Tin nổi bật
Chương trình tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Kenya (1)
Hôm 17 tháng 10, Tòa Thánh đã cho biết chi tiết chuyến tông du của Đức Thánh Cha tại 3 nước Phi Châu là Kenya, Uganda, và Cộng hòa Trung Phi trong năm ngày bắt đầu từ 25 tháng Mười Một. Cùng ngày, Đức Tổng Giám Mục Charles Daniel Balvo, sứ thần tại Kenya cũng cho biết chương trình chi tiết chuyến thăm của Đức Thánh Cha tại Nairobi, thủ đô của Kenya.
Lúc 07:45 sáng thứ Tư 25 tháng 11, Đức Thánh Cha sẽ khởi hành từ phi trường Fiumicino của Rôma để bay đến Nairobi, Kenya.
Lúc 17:00 cùng ngày, Đức Thánh Cha đến sân bay quốc tế Jomo Kenyatta ở Nairobi. Một giờ sau đó nghi thức đón tiếp sẽ diễn ra tại dinh tổng thống. Đức Thánh Cha cũng sẽ có buổi nói chuyện với đại diện chính quyền dân sự của Kenya và ngoại giao đoàn.
Thứ Năm ngày 26 tháng 11, Đức Thánh Cha sẽ gặp gỡ đại diện các tôn giáo bạn vào lúc 8:15 sáng tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh tại Nairobi.
Vào lúc 10:00 ngài sẽ dâng Thánh Lễ trong khuôn viên của trường Đại học Nairobi.
Lúc 15:45, Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ với hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ, và các chủng sinh, tại các sân thể thao của trường St. Mary.
Sau đó, lúc 17:30, ngài đến thăm trụ sở Liên Hợp Quốc tại Nairobi.
Thứ Sáu ngày 27 tháng 11, Đức Thánh Cha sẽ thăm khu phố nghèo Kangemi ở Nairobi lúc 8:30 sáng trước khi có cuộc gặp gỡ với giới trẻ tại sân vận động Kasarani lúc 10 giờ.
Sau thánh lễ, ngài sẽ gặp gỡ các Giám Mục Kenya trong phòng khánh tiết của sân vận động lúc 11:15.
Lúc 15:10, tổng thống Kenya sẽ tiễn Đức Thánh Cha bay sang Uganda tại sân bay quốc tế Jomo Kenyatta ở Nairobi.
82.5% trong tổng số 45 triệu dân Kenya theo Kitô Giáo trong đó người Công Giáo chiếm 24% dân số. Người Hồi Giáo chỉ chiếm 11% tại quốc gia. Tuy nhiên, trong thời gian qua, nhiều nhóm cực đoan Hồi Giáo đã muốn biến Kenya thành một quốc gia Hồi Giáo. Lúc 5:30 sáng ngày thứ Năm 2 tháng 4, tức là thứ Năm Tuần Thánh vừa qua, bọn khủng bố Al-Shabaab với chủ trương nhằm thiết lập một nhà nước Hồi Giáo theo luật Sharia tại Kenya đã gây ra cuộc thảm sát tại Đại Học Garissa, cách thủ đô Nairobi của Kenya 350km về hướng Đông Bắc và cách biên giới với Somali 150km. 148 sinh viên bị giết chết và 79 sinh viên khác bị thương nặng.
Mohamed Mohamud, một thầy giáo người Kenya đã dạy học nhiều năm tại nước này cùng với Abdirahim Abdullahi, đã từng tốt nghiệp Luật Khoa tại đại học Nairobi vào năm 2013 và là con trai của tỉnh trưởng tỉnh Mandera, ở phía Bắc Kenya, giáp biên giới với Kenya đã dẫn đường cho bọn khủng bố Al-Shabaab từ Somali đột nhập vào Kenya gây ra cuộc thảm sát này. Abdirahim Abdullahi bị bắn chết cùng với 3 tên khủng bố khác trong khi Mohamed Mohamud nhanh chân tẩu thoát. Chính phủ trao giải thưởng lên đến 215,000 Mỹ Kim cho ai chỉ điểm dẫn đến việc bắt sống hay giết chết y nhưng đến nay vẫn chưa biết tông tích tên khủng bố này.
Kenya có 4 tổng giáo phận, 21 giáo phận và một miền Giám Quản Tông Tòa.
Đặng Tự Do
Nhiều người cá độ Đức Phanxicô sẽ nhận giải Nobel hòa bình 2015
Nhiều người cá độ Đức Phanxicô sẽ nhận giải Nobel hòa bình 2015
(Họ sẽ có câu trả lời lúc 11 giờ sáng thứ sáu, 9 tháng 10-2015)
lepoint.fr, Olivier Ubertalli, 2015-10-03
Vấn đề người di dân và tự do công luận là những đề tài nổi trội ở Viện Nobel Thụy Điển, Viện sẽ công bố người đoạt gải Nobel hòa bình năm nay vào ngày 9 tháng 10-2015
Theo trang thăm dò Betfair, Đức Phanxicô có nhiều may mắn chiếm giải trong số danh sách 200 ứng viên. Cựu Tổng Giám mục Buenos Aires đã ở trong danh sách những người có thể đoạt giải này năm ngoái. Nhưng các đấu tranh của ngài cho người nghèo và nhất là cho người tị nạn sẽ có thể làm cho cán cân ngiêng về phía ngài năm nay.
Chúng ta còn nhớ chuyến đi đầu tiên ngoài Rôma, một chuyến đi có tính cách tượng trưng của ngài. Đó là ở Lampedusa, năm 2013, Lampedusa là hòn đảo ở vùng Sicili, cách bờ biển Tunisia hàng trăm cây số, và đó là cửa vào Âu Châu của nhiều người tị nạn. Đức Phanxicô đã tố cáo những "cái chết ẩn danh" và tuyên bố "nhục" cho tính ích kỷ của Âu Châu. Ngày nay, với thảm kịch người tị nạn Syria, lời kêu gọi của Đức Giáo hoàng vang lên như lời ngôn sứ. "Dù chưa có giáo hoàng nào nhận giải này, Đức Phanxicô (...) đã có một chuyến đi lịch sử ở Mỹ, ngài nhấn mạnh quan điểm chống các luật lệ di dân và chống án tử hình", một nhân viên của Betfair giải thích.
Di dân hay tự do công luận
Năm nay vấn đề người di dân có thể là vấn đề dùng để chọn lựa người đoạt giải Nobel. Nhật báo Đức Bild cũng cho bà Angela Merkel xứng đáng được giải vì bà đã làm cho các nhà cầm quyền Âu Châu suy nghĩ lại về vấn đề này. Về phần mình, các người cá độ cũng lập lên một "danh sách ngắn" các nhân vật có thể nhận giải này năm 2015. Danh sách này có đủ hạng người, chuyên khoa phụ nữ người Congo, ông Denis Mukwege cho sự nghiệp đấu tranh cho phụ nữ, cựu Tổng thống Ai-len, bà Mary Robinson, kỹ thuật gia vi tính Mỹ Snowden, hay tờ báo Nga Novaya Gazeta cho công việc bảo vệ nhân quyền của tờ báo. Mặt khác, sau vụ thảm sát tại tòa báo Charlie Hebdo ở Paris vào tháng 1-2015, tự do phân biệt cũng sẽ là một chọn lựa để quyết định ai là người sẽ đoạt giải Nobel Hòa bình.
Đây là 15 người đứng hàng đầu trong danh sách cá độ này trên trang Betfair :
•Đức Phanxicô 9/2
•Denis Mukwege 5/1
•Mussie Zerai 6/1
•Novaya Gazeta 8/1
•Daisaku Ikeda 12/1
•Edward Snowden 12/1
•Raif Badawi 12/1
•Victor Ochen 12/1
•Ban Ki-moon 14/1
•Flemming Rose 14/1
•Gene Sharp 14/1
•David Krieger 16/1
•Mary Robinson 18/1
•Dawn Engle và Ivan Suvanjieff 20/1
•Chelsea Manning 22/1
Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch
Nguồn: http://phanxico.vn/
Thánh lễ khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình
Thánh lễ khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình và Kinh Truyền Tin
Lúc 10 giờ sáng Chúa Nhật 4-10-2015 ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ đồng tế trọng thể khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới về gia đình trong Đền Thờ Thánh Phêrô.
Cùng đồng tế có 314 vị gồm các Nghị Phụ và các cộng sự viên, trong đó có 71 Hồng Y, 7 Thượng Phụ, 2 Tổng Giám Mục Trưởng, 72 Tổng Giám Mục, 102 Giám Mục và 58 Linh Mục. Tham dự thánh lễ có khoảng 10.000 tín hữu và du khách hành hương. Các lời nguyện giáo dân đã được đọc trong các thứ tiếng Tầu, Tây Ban Nha, A rập, Bồ Đào Nha và Swahili: cầu cho Giáo Hội biết chiêm ngắm và giữ gìn công trình sáng tạo của Thiên Chúa; cho các nghị phụ được Chúa Thánh Thần soi sáng trợ lực trong nhiệm vụ hướng dẫn tín hữu theo Chúa Kitô; cho các nhà lập pháp và giới lãnh đạo biết thăng tiến công ích, công lý và hòa bình; cho giới trẻ và những người đính hôn khám phá ra vẻ đẹp của sự nhưng không, lòng trung thành và sẵn sàng hy sinh và tha thứ; cho các gia đình bị thử thách đau khổ đuợc ơn thánh Chúa an ủi, được các anh chị em khác và các cơ cấu trợ giúp. Đã có 70 linh mục và phó tế giúp ĐTC cho tín hữu rước lễ.
Cộng đoàn đã hát kinh cầu các Thánh xin các vị bầu cử cho Thượng Hội Đồng Giám Mục diễn ra tốt đẹp như ý Chúa muốn.
Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc Chúa Nhật thứ 27 thường niên năm B, tập trung trên ba đề tài: thảm cảnh sự cô đơn của con người, tình yêu giữa người nam và người nữ, và gia đình. ĐTC nói: Trong vuờn Địa Đàng Thiên Chúa để cho Adam đặt tên cho mọi thụ tạo, nhưng con người cảm thấy cô đơn, vì không tìm ra một sự trợ giúp tương xứng với mình (St 2,20). Sự cô đơn là thảm cảnh của biết bao nhiêu người ngày nay: người già bị bỏ rơi bởi cả con cái và những người thân trong gia đình; những người goá bụa; biết bao nhiêu người bị chồng hay vợ bỏ rơi; biết bao nhiêu người cảm thấy cô đơn, không được hiểu biết và lắng nghe; những người di cư tỵ nạn chạy trốn chiến tranh và bách hại; biết bao ngưởi trẻ, nạn nhân của nền văn hóa tiêu thụ, dùng rồi vất bỏ và của nền văn hóa loại trừ. ĐTC nhận xét thế giới ngày nay như sau:
Ngày nay, người ta sống sự mâu thuẫn của một thế giới toàn cầu hóa, trong đó chúng ta trông thấy biết bao chỗ ở xa hoa và các nhà chọc trời, nhưng càng ít hơi ấm của mái nhà và gia đình; biết bao nhiêu dự án tham vọng, nhưng ít thời giờ để sống điều đã được thực hiện; biết bao nhiêu phương tiện giải trí tân tiến vượt bực, nhưng càng nhiều sự trống rỗng trong con tim hơn; biết bao nhiêu thú vui, nhưng ít tình yêu; biết bao nhiêu tự do, nhưng ít tự lập. Càng ngày càng có nhiều người cảm thấy cô đơn, nhưng cũng có người khép kín trong ích kỷ, trong buồn chán, trong bạo lực tàn phá, hay trong nô lệ thú vui và thần tiền bạc. Ngày nay chúng ta cũng sống kinh nghiệm của Adam xưa kia: biết bao nhiêu quyền lực bị đi kèm bởi biết bao nhiêu cô đơn và dễ mang thương tích. Và gia đình là hình ảnh phán chiếu thực tại đó. Người ta luôn ngày càng ít nghiêm chỉnh hơn trong việc tiếp tục một tương quan tình yêu vững chắc và phong phú: trong lúc khỏe mạnh cũng như trong bệnh tật, trong lúc giầu có cũng như khi nghèo túng, trong may mắn cũng như trong rủi ro. Tình yêu bền bỉ, trung thành, ý thức, ổn định và phong phú ngày càng bị chế nhạo hơn, và bị coi như đổ cổ. Xem ra các xã hội tân tiến lại là các xã hội có số sinh thấp và có nhiều vụ phá thai, ly dị, tử tử và ô nhiễm môi sinh và xã hội hơn.
Tiếp tục bài giảng ĐTC nói: "Con người ở một mình thì không tốt, Ta sẽ làm cho nó một sự trợ giúp tương xứng vói nó" (St 2,18). Các lời này của Chúa chứng minh cho thấy không có gì khiến cho trái tim của một người hạnh phúc như một trái tim giống trái tim của nó. Chúng cũng chứng minh rằng Thiên Chúa đã không tạo dựng con người để nó sống trong buồn chán hay ở một mình, nhưng để nó sống hạnh phúc, chia sẻ con đường của mình với một người khác bổ túc cho nó, để nó sống kinh nghiệm tình yêu tuyệt vời: nghĩa là để được yêu và để thấy tình yêu của mình phong phú nơi con cái, như nói trong thánh vịnh (Tv 128). Trả lời câu hỏi bẫy sập liên quan tới luật ly dị được đưa ra, Chúa Giêsu đưa tất cả trở về nguồn gốc việc tạo dựng, để dậy rằng Thiên Chúa chúc phúc cho tình yêu nhân loại, chính Ngài kết hiệp các con tim trong sự hiệp nhất và bất khả phân ly. Điều này có nghĩa là tình yêu hôn nhân không chỉ là sống với nhau, nhưng là yêu nhau luôn mãi.
"Như thế con người không thể phân rẽ điều Thiên Chúa đã kết hợp". Đây là một khích lệ tín hữu thắng vượt mọi hình thức cá nhân chủ nghĩa và vụ luật lệ, che dấu một sự ích kỷ hà tiện và một nỗi sợ hãi gắn bó với ý nghĩa đích thực của lứa đôi và tính dục nhân bản trong chương trình của Thiên Chúa. Thật vậy, chỉ dưới ánh sáng sự điên dại của tình yêu nhưng không phục sinh của Chúa Giêsu mới có thể hiểu được sự điên dại tình yêu hôn nhân nhưng không duy nhất cho tới chết.
ĐTC ghi nhận rằng con người ngày nay tuy thường chế nhạo chương trình ấy của Thiên Chúa, nhưng lại cảm thấy bị lôi cuốn hấp dẫn bởi mọi tình yêu chân thật, vững vàng, phong phú, trung thành và vĩnh cửu. Nó chạy theo các tình yêu tạm bợ, các thú vui xác thịt, nhưng mơ ước tình yêu đích thật, và ước mong tận hiến hoàn toàn. Các thú vui bị cấm hết hấp dẫn khi được phép.
Tiếp đến ĐTC đã khẳng định rằng trong bối cảnh xã hội và hôn nhân này Giáo Hội được mời gọi sống sứ mệnh của mình trong sự trung thành, trong chân lý và bác ái. Trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu bảo vệ tình yêu trung tín, và khích lệ các gia đình sống hôn nhân biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa; bảo vệ sự thánh thiêng của mọi sự sống; bảo vệ sự hiệp nhất và tính bất khả phân ly của hôn nhân. Sống sứ mệnh trong chân lý, không chạy theo các mốt mau qua và các ý kiến thống trị. Sống sứ mệnh trong bác ái không chỉ tay phán xử người khác, nhưng trung thành với bản chất là mẹ, tìm săn sóc các cặp vợ chồng bị thương tích với dầu tiếp đón và thương xót; là bệnh xá chiến trường, với cánh cửa luôn luôn rộng mở tiếp đón bất cứ ai gõ cửa xin trợ giúp và nâng đỡ; đi ra khỏi chuồng chiên hướng tới những người khác với tình yêu chân thành để đồng hành với nhân loại bị thương tích và dẫn nó tới suối nguồn ơn cứu độ. "Phải luôn luôn lên án và chống lại sự sai lầm và sự dữ, nhưng người té ngã hay sai lầm phải được thông cảm và yêu thương. Chúng ta phải yêu thương thời đại chúng ta và trợ giúp con người thời đại chúng ta", như Thánh Gioan Phaolô II đã nói (Diễn văn nói với Phong trào Công Giáo Tiến Hành Italia, 30-12-1978: Giáo huấn I (1978),450)
Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin với 50.000 ngàn tín hữu và du khách hành hương. Đề cập tới công việc của các Nghị Phụ trong ba tuần nhóm họp Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới lần thứ 14 ĐTC nói
Chúng tôi sẽ hướng cái nhìn dán chặt vào Chúa Giêsu để, dựa trên nền tảng giáo huấn chân lý và thương xót của Chúa, nhận ra các con đường thích hợp nhất cho dấn thân của Giáo Hội với và cho các gia đình, để chương trình ban đầu của Đấng Tạo Hóa đối với người nam và người nữ có thể hiện thực trong tất cả vẻ đẹp và sức mạnh của nó trong thế giới ngày nay.
