Tin nổi bật
Đức Phanxicô từ chối các nghị sỹ để ăn trưa với người vô gia cư
Upworthy – 23/9/15
Người nghèo và người vô gia cư được dành ghế VIP trong buổi hòa nhạc từ thiện
Đức Giáo hoàng Phanxicô vừa đặt chân đến Hoa Kỳ, nhưng ngài đã cho thấy điều gì làm cho ngài khác biệt với 99.9% các lãnh đạo thế giới.
Sau khi có bài nói chuyện với Lưỡng viện vào ngày mai, Đức Phanxicô dự định bỏ qua các nghị sỹ .... để ăn trưa với những người vô gia cư.
Theo CNN, 'Trong một cử chỉ mang tính biểu tượng cao, Đức Phanxicô sẽ bỏ qua bữa trưa với các nhà lập pháp sau khi có bài diễn văn trước Lưỡng viện, và thay vào đó sẽ ăn trưa với những người vô gia cư ở Washington.'
Bữa ăn sẽ diễn ra tại nhà thờ thánh Patrick, Washington.
Tờ Washington City Paper cho biết Đức Giáo hoàng Phanxicô dự định dành một tiếng với nhóm này, và giúp phục vụ bữa ăn cùng với 70 tình nguyện viên.
Dưới một lán trại lớn với 50 bàn ăn phủ vải trắng, Đức Giáo hoàng sẽ chúc lành cho bữa ăn, với ức gà rút xương, xà lách kiểu Á, đậu xanh và cà rốt hấp, khoai tây cuộn, và tráng miệng là bánh chocolate hạnh nhân.
Bỏ qua John Boehner, và Nancy Pelosi, để phục vụ bữa ăn cho những người vô gia cư, có lẽ là hành động táo bạo nhất mà chúng ta kỳ vọng nơi giáo hoàng này, sau khi đứng trước một đội ngũ những người cứng rắn nhất thế giới.
Dùng bữa với các nghị sỹ, thì thật là oách, nhưng đó không phải là những gì Đức Phanxicô muốn.
Không như các bậc tiền nhiệm, Đức Phanxicô đã hết lần này đến lần khác nhắc nhở các nhà báo và những lãnh đạo thế giới rằng giáo hội là vì người nghèo. Ngài lên án hệ thống tài chính toàn cầu vốn gây quá nhiều cảnh nghèo đói, và kêu gọi người Công giáo khắp thế giới hãy hành động và nâng đỡ những người dễ bị tổn thương quanh mình.
Ngài cũng nói mạnh mẽ lên án sự bất bình đẳng kinh tế, bao gồm các hành động bóc lột sức lao động tồi tệ nhất thế giới, gây nên những điều kiện sống khó khăn và vô vọng cho người dân.
Một bữa ăn không chấm dứt nạn vô gia cư và nghèo đói, nhưng đây là một biểu tượng thể hiện đức tin. Thật là một cử chỉ đầy uy lực.
Cảm ơn Đức Giáo hoàng, vì làm những gì mình rao giảng, và cho những người túng quẫn được hạnh phúc.
J.B. Thái Hòa chuyển dịch
http://phanxico.vn/
Gia đình là cơ hội cho tương lai
Sự kiện cuối cùng của Đức Giáo hoàng Phanxicô ở Cuba, trong ngày 22-9, là buổi gặp gỡ với các gia đình tại nhà thờ chính tòa Santiago. Sau khi nghe một bà mẹ trẻ và một người cha của 3 đứa con, nói về hi vọng của mình, Đức Giáo hoàng đã mô tả gia đình là các trung tâm nhân văn và hơi ấm.
Sau đây là bài diễn văn của Đức Giáo hoàng Phanxicô
'Chúng ta ở đây như một gia đình! Và bất kỳ lúc nào chúng ta đến với nhau như một gia đình, chúng cảm thấy mái ấm. Cảm ơn các gia đình Cuba. Cảm ơn người dân Cuba vì, những ngày này, đã cho tôi được cảm nhận là một phần của gia đình, vì cho tôi được cảm nhận mình trong mái ấm. Buổi gặp này như 'trái cherry trên cái bánh' vậy. Kết chuyến viếng thăm Cuba của tôi bằng cuộc gặp quy tụ các gia đình, là một lý do để tạ ơn Chúa vì 'hơi ấm' lan tỏa từ những con người biết chào đón và chấp nhận người khác, cho người đó được thấy mình trong mái ấm. Cảm ơn các bạn!
Tôi biết ơn tổng giám mục Dionisio García của Santiago, vì những lời chào đón của ngài thay mặt mọi người hiện diện, và tôi biết ơn các cặp vợ chồng đã không ngại ngùng mà chia sẻ với tất cả chúng ta những hi vọng và đấu tranh của họ để làm cho nhà mình thành một 'giáo hội tại gia.'
Tin mừng theo thánh Gioan cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên tại lễ cưới Cana, một bữa tiệc gia đình. Ngài ở đó với Đức Maria, Mẹ Ngài, và một vài môn đệ, cùng dự buổi tiệc ăn mừng trong gia đình.
Lễ cưới là những thời điểm đặc biệt trong cuộc sống nhiều người. Với những bậc cao niên, cha mẹ, ông bà, đây là dịp để thu hoa trái mà họ đã gieo trồng. Lòng chúng ta vui mừng khi thấy con cái lớn lên và lập gia đình riêng của mình. Lúc đó, chúng ta thấy mọi việc chúng ta đã làm thật xứng đáng công sức. Nuôi dạy con cái, nâng đỡ và khích lệ chúng, giúp chúng muốn tạo dựng cuộc sống cho mình và lập gia đình, đây thật là một thách thức lớn lao cho tất cả bậc làm cha làm mẹ. Lễ cưới cũng cho chúng ta thấy niềm vui của cặp vợ chồng trẻ. Tương lai đang mở ra trước mắt họ, và mọi sự đều mang màu sắc của những khả dĩ mới, của hi vọng. Lễ cưới luôn luôn là nơi hội tụ của quá khứ mà chúng ta thừa hưởng và tương lai chúng mà chúng ta đặt hi vọng. Lễ cưới là những dịp để biết ơn về mọi sự đã đưa chúng ta đến ngày hôm nay, với cùng một tình yêu mà chúng ta đã nhận.
Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai tại một lễ cưới. Ngài đi vào lịch sử gieo và gặt, mơ tưởng và chinh phục, nỗ lực và dấn thân, làm việc hăng say vun xới mảnh đất để sinh được hoa trái. Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời trong một gia đình, một mái ấm. Và Ngài tiếp tục đi vào, và trở nên, một phần trong nhà chúng ta.
Thật thú vị khi thấy Chúa Giêsu cũng hiện diện trong các bữa ăn như thế nào. Ăn cùng với người lạ, viếng thăm những nhà khác nhau, là một cách đặc biệt để Ngài cho thế giới biết dự định của Thiên Chúa. Ngài đến nhà của bạn mình, Martha và Maria, nhưng Ngài không phải kiểu kén cá chọn canh, với Ngài cũng không có gì khác biệt khi người đón tiếp Ngài là một người thu thuế, hay người tội lỗi như Giakêu. Ngài không chỉ làm việc này riêng mình, nhưng khi sai các môn đệ ra đi công bố tin mừng Nước Thiên Chúa, Ngài đã dạy rằng: 'Hãy ở lại một nhà, ăn và uống những gì họ đưa cho anh em.' Các lễ cưới, thăm viếng nhà mọi người, dùng bữa, những thời khắc này trong cuộc sống của mọi người trở nên đặc biệt bởi Chúa Giêsu đã chọn dự phần trong đó.
Tôi nhớ ở giáo phận của tôi hồi trước, có biết bao gia đình bảo tôi rằng, hầu như thời gian họ đến với nhau là trong bữa tối, sau giờ làm việc, lúc con cái cũng đã xong bài tập về nhà. Đây là những thời điểm đặc biệt trong đời sống gia đình. Mọi người nói về những gì diễn ra trong ngày, và những gì mỗi người đã làm, dọn dẹp nhà cửa, để mọi thứ sang một bên và chuẩn bị ngày mới sắp đến. Đây cũng là những thời điểm mà ai đó sẽ về nhà với sự mệt mỏi, hay sau khi thất bại một thảo luận một chuyện tranh cãi. Chúa Giêsu chọn hết những thời điểm này để cho chúng ta thấy tình yêu Thiên Chúa. Ngài chọn những thời điểm này để đi vào lòng chúng ta và giúp chúng ta khám phá Thần Khí sự sống đang hoạt động trong mọi chuyện hằng ngày của chúng ta. Chính trong nhà, mà chúng ta học được tình thân ái, đoàn kết và bỏ đi thói hống hách. Chính trong nhà, mà chúng ta học biết đón nhận, trân trọng cuộc sống như một ơn lành, và biết nhận ra rằng chúng ta cần có nhau để tiến tới. Chính trong nhà, mà chúng ta cảm nghiệm được sự tha thứ, để chúng ta không ngừng xin được tha thứ và để lớn lên. Chính trong nhà, là nơi không có chỗ cho 'mặt nạ' chúng ta là chính con người mình, và cách cách này cách khác, chúng ta được kêu gọi hãy làm những gì tốt nhất cho người khác.
Đây là lý do vì sao cộng đồng Kitô gọi các gia đình là 'giáo hội tại gia.' Chính trong hơi ấm của gia đình, mà đức tin lấp đầy mọi ngóc ngách, thắp sáng mọi khoảng không, và xây dựng cộng đồng. Chính những lúc này, người ta học biết khám phá ra tình yêu Thiên Chúa đang hiện diện và hành động.
Trong nhiều nền văn hóa, các không gian này đang bị thu hẹp, các cảm nghiệm về gia đình đang biến mất, và mọi sự dần dần bị phá vỡ, bị xé lẻ chia lìa. Chúng ta ngày càng ít đi những thời điểm chung với nhau, những lúc cùng ở nhà như một gia đình. Kết quả là, chúng ta không biết cách để kiên nhẫn, không biết cách xin phép hay xin tha thứ, hay thậm chí là không biết nói 'cảm ơn,' bởi vì nhà của chúng ta đang ngày càng trống rỗng. Sự trống rỗng liên hệ, trống rỗng kết nối, trống rỗng gặp gỡ. Cách đây không lâu, có một người làm việc với tôi đã kể rằng vợ và con ông đã đi nghỉ, và ông ở nhà một mình. Ngày đầu tiên, căn nhà hoàn toàn yên tĩnh, 'thanh bình' và mọi chuyện rất ổn. Đến ngày thứ ba, khi tôi hỏi xem mọi chuyện thế nào rồi, ông bảo tôi: 'Con mong sao vợ và con về sớm mà thôi.' Ông cảm thấy ông không thể sống thiếu vợ và con mình.
Không có gia đình, không có hơi ấm của mái nhà, thì cuộc sống trở nên trống rỗng, mà đang có một sự suy yếu trong mạng lưới vốn nâng đỡ chúng ta trong những lúc bất hạnh, nuôi dưỡng chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, và thúc giục chúng ta xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Gia đình cứu chúng ta khỏi 2 hiện tượng đương thời, đó là sự phân mảnh và sự đồng nhất. Trong cả hai trường hợp, con người ta trở nên cá nhân, dễ bị lạm dụng và thống trị. Những xã hội bị chia rẽ, phá vỡ, ly tán hay đồng nhất cách thô thiển, là kết quả do sự phá vỡ các mối dây gia đình, mất đi những mối liên hệ cho chúng ta là chính mình, dạy chúng ta trở nên một con người.
Gia đình là trường dạy nhân văn, cho chúng ta biết mở rộng lòng mình với nhu cầu của người khác, để tâm đến cuộc sống của họ. Giữa mọi khó khăn đang quấy rối gia đình chúng ta ngày nay, xin các bạn, đừng bao giờ quên một điều, rằng gia đình không phải là vấn đề, gia đình trên hết và trước hết là một cơ hội, một vận hội. Một cơ hội mà chúng ta phải chăm lo, bảo vệ và nâng đỡ.
