Sống Lời Chúa Hôm Nay
07/9 Bổn phận của các tín hữu là xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 23 TN1
Bài đọc: Col 1:24-2:3; Lk 6:6-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bổn phận của các tín hữu là xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô.
Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Đức Kitô là Người mang Kế-hoạch đến thành công qua việc nhập thể, mặc khải, dạy dỗ, huấn luyện các môn đệ, chịu chết để chuộc tội cho con người. Ơn cứu độ giờ đây là của mọi người, không phân biệt một ai cả. Nhưng để ơn cứu độ này hiện thực trong tất cả mọi người, họ cần tin vào Đức Kitô; và để tin vào Đức Kitô, Giáo Hội cần có nhiều nhà rao giảng. Bắt đầu từ một nhóm nhỏ là các môn đệ, Giáo Hội từ từ lớn dần và lan rộng khắp nơi, cho tới con số như ngày nay, và cần phải lan rộng hơn nữa cho tới khi mọi người đều tin vào Đức Kitô. Để được như thế, mọi thành phần trong Giáo Hội đều có bổn phận phải hy sinh và nỗ lực góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc làm cho các tín hữu nhận ra và góp phần vào việc xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô là Giáo Hội. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô vui mừng chịu đựng đau khổ cho việc xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô, qua việc rao giảng Tin Mừng. Ngài cố gắng hết sức để cho Tin Mừng thấm nhập, phát triển, và sinh hoa kết trái trong cuộc đời các tín hữu. Trong Phúc Âm, trong khi Chúa Giêsu tất tưởi rao giảng Tin Mừng và chữa lành khắp nơi, các kinh-sư và biệt-phái lại nhân danh Lề Luật của Thiên Chúa để cấm đoán Ngài không được chữa lành trong ngày Sabbath, và cố gắng tìm mọi cách để tiêu diệt Ngài!
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì Đức Kitô, vì Giáo Hội, và vì anh em.
1.1/ Phaolô nhận ra trách nhiệm của mình: Trước khi có thể làm chứng cho Thiên Chúa, Phaolô cần xác tín niềm tin của mình.
(1) Phaolô nhận ra sự sai lầm của mình và nhận ra tình thương Thiên Chúa: Biến cố trên đường đi Damascus đã mở mắt cho Phaolô biết ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho người Do-thái, mà còn mở rộng cho tất cả Dân Ngoại, qua Kế Hoạch Cứu độ của Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói về Kế-hoạch này như sau: "Mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên Chúa. Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang."
(2) Lấy tình thương đáp trả tình thương: Được chữa lành khỏi mù lòa về phần xác cũng như phần hồn, Phaolô nhận ra tình thương của Thiên Chúa dành cho ông. Ông nghĩ nếu Thiên Chúa và Đức Kitô đã yêu thương mình như thế, ông phải đáp trả tình thương bằng cách làm cho ơn cứu độ được hiện thực trong tất cả mọi người. Phaolô biết mình không thể làm lại gì cho Thiên Chúa, nên chú trọng vào việc xây dựng các chi thể trong một thân thể của Đức Kitô là Giáo Hội "Tôi đã trở nên người phục vụ Giáo Hội, theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là tôi phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn."
(3) Đâu là những gian nan thử thách mà Đức Kitô còn phải chịu? Mặc dù Đức Kitô đã chiến thắng thần chết, sống lại vinh quang, và mang ơn cứu độ cho mọi người; nhưng Kế-hoạch Cứu Độ chưa hoàn tất cho đến khi mọi người đều được hưởng ơn cứu độ qua việc tin vào Đức Kitô. Để hoàn tất điều này, Đức Kitô trông chờ vào sự cộng tác của tất cả các tín hữu. Những đau khổ mà Đức Kitô còn đang phải chịu là: sự hững hờ của các tín hữu trong việc rao giảng Tin Mừng; những thái độ chống báng và các kế hoạch nhằm tiêu diệt đạo thánh Chúa; đời sống giữ đạo cách hời hợt của hàng giáo sĩ và các tín hữu ngăn cản việc làm chứng cho Tin Mừng; và sự chia rẽ giữa các giáo hội làm chia cắt thân thể của Đức Kitô.
1.2/ Phaolô tìm mọi cách để chu toàn sứ vụ được trao phó: Ngài nói: "Chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi... Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh." Những việc làm chứng tỏ nỗ lực rao giảng Tin Mừng của Phaolô:
- Ngài rao giảng Tin Mừng ở mọi nơi và trong một lúc: trong hội đường, ngoài phố chợ, trong khám đường, khi đối chất ... rao giảng dù thuận tiện hay không thuận tiện.
- Giúp đỡ mọi tín hữu để họ càng ngày càng trở nên hoàn thiện trong Đức Kitô: không chỉ bằng lòng với việc thiết lập các cộng đoàn, Ngài vẫn trở lại để thăm viếng khi có dịp, và viết thư để dạy dỗ và khuyên bảo mọi người.
- Lấy tình thương và sức mạnh của Thiên Chúa để vượt qua mọi tranh chấp và ích kỷ cá nhân; để gìn giữ sự hiệp nhất trong Giáo Hội.
2/ Phúc Âm: Phải tuyệt đối tránh tất cả những gì ngăn cản không cho Nước Chúa trị đến.
2.1/ Tranh chấp cá nhân để hưởng lợi nhuận vật chất: Trình thuật Luca kể: Vào một ngày Sabbath, Đức Giêsu vào hội đường để giảng dạy. Ở đó có một người bị khô bại tay phải. Các kinh-sư và những người biệt-phái rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy trong ngày Sabbath không, để tìm được cớ tố cáo Người. Hội-đường Do-thái là nơi họ tụ tập lại để học hỏi Kinh Thánh và dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa; thế mà các kinh-sư và biệt phái là những nhà lãnh đạo trong dân lại lợi dụng hội đường, giờ thờ phượng, và nhân danh Thiên Chúa để rình rập và chờ cơ hội để tố cáo người ngay lành.
Lý do tại sao họ làm như thế là vì họ ghen tị về sư khôn ngoan và uy quyền của Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng Gioan, họ sợ đến một ngày cả thế giới sẽ đi theo Ngài! Nếu thế giới chọn đi theo Chúa Giêsu, thế giới sẽ bỏ họ. Để ngăn cản con người đừng đến với Chúa Giêsu, họ dùng mọi thủ đoạn hèn hạ để tiêu diệt Ngài.
2.2/ Chúa Giêsu mạnh dạn sửa sai và tố cáo thủ đoạn của họ.
(1) Chúa Giêsu vạch ra những hiểu biết sai lầm: Chúa Giêsu thấu hiểu họ đang suy nghĩ như thế, nên bảo người bại tay: "Anh trỗi dậy, ra đứng giữa đây!" Người ấy liền trỗi dậy và đứng đó. Đức Giêsu chất vấn họ: "Tôi xin hỏi các ông: ngày Sabbath, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt?"
Ngài muốn họ trở về nguyên lý nền tảng: Lề Luật làm ra là cho lợi ích và bảo vệ đời sống con người. Nguyên tắc nền tảng của luân lý là "làm lành tránh dữ, cứu mạng sống chứ không hủy diệt." Vì thế, không ai được nhân danh Lề Luật để giết hại hay từ chối làm điều lành trong ngày Sabbath.
(2) Chúa Giêsu can đảm làm chứng cho sự thật: Không một chút sợ hãi, Người rảo mắt nhìn họ tất cả, rồi bảo người bại tay: "Anh giơ tay ra!" Anh ấy làm như vậy và tay anh liền trở lại bình thường. Nhưng họ thì giận điên lên, và bàn nhau xem có làm gì được Đức Giêsu không. Họ giận điên lên vì họ bị mất mặt trước đám đông; và giận quá mất khôn, họ không còn biết phân biệt và nhận ra sự thật nữa!
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mỗi tín hữu chúng ta đều có bổn phận mang Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa đến chỗ vẹn toàn, bằng cách làm cho mọi người đều có cơ hội để lắng nghe Tin Mừng.
- Chúng ta cần tránh tuyệt đối thái độ dùng Tin Mừng để mưu cầu lợi ích cá nhân. Đừng bao giờ làm cho người khác mất niềm tin vì cuộc sống phản Tin Mừng của chúng ta. Đừng bao giờ nhân danh Tin Mừng để chia cắt Nhiệm Thể của Đức Kitô.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
06/9 Hãy để Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi mọi bệnh tật hồn và xác
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 23 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Isa 35:4-7a; Jas 2:1-5; Mk 7:31-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy để Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi mọi bệnh tật hồn và xác.
Con người bị bao vây bởi biết bao những nguy hiểm về phần hồn cũng như về phần xác. Về phần hồn, những chước cám dỗ của ma quỉ và thế gian làm con người xa lìa Thiên Chúa và sống theo những dục vọng của xác thịt. Về phần xác, con người phải đương đầu với các thiên tai bên ngoài như hạn hán, bão lụt, núi lửa, sóng gió, động đất, chiến tranh; thêm vào đó, các bệnh phần xác như mù, điếc, câm què. Khi phải đương đầu với những nguy hiểm này, con người dễ rơi vào hai thái độ:
(1) Từ chối Thiên Chúa: Tại sao một Thiên Chúa nhân lành lại để những đau khổ như thế xảy ra cho con người? Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ không tin Thiên Chúa; và tìm cách giải quyết theo cách thức trần gian.
(2) Nhận ra ý nghĩa của đau khổ trong cuộc đời: Thiên Chúa để đau khổ xảy ra cho con người để họ nhận ra sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời họ và biết yêu thương tha nhân hơn. Tục ngữ Việt-nam có câu: "có đau mắt mới biết thương người mù;" "có mù mới biết sự quí trọng của ánh sáng." Điều này xảy ra cho Phaolô khi ông bị té ngựa trên đường đi Damacus. Sau đó ông mới nhận ra sự mù lòa của mình và bắt đầu cuộc hành trình trở về với ánh sáng, và tin vào Đức Kitô. Chỉ Thiên Chúa mới có uy quyền giải thoát con người khỏi mọi nguy hiểm. Họ cần tin và chạy đến với Ngài để được chữa lành.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào những nguy hiểm con người phải đương đầu với, và cách thức để được chữa lành. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah quả quyết với dân Do-thái khi họ sống trong cảnh lưu đày: Thiên Chúa chúng ta có thể làm được tất cả; vì thế, đừng sợ hãi và hãy trông cậy nơi Thiên Chúa, Ngài sẽ đến và chữa lành tất cả. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô nêu lên hai tội phần hồn cần được chữa trị là thành kiến và đối xử thiên vị. Đức Kitô là người giải phóng và chữa lành con người khỏi hai bệnh phần hồn này. Trong Phúc Âm, khi người ta đem đến cho Chúa Giêsu một người vừa câm vừa điếc để xin Chúa Giêsu đặt tay trên anh, Ngài đã dẫn anh ta ra một nơi và chữa anh khỏi bệnh.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chính Người sẽ đến cứu anh em.
