Ngôn ngữ đôi bàn tay
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đôi bàn tay con người là phần cơ quan trọng yếu của thân thể. Nó thể hiện sức mạnh, ý chí lòng muốn do trí óc điều khiển biểu dương ra bên ngoài để cầm mang đỡ đồ vật. Nó cũng thể hiện nét đẹp thẩm mỹ cho hình dạng thân thể có được thăng bằng quân bình.
Và đôi bàn tay cũng là phương tiện dùng trong việc tâm linh cầu nguyện, cùng trong cung cách sống văn hóa lịch sự giữa con người với nhau ngoài xã hội.
Đôi bàn tay dang ra giơ lên cao là một cung cách tâm linh cầu nguyện con người thể hiện từ thời xa xưa. Phải, đó là một thứ loại ngôn ngữ bẩm sinh của thân thể con người.
Đôi bàn tay dang ra giơ lên cao hay ra phía trước muốn nói lên tâm tình: Con người mở rộng tay mình ra hướng về người đối diện trong ý hướng tìm kiếm và đặt niềm hy vọng, nhất là với Thiên Chúa, Đấng ẩn hiện trong không gian và thời gian!
Khi cầu nguyện dang mở rộng đôi bàn tay ra hướng lên trời cao tựa như hình ảnh đôi cánh căng dương ra muốn diễn tả: Con người tìm kiếm hướng tới sự cao trọng, muốn lời nguyện cầu được Thiên Chúa cho bay lên cao như đôi cánh.
Ngày xưa khi dẫn đưa dân Do Thái trừ Aicập trở về quê hương đất nước Thiên Chúa hứa, thánh tiên tri Mose đã giơ đôi bàn tay lên trời cao cầu nguyện. Khi mỏi mệt qúa, người ta phải cầm đỡ đôi tay ông cho giữ tư thế dương lên cao. ( Sách Xuất hành 17,11).
Vua Salomon đứng trước bàn thờ giơ hai tay lên cao trong tư thế cầu nguyện cùng Thiên Chúa“ ( Sách 1. Các Vua, 8,22).
Vua Thánh David khuyến khích khi cầu nguyện: „Hãy giơ tay hướng về cung thánh mà dâng lên lời chúc tụng Người. „ ( Thánh vịnh 134,1-2
Với người tín hữu Chúa Giesu Kitô đôi bàn tay dang ra cầu nguyện còn diễn tả ý hướng quy về Chúa Giêsu Kitô nhắc nhớ đến Chúa Giêsu đã bị đóng đinh nơi hai bàn tay dang ra trên cây thập tự. Từ trên thập gía bị đóng đinh, Chúa Giêsu Kitô dang đôi bàn tay ra ôm kéo mọi người lên trời cao với Người. ( Phúc âm Thánh Gioan 12,32).
Trong dòng thời gian muộn sau này, đôi bàn tay thay vì dang giơ lên cao, được chắp úp lại với nhau.. Cử chỉ ngôn ngữ bẩm sinh của thân thể thể diễn tả: Người đón nhận vật hay ân đức được cho vay mượn đặt đôi tay mình khi nhận lãnh trong tay của chủ. Đây là hình ảnh dấu chỉ đẹp cùng có ý nghĩa thâm sâu nói lên sự tin tưởng và lòng trung thành.
Khi cầu nguyện chắp đôi bàn tay lại phía trước ngực muốn diễn tả: Con muốn đặt đôi bàn tay con trong bàn tay của Thiên Chúa. Con muốn với đôi bàn tay của con cùng lịch sử đời con, ý hướng cầu xin của con trong bàn tay của Thiên Chúa trong niềm tin tưởng phó thác cùng lòng trung thành của con.
Hình ảnh đôi bàn tay chắp lại trước ngực thật đẹp huyền nhiệm linh thiêng.
Trong nếp sống xã hội, khi đáp máy bay của hãng hàng không Á châu như của hãng Tháilan, ta bắt gặp những người phục vụ trên đó chắp tay chào hành khách nơi cửa. Một cử chỉ lịch sự văn hóa lễ phép thân thương.
Có những ông bà cha mẹ dẫn con cháu còn nhỏ vào thánh đường, họ dậy cho con cháu mình chắp đôi tay lại trước ngực cung kính. Một hình ảnh tỏ hiện nét đẹp đơn sơ rất dễ thương cùng rất sống động.
Có những nơi khi lên rước lễ, người tín hữu Chúa Kitô chắp tay lại, nhất là trước tòa Đức Mẹ hay các Thánh, họ chắp tay thành khẩn cầu nguyện. Một hình ảnh toát ra nét vẻ thanh thoát của lòng đạo đức khiêm nhường.
Từ những ngày bệnh đại dịch do vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm trong đời sống. Để giữ gìn sức khoẻ cho mình và cho nhau, mọi người không thể bắt tay đụng chạm nhau khi gặp nhau. Thay vào đó họ chắp hai tay lại hơi cúi mình chào nhau.
Hình ảnh cử chỉ chắp tay chào nhau lúc này vừa lịch sự lễ phép, vừa thể hiện nét đẹp văn hóa cao thượng cùng thanh lịch tao nhã, vừa giữ được vệ sinh khoảng cách tránh không để cho vi trùng lây lan sang nhau, cử chỉ này cũng làm cho khoảng cách giữa nhau trở nên sống động không còn dè chừng xa nhau về tinh thần. Và nó cũng nói lên tâm tình thâm sâu đạo đức lòng kính trọng thân thể cùng sự sống của nhau.
Vì thân thể, sự sống mỗi người không do con người chế biến sản xuất làm ra. Nhưng là ân đức, là qùa tặng cao qúi đẹp cùng linh thiêng, mà Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa tạo dựng ban cho con người, như Kinh Thánh thuật lại:
“ Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,
Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. : ( Sách Sáng Thế 1,27).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Vi trùng Corona, một „ Mane thecel fares - Mene mene tekel u-parsin (מנא ,מנא, תקל, ופרסין)“ ?
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Sách Kinh thánh của Tiên tri Daniel ( Sách Daniel 5, 1- 30) thuật lại bữa yến tiệc của nhà Vua Belsazar cùng với các quan đại thần. Trong bữa tiệc nhà Vua mang những chén bằng vàng bạc, mà Vua cha Nebukanezar II. đã tịch thu lấy ở đền thờ Jerusalem ra uống rượu cụng ly với các quan đại thần, các cung phi và các cung nữ. Đang lúc đó xuất hiện ngón tay viết trên tường dòng chữ. Nhà vua gịật mình khi trông thấy bàn tay giơ ra liền biến sắc mặt. Nhưng không hiểu ý nghĩa. Các người hầu cận, các bậc thông thái cũng không đọc hiểu được ý nghĩa dòng chữ viết.
Daniel được giới thiệu dẫn đến triều yết nhà vua. Vua hỏi han và yêu cầu Daniel giải thích ý nghĩa dòng chữ cho mình và hứa sẽ trọng thưởng. Nhưng Daniel từ chối nhận bổng lộc của Vua hứa ban, mà chỉ sẵn lòng đọc giải thích thôi. Daniel cắt nghĩa:
„ Đây là những chữ đã được viết ra: (Mene mene tekel u-parsin (מנא ,מנא, תקל, ופרסין). MƠ-NÊ, MƠ-NÊ, TƠ-KÊN, PÁC-XIN;26 và đây là lời giải thích: MƠ-NÊ - có nghĩa là đếm -: Thiên Chúa đã đếm và chấm dứt những ngày của triều đại ngài;27 TƠ-KÊN - có nghĩa là cân -: ngài đã bị đặt trên bàn cân và thấy là không đủ;28 PƠ-RẾT - có nghĩa là phân chia -: vương quốc của ngài đã bị phân chia và trao cho các dân Mê-đi và Ba-tư.“ ( Sách Tiên tri Daniel 5, 25-26).
Như thế đây là những lời tiên báo cảnh gíac của Thiên Chúa viết nhắn gửi nhà Vua Belsazar. Vì vua đã dùng những vật thánh lấy ở đền thờ Jerusalem dùng để dâng lễ tế lên Thiên Chúa mà ăn uống chè chén. Một việc xúc phạm tới Thiên Chúa nặng nề.
Từ những tháng ngày qua của năm 2020, thế giới đang trải qua cơn khủng hoảng vì bị bệnh đại dịch Corona hoành hành lây lan đe dọa sức khoẻ đời sống con người. Bệnh đại dịch do vi trùng Corana nhỏ li ti như vô hình không trông thấy được đã đang làm đảo lộn gây ngừng trệ phá đổ mọi chương trình dự định, thứ tự đời sống xã hội trong mọi lãnh vực, gây ra lây lan bệnh nạn cùng tử vong cho hàng triệu người trên thế giới.
