Hình ảnh Giáo Hội Công giáo nước Đức 2020
- Viết bởi Dân Chúa
Giáo Hội Công giáo nước Đức là một trong những Giáo hội Công giáo bên Âu Châu có bề dầy lịch sử từ hơn 10 thế kỷ nay. Và được biết đến là một Giáo Hội có khoa nghiên cứu về thần học, về kinh thánh sâu sắc cùng tiến bộ phát triển mạnh, nhất là từ thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Nhưng bên cạnh đó cũng có những hình ảnh tiêu cực. Hệ thống luật lệ pháp lý xã hội cho phép người tín hữu có quyền ra toà án nộp đơn chính thức xin từ bỏ ra khỏi Giáo hội. Chính vì thế số người xin ra khỏi sinh hoạt Giáo Hội hằng năm xưa nay luôn có ít hoặc nhiều, mà ngôn ngữ truyền thông cho họ là những người quay lưng lại với Giáo Hội.
Lý do xin ra khỏi Giáo hội có nhiều, như tiết kiệm không muốn đóng thuế nhà thờ theo như luật lệ xã hội qui định, xa lạ không muốn sinh hoạt chung trong cộng đồng Giáo Hội nữa, bất mãn với Giáo hội địa phương hay cả với giáo lý chung của Giáo hội…
Họ quay lưng ra khỏi Giáo hội trên mặt pháp lý giấy tờ và Giáo Hội tôn trọng quyền của họ. Hệ qủa là họ không còn được hưởng quyền lợi về các việc mục vụ của Giáo hội nữa, như lãnh nhận các Bí Tích. Dẫu vậy Giáo hội vẫn mở rộng vòng tay, mở cánh cửa đón nhận họ trở lại vào tiếp tục sinh hoạt nếp sống đức tin trong ngôi nhà chung của Giáo hội, khi họ muốn.
Không chỉ số người tín hữu ra khỏi Giáo hội làm hình ảnh Giáo hội lu mờ yếu kém ít đi, nhưng số người tín hữu thực hành tiếp nhận các Bí Tích cũng trên đà suy giảm cũng góp phần làm hình ảnh Giáo hội lu mờ yếu kém thêm.
Theo thống kê vừa được công bố ngày 14.07.2021, trong nước Đức có 22.193.347 người Công giáo, chiếm tỷ lệ 26,7 % dân số toàn nước Đức.
Các Giáo phận ở đây đang dần dần đề ra con đường mục vụ mới thu gọn nhiều xứ liền sát lại với nhau thành một cụm liên giáo xứ cho việc mục vụ, bây giờ còn 9.858 Giáo xứ.
Số Linh mục tổng cộng có 12.565 vị - Năm 2019 có 12.983 vị. Năm 2020 có 56 tân linh mục gồm cả Linh mục triều và Dòng.
Ngoài ra còn có 3.245 Phó Tế vĩnh viễn cùng chung lo việc mục vụ ở các giáo xứ.
Giáo hội Công giáo nước Đức còn có hai cấp người giáo dân gồm cả phụ nữ và đàn ông cùng chung làm việc với Linh mục, với Phó tế nơi các Giáo xứ việc dậy giáo lý hay lo việc bác ái: Cấp 1. hiện có 3245 người, Cấp 2. hiện có 4.426 người. Họ là những người có trình độ học thần học, kinh thánh, giáo luật bậc đại học chuyên môn như các linh mục.
Họ không có chức thánh Phó tế hoặc chức Linh mục. Nhưng họ được Giáo hội tuyển chọn, ủy nhiệm sai đi làm công việc mục vụ nơi các Giáo xứ cùng chu cấp nhà ở và lương bổng hằng tháng, như những người làm ngành nghề chuyên môn.
Cũng theo thống kê năm 2020 vì đại dịch Corana lây lan truyền nhiễm làm ngưng trệ giới hạn cả nếp sống thực hành các nghi lễ nơi thánh đường, nên có sự suy giảm nhiều về :
- Số người tín hữu tham dự thánh lễ ở thánh đường chỉ còn 5,9 phần trăm - năm 2019 là 9,1 phần trăm.
- Số người chịu Bí Tích Hôn phối là 11.018 đôi- năm 2019 là 38.537 đôi.
- Số trẻ em nhận Bí tích Rửa tội 104.610. - năm 2019 có 159.043 em.
- Số bạn trẻ Rước lễ lần đầu 139.752 em - Năm 2019 có 481 em.
- Số đám an táng người qua đời là 236.546 - năm 2019 có 233.937 đám an táng.
- Số người xin vào đạo Công giáo 1.578 người - Năm 2019 có 2.330 người.
- Số người sau khi đã ra khỏi Giáo hội xin trở lại vào Giáo hội 4.358 người - Năm 2019 có 5.339 người.
- Số người xin ra khỏi Giáo hội Công giáo 221.390 người - Năm 2019 có 771 người.
Theo thống kê Tổng giáo phận Koeln ( Cologne) là một Giáo phận lớn về số người Công Giáo bên nước Đức, năm 2020 có 1.868.567 người tín hữu Công giáo. Như thế ít đi 37.335 người so với năm 2019.
Năm 2020 có 17.281 người tín hữu xin ra khỏi Giáo hội ở Tổng giáo phận Koeln - năm 2019 có 24.298 người.
Hình ảnh nếp sống truyền thống trong Giáo hội Công giáo bên nước Đức suy yếu biến thể giảm dần, nhất là thời kỳ những tháng đại dịch bị hạn chế giới hạn, cùng những xì căng đan mang tiếng xấu trong Giáo hội, lại càng làm cho mức suy giảm yếu đi tăng thêm lên, nhất là nơi các người trẻ mất niềm tin nơi Giáo Hội.
Dẫu vậy, nước Đức nói chung, Giáo hội Công Giáo nước Đức nói riêng xưa nay sống chú trọng đến lòng quảng đại nhân đạo bác ái giúp đỡ những người ở những nơi bị nghèo đói, bị thiên tai đe dọa, như lời Chúa nói trong dụ ngôn ngày phán xét chung: Mỗi khi các con làm việc bác ái nhân đạo giúp cho một kẻ hèn mọn bé nhỏ giữa cảnh khốn cùng giữa các con là các con làm cho chính Thầy.
Hình ảnh tiêu cực với những con số tăng giảm như trên thuật viết lại vẽ nên hình ảnh lu mờ gần như đen tối trong nếp sống đạo bên Giáo hội Công giáo nước Đức, khiến phải đăm chiêu tư lự đến hoài nghi lo âu…
Nhưng hình ảnh người dân nước Đức, người Công Giáo nước Đức sống chú trọng thực hành lòng nhân đạo bác ái quảng đại, như Tám mối Phúc Thật của Chúa đề ra, liên đới với người gặp cảnh đời sống khốn khó, là một hình ảnh tích cực rất đáng kính phục, cùng có giá trị cao đẹp trước mặt Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, là khởi nguồn và cùng đích của đời sống con người.
Mùa Kiết Hạ 2020
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Đức Mẹ núi Carmelo
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm Hội Thánh Công giáo cử hành lễ mừng kính Đức mẹ núi Carmelo vào ngày 16.07.
Lần đầu tiên năm 1386 các nhà Dòng Carmelo bên Anh quốc mừng lễ kính Đức mẹ Maria là quan thầy của Dòng Carmelo.
Từ thế kỷ 15. lễ mừng kính này được ấn định vào ngày 16. Tháng Bảy hằng năm.
Và trong dòng thời gian lễ này dần lan rộng trong Hội Thánh Công giáo hoàn cầu từ 1726 dưới thời Đức Thánh Cha Benedict XIII.
Từ năm 1960 ngày lễ mừng kính chỉ còn là ngày lễ nhớ.
Vậy đâu là nguồn gốc lý do khiến Carmelo trở thành nơi thánh ở trong nước Do Thái cũng như có tiếng tăm đạo đức với lòng sùng kính Đức mẹ trong toàn thể Hội Thánh?
Địa danh Carmelo là một chuỗi dẫy núi đá vôi trải dài từ vùng Samaria đến bờ biến Địa Trung Hải bên nước Do Thái thuộc địa hạt thành phố Haifa.
Trong Thánh Cựu ước nói đến Carmelo là một hình ảnh khô chồi
„Từ Xi-on, ĐỨC CHÚA gầm lên,
và từ Giê-ru-sa-lem, Người lên tiếng;
đồng cỏ của mục tử nhuốm màu tang tóc,
đỉnh núi Các-men nay đã héo tàn.“ (Sách Tiên Tri Amos 1,2)9
Và cũng có hình ảnh đồng cỏ xanh tươi:
„Ta sẽ dẫn Ít-ra-en về đồng cỏ của nó,
để nó được ăn cỏ ở Các-men và Ba-san,
trên núi Ép-ra-im và Ga-la-át, nó sẽ được thoả thuê.“ (Tiên tri Gieremia 50,19).
Vùng núi Carmelo nổi danh có nhiều hang động, nên ngày xưa có nhiều vị ẩn sĩ đã tìm đến những hang động nơi đây sống đời ẩn dật. Tiên tri Elia và học trò của ông là Elise đã sống lui vào ẩn dật hang động nơi vùng Carmelo. Và vì thế vùng này trở thành nổi tiếng.
Lịch sử Carmelo gắn liền với khuôn mặt đại tiên tri Elia.Vị thánh tiên tri này sống vào thế kỷ 9. trước Chúa giáng sinh.
Sách Các Vua (1 Các Vua 18,19-40) tường thuật chi tiết Tiên tri Elia đã thách thức các Thầy cả ngoại giáo Baal - 450 vị - trong một cuộc thi diễn xem Thiên Chúa của ai linh thiêng thật sự qua lời cầu nguyện khiến cho lửa từ trời xuống thiêu đốt những tế lễ con vật chất trên đống củi.
