Hình ảnh kho tàng người qúa cố để lại.
- Viết bởi Dân Chúa
Theo tập tục đạo đức lòng hiếu thảo, hằng năm Hội Thánh mời gọi người tín hữu Chúa Kitô tưởng nhớ đến những người đã qua đời, cách riêng trong tháng Mười Một, bắt đầu từ ngày 02. Tháng Mười Một.
Tưởng nhớ đến ông bà, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cháu đã qúa cố trong gia đình mình, trong vòng họ hàng, vòng bạn bè thân hữu, những người ngày xưa đã làm ơn cho chúng ta trong đời sống, với lòng ngậm ngùi biết ơn, cùng lòng ngưỡng phục những lời nói giáo dục khuyên nhủ, những công việc gương sống của họ, mà chúng ta đã cùng chung sống trải qua.
Tưởng nhớ tới họ, người thân còn sinh sống trên trần gian đốt thắp những cành bông hoa, ngọn nến dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa nguồn tình yêu, nguồn sự sống cho linh hồn họ, cùng ôn nhớ lại những ân đức, những kỷ niệm còn in dấu vết trong tâm hồn những người còn ở trên trần gian.
Ôn nhớ lại công việc gương sống tốt lành thánh đức, những kỷ niệm của người đã qua đời, khác nào đi tìm kiếm kho tàng. Kho tàng đó không làm cho có thêm về của cải tiền bạc, nhà cửa vật chất. Nhưng kho tàng đó làm cho tinh thần tâm hồn đời sống trở nên phong phú, giầu thêm kinh nghiệm sống thánh đức làm người, cùng là niềm an ủi hãnh diện.
Vậy người đã qua đời để lại kho tàng gì cho ta?
Người qúa cố ngày xưa trong suốt dọc đời sống cũng đã sống làm việc sản xuất, đi tìm kiếm tiền bạc, lương thực của cải vật chất cho đời sống. Vì đó là sứ mạng do Trời cao trao phó cho mỗi người, cùng là điều cần thiết cho đời sống gia đình và xã hội.
Nhưng không phải chỉ có thế, mà họ còn đi tìm kiếm điều cao qúy hơn cho đời sống nữa: những giá trị đạo đức tinh thần.
Người qúa cố ngày xưa cũng đã qúy trọng của cải vật chất giúp xây dựng đời sống. Họ không khinh chê chối bỏ những cần thiết đó. Nhưng họ không đặt những thứ đó là mục đích của đời sống. Họ cho rằng những điều đó là phương tiện cần thiết giúp cho đời sống.
Vì thế họ đặt lòng bác ái, tình yêu thương lên hàng đầu làm mục đích cho đời sống. Họ sống làm việc vì lòng bác ái tình thương yêu.
Người qúa cố tâm niệm rằng, của cải vật chất thay đổi tan biến theo dòng thời gian năm tháng thế kỷ. Nhưng chỉ có tình yêu thương còn tồn tại ghi dấu vết trong tâm hồn con người của gia đình mình, nơi vòng bạn bè và xã hội.
Và người còn sống mỗi khi tưởng nhớ đến người qúa cố của mình, họ ôn nhớ lại những kỷ niệm êm đẹp chan chứa tình yêu thương đó với lòng ngậm ngùi biết ơn kho tàng tinh thần cao qúy vô giá đó đã in dấu vết ghi khắc trong tâm khảm đời sống.
Và người qúa cố xưa kia tin tưởng rằng giá trị tinh thần lòng bác ái yêu thương, như Thánh Phaolô viết xác tín:” Tình yêu lòng bác ái không bao giờ mất được.” ( Thư 1 cor 13,8), và nó được khắc ghi viết vào cuốn sách hằng sống nơi Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa nguồn đời sống cùng nuôi dưỡng cứu độ con người.
Kho tàng mà người qúa cố ngày xưa đi tìm kiếm xây dựng đó rất tương hợp đúng như lời Chúa Kitô Giêsu đã khuyên nhủ:
"Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi.20 Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi.21 Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó.” ( Mattheo 6, 19-21).
Trước di ảnh hay trước nấm mồ người qúa cố, như có tiếng vang vọng lời của họ nhắn gửi lại:
- Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, hay được thiêu đốt thành tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Ðấng sinh thành ra tôi.
- Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này. Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ tôi, và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.
- Tôi bây giờ nằm chôn sâu trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá, hay thân xác tôi đã được thiêu ra thành tro bụi. Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi, vì ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.
Và tôi tâm niệm rằng:
- Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại.
- Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.
- Nhưng chỉ những gì ngày xưa tôi đã cho đi, bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Regina Sanctorum omnium - Nữ vương các Thánh Nam cùng các Thánh Nữ
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm ngày 01.11. là ngày lễ trọng mừng kính chung các Thánh Nam Nữ trên trời theo nếp sống phụng vụ đạo đức của Hội Thánh Công gíao.
Vào ngày lễ Hội Thánh dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa:“ Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Đấng thánh, Chúa đã làm bao việc lạ lùng nơi toàn thể các Thánh nam nữ, chúng con xin chúc tụng, tôn thờ.”
Và trong kinh cầu Đức Mẹ Maria có lời ca tụng: Regina Sanctorum omnium -
Nữ vương các Thánh Nam cùng các Thánh Nữ
Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng Thánh cao cả. Nhưng tại sao lại ca tụng đức mẹ Maria là nữ vương các Thánh?
Thiên Chúa tạo dựng ban cho con người, cả đức mẹ Maria, sự sống thân xác và tinh thần linh hồn, theo hình ảnh của Người.
Con người được Thiên Chúa ban cho đời sống tự do cùng khả năng và cơ hội sống một đời sống thánh đức trên trần gian. Như vậy, có thể nói được, sự thánh thiện là ân đức qùa tặng của Thiên Chúa ban cho. Và sự thánh thiện của con người là một chiến thắng của ân đức do Thiên Chúa ban cho.
Sự nỗ lực cộng tác của con người trong đời sống cho trở nên thánh thiện không vì thế không quan trọng và không hữu ích. Trái lại càng cần thiết.
Ân đức trợ giúp của Thiên Chúa ban cho. Nhưng con người cần phải mở rộng tâm hồn đôi tay ra đón nhận. Nếu không sẽ thiếu không có đủ sức mạnh tinh thần cho tâm hồn chống trả vượt qua những thử thách cám dỗ trong đời sống.
Con người trong đời sống càng ít chống cưỡng lại ân đức trợ giúp của Thiên Chúa cho tâm hồn đời sống, hiệu qủa càng tốt đẹp hơn cho đời sống, và công trình cho trở được nên thánh thiện có cơ hội phát triển hoàn thành toàn vẹn.
Các Vị Thánh là những con người, nên họ cũng là những người không hoàn toàn. Họ cũng là những người có qúa khứ đời sống vướng mắc lỗi lầm thiếu sót cùng tội lỗi. Họ cũng phải chiến đấu chống cưỡng lại những cám dỗ thử thách, đề cao cho ân đức trợ giúp của Thiên Chúa lên trên hết.