Chúng ta nói nhiều về tương lai, về dạng thế giới mà chúng ta muốn để lại cho con cháu, dạng xã hội mà chúng ta muốn cho con cái mình. Tôi tin rằng câu trả lời khả dĩ nằm ở việc nhìn vào bản thân mình, hãy để lại cho con cháu một thế giới với các gia đình. Chắc chắn là không có gia đình hoàn hảo, không có người chồng người vợ hoàn hảo, không có cha mẹ hay con cái hoàn hảo, nhưng điều này không ngăn cản gia đình là câu trả lời cho tương lai. Thiên Chúa truyền cho chúng ta tình yêu, và tình yêu luôn ở cùng người yêu thương. Vậy nên hãy chăm lo cho gia đình mình, là những ngôi trường đích thực cho tương lai. Hãy chăm lo cho gia đình mình, những không gian tự do đích thực. Hãy chăm lo cho gia đình, những trung tâm nhân văn đích thực.
Tôi không muốn kết thúc mà không nói đến Phép Thánh Thể. Tất cả các bạn đều biết rõ là Chúa Giêsu đã chọn một bữa ăn để cho chúng ta tưởng nhớ Ngài. Ngài chọn một thời khắc đặc biệt của đời sống gia đình như là 'nơi' ngài hiện diện giữa chúng ta. Một thời khắc mà tất cả chúng ta đều cảm nghiệm, một thời khác mà tất cả chúng ta đều hiểu, đó là một bữa ăn.
Phép Thánh Thể là bữa ăn của gia đình Chúa Giêsu, nơi thế giới quy tụ để lắng nghe lời Ngài và được nuôi sống bằng mình Ngài. Chúa Giêsu là Bánh Sự Sống cho các gia đình chúng ta. Ngài muốn hiện diện luôn mãi, nuôi dưỡng chúng ta bằng tình yêu của Ngài, nâng đỡ chúng ta trong đức tin, giúp chúng ta bước đi trong hi vọng, để trong mọi hoàn cảnh, chúng ta có thể cảm nghiệm được Bánh bởi Trời đích thực.
Trong vòng vài ngày tới, tôi sẽ cùng dự với các gia đình từ khắp nơi trên địa cầu, trong Đại hội Gia đình Thế giới, và trong vòng chưa đến một tháng nữa, sẽ là trong Hội đồng Giám mục về Gia đình. Tôi xin các bạn cầu nguyện cách riêng cho hai sự kiện này, để cùng với nhau, chúng ta có thể giúp nhau và chăm lo cho gia đình, để chúng ta có thể khám phá Emmanuael, Thiên Chúa đến giữa dân Ngài, và cư ngụ trong các gia đình chúng ta.'
Rồi Đức Phanxicô nói tự phát, nhắc lại biết bao bà mẹ mang thai trong những buổi tiếp kiến chung ngày thứ tư ở Vatican, đã xin ngài chúc lành cho đứa trẻ chưa sinh ra. Ngài nói rằng, bất kỳ ai đang dự buổi tiếp kiến này, hay theo dõi qua truyền thanh và truyền hình, mà 'đang mang thai hi vọng' thì hãy đặt tay lên bụng và nhận lời chúc lành của Giáo hoàng.
J.B. Thái Hòa chuyển dịch từ Vatican Radio Eng
Nguồn: Phanxico.vn
Ngày thứ ba chuyến viếng thăm mục vụ Cuba của ĐTC Phanxicô
Tường thuật ngày thứ ba ĐTC Phanxicô viếng thăm Cuba
22 tháng 9 là ngày thứ 3 và cũng là ngày chót ĐTC viếng thăm Cuba. Tại Santiago de Cuba ĐTC đã có hai sinh hoạt chính: đó là chủ sự thánh lễ tại Vương cung thánh đường Đức Trinh Nữ Bác Ái Mỏ Đồng lúc 8 giờ sáng, và gặp gỡ các gia đình Cuba trong nhà thờ chính toà Santiago lúc 11 giờ, trưóc khi ra phi trường quốc tế Antonio Maceo từ giã Cuba và đáp máy bay sang Washington, bắt đầu chuyến viếng thăm Hoa Kỳ.
Sau đây xin kính mời quý vị cùng chúng tôi trở lại với các sinh họat của ĐTC chiều thứ hai 21 tháng 9 và sáng thứ ba 22 tháng 9.
Lúc ba giờ rưỡi chiều thứ hai 21 tháng 9 ĐTC đã rời toà giám mục Holguín để đến đồi Thánh Giá Loma de la Cruz cách đó 6 cây số. Loma de la Cruz là ngọn đồi nhỏ cao 261 mét, nằm ở mạn bắc thành phố Holguín, và gắn liền với lịch sử xã hội và văn hóa của thành phố này. Cây thánh giá đầu tiên đã do tu sĩ Antonio de Alegría, bề trên tu viện dòng Phanxicô Holguín, dựng trên đồi vào năm 1790. Cây thánh giá hiện nay thuộc thập niên 1990 thay cho cây thánh giá cũ bị sét đánh hư hại. Tín hữu có thể leo lên đồi theo cầu thang có 458 bậc, hay theo một đường vòng rất đẹp nhìn xuống quang cảnh thành phố. Trên đỉnh đồi cũng có một tháp canh của quân đội gọi là “Torre di Numancia” xây trong cuộc chiến hồi năm 1868-1878. Đồi thánh giá là nơi hành hương nổi tiếng của thành phố, và hàng năm có “lễ hội tháng Năm”. Trên đồi thánh giá du khách có thể nhìn thấy hết nước đảo Cuba.
Từ Holguín đến Santiago de Cuba
ĐTC đã dừng lại cầu nguyện dưới chân Thánh Giá, và ban phép lành cho toàn thành phố Holguín. Tiếp đến ngài đã ra phi trường để lấy máy bay đến Santiago de Cuba, cách đó 150 cây số. Chiếc máy bay A 330 của hãng hàng không Alitalia chở ĐTC và đoàn tuỳ tùng đã tới Santiago de Cuba sau 50 phút bay.
Thành phố Santiago de Cuba nằm trong một cảng thiên nhiên rất lớn trên bờ biển đông nam của đảo Cuba, và là thành phố lớn thứ hai của Cuba với 400.000 dân cư, tranh đua với thủ đô La Habana về phương diện văn học, âm nhạc và chính trị. Thành phố này đã do ông Diego Velazquez thành lập năm 1514, và đã là thủ đô của Cuba từ năm 1515 dến 1607. Santiago có một lịch sử văn hóa đã bắt đầu từ khi xây nhà thờ chính toà Đức Mẹ hồn xác lên trời năm 1520 và việc thành lập ca đoàn nhà thờ, do nhạc sĩ Estéban Salas điều khiển. Ông đã sáng tác rất nhiểu thánh ca cho ca đoàn, đặc biệt là các thánh ca Giáng Sinh nổi tiếng, từng là các thánh ca hay nhất thời đó.
Trong số các xây cất nổi tiếng có lâu đài El Morro, nằm trong danh sách gia tài văn hóa nhân loại của UNESCO, ngôi nhà của ông Parque Céspendes thời thuộc địa ở trung tâm thành phố, và vương cung thánh đường Đức Bà Bác Ái Mỏ Đồng. Ngoài ra trong thành phố còn có nhiều nhà thờ khác, trong đó có nhà thờ Đức Bà Camêlô, nhà thờ thánh Phanxicô và nhà thờ thánh Tôma, cả ba đều thuộc thế kỷ XVIII. Santiago cũng là quê hương của điệu vũ “Son” là cha đẻ của điệu vũ “Salsa” và của rượu Rum nổi tiếng gọi là “Ron”. Thành phố Santiago cũng đang chuẩn bị các lễ mừng 500 năm thành lập.
Tổng giáo phận Santiago de Cuba được thành lập năm 1522, trở thánh giáo tỉnh năm 1803, rộng hơn 6.150 cây số vuông, có 1 triệu 50 ngàn dân trong đó có hơn 254.000 tín hữu công giáo, gồm 16 giáo xứ, 22 nhà thờ và cứ điểm truyền giáo. Nhân lực gồm 16 linh mục giáo phận, 13 linh mục dòng, 21 tu huynh, 34 nữ tu, 4 đại chủng sinh, và 2 phó tế vĩnh viễn. ĐTGM Santiago de Cuba là ĐC Dionisio Guillermo Garcia Ibánhez.
Đón tiếp ĐTC tại phi trường có ĐTGM Santiago de Cuba, vài giới chức địa phương và mấy trăm giáo dân cùng một ca đoàn thiếu nhi.
Từ phi trường ĐTC đã đi xe về Chủng viện thánh Basilio Cả, cách đó 30 cây số. Chủng viện này được xây năm 1722, và là một trong các cơ cấu cổ xưa nhất trên toàn đảo Cuba. Tên đại chủng viện do ĐC Jerónimo Valdes Nosti GM Santiago, đặt cho, vì ngài thuộc dòng thánh Basilio Cả. Ban đầu chủng viện tiếp nhận đào tạo các chủng sinh và cả giáo dân. Nhưng với việc cải tổ của thánh Antonio Maria Claret, TGM Santiago giữa thế kỷ XIX, đại chủng viện chỉ được dành cho các chủng sinh. Năm 1908 khi từ Pháp tới đây đảm trách việc giáo dục, các tu huynh Lasan đã thành lập một trường từ tiểu học cho tới trung học. Các ứng sinh của các dòng tu khác nhau như Dòng Thừa sai, sư huynh Lasan và dòng Tên, cũng được đào tạo tại đây. ĐC Francisco de Paula Barnada Aguilar, cựu học sinh, giáo sư, rồi sau này là TGM Santiago de Cuba, đã tổ chức chủng viện cho có quy củ hơn. Năm 1961 chủng viện bị nhà nước Cuba quốc hữu hóa, và biến thành trường công. Năm 1997 trường tái hoạt động và cộng tác với đại học giáo hoàng công giáo Cộng hòa Dominicana.
Tại chủng viện ĐTC đã gặp gỡ riêng các Giám Mục Cuba. Tiếp đến ngài đã cùng các vị sang Vương cung thánh đường Đức Trinh Nữ Bác Ái Mỏ Đồng cách đó 300 mét để kính viếng và cùng đọc kinh kính Đức Mẹ.
Viếng thăm và cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng
Đây cũng là Trung tâm thánh mẫu quốc gia Cuba. Đền thánh Đức Trinh Nữ Bác Ái Mỏ Đồng gắn liền với các biến cố xã hội chính trị của Cuba. Tất cả đã bắt đầu hồi năm 1606, khi ba người đánh cá là hai anh em Juan và Rodrigo de Hoyos, và một người nô lệ da đen là Juan Moreno, tìm ra một tượng Đức Mẹ nhỏ bằng gỗ nổi trên nước biển vịnh Bahia de Nipe, ở mạn đông bắc quần đảo Cuba với hàng chữ “Ta là Trinh Nữ Bác Ái”. Bức tượng Đức Mẹ được đem tới mỏ đồng El Cobre, và tại đây năm 1684 tín hữu xây đền thánh đầu tiên kính Đức Mẹ. Năm 1801 chính tại đền thánh này Tuyên ngôn tự do của các nô lệ mỏ đồng đã được tuyên đọc. Cha Alejandro Escanio, tuyên uý đền thánh, đã là người có công dấn thân tranh đấu cho sự tự do và quyền của người nô lệ. Năm 1868 ông Carlos Manuel de Céspendes, người tranh đấu cho việc huỷ bỏ chế độ nô lệ và cho nền độc lập của Cuba, đã đến hành hương đền thánh và câu nguyện cho sự tự do của Cuba trước tượng Đức Mẹ. Ngày 12 tháng 7 năm 1898 một thánh lễ tạ ơn cho việc giải phóng đảo Cuba đã được cử hành tại Đền Thánh, trước sự hiện diện của các sĩ quan của đoàn Quân Giải Phóng.
