Sống Lời Chúa Hôm Nay
26/8 Thi hành đồng nhất: việc làm bên ngoài và ý hướng bên trong
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 21 TN1, Năm B
Bài đọc: I Thes 2:9-13; Mt 23:27-32.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thi hành đồng nhất: việc làm bên ngoài và ý hướng bên trong.
Trong cuộc sống, con người có thể chọn hai lối sống: Thứ nhất, là lối sống giả hình, giả nhân, giả nghĩa. Người theo lối sống này có thể đánh lừa thiên hạ bằng lời nói: "bề ngoài thơn thớt nói cười, bề trong nham hiểm giết người không dao;'' hoặc bằng cử chỉ điệu bộ: "cầu nguyện lâu giờ nơi công cộng để mọi người biết mình đạo đức, mang dáng bộ thiểu não để mọi người biết mình ăn chay;" hoặc bằng việc làm có tính toán: "thả con tép bắt con tôm." Thứ hai, lối sống tình nghĩa và chân thật: có gì nói đó; trong lòng nghĩ làm sao, cư xử làm vậy. Đây là lối sống theo tình yêu thực sự, không chỉ diễn tả bằng lời nói, nhưng còn được chứng tỏ bằng việc làm; không cho đi để được nhận lại, nhưng cho đi cách chân thành và vô vị lợi.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra hai mẫu người tương phản. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô muốn chứng minh cho các tín hữu Thessalonica: ngài yêu họ thực sự như tình yêu của một người cha đối với con, chứ không phải với một tình yêu giả hình như một số người Do-thái tố cáo ngài vì ghen tức. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tố cáo cuộc sống giả hình của các người kinh-sư và biệt-phái. Họ chỉ chú trọng tới bên ngoài như những mồ mả bên ngoài có vẻ công chính tốt lành, nhưng bên trong đầy những mưu mô, thủ đoạn, và tính toán.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúng tôi đã cư xử một cách thánh thiện, công minh, không chê trách được.
1.1/ Việc làm chứng tỏ tình thương: Có những người khôn ngoan chỉ cần nhìn vào thái độ và việc làm của một người, họ biết đương sự có thành thật hay không. Đối với những người này, khó lòng mà qua mặt họ. Nhưng cũng có những người ngây thơ và nhẹ dạ, dễ bị người khác lợi dụng và đánh lừa. Đây là những người bị người Do-thái lợi dụng để chống lại Phaolô. Người Do-thái cho rằng sở dĩ Phaolô hết lòng rao giảng cho các tín hữu Thessalonica là vì lòng ham muốn lợi nhuận. Khi Phaolô nghe biết có những dư luận như thế, Ngài phải viết thư để khuyên các tín hữu phải khôn ngoan nhớ lại những gì ngài làm khi còn ở với họ: "Thưa anh em, hẳn anh em còn nhớ nỗi khó nhọc vất vả của chúng tôi: đêm ngày chúng tôi đã làm việc để khỏi thành gánh nặng cho một người nào trong anh em, suốt thời gian chúng tôi loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em. Anh em làm chứng, và Thiên Chúa cũng chứng giám, rằng với anh em là những tín hữu, chúng tôi đã cư xử một cách thánh thiện, công minh, không chê trách được."
Phaolô rất hãnh diện về thái độ "tay làm hàm nhai" của mình. Nghề nghiệp Phaolô làm để sinh sống là nghề chế tạo lều, một vật không thể thiếu cho những người du mục. Nhiều lần Phaolô nói với các tín hữu mặc dù ngài có thể đòi các tín hữu phải trợ cấp như các tông-đồ khác, vì Ngài cũng là nhà rao giảng Tin Mừng; nhưng Ngài chọn để sống tự lập, để không trở thành gánh nặng cho bất cứ ai. Việc làm lều để kiếm tiền sinh sống là một bằng chứng lời tố cáo của những người Do-thái ghen tị không có bằng chứng.
1.2/ Không xấu hổ trước mặt Thiên Chúa: Có những nhà rao giảng Tin Mừng chỉ nói để hoàn tất sứ vụ của mình; nhưng cũng có những nhà rao giảng nhiệt thành làm mọi cách để đưa tha nhân về với Chúa. Phaolô muốn chứng minh ngài là mẫu người thứ hai: "Anh em biết: chúng tôi đã cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con; chúng tôi đã khuyên nhủ, khích lệ, van nài anh em sống xứng đáng với Thiên Chúa, Đấng kêu gọi anh em vào Nước của Người và chia sẻ vinh quang với Người."
Một điều nữa thánh Phaolô muốn các tín hữu nhận ra là bản chất của Tin Mừng: Lời Chúa tự nó có thể giúp các tín hữu nhận ra điều nào là sự thật hay gian trá, như một thanh gươm hai lưỡi xuyên thấu mọi tâm hồn: "Bởi thế, về phần chúng tôi, chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, vì khi chúng tôi nói cho anh em nghe lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời đó tác động nơi anh em là những tín hữu."
2/ Phúc Âm: Sống giả hình để đánh lừa thiên hạ và che giấu tội lỗi.
2.1/ Cuộc sống giả hình: Chúa Giêsu tố cáo các kinh-sư và biệt-phái: "Khốn cho các người, hỡi các kinh-sư và biệt-phái giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!''
+ giả hình "u'pokrith,j" có ba ý nghĩa: Thứ nhất, là người trả lời, hay người thông dịch, chỉ biết những cái gì hai bên muốn nói, nhưng không biết ẩn ý bên trong. Thứ hai, là kịch sĩ hay bất cứ ai giữ vai trò trong vở kịch. Kịch sĩ là những người phải diễn tả những gì soạn giả muốn nói. Kịch sĩ nổi tiếng là người phải nhập vai, phải diễn tả chính xác và như thật với vai trò của nhân vật mình đang đóng; ví dụ, phải khóc thảm thiết trong lúc tâm hồn thực sự chẳng có lý do gì để khóc, phải cười rũ rượi trong khi lòng đang buồn sầu lo lắng. Sau cùng, là người giả hình, những người chỉ chú ý đến điệu bộ bên ngoài, để che dấu những gì họ muốn bên trong.
+ Mồ mả tô vôi: để tránh khỏi bị nhơ bẩn cho dân chúng, các mồ mả được quét vôi trắng để mọi người nhận ra mà tránh đụng vào để khỏi bị "không sạch." Tuy nhiên, có trắng thế nào chăng nữa, cũng không che đậy được thực tế bên trong là xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.
+ Lối sống giả hình: của các kinh-sư và biệt-phái cũng giống như vậy. Họ mặc đủ mọi thứ áo quần, đeo những thẻ kinh và tua áo, làm những điệu bộ cung kính bên ngoài ... Tất cả những điều này chỉ có thể đánh lừa những người nhẹ dạ dễ tin; nhưng không thể qua mặt được những người khôn ngoan kinh nghiệm, và không thể nào giấu được Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi cảm nghĩ và những thủ đoạn của họ.
2.2/ Truy tố các ngôn sứ: "Khốn cho các người, hỡi các kinh-sư và biệt-phái giả hình! Các người xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho những người công chính. Các người nói: "Nếu như chúng ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các ngài mà đổ máu các ngôn sứ." Như vậy, các người tự làm chứng rằng các người đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ. Thì các người đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên các người đi!"
Xây mồ cho các ngôn sứ: Hầu hết các ngôn sứ đếu bị người Do-thái đối xử bất công, truy tố, và giết chết. Lý do đơn giản là các ngôn sứ vâng lời Thiên Chúa nói những gì dân chúng không thích, hay tố cáo tội lỗi của vua quan hay dân chúng. Các kinh-sư và biệt-phái xây mồ cho các ngôn sứ hay tô mả cho các người công chính để chứng tỏ họ không giống như cha ông của họ. Chúa Giêsu tố cáo: nếu họ thực lòng muốn như thế, họ phải thay đổi thái độ và tiếp nhận các ngôn sứ. Đàng này, họ vẫn đang tìm cách bắt bớ và truy tố chính Chúa Giêsu, Ngôn Sứ cao trọng nhất của Thiên Chúa.
Thời nay vẫn không thiếu những người như các kinh-sư và biệt-phái này. Có những người tín hữu khi cha mẹ còn sống thì chẳng chăm sóc hay thăm viếng; khi cha mẹ chết rồi mới than khóc vật vã để che mắt thiện hạ. Họ tổ chức tang lễ cho thật linh đình và xây mồ mả thật đẹp cho cha mẹ để che mắt sự bất hiếu của mình. Tục ngữ Việt-nam châm biếm những người này: "Lúc sống, thời chẳng cho ăn. Đến khi thác xuống, làm văn tế ruồi."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tập để biết sống thành thực với Thiên Chúa, với tha nhân, và với chính mình. Đừng sống giả hình như những kịch sĩ trên sân khấu, để rồi không biết sự thật là gì nữa.
- Khi sống thành thực, chúng ta sẽ cảm thấy bình an, không lo sợ bị lột mặt lạ, và nhất là không lo sợ khi phải ra trước Tòa Phán Xét.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
25/8 Trong ngoài như một; lời nói phải đi đôi với hành động
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 21 TN1
Bài đọc: I Thes 2:1-8; Mt 23:23-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trong ngoài như một; lời nói phải đi đôi với hành động.
Nhiều người chú trọng đến hình thức bên ngoài, vì họ nghĩ người khác chỉ có thể đánh giá họ trên những cái bên ngoài đó; nhưng họ biết đâu, họ không qua mặt được những người khôn ngoan có kinh nghiệm, và nhất là Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn trong tâm hồn.
Các Bài Đọc hôm nay mời gọi con người vượt qua hình thức bên ngoài để đi sâu vào đời sống nội tâm bên trong. Trong Bài Đọc I, vì đã quá quen với cách đánh giá trị hời hợt bên ngoài, các người Do-thái đã dùng thủ đọan để tố cáo Phaolô có cuộc sống hai mặt: lạm dụng việc rao giảng Tin Mừng để mưu cầu lợi ích cho bản thân. Vì thế, ngài phải viết thư khuyên các tín hữu Thessalonica hãy cẩn thận trong việc phán đóan: cuộc sống của Ngài khi ở với họ là bằng chứng hùng hồn cho những gì Ngài rao giảng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu vạch trần cuộc sống giả hình của các người Biệt-phái. Họ quá chú trọng đến chi tiết mà quên đi mục đích và nguyên tắc của Lề Luật là sự thật, lòng nhân hậu, và sự trung tín. Họ quá chú trọng đến hình thức bên ngoài mà quên đi sự cần thiết của việc thanh tẩy và thánh thiện trong tâm hồn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Những thái độ cần có và phải tránh khi rao giảng Tin Mừng.