Tất cả mọi người là thụ tạo do Thiên Chúa tạo thành đều vướng mắc vào vòng tội lỗi do hậu qủa của tội Ông Bà nguyên tổ Adong -Evà gây ra để lại cho con người. Nhưng trừ đức mẹ Maria ra, là người được Thiên Chúa giải thoát cho khỏi tội nguyên tổ truyền lại. Ân đức của Thiên Chúa không gặp sự chống cưỡng nơi đời sống của Maria. Vì thế, chúng ta xưng tụng Maria là “ Nữ vương tất cả các Thánh.”
Nếu có thể so ví tâm hồn đức mẹ Maria với một chiếc ly thủy tinh cao qúi, không vết tích tỳ ố hoàn toàn trong trắng tinh tuyền trong sáng, con người chúng ta có suy nghĩ tâm hồn đời sống mình trong thực tế cảm nhận thấy buồn nhiều. Vì tội lỗi, khiếm khuyết đã mang đến những đổ vỡ, những vết rứt nạn, những mảnh vụn và những gai góc nằm lan tràn trên nền nhà tâm hồn đời sống. Con người chúng ta cũng đã hằng cố gắng sống sao cho tốt hơn đẹp hơn, nhưng vẫn không hay ít có bước tiến bộ.
Chính vì thế con người cần với lòng tin tưởng mở rộng tâm hồn, bàn tay ra đón nhận ân trợ giúp thiêng liêng của Thiên Chúa.
Chính Thiên Chúa sẽ thu dọn những mảnh vụn đổ nát nơi nền nhà tâm hồn con người, và ban thêm sức mạnh giúp chống cưỡng lại những thử thách cám dỗ trong đời sống.
Nhìn vào đời sống vẹn toàn của đức mẹ Maria, con người chúng ta cảm nhận buồn bã thất vọng. Nhưng Đức mẹ Maria, người mẹ thiêng liêng trên trời mời gọi con người chúng ta, đặt mình vững chắc cùng qủa quyết vào bàn tay tình yêu thương nhân lành của Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi sự tốt lành thánh thiện, ban cho sự thánh thiện, và làm cho trở nên thánh thiện.
Các Thánh nam nữ khi xưa trong cuộc sống nơi trần gian họ cũng đã nghe lời kêu mời của Đức mẹ Maria, mở tâm hồn đôi bàn tay đón nhận ân đức trợ giúp từ nơi Thiên Chúa.
Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, họ có nếp sống vươn lên trở nên thánh.
“Nữ vưng các Thánh nam cùng các Thánh nữ.”
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh lễ kính mừng các Thánh Nam Nữ
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong suốt năm phụng vụ vào các ngày trong tuần, có những ngày lễ kính riêng các vị Thánh, như Thánh Phero, thánh Phaolô, thánh Phanxicô, Thánh nữa Teresa, Thánh nữ Catharina, Thánh Vincentê…. Nhưng ngày 01. Tháng Mười Một là ngày lễ mừng kính chung tất cả các Thánh Nam Nữ.
Đâu là hình ảnh ngày lễ kính này trong đời sống phụng vụ của Hội Thánh?
Lễ mừng kính chung các Thánh theo sử sách lưu truyền có từ thế kỷ 04. sau Chúa giáng sinh. Các tín hữu Chúa Kitô thời Hội thánh lúc ban đầu tưởng nhớ các Thánh vào ngày Chúa nhật sau lễ mừng kính Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Thánh giáo phụ Johannes Chrysostomus ( *345 hay 347 ở Antiochien/Syrien, † 14. 09.407 ở Komana/Armenien)đã đưa ra sáng kiến ý tưởng này. Và từ đó có tuần lễ tám ngày mừng kính Đức Chúa Thánh Thần sau lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Hội Thánh Chính Thống giáo còn giữ tập tục đạo đức này cho tới ngày nay.
Đời sống của các Thánh được hiểu như tấm gương tỏa chiếu biến cố sự cứu độ của Chúa, mà Thánh Phaolo nói đến là sự sống lại. ( thư 1.Cor15,23).
Nguyên thủy ngày lễ mừng kính các Thánh trong lịch sử phụng vụ Hội Thánh Công giáo bắt nguồn từ sự làm phép thánh hiến đền thờ của dân ngoại thành Roma cho trở thành thánh đường Công giáo. Đền thờ này được xây dựng như là thánh địa tôn kính tất cả mọi vị Thần của dân ngoại. Ngôi đền thờ lịch sử này của dân ngoại bên Roma còn tồn tại cho tới ngày nay có tên “ Pantheon”. Từ năm 609 ngôi đền thờ này được thánh hiến mang tước hiệu” Maria, nữ vương các Thánh tử đạo”.
Từ thế kỷ 08. ý nghĩa sự tương quan giữa lễ Chúa phục sinh và ngày chúa nhật kính các Thánh dần mờ nhạt, nên trước hết bên Irland mừng lễ vào ngày 01. Thánh Mười Một. Lý do không còn dựa trên lễ Chúa phục Sinh, nhưng theo chu kỳ ngoài thiên nhiên. Vì thời tiết bên Irland vào đầu tháng 11. bắt đầu mùa Đông và năm mới.
Các vị Thừa Sai từ Irland đã đem tập tục mới mừng lễ kính chung các Thánh sang lục địa đất liền bên Âu châu từ thế kỷ 09. Thời điểm ngày mừng lễ các Thánh như thế tương hợp với tháng 11. như là tháng sự chết. Người tín hữu Chúa còn đang trên con đường đời sống nơi trần gian qua nhờ Chúa Kitô Giesu được liên kết với những người đã qua đời.
Hình ảnh sự thay đổi biến dạng qua đi trong thiên nhiên mang gợi đến cho con người về hình ảnh sự thay đổi biến dạng qua đi của trần gian. Qua đó mở ra tầm nhìn suy tư về sự sống sau sự chết, và hình ảnh những người đã đi trước đó: Tất cả các Thánh.
Năm 835. Đức giáo hoàng Gregor IV. đã chính thức ấn định ngày lễ này trong lịch phụng vụ Hội Thánh, mừng kính chung tất cả mọi vị Thánh ngày xưa đã trung thành sống nếp sống đức tin vào Chúa trong âm thầm lặng lẽ. Đời sống chứng nhân của họ thể hiện sâu đậm rõ nét tình yêu, đức tin nơi Chúa, Đấng là nguồn đời sống và ơn cứu chuộc.
Lễ mừng kính chung các Thánh là lễ mừng kính cho mọi người không được biết đến với tên tuổi. Nhưng họ đã có một đời sống căn bản thiết yếu giữa lòng xã hội với con người nơi trần gian. Tâm hồn trái tim nếp sống tình yêu thương liên đới của họ in để lại dấu vết sâu đậm nơi con người. Họ là những người đã sống dấn thân, sống chiếu tỏa niềm hy vọng, sống tình bác ái tương quan liên đới và công bình chính trực với mọi người trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Họ không là những siêu nhân hay người cao cả sang trọng Nhưng họ là những người đã có đời sống tuân theo kim chỉ nam đã được Chúa vạch đề ra trong hiến chương nước trời Tám mối phúc thật: cho kẻ đói ăn, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ tù đày, xây dựng hòa bình.