Trưóc lòng sùng mộ gia tăng của người dân Cuba đối với Đức Mẹ, cũng như lời xin của các cựu chiến binh Chiến tranh giành độc lập, do ông Jesus Rahí dẫn đầu, ngày 16 tháng 5 năm 1916 ĐGH Biển Đức XV đã tuyên bố Trinh Nữ Bác Ái Mổ Đồng là Bổn Mạng dân nước Cuba. Ngày mùng 8 tháng 9 năm 1927 đền thánh hiện nay được khánh thành. Ngày 20 tháng 12 năm 1936 ĐC Valentín Zubizarreta, TGM Santiago de Cuba, đã chủ sự lễ đội triều thiên cho Đức Mẹ. Năm 1952 tượng Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng đã thánh du toàn nưóc Cuba như dấu chỉ của đức tin và niềm hy vọng. Năm 1959 Đại hội công giáo toàn quốc Cuba đã được khai mạc tại đền thánh dưới sự chở che hiền mẫu của Mẹ. Sau cùng ngày 30 tháng 12 năm 1977, ĐGH Phaolô VI ban tước Tiểu vương cung thánh đường cho đền thánh, qua vị đặc sứ của ngài là ĐHY Bernardin Gantin. Trong chuyến công du Cuba hồi năm 1998, Đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đội triều thiên cho Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng. Tiếp đến tín hữu đã hát quốc ca trong khi huy hiệu và quốc kỳ Cuba đã được đặt dưới chân Đức Mẹ, như dấu chỉ lòng sùng mộ của người dân Cuba đối với Đức Mẹ.
ĐTC đã đọc lời nguyện sau đây trước khi ban phép lành cho toàn thành phố:
“Lạy Chúa Cha toàn năng, trước Chúa mọi gối trên trời và dưới đất đều phải quỳ xuống, chúng con khiêm tốn xin Chúa khấng nhìn các con cái Chúa trên trần gian này đang khẩn nài phưóc lành của Chúa.”
Tiếp đến ĐTC đã ban phép lành cho mọi người và kết thúc với lời nguyện sau đây: “Xin việc ngắm nhìn Thánh Giá được nâng cao trên đỉnh núi này, soi sáng cuộc sống của các gia đình, của các trẻ em và người trẻ, của những người đau yếu, và xin cho tất cả những ai đau khổ nhận được sự ủi an và đồng hành của Chúa, và cảm thấy được mời gọi bước theo Con Chúa, là đường duy nhất dẫn tới Chúa. Ước chi tình yêu của Chúa kéo đổ xuống trên mọi người sự trợ giúp của Chúa và gia tăng các ơn thiêng liêng của Chúa. Chúng con cầu xin Chúa là Cha, vì Đức Giêsu Kitô Con Chúa, Đấng hằng sống hằng trị cùng Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa đến muôn thuở muôn đời. Amen.”
ĐTC đã dâng quà kính Đức Mẹ là một bình hoa bằng bạc với các cọng bằng bạc và hoa bằng gốm, qua đó ĐTC muốn diễn tả cử chỉ mà mọi người dân Cuba thường làm: đó là dâng lên Đức Trinh Nữ Mỏ Đồng một bó hoa. Rồi ngài về chủng viện để dùng bữa tối và nghỉ ngơi, kết thúc ngày thứ hai viếng thăm Cuba.
Noi gương Mẹ Maria thực hiện cuộc cách mạng của tình yêu thương, phục vụ, của lòng dịu hiền, thương xót, cảm thông và gặp gỡ
Sáng thứ ba 22 tháng 9, lúc 7 giờ rưỡi sáng ĐTC đã đi xe tới Đền Thánh để chủ sự thánh lễ kính Đức Trinh Nữ Mỏ Đồng cho tín hữu. Vì Tiểu vương cung thánh đường nhỏ nên hàng ngàn tín hữu đã phải theo dõi thánh lễ trên màn truyền hình ở bên ngoài đền thờ.
Giảng trong thánh lễ ĐTC đã khích lệ tín hữu Cuba noi gương Mẹ Maria, mau mắn lên đường phục vụ và sống cuộc cách mạng của tình yêu thương, lòng dịu hiền, thương xót và cảm thông, biết đồng hành với tha nhân trong tất cả mọi trạng huống cuộc đời, trong cuộc sống, trong nền văn hóa, trong xã hội. Mở đầu bài giảng ĐTC nói:
Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đặt để chúng ta trước năng động của Chúa, là năng động sinh ra mỗi lần Ngài viếng thăm chúng ta: Chúa làm cho chúng ta ra khỏi nhà. Đây là các hình ảnh mà chúng ta đã được mời gọi chiêm ngắm nhiều lần. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta không để cho chúng ta yên thân, nhưng luôn luôn thúc đẩy chúng ta cử động. Khi Thiên Chúa viếng thăm chúng ta, Ngài luôn luôn kéo chúng ta ra khỏi nhà. Được thăm viếng để thăm viếng, được gặp gỡ để gặp gỡ, được yêu thương để thương yêu.
Ở đây chúng ta thấy Đức Maria, môn đệ đầu tiên. Một thiếu nữ khoảng 15-17 tuổi đã được Chúa viếng thăm trong một làng quê đất Palestina, và báo cho biết rằng sẽ trở thành mẹ của Đấng Cứu Thế. Thay vì nghĩ rằng mình là nhân vật quan trọng, và tất cả mọi người sẽ đến để trợ giúp và hầu hạ mình, thì mẹ ra khỏi nhà để đi phục vụ. Mẹ đi giúp bà chị họ Elidabét. Niềm vui nảy sinh từ việc biết rằng Thiên Chúa ở với chúng ta, với người dân của chúng ta, thức tỉnh con tim, và khiến cho đôi chân chúng ta chuyển động, “kéo chúng ta ra ngoài”, đưa chúng ta tới chỗ chia sẻ niềm vui đã nhận lãnh như một việc phục vụ, như sự tận hiến trong tất cả mọi trạng huống “khó xử”, mà những người láng giềng hay bà con của chúng ta đang sống. Tin Mừng nói với chúng ta rằng Đức Maria vội vã ra đi, với bưóc đi chậm nhưng liên tục, các bưóc chân biết đi đâu; các bước chân không chạy để đến một cách quá nhanh, hay đi một cách qúa chậm chạp như không bao giờ tới nơi. Không náo động cũng không thiếp ngủ, Đức Maria vội vã ra đi để trợ giúp bà chị họ cao niên có thai. Đức Maria môn đệ đầu tiên, được thăm viếng đã ra đi viếng thăm. Và từ ngày đầu tiên ấy nó đã luôn luôn là đặc tính của Mẹ. Mẹ là người phụ nữ đã viếng thăm biết bao nhiêu người nam nữ, các trẻ em, và người già, người trẻ. Mẹ đã biết thăm viếng và đồng hành trong các tình trạng thê thảm của nhiều dân tộc chúng ta. Mẹ đã che chở cuộc chiến đấu của tất cả những người đã đau khổ để bảo vệ các quyền lợi của con cái họ. Và giờ đây Mẹ không ngừng đem đến cho chúng ta Lời sự sống, là Con của Mẹ, Chúa chúng ta.
Tiếp tục bài giảng ĐTC nói: Cả các vùng đất này cũng đã được sự hiện diện hiền mẫu của Mẹ viếng thăm. Quê hương Cuba đã chào đời và lớn lên trong hơi ấm của lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Bác Ái. Mẹ đã trao ban cho linh hồn cuba một hình thái riêng và đặc biệt. Các Giám Mục của vùng đất này đã viết như thế - bằng cách dấy lên trong con tim của người dân Cuba các lý tưởng tốt đẹp nhất của tình yêu đối với Thiên Chúa, đối với gia đình và quê hương.
Các người đồng hương của anh chị em cũng đã khẳng định điều này cách đây 100 năm khi họ thỉnh cầu ĐGH Biển Đức XV tuyên bố Đức Trinh Nữ Bác Áí là Bổn Mạng Cuba, và họ đã viết như sau: “Không có các tai ương nào, không có các thiếu thốn nào đã dập tắt đuợc đức tin và tình yêu mà người dân công giáo của chúng con tuyên xưng nơi Đức Trinh Nữ này, trái lại, trong các biến cố lớn lao nhất của cuộc sống, khi cái chết hay nỗi tuyệt vọng gần kề, đã luôn luôn vọt lên ánh sáng đánh tan mọi hiểm nguy, như sương sa an ủi… Quan niệm về Đức Trinh Nữ được chúc phúc này, là người Cuba tuyệt vời… bởi vì các bà mẹ không thể quên được của chúng con đã yêu Mẹ như vậy, và các người vợ của chúng con chúc tụng Mẹ như thế.” Đề cập đến Đền thánh Đức Bà Bác Ái Mỏ Đồng ĐTC nói:
Trong Đền thánh này, nơi giữ ký ức của Dân trung thành của Thiên Chúa bước đi tại Cuba, Đức Maria được tôn kính như Mẹ Bác Ái. Từ đây Mẹ giữ gìn các gốc rễ của chúng ta, căn tính của chúng ta, để chúng ta đừng đánh mất chúng trên các nẻo đường của sự tuyệt vọng. Linh hồn của nhân dân Cuba, như chúng ta vừa mới nghe, đã được rèn luyện giữa các khổ đau, thiếu thốn, nhưng chúng đã không thành công trong việc dập tắt đức tin ; đức tin ấy đã đuợc duy trì sống động nhờ biết bao nhiêu bà nội bà ngoại đã làm cho có thể tiếp tục cuộc sống gia đình, sự hiện diện sống dộng của Thiên Chúa, sự hiện diện của Thiên Chúa Cha giải thoát, củng cố, chữa lành, trao ban can đảm, là nơi nương náu chắc chắn và là dấu chỉ của sự sống lại mới. Các bà nội bà ngoại, các bà mẹ và biết bao nhiêu người khác, với sự hiền dịu và trìu mến đã là các dấu chỉ của sự thăm viếng, của lòng can đảm, của đức tin đối với cháu chắt, trong gia đình họ. Họ đã để mở một kẽ hở, bé nhỏ như một hạt cải, qua đó Chúa Thánh Thần đã tiếp tục đồng hành với nhịp đập của dân tộc này.
ĐTC nói thêm trong bài giảng: Và mỗi lần chúng ta nhìn lên Mẹ Maria, chúng ta lại tin nơi “sức mạnh cách mạng của sự dịu hiền và của tình thương mến” (Evangelii Gaudium, 288). Hết thế hệ này sang thế hệ khác, hết ngày này sang ngày khác, chúng ta đuợc mời gọi canh tân đức tin của chúng ta. Chúng ta được mời gọi “đi ra khỏi nhà”, mở đôi mắt và con tim cho tha nhân. Cuộc cách mạng của chúng ta đi qua sự dịu hiền, đi qua niềm vui lớn trở thành sự gần gữi, luôn trở thánh sự cảm thương và đem chúng ta tới chỗ bị lôi cuốn liên lụy với cuộc sống của người khác, để phục vụ. Đức tin của chúng ta khiến cho chúng ta ra khỏi nhà và đi gặp người khác để chia sẻ các niềm vui nỗi buồn, các hy vọng và bị tước đoạt. Đức tin của chúng ta đưa chúng ta ra khỏi nhà để đi thăm viếng người đau yếu, kẻ bị tù tội, người khóc lóc, và cũng biết cười với người cười, vui với các niềm vui của người bên cạnh. Như Mẹ Maria chúng ta muốn là một Giáo Hội phục vụ, ra khỏi nhà, ra khỏi các đền thờ của mình, ra khỏi các phòng thánh của mình, để đồng hành với cuộc sống, để nâng đỡ các niềm hy vọng, để là dấu chỉ của sự hiệp nhất. Như Mẹ Maria, Mẹ Bác Ái, chúng ta muốn là một Giáo Hội ra khỏi nhà để bác các cây cầu, đập bể các bức tường, ngăn cách, để gieo vãi hoà giải.