1.1/ Những thái độ cần có khi rao giảng Tin Mừng: Người rao giảng Tin Mừng là những ngôn sứ của Thiên Chúa được Ngài sai đi để nói thay Ngài; chứ không phải tự ý họ chọn để làm ngôn sứ. Vì thế, ngôn sứ cần phải chu toàn sứ vụ:
(1) Cho vinh danh Thiên Chúa: Thánh Phaolô tuyên bố rõ ràng: "Vì tin tưởng vào Thiên Chúa chúng ta mà chúng tôi đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em, qua những cuộc chiến đấu gay go."
(2) Cho phần rỗi linh hồn tha nhân: Yêu Chúa là thương tha nhân, linh hồn của tha nhân là điều quí trọng nhất. Thánh Phaolô tâm sự: "Chúng tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa, vì anh em đã trở nên những người thân yêu của chúng tôi."
(3) Rao giảng sự thật: Sứ vụ của ngôn sứ là rao giảng chân lý đã lãnh nhận từ Thiên Chúa, như thánh Phaolô tuyên bố: "Lời giảng của chúng tôi không do sự sai lầm, không có dụng ý xấu, không nhằm lừa dối ai, nhưng vì Thiên Chúa đã thử luyện chúng tôi và giao phó Tin Mừng cho chúng tôi, thì chúng tôi cứ vậy mà rao giảng."
1.2/ Những thái độ phải tránh khi rao giảng Tin Mừng: Bên cạnh những điều phải làm, ngôn sứ cần phải tránh những thái độ sau đây:
(1) Làm vừa lòng người phàm: Đây là khuynh hướng rao giảng để tìm vui cho thiên hạ, để làm cho người khác cười, mà không đem đến sự cải hóa tâm hồn bên trong. Khuynh hướng này rất dễ đưa tới việc thuật lại những chuyện tiếu lâm hay những áng văn chương, thay vì chú trọng đào sâu Lời Chúa. Dĩ nhiên, ai cũng biết tâm lý quần chúng là thích cười, không thích phải suy nghĩ, và càng không thích những gì làm lương tâm họ phải cắn rứt; nhưng không phải vì thế mà ngôn sứ phải chiều theo thị hiếu của khán giả. Họ chỉ có 10 phút để nghe giảng mỗi Chủ Nhật hoặc tối đa là một tiếng mỗi khi giảng phòng, để nhà ngôn sứ nói cho họ nghe về Lời Chúa; chẳng lẽ nhà ngôn sứ không biết sự khẩn thiết của những khỏang thời gian này! Nếu khán giả thích kịch nghệ, họ có dư thời gian để ở nhà xem các chương trình cười hay đến các hí trường để xem kịch nghệ; thánh đường không phải là chỗ cho những giải trí thoải mái này. Ngôn sứ không phải là kịch sĩ hay nhà hài hước, nhưng là thợ đưa tâm hồn con người về cho Thiên Chúa. Nếu khán giả phải hư đi vì không được nghe lời sự thật của Thiên Chúa, nhà ngôn sứ phải chịu trách nhiệm về sự hư đi của khán giả (Eze 3:18)!
(2) Sợ làm mất lòng khán giả: Ngôn sứ nào sợ đụng chạm, sợ mất lòng khán giả sẽ không dám rao giảng sự thật của Lời Chúa. Ví dụ: không dám rao giảng về tai hại của xì ke, ma túy khi biết nhiều khán giả bên dưới đang hành nghề "trồng cỏ!" Không dám rao giảng về sự trung thành trong ơn gọi gia đình, khi biết nhiều khán giả bên dưới đang trong tình trạng ly thân, ly dị, hay ngoại tình.
(3) Tìm lợi nhuận cá nhân: Thánh Phaolô rất thành thật khi nói: "Chúng tôi không bao giờ dùng lời xu nịnh: như anh em biết; không bao giờ chúng tôi đã viện cớ để che đậy lòng tham, có Thiên Chúa chứng giám." Ngôn sứ nào có khuynh hướng này sẽ rao giảng để đề cao cá nhân mình, thay vì làm vinh danh Thiên Chúa; sẽ rao giảng để được thăng quan tiến chức; hay lợi dụng việc rao giảng để quyên tiền hay để bán những sản phẩm của mình.
(4) Để được người đời khen ngợi: Thánh Phaolô thú nhận: "không bao giờ chúng tôi đã tìm cách để được một người phàm nào tôn vinh, dù là anh em hay người khác." Ngôn sứ nào có khuynh hướng này sẽ chỉ rao giảng khi có đông người, và khinh chê rao giảng trước đám đông ít ỏi; chú trọng đến việc rao giảng cho thành phần trí thức, và khinh chê những thành phần ít học.
2/ Phúc Âm: Hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.
2.1/ Hãy chú trọng đến công lý, lòng nhân và thành tín: Chúa Giêsu nhắc nhở khán giả phải nắm lấy nguyên lý và mục đích của Lề Luật, khi Ngài vạch ra cái nhìn thiển cận của các kinh-sư và Biệt-phái: "Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và Biệt-phái giả hình! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ." Ví dụ, mục đích của Lề Luật là để bảo vệ con người, chứ không phải để con người làm nô lệ cho Lề Luật. Vì thế, không được nhân danh Lề Luật để làm thiệt hại mạng sống con người, hay cấm không cho chữa bệnh trong ngày Sabbath.
2.2/ Phải tránh những mù quáng của các người Biệt-phái: Nhiệm vụ của người lãnh đạo là phải biết tất cả những gì nguy hiểm có thể xảy ra trên đường và biết cách đối phó. Người lãnh đạo không thể:
(1) Quá chú trọng đến chi tiết nhỏ nhặt mà quên những điều trọng yếu: Chúa Giêsu mắng các kinh sư và Biệt-phái: "Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà." Chúa có ý muốn nói, họ quá để ý đến những chi tiết nhỏ nhặt, mà quên đi bao điều to lớn và quan trọng hơn.
(2) Quá chú trọng đến những cử chỉ bề ngoài, mà không chú trọng đến việc thanh tẩy trong tâm hồn: "Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và Biệt-phái giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ. Hỡi những Biệt-phái mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch." Chúa có ý muốn nói khi rửa chén đĩa, chỗ quan trọng cần phải sạch là phần bên trong, chỗ tiếp xúc với đồ ăn, cần phải sạch. Cũng vậy, tâm hồn và trí tuệ con người là những nơi cần phải sạch hơn cả, chứ không phải chỉ sạch sẽ thân xác bề ngoài mà thôi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta hãy biết sống thành thực với Thiên Chúa, với tha nhân, và với chính mình. Chúng ta không thể giấu bất cứ điều gì với Thiên Chúa, Đấng sẽ phán xét chúng ta.
- Khi rao giảng Tin Mừng, chúng ta hãy rao giảng những gì Thiên Chúa dạy một cách chân thật và vô vị lợi; nếu không, chúng ta sẽ phải chịu trách nhiệm với Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
24/8 Đến mà xem
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Kính Thánh Batôlômêô Tông Đồ
Bài đọc: Rev 21:9b-14; Jn 1:45-51.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đến mà xem.
Có những sự vật vì ngôn ngữ không đủ để diễn tả; nên con người cần phải đến mà xem mới biết; ví dụ, các kỳ quan thế giới. Có những danh nhân được nhiều người ca tụng; nhưng để hiểu con người của họ, một người cần đến tiếp xúc trực tiếp với họ; ví dụ, nữ hoàng Phương Nam đến gặp vua Solomon để học hỏi sự khôn ngoan của ông. Đức Kitô là đối tượng của niềm tin mà con người cần học hỏi và có kinh nghiệm trực tiếp. Người khác có thể giới thiệu hay nói về Đức Kitô cho con người; nhưng để có thể tin chắc chắn vào Đức Kitô, con người cần đến với Ngài để học hỏi và có kinh nghiệm cá nhân với Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay muốn nhấn mạnh đến kinh nghiệm trực tiếp một người phải có, trước khi tin vào đối tượng mà họ đang muốn tìm hiểu. Trong Bài Đọc I, thiên thần của Thiên Chúa mang tác giả lên một ngọn núi cao, để ông có thể chiêm ngưỡng tận mắt Hiền Thê của Con Chiên là Giáo Hội. Hiền Thê đây chính là Thành Thánh Jerusalem lý tưởng đến từ trời, là tập hợp của 12 chi tộc Israel của Thiên Chúa trong Cựu Ước và 12 Tông-đồ của Đức Kitô trong Tân Ước.
Trong Phúc Âm, Philip sau khi nhận biết Đức Kitô, đến gặp Nathanael để giới thiệu Đức Kitô với ông. Nathanael nghi ngờ khi Philip nói Đức Kitô đến từ Nazareth; nhưng Philip nhấn mạnh ông cứ đến mà xem cho chính ông. Nathanael đã tới và nhận ra Đức Kitô.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: "Lại đây, tôi sẽ chỉ cho ông thấy Tân Nương, Hiền Thê của Con Chiên."
1.1/ Giáo Hội là Tân Nương, Hiền Thê của Đức Kitô: Một thiên thần đến bảo tác giả: "Lại đây, tôi sẽ chỉ cho ông thấy Tân Nương, Hiền Thê của Con Chiên." Rồi đang khi tôi xuất thần, thì người đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh, là Jerusalem, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê."
+ Giáo Hội được ví như thành thánh Jerusalem, nơi là nguồn gốc và trung tâm điểm của Giáo Hội. Sự kiện Thành Thánh Jerusalem xuất hiện từ trời muốn nói lên đây là mô hình kiểu mẫu mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho Giáo Hội. Giáo Hội lữ hành trần thế sẽ được chung hưởng vinh quang với Giáo Hội vinh quang trên trời.
