Sống Lời Chúa Hôm Nay
24/9 Phải học hỏi để tìm ra sự thật quan trọng nhất mà thi hành
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 25 TN1
Bài đọc: Hag 1:1-8; Lk 9:7-9.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải học hỏi để tìm ra sự thật quan trọng nhất mà thi hành.
Có quá nhiều chuyện làm chia trí con người trong cuộc đời, đến nỗi con người chỉ biết phản ứng khi nó xảy ra, mà không biết có nên làm hay không. Người khôn ngoan không để hoàn cảnh làm chủ mình; nhưng biết làm chủ và khắc phục hoàn cảnh. Để được như thế, con người cần biết xếp đặt giá trị ưu tiên của chúng. Nhiều lần chúng tôi đã đề cập đến tiêu chuẩn để sắp xếp các giá trị này: Trước tiên, mối liên hệ với Thiên Chúa phải được đặt lên trên hết, vì Ngài là Đấng làm chủ mọi sự và ban ơn lành cho con người. Kế đến, là mối liên hệ với tha nhân, trong đó có cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, bạn bè. Sau cùng, mới đến sự liên hệ với thế giới như công ăn, việc làm, và mọi thú vui chơi khác.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng cho con người biết phải làm điều gì quan trọng hơn. Trong Bài Đọc I, ngôn sứ Haggai nhắc nhở cho con cái Israel việc đầu tiên phải làm là xây dựng Đền Thờ để có chỗ học hỏi Lời Chúa và thờ phượng; chứ không phải việc lo ổn định đời sống của cá nhân và gia đình. Họ cần suy xét và nhớ lại lý do tại sao họ phải đi lưu đày, vì đã quay lưng lại với Thiên Chúa và chạy theo các thần ngoại bang. Nếu không biết suy xét và hành động cách khôn ngoan, họ sẽ đi lại con đường của cha ông họ và cảnh lưu đày sẽ chắc chắn xảy ra lần nữa. Trong Phúc Âm, Thiên Chúa cho tiểu vương Herode cơ hội lần đầu để nhận biết sự thật từ Gioan Tẩy Giả; ông đã không biết lợi dụng, còn chém đầu người đã tuyên bố sự thật. Ngài cho ông có cơ hội lần hai để học hỏi từ Đấng là sự thật, ông tò mò muốn biết; nhưng rồi cũng chẳng lắng nghe và bênh vực sự thật trong Cuộc Thương Khó của Đức Kitô.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy lên núi, đưa gỗ về tái thiết Đền Thờ cho Ta.
1.1/ Hai phản ứng hoàn toàn trái ngược nhau về việc xây dựng lại Đền Thờ Thiên Chúa.
(1) Những người thúc đẩy việc tái thiết Đền Thờ: Trước hết là Thiên Chúa. Ngài đã thay đổi lòng các vua Ba-tư để họ phóng thích dân Do-thái, cho hồi hương, và giúp đỡ vật liệu để tái thiết Đền Thờ. Khi thấy dân chúng hờ hững trong việc bỏ công sức để xây dựng Đền Thờ, Thiên Chúa dùng ngôn sứ Haggai để nói với dân chúng ỳ định của Thiên Chúa: "Bây giờ có phải là lúc để các ngươi ở trong các nhà có ghép gỗ đóng trần, còn Đền Thờ thì lại hoang tàn đổ nát không?"
(2) Phản ứng của đa số dân chúng: Khuynh hướng tự nhiên của đa số dân chúng khi vừa được phóng thích khỏi cảnh nô lệ cho về hồi hương là lo ổn định đời sống trước đã. Họ nghĩ chưa đến lúc lo việc xây dựng Đền Thờ khi cuộc sống sinh kế và gia đình chưa ổn định.
1.2/ Hãy để tâm suy xét kỹ về lối sống của các ngươi: Thoạt nghe lý do dân chúng nêu ra, nhiều người chúng ta chắc cũng nghĩ đó là điều hợp lý phải làm; nhưng tiên-tri Haggai mời gọi con cái Israel cũng như mỗi người chúng ta phải biết nhìn toàn bộ cuộc sống, và cẩn thận suy xét lại quyết định của mình.
(1) Điều gì quan trọng nhất trong cuộc đời: Thiên Chúa và các nhà lãnh đạo tinh thần luôn nhắc đi nhắc lại bổn phận phải kính mến và thờ phượng Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và trên hết mọi sự. Dân chúng có thể nhớ thuộc lòng; nhưng không mấy người chịu đem ra áp dụng trong cuộc đời. Họ luôn đặt bản thân họ, gia đình họ, quyền lợi, và vật chất lên trên Thiên Chúa. Hậu quả là họ bị làm nô lệ cho vật chất và cho quân thù. Giờ đây, khi được phóng thích và hồi hương, con cái Israel vẫn chứng nào tật đó, vẫn ngựa quen đường cũ, đi lại đường lối ngày xưa cha ông họ đã đi. Nếu họ không chịu thay đổi để theo đường lối của Thiên Chúa, lưu đày và đau khổ chắc chắn lại xảy ra!
