Hình ảnh về người mẹ
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ hôm 24.02.2022, hằng ngày cảnh hàng ngàn người mẹ tay xách nách mang bồng bế dắt những người con…hốt hoảng chạy loạn vì bị chiến tranh đe dọa, tìm đường đi tỵ nạn từ Ukraina sang các đất nước láng giềng bên cạnh, phóng sự chiếu trên các kênh tuyền hình gây nên cảnh bàng hoàng, thương tâm đau lòng cho mọi người trên thế giới. Những hình ảnh đó gợi lên tình liên đới thương cảm, và lòng cảm phục sự hy sinh dũng cảm của các người mẹ.
Trên khuôn mặt của họ lộ diện nỗi lo âu sự mệt mỏi bơ vơ trong cảnh loạn ly phải xa quê nhà vừa lo cho con trên đường đi tỵ nạn, vừa lo lắng cho sức khoẻ mạng sống của chồng còn ở bên quê nhà Ukraina, diễn tả thâm sâu tấm lòng tình yêu dạt dào của người mẹ.
Tấm lòng người mẹ hiển thị sống động trong đời sống con người. Nhưng lại thiêng liêng nhiệm mầu không có hình hài cùng mầu sắc.
Tình yêu người mẹ như đóng khung trong thân thể người mẹ. Nhưng lại bao la sâu thẳm, không sao đo lường được.
Tình mẫu tử êm thắm nhẹ nhàng. Nhưng lại rộn ràng trào dâng, phát đi tín hiệu bừng lên sức phấn chấn cho người con.
Vậy có thể dùng hình ảnh gì để diễn tả tấm lòng người mẹ?
1.Trong thân thể nơi mỗi người và cả nơi thú vật nữa, Đấng Tạo Hóa đã tạo dựng một trái tim. Trái tim là trung tâm lọc máu, cùng bơm máu dẫn đi khắp cùng thân thể nuôi dưỡng cơ thể con người. Trong mỗi gia đình người mẹ được ca ví như Trung Tâm của gia đình cho con cái. Mẹ sinh thành ra người con, nuôi dưỡng, dậy dỗ giáo dục con mình nên người. Mẹ đôi khi phải nói to tiếng với con, nhưng bà không bao giờ giận ghét con mình.
Đi đâu xa vắng, người con nào cũng nhớ về trung tâm Mẹ ở nhà. Trung Tâm Mẹ thu hút tập họp con cái anh chị em lại với nhau. Người mẹ nào cũng có sức kiên nhẫn chịu đựng, dù những mệt nhọc, khó chịu, lo toan bận rộn chồng chất.
- 2. Đấng Tạo Hóa tạo dựng cho mỗi người có đôi bàn tay không chỉ là đường nét trang điểm cho thân thể cân bằng cùng đẹp, nhưng đôi bàn tay còn là dụng cụ rất hữu ích cần thiết cho đời sống. Mẹ được ca ví như đôi Bàn Tay. Ngay từ lúc mở mắt chào đời, Mẹ luôn cầm tay con mình, bồng bế em bé, dẫn em đi từng bước chập chững, chỉ cho em lối đi.
Bàn tay mẹ xoa dịu, lau sạch đôi dòng nước mắt đang lăn chảy trên đôi gò má người con. Bàn tay mẹ nấu sữa, thay tã quần áo cho em bé. Bàn tay mẹ cầm tay con làm dấu Thánh Gía, tập cho con viết chữ a,b,c. Bàn tay mẹ nấu cơm nước, ủi quần áo, thu dọn nhà cửa sạch sẽ trong gia đình.
Bàn tay Mẹ hằng đưa ra che chở con cái trong gia đình.
- 3. Trong khu vườn thiên nhiên có những cây bông hoa. Bông hoa bung nở phát toả hương sắc tươi thắm tô điểm cho khu vườn sống động cùng đẹp sáng rực rỡ. Đời sống người mẹ được thi vị hóa ca ví Mẹ như Bông Hoa. Mẹ yêu thích bông hoa thiên nhiên, vì thế Mẹ hay mua hoa cắm trong nhà. Mẹ cũng tươi đẹp, trong mát như bông hoa mới nở. Có mẹ ở nhà, bầu khí gia đình tỏa hương thơm sáng như cánh hoa tươi nở.
Mỗi khi người con nhìn mẹ mình, niềm vui tươi hạnh phúc bừng lên trong người họ.
- 4. Đấng Tạo Hóa ngay từ khởi đầu công trình sáng tạo vũ trụ thiên nhiên đã tạo dựng trước hết nên ánh sáng làm căn bản cho mọi công trình sự sống được nẩy nở phát triển. Con người chúng ta cũng ca ví người Mẹ như Ánh Sáng . Nơi nào có ánh sáng chiếu tới, bóng tối bị đẩy lui ra khỏi, và nơi đó có an toàn. Ánh sáng chiếu soi, ánh sáng mang đến không khí vui mừng
Nụ cười của mẹ tỏa mang bầu khí trong sáng, mang đến sự hài hòa niềm vui đầm ấm cho gia đình. Người con khi tiếp nhận bắt gặp nụ cười ánh mắt mẹ mình, họ như được ánh sáng chiếu tỏa đến: ánh sáng niềm vui, ánh sáng niềm an ủi.
- 5. Từ khi bắt đầu đi học, sách vở gắn liền với đời sống con người. Dân gian chúng ta cũng ca ví Mẹ như một Cuốn Sách. Khi lật mở cuốn sách ra, người ta tìm được những điều muốn tìm hiểu. Trong Cuốn Sách Mẹ có những chỉ bảo thúc dục nhắc nhở việc học hành, giờ giấc ăn ngủ, giải trí, giữ vệ sinh sạch sẽ cho đến cung cách sống làm người: học ăn học nói, học gói học mở.
Cuốn Sách Mẹ ai cũng luôn có trong suốt đời sống.
- 6. Nhà ở che nắng mưa, chắn gío rét lạnh nóng nực vào mọi không gian, thời gian, nơi chốn xưa nay luôn hằng cần thiết cho đời sống con người, cùng cả thú vật nữa. Dân gian có suy tư ca ví người Mẹ như một Ngôi Nhà. Dù là một túp lều nhỏ, với tường vách thô sơ, nhưng đó là căn bản cần thiết cho đời sống an toàn của con người. Trong một ngôi nhà, một túp lều, không chỉ có cửa, có bàn ghế, giường tủ, màn che…nhưng còn có đời sống tình yêu vợ chồng với nhau, cha mẹ với con cái, anh chị em với nhau. Ngôi nhà là tổ ấm tình thương yêu.
Trong Ngôi Nhà Mẹ bầu không khí tình người bao phủ lan tỏa tới mọi con cháu. Mẹ như mái nhà che nắng mưa cho con cháu, gìn giữ con mình cho khỏi bị gía lạnh nóng nực, cùng sự dữ xâm nhập phá hoại .
- 7. Trong vũ trụ Đ28ng Tạo Hóa đã quan phòng tạo dựng nên mặt trời là vầng to lớn chiếu tỏa ánh sáng hơi nóng năng lượng cùng để phân biệt ngày và đêm. Trong đời sống gia đình cũng có ca ví người Mẹ như Mặt Trời. Từ mặt trời chiếu tỏa tia nắng cùng sức sống hơi nóng xuống vạn vật trong công trình sáng tạo thiên nhiên. Không có nắng ấm tỏa chiếu xuống trần gian, sự sống không nẩy nở phát triển được.
Từ nơi Mặt Trời Mẹ phát tỏa sức sống nồng ấm cùng sự dịu dàng an bình. Khi thiếu vắng bóng mẹ, không gian gia đình như chìm lặng trong làn mây đen mù che khuất.
Mặt Trời mẹ là nguồn tình yêu mến và niềm vui hạnh phúc.
- 8. Trong thiên nhiên trời đất, Đấng Tạo Hóa đã sáng tạo các quặng mỏ như kho tàng nằm sâu trong lòng đất, trong lòng biển cả, trong lòng núi, cho các thế hệ con người, và trí khôn mỗi người cũng là một kho tàng ẩn chứa những tư tưởng suy nghĩ. Đời sống tâm lòng người mẹ cũng được hiểu ca ví như Kho Tàng. Kho tàng nào cũng chứa đựng cất giữ những báu vật, những gì là gía trị cao qúi. Trong Kho Tàng mẹ cả đời người con không sao khám phá ra hết nổi: Kho tàng chứa đựng sự quan tâm săn sóc lo lắng của mẹ cho con cái.
Kho Tàng Mẹ cất chứa đựng những điều thâm cung bí nhiệm, mà người con tin tưởng bày tỏ cùng mẹ mình. Kho Tàng mẹ gìn giữ những điều đó riêng cho bà và cho người con đó thôi.
- 9. Cơm Bánh là thực phẩm căn bản cần thiết cho thân xác bao tử cùng trí tuệ thần kinh con người hằng ngày trong đời sống. Con người và cả thú vật nữa, nhất là khi còn nhỏ thơ bé, luôn luôn cần đến mẹ và sữa mẹ để phát triển cho sống còn. Vì thế mẹ được ca ví như thực phẩm. Mẹ lo lắng hằng ngày sao cho con cái có đủ cơm bánh ăn. Mẹ dành thời giờ tâm tính cho bữa ăn trong gia đình sao cho ngon miệng, bổ béo mang đến sức khoẻ cho con.
Con người thiếu hay không có cơm bánh no đủ, sẽ lâm vào tình trạng đói kém yếu sức suy nhược. Thiếu vắng Mẹ, đời sống con người cũng trở nên u buồn ảm đạm.
- 10. Đời sống tấm lòng người Mẹ được diễn tả như Chiếc Bàn. Dù to hay nhỏ, dài hay vuông, hay tròn…chiếc bàn là chỗ trưng bày trải rộng, phơi bày những vật dụng đồ đạc, là nơi chốn ngồi tụ lại nói chuyện tâm tình ăn uống, viết lách.
Với mẹ cũng thế, người con có thể tâm tình phơi bày những mong ước, cùng những suy nghĩ và niềm vui nỗi lo âu của mình ra với mẹ mình.
Lòng Mẹ là chiếc bàn cho người con trải tâm sự mình ra, mà không sợ bị gạt phủi hất đi, hay bị ép buộc lợi dụng. Trái lại đó là nơi chốn an toàn cho những tâm sự thầm kín đời người con.
- 11. Âm thanh tiếng nói là phương tiện giúp thông hiểu giao thương giữa con người với nhau trong đời sống. Và Mẹ được ca ví như Tiếng Nói bài hát. Ngay từ lúc thuở đầu đời, Mẹ luôn hát ru con ngủ. Bài Hát đã đi vào ký ức kỷ niệm của người con. Tiếng nói của con là do Mẹ tập cho nói. Giọng tiếng con nói cũng do ảnh hưởng của mẹ rót vào tai vào tâm hồn con từ thuở mới mở mắt chào đời.