Các nhà khoa học nỗ lực ngày đêm nghiên cứu phân tích tìm hiểu về loại vi trùng nguy hiểm gây chết người này, để phát triển bào chế thuốc chủng ngăn ngừa trị bệnh. Nhưng cho tới bây giờ vẫn chưa có kết qủa chắc chắn như mong muốn cần có. ( Tháng 10.2020)
Không biết có phải vi trùng Corona cũng phát đi sứ điệp cảnh báo tương tự như dòng chữ mà những ngón tay thần thánh ngày xưa đã viết trên tường cảnh báo nhà vua Belsazar : „Mene mene tekel u-parsin (מנא ,מנא, תקל, ופרסין)“ , như sách của Tiên tri Daniel thuật lại không?
Cho tới bây giờ bệnh đại dịch Corona vẫn còn đang hoành hành đe dọa nhân loại. Vì chưa tìm ra thuốc trị liệu, chưa chế ra vắc xin tiêm chủng ngừa. Nhân loại còn đang lún sâu trong cơn khủng hoảng do đại dịch Corona nguy hiểm chết người chưa biết đến bao giờ mới thoát ra khỏi được!
Phải chăng những cơn đại dịch xảy ra là do sự tương quan giữa thiên nhiên và con người và cả thú động vật hầu như trong tình trạng bị xáo trộn không có sự hài hòa tương hợp với nhau?
Nếu như vậy thì cơn đại dịch Corona lúc này là một điềm cảnh báo khiến phải tỉnh thức, suy nghĩ lại cách sống đối xử của con người với thiên nhiên và với thú động vật!
Phải chăng vi trùng Corona xuất hiện hoành hành đe dọa con người gửi đi tín hiệu về tương lai nhân loại trong cung cách sống tương quan trách nhiệm với nhau, với công trình sáng tạo thiên nhiên, với thú động vật?
Vậy đâu là sự chênh lệch xáo trộn thiếu cân bằng hài hòa, hay đúng hơn sự thiếu tôn trọng của con người với thiên nhiên?
Đã có những nghiên cứu cảnh báo về sự thể này theo khía cạnh khoa học, khía cạnh nhân văn xã hội, khía cạnh bảo vệ môi trường sinh sống và khí cạnh tâm linh đạo đức.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong thông điệp Laudato Si đã nói đến chi tiết những điều mà con người xã hội đang đối xử trong chiều hướng khai thác bóc lột hủy hoại công trình ngôi nhà thiên nhiên, mà Thiên Chúa tạo dựng cho con người, cho mọi loài sinh vật.
„ Không khí bị ô nhiễm gây tai hại sức khoẻ con người cùng gây ra chết chóc. ( Nr 20).
„ Khí hậu là tài sản chung cho nhân loại bị biến đổi do bị làm cho nóng thêm lên, khiến những tảng băng thạch tan chảy, nước biển dâng cao.“ ( Nr 23)
„ Nước dùng cho đời sống con người và mọi hệ sinh thái của trái đất đang dần trong tình trạng khan hiếm thiếu .“ ( Nr 28)
“ Việc mất mát rừng rậm và thảo mộc đồng thời đưa đến việc đánh mất các giống loài, trong tương lai có thể là những nguồn quan trọng nhất, không những để nuôi dưỡng, nhưng còn để chữa lành bệnh tật và còn cho nhiều phục vụ đa dạng khác. Nhiều giống loài chứa các gen, là những nguồn tài nguyên cho các phận vụ chủ yếu, có thể giải quyết nhu cầu của nhân loại trong tương lai hay giúp giải quyết một vấn đề môi trường nào đó. „ (Nr 32.)
„ Nguy cơ về cái chết của loài động vật có vú hay của một loài chim, chỉ vì chúng thường xuất hiện trước mắt chúng ta. Nhưng, các cây nấm, tảo, các con sâu, côn trùng, rắn rít và biết bao nhiêu loại vi sinh lại rất cần thiết cho hoạt động tốt của hệ thống sinh thái. Nhiều giống loài nhỏ bé, thường không được con người chú ý, lại giữ một phận vụ cơ bản để tạo sự cân bằng một vị trí.“ ( Nr 34.)
„ Sự chểnh mảng trong trách nhiệm canh tác và gìn giữ một liên hệ tương ứng với người chung quanh, tôi phải lo lắng cho người đó và phải che chở cho họ; sự chểnh mảng đó sẽ phá vỡ liên hệ nội tại với chính tôi, với kẻ khác, với Thiên Chúa và với đất đai.
Khi các liên hệ này bị bỏ quên, khi không còn công bằng tồn tại trên đất nước, thì – như Thánh Kinh nói với chúng ta – toàn bộ cuộc sống sẽ gặp nguy hiểm.
…Trong biểu trưng xa xưa nhưng sâu sắc của trình thuật chứa đựng một xác tín cho ngày nay : tất cả đều liên kết với nhau và việc che chở đích thực cho cuộc sống riêng tư của chúng ta cũng như mọi liên hệ của chúng ta với thiên nhiên không thể bị tách ra khỏi tình huynh đệ, sự công bằng cũng như sự trung tín với kẻ khác. (Đức Giáo hoàng Phanxicô , Laudato Si Nr. 70)
Mane thecel fares - Mene mene tekel u-parsin (מנא ,מנא, תקל, ופרסין) là lời tiên tri cảnh cáo về ngày tận cùng chế độ cho nhà vua Belsazar khi xưa, một điều bí ẩn, mà tiên trí Daniel đã lý giải ra theo khía cạnh đạo đức.
Ngày nay vi trùng bệnh đại dịch Corona, một loại vi trùng bệnh dịch thế kỷ, đang đe dọa sức khoẻ đời sống nhân loại vẫn còn ẩn chứa điều bí ẩn chưa lý giải ra được.
Theo khía cạnh đạo đức, vi trùng bệnh đại dịch Corona là dấu hiệu sứ điệp cảnh tỉnh về mối tương quan bất cập không hài hòa của con người với công trình thiên nhiên do Thiên Chúa tạo dựng và với nhau trong đời sống xã hội.
Chưa có thuốc trị bệnh dịch Corona, chưa có Vắc Xin chủng ngừa. Nhưng có liều thuốc niềm hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống, nguồn ơn an ủi chữa lành cho hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Kinh Đức Mẹ mân côi
- Viết bởi Dân Chúa
Trong suốt cả năm Hội Thánh đặt ra nhiều lễ kính Đức Mẹ. Nhưng tháng 10 hằng năm là tháng dành riêng về lòng sùng kính Đức Mẹ mân côi.
Trong dòng lịch sử
Theo dòng lịch sử, Thánh Daminh, vị sáng lập Dòng Daminh chuyên vể giảng thuyết, đã nhận trực tiếp từ Đức Mẹ, trong một phép lạ Đức mẹ hiện ra với ngài, kinh nguyện Mân Côi vào năm 1208. Và từ thời điểm đó thánh nhân đã truyền bá sâu rộng việc lần chuỗi mân côi kính Đức Mẹ trong Dòng của mình, và rồi dần dần lan truyền ra cho mọi người trong Hội Thánh Chúa Kitô.
Cũng theo truyền thuyết đạo đức kể lại, Đức mẹ đã truyền cho Thánh Daminh phải quảng bá việc lần chuỗi mân côi như vũ khí chống lại bè rối Albigenser lúc đó đang hòanh hành chống lại Hội Thánh Chúa Kito.
Và từ khởi điểm đó, chuỗi kinh mân côi trở nên linh đạo của Dòng Daminh.
Còn lịch sử ngày lễ kính Đức mẹ mân côi, ngày 07.10. hằng năm có sau này vào thế kỷ thứ 18. trong toàn thể Hội Thánh Công giáo.
Ngày 07.10.1571 trong trận hải chiến giữa quân đội của đế quốc Osman Thổ nhĩ Kỳ và đạo binh thánh dưới thời đức giáo hoàng Pio V., ở vùng biển Lepanto bên Hy Lạp, đạo binh Thánh của Hội Thánh đã dành được chiến thắng cùng chặn đường tiến xâm lăng của đội quân hùng hậu Thổ nhĩ Kỳ.
Chiến thắng này có được là nhờ lời cầu nguyện lần chuỗi đọc kinh mân côi trong toàn Hội Thánh lúc đó. Qua đó Đức Mẹ đã cầu bầu cùng Chúa ban cho sức mạnh chiến thắng kẻ thù. Để nhớ ơn này, Đức giáo hoàng Pio V. đã lập ra ngày lễ kính Đức Mẹ mân côi vào ngày 07.10. 1572 một năm sau để kỷ niệm chiến thắng này.
