Sống Lời Chúa Hôm Nay
18/8 Thiên Chúa chọn những kẻ khiêm cung, khó nghèo.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 20 TN1, Năm B
Bài đọc: Judg 6:11-24a; Mt 19:23-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa chọn những kẻ khiêm cung, khó nghèo.
Tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa khác hẳn tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian. Trong khi thế gian chọn những kẻ tài giỏi, khỏe mạnh, giầu có; Thiên Chúa lại chọn kẻ ít tài, yếu đuối và nghèo khó. Hơn nữa, Đức Kitô còn mặc khải tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa trong Ngày Phán Xét: "Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu."
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng cách chọn lựa của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa chọn Gideon làm Thủ Lãnh, một người trẻ nhất trong gia đình, thuộc một chi tộc nhỏ nhất của Israel, chi tộc Manasseh, để giải phóng dân chúng khỏi tay những người Midian. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chọn 12 tông-đồ: đa số là nghèo khó, yếu đuối và thất học; để huấn luyện các ông trở nên những người rao giảng Tin Mừng. Tiêu chuẩn chọn lựa này chứng tỏ: tất cả thành công hay vinh quang con người có được là do sức mạnh và uy quyền của Thiên Chúa, chứ không đến từ con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa chọn Gideon là Thủ Lãnh cứu dân khỏi tay quân thù Midian.
1.1/ Thiên Chúa chọn ông Gideon: Khi con cái Israel quay lưng lại với Thiên Chúa và chạy theo thờ phượng các thần ngoại bang; nên Thiên Chúa không bảo vệ họ nữa, và để cho quân thù Midian bắt họ làm nô lệ cực khổ. Nhưng vì tình yêu trung thành, Thiên Chúa muốn chọn một vị Thủ Lãnh, để lãnh đạo và giải phóng con cái Israel khỏi ách nô lệ của quân thù.
Sách Thủ Lãnh kể: Sứ Thần của Đức Chúa đến và ngồi dưới cây tùng ở Ophrah. Cây này là của ông Joash, thuộc gia đình Abiezrite. Con ông là Gideon bấy giờ đang đập lúa trong bồn đạp nho để tránh mặt người Midian. Sứ Thần Đức Chúa nói với Gidion: "Chào chiến sĩ can trường! Đức Chúa ở với ông." Ông Gideon thưa với Sứ Thần: "Ôi, thưa Ngài, nếu Đức Chúa ở với chúng tôi, thì sao chúng tôi đến nông nỗi này? Đâu cả rồi những kỳ công mà cha ông đã kể lại cho chúng tôi nghe, rằng: chẳng phải Đức Chúa đã đưa chúng ta lên khỏi Ai-cập sao? Thế mà bây giờ Đức Chúa đã bỏ rơi chúng tôi, trao chúng tôi vào tay người Midian." Ông Gideon có lý do để nghi ngờ vì ông chỉ nghe thế hệ cha ông nói về những gì Thiên Chúa đã làm cho con cái Israel; nhưng chưa bao giờ ông chứng kiến Thiên Chúa tỏ uy quyền, mà chỉ thấy trước mắt cảnh dân Israel phải làm nô lệ cho người Midian.
Sứ thần Đức Chúa quay lại nhìn ông và nói: "Hãy mạnh bạo lên đường cứu Israel khỏi tay quân Midian. Không phải chính Ta sai ngươi sao?" Ông Gideon tỏ vẻ nghi ngờ: "Ôi, thưa Ngài, con lấy gì mà cứu Israel? Này giòng họ con thấp kém nhất trong chi tộc Manasseh, mà con lại nhỏ nhất trong nhà cha con." Đức Chúa phán với ông: "Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân Midian như đánh có một người."
1.2/ Ông Gideon xin sứ thần một dấu chỉ để biết chắc chắn sự chọn lựa của Thiên Chúa.
Ông Gideon thưa với Sứ Thần: "Nếu Ngài thương con thì xin cho con một dấu chứng tỏ Ngài đang nói với con. Xin Ngài đừng rời khỏi đây cho tới khi con trở lại, mang theo của lễ đặt trước nhan Ngài." Người phán: "Ta sẽ ở lại cho tới khi ngươi trở về."
Ông Gideon đi bắt một con dê non làm thịt, và lấy hai thùng bột làm mấy chiếc bánh không men. Thịt thì ông để trong một cái rổ, còn nước cốt thì đựng trong một cái thố. Rồi ông mang đến cho Người ở dưới cây tùng. Khi ông đến gần, thì Sứ Thần Thiên Chúa nói với ông: "Hãy lấy thịt và bánh không men đặt trên tảng đá này và rưới nước cốt lên." Ông đã làm như thế.
Sứ thần của Đức Chúa giơ đầu gậy đang cầm trong tay đụng vào thịt và bánh không men, lửa liền từ tảng đá bốc lên, đốt cháy hết thịt cùng bánh không men. Sứ Thần Đức Chúa biến khỏi mắt ông. Khi ông Gideon nhận ra đó chính là Thần sứ Đức Chúa, ông kêu lên: "Chết tôi rồi, lạy Đức Chúa là Chúa Thượng của tôi, vì tôi đã thấy Thần sứ Đức Chúa nhãn tiền!" Nhưng Đức Chúa phán với ông: "Bình an cho ngươi! Đừng sợ: ngươi không chết đâu."
2/ Phúc Âm: Đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể được.
2.1/ Người giầu có khó vào nước Thiên Chúa: Trình thuật của Matthew hôm nay tiếp nối cuộc đàm đạo của Chúa Giêsu với chàng thanh niên giầu có. Khi chàng thanh niên buồn bã bỏ đi rồi, bấy giờ Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người: "Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa." Nghe nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói: "Thế thì ai có thể được cứu?"
Các môn đệ ngạc nhiên vì các ông đã quá quen tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian. Có lẽ vì các môn đệ nghĩ rằng: giầu có được Thiên Chúa chúc phúc, nên mới sửng sốt khi Chúa Giêsu tuyên bố như vậy. Chúng ta cần hiểu quan niệm về sự sống đời sau của người Do-thái thời đó chưa rõ nét cho lắm. Nhiều người Do-thái quan niệm hạnh phúc cho những người tuân giữ luật pháp của Thiên Chúa được sống lâu, con đàn cháu đống, và được sung túc về của cải chỉ ở đời này. Phải đợi tới khoảng thế kỷ thứ hai trước Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy nói về sự sống đời sau qua Sách Daniel và Maccabees. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài mặc khải cho các môn đệ cách rõ ràng về sự sống đời sau và điều kiện để được vào Nước Trời.
Tại sao Chúa Giêsu dạy "người giàu có khó vào Nước Trời." Chúng ta có thể dẫn chứng những lý do sau đây:
(1) Người giầu có tin ở mình: thay vì họ phải tin ở tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa.
(2) Người giầu có không khôn ngoan: họ yêu của cải hơn Đấng dựng nên của cải.
(3) Người giầu có không biết tiêu chuẩn để được vào Nước Trời: hoàn toàn là do tình thương và ơn thánh của Thiên Chúa, chứ không do cố gắng của con người, như Đức Giêsu tuyên bố với các môn đệ: "Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được."
2.2/ Phần thưởng Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ: Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng thưa Người: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?" Đức Giêsu đáp: "Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp."
Mục đích của Thiên Chúa khi cho chúng ta vào cuộc đời này không phải để nỗ lực làm giầu; nhưng biết sống làm sao để đạt tới Nước Trời và giúp cho tha nhân cũng đạt được mục đích đó.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần tập làm quen và sống theo những tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa, thay vì sống theo các tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian.
- Vào Nước Trời không do nỗ lực và công lao của con người; nhưng do tình yêu và ơn thánh Chúa ban. Chúng ta cần biết khiêm nhường đón nhận và sống theo sự chỉ dạy của Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
17/8 Thiên Chúa vẫn trung thành dù con người bội phản
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 20 TN1, Năm B
Bài đọc: Judg 2:11-19; Mt 19:16-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa vẫn trung thành dù con người bội phản.
Đọc lịch sử Do-thái, chúng ta phải ngạc nhiên trước tình yêu và sự trung thành của Thiên Chúa dành cho họ; dẫu họ đã bất trung phản bội Ngài không biết bao nhiêu lần. Nhìn vào mối liên hệ của mỗi người với Thiên Chúa, chúng ta cũng không khỏi ngạc nhiên vì Thiên Chúa luôn trung thành, dù biết bao nhiêu lần chúng ta phạm tội phản bội Ngài trong cuộc đời.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng tình yêu trung thành của Thiên Chúa dù cho con người bỏ Thiên Chúa để chạy theo các thần của thế gian. Bài Đọc I tường thuật con cái Israel đã lìa bỏ Đức Chúa để làm tôi thần Baal và các nữ thần Ashtaroth; hậu quả là họ bị bại trận mỗi khi ra quân và phải làm nô lệ cho các dân tộc chung quanh họ. Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn gởi những nhà lãnh đạo đến để giải phóng họ khỏi tay quân thù. Trong Phúc Âm, khi một chàng thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu về con đường để trở nên trọn lành, Chúa trả lời hãy về bán các tài sản chàng có và giúp người nghèo khó, rồi trở lại theo Chúa. Chàng thanh niên buồn bã bỏ đi vì chàng có nhiều của cải.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự phản bội của con cái Israel và tình thương của Thiên Chúa.
1.1/ Sự bất trung của con cái Israel: Đọc Sách Thủ Lãnh, một người có thể nhận ra "bổn cũ tái diễn" của con cái Israel như trình thuật hôm nay:
(1) Con cái Israel đã lìa bỏ Đức Chúa để chạy theo các thần ngoại bang: "Họ đã lìa bỏ Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên, Đấng đã đưa họ ra khỏi đất Ai-cập, và họ đã đi theo các thần ngoại lai trong số các thần của các dân chung quanh. Họ sụp lạy các thần ấy và chọc giận Đức Chúa.
Họ đã lìa bỏ Đức Chúa để làm tôi thần Baal và các nữ thần Ashtaroth."
(2) Hậu quả con cái Israel phải lãnh nhận: "Đức Chúa nổi cơn thịnh nộ với Israel và đã trao họ vào tay quân cướp cho chúng tha hồ bóc lột; Người đã trao họ vào tay kẻ thù chung quanh, nên họ không thể đương đầu nổi với kẻ thù. Cứ mỗi lần họ xuất trận là tay Đức Chúa giáng hoạ trên họ, như Đức Chúa đã phán và thề với họ. Họ lâm cảnh khốn cùng."
(3) Tình thương Thiên Chúa: "Bấy giờ Đức Chúa cho xuất hiện các thủ lãnh để giải thoát họ khỏi tay những kẻ cướp phá họ... Khi Đức Chúa cho xuất hiện các thủ lãnh để giúp họ, thì Đức Chúa ở với vị thủ lãnh và Người cứu họ khỏi tay quân thù bao lâu vị thủ lãnh còn sống, vì Đức Chúa động lòng trắc ẩn trước những tiếng than khóc của họ, khi họ bị đàn áp và ức hiếp."
(4) Tiếp tục phản bội: "Nhưng rồi các thủ lãnh của họ, họ cũng chẳng nghe mà cứ đàng điếm với các thần ngoại lai và sụp lạy các thần đó. Họ vội từ bỏ con đường cha ông họ đã đi, là tuân giữ mệnh lệnh của Đức Chúa; họ đã không noi gương các ngài."