Lúc còn thơ bé, khi nghe Mẹ nói cùng hát, người con nhoẻn miệng cười sung sướng, và từ từ nhắm mắt chìm trong giấc ngủ mơ màng. Rồi khi đã khôn lớn dần, người con cất tiếng nói và hát theo, cùng cảm thấy lòng sung sướng hạnh phúc.
Có những người ghi nhớ mãi về mẹ mình, mỗi khi nghe thấy câu giọng nói nào, hay bài hát quen thuộc ngày xưa mẹ vẫn hát vang vọng từ xa lại. Và có những người hát thuộc lòng suốt đời “bài hát ruột” mà mẹ con đã từng hát ngay từ lúc còn nhỏ.
Tiếng Mẹ là tiếng mẹ đẻ của con.
- 12. Nước mưa từ trời rơi xuống mặt đất, nước chảy ngoài đại dương, trong lòng sông trong khe suối mang sức sống đến cho vạn vật trong công trình vũ trụ thiên nhiên. Lòng Mẹ được ca ví diễn tả như Giòng Nước. Giòng nước chảy trong lòng sông, nơi con suối mang sức sống, sự trong mát đến cho thiên nhiên phát triển. Giòng nước phát nguồn chảy đổ từ trên nguồn cao xuống dưới thấp.
Sữa mẹ là Giòng Nước thức ăn nuôi dưỡng người con ngay từ thuở thơ bé đầu đời. Khi con khát nước, mẹ mang nước cho con uống.
Giòng nước chảy cuốn trôi đi rác rưởi, sỏi cát…mang đến sự tẩy rửa sạch sẽ mới mẻ. Mẹ hằng ngày tắm rửa cho con nhỏ được sạch thơm. Nhờ thế người con khoẻ mạnh mau lớn. Khi con dần khôn lớn, mẹ chỉ bảo cách dùng nước tắm rửa, giặt quần áo, giữ gìn sức khoẻ cho thân thể được tươi mát vệ sinh sạch sẽ.
Giòng Nước Mẹ nuôi dưỡng thân xác và tinh thần con lớn lên đi vào đời.
Trong Kinh Thánh, Thánh Tiên Tri Ê-dê-ki-en, đã có ca ví diễn tả về Mẹ với tâm tình hình ảnh của nguồn đầy sức sống phát triển vươn lên:
„Người Mẹ giống cây nho được trồng bên dòng nước
quả trĩu nặng, cành lá sum sê, nhờ mạch nước dồi dào.“ (Ezechiel 19,10)
Ngày nhớ ơn các người mẹ trần gian
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh mầu hoa ngọn nến mừng kính Đức mẹ Chúa trời.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tháng hoa xin chưng dọn những nhánh hoa tươi, cùng thắp lên những cây nến mừng kính Đức Mẹ Maria, mẹ Chúa thiên đình.
1. Tháng hoa chúng con dâng nhánh hoa Hồng tươi thắm cùng thắp sáng cây nến lòng nhân ái nhớ đến Đức mẹ Maria xưa đã mở cánh cửa cung lòng cho Chúa Giêsu xuống thế làm người, khi đức mẹ chấp nhận vâng theo thánh ý Chúa.
Chúa Giêsu là hoa qủa phúc lộc cho mẹ, và cho hết mọi người chúng con.
Mang nhánh hoa Hồng và thắp Cây nến này lên, chúng con muốn nói lên lời chân thành tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên thân xác, trí khôn tinh thần và hằng quan phòng nuôi sống con người chúng con trong suốt dọc đời sống trên trần gian.
- 2. Tháng hoa kính Đức Mẹ, chúng con mang nhánh hoa mầu cam, cùng thắp cây nến lòng lễ nghĩa trước tòa Đức Mẹ. Qua đó chúng con muốn nói lên cung cách Đức Mẹ xưa kia đã sống niềm tin đạo giáo giữ lễ nghĩa, kính thờ yêu mến Thiên Chúa.
Cuộc sống kính trọng gìn giữ lễ nghĩa của đức mẹ là gương mẫu cho chúng con trong nếp sống với Thiên Chúa, với ông bà cha mẹ anh chị em, vợ chồng với nhau trong gia đình cùng với những người làm ơn cho chúng con trong đời sống.
Đời sống có lễ nghĩa là cuộc sống tràn đầy đạo đức tình người với nhau. Mang nhánh hoa mầu cam và thắp sáng cây nến lòng lễ nghĩa chúng con muốn nói lên tâm tình biết ơn cầu nguyện cho Giáo Hội Chúa ở trần gian luôn đặt niềm tin tưởng vào Chúa, dù có phải trải qua những sóng gió thử thách, chao đảo gian nan.
- 3. Tháng hoa chúng con đem nhánh hoa mầu Trắng cùng thắp sáng cây nến lòng hiếu thảo mừng vui kính Đức Mẹ qua lời ca tiếng hát trầm bổng phát xuất từ tận đáy tâm hồn.
Đó cũng là tâm tình vui mừng với Thiên Chúa là Cha đời mình, mà Đức mẹ đã bày tỏ qua lời ca ngợi: Linh hồn tung hô Chúa. Thần trí tôi mừng vui trong Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc tôi!
Ước gì ánh sáng cây nến lòng hiếu thảo chiếu lan tỏa vào tâm hồn đời sống chúng con, biết sống lòng kính trọng với Thiên Chúa, và lòng biết ơn người sinh thành, cũng như những người làm ơn cho đời sống chúng con!
Cùng với nhánh hoa mầu trắng và ngọn nến lòng hiếu thảo, chúng con nhớ đến với tâm tình cầu nguyện cho mọi dân tộc đất nước trên thế giới, được sống trong hòa bình mau thoát khỏi bị bệnh đại dịch đe dọa và không bị chiến tranh tàn phá.
- 4. Tháng hoa chúng con chào kính Mẹ Chúa vinh quang qua nhánh hoa mầu xanh lá cây cùng thắp sáng cây nến niềm hy vọng.
Mầu xanh lá cây và ánh sáng cây nến niềm hy vọng chiếu tỏa sức sống sáng tạo của trí khôn mà Thiên Chúa đã phú ban cho Mẹ. Phát xuất từ trí óc sáng tạo Mẹ đã tiên liệu việc Chúa làm: Đời nọ đến đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người (Lc 1,50).
Ôi, lời chan hòa tình tự sự hiểu biết và trí khôn ngoan nơi cội nguồn đời sống!
Cùng với Mẹ trên trời, chúng con chúc tụng và cám ơn Thiên Chúa, Đấng đã phú ban cho con người kho tàng tài sản châu báu là trí khôn tinh thần!
- 5. Tháng hoa chúng con ca ngợi Đức Mẹ bằng nhánh hoa mầu đỏ cùng với ánh sáng cây nến lòng yêu mến.
Xưa kia Mẹ đã âm thầm ghi nhớ mọi biến cố kỷ niệm xảy ra trong tâm hồn. Mẹ theo dõi cuộc tử nạn Chúa Giêsu trong mọi bước đường.
Dưới chân thánh gía Mẹ đứng đó chứng kiến giờ phút sau cùng của Chúa Giêsu.
Tình yêu mến là nhân đức quí báu và cần thiết cho đời sống làm người với Chúa, giữa vợ chồng, giữa cha mẹ con cái, anh chị em, bạn bè với nhau trong gia đình và trong cộng đoàn xã hội.
6. Cùng với đóa hoa mầu tím tươi thắm, chúng con thắp cây nến lòng trung thành mừng kính Mẹ Chúa trời hiển vinh.
Đức Mẹ đã sống tình nghĩa con người đến thăm người chị họ Elisabeth. Mẹ đã bầu cử, cứu giúp đôi bạn trẻ ngày thành hôn, khi họ lâm cảnh khó khăn, vì giữa tiệc cạn hết rượu. Mẹ đã quan tâm tới đời sống gia đình trước hết.
Cung cách sống trung thành mang đến cho nhau cuộc sống niềm vui và sự an toàn, nhất là trong bước đường gặp nghi nan lo âu.
Xin Đức Mẹ cầu bầu cho đời sống các gia đình. Giúp họ củng cố lòng tín nghĩa với nhau, những khi “rượu tình yêu” trong đời sống hầu sắp cạn!
- 7. Cùng với cành bông mầu vàng của hoa hướng dương, chúng con thắp cây nến lòng dũng cảm chào kính Mẹ Chúa thiên đường.
Mẹ đã can đảm chấp nhận cưu mang Chúa Giêsu như Thiên Chúa đã hoạch định và hạ sinh trẻ Giêsu giữa cánh đồng trong chuồng xúc vật. Mẹ cùng với Thánh Giuse chấp nhận cuộc sống tỵ nạn bên Ai-Cập và âm thầm sống tại làng quê Nazareth.
Mẹ luôn ở bên cạnh các Tông đồ trong những giờ phút nguy hiểm u buồn lúc Chúa Giêsu chết. Và cùng với họ can đảm chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Lòng dũng cảm là nhân đức cao thượng trong cuộc sống. Lòng dũng cảm hun đúc đào tạo nên những con người thánh, những con người anh hùng có đời sống đạo đức tình người.
Xin Đức Mẹ Chúa trời cầu bầu cùng Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống, cho chúng con sống yêu mến kính trọng gìn giữ công trình thiên nhiên, lòng can đảm hy sinh dấn thân làm việc bổn phận, và tin tưởng hướng về ngày mai!
Tháng Hoa mừng kính Đức Mẹ Chúa Trời.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh chiếc chìa khóa
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chiếc chìa khóa giữ vai trò quan trọng trong đời sống con người. Với chiếc chìa khóa ổ khóa cánh cửa nhà, cửa xe, cửa cổng thành… được khóa kín chặt lại. Và như thế lối ngõ ra vào bị chặn ngăn lại.
Cũng với chiếc chìa khóa những ổ khóa cánh cửa được mở ra. Và như thế lối ra vào không còn bị ngăn chặn giữa bên ngoài và bên trong cánh cửa.
Thánh đường, nơi tôn nghiêm dành cho việc phụng vụ lễ nghi cầu nguyện thờ kính Thiên Chúa, cũng có những cửa ra vào với ổ khoa. Vì thế cũng cần có chìa khóa để mở ra. Và khi cửa đóng lại cũng cần chìa khóa vặn khóa ổ khóa lại.
Vậy đâu là hình ảnh chiếc chìa khóa trong đời sống niềm tin đạo giáo vô hình tận sâu trong tâm hồn con người ?
Hằng năm Giáo Hội Công giáo mừng kỷ niệm lễ Chúa Giêsu Kitô phục sinh sống lại từ cõi chết, và vào chúa nhật một tuần sau đó, xưa nay có tên là lễ Chúa nhật áo trắng, và sau này có thêm tên nữa là Chúa nhật lòng Chúa thương xót. Như thế hai tên gọi ngày lễ mừng Chúa nhật này đều nói về trái tim, hình ảnh tình yêu thương.