Và từ thế kỷ 18. ngày lễ này vào ngày 07.10. hằng năm lan rộng trong khắp Hội Thánh là ngày lễ kính chính thức trong lịch Phụng vụ.
Suy niệm kinh mân côi
Việc lần chuỗi đọc kinh mân côi xưa nay là cung cách nếp sống đức tin phổ thông bình dân trong khắp Hội Thánh Chúa Kitô.
Khi đọc kinh mân côi, cùng với kinh Kính Lạy Cha, kinh kính mừng Maria chúng ta lần theo dõi cuộc đời Chúa Giêsu và Đức Mẹ qua những chặng đường suy niệm:
- Năm chặng mùa Vui: Thiên Thần truyền tin, Đức mẹ đi viếng thăm Bà Eisabeth, Đức mẹ sinh Chúa Giêsu nơi hang đá, Đức Mẹ đem Chúa Giêsu vào đền thờ, và Đức mẹ Thánh Giuse tìm gặp lại được Chúa Giêsu đi lạc trong đền thờ.
Năm ngắm mùa Vui này gợi nhắc đến đời sống gia đình chúng ta. Hai vợ chồng từ lúc thành lập gia đình với nhau ngày lễ thành hôn, mối liên hệ với gia đình họ hàng của hai bên, tiếng khóc nụ cười niềm vui mừng hạnh phúc có người con chào đời trong gia đình, bồng ẵm con đến thánh đường xin tiếp nhận làn nước bí tích rửa tội, và việc dạy dỗ uốn nắn con cái trong gia đình.
- Rồi qua những chặng đường năm sự Thương: Chúa Giêsu lo buồn, Chúa Giesu bị bắt chịu hành hạ bị đánh đập, Chúa Giêsu bị nhạo báng cho đội triều thiên có gai nhọn đâm vào da đầu, Chúa Giêsu phải vác thập gía đi đến pháp trường, và sau cùng Chúa Giêsu bị đóng đinh treo trên thập gía.
Những chặng đường đau thương này nhắc nhớ đến những đau khổ trong đời sống con người chúng ta. Lẽ dĩ nhiên ngày nay không còn cảnh bị xử dã man tàn ác thập gía như thế vào thời Chúa Giêsu nữa. Nhưng những đau khổ do chiến tranh gây ra, do khủng bố, do bị bệnh tật, do bị đối xửa bất công, bị kỳ thị, bị đe dọa bóc lột, lừa dối chèn ép, bị tuyên truyền đầu độc dưới nhiều hình thức…vẫn hằng luôn xảy ra trên thế giới vào mọi thời điểm.
- Năm chặng đường sự mừng thuật lạ việc Chúa Giêsu phục sinh sống lại sau khi chết, việc Chúa Giêsu trở về trời, Đức Chúa Thánh Thần, Đấng là nguồn an ủi, hiện xuống, Đức mẹ Maria được Chúa đưa về trời, Đức Mẹ Maria được đưa về trời là sự thưởng công của Chúa cho Đức mẹ.
Năm sự mừng đời Chúa Giêsu nói lên niềm vui mừng hy vọng cho con người chúng ta rồi cũng sẽ được cùng Chúa sống lại, như Đức Mẹ được Chúa thưởng công cho về trời sống bên Ngài, khi quãng đời đau thương khổ ải ở trần gian qua đi.
Đây không phải là sự an ủi rẻ tiển hay dỗ trẻ con. Nhưng đó là điều nói lên gía trị linh thiêng cho đời sống. Gía trị đó là niềm hy vọng. Gía trị đó là đời sống không chỉ có thân xác chết là hết là rơi vào hư vô, nhưng con người còn có phần tâm linh linh hồn linh thiêng nữa, và được Thiên Chúa cứu chuộc, cho được cùng sống lại phục sinh với Chúa Giêsu Kitô.
- Tháng 10.2002 Thánh giáo hoàng Gioan Phaolo II., khi còn đương quyền giáo hoàng , đã thiết lập „năm lần chuỗi mân côi", và đồng thời ngài cũng đã lập thêm năm sự sáng vào việc suy niệm lần chuỗi mân côi.
Năm chặng đường sự sáng lần theo cuộc đời giảng đạo của Chúa Giêsu từ lúc Ngài chịu phép Rửa ở sông Giordan, Chúa Giêsu làm phép lạ cho nước hóa thành rượu ở tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu rao giảng nước trời và ơn thống hối, Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor và Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể.
Năm chặng của năm sự sáng đời rao giảng nước trời của Chúa Giêsu giúp ta nhớ đến những ân đức Chúa Giêsu đã thực hiện cho đời sống thiêng liêng con người, nhất là bí tích Thánh Thể, một nguồn ơn nuôi sống đức tin tâm hồn người tín hữu Chúa Kitô.
Đức giáo hoàng nghỉ hưu Benedictô XVI. đã có suy niệm về kinh chuỗi mân côi là lời cầu nguyện quy hướng về Chúa Giêsu Kitô theo sát những biến chuyển diễn tả trong Kinh Thánh. Đọc kinh lần chuỗi mân côi là cách thế cầu nguyện của nọi người tín hữu Chúa Kito đang trên con đường lữ hành theo chân Chúa.
Lần chuỗi đọc kinh mân côi là lời cầu nguyện xin ơn bằng an cho đời sống mỗi người, cho gia đình mình và cho hòa bình trên thế giới.
Kinh mân côi là kinh cầu nguyện bình dân đại chúng từ hàng thế kỷ nay trong nếp sống đạo đức của người tín hữu Chúa Giêsu Kitô. Người tín hữu Công giáo đọc kinh mân côi, kêu xin Chúa ban ân đức cứu giúp nhờ lời bầu cử của Đức Mẹ trong mọi hoàn cảnh đời sống, nhất là trong lúc gặp hoàn cảnh khó khăn bị đe dọa sức khoẻ thể lý cũng như tinh thần.
Bệnh đại dịch Corona từ những tháng ngày qua lây lan đe dọa sức khoẻ đời sống nhân lọai, phá đổ làm đảo lộn mọi chương trình sinh hoạt đạo giáo lẫn văn hóa chính trị kinh tế trong nếp sống xã hội, gây ra tình trạng ngăn chia xa cách giữa con người với nhau.
Lời kêu cầu qua việc đọc kinh mân côi là phương thức tinh thần xin ân đức của Chúa, nguồn ơn chữa lành và an ủi rất cần thiết trong cơn khủng hoảng lúc này.
Lễ Đức mẹ Mân Côi, 07.10.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh Phanxico, vị thánh sống hòa mình với thiên nhiên.
- Viết bởi Dân Chúa
Đời sống các Thánh phản chiếu tình yêu của Thiên Chúa trên trần gian. Nhưng, như những nhà biên chép lịch sử đời sống các Thánh xưa nay đều nhất tề đồng một ý kiến, không có vị Thánh nào đã để hình ảnh Chúa Giêsu Kitô chiếu tỏa nổi bật rõ nét nơi trần gian như Thánh Phanxico thành Assisi.
Phanxico là vị Thánh của tình yêu và niềm vui, của sự thanh bần nghèo khó mà lại có sự thanh thản của một tâm hồn sống cung cách tự do, một vị Thánh với trái tim tràn đầy tình yêu thương và một nếp sống đơn sơ rộng lớn, một vị Thánh chiếm được cảm tình yêu mến của con người ngay từ lúc còn sinh thời.
Phanxicô sinh năm 1182 ở thành Assisi miền Umbrien bên nước Ý. Ngài là con của một thương gia buôn bán khăn vải giầu sang Pierro di Bernardone.
Theo truyền thuyết thuật lại Phanxico vào cầu nguyện ở thánh đường San Damiano, đã được nghe tiếng Chúa nói khi Phanxico đến gần chiêm ngắm thập gía Chúa Giêsu làm theo mô hình Byzantin: „ Con yêu qúi, con hãy xây sửa sang ngôi nhà cho ta đang bị hư hại.“.
Phanxico đã vâng nghe tiếng Chúa kêu gọi trước hết sửa sang lại ngôi thành đường nhỏ San Damiano đang xuống cấp bị hư hại. Không dừng lại nơi đó, Phanxico hiểu là Chúa muốn mình đi xây dựng sửa lại toàn thể Giáo hội.