+ Vinh quang của Giáo Hội là phản ánh vinh quang của Thiên Chúa: Sự hiện diện của Thiên Chúa làm vinh quang của Ngài bao trùm Giáo Hội. Những chi tiết mô tả ở đây muốn nói lên sự thánh thiện vô tì tích của Giáo Hội sau khi đã được tẩy rửa và thánh hóa bởi Máu của Con Chiên là Đức Kitô.
1.2/ Giáo Hội là sự kết hợp liên tục giữa Cựu Ước và Tân Ước:
+ 12 chi tộc Israel (Eze 48:30-35, Exo 28:17-31): "Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Israel."
+ 4 phương: Đông, Tây, Nam, Bắc; mỗi phương có 3 cửa để tiếp nhận mọi dân tộc vào Giáo Hội.
+ 12 Tông-đồ của con chiên (Mt 19:28, Lk 22:29): "Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên."
2/ Phúc Âm: "Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en!"
2.1/ Phải trút bỏ thành kiến để học hỏi những điều mới lạ: Thánh Thomas Aquinas nói: "Yêu ai là mong muốn sự tốt lành cho người ấy." Trong quãng đời công khai rao giảng của Đức Kitô, chúng ta thấy kiểu mời gọi này: Khi đã nhận biết Đức Kitô, Gioan Tẩy Giả giới thiệu Ngài cho hai môn đệ đi theo (Jn 1:35-37). Một trong hai môn đệ là Anrê đã giới thiệu Đức Kitô cho em mình là Phêrô (Jn 1:40-42). Trong trình thuật hôm nay, Philip mời gọi ông Nathanael đến gặp Chúa và nói: "Đấng mà sách Luật Moses và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazareth." Ông Nathanael liền bảo: "Từ Nazareth, làm sao có cái gì hay được?" Ông Philíp trả lời: "Cứ đến mà xem!"
Thành kiến giam hãm và ngăn cản con người không nhìn ra sự thật. Hai điều có thể ngăn cản Nathanael không đến với Chúa: Thứ nhất, sự cạnh tranh giữa các làng mạc: Nathanael quê ở Cana; giữa Cana và Nazareth có thể có sự cạnh tranh vì hai làng rất gần nhau. Thứ hai, theo Kinh Thánh, Đấng Thiên Sai sẽ xuất hiện tại Bethlehem là quê hương của vua David, chứ đâu xuất hiện tại Nazareth, một làng quê mùa phía Bắc như vậy. Đứng trước nhận định khinh thường như thế, Philip không nản chí, nhưng vẫn khuyến khích bạn: thì cứ thử đến mà xem! Nathanael có lẽ vì nể tình bạn với Philip, nên đi đến gặp Đức Kitô.
2.2/ Cuộc hạnh ngộ giữa Đức Kitô và Nathanael.
(1) Đức Kitô khơi dậy niềm tin nơi Nathanael: Đức Giêsu thấy ông Nathanael tiến về phía mình, liền nói về ông rằng: "Đây đích thật là một người Israel, lòng dạ không có gì gian dối." Đây là ý tưởng của Thánh Vịnh 32:2, "Hạnh phúc thay, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà."
Phản ứng trước tiên của Nathanael là sửng sốt vì ông chưa gặp Ngài bao giờ, thế mà Ngài lại thấu suốt cuộc đời của ông. Ông Nathanael hỏi Người: "Làm sao Ngài lại biết tôi?" Đức Giêsu trả lời: "Trước khi Philíp gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi." Lại một ngạc nhiên nữa, Chúa Giêsu có khả năng nhìn thấy mọi nơi, điển hình là lúc ông đang nói chuyện với Philip dưới gốc cây vả. Biết mình không còn gì có thể giấu Chúa Giêsu, ông khiêm nhường thú nhận: "Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Israel!"
(2) Đức Kitô hứa sẽ cho Nathanael thấy những điều kỳ diệu hơn nữa: Đức Giêsu đáp: "Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa." Người lại nói: "Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người."
+ Thị kiến chiếc thang của Jacob: Cụm từ "Thiên thần lên lên xuống xuống" nhắc nhở chúng ta thị kiến chiếc thang trong giấc mơ của tổ-phụ Jacob tại Bethel (Gen 28:12-13). Đức Kitô giải thích Ngài là chiếc thang nối kết giữa Trời và Đất, các sứ thần của Thiên Chúa sẽ không ngừng lên xuống để dâng lời cầu nguyện của con người lên Thiên Chúa, và chuyển ơn thánh từ Thiên Chúa xuống cho con người.
+ Ai là Nathanael mà Tin Mừng Gioan đề cập đến ở đây? Có nhiều cách cắt nghĩa khác nhau: (1) một hình ảnh lý tưởng tượng trưng cho con cái Israel; (2) có người cho là Phaolô hay người "môn đệ được Chúa yêu;" và (3), là tông-đồ Bartholomew mà Tin Mừng Nhất Lãm đề cập tới. Sự kiện chúng ta mừng lễ thánh Bartholomew chứng tỏ Giáo Hội chấp nhận cách giải thích số (3).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần dành thời giờ để học hỏi và phát triển mối liên hệ mật thiết với Đức Kitô. Chỉ có thế mới giúp chúng ta có được một niềm tin yêu vững mạnh nơi Ngài.
- Bổn phận của chúng ta là giới thiệu cho mọi người đến với Đức Kitô, chứ không phải tập trung vào chúng ta. Chúng ta có thể giới thiệu Đức Kitô cho tha nhân bằng lời giảng hay bằng cuộc sống chứng nhân của mình. Chúng ta đừng bao giờ ngăn cản tha nhân đến với Thiên Chúa vì lời giảng hay hành động của chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
23/8 Phải biết làm các quyết định khôn ngoan trong cuộc đời
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 21 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Jos 24:1-2, 15-17; Eph 5:21-32; Jn 6:60-69.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải biết làm các quyết định khôn ngoan trong cuộc đời.
Con người phải thường xuyên làm rất nhiều quyết định trong cuộc đời: có những quyết định không quan trọng cho lắm như ăn gì, uống gì, mặc gì; nhưng cũng có những quyết định quan trọng ảnh hưởng đến cả cuộc đời như chọn nghề nghiệp, chọn người để kết hôn, chọn tôn giáo để tin. Khi con người làm quyết định, con người phải chịu trách nhiệm và lãnh nhận mọi hậu quả sẽ xảy ra; vì thế, con người phải biết quyết định cách khôn ngoan. Để biết quyết định cách khôn ngoan, con người cần học hỏi và suy xét để biết trước những hậu quả có thể xảy ra.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng những trường hợp con người phải quyết định cách khôn ngoan. Trong Bài Đọc I, Thủ Lãnh Joshua triệu tập đại hội tại Shechem, để buộc con cái Israel phải biết quyết định dứt khoát: thờ phượng một Thiên Chúa hay thờ phượng các thần ngoại bang. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô đưa ra hình ảnh lý tưởng của sự kết hiệp giữa Đức Kitô và Hội Thánh để làm gương cho vợ chồng phải trung thành với nhau suốt đời. Để có thể trung thành suốt đời, vợ cần phải vâng lời chồng, và chồng cần phải yêu thương vợ như yêu chính thân thể của mình. Trong Phúc Âm, sau khi đã làm hai phép lạ cả thể, dạy dỗ và mặc khải cho dân chúng về mầu nhiệm Thánh Thể, có hai phản ứng trái ngược nhau xảy ra: Một số các môn đệ chọn bỏ Chúa Giêsu vì không thể chấp nhận "ăn thịt và uống máu" Ngài để được sống. Nhưng Phêrô đại diện cho Nhóm Mười Hai chọn ở lại và tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi chọn phụng thờ Đức Chúa.
1.1/ Anh em có quyền lựa chọn thần nào thích để thờ: Sau khi đã dẹp tan các dân bản xứ và định cư con cái Israel trong Đất Hứa, ông Joshua biết mình đã hoàn tất nhiệm vụ Chúa trao và sẵn sàng về yên nghỉ với cha ông; nên ông truyền quy tụ ở Shechem mọi chi tộc Israel, tất cả các kỳ mục của Israel, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa.
Rồi ông Joshua nói với toàn dân: "Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel, phán thế này: "Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến Terah là cha của Abraham và của Nahor, đã phụng thờ các thần khác. Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người Amorites mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa."
1.2/ Chúng tôi chọn thờ Đức Chúa: Dân đáp lại: "Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua."
2/ Bài đọc II: Trung thành trong ơn gọi gia đình.
Để bảo vệ hạnh phúc gia đình, cả hai vợ chồng đều phải quyết định làm những gì cần thiết; một người quyết định không đủ để gìn giữ hạnh phúc gia đình. Thánh Phaolô dùng một mối liên hệ bao quát và thâm sâu hơn để diễn tả mối liên hệ vợ chồng.
2.1/ Bổn phận của người vợ: "Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy." Mục đích của sự vâng lời là cho sự hiệp nhất trong gia đình và Giáo Hội. Nếu thân xác con người không thể có hai đầu, gia đình và Giáo Hội cũng không thể có hai nhà lãnh đạo hay hai Chúa.
2.2/ Bổn phận của người chồng: "Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh." Ba điều Đức Kitô làm để tỏ tình yêu thương với Hội Thánh:
(1) Hiến mình vì Hội Thánh: Không có tình yêu nào thâm sâu và cao quí cho bằng tình của người sẵn sàng hy sinh mạng sống cho người yêu. Đức Kitô hiến mình chuộc tội để Hội Thánh khỏi phải chết và được sống.
(2) Thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống: Vì muốn có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền; Đức Kitô đã dùng nước để rửa Hội Thánh sạch mọi tội, dùng Lời để chỉ dẫn điều hay lẽ phải, và dùng ơn thánh qua các Bí-tích để thánh hóa mọi phần tử của Hội Thánh.
(3) Nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh: như chăm sóc thân thể của chính mình: Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người.
3/ Phúc Âm: Lời dạy của Đức Kitô về Thánh Thể dẫn tới hai quyết định trái ngược nhau.
3.1/ Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa: Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" Nhưng Đức Giê-su tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông: "Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ không tin." Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Người nói tiếp: "Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho."
