Mừng lễ Chúa phục sinh thời bệnh dịch Corona
- Viết bởi Dân Chúa
Lễ mừng Chúa Giêsu Kitô phục sinh là ngày lễ khởi thuỷ của Kitô giáo. Khi Giáo hội mừng lễ Vượt qua, tưởng nhớ tới biến cố giải thoát dân Thiên Chúa khỏi cảnh sống nô lệ bên Aicập, ca tụng sự cao cả của Thiên Chúa và sự trung thành của người trong công trình sáng tạo xưa thuở ban đầu và sự sáng tạo mới trong đêm canh thức chờ đợi Chúa Giêsu Kitô chỗi dậy sống lại từ đêm tối sự chết.
Đây là đêm người có đức tin sống trải qua từ niềm thất vọng chán chường được biến đổi sang trạng thái tràn đầy niềm hy vọng phấn khởi, từ đau buồn tang tóc sang niềm vui mừng, từ sự chết biến đổi sang thành sự sống.
Nhưng năm nay cơn đại dịch bệnh Covid 19 đã làm mọi sự biến đổi ra khác!
Lễ phục sinh trọng đại của Kitô giáo và những ngày Chúa nhật tiếp theo trong mùa phục sinh không có thể mừng rộng rãi trọng thể có giáo dân tham dự được. Niềm hy vọng nhường chỗ cho thất vọng chán nản, niềm vui mừng được thay và bằng đau buồn lo lắng, sự gặp gỡ bị giới hạn thay vì tự do, khả thể đe dọa bị lây bệnh nạn thay vì sức khoẻ. Bầu khí đời sống trong xã hội u ám trong hoang mang. Khắp nơi mọi người thu hẹp đời sống lại trong nhà mình. Gia đình tụ họp nhau xem lễ qua không gian ảo của màn hình Tivi và rồi cùng nhau đọc kinh cầu nguyện. Nhà tư sinh sống trở thành „thánh đường thu hẹp“. Nhiều người có suy luận bi quan cho đó là tai họa thảm khốc của ngày chung cuộc tận thế của thế giới!
Ngày chung cuộc tận thế được hiểu là những diễn tả mang tính cách tiên tri nói về ngày cuối cùng của thế giới. Sự tận cùng của thế giới theo thánh sử Mattheus diễn ra ở đồi Golgotha. Khi Chúa Giêsu chết trên cây thập gía :
„50 Đức Giê-su lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn. 51 Ngay lúc đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung đá vỡ.52 Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy.53 Sau khi Chúa trỗi dậy, các ngài ra khỏi mồ, vào thành thánh, và hiện ra với nhiều người „ ( Mt 27,50-53).
Khoa thần học đạo đức và sự loan báo tin mừng Chúa Giêsu rất khó khăn lúng túng trong việc tìm hiểu cắt nghĩa đối diện với những hình bi thảm khốc này. Nhưng trái lại kỹ nghệ làm phim ảnh lại không có suy nghĩ phê bình chỉ trích những pha hình ảnh này.
Những pha hình ảnh bi thảm hãi hùng của Kinh thánh diễn tả về ngày tận cùng của thế giới trở thành những gợi ý tưởng lạ lùng cho những cảnh đóng phim về những tai họa. Những nhà làm phim ảnh vui mừng có những cảnh tượng chung cuộc tận cùng đó. Vì những pha hình ảnh như thế sống động tạo ra cảm gíac rợn rùng da thịt kích thích sự tò mò, hấp dẫn ăn khách người xem.
Nhưng những chấm điểm về ngày chung cuộc diễn tả trong kinh thánh là niềm vui mừng về điều mới: Các mồ mả mở tung ra, sự chết bị chôn vùi và sự sống bắt đầu. Bài trình thuật sự thương khó Chúa Giêsu nói về sự chết không là điều gì sợ hãi. Nhưng dẫn đưa đến suy nghĩ về một quang cảnh lớn lao tận cùng: sự chiến thắng của Thiên Chúa , và Ngài trao ban sự chiến thắng đó cho tất cả mọi người có được sự sống.
Thánh tông đồ Phaolo cũng nhận ra tương tự như thế. Sự phục sinh sống lại của Chúa Giêsu Kito là nền tảng đức tin. Không có sự phục sinh sống lại của Chúa Giêsu Kitô sự chết sẽ không bị tiêu diệt. Sự sống lại của Chúa Giesu Kitô là lý do nền tảng của một niềm hy vọng không thể tưởng tượng ra được cho mọi người. Tất cả đều phải chết, nhưng qua nhờ Chúa Giêsu Kitô phục sinh, họ được cứu thoát khỏi sự chết dẫn đưa vào sự sống.
Sự phục sinh sống lại của Chúa Giêsu Kitô không thể biện hộ chứng minh theo lý luận khoa học được. Đó là sự chuyển tiếp từ thời điểm của chúng ta sang sự vĩnh cửu của Thiên Chúa. Đó là sự việc của đức tin. Mà đức tin không thể bị cưỡng bức. Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của con người. Người có đức tin, tự nhận biết được giải thoát khỏi sự chết.
Và họ có thể hy vọng rằng những phục sinh nhỏ bé xảy ra trong những quãng thời gian khủng hoảng của đời sống luôn xảy ra, là dấu chỉ sự phục sinh sống lại to lớn.
Bức hình ảnh Lòng Chúa thương xót, tuy không là một tác phẩm nghệ thuật lớn lao do nhà danh họa nổi tiếng vẽ phác họa ra, nhưng lại có sức ảnh hưởng soi lòng đánh động nói với nhiêu người. Bên dưới bức ảnh có dòng chữ: „Lạy Chúa Giêsu, con trông cậy nơi Chúa.“.
Vâng, con người tín thác trông cậy vào Chúa mọi ngày trong suốt đời sống khi vui mừng hạnh phúc khoẻ mạnh, cũng như lúc gặp gian nan khốn khó gặp khủng hoảng lo âu sợ hãi bệnh nạn.
Đây là sứ điệp Chúa nhật lòng Chúa thương xót gửi kêu gọi mọi người.
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Cùng với vết thương
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong nếp sống xã hội, khi người nào đó bị thương tích nơi thân thể, họ được băng bó cẩn thận che kín không để lộ diện vết thương ra bên ngoài.
Đó là nếp sống văn hóa tôn trọng đời sống thân xác cùng phẩm gía con người và bảo đảm giữ vệ sinh sức khoẻ. Và nào có ai muốn phơi bầy vết thương nơi thân thể mình ra ngoài đâu?
Chúa Giêsu Kitô sau khi phục sinh sống lại vinh hiển, đã hiện ra với các Tông đồ cùng với những vết thương nơi tay, nơi cạnh sườn mình mà lúc trước đã bị hành hạ trên thập gía cho tới chết. ( Ga 20,19-31).
Vết thương nơi thân thể là dấu hiệu của thất bại, sự yếu kém bị đè bẹp chiến thắng. Nhưng Chúa Giesu Kitô phục sinh không loại bỏ điều đó lại đàng sau. Trái lại đã để những dấu vết của vết thương nơi thân thể mình lộ ra cho nhìn thấy.
Phải chăng qua đó ẩn chứa dấu hiệu sứ điệp nói lên điều gì sâu xa ẩn chứa nữa?
Sự phục sinh không là biến cố khải hoàn xóa bỏ hết những sự đã qua, nhưng có thể nói được rằng sự phục sinh gắn liền với thân xác đã chịu đau khổ hành hạ và đã chết. Sự đau buồn, lo âu hoài nghi cùng sự khốn khổ không nhảy vượt trôi qua trong sự phục sinh. Những điều đó không còn đóng giữ vai trò gì nữa, mà trở thành dấu chỉ nhận ra người chết đã phục sinh sống lại.
Và đó là điều Giáo hội tin nhận sống lại cả về thân xác. Thân xác con người không chỉ có thân thể tứ chi, nhưng còn nhiều hơn nữa. Nó bao gồm lịch sử đời sống mỗi người, với tất cả niềm vui hạnh phúc sự đẹp đẽ cùng cả sự đau khổ chịu đựng hèn kém trong đời sống con người. Xưa nay cho rằng những vết thương tích là những dấu hiệu của sự thất bại và sai xót lầm lỡ, là những dấu vết tích của đau khổ buồn tủi và nghi nan thất vọng xảy ra trong đời sống. Nhưng những đìều đó lại là thành phần làm nên đời sống, khắc nghi trong đời sống, và giúp làm cho trở nên trưởng thành vững mạnh có kinh nghiệm cho đời sống con người.
Và qua những điều đó cũng trở thành dấu hiệu, đặc điểm phân biệt không thể nhầm lẫn đời sống của một người này với người khác. Những khác biệt đó trở thành tương lai của riêng mỗi người nơi Thiên Chúa, Đấng tạo thành nuôi dưỡng và cứu độ con người.