Một biến cố thời danh cuộc đời của Phanxico nữa là Ông từ bỏ mọi sự đi ra khỏi nhà cha mẹ, cởi bỏ quàn áo trả lại cho cha của mình:“ Kể từ hôm nay, con không còn nói cha tôi là Bernadone, nhưng tôi chỉ còn một người Cha trên trời thôi!“
Phanxico bỏ nhà đi tu tập chia sẻ nếp sống đơn giản cùng với những người khác lập thành một cộng đòan. Nếp sống cầu nguyện là trung tâm chính của cộng đòan chung hợp, và đi đó đây khắp nơi để rao giảng tin mừng của Chúa. Để có cơm bánh sinh sống, những người trong cộng đòan làm việc nơi những nông trại. Cộng đoàn làm việc nhưng không muốn lấy tiến, chỉ nhận những thực phẩm ăn uống nuôi sống thôi.
Phanxico luôn sống vị trí là một người anh em khiêm hạ, nhưng lòng tràn đầy sự vui tươi luôn ca hát những ca khúc ngợi khen Chúa, và những bài giảng dẫn đường con người hướng về Chúa.
Năm 1209 đức Giáo Hoàng công nhận Dòng của Phanxico. Vài năm sau số tu sĩ Dòng lên tới 5000 người. Nhiều anh em tu sĩ Dòng muốn có hiến pháp luật Dòng rõ ràng, nhưng Phanxico từ chối việc này. Hiến pháp luật Dòng là sách Kinh Thánh.
Với ý hướng căn bản đó, Phanxico từ bỏ đời sống trong khuôn khổ nhà Dòng đi lui vào sống ẩn tu một mình. Qua đau khổ đã giúp Phanxico phát triển đời sống tâm linh trong ý hướng tình yêu thương mới. Chúa Giêsu Kito đã thưởng công cho ngài được nhận những vết thương tình yêu như năm dấu Chúa Giêsu Kitô khi xưa bị đóng đinh vào thập gía nơi thân thể. Dù chịu đựng đau khổ, nhưng Phanxico đã sáng tác bài ca mặt trời, bài kinh hòa bình thời danh ca tụng công trình thiên nhiên của Chúa đã sáng tạo nên.
Có nhiều truyền thuyết về cuốc đời của Phanxico. Theo ngài không chỉ con người, nhưng cả tất cả mọi loài thú vật đều là anh chị em. Con chó rừng hoang vùng Gubbio được Phanxico giáo huấn trở nên thuần thục hiền lành. Phanxico tiếp xúc với tâm hồn cùng cung cách tràn đầy tình yêu thương với loài thảo mộc cỏ cây và các xúc vật. Khắp nơi ngài đều nhìn nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, và cảnh báo mọi tạo vật phải sống qui hướng về tình yêu của Đấng Tạo Hoá.
Phanxico rao giảng cho các loài chim, khi chúng đến nghe giảng. Phanxico âu yếm vuốt ve chúng. Phanxico được ân sủng chiếu tỏa tình yêu sâu thẳm trọn vẹn đến nỗi cảm hóa không chỉ con người mà cả loài thù vật nữa.
Phanxico có tình yêu lớn lao quảng đại cùng lòng kính trọng sâu thẳm công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Phanxico lòng vui mừng hân hoan với hơi nóng của mặt trời, với sự dịu mát trong lành của nước, với ánh sáng trong suốt của mặt trăng. Phanxico yêu mến thiên nhiên theo khía cạnh tâm linh đạo đức.
Dựa theo trình thuật trong phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh sử Luca ( Lc 2,1-20), Phanxico năm 1223 đã làm hang đá Chúa Giêsu sinh ra đầu tiên ở trong khu rừng Grecco vào ngày mừng lễ sinh nhật Chúa Giêsu. Từ thời điểm đó dần dần trong dòng lịch sử hang đá Chúa giáng sinh được làm phát triển theo nếp văn hóa thời đại cùng của mỗi dân tộc vào ngày lễ mừng Chúa giáng sinh hằng năm trên hoàn cầu.
Trải qua trong dòng lịch sử, Dòng Thánh Phanxico đã phát triển trên khắp thế giới thành ba cấp Hội Dòng:
- Cấp thứ nhất Dòng Nam gồm ba hội Dòng:
- Tu sĩ Hèn mọn ordo fratrum minorum conventualium ( OFM Conv) mặc tu phục mầu đen.
- Dòng Tu sĩ hèn mọn“ ordo fratrum minorum - OFM, mặc tu phục mầu nâu.3. Franziscus Capucino - OFM Cap - Ordo Fratrum minorum Cappucinorum, tu phục mầu nâu nhưng có mũ nhọn dài hơn.
- Cấp hai: Dòng nữ có hai nhánh: Dòng nữ Thánh Clara và Dòng nữ Capucino.
- Cấp ba Dòng ba dành cho mọi giáo dân.
Nếp sống từ bỏ, chọn sự khó nghèo đơn giản, lòng vui tươi yêu mến thiên nhiên vạn vật hướng về Đấng Tạo Hoá, bài ca mặt trời, kinh hòa bình và hang đá mừng lễ Chúa giáng sinh là những nét đặc thù thiên phú mà Đấng Tạo Hóa đã qua Thánh Phanxicô mang đến cho Giáo hội, cho con người trần gian.
Thánh Phanxicô qua đời ngày 3.10.1226 được an táng ở Assisi. Và hai năm sau đó ngày 16. 07. 1226 được Đức giáo hoàng Gregor IX. tuyên phong là vị Thánh trong Giáo hội.
„Tôi tin rằng, thánh Phanxicô là mẫu gương tuyệt vời cho việc tôn trọng những gì yếu đuối và cho một sinh thái được sống cách trọn vẹn đầy niềm vui đích thực. Ngài chính là vị thánh cho tất cả những ai tìm hiểu và làm việc trong lãnh vực sinh thái; ngài được nhiều người không phải là Kitô hữu yêu mến. Ngài cho thấy một sự chú tâm đối với sáng tạo của Thiên Chúa và đối những kẻ nghèo hèn và cô đơn nhất. Ngài yêu thích niềm vui với một tâm hồn thanh thản, ngài đã sống sự tận hiến quảng đại với tâm hồn rộng mở. Ngài là một vị huyền nhiệm và là một lữ khách sống trong sự đơn sơ và hòa hợp với Thiên Chúa, với kẻ khác, với vạn vật và với chính bản thân. Trong ngài, chúng ta thấy rõ mức độ ngài liên kết tất cả việc chăm sóc thiên nhiên, sự công bằng với kẻ nghèo, việc dấn thân cho xã hội và bình an nội tâm vào một điểm gắn kết chung với nhau, không thể phân ly. „( Đức giáo hoàng Phanxico, Laudato Si, Nr. 10.).
Thành phố Assisi bên nước Italia trở thành trung tâm thánh địa hành hương Thánh Phanxico, nơi có ngôi nhà sinh ra của Thánh Phanxico, có khu nhà Dòng mẹ Phanxico, trong đó có ngôi thánh đường nhỏ mà Phanxico đã tu sửa đầu tiên sau khi nghe tiếng Chúa kêu gọi, cùng có di tích mộ thánh Phanxico.
Trung tâm hành hương Assisi cũng là trung tâm sinh hoạt học hỏi về linh đạo theo nếp sống đạo đức của Thánh Phanxico.
Nhắc nhớ đến Thánh Phanxico thành Assisi bài ca Mặt trời, kinh Hòa bình và Hang đá Chúa giáng sinh là những công trình dấu vết của một thiên tài, không thể bỏ qua quên được với lòng vui mừng hân hoan cùng biết ơn, mà Thánh Phanxicô còn để lại cho trần thế từ hơn 8 thế kỷ nay.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Quis ut Deus - Ai bằng Thiên Chúa
- Viết bởi Dân Chúa
Hằng năm Giáo hội Công giáo mừng lễ Tổng lãnh Thiên Thần Michael chung với hai Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel và Rafel vào ngày 29.09.
Tổng lãnh Thiên Thần Michael là ai?
Theo truyền thuyết Tổng lãnh Thiên Thần Michael được Thiên Chúa sai cầm gươm canh giữ cửa khu vườn địa đàng không cho Ông Bà Adong-Evà trở lại khu vườn, sau khi bị Thiên Chúa phạt đuổi ra khỏi nơi đó. ( Sách Sáng Thế 3, 23-24)
Vị Tổng lãnh Thiên Thần này cũng là người đã cứu giúp mạng sống cho Hagar bị Sara vì lòng ghen tức đã đuổi bắt đi lang thang trong sa mạc, tìm đến chỗ có nước uống đang khát mệt lả đang mang thai. ( Sáng Thế 16,7-12).
Vị Tổng lãnh Thiên Thần Michael được cho hiểu là một trong ba người đàn ông đã đến thăm nhà Tổ phụ Abraham. ( Sáng thế 18,1-16).
