Tin nổi bật
Lá Thư Dân Chúa Nhân kỷ niệm 40 năm Ngày Quốc Hận 30.04.1975!
Bài học hòa hợp và hòa giải dân tộc của nước Đức
Biến cố lịch sử ghi dấu cuối thế kỷ 20 đã xẩy ra vào ngày mùng 9.11.1989, bức tường ô nhục Bá Linh sụp đổ sau 28 năm ngăn cách giữa Đông và Tây Đức, ngăn cách giữa tự do và cộng sản, chia cách giữa đông và tây, ngăn cách giữa địa đàng và địa ngục...
Gần một năm sau, vào ngày mùng 3.10.1990, nước Đức đã thống nhất lãnh thổ: thống nhất kinh tế, thống nhất chính trị, phá bỏ mọi hàng rào ngăn cách giữa đông -tây...nhưng quan trọng nhất là thống nhất tinh thần, lòng dân và băng bó hàn gắn những vết thương lịch sử.
Không có một trại cải tạo nào ở nước Đức thống nhất. Nhưng chỉ có cả một kế hoạch khổng lồ chia cơm sẻ áo cho 16 triệu „đồng bào“ Đông Đức đang đói ăn, hơn 60 triệu dân Tây Đức đã sẵn sàng ghé vai trả thêm thuế phụ trội để xây dựng lại những đổ nát vật chất cũng như tinh thần do chế độ cộng sản đã gây ra. Ý thức hệ „cha chung không ai khóc“ hằn trong cách hành xử của dân chúng dưới thời cộng sản tam vô, nay dần dần được thay thế bằng tinh thần „ích quốc lợi dân“.
Không có một tòa án nhân dân nào trong nước Đức thống nhất, mà chỉ có một vài vụ xử án những tên thủ phạm chính của chế độ cũ. Tòa án đã xét xử tội phạm công minh, đúng theo hiến pháp. Nhưng không có một bản án tử hình nào! Không có người lính cộng sản nào, không có công an nào, không có sĩ quan cộng sản nào bị coi là „ngụy quân“, không có người dân Đông Đức nào bị coi là „dân hạng hai“. Tất cả là „đồng bào“ được hưởng quyền độc lập, tự do, dân chủ chân chính như nhau. Tất cả đều được hưởng mọi quyền công dân như nhau, được vào các trường đại học như nhau.
Không có một thời gian nào bị hoang phí để xây dựng lại những điêu tàn đổ nát do chế độ cộng sản tam vô đã tàn phá con người từ cá nhân đến gia đình trong mấy chục năm độc quyền thống trị...
Quả là một chương trình „đội đá vá trời“ xét về phương diện kinh tế chính trị, nhưng khó khăn nhất vẫn là xây dựng lại con người, tái tạo lại sự đoàn kết quốc gia, định hướng cho tương lai dân tộc. Chìa khóa để tái tạo đất nước trên mọi bình diện từ thể chất đến tinh thần, từ kinh tế đến chính trị, từ cá nhân, gia đình, học đường, xã hội chính là lòng ái quốc chân chính, chính là tôn giáo, nói cách khác là đức tin...mặc dù đức tin đã bị khủng hoảng vì cả hai hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa.
Ngày nay, sau gần 24 năm thống nhất nước Đức, dân tộc Đức đã hiên ngang trở thành cường quốc kinh tế đứng hàng đầu trong Liên Hiệp Châu Âu, chiếm giải quán quân xuất cảng trên trường quốc tế. Đâu đâu nhãn hiệu „made in Germany“ cũng được nể trọng và ưu chuộng, dù giá cả mắc hơn so với các sản phẩm khác. Dân tộc Đức hãnh diện với những thành quả đã đạt được trên mọi bình diện, chính nhờ quân dân như cá với nước, chính phủ vì dân, cho dân và bởi dân. Dân là chủ của đất nước. Chính phủ được dân chọn dân bầu. Từ tiểu bang cho đến liên bang, các đảng phái chính trị được tự do hoạt động. Quyền tư hữu kinh tế tư nhân được tôn trọng.
Bản thân tôi là một người tỵ nạn cộng sản, đã vượt biên cùng với gia đình trên con tầu VT 2208 cập bến Singapour vào ngày 21.05.1975 sau hai tuần lễ lênh đênh trên biển cả...Xin cúi đầu tạ ơn Thiên Chúa đã cho con thuyền chúng tôi được thuận buồm xuôi gió, được đến bến bờ tự do và được an cư lạc nghiệp tại Pháp, tại Úc, tại Mỹ.
Trong suốt 24 năm qua, được sống và phục vụ tại Đức. Được dịp chia sẻ với những đồng bào Đông Đức. Được đặt chân đến thăm thủ đô Bá Linh, đi lại những bước chân ghi dấu tự do, hòa bình của bao triệu người Đức. Được dừng chân bên các bức tường Bá Linh xưa, đã được chính phủ Đức giữ lại như chứng tích lịch sử...Tôi kính phục chí khí bất khuất của toàn dân Đức. Tôi khâm phục chương trình tái thiết đất nước cả vật chất lẫn tinh thần của chính phủ Đức. Nhờ đức tin, nhờ lòng ái quốc, nhờ biết đoàn kết hiệp nhất trong tình tương thân tương ái, nhờ chế độ tự do dân chủ. Nhờ chính phủ biết hết lòng phục vụ tổ quốc, cho dân và vì dân...nên dân tộc Đức đã trỗi dậy từ trong đống tro tàn sau hai cuộc thế chiến, đã tái thiết đất nước sau bao tan hoang đổ nát do chế độ cộng sản tam vô gây ra. Thiết nghĩ, đây là bài học lịch sử của nước Đức cho dân tộc Việt Nam:
1) Tất cả là đồng bào, không có ai là „ngụy“, nhưng tất cả là con dân của một đất nước, cùng chia sẻ một di sản lịch sử chung, cùng chung vai sát gánh để xây dựng lại đất nước.
2) Tội phạm đã được xét xử công minh: không vơ đũa cả nắm, không cần loại trừ phân biệt binh lính sĩ quan phía bên này phía bên kia. Không cần một trại cải tạo nào!
3) Chính trị, kinh tế phục vụ dân, do dân và vì dân: chế độ chính trị được xây dựng trên tam quyền biệt lập. Mọi quyền tự do dân chủ được tôn trọng. Nền pháp trị nghiêm minh và được toàn dân tôn trọng. Mọi đảng phái và chính kiến đều được hiến pháp nhìn nhận. Nhất là nhân quyền, và tự do tôn giáo được minh định và được hiến pháp bảo vệ.
4) Mọi người dân đều được hưởng đồng đều an sinh xã hội, cùng chia sẻ và đồng trách nhiệm đối với mọi nhiệm vụ công quyền. Môi sinh được tôn trọng và bảo vệ. Giáo dục có đường hướng giúp học sinh phát triển mọi khả năng con người.
Suy cho cùng, tất cả các giá trị dân chủ, bình đẳng, tự do, nhân quyền... những giá trị rường cột xây dựng căn nhà dân chủ của dân tộc Đức nói riêng và của các dân tộc tây phương nói chung, xét cho cùng, suy cho thấu: đều là các giá trị nồng cốt khởi từ cuộc cách mạng Kitô giáo từ mấy nghìn năm qua. Các giá trị đó đã ăn vào tận xương tủy của các dân tộc đa số theo Kito giáo, đã được xây dựng và bảo vệ trong hai ngàn năm lịch sử bằng xương bằng máu....
Dù nay vì phong trào tục hóa hay các ý thực hệ vô thần làm lu mời, hay một số nhà cầm quyền tây phương không quan tâm và đang có chiều hướng muốn phá đổ những chân lý và giá trị ngàn đời ấy, nhưng dựa vào chiều sâu chiều dài chiều rộng của lịch sử nhân loại và bằng kinh nghiệm xương máu của mọi dân tộc, mọi cuộc đấu tranh, chúng ta luôn xác tín rằng:
1) Tất cả những chế độ xây dựng trên gian dối, trên bạo lực, trên độc tôn độc tài phi nhân, sẽ không được loài người chấp nhận, sẽ phải có ngày bị tiêu diệt bởi chân lý và tự do.
2) Chế độ cộng sản tam vô: vô thần, vô tổ quốc, vô gia đình thực ra đã bị lịch sử khai trừ và chôn vùi từ ngày bức tường Bá Linh sụp đổ. Điều đó không có ai có thể chối cãi. Các chế độ cộng sản còn rơi rớt lại tại Việt Nam, Bắc Hàn và Tầu cộng: thực chất chỉ là một nhà nước tư bản đỏ, một đảng Mafia chính trị, một đảng cướp... đúng như nhận định của nhiều bài bình luận mà trang mạng danchua.eu đã đăng trong những ngày ghi dấu biến cố 30.04.1975 đáng đau buồn này!!!! x 10 (thật là chính đáng và phải đạo khi chúng ta ghi 40 chấm than cho chế độ csVN)
3) Đúng như tác giả Bảo Giang đã kết luận trong bài: “Viết về ngày Quốc Hận“: 30-4-1975. 30-4-1075 Mãi Mãi Là Ngày Quốc Hận. Mãi Mãi là Ngày Quốc Hận bởi vì vào ngày 30-4-1975, chỉ có một kẻ duy nhất chiến thắng, đó là đảng Cộng sản Việt Nam. Kẻ bại trận chính là Dân Tộc, là Toàn Dân Việt Nam. Vì chiến thắng trong cuộc chiến do chính CS gây ra, nên tập đoàn đảng cộng sản đã cướp, chiếm đoạt hoàn toàn chính quyền và nền chính trị tại Việt Nam. Từ đây, đảng CSVN đã biến chính quyền thành nhà nước CHXHCN, thành một tổ chức phi nhân, thành một cánh tay hợp pháp để CS chiếm đoạt, tước đoạt mọi công quyền và nhân quyền của người dân Việt Nam.
Thay lời kết: Xin mượn mấy dòng của tác giả Trần Diệu Chân trong bài: “40 năm đã quá đủ!“ để nhìn về tương lai dân tộc:
40 năm đã quá đủ để không còn có thể đổ lỗi cho chiến tranh hay bất cứ một lý do gì khác.
40 năm đã quá đủ để không còn có thể tiếp tục hiện trạng với hệ thống chính trị lạc hậu, sai lầm với những thành phần bất tài, vô lương tâm quản trị đất nước.
40 năm đã quá đủ để tiếp tục trơ tráo và vô cảm trước hiện tượng tụt hậu và phá sản toàn bộ của đất nước, kể cả những giá trị tinh thần, đạo đức và văn hóa.
Đã đến lúc, nhà cầm quyền csVN phải từ bỏ chế độ toàn trị về chính trị, về kinh tế, về văn hóa và xã hội, trao trả lại cho toàn dân: trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam trong tự do, trong chân lý, trong độc lập và lòng ái quốc chân chính.
Lm. chủ nhiệm
Án Tử Hình: Thảo luận dưới khía cạnh luân lý, thực tiến và thần học
Lời giới thiệu:
Đức Giáo Hoàng Francis gần đây đã kêu gọi bãi bỏ hình phạt tử hình, cũng như tù chung thân mà Ngàiđã mô tả nó nhưlà một bản “án tử hìnhbất hợp pháp.”[1] ĐGH đã ghi nhận rằng trong khi các giáo huấn truyền thống của Giáo Hội Công Giáo không loại trừ án tử hình, nhưng điều đó chỉ được chấp nhận khi không có cách nào khác để bảo vệ xã hội, một lập trường mà dường như không tồn tại ngày nay, nơi các hệ thống công lý và nhà tù hiện đại đã tỏ ra rất có hiệu quả trong việc bảo vệ cộng đồng chống lại bọn tội phạm nguy hiểm. Đồng thời, ĐGH cũng đã gợi ý rằng: các xã hội hiện đại đã sử dụng quá mức hình phạt dành cho các tội hình sự, điều này xảy ra, một phần vì được bắt nguồn từ xu hướng cổ xưa muốn trừng trị và hiến tế các tội nhân đã bị cáo buộc tấn công vào cộng đồng.
Song song như thế những gì đang diễn ra tại Úc về sự kiện chính quyền Nam Dương (Indonesia) cương quyết xử tử hai tội phạm người Úc, đó chính là Andrew Chan và Myuran Sukamaran về tội danh buôn lậu ma túy mà họ đã vi phạm cách đây 9 năm về trước.
A file photograph of Andrew Chan and Myuran Sukumaran being escorted by police after their verdict from a court in Denpasar. Jakarta has signalled that execution preparations were almost complete. Photograph: Bay Ismoyo/AFP/Getty Images.
Báo chí và các cơ quan truyền thông khắp nơi trên nước Úc đã loan tin về các cuộc họp mặt được tổ chức ở các Tiểu Bang nhằm cầu nguyện và cổ võ cho phong trào chống lại án tử hình,[2] đặc biệt hơn cả là lời kêu gọi của Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao, bà Julie Bishop[3] và cựu Bộ Trưởng Bộ Di Trú, ông Philip Ruddock,[4] đề nghị chính phủ Nam Dương hãy bày tỏ lòng thương xót đối với hai tội nhân trên và nhất là kêu gọi Tổng Thống Nam Dương, ông Joko Widodo, hãy ân xá cho hai tội phạm ấy được thoát khỏi án tử hình.[5]
Bài viết sau đây với mục đích nhằm thảo luận về một số vấn đề liên quan đến khía cạnh luân lý, các lý do thực tiễn và ý nghĩa thần học, khi bàn tới án tử hình. Chính những điều nàyđã dẫn tới sự thay đổi trong cách tư duycủa Giáo Hội Công Giáo về án tử hình.
DẪN NHẬP:
“Án tử hình” là một chủ đề gây nhiều tranh cãi trong thời hiện đại, như đã được trích dẫn trong các bài viết được mô tả trong phần ghi chú (xem cước chú, số 1-4). Thẩm quyền của Nhà nước trong việc đưa ra án tử hình trước các tội ác khủng khiếp chống lại lợi ích chung của cá nhân và xã hội đã có truyền thống từ lâu và được sự hỗ trợ từ nguồn Kinh Thánh và thần học trong các cộng đồng Kitô hữu. Sự hỗ trợ như vậy không phải không vấp phải những lời chỉ trích, và ngày nay những suy tư của giáo hội về vấn nạn này đã đặt ra một số vấn đề quan trọng về mặt luân lý. Bài viết này sẽ cẩn trọng xem xét những luận cứ biện minh cho án tử hình và các lập luận chống lại nó. Những lập luận này sẽ được xem xét dưới ánh sáng và quan điểm của Kinh Thánh và từ giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo.
Một số người ủng hộ án tử hình bởi vì nó giúp bảo vệ những người vô tội khỏi những tên tội phạm, trong khi những người khác tin rằng nó có thể làm giảm tỷ lệ tội phạm bằng cách ngăn ngừa các hoạt động bất hợp pháp.[6] Tuy nhiên, hầu hết mọi người không chấp nhận bản án tử hình,[7] vì xem đó như là một hình thức giết người và là một sự ô nhục về mặt luân lý.[8]
Những người tin rằng án tử hình có hiệu quả ngăn ngừa việc cố sát (giết người) thường viện dẫn một câu trong Cựu Ước: “Mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân.” (Đnl 19:21) Trong khuôn khổ đó, lập luận ủng hộ án tử hình có thể được xây dựng như sau: có một số hành vi quá tàn ác và quá hủy hoại cộng đồng đến mức chúng triệt tiêu và tước đoạt tư cách thành viên của kẻ tội phạm và thậm chí là mạng sống của y. Đây là những gì mà Thánh Thomas Aquinas đã lập luận. Ngài cho rằng thật là hợp pháp để tiêu diệt những tội phạm nguy hiểm như một cách thức duy trì lợi ích chung.[9]
Truyền thống thần học Kitô giáo cũng hỗ trợ tương tự như vậy việc đưa ra các hình phạt tử hình qua các lập luận sau đây:
1. Thẩm quyền của nhà nước đã được khẳng định trong Tân Ước (Rm 13: 1-4),[10] và nhà nước được trao ban quyền hành để hành động với tư cách đại diện cho lợi ích chung của xã hội. Khi lợi ích chung bị đe dọa, đặc biệt là khi mạng sống của con người bị tấn công trực tiếp, nhà nước phải có biện pháp thích hợp để bảo vệ mạng sống của người dân vô tội. Việc bảo vệ như vậy đôi khi đòi hỏi nhà nước phải đưa ra các biện pháp trừng trị thích đáng đối với những kẻ phạm pháp và không tộn trọng luật pháp.
2. Án tử hình được dùng như một sự ngăn chặn và góp phần vào việc giữ gìn trật tự công cộng.
3. Án tử hình là sự thực thi một sự phán xét chứ không phải do lòng hận thù. Đức Giáo Hoàng Innocent III nói: Liên quan đến thẩm quyền của nhà nước, chúng tôi khẳng định rằng, nhà cầm quyền có thể thực hiện một phán quyết tước bỏ mạng sống, mà không gây ra tội trọng, miễn là họ đưa ra một sự trừng phạt không phải vì căm ghét, nhưng sau khi đã cân nhắc và suy xét kỹ lưỡng "(Anti-Waldensians Profession, DS, số. 795).
Có lẽ lý do thuyết phục nhất để chống lại án tử hìnhđược xây dựng trên cơ sở làliệu nhà cầm quyền hay các cơ quan hành pháp có đủ khả năng để thi hành và áp dụng án tử hình một cách triệt để, không sai sót và thực sự công bằng.[11] Trong lịch sử con người đã có những bằng chứng cụ thể chứng minh cho thấy nhiều kẻ vô tội đã bị tử hình một cách oan uổng. Họ bị kết tội dù họ đã không vi phạm. Một cuộc nghiên cứu tại Mỹ, được đăng trên báo The Guardian (29 tháng 4 năm 2014) đã cho chứng minh tỏ tường điều này. [12] Vì các cơ quan hành pháp và các công tố viên có thể bị sai lầm và họ đã kết án kẻ vô tội.
Thêm vào đó, án tử hình cũng đã được áp dụng một cách thiếu công bằng, theo như thống kê cho thấy, án tử hình phần lớn được áp dụng một cách không tương xứng, phần đông tội phạm là người nghèo và dân da màu hoặc dân thiểu số. Những lời tuyên bố cho rằng án tử hình có hiệu lực làm giảm các hành vi trộm cắp và bạo hành cũng đã được chứng minh là không có những bằng chứng hoàn toàn có sức thuyết phục, vì họ không thể đưa ra các kết luận mang tính xác quyết.[13]
Trong khi đó, những người khác tin rằng, thựcsự không có hoàn toàn công bằng khi bắt các tội nhân phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về các việc làm sai trái của mình; vì phần đông các kẻ phạm pháp hay gây nên tội trạng thường bịcam chịu sự bỏ rơi, không được quan tâm đến, họ bị chấn thương về mặt tình cảm, họ thiếu tình thương, bị bạo lực, bị tàn ác, hoặc đàn áp và một loạt các điều phá hoại khác do xã hội gây nên.