1.1/ Lời loan báo Chúa sẽ đến để giải phóng dân Ngài: Hoàn cảnh lịch sử đàng sau lời loan báo này là cuộc lưu đày của dân Do-thái vào thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên. Sống trong nơi lưu đày, con cái Israel mất hết hy vọng: quê hương, Đền Thờ, và niềm tin nơi Thiên Chúa. Tiên-tri Isaiah được Thiên Chúa cho thấy trước ngày Thiên Chúa sẽ đến để cứu dân Người khỏi cảnh lưu đày, nên ông loan báo tin mừng cho dân: "Hãy nói với những kẻ nhát gan: Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em." Lời sấm này có thể áp dụng trong hai giai đoạn:
(1) Thiên Chúa giải phóng dân và cho hồi hương để tái thiết xứ sở và xây dựng lại Đền Thờ. Điều này xảy ra khi Cyrus, vua Ba-tư, phóng thích dân Do-thái, và cho họ hồi hương, bắt đầu vào năm 487 BC.
(2) Chính Đấng Thiên Sai sẽ đến để chữa lành mọi bệnh tật hồn xác cho dân. Điều này đã xảy ra khi Đức Kitô đến.
1.2/ Những gì sẽ xảy ra khi Thiên Chúa đến: Hình ảnh được mô tả ở đây gợi lại những gì khi Đức Kitô đến: "Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò." Và biến cố dân xuất hành của dân Do-thái ra khỏi đất nô lệ Ai-cập: "Có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu. Miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra."
Những điều này xảy ra trên cả hai bình diện: thể lý khi Chúa Giêsu chữa lành các bệnh tật của thân xác như mù, què, câm, điếc; và tâm linh khi Ngài chữa lành các bệnh tật của linh hồn như kiêu căng, ganh tị, và giả hình.
2/ Bài đọc II: Anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, thì đừng đối xử thiên tư.
2.1/ Không được có thành kiến với người nghèo và đối xử thiên tư với người giầu: Theo tiêu chuẩn của thế gian, con người có khuynh hướng "tham phú, phụ bần;" nhưng đối với các tín hữu thì không được như thế. Thánh Giacôbê khuyên các tín hữu: "Thưa anh em, anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư."
Ngài đưa ra một trường hợp thực tế: "Quả vậy, giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: "Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này," còn với người nghèo, anh em lại nói: "Đứng đó!" hoặc: "Ngồi dưới bệ chân tôi đây!" thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao?"
(1) Thành kiến: là những gì một người nghĩ về người khác mà không chịu suy xét cẩn thận xem có đúng hay không. Ví dụ, khi nhìn một người ăn mặc tồi tàn, họ vội kết luận là người đó nghèo; nhưng họ biết đâu có những người không muốn lệ thuộc vào thời trang, họ muốn ăn mặc đơn giản, và để dành tiền làm những chuyện khác hữu ích hơn. Hay khi các kinh-sư và biệt-phái đoán xét Chúa Giêsu, họ chỉ xét Ngài về nguồn gốc và gia cảnh, mà bỏ qua bao nhiêu những lời dạy dỗ khôn ngoan và uy quyền làm các phép lạ của Ngài. Thành kiến giam hãm họ trong cái nhìn thiển cận, và ngăn cản không cho họ nhận ra và tin vào Đức Kitô.
(2) Đối xử thiên tư: Tin thế nào sẽ hành động như vậy. Vì chỉ biết đoán xét theo cách thức bên ngoài; nên họ coi trọng người ăn mặc cách sang giầu và khinh thường những người ăn mặc nghèo nàn. Thực tế nhiều lần chứng minh tai hại của cách đoán xét bề ngoài; ví dụ, chọn lấy những người đẹp trai, giầu có, khỏe mạnh; để rồi khi khám phá ra tính lưu manh và phản bội thì đã quá muộn màng. Ngược lại, nhiều người tuy không có sự sang trọng bên ngoài, nhưng ẩn giấu một tâm hồn cao thượng và nhân từ, lại trở thành những người chồng hay vợ đảm đang và mang lại hạnh phúc cho gia đình.
2.2/ Thiên Chúa yêu thương kẻ khó nghèo: Để vạch ra cho các tín hữu biết sự sai lầm của những đoán xét bề ngoài, thánh Giacôbê lặp lại mối phúc đầu tiên của Bát Phúc mà Đức Kitô đã dạy: "Anh hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao?"
+ Người có tinh thần nghèo khó không đặt niềm trông cậy vào bất cứ ai hay vật gì, nhưng chỉ biết trông cậy vào một mình Thiên Chúa mà thôi. Chính vì thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, họ được Ngài ban cho cả Nước Trời, mà tập hợp của các tài sản thế gian cũng không thể nào so sánh nổi. Chúa Giêsu đã đề cập đến điều này khi so sánh Nước Thiên Chúa như kho tàng giầu trong ruộng.
+ Chính Đức Kitô đã sống một cuộc đời khó nghèo trên dương thế: Ngài là Con Thiên Chúa, có trong tay mọi sự trên trời dưới đất; thế mà Ngài lại tự nguyện chọn sống khó nghèo: chọn sinh ra từ hai cha mẹ nghèo hèn, chọn nơi hang đá để sinh ra, chọn chết trần trụi trên Thập Giá, và để người ta chôn cất trong phần mộ không phải là của mình. Mục đích là để làm gương và cho chúng ta được trở nên giầu có, khi được hưởng ơn cứu độ.
3/ Phúc Âm: Đức Kitô làm việc gì cũng tốt đẹp cả.
3.1/ Chúa Giêsu làm trọn lời ngôn sứ Isaiah loan báo: Sau khi đã chữa lành con gái của người đàn bà dân ngoại xứ Phoenecia khỏi quỉ ám vì niềm tin vững chắc của Bà, Chúa Giêsu đi trở xuống biển hồ Galilee và vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.
Hai bệnh điếc và ngọng thường đi đôi với nhau. Để tránh cho anh khỏi bị xấu hổ trước đám đông, Chúa Giêsu kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Epphatha," nghĩa là: Hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.
Tiên tri Isaiah trong Bài Đọc I đã nói trước những gì sẽ xảy ra khi Đấng Thiên Sai tới: "Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò." Đọc Tin Mừng, tất cả những điều này đã được làm nhiều lần bởi Chúa Giêsu. Ngoài ra, chính Chúa Giêsu cũng nhắc lại những lời tiên tri Isaiah nói về Ngài khi Ngài về Nazareth và giảng dạy trong hội đường (Lk 4:16-21).
3.2/ Chúa Giêsu không thích danh vọng và tiếng khen: "Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được."
Thiên Chúa dựng nên con người và mọi sự đều rất tốt đẹp (Gen 1:31); nhưng tội lỗi của con người đã làm đảo lộn các trật tự của thiên nhiên và gây ra biết bao điều tai hại và sự chết. Nhưng Thiên Chúa đã có Kế Hoạch Cứu Độ cho con người qua Đức Kitô. Ngài hiện diện cùng Thiên Chúa khi tạo dựng, và chính Ngài sẽ khôi phục lại trật tự như ban đầu cho con người và cho vũ trụ, và sẽ trao lại vương quốc tốt đẹp cho Thiên Chúa.
Ngược lại với con người luôn tìm cách phá hủy và tiêu diệt, Ba Ngôi Thiên Chúa luôn tìm cách bảo vệ và chữa lành. Là những môn đệ của Đức Kitô, chúng ta có bổn phận noi gương các Ngài để luôn bảo vệ sự sống, tìm mọi cách để chữa lành, và tôn trọng những gì Thiên Chúa đã dựng nên.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa quan tâm đến cuộc sống con người. Ngài không ngừng quan phòng mọi sự cách khôn ngoan, nhất là đã gởi Đức Kitô đến để chữa trị mọi vết thương hồn xác cho con người.
- Khi phải đương đầu với đau khổ trong thế gian, chúng ta đừng sợ hãi và ngã lòng trông cậy; nhưng hãy tin tưởng vững vàng nơi Thiên Chúa.
- Chỉ có Đức Kitô, Con Thiên Chúa, mới có thể giải thoát con người khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác. Không ai có thể thay thế vai trò của Ngài trong Kế Hoạch Cứu Độ.
- Noi gương Đức Kitô, chúng ta cũng phải trở nên những người bảo vệ sự sống, và chữa lành những vết thương phần hồn cũng như phần xác cho con người; nhất là giới thiệu họ đến với Đức Kitô, để họ cũng tin vào Ngài và được chữa lành.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
05/9 Cần chú trọng đến những gì là chính yếu
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 22 TN1
Bài đọc: Col 1:21-23; Lc 6:1-5.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần chú trọng đến những gì là chính yếu.
Nhiều người chỉ nhắm một cái lợi trước mắt mà không để ý đến cả đống cái hại sau lưng, hay vịn vào lề luật để vạch lá tìm sâu mà quên đi nguyên tắc căn bản và nền tảng đưa đến lề luật đó. Hậu quả là họ phải gánh lấy bao tai hại xảy đến trong tương lai. Vì thế, con người cần có thời gian để học hỏi, suy xét, và thảo luận trước khi làm bất cứ việc gì, để tránh lối nhìn thiển cận, một chiều, và quyết định độc đoán.
Các Bài Đọc hôm nay chú trọng đến việc tìm ra những điều nền tảng và quan trọng trong việc sống đạo. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô muốn các tín hữu Colossê tập trung vào Đức Kitô: những gì Ngài đã dạy dỗ và đã làm cho con người. Mục đích là để các tín hữu tập luyện các nhân đức để biết sống mỗi ngày một thánh thiện hơn, đức tin mỗi ngày một vững bền hơn, và đừng bao giờ mất niềm hy vọng vào Tin Mừng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu bênh vực các môn đệ của Ngài khi bị các kinh-sư và biệt-phái tố cáo đã vi phạm luật ngày Sabbath. Ngài nhắc nhở cho họ biết nguyên lý của ngày Sabbath là để phục vụ con người, và luật ngày Sabbath không áp dụng cho Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tôi đã được trở nên người phục vụ Tin Mừng.
1.1/ Đức Kitô phải là trọng tâm của đời sống Kitô hữu: Để hiểu tầm quan trọng của Đức Kitô, thánh Phaolô so sánh vận mạng của các tín hữu trước và sau khi họ tin vào Đức Kitô:
+ Trong quá khứ: "Xưa kia, anh em là những người xa lạ, là thù địch của Thiên Chúa vì những tư tưởng và hành động xấu xa của anh em."