Như Mẹ Maria chúng ta muốn là một Giáo Hội biết đồng hành với tất cả mọi tình trạng “bối rối” của dân chúng, dấn thân trong cuộc sống, trong văn hóa, trong xã hội, không ẩn nấp, nhưng bước đi với các anh chị em khác.
Đó là “đồng” quý báu nhất của chúng ta, đó là kho tàng lớn nhất của chúng ta và là gia tài tốt nhất mà chúng ta có thể để lại: như Mẹ Maria học đi ra khỏi nhà trên các nẻo đường của việc thăm viếng. Và học cầu nguyện với Mẹ, dể lời cầu của chúng ta tràn đầy ký ức và lời cám tạ. Đó là thánh thi của Dân Thiên Chúa bước đi trong lịch sử. Đó là ký ức sống động của Thiên Chúa giữa chúng ta. Đó là ký ức vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã doái nhìn sự khiêm hạ của dân Ngài, đã cứu giúp tôi tớ của Ngài như đã hứa với cha ông chúng ta và con cháu họ đến muôn đời.”
Thánh lễ đã kết thúc lúc 10 giờ sáng giờ Cuba, ĐTC đã rời đền thánh đi xe tới viếng thăm nhà thờ chính tòa Santiago de Cuba, cách đó 19 cây số.
Nhà thờ này được dâng kính Đức Mẹ hồn xác lên trời. Nhà thờ có hai tháp cao một tháp mầu trắng, một tháp mầu vàng, tọa lạc gần công viên Céspendes. Nhà thờ được xây hồi đầu thế kỷ XIX và là một trong một loạt các nhà thờ đã bị tàn phá vì các lý do khác nhau như động đất, bị cướp bóc vv… Bên trong nhà thờ có các bức bích họa rất đẹp trên các vòng cung và mái vòm nhà thờ. Trong nhà thờ cũng có mộ của ông Diego Velazquez người Tây Ban Nha đã chinh phục và thành lập thành phố. Việc trùng tu nhà thờ và mái vòm bằng gỗ mới đây nằm trong dự án cộng tác giữa vùng Toscana bên Italia và vài tổ chức địa phương như tổng giáo phận Santiago, Văn phòng duy trì thành phố và Đại học Đông phương. Mục đích việc trùng tu đã bắt đầu hồi năm 2010 nhằm cải tiến khu vực phát triển chung quanh nhà thờ chính toà, nhân dịp kỷ niệm 500 năm thành lập thủ đô cũ của đảo Cuba.
Trong ngày thứ ba 22 tháng 9 ĐTC còn một sinh hoạt khác nữa là buổi gặp gỡ các gia đình Cuba trong nhà thờ chính toà lúc 11 giờ trưa giờ địa phương và ban phép lành cho thành phố trước khi ĐTC ra phi trường từ giã Cuba đế lấy máy bay đi Washington, bắt đầu những ngày viếng thăm Hoa Kỳ. Chúng tôi sẽ tường thuật các biến cố này trong buổi phát ngày thứ năm.
Linh Tiến Khải
Đức Thánh Cha dâng thánh lễ tại Holguín, Cuba
HOLGUÍN. Trong thánh lễ thứ hai tại Cuba, cử hành trước sự tham dự của hàng trăm ngàn tín hữu tại thành phố Holguín, ĐTC kêu gọi các tín hữu hoán cải theo gương thánh Mathêu và các linh mục hãy luôn dịu dàng và ban ơn tha thứ.
Sáng thứ hai 21-9-2015, ĐTC đã tiến sang giai đoạn thứ 2 trong cuộc viếng thăm mục vụ 3 ngày tại Cuba. Ngài giã từ thủ đô La Habana, đáp máy bay tiến về thành phố Holguín, cách đó 700 cây số và đến nơi vào lúc gần 9 giờ rưỡi sau hơn 1 giờ bay.
Holguín là thành phố đứng thứ 3 ở Cuba xét về dân số, với 1 triệu rưỡi dân cư, do nhà chinh phục García Holguín người Tây Ban Nha thành lập hồi năm 1454, và mang danh là thành phố các công viên, vì tại đây có nhiều quảng trường và những đại lộ có nhiều cây cối. Giáo phận tại đây có hơn 440 ngàn tín hữu Công Giáo, tương đương với 27% dân số, với 28 giáo xứ, 56 giáo họ có thánh đường, và chỉ có 33 linh mục.
Các tín hữu Công Giáo tại đây rất hãnh diện vì chính các ngư phủ hồi thế kỷ 16 đã tìm thấy tượng Đức Mẹ Bác Ái mỏ đồng bổn mạng của Cuba khi họ đánh cá ở vinh Nipe, ngoài khơi tỉnh Holguín. Ngoài ra, các nhà truyền giáo cũng đến vịnh Bariay ở địa phương để khởi sự công trình truyền giáo Mỹ châu. Thực vậy, Cristoforo Colombo đã đổ bộ lên nơi ngày nay gọi là Cảng Chúa Cứu Thế hồi năm 1492. Tại Quảng trường cách mạng mang tên Calixto García Iniguez, vào lúc 10 giờ rưỡi, ĐTC đã cử hành thánh lễ, lễ kính thánh Mathêu Tông Đồ trước sự tham dự của hàng trăm ngàn tín hữu. Cho đến nay Quảng trường này chỉ được dùng vào các mục tiêu chính trị và xã hội, nhưng đây là lần đầu tiên một lễ nghi tôn giáo được cử hành tại đây.
Các tín hữu, từ Holguín và các giáo phận lân cận đã đến tham dự thánh lễ ĐTC cử hành lúc 10 giờ rưỡi, lễ kính thánh Mathêu Tông Đồ. Đồng tế với ngài còn có các GM và hàng trăm linh mục Cuba.
Bài giảng của ĐTC
Trong bài giảng, ĐTC đặc biệt quảng diễn sự tích Chúa Giêsu kêu gọi ông Mathêu người thu thuế, người bị dân Do thái coi là kẻ tội lỗi công khai, kẻ phản bội vì thu thế cho kẻ thống trị. Nhưng Chúa Giêsu đã nhìn ông, chạnh lòng thương và kêu gọi ông. Sự tích này cũng là khẩu hiệu GM và Giáo Hoàng của ĐTC Phanxicô. Ngài nói:
"Chúa Giêsu dừng lại, ngài không vội vã đi qua, Ngài bình tĩnh chậm rãi nhìn Mathêu. Cái nhìn của Chúa với đôi mắt từ bi thương xót; Chúa nhìn ông như chưa bao giờ có người nào trước đó nhìn ông như vậy. Và chính cái nhìn ấy đã mở con tim của ông, làm cho tâm hồn ôn được tự do, được chữa lành, Ngài ban cho ông một niềm hy vọng, một đời sống mới, như Zakêu, như Bartimeo, Maria Madalena, như Phêrô và mỗi người chúng ta..
Đó cũng là lịch sử bản thân mỗi người chúng ta; như bao nhiêu người khác, mỗi người chúng ta có thể nói: Tôi cũng là một người tội lỗi mà Chúa Giêsu nhìn đến. Tôi mời gọi anh chị em, ở nhà hay ở nhà thờ, hãy dành một lúc thinh lặng để nhớ lại với lòng biết ơn và vui mừng trường hợp đã xảy ra, lúc mà cái nhìn từ bi của Thiên Chúa đặt trên cuộc sống của chúng ta".
Sau khi nhìn Mathêu với lòng thương xót, Chúa gọi ông: "Hãy theo tôi", và ông đứng lên theo Ngài. Sau cái nhìn là lời nói của Chúa Giêsu. Sau tình thương là sứ mạng. Matheu không còn như trước nữa, ông đã thay đổi trong nội tâm. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, với lòng yêu thương từ bi của Chúa, đã biến đổi ông. Ông bỏ lại bàn thu thế, tiền bạc, tình trạng bị gạt ra ngoào. Trước kia ông ngồi đó để thu thuế, để lấy của người khác; giờ đây với Chúa Giêsu, ông phải đứng lên để cho đi, để tặng, để hiến thân cho tha nhân... Cái nhìn của Chúa Giêsu đã tạo nên một hoạt động thừa sai.
ĐTC nhận xét rằng Chúa Giêsu đi trước, mở đường cho chúng ta, mời gọi chúng ta theo ngài. Ngài mời gọi chúng ta từ từ tiến bước, vượt lên trên mọi thành kiến của chúng ta, vượt lên sự kháng cự không muốn thay đổi của người khác và cả chúng ta nữa. Chúa thách thức chúng ta ngày qua ngày: con có tin không? Con có tin là một người thu thuế có thể trở thành một người phục vụ hay không?.. Chúng ta hãy để cho Chúa nhìn chúng ta trong kinh nguyện, trong Thánh Lễ, trong việc xưng tội, trong các anh chị em của chúng ta, nhất là những người cảm thấy bị bỏ rơi và đơn độc nhất. Và chúng ta hãy học nhìn như Chúa nhìn chúng ta. Chúng ta hãy chia sẻ sự dịu dàng và từ bi của Chúa với các bệnh nhân, tù nhân, người già và những gia đình đang gặp khó khăn.
Sau cùng ĐTC khích lệ Giáo Hội tại Cuba tiếp tục cố gắng và hy sinh thi hành công tác loan truyền lời Chúa, sự hiện diện của Chúa và việc mục vụ cho tất cả mọi người, kể cả tại những nơi xa xăm nhất. Ngài ca ngợi sáng kiến "các căn nhà truyền giáo", để đáp ứng tình trạng thiếu nhà thờ, thiếu LM tại nước này, để nhiều người có nơi cầu nguyện, nghe Lời Chúa, học giáo lý và có đời sống cộng đoàn. Đó là những dấu chỉ bé nhỏ về sự hiện diện của Thiên Chúa trong các khu phố của chúng ta và là một trợ giúp thường nhật để lời thánh Phaolô tông đồ trở nên sống động: "Tôi khuyên bảo anh chị em hãy cư xứ xứng với ơn gọi anh chị em đã nhận lãnh, với tất cả lòng khiêm tốn, dịu dàng, quảng đại, chịu đựng nhau trong tình yêu thương, quan tâm duy trình tinh thần hiệp nhất nhờ mối dây hòa bình" (Ep 4,1-3)
G. Trần Đức Anh OP
Đức Thánh Cha khuyến khích giới trẻ Cuba mơ ước tương lai
LA HABANA. Chiều chúa nhật 20-9-2015, ĐTC đã gặp giới trẻ Cuba tại thủ đô La Habana, và ngài mời gọi họ vượt thắng bi quan, mơ ước và dấn thân xây dựng tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân và đất nước.
Sau khi ban phép lành kết thúc buổi hát kinh chiều với các LM, tu sĩ và chủng sinh Cuba, ĐTC đã tiến sang trung tâm nghiên cứu văn hóa mang tên của Vị Tôi Tớ Chúa, LM LM Félix Varela. Cha sống vào thế kỷ 18 và được là "thầy của các thầy dạy" ở Cuba. Cha giảng dạy trong 10 năm trời tại Học viện kiêm chủng viện thánh Carlo ở La Habana, góp phần vào sự tiến bộ khoa học và văn chương của Cuba. Về sau, cha sang Mỹ, bênh vực quyền độc lập của Cuba và bênh vực nhân dân nước này. Trong 30 năm hoạt động tại Mỹ cha Felix Varela đã thiết lập nhiều trường học, thánh đường và loan báo Tin Mừng cho những người sống ngoài lề xã hội. Cha Qua đời năm 1853 và án phong chân phước cho cha được khởi sự cách đây 30 năm, tức là năm 1985.
Trong cuộc gặp gỡ lúc 6 giờ chiều ở Trung tâm Varela, ĐTC cũng bỏ bài huấn dụ dọn sẵn và ứng khẩu nói chuyện với các bạn trẻ.