Gần đây, có một xu hướng ngày càng gia tăng ở cả phía Giáo Hội và xã hội nhằm hạn chế việc sử dụng án tử hình chỉ được dành cho những tội trạng và những hoàn cảnh đặc biệt, hoặc thậm chí muốn xóa bỏ nó hoàn toàn. Trong bài giảng tại thành phố Saint Louis vào ngày 27 tháng 1 năm 1999, Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói,
“Một dấu hiệu của hy vọng là sự công nhận ngày càng gia tăng, rằng phẩm giá của cuộc sống con người không bao giờ phải bị tước đi, ngay cả trong trường hợp một người đã làm điều trọng ác. Xã hội hiện đại có các phương tiện để bảo vệ chính nó mà đồng thời không dứt khoát phủ nhận cho tội nhân có cơ hội để hối cải. Tôi xin lập lại lời thỉnh cầu nhằm kêu gọi sự đồng thuận của cộng đồng thế giới để chấm dứt án tử hình, vì đó là hành vi dã man và không cần thiết.”[14]
Tương tự lập trường như thế, Đức Thánh Cha Phanxicô trong bài phát biểu gần đây của Ngài với nhóm đại diện của Hiệp hội Quốc tế về Luật hình sự, vào ngày 23 Tháng 10 năm 2014, Ngài cũng đã kêu gọi bãi bỏ án tử hình:
“Tôi thiết nghĩ đó là điều không thể tưởng tượng rằng các quốc gia ngày nay không thể sử dụng một phương tiện khác hơn là hình phạt tử hình để bảo vệ mạng sống của người dân từ một kẻ gây hấn bất công.”
Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc lại tính ưu việt của sự sống và phẩm giá của con người, tái khẳng định sự lên án tuyệt đối về án phạt tử hình, vì việc sử dụng án này đã bị từ chối bởi các Kitô hữu.
“Theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, các giáo huấn truyền thống của Giáo Hội không loại trừ việc nại đến các hình phạt tử hình, nếu đây là cách duy nhất có thể bảo vệ hiệu quả mạng sống con người nhằm chống lại những kẻ có ý đồ hãm hại người khác một cách bất công, nhưng những tiến bộ hiện đại trong việc bảo vệ xã hội khỏi những tội phạm nguy hiểm, không nhất thiết đòi hỏi chúng ta phải xử tử những tội nhân đã vi phạm các tội ác ghê ghớm, nếu có đi chăng nữa thì điều này rất hiếm và tưởng chừng không bao giờ xảy ra.”[15]
Cùng với một lối suy tư như thế, các nhà thần học đương đại đã biện luận và yêu cầu xóa bỏ hình phạt án tử hình với những lý do sau đây:
- Các hình phạt tử hình là vô dụng và không cần thiết. Tỷ lệ tội phạm bằng bạo lực gây nên, có lẽ đã không giảm bớt, ngay cả khi ta lưu giữ hình phạt tử hình. Một cách khác có thể được áp dụng để ngăn chặn người vi phạm bằng cách giam giữ họ trong một thời gian dài.
- Áp dụng hình phạt án tử hình có thể biến xã hội trở nên vô nhân đạo, bằng cách hợp pháp hóa bạo lực như là một chiến lược để đối phó với các hành vi sai trái của con người. Bầu khí hiện nay của bạo lực phản ánh sự thiếu vắng đích thực của công bằng xã hội và sự đoàn kết, đây chính là vấn nạn hiện nay vẫn đang tồn tại và chưa được giải quyết, thay vào đó, ta lại dựa vào bản án tử hình như là một phương tiện để ngăn chặn tội phạm.
- Hình phạt án tử hình không phản ánh trung trực sự tha thứ, niềm hy vọng, và ơn cứu chuộc, đó chính là trọng tâm của Kinh Thánh. Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu hướng dẫn các môn đệ, không nên tìm kiếm sự trả thù cho việc làm sai trái.[16]
QUAN ĐIỂM KINH THÁNH
Những người ủng hộ án tử hình thường xuyên trích dẫn Cựu Ước để biện minh cho lập trường của họ.[17] Trong Sáng thế ký 9:6, chúng ta đọc: “Ai đổ máu con người, thì máu nó sẽ bị con người đổ ra, vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa.” Bất kỳ kẻ nào cố sát người khác là bị giết chết. “Các ngươi sẽ không được làm nhiễm uế đất các ngươi ở, vì chính máu làm nhiễm uế đất ấy, và không có gì có thể tẩy rửa đất ấy khỏi máu đã đổ ra tại đó, ngoài máu của người đã làm đổ máu. (Các) ngươi sẽ không gây ô nhục cho đất (các) ngươi ở, cũng là nơi Ta ngự; vì Ta là Đức Chúa, Ta ngự giữa con cái Ít-ra-en.” (Ds 35:33-34). Máu của các nạn nhân bị sát hại làm ô uế đất. Cách duy nhất nó được làm sạch lại là ban hành án tử hình cho kẻ giết người. Sau đó, khi Thiên Chúa ban luật pháp cho Môi-sê, một số các vi phạm khác đã được coi như là trọng tội.
Đồng thời, luật Môi-sê và sau đó là truyền thống của các Thầy Luật Sĩ Do Thái đã thiết lập một thủ tục tố tụng hết sức nghiêm ngặt đối với các trường hợp liên quan đến án tử hình. Các tiêu chuẩn của bằng chứng cần thiết để kết tội một người nào đó trong trường hợp như vậy, đòi hỏi vượt qua các nghi ngờ, so với các tiêu chuẩn của chúng ta hiện nay, và yêu cầu là nó phải đạt tới sự chắc chắn tuyệt đối. Để buộc tội một người nào đó, yêu cầu ít nhất là có hai người làm chứng và tận mắt họ thấy được sự kiện xảy ra,[18]trước khi kẻ bị buộc tội giết người có thể bị hành quyết, và những nhân chứng nào mà làm chứng gian (hoặc nói dối) thì họ cũng lãnh chung một bản án tử hình như bị cáo vậy (xem sách Đệ Nhị Luật, chương 17 và 19). Lẽ đó, trong thực tế, hệ thống luật pháp của người Do Thái rất nghiêm ngặt và chặt chẽ, cho nên rất ít người bị kết án tử hình. Sau đó vào khoảng thế kỷ thứ hai án tử hình ít được thực hiện.
Trong Tân Ước, câu trả lời của Chúa Giêsu về án tử hình vốn là để làm suy yếu các hình phạt bằng cách đòi hỏi, cả các thẩm phán lẫn đao phủ phải là người vô tội. “Hãy để bất cứ ai trong các ngươi là người vô tội sẽ là người đầu tiên ném đá cô ta.” Ngài nhắc nhở thính giả của mình phải cẩn thận khi họ lên án người khác, bởi vì bản án và sự phán xét của Thiên Chúa không nhất thiết trùng với chúng ta (ví dụ: Mat-thê-ô 25, Luca 6). Nếu phán quyết của chúng ta rất có thể sai lầm, làm thế nào chúng ta có thể đưa ra quyết định để tước đoạt một mạng sống? Thêm vào đó, sự tha thứ của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ bị bắt ngoại tình quả tang (một hành vi phạm tội dân sự yêu cầu án tử hình) là một ví dụ về lòng thương xót của Ngài. Bằng cách này, Chúa Giêsu thách thức giả định cho rằng, con người có quyền để đưa ra các bản án tử hình, vì họ là Thẩm Phán hay là kẻ hành quyết.[19]
Ngoài ra, Tân Ước cũng nhấn mạnh rằng các khía cạnh hiến tế của việc tước đi mạng sống đã được hoàn tất “một lần và thay cho tất cả” ngang qua sự hy sinh của Chúa Kitô. Cái chết của Đức Kitô trên thập giá, chính nó là một ứng dụng hình phạt tử hình, xóa đi những nghi lễ thời Cựu Ước và là cơ sở luân lý cho án tử hình (ví dụ như trong thư Do Thái, chương10).[20] Không cần phải đổ máu thêm nữa để làm chứng cho sự thánh thiêng của sự sống. Chúa Kitô đã chết để cho những người khác có thể sống.
Chúa Giêsu cũng liên tục nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm của mình, là chúng ta cần nhìn thấy Chúa Kitô qua những người anh em nghèo khổ, và những người bạn láng giềng đang cần sự giúp đỡ, ngay cả những kẻ thù của chúng ta; chúng ta được dạy bảo và khuyến khích là hãy yêu thương và tha thứ cho những ai đã hãm hại và bách bớ mình.
Khi Chúa Giêsu Kitô bị xử tử, Ngài đã đưa ra một mô hình về cách ứng xử đối với kẻ thù, ngang qua những lời lẽ của Ngài trong khi hấp hối: “Lạy Cha, xin tha cho họ.” Bằng cách đó, Chúa Giêsu thay thế luật pháp của sự trừng phạt với lề luật hòa giải (Mt 5:23-4). Ngài cũng dạy rằng, là chúng ta cần yêu thương những ai cố ý hãm hại chúng ta, “Ta nói với các con, hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ bách hại các con, để các con có thể trở thành con cái của Cha các con trên trời" (Mt 5:43-45).
SUY TƯ VÀ KẾT LUẬN
Các quan điểm Kinh Thánh về án tử hình là thích hợp đối với xã hội chúng ta và đặt ra một loạt câu hỏi quan trọng: Nếu hình phạt tử hình không thực sự tiếp tục hổ tương cho các nỗ lực để duy trì trật tự, nếu nó thực sự có thể ảnh hưởng đến các trật tự tốt, thì liệu chính quyền nhà nước sử dụng quyền hạn của họ có thích hợp? Khi Nhà nước trừng phạt tùy tiện và có vẻ phân biệt trong cách thi hành các bản án, đặc biệt là với một hình phạt mang tính cách chung cuộc (ví dụ: án tử hình), thì thử hỏi nhà cầm quyền có thực hiện đúng vai trò mà Thiên Chúa đã ban cho họ hay không?
Chúa Giêsu dạy rằng, sự sống thuộc về Thiên Chúa và không phải là của chúng ta để mình hoàn toàn tự quyết định. Chúng ta nên phủ nhận và tẩy chay bản án tử hình, vì nó không phù hợp và tương xứng với các trọng tâm cơ bản của Tin Mừng – đó là sự hòa giải và ơn cứu chuộc. Mối quan tâm của Đức Kitô là cứu chuộc, và Ngài đã cung cấp cho chúng ta một mô hình để làm gương, là chính Ngài đã bằng lòng trao nộp mạng sống ngài cho kẻ thù của mình. Chúng ta cần cho các tội nhân một cơ hội để họ có thể làm lại cuộc đời và chuộc lại những lỗi làm mà họ đã gây nên và điều này không có ngoại lệ, ngay cả đối với kẻ giết người mà chính họ đã không làm điều đó cho nạn nhân của mình. Chúa Giêsu đã không chết chỉ cho một số tội nhân nào đó, Ngài đã chết thay cho tất cả. Việc từ chối tội nhân cái cơ may và khả năng để họ có thể giao hòa với Thiên Chúa và với anh chị em đồng loại của mình, hoặc kết thúc mạng sống của ai đó mà họ đã thực lòng ăn năn thống hối và đã hòa giải thì đó chính là một bi kịch thê lương của án tử hình.
Cuối cùng, cuộc tranh luận về án tử hình đã làm cho chúng ta dễ dàng tránh né những vấn đề sâu sắc hơn: nguyên nhân của bạo lực và ý nghĩa của nó đối với cả nạn nhân và người phạm tội. Trước khi chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời cho những vấn nạn trên, chúng ta cần phải duyệt xét tận thâm cung của chính mình. Chúng ta phải nhận thức rằng: mỗi người trong chúng ta đã gánh chịu nhiều đau khổ, và mỗi chúng ta, theo một khía cạnh nào đó, đều là nạn nhân. Nhưng chúng ta cũng cần phải xác định được nguồn gốc và cội rễ của bạo lực và của sự bất công đó đang tiềm ẩn và hiện diện bên trong tất cả chúng ta. Chúng ta cần phải thừa nhận sự thất bại và phần đồng lõa của chúng ta, tất cả chúng ta đều phạm tộivà trở nên dị dạng so với mẫu người mà chúng ta có thể trở nên và hoàn chỉnh. Vì vậy, chúng ta đều là những người phạm tội và chúng ta đồng thời cũng là các nạn nhân; tất cả chúng ta đều cần ơn cứu rỗi. Chỉ nó khi nào mà chúng ta ý thức và nhận rõ điều này thì chúng ta mới có thể xây dựng một thế hệ tương lai tốt đẹp, mà trong đó, không cần sử dụng đến bạo lực hoặc bạo lực sẽ không cần thiết.
“Liệu gia đình nhân loại sẽ hoàn thiện hơn, liệu nhân vị con người sẽ trở nên yêu thương nhiều hơn, trong một xã hội mà mạng đòi mạng, mắt đền mắt, răng đền răng?” (Đức Hồng Y Joseph Bernardintự hỏi).
Tác giả: L.m. Trần Mạnh Hùng, STD.
L.J. Goody Bioethics Centre
39 Jugan Street,
Mount Hawnthorn, WA 6016.
AUSTRALIA
Email:
P.S: Bali Nine: Andrew Chan and Myuran Sukumaran executed by Indonesian firing squad. ABC News
http://www.abc.net.au/news/2015-04-29/andrew-chan-and-myuran-sukumaran-executed/6426654 (accessed 29.04.2015)
Sáng nay, thứ Tư, ngày 29.04.2015, ABC News đã loan tin rằng Andrew Chan và Myuran Sukumaran đã bị xử bắn vào khoảng 3.30 sáng (giờ Sydney) tại nhà tù trên hòn đảo Nusakambangan, nước Nam Dương. Tin này đã gây nhiều búc xúc cho dân chúng Úc và Thủ Tướng Úc Đại Lợi, Tony Abbott đã cho triệu hồi vị đại sứ của Úc tại thành phố Jakatar (Thủ Đô của nước Nam Dương), như là hình thức phản đối thái độ quá cứng rắn và tàn bạo của chính phủ Nam Dương đối với hai tội nhân nói trên, dù cho Thế Giới và Chính Phủ Úc đã liên tục kêu gọi sự khoan hồng của Tổng Thống Nam Dương, Joko Widodo, hãy ân xá cho hai tội phạm ấy được thoát khỏi án tử hình.[21]
Photo: Myuran Sukumaran and his art. (AFP/Getty Images: Sonny Tumbelaka)
Photo: A composite of a painting by Bali Nine ringleader Myuran Sukumaran of Indonesian president Jokowi Widodo with words on the back of the painting "People can change" on February 10, 2015. (AAP: Zul Edoardo )
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
A Good Friday Appeal to End the Death Penalty.” By the United States Conference of Catholic Bishops,April 2, 1999. Source: http://old.usccb.org/sdwp/national/criminal/appeal.shtml (accessed 07.10.2012).
Bali Nine: Foreign Minister Julie Bishop makes eleventh-hour bid to save Andrew Chan and Myuran Sukumaran. By Helen Brown and Eliza Borrello - Thursday, 5 March 2015. ABC News. http://www.abc.net.au/news/2015-03-05/bali-nine-executions-not-this-week-indonesian-president/6281690 (accessed 5 March 2015).
Francis X. Rocca, "Đức Giáo Hoàng Francis kêu gọi bãi bỏ án tử hình và tù chung thân," Catholic News Service. Được đăng vào ngày 23 Tháng 10 năm 2014. http://www.catholicnews.com/data/stories/cns/1404377.htm (truy cập 28 tháng 10 năm 2014).
Jewish-Catholic Consultation, "To End the Death Penalty," Origin 29 (1999), 463.
John Berkman and Stanley Hauerwas, "Capital Punishment," in Paul Barry Clarke and Linzey (eds.) Dictionary of Ethics, Theology and Society. (New York: Routledge: 1996).
Julie Bishop, “A Plea To Indonesia: Don't Kill These Changed Men.” ABC News. Updated 13 Feb 2015. http://www.abc.net.au/news/2015-02-12/bishop-chan-and-sukumaran-dont-kill-these-changed-men/6088014 (accessed 11 March 2015).
Peter Black, "Do Circumstances Ever Justify Capital Punishment?" Theological Studies 60(1999), 342-3.
Pope Francis calls for abolishing death penalty and life imprisonment.By Francis X. Rocca, Catholic News Service. Published on 23 October 2014 .
http://www.catholicnews.com/data/stories/cns/1404377.htm (accessed 28 Oct. 2014).
Pope to Association of Penal Law: Corruption is Greater Evil than Sin.By Vatican News - 23 October 2014. http://www.news.va/en/news/pope-to-association-of-penal-law-corruption-is-gre (accessed 28 October 2014).
R. Michael Dunnigan, JD, JCL., “The Purposes of Punishment.” Source: http://www.catholicculture.org/culture/library/view.cfm?recnum=7453 (accessed 06.10.2012).
“The death penalty: A flawed system we can't afford to keep.” Published By Times Herald,Posted: 07 Oct, 2012. Source: http://www.timesheraldonline.com/opinion/ci_21719050/death-penalty-flawed-system-we-cant-afford-keep (accessed 08.10.2012).
Thiên Khải dịch từ zenit, “Thận trọng và phẩm giá con người, những điểm chuẩn của công lý.” Posted by Ioannes on 27th Tháng 10, 2014 tại http://conglyvahoabinh.org/than-trong-va-pham-gia-con-nguoi-nhung-diem-chuan-cua-cong-ly/2014/10/ (truy cập ngày 13.03.2015).
Thomas Aquinas, Summa theologiae II-II, q. 64, a.2.
US death row study: 4% of defendants sentenced to die are innocent.By Ed Pilkington in New York. Tuesday 29 April 2014. http://www.theguardian.com/world/2014/apr/28/death-penalty-study-4-percent-defendants-innocent (accessed 5 March 2015).
Victorian Supreme Court judge Lex Lasrytold ABC TV's 7.30 that the death penalty does not deter crime. See Fact check: No proof the death penalty prevents crime.ABC News 26 Feb. 2015. http://www.abc.net.au/news/2015-02-26/fact-check3a-does-the-death-penalty-deter3f/6116030 (accessed 01 March 2015)
[1] . Xem Francis X. Rocca, "Đức Giáo Hoàng Francis kêu gọi bãi bỏ án tử hình và tù chung thân," Catholic News Service. Được đăng vào ngày 23 Tháng 10 năm 2014. http://www.catholicnews.com/data/stories/cns/1404377.htm (truy cập 28 tháng 10 năm 2014). Bài Việt ngữ do Thiên Khải dịch từ zenit, “Thận trọng và phẩm giá con người, những điểm chuẩn của công lý.” Posted by Ioannes on 27th Tháng 10, 2014 tại http://conglyvahoabinh.org/than-trong-va-pham-gia-con-nguoi-nhung-diem-chuan-cua-cong-ly/2014/10/ (truy cập ngày 13.03.2015).
[2] . Xem Capital Punishment: http://www.theguardian.com/world/capital-punishment (accessed 5 March 2015).