Thiên Chúa không bỏ qua những vết thương tích đời sống con người. Không, Ngài bao bọc gìn giữ trong thân xác phục sinh. Sự đau khổ con người chịu không trở nên vô nghĩa, vô gía trị trước mặt Thiên Chúa. Nhưng Ngài chấp nhận những điều đó trong biến cố phụ̣c sinh sống lại, và biến đổi sang một trạng thái bản thể mới khác biệt, mà Chúa Giêsu Kitô chỉ cho các môn đệ mình.
Không giọt nước mắt nào , không một đau đớn nào là không có gía trị cùng không ẩn chứa ý nghĩa. Nhưng tất cả được bao bọc gìn giữ trong sự vĩnh cửu của Thiên Chúa. Có lẽ vì thế, Chúa Giêsu Kitô phục sinh đã hai lần, như trong Kinh thánh thuật lại, chỉ cho các Môn đệ mình nhận ra dấu vết thương tích nơi thân thể mình.
Những vết thương tích của Chúa Giêsu Kitô phục sinh đã phá tan hoài nghi nơi Tông đồ Toma. Qua dấu vết thương tích của Thầy mình, Ông Toma đã nhận ra đó là Chúa Giêsu Kitô thật. Và có thể Ông Toma cũng mường tượng ra được qua vết thương Ngài muốn chỉ dậy chỉ cho ông điều ẩn dấu trong đời sống là những vết thương tích của chính bản thân cần phải chú trọng để ý tới, không được bỏ qua lãng quên đi, nhưng phải nhận ra ý nghĩa những vết thương tích của đời sống mình. Thiên Chúa không bỏ qua quên lãng những vết thương tích đời sống con người, nhưng tất cả được cùng phục sinh sống lại và được biến đổi trong vinh quang của đời sống mới.
Trong đời sống con người, ai cũng đều trải qua quãng đường đời sống tinh thần cùng nơi thân xác với những đau khổ, chịu đựng, những lo âu thất vọng, những dòng nước mắt thống khổ. Quãng đường đời sống như thế làm cho con người buồn tủi mệt nhọc, như muốn buông xuôi bỏ cuộc…
Nhưng những điều đó không trở thành uổng công, không bị rơi vào quên lãng, cùng không trở thành vô gía trị vô ý nghĩa gì trước mặt Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra con người. Trái lại, tất cả được Ngài chấp nhận như những thành phần giai điệu, chấm nét của lịch sử đời sống con người, và được gìn giữ cho cùng được cứu độ phục sinh sống lại với. Vì những vết thương tâm hồn cũng như nơi thân xác đó góp chung làm nên lịch sử đời sống con người.
Chúa Giêsu Kitô phục sinh sống lại cùng với những vết thương tích bị hành hạ nơi thân thể Ngài khi xưa chỉ vẽ ra con đường cứu độ cho con người rằng những vết thương tích không phải là sự thất bại, sự sai xót nhầm lẫn vô ý nghĩ, vô gía trị.
Trái lại tất cả được Thiên Chúa nhìn đến, những vết thương tích đau khổ đó là dấu chỉ đặc thù riêng biệt của từng người trong đời sống cứu độ mới nơi Thiên Chúa.
Chúa nhật 2. phục sinh.
Lm. Daminh nguyễn Ngọc Long
Lời ca tụng Halleluja hay Alleluja
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Bắt đầu từ đêm canh thức ngày thứ Bảy tuần Thánh đón mừng Chúa Giêsu Kitô phục sinh sống lại, lời ca mừng reo hò Halleluia được cất hát xướng lên trọng thể ba lần loan báo tin mừng Chúa Giêsu phục sinh sống lại từ cõi chết.
Và rồi trong suốt mùa mừng lễ Chúa phục sinh, cùng trong mùa phụng vụ thường niên lời ca tụng Halleluja cũng được xướng hát lên trước khi đọc bài phúc âm trong thánh lễ Misa.
Đâu là ý nghĩa lời ca tụng reo mừng Halleluja?
Câu ca tụng reo mừng Halleluja cùng với câu Amen, câu Hosianna là những câu chữ bắt nguồn từ tiếng Do Thái được dùng phổ biến sâu rộng nhất trên thế giới, nhất là trong các kinh phụng vụ Giáo hội Công giáo.
Hallelu mang ý nghĩa „ ca tụng“, còn chữ -Ja ở cuối ẩn chứa viết tắt chữ „Jahwe“, mà trong Kinh Thánh được phiên dịch là „Thiên Chúa“. Như thế Halleluja nói lên tâm tình ý nghĩa sâu xa „ Hãy ca tụng Thiên Chúa!“.
Halleluja là cách chuyển trong tiếng Đức từ ngôn ngữ Do Thái הַלְּלוּיָהּ (hallelu-Jáh). Theo tiếng Latinh viết là Alleluia có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp „ἁλληλουϊά“. Vì trong tiếng Hy Lạp không có mẫu tự h.
Câu tung hô Halleluja trong các Thánh Vịnh phần Cựu ước có tới 23 lần: TV. 104,35; 105,45; 106,1.48; 111,1; 112,1; 113,1.9; 115,18; 116,19; 117,2; 135,1.21; 146,1.10; 147,1.20; 148,1.14; 149,1.9; 150,1.6.
Các Thánh vịnh từ 112 tới 118 theo cung cách truyền thống đều bắt đầu bằng câu Hallel : Hãy ca ngợi .
Câu HaleluJah có trong sách Khải Huyền của Thánh Gioan bốn lần ( KH 19,1–6).
Dựa theo phụng vụ Do Thái, các tín hữu Chúa Kitô ngay từ thời sơ khai đã nói lên vui mừng cùng ngợi thành Giêrusalem trên trời bằng lời Halleluja : „ Các cửa thành Giê-ru-sa-lem vang tiếng ca hoan hỷ, mọi nhà sẽ cùng hát: "Ha-lê-luj-a!„ (Sách Tobia 13,18)
Bằng lời ca ngợi Halleluja trong sách Khải Huyền, Con Chiên Thiên Chúa được tung hô ca mừng là người chiến thắng: "Ha-lê-luj-a!Thiên Chúa ta thờ là Đấng cứu độ, Đấng vinh hiển uy quyền! (Kh 19,1.)
Chữ Halleluja là chữ rất cổ xưa có từ thời kinh thánh được các vị Tư Tế xướng lên và dân chúng tín hữu lặp lại trong lễ nghi phụng vụ, để ca tụng Thiên Chúa
Câu chữ Halleluja được dùng đọc hay hát lên trong các lời Kinh phụng vụ của Giáo hội Công giáo, nhưng không dịch ra các ngôn ngữ địa phương, mà giữ nguyên chữ như vậy, tương tự như tiếng Amen, chữ Hosiana.
Halleluja là lời hát diễn tả niềm hy vọng trong lúc gặp khủng hoảng. Hy vọng luôn luôn là dấu chỉ về một tương lai mới như trong Thánh Vịnh 112 đã có lời cầu nguyện: „ Halleluja. Hạnh phúc thay, người kính sợ CHÚA, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban.“ (Tv 112, 1)
Lời ca tụng Halleluja này không là thứ tiếng reo hò qua môi miệng bên ngoài, nhưng liên quan mật thiết với tâm tình lòng yêu mến và tin tưởng sâu thẳm từ trong tâm hồn.
Trong đời sống khi người nào nói lời ca tụng ai, là họ muốn biểu lộ tình thân thiết gắn bó với người được ca tụng. Và qua đó muốn nói lên: Bạn đã làm điều tốt, điều hay chính đáng phải lẽ!
Cũng thế, khi người tín hữu Chúa Kitô nói hát lời ca tụng Halleluja, muốn biểu lộ tấm lòng chân thành của mình với Thiên Chúa: Lạy Thiên Chúa, con hướng nhìn về Chúa. Trong niềm vui mừng hân hoan con ca hát chúc tụng Chúa. Vì Chúa đã thực hiện điều tốt lành thánh thiện cho chúng con!
Lời ca tụng Halleluja không do các tín hữu Chúa Kitô phát minh ra. Nhưng đã có gốc rễ ăn sâu trong lịch sử của dân Do Thái từ hàng ngàn năm rrước đó rồi. Vì thế họ đã viết những Thánh Vịnh Hallel- Ca tụng Thiên Chúa Giavê.
Chúa Giêsu Kitô sinh trưởng trên trần gian là người Do Thái có nếp sống giữ đạo Do Thái đạo đức. Nên Ngài đã cùng đọc cầu nguyện bằng Thánh vịnh Hallel cùng ca hát những Thánh Vịnh Hallel trong các Hội Đường, để ca tụng ngợi khen Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa đã sáng tạo công trình vũ trụ thiên nhiên cho mọi loài sinh sống, vì Thiên Chúa đã cứu giải thoát dân ra khỏi cảnh tù tội nô lệ bên Aicập cho được sống trong tự do trên quê hương đất nước của mình.