+ Hiện nay: "Nhờ Đức Giêsu là con người bằng xương bằng thịt đã chịu chết, Thiên Chúa cho anh em được hoà giải với Người, để anh em trở nên thánh thiện tinh tuyền và không có gì đáng trách trước mặt Người."
Các tín hữu Colossê đa số là những người Hy-lạp và Dân Ngoại; vì trước kia họ không tin Thiên Chúa, nên cũng chẳng biết những gì Ngài dạy dỗ để sống. Hậu quả là họ sống trong tội lỗi theo những gì họ suy nghĩ. Nhưng nhờ việc rao giảng Tin Mừng của Phaolô, họ biết Thiên Chúa và tin vào Đức Kitô; nên họ được máu Đức Kitô thanh tẩy mọi tội lỗi và được hòa giải với Thiên Chúa.
1.2/ Cần giữ vững đức tin và niềm hy vọng: Tuy đã được Đức Kitô thanh tẩy và hòa giải với Thiên Chúa bằng cái chết của Ngài, người tín hữu vẫn còn phải đương đầu với bao nhiêu cám dỗ hằng ngày của ba thù. Để có thể trung thành với Thiên Chúa cho đến giây phút cuối cùng, người tín hữu cần làm hai việc chính yếu sau đây:
(1) Đào luyện đức tin: Tuy đức tin là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người, nhưng con người có bổn phận làm cho đức tin tăng trưởng và vững chắc. Chúa Giêsu đã ví đức tin như hạt giống, cần phải chăm sóc để có thể thành cây và sinh hoa kết trái; nếu không được chăm sóc, hạt giống đức tin có thể bị ma quỉ lấy đi bất cứ lúc nào. Để đào tạo đức tin, con người cần học hỏi những gì Đức Kitô dạy dỗ và biết thực hành trong cuộc sống.
(2) Giữ vững niềm hy vọng: Theo Tin Mừng, niềm hy vọng cao trọng nhất của con người là được sống trường sinh và hạnh phúc bên Thiên Chúa sau cuộc sống tạm thời trên dương gian này. Giống như đức tin, ma quỉ có thể cất đi niềm hy vọng này bằng cách đưa ra những vinh quang hào nhoáng và danh vọng tạm thời. Để giữ vững niềm hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu, con người cần tập sống theo tiêu chuẩn và giá trị của Nước Trời, theo Bát Phúc của Đức Kitô, và những gì Ngài dạy dỗ trong Tin Mừng. Nói tóm, điều cần thiết nhất trong cuộc đời là hiểu biết, sống, rao giảng, và làm chứng cho Tin Mừng.
2/ Phúc Âm: Luật ngày Sabbath làm ra là để phục vụ con người.
2.1/ Các môn đệ bị tố cáo vi phạm luật ngày Sabbath: Vào một ngày Sabbath, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ bứt lúa, vò trong tay mà ăn. Khi mấy người Pharisees nhìn thấy, họ tố cáo: "Tại sao các ông làm điều không được phép làm ngày Sabbath?"
Theo truyền thống Do-thái, ngày Sabbath có nguồn gốc trong Sách Sáng Thế: sau khi Thiên Chúa hoàn tất việc tạo dựng trong sáu ngày, Ngài nghỉ ngơi ngày thứ bảy và truyền cho con người cũng phải nghỉ ngơi trong ngày đó. Tại sao Thiên Chúa muốn có ngày Sabbath? Có hai lý do chính:
(1) Để con người có thời giờ nghỉ ngơi sau sáu ngày vất vả làm việc: Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên con người, Ngài biết và muốn con người có thời gian nghỉ ngơi dưỡng sức. Không phải chỉ cho con người; mà các gia súc, cây cối, và đất đai cũng cần có thời gian nghỉ ngơi trước khi tiếp tục làm việc và sinh hoa kết trái. Nếu không biết nghỉ ngơi, con người dễ bị lao lực, bệnh tật, và không đem lại hiệu quả tốt đẹp.
(2) Để con người trau dồi đời sống tâm linh: Con người là tập hợp của linh hồn và thân xác. Trong ngày Sabbath, khi thân xác được nghỉ ngơi, linh hồn cần được nuôi dưỡng bằng các của ăn thiêng liêng như nghe Lời Chúa và chịu Mình Thánh Chúa để lấy nghị lực cho tâm hồn.
Nếu không biết tận dụng ngày Sabbath, con người sẽ tiếp tục làm việc, hay lãng phí thời giờ và nghị lực vào những cuộc ăn chơi vô bổ, để rồi chẳng những thân xác thêm mệt mỏi, mà linh hồn cũng bị đói khát những lương thực tinh thần. Truyền thống Do-thái có thói quen dành ngày Sabbath để học hỏi Kinh Thánh và cầu nguyện trong các hội đường.
Luật ngày Sabbath cấm làm việc xác là cho hai mục đích này, chứ không phải nhắm chi li đến những điều nhỏ nhặt, được làm hay không được làm trong ngày đó. Những chi tiết nhỏ nhặt là do con người thêm vào sau này.
2.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu: Luật ngày Sabbath không tuyệt đối, vì có những trường hợp ngoại lệ:
(1) Được làm việc nếu cần để có của ăn sinh sống: Giáo Hội ban phép cho những ai vì quá nghèo mà phải lao động kiếm ăn mới đủ sống. Đức Giêsu cũng đưa ra một trường hợp phải ăn để bảo toàn sự sống, ngay cả ăn thứ bị ngăn cấm: "Các ông chưa đọc chuyện này trong Sách sao? Ông Đavít đã làm gì khi ông và thuộc hạ đói bụng? Ông vào nhà Thiên Chúa lấy bánh tiến mà ăn và cho thuộc hạ ăn. Thứ bánh này, chỉ có tư tế mới được ăn mà thôi." Việc các môn đệ của Ngài phải ăn vì đói là điều được phép làm trong ngày Sabbath. Các Biệt-phái tố cáo các môn đệ làm việc xác, vì đã "bứt lúa," "vò trong tay," và "chuẩn bị" để có hạt lúa ăn.
(2) Luật ngày Sabbath không áp dụng cho Thiên Chúa: Chúa Giêsu tuyên bố với họ: "Con Người làm chủ ngày Sabbath." Thiên Chúa nghỉ ngơi không tạo dựng, nhưng Ngài vẫn quan phòng và điều khiển mọi sự việc trong vũ trụ; và Ngài quan phòng bằng theo sự khôn ngoan của Ngài, mà sự khôn ngoan của Thiên Chúa là chính Ngôi Lời. Chúa Giêsu có lý do để tuyên bố "Con Người làm chủ ngày Sabbath."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi để biết những gì là chính yếu trong đạo thánh Chúa. Nếu chỉ bằng lòng với việc đọc kinh cho nhiều hay chú trọng đến các hình thức thờ phượng bên ngoài, chúng ta khó có thể phát triển mối liên hệ thâm sâu với Chúa và sống hài hòa với mọi người.
- Biết những gì là chính yếu cũng giúp chúng ta trong việc làm những quyết định khôn ngoan trong cuộc đời, và biết hướng dẫn người khác trong khi rao truyền Tin Mừng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
04/9 Cần biết trả lời cho những ai chất vấn niềm tin của mình
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 22 TN1
Bài đọc: Col 1:15-20; Lc 5:33-39.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần biết trả lời cho những ai chất vấn niềm tin của mình.
Tin như nào sẽ sống như vậy. Ví dụ, nếu một người chỉ tin vào truyền thống của cha ông, họ sẽ chống lại tất cả những học thuyết mới lạ, vì chúng có thể đe dọa đức tin của họ. Tuy nhiên, các tín hữu cần tìm hiểu sự thật của những gì mình tin, để họ có thể trả lời cho những ai chất vấn niềm tin của họ. Khi không trả lời được những câu hỏi do các lạc thuyết đề ra, nhiều người có đức tin yếu kém sẽ dễ chạy theo những lạc thuyết đó.
Các Bài Đọc hôm nay nhấn mạnh vào sự hiểu biết của niềm tin. Trong Bài Đọc I, tác giả nhắc nhở các tín hữu phải nắm vững đức tin của mình vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô, để có thể tránh được những ngụy thuyết chung quanh luôn đe dọa con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu sửa sai quan niệm của các kinh-sư và biệt-phái về quan niệm ăn chay và cầu nguyện của họ. Mục đích của việc ăn chay cầu nguyện là để con người sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và thương yêu tha nhân, chứ không phải để được khen ngợi, để chu toàn Lề Luật, hay vì bất kỳ lý do nào khác. Nếu các môn đệ đang có Thiên Chúa ở bên cạnh, họ không cần phải ăn chay. Họ sẽ ăn chay cầu nguyện khi Đức Kitô bị cất đi khỏi họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người.
1.1/ Thiên Chúa tạo dựng qua Ngôi Lời: Col 1:9-14 là một Bài Thánh Ca cổ, được hát trong lúc hội họp hay thờ phượng trong những cộng đoàn tiên khởi để ca tụng Đức Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa. Có học giả cho nguồn gốc của Bài Thánh Ca là để chống lại chủ thuyết Thuần Tri Thức (Gnosticism) rất thịnh hành thời đó trong quốc gia Hy-lạp. Một sự so sánh giữa những gì Giáo Hội dạy cho thấy sự đối nghịch hoàn toàn với chủ thuyết Thuần Tri Thức.
(1) Đức Kitô là Thánh Tử, là Ngôi Lời (Logos), là hình ảnh (eikon) của Thiên Chúa vô hình: thấy Đức Kitô là thấy Thiên Chúa (Jn 14:9). Chủ thuyết Thuần Tri Thức cho Đức Kitô tuy cao hơn các tạo vật, nhưng không phải là Thiên Chúa vì mang trong mình chất liệu của con người; chỉ có Thiên Chúa là hoàn toàn không lệ thuộc vật chất.
(2) Đức Kitô là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo: Ngài là Lời, là sự không ngoan của Thiên Chúa. Trong trình thuật về tạo dựng của Sách Sáng Thế, Thiên Chúa tạo dựng bằng cách phán: "Hãy có!" tức thì mọi vật liền có. Do Ngôi Lời mà muôn vật được tạo thành, và không có Ngài, chẳng có vật gì được tạo thành (Jn 1:3). Thuyết Thuần Tri Thức không cho Thiên Chúa tạo dựng thế giới, mà thế giới được tạo thành bởi một vị thần ác, đối nghịch với Thiên Chúa.
(3) Thiên Chúa quan phòng mọi sự qua Đức Kitô vì Ngài là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa: "Tất cả đều tồn tại trong Người." Thuyết Thuần Tri Thức cho vũ trụ tồn tại nhờ chính nó.
1.2/ Thiên Chúa cứu chuộc và hòa giải qua Ngôi Lời.
