Hình ảnh lời xin vâng của Đức mẹ Maria
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm Giáo hội Công giáo mừng mầu nhiệm Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người trong cung lòng trinh nữ Maria vào ngày lễ Thiên Thần Gabriel truyền tin cho đức mẹ Maria, ngày 25. Tháng Ba.
Về phương diện sinh lý tự nhiên, ngày này đánh dấu mốc thời gian Giêsu Con Thiên Chúa bắt đầu thành hình phát triển là người trong cung lòng người mẹ chín tháng cho đến ngày 25. Tháng Mười Hai mở mắt chào đời.
Về phương diện đạo đức với Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, còn đậm nét dấu vết tâm tình đời sống chan chứa lòng tin cậy mến của Maria qua lời: „Tôi là tôi tớ Chúa, xin vâng như lời Sứ Thần truyền!“ ( Phúc âm Thánh Luca 1,38).
Vậy lời „ Tôi là tôi tớ Chúa, xin vâng như lời Sứ Thần truyền!„ của Maria nói với Sứ Thần Gabriel ẩn chứa hình ảnh sứ điệp gì?
Xưa nay hằng có nhiều suy tư về ý nghĩa lời này của Maria như lòng khiêm nhượng, sự khôn ngoan vâng theo ý Thiên Chúa, lòng đạo đức kính sợ sâu thẳm của Maria với Thiên Chúa.
Lời „xin vâng „ của Maria nói với Sứ Thần Gabriel diễn tả tâm tình lòng tin ngược hẳn với lời thắc mắc hoài nghi của Thầy cả Zacaria nói với Thiên Thần Gabriel hiện đến báo tin vui cho ông sẽ có con trai: „ Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy?“ Vì tôi đã gìa, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi.“ ( Phúc âm Thánh Luca 1, 18).
Maria tin vào lời Thiên Thần Chúa báo tin và không đặt ra điều kiện dấu chỉ báo hiệu nào.
Còn thầy cả Zacaria muốn tin. Nhưng còn thắc mắc hoài nghi. Vì Ông dựa vào suy nghĩ sinh lý tự nhiên làm sao có thể xảy ra có con được nữa nơi vợ chồng chúng tôi đã luống tuổi gìa rồi. Ông muốn có dấu chỉ báo hiệu.
Lời xưng nhận mình là „tôi tớ xin vâng“ của Maria không chỉ nói lên tâm tình đạo đức, nhưng còn diễn tả sự ưng thuận bằng lòng với ý của Thiên Chúa muốn thực hiện nơi mình.
Lời xin vâng ưng thuận của Maria diễn tả cao điểm về cung cách sống lòng tôn giáo cùng quan trọng trước Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa.
Lời xin vâng của Maria diễn tả hai khía cạnh cao cả của một tâm hồn đời sống:
- một bên là sự tiêu cực chấp nhận, và một bên là sự tích cực sẵn sàng,
- một phía là sự trống rỗng sâu thẳm, và một phía là sự tròn đầy cao cả nhất. ( Heinz Schuermann, Das Lukasevengeluim, 1. Teil, 1,1-9,50, Sonderausgbe Herder 1984, trang 58).
Lời xin vâng của Đức Mẹ Maria nói với Thiên Thần Gabriel trong biến cố truyền tin vẽ lên những hình ảnh đổi mới nơi đời sống Đức Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn làm mẹ Con Thiên Chúa.
„Khi nói xin vâng được coi như một giao ước mới, tôi nhớ lại việc Đức Mẹ vội vã lên đường đi thăm viếng Bà Isave ( Lc 1,39-45). Đi thăm để chia sẻ, để phục vụ, để nâng đỡ khích lệ bà Isave. Theo Đức Mẹ, thì mình được Chúa thương là để mình biết thương người khác…
Thiết tưởng đó là giao ước mới về bác ái liên đới phát sinh từ lời xin vâng.
Khi nói xin vâng được coi như một bài ca mới, tôi nhớ lại tâm tình Đức Mẹ trong kinh Tạ ơn “ Linh hồn tôi tung hô Chúa“ ( Lc 1,46-55). Tâm tình Đức Mẹ là nói lời chân thành của người con bé nhỏ, đầy khiêm tốn, ngỡ ngàng biết ơn và phó thác đối với Chúa.
Thiết tưởng đó là một bài ca mới về khiêm tốn khởi đi từ lời xin vâng.
Khi nói lời xin vâng được coi là một con đường mới, tôi nhớ lại biến cố Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu tại hang đá Belem( Lc2,1-7)…Đức Mẹ đã lặng lẽ đi vào con đường khó nghèo. Con đường đó đã khởi đi từ hang đá Belem và kéo dài từng ngày, từng tháng, từng năm suốt cả cuộc đời Đức Mẹ…
Thiết tưởng đó là một con đường mới về sự nghèo khó được vạch ra từ lời xin vâng.
Con đường mới đó, bài ca mới đó, giao ước mới đó đều nói lên Đức mẹ là con người mới. Mới về nhiều phương diện, nhưng nhất là về phương diện Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Mẹ, để đổi mới con người của mẹ. ( Lc 1,35).
…Do đó Đức Mẹ là con người mới, là tác phẩm tuyệt vời của Chúa Thánh Linh. Với đặc điểm là Đức mẹ có một trái tim giống trái tim Chúa Giêsu, trong sạch, hiền lành, khiêm nhường, cháy rực lửa tình yêu thương xót.“ ( Đức cha GB. Bùi Tuần, Xin vâng, 01.04.2002).
Trong đời sống làm người, xưa nay con người cũng luôn nói lời xin vâng với Thiên Chúa và với nhau.
Hai người nam nữ ưng thuận nhận nhau làm vợ chồng. Và như thế nói lời xin vâng với nhau: cùng nhau chia sẻ xây dựng con đường đời sống, cùng nhau đón nhận niềm vui hạnh phúc cũng như cùng chịu đựng thử thách, đau khổ xảy đến trong cuộc đời, cùng nhau củng cố lòng tin niềm hy vọng cho nhau, cho con cái trong mọi hoàn cảnh đời sống.
Từ lời xin vâng với nhau nhận nhau làm vợ chồng họ trở thành con người mới với nhiệm vụ mới trên con đường đời sống mới cho con cháu gia đình.
Người chọn nếp sống đời tu hành tận hiến trong các Hội Dòng, trong Hội Thánh Chúa ở trần gian cũng nói lời xin vâng. Từ đó bắt đầu bậc đời sống mới với nhiệm vụ mới. Và trong dòng thời gian họ luôn phải nói lời xin vâng để ôn nhớ lại ơn Gọi và bắt đầu mới lại.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh dụ ngôn hạt lúa
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Qúa trình một hạt giống to như hạt lúa, hạt bầu bí, hay nhỏ li ti ti như một hạt cải, khi được gieo xuống nền đất với thời gian cùng điều kiện mưa nắng, sẽ được kích thích biến đổi thành mầm sức sống phát triển lớn lên thành cây có cành lá xanh tươi mang đến hoa trái, là một qúa trình tự nhiên trong thiên nhiên.
Qúa trình này Đấng Tạo Hóa càn khôn đã phú bẩm ký thác vào nơi mỗi giống loại thảo mộc trong công trình thiên nhiên ngay từ lúc vũ trụ được tạo dựng lúc khởi đầu.
Qúa trình phát triển này là hình ảnh diễn tả về sự khởi đầu đổi mới vươn lên trong dòng lịch sử đời sống xưa nay của nhân loại.
Chúa Giêsu Kitô trên bước đường rao giảng nước Thiên Chúa ở trần gian cũng dùng hình ảnh qúa trình này làm dụ ngôn về đời sống thiêng liêng:
“Quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sẽ sinh ra nhiều bông hạt” (Ga 12, 24).
Vậy Chúa Giêsu muốn nói đến trong dụ ngôn hạt lúa chất chứa sứ điệp gì?
Chúa Giêsu dùng hình ảnh hạt lúa gieo xuống đất bị biến đổi mục nát rồi mới nẩy mầm thành cây tươi tốt sinh hoa kết trái, có ý hướng nói về sự hy sinh dấn thân chịu đựng đến chết trên cây thập tự của ngài có gía trị mang lại sự sống ơn cứu chuộc cho linh hồn con người thoát ra khỏi hình phạt tội lỗi.
Và Chúa Giêsu còn muốn dùng hình ảnh ngôn ngữ này gửi đi sứ điệp cho đời sống con người nữa: con đường hạt lúa giống.
Đời sống con người ai cũng mong muốn cho mình cùng cầu chúc cho người khác luôn có bình an mạnh khoẻ. Vì bình an sức khoẻ thể xác cùng tinh thần là món qùa tặng châu báu Trời cao ban cho con người.
Nhưng có được như lòng mong ước đó không luôn luôn diễn xảy ra trong đời sống con người. Vì những thử thách, sự cố bất ngờ về bệnh tật sức khỏe thể xác tinh thần tâm trí hầu như ập xẩy đến nhiều. Như lúc này bệnh đại dịch vi trùng Corona lây lan đe doạ sức khoẻ đời sống nhân loại từ hơn năm qua xảy ập đến bất ngờ, vẫn còn đang kéo dài gây hoang mang chao đảo, làm ngưng trệ tê liệt mọi sinh hoạt đời sống!
Vì thế, con người luôn hằng phải chịu đựng và chiến đấu để bảo vệ gìn giữ hạt giống qùa tặng sức khoẻ đời sống của Trời cao ban tặng.
Đạt được thành công cho đời sống về học hành, về nghề nghiệp làm ăn sinh sống là điều ai cũng mong muốn cho mình và cầu chúc cho người khác nữa.
Nhưng để đạt được thành công, buộc phải nỗ lực đầu tư không chỉ thời giờ, mà còn cả sức lực thề xác cũng như tinh thần là điều kiện cần thiết.
Sự nỗ lực đầu tư này đòi hỏi phải luôn cố gắng hy sinh dấn thân đến độ đổ mồi hôi kiên trì từng bước chấm nhỏ, và có khi bằng cả nước mắt đau khổ nữa!
Hạt gìống đời sống mỗi người cũng phải qua qúa trình biến đổi phát triển như một hạt giống trong thiên nhiên nơi nền đất.
Đời sống cha mẹ ngày xưa đã trải qua những hoàn cảnh không mấy thuận lợi tốt đẹp cho đời sống mình. Khi có con cha mẹ nào cũng mong muốn sự tốt đẹp sau này cho con mình. Mong sao chúng không phải gặp , hay ít phải vướng mắc vào điều không thuận lợi, như mình đã vướng mắc vào ngày trước. Vì thế họ nỗ lực hy sinh xây dựng kiến tạo vun xới cho đời sống con cái mình được tốt đẹp thuận lợi như lòng mong muốn.
Đó là điều chan chứa ý hướng tốt đẹp lành thánh hữu ích. Nhưng đời sống mỗi con người trải dài như một con đường lên xuống quanh co, có nhiều uốn khúc trong cũng như đục của một dòng sông, cùng khác nhau. Và không ai có thể ấn định đời sống cho chính mình cùng cho người khác được theo như mong muốn. Những bất ngờ, những bất định lên xuống xảy đến khác nhau cho từng người, cho từng giai đoạn quãng đường đời sống.
Vì thế, từ khi mở mắt chào đời bước chân vào đời sống, mỗi người được Đấng Tạo Hóa ban cho sự sống thân xác cũng như tinh thần khác nào là hạt lúa giống đời sống có những thử thách riêng biệt, những bất ngờ xảy đến, mà không ngờ lường trước được.
Nên đòi hỏi từng giai đoạn phải nỗ lực hy sinh dấn thân chịu đựng để vượt qua. Hạt giống đời sống mà Đấng Tạo Hóa ban cho mỗi người đòi buộc phải được gieo vào nền đất phải biến đổi mới phát triển thành cây tươi tốt mang lại bông hoa trái được.