(2) Thành công có được không chỉ do cố gắng con người: Tiên-tri Haggai mời gọi mọi người lắng nghe lời Đức Chúa các đạo binh phán với họ: "Các ngươi hãy để tâm suy cho kỹ về lối sống của các ngươi: các ngươi gieo vãi nhiều, nhưng thu hoạch chẳng bao nhiêu; các ngươi ăn mà không đủ no, uống không đủ say, mặc không đủ ấm; đồng lương của người làm thuê lọt qua túi thủng."
Tại sao con người cố gắng vượt bực, vất vả ngược xuôi, thức khuya dậy sớm, mà vẫn không có đủ ăn, đủ uống, đủ mặc? Lý do đơn giản, họ làm theo sự khôn ngoan của con người. Tác giả Thánh Vịnh nêu trường hợp của người biết sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa: "Còn kẻ Chúa thương dù có ngủ, Ngài vẫn ban cho đủ tiêu dùng." Người đời làm nhiều, nhưng nếu không biết cách tiêu xài, có bao nhiêu cũng chẳng đủ, như "đồng lương của người làm thuê lọt qua túi thủng."
(3) Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành cho con người: Tiên-tri Haggai nói với dân chúng, điều đầu tiên họ phải làm là theo ý của Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa vui thích, Người sẽ chúc lành cho các ngươi. Thiên Chúa phán với con cái Israel: "Hãy lên núi, đưa gỗ về tái thiết Đền Thờ cho Ta. Ta sẽ vui thích và tỏ vinh quang Ta ở đó."
2/ Phúc Âm: Hãy biết nắm lấy cơ hội để học hỏi sự thật.
2.1/ Tiểu vương Herode băn khoăn khi nghe biết về Chúa Giêsu: Trình thuật Luca kể: "Tiểu vương Herode nghe biết tất cả những gì đã xảy ra, thì phân vân lắm. Thật vậy, có kẻ nói: "Đó là ông Gioan từ cõi chết trỗi dậy." Kẻ khác nói: "Ông Elijah xuất hiện đấy!" Kẻ khác nữa lại nói: "Đó là một ngôn sứ thời xưa sống lại." Còn vua Herode thì nói: "Ông Gioan, chính ta đã chém đầu rồi! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?" Và vua Herode tìm cách gặp Đức Giêsu.
Khi nắm quyền hành trong tay, nhiều người nghĩ mình có quyền quyết định mọi sự, biến sai thành đúng, và tiêu diệt những ai dám chống cự lại họ. Trường hợp của tiểu vương Herode cũng thế, khi Gioan Tẩy Giả tuyên bố: "Nhà Vua không được phép lấy vợ của anh mình." Ông tức tối tống ngục Gioan. Trong khi say xỉn với quan khách trong buổi tiệc sinh nhật, ông đã cho chém đầu Gioan và đặt trên đĩa cho cô gái đem đến cho mẹ, để Bà thỏa lòng thù hận.
2.2/ Tiểu vương Herode tìm cách gặp Chúa Giêsu: Trình thuật hôm nay là cơ hội thứ hai cho ông để học hỏi và tìm ra sự thật về Chúa Giêsu. Ông muốn tìm cách gặp Chúa Giêsu, và Thiên Chúa ban cho ông có cơ hội gặp Chúa Giêsu trong Cuộc Thương Khó. Khi Pontius Pilate biết Chúa Giêsu là người Galilee, thuộc quyền của Herode, ông cho giải Chúa Giêsu đến Herode để Vua điều tra, vì ông đang ở Jerusalem lúc bấy giờ. Herode chẳng học được gì cả, vì ông chỉ muốn nhìn thấy phép lạ Chúa Giêsu làm; khi thấy Chúa không chịu làm, ông nhạo báng Ngài (Lk 23:7-11). Thế là hai cơ hội để tìm ra sự thật qua đi, Herode vẫn chìm đắm trong sự mê muội của mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần phải biết sắp xếp và làm những điều gì quan trọng nhất trong cuộc đời; chứ đừng quá bận tâm đến những việc quá nhỏ nhoi, không mang lại lợi ích cho cuộc đời.
- Trên hết mọi sự, chúng ta cần học biết sự thật từ Thiên Chúa, và biết thờ phượng Ngài trên hết mọi sự. Đi theo đường lối của Thiên Chúa sẽ bảo đảm cho chúng ta một cuộc sống an toàn, bình an, và hạnh phúc.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
23/9 Phải nhận ra tình thương Thiên Chúa và tội lỗi của mình
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 25 TN1, Năm B
Bài đọc: Ezr 9:5-9; Lk 9:1-6.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải nhận ra tình thương Thiên Chúa và tội lỗi của mình.
Có những người ngông cuồng, chẳng chịu vâng lời những gì Thiên Chúa dạy bảo, nhưng khi phải chịu hậu quả, thì lại đổ lỗi cho Thiên Chúa không thương xót và trách mắng Ngài đủ điều. Làm như thế, chẳng những họ vẫn phải mang hậu quả, mà còn càng ngày càng lấn sâu trong tội lỗi. Nhưng nếu họ biết kiểm điểm quá khứ, họ sẽ nhận ra tội lỗi của họ và tình thương Thiên Chúa. Ngài luôn cho họ cơ hội trở về để làm lại cuộc đời.