1.2/ Tại sao con cái Israel tiếp tục phản bội Thiên Chúa? Nhìn lại lịch sử của Israel rồi nhìn lại con người mình, chúng ta có thể thấy sự phản bội của mỗi người chúng ta cũng chẳng thua kém gì con cái Israel, vì mỗi khi chúng ta phạm một tội trọng là mỗi lần chúng ta phản bội Thiên Chúa. Tại sao chúng ta xúc phạm đến Thiên Chúa? Có phải vì chúng ta không tin Thiên Chúa? Không! Chúng ta tin Thiên Chúa; nhưng vì yếu đuối con người, nên chúng ta rơi vào chước cám dỗ của ma quỉ, thế gian, và xác thịt. Có phải vì chúng ta không yêu Thiên Chúa? Không! Mỗi khi chúng ta chạy đến tòa cáo giải là chúng ta ăn năn hối hận, vì đã phản bội tình yêu Ngài dành cho chúng ta.
Sự thật là tự con người chúng ta không đủ sức để thắng vượt được những chước cám dỗ của ba thù, chúng ta cần có sức mạnh của ơn thánh đến từ Chúa, mới có thể thắng vượt được. Bài học của con cái Israel giúp chúng ta tin tưởng nơi tình yêu trung thành của Thiên Chúa, để đừng bao giờ thất vọng mỗi khi bị sa ngã; ngược lại, hãy biết can đảm đứng lên thú tội với Thiên Chúa và làm lại cuộc đời.
2/ Phúc Âm: Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi.
2.1/ Điều kiện để được hưởng sự sống đời đời.
(1) Đấng Tốt Lành và điều tốt: Chàng thanh niên đến thưa Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?" Đức Giêsu đáp: "Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi."
Câu hỏi của chàng thanh niên nhấn mạnh vào điều tốt phải làm để kiếm điểm cần thiết vào Nước Trời. Câu trả lời của Chúa Giêsu nhấn mạnh đến lòng tốt của Cha Ngài. Được hưởng sự sống đời đời, trước tiên, không phải là do công lao của con người lập được; nhưng là do bởi sự tốt lành của Thiên Chúa.
(2) Phải tuân giữ các giới răn: Thứ đến, Chúa nói với anh ta: "Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn;" rồi Chúa liệt kê ra 5 giới răn sau cùng của Thập Giới liên quan đến con người, và nhấn mạnh đến nguyên lý "ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình." Điều làm nhiều người ngạc nhiên trong câu trả lời của Chúa là Ngài không đá động gì đến 3 giới răn đầu tiên liên quan đến Thiên Chúa cả. Có thể giải thích điều này như sau: Tất cả Thập Giới có thể thu gọn vào trong hai giới răn: "mến Chúa, yêu người." Hai giới răn này không thể tách rời nhau: nếu một người mến Chúa, người đó phải yêu người. Ai nói mình mến Chúa mà không yêu thương anh em là kẻ nói dối, và sự thật không có nơi người ấy (I Jn 4:20). Chúa chỉ cần thử xem anh có yêu người là biết anh có mến Chúa hay không.
2.2/ Mãnh lực của thần tiền: Người thanh niên ấy nói: "Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều gì nữa không?" Đức Giêsu mời gọi chàng thanh niên: "Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Phân tích câu trả lời của Chúa Giêsu và phản ứng của chàng thanh niên này, chúng ta thấy có những điều sau đây:
(1) Anh đã đặt của cải lên trên Thiên Chúa: Điều này vi phạm trầm trọng giới răn thứ nhất: vì yêu của cải hơn yêu Chúa, nên anh đã buồn rầu bỏ đi. Chúa cảnh cáo chúng ta: "Anh em không thể làm tôi cả Thiên Chúa lẫn của cải."
(2) Anh không "yêu đồng loại như yêu chính mình" như Chúa Giêsu đòi hỏi; vì anh không dám hy sinh của cải anh có để bố thí cho người nghèo.
(3) Anh không hiểu hay không tin Chúa Giêsu khi Ngài bảo anh: nếu anh bán tài sản và cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Anh không hiểu "kho tàng trên trời" có nghĩa gì hay anh không tin Chúa có thể làm được việc đó.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự phải là nguyên lý hướng dẫn cuộc đời mỗi người chúng ta. Đừng bao giờ đặt bất cứ con người nào hay sự vật gì trên Thiên Chúa.
- Mỗi khi yếu đuối phạm tội bất trung với Thiên Chúa, chúng ta đừng nản lòng; nhưng luôn biết trông cậy vào tình yêu trung thành của Thiên Chúa.
- Một điều sẽ giúp chúng ta là cần học hỏi để biết tình thương, uy quyền, và những ơn lành Chúa đã làm cho chúng ta trong cuộc đời; để chúng ta biết đáp đền cho xứng đáng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
16/8 Khao khát được "trường sinh bất tử
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chủ Nhật 20 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Pro 9:1-6; Eph 5:15-20; Jn 6:51-58.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Khao khát được "trường sinh bất tử."
Con người khôn ngoan không bao giờ muốn chết, nhưng muốn được sống "trường sinh bất tử;" nhưng cái chết là một thực tại và nó luôn đe dọa mạng sống con người. Tại sao khao khát trường sinh có thể nói là một bản năng của con người mà cái chết lại cướp đi bản năng đó. Con người có hy vọng gì để đạt được nỗi khao khát trường sinh không?
Hy vọng lớn lao và may mắn cho con người: Niềm tin và đạo lý Công Giáo dạy: (1) Nỗi khao khát trường sinh là một khao khát có thật vì Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người, muốn con người được trường sinh bất tử. (2) Vì tội lỗi mà con người phải chết; nhưng Thiên Chúa đã có sẵn Kế Hoạch Cứu Độ để giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh nỗi ước ao được sống trường sinh của con người. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Châm Ngôn nhân cách hóa sự khôn ngoan và nêu lên một điều kiện để con người được sống: phải "ăn bánh và uống rượu" do khôn ngoan làm ra. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Ephesô phải biết sống như những người khôn ngoan bằng cách theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để tìm ra và làm theo thánh ý Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải cho con người bí quyết để được trường sinh bất tử: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta pha chế!
1.1/ Đức Khôn Ngoan chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng: Tác giả Sách Châm Ngôn đã nhân cách hóa khôn ngoan như một người phụ nữ, bằng cách diễn tả các đặc tính của khôn ngoan như sau:
+ Khôn ngoan luôn chắc chắn và bền vững: "Đức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình, dựng lên bảy cây cột." Nhà được dựng bằng 7 cột là nhà chắc chắn, không gì có thể lay chuyển được.
+ Khôn ngoan chuẩn bị bữa ăn sẵn sàng bằng cách: "hạ thú vật, pha chế rượu, dọn bàn ăn." Khách được mời tham dự không tốn công của, và không thiếu bất cứ gì.
+ Khôn ngoan mời tất cả mọi người, không trừ ai cả: Nàng sai đầy tớ đi mời khách đến dự tiệc, và chính Đức Khôn Ngoan còn lên các nơi cao trong thành phố và kêu gọi mọi người.
1.2/ Nàng Khôn Ngoan đi tìm kiếm con người.
(1) Hai hạng người mà Nàng Khôn Ngoan tìm kiếm:
+ ngây thơ (aifrôê): là những người thiếu khôn ngoan và dễ bị người khác đánh lừa.
+ khờ dại (frenôê): là những người thiếu hiểu biết, nên họ dễ làm liều.
(2) Mục đích của Nàng Khôn Ngoan: "Các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết." Nàng sẽ dạy cho con người hiểu biết thánh ý Thiên Chúa để con người được sống.
(3) Điều kiện: "Hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta pha chế!" Muốn được sống, con người phải ăn bánh và uống rượu do chính Nàng Khôn Ngoan làm.
Ngôi Lời (ho lógos) được Gioan đồng nhất với Đức Kitô, Ngài là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, và nhờ Ngài mà muôn vật được tạo thành.
2/ Bài đọc II: So sánh người khôn ngoan và người khờ dại:
Thánh Phaolô khuyên nhủ các tín hữu Êphesô: "Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan." Ngài giúp các tín hữu xét mình để nhận ra sự khác biệt giữa hai hạng người:
2.1/ Người khôn ngoan: là những người:
+ Sống theo sự hướng dẫn khôn ngoan của Thánh Thần.
+ Biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối. Quan niệm của người Do-thái về thời gian: hiện tại rất xấu và tương lai rất tốt; giao thời giữa hai thời gian là cuộc khủng hoảng. Thánh Phaolô có lẽ nghĩ các tín hữu đang sống trong buổi giao thời.
+ Biết tìm thánh ý Chúa: "anh em đừng hoá ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa."
+ Hiểu biết khôn ngoan sẽ dẫn tới các hành động khôn ngoan: "Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha."
2.2/ Người khờ dại là những người:
+ Sống theo ý muốn xác thịt: say sưa rượu chè, và rượu chè đưa tới truỵ lạc.
+ Không biết lợi dụng thời giờ Chúa ban cho: phí thời giờ vào các việc vô ích, không đem lại lợi ích tương lai cho đương sự.
+ Vì không biết thánh ý Thiên Chúa nên người khờ dại chỉ biết làm theo ý riêng mình; Người chỉ biết làm theo ý mình sẽ không đạt được đích mà Thiên Chúa mong muốn cho cuộc đời của họ.
3/ Phúc Âm: Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.
3.1/ Phân tích từ ngữ Hy-lạp: Lời tuyên bố của Chúa Giêsu sau đây cần được nghiên cứu từng từ ngữ và cách cấu trúc: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống."
+ Cụm từ "Ergô, eimi" theo sau bởi một thành ngữ xảy ra 7 lần trong Gioan, và túc từ theo sau đều mặc khải một sứ vụ đặc biệt của Đức Kitô như: Ta là Bánh Hằng Sống; Mục Tử Tốt Lành; Cửa Chuồng Chiên; Cây Nho; Sự Sống Lại và là sự sống; Ánh Sáng Thế Gian; Đường, Sự Thật, và là Sự Sống.
+ Túc từ "ho artos ho zôê" có thể mang nhiều nghĩa khác nhau tùy theo cách dịch:
(1) Có thể dịch là "bánh hằng sống hay bánh trường sinh," có nghĩa bánh không bao giờ hư nát. Khi áp dụng vào Chúa Giêsu, có nghĩa Chúa là Bánh Hằng Sống.
(2) Hay có thể dịch là "bánh mang sự sống thần linh." Khi áp dụng vào Chúa Giêsu, có nghĩa, Ngài là bánh mang sự sống thần linh cho con người như trong (Jn 6:33).
(3) Hay cũng có thể dịch là "bánh đang sống." Khi áp dụng vào Chúa Giêsu, có nghĩa Ngài là Bánh đang sống.
Theo văn mạch và nội dung, nghĩa thứ (2) có lẽ thích hợp hơn cả; mặc dù hai nghĩa kia vẫn đúng với Chúa Giêsu.
+ Cụm từ: "từ trời xuống" nhắc nhở cho con người biến cố Thiên Chúa cho manna rơi xuống từ trời làm lương thực cho con cái Israel suốt 40 năm trong sa mạc. Manna là hình ảnh báo trước của Bí-tích Thánh Thể. Bánh mang lại sự sống đời đời có thực và có nguồn gốc từ trời.
+ "Bánh tôi sẽ ban tặng:" nhấn mạnh đến việc cho đi cách nhưng không như trong Bài Đọc I: mọi sự đã được chuẩn bị sẵn sàng, ăn mà không phải tốn tiền!
+ Bánh Hằng Sống chính là thịt (sárx) của Chúa Giêsu. Ngay từ đầu Tin Mừng, Gioan đã dùng danh từ này để nói về mầu nhiệm Nhập Thể: Và Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm (sárx) và đã cư ngụ giữa chúng ta.
+ Phản ứng của người Do-thái: Điều họ tranh luận ở đây không phải về nguồn gốc của Chúa Giêsu, nhưng là thịt của Ngài: Làm sao một người đang sống có thể lấy thịt của mình cho kẻ khác ăn? Trừ phi người đó phải chết! Điều khó khăn nữa là người Do-thái không có thói quen ăn thịt người.