Tổng lãnh Thiên Thần Michael cũng là người Thiên Chúa sai đến can ngăn không để cho Tổ phụ Abraham cầm gươm giết con mình là Isaak trên núi Moriah làm lễ tế dâng Thiên Chúa. Ngày nay nơi này có đền thờ Jerusalem . ( Sáng Thế 22,11-18).
Kinh Thánh thuật lại biến cố Tổ phụ Jacob vật lộn với người của Thiên Chúa. Vị đó được cho là Tổng lãnh Thiên Thần Michael. Jacob đã thắng. Nhưng Jacob không chịu buông vị đó ra. Ông Jacob để lại câu nói hay lời cầu xin thời danh:“ Vâng, tôi chỉ buông Ông ra, trước khi Ông chúc phúc lành cho tôi!“. ( Sáng Thế 32,24-29).
Khi dân Do Thái đi trở về quê hương Thiên Chúa hứa ban từ miền đất nô lệ bên Aicập, Thiên sứ của Thiên Chúa đi trước dẫn đường. Khi tới biển đỏ, vị Thiên Thần đó lại lui về đàng sau hộ vệ cho dân chúng đi qua biển an toàn. Vị Thiên sứ đó là Tổng lãnh Thiên Thần Michael. ( Xuất hành 14, 19-22).
Sách Ngôn sứ Daniel thuật lại, khi Satrac, Mesac và Avet Nago bị kết án quăng vào lò lửa cháy rực cho bị thiêu sống. Nhưng Thiên Thần Chúa hiện đến cứu họ không bị chết cháy. Vị Thiên Thần đó là Tổng lãnh Thiên Thần Michael đưực Thiên Chúa sai đến (Daniel 3,25-26).
Ngôn sứ Daniel trong thị kiến thấy Tổng lãnh Thiên Thần Michael đứng về phía Thiên Chúa chống lại các thiên sứ của vương quốc Batư âm mưu phản loạn chống Thiên Chúa. ( Daniel 10,13)
Tổng lãnh Thiên Thần Michael trong ngày chung thẩm là vị cứu giúp bảo vệ dân của Chúa, và thổi loa kêu gọi những người đã qua đời trong mồ mả sống lại ra trước tòa Thiên Chúa.( Daniel 12,1-2).
Thánh Gioan Tông đồ trong thị kiến đã thuật lại cuộc chiến giữa Tổng lãnh Thiên thần Michael với con rồng ma qủi cùng các thần dữ trên trời. Michael đã chiến thắng và con rồng rắn cùng đồng bọn thần dữ bị xổ đẩy khỏi chỗ ở trên trời. ( Sách Khải Huyền 12,4-7).
Thánh giáo phụ Cyrillo thành Jerusalem đã có suy luận: „ Khi Chúa Giêsu Kitô xuống trần gian làm người, Thiên Chúa Cha đã chọn một sức mạnh uy hùng là Michael, là người trung thành đồng hành lo cho Chúa Kitô.“
Peter Anton năm 1753 đã đúc tượng Tổng lãnh Thiên Thần Michael trên nóc lâu đài Thiên Thần ở Roma trình bày như hình ảnh một vị chiến sĩ, người ngay từ khởi đầu công trình sáng tạo trời đất, ngay cả trước khi vũ trụ được tạo thành đã đánh đuổi thần qủi dữ Luzifer ra khỏi thiên đàng trên trời.
Tổng lãnh Thiên Thần Michael được hiểu cho là vị linh hướng đồng hành với linh hồn con người. Tin tưởng này cũng đã có trong thần thoại cổ đại của người Aicập về Thần Hot, và về Thần Hermes của người Hylạp cầm chiếc cân có hai đĩa bàn cân linh hồn.
Tổng lãnh Thiên Thần Michael còn có biệt danh Quis ut Deus - Ai bằng như Thiên Chúa. Tên gọi này có nguồn gốc từ tiếng Do Thái מיכאל viết trong những cuộn sách Kinh thánh Qumran được tìm thấy năm 1947 và 1948 ở vùng bờ biển chết bên Israel. Tên Michael diễn tả là „ Vị Thần hoàng ánh sáng“.
Tổng lãnh Thiên Thần Michael thường được vẽ khắc chạm với gươm kiếm, cây gậy chỉ huy, chiếc cân có hai đĩa bàn cân, qủa địa cầu, áo mầu đỏ và ngọn lửa.
Gươm kiếm diễn tả sự chiến đấu dũng cảm của Michael chống lại con rồng ma qủi và những thế lực bóng tối sự dữ.
Cây gậy chỉ huy trái lại diễn tả ý nghĩa sự khôn ngoan của vị tổng chỉ huy Michael trên các Thiên Thần khác.
Qủa địa cầu nói lên sự ảnh hưởng của Tổng lãnh Thiên Thần Michael trên toàn thể từ khi vũ trụ được tạo dựng cho đến thời gian tận cùng lúc ngày chung thẩm phán xét sau cùng xảy đến.
Mầu áo đỏ và hình ngọn lửa rực sáng diễn tả sự hăng say nồng nhiệt của Tổng lãnh Thiên thần Michael dấn thân cho nhiệm vụ được Thiên Chúa giao phó cho.
Tổng lãnh Thiên Thần Michael không là Thiên Thần nhỏ bé dễ thương như một em bé . Nhưng là một Thiên Thần với tràn đầy sức mạnh hùng dũng. Và sức mạnh này Thiên Chúa gửi đến mỗi người, để họ không bị những sức mạnh trần gian đè bẹp uy hiếp. Đó là sứ điệp niềm an ủi. Bên cạnh con người có một Thiên Thần cùng đồng hành bênh vực chiến đấu cho chúng ta giúp chống lại thần sự dữ.
Theo tin tưởng Tổng lãnh Thiên Thần Michael là vị đón nhận linh hồn những qua đời trên thiên đàng cũng như Thánh Phero nơi cửa thiên đàng.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Kinh truyền tin
- Viết bởi Dân Chúa
Hằng ngày xưa nay nơi các nhà Dòng , Tu viện, nơi các họ đạo có tập tục đạo đức đọc kinh truyền tin vào lúc 12.00 giờ trưa, và vào buổi chiều lúc 18.00 hay 19.00 giờ.
Vào lúc 12.00 giờ trưa ngày Chúa nhật hằng tuần đức giáo hoàng từ cửa sổ phòng làm việc bên Vatican đọc kinh truyền tin với toàn thể khách hành hương tụ tập nơi quảng trường đền thờ Thánh Phero.
Nhiều xứ đạo, Hội đoàn và tư gia trước khi đọc kinh cầu nguyện chung cũng bắt đầu bằng Kinh Truyền tin
Vậy đâu là ý nghĩa đạo đức thần học cùng lịch sử truyền thống kinh truyền tin?
Theo truyền thuyết thuật lại ngay từ thế kỷ thứ nhất sau khi Chúa Giêsu trở về trời, các tin hữu Chúa đầu tiên đã cầu nguyện nhiều lần trong một ngày. Rồi các Tu sĩ Dòng cũng có tập tục đọc kinh cầu nguyện. Những tập tục đạo đức này mở đường dẫn đến tập tục đọc Kinh truyền tin.
Năm 1274 Thánh Bonaventura , dòng Phanxicô, đã cùng với các Tu sĩ nhà Dòng lập ra tập tục đọc Kinh truyền tin vào buổi chiều với ba kinh Kính mừng Maria, đang khi kéo chuông báo tin vui.
Đức giáo hoàng Gioan 22. năm 1318 đã truyền khi đọc kinh truyền tin chào kính mừng Đức mẹ , mẹ Thiên Chúa, phải qùi gối lúc đọc kinh Kính mừng Maria cùng đổ những hồi chuông.
Thời đức giáo hoàng Calixtus năm 1456 đã truyền đọc Kinh truyền tin hằng ngày vào buổi trưa với ba lời Kinh Kính Mừng cùng Kinh Lạy Cha, để cầu xin Thiên Chúa gìn giữ che chở cho đạo Kitô giáo thời lúc đó đang trong hoàn cảnh bị hoàng đế Mohamed II. đe dọa xâm chiếm tiêu diệt.
Năm 1545 Thánh Ignatius, Dòng Tên Chúa Giêsu, đã thành lập tập tục cầu nguyện đọc kinh Kính mừng ba lần có đổ chuông ba lần trong ngày sáng, trưa và chiều tối.
Năm 1571 Đức giáo hoàng Pius V. đã quyết định công thức Kinh truyền tin như hiện đang có hiện nay trong toàn thể giáo hội Công giáo hoàn vũ.
Ngày 22.10.1978 Đức Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II. lần đầu tiên đã cầu nguyện đọc Kinh Truyền tin công khai với giáo dân ở quảng trường đền thờ Thánh Phero.