Lòng yêu thương của Chúa Giêsu Kitô đã mở ra cánh cửa tình yêu cho con người, như chính Ngài ngày xưa lúc đi rao giảng nước Thiên Chúa ở trần gian đã nói “Thầy là cửa” . Qua cửa này có con đường dẫn đưa đến với Thiên Chúa trên trời cao.
Ngày thứ Sáu Tuần thánh cánh cửa với sự chết của Chúa Giêsu Kitô bị đóng lại, con đường thông thương như bị ngăn lại.
Ngày Chúa phục sinh, sống lại từ cõi kẻ chết, cánh cửa được khai mở ra lại. Tình yêu thương của Chúa Giêsu Kitô là chiếc chìa khóa đã mở cánh cửa do sự chết đóng lại, con đường sự sống phần linh hồn đến với Thiên Chúa được khai thông mở ra cho con người.
Hình ảnh cửa mở ra, như phúc âm ngày Chúa Giêsu phục sinh viết thuật lại: tảng đá ngăn che nấm mồ của Chúa được lăn ra một bên, mở lối cho Chúa sống lại đi ra khỏi nấm mồ, và cho các Môn đệ đi vào trong mồ nhìn ngắm làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại không còn nằm trong nấm mồ nữa.
Chúa Giêsu Kitô đã sống lại. Nhưng vì sợ người Do Thái, nên các môn đệ và những người tin theo yêu mến Ngài, đã đóng khóa kín cửa nhà lại không cho ai ra vào. Dẫu vậy, Chúa Giêsu Kitô phục sinh đã đi vào hiện ra với họ. Chính Chúa Giêsu Kitô là chìa khóa mở cửa đi vào : Ngài mở tung cánh cửa cho sự sống tràn vào xóa tan sự lo âu hoài nghi sợ hãi. Và cánh cửa đó không còn có thể đóng khóa lại được nữa, như Thánh Gioan viết thuật lại
"Ðừng sợ, Ta là Ðấng trước hết và là Ðấng sau cùng, Ta là Ðấng hằng sống; Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời. Ta giữ chìa khoá sự chết và địa ngục. “ ( Sách Khải Huyền 1, 18).
Trong đời sống con người luôn cần đến chìa khóa đúc bằng kim loại nhôm hay sắt thép, hay tấm thẻ có gắn chip để khóa và mở cửa.Nhưng con người còn cần hơn nữa chìa khóa vô hình. Đó là chiếc chìa khóa thiêng liêng tinh thần, chìa khóa đức tin, chìa khóa tình yêu thương.
Với chiếc khóa này Thiên Chúa đã mở cửa đến với con người qua Chúa Giêsu Kitô phục sinh.
Với chiếc khóa này con người mở cánh cửa tâm hồn mình đến với Thiên Chúa, nguồn sự sống và tình yêu thương cho tâm hồn mình.
Và với chiếc chìa khóa tinh thần tình yêu thương con người mở cánh cửa lòng đến với nhau thể hiện tình yêu thương bái ái, xây dựng hòa bình.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh ánh sáng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đời sống con người cần có ánh sáng cho sinh hoạt trong đời sống: ánh sáng đèn điện, ánh sáng đốt thắp từ ngọn đèn dầu, từ ngọn nến.
Nhưng ánh sáng chiếu tỏa từ mặt trời quan trọng hơn hết. Phải nó là nền tảng cho sự sống, không có thứ loại ánh sáng nào khác có thể thay thế được. Nhờ ánh sáng đó sự sống mới phát triển cùng tồn tại được.
Ánh sáng vô hình, cùng không có âm thanh. Nó không có thể nắm bắt lại được. Ánh sáng chiếu tỏa và rồi lại qua đi. Mặt trời mọc lên chiếu sáng, sau đó theo chu kỳ vận hành lại lặn đi, sang vùng không gian bên kia, và ngày hôm sau lại mọc trở lại. Cứ mọc lặn như thế làm nên ban ngày có ánh sáng chiếu tỏa, ban đêm không có ánh sáng chiếu soi.
Vậy có thể diễn tả hình ảnh về ánh sáng trong đời sống được không?
Ánh sáng cần thiết cho sự sống trong thiên nhiên phát triển cùng tồn tại trên địa cầu. Cây cỏ thảo mộc cần có ánh sáng mới mọc lớn lên trổ sinh cành lá xanh tươi.
Ánh sáng quan trọng cần thiết cho đời sống thể xác và cả trí khôn tinh thần của con người. Chất bổ dưỡng (Vitamine) D, theo ngôn ngữ ảo thuật của khoa học y khoa, cũng được sản xuất tạo thành do từ ánh sáng mặt trời cho cơ thể con người. Khi thiếu không đủ chất bổ dưỡng D cơ thể sẽ trở nên yếu nhược bệnh tật, nhất là xương cốt.
Theo Kinh Thánh thuật lại (Sách Sáng Thế 1, 1-31) ngay từ khởi đầu khi bóng tối còn bao trùm khắp không gian, mọi nơi chốn còn trống rỗng, Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, đã tạo dựng trước tiên ánh sáng: “Hãy có ánh sáng!” Và liền có ánh sáng.”.
Ánh sáng là công trình sáng tạo thiên nhiên đầu tiên làm khởi thủy căn bản cho các công trình sáng tạo thiên nhiên đất đai sông nước địa cầu, cho sự sống cây cỏ thảo mộc, thú vật và con người được thành hình tiếp tục phát triển và tồn tại.
Ánh sáng thuộc về nền tảng sự sống trong vũ trụ. Và ánh sáng đóng vai trò quan trọng trong niềm tin tinh thần đạo giáo. Với người Kitô giáo, ánh sáng là sứ điệp đức tin quan trọng ngày lễ mừng Chúa Giêsu Kitô phục sinh.
Hình ảnh ánh sáng không chỉ ở trong cung thánh, trong lòng thánh đường, nhưng còn cả ngoài thiên nhiên nữa.
Người Kitô giáo mừng kính lễ Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, từ đêm tối tội lỗi luôn luôn vào ngày chúa nhật trăng tròn tiết đầu mùa xuân, ban ngày và ban đêm dài ngắn bằng như nhau.
Bóng tối dài thời tiết mùa Đông bị ánh sáng mặt trời dần chiếu tỏa lấn lướt khiến đêm ngắn lại, ngày có ánh sáng chiếu soi dài thêm ra. Vạn vật trong thiên nhiên như thức giấc sau mùa Đông đen tối gía lạnh.
Thảo mộc cây cối bật bung nụ hoa xanh tươi tốt trồi ra bên ngoài từ thân cành cây…
Thú vật chui ra khỏi hang chuồng chạy nhảy bay lượn sinh con, kiếm mồi nuôi mình cùng con còn non mới chào đời.
Và con người cảm thấy thể xác cũng như tinh thần khoan khoái phấn khởi, sức sống niềm vui tươi bừng lên.
Từ hơn hai năm nay bị bệnh đại dịch Covid 19 đe dọa sức khoẻ đời sống con người, họ phải sống trong lo sợ, trong giới hạn, trong xa cách nhau, khiến mọi người trên thế giới buồn cùng mất bình an.
Và từ tháng trời nay ( từ ngày 24.03.2022) những tin tức hình ảnh hằng ngày nói về cảnh chiến tranh kinh hoàng bên đất nước Ukraina gây cảnh tàn phá chết chóc, khủng hoảng phải chạy trốn đi tỵ nạn, đe dọa hòa bình an ninh đời sống, gây nên cảnh đen tối đưa đến hoang mang lo sợ chao đảo sinh hoạt đời sống vật chất cũng như tinh thần khắp nơi trong mọi lãnh vực...
Nên không khí có ánh sáng chiếu soi là hình ảnh đóng vai trò quan trọng cần thiết cho sức sống niềm hy vọng, niềm vui vươn lên giữa cảnh lo âu hoang mang.
Ánh sáng luôn luôn giữ vai trò nền tảng trước tiên cho sức sống phát triển vươn lên, cho niềm hy vọng, cho sự sống mới nảy sinh.
Ánh sáng mặt trời mùa Xuân làm cho vạn vật thức giấc, sức sống mới bung nở vươn lên trong trời đất, sau những tháng dài chìm ngập trong bóng tối mùa Đông như đã chết.
Hình ảnh này giúp hiểu rõ nét hơn về mầu nhiệm phép lạ Chúa Giêsu Kitô phục sinh sống lại: Từ cõi bóng tối đêm đen sự chết nảy sinh sự sống mới.
Con người do tội lỗi của Ông Bà nguyên tổ Adong Evà khi xưa trong vườn điạ đàng, bị chìm ngập trong án hình phạt tội lỗi. Nhưng nhờ qua sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, được sinh ra mới trở lại, nhận được ánh sáng mới, khung cảnh trời đất mới. Đó là ơn cứu chuộc của Thiên Chúa giải thoát sự sống phần linh hồn con người khỏi án hình phạt tội lỗi. Thân xác con người chết. Nhưng linh hồn được Thiên Chúa cứu độ cho về sống lại bên Ngài.
Đây là niềm tin, niềm hy vọng của người Kitô giáo. Thiên Chúa không để con người do Ngài tạo dựng cùng nuôi dưỡng thương yêu mãi mãi phải nằm trong mồ mả bóng tối sự chết.
Ánh sáng Chúa Giêsu Kitô phục sinh, biểu hiện qua hình ảnh ánh sáng Cây Nến Chúa Phục Sinh, chiếu tỏa ánh sáng niềm vui, niềm hy vọng ngày lễ mừng Chúa Giesu Kitô sống lại, loan báo tin mừng sự sống mới cho con người.
Mừng lễ Chúa Phục sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh thập gía, trường hợp nghiêm trọng của tình yêu
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Năm 1957 Sputnik, vệ tinh đầu tiên được phóng lên không gian. Khắp nơi, nhất là báo chí trên khắp thế giới đã bàn tán bình luận xôn xao về biến cố mới lạ ngoạn mục này.
Người ta đã hết lời ca ngợi thành tích thắng lợi vẻ vang này như bước tiến cách mạng nhảy vọt chế ngự không gian vũ trụ. Có những ý kiến cho rằng đó là một thách đố, một cám dỗ song song đối đầu với Thượng Ðế, Ðấng sáng tạo vũ trụ!
Có thật hình ảnh cây thập tự biểu hiệu lòng tin của người Kitô giáo bị khoa học cách mạng thách thức và như muốn xóa tan tính mầu nhiệm thần thánh đi không?
Thắc mắc hoài nghi lan tràn khắp nơi. Nhưng người đặt lòng tin vào Thiên Chúa không vì thế đễ dàng để cho đức tin vào Thiên Chúa, vào mầu nhiệm cây thập gía ơn cứu độ của Chúa Giêsu Kitô bị lung lay hay xóa bỏ khỏi tâm linh tinh thần mình.
Họ vẫn chú ý quan sát theo dõi nhìn nghe biến chuyển đó với con mắt lòng tin sâu xa: Crux stat dum volvitur orbis – Cây Thánh gía vẫn đứng vững, dù trái đất có xoay chuyển vận hành thế nào đi nữa!