Những lời cầu nguyện lễ nghi của 450 Thầy cả Thần Baal đã không khiến được lửa rừ trời xuống châm thiếu đốt những con vật dùng làm lễ tế chất trên đống củi
Trái lại Thiên Chúa Giave đã nhận lời cầu nguyện của tiên tri Elia cho lửa từ trời cao xống đốt chết những con vật trên củi. Thế là chiến thắng đã về phía Tiên tri Elia. Cùng chứng tỏ cho con người thấy Thiên Chúa Giave của Tiên tri Elia là Thiên Chúa linh thiêng có quyền năng thật trên tất cả.
Ngày nay còn di tích hang động nơi Tiên tri Elia ngày xưa sinh sống trong đó. Và trong thánh đường kính Đức mẹ Carmelo bên dưới tầng hầm có bàn thờ, nơi ngày xưa Tiên tri Elia đã thách thức các thầy cả Baal, và Thiên Chúa Giave đã cho lửa từ trời xuống thiêu đốt những lễ vật qua lời cầu nguyện của Elia.
Vị đại tiên tri Elia là con người, nhưng ông không trải qua sự chết như những con người khác. Trái lại Ông được Thiên Chúa cho đưa rước về trời lúc còn sinh sống trước mặt học trò mình:
„Ông Ê-li-a đáp: "Anh xin một điều khó đấy! Nếu anh thấy thầy khi thầy được đem đi, rời xa anh, thì sẽ được như thế; bằng không, thì không được."11 Các ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai người ra. Và ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc.12 Thấy thế, ông Ê-li-sa kêu lên: "Cha ơi! Cha ơi! Hỡi chiến xa và chiến mã của Ít-ra-en! " Rồi ông không thấy thầy mình nữa. Ông túm lấy áo mình và xé ra làm hai mảnh.13 Ông lượm lấy áo choàng của ông Ê-li-a rơi xuống. Ông trở về và đứng bên bờ sông Gio-đan.“ (2 Các Vua 2, 10-12).
Ngay thời Hội Thánh lúc ban đầu, sau khi Chúa Giesu trở về trời cũng đã có nhiều vị ẩn sĩ tìm đến những hang động vùng Carmelo sống đời ẩn tu xa tránh thế gian trông chờ ngày Chúa đến. Rồi nhiều Dòng tu bên Âu Châu cũng tìm đến nơi này vùng đất thánh thành lập Dòng sống đời chiêm niệm.
Thánh Simon, vị tu sĩ Dòng ẩn tu Carmelo, là người có lòng yêu mến sùng kính Đức mẹ Maria nữ vương trời đất , vào thế kỷ 13. được cử sang đất Thánh Do Thái vùng Carmelo làm Bề Trên. Bị lâm vào hoàn cảnh khó khăn, vì những nghi hoặc giữa các Dòng Tu đang nở rộ phát triển nơi vùng đất Thánh, nên vị tu sĩ Bề Trên Simon đã trong dòng nước mắt cầu khấn xin Đức mẹ phù hộ gìn giữ che chở Dòng Carmelo của mình.
Và ngày 16.07.1251 đức mẹ Maria đã hiện ra với ông với hào quang ánh sáng trao cho ông hai mảnh vải nhỏ có dây nối liền để quàng đeo vào cổ trước ngực và sau lưng và nói:
„Con hãy tiếp nhận hai tấm vải có dây nối để đeo này như dấu hiệu Dòng của con. Đó là dấu hiệu ân đức đặc hiệt cho con và các người con của Carmelo. Người nào mang đeo áo ân đức này trong khi hấp hối qua đời, họ sẽ được cứu thoát khỏi lửa hoả ngục đời đời. Đây là dấu chỉ sự cứu rỗi chữa lành, là chiếc áo gìn giữ bảo vệ trước các nguy khốn đe dọa, là vật cầm giữ hoàn chuyển cho bình an và bảo vệ đặc biệt.“
Và từ đấy chiếc Áo Đức Bà Carmelo thành hình trong nếp sống đạo đức người Công giáo.
Và tập tục đạo đức tốt lành mang đeo Áo Đức Bà Carmelo được phổ biến sống động rộng rãi trong Hội Thánh Công Giáo.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh nhóm hai người được sai đi
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đời sống ở các vị trí điều hành thường có hai người được tuyển chọn đứng đầu, như Tổng Thống và Phó Tổng Thống, Thủ tướng và phó Thủ tướng, Chủ tịch và Phó chủ tịch, Giám đốc và Phó giám đốc…
Trong mỗi gia đình có vợ và chồng, cha và mẹ. Nơi các xứ đạo có cha chính xứ và cha phó.
Chúa Giêsu ngày xưa cũng đã sai từng hai Môn đệ đi rao giảng giáo lý ( Mc 6,7)
Ngày Chúa Giêsu vào thành Giêrusalen, ngài cũng sai hai môn đệ đi kiếm mượn dắt con lừa về để cho ngài cỡi. ( Mc 11,1..).
Để dọn bữa Tiệc ly ngày lễ bánh không men, Chúa Giêsu cũng sai hai môn đệ đi chuẩn bị dọn phòng để cùng các môn đệ khác ăn bữa tiệc ly. ( Mc 14,13).
Sau khi sống lại Chúa Giêsu đã cùng đồng hành gặp gỡ với hai môn đệ đi làng Emmaus. ( Lc 24,13.
Phải chăng đó là sự tình cờ, hay còn có nguyên do nào khác hơn nữa?
Ngay từ thời cổ xa xưa trong luật lệ Do Thái như sách đệ nhị luật viết phải cần có hai nhân chứng mới được. ( Sách Đệ nhị Luật 19,15).
Ông Kohelet, thầy dậy sự khôn ngoan đã viết theo kinh nghiệm thực tế đời sống:
„ Hai người thì hơn một, vì hai người làm việc cực khổ sẽ thu nhập khá hơn.10 Người này ngã đã có người kia nâng dậy. Nhưng khi chỉ có một mình mà bị ngã thì thật là khốn, vì chẳng có ai nâng dậy cả !“( Sách Giảng viên 4,9-10).
Chúa Giêsu đã tin tưởng vào sự hỗ tương kinh nghiệm như thế trong đời sống con người, nên ngài sai từng hai người cùng đi làm công việc mục vụ chung rao giảng giáo lý nước Thiên Chúa.
Vào thời Giáo hội ban đầu sau khi Chúa Giesu trở về trời, hai Ông Tông đồ Phero và Gioan cùng nhau lên đền thờ Gierusalem cầu nguyện và cùng làm công việc truyền giáo rao giảng chung với nhau. ( Cv 3,1). Rồi hai vị này cũng đại diện các Tông đồ anh em đến vùng Samari thi hành phận vụ việc truyền giáo nơi đó. ( Cv 8,14).
Hai Tông đồ Barnabe và Phaolô sát cánh cùng nhau đi làm công việc truyền giáo sang miền Antiochia. ( Cv 13,14).
Việc sống đức tin vào Chúa, việc truyền giáo bắt đầu từ tổ ấm gia đình nơi hai vợ chồng trước hết thực hành nếp sống đức tin đọc kinh cầu nguyện, và dần cùng chung với con cái gia đình, rồi lan rộng ra đến những người cùng thôn xóm, cùng làng mạc.
Thuở ban đầu sau khi Chúa Giêsu về trời, các tín hữu Chúa Kitô chưa có nhà thờ để đọc kinh dâng lễ cầu nguyện. Nhưng họ thường tụ họp nhau ở một nhà riêng của một người tín hữu, rồi cùng nhau đọc kinh thánh, học hỏi giáo lý và cùng nhau cử hành nghi lễ phụng vụ bẻ Bánh cầu nguyện. Qua đó họ giúp nhau giữ vững đức tin vào Chúa, nguồn hy vọng bình an cho đời sống.
Vì thế gia đình là ngôi thánh đường tiên khởi cùng quan trọng cho đời sống đức tin của con người.
Ngày xưa khi sang truyền giáo bên đất nước Việt Nam, các Vị Thừa sai khuyến khích người giáo hữu Chúa Kitô đọc kinh cầu nguyện hằng ngày ở gia đình mình.
Trong thời buổi lúc này thế giời đang trong cơn khủng hoảng, vì bị đại dịch do vi trùng Corona lây lan nguy hiểm đe dọa sức khoẻ gây bệnh nạn cùng tử vong, khiến cho đời sống công cộng bị giới hạn không chỉ về kinh tế, văn hóa, mà còn cã lãnh vực tôn giáo nữa.
Sự cấm cách hay giới hạn lúc này vì để bảo vệ sức khoẻ con người, không còn có cơ hội cho người tín hữu Chúa Kitô đến thánh đường dâng lễ cầu nguyện như khi trước. Nhưng căn nhà riêng mỗi gia đình lại trở nên ngôi thánh đường quan trọng cùng sống động, khi cha mẹ con cái cùng nhau đọc kinh cầu nguyện. Và như thế họ giúp nhau củng cố đức tin vào Chúa vượt qua cơn hoang mang khủng hoảng trong đời sống.
Và đó cũng là hình ảnh ngày xưa Chúa Giêsu sai cử từng hai môn đệ đi rao giảng nước Thiên Chúa, để họ cùng nâng đỡ nhau, giúp nhau thêm can đảm. Và có cơ hội cùng nhau trao đổi kinh nghiệm việc thành công cũng như khi gặp thất bại.