Huấn dụ ứng khẩu của ĐTC
Ngỏ lời với các bạn trẻ trong cuộc gặp gỡ lúc 6 giờ rưỡi chiều chúa nhật vừa qua ở Trung tâm Cha Varela, ĐTC trả lời một bạn trẻ trình bày mơ ước được thấy một nước Cuba tốt đẹp hơn, ngài trích dẫn một văn sĩ Mỹ châu la tinh nói rằng con người có 2 con mắt, một con bằng thịt và một con bằng thủy tinh. Với con mắt thịt chúng ta thấy điều chúng ta nhìn. Với con mắt bằng kiếng, chúng ta thấy điều mà chúng ta mơ ước. Một người trẻ không có khả năng mơ ước, là một người khép kín vào mình.
ĐTC mời gọi các bạn trẻ hãy mơ ước những điều vĩ đại:
"Trong sự khách quan của cuộc sống cần để cho khả năng mơ ước đi vào. Và một người trẻ không có khả năng mơ ước, thì bị khép kín trong chính mình.. Nhiều khi mỗi người mơ ước những gì không bao giờ xảy ra, nhưng hãy mơ ước, hãy ước mong, hãy tìm kiếm những chân trời..
Ngài cũng nói đến khả năng đón tiếp và chấp nhận người nghĩ khác với mình. Trong thực tế, nhiều khi chúng ta khép kín. Chúng ta bước vào trong thế giới bé nhỏ và khép kín trong khuôn khổ ý thức hệ hoặc tôn giáo. Khi tôn giáo trở thành một thứ tu viện nhỏ, thì nó đánh mất phần tốt đẹp nhất của mình, đánh mất thực tại tôn thờ Thiên Chúa, tin nơi Chúa. Đó là một thứ hội lời nói, cầu nguyện, với những qui luật luân lý. Và khi tôi theo ý thức hệ của tôi, cách tư duy của tôi, và các bạn theo ý thức hệ của các bạn thì tôi khép kín trong cái hộp ý thức hệ.
ĐTC nhắn nhủ các bạn trẻ hãy cởi mở tâm trí, đừng chỉ quan tâm đến những gì làm cho chúng ta chia rẽ, hãy nghĩ đến những điểm chung, làm việc chung cho công ích. Sự hận thù xã hội tàn phá, phá hủy gia đình, xã hội, thế giới, sự hận thù lớn nhất về mặt xã hội chính là chiến tranh, chúng ta thấy chiến tranh đang tàn phá thế giới.
G. Trần Đức Anh OP
Bình thường hóa quan hệ Cuba-Hoa Kỳ là một sự kiện cho chúng ta đầy hi vọng
'Trong vài tháng qua, chúng ta đã chứng kiến một sự kiện cho chúng ta đầy hi vọng: đó là tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai dân tộc sau nhiều năm thù địch.'
Vatican Insider – Andrea Tornielli – 19/9/15
Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đến Havana, chặng đầu tiên trong chuyến công du xuyên lục địa của ngài. Trong bài diễn văn đầu tiên, ngài khích lệ sự cởi mở giữa hai nước Cuba và Hoa Kỳ trong thời gian qua, một việc được thúc đẩy nhờ hành động ngoại giao của Vatican.
Trên chuyến bay từ Vatican, Đức Giáo hoàng đã nói với các nhà báo rằng: 'thế giới đang khát hòa bình' và nhắc đến những làn sóng di dân do bởi chiến tranh. 'Tôi rất xúc động, khi một gia đình tị nạn, đang ở tại giáo xứ thánh Anna đến chào tạm biệt tôi, bạn có thể thấy được nỗi đau trên gương mặt họ ... Cảm ơn các bạn vì tất cả những việc các bạn đang làm để xây những nhịp cầu, dù là nhỏ.'
Trước sự hiện diện của Raul Castro, người đã đến đón tiếp ngài từ sân bay, Đức Giáo hoàng trích lại lời nhà thơ và nhà báo José Marti, nhà cách mạng thế kỷ XIX, đã chiến đấu chống sự đô hộ của Tây Ban Nha trên Cuba, và đồng thời xác nhận rằng, sự tan băng quan hệ Cuba-Hoa Kỳ đánh dấu chiến thắng của 'hệ thống phát triển chung' trên 'hệ thống luôn gây chết chóc của các nhóm và đế chế.' Đức Phanxicô thúc giục 'các lãnh đạo chính trị hãy kiên định theo con đường này và phát triển mọi khả năng có thể như là bằng chứng cho sứ mạng mà họ được kêu gọi thực hiện nhân danh hòa bình và phúc lợi của dân tộc mình, của toàn châu Mỹ, và cũng là một tấm gương của sự hòa giải cho toàn thế giới.'
Hiệp ước đưa Raul Castro và Barack Obama lại với nhau, phục hồi bang giao hai nước, đã được ký kết ở Vatican, với sự hiện diện của Quốc vụ khanh Pietro Parolin, và Đức Phanxicô là người bảo chứng. Bây giờ, Đức Giáo hoàng đang yêu cầu việc này được tiếp tục, và ngài lặp lại lời kêu gọi của Đức Gioan Phaolô II hồi năm 1998 mời gọi Cuba 'bằng mọi khả năng tuyệt vời của mình hãy mở bản thân ra với thế giới và để thế giới mở ra với Cuba.'
Trong bài diễn văn tiếp đón, Raul Castro nhắc lại 'sự cảm kích dành cho những nâng đỡ của Đức Giáo hoàng trong tiến trình bình thường hóa quan hệ Cuba-Hoa Kỳ.' Và ông Castro nhấn mạnh, 'Lệnh cấm vận đang gây rất nhiều nguy hại, là một sự độc ác, vô luân và bất hợp pháp, nó cần phải được chấm dứt. Guantanamo cần được trao trả lại cho Cuba.'
Trong bài diễn văn của mình, Đức Phanxicô đã yêu cầu chủ tịch Raul 'gởi tình cảm tôn trọng và quan tâm của tôi đến người anh Fidel của ông.' Rồi ngài gởi lời chào đặc biệt đến 'những ai, vì nhiều lý do, mà ngài sẽ không thể gặp mặt, và chào người dân Cuba trên khắp thế giới.' Đức Phanxicô cũng nhớ đến những ai không thể dự một trong các sự kiện được tổ chức ở 3 thành phố tại Cuba, vì các lý do công việc, khoảng cách, hay đi lại, hay vì đang ở trong tù.
Khi xuống máy bay, Đức Giáo hoàng được chào đón với vòng hoa từ tay hai em bé. Ngài nhắc lại rằng năm nay đánh dấu 80 năm bang giao giữa Cuba và Tòa Thánh. 'Hôm nay chúng ta làm mới những mối liên kết cộng tác và bằng hữu, để cho Giáo hội có thể tiếp tục ủng hộ và khích lệ người dân Cuba theo những hi vọng và bận tâm của mình, với tự do, các công cụ và không gian cần thiết để đưa việc công bố Nước Trời đến các vùng hiện sinh bên rìa xã hội.'
Đây là một lời nhắc rõ ràng về các vấn đề mà Giáo hội ở đây đang phải đối diện, về mặt phương tiện và cơ cấu, bất chấp chính quyền đã có những thay đổi nhất định trước chuyến công du giáo hoàng. Sau khi Đức Gioan Phaolô II đến thăm Cuba, Fidel đã tuyên bố Giáng Sinh là ngày lễ nghỉ toàn quốc, và sau khi Đức Bênêđictô XVI đến thăm, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh cũng trở thành ngày nghỉ chính thức.
Đức Giáo hoàng Phanxicô bày tỏ mong muốn rằng Cuba, một quần đảo 'hướng về mọi phía' và có giá trị đặc biệt như là chìa khóa giữa bắc và nam, đông và tây, có thể ngày càng phát triển để khám phá ra 'ơn gọi tự nhiên của mình' là trở thành 'điểm gặp gỡ cho mọi người đến chung dự trong tình bằng hữu.'
Ở Cuba, mọi người vẫn hi vọng sẽ có cuộc gặp giữa Đức Giáo hoàng và đại diện những người đối lập với chính quyền.
Ngày 20-9, Đức Phanxicô sẽ có cuộc hội kiến với Fidel Castro tại dinh của ông.
J.B. Thái Hòa chuyển dịch
Nguồn: www://phanxico.vn
Đức Thánh Cha lên đường viếng thăm Cuba và Hoa Kỳ
VATICAN. Lúc 10 giờ 35 phút sáng thứ bẩy 19-9-2015, ĐTC Phanxicô đã rời Roma lên đường viếng thăm mục vụ trong vòng 10 ngày tại Cuba rồi tại Hoa Kỳ.
Đây là chuyến viếng thăm thứ 10 của ĐTC tại nước ngoài và là chuyến đi dài nhất, phức tạp nhất, theo lời Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh.
Theo thói quen từ lâu, chiều tối thứ sáu 18-9 vừa qua, ĐTC đã đến Đền thờ Đức Bà Cả ở Roma để cầu nguyện và phó thác cuộc viếng thăm của ngài cho sự bảo trợ của Đức Mẹ.
Tháp tùng ĐTC trên máy bay Airbus A330-200 của hãng Alitalia, có 75 ký giả quốc tế, không kể đoàn tùy tùng của ngài khoảng 30 người, đứng đầu là ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, Đức TGM Phụ tá Quốc vụ khanh Angelo Becciu, và lần này đặc biệt có thêm Đức TGM ngoại trưởng Paul Gallagher, người Anh, xét vì khía cạnh ngoại giao được nhấn mạnh hơn trong chuyến đi ngày của ĐTC.
Trong những ngày viếng thăm, ĐTC sẽ đọc 26 bài diễn văn và bài giảng, trong đó chỉ có 4 bài hoàn toàn bằng tiếng Anh, phần còn lại bằng tiếng Tây Ban Nha, hoặc xen lẫn tiếng Anh. Bài diễn văn của ngài trước Đại hội đồng LHQ hoàn toàn bằng tiếng Tây Ban Nha.
Theo chương trình, sau gần 12 giờ bay, ĐTC sẽ đến phi trường thủ đô La Habana của Cuba vào lúc 4 giờ chiều cùng ngày 19-9-2015, giờ địa phương, tức là lúc 3 giờ sáng chúa nhật, 20-9, giờ Việt Nam.
Sáng chúa nhật 20-9-2015, ngài sẽ cử hành thánh lễ tại Quảng trường Cách Mạng ở thủ đô Cuba. Ban chiều lúc 4 giờ ngài sẽ đến viếng thăm Chủ tịch Hội đồng Nhà Nước cùng với Hội đồng Bộ trưởng tại Dinh Cách Mạng.
Tiếp đến lúc 5 giờ 15, ngài sẽ chủ sự kinh chiều với các LM, tu sĩ nam nữ và chủng sinh tại Nhà Thờ Chính tòa La Habana. 1 giờ 15 phút sau đó, ngài sẽ gặp gỡ và chào thăm giới trẻ tại Trung tâm Văn hóa LM Felix Varela.
ĐTC còn viếng thăm giáo phận Holguín ở mạn đông Cuba cách thủ đô La Habana hơn 1 giờ bay, rồi thăm tổng giáo Santiago ở mạn cực nam Cuba, nơi có Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng, Bổn mạng của Cuba. Ngài sẽ rời Roma chiều ngày 22-9 để sang Hoa Kỳ.
Vài tin bên lề
Trong khi đó, báo chí nói đến nhiều chi tiết liên quan đến cuộc viếng thăm của ĐTC.
- Tại Vatican, lúc 9 giờ 45 sáng 19-9-2015, trước khi lên đường ra phi trường Fiumicino, ĐTC đã chào thăm gia đình tị nạn đầu tiên được giáo xứ thánh Anna đón tiếp tại Nội thành Vatican. Gia đình này người Siria, được Đức TGM Konrad Krajewski, chánh sở từ thiện của ĐTC, dẫn đến chào ngài và cám ơn vì sự đón tiếp và cho tị nạn.