Johannes Wolfgang von Goethe, nhà đại văn hào Ðức, khi nghĩ đến „ Thập gía, dấu hiệu của người Kitô“ đã kinh hãi rụng rời. Ông lẩn trốn không muốn nói tới Thập gía, vì nghĩ rằng, thập gía kêu gọi ông hãy ăn năn trở lại!
Trái lại người tín hữu Chúa Giêsu Kitô ngày thứ sáu tuần Thánh tôn kính cây Thập gía: Ðây là cây Thánh gía, nơi treo Ðấng Cứu độ trần gian. Chúng ta hãy đến thờ lạy!
Trung tâm của lễ nghi tưởng nhớ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu là cây Thập gía trên đồi Golgotha chiều năm xưa. Tất cả mọi người tín hữu Chúa Giêsu Kitô bái qùy tôn kính cây Thánh gía.
Người ta chỉ có thể hiểu được thánh gía, nếu biết chấp nhận thập gía của riêng mình. Cũng chỉ có thể hiểu được đau khổ, nếu không tìm cách lẩn tránh đau khổ. Chấp nhận con đường đau khổ bản thân của mỗi người, chính là đi theo Chúa Giêsu Kitô, đấng là con đường là sự chân thật và là sự sống.
Pierre Teilhard de Chardin, nhà thần học Dòng Tên chuyên khảo cứu về nhân chủng học đã suy tư như sau „ Thập gía không là điều gì vô nhân đạo, nhưng là điều vượt qúa tầm hiểu biết của con người.“
Thánh giáo hoàng Phaolô đệ lục đã gọi Thập gía là khẩu hiệu, là Logo của lịch sử con người, của nền văn hóa và của bước tiến bộ chúng ta.
Thập gía là một trường hợp nghiêm trọng của tình yêu, như Hans Urs von Balthasar nhà thần học Dòng tên đã suy tư.
Đức giáo hoàng Benedicto 16. đã có suy niệm về mầu nhiệm cây thập tự Chúa Giêsu Kitô: Thập tự không là dấu hiệu chiến thắng của sự chết, của tội lỗi và của sự dữ. Nhưng là dấu chỉ chiếu tỏa ánh sáng tình yêu. Vâng đó là dấu chỉ to lớn của tình yêu Thiên Chúa…
Thập tự nói cho chúng ta về tình yêu Thiên Chúa, và kêu mời hướng theo sức mạnh tình yêu này để canh tân đổi mới đời sống lòng tin. Trong sự chết của Con Thiên Chúa trên cây thập tự nẩy sinh mầm chồi niềm hy vọng đến một sự sống mới, như hạt lúc mì chết mục nát trên nền đất mọc thành cây lúa mới.
Không có ngày nào trong năm nói cho chúng ta về Thập gía thấm đượm đau buồn sâu thẳm, dấu hiệu của lòng tin, như ngày thứ sáu tuần Thánh.
Không có ngày nào diễn tả tràn đầy sự đau khổ về tình yêu của Chúa cho con người qua dấu chỉ cây Thập gía, như ngày thứ sáu tuần Thánh.
Không có ngày nào nhắc nhở, vâng cảnh tỉnh chúng ta khẩn trương: Stat crux dum volvitur orbis! Thập gía vẫn đứng vững đó, dù trái đất có xoay chuyển vận hành thế nào đi nữa!, như ngày thứ sáu tuần Thánh, tưởng niệm Chúa Giêsu Kitô chết trên cây thập gía.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh bữa ăn sau cùng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Theo kinh thánh viết thuật lại Ông Giuse, người Do Thái là con Tổ phụ Giacop, khi còn thanh thiếu nên bị anh em gia đình vì lòng ghen tức bán cho con buôn sang nước AiCập. Lớn lên may mắn Giuse được vua Pharao nước Ai cập trọng dụng cho làm Thủ Tướng thay vua lo việc quốc sự kinh bang tế thế lo cho dân.
Nhờ tài trí thông minh cùng tâm trí khôn ngoan được Thiên Chúa phú ban cho, Thủ tướng Giuse đã lo liệu cho thu góp thóc lúa tích trữ vào kho dự trữ của những năm bội thu được mùa trong cả nước Ai Cập.
Sau bảy năm liên tiếp bội thu được mùa, tiếp theo sau bảy năm xảy ra hạn hán mất mùa. Dân chúng thiếu lương thực, Thủ tướng Giuse cho mở kho dự trữ bán phân phát cho dân.
Nạn mất mùa đói kém hoành hành không chỉ nước Ai cập, mà lan tràn cả nơi những vùng đất nước lân cận. Thế là dân các xứ nước lân cận đổ xô sang Ai cập xin mua thóc lúa lương thực ăn cho qua khỏi nạn đói kém thiếu thóc lúa lương thực.
Thủ Tướng Giuse xa cha mẹ từ lúc còn trẻ không còn liên lạc gì với gia đình từ hằng chục năm trời. Nhưng nay bỗng hay tin cha mẹ mình còn sống đang lâm vào tình trạng thiếu thốn thóc lúa lương thực. Ông không an tâm, liền âm thầm cho mời cha mẹ gìa và anh em sang để báo hiếu chu cấp thóc lúa lương thực cho khỏi bị đói.
Cùng đi với gia đình Tổ phụ Giacop sang Ai cập còn có nhiều người dân Do Thái nữa. Sau những năm tháng định cư, người Do Thái làm ăn sinh sống thịnh vượng phát triển sinh sản thêm ra nhiều.
Những vị Vua Pharao mới lên sau thời đại thủ tướng Giuse đã quên những việc làm xưa kia của Giuse cho đất nước Ai cập. Họ suy nghĩ nhận thấy nguy cơ, nếu người Do Thái ở đây cứ đà này phát triển, họ sẽ lớn mạnh hơn người dân bản xứ. Và biết đâu họ có thể trở thành người nội thù, khi có chiến tranh xảy ra!
Vì suy nghĩ như vậy, nên vị tân vương Pharao ra chiếu chỉ bắt người Do Thái lao động làm những việc nặng nhọc như người nô lệ xây dựng nhà cửa, đền đài cho nhà vua, và còn hành hạ họ nữa.
Dân Do Thái kêu cầu cùng Thiên Chúa Giave xin thương cứu giúp họ sao thoát khỏi cảnh nô lệ bị hành hạ. Thiên Chúa Giave đã sai Mose, người từ lúc còn thơ bé được chính con gái vua Pharao cứu vớt từ dòng sông Nil đem về nuôi trong triều đình cho tới khi khôn lớn thành người trưởng thành, đến yêu cầu vua Pharao xứ Aicập tha cho dân Do Thái, và cho phép họ trở về quê hương đất nước Do Thái.
Bắt đầu vua Pharao không bằng lòng. Nhưng sau cùng ông đành chấp nhận lời yêu cầu của Mose, để cho dân Do Thái lên đường xuất hành trở về quê hương đất nước như Thiên Chúa hứa ban cho họ.
Vào chiều tối trước ngày xuất hành, theo luật truyền của Thiên Chúa nói với Mose, mọi gia đình Do Thái phải sửa dọn bữa ăn sau cùng trên đất Ai cập, mỗi gia đình giết một con chiên còn non trẻ, nướng ăn với bánh và rau đắng. Khi ăn họ phải buộc dây thắt lưng, và ăn cho hết không để dư lại. Rồi sau đó theo hiệu lệnh của Mose lên đường xuất hành trở về quê cũ nước Do Thái.
Cuộc xuất hành trở về của họ mở tiến sang giai đoạn thời đại mới. Từ nay không còn sống trong cảnh làm nô lệ, bị hành hạ phải lao động cực nhọc sợ hãi nữa.
Xuất hành trở về quê hương được sống trong tự do theo nề nếp văn hóa của dân tộc, sống giữ gìn niềm tôn giáo kính thờ Thiên Chúa Giavê của dân tộc từ ngàn xưa.
Bữa ăn cuối cùng trên đất nước Ai Cập trước khi lên đường xuất hành trở về đất hứa đánh dấu mốc chốt chấm dứt thời gian cũ, và khởi đầu một thời gian mới, một đời sống mới của dân Do Thái.
Tập tục kỷ niệm biến cố bữa ăn cuối cùng này được người Do Thái ghi chép thành bản văn luật lệ căn bản trong kinh thánh cựu ước, và bắt buộc phải tuân giữ như lề luật thánh trong đạo.
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, được sai đến làm người trên trần gian. Sứ mạng thần thánh của Ngài là rao truyền lề luật mới, lề luật tình sự tha thứ , tình yêu thương cứu rỗi của Thiên Chúa cho con người.
Vì tội nguyên tổ ngày xưa Ông Bà tổ phụ Adong Eva đã lỗi phạm. Nên các thế hệ con người không chỉ phải chết về thân xác, nhưng cả linh hồn sau khi chết cũng phải chịu án phạt nữa. Như thế con người sống trong vòng thành nô lệ cho tội lỗi.
Ba năm rao giảng ơn tha thứ cứu chuộc của Thiên Chúa, kêu gọi con người ăn năn từ bỏ con đường tội lỗi cũ trở về với Thiên Chúa, nguồn đời sống, nguồn tình yêu thương.
Và trước khi kết thúc đoạn đường đời sống trên trần gian giữa con người, Chúa Giêsu Kitô đã để lại dấu chứng tình yêu của Thiên Chúa cho con người, cho Giáo hội Chúa ở trần gian. Dấu chứng tình yêu đó Chúa Giêsu Kitô đã thiết lập bí tích Thánh Thể, chức thánh Linh mục trong bữa ăn sau cùng, còn gọi là bữa tiệc ly, với các Môn Đệ của ngài.
Trong bữa ăn sau cùng, thay vì dùng thịt con chiên như bữa ăn ngày xưa trước đêm xuất hành khỏi cảnh nô lệ của người Do Thái bên Ai Cập, Chúa Giêsu Kitô đã dùng tấm bánh và chén rượu làm thịt máu của chính mình, Ngài truyền phép biến đổi thành lương thực nuôi dưỡng tinh thần đức tin con người. Và trối lại cho các Môn đệ, cho Giáo Hội: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy!
Trong bữa ăn sau cùng đó, Chúa Giesu Kitô cũng đã thắt lưng lấy nước lần lượt rửa chân cho các môn đệ mình, để nói lên cử chỉ tình yêu thương Thiên Chúa cúi hạ mình xuống phục vụ con người.
Bữa ăn sau cùng này của Chúa Giesu với các Môn Đệ trên trần gian mở ra một giai đoạn thời đại mới cho con người: Tình yêu thương của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu mang lương thực cho tinh thần đức tin con người.
Lương thực tình yêu thần thánh đó tuy qua hình tấm bánh và chén rượu nho, nhưng chính là Mình Máu Chúa Giêsu Kitô, Đấng hy sinh dấn thân chịu chết với khổ hình thập tự để sinh hiệu qủa cứu rỗi phần linh hồn con người khỏi hình phạt nô lệ tội lỗi.