[3] . Xem bài viết: “A Plea To Indonesia: Don't Kill These Changed Men”By Julie Bishop. Updated 13 Feb 2015. http://www.abc.net.au/news/2015-02-12/bishop-chan-and-sukumaran-dont-kill-these-changed-men/6088014 (accessed 11 March 2015).
[4] . Để biết thêm chi tiết, xin vui lòng tham khảo: Philip Ruddock, who was the attorney-general in 2005 when the Bali Nine were arrested, said Australia needs to campaign worldwide for the abolition of the death penalty, not just when its own citizens are on death row.
Audio: Australia should campaign globally against death penalty: Ruddock (The World Today)
"I think we need to have an approach that we not only argue for Sukamaran and Chan but we have a principled position that we continue to put worldwide. I think we need to be more active in relation to those matters," he said.
"I think we should be campaigning on the death penalty. I think it is wrong in principle and I always have."
Mr Ruddock, who has advocated against the death penalty for more than 20 years, said he has offered to work with Indonesia to fight against capital punishment. Cf. Bali Nine: Indonesian officials' meeting to discuss arrangements of Andrew Chan and Myuran Sukumaran's execution may not go ahead.
By Indonesia correspondent George Roberts, staff. Fri 13 Feb. 2015, 12:49pmhttp://www.abc.net.au/news/2015-02-13/bali-nine-indonesian-officials-discuss-execution-arrangements/6091140 (accessed 13 Feb. 2015).
[5] . Xem Bali Nine: Foreign Minister Julie Bishop makes eleventh-hour bid to save Andrew Chan and Myuran Sukumaran. By Helen Brown and Eliza Borrello - Thursday, 5 March 2015. ABC News. http://www.abc.net.au/news/2015-03-05/bali-nine-executions-not-this-week-indonesian-president/6281690 (accessed 5 March 2015).
[6] . See R. Michael Dunnigan, JD, JCL., “The Purposes of Punishment.” Source: http://www.catholicculture.org/culture/library/view.cfm?recnum=7453 (accessed 06.10.2012).
[7] . The death penalty is outlawed in most of Europe, Canada, Australia, and most other countries in the world; more than 135 nations have abolished capital punishment. “The death penalty: A flawed system we can't afford to keep.” Published By Times Herald. Posted: 07 Oct, 2012. Source: http://www.timesheraldonline.com/opinion/ci_21719050/death-penalty-flawed-system-we-cant-afford-keep (accessed 08.10.2012).
[8] . See “A Good Friday Appeal to End the Death Penalty.” By the United States Conference of Catholic Bishops,April 2, 1999. Source: http://old.usccb.org/sdwp/national/criminal/appeal.shtml (accessed 07.10.2012).
[9] . Thomas Aquinas, Summa theologiae II-II, q. 64, a.2.
[10] . While some argue that St. Paul affirms the right of governing authorities to punish offenders (see John Berkman and Stanley Hauerwas, "Capital Punishment," in Paul Barry Clarke and Linzey (eds.) Dictionary of Ethics, Theology and Society. (New York: Routledge: 1996), 102), this view has been rejected by Jean Lasserre: "No Christian justification of the death penalty can be deduced from Roman 13, so there is no single text in the New Testament which approves it." Cited by Peter Black, "Do Circumstances Ever Justify Capital Punishment?" Theological Studies 60(1999), 342-3.
[11] . Xem bài dịch củaThiên Khải chuyển ngữ từ zenit, “Thận trọng và phẩm giá con người, những điểm chuẩn của công lý.” Posted by Ioannes on 27th Tháng 10, 2014 tại http://conglyvahoabinh.org/than-trong-va-pham-gia-con-nguoi-nhung-diem-chuan-cua-cong-ly/2014/10/ (truy cập ngày 13.03.2015).
[12] . At least 4.1% of all defendants sentenced to death in the US in the modern era are innocent, according to the first major study to attempt to calculate how often states get it wrong in their wielding of the ultimate punishment. See US death row study: 4% of defendants sentenced to die are innocent.By Ed Pilkington in New York. Tuesday 29 April 2014. http://www.theguardian.com/world/2014/apr/28/death-penalty-study-4-percent-defendants-innocent (accessed 5 March 2015).
[13] . During a visit to Bali in February, Victorian Supreme Court judge Lex Lasrytold ABC TV's 7.30 that the death penalty does not deter crime. See Fact check: No proof the death penalty prevents crime.ABC News 26 Feb. 2015.
http://www.abc.net.au/news/2015-02-26/fact-check3a-does-the-death-penalty-deter3f/6116030 (accessed 01 March 2015)
[14] . Jewish-Catholic Consultation, "To End the Death Penalty," Origin 29 (1999), 463.
[15] . See Pope Francis calls for abolishing death penalty and life imprisonment.By Francis X. Rocca, Catholic News Service. Published on 23 October 2014 . http://www.catholicnews.com/data/stories/cns/1404377.htm (accessed 28 Oct. 2014) and also Pope to Association of Penal Law: Corruption is Greater Evil than Sin.By Vatican News - 23 October 2014. http://www.news.va/en/news/pope-to-association-of-penal-law-corruption-is-gre (accessed 28 October 2014).
[16] . John Berkman and Stanley Hauerwas, "Capital Punishment," in Paul Barry Clarke and Linzey (eds.) Dictionary of Ethics, Theology and Society. (New York: Routledge: 1996), pp.100-105.
[17] . Nhưng chúng ta cũng đừng quên chính Tân Ước mới là kim chỉ nam và là mẫu mực thiết yếu cho đời sống người Kitô hữu (Yet it is important to keep in mind that the New Testament must be the primary standard for Christians).
[18] . “Trong mọi trường hợp đánh chết người, người ta sẽ dựa vào lời khai của các chứng nhân mà xử tử kẻ sát nhân. Nhưng lời khai của một chứng nhân duy nhất sẽ không thể làm cho ai bị kết án tử hình.” (Sách Dân số 35:30).
[19] . God alone is the author of life, therefore only God has the dominion of life, says the National Jewish-Catholic Consultation in a Dec. 6, 1999, report - Origins 29 (1999), 463; Similarly, John Berkman and Stanley Hauerwas, in the same way, would claim it also, "all life, guilty or not, belongs to God and is to be given and taken only by God." (p. 104).
[20] . John Berkman and Stanley Hauerwas, "Capital Punishment," in Paul Barry Clarke and Linzey (eds.) Dictionary of Ethics, Theology and Society. (New York: Routledge: 1996), p.102.
[21] . There was also a last-ditch plea for mercy from the governments of Australia, France and the European Union, who jointly petitioned Indonesia to declare a moratorium on capital punishment. "We fully respect the sovereignty of Indonesia. But we are against the death penalty in our country and abroad. The execution will not give deterrent effect to drug trafficking or stop the other from becoming victims will abuse drugs. To execute these prisoners now will not achieve anything," they said in a statement.
See Bali Nine: Andrew Chan and Myuran Sukumaran executed by Indonesian firing squad. By ABC News, http://www.abc.net.au/news/2015-04-29/andrew-chan-and-myuran-sukumaran-executed/6426654 (accessed 29.04.2015).
Cuộc bách hại Kitô hữu lớn nhất lịch sử
Hôm nay, 24 tháng Tư, kỷ niệm 100 năm cuộc diệt chủng người Ácmêni trong tay người Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng trong khi người Ácmêni kỷ niệm việc giết hại 1 triệu rưỡi các tiền nhân của họ, thì người Thổ mừng 100 năm cuộc chiến thắng lớn của họ đối với lực lượng Đồng Minh tại Gallipoli trong Thế Chiến I.
Bác bỏ
Theo truyền thống, người Thổ vẫn mừng chiến thắng Gallipoli vào ngày 25 tháng Tư, trùng với ngày Úc và Tân Tây Lan kỷ niệm gần 10,000 chiến binh của họ hy sinh tại cùng địa điểm năm 1915 trong ngày họ gọi là Ngày ANZACAustralia and New Zealand Army Corps). Nhưng năm nay, người Thổ mừng chiến thắng Gallipoli vào một ngày trước đó, tức ngày 24 tháng Tư, trùng với ngày người Ácmêni tưởng niệm cuộc diệt chủng.
Tại viện bảo tàng quân đội ở Istanbul, ban quân nhạc Janissary chơi lại bản quân ca từng đồng hành với các cuộc chiến thắng của Đế Quốc Ottoman. Cuộc chiến thắng của Mustafa Kemal Ataturk tại Gallipoli, nơi các lực lượng Anh, Pháp, Úc và Tân Tây Lan bị bại, có nhiều vật trưng bày tại đây
Tuy nhiên có một căn phòng, không dễ tìm, dành cho “Các Mối Liên Hệ Thổ-Ácmêni”. Ở cửa ra vào căn phòng này có tấm bảng cho biết như sau: “mục tiêu của các luận điệu thiếu chứng cớ cho rằng đây là một cuộc diệt chủng là nhằm làm suy giảm sức mạnh của Thổ Nhĩ Kỳ ở trong vùng”.
Trên tường đầy những bức hình có tính lịch sử, nhưng không có bức nào cho thấy một người Ácmêni bị giết, toàn là hình ảnh người Thổ được coi là bị hành hạ và sát hại” bởi bọn cướp Ácmêni.
Nên biết 1 triệu rưỡi người Ácmêni trong các năm từ 1915 tới 1923, là năm chính thức cáo chung Đế Quốc Ottoman và năm ra đời của nền tân cộng hòa Thổ, một là bị sát hại hai là bị tống xuất trong một cuộc di tản bằng chân trong rét buốt và đói khát và do đó chết dọc đường. Họ đều là Kitô hữu vì quốc gia của họ là quốc gia đầu tiên toàn tòng theo Kitô Giáo vào năm 301, trước cả lệnh ân xá Kitô Giáo của Đế Quốc Rôma vào năm 313 và biến cố Kitô Giáo được Constantinô thừa nhận sau đó.
Thổ Nhĩ Kỳ lý luận rằng chính động thái của một số người Ácmêni chiến đấu cho Nga chống lại Đế Quốc Ottoman đã khiến cho việc tống xuất trên trở thành cần thiết. Nhưng người Ácmêni nói rằng điều đó không bao giờ biện minh được cuộc trừng phạt tập thể với một số lượng tử vong khủng khiếp như thế.
Quan điểm của người Ácmêni được phần đông sử gia thế giới thừa nhận và hiện có hơn 20 quốc gia trên thế giới thừa nhận ý niệm diệt chủng áp dụng cho biến cố đau thương này. Trong số các quốc gia thừa nhận ý niệm này có Tòa Thánh Vatican và trong việc kỷ niệm 100 biến cố này, Đức Phanxicô là người lên tiếng nhiều nhất và to nhất, khiến Thổ Nhĩ Kỳ gọi đại sứ của mình về.
Chứng cớ lịch sử
Nhân dịp này, nhà sử học Đức Michael Hesemann cho biết nhiều chi tiết đáng lưu ý, dựa vào 2,000 trang tài liệu của văn khố mật Vatican, chưa hề được công bố.
Theo Hesemann, lá thư Đức Hồng Y von Hartmann của Cologne viết năm 1913 đã làm ông tìm hiểu cặn kẽ biến cố diệt chủng trên. Đây là lá thư gửi cho Thủ Tướng Đức yêu cầu chính phủ can thiệp để ngăn ngừa cuộc diệt chủng người Ácmêni sau khi quân đội Nga rút khỏi vùng Đông Bắc Thổ Nhĩ Kỳ, một cuộc diệt chủng ngài ví với những cuộc bách hại Kitô hữu thời xưa, nhất là cuộc bách hại của Diocletian đầu thế kỷ thứ tư.
Đức Hồng Y nhấn mạnh rằng vì liên hệ gần gũi giữa Đức và Thổ Nhĩ Kỳ nên tội ác này sẽ gây nhục nhã cho danh tiếng của Đức và tạo hệ quả cho nhiều thế hệ về sau. Lời cảnh cáo này quả có tính tiên tri. Vì năm 1939, khi đặt kế hoạch sát hại các phần tử ưu tú của Ba Lan và nhiều tai họa khốc liệt khác, Hitler nói với thuộc hạ: “lịch sử luôn được viết bởi kẻ chiến thắng, và, dù gì, ngày nay, có ai còn nói tới Cuộc Diệt Chủng Ácmêni nữa đâu?”. Chối bỏ hay che đậy Cuộc Diệt Chủng Ácmêni đã khiến Hitler tàn ác đối với Ba Lan và cuộc tàn sát người Do Thái. Nếu bạn không nói sự thật, lịch sử sẽ luôn tự lặp lại.
Nhận định trên hoàn toàn phản ảnh nhận định của Đức Phanxicô rằng “che dấu hay bác bỏ tội ác cũng giống như để cho vết thương tiếp tục chẩy máu mà không chịu băng bó cho nó!”
Nhờ văn khố mật của Vatican mở cửa năm 2008, ông đã lục lọi được hơn 2,000 trang tài liệu gần như chưa được công bố, nghiên cứu hay đánh giá. Ngoài ra, ông còn tìm hiểu nhiều công trình của các sử gia như Kevorkian, Dadrian và nhiều người khác. Ông cũng khai thác các tài liệu bằng tiếng Đức, do các sĩ quan và các nhà ngoại giao làm việc tại Đế Quốc Ottoman, lưu trữ tại Bộ Ngoại Giao Đức. Ông còn dựa vào các phúc trình ngoại giao của Hoa Kỳ, nhất là phúc trình của Đại Sứ Hoa Kỳ tại Constantinople, Henry Morgenthau; và dĩ nhiên cả phúc trình tình báo của Anh, Pháp và các phúc rình ngoại giao của Ý ở Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng theo ông, các tài liệu của Vatican là hay nhất, là nguồn tài liệu thông tin hạng nhất.
Căn cứ vào nguồn tài liệu phong phú như trên, Hesemann cho hay các cuộc tàn sát diễn ra sau khi người Thổ lục tìm vũ khí tại các nhà người Ácmêni, hễ thấy súng ống, họ cho là bằng chứng âm mưu hay kế hoạch nổi loạn. Kết luận ấy phi lý vì người ở thôn quê giữ vũ khí chỉ để tự vệ. Thế là mọi đàn ông đều bị bắt, bị tra tấn, bị dẫn ra ngoài thị trấn hay làng mạc để tàn sát. Khỏi phải tống xuất.
Còn phụ nữ, trẻ em, người già thì buộc phải cuốc bộ di tản đi nơi khác, xa hàng trăm dặm, qua đồi núi vùng cao nguyên Anatolia, thường là không thực phẩm và nước uống. Ngay cả nước sông trên đường, họ cũng bị cấm uống. Họ bị hãm hiếp và cướp bóc bởi các bộ lạc sơn cước, bởi những người tù được thả và bởi chính quân tháp tùng, và trong số ít người sống thoát các cuộc lê bước đường trường này, nhiều người bị bỏ rơi trần truồng, bẩn thỉu và tủi nhục giữa cái nắng như thiêu của mặt trời Thổ và cái lạnh giá buốt về đêm.
Tuy nhiên, 350,000 người cũng tới được Sa Mạc Syria. Họ bị đưa vào trại tập trung, không thực phẩm, rất ít nước uống và đủ thứ bệnh dịch. Rồi sau đó khoảng nửa năm, họ lại buộc phải làm một cuộc lê bước mới vào sa mạc sâu hơn hoặc bị thảm sát. Cuối cùng chỉ còn vài chục ngàn người sống sót. Trong đó, rất nhiều trẻ mồ côi.
Đọc các chứng từ của nạn nhân, không ai cầm được nước mắt. Có những nữ tu bị hãm hiếp và quần áo bị lấy mất. Nhiều người hóa điên sau đó vì không chịu đựng nổi những giấc mơ hãi hùng. Có những bà mẹ liệng con xuống vực, xuống sông, để chúng chết, khỏi phải chịu đau đớn như họ phải chịu. Tự tử diễn ra hàng ngày.
Trong vòng mấy tháng, dân chúng Mosul và nhiều thành phố khác, dĩ nhiên là người Hồi Giáo, được chính phủ khuyên đừng uống nước sông vì nó bị ô nhiễm bởi hàng ngàn xác chết từ hai con sông Euphrate và Tigris dồn về. Tất cả đều có tài liệu chứng minh. Nhưng chính phủ Thổ vẫn chính thức bác bỏ.
Một cuốn sách của Bộ Du Lịch Thổ, tựa là “2,000 năm lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ”, có đoạn viết như sau: “chính phủ Ottoman quyết định rời cư các người Ácmêni từng can dự vào cuộc nổi loạn tới một nơi an toàn hơn, tức Syria và Lebanon… Diễn trình rời cư này được thi hành hết sức thành công vì phần lớn người Ácmêni được chuyển tới Syria an toàn”.
Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ cũng làm hết cách để dẹp bỏ việc coi biến cố trên là diệt chủng trong các sách giáo khoa trên thế giới hoặc ngăn cản việc nhìn nhận nó là diệt chủng.
Dĩ nhiên, bạn có thể tranh luận về việc định nghĩa chữ diệt chủng. Nhưng đối với Liên Hiệp Quốc từ năm 1948, bất cứ cuộc tàn sạt tập thể một nhóm người, dù là nhóm tôn giáo, hay một dân tộc đều là diệt chủng.
Lý do tôn giáo
Vì xét cho cùng, người Ácmêni bị giết không hẳn vì họ là người Ácmêni cho bằng vì họ là Kitô hữu. Các phụ nữ Ácmêni thường được để yên nếu chịu trở lại Hồi Giáo, rồi kết hôn với người Thổ hay bị bán làm nô lệ ở chợ hay ở các ổ điếm. Ít nhất, họ được sống thoát. Và điều này chứng tỏ người Ácmêni bị giết vì họ là Kitô hữu. Người Syria cũng bị giết vì cùng một lý do
.
Bởi thế, Hesemann coi đây vừa là cuộc diệt chủng, đúng như định nghĩa của Liên Hiệp Quốc, vừa là cuộc bách hại Kitô Hữu lớn nhất lịch sử, khi 2 triệu rưỡi người bị giết: 1 triệu rưỡi người Ácmêni và 1 triệu Kitô hữu Syria và Hy Lạp.
Đây cũng là nhận định của một chuyên gia khác về Vatican, nữ ký giả Franca Giansoldati của tờ Il Messaggero. Cô là tác giả cuốn sách mới xuất bản tựa là "La Marcia Senza Ritorno: Il Genocidio Armeno (Cuộc Diễn Hành Không Đường Về. Cuộc Diệt Chủng Ácmêni). Trong một cuộc phỏng vấn mới đây của Zenit, cô cho hay “cuộc diệt chủng người Ácmêni phát sinh từ các lý do chính trị và kinh tế, vì Đế Quốc Ottoman tuyệt đối mắc nợ và do đó phải trưng thu tài sản của người Ácmêni, vốn là thiểu số hết sức giầu có. Tuy nhiên, yếu tố căn bản để hiểu sắc thái tôn giáo của cuộc tận diệt này là sự kiện: để tự cứu mình, một thiểu số rất nhỏ các người Ácmêni đã quyết định theo Hồi Giáo và từ bỏ Kitô Giáo. Tức việc họ quyết định “tự đồng hóa” với người Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ. Và quả họ được cứu sống. Tất cả! Cho nên, xét cho cùng, sự kiện tôn giáo trong kế hoạch xóa sạch những người này khỏi mặt đất, như Đại Sứ Mỹ Morgenthau viết trong phúc trình của ông, nếu thoạt đầu chưa có tính quyết định, thì chẳng bao lâu sau đã trở thành chất dầu lửa làm cháy bùng lòng thù hận, khiến người ta đi săn lùng những người khác với mình”.