Các Bài Đọc hôm nay có mục đích giúp con người nhận ra tội lỗi mình và tình thương Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tư tế Ezra nhận ra tội lỗi của mình, của cha ông, và của mọi con cái Israel thời đại ông, là nguyên do của việc lưu đày. Ông cũng nhận ra uy quyền và tình thương Thiên Chúa dành cho ông và con cái Israel, qua việc thay đổi lòng dạ của các vua Ba-tư để họ phóng thích dân Do-thái, cho hồi hương để tái thiết đất nước, và xây dựng lại Đền Thờ ở Jerusalem. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu huấn luyện các tông-đồ, ban mọi quyền hành cho các ông, và sai các ông ra đi để chữa lành và loan truyền Tin Mừng. Ai tin và đón nhận, sẽ nhận được ơn cứu độ và chữa lành; ai không tin, sẽ không được lãnh nhận những điều đó. Các tông-đồ sẽ phủi bụi ở chân lại để làm cớ tố cáo sự cứng lòng của họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa đã không bỏ rơi dân Ngài trong cảnh nô lệ.
1.1/ Hình phạt phải chịu xứng đáng với tội lỗi của Israel: Lịch sử của sách Erza là Thời Lưu Đày của dân tộc Do-thái bên Assyria và Babylon. Trước Thời Lưu Đày, Thiên Chúa đã không ngừng gởi các ngôn sứ của Ngài đến sửa dạy và đe dọa lưu đày sẽ xảy ra, nếu họ cứng lòng không chịu ăn năn, hối cải. Hai tội mà các ngôn sứ không ngừng tố cáo là: (1) tội quay lưng lại với Thiên Chúa và chạy theo thờ lạy các thần ngoại bang; (2) tội lỗi đức công bằng, tước đoạt tài sản và đối xử bất công với những người cô thân, cô thế. Họ chẳng những đã không chịu nghe, mà còn bắt giam các ngôn sứ, đánh đập, và giết đi. Hậu quả là Thiên Chúa để cho quân thù phá tan hoang đất nước, cả miền Bắc (721 BC) và miền Nam (587 BC), đem tất cả đi lưu đày, và san phẳng Đền Thờ.
Sống cực khổ trong Thời Lưu Đày, nhiều người vẫn chưa nhận ra tội lỗi của mình và trách Thiên Chúa đã để cho quân thù dày xéo dân tộc Thiên Chúa đã lựa chọn; nhất là quân thù cũng tội lỗi như họ hay còn hơn nữa! Nhưng tư tế Ezra đã không giống như những người này, ông nhận ra lý do tại sao Thiên Chúa để mặc cho quân thù dày xéo Israel. Trình thuật kể tâm trạng của ông: "Vào giờ đó, tôi mới ra khỏi cơn sầu khổ, trỗi dậy; áo dài trong, áo choàng ngoài xé rách, tôi quỳ gối, giơ tay lên Đức Chúa, Thiên Chúa của tôi và thưa: "Lạy Thiên Chúa của con, con thật xấu hổ và nhục nhã khi ngẩng mặt nhìn Ngài, lạy Thiên Chúa của con, vì tội chúng con quá nhiều đến nỗi dâng ngập đầu, lỗi chúng con cứ chồng chất lên mãi tới trời."
Không chỉ nhận ra tội lỗi của mình, của tổ tiên, và của tất cả mọi con cái Israel. Ông nhận thấy hình phạt mà dân tộc phải chịu là xứng đáng: "Từ thời tổ tiên chúng con cho đến ngày nay, vì chúng con đã mắc lỗi nặng và phạm tội, nên các vua và các tư tế của chúng con đã bị nộp vào tay vua chúa các nước ngoại bang; chúng con đã bị nộp cho gươm giáo, phải đi đày, bị cướp bóc và bẽ mặt hổ ngươi như ngày hôm nay."
1.2/ Ân huệ được nhận lãnh hoàn toàn do tình hương của Thiên Chúa.
(1) Thiên Chúa bày tỏ tình thương khi con người còn là tội nhân: Vua Ba-tư ký chiếu chỉ phóng thích cho dân Do-thái hồi hương để kiến thiết xứ sở và xây dựng lại Đền Thờ. Các Vua Ba-tư còn giúp đỡ vật chất để họ có thể xây dựng Đền Thờ cách nhanh chóng. Ezra nhận ra bàn tay Thiên Chúa trong sự quan phòng kỳ diệu này: "Và bây giờ, chỉ mới đây thôi, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng con, ban cho chúng con ân huệ này là để lại cho chúng con một số người sống sót, và cho chúng con được một chỗ ở vững chắc trong nơi thánh của Ngài; như thế, Thiên Chúa chúng con đã toả ánh sáng làm cho đôi mắt chúng con được rạng ngời, và làm cho chúng con được hồi sinh đôi chút trong cảnh nô lệ."