Khi bỏ cha mẹ để kết hiệp với vợ và trở nên một thịt xác duy nhất, một sự sống duy nhất các cặp vợ chồng thông truyền sự sống cho các con người mới, trở thành cha mẹ và tham dự vào công trình và quyền năng tạo dựng của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu, và người ta chia sẻ công trinh của Ngài khi yêu thương với Ngài và như Ngài. Tình yêu mà Thiên Chúa đổ vào trong lòng chúng ta cũng là tình yêu được ban cho các cặp vợ chồng trong bí tích hôn nhân. Nó là tình yêu nuôi dưỡng tương quan của họ trong những lúc vui buồn sưóng khổ, thanh thản và khó khăn. Nó là tình yêu dấy lên ước muốn có con cái, chờ đợi, tiếp đón, nuôi nấng giao dục chúng. Nó cũng chính là tình yêu mà Chúa Giêsu bầy tỏ cho các trẻ em.
ĐTC đã mời gọi mọi người cầu nguyện cho tất cả những người làm cha mẹ và các nhà giáo dục trên toàn thế giới để họ là các dụng cụ của sự tiếp đón và tình yêu của Chúa Giêsu. Ngài đặc biệt nghĩ tới các trẻ em đói khát, bị bỏ rơi, bị khai thác bóc lột, bị bó buộc tham chiến, bị khước từ. Thật là đau lòng trông thấy các hình ảnh trẻ em bất hạnh với cái nhìn lạc lõng, chạy trốn nghèo đói và xung khắc gõ cửa nhà và con tim của chúng ta khẩn cầu trợ giúp. Xin Chúa giúp chúng tra đừng là xã hội chiến lũy, nhưng là xã hội gia đình có khả năng tiếp đón với các luật lệ thích hợp.
ĐTC cũng xin mọi người cầu nguyện cho các công việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục để Chúa Thánh Thần khiến cho các Nghị Phụ ngoan ngoãn đối với các linh hứng của Ngài, qua lời bầu cử của Đức Bà Pompei mà hôm qua tại đền thánh tín hữu đọc lời kinh Khẩn nài Đức Bà Mân Côi. Ngài cũng chia buồn và cầu nguyện cho các nạn đất lở chôn vùi một làng bên Guatemala và nạn nhân bão lụt tại Côte D' Azur của Pháp.
Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.
Linh Tiến Khải
Phỏng vấn Đức Phanxicô trên chuyến bay từ Philadelphia về Roma
Vatican Insider – Andrea Tornielli – 28/9/2015
Điều gì khiến cha ngạc nhiên về Hoa Kỳ, và những gì cha thấy khác với những gì cha từng hình dung về điểm nào? Giáo hội Hoa Kỳ đang đối diện với thách thức nào?
Đây là lần đầu tiên tôi đến đây. Tôi chưa ở đây lần nào. Tôi ngạc nhiên vì sự nồng hậu của người dân, mọi người quá thân thiện, thật là đẹp, và có đôi chút khác biệt, khi ở Washington, tôi được đón tiếp nồng hậu nhưng hình thức nghiêm trang, còn New York thì sự nồng hậu tuôn tràn và Philadelphia, thì mọi người đều tràn đầy cảm xúc. Đây là ba dạng khác nhau của sự chào đón. Tôi xúc động trước sự tốt lành và lòng hiếu khách mọi người đã dành cho tôi, và cũng xúc động bởi sự sốt mến trong các buổi phụng vụ, bạn có thể thấy mọi người cầu nguyện thế nào rồi đấy. Tạ ơn Chúa vì mọi chuyện tốt đẹp, không có khiêu khích, lăng mạ, không có chuyện gì phức tạp xảy ra. Thách thức của Giáo hội Hoa Kỳ là, chúng ta phải tiếp tục làm việc với các tín hữu như lâu nay đã làm, trong những thời điểm vui mừng cũng như khó khăn. Nếu như không làm việc, là đổ bệnh đấy. Thách thức ngày nay, cũng là thách thức mà Giáo hội luôn phải đối diện, đó là gần gũi với người dân Hoa Kỳ. Đừng xa cách, nhưng hãy gần gũi dân. Và đây là một thách thức mà Giáo hội Hoa Kỳ đang nhận thức rất rõ.
Ở Philadelphia có những thời điểm rất khó khăn liên quan đến tai tiếng xâm hại tình dục. Nhiều người ngạc nhiên khi thấy trong bài diễn văn với các giám mục ở Washington, cha đã có những lời an ủi với Giáo hội Hoa Kỳ. Cha có thấy cần phải tỏ lòng cảm thông với các giám mục không?
Ở Washington, tôi nói chuyện nhắm đến tất cả các giám mục ở Hoa Kỳ. Tôi cảm thấy cần phải bày tỏ sự cảm thông của tôi với các ngài, bởi đã có một chuyện khủng khiếp xảy ra, và nhiều người đã phải chịu đựng rất nhiều bởi họ không biết gì về chuyện đó, và khi tất cả mọi chuyện ập đến, họ phải đau khổ rất nhiều, họ là những con người của Giáo hội, con người của cầu nguyện, những mục tử đích thực. Tôi dùng một từ trong sách Khải Huyền mà nói với các ngài: Tôi biết các cha đã đi qua gian truân lớn. Những gì đã xảy ra là một cuộc gian truân thử thách. Rồi còn những từ tôi nói với những người bị xâm hại: Đây như là một sự phạm thượng! Sự xâm hại này xảy ra ở mọi nơi, trong gia đình, trong hàng xóm, ở trường học, trong phòng tập. Nhưng khi một linh mục phạm tội xâm hại này, thì đây thực sự là chuyện rất nghiêm trọng, bởi ơn gọi của linh mục là dạy dỗ cho cô bé cậu bé đó yêu mến Thiên Chúa, để các em lớn lên thành những người tốt. Nhưng người đó đã tàn phá các em bằng sự dữ này, và phản bội ơn gọi của mình, phản bội tiếng Chúa. Những người trong Giáo hội mà che đậy cho những vụ xâm hại, cũng có tội, và trong đó có cả các giám mục. Thật là khủng khiếp, và thông điệp tôi muốn nói qua những lời với các giám mục không phải là kiểu: đừng có lo, không có gì đâu. Không phải. Mà ý là: Đây là một chuyện khủng khiếp, tôi hình dung các cha đã phải khóc rất nhiều vì chuyện này.
Với giám mục Hoa KỳCha nói rất nhiều về sự tha thứ. Có nhiều linh mục không xin tha thứ khi bị đưa ra ánh sáng vụ việc xâm hại. Cha có tha thứ cho họ không. Và cha nghĩ gì về các gia đình không sẵn sàng để tha thứ cho chuyện này?
Khi một người phạm một hành động tội lỗi, họ ý thức về những gì mình đã làm, và lại không xin tha thứ. Thì tôi xin Chúa nhận lấy người đó, tôi tha thứ cho người đó, nhưng chính bản thân người đó không đón nhận sự tha thứ này bởi đang khép kín. Tất cả chúng ta có trách nhiệm tha thứ bởi tất cả chúng ta đều được tha thứ. Đón nhận sự tha thứ là một chuyện khác. Nếu một linh mục cứ khép kín, thì người đó không nhận lấy sự tha thứ, bởi đã khóa cửa linh hồn mình từ bên trong. Tât cả những gì chúng ta có thể làm là xin Thiên Chúa mở cánh cửa đó ra. Không phải ai cũng có thể đón nhận sự tha thứ, cũng không phải tất cả đều biết cách đón nhận hay sẵn sàng đón nhận. Điều này giải thích lý do vì sao người ta chấm hết cuộc đời trong đường sự dữ và không thể cảm nhận sự ân cần âu yếm của Thiên Chúa.
Tôi hiểu việc các gia đình không thể tha thứ cho chuyện này. Tôi cầu nguyện cho họ, tôi không phán xét ho. Tôi hiểu họ. Có một bà từng nói với toi rằng, khi mẹ con nhận ra là con bị xâm hại, mẹ nguyền rủa Thiên Chúa, mẹ mất đức tin và trở thành người vô thần. Tôi hiểu bà ấy. Và Thiên Chúa, Đấng tốt lành tột bậc, hiểu bà ấy. Tôi chắc rằng Thiên Chúa đã nhận lấy bà này, bởi chính máu thịt của bà, thân xác của con gái bà bị xâm hại. Tôi không phán xét những ai không thể tha thứ. Nhưng Thiên Chúa, Ngài là Đấng giỏi nhất trong việc tìm ra cách để tha thứ.
Chúng ta nghe nhiều về chuyện tiến trình hòa bình cho Colombia. Bây giờ, đã có một thỏa ước lịch sử giữa chính phủ Colombia và phiến quân FARC. Cha có thấy mình có phần trong thỏa ước này hay không?
Khi tôi nghe tin rằng vào tháng 3, hòa ước sẽ được ký, tôi nói với Chúa, 'Lạy Chúa, xin giúp chúng con sớm đến tháng 3.' Thiện chí này đến từ hai bên. Chính ở đó, ngay cả trong một nhóm nhỏ, mọi người đồng thuận với nhau. Chúng ta phải đạt được tháng 3 này, phải đạt được hòa ước chắc chắn cuối cùng, là điểm biểu lộ công lý quốc tế. Tôi rất hạnh phúc và tôi cảm thấy như mình có phần trong đó, bởi tôi luôn ước muốn có việc này. Tôi đã nói với tổng thống Santos (của Colombia) hai lần về vấn đề này, và không chỉ tôi, mà cả Tòa Thánh cũng hướng về việc này. Tòa Thánh, chứ không chỉ riêng tôi, luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ và làm những gì có thể.
Cha cảm thấy thế nào khi máy bay cất cánh khỏi đất nước mà cha vừa viếng thăm?
Nói thật lòng, khi máy bay cất cánh sau chuyến viếng thăm, tôi thấy nhiều gương mặt lướt qua trước mắt mình, và tôi cảm thấy thúc giục phải cầu nguyện cho họ và nói với Chúa rằng: 'Lạy Chúa, con đến đây để làm vài việc, để làm tốt, có lẽ con đã làm chuyện gì đó sai, xin Chúa tha thứ cho con, nhưng xin bảo vệ tất cả những người đã gặp con, những người suy nghĩ về những gì con nói, những người lắng nghe con, ngay cả những người chỉ trích con.'
Con muốn hỏi cha về cuộc khủng hoảng nhập cư ở châu Âu: nhiều nước đang lắp đặt hàng rào kẽm gai nơi đường biên giới. Cha phải nói gì về việc này?
Bạn vừa nhắc đến từ 'khủng hoảng.' Chuyện này đã trở thành tình trạng khủng hoảng sau một quá trình kéo dài. Trong nhiều năm, quá trình này đã bùng phát, bởi chiến tranh mà những người này phải bỏ nhà chạy trốn, và đây là những cuộc chiến đã dấy lên trong nhiều năm. Nạn đói. Và là nạn đói trong nhiều năm. Khi tôi nghĩ về châu Phi, có lẽ hơi chút đơn giản hóa, tôi nghĩ đây như là 'châu lục bị bóc lột.' Đây là nơi người ta từng đến để bắt nô lệ, rồi lại đến để chiếm tài nguyên, và bây giờ là chiến tranh, vì lý do bộ lạc hay lý do khác. Nhưng những chuyện này xảy ra vì lợi ích kinh tế ẩn đàng sau. Và tôi nghĩ rằng, thay vì bóc lột một châu lục, hay một quốc gia, hãy nên đầu tư để người dân ở đó có công ăn việc làm. Làm được như thế sẽ tránh được cuộc khủng hoảng này.
Bạn hỏi tôi về các hàng rào chắn. Bạn biết chuyện gì xảy ra cho mọi bức tường không. Tất cả. Tất cả bức tường đều sụp đổ. Hôm nay, ngày mai, hay 100 năm nữa, chúng sẽ sụp đổ. Đây không phải là một giải pháp. Các bức tường không phải là một giải pháp. Ngay lúc này, châu Âu đang thấy mình lâm vào một hoàn cảnh khó khăn, thật sự là như vậy. Chúng ta phải thông minh. Tìm giải pháp không phải là chuyện dễ. Nhưng đối thoại giữa các quốc gia có thể dẫn đến giải pháp. Các bức tường không bao giờ là một giải pháp. Nhưng cầu nối thì có, và luôn luôn là vậy. Những gì tôi nghĩ là, các bức tường tồn tại được một thời gian ngắn hay dài, nhưng chúng không phải là giải pháp. Vấn đề vẫn cứ còn đó, và thậm chí giải quyết kiểu như thế chỉ gây thêm lòng oán ghét mà thôi.
Đức Phanxicô gặp gia đình Catire và Noel Walker và các con, từ trái, Cala, Dimas, Mia và Carmin) ngày chúa nhật tại Đại chủng viện San Carlos Borromeom, Philadelphia. 3Về Hội đồng, chúng con muốn biết liệu trong tấm lòng mục tử, cha có thực sự muốn một giải pháp cho vấn đề li dị rồi tái hôn. Và liệu tự sắc của cha về việc thúc đẩy nhanh tiến trình tiêu hôn đã khép lại thảo luận này hay chưa. Cuối cùng, cha phản ứng thế nào với những người lo sợ rằng với sự cải cách này, sẽ tạo nên, một cách không chính thức, cái gọi là 'li hôn của Công giáo'?
Với việc cải cách thủ tục tiêu hôn, tôi khép lại cánh cửa cho con đường hành chính, con đường mà việc li hôn có thể len lỏi vào. Những ai nghĩ rằng điều này tương đồng với 'li hôn của Công giáo', thì họ đã lầm, bởi văn kiện mới nhất này đã khép lại cánh cửa mà việc li hôn có thể len vào. Việc li hôn sẽ dễ hơn nhiều nếu theo lộ trình hành chính. Sẽ luôn luôn có lộ trình tòa án. Đa số các nghị phụ trong Hội đồng năm ngoái, đã kêu gọi tổ chức lại tiến trình này, bởi có những trường hợp phán xử đến 10 năm hoặc hơn. Có một phán quyết, rồi lại phán quyết khác, và sau đó là xin phúc thẩm, và lại phúc thẩm khác. Nó cứ triền miên không bao giờ dứt. Phán quyết đôi được đưa vào từ thời Đức Lambertini, Bênêđictô XIV, bởi ở Trung Âu, có một vài sự vi phạm, và ngài đưa điểm này vào để chặn đứng các vi phạm đó, nhưng đây không phải là một sự nhất thiết phải có. Thủ tục thay đổi, luật học thay đổi, trở nên tốt hơn. Tự sắc của tôi làm thuận tiện hóa cho tiến trình này, và cả về thời gian nữa, nhưng đây không phải là li hôn, bởi hôn nhân là bất khả phân ly khi được cử hành theo bí tích. Và Giáo hội không thể thay đổi điều này. Đây là giáo lý. Đây là bí tích bất khả phân ly.