Công Giáo Ácmêni và Tông Truyền Ácmêni
Thiển nghĩ nhân dịp này, nên nói vài điều về Ácmêni và Kitô giáo tại quốc gia này. Ácmêni, tên chính thức hiện nay là Cộng Hòa Ácmêni, một quốc gia đồi núi tọa lạc tại vùng Nam Caucasus thuộc Tây Á, tây giáp Thổ Nhĩ Kỳ, bắc giáp Georgia, đông giáp Azerbaijan và nam giáp Iran. Diện tích nước này là 29,743 cây số vuông, với dân số 3,018,854. Đây là một quốc gia dân chủ, độc viện, đa đảng với một gia tài văn hóa lâu đời. Phó vương quốc (satrapy) Ácmêni từng được thiết lập trong thế kỷ thứ 6 trước CN. Qua thế kỷ thứ nhất trước CN, vương quốc Ácmêni đạt tới cao điểm của nó dưới thời Tigranes Đại Vương. Nó là quốc gia đầu tiên trên thế giới nhận Kitô Giáo làm tôn giáo chính thức của mình giữa cuối thế kỷ thứ ba và đầu thế kỷ thứ tư, niên hiệu chính thức là năm 301, trở thành quốc gia Kitô Giáo thứ nhất. Ngoài ra, còn có một công quốc (principality) sau biến thành vương quốc, dưới danh Nghĩa Vương Quốc Ácmêni ở Cilicia trên bờ Địa Trung Hải, giữa các thế kỷ 11 và 14.
Giữa thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ 19, lãnh thổ Ácmêni bao gồm Đông Ácmêni và Tây Ácmêni rơi vào ách thống trị của hai đế quốc thù nghịch nhau là Ottoman và Ba Tư. Hai đế quốc này thay nhau chiếm đóng Ácmêni. Giữa Thế kỷ thứ 19, Đông Ácmêni bị Nga chiếm đóng, Tây Ácmêni tiếp tục bị Đế Quốc Ottoman thống trị. Trong Thế Chiến I, người Ácmêni sống trên mảnh đất cha ông trong Đế Quốc Ottoman, bị tận diệt một cách có hệ thống trong cuộc Diệt Chủng Người Ácmêni như đã nói ở trên.
Sau gần 600 năm không có nhà nước, Ácmêni dành được độc lập năm 1918. Tuy nhiên, Cộng Hòa Ácmêni Đầu Tiên, bị bao vây bởi các quốc gia thù nghịch, đã bị Xô Viết hoá năm 1920. Giữa các năm 1922 và 1991, Ácmêni là thành phần của Liên Bang Xô Viết. Cộng Hòa Ácmêni hiện nay trở thành độc lập năm 1991.
Cộng Hòa Ácmêni thừa nhận Giáo Hội Tông Truyền Ácmêni, Giáo Hội quốc gia xưa nhất trên thế giới, là định chế tôn giáo đệ nhất đẳng của quốc gia. Gốc gác Giáo Hội Tông Truyền Ácmêni có từ thế kỷ thứ nhất. Theo truyền thống, Giáo Hội này được chính hai tông đồ của Chúa Giêsu là 2 Thánh Thađêo và Báctôlômêô tới Ácmêni giảng Đạo giữa các năm 40 và 60 Công Nguyên, thành lập.
Giáo Hội này thống thuộc Chính Thống Giáo Đông Phương. Theo bản tin của Catholic World News ngày 23 tháng Tư 2015, Giáo Hội này tách rời khỏi Tòa Thánh (Công Giáo) ngay sau Công Đồng Canxêđoan năm 451. Hiện nay nó có 6 triệu tín hữu trong khi Giáo Hội Công Giáo Ácmêni, hoàn toàn hiệp thông với Tòa Thánh, chỉ có 376,000 tín hữu. Con số này phù hợp với tỷ số 93% trong bài chính của Wikipedia nói chung về Armenia. Nhưng khi Bách Khoa Mở này nói riêng tới Giáo Hội Tông Truyền Ácmêni và Giáo Hội Công Giáo Ácmêni, thì con số tín hữu có khác: 9 triệu cho Giáo Hội Tông truyền và 1 triệu cho Giáo Hội Công Giáo, tỷ số hơn 11%.
Đại kết máu
Dù sao, người Công Giáo Ácmêni vẫn là thiểu số giữa các Kitô hữu Ácmêni. Tuy nhiên điều này không ngăn cản các vị Giáo Hoàng, từ đức Bênêđíctô XV của đầu thế kỷ 20, vào ngay lúc xẩy ra cuộc diệt chủng, cho tới đức Đương Kim Giáo Hoàng Phanxicô, hết lòng lên tiếng bênh vực chính nghĩa của người Ácmêni. Các ngài là tiếng nói mạnh mẽ nhất, kiên trì nhất, can đảm nhất chống lại bạo lực đối với người Ácmêni, dù bạo lực này đã xẩy ra cách nay 100 năm.
Cách riêng, Đức Phanxicô còn làm một cử chỉ minh nhiên hơn nữa qua việc nâng một vị thánh người Ácmêni lên hàng tiến sĩ Giáo Hội, một danh dự chỉ có 36 người được hưởng trong suốt lịch sử 21 thế kỷ của Giáo Hội, đó là Thánh Grêgôriô thành Narek, nổi tiếng về các trước tác và chú giải đầy chất thơ và được tôn kính như một trong các nhân vật vĩ đại nhất của tư duy tôn giáo Ácmêni. Cuốn “Sách Ai Ca”, sách cầu nguyện của ngài, được coi là một trong các kiệt tác và hiện vẫn còn được coi là một áng văn tuyệt hảo của nền văn chương Ácmêni.
Trong thánh lễ tưởng niệm biến cố diệt chủng Ácmêni tại Vatican, Đức Phanxicô giải thích với người Ácmêni lý do hành động của ngài và của các vị tiền nhiệm. Ngài nói: “Điều cần thiết, và quả là một bổn phận phải làm là tôn kính ký ức về họ, vì bất cứ khi nào ký ức mờ nhạt đi thì có nghĩa sự ác để mặc các thương tích mưng mủ. Che dấu hay bác bỏ tội ác cũng giống như để mặc các vết thương tiếp tục chẩy máu mà không chịu băng bó cho nó”.
Trong thông điệp gửi chung cho người Ácmêni, ngài viết thêm: “Trách nhiệm không những của dân tộc Ácmêni và của Giáo Hội hoàn vũ mà còn của toàn thể gia đình nhân loại là phải nhắc lại tất cả những gì đã xẩy ra, để những cảnh cáo từ thảm kịch này gìn giữ chúng ta đừng rơi vào bất cứ kinh hoàng nào tương tự nữa, vì nỗi kinh hoàng này chống lại Thiên Chúa và phẩm giá con người. Thực vậy, cả ngày nay nữa, các tranh chấp này đôi lúc thoái hóa thành những bạo lực không thể nào biện minh được, bị khuấy động bởi việc khai thác các dị biệt sắc tộc và tôn giáo. Tất cả các vị đứng đầu các chính phủ và các cơ quan Liên Hiệp Quốc được kêu gọi phản kháng các tội ác này bằng một ý thức trách nhiệm cương quyết, không nhường bước trước bất cứ hàm hồ hay thoả hiệp nào”.
Tuy nhiên, theo ngài tưởng niệm cũng nên là một cơ hội để mở lòng ra tha thứ, vốn là nguồn tạo bình an và hy vọng mới. Ngài nhắc lại chính lời lẽ của vị Tân Tiến Sĩ Hội Thánh, người đồng hương của họ, Thánh Grêgôriô thành Narek: “Lạy Chúa, xin hãy nhớ đến cả những người trong nhân loại vốn là kẻ thù của chúng con, và vì ích lợi của họ, xin ban cho họ sự tha thứ và thương xót… Đừng triệt hạ những kẻ bách hại con, nhưng hãy sửa đổi họ, nhổ tận rễ những con đường xấu xa của thế gian này, và cấy trồng điều thiện trong con và trong họ” (Sách Ai Ca, LXXIII).
Và lẽ dĩ nhiên, lý do sâu xa nhất vẫn là “đại kết máu”. Ngài viết thêm: “Mong cho dòng máu đổ ra đem lại phép lạ hợp nhất trọn vẹn giữa các môn đệ Chúa Kitô. Cách riêng, mong sao các dây liên kết bằng hữu huynh đệ vốn hợp nhất Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Tông Truyền Ácmêni được tăng cường. Chứng tá của biết bao anh chị em không người chống đỡ từng hy sinh mạng sống vì đức tin kết hợp mọi tuyên tín khác nhau: chính đại kết bằng máu đã dẫn Thánh Gioan Phaolô II đến việc cử hành chung mọi vị tử đạo của thế kỷ 20 nhân Năm Thánh 2000. Việc cử hành của chúng ta hôm nay cũng được định vị trong ngữ cảnh thiêng liêng và có tính Giáo Hội này. Các đại diện của hai Giáo Hội chúng ta đang tham dự biến cố này, biến cố mà nhiều tín hữu của chúng ta trên khắp thế giới đang hiệp ý một cách thiêng liêng, trong một dấu chỉ phản ảnh trên mặt đất sự hiệp thông trọn vẹn đang hiện hữu giữa các linh hồn trên thiêng đàng”.
Vũ Văn An
Sứ điệp ĐTC Phanxicô nhân Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi
VATICAN. Chúa nhật thứ tư Phục Sinh 26-4-2015, Chúa nhật Chúa Chiên Lành, cũng là Ngày Thế Giới cầu cho ơn gọi lần thứ 52.
Trong ngày này, ĐTC sẽ chủ sự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô để truyền chức linh mục cho 19 Phó Tế, như một cử chỉ khích lệ ơn gọi.
Tình hình ơn gọi trong Giáo Hội trên thế giới hiện nay không khả quan lắm. Theo thống kê mới nhất của Tòa Thánh, số tín hữu Công Giáo trong năm 2013 gia tăng và có 1 tỷ 253 triệu người, tức là tăng thêm 25 triệu, tương đương với 2%, so với năm 2012 trước đó. Số LM triều và dòng tăng thêm 1035 vị, và hiện có 415.348 vị: số LM giáo phận liên tục gia tăng tại Phi châu, Á châu và Mỹ châu. Tuy nhiên tại Âu Châu, số LM tiếp tục giảm. Đặc biệt số nữ tu trong Giáo Hội tiếp tục giảm sút trầm trọng và năm 2013 còn 639.575 chị, tức là giảm 1,2% so với năm trước đó, và giảm 6,1% so với tình trạng năm 2008. Bắc Mỹ có số nữ tu giảm nhiều nhất: 16.6% trong vòng 5 năm qua, tiếp đến là Âu Châu: giảm 12,6% trong cùng khoảng thời gian đó.
Một điều đáng lo nữa, đó là số đại chủng sinh triều và dòng trên thế giới liên tục giảm sút trong 2 năm qua, và còn 118.251 thầy tính đến cuối năm 2013, tức là giảm mất 2.365 thầy kể từ cuối năm 2011.
Những sự kiện đó càng thúc đẩy các tín hữu quan tâm, gia tăng cầu nguyện cho ơn gọi và góp phần vào việc khơi dậy, nuôi dưỡng và hỗ trợ việc mục vụ ơn gọi.
Như mọi năm, nhân dịp Ngày Thế Giới cầu cho ơn gọi, ĐTC đã công bố sứ điệp để nhắn nhủ các tín hữu về ngày này. Năm nay Sứ điệp có chủ đề là ”Xuất hành, kinh nghiệm cơ bản về ơn gọi”. Chúng tôi xin gửi đến quí vị toàn văn sứ điệp của ĐTC.
Toàn văn sứ điệp của Đức Thánh Cha
Anh chị em thân mến,
Chúa nhật thứ 4 mùa Phục Sinh trình bày cho chúng ta hình ảnh vị Mục Tử nhân lành biết rõ các chiên của mình, kêu gọi, nuôi dưỡng và dẫn dắt chúng. Trong chúa nhật này, từ hơn 50 năm nay, chúng ta cử hành Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi. Mỗi lần Ngày này đều nhắc nhớ chúng ta về tầm quan trọng của việc cầu nguyện, để, - như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ, - ”xin chủ mùa gặt sai nhiều thợ đến làm việc trong mùa gặt của Người” (Lc 10,2). Chúa Giêsu diễn tả mệnh lệnh này trong bối cảnh một cuộc sai đi truyền giáo: ngoài 12 tông đồ, Chúa còn gọi 72 môn đệ và sai họ đi từng hai người một để thi hành sứ vụ (Lc 10,1-16). Thực vậy, nếu Giáo Hội ”tự bản chất là truyền giáo” (Ad Gentes 2), thì ơn gọi Kitô chỉ có thể nảy sinh giữa lòng kinh nghiệm truyền giáo. Như thế, lắng nghe và theo tiếng Chúa Kitô Vị Mục Tử nhân lành, để cho mình được Chúa thu hút và dẫn dắt, dâng hiến chính cuộc sống của mình cho Chúa, có nghĩa là để cho Chúa Thánh Linh dẫn đưa chúng ta vào trong năng động truyền giáo, khơi dậy nơi chúng ta ước muốn và lòng can đảm vui mừng hiến dâng cuộc sống chúng ta, dành cuộc sống để phục vụ chính nghĩa Nước Thiên Chúa”.
Sự hiến dâng cuộc sống của mình trong thái độ truyền giáo chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta có khả năng ra khỏi chính mình. Vì thế, trong Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi lần thứ 52 này, tôi muốn suy tư về sự 'xuất hành' đặc biệt, tức là ơn gọi, hay đúng hơn, là lời đáp trả của chúng ta đối với tiếng gọi của Thiên Chúa gửi đến chúng ta. Khi chúng ta nghe từ ”xuất hành”, chúng ta
nghĩ ngay đến khởi đầu lịch sử tuyệt vời của tình yêu giữa Thiên Chúa và dân tộc con cái ngài, một lịch sử tiến qua những ngày thê thảm, làm nô lệ ở Ai Cập, việc Chúa gọi ông Môisê, biến cố giải thoát và hành trình tiến về đất hứa. Sách Xuất Hành, cuốn thứ hai trong bộ Kinh Thánh, kể lại lịch sử ấy, trình bày một dụ ngôn về toàn thể lịch sử cứu độ, và năng động cơ bản của niềm tin Kitô. Thực vậy, tiến từ trình trạng nô lệ của con người cũ tới cuộc sống mới trong Chúa Kitô chính là công trình cứu độ diễn ra nơi chúng ta nhờ đức tin (Ep 4,22-24). Tiến trình này thực sự là một ”cuộc xuất hành”, là hành trình của tâm hồn Kitô và của toàn thể Giáo Hội, là hướng đi quyết định của cuộc sống hướng về Chúa Cha”.
”Nơi căn cội của mỗi ơn gọi Kitô có một chuyển động cơ bản của kinh nghiệm đức tin: tin có nghĩa là rời bỏ chính mình, ra khỏi tiện nghi thoải mái và sự cứng nhắc của cái tôi để tập trung cuộc sống của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô; giống như Tổ Phụ Abraham rời bỏ quê hương, lên đường trong niềm tín thác, vì biết rằng Thiên Chúa sẽ chỉ đường cho để tiến về đất mới. Không được hiểu sự ”ra đi” này là sự coi rẻ cuộc sống, coi nhẹ tâm tình và nhân tính của mình, trái lại, ai lên đường theo Chúa Kitô thì sẽ tìm được cuộc sống sung mãn, đặt trọn bản thân phụng sự Thiên Chúa và Vương Quốc của Ngài. Chúa Giêsu đã nói: ”Ai từ bỏ gia cư, hoặc anh em, chị em, cha mẹ, hay con cái, đồng ruộng, vì danh Thầy, thì sẽ nhận được gấp trăm và sẽ được sự sống đời đời làm gia sản” (Mt 19,29). Tất cả những điều ấy có ăn cội sâu xa nơi tình yêu. Thực vậy, ơn gọi Kitô trước tiên là một lời mời gọi yêu thương, thu hút và gửi chúng ta đi xa hơn bản thân mình, giải tỏa sự tập trung vào mình, khơi lên một ”cuộc xuất hành trường kỳ ra khỏi cái tôi bị khép kín để giải thoát nó qua sự hiến thân, và nhờ đó tiến về sự tìm lại bản thân, hay đúng hơn là sự khám phá Thiên Chúa” (Deus Caritas est, 6).
ĐTC viết tiếp: ”Kinh nghiệm xuất hành chính là mô hình của đời sống Kitô, nhất là những người đón nhận ơn gọi đặc biệt tận hiến phục vụ Tin Mừng. Kinh nghiệm ấy hệ tại thái độ luôn tái hoán cải và biến đổi, luôn luôn tiến bước, đi từ sự chết đến sự sống như chúng ta cử hành trong toàn thể mục vụ: đó là một năng động vượt qua. Xét cho chúng, từ việc Chúa gọi Abraham tới việc kêu gọi Môisê, từ hành trình của Israel trong sa mạc cho đến cuộc hoán cải như các ngôn sứ rao giảng, cho đến hành trình thừa sai của Chúa Kitô, với tột đỉnh là cái chết và sự sống lại của Ngài, ơn gọi luôn luôn là một hoạt động của Thiên Chúa làm cho chúng ta ra khỏi tình trạng ban đầu của mình, giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ, kéo chúng ta ra khỏi tập quán và sự dửng dưng, phóng chúng ta hướng về niềm vui hiệp thông với Thiên chúa và anh chị em. Vì thế, đáp lại tiếng gọi của Chúa chính là để cho Chúa làm cho chúng ta ra khỏi tình trạng ổn định giả tạo của mình để lên đường tiến về Chúa Giêsu Kitô là đích điểm đầu tiên và cuối cùng của đời ta, và là hạnh phúc của chúng ta”.
