Hình ảnh các Thiên Thần
- Viết bởi Dân Chúa
Trong đời sống hằng ngày có những điều trông thấy được bằng mắt thường. Nhưng có những vật thể không thể dùng mắt thường dù là đeo kính có độ phân giải cao cũng khó có thể nhìn nhận ra rõ được.
Những vật thể đó hoặc quá nhỏ như vi khuẩn, hoặc mang mầu sắc quá tối, hay ở cách xa khỏi tầm nhìn của mắt, khiến con mắt thường không thể nhìn ra, nhất là vào ban đêm. Muốn nhìn ra những vật thể này, người ta phải dùng kính hiển vi, viễn vọng kính để nhân to ra hay phải dùng máy có tia hồng ngoại để nhìn vào ban đêm.
Nhưng cũng có những vật thể dù là kính viễn vọng hay kính hiển vi, máy có tia hồng ngoại cũng không thể nhận ra nhân to ra được. Đó là tình yêu, là tình cảm là không khí. Không thể nhìn thấy. Nhưng những sự thể này có đó, và là điều cần thiết gắn liền với đời sống.
Trong nếp sống tinh thần đạo giáo có hình ảnh vô hình như thế không?
Niềm tin đạo giáo cũng có những điều vô hình như thế. Thiên Chúa, Thiên Thần là những nhân vật có đó. Nhưng lại không có chút gì gọi là hình ảnh hay mầu sắc cụ thể, khiến ta có thể dùng các phương cách khoa học tối tân hòng mong nhìn ra các ngài. Không thể nhìn ra các ngài, nhưng ta vẫn có thể nhận ra họ, cảm nghiệm thấy họ nơi những dấu chỉ trong cuộc sống.
Ai là con người cũng có nhu cầu cần được bảo vệ chăm sóc. Từ khi mới thành hình sự sống trong bào thai mỗi người đã được mẹ mình săn sóc bảo vệ rồi. Rồi khi mở mắt chào đời, họ lại cần sự săn sóc bảo vệ của những người khác, hơn khi nào hết cho đến khi họ có thể tự đứng lên đi lại, cầm mang nói năng diễn tả được điều mình mong muốn, hoặc tự làm lấy được.
Cả khi đã khôn lớn trưởng thành, ai cũng cần sự bảo vệ săn sóc trong đời sống. Trong gia đình, ngoài đường xá, trên sông nước đại dương, nơi núi rừng thung lũng, trong trường học, trong xưởng thợ nơi làm việc có những luật lệ trật tự đặt ra nhằm giúp bảo vệ nhu cầu sự sống của con người. Những luật lệ này nhằm giúp bảo vệ tất cả mọi người, nhất là trẻ em, những người yếu kém, bệnh nạn, người già cả, người bị cô đơn bỏ rơi, những người gặp tai nạn.
Và có những bảo vệ tuy không có luật lệ gì viết thành văn bản và cũng không thể bàn cãi mổ xẻ được, nhưng những bảo vệ săn sóc đó hằng có đó cho mỗi con người. Đó là nhu cầu được bảo vệ săn sóc về phần tinh thần tâm linh. Ai có thể cho chúng ta sự bảo vệ săn sóc này ?
Niềm tin tôn giáo giúp mang laị cho con người câu trả lời này. Trong sách Xuất hành Thiên Chúa bảo đảm: “ Ta sẽ sai Thiên Thần đi trước dẫn đường cho con. Thiên Thần ta sẽ bảo vệ con đi đến nơi, về đến chốn. (Xh 23, 20).
Và Chúa Giêsu đã khẳng định: Đừng bao giờ khinh dể các trẻ con, vì các Thiên Thần của chúng hằng ở bên ngai Thiên Chúa (Mt 18,10).
Thiên Thần là những sứ giả của Thiên Chúa được gửi đến cho mỗi người. Thiên Thần đồng hành với ta trong đời sống như Thiên Thần Raphael chữa lành mắt và dẫn đường cho Tobias về nhà, Thiên Thần Gabriel mang sứ địệp Thiên Chúa cho đức mẹ Maria, cho ông Zacharias trong đền thờ, Thiên Thần hiện trong trong giấc mộng báo tin cho Thánh Giuse phải đem con trẻ Giêsu và mẹ người sang tỵ nan bên xứ Ai Cập, Tổng lãnh Thiên thần Michael là sức mạnh của Thiên Chúa chiến thắng thần dữ ma quỉ, ca đoàn các Thiên Thần hiện ra báo tin Chúa sinh ra cho các mục đồng nơi hang đá Belem, Hai thiên thần Chúa hiện ra canh mồ Chúa báo tin Chúa đã sống lại cho Maria Magdalena.
Khi một em bé ngoan hiền dễ thương, chúng ta hay nói: Em giống như một thiên thần! Hay khi em bé chạy ngã té nằm xoài ra, em khóc kêu la gọi ba má, nhưng không có gì xảy ra thương tích cho em, chúng ta cũng nói ngay: Thiên Thần bản mệnh em gìn giữ che chở em!
Trong đời sống bản thân mỗi người, ai nấy cũng đều có kinh nghiệm về sự bảo vệ này của Thiên Thần bản mệnh, khi bị tai nạn mà thân xác được bình an không bị thương tích tổn hại gì, hay khi bất ngờ nhận được niềm an ủi từ một người xa lạ. Và ngay cả chúng ta cũng có thể là Thiên Thần cho nguời khác, khi rộng tay giúp đỡ lẫn nhau, trao tặng nhau niềm vui tình người, như Mẹ Terexa thành Calcutta được ca ngợi là “ Thiên Thần của trẻ em, của người già yếu cô đơn bị bỏ rơi.”
Từ gần hai năm nay bệnh đại dịch Covid 19 đe dọa sức khoẻ đời sống con người trên hoàn cầu. Nó gây ra bệnh tật trầm trọng, tử vong, lo sợ khủng hoảng kinh hoàng cho con người. Và vì để bảo vệ sức khoẻ cho không bị lây lan truyền nhiễm sang cho nhau, nên chúng ta phải sống trong tình trạng Lockdown xa cách nhau, phải đeo khẩu trang không được gần nhau cả khi được gặp nhau. Tình trạng đó làm cho đời sống thành ra cô đơn thất vọng buồn chán, xa lạ!
Trong tình trạng như thế, Thiên Thần là niềm an ủi cần thiết cho đời sống, như nhớ tới nhau qua lời hỏi thăm, sự quan tâm giúp đỡ tuy xa cách nhau…đem đến cho tâm hồn đời sống ánh sáng niềm vui, niềm hy vọng trong cảnh khủng hoảng cô đơn.
Thiên Thần của Chúa là những sứ giả, là sự bảo vệ săn sóc của Chúa cho con người. Nhưng các Thiên Thần là những nhân vật vô hình, vô sắc, vô thanh, không có cánh bay lượn như thấy trong các tranh vẽ.
Con người chúng ta cảm thấy Thiên Thần hiện diện ngay trong tâm hồn mình, trong mọi biến cố của đời sống.
Và trong đời sống con người cũng là Thiên Thần của nhau và cho nhau.
Kính nhớ Thiên Thần bổn mạng. 02.10.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Hình ảnh sự cứu giúp.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Con người xưa nay khi gặp nguy hiểm, gặp tai nạn, rất mong cần được cứu giúp. Xưa nay vẫn hằng luôn có những hội đoàn, những cá nhân hy sinh dấn thân làm công việc bác ái tình người này.
Và chính phủ các quốc gia đặt xếp chương trình cứu giúp trong đời sống xã hội lên hàng quốc sách ưu tiên về lòng nhân đạo cùng có tính cách bắt buộc nữa, nhất là khi con người vướng mắc vào hoàn cảnh nguy hiểm khốn khó bị đe dọa.
Ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa Giêsu xuống trần gian rao giảng giáo lý lòng nhân đạo bác ái ơn cứu giúp cho đời sống tinh thần linh hồn con người.
Vậy Ngài dùng hình ảnh gì để diễn tả sứ điệp tin mừng này?