(1) Đức Kitô cứu chuộc con người: bằng cách đổ máu để thanh tẩy tội lỗi, làm cho con người khỏi chết, và cho con người được sống đời đời với Thiên Chúa bằng sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Thuyết Thuần Tri Thức cho con người được giải thoát khỏi nô lệ cho vật chất và đoàn tụ với Thiên Chúa nhờ kiến thức đặc biệt và bí mật mà chỉ có họ mới có thể cung cấp cho con người.
(2) Đức Kitô hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau: Ngài hòa giải con người bằng việc chấp nhận cái chết trên Thập Giá. Nhờ sự hòa giải này, con người có được sự bình an.
Thuyết Thuần Tri Thức không tin vào tội lỗi và vào sự hòa giải, vì Thiên Chúa không thay đổi và con người luôn xấu xa vì bị giam cầm trong thân xác.
2/ Phúc Âm: Tại sao môn đệ ông không ăn chay, cầu nguyện?
2.1/ Họ trách môn đệ Chúa Giêsu không năng ăn chay cầu nguyện. Họ nói với Người: "Môn đệ ông Gioan năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pharisees cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống!"
Đức Giêsu trả lời họ: "Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi; ngày đó, họ mới ăn chay." Qua câu trả lời, Người muốn nhắn nhủ họ làm việc gì cũng phải có lý do, thời gian, và nơi chốn. Ăn chay, cầu nguyện là để con người sống gần gũi với Thiên Chúa, và bớt lệ thuộc vào vật chất. Các môn đệ của Ngài không cần phải ăn chay lúc này, vì họ đang có Thiên Chúa là chính Ngài. Khi nào Ngài xa lìa họ, bấy giờ họ mới ăn chay. Ăn chay, cầu nguyện phải bày tỏ tâm hồn thống hối bên trong, chứ không phải những việc làm bên ngoài để lấy tiếng khen, hay lấy làm tiêu chuẩn để phán xét người khác có đạo đức thành thật hay không!
2.2/ Phải có tinh thần mới để đón nhận mặc khải mới của Đức Kitô: Những người biệt-phái và kinh-sư khó có thể chấp nhận những giảng dạy của Đức Kitô, vì trí óc của họ đã quá quen với Lề Luật và lối sống vụ hình thức bên ngoài. Để có thể tiếp nhận những giảng dạy mới lạ của Đức Kitô, họ cần thay đổi cách nhìn về việc giữ đạo. Để họ nhận ra sự quan trọng của việc cần có một tinh thần cởi mở để lãnh nhận giảng dạy mới của Thiên Chúa, Đức Giêsu còn kể cho họ nghe một số các dụ ngôn:
(1) "Chẳng ai xé áo mới lấy vải vá áo cũ, vì như vậy, không những họ xé áo mới, mà miếng vải áo mới cũng không ăn với áo cũ." Không ai dại dột đến độ không chịu mặc áo mới, mà lại xé ra lấy vải để vá vào áo cũ. Nếu làm như vậy, người đó sẽ là người không bình thường, và miếng vá sẽ càng ngày càng tệ hơn sau mỗi lần giặt.
(2) "Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới." Rượu mới có nồng độ mạnh hơn nên dễ làm căng thẳng bầu da cũ; vì thế, để tránh việc nứt bầu da và phí rượu, rượu mới phải được đổ vào bầu da mới.
(3) Cũng không ai uống rượu cũ mà còn thèm rượu mới. Vì người ta nói: "Rượu cũ ngon hơn." Các kinh-sư và biệt-phái là những người cố gắng bảo thủ các truyền thống của cha ông. Họ bị Chúa Giêsu ví là những người thích uống rượu cũ vì cho rượu cũ ngon hơn. Có một phần sự thực trong đó; nhưng đồng thời họ cũng phải biết mở lòng đón nhận những điều hay của các mặc khải và dạy dỗ mới đến từ Chúa Giêsu. Để có thể tiếp nhận những dạy dỗ của Ngài, họ phải thay đổi thái độ "truyền thống quá khích," họ mới có thể hiểu được những gì Chúa muốn nói.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi để hiểu biết niềm tin của mình; nếu không đức tin của chúng ta dễ bị lung lay bởi các lạc thuyết hay khi người khác chất vấn niềm tin của chúng ta.
- Biết cắt nghĩa niềm tin rất quan trọng trong việc giáo dục đức tin cho những người chúng ta có trách nhiệm. Nếu không được giải thích thỏa đáng, con người dễ đánh mất niềm tin.
- Chúng ta phải biết gìn giữ các tinh hoa của truyền thống, nhưng cũng cần biết mở lòng đón nhận những cái mới của thời đại và hoàn cảnh.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
03/9 Phải khôn ngoan tìm ra và trung thành làm theo thánh ý Thiên Chúa
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 22 TN1
Bài đọc: Col 1:9-14; Lc 5:1-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải khôn ngoan tìm ra và trung thành làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Nhiều người có khuynh hướng chỉ làm theo ý riêng mình, và rất khó chịu khi phải làm theo ý người khác; nhưng thực tế chứng minh, không phải lúc nào ý riêng mình cũng mang lại hậu quả tốt đẹp. Vì thế, con người phải luôn mở rộng tâm hồn, dùng khôn ngoan và hiểu biết để nhận ra và thi hành ý mang lại kết quả tốt đẹp nhất.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc khuyến khích con người tìm ra và thi hành thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô cầu xin cho các tín hữu Colossê có đủ khôn ngoan và hiểu biết để am thường thánh ý Thiên Chúa, và có sức mạnh để thực thi thánh ý của Ngài; vì hiệu quả của những người làm theo thánh ý Thiên Chúa là sẽ sinh hoa kết quả trong cuộc sống đời này, và sẽ được chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa ở đời sau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mở mắt, mở trí, và mở lòng cho Phêrô và các môn đệ nhận ra uy quyền, tình yêu, và thánh ý của Thiên Chúa cho các ông trong cuộc đời. Ngài muốn các ông đổi nghề: thay vì đánh cá, giờ chú trọng đến việc rao giảng Tin Mừng để chinh phục các linh hồn về cho Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hiểu biết và làm theo thánh ý Thiên Chúa.
1.1/ Am tường thánh ý Thiên Chúa: Thánh Phaolô mở đầu Thư Colossê bằng lời cầu nguyện: "chúng tôi cũng không ngừng cầu nguyện và kêu xin Thiên Chúa cho anh em được am tường thánh ý Người, với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thánh Thần ban cho."
Để có thể am tường thánh ý Thiên Chúa, thánh Phaolô đề cập tới hai trong bảy quà tặng của Thánh Thần là khôn ngoan (sophia) và hiểu biết (synesis); chứ không phải bất kỳ sự khôn ngoan hay hiểu biết nào của con người. Khôn ngoan của Thánh Thần là khôn ngoan biết mọi sự theo kế hoạch của Thiên Chúa, và nhất là hướng về đích điểm của cuộc đời là được chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Hiểu biết của Thánh Thần bao gồm việc làm sao biết áp dụng những khôn ngoan học được vào cuộc đời để sinh lợi ích cho mình và cho tha nhân.
Một khi đã tìm ra thánh ý của Thiên Chúa, con người cần thi hành thánh ý đó cho đến cùng, cho dù có phải hy sinh và chịu đựng gian khổ. Thánh Phaolô tin: "Nhờ sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa vinh quang, anh em sẽ nên mạnh mẽ để kiên trì chịu đựng tất cả."
1.2/ Làm theo thánh ý Thiên Chúa: sẽ đem lại cho con người hai phần thưởng.
(1) Sẽ sinh hoa kết quả: "Anh em sẽ sống được như Chúa đòi hỏi, và làm đẹp lòng Người về mọi phương diện, sẽ sinh hoa trái là mọi thứ việc lành, và mỗi ngày một hiểu biết Thiên Chúa hơn." Sống theo thánh ý Thiên Chúa bảo đảm con người đi đúng đường và sinh lợi ích trong cuộc đời này.
(2) Sẽ được chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa: Đức Kitô vừa là người mặc khải cho con người biết ý định của Thiên Chúa, vừa là người đổ máu ra để thanh tẩy tội lỗi cho con người. Nhờ Đức Kitô mà "anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi."
2/ Phúc Âm: Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.
2.1/ Sứ vụ giảng dạy và huấn luyện tông-đồ của Đức Kitô: Trình thuật kể: "Một hôm, Đức Giêsu đang đứng ở bờ hồ Gennesareth, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông."
Dân chúng chen lấn nhau để có thể đến gần nghe Chúa Giêsu giảng dạy: Khao khát được lắng nghe Lời Chúa nằm trong bản năng của con người. Chúa Giêsu có ý cho Phêrô nhìn thấy sự khao khát của con người để được nghe Lời Chúa. Phêrô có thể đã quá bận rộn với công việc kiếm ăn, nên không còn nhạy cảm với nhu cầu này. Chúa Giêsu cũng đang có sẵn kế hoạch cho Phêrô, Ngài muốn ông đổi nghề thành kẻ thu phục linh hồn con người về cho Thiên Chúa. Những gì ông có kinh nghiệm trong nghề chài lưới như: vất vả, kiên nhẫn ... sẽ giúp ông trong nghề thu phục linh hồn con người. Đây cũng là bài học cho các mục tử: phải đáp ứng nhu cầu căn bản này hơn hết các nhu cầu khác. Khi dân chúng không muốn nghe các mục tử giảng dạy, lý do có thể vì họ không hiểu hay không tìm được sự hấp dẫn của Lời Chúa qua cách thế giảng dạy của các mục tử.
2.2/ Đức Kitô chọn người để tiếp tục sứ vụ giảng dạy: Giảng xong, Người bảo ông Simon: "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá." Ông Simon đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới."
(1) Làm theo thánh ý Thiên Chúa: thách đố con người, trước tiên, phải bỏ ý mình. Là người có biết bao kinh nghiệm về chài lưới, vất vả cả đêm không bắt được con nào, và đã giặt giũ lưới xong; Phêrô giờ phải làm theo ý của một người không có kinh nghiệm về chài lưới, lại bắt thả vào giờ cá không ăn, và trước bao nhiêu dân chúng và bạn đồng nghiệp. Tuy thế, Phêrô cũng vâng lời làm, không phải vì tin sẽ bắt được cá, nhưng vì lời truyền uy quyền của Chúa Giêsu.
Hiệu quả của việc làm theo thánh ý Thiên Chúa: "Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm."
(2) Phản ứng của Phêrô và các bạn: Họ kinh ngạc khi chứng kiến mẻ lưới lạ lùng xảy ra. Phêrô, Giacôbê và Gioan là những người thuyền chài kinh nghiệm, các ông không ngờ trên đời còn có người hiểu biết và kinh nghiệm hơn mình. Đây lại là bài học cho con người nữa: Có khôn ngoan, hiểu biết và kinh nghiệm đến đâu chăng nữa, cũng vẫn phải mở lòng để học hỏi và đón nhận những tinh hoa của người khác mỗi ngày, nhất là những gì đến từ Thiên Chúa. Ngài vẫn không ngừng mở mắt con người để đón nhận những ngạc nhiên mỗi ngày. Người tự mãn bằng lòng với những gì mình có, sẽ không cần phải học hỏi, và sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội để trau dồi kiến thức trong cuộc đời.