Trong dòng lịch sử thời gian, người Do Thái hằng năm mừng bữa ăn sau cùng ngày xưa vào ngày lễ Pascha – lễ Vượt qua- để kỷ niệm nhớ lại biến cố xuất hành khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập trở về quê hương cũ đánh dấu mốc bước tiến sang một giai đoạn thời đại mới, thời đại thoát khỏi cảnh nô lệ tiến vào nếp sống tự do.
Cũng vậy, người Kitô hữu mừng kính bữa ăn sau cùng- bữa tiệc ly, bí tích Thánh Thể- của Chúa Giêsu Kitô đã thực hiện, để sống mầu nhiệm đời sống mới, linh hồn được Thiên Chúa cứu độ cho khỏi hình phạt nô lệ tội lỗi, mà Chúa Giesu Kitô đã hy sinh làm con chiên chết thay cho mọi người.
Bữa tiệc ly sau cùng và sự chết của Chúa Giesu Kitô chấm dứt thời đại nô lệ tội lỗi. Và thời đại mới sống trong tự do được giải thoát khỏi án phạt mở ra cho linh hồn con người.
Thứ Năm tuần thánh kỷ niệm Bữa tiệc ly.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh sỏi đá.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm Giáo hội Công giáo vào ngày Chúa nhật trước lễ mừng Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, mừng nhớ lại biến cố Chúa Giêsu cỡi lừa đi vào thành Jerusalem.
Biến cố này diễn xảy ra trước đây hơn hai ngàn năm ở bên nước Do Thái. Theo kinh thánh thuật lại ( phúc âm Luca 19, 28-40) con đường Chúa Giesu cỡi lừa đi vào thành Jerusalem khởi hành từ làng Betfage và làng Bethania vùng ngoại ô liền sát biên giới với thành Jerusalem.
Trên con đường đi vào thành, Chúa Giêsu được dân chúng trải áo cầm cành lá dừa mừng rỡ hân hoan đón chào tung hô như một vị Vua “ Hosiana”. Phải, vị Vua này nhân danh Thiên Chúa đến với dân chúng. ( Lc 19,35-38).
Vì thế ngày Chúa nhật này có tên gọi là Lễ Lá.
Cảnh tượng hân hoan phấn khởi đón chào này, cùng những lời tung hô reo hò của dân chúng là cái gai chướng mắt, chướng tai cho các Thầy cả, các vị Kinh sư luật sĩ đạo Do Thái lúc đó.
Họ rất bất bình đến mức độ tức giận. Họ cảm thấy quyền hành uy tín địa vị của họ bị thách thức, bị coi thường, đang khi một Giesu, một người xuất thân từ làng miền quê hẻo lánh Nazareth, sống nghề thợ mộc, thợ xây theo kiểu cha truyền con nối lại được đón chào tung hô vạn tuế là Vua.
Ngoài ra Vị Giesu này từ mấy năm nay bỗng nổi lên đi rao giảng giáo lý mới khắp nước Do Thái về tình yêu Thiên Chúa có nhiều khác biệt với lối suy hiểu cắt nghĩa kinh thánh của họ. Nhất là về lối sống câu nệ cứng nhắc vào lề luật truyền thống xưa nay của họ bị Vị Giêsu này thách thức đả kích lên án.
Vị Giêsu này có lối sống sát gần gũi nói chuyện cùng làm nhiều điều lạ lùng cho dân chúng, như chữa cho nhiều người lành bệnh qua cử chỉ đặt tay cùng cầu nguyện. Vị Giêsu này hay làm công việc chữa bệnh vào ngày Sabat, một ngày lễ nghỉ vào cuối tuần lễ mang sắc thái đạo đức cao trọng theo luật lệ Mose là không được làm việc gì kể cả việc nấu bếp. Như thế là lỗi luật nặng nề có từ thời tổ phụ cha ông. Vị Giêsu này không những làm việc vào ngày lễ nghỉ Sabat, mà lại còn qủa quyết “ ngày Sabat cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabat”
Nên họ nổi giận lớn tiếng yêu cầu Vị Giêsu lên tiếng quở trách bảo người ta, nhất là các Môn đệ của Giêsu, phải im đi, đừng giở trò ồn ào náo lọan làm mất trật tự nơi thành thánh Jerusalem.
Nhưng Chúa Giêsu lại có phản ứng ngược lại. Người nói với họ: Tôi bảo cho các ông, họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ lên tiếng.” ( Lc 19,40).
Vậy hình ảnh tiếng nói của sỏi đá là gì vậy?
Sỏi đá là vật thể khô cứng trong thiên nhiên không có sức năng động, câm điếc không có môi miệng nói, không có tai nghe, không có mắt nhìn. Sỏi đá mọc trồi lên cao ở nơi núi đồi, vùng thung lũng cao nguyên, nằm trong lòng nền suối nước sông biển. Xưa nay chúng được dùng làm lót nền đường đi, nền móng nhà cho vững chắc lâu bền.
Từ sỏi đá không phát ra âm thanh tiếng nói gì. Nhưng chúng lại là “dấu vết chứng từ” cho thời đại thiên kỷ năm tháng. Vì tính cách khô cứng rắn chắc bền vững của chúng, dù trải qua nắng mưa, giông bão, hay bị đào bới phá hủy vứt bỏ, chúng vẫn nằm trơ ngoài thiên nhiên. Chúng là loại “sử sách” thinh lặng khô cứng không ghi lại chữ viết, hay âm thanh gì.
Người ta khảo cứu đo đạc theo phương pháp khoa học phân tích tìm đọc ra thời gian chúng đã trải qua, thời gian chúng được dùng xây dựng công trình đền đài nhà cửa…và từ đó lần tính ra khoảng không gian thời gian qúa khứ của công trình trước đó.
Như bây giờ người ta khảo cứu những tảng đá của những Kim tự tháp bên xứ Aicập, những tảng đá xây thành Jerusalem bên Do Thái, những viên đá sỏi cũ mòn trơn nhẵn bóng, trên con đường thập giá ngày xưa Chúa Giêsu vác thập tự, tảng đá Gabatha nơi dinh Philato ngày xưa ngồi xử án Chúa Giêsu…lần tìm ra niên đại dấu vết những biến cố lịch sử ngày xưa đã diễn xảy ra, dù không có chứng từ sử sách nào ghi chép lại bằng chữ viết.
Khoa khảo cổ qua khai quật những tảng đá, viên sỏi gạch ở nền nhà, nơi cột tường vách, các vật thể đồ dùng các công trình đổ nát, lần tìm ra nên đại lịch sử những nơi đó. Như thế sỏi đá không nói, không viết gì, nhưng để lại dấu vết như chứng từ khắc ghi lại lịch sử niên đại chúng đã được con người dùng “sống trải qua”.
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, ngay từ lúc đầu đời đã sinh ra làm người trong khung cảnh nghèo hèn bần hàn nơi hang đá chuồng thú vật ngoài cánh đồng xứ Bethlehem.
Rồi có cuộc sống ở vùng quê hẻo lánh làng Nazareth, ra đi rao giảng nước tình yêu Thiên Chúa, rong ruổi nay đây mai đó luôn bị các Thầy cả , các vị Kinh sư luật sĩ trong đạo phản đối khinh khi, rồi cả khi được dân chúng tung hô vạn tuế là Vua cũng chỉ cỡi trên con lừa. Con lừa là thú vật thân hình nhỏ, ăn uống đạm bạc rơm cỏ nước lã, di chuyển dáng đi chậm chạp vững chãi, nhưng tính tình hiền hòa làm việc cần mẫn chăm chỉ. Nên xưa nay chúng chỉ được dùng để chở đồ vật nặng nề ở những nơi vùng núi đồi hiểm trở, hay vùng sa mạc cát nóng hoang vu thôi, chứ không ai cỡi lừa như người chiến thắng trở về cả.
Và sau cùng vị Giêsu bị bắt, bị đánh đòn, bị bắt vác thập gía đi ra pháp trường Golgotha, sau cùng bị lên án đóng đinh vào thập tự chết trên đó.
Tất cả những hình ảnh đau thương này nói lên đời sống của một người bị hạ nhục xuống tận cùng. Phải, xuống tận chìm sâu trong nền đất. Một con người có đời sống khiêm hạ chấp nhận vì tình yêu, vì lòng khiêm hạ, mà Thiên Chúa đã trao cho đến sống trong trần gian giữa con người.
Từ hơn hai ngàn năm nay luôn hằng có những người, những đoàn thể đi hành hương sang Bethlehem, sang Jerusalem, đến vùng Nazareth, đến biển hồ Galileo, đến núi Tabor, đến khu vườn Gethsemani, đến đền thờ Chúa Giêsu chết và sống lại… đi tìm dấu vết sứ điệp của Chúa Giêsu ngày xưa đã sống, đã đi qua, đã đứng ngồi nơi những viên tảng đá nơi đó, đã qùi gối cầu nguyện, đã nằm chết, đã chỗi dậy sống lại, đã hiện ra.
Họ không nghe thấy tiếng Chúa đã nói, không nhìn thấy hình ảnh Chúa nữa. Nhưng những tảng đá, những biên sỏi đá ở những nơi đó nói cho biết: trong căn nhà cũ kỹ gạch đá này, trong Hội Đường đổ nát chỉ còn trơ trọi những cột đá này, trên tảng đá này, trên con đường sỏi đá này, nơi ngọn núi này, nơi hang chuồng này, trong nấm mồ trống bằng đá này…Chúa Giêsu đã đến, đã ngồi đứng rao giảng, đã qùi gối và sau cùng đã nằm chết trong đó và đã chỗi dậy sống lại.
Một tấm phiến đá to dài có lẽ hơn hai mét trong đền thờ Chúa Giêsu sống lại ở Jerusalem được treo ở ngay nơi gần cửa ra vào. Theo tương truyền đó là tấm tảng đá ngày xưa thân xác Chúa Giêsu được đặt nằm tắm rửa khi các môn đệ và Đức mẹ Maria gỡ tháo xác Chúa Giêsu đã chết xuống khỏi thập gía, trước khi an táng Ngài trong mộ huyệt bằng đá bên cạnh. Phiến đá thánh, phiến đá lịch sử. Phiến đá làm chứng thân xác đã chết Chúa Giêsu Kitô được đặt nằm tắm rửa trên đây.
Và cũng trong ngôi đền thờ đó, có nấm mồ huyệt thánh bằng đá, nơi các Môn đệ đã an táng thân xác Chúa Giêsu Kito đã qua đời. Nấm mồ huyệt đá đó trống trơn không có thân xác Chúa Giêsu Kitô. Tảng đá của nấm mồ khô cứng đó là dấu vết như chứng từ trải qua mọi thời đại từ hơn hai ngàn năm nay: Chúa Giesu Kitô đã chết được an táng nằm nơi đây. Nhưng sau ba ngày Người đã chỗi dậy sống lại, như Người đã nói từ trước đó, như lời Thiên Thần canh mộ đã nói nơi cửa nấm mồ này: Sao các chị em lại tìm Người Sống giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi.” (Lc 24,5-6).