Năng động xuất hành không chỉ liên quan tới mỗi ơn gọi riêng, nhưng còn tới hoạt động truyền giáo và loan báo Tin Mừng của toàn thể Giáo Hội nữa. Giáo Hội thực sự trung thành với Thầy Thánh theo mức độ đó là một Giáo Hội ”đi ra ngoài”, không bận tâm về chính mình, về những cơ cấu và những chinh phục của mình, nhưng có khả năng ra đi, chuyển động, gặp gỡ các con cái Thiên Chúa trong hoàn cảnh thực tế của họ và đồng cảm với những vết thương của họ. Thiên Chúa ra khỏi chính mình, trong tác động yêu thương của Ba Ngôi, lắng nghe lầm than của dân Ngài và can thiệp để giải thoát họ (Xh 3,7). Cả Giáo Hội cũng được mời gọi sống và hành động như vậy: Giáo Hội loan báo Tin Mừng, đi ra ngoài gặp gỡ con người, loan báo lời giải thoát của Tin Mừng, chữa trị những vết thương của các linh hồn và thể xác bằng ơn thánh của Húa, nâng đỡ người nghèo và những người túng thiếu.
Anh chị em thân mến, sự xuất hành có đặc tính giải thoát, hướng về Chúa Kitô và những người anh em, cũng chính là con đường để hiểu trọn vẹn con người và làm tăng trưởng về mặt nhân bản và xã hội trong lịch sử. Lắng nghe và đón nhận tiếng gọi Chúa không phải là một vấn đề riêng tư và duy nội tâm, có thể bị lẫn lộn với cảm xúc nhất thời; trái lại đó là một dấn thân cụ thể, thực tế và trọn vẹn, bao trùm trọn cuộc sống của chúng ta, đặt cuộc sống ấy phục vụ cho việc xây dựng Nước Chúa trên trái đất này. Vì thế, ơn gọi Kitô, được ăn rễ sâu nơi sự chiêm ngắm trái tim của Chúa Cha, đồng thời thúc đẩy dấn thân liên đới giải thoát những người anh chị em, nhất là những người nghèo khổ nhất. Người môn đệ của Chúa Giêsu có con tim rộng mở đối với chân trời vô tận của Chúa và sống thân mật với Chúa, không bao giờ họ trốn chạy cuộc sống và thế giới, nhưng trái lại, ”họ sống theo tình hiệp thông truyền giáo” (E.G. 23).
ĐTC cũng khẳng định rằng:
”Tiến trình xuất hành hướng về Thiên Chúa và tha nhân như thế làm cho đời sống chúng ta đầy vui mừng và ý nghĩa”. Tôi muốn nói điều đó nhất là với các bạn trẻ là những người do tuổi và quan niệm của họ về tương lai đang mở ra trước mắt họ, họ biết sẵn sàng và quảng đại. Nhiều khi những điều bất định và lo âu về tương lai và không chắc chắn về cuộc sống thường nhật có nguy cơ làm tê liệt đà tiến của họ, cản trở những giấc mơ của họ, đến độ họ nghĩ là không bõ dấn thân, và Thiên Chúa của đức tin Kitô giới hạn tự do của họ. Trái lại, hỡi bạn trẻ thân mến, các bạn đừng sợ ra khỏi chính mình và lên đường! Tin Mừng là Lời giải thoát chúng ta, biến đổi và làm cho đời sống chúng ta trở nên tươi đẹp hơn. Thật là đẹp dường nào khi để cho tiếng gọi của Chúa làm cho chúng ta ngạc nhiên, đón nhận Lời Chúa và bước theo vết của Chúa Giêsu, trong sự thờ lạy mầu nhiệm Thiên Chúa và quảng đại hiến thân cho tha nhân! Cuộc sống của các bạn ngày càng trở nên phong phú và vui tươi hơn!
”Đức Trinh Nữ Maria, mẫu gương của mọi ơn gọi, đã không sợ thưa ”Xin vâng” đối với tiếng gọi của Chúa. Mẹ tháp tùng và hướng dẫn chúng ta. Với lòng can đảm quảng đại, Mẹ Maria đã hát lên niềm vui ra khỏi chính mình và phó thác những dự phóng cuộc sống của Mẹ cho Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ để hoàn toàn sẵn sàng đón nhận ý định của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta; để chúng ta gia tăng ước muốn ra đi và ân cần hướng về người khác (Xc Lc 1,39). Xin Mẹ Maria bảo vệ và chuyển cầu cho tất cả chúng ta.
Vatican ngày 29-3-2015, Chúa nhật lễ lá.
Phanxicô Giáo Hoàng
G. Trần Đức Anh OP chuyển ý
Cộng sản và tôi
VRNs (15.04.2015) – Thanh Hóa – Tôi là một trong số hàng chục triệu nạn nhân của chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam. Câu chuyện mà tôi sắp kể ra đây chưa thể nào vạch trần hết tội ác của chủ nghĩa rừng rú này; nhưng cũng sẽ góp một phần nhỏ để những ai còn ngây thơ mù quáng đi theo nó sớm nhận ra và từ bỏ còn đường tăm tối được thêu dệt nên bằng những dối trá và tội ác.
Tôi sinh năm 1971, năm nay bước vào tuổi 44. Tuy chỉ mới độ tuổi này nhưng tôi đã từng nghe bố tôi kể lại và cũng đã phải trực tiếp chứng kiến cảnh gia đình tôi suốt 4 đời là nạn nhân của chủ nghĩa Cộng Sản.
Bắt đầu là bà nội của tôi: Bà tôi sinh năm 1890. (Không biết ông nội tôi mất từ bao giờ). Một tay bà phải vất vả nuôi một đàn con. Trong nạn đói năm 1945 các con của bà tôi nhiều người đã phải chết vì đói. Đến năm 1949 người con trai lớn của bà đã hăng hái gia nhập vào quân đội và tử trận tại Điện Biên Phủ năm 1954. Sau nhiều năm không nhận được tin tức gì của bác tôi nên bà tôi buồn đau héo hon khổ sở. Mãi tới khoảng năm 1973 gia mới nhận được một mãnh giấy thông báo rằng bác tôi đã hy sinh.
Trong khoảng thời từ năm 1954-1975, giai đoạn xảy ra cuộc nội chiến tại Việt Nam, dưới sự tuyên truyền của Cộng Sản những người thân của tôi lại tiếp tục như con thiêu thân lao vào cuộc chiến “xâm lược miền Nam” và làm công cụ cho việc bành trướng chủ nghĩa hung tàn cộng sản một cách vô điều kiện. Năm 1967, khi mà máy bay Mỹ ném bom miền Bắc. Quê tôi nằm ngay cạnh một nhà máy xay là nơi tập trung một lượng thóc gạo khá lớn để cung ứng cho chiến trường miền Nam, nơi đây có một cây cầu là nút giao thông quan trọng; vậy nên đã phải hứng chịu không biết bao nhiêu là bom đạn. Lúc đó tôi chưa được sinh ra, nhưng khi lớn lên chỉ nhìn những dãy hố bom chi chít và những hầm pháo còn lại trên đồng làng; tôi cũng nhận ra được một phần nào những đau thương trong quá khứ.
Theo bố tôi kể lại thì vào giai đoạn đó ở nông thôn miền Bắc mọi sinh hoạt của đời sống đều nằm dưới sự điều hành của hợp tác xã (HTX). Vào năm 1967 người vợ đầu của bố tôi bị HTX điều vào khu vực máy bay Mỹ thường ném bom, để vừa lao động sản xuất vừa phụ giúp bộ đội đắp hầm pháo và tiếp đạn. Rồi một mảnh bom đã cắt ngang cuộc đời bà ở độ tuổi 35, để lại sau lưng 2 đứa con thơ cho chồng. Bố tôi cui cút một tay nuôi 2 con nhỏ một bà mẹ già. Vừa đau buồn bởi cảnh chia ly bất ngờ vừa lam lũ với cảnh “đùm cơm vạt áo, đùm cháo lá khoai”. Bố tôi lâm bệnh hen suyễn từ đó. Rồi tình cờ ông gặp mẹ tôi.
Mẹ tôi là một người phụ nữ cũng gặp nhiều đắng cay trong cuộc sống, bà đã 3 lần tiễn đưa người thân vào quân ngũ mà không còn gặp lại. Hai người em trai của bà và một người chồng mới cưới. Cả 3 đều ngã xuống trong mặt trận phía Nam. Mười năm trông ngóng tin chồng trong vô vọng. Ai cũng tin rằng chồng bà đã chết tại chiến trường; nhưng mãi vẫn không có giấy báo tử. Họ hàng bên chồng bà khuyên bà nên đi bước nữa. Bà nấn ná mãi rồi mới quyết định khăn gói về sống chung với bố tôi. Cảnh “rổ rá cạp lại”, tưởng rằng sẽ san sẻ gánh nặng cho nhau, nào ngờ giông bão cuộc đời lại ập xuống những mãnh đời rách nát như họ.
Bố tôi kể lại: Ngay sau khi mẹ tôi khăn gói về sống cùng ông vào năm 1970, đêm nào cũng vậy, cứ 8 giờ tối là dân quân xã lại khua trống tập trung lực lượng kéo tới túp lều tranh nho nhỏ mà bà và bố mẹ cùng các anh chị tôi đang sống. Dân quân trói mẹ tôi đưa ra điếm làng xét tội vì lý do “không chung thủy với chồng là bộ đội”. Có hôm thì họ lại trói bố tôi thay vì mẹ tôi. Họ đưa ông ra điếm làng xét xử tội “cướp vợ bộ đội”. Cảnh tượng kinh hoàng đó đập vào mắt bà nội và các anh chị tôi làm họ vô cùng sợ hãi. Không phải chỉ một hai lần mà kéo dài hàng tháng. Nhưng không thế lực nào chia cắt được tình cảm của hai người. Cũng có lúc mẹ tôi phải tạm lánh về quê ngoại. Rồi tin vui đã tới với cả gia đình. Mẹ tôi có mang tôi sau nhiều thử thách. Lúc này mẹ tôi tiếp tục về sống chung với bố tôi. Biết bà đang mang thai nên bọn người man rợ kia cũng đỡ bớt phần nào những hành động côn đồ ác thú. Nhưng nhà cầmquyền Cộng Sản không cấp khẩu cho mẹ tôi và không cho gia đình tôi vào HTX. Nhà 5 miệng ăn, không nguồn thu nhập, Mẹ tôi phải băng rừng vượt núi kiếm miếng ăn. Cuộc sống vất vả là vậy.
Những tưởng rằng Cộng Sản sẽ buông tha, nào ngờ năm 1974 khi anh trai tôi mới 17 tuổi, cộng sản lại bắt anh tôi làm đơn “tình nguyện” đi bộ đội và rồi anh tôi đi mãi chẳng trở về. Khi gia đình tôi nhận được tin báo tử anh tôi; một lần nữa nước mắt bố mẹ tôi lại lăn dài trên gò má, những giọt nước mắt khổ đau chảy trên đầu tôi thấm sâu vào trong trái tim bé bỏng của tôi, khi tôi mới lên 4 tuổi.
Vào thời gian đó bên nhà chồng cũ của mẹ tôi cũng nhận được tờ giấy báo tử muộn màng về người chồng của mẹ tôi đã tử trận từ năm 1968. Bao năm chắt chiu vất vả dành dụm bố mẹ tôi mua được một con bê nhỏ, lúc này nhà nước quyết định nhập khẩu cho mẹ tôi và cho gia đình tôi vào HTX với điều kiện phải công hữu con bê cho họ.
Trải qua nhiều sóng gió, cuộc sống tuy không đầy đủ nhưng cũng đã tạm yên thân, bố mẹ tôi sinh thêm cho tôi một cô em gái. Những tưởng rồi cuộc sống sẽ êm trôi theo năm tháng, với những gì người Cộng Sản đã tuyên truyền, nào ngờ sự thật không hề như vậy. Với một hoàn cảnh xuất thân nhiều bất hạnh nên cuộc đời tôi dường như không lối thoát bởi những gánh nặng nợ nần. Tôi còn nhớ vào khoảng những năm từ 1980 tới 1988, vì bố tôi bệnh tật không thể lao động được, gánh nặng gia đình chất chồng hết trên vai mẹ tôi. Mẹ vừa lo thuốc men cho chồng vừa nuôi hai anh em chúng tôi ăn học (lúc này chị gái tôi đã lấy chồng). Những sào ruộng nhận khoán của HTX không thể đủ ăn, Mẹ phải chạy vạy buôn bán bằng quang gánh, đi bộ tới các cửa hàng mua dầu hỏa và muối (do các nhân viên cửa hàng bán lậu), rồi gánh bộ hàng trăm km lên các vùng cao để bán hoặc đổi lấy sắn về nuôi chúng tôi. Cũng nhiều lần mẹ bị đại diện nhà nước thu trắng gánh hàng vì lý do buôn lậu. Đã khó lại càng khó thêm. Hàng vụ thu hoạch lượng thóc không đủ để trả nợ lại (vì lúc đó muốn vay được 10 kg thóc thì tới mùa phải trả gấp đôi, thậm chí gấp ba). Vì thế gia đình tôi không đủ thóc giao nạp cho HTX. Vụ này sang vụ khác, HTX tính lãi mẹ đẻ lãi con với lãi xuất 50% /vụ; không những thế mỗi năm lại còn phải nuôi lợn nộp nghĩa vụ 50 kg lợn hơi. Người còn không có để ăn thì lấy gì nuôi được 50 kg lợn?! Vậy nên gia đình tôi lại còn phải mắc nợ thêm khoản kg lợn hơi quy thành thóc. Cứ 1 kg lợn hơi quy thành 10 kg thóc. Như vậy hàng năm gia đình tôi phải mắc nợ 500 kg thóc. Có lần đoàn thu sản vào xiết nợ. Họ thấy trong nhà không có gì đáng giá, phát hiện trong chuồng có một con lợn khoảng 8 kg họ nhảy vào bắt bỏ bì và xách đi. Cả gia đình tôi chỉ biết nhìn theo trong nước mắt.
Tôi vẫn cứ thế lớn lên theo quy luật của Đấng tạo hóa. Tháng 9 năm 1990 tôi nhập ngũ hết 2 năm 6 tháng nghĩa vụ quân sự. Tháng 3 năm 1993 tôi trở về địa phương và kết hôn khi tuổi mới 22. Khi lập gia đình, đương nhiên tôi phải kế thừa một món nợ khổng lồ là 10 tấn thóc. Một số lượng mà khiến tôi không khả năng thanh toán. Sau khi đã chuyển đổi mô hình quản lý ruộng đất từ HTX sang cho Ủy Ban Nhân Dân, và giao ruộng xuống từng hộ gia đình tính theo đầu người tại thời điểm, gia đình tôi có 4 khẩu lẽ ra phải được giao 4 suất ruộng, nhưng vì còn mắc nợ cũ nên chỉ được nhận 1/2 diện tích theo tiêu chuẩn. 1/2 diện tích còn lại phải làm dưới dạng thuê đất với đóng góp cao hơn. Vì thấy quá thiệt thòi nên gia đình cố gắng vay mượn khắp nơi với lãi xuất 5%/tháng trả nợ 10 tấn thóc với giá 3000 đ/10 kg để được nhận ruộng bình thường.
Kể từ đó gia đình tôi không còn mắc nợ nhà nước, nhưng nợ tư nhân lại quá nhiều. Chúng tôi dốc hết sức để kéo cày trả nợ. Vào độ tuổi 35 tôi đã mắc nhiều bệnh tật do lao động quá sức. Tôi không làm lụng được như trước, nợ nần vẫn chồng chất, nên sinh ra rượu chè. Tôi mở một lớp học nho nhỏ phụ đạo cho mấy cháu học sinh lớp 9 trong làng để lấy tiền uống rượu.
Rồi một hôm như là định mệnh, tôi gặp một tín hữu của đạo Tin Lành; người đó tặng tôi vài cuốn sách nhỏ trong lúc tôi vẫn còn say. Tôi cầm sách trên tay mà chẳng biết sách gì. Khi tỉnh rượu tôi mang ra đọc và thấy những gì viết trong sách như đang nhảy múa mời gọi tôi theo Chúa Jesus. Tôi tìm tới gặp người đã tặng sách cho tôi. Từ đó tôi trở thành một tín hữu Tin Lành. Tôi từ bỏ rượu và sốt sắng ra đi nói về Chúa cho những người xung quanh. Nhờ vậy qua tôi cả gia đình tôi và nhiều người trong vùng đã tự nguyện đi theo Thiên Chúa.
Thình lình vào năm 2003 lực lượng nhà nước thông qua Mặt trận tổ quốc và công an ra tay đàn áp những người theo đạo Tin Lành ở quê tôi. Họ ép buộc người dân phải viết cam kết không theo đạo, nếu ai đã theo thì nhà nước bắt viết giấy bỏ đạo, chỉ còn lại gia đình tôi quyết giữ đức tin tới cùng. Thế là cứ mỗi ngày Chủ nhật các đầy tớ của dân lại tới canh cổng nhà tôi không cho ai ra vào, quyết ngăn không cho tôi đi thờ phượng Chúa. Nhiều lần họ bắt tôi ra hội trường thôn để tập trung đấu tố. Họ xuyên tạc vu cáo tôi là phản động. Những người “bạn của dân” không cho tôi quyền giải thích. Mỗi khi tôi đứng lên xin ý kiến phản biện thì liền có những bàn tay “nhân ái” tặng cho tôi một cái vả rồi nhấn đầu tôi xuống. Cả bố mẹ và vợ con tôi cũng không ngoại lệ. Họ liên tục bị nhà cầm quyền sách nhiễu đánh đập. Nhà nước tẩy chay hàng hóa mà vợ tôi buôn bán, cấm đoán không cho người mua bán quan hệ với gia đình tôi.