Ông Simon Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!" Ông nhận ra Chúa Giêsu không phải là một con người bình thường, nhưng có uy quyền của Thiên Chúa. Ông cũng nhận ra Chúa Giêsu biết tất cả những gì ông suy nghĩ trước khi ông thả lưới bắt cá; vì thế, ông chấp nhận thân phận yếu đuối, hèn hạ của mình, và khiêm nhường quì gối xuống xin tránh xa ông. Bấy giờ Đức Giêsu lợi dụng cơ hội và bảo ông Simon: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta." Một khi đã nhận ra sự thật và tình yêu Thiên Chúa, con người chỉ còn một cách là bỏ hết mọi sự mà theo Người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi và cầu nguyện để xin Thiên Chúa cho chúng ta hiểu đâu là thánh ý Ngài muốn cho chúng ta trong cuộc đời; đồng thời xin Ngài ban sức mạnh để chúng ta thực hiện.
- Hiệu quả của việc thực hiện thánh ý Thiên Chúa sẽ bảo đảm cho chúng ta sinh hoa kết quả ở đời này, và được chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa đời sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
02/9 Mỗi người cần đóng góp một tay cho việc rao giảng Tin Mừng
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 22 TN1
Bài đọc: Col 1:1-8; Lc 4:38-44.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mỗi người cần đóng góp một tay cho việc rao giảng Tin Mừng.
Có thể nói việc quan trọng nhất trong cuộc đời là làm sao cho mọi người có lòng tin yêu Thiên Chúa để họ có thể đạt được cuộc sống đời đời. Rao giảng Tin Mừng là điều thiết yếu để khơi dậy niềm tin yêu và hy vọng của con người vào Thiên Chúa. Nhưng một "cánh én không thể làm nên một mùa xuân," một người không thể làm hết mọi sự, Thiên Chúa cần mọi người chung sức trong việc rao giảng Tin Mừng. Vì thế, bổn phận của tất cả tín hữu, sau khi đã lãnh nhận niềm tin yêu, là góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng bằng nhiều cách khác nhau, tùy khả năng như: rao giảng, cộng tác với các người rao giảng, cầu nguyện và giúp đỡ cho công cuộc truyền giáo, giúp các nhà rao giảng có sức khỏe để phục vụ Chúa cách đắc lực.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc cộng tác giữa Thiên Chúa và con người trong việc làm cho Tin Mừng được lan rộng đến mọi nơi. Trong Bài Đọc I, Phaolô dẫn chứng Tin Mừng có hiệu lực vì đến từ Ba Ngôi Thiên Chúa. Cả Ba Ngôi cùng cộng tác với nhau trong việc khơi dậy và ban đức tin, cậy, mến cho con người. Ngoài ra, Thiên Chúa dùng con người để cộng tác vào việc tiếp tục rao truyền Tin Mừng. Phaolô có 2 cộng tác viên đắc lực trong việc rao giảng Tin Mừng là Timothy và Epaphras. Cộng đoàn Colossê có Epaphras, và chính họ cũng giúp đỡ lẫn nhau để củng cố và làm cho Tin Mừng được lan rộng. Trong Phúc Âm, Đức Kitô phải trở nên gương mẫu cho các nhà rao giảng Tin Mừng. Ngài không quản mệt nhọc rao giảng Tin Mừng trong các hội đường, chữa lành mọi vết thương hồn xác cho mọi người. Sau khi được chữa bệnh, bà nhạc của Phêrô đã mau mắn chỗi dậy phục vụ các sứ giả của Tin Mừng bằng cách chuẩn bị bữa ăn cho các ngài. Khi được yêu cầu để ở lại, Chúa Giêsu đã từ chối và tiếp tục lên đường.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tin Mừng hiệu nghiệm là do sự cộng tác giữa Thiên Chúa và con người.
1.1/ Tin Mừng có sức mạnh lan rộng vì đến từ Thiên Chúa.
(1) Ân sủng của Chúa Cha: Tin Mừng trước tiên là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người: Ngài ban Đức Kitô cho con người, và tạo mọi cơ hội cho con người gặp gỡ Đức Kitô. Ngài gởi Thánh Thần đến để soi sáng và thúc đẩy con người tin vào Đức Kitô. Thánh Phaolô nhận ra hồng ân cao cả này và tạ ơn Thiên Chúa Cha cho các tín hữu: "Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta ban cho anh em ân sủng và bình an. Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, khi cầu nguyện cho anh em."
(2) Dạy dỗ bởi Đức Kitô: Đức Kitô đã thân hành xuống thế giảng dạy, và để lại những gì ngài giảng dạy qua các Tông-đồ, những người rao giảng Tin Mừng, và các Thánh-sử, những người ghi chép lại Tin Mừng.
- Tin Mừng có sức mạnh tạo nên ba nhân đức đối thần: tin, cậy, mến nơi con người: "Thật vậy, chúng tôi đã được nghe nói về lòng tin của anh em vào Đức Giêsu Kitô, và về lòng mến của anh em đối với toàn thể dân thánh; lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng đến với anh em."
- Tin Mừng có sức mạnh lan rộng đến toàn cõi đất: "Tin Mừng này đang sinh hoa trái và lớn lên trên toàn thế giới như thế nào, thì nơi anh em cũng vậy, từ ngày anh em được nghe nói và nhận biết ân sủng của Thiên Chúa thực sự là gì."
(3) Soi sáng và thánh hóa bởi Thánh Thần: Nhiều lần thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến vai trò của Thánh Thần trong việc làm cho các tín hữu tin vào Tin Mừng khi ngài nói: Không ai có thể tin vào Đức Kitô và gọi Thiên Chúa là Cha, nếu không được Thánh Thần tác động. Ngoài ra, Chúa Thánh Thần còn ban các đặc sủng cho cả người rao giảng lẫn người nghe. Hơn nữa, nguyên việc có thể hiểu Tin Mừng là tác động của Thánh Thần. Trong trình thuật hôm nay, thánh Phaolô quy lòng mến các tín hữu có được là quà tặng của Chúa Thánh Thần.
1.2/ Cần nhiều sứ giả cộng tác với nhau trong việc phục vụ Tin Mừng: Thiên Chúa, Đấng có thể làm tất cả, chọn con người cộng tác với Ngài trong việc loan truyền Tin Mừng. Con người phải cộng tác với Thiên Chúa và cộng tác với nhau trong việc làm cho Tin Mừng lan rộng đến mọi người và mọi nơi. Chỉ trong một đoạn Tin Mừng ngắn ngủi, Phaolô cho thấy sự cần thiết của việc cộng tác giữa người và người:
(1) Phaolô có Timothy, người anh em luôn cộng tác đắc lực với ngài.
(2) Cộng đoàn Colossê có Epaphras, người đồng sự yêu quý của Phaolô và là người thay thế Phaolô với tư cách là người phục vụ trung thành của Đức Kitô.
(3) Các người trong cộng đoàn Colossê cộng tác với nhau.
2/ Phúc Âm: Đức Kitô nhiệt thành rao truyền Tin Mừng mọi nơi.
2.1/ Đức Kitô chữa lành mọi vết thương hồn xác cho con người.
(1) Chữa lành bà nhạc Phêrô: là do sự cộng tác của nhiều người: Phêrô, các bạn của Phêrô, Đức Kitô: "Đức Giêsu rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Simon. Lúc ấy, bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà." Bà nhạc của Phêrô trở thành người phục vụ Tin Mừng sau khi được chữa lành: "Đức Giêsu cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất: tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài."
(2) Chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền: "Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ."
Sứ vụ của Đức Kitô ngoài việc rao giảng Tin Mừng là diệt trừ ảnh hưởng của quỉ thần trên con người. Trong Tin Mừng, nhiều lần Ngài đã khử trừ chúng ra khỏi con người. Trong trình thuật hôm nay, trước khi quỉ xuất khỏi nhiều người, chúng la lên rằng: "Ông là Con Thiên Chúa!" Nhưng Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Kitô.
2.2/ Tin Mừng cần được rao giảng mọi nơi: Khuynh hướng an toàn của con người là muốn giữ nhà rao giảng và chữa bệnh ở lại với mình, để sinh lợi ích cho cá nhân hay cho cộng đồng của họ. Vì thế, họ đi tìm Người; và khi đã tìm thấy Người, họ muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi." Nhưng Người nói với họ: "Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó." Và Người đi rao giảng trong các hội đường miền Judah. Đây phải là bài học quan trọng cho mọi người.
- Nhà rao giảng phải tiếp tục lên đường, tiếp tục cho đi cho tới khi hoàn tất sứ vụ Thiên Chúa trao. Nhà rao giảng không được phép ở lại một chỗ để tìm sự an toàn cho chính mình, đang khi con người đang khao khát được nghe Tin Mừng.
- Các tín hữu cần nhớ Tin Mừng cần được rao giảng cho mọi người và mọi nơi. Họ không thể ích kỷ chỉ biết giữ cho mình, vì giữ lại là sẽ mất. Họ phải tìm cách khích lệ và làm nhà rao giảng an tâm để tiếp tục lên đường, phần họ sẽ ở lại để củng cố và rao giảng Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Bổn phận quan trọng nhất trong cuộc đời chúng ta là cộng tác với Thiên Chúa trong việc loan truyền Tin Mừng cho mọi người, sao cho tất cả đều được hưởng ơn cứu độ.
- Chúng ta có thể đóng góp vào công cuộc rao giảng Tin Mừng bằng nhiều cách: trực tiếp như rao giảng Phúc Âm, dạy học, viết bài, dạy giáo lý ... gián tiếp như đóng góp thời gian, tiền của, tài năng, công sức để giúp cơ hội cho những nhà rao giảng Tin Mừng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
01/9 Đoạn tuyệt với tội lỗi và sống cho Thiên Chúa
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 22 TN1
Bài đọc: I Thes 5:1-6, 9-11; Lc 4:31-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đoạn tuyệt với tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.
Tội lỗi là một thực tại giam hãm và hủy diệt con người. Nhiều người ngày nay tuy sống trong tội lỗi, nhưng không còn nhận ra nguy hiểm nữa vì đã quá quen trong tội. Đức Kitô đến để nhắc nhở con người biết ý thức về tội lỗi và những nguy hiểm của tội lỗi gây ra. Ngài đến để hủy diệt tội lỗi và sự chết bằng cách chấp nhận cái chết trên Thập Giá, để thanh tẩy tội lỗi và mang lại cuộc sống trường sinh cho con người.