Đời sống làm người trong chiều tương quan với Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, trong chiều tương quan giữa con người với nhau, và cùng trong chiều tương quan với nhiên nhiên luôn phải trải qua con đường hạt lúa giống được gieo vãi trên nền đất biến đổi phát triển thành cây xanh tốt có bông hoa trái.
„ Cái tôi của ta ví như những hạt cây có dầu. Nếu được nghiềm nát ra, nếu được lọc sạch, cái tôi có thể trở thành đầu cbữa bệnh, dầu xức cho thơm, dầu để thắp sáng.
Cái tôi của ta ví như hạt lúa. Nếu chịu thối đi, để góp phần vào những hy sinh của Chúa Giêsu, nó sẽ có phần trong việc mở mang Nước Trời.
Nếu con đường người môn đệ là con đường hạt lúa, thì dù ở bậc nào, dù mang chức quyền nào, dù ở hoàn cảnh nào, gía trị thực sự của ta vẫn phải qui chiếu vào con đường hạt lúa.“ ( Đức giám mục GB. Bùi Tuần, Con đường hạt lúa, 19.03.2003).
Đời sống của con người được dệt đan kết thành tựu do bởi chuỗi những cố gắng hy sinh dấn thân chịu đựng.
Hạt giống đời sống đó khi trải qua qúa trình hy sinh dấn thân được biến đổi sẽ nẩy nở phát triển sinh cành lá bông trái tươi tốt mang ích lợi cho đời sống riêng cũng như chung, nhất là cho đời sống tinh thần đạo đức.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Thánh Giuse, người phù hộ bảo trợ
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngoài đức mẹ Maria, người mẹ sinh hạ nuôi dưỡng Chúa Giesu ở trần gian ra, Thánh Giuse người được nhắc nói tới là nhân vật quan trọng cốt lõi ngay từ khởi đầu đời sống Chúa Giêsu Kitô ở trần gian nơi các sách phúc âm viết thuật về Chúa Giêsu Kitô.
Tên Thánh cả Giuse được nhắc kể đến 05 lần trong Phúc âm theo Thánh Matthêo ( Mt 1,16,18,19,20,24); 05 lần trong phúc âm theo Thánh Luca ( Lc 1,27; 2,4,16;3,23;4,22), và 01 lần trong Phúc âm theo Thánh Gioan ( Ga 1,45).
Tên Thánh Giuse được nhắc đến trong Phúc âm như vậy đều có liên quan đến đời sống Chúa Giêsu vào giai đoạn khởi đầu từ khi Chúa Giêsu còn trong cung lòng mẹ Maria, rồi thời thơ ấu Chúa Giêsu sinh ra làm người trên trần gian., giai đoạn lớn lên ở Ai Cập và thời gian sống ở quê nhà Nazareth
Từ giai đoạn thời Chúa Giêsu trưởng thành ra giảng đạo nước Thiên Chúa, tên Thánh Giuse, người cha nuôi Chúa Giêsu, không còn được nhắc tới nữa.
Cũng không có sách nào ghi viết tiểu sử của Thánh Giuse, người cha nuôi Chúa Giêsu. Nhưng Thánh Giuse lại là vị Thánh được cả Hội Thánh hoàn vũ biết đến với lòng sùng kính mộ mến xưa nay.
Sử sách không ghi chép nói gì về cuộc đời Thánh Giuse. Nhưng những đặc thù cá biệt tốt lành thánh thiện của cuộc đời Thánh Giuse lại luôn sống động cùng là gương mẫu cho mọi người trong đời sống đức tin.
Trong đời sống làm người xưa nay, khi lớn lên đi vào đời, con người ai cũng phải làm việc xây dựng bản thân mình, cùng góp phần kiến tạo đời sống xã hội chung cũng như riêng. Và có như thế, đời sống con người mới có phát triển và có niềm vui hạnh phúc.
Trong đời sống con người thường đi tìm một gương sống như kim chỉ nam, như động lực thúc đẩy cố gắng học hỏi làm việc theo đuổi, cả những khi gặp khó khăn, nhất là về con đường đời sống thiêng liêng . Chính vì thế, trong kinh cầu Ông Thánh Giuse có lời ca tụng cầu xin:
„Ông Thánh Giuse là mẫu mực các kẻ làm ăn.“
Xưa nay gia đình là nền tảng của xã hội cũng như của Hội Thánh. Đời sống gia đình có niềm vui hạnh phúc không phải vì gia đình có đời sống của cải sung túc dư thừa, tuy của cải là yếu tố cần thiết để sinh sống. Nhưng hạnh phúc gia đình còn tùy thuộc nơi đời sống tinh thần nhiều hơn nữa.
Vì thế, người tín hữu Chúa Kitô cầu xin cùng Thánh Giuse qua lời cầu xin trong kinh cầu:
„Ông Thánh Giuse là Đấng mọi nhà phải cậy nhờ cho được vững vàng“
Cuộc đời con người ai cũng mong muốn sao cho xuông xẻ thuận buồm xuôi gió trong mọi giai đoạn đường đời. Nhưng nỗi vướng trở khúc mắc, niềm bất hạnh đau khổ thường xảy đến trong đời sống nhiều hơn.
Gặp vướng mắc vào hoàn cảnh như thế, là con người hầu như ai cũng lúng túng chao đảo mất tinh thần. Những lúc như thế này, niềm tin, sự an ủi rất cần thiết cho tinh thần được đứng vững, nhất là khi cảm nhận thấy có người cùng thông cảm nâng đỡ.
Vì vậy, trong kinh cầu Thánh Giuse, chúng ta thành khẩn kêu xin:
„Ông Thánh Giuse yên ủi các người gặp cảnh khó khăn.“
Trong đời sống sức khoẻ thể xác cũng như tinh thần là món qùa tặng cao qúy của Trời cao, mà không gì có thể so sánh với, cùng không sao mua được bằng tiền bạc. Chúng ta có hay không có sức khoẻ. Khi có sức khoẻ phải qúi trọng gìn giữ bảo vệ.
Khi đau yếu bệnh nạn cần phải tìm cách chữa chạy để có sức khoẻ bình an trở lại. Thuốc uống phương thức chữa trị y khoa là điều cần thiết cho việc chữa trị để sức khoẻ bình phục trở lại. Nhưng lòng cậy trông vào sức thiêng liêng cũng là phương dược hiệu nghiệm giúp cho không chỉ cho tinh thần mà còn cho cả thể xác tìm trở lại được sức sống bình an, niềm hy vọng phấn khởi vươn lên. Như trong lúc này sức khoẻ đời sống con người đang bị đe dọa do vi trùng Corona gây ra cơn đại dịch lây lan truyền nhiễm khắp nơi trên hoàn cầu.
Nên người tín hữu Chúa Kitô trong kinh cầu đã có tâm tình cầu xin: „Ông Thánh Giuse là như cột trụ cho người bệnh nạn được cậy trông.“
Theo ơn Chúa kêu gọi, xưa nay trong sống Giáo Hội có những người tín hữu Chúa Kitô chọn đời sống độc thân không lập gia đình, vì nước trời. Đó là bậc sống của những người chọn nếp sống quảng đại dâng hiến đời sống mình trong các nhà Dòng, trong chủng viện của Giáo hội. Họ muốn dành trái tim tình yêu suốt cả đời sống mình cho lý tưởng phụng sự Thiên Chúa và con người trong khu vườn Giáo Hội Chúa ở trần gian.
Nếp sống lý tưởng cao qúi này đòi hỏi liên lỉ sự hy sinh dấn thân để chống lại những cám dỗ nghiêng ngả chiều theo bản tính tự nhiên nằm sẵn trong máu mủ, nơi ý hướng lòng muốn của con người. Vì thế người tu trì càng cần sự nâng đỡ thiêng liêng, để có sức mạnh tinh thần chống lại cơn cám dỗ.
Thánh Giuse là người phù hộ bên ngai tòa Thiên Chúa cho những người chọn nếp sống tu trì, như lời ca ngợi cầu xin trong kinh cầu:
„Ông Thánh Giuse gìn giữ các kẻ đồng trinh.“
Đời người xưa nay ai cũng có ngày mở mắt sinh ra trên trần gian. Khi sinh ra bước chân vào đời, con người dù còn thơ bé cũng nắm chặt hai bàn tay lại. Qua cử chỉ này muốn truyền đi tín hiệu: tôi ham sống. Đời sống là niềm vui. Tôi sẵn sàng bắt nắm cơ hội sống vươn lên!
Nhưng đời sống đâu có ai được mãi trẻ khoẻ đẹp. Trái lại, ai cũng có thời gian thêm nhiều tuổi gìa đi, yếu đau và ngày cùng tận. Khi ngày cùng tận tới kề, lúc đó sức lực cũng hết, đôi bàn tay nắm chặt ngày xưa lúc còn thơ bé, lúc tuổi thanh thiếu niên, quãng đời trưởng thành, giờ đây không còn sức lực nữa., nên duỗi buông xuôi thẳng mềm ra. Đức tin vào Thiên Chúa là điểm tựa cuối cùng của đời sống.
Và trong giờ phút đó, người có niềm tin kêu xin:
„Ông thánh Giuse là quan thầy các kẻ mong sinh thì“
Chúa Giêsu sinh sống trên trần gian giữa con người tất cả 33 năm. Ngài dành ba năm đi rao giảng tình yêu nước Thiên Chúa cho con người. Trong quãngthời gian đó, Ngài kêu gọi 12 Tông đồ làm nền tảng xây dựng Hội Thánh ở trần gian.
Sau khi Chúa Giêsu trở về trời, Hội Thánh do Chúa Giêsu thành lập trên nền tảng 12 Tông đồ có nhiệm vụ tiếp tục sứ mạng gìn giữ, làm chứng cùng loan truyền giáo lý Chúa đã rao giảng cho con người: Anh em hãy đến với muôn dân!
Trong dòng thời gian lịch sử hơn hai ngàn năm, Hội Thánh Chúa Giêsu đã trải qua không biết bao nhiêu biến cố thăng trầm. Vâng có rất nhiều bóng tối, nhiều chao đảo thử thách biến đổi. Nhưng đức tin vào Chúa là sức mạnh giúp Hội Thánh vượt qua khó khăn, vượt qua được sóng gió vùng thung lũng bóng tối thử thách.
Nhìn vào Thánh Giuse, là người gìn giữ bảo vệ gia đình Chúa Giêsu ngày xưa. Nên Hội Hội hằng kêu xin cùng Thánh nhân:
„Ông Thánh Giuse gìn giữ phù hộ Hội Thánh.“
Hội Thánh Chúa Giesu, người tín hữu Chúa Kitô cầu xin khấn nguyện cùng Thánh cả Giuse xin ơn phù hộ giúp đỡ. Vì khi nhìn vào Thánh Giuse, họ đọc nhận ra nếp sống của ngài xưa kia đã sống phù hộ bảo vệ cho đức mẹ Maria và Chúa Giêsu:
„-Thánh Giuse đã bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ trong nội bộ cộng đoàn tôn giáo của mình. Bởi vì ngài biết trong nội bộ có những lớp người tự nhận là đạo đức sẽ ra tay bắt bớ và xua đuổi Chúa Giêsu và Đức Mẹ.
-Thánh Giuse đã bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ một cách khôn ngoan, nghĩa là không lên tiếng khích bác và chống đối ai. Nhưng chỉ lặng lẽ sống những giá trị Phúc Âm một cách tích cực.