Tòa án pháp lý là để chứng minh rằng, những gì có vẻ là bí tích lại không phải là bí tích, bởi thiếu sự tự do chẳng hạn, hay thiếu sự chính chắn, hay vì chứng bệnh thần kinh, hay vì rất nhiều lý do khác dẫn đến việc tiêu hôn, sau một cuộc nghiên cứu, một cuộc điều tra. Và kết luận là đó không phải là bí tích. Ví dụ như, khi người đó không tự do. Một ví dụ khác, dù bây giờ không phổ biến lắm, đó là ở một vài nơi, ít nhất là ở Buenos Aires, có những cuộc hôn nhân vì người phụ nữ lỡ mang thai, 'con phải cưới thôi.' Tôi kiên quyết khuyên các linh mục của tôi, và gần như ngăn cấm các cha, không được cử hành các lễ cưới thuộc tình trạng này. Chúng ta gọi đây là 'cưới chạy.' Họ cưới để giữ thể diện. Rồi đứa trẻ được sinh ra, và một số thì sống tốt với nhau, nhưng khi cưới, thì không có sự tự do. Nhiều người khác thì cuộc hôn nhân ngày càng tệ hơn, họ li thân và nói rằng: 'Tôi bị buộc phải cưới, bởi vì chúng ta phải che đậy tình trạng này' và như thế, đây là một lý do để tiêu hôn.
Còn về vấn đề cuộc hôn nhân thứ hai, nghĩa là những người li hôn, rồi có cuộc hôn nhân mới, thì hãy đọc Văn kiện Làm việc của Hội đồng. Với tôi, có vẻ hơi đơn giản hóa khi nói rằng giải pháp cho những người này là việc có thể cho họ được rước lễ. Nhưng, những người li dị rồi tái hôn không phải là vấn đề duy nhất, còn có vấn đề của các cặp tân hôn và những người trẻ không muốn lập gia đình. Một vấn đề khác nữa là sự chính chắn cảm xúc để kết hôn, là đức tin: 'Liệu tôi có tin hôn nhân là vĩnh viễn hay không?' Để làm linh mục, cần có 8 năm chuẩn bị, nhưng để kết ước cả đời với ai đó qua hôn phối, thì tất cả những gì cần chuẩn bị lại chỉ là 4 khóa học tiền hôn nhân. Nghĩ về cách nào để chuẩn bị cho hôn nhân, thật là chuyện khó khăn.
Nhưng 'li hôn của Công giáo' là chuyện không tồn tại. Tiêu hôn thì được, bởi sự liên kết đó chưa bao giờ tồn tại. Nhưng nếu có tồn tại, thì cuộc hôn nhân đó là bất khả phân ly.
Tiểu muội của Người nghèoChúng con biết là cha đã đến thăm các Tiểu muội của Người nghèo, và chúng con cũng được nghe là cha muốn thể hiện sự nâng đỡ của mình cho trường hợp đi kiện của các xơ. Thưa Đức Thánh Cha, cha có ủng hộ các viên chức nhà nước, những người nói rằng họ không đúng lương tâm khi ký hôn thú cho những cặp đồng tính?
Tôi không nhắc lại mọi trường hợp cụ thể của việc cự tuyệt do bởi lương tâm. Nhưng những gì tôi có thể nói, cự tuyệt vì lương tâm là một quyền con người. Và nếu một người không cho phép người khác được cự tuyệt vì lương tâm, thì đó chính là bác bỏ quyền của họ. Cự tuyệt vì lương tâm phải có trong mọi cơ cấu pháp chế, bởi đây là quyền con người. Nếu không, chúng ta sẽ rơi vào tình trạng là chúng ta tự mình quyết định xem quyền là thế nào, kiểu như, 'quyền này có giá trị, quyền kia thì không.' Khi còn nhỏ, tôi luôn xúc động khi đọc Hùng ca Roland, trong đó có đoạn những người Hồi giáo xếp hàng dài trước bình nước rửa tội hay thanh gươm đoạt mạng. Và họ phải chọn. Cự tuyệt vì lương tâm không phải là việc được cho phép hay không. Mà đây là quyền, và nếu chúng ta muốn xây dựng hòa bình, thì phải tôn trọng mọi quyền.
Tại Liên hiệp quốc, cha đã dùng một lối nói rất mạnh để lên án sự im lặng của thế giới trước nạn bách hại các Kitô hữu. Tổng thống Hollande đã bắt đầu cho ném bom quân ISIS ở Syria. Quan điểm của cha về việc này như thế nào?
Tôi có nghe chuyện này cách đây vài ngày, và tôi không hoàn toàn theo kịp tình hình hiện thời. Khi tôi nghe về những từ như ném bom, chết chóc, máu me, thì tôi xin lặp lại những gì đã nói trước Lưỡng viện và Liên hiệp quốc, đó là chúng ta phải tránh những điều này. Nhưng tôi không thể phán xét tình hình chính trị, bởi tôi không biết đủ về chuyện này.
Ignazio Marino, thị trưởng Roma, thành phố của Năm Toàn xá, nói rằng ông đến Đại hội Gia đình Thế giới vì cha đã mời ông ...
Tôi không mời thị trưởng Marino, rõ ràng chứ? Và tôi cũng không bảo các nhà tổ chức mời ông. Ông đã tuyên xưng mình là người Công giáo, ông đến theo ý muốn của ông.
Con muốn hỏi cha một câu về mối quan hệ giữa Tòa Thánh và Trung Quốc, cũng như về tình hình nước này, vốn khá là khó khăn cho Giáo hội Công giáo. Quan điểm của cha về việc này như thế nào?
Trung Quốc là một nước lớn, đem lại cho thế giới một nền văn hóa vĩ đại, và quá nhiều điều tốt đẹp. Tôi từng nói trên chuyến bay ngang qua Trung Quốc, trên đường về từ Hàn Quốc, rằng tôi rất thích đến Trung Quốc. Tôi yêu người dân Trung Quốc, và tôi hi vọng sẽ có khả năng thiết lập quan hệ tốt đẹp. Chúng tôi đang liên lạc, nói chuyện, tiến tới. Nhưng với tôi, viếng thăm một đất nước thân thiện như Trung Quốc, với văn hóa phong phú và quá nhiều cơ hội là việc tốt, sẽ là một niềm vui.
Những lời của cha nói về các nữ tu ở Hoa Kỳ thật đánh động. Một số đang yêu cầu phong linh mục cho nữ giới. Chúng ta sẽ thấy các nữ linh mục trong Giáo hội Công giáo như trong các Giáo hội Kitô giáo khác chứ?
Các xơ ở Hoa Kỳ đã làm những điều tuyệt vời trong lĩnh vực giáo dục và y tế. Người dân Hoa Kỳ yêu mến các xơ, tôi không biết họ mến các linh mục đến đâu nữa (cười) nhưng họ mến các xơ, họ yêu các xơ rất nhiều. Các xơ là những người tuyệt vời, rất rất, tuyệt vời. Đó là lý do vì sao tôi thấy phải cảm ơn những gì các xơ đã làm. Một nhân vật quan trọng trong chính phủ Hoa Kỳ đã nói với tôi cách đây vài ngày rằng: 'Sự giáo dục tôi có được, là đều nhờ các xơ.' Các xơ có những trường học ở mọi nơi, dù là khu giàu hay nghèo. Họ làm việc với người nghèo và trong bệnh viện.
Về vấn đề linh mục nữ giới, chuyện này là không thể được. Thánh Gioan Phaolô II đã nói rất rõ ràng. Không phải bởi phụ nữ không có năng lực. Trong Giáo hội, phụ nữ quan trọng hơn đàn ông, bởi giáo hội là một người nữ: Trong tiếng Ý, Giáo hội là "la chiesa", chứ không phải "il chiesa". Giáo hội là tân nương của Chúa Giêsu Kitô. Và Đức Mẹ thì quan trọng hơn các giáo hoàng, giám mục và linh mục. Tôi phải thừa nhận rằng chúng ta hơi chậm trễ trong việc soạn một thần học về nữ giới. Chúng ta phải tiến tới về thần học này. Đúng thật là thế.
Chuyến công du Hoa Kỳ của cha là một thành công. Cha có cảm thấy mình quyền lực hơn sau tất cả những đám đông quây quần bên cha hay không?
Tôi không biết liệu tôi có thành công hay không. Nhưng tôi lo cho mình, bởi nếu tôi lo lắng về bản thân mình thì tôi luôn luôn ít cảm thấy lo về chuyện mình thiếu quyền lực. Quyền lực là thứ phù du, đến hôm nay, và ra đi ngày mai. Nó quan trọng nếu như bạn có thể làm việc tốt với quyền lực trong tay. Và Chúa Giêsu đã định nghĩa quyền lực là gì, quyền lực đích thực là phục vụ, phục vụ cách khiêm nhượng nhất. Và tôi vẫn phải tiến thêm trên con đường phục vụ, bởi tôi cảm giác rằng tôi đang không làm mọi sự mà tôi có thể làm.
Đức Thánh Cha, cha đã thành một ngôi sao ở Hoa Kỳ. Có tốt cho Giáo hội không khi Giáo hoàng trở thành một ngôi sao?
Bạn có biết tước hiệu của giáo hoàng là gì không? Là Nô bộc của mọi nô bộc của Chúa. Điều này hơi khác với một ngôi sao. Ngôi sao thì đẹp để chúng ta ngắm nhìn. Tôi thích ngắm sao vào mùa hè khi bầu trời quang đãng. Nhưng giáo hoàng phải là nô bộc của mọi nô bộc của Chúa. Và còn một sự thật nữa là. Chúng ta đã thấy biết bao nhiêu ngôi sao rơi rụng. Đây là chuyện phù du thôi. Nhưng là nô bộc của mọi nô bộc của Thiên Chúa thì không phải là chuyện thoáng qua.
J.B. Thái Hòa chuyển dịch
Nguồn: http://phanxico.vn/
1 triệu người tham dự lễ bế mạc Đại Hội Gia Đình thế giới
PHILADELPHIA. Hơn 1 triệu người đã tham dự thánh lễ bế mạc Đại hội kỳ 8 các gia đình Công Giáo thế giới do ĐTC cử hành chiều chúa nhật 27-9-2015 tại Philadelphia.
Lúc gần 3 giờ chiều, ĐTC đã tới đại lộ công viên Benjamin Franklin ở Philadelphia để cử hành thánh lễ bế mạc đại hội các gia đình Công Giáo thế giới. Đây cũng là nơi đã diễn ra buổi canh thức cầu nguyện của của ngài với các gia đình lúc 7 giờ tối thứ bẩy hôm trước 26-9, với phần trình bày chứng từ của 6 gia đình, xen lẫn các bài đọc Sách Thánh, tông huấn "Familiaris consortio" của thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng về gia đình, và thư của thánh nữ Gianna Beretta Molla gửi người yêu, thánh nữ đã chết cho bào thai trong lòng được tiếp tục sống.
Khi đến nơi, ĐTC đã dành hơn 20 phút đi xe có mái kiếng che để chào thăm các tín hữu tụ tập tại đây. Rất nhiều màn hình khổng lồ được bố trí trong khu vực công viên đại lộ để các tín hữu ở xa cũng có thể tham dự thánh lễ.
Trong số các tín hữu hiện diện cũng có hàng ngàn tín hữu người Việt, từ quốc nội cũng như từ nhiều nơi ở Mỹ đến tham dự. Đặc biệt có Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc, Chủ tịch HĐGM Việt Nam,
Đồng tế với ĐTC có rất nhiều GM, trong đó hơn 300 vị đến từ nước ngoài và hàng ngàn LM quốc tế. Số tín hữu Việt Nam chiếm 10% những người có đăng ký tham dự đại hội, nên bài đọc thứ hai trong thánh lễ được xướng lên bằng tiếng Việt.
Bài giảng của ĐTC
Trong bài giảng Thánh Lễ, ĐTC đã đi từ sự tích trong hai bài đọc: Ông Môisê không khiển trách hai người trong dân nói tiên tri mà không được ủy nhiệm, và sự kiện Chúa Giêsu dạy các môn đệ đừng cấm cản một người trừ quỉ nhân danh Ngài. Môisê và Chúa Giêsu trách cứ những cộng tác viên có tinh thần khép kín. Các môn đệ phản ứng vì lòng ngay, nhưng cũng có cám dỗ cần cảnh giác là cảm thấy bị vấp phạm vì tự do của Thiên Chúa, Đấng cho mưa rơi xuống trên những người công chính cũng như những kẻ bất chính.
ĐTC cũng bình luận về lời Chúa Giêsu: "Ai cho các con một ly nước nhân danh Thầy, họ sẽ không bị mất phần thưởng" (Mc 9,41). Ngài nói:
"Đó là những cử chỉ rất bé nhỏ mà ta học ở nhà; những cử chỉ trong gia đình bị mất hút trong sự vô danh của đời sống thường nhật, nhưng nó làm cho ngày này khác với ngày kia. Đó là những cử chỉ của bà mẹ, bà nội ngoại, của người cha, người ông, người con, của anh em. Đó là những cử chỉ dịu dàng, thương mến, cảm thông. Những cử chỉ như một đĩa đồ ăn nóng cho người đang chờ bữa ăn tối, như bữa điểm tâm sáng sớm của người biết tháp tùng trong việc thức dậy sớm. Đó là những cử chỉ gia đình. Như sự chúc lành trước khi đi ngủ, hay một vòng tay ôm khi trở về nhà sau một ngày làm việc. Tình yêu được biểu lộ qua những điều bé nhỏ, trong sự quan tâm đến những chi tiết mỗi ngày làm cho cuộc sống luôn có hương vị của mái ấm gia đình. Niềm tin được tăng trưởng khi được sống và được tình yêu nhào nặn. Vì thế, các gia đình, gia cư của chúng ta là những Giáo Hội tại gia đích thực: đó là nơi thích hợp trong đó đức tin trở thành sự sống và sự sống tăng trưởng trong đức tin".
ĐTC cũng khẳng định rằng: "Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng cản trở những cử chỉ bé nhỏ lạ lùng như thế, đúng ra Chúa muốn chúng ta khơi dậy những cử chỉ như vậy, làm cho chúng tăng trưởng..
"Thái độ mà chúng ta được mời gọi thực thi như thế, làm cho chúng ta tự hỏi vào cuối đại lễ này: chúng ta đang làm thế nào để sống tiêu chuẩn ấy trong gia đình và xã hội chúng ta? Đâu là loại thế giới mà chúng ta muốn để lại cho con cháu chúng ta? Chúng ta không một mình trả lời những câu hỏi ấy. Chính Chúa Thánh Linh kêu gọi chúng ta và thách thức chúng ta trả lời những câu hỏi ấy với đại gia đình nhân loại. Căn nhà chung của chúng ta không thể chấp nhận những chia rẽ vô bổ. "Thách đố cấp thiết phải bảo vệ căn nhà chung của chúng ta đòi phải cố gắng liên kết toàn thể nhân loại trong sự tìm kiếm một sự phát triển lâu dài và toàn diện, vì chúng ta biết rằng sự việc có thể thay đổi được" (Laudato sì 13). Ước gì con cái chúng ta tìm được nơi chúng ta những điểm tham chiếu để hiệp thông chứ không phải để chia rẽ".
Và ĐTC kết luận rằng "Mỗi người mong ước thành lập trong thế giới này một gia đình, hãy dạy cho con cái vui mừng vì mỗi hành động nhắm chiến thắng sự ác - một gia đình biết chứng tỏ Chúa Thánh Linh hằng sống và đang hoạt động - họ sẽ tìm được lòng biết ơn và sự quí chuộng đối với bất kỳ dân tộc, tôn giáo hoặc miền địa lý mà họ thuộc về".
Xin Thiên Chúa ban cho tất cả chúng ta trở thành những ngôn sứ loan báo Niềm Vui Phúc Âm về gia đình, về tình yêu gia đình, trở thành những ngôn sứ như môn đệ của Chúa, và xin Chúa ban cho chúng ta ơn được xứng đáng với con tim thanh khiết, không cảm thấy bị vấp phạm vì Tin Mừng"
Trong phần lời nguyện giáo dân, các ý nguyện được xướng lên bằng tiếng Anh, Tây Ban Nha và tiếng Việt.