(2) Tình thương Thiên Chúa được bày tỏ qua các vua Dân Ngoại: Từ xưa tới nay, chẳng có vua Dân Ngoại nào đối xử tử tế với kẻ thù của mình; thế mà các vua Ba-tư đã phóng thích dân Do-thái, cho về hồi hương, và giúp vật chất để họ xây dựng lại Đền Thờ. Điều này chứng tỏ tình thương và uy quyền của Thiên Chúa đã dành cho con cái Israel. Họ phải xấu hổ vì một người Dân Ngoại đã tuyệt đối vâng lời làm theo những gì Thiên Chúa truyền; còn họ, dân riêng của Ngài, lại chạy theo các thần ngoại và luôn bất tuân lệnh Ngài: "Tuy chúng con là những kẻ nô lệ, Thiên Chúa chúng con đã không bỏ rơi chúng con trong cảnh nô lệ đó. Ngài đã làm cho các vua Ba-tư tỏ lòng yêu thương chúng con, khiến chúng con được hồi sinh mà dựng lại Nhà Thiên Chúa chúng con, tái thiết ngôi Nhà đã hoang tàn, và xây lại tường thành tại Jerusalem ở Judah."
2/ Phúc Âm: Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân.
2.1/ Ân sủng được Đức Kitô trao cho các môn đệ để ban phát cho mọi người: Trong khi còn ở thế gian, Chúa Giêsu không những vất vả ngược xuôi để rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi vết thương hồn xác, Ngài còn chọn lựa các môn-đệ, huấn luyện để các ông tiếp tục sứ vụ của Ngài. Điều này chứng tỏ tình yêu của Chúa Giêsu dành cho các thế hệ tương lai.
(1) Chữa lành mọi bệnh tật hồn xác: Trước khi sai các ông đi rao giảng cho dân chúng, Đức Giêsu tập họp Nhóm Mười Hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật.
(2) Rao giảng Tin Mừng: Rồi Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Chúa Giêsu dạy các môn đệ một điều hết sức quan trọng: "Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo." Tại sao Chúa Giêsu truyền điều này? Trước tiên, người lữ hành dễ dàng ra đi mọi nơi là người có ít hành trang nhất. Thời Chúa Giêsu và các thế kỷ đầu, con người chưa có phương tiện di chuyển như bây giờ, cách phổ thông nhất là đi bộ; con người cũng chưa có những phương tiện truyền thông như bây giờ, cách thức duy nhất là trực tiếp đến và nói với khán giả. Hơn nữa, nếu những nhà rao giảng quá chú trọng đến vật chất, họ sẽ có rất ít thời gian và lòng nhiệt thành cho việc rao giảng Tin Mừng.
2.2/ Phản ứng của con người: Chúa Giêsu biết trước phản ứng của con người dành cho các môn đệ, như họ đã từng dành cho Ngài. Vì thế, Ngài căn dặn các ông:
(1) Những người tiếp nhận các môn đệ: "Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó và cũng từ đó mà ra đi." Nếu khán giả nhận ra các ông là những sứ giả của Ngài, họ sẽ đón tiếp các ông vào nhà và đối xử tử tế với các ông. Phần thưởng cho những người này là họ sẽ có dịp nghe Tin Mừng, được chữa lành các vết thương hồn xác, và có sự bình an.
(2) Những người từ chối các môn đệ: Con người có tự do để tiếp nhận hay từ chối. Nếu họ chọn không đón nhận các môn đệ, họ sẽ phải lãnh mọi hậu quả của việc từ chối: họ đã bỏ lỡ cơ hội được lắng nghe Tin Mừng, được chữa lành, và không nhận được lời chúc bình an của các môn đệ. Đối với những người cứng lòng này, Chúa Giêsu căn dặn: "Hễ người ta không đón tiếp anh em, thì khi ra khỏi thành, anh em hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa luôn yêu thương và cho chúng ta nhiều cơ hội để lắng nghe và học hỏi Tin Mừng. Chúng ta hãy biết thành tâm đón nhận và tận dụng khi cơ hội tới.
- Nếu chúng ta khinh thường và bỏ lỡ cơ hội, chúng ta phải lãnh nhận mọi hậu quả do việc hững hờ gây ra. Lúc đó, chúng ta đừng trách Thiên Chúa đã gây ra đau khổ cho chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
22/9 Làm theo thánh ý Thiên Chúa
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 25 TN1
Bài đọc: Ezr 6:7-8, 12, 14-20; Lk 8:19-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Nhiều người cho mọi sự xảy ra trong trời đất này là ngẫu nhiên tình cờ, không có chuyện gì liên hệ đến chuyện gì cả; nhưng lịch sử và đức tin chứng minh chẳng có sự gì ngẫu nhiên xảy ra cả, mọi sự xảy ra đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Dù có biết hay không biết, mọi người trong cuộc đời đều làm theo ý định của Thiên Chúa. Nếu con người ý thức được điều này, họ sẽ thấy cuộc đời có ý nghĩa và tìm được niềm vui khi thi hành ý Thiên Chúa; nếu không, con người sẽ phản kháng, khó chịu, và có thể đi lạc đường.
Các Bài Đọc hôm nay muốn chứng minh mọi người: Do-thái hay Dân Ngoại đều làm theo thánh ý Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, các vua Ba-tư, bắt đầu từ vua Cyrus, vâng lệnh Thiên Chúa cho dân Do-thái hồi hương, và giúp họ tái thiết Đền Thờ. Lý do của sự vâng lời này vì Thiên Chúa đã giúp vua Ba-tư đánh bại quân đội của vua Babylon. Các kỳ-mục Do-thái vâng lời Thiên Chúa trở về tái thiết Đền Thờ, thiết lập lại hàng tư tế và Lêvi, chuẩn bị các lễ nghi, và cử hành lễ Vượt Qua đầu tiên sau Thời Lưu Đày vào năm 515 BC. Tất cả những điều này đều đã được Thiên Chúa báo trước qua các tiên-tri. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố mở rộng gia đình Thiên Chúa: tất cả những ai nghe và thi hành ý Thiên Chúa đều là mẹ, là anh/chị/em của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Các vua Ba-tư thi hành ý định của Thiên Chúa.