Các Bài Đọc hôm nay nhắc nhở cho con người luôn biết ý thức về tội lỗi và phải biết luôn chuẩn bị cho ngày tận thế của mình. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên các tín hữu luôn biết chuẩn bị cho Ngày Chúa Đến, bằng cách chuẩn bị sẵn sàng và tỉnh thức. Cách chuẩn bị hay nhất là sống như hôm nay là ngày cuối đời của mình. Trong Phúc Âm, khi Chúa vào hội đường để giảng dạy, ma quỉ tuyên xưng Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa, và ngăn ngừa Ngài đừng tiêu diệt chúng bằng việc dạy dỗ con người. Chúa thẳng thắn trục xuất chúng và dạy dỗ con người phải biết cẩn thận đề phòng để đừng làm nô lệ cho ma quỉ và tội lỗi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ngày của Chúa chắc chắn sẽ đến.
1.1/ Phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày Chúa đến: Con người chỉ sống một thời gian trên trái đất này, và sau đó sẽ từ giã cuộc đời để về với Chúa. Ngày Tận Thế có thể là Ngày Phán Xét, nhưng đúng hơn, nó là ngày cuối cùng của chính đương sự.
(1) Chúa đến vào thời gian con người không ngờ: Không ai biết được ngày cuối cùng của đời mình. Nhiều người nghĩ phải già, hay có bệnh nguy hiểm rồi mới chết; nhưng thực tế nhiều khi chứng minh ngược lại, nhiều người đã phải đau đớn thốt lên: "lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống, trời ơi hỡi trời!" Thánh Phaolô cũng viết thư khuyên các tín hữu Thessalonica: "Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: "Bình an biết bao, yên ổn biết bao!" thì lúc ấy tai hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được."
(2) Phải luôn sẵn sàng chuẩn bị: Vì không ai biết trước ngày giờ tận thế, nên các tốt nhất là luôn chuẩn bị sẵn sàng. Hãy sống như hôm nay là ngày cuối đời của mình. Thánh Phaolô khuyên: "Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em.
Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối."
1.2/ Hãy luôn tỉnh thức và sống tiết độ: Làm thế nào để luôn chuẩn bị sẵn sàng? Các tín hữu Thessalonica chuẩn bị bằng cách không lo lắng làm việc chi hết, chỉ ngồi chờ ngày Chúa đến mà thôi. Thánh Phaolô đả kích cách chờ đợi này, ngài khuyên họ: "Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ. Vì Thiên Chúa đã không định cho chúng ta phải chịu cơn thịnh nộ, nhưng được hưởng ơn cứu độ, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã chết vì chúng ta, để dầu thức hay ngủ, chúng ta cũng sống với Người."
Trước hết, phải năng nhắc cho nhau biết chuẩn bị cho ngày đó. Thứ hai, phải biết sống tiết độ: biết dùng tất cả những gì Thiên Chúa ban cách khôn ngoan và chừng mực, tránh làm nô lệ cho bất kỳ một thói quen nào làm chúng ta lạc xa con đường cứu độ. Sau cùng, hãy luôn biết sống trong Đức Kitô: nghe lời Ngài dạy dỗ và bắt chước gương mẫu Ngài làm, sống kết hiệp với Ngài bằng cuộc sống cầu nguyện, và bằng ơn thánh Ngài ban qua các bí-tích, nhất là phép Thánh Thể.
2/ Phúc Âm: Hãy đoạn tuyệt với tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.
2.1/ Chúa đến để khai trừ quyền lực ô uế ra khỏi con người: Trình thuật kể khi Chúa vào trong hội đường để giảng dạy, có một người bị quỷ thần ô uế nhập, la to lên rằng: "Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!" Quỷ vật người ấy ngã xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta, nhưng không làm hại gì anh. Không lạ gì khi ma quỉ nhận ra Chúa Giêsu và tuyên xưng Ngài là "Đấng Thánh của Thiên Chúa," vì ánh sáng và bóng tối luôn khai trừ nhau: chỗ nào có ánh sáng là không có bóng tối và ngược lại. Khi con người có Thiên Chúa, họ sẽ không có ma quỉ, quyền lực của bóng tối bị quyền lực của Thiên Chúa khai trừ. Ngược lại, khi một người để ma quỉ bố trí bao vây hết linh hồn, Lời Chúa khó mà thâm nhập vào linh hồn con người.
Ngày nay, ma quỉ vẫn làm chủ con người và vẫn tìm cách để nuốt chửng ánh sáng. Khi nghe Lời Chúa và những lời giảng dạy của linh mục trong thánh đường, ma quỉ vẫn tìm mọi cách để những lời ấy đừng vào tâm hồn các người nghe. Dụ ngôn "Người gieo giống" là một điển hình cho điều này. Chúng cám dỗ con người bằng mọi cách: ngủ gật, chia trí nhìn người khác, để hồn chu du các nơi, ngay cả những vùng cấm địa. Ngoài ra, chúng còn dùng thủ đoạn để vạch lá tìm sâu nơi người rao giảng và ngay cả việc phê bình, chỉ trích, bôi lọ, để nhà rao giảng không còn can đảm để nói sự thật.
2.2/ Chúa đến để dạy dỗ điều hay lẽ phải và thánh hóa con người: Con người có thể trở nên tốt lành bằng cách thực hiện hai điều sau:
(1) Lắng nghe lời dạy dỗ của Đức Kitô: Một trong những điều quan trọng giam hãm con người trong tội lỗi là sự u mê, không nghĩ mình có bệnh. Khi con người có thái độ này, họ không nghĩ mình đang mang bệnh và không cần sự chỉ dạy của ai cả. Một người nghiện rượu không nghĩ mình say, anh chẳng cần phải sửa tính nghiện rượu.
Để có thể chữa trị tội lỗi, con người cần nhận ra mình có tội. Để nhận ra tội, con người cần có thời gian học hỏi và suy niệm để Lời của Đức Kitô soi sáng, để con người có thể nhận ra tình trạng bệnh tật của mình. Ví dụ, khi Ngài nói: "Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa:" Con người cần tìm hiểu lý do tại sao Chúa nói như thế; nhất là nhìn vào cuộc đời của mình để xét xem, mình có bệnh tật đó hay không. Mình có đặt sự giầu có lên trên Thiên Chúa không? Mình có dùng thời giờ của Chúa ban để học hỏi Lời Chúa hay làm việc kiếm tiền để đếm cho sướng tay? Mình có dùng của dư giả để giúp người nghèo hay những nơi cần giúp, hay phung phí tiền của vào những nơi ăn chơi vô bổ?
(2) Lấy sức mạnh và ơn thánh của Đức Kitô để diệt trừ tội lỗi: Tội lỗi thấm nhập lâu ngày rất khó sửa trị, con người cần lấy sức mạnh của Lời Chúa và chính ơn thánh của Ngài ban qua các bí-tích. Ví dụ, khi Chúa nói với người thanh niên, "Hãy bán gia tài anh có và phân phát cho người nghèo, anh sẽ được kho tàng trên trời." Hãy tìm hiểu Lời Chúa xem "kho tàng trên trời" bao gồm những điều gì. Niềm hy vọng vào kho tàng trên trời sẽ giúp con người có sức mạnh để dám hy sinh kho tàng dưới đất. Ngoài ra, con người cần ơn thánh Chúa ban qua các bí-tích, vì sức con người không đủ để chống trả lại sức mạnh của ba thù là ma quỉ, thế gian, và xác thịt. Vì thế, con người cần thường xuyên lãnh nhận bí-tích Thánh Thể và Giao Hòa, để những ơn thánh từ hai Bí-tích này giúp con người có sức mạnh vượt qua những cám dỗ của ba thù.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tội lỗi làm con người trở thành nô lệ cho ma quỉ, và ngăn cản con người đạt tới ơn cứu độ. Chúng ta hãy tìm mọi cách để khử trừ tội lỗi.
- Hãy học Kinh Thánh để Lời Chúa soi sáng chúng ta nhận ra tội lỗi, hãy áp dụng Lời Chúa trong cuộc sống và năng lãnh nhận bí-tich để có sức mạnh khử trừ tội lỗi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
31/8 Hy vọng vào cuộc sống trường sinh giúp con người diệt trừ bản ngã
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 22 TN1
Bài đọc: I Thes 4:13-18; Lc 4:16-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hy vọng vào cuộc sống trường sinh giúp con người diệt trừ bản ngã.
Một trong những lý do ngăn cản con người tiến tới trên đường trọn lành là bản ngã: cái tôi ích kỷ trong con người. Hầu như mọi tội lỗi đều có nguồn gốc từ bản ngã này. Trong khi Đức Kitô cố gắng dạy dỗ các môn đệ vượt qua khuynh hướng xấu xa này, thì đa số nhân loại ngày nay lại tôn thờ nó dưới mầu sắc khác nhau: khuynh hướng cá nhân chỉ nhằm đạt lợi ích cho bản thân, khuynh hướng vật chất chỉ nhằm hưởng thụ vật chất và gạt ra ngoài những giá trị luân lý, tinh thần. Làm sao con người có thể diệt trừ bản ngã này?
Các Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta hiểu sự nguy hiểm của bản ngã này và cách để diệt trừ chúng. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô hướng lòng các tín hữu Thessalonica đến mục đích tối hậu của cuộc đời là hy vọng được sống trường sinh bất tử với Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn vạch ra tai hại của những người sống theo bản ngã này: họ từ chối và muốn tiêu diệt ngay cả Đấng đem lại cho họ niềm hy vọng được sống đời đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hy vọng của chúng ta là sẽ được cùng sống lại với Đức Kitô.
1.1/ Sự cần thiết của hy vọng: Hy vọng như thế nào, sẽ sống như thế ấy. Nếu không hy vọng vào cuộc sống mai sau, con người sẽ níu kéo những giá trị của đời tạm này. Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu hai điều chính về cuộc đời:
(1) Chết không hết, nhưng bắt đầu cuộc sống đời đời với Thiên Chúa: Ngài nói: "Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng."
(2) Đức Kitô là niềm hy vọng của các tín hữu: "Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu."
1.2/ Ngày Chúa Quang Lâm: Truyền thống Do-thái, trước khi Chúa Giêsu đến, hiểu rất mơ hồ về Ngày Chúa Đến và về cuộc sống đời đời. Đa số cho hạnh phúc của những người được ơn nghĩa với Chúa chỉ giới hạn trong cuộc đời này: được khỏe mạnh, sống lâu, con đàn cháu đống, được bình an hạnh phúc; nhưng khi chết là hết. Thư thánh Phaolô gởi tín hữu Thessalonica I (được viết khoảng 50-60 AD) là tài liệu đầu tiên cho chúng ta mặc khải của Đức Kitô về những gì xảy ra sau cái chết.