- Thánh Giuse đã bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ một cách tế nhị. Nghĩa là ngài luôn lui vào địa vị kẻ phục vụ, vui lòng nhận vào mình những việc nặng nề vất vả nhọc nhằn, để che chở cho Chúa Giêsu và Đức Mẹ.“ ( Đức Giám mục GB. Bùi Tuần , Thánh Giuse sống ơn gọi bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ, 19.03.2018)
Mỗi người có thể nhìn vào Thánh Giuse với cách nhìn tầm suy hiểu khác nhau. Nhưng Thánh Giuse vẫn luôn là gương mẫu cho người tín hữu Chúa Kitô về đời sống đức tin vào Thiên Chúa trong mọi cảnh ngộ đời sống:
„Ông Thánh Giuse là Đấng rất trung nghĩa“
Lễ kính Thánh cả Giuse, 19.03.2021
Năm Thánh Giuse 2020 -2021 “Patris corde – Trái tim của người Cha.“
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh con rắn đồng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Rắn là một loài động vật không chân tay, thân hình tròn trơn thẳng từ đầu cho tới đuôi, dài hằng thước óng ánh, cùng mềm mại như một dây thừng dài. Vì thế Rắn trườn lướt uốn khúc vượt qua mọi vật ngăn cản giữa lối bò phóng đi thoăn thoắt rất nhẹ nhàng nhanh lẹ.
Rắn sống chui rúc trong lỗ hang dưới mặt đất, trong sườn núi, nơi lùm cỏ cây rậm rạp. Nó có thể leo bò lên trên cây cao, bơi lội trong lòng sông nước. Rắn sống và phát triển sinh sôi nhìều trứng nở ra con ở những vùng khí hậu nóng ẩm ướt.
Trong dân gian có quan niệm „gian trá gỉa dối như là loài rắn!“. Định kiến như vậy, vì có nhiều lý do. Trước hết rắn là một loài thú động vật có nọc độc hại cắn bổ gây chết người, khi bị nó cắn, cùng xa lạ với con người về cấu trúc hình thể của nó.Và nhất là về lối nếp sống của nó bao trùm nhiều bí hiểm.
Da loài rắn theo thiên nhiên thay đổi theo từng thời kỳ tuổi tác của rắn, cùng có nhiều vân mầu sọc tự bản chất tùy theo chủng loại rắn. Đó cũng là dấu hiệu của sự gian trá gỉa dối, nhất là cái lưỡi xẻ đôi của rắn lè ra xa rồi co thụt vào rất lẹ làng như có ý đe dọa tấn công.
Rắn là hình ảnh biểu tượng cho sự tinh quái, bí hiểm cùng sự dữ điều xấu xa.
Về phương diện tự nhiên thì như thế. Còn về phương diện tinh thần trong đời sống con người thì hình ảnh của loài rắn như thế nào?
Loài rắn mưu mô độc hại nguy hiểm. Con người sợ nó, tránh xa nó cùng tìm cách bắt nó. Nhưng dẫu vậy nó cũng sợ con người. Và có nền văn hóa trong dân gian còn dành cho nó vị trí đặc biệt tôn kính nó như „thần thánh!“
Loài rắn cũng là loài thú động vật được Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa tạo dựng chung với các loài thú động vật khác trong công trình sáng tạo thiên nhiên vào ngày sáng tạo thứ năm. ( Sách Sáng Thế 1, 20-24).
Nhưng nó lại bị Thiến Chúa, Đấng Tạo Hóa răn đe ra hình phạt chúc dữ. Vì nó là hiện thân của mưu mô ma qủi sự dữ đã cám dỗ Bà nguyên tổ Evà lỗi luật Thiên Chúa ăn trái Chúa cấm.
Và từ đó thảm kịch con người bị mất cảnh sống vườn địa đàng. Hậu qủa là tội lỗi, bệnh tật, sự đau khổ, sự chết đã xâm nhập đời sống con người trần gian từ thế hệ này truyền sáng thế hệ khác: “ ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán với con rắn: "Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi.(Sáng Thế 3, 14).
Thần thoại bên vủng phương đông ngày xưa loài rắn được cho là loài giữ nhiệm vụ người canh giữ. Bên vùng xứ Palestina ngay từ thời thế kỷ 3. trước Chúa giáng sinh, hình loài rắn được tô vẽ bên ngoài bình lọ để như người canh giữ vật dụng bên trong bình. Ở một vài đền thờ hình lòai rắn được trang trí khắc vẽ trình bày như những thần người bảo vệ nơi thánh thiêng.
Bên xứ Aicập con rắn là hiện thân của người bảo vệ, nên được vẽ khắc trên trán các vị vua Pharao, hay nơi vùng chung quanh tôn kính các vị thần thánh.
Bên Phi châu loài rắn trong nhiều nền văn hóa tôn gíao khác nhau được cho là thần thánh.
Văn hóa vủng Trung Mỹ loài rắn có lông cánh bay có vị trí quan trọng. Nó là hình ảnh nguyên thủy của mưa và của loài thảo mộc, như hình ảnh biểu tượng của vũ trụ.
Bên Trung Hoa loài rắn được cho là nối liền với đất và nước. Vì thế rắn được cho là hình ảnh biểu tượng về giống cái, về âm cực, về đất, về bóng tối.
Trong nền văn hóa thần thoại Ấn Độ biết đến loài rắn Nagas vừa là làm việc bác aí và cũng vừa là trung gian gây ra sự chẳng lành, hay còn là trung gian giữa các thần thánh và con người, được biểu hiệu qua hình ảnh chiếc cầu vồng có nhiều mầu sắc.
Loài rắn Kundalini được trình bày cho là vị trí về năng lượng vũ trụ vì những đốt xương sống của nó nó uốn khúc cuộn tròn lại được dẻo dai
Vào thế kỷ thứ 3. trước Chúa giáng sinh, theo văn hóa miền Mesopotamia cổ xưa có bằng chứng về một cây gập thần chữa bệnh ( Asclepius -Aesculapius) với hình con rắn. Và trong thần thoại Hylạp cũng nói đến thần chữa trị bệnh. Asklepios là con trai của thần Apolls tay cằm chiếc gậy có hình con rắn uốn nằm trên đó.
Trong văn hóa thần thoại Aicập loài rắn chiếm vai trò căn bản với nhiều nhiệm vụ. Người ta liệt kê rắn thần Kobra có nhiệm vụ chăm sóc sự nẩy nở phát triển của cây cỏ thảo mộc.
Thần rắn Uraeus là con mắt của thần mặt trời giữ nhiệm vụ chống lại kẻ thù hơi lửa nóng. Vì thế hình rắn được vẽ in trên trán của các vị Vua Ai cập thời xa xưa.
Với người Do Thái loài rắn là loài nguy hiểm mưu mô. Thánh kinh Cựu Ước liệt kê nó vài những con thú vật kinh dị không sạch sẽ lành mạnh. Nó là hình ảnh nguyên thủy về tội lỗi, ma qủi. Nó là kẻ đã cám dỗ ông bà nguyên tổ Adong Eva ngày xưa ở trong vườn địa đàng.
Mặt khác rắn cũng lại được cho là biểu tượng cho sự tinh khôn. Kinh thánh thuật lại rong hoang điạ sa mạc lúc trở về quê hương cũ từ Aicập, dân chúng Do Thái đã lỗi phạm tội không vâng lời Thiên Chúa, Ngài đã cho rắn xuất hiện tấn công nhả nọc độc cắn họ như hình phạt.
Nhưng để chữa lành, Thiên Chúa đã truyền cho Mose làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng đó sẽ được cứ thoát chữa lành. ( Sách dân số 21,7..) Hình tượng Con rắn đồng một thời gian dài ăn rễ sâu trong nghi thức tôn giáo của người Do Thái.
Với người Kitô hữu hình ảnh con rắn đồng thời Mose là dấu chỉ báo trước về sắc thái biểu tượng sự chữa lành ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô mang đến cho trần gian. Người bị đóng đinh chết trên thập gía, để mang ơn chữa lành cứu rỗi cho con người khỏi hình phạt tội lỗi do hậu qủa tội của Ông Bà nguyên tổ Adong-Eva đã gây ra.
Và chính Chúa Giêsu Kitô cũng đã khẳng định về vai trò mang lại ơn cứu chuộc sự sống của mình: “Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời.“ ( Phúc âm Thánh Gioan 3,14-15).
Và như thế, rắn không chỉ có mặt khía cạnh tiêu cực đen tối, nó cũng còn có khía cạnh hình ảnh về mặt tích cực nữa.
Chúa Giêsu khi đi rao giảng nước Thiên Chúa ở trần gian cũng lấy hình ảnh con rắn trong một dụ ngôn nói về sự lẹ làng nhậy bén:“ Sống khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như chim bồ câu.“ ( Phúc âm Thánh Mattheo 10,16).
Các cửa hàng bán thuốc tây bên nước Đức với huy hiệu chữ A mầu đỏ ( Apotheke) có vẽ hình con rắn biểu trưng của cây gậy thần chữa lành Aesculapius.
Và nơi cây gậy mục tử của các Giám mục theo lễ nghi Byzantin và đạo Chính Thống Cốp có hình con rắn được khắc chạm trên đó.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh người phụ nữ trong đời sống
- Viết bởi Dân Chúa
Hằng năm thế giới dành ngày 08. Tháng Ba để vinh danh tưởng nhớ đến các người phụ nữ: Ngày phụ nữ thế giới!
Không biết loài thú vật có biết mẹ mình thuộc phái giống tính phụ nữ không. Nhưng con người khi lớn lên, ai cũng biết mẹ mình, các chị em gái là phụ nữ.
Kính trọng yêu mến, nhưng hầu như không mấy khi có thắc mắc về người phụ nữ. Vì chúng ta yêu mến mẹ mình là đủ rồi.
Nhưng trong dòng văn chương triết học, thần học, khoa học, xã hội, dẫu vậy cũng vẫn có những suy nghĩ bàn luận suy tư về họ.
- Ðất mẹ
Trong dân gian chúng ta thường nói: quê cha, nhưng đất mẹ. Ðó là tâm tình của con người. Tâm tình này không xa lạ.
Kinh thánh diễn tả về đời sống con người từ lúc bắt đầu tới ngày sau cùng cũng như thế:„Từ bụi đất con đã được tạo thành và sau cùng con sẽ trở về với đất bụi!“(St 3,19 ).
Ðất mẹ là cái nôi sự sống. Duy chỉ người phụ nữ giữ vai trò và có khả năng sinh con. Họ là mẹ của sự sống. Thiên nhiên đã tạo dựng nên như thế ( St 3,20). Và như vậy ăn khớp đúng với suy nghĩ của con người: người phụ nữ được biểu hiệu là đất. Không ai từ xưa nay trồng cây cối, gieo lúa mạ trên sắt thép, gỗ đá xi măng bao giờ. Nhưng nhất thiết phải trên nền đất.
Ðất không do con người chế tạo làm ra. Nhưng do Thiên Chúa tạo dựng trong công trình sáng tạo ngay từ khởi đầu vào ngày sáng tạo thứ ba. Và Ngài cũng trao cho đất nhiệm vụ truyền sinh cùng nuôi dưỡng sự sống: „ Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra. Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ cạn là „đất“.... Ðất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống và cây trên mặt đất có trái...“ ( St 1,10-11).
Không dám qủa quyết „cung lòng hay thân thể người phụ nữ“ là một mảnh vườn thửa đất. Nhưng hình ảnh so sánh này nói lên điều gì căn bản, cùng sự thịnh vượng tươi tốt cho sự phát triển trong đời sống.
Trong ý tưởng tâm tình truyền sinh đó, bên Phi châu có câu ngạn ngữ: „ Qua người phụ nữ con người đi vào lòng thế giới. Qua người phụ nữ, con người trở về lòng thế giới bên kia!“.
Theo cung cách phân tích khoa học ngày nay, vai trò người phụ nữ mang bản chất truyền sinh, giữ vai trò trọng yếu trong đời sống xã hội, được diễn tả: „ Vấn đề dân số tăng giảm của một xã hội không hệ tại ở số người đàn ông, nhưng hệ tại ở số người phụ nữ“ ( Frank Schirrmacher, Minimum, München Blessing 2006, tr. 145).