Vào đêm 30/4 năm 2004 khi mà dân làng tập trung tham gia buổi lễ ăn mừng 29 năm cướp trọn miền Nam, lúc mọi người đang ngất ngây trong chiến thắng, cán bộ cấp xã và công an huyện bỗng dưng đưa đề tài gia đình tôi theo đạo Tin Lành tức là theo Mỹ làm phản động ra để kích động quần chúng. Vậy là thình lình gia đình tôi bị cắt điện và nhận hàng loạt những gạch đá ném vào, rồi sau đó là một đoàn quân ô hợp hàng 100 người kéo vào. Họ đánh đập mọi thành viên trong gia đình, đập phá tài sản, bẻ gãy thánh giá, tháo gỡ bảng 10 điều răn rồi đập nát, đổ phân lợn xuông giếng nước, lấy hết thiết bị điện trong nhà. Sau khi họ bỏ đi để lại cho gia đình tôi một cảnh tan hoang với những con người đầy thương tích. Đêm đó vợ tôi phải đưa tôi đi lánh nạn. Ngày hôm sau ở nhà: Mặt trận tổ quốc lại lập đoàn tới “hỏi thăm” rồi yêu cầu bố tôi làm cam kết bỏ đạo thì họ sẽ cho người tới mắc lại điện và thôi không tấn công gia đình tôi nữa. Bố tôi không đồng ý nên họ uy hiếp rằng tôi sẽ bị đánh chết bất cứ khi nào và ở đâu, còn bố mẹ tôi sẽ chết mà không có chỗ chôn, các con tôi sẽ thất học…
Mặc những lời hăm dọa của những con người thất đức. Bố tôi vẫn không chấp nhận hợp tác. Trong thời gian lánh nạn tạm thời, tôi đã viết một lá đơn gửi tới các cấp cầm quyền từ địa phương, tới trung ương. Sau một tuần tôi mới trở về, đêm hôm đó là đêm 7/5/2004. Vẫn như lần trước đoàn quân vô đạo lại kéo tới đánh đập tôi tơi tả, máu me đầm đìa. Tôi lại phải tạm thời lánh nạn. Mấy ngày sau, Công an tỉnh Thanh hóa thông qua công an xã Quảng Yên, triệu tập tôi tới hội trường UBND xã để “làm việc”. Một mình tôi ngồi giữa hàng trăm công an các cấp và nhiều ban ngành trong xã, bên ngoài cổng UB có khoảng 20 tên đầu gấu cởi trần tay cầm gậy lăm lăm uy hiếp. Tại đây họ bắt tôi phải ký vào một biên bản thừa nhận rằng sự việc xảy ra tại gia đình tôi chỉ là do mâu thuẫn cá nhân không liên quan tới nhà nước. Ngay lập tức tôi phản ứng lại, tay công an làm việc với tôi chỉ tay ra phía cổng nói: Ký hay không tùy anh thôi, nhưng chúng tôi không dám bảo đảm an toàn cho anh khi ra khỏi đây! (Thú thật rằng tôi cũng thấy sợ hãi nên tặc lưỡi ký đại cho xong). Sau khi tôi đã ký vào biên bản đó thì buổi làm việc kết thúc với một lời đe dọa của trưởng công an xã rằng: Nếu mày không bỏ đạo thì con mày đi học chỉ cần tắm trong nước miếng của con thiên hạ cũng đủ chết. Tôi trả lời rằng: Tùy các anh thôi, cuộc sống gia đình tôi nằm trong tay Chúa, Ngài sẽ bảo vệ chúng tôi theo cách của Ngài.
Đúng như lời của trưởng công an xã Nguyễn Viết Đồng đã nói. Kể từ hôm đó đứa con trai lớn của tôi mới 10 tuổi đang học lớp 5, tới trường học liên tục bị bạn bè chế nhiễu, đánh đập và nhổ nước miếng vào người, vào mặt mà giáo viên vẫn làm ngơ.
Tuy vậy cháu vẫn cố gắng chịu đựng để vượt qua, vì cháu đã có chút nhận thức về hoàn cảnh thực tại của gia đình nên chấp nhận lặng yên. Đứa con gái nhỏ của tôi mới 6 tuổi còn đang học lớp 1 cùng phải chịu cùng hoàn cảnh như anh nó.
Nó tới trường học mà khi nào về cũng khóc vì bị các bạn véo, đánh, không ai thèm chơi với nó. Vậy là nó cứ thui thủi một mình một xó.
Và cũng vì vậy mà nó trở nên một đứa trẻ tự kỷ. Cũng từ năm đó con bé không lớn thêm được chút nào. Thương các con nhưng chẳng biết phải làm sao. Gia đình tôi cắn răng chịu đựng và phó mặc cho Thiên Chúa. Cũng có vài lần đưa con bé đi khám bệnh nhưng do không có tiền đi tuyến trên, gia đình tôi chỉ đưa bé tới bệnh viện huyện khám qua loa và nhận được câu trả lời là cháu vẫn bình thường.
(Nào ngờ mãi tới năm 2014 thấy con đã 16 tuổi mà vẫn chỉ như đưa trẻ lên 5, tôi quyết định đưa cháu ra Hà Nội khám lần nữa; thì than ôi tôi choáng váng khi bác sĩ cho biết rằng con bé bị liệt tuyến yên đã 10 năm nên không còn khả năng chữa trị). Mặc dù sống giữa chông gai và gông xiềng Cộng sản nhưng tôi luôn vững tin vào Thiên Chúa. Tôi tiếp tục bước đi giữa những gian nan và thử thách. Tôi tiếp tục đi nhiều nơi để chia sẻ niềm tin về Thiên Chúa. Không ít lần tôi bị đón đường và bị công an Cộng Sản bắt bớ đánh đập. Rồi tôi được Chúa thương nên cho tôi cơ hội được tham gia vào các khóa học thần học.
Tôi trở thành mục sư của một hội thánh nhỏ ở quê hương Thanh Hóa. Chỉ đơn thuần vì lý do tín ngưỡng mà tôi liên tiếp bị những người “bạn của dân” tìm mọi cách đàn áp. Rồi ngày 15/1/2011 tôi bị bắt và bị kết án 2 năm tù giam và 2 năm quản chế theo điều 88 quái gở. (Khi kết án tôi, tay chủ tọa phiên tòa còn lớn tiếng nói rằng: Những thân nhân của tôi đã ngã xuống vì chế độ nay sẽ rất xấu hổ vì tôi). Tuy nhiên tôi tin rằng những người thân của tôi đã đổ máu xương cho chế độ này nếu thực sự có linh thiêng thì họ sẽ rất tự hào về tôi.
Bởi tôi đã tiếp tục bước đi trên con đường tranh đấu cho một nền tụ do dân chủ thật sự.
Tôi tin chắc một điều, vong linh của những người đã ngã xuống sẽ vô cùng đau đớn khi mà những kẻ ngồi trên những chiếc ngai được xây bằng máu xương đồng bào lại tráo trở đảo lộn trắng đen.
Tôi bỏ lại phía sau lưng mình ba đứa con thơ, cùng bố mẹ già và hội thánh thân thương cho người vợ hiền gánh vác.
Hết 2 năm tù oan nghiệt, tôi trở lại gia đình cùng với vợ con bước tiếp chặng đường đầy những chông gai nhưng tràn đầy hy vọng. Tôi vừa phải chia tay người chị gái thân kính và người cha già mẫu mực. Họ đã vĩnh viễn ra đi về nước Chúa. Trước lúc xuôi tay bố tôi còn gắng dặn dò tôi thêm lần nữa: Con hãy cố lên đừng bao giờ bỏ cuộc, ngày cáo chung của Cộng sản đã gần rồi.
Mục sư Nguyễn Trung Tôn
ĐT: 01628387716
Email:
Nguồn: DCCT
Với 829 hiển thánh và 677 á thánh trong 2 năm triều đại giáo hoàng của ĐGH Phanxicô
Trong suốt hai năm của triều đại giáo hoàng của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô phong chân phước cho 677 vị và phong thánh cho 829 vị. Con số này sẽ tăng lên 830 khi nhà truyền giáo Tây Ban Nha Junipero Serra được phong chân phước trong chuyến đi đến Hoa Kỳ của Đức Thánh Cha vào tháng 9.
Việc phong thánh được mong đợi nhất là trường hợp của Đức Đức Gioan Phaolô II và Đức Gioan XXIII vào ngày 27 tháng 4 năm 2014.
Đức Thánh Cha Phanxicô,27 Tháng 4, 2014:
“Các ngài là những linh mục, giám mục và giáo hoàng của thế kỷ XX. Các ngài đã chịu đựng tấn bi kịch nhưng không áp đảo được các ngài. Sức mạnh của Thiên Chúa đã kiên trì hơn trong các ngài.”
Trong số phong chân phước nổi bật khác: Đức Phaolô VI vào tháng 10 năm 2014. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nêu gương vị giáo hoàng này nhiều lần.
Đức Thánh Cha Phanxicô, Ngày 19 tháng 10 năm 2014:
"Khi chúng ta nhìn vào vị Giáo Hoàng vĩ đại này, một Kitô hữu dũng cảm, một tông đồ không mệt mỏi, chúng ta không thể không nói trước mặt Thiên Chúa một lời đơn giản vì nó thể hiện sự chân thành và quan trọng: “Xin tạ ơn Người!”
Chân Phước đầu tiên được công bố trong triều đại giáo hoàng của Đức Phanxicô cũng là người Tây Ban Nha, Cristobal của Thánh Catherine. Tiếp theo sẽ là Tổng Giám mục San Salvador, Oscar Romero, người mà bị ám sát vào ngày 24 tháng 3 năm 1980.
Trong những năm gần đây, đó là một trong những quá trình phức tạp nhất. Thậm chí một số người trong Vatican cảnh báo rằng vị giám mục Salvador là một người ủng hộ mạnh mẽ nền thần học giải phóng hơn là người mạnh mẽ ủng hộ người dân.
Đức Ông Jesus Delgado, Thư ký của Đức Ông Oscar Romero:
“Thần học giải phóng là những người trí thức, những người đã đưa ra những giải thích của mình tin rằng họ nói nhân danh quần chúng. Không. Đó là hai điều rất khác nhau. Đức Ông Romero đã có thể làm sáng tỏ đức tin của người dân, sự tận tụy hết mình. Đó là lý do tại sao họ gọi ngài là tiếng nói của những người thầm lặng. Ngài đã phá tan sự im lặng. Và đây là tội lớn đầu tiên của Romero đối với các chính trị gia: đã lên tiếng nói cho những người nghèo. Đó là tội lớn đầu tiên ngài cam kết mà ngài đã ngưng vì cái chết.”
Việc phong chân phước của Óscar Romero sẽ diễn ra vào tháng 23 tháng 5. Tuy nhiên, buổi lễ phong chân phước Đức Thánh Cha không chủ sự. Điều đó là vì đức Benedict XVI đã sửa lại, nghi thức được tổ chức tại giáo phận của tân chân phước.
Đức Thánh Cha Phanxicô chỉ chủ sự các nghi lễ phong chân phước trong một số trường hợp. Ngài đã thực hiện trong những chuyến đi Hàn Quốc và Sri Lanka, hai quốc gia mà người Công giáo chiếm thiểu số.
Jos. Tú Nạc, NMS
Góp một chữ ký cho Nhân Quyền 2015
VRNs (11.04.2015) – California, USA – Ngày 30 tháng 4 năm 2015 tới đây sẽ đánh dấu 40 năm đảng cộng sản Việt Nam đặt ách thống trị trên toàn cõi Việt Nam. Trong suốt thời gian cầm quyền, chính quyền cộng sản Việt Nam chưa một lần chứng tỏ thiện chí trong việc tôn trọng những quyền căn bản của con người, mà bất cứ ai sinh ra phải được thừa hưởng. Ngược lại, họ đã không ngần ngại sử dụng mọi hình thức từ thô bạo đến tinh vi, để trấn áp những cá nhân và phong trào lên tiếng đòi hỏi những quyền căn bản này. Sự đàn áp đã không hủy diệt được phong trào đòi dân chủ, nhân quyền. Trái lại, ngày càng có thêm nhiều cá nhân và tổ chức lên tiếng bày tỏ chính kiến của họ.
Cụ thể là ngày 12 tháng 3 năm 2015, 27 tổ chức dân sự, tôn giáo và truyền thông trong và ngoài Việt Nam, cùng với 163 cá nhân đã phát động phong trào gửi thỉnh nguyện thư lên Liên Hiệp Quốc và các cơ quan ngoại giao các nước, để vận động sự ủng hộ của quốc tế cho công cuộc đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam.
Việc toàn cầu hóa trong giao thương cùng với những chỉ số yếu kém của nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, đã giúp chúng ta nhận thấy hậu thuẫn quốc tế thông qua áp lực kinh tế là một chiến lược quan trọng trong việc đấu tranh bất bạo động.
Mục đích của việc gửi thỉnh nguyện thư là có được 100.000 (một trăm nghìn) chữ ký. Sau hai tuần phát động thỉnh nguyện thư, đã nhận được hơn 11 nghìn chữ ký. Cùng góp sức cho phong trào, hội Phụ Nữ Vì Nhân Quyền Việt Nam (WFHR) khẩn thiết kêu gọi mọi người dành chút thời gian để ký tên và tiếp tay phổ biến thỉnh nguyện thư. Quí vị có thể vào trang nhà của phong trào tại www.nhanquyen2015.net để biết thêm chi tiết. Tại đây sẽ có hướng dẫn và đường truyền để quí vị ký vào thỉnh nguyện thư.
Khẩu hiệu của phong trào là “CHÚNG TA LÀ MỘT” (WE ARE ONE). Chúng tôi rất hy vọng mọi người sẽ góp tiếng nói chung, để tất cả cùng lên tiếng đòi những quyền căn bản cho bản thân, gia đình và dân tộc Việt Nam.
Chân thành cám ơn.
Lanney Trần
Chủ tịch hội Phụ Nữ Vì Nhân Quyền
L.tran@wfhrvn.org
Đức Hồng Y Müller trả lời phỏng vấn của Báo La Croix: một trách vụ mới cho Bộ Tín Lý
Ký giả lão thành Andrea Tornielli vừa cho hay: trong một cuộc phỏng vấn gần đây, Đức Hồng Y Gerhard Ludwig Müller, Tổng Trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin đề nghị: Thánh Bộ của ngài nên đảm nhiệm một lãnh vực trách nhiệm mới là cung cấp cơ cấu thần học cho triều giáo hoàng. Đây là một trách vụ chưa bao giờ được nhắc đến trong các văn kiện mô tả chính xác các năng quyền của Thánh Bộ này.
Thực thế, trong cuộc phỏng vấn của Nhật Báo Công Giáo Pháp La Croix, Đức Hồng Y Muller tuyên bố rằng “Việc một nhà thần học như Đức Bênêđíctô XVI lên ngai tòa Thánh Phêrô chắc chắn là một ngoại lệ. Nhưng Đức Gioan XXIII không phải là một thần học gia chuyên nghiệp. Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng nặng về mục vụ hơn nên sứ mệnh của chúng tôi tại Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin là cung cấp cơ cấu thần học cho triều giáo hoàng”. Như thế, theo tuyên bố của Đức Hồng Y Müller, Bộ Giáo Lý Đức Tin của ngài phải “lên cơ cấu thần học” cho triều giáo hoàng của Đức Phanxicô. Và đây có lẽ là lý do khiến cho vị tổng trưởng của Thánh Bộ này đưa ra nhiều tuyên bố công khai trên căn bản thường xuyên, như chưa từng có trước đây.
Đây quả là mẩu tin đáng lưu ý nếu ta nhớ điều 48 của Tông Hiến “Pastor Bonus” do Đức Gioan Phaolô II công bố năm 1988 về Giáo Triều Rôma: “Nhiệm vụ chuyên biệt của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin là cổ vũ và gìn giữ tín lý đức tin và luân lý trong toàn thể thế giới Công Giáo”.
Trong khi đó, “do thánh ý của chính Chúa Kitô”, như Đức Phanxicô nhắc lại vào lúc kết thúc Thượng Hội Đồng năm 2014, Đức Giáo Hoàng là “mục tử và thầy dạy tối cao của mọi tín hữu” (giáo luật điều 749). Cho tới một vài thập niên vừa qua, chính Đức Giáo Hoàng là vị đích thân chủ trì Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin (Đức Phaolô VI là vị cuối cùng làm việc này). Vì chỉ có ngài, do quyền tối thượng Phêrô, mới có thẩm quyền thi hành nhiệm vụ này. Quyền tối thượng này vốn thuộc Giám Mục Rôma, bao gồm việc chủ trì “trong đức ái” và giải quyết các vấn đề thần học khi cần.
Ký giả Tornielli cho rằng dù lời tuyên bố của Đức Hồng Y Müller gần như không được ai chú ý, nhưng quả chúng mở ra cả một khung cảnh học lý mới đối với truyền thống Giáo Hội. Mặt khác, dường như theo đó, triều giáo hoàng hiện nay và cả triều giáo hoàng của Đức Gioan Phaolô II đều thiếu một cơ cấu thần học đầy đủ.
Trả lời phỏng vấn của báo La Croix
Ngày 29 tháng Ba năm 2015, nhân dịp tới Pháp để phát hành cuốn đầu tiên trong trọn bộ tác phẩm của thần học gia Joseph Ratzinger (Đức Bênêđíctô XVI), Đức Hồng Y Müller đã được Báo La Croix phỏng vấn về nhiều vấn đề.
Được hỏi ngài quan niệm ra sao vai trò của ngài dưới triều giáo hoàng của Đức Phanxicô, Đức Hồng Y Müller, sau khi nhấn mạnh tới trách vụ mới như đã nói ở trên, ngài cho biết thêm: “tôi đánh giá cao kinh nghiệm của Đức Đương Kim Giáo Hoàng đến từ Châu Mỹ La Tinh. Tôi vốn nhiều lần tới Peru và nhiều nước Châu Mỹ La Tinh khác. Tôi biết ít nhiều tình hình và nhất là cảnh nghèo ở đấy, tuyệt đối khác với những gì chúng ta hiện thấy tại Âu Châu. Tôi nghĩ rằng đây là sứ mệnh vĩ đại của Đức Phanxicô: hợp nhất thế giới, vượt qua sự khác nhau quá lớn giữa các nước Âu Châu và Bắc Mỹ, và các nước Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh và Châu Á. Ngài nhắc ta nhớ chỉ có một nhân loại duy nhất, một trái đất duy nhất, với một trách nhiệm phổ quát. Thông điệp sắp tới về môi trường sẽ nhấn mạnh tới trách nhiệm có tính hoàn cầu liên hệ tới khí hậu này, mọi người được hưởng các của cải chung.
Điều trên xem ra rất gần với thần học giải phóng. Nhân dịp phong á thánh cho Đức Cha Romero, phải chăng nền thần học này sẽ được nhìn nhận chính thức? Đức Hồng Y Müller cho hay: Nền thần học này chưa bao giờ bị kết án. Tuy nhiên phải vượt qua nguy cơ hoàn toàn chỉ chú trọng tới khía cạnh chính trị hay xã hội. Nhưng mặt khác, đặc điểm Công Giáo là không phân ly chiều kích siêu việt khỏi thế giới… Với mầu nhiệm nhập thể, hai chiều kích này kết hợp với nhau một cách mật thiết. Chúng ta năng nói tới sự cứu rỗi toàn diện. Chúng ta có một học thuyết xã hội phát triển cả 150 năm nay và, trong Deus caritas est, Đức Bênêđíctô XVI cũng đã nhắc nhở việc phục vụ (diaconie) là hành động căn bản ra sao của Giáo Hội trong chức năng giải phóng cũng như trong các sắc thái chính trị. Chính trị không thể tự bằng lòng với vai trò quản lý. Chúng ta cần một nền luân lý liên đới, hợp nhất con người thay vì vị kỷ, duy vật, lấy lòng dân…
Được hỏi: có người cho rằng cho tới nay, Giáo Hội Công Giáo dường như chỉ biết dựa vào tín lý, liệu cái nhìn ấy có sắp thay đổi không, Đức Hồng Y Müller cho hay: người ta có cảm tưởng các vị giáo hoàng trước đây có định kiến về luân lý tính dục trong khi Đức Phanxicô muốn trở về với tính phổ quát của sứ điệp Tin Mừng. Tuy nhiên, sứ điệp của Đức Phanxicô cũng rất rõ ràng về tính dục con người được ý muốn của Thiên Chúa sắp xếp, chính Người đã dựng nên họ có nam có nữ. Giáo Hội bác bỏ mọi viễn kiến ngộ đạo hay nhị nguyên muốn biến tính dục thành một yếu tố tách biệt khỏi bản nhiên con người. Đức Giáo Hoàng muốn nới rộng suy tư để nhấn mạnh rằng sứ mệnh của Giáo Hội là đem hy vọng tới cho mọi người.