Kinh Thánh nơi các sách phúc âm viết thuật lại những lời rao giảng của Chúa Giêsu về cung cách sống cứu giúp chính mình và người khác cho được lãnh nhận ơn cứu độ phần linh hồn. Một trong những đối tượng Chúa Giêsu thường nói tới là các trẻ em:
“Nếu người nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn.” ( Mc 9,42)
Ngày nay trong đời sống xã hội con người nói chung, nhất là vai trò trẻ em, người trẻ được tôn trọng có chỗ đứng quan trọng và tiếng nói của họ có kí lô sức mạnh được chú ý lắng nghe ngày càng nhiều.
Thứ sáu ngày 20. 08. 2018 cô bé Greta Thunberg, sinh năm 2003 là công dân nước Thụy Điển, cảm nhận nhìn ra nguy cơ môi trường sinh sống trên trái đất đang gặp nguy cơ bị tàn phá hủy hại do độ nóng đang dần lên cao. Nên cô bé Thunberg đã một mình ra ngồi trước tòa nhà Quốc Hội nước Thụy Điển với bảng biểu ngữ „Skolstrejk för klimatet – Bãi học để cứu nguy khí hậu“.
Hành động biểu tình với lời kêu gọi bãi học để cứu nguy bảo vệ môi trường thiên nhiên của cô bé Thunberg đã nhanh chóng lan rộng kéo sự chú ý của mọi người trên khắp thế giới. Nó gợi ý tưởng cho các người trẻ lứa tuổi học sinh như cô Thunberg tập họp thành phong trào cứ vào ngày thứ sáu hằng tuần bãi học kéo nhau đi biểu tình ngoài đường phố với khẩu hiệu: Bãi học để cứu nguy khí hậu môi trường.
Cô bé Thunberg và các bạn trẻ lứa tuổi học sinh với phong trào bãi học ngày thứ Sáu muôn nói lên tiếng báo động hãy cứu nguy khí hậu cùng muốn mọi người chú ý cùng tích cực hành động để trái đất, ngôi nhà sinh sống của nhân loại không bị tàn phá vì đang bị nóng lên.
Ngày 15.05.1919 nữ giáo sư Eglantynne Jebb người Anh quốc, bị tòa án ở London kết án tù 11 ngày và phải nộp phạt 05 Pfund tiền Anh quốc. Vì vị nữ giáo sư đã đi phân phát những tờ truyền đơn kêu gọi giúp đỡ mà không được phép. Trên tờ truyền đơn in hình một em bé người Áo gầy gò ốm yếu thiếu dinh dưỡng trầm trọng.
Nhưng trong giờ nghỉ giữa phiên án xử, chính vị thẩm phán hôm đó đã đóng góp tặng 05 Pfund cho các trẻ em bên Berlin và bên Wien thủ đô nước Áo.
Từ đó “ Save the children Fund” sau biến thành “ Save the children – Cứu giúp các trẻ em” thành hình được thành lập. Các người phụ nữ mong muốn cứu giúp các trẻ em bao nhiêu có thể giúp thoát khỏi cảnh nghèo đói thiếu dinh dưỡng cùng ngăn chặn nguy cơ tử vong nơi các trẻ em do hậu qủa của chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914-1918) gây ra kinh hoàng cho con người. Từ đó hằng có những ống lon kêu gọi quyên góp tiền giúp đỡ các trẻ em trên đường phố các nước xã hội bên Âu Châu.
Ngày nay hội trợ giúp “ Save the children “ có mặt trụ sở trên 120 quốc gia đất nước ở khắp thế giới. Hội từ thiện này đã cứu giúp không biết bao nhiêu trẻ em cần sự cứu giúp trên thế giới. Một đóng góp cứu giúp nhân đạo to lớn cho nhân loại!
S O S: Save our ship – save our soul = Xin Cứu giúp con thuyền chúng tôi – Xin Cứu giúp linh hồn sự sống chúng tôi!
Ba mẫu tự SOS chúng ta ngày nay đọc thấy nơi những cột dựng khắp nơi có số điện thoại cứu giúp trong lúc gặp nguy cơ khốn khó khắp nơi hay nơi bên hông các xe cứu thương.
Dòng chữ SOS đầu tiên vào ngày 10.06.1909 được phát truyền đi từ con tầu chở hành khách RMS Slovania, khi con tầu đang di chuyển ngoài khơi đại dương gặp tai nạn vì thân tầu bị vỡ.
Từ đó không biết bao nhiêu người qua tín hiệu SOS này được cứu giúp cho thoát khỏi những nguy cơ đắm tâu thuyền trên đại dương sông nước cho không bị chết đuối, và cũng trên cả đường xe cùng nơi sa mạc hoang vu, cùng nơi núi rừng rậm thung lũng hiểm trở khắp nơi trên thế giới.
Chúa Giêu Kitô muốn qua lời giảng dạy cảnh báo nghiêm trọng cứu giúp con người, nhất là các trẻ em, các trẻ em gái là những người bị thiệt thòi nhiều trong xã hội ngày xưa thời Chúa Giêsu cách đây hơn hai ngàn năm. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã có lời dạy quyết liệt bênh vực giúp đỡ đứng về phía các trẻ em.
Lời lời giảng dạy cảnh giác của Chúa Giêsu truyền đi sứ điệp mang âm điệu mãnh liệt tàn bạo cứng rắn. Có thể Chúa Giêsu muốn người ta chú ý đến sự quan trọng của vấn đề kính trọng sự sống, cứu giúp bảo vệ trẻ em. Không người nào, không trẻ em nào phải chịu cảnh thiệt thòi đau khổ, phải chịu sự nguy hiểm khốn khó.
Sứ mệnh của Chúa đến trần gian để loan truyền tin mừng bình an bác ái cứu giúp con người, các trẻ em hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh kinh Tin Kính.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng tuần vào ngày Chúa nhật, cả ngày lễ trọng, trong thánh lễ Misa mọi người tín hữu Công giáo cùng đọc kinh Tin kính vào Thiên Chúa.
Tại sao lại đọc kinh này?
Hội Thánh quy định ra công thức như vậy trong nếp sống phụng vụ kính thờ Thiên Chúa từ hơn một ngàn năm nay trong dòng lịch sử đời sống Hội Thánh.
Nói đến kinh Tin Kính ai cũng nghĩ là những công thức tín điều khô cứng, chuyên về thần học trừu tượng…Có người nghĩ rằng tin vào Thiên Chúa đủ rồi, cần gì phải kinh Tin Kính nữa?
Có thể so ví những tín điều với bộ xương sọ ( xương đầu) chúng ta. Xương sọ khô cứng rắn chắc. Nhưng thiếu xương sọ không thể được. Vì bộ xương sọ bao bọc che chở não bộ trí óc con người để cho không bị thương tích làm ra tê liệt phá hủy trung tâm thần kinh não trong suốt đọc đời sống từ lúc thành hình trong cung lòng mẹ cho tới ngày sau cùng đời sống.
Cũng vậy những tín điều vạch ra lằn mức cho suy nghĩ. Vì con người được Đấng Tạo Hóa dựng nên là một công trình luôn biết suy nghĩ. Con người không chỉ cảm nhận thấy cần có nhu cầu ăn và uống. Nhưng còn có khả năng suy nghĩ nữa. Điều này thuộc về đời sống con người.
Qua suy nghĩ tư lự, con người khám phá ra những chân trời sự thể mới lạ, cùng nỗ lực phát triển thêm ra cho hoàn thiện. Trong dân gian có ngạn ngữ kinh nghiệm truyền khẩu: “ Không có gì thực tế hơn là một lý thuyết tốt đẹp!”
Cũng thế, kinh Tin Kính có thể nói được là một hình thái nguyên thủy của con người, và có nền tảng thành hình trong thời gian của Kinh Thánh.
Hình trạng nguyên thủy của Kinh Tin Kính là cầu trả lời của Thánh Phero tông đồ cho câu hỏi của Chúa Giêsu Kitô: “ Anh em nữa cho Thầy là ai?” Ông Phero thưa ngay: “ Thầy là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”( Mt .16,15-16). Câu trả lời của Thánh Phero là lời tuyên xưng kinh tin kính khởi thủy đầu tiên.
Từ lời tuyên xưng căn bản này về Thiên Chúa và thế giới và đức tin từ thuở ban đầu dần dà trong dòng thời gian qua nghiên cứu suy tư đã đi đến kết luận diễn tả thành công thức tín điều như những lằn vạch của nền thần học Kitô giáo.