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Hình ảnh cái dằm đâm vào thịt.( 2 cor 12, 7)
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Con người xưa nay ai cũng hằng cầu xin mong muốn có được mạnh khoẻ hồn xác. Nhưng trong đời sống lại có nhiều nghịch cảnh xảy đến khiến thân xác cũng như tinh thần trở nên yếu nhược đau bệnh. Và có khi đưa đến hậu qủa không tốt đẹp, khiến đời sống bị giới hạn. Vì gân cốt chân tay hay cơ quan trong người bị bệnh tật biến chứng kinh niên, hay tùy theo thời gian tuổi tác đời sống…
Có người khi bị vướng mắc vào nghịch cảnh xảy ra như thế, có tầm nhìn suy nghĩ cho đó là một thử thách cho đời sống, nhất là về lòng tin, về ý chí. Và từ đó suy tìm một con đường sống cho thích hợp như một lối thoát tự cứu chữa mình, để mong có niềm vui đời sống.
Nhưng cũng có người chỉ biết kêu than trách móc cho đó là số phận đời sống hẩm hiu, rồi sinh ra mệt mỏi chán chường muốn bỏ cuộc buông xuôi.
Thánh Phaolô diễn tả tình trạng nghịch cảnh đó là „ cái dằm đâm vào thịt“.
Không biết „cái dằm gì đâm vào thân thể“ đời Thánh Phaolô là cái gì. Nhưng Ông chân nhận đã than vãn hao tổn sức lực tranh luận cầu xin với Thiên Chúa:„ Đã ba lần tôi van nài Chúa, để nó rời khỏi tôi. „
Và như thế chính Phaolo cũng đã thắc mắc tự hỏi : Tại sao tôi lại bị thử thách nặng nề như thế?
Tâm tư thắc mắc kêu than của Ông đã được lắng nghe. Và câu trả lời cho số phận đời ông thắm đượm sự an ủi phấn chấn:
„ Nhưng Người phán với tôi rằng: "Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối“
Câu trả lời của Thiên Chúa vang lên cho Phaolô: con đừng lo, dù con có gặp nghịch cảnh trong đời sống, Ta luôn có mặt bên cạnh con. Ta sẽ ban cho con đủ sức mạnh, cho con có ân sủng đặc biệt trong cung cách sống, và lời con rao giảng có sức thuyết phục người khác.
Và Thánh Phaolô đã rút ra bài học hữu ích cho đời sống mình từ những yếu đuối nghịch cảnh:
„ Vậy tôi vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô ngự trong tôi. Vì thế, tôi vui thoả trong sự yếu hèn của tôi, trong sự lăng nhục, quẫn bách, bắt bớ và khốn khó vì Ðức Kitô: vì khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ.“
Trong nghi nan thắc mắc vì phải chịu đựng nghịch cảnh như bị tê liệt, nhưng Thánh Phaolo cho đó là sự thử thách. Ông xác tín rằng sức mạnh do từ Thiên Chúa ban cho. Thiên Chúa là bến bờ sự an ủi, sự vững chắc giúp tinh thần vượt qua cơn khốn khó khủng hoảng.
Nhưng làm sao Thánh Phaolô lại có thể qủa quyết mạnh mẽ „ Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh“? Hai thái cực qúa đối nghịch nhau!
Sự yếu đuối có thể là một cơ may, khi không cần thiết phải có bề mặt bên ngoài. Nên „ cái dằm đâm vào thân thể“ cũng có thể là một trạng sư bào chữa chống lại tất cả những hào nhoáng bề mặt bên ngoài để biểu hiệu sức mạnh và sự hoàn hảo, chống lại ý tưởng phô diễn làm ra vẻ hoàn mỹ cao sang, và sự khao khát về sự hoàn thiện tuyệt đối.
Trong đời sống con người xưa nay luôn vướng vấp vào nghịch cảnh „ cái dằm“ đâm vào đời sống. Nhưng quan trọng là cung cách sống tiếp cận với nó. Có thái độ cung cách tìm ra con đường, bài học tích cực, để đi ra khỏi vướng trở đó giúp cho có ý chí sức mạnh vươn lên.
Hay thái độ chỉ dừng lại nơi điểm đó, và sau cùng buông xuôi bỏ rơi mặc kệ cho đời sống trôi đi ra sao. Đây là cung cách tiêu cực dậm chân tại chỗ và đi giật lùi.
Từ hơn một năm rưỡi nay thế giới lâm vào hoàn cảnh khủng hoảng „cái dằm đâm vào thân thể“ vì đại dịch vi trùng Corona truyền nhiễm lây lan đe dọa sức khoẻ đời sống con người. Cơn khủng hoàng đó kéo dài làm tê liệt ngưng trệ các sinh hoạt kinh tế, văn hóa, tôn giáo xã hội con người.
Nhận chân ra hình ảnh cơn khủng hoàng nguy hiểm đen tối đó, con người không dậm chân tại chỗ than trách, hay tìm cách coi nhẹ phớt lờ bỏ qua.
Không tiêu cực như thế. Trái lại con người luôn hằng báo động cảnh giác, và tìm ra những biện pháp phòng ngừa bảo vệ, cũng như tìm chế biến phương thuốc chữa trị.
Như thế là đã nhận chân ra sự yếu đuối bấp bênh nỗ lực đi tìm con đường phương cách vừa sống chung với „cái dằm“ đại dịch gây ra khủng hoảng, cùng vừa tìm phương thuốc tốt chữa trị ngăn ngừa vi trùng bệnh dịch, để sống vượt qua.
Cái dằm gây ra khủng hoảng khốn khó đè bẹp làm cho suy yếu đi. Nhưng lại có lực thúc đẩy tâm trí nẩy sinh sự sáng tạo mới, như Thánh Phaolô nói lên kinh nghiệm tâm linh qúy báu: khi tôi yếu là lúc tôi mạnh!
Người có lòng tin tưởng luôn hằng hướng tâm hồn lên trời cao xin ơn trợ giúp che chở của Thiên Chúa ban sức mạnh bằng an cho hồn xác.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh chuyến xe buýt đời tu trì
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cách đây 54 năm ( 1967) chú Trần Mạnh Nam đã vào sống học tập trong trường Hội Dòng Salesien Don Bosco bên Việt Nam
Rồi bảy năm sau, (1974), chú dự tu Trần Mạnh Nam đã tuyên khấn dấn thân trở thành tu sĩ trong Hội Dòng Salesien Don Bosco.
Và cách đây một phần tư thế kỷ, 1996-30.06.- 2021, Thầy Dòng Don Bosco Daminh Trần Mạnh Nam đã cầm cây nến cháy sáng tiến lên cung thánh bàn thờ Thiên Chúa nhận lãnh thánh chức Linh Mục: Lạy Chúa, này con đây!, ở Beuron bên nước Đức
Và từ 07 năm nay Cha Trần mạnh Nam được cắt cử làm việc mục vụ cho người Công Giáo Việt Nam rải rác khắp bốn giáo phận nước Đức: Limburg, Mainz, Speyer, và Freiburg.
Vùng mục vụ trải dài rộng khắp bốn Giáo phận như thế là một thách thức đòi hỏi hy sinh dấn thân thể lý „ cơ bắp“, cùng tinh thần rất nhiều. Vì hằng tuần, có khi trong tuần nữa, cha phải lái xe đi tới các Cộng đoàn, gia đình người giáo hữu, ban các Bí Tích, thăm hỏi và cùng sinh hoạt chung sống với những người tín hữu Chúa Kitô những nơi đó.
Cha hằng dí dỏm ca ví chiếc xe của cha có đầy đủ dụng cụ phụng vụ như một phòng áo lưu động, và cũng có những ngăn chứa thực phẩm như một nhà bếp lưu động!
Như thế Cha có nếp sống „ mobil“ lưu động dọc đường gío bụi!
Như cha thuật kể lại, hầu như hằng tháng phải rong ruổi lái xe đi làm việc mục vụ tổng cộng năm ngàn cây số. Hình ảnh cha lái xe đường trường liên tục như vậy nói lên sự hy sinh quảng đại không quản ngại mệt nhọc cho công việc mục vụ trong khu vườn cánh đồng của Chúa ở trần gian.
Và hình ảnh này còn nói lên chiều sâu lòng đạo đức của người được sai đi làm việc mục vụ.
Vậy đâu là căn rễ ý nghĩa việc mục vụ đó?
Ngày xưa Thiên Chúa khi kêu gọi Tiên Tri Giêrêmia đã nói với Ông: Con đừng nói, con còn trẻ! Cha sai con đi đâu, con cứ đi; Cha bảo con nói gì, con cứ nói. Con đừng sợ, vì Cha hằng ở cùng con để cứu giúp con ( Gr 1, 7)
Làm việc cho niềm tin và cùng sống niềm tin là bổn phận căn bản của người Linh mục. Nhưng để thực hành bổn phận đó, linh mục cần đến sự cộng tác tiếp tay của mọi người. Linh mục không sống thay niềm tin cho ai, và cũng không thể sống thay cho người khác, hay bắt người khác sống như mình được.
Thiết nghĩ hình ảnh ẩn dụ mang tính sống động cùng nói lên được ý nghĩa đời sống mục vụ của linh mục là hình ảnh bác tài xế lái xe buýt. Bác tài xế lái xe buýt chuyên chở hành khác từ trạm này đến trạm khác đáp ứng theo nhu cầu của họ. Và Bác còn có trách nhiệm giữ cho xe được an toàn cùng sạch sẽ vệ sinh nữa.
Và xe dành cho mọi người. Bác lái xe đưa họ đi đến bệnh viện, ra chợ, đi nhà thờ, đến trường học, đến công viên vườn chơi giải trí, đưa đi du lịch tham quan thắng cảnh, rồi đưa họ trở về nhà.
Họ cần Bác. Và Bác làm công việc chuyển chở cùng đồng hành đó với sự dấn thân hy sinh cùng niềm vui.