3.2/ Sự cần thiết của bí-tích Thánh Thể: Đức Giêsu nói với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình."
+ Công thức "amen amen = thật, tôi bảo thật" báo hiệu trước một chân lý sẽ được mặc khải trong Tin Mừng Gioan. Chân lý Chúa Giêsu mặc khải ở đây là "Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình." Nếu Chúa Giêsu không mặc khải chân lý cho con người, sẽ không có ai biết được.
+ Hai động từ ăn (esthíô) và uống (pinô) mà Gioan dùng ở đây là hai động từ căn bản dùng trong việc ăn uống của con người: như ăn bánh và uống nước.
+ Chúa Giêsu phân biệt hai sự sống: thể lý (psyche) và thần linh (zôê). Nếu không ăn thịt và uống máu Chúa, con người vẫn có sự sống thể lý; nhưng không có sự sống thần linh.
+ Sự sống muôn đời (zôê aiônion): Sự sống thần linh sẽ dẫn con người đến sự sống muôn đời: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết." Như Chúa Giêsu khi mang thân xác con người, mặc dù con người vẫn phải chết cách thể lý, nhưng sẽ được sống lại vinh hiển, và sẽ không bao giờ phải chết nữa.
+ Thịt và Máu Chúa là lương thực nuôi sống con người: "vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống." Hai danh từ dùng để so sánh: của ăn (brôsin) và của uống (pôsin) là hai danh từ dùng để chỉ lương thực căn bản của con người.
+ Sự sống thần linh là sự sống của chính Thiên Chúa: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy." Chúa Giêsu và người rước Chúa trở nên một, như thánh Phaolô tuyên bố: "Tôi sống, nhưng không còn là tôi; mà là chính Đức Kitô sống trong tôi."
+ Sự sống thần linh giúp con người hiểu biết sự khôn ngoan và các mầu nhiệm của Thiên Chúa mà trí khôn con người không hiểu thấu được. Sự khôn ngoan có được là do Thánh Thần của Đức Kitô hướng dẫn con người. Sự sống thần linh giúp cho con người có sức mạnh để đáp ứng lời mời gọi nên trọn lành của Đức Kitô mà sức riêng con người không thể làm được. Ví dụ, con người có được tình yêu nguyên thủy của Thiên Chúa để yêu thương kẻ thù, làm ơn và cầu nguyện cho người ghét mình.
3.3/ Hậu quả của việc lãnh nhận bí-tích Thánh Thể: Nếu ăn sẽ sống, không ăn sẽ chết.
+ Chúa Giêsu sống bằng chính sự sống của Chúa Cha: "Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy." Trong mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu mang hai bản tính: Thiên Chúa và nhân loại: bản tính Thiên Chúa không bao giờ chết, bản tính nhân loại chết khi Chúa Giêsu tắt thở trên Thánh Giá; nhưng được phục sinh ngay vì bản tính Thiên Chúa. Người rước Mình và Máu Đức Kitô cũng mang hai sự sống thể lý và thần linh. Hai sự sống này không tiêu diệt nhau nhưng bổ xung cho nhau.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Để được sống trường sinh bất tử, chúng ta phải khôn ngoan tìm ra thánh ý của Thiên Chúa và vâng lời làm theo những gì Ngài dạy.
- Chúng ta phải tin vào những gì Đức Kitô mặc khải về bí-tích Thánh Thể và thường xuyên lãnh nhận Bí-tích này.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
15/8 Khiêm nhường làm theo thánh ý Thiên Chúa để phục vụ tha nhân
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Đức Mẹ Lên Trời
Bài đọc: Rev 11:19a,12:1-6a, 10ab; I Cor 15:20-27; Lk 1:39-56.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Khiêm nhường làm theo thánh ý Thiên Chúa để phục vụ tha nhân.
Thiên Chúa luôn yêu thương, chúc lành, và mong muốn mọi sự tốt lành cho con người; ngược lại, ma quỉ luôn ghen tương, phá hủy, và mong muốn con người làm nô lệ cho chúng. Để thực hiện điều này, chúng luôn tìm mọi cách để đề cao sự tự do và tính kiêu hãnh nơi con người. Trong Vườn Địa Đàng, chúng đã cám dỗ cặp vợ chồng đầu tiên, ông Adong và bà Evà, dùng tự do để bất tuân lệnh Thiên Chúa. Hậu quả của sự bất tuân làm con người xa cách Thiên Chúa và phải chết. Để chuộc tội cho con người, Mẹ Maria và Đức Kitô là Adam và Eve mới, đã chọn một phương cách hoàn toàn ngược lại: tuyệt đối khiêm nhường và vâng lời làm theo mọi ý định của Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong những gì Mẹ Maria và Đức Kitô đã vâng lời làm theo thánh ý Thiên Chúa, để mang lại sự sống mà con người đã đánh mất. Trong Bài Đọc I, Sách Khải Huyền nói về cuộc tranh chấp giữa Người Phụ Nữ và Con Mãng Xà: Con thú dữ đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô so sánh và mặc khải Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: "Nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Adong mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống." Trong Phúc Âm, khi được chị họ khen ngợi là người có phúc hơn mọi phụ nữ, Mẹ Maria đã khiêm nhường tuyên xưng: tất cả những gì Mẹ có được đều do bởi Thiên Chúa. Mẹ chỉ là người nữ tỳ hèn hạ được Đấng Tối Cao cho cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Kẻ ngày đêm tố cáo anh em của ta trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài.
1.1/ Cuộc giao chiến giữa Thiên Chúa và ma quỉ: Tác-giả Sách Khải Huyền tường thuật thị kiến ông thấy xảy ra trên không trung: Hai nhân vật chính ông thấy xuất hiện là người Phụ Nữ đang mang thai và con Mãng Xà đang chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà.
Hầu như mọi người đều cho con Mãng Xà này là hiện thân của Satan vì những đặc tính mà tác giả đã đề cập tới: "đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất." Nhưng ai là người Phụ Nữ mà tác giả mô tả ở đây? Có hai ý kiến khác nhau:
(1) Người Phụ Nữ là Đức Mẹ và Người Con sắp sinh là Chúa Giêsu: Ý kiến này rất phổ thông trong thời Trung Cổ, đặt căn bản trên sự kiện sau: Trước hết, tác giả đề cập đến sự hiện diện của Thiên Chúa trong Hòm Bia của Cựu Ước để so sánh với Hòm Bia của Tân Ước là cung lòng Mẹ Maria khi cưu mang Đức Kitô, Người Con của Thiên Chúa. Thứ đến, tác giả mô tả vinh quang tuyệt đỉnh của Đức Mẹ: "mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao." Ngoài Đức Mẹ, không một ai được mô tả có vinh quang tuyệt đỉnh như thế. Sau cùng, tác giả cũng đề cập đến sứ vụ và uy quyền của người con: "người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân."
(2) Giáo Hội và các tín hữu: Ý kiến này có từ thời sơ khai của Giáo Hội, cho người Phụ Nữ là Mẹ Giáo Hội và người con là mỗi tín hữu. Con Mãng Xà tượng trưng cho đế quốc Rôma, vì luôn tìm dịp để bách hại đạo thánh Chúa. Người theo ý kiến này trưng dẫn các lý do thần học: Đức Mẹ có thể bị đau đớn và quằn quại khi sinh con như câu số 12:2 mô tả không? Đức Mẹ có phải trốn vào sa mạc trong thời hạn 1,260 ngày như câu 12:6 mô tả không? Sau cùng, phải cắt nghĩa câu 12:17 thế nào khi con Mãng Xà "đi giao chiến với những người còn lại trong giòng dõi của Bà, những người giữ lời chứng của Đức Giêsu!" Ngoài ra, hình ảnh người Phụ Nữ rất phổ thông trong văn chương cổ điển của Đông Phương và Kinh Thánh (Isa 50:1, Jer 50:12), được dùng để chỉ một dân tộc, một quốc gia, hay một thành phố.
Ý kiến thứ nhất được nhiều người đồng ý hơn; tuy nhiên, ý kiến này không hoàn toàn đối nghịch với ý kiến thứ hai, mà còn bao hàm nó, vì Đức Mẹ là hiện thân của Giáo Hội; các tín hữu là môn đệ của Đức Kitô và cũng là con cái của Mẹ. Ma quỉ không những muốn nuốt chửng Đức Kitô mà còn tất cả những ai tin vào Ngài. Tác giả có thể có hai hình ảnh khi mô tả thị kiến: cá nhân như Mẹ Maria và Đức Kitô, tập thể như Giáo Hội và các tín hữu.
1.2/ Quyền lực Thiên Chúa chiến thắng quyền lực của ma quỉ: "Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày." Sa mạc là chỗ ẩn phổ thông cho các tín hữu khi bị bách hại. Hình ảnh con cái Israel trong sa mạc dường như được nhấn mạnh ở đây. Con số hay được dùng trong Kinh Thánh: 1,260 ngày tương đương với 42 tháng hay 3 năm rưỡi, để chỉ một thời gian khá lâu, nhưng không vĩnh cửu.
Tác giả nghe có tiếng hô to trên trời: "Thiên Chúa chúng ta thờ, giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài." Đây là lời báo trước kết quả của cuộc giao chiến: Thiên Chúa và Đức Kitô sẽ toàn thắng quyền lực của ma quỉ. Satan và các đồng bọn của chúng sẽ bị trừng trị và tiêu diệt.
2/ Bài đọc II: Nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại.
2.1/ Đức Kitô cứu nhân loại khỏi nọc độc của sự chết: Thánh Phaolô so sánh hai sự kiện lịch sử quan trọng: sự sa ngã của ông Adong trong Vườn Địa Đàng và sự phục sinh vinh hiển của Đức Kitô trong mồ thánh để nói lên hậu quả xảy ra cho con người. Vì ông Adong đã bất tuân Thiên Chúa và phạm tội, nên nọc độc của tội di truyền đến mọi người, và hậu quả của tội là sự chết. Hậu quả này được đảo ngược bởi Đức Kitô, vì Ngài đã vâng lời Thiên Chúa gánh lấy hậu quả tội lỗi cho con người; và vì Ngài đã sống lại vinh hiển nên con người không còn phải chết nữa.
2.2/ Đức Kitô sẽ trao lại vương quốc cho Cha Ngài: "Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha." Thoạt đọc, một người có thể cho Đức Kitô không ngang hàng với Thiên Chúa Cha; nhưng sự thực không phải như thế.
Chúng ta có thể dùng một hình ảnh để suy luận điều thánh Phaolô muốn diễn tả ở đây: như một vị tướng lãnh nhận sứ vụ từ nhà vua để chinh phục quân thù, Đức Kitô cũng lãnh nhận sứ vụ từ Chúa Cha để thi hành. Khi Ngài đã hoàn tất sứ vụ tiêu diệt thù địch cuối cùng là sự chết, Ngài trao lại con người đã được cứu chuộc cho Thiên Chúa; giống như vị tướng trao lại lãnh thổ đã bị xâm lấn cho vua mình.
3/ Phúc Âm: Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới.
3.1/ Làm theo thánh ý Thiên Chúa là lý do được Thiên Chúa chúc phúc.
(1) Chị họ Elisabeth nhận ra sự cao trọng của Mẹ Maria: Khi Mẹ Maria vào nhà ông Zachariah và chào hỏi bà Elisabeth, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà Elisabeth được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng." Người con bà Elisabeth đang cưu mang trong lòng là Gioan Tẩy Giả, hai thai nhi đã nhận ra nhau do Thánh Thần tác động; và Bà Elisabeth cũng nhận ra diễm phúc được làm Mẹ Thiên Chúa của Maria, người em họ mình.
(2) Lý do của sự cao trọng và được chúc phúc: Bà Elisabeth nhận ra lý do Maria được chúc phúc, và nói: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em." Con người được chúc phúc là vì niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa, chứ không vì bất cứ việc gì con người làm. Mẹ Maria tin vững mạnh nơi Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, và Mẹ đã thưa lời "Xin Vâng" với sứ thần Gabriel.