Cám ơn và thông báo
Cuối thánh lễ, Đức TGM Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân loan báo địa điểm cử hành Đại hội kỳ 9 các gia đình Công Giáo thế giới sẽ được cử hành trong vòng 3 năm tới đây tại Dublin, thủ đô cộng hòa Ailen vào năm 2018.
Rồi theo lời thỉnh cầu của Đức TGM Paglia, ĐTC trao sách Tin Mừng Luca cho 5 đại diện các gia đình ở mỗi đại lục: Hà nội được đại diện cho Á Châu, Kinshasa thủ đô Congo đại diện cho Phi châu, La Habana Cuba cho Mỹ châu, Sydney đại diện cho Australia và Marseille đại diện cho Âu Châu. Và có thêm một gia đình đến từ Damasco, thủ đô Siria. Gia đình này đến đây để lại đằng sau bom đạn, nhưng họ không ở lại đây, họ sẽ trở về Damasco để mang Tin Mừng về đó, hầu chữa lành những vết thương, an ủi trong đau thương và mang lại hy vọng. Tòa Thánh dự kiến sẽ phổ biến hàng trăm ngàn cuốn Tin Mừng theo thánh Luca cho các gia đình tại nhiều nước.
Thánh lễ kết thúc lúc gần 6 giờ rưỡi chiều. ĐTC đã đi thẳng ra phi trường quốc tế của thành phố Philadelphia cách đó 10 cây số. Tại một căn nhà lớn để máy bay, vào lúc 7 giờ tối, ĐTC đã gặp gỡ và cám ơn Ban tổ chức, những người thiện nguyện và ân nhân, tổng cộng khoảng 500 người, đã góp phần tổ chức Đại hội các gia đình Công Giáo quốc tế tại Philadelphia.
Phó Tổng thống Joe Binden đã cùng với các GM tiễn biệt ĐTC. Sau 8 giờ bay, ngài đã về đến Roma bằng an khoảng 10 giờ sáng ngày 28-9-2015. Và trên đường về Vatican, ngài đã ghé lại Đền thờ Đức Bà Cả để tạ ơn Đức Mẹ.
G. Trần Đức Anh OP
Ngày cuối cùng tại New York và sáng đầu tiên tại Philadelphia
Tường thuật ngày cuối ĐTC viếng thăm New York và sáng ngày đầu tiên tại Philadelphia
Sáng thứ bẩy 26 tháng 9 ĐTC bắt đầu chặng thứ ba trong chuyến công du Hoa Kỳ đó là viếng thăm tổng giáo phận Phialadelphia và tham dự cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình lần thứ 8.
Sau đây xin kính mời quý vị cùng chúng tôi theo dõi các sinh hoạt cuối cùng của ĐTC tại New York và sáng thứ bẩy tại Philadelphia.
Tại New York sau khi phát biểu trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, lúc 11 giờ sáng thứ sáu 25 tháng 9 ĐTC đã đến thăm đài tưởng niệm Ground Zero, là nền cũ của Tháp Song Sinh, đã bị khủng bố, cháy và sập ngày 11 tháng 9 năm 2001.
Sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001 lúc 8 giờ 48 phút chiếc American Airline 11 đã đâm vào ngọn tháp phiá bắc. Rồi vào lúc 9 giờ 3 phút chiếc máy bay United Airline 175 đâm vào tháp phía nam. Vì sức nóng kinh khủng của xăng cháy, cấu trúc bằng thép của hai tháp sụp đổ làm cho vài dinh thự khác của Trung Tâm Thương Mại cũng bị sập theo, khiến cho 2.896 người bị thiệt mạng. Đây là số nạn nhân bị thiệt mạng cao nhất trong lịch sử các tai họa chết người tại Hoa Kỳ. Năm 2002 đã có cuộc thi tái thiết Tháp Song Sinh và kiến trúc sư Daniel Libensky đã thắng với dự án “Trung tâm thương mại mới”.
Công viên tưởng niệm rộng 33.000 mét vuông, gồm một đám rừng nhỏ có trồng 400 cây sồi trắng và hai thác nước nhân tạo lớn nhất Hoa Kỳ cung cấp nước cho hai hồ mỗi hồ rộng 4.000 mét vuông. Hai hồ này là dấu vết nền cũ của Tháp Song Sinh, có song chắn bằng đồng chung quanh, bên trên khắc tên của tất cả các nạn nhân của hai vụ khủng bố ngày 26 tháng 2 năm 1993, và vụ khủng bố Tháp Song Sinh ngày 11 tháng 9 năm 2001. Bên trong lòng của khu tưởng niệm có một viện bảo tàng trưng bầy hình ảnh và vết tích của các biến cố thê thảm ấy.
Tại đây lúc 11 giờ rưỡi sáng 25 tháng 9 đã diễn ra buổi cầu nguyện đại kết, với sự tham dự của các đại diện Ấn giáo, Phật giáo, đạo Sihk, Jain, Thổ dân, Do thái, Hồi giáo, và các Giáo Hội Kitô khác tại New York.
Xe chở ĐTC đã dừng gần phông ten nước phía nam, nơi ĐTC đã cùng với ĐHY Dolan đặt một vòng hoa tưởng niệm các nạn nhân và chào 20 thân nhân của các nhân viên cấp cứu bị thiệt mạng. Sau đó hai vị đi vào bên trong Đài Tưởng Niệm, lấy thang máy lên lầu 4 có phòng khánh tiết. ĐTC bước lên bục nơi đã có 12 vị lãnh đạo các Giáo Hội Kitô và các tôn giáo khác chờ sẵn. Có vài trăm người tham dự buổi tưởng niệm đại kết này. ĐHY Dolan đã chào mừng và cám ơn sự hiện diện của mọi người. Ngài nói “người dân New York chúng con là những kẻ tội lỗi có nhiều thói xấu và phạm nhiều lỗi lầm, nhưng có một điều đã biết làm tốt: đó là xây dựng tình bạn chân thành và phong phú giữa các tôn giáo. Các vị lãnh đạo tôn giáo cùng nhau gặp gỡ, làm việc, cầu nguyện và phục vụ các tín hữu và thành phố.”
Tiếp đến là lời cầu nguyện của Rabbi Elliot Cosgrove, trưởng hội đường Do thái, và Imam Khalid Latif, tuyên úy Hồi giáo đại học New York. Rabbi Elliot nói: Tại nơi bạo lực đã bị vi phạm một cách sai lạc nhân danh Thiên Chúa các đại diện tôn giáo thế giới tụ họp để cống hiến các lời an ủi và cầu nguyện, để nhớ tới các nạn nhân vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 với tình yêu thương trìu mến và cầu nguyện cho linh hồn họ. Imam Latif nói: Những người tấn công nơi này lòng tràn đầy bất khoan nhượng và không biểu biết. Lòng can đảm của buổi tụ họp nhau hôm nay khiên cho chúng ta khác với những người chống lại tự do tôn giáo vì chúng ta cùng nhau đứng đây như anh em để lên án các hành động kinh khủng cùa bạo lực và vinh danh từng sự sống đã mất đi một cách vô điều kiện như vậy. Như chúng ta đọc trong sách Coran: “Mỗi sự sống mất đi giống như toàn nhân loại mất đi” và “mỗi sự sống được cứu giống như toàn nhân loại được cứu”. Đối với Thiên Chúa mọi sự sống đều thánh thiêng và quý báu. Nơi đâu những người khác thất bại, thì chúng ta hãy là những người nhắc nhớ ý niệm sự tạo dựng này của Ngài.
Rồi ĐTC đọc lời nguyện: xin Thiên Chúa của tình yêu, lòng thương cảm và hoà giải, trong sự nhân lành của Ngài, ban ánh sáng và hòa bình vĩnh cửu cho tất cả những người đã chết tại nơi đây... tất cả mọi người nam nữ vô tội, nạn nhân của thảm cảnh này, chỉ vì công việc và bổn phận của họ đã đưa họ tới đây ngày 11 tháng 9 năm 2001. ĐTC cũng xin Chúa chữa lành những người đau khổ vì các thương tích và bệnh tật, cũng như nỗi khổ đau của các gia đình còn đang thương khóc vì đã mất người thân.. Xin Chúa ban cho họ sức mạnh tiếp tục sống với lòng can đảm và hy vọng. Tiếp tục lời cầu nguyện ĐTC cũng nhớ đến những người đã chết hay bị thương, và những người đã mất người thân trong cùng ngày tại Ngũ Giác Đài và tại Shanksville bên Pennsylvania. Ngài nói tiếp trong lời nguyện: “Lậy Thiên Chúa của hòa bình, xin đem Hoà Bình của Chúa đến trong thế giới bạo lực của chúng con; hòa bình trong các con tim của mọi người nam nữ, hòa bình giữa các quốc gia của trái đất. Xin Chúa dẫn những người có tâm trí bị thù hận soi mòn về Con đường tình yêu của Chúa. Lậy Thiên Chúa của sự hiểu biết, bị đè nén bởi chiều kích lớn lao của thảm cảnh này, chúng con tìm ánh sáng và sự hướng dẫn của Chúa, trong khi chúng con đang đứng trước các biến cố kinh khủng như thế. Xin ban cho những người còn sống có thể sống làm sao để các mạng sống đã bị mất không mất đi một cách vô ích. Xin Chúa củng cố và an ủi chúng con, xin Chúa củng cố chúng con trong hy vọng, và ban cho chúng con sự khôn ngoan và lòng can đảm làm việc không biết mỏi mệt cho một thế giới, trong đó hoà bình và tinh yêu chân chính ngự trị giữa các quốc gia và trong con tim của mọi người”.
Lễ tưởng niệm tiếp tục với các lời suy niệm và cầu nguyện cho Hoà Bình của các đại diện Ấn giáo, Phật giáo, đạo Sikh, Kitô và Hồi giáo và các tôn giáo khác, rồi có lời cầu bằng tiếng Do thái cho các nạn nhân.
Nước mắt khóc thương mọi nạn nhân của bạo lực, tàn phá bất công trên toàn thế giới
Ngỏ lời trong dịp này bằng tiếng Tây Ban Nha, sau khi bầy tỏ các tâm tình và xúc động khi đứng tại nơi hàng ngàn người đã bị cướp mất mạng sống trong một khoảnh khắc của tàn phá vô nghĩa, và khi nhìn dòng nước chảy tại đài tưởng niệm, ĐTC nói:
Nước mà chúng ta thấy chảy về trung tâm trống rỗng, nhắc cho chúng ta nhớ tới tất cả các mạng sống đã ở dưới quyền lực của những người tin rằng sự tàn phá là phương thế duy nhất để giải quyết các xung khắc. Đó là tiếng kêu thầm lặng của những người đã khổ đau trong thịt xác mình vì cái luận lý của bạo lực, thù hận và báo oán. Một thứ luận lý chỉ có thể sản xuất ra khổ đau, tàn phá và nước mắt. Nước chảy xuống cũng biểu tượng cho nước mắt chúng ta. Nước mắt vì các tàn phá của ngày hôm qua kết hiệp với biết bao tàn phá của ngày hôm nay. Đây là nơi, trong đó chúng ta khóc, chúng ta khóc nỗi đớn đau vì cảm thấy bất lực trước bất công, trước cảnh anh em giết nhau, trước việc không có khả năng giải quyết các khác biệt bằng đối thoại. Tại nơi này chúng ta khóc vì những người vô tội bị mất mạng cách bất công và nhưng không, vì không thể tìm ra các giải pháp cho công ích. Đó là nước nhắc cho chúng ta nhớ tiếng khóc của hôm qua và của hôm nay.
ĐTC nói tiếp trong bài phát biểu : Ở đây giữa khổ đau xé lòng, chúng ta có thể sờ mó được với bàn tay khả năng của lòng tốt anh hùng, mà con người có thể có ; nó là sức mạnh dấu ẩn mà chúng ta luôn phải kêu gọi. Trong lúc khổ đau nhất anh chị em đã là chứng nhân của những cử chỉ tận hiến và trợ giúp vĩ đại nhất. Các bàn tay giơ ra, các mạng sống hiến dâng. Trong một thành phố lớn xem ra không cá tánh, vô danh, cô đơn, anh chị em đã có khả năng cho thấy tình liên đới mạnh mẽ của sự tương trợ lẫn nhau, của tình yêu và của hy sinh cá nhân. Trong lúc này đã không có vấn đề dòng máu, nguồn gốc, khu phố, tôn giáo hay lựa chọn chính trị ; nhưng đã là vấn đề của tình liên đới, của sự cấp thiết, của tình huynh đệ. Nó đã là vấn đề nhân đạo. Các nhân viên cứu hỏa New York đã vào hai tháp đang sập, mà không chú ý tới mạng sống của họ. Nhiều người đã ngã gục trong khi phục vụ, và với hy sinh của họ họ đã cứu mạng sống của biết bao nhiêu người khác.
Nơi chết chóc này cũng biến thành một nơi của sự sống, của các mạng sống được cứu vớt, một bài ca đem chúng ta tới chỗ khẳng định rằng sự sống luôn luôn được chỉ định chiến thắng các ngôn sứ của huỷ diệt, của cái chết, rằng sự thiện sẽ luôn luôn thắng sự dữ, rằng sự hòa giải và hiệp nhất sẽ chiến thắng thù hận và chia rẽ.
Tại nơi của khổ đau và tưởng nhớ này, cơ may kết hiệp với các vị lãnh đạo đại diện cho nhiều tôn giáo làm giầu cho thành phố này, khiến cho tôi tràn đầy hy vọng. Tôi hy vọng rằng sự hiện diện của chúng ta tại đây là một đấu chỉ mạnh mẽ ý chí của chúng ta chia sẻ và tái khẳng định ước muốn là các sức mạnh của sự hoà giải, các sức mạnh của hòa bình và công lý trong cộng đoàn này và tại khắp nơi trên thế giới. Trong các khác biệt, trong các bất đồng có thể sống trong một thế giới hòa bình. Trước mỗi mưu toan đồng nhất hóa chúng ta có thể và cần hiệp nhất với nhau giữa các tiếng nói, các nền văn hóa, tôn giáo khác nhau và trao ban tiếng nói cho tất cả những gì muốn ngăn cản nó. Hôm nay chúng ta cùng nhau được mời gọi nói « không » với mọi mưu toan đồng nhất hóa, và nói « có » với một sự khác biệt được chấp nhận và hòa giải.
Vì mục đích này chúng ta cần loại trừ các tâm tình thù ghét, báo thù, oán hận. Và chúng ta biết rằng điều này chỉ có thể như một ơn của trời. Ở đây, tại nơi tưởng niệm này, mỗi người trong cách thức riêng của mình, nhưng cùng nhau. Tôi xin đề nghị với quý vị giữ một lúc thinh lặng và cầu nguyện. Chúng ta xin trời ơn dấn thân cho lý tưởng của hòa bình. Hoà bình trong các nhà, hòa bình trong các gia đình, trong các trường học, trong các cộng đoàn của chúng ta. Hoà bình tại các nơi chiến tranh xem ra không chấm dứt. Hoà bình trên các gương mặt đã không biết tới gì khác ngoài khổ đau. Hoà bình trong thế giới rộng rãi này mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta như là nhà của tất cả mọi người và cho tất cả mọi người. Chỉ có hòa bình thôi.
ĐTC và mọi người đã thinh lặng cầu nguyện.
Rồi ngài kết luận : Như thế cuộc sống của các người thân yêu của chúng ta sẽ không phải là một cuộc sống kết thúc trong quên lãng, nhưng sẽ hiện diện mỗi lần chúng ta chiến đấu để là ngôn sứ của sự tái thiết, ngôn sứ của sự hòa giải, ngôn sứ của hòa bình.
Tiếp đến các thành viên ca đoàn thiếu nhi và bạn trẻ thuộc nhiều nước khác nhau đã lên đứng vây quanh khán đài, nắm tay nhau hát thánh ca hoà bình. Mọi người được mời gọi trao ban bình an cho nhau. Các đại diện tôn giáo được tặng mỗi người một huy hiệu chuyến viếng thăm của ĐTC.
Sau khi chào tữ giã ĐTC đã vào thăm viện bảo tàng, nơi trưng bầy các hình ảnh và nhiều chứng tích của cuộc khủng bố.