Thánh Phaolô đã có suy tư căn bản tương hợp về kinh tin kính: “ Nếu bạn ngoài môi miệng tuyên xưng Đức Giêsu Kito là Chúa, và tâm hồn trái tim bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ.” ( Thư Roma 10,9).
Kinh Tin Kính thành công thức như ngày nay có từ thế kỷ thứ 4. sau Chúa giáng sinh thời Công đồng Nizaea và Constantinopel dựa trên nền tảng lời tuyên tín câu trả lời của Thánh Phero : Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống. Và từ thời điểm đó đến nay đã hơn 1600 năm được đọc trong thánh lễ Misa.
Như thế, những tín điều là những xác tín của qúa trình nghiên cứu suy luận cùng chọn lựa trong dòng thời gian. Nhưng không là điều thay thế cho đời sống.
Xương sọ cần thiết giúp che chở bảo vệ khối trí não cho đời sống bình an lành mạnh vượt qua khỏi những nguy hiểm gây thương tích. Nhưng chính sự sống phát triển sinh hoạt trong toàn cơ thể với trái tim, với tứ chi tay chân, xương cốt bắp thịt, đường dây gân, thần kinh, mạch máu.
Cũng vậy, những tín điều trong Hội Thánh tích lũy nối kết thành nền tảng hậu cung đàng sau. Dựa trên đó đời sống (đức tin) người Kitô hữu phát triển cho trở nên sinh động, đặc biệt qua công việc bác ái và lời cầu nguyện.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh thập gía Chúa Giêsu Kitô
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng ngày người Công giáo từ lúc thức dậy cho tới chiều tối có tập tục đạo đức dùng bàn tay làm dấu thập gía Chúa Giêsu trên thân mình, để cầu xin chúc phúc lành của Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Thiên Chúa đã hy sinh chết trên đó mang lại chúc lành cho con người.
Khắp nơi trên tháp các thánh đường có dựng cây thập gía. Rồi nơi phần mộ người qua đời cũng dựng hay vẽ khắc hình tượng cây thập gía.
Và hội chữ thập đỏ lấy hình thập gía làm “Logo” cho hội.
Chúa Giêsu bị kết án đóng đinh trên thập gía khoảng năm 33., đâu có ai nghĩ đến cây thập gía của Chúa Giêsu đã biến đổi thành cây cứu rỗi chữa lành nhờ sự hy sinh của Chúa Giêsu. Nhưng sau này, khi Chúa Giêsu đã sống lại rồi trở về trời, người ta mới đi tìm những dấu tích thánh của Chúa Giêsu khi xưa, để tôn kính.
Vào thế kỷ thứ tư cây thập gía (bằng gỗ) đóng đinh Chúa Giêsu ngày xưa đã được tìm thấy trong một bờ giếng đã bị chôn vùi lấp sâu kín trong lòng đất năm 320.
Và ngày 13.09.335 dịp khánh thành vương cung thánh đường nơi an táng Chúa Giêsu ngày xưa nơi mđồi Golgotha, cây thập gía vừa được tìm thấy được dương lên cao cho mọi người tôn kính. Đây là công đức nỗ lực của Thánh nữ Helena, mẹ hoàng đế Constantino của đế quốc Roma, trong việc tìm kiếm và tôn kính thập gía Chúa Giêsu.
Lễ tôn kính thập gía Chúa Giêsu ngày 14.09.335 đánh dấu bước ngoặt khởi đầu mới trong toàn đế quốc Roma thời đó: đạo Công giáo được chính thức công nhận. Hoàng đế Constanstino ra chiếu chỉ thay vì tôn thờ thần mặt trời ( Sol invictus), giờ đây tôn thờ Thiên Chúa của Kitô giáo.
Giáo Hội Công giáo bắt đầu phát triển thành tôn giáo chính thức trong đời sống xã hội, sau nhiều thế kỷ bị cấm đoàn bắt bớ. Nền văn minh Kitô Giáo từ ngày đó bén rễ sâu trong đời sống văn hóa xã hội, với những sáng kiến về nghệ thuật điêu khắc, văn chương thần học, xây dựng thánh đường theo hình thập gía, những cung cách sống đạo.
Hội Thánh Công giáo Roma mừng kính lễ kính thập gía Chúa Giêsu ngày 14.09. từ thế lỷ thứ 7. sau Chúa giáng sinh.
Trong đời sống xưa nay ai cũng đều phải trải qua những chặng đường thập gía.
Có những em bé vừa khi lọt lòng mẹ, mở mắt chào đời, đã phải chịu cảnh sống xa cha mẹ ngăn cách trong lồng kính hằng những tháng năm liên tục. Vì em sinh thiếu tháng, hay phải giải phẫu nối ráp cơ quan trong người bị khiếm khuyết không đầy đủ, không lành mạnh. Hay phải sống trong cảnh bơ vơ mồ côi vì cha mẹ mất sớm.
Có những bạn trẻ thanh thiếu niên lớn lên chỉ quanh quẩn trong chu vi của giường ngủ, hay cái xe lăn di chuyển thôi.
Có những người đang tuổi trung niên đầy sức sống vươn lên. Nhưng bỗng dưng tâm trí bị phân tán hay khựng lại, hướng suy nghĩ phát triển ngày càng đi xuống. Họ sống trong sợ hãi mặc cảm.
Từ gần hai năm nay nhân loại sống trong cơn khủng hoảng lo sợ. Vì đại dịch Covid 19 đe dọa sức khoẻ đời sống khiến mọi trong mọi sinh hoạt bị ngăn cản cùng ngưng đình trệ. Vì tình trạng đó có những người, những nơi lâm vào tình trạng thiếu lương thực, thiếu thuốc men y tế...Nhân loại trải qua giai đoạn con đường chịu đựng vác thập gía.
Ngày nay có nhiều người, đa số là người Trẻ, như bên Assi, bên cộng đòan Taizé, bên Santiago, bên Međjugory...đeo mang trên mình hình Thánh gía chữ T. Kiểu hình này do Thánh Phanxicô khó khăn thành Assi năm xưa phổ biến loan truyền.
Trong sách ngôn sứ Ezechiel ( 9,4-6) nói đến những ai mang hình chữ Thập T trên trán được cứu độ tha thứ khỏi chết. T = Taw là mẫu tự cuối cùng trong bảng vần mẫu tự của Do Thái. Theo cách viết cổ xưa được viết như hình thánh gía. Mẫu tự T= thau trong tiếng Hy lạp cũng vậy.
Trong sách Khải huyền (7,1-4) Thánh Gioan đã nhìn thấy 140.000 người có dấu ấn trên trán trên trời. Các Thánh giáo phụ hiểu dấu ấn đó là chữ T.
Thập gía cuộc đời có rất nhiều hình dạng khác nhau tùy nơi mỗi người, nơi mỗi hoàn cảnh giai đoạn đời sống. Không có cuộc đời nào mà không có thập gía.
Thập gía là gánh nặng. Nhưng đồng thời cũng là đối lực đà thúc đẩy cố gắng vươn lên tìm niềm vui sống vượt qua khó khăn, nhất là nhìn lên Đấng đã bị đóng đinh trên đó mang lại ơn cứu rỗi cho con người.
Mỗi khi làm dấu Thánh gía, hay đeo Thánh gía trên người cùng nhìn lên Thánh gía Chúa Giêsu, là tuyên xưng dấu hiệu ân đức cứu độ của Thiên Chúa cho con người.
Và cùng liên đới cảm thông với những người cũng như mình phải chịu đựng vác thập gía trong đời sống.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh nếp sống đức tin người Kitô hữu
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ khi nhận lãnh làn nước Bí Tích Rửa tội, đức tin vào Thiên Chúa ghi khắc trong tâm hồn người Kitô hữu. Và trong suốt dọc đời sống đức tin đó là hướng chỉ dẫn cho nếp sống tinh thần người Kitô hữu.
Nhưng nếp sống tinh thần đức tin đó cần thể hiện ra như thế nào?
Hiến chương nước trời, mà Chúa Giêsu đã đề ra trong bài giảng Tám mối phúc thật là khuôn thước cho nếp sống đức tin trong chiều hướng thượng vươn lên trời cao với Thiên Chúa, và chiều ngang đường chân trời với con người đồng loại.( Mt 5,1-12).