Đức giáo hoàng Benedictô XVI. và đức đương kim giáo hoàng Phanxicô tiếp tục truyền thống này vào các ngày Chúa nhật cùng lễ trọng trong Giáo hội.
Kinh Truyền tin diễn tả mầu nhiệm nhập thể của Thiên Chúa từ trời cao xuống trần gian làm người.
Kinh Truyền tin chứa đựng nội dung chính những lời Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel hiện đến báo tin nói chuyện với Đức mẹ Maria, như Thánh sử Luca viết thuật lại ( Lc 1, 26-38), và cao điểm lời kinh „ chốc ấy Ngôi thứ hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng ta.“ như Thánh sử Gioan viết trong phúc âm.( Ga 1,4).
Ba lần trong ngày Giáo hội Chúa cầu nguyện đọc kinh truyền tin muốn tuyên xưng nói lên ý nghĩa về căn bản đức tin Công giáo:
Kinh truyền tin với những hồi chuông vào buổi sáng lúc 06.00 hay 07.00 giờ nhắc nhớ đến sự phục sinh sống lại của Chúa Giêsu Kitô mang ơn cứu chuộc cho trần gian.
Kinh truyền tin lúc 12.00 giờ trưa với những hồi chuông đổ nhắc nhớ đến sự thương khó đau khổ của Chúa Giêsu Kitô đã gánh chịu vì tội lỗi con người.
Kinh truyền tin vào buổi chiều tối với những hồi chuông để nhắc nhớ đến biến cố Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người trong cung lòng đức mẹ Maria bởi quyền năng Đức Chúa Thánh Thần.
Từ thế kỷ 17. kinh truyền tin đọc lúc buổi chiều tối, còn có thêm ý chỉ tưởng nhớ cầu cho những người đã qua đời.
Kinh truyền tin kết thúc bằng lời khẩn cầu tràn đầy lòng tin tưởng:
„ Lạy Chúa, chúng con xin Chúa ban ơn xuống trong linh hồn chúng con là kẻ đã nhờ lời Thánh Thiên Thần truyền, mà biết thật Chúa Kitô là con Chúa đã xuống thế làm Người, thì xin vì công ơn Chúa chịu nạn chịu chết trên cây Thánh Giá, cho chúng con ngày sau khi sống lại được đến nơi vinh hiển, cũng vì công nghiệp Chúa Kitô Chúa chúng con. Amen.“
Con người ngày hôm nay sống trong xã hội văn minh tiến bộ với những thành qủa phát minh mới đầy ngạc nhiên về khoa học kỹ thuật trong các phương diện, mang lại những tiện nghi cho đời sống. Nhưng dẫu vậy con người cũng luôn luôn chạm tới biên giới của khả năng, cảm thấy sự bất lực không vượt qua được sự hạn hẹp của mình.
Là con người có lòng tin tưởng vào quyền năng thiêng liêng cao cả trong thâm tâm sâu thẳm nhận ra mình vẫn luôn hằng lệ thuộc vào Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và gìn giữ che chờ đời sống mình.
Với lòng cậy trông trong mọi hoàn cảnh con đường đời sống họ dâng lên Thiên Chúa tình yêu qua lời cầu nguyện những lo âu buồn phiền của mình, cùng cả những khó khăn của nhân loại.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lòng khoan dung nhân hậu
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm người Công giáo Việt Nam mừng kính các Thánh tử đạo của chúng ta với lòng kính mến ngưỡng phục đời sống chứng nhân anh hùng của các ngài cho đức tin vào Thiên Chúa. Dù bị tra tấn sau cùng bị kết án tử hình, vì tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa, nhưng các ngài vẫn một lòng kiên cường không chối bỏ đức tin vào Thiên Chúa.
Các ngài không chỉ sống trung thành với đức tin vào Thiên Chúa, nhưng các ngài còn sống lòng khoan dung nhân hậu tình bác ái với mọi người nữa.
- Thánh Emmanuel Lê văn Phụng, chết tử đạo ngày 31.07.1858, bị bắt tống giam trong tù rồi bị kết án tử hình, vì tin theo đức tin Công giáo tổ chức việc đọc kinh xem lễ, che chở giấu linh mục trong nhà trái lệnh Vua cấm đạo Công gíao thời lúc đó.
Trong thời gian bị giam trong tù, Thánh nhân cương quyết không chối bỏ đạo, và không cho vợ con bỏ tiền chạy chuộc ông ra khỏi tù, cùng căn dặn vợ con không bao giờ được tìm cách trả thù những khốn khó cha phải chịu. Chúa đã muốn như vậy hãy để cha nhẫn nại chịu đựng.
Trong tù Thánh nhân còn phân phát thuốc cho các bạn tù. Ngày bị đem ra xử hành quyết theo lệnh của Vua, các con ông đến thăm qùi xuống trước mặt cha mình khóc lóc, nhưng Ông khuyên bảo: Tại sao lại khóc, xin ở lại bằng an, hãy tuân giữ các lề luật Giáo hội, hãy cầu nguyện sáng tối và hãy sống hòa thuận với nhau. Các con phải trung thành giữ đạo, hãy noi gương cha con đây, đừng thù óan hay kiện cáo những kẻ đã tố gíac cha. Hãy mang xác cha về chôn ở Đầu Nước cùng với xác Cha Qúi..“ ( Lm. Giuse Vũ Thành, Dòng máu anh hùng, tập III. trang 212-216)
- Thánh linh mục Giacobê Năm Mai Ngũ chịu tử vì đạo ngày 12.08.1838, trong thời kỳ cấm đạo gay gắt cha Năm phải trốn ờ nhà Ông trùm Đích ở làng Kẻ Vĩnh. Cha Năm tính tình hiền hòa vui vẻ, có lòng khiêm nhường đạo đức. Ngài có lòng thương người nghèo khó , khi ăn cơm ngài thường để dành cho kẻ khó một ít. Lúc chẳng có gì để cho kẻ khó, thì ngài cho thuốc viên.
Trong lao tù các quan thấy cha Năm đã có tuổi, ăn nói lễ phép nên cũng thương không bắt phải mang gông cùm ban ngày mà chỉ bắt ban đêm thôi. Các quan cũng làm ngơ để cho cha đi tại trong tù dễ dàng. Ở đây lại được dịp cho cha truyền giáo. Đối với những người ngoại giáo thì cha yên ủi giảng dạy cho họ. Đối với những người có đạo thì cha nâng đỡ và khuyên bảo họ mạnh dạn tuyên xưng đức tin…..
Trong những ngày tù có nhiều người nghèo khó cùng ở trong tù với cha Năm. Cha lấy những của ăn mà bổn đạo làm phước cho ngài để chia xẻ với những người trong tù…. ( Lm. Giuse Vũ Thành, Dòng máu anh hùng, tập II. trang 171-176)
Thật là một đời sống chan chứa lòng thương xót của những vị Thánh anh hùng tử đạo với con người.
Các Thánh được Hội Thánh tôn phong trên bàn thờ vì gương mẫu đời sống đạo đức thánh thiện đức tin vào Chúa, cùng đời sống khoan dung nhân hậu đầy lòng thương xót của của họ với con người.
- Mừng kính các Thánh tử đạo Việt Nam chúng ta cùng tưởng nhớ đến ngày qua đời của Đức cố Hồng Y Phanxico Nguyễn văn Thuận (+16.09.2002). Ngài đã được Hội Thánh nâng lên hàng Tôi Tớ Chúa trong tiến trình chuẩn bị phong Chân phước và Hiển Thánh cho ngài. Vì nhân đức anh hùng của ngài trung thành với đức tin vào Chúa, vào Hội Thánh, nhất là nhân đức bác ái lòng khoan dung của ngài với con người trong những năm tháng bị giam cầm lao tù ( 1975- 1988).
Lúc còn sinh thời sau khi ra khỏi lao tù, ngài kể lại mẩu chuyện chung sống với anh công an giữ nhiệm vụ canh nhà tù nơi ngài bị giam giữ:
“ Một ngày nọ có một người canh tù hỏi tôi-
- Ông có yêu mến chúng tôi không?
- Có chứ, tôi hằng yêu mến các anh.
- Nhưng mà chúng tôi đã bỏ tù ông bao nhiêu năm, mà không xét xử, không kết án, vậy mà ông lại yêu mến chúng tôi à? Đây là điều không thể đượ! Có lẽ không thật đâu!
- Tôi đã ở với các ông nhiều năm, như ông thấy đó, có đúng không?
- Khi nào ông được tự do, ông sẽ không sai bổn đạo đến đốt nhà chúng tôi và giết người thân của chúng tôi đấy chứ?
- Không, ngay cả khi các anh có muốn giết tôi đi nữa, tôi vẫn yêu mến các anh.