3.2/ Khiêm nhường phục vụ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân: Theo sự quan phòng của Thiên Chúa, người tín hữu cao trọng là người biết khiêm nhường phục vụ tha nhân.
(1) Khiêm nhường phục vụ Thiên Chúa: Mẹ Maria biết nguồn gốc của sự cao trọng của Mẹ là nơi Thiên Chúa; Mẹ chỉ là nữ tỳ hèn hạ của Ngài. Vì thế, Mẹ Maria đáp trả lời khen ngợi của chị họ Elisabeth như sau: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!"
Ngược lại với cách đáp trả của Đức Mẹ, là cách con người kiêu hãnh nhận những gì Thiên Chúa và tha nhân đã làm cho, là của mình. Họ nghĩ vì họ có tài đức, hay có vận may, hay nhờ những cố gắng riêng, mà họ được như hiện tại. Bài kinh Magnificat là một thức tỉnh cho loại người này, họ phải biết khôn ngoan nhận ra và cư xử thích đáng trước khi quá muộn: "Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời."
(2) Khiêm nhường phục vụ tha nhân: Lòng yêu mến Thiên Chúa phải được bày tỏ qua những việc làm cụ thể cho tha nhân. Mẹ Maria đã chọn đi thăm viếng và ở lại phục vụ người chị họ mình ba tháng, vì Mẹ biết chị họ đã cao niên và son sẻ, dù Mẹ có thể chọn ở nhà để dưỡng thai. Người kiêu hãnh có thể nghĩ: chị họ phải đi thăm và phục vụ mình, vì mình là Mẹ của Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Chúng ta cần sáng suốt để nhận định:
- Thiên Chúa là Đấng uy quyền và khôn ngoan: Ngài phác họa và điều khiển toàn bộ Kế Hoạch Cứu Độ cho con người qua sự vâng lời và khiêm nhường thực hiện của Đức Kitô.
- Mẹ Maria đã khôn ngoan nhận ra Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, và khiêm nhường cộng tác để cung cấp cho Đức Kitô một thân xác, cần thiết cho Kế Hoạch Cứu Độ.
- Noi gương Mẹ, chúng ta cầu xin để chúng ta cũng nhận ra thánh ý Thiên Chúa, và khiêm nhường cộng tác để mưu cầu phần rỗi cho chúng ta và cho tha nhân. Đừng bao giờ rơi vào bẫy kiêu hãnh của ma quỉ để đánh cắp những ơn lành của Thiên Chúa và lạc xa đường cứu độ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
14/8 Sống trung thành với ơn gọi của mình.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 19 TN1
Bài đọc: Jos 24:1-13; Mt 19:3-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sống trung thành với ơn gọi của mình.
Có nhiều lý do con người vịn vào để từ chối giữ lòng trung thành: tại không biết, tại hoàn cảnh, tại gia đình, tại người khác, tại yếu đuối ... Nhưng Thiên Chúa dạy: Để chu toàn hai giới răn "mến Chúa, yêu người," con người phải trung thành với Thiên Chúa và với tha nhân trong mọi trạng huống của cuộc đời. Con người dễ dàng trung thành lúc vui vẻ, hạnh phúc, bình an; nhưng những lúc khó khăn hoạn nạn mới chứng tỏ tình yêu trung thành của con người. Thánh M. Kolbe mà chúng ta mừng hôm nay, đã chứng tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân bằng cách tình nguyện chết thay cho một chàng thanh niên để anh có thể sống và chăm sóc vợ con của anh.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra những lý do tại sao con người cần phải trung thành với Thiên Chúa và với tha nhân. Trong Bài Đọc I, ông Joshua triệu tập tất cả con cái Israel lại để nhắc nhở cho họ biết sự trung thành của Thiên Chúa qua những gì Ngài đã làm cho tổ tiên và dân tộc Israel. Mục đích là để họ nhận ra tình yêu của Thiên Chúa và sống trung thành với Ngài. Trong Phúc Âm, những người Pharisees đến hỏi Chúa về việc có được ly dị vợ vì bất cứ lý do gì hay không? Chúa Giêsu trả lời cách tuyệt đối: không được; vì đó là thánh ý của Thiên Chúa ngay từ ban đầu. Ngoài ra, Chúa Giêsu cũng muốn nói tới sự trung thành trong đời sống độc thân vì Nước Trời: vì yêu Chúa và tha nhân, có những người tình nguyện hy sinh cả cuộc đời cho phần rỗi linh hồn của tha nhân.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Vì Thiên Chúa đã luôn trung thành, anh em cũng phải trung thành với Ngài:
Ông Joshua quy tụ mọi chi tộc Israel ở Shechem, và nhắc nhở cho toàn dân biết tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho dân tộc họ:
(1) Những gì Ngài đã làm cho các tổ-phụ Abraham, Isaac và Jacob: Đây là ba Tổ phụ của con cái Israel. Bắt đầu với Abraham, Thiên Chúa chọn ông khi ông chưa biết Thiên Chúa và vẫn đang thờ kính các thần ngoại. Ngài chọn ông và hứa sẽ ban hai điều: con cái đông đúc như sao trên trời dù ông hiếm hoi, và cho ông xem miền Đất Hứa, nơi mà con cháu ông sẽ chiếm hữu và sinh sống sau này. Điều thứ nhất được khơi mào khi Thiên Chúa ban cho ông Isaac trong lúc tuổi già. Từ đó, Ngài đã ban cho Isaac sinh ra hai giòng tộc lớn là Jacob và Esau. Ngài cho Esau chiếm hữu núi Seir. Còn Jacob và các con thì xuống Ai-cập.
(2) Những gì Ngài đã làm cho Moses và con cái Israel: Khi Giuse bị bán sang Ai-cập, Thiên Chúa quan phòng để ông Giuse đưa cha và tất cả anh em sang Ai-cập để tránh nạn đói lớn đang xảy ra thời đó. Khi con cái Israel bị đối xử tàn nhẫn như nô lệ bên Ai-cập, Thiên Chúa đã truyền cho Moses và Aaron lãnh đạo dân ra khỏi Ai-cập bằng những uy quyền qua việc gieo rắc bảy tai ương và đưa dân vượt qua Biển Đỏ.
(3) Những gì Ngài đã chuẩn bị cho dân chúng trước khi vào Đất Hứa: Ta đã đem các ngươi vào đất người Amorites. Chúng ở bên kia sông Jordan. Chúng đã giao chiến với các ngươi, nhưng Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. Các ngươi đã chiếm đất của chúng, và Ta đã tiêu diệt chúng trước mắt các ngươi.
(4) Những gì Ngài đã làm cho con cái Israel trong Đất Hứa: "Các ngươi đã qua sông Jordan và tới Jericho. Những người làm chủ Jericho giao chiến với các ngươi: Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. Ta đã thả ong bầu bay đi trước các ngươi; chúng đuổi hai vua Amorites đi cho khuất mắt các ngươi; chính ong bầu chứ không phải cung kiếm của các ngươi đã đuổi chúng.
Kết luận: Với chiến thắng Jericho va những chiến thắng sau này, Thiên Chúa đã hoàn tất lời hứa thứ hai là đem dân vào Đất Hứa mà Ngài đã hứa với Abraham: ''Ta ban cho các ngươi đất các ngươi đã không vất vả khai phá, những thành các ngươi đã không xây mà được ở, những vườn nho và vườn ô-liu các ngươi đã không trồng mà được ăn." Khi nhắc nhở những điều này, ông Joshua muốn cho con cái Israel thấy tình yêu và lòng trung thành của Thiên Chúa: Ngài luôn thực hiện những gì Ngài hứa dù con cái Israel luôn cứng lòng phản bội Ngài. Ông Joshua mong muốn dân nhận ra để rồi họ biết trung thành yêu thương và giữ các Lề Luật của Ngài, như chúng ta sẽ nghe ngày mai.
2/ Phúc Âm: Thiên Chúa ban ơn thánh đủ để con người trung thành trong ơn gọi của mình.
2.1/ Trung thành trong ơn gọi gia đình: Trước tiên, chúng ta cần biết một ít kiến thức về hôn nhân và lề luật liên quan đến ơn gọi gia đình và sự ly dị của người Do-thái. Người Do-thái coi trọng việc kết hôn vì qua đó, họ giữ lệnh truyền của Thiên Chúa: "Hãy sinh sôi cho đầy mặt đất." Vì thế, kết hôn là một bổn phận phải làm, trừ những người muốn đình hoãn việc kết hôn để học hỏi Lề Luật. Về vấn đề ly dị, Sách Đệ Nhị Luật viết: "Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng (indecency, ervat trong MT, askemon trong LXX), thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà" (Deut 24:1). Từ indecency rất mơ hồ và có hai nghĩa chính: (1) không thích hợp; và (2) những hành vi vô luân. Có hai trường phái chính cắt nghĩa chữ này như sau: Trường phái bảo thủ Shammai hiểu từ này có nghĩa "ngoại tình;" người chồng chỉ có thể ly dị vợ mình vì lý do vợ ngoại tình mà thôi. Trường phái cấp tiến Hillel hiểu theo nghĩa thứ nhất: tất cả những gì người chồng thấy không xứng đáng nơi người vợ: không biết nấu nướng, đầu xù tóc rối nơi công cộng, mạ lỵ chồng... Rabbi Akiba còn đi xa hơn: nếu chồng không còn thấy nét quyến rũ nơi vợ mình nữa. Với sự hiểu biết đó, có mấy người Pharisees đến gần Đức Giêsu để thử Người. Họ nói: "Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?"
Chúa đáp: "Các ông không đọc thấy điều này sao: "Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: "Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly."" Trước hết, đây là ý muốn và là nguyên lý sống của Thiên Chúa cho con người; điều mà con người phải cố gắng giữ để nên trọn lành như Thiên Chúa, Đấng luôn trung thành với con người.
Họ thưa với Người: "Thế sao ông Moses lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?" Người bảo họ: "Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Moses đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu. Tôi nói cho các ông biết: Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình." Thiên Chúa cũng như ông Moses quá hiểu sự cứng lòng của con người, nên có những luật riêng để giải thoát con người khỏi những trường hợp khó khăn ngoài ý muốn. Dù con người không đạt tới mức trọn lành như Thiên Chúa mong muốn, ông Moses hay Giáo Hội cũng phải giúp con người vượt qua các khó khăn cách tốt nhất có thể; nhưng không bao giờ như phái Hillel chủ trương.
2.2/ Trung thành trong ơn gọi độc thân vì Nước Trời: Các môn đệ thưa Người: "Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn."
Chúa Giêsu lợi dụng cơ hội hay do Matthew sắp xếp, để đề cập tới những người sống trong ơn gọi độc thân. Ngài đưa ra ba trường hợp: Thứ nhất, những người không có khả năng để sống ơn gọi gia đình ngay từ lúc lọt lòng mẹ. Kế đến những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn, như trường hợp các hoạn quan trong triều đình. Sau cùng là những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời, những người hy sinh để hoàn toàn dành thời giờ cho việc rao giảng Tin Mừng và cứu rỗi linh hồn tha nhân. Đối với hạng người sau cùng này, Thiên Chúa ban ơn thánh đủ để họ có thể trung thành với ơn gọi tu trì.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Để yêu thương Thiên Chúa và tha nhân, chúng ta cần phải trung thành với ơn gọi của mình; nhất là trong những lúc đương đầu với thử thách và đau khổ của cuộc đời.