Hai biến cố lịch sử sáng tạo này là căn bản này luôn thuộc về đêm canh thức phục sinh trong Giáo hội. Thiên Chúa đã trao tặng con người không gian và sự tự do cho đời sống. Đón mừng Chúa Giêsu Kitô phục sinh sống lại là biến cố sáng tạo mới, mà Thiên Chúa thực hiện cho con người được thoát khỏi hình phạt xiềng xích nô lệ của tội lỗi. Vì thế, người tín hữu Chúa Giêsu Kitô cùng với dân Do Thái hát lời ca tụng Halleluja, bài ca ngợi tạ ơn của những người được cứu độ giải thoát.
Năm nay 2020, người tín hữu Chúa Kitô trên khắp trần gian không có cơ hội cùng chung mừng lễ Chúa Giêsu Kitô phục sinh long trọng như mọi năm trước. Vì hoàn cảnh bệnh dịch do vi trùng Corona lây lan nguy hiểm đe dọa sức khoẻ sự sống con người. Nên mọi sinh hoạt lễ nghi phụng vụ mục vụ bị giới hạn thu hẹp tạm ngưng đình hoãn, để cùng phòng chống tình trạng bệnh dịch lây lan truyền nhiễm lan rộng.
Lẽ dĩ nhiên, các lễ nghi phụng vụ Giáo hội cũng được cử hành thu hẹp trong giới hạn về không gian, thời gian và số người tham dự, và được trực tiếp truyền hình trên các hệ thống kênh truyền hình, truyền thanh. Nhưng đó cũng chỉ là một phần nào bù đắp vào sự thiếu thốn giới hạn cùng xa cách không gian thôi. Nó thiếu không khí linh thiêng sống động, thiếu thốn trống vắng không khí cùng chung mừng vui đọc kinh ca hát gặp gỡ.
Và do đó, lời Halleluja ca tụng mừng kính Chúa Giêsu Kitô phục sinh sống lại trong đêm thánh sáng tạo mới và trong các nghi lễ phụng vụ biến thành lời cầu nguyện:
Xin Thiên Chúa, Đấng sáng tạo cùng nuôi dưỡng gìn giữ vũ trụ thiên nhiên,
Đắng đã cứu độ giải thoát dân Do Thái thoát khỏi cảnh nô lệ bên Aicập,
và đã đánh thức cho Chúa Giêsu Kitô chỗi dậy sống lại từ cõi chết,
gìn giữ ban cho thế giới loài con người ân đức chúc lành, cho chúng con sống bằng an mạnh khoẻ mau sớm được giải thoát cứu nguy khỏi bệnh dịch hoành hành đe dọa loài người. Amen.
Lễ mừng Chúa phục sinh 12.04.2020
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đêm thánh sáng tạo mới.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào đêm thứ bảy tuần thánh, Giáo hội có nghi lễ canh thức đón mừng Chúa Giêsu phục sinh sống lại từ cõi chết.
Tuần tự những biến cố nền tảng của vũ trụ, những thắc mắc trung tâm điểm của đời sống con người được ôn nhớ thuật kể lại trong lễ nghi phụng vụ canh thức qua các bài tường thuật của kinh thánh: lửa và nước, ánh sáng và bóng tối, tội lỗi và sự tha thứ, sự chết và sự sống, ý nghĩa và không ý nghĩa.
Theo qui định của Giáo hội có tất cả 09 bài Kinh Thánh được đọc trong đêm canh thức này. Nhưng Giáo hội cho phép rút ngắn không cần phải đọc cả 09 bài, nên chỉ còn phải đọc 05 bài.
- Khởi đầu là bài tường thuật lịch sử công trình sáng tạo vũ trụ trong sách Sáng Thế ( St 1,1-2,2). Bài tường thuật kinh thánh với những chi tiết về công trình sáng tạo vũ trụ này không phải là một thiên khảo luận khoa học thiên nhiên. Nhưng qui hướng đến ý nghĩa thần học đạo đức: Ngay từ thuở ban đầu Thiên Chúa đã có mặt, thần linh của Ngài „ bay lượn trên sóng nước còn hoang vu“. Thiên Chúa muốn vũ trụ này được thành hình theo ý định của Ngài, chứ vũ trụ không là tập hợp do những nguyên tử ngẫu nhiên gộp lại thành hình.
Thiên Chúa cũng muốn tạo thành con người giống theo hình ảnh của Ngài, chứ sự sống con người không là do hỗn hợp vật thể nào làm ra. Thiên Chúa từ khởi thủy là đấng sáng tạo thành con người thân xác cũng như linh hồn sự sống. Vì thế sự sống con người chỉ riêng trên nền tảng đã có ý nghĩa rồi. Ngay từ khởi đầu ý muốn sáng tạo sự sống con người bắt nguồn từ Thiên Chúa., như Ngài nói với chúng ta: Con được tạo thành sinh ra do ý muuốn của Ta. Ta yêu mến con. Con là công trình quan trọng trong công trình sáng tạo thiên nhiên của Ta.
- Bài tường thuật thứ hai trích nơi sách Xuất hành ( Xh 14,15-15,1) nói về dân Do Thái ngày xưa đi trở về quê hương Thiên Chúa hứa từ nước Aicập, nơi họ sống đời nộ lệ bị đàn áp ngược đãi, đi vượt qua an toàn giữa lòng biển đỏ. Bài tường thuật chi tiết đó có những khúc đoạn biến cố được viết mang tính cách kịch tính bi thảm hóa. Phải, có mầu sắc hình ảnh thêu dệt phóng đại thêm vào do ảnh hưởng tâm tính văn hóa cùng cảm nhận của những người viết thuật lại.
Nhưng trung tâm bài tường thuật muốn nói lên rõ rằng: Đấng Tạo Hóa không đơn giản tạo thành sinh ra con người trên vũ trụ, rồi để con người mặc kệ với số phận của họ. Không, Đấng Tạo Hóa trung thành với họ. Ngài dẫn đưa họ đi và hằng cùng đồng hành với trên mọi bước đường. Ngài không để họ bơ vơ một mình cả trong thời gian bất hạnh xấu nhất.
Ở cuối đường hầm tăm tối xuất hiện loé lên đốm lửa ánh sáng soi đường. Tràn đầy niềm tin tưởng vào Ngài, con người bước đi, và sẽ tới đích điểm. Tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng đoan hứa với con người sẽ không bao giờ bỏ rơi họ.
Đây cũng là hình ảnh nói về sự sáng tạo Thiên Chúa thực hiện cho con người qua cuộc giải thoát cứu độ dân Israel khỏi cảnh nô lệ bên Aicập ngày xưa cách đây hằng mấy ngàn năm trước Chúa giáng sinh.
Không có sử sách ghi lại vào thời điểm nào cuộc xuất hành của dân Do Thái từ Aicập diễn xảy ra. Có gỉa thuyết cho rằng cuộc xuất hành có thể xảy ra khoảng những năm 1450 hay 1440 trước Chúa giáng sinh, dưới thời Vua Thutmosis III. triều đại Pharao bên Aicập.
Cũng có đa số những nhà nghiên cứu lịch sử khảo cổ cho rằng cuộc xuất hành của dân Do Thái xảy diễn ra khoảng vào thế kỷ 13. hay 12. trước Chúa giáng sinh dưới thời triều đại 20. của vương triều Pharao.
- Bài thánh thư thứ ba là bài trích sách ngôn sứ Ezechiel. ( Ez 36,16- 28). Trung tâm chính của bài tường thuật, Ngôn sứ Ezechiel loan báo Thiên Chúa sẽ sáng tạo một trái tim mới nơi con người. Ngài sẽ lấy ra khỏi lồng ngực con người trái tim bằng đá, và sẽ thay vào đó trái tim bằng thịt.
Lẽ dĩ nhiên đây là một hình ảnh nói lên một ý nghĩa có pha trộn mầu sắc tưởng tượng phantasie: Con người không cần phải giữ lòng mình cố thủ cứng nhắc, không cần phải chiến đấu lâu dài hơn nữa để dành phần thắng lợi cho riêng mình. Nhưng họ phải sống là con người chân thành, có lòng yêu thương bác ái, có lòng cảm thương với nhau. Đó chính là con người mà Thiên Chúa muốn tạo dựng nên giống hình ảnh của Ngài. Một hình ảnh con người như thế là lời đoan hứa cao đẹp, để có một tương lai sáng sủa bình an!
Ngôn sứ Ezechiel nói đến một sáng tạo mới là cung cách con người sống đối xử với nhau trong tình bác ái yêu thương giống như hình ảnh Thiên Chúa, Đấng là tình yêu thương.
- Bài thánh thư thứ tư trích thư của Thánh Phaolô tông đồ gửi Giáo đoàn Roma ( Rm 6,3-11). Trong bức thư này, thánh Phaolô nhắc lại con người ai cũng phải chết, nhưng sẽ cùng được sống lại với Chúa Giêsu Kitô.