- Vai trò Phụ nữ trong niềm tin tôn giáo
Người phụ nữ, cũng như bao tạo vật khác, được Thiên Chúa dựng nên trong xã hội loài người trên trần gian. Không phải họ chỉ có chức năng sinh con cùng nuôi dưỡng con cái. Nhưng họ còn được Thiên Chúa phú bẩm ban cho những khả năng sống làm người cao qúi khác hơn nữa.
Không biết qủa quyết nói người phụ nữ có nhiều tâm tình tôn giáo có đúng không.
Nhưng thực tế đời sống trong mỗi gia đình đều nói lên: người mẹ lo lắng rất nhiều việc giáo dục con cái cháu chắt. Trẻ em, bạn trẻ biết đọc cầu kinh cầu nguyện, biết sống thế nào là lễ phép, tập thói quen tốt, học hành chữ nghĩa ABC, thế nào là sống bác ái tình người...hầu như do mẹ, do bà nội hay bà ngoại chỉ bảo dạy cho, ngay từ thuở còn thơ bé cũng như lúc đã khôn lớn.
Trong nhiều niềm tin tôn giáo người phụ nữ được ca ngợi có đặc sủng – Charisma- đặc biệt như nữ tiên tri Mirjam, Debora, Hanna, Ruth.
Người Polynesier tôn thờ người mẹ như thần thánh. Theo họ đất mẹ gần con người hơn trời cao. Ðất mẹ che chở, nuôi dưỡng và chữa lành con cái. Vì thế, trong nhiều nền văn hóa, người ta đặt người bệnh, người qua đời và người sinh con nằm trên đất.
Kính trọng tôn thờ đất mẹ, nên người Indianer từ chối cày bừa đất. Vì họ cho rằng, nếu cày bừa đất mẹ, chẳng khác gì đem dao rạch mổ bụng mẹ!
Người Igbo bên xứ Nigeria đặt Ðất (Ala) lên hàng đầu của các thần thánh. Hình ảnh Ðất là thần thánh không thể thiếu trong đời sống ở mỗi làng mạc.
Nhiều nơi còn cho người Mẹ thần thánh là một người, như bên Ấn Ðộ gọi là nữ thần Kali. Thành phố Kalkutta được đặt tên theo truyền thống tên niềm tin này. ( TRE 11, Berlin, New York 1983, tr. 421, số 30, 3.2).
Thánh Terexa thành Calcutta, đến cư ngụ sống làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa giữa con người qua cách sống hy sinh chan chứa bác áí tình người ở thành phố người mẹ thần thánh Kali cho tới lúc qua đời, được cả thế giới kính trọng tôn vinh là Mẹ.
Trong Kinh Thánh Tân ước, Chúa Giêsu không phân biệt nam hay nữ. Người kêu gọi họ tất cả hãy đến cùng Ngài ( Mt 11,28).
Trong số những người tin theo Ngài làm môn đệ có cả những người phụ nữ như Maria Madalena, Maria mẹ các ông Giacobe, bà Salome. ( Mc 15,40-41)
Giảng giải cắt nghĩa về Nước Thiên Chúa, về khung cảnh đời sống, Chúa Giêsu dùng hình ảnh người phụ nữ làm bếp nấu ăn ( Mt13,33), hình ảnh mười cô phụ nữ cầm đèn đi đón chú rể ( Mt 25, 1-12), người phụ nữ thắp đèn quyét nhà tìm đồng tiền bị mất ( Lc 15,,8), ông quan tòa và người phụ nữ. ( Lc 18,1-8)
Bênh vực ca ngợi lòng đạo đức tốt lành và thành tâm của phụ nữ, qua hình ảnh một người phụ nữ góa bụa nghèo túng bỏ đồng tiền cuối cùng của mình dâng cúng vào đền thờ. ( Mc 12, 41-44)
Không xa lánh, nhưng Chúa Giêsu đến gặp gỡ chữa bệnh cho bà mẹ ông Phero (Mc 1,29). Chữa bệnh cho người phụ nữ bị bệnh băng huyết kinh niên, và cho cô bé gái đã chết được khỏi bệnh sống lại. ( Mc 5, 25-42).
Chúa Giêsu không xa tránh người phụ nữ mang tiếng là người có đời sống tội lỗi hoang đàng, hay bị thất bại dở dang trong chuyện tình yêu gia đình. Trái lại Ngài tiếp xúc nói truyện với họ, tìm cách nâng cao nhân phẩm gía trị người phụ nữ, muốn mời gọi họ trở về với đời sống tốt lành làm người, và qua đó muốn xóa bỏ thái độ thù nghịch của luật lệ thời bấy giờ. (Lc 7,37-50- Ga 4, 7-27).
Nâng cao nhân phẩm và bảo vệ người phụ nữ là sứ điệp quan trọng trong giáo huấn của Chúa Giêsu: „ Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người có nam và có nữ. Vì thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mình mà gắn bó với vợ mình. Cả hai sẽ thành một xương một thịt....Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly. Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình. Ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình.“ ( Mc 10, 6-12; Mt 19, 1-9).
Chúa Giêsu lập Hội Thánh Công giáo trên nền tảng 12 Tông đồ, những người đàn ông. Nhưng ngay từ ngày sinh nhật đầu tiên của Hội Thánh Công giáo, các người phụ nữ cùng với đức Mẹ Maria, mẹ Chúa Giêsu, đã có mặt cùng đón nhận ân đức Chúa Thánh Thần. Và trong các buổi tập họp cầu nguyện thuở ban đầu, luôn luôn có mặt những người phụ nữ đạo đức cùng cầu nguyện sống đức tin giữa dòng đời. ( Cv 1, 14; 12,1-17)
Bà Tabitha, một phụ nữ đạo đức sống cuộc đời làm việc bác ái giúp người khác đóng góp đắc lực vào việc truyền giáo. ( Cv 9, 36-43). Bà Poritkila là một trong những giáo lý viên thời Hội Thánh lúc ban đầu. ( Cv 18,26)
Thánh Phaolô đã giới thiệu với giáo đoàn Kenkhore chị Phebe là nữ trợ tá cho Gíao đoàn này trong công việc truyền giáo lòng đạo đức và Diakonia ( trợ giúp bác ái).( Rm 16,1...)
- Ðức tính người phụ nữ
Frank Schirrmacher ( Minimum, München 2006) đã đưa ra một vài nhận xét dựa trên những quan sát khảo nghiệm khoa học xã hội về vai trò người phụ nữ trong đời sống như sau:
- Người phụ nữ chịu đựng thời tiết lạnh, đói khát và có sức dẻo dai rất tốt. Họ có khả năng tạo ra sự tin tưởng và tình con người bạn bè, ngay cả nơi trách nhiệm bổn phận gia đình bị thiếu vắng.
- Người phụ nữ có óc tổ chức mạng lưới xã hội và làm sinh động mối dây ràng buộc xã hội lại, tạo nên sự tin tưởng, và đem lại sự bảo vệ không những cho người thân thuộc mà cả nơi những người xa lạ.
- Trong đời sống gia đình người mẹ là trung tâm. Người Mẹ cảm thấy mình có bổn phận trách nhiệm lo cho gia đình được tiếp tục phát triển tồn tại, nhất là trong hoàn cảnh gặp khủng hoảng.
- Nơi nào xã hội đang xuống dốc, như thiếu sự liên đới xã hội, sự nhậy cảm, sự hợp nhất liên lạc với nhau, sự cố gắng hy sinh, người phụ nữ có những khả năng đó. Và họ có thể giúp đời sống xã hội sinh động trở lại.
- Theo kết qủa của các cuộc thăm dò khảo nghiệm 50 năm vừa qua, người phụ nữ giữ vai trò chìa khóa trọng yếu giữ cho gia đình được đứng vững tồn tại, vào việc xây dựng cũng như làm vững chắc mạng lưới tình bạn bè con người. Ðiều này càng ngày càng trở nên quan trọng trong tương lai, một khi nó thay vào chỗ nếp sống gia đình theo truyền thống.
- Người phụ nữ có năng khiếu về ngôn ngữ. Nhờ năng khiếu năng này họ gần gũi với mọi người. Em bé gái biết nói sớm hơn một tháng trước em bé trai cùng trang lứa. Phụ nữ có trí nhớ về ngôn ngữ khá hơn đàn ông, dù khi họ đã cao niên. Phụ nữ dễ dàng gợi nói chuyện bàn thảo. Khả năng này giúp họ dễ dàng làm quen thân dấn thân vào sự liên đới trong xã hội, và cũng dễ dàng làm dịu bớt những căng thẳng trong đời sống.
- Tóm lại phụ nữ đóng vai trò ở ngay trung tâm của đời sống xã hội: họ sẽ được cần dùng đến khẩn thiết như nguồn lao động tay nghề cao cấp, họ là những người mẹ, người bà trong mọi gia đình nền tảng của xã hội, họ được xã hội mang ơn. Vì khả năng hội nhập xã hội của họ sẽ điền vào chỗ trống trong lao động của xã hội đang trên đà thiếu người và đang dần thu nhỏ hẹp lại. (xx. tr. 132 – tr.141)
Người phụ nữ được Tạo hóa phú bẩm khả năng sinh con làm mẹ. Nên họ nhậy cảm với sự đói khổ thiếu thốn, đời sống sạch sẽ vệ sinh của đời sống rất mạnh.
Họ gần gũi với đời sống. Nên cảm thấy trực tiếp nhanh chóng và sâu xa những gì cần cho đời sống.
Họ yêu mến sự sống và có nhiều cảm gíác nghiêng về đó, mhất là sự đẹp, sự tinh vi.
Họ có khả năng thích ứng tốt, và mềm dẻo rộng rãi. Nên cuộc sống của họ thanh thản có nhiều biến đổi.
Lòng hy sinh của người phụ nữ không thể phân chia tách rời. Nó bền bỉ, và trung thành. Công việc họ làm hướng về con người nhiều hơn quy về sự việc. Tình cảm nơi họ đóng vai trò quan trọng hơn lý trí, trái tim hơn lý luận, sự tốt lành hơn sự thật, thói quen hơn luật lệ, điều cụ thể có thể hiểu xem được hơn điều trừu tượng.
- Người phụ nữ Maria, mẹ Thiên Chúa
Xưa nay trong Giáo hội ở khắp mọi nơi, lòng sùng kính đức Mẹ Maria ăn rễ sâu trong đời sống niềm tin Công giáo. Ðức Mẹ Maria là ngôi sao sáng phản chiếu ánh sáng từ Thiên Chúa, và gương đời sống đức mẹ Maria chỉ đường cho tâm hồn con người đi hướng về Ngài, Ðấng là nguồn sự sống, nguồn ánh sáng niềm tin cho con người.
Ðức thánh cha Benedicto thứ 16. trong Gott und die Welt, ein Gespräch mit Peter Seewald, Knaur Taschenbuch Verlag. München 2005- suy tư mẫu gương đức mẹ Maria nói lên sự gần gũi của Thiên Chúa. Vì Ðức Mẹ Maria là người mẹ của Chúa Giêsu. (tr. 318)
Lòng sùng kính đức mẹ Maria trong Giáo hội đánh động tâm hồn con người cách đặc biệt. Ðánh động tâm hồn người phụ nữ. Vì họ cảm thấy được đức mẹ hiểu biết và gần gũi với mình. Ðánh động tâm hồn người đàn ông không mất lòng hướng về người mẹ và sự thanh khiết của người phụ nữ...Lòng sùng kính đức mẹ Maria trong Giáo hội Công giáo không là gánh nặng. Nhưng là lòng tin tưởng, và sự trợ giúp an ủi cho đời sống hằng ngày. ( tr. 322).
Trong kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng niềm tin: Bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu đã làm người trong cung lòng đức mẹ Maria.
Chúng ta ai cũng trải qua thời gian thành hình sự sống trong cung lòng mẹ mình chín tháng. Sau khi ra đời những ba năm đầu tuổi thơ ấu lệ thuộc hoàn toàn vào tình thương yêu nuôi dưỡng săn sóc của mẹ. Rồi cả cuộc đời lúc nào tình thương yêu và sự giáo dục nhân bản cũng như niềm tin tôn giáo của mẹ vẫn hằng theo sát đời người con.
