trang Marie Bảo Tịnh Trần Văn Bảo chia sẻ đề tài lắng nghe và đi theo. Ngài nhấn mạnh ba điều cho anh chị em tu sĩ: Mục đích và ước mong của ĐTC Phanxicô về năm đời sống thánh hiến; ơn gọi của chúng ta là lắng nghe và đi theo; và bảy căn bệnh của đời tu. Ngài cũng mời gọi các Dòng tu nên giảm công tác và có thêm giờ giải lao để người tu sĩ có nhiều giờ ở với Chúa hơn kẻo “gãy gánh giữ đường”. Lời đề nghị này của Đức Viện phụ được ủng hộ bằng rất nhiều tràng pháo tay của các tu sĩ !!!!
Thánh lễ với sự đồng tế khoảng 120 linh mục do Đức tổng Phaolo Bùi Văn Đọc chủ tế. Ngài giảng rất vắn gọn và xúc tích. Những lời giảng như là những sẻ chia, những lời nhắn nhủ. Chúa Kitô có thực sự là tình yêu số một và cuối cùng như anh chị em đã tuyên khấn không ? Anh chị em hãy trung thành với sứ mạng được trao phó. Hãy tin vào Thiên Chúa. Và Đức tổng cũng nhắc lại tông thư của Đức Thánh Cha gửi cho những người thánh hiến.
Sau thánh lễ, cha Toma Vũ Quang Trung, đại diện Giám mục đặc trách tu sĩ TGP. Saigon dâng lời tri ân vắn gọn nhưng đầy đủ mọi thành phần, lời tri ân thật ý nghĩa thấm đượm ân tình và Cha cũng thay mặt anh chị em tu sĩ dâng lời chúc Tết đến Đức Tổng cùng quý Cha.
Đáp từ, Đức tổng Phaolo chia sẻ: “Hôm nay là cơ hội hết sức quan trọng dành cho tôi, để tôi cảm ơn quý Cha, quý anh chị em tu sĩ nam nữ đã hết mình phục vụ cách hang say và nhiệt thành trong giáo phận Saigon này. Chúc các Hội Dòng phát triển không chỉ về lượng mà còn về chất nữa. Tôi hết sức tin tưởng đặt lòng tin nơi anh chị em”. Ngài đưa ra 3 lời khuyên ngắn gọn: Anh chị em đừng quên viếng Chúa; hãy tử tế với bất cứ ai mình gặp; và hãy nói về Chúa cho mọi người.
Sau đó là các tiết mục văn nghệ thật đặc sắc được đóng góp từ một số dòng tu trong giáo phận. Quả là không uổng công ngồi chịu nắng từ 2.30 chiều cho đến 9g tối để được hưởng những bài, học những bài chia sẻ, được gặp gỡ anh chị em đồng môn, được tham dự thánh lễ với những anh chị em cùng tu dưới mái nhà giáo phận thân yêu, được cảm nhận bầu khí của ngày hội thánh hiến lớn nhất từ trước tới nay, được tham dự thánh lễ cầu nguyện cho ơn gọi của mình, được sự quan tâm của nhiều người trong hành trình ơn gọi của mình để thăng hoa và hang say hơn và được thưởng nếm những tiết mục văn nghệ đặc sắc mà nếu các anh chị diễn trên một sân khấu khác thì như những diễn viên chuyên nghiệp trong từng động tác. Xin cảm ơn Ban tổ chức đã cho chúng con được sống niềm vui gặp gỡ trong đời thánh hiến. Xin Thiên Chúa chúc lành cho mỗi người trên bước đường ơn gọi để hoa trái thiêng liêng luôn là món quà Chúa ban được sẻ chia cho mọi người.
Chia tay ra về sau nghi thức sai đi, đường Saigon sáng trưng đèn, trên tay mỗi người là món quà Đức viện phụ Maria Bảo Tịnh tặng là tông thư của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi tất cả các người thánh hiến, tấm card tông huấn đời sống thánh hiến số 110, cách đọc Kinh Thánh theo Lectio Divina, Em đọc Kinh Thánh và tờ bướm giới thiệu Dòng Xitô. Xin dâng Chúa tất cả những gì chúng con được nhận lãnh và dâng Chúa những giọt mồ hôi của những người đã, đang và sẽ lo cho đời sống của tu sĩ chúng con.
Saigon 02/2/2015
Nt. Maria Nguyễn Thị Minh Du
Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ nhân Ngày Đời Sống Thánh Hiến
VATICAN. Chiều ngày 2-2-2015, Lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh và cũng là Ngày Thế giới về đời sống thánh hiến lần thứ 19, ĐTC đã chủ sự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô. Ngài đề cao sự tuân phục tu luật như con đường để đạt tới sự khôn ngoan.