Tại sao các môn đệ không tin, rút lui, và không còn đi theo Chúa nữa?
(1) Họ không nhận ra Chúa Giêsu là ai: Nếu họ nhận ra, họ đã không bỏ đi. Họ không nghĩ Chúa Giêsu là giải pháp độc nhất cho cuộc đời của họ. Chúa Giêsu nhận ra đây là sứ vụ quan trọng nhất trong sứ vụ của Ngài, nên Ngài làm mọi sự có thể để khơi dậy niềm tin nơi con người.
(2) Họ không hiểu các mặc khải và những lời dạy dỗ khôn ngoan của Chúa Giêsu: Trước tiên, họ không hiểu về Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Thứ đến, họ không hiểu về mục đích của cuộc đời và làm sao để đạt mục đích đó. Sau cùng, họ không hiểu tại sao phải ăn thịt và uống máu Chúa để có sự sống và đạt được cuộc sống đời đời.
(3) Họ cậy dựa hoàn toàn vào lý luận của con người và không biết giới hạn của con người: Họ nghĩ họ chỉ tin những gì có thể hiểu được và từ chối không tin những gì vượt quá sự hiểu biết của họ. Chúa Giêsu nói rõ đức tin và mầu nhiệm Thánh Thể vượt quá sự hiểu biết của con người, họ chỉ có thể hiểu được với ơn thánh của Thiên Chúa (6:37, 44, 65).
(4) Họ không biết, không hiểu, và hiểu sai Kinh Thánh: Chúa Giêsu sửa sai họ: "Không phải ông Moses đã cho họ ăn manna, mà là Thiên Chúa" (6:32); và đây là hình bóng của những gì Ngài đang nói với họ về Bí-tích Thánh Thể. Ngài làm hoàn hảo lời các ngôn sứ (Isa 54:13, Jer 31:33-34) khi ngồi giữa họ để dạy họ hiểu biết những gì về Thiên Chúa.
3.2/ Phêrô đại diện cho Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: Đức Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" Ông Simon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa."
+ Tin Mừng Gioan không tường thuật biến cố tuyên xưng đức tin của Phêrô tại Caersarea Philippi; nhưng thay thế bằng lời tuyên xưng đức tin của Phêrô hôm nay.
+ "Đấng Thánh của Thiên Chúa:" có thể so sánh với "Đấng Thiên Sai" hay "Đấng được xức dầu" trong Tin Mừng Nhất Lãm. Chỉ có 3 nhân vật được gọi là Đấng Thánh trong Tin Mừng Gioan: Chúa Cha (17:11), Chúa Giêsu (6:69), và Chúa Thánh Thần (1:33, 14:26, 20:33). Vì Ba Ngôi tự bản chất là thánh, nên họ có thể thánh hóa con người.
Chúng ta hãy suy xét những lý do Phêrô có thể dùng để tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu:
(1) Phêrô đã chứng kiến ít nhất hai phép lạ từ đầu chương 6: Bánh hóa nhiều để nuôi 5,000 người ăn và Chúa Giêsu làm cho sóng gió phải yên lặng. Mục đích của phép lạ là để khơi dậy niềm tin. Chứng kiến hai phép lạ to lớn này, Phêrô nhận ra Chúa Giêsu sở hữu quyền lực của Thiên Chúa.
(2) Phêrô đã lắng nghe những lời mặc khải và dạy dỗ khôn ngoan của Chúa Giêsu; nhất là lời mặc khải về mục đích của cuộc đời (Jn 6:39-40). Con người sống trên đời này là cho một mục đích: để về hưởng hạnh phúc đời đời bên Thiên Chúa. Để đạt mục đích này, con người cần tin vào Đức Kitô.
(3) Phêrô đã lắng nghe Chúa Giêsu giải nghĩa Kinh Thánh: Nhiều người cũng đọc Kinh Thánh, nhưng không phải ai cũng có thể hiểu Kinh Thánh. Chúa Giêsu cắt nghĩa về manna và sự nối kết cần thiết với mầu nhiệm Thánh Thể; và về lời sấm "mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo" của tiên tri Isaiah và Jeremiah. Ngài vạch ra cho mọi người thấy Ngài đến để làm trọn những lời tiên tri này khi ngồi giữa để dạy dỗ họ về những mầu nhiệm của Thiên Chúa.
(4) Phêrô đã lắng nghe những cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người Do-thái: Những cuộc đối thoại này cần thiết để nhận ra chân lý từ những sai lầm. Những sai lầm của người Do-thái được sửa chữa bằng những lý luận khôn ngoan và vững chắc của Đức Kitô.
(5) Phêrô biết Thiên Chúa, biết mình, và biết giới hạn của con người: Phêrô thú nhận một sự thật: Chỉ có Thiên Chúa mới có những Lời mang lại sự sống đời đời. Con người không phát minh sự thật, nhưng học hỏi sự thật từ Thiên Chúa. Khi con người không hiểu sự thật, không có nghĩa là sự thật không có; nhưng vì khả năng hiểu biết con người quá hạn hẹp và yếu kém.
(6) Phêrô biết tổng hợp tất cả những điều trên để đi đến kết luận là tuyên xưng đức tin của mình vào Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải dành nhiều thời giờ để học hỏi thì mới biết quyết định cách khôn ngoan. Nếu không chịu học hỏi, chúng ta sẽ dễ dàng quyết định cách không chín chắn hoặc sai lầm.
- Sai một ly đi một dặm. Quyết định sai lầm sẽ dẫn chúng ta đến thiệt hại to lớn, và ngăn cản chúng ta đạt được mục đích của cuộc đời.
- Bí-tích Thánh Thể vô cùng quan trọng cho cuộc đời. Hiểu sai về Bí-tích này sẽ gây rất nhiều thiệt hại trong cuộc sống, và ngăn cản chúng ta không đạt được cuộc sống đời sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
22/8 Thiên Chúa ghé mắt nhìn xem những người khiêm nhường phục vụ
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 20 TN1, Năm lẻ.
Bài đọc: Ruth 2:1-3, 8-11, 4:13-17; Mt 23:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa ghé mắt nhìn xem những người khiêm nhường phục vụ.
Con người ham hố quyền hành, danh vọng, chức tước; nên khi phải làm gì, họ muốn làm trước đám đông để được tiếng khen và được lựa chọn vào những vị thế quyền cao chức trọng. Ngược lại, Thiên Chúa yêu thương những kẻ khó nghèo, khiêm nhường, và phục vụ tha nhân, như lời Kinh Magnificat của Đức Mẹ chúng ta thường đọc: "Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giầu có, đuổi về bàn tay trắng... Người lật đổ người quyền hành khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ thấp hèn." Gương khiêm nhường của Mẹ Maria là một trường hợp điển hình: từ phận nữ tỳ hèn hạ, Chúa đã nâng Mẹ lên Nữ Vương cả trời và đất.
Các Bài Đọc hôm nay so sánh hai loại người đối nghịch nhau này. Trong Bài Đọc I, vì yêu thương phục vụ mẹ chồng, nàng Ruth sẵn sàng chịu cực khổ đi mót lúa về nuôi mẹ chồng. Hành động khiêm nhường phục vụ này không qua khỏi mắt của ông Boaz và Thiên Chúa. Ông Boaz dành mọi dễ dãi cho nàng để kiềm được nhiều lúa, và Thiên Chúa thúc đẩy ông Boaz cưới nàng làm vợ; để hai mẹ con bà Ruth có chỗ nương tựa, và có người con trai nối dõi tông đường. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu lên án cuộc sống của các kinh-sư và biệt-phái: không phải vì giáo lý họ giảng dạy; nhưng lối sống hai mặt của họ khi làm các việc lành phúc đức.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nó sẽ giúp bà lấy lại sức sống, và sẽ là người nâng đỡ bà trong tuổi già.
1.1/ Ở hiền gặp lành: Bà Naomi có một thân nhân bên họ nhà chồng, một người khá giàu, thuộc thị tộc Elimelech. Người ấy tên là Boaz.
(1) Ruth đi mót lúa để nuôi mẹ chồng: Vì cả hai mẹ con đều góa bụa, và mới trở về Bethlehem từ ngoại quốc, họ không biết làm gì để sinh sống; nên nàng Ruth, người Moab, nói với bà Naomi: "Xin mẹ để con đi ra ruộng mót lúa đằng sau người nào có lòng nhân từ đoái nhìn con." Bà trả lời: "Con cứ đi đi." Nàng đi và đến ruộng mót lúa đằng sau thợ gặt. Nàng may mắn gặp được một thửa ruộng của ông Boaz, người trong thị tộc Elimelech.
Ông chủ ruộng là Boaz nói với Ruth: "Này con, con có nghe không? Đừng đi mót ở ruộng nào khác, cũng đừng rời khỏi đây, nhưng cứ theo sát các tớ gái của ta. Con nhìn thửa ruộng chúng gặt và cứ đi theo chúng. Nào ta đã chẳng ra lệnh cho các tôi tớ không được đụng tới con sao? Nếu khát, con cứ đến chỗ để bình mà uống nước các tôi tớ đã múc."
(2) Lý do Ruth được ông Boaz đoái thương đến: Thấy ông Boaz đối xử với mình quá tốt, nàng Ruth liền cúi rạp xuống đất mà lạy ông, rồi nói: "Sao con lại được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn và quan tâm đến, dù con là một người ngoại quốc?" Ông Boaz đáp: "Người ta đã kể lại cho ta nghe tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng sau khi chồng con mất, cũng như chuyện con đã bỏ cả cha mẹ và quê hương, mà đến với một dân trước kia con không hề biết tới."
1.2/ Thiên Chúa quan phòng và chúc lành cho cuộc hôn nhân thứ hai của bà Ruth: Sau đó ít lâu, "ông Boaz lấy cô Ruth, và nàng trở thành vợ ông. Ông đến với nàng. Nhờ ơn Đức Chúa, nàng đã thụ thai và sinh một con trai." Có nhiều chi tiết cần để ý trong cuộc hôn nhân này:
+ Ông Boaz là người trong họ hàng với chồng bà Naomi. Theo tục lệ, ông có thể lấy nàng Ruth để có con nối dõi tông đường cho gia đình bà Naomi.