Chúa nhật ngày 07.03.2021 đức thánh cha Phanxicô đã đến thăm thành phố Mossul bên Irak, nơi từ 2014-2017 bị phiến quân Hồi giáo IS chiếm đóng tàn phá, hành hung bắt cóc muốn xóa bỏ ảnh hưởng nền đạo Kitô giáo ở đây. Điều này khiến người dân nhất là những tín hữu Kitô giáo phải trốn bỏ quê hương đi tỵ nạn lẩn trốn.
Nhưng giữa cơn chao đảo thảm họa khốn cùng đó, một người phụ nữ, Sơ Autour đã sống can đảm dấn thân làm chứng cho tình bác ái chúa Kitô giúp con người. Và đức thánh cha dịp này đã có lời tâm tình cám ơn đầy cảm động hướng về Sơ Autour :
„ Sơ Autour qúi mến,
Sơ đã tường thuật kể cho chúng tôi về biến cố những gia đình Kitô giáo bị bắt buộc phải di tản ra khỏi nhà của họ. Thảm họa đau buồn tang thương khủng khiếp phải di tản đi trốn của những người tín hữu Chúa Kitô nơi đây và trong toàn thể cùng Cận Đông không chỉ là một sự mất mát thiệt hại không thể đo lường được, nhưng còn cho cả chính cộng đồng xã hội, mà dấu vết còn để lại sau lưng.
Qủa vậy, khía cạnh văn hóa cùng tôn giáo như cánh chim giúp đời sống về nhiều phương diện vươn lên, cùng làm giầu. Bây giờ qua sự mất mát của mỗi thành phần khiến đời sống bị yếu kém đi, và bị thu nhỏ hẹp lạ.
Như nơi một tấm thảm được đan bện chất chứa tràn đầy nghệ thuật, nhưng nếu một sợi chỉ vải của nó bị rút xé ra, khiến làm cho toàn thể tấm thảm bị thiệt hại loang lổ phá vỡ nét đẹp nghệ thuật.
Sơ đã thuật lại cho chúng tôi kinh nghiệm đau buồn thê lương bị khủng bố bắt cóc dẫn độ. Dẩu vậy vẫn còn hoàn cảnh như có thể giữ vững đức tin vào Thiên Chúa, vào nhân phẩm, sự tôn trọng đồng đểu cho tất cả những trẻ em.
Xin cám ơn Sơ trong qúa khứ mới xảy diễn ra đây thôi, đã đốt thắp lên ngọn lửa chiếu sáng. Ngọn lửa chứng nhân đó chỉ cho chúng tôi, vẫn có thể gây nuôi niềm hy vọng vào sự hòa giải và vào một nếp sống mới. „( Lời chào mừng của Đức Thánh cha Phanxico đến thăm thánh phố Mossul, Chúa nhật 07.03., - kath.net 07.03.2021).
Không còn lời nào cảm động cùng chân thành hơn nữa để vinh danh một người phụ nữ với nếp sống can đảm tràn đầy niềm tin vào Thiên Chúa, và quảng đại chan chứa tình yêu thương dấn thân cho con người!
Ngày phụ nữ thế giới 08.03.2021
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh điều răn Thiên Chúa
- Viết bởi Dân Chúa
Thiên Chúa đã truyền cho Thánh tiên tri Mose 10 điều răn, từ hằng ngàn năm trước đây như giao ước của Ngài với dân Israel, khi họ trên đường từ Ai Cập trở về quê hương Thiên Chúa hứa ban cho. (Sách Xuất Hành 20, 1-17).
10 điều răn của Thiên Chúa là kim chỉ nam, là gương soi chiếu vào cho đời sống con người trong chiều tương quan với Thiên Chúa, Đấng dựng nên vũ trụ, sự sống mọi loài, và trong chiều tương quan đời sống xã hội giữa con người với nhau, cùng trong tương quan với công trình tạo dựng thiên nhiên.
Xưa nay khi lãnh nhận Bí tích Hòa giải, hay còn gọi là xưng tội, người tín hữu Công giáo căn cứ dựa lần theo bảng 10 điều răn để xét mình hầu nhận ra tội lỗi mình đã vấp phạm.
Thánh hóa ngày của Chúa
Người Do Thái trong tương quan với Giavê Thiên Chúa, họ tuân giữ điều răn: Con phải thánh hóa ngày Sabat rất chặt chẽ bảo thủ từng chi tiết. Với họ ngày Sabbat là ngày thánh dành riêng cho Thiên Chúa Giave mà thôi.
Ngày Sabbath là ngày thứ Bẩy trong tuần lễ, trong ngày này họ ngưng mọi công việc hoạt động kể cả việc nấu nướng nhà bếp. Và bây giờ họ cũng vẫn giữ như vậy. Họ căn cứ trên 6 ngày Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ, như Kinh thánh viết thuật lại: Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ trong sáu ngày, ngày thứ bẩy Ngài nghỉ ngơi (Sách Sáng Thế 1, 1-31)
Với người Công Giáo việc tuân giữ giới răn Thiên Chúa: thánh hóa ngày Sabbath thì khác.
Đạo Công giáo do Chúa Giêsu Kitô thành lập dựa trên căn bản đạo cũ Do Thái. Chúa Giêsu Kitô sinh ra là người Do Thái, sống tuân giữ lề luật đạo Do Thái. Và khẳng định ngài không bài trừ xóa bỏ luật lệ đạo cũ, nhưng kiện toàn. Từ căn bản đó Ngài thành lập Hội Thánh Công giáo cho nhân loại từ hơn hai ngàn năm nay.
Chúa Giêsu sống lại, như Kinh thánh thuật lại, vào ngày thứ nhất trong tuần.
Ngay từ lúc khởi đầu Hội Thánh sau khi Chúa Giêsu trở về trời, các người tín hữu Chúa Giêsu đã tụ họp vào ngày thứ nhất trong tuần đọc kinh thánh cầu nguyện tưởng nhớ đến sự chết và phục sinh sống lại của Chúa Giêsu Kitô. Đó là nếp sống đạo đức tâm linh của Hội Thánh Công giáo.
Nhưng mãi đến thời hoàng đế Constantino từ năm 313 sau Chúa giáng sinh, đạo Công giáo mới được công nhận chính thức cho được to do thực hành không bị theo dõi bắt bớ cấm cách trong toàn thể đế quốc Roma thời đó.
Cách đây 1.700 năm, ngày 03.Tháng Ba năm 321 sau Chúa giáng sinh, hoàng đế Constantino ra chiếu chỉ công nhận ngày thứ nhất trong tuần là ngày nghỉ ngơi theo luật pháp trong toàn thể đế quốc Roma dựa trên chu kỳ dương lịch một tuần lễ có bẩy ngày.
Hoàng đế Constino theo tương truyền trở lại đạo theo đạo Công giáo. Ông ra chiếu chỉ công nhận ngày thứ nhất trong tuần là ngày nghỉ theo luật pháp đế quốc dành thờ thần Mặt Trời - Solis trong tôn giáo Roma đã có từ trước.
Từ căn nguyên đó có tên gọi ngày thứ nhất tuần lễ là Sonntag, Sunday. Ngôn ngữ các nước Ý , Tây ban Nha là Dominica, tiếng Pháp là Dimanche bắt nguồn từ căn rễ tiếng latinh mang ý nghĩa: Ngày của Thiên Chúa.
Trong chiều tương quan với Thiên Chúa, người Công giáo xưa nay có nếp sống đạo đức luật buộc tham dự thánh lễ ngày Chúa Nhật. Họ dành ngày này để nghỉ ngơi lấy lại sức lực cho thể xác cùng tinh thần.
Ngày chúa nhật là ngày nghỉ lao động dưỡng sức dành cho Thiên Chúa, cho gia đình.
Nhưng để phòng tránh bệnh đại dịch vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm cùng phù hợp với luật Lockdown trong xã hội lúc này, từ hơn một năm qua (2020) , Hội Thánh Công giáo miễn trừ cho các tín hữu không bó buộc giữ điều răn tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật ở thánh đường. Thay vào đó có thể tham dự thánh lễ qua màn ảnh trực tuyến.
Tham dự thánh lễ như vậy, tuy được phép, nhưng không thay thế cho việc tham dự thánh lễ qua hiện diện cả thể xác lẫn tinh thần. Vì thiếu bầu khí thánh thiêng, thiếu bầu khí cộng đoàn chung hợp, cùng không được tiếp nhận tấm Bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô, là lương thực cho đức tin cùng là sự hiệp thông với Thiên Chúa và con người với nhau.
Bổn phận đạo đức giữ điều răn tham dự thánh lễ thánh hóa ngày chúa nhật được nới lỏng miễn trừ vì hòan cảnh gặp khó khăn, bị đe doạ, thể hiện tinh thần cung cách sống kính trọng sức khoẻ sự sống do Thiên Chúa ban cho con người.
Nhưng luật miễn trừ lúc này không xóa bỏ bổn phận đời sống thiêng liêng tinh thần cùng nếp sống đạo đức truyền thống. Nó chỉ là tạm thời giới hạn trong thời gian cùng không gian, bao lâu hoàn cảnh khó khăn đe dọa còn hiện hữu.
Thảo kính cha mẹ
Điều răn thứ bốn của Thiên Chúa dạy : Con phải thảo hiếu cha mẹ con!
Giới răn này nói lên tình tự khía cạnh sâu thẳm cùng là điểm son cao trọng đời sống con người: kính trọng và biết ơn người sinh thành, đào tạo giáo dục ta nên người.
Trong hoàn cảnh bệnh đại dịch vi trùng Corona lúc nầy đặt ra nhiều lo nghĩ sâu xa lo âu áy náy cho các người làm con đối với cha mẹ mình. Tất cả sống trong Lockdown giới hạn không thể hiện diện thể lý thăm nom săn sóc cha mẹ mình như mong muốn. Có chăng chỉ gặp nhau qua điện thoại hoặc qua màn hình thôi.
Một đàng để bảo vệ sức khoẻ sự sống cha mẹ tránh không để bị vi trùng lây nhiễm. Nên con cháu không được đến gần, phải xa cách cha mẹ mình. Nhưng đàng khác lại tạo nên bất ổn áy náy lo lắng sâu đậm cho nhau: họ nhớ nhau, sống trong cô đơn buồn tủi thiếu vắng hình ảnh thể lý tình cảm cha mẹ con cái.
Nhất là có những trường hợp cha mẹ gìa qua đi trong cô đơn, con cháu không thể đến từ biệt tiễn đưa được, hoặc có cũng chỉ giới hạn đứng xa xa nhau thôi.
Hay ngược lại con cháu nào chẳng may qua đời vào dịp này, ông bà cha mẹ chỉ ngậm ngùi trong dòng nước mắt hướng lòng nhớ đến thôi. Họ không thể đi đến tham dự tang lễ được.
Thật qúa khủng khiếp và qúa thương tâm đau lòng!
Cha mẹ con cái sống gần nhau, mà lại xa nhau về thể lý. Nhưng trái tim tinh thần họ vẫn luôn hằng gắn bó gần bên nhau.
Vi trùng nguy hiểm bệnh đại dịch Corona không chỉ phá hủy sức khoẻ đời sống con người. Mà còn phá đổ đời sống cộng đoàn xã hội tôn gíao nữa. Tất cả hầu như trở nên xa lạ. Vì bị đình trệ gián đọan mọi sinh hoạt, giới hạn không còn gặp gỡ giao tiếp thông thương nữa.
Vì thế cung cách nếp sống nhớ đến nhau, nhớ đến qúa khứ giúp củng cố giữ vững tinh thần hướng về ngày mai, sống giữ lòng hiếu thảo.