Như vậy phải hiểu như thế nào? Khả năng tâm trí con người chúng ta không suy hiểu biết được điều này. Nhưng con người ai cũng có một đời sống. Và khi đời sống đó trên vũ trụ qua đi, chúng ta còn có một quê hương nữa vẫn tồn tại, mà Thiên Chúa ban cho. Ngay cả khi con người mất tất cả, điều này cũng không là một tai họa xảy đến. Vì con người cùng với Chúa Giêsu Kitô chiến thắng tất cả. Vậy sự gì có thể chia lìa con người chúng ta ra khỏi Chúa Giêsu Kitô?
Đây cũng là hình ảnh, phải là lời tuyên tín về một sáng tạo mới Thiên Chúa thực hiện cho người qua Chúa Giêsu Kitô, Đấng từ cõi chết phục sinh sống lại
- Và bài tường thuật thứ năm là bài Tin mừng Chúa Giêsu Kitô chỗi dậy sống lại từ nấm mồ người chết trong lòng đất. ( Mt 28,1-10)
Lẽ dĩ nhiên đây không phải là bài tường thuật lịch sử theo cung cách mới, nhưng là kinh nghiệm, cảm nghiệm của con người xưa kia sống sát gần với Chúa Giêsu Kitô. Và họ làm chứng rằng: Họ đã gặp Chúa Giêsu Kitô sống lại. Ngài đã hiện ra với họ. Chúa Giêsu Kitô, người thợ mộc thành Nazareth, và là Con Thiên Chúa, đã chết, nhưng không nằm yên trong nấm mồ chôn dưới lòng đất. Ngài còn đang sống.
Điều này nói lên: Đấng từ trời cao xuống trần gian mang ơn cứu độ chữa lành cho phần rỗi linh hồn muôn đời không là lời hứa suông cho trần gian. Tin tưởng vào sự phục sinh sống lại của Chúa Giêsu Kitô không là giấc mơ của điều mơ tưởng không có niềm hy vọng. Nhưng là tương lai của con người chúng ta.
Chúa Giêsu Kitô, một người đã bẻ gẫy phá tan sức mạnh sự chết, làm đảo lộn phá tan điều hoang mang hồ nghi của trần gian xưa nay về sự sống lại của con người. Thánh Phaolô đã viết xác tín: Nếu Chúa Giêsu Kitô không sống lại thì sự rao giảng làm chứng, và đức tin của chúng ta trở thành trống rỗng vô nghĩa lý. ( 1 Cor. 15,14).
Sự phục sinh sống lại của Chúa Giêsu Kitô làm đảo lộn những gì con người suy luận xưa nay, đồng thời xóa chối bỏ những định kiến của con người cho rằng chết là hết, là chấm dứt. Sự Phục sinh mang tầm ý nghĩa xóa bỏ bức tường cứng nhắc để tiến vào khung trời đất mới, quê hương của tự do không còn là nô lệ cho tội lỗi. Nơi đó là tương lai cho con người.
Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết, là người thứ nhất , người tiên phong trước chúng ta, và chúng ta bước theo Ngài.
Đêm canh thức đón mừng Chúa phục sinh là đêm thánh thứ hai sau đêm thánh vô cùng Chúa Giêsu giáng sinh xuống trần gian làm người ngày 25.12..
Đêm canh thức phục sinh trở thành đêm thánh sáng tạo mới trong công trình sáng tạo thiên nhiên cho con người được cứu độ thoát khỏi hình phạt của tội lỗi.
„ Chúa Giêsu ngày thứ ba sống lại đem các Thánh lên!“ ( Kinh cầu chịu nạn)
Đêm canh thức vọng phục sinh, thứ Bảy Tuần Thánh 11.04.2020
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thứ Sáu Tuần Thánh- Trời Cao Đã Khóc
- Viết bởi Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Thứ Sáu Tuần Thánh năm nay ai cũng buồn vì không được đến hôn chân Chúa, không được đến chiêm ngắm Chúa. . . Đây là thứ sáu Tuần Thánh của chia ly, ly biệt, của ngăn cách không gian bởi sự dữ như đang chiến thắng. Thứ sáu hôm nay sao giống với thứ Sáu khổ nạn của Chúa năm xưa quá!
Thứ Sáu trên đồi Calve năm đó dường như các môn đệ Chúa đã không thể đến với Chúa, và cũng không dám đến với Chúa. Cả một bầu khí tang tóc, sợ hãi, lo âu bao trùm khiến các ông chỉ ở trong bóng tối sợ hãi. Thương Thầy, quý Thầy nhưng “lực bất tòng tâm”, con người vẫn sợ hãi trước sự dữ quá lớn và nguy hiểm.
Dầu vậy, Chúa Giê-su vẫn thản nhiên bước lên thập giá. Ngài không lùi bước trước sự dữ. Với thân phận con người ai mà không sợ hành hạ, hành hình quá đau đớn nhưng Ngài đã vượt qua vì niềm tin chiến thắng. Vì Ngài biết rằng đây là chén đắng mà Chúa Cha muốn Ngài uống để cứu độ nhân gian, để chuộc lại cho tội bất trung của Adam.
Chúa Giê-su khi bước lên Thánh giá dường như Ngài đã nghĩ tới nhân loại, vì yêu nhân loại mà Ngài chấp nhận cái chết đền tội cho nhân loại. Ngài biết sự dữ rất mạnh nhưng chỉ có cách đối đầu và chiến thắng sự dữ mới mang lại bình an cho nhân loại.
Có lẽ, chỉ mình Chúa mới nhìn thấy hết nỗi thống khổ của nhân loại khi sự dữ thống trị con người. Có lẽ, chỉ mình Chúa trên thập giá mà lại khóc thương nhân loại khi thấy nhân gian chìm trong đoạ đầy.
Trong đại dịch Covid 19, khi Đức Thánh Cha mang cây thánh giá Chúa để nhân loại tôn kính và phó dâng thì bỗng lúc ấy trời cũng đổ mưa! Cơn mưa đã làm cho mọi ống kính nhạt nhoà thấm nước trời cao.
Vâng, buổi chiều thứ Sáu, 27.03.2020, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành nghi thức ban phép lành Urbi et Orbi cho toàn thế giới trong cơn mưa chiều buồn bã của thành Rôma.
Tuy nhiên, chính trong khung cảnh có vẻ lạnh lẽo ấy, một “hình ảnh sống động” được trang Vaticannews ngay sau đó đưa bản tin với tiêu đề: “Il Crocifisso bagnato dalle lacrime del Cielo” – tạm dịch: THẬP GIÁ THẤM ĐẪM NƯỚC MẮT TRỜI CAO.
Phải chăng, Trời cao đã khóc?
Vâng, có lẽ thế!
– Trời cao đã khóc vì một thế giới đang khổ đau đối mặt với tai ương, dịch bệnh.
– Trời cao đã khóc cho một nhân loại đang oằn mình chiến đấu với hậu quả từ lỗi lầm của một ai đó, hay từ những bất toàn của thế gian này.
– Trời cao đã khóc như một lời đáp trả của Cha Nhân Từ với lời van xin thống thiết của người đứng đầu Dân Ngài là Đức Thánh Cha Phanxicô, và của hàng triệu tín hữu gần xa tham dự trực tuyến: “LẠY CHÚA, XIN HÃY THỨC DẬY”.
– Nước mắt Trời cao hòa lẫn với nước mắt của những bệnh nhân vẫn đang gồng mình chống chọi tìm sự sống trong cô đơn, hay trong những khoảnh khắc hấp hối cuối đời, mà không có một cái nắm tay an ủi của người thân kề cạnh.
– Nước mắt Trời cao chan hòa trên bờ mi đẫm lệ của những người còn ở lại, bất lực nhìn những chiếc xe quân đội chở quan tài người thân của mình đi chôn cất qua ống kính truyền hình, mà không thể chạm vào, tiễn đưa, đồng hành, đặt một nhành hoa hay thắp một ngọn nến từ biệt.
– Nước mắt Trời cao vẫn luôn chực tràn trên đôi mắt của những người không biết người thân mình giờ đang ở đâu, hay trong tình trạng thế nào, chỉ thấy được qua vài hình ảnh lượm lặt, hay trong một video clip nào đó trôi nổi trên mạng; bởi có một người con sống tại Bergamo – Italia, khi thấy đoàn xe tang đi qua nhà mình, cô ấy đã thốt lên rằng: “Có lẽ, Bố tôi giờ đang nằm trong những chiếc xe tải đó. Cả một đời ông ấy đã sống cho tôi, vậy mà giờ ông ấy phải ra đi lạnh lẽo một mình”.