Thánh Phaolô nói về Ngày Chúa Đến như sau: "Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi."
2/ Phúc Âm: Thiên Chúa cho mọi người có cơ hội đồng đều, nhưng không phải ai cũng biết lợi dụng cơ hội.
2.1/ Chúa Giêsu giảng giải cho người đồng hương: Trình thuật kể: Đức Giêsu đến Nazareth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabbath, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaiah. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa." Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
2.2/ Chúa Giêsu hiểu rõ thái độ của người đồng hương: Chúa Giêsu không im lặng để nhận tiếng khen, Ngài muốn họ phải đối diện với thực tế và sửa đổi hai điều.
(1) Họ muốn Ngài làm nhiều phép lạ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capernaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!" Làm phép lạ là để khơi dậy niềm tin, chứ không phải để điều khiển người làm phép làm điều mình muốn. Khi không thấy dấu hiệu của đức tin, Chúa Giêsu từ chối việc làm phép lạ.
(2) Họ sẽ khinh thường Ngài, vì "bụt nhà không thiêng:" Chúa Giêsu biết rõ thái độ này của họ, nên Ngài bảo: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình."
Tại sao con người có thái độ khinh thường những người trong gia đình hay trong cộng đoàn? Vì họ không muốn ai hơn mình trong cộng đoàn. Người ngoài đến rồi đi, họ không ảnh hưởng gì trong cộng đoàn. Người trong cộng đòan là người sống thường xuyên với mình: đề cao họ là làm giảm giá trị của mình; vì thế, khi khinh thường người đồng hương, là đồng thời họ đang đề cao cái tôi của mình. Đây là thái độ vẫn đang xảy ra trong gia đình và cộng đoàn: khinh thường người trong nhà, người đồng hương, người trong Dòng, người cùng một nước. Trái lại, đề cao và tôn trọng người ngoài. Lẽ ra, chúng ta phải nâng đỡ và khuyến khích anh/chị/em cùng nhà và cùng nguồn gốc, vì "khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau." Đây là thái độ giết tài năng của người trong gia đình, và ngăn cản việc cùng nhau cộng tác. Nếu vượt qua được thái độ này, gia đình và cộng đoàn sẽ tiến rất mau và mạnh.
Chúa Giêsu muốn sửa chữa thái độ của họ, nên Ngài đưa ra hai sự kiện lịch sử để chứng minh tai hại của thái độ "bụt nhà không thiêng." Ngài nói: "Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Elijah, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Zareptha miền Sidon. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Elisah, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Syria thôi."
Lịch sử tái diễn khi Chúa Giêsu vừa nói xong những lời này, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Lẽ ra họ phải biết sáng suốt chấp nhận thực tế: khen và tôn trọng những gì đáng khen; phán xét theo như sự việc là, đừng để bất cứ thành kiến nào ngăn chận để đưa đến phán đoán sai lầm; nhưng họ để cho cái bản ngã ích kỷ và thành kiến che mắt để rồi lại muốn giết luôn Đấng mong muốn mọi sự tốt lành cho họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Hy vọng vào cuộc sống trường sinh phải là động lực chính giúp chúng ta vượt qua cái tôi ích kỷ của mình để làm theo những gì Đức Kitô dạy dỗ.
- Khi chúng ta tháo bỏ bản ngã của mình, Thiên Chúa sẽ làm đầy chúng ta bằng tình yêu và ơn thánh của Ngài, để chúng ta ngày càng trở nên giống Ngài hơn. Ngược lại, nếu chúng ta để cho bản ngã hoành hành, chúng ta sẽ đi dần đến chỗ từ chối luôn mục đích của cuộc đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
30/8 Đâu là sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 22 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Deut 4:1-2, 6-8; Jas 1:17-18, 21b-22, 27; Mk 7:1-8, 14-15, 21-23.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đâu là sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực.
Nhiều người giới hạn đạo vào việc thờ phượng Thiên Chúa trong nhà thờ: như đi tham dự Thánh Lễ mỗi tuần; hay chỉ chịu Phép Rửa để có danh hiệu Kitô hữu; hay chỉ thi hành một số điều bên ngoài mà Lề Luật đòi buộc. Tôn giáo chân chính đòi con người phải sống kết hiệp với Thiên Chúa khi làm việc thờ phượng cũng như trong đời sống hàng ngày. Các tín hữu phải tuân giữ tất cả các Lề Luật của Thiên Chúa, và phải sống đức bác ái cách trọn hảo bằng việc giúp đỡ tha nhân.
Mỗi Bài Đọc hôm nay tập trung trong một khía cạnh của việc thực hành tôn giáo. Trong Bài Đọc I, ông Moses đưa ra những lý do để khuyên con cái Israel phải tuân giữ trọn vẹn Thập Giới của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc II, thánh Giacôbê chú trọng đặc biệt đến việc nghe và thực hành những lời Thiên Chúa dạy, vì tri hành phải đồng nhất. Một người không thể tách rời niềm tin ra khỏi những việc làm để minh chứng đức tin sống động của mình. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tố cáo việc thực hành tôn giáo bằng những lễ nghi giả hình bên ngoài, như giữ các lề luật về việc thanh sạch bên ngoài; mà quên đi việc thanh tẩy thực sự trong tâm hồn. Ngài muốn con người phải đặt những giới luật của Thiên Chúa lên trên những lề luật và truyền thống của con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy thực hành Thập Giới mà Thiên Chúa ban cho anh em.
1.1/ Sự cao trọng của Thập Giới:
(1) Thập Giới phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng duy nhất biết những gì tốt lành cho con người. Ngài ban cho con người Thập Giới qua trung gian của ông Moses trên núi Sinai.
(2) Thiên Chúa ban Thập Giới vì Ngài yêu thương con người. Ông Moses coi đây là một đặc quyền cao quí nhất, chỉ dành cho Dân Riêng của Thiên Chúa, khi ông hỏi con cái Israel: "Có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?" Không một dân tộc nào được thần của họ ban lề luật như Thiên Chúa ban Thập Giới cho Israel.
(3) Không ai được thêm vào hay bớt đi những gì từ Thập Giới: Thói quen của con người là thích thêm bớt vào những gì đã hiện hữu, hoặc để cho nó văn hoa hơn, hay để che giấu những tà ý. Ông Moses tuyên bố rất rõ ràng về tính bất di dịch của Thập Giới: "Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em."
(4) Thập Giới là điều kiện ắt có và đủ để được vào Đất Hứa: "Giờ đây, hỡi Israel, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em." Đất Hứa ở đây có thể hiểu là vùng đất Canaan, nhưng bao quát hơn, là Thiên Đàng sau này.
1.2/ Thập Giới ban hành là để tuân giữ: Ông Moses truyền cho con cái Israel: "Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và hiểu biết."
Theo truyền thống Do-thái, Thập Giới được gọi là "Mười Lời" của Thiên Chúa (deca-logos trong tiếng Hy-lạp, decalogue trong tiếng Pháp). Lời có thể là chỉ một chữ hay cả bài diễn văn. Trong ngôn ngữ Do-thái, cũng không có sự khác biệt giữa "lời" và "sự việc, hay sự vật." Họ dùng chung một chữ "dabar" để chỉ lời hay sự việc xảy ra; hiểu theo kiểu Việt-nam, "tri hành đồng nhất." Họ có lý do để làm như thế, vì nếu một người biết nhiều mà không thực hành, nào có ích chi cho người ấy! Thập Giới ban hành không phải để học thuộc lòng, cũng không để đóng khung thờ lạy.
1.3/ Thập Giới không giới hạn tự do của con người: Một cách tuyệt đối, con người vẫn có tự do để giữ hay không giữ; nhưng Thập Giới cung cấp đường đi nước bước cho con người; nhất là nó giúp cho con người nhận ra những nguy hiểm của các kẻ thù luôn rình rập quyến dũ con người. Ngoài ra, Thập Giới cũng giúp con người định vị các thứ tự ưu tiên của cuộc đời: tiên vàn là mối liên hệ hàng đầu giữa con người với Thiên Chúa, thứ đến là mối liên hệ giữa con người với tha nhân, và sau cùng là mối liên hệ giữa con người với thế giới vật chất.
2/ Bài đọc II: Hãy đem Lời Chúa ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình.
2.1/ Hiệu quả của Lời Chúa:
(1) Lời Thiên Chúa là sự thật: giúp chúng ta phân biệt sự thật khỏi những sự gian trá làm mê hoặc lòng người. Thánh Giacôbê nói về sự cao trọng của Lời Chúa như sau: "Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người. Vì vậy, anh em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em."
(2) Phải thực hành Lời Chúa: Cũng một ý với ông Moses trong Bài Đọc I, thánh Giacôbê khuyên các tín hữu của ngài: "Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình."
Chúng ta cần biết qua cộng đồng các tín hữu thời sơ khai. Nhiều người lầm lẫn về sự chỉ dạy của thánh Phaolô, nhất là trong Thư gởi tín hữu Rôma và Galat, khi ngài nói: con người được trở nên công chính nhờ niềm tin vào Đức Kitô. Họ nói: chỉ cần niềm tin vào Đức Kitô là đủ, việc làm không quan trọng, vì nó không ảnh hưởng đến sự cứu độ của con người. Ngày nay, vẫn còn nhiều anh em Tin Lành và nhiều người chủ trương sống theo lối sống này. Đây là một cách cắt nghĩa sai lầm, vì Đức Kitô và thánh Phaolô không chủ trương và dạy bảo như thế. Thánh Giacôbê cũng phải đương đầu với ý kiến như thế trong cộng đoàn của ngài. Chỗ khác trong Thư, ngài còn nhấn mạnh hơn nữa: "Đức tin không việc làm là đức tin chết" (Jas 2:17).
2.2/ Nếu tin Thiên Chúa, cũng phải yêu mến tha nhân: Mười Điều Răn được Đức Kitô tóm tắt trong hai giới răn căn bản là "Mến Chúa và yêu người." Hay một cách đơn giản hơn nữa, Đạo Công Giáo là đạo yêu thương. Dĩ nhiên, yêu thương theo kiểu của Thiên Chúa, chứ không theo kiểu của con người. Chúa Giêsu đòi các tín hữu phải yêu thương kẻ thù, cầu nguyện, và làm ơn cho kẻ gây thiệt hại cho mình. Thánh Giacôbê khuyên các tín hữu: phải có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.
3/ Phúc Âm: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.
3.1/ Các kinh-sư và biệt-phái tố cáo môn đệ Chúa Giêsu không giữ tập tục của tiền nhân: "Có những người biệt-phái và một số kinh-sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những người từ Jerusalem đến. Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy, người biệt-phái cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. Vậy, người biệt-phái và kinh sư hỏi Đức Giêsu: "Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?"'' Luật Kosher của Do-thái là tất cả những luật liên quan tới việc phải giữ làm sao cho thanh sạch trong việc ăn uống cũng như việc tế lễ. Phần lớn những luật này là do con người thêm vào theo thời gian.