Linh mục cũng thế. Trong Hội Thánh nơi các xứ đạo, nơi các giáo đoàn ông là người được tín nhiệm trao cho nhiệm vụ cùng dân Thiên Chúa sống làm nhân chứng cho tình yêu của Chúa. Ông cùng đồng hành với mọi người muốn tìm đến với niềm tin vào Thiên Chúa.
Khi họ có tâm sự vui buồn thắc mắc. Họ đến với linh mục. Và ông là người lắng nghe họ.
Khi họ cần lời an ủi cho tâm hồn. Linh mục là người bạn nói chuyện với họ.
Khi họ cần đến sự trợ giúp của Chúa qua dấu chỉ các phép Bí Tích, dâng lễ cầu nguyện cho. Linh mục là người được Chúa và Hội Thánh uỷ thác làm công việc thánh thiêng mục vụ cho họ.
Người tín hữu có niềm tin vào Thiên Chúa. Nhưng họ cần linh mục, là người hướng dẫn và cùng sống thực hành niềm tin với.
Như Bác tài xế lái xe từ trạm này tới trạm khác đón khách và đổ khách nơi các trạm. Linh mục đón tiếp và tìm đến thăm viếng người cần đến lời an ủi trợ giúp, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, lớn bé, trẻ con người lớn, nam hay nữ, bệnh tật hay khoẻ mạnh.Và sự hiện diện của ông giữa dân chúng là dấu chứng của niềm tin: Thiên Chúa hằng cùng đồng hành với con người.
Dù sống trong khung cảnh văn hóa xã hội Giáo Hội càng ngày trên đà bị tục hóa, gặp những thử thách khủng hoảng, nhưng người tín hữu Chúa Kitô không vì thế mà sao nhãng quên căn rễ đức tin vào Chúa. Trái lại họ luôn cần đến tình yêu, niềm hy vọng thánh thiêng của Chúa cho đời sống.
Vì thế, họ vui mừng có Linh mục được Chúa, được Giáo Hội sai đến thi hành công việc thiêng liêng mà họ mong mỏi chờ đợi. Nên khi có Linh mục đến cùng sinh hoạt mục vụ thiêng liêng, như dâng thánh lễ, họ vui mừng cảm động đón nhận nhu cầu thiêng liêng này.
Nhiều người tín hữu đã không ngần ngại nói lên tâm tư vui mừng mong sao có thánh lễ để cùng tham dự, nhất là vào những dịp gia đình có niềm vui mừng hay đau buồn tang tóc, dịp giỗ chạp cầu nguyện tưởng nhớ đến người thân gia đình đã ra đi trước về đời sau.
Không dám nói tất cả các linh mục từ ngày lãnh chức linh mục là đã đỗ “Bằng lái xe buýt” như các bác tài xế xe buýt đâu. Nhưng niềm tin, tâm hồn rộng mở, lòng phấn khởi trung thành sống cho niềm tin, và sẵn sàng cùng đồng hành với những người cùng đi tìm niềm tin vào Chúa nơi linh mục, có khác chi đi tìm bác tài xế có “Bằng lái xe buýt” đâu!
Xe buýt khi chạy cần phải có năng lượng xăng dầu nhớt, khí gas hay điện. Bác tài xế hằng canh chừng để xe lúc nào cũng có đủ năng lượng cần thiết cho xe. Sự trợ giúp của Thiên Chúa là “năng lượng” cho niềm tin của chính linh mục và cho mọi người. Đó là đời sống liên kết hiệp thông với Đấng là nguồn sự sống, nguồn năng lượng cho tâm hồn.
Không dám nói linh mục là người phải có năng khiếu thu hút quần chúng. Nhưng một linh mục có được, do Chúa ban cho, khả năng có sức lôi cuốn tập họp mọi người lại. Nhất là gây được hào khí niềm vui phấn khởi nơi các người trẻ, trong các buổi lễ sinh hoạt nghi thờ phượng Chúa, là điều tốt, hữu ích và rất đáng quý chuộng.
Mỗi người đều được Thiên Chúa dựng nên ban cho một khả năng đặc biệt, không ai giống ai. Đó là tài nguyên quý báu tiềm tàng nơi mỗi người. Tài nguyên này cần phải được khuyến khích đem ra sử dụng vào công việc trình bày tin mừng của Chúa, và thu tập con người về với đạo giáo niềm tin.
Linh mục không phải là Thiên Thần, cũng không phải là siêu nhân, và cũng không thuộc vào hàng khanh tướng sang trọng thần thánh, như người ta vẫn lầm tưởng và thêu dệt ca hát tung hô trong các bài hát quen thuộc, nhất là ở bên quê nhà Việtnam vào thời kỳ những thập niên năm 50., 60.70. của thế kỷ trước.
Không, Ông vẫn còn là con người với sở trường và sở đoản, với mặt nhân đức cao qúy và mặt yếu đuối tội lỗi.
Ông vẫn còn là con người bất toàn về mọi mặt. Chính điểm yếu đuối bất toàn. Phải, những lỗi lầm khiếm khuyết của con người nơi ông làm nên một phần đời sống của ông. Vì xưa nay có ai là con người hoàn toàn đâu!
Đời ông có niềm vui hạnh phúc, và mang niềm vui hạnh phúc đến cho người khác, khi chính cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa của ông không trở thành xa lạ. Nhưng là nhân chứng cho niềm tin và cùng đồng hành với mọi người.
Cha Daminh Nam được Chúa kêu gọi trở thành Linh mục làm công việc mục vụ của Chúa cho dân Thiên Chúa. Và sau khi làm việc mục vụ, chắc mỗi chiều tối Cha cũng hằng tâm sự nói với Chúa: Lạy Chúa, con chỉ là người đầy tớ vô dụng!
Và như Thánh Phaolo đã xác tín sâu xa : Tôi Phaolô trồng, Appolo vun tưới chăm sóc, nhưng chính Thiên Chúa làm cho cây mọc lên phát triển! cũng là tâm niệm phươmg châm nếp sống đời linh mục của Cha.
Xin chúc mừng chuyến xe buýt đời tu trì của Cha dịp mừng kỷ niệm thánh đức 25 năm chức Linh mục, 1996-30.06.- 2021.
Cầu xin chúc lành của Thiên Chúa từ Trời cao che chở gìn giữa ban cho Cha khỏe mạnh hồn xác, niềm vui với việc mục vụ „Bác tài xế xe buýt“, và như Cha hằng mong muốn cầu xin khấn nguyện „ sống khoẻ, chết lành!“.
Ad multos annos!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Người bạn của Cha.
Hình ảnh con đường đời sống vượt qua mệt mỏi
- Viết bởi Dân Chúa
Thánh Tông đồ Phero cùng với Thánh Tông đồ Phaolo là hình ảnh hai cột trụ của Giáo Hội Chúa ở trần gian.
Hình ảnh hai đại thánh đường Thánh Phero và Thánh Phaolô to lớn nguy nga được xây dựng bên thành Roma từ mấy thế kỷ nay diễn tả ý nghĩa này.
Thánh Tông đồ Phero được Chúa Giêsu kêu gọi trực tiếp rồi cắt cử phong làm Giáo hoàng thứ nhất Hội Thánh Công giáo Roma lúc Chúa Giêsu còn trên trần gian.
Vâng theo mệnh lệnh Chúa Giêsu truyền, sau khi Chúa Giêsu Kitô về trời, Thánh Phero đã bôn ba lặn lội từ nước Do Thái sang Roma rao giảng tin mừng nước Chúa thành lập Hội Thánh Công Giáo nơi đây ở khu đồi Vatican.
Thánh Phero sau cùng bị bắt trải qua ngục tù, và bị kết án đóng đinh vào thập gía năm 67 sau Chúa giáng sinh
Thánh Phaolô cũng được Chúa kêu gọi tuyển chọn, nhưng trễ lúc Chúa Giêsu đã trở về trời đang khi Phaolô trên bước đường đi săn lùng bách hại Giáo hội Chúa Giêsu ở thành Damascus. Chúa Giêsu đã hiện ra và hoán cải Ông, rồi sai Phaolô đi truyền giáo rao giảng nước Thiên Chúa cho các dân tộc trong thế giới đế quốc Roma thời bấy giờ.
Thánh Phaolô cũng từ nước Do Thái bôn ba đáp tầu thuyền đến tận các nước Hylạp, đảo Zypre, đảo quốc Malta, nước Thổ nhĩ Kỳ, các nước vùng Balkan, và sau cùng đến thành Roma. Nơi đây cũng như Thánh Phero, Phaolô bị bắt giam cầm cùng bị chết vì đức tin vào Chúa Giêsu Kitô vào khoảng sau năm 60 sau Chúa giáng sinh.
Thánh Phero đã viết hai bức thư để lại cho Giáo Hội cắt nghĩa nhắn nhủ về cung cách nếp sống đức tin vào Chúa.
Thánh Phaolô viết 13 bức thư gửi cho các Giáo đoàn mà ông đã đến thành lập, cho hai môn đệ thân tín Timotheo và Tito. Nội dung diễn giải giáo lý của Chúa Giêsu Kitô, cung cách sống đức tin cùng những lời khuyên răn về nếp sống tinh thần đạo đức lành mạnh, những lời phấn chấn giúp tinh thần ý chí phấn khởi vươn lên, dù phải trải qua đau khổ.
Những lời viết suy tư của Thánh Phaolô diễn tả chiều thâm sâu của một nhà đạo đức thần học, nhưng thực tế theo với đời sống đức tin. Văn phong cùng bố cục diễn tả của Phaolo nói lên chiều trí thức sâu rộng của một học gỉa, đúng hơn của một triết gia thấm nhuần tinh thần phúc âm Chúa Giêsu Kitô, cùng có tầm nhìn xa trông rộng hướng về đời sống mai sau trên trời bên Thiên Chúa.