Họ đã không nghĩ đến muốn được nâng cao trên trời, được tôn vinh trên ngai tòa bàn thờ. Họ đã sống một nếp sống đơn giản âm thầm giữa mọi người cùng chung sống.
Mừng kính tưởng nhớ tất cả mọi Thánh, ngày xưa đã sống đời sống đức tin vào Chúa, đời sống làm người với cung cách chân thành đơn giản cùng âm thầm, nhưng chiếu tỏa tràn đầy lòng yêu thương bác ái, như Chúa muốn, mang gợi niềm khuyến khích cho con người chúng ta sống kiến tạo gieo rắc sự bình an chữa lành cho mọi người khác trong đời sống ở bất cứ nơi đâu luôn có cơ hội thực hành.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh "Đến muôn đời con là Thượng Tế theo phẩm hàm Melchisedek".
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Sách Kinh thánh cả Cựu và Tân ước nói đến Thượng Tế Melchisedek. ( Sáng Thế 14,18-20. Thánh Vịnh 110,4. Thư gửi Do Thái 5,1-14).
Melchisedek là ai, nguồn gốc xuất xứ của ngài từ đâu, và là hình ảnh hiện thân nói chỉ về ai?
Trong Kinh Thánh nơi sách Sáng Thế ký ( St 14,18-20) bỗng nhiên thuật lại Thầy cả thượng phẩm Melchisedek xuất hiện, có tên của vị “vua sự công chính”, là vua thành Salem ( thành Jerusalem). Ông xuất hiện rồi lại biến đi cách huyền bí mầu nhiệm.
Thầy cả thượng phẩm Melchisedek xuất hiện đến gặp gỡ, chúc phúc cho Tổ phụ Abraham sau khi ông thắng trận đánh bại vua Codolameo, cùng mang bánh rượu, như dấu chỉ hình ảnh tình hữu nghị thân ái.
Melchisedek chúc lành cho Abraham nhân danh Thiên Chúa:
“Xin Thiên Chúa tối cao, Đấng dựng nên trời đất chúc phúc cho Abraham! Chúc tụng Thiên Chúa tối cao, Đấng đã trao vào tay ông những thù địch của ông.” ( St 14, 19-20).
Để tỏ lòng kính trọng cùng biết ơn, Tổ phụ Abraham đã biếu tặng Thầy cả thượng phẩm Melchised một phần mười tất cả chiến lợi phẩm đã thu về. Qua cử chỉ này Abraham muốn tôn vinh công nhận Melchisedek là Thầy cả thượng phẩm thuộc phẩm hàm tôn giáo cao cả.
Thánh Vịnh (110,4) , nói về Đấng Messia và chức vị Thượng Tế, cùng trong Phúc âm Thánh Mattheo (22,43-4) , đã trình bày nói về Melchisedek là một mẫu hình Chúa Kitô Giesu.
“Đức Chúa đã một lần thề ước, Người sẽ chẳng rút lời rằng: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm hàm Melchisedek.”
Chủ đề này được thư gửi tín hữu Do Thái trong Tân ước viết đề cập rộng rãi: Melchisedek và Chúa Kitô Giêsu với danh hiệu là những vị Vua sự công chính và hòa bình .
Qua việc nêu tên Melchisedek và phẩm hàm Tư Tế của Ông nói lên mẫu hình ảnh, chức vị phẩm hàm Tư Tế mới của Chúa Kitô Giesu vượt lên trên lề luật cũ thời các Thầy cả Levi, cùng cả chức tư tế của Aaron.( Do Thái 7,1-14).
Trong dòng thời gian thỉnh thoảng có suy tư cho rằng có thể Melchisedek là hình ảnh của một tiền nhập thể của (trước) Chúa Kitô Giêsu. Suy tư lý thuyết này dựa trên tường thuật Ông Abraham đã được Thiên Chúa trước đó thăm viếng, mà Ông đã nhìn thấy và nói chuyện với Thiên Chúa ( El Shadda) qua hình dạng một người đàn ông.
Thư gửi tín hữu Do Thái ( 6,20) cũng viết : “ Đức Kitô Giesu đã vào như người tiền phong mở đường cho chúng ta, sau khi trở thành vị Thầy cả thượng phẩm theo phẩm trật Melchisedek.”.
Như thế có thể suy hiểu ra rằng Melchisedek và Chúa Kitô Giesu là cùng một nhân vật.
Cũng trong thư Do Thái ( 7,3) trình bày Thượng Tế Melchisedek ” không có cha mẹ, không có gốc gác gia phả, cuộc đời không có khởi đầu và không có kết thúc. Như thế ông phải là Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư tế đến muôn đời.”
Theo nguyên ngữ chữ đen, hình ảnh này khó hiểu khó cắt nghĩa. Vì không có vua trần thế nào “ là tư tế đến muôn đời”, không có con người nào “ không có cha, không có mẹ”.
Sách Sáng Thế ký ( 14, 17-19) thuật lại một cảnh xuất hiện thần thánh, Con Thiên Chúa là vị Vua sự công chính, vua hòa bình, là trung gian giữa Thiên Chúa và con người ( Thư 1. Timotheo 1,5), đã chúc phúc lành cho Abraham.
Như thế, trình thuật diễn tả theo hình ảnh nhấn mạnh đề cao đến sự huyền nhiệm bí ẩn của một con người không có gia phả khởi đầu và cùng tận, một vị có chức tư tế vĩnh viễn muôn đời, mà đã đến gặp gỡ tổ phụ Abraham. Trong trường hợp này những đến chi tiết về đời sống của Melchisedek không được nói đến là nhằm mục đích so sánh giữa Melchisedek với Chúa Kitô Giêsu.
Như vậy phải chăng Melchisedek và Chúa Kitô Giêsu là một nhân vật? Điều này có thể suy diễn theo nhiều khía cạnh, cùng tâm tư lòng mộ mến.
Nhưng thiết nghĩ sau cùng Melchisedek là một mẫu hình như Chúa Kitô Giêsu, tiên báo sứ mạng truyền giáo cho Thiên Chúa.
Và cũng có thể Tổ phụ Abraham, sau trận chiến mệt mỏi trở về, đã gặp gỡ chính Chúa Kitô Giêsu. Và đã tôn vinh trao tặng Người danh hiệu là Thầy cả thượng phẩm, cùng dâng những lễ vật cho Ngài để tạ ơn chăng?
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh ngày thế giới truyền giáo
- Viết bởi Dân Chúa
Từ khi Chúa Giêsu Kitô thành lập Hội Thánh cách đây hơn hai ngàn năm, nhiệm vụ rao truyền giáo rao giảng tin mừng tình yêu Thiên Chúa là bổn phận căn bản sống còn của Hội Thánh về khía cạnh tâm linh cũng như về khía cạnh tổ chức giáo đòan, xứ đạo hội đoàn.
Vậy đâu là hình ảnh nếp sống truyền gíao của Hội Thánh Chúa?
Khởi đầu từ các Thánh tông đồ, sau khi Chúa Giêsu Kitô trở về trời, đã từ Jerusalem nước Do Thái ra đi sang các xã hội đất nước trong vùng đế quốc Roma, rao truyền tin mừng tình yêu, niềm hy vọng vào Chúa cho con người. Và các ngài đã mở mang xây dựng đời sống tâm linh các nhóm giáo đoàn, các cơ sở thánh đường thờ phượng Chúa.
Công việc bổn phận đó luôn được tiếp tục trong dòng lịch sử thời gian Hội Thánh lan rộng khắp nơi trên thế giới. Sau các Thánh Tông đồ, những vị thi hành công việc truyền giáo được kính trọng có danh xưng là những Vị Thừa Sai. Họ ra đi dấn thân làm công việc rao truyền làm chứng cho tin mừng vào Thiên Chúa nơi các dân tộc trên khắp thế giới là hình ảnh trình bày nếp sống tràn đầy mở ra con đường niềm vui, niềm hy vọng.
Các Vị Thừa Sai xác tín vào Tin mừng của Chúa, xác tín công việc truyền giáo tin mừng vào Chúa là việc thiện hảo tốt lành cho con người. Nên họ bỏ tất cả lại sau lưng, ra đi sang các xứ sở đất nước xa lạ, dù gặp khó khăn thử thách về khí hậu, về ngôn ngữ phong tục văn hóa, về cung cách nếp sống ăn uống, phải chịu cảnh truy nã bắt bớ, và chịu chết…nhưng vẫn một mực sống theo tôn chỉ như Thánh Phaolo đã viết nhắn nhủ đề ra: “Đừng sờn lòng nản chí làm việc thiện” ( Thư gửi Giáo đoàn Galata 6,9).
Tình yêu Thiên Chúa, tình yêu con người đã thôi thúc các Thừa sai sống dấn thân hy sinh chịu đựng.
Các Thừa sai ra đi làm công việc truyền giáo rao giảng tin mừng của Thiên Chúa cho con người, họ cần có hậu phương trợ lực nâng đỡ đời sống hy sinh dấn thân của họ, nhất là về tinh thần.
Một người giáo hữu, chị Chị Paulin Jaricot (* 22.07.1799, Lyon - + 09.01.1862) đã là người tiên phong đề ra sáng kiến đạo đức thấm nhuộm tình liên đới hỗ trợ nâng đỡ việc truyền bá đức tin.
Chị Jaricot là con gái một thương gia giầu có về sản xuất vải tơ lụa, thành Lyon bên nước Pháp. Năm 1816 sau khi trải nghiệm được ân đức trở lại với Chúa, chị đã đem tài sản trao tặng những người thợ thuyền, người đau bệnh, người nghèo khó và cho mục đích tôn giáo.
Năm 1819 chị thành lập hội truyền giáo có tính quốc gia, qua tôn chỉ hằng ngày các thành viên hội phải cầu nguyện cho việc truyền giáo, và hằng tuần phải bỏ ra một Xu cho quyên tặng.
Hội truyền giáo càng ngày được biết đến nhiều, cùng có thêm nhiều thành viên tích cực hỗ trợ. Và ngày 03.tháng Năm 1822 Hội chính thức thành hiệp hội mang tích cách quốc tế cho việc rao giảng quảng bá đức tin - Societe pour la propagantion de la fois. Ở nước Pháp hội có danh hiệu “Lyoner Missionsverein.”.
Paulin Jaricot còn thiết lập “ Hội đền tạ trái tim Chúa Giêsu” cho chị em lao động phụ nữ. Và năm 1826 Chị lập ra hội cầu nguyện đọc kinh Mân côi. Hiệp hội này sau thành “ Hội thơ ấu đời Chúa Giêsu.”
Ngày 10.08.1835 Paulin Jaricot nhận được ơn chữa lành khỏi bệnh nặng, khi chị đến cầu nguyện bên cạnh mộ của Thánh nữ Philomena ở Mugnano. Sau đó Jaricot tích cực cổ vũ hỗ trợ việc sùng kính các Thánh bên Pháp.
Năm 1852 xưởng chế biến tơ vải lụa của gia đình chị bị khánh tận. Chị mất hết tài sản, bị khinh chê cùng bị trả thù. Từ đó chị sống ẩn dật trong nghèo túng cho tới khi qua đời năm 1862.
Từ năm 1935 thân xác chị qúa cố Paulin Jaricot được cải táng đưa đến thánh đường Saint-Nizier thành phố Lyon. Dự án phong Thánh cho chị được tiến hành. Và ngày 04.10.2021 Vatican đã thông báo chị Jaricot sẽ được phong lên hàng Chân Phước ngày 22.05.2022 sắp tới.
Ngày 03.05.1922 Đức giáo hoàng Pio XI đã chuyển trung tâm Hội truyền bá đức tin – do sáng kiến của Paulin Jaricot đã thành lập năm 1819- từ Lyon bên nước Pháp về giáo đô Roma bên Vatican với danh hiệu Opus Pontificium a propaganda fidei – Hội Giáo hoàng truyền giáo.
Ngày 14.06.1926 đức Giáo hoàng PIO XI. đã quy định hằng năm có ngày “ chúa nhật truyền giáo - còn gọi là khánh nhật truyền giáo.” trong toàn thể Hội thánh Công giáo hoàn cầu, vào ngày chúa nhật trước chúa nhật cuối tháng Mười.
Ngày thế giới truyền giáo nói lên đặc tính của ngày lễ chung toàn Hội Thánh Chúa, và biểu lộ tình liên đới với mọi dân tộc trong hoàn vũ qua lời cầu nguyện cùng việc bác ái hỗ trợ nâng đỡ đời sống các Vị Thừa Sai đi đến với con người, hỗ trợ công việc mở mang giúp đời sống con người nơi các xứ truyền giáo còn trong tình trạng thiệu thốn.
“Vào Ngày Thế giới Truyền giáo mà chúng ta cử hành hàng năm vào Chúa Nhật áp chót của tháng 10, chúng ta nhớ lại với lòng biết ơn tất cả những người nam nữ, những người bằng chứng tá cuộc sống của họ đã giúp chúng ta canh tân cam kết khi lãnh nhận bí tích rửa tội trở thành những tông đồ quảng đại và vui tươi của Tin Mừng. Chúng ta hãy đặc biệt nhớ đến tất cả những ai kiên quyết lên đường, rời bỏ nhà cửa và gia đình, để mang Tin Mừng đến tất cả những nơi và cho những người khát khao sứ điệp cứu độ của nó.
Khi chiêm ngưỡng chứng tá truyền giáo của họ, chúng ta được thôi thúc để can đảm cầu xin “xin Chủ ruộng hãy sai những người làm công vào cánh đồng của Người” (Lc 10, 2). Chúng ta biết rằng lời kêu gọi truyền giáo không phải thuộc về quá khứ, hay là một sự lãng mạn còn sót lại từ thời trước.
Ngày nay, Chúa Giêsu cũng cần những trái tim có khả năng trải nghiệm ơn gọi như một câu chuyện tình yêu đích thực thúc giục họ đi ra các vùng ngoại vi của thế giới, như là sứ giả và tác nhân của lòng thương xót. Người đưa ra lời kêu gọi này với tất cả mọi người, và theo những cách khác nhau.
Chúng ta có thể nghĩ về những vùng ngoại vi xung quanh chúng ta, ở trung tâm của các thành phố hoặc của chính gia đình chúng ta. Sự cởi mở phổ quát đối với tình yêu có một chiều kích không phải là địa lý mà là hiện hữu.
Luôn luôn, nhưng đặc biệt là trong những thời điểm đại dịch này, điều quan trọng là chúng ta phải phát triển khả năng hàng ngày để mở rộng vòng kết nối của mình, để tiếp cận với những người khác, mặc dù gần gũi với chúng ta, nhưng không phải là một phần ngay lập tức trong “vòng tròn lợi ích” của chúng ta (x. Fratelli tutti, 97).
Truyền giáo là sẵn sàng suy nghĩ như Chúa Kitô, cùng với Người tin tưởng rằng những người xung quanh chúng ta cũng là anh chị em của tôi.” ( Đức thánh cha Phanxico, Sứ điệp ngày chúa nhật thế giới truyền giáo 2021).
Ngày thế giời truyền giáo.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh thầy cả thượng phẩm- Pontifiocem magnum.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong thư Do Thái ( 4,14) viết: “ Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm- Thầy cả thượng phẩm- (pontificem magnum- high priest) đã băng qua các tầng trời, là Đức Giê-su, Con Thiên Chúa.”.
Thầy cả thượng phẩm là ai?
Danh xưng này nhắc nhớ đến hình ảnh Thầy cả thượng phẩm Caipha, người đã đưa ra đề nghị lên án tử hình Chúa Chúa Giêsu Kitô. ( Phúc âm thánh Gioan 18, 12-13).
Chức vị Thầy cả thượng phẩm ngày xưa có trong nền văn hóa Do Thái giáo. Nhưng từ khi đền thờ Jerusalem bị quân đội đế quốc Roma phá hủy năm 70. sau Chúa giáng sinh, chức vị danh xưng phẩm trật này không còn.
Ngày xưa Thầy cả thượng phẩm có phận vụ vào những ngày lễ trọng đại của Do Thái giáo vào đền thờ xông hương dâng tiến lễ vật là con chiên bị giết lên Giave Thiên Chúa. Mỗi năm vào ngày lễ Hòa giải, Thầy cả thượng phẩm được phép vào cung thánh đền thờ nơi cực thánh, cử hành nghi lễ cầu xin ơn tha thứ cùng Giave Thiên Chúa cho toàn dân.
Khi cử hành nghi lễ trong đền thờ, ông phải sống theo luật truyền, giữ đời sống thanh sạch. Ông là người phàm và cũng là người có tội lỗi. Nên ông cầu xin cùng Giave Thiên Chúa ơn xá tội tha thứ làm hòa cho dân chúng và cùng cho cả chính mình nữa.
Chức vị Thầy cả thượng phẩm thờ xa xưa trong Do Thái giáo không chỉ thuần túy mặt văn hóa tôn giáo, nhưng ông cũng có cả quyền trong lãnh vực chính trị như một quan tòa nữa, và có khi ông dùng , hay có khi lợi cùng lạm dụng nghiêng về quyền hành chính trị nhiều hơn là bổn phận của một thầy cả lo về tâm linh đạo giáo, như trong trường hợp thầy cả thượng phẩm Caipha đã đưa đề nghị tuyên án xử giết Chúa Giêsu Kitô.
Còn hình ảnh thầy cả thượng phẩm, thời tân ước, như tác gỉa viết trong thư gửi dân Do Thái hoàn toàn khác: “ Vị Thầy cả thượng phẩm của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của chúng ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội.”( Thư Do Thái 4,15).
Như thế tác gỉa trình bày hình ảnh thầy cả thượng phẩm Giesu Kitô, Con Thiên Chúa, thuần túy về tôn giáo tâm linh không pha lẫn vào công việc chính trị quyền hành, cùng cá nhân Ngài không vướng mắc vào tội lỗi. Ngài chỉ thực thi phận sự tâm linh tôn giáo, mà Thiên Chúa đã trao cho Ngài đến trong trần gian: Mang ơn tha thứ hòa giải của Thiên Chúa sự cứu rỗi cho linh hồn con người.
Thầy cả thượng phẩm Giesu Kito là người mang ơn tha thứ hòa giải của Thiên Chúa cho con người trần gian. Và chính thầy cả thượng phẩm Giesu Kito đã trở thành lễ vật hiến dâng, chứ không phải của lễ tế là các con vật chiên bò, kéo xin ơn tha thứ hòa giải cho con người trước tòa Thiên Chúa.
Danh xưng chức vị Thầy cả thượng phẩm có trong văn hóa tôn giáo của Do Thái giáo thời xa xưa. Nhưng không có trong văn hóa đạo Kitô giáo.
Thời khởi đầu lúc đạo Công giáo được loan truyền vào xã hội bên Việt Nam hồi thế kỷ 17. , các vị thừa sai được người giáo hữu gọi là Thầy cả.
“ Những năm đầu truyền giáo, các thừa sai ngần ngại không biết xưng mình với anh chị em bổn đạo thế nào cho phải. Sau cùng, các ông xưng là “thầy”…Từ 1630 trở đi, vì có các thầy giảng, nên gọi các thừa sai là “thầy cả” tức là “thầy lớn hơn các thầy (giảng)” (Linh mục -Cha? – Simonhoadalat.com)
Và “ Chúng ta chỉ có một vị Thượng Tế siêu phàm- (Thầy cả thượng phẩm- pontificem magnum- high priest) đã băng qua các tầng trời, là Đức Giê-su, Con Thiên Chúa.”.
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Hình ảnh “Refugium peccatorum - Đức Mẹ bầu chữa kẻ có tội.”
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong kinh cầu đức mẹ Maria có câu ca ngợi: Đức Bà bầu chữa kẻ có tội!
Lời ca ngợi này vẽ nên hình ảnh gì nói về đức mẹ Maria?
Đức mẹ Maria là người mẹ đã sinh hạ, nuôi dưỡng Chúa Giêsu Kitô trên trần gian. Dù là mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, mẹ Maria không là người có chức quyền tha tội lỗi cho ai. Nhưng mẹ Maria là người trạng sư bênh vực bầu cử cho người vướng mắc vào vòng tội lỗi trước mặt Chúa.
Điều này ai chúng ta trong đời sống cũng đề sống trải nqua từ khi còn thơ bé. Lúc còn nhỏ khi vướng mắc vào lỗi lầm, chúng thường chạy đến bên mẹ xin cứu giúp bênh vực cho.
Hình ảnh cảm động này rất thân thương trìu mến. Và không người mẹ nào bỏ qua, nên vội vàng ôm con vào lòng, an ủi vỗ về.
Rồi khi lớn lên đi vào trường đời, lúc người con gặp hoàn cảnh khó khăn, đau khổ thất vọng, họ cũng rất cần đến sự bầu chữa cứu giúp của người mẹ. Và người mẹ nào cũng luôn mở rộng đôi tay, mở rộng trái tim tâm hồn cứu giúp an ủi con mình trong khả năng có thể.
Trong đời sống xưa nay nơi trần gian hằng hằng xảy ra những biến cố hoàn cảnh có những lúc con người bị xua đuổi, bị đối xử phân biệt tìm bắt. Nên họ phải tìm kiếm đường đi tỵ nạn. Họ mong tìm được nơi chốn cho chứa chấp dung thân. Và luôn hằng có những quốc gia đất nước với lòng nhân đạo bác ái luôn mở cánh cửa đón nhận những người có hoàn cảnh này. Cho họ cơ hội đất sống làm lại cuộc đời.
Trong cung cách sống lòng đạo đức có bài thánh ca bình dân quen thuộc kính mừng đức mẹ Maria:“ Mẹ từ bi ngày nay con đến nép thân dưới áo mẹ lành che khuất bao u buồn nơi khóc than…” nói lên rõ nét tâm tình ý nghĩa lời kinh cầu Đức Bà bầu chữa kẻ có tội!
Người tín hữu Chúa Kitô, khi hát bài này chân nhận mình là người trong cơn khốn khó tinh thần vướng mắc vào đau khổ tội lỗi, cùng nói lên tâm tình cậy trông, mong tìm thấy được sự chở che an toàn dưới cánh áo choàng của Đức mẹ Maria, người mẹ thiên quốc
Đức mẹ Maria chắc hẳn ngày xưa lúc còn sinh thời trên trần gian như bao người mẹ khác cũng đã có chiếc áo choàng khoác trên mình. Và chiếc áo choàng của Đức Mẹ chắc chắn đã bao bọc che chở cho Giêsu lúc còn thơ bé ngồi nằm trên tay mẹ.
Có những bức tượng còn khắc tạc bên dưới áo choàng Đức Mẹ tỏa rộng ra hai bên và có nhiều hình tượng người lớn bé đứng ngồi ẩn khuất trong đó nữa. Họ là những người cần đến sự bảo vệ che chở của Đức mẹ:phụ nữ, đàn ông, trẻ con, người lớn, những tu sĩ nam nữ, những chức sắc trong đạo, trong đời, người lành thánh cũng như người có tội.
Hình ảnh này nói lên Đức Mẹ Maria là người mẹ của hết mọi người. Đức Mẹ Maria chấp nhận nuôi dưỡng bảo vệ tất cả những người con Thiên Chúa.
Ngày xưa, dưới bóng áo choàng của những vị vua chúa, những vị vọng quyền thế, những người bị bắt vì tội phạm còn tìm thấy được sự che chở ân xá tha thứ giảm hình phạt cho khỏi bị kết án.
Với những người tín hữu Chúa Kito, là con của Đức Mẹ, còn đang trên đường lữ hành trần gian, tấm áo choàng của Đức Mẹ Maria bảo vệ che chở cho những ai gặp hòan cảnh khó khăn nguy hiểm về nhiều phương diện tinh thần lẫn thể xác.
Cá nhân ai cũng cần sự an ủi trợ giúp từ Trời cao của Thiên Chúa. Nhưng nhiều khi cảm thấy mình yếu đưối không biết làm sao có thể kêu khấn đến được. Nên thường chạy đến dưới áo choàng của Đức mẹ, xin trợ giúp bầu cử cho.
Thánh nữ Birgitta đã thuật lại về khuôn mặt mầu nhiệm ẩn dấu của Đức mẹ, khi nhìn ngắm tấm áo choàng của Đức mẹ: “ Tấm áo choàng rộng lớn của Mẹ tiềm tàng chứa ẩn ý nghĩa lòng từ bi thương xót. Người nào chạy trốn lòng từ bi thương xót, người đó thật bất hạnh.
Con hãy chạy đến ẩn mình dưới bóng áo choàng lòng từ bi thương xót.”
Tấm áo choàng, lòng từ mẫu của đức mẹ Maria là nơi chốn cho người có tội lỗi, người gặp hoàn cảnh nguy nan khốn khó, tìm được sự bầu chữa, an ủi chở che.
“Maria refugium- Đức Bà bầu chữa kẻ có tội!”
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh tòa đấng khôn ngoan
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Kinh cầu đức mẹ Maria có câu ca ngợi: “Sedes sapientiae – Là tòa Đấng khôn ngoan.”
Điều này diễn tả hình ảnh gì về đức mẹ Maria?
Xưa nay trong mọi nền văn hóa dân gian, con người hằng luôn tìm kiếm sự khôn ngoan, như trong văn chương triết học Hylạp , Roma và Do Thái. Vì con người không muốn bị cho là thấp kém điền rồ dại dột.
Trong nhiều trường hợp của đời sống, nhất là những trường hợp tế nhị tinh tế, con người không chỉ cần có kiến thức hiểu biết để làm việc thực thi cho đúng, cho tốt đạt được thành công, nhưng vẫn không đủ. Mà còn cần sự khôn ngoan nữa
Kinh thánh cựu ước có suy tư đạo đức về sự khôn ngoan: “gía trị qúy báu hơn châu ngọc. ( Sách Châm ngôn 8,11) , và sự khôn ngoan hơn cả vàng bạc. ( Sách Châm ngôn 16,16).
Như vậy sự khôn ngoan không là mớ sách vở kiến thức. Sự hiểu biết tinh thông không là một cuốn sách bách khoa tự điển lưu hành di động. Nhưng sự hiểu biết đặc biệt khác thường luôn luôn gắn liền với sự thực hành điều hiểu biết trong đời sống.
Sự khôn ngoan giúp con người có khả năng trong những hoàn cảnh khác nhau của đời sống hành xử hoàn thành tốt công việc bổn phận được tin tưởng trao cho.
Vua Salomon là hình ảnh mẫu gương về một người chính thực mong ước tìm kiếm sự khôn ngoan, như trong sách 1 Các Vua,3,2-15) viết thuật lại. Nhà vua không xin Thiên Chúa cho được sống lâu dài, không xin sự giầu sang quyền thế. Nhưng xin có được sự khôn ngoan, để cai trị dân nước cách công minh và có quyết định công bình đúng đắn.
Người nào cầu xin Thiên Chúa sự khôn ngoan là người có lòng tin sâu thẳm, và xác tín rằng sự khôn ngoan bắt nguồn từ Thiên Chúa ( Sách Huấn Ca 1,1).
Sự khôn ngoan là đặc tính cao cả nhất của Thiên Chúa. Vì thế sự khôn ngoan cũng được trình bày như một con người:” Người đã dựng nên tôi trước muôn đời, từ khởi thuỷ” ( Sách Huấn Ca 24,9)
Đức mẹ Maria qua lời Thiên Thần Gabriel truyền tin đã bằng lòng chấp thuận chương trình của Thiên Chúa, để cho Chúa Giesu, con Thiên Chúa, Đấng là sự khôn ngoan, sức mạnh của Thiên Chúa, xuống trần gian làm người trong cung lòng mình.
Cung lòng đức mẹ Maria vì thế trở thành ngôi nhà, nôi ngai tòa cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa cư ngụ. Và đức mẹ Maria trở thành mẹ của Chúa Giêsu trên trần gian. Như vậy sự khôn ngoan của Thiên Chúa trở thành người qua Chúa Giêsu trong cung lòng Maria.
“ Lời ca ngợi trong kinh cầu Maria là “ngai tòa sự khôn ngoan” muốn nói lên Maria không chỉ được đưa lên ngồi vào ngai tòa, nhưng chính Maria là (nôi, ghế) ngai tòa của Lời Thiên Chúa. Điều này vẽ ra hình ảnh, Thiên Chúa không cần đến nôi ghế ngai tòa bằng vật kiệu gỗ đá, sắt…của trần gian. Trần gian do Ngài tạo dựng nên. Và những chất liệu vật thể do con người chế biến làm ra không thể dung chứa dành cho Ngài được.
Ngai tòa mà Thiên Chúa tìm kiếm và cần có, để có thể thể hiện tình yêu và sự tự do trên trần gian, là nơi con người sẵn lòng tiếp nhận Thiên Chúa.
Đức Mẹ Maria với cung cách chân thành đơn sơ đã bằng lòng để cung lòng trái tim mình trở thành nôi ngai tòa cho Thiên Chúa đến cư ngụ. Và là cánh cổng mở ra cho Con Thiên Chúa, Đấng là sự khôn ngoan, đi vào trần gian.
Và Thánh giáo phụ Augustino đã có những lời suy tư cao đẹp lạ lùng: “ Trước khi Đức mẹ Maria chấp nhận cho Chúa Giesu nhập thể trong cung lòng mình, Maria đã hạ sinh Chúa Giêsu trong trái tim tâm hồn mình rồi. Maria đã có thể đồng thời chỉ là người mẹ về phần thân xác Chúa Giêsu, vì Maria đồng thời đã đặt đời sống mình trong sự yêu cầu của Ngôi Lời Thiên Chúa.” ( Gíao hoàng Benedictô 16.).
Lễ kính Đức mẹ Mân côi
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh đời sống chung cộng đoàn
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đời sống con người cần nhau. Điều này con người từ gần hai năm nay đã có kinh nghiệm thiết thực, rất sát gần với đời sống do cơn khủng hoảng bệnh đại dịch Covid 19 lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ gây ra.
Nên để bảo vệ sức khoẻ đời sống cho nhau, theo qui luật y tế nhân loại phải sống trong tình trạng Lockdown xa cách nhau, và dần sinh ra tâm trạng dè dặt cùng sợ nhau nữa.
Và vì thế con người sống trong cô đơn, thiếu vắng nhau, thiếu vắng sinh hoạt chung. Lúc này họ càng cảm nhận rõ hơn con người cần con người, con người thèm con người!
Lối sống Lockdow xa cách nhau, có thể mang đến cơ hội có thời gian cho riêng mình, mà trước đó thường ít có. Nhưng nó cũng gây ra vấn đề cho đời sống đưa dẫn đến tình trạng cô đơn thiếu vắng nếp sống xã hội giữa con người với nhau, với lối sống văn hóa và có khi cả với thiên nhiên nữa!
Ngay từ khởi đầu, khi tạo dựng vũ trụ, thảo mộc, các sinh vật và con người, Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa càn khôn đã nhận ra điều này. Nên Ngài đã tạo dựng ghi cấy tế bào âm và dương gốc mầm sự sống phân biệt khác nhau nơi thảo mộc cây cỏ, thú động vật và con người. Để chúng tìm đến nhau cùng chung sống với nhau thành cộng đoàn xã hội. Rồi từ nền tảng đó sinh sôi nẩy nở nhân sự sống thêm lên.
Thiên Chúa, Đấng tạo Hóa đã tạo dựng con người có hai giống loại: đàn ông và đàn bà, theo giống hình ảnh của Ngài. Họ khác biệt nhau về hình hài cơ thể sức lực, tính tình, khả năng. Chính sự khác biệt nhau như thế họ cần nhau để tương trợ nhau, bù đắp vào phần thiếu hụt, điểm yếu kém cho nhau. Họ thuộc về nhau, và có thể học hỏi lẫn nhau cùng bổ túc cho nhau trong đời sống chung cộng đoàn. Con người cần nhau trong đời sống làm người.
Trên đường rao giảng tình yêu nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, như Kinh Thánh viết thuật lại, luôn hướng đến nếp sống cộng đoàn xã hội con người với nhau trong tình bác ái tương trợ nhau.
“ Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.”( Mt 5,7)
Khi hay tin các tông đồ ngăn cản các trẻ em không cho đến cùng tham dự nghe giảng dậy, Chúa Giêsu đã lớn tiếng quở trách các Ông, và thân thiện kêu mời chúng ( trẻ em ) cùng đến với ngài.
Với Chúa Giêsu, trẻ em cũng là con người do Thiên Chúa tạo dựng sinh thành, nuôi dưỡng và cứu độ. Các trẻ em có chỗ đứng hoàn toàn thuộc vào đời sống cộng đoàn xã hội. Các trẻ em cần sự tương trợ giúp đỡ, trẻ em cần đời sống cộng đòan xã hội, và con người có thể học hỏi nhiều nơi các trẻ em. Các trẻ em là tương lai của đời sống nhân loại.
Trong hoàn cảnh bệnh đại dịch Covid 19 nguy hiểm đe đọa sức khoẻ đời sống nhân loại, thật đau lòng cho các cha mẹ, cho xã hội, cho các trẻ em. Vì phải sống trong Lokdown nên các trẻ em phải ở nhà một mình học hành qua online. Các trẻ em như thế sống trong hoàn cảnh cô đơn không có cơ hội gặp gỡ bạn bè cùng trang lứa trong nếp sống chung cộng đòan trường học.
Hằng năm vào ngày Chúa Nhật thứ nhất tháng Mười dương lịch, vào tuần lễ đầu mùa Thu, bên xã hội Âu Châu có tập tục văn hóa đạo đức là ngày tạ ơn mùa màng.
Tạ ơn Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa càn khôn, đã ban cho mùa màng thu hoạch tốt đẹp có lương thực lúa thóc, hoa qủa rau củ cần thiết cho đời sống.
Nhưng tâm tình tạ ơn còn hướng về con người nữa.
Cám ơn những người trong năm vừa qua đã luôn quan tâm vun xới cho nếp sống cộng đoàn chung trong xã hội được duy trì cùng phát triển, cho trở nên sống động và mang đến lợi ích cho nhau.
Cám ơn những người đã nêu cao nếp sống bác ái tình liên đới con người với nhau, cùng cả với công trình thiên nhiên trong vũ trụ.
Cám ơn những người có lòng đạo đức nhân ái hằng quan tâm nhìn nhận ra hình ảnh không tốt đẹp, không đúng như Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa càn khôn đã tạo dựng nên,
- nếu con người chúng ta sống lẻ loi cô lập một mình,
- nếu môi trường công trình thiên nhiên cho đời sống bị phá hủy làm ra hư hại!
Và vì thế, họ hằng cổ võ nếp sống cộng đoàn cùng chung hợp giữa con người với nhau, cùng hài hòa với thiên nhiên.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh các Thiên Thần
- Viết bởi Dân Chúa
Trong đời sống hằng ngày có những điều trông thấy được bằng mắt thường. Nhưng có những vật thể không thể dùng mắt thường dù là đeo kính có độ phân giải cao cũng khó có thể nhìn nhận ra rõ được.
Những vật thể đó hoặc quá nhỏ như vi khuẩn, hoặc mang mầu sắc quá tối, hay ở cách xa khỏi tầm nhìn của mắt, khiến con mắt thường không thể nhìn ra, nhất là vào ban đêm. Muốn nhìn ra những vật thể này, người ta phải dùng kính hiển vi, viễn vọng kính để nhân to ra hay phải dùng máy có tia hồng ngoại để nhìn vào ban đêm.
Nhưng cũng có những vật thể dù là kính viễn vọng hay kính hiển vi, máy có tia hồng ngoại cũng không thể nhận ra nhân to ra được. Đó là tình yêu, là tình cảm là không khí. Không thể nhìn thấy. Nhưng những sự thể này có đó, và là điều cần thiết gắn liền với đời sống.
Trong nếp sống tinh thần đạo giáo có hình ảnh vô hình như thế không?
Niềm tin đạo giáo cũng có những điều vô hình như thế. Thiên Chúa, Thiên Thần là những nhân vật có đó. Nhưng lại không có chút gì gọi là hình ảnh hay mầu sắc cụ thể, khiến ta có thể dùng các phương cách khoa học tối tân hòng mong nhìn ra các ngài. Không thể nhìn ra các ngài, nhưng ta vẫn có thể nhận ra họ, cảm nghiệm thấy họ nơi những dấu chỉ trong cuộc sống.
Ai là con người cũng có nhu cầu cần được bảo vệ chăm sóc. Từ khi mới thành hình sự sống trong bào thai mỗi người đã được mẹ mình săn sóc bảo vệ rồi. Rồi khi mở mắt chào đời, họ lại cần sự săn sóc bảo vệ của những người khác, hơn khi nào hết cho đến khi họ có thể tự đứng lên đi lại, cầm mang nói năng diễn tả được điều mình mong muốn, hoặc tự làm lấy được.
Cả khi đã khôn lớn trưởng thành, ai cũng cần sự bảo vệ săn sóc trong đời sống. Trong gia đình, ngoài đường xá, trên sông nước đại dương, nơi núi rừng thung lũng, trong trường học, trong xưởng thợ nơi làm việc có những luật lệ trật tự đặt ra nhằm giúp bảo vệ nhu cầu sự sống của con người. Những luật lệ này nhằm giúp bảo vệ tất cả mọi người, nhất là trẻ em, những người yếu kém, bệnh nạn, người già cả, người bị cô đơn bỏ rơi, những người gặp tai nạn.
Và có những bảo vệ tuy không có luật lệ gì viết thành văn bản và cũng không thể bàn cãi mổ xẻ được, nhưng những bảo vệ săn sóc đó hằng có đó cho mỗi con người. Đó là nhu cầu được bảo vệ săn sóc về phần tinh thần tâm linh. Ai có thể cho chúng ta sự bảo vệ săn sóc này ?
Niềm tin tôn giáo giúp mang laị cho con người câu trả lời này. Trong sách Xuất hành Thiên Chúa bảo đảm: “ Ta sẽ sai Thiên Thần đi trước dẫn đường cho con. Thiên Thần ta sẽ bảo vệ con đi đến nơi, về đến chốn. (Xh 23, 20).
Và Chúa Giêsu đã khẳng định: Đừng bao giờ khinh dể các trẻ con, vì các Thiên Thần của chúng hằng ở bên ngai Thiên Chúa (Mt 18,10).
Thiên Thần là những sứ giả của Thiên Chúa được gửi đến cho mỗi người. Thiên Thần đồng hành với ta trong đời sống như Thiên Thần Raphael chữa lành mắt và dẫn đường cho Tobias về nhà, Thiên Thần Gabriel mang sứ địệp Thiên Chúa cho đức mẹ Maria, cho ông Zacharias trong đền thờ, Thiên Thần hiện trong trong giấc mộng báo tin cho Thánh Giuse phải đem con trẻ Giêsu và mẹ người sang tỵ nan bên xứ Ai Cập, Tổng lãnh Thiên thần Michael là sức mạnh của Thiên Chúa chiến thắng thần dữ ma quỉ, ca đoàn các Thiên Thần hiện ra báo tin Chúa sinh ra cho các mục đồng nơi hang đá Belem, Hai thiên thần Chúa hiện ra canh mồ Chúa báo tin Chúa đã sống lại cho Maria Magdalena.
Khi một em bé ngoan hiền dễ thương, chúng ta hay nói: Em giống như một thiên thần! Hay khi em bé chạy ngã té nằm xoài ra, em khóc kêu la gọi ba má, nhưng không có gì xảy ra thương tích cho em, chúng ta cũng nói ngay: Thiên Thần bản mệnh em gìn giữ che chở em!
Trong đời sống bản thân mỗi người, ai nấy cũng đều có kinh nghiệm về sự bảo vệ này của Thiên Thần bản mệnh, khi bị tai nạn mà thân xác được bình an không bị thương tích tổn hại gì, hay khi bất ngờ nhận được niềm an ủi từ một người xa lạ. Và ngay cả chúng ta cũng có thể là Thiên Thần cho nguời khác, khi rộng tay giúp đỡ lẫn nhau, trao tặng nhau niềm vui tình người, như Mẹ Terexa thành Calcutta được ca ngợi là “ Thiên Thần của trẻ em, của người già yếu cô đơn bị bỏ rơi.”
Từ gần hai năm nay bệnh đại dịch Covid 19 đe dọa sức khoẻ đời sống con người trên hoàn cầu. Nó gây ra bệnh tật trầm trọng, tử vong, lo sợ khủng hoảng kinh hoàng cho con người. Và vì để bảo vệ sức khoẻ cho không bị lây lan truyền nhiễm sang cho nhau, nên chúng ta phải sống trong tình trạng Lockdown xa cách nhau, phải đeo khẩu trang không được gần nhau cả khi được gặp nhau. Tình trạng đó làm cho đời sống thành ra cô đơn thất vọng buồn chán, xa lạ!
Trong tình trạng như thế, Thiên Thần là niềm an ủi cần thiết cho đời sống, như nhớ tới nhau qua lời hỏi thăm, sự quan tâm giúp đỡ tuy xa cách nhau…đem đến cho tâm hồn đời sống ánh sáng niềm vui, niềm hy vọng trong cảnh khủng hoảng cô đơn.
Thiên Thần của Chúa là những sứ giả, là sự bảo vệ săn sóc của Chúa cho con người. Nhưng các Thiên Thần là những nhân vật vô hình, vô sắc, vô thanh, không có cánh bay lượn như thấy trong các tranh vẽ.
Con người chúng ta cảm thấy Thiên Thần hiện diện ngay trong tâm hồn mình, trong mọi biến cố của đời sống.
Và trong đời sống con người cũng là Thiên Thần của nhau và cho nhau.
Kính nhớ Thiên Thần bổn mạng. 02.10.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
- Hình ảnh sự cứu giúp.
- Hình ảnh kinh Tin Kính.
- Hình ảnh thập gía Chúa Giêsu Kitô
- Hình ảnh nếp sống đức tin người Kitô hữu
- Hình ảnh lễ mừng sinh nhật đức mẹ Maria
- Hình ảnh chữa lành người bị câm điếc
- Hình ảnh tử đạo của Thánh Gioan tẩy gỉa
- Hình ảnh nghi thức rửa tay
- Hình ảnh ân đức được trao ban
- Hình ảnh sa mạc trong đời sống