- Khi Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên trọn lành, Ngài ban ơn thánh đủ để chúng ta có thể làm chuyện đó. Chúng ta không làm được là tại chúng ta không sống bằng sức mạnh của Thiên Chúa, vì quá lơ là với Thiên Chúa và với các Bí-tích Đức Kitô đã thiết lập.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
13/8 Thiên Chúa ban ơn đầy đủ để con người có thể hoàn thành sứ vụ
Thứ Năm Tuần 19 TN1
Bài đọc: Jos 3:7-10a, 11, 13-17; Mt 18:21-19:1.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa ban ơn đầy đủ để con người có thể hoàn thành sứ vụ.
Có những người vì muốn bào chữa mình, nên cho Thiên Chúa bắt con người làm chuyện không thể; chẳng hạn: trở nên trọn lành, tha thứ cho kẻ thù, hay giữ các giới răn. Họ quên đi một điều Thiên Chúa dựng nên con người, Ngài biết rõ con người hoạt động làm sao và cần những gì. Nếu Thiên Chúa bắt con người Ngài làm chuyện không thể, Ngài không còn là một Thiên Chúa uy quyền và khôn ngoan nữa.
Các Bài Đọc hôm nay muốn dẫn chứng Thiên Chúa luôn ban ơn đầy đủ để con người có thể hoàn tất sứ vụ Thiên Chúa trao. Trong Bài Đọc I, sau khi ông Moses qua đời, Thiên Chúa trao cho ông Joshua sứ vụ lãnh đạo dân vào Đất Hứa. Đây là sứ vụ rất khó khăn dưới cái nhìn của con người: làm sao con cái Israel có thể giao chiến với những người bản xứ và chiếm xứ sở của họ được? Nhưng Thiên Chúa tỏ cho con cái Israel biết uy quyền và việc Ngài chọn Joshua bằng việc cho họ vượt qua sông Jordan ráo chân; biến cố này nhắc cho con cái Israel việc Ngài đã cho họ vượt qua Biển Đỏ để họ tin vào Thiên Chúa và vào ông Joshua. Trong Phúc Âm, khi Phêrô hỏi Chúa Giêsu về việc phải tha thứ cho anh/chị/em bao nhiêu lần là đủ? Chúa Giêsu trả lời phải tha thứ luôn luôn và Ngài đưa ra một dụ ngôn để dẫn chứng: con người không những có khả năng để làm việc đó, mà còn phải làm việc đó nếu muốn vào Nước Trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa làm phép lạ cho con cái Israel vượt qua sông Jordan.
1.1/ Thiên Chúa ban ơn xứng đáng để nhà lãnh đạo có thể chu toàn sứ vụ: Đức Chúa phán với ông Joshua: "Hôm nay, Ta bắt đầu cho ngươi được nên cao trọng trước mắt toàn thể con cái Israel, để chúng biết là Ta sẽ ở với ngươi như Ta đã ở với Moses. Còn ngươi, ngươi sẽ ra lệnh này cho các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước: khi đến bờ sông Jordan, các ngươi hãy đứng lại trong sông Jordan."
Thiên Chúa biết lãnh đạo dân chúng, nhất là trong hoàn cảnh khó khăn, là điều không dễ dàng; vì thế, Thiên Chúa vừa phải dọn lòng cho dân tin vào ông Joshua để họ vâng lời ông, vừa phải tỏ cho dân biết cánh tay uy quyền của Ngài luôn ở với dân, để họ có can đảm tiến vào Đất Hứa.
1.2/ Phép lạ vượt sông Jordan có thể so sánh với phép lạ trên Biển Đỏ: Được mặc khải của Thiên Chúa, ông Joshua cho gọi con cái Israel họ và nói cho họ biết những việc Thiên Chúa sắp làm: "Dựa vào điều này, anh em sẽ biết là Thiên Chúa hằng sống ngự giữa anh em và Người sẽ hoàn toàn đuổi người Canaanites, Hittites, Hivites, Perizzites, Girgashites, Amorites, và người Jebusites cho khuất mắt anh em. Này đây, Hòm Bia Giao Ước của Vị Chúa Tể toàn cõi đất sắp dẫn đầu anh em mà qua sông Jordan. Và khi bàn chân các tư tế khiêng Hòm Bia của Đức Chúa, Vị Chúa Tể toàn cõi đất, vừa đặt xuống nước sông Jordan, thì nước sông Jordan, nước mạn ngược chảy xuống, sẽ bị chặn lại và dừng lại thành một khối duy nhất."
Giống như khi ông Moses đưa con cái Israel vượt qua Biển Đỏ, họ không có bất cứ một phương tiện hàng hải nào để vượt sông Jordan; nhưng trông cậy hoàn toàn vào cánh tay uy quyền của Thiên Chúa. Ngài muốn cho dân biết Ngài luôn ở với và bảo vệ họ qua "Hòm Bia Giao Ước." Ông Joshua truyền lệnh cho các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước dẫn đầu dân. Lúc những người khiêng Hòm Bia vừa đến sông Jordan, và chân các tư tế khiêng Hòm Bia vừa nhúng vào nước ở ven bờ, thì nước mạn ngược chảy xuống dừng lại, dựng đứng thành một khối duy nhất trong một khoảng rất dài, ở Asam là thành ở cạnh Zarethan; còn nước chảy xuống biển Arabah, tức là Biển Muối, thì bị chặn hẳn lại, và dân đã qua sông, đối diện với Jericho. Các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa đứng yên tại chỗ, nơi đất khô cạn giữa lòng sông Jordan, trong khi toàn thể Israel qua sông trên đất khô cạn, cho đến khi toàn dân đã qua hết.
2/ Phúc Âm: Thiên Chúa ban cho con người có khả năng để tha thứ.
2.1/ Thiên Chúa tha thứ cho con người: Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" Đức Giêsu đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy." Người Việt-nam chúng ta có câu "quá tang ba bận;" tha thứ nhiều lắm cũng chỉ tới lần thứ ba là phải làm cho ra chuyện. Phêrô nghĩ có nhiều lắm thì cũng chỉ bảy lần là quá nhiều. Câu trả lời của Chúa Giêsu có nghĩa bất cứ lúc nào anh em ăn năn xin tha lỗi, chúng ta phải tha thứ hết. Câu trả lời này chắc chắn làm Phêrô và nhiều người chúng ta phải sửng sốt, vì làm sao có thể tha thứ nhiều lần như thế? Câu chuyện Chúa Giêsu đưa ra làm chúng ta phải suy nghĩ:
(1) Được tha nợ nhiều: "Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: "Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết." Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ." Nếu chúng ta thành tâm xét mình, chúng ta đã được Thiên Chúa tha thứ cho không biết bao nhiêu lần tội to tội nhỏ, từ ngày có trí khôn đến giờ. Nếu chúng ta đã được Thiên Chúa rộng lượng tha thứ như thế, Ngài có lý do để đòi chúng ta cũng phải tha thứ cho anh em.
(2) Nhưng lại không tha nợ ít cho tha nhân: Chúa Giêsu tiếp tục kể: "Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: "Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh." Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ." Trước tiên, chúng ta nói về số tiền nợ, 100 quan tiền chỉ là món tiền quá nhỏ so với 10,000 yến vàng. Điều này chứng minh sự keo kiệt của đương sự. Thứ đến, chúng ta xét về thái độ đối xử: y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: "Trả nợ cho tao!" Đây là một kẻ tiểu nhân mang hai mặt: khiêm nhường giả tạo trước người có quyền thế, nhưng thẳng tay đàn áp người cô thân cô thế. Sau cùng, anh là kẻ không có lòng thương cảm, anh sẵn sàng buộc tội và bỏ tù tha nhân vì một món nợ quá nhỏ bé.
2.2/ Thiên Chúa muốn con người phải tha thứ cho tha nhân: Anh làm như thế vì anh tưởng không ai biết hành động tiểu nhân anh làm; nhưng anh không ngờ Thiên Chúa có mắt. Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?" Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. Rồi Chúa Giêsu kết luận: "Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tin vào sự khôn ngoan và uy quyền của Thiên Chúa. Khi Chúa đòi chúng ta phải làm điều gì hay trao cho chúng ta một sứ vụ, Ngài luôn ban ơn đủ để chúng ta có thể làm điều Ngài đòi hỏi hay chu toàn sứ vụ Ngài giao phó.
- Chúa biết con người chúng ta yếu đuối; nhưng sức mạnh đến từ Thiên Chúa, chứ không đến từ chúng ta. Ơn thánh của Thiên Chúa luôn hoạt động trong những yếu đuối của con người; vì như thánh Phaolô tuyên bố: khi tôi yếu đuối là lúc tôi mạnh.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
12/8 Chiều kích cộng đoàn phải đặt trên chiều kích cá nhân
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 19 TN1, Năm B
Bài đọc: Deut 34:1-12; Mt 18:15-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chiều kích cộng đoàn phải đặt trên chiều kích cá nhân.
Thiên Chúa không sống một mình, Ngài hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa, với thiên thần, và với con người. Thiên Chúa có dư uy quyền để làm tất cả mọi sự; nhưng Ngài chọn để cộng tác với tất cả trong chương trình cứu độ của Ngài. Nếu Thiên Chúa chú trọng chiều kích cộng đoàn hơn chiều kích cá nhân, con người cũng phải làm như thế.
Các Bài Đọc hôm nay đều muốn nêu bật tính cộng đoàn trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Đệ Nhị Luật nêu bật sự hy sinh và lãnh đạo của ông Moses trong việc đưa dân Chúa ra khỏi đất nô lệ của Ai-cập và vào Đất Hứa. Moses đã hoàn tất sứ vụ Thiên Chúa trao và trước khi qua đời, ông đã chuyển giao sứ vụ cho ông Joshua như ý Thiên Chúa muốn, để đưa dân vào Đất Hứa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra một số điều phải làm để bảo vệ và lãnh đạo cộng đoàn: sửa lỗi huynh đệ, quyền cầm buộc và tháo cởi, và những giờ cầu nguyện chung.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa gởi mỗi nhà lãnh đạo tới để hoàn tất một phần của chương trình cứu độ.
1.1/ Ông Moses hoàn tất trách nhiệm Thiên Chúa trao phó: Theo sự quan phòng của Thiên Chúa: những gì Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ thực hiện; khi nào Ngài sẽ thực hiện, không ai biết được thời gian. Lịch sử cứu độ là bằng chứng của điều này. Ông Abraham không sống trên đời để nhìn thấy ngày con cháu của ông "đông như sao trên trời và như cát dưới biển" như ngày nay. Chúa Giêsu không sống trên dương gian đến ngày nhìn thấy Tin Mừng lan ra đến tận cùng bờ cõi trái đất. Và trong trình thuật hôm nay, Moses không sống để đưa con cái Israel vào miền đất mà Thiên Chúa hứa sẽ đem dân vào khi ông đưa dân ra khỏi Ai-cập; mặc dù Thiên Chúa đã đem ông lên núi Nebo để nhìn thấy trước vùng Đất Hứa này. Thiên Chúa dùng mỗi nhà lãnh đạo trong một thời gian, để thực thi một phần Kế Hoạch Cứu Độ của Ngài cho nhân loại.
1.2/ Con cái Israel nhìn lại cuộc đời ông Moses: Nước chảy đá mòn; để hoàn tất sứ vụ Thiên Chúa trao, ông Moses đã phải hy sinh đời mình cho con cái Israel đến hơi thở cuối cùng. Con cái Israel than khóc cái chết của ông Moses một phần vì hối hận đã đối xử không tốt với ông khi ông đồng hành với họ suốt 40 năm trong sa mạc, một phần vì thương tiếc cho ông đã không sống để được hưởng kết quả mà ông đã vất vả thực hiện.