Thánh Giacobe, Tông đồ của Chúa Giêsu Kito đã viết cụ thể về nếp sống đức tin như sau: “ Anh em thân mến, nếu ai nói mình có đức tin, mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích gì? Ðức tin như thế có thể cứu được nó ư? Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em lại bảo họ rằng: "Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm", mà anh em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì?” ( Thư Thánh Giacobe 2, 14-18).
Thánh Tông đồ Giacobe viết đề ra hướng dẫn cụ thể dựa trên Tám mối phúc thật của Chúa Giêsu Kitô: cho kẻ đói ăn, cho kẻ rách rưới ăn mặc!
Mọi người trong vũ trụ đều do Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa tạo dựng và nuôi sống. Trong đời sống xã hội trần gian con người khi thể hiện tình liên đới với những người khác cùng chung sống trong vũ trụ cũng thể hiện mối tương quan với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên mình ban cho sự sống.
Mọi người được tạo dựng có cùng nhân phẩm là con Thiên Chúa, Đấng tạo Hóa. Họ có những quyền được hưởng về nhà cửa, cơm ăn áo mặc, về sự được chăm sóc bảo vệ. Nhưng từ ngày Ông bà nguyên tổ Adong Eva lỗi phạm luật Thiên Chúa, sự tội, sự dữ đã xâm chiếm vào trần gian. Nó hoành hành làm cho nếp sống con người bị chênh lệch mất công bằng. Nên luôn hằng xảy ra tình trạng mất quân bình khiến luôn xảy ra tình trạng không phải tất cả mọi người trong đều có được quyền hưởng như nhau trong đời sống.
Vì thế tình liên đới bác ái giúp đỡ giữa con người với nhau và cho nhau là điều quan hệ cần thiết để có được bình an cho đời sống chung cũng như riêng. Và qua đó thể hiện ơn kêu gọi Thiên Chúa ký thác nơi con người.
Điều này thể hiện gía trị nếp sống Kito giáo làm cho sống động chiếu tỏa trong nếp sống văn hóa nơi khung cảnh đời sống xã hội con người.
Chính vì thế, xưa nay luôn hằng có những tổ chức, những người theo tinh thần đức tin Kitô giáo kêu gọi mọi người cùng liên đới chia sẻ cơm áo, cơ hội sinh sống với những người kém may mắn trong đời sống, nhất là những người trong vùng bị thiên tai phá hủy, bị bệnh đại dịch lúc này hoành hành đe dọa, vùng có chiến tranh loạn lạc…
Nếp sống tình liên đới là trung tâm đời sống đức tin vào Thiên Chúa trong đời sống xã hội, như đức thánh Cha Phanxicô có tâm tình kêu gọi:
“Phải ý thức rằng chúng ta cần đến nhau; chúng ta phải có trách nhiệm đối với kẻ khác và với thế giới; thật hữu ích nếu chúng ta lương thiện và tốt lành.
Đã có một thời gian dài chúng ta sống sa đoạ về mặt luân lý, chúng ta cười chê đạo đức, niềm tin và lương thiện ; đã đến lúc sự hời hợt bề ngoài không giúp ích gì cho chúng ta.
Việc tàn phá bất cứ nền tảng nào của đời sống cộng đoàn, cuối cùng cũng đưa đến sự chống đối người này với người kia, mỗi người tự tìm để bảo vệ những lợi ích cho riêng mình ; từ thái độ đó đưa đến những hình thức bạo lực và độc ác, ngăn cản sự phát triển một nền văn hoá đích thực để bảo vệ môi trường.” ( Laudato Si 229.)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh lễ mừng sinh nhật đức mẹ Maria
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hội Thánh Công giáo trong suốt năm phụng vụ có nhiều ngày lễ dành mừng kính đức mẹ Maria, mẹ Chúa Giesu Kito. Riêng trong tháng chín có ba lễ về đức mẹ: ngày 08. mừng sinh nhật đức mẹ, ngày 12. mừng tên đức mẹ, và ngày 15. mừng nhớ sự đau khổ của đức mẹ, còn gọi là lễ đức mẹ sầu bi.
Trong nếp sống phụng vụ của Hội Thánh có nhiều ngày lễ khác nhau về đức mẹ Maria. Nhưng nội dung bản chất các lễ dựa trên hai cấp khác nhau: lễ Đức mẹ Maria trong đời sống đức tin của Hội Thánh, và lễ đức Mẹ Maria trong tập tục truyền thống đạo đức của Hội thánh.
Những lễ mừng kính đức mẹ Maria trong đời sống đức tin là những lễ liên quan đến tín điều đức tin. Những lễ này là lễ trọng. Có bốn tín điều về đức mẹ Maria: Đức mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa, đức mẹ Maria trọn đời đồng trinh, đức mẹ Maria hồn xác lên trời, và đức mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội.
Những ngày lễ về đức mẹ Maria theo tập tục truyền thống trong Hội Thánh thành hình do lòng đạo đức sốt mến sùng kính đức mẹ trong dòng lịch sử Hội Thánh. Những tập tục đạo đức này phát sinh từ lòng đạo đức yêu mến của con người cùng văn hóa thời đại, nhưng cũng dựa trên nền tảng đức tin.
Đức tin vào Chúa của chúng ta không chỉ căn cứ trên suy luận vững chắc sâu bén – khô cứng!- của khoa thần học, vào sự chân thật Thiên Chúa viết trong Kinh Thánh, trong mặc khải. Nhưng đức tin cũng thôi thúc con người duy trì nếp sống lòng đạo đức yêu mến sùng kính và công nhận gía trị những sự chân thật này.
Lòng sùng kính đức mẹ Maria phổ biến rộng rãi xưa nay trong Hội Thánh Công giáo.
Lòng đạo đức sùng kính đức mẹ Maria có từ sau thời Công đồng Ephesus năm 431. Nhưng trong vùng văn hóa Hylạp đã có những bài giảng thuyết về đức mẹ trước đó của Giáo phụ Gregor thành Nyssa ( + 394), và của Giáo phụ Gregor thành Nazianz· (+390) từ thế kỷ thứ tư.
Lòng yêu mến đức mẹ Maria đã phát triển ngay từ thời Hội thánh thuở sơ khai vào tiền bán thế kỷ thứ hai sau Chúa giáng sinh. Thời lúc đó xuất hiện nhiều bản ngụy phúc âm khác nhau, như phúc âm theo Thánh Giacobê, ngụy bản Công vụ
các Tông Đồ và các sứ mạng của Thánh Phero. Trong các bản văn này có ghi chép vào thế kỷ 6. Sau Chúa giáng sinh bên Hội Thánh Đông phương đã có ngày lễ mừng sinh nhật đức mẹ Maria.
Trong khi đó ngày lễ này bên Hội Thánh Tây phương có sau đó dưới thời đức giáo hoàng Sergius ( 687-701) được thiết lập. Nhưng mãi đến thế kỷ thứ 10. và 11. mới phổ biến rộng rãi trong toàn Hội Thánh Công giáo Roma.
Trong phúc âm không nơi nào đề cập tới ngày đức mẹ Maria chào đời cùng nơi sinh ra, và cùng cả ngày và nơi qua đời nữa. Vì thế không có lịch sử ghi chép lại đời sống đức mẹ Maria .
Trái lại, theo ngụy phúc âm của Thánh Giacobe viết nhiều về thời thơ ấu của Chúa Giesu và về Maria, mẹ Chúa Giesu. Ông Thánh Gioakim và Bà Thánh Anna là cha mẹ sinh thành của mẹ Maria, là ông bà của Chúa Giesu. Cũng theo phúc âm này thuật lại gia đình Gioakim và Anna sinh sống ở Gierusalem gần cổng thành Stephan và hồ nước Betesda.
Đạo binh Thập tự khi tiến vào Gierusalem đã xây dựng đền thờ Anna để tưởng nhớ đức mẹ Maria. Dưới hầm thánh đường có nhà nguyện theo truyền thống đó là nơi đức mẹ Maria sinh ra. Không xa nơi này Hội Thánh Chính Thống cũng có địa điểm thánh với ngôi nhà nguyện kỷ niệm đức mẹ Maria sinh ra, nằm sâu dưới một ngôi nhà có từ thời thế kỷ 1. Hay 2. Còn về ngày đức mẹ chào đời không có sử sách hay truyền tụng nào ghi chép lại.