- Mà tại sao?
- Bởi vì Chúa Giêsu đã dậy tôi phải yêu thương tất cả mọi người, kể cả kẻ thù. Nếu tôi không làm như thế, tôi sẽ không xứng đáng là Kitô hữu nữ
- Thật là đẹp, nhưng khó hiểu qúa.”
( ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân Hy vọng, Các bài giảng tuần tĩnh tâm giáo triều Roma năm 2000, Dân Chúa Âu châu 2001, Trang 98)
Đây linh đạo của một nếp sống đạo đức cao thượng theo gương Chúa Giêsu, phản chiếu lại nơi đời sống của các Thánh tử đạo Việt Nam, của đức cố Hồng Y Phanxico Nguyễn văn Thuận: linh đạo lòng khoan dung nhân hậu.
Đây là linh đạo có sức thu phục cảm hóa lòng người hơn tất cả, cùng mở ra con đường mang lại hòa bình, dù có bị xỉ nhục đối xử bất công.
Đây là linh đạo của một tâm hồn có nếp sống đạo đức bình dân. Nhưng chiếu tỏa chan chứa niềm Hy Vọng cho chính mình cùng cho người khác, linh đạo của con người có đời sống thánh thiện.
Xin các Thánh Tử Đạo cầu bầu cho nhân loại chúng con mau thoát khỏi cơn đại dịch Corona đang hoành hành đe dọa sức khoẻ đời sống con người.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Rửa tay giữ vệ sinh
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Xưa nay trong đời sống rửa tay giữ vệ sinh là điều tư nhiên thông thường căn bản từ buổi sáng khi thức dậy cho tới buổi chiều tối trước khi đi ngủ.
Nhưng từ đầu năm nay từ khi bệnh đại dịch do vi trùng Corona bùng phát gây lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ đời sống con người, việc rửa tay giữ vệ sinh trở thành như chính sách y tế khẩn thiết khuyến khích khắp mọi người trên thế giới, để đề phòng ngăn ngừa bị lây nhiễm vi trùng bệnh dịch, nhằm giữ gìn sức khoẻ cho con người.
Vậy trong nền văn hóa tôn giáo việc rửa tay mang ý nghĩa gì?
Trong sách kinh thánh Cựu ước thời ông Mose có luật buộc thanh tẩy tắm giặt khắp thân thể cho sạch sẽ bằng nước khi bị ô uế nhiễm bệnh nhiễm trùng, trước khi ăn uống, khi phạm tội lỗi phạm lề luật, nhất là Thầy cả thượng phẩm trước khi bước vào cung thánh đền thờ dâng lễ tế lên Thiên Chúa. Có thế mới xứng đáng tế lễ cầu nguyện trước Thiên Chúa Giave cùng được chung sống trong cộng đoàn dân Thiên Chúạ. (Sách Levi từ chương 11. đến chương 15., và sách Dân số chương 19).
Nghi thức luật buộc thanh tẩy theo nghi thức theo truyền thống mang nhiều ý nghĩa về tôn giáo đạo Do Thái.
Trong nền văn hóa Kitô giáo việc thanh tẩy thân xác không đặt nặng. Nhưng việc giữ gìn thanh tẩy tâm hồn cho trở nên thanh sạch quan trọng hơn.
Chúa Giêsu trong cuộc đối thoại tranh luận về nghi thức rửa tay thanh tẩy đã có nhận xét:
„ Có những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những người từ Giê-ru-sa-lem đến.2 Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa.3 Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận;4 thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng.5 Vậy, người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giê-su: "Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa? "6 Người trả lời họ: "Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.
8 Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm."9 Người còn nói: "Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông“ ( Phúc âm Marco 7,1-9).
Trong thánh lễ Misa, linh mục chủ tế trước khi bước sang phần chính thánh lễ lấy nước rửa tay với lòng thành khẩn cầu Thiên Chúa qua lời kinh của Thánh vịnh 51,4: „ Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con phạm, xin Ngài thanh tẩy.“
Trong lịch sử, Kinh Thánh nói đến một trường hợp rửa tay để minh oan cho chính mình. Đó là Pontius Pilatus khi xử án Chúa Giêsu Kitô năm xưa : “ Tổng trấn Phi-la-tô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: "Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy! „ (Phúc âm Thánh Mattheo 27, 24).
Pontius Pilatus rửa tay không phải để thanh tẩy giữ luật buộc theo truyền thống Do Thái giáo, cũng chẳng phải để giữ vệ sinh chống phòng bệnh, và cũng chẳng phải để nói lên biểu trưng thanh tẩy tâm hồn. Nhưng là để phủi tay nói lên sự bất lực cùng không muốn dính dáng để trốn trách nhiệm.
Ngày nay lúc này trước nguy cơ bị vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm, chính phủ các quốc gia, các nhà khoa học ngành y tế đã đề ra biện pháp kêu gọi mọi người phải thường xuyên rửa tay cùng cẩn thận, để phòng chống ngăn ngừa không cho vi trùng bệnh nạn xâm nhập vào bên trong các cơ quan thân thể gây nguy hiểm đe dọa sức khoẻ đời sống cá nhân cũng như xã hội.
Rửa tay giữ vệ sinh ngăn ngừa không cho vi trùng xâm nhập phá hủy sự sống là cung cách qúi trọng bảo vệ món qùa sự sống do Thiên Chúa ban cho con người.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nhu cầu cần có nước
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thời tiết mùa Hè như những ngày trung tuần tháng Tám 2020 vừa qua ở Âu Châu, nhiệt độ vượt mức 30 độ C lên gần tới mức 40 độ C, gây ra sức nóng bức qúa mức làm khô hạn, héo tàn chết cỏ cây, cùng gây ra vấn đề đe dọa làm suy yếu sức khoẻ cho người và cho thú vật. Vì thiếu không có đủ nước.
Trong hoàn cảnh đó hơn lúc nào hết nước là nhu cầu rất cần thiết cho sự sống được phát triển tốn tại trong thiên nhiên.
Cây cỏ ruộng đồng, thú vật và con người cần có nhu cầu căn bản cần nước hàng ngày. Từ sáng sớm đến chiều tối đi ngủ, con người luôn cần nước cho đời sống. Nên nước luôn là vấn đề thời sự sống còn cho các nơi trên thế giới, như những đất nước khô hạn, sa mạc bên vùng bên Trung Đông, bên Phi châu…
Nước là vật thể trong suốt không có hình hài, trôi chảy xuyên suốt qua mọi ngóc nghách, trườn vượt mọi bức rào cản chắn lối, cùng không có thể nắm giữ giọt nước, dòng nước lại được. Nhưng nước lại là chất dinh dưỡng cho sự sống được phát triển tồn tại về mặt thể lý cho mọi sinh vật trong thiên nhiên. Và nước cũng là hình ảnh biểu tượng thiêng liêng cho đời sống tinh thần đạo đức.
Thánh Phanxicô thành Assisi không phải là nhà nghiên cứu khoa học thiên nhiên cũng không là nhà thần học, nhưng qua thực tế đời sống đã có tâm tình suy tư về hình ảnh thiêng liêng của nước:
„ Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi, vì Chị Nước, thật ích lợi và khiêm nhường, quí hóa và trinh trong.“ ( Bài ca mặt trời)
Khát nước là nhu cầu căn bản của sự sống thân thể con người. Thánh tiên tri Isaia nói đến nhu cầu khát nước trong ý nghĩa hình ảnh biểu tượng sự khao khát ( nước) về sự sống, về Thiên Chúa, về nguồn nước tâm linh.
„ĐỨC CHÚA sẽ không ngừng dẫn dắt ngươi,
giữa đồng khô cỏ cháy, Người sẽ cho ngươi được no lòng;
xương cốt ngươi, Người sẽ làm cho cứng cáp.
Ngươi sẽ như thửa vườn được tưới đẫm
như mạch suối không cạn nước bao giờ.“ (Isaia 58.11)
Nước là yếu tố căn bản trong Bí tích Rửa tội. Nước được tưới gội trên đỉnh đầu em bé nhận lãnh Bí tích rửa tội.
Nơi cửa ra vào thánh đường có bình nước Thánh nhắc nhớ đến làn nước Bí tích rửa tội ngày xưa đã lãnh nhận là hình ảnh dấu chỉ sự sống mới trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lần hiện ra ngày 25.03.1858 Đức Mẹ Maria đã nói với Bernadette : „Con hãy uống nước này và lấy nước đó mà rửa mặt“. Lời này cũng là lời mời gọi cho mỗi người khi đến hành hương nơi dòng nước Đức Mẹ Lộ Đức. Vì thế, xưa nay ai đến đây cũng đều lấy nước suối Đức Mẹ Lộ Đức rửa mặt, uống, cùng lấy mang về, hay vào hồ dành riêng để tắm.