Đó chính là chủ đề của Thượng Hội Đồng sắp tới về “sứ mệnh của gia đình trong Giáo Hội và trong thế giới”. Liệu có chăng một tổng hợp khả hữu giữa những viễn kiến rất khác nhau từng chống đối nhau tại thượng hội đồng vừa qua?
Đức Hồng Y Müller trả lời rằng: trong tư cách bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, ngài chịu trách nhiệm đối với tính hợp nhất của đức tin. Ngài không thể thiên bên này thiên bên nọ. Mà sự việc cũng rất rõ ràng: chúng ta có lời Chúa Kitô về hôn nhân và các giải thích chân chính về chúng suốt trong lịch sử Giáo Hội: các công đồng Florence và Trente, tổng hợp trong Gaudium et spes và huấn quyền sau đó… Về phương diện thần học, mọi sự đều hết sức rõ ràng. Chúng ta đang đối diện với việc duy tục hóa hôn nhân với việc tách biệt giữa hôn nhân tôn giáo và ký kết dân sự.
Như thế, ta đã đánh mất các yếu tố vốn tạo thành hôn nhân như một bí tích và như một định chế tự nhiên. Sứ điệp của Giáo Hội về hôn nhân đi ngược lại chiều hướng duy tục hóa này. Ta phải tìm lại các nền tảng tự nhiên của hôn nhân và nhấn mạnh để những người đã nhận phép rửa biết rõ tính bí tích của hôn nhân như một phương thế lãnh nhận ơn thánh để tắm gội vợ chồng và toàn thể gia đình.
Được hỏi liệu các hội đồng giám mục có quá lỏng lẻo về các chủ đề này hay không, Đức Hồng Y Müller cho hay: cần phân biệt hai bình diện: tín điều và việc tổ chức cụ thể. Chúa Giêsu thiết lập ra các Tông Đồ với Thánh Phêrô như nguyên lý hợp nhất đức tin và sự hiệp thông bí tích. Đây là một định chế thuộc thiên quyền. Ngoài ra, ta còn có các cơ cấu giáo luật diễn biến theo hoàn cảnh. Các hội đồng giám mục nói lên tính hợp đoàn giám mục trên bình diện một quốc gia, một văn hóa hay một ngôn ngữ, nhưng đó là một tổ chức thực tế. Giáo Hội Công Giáo hiện hữu như một Giáo Hội phổ quát, trong sự hiệp thông mọi giám mục hợp nhất và dưới sự che chở của Đức Giáo Hoàng. Giáo Hội cũng hiện hữu trong các Giáo Hội địa phương. Nhưng Giáo Hội địa phương không phải là Giáo Hội Pháp hay Giáo Hội Đức, mà là Giáo Hội Paris, Giáo Hội Toulouse … tức các giáo phận. Ý niệm Giáo Hội quốc gia hoàn toàn lạc giáo. Tự trị trong đức tin là điều không thể có! Chúa Giêsu Kitô là cứu chúa của mọi người, Người thống nhất hóa tất cả mọi người.
Nhưng có thể có việc thay đổi kỷ luật mà không đụng gì tới tín lý hay không? Không thể, kỷ luật và mục vụ phải hành động phù hợp với tín lý. Tín lý không phải là một lý thuyết kiểu Platông mà ta có thể lấy thực hành mà tu sửa, nhưng là biểu thức nói lên chân lý mạc khải trong Chúa Giêsu Kitô.
Về vấn đề người ly dị tái hôn, có thể có việc thừa nhận cuộc kết hợp thứ hai, sau một thời kỳ thống hối, dù cuộc kết hợp này không có tính bí tích không? Đức Hồng Y Müller cho hay: nếu cuộc kết hợp thứ nhất vẫn còn giá trị, thì người ta không thể đồng thời kết ước cuộc kết hợp thứ hai. Con đường thống hối có thể có, nhưng cuộc kết hợp thứ hai thì không. Khả thể duy nhất là trở về với cuộc kết hợp thứ nhất hay sống cuộc kết hợp thứ hai như anh trai em gái: đó là lập trường của Giáo Hội, phù hợp với thánh ý Chúa Giêsu. Ngoài ra, luôn có con đường xin tòa án Giáo Hội tuyên bố cuộc kết hợp thứ nhất vô hiệu.Vũ Văn AN
Nguyễn Phú Trọng đã đầu hàng Tập Cận Bình
Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã thất bại ngay trong ngày đầu trong chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 10 tháng 4 khi ông phải chấp nhận mọi đòi hỏi ở Biển Đông của Chủ tịch Nhà nước-Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình.
Đây là lần đầu tiên ông Trọng sang Bắc Kinh kể từ sau ngày Trung Quốc rút gìan khoan Hải Dương 981 do họ đặt vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam để tìm kiếm dầu từ 2/5 đến 15/7/2014.
Trái với chuyến sang Bắc Kinh lần thứ nhất từ 11 đến 15/10/2011, lần này ông Trọng còn đem theo 4 Ủy viên Bộ Chính trị và Phó Thủ tướng-Bộ trưởng Ngọai giao Phạm Bình Minh là những người có triển vọng được lên cấp trong Ban Chấp hành Trung ương đảng khoá XII, dự trù được bầu vào tháng 1/2016.
4 Ủy viên Bộ Chính trị gồm Đinh Thế Huynh, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; Nguyễn Thị Kim Ngân, Phó Chủ tịch Quốc hội; Phùng Quang Thanh, Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Trần Đại Quang, Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Công an.
Có tin đồn đóan ông Trọng đem họ theo để giới thiệu với ông Tập Cận Bình như là nhóm lãnh đạo mới đồng thời cũng thông báo về quyết định của riêng ông tại Đại hội đảng XII. Có tin nói ông Trọng, 72 tuổi vào năm 2016 sẽ rút lui để nhường chỗ cho một Tổng Bí thư trẻ hơn.
Ông Trọng có làm như thế hay chỉ biết lắng nghe ông Tập Cận Bình thuyết gỉảng về hợp tác toàn diện, kể cả vấn đề Biển Đông, giữa hai đảng và hai nhà nước trong 2 giờ đồng hồ thì các bài tường thuật của báo chí đôi bên đã chứng minh như thế.
Trong thời gian có cuộc khủng hoảng giàn khoan HD 981 , Bộ Chính trị 16 người do ông Trọng đứng đầu đã không ủng hộ ý kiến đòi Quốc Hội ra một Nghị quyết lên án hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam của Trung Quốc.
Điều này dễ hiểu vì ông Trọng là người thân Trung Quốc, theo lời Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ CSVN tại Bắc Kinh.
Việc này cũng giải thích tại sao mà ông Tập Cận Bình và nhà nước Trung Quốc đã đón tiếp ông Nguyễn Phú Trọng như một Quốc trưởng tại Đại lễ đường Nhân dân ở thủ đô Bắc Kinh chiều 7/4 (2015).
Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) viết: “Đoàn môtô long trọng hộ tống xe của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiến vào khuôn viên Đại lễ đường. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình cùng nhiều lãnh đạo Trung Quốc đã nồng nhiệt chào đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đoàn.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bước lên bục danh dự; quân nhạc cử quốc thiều Việt Nam và Trung Quốc. Lễ đón diễn ra trang trọng với 21 phát đại bác chào mừng.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình mời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng duyệt đội danh dự và chứng kiến Đội danh dự diễu hành.”
Liệu cuộc đón tiếp linh đình này có làm cho ông Nguyễn Phú Trọng bị choáng ngợp để quên rằng khi Trung Quốc thi hành chỉ thị “bảo vệ chủ quyền biển” là quyền lợi cốt lõi của ông Tập Cận Bình thì Bắc Kinh đã khởi công biến các đá ngầm chiếm của Việt Nam ở Trường Sa tháng 3 năm 1988 thành các đảo nhân tạo trong khi Thế giới tập trung theo dõi diễn biến vụ Gìan khoan HD 981.
Hình ảnh của báo chí Đài Loan (Want China Times,02/09/2014) và Tây phương (Google Earth , DigitalGlobe, IHS Jane's Defense ngày 20 tháng 11 năm 2014) cho thấy quân đội và công nhân Trung Quốc đã làm việc ngày đêm để biến ít nhất 6 bãi đá ngầm Gạc Ma (Johnson South) , Ga Ven (Gaven), Châu Viên (Cuarteron), Chữ Thập (Fiery Cross), Tư Nghĩa (Hughes), và Én Đất (Eldad) thành các đảo . Ngoài Én Đất, tất cả bãi đá trên đều được giới chức Trung Quốc ấn định "ngày sinh" cụ thể vào tháng 7. Duy nhất còn lại đá Xu Bi chưa bị biến thành đảo.
Trung Quốc cũng đang bồi đắp nhiều khu vực trong vùng tranh chấp với Phi Luật Tân ở hai bãi Macclesfield (Macclesfield Bank) và bãi cạn Scarborough hay đảo Hoàng Nham Scaborough mà Bắc Kinh gọi chung là Trung Sa quần đảo.
Theo tài liệu của Bách khoa tòan thư (mở) thì : “ Macclesfield là một bãi ngầm dạng rạn vòng hoàn toàn chìm dưới mặt nước biển Đông. Bãi ngầm này nằm cách quần đảo Hoàng Sa 75 hải lí (139 km) về phía đông, ở vào khoảng giữa của đường hàng hải từ bờ biển miền Trung Việt Nam đến phía bắc đảo Luzon của Philippines.
Tên gọi của bãi ngầm xuất phát từ sự kiện tàu Macclesfield của Anh khám phá ra bãi này vào năm 1701.
Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đều tuyên bố chủ quyền đối với bãi Macclesfield.”
Trong khi đó, bãi Scarborough (đảo Hoàng Nham) nằm cách bờ tây đảo lớn của Philippines 230 km và cách Trung Quốc hơn 800 km về phía bắc.
Trung Quốc đã kiến thiết đường bay, bến cảng và đồn binh trên các đảo nhân tạo mới ở Trường Sa. Trong số này có Gạc Ma nằm trên đường tiếp vận từ Việt Nam ra Trường Sa trong khi Chữ Thập chỉ cách cảng Cam Ranh và sân bay Đà Nẵng khỏang 400 cây số. Các máy bay Trung Quốc có thể uy hiếp hay tấn công quân Việt Nam ở Trường Sa dễ dàng hoặc đánh thẳng vào Việt Nam trong vài giờ vì đã dự trữ sẵn nhiên liệu tiếp tế trên các đảo nhân tạo này.
THẢO LUẬN GÌ ?
Như vậy đe dọa quân sự của Bắc Kinh đối với Việt Nam đã rõ ràng nhưng không thấy phóng viên của Thông tấn xã Việt Nam hay Đài Tiếng nói Việt Nam (Voice of Vietnam, VOV) tháp tùng ông Trọng nhắc đến khi tường thuật về nội dung cuộc thảo luận giữa hai Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt-Trung.
Báo chí Trung Quốc, tiêu biểu như Tân Hoa Xã (Xinhua) và Đài Phát thanh Quốc tế Trung Hoa (China International Radio, CRI) cũng không nói gì đến vấn đề đang gây chú ý không những cho Việt Nam hay các nước trong khu vực Đông Nam Á mà cho cả Thế giới.
Ông Tập Cận Bình không nói đến chuyện Trung Quốc tái tạo các bãi đá thành đảo để dành chủ quyền ở Biển Đông là điều tất nhiên, nhưng khi Tổng Bí thư đảng CSVN né tránh thì không thiếu gì người Việt Nam muốn biết mục đích ông sang Bắc Kinh để làm gì cho tốn tiền của dân ?
Nếu ông Trọng đi Bắc Kinh chỉ để chứng kiến cấp thừa hành ký 7 văn bản thỏa thuận hợp tác giữa hai Đảng, Chính phủ và các bộ, ngành, cơ quan hai nước thì thật lãng phí.
Trong số các văn kiện đã ký đáng chú ý gồm :
-“Hiệp định về hợp tác dẫn độ giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa;”
-“Kế hoạch hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2016-2020;”
-“Điều khoản Tham chiếu Nhóm công tác hợp tác tài chính tiền tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc;”
-“Thỏa thuận về các vấn đề về thuế đối với Dự án thăm dò chung tài nguyên dầu khí tại vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc” giữa Bộ Tài chính nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Tài chính nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.”
Bản tin tiếng Việt của Đài Phát thanh Quốc tế Trung Hoa (CRI) viết về vấn đề xung đột ở Biển Đông: “ Hai bên nhấn mạnh cần phải quý trọng và gìn giữ tình hữu nghị truyền thống Trung-Việt, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung Quốc-Việt Nam phát triển bền vững. Hai bên còn đồng ý cùng nhau nỗ lực, kiểm soát tốt các bất đồng trên biển, cùng giữ gìn hoà bình và ổn định trên Nam Hải….”
"…Tổng Bí thư Tập Cận Bình chỉ rõ, hai bên cần tuân thủ những nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo hai Đảng và hai nước, cùng nhau kiểm soát tốt các bất đồng trên biển, giữ gìn đại cục của quan hệ Trung-Việt và hoà bình, ổn định trên Nam Hải.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bày tỏ tán thành và cho biết, hiện nay hai nước Việt Nam-Trung Quốc đều đang dốc sức cho sự nghiệp vĩ đại xây dựng Chủ nghĩa xã hội, đều kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đều đang thúc đẩy cải cách và đổi mới toàn diện, hơn lúc nào hết đều cần phải tăng cường hợp tác hữu nghị cùng có lợi, giải quyết thoả đáng các bất đồng, cùng nhau tạo dựng môi trường hoà bình, ổn định và phát triển. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, Việt Nam coi trọng cao độ phát triển quan hệ hữu nghị bền vững và ổn định với Trung Quốc, đây là chính sách ưu tiên và lâu dài của Việt Nam, là sự lựa chọn chiến lược.”
Rõ ràng hai bên không nói gì đến những chuyện đã và đang xẩy ra tại vùng biền Trường Sa.
Theo tin của Việt Nam (TTXVN và VOV) thì : “ Đối với vấn đề trên biển, (hai bên) nhấn mạnh tuân thủ nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc;” sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc, kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển. Cùng kiểm soát tốt bất đồng trên biển, thực hiện đầy đủ, có hiệu quả "Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC) và sớm đạt được "Bộ quy tắc về ứng xử của các bên trên Biển Đông" (COC) trên cơ sở hiệp thương thống nhất, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp; xử lý kịp thời, thỏa đáng vấn đề nảy sinh, duy trì đại cục quan hệ Việt-Trung và hòa bình, ổn định ở Biển Đông. Hai bên nhấn mạnh xây dựng COC là một phần quan trọng để giải quyết vấn đề trên biển. Trung Quốc đang cùng ASEAN bàn bạc nhiều lần để xây dựng COC.
Hai bên nhất trí thúc đẩy hoạt động của Nhóm bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này, sớm khởi động khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ trong năm 2015.”
Những chuyện này không có gì mới mà chỉ lập lại những điều hai bên Việt-Trung đã viết trong các văn bản họp giữa hai Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng và Lý Khắc Cường của Trung Quốc tại cuộc họp tại Milan, Italy ngày 16/10/2014, bên lề Hội nghị cấp cao ASEM-10 (The Asia–Europe Meeting,ASEM ).
Và tại các cuộc họp giữa Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì với Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Phó Thủ tướng, Bộ trường Ngọai giao Phạm Bình Minh tại Hà Nội tháng 10/2014.
Cũng như trong chuyến đi làm việc hai ngày tại Trung Cộng từ 26 đến 27/08 (2014) của đặc phái viên Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đã không đem chút thắng lợi nào về cho Việt Nam.
Cũng nên biết, chính Trung Quốc là nước đã gây ra cuộc khủng hoảng hiện nay ở Biển Đông khi họ tự vi phạm"Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC) ký tại Nam Vang (Kampuchia) ngày 04 tháng 11 năm 2002 giữa Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Hoa.
Và cũng chính Trung Quốc đã tìm mọi cách trì hoãn thương thuyết "Bộ quy tắc về ứng xử của các bên trên Biển Đông" (COC)
, trong đó có lý do chính là chỉ đồng ý đối thọai trực tiếp với các nước có tranh chấp biển đảo với Bắc Kinh, thay vì Quốc tế hoá hay nói chuyện Biển Đông với ASEAN như một khối.
Do đó, việc lập lại những chuyện “ai cũng biết rồi khổ lắm nói mãi” về hứa hẹn của Bắc Kinh đối với DOC và COC trong cuộc họp Nguyễn Phú Trọng-Tập Cận Bình chiều ngày 7/4/2015 chẳng qua chỉ nhằm kéo dài sự từ chối nói chuyện nghiêm chỉnh để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông của phiá Trung Hoa mà thôi.
Cam kết của ông Nguyễn Phú Trọng với ông Tập Cận Bình đồng ý “thúc đẩy đàm phán phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này, sớm khởi động khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ trong năm 2015” cũng tòan là chuyện hai nước đã thảo luận nhưng chưa dứt điểm trong suốt 2 năm qua.
Lý do vì Trung Quốc luôn luôn muốn phần hơn về mình và ép Việt Nam phải “vì đại cuộc quan hệ vừa là đồng chí vừa là anh em” và vì “phương châm 16 chữ vàng, tinh thần 4 tốt” (“láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt) mà chấp nhận yêu cầu “gác tranh chấp để cùng khai thác” của Trung Quốc.
Lập trường “gác tranh chấp cùng khai thác”, đúng ra, theo lời của Lãnh tụ Đặng Tiểu Bình đưa ra năm 1979 là “biển của ta, hãy gác tranh chấp để cùng khai thác”.
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Hoa, Chủ tịch nhà nước Tập Cận Bình cũng đã lập lại chủ trương này tại phiên họp ngày 30/11/2013 với Bộ Chính trị.
Ông ta nói : “Trung Quốc phải kiên trì phương châm "chủ quyền thuộc Trung Quốc, gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác" để thúc đẩy các hoạt động hợp tác hữu nghị cùng có lợi.” ( Báo Giáo dục Việt Nam, 01/08/2013)
Họ Tập đưa ra lập trường này sau khi ông và Thủ tướng Lý Khắc Cường (Li Keqiang) hòan tất chuyến công du ngọai giao cổ võ thân thiện với một số nước quan trọng trong Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) gồm Nam Dương, Mã Lai Á, Miến Điện, Thái Lan và Việt Nam
Chủ trương “hợp tác cùng phát triển” giữa Trung Cộng và Việt Nam trên các lĩnh vực kinh tế biên giới; giao thông đường bộ giữa hai nước; các dự án kinh tế có lợi cho Trung Cộng trong nội địa hai miền Nam và Bắc Việt Nam và hợp tác trên biển đã được hòan tất trong chuyến thăm “vắn tắt” Việt Nam 2 ngày từ 13 đến 15/10/2013 của Thủ tướng Trung Cộng Lý Khắc Cường (Li Keqiang).