– Nước mắt Trời cao cảm thấu với hy sinh cao cả của biết bao con người, đang trực tiếp dấn thân chống chọi đại dịch; trong đó, không thể không nhắc đến những anh hùng đã tử nạn vì hy sinh phục vụ người khác: Linh mục người Ý Berardelli, – 72 tuổi đã chết vì nhường máy thở cho bệnh nhân trẻ tuổi hơn. Bác sĩ trẻ Hadio Ali Khazatsin người Indonesia, về thăm nhà sau những ngày chăm sóc bệnh nhân Covid, chỉ dám đứng ở cổng nhìn vào nhà, ngắm hai con và người vợ mang bầu một chút, sau đó trở lại bệnh viện, rồi ra đi mãi mãi…
– Nước mắt Trời cao cũng đã hòa lẫn với nước mắt của các Kitô hữu trong Thánh lễ cuối cùng, trước khi lệnh tạm ngưng các Thánh lễ với đông người tham dự chính thức có hiệu lực.
– Nước mắt Trời cao cũng cuộn trào trong lòng các Linh mục khi cử hành Thánh lễ không còn giáo dân như một Linh mục chia sẻ: “Khi giang tay đọc: Chúa ở cùng anh chị em, không một lời thưa, chẳng một lời đáp… mà lòng muốn khóc!” (trich Vat new)
Đúng là trời cao đã khóc, bởi vì Chúa Giê-su đã chết vì tội lỗi chúng ta, thế nên, trên cây thập giá Ngài luôn nghĩ đến nhân loại khốn khổ của chúng ta. Chính vì yêu nhân loại mà Chúa Giê-su đã dùng cái chết của mình mà tặng ban cho nhân loại chúng ta món quà sự sống đời đời. Món quà Thập Tự Giá là biểu tượng cho tình yêu trọn vẹn dành cho chúng ta. Khi tặng cho chúng ta món quà ấy, Ngài đã luôn nghĩ đến chúng ta. Trong tâm tưởng Ngài luôn nhớ đến chúng ta, và hằng ao ước món quà này sẽ được trao tặng đến từng người chúng ta qua mọi thời đại.
Ngài rất đau buồn khi nhìn thấy những khổ đau của nhân loại. Và Ngài vẫn đang chờ mong con cái Ngài hãy đừng quên trên thập giá Chúa đang nghĩ đến chúng ta. Chúng ta không cô đơn. Hãy tin tưởng và tín thác vào tình thương của Thiên Chúa.
Hôm nay Thứ Sáu Tuần Thánh không đơn thuần là chúng ta tưởng niệm Cuộc Thương Khó của Chúa mà quan yếu là sống lại tâm tình tri ân về tình yêu quá cao vời mà Ngài đã dành tặng cho chúng ta. Tri ân món quá thập giá mà Ngài đã tặng vì yêu chúng ta. Ngài đã yêu chúng ta đến nỗi bằng lòng chết trên cây Thập Tự. Ngài đã yêu là yêu cho đến cùng để rồi tình yêu của Ngài sẽ mãi muôn đời bất diệt vì “không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu dám chết cho người mình yêu”.
Ước gì chúng ta luôn biết sống trong tâm tình tri ân tình yêu cao vời của Chúa. Ước gì chúng ta luôn biết trân trọng quà tặng tình yêu của Chúa bằng việc trung thành với giao ước của Chúa, và biết noi gương Chúa mà tận hiến hy sinh cho tha nhân.
Và nhân loại ơi hãy nhớ : trời cao đã khóc vì thương nhân loại khổ đau, thì con người cũng hãy biết thương yêu nhau, đừng đoạ đầy, gây oán hờn với nhau.
Lạy Chúa, Chúa đã chết để cho chúng con được sống. Xin giúp chúng con luôn sống trong ân nghĩa của Chúa. Amen
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Immanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng ta trên thập gía
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Đây là cậy Thánh gía, nơi treo Đấng cứu độ trần gian!“
Chúng ta hãy đến thờ lạy!
Hằng năm vào ngày thứ sáu tuần thánh, người tín hữu Chúa Kitô cách long trọng trong đau thương sầu buồn kính thờ thập gía Chúa Giêsu Kitô, với lòng yêu mến cùng biết ơn. Vì sự hy sinh chịu chết tức tưởi của Chúa Giêsu mang lại ơn cứu chuộc cho linh hồn con người được cứu thoát khỏi hình phạt do tội lỗi gây ra.
Nhìn lên cây thập gía thấy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Đấng bị kết án đóng đinh chết trên cây thập tự năm xưa ở đồi Golgotha vùng ngọai ô thành Jerusalem, gợi lên trong tâm trí suy nghĩ về đời sống cùng ý nghĩa sự hy sinh dấn thân của Ngài.
Thánh sử Mattheo viết phúc âm về Chúa Giêsu khởi đầu với gia phả nguồn gốc con người Chúa Giêsu trên trần gian. Và liền tiếp theo đó thánh sử loan báo thuật về danh hiệu của Chúa Giêsu: Immanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng ta - qua lời Thiên Thần hiện đến báo tin cho Thánh Giuse. ( Mt 1,23).
Trước khi Chúa Giesu sinh ra cả ngàn năm, ngôn sứ Isaia đã nói tiên tri về Đấng cứu thế sẽ đến có danh hiệu là Immanuel. ( Isaia 14,7).
Thánh sử Mattheo vì thế được mệnh danh là vị thánh sử (phúc âm) Immanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Và thánh sử Mattheo kết thúc phúc âm với lời đoan hứa của Chúa Giêsu: „Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.“ ( Mt 28, 20).
Chúa Giêsu Kitô xuống trần gian làm người với chương trình „ Immanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng ta“. Ngài là hiện thân sự gần gũi của Thiên Chúa đến với con người trần gian trong mọi ngày. Nơi Chúa Giesu Kitô là hình ảnh sự hiện thân lòng trung thành của Thiên Chúa với con người dù trong hoàn cảnh nào đi chăng nữa.
Immanuel- Thiên Chúa chúng ta - xuống trần gian làm người đứng về phía con người trong hoàn cảnh vui mừng hạnh phúc, như ngài đến tham dự tiệc cưới thành Cana làm phép lạ cho nước biến thành rượu cứu giúp đôi tân hôn ngày vui mừng của họ. Ngài sống tình thân thiện với Zacheus, người thu thuế bị xã hội coi khinh, mà chính ông cũng không hiểu nổi. Trên thập gía Chúa Giêsu nói với người trộm lành“ Hôm nay anh về thiên đàng với Ta!“.
Chúa Giêsu sống là hiện thân sự gần gũi của Thiên Chúa trong đời sống con người. Nhưng không luôn luôn như chúng ta trông đợi. Ngài không là người mang gắp cục than đang cháy nóng khỏi lò lửa cho chúng ta. Ngài cũng không là người loại trừ cất khỏi cho chúng ta gánh nặng đau khổ. Ngài không là người dẫn chúng ta đi trên con đường chỉ có niềm vui hạnh phúc.
Nhưng Ngài là người bạn tốt trung thành với chúng ta, không để chúng ta bơ vơ một mình trong đau khổ quằn quại. Ngài cùng đồng hành bên cạnh đời sống chúng ta, cho dù nhiều người khác bỏ rơi chúng ta. Ngài trao tặng con người chúng ta niềm hy vọng. Immanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng ta, chúng ta không bơ vơ một mình.
Chính vì thế, Ngài không ở lại trên núi Tabor với vinh quang sáng chói. Nhưng đi xuống núi về Jerusalem chịu đau khổ, chịu bị kết án đóng đinh vào thập gía cho tới chết. Ngài đi con đường mà tất cả con người phải đi. Vâng, trên thập tự Ngài đã kêu lên lời than khóc „ tại sao“ giữa khung trời vắng lặng đen tối, như tất cả mọi con người quằn quại đau thương, và cũng không nhận được câu trả lời nào từ trời cao.
Câu trả lời chúng ta không nghe nhận được bằng tai, nhưng sống trải qua.
Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô - Immanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở bên cạnh ta. Người không gỉải thoát ra khỏi đau khổ. Nhưng cùng đồng hành đi với vượt qua đau khổ, để chỉ ra rằng chúng ta không bị bỏ rơi một mình. Thiên Chúa luôn ở cùng bên cạnh..
Câu trả lời này giúp ta vững lòng sống chịu đựng đau khổ.
Câu trả lời này cũng giúp ta chết trong bình an.
Câu trả lời này giúp dẫn đưa đến điều mà con người tự mình không thể làm được : phục sinh sống lại.
Trong cơn hoảng loạn bệnh dịch do vi trùng Corona gây ra đe dọa sức khoẻ sự sống cùng mọi sinh hoạt đời sống xã hội con người khắp nơi trên hoàn cầu từ mấy tháng nay. Con người chúng ta đêm ngày hằng liên lỷ cầu khấn van xin Thiên Chúa dủ lòng thương xót cứu giúp giải thoát khỏi cơn nguy biến đe dọa. Và chúng ta cũng kêu lên lời như ngày xưa Chúa Giêsu chịu chết trên thập gía đã kêu lên“ Lạy Cha, sao Cha bỏ rơi con?“.
Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta không nhận được câu trả lời từ trời cao của Thiên Chúa nghe được bằng tai. Nhưng cảm nhận ra bằng con mắt đức tin trong trái tim tâm hồn“ Immanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đã là người và cũng chết đau khổ như tất cả mọi con người trong công trình sáng tạo thiên nhiên.
Với tầm suy hiểu của trí khôn con người, câu trả lời cảm nhận đó rất khó nuốt trôi không sao hiểu nổi.
Nhưng đó là sự điệp giáng sinh ngày thứ sáu tuần thánh: Immanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đã chết tức tưởi cô đơn trên thập gía . Và Immanuel hằng ở cùng nhân lọai mọi ngày cho đến tận thế!“
Thứ Sáu Tuần Thánh 10.04.2020
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thứ Năm tuần thánh
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Hằng năm trong nếp sống Giáo hội Công gíao tuần lễ sau Chúa nhật lễ Lá là tuần thánh. Ba ngày thánh trước chúa nhật lễ mừng Chúa phục sinh, là những ngày cao điểm mừng kỷ niệm những biến cố cuối cùng đời Chúa Giêsu trên trần gian trước khi bị kết án chịu chết và mai táng trong mồ dưới lòng đất.
Ngày thứ Năm tuần thánh là ngày khởi đầu nhắc nhớ lại những biến đau thương sau cùng đời Chúa Giêsu trên trần gian.
Theo Kinh thánh thuật lại vào ngày này Chúa Giêsu, vào buổi chiều trước khi bị bắt, đã mừng lễ Vượt Qua theo tục lệ đạo đức người Do Thái cùng với 12 Môn đệ của mình. Trong bữa ăn Chúa Giesu cầm tấm bánh và chén rượu làm phép biến thành Bí tích Thánh Thể rồi trao cho các Môn đệ, và nhắn nhủ họ tiếp tục làm việc như thế này để tưởng nhớ đến mình. Vì Chúa Giêsu biết người sẽ bị Juda Iscariot phản bội và ngài sẽ phải chết. ( Mt 26,21).
Phúc âm theo Thánh sử Gioan thuật lại, Chúa Giêsu trong bữa ăn còn rửa chân cho các Môn đệ của mình như dấu chỉ sự yêu thương con người. ( Ga 13,5-15).
Sau khi ăn bữa chiều mừng lễ Vượ Qua với các môn đệ mình, Chúa Giêsu cùng với họ đi đến núi vườn cây dầu - Trong khu vườn này ngày nay còn những cây Olive cổ thụ đứng vững xanh tốt, như nhân chứng biến cố đêm xưa Chúa Giêsu đã đến đây qùi gối cầu nguyện trước khi bị bắt tại nơi đây. Những cây Oliven cổ thụ được các nhà khoa học khảo cổ xét nghiệm có gốc rễ từ thế kỷ 4. trước Chúa giáng sinh, không có xác định tuổi của những cây này. Nhưng người ta cho rằng chúng có tuổi thọ từ một ngàn năm tới hai ngàn năm. Ngay bên cạnh khu vườn cây dầu lịch sử nhân chứng này ngôi thánh đường cho các dân tộc , to lớn nguy nga được xây dựng giữa những năm 1919- 1924. Trong thánh đường này, nơi cung thánh trước bàn thờ có tảng đá mầu trắng rộng lớn, nơi ngày xưa Chúa Giêsu Kitô trong đêm trước khi bị bắt đã qùi gối cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha.
Tại khu vườn cây dầu này Chúa Giêsu đã nói tiên báo Thánh Phero sẽ chối Chúa ba lần trước khi gà gáy. Nơi đây trong đêm sầu khổ Chúa Giêsu ra đi cầu nguyện, các Môn đệ đã ngủ thiếp đi không thức với thầy mình. Trong cơn buồn sầu lo sợ, Chúa Giêsu đã kêu xin Thiên Chúa Cha cất chén đắng sự đau khổ cho mình khỏi phải chịu số phận bị đe dọa phải chết. Nhưng Ngài lại tỏ lòng vâng lời chấp nhận như thánh ý Thiên Chúa đã định. ( Mt 26,30-40).
Trong khu vườn này, sau khi Chúa Giesu cầu nguyện một mình trở lại thấy các Môn đệ còn ngủ, vào đúng lúc Juda Iscariot dẫn quân lính đến bắt Chúa Giêsu, và điệu đến trao nộp cho Thầy cả thượng phẩm xét xử. ( Mt 26, 45-50).
Biến cố thương khó chịu khổ nạn của Chúa Giêsu bắt đầu từ đêm hôm đó cách đây hơn hai ngàn năm. Từ khi nào Giáo hội Chúa ở trần gian có tập tục đạo đức phụng vụ mừng biến cố ngày thứ Năm tuần thánh, không có sử sách nào ghi lại.
Từ thế kỷ 13. sau Chúa giáng sinh đã có tập tục đạo đức này với tên dies viridium- Ngày xanh - trong ý nghĩa ngày ban ơn tha thứ tội lỗi và hình phạt. „ Dies viridium" được rút ra từ ý nghĩa câu kinh thánh“ Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô sẽ ra sao?“ ( Luca 23,31).
Theo tập tục nếp sống phụng vụ trong Giáo hội, ngày thứ năm tuần thánh, mừng kỷ niệm Bí tích Thánh Thể, bữa tiệc ly, trong thánh lễ, lễ phục không dùng mầu xanh mà mầu trắng. Nên danh hiệu dies viridium không xác định rõ về nguồn gốc khả tín.
Có lẽ vì thế, ngày Thứ Năm tuần thánh còn có tên gọi khác bằng tiếng Latein „ dies cenae domini - Ngày bữa tiệc ly của Chúa“ . „ dies absolutionis - Ngày ơn tha thứ tội lỗi“- „ dies indulgentiae - Ngày ơn toàn xá“, „ dies mandati - Ngày lễ rửa chân“ „ dies azymorum- Ngày bánh không men“, hay consecratio chrismatis - ngày làm phép dầu thánh: Dầu Thánh chrisam, dầu thánh rửa tội và dầu thánh xức dầu bệnh nhân.
Mừng kỷ niệm biến cố cuối cùng đời Chúa Giêsu Kitô lập Bí Tích Thánh Thể là lương thực nuôi dưỡng đời sống đức tin người tín hữu Chúa Kitô trong tâm tình kính trọng vui mừng và biết ơn.
Từ những tuần lễ qua, người tín hữu Chúa Kitô trên khắp hoàn cầu không có cơ hội tham dự mừng thánh lễ Misa cùng tiếp nhận Tấm bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô cho tâm hồn đức tin, trong suốt mùa chay và tuần thánh 2020, và có thể còn kéo dài hơn nữa… Vì tình trạng bệnh dịch do vi trùng Corona truyền nhiễm lây lan đe đọa sức khoẻ sự sống con người, ngăn cản mọi sinh hoạt đi lại tụ họp dâng thánh lễ trong đời sống xã hội. Vì thế, người tin hữu Chúa Kitô tâm cảm thấy thiếu thốn lương thực tinh thần nâng đỡ đức tin.
Nhưng xác tin rằng Chúa không bỏ rơi con người. Lời Chúa vẫn luôn là lương thực củng cố an ủi cho tinh thần đời sống đức tin con người hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Bệnh dịch Corona truyền nhiễm là một thử thách lớn trong đời sống nhân loại, cùng gây ra thảm họa cho con người. Nhưng nó không phải là tận cùng chấm dứt sự sống trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Thứ Năm tuần thánh 09.04.2020.
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Chút tâm sự của mẹ con con lừa ngày lễ Lá
- Viết bởi Dân Chúa
Ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa Giêsu đi vào thành Jerusalem ngồi cỡi trên lưng mẹ con loài Lừa chúng tôi.
Có lẽ có người thắc mắc tại sao Chúa Giesu lại dùng mẹ con loài thú vật Lừa cỡi đi vào thành Jerusalem?
Mẹ con chúng tôi cũng không hiểu tại sao. Phúc âm thuật lại lời Chúa Giêsu nói với hai môn đệ vào làng Bethphage mượn hai mẹ con Lừa chúng tôi về cho Thầy. Và qúa ngạc nhiên bất ngờ, ngài lại dùng mẹ con Lừa chúng tôi để chuyên chở ngài tiến vào thành Jerusalem. ( Mt 21,1-10)
Tôi nhớ lại ngày xưa cách đó hơn ba mươi năm, khi hài nhi Giesu sinh ra ở trong hang chuồng súc vật ngoài cánh đồng xứ Bethlehem, cũng có mặt loài Lừa chúng tôi đứng nằm chung với những con vật chiên bò khác. Thật là một kỷ niệm thánh đức trong đêm thánh Giesu xuống trần gian làm người, loài thú vật Lừa chúng tôi cùng có mặt mang hơi ấm đến cho hài nhi Giêsu.