Bảo vệ môi trường sự sống thiên nhiên
Đời sống trong xã hội không chỉ trong vòng tương quan chiều thẳng đứng hướng lên trời cao với Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, giữa con người với nhau theo chiều ngang đường chân trời, nhưng còn cả chiều sâu với môi trường sự sống trong thiên nhiên nữa.
Môi trường sinh sống vũ trụ được trao vào tay con người. Họ được quyền xử dụng vào việc xây dựng cho phù hợp với hoàn cảnh sống.
Và môi trường sinh sống cũng có thể bị lợi dụng hay xử dụng vô trách nhiệm, khiến gây nên tình trạng phá hủy gây ô nhiễm môi sinh.
Thiên nhiên là do Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá dựng nên ban cho nhân loại, như quê hương xứ sở, nơi sự sống Thần linh Thiên Chúa tác dụng vào và đổi mới. Như thế con người không thể dùng thiên nhiên theo ý nghĩa xử dụng được.
Con người có bổn phận kính trọng thiên nhiên, và họ luôn luôn khám phá ra những công trình sáng tạo mới trong đó. Những công trình này gây ngạc nhiên, mang lại hạnh phúc niềm vui, mang nguồn cảm hứng cho con người.
Và vì thế phải biết cúi mình tạ ơn Đấng là chủ thiên nhiên, là chủ nguồn sự sống trong thiên nhiên. Thiên Chúa răn bảo con người:‘‘ Con không được phép giết hại!‘‘ ( Sách xuất hành 20, 13; Đệ nhị luật 5,17). Ngài có ý nhắn nhủ con người:
- Con chỉ là người quản lý thiên nhiên Cha trao ban cho. Nhưng không là chủ thiên nhiên.
- Con phải kính trọng sự sống do Cha tạo dựng trong thiên nhiên.
- Con không được phép phá huỷ môi trường sinh thái của con người, của thảo mộc cây cối cùng của mọi thú động vật trong đó.
- Con không được coi trái đất này là sở hữu của riêng con.
- Con không được vì quyền lợi riêng mình gây đau khổ cho các công trình sáng tạo của Cha trong thiên nhiên.
- Vui hưởng thiên nhiên. Nhưng con phải gìn giữ bảo vệ thiên nhiên cho tất cả mọi thế hệ kế tiếp sau nữa.
Khi kính trọng hay ngạy nhiên bỡ ngỡ những kỳ công, sự sống trong thiên nhiên, là nhận ra dấu vết Đấng là chủ, là nguồn sự sống, nguồn tình yêu của thiên nhiên: Đức Chúa Thánh thần.
Càng ngày nhân loại càng nhận ra ý nghĩa sâu thẳm cùng cần thiết của thiên nhiên. Vì thế chính phủ các quốc gia và cả Hội Thánh cũng đặt lên hàng quan trọng việc gìn giữ bảo vệ môi trường sinh sống thiên nhiên.
Đã có suy tư phỏng đoán cho rằng bệnh đại dịch đang xảy ra lúc này là hậu qủa của việc lạm dụng phung phí làm ô nhiễm phá hủy nguồn sự sống trong thiên nhiên!
Đã có thống kê đo đạc quan sát đưa ra từ ngày bệnh đại dịch vi trùng Corona bùng nổ, khắp nơi phải sống trong Lockdown giới hạn ít di chuyển. Nên môi trường không khí cũng như nước thiên nhiên trở nên trong lành hơn, bớt bị ô nhiễm do ít khí độc hại do xe cộ, tàu bay, tàu thủy, nhà máy biến chế thải ra.
Bệnh đại dịch vi trùng Corona là cơn ác mộng đe dọa cho đời sống nhân loại vô tiền khoáng hậu, gây khủng hoảng hoang mang lo sợ trong mođi lãnh vực đời sống.
Phải, đó là một thử thách sâu rộng nặng nề. Nó thúc đẩy con người một mặt phòng chống dịch trong hiện tại, một mặt hướng về tương lai cần phản tỉnh suy nghĩ cung cách sống trong tương quan với thiên nhiên.
Vì môi trường thiên nhiên có trong lành khoẻ mạnh, đời sống con người mới được lành mạnh có được bằng an thể xác cũng như tinh thần.
Sự thằng bằng quân bình đời sống trong tương quan với Thiên Chúa, với con người và với thiên nhiên luôn là điều quan trọng cần thiết cho đời sống con người hôm nay và ngày mai.
Điều răn của Thiên Chúa là kim chỉ nam hướng dẫn giúp con người có nếp sống như vậy.
Chúa nhật 3. mùa chay 2021
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Thánh Giuse, người công chính
- Viết bởi Dân Chúa
Nơi đền thờ Gia đình Thánh gia ở thành phố Nazareth miền Galileo nước Do Thái, bên dưới tầng hầm có cửa sổ kính mầu khắc vẽ hình Thánh Giuse và đức Mẹ Maria đang trao nhẫn cưới cho nhau với sự chứng kiến của một Thầy cả thượng phẩm thời đó.
Hình ảnh thơ mộng mang chiều sâu đạo đức truyền thống này gợi lên nơi tâm trí người xem không chỉ đến hình ảnh cô dâu là đức mẹ Maria, mà còn đến cả chú rể Giuse nữa. Vì tầng hầm này cách đây hơn 2000 năm là nhà của chú rể Giuse làm ăn sinh sống. Ở đây còn một hai di tích lịch sử xưởng mộc làm của thánh Giuse đã được đào bới tìm thấy và được bảo quản an toàn trong khu tường kiếng chắn xung quanh.
Một kỷ niệm lịch sử địa lý vừa mang dấu vết thánh đức, vừa sống động tình nghĩa con người.
Chú rể Giuse là ai?
Dịp kỷ niệm 150 năm, từ năm 1870, Hội thánh Công giáo nhận Thánh Giuse là đấng thánh quan thầy bảo trợ, đức đương kim giáo hoàng Phanxico đã kêu mời lập năm thánh ôn nhớ về Thánh Giuse„ “Patris corde – Trái tim của người Cha.“ từ ngày 08.12.2020 - 08.12.2021.
Ôn nhớ về Thánh Giuse không nhằm chú ý đến lịch sử đời sống cùng những thành qủa việc làm khi xưa của ngài. Nhưng trọng tâm hướng đến nhân đức đời sống đạo đức của thánh nhân.
Lịch sử về chú rể Giuse, người được Giáo hội tôn kính là một vị Thánh cả, mà xưa nay không có lễ nghi phong Thánh cho ngài. Bốn Phúc âm Chúa Giêsu nhắc đến đời sống Giuse cả thảy 14 lần -7 lần nơi phúc âm theo Thánh Mattheo, 5 lần nơi Thánh Luca, và 2 lần nơi Thánh Gioan- ẩn hiện như một hình ảnh lu mờ đàng sau hậu trường. Nhưng dẫu vậy cũng giúp tìm nhận ra một vài khía cạnh đời sống chú rể Giuse sống thầm lặng này.
Thánh sử Matheo (1,20), và Thánh sử Luca (1,27, 2,4) viết thuật lại, Giuse là con cháu thuộc dòng tộc Vua David, người khai sinh lập nước Do Thái. Đây là điều mấu chốt quan trọng cho lịch sử. Như vậy nhân vật Giuse có nguồn gốc gia phả thuộc về một dòng tộc của dân Do Thái, dòng tộc vua David.
Thánh sử Matheo (13, 55) nói đến nghề nghiệp sinh sống kiếm miếng cơm manh áo nuôi gia đình của Giuse là Tekon - người thợ lao động làm việc chân tay.
Thánh sử Mattheo (1,19) diễn tả bản tính của Giuse là một dikaios - người công chính.: „ Ông Giuse, chồng của Maria, là người công chính.“
Thế nào là người có đời sống công chính?
Chúa Giêsu, con Giuse, khi đi rao giảng nước Thiên Chúa , đã đưa ra dụ ngôn ( Mt 20,1-16) người chủ tốt lành nhân ái đối xử với những người làm việc trong vườn nho của ông- Ông chủ vườn nho đã trả lương đồng đều cho mọi người thợ, dù họ vào làm trước hay vào làm sau ít giờ hơn - để nói về nước Thiên Chúa. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn nói đến rõ hơn dikaios - công chính - không phải chỉ là người sống ngay thẳng theo luật lệ hay đạo đức, nhưng là người có một tấm lòng quảng đại rộng mở đầy lòng thương xót.
Giuse là người có đời sống của một dikaios. Khi hoàn hoàn cảnh khó xử lúc mẹ Maria bỗng dưng có thai, mà trước đó ông không hay biết, cùng không do Ông, trong một ý nghĩa hoàn toàn mới của một tâm hồn có trái tim to lớn rộng mở: Ông có ý định âm thầm ra đi, không phải chỉ để tránh né luật lệ, nhưng để bảo vệ thanh danh cho Maria.
Ông định tâm yên lặng bỏ đi trốn, không muốn tố cáo Maria trước luật pháp, trước công chúng. Đó là cung cách sống của một người có trái tim tràn đầy lòng từ tâm nhân đạo. Mình đau khổ. Nhưng không muốn để cho người khác cũng bị đau khổ.
Qua đó Giuse đã trở thành hình ảnh mẫu mực thứ nhất, như Chúa Giesu đòi hỏi quan niệm mới về công chính „ Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các Kinh Sư và người Pharisieu, thì sẽ chẳng được vào nước Trời.“ (Mt 5,20).
Người nào sống công chính, người đó sống dấn thân mạo hiểm, như trong Tám mối phúc thật nói: Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính“ (Mt 5,10).
Giuse sống công chính với tâm hồn quảng đại rộng mở thế nào với mẹ Maria, là cha nuôi Chúa Giêsu về phương diện xã hội, Ông cũng sống đối xử như vậy với Chúa Giêsu.
Giuse chấp nhận trẻ Giêsu như là con của mình. Thời xa xưa theo luật lệ việc nhận làm con thể hiện qua việc người cha đặt tên cho người con. Sau khi mẹ Maria hạ sinh Chúa Giêsu, Giuse đã „ đặt tên cho con trẻ là Giêsu“ (Mt 1,25).
Chấp nhận con trẻ Giêsu, Giuse đã trao tặng sự bảo đảm nuôi sống bảo vệ người con mình nhận nuôi trong gia đình. Vì thế trong dân gian thời đó và sau này vẫn hằng chính thức gọi Chúa Giêsu là con của Giuse - (Lc 3,23, 4,22, Ga 1,45,6,42) -
Con đường dòng sông đời sống của Giuse
Không có sử sách bút tích nào viết thuật về nguồn lịch sử đời sống Giuse.
Phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh Mattheo viết thuật về gia phả chúa Giêsu Kito viết: „ Ông Giacop sinh ông Giuse, chồng của Maria mẹ Đức Giêsu Kitô.“ ( Mt 1,16)
Thánh sử Maco (6,3) giới thiệu Chúa Giesu là con của mẹ Maria. Điều này có thể nói đến Giuse , cha nuôi Chúa Giêsu, người có nếp sống sống âm thầm, đã qua đời sớm.
Người ta cho rằng, vào năm 5. trước Chúa Giêsu giáng sinh - theo suy diễn khảo cứu thực ra vào năm này Chúa Giêsu sinh ra - lúc Chúa Giêsu đạt tới 18 hay 20 tuổi, có thể thánh Giuse lúc đó vào khoảng 43 hay 45 tuổi. Như thế, Thánh Giuse theo mức tuổi trung bình sinh sống ngày xưa, đã bước qua ngưỡng cửa tuổi sống thọ. Như vậy có thể thánh nhân qua đời vào năm 20. sau Chúa Giêsu giáng sinh.