1.1/ Các vua Ba-tư, Cyrus và Darius, làm theo thánh ý Thiên Chúa: Các vua Ba-tư là Dân Ngoại, hoàn toàn không biết Thiên Chúa, nhưng sẵn sàng làm theo thánh ý của Thiên Chúa, vì Ngài giúp các vua đánh bại quân Babylon. Điều này chứng minh Thiên Chúa quan phòng mọi sự trong vũ trụ: Thiên Chúa dùng vua Babylon như chiếc roi để đánh phạt dân Do-thái, rồi lại dùng vua Ba-tư như chiếc roi để trừng phạt vua Babylon, kế đến lại dùng vua Ba-tư để phóng thích dân Do-thái. Sau khi đã thắng trận, vua Ba-tư là Cyrus thực hành như Thiên Chúa đã truyền cho ông. Người kế vị Cyrus là Darius, ông cũng thi hành như thế.
(1) Xây dựng lại Đền Thờ (520-515 BC): Vua Darius ra sắc chỉ: ''Hãy để cho tổng trấn của người Do-thái và các kỳ mục Do-thái lo việc xây cất Nhà Thiên Chúa, họ phải tái thiết Nhà Thiên Chúa ở chỗ cũ.''
(2) Đài thọ chi phí xây dựng Đền Thờ: Không những vua Darius cho tái thiết Đền Thờ, Vua lại còn cung cấp chi phí để xây dựng Đền Thờ bằng tiền thuế thu được của dân Babylon. Vua Darius ra lệnh: ''Phải lấy tiền bạc của nhà vua trích từ thuế thu được ở Vùng bên kia sông Euphrate, mà cung cấp đầy đủ các chi phí cho những người đó, không được gián đoạn.''
(3) Hình phạt cho những ai dám phá hủy Đền Thờ: Để bảo vệ Đền Thờ không bị các vua khác tàn phá, vua Darius ra chiếu chỉ: ''Chớ gì Thiên Chúa, Đấng đã đặt Danh Người ngự tại đó, lật đổ bất cứ vua hay dân nào dám vi phạm sắc chỉ này mà tra tay phá huỷ Nhà Thiên Chúa ở Jerusalem. Chính ta, Darius, đã ban lệnh này. Sắc chỉ phải được thi hành chu đáo!"
1.2/ Hàng kỳ mục của Do-thái thi hành ý định của Thiên Chúa.
(1) Hoàn tất việc xây cất Đền Thờ (515 BC): ''Hàng kỳ mục Do-thái tiếp tục xây cất và thành công trong việc đó, theo lời sấm của ngôn sứ Haggai và của ông Zechariah con ông Iddo. Họ hoàn thành công việc xây cất đúng theo lệnh của Thiên Chúa Israel và lệnh của vua Cyrus, vua Darius, và vua Artaxerxes của Batư. Nhà đó được xây xong ngày mồng ba tháng Ada, năm thứ sáu triều vua Darius.'' Con cái Israel ở các nơi, các tư tế, các thầy Lêvi, và những người lưu đày trở về, hân hoan cử hành lễ khánh thành Nhà Thiên Chúa.
(2) Thiết lập lại các lễ nghi trong Đền Thờ: Đã khoảng gần 70 năm kể từ khi Đền Thờ thứ nhất bị phá hủy; giờ hàng kỳ mục phải giúp thiết lập trở lại các lễ nghi trong Đền Thờ và hàng tư tế cũng như Lêvi. Điều này rất quan trọng để có sự chuyển tiếp dễ dàng cho các thế hệ theo sau.
+ Dâng lễ vật hy sinh và đền tội: Để khánh thành Nhà Thiên Chúa, họ đã dâng một trăm con bò, hai trăm con cừu đực, bốn trăm con chiên, và bắt mười hai con dê đực, theo số các chi tộc Israel, làm lễ tạ tội cho toàn thể Israel.
+ Thiết lập hàng tư tế và Levi: ''Họ thiết lập hàng tư tế theo các phẩm trật của họ, và các thầy Lêvi theo các cấp bậc của họ, để phục vụ Thiên Chúa tại Jerusalem, như đã chép trong sách Moses.''
+ Mừng lễ Vượt Qua (515 BC): ''Những người đi đày trở về cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn tháng thứ nhất. Các thầy Lêvi, trăm người như một, đã thanh tẩy mình: tất cả đều thanh sạch, nên họ đã sát tế chiên Vượt Qua cho những người đi đày trở về, cho anh em của họ là các tư tế, và cho chính họ.''
2/ Phúc Âm: "Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành."
2.1/ Ai là mẹ tôi và anh em tôi? Trình thuật kể: ''Mẹ và anh em Đức Giêsu đến gặp Người, mà không làm sao lại gần được, vì dân chúng quá đông. Người ta báo cho Người biết: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy."