Lúc 12 giờ 30 ĐTC đã trở về khu vực dành cho Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh cạnh Liên Hiệp Quốc cách đó 2 cây số để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát, trưóc khi tiếp tục các sinh hoạt khác vào ban chiều.
Lúc 6 giờ chiều giờ New York, ĐTC đã đến thăm trường « Đức Bà Nữ Vương các thánh Thiên Thẩn” cách đó 4 cây số rưỡi, gặp gỡ các trẻ em và gia đình các người di cư. Trường học này tọa lạc trong khu phố Brooklyn. Tên gọi Brooklyn đến từ tiếng Hoà Lan « Breuckelen » là tên ngôi làng người di dân gốc Hoà Lan đã thành lập năm 1624. Với 2,5 triệu người Brooklyn là khu phố đông dân cư nhất trong 4 khu phố tại New York. Năm 1898 nó được gắn liền với New York nhưng vẫn tiếp tục duy trì căn tính riêng. Là nơi cập bến của người di cư, nó gồm các cộng đoàn thuần nhất theo chủng tộc và tôn giáo. Tại Brooklym có cây cầu nổi tiếng nối liền Brooklyn với Manhattan xây năm 1883, và Viện bảo tàng xây năm 1897, là một trong các viện bảo tàng lớn nhất Hoa Kỳ với hơn 1,5 triệu tác phẩm nghệ thuật thuộc các nưóc từ Ai cập cho tới các tác phẩm ngày nay.
Giáo phận Brooklyn được thành lập năm 1853 có hơn 1,4 triệu tín hữu công giáo trên gần 4,9 triệu dân, gồm 187 giáo xứ, 437 linh mục giáo phận, 167 linh mục dòng, 284 tu huynh, 769 nữ tu, 225 phó tế vĩnh viễn, 57 đại chủng sinh. Giáo phận diều khiển 203 cơ cấu giáo dục và 277 trung tâm bác ái.
Trường Đức Bà Nữ Vương các thánh Thiên Thần là một trưởng tiểu học có 282 học sinh tuổi từ 5 tới 14, trong đó 69% có học bổng. Các trẻ em là con các gia đình di cư có lợi tức thấp 69% đến từ châu Mỹ Latinh, các gia đình khác đến từ Phi châu và Trung Đông, 22% là người Mỹ gốc Phi châu. Trường này là một trong số 6 trường do tổng giáo phận New York điều hành với tổng cộng 2.100 học sinh, trong đó có ¼ không nói tiếng Anh.
Trưởng học là đại gia đình cho tất cả mọi người
ĐTC đã được bà giám đốc trường tiếp đón tại cửa hông của trường. Bà đã tháp tùng ĐTC vào trong phòng thể thao thể dục nơi diễn ra cuộc gặp gỡ.
Ngỏ lời với các em, ĐTC bầy tỏ sự hài lòng được ở với các em như trong một gia đình. Ngài đặc biệt xin lỗi các giáo chức vì đã lấy ít phút giờ học. Các em thuộc các gia đình đến từ các nước khác. Cả khi không dễ mà tìm được nhà mới, các bạn bè và láng giềng mới và cuộc sống bắt đầu với nhiều vất vả : học tiếng mới, thích hợp với một nền văn hóa mới, khí hậu mới. Phải học biết bao nhiêu điều chứ không phải chỉ có bài tập của trường học. Nhưng có điều đẹp đó là các em cũng gặp các bạn mới, các người mở rộng cửa tiếp đón và cho thấy sự dịu hiền, tình bạn, sự cảm thông, và họ tìm giúp đỡ chúng ta để chúng ta không cảm thấy xa lạ. Trong cách thế đó trường học trở thành một đại gia đình cho tất cả mọi người, nơi chúng ta học giúp đỡ nhau cùng với cha me, ông bà, các nhà giáo dục, thầy dậy và bạn bè, học chia sẻ những gì là tốt lành nơi từng người, cho đi cái tốt nhất của mình, làm việc theo nhóm và kiên trì trong các mục đích. ĐTC nhắc đến một nhân vật có ảnh hưởng lớn trên xã hội Hoa Kỳ như sau :
Bên cạnh đây có một con đường rất quan trọng với tên của một người đã làm biết bao điều tốt lành cho tha nhân, mà cha muốn cùng tưởng niệm với các con. Cha muốn nói đến Mục sư Martin Luther King. Một ngày kia ngài đã nói : « Tôi có một giấc mơ » Ngài đã mơ rằng biết bao nhiêu trẻ em, biết bao nhiêu người có được sự bình đẳng và cơ may. Ngài đã mơ rằng biết bao trẻ em như các con được giáo dục. Thật là đẹp có các giấc mơ và chiến đấu cho các giấc mơ đó.
Hôm nay chúng ta muốn tiếp tục mơ và chúng ta mừng tất cả các cơ may cho phép các con cũng như người lớn không đánh mất đi niềm hy vong vào một thế giới tốt đẹp hơn với nhiều khả thể hơn. Cha biết rằng một trong các giấc mơ của cha mẹ các con là các con có thể lớn lên trong tươi vui. Thật luôn luôn là điều đẹp, trông thấy một trẻ em cười. Ở đây người ta thấy là các con tươi cười : hãy tiếp tục như thế, và hãy giúp làm cho niềm vui lây lan tới mọi người sống chúng quanh các con.
Các trẻ em thân mến, các con có quyền mơ, và cha rất vui mừng vì các con có thể tìm thấy trong ngôi trường này, nơi các bạn bè và các thầy dậy của các con sự nâng đỡ cần thiết để làm điều ấy. Nơi đâu có các giấc mơ, nơi đó có niềm vui, nơi đó luôn có Chúa Giêsu. Bởi vì Chúa Giêsu là niềm vui, và muốn giúp chúng ta để cho niềm vui ấy kéo dài mọi ngày.
Trước khi từ biệt các con cha muốn cho các con một bài tập về làm ở nhà, có được không ? Đó là một lời xin đơn sơ nhưng rất quan trọng : các con đừng quên cầu nguyện cho cha, để cha có thể chia sẻ với biết bao nhiêu người khác niềm vui của Chúa Giêsu. Và chúng ta cũng cầu nguyện để nhiều người có thể nếm hưởng niềm vui mà các con có.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho các con và xin Đức Trinh Nữ che chở các con.
ĐTC dã tặng cho trường Đức Bà Nữ Vương các thánh Thiên Thần Harlem một bức tượng bằng gỗ Đức Mẹ bồng Chúa Hài Nhi, do các điêu khắc gia vùng Trentino đông bắc Italia tạc. Sau đó ngài đi ra phiá trước trưòng để chào giới phụ huynh và dân chúng trong khu phố.
Lúc 17 giở 15 phút chiều 25 tháng 9 ĐTC dã đi xe đến Madison Square Garden cách đó 9 cây số để chủ sự thánh lễ cho tín hữu tổng giáo phận New York. Madison Square Garden là sân vận động xây năm 1968 và tái thiết năm 1991, có 20.000 chỗ ngồi, nơi diễn ra các cuộc tranh tài thể thao thể dục, hoà nhạc, các hội nghị và các đại hội của hai đảng Cộng Hoà và Dân Chủ Mỹ.
Thiên Chúa đông hành với con người trong mọi môi trường sống và muốn soi sáng khắp nơi
Thánh lễ cầu nguyện cho hoà bình và công lý đã được cử hành bằng ba thứ tiếng Latinh, Anh và Tây Ban Nha. Các lời nguyện giáo dân được đọc bằng các thứ tiếng Gaelico, Ba Lan, Đức, Tigrino và Ý.
Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc trích từ chương 9 sách ngôn sứ Isaia nói rằng: « Dân tộc bước đi trong tối tăm đã nhìn thấy một ánh sáng lớn » (Is 9,1)
Chúng ta đang ở trong sân vận động Madison Square Garden, là nơi biểu tượng của thành phố này, là trụ sở của các cuộc gặp gỡ thể thao, nghệ thuật, âm nhạc, tụ họp người của nhiều nơi, không phải chỉ là của thành phố mà của toàn thế giới. Dân bước đi giữa các sinh hoạt, các lo lắng thường nhật của mình, dân bước đi mang nặng các thành công và các lầm lỗi, các sợ hãi và các cơ may, các niềm vui và niềm hy vọng, cũng như các thất vọng và cay đắng của mình đã trông thấy một ánh sáng lớn.
Trong mọi thời đại dân Thiên Chúa đưọc mời gọi chiêm ngưỡng ánh sáng đó, ánh sáng muốn chiếu soi mọi quốc gia, muốn đến trong mọi góc của thành phố này, với mọi công dân, mọi không gian của cuộc sống. Một trong các đặc thái của Dân có niềm tin là khả năng trông thấy, chiêm ngưỡng giữa các tối tăm của mình, ánh sáng mà Chúa Kitô đem đến. Dân có niềm tin biết nhìn, phân định và chiêm ngắm sự hiện diện sống động của Thiên Chúa giữa cuộc đời mình, giữa thành phố của mình. Sống trong một thành phố lớn có nhiều phức tạp, với một môi trường đa văn hóa và các thách đố lớn không đễ giải quyết. Các thành phố lớn nhắc cho chúng ta biết sự phong phú ẩn dấu trong thế giới chúng ta là các nền văn hóa, các truyền thống và lịch sử khác nhau, các tiếng nói, cách ăn mặc khác nhau. Các thành phố lớn diễn tả sự da diện của các cung cách sống và hành xử của chúng ta. Nhưng các thành phố lớn cũng che dấu gương mặt của biết bao nhiêu người bị coi như công dân hạng hai. Giữa các tiếng di chuyển ồn ào, trong tiết nhịp các thay đổi cũng bị che dấu các tiếng nói của biết bao nhiêu gương mặt không có quyền công dân, không có quyền là thành phần của thành phố - các người nước ngoài, con cái họ không được học hành, các người không đuợc săn sóc sức khỏe, các người vô gia cư, các người già cô đơn, bị ở bên lề các đường đi của chúng ta, trong một sự vô danh ầm ĩ. Họ bưóc vào trong một cảnh tượng thành thị từ từ trở thành tự nhiên trước mắt và đặc biệt là trong tim chúng ta. Tuy nhiên, trong mọi trạng huống đó vẫn có Chúa đồng hành với chúng ta. ĐTC nói :
Biết rằng Chúa Giêsu tiếp tục bước đi trên các con đường của anh chị em, trà trộn với dân Ngài môt cách sống động, để cho mình bị liện lụy và lôi cuốn con người vào trong một lịch sử cứu độ duy nhất khiến cho chúng ta tràn đầy hy vọng, một niềm hy vọng giải thoát chúng ta khỏi sức mạnh thúc dẩy chúng ta cô lập hóa mình và không biết đến cuộc sống của người khác, cuộc sống của thành phố. Một niềm hy vọng giải thoát chúng ta khỏi các liên lạc trống rỗng, các phân tích trừu tượng, hay nhu cầu có các cảm xúc mạnh. Một niềm hy vọng không sợ hãi tháp nhập vào và hành động như men trong những nơi bạn phải chung đụng và sống. Một niềm hy vọng mời gọi chúng ta nhìn giữa « khói mù ô nhiễm » sự hiện diện của Thiên Chúa là Đấng tiếp tục bước đi trong các thành phố của chúng ta.
Ngôn sứ Isaia giới thiệu Chúa Giêsu với chúng ta như « Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa quyền năng, Cha muôn thuở, Hoàng tử của hoà bình » (Is 9,5). Với những nguời hỏi cho biết họ phải làm gì, câu trả lời đầu tiên của Chúa Giêsu là đề nghị, khích lệ và động viên. Ngài luôn luôn đề nghị các môn đệ ra đi, và thúc đầy họ ra đi gặp gỡ những người khác tại những nơi họ sống, ra đi không sợ hãi, không nhờm gớm, ra đi loan báo niềm vui cho mọi dân tộc. Và nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa trở thành Emmamuel luôn đi bên cạnh chúng ta, trà trộn với chúng ta trong nhà của chúng ta. Không ai và không có gì có thể tách rời chúng ta khỏi Ngài. Ra đi loan báo Thiên Chúa là Cha luôn chờ đón chúng ta để ôm chúng ta vào lòng. Đi tới với những người khác để chia sẻ tin vui Thiên Chuá là Cha, đồng hành với chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi cảnh vô danh, khỏi chiến tranh thi đua, tự quy hướng về mình, để mở ra con đường hoà bình cho chúng ta. Thiên Chúa sống trong các thành phố của chúng ta, Giáo Hội sống trong các thành phố của chúng ta và muốn là men trong đám đông trà trộn với tất cả mọi nguời đồng hành với tất cả mọi người để loan báo các điều kỳ diệu của Đấng là « Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa quyền năng, Cha muôn thuở và Hoàng Tử hòa bình.
Sau thánh lễ ĐTC đã trở về trụ sở Quan sát viên thường trực của Toà Thánh để dùng bữa tối và nghỉ đêm.
Sáng thứ bẩy 26 tháng 9 lúc 7 giờ rưỡi ĐTC đã đi xe ra tới sân trực thăng cách đó 12 cây số để tới phi trường Kennedy lấy máy bay đi Philadelphia. Máy bay đã tới phi trường quốc tế Philadelphia sau 50 phút bay.
Philadephia là thành phố đông dân hàng thứ 5 của Hoa Kỳ và là thành phố quan trọng nhất của tiểu bang Pensylvania. Các người thuộc địa âu châu đã tới đây năm 1646. Vài chục năm sau vùng này nằm dưới quyền kiểm soát của Anh quốc. Năm 1682 ông William Pen thành lập thành phố Philadelphia có nghĩa là « tinh yêu huynh đệ ». Vào hậu bán thể kỷ 18 thành phố trở thành một trong những trung tâm quan trọng nhất của cuộc Cách Mạng Mỹ và là nơi Hoa Kỳ tuyên bố độc lập ngày mùng 4 tháng 7 năm 1776, rồi Hiến pháp quốc gia năm 1787. Thành phố hiện có hơn 1,5 triệu dân 45% da trắng, 43% mỹ gốc phi châu, 8% nguời nói tiếng Tây Ban Nha, 4% gốc Á châu.
Tổng giáo phận đưọc thành lập năm 1808 có 1,5 triệu tín hữu trên tổng số hơn 4 triệu dân cư. Giáo phận có 235 giáo xứ, 18 cứ điểm truyền giáo, 564 linh mục giáo phận, 344 linh mục dòng, 447 tu huynh, 2.543 nũ tu, 281 phó tễ vĩnh viễn 49 đại chủng sinh. Giáo phận điều khiển 329 cơ sỏ giáo dục và 58 trung tâm bác ái.
Ra đón ĐTC tại phi trường có ĐTGM Charles Joseph Chaput và một số giới chức đạo đời khác. Từ phi trường ĐTC đã đi xe tới nhà thờ chính tòa cách đó 16 cây số để chủ sự thánh lễ với các Giám Mục và linh mục với sự tham dự của các tu sĩ nam nữ Phialadelphia và toàn bang Pensylvania. Nhà thờ chính toà kính hai thánh Phêrô Phaolô được xây năm 1846, theo mẫu nhà thờ thánh Carlo ở Roma, có 1500 chỗ ngồi
Giáo Hội cần sự cộng tác tích cực hơn nữa của các nữ giáo dân và nữ tu
Giảng trong thánh lễ ĐTC nhấn mạnh rằng lịch sử của Giáo Hội trong thành phố Philadelphia này là một lịch sử nói với chúng ta về các thế hệ công giáo dấn thân đi ra các vùng ngoại biên và xây dựng các cộng đoàn cho việc phụng tự, giáo dục, bác ái, và phục vụ xã hội nói chung.