Việc Giuse chấp nhận làm cha nuôi Chúa Giêsu theo phương diện xã hội đã đem lại cho Chúa Giêsu là thành phần thuộc về dòng tộc vua David. Đây là danh dự lớn lao nhất trong dân Do Thái cho người nào thuộc dòng tộc này. Vì từ dòng tộc này sẽ xuất hiện Đấng cứu thế, vị Vua cứu tinh nhân loại. (2 Samuel 7,12)
Khi được chọn làm Vua, trong một giấc mơ, vua Salomon đã khẩn cầu xin Thiên Chúa ban cho ông một tâm hồn biết lắng nghe (1 Các Vua 3,9).Nhờ thế mà vua Salomon trở nên vị vua khôn ngoan và được mọi thế hệ ca ngợi. Và nhân gian xưa nay có ca ví: sự khôn ngoan Salomon!
Còn Thánh Giuse, người chồng dikaios của mẹ Maria, người cha nuôi Chúa Giêsu, cũng có tâm hồn trái tim luôn lắng nghe tiếng Thiên Chúa qua Thiên Thần hiện đến báo cho trong giấc mơ (Mt 1,20, 2,23.19 và 2,22) mỗi lần như thế Ông đều làm theo ngay không thắc mắc gì.
Qua cung cách sống công chính như thế, Thánh Giuse đã chỉ ra về một nếp sống căn bản của người Kitô hữu, của người làm chồng, làm cha gia đình, mà trong đời sống xã hội hôm nay là điều thiếu sót lớn, cùng là một căn bệnh thời đại: nếp sống người công chính!
“Sự thinh lặng của Thánh Giuse không là dấu chỉ sự trống rỗng nội tâm. Trái lại đó là dấu chỉ sức sống trọn vẹn tràn đầy của đức tin ẩn chứa trong trái tim tâm hồn. Và từ nơi đó tuôn chảy ra cùng hướng dẫn những suy nghĩ cùng việc làm.
Qua sự thinh lặng, Thánh Giuse cùng với Đức Mẹ Maria gìn giữ Lời Chúa, mà ngài đã học hỏi trong Kinh Thánh, và giúp ngài đối chiếu hiểu nhận ra những biến sự việc trong đời sống Chúa Giêsu. Sự thinh lặng của Thánh Giuse thành hình trong liên lỷ cầu nguyện ca ngợi Thiên Chúa, trong sự suy ngắm tìm hiểu thánh ý Chúa.
Không phải là phóng đại, khi nghĩ rằng, - theo bình diện suy nghĩ loài người – Chúa Giêsu do từ người cha Giuse, đã học được đời sống nội tâm mạnh mẽ sâu thẳm.
Điều này là điều căn bản của sự công chính đích thực, sự công chính to lớn hơn ( Mt 5,20), mà Chúa Giêsu ngày nào đó sẽ chỉ dạy cho các Tông đồ” (Đức Giáo hoàng Benedicto 16. Kinh truyền tin ngày 18.12.2005)
„ Ông Thánh Giuse là đấng ngay chính tận trung.“ ( Kinh cầu Thánh Giuse.
Năm Thánh Giuse 2020 -2021 “Patris corde – Trái tim của người Cha.“
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Giữa cơn chao đảo khủng hoảng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ một năm nay thế giới sống trong cơn khủng hoảng, vì bệnh đại dịch do vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ đời sống con người. Cho nên mọi sinh hoạt đời sống chung cũng như riêng tư bị đình trệ tê liệt phải sống trong tình trạng Lockdown giới hạn.
Con người sống trong hoàn cảnh Lockdown có nhiều lo âu sợ hãi cùng thất vọng chán nản, và trở nên như xa lạ sợ nhau. Nhưng việc bảo vệ gìn giữ sức khoẻ riêng cũng như chung quan trọng hàng đầu cho đời sống. Vì thế phải chấp nhận sống Lockdown về luật lệ y tế vệ sinh chung chặt chẽ.
Nhiều thắc mắc được đặt ra: đâu là nguyên do dẫn đến tình trạng khủng hoảng của bệnh đại dịch nguy hiểm này? Phải chăng đó là hình phạt hay thử thách do Thiên Chúa, Trời cao đổ ập đè xuống đời sống nhân loại thế giới?
Về phương diện khoa học đang có những nỗ lực đi truy tìm căn nguyên gốc gác của lọai vi trùng bệnh đại dịch này, cùng tìm cách phát triển chế biến ra thuốc chủng ngừa, cùng thuốc chữa trị bệnh.
Còn về phương diện đạo giáo tinh thần thiêng liêng chưa có hay không có câu trả lời cho thắc mắc suy nghĩ nêu ra. Các nhà thần học đạo đức đưa ra lời kêu mời khuyên nhủ trong cơn khủng hỏang thử thách cần có nếp sống tâm linh đặt niềm tin tưởng hy vọng vào Thiên Chúa, vào Trời cao, Đấng tạo dựng nên đời sống con người, cùng là nguồn ơn cứu chữa cho đời sống.
Dựa vào đâu để có thể đưa ra những chỉ dẫn tâm linh thiêng liêng như thế giữa cơn chao đảo khủng hoảng?
Không có cắt nghĩa trắng đen như những phát minh nghiên cứu khoa học của phòng thí nghiệm. Nhưng đức tin nói với chúng ta, Thiên Chúa, Đấng tạo dựng sự sống mọi tạo vật trong vũ trụ không bỏ rơi công trình do Ngài tạo dựng nên.
Xưa nay những biến cố khủng hoảng gây ra lo âu hoảng sợ cho đời sống con người luôn luôn có, như trong Kinh Thánh thuật lại ngay từ thời vũ trụ mới được tạo dựng đã xảy ra nạn lụt đại hồng thủy nước mưa đổ trút xuống 40 đêm ngày dâng cao tràn ngập mặt địa cầu thời gia đình Ông Noe. ( Sách Sáng Thế 7, 1-23).
Cơn đại hoạ tưởng chừng như vũ trụ, nhân loại lúc đó bị xóa số không còn nữa. Nhưng nhân loại vũ trụ đã không bị hủy diệt. Trái lại Thiên Chúa đã đặt ra chương trình cứu chữa cho đời sống vũ trụ bắt đầu mới trở lại. ( Sách Sáng Thế 8,1-22).
Như vậy phải chăng Thiên Chúa đặt ra cơn khủng hỏang đe dọa để thử thách lòng tin của gia đình Noe?
Không có gì là bằng chứng qủa quyết cho suy luận như thế. Nhưng việc thử thách trong đời sống, nhất là vào niềm tin lòng trung thành không phải là không có hay hiếm hoi xưa nay. Cá nhân mỗi người hầu như ai cũng đã có kinh nghiệm trải qua những thử thách cơn khủng hỏang vào những giai đoạn khác nhau trong đời sống.
Kinh Thánh thuật lại nơi sách Sáng Thế ( 22,1-2.9a10-13-18) về cơn chao đảo khủng hoảng của tổ phụ Abraham, khi chính Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên Ông, ban cho Ông có gia đình và người con trai Isaak, như Thiên Chúa hứa ban cho dòng dõi của Ông, đã đòi hỏi đặt ra cơn thử thách lòng tin ll`ng trung thành của Ông vào Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn Abraham đem Isaak, con mình lên núi Moriah dâng làm lễ tế cho Thiên Chúa!
Chắc chắn Abraham khi nghe Thiên Chúa nói như vậy, ông cũng đã hoang mang chao đảo đau lòng lo âu nghi nan. Nhưng không biết làm sao hơn, nên cũng vâng nghe làm theo Thiên Chúa nói.
Trên núi Moriah, Ông đã trói con mình đặt lên đống củi định giết nó thiêu đốt làm lễ tế cho Thiên Chúa. Mọi sự đã sẵn sàng, ông đang ra tay giơ dao kiếm lên định đâm giết con mình, nhưng Thiên Sứ của Chúa lập tức đã xuất hiện cản ngăn không cho ông làm việc đó:
„ Sứ thần của ĐỨC CHÚA từ trời gọi ông: "Áp-ra-ham! Áp-ra-ham! " Ông thưa: "Dạ, con đây! "12 Người nói: "Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc! „
Thay vì giết con mình làm lễ tế, một con cừu hoang chạy ngang đến gần, và Abraham đã bắt con vật này giết thiêu đốt làm lễ tế cho Thiên Chúa, như lễ nghi tôn giáo ngày xưa thời đó qui định.
Tổ phụ Abraham trong hoài nghi chao đảo lo sợ đã thi đậu vượt qua sự thử thách lòng tin trung thành vào Thiên Chúa giữa con khủng hỏang do chính Thiên Chúa đặt ra đòi hỏi Ông.
Ông Abraham và chính con Ông, Isaak, đã phải trả gía đòi hỏi qúa tầm sức của tâm trí không sao hiểu nổi, khi phải sống giữa cơn chao đảo hoảng loạn vô tiền khoàng hậu trong đời mình.
Mạng sống Isaak, con Ông Abraham, đã được cứu thoát gìn giữ vẹn toàn trong đường tơ kẽ tóc!
Tổ Phụ Abraham, cha của Isaak, đã nhận được giải đáp cho bài toán qúa khó vượt tầm sức con người. Nó giúp Ông thoát khỏi vòng lo âu hoảng sợ nghi nan trái ngược hẳn nhau: một đàng vâng lời Thiên Chúa, và một đàng tại sao mình lại phạm tội giết người, sát hại chính con mình!!!
Còn con người chúng ta? Chúng ta không phải là Abraham. Chúng ta là loài thụ tạo mỏng dòn yếu đuối cả về thể xác lẫn tinh thần, và luôn cần đặt sự cậy trông vào bàn tay quan phòng che chở của Thiên Chúa.
Chính vì thế hằng ngày chúng ta hướng tâm hồn cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa, nguồn sự sống và tình thương yêu, xin cứu chúng con thoát khỏi vòng cơn khủng hoảng sự dữ! Xin đừng để chúng con phải vướng mắc vào cơn khủng hoảng thử thách vượt qúa tầm sức chịu đựng. Chúng con hằng muốn sống tin tưởng trung thành vào Chúa. Là loài thụ tạo yếu đuối giới hạn, chúng con cần sự nâng đỡ cứu giúp của Chúa, như đứa trẻ luôn luôn cần tình yêu thương săn sóc che chở của cha mẹ!
Giữa cơn chao đảo khủng hoảng bị đại dịch đe dọa đời sống như trong hiện tại, nếp sống tâm linh đặt tin tưởng niềm hy vọng vào Thiên Chúa là phương thuốc giúp giữ vững sức khoẻ cho tinh thần và cả thể xác nữa.
Con người luôn cần có sức khoẻ cả thể xác lẫn tinh thần. Có thế đời sống mới có thăng bằng quân bình cho hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Thánh Giuse, cha nuôi Chúa Giêsu
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Năm 1870 Thánh Giuse, cha nuôi Chúa Giêsu, từ thời đức giáo hòang Pio IX. được nhận là vị Thánh quan thầy bảo trợ cho toàn thể Giáo hội Công giáo trên trần gian. Và ngày lễ trọng kính Thánh Giuse vào ngày 19.03. hằng năm.
Để kỷ niệm truyền thống đạo đức trong nếp sống Giáo hội đã có từ 150 năm nay, đức đương kim giáo hòang Phanxicô đã công bố lập năm thánh đặc biệt về Thánh Giuse từ ngày 08.12.2020 đến ngày 08.12.2021 với chủ đề „ “Patris corde – Trái tim của người Cha.“
Đâu là hình ảnh trái tim của người cha Giuse ?
Ngày xưa Thánh Vincent de Paul, người sống hy sinh và lập dòng phục vụ người nghèo, đã tâm sự : Nếu vì phục vụ Chúa và con người mà gây ra phiền não lo âu, tôi sẽ âm thầm lặng lẽ rút lui!
Câu tâm tình của Thánh Vicent de Paul phản ảnh phần nào đời sống của Thánh Giuse, cha nuôi Chúa Giêsu.
Kinh Thánh không ghi lại lời nào của Thánh Giuse. Nhưng kinh thánh thuật lại việc làm của Ông. Những việc làm đó có gía trị như những gì Thánh nhân đã suy nghĩ và muốn nói ra.