- Tại trụ sở LHQ, cờ Tòa Thánh sẽ được trương lên ngày 25-9 tới đây khi ngài đến viếng thăm tại đây. Hôm 10-9 vừa qua, Đại Hội đồng LHQ đã thông qua một nghị quyết cho các quốc gia không thành viên, như Palestine và Vatican, cũng được treo cờ của mình tại trụ sở LHQ.
- Các hãng tin quốc tế truyền đi ngày 18-9 cũng nói đến cuộc điện đàm giữa tổng thống Obama và chủ tịch Raoul Castro và hai vị ca ngợi vai trò của ĐGH trong việc giúp làm tan băng giá giữa Mỹ và Cuba. Cuộc điện đàm diễn ra đúng ngày chính phủ Mỹ giảm bớt việc cấm vận chống Cuba và cho phép thực hiện dễ dàng các cuộc viếng thăm của người dân giữa hai nước. Đặc biệt từ thứ hai 20-9 này, người Mỹ có thể du hành sang Cuba dễ dàng hơn để viếng thăm hoặc để kinh doanh. Việc mở tài khoản ngân hàng cũng dễ dàng hơn.
Tổng thống Obama nhấn mạnh với chủ tịch Castro tầm quan trọng của việc mở lại hai sứ quán của nhau tại La Habana và Washington, chấm dứt một trong những trang sử đau thương nhất của cuộc chiến tranh lạnh. Hai vị nguyên thủ cũng nói về những biện pháp sắp tới cần thực hiện, để đẩy mạnh sự cộng tác song phương mặc dù vẫn còn có những dị biệt giữa hai nước về những vấn đề quan trọng. (SD 19-9-2015)
G. Trần Đức Anh OP
Thông điệp video của Đức Thánh Cha gởi người dân Cuba
Trong một diễn biến đáng khích lệ, các phương tiện truyền thông của nhà nước Cuba đã truyền đi một thông điệp bằng video của Đức Thánh Cha Phanxicô vào tối thứ Năm 17 tháng 9, tức là hai ngày trước khi Đức Thánh Cha đặt chân đến đảo quốc này.
Trong thông điệp gởi người dân Cuba, Đức Thánh Cha Phanxicô cho biết ngài vui mừng được đến thăm đất nước của họ để chia sẻ niềm tin và hy vọng của dân chúng nước này. Ngài cũng cảm thấy khích lệ khi nghĩ đến lòng trung thành của họ với Chúa Kitô, lòng can đảm của họ khi phải đối mặt với những khó khăn hàng ngày, cũng như tình yêu mà họ dành cho nhau khi giúp đỡ và hỗ trợ lẫn nhau trong những nẻo đường của cuộc sống.
Đức Thánh Cha nói thông điệp của ngài rất đơn giản, nhưng có một điều quan trọng và cần thiết. Đó là, Chúa Giêsu yêu thương anh chị em rất nhiều, Chúa Giêsu hoàn toàn yêu thương anh chị em.
Đức Thánh Cha nói tiếp rằng Chúa yêu thương anh chị em từ trái tim của Ngài.
"Ngài biết rõ hơn ai hết những gì mọi người cần, khát vọng của anh chị em là gì, mong muốn sâu xa nhất của anh chị em là gì. Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta, và ngay cả khi chúng ta không hành động như Ngài mong đợi nơi chúng ta, Chúa Giêsu vẫn luôn ở bên cạnh chúng ta, sẵn sàng chào đón chúng ta, an ủi chúng ta, mang đến cho chúng ta một niềm hy vọng mới, một cơ hội mới, một cuộc sống mới."
Cám ơn những người Cuba về những lời cầu nguyện của họ trước chuyến tông du của ngài, Đức Thánh Cha Phanxicô nói ngài muốn đến giữa họ như một nhà truyền giáo của lòng thương xót, và nói thêm rằng "tôi cũng khuyến khích anh chị em trở thành những nhà truyền giáo loan truyền tình yêu vô biên của Thiên Chúa."
Đức Thánh Cha bày tỏ vui mừng được đến thăm Đền Thánh Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng tại Santiago de Cuba, nơi ngài hằng ao ước được đến thăm. Ngài trao phó cuộc hành trình tông đồ này cho Đức Mẹ.
Đức Thánh Cha Phanxicô thăm Cuba từ 19 đến 22 tháng Chín.
Đặng Tự Do
Hậu cảnh Công Giáo chuyến đi Hoa Kỳ của Đức Phanxicô
Như đã thưa, mục đích chính trong các cuộc tông du của các vị giáo hoàng là để củng cố đức tin của anh chị em mình. Lần này, cơ hội để Đức Phanxicô củng cố đức tin ấy là Cuộc Gặp Gỡ Các Gia Đình Thế Giới tại Philadelphia, một biến cố đang được cả thế giới Công Giáo chờ mong giữa những bình luận đôi khi trái ngược nhau về Thượng Hội Đồng sắp tới cũng về gia đình. Đa số tín hữu Công Giáo mong mỏi cuộc gặp gỡ này sẽ thúc đẩy các nghị phụ của Thượng Hội Đồng sắp tới đưa ra được những hướng dẫn rõ ràng và vững chắc để cổ vũ một tin mừng về gia đình như lòng Chúa mong muốn.
Bầu khí thiêng liêng trong Giáo Hội Hoa Kỳ dĩ nhiên góp phần lớn lao vào chiều hướng mục vụ nói trên. Ta thử tìm hiểu chút đỉnh về hậu cảnh thiêng liêng này.
Bài diễn văn có hiệu quả nhất
Michael O'Loughlin của National Catholic Reporter cho rằng trong số các buổi nói chuyện của Đức Phanxicô tại Hoa Kỳ, buổi nói chuyện với khoảng 300 giám mục tại Nhà Thờ Chánh Tòa Thánh Mátthêu ở Washington D.C., trong 45 phút, bằng tiếng Tây Ban Nha, sẽ là buổi nói chuyện gây hiệu quả hơn cả.
Vì nghĩ cho cùng các giám mục là mục tử đoàn chiên giáo phận của mình, lòng đạo của đoàn chiên này tùy thuộc linh hứng từ các vị.
Nhưng các vị chờ mong gì nơi Đức Phanxicô? Đức Cha Robert McElroy của San Diego nghĩ rằng "chúng ta phải tranh đấu với vấn đề bất bình đẳng, nhất là vì Hiệp Chúng Quốc, với sức mạnh hoàn cầu, đang gây ảnh hưởng tới cuộc sống của không biết bao nhiêu triệu con người. Tôi muốn thấy ngài thách thức chúng ta có lập trường mạnh mẽ hơn về vấn đề này".
Còn về các vấn đề nội bộ, Đức Cha McElroy hy vọng Đức Phanxicô sẽ nhắc nhở các giám mục rằng Giáo Hội phải là "nơi thương xót": "Vươn tay ra quá bên kia rào cản để đem người ta vào trong là điều quan trọng hơn là duy trì rào cản và giữ họ ngay hàng thẳng lối".
Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ thì hy vọng Đức Phanxicô sẽ nói với các giám mục về các vấn đề gia đình. Thực vậy, Đức Tổng Giám Mục Joseph Kurtz nói: "Chúng ta đang ở ngưỡng cửa năm thương xót, và Đức Giáo Hoàng Phanxicô tới đây chủ yếu vì Cuộc Gặp Gỡ Các Gia Đình Thế Giới, nên chắc chắn ngài muốn chúng ta nối vòng tay lớn hỗ trợ cuộc sống gia đình, cả trong việc gây hứng cho các cặp đang chuẩn bị kết hôn lẫn đồng hành với những người đang gặp khó khăn".
Ngoài ra, còn có vấn đề giám mục phải gần gũi giáo dân của mình, hay nói theo Đức Phanxicô, các ngài phải có "mùi của chiên". Về khía cạnh này, Đức Tổng Giám Mục Blase Cupich của Chicago cho rằng là nhà lãnh đạo của một tổng giáo phận lớn, người ta rất dễ sống xa cách. Nên ngài hy vọng Đức Phanxicô sẽ khuyến khích các giám mục gần gũi dân bằng cách lưu ý tới những gì đang xẩy ra trong cuộc sống của họ và nghe họ kể kinh nghiệm sống Tin Mừng của họ.
O'Loughlin cho rằng, về phần mình, Đức Phanxicô có thể sẽ gặp một hàng giáo phẩm, trong mấy năm qua, vốn đánh những trận đánh công khai đôi lúc không ăn ý với các ưu tiên của ngài và đôi lúc còn chia rẽ nhau về chính vai trò công cộng của mình.
John Carr, giám đốc chương trình Sáng Kiến về Tư Duy Xã Hội Công Giáo và Sinh Hoạt Công tại Đại Học Georgetown và là cựu nhân viên của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, cho rằng ông hy vọng Đức Phanxicô sẽ thách thức một số vị giám mục Hoa Kỳ thay đổi phong thái lãnh đạo: "Nếu bạn nghĩ ta đã thua, nếu bạn cho rằng văn hóa đang áp đảo ta, thì khuynh hướng tự nhiên là phòng vệ để duy trì và bảo vệ những gì đang có. Nhưng nếu bạn nghĩ ta có điều thế giới cần, nếu ta có thể đưa ra được luận chứng về sự sống, về gia đình, về công lý, về hòa bình, thì trách nhiệm là phải mời gọi và thuyết phục. Đức Phanxicô là loại nhà lãnh đạo đầy mời gọi và thuyết phục".
Helen Alvaré, giáo sư luật tại Đại Học George Mason, cũng đồng ý như thế. Cô cho rằng không nên giữ thế thủ trong các vấn đề nóng bỏng, như nữ quyền chẳng hạn. Theo Cô, các giám mục Hoa Kỳ có một chính sách về phụ nữ rất hay trên bình diện quốc gia và quốc tế, nhưng các ngài ít nói tới nghị trình nữ quyền, như tranh đấu cho việc nghỉ hộ sản, chăm sóc y tế tốt hơn, và trợ giúp các bà mẹ đơn lẻ.
Kathleen Sprows Cummings, giám đốc Trung Tâm Cushwa Nghiên Cứu Đạo Công Giáo Hoa Kỳ của Đại Học Notre Dame, cho rằng Các Giám Mục Hoa Kỳ có ưu điểm trong nhiều vấn đề như di dân chẳng hạn. Và điều này chắc chắn sẽ được Đức Phanxicô đề cao.
Nhân buổi nói chuyện quan trọng này, chắc chắn Đức Giáo Hoàng sẽ trình bày nghị trình bao quát của ngài trong đó có nhiều vấn đề hiện đang được tranh cãi như bảo vệ môi sinh, cải tổ thủ tục tuyên bố vô hiệu hôn nhân, và nhấn mạnh tới lòng thương xót, tách xa khỏi thái độ cứng rắn cố hữu.
Các giám mục Hoa Kỳ và Đức Phanxicô
Thực ra, tương quan giữa Đức Phanxicô và các giám mục Mỹ nói chung, có lúc, đã căng thẳng, khiến có người, theo John Allen, từng đặt câu hỏi: "Có thực các Giám Mục Hoa Kỳ đề kháng Đức Giáo Hoàng Phanxicô hay không?".
Câu hỏi trên sở dĩ được đặt ra là vì truyền thông cho rằng một số giám mục bảo thủ của Hoa Kỳ đang nắm giữ các vai trò chủ chốt ở đây chống lại nghị trình cấp tiến của Đức Phanxicô. Cái nhìn này, theo Allen, không hẳn "không có khói". Đức Tổng Giám Mục Charles Chaput, chẳng hạn, cho rằng báo chí tường thuật thượng hội đồng về gia đình do Đức Phanxicô chủ tọa đã gây ra "lẫn lộn". Còn Đức Hồng Y Francis George thì muốn hỏi Đức Phanxicô nhiều câu hỏi như: "tôi không biết liệu ngài có ý thức được mọi hậu quả của một số điều ngài nói và làm từng gây ra nghi ngại nơi tâm trí người ta hay không?".