Người ta có thể trông thấy lịch sử ấy tại nhiều đền thánh trong thành phố và nhiều nhà thờ giáo xứ, mà các tháp chuông nói về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa các cộng đoàn. Người ta trông thấy nơi cố gắng của các linh ục, tu sĩ và giáo dân tận tụy trong hai thế kỷ lo lắng cho các nhu cầu tinh thần của dân nghèo, người di cư, người bệnh và các tù nhân. Người ta trông thấy nơi hàng trăm trường học, trong đó các tu huynh và nữ tu đã dậy các trẻ em biết đọc biết viết, yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, góp phần xây dựng cuộc sống xã hội Hoa Kỳ, như những công dân tốt. Tât cả điều này là một gia tài lớn lao mà anh chị em đã nhận được và được mời gọi làm giầu và thông truyền.
Tiếp đến ĐTC kể lại ơn gọi của chị Caterina Drexel một trong các vị thánh lớn của Giáo Hội Hoa Kỳ. Khi chị nói chuyện với ĐGH Leô XIII ngài hỏi chị: “Thế còn con. Con sẽ làm gì?” Câu hỏi đó đã thay đổi cuộc đời của chị, vì chúng nhắc cho chị nhớ rằng mỗi kitô hữu, do Bí tích Rửa Tội, đã nhận một sứ mệnh. Mỗi người trong chúng ta phải trả lời làm thế nào để đáp trả lại tiếng gọi của Chúa cách tốt nhất hầu xây dựng Thân Mình Ngài là Giáo Hội.
Câu hỏi đã được nói với một nữ giáo dân trẻ có nhiều lý tuởng và đã thay đổi cuộc đời chị. Nó đã làm cho chị nghĩ tới công việc mênh mông phải làm, và đưa chị tới ý thức phải làm cái gì đó trong nghĩa này. Có biết bao nhiêu người trẻ trong các giáo xứ và trường học của chúng ta có cùng các lý tưởng cao quý, tinh thần quảng đại, tình yêu đối với Chúa Kitô và Giáo Hội. Chúng ta có thử họ, có cho họ không gian và giúp họ thực hiện nhiệm vụ của họ không? Chúng ta có tìm cách chia sẻ sự hăng say và các ơn của họ với cộng đoàn, nhất là thực thi các việc bác ái thương xót và chú ý tới người khác không? Chúng ta có chia sẻ niềm vui và sư hăng say của chúng ta trong việc phục vụ Chúa không?
Một trong các thách đố lớn nhất đối với Giáo Hội trong lúc này là làm lớn lên trong tất cả các tín hữu, ý thức trách nhiệm đối với sứ mệnh của Giáo Hội, và khiến cho họ có khả năng chu toàn trách nhiệm đó như là các môn đệ thừa sai, như men Tin Mừng trong thế giới. Điều này đòi hỏi khả năng sáng tạo và thích ứng với các tình trạng thay đổi để thông truyền niềm vui Tin Mừng mọi ngày, suốt đời.
Tương lai của Giáo Hội trong một xã hội thay đổi nhanh chóng đòi buộc sự chia sẻ của các giáo dân tích một cách cực hơn. Giáo Hội Hoa Kỳ đã luôn luôn dấn thân trong việc đạy giáo lý và giáo dục. Thách đố ngày nay là xây dựng trên các nền tảng vững chắc, và làm cho ý thức cộng tác và chia sẻ trách nhiệm lớn lên trong việc đưa ra chương trình cho tương lai, biết phân định và khôn ngoan đánh giá các ơn đa diện mà Chúa Thánh Thần đổ xuống trên Giáo Hội, để khích lệ sự góp phần mênh mông mà các nữ giáo dân và các nữ tu đã và đang cống hiến cho cuộc sống của các cộng đoàn.
ĐTC dã khích lệ các linh mục và nam nữ tu sĩ can đảm canh tân niềm vui của cuộc gặp gỡ đầu tiên với Chúa Kitô, và rút tiả ra từ đó lòng trung thành và sức mạnh đổi mới. Ngài xin các vị suy tư về việc phục vụ các gia đình, các cặp chuẩn bị hôn nhân và giới trẻ. ĐTC xin các vị sốt sắng cầu nguyện cho các gia đình cũng như cho các quyết định của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình.
Với lòng biết ơn về tất cả những gì chúng ta đã nhận được, và với lòng tin tưởng chắc chắn giữa các nhu cầu của chúng ta, chúng ta hãy hướng tới Đức Maria Mẹ Rất Thánh. Với tình yêu là mẹ, xin Mẹ bầu cử cho Giáo Hội tại Mỹ để nó tiếp tục lớn lên trong chứng tá ngôn sứ về quyền năng của Thập Giá của Con Mẹ, hầu đem lại niềm vui, hy vọng và sức mạnh cho thế giới. Tôi cầu nguyện cho anh chị em, xin anh chị em cũng cầu nguyện cho tôi.
Linh Tién Khải
Từ tang thương nảy sinh sự thiện anh hùng – Đức Phanxicô tại Ground Zero
Vatican Insider – Paolo Mastrolilli – 25/9/2015
'Ở đây, giữa đau đớn và tang thương, chúng ta cũng thấy được một sự thiện anh hùng mà con người có thể đạt được, một sức mạnh dấu kín để dành mà chúng ta có thể rút lấy. Trong những hố sâu thương tâm và đau khổ, các bạn cũng chứng kiến những đỉnh cao của lòng quảng đại và phục vụ. Những đôi tay vươn ra, những mạng sống trao đi. Trong một đại đô thị dường như phi nhân, vô danh, cô độc, các bạn đã thể hiện sự đoàn kết mạnh mẽ nảy sinh từ sự nâng đỡ, yêu thương và hi sinh cho nhau.' Những lời của Đức Giáo hoàng Phanxicô không chỉ tưởng nhớ nỗi đau nhân loại và tưởng niệm những người đã thiệt mạng trong vụ tấn công 11-9 năm 2001, nhưng còn đưa ra những lý do để hi vọng, và chỉ ra sự tốt lành của con người giữa bi kịch này.
Đức Giáo hoàng đến Bình địa [Ground Zero-nền của tòa tháp đôi cũ ở New York bị máy bay đâm vào và sụp đổ, trong vụ tấn công khủng bố 11-9 năm 2001] và đứng trước hai đài phun nước được xây ngay trên vị trí một thời của tòa tháp đôi. Ngài đã gặp khoảng 20 thân nhân của những người thiệt mạng trong vụ tấn công, và cùng chung lời trong buổi cầu nguyện liên tôn.
'Lạy Thiên Chúa của tình yêu, cảm thương, và chữa lành, xin nhìn đến chúng con, những con người thuộc nhiều đức tin và truyền thống tôn giáo, ngày hôm nay đang quy tụ trên mảnh đất thiêng liêng này, nơi đã từng xảy ra một sự bạo lực và đau đớn khôn tả. Chúng con xin Chúa, lòng lành ban ánh sáng bất diệt và bình an cho những người đã qua đời ở đây. Lạy Chúa bình an, xin đem bình an của Chúa đến với thế giới bạo lực chúng con, bình an trong lòng của mọi người nam nữ và bình an giữa các quốc gia trên thế giới. Xin đưa những lòng trí đang đầy thù hận và những người giết hại nhân danh tôn giáo, biết trở về con đường yêu thương.'
Rồi Đức Phanxicô đi vào giữa lòng Đài tưởng niệm và đến Sảnh Nền móng, nơi còn lưu giữ một bức tường vẫn đứng vững, cấu trúc bê tông vững chãi đã ngăn không cho dòng nước sông Hudson tràn vào sau vụ tấn công. Ngài mở lời với người dân New York, và cả thế giới đang đau đớn vì bạo lực và chia rẽ:
'Tôi cảm nhận nhiều cảm xúc khác nhau khi đứng nơi Bình địa này, nơi hàng ngàn mạng sống bị tước đoạt trong một hành động hủy hoại vô tri. Nỗi tang thương thật rõ ràng. Dòng nước chúng ta thấy đang chảy đến cái hố trống này, nhắc chúng ta về tất cả những sinh mạng đã bị tước đoạt trong tay những kẻ nghĩ rằng hủy hoại, phá đổ, là cách duy nhất để giải quyết xung đột. Đây chính là tiếng thét câm lặng của những người là nạn nhân của một tâm thức chỉ biết bạo lực, thù hận, và báo thù. Một tâm thức chỉ có thể gây đau đớn, thống khổ, hủy hoại, và nước mắt. Dòng nước đang chảy là một biểu tượng của những giọt nước mắt. Nước mắt khóc cho quá nhiều hủy hoại và tàn phá, trong cả quá khứ và hiện tại. Đây là nơi chúng ta rơi nước mắt, chúng ta khóc vì ý thức sự bất lực trước bất công, giết hại, và sự thất bại không thể giải quyết xung đột qua đối thoại. Ở đây, chúng ta khóc than cho sự mất mát sai trái và vô nghĩa của những con người vô tội, do bởi sự bất lực không tìm được những giải pháp tôn trọng lợi ích chung. Dòng nước chảy này, nhắc chúng ta về những giọt nước mắt ngày hôm qua, nhưng cũng là nhắc về những giọt nước mắt vẫn đang đổ ra ngày hôm nay.
Cách đây không lâu, tôi có gặp một vài gia đình của những người đã thiệt mạng. Gặp họ làm cho tôi một lần nữa thấy rằng các hành động hủy hoại không bao giờ là chuyện mơ hồ, chung chung, hay thuần thể lý. Mà chúng luôn luôn có những khuôn mặt cụ thể, những cái tên, câu chuyện đời cụ thể. Trong các gia đình này, chúng ta thấy gương mặt đau đớn, một nỗi đau vẫn xúc động chúng ta và kêu lên thấu trời. Nhưng cùng lúc đó, những gia đình này cũng đã cho tôi thấy một khuôn mặt khác của cuộc tấn công này, một gương mặt khác với sự tang thương, đó chính là dung nhan sức mạnh của tình yêu và sự tưởng nhớ. Tưởng nhớ sẽ cho chúng ta không bị trống rỗng và hụt hơi. Tên của quá nhiều người thân thương đã được viết trên nền của các tòa tháp này. Chúng ta có thể thấy họ, có thể chạm đến họ, và không bao giờ quên lãng họ. Ở đây, giữa đau đớn và tang thương, chúng ta cũng thấy được một sự thiện anh hùng mà con người có thể đạt được, một sức mạnh dấu kín để dành mà chúng ta có thể rút lấy.'
Trong thời khắc đó, không một ai nghĩ gì về chủng tộc, quốc tịch, vùng miền, tôn giáo hay chính trị. Tât cả đều vì tình đoàn kết, vì nhu cầu ngay lập tức, vì tình thân ái. Tất cả là vì tình anh chị em với nhau. Các lính cứu hỏa New York đã đi vào trong hai tòa tháp gần sụp đổ, mà không lo gì về lợi ích riêng của mình. Nhiều người đã thiệt mạng, nhưng họ hi sinh để cho nhiều người được cứu sống. Địa điểm chết chóc này trở thành địa điểm của sự sống, một nơi của những sinh mạng được giải cứu, một tán ca về chiến thắng của sự sống trên những tiên tri của sự hủy hoại và sự chết, một tán ca về sự thiện thắng sự dữ, hòa giải và hiệp nhất thắng thù hận và chia rẽ. Mọi người thuộc mọi đức tin đều cùng chung một cảm nghĩ này. Một nguồn hi vọng nảy sinh khi tại nơi đau buồn và tưởng niệm này, tôi có thể chung hiệp với đại diện của nhiều truyền thống tôn giáo khác đang làm phong cho đời sống của thành phố lớn này. Tôi tin rằng việc chúng ta hiện diện với nhau sẽ là một dấu chỉ của khao khát chung muốn trở nên một nguồn lực cho hòa giải, hòa bình và công lý trong cộng đồng này và trên khắp toàn thế giới. Bất chấp mọi bất đồng và khác biệt, chúng ta vẫn có thể sống trong một thế giới hòa bình. Để đương cự với mọi nỗ lực muốn tạo một sự đồng nhất thô bạo, chúng ta có thể và phải xây dựng sự hiệp nhất trên nền tảng đa dạng về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo, và lên tiếng chống lại mọi sự ngăn cản con đường hiệp nhất. Cùng nhau, chúng ta được kêu gọi hãy nói 'không' với mọi nỗ lực muốn áp đặt sự đồng nhất, và hãy nói 'có' với một sự đa dạng trong đón nhận và hiệp nhất.'
Điều này chỉ có thể xảy ra nếu chúng ta nhổ tận gốc tất cả mọi cảm giác thù hằn, báo oán và phẫn uất. Chúng ta biết rằng chuyện này chỉ có được nhờ ơn Chúa. Ở đây, tại nơi tưởng niệm này, tôi muốn xin tất cả mọi người, theo cách riêng của mình, dành một khoảng thinh lặng và cầu nguyện.
....
Chúng ta hãy nài xin Đấng Tối Cao ơn tận tâm vì chính nghĩa hòa bình. Hòa bình trong nhà chúng ta, trong gia đình, trường học và cộng đoàn chúng ta. Hòa bình ở tất cả những nơi mà chiến tranh dường như không bao giờ dứt. Hòa bình cho những gương mặt không biết gì ngoài đau đớn. Hòa bình khắp thế giới mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta làm nhà của tất cả và vì tất cả mọi người. Đơn giản là HÒA BÌNH. Như thế, mạng sống của những người thân yêu sẽ không phải là sống một thời để rồi bị lãng quên. Nhưng, họ sẽ hiện diện bất kỳ lúc nào chúng ta đấu tranh để trở thành những ngôn sứ, không phải của phá đổ, nhưng là xây dựng, trở thành những ngôn sứ của hòa giải, ngôn sứ của hòa bình.'
J.B. Thái Hòa chuyển dịch
Nguồn: http://phanxico.vn/
Đức Thánh Cha viếng thăm và phát biểu tại Liên hợp quốc
NEW YORK. Sáng thứ sáu, 25-9-2015, ĐTC Phanxicô đã đến viếng thăm và phát biểu tại trụ sở LHQ. Ngài cổ võ cải tổ LHQ, bênh vực môi sinh, giải quyết các cuộc xung đột..
LHQ hiện nay là một tổ chức liên chính phủ gồm 193 quốc gia thành viên và 2 nước quan sát viên là Tòa Thánh và Palestine. Tòa Thánh có đại diện tại đây từ 51 năm nay (1964). Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh là một vị TGM có cấp bậc sứ thần. Ngài có quyền tham gia các phiên họp của LHQ, có quyền lên tiếng nhưng không có quyền bỏ phiếu hoặc được bầu.
Khi đến nơi, ĐTC đã được Ông Tổng thư ký Ban Ki Moon và Phu nhân cùng với một đoàn binh nhỏ danh dự đón tiếp. Hai em bé con của các nhân viên LHQ đã tặng hoa cho ngài, rồi được hướng dẫn lên văn phòng của Ông tổng thư ký ở lầu thứ 38 để hội kiến riêng.
Tiếp đến, ĐTC đã gặp gỡ và chào thăm các nhân viên của LHQ. Ngài nhận xét rằng "Bao nhiêu công việc anh chị em làm ở gây không gây những tin tức trên báo chí. Nhưng đàng sau đó, nỗ lực hằng ngày của anh chị em làm cho nhiều sáng kiến ngoại giao, văn hóa, kinh tế và chính trị của LHQ có thể tiến hành được, những điều rất quan trọng để đáp ứng hy vọng và mong đợi của các dân tộc trong gia đình nhân loại.. Công việc âm thầm và tận tụy của anh chị em không những góp phần làm cho LHQ tươi đẹp, nhưng còn có ý nghĩa lớn đối với bản thân anh chị em. Vì cách thức chúng ta làm việc cũng diễn tả phẩm giá và con người của chúng ta".
Và ĐTC kết luận rằng "Hôm nay và mỗi ngày, tôi xin anh chị em, bất luận khả năng thế nào, xin anh chị em hãy chăm sóc nhau, gần gũi nhau và tôn trọng nhau, qua đó anh chị em là hiện thân lý tưởng của tổ chức LHQ này, lý tưởng một gia đình hiệp nhất, sống trong hòa hợp, không những làm việc cho hòa bình, nhưng còn trong hòa bình, không những làm việc cho công lý, nhưng còn trong một tinh thần công lý.