Chúa Giêsu đáp lại: "Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành." Thoạt nghe câu trả lời, nhiều người sẽ dễ dàng đi đến kết luận: Chúa Giêsu không có tình nghĩa gia đình hay bất hiếu với Đức Mẹ. Điều này hoàn toàn thiếu cơ sở, vì ý của Chúa Giêsu là muốn mở rộng gia đình của Thiên Chúa tới mọi người cho tất cả những ai thi hành thánh ý Thiên Chúa; chứ không phải chỉ giới hạn trong vòng gia đình của Ngài mà thôi.
2.2/ Đức Mẹ và các anh em của Chúa Giêsu: Đức Mẹ không những là Mẹ vì đã sinh ra Chúa Giêsu; nhưng còn là Mẹ theo tiêu chuẩn mà Chúa Giêsu tuyên bố: "nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành." Đức Mẹ nghe và vâng lời Thiên Chúa suốt cuộc đời: khi khấn giữ mình đồng trinh; khi thưa lời "Xin Vâng" với sứ thần Gabriel; tại tiệc cưới Cana cũng như khi tìm thấy Chúa Giêsu trong Đền Thờ; khi đứng dưới chân Thập Giá; và khi giữ lời trăn trối của Chúa Giêsu để trở thành Mẹ các môn đệ và loài người. Nói tóm, Mẹ là gương mẫu cho những ai "nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành."
Các anh em của Chúa Giêsu: Nhiều người dựa vào câu này để chứng minh Chúa Giêsu có anh em và Đức Mẹ không thể đồng trinh vì có nhiều con khác. Tiếng Hy-lạp chỉ có một danh từ "adelphos" để chỉ anh em ruột, anh em họ, anh em kết nghĩa, hay anh em cùng chí hướng như trong quân đội, dòng tu, hay bất cứ hiệp hội nào. Vì thế, không thể dựa vào từ ngữ "adelphos" để kết luận như thế. Anh em của Chúa đề cập đến ở đây có thể là anh em họ với Chúa, như Giacôbê và Gioan; hay có thể là các tông-đồ, những người đồng chí hướng với Ngài. Các ông là anh em của Chúa không những theo tiêu chuẩn tự nhiên, mà còn là anh em theo tiêu chuẩn là người "nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành;" vì các ông sẵn sàng bỏ mọi sự để đi theo Chúa rao giảng Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa trong vũ trụ và trong cuộc đời chúng ta. Một niềm tin như thế sẽ giúp chúng ta chấp nhận mọi chuyện xảy ra trong cuộc đời.
- Bổn phận của chúng ta là tìm ra và thực hành ý định của Thiên Chúa. Ý định hiển nhiên nhất là lo sao cho chúng ta và mọi người đều được hưởng ơn cứu độ mà Đức Kitô đã sắp sẵn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
21/9 Hãy sống và làm cho mọi người trở thành con Thiên Chúa
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Kính Thánh Matthêu TĐ và Thánh Sử.
Bài đọc: Eph 4:1-7, 11-13; Mt 9:9-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy sống và làm cho mọi người trở thành con Thiên Chúa.
Nhiều người, tuy chẳng tốt lành gì, nhưng hay tìm cơ hội để phê bình và luận tội tha nhân. Họ muốn giam hãm tha nhân trong quá khứ tội lỗi, và không cho tha nhân một cơ hội để làm lại cuộc đời. Án tử hình là một ví dụ. Ngược lại, Thiên Chúa luôn tìm cách tha thứ, và cho con người nhiều cơ hội để làm lại cuộc đời như trường hợp của: Phaolô, Phêrô, Matthew, Mary Magdalene, Augustin, và hầu như tất cả mọi người. Lý do đơn giản, vì tất cả mọi người đều là con của Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta niềm hy vọng làm lại cuộc đời. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Ephesô hãy biết sống cho đúng với ơn gọi mà họ đã được kêu mời và trang bị. Họ cần biết bảo vệ sự hiệp nhất và xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô, theo như quà tặng đã được Thánh Thần ban cho họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chẳng những không kết tội và giam hãm Matthew trong ngục tù tội lỗi; Ngài còn cho ông cơ hội để làm lại cuộc đời và để trở thành môn đệ của Ngài. Khi bị chất vấn bởi các biệt-phái tại sao ngồi ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi, Chúa thẳng thắn tuyên bố mục đích khi xuống trần gian của Ngài: ''Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy sống cho xứng đáng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em.
1.1/ Ơn gọi là Kitô hữu: Thánh Phaolô viết cho các tín hữu Ephesô từ nơi lao tù: "Hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở thật khiêm nhường, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau."
(1) Bốn đức tính cần thiết để sống ơn gọi Kitô hữu: Để có thể sống chung với nhau, một người cần tập luyện để có những đức tính như sau:
+ Khiêm nhường (tapeinofrosune): để biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Người không có đức tính này sẽ dễ dàng kiêu ngạo, khinh thường, và dễ dàng kết án anh chị em của mình.
+ Hiền từ (prauthe): để dễ dàng kiểm soát tính nóng giận của mình. Người tín hữu không tranh đua để dành phần thắng lợi cho mình; nhưng tìm mọi cách thích hợp để đưa mọi người về cho Thiên Chúa.