Nhất là Đức Hồng Y Raymond Burke, người được coi như đứng đầu phe bảo thủ trong thượng hội đồng năm ngoái, và vì là người Hoa Kỳ, có lúc đã được mô tả như người anh hùng của tuyến truyện "Hoa Kỳ ngược với Đức Phanxicô" (America vs.Francis) và vì thế đã bị mất chức chủ tịch Toà Án Tối Cao của Tòa Thánh, người Hoa Kỳ cuối cùng rời khỏi Giáo Triều La Mã!
Allen cũng cho rằng: nói chung, Đạo Công Giáo Hoa Kỳ đặt ra hai thách thức độc đáo cho vị giáo hoàng về kinh tế vốn theo duy dân (populist) và về văn hóa, muốn không nói nhiều tới đối kháng. Không nơi nào khác có một hạ tầng cơ sở Công Giáo mạnh mẽ hơn thế nhằm bảo vệ chủ nghĩa tư bản, và cũng không nơi nào khác lại có sự minh bạch như thế về các vấn đề thuộc sự sống như phá thai và hôn nhân đồng tính.
Tuy vậy, nếu cho rằng thế là kình chống hay đề kháng thì e hơi quá. Bởi căng thẳng trong Giáo Hội là điều đã có từ thuở các Tông Đồ. Hơn nữa, Đức Phanxicô, tại thượng hội đồng năm ngoái, chính thức kêu gọi thảo luận cởi mở, thì các phát biểu của các giám mục Hoa Kỳ chỉ là một hình thức vâng lời, không hẳn thách thức.
Người giáo dân đặc trưng Hoa Kỳ
Trung Tâm Nghiên Cứu Ứng Dụng Việc Tông Đồ (Center for Applied Research in the Apostolate, viết tắt là CARA) trong 50 năm qua chuyên điều tra để tìm ra hình ảnh người Công Giáo đặc trưng của Hoa Kỳ. Họ thấy rằng người Công Giáo này là một phụ nữ, 48 tuổi, da trắng không nói tiếng Tây Ban Nha, kết hôn với người chồng Công Giáo. Dĩ nhiên nàng sinh sau Công Đồng Vatican II, khoảng năm 1968, và vì thế thường mang tên Mary vì tên này phổ thông nhất vào năm ấy.
Nàng học cao đẳng, có nhà và sống tại 1 tiểu bang miền Tây, lợi tức hàng năm của gia đình vào khoảng 65,000 dollars, có con trai và con gái thiếu niên còn sống với gia đình; nàng làm việc toàn thời gian. Nàng còn có 1 đứa con đã trưởng thành, không sống với gia đình. Không đứa con nào lấy tên Mary cả, vì tên này ra khỏi danh sách 50 tên hàng đầu vào năm 2003, và danh sách 100 tên hang đầu vào năm 2009.
Lúc còn nhỏ, nàng không học trường Công Giáo như cha mẹ và do đó cũng không ghi danh cho con học loại trường này. Dù nàng có học giáo lý tại giáo xứ, nhưng con cái nàng thì không.
Hiện nay, nàng tham dự Thánh Lễ ít nhất mỗi tháng một lần, nhưng luôn tham dự phụng vụ Thứ Tư Lễ Tro, Lễ Phục Sinh và Lễ Giáng Sinh. Nàng giữ liên lạc với giáo xứ nhờ đọc bản tin của giáo xứ, góp 10 dollars vào tiền quyên lúc dâng lễ. Ngoài bản tin giáo xứ ra, nàng ít đọc báo chí Công Giáo và ít tham gia sinh hoạt giáo xứ trừ Thánh Lễ. Đức tin quan trọng với nàng nhưng nhiều chuyện khác cũng quan trọng không kém.
Giáo xứ nơi Mary tham dự thường là đã được lập khoảng đầu thập niên 1920, với một nhà thờ có sức chứa chừng 450 người. Giáo xứ có khoảng 3,000 giáo dân trong đó hết 2,500 người có đăng ký (có Mary), 1,000 người thường xuyên tham dự một trong bốn thánh lễ cuối tuần.
Trước đây, giáo xứ có 1 trường tiểu học, nhưng đã đóng cửa 5 năm nay. Học sinh nào muốn, sẽ được gửi tới trường Công Giáo trong vùng. Giáo xứ nàng có một cha xứ và một thầy sáu. Phần lớn ban lãnh đạo giáo xứ già hơn Mary. Khoảng 10 người là nhân viên giáo xứ, và 5 trong số này giữ các chức vụ thừa tác.
Mary được cho biết: giáo phận của nàng có thể phải tổ chức lại trong thập niên tới. Đức Giám Mục phải cố gắng lắm mới cân bằng được con số nhân viên. Không bao lâu, số giáo xứ sẽ nhiều hơn số linh mục triều trong giáo phận, nên nhiều giáo xứ sẽ phải chia sẻ các mục tử và nhân viên hoặc phải sát nhập lại với nhau.
Dĩ nhiên, hình ảnh "trung bình" trên không che khuất tính đa dạng lớn lao hiện nay trong Đạo Công Giáo Hoa Kỳ: Mary dễ dàng bị gọi là "Maria" như tên người đồng đạo nói tiếng Tây Ban Nha trong số 38 triệu người Công Giáo "chính dòng" tham dự Thánh Lễ ít nhất mỗi tháng một lần.
Những người như Mary và Maria chiếm khoảng 45% người Công Giáo. Khoảng 4% người Công Giáo khác làm nòng cốt cho cộng đồng Công Giáo, đây là những cá nhân không những chỉ tham dự Thánh Lễ hàng tuần, họ còn giúp tổ chức Thánh Lễ và nhiều sinh hoạt giáo xứ khác. Họ cũng là những người nhiệt tình tiêu thụ các phương tiện truyền thông Công Giáo và can dự vào nhiều thực hành đạo đức: đọc kinh Mân Côi, giữ mọi chi tiết Mùa Chay và Mùa Vọng. Họ hiểu biết và tích cực trong đức tin của mình nhiều cách khác nhau. Họ gần gũi nhất với viễn kiến mà Giáo Hội vốn dành cho một người Công Giáo.
Những người Công Giáo ở ngoại vi
Và như thế, khoảng 51% người tự nhận là Công Giáo đang thuộc khu vực được Đức Phanxicô gọi là ngoại vi. Trong số này, có người chỉ tham dự Lễ Giáng Sinh và Lễ Phục Sinh mà thôi. Có người bỏ hẳn, nhưng vẫn coi mình là Công Giáo như bất cứ ai đã lãnh phép rửa khác. Lại có những người cựu Công Giáo nữa. Khoảng 2 phần 3 những người được dưỡng dục trong Đạo tiếp tục tự nhận mình là Công Giáo lúc trưởng thành; 1 phần 3 không tự nhận như thế. Phần lớn rời bỏ ở tuổi thiếu niên hay đầu tuổi 20. Nhưng nơi những người cựu Công Giáo này, vẫn còn lại một điều gì đó.
Cuộc nghiên cứu của Trung Tâm Pew về các người cựu Công Giáo nói trên cho thấy khoảng nửa số họ gia nhập Thệ Phản. Chỉ khoảng 12% của nửa còn lại là vô thần và 16% bất khả tri. 71% số này không còn thống thuộc tôn giáo nào cả. Tôn giáo duy nhất họ còn biết là Đạo Công Giáo.
Trong số này, 35% cho biết tôn giáo vẫn là "một điều gì đó" hoặc "rất" quan trọng trong đời họ, và 71% vẫn tin Thiên Chúa. Họ tiếp tục nói về Chúa; 42% cho biết họ cầu nguyện mấy lần hoặc nhiều hơn trong một tháng. Ba phần tư cầu nguyện tương đối thường xuyên. Nói cách khác, vẫn còn một trọng lực yếu ớt nào đó giữ họ trong vòng với của Giáo Hội Công Giáo. Lý do thông thường nhất họ nêu ra cho việc rời bỏ Giáo Hội là họ chỉ từ từ lạc xa dần (71%), sau đó là yếu tin vào giáo huấn (59%). Nhiều người trở tới trở lui. Khoảng 1 phần 10 người Công Giáo ngày nay nói: có những lúc ở trong đời họ tạm xa Giáo Hội một thời gian.
Nơi những người còn tự nhận là Công Giáo nhưng không tham dự Thánh Lễ nữa, ta vẫn thấy đức tin của họ sống động: khi cầu nguyện, họ thường chuyện trò với Thiên Chúa thay vì đọc kinh; ít khi có bàn thờ trong nhà, nhưng có thể có tượng chịu nạn treo ở cửa hay chung quanh cổ. Họ coi việc tặng tiền cho nạn nhân bão lụt như một thực hành đức tin. Đọc kinh trước bữa ăn là một điều có ý nghĩa đối với họ, không hẳn là một truyền thống. Họ theo dõi Đức Giáo Hoàng trên các bản tin. Họ bảo bây giờ bận bịu, mai mốt rảnh rỗi có thể lại tham dự Thánh Lễ. Họ hy vọng một đời sau. Họ không nghĩ Chúa sẽ đầy họ xuống hỏa ngục chỉ vì không đi lễ trong khi vẫn là Công Giáo trong nhiều điều khác.
Đông Tây Nam Bắc
CARA cho biết dường như có hai Giáo Hội Công Giáo tại Hoa Kỳ: nếu bạn ở miền Đông Bắc hay Trung Tây (Midwest), bạn thấy Giáo Hội như sa sút, với các giáo xứ đóng cửa và giáo dân thưa dần. Nhưng nếu bạn ở miền Nam hay miền Tây, xem ra lúc nào cũng có các giáo dân mới quanh bạn. Ở đây, Đạo Công Giáo sinh động hơn, thậm chí lớn mạnh quá nhanh là đàng khác.
Cũng có sự khác biệt giữa thôn quê và thành thị: ở thôn quê, giáo dân khó thấy một linh mục trong giáo xứ ngoại trừ trong Thánh Lễ. Ở thành thị, dường như có quá nhiều ghế trống tha hồ mà chọn.
Nhưng, dù ở bất cứ đâu, người Công Giáo nào cũng ít nhất tìm thấy một điều gì đó trong tôn giáo của họ để mộ mến. Với một số người, điều đó là công bình xã hội; với những người khác, điều đó có thể là bảo vệ sự sống; người khác nữa có thể cho đó là phục vụ và thừa tác vụ. Họ cũng có thể nhận ra một điều gì đó để bất đồng với Giáo Hội. Như trong các vấn đề về sự sống chẳng hạn, chỉ khoảng 10% người Công Giáo bầu phiếu phù hợp với giáo huấn Giáo Hội. Số người Công Giáo tuyệt đối trung thành với tiêu chí tín lý quả khá ít. Nhưng về tiêu chí mục vụ, thì họ khá đông: ngoài việc tham dự Thánh Lễ, người Công Giáo coi việc giúp đỡ người nghèo và người túng thiếu là điều quan trọng nhất đối với bản sắc Công Giáo của họ.
Giải thích hiện tượng trên, có người cho rằng đa số người Công Giáo Hoa Kỳ coi "Thiên Chúa là một ảnh hưởng tích cực trong thế giới; Đấng yêu thương vô điều kiện, trợ giúp chúng ta bất chấp mọi thất bại của ta". Số người nhất trí với nhận định vừa rồi đông gấp 10 lần so với những người cho rằng "Thiên Chúa là Đấng phán xét con người, nhưng ít khi hành động trong thế giới, dành phán xét sau cùng cho đời sau".
Thiếu giáo dục tôn giáo
Tuy nhiên, sự bất đồng cũng có thể do hiểu lầm. Chẳng hạn, ít hơn 2 phần 3 người Công Giáo tin rằng bánh và rượu để Hiệp Lễ thực sự trở nên mình và máu Chúa Giêsu Kitô. Tại sao thế? Vì đa số không biết rằng đó là điều Giáo Hội dậy! Chỉ có 46% người Công Giáo biết Giáo Hội dạy như thế và họ nhất trí với lời dạy này. Thêm 17% nữa nhất trí, tuy không biết đó là điều Giáo Hội dạy. Một phần ba không nhất trí và không biết đó là lời dạy của Giáo Hội. Chỉ có 4% biết đó là lời dạy của Giáo Hội mà vẫn không tin mà thôi.