+ Có nhà chú giải cho bà Naomi hay nàng Ruth có ý chọn thửa ruộng của ông Boaz để mót lúa. Điều này có thể; nhưng ông Boaz là người giầu có, ông có thể từ chối vì nàng Ruth quá nghèo. Hơn nữa, Ruth còn là người ngoại quốc.
+ Dù sao chăng nữa, Thiên Chúa cũng là người quan phòng cách khôn ngoan cho cuộc hôn nhân thứ hai của nàng Ruth: để hai mẹ con có người săn sóc trong cảnh góa bụa nghèo khó, và nhất là để hai bà góa có con cháu nối dõi tông đường. Các phụ nữ nói với bà Naomi: "Chúc tụng Đức Chúa, Đấng hôm nay đã không để cho bà phải thiếu người bảo tồn giòng dõi: tên tuổi con trẻ sẽ được tung hô tại Israel! Nó sẽ giúp bà lấy lại sức sống, và sẽ là người nâng đỡ bà trong tuổi già, vì người con dâu biết yêu quý bà đã sinh ra nó, nàng quý giá hơn bảy đứa con trai."
+ Thiên Chúa quan phòng cho đứa trẻ này nằm trong giòng tộc của vua David và của Đức Kitô, Đấng Cứu Thế. Trình thuật kể: "Các bà hàng xóm láng giềng đặt tên cho đứa trẻ là Obed. Đó là cha của ông Jesse, là ông nội vua David."
2/ Phúc Âm: Người làm lớn hơn cả phải là người phục vụ anh em.
2.1/ Hãy nghe những gì các kinh sư nói; nhưng đừng bắt chước những gì họ làm: Trước tiên, Chúa không chê trách giáo lý và Lề Luật mà các kinh-sư và biệt-phái dạy dỗ dân chúng. Điều Chúa lên án là việc làm của họ: "Các kinh sư và các người Pharisees ngồi trên toà ông Moses mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm." Lý do:
(1) Họ không làm gương sáng cho người khác bắt chước: Họ muốn người khác làm, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.
(2) Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy: Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "Rabbi."
2.2/ Lãnh đạo bằng khiêm nhường phục vụ: Ngược lại với lối sống giả hình của các kinh-sư và biệt-phái, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ:
(1) Đừng ham địa vị, chức tước, quyền hành: "Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là "Rabbi," vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô." Khi nói những điều này, Chúa Giêsu không chú ý đến từ ngữ cho bằng đến ý hướng bên trong. Ví dụ, Ngài không đả kích việc con cái phải gọi người sinh ra mình là cha; nhưng ngài đả kích sự ham thích của một người muốn được làm Thầy, Cha, nhà lãnh đạo của thiên hạ. Một cách tuyệt đối, chỉ có Thiên Chúa và Đức Kitô mới xứng đang những danh hiệu này.
(2) Hãy biết khiêm nhường phục vụ tha nhân: "Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải là người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải biết kính sợ Thiên Chúa và chân thành yêu thương tha nhân. Thiên Chúa luôn ghé mắt nhìn đến và chúc lành cho những người hết lòng yêu thương và phục vụ tha nhân.
- Để làm chứng cách hiệu quả cho Thiên Chúa và cho con người, lời nói của chúng ta phải luôn đi đôi với hành động. Đừng bao giờ nói mà không làm.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
21/8 Mến Chúa, yêu người
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 20 TN1, Năm B
Bài đọc: Ruth 1:1, 3-6, 14b-16, 22; Mt 22:34-40.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mến Chúa, yêu người.
Ngày xưa, khi còn ở Việt-nam, các con dâu rất sợ mẹ chồng và sợ làm dâu cho gia đình chồng, vì có những bà mẹ chồng rất khắc nghiệt. Họ quan niệm phải trả thù con dâu, vì ngày xưa khi làm dâu, họ cũng từng bị đối xử như vậy. Ngày nay, bên các xứ Âu Mỹ này, các mẹ chồng lại sợ con dâu, và nhiều còn gọi là "bà dâu." Họ sợ con dâu bầy ra những lý do để cho họ vào viện dưỡng lão, và nhất là sợ con dâu sẽ ly dị để con trai mình phải ở góa. Cả hai thái cực đều quá đáng, và cả mẹ chồng lẫn con dâu Công Giáo cần phải thay đổi thái độ. Khi đối xử với nhau xung khắc như thế, họ đã không giữ giới răn "mến Chúa yêu người" như Chúa dạy. Ngoài ra, họ còn đặt con trai hay người chồng của họ vào vị thế phải điên đầu chọn lựa giữa "bên tình, bên hiếu." Chọn bên nào cũng không được vì Thiên Chúa đòi phải chọn cả hai.
Các Bài Đọc hôm nay cung cấp các chất liệu cho mọi người, cách riêng mẹ chồng con dâu, những chất liệu để suy tư. Trong Bài Đọc I, tác giả cho chúng ta một mẫu gương tuyệt vời về mối liên hệ giữa mẹ chồng Naomi và con dâu Ruth. Bà Naomi phải cư xử với con dâu đặc biệt thế nào, đến nỗi khi con trai của Bà chết rồi mà nàng Ruth có thể thưa với Bà: "Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về không theo mẹ nữa, vì mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con." Trong Phúc Âm, khi một kinh sư đến hỏi thử Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, trong sách Luật Moses, điều răn nào là điều răn trọng nhất?" Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng hai giới răn: Mến Chúa, yêu người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con.
1.1/ Hoàn cảnh đáng thương của bà Naomi: Tác giả kể: "Vào thời các thủ lãnh cai trị, một nạn đói xảy ra trong xứ. Có một người cùng với vợ và hai con trai bỏ Bethlehem miền Judah mà đến ở trong cánh đồng Moab. Rồi ông Elimelech, chồng bà Naomi, chết đi, còn lại bà Naomi và hai đứa con. Hai người này lấy vợ Moab, một người tên là Orpah, người kia tên là Ruth. Họ ở lại đó chừng mười năm. Rồi Mahlon và Chilion cả hai đều chết, còn lại bà Naomi mất chồng, mất con."
Không thể sống trong cảnh góa bụa nơi đất khách quê người, bà Naomi quyết định bỏ cánh đồng Moab để trở về quê hương là Bethlehem, vì Bà nghe nói là Đức Chúa đã viếng thăm dân Người và cho họ có bánh ăn ở đó.
1.2/ Sự trung thành và kính mến mẹ chồng của bà Ruth.
(1) Lời khuyên của bà Naomi cho hai nàng dâu người Moab: Trước khi lên đường, bà Naomi gọi hai người con dâu tới mà nói với họ: vì hai con trai của Bà đã chết, và Bà cũng chẳng có người con trai nào nữa cho họ kết hôn; nên họ không có bổn phận phải đi theo Bà. Họ có thể ở lại quê hương của họ và tái hôn như lòng họ mong muốn.
(2) Phản ứng của hai nàng dâu ngoại quốc: Hai người con dâu lại oà lên khóc. Orpah ôm hôn từ giã mẹ chồng, còn Ruth thì cứ khắng khít theo bà. Bà Naomi nói: "Kìa chị dâu con trở về với dân tộc của nó và các thần của nó. Con cũng vậy, hãy theo chị dâu con mà về đi!" Ruth đáp: "Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa, vì mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con."
Đây là một lời khuyên xứng đáng được người Do-thái cho vào lịch sử vì những lý do sau:
+ Tình cảm đặc biệt giữa mẹ chồng và nàng dâu: Mối liên hệ này thường không tốt đẹp. Để nàng Ruth có thể thốt lên những lời này, nhất là khi chồng nàng không còn nữa, đòi bà Naomi phải chiếm được cảm tình đặc biệt của con dâu mình.
+ Mối liên hệ giữa người Do-thái và người Moab: Truyền thống Do-thái có thói quen khinh thường mọi dân tộc khác; họ không muốn có liên hệ gì với những người dân ngoại. Để nàng Ruth có thể thốt lên câu "dân của mẹ là dân của con,'' đòi bà Naomi đối xử với con dâu mình như một người Do-thái. Hơn nữa, đây cũng là điềm tiên báo khi Đấng Cứu Thế đến, sẽ không còn chia cách giữa người Do-thái và Dân Ngoại như thánh Phaolô mô tả.
+ Tình người giữa hai mẹ con dẫn nàng Ruth tới chỗ chấp nhận "Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con." Cuộc sống của bà Naomi đã trở nên gương sáng cho nàng Ruth biết và tin vào Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Hai điều răn quan trọng nhất
2.1/ Kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự: Khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Sadducees phải câm miệng, thì những người Pharisees họp nhau lại. Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong sách Luật Moses, điều răn nào là điều răn trọng nhất?" Đức Giêsu đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất."
Đây là điều răn thứ nhất trong Thập Giới mà Thiên Chúa ban cho người Do-thái qua ông Moses trên núi Sinai. Người Do-thái gọi điều răn này là Shema; và để cho khỏi quên, họ viết vào giấy rồi đeo nó trên đầu như thẻ kinh, và đựng vào hai cái hộp nhỏ để đeo trên hai cánh tay mỗi khi cầu nguyện. Ngoài ra họ còn dán trên cửa nhà và cửa thành, để nhắc nhở cho những ai qua lại phải nhớ. Một giới răn quan trọng và được dán khắp mọi nơi như thế, mà các kinh-sư và biệt-phái còn hỏi Chúa Giêsu! Chúng ta không tìm thấy lý do nào khác ngoài lý do họ khinh thường Chúa.
Điều răn này tuy dễ để nhớ, nhưng không dễ để thi hành, cho cả người Do-thái xưa lẫn các Kitô hữu ngày nay. Người Do-thái biết phải kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, nhưng vẫn đúc bê vàng để thờ hay chạy theo các thần ngoai bang khác. Người tín hữu ngày nay vẫn đặt các thứ thần khác lên trên Thiên Chúa như các thần: tiền, danh vọng, chức quyền, khoái lạc ... Họ có thể bỏ lễ Chủ Nhật hay các việc thờ phượng để làm việc, coi football, đi du lịch ...