Cách đây 87 năm ( 1933-2020) Đức mẹ Maria đã hiện ra với cô Mariette Beco tám lần từ tháng Một đến tháng Ba 1933 ở Banneux nước Belgium. Đức mẹ đi đàng trước, nhưng quay mặt về phía Mariette Beco và đoàn người đi theo, dẫn tới dòng suối nước nhỏ bên vệ đường trong rừng Banneux và bảo:“ Con hãy nhúng tay vào dòng suối nước này dành cho mọi dân tộc!”
Dòng suối nước Banneux từ ngày đó trở thành dòng suối nước linh thiêng. Ngày nay đi hành hương đến kính viếng Đức mẹ Banneux, ai cũng đều ra đó nhúng tay vào chậu bể nước chảy và đọc kinh cầu nguyện. Hay có những còn người hứng nước ở các vòi nước chảy ra từ dòng suối đem về nhà dùng uống hay rửa mặt…
Nước mang lại sự tươi mát thịnh vượng cho các sinh vật. Nước chảy tới đâu mang lại sự đổi mới, cùng sức khoẻ phấn khởi, như khi chúng ta tắm dưới vòi nước, bơi lội trong dòng sông .
Mỗi hớp nước uống nhắc nhớ đến sự sống là món qùa tặng tròn đầy của Thiên Chúa ban cho.
Hình ảnh đôi bàn tay với những giọt nước tràn đầy vốc xoa lên rửa mặt mũi cho sạch mát nhắc nhớ song song đến sự tẩy rửa tâm hồn tinh thần cho nên thanh sạch.
Từ đầu năm nay bệnh đại dịch Corona lây lan truyền nhiễm khắp nơi trên thế giới. Để khử trừ ngăn cản đề phòng không cho vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm, một phương pháp vệ sinh cần thiết cấp bách lúc này là nhiều lần trong ngày phải rửa tay bằng nước cho sạch sẽ gìn giữ sức khoẻ thể xác lẫn tinh thần..
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chị em Hội các Bà Mẹ Công giáo yêu qúi,
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong dòng lịch sử lần đầu tiên chúng ta phải sống trải qua trong lo sợ hoang mang bị giới hạn không được tới nhà thờ tham dự thánh lễ đọc kinh cầu nguyện chung, không đi hành hương, như từ hồi tháng Ba vừa qua cho tới bây giờ, và còn kéo dài không biết tới khi nào nữa, dù đã có phần nào nới lỏng sự giới hạn.
Vì vi trùng bệnh đại dịch Corona lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ đời sống con người trên toàn thế giới. Do đó chính phủ các quốc gia đất nước phải đề ra những biện pháp giới hạn sinh hoạt chung trong đời sống, để ngăn ngừa bệnh dịch lây lan truyền nhiễm. Và các tôn giáo cũng phải tuân theo sự giới hạn ngưng đình trệ những sinh hoạt lại.
Những tháng ngày phải ở nhà vừa qua, các người mẹ vừa phần phải lo việc cơm nước, quần áo vệ sinh nhà cửa, và vừa phải lo canh chừng dậy học cho các con nữa. Có những người mẹ bên cạnh còn phải làm việc ở nhà ( Home office) cho hãng xưởng nữa.
Vì các con trẻ không thể tới trường học, người mẹ gia đình trở thành cô giáo dậy học cho con mình, thúc dục kiểm soát chúng học làm bài, phân chia công việc giờ giấc trong ngày. Người mẹ vừa là người phục vụ lo cho gia đình, vừa là người phải có óc sáng tạo sắp xếp sao cho đời sống gia đình có bầu khí linh hoạt vui vẻ, để chồng con không cảm thầy nhàm chán, không cho những ảnh hưởng tiêu cực xảy ra trong đời sống gia đình. Nên chị phải thay đổi món ăn nấu nướng những món ngon lạ, làm bánh, bày ra những công việc vui chơi giải trí cho con cái trong gia đình. Chưa kể có những trường hợp người mẹ phải làm trung gian phân xử sự tranh cãi gịận dữ giữa các người con!
Ngoài ra chị còn phải giữ lòng hiếu thảo tâm hồn quan tâm lo nghĩ đến cha hay mẹ gìa đang còn sống trong cô lập không đi đâu được.
Trong những ngày tháng bệnh dịch đe dọa, lo sợ bị lây nhiễm cho nhau, con cháu không thể đến thăm ông bà. Và ông bà cũng không thể đến thăm con cháu được. Hai bên buồn nhớ nhau. Có chăng họ chỉ gặp nhau qua điện thoại, qua màn hình. Con cháu đến thăm ông bà chỉ đứng ngoài sân hay nơi hàng rào nói chuyện vọng lên cửa số với ông bà, hay muốn biếu tặng ông bà sự gì, họ chỉ để món qùa tặng ngoài cửa hành lang thôi. Họ gần nhau mà lại xa nhau. Họ không được ôm hôn nhau, bá vai bám cổ nhau biểu lộ tấm lòng vui mừng yêu mến tình thân nghĩa thiết. Họ nhìn nhau nói chuyện với nhau trong khoảng cách xa nhau.
Thật là cảnh tựa như một pha tuồng diễn kịch đóng phim vừa vui buồn cười, mà lại vừa thương tâm cảm động nghẹn ngào!
Người mẹ gia đình còn phải lo đến phần tinh thần đạo giáo cho con mình nữa giữa mùa đại dịch. Vì không đến nhà thờ xem lễ được, nên nhiều người mẹ hằng ngày phải kêu gọi thúc dục con cái đọc kinh cầu nguyện, ngày Chúa Nhật cả gia đình tụ tập trước màn hình Tivi cùng xem dâng thánh lễ trực tuyến. Ngôi nhà gia đình không chỉ là nơi ăn chốn ngủ nghỉ, vui chơi, nhưng trở thành một „ngôi nhà thờ nhỏ“.
Các người mẹ gia đình trong hoàn cảnh bệnh đại dịch lúc này bị đòi hỏi thách thức nhiều hơn trong việc nuôi dưỡng gìn giữ bảo vệ gia đình. Thiên Chúa đã phú ban cho các người mẹ sức khoẻ không hiện ra ngoài nơi gân cốt cơ bắp thịt chân tay, nhưng họ lại có sức năng động chịu đựng dẻo dai rất tốt. Và một tính khí kiên nhẫn hòa nhã, khả năng thích ứng chấp nhận vượt qua mọi hoàn cảnh thử thách trong âm thầm với nụ cười tình thân ái, và cả trong dòng nước mắt buồn tủi đau khổ… Do đó họ chiếu tỏa ra nét vẻ đẹp hòa bình có sức thu hút của một tâm hồn chan chứa tình yêu thương cho gia đình con cái.
Năm nay Hội các Bà Mẹ Công giáo mừng kính lễ Thánh Monica, bổn mạng của Hội, không như những năm trước có tĩnh tâm hội họp ăn mừng, mà chỉ trong âm thầm cùng giới hạn thôi. Nhưng không vì thế tâm tình nhớ đến Thánh Monica, nhớ đến nhau bị yếu kém bớt đi. Trái lại có thể đậm đà thấm thía hơn. Hoàn cảnh khó khăn trong đe dọa bị thử thách thúc đẩy tâm tình đời sống tinh thần đạo đức thiêng liêng lớn mạnh hơn thêm lên.
Xin ca ngợi cùng cám ơn sự dấn thân hy sinh quảng đại chịu đựng của các người mẹ, tuy âm thầm từng bước từng việc nhỏ mà lại rất hữu ịch cần thiết. Những điều đó góp phần xây dựng chính yếu cho đời sống sức khoẻ hạnh phúc gia đình, cho tương lai của các người con.
Cầu chúc các người Mẹ, các Chị Em Hội bằng an mạnh khoẻ.
Sự quan phòng lo liệu của Thiên Chúa luôn ở phía trước, và cùng ở phía đàng sau con đường đời sống chúng ta.
Lễ Thánh Monica, 27.08.2020
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Chìa khóa đóng mở cửa
- Đức mẹ Maria được đưa về trời
- Lời cầu chúc thời Corona: Bleiben Sie gesund - Chúc bằng an mạnh khoẻ!
- Kiên trì trong thời bị thử thách
- Trong khủng hoảng cơn đại dịch Corona
- Ba cách để dâng mình cho Chúa
- Những điều mong ước gửi các tân linh mục
- Bảo vệ sức khoẻ đời sống
- [Phút cầu nguyện] Xin cho con biết lắng nghe
- Bên đống củi than cháy rực.