Ở GIỮA HAY RA BÊN NGOÀI ?
Như vậy, những gì được lập lại giữa ông Trọng và Tập Cận Bình về việc khai thác chung ở “vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ” là ở đâu nếu không phải là ở Biển Đông ?
Vậy có gì khác với thỏa hiệp ký kết giữa Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Chủ tịch Nhà nước Trung Quốc Tập Cận Bình ngày 20/06/2013 tại Bắc Kinh ?
Hồi đó một “thỏa hiệp mới được phía Việt Nam gọi là “gia hạn” và “sửa đổi” lần thứ 4 hợp tác giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Tổng Công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (China National Offshore Oil Corporation, CNOOC), thì diện tích tìm kiếm chung sẽ mở rộng từ 1541 cây số vuông lên thành 4076 cây số vuông. Và hiệu lực của Thỏa thuận Thăm dò Chung có hiệu lực đến hết năm 2016.”
Khi đó ông Đỗ Văn Hậu-Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) đã giải thích về nguồn gốc của thỏa thuận giữa hai nước như thế này : “Theo Quy định tại Điều 7 của Hiệp định Việt Nam-Trung Quốc về Phân định Lãnh hải, Vùng Đặc quyền Kinh tế và Thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ (ký ngày 25/12/2000 và có hiệu lực từ ngày 20/6/2004), nếu có các mỏ dầu khí vắt ngang qua Đường Phân định, hai nước sẽ cùng nhau hợp tác khai thác chung.
Từ năm 2005, Tổng Công ty Dầu khí Quốc gia Việt Nam, nay là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) và Tổng Công ty Dầu khí Ngoài khơi Quốc gia Trung Quốc (CNOOC) đã ký kết và thực hiện Thỏa thuận Khung về hợp tác dầu khí trong Khu vực Thỏa thuận Ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ. Trên cơ sở kết quả thực hiện Thỏa thuận Khung, Thỏa thuận Thăm dò chung Việt Nam-Trung Quốc trong Khu vực xác định Ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký kết giữa Petrovietnam và CNOOC ngày 6/11/2006 và có hiệu lực từ ngày 2/1/2007, sau khi được Chính phủ hai nước phê chuẩn.”
Khi nói về “hợp tác cùng phát triển” ở vịnh Bắc Bộ dựa theo Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ hai nước ký ngày 25/11/2000 thì cũng có sự “khác biệt rất quan trọng” giữa Tuyên bố chung Hà Nội ngày 15/10/2013 và lời tuyên bố sau đó của Thủ tướng Trung Cộng Lý Khắc Cường.
Tuyên bố chung viết: “Hai bên nhất trí tăng cường chỉ đạo đối với các cơ chế đàm phán và tham vấn hiện có, gia tăng cường độ làm việc của Nhóm công tác vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và Nhóm công tác cấp chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Trên nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần tự tiệm tiến, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này và trong năm nay khởi động khảo sát chung ở khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ để thực hiện nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Nhanh chóng thực hiện các Dự án hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển như Hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ…”
Tuy nhiên sau đó ông Lý Khắc Cường được Tân Hoa Xã (Xinhua News Agency) của Bắc Kinh tường thuật trong bản tin tiếng Anh ngày 16/10/2013 viết rằng : “The cooperation of maritime exploration will be primarily focused on the Beibu Gulf, and later extended to further areas, Li said, adding that the bilateral drive is to tell the region and the world that the South China Sea has to be a peaceful and tranquil area.
Both China and Vietnam have the wisdom to properly handle their differences and prevent the South China Sea issue from disrupting the overall cooperation, Li said.”
(Tạm dịch: “Hợp tác trên biển sẽ tiên khởi tập trung vào khu vịnh Bắc Bộ, và SAU ĐÓ MỞ RỘNG QUA CÁC KHU VỰC KHÁC, theo lời ông Lý thì sự hợp tác song phương này nhằm chứng minh với các nước trong khu vực và thế giới thấy rằng vùng biển Nam Trung Quốc sẽ là khu vực hòa bình và an tòan. Trung Quốc và Việt Nam cùng có thiện chí giải quyết những khác biệt và ngăn chặn vấn đề biển Nam Trung Quốc làm phương hại đến sự hợp tác tòan diện của hai nước.”).
“Khu vực khác” mà Trung Cộng nhắm tới không phải là vùng biển Trường Sa của Việt Nam thì ở đâu ?
Phải chăng đó là lý do các bản tin của báo chí Việt Nam đã xác nhận vấn đề Biển Đông vẫn còn gai góc cho cả hai nước Việt-Trung trong cuộc họp Nguyễn Phú Trọng-Tập Cận Bình ?
TTXVN tường thuật từ Bắc Kinh chiếu 7/4 (2015) : “Bên cạnh đó, hai Tổng Bí thư cũng cho rằng quan hệ hai nước cũng có giai đoạn khó khăn, hiện nay một số lĩnh vực hợp tác giữa hai nước chưa đi vào thực chất, hiệu quả chưa cao; trở ngại lớn nhất chính là sự tin cậy chính trị chưa cao, chủ yếu là do bất đồng trong cách ứng xử, giải quyết vấn đề trên Biển Đông, tác động tiêu cực đến tâm tư, tình cảm của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực diễn biến phức tạp, cả hai nước đều đang đứng trước nhiều cơ hội to lớn nhưng thách thức cũng không nhỏ. Để tranh thủ được thời cơ, đối phó hiệu quả với thách thức, hơn bao giờ hết hai Đảng, hai nước cần tăng cường hợp tác hữu nghị, xử lý thỏa đáng bất đồng, cùng tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định để tập trung hợp tác, phát triển đất nước vì lợi ích của nhân dân hai nước, của cộng đồng khu vực và quốc tế.”
Nhưng “tin cậy chính trị chưa cao” và “bất đồng trong cách ứng xử, giải quyết vấn đề trên Biển Đông “ giữa hai nước Việt-Trung là ở chỗ nào mà hai ông Trọng và Tập Cận Bình không muốn cho dân hai nước biết, hay đó là cách nói có ngụ ý trách móc, đỗ lỗi thất bại cho Việt Nam của riêng Tập Cận Bình ?
Vì vậy mà bài viết tiếngg Anh của Tân Hoa Xã (Xinhua) từ Bắc Kinh ngày 7/4 (2015) đã trích lời họ Tập nói rằng : “ Xi said China and Vietnam are facing both new opportunities and challenges as the international situation is undergoing complex and profound changes He suggested the two parties, as well as the two countries, boost high-level interactions to find out new solutions to their problems and new ideas to advance the bilateral relationship in a sustained way.”
(Tạm dịch: Chủ tịch Tập nói Trung Quốc và Việt Nam đang phải đồi phó với cơ hội cũng như thử thách trong khi tình hình quốc tế càng ngày càng phức tạp và thay đổi không ngừng. Do đó, ông đề nghị hai đảng cũng như hai nước phải tăng cường hợp tác để tìm ra giải pháp mới cho những vấn đề quan hệ hai nước, cũng như những sáng kiến mới để phát triển quan hệ song phương bền vững.”)
Nhưng đằng sau lời lẽ ngọai giao mềm mỏng này của họ Tập đã khiến ông Trọng có phản ứng ra sao ?
TTXVN viết : “ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định phát triển ổn định, bền vững quan hệ hợp tác hữu nghị với Trung Quốc là chủ trương nhất quán, lâu dài và là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.”
Nhưng làm sao mà nhân dân Việt Nam có thể “phát triển ổn định, bền vững quan hệ hợp tác hữu nghị với Trung Quốc” khi Bắc Kinh không ngừng lấn chiếm biển đảo của Việt Nam ở Biển Đông và khống chế Việt Nam về mặt kinh tế, chính trị và ngọai giao ?
Ấy thế mà ông Trọng vẫn có thể hồ hởi hợp ca với Tập Cận Bình : “Mối quan hệ láng giềng hữu nghị “vừa là đồng chí, vừa là anh em” do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng nhiều thế hệ lãnh đạo tiền bối hai nước dày công vun đắp là nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của mỗi nước; là tài sản chung quý báu của hai Đảng và nhân dân hai nước, cần luôn được trân trọng, giữ gìn và không ngừng kế thừa, phát huy.”
Nếu là đồng chí, là anh em thì tại sao Bộ trưởng Ngọai giao Vương Nghị của Trung Quốc đã ngang ngược tuyên bố ngày 8/3 rằng : “Trung Quốc đang tiến hành xây dựng đảo nhân tạo cần thiết trong khu vực chủ quyền và điều này không gây ảnh hưởng đến ai. Chúng tôi không giống như một số quốc gia khác tiến hành xây dựng trái phép trong khu vực của người khác. Chúng tôi chỉ xây dựng đảo ngay trên sân nhà của chúng tôi”.
Vương Nghị đã nói như thế bên lề kỳ họp thường niên của Quốc hội ở Bắc Kinh để trả lời câu hỏi về việc Trung Hoa đang tái tạo 6 đá ngầm chiếm được của Việt Nam ở Trường Sa thành các đảo.
THÔNG CÁO CHUNG NÓI GÌ ?
Lập luận nhuộm máu thực dân và bá quyền của Vương Nghị có khác với những lời nói mềm mỏng nhưng đầy ẩn ý của Tập Cận Bình với ông Nguyễn Phú Trọng không, hay phiá Việt Nam, nạn nhân của người phương Bắc hàng nghìn năm, vẫn còn mơ hồ như đã viết trong Thông cáo chung Việt Nam-Trung Quốc, phổ biến ngày 8/4/2015, 2 ngày trước khi ông Nguyễn Phú Trọng kết thúc chuyến thăm 10 ngày ?
Trong số 9 điểm có nội dung phấn khởi và tin tưởng như hai nước chưa hề có chuyện gì xẩy ra, những điểm sau đây đáng chú ý:
“Hai bên nhất trí cho rằng chuyến thăm đã thành công tốt đẹp, góp phần quan trọng thúc đẩy quan hệ Việt - Trung phát triển ổn định, lành mạnh vì lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, đồng thời góp phần thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới.
Có thành công “tốt đẹp” không khi mà ông Trọng phải đồng ý với những đỏi hỏi của Tập Cận Bình, bằng chứng như :
“Hai bên bày tỏ vui mừng trước những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của mỗi nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhấn mạnh kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và con đường phát triển xã hội chủ nghĩa đặc trưng của mỗi nước là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với lợi ích căn bản của nhân dân hai nước. Hai bên sẽ tiếp tục nỗ lực, học hỏi lẫn nhau, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới của Việt Nam và sự nghiệp cải cách, mở cửa của Trung Quốc phát triển về phía trước, không ngừng tạo sức sống mới cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.”
Đây là một kết luận sai lầm và nguy hiểm cho quyền làm chủ đất nước của người dân Việt Nam, bởi vì lợi ích của Trung Hoa chưa hẳn sẽ đem lại phúc lợi cho nhân dân Việt Nam. Và khi đảng CSVN không dám để cho dân tự quyết về tương lai chính trị của mình vì ngày nào Trung Quốc còn duy trì Chủ nghĩa Xã hội Cộng sản thì Việt Nam vẫn còn phải kiên định với Mác-Lênin thì chậm tiến và tụt hậu sẽ tiếp tục chận đường tiến về phía trước của dân tộc.
Điểm sai lầm khác là khi Thông cáo chung đã đồng hoá quan niệm về láng giềng khi viết rằng : “ Việt Nam và Trung Quốc là láng giềng quan trọng của nhau, nhất trí cho rằng hai nước có chế độ chính trị tương đồng, có con đường phát triển gần gũi, có tiền đồ vận mệnh tương quan, sự phát triển của nước này là cơ hội quan trọng cho nước kia…. Hai bên nhấn mạnh, Việt Nam và Trung Quốc sẽ tiếp tục kiên trì nỗ lực thực hiện tốt phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, luôn nắm vững phương hướng phát triển của quan hệ Việt - Trung, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung không ngừng phát triển lên phía trước….”
Để rồi ông Nguyễn Phú Trọng phải hứa : “ Sớm ký "Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác nguồn tài nguyên du lịch khu vực Thác Bản Giốc" và "Hiệp định về quy chế tàu thuyền tự do đi lại tại khu vực cửa sông Bắc Luân"; cùng duy trì bảo vệ sự ổn định và phát triển của khu vực biên giới. Phát huy tốt vai trò của Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới đất liền Việt - Trung; tăng cường xây dựng và quản lý cơ sở hạ tầng cửa khẩu biên giới hai bên, nâng cao mức độ mở cửa hợp tác của các cửa khẩu biên giới hai nước. Tăng cường hợp tác giữa các tỉnh/khu biên giới hai bên, thúc đẩy cùng phát triển khu vực biên giới hai nước.
Những thỏa hiệp này được khai thác từ Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt - Trung ngày 30 tháng 12 năm 1999, cơ bản đã gây bất lợi mất đất, mất 2/3 thác Bản Giốc và Mục Nam Quan đã có trong sách sử Việt Nam hàng ngàn năm.
Những cam kết của ông Trọng chỉ xác nhận một lần nữa sự nhượng bộ không cưỡng lại được của Việt Nam Cộng sản trước áp lực của Tập Cận Bình.
Sau cùng nhưng quan trọng là vấn đề tranh chấp ở Biển Đông. Bản Thông cáo chung không nói lên được điều gì để ông Nguyễn Phú Trọng có thể bảo đảm rằng chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông đã được vẹn tòan và buộc Trung Quốc phải ngưng ngay việc lấn chiếm ở Trường Sa.
Nội dung phần này không có gì mới hơn những điều Tác gỉa bài này (Phạm Trần) đã trình bầy ở phần trên, ngọai trừ hai bên tiếp tục lập lại nhất trí làm những việc chỉ có lợi cho Trung Hoa: “ Thúc đẩy hoạt động của Nhóm bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này, sớm khởi động khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ trong năm nay.”
Như vậy, nếu bảo chuyến đi Trung Hoa 10 ngày của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã “thành công tốt đẹp, góp phần quan trọng thúc đẩy quan hệ Việt - Trung phát triển ổn định, lành mạnh vì lợi ích căn bản của nhân dân hai nước” là hòan tòan nói ngoa. -/-
Phạm Trần
(04/015)
Xô xát giữa giáo dân Giáo xứ Dũ Lộc và công an ở Hà Tĩnh khiến nhiều người bị thương
VRNs (08.04.2015) – Sáng 6/4/2015, tại địa bàn thôn Hoà Lộc, xã Kỳ Trinh, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh đã xảy ra vụ xô xát giữa giáo dân Giáo xứ Dũ Lộc và lực lượng công quyền khiến nhiều người bị thương ở cả hai phía.
Báo chí trong nước ghi nhận có 10 công an phải nhập viện nhưng không nhắc đến số thường dân bị thương. Trong khi nguồn tin địa phương cho rằng, có 2 người bị thương nặng và hàng chục người bị thương nhẹ.
Người dân cũng cáo buộc chính quyền đã bắt một số người của họ sau khi vụ việc xảy ra, nhưng đã thả ra sau đó.
Theo thông tin từ người dân cung cấp: “Chính quyền đang cho xây dựng đường điện 500 KV đi qua khu vực dân cư sinh sống nhưng chưa có sự chấp thuận và đền bù thoả đáng cho người dân. Vì vậy, những người dân sinh sống ở đây nhất quyết không cho thi công công trình đường điện 500 KV.”
Theo đó, hàng trăm công nhân điện lực sáng ngày 6/4 tiến hành thi công đường dây điện 500 KV qua địa bàn thôn Hòa Lộc.
Về phía người dân, khi nhận được thông tin chính quyền tiếp tục thi công đường điện nên bà con phụ nữ và trẻ em đã ra để ngăn cản.
Một lực lượng gần 500 công an và dân quân tự vệ sau đó đã được huy động để cưỡng chế người dân và bảo vệ nhóm thi công.
Hai bên lời qua tiếng lại với nhau nên đã xảy ra xô xát. Người dân nghe tin lực lượng công quyền đang đánh đập người thân, xóm giềng của mình thì đã bỏ việc đang làm để chạy ra tương trợ.
Một người dân chứng kiến sự việc nói phía lực lượng công quyền được trang bị gậy, pháo cay, súng cao su bắn lại người dân. Người dân thì dùng gậy, đá để ném lại.
Một nguồn tin khác cho biết: “Công an và dân quân tự vệ đã đánh 2 người dân bị trọng thương đang trong tình trạng nguy hiểm là ông Nguyễn Xuân Hường 60 tuổi và anh Đậu Phi Hùng 39 tuổi; cha quản xứ [Dũ Lộc] đã ra ngay tại hiện trường để xức dầu và làm các phép cho ông Hường vì sợ ông không qua khỏi cơn nguy hiểm. Còn phía người dân cũng đã đánh bị thương một vài người công an và dân quân tự vệ.”
Một người dân chia sẻ: “Chính quyền chưa đền bù gì cho gia đình tôi cũng như mọi người trong giáo xứ Dũ Lộc nên chúng tôi ra ngăn cản không cho thi công vì đường điện 500 KV rất nguy hiểm, ảnh hưởng sâu sắc đến sức khoẻ và tính mạng con người. Chúng tôi chưa đồng ý thoả thuận để đường điện 500 KV đi qua khu vực sinh sống vì phía chính quyền chưa có sự đền bù thoả đáng.”
“Chính quyền huyện Kỳ Anh đã nhiều lần hứa sẽ đền bù xứng đáng nhưng không chịu thực hiện. Nếu mắc dây điện thi người dân không làm ruộng được nữa vì nguy hiểm.”
Một số người dân nói sẽ ngăn cản đến cùng nếu chính quyền huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh) không đền bù thỏa đáng và tiếp tục cho thi công thi công đường điện 500 KV.
Tuy nhiên họ cũng lo ngại: “Nếu cả hai bên đều nhất quyết làm theo ý mình thì chắc chắn sẽ xảy ra án mạng nên chúng tôi mong là sẽ có cuộc đối thoại giữa người dân và chính quyền nhằm tìm ra giải pháp thích hợp.”
Ant – Chu Mạnh Sơn
Nguồn: DCCT
- Thánh Lễ, buổi đọc sứ điệp Phục Sinh và ban Phép lành Urbi et Orbi
- Suy niệm đàng Thánh Giá trọng thể với Đức Thánh Cha Phanxicô
- Bang California ra nghị quyết kỷ niệm Tháng Tư Đen năm 2015
- Về Tam nhật Vượt Qua
- Đức Thánh Cha chia buồn về vụ máy bay rớt tại Pháp
- Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô cho Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ ba mươi (2015)
- TTXVN nói sai về báo cáo của ông Báo cáo viên Đặc biệt của LHQ
- Mẫu xét mình trước khi xưng tội do Phòng đặc trách các Buổi cử hành do Đức Thánh Cha chủ sự
- "Thuyết tiến hóa và Big Bang phù hợp với Đức tin Công giáo"
- Quốc tế lên án đàn áp tôn giáo ở Việt Nam