2.2/ Yêu người thân cận như chính mình: "Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Moses và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy." Hai luật "mến Chúa, yêu người" không thể tách rời nhau, nhưng bổ xung cho nhau. Thánh Gioan tuyên bố: Ai nói mình mến Chúa mà không yêu anh em là kẻ nói dối, và sự thực không có nơi người ấy.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi con dâu thương mẹ chồng là nàng thương chồng. Điều răn thứ tư dạy phải thảo hiếu cả bố mẹ ruột lẫn bố mẹ chồng; đừng ích kỷ chỉ biết thảo hiếu bố mẹ ruột của mình mà thôi.
- Khi mẹ chồng thương con dâu là thương con trai mình. Các bà mẹ đừng bao giờ để con trai mình phải chọn giữa mẹ và vợ. Thiên Chúa muốn con mình vừa phải thảo hiếu cha mẹ, vừa phải trung thành với vợ cho đến chết.
- Kính mến Thiên Chúa là phải yêu thương tha nhân và giữ các giới răn của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
20/8 Trung tín giữ những gì đã thề hứa
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 20 TN1, Năm B
Bài đọc: Judg 11:29-39a; Mt 22:1-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung tín giữ những gì đã thề hứa.
Con người ngày nay tìm đủ mọi lý do để không phải giữ những gì mình đã thề hứa: tại không biết những gì sẽ xảy ra, tại hoàn cảnh khó khăn, tại đương sự, tại gia đình ... Nhưng người quân tử là người giữ những lời mình đã thề hứa: "nhất ngôn xuất khẩu, tứ mã nan truy," có nghĩa: một lời nói ra khỏi miệng, bốn con ngựa chạy theo cũng không đuổi kịp. Để giữ những gì mình thề hứa, con người cần có nhân đức anh hùng để vượt qua mọi trở ngại ngăn cản thi hành lời hứa.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng hai sự thật trái ngược nhau. Trong Bài Đọc I, Sách Thủ Lãnh tường thuật sự trung tín và lòng can đảm của ông Jephthah, khi ông dám sát tế đứa con gái duy nhất để giữ trọn lời ông đã thề hứa với Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, nhà vua tức giận vì các khách được mời dự tiệc đã không giữ lời hứa đến dự tiệc, nên đã sai các đầy tớ đi tru diệt các khách được mời, và sai các đầy tớ đi khắp các nẻo đường để mời mọi người vào tham dự tiệc cưới của con mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông Jephthah giữ lời đã khấn hứa với Đức Chúa.
1.1/ Lời khấn kỳ lạ của ông Jephthah với Đức Chúa: Thủ Lãnh Jephthah khấn hứa với Đức Chúa rằng: "Nếu Ngài trao con cái Ammon vào tay con, thì - khi con đã thắng con cái Ammon mà trở về bình an - hễ người nào ra khỏi cửa nhà con để đón con, người đó sẽ thuộc về Đức Chúa, và con sẽ dâng nó làm lễ toàn thiêu." Ông Jephthah qua bên con cái Ammon để giao chiến với chúng, và Đức Chúa đã trao chúng vào tay ông. Ông đánh chúng tơi bời từ Aroer cho tới gần Minnith, tất cả là hai mươi thành, và cho tới Abelkeramim. Thật là một cuộc đại bại: con cái Ammon bị hạ nhục trước mặt con cái Israel.
1.2/ Ông Jephthah giết con gái để giữ trọn lời thề.
(1) Ông Jephthah không ngờ hậu quả của lời hứa: Khi ông Jephthah trở về nhà ông tại Mizpah, thì này con gái ông ra đón ông, vừa đánh trống vừa nhảy múa. Cô là con gái độc nhất của ông: ngoài cô ra, ông không có con trai con gái nào khác. Thoạt nhìn thấy cô, ông liền xé áo và nói: "Ôi, con gái của cha, thật con làm khổ cha rồi! Chính con lại ở trong số những kẻ gây bất hạnh cho cha! Cha đã trót mở miệng khấn hứa cùng Đức Chúa và không thể rút lại được." Thiên Chúa muốn thử đức tin của Thủ Lãnh Jephthah: thật là dễ dàng khi phải hy sinh người dưng nước lã, nhưng thật khó biết bao khi phải hy sinh máu mủ ruột thịt của mình, đưa con độc nhất mà ông có.
(2) Sự anh hùng của cô con gái: Đây là lời thề hứa của cha cô, cô có thể từ chối không cộng tác để cha thi hành lời hứa; nhưng cô là người biết kính sợ Thiên Chúa, nên cô đã anh hùng thưa với cha: "Thưa cha, cha đã trót mở miệng khấn hứa cùng Đức Chúa, thì cha cứ thi hành cho con như lời cha đã khấn hứa, vì Đức Chúa đã cho cha trả thù được con cái Ammon, kẻ thù của cha."
Cô chỉ xin cha cô một điều: "Xin cha cho con điều này là hoãn cho con hai tháng để con đi lang thang trên các núi đồi, mà khóc cho đời con gái của con cùng với các bạn con." Ông nói: "Con cứ đi," và ông để cho cô đi hai tháng. Cô ra đi cùng với các bạn, khóc cho đời con gái của cô trên các núi đồi. Sau hai tháng, cô trở về với cha, và ông thi hành cho cô lời ông đã khấn hứa. Cô chưa biết đến việc vợ chồng.
Hành động anh hùng của cô đã nên gương sáng cho con cái Israel; mỗi năm, họ đều dành ngày này để kính nhớ cô, và đã thành một tục lệ trong Israel.
2/ Phúc Âm: Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.
2.1/ Dân chúng không đáp trả lời mời của Đức Vua: Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: "Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến. Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ: "Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!"
Theo truyền thống Do-thái, người ta có thói quen đi đến tất cả nhà các người quen để mời đến dự tiệc, chủ nhà sẽ báo cho các quan khách biết lý do, nơi chốn, và ngày giờ dự tiệc. Khi đã biết bao nhiêu người đến dự tiệc, chủ nhà sẽ chuẩn bị cho phần ăn cho bấy nhiêu người; rồi sai các đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời đến dự tiệc.
Nhà vua tức giận vì quan khách đã không giữ lời hứa. Họ chẳng những không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn; còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết. Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng.
2.2/ Quyết định của vua: Rồi nhà vua bảo đầy tớ: "Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới." Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.
(1) Người không chịu mặc y phục lễ cưới: "Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: "Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?" Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: "Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng! Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít."
Nhiều người thắc mắc không hiểu lý do tại sao nhà vua bắt khách qua đường tham dự phải mặc y phục lễ cưới. Một người có thể trả lời ngược lại: tại sao bao khách qua đường khác lại có thời gian mặc y phục lễ cưới! Điều Chúa Giêsu có lẽ muốn nhấn mạnh ở đây là phải có những điều kiện tối thiểu để được vào Nước Trời, chứ không phải ai cũng vào được.
(2) Áp dụng của dụ ngôn: Nhiều nhà chú giải áp dụng dụ ngôn này cho người Do-thái: Họ là những quan khách được mời trước; khách gặp các nẻo đường là người Dân Ngoại. Vì người Do-thái từ chối không tham dự tiệc cưới Người Con của Thiên Chúa là Đức Kitô; nên ơn cứu độ của Thiên Chúa được mở rộng đến mọi người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải suy xét cẩn thận trước khi thề hứa bất cứ điều gì với Thiên Chúa: trong đời sống thánh hiến hay trong đời sống gia đình. Chúa muốn chúng ta trung thành với điều chúng ta đã khấn nguyện.
- Chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn và trở ngại, nhưng chúng ta phải cố gắng vượt qua, và Thiên Chúa ban ơn thánh đủ để chúng ta có thể giữ trọn vẹn lời thề.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
19/8 Sự khác biệt giữa Vua Trời và vua chúa trần gian
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 20 TN1, Năm B
Bài đọc: Judg 9:6-15; Mt 20:1-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự khác biệt giữa Vua Trời và vua chúa trần gian
Vua chúa trần gian trước khi được lên ngôi hứa hẹn rất nhiều với dân chúng, nhưng một khi đã lên ngôi rồi, họ quên hết những gì đã hứa với dân chúng, hay nếu có thi hành, cũng chẳng được bao nhiêu. Trái lại, Thiên Chúa trung thành giữ tất cả những gì Ngài hứa với con người, cho dẫu con người không trung thành với những gì họ hứa. Hơn nữa, Ngài luôn tìm cách để giúp đỡ những người nghèo khó, tội lỗi, hay yếu kém hơn.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa Thiên Chúa và các nhà lãnh đạo trần thế. Trong Bài Đọc I, Abimelech trở về quê hương để vận động những người đồng hương tôn mình lên làm vua, vì ông biết họ có khuynh hướng chọn những người đồng hương để có thể nhờ vả sau này. Một khi đã được làm vua, Abimelech quên hết ân nghĩa và thẳng tay trừng trị những người đã tôn ông lên làm vua. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu ví Nước Trời như một gia chủ mướn thợ vào làm vườn nho của mình. Ông thỏa thuận với thợ lương công nhật là một đồng một ngày. Sau đó, ông trở ra và kêu gọi nhiều thợ nữa vào làm vườn nho với những giờ khác nhau. Chiều đến, khi trả công, các người làm việc sớm than trách vì ông trả những người đến làm sau bằng họ. Gia chủ tuyên bố ông đã công bằng trả cho họ những gì ông và họ đã thỏa thuận; họ không có quyền ngăn cản ông thương xót và rộng lượng cho những người làm việc sau.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy nghe tôi đây, thì Thiên Chúa cũng sẽ nghe các người.
1.1/ Lý do dân chúng Shechem tôn Abimelech lên làm vua: Abimelech là con của Thủ Lãnh Gideon với một nàng hầu mà chúng ta đã đọc ngày hôm qua. Gideon có nhiều vợ nên có rất nhiều con, tất cả hơn 70 người. Mẹ của Abimelech sinh ra ở Shechem. Đó là lý do Abimelech trở về quê hương để thuyết phục những người đồng hương tôn ông nên làm vua, với những lời lẽ như sau: "Xin bà con hỏi các thân hào Shechem xem điều nào tốt cho các vị: để cho 70 người, tức là tất cả các con ông Gideon (Jerubbaal) cai trị các vị; hay để một người cai trị các vị mà thôi? Xin các vị nhớ cho tôi là anh em ruột thịt của quí vị."