Trong bức thư thứ hai gửi Giáo đoàn Côrinthô ( 2. Corinthô, 4,13-5,1), có lời viết: Chúng ta không nản lòng thối chí!
Trong đời sống thực tế nơi trần gian xưa nay con người luôn hằng gặp phải những cảnh ngộ từ lo âu hoài nghi đến đau khổ bi thương, hầu như làm tâm trí, ý chí cùng cả thân thể mệt mỏi chán nản chùng xuống.
Đời sống con người có nhiều mệt nhọc hơn niềm vui. Mệt nhọc vì công việc làm ăn sinh sống có nhiều đòi hỏi, khiến thân thể cũng như tinh thần bị gánh nặng chồng chất như đến độ qúa tải sức chịu đựng, có khi phát sinh bệnh nạn tâm trí cũng như cả thể xác nữa!
Mệt nhọc vì có khi phải cố gắng chịu đựng lâu dài với đồng nghiệp, với hàng xóm.
Gia đình riêng là tổ ấm bến bờ hạnh phúc niềm vui cho đời sống. Nhưng cũng đòi hỏi nhiều căng thẳng khủng hoảng, cố gắng chịu đựng, nên cũng đưa đến sự mệt nhọc.
Rồi còn những lo toan, sợ hãi nghi nan về sức khoẻ bệnh tật, về công ăn việc làm gặp bấp bênh bị đe dọa thất nghiệp, trong hòan cảnh chiến tranh bị đe dọa khủng bố, và ngay cả trong lòng đời sống Giáo Hội có những tình trạng khủng hoảng đen tối thoái trào đi xuống… cũng làm cho ra mệt mỏi chán chường.
Nhất là trong hoành cảnh lúc này từ hơn một năm nay nhân loại đang trong cơn khủng hoảng bị vi trùng đại dịch Corona lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ con người, nên mọi sinh họat đạo đời xã hội bị giới hạn, tê liệt ngưng đình trệ gây sinh ra mệt mỏi.
Sự mệt mỏi nhọc sức dễ đưa đến tình trạng thất vọng, nản lòng thối chí, nếu không có ánh sáng niềm hy vọng từ xa gần dọi chiếu tới.
Và có lẽ chính Thánh Phaolô xưa kia trên bước đường bôn ba đi truyền giáo từ nơi nọ đến nơi kia, từ nước này sang nước khác, từ dân tộc khác nhau về ngôn ngữ, văn hóa, niềm tin…cũng đã phải nếm mùi chịu đựng mệt mỏi phải trải qua.
Nhưng tại sao Thánh Phaolô có thể viết : chúng ta đừng thối chí nản lòng“? Phải chăng đó chỉ là lời an ủi như người mẹ dỗ con cho khỏi khóc thôi? Điều gì Phaolô đã sống trải nghiệm qua, để ông có thể nhận ra ý nghĩa tích cực nơi suy tư đó ?
Có lẽ câu trả lời trong thư ông viết tiếp: „Trái lại, mặc dầu con người bên ngoài của chúng ta bị tiêu huỷ đi, nhưng con người bên trong của chúng ta ngày càng được canh tân.“
Câu trả lời chất chứa kinh nghiệm sống của dân gian và suy tư của riêng Phaolo phải chăng có thể hiểu là lời khuyên nhủ phấn khích? Phải chăng suy tư khôn ngoan đó hướng về cung cách nếp sống nội tâm? Phải chăng suy tư đó giúp đạt được sự quân bình thăng bằng nội tâm cho đời sống tinh thần cùng cả thể xác nữa?
Có thể nói đây là một kinh nghiệm cảm động, mà Phaolô muốn cùng chia sẻ với mọi người. Kinh nghiệm mà Phaolô cũng như dân gian đã thu lượm trong những giai đoạn thời gian đời sống bị thử thách dập vùi làm cho mệt mỏi nhọc nhằn kiệt quệ nản chí muốn buông xuống.
Nhưng cũng có kinh nghiệm sống trừng trải qua giúp mang lấy lại sức lực bắt đầu mới lại. Cho dù có giai đoạn đời sống tưởng chừng như tận cùng chấm dứt, nhưng bỗng chốc có sức lực giúp khởi sự lại từ điểm khởi đầu.
Kinh nghiệm này con người chúng ta không làm ra được, không thể bắt ép cố gượng tạo nặn ra cho thành. Nhưng con người chỉ có thể để cho được ban tặng sức lực tích cực đó.
Và kinh nghiệm đời sống cho hay cung cách thái độ sống cởi mở cùng sẵn sàng đón nhận điều tốt lành tích cực cần thiết để có niềm an ủi hy vọng cùng sức lực vươn lên.
Đức tin vào Thiên Chúa, nguồn đời sống, nguồn ơn chúc phúc lành là sức mạnh vươn lên cho đời sống tinh thần cùng thể xác, để không bị thối chí nản lòng, cho dù có bị thử thách làm cho ra mệt mỏi.
Con người luôn cần có niềm hy vọng, niềm ủi an giúp canh tân đời sống vượt qua cơn mệt mỏi thối chí nản lòng.
Lễ mừng kính hai Thánh tông đồ Phero và Phaolô
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh đời sống của Thánh Gioan tẩy gỉa
- Viết bởi Dân Chúa
Từ thế kỷ 04. sau Chúa giáng sinh đã có lễ mừng sinh nhật của Thánh Gioan tẩy gỉa vào ngày 24.Tháng sáu hằng năm dựa trên phúc âm của Thánh sử Luca tường thuật viết lại„ Bà Elisabeth có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến Galileo thành Nazareth gặp trinh nữ Maria. ( Lc 1,26-27).
Cũng từ thế kỷ thứ 04. sau Chúa giáng sinh, Giáo hội Công giáo Roma ấn định ngày lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu vào ngày 25. Tháng Mười Hai hằng năm.
Thánh Gioan con bà Elisabeth là người chị em họ hàng với đức mẹ Maria, thành hình sự sống trong cung lòng mẹ trước Chúa Giêsu sáu tháng. Nên Giáo Hội ấn định ngày mừng sinh nhật của Gioan sáu tháng trước lễ sinh nhật Chúa Giêsu.
Ngày 24. Tháng Sáu, ngày bản lề, ngày cao điểm bắt đầu mùa Hè, và từ ngày này ánh sáng mặt trời từ từ xuay chuyển sang mùa Thu, mùa Đông.
Ngày mừng sinh nhật Chúa Giêsu sáu tháng sau đó, ngày 25. Tháng Mười Hai, ngày này cũng là ngày bản lề ánh sáng mặt trời cùng thời tiết xuay chuyển từ đêm tối của mùa Thu, mùa Đông từ từ sáng dần ra sang tiết trời mùa Xuân và mùa Hè.
Thánnh Gioan sinh ra đời trước Chúa Giêsu sáu tháng và theo phúc âm thuật lại Ông là người đi trước dọn đường cho Chúa Giêsu đến. Gioan là tiếng kêu trong sa mạc rao giảng sự ăn năn thống hối từ bỏ tội lỗi trở về với Chúa.
Ông không chỉ rao giảng, nhưng còn làm phép Rửa cho mọi người đến xin, để tỏ lòng khiêm nhượng xin ơn tha thứ. Và chính Chúa Giêsu cũng đã đến nhận lãnh phép Rửa của Ông Gioan bên bờ sông Jordan.
Theo Kinh Thánh cùng theo truyền thống và giáo huấn của Giáo hội, Chúa Giêsu từ trời cao đến trần gian mở đầu thời đại mới, thời đại Tân ước.
Còn Ông Gioan với vai trò là tiếng người kêu gọi dọn đường cho Chúa Giesu đến, nên được nhìn nhận là vị Ngôn sứ cuối cùng của thời Cựu ước.
Ông Gioan trở thành là „gạch nối“, ở vị trí nút dây thắt buộc cho hai thời đại Tân và Cược ước nối lại với nhau.
Ông Gioan như thế ở vị trí nối liền lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa giữa Do Thái giáo ( Cựu ước từ thời Mose) và Kitô giáo (Tân ước bắt đầu với Chúa Giêsu Kitô).
Thời cổ đại xa xưa không có tập tục ghi lại biến cố sinh ra, thời thơ ấu của ai cả. Nhưng những nhân vật quan trọng thường sau đó được thuật lại lịch sử sinh ra và đời thơ ấu của họ cách đặc biệt. Điều này cũng xảy ra nơi Thánh Gioan tẩy gỉa con Ông Zacharia và Bà Elisabeth.
Khi Thây tư tế Zacharia được Thiên Thần Chúa báo tin ông sẽ có con nối dõi tông đường. Ông qúa đỗi ngạc nhiên và không tin nổi lời Thiên Thần. Vì Ông và nhất là vợ ông đã qúa gìa rồi. Nên Ông bị phạt trở thành câm. Như thế Ông Zacharia cũng cùng chia sẻ số phận với các Ngôn sứ khác.
Thánh tiên tri Mose cũng đã không thể nói được: "Lạy Chúa, xin xá lỗi cho con, từ hồi nào đến giờ, ngay cả từ lúc Chúa ban lời cho tôi tớ Ngài, con không phải là kẻ có tài ăn nói, vì con cứng miệng cứng lưỡi.“ ( Xh 4,10)
Ngôn sứ Jeremia khiêm cung chân nhận "Ôi! Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói! „( Gr 1,6).
Ngôn sứ Daniel trở thành người câm khi nghe lời Thiên Thần Gabriel nói: „Nghe những lời người nói đó, tôi cúi mặt xuống đất, không nói nên lời.“ ( Daniel 10,15).