Lễ mừng ngày sinh nhật đức mẹ Maria là ngày lễ lâu đời nhất về các lễ mừng kính đức mẹ trong phụng vụ Hội Thánh.
Hằng năm Hội Thánh mừng ba ngày lễ sinh nhật của ba Vị: Lễ sinh nhật Thánh Gioan tẩy gỉa còn gọi là vị tiền hô ngày 24.06., lễ sinh nhật đức mẹ Maria ngày 8.9. và lễ sinh nhật Chúa Giêsu Kito ngày 25.12.
Thầy dòng Duranduc, sống vào thời trung cổ, đã có suy tư về hình ảnh ba ngày lễ mừng này: Sự sinh ra của Thánh Gioan tiền hô như là ngôi sao buổi ban mai trước khi mặt trời mọc lên. Sự sinh ra của đức mẹ Maria, mẹ Chúa Giêsu, như ánh quang mầu đỏ của buổi bình minh ban mai., ánh quang của Chúa Giesu Kito, Đấng là mặt trời đang mọc bừng lên.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh chữa lành người bị câm điếc
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Sức khoẻ là qùa tặng trời cao ban cho thiên nhiên: thảo mộc cây cối, thú động vật và con người. Ai cũng qúy trọng tìm mọi phương cách bảo vệ gìn giữ sức khoẻ cho xanh tốt sống động toàn vẹn như thiên nhiên ban cho. Và chẳng may khi bị vướng lâm vào tình cảnh đau bệnh, xưa nay ai cũng đều tìm phương cách chữa trị cho lành mạnh trở lại.
Hai cơ quan lưỡi và đôi tai, mà Đấng Tạo Hóa tạo dựng ban cho con người để nói và nghe, là thành phần thân thể quan trọng cho đời sống trong giao thương thông tin hiểu nhau. Và cũng cùng cả nơi thú động vật nữa.
Nên khi hai cơ quan này nơi người nào bị trục trặc vướng trở không hoạt động được, là bị lâm vào tình trạng câm và điếc. Đây là nỗi đau thống khổ triền miên trong đời sống cho người bị vướng mắc tình trạng này, và cùng cho người thân, cho người khác trong xã hội. Vì một bên không nghe, không nói được, nên rất khó khăn, thiếu sự thông hiểu với người khác cùng chung sống.
Họ có cuộc sống gần như biệt lập tách khỏi ngoài đời sống xã hội thông thường. Thật qúa thua thiệt đau khổ cho họ cùng cho thân nhân họ!
Người bị câm điếc chỉ có thể hiểu được người khác qua ngôn ngữ dấu chỉ tay chân hay chữ viết trên giấy, qua nhờ đôi con mắt nhìn thấy được.
Phương thuốc chữa trị cho tình trạng (bệnh) này chưa phát triển tìm ra. Vì thế con người luôn trông mong chờ đợi phép lạ cho người bị (bệnh) được chữa cho lành mạnh nghe cùng nói được như những người khác.
Ngày xưa khi Chúa Giêsu đi rao giảng tình yêu nước Thiên Chúa bên Do Thái, hay tin cùng nhận ra Chúa Giêsu có quyền phép làm phép lạ chữa cho nhiều người lành mạnh khỏi bệnh phần thân xác, như Kinh Thánh thuật lại: „Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Ðoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: "Effetha!" (nghĩa là "Hãy mở ra!"), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng.“ ( Mc 7,31-27)
Chúa Giesu chữa trị không theo phương pháp y tế khoa học như ngày nay. Nhưng theo cung cách đụng chạm gần gũi con người.
Từ gần hai năm nay, nhân loại sống trải qua cơn khủng hoảng bênh đại dịch do vi trùng Corona truyền nhiễm đe dọa kinh hoàng sức khoẻ đời sống nhân loại. Nên qui tắc luật lệ y tế đề ra con người không được sát gần đụng chạm vào nhau, phải tránh hết sức ngăn cản không để cho hơi thở thổi truyền sang nhau, nguy hiểm nữa là nước bọt từ người này bắn sang người bên cạnh. Nên phải hết sức tránh.
Đó là qui luật y tế thời sự, nhằm để ngăn ngừa chống bệnh đại dịch lây lan truyền nhiễm lan rộng từ người sang người.
Nhưng thời xưa Chúa Giesu lại có cách xử sự chữa trị khác: Ngài đặt ngón tay vào tai người điếc câm điếc, cùng lấy nước bọt bôi xức vào lưỡi người bệnh!
Như thế có nguy hiểm đe dọa sức khoẻ cùng mất vệ sinh không?
Thông thường theo vệ sinh y tế khoa học thì như thế. Nhưng hành động cách chữa trị của Chúa Giesu theo khía cạnh tâm linh truyền đi hình ảnh ý nghĩa khác hơn.
Người bi câm điếc xưa nay sống trong tình trạng biệt lập, như bị cô lập, tách hẳn ra ngoài đời sống xã hội. Vì họ không nghe được những gì cần nghe cùng muốn nghe, không nói được những gì muốn nói cùng cần phải nói. Người bị tình trạng như thế sống không có tương quan giao thương thông tin trong đời sống xã hội con người.
Nên Chúa Giesu đặt ngón tay vào tai anh ta nói lên chiều kích gần gũi quan tâm tới, không để cho bị lẻ loi một mình. Tôi nghe anh và anh cũng nghe được cả tôi nữa!
Còn gì vui mừng hạnh phúc thần thánh, cùng đẹp hơn nữa, khi người con được mẹ, được cha ôm vào lòng, xoa đầu vuốt trán cùng vành tai đôi má, dù trong lúc bệnh nạn!
Cử chỉ thân ái tình yêu thương này có sức mạnh chữa trị mang đến cho đời sống sự an vui mạnh khoẻ tuôn trào từ trong tâm hồn!
Nước bọt -nước miếng- là chất nước rất quan trọng nơi cơ thể con người, mà Đấng tạo Hóa đã dựng nên cho cơ quan bộ máy thân thể đời sống con người. Nước bọt giúp tiêu hóa thực phẩm và cũng có sức mạnh giúp chữa trị những vết thương nhỏ ngoài da nơi thân thể con người. Nhưng ai cũng sợ nước bọt người khác. Riêng người mẹ thì lại không sợ hay ái ngại nước bọt con của mình khi chúng còn thơ bé.
Người mẹ nào khi xúc đút cơm cháo cho con mình ăn, chị cũng đều thổi cùng nếm trước xem có còn nóng qúa hay qúa nguội, qúa mặn hay qúa nhạt…, rồi mới cho con ăn. Như thế trong đó có pha lẫn cả hơi thở cùng nước bọt của người mẹ. Em bé ăn ngon no bụng cùng khỏe mạnh mau lớn.
Khi người con còn thơ bé còn nhỏ, người mẹ thường hay thổi hơi cùng lấy chút nước bọt của mình thoa bôi trên vết da trầy thương tích con mình cùng thổi hơi vào đó, thế là vết thương dịu lại, em bé cảm thấy dễ chịu không kêu la đau nữa!
Người mẹ làm theo trực giác tự nhiên. Nhưng lại thể hiện sâu đậm tình yêu thương gắn bó thâm sâu mẹ con.
Quan sát loài chim mẹ tha mồi cho con. Chúng kiếm được mồi ngậm nuốt vào miệng, rồi từ mỏ miệng mình chuyền mớm nhả miếng mồi thực phẩm cho con ăn mau lớn khẻo mạnh. Miếng mồi thực phẩm cho chim con pha lẫn cả nước bọt của chim mẹ mình nữa.
Một cung cách đơn giản theo bản năng trực giác tự nhiên. Nhưng lại chan chứa tình yêu thương cùng mang truyền tiếp sức sống chủng loại sâu đậm thông tin giao hảo hiệu qủa kỳ diệu!
Cử chỉ đặt ngón tay vào tai, và xức nước bọt vào lưỡi người câm điếc của Chúa Giesu cùng với lời như lệnh truyền: „Effata! Hãy mở ra! truyền đi hình ảnh sứ điệp sự gần gũi tình yêu thương con người. Và qua đó mang đến sự an vui cho người bị bệnh có sự thông thương giao hảo với thiên nhiên với con người trong đời sống xã hội trở lại. Từ nay lưỡi mềm trở lại nói năng phát âm được những suy nghĩ từ bên trong tâm hồn, và đôi tai nghe được âm thanh tiếng nói từ bên ngoài. Đời sống không còn bị cô lập vì thiếu thông tin giao hảo.