Tảng đá nấm mồ trống là chứng từ loan truyền tin mừng: Chúa Giesu Kitô đã sống lại từ cõi chết từ nơi mồ huyệt bằng đá này!
Sỏi đá không phát ra âm thanh tiếng nói, không có chữ viết. Nhưng lại là nhân chứng loan truyền cho biến cố sứ điệp thời gian niên đại lịch sử, mà ngày xưa chúng cũng đã từng được chứng kiến, được dùng để xây dựng, dù chỉ là vật thể khô cứng nằm tận cùng nơi nền đất dưới chân con người giẫm đạp lên, có khi vứt bị bỏ đào thải nữa.
Con người vào mọi thời đại hằng gìn giữ qúi trọng bảo vệ những tấm đá, những viên sỏi đá, không phải chỉ vì chúng là sản phẩm công trình thiên nhiên, mà Đấng Tạo Hóa đã tác tạo hữu ích cần thiết cho đời sống con người. Nhưng qua chúng, nơi chúng con người còn tìm được dấu vết lịch sử thời gian đã qua, tìm nhận ra dấu vết sứ điệp đã được loan truyền: tin mừng bình an, tin mừng tình yêu Thiên Chúa, mả ngày xưa Chúa Giêsu Kitô đã rao giảng cho con người trần thế.
Chúa Giêsu nói với họ: Tôi bảo cho các ông, họ mà làm thinh, thỉ sỏi đá cũng sẽ lên tiếng.” ( Lc 19,40).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Chúa Giêsu viết trên nền đất
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lề luật đạo Do Thái từ thời Mose thống trị toàn thể đời sống xã hội. Hễ có vấn đề kiện tụng hay cắt nghĩa lý giải về tập tục nếp sống đạo đời, các vị Kinh sư, các Luật sĩ và các Thầy cả trong đạo căn cứ theo luật đạo ghi chép trong sách Kinh Thánh cựu ước mà phân xử giải quyết. Các vị đó là quan tòa thẩm phán xét xử.
Thấy Chúa Giêsu đi giảng đạo hấp dẫn nhiều người, cùng có nhiều điều khác với ghi chép trong lề luật đạo, các Vị Kinh sư luật sĩ khó chịu, nên họ tìm cách gài bẫy thử thách Chúa Giêsu.
Họ dẫn điệu một người phụ nữ bị bắt vì phạm tội công khai đến trước mặt Chúa Giêsu, và hỏi xem ngài xét xử thế nào. Vì căn cứ theo lề luật đạo Do Thái từ thời Mose người phụ nữ như thế này bị ném đá làm sỉ nhục từ bị trọng thương cho tới chết! (Ga 8,1-11)
Nhưng Chúa Giêsu không nói gì, yên lặng cúi xuống nền đất lấy ngón tay viết trên đó. Không thấy Phúc âm kinh thánh viết ghi lại ngài viết vẽ những chữ gì.
Cung cách này của Chúa Giêsu vẽ nên hình ảnh gì cho đời sống tinh thần đức tin đạo giáo?
Chúa Giêsu Kitô, con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người, Ngài rao giảng nước Thiên Chúa căn cứ trên tình yêu thương, sự tha thứ làm hòa giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người trong đời sống xã hội với nhau. Vì tất cả mọi người do Thiên Chúa tạo dựng ban cho sự sống thân xác, và tinh thần trí khôn, nuôi dưỡng trong cuộc sống trên trần gian.
Chúa Giêsu tuy là con Thiên Chúa, nhưng không là vị quan tòa xét xử những vụ kiện tụng, nhất là những việc kiện cáo về đời sống xã hội. Sứ mạng của Ngài là kêu gọi con người đi theo con đường tình yêu thương bác ái giữa nhau, và trở về với Thiên Chúa, Đấng là sự thánh thiện, là nguồn sự bình an cho đời sống.
Tám mối phúc thật là bản hiến chương của con đường tình yêu thương bác ái trong tương quan con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau trong đời sống. ( Mt 5,1-12)
Sự phân xử kết án, Thiên Chúa không thực hiện ngay bây giờ lúc con người còn đang trên trần gian. Nhưng vào ngày phán xét sau cùng, khi con đường đời sống của mỗi người trên trần gian chấm dứt. Chúa Giesu đã nói đến hình ảnh đó trong ngày phán xét, Thiên Chúa, Vị Thẩm phán, đưa ra lời phân định căn cứ trên nền tảng tình yêu thương bác ái, mà khi xưa mỗi người trong đời sống trên trần gian đã thực hiện cho người khác. ( Mt 25, 40 )
Trong dòng thời gian xưa nay đã có những suy luận phỏng đoán những điều Chúa Giêsu dùng ngón tay viết trên nền đất.
Chữ viết hay hình vẽ trên nền đất bị xóa đi, hay bị đào lấp đi, không còn để lại dấu vết. Nhưng hình ảnh tinh thần phát xuất ra từ trong tâm trí không bị xóa hay bị đào lấp đi khỏi.
Là Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người sinh trưởng ở xã hội đất nước đạo Do Thái, chắc chắn Chúa Giêsu thuộc nằm lòng sách Kinh Thánh cựu ước của đạo, cùng được cha mẹ dậy cho biết phải tuân giữ như lề luật truyền lại. Và như Ngài đã nói Ngài đến trần gian không phải để xóa bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn cho hoàn hảo.
Vì thế cung cách dùng ngón tay viết trên nền đất của Chúa Giêsu nói lên hình ảnh căn bản sâu xa về thân phận đời sống con người trên trần gian, mà vào mùa Chay hằng năm lời Kinh Thánh của Thiên Chúa nói khi xưa với Ông bà nguyên tổ Adong Evà này, được nhắc lại:
“ Từ bụi đất con đã được tạo thành, và sau cùng con sẽ trở về với bụi đất.” ( Sách Sáng Thế 3,19).
Cung cách viết trên nền đất của Chúa Giêsu đã được vua David từ trước thời Chúa Giêsu, với lòng xác tín thâm sâu đã viết nên tâm tình lời cầu nguyện:
“Người qúa biết ta được nhồi nắn bằng gì, hẳn Người nhớ : ta chỉ là cát bụi.” ( Thánh vịnh 103,14).
Và cung cách viết trên nền đất của Chúa Giêsu còn là lời nhắc nhở đến tâm tình đạo đức khôn ngoan của Vua David đã có suy niệm nói lên đời sống con trong hành trình trên trần gian:
“ Trên nền đất trần gian con là người lữ khách.” ( Thánh vịnh 119,19)
Ngôn sứ Jeremia vào thời điểm giữa khoảng năm 740 và 701 trước niên đại Chúa giáng sinh, đã nói đến thân phận đời sống con người trên nền đất và sau cùng ra khỏi nền đất:
“Lạy Đức Chúa, niềm hy vọng của Israel là Ngài, hết những ai lìa bỏ Ngài sẽ phải xấu hổ, những kẻ quay lưng lại với Ngài sẽ bị bứng khỏi đất, vì họ đã lìa bỏ Đức Chúa là mạch nước trường sinh. “ ( Jermia 17,13).
Cung cách đối xử của Chúa Giêsu với con người lấy ngón tay viết trên nền đất không lên án kết tội ai. Nhưng nhắc bảo nhớ lại căn bản đời sống con người từ khởi đầu được thành hình nhào nặn ban cho có sự sống từ bụi đất, và sau cùng cũng lại trở về với bụi đất.
Tình yêu thương bác ái, lòng kính trọng sự sống là lề luật căn bản. Vì thế Chúa Giêsu không lên án người có tội. Trái lại muốn cứu sự sống người phạm tội, nhưng chỉ kết án tội lỗi sự dữ.
Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".( Ga 8,11).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh hiến dâng cho Đức Mẹ
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm ngày 25.03. Giáo Hội mừng kính lễ Thiên Thần truyền tin cho Đức Mẹ Maria.
Biến cố truyền tin ngày xưa xảy diễn ra ở nhà Maria, như phúc âm Thánh Luca thuật lại ( Lc 1, 26-38), vùng làng miền quê hẻo lánh Nazareth, nước Do Thái, cách đây hơn hai ngàn năm.
Bây giờ ngôi đền thờ Truyền Tin được xây dựng rộng lớn theo kiến trúc tân thời – năm 1969, có ba cánh, dài 67,5 mét, cao 53 mét- bên dưới tầng hầm có di tích ngôi nhà của Đức Mẹ ngày xưa. Trong căn nhà nhỏ này biến cố Thiên Thần Gabriel hiện đến truyền tin cho Maria đã diễn xảy ra.
Và ở bên nước Ý, trong vương cung thánh đường Loreto cũng có “căn nhà thánh” (nhỏ với những bức tường gạch cũ) ngày xưa của Đức mẹ ở, nơi này biến cố truyền tin đã diễn xảy, theo tương truyền được mang từ Nazareth về bên Ý thời thập tự quân.
Thiên Thần của Chúa hiện đến báo tin cho Maria được Thiên Chúa tuyển chọn làm mẹ cưu mang sinh hạ Giesu, con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người. Maria, người phụ nữ còn son sẻ chưa lập gia đình, lúc đó đã lo sợ bối rối như bao người phụ nữ khác trên trần gian.
Và câu thắc mắc Maria như phản ứng tự nhiên của một phụ nữ trong tâm trạng bối rối lo lắng nói với Thiên Thần Chúa: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” ( Lc 1,24).
Nêu ra thắc mắc, lẽ dĩ nhiên Maria muốn nhận được câu trả lời. Và Maria đã nhận được câu trả lời từ Thiên Thần: “ Maria, xin đừng lo sợ, Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên chị, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp phủ bóng trên chị. Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” ( Lc 1,35).
Maria qua thắc mắc này còn nói lên tâm trạng người đi tìm. Maria đi tìm niềm hy vọng, đi tìm sự bảo đảm đoan hứa không từ nơi ai, nhưng từ Thiên Chúa.
Trong đời sống con người xưa nay đã trải qua trong dòng lịch sử thời gian, luôn đi tìm kiếm niềm hy vọng, sự bảo đảm đoan hứa.
Trải qua mọi thời đại, nhân loại luôn hằng ký kết viết lập giao kèo lập khế ước đoan hứa với nhau cùng nhau xây dựng đời sống, cùng nhau bảo đảm gìn giữ cho đời sống có hòa bình, có an ninh thịnh vượng. Nhưng kinh nghiệm lịch sử đã cùng đang minh chứng, không có gì bền vững trung thành cả, như con người đã đoan hứa ký kết với nhau.
Chính vì thế, nhân loại, nơi các Tôn giáo, người có tinh thần đức tin tôn giáo, còn hướng tâm đời sống tâm linh tinh thần mình lên Đấng Tối Cao, tìm sự niềm hy vọng, sự bảo đảm đoan hứa cho đời sống, nhất là những lúc đời sống gặp khủng hoảng nguy cơ bị chiến tranh đe dọa, hủy diệt tàn phá, gây hận thù tử vong loạn lạc, như lúc này bên đất nước Ukraina.