Abimelech rất khôn lanh vì biết dân chúng sẽ vì tình đồng hương mà tôn ông nên làm vua với hy vọng sẽ được hưởng những lợi nhuận sau này. Bấy giờ tất cả thân hào Shechem cùng toàn dân Bethmillo họp lại, kéo đến tôn Abimelech lên làm vua, bên cạnh cây sồi trước bia đá ở Shechem. Abimelech dùng tiền thâu được của đồng hương Shechem, thuê du đãng đi giết các anh em cùng cha của mình tại Ophrah, tất cả là 70 người trên cùng một tảng đá; chỉ có Jotham là người con út của Gideon thoát khỏi.
1.2/ Ông Jotham vạch trần nguy hiểm của việc tấn phong này: Khi người ta báo tin ấy cho ông Jotham, ông liền lên đứng trên đỉnh núi Gerizim, cất tiếng gọi và nói với những người kia rằng: "Hỡi các thân hào Shechem! Hãy nghe tôi đây, thì Thiên Chúa cũng sẽ nghe các người." Sau đó, ông kể cho họ nghe một dụ ngôn về các cây cối đã lên đường đi xức dầu phong một vua cai trị chúng. Dụ ngôn được dùng để chỉ nói lên một điều quan trọng mà thôi. Trong dụ ngôn này, Jotham muốn ám chỉ vị vua đó chính là Abimelech, và cây cối chính là dân chúng ở Shechem. Abimelech được ví như một "bụi gai," có nghĩa là một người không xứng đáng và không tài đức, chỉ được tôn làm vua sau khi cây cối đã bị tất cả các cây khác từ chối lời mời làm vua. Jotham báo trước tai hại mà người Shechem sẽ phải lãnh nhận từ Abimelech, khi bụi gai nói với các cây cối: "Nếu quả thật các ngươi xức dầu phong ta làm vua cai trị các ngươi, thì hãy tới nương náu dưới bóng ta; bằng không, lửa sẽ bốc ra từ bụi gai và sẽ thiêu rụi các cây bá hương Lebanon!" Sau khi Abimelech lên làm vua, ông đã thẳng tay trừng trị dân thành Shechem và họ cũng toa rập với nhau để chống lại ông.
2/ Phúc Âm: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn.
2.1/ Dụ ngôn các thợ làm vườn nho: Chúa Giêsu nói: "Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình."
(1) Lương công nhật là một đồng: Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc.
(2) Thợ vào làm những giờ khác nhau: Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng." Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy.
(3) Lý do tại sao vào làm trễ: Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?" Họ đáp: "Vì không ai mướn chúng tôi." Ông bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!" Những người này chỉ làm có một tiếng đồng hồ mà thôi.
2.2/ Cách trả lương của gia chủ: Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: "Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất." Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền.
(1) Phản ứng của các thợ làm trước nhất: Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: "Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt."
(2) Phản ứng của gia chủ: Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?"
(3) Áp dụng của dụ ngôn: Nhiều nhà chú giải đã áp dụng dụ ngôn này cho:
+ Người Do-thái và Dân Ngoại: Mặc dù người Do-thái được Thiên Chúa chọn trước, nhưng ơn cứu độ được phân phối đồng đều cho cả người Do-thái lẫn Dân Ngoại.
+ Người đạo gốc và tân tòng: Người đạo gốc, cho dù đã theo Chúa lâu năm, cũng được Chúa thưởng đồng đều như người tân tòng mới trở lại đạo, dù chỉ một ngày.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa luôn trung thành với những gì Ngài hứa. Chúng ta hãy đặt trọn vẹn niềm tin tưởng nơi Ngài. Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế chẳng cứu nổi ai như Abimelech.
- Chúng ta đừng áp dụng tiêu chuẩn trần gian cho Chúa. Hãy để Chúa là Thiên Chúa khi Ngài rộng lượng thi ân cho tất cả mọi người.
- Thiên Chúa luôn công bằng, nhưng cũng rất nhân từ và khoan dung. Chúng ta trông cậy vào lòng nhân từ của Thiên Chúa hơn là đòi hỏi Ngài phải công bằng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
18/8 Thiên Chúa chọn những kẻ khiêm cung, khó nghèo.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 20 TN1, Năm B
Bài đọc: Judg 6:11-24a; Mt 19:23-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa chọn những kẻ khiêm cung, khó nghèo.
Tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa khác hẳn tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian. Trong khi thế gian chọn những kẻ tài giỏi, khỏe mạnh, giầu có; Thiên Chúa lại chọn kẻ ít tài, yếu đuối và nghèo khó. Hơn nữa, Đức Kitô còn mặc khải tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa trong Ngày Phán Xét: "Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu."
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng cách chọn lựa của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa chọn Gideon làm Thủ Lãnh, một người trẻ nhất trong gia đình, thuộc một chi tộc nhỏ nhất của Israel, chi tộc Manasseh, để giải phóng dân chúng khỏi tay những người Midian. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chọn 12 tông-đồ: đa số là nghèo khó, yếu đuối và thất học; để huấn luyện các ông trở nên những người rao giảng Tin Mừng. Tiêu chuẩn chọn lựa này chứng tỏ: tất cả thành công hay vinh quang con người có được là do sức mạnh và uy quyền của Thiên Chúa, chứ không đến từ con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa chọn Gideon là Thủ Lãnh cứu dân khỏi tay quân thù Midian.
1.1/ Thiên Chúa chọn ông Gideon: Khi con cái Israel quay lưng lại với Thiên Chúa và chạy theo thờ phượng các thần ngoại bang; nên Thiên Chúa không bảo vệ họ nữa, và để cho quân thù Midian bắt họ làm nô lệ cực khổ. Nhưng vì tình yêu trung thành, Thiên Chúa muốn chọn một vị Thủ Lãnh, để lãnh đạo và giải phóng con cái Israel khỏi ách nô lệ của quân thù.
Sách Thủ Lãnh kể: Sứ Thần của Đức Chúa đến và ngồi dưới cây tùng ở Ophrah. Cây này là của ông Joash, thuộc gia đình Abiezrite. Con ông là Gideon bấy giờ đang đập lúa trong bồn đạp nho để tránh mặt người Midian. Sứ Thần Đức Chúa nói với Gidion: "Chào chiến sĩ can trường! Đức Chúa ở với ông." Ông Gideon thưa với Sứ Thần: "Ôi, thưa Ngài, nếu Đức Chúa ở với chúng tôi, thì sao chúng tôi đến nông nỗi này? Đâu cả rồi những kỳ công mà cha ông đã kể lại cho chúng tôi nghe, rằng: chẳng phải Đức Chúa đã đưa chúng ta lên khỏi Ai-cập sao? Thế mà bây giờ Đức Chúa đã bỏ rơi chúng tôi, trao chúng tôi vào tay người Midian." Ông Gideon có lý do để nghi ngờ vì ông chỉ nghe thế hệ cha ông nói về những gì Thiên Chúa đã làm cho con cái Israel; nhưng chưa bao giờ ông chứng kiến Thiên Chúa tỏ uy quyền, mà chỉ thấy trước mắt cảnh dân Israel phải làm nô lệ cho người Midian.
Sứ thần Đức Chúa quay lại nhìn ông và nói: "Hãy mạnh bạo lên đường cứu Israel khỏi tay quân Midian. Không phải chính Ta sai ngươi sao?" Ông Gideon tỏ vẻ nghi ngờ: "Ôi, thưa Ngài, con lấy gì mà cứu Israel? Này giòng họ con thấp kém nhất trong chi tộc Manasseh, mà con lại nhỏ nhất trong nhà cha con." Đức Chúa phán với ông: "Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân Midian như đánh có một người."
1.2/ Ông Gideon xin sứ thần một dấu chỉ để biết chắc chắn sự chọn lựa của Thiên Chúa.
Ông Gideon thưa với Sứ Thần: "Nếu Ngài thương con thì xin cho con một dấu chứng tỏ Ngài đang nói với con. Xin Ngài đừng rời khỏi đây cho tới khi con trở lại, mang theo của lễ đặt trước nhan Ngài." Người phán: "Ta sẽ ở lại cho tới khi ngươi trở về."
Ông Gideon đi bắt một con dê non làm thịt, và lấy hai thùng bột làm mấy chiếc bánh không men. Thịt thì ông để trong một cái rổ, còn nước cốt thì đựng trong một cái thố. Rồi ông mang đến cho Người ở dưới cây tùng. Khi ông đến gần, thì Sứ Thần Thiên Chúa nói với ông: "Hãy lấy thịt và bánh không men đặt trên tảng đá này và rưới nước cốt lên." Ông đã làm như thế.
Sứ thần của Đức Chúa giơ đầu gậy đang cầm trong tay đụng vào thịt và bánh không men, lửa liền từ tảng đá bốc lên, đốt cháy hết thịt cùng bánh không men. Sứ Thần Đức Chúa biến khỏi mắt ông. Khi ông Gideon nhận ra đó chính là Thần sứ Đức Chúa, ông kêu lên: "Chết tôi rồi, lạy Đức Chúa là Chúa Thượng của tôi, vì tôi đã thấy Thần sứ Đức Chúa nhãn tiền!" Nhưng Đức Chúa phán với ông: "Bình an cho ngươi! Đừng sợ: ngươi không chết đâu."
2/ Phúc Âm: Đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể được.
2.1/ Người giầu có khó vào nước Thiên Chúa: Trình thuật của Matthew hôm nay tiếp nối cuộc đàm đạo của Chúa Giêsu với chàng thanh niên giầu có. Khi chàng thanh niên buồn bã bỏ đi rồi, bấy giờ Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người: "Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa." Nghe nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói: "Thế thì ai có thể được cứu?"
Các môn đệ ngạc nhiên vì các ông đã quá quen tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian. Có lẽ vì các môn đệ nghĩ rằng: giầu có được Thiên Chúa chúc phúc, nên mới sửng sốt khi Chúa Giêsu tuyên bố như vậy. Chúng ta cần hiểu quan niệm về sự sống đời sau của người Do-thái thời đó chưa rõ nét cho lắm. Nhiều người Do-thái quan niệm hạnh phúc cho những người tuân giữ luật pháp của Thiên Chúa được sống lâu, con đàn cháu đống, và được sung túc về của cải chỉ ở đời này. Phải đợi tới khoảng thế kỷ thứ hai trước Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy nói về sự sống đời sau qua Sách Daniel và Maccabees. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài mặc khải cho các môn đệ cách rõ ràng về sự sống đời sau và điều kiện để được vào Nước Trời.