Thành thử, một trong các thách đố lớn nhất của Giáo Hội Hoa Kỳ là giáo dục tôn giáo. Từ năm 2000, số các học sinh ghi danh học giáo lý ở giáo xứ giảm 24%. Đa số thế hệ tiền Vatican II (sinh trước 1943) và thế hệ Vatican II (sinh giữa các năm 1943 và 1960) học trường tiểu học Công Giáo (51%). Nhưng chỉ 37% thế hệ hậu Vatican II (sinh giữa 1961 và 1981) và 23% thế hệ thiên niên kỷ (sinh từ 1982 hay trễ hơn) làm việc này. Hiện nay, ít hơn 1 phần 10 phụ huynh Công Giáo ghi danh cho con học trường Công Giáo và vào khoảng 1 phần 5 cho con học giáo lý ở giáo xứ. Thế hệ hậu thiên niên kỷ (sinh năm 2004 hay trễ hơn) chắc chắn sẽ học đạo qua "Wikipedia" và các phương tiện trực tuyến khác hơn là trường nhà xứ!
Gia Đình không truyền thống
Theo mô tả của CARA trên đây, người Công Giáo đặc trưng của Hoa Kỳ là người có gia đình theo nghĩa kết hợp giữa 1 người đàn ông và 1 người đàn bà. Và lý do chính khiến Đức Phanxicô tới Hoa Kỳ là để cổ vũ sự kết hợp có tính truyền thống này.
Nhưng nhiều người Công Giáo tham dự Thánh Lễ công cộng duy nhất ngài sẽ cử hành để kết thúc Cuộc Gặp Gỡ Các Gia Đình Thế Giới Lần Thứ Tám, tại Philadelphia, không hẳn ủng hộ lý tưởng ấy.
Thực vậy, theo thăm dò của Trung Tâm Pew, nhiều người Công Giáo coi các hình thức gia đình không truyền thống là điều có thể chấp nhận được và theo họ, Giáo Hội nên cởi mở hơn đối với các hình thức này.
Phần lớn người Công Giáo cảm thấy thoải mái đối với các hình thức gia đình không được Giáo Hội thừa nhận. Cuộc thăm dò của Pew hỏi cho biết cơ cấu gia đình nào có thể chấp nhận được và cũng tốt như các hình thức gia đình khác đối với việc nuôi dậy con cái. Kết quả:
* 87% cho biết có thể chấp nhận loại gia đình chỉ có cha hay mẹ đơn lẻ.
* 84% cho biết có thể chấp nhận loại gia đình trong đó, cha mẹ không kết hôn sống với nhau.
* 83% cho biết có thể chấp nhận loại gia đình trong đó cha mẹ từng ly dị.
* 66% cho biết có thể chấp nhận để các cặp đồng tính nam nữ nuôi dậy con cái.
Và dù Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, trong thập niên qua, đã nỗ lực rất nhiều để đấu tranh chống loại hôn nhân đồng tính, nhưng có tới 46% người Công Giáo Hoa Ky cho biết Giáo Hội nên thừa nhận loại hôn nhân này.
Trong các vấn đề luân lý tính dục khác, cuộc thăm dò của Pew cho thấy:
* 76% người Công Giáo nói Giáo Hội nên cho phép họ ngừa thai nhân tạo.
* 41% cho biết sẵn sàng chào đón con cái là điều chủ yếu đối với tư cách làm người Công Giáo, trong khi cũng bằng ấy tin rằng điều này quan trọng nhưng không chủ yếu.
* 33% coi việc chống lại phá thai là "điều chủ yếu" và 34% coi nó là điều quan trọng.
Vũ Văn An
Đức Thánh Cha đơn giản hóa thủ tục xin giải hôn phối
VATICAN. Hôm 8-9-2015, hai Tự Sắc mới của ĐTC Phanxicô về việc cải tổ thủ tục cứu xét tuyên bố hôn nhân vô hiệu, đã được công bố trong cuộc họp báo ở Vatican.
Tự sắc dành cho Giáo hội Công Giáo la tinh mang tựa đề ”Chúa Giêsu là thẩm phán hiền từ” (Mitis Iudex Dominus Iesus) và tự sắc dành cho Giáo Hội Công Giáo Đông phương có tên là ”Chúa Giêsu Từ Bi” (Misericors Iesus).
Đức Ông Pio Vito Pinto, Niên trưởng tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma, Chủ tịch Ủy ban đặc nhiệm cải tổ thủ tục xử án hôn phối, đã chủ tọa cuộc họp báo, và trong số 6 vị khác có ĐHY Francesco Coccopalmerio, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về các văn bản luật.
Với luật mới, ĐTC đơn giản hóa và mau lẹ hóa thủ tục xin tuyên bố hôn nhân vô hiệu.
Trong tự sắc, sau khi nhắc đến qui luật tối hậu của giáo luật là phần rỗi các linh hồn, và hoàn toàn tôn trọng nguyên tắc bất khả phân ly của hôn phối, ĐTC nói đến lý do khiến ngài tiến hành việc cải tổ thủ tục cứu xét việc tuyên bố hôn nhân vô hiệu, nhất là lời thỉnh cầu của đại đa số các GM trong Thượng HĐGM khóa đặc biệt hồi tháng 10 năm 2014. Việc cải tổ này cũng được thúc đẩy do sự kiện nhiều tín hữu, tuy muốn xin tòa án Giáo Hội cứu xét hôn phối của mình, nhưng vì sự xa xôi về thể lý hoặc luân lý, hoặc những lý do khác, không tiến hành được, vì thế đức bác ái và lòng từ bi đói chính Giáo Hội như người Mẹ đến gần con cái cảm thấy bị tách lìa khỏi Giáo Hội.
ĐTC liệt kể một số tiêu chuẩn cơ bản hướng dẫn công cuộc cải tổ.
1. Chỉ cần một phán quyết xác nhận hôn phối vô hiệu và không cần phải hai phán quyết hay hai bản án đồng thuận về sự vô hiệu ấy, thì hai người liên hệ mới được lập một hôn phối khác theo phép đạo. Chỉ cần xác tín luân lý của vị thẩm phán thứ I theo luật là đủ.
2. Vị thẩm phán duy nhất ấy ở dưới trách nhiệm của Đức Giám Mục.
Việc thành lập hoặc bổ nhiệm thẩm phán duy nhất ấy, là giáo sĩ, cho tòa cấp một, thuộc trách nhiệm của Giám mục. Khi thi hành quyền tư pháp của mình, Giám Mục phải đảm bảo làm sao để khỏi có sự tháo thứ.
3. Chính giám mục là thẩm phán. Để thực hành giáo huấn của công đồng chung Vatican 2 trong lãnh vực quan trọng này, điều hiển nhiên là chính GM trong giáo phận của mình, là chủ chăn và là thủ lãnh, và vì thế ngài cũng là thẩm phán cho các tín hữu được ủy thác cho ngài. Vì thế, điều mong ước là trong các giáo phận lớn cũng như giáo phận nhỏ, chính Giám Mục cung cấp một dấu hiệu về sự hoán cải các cơ cấu Giáo Hội, và đừng ủy thác hoàn toàn cho các văn phòng của tòa Giám mục chức năng xét xử trong vấn đề hôn phối. Điều này đặc biệt có giá trị trong các thủ tục xét xử vắn tắt được thiết định để giải quyết những trường hợp hôn phối bất thành tỏ tường.
4. Thủ tục cứu xét vắn tắt. Ngoài việc làm cho thủ tục cứu xét mau lẹ, cần có một hình thức cứu xét vắn tắt, thêm vào việc cứu xét các hồ sơ tài liệu hiện hành, cần áp dụng thủ tục này trong trường hợp sự vô hiệu của hôn phối được hỗ trợ bằng những lý lẽ đặc biệt tỏ tường.
ĐTC viết:
”Tôi cũng biết một phán quyết thu vắn có thể gặp nguy cơ làm thương tổn tính chất bất khả phân ly của hôn phối; chính vì thế tôi đã muốn việc xét xử, cứu xét như thế do chính GM làm thẩm phán. Do chức vụ mục tử hiệp thông với Phêrô là người bảo đảm lớn nhất sự hiệp nhất của Công Giáo trong đức tin và kỷ luật.”
5. Kháng nghị lên tòa án giáo tỉnh.
Nên tái lập việc kháng nghị lên tòa án giáo tỉnh, vì tòa án này, vốn ổn định qua bao thế kỷ, là dấu hiệu nổi bật nói lên công nghị tính trong Giáo Hội.
6. nghĩa vụ của HĐGM
Các HĐGM, phải được thúc đẩy do mối quan tâm tìm đến những tín hữu bị phân tán, hãy mạnh mẽ cảm thấy nghĩa vụ chia sẻ sự hoán cải cơ cấu Giáo Hội như vừa nói, tuyệt đối tôn trọng quyền của các GM trong việc tổ chức việc xét xử trong giáo phận thuộc quyền.
Việc tái lập sự gần gũi giữa vị thẩm phán và các tín hữu sẽ không thành công nếu HĐGM không nhìn thấy nơi mỗi GM một sự khích lệ đồng thời là một trợ lực để thực hiện việc cải tổ thủ tục cứu xét tuyên bố hôn phối vô hiệu.
Cùng với sự gần gũi của thẩm phán, các HĐGM hãy làm sao để đảm bảo sự miễn phí của thủ tục cứu xét, nhưng cần đảm bảo việc trả thù lao xứng đáng cho các viên chức tòa án, để Giáo Hội, tỏ ra là người Mẹ quảng đại đối với các tín hữu trong một lãnh vực có liên hệ mật thiết đối với phần rỗi các linh hồn, biểu lộ tình yêu nhưng không của Chúa Kitô, nhờ đó tất cả chúng ta được cứu độ.
7. Kháng nghị lên Tòa Thánh. Dầu sao cần duy trì việc kháng nghị lên tòa án thường lệ của Tòa Thánh nghĩa là tòa Thượng Thẩm Rota, trong niềm tôn trọng nguyên tắc pháp lý rất cổ kính, để củng cố mối liên lạc giữa Tòa Thánh và các Giáo Hội địa phương, nhưng làm sao để trong việc kháng án hay thượng cầu, loại trừ bất kỳ việc lạm dụng luật pháp nào, để khỏi gây thiệt hại cho phần rỗi các linh hồn.
Luật riêng của tòa Thượng Thẩm Rota sẽ được thích ứng sớm hết sức với các tuy luật của việc cứu xét được cải tổ, trong những giới hạn cần thiết.
Tiếp đến, trong tự sắc, ĐTC đã quyết định sửa đổi nhiều khoản luật thuộc cuốn VII, phần III, Thiên I, và chương I, từ các điều số 1671 đến 1691, kể từ ngày 8 tháng 12 năm nay, 2015. Các khoản này hoàn toàn được thay thế bằng các khoản liệt kê trong Tự Sắc của ĐTC.
G. Trần Đức Anh OP
- Người di dân: “Âu Châu đang đánh mất tâm hồn mình
- Toàn văn – Thư ngỏ Năm Thánh Lòng Thương xót của Đức Giáo hoàng Phanxicô
- Lời cầu nguyện cho trái đất của chúng ta
- 8 tổ chức người Việt đưa ra 7 yêu cầu với đại sứ Mỹ Ted Osius
- Những “thiên thần” mất cuộc sống! phần 2.
- Sau vụ xả súng kinh hoàng trong nhà thờ, người Công giáo chung dòng nước mắt với cộng đoàn ở Charleston
- Dư luận và các chờ mong đối với Thông Điệp Môi Sinh
- Thông cáo về VietCatholic videos trên YouTube
- Cơ chế xin-cho trong tôn giáo ở VN?
- Tổng thống Obama gặp Điếu Cày Nguyễn Văn Hải trước khi tiếp Nguyễn Phú Trọng