+ Kiên nhẫn (makrothumia): để chịu đựng những điều xảy ra trái với ý định của mình. Người kiên nhẫn không dễ nản chí khi gặp thử thách hay đòi phải nhìn thấy kết quả ngay; nhưng kiên trì chịu đựng trong gian khổ và cầu nguyện cho đến khi nhìn thấy kết quả.
+ Bác ái (agape): Đây là nhân đức đặc biệt chỉ có trong đời sống Kitô hữu. Với nhân đức này, người tín hữu có thể làm được những điều mà người ngoài Kitô Giáo không làm được, như: yêu thương và làm ơn cho kẻ thù, cầu nguyện cho những người bách hại mình, tha thứ không có giới hạn là bao nhiêu lần.
(2) Bảo vệ sự hiệp nhất: Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau." Người Kitô hữu có rất nhiều lý do để bảo vệ sự hiệp nhất trong Giáo Hội: Họ chỉ có một thân thể là Giáo Hội, Nhiệm Thể của Đức Kitô, một Chúa Thánh Thần, một niềm hy vọng là được sống đời đời. Họ chỉ có một Chúa và một niềm tin vào Đức Kitô, một phép rửa. Họ chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người.
1.2/ Mỗi người được Thánh Thần ban cho quà tặng khác nhau để xây dựng Nhiệm Thể: Mỗi người tín hữu là chi thể của một thân thể là Đức Kitô, và lãnh nhận ân sủng khác nhau từ cùng một Thánh Thần, để cùng nhau xây dựng thân thể của Đức Kitô. Ơn gọi làm Kitô hữu là ơn gọi chung của tất cả các tín hữu; tuy nhiên, mỗi tín hữu còn có những ơn gọi riêng khác nhau như: kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ.
Nhờ những ơn gọi khác nhau này, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô.
2/ Phúc Âm: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.''
2.1/ Chúa Giêsu gọi Matthew: Bỏ nơi ấy, Đức Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Matthew đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: "Anh hãy theo tôi!" Ông đứng dậy đi theo Người.
(1) Lý do Chúa Giêsu gọi Matthew: Trước khi gọi, Chúa biết Matthew đang hành nghề thu thuế, một nghề mà người Do-thái xếp loại tội nhân công khai; vì làm tay sai cho ngoại bang để bóc lột dân chúng của mình bằng việc thu thuế. Chúa biết nguy hiểm của dư luận khi thu nhận ông vào hàng ngũ tông-đồ. Tuy nhiên, Chúa không giam ông trong ngục tù tội lỗi; nhưng muốn cho ông một cơ hội để mời gọi ông hướng tới tương lai. Hơn nữa, Chúa còn biết sẽ dùng ông vào việc gì trong việc rao giảng Tin Mừng: ghi nhận các sự kiện và viết Tin Mừng truyền lại cho mọi người.
(2) Phản ứng của Matthew: Lập tức, ông đứng dậy đi theo Ngài. Ông có lẽ rất ngạc nhiên vì không ngờ Chúa Giêsu không khinh thường ông như những người Do-thái khác, lại còn can đảm kêu gọi ông làm môn đệ. Phản ứng của Matthew cũng không kém can đảm: ông quyết định bỏ một nghề hái ra tiền để đi theo một người không có gì bảo đảm vật chất cho đời mình.
2.2/ Tranh luận giữa Chúa Giêsu với các người Pharisees: Đức Giêsu không chỉ gọi Matthew, Ngài còn chấp nhận dùng bữa công khai tại nhà ông ấy, cùng với nhiều người thu thuế và tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ.
(1) Phản ứng của những người Pharisees: Thấy vậy, những người Pharisees nói với các môn đệ Người rằng: "Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?"
Họ có lý do để chất vấn, như cha mẹ Việt-nam vẫn đề phòng con cái: "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng." Làm bạn với phường tội lỗi không sớm thì muộn cũng lây những tội lỗi của họ.
(2) Câu trả lời của Chúa Giêsu: Ngài nói với họ: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: "Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi."'' Hai điều chính Chúa muốn nhấn mạnh:
+ Sứ vụ của Ngài là đến chữa lành những tội nhân: Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi. Chúa có đủ bản lãnh để hoán cải những tâm hồn chai đá.
+ Tất cả mọi người đều có tội và đều cần đến Chúa, chứ không phải chỉ có Matthew và bạn bè của ông. Các biệt-phái không chịu cẩn thận xét mình, nên họ nghĩ họ không cần Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải cố gắng sống đúng với ơn gọi là Kitô hữu và ơn gọi riêng của mỗi người. Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta có bổn phận bảo vệ sự hiệp nhất của mọi thành phần.
- Chúng ta phải có lòng thương xót mọi người. Đừng bao giờ giam hãm anh/chị/em trong ngục từ tội lỗi; nhưng luôn cho họ cơ hội và mời gọi họ hướng tới tương lai.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
20/9 Phải sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 25 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Wis 2:12, 17-20; Jas 3:16-4:3; Mk 9:30-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Có nhiều người muốn biết nhưng không chịu học; muốn được khen ngợi nhưng chẳng có gì để được khen ngợi; muốn được người khác yêu thương, thông cảm; nhưng chẳng bao giờ chịu yêu thương và thông cảm người khác; muốn làm lớn nhưng chẳng muốn làm gì cả. Những người này khi không được những điều mình muốn, họ tìm cách phá đám cho bỏ ghét, cho đỡ tức. Lẽ ra họ phải dùng trí khôn để tìm hiểu, xây dựng; họ lại dùng vũ lực để phá hủy, để tiêu diệt.