Có lẽ từ ngày đó Giesu đã tìm hiểu về chúng tôi, và đem lòng qúi mến loài vật chúng tôi. Vì Giesu nhận ra rằng, loài Lừa chúng tôi xưa nay được con người dùng để chuyên chở đồ vật ở những vùng đồi núi cheo leo, hiểm trở. Như trong dân gian có ngạn ngữ : nơi nào ngựa không tới được, thì có con Lừa.
Đấng Tạo Hóa đã sinh thành tạo dựng chúng tôi có thân xác không to lớn hùng dũng như ngựa, voi, bò… và loài vật chúng tôi có tính tình không hung dữ như các loài thú vật khác. Trái lại thân xác chúng tôi nhỏ không cao lớn, chỉ thấp bé cùng chỉ có nhu cầu cho đời sống đơn giản không đòi hỏi nhiều. Chúng tôi bẩm sinh chỉ biết yên lặng cần mẫn nghe làm theo lời chỉ dẫn cùng quát tháo của người chủ nuôi chúng tôi. Thấy chúng tôi hiền lành, không ương ngạnh phá bướng bỉnh cùng lại cho sức chịu đựng dẻo dai, nên người ta dùng chúng tôi để chuyên chở đồ vật chất đầy trên lưng chúng tôi.
Có người cũng cỡi trên lưng chúng tôi khi di chuyển, nhưng chỉ trong trường hợp khẩn cấp thôi khi đi đường đồi núi gập ghềnh khó khăn mệt nhọc. Vì thường không mấy ai cỡi lừa cả. Nhưng Chúa Giêsu lại chọn chúng tôi để cỡi đi vào thành Jerusalem như một vị vua chiến thằng khải hoàn. Thật là một pha cảnh ngoạn mục và lại rất bất thường đến mức độ nực cười. Nhưng cũng là một vinh dự cho mẹ con chúng tôi hôm đó.
Chở mang Vua Giesu trên lưng đi vào thành thánh Jerusalem, mẹ con chúng tôi chỉ biết cúi đầu bước đi theo sự hướng dẫn của các môn đệ Chúa Giêsu dắt đi. Những tiếng la hò reo của dân chúng cầm vẫy tung cành lá dọc đường tung hô vạn tuế Vua Giesu: Hosianna, con Vua David. Chúc tụng đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô Thiên Chúa trên các tầng trời! làm mẹ con chúng tôi cũng khó chịu. Vì tiếng ồn ào cùng cành lá tung rải làm hoa mắt, làm nhức tai lắm chúng tôi không hiểu gì. Và mẹ con chúng tôi chỉ còn biết lầm lũi bước đi trong thinh lặng làm việc bổn phận Chúa Giêsu giao nhờ. Thỉnh thoảng Chúa Giêsu cúi xuống xoa đầu vỗ vào lưng vai tôi để tỏ lòng cám ơn và cổ võ tinh thần mẹ con chúng tôi…
Có lẽ qua cử chỉ tình nghĩa thân thiện đó, Chúa Giêsu muốn nói với chúng tôi: Các bạn biết đấy, tôi dùng Bạn để cỡi vào thành. Đây là một hành động hết sức bất thường. Người ta reo hò tung hô tôi như một vị Vua mà lại cỡi lừa. Tôi biết tiếng reo hò làm mẹ con bạn chói tai nhức óc, hoa cả mắt. Nhưng được cái loài thú vật các bạn có sức chịu đựng dẻo dai cùng tính tình hiền hòa cần mẫn. Nên tôi chắc rằng những âm thanh đó không có ảnh hưởng gì gây thiệt hại sức khoẻ cho đời sống các bạn!
Tôi cám ơn mẹ con Bạn. Mẹ con bạn đã kiên nhẫn đồng hành chở tôi vào thành thánh Jerusalem. Hình ảnh đi lừa của một người được tung hô là Vua là hình ảnh qúa tầm thường ngoại lệ. Vì xưa nay đã chẳng có vua nào trên trần gia cỡi lừa đi cả. Nhưng qúa đó, tôi muốn nói lên một hình ảnh thông tin về chính bản thân con người tôi: Tôi, Giêsu con Thiên Chúa, thuộc dòng dõi vua David, là vua tinh thần lòng con người. Tôi không phải là một vị vua với quyền hành cai trị bằng sức mạnh binh lính quân quốc. Vì thế, tôi cỡi lừa đi vào thành vua David để nói lên đặc tính cá biệt đó. Lừa là loài thú vật các bạn có tính chất kiên nhẫn hiền hòa cùng có sức chịu đựng dẻo dai, làm việc chăm chỉ cần mẫn. Đó là hình ảnh đặc điểm của tôi, vị vua lòng từ bi nhân hậu có sức chịu đựng với hết mọi người, trong mọi hoàn cảnh…
Các Bạn con người được Thiên Chúa tạo dựng sinh thành nuôi dưỡng như loài thú vật Lừa chúng tôi trong công trình sáng tạo thiên nhiên. Các Bạn có đời sống khác. Các bạn được Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa trao cho bổn phận làm chủ trái đất, làm chủ cả loài thú vật chúng tôi.
Loài thú vật Lừa chúng tôi buồn tủi lắm. Chúng tôi vâng lời nghe theo các bạn. Nhưng các bạn lại coi thường hạ gía trị đời sống chúng tôi xuống. Khi cần chúng tôi phục vụ làm việc, các bạn vuốt ve ca ngợi chúng tôi. Nhưng khi nổi nóng với chúng tôi hay với ai đó, các bạn lại có ca ví: ngu, lười cứng cổ như con Lừa!
Vâng dù thế nào đi nữa chúng tôi cũng chẳng có thể nào làm vừa lòng cho hết mọi trường hợp cùng cho mọi người được. Vì thế, cách sống lòng bác ái kiên nhẫn nâng đỡ chịu đựng nhau là phương thuốc hữu hiệu hay nhất mang lại sự chữa lành cho đời sống có được bình an cùng niềm vui, hơn là những cằn nhằn ca ví tiêu cực.
Từ những ngày tháng qua khắp nơi trên trần gian, con người các bạn đang phải chịu đựng sống trải qua trong khủng hoảng lo âu. Vì cơn bệnh dịch nguy hiểm đe dọa sức khoẻ sự sống do vi trùng Corona lây lan gây ra. Cả thế giới sống trong hoang mang nghẹt thở hoảng sợ, cả loài thú vật chúng tôi nữa. Đời sống công cộng cũng như riêng tư bị giới hạn đình trệ. Phải, như thành ra như tê liệt.
Thách đố cấp bách trước mắt là làm sao dập tắt cơn bệnh dịch cắt đứt sự lây lan của nó, để cứu nguy sức khoẻ đời sống. Vì thế, sự gìn giữ vệ sinh bảo vệ sức khoẻ của mỗi người cho chính mình là cung cách nếp sống đạo đức bác ái cần thiết giúp cho người khác nữa: mình có khoẻ mạnh, mới có thể làm cho người khác khoẻ mạnh được!
Chúa Giêsu ngày xưa ngồi cỡi trên lưng mẹ con Lừa chúng tôi đi vào thành thánh Jerusalem, chúng tôi cũng thấy nặng nề mệt nhọc chứ, cùng khó chịu vì tiếng la reo hò của dân chúng. Nhưng Chúa Giêsu không bỏ rơi chúng tôi. Ngài thỉnh thoảng cúi xuống an ủi chúng tôi, cổ vũ tinh thần chúng tôi. Có thế mẹ con Lừa chúng tôi có đủ sức chịu đựng vượt qua khó khăn nặng nề mệt nhọc.
Loài Lừa chúng tôi nghĩ Thiên Chúa không bỏ rơi con người các Bạn một mình trong cơn đau khổ khủng hoảng lúc này đâu.
Niềm hy vọng cậy trông rất cần cho đời sống tâm hồn cùng cả thể xác nữa.
Chúa nhật lễ Lá, 05.04.2020
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thập giá che khăn
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Trong nếp sống phụng vụ Công giáo có tập tục từ chúa nhật thứ năm mùa chay thập giá Chúa Giêsu, ít là trong các thánh đường, được che phủ kín bằng một tấm màn.
Đâu là ý nghĩa của tập tục này?
Tập tục che phủ thập giá Chúa Giesu có nguồn gốc trong Giáo Hội từ thế kỷ thứ 12.
Vào cuối thế kỷ 13. Đức giám mục Wilhelm Durandus , giáo phận Mende ở miền nam nước Pháp đã có suy tư về ý nghĩa tập tục này: Chúa Giêsu Kitô trong thời gian chịu thương khó đau khổ đã che dấu bản tính Thiên Chúa của mình.
Đặc biệt trong phúc âm theo Thánh Gioan có đoạn tường thuật lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các nhà thông luật thời lúc đó, Chúa Giêsu đã nói với họ: Trước khi có tổ phụ Abraham đã có tôi. Nghe thế họ lấy đá ném người. Nhưng Chúa Giêsu tránh đi , và rời khỏi đền thờ.( Ga 8,58).