Ngày xưa trong biến cố truyền tin cho Maria, Thiên Thần của Chúa đã nói cho Maria” Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”( Lc 1,37).
Dựa trên căn bản lời đoan hứa thần thánh thiêng liêng đó, Maria ngày xưa đã an tâm chắp nhận chương trình ý muốn Thiên Chúa: làm mẹ cưu mang hạ sinh Giesu, Con Thiên Chúa làm người, mà không phải qua qúa trình sống chung hợp với người đàn ông nào.
Và Giáo hội trong suốt dòng lịch sử đời sống đức tin luôn hằng đi tìm niềm hy vọng sự bảo đảm đoan hứa cũng trên nền tảng đó, mà Maria là người đã sống thực hành nếp sống mẫu gương nguyên thủy.
Nên Giáo Hội hằng khuyến khích tổ chức xây dựng con đường nếp sống đi tìm kiếm niềm hy vọng, sự bảo đảm đoan hứa từ nơi Thiên Chúa cho đời sống, qua lời bầu cử, nguyện thay cầu giúp của Đức mẹ Maria, mẹ Chúa Giêsu, Đấng là con Thiên Chúa.
Năm nay ngày lễ mừng kính biến cố Thiên Thần truyền tin cho Đức mẹ Maria, 25.03.2022, đức thánh cha Phanxicô khơi dậy nếp sống đạo đức lòng sùng kính Trái tim Đức mẹ Maria, đã kêu gọi cổ động mọi người tín hữu Chúa Kitô, cầu nguyện hiến dâng nước Nga và nước Ukraina cho trái tim Đức Mẹ Maria. Để tìm kiếm niềm hy vọng sự bảo đảm đoan hứa từ nơi Thiên Chúa, Đấng là nguồn hy vọng cùng sự bảo đảm đoan hứa, qua lời bầu cử của Đức mẹ, cho chiến tranh đang xảy diễn ra trên nước Ukraina mau chấm dứt, cho con người biết quay trở lại con đường xây dựng hòa bình, con đường sống bác ái tình người nhân loại là con Thiên Chúa.
Cung cách đạo đức dâng hiến cho Đức Mẹ Maria đã có truyền. thống từ lâu nơi Giáo Hội Công giáo nước Ukraina và nước Nga.
Ngay từ thời Hoàng đế Jaroslaw ( 979-1054) đã phó dâng đất nước dân tộc Nga-Ukraina dưới sự che chở của Đức mẹ rất thánh đồng trinh Maria. Và trong dòng thời gian sự dâng hiến như thế cũng đã được lặp lại năm 1995, năm 2014. Ngày 23.10.2016 Giáo hội Công giáo Ukrania Hylạp đã lặp lại lời dâng hiến cho Đức mẹ Maria ở Fatima.
Cung cách dâng hiến nước Nga cho trái tim vẹn sạch Đức mẹ Maria có liên quan mật thiết với Đức Mẹ Fatima. Lần đức mẹ hiện ra với ba trẻ ngày 13.07.1917, như ba trẻ nói kể lại, Đức Mẹ đã khuyên dâng hiến nước Nga cho trái tim vẹn sạch đức mẹ. Xin ơn hoà bình cho thế giới. Có thế, thế giới mới tránh được hiểm họa chiến tranh. Ngày 31.10.1942 đức thánh cha Pio XII. đã dâng hiến toàn thế giới cho trái tim vẹn sạch Đức mẹ Maria, và ngày 07.06.1952 đã dâng hiến cách đặc biệt khác thường dân tộc đất nước Nga cho trái tim vẹn sạch Đức mẹ Maria.
Ngày 21.11.1964 đức thánh cha Phaolô VI., bây giờ là vị Thánh, thời Công đồng Vatican II., đã lặp lại lời dâng hiến nước Nga cho trái tim vẹn sạch Đức Mẹ Maria.
Truyền thống nếp sống đạo đức này luôn hằng được Giáo hội Công giáo các nước duy trì làm mới lại dâng hiến cho trái tim vẹn sạch Đức mẹ Maria, để xin ơn che chở có được bình an trong đời sống., xin ơn soi sáng cho con người cùng nhau tìm con đường giải pháp hòa bình xây dựng bảo vệ đời sống con người, và công trình thiên nhiên chung.
Năm 2010 Đức giáo hoàng Benedickt 16 và đức giáo hoàng Phanxicô năm 2013 đã lặp lại lời dâng hiến toàn thế giới cho trái tim vẹn sạch Đức mẹ Maria.
Dâng hiến đời sống cho trái tim vẹn sạch Đức Mẹ Maria, xin ơn che chở bầu cử, là truyền thống tâm linh thánh đức trong đời sống đức tin.
Vì tin rằng qua nhờ lời bầu cử nguyện giúp của Đức mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa, sự che chở cho đời sống con người có bằng an hồn xác được Thiên Chúa ban cho nhân loại trong hoàn cảnh vướng gặp khó khăn nguy hiểm bị đe dọa.
Và xác tín rằng“ Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” ( Lc 1,37).
“Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ của chúng con, trong thời khắc thử thách này, chúng con hướng về Mẹ. Lạy Mẹ là Mẹ chúng con, Mẹ yêu thương và Mẹ biết chúng con: không có mối ưu tư nào của tâm lòng chúng con mà Mẹ không hay biết. Lạy Mẹ của lòng xót thương, chúng con cảm nghiệm được sự săn sóc ân cần và sự hiện diện an bình của Mẹ. Mẹ không ngừng hướng dẫn chúng con đến với Chúa Giêsu, Vị Hoàng tử của Hòa bình.
Vì chúng con đã rời xa con đường hòa bình, chúng con đã quên đi những bài học từ những thảm kịch của các thế kỷ trước, sự hy sinh của hàng triệu người đã ngã xuống trong hai cuộc thế chiến. Chúng con đã bỏ qua những cam kết mà chúng con đã cam kết với tư cách là cộng đồng quốc tế.
Chúng con đã phản bội lý tưởng hòa bình mà mọi người, đặc biệt những người trẻ tuổi mơ ước. Chúng con bị cuốn hút vào những tham vọng, lợi ích quốc gia và lợi ích cá nhân làm chúng con trở nên thờ ơ lạnh nhạt trước những nhu cầu và ưu tư ích kỷ của mình. Chúng con đã quên Chúa, hài lòng với ảo tưởng của mình, trở nên ngạo mạn và hung hãn, hà hiếp những người nghèo khổ và tích góp vũ khí.
Chúng con đã quên vai trò của mình là người trông coi và quản lý ngôi nhà chung trái đất này. Chúng con đã tàn phá trái đất này bằng chiến tranh và những tham vọng của chúng con, chúng con đã làm tan nát tấm lòng của Cha chúng con ở trên trời, Đấng mong muốn chúng con là anh chị em với nhau. Chúng con trở nên thờ ơ lãnh cảm với mọi người và mọi hoàn cảnh; ngoại trừ chú tâm vào chính mình. Bây giờ với lòng ăn năn xám hối, chúng con kêu lên: Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng con!
Lạy Mẹ rất Thánh, giữa trăm ngàn nỗi khốn cùng, vì tội lỗi chúng con, giữa những giao tranh và hạ hèn của chúng con, giữa mầu nhiệm tội ác là sự dữ và chiến tranh, Mẹ nhắc nhở chúng con rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng con, Ngài không ngừng thương nhìn chúng con bằng tình yêu, luôn sẵn sàng tha thứ, và nâng chúng con lên cuộc sống mới.
Chúa đã ban Mẹ cho chúng con và biến Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trở thành nơi nương náu cho Giáo Hội và cho toàn thể nhân loại. Theo ý muốn nhân từ của Thiên Chúa, Mẹ hằng ở bên chúng con; ngay cả trong những khoảnh khắc khó khăn nhất của lịch sử, Mẹ vẫn ở đó để hướng dẫn chúng con bằng tình yêu thương dịu hiền trìu mến.
Giờ đây, chúng con hướng về Mẹ và nương tựa nơi trái tim Mẹ. Chúng con, những người con yêu của Mẹ. Trải qua mọi thời, Mẹ luôn dậy dỗ chúng con, kêu gọi chúng con hoán cải! Vào giờ phút đen tối này, xin hãy thương cứu giúp chúng con và giúp chúng con chạy đến nương náu dưới tà áo Mẹ. Xin Mẹ hãy giúp chúng con xác tín: "Mẹ hiện diện ở đây, là Mẹ của chúng con" Mẹ có thể tháo gỡ những nút thắt của trái tim chúng con, những nút bế tắc của thời đại chúng con. Nơi Mẹ, chúng con đặt trọn vẹn niềm tin. Chúng con xác tín rằng Mẹ sẽ nhận lời chúng con cầu xin và nâng đỡ chúng con đặc biệt trong những giờ phút thử thách lâm nguy này.
Đó cũng là những gì Mẹ đã thực hiện tại tiệc cưới Cana, Galilê xưa, khi Mẹ khẩn cầu Chúa Giêsu và Chúa đã thể hiện phép lạ đầu đời của Chúa cho niềm vui tiệc cưới được trọn vẹn, khi Mẹ thân thưa với Chúa: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2: 3).
Lạy Mẹ, xin hãy lặp lại những lời đó với Con yêu quí của Mẹ cho thời đại chúng con, vì chúng con đã cạn kiệt rượu của hy vọng, rượu của niềm vui, rượu của tình huynh đệ héo tàn. Chúng con đã quên nhân tính của chúng con và lãng phí món quà hòa bình của Chúa. Chúng con đã mở lòng cho bạo lực và cho sự tàn phá chết chóc! Chúng con rất cần đến sự giúp đỡ của Mẹ Chúa!
Lạy Mẹ, xin nghe lời chúng con cầu khẩn.
Lạy Nữ Vương Sao Biển, xin gìn giữ con tầu chúng con khỏi phong ba bão táp chiến tranh.
Lạy Nữ Vương, Hòm Bia Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết ngồi lại với nhau trong đàm phán và hòa giải.
Lạy Nữ Vương Thiên đàng, xin hãy ban hòa bình của Chúa cho thế giới chúng con.
Xin giúp chúng con biết loại bỏ hận thù và báo oán, xin hãy dậy chúng con biết tha thứ.
Xin giải thoát chúng con khỏi chiến tranh, bảo vệ thế giới chúng con thoát khỏi sự đe dọa của vũ khí hạt nhân.
Lạy Nữ Vương Mân Côi, xin giúp chúng con nhận ra nhu cầu siêng năng cầu nguyện và yêu mến.
Lạy Nữ hoàng Gia đình, xin hãy chỉ dậy mọi người chúng con, con đường của tình huynh đệ.
Lạy Nữ Vương Hòa bình, xin ban bình an cho thế giới chúng con đang sống.