Tại sao Chúa Giêsu dạy "người giàu có khó vào Nước Trời." Chúng ta có thể dẫn chứng những lý do sau đây:
(1) Người giầu có tin ở mình: thay vì họ phải tin ở tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa.
(2) Người giầu có không khôn ngoan: họ yêu của cải hơn Đấng dựng nên của cải.
(3) Người giầu có không biết tiêu chuẩn để được vào Nước Trời: hoàn toàn là do tình thương và ơn thánh của Thiên Chúa, chứ không do cố gắng của con người, như Đức Giêsu tuyên bố với các môn đệ: "Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được."
2.2/ Phần thưởng Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ: Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng thưa Người: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?" Đức Giêsu đáp: "Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp."
Mục đích của Thiên Chúa khi cho chúng ta vào cuộc đời này không phải để nỗ lực làm giầu; nhưng biết sống làm sao để đạt tới Nước Trời và giúp cho tha nhân cũng đạt được mục đích đó.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần tập làm quen và sống theo những tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa, thay vì sống theo các tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian.
- Vào Nước Trời không do nỗ lực và công lao của con người; nhưng do tình yêu và ơn thánh Chúa ban. Chúng ta cần biết khiêm nhường đón nhận và sống theo sự chỉ dạy của Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
18/8 Thiên Chúa chọn những kẻ khiêm cung, khó nghèo.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 20 TN1, Năm B
Bài đọc: Judg 6:11-24a; Mt 19:23-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa chọn những kẻ khiêm cung, khó nghèo.
Tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa khác hẳn tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian. Trong khi thế gian chọn những kẻ tài giỏi, khỏe mạnh, giầu có; Thiên Chúa lại chọn kẻ ít tài, yếu đuối và nghèo khó. Hơn nữa, Đức Kitô còn mặc khải tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa trong Ngày Phán Xét: "Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu."
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng cách chọn lựa của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa chọn Gideon làm Thủ Lãnh, một người trẻ nhất trong gia đình, thuộc một chi tộc nhỏ nhất của Israel, chi tộc Manasseh, để giải phóng dân chúng khỏi tay những người Midian. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chọn 12 tông-đồ: đa số là nghèo khó, yếu đuối và thất học; để huấn luyện các ông trở nên những người rao giảng Tin Mừng. Tiêu chuẩn chọn lựa này chứng tỏ: tất cả thành công hay vinh quang con người có được là do sức mạnh và uy quyền của Thiên Chúa, chứ không đến từ con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa chọn Gideon là Thủ Lãnh cứu dân khỏi tay quân thù Midian.
1.1/ Thiên Chúa chọn ông Gideon: Khi con cái Israel quay lưng lại với Thiên Chúa và chạy theo thờ phượng các thần ngoại bang; nên Thiên Chúa không bảo vệ họ nữa, và để cho quân thù Midian bắt họ làm nô lệ cực khổ. Nhưng vì tình yêu trung thành, Thiên Chúa muốn chọn một vị Thủ Lãnh, để lãnh đạo và giải phóng con cái Israel khỏi ách nô lệ của quân thù.
Sách Thủ Lãnh kể: Sứ Thần của Đức Chúa đến và ngồi dưới cây tùng ở Ophrah. Cây này là của ông Joash, thuộc gia đình Abiezrite. Con ông là Gideon bấy giờ đang đập lúa trong bồn đạp nho để tránh mặt người Midian. Sứ Thần Đức Chúa nói với Gidion: "Chào chiến sĩ can trường! Đức Chúa ở với ông." Ông Gideon thưa với Sứ Thần: "Ôi, thưa Ngài, nếu Đức Chúa ở với chúng tôi, thì sao chúng tôi đến nông nỗi này? Đâu cả rồi những kỳ công mà cha ông đã kể lại cho chúng tôi nghe, rằng: chẳng phải Đức Chúa đã đưa chúng ta lên khỏi Ai-cập sao? Thế mà bây giờ Đức Chúa đã bỏ rơi chúng tôi, trao chúng tôi vào tay người Midian." Ông Gideon có lý do để nghi ngờ vì ông chỉ nghe thế hệ cha ông nói về những gì Thiên Chúa đã làm cho con cái Israel; nhưng chưa bao giờ ông chứng kiến Thiên Chúa tỏ uy quyền, mà chỉ thấy trước mắt cảnh dân Israel phải làm nô lệ cho người Midian.
Sứ thần Đức Chúa quay lại nhìn ông và nói: "Hãy mạnh bạo lên đường cứu Israel khỏi tay quân Midian. Không phải chính Ta sai ngươi sao?" Ông Gideon tỏ vẻ nghi ngờ: "Ôi, thưa Ngài, con lấy gì mà cứu Israel? Này giòng họ con thấp kém nhất trong chi tộc Manasseh, mà con lại nhỏ nhất trong nhà cha con." Đức Chúa phán với ông: "Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân Midian như đánh có một người."
1.2/ Ông Gideon xin sứ thần một dấu chỉ để biết chắc chắn sự chọn lựa của Thiên Chúa.
Ông Gideon thưa với Sứ Thần: "Nếu Ngài thương con thì xin cho con một dấu chứng tỏ Ngài đang nói với con. Xin Ngài đừng rời khỏi đây cho tới khi con trở lại, mang theo của lễ đặt trước nhan Ngài." Người phán: "Ta sẽ ở lại cho tới khi ngươi trở về."
Ông Gideon đi bắt một con dê non làm thịt, và lấy hai thùng bột làm mấy chiếc bánh không men. Thịt thì ông để trong một cái rổ, còn nước cốt thì đựng trong một cái thố. Rồi ông mang đến cho Người ở dưới cây tùng. Khi ông đến gần, thì Sứ Thần Thiên Chúa nói với ông: "Hãy lấy thịt và bánh không men đặt trên tảng đá này và rưới nước cốt lên." Ông đã làm như thế.
Sứ thần của Đức Chúa giơ đầu gậy đang cầm trong tay đụng vào thịt và bánh không men, lửa liền từ tảng đá bốc lên, đốt cháy hết thịt cùng bánh không men. Sứ Thần Đức Chúa biến khỏi mắt ông. Khi ông Gideon nhận ra đó chính là Thần sứ Đức Chúa, ông kêu lên: "Chết tôi rồi, lạy Đức Chúa là Chúa Thượng của tôi, vì tôi đã thấy Thần sứ Đức Chúa nhãn tiền!" Nhưng Đức Chúa phán với ông: "Bình an cho ngươi! Đừng sợ: ngươi không chết đâu."
2/ Phúc Âm: Đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể được.
2.1/ Người giầu có khó vào nước Thiên Chúa: Trình thuật của Matthew hôm nay tiếp nối cuộc đàm đạo của Chúa Giêsu với chàng thanh niên giầu có. Khi chàng thanh niên buồn bã bỏ đi rồi, bấy giờ Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người: "Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa." Nghe nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói: "Thế thì ai có thể được cứu?"
Các môn đệ ngạc nhiên vì các ông đã quá quen tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian. Có lẽ vì các môn đệ nghĩ rằng: giầu có được Thiên Chúa chúc phúc, nên mới sửng sốt khi Chúa Giêsu tuyên bố như vậy. Chúng ta cần hiểu quan niệm về sự sống đời sau của người Do-thái thời đó chưa rõ nét cho lắm. Nhiều người Do-thái quan niệm hạnh phúc cho những người tuân giữ luật pháp của Thiên Chúa được sống lâu, con đàn cháu đống, và được sung túc về của cải chỉ ở đời này. Phải đợi tới khoảng thế kỷ thứ hai trước Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy nói về sự sống đời sau qua Sách Daniel và Maccabees. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài mặc khải cho các môn đệ cách rõ ràng về sự sống đời sau và điều kiện để được vào Nước Trời.
Tại sao Chúa Giêsu dạy "người giàu có khó vào Nước Trời." Chúng ta có thể dẫn chứng những lý do sau đây:
(1) Người giầu có tin ở mình: thay vì họ phải tin ở tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa.
(2) Người giầu có không khôn ngoan: họ yêu của cải hơn Đấng dựng nên của cải.
(3) Người giầu có không biết tiêu chuẩn để được vào Nước Trời: hoàn toàn là do tình thương và ơn thánh của Thiên Chúa, chứ không do cố gắng của con người, như Đức Giêsu tuyên bố với các môn đệ: "Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được."
2.2/ Phần thưởng Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ: Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng thưa Người: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?" Đức Giêsu đáp: "Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp."
Mục đích của Thiên Chúa khi cho chúng ta vào cuộc đời này không phải để nỗ lực làm giầu; nhưng biết sống làm sao để đạt tới Nước Trời và giúp cho tha nhân cũng đạt được mục đích đó.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần tập làm quen và sống theo những tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa, thay vì sống theo các tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian.
- Vào Nước Trời không do nỗ lực và công lao của con người; nhưng do tình yêu và ơn thánh Chúa ban. Chúng ta cần biết khiêm nhường đón nhận và sống theo sự chỉ dạy của Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 17/8 Thiên Chúa vẫn trung thành dù con người bội phản
- 16/8 Khao khát được "trường sinh bất tử
- 15/8 Khiêm nhường làm theo thánh ý Thiên Chúa để phục vụ tha nhân
- 14/8 Sống trung thành với ơn gọi của mình.
- 13/8 Thiên Chúa ban ơn đầy đủ để con người có thể hoàn thành sứ vụ
- 12/8 Chiều kích cộng đoàn phải đặt trên chiều kích cá nhân
- 11/8 Môn đệ Đức Kitô phải biết khiêm hạ và bênh vực kẻ yếu đuối
- 10/8 Cho đi là nguyên tắc sống của cuộc đời
- 09/8 Bánh mang lại sự sống thần linh cho con người
- 08/8 Rao giảng Tin Mừng để đưa các linh hồn về cho Chúa