Ngôn sứ Ezechiel đã thành câm điếc cho tới khi được Thiên Chúa chữa cho nói trở lại được để đi rao giảng sự năn năn thống hối cho dân chúng: „ Vào buổi chiều trước hôm người ấy đến, tay ĐỨC CHÚA đặt trên tôi. Và lúc người ấy đến vào buổi sáng, Người đã mở miệng cho tôi; miệng tôi đã mở ra, tôi không còn câm nữa.“ ( Ezechiel 33,22).
Thầy tư tế Zacharia, cha của Gioan, bị câm và chỉ có thể nói trở lại được khi con ông mở mắt chào đời, và được đặt tên là Gioan theo như lời Thiên Thần nói cho Zacharia trước đó trong đền thờ. Và như thế, đúng như lời lời đoan hứa thần thánh linh thiêng của Thiên Chúa đã nói qua Thiên Thần.
Ông Gioan sinh trưởng trong gia đình cha là thầy cả tư tế. Lẽ ra ông cũng nối gót theo nghiệp cha truyền con nối. Nhưng Gioan lại chọn con đường đời sống khác:“ Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.“ ( Lc 1,80).
Trong sa mạc ông sống cuộc đời khổ hạnh với sứ mệnh dọn đường cho Chúa Giêsu đến qua lời rao giảng ăn năn thống hối và làm phép Rửa cho dân chúng để được ơn tha tội cùng ơn cứu chuộc.
Ngày xưa thánh tiên tri Mose cũng nhận lãnh sự vụ được trao cho: „ dạy cho họ các thánh chỉ, các lề luật, và cho họ biết đường lối phải đi và cách phải xử sự.“( Xh 18,20).
Quần áo Gioan mặc là da thú lông lạc đà nói lên sự đơn giản nghèo nàn, và dây thắt lưng của ông diễn tả hình ảnh sức mạnh.
Ngày xưa Ngôn sứ Elija cũng có lối ăn mạc như thế: "Đó là một người mặc áo da lông, đóng khố da." Vua nói: "Đó là ông Ê-li-a người Tít-be! „ ( 2 Các Vua 1,8).
Thiên Chúa nói với ngôn sứ Jeremia:“ Còn ngươi, ngươi hãy thắt lưng.Hãy chỗi dậy! Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi.“ ( Gr 1,17).
Dây thắt lưng nơi ngôn sứ Isaia diễn tả sức mạnh thiêng liêng: “ Đai thắt ngang lưng là đức công chính,giải buộc bên sườn là đức tín thành.“ ( Isaia 11,5)
Như vậy dây thắt lưng là dấu chỉ nói lên các vị Ngôn sứ thi hành sự vụ của Thiên Chúa trao cho họ.
Ở vùng thung lũng Jordan nơi biển hồ Genezareth, thánh Gioan tẩy giả và Chúa Giêsu Kitô mở đầu sứ vụ rao giảng nước Thiên Chúa về sự công chính. Ông Gioan được các Thánh sử phúc âm diễn tả là vị tiền hô dọn đường cho Chúa Giêsu đến. Còn Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu thế được xức dầu cho Hội Thánh.
Chúa Giesu và Thánh Gioan không chỉ như Thánh sử Luca viết thuật lại trong phúc âm, nối liền liên hệ chặt chẽ với nhau trong lịch sử sự sinh ra
của hai người. Nhưng còn nhiều hơn thế nữa về sứ điệp, sự đau khổ và sau cùng sự tử nạn bị kế án của cả hai Vị song song cùng chung một số phận.
Hình ảnh lịch sử con đường đời sống của Chúa Giêsu và của Thánh Gioan viết lên cùng một cung cách lối sống là làm chứng cho lời đoan hứa của Thiên Chúa trong trần gian.
Lễ Thánh Gioan tẩy gỉa
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh con đường đời sống chao đảo
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ cuối năm 2019 con đường đời sống của nhân loại trên thế giới lâm vào cơn khủng hoảng trầm trọng. Vì đại dịch do vi trùng Corana lây lan truyền nhiễm nguy hiểm đe dọa sức khoẻ con người làm cho mọi sinh hoạt kinh tế, xã hội văn hóa, tôn giáo tê liệt ngưng đình trệ.
Con đường đời sống của nhân loại không còn trong sáng như trước đại dịch, nhưng giờ có nhiều bóng tối bao phủ, bóng tối đe dọa của vi trùng bệnh dịch lây lan gây ra bệnh nạn, gây ra tử vong.
Và trong suốt dọc con đường đời sống của con người xưa nay cũng vẫn luôn gặp khủng hoảng chao đảo, bị tbóng đen tối bao phủ đe dọa.
Trong bước đường như thế con người có phản ứng như thế nào?
Trong hoàn cảnh khủng hoảng đen tối con người sống trong hoảng sợ lo âu hồ nghi, hầu như chỉ còn biết hướng lòng hy vọng cậy trông vào ơn trên thiêng liêng cứu chữa. Vì thế hằng mong chờ cầu khấn sao cho cơn khủng hoảng mau chấm dứt, để con đường đời sống trở lại bình thường.
Và trong cơn khủng hoảng bóng tối chao đảo nhận ra rõ số phận bi thảm, sự hoài nghi, sự đau khổ nguy nan xảy ra không trừ một ai, một dân tộc quốc gia đất nước nào
Kinh nghiệm trong đời sống chỉ ra có những trường hợp qúa trái ngược nhau: niềm tin càng to càng mạnh, thì cơn sóng gío khủng hỏang chao đảo, con cám dỗ càng khốc liệt mạnh mẽ hơn!
Kinh thánh thuật lại trường hợp con đường đời sống qúa bi thương thảm sầu của Ông Gióp là một ví dụ điển hình.
Ông Gíop là người có đời sống công chính, đạo đức tin tưởng sâu thẳm vào Thiên Chúa. Nhưng con đường đời sống của Ông lại gặp qúa nhiều khắc nghiệt đau thương: Ông mất tất cả từ nhà cửa đến gia đình, bạn bè và cả sức khoẻ riêng của mình nữa.
Dù trong đau khổ bơ vơ nghi an, Ông vẫn giữ vững lòng tin vào Thiên Chúa. Ông vẫn xác tín rằng ông chỉ còn một mình Thiên Chúa thôi. Thiên Chúa là bến bờ tiên khởi và bến bờ sau cùng con đường đời sống của mình.
Với ông con đường đời sống có gặp vướng trở vào trong bóng tối đêm đen, như số phận đời ông, cũng nằm trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa.
„ Bấy giờ ông Gióp trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy, và nói:
"Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ,
tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng.
ĐỨC CHÚA đã ban cho, ĐỨC CHÚA lại lấy đi:
xin chúc tụng danh ĐỨC CHÚA! „ ( Sách Job 1, 20-21)
Mẹ Thánh Terexa thành Calcutta, một người nữ tu được ca ngợi tuyên dương là người có lòng đạo đức bác ái gương mẫu cao qúi của thế kỷ này, đã sống theo khuôn thước của hiến chương nước trời Tám mối phúc thật, quảng đại dấn thân sống cho và sống với những người nghèo khốn khó bị bỏ rơi cùng khổ bên Ấn Độ.
Nhưng sau khi Mẹ qua đời, và trước khi Mẹ được tôn phong lên hàng Thánh, những bức thư riêng của Mẹ được công bố cho mọi người đọc tìm hiểu. Trong những thư đó Mẹ viết thuật lại đã sống trải qua con đường đời sống có nhiều bóng tối nghi nan.
Mẹ đã chân nhận niềm tin hoài nghi của mình: “ Bóng tối bao phủ đời sống tôi khắp mọi mặt. Tâm hồn tôi chịu đựng đau khổ. Có lẽ không có Thiên Chúa. Tôi cảm nhận có khát vọng không tận cùng hướng về một Đấng để tin. Nhưng nếu không có Thiên Chúa, không có Trời, thì trống rỗng đó là gì!“
Lời kêu cầu cứu giúp của các Tông đồ khi xưa trên sóng nước biển hồ lúc sóng gió nổi lên ập đổ xuống, đã đánh thức Chúa Giêsu:“ Thưa Thầy, sao Thầy không lo gì, chúng ta sắp chết chìm rồi.“ ( Mc 4,35), diễn tả sự căng thẳng lo lắng không chỉ nơi các Ông, mà còn cả nơi nhiều người tin theo Chúa trong cơn khủng hoảng chao đảo bị đe dọa.
Kêu cầu Chúa cứu giúp than vãn trong nghi nan nói lên cung cách sống lòng tin tưởng vào Chúa. Các Tông đồ đánh thức Chúa Giêsu kêu cầu xin cứu giúp. Và Chúa Giêsu đã dùng quyền phép khiến cho sóng yên gió lặng trở lại. Và như thế Ngài đem họ thoát ra khỏi sự sợ hãi nghi nan khủng hoảng chao đảo.
Con đường đời sống con người xưa nay luôn hằng có những khủng hoảng chao đảo đưa đến nghi nan sợ hãi, không chỉ lúc này vì đại dịch lây lan truyền nhiễm.
Tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa. Nhưng khủng hoảng chao đảo bóng tối bao phủ con đường đời sống không vì thế mà không có. Như bệnh hoạn tật nguyền phần thể xác và phần tinh thần, như gặp thất bại về công việc buôn bán, sự chết của người thân yêu gia đình, sự đòi hỏi qúa sức về nghề nghiệp làm ăn hay trong đời sống riêng tư, trong gian đình, trong việc giáo dục con cháu, không đạt được kết qủa như mong muốn…
Những hoàn cảnh như thế, hình ảnh thái độ sống như của Ông Gíop với lòng tin tưởng„ Trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa.“ ( Sách Gíop 1,22) hiện ra khơi dậy thúc đẩy tâm trí không để bị rơi vào vực thẳm buông xuông.