Lạy Mẹ khoan dung, xin cho lời khẩn cầu tha thiết của trái tim sầu khổ của Mẹ làm thay đổi trái tim chai đá của chúng con. Cầu mong những giọt nước mắt mà Mẹ đã đổ ra vì chúng tôi sẽ làm cho thung lũng sầu khổ của thù hận này nở hoa yêu thương. Giữa những sấm sét gầm xé của bom đạn, lời cầu khẩn của Mẹ làm thay đổi những suy tính của chúng con thành hòa bình. Ước mong sự trìu mến của Mẹ sẽ xoa dịu những ai đang đau khổ vì trốn chạy những cơn mưa bom đạn... Xin Mẹ an ủi những người bị buộc phải rời xa gia đình và quê hương xứ sở vì chiến tranh. Cầu xin Trái tim tân khổ của Mẹ đánh động lòng thương cảm của chúng con và truyền cảm hứng để chúng con biết rộng mở tâm lòng, quan tâm đến những anh chị em chúng con đang bị thương tích và bị gạt ra ngoài xã hội…
Lạy Thánh Mẫu, Mẹ Thiên Chúa, khi Mẹ đứng dưới thập giá Chúa Giêsu, Chúa nhìn thấy người môn đệ đứng bên, Chúa đã phán: “Này là con của Mẹ” (Ga 19:26). Bằng cách này, Người đã giao phó mỗi người chúng con cho Mẹ. Người nói với môn đệ và với từng người chúng con: “Này là Mẹ con” (c. 27).
Lạy Mẹ Maria, giờ đây chúng con mong muốn được đón Mẹ vào cuộc sống và lịch sử của chúng con. Vào giờ phút này, một nhân loại đã mỏi mệt và quẫn trí đang cùng Mẹ đứng dưới chân thập tự giá, cần phó thác chính mình cho Mẹ và nhờ Mẹ, dâng lên Chúa Giêsu Kitô. Chúng con xin dâng lên Mẹ người dân Ukraine và nước Nga, những người hằng tôn kính Mẹ với lòng sùng mộ kính tin, giờ đây đang hướng về Mẹ, với trái tim tan nát, xin Mẹ thương cứu giúp họ, những dân tộc bị tàn phá bởi chiến tranh, đói kém, bất công và nghèo đói.
Vì vậy lạy Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng con, lạy Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, chúng con long trọng giao phó và thánh hiến chính mình chúng con, Giáo Hội chúng con và toàn thể nhân loại, đặc biệt là nước Nga và Ukraine cho Mẹ. Xin Mẹ chấp nhận tấm lòng thành khẩn của chúng con mà Mẹ đã nài xin chúng con thể hiện. Xin Mẹ hãy làm cho chiến tranh được sớm kết thúc, cho hòa bình được hiển trị khắp nơi trên thế giới. Xin cho lời “Xin Vâng” mà Mẹ đã đáp lại tôn ý Chúa mở ra cánh cửa lịch sử cho Hoàng tử Hòa bình ngự đến. Chúng con tin tưởng qua trái tim từ mẫu của Mẹ, hòa bình sẽ hiển trị.( Kinh Thánh Hiến Nước Nga và Ukraine cho Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ mà Đức Thánh Cha sẽ tuyên đọc ngày 25/3/2022.) Bản dịch của trang Vietcatholic)
Lòng sùng kính dâng hiến cho trái tim vẹn sạch Đức mẹ Maria là việc tâm linh đạo đức của con người đi tìm sự bình an, sự che chở cho đời sống. Cung cách tâm linh đạo đức này biểu lộ tấm lòng tràn đầy tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa, Đấng là nguồn hy vọng, và mọi ân đức chúc phúc lành, nhờ lời bầu cử nguyện thay cầu giúp của Đức mẹ Maria.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Thánh Giuse, người cha gia đình
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong dân gian xưa nay có ngạn ngữ: Cha nào con nấy!
Ngạn ngữ này nói lên nhận xét về đời sống của người con trong tương quan liên hệ với cha người đó về nhiều khía cạnh khác nhau.
Phúc âm viết thuật lại, Chúa Giêsu là con bác thợ mộc (Mt 13,55). Bác thợ mộc người cha nuôi Chúa Giesu là (Thánh cả) Giuse, hàng xóm láng giềng với dân cư làng quê Nazareth cùng thời cách đây hơn hai ngàn năm. Và Chúa Giêsu cũng làm nghề thợ mộc như người cha Giuse của mình (Mc 6,3).
Người cha trưởng gia đình ngoài trách nhiệm căn bản lo no cơm ấm áo cho vợ con, còn là người có liên hệ mật thiết nếp sống phần tinh thần với con của mình: tình phụ tử.
Chúa Giêsu là con Thiên Chúa, nhưng sinh trưởng trong gia đình trần gian có cha mẹ. Người cha Giuse được Thiên Chúa tuyển chọn làm cha nuôi Chúa Giêsu giữa con người trên quê hương làng quê Nazareth nước Do Thái.
Giuse vâng theo sứ mạng Thiên Chúa trao cho qua lời Thiên Thân báo nói cho biết (Mt 1,18-25), nhận trách nhiệm là người cha nuôi Giêsu. Giuse đã trao tặng Giesu tình phụ tử. Và qua đó Giuse cùng với đức mẹ Maria đã mang đến cho trẻ Giêsu, Con Thiên Chúa, nôi tổ ấm gia đình là quê hương cho đời sống làm người trên trần gian.
Trong không gian và bầu không khí đó trẻ Giêsu đã phát triển lớn lên thành người khôn lớn về thân thể lẫn trí khôn tinh thần cùng ý chí.
Trong quê hương gia đình đó trẻ Giêsu đã học hỏi được những căn bản sống làm người về những phương diện nếp sống tinh thần đạo giáo truyền thống của tổ tiên dân tộc, nghề nghiệp làm ăn sinh sống, cùng cung cách cư xử với nhân quần xã hội trong đời sống.
Trong quê hương gia đình đó trẻ Giêsu dần lớn lên được chỉ dạy cùng sống trải qua những biến cố đời sống xã hội. Và qua đó học hỏi thêm nhiều những kinh nghiệm qúy báu làm hành trang cho đời sống về nhiều khía cạnh, trong tương quan với Thiên Chúa trên trời, và với cha mẹ họ hàng gia đình, với hàng xóm láng giềng và bạn bè.
Người cha Giuse cùng với đức mẹ Maria đã là người đào tạo gíao dục trẻ Giêsu. Phải, ông là vị linh hướng cho đời sống Giêsu từ thời còn là trẻ thơ, thời niên thiếu phát triển lớn lên.
Đức giáo hoàng Phanxicô khi suy tư về vai trò của người cha trưởng gia đình, đã hướng tầm nhìn tới hình ảnh người cha Giuse: “ Nơi mỗi trẻ em ẩn dấu một bí ẩn mầu nhiệm cho đời sống thể xác cũng như tâm tính tinh thần của riêng em bé. Sự thể này chỉ được phát triển bung nở ra với sự giúp đỡ của người cha gia đình thôi, khi ông tôn trọng sự tự do của con mình.”
Trách nhiệm bổn phận của người cha gia đình là cùng cộng tác vào để giúp phát triển mầu nhiệm bí ẩn nơi người con của mình. Đó là điều cao qúi và không gì đẹp hơn, cho dù có khó khăn. Nhưng lại là điều căn bản góp phần xây dựng cá tính, khả năng riêng biệt nơi mỗi con người.
Giêsu là một trẻ em sinh ra đời như bao trẻ em khác. Nhưng nơi trẻ Giêsu ẩn dấu mầu nhiệm đặc biệt: là Con Thiên Chúa ( Mt 27,54), là Ngôi Lời của Thiên Chúa ( Ga 1,14) sinh xuống làm người trên trần gian.
Mang trong người mầu nhiệm ẩn dấu là Con Thiên Chúa, nhưng đồng thời trẻ Giêsu cũng là con người với xương thịt máu mủ. Trẻ Giêsu như thế không phải là một siêu nhân bay rơi xuống trần gian từ trời, như một “ Batman”. Không, trẻ Giêsu là một con người có thân xác hình hài cùng trí khôn tinh thần, như trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên tín: Người đã nhập thể trong cung lòng trinh nữ Maria, và đã làm người”.
Vì thế trẻ Giêsu cần người đồng hành bên cạnh, săn sóc đào tạo giáo dục như Thánh Giuse. Qua sự chỉ dẫn giáo dục của người cha Giuse, trẻ Giesu đã học hỏi được những điều căn bản hữu ích cho đời sống làm người của mình từ những việc nhỏ đơn giản cùng thực tế cho đời sống.Và như thế mầu nhiệm ẩn dấu nơi bản tính con người Giêsu được phát triển bung nở ra.
Người cha Giuse không chỉ hướng dẫn trẻ Giesu những việc cho đời sống thực tế con người, nhưng còn cả phần nếp sống đạo đức tinh thần nữa. Như phúc âm thuật lại, Giuse hằng năm theo tập tục nếp sống đạo đức của Do Thái giáo, đưa gia đình đi hành hương lên đền thánh Jerusalem vào dịp mừng lễ Vượt Qua. (Lc 2,41).
Cha Giuse đã cùng với đức mẹ Maria giúp trẻ Giêsu làm quen với nếp sống tập tục tôn giáo của Do Thái thời lúc đó. Đây là hình ảnh mẫu gương sống động của một người cha trưởng gia đình có trách nhiệm giáo dục đời sống tinh thần cho con mình.
Thánh Giuse khi xưa đã là người đồng hành quan trọng cho đời sống trẻ Giesu. Và ngài, theo tâm tình niềm tin đạo đức, cũng là người đồng hành cho đời sống chúng ta nữa. Nơi ngài, như trẻ Giêsu, chúng ta học hỏi được những đức tính tốt của một vị trưởng gia đình,
“ Có thể tóm gọn cách thánh Giuse sống ơn gọi của ngài vào một đức tính quan trọng, đó là khôn ngoan.
Khôn ngoan, khi ngài khéo giữ được sự âm thầm lặng lẽ, hiền lành và khiêm tốn. Tránh ồn ào, phô trương, áp đặt.
Khôn ngoan, khi ngài biết chọn con đường vòng, để tránh nguy cho Chúa, ngài từ Ai Cập trở về quê nhà bằng con đường rẽ xa đường chính.
Khôn ngoan, khi ngài dùng một phương tiện nghèo, nhưng mạnh khỏe dẻo dai, để di chuyển, đó là con lừa.
Khôn ngoan, khi ngài khéo lo cho gia đình đủ ăn đủ mặc, khỏe mạnh, không phải lệ thuộc, mà còn có thể giúp được người khác.
Khôn ngoan, khi ngài thấy mình đã hoàn thành sứ vụ được trao, thì xin được chết một cách lặng lẽ trong tay Ðức Mẹ và Chúa Giêsu, coi đó là cái chết hạnh phúc.
Nếu ơn gọi của thánh Giuse là giới thiệu và bảo vệ con đường cứu độ của Chúa, thì ngài đã hoàn tất ơn gọi đó một cách khiêm nhường đầy khôn ngoan và bén nhạy. “ ( Giám mục GB . BùiTuần, Một chút suy nghĩ về Thánh Giuse).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long