Đồng tế với ĐTC có ĐHY João Aviz de Braz, Tổng Trưởng Bộ các dòng tu, Đức TGM Tổng thư ký José Rodríguez Carballo, OFM, các chức sắc của Bộ này, một số các cha Bề trên Tổng quyền, và các LM dòng, trước sự hiện diện của hàng ngàn tu sĩ nam nữ và giáo dân.
Mở đầu buổi lễ có nghi thức làm phép nến và đi rước tiến lên bàn thờ, do 50 tu sĩ nam nữ, đại diện cho các hình thái khác nhau của đời sống Thánh Hiến, đảm trách.
Bài giảng của ĐTC
Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC nhắn nhủ những người thánh hiến hãy đạt tới sự khôn ngoan qua sự tuân phục và tuân giữ tu luật. Ngài nhận xét rằng: ”Tin mừng của ngày lễ hôm nay 5 lần nhấn mạnh đến sự tuân phục của Mẹ Maria và Thánh Giuse đối với 'Lề luật của Chúa' (Xc Lc 2,22.23.24.27.39). Chúa Giêsu không đến để làm theo ý riêng, nhưng là theo ý Chúa Cha, và đây là 'lương thực' của Ngài như chính Ngài đã nói (Xc Ga 4,34). Vì thế ai theo Chúa Giêsu thì cũng tiến bước trên con đường vâng phục, như bắt chước ”sự hạ cố” của Chúa, hạ mình và đón nhận ý Chúa Cha làm ý mình, đến độ tự hủy và hạ nhục chính mình (Xc Pl 2,7-8). Đối với một tu sĩ, tiến bước chính là hạ mình trong việc phục vụ. Một hành trình giống như con đường của Chúa Giêsu, Đấng “không giữ cho mình đặc ân như Thiên Chúa” (Pl 2,6). Hạ mình trở nên đầy tớ để phục vụ”.
ĐTC nhận xét rằng con đường ấy có hình thức là tu luật, thấm đượm đoàn sủng của vị sáng lập. Đối với mọi người, qui luật không thể thay thế được chính là Tin Mừng, là sự hạ mình của Chúa Kitô, nhưng Chúa Thánh Linh, trong tinh thần sáng tạo vô biên, cũng diễn tả điều ấy qua nhiều tu luật của đời sống thánh hiến, và tất cả các tu luật ấy đều nảy sinh từ sự bước theo Chúa Kitô, từ con đường hạ mình phục vụ”.
ĐTC xác quyết rằng qua ”luật” ấy, những người thánh hiến có thể đạt được sự khôn ngoan, đây không phải là một khả năng trừu tượng, nhưng là công trình và là hồng ân của Chúa Thánh Linh, và dấu chỉ tỏ tường của điều này chính là niềm vui. Đúng vậy, niềm vui của tu sĩ là kết quả của con đường hạ mình như Chúa Giêsu.. Và khi chúng ta buồn sầu, thì chúng ta hãy tự hỏi xem chúng ta có đang sống chiều kích hạ mình hay không”.
ĐTC nhắc đến tấm gương của hai cụ già, Simeon và Anna, là những người ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh (Tin Mừng nhắc điều này 4 lần), được Chúa hướng dẫn và linh hoạt. Chúa đã cho họ sự khôn ngoan qua hành trình dài của cuộc sống trên con đường tuân phục lề luật, một sự tuân phục một đàng hạ nhục và hủy diệt, nhưng đàng khác đó là sự tuân phục giữ gìn và bảo đảm hy vọng, và giờ đây đầy tính sáng tạo vì đầy Thánh Linh..
Áp dụng những điều trên đây vào thực trạng của các dòng tu, ĐTC nhắc đến sự thích ứng tu luật với thời đại và khẳng định rằng: ”sự canh tân đích thực chính là một công trình của đức khôn ngoan, được hun đúc trong tinh thần ngoan ngoãn và vâng phục”.
”Tăng cường và đổi mới đời sống thánh hiến diễn ra qua lòng yêu mến nồng nhiệt hơn đối với tu luật, và qua khả năng chiêm ngưỡng và lắng nghe những người cao niên trong hội dòng. Như thế ”kho tàng”, đoàn sủng của mỗi gia đình dòng tu được bảo tồn nhờ sự tuân phục và khôn ngoan. Và qua con đường ấy, chúng ta được gìn giữ, tránh được tính trạng sống đời thánh hiến của chúng ta một cách 'tùy hứng' và thiếu cụ thể, như thể đó là một thứ tri thức, biến thành một sự ”chế nhạo” đời tu, trong đó người ta sống theo Chúa mà không từ bỏ, cầu nguyện mà không có sự gặp gỡ, sống huynh đệ không có hiệp thông, vâng phục mà không tín thác, bác ái không có chiều kích siêu việt”. (SD 2-2-2015)
G. Trần Đức Anh OP