Hay như các Tông đồ kêu xin cùng Chúa: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?“, như hướng chỉ dẫn cho tâm trí có đốm lửa ánh sáng niềm hy vọng.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh môn bóng đá trên sân cỏ
- Viết bởi Dân Chúa
Toàn thế giới đang trong cơn khủng hoảng bệnh đại dịch do vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ đời sống con người từ cuối năm 2019. Nên mọi sinh hoạt từ ngày đó đến nay bị tê liệt ngưng đình trệ lại ở mọi bình diện đời sống xã hội.
Tình hình cơn đại dịch lúc này bên Âu Châu đang trên đà giảm bớt lây lan nhiều. Nhưng vi trùng đại dịch Corona đe dọa sức khoẻ đời sống chưa biến mất hẳn khỏi trần gian. Nên vẫn còn phải cẩn thận chú ý đề phòng ngăn ngừa không để cho vi trùng đại dịch bùng phát trở lại.
Đời sống bị đe doạ ngưng đình trệ từ hơn một năm nay. Nhưng con người cần niềm hy vọng, để tiếp tục nhìn tiến về phía trước trong sự xây dựng sáng tạo và niềm vui phấn khởi.
Thể thao là một bộ môn giúp cho đời sống có được sức khoẻ lành mạnh về thể xác cũng như tinh thần. Bóng đá là môn thể thao phổ thông đại chúng và có tầm cỡ quốc gia bên Âu Châu, cả bên Nam Mỹ nữa.
Theo chu kỳ cứ bốn năm bộ môn bóng đá lại được tổ chức thi đấu tranh giải giữa các đội tuyển quốc gia bên lục địa Âu Châu: Eurocup.
Theo chu kỳ môn thể thao bóng đá bên Âu châu lẽ ra đã diễn ra năm 2020, nhưng vì đại dịch vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm, nên Eurocup 2020 phải dời lại một năm sang tới 2021.
Các cuộc thi đấu tranh tài Euro 2021 được tổ chức nơi các sân vận động sân cỏ ở 11 quốc gia bên Âu châu từ ngày 11.06.- 11.07 . 2021 .
Vậy hình ảnh bóng đá truyền đi sứ điệp gì về đời sống?
Euro 2021 khai mạc hôm 11.06.2021 trên cầu trường sân cỏ bên Roma. Những trận tranh tài thư hùng giữa 24 đội tuyển quốc gia bên Âu Châu sẽ diễn trên sân cỏ sôi động, hồi hộp gây cấn đến ngày 11.07.2021.
Qua hình ảnh chiếu trên truyền hình, người ta thấy không phải chỉ phát sinh niềm vui phấn khởi reo hò hay khóc lóc nơi người đi xem đá banh - vì đại dịch nên số khán gỉa đến nơi cầu trường hạn chế rất nhiều- hay cả theo dõi qua màn ảnh truyền hình, cũng nhưng nảy sinh lòng yêu mến quê hương đất nước, được biểu lộ qua những lá cờ quốc gia đất nước của những đội tuyển thi đấu trưng bày bay phất, hoặc do cầm khoác mặc trên thân thể trong ngoài, hoặc cắm vào xe hơi chạy ngoài đường phố, hoặc treo chăng trước cửa nhà, có những người còn vẽ cờ nước mình trên đôi má, trên trán, có người còn nhuộm cả tóc theo mầu hình cờ nước họ ...
Hồi còn là Tổng giám mục München, Hồng Y Joseph Ratzinger, bây giờ là Giáo hoàng nghỉ hưu Benedicto 16., ngày 03.06.1978 đã có suy tư về thể thao bóng đá trên đài phát thanh:
„ Bóng đá đã trở nên một biến cố trên khắp địa cầu, có sức mạnh lôi cuốn, liên kết con người vuợt qua mọi ranh giới trong niềm hy vọng, lo âu hồi hộp, tha thiết nồng nàn và niềm vui tươi phấn khởi. Hiếm có biến cố nào trên thế giới có hấp lực trải rộng như thế.
Biến cố đó, có thể nói được, là khát vọng xa xưa khởi thủy của con người, và cũng đặt ra câu hỏi, trên nền tảng nào môn chơi này có hấp lực sức mạnh như vậy.
Người bi quan sẽ cho rằng, điều đó giống như ở thời Roma cổ xưa, họ đã viết trên biểu ngữ: Panem et circenses – Cơm bánh, ăn và trò chơi giải trí môn circus. Ăn và chơi chỉ là nội dung đời sống của một xã hội đang trên đà xuống dốc, đang lúc họ không còn nhận ra những đích điểm cao hơn nữa.
Nhưng nếu, cho đi rằng, người ta chấp nhận điều này, điều đó cũng không thể nào đủ có sức thuyết phục được. Vì thế phải hỏi lại: Trên nền tảng nào, môn chơi này có sức hấp dẫn, đến nỗi trở nên quan trọng bên cạnh cơm bánh như vậy?
Ðưa mắt nhìn ngược trở về thời Roma xa xưa, chúng ta có thể tìm ra câu trả lời, tiếng la hét đòi cơm bánh và môn chơi biểu hiện của khát vọng về một đời sống thiên đàng hạnh phúc, về một đời sống no đủ không có cực nhọc vất vả, và tự do được thỏa mãn tràn đầy. Ðiều này ẩn chứa trong môn chơi: trong hành động hoàn toàn tự do, không có đích điểm, không có sự bó buộc, nhưng có cố gắng về sức lực và được thi hành trọn vẹn.
Trong ý nghĩa này môn chơi cũng là một thể loại thử tìm về trở về nhà, nơi là thiên đàng hạnh phúc: bước thoát ra khỏi đời sống hằng ngày bị trói buộc do những ràng buộc căng thẳng vất vả, và lo liệu cho đời sống căng thẳng có tự do những gì không bắt buộc và dẫn dưa đưa đến sự tốt đẹp.
Như thế, môn chơi đã vượt qua cuộc sống hằng ngày. Môn chơi trước hết, nhất là đem đến cho trẻ em, bạn trẻ một bộ mặt đức tính khác: Sự tập luyện bước vào đời sống. Nó vẽ nên dấu chỉ hình ảnh đời sống tự mình phát triển cung cách sống cởi mở tự do.
Với tôi, hấp lực của môn chơi Bóng đá nằm ở chỗ, nó liên kết cả hai khía cạnh này trong một hình thái có sức hấp dẫn thuyết phục.
Nó bó buộc con người, trước hết tự mình thuần thục hóa chính mình qua việc tập luyện để thắng chính mình, qua sự vượt trội có sẵn hay đạt được đưa đến tự do. Thể thao bóng đá cũng dậy cho biết sống chơi kỷ luật với nhau. Trong một đội banh bắt buộc phải khép mình từng cá nhân vào tập thể chung.
Môn thể thao bóng đá nối kết qua cùng chung đích điểm. Thành công hay không thành công của mỗi cá nhân nằm trong liên quan thành công hay không thành công của toàn đội banh.
Nó dậy cung cách chơi đấu thể thao cao thượng khi chống chọi nhau, qua việc tuân giữ luật lệ chơi chung. Có thế cả hai bên đội banh mới có tự do.
Trong khi theo dõi quan sát tranh tài trận bóng đá trên sân cỏ, khán gỉa tự đồng hóa mình với trận chơi và với các cầu thủ đang thi đấu; họ gần như tham dự hăng say tích cực với đội banh gà nhà và cả với đội đối thủ, với sự căng thẳng bó buộc và cả với tự do nữa. Các cầu thủ chơi chạy trên sân cỏ trở thành hình ảnh biểu tượng của đời sống riêng họ, và tạo ảnh hưởng lại trên họ. Các cầu thủ biết rằng, những người đó tự vẽ nên hình ảnh mình qua các cầu thủ và tìm thấy được công nhận nơi họ.
Lẽ tất nhiên những điều này có thể trở nên bị tiêu hủy, bị làm cho ra xấu xa, khi yếu tố thương mại, tiền bạc chiếm ngự; khi môn chơi thể thao trở thành kỹ nghệ sản xuất, nó tạo ra một thế giới hào nhoáng hình ảnh không tốt đẹp.
Cho dù không tạo ra một thế giới hào nhoáng đầy hình ảnh, không có được lý do tích cực đi nữa trong môn chơi thể thao này: nó vẫn là phần tiền luyện tập thuộc về đời sống và sự bước qua của đời sống đi tìm phương hướng của một thiên đàng hạnh phúc đã bị mất. Cả hai đều đi tìm kỷ luật của sự tự do, trong mối dây ràng buộc vào luật lệ với nhau, chống chọi lại nhau và của mỗi cá nhân.
Nên rất có thể, chúng ta trong suy nghĩ như thế, rút ra từ môn chơi thể thao bóng đá bài học mới cho đời sống. Nơi môn chơi thể thao này ta nhận ra một nền tảng căn bản: Con người sống không nguyên chỉ bằng cơm bánh thôi. Vâng, thế giới cơm bánh thật ra chỉ là bước tiên khởi cho đời sống con người, cho một thế giớ tự do. Sự tự do sống còn phát triển qua luật lệ, qua thuần thục giáo dục. Nó dậy cách sống chơi chung và sống thế nào là một đối thủ đúng ngay chính trong cuộc chơi
Cuộc chơi, đời sống, nếu chúng ta đi sâu vào, có thể hiện tượng của một thế giới hào hứng phấn khởi về bóng đá giúp ta nhận ra nhiều điều vượt xa hơn chỉ là một cuộc vui chơi giải trí.“
Và Đức Giáo Hoàng đương kim Phanxicô đã thố lộ tâm sự ngày xưa lúc còn trẻ là một Fan môn bóng đá rất nhiệt thành hào hứng. Vị Giáo hòang 84 tuổi đã cầu chúc cho thế giới, và không chỉ môn thể thao, sự thành thật . Ngài chỉ ra chủ đề „ Một thua cuộc trong sạch minh bạch tốt đẹp hơn là một chiến thắng đầy vẩn đục…Đó là một nghệ thuật tuyệt đẹp, một trò chơi của đời sống thi đấu chơi với cung cách thái độ thanh lịch ngẩng đầu lên cao. Và Ngài tâm sự thêm vào: Xin cầu nguyện cho tôi, để tôi không ngừng nghỉ tập huấn cùng với Thiên Chúa.“
Bóng đá là trò chơi cộng đồng tập thể giữa hai đội tuyển gồm 22 cầu thủ thi đấu trên sân cỏ, và đồng thời cũng của hàng chục ngàn khán giả hâm mộ ủng hộ, hàng trăm triệu khán gỉa theo dõi qua màn ảnh truyền hình trên khắp thế giới. Vì thế bóng đá là môn chơi to tiếng hò hét vang động nơi sân vận động cùng cả ở ngoài sân vận động nữa.
Nơi sân vận động diễn ra trận thi đấu khán giả hát bài : „ You´ ll never walk alone“ Và câu điệp khúc: „Tiếp tục tiến lên, tiếp tục tiến lên bằng niềm hy vọng trong trái tim, và bạn sẽ không đi một mình đâu.“.
Mùa Euro 2021
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh trái tim Chúa
- Viết bởi Dân Chúa
Trong kinh cầu trái tim Chúa Giêsu có lời ca ngợi cầu xin: Trái tim Đức Chúa Giêsu là nguồn mạch mọi sự yên ủi.
Dân gian có ngạn ngữ „Lòng có tràn đầy mới trào ra bên ngoài!“ nói đến những ý nghĩ tư tưởng phát xuất từ trái tim tâm hồn trước khi nói ra ngoài môi miệng.
Như thế trái tim được hiểu diễn tả là trung tâm của đời sống con người. Trái tim còn nhiều hơn là một cơ quan có cơ bắp sinh động cho dòng máu được bơm lưu chuyển đi khắp cùng nuôi sống các cơ quan thân thể mọi loài sinh vật trong công trình thiên nhiên.
Trái tim là hình ảnh nội tâm thâm sâu của toàn thể một con người nữa. Khi điều gì mang đến sự tốt lành, trái tim cảm nhận được sự ấm áp, niềm vui phấn khởi.
Trái lại, khi phải trải qua điều đau khổ buồn phiền lo âu, trái tim tâm hồn như bị đè nặng làm cho cả thể xác uể oải chán chường như ngã qụy buông xuôi.
Ta cũng thường nói: „Xin chân thành (với cả trái tim tâm hồn) chúc mừng Ông Bà, Anh, Chị, Bạn, Em, Cháu…ngày vui mừng thành công!“
Hay: Xin chân thành (với cả tâm hồn trái tim) chia buồn cùng…..cùng chia sẻ nỗi mất mát đau buồn…!
Như thế nói lên điều ta biết trải qua, trái tim cũng cùng cảm nhận và muốn nói lên bằng ngôn ngữ điều cảm nhận (vui, buồn chia sẻ) từ tận trong trái tim.
Trong đời sống con người trái tim luôn giữ vai trò chính yếu khi còn chung sống với nhau trên trần gian và cả khi đã từ gĩa trần gian bước sang đời sống bên kia thế giới. Vì người đã vĩnh viễn ra đi về đời sau, tuy không còn hiện diện trong gia đình bằng thân xác, nụ cười tiếng nói, nhưng hình ảnh đời sống của họ vẫn hằng sống động hiện diện trong trái tim của người thân gia đình còn đang sống trên trần gian.
Trong Kinh Thánh trái tim luôn được nói đến trong ý nghĩa tương quan toàn thể con người. Có thể nói được bằng hình ảnh như một phương trình: „Con người = trái tim“.
Với cùng qua trái tim con người có thể suy nghĩ, có cảm nhậnvui mừng, buồn thương đau khổ, giận dữ, đắng cay, trở nên cứng nhắc, nhớ nhung tưởng nhớ.
Sách Châm Ngôn có lời khuyên nhủ về trái tim :
„Hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ,
vì từ đó mà sự sống phát sinh.“ (Sách Châm ngôn 4,23)
Lời khuyên nhủ này dĩ nhiên không phải theo khía cạnh y khoa, nhưng theo khía cạnh tâm linh tinh thần hãy chú ý đến những gì đánh động thâm tâm trong trái tim tâm hồn liên quan đến đời sống, đến tình yêu. Vì từ trái tim phát xuất ra sự sinh động.
Và cũng có gía trị về niềm tin nữa. Niềm tin không thể thành hình nếu không có trái tim tâm hồn: Con người = trái tim = Tình yêu Thiên Chúa!
„Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em).“ (Sách Đệ nhị luật 6,5)
Dẫu vậy trái tim con người cũng có thể vướng mắc vào lầm lạc đi sai lạc hướng, cùng bị sa chước cám dỗ.
Kinh nghiệm này con người hầu như luôn hằng có. Ngày xưa dân Israel là một dân riêng của Thiên Chúa đã nhiều lần quay lưng lại với Ngài, như Ngôn Sứ Hosea viết thuật lại:
„Khi Ít-ra-en còn là đứa trẻ, Ta đã yêu nó,
từ Ai-cập Ta đã gọi con Ta về.
Nhưng Ta càng gọi chúng, chúng càng bỏ đi;
chúng dâng hy lễ cho các Ba-an, đốt hương kính ngẫu tượng.
Ta đã tập đi cho Ép-ra-im, đã đỡ cánh tay nó,
nhưng chúng không hiểu là Ta chữa lành chúng.“ (Ngôn Sứ Hose 11, 1-3).
Nhưng trái tim Thiên Chúa lớn lao hơn, hằng rộng mở và mạnh mẽ hơn. Thiên Chúa không vì thế để cho trái tim của Ngài bị tổn thương hay giận dữ phẫn nộ, cho dù con người có quay lưng không muốn biết đến Ngài. Vì thế Ngài không thể có cung cách sử sự nào khác hơn là biểu lộ tình thương yêu:
„Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi!
Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành!
Làm sao Ta xử với ngươi như với Át-ma,
để ngươi nên giống như Xơ-vô-gim được?
Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi.“ (Ngôn sứ Hosea 11,8)
Những lời của Ngôn Sứ Hosea như trên rồi cũng bị con người bỏ quên. Chính vì thế Thiên Chúa đã lại rộng mở trái tim ngài ra cho con người.
Trong Chúa Giêsu Kitô, Đấng là con Thiên Chúa, Thiên Chúa đã trao tặng trái tim của mình cho con người.
Đây chính là trung tâm của lễ mừng kính trái tim Chúa Giêsu. Lễ mừng kính này không phải là một cung cách đạo đức riêng biệt, nhưng diễn tả điều căn bản của đức tin chúng ta.
Trong đức tin chúng ta trao gửi trái tim cho Đấng trước hết và với cả trái tim yêu mến cùng dấn thân hy sinh cho con người chúng ta. Chúa Giêsu Kitô là trái tim của Thiên Chúa cho trần gian, cho con người.
Xuống trần gian làm người Chúa Giêsu trong cung cách sinh hoạt giao tiếp với con người Ngài đã sống bằng trái tim tình yêu thương với những người bé nhỏ yếu kém, với những người bị bỏ rơi khinh miệt, với những người tội lỗi.
Ngài gần gũi họ, nói với họ lời an ủi, tha thứ làm hoà, mang lại cho họ niềm hy vọng vươn lên. Ngài không đưa ngón tay trỏ chỉ điểm cảnh cáo, nhưng với trái tim cùng thông cảm phấn chấn. Lời của Ngài rao giảng gây cảm động đi vào lòng người.
Trên thập giá Ngài tắt hơi thở chết. Nhưng không vì thế là điểm tận cùng chấm dứt. Trái lại sự sống tiếp tục tuôn chảy trào ra, như Thánh Gioan viết thuật lại: Từ trái tim cạnh sườn Người Máu cùng Nước chảy tuôn ra. (Ga 19,34).
Dòng nước sự sống mà chúng ta tiếp nhận trong Bí Tích Rửa tội, và trong Bí Tích Mình Máu Thánh Chúa, là lương thực mang đến cho trái tim tâm hồn đức tin được tràn đầy sự sống sung mãn.
Hình ảnh trái tim chan chứa tình thương yêu của cha mẹ cho con cháu mình phản chiếu lại hình ảnh trái tim của Chúa , Đấng là nguồn tình yêu thương, nguồn sự an ủi cho con người.
Lễ mừng kính trái tim Chúa Giêsu
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hình ảnh bản chất căn bản sự thể
- Hình ảnh Đức mẹ Maria “Regina familiae - Nữ vương các gia đình“
- Hình ảnh cầu nguyện cùng Đức Chúa Thánh Thần
- Hình ảnh những ngón tay cầu nguyện
- Hình ảnh dấu vết Chúa Giêsu để lại
- Hình ảnh „Đức mẹ phù hộ các giáo hữu“
- Hình ảnh „ salus infimorum- Đức Bà cứu kẻ liệt kẻ khốn.“
- Hình ảnh các vị Giuse, những người có lòng nhân hậu
- Hình ảnh người chăn chiên nhân lành ( Ga 19,11-18)
- Hình ảnh mong đợi bình an