Trong thinh lặng đang lúc ngủ, Thánh Giuse nghe tiếng Thiên Thần hiện đến nhắn bảo: Ðem trẻ Giêsu và mẹ người trốn sang Aicập. ( Mt 2,13). Có thể nói, về phương diện con người, đó là một đòi hỏi vượt qúa tầm tay tầm suy hiểu của một con người như Giuse. Nhưng ông đã âm thầm làm chuyện đó không thắc mắc gì, vì hạnh phúc an toàn cho Maria và Giêsu.
Ngay từ khi chấp nhận Maria làm người bạn đường, Giuse đã không hiểu nổi những bất ngờ ngạc nhiên đã và đang xảy ra ngay trong gia đình tương lai của ông.
Giuse đã không sao hiểu nổi mầu nhiệm nhập thể làm người của Chúa Giêsu trong cung lòng Maria và sau này cả cuộc đời của Chúa Giêsu bên cạnh ông. Nhưng ông đã trung thành làm theo lời Thiên Thần Chúa bảo: Ðem trẻ Giêsu và mẹ người trốn sang Aicập!
Lòng trung thành xưa nay luôn là một nhân đức, một lối sống được qúy trọng và cần thiết hàng đầu trong mọi lãnh vực giữa con người với nhau. Nhưng lại là điều hầu như càng bị lơ là quên lãng có vẻ coi thường. Ðã có biết bao nhiêu trường hợp, vì khó khăn hay bất bình, hay vì quyền lợi nhỏ trước mắt, hay vì không muốn nhận trách nhiệm bổn phận, mà đã quay lưng lại với lời thề hứa trung thành, trong cuộc sống gia đình, trong tình nghĩa bạn bè, trong niềm tin tôn giáo, trong lãnh vực làm ăn chung, trong lãnh vực quốc gia đất nước!
Mẹ Thánh Terexa thành Calcutta được xưng tụng là Thiên Thần của người nghèo. Vì mẹ đã trung thành sống với họ suốt dọc cuộc đời, từ lúc khổ cực âm thầm thuở ban đầu còn trắng tay, lúc được vinh quang mọi người biết đến tung hô tặng thưởng huy chương, lúc được mọi giới yêu mến hâm mộ và cho tới lúc gìa yếu bệnh tật từ gĩa cuộc đời.
Ðã có người thắc mắc, không biết Chúa Giêsu, là người như bao con người khác, có một Thiên Thần bản mệnh nào không? Và người đó không ngần ngại nói lên suy nghĩ của mình: Lẽ dĩ nhiên, Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Thiên Thần Chúa hằng có mặt gìn giữ ngài. Nhưng là con người, Ngài cũng có một Thiên Thần bản mệnh. Vị Thiên thần đó không ai khác hơn là Thánh Giuse!
Thánh Giuse là Thiên Thần bản mệnh gìn giữ che chở Chúa Giêsu và Maria không phải vì ông có sức mạnh cùng tài năng biến báo trổi vượt gì, nhưng là lòng trung thành của Ông.
Ông sống âm thầm lặng lẽ, nhưng không để Maria và trẻ Giêsu phải sống bị bỏ rơi quên lãng trong đe dọa. Ông chu toàn những gì là bổn phận của một trưởng gia đình, như lời Thiên Thần Chúa bảo: Nhận trẻ Giêsu và Maria!
Ông âm thầm suy nghĩ và muốn lặng lẽ rút lui. Nhưng không muốn Maria và Giêsu phải chịu cảnh âm thầm cô đơn. Vì thế Ông đã nghe theo lời Thiên Thần báo: Nhận Maria và Giêsu.
Ông đưa gia đình ra đi âm thầm trong đêm tối. Nhưng vẫn một niềm trông cậy vào bàn tay của Thiên Chúa. Dù không hiểu chương trình của Chúa sắp định. Ông sống lòng trung thành: mình lo Chúa liệu!
Ông đem gia đình trở về quê cũ Nazareth. Nhưng không ồn ào để cho gia đình bị mang tiếng với xóm làng đất nước. Trái lại âm thầm làm lụng nuôi sống gia đình.
Là cha nuôi con Thiên Chúa. Nhưng Giuse sống âm thầm và trung thành với ý Chúa muốn và với việc bổn phận.
Giuse, là người cha trong gia đình, đã trở nên Thiên Thần bản mệnh của con trẻ Giêsu và của người bạn đường Maria qua lối sống đạo đức tình người: lòng trung thành, sự kính trọng và rộng lượng giúp đỡ nhau.
„Nếp sống gương mẫu của Thánh Giuse về lòng trung thành, sự chân thành đơn giản luôn là lời kêu gọi khẩn thiết mọi người chúng ta suy nghĩ về việc chu toàn bổn phận của mình.
Tôi nghĩ đến trước hết những người cha, người mẹ trong gia đình, và cầu nguyện cho họ biết qúy trọng giữ gìn nét đẹp đơn thành của một đời sống cần mẫn chăm chỉ làm việc, trong đời sống hôn nhân, trong việc nuôi nấng giáo dục con cái với niềm vui phấn khởi.
Tôi cầu nguyện cho các linh mục, họ như người cha trong cộng đoàn Hội Thánh. Xin Thánh Giuse phù hộ cho họ lòng dấn thân yêu mến Hội Thánh; khơi dậy niềm vui phấn khởi cùng lòng trung thành nơi những người chọn sống đời sống tận hiến cho Chúa qua ba lời khấn thanh tịnh, khó nghèo và vâng lời theo lời khuyên của Phúc âm.
Xin Thánh Giuse gìn giữ chúc lành cho các người lao động làm việc trên toàn thế giới. Qua việc làm với những ngành nghề nghiệp khác nhau, họ góp phần xây dựng bước tiến triển đời sống xã hội. Qua đó họ giúp mọi người tín hữu trung thành thực hành ý Thiên Chúa trong đời sống, là cùng đem ơn cứu chuộc đến trong trần gian.“ (Đức Giáo Hoàng Benedictô 16. , ngày 19.03.2006)
Tháng kính Thánh cả Giuse
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh chiếc cầu vồng trên bầu trời
- Viết bởi Dân Chúa
Trên bầu trời vào ngày có nước mưa rơi cùng lúc có tia sáng mặt trời chiếu soi xuyên qua tỏa xuống mặt đất, nổi xuất hiện một hình vòng cung với đủ mọi mầu sắc trông rất đẹp hấp dẫn. Đó là hình chiếc cầu vồng ẩn dấu có nhiều ý nghĩa trong đời sống dân gian.
Đâu là ý nghĩa hình cầu vồng mầu sắc trên bầu trời?
Kinh Thánh thuật lại Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ trời đất cùng mọi loài có sự sống trong sáu ngày ( Sách Sáng Thế 1, 1-31). Và cũng diễn tả thuật lại hình cầu vồng mầu sắc rực rỡ xuất hiện trên bầu trời sau cơn mưa lũ lụt đại hồng thủy thời Ông Noah. ( Sách Sáng Thế 9-13-16).
Hình chiếc cầu vồng trong Kinh Thánh thuật diễn tả đó không phải là màn trình diễn mầu sắc lạ lùng của thiên nhiên, nhưng là hình ảnh dấu chỉ giao ước trung thành của Thiên Chúa nói lên lời cam kết sự tha thứ hòa bình với Ông Noah cùng với nhân loại:
„ Ta sẽ nhớ lại giao ước giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm; và nước sẽ không còn trở thành hồng thủy để tiêu diệt mọi xác phàm nữa.16 Cây cung sẽ ở trong mây. Ta sẽ nhìn nó để nhớ lại giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm ở trên mặt đất.“ ( Sáng Thế, 9,15-16).
Dẫu vậy tro;ng văn hóa dân gian xưa nay cũng có nhiều suy tư khác nhau về ý nghĩa hình cầu vồng trên bầu trời.
Hình cầu vồng mầu sắc trên nền trời diễn tả hình ảnh biểu tượng sự nối liền giữa trời và đất, theo truyền thống Talmud của người Do Thái, được tạo dựng vào buổi chiều ngày thứ sáu của công trình sáng tạo thiên nhiên.
Theo thần thoại của Hylạp cổ ngày xưa hình cầu vồng tượng trưng cho nữ thần Iris.
Theo truyền thống văn hóa của Trung Hoa cho là hình cầu vồng có năm mầu sắc, diễn tả sự chung hợp giữa hai cực: tích cực và tiêu cực, giống đực và giống cái, sự sáng và bóng tối, trời và đất, động và tĩnh.
Văn hóa vùng phương Đông ngày xưa cho hình cầu vồng là dấu chỉ của chiến thắng sau cuộc tranh cãi giữa các Thần Thánh.
Theo văn hóa Ấn Độ và vùng Mesopotamie cho bảy mầu sắc hình cầu vồng chỉ về bẩy tầng trời cao.
Nhà bác học Isaak Newton hồi thế kỷ 17. quan sát qua lăng kính khối thủy tinh đã khám phá nhìn mấy nhiều mầu sắc khác nhau xuất hiện nổi lên. Và Ông cho rằng điều đó nói về hệ thống trật tự vũ trụ. Các nhà khoa học nghiên cứu dựa trên phương pháp vật lý khoa học của nhà bác học Newton đã xác định ra bẩy mầu của hình cầu vồng: đỏ, da cam, vàng, xanh lá cây, xanh da trời, mầu xanh da trời đậm (Indigo) và tím.
Ngày nay có suy tư cho hình cầu vồng tượng trưng nói về sự chung hợp, sự toàn thể thống nhất, hạnh phúc, hội nhập, sự khác biệt, sự vui vẻ, sự khoan dung, hòa bình, sự thay đổi, niềm hy vọng, sự cởi mở, tâm linh, sự suy nghĩ tích cực, và sự liên kết tương hợp.
Từ năm 1961 trên lá cờ của phong trào tranh đấu kêu gọi hòa bình in vẽ hình cầu vồng có bẩy mầu sắc.
Thánh Gioan Tông đồ của Chúa Giesu Kitô đã thuật lại trong sách Khải Huyền về thị kiến đã được nhìn thấy Chúa Giêsu Kitô ngự trên chiếc cầu vồng trong ngày chung thẩm phán xét:
„Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vồng trông giống như bích ngọc.“ ( Sách Khảí Huyền 4,3)
Theo văn hóa Kitô giáo thường phân biệt ba mầu căn bản của hình cầu vồng. Vì thế cũng là hình ảnh biểu tương nói về Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hình cầu vồng cũng được suy hiểu là hình ảnh diễn tả chỉ về đức mẹ Maria. Vì đức mẹ Maria được hiểu cho là người đóng vai trò trung gian về sự tha thứ làm hòa giữa Thiên Chúa và con người, như trong Kinh cầu Đức Bà có lời cầu xin ca ngợi:
„Đức Bà bầu chữa kẻ có tội
Đức Bà phù hộ các giáo hữu.“
Vòng cung hình cầu vồng với nhilềuk mầu sắc không chỉ là điều lạ lùng đẹp khi nhìn ngắm. Nhưng còn diễn tả sự nối liền liên kết hai bên cách xa lại với nhau. Nó cũng giống như những nhịp của cây cầu bắc nối hai bên bờ dòng sông, hai bên bờ dòng suối lại với nhau, tạo mang đến sự thông thương cho được an toàn, thuận tiện cùng nhanh chóng.
Trong thiên nhiên có nhiều hình ảnh dấu chỉ ẩn chứa nhiều ý nghĩa dấu chỉ biểu tượng về đời sống trong mối tương quan với Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và con người, cùng giữa con người với nhau và với cả thiên nhiên nữa.
Hình ảnh chiếc cầu vồng với những mầu sắc xất hiện trên bầu trời là một trong những biểu tượng mang ẩn chứa ý nghĩa như thế.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long