Lẽ dĩ nhiên chỉ có Chúa Giesu, Đấng là Thiên Chúa quyền năng mới có thể làm được phép lạ biến sự không có thể thành sự có thể, mà con người tạo vật không thẻ làm nổi cùng hiểu nổi.
Lời Effata – Hãy mở ra! của Chúa Giesu nói với con người :
Hãy mở rộng trái tim tâm hồn cho sống động trước những hoàn cảnh thương tâm đau khổ trong thiên nhiên, mà tai không sao nghe thấu nổi, cùng miệng lưỡi không diễn tả được!
Effata – Hãy mở ra! để cho Thiên Chúa , Đấng Tạo Hoá, biến đổi đời sống làm cho mới trở lại trong những khi thất vọng đau khổ, hoài nghi…
Effa – Hãy mở ra mà ngắm nhìn thiên nhiên, nghe âm thanh phát tỏa trong thiên nhiên, cùng phát tỏa lời ca ngợi thiên nhiên.
Vua David đã cất lời kêu xin:
„Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con,
cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.“ ( Tv 51,17)
Và người tôi tớ Chúa có tâm tình xác tín cậy trông:
„ Sáng sáng Đức Chúa Người đánh thức,
Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.“ ( Isaia 50,4-5)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh tử đạo của Thánh Gioan tẩy gỉa
- Viết bởi Dân Chúa
Ở đời xưa nay con người yêu mến sự chân thật. Vì sự chân thật mang lại sự rõ ràng trong sáng bình an cho đời sống. Nhưng khi phải đối diện với sự thật, lại ái ngại sợ hãi cùng tìm cách bào chữa không muốn biết tới…Điếu này kéo theo hệ lụy không chỉ không tốt đẹp, mà có khi còn đưa đến hậu qủa bi thảm hãi hùng.
Đời sống của Thánh Gioan tẩy gỉa là một điển hình chết tử đạo bị chém đầu vì sự chân thật.
Hình ảnh chết tử đạo của Thánh Gioan đã diễn xảy ra như thế nào?
Kinh Thánh thuật lại như sau: „Số là vua Hê-rô-đê đã sai người đi bắt ông Gio-an và xiềng ông trong ngục. Lý do là vì vua đã lấy bà Hê-rô-đi-a, vợ của người anh là Phi-líp-phê,18 mà ông Gio-an lại bảo: "Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài! "19 Bà Hê-rô-đi-a căm thù ông Gio-an và muốn giết ông, nhưng không được.20 Thật vậy, vua Hê-rô-đê biết ông Gio-an là người công chính thánh thiện, nên sợ ông, và còn che chở ông. Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe.
21 Một ngày thuận lợi đến: nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hê-rô-đê mở tiệc thết đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Ga-li-lê.22 Con gái bà Hê-rô-đi-a vào biểu diễn một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích. Nhà vua nói với cô gái: "Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con."23 Vua lại còn thề: "Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được."
24 Cô gái đi ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì đây? " Mẹ cô nói: "Đầu Gio-an Tẩy Giả."25 Lập tức cô vội trở vào đến bên nhà vua và xin rằng: "Con muốn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gio-an Tẩy Giả, đặt trên mâm."26 Nhà vua buồn lắm, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với cô.27 Lập tức, vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gio-an tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục,28 bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ.29 Nghe tin ấy, môn đệ đến lấy thi hài ông và đặt trong một ngôi mộ.“ ( Mc 6,17-29 ; Mt 14,3-12).
Kinh thánh không nói đến địa danh nơi Thánh Gioan bị giam cầm, bị chém đầu, cùng nơi ngôi mộ của Thánh Gioan.
Theo sử gia Flavius Josephus trong sách Antiquitates đã viết thuật lại thời vua Herodes Antipas, con trai Vua Herodes thứ nhất, cai trị vùng miền Galliläa và Peräa đã cho bắt Thánh Gioan Tẩy gỉa tống giam vào ngục tù ở thành trì Machärus. Thành trì này nằm ở phía Đông vùng đất sông Jordan. Và rất có thể Thánh Gioan an đã bị chém đầu tử đạo trong nhà tù ở thành trì Machärus của triều đại Herodes Antipas.
Thành trì Machärus là một trong những thành trì được dòng dõi triều đại Herodes xây dựng nơi núi đồi cao vừa để chống quân thù, vừa là chốn cung đình sang trọng nhà vua cư ngự.
Thành trì Machärus vào năm 66. sau Chúa giáng sinh bị nhóm Zeloten của Do Thái chiếm đóng chống quân đội Roma. Và sau đó vào năm 72. sau Chúa giáng sinh bị quân đội đế quốc Roma bao vây xâm chiếm cùng phá hủy bình địa chỉ còn lại tàn tích nền nhà cùng các cây cột lịch sử.
Sử gia Flavius Josephus không nói đến lý do tại sao Thánh Gioan bị bắt giam và bị chém đầu trong tù, dù có nhắc đến tên Solome, vợ của vua Herodes Antipas. Bà là người muốn trả thù giết Thánh Gioan.
Như Kinh thánh thuật lại, Gioan đã khuyên can ngăn Herodes không được lấy Salome Herodia người vợ của anh mình là Philiphê. Đây là điều bất công vi phạm lề luật, không được làm. Nên bà luôn tìm cách, tìm cơ hội bài trừ giết Thánh Gioan. Bước thứ nhất thuyết phục được chồng mình Herodes Antipas bắt Gioan giam vào ngục tù. Và bước thứ hai nhân giữa bữa tiệc mừng sinh nhật vua Herodes, sử sách không ghi lại ngày tháng nào, bà đã yêu cầu qua con gái đang làm say mê nhà Vua và quan khách dự tiệc, xin cho chém đầu Gioan.
Nhưng Flavius Josephus cho rằng Herodes Antipas lo sợ uy tín của Gioan, là một vị tiên tri, một vị rao giảng sự công chính, sự chân thật. Vì dân chúng tin theo Ông đông đảo nồng nhiệt, và biết đâu có thể trở thành phong trào chống đối nổi lên gây mất an ninh trật tự xã hội đưa đến nguy cơ cho ngai vua của mình. Nên tốt hơn bài trừ trước cho khỏi hậu hoạn nguy hiểm!
Có thể cái chết tử đạo của Thánh Gioan tẩy gỉa vì sự chân thật đã xảy ra vào năm 28. hay năm 29. sau Chúa giáng sinh.
Các môn đệ học trò của Thánh Gioan, có thể ngay sau khi Gioan bị bắt giam vào ngục, đã âm thầm sửa sọan xây dựng ngôi mộ huyệt an táng cho Thầy mình rồi. Nên khi được tin Thầy Gioan chết tử vì đạo bị chém đầu, đã đến xin thi hài, và lo hậu sự an táng Thầy mình trong ngôi mộ huyệt đã chuẩn bị sẵn.
Trường hợp các môn đệ Gioan an táng Thầy đã mình đã qua đời trong ngôi mộ cũng xảy ra sau này với Chúa Giêsu, sau khi chết trên thập gía. Người nmôn đệ tin theo Chúa Giêsu cách âm thầm, Ông Giuse Arimathia là một nhân viên trong Thượng Hội Đồng tôn giáo thời lúc đó, đã đứng ra lo việc hậu sự an táng Chúa Giêsu trong ngôi mộ đã xây dựng làm sẵn.( Ga 19, 38-42)
Gioan tẩy giả, người anh em họ hàng với Chúa Giesu Kito, vị tiên tri, sinh ra đời trước Chúa Jesus Kito nửa năm. Và chết trước Chúa Giesu Kito. Thánh Gioan có lẽ chết vào năm 28. hay 29. sau chúa giáng sinh. Còn Chúa Giesu chết vào năm 33.
Ngôi mộ an táng Thánh Gioan tẩy gỉa nằm ở đâu?
Có nhiều giả thuyết qủa quyết huyền thoại khác nhau về ngôi mộ của Thánh Gioan.