Các Bài Đọc hôm nay dạy con người phải biết thay đổi lối sống theo khôn ngoan của thế gian để sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, thay vì phải thay đổi cho phù hợp với lối sống của Thiên Chúa, kẻ gian ác muốn thử thách Thiên Chúa bằng cách bách hại người công chính. Trong Bài Đọc II, thánh Giacôbê dạy các tín hữu: nếu muốn có bình an đích thực, họ phải từ bỏ lối sống theo tham vọng trần tục, để sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, trong khi Chúa Giêsu chuẩn bị hy sinh để chết cho nhân loại trong Cuộc Thương Khó, các môn đệ tranh giành và cãi cọ xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời. Chúa Giêsu gọi một em nhỏ tới và bảo các ông: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thử thách Thiên Chúa bằng cách bách hại người công chính.
1.1/ Kẻ gian ác bách hại người công chính: Có những người mù quáng chỉ tin vào sự khôn ngoan và sức mạnh của mình; nên từ chối học hỏi sự khôn ngoan và tiếp nhận những lời phê bình xây dựng của người khác.
+ Để biết sự thật, thay vì phải bỏ thời gian và nỗ lực để học hỏi và suy xét, kẻ gian ác lại ngông cuồng dùng vũ lực để tiêu diệt sự thật, bằng cách bách hại người công chính. Họ nói: "Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm ta nhức nhối: nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo."
+ Thay vì tìm hiểu lý do tại sao người công chính có thể hiền hòa và kiên nhẫn, họ lại chọn dùng vũ lực uy hiếp: "để biết nó hiền hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào."
1.2/ Kẻ gian ác thử thách Thiên Chúa: Vì không tin có Thiên Chúa, nên kẻ gian ác muốn người công chính cũng phải tin như vậy.
(1) Để tìm ra ý nghĩa của cuộc đời: Thay vì phải học hỏi nơi những mặc khải của Thiên Chúa trong Kinh Thánh và biết suy xét trên kinh nghiệm cuộc đời, họ lại chọn cách tiêu diệt người công chính để chứng minh không có Thiên Chúa. Họ nói: "Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào." Đối với họ, chết là hết.
(2) Để tìm ra sự hiện hữu của Thiên Chúa: Họ nghĩ: "Nếu tên công chính là con Thiên Chúa, hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù. Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm." Nếu Thiên Chúa không ra tay cứu, họ kết luận: chẳng có Thiên Chúa.
Đứng trước Thập Giá của Chúa Giêsu, nhiều thầy thượng-tế, kinh-sư, và biệt-phái đã nhạo báng Ngài: ''Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: "Ta là Con Thiên Chúa!" (Mt 27:43).
2/ Bài đọc II: Hãy từ bỏ lối sống tham vọng trần tục để sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
2.1/ Khôn ngoan của Thiên Chúa và của thế gian: Từ ngữ "sophía" là một từ không rõ ràng trong tiếng Hy-lạp; nó có thể áp dụng cho mọi khôn ngoan: Thiên Chúa cũng như con người, tốt cũng như xấu.
(1) Khôn ngoan của Thiên Chúa: Thánh Giacôbê dùng cả một câu dài để định nghĩa: "Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, cầu tiến, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình."
Trước tiên, khôn ngoan theo Thiên Chúa đòi con người phải thanh khiết, không có chút tà ý nào để mưu hại tha nhân. Kế đến, người khôn ngoan phải chú trọng đến việc xây dựng hòa bình, chứ không dùng thủ đoạn để gây chia rẽ và tranh chấp. Người khôn ngoan không ngoan cố giữ ý riêng mình; nhưng sẵn lòng mở rộng tâm hồn để đón nhận những điều hay ý đẹp từ người khác. Người khôn ngoan không dễ kết án tha nhân; nhưng luôn thương xót và tìm dịp để xây dựng cho mọi người. Sau cùng, người khôn ngoan biết đối xử công bằng với mọi người, và luôn sống thật lòng với Thiên Chúa và với tha nhân. Nói tóm, khôn ngoan theo Thiên Chúa bao gồm tất cả niềm tin cũng như thực hành những gì Thiên Chúa dạy.
(2) Khôn ngoan của thế gian: Khôn ngoan của thế gian là tìm mọi cách để có uy quyền, địa vị, danh vọng, và các lợi nhuận vật chất. Vì người khôn ngoan theo tiêu chuẩn thế gian muốn trổi vượt mọi người, nên họ sẽ dùng mọi thủ đoạn để có thể đạt được những gì họ mong muốn. Thánh Phaolô tóm gọn hệ quả như sau: "Thật vậy, ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa."
2.2/ Làm sao để biết đâu là khôn ngoan thật: Thánh Giacôbê dạy các tín hữu hãy nhìn vào hậu quả:
(1) Hậu quả của lối sống khôn ngoan theo Thiