Hình ảnh Chúa Giêsu viết trên nền đất
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lề luật đạo Do Thái từ thời Mose thống trị toàn thể đời sống xã hội. Hễ có vấn đề kiện tụng hay cắt nghĩa lý giải về tập tục nếp sống đạo đời, các vị Kinh sư, các Luật sĩ và các Thầy cả trong đạo căn cứ theo luật đạo ghi chép trong sách Kinh Thánh cựu ước mà phân xử giải quyết. Các vị đó là quan tòa thẩm phán xét xử.
Thấy Chúa Giêsu đi giảng đạo hấp dẫn nhiều người, cùng có nhiều điều khác với ghi chép trong lề luật đạo, các Vị Kinh sư luật sĩ khó chịu, nên họ tìm cách gài bẫy thử thách Chúa Giêsu.
Họ dẫn điệu một người phụ nữ bị bắt vì phạm tội công khai đến trước mặt Chúa Giêsu, và hỏi xem ngài xét xử thế nào. Vì căn cứ theo lề luật đạo Do Thái từ thời Mose người phụ nữ như thế này bị ném đá làm sỉ nhục từ bị trọng thương cho tới chết! (Ga 8,1-11)
Nhưng Chúa Giêsu không nói gì, yên lặng cúi xuống nền đất lấy ngón tay viết trên đó. Không thấy Phúc âm kinh thánh viết ghi lại ngài viết vẽ những chữ gì.
Cung cách này của Chúa Giêsu vẽ nên hình ảnh gì cho đời sống tinh thần đức tin đạo giáo?
Chúa Giêsu Kitô, con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người, Ngài rao giảng nước Thiên Chúa căn cứ trên tình yêu thương, sự tha thứ làm hòa giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người trong đời sống xã hội với nhau. Vì tất cả mọi người do Thiên Chúa tạo dựng ban cho sự sống thân xác, và tinh thần trí khôn, nuôi dưỡng trong cuộc sống trên trần gian.
Chúa Giêsu tuy là con Thiên Chúa, nhưng không là vị quan tòa xét xử những vụ kiện tụng, nhất là những việc kiện cáo về đời sống xã hội. Sứ mạng của Ngài là kêu gọi con người đi theo con đường tình yêu thương bác ái giữa nhau, và trở về với Thiên Chúa, Đấng là sự thánh thiện, là nguồn sự bình an cho đời sống.
Tám mối phúc thật là bản hiến chương của con đường tình yêu thương bác ái trong tương quan con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau trong đời sống. ( Mt 5,1-12)
Sự phân xử kết án, Thiên Chúa không thực hiện ngay bây giờ lúc con người còn đang trên trần gian. Nhưng vào ngày phán xét sau cùng, khi con đường đời sống của mỗi người trên trần gian chấm dứt. Chúa Giesu đã nói đến hình ảnh đó trong ngày phán xét, Thiên Chúa, Vị Thẩm phán, đưa ra lời phân định căn cứ trên nền tảng tình yêu thương bác ái, mà khi xưa mỗi người trong đời sống trên trần gian đã thực hiện cho người khác. ( Mt 25, 40 )
Trong dòng thời gian xưa nay đã có những suy luận phỏng đoán những điều Chúa Giêsu dùng ngón tay viết trên nền đất.
Chữ viết hay hình vẽ trên nền đất bị xóa đi, hay bị đào lấp đi, không còn để lại dấu vết. Nhưng hình ảnh tinh thần phát xuất ra từ trong tâm trí không bị xóa hay bị đào lấp đi khỏi.
Là Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người sinh trưởng ở xã hội đất nước đạo Do Thái, chắc chắn Chúa Giêsu thuộc nằm lòng sách Kinh Thánh cựu ước của đạo, cùng được cha mẹ dậy cho biết phải tuân giữ như lề luật truyền lại. Và như Ngài đã nói Ngài đến trần gian không phải để xóa bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn cho hoàn hảo.
Vì thế cung cách dùng ngón tay viết trên nền đất của Chúa Giêsu nói lên hình ảnh căn bản sâu xa về thân phận đời sống con người trên trần gian, mà vào mùa Chay hằng năm lời Kinh Thánh của Thiên Chúa nói khi xưa với Ông bà nguyên tổ Adong Evà này, được nhắc lại:
“ Từ bụi đất con đã được tạo thành, và sau cùng con sẽ trở về với bụi đất.” ( Sách Sáng Thế 3,19).
Cung cách viết trên nền đất của Chúa Giêsu đã được vua David từ trước thời Chúa Giêsu, với lòng xác tín thâm sâu đã viết nên tâm tình lời cầu nguyện:
“Người qúa biết ta được nhồi nắn bằng gì, hẳn Người nhớ : ta chỉ là cát bụi.” ( Thánh vịnh 103,14).
Và cung cách viết trên nền đất của Chúa Giêsu còn là lời nhắc nhở đến tâm tình đạo đức khôn ngoan của Vua David đã có suy niệm nói lên đời sống con trong hành trình trên trần gian:
“ Trên nền đất trần gian con là người lữ khách.” ( Thánh vịnh 119,19)
Ngôn sứ Jeremia vào thời điểm giữa khoảng năm 740 và 701 trước niên đại Chúa giáng sinh, đã nói đến thân phận đời sống con người trên nền đất và sau cùng ra khỏi nền đất:
“Lạy Đức Chúa, niềm hy vọng của Israel là Ngài, hết những ai lìa bỏ Ngài sẽ phải xấu hổ, những kẻ quay lưng lại với Ngài sẽ bị bứng khỏi đất, vì họ đã lìa bỏ Đức Chúa là mạch nước trường sinh. “ ( Jermia 17,13).
Cung cách đối xử của Chúa Giêsu với con người lấy ngón tay viết trên nền đất không lên án kết tội ai. Nhưng nhắc bảo nhớ lại căn bản đời sống con người từ khởi đầu được thành hình nhào nặn ban cho có sự sống từ bụi đất, và sau cùng cũng lại trở về với bụi đất.
Tình yêu thương bác ái, lòng kính trọng sự sống là lề luật căn bản. Vì thế Chúa Giêsu không lên án người có tội. Trái lại muốn cứu sự sống người phạm tội, nhưng chỉ kết án tội lỗi sự dữ.
Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".( Ga 8,11).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh hiến dâng cho Đức Mẹ
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm ngày 25.03. Giáo Hội mừng kính lễ Thiên Thần truyền tin cho Đức Mẹ Maria.
Biến cố truyền tin ngày xưa xảy diễn ra ở nhà Maria, như phúc âm Thánh Luca thuật lại ( Lc 1, 26-38), vùng làng miền quê hẻo lánh Nazareth, nước Do Thái, cách đây hơn hai ngàn năm.
Bây giờ ngôi đền thờ Truyền Tin được xây dựng rộng lớn theo kiến trúc tân thời – năm 1969, có ba cánh, dài 67,5 mét, cao 53 mét- bên dưới tầng hầm có di tích ngôi nhà của Đức Mẹ ngày xưa. Trong căn nhà nhỏ này biến cố Thiên Thần Gabriel hiện đến truyền tin cho Maria đã diễn xảy ra.
Và ở bên nước Ý, trong vương cung thánh đường Loreto cũng có “căn nhà thánh” (nhỏ với những bức tường gạch cũ) ngày xưa của Đức mẹ ở, nơi này biến cố truyền tin đã diễn xảy, theo tương truyền được mang từ Nazareth về bên Ý thời thập tự quân.
Thiên Thần của Chúa hiện đến báo tin cho Maria được Thiên Chúa tuyển chọn làm mẹ cưu mang sinh hạ Giesu, con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người. Maria, người phụ nữ còn son sẻ chưa lập gia đình, lúc đó đã lo sợ bối rối như bao người phụ nữ khác trên trần gian.
Và câu thắc mắc Maria như phản ứng tự nhiên của một phụ nữ trong tâm trạng bối rối lo lắng nói với Thiên Thần Chúa: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” ( Lc 1,24).
Nêu ra thắc mắc, lẽ dĩ nhiên Maria muốn nhận được câu trả lời. Và Maria đã nhận được câu trả lời từ Thiên Thần: “ Maria, xin đừng lo sợ, Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên chị, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp phủ bóng trên chị. Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” ( Lc 1,35).
Maria qua thắc mắc này còn nói lên tâm trạng người đi tìm. Maria đi tìm niềm hy vọng, đi tìm sự bảo đảm đoan hứa không từ nơi ai, nhưng từ Thiên Chúa.
Trong đời sống con người xưa nay đã trải qua trong dòng lịch sử thời gian, luôn đi tìm kiếm niềm hy vọng, sự bảo đảm đoan hứa.
Trải qua mọi thời đại, nhân loại luôn hằng ký kết viết lập giao kèo lập khế ước đoan hứa với nhau cùng nhau xây dựng đời sống, cùng nhau bảo đảm gìn giữ cho đời sống có hòa bình, có an ninh thịnh vượng. Nhưng kinh nghiệm lịch sử đã cùng đang minh chứng, không có gì bền vững trung thành cả, như con người đã đoan hứa ký kết với nhau.
Chính vì thế, nhân loại, nơi các Tôn giáo, người có tinh thần đức tin tôn giáo, còn hướng tâm đời sống tâm linh tinh thần mình lên Đấng Tối Cao, tìm sự niềm hy vọng, sự bảo đảm đoan hứa cho đời sống, nhất là những lúc đời sống gặp khủng hoảng nguy cơ bị chiến tranh đe dọa, hủy diệt tàn phá, gây hận thù tử vong loạn lạc, như lúc này bên đất nước Ukraina.
Ngày xưa trong biến cố truyền tin cho Maria, Thiên Thần của Chúa đã nói cho Maria” Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”( Lc 1,37).
Dựa trên căn bản lời đoan hứa thần thánh thiêng liêng đó, Maria ngày xưa đã an tâm chắp nhận chương trình ý muốn Thiên Chúa: làm mẹ cưu mang hạ sinh Giesu, Con Thiên Chúa làm người, mà không phải qua qúa trình sống chung hợp với người đàn ông nào.
Và Giáo hội trong suốt dòng lịch sử đời sống đức tin luôn hằng đi tìm niềm hy vọng sự bảo đảm đoan hứa cũng trên nền tảng đó, mà Maria là người đã sống thực hành nếp sống mẫu gương nguyên thủy.
Nên Giáo Hội hằng khuyến khích tổ chức xây dựng con đường nếp sống đi tìm kiếm niềm hy vọng, sự bảo đảm đoan hứa từ nơi Thiên Chúa cho đời sống, qua lời bầu cử, nguyện thay cầu giúp của Đức mẹ Maria, mẹ Chúa Giêsu, Đấng là con Thiên Chúa.
Năm nay ngày lễ mừng kính biến cố Thiên Thần truyền tin cho Đức mẹ Maria, 25.03.2022, đức thánh cha Phanxicô khơi dậy nếp sống đạo đức lòng sùng kính Trái tim Đức mẹ Maria, đã kêu gọi cổ động mọi người tín hữu Chúa Kitô, cầu nguyện hiến dâng nước Nga và nước Ukraina cho trái tim Đức Mẹ Maria. Để tìm kiếm niềm hy vọng sự bảo đảm đoan hứa từ nơi Thiên Chúa, Đấng là nguồn hy vọng cùng sự bảo đảm đoan hứa, qua lời bầu cử của Đức mẹ, cho chiến tranh đang xảy diễn ra trên nước Ukraina mau chấm dứt, cho con người biết quay trở lại con đường xây dựng hòa bình, con đường sống bác ái tình người nhân loại là con Thiên Chúa.
Cung cách đạo đức dâng hiến cho Đức Mẹ Maria đã có truyền. thống từ lâu nơi Giáo Hội Công giáo nước Ukraina và nước Nga.
Ngay từ thời Hoàng đế Jaroslaw ( 979-1054) đã phó dâng đất nước dân tộc Nga-Ukraina dưới sự che chở của Đức mẹ rất thánh đồng trinh Maria. Và trong dòng thời gian sự dâng hiến như thế cũng đã được lặp lại năm 1995, năm 2014. Ngày 23.10.2016 Giáo hội Công giáo Ukrania Hylạp đã lặp lại lời dâng hiến cho Đức mẹ Maria ở Fatima.
Cung cách dâng hiến nước Nga cho trái tim vẹn sạch Đức mẹ Maria có liên quan mật thiết với Đức Mẹ Fatima. Lần đức mẹ hiện ra với ba trẻ ngày 13.07.1917, như ba trẻ nói kể lại, Đức Mẹ đã khuyên dâng hiến nước Nga cho trái tim vẹn sạch đức mẹ. Xin ơn hoà bình cho thế giới. Có thế, thế giới mới tránh được hiểm họa chiến tranh. Ngày 31.10.1942 đức thánh cha Pio XII. đã dâng hiến toàn thế giới cho trái tim vẹn sạch Đức mẹ Maria, và ngày 07.06.1952 đã dâng hiến cách đặc biệt khác thường dân tộc đất nước Nga cho trái tim vẹn sạch Đức mẹ Maria.
Ngày 21.11.1964 đức thánh cha Phaolô VI., bây giờ là vị Thánh, thời Công đồng Vatican II., đã lặp lại lời dâng hiến nước Nga cho trái tim vẹn sạch Đức Mẹ Maria.
Truyền thống nếp sống đạo đức này luôn hằng được Giáo hội Công giáo các nước duy trì làm mới lại dâng hiến cho trái tim vẹn sạch Đức mẹ Maria, để xin ơn che chở có được bình an trong đời sống., xin ơn soi sáng cho con người cùng nhau tìm con đường giải pháp hòa bình xây dựng bảo vệ đời sống con người, và công trình thiên nhiên chung.
Năm 2010 Đức giáo hoàng Benedickt 16 và đức giáo hoàng Phanxicô năm 2013 đã lặp lại lời dâng hiến toàn thế giới cho trái tim vẹn sạch Đức mẹ Maria.
Dâng hiến đời sống cho trái tim vẹn sạch Đức Mẹ Maria, xin ơn che chở bầu cử, là truyền thống tâm linh thánh đức trong đời sống đức tin.
Vì tin rằng qua nhờ lời bầu cử nguyện giúp của Đức mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa, sự che chở cho đời sống con người có bằng an hồn xác được Thiên Chúa ban cho nhân loại trong hoàn cảnh vướng gặp khó khăn nguy hiểm bị đe dọa.
Và xác tín rằng“ Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” ( Lc 1,37).
“Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ của chúng con, trong thời khắc thử thách này, chúng con hướng về Mẹ. Lạy Mẹ là Mẹ chúng con, Mẹ yêu thương và Mẹ biết chúng con: không có mối ưu tư nào của tâm lòng chúng con mà Mẹ không hay biết. Lạy Mẹ của lòng xót thương, chúng con cảm nghiệm được sự săn sóc ân cần và sự hiện diện an bình của Mẹ. Mẹ không ngừng hướng dẫn chúng con đến với Chúa Giêsu, Vị Hoàng tử của Hòa bình.
Vì chúng con đã rời xa con đường hòa bình, chúng con đã quên đi những bài học từ những thảm kịch của các thế kỷ trước, sự hy sinh của hàng triệu người đã ngã xuống trong hai cuộc thế chiến. Chúng con đã bỏ qua những cam kết mà chúng con đã cam kết với tư cách là cộng đồng quốc tế.
Chúng con đã phản bội lý tưởng hòa bình mà mọi người, đặc biệt những người trẻ tuổi mơ ước. Chúng con bị cuốn hút vào những tham vọng, lợi ích quốc gia và lợi ích cá nhân làm chúng con trở nên thờ ơ lạnh nhạt trước những nhu cầu và ưu tư ích kỷ của mình. Chúng con đã quên Chúa, hài lòng với ảo tưởng của mình, trở nên ngạo mạn và hung hãn, hà hiếp những người nghèo khổ và tích góp vũ khí.
Chúng con đã quên vai trò của mình là người trông coi và quản lý ngôi nhà chung trái đất này. Chúng con đã tàn phá trái đất này bằng chiến tranh và những tham vọng của chúng con, chúng con đã làm tan nát tấm lòng của Cha chúng con ở trên trời, Đấng mong muốn chúng con là anh chị em với nhau. Chúng con trở nên thờ ơ lãnh cảm với mọi người và mọi hoàn cảnh; ngoại trừ chú tâm vào chính mình. Bây giờ với lòng ăn năn xám hối, chúng con kêu lên: Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng con!
Lạy Mẹ rất Thánh, giữa trăm ngàn nỗi khốn cùng, vì tội lỗi chúng con, giữa những giao tranh và hạ hèn của chúng con, giữa mầu nhiệm tội ác là sự dữ và chiến tranh, Mẹ nhắc nhở chúng con rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng con, Ngài không ngừng thương nhìn chúng con bằng tình yêu, luôn sẵn sàng tha thứ, và nâng chúng con lên cuộc sống mới.
Chúa đã ban Mẹ cho chúng con và biến Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trở thành nơi nương náu cho Giáo Hội và cho toàn thể nhân loại. Theo ý muốn nhân từ của Thiên Chúa, Mẹ hằng ở bên chúng con; ngay cả trong những khoảnh khắc khó khăn nhất của lịch sử, Mẹ vẫn ở đó để hướng dẫn chúng con bằng tình yêu thương dịu hiền trìu mến.
Giờ đây, chúng con hướng về Mẹ và nương tựa nơi trái tim Mẹ. Chúng con, những người con yêu của Mẹ. Trải qua mọi thời, Mẹ luôn dậy dỗ chúng con, kêu gọi chúng con hoán cải! Vào giờ phút đen tối này, xin hãy thương cứu giúp chúng con và giúp chúng con chạy đến nương náu dưới tà áo Mẹ. Xin Mẹ hãy giúp chúng con xác tín: "Mẹ hiện diện ở đây, là Mẹ của chúng con" Mẹ có thể tháo gỡ những nút thắt của trái tim chúng con, những nút bế tắc của thời đại chúng con. Nơi Mẹ, chúng con đặt trọn vẹn niềm tin. Chúng con xác tín rằng Mẹ sẽ nhận lời chúng con cầu xin và nâng đỡ chúng con đặc biệt trong những giờ phút thử thách lâm nguy này.
Đó cũng là những gì Mẹ đã thực hiện tại tiệc cưới Cana, Galilê xưa, khi Mẹ khẩn cầu Chúa Giêsu và Chúa đã thể hiện phép lạ đầu đời của Chúa cho niềm vui tiệc cưới được trọn vẹn, khi Mẹ thân thưa với Chúa: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2: 3).
Lạy Mẹ, xin hãy lặp lại những lời đó với Con yêu quí của Mẹ cho thời đại chúng con, vì chúng con đã cạn kiệt rượu của hy vọng, rượu của niềm vui, rượu của tình huynh đệ héo tàn. Chúng con đã quên nhân tính của chúng con và lãng phí món quà hòa bình của Chúa. Chúng con đã mở lòng cho bạo lực và cho sự tàn phá chết chóc! Chúng con rất cần đến sự giúp đỡ của Mẹ Chúa!
Lạy Mẹ, xin nghe lời chúng con cầu khẩn.
Lạy Nữ Vương Sao Biển, xin gìn giữ con tầu chúng con khỏi phong ba bão táp chiến tranh.
Lạy Nữ Vương, Hòm Bia Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết ngồi lại với nhau trong đàm phán và hòa giải.
Lạy Nữ Vương Thiên đàng, xin hãy ban hòa bình của Chúa cho thế giới chúng con.
Xin giúp chúng con biết loại bỏ hận thù và báo oán, xin hãy dậy chúng con biết tha thứ.
Xin giải thoát chúng con khỏi chiến tranh, bảo vệ thế giới chúng con thoát khỏi sự đe dọa của vũ khí hạt nhân.
Lạy Nữ Vương Mân Côi, xin giúp chúng con nhận ra nhu cầu siêng năng cầu nguyện và yêu mến.
Lạy Nữ hoàng Gia đình, xin hãy chỉ dậy mọi người chúng con, con đường của tình huynh đệ.
Lạy Nữ Vương Hòa bình, xin ban bình an cho thế giới chúng con đang sống.
Lạy Mẹ khoan dung, xin cho lời khẩn cầu tha thiết của trái tim sầu khổ của Mẹ làm thay đổi trái tim chai đá của chúng con. Cầu mong những giọt nước mắt mà Mẹ đã đổ ra vì chúng tôi sẽ làm cho thung lũng sầu khổ của thù hận này nở hoa yêu thương. Giữa những sấm sét gầm xé của bom đạn, lời cầu khẩn của Mẹ làm thay đổi những suy tính của chúng con thành hòa bình. Ước mong sự trìu mến của Mẹ sẽ xoa dịu những ai đang đau khổ vì trốn chạy những cơn mưa bom đạn... Xin Mẹ an ủi những người bị buộc phải rời xa gia đình và quê hương xứ sở vì chiến tranh. Cầu xin Trái tim tân khổ của Mẹ đánh động lòng thương cảm của chúng con và truyền cảm hứng để chúng con biết rộng mở tâm lòng, quan tâm đến những anh chị em chúng con đang bị thương tích và bị gạt ra ngoài xã hội…
Lạy Thánh Mẫu, Mẹ Thiên Chúa, khi Mẹ đứng dưới thập giá Chúa Giêsu, Chúa nhìn thấy người môn đệ đứng bên, Chúa đã phán: “Này là con của Mẹ” (Ga 19:26). Bằng cách này, Người đã giao phó mỗi người chúng con cho Mẹ. Người nói với môn đệ và với từng người chúng con: “Này là Mẹ con” (c. 27).
Lạy Mẹ Maria, giờ đây chúng con mong muốn được đón Mẹ vào cuộc sống và lịch sử của chúng con. Vào giờ phút này, một nhân loại đã mỏi mệt và quẫn trí đang cùng Mẹ đứng dưới chân thập tự giá, cần phó thác chính mình cho Mẹ và nhờ Mẹ, dâng lên Chúa Giêsu Kitô. Chúng con xin dâng lên Mẹ người dân Ukraine và nước Nga, những người hằng tôn kính Mẹ với lòng sùng mộ kính tin, giờ đây đang hướng về Mẹ, với trái tim tan nát, xin Mẹ thương cứu giúp họ, những dân tộc bị tàn phá bởi chiến tranh, đói kém, bất công và nghèo đói.
Vì vậy lạy Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng con, lạy Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, chúng con long trọng giao phó và thánh hiến chính mình chúng con, Giáo Hội chúng con và toàn thể nhân loại, đặc biệt là nước Nga và Ukraine cho Mẹ. Xin Mẹ chấp nhận tấm lòng thành khẩn của chúng con mà Mẹ đã nài xin chúng con thể hiện. Xin Mẹ hãy làm cho chiến tranh được sớm kết thúc, cho hòa bình được hiển trị khắp nơi trên thế giới. Xin cho lời “Xin Vâng” mà Mẹ đã đáp lại tôn ý Chúa mở ra cánh cửa lịch sử cho Hoàng tử Hòa bình ngự đến. Chúng con tin tưởng qua trái tim từ mẫu của Mẹ, hòa bình sẽ hiển trị.( Kinh Thánh Hiến Nước Nga và Ukraine cho Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ mà Đức Thánh Cha sẽ tuyên đọc ngày 25/3/2022.) Bản dịch của trang Vietcatholic)
Lòng sùng kính dâng hiến cho trái tim vẹn sạch Đức mẹ Maria là việc tâm linh đạo đức của con người đi tìm sự bình an, sự che chở cho đời sống. Cung cách tâm linh đạo đức này biểu lộ tấm lòng tràn đầy tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa, Đấng là nguồn hy vọng, và mọi ân đức chúc phúc lành, nhờ lời bầu cử nguyện thay cầu giúp của Đức mẹ Maria.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Thánh Giuse, người cha gia đình
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong dân gian xưa nay có ngạn ngữ: Cha nào con nấy!
Ngạn ngữ này nói lên nhận xét về đời sống của người con trong tương quan liên hệ với cha người đó về nhiều khía cạnh khác nhau.
Phúc âm viết thuật lại, Chúa Giêsu là con bác thợ mộc (Mt 13,55). Bác thợ mộc người cha nuôi Chúa Giesu là (Thánh cả) Giuse, hàng xóm láng giềng với dân cư làng quê Nazareth cùng thời cách đây hơn hai ngàn năm. Và Chúa Giêsu cũng làm nghề thợ mộc như người cha Giuse của mình (Mc 6,3).
Người cha trưởng gia đình ngoài trách nhiệm căn bản lo no cơm ấm áo cho vợ con, còn là người có liên hệ mật thiết nếp sống phần tinh thần với con của mình: tình phụ tử.
Chúa Giêsu là con Thiên Chúa, nhưng sinh trưởng trong gia đình trần gian có cha mẹ. Người cha Giuse được Thiên Chúa tuyển chọn làm cha nuôi Chúa Giêsu giữa con người trên quê hương làng quê Nazareth nước Do Thái.
Giuse vâng theo sứ mạng Thiên Chúa trao cho qua lời Thiên Thân báo nói cho biết (Mt 1,18-25), nhận trách nhiệm là người cha nuôi Giêsu. Giuse đã trao tặng Giesu tình phụ tử. Và qua đó Giuse cùng với đức mẹ Maria đã mang đến cho trẻ Giêsu, Con Thiên Chúa, nôi tổ ấm gia đình là quê hương cho đời sống làm người trên trần gian.
Trong không gian và bầu không khí đó trẻ Giêsu đã phát triển lớn lên thành người khôn lớn về thân thể lẫn trí khôn tinh thần cùng ý chí.
Trong quê hương gia đình đó trẻ Giêsu đã học hỏi được những căn bản sống làm người về những phương diện nếp sống tinh thần đạo giáo truyền thống của tổ tiên dân tộc, nghề nghiệp làm ăn sinh sống, cùng cung cách cư xử với nhân quần xã hội trong đời sống.
Trong quê hương gia đình đó trẻ Giêsu dần lớn lên được chỉ dạy cùng sống trải qua những biến cố đời sống xã hội. Và qua đó học hỏi thêm nhiều những kinh nghiệm qúy báu làm hành trang cho đời sống về nhiều khía cạnh, trong tương quan với Thiên Chúa trên trời, và với cha mẹ họ hàng gia đình, với hàng xóm láng giềng và bạn bè.
Người cha Giuse cùng với đức mẹ Maria đã là người đào tạo gíao dục trẻ Giêsu. Phải, ông là vị linh hướng cho đời sống Giêsu từ thời còn là trẻ thơ, thời niên thiếu phát triển lớn lên.
Đức giáo hoàng Phanxicô khi suy tư về vai trò của người cha trưởng gia đình, đã hướng tầm nhìn tới hình ảnh người cha Giuse: “ Nơi mỗi trẻ em ẩn dấu một bí ẩn mầu nhiệm cho đời sống thể xác cũng như tâm tính tinh thần của riêng em bé. Sự thể này chỉ được phát triển bung nở ra với sự giúp đỡ của người cha gia đình thôi, khi ông tôn trọng sự tự do của con mình.”
Trách nhiệm bổn phận của người cha gia đình là cùng cộng tác vào để giúp phát triển mầu nhiệm bí ẩn nơi người con của mình. Đó là điều cao qúi và không gì đẹp hơn, cho dù có khó khăn. Nhưng lại là điều căn bản góp phần xây dựng cá tính, khả năng riêng biệt nơi mỗi con người.
Giêsu là một trẻ em sinh ra đời như bao trẻ em khác. Nhưng nơi trẻ Giêsu ẩn dấu mầu nhiệm đặc biệt: là Con Thiên Chúa ( Mt 27,54), là Ngôi Lời của Thiên Chúa ( Ga 1,14) sinh xuống làm người trên trần gian.
Mang trong người mầu nhiệm ẩn dấu là Con Thiên Chúa, nhưng đồng thời trẻ Giêsu cũng là con người với xương thịt máu mủ. Trẻ Giêsu như thế không phải là một siêu nhân bay rơi xuống trần gian từ trời, như một “ Batman”. Không, trẻ Giêsu là một con người có thân xác hình hài cùng trí khôn tinh thần, như trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên tín: Người đã nhập thể trong cung lòng trinh nữ Maria, và đã làm người”.
Vì thế trẻ Giêsu cần người đồng hành bên cạnh, săn sóc đào tạo giáo dục như Thánh Giuse. Qua sự chỉ dẫn giáo dục của người cha Giuse, trẻ Giesu đã học hỏi được những điều căn bản hữu ích cho đời sống làm người của mình từ những việc nhỏ đơn giản cùng thực tế cho đời sống.Và như thế mầu nhiệm ẩn dấu nơi bản tính con người Giêsu được phát triển bung nở ra.
Người cha Giuse không chỉ hướng dẫn trẻ Giesu những việc cho đời sống thực tế con người, nhưng còn cả phần nếp sống đạo đức tinh thần nữa. Như phúc âm thuật lại, Giuse hằng năm theo tập tục nếp sống đạo đức của Do Thái giáo, đưa gia đình đi hành hương lên đền thánh Jerusalem vào dịp mừng lễ Vượt Qua. (Lc 2,41).
Cha Giuse đã cùng với đức mẹ Maria giúp trẻ Giêsu làm quen với nếp sống tập tục tôn giáo của Do Thái thời lúc đó. Đây là hình ảnh mẫu gương sống động của một người cha trưởng gia đình có trách nhiệm giáo dục đời sống tinh thần cho con mình.
Thánh Giuse khi xưa đã là người đồng hành quan trọng cho đời sống trẻ Giesu. Và ngài, theo tâm tình niềm tin đạo đức, cũng là người đồng hành cho đời sống chúng ta nữa. Nơi ngài, như trẻ Giêsu, chúng ta học hỏi được những đức tính tốt của một vị trưởng gia đình,
“ Có thể tóm gọn cách thánh Giuse sống ơn gọi của ngài vào một đức tính quan trọng, đó là khôn ngoan.
Khôn ngoan, khi ngài khéo giữ được sự âm thầm lặng lẽ, hiền lành và khiêm tốn. Tránh ồn ào, phô trương, áp đặt.
Khôn ngoan, khi ngài biết chọn con đường vòng, để tránh nguy cho Chúa, ngài từ Ai Cập trở về quê nhà bằng con đường rẽ xa đường chính.
Khôn ngoan, khi ngài dùng một phương tiện nghèo, nhưng mạnh khỏe dẻo dai, để di chuyển, đó là con lừa.
Khôn ngoan, khi ngài khéo lo cho gia đình đủ ăn đủ mặc, khỏe mạnh, không phải lệ thuộc, mà còn có thể giúp được người khác.
Khôn ngoan, khi ngài thấy mình đã hoàn thành sứ vụ được trao, thì xin được chết một cách lặng lẽ trong tay Ðức Mẹ và Chúa Giêsu, coi đó là cái chết hạnh phúc.
Nếu ơn gọi của thánh Giuse là giới thiệu và bảo vệ con đường cứu độ của Chúa, thì ngài đã hoàn tất ơn gọi đó một cách khiêm nhường đầy khôn ngoan và bén nhạy. “ ( Giám mục GB . BùiTuần, Một chút suy nghĩ về Thánh Giuse).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Chúa Giêsu trên núi Tabor
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm Giáo Hội vào ngày 06. Tháng Tám mừng lễ biến cố Chúa Giesu biến hình trên núi Tabor.
Và Chúa nhật thứ hai mùa chay hằng năm, bài Phúc âm tường thuật về biến cố này được đọc trong thánh lễ.
Giáo Hội Chính Thống mừng biến cố Chúa Giêsu biến hình từ thế kỷ thứ năm. Vào thời Trung cổ lễ mừng biến cố này cũng được mừng ở vùng bên Tây phương. Và năm 1457 dưới thời đức gíao hoàng Calixto III. lễ mừng biến cố Chúa biến hình được chính thức ghi trong lịch phụng vụ Công giáo Roma.
Ngọn núi Tabor từ xa xưa thời trước Kitô giáo đã là nơi thờ kính tôn gíao và sách kinh thánh cựu ước cũng đã nói đến nơi này.
Núi Tabor cao 588 mét , nằm ở vị trí vùng Galileo phía Bắc nước Do Thái. Trên núi này có ngôi thánh đường Chúa biến hình. Xưa nay núi Tabor là địa điểm hành hương của các khách hành hương sang đất thánh Jerusalem, và của những người đi du lịch, người khảo cứu di tích lịch sử.
Kinh Thánh theo phúc âm Thánh Luca thuật lại Chúa Giêsu lên núi cao với ba môn đệ và bỗng chốc người biến hình trắng sáng như tuyết. ( Lc 9,28-26).
Đâu là hình ảnh nét đẹp trong sáng bình an cùng huyền nhiệm chiếu tỏa từ Chúa Giêsu trên đỉnh núi Tabor với ba môn đệ lúc đó? Biến cố này có liên hệ trong đời sống đức tin không?
Đi tìm hiểu ý nghĩa sâu xa về biến cố này trong đời sống Chúa Giêsu, Đức Giáo hoàng Benedictô thứ 16. đã có suy tư theo lối so sánh biến cố đó giữa hai thời Chúa Giêsu và thời Cựu ước của tiên tri Mose.
Chúa Giêsu lên núi cao đem theo ba môn đệ Phero, Giacobe và Gioan ( Lc 9, 28-299. Họ là nhân chứng khi Chúa Giêsu chiếu tỏa ánh sáng trên núi, và họ cũng là nhân chứng trong vườn cây dầu sau này lúc Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi bị nộp bắt ( Mc 14,33).
Tiên Tri Mose, ngày xưa đưa dân Israel xuất hành trở về đất Chúa hứa từ Ai cập, khi lên núi cầu nguyện cùng Thiên Chúa, cũng mang theo ba Ông Aaron, Nadab và Abihu vừa là người cùng đồng hành và cũng vừa là nhân chứng (Xh 34), lẽ dĩ nhiên Tiên tri Mose cũng mang theo 70 vị bô lão khác nữa cùng đi lên núi như những nhân chứng.
Hình ảnh núi khiến ta liên tưởng tới Bài giảng trên núi của Chúa Giêsu và những lần Chúa Giêsu cầu nguyện cũng trên nuí. Núi như vậy là nơi chốn đặc biệt gần gũi với Thiên Chúa. Và trong đời Chúa Giêsu đã trải qua nhiều ngọn núi khác nhau.: ngọn núi nơi ngài bị cám dỗ, ngọn núi nơi ngài rao giảng, ngọn núi nơi ngài cầu nguyện, ngọn núi nơi ngài biến hình trong sáng như tuyết, ngọn núi nơi ngài lo âu sợ hãi, ngọn núi nơi ngài bị trảm hình đóng đinh vào thập gía, ngọn núi nơi ngài sống lại và trở về trời, nơi chốn này hình ảnh một Chúa Giêsu tỏ hiện vinh quang chiến thắng „ Thầy được trao ban cho mọi quyền hành trên trời dưới đất“ (Mt 28,18) đối ngược lại với ngọn núi cám dỗ nơi ma qủy cũng đã nói mình có mọi quyền hành.
Hình ảnh ngọn núi đời Chúa Giêsu đã trải qua cũng là hình ảnh những ngọn núi Sinai, ngọn núi Horeb, ngọn núi Morija trong thời Cựu Ước, nơi 10 điều răn của Chúa được mạc khải trao cho dân chúng, ngọn núi báo hiệu cuộc khổ nạn thương khó.
Ý nghĩa sâu xa hơn ẩn hiện đàng sau hình ảnh ngọn núi là nơi chốn bước đường thăng tiến sự đi lên không chỉ nơi bề ngoài nhìn thấy bằng mắt, nhưng còn cả bên trong nội tâm nữa.
Vị trí trên cao của ngọn núi gợi mang đến cảm gíac như được giải thoát khỏi gánh nặng trong đời sống hằng ngày, được hít thở không khí trong lành trong thiên nhiên, và từ đấy con mắt hướng nhìn xa hơn đi vào khám phá nét đẹp trong sáng lạ lùng của công trình thiên nhiên. Ngọn núi cao trổi vượt trên khỏi mặt đất bằng phẳng mang đến cho con người cảm gíac tâm hồn mình cũng được nâng vươn lên cao, và dễ dàng nhận ra dấu vết sự hiện diện của Đấng Tạo Hóa.
Lần theo dòng lịch sử, người ta cũng khám phá thấy kinh nghiệm về một Thiên Chúa đã từng nói chuyện với con người và kinh nghiệm về sự khổ nạn thương khó. Cao điểm của biến cố đó trong lễ hy sinh hiến tế Isaak của Abraham cho Thiên Chúa, trong lễ hy sinh của Con chiên (Chúa Giêsu) Thiên Chúa trên núi Calvaria.
Tiên tri Mose và tiên tri Elija đã được tiếp nhận mạc khải của Thiên Chúa trên ngọn núi, và các Ông đã được nói truyện với Thiên Chúa, khi Người xuất hiện là một con người mang điều mạc khải cho các Ông.
Thánh sử Luca (9,29) viết thuật lại chi tiết hơn về Chúa Giêsu biến hình trong ý nghĩa về ngọn núi như bước đi lên: „Khi ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện, đem theo các ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê. Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà“
Như thế có thể nói, biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi có ánh sáng bao phủ chiếu tỏa là biến cố cầu nguyện. Chúa Giêsu cầu nguyện nói chuyện cùng Thiên Chúa Cha, tâm hồn Chúa Giêsu hòa lẫn vào làm một với Thiên Chúa Cha, Đấng là ánh sáng tinh tuyền trong sáng. Và qua đó con người Chúa Giêsu tiếp nhận được ánh sáng từ nơi Thiên Chúa Cha bao phủ truyền sang.
Ngày xưa tiên tri Mose „ từ trên núi Sinai đi xuống, tay cầm hai tấm bia Giao Ước, khi xuống núi, ông Môsê không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa.30 Khi ông A-ha-ron và toàn thể con cái con Ít-ra-en thấy ông Mô-sê, thì này đây da mặt ông sáng chói, nên họ sợ không dám lại gần ông.31 Ông Mô-sê gọi họ: ông A-ha-ron và các đầu mục của cộng đồng trở lại với ông, và ông nói chuyện với họ.32 Sau đó, toàn thể con cái Ít-ra-en lại gần ông, và ông truyền cho họ tất cả những điều ĐỨC CHÚA đã phán với ông trên núi Xi-nai.33 Nói với họ xong, ông lấy khăn che mặt đi.34 Khi vào trước nhan ĐỨC CHÚA để đàm đạo với Người, thì ông bỏ khăn cho đến lúc trở ra; ông trở ra và nói lại với con cái Ít-ra-en những mệnh lệnh ông đã nhận được.35 Con cái Ít-ra-en nhìn mặt ông Mô-sê thấy da mặt ông sáng chói; ông Mô-sê lại lấy khăn che mặt, cho đến khi vào đàm đạo với Thiên Chúa.“ ( Xh 34,29-25).
Được gặp nói chuyện với Thiên Chúa trên núi, ánh sáng của Thiên Chúa chiếu tỏa bao phủ Ông tỏ hiện ra nơi gương mặt của Ông. Ánh sáng đó chiếu tỏa ở bên ngoài thân xác của Ông.
Đang khi Chúa Giêsu không chỉ tiếp nhận ánh sáng từ nơi Thiên Chúa, nhưng chính Chúa Giêsu là ánh sáng.
Khi biến đổi hình dạng trên núi, áo của Chúa Giêsu chiếu tỏa ánh sáng trong sáng như tuyết phủ. Hình ảnh này muốn diễn tả tương lai của con người. Sách Khải Huyền của Thánh Gioan viết thuật lại tấm áo trắng tinh ròng là hình ảnh đời sống trên trời, nơi đó các Thiên Thần của Thiên Chúa và những người được tuyển chọn hưởng ơn cứu độ mặc y phục mầu trắng tinh tuyền. ( Kh 7,9.13;19,14)
Y phục của những người được tuyển chọn mầu trắng tinh ròng, vì họ được tắm gội trong máu của Chiên Thiên Chúa (Kh 7,14). Qua làn nước Bí tích rửa tội họ được liên kết gắn bó với sự khổ nạn thương khó. Cuộc khổ nạn thương khó của Chúa Giêsu mang lại sự thanh tẩy và trả lại cho họ tấm áo trắng nguyên thủy tinh tuyền thuở ban đầu ( Lc 15,22).
Qua phép Bí tích rửa tội chúng ta cùng được tiếp nhận y phục ánh sáng cùng với Chúa Giêsu, Đấng chính là ánh sáng ơn cứu độ. (Theo Joseph, Ratzinger Benedikt XVI. , JESUS von Nazareth I., Freiburg i. Br. 2007, 9.Kapitel, tr. 356- 359.)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh cơn cám dỗ của Chúa Giêsu
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chúa Giêsu Kitô, con Thiên Chúa, như Kinh Thánh viết thuật lại ( Phúc âm Lc 4,1-13) đi vào vùng sa mạc hoang vắng ăn chay, cầu nguyện 40 đêm ngày.
Và sau đó Ngài bị ma quỷ bày ra cạm bẫy cám dỗ. Chúng bày ra ba cạm bẫy cám dỗ thử thách tâm trí ý chí đời sống Chúa Giêsu: ăn uống, vinh quang lợi lộc danh vọng và lòng kiêu ngạo thách thức Thiên Chúa.
Vậy đâu là hình ảnh những cơn cám dỗ đó trong đời sống con người, và Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh phương thế nào chống lại chúng?
Ma qủi nhận ra nhu cầu ăn uống nơi con người, nhất là lúc đói, Chúa Giêsu đã ăn chay nhịn đói lâu ngày. Biết thế chúng bày ra cạm bẫy thử thách Chúa Giêsu đang lúc lâu ngày đã không ăn uống gì: Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho đá biến hóa thành bánh mì đi để ăn cho qua cơn đói bụng!
Có thức ăn nước uống con người có thể lấp đầy nhu cầu cho bao tử, cùng mang lại sức lực cho các cơ quan thân thể hoạt động trở lại.
Có thực phẩm ăn no đủ, con người không còn, hay vơi ít cảm thấy sự bực tức nôn nao sợ hãi. Qua đó sự thất vọng bị đè ấn xuống ra đàng sau, sang ra một bên, và sự thiếu vắng hay ít tình yêu thương cũng được bù đắp lại cho quân bình.
Thức phẩm làm đầy bao tử luôn là nhu cầu cho đời sống con người. Chúng đẩy xa lùi sự thất vọng, sự sợ hãi, tức giận và cả sự ganh tỵ, dù chỉ tạm thời.
Đối diện với cạm bẫy cám dỗ về nhu cầu ăn uống cho thân xác con người, Chúa Giêsu Kitô đã quan tâm hướng đến khía cạnh khác: đời sống tinh thần.
Vì thế Ngài đã trả lời cho thách thức cám dỗ đó: “ Đã có lời ghi chép rằng:Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ lời từ miệng Thiên Chúa phán ra nữa!
Với những lời tâm linh là phương thế chống trả cám dỗ thách thức do ma qủi bày ra, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh nói đến sự sống con người phần thân xác cũng như tinh thần là do Thiên Chúa tạo thành ban cho. Con người được dùng thực phẩm ăn uống cho no đủ. Nhưng trong mức độ chừng mực. Không được lạm dụng dùng thực phấm làm mục đích để thỏa mãn, để muốn quên hay đẩy xa khía cạnh đời sống tinh thần linh hồn ra một bên.
Ma qủi bày cám dỗ thứ hai cho Chúa Giêsu về quyền lực và của cải: Ma qủi hứa trao cho Chúa Giêsu tất cả vinh quang giầu sang của thế giới, nếu Ngài phủ phục bái lạy chúng!
Cạm bẫy cám dỗ này hằng thời sự trong đời sống con người. Quyền hành, vinh quang giầu sang lợi lộc thường làm mờ mắt tâm trí con người, và con người dễ nhanh chóng nhượng bộ, bán rẻ nếp sống tinh thần danh dự (linh hồn) cho cạm bẫy cám dỗ loại thứ này. Những cám dỗ thử thách về quyền hành, vinh quang lợi lộc cho riêng mình luôn hằng xảy diễn ra trong mọi lãnh vực đời sống đạo cũng như phần đời nơi con người trần gian.
Con người bị lôi kéo vào vòng này mà nhiều khi không biết chú ý đến. Tâm tính con người hay hướng chiều làm sao để không chỉ đạt nắm giữ quyền hành địa vị, giàu sang phú qúi, nhưng còn muốn xây dựng củng cố mở rộng ra thêm nữa. Và như thế tiếng nói lương tâm bị đẩy lui dập tắt.
Quyền hành, vinh quang lợi lộc vật chất nơi trần gian không là sự việc của Chúa Giêsu. Sứ mạng của Chúa Giêsu trên trần gian hướng đến khía cạnh đời sống tinh thần linh hồn con người.
Chúa Giêsu đã có phản ứng chống trả cạm bẫy cám dỗ đó của ma qủi với chỉ dẫn nghiêm ngặt : không phải tiền bạc của cải vật chất, địa vị sức mạnh quyền thế là trung tâm cùng đích đời sống con người. Những điều đó không là thứ thần thánh. Những thứ đó nay còn, ngày mai mai một tan biến.
Duy chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi, Đấng là khởi đầu và trung tâm cùng đích đời sống, con người phải hướng đến tôn thờ bái lạy kính mến: “ Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa của người, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.”
Ma qủi lại bày ra cạm bẫy nữa để cám dỗ Chúa Giêsu: lòng kiêu căng muốn thử thách Thiên Chúa.
Trong đời sống con người, phần đời cũng như phần đạo, hằng vướng vào tâm trạng muốn được đề cao nổi tiếng, có khả năng xuất chúng vượt trội hơn người làm được những điều ngoạn mục, là người được hoan hô tôn vinh đứng ở trên sân khấu đàng trước nơi vị trí trung tâm.
Vì thế ma qủi bầy ra cạm bẫy thử thách Chúa Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống (từ trên cao nóc đền thờ Jerusalem). Vì có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn.”.
Chúa Giêsu nhìn ra âm mưu thâm độc của ma qủi, nên Ngài chống trả mãnh liệt bằng những lời răn đe quyết liệt nghiêm nghị: “ Người chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.”
Phương thế Chúa Giêsu dùng để chống trả cạm bẫy cám dỗ rất tinh vi do ma qủi gài bẫy bày ra là phương thức tâm linh để chống chọi lại khía cạnh vật chất ma qủi nhử bày ra.
Phương thức tâm linh nói lên sự trung thành với Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, là khởi đầu và cùng đích đời sống con người về phần thân xác cũng như tinh thần linh hồn.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh từ bụi đất
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào ngày thứ Tư lễ Tro bắt đầu mùa chay, năm nay vào ngày 02.03.2022, người tín hữu Chúa Kitô nhận lãnh chút tro rắc trên trán hay trên đỉnh đầu.
Khi cử hành nghi thức xức tro, vị chủ tế đọc:” Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, và sẽ trở về bụi tro!
Lời Kinh Thánh này là lời của Thiên Chúa nói với Ông bà nguyên tổ Adong-Evà, sau khi Ông Bà phạm lỗi luật Thiên Chúa cấm ăn qủa của cây biết lành biết dữ: “ Con người là bụi đất, và sẽ trở về bụi đất.” ( Sách Sáng Thế 3,19).
Vậy đâu là hình ảnh con người được tạo thành từ bụi đất?
Kinh Thánh thuật lại sự sáng tạo con người: “ Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật .” ( Sách Sáng Thế 2,7).
Hơi thở của Thiên Chúa là thần khí của Ngài làm nên con người. Nhờ thế hình hài thân xác cùng với tinh thần trí tuệ, ý chí con người có sự sống và sự phát triển.
Trong dòng thời gian từ ngày đó, con người được Thiên Chúa phú ban cho khả năng sinh truyền. Mầm sự sống được Thiên Chúa gieo cấy khắc ghi vào cơ thể của người nam và nữ. Khi hai mầm sự sống nam ( dương) và nữ ( âm) này tác hợp nối liền với nhau, sẽ nảy sinh ra sự sống một con người mới.
Đây quy trình tự nhiên của Đấng Tạo Hóa đã tạo lập ra, để cho giống nòi con người cũng như các loài thú động vật, và thảo mộc cây cỏ được tiếp tục truyền sinh phát triển trên mặt đất do Thiên Chúa sáng tạo cùng nuôi dưỡng.
Con người, theo Kinh Thánh viết tường thuật, được Thiên Chúa tạo thành hình hài từ đất không trong ý nghĩa coi thường khinh chê, là vật hèn hạ. Nhưng nói lên ý nghĩa căn bản thâm sâu hơn: sự khiêm nhường và sự an ủi.
Khía cạnh sự khiêm nhường nói lên con người không phải là Thiên Chúa. Con người không tự mình làm tạo ra mình. Con người không làm được tất cả, và đời sống con người có giới hạn. Con người luôn luôn là loài thụ tạo sống động, và phải trải qua cảnh tuổi gìa, sức yếu và ngày chấm dứt tận cùng cuộc sống hành trình trên trần gian. Không con người nào có thể thoát khỏi cảnh phải qua đời.
Dẫu vậy con người cũng nhận được sự an ủi: con người không phải là loài ma qủy thần sự dữ. Con người không được tạo thành từ những quyền lực sức mạnh tiêu cực. Nhưng từ đất tốt lành do Thiên Chúa tạo dựng nên.
Trong dòng lịch sử trải qua mọi thời đại với nhiều nền văn hóa lịch sử khác nhau, nhưng sau cùng con người cũng vẫn là thụ tạo do Thiên Chúa tạo thành từ đất.
Dù là bậc vua chúa quyền thế chức vị, người giầu sang, người gặp may mắn, người nghèo khó, đau khổ gặp bước đường bất hạnh, người có tâm trí sáng suốt thông minh, hay người yếu kém, người có sức khoẻ mạnh to lớn hay người yếu đau bệnh tật…Tất cả đều là công trình được tạo thành từ đất do Thiên Chúa tạo dựng nên.
Cho dù xưa nay trong dòng lịch sử nhân loại có nhiều cơn khủng hoảng, nhất là về bệnh dịch, như lúc này đại dịch do vi trùng Corona gây ra, đang hoành hành gây bện nạn yếu đau cùng tử vong trên toàn thế giới. Nhưng con người vẫn luôn là một công trình được tạo thành từ đất và sau cùng trở về thành (bụi) đất.
Tất cả con người nam hay nữ đều được tạo thành từ một đất tốt lành của Thiên Chúa. Không có những máu và vùng nền, chủng loại giai cấp khác nhau, như những chuyện thần thoại, hay nơi nhiều tôn giáo và những lý thuyết về nhân sinh quan thế giới theo ý thức hệ luận, đặt ra những truyền thuyết phân biệt khác nhau trong dòng thời gian xưa nay.
Nhận lãnh chút tro trên trán, trên đỉnh đầu ngày đầu mùa Chay hằng năm nói lên lòng chân thành muốn chân nhận con người luôn cần có Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên mình từ đất, hằng đồng hành ở bên cạnh.
Và như thế con người mong muốn trở về với nguồn tình yêu thương, nguồn sinh khí hơi thở sự sống bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa, để có được sự tha thứ và chúc lành bình an.
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Hình ảnh lòng thương xót
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong nếp sống đạo đức có kinh nguyện “Thương người có 14 mối”. Kinh nguyện lòng thương xót này nhắc nhớ đến nghĩa vụ lòng bác ái tình liên đới giữa con người với nhau qui hướng về hai khía cạnh đời sống: thân xác và tinh thần linh hồn con người:
Thương xác bảy mối:
Thứ nhất: Cho kẻ đói ăn
Thứ hai: Cho kẻ khát uống
Thứ ba: Cho kẻ rách rưới ăn mặc
Thứ bốn: Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc
Thứ năm: Cho khách đỗ nhà
Thứ sáu: Chuộc kẻ làm tôi
Thứ bảy: Chôn xác kẻ chết
Thương linh hồn bảy mối:
Thứ nhất: Lấy lời lành mà khuyên người
Thứ hai: Mở dậy kẻ mê muội
Thứ ba: Yên ủi kẻ âu lo
Thứ bốn: Răn bảo kẻ có tội
Thứ năm: Tha kẻ dể ta
Thứ sáu: Nhịn kẻ mất lòng ta
Thứ bảy: Cầu cho kẻ sống và kẻ chết
Xưa nay hễ có thiên tai, tai nạn, chiến tranh xảy ra nơi nào trên thế giới, các cơ quan chính phủ cũng như tôn giáo đều kêu gọi mọi người rộng lượng cùng chung tay giúp đỡ những người bị vướng vào hoàn cảnh bất hạnh ở những nơi đó.
Cung cách này thể hiện sâu xa lòng bác ái tình liên đới chiều ngang đường chân trời giữa con người với nhau trong xã hội, và lòng đạo đức chiều thẳng đứng hướng lên Thiên Chúa trên trời cao.
Cung cách sống này diễn tả sự kính trọng nhân phẩm, thân xác sự sống con người, mà Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá tạo dựng ban cho mỗi người.
Cung cách sống này nói lên lòng biết ơn nhau. Vì trong qúa khứ đã được người khác giúp đỡ cách này cách khác rồi.
Cho người đói ăn, cho người khát uống, cho người rách rưới ăn mặc không chỉ che đậy hay muốn xoá đi sự nghèo khổ của người bị nạn lớp bề mặt bên ngoài, nhưng còn sâu xa hơn. Đó là khám phá sự sống nơi người đó, một tặng vật cao qúi của Trời cao ban cho.
Đi thăm viếng người bệnh mang đến cho người bệnh chút an ủi niềm vui nói lên họ không một mình chịu đựng đau đớn.
Thăm viếng người bệnh còn muốn nói lên sự quan tâm đến họ nhiều hơn là miếng vải băng đậy vết thương, chút dầu thoa vết thương ngoài da…Sự sống cao qúi hơn tất cả.
Thăm viếng người bệnh nhìn ra nhu cầu cùng sự yếu đau của người bệnh, cùng mang đến cho họ niềm hy vọng.
Những việc làm như thế được Kinh Thánh đặt tên là lòng thương xót, mà Chúa Giêsu nói đến trong Phúc âm ( Lc 6, 27-38).
Lòng thương xót giữa con người với nhau diễn tả hình ảnh cùng đồng hành với trong đời sống, mang lại cho nhau tình yêu thương niềm hy vọng.
Mẹ Thánh Teresa thành Calcutta thuật lại mẩu chuyện sống động về lòng bác ái tình liên đới yêu thương của một đôi vợ chồng trẻ.
“ Ở Calcutta một đôi vợ chồng trẻ đến gặp tôi, và trao cho một số tiền lớn để chung góp vào giúp người nghèo. Vì nhà chúng tôi một mình phải hằng ngày lo cho 9.000 người ăn.
Tôi cám ơn họ và hỏi lại: Làm sao các Bạn có thể có món tiền nhiều như vậy ?
Họ trả lời” Trước đây hai ngày chúng tôi thành hôn với nhau. Nhưng trước đó chúng tôi đã thỏa thuận không tổ chức tiệc cưới ăn mừng. Thay vào đó hai chúng tôi muốn thực hiện một nghĩa cử dấu chỉ nói lên tình yêu của chúng tôi với những người khác. Và chúng tôi mang số tiền này cho nhà của Mẹ.”
Ôi thật là một nghĩa cử quảng đại của tâm hồn rộng lớn chan chứa tình người!
Tôi hỏi thêm: “ Nhưng tại sao các Bạn lại làm như thế?”
Họ trả lời:” Chúng tôi yêu chúng tôi sâu đậm, nên chúnng tôi mong muốn cùng chia xẻ với những người khác, đặc biệt với những người mà Mẹ và chị em phục vụ giúp đỡ họ."
Ôi thật lạ lùng thay!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh được chúc phúc
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đời sống con người xưa nay hằng luôn cần có nhu cầu cần được chúc phúc.
Cha mẹ cảm thấy mình được chúc phúc, khi họ tìm gặp thành lập gia đình với nhau, nhất là khi họ được Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá ban cho có con. Con cháu là chúc phúc lành của Trời cao ban cho gia đình.
Con cháu nhận được chúc phúc lành ngay từ lúc còn thơ bé và trong suốt dọc đời sống từ cha mẹ mình qua sự sinh thành nuôi dưỡng, đào tạo giáo dục, mà cha mẹ vun xới xây dựng cho đời sống mình.
Chúc phúc lành mang đến cho đời sống hạnh phúc niềm vui, sức khoẻ mạnh. Chúc phúc lành hiển thị trong đời sống nơi thân xác và cùng trong tâm hồn tâm linh tinh thần.
Chúa Giêsu Kitô trong bài giảng mở đầu giáo lý - xưa nay gọi là Hiến chương nước trời, hay bài giảng Mối phúc thật - đã đề cập đến được chúc phúc lành. Nhưng bài giảng giáo lý đó diễn tả theo hai khía cạnh một bên bóng tối và một bên ánh sáng: phần bên ngoài thân xác thì phải hy sinh chịu đựng, nhưng phần đời sống tâm linh tinh thần lại được chúc phúc lành.
"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi.
Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy.
Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười.
Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương.
Ngày ấy, các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.” ( Lc 6, 20-23).
Trong đời sống đâu có ai muốn sự đau khổ, cảnh phải sống chịu đựng, hy sinh căng thẳng Nhưng điều đó lại gắn liền với đời sống con người.
Và trong suốt dọc đời sống, hầu như ai cũng đều có kinh nghiệm cảm nhận đời sống về sự căng thẳng, hy sinh chịu đựng, đau khổ càng to nhiều bao nhiêu, niềm vui đến tiếp sau đó cũng to lớn gấp lên theo, càng thâm sâu ý nghĩa nhiệm mầu hơn.
Cha mẹ nào cũng vui mừng chờ đợi ngày người con trong mình chào đời. Nhưng trước đó nhất là người mẹ đã phải hy sinh chịu đựng đau khổ về phần thân thể rất nhiều. Nhưng khi người con mở mắt cất tiếng khóc chào đời khoẻ mạnh, niềm vui mừng trào dâng từ trong tâm hồn cha mẹ hiển thị ra nơi đôi mắt với những giọt nước mắt hạnh phúc nhiệm mầu thần thánh. Người mẹ quên đi những hy sinh đau khổ chịu đựng trước đó. Chị cảm thấy được chúc phúc lành qua sự sống thân thể hình hài người con là tác phẩm tình yêu của tâm hồn cung lòng chị, mà Trời Cao chúc phúc ban cho.
Một người mẹ thuật lại khi con chị bị bệnh phải giải phẫu nơi bộ óc. Chị căng thẳng hồi hộp sống lo lắng bất an chờ đợi bên ngoài. Sau cuộc giải phẫu vừa phức tạp vừa kéo dài lâu em bé nằm bất tỉnh hôn mê. Đây là những giờ phút cực kỳ căng thẳng cho người mẹ, cho người cha, cho thân nhân gia đình. Vì họ phải trong hồi hộp chờ đợi xem em bé có tỉnh thức lại không...
Nhưng sau hơn 08 tiếng đồng hồ hôn mê, em bé bỗng mở mắt thức dậy kêu gọi mẹ, gọi cha... Gia đình canh thức bên giường bệnh vui mừng bật òa trong tiếng khóc hạnh phúc, nhất là nơi người mẹ. Giây phút thần thánh nhiệm mầu là chúc phúc lành cho em bé hồi sinh sống lại, cùng cho cả gia đình thể hiện đổ xuống trên họ. Tất cả người nhà thở ra nhẹ nhàng trong dòng nước mắt vui mừng thần thánh lăn chảy từ đôi khoé mắt xuống trên đôi gò má mệt mỏi, vì đã sống trải qua trong lo âu căng thẳng khủng hoảng…Thân nhân họ hàng ngậm ngùi trong vui mừng hạnh phúc đốt thắp cây nến dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, Trời cao vì ân đức chúc lành này.
Mẹ Thánh Terexa thành Calcutta khi xưa lúc còn sinh tiền đã viết thuật lại ngày vui mừng hạnh phúc nhất trong đời mình: ngày 03.02.1986. Khi đó đức thánh cha Gioan Phaolo đệ nhị tông du thăm nước Ấn Độ, mẹ Teresa đã mời ngài đến thăm ngôi nhà Nirmal Hriday dành cho những người hấp hối. Đức thánh cha được mẹ Teresa dẫn đến thăm những người bệnh nằm hấp hối, ngài yên lặng ngắm nhìn từng người và không cầm được lòng xúc động đến nỗi để cho dòng nước mắt chẩy trào ra bên ngoài. Có thể Đức Thánh Cha đã nhìn tận mắt nơi đây trong ngôi nhà Nirmal Hriday cảnh thương tâm của con người và đồng thời chúc phúc lành tình yêu của Thiên Chúa. Và ngài đã nhận ra tin mừng chúc lành của Chúa được loan báo rao giảng cụ thể trong ngôi nhà này?
Đức Thánh cha rất xúc động. Và sau cuộc thăm viếng ngài đã có những lời suy tư tâm huyết sâu xa nói với các chị em Nữ Tu phục vụ các người hấp hối trong ngôi nhà này:” Nirmal Hriday là nơi chốn của niềm hy vọng. Ngôi nhà này được xây dựng thành hình trên nền tảng sự can đảm và đức tin. Đó là không gian căn phòng của tình yêu thương ngự trị. Nirmal Hriday loan báo nhân phẩm sâu thẳm nhất của bản chất con người.
Nơi đây hình ảnh sự chăm sóc tràn đầy tình yêu thương âu yếm đùm bọc cho con người được thể hiện rõ ràng cụ thể. Điều này làm chứng rằng gía trị của mỗi sự sống con người không đo lường lệ thuộc vào thành tích cùng khả năng, cùng không dựa theo sức khoẻ hay bệnh tật, cũng không theo tuổi tác, nguổn gốc hay mầu da.
Nhân phẩm con người do Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, tạo thành ban cho. Ngài đã tạo thành con người giống hình ảnh Ngài. Nhân phẩm giá trị này không bao giờ có thể bị tước đoạt phá hủy. Đó là điều cao cả thiêng liêng không thể bóp méo uốn nắn ra khác được. Trong con mắt nhìn của Thiên Chúa con người luôn luôn có gía trị cao qúi.”
Hình hài thân thể con người, nhân phẩm sự sống con người là chúc phúc lành của Thiên Chúa, dù con đường đời sống trải qua những giai đoạn lên xuống, phải hy sinh chịu đựng đau khổ.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh niềm vui ơn cứu độ
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong kinh cầu Đức mẹ Maria có câu ca ngợi:” Đức Bà làm cho chúng con vui mừng.”
Con người xưa nay ai cũng có nhu cầu cần có niềm vui cho đời sống tinh thần cùng cho thể xác được bằng an khoẻ mạnh.
Thiên Chúa, Đấng tạo dựng cùng nuôi sống con người là nguồn ban ân đức niềm vui, nhưng đức mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa, theo lòng tin tưởng, là người mẹ phù hộ cho con người rất đắc lực bên ngai tòa Thiên Chúa.
Hang đá Đức Mẹ Lourdes
Đức mẹ Maria đã hiện ra với thiếu nữ Bernadette ở hang động vách núi đá Massabielle từ ngày 11. 02. đến 16.07.1858 ở thành phố Lourdes bên nước Pháp
Hang động này thời Bernadette sinh sống dơ bẩn, tối tăm, ẩm ướt và lạnh. Người ta gọi hang động này là một loại chuồng heo. Vì người dân ở đây thường dẫn heo ra ăn cỏ và tắm.
Nhưng Đức mẹ Maria, đấng tinh tuyền vẹn sạch không vướng mắc tội tổ tông truyền đã chọn nơi hang động dơ bẩn này hiện ra với thiếu nữ Bernadette. Tại sao?
Hai hình ảnh, hai sự kiện trái ngược nhau, có thể nói như ánh sáng với bóng tối, như trắng với đen, trong sạch với dơ bẩn...
Điều này nói lên Thiên Chúa qua Đức Mẹ Maria với trái tim lòng yêu mến muốn đến gặp gỡ con người chúng ta trong tình trạng bơ vơ khốn quẫn, vì tội lỗi khiếm khuyết trong đời sống.
Hang núi Lourdes, nơi Đức Mẹ hiện ra, không phải chỉ là nơi chốn hình thể địa lý. Nhưng còn là nơi theo ý nghĩa tâm linh, Thiên Chúa tỏ cho con người dấu chỉ Ngài hằng yêu thương con người, dù thế nào đi chăng nữa.
Hang đá Lộ Đức cũng là nơi Thiên Chúa gửi cho con người sứ điệp: Ngài đến với con người, Ngài yêu mến đời sống con người với thành công và cả với những vết thương đau khổ, bệnh nạn, những đổ vỡ, những dơ bẩn trong đời sống, những hạn chế giới hạn của con người. Và qua đó Ngài ban sức khỏe niềm vui thể xác cũng như tinh thần cho con người.
Nguồn nước ơn chữa lành mang đến niềm vui.
Tin tưởng vào lòng nhân lành của Thiên Chúa, nhờ lời bầu cử của Đức Mẹ, nên xưa nay hàng triệu người đi hành hương sang kính viếng Đức Mẹ bên Lourdes. Đến đây khách hành hương xếp hàng chờ tới phiên vào trầm mình tắm nơi buồng bể nước tuôn chẩy ra từ nguồn suối nơi núi hang đá, xin ơn chữa lành. Và hầu như ai cũng mang bình to nhỏ hứng nước ở những vòi nước chẩy ra từ hang đá Đức mẹ hiện ra. Hứng nước đem về nhà, và rửa mặt cùng uống nữa không chỉ cho nhu cầu giải khát và sức tươi mát tỉnh táo thân thể chân tay da mặt lúc trời nóng. Nhưng cùng với lòng tin xin ơn đức cho khoẻ mạnh tinh thần cùng thể xác nhờ lời bầu cử của Đức mẹ.
Trầm mình, lấy đôi bàn tay rửa mặt và uống nước Đức mẹ Lourdes nhắc nhớ đến làn nước Bí Tích rửa tội đã lãnh nhận ngày xưa lúc còn thơ bé. Làn nước rửa tội tẩy rửa tội nguyên tổ và mang đến cho tâm hồn đức tin vào Thiên Chúa.
Làn nước Đức mẹ Lourdes cũng nhắc nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa đã tuôn chảy từ trái tim cạnh sườn Chúa Giêsu, khi Ngài bị treo trên thập gía và bị người lính dùng lưỡi giáo đâm thâu thủng cạnh sườn. Làn nước ơn cứu chuộc từ trái tim Chúa Giêsu.
Khi lấy nước suối Lourdes rửa mặt như thế, người làm muốn nói lên tâm tình lòng đạo đức: Lạy Chúa, xin nhìn xem cung cách sống của con cần tình yêu của Chúa như thế nào cho đời sống con. Không có nước, sự sống không có thể phát triển cùng tồn tại được. Cũng vậy đời sống con trở thành mất ý nghĩa, khi không có Chúa! Ân đức của Thiên Chúa là nguồn niềm vui cho đời sống.
Khách hành hương Đức mẹ Lourdes còn đến đốt thắp lên cây nến nguyện cầu xin ơn nhờ lời bầu cử của Đức mẹ Maria. Thắp sáng cây nến cháy nơi thánh điạ còn muốn nhắc nhớ đến cây nến rửa tội năm xưa của mình lúc còn thơ bé. Và qua đó còn muốn lời cầu khấn của mình được tỏa ra từ trong trái tim tâm hồn: Lạy Chúa, ngày xưa khi nhận lãnh cây nến rửa tội thắp sáng từ ngọn lửa cây nến Chúa Giêsu phục sinh. Chúa Giêsu là ánh sáng soi đường cho đời sống tâm linh đức tin của con, và Chúa cho con trở nên người bạn của Chúa. Con trở thành người mang ánh sáng của Chúa trong đời sống. Con cám ơn Chúa. Xin ánh sáng Chúa soi chiếu chữa lành những vết thương tâm hồn cùng thể xác, ban cho con niềm vui.
Ngày thế giới bệnh nhân
Từ 1993 Đức Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã lấy ngày 11.Tháng Hai hằng năm, ngày lễ kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra ở Lourdes, là ngày cầu nguỵện cho các bệnh nhân - Ngày thế giới bệnh nhân -
Trong đời sống xã hội, xưa nay con người hằng ra công gắng sức nghiên cứu tìm chế biến những thuốc trị bệnh giúp chữa trị bệnh nạn, phục hồi sức khoẻ cho người bị mắc bệnh.
Chúng ta vui mừng cám ơn những nỗ lực đầu tư đó mang đến những tiến bộ thành công to lớn giúp con người xưa nay rất hữu ích, rất nhiều. Và nhờ những công trình nghiên cứu như thế tình trạng chăm sóc y tế sức khoẻ con người càng có nhiều phát minh, giúp đời sống con người khoẻ mạnh và tiến bộ thêm. Và con người cũng luôn cần có nhu cầu được chăm sóc, nhất là lúc lâm bệnh nạn đau yếu tật nguyền.
Từ hai năm nay, nhân loại sống trong khủng hoảng, vì bệnh đại dịch Covid 19 đe dọa sức khoẻ cùng các sinh hoạt đời sống. Trên thế giới đã có gần 400 triệu người bị lây nhiễm vi trùng đại dịch Corona. Và vi trùng đại dịch này đã tàn phá hủy họai sự sống của hơn 05 triệu 7 trăm ngàn người khắp năm châu lục. Nên nhu cầu mong mỏi được chữa lành bệnh càng thời sự cần thiết hơn lúc nào trên khắp hoàn vũ. Họ mong mỏi mau thoát khỏi cảnh bị sống chìm ngập trong hoảng sợ, trong đau buồn. Các nhà khoa học hằng nỗ lực khảo nghiệm chế biến những phương thuốc chủng ngừa trị liệu cho con người có bình an sức khoẻ niềm vui trở lại, cùng tiêu diệt vi trùng đại dịch nguy hiểm này.
Đức Thánh cha Phanxicô kêu gọi mọi tín hữu Chúa Kitô tin tưởng sức cầu xin Thiên Chúa, nguồn sự sống, nguồn ơn chữa lành cứu giúp nhân loại công trình tạo dựng của Ngài. Và năm nay đức thánh cha nhấn mạnh đến nhu cầu tình liên đới mang lại niềm vui cho người bị bệnh tật:
“Mặc dù ngày nay khoa học tiến bộ, hỗ trợ rất nhiều cho việc điều trị chăm sóc, nhưng Đức Thánh Cha nhắc nhở: “Tất cả những điều này không bao giờ làm cho chúng ta quên đi tính độc nhất của mỗi bệnh nhân, với phẩm giá và yếu đuối của họ. Bệnh nhân luôn quan trọng hơn căn bệnh của họ, và vì lý do này, mà mọi phương pháp điều trị không được bỏ qua bệnh sử, tiền sử, lo lắng của bệnh nhân.
Ngay cả khi không thể chữa khỏi, nhân viên y tế luôn có thể an ủi, tạo cho bệnh nhân cảm giác gần gũi, thể hiện sự quan tâm. Vì lý do này, tôi hy vọng các khóa đào tạo nhân viên y tế có thể tạo ra khả năng lắng nghe và chiều kích tương quan”.(Sứ điệp của đức thánh cha Phanxico ngày thế giới bệnh nhân 2022)
Trong dòng thời gian từ 1858 đến nay, người tín hữu Chúa Kitô, hành hương sang hang đá Đức mẹ Lourdes cầu xin ơn chữa lành bệnh nạn tinh thần cũng như thể xác không chỉ là nhu cầu khẩn thiết cho riêng đời sống con người của mình.
Nhưng cung cách sống đạo đức tin đó còn nói lên lòng tin sâu thẳm vào Thiên Chúa, cùng lòng yêu thương muốn bảo vệ gìn giữ món qùa tặng cao qúi thiên nhiên mà Thiên Chúa ban cho nhân loại: con người và sức khoẻ.
Lễ Đức Mẹ Lourdes 11.02.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh về Thiên Chúa
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Con người do Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa tạo dựng ban cho sự sống cùng quan phòng nuôi dưỡng, như cha mẹ. Nhưng không ai nhìn thấy Ngài bằng chính con mắt.
Trái lại đó đây trong các thánh đường đền đài nơi thờ phượng tôn kính, cả ở nơi nhà riêng đều có những hình tượng về Thiên Chúa, như tượng hình Thiên Chúa ba ngôi, tượng hình Chúa Giêsu Kitô, Đức mẹ Maria cùng các Thánh.
Trong Kinh Tjánh từ thời thánh tiên tri Mose xa xưa có luật cấm tạc vẽ hình tượng Thiên Chúa
“ Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ.” ( Sách Xuất Hành 20,4, Sách Đệ nhị Luật 5,8).
Vì thế nơi Hội Đường Do Thái Giáo không có hình tượng tranh ảnh về Thiên Chúa. Nhưng chỉ có cuộn sách Tora Kinh Thánh Cựu Ước trên nơi cung thánh.
Vì nghĩ tin tưởng rằng Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, qúa to lớm vượt qúa khỏi tầm suy hiểu của trí khôn con người. Và như thế con người không thể thu gọn Ngài nơi một hình ảnh hay bức tượng hay một hình ảnh biểu tượng nào.
Dẫu vậy hình ảnh về Thiên Chúa cũng tìm thấy trong Kinh Thánh qua ngôn ngữ chữ viết.
Ngôn sứ Isaia đã diễn tả hình ảnh về Thiên Chúa đầy uy phong quyền năng thần thánh như một vị Vua, trong thị kiến, khi Thiên Chúa kêu gọi ông sai đi làm Ngôn sứ ở đền thờ Jerusalem. ( Isaia 6,1-2, 3-8).
Bằng ngôn từ vẽ diễn tả Thiên Chúa nơi hoàng cung trên trời cung giống tựa như một hình ảnh vị hoàng đế nơi trần gian ở cung đình vua chúa. Thiên Chúa là vị Vua của thế giới hoàn vũ có tên là Giave. Sức mạnh uy quyền vinh quang của Ngài vượt qua khỏi mọi khung hình nơi chốn trên mặt đất. Sự xuất hiện của Thiên Chúa Giavê phủ kín tràn đầy cả đền thờ.
Ngôn từ biểu tượng hình ảnh này nhắc nhớ đến hình ảnh tượng các vị Vua Pharao bên xứ nước Aicập thời cổ xưa. Hình tượng các vị Vua Pharao được khắc vẽ tạc có hình con rắn thần Ureus với đôi cánh làm biểu tượng bảo vệ cho triều thiên vương miện vua, và cũng bảo vệ cả cung vua. Hình ảnh này không chỉ phổ biến bên nước Aicập, nhưng còn cả ở bên nước Do Thái cũng được biết đến ngay từ thời Ngôn sứ Isaia.
Lời tung hô ca hát Thiên Chua Giave là Đấng Thánh, mà Ngôn sứ Isaia nghe trong thị kiến do các Thần Sốt Mến ( Serafin) ca hát, ngày nay trong nghi lễ Misa được dùng hát lên long trọng ca tụng Thiên Chúa.
"Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, toàn thể địa cầu đầy vinh quang Chúa". Các nền nhà đều rung chuyển trước tiếng tung hô, và nhà cửa đều đầy khói.”
Hình ảnh Các Thiên Thần Serafin với đôi cánh đứng qùi trước ngai Thiên Chúa trên trời ca hát ca ngợi Thiên Chúa diễn tả sự uy hùng Thánh thiêng của Thiên Chúa uy linh cao cả. Và đôi cánh của họ cũng diễn tả sự bảo vệ Thiên Chúa uy linh cao cả trước những tấn công của thần dữ.
Ngày nay người tín hữu Chúa Giêsu Kitô hát chúc tụng Thiên Chúa, như các Thiên Thần Serafin trên trời thi hành, không phải để bảo vệ Thiên Chúa, nhưng để xin được bảo vệ từ Thiên Chúa cho đời sống mình.
Ca ngợi sự thánh thiêng nhiệm mầu của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa vô hình, không phải để nói lên sự uy hùng cao xa diệu vợi của Ngài.
Nhưng muốn nói lên tâm tư suy hiểu tin tưởng rằng Thiên Chúa là người mẹ đầy tình yêu thương che chở đùm bọc, là người cha hằng quan tâm lo lắng cho người con, là người mục tử nhân lành lo cho sự no đủ, sức khoẻ của đoàn vật.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hình ảnh đời sống bước sang năm mới
- Hình ảnh tín hiệu mùa Xuân Nhâm Dần
- Hình ảnh đời sống hợp nhất
- Hình ảnh tiệc cưới Cana
- Hình ảnh ơn kêu gọi qua phép rửa
- Hình ảnh qùa tặng của ba nhà Chiêm Tinh
- Hình ảnh cánh cửa năm mới
- Hình ảnh ngày cuối năm bên hang đá Chúa giáng sinh
- Hình ảnh đêm thánh vô cùng
- Hình ảnh người mục đồng đêm Chúa sinh ra