3.2/ Hãy để ý tới những nguyên lý nền tảng: Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu muốn dạy con người 3 điều quan trọng:
(1) Đừng thờ Thiên Chúa bằng môi miệng bên ngoài: vì Ngài thấu suốt những gì đang xảy ra trong tâm hồn con người. Họ có thể đánh lừa người đời bằng lối sống giả hình bên ngoài, nhưng không bao giờ qua mặt được Thiên Chúa. Chúa Giêsu dẫn chứng lời tiên-tri Isaiah đã từng lên án hạng người này: "Ngôn sứ Isaiah thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta."
(2) Đừng vịn vào truyền thống để hủy bỏ Lề Luật của Thiên Chúa: Chúa Giêsu tố cáo họ: "Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm." Điều chúng ta phải nhận ra ở đây là Ngài không đến để phá hủy truyền thống; nhưng Ngài muốn dạy cho họ biết phải đặt giới luật của Thiên Chúa lên trên mọi luật lệ và truyền thống của con người. Khi nào có sự xung đột giữa giới luật của Thiên Chúa và luật lệ hay truyền thống của con người, họ phải can đảm tuân giữ giới luật của Thiên Chúa. Ví dụ: luật phá thai hay án tử hình.
(3) Thanh tẩy tâm hồn bên trong cần thiết hơn thanh tẩy đồ dùng bên ngoài: Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: "Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế."
Điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở đây là con người phải chú trọng đến việc thanh tẩy trong tâm hồn, vì hậu quả của tội lỗi làm con người ô uế trầm trọng hơn sự ô uế do đồ ăn thức uống gây ra. Những kinh-sư và biệt-phái chú trọng đến việc thanh tẩy bên ngoài để che đậy những ô uế trong tâm hồn, vì họ nghĩ không ai có thể thấy những gì họ giấu kín bên trong; nhưng không phải ai họ cũng giấu được, nhất là họ không thể giấu được Đức Kitô, Người có thể thấu suốt mọi bí ẩn trong tâm hồn của họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải thực hành mọi điều Thiên Chúa dạy trong Thập Giới, vì đó là những Lề Luật căn bản để đem lại hạnh phúc cho con người.
- Lời Chúa không phải là những kiến thức để biết, nhưng là những điều cần thi hành để sinh lợi ích cho con người. Nếu sau khi biết rồi mà không chịu thực hành, chúng ta hoang phí thời giờ vô ích, vì chúng ta đã không sinh lợi được gì cho mình và cho tha nhân.
- Vệ sinh thường thức là điều cần giữ để tránh bệnh tật; nhưng chúng ta phải chú trọng đến việc thanh tẩy tâm hồn, vì tội lỗi làm thiệt hại linh hồn chúng ta nhiều hơn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
28/8 Sống yêu thương sẽ xây dựng gia đình và xóa tan mọi hận thù
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 21 TN1. Nhớ Thánh Gioan Tẩy Giả bị chém đầu.
Bài đọc: I Thes 4:9-11; Mk 6:17-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sống yêu thương sẽ xây dựng gia đình và xóa tan mọi hận thù.
Cha ông chúng ta đã biết quá rõ giá trị của yêu thương trong cuộc sống gia đình và cộng đoàn, khi nói: "Yêu nhau cau bảy bổ ba. Ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười." Hay "yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa." Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa khi Ngài dạy, toàn bộ của Lề Luật có thể thu gọn vào hai giới răn: "mến Chúa yêu người." Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu khuyên nhủ các môn đệ: "Như Cha đã yêu Thầy thế nào, Thầy cũng yêu anh em như vậy ... Như Thầy yêu anh em thế nào, anh em cũng phải yêu thương nhau như vậy ... Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em thương yêu nhau."
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong nguyên lý yêu thương. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Thessalonica phải cố gắng yêu thương nhau, giữ hòa khí trong cộng đồng, và làm việc để có của ăn sinh sống và để xây dựng cộng đồng. Trong Phúc Âm, thánh Marcô tường thuật một gia đình giầu có thế lực, nhưng không có yêu thương thành thật. Hậu quả là lối sống loạn luân và thanh toán lẫn nhau trong gia đình: Herode cha có 5 đời vợ và đã giết 3 đứa con ruột của mình; đến nỗi trong dân gian có câu vè: "làm con heo cuả Herode còn an tòan hơn làm con ruột của ông." Herode con, người được nói tới hôm nay, lấy vợ của anh mình. Gioan Tẩy Giả là người công chính, vì muốn sống và làm chứng cho sự thật đã ngăn cản cuộc hôn nhân này, nên đã phải trả giá bằng cách bị chém đầu đặt trên mâm để cô con gái trao cho một bà mẹ trắc nết và thủ đoạn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tôi khuyên nhủ anh em hãy tiến tới nhiều hơn nữa.
Để hiểu trình thuật hôm nay, chúng ta cần hiểu những gì xảy ra cho cộng đoàn Thessalonica lúc bấy giờ: nhiều người trong cộng đoàn tin Ngày Quang Lâm đã gần kề, nên họ bỏ hết công việc làm ăn để chờ đợi Chúa đến. Thánh Phaolô phải viết thư khuyên họ về cách chờ đợi Ngày Chúa đến:
(1) Anh em phải yêu thương nhau: "Còn về tình huynh đệ, anh em không cần ai viết cho anh em, vì chính anh em đã được Thiên Chúa dạy phải thương yêu nhau." Đây là đồng phục của các cộng đoàn Kitô hữu: người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau. Một khi có tình yêu thương, các tín hữu có thể xóa tan những nghi kỵ, bất hòa, và chia rẽ trong cộng đoàn.
(2) Anh em phải thăng tiến nhiều hơn nữa: Tin Mừng không những được truyền đạt bằng lời rao giảng, nhưng còn bằng chính cuộc đời chứng nhân của các Kitô hữu. Thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy càng ngày càng tiến tới trên đàng nhân đức, để Tin Mừng có thể lan rộng trong toàn miền Macedonia.
(3) Đợi chờ Ngày Chúa đến bằng cách chu toàn các bổn phận của mình: Khuynh hướng của con người là thích loan tin giật gân và thổi phồng những gì họ nghĩ sắp xảy ra. Nhìn lại biến cố khi nhân loại sắp bước vào năm 2,000, chúng ta thấy nhiều người nghĩ Ngày Tận Thế sẽ xảy ra, nên họ rút tiền khỏi ngân hàng để ăn chơi thả cửa, không thiết tha gì đến làm việc nữa. Điều này cũng đã xảy ra cho cộng đoàn Thessalonica; vì thế, thánh Phaolô khuyên họ: "Hãy sống cách bình thản, ai lo việc nấy và lao động bằng chính bàn tay của mình, như chính tôi đã truyền cho anh em." Cách sửa soạn đón Ngày Chúa Đến tốt nhất là chu toàn bổn phận của mình cách trung thành và yêu thương tha nhân cách thành thật, chứ không phải hốt hoảng sợ hãi, lười biếng không làm việc, và sống bám vào người khác.
2/ Phúc Âm: Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!
(1) Gioan Tẩy Giả sống và chết cho sự thật: Đây là tấm gương sáng Gioan Tẩy Giả cho chúng ta. Ông dám nói sự thật mà không sợ hãi bất cứ một quyền lực nào của thế gian. Trong Tin Mừng Matthew, ông thẳng thắn đe dọa các Pharisees và Sadducees khi họ đến để xin ông làm Phép Rửa: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các ông cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các ông hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: "Chúng ta đã có tổ phụ Abraham." Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa." Trong trình thuật hôm nay, ông Gioan thẳng thắn bảo vua Herode: "Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!" Vì vua Herode đã lấy bà Herodia, vợ của người anh là Philíp. Hậu quả là vua sai lính bắt giam Gioan Tẩy Giả vào ngục thất.
(2) Sự hèn nhát của vua Herode Antipas.
+ Ông là người loạn luân: đã lấy vợ của anh mình là Herode Philip.
+ Ông sống theo sự giả trá: Tuy ông muốn nghe sự thật, nhưng không muốn bênh vực sự thật. Trình thuật mô tả bản chất của ông: "Vua Herode biết ông Gioan là người công chính thánh thiện, nên sợ ông, và còn che chở ông. Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe.''
+ Khi ông không dám sống theo sự thật, ông sẽ sống theo sự giả trá: "Nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Herode mở tiệc thết đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Galilee. Con gái bà Herodia vào biểu diễn một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích. Nhà vua nói với cô gái: "Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con." Vua lại còn thề: "Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được."
+ Giữ lời hứa trong lúc say xỉn: Khi nghe cô con gái muốn xin đầu Gioan đặt trên đĩa, nhà vua buồn lắm, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với cô.
Lập tức, vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ.
(3) Mối hận thù của bà Herodia: Bà căm thù ông Gioan vì cản trở cuộc hôn nhân của Bà, và đợi có cơ hội là giết ông.
+ Bà là người mẹ dạy con làm chuyện đê hèn: Công chúa mà khiêu vũ một mình trước bá quan văn võ là điều xấu hổ. Chân tướng ác độc của Bà được tỏ lộ khi bảo con làm chuyện thất nhân ác đức: xin đầu của một vị thánh đặt trên mâm.
+ Sóng trước đổ đâu, sóng sau theo đó, Salome, cô con gái của bà Herodia với Herode Philip, sau này cũng loạn luân như mẹ: Cô lấy cậu mình, Philip the Tetrarch, là con của Herode the Great và bà Cleopatra of Jerusalem.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta: Trên hết mọi sự, anh em hãy có nhân đức yêu thương, vì đó là dây ràng buộc mọi điều toàn thiện. Chúng ta chỉ có nhân đức này khi Thiên Chúa ngự trị trong gia đình chúng ta mà thôi.
- Nếu không có yêu thương thành thật, gia đình chúng ta sẽ biến thành địa ngục như gia đình Herode; và mọi người trong gia đình sẽ phải trả giá đắt về những hành động của mình.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 28/8 Cách thức để đạt tới Nước Trời
- 26/8 Thi hành đồng nhất: việc làm bên ngoài và ý hướng bên trong
- 25/8 Trong ngoài như một; lời nói phải đi đôi với hành động
- 24/8 Đến mà xem
- 23/8 Phải biết làm các quyết định khôn ngoan trong cuộc đời
- 22/8 Thiên Chúa ghé mắt nhìn xem những người khiêm nhường phục vụ
- 21/8 Mến Chúa, yêu người
- 20/8 Trung tín giữ những gì đã thề hứa
- 19/8 Sự khác biệt giữa Vua Trời và vua chúa trần gian
- 18/8 Thiên Chúa chọn những kẻ khiêm cung, khó nghèo.