Ông Moses phải là mẫu gương cho các nhà lãnh đạo tinh thần: Mục đích của việc lãnh đạo là hoàn tất ý định của Thiên Chúa, chứ không phải để mưu cầu lợi ích cho bản thân mình. Những điều họ làm cho dân chúng không luôn được định giá và mang đến kết quả ngay, nhiều khi phải chờ đến lúc tạm biệt ra đi hay lúc chết, dân chúng mới nhìn thấy và ghi ơn những gì họ đã làm cho dân. Con cái Israel nhận ra tất cả những gì ông Moses đã làm cho họ:
+ Ông Moses đã chuẩn bị cho họ có nhà lãnh đạo mới: "Ông Joshua, con ông Nun, đã được đầy thần khí khôn ngoan, vì ông Moses đã đặt tay trên ông. Con cái Israel nghe ông và làm như Đức Chúa đã truyền cho ông Moses." Sự nối tiếp giữa Moses và Joshua có thể so sánh với sự nối tiếp sứ vụ tiên tri giữa Elijah và Elisha. Việc đặt tay có ý muốn nói lên sự chuyển thông thần khí (spirit); đồng thời với việc chuyển giao sứ vụ.
+ Ông Moses là ngôn sứ cao trọng nhất: "Trong Israel, không còn xuất hiện một ngôn sứ nào như ông Moses, người mà Đức Chúa biết rõ, mặt giáp mặt." Có nhiều ngôn sứ trong lịch sử Israel; nhưng họ chỉ được nghe tiếng của Thiên Chúa trong giấc mơ hay trong thị kiến, chỉ có ông Moses được đàm đạo với Thiên Chúa mặt đối mặt mà không phải chết.
2/ Phúc Âm: Hiệp nhất trong cộng đoàn
2.1/ Cách sửa lỗi anh/chị/em: Sửa lỗi người khác là một việc rất tế nhị, nhưng phải làm vì lợi ích của cộng đoàn. Để việc sửa lỗi có kết quả, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải theo cẩn thận tiến trình như sau:
(1) Giữa hai người mà thôi: "Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em." Hai điều Chúa muốn chúng ta lưu ý: Thứ nhất, hầu hết chúng ta thường sửa lỗi đương sự trước mặt người thứ ba. Làm như thế sẽ không có kết quả hay đưa đến kết quả ngược lại điều chúng ta mong muốn, vì theo tâm lý chung, không ai muốn bị sửa lỗi trước mặt người khác, nhất là người đó lại là người thân thiết với đương sự. Thứ hai, mục đích của việc sửa lỗi là chinh phục đương sự, không phải là để thỏa mãn tính nóng giận.
(2) Sự thật được chứng minh bởi hai hay ba nhân chứng: "Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân." Đây là điều rất khôn ngoan vì nó giúp cho cả hai tránh được cái nhìn chủ quan. Hầu hết các tòa án trong mọi quốc gia đều dựa vào lời của hai hoặc ba nhân chứng.
(3) Can thiệp của cộng đoàn: "Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế." Cộng đoàn có thể là gia đình, đoàn thể, dòng tu, hay Giáo Hội. Đây chỉ là giải pháp sau cùng để bảo vệ lợi ích của cộng đoàn và tránh gương mù. Người ngoại hay người thu thuế là người không biết hay coi thường Lề Luật của Thiên Chúa. Tuy vậy, vẫn phải tha thứ khi họ biết ăn năn trở lại.
2.2/ Thiên Chúa hiện diện giữa cộng đoàn: Dĩ nhiên, chúng ta không phủ nhận việc Thiên Chúa cũng hiện diện trong cá nhân; nhưng sự hiện diện của Ngài trong cộng đoàn có một thứ tự ưu tiên hơn. Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ để chứng minh sự hiện diện của Thiên Chúa trong cộng đoàn:
(1) Quyền cầm buộc và tháo cởi: "Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy." Trước tiên, quyền này áp dụng cho sự thật; chứ không cho sự sai lầm vì Thiên Chúa là sự thật. Thứ hai, Chúa muốn nhắc nhở những tội nhân: tuy họ chưa thấy những hậu quả xảy ra đời này, nhưng không có nghĩa họ có thể tránh được ở đời sau. Sau cùng, Giáo Hội dùng quyền này cho Bí-tích Hòa Giải, để tội nhân có thể làm lại cuộc đời.
(2) Hiệp nhất trong lời cầu nguyện: "Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ." Lời hứa này không có nghĩa tất cả những gì con người cầu xin đều được Thiên Chúa chấp nhận. Để được Thiên Chúa nhận lời, con người phải tránh những lời cầu xin ích kỷ hay có hại cho người khác, mà là những lời đẹp lòng Thiên Chúa và sinh ích cho tha nhân. Thứ đến, khi Thiên Chúa nhận lời, không có nghĩa người xin sẽ được đúng điều mình mong muốn. Thiên Chúa biết điều tốt lành, Ngài sẽ ban những gì tốt lành cho tương lai con người. Sau cùng, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh việc hiện diện của Ngài ngay cả khi ít người, chứ không phải chỉ những nơi có đông người tụ họp.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa không bao giờ muốn con người sống riêng lẻ. Ngài muốn con người sống quây quần thành đoàn thể, và chúc lành cho các công việc của cộng đoàn.
- Mỗi khi có xung đột quyền lợi, chúng ta phải luôn luôn đặt quyền lợi của cộng đoàn lên trên lợi ích của cá nhân trong việc lãnh đạo, sửa lỗi, hay cầu nguyện.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
11/8 Môn đệ Đức Kitô phải biết khiêm hạ và bênh vực kẻ yếu đuối
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 19 TN1
Bài đọc: Deut 31:1-8; Mt 18:1-5, 10, 12-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Môn đệ Đức Kitô phải biết khiêm hạ và bênh vực kẻ yếu đuối.
Thế gian thích có địa vị và quyền hành để được nổi tiếng và được phục vụ. Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải khiêm hạ và phục vụ thì mới có thể vào Nước Trời.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng Thiên Chúa yêu thương và bảo vệ những người yếu đuối và tin tưởng nơi Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, ông Moses khuyên dân chúng hãy đặt trọn niềm tin nơi Thiên Chúa và ông Joshua, người Thiên Chúa chọn để thay thế ông Moses. Ngài sẽ lãnh đạo và đưa dân vào vùng đất mà Ngài đã hứa với các tổ-phụ của họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy dỗ các môn đệ phải sống ngược lại với những tiêu chuẩn và giá trị của thế gian để được vào Nước Trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông Moses chuẩn bị cho con cái Israel tiến vào Đất Hứa.
1.1/ Ông Moses nói những lời từ biệt với con cái Israel: Ông Moses cho tập họp toàn thể con cái Israel và nói những lời này với họ: Hôm nay tôi đã được một trăm hai mươi tuổi, tôi không thể đi ra đi vào được nữa, và Đức Chúa đã bảo tôi: "Ngươi sẽ không được sang qua sông Jordan kia."
Khi ông Moses dẫn con cái Israel ra khỏi Ai-cập, ông đã 80 tuổi. Sau 40 năm chịu thanh luyện trong sa mạc với họ, đến nay ông đã 120 tuổi. Tuổi già đã làm ông không thể đi lại được nữa. Ông Moses biết: để tiến vào Đất Hứa, con cái Israel cần một người lãnh đạo trẻ trung và khỏe mạnh; chứ không thể theo một người già yếu ớt như ông. Để chuẩn bị cho con cái Israel vào Đất Hứa, ông Moses tuyên bố với dân chúng họ sẽ có hai nhà lãnh đạo:
(1) Thiên Chúa là Người sẽ dẫn dân vào Đất Hứa: Ông Moses và toàn dân dư biết sức mạnh của con cái Israel không đủ để chống cự với sức mạnh của các dân tộc đang sống trong Đất Hứa; vì thế, ông Moses bảo đảm với dân chúng một điều tối quan trọng: "Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ dẫn đầu anh em sang qua sông, Người sẽ tiêu diệt các dân tộc ấy cho khuất mắt anh em, để anh em chiếm đất của chúng."
(2) Joshua sẽ là người lãnh đạo dân vào Đất Hứa: Thiên Chúa hành động theo cách thức của con người như Ngài đã từng hành động qua ông Moses để truyền lệnh cho dân chúng; vì thế, ông Moses loan báo cho dân nhà lãnh đạo mới sẽ thay thế ông: "Chính ông Joshua sẽ dẫn đầu anh em sang qua sông, như Đức Chúa đã phán."
1.2/ Ông Moses khuyên bảo con cái Israel: Để vượt qua sông Jordan vào Đất Hứa Canaan, con cái Israel phải băng qua đất của hai vua người Amorites là Sihon và Og. Ông Moses muốn dùng chiến thắng này để khuyến khích con cái Israel đặt trọn vẹn tin tưởng vào Thiên Chúa: "Người đã tiêu diệt chúng. Đức Chúa sẽ trao các dân tộc ấy cho anh em, và anh em sẽ xử với chúng theo như tất cả mệnh lệnh tôi đã truyền cho anh em."
(1) Lời khuyên cho dân chúng: Ông Moses biết rõ lòng dân vì đã cùng họ đương đầu với nghịch cảnh trong suốt 40 năm trong sa mạc; ông biết dân chúng rất yếu đuối khi phải đương đầu với nguy hiểm, nên ông khuyên họ: "Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đừng sợ, đừng run khiếp trước mặt chúng, vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi với anh em; Người sẽ không để mặc, không bỏ rơi anh em."
(2) Lời khuyên cho Joshua, người sẽ thay ông lãnh đạo dân chúng: Người lãnh đạo khôn ngoan và thương dân thật là người biết chuẩn bị kiếm người thay thế mình trong tương lai và chuẩn bị lòng dân để chấp nhận người kế vị mình; chứ không vô trách nhiệm để dân bị thiệt thòi vì người lãnh đạo không có bản lãnh. Ông Moses đã chuẩn bị cho ông Joshua thay thế ông; vì thế, ông Moses gọi ông Joshua lại, và nói với ông trước mặt toàn thể Israel: "Mạnh bạo lên, can đảm lên! Chính anh sẽ cùng với dân này vào đất Đức Chúa đã thề với cha ông họ rằng Người sẽ ban cho họ; chính anh sẽ cho họ hưởng đất ấy làm gia nghiệp. Chính Đức Chúa đi phía trước anh, chính Người sẽ ở với anh; Người sẽ không để mặc, không bỏ rơi anh. Đừng sợ, đừng hãi!"
2/ Phúc Âm: Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.
2.1/ Khiêm nhường là điều kiện để được vào Nước Trời.
(1) Tham vọng của con người: Các môn đệ lại gần hỏi Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?" Các môn đệ hỏi câu hỏi này vì các ông đã quá quen với tiêu chuẩn và giá trị của thế gian: tiêu chuẩn của thế gian là địa vị, danh vọng, và quyền hành; người có giá trị là người có địa vị và quyền hành lớn nhất, chẳng hạn như vua hay một nguyên thủ của quốc gia. Có thể nói mục đích của các môn đệ khi theo Chúa lúc đầu là để được cùng thống trị với Chúa, khi Ngài khôi phục vương quốc Israel. Tham vọng này được chứng minh khi mẹ và hai anh em Giacôbê và Gioan đến xin Chúa cho một người ngồi bên phải và một người ngồi bên trái Chúa khi Ngài trị vì. Mười tông-đồ kia bất mãn với hai anh em về yêu cầu này.
(2) Điều kiện để được vào Nước Trời: Đức Giêsu liền gọi một em nhỏ (paidi,on) đến, đặt vào giữa các ông và bảo: "Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời." Hai tư tưởng chính Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu ở đây: Thứ nhất, tiêu chuẩn và giá trị của Nước Trời hoàn toàn khác với tiêu chuẩn của thế gian. Thứ hai, để được vào Nước Trời, con người phải hạ mình và trở nên như một trẻ nhỏ.
2.2/ Người mục tử nhân lành: Vẫn trong chiều hướng dạy dỗ các môn đệ làm quen với tiêu chuẩn và giá trị của Nước Trời, Chúa Giêsu tiếp tục dạy các ông hai bài học:
(1) Đừng khinh thường kẻ bé mọn: "Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời."
Thế gian chú trọng đến những người có địa vị, quyền thế, và giầu có; Chúa dạy các môn đệ phải thương xót và săn sóc những kẻ bé mọn (mikro,j). Tĩnh từ Hy-lạp dùng như danh từ ở đây khác với danh từ dùng cho trẻ nhỏ ở trên (paidi,on), tĩnh từ này được dùng để chỉ:
- những người có thân hình nhỏ bé: trẻ thơ, người lùn;
- những người không quan trọng, không có địa vị trong xã hội, người nghèo khó, thất học.
Người môn đệ của Đức Kitô phải biết đứng về phía những kẻ cô thân cô thế để bênh vực và giúp đỡ họ như những con cái của Thiên Chúa. Mỗi người này đều có một thiên thần hộ thủ để bênh vực cho họ trước Thiên Chúa. Ai khinh thường và làm hại họ, thiên thần sẽ tường thuật cho Thiên Chúa (x/c Tob 3:8-9, 12:12-14).
(2) Phải đi tìm con chiên lạc: Chúa tiếp tục dạy các môn đệ: "Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc."
Người của thế gian chú trọng đến đám đông để được phổ thông và nổi tiếng; họ không thể hiểu nổi tại sao lại bỏ 99 con chiên trên núi để đi tìm con chiên lạc. Thiên Chúa như một người cha yêu thương chú trọng đến từng cá nhân một, nhất là những con chiên bị lạc đường. Ngài biết từng con chiên, yêu thương từng con chiên, không thỏa mãn cho đến khi tìm được con chiên lạc, và chỉ vui mừng khi thấy tất cả chiên được qui tụ về một đàn dưới quyền của một Chúa chiên.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn biết khiêm nhường, không cậy dựa vào sức mình; nhưng biết trông cậy nơi sức mạnh và tình thương của Thiên Chúa.
- Chúng ta phải đứng về phía những người bị bỏ rơi để bênh vực và giúp đỡ họ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
10/8 Cho đi là nguyên tắc sống của cuộc đời
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Kinh Thánh Laurensô TĐ
Bài đọc: II Cor 9:6-10; Jn 12:24-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cho đi là nguyên tắc sống của cuộc đời.
Nhiều người nghĩ muốn giầu có hạnh phúc phải biết cách đầu cơ tích trữ, để tiền vào như nước và tiền ra nhỏ giọt. Theo cách đầu tư khôn ngoan, họ phải làm sao để mua vào với giá rẻ như bèo, và bán ra với giá cắt cổ. Ngược lại, Chúa Giêsu dạy: nếu muốn sống sung mãn hạnh phúc phải phục vụ hết mình và luôn rộng lượng cho đi, vì "ai có sẽ được cho thêm, và ai không có, ngay cả cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi." Phó-tế Lawrense là thủ quỹ của giáo-triều Rôma, và được nghĩ là người nắm hết tài sản của Giáo Hội. Khi bị thẩm vấn và bắt trao hết tài sản của Giáo Hội cho hoàng-đế Valerian, ông xin ba ngày để kiểm kê tài sản. Ngày thứ ba, ông dẫn tới cho hoàng đế một đám đông giáo hữu nghèo và nói với hoàng-đế: Đây là tài sản của Giáo Hội; nếu hoàng-đế muốn, xin trao lại cho hoàng-đế.
Các Bài Đọc hôm nay muốn chứng minh nguyên tắc sống này cho mọi người. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Corintô hãy rộng lượng và vui vẻ giúp đỡ cho Giáo Hội Mẹ tại Jerusalem, vì Thiên Chúa sẽ rộng lượng cho lại họ cách dư đầy. Khi rộng lượng cho đi, họ cũng đang xây dựng cho họ kho tàng vĩnh cửu đời sau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn nêu bật một nguyên lý bất di dịch của cuộc sống: nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương.
1.1/ Định luật của trời đất: Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu Corintô một định luật phổ quát: "gieo ít thì gặt ít; gieo nhiều thì gặt nhiều." Thánh nhân muốn nói khi con người càng cho đi bao nhiêu, họ sẽ được nhận lại càng nhiều bấy nhiêu. Điều này có thể áp dụng cho mọi lãnh vực của cuộc sống; ví dụ, khi một học sinh bỏ nhiều thời giờ và nỗ lực cho việc học hành, anh sẽ hiểu biết nhiều hơn và thu lượm nhiều kết quả trên đường học vấn. Tương tự như thế cho việc chăn giữ đoàn chiên: nếu cha mẹ hay các mục tử biết dành nhiều thời giờ để giáo dục và chăm sóc con cái hay giáo dân, đàn chiên sẽ mạnh khỏe và tốt lành, gia đình cũng như giáo xứ sẽ tiến triển tốt đẹp; nhưng nếu cha mẹ và các mục tử không dành thời giờ để dạy dỗ và săn sóc con cái hay giáo dân, làm sao đàn chiên, gia đình, hay giáo xứ có thể phát triển được?
Của cho không quí trọng bằng cách cho. Vì Thiên Chúa thấu suốt mọi tư tưởng, thánh Phaolô khuyên các tín hữu phải tập luyện những điều này khi họ cho đi: "Mỗi người hãy cho tuỳ theo quyết định của lòng mình, không buồn phiền, cũng không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương."
(1) Cho đi cách vô vị lợi: Khi cho, đừng tính toán xem người khác sẽ cho lại mình điều gì, như câu tục ngữ Việt-nam: "hòn đất ném đi, hòn chì ném lại." Chắc chắn Thiên Chúa và tha nhân sẽ không để mình phải thiệt hại, nhưng mong muốn điều này không phải là lý do để khuyến khích con người cho đi. Những lý do chính giúp con người cho đi: Thứ nhất, vì mình đã nhận quá nhiều từ Thiên Chúa và tha nhân, nhất là những người mình không thể trả ơn được như Thiên Chúa và những người quá cố; vì thế, mình phải làm ơn cho con cái của Ngài và cho thế hệ mai sau. Thứ hai, tất cả là của Thiên Chúa, con người chỉ là quản lý; nhiệm vụ của quản lý là phân phát cho đúng thời đúng buổi, chứ không phải để hoang phí hay đào lỗ để chôn của. Sau cùng, cho đi là cách xây dựng cộng đồng: nếu tất cả mọi người đều biết hăng hái cho đi, hòa bình sẽ ngự trị trên trái đất và Nước Chúa sẽ trị đến ngay từ đời này.
(2) Cho đi cách vui vẻ, không cho đi cách miễn cưỡng: Nhiều người cho đi vì họ cảm thấy bắt buộc phải cho; ví dụ, khi một người có địa vị đến xin, họ phải cho cách miễn cưỡng vì sợ bị mang tiếng là keo kiệt. Người cho đi cách vui vẻ là người sau khi đã nhận ra nhu cầu và thấy mình có khả năng để đóng góp, họ vui vẻ góp phần vào việc giúp đỡ tha nhân.
(3) Không hối hận khi đã cho đi: Người rộng lượng không hối tiếc khi cho đi, họ có thể chấp nhận hy sinh thiếu thốn để tha nhân được sống. Người keo kiệt, tính toán sẽ tiếc nuối những gì mình đã cho đi. Nếu không chịu tập luyện, họ sẽ để cho tính ích kỷ thống trị, và sẽ không cho đi lần tới.
1.2/ Thiên Chúa là Đấng ban phát muôn ơn lành: Thánh Phaolô nêu lên một số lý do chính để giúp con người biết rộng lượng cho đi:
(1) Thiên Chúa tốt lành: Ngài ban cho con người không những đủ để sinh sống, mà còn dư thừa để làm việc thiện.
(2) Ngài yêu mến kẻ có lòng thương xót tha nhân: Tất cả tha nhân đều là con cái Thiên Chúa; vì thế, làm cho tha nhân là làm cho Thiên Chúa. Lòng thương xót, yêu mến, và giúp đỡ tha nhân làm con người trở nên giống Thiên Chúa hơn tất cả điều khác.
(3) Thiên Chúa muốn con người cộng tác vào sự quan phòng của Ngài: Thánh Phaolô diễn tả như sau: "Đấng cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh làm của ăn nuôi dưỡng, tất sẽ cung cấp dư dật hạt giống cho anh em gieo, và sẽ làm cho đức công chính của anh em sinh hoa kết quả dồi dào." Thiên Chúa có thể ban ơn lành trực tiếp đến tất cả mọi người; nhưng nếu làm như thế, con người chẳng có ơn ích gì trước mặt Ngài. Vì thế, Ngài ban qua chúng ta, để xem chúng ta có biết cách xử dụng để phát triển nhân đức và xây dựng cuộc sống vĩnh cửu cho chúng ta sau này hay không. Chúng ta đừng quên tiêu chuẩn phán xét của Thiên Chúa là hòan toàn dựa vào những gì chúng ta làm cho tha nhân (x/c Mt 25).
2/ Phúc Âm: Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất.
2.1/ Định luật của Thiên Chúa trong đời sống sinh vật: Chúa dạy các môn đệ: "Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác." Không một sinh vật nào không qua tiến trình này; nếu sinh vật nào từ chối không tham dự định luật này, nó sẽ chẳng những không sinh sôi nẩy nở, mà còn mục rữa và chết cách cô độc.
2.2/ Định luật của Thiên Chúa trong đời sống con người: Định luật trên chẳng những đúng với thiên nhiên mà còn đúng trong đời sống con người. Chúa dạy: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời."
Định luật này phải mở mắt cho những con người ích kỷ, những người chỉ biết tôn thờ chủ nghĩa cá nhân và vun quén cho mình. Thứ nhất, họ phải biết Thiên Chúa có mắt và vẫn đang theo dõi những việc làm của họ; họ không thể chỉ biết tận hưởng những ơn lành của Thiên Chúa mà từ chối không phục vụ và chia sẻ cho tha nhân. Dù họ có thể qua mặt Ngài trong cuộc sống đời này, họ vẫn phải đối diện với Ngài và tha nhân trong Ngày Phán Xét. Thứ hai, tha nhân không phải là những người ngu dại, họ chỉ có thể lợi dụng ít lần, nhưng không thể lợi dụng tha nhân suốt đời; người ích kỷ là người tự khai trừ mình ra khỏi đời sống của cộng đoàn. Nếu những người ích kỷ chịu khó suy xét: nếu ai cũng ích kỷ như mình, làm sao có mình và có những thứ cho mình hưởng thụ?
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải xác tín Thiên Chúa có uy quyền trên tất cả cuộc sống của con người: Ngài không những ban cho chúng ta đủ của ăn để sinh sống, mà còn dư thừa để làm việc phúc đức.
- Chúng ta chỉ là những người quản lý những ơn lành của Thiên Chúa, và Ngài muốn chúng ta hãy luôn rộng lượng cho đi; tại sao chúng ta lại muốn giữ lại?
- Khi cho đi, chúng ta làm theo ý Thiên Chúa, được Người yêu thương, được tha nhân quí mến, và xây dựng cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Tại sao chúng ta cần ích kỷ giữ lại để rồi phải chịu trách nhiệm với Thiên Chúa?
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
09/8 Bánh mang lại sự sống thần linh cho con người
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 19 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: I Kgs 19:4-8; Eph 4:30-5:2; Jn 6:41-51.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bánh mang lại sự sống thần linh cho con người.
Đời sống con người có ít nhất hai chiều kích: thể lý và tinh thần. Khi thân xác mệt mỏi và đói khát, con người không còn sức lực để làm việc; vì thế họ cần ăn uống và nghỉ ngơi để lấy sức. Khi tinh thần chán nản đến độ tuyệt vọng, con người mất hết ý chí và nghị lực để sống, họ chỉ muốn chết. Làm sao con người có thể phục hồi tinh thần để tiếp tục bước tới?
Các Bài Đọc hôm nay chú trọng đặc biệt tới lương thực thần linh, những gì có thể giúp con người sống dồi dào và sống muôn đời. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Elijah cảm thấy chán nản đến tuyệt vọng; vì sau khi đã cố gắng rao giảng và làm nhiều phép lạ; vua quan và con cái Israel vẫn quay lưng lại vẫn sự thật, lại còn nghe lời hoàng hậu Jezebel để lấy mạng sống của ông. Thiên Chúa sai thiên thần mang bánh và nước tới để giúp ông phục hồi nghị lực. Sau khi dùng lương thực hai lần, ông chỗi dậy và đi bộ một mạch 40 ngày đêm tới núi Horeb, để gặp gỡ Thiên Chúa. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô khuyên nhủ các tín hữu Ephesô hãy loại trừ lối sống theo xác thịt, và mở lòng lãnh nhận lối sống theo Thánh Thần, mà Đức Kitô đã xin Chúa Cha gởi tới tâm hồn các tín hữu. Trong Phúc Âm, khi Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là bánh từ trời xuống để đem lại sự sống trường sinh cho nhân loại; người Do-thái xầm xì chống đối, vì họ không hiểu làm sao Chúa Giêsu có thể xuống từ trời và lấy thịt của Ngài cho họ ăn được.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nhờ lương thực ấy bổ dưỡng, ông đi suốt bốn mươi ngày đêm tới núi Horeb.
1.1/ Nỗi chán nản và thất vọng của tiên-tri Elijah vì con người mù quáng trước sự thật: Giống như tất cả các tiên tri khác, tiên-tri Elijah phải nói những gì Thiên Chúa truyền và phải làm chứng cho sự thật; nhưng con người chẳng những không nhận ra và tin vào sự thật, họ còn tìm giết hại mạng sống của Elijah. Trong chương 18 trước trình thuật hôm nay, Elijah đã chứng minh cho vua Ahab và toàn thể con cái Israel biết đâu là Thiên Chúa thật, qua việc thử thách hy lễ trên núi Carmel. Thiên Chúa đã nhận lời cầu xin của ông qua việc gởi lửa từ trời xuống thiêu rụi của lễ. Nhân cơ hội này, tiên-tri Elijah đã ra lệnh bắt trói và tàn sát một lúc 450 ngôn-sứ của Baal.
Nhưng Ahab là một ông vua hèn nhát: nhà vua đã không chấp nhận sự thật, lại còn kể cho hoàng hậu Jezebel nghe mọi chuyện ông Elijah đã làm và tất cả sự việc ông dùng gươm hạ sát hết các ngôn-sứ. Bà Jezebel liền sai sứ giả đến nói với ông Elijah rằng: "Xin các thần minh làm cho ta thế này, và còn hơn thế nữa, nếu giờ này sáng mai ta không biến mạng ngươi ra như mạng một trong các người ấy" (I Kgs 19:2).
Vì thế, tiên-tri Elijah phải trốn đi để bảo toàn mạng sống. Tiên-tri đi một ngày đường trong sa mạc. Ông đến ngồi dưới gốc một cây kim tước. Ông xin cho được chết và nói: "Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con."
1.2/ Bánh của thiên thần làm cho Elijah lấy lại sức sống: Rồi ông nằm dưới cây kim tước đó và thiếp đi. Nhưng này có một thiên sứ đụng vào người ông và nói: "Dậy mà ăn!" Ông đưa mắt nhìn thì thấy ở phía đầu ông có một chiếc bánh nướng trên những hòn đá nung và một hũ nước. Ông ăn bánh, uống nước, rồi lại nằm xuống. Thiên sứ của Đức Chúa trở lại lần nữa, đụng vào người ông và nói: "Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa."
Đây là bánh từ tay các thiên thần chuẩn bị cho tiên-tri Elijah. Chỉ có lương thực này mới có thể giúp cho tiên-tri Elijah hồi phục cả về thể xác lẫn tinh thần, để ông lên đường đi bộ suốt 40 ngày đêm tới Horeb, là núi của Thiên Chúa. Lương thực của trái đất không thể làm được điều này. Bánh mà tiên-tri Elijah ăn là hình bóng của bí-tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đề cập tới trong Tin Mừng Gioan bên dưới.
2/ Bài đọc II: Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa.
Để hiểu những lợi ích do Bí-tích Thánh Thể mang lại, chúng ta cần phân biệt hai lối sống mà thánh Phaolô muốn các tín hữu Ephesô thấu hiểu.
2.1/ Lối sống theo xác thịt: là lối sống ngược lại với những gì Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Thánh Phaolô khuyên nhủ: "Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác." Nhìn chung, đây là bốn phản ứng thường thấy khi con người phải đương đầu với những đối tượng làm điều họ không thích hay gây thiệt hại cho họ. Tùy theo sự liên hệ và vị thế của đối tượng, con người sẽ chọn một hay nhiều cách thức để đối xử cho thỏa mãn tính nóng giận.
2.2/ Lối sống theo Thánh Thần: Ngược lại với lối sống theo xác thịt, thánh Phaolô khuyên:
+ Phải đối xử tử tế với nhau: Người tín hữu không sống ích kỷ để chỉ biết lo cho mình, nhưng luôn quan tâm đến nhu cầu của người khác.
+ Phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô. Đây là một phần của Kinh Lạy Cha và cũng là một điều Chúa Giêsu đòi hỏi để trở nên trọn lành như Cha trên trời trong chương 5 của Tin Mừng Matthew.
+ Hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương: Tục ngữ Việt-nam khuyến khích việc con bắt chước để trở nên giống cha: "Con nhà tông, chẳng giống lông cũng giống cánh." Bắt chước Thiên Chúa là tiêu chuẩn cao nhất trong cuộc đời một người có thể học được. Clement của Alexandria nói cách mạnh bạo hơn: một tín hữu thực sự là một người khôn ngoan đang tập luyện để thành Chúa.
+ Hãy sống trong tình bác ái: như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt. Hai điều chúng ta cần học nơi Đức Kitô: (1) luôn vâng lời Thiên Chúa trong mọi sự; và (2) luôn yêu thương mọi người. Không có một của lễ nào đẹp lòng Thiên Chúa hơn hy lễ của Đức Kitô vì bao gồm cả hai yếu tố này.
3/ Phúc Âm: Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.
3.1/ Thái độ nghi ngờ của con người về "lương thực mới" mà Chúa Giêsu mặc khải:
(1) Phản ứng của con người: Con người xầm xì phản đối vì con người không hiểu việc Thiên Chúa làm. Người Do-thái xầm xì phản đối, vì Đức Giêsu đã nói: "Tôi là bánh từ trời xuống." Họ nói với nhau: "Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống?"
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Đức Giêsu muốn nói cho con người hiểu ngay cả việc con người có đức tin là do sự giúp đỡ của Thiên Chúa: "Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết." Làm sao chúng ta hiểu động từ lôi kéo ở đây?
- Bằng cách dùng sức mạnh như người chăn lôi kéo con bò? Thiên Chúa chắc chắn không làm điều này vì nó xâm phạm tự do của con người, và con người sẽ chẳng có công ích gì cả.
- Bằng cách vạch ra cho con người thấy đâu là sự thật và những ích lợi của việc sống theo sự thật (Augustine). Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài dùng đường lối này khi rao giảng Tin Mừng, và chỉ có đường lối này mới có kết quả lâu dài.
Kinh Thánh đã mặc khải cho con người biết về sự xuất hiện của Đức Kitô: Chúa Giêsu nói: "Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha."
Cả hai tiên-tri, Isaiah và Jeremiah, đều tiên đoán sự xuất hiện của Đấng Thiên Sai và sự dạy dỗ dân chúng của Ngài (x/c Isa 54:13, Jer 31:33-34).
3.2/ Chúa Giêsu phân biệt cho con người hai loại bánh khác nhau tùy vào hiệu quả:
(1) Hiệu quả của lương thực phần xác:
+ Mau hư nát như manna: Chúa Giêsu nói: "Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết." Manna hay lương thực phần xác chỉ có thể làm cho no bụng và đem lại sự sống thể lý; nhưng không đem lại sự sống tinh thần và sự sống trường sinh cho con người.
+ Khi con người dùng đúng lương thực phần xác, chúng sẽ làm con người mạnh khỏe; nhưng nếu dùng không đúng, chúng sẽ gây thiệt hại nhiều cho con người.
+ Không mang lại sự sống tinh thần: Thực tế chứng minh có những người giầu có, ăn ngon mặc đẹp, mà vẫn không muốn sống; trong khi có những người tuy nghèo khó thiếu thốn, nhưng vẫn sống và sống cách dồi dào.
(2) Hiệu quả của lương thực thần linh:
+ Mang lại sự sống muôn đời: Chúa Giêsu mặc khải: "Tôi là bánh trường sinh ... là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống."
+ Làm cho con người kết hiệp với Thiên Chúa qua Đức Kitô: Sự sống thần linh được thông hiệp cho con người qua bí-tích Thánh Thể. Lãnh nhận Bí-Tích này thường xuyên sẽ gia tăng đức tin và đức ái cho con người, để họ càng ngày càng biết yêu mến Thiên Chúa hơn.
+ Làm cho con người kết hiệp với Giáo Hội và với nhau: Thánh Phaolô ví mỗi tín hữu như một chi thể trong một thân thể là Giáo Hội. Bí-tích Thánh Thể liên kết các chi thể với nhau.
+ Thánh hóa con người: Bí-tích Thánh Thể tha các tội nhẹ; giúp tránh các tội nặng trong tương lai; hướng lòng con người về Thiên Chúa, và không về những lôi cuốn của thế gian. Con người là hậu quả của những gì họ ăn uống: nếu năng lãnh nhận BT Thánh Thể, họ sẽ càng ngày càng nên giống Thiên Chúa; đến độ họ có thể thốt lên như Phaolô: "Tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi."
+ Giúp sinh hoa kết trái tốt lành: Chúa Giêsu ví Ngài như cây nho và chúng ta là cành. Nếu chúng ta kết hiệp với Ngài, chúng ta mới có thể sinh hoa trái là nhân đức và các việc lành. Năng lãnh nhận bí-tích Thánh Thể sẽ giúp chúng ta có sức mạnh để sống theo lối sống của Thánh Thần như đã đề cập đến trong Bài Đọc II.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta là sự kết hiệp của thể xác lẫn tinh thần: như thân xác cần của ăn uống để sống cách thể lý, tinh thần chúng ta cũng cần lương thực thần linh để sống vui vẻ và hạnh phúc.
- Bí-tích Thánh Thể là chính Đức Kitô. Khi lãnh nhận Mình Thánh Chúa, chúng ta được thông phần với đời sống thần linh của Thiên Chúa, và nhận được bao nhiêu kết quả tốt đẹp từ cuộc sống thần linh này.
- Chúng ta cần biết thu xếp thời gian để tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày. Sức mạnh của Thánh Thể sẽ giúp chúng ta vượt qua tất cả khó khăn trong cuộc sống.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 08/8 Rao giảng Tin Mừng để đưa các linh hồn về cho Chúa
- 07/8 Hãy dùng trí nhớ để học biết Thiên Chúa và những gì Ngài dạy
- 06/8 Lịch sử làm chứng cho Đức Kitô
- 05/8 Phải kiên trì vượt qua gian khổ mới hy vọng được thành công
- 04/8 Tội hoài nghi, kẻ thù của đức tin
- 02/8 Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát
- 01/8 Phải kính sợ Thiên Chúa và thi hành những gì Ngài truyền dạy
- 31/7 Phải sống những gì mình cử hành
- 30/7 Phải luôn sẵn sàng thích ứng với mọi thay đổi của cuộc sống theo thánh ý Thiên Chúa
- 29/7 Lựa chọn phần tốt nhất: lắng nghe và đàm đạo với Thiên Chúa