Bài phúc âm này trước thời cải tổ phụng vụ năm 1969 được đọc trong thánh lễ ngày chúa nhật thứ năm mùa chay. Và từ khi có cải tổ phụng vụ đoạn phúc âm này không còn được đọc trong ngày này nữa. Nhưng thập giá vẫn còn được che phủ kín từ ngày này. Chiều ngày thứ Sáu tuần thánh có nghi thức phụng vụ mở khăn để mọi người tôn kính thập giá Chúa Giêsu.
Tấm Khăn che phủ thập gía thường mầu tím, nhưng cũng có nơi dùng tấm khăn mầu trắng.
Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập gía, và ngài đã chết trên đó. Đây là hình ảnh đau thương. Nhưng sự hy sinh đau thương của Chúa Giêsu chết trên thập gía lại là nguồn ơn cứu độ cho tội lỗi nhân loại. Vì thế thập gía chúa Giêsu được che phủ kín muốn nói lên khía cạnh hình ảnh chết hy sinh đau khổ của Chúa Giêsu cần được khắc ghi sâu vào trong trái tim tâm hồn người tín hữu Chúa Kitô.
Khi thập giá chúa Giêsu không còn được nhìn với tầm con mắt về khía cạnh lịch sử, thì ý nghĩa sự dấn thân hy sinh chịu chết của Chúa Giêsu trên thập giá được khám phá sâu xa hơn cho chính bản thân đời sống con người.
Thập gía trong đời sống ai cũng có, cũng phải mang vác chịu đựng. Đó là những đau khổ trong đời sống dưới nhiều dạng thức khác nhau trong các chặng đường lịch sử đời sống .
Từ những ngày tháng qua, cả thế giới đang sống trải qua cơn hoảng loạn. Vì bị chìm ngập trong cơn bệnh dịch do vi trùng Corona truyền nhiễm gây ra đe dọa sức khoẻ sự sống con người. Mọi người sống trong con đường sợ hãi lo âu khác nào đang vác thập gía. Tinh thần cùng thể xác buồn trĩu nặng nề. Con người lo âu về bệnh tật sức khoẻ, lo âu về công ăn việc làm, về thực phẩm sinh sống. Lo âu về đời sống tinh thần tâm hồn vì phải sống trong cô lập, cô đơn bơ vơ hoang mang…
Không ai có thể bỏ đẩy thập giá ra khỏi đời sống mình được. Với người tín hữu Chúa Kitô nhìn lên thập giá Chúa Giêsu nhắc nhớ đến lời Chúa Giêsu trong cơn khốn cùng đã kêu than thở : Lạy Thiên Chúa, sao Chúa bỏ con. Xin Chúa đến giúp con!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Dòng nước mắt tình liên đới
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Khi trong gia đình, trong vòng bạn bè có người quen thân gặp hoàn cảnh đau buồn khó khăn, nhất là khi có người thân qua đời, con người ai cũng động lòng thổn thức, cúi đầu lặng thinh như người câm điếc, và dòng nước mắt tuôn chảy trào ra từ đôi khoé mắt xuống trên gò má.
Những giọt nước mắt đó là những tiếng nói không thành lời của tâm tình sâu thẳm buồn thương đau khổ diễn tả tình liên đới gắn bó với người gặp hoạn nạn, với thân nhân người đã qua đời và cũng với người đã qua đời.
Chúa Giêsu khi được báo tin Lazarô, người bạn của mình đã qua đời, ngài đi đến tìm gặp gia đình để cùng chia sẻ an ủi nỗi đau buồn mất mát với thân nhân Lazarô.
Đứng trước nấm mồ, nơi Lazaro đã được an táng, ngài thổn thức và khóc. ( Ga 11,35).
Ngoài biến cố này, không có câu đoạn nào khác trong phúc âm về cuộc đời Chúa Giêsu khi xưa, nói đến Chúa Giêsu đã khóc.
Vậy đâu là ý nghĩa Chúa Giêsu khóc thương Lazaro đã qua đời?
Có nhiều suy tư nói về ý nghĩa giọt nước mắt của Chúa Giêsu trước nấm mồ Lazaro.
Thánh giáo phụ Ephrem thành Syria nhìn những gịot nước mắt Chúa Giêsu tuôn chảy từ trong tâm hồn theo khía cạnh nhân tính con người của mình:“ Chúa Giêsu khóc để minh chứng mình là con người thật. Ngài gọi người chết sống lại, để nói lên quyền năng của mình trên cả sự sống cùng sự chết..“
Thánh gíao phụ Augustino có suy tư nghĩ rằng, Chúa Giêsu thổn thức đau buồn muốn chỉ cho con người chúng ta cũng phải trải qua hoàn cảnh đau buồn vì tội lỗi.: „ Tại sao Chúa Giêsu khóc, phải chăng Ngài muốn dậy con người khóc?“.
Thánh giáo phụ Petrus Chrysologus, trái lại, nhìn những giọt nước mắt của Chúa Giêsu báo trước chỉ ít thời gian nữa biến thành những giọt nước mắt niềm vui mừng. Vì Ngài đổ những giọt nước mắt và máu ra cho tất cả những người đã qua đời được ơn cứu rỗi cho phục sinh sống lại với người.
Trong những ngày tháng vừa qua, và không biết đến khi nào mới chấm dứt tình trạng nguy khốn này, cả thế giới sống trong lo âu bàng hoàng thổn thức. Có rất nhiều gia đình, rất nhiều người đã hao tốn không biết bao nhiêu dòng nước mắt đau buồn. Vì người thân của họ bị mắc bệnh dịch cực kỳ nguy hiểm đe dọa sức khoẻ sự sống do vi trùng Corona gây ra, hoặc họ phải ngậm ngùi trong đau khổ sợ hãi cùng trong cô đơn tiễn đưa người thân yêu ruột thịt đã qua đời về lòng đất, do bệnh dịch lúc này đã cướp đi sự sống người thân của mình.
Những dòng nước mắt thổn thức cảm thương đó là những dòng nước mắt đau khổ hoang mang. Nhưng lại diễn tả sâu xa thắm thiết tình liên đới giữa người còn sống với người đã qua đời, giữa người khoẻ mạnh với người bị mắc chứng bệnh hiểm nghèo.
Những dòng nước mắt đó không chỉ là lời kêu than trong cơn cùng cực cô đơn bất lực. Nhưng còn là lời kêu xin nguyện cầu lên cùng Đấng là nguồn sự sống, nguồn ơn cứu độ cho linh hồn người đã qua đời.
Những dòng nước mắt đó là dòng nước mắt biểu lộ lòng biết ơn của người còn sống trên trần gian với người đã ra đi thành người thiên cổ.
Và biết đâu người qua đời trong giây phút trước ngưỡng cửa sự chết muốn nói lắm. Nhưng không sao nói lên được thành lời thành tiếng, cũng đã có tâm tình: Xin cám ơn tình thân nghĩa thiết, sự săn sóc yêu thương đã dành cho tôi. Tôi đau khổ lắm, nằm trên giường bệnh tuy bất tỉnh thở không ra, nhưng tâm trí tôi không quên những người thân yêu đời tôi. Tôi không nói được, nhưng tôi cũng đã khóc, những giọt nước mắt đã trào ra nơi khoé mắt nhớ về cha mẹ, vợ con, anh chị em, quê hương đất nước tôi, những bạn bè người quen thân ngày xưa của tôi.
Tôi ra đi vĩnh biệt cuộc sống trên trần gian về nơi chín suối để lại nỗi đau buồn, phải sự đau khổ hoang mang cho gia đình tôi còn lại trên trần gian. Mọi người khóc thương tôi, và tôi cũng khóc thương mọi người… Không làm sao hơn được nữa, chúng ta phải chia tay vĩnh biệt nhau.
Nhưng dòng nước mắt tuôn trào đổ ra, mà chúng ta khóc cho nhau là sợi dây thiêng liêng liên kết chúng ta lại với nhau trong Thiên Chúa, đấng sinh thành, nuôi dưỡng cùng cứu độ linh hồn con người chúng ta.
Chúa nhật 5. mùa chay 29.03. 2020
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Lễ Tiệc Ly – Sinh nhật của Linh mục
- Dưới bóng áo mẹ từ bi
- Trong cơn khủng hoảng vì tai họa bệnh dịch
- „Ông Thánh Giuse là như cột trụ cho kẻ bệnh tật được cậy trông.“
- Dịch virus Covid-19 có phải là dấu chỉ của thời đại?
- Nhu cầu nước thiêng liêng
- Thánh nữ Corona thời mùa bệnh dịch Covid 19
- Chiếc khẩu trang trong Mùa Chay
- Cuộc gặp gỡ thượng đỉnh
- Bụi tro mùa chay