Sau cuộc gặp gỡ trên đây, ĐTC còn riêng hai vị chủ tịch Đại hội đồng thứ 69 và 70 của LHQ, đó là Ông Sam Kahamba Kutesa, người Uganda cùng với phu nhân, và Ông Mogens Lykketoft người Đan Mạch và phu nhân. Sau cùng là gặp Chủ tịch Hội đồng bảo an LHQ trong tháng 9 này, là ông Vitaly Churkin, thuộc liên bang Nga.
Diễn văn của ĐTC tại LHQ Khi ĐTC tiến vào đại hội trường hình bán cung của LHQ, các vị lãnh tụ của 150 quốc gia và đại diện các nước đã nồng nhiệt vỗ tay chào đón ngài, và sau lời chào mừng của Ông Chủ tịch Đại hội đồng thứ 70 cũng như của ông Tổng thư ký Ban Ki Moon, ĐTC Phanxicô đã đọc bài diễn văn quan trọng bằng tiếng Tây Ban Nha. Đây là lần thứ 5 một vị Giáo Hoàng lên tiếng tại Đại hội đồng LHQ, bắt đầu từ Đức Phaolô 6 năm 1965, 2 lần với Đức Gioan Phaolô 2 năm 1979 và 1995 và Đức Biển Đức 16 năm 2008.
Cần cải tổ LHQ
ĐTC Phanxicô đề cao những thành tựu trong 70 năm qua của LHQ, nhưng ngài nhìn nhận có nhiều vấn đề trầm trọng chưa được giải quyết, đồng thời nhận xét rằng:
"Kinh nghiệm của 70 năm qua, vượt lên trên những điều đã đạt được, chứng tỏ rằng sự cải tổ và thích ứng LHQ với thời đại là điều luôn luôn cần thiết, tiến tới mục tiêu chung kết là mang lại cho tất cả mọi nước, không trừ ai, một sự tham gia và ảnh hưởng thực sự và đồng đều trong các quyết định. Sự cần thiết phải có sự công bình hơn có giá trị đặc biệt đối với các cơ quan có khả năng hành pháp thực sự như Hội đồng bảo an LHQ, các tổ chức tài chánh và các nhóm hoặc cơ chế được thiết lập đặc biệt để đương đầu với các cuộc khủng hoảng kinh tế. Điều này sẽ giúp giới hạn bất kỳ thứ lạm dụng hoặc sự đòi hỏi thái quá, nhất là đối với các nước đang trên đường phát triển. Các tổ chức tài chánh quốc tế cần cảnh giác về việc phát triển dài hạn cho các nước và để tránh sự tùng phục làm ngộp thở các nước ấy đối với các hệ thống tín dụng, các hệ thống này thay vì thăng tiến sự phát triển, thì lại bắt dân chúng phải tùng phục những cơ cấu gia tăng nghèo đói, loại trừ và lệ thuộc".
Sự tối thượng của công pháp
Một điểm khác được ĐTC nhấn mạnh là sự thăng tiến quyền tối thượng của công pháp, vì công lý là điều kiện không thể thiếu được để thực hiện lý tưởng tình huynh đệ đại đồng. Trong bối cảnh đó cần nhớ rằng sự giới hạn quyền bính là một ý tưởng bao hàm trong chính ý niệm công pháp. Theo định nghĩa cổ điển về công lý, trả lại cho mỗi người điều thuộc về họ, có nghĩa là không một cá nhân hoặc nhóm nào có thể coi mình là toàn năng, được phép chà đạp phẩm giá và các quyền của các người khác hoặc nhóm xã hội khác....
ĐTC nhận xét rằng "Ngày nay, quang cảnh thế giới có nhiều thứ quyền giả tạo và đồng thời, có nhiều lãnh vực không được bảo vệ, nạn nhân của sự thực thi quyền bính một cách sai trái: đó là môi trường thiên nhiên và đông đảo phụ nữ và người nam bị loại trừ. Hai lãnh vực này có liên hệ mật thiết với nhau và các quan hệ chính trị kinh tế thịnh hành hiện nay biến họ thành những thành phần mong manh của thực tại. Vì thế cần mạnh mẽ khẳng định các quyền của hp, củng cố việc bảo vệ môi trường, chấm dứt tình trạng bị loại trừ.
Bảo vệ môi trường thiên nhiên
Trước tiên cần khẳng định rằng có một "quyền thực sự về môi trường" vì hai lý do: trước tiên vì trong tư cách là người, chúng ta là thành phần của môi trường, chúng ta sống hiệp thông với môi trường, vì chình môi trường cũng bao hàm những giới hạn luân lý đạo đức mà hoạt động của con người phải nhìn nhận và tôn trọng... Bất kỳ tai hại nào gây ra cho môi trường, đều là một thiệt hại cho nhân loại. Thứ hai vì mỗi thụ tạo, nhất là các sinh vật, có giá trị nội tại, sự sống, hiện sinh, vẻ đẹp và lệ thuộc các thụ tạo khác... Đối với tất cả các tín ngưỡng, môi trường là một thiện ích cơ bản.
Sự lạm dụng và phá hủy môi trường, là những hành động gắn liền với tiến trình loại trừ không chặn đứng nổi. Thực vậy, lòng ham hố quyền bính và an sinh vật chất một cách ích kỷ và vô giới hạn đưa tới bao nhiêu lạmdụng các phương tiện vật chất hiện hữu đến độ loại trừ những người yếu thế và kém tài năng hơn, hoặc vì họ có những khả năng khác, như những người khuyết tật, hoặc vì họ thiếu các kiến thực và phương tiện kỹ thuật thích hợp hoặc không đủ khả năng để có những quyết định chính trị. Sự loại trừ kinh tế và xã hội là một sự phủ nhận hoàn toàn tình huynh đệ của con người và là một điều làm thương tổn trầm trọng các quyền con người và môi trường. Những người nghèo nhất là những người chịu đau khổ nhất trong 3 thứ tấn công ấy, vì họ bị gạt ra ngoài xã hội, đồng thời phải sống bằng những đồ phế thải và chịu đau khổ bất công vì những hậu quả của sự lạm dụng môi trường. Những hiện tượng này ngày nay tạo thành một thứ văn hóa gạt bỏ rất phổ biến và vô tình được người ta củng cố".
Kiên quyết thực thi những gì đã cam kết
ĐTC nhắc đến chương trình hành động phát triển năm 2030 được các vị quốc trưởng và thủ tướng chính phủ các nước thông qua, ngài khẳng định rằng long trọng ký nhận những cam kết là điều vẫn chưa đủ, tuy đó là một bước tiến cần thiết để giải quyết các vấn đề.. Thế giới mạnh mẽ yêu cầu các chính phủ có một ý chí thực sự, thực tiễn, liên lỷ, với những bước tiến cụ thể và những biện pháp tức khắc, để bảo tồn và cải tiến môi trường thiên nhiên, sớm khắc phục hiện tượng loại trừ về xã hội và kinh tế, hiện tượng này có những hậu quả đau thương như nạn buôn người, buôn bán cơ phận và mô cơ thể con người, bóc lột tính dục các trẻ em, bắt làm việc như nô lệ, kể cả nạn mại dâm, buôn bán ma túy, khí giới, nạn khủng bố và tội phạm quốc tế.."
Bênh vực quyền giáo dục
Cũng trong diễn văn tại Đại Hội đồng LHQ, ĐTC Phanxicô bênh vực các quyền của gia đình, quyền ưu tiên của gia đình được giáo dục và quyền của các Giáo Hội, các hiệp hội xã hội được nâng đỡ và cộng tác với các gia đình trong việc giáo dục con cái họ. Nền giáo dục được quan niệm như thế, chính là căn bản để thực hiện chương trình hành động 2030 để cải tiến môi trường.
Ngài cũng kêu gọi các chính phủ làm tất cả những gì có thể để tất cả có được căn bản tối thiểu về vật chất và tinh thần để phẩm giá của họ được thực sự tôn trọng và để họ có thể thành lập và nuôi dưỡng gia đình là tế bào cơ bản của bất kỳ sự phát triển xã hội nào. Về phương diện vật chất, điều kiện tối thiểu ở đây là nhà ở, công ăn việc làm và đất đai, và về phương diện tinh thần là tự do tinh thần, bao gồm tự do tôn giáo, quyền giáo dục và các dân quyền khác".
Thảm trạng chiến tranh: Trung Đông, Bắc Phi, Siria..
ĐTC không quên lưu ý cộng đồng thế giới về những hậu quả tiêu cực của những cuộc can thiệp chính và và quân sự thiếu phối hợp giữa các thành phần trong cộng đồng quốc tế. Trong bối cảnh đó ngài nhắc đến thảm trạng đau thương ở Trung Đông và Bắc Phi, cũng như các nước Phi châu khác, nơi mà các tín hữu Kitô cùng với các nhóm văn hóa hoặc chủng tộc khác, kể các một số thành phần của tôn giáo đa số, phải chứng kiến sự tàn phá các nơi thờ phượng của họ, gia sản văn hóa và tôn giáo, gia cư và tài sản của họ, họ bị đặt trước hai chọn lựa: hoặc là trốn chạy hoặc phải trả giá bằng mạng sống mình hoặc phải làm nô lệ vì gắn bó với sự thiện và hòa bình.
Những thực tại đó kêu gọi những người có trách nhiệm quốc tế hãy nghiêm túc xét mình. Không những trong những trường hợp bách hại tôn giáo hoặc văn hóa, nhưng trong mỗi tình trạng xung đột như tại Ucraina, Siria, Irak, Libia, Nam Sudan, và trong vùng Đại Hồ bên Phi châu. Trước khi liên hệ tới những quyền lợi phe phái, tuy là hợp pháp, ở đây có những khuôn mặt cụ thể. Trong các chiến tranh và xung đột, có những con người anh chị em chúng ta, nam phụ lão ấu, trẻ em khóc lóc, chịu đau khổ và chết chóc. Đó là những người trở thành đố phế thải trong khi người ta không làm gì khác hơn là liệt kê những vấn đề, các chiến lược và thảo luận".
G. Trần Đức Anh OP
Đức Thánh Cha phát biểu tại Quốc Hội lưỡng viện Hoa Kỳ
WASHINGTON. Trong bài phát biểu tại quốc hội Hoa kỳ sáng ngày 24-9-2015, ĐTC Phanxicô kêu gọi đương đầu với hình thức cực đoan, gia tăng sự cộng tác với nhau, chống nạn buôn bán võ khí, bài trừ nghèo đói và hỗ trợ gia đình.
Sáng thứ năm 24-9-2015, ĐTC đã dâng thánh lễ tại nhà nguyện tòa Sứ thần Tòa Thánh ở thủ đô Washington với sự tham dự của các cộng tác viên tại trụ sở này, trước khi đến Quốc hội Mỹ để viếng thăm từ lúc gần 9 giờ rưỡi. Đây là lần đầu tiên một vị Giáo Hoàng được mời lên tiếng tại Quốc hội lưỡng viện Hoa Kỳ gồm 435 hạ nghị sĩ và 100 thượng nghị sĩ.
Đến nơi, ĐTC đã hội kiến riêng với Ông Joe Boehner, chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ. Ông là một tín hữu Công Giáo dấn thân, liên tục được bầu làm đại biểu quốc hội thuộc đảng cộng hòa và từ 4 năm nay, ông làm chủ tịch Hạ viện Mỹ.
Hiện diện trong buổi đón tiếp ĐTC tại quốc hội lưỡng viện cũng có phó tổng thống Joe Biden, niên trưởng ngoại giao đoàn, ngoại trưởng, lãnh tụ phe đối lập cũng như các thẩm phán tối cao pháp viện Hoa Kỳ.
ĐTC đã được các vị chủ tịch và đại biểu quốc hội tiếp đón long trọng và nồng nhiệt và mời ngài lên tiếng.
Diễn văn của ĐTC
Trong diễn văn bằng tiếng Anh tại quốc hội Mỹ, sau khi nhắc đến ơn gọi và sứ mạng cao quí của các nhà lập pháp, ĐTC cho biết qua cuộc gặp gỡ tại quốc hội này, ngài muốn đối thoại với toàn dân Hoa Kỳ, với bao nhiêu người dân đang cần cù làm việc, với những người già và người trẻ. Ngài đặc biệt nhắc đến 4 người Mỹ nổi tiếng: Abraham Lincoln, Martin Luther King, bà Dorothy Day và cha Thomas Merton, và rút ra từ cuộc sống và hoạt động của 4 nhân vật ấy những ý tưởng có thể hướng dẫn hoạt động của chúng ta ngày nay.
- Trước tiên là Tổng thống Abraham Lincoln, năm nay là kỷ niệm 150 năm ông bị ám sát. Cố Tổng thống là người giữ gìn tự do, đã không ngừng làm việc để ”quốc gia này, với sự bảo vệ của Thiên Chúa, có thể có một nền tự do mới được nảy sinh”. Xây dựng một tương lai tự do đòi phải có lòng yêu mến công ích và sự cộng tác với một tinh thần phụ đới và liên đới”.
Tình trạng đáng lo âu của thế giới
ĐTC nhắc đến tình trạng đáng lo âu về xã hội và chính trị trên thế giới ngày nay, và nhận định rằng:
”Thế giới chúng ta ngày càng trở thành một nơi diễn ra các cuộc xung đột bạo lực, oán ghét và tàn bạo dữ tợn, người ta phạm chúng, thậm chí nhân danh các Thiên Chúa và tôn giáo. Chúng ta biết rằng không một tôn giáo nào tránh thoát hết những hình thức lừa đảo cá nhân hoặc cực đoan ý thức hệ. Điều này có nghĩa là chúng ta phải đặc biệt chú ý đến mọi hình thức cực đoan, về mặt tôn giáo cũng như các loại khác. Cần có một sự quân bình tế nhị để bài trừ bạo lực người ta phạm nhân danh một tôn giáo, một ý thức hệ hoặc một chế độ kinh tế, đồng thời bảo tồn tự do tôn giáo, tự do trí thực và các tự do cá nhân. Nhưng có một cám dỗ khác chúng ta phải đề phòng: đó là thái độ giản lược thái quá, chỉ thấy thiện hoặc ác, hoặc những người công chính và kẻ tội lỗi. Thế giới hiện nay, với những vết thương mở rộng, liên hệ tới bao nhiêu anh chị em chúng ta, đang đòi chúng ta phải đương đầu với mọi hình thức cực hóa, nó có thể chia thế giới thành 2 phe. Chúng ta biết rằng trong khi cố gắng giải thoát khỏi kẻ thù bên ngoài, chúng ta có thể bị cám dỗ nuôi dưỡng kẻ thù bên trong. Bắt chước oán thù và bạo lực của những kẻ bạo chúa và những kẻ sát nhân, đó là cách thức tốt nhất để chiếm chỗ của chúng. Đó là điều mà quí vị, trong tư cách là một dân tộc, từ khước không chấp nhận”.
Trái lại, câu trả lời của chúng ta phải là một câu trả lời hy vọng và chữa lành, hòa bình và công chính. Chúng ta được yêu cầu kêu gọi lòng can đảm và trí thông minh để giải quyết nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế và địa lý chính trị ngày nay...
Canh tân tinh thần cộng tác
ĐTC cũng nhấn mạnh rằng những thách đố mà chúng ta đang đương đầu ngày nay đòi phải canh tân tinh thần cộng tác, vốn đã mang lại bao nhiêu điều tốt lành trong lịch sử Hoa Kỳ. Sự phức tạp, trầm trọng và cấp thiết của những thách đố ấy đòi chúng ta phải sử dụng tài lực của chúng ta, và quyết định nâng đỡ nhau, trong niềm tôn trọng những khác biệt và những xác tín lương tâm của chúng ta”.
”Tại đất nước này, những tôn giáo khác nhau đã góp phần rất lớn vào việc xây dựng và củng cố xã hội. Điều quan trọng là ngày nay cũng như trong quá khứ, tiếng nói của tín ngưỡng phải được tiếp tục lắng nghe, vì đó là một tiếng nói huynh đệ và yêu thương, tìm cách làm nổi bật những gì tốt đẹp nhất trong mỗi người và trong mỗi xã hội. Sự cộng tác ấy là một nguồn lực mạnh mẽ trong trận chiến loại bỏ những hình thức mới của nạn nô lệ trên thế giới, nảy sinh từ những bất công mà ta chỉ có thể khắc phục nhờ những chính sách mới và những hình thức đồng thuận mới trong xã hội.”