Theo truyền tụng bên xứ Syria, Thánh Tông đồ Andreas và Gioan đã chôn cất thi hài Thánh Gioan ở Sebaste vùng miền Samaria nước Do Thái. Thánh giáo phụ Hieronymus cũng qủa quyết điều này.
Sebaste ngày xưa kia là thủ đô của Samaria. Bên ngoài bức tường thành của thánh phố Sebaste còn lưu lại tàn tích dấu vết của ngôi thánh đường mang thánh hiệu Gioan được đào bới tìm thấy năm 1931. Ngôi thánh đường này được xây dựng vào thế kỷ 4. sau Chúa giáng sinh thời Byzantino phủ trên nghĩa trang những ngôi mộ của người Roma chôn cất ở đó.
Giữa những năm 1150 và 1160 đạo binh thập tự đã xây dựng lại thánh đường đã đổ nát thành một nhà thờ lớn hình thập tự có ba cánh.
Năm 1225 theo thuật lại của sử sách Hồi giáo về một Moschee của họ trong đó có ngôi mộ của Thánh Gioan.
Cung thánh của ngôi thánh đường ngày xưa từ thế kỷ 14. sau Chúa giáng sinh có tám vòm tròn vươn lên trời cao. Và từ 1892 là đền thờ Hồi giáo Sidi Yahya.
Trong lòng giữa đền thờ theo truyền thống Kito giáo và Hồi giáo nơi mỗi vòng hình bán nguyệt có hình tượng của Tiên tri Elischa, Thánh Gioan tẩy gỉa, tiên tri Obadja, cha mẹ của Thánh Gioan tẩy gỉa Ông Zacharia và Bà Elisabeth.
Vòng khung nơi cao trong lòng giữa đền thờ có thủ cấp (đầu) của Thánh Gioan tẩy giả được gìn giữ bảo quản. Thánh giáo phụ Hieronymus năm 404, và vị khách hành hương Gioan Foca năm 1117 đã viết thuật lại những chi tiết này.
Thành Constantinopel bên Istambul nước Thổ nhĩ Kỳ, và thành phố Damaskus bên nước Syria cũng qủa quyết sở hữu thủ cấp của Thánh Gioan tẩy gỉa.
Ngày 06.05.2001 Đức giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã thăm nước Syria, và đã đến cầu nguyện ở đền thờ Hồi giáo Umayyaden thủ đô Damaskus.
Thánh đường Sivestre ở thủ đô Roma bên Ý, và nhà thờ chính tòa của Armenia cũng qủa quyết thủ cấp của Thánh Gioan tẩy gỉa đang ở nơi họ.
Năm 2010 trong cuộc khảo cổ đào bới ở thánh đường Sveti Ivan bên thành phố nhỏ Sozopol nước Bulgaria đã tìm thấy một hộp nhỏ dưới chân bàn thờ. Trong đó có mẩu xương một người đàn ông sống thời thế kỷ thứ nhất bên vùng Trung đông. Có thể thánh tích này vào thế kỷ 5. hay 6. khi xây thánh đường đã từ Constantinopel được đem về Bulgaria. Hay cũng có thể mẩu xương này đúng chính là xương của Thánh Gioan tẩy gỉa. Nhưng không ai biết chắc chắn điều này.
Xương thánh của Thánh Gioan tẩy gỉa rất được tôn kính ở tu viện Abu Makar của đạo Koptic bên nước Aicập, và ở nhà thờ chính tòa Camera Santa Olivedo vùng Asturien nước Tây ban nha.
Nếu tất cả những huyền thoại về thủ cấp, xương thánh di tích của Thánh Gioan tẩy gỉa là thật, thì Vị Thánh tiên tri Gioan tẩy gỉa có tới sáu thủ cấp và mười hai tay!
Nhưng Thiên Chúa, Đấng Tạo Họa càn khôn đã tạo dựng nên mỗi người chỉ có một thủ cấp và hai tay thôi.
Thánh Gioan tẩy gỉa bị chém đầu chết cách dã man. Chỉ vì Ông sống là nhân chứng cho sự thật, cho ánh sáng Thiên Chúa nơi trần gian.
„ Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan.
Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.
Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.“ ( Phúc âm Thánh Gioan 1, 6-8)
Thánh Gioan tẩy gỉa còn có biệt hiệu Tiền hô, trong vai trò đi trước rao giảng làm phép rửa kêu gọi dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng đang đến. Thánh nhân được gọi là vị Thánh mùa Vọng. Vì thế Hội Thánh Công giáo mừng ngày sinh nhật hằng năm của ngài vào ngày 24.06. đầu mùa hè.
Còn lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu vào ngày 25.12. đầu mùa Đông bước sang mùa Xuân tràn đầy ánh sáng.
Thánh Gioan tiền hô chịu tử vì đạo trước Chúa Giêsu. Lễ mừng kính sự tử đạo của thánh nhân được chọn mừng vào ngày 29.08. hằng năm cuối mùa Hè sang mùa Thu.
Còn lễ kính nhớ cuộc tử nạn chịu chết trên thập gía, và lễ phục sinh sống của Chúa Giêsu Kito được mừng kính hằng năm vào cuối tháng Ba, đầu tháng Tư dương lịch thời điểm bắt đậu mùa Xuân, chan hòa ánh sáng sự sống bừng lên trong thiên nhiên.
Mừng lễ Thánh Gioan Tẩy gỉa bị chém đầu, 29.08.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh nghi thức rửa tay
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng ngày từ lúc thức dậy cho tới chiều tối trước khi đi ngủ, ai cũng rửa tay thường xuyên cho sạch sẽ, nhất là khi tay bị dơ bẩn.
Rửa tay gắn liền với nhu cầu đời sống!
Từ gần hai năm nay( từ 2020), vì đại dịch do vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm đe doạ sức khoẻ con người, nên việc rửa tay bằng xà phòng, với dung dịch thuốc sát trùng là qui luật y tế được khuyến khích phải thi hành thường xuyên, nhất là ở các nơi công cộng có đông người ra vào, nơi cửa hàng, nơi công sở, khi đụng chạm vào đồ vật, sau khi đi vệ sinh…
Vì đó là việc thiết yếu nhằm tiêu diệt vi trùng Corona ngăn ngừa không cho lây lan xâm nhập vào cơ thể qua làn da bàn tay. Đây là nhu cầu gìn giữ bảo vệ sức khoẻ cho mỗi người, và cho cả người khác bên cạnh nữa.
Nhu cầu nghi thức rửa tay có trong đời sống đức tin đạo giáo không?
Ngày xa xưa trên núi Sinai, Tiên tri Mose đã tiếp nhận từ Thiên Chúa những lề luật cương lĩnh cho đời sống chung đang trên đường đi về quê hương Thiên Chúa hứa ban cho dân Do Thái. Trong đó có luật lệ trước khi ăn phải rửa tay cho sạch. Điều này trở thành truyền thống luật truyền từ thời Tiên tri Mose ghi chép lại trong sách Đệ nhị luật ( 4,1) cho đời sống chung trong xã hội. Và cùng là điều cần thiết cho nếp sống chung của con người.
Và người tín hữu Do Thái luôn tôn trọng giữ qui luật truyền thống này rất chặt chẽ. Vì thế khi nhìn thấy môn đệ Chúa Giêsu không rửa tay trước khi ăn, họ lên tiếng tố cáo phàn nàn ngay với Chúa Giêsu. Họ cho đó là vi phạm lỗi luật truyền đã có từ ngàn xưa do tổ phụ cha ông ghi chép truyền lại. ( Mc 7,1-23)
Nhưng Chúa Giêsu hiểu sự thanh sạch theo hình ảnh ý nghĩa khác, mà không theo chữ đen một sang một.
Với Chúa Giêsu tinh thần luật lệ của Thiên Chúa là chính yếu cùng quan trọng hơn nhiều những chữ đen ghi viết lại.
Hình ảnh Chúa Giêsu dùng để làm sáng tỏ ý nghĩa luật rửa (tay) cho sạch bao gồm hai yếu tố: từ bên ngoài vào, và từ bên trong tâm hồn ra.
"Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế". ( Mc 7,15).
Trong tâm tình lòng ăn năn thống hối vì tội lỗi đã vấp phạm lỗi luật Chúa, Vua David đã nài xin Chúa rửa sạch cho mình:
„Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,
mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm .
Xin rửa con sạch hết lỗi lầm , tội lỗi con , xin Ngài thanh tẩy. „ ( Tv 50,3-4).
Và Vua David trong Ca vịnh Người vô tội cầu nguyện có tâm tình cử chỉ rửa tay:
„ Lạy Chúa, con rửa tay nói lên lòng vô tội và đi vòng quanh bàn thờ Chúa.“ ( Tv 26,6)
Ngày xưa, lúc xử án Chúa Giêsu Kito, nhận thấy Chúa Giêsu vô tội, muốn tha cho . Nhưng quan tổng trấn Philato bị áp lực của dân chúng đã chiều theo ý họ muốn để mặc họ hành xử đem đi tử hình đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá...
Để phủi tay chạy tội trốn trách nhiệm cho việc lên án giết người vô tội, Ông Philato đã lấy nước rửa tay trước mặt mọi người muốn nói lên mình vô can trong việc kết án Chúa Giêsu: Ta vô can trong việc đổ máu người này! ( Mt 27, 24)
Trong lễ nghi thánh lễ Misa, vị chủ tế cũng thi hành nghi thức rửa tay trong tâm tình thống hối: „Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con phạm, xin Ngài thanh tẩy.“
Việc rửa tay theo truyền thống luật lệ qui tắc vệ sinh giữ gìn sức khoẻ cần thiết cho đời sống con người. Nhưng việc tẩy rửa trái tim tâm hồn cho đời sống thanh sạch có được bình an còn quan trọng cần thiết hơn cho đời sống hôm nay giữa con người với nhau, và ngày mai khi đến trước tòa Chúa.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh ân đức được trao ban
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Bệnh đại dịch vi trùng Corona đe dọa sức khoẻ con người đã gây ra cơn khủng hoảng lan rộng trên thế giới. Vì lo sợ nên mọi người đổ xô đi mua sắm thức ăn cần dùng nhiều bao nhiêu có thể.
Một trong những thứ cần dùng được mua nhiều tích trữ là giấy cho nhu cầu nhà vệ sinh. Những ngày tháng khởi đầu cơn khủng hoảng, hầu như hình ảnh các ngăn kệ ở các siêu thị chất chứa những cuộn gíấy nhà vệ sinh rỗng trống trơn được chiếu trên các hệ thống truyền hình khắp mọi nơi. Có nơi còn có hình ảnh người ta tranh cãi dành nhau mua từng bịch cuộn lọai giấy này nữa.
Thật là một hình ảnh khó có thể tin được. Nhưng nó đã hiển thị thành sự thực lúc đầu cơn khủng hỏang đại dịch Covid 19 năm 2020.
Các nhà tâm lý học khi quan sát tìm hiểu hiện tượng này có suy tư : Cảnh tranh nhau đi mua sắm tích trữ đó nói lên một tâm trạng to lớn về sự bất lực, về tình cảnh hoang mang không có cách gì giúp đỡ được nữa. Con người sống trong bị đe dọa, nên ra như thế. Và vì thế họ có cung cách phản ứng xấu tồi tệ chưa từng xảy ra. Mua sắm tích trữ vơ vét thể hiện cách thế chống lại sự bất lực, như ở bên Hoa Kỳ người ta mua sắm súng ống để tự vệ, bên Âu châu đi mua giấy nhà vệ sinh, mua thuốc sát trùng…
Tâm trạng bất lực trong đời sống con người không chỉ thể hiện nơi nhu cầu cho đời sống, nhưng còn nhiều hơn nữa về căn bản nền tảng đời sống: trước ngưỡng cửa sự chết!
Không ai là con người có thể tự sức mình làm cho đời sống ra khác hay kéo dài thêm ra. Sự sinh ra và sự chết không tùy thuộc vào ảnh hưởng mong muốn của con người. Sự bất lực như thế gây nên tâm trạng đe bị đọa và làm cho thành lo âu hoảng sợ. Chính vì thế, xưa nay luôn hằng có những suy luận, những phương cách không muốn đề cập nói đến sự chết, hay tìm phương thuốc làm cho sao sự sống được khoẻ mạnh tốt đẹp đè bẹp đau bệnh, kéo dài thêm ra cùng cách sống ăn uống mong sao cho trường sinh bất tử, trẻ mãi không gìa!
Con người không do tự mình làm ra mình. Nhưng được tạo dựng trong công trình thiên nhiên của Thiên Chúa, của Thượng Đế trời cao. Nên phải học nhận ra giới hạn của đời sống bao gồm cả sự chết nữa.
Thánh tông đồ Phaolô trong thư gửi tín hữu Giáo đoàn Corinthô đã viết thư làm sáng tỏ giáo lý cho những người chối bỏ sự sống lại của người đã chết. Thánh nhân đã đưa ra trung tâm điểm cốt lõi đức tin sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô là căn bản đức tin về tin mừng cứu độ. (1 Cor 15,11).
Chúa Giêsu Kitô là người đầu tiên đã sống lại từ cõi chết. Trong sự phục sinh sống lại của người bắt đầu con đường xóa bỏ vượt qua sức mạnh sự chết. Sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô là dòng sông sự sống không che chắn ngăn cản sự chết. thân xác. Nhưng dẫn đưa đến nguồn sự sống bên Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá.
Hằng năm vào ngày 15. Tháng Tám , Hội thánh Công giáo mừng kính lễ Đức Mẹ Maria hồn xác lên trời.
Đâu là hình ảnh ý nghĩa ngày lễ trong tương quan giữa sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô với sự chết của Đức mẹ Maria?
Trong kinh Tin kính chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Điều tuyên tín này nói lên con đường đời sống của Chúa Giêsu đã hoàn thành qua sự phục sinh sống lại từ cõi chết và lên cao về trời xảy diễn ra do từ chính uy quyền thần thánh của Chúa Giêsu. Sự thể đó vừa là công trình của Ngài và công việc sứ mạng của Ngài.
Với Đức Mẹ Maria thì không như vậy. Sự hoàn thành con đường trần thế của Đức mẹ ngày lễ mừng kính lên trời trong hình ảnh ý nghĩa Đức mẹ được cất nhắc đưa về trời.
Đức Mẹ Maria về trời không do sức lực thành tích của mình. Nhưng là ân đức của tình yêu Thiên Chúa ban cho. Đó là qùa tặng của Chúa Giêsu trao tặng mẹ mình, người đã sinh thành nuôi dưỡng góp phần vào đời sống của Chúa Giêsu khi xưa trên trần gian.
Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu độ trần gian khỏi sự chết phần linh hồn, và Ngài cũng giải thoát cứu độ mẹ mình, cho mẹ mình là người tiên khởi được cùng tham dự vào sự phục sinh cùng được đưa nâng lên cao.
Con người trần gian chúng ta chạm tới giới hạn đời sống của mình, nên luôn cảm nhận thấy sự bất lực của mình và sự bơ vơ hoang mang, như qua những tai ương, tai nạn khốn khó trong đời sống và sau cùng là sự chết.
Lễ mừng kính Đức mẹ Maria hồn xác về trời mang đến cho con người sự an ủi cùng sự can đảm: Chúa Kitô phục sinh không muốn giữ riêng cho mình sự hoàn thành đời sống nơi Thiên Chúa. Nhưng Ngài muốn trao tặng tất cả tiếp cho mọi người tin nhận Ngài, trước hết cho Maria, mẹ của mình, rồi cả chúng ta nữa.
Đích điểm và sự hoàn thành đời sống của Đức mẹ Maria cũng trở thành phần tham dự cho chúng ta nữa.
Sư hoàn thành đời sống của Đức mẹ Mria là niềm an ủi và niềm hy vọng cho con người chúng ta sống trong vòng giới hạn cùng sự bất lực.
Mừng lễ Đức mẹ hồn xác về trời
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hình ảnh sa mạc trong đời sống
- Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình.
- Hình ảnh Chúa Giêsu là bánh ban sự sống.
- Hình ảnh Olympia mùa Hè 2021
- Hình ảnh biến hoá ra nhiều
- Hình ảnh Giáo Hội Công giáo nước Đức 2020
- Hình ảnh Đức Mẹ núi Carmelo
- Hình ảnh nhóm hai người được sai đi
- Hình ảnh cái dằm đâm vào thịt.( 2 cor 12, 7)
- Hình ảnh chuyến xe buýt đời tu trì