Quảng đại với người di dân
ĐTC nhắc đến Mục sư Martin Luther King, cách đây 50 năm đã hướng dẫn chiến dịch đạt tới giấc mơ đầy đủ dân quyền và chính quyền cho người Mỹ gốc Phi châu. Ngài nói: ”Giấc mơ ấy tiếp tục gợi hứng cho chúng ta. Tôi vui mừng vì Nước Mỹ tiếp tục là đất ”mơ” cho nhiều người. Những giấc mơ dẫn đến hành động, tham gia, dấn thân. Những giấc mơ thức tỉnh những gì sâu thẳm nhất và chân thực nhất trong đời sống con người”.
Từ ý tưởng trên đây, ĐTC đề cập thảm trạng người di dân và tị nạn, một vấn đề lớn đối với thế giới và cả nước Mỹ. Ngài nói:
”Thế giới chúng ta ngày nay đang đương đầu với một cuộc khủng hoảng tị nạn chưa từng có kể từ sau thế chiến thứ 2. Thực tại này đặt chúng ta trước những thách đố lớn và những quyết định cam go. Cả tại đại lục này hàng ngàn người bị thúc đẩy tiến về phương bắc để tìm kiếm những cơ may tốt đẹp hơn. Chúng ta đừng để mình bị kinh hãi vì con số của họ, nhưng hãy nhìn họ như những con người, nhìn khuôn mặt và lắng nghe lịch sử của họ, cố gắng làm những gì tốt đẹp có thể đáp ứng tìnht rạng cảu họ. Đáp lại một cách ngày càng nhân bản, công chính và huynh đệ hơn. Chúng ta phải tránh cám dỗ chung ngày nay, đó là gạt bỏ bất kỳ ai tỏ ra là người gây vấn đề. Chúng ta hãy nhớ khuôn vàng thước ngọc: 'Hãy làm cho tha nhân điều bạn muốn người khác làm cho bạn” (Mt 7,12).
Kêu gọi bãi bỏ án tử hình
Tiếp tục bài diễn văn trước quốc hội Mỹ, ĐTC đề cập đến vấn đề án tử hình và ngay từ đầu sứ vụ, ngài đã hỗ trợ trên nhiều bình diện sự bãi bỏ án tử hình trên thế giới. Ngài nói: ”Tôi xác tín đó là con đường tốt đẹp, xét vì mỗi sự sống là thánh tiên, mỗi người có phẩm giá bất khả nhượng, và xã hội có thể được hưởng lợi nhờ sự phục hồi những người đã bị kết án vị tội ác”.
”Mới đây, các anh em GM của tôi ở Mỹ đã tái kêu gọi bãi bỏ án tử hình. Không những tôi hỗ trợ các GM nhưng còn hỗ trợ tất cả những người xác tín hữu một sự trừng phảt chính đáng và cần thiết không bao giờ được tránh né chiều kích hy vọng và mục tiêu phục hồi”.
Quan tâm nâng đỡ người nghèo
- Người Mỹ thứ 3 được ĐTC nhắc đến là Nữ tôi tớ Chúa Dorothy Day đã thành lập phong trào công nhân Công giáo. Sự dấn thân xã hội, lòng hay say của bà đối với công bằng và chính nghĩa của những người bị áp bức, đã lấy hứng từ Phúc Âm, từ niềm tin của bà và gương của các thánh.
Trong ý hướng đó, ĐTC khích lệ các đại biểu quốc hội Mỹ đừng quên tất cả những người nghèo quanh chúng ta. Ngài nói: ”Chúng ta cũng cần mang lại hy vọng cho họ. Cuộc chiến chống nghèo đói phải liên lỷ được thực thi trong nhiều mặt trận, nhất là nhắm giải quyết tận gốc rễ, những nguyên nhân gây ra nghèo đói. Tôi biết nhiều người Mỹ ngày nay cũng như trong quá khứ, đang làm việc để đương đầu với vấn đề này”.
ĐTC gợi đến điều ngài đã nói trong thông điệp ”Laudato sì”, là ”cần phải can đảm đối hướng đi, tránh những hậu quả nghiêm trọng nhất do sự suy thoái môi trường, vì những hoạt động con người gây ra. Tôi xác tín rằng chúng ta có thể tạo ra sự khác biệt và tôi chắc chắn Hoa Kỳ, và quốc hội đây, có một vai trò quan trọng cần thi hành. Đây là lúc cần có những hoạt động can đảm và những chiến lược nhắm thực thi một nền văn hóa chăm sóc, một lối tiếp cận toàn diện để bài trừ nghèo đói, để trả lại phẩm giá cho những người bị gạt bỏ, và đồng thời chăm sóc thiên nhiên.”
Đối thoại và cộng tác
- Sau cùng, ĐTC nói đến cha Thomas Merton dòng Xitô Trappist ở Mỹ tiếp tục là một nguồn hứng tinh thần và là một nhà hướng dẫn cho nhiều người. Cha là người cầu nguyện, một tư tưởng gia và đã mở ra nhiều chân trời mới cho các linh hồn và Giáo Hội. Cha cũng là người đối thoại và thăng tiến hòa bình giữa các dân tộc và tôn giáo.
Trong viễn tượng đó, ĐTC cổ võ các nhà chính trị hãy có can đảm đối thoại, để ý đến quyền lợi của mọi người, phục vụ đối thoại và hòa bình. Điều này cũng đòi chúng ta phải tự hỏi: tại sao những võ khí gây chết chóc được bán cho những kẻ đề ra kế hoạch gây những đau khổ khôn tả cho con người và xã hội. Rất tiếc là, như chúng ta biết, câu trả lời chỉ là tiền bạc, tiền bạc đẫm máu và thường là máu người vô tội. Đứng trước sự im lặng ô nhục và tội lỗi ấy, chúng ta có nhiệm vụ phải đương đầu với vấn đề này và chặn đứng nạn buôn bán võ khí”.
Sau cùng, ĐTC nhắc đến đại hội các gia đình Công Giáo và Philadelphia và kêu gọi quốc hội Mỹ luôn quan tâm, nâng đỡ gia đình. Tương lai của những người trẻ, các thành phần gia đình, cũng là tương lai của chúng ta.
ĐTC đã được vỗ tay rất nhiều lần trong bài diễn văn tại quốc hội.
G. Trần Đức Anh OP
Bài phát biểu của Tổng Thống Obama trước Đức Thánh Cha Phanxicô tại tòa Bạch Ốc
(Nhà Trắng, 23-9-2015).
Chào buổi sáng! Chúa đã làm nên một ngày thật tuyệt vời! Kính thưa Đức Thánh Cha, Michelle và tôi xin chào mừng Ngài đến với Nhà Trắng. Ở đây thường không đông người như thế này – nhưng tầm mức và tinh thần của cuộc gặp gỡ ngày hôm nay chỉ phản ánh phần nào lòng yêu mến sâu xa của 70 triệu người Công Giáo Mỹ... và con đường sứ điệp tình yêu và hy vọng của Ngài đã truyền cảm hứng cho biết bao người, trên khắp đất nước chúng tôi và trên toàn thế giới. Thay lời cho người dân Mỹ, thật là vinh dự lớn lao và là đặc ân cho tôi được chào đón Ngài đến với nước Mỹ.
Hôm nay, chúng ta đánh dấu nhiều điểm khởi đầu. Thưa Đức Thánh Cha, Ngài được chúc mừng là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến từ châu Mỹ. Đây là chuyến thăm nước Mỹ đầu tiên của Ngài. Và Ngài cũng là vị Giáo Hoàng đầu tiên chia sẻ Thông Điệp trên Twitter.
Thưa Đức Thánh Cha, chuyến thăm của Ngài không chỉ cho phép tôi, trong cách thế khiêm tốn, đáp lại lòng hiếu khách đặc biệt mà Ngài rộng mở với tôi tại Vatican năm ngoái. Nó cũng cho thấy biết bao người dân Mỹ, từ mọi nền văn hóa và thuộc mọi niềm tin, quý trọng vai trò của Giáo Hội Công Giáo trong việc phát triển đất nước. Ngay từ thời tôi làm việc tại các khu phố nghèo cùng với Giáo Hội Công Giáo tại Chicago, đến thời tôi làm Tổng Thống, tôi đã tận mắt thấy cung cách mà mỗi ngày, các cộng đồng Công Giáo, các linh mục, các nữ tu, và các giáo dân nuôi những người đói khát, chữa lành người đau ốm, che chở người vô gia cư, giáo dục các trẻ em, và củng cố đức tin nâng đỡ rất nhiều người.
Điều ấy thật đúng trên đất Mỹ, cũng đúng trên toàn thế giới. Từ đường phố nhộn nhịp của Buenos Aires tới ngôi làng xa xôi ở Kenya, các tổ chức Công Giáo phục vụ người nghèo, giúp đỡ các tù nhân, xây dựng các trường học và nhà ở, thành lập các cô nhi viện và các bệnh viện. Và khi Giáo Hội đứng về phía những người đấu tranh để phá vỡ xiềng xích của nghèo đói, thì đó cũng là tiếng nói và niềm hy vọng cho những ai đang tìm cách bẻ gãy xiềng xích của bạo lực và áp bức.
Tuy nhiên, tôi tin rằng, niềm vui nồng nhiệt xung quanh chuyến viếng thăm của Ngài phải được ghi nhận, không chỉ do vai trò của Ngài trong tư cách là Giáo Hoàng, mà còn do những phẩm tính độc đáo của Ngài trong tư cách là một con người. Với lòng khiêm tốn của Ngài, Ngài mang lấy một sự đơn sơ, lịch thiệp trong lời nói và sự quảng đại trong tinh thần, chúng tôi nhìn thấy một mẫu gương sống động cho những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, Đấng là vị lãnh đạo có thẩm quyền luân lý không chỉ trong lời nói mà còn trong hành động.
Ngài mời gọi tất cả chúng ta, Công Giáo cũng như không Công Giáo, đặt "người nhỏ bé nhất" vào tâm điểm của sự quan tâm của chúng ta. Ngài nhắc chúng ta rằng, trong cái nhìn của Thiên Chúa, sự đo lường của chúng ta như là các cá nhân, như là các xã hội, không được xác định bởi sự giàu có hay quyền lực hay địa vị hay danh tiếng, nhưng xác định bởi cách thế chúng ta đáp lại lời mời gọi của Kinh Thánh để nâng đỡ người nghèo và người bị thiệt thòi, thúc đẩy công bằng và chống lại bất công, và đảm bảo rằng, mỗi người có thể sống đúng phẩm giá – bởi vì tất cả chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa.
Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng "sứ điệp mạnh mẽ nhất của Thiên Chúa" là lòng thương xót. Điều ấy có nghĩa là chào đón người lạ với sự đồng cảm và con tim rộng mở, từ những người tị nạn phải rời bỏ quê hương vì chiến tranh tàn phá, đến những người nhập cư phải rời bỏ nhà cửa để đi tìm cuộc sống tốt hơn. Điều ấy có nghĩa là diễn tả sự cảm thông và tình yêu với những người chịu thiệt thòi và bị gạt ra bên lề, với những người chịu đau khổ, với những người đang tìm sự cứu độ.
Ngài nhắc chúng ta nhớ về cái giá phải trả cho chiến tranh, đặc biệt là những người cô thế và người không có khả năng tự vệ, và thúc giục chúng ta hướng tới tính khẩn thiết của hòa bình. Thưa Đức Thánh Cha, chúng tôi biết ơn Ngài vì sự nâng đỡ vô giá mà Ngài dành cho chúng tôi trong những bước khởi đầu với nhân dân Cuba, với lời hứa cho mối tương quan tốt hơn giữa hai quốc gia, cho sự hợp tác hơn nữa, và cho đời sống tốt hơn với người dân Cuba. Chúng tôi cám ơn Ngài vì tiếng nói đầy nhiệt huyết của Ngài chống lại các cuộc xung đột chết người. Các xung đột ấy tàn phá cuộc sống của quá nhiều người nam nữ và trẻ em. Chúng tôi cám ơn Ngài vì Ngài mời gọi các quốc gia chống lại chiến tranh và giải quyết các tranh chấp thông qua ngoại giao.
Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng, con người chỉ thực sự tự do khi họ có thể thực hành đức tin của mình cách tự do. Ở nước Mỹ này, chúng ta trân quý tự do tôn giáo. Thế nhưng, trên thế giới ngay lúc này đây, những người con của Chúa, kể cả các Kitô hữu, bị phân biệt đối xử, thậm chí bị giết chết vì đức tin của mình. Các tín hữu bị ngăn cản, không được tụ họp tại nơi thờ phượng. Họ bị tù đày. Các nhà thờ bị phá hủy. Vì thế, chúng tôi cùng với Ngài đứng về phía bảo vệ tự do tôn giáo và thúc đẩy đối thoại liên tôn, biết rằng mọi người ở mọi nơi phải có khả năng sống đức tin cách tự do khỏi nỗi sợ hãi và khỏi sự đe dọa.
Thưa Đức Thánh Cha, Ngài nhắc chúng tôi nhớ rằng, chúng ta có bổn phận thánh thiêng bảo vệ hành tinh của chúng ta. Đây là món quà tuyệt với Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng tôi ủng hộ lời mời gọi của Ngài đối với các nhà lãnh đạo thế giới, cho việc nâng đỡ những cộng đồng dễ bị tổn thương nhất trong sự biến đổi khí hậu, cho việc xích lại gần nhau để bảo vệ thế giới của chúng ta cho các thế hệ tương lai.
Với sự Thánh Thiện, trong lời nói và hành động của Ngài, Ngài là tấm gương đạo đức sâu sắc. Và với những lời nhắc nhẹ nhàng nhưng kiên quyết về bổn phận của chúng ta với Thiên Chúa và với nhau, Ngài đang lôi kéo chúng ta ra khỏi sự tự mãn. Tất cả chúng ta, nhiều lần, có thể kinh nghiệm sự khó chịu, khi chúng ta nhận thấy khoảng cách giữa cung cách sống hằng ngày với những gì chúng ta biết là thật là đúng. Nhưng tôi tin rằng, sự khó chịu ấy là một phúc lành, vì nó chỉ ra cho chúng ta điều gì đó tốt hơn. Ngài đánh thức lương tâm chúng ta khỏi giấc ngủ mơ; Ngài mời gọi chúng ta vui trong Tin Mừng, và trao tặng chúng ta sự tự tin để đến với nhau, trong khiêm tốn và phục vụ, và theo đuổi một thế giới yêu thương hơn, công bằng hơn, và tự do hơn. Ở đây và trên khắp thế giới, cầu chúc cho thế hệ chúng ta lưu tâm đến lời mời gọi của Ngài để "không bao giờ đứng bên ngoài chuỗi hy vọng sống động này!"
Vì món quà hy vọng lớn lao mà Ngài dành cho nước Mỹ, thưa Đức Thánh Cha, chúng tôi cám ơn và chào đón Ngài, với niềm vui và lòng biết ơn.
Chuyển ngữ: Vinhsơn Vũ Tứ Quyết
- Đức Phanxicô từ chối các nghị sỹ để ăn trưa với người vô gia cư
- Gia đình là cơ hội cho tương lai
- Ngày thứ ba chuyến viếng thăm mục vụ Cuba của ĐTC Phanxicô
- Đức Thánh Cha dâng thánh lễ tại Holguín, Cuba
- Đức Thánh Cha khuyến khích giới trẻ Cuba mơ ước tương lai
- Bình thường hóa quan hệ Cuba-Hoa Kỳ là một sự kiện cho chúng ta đầy hi vọng
- Đức Thánh Cha lên đường viếng thăm Cuba và Hoa Kỳ
- Thông điệp video của Đức Thánh Cha gởi người dân Cuba
- Hậu cảnh Công Giáo chuyến đi Hoa Kỳ của Đức Phanxicô
- Đức Thánh Cha đơn giản hóa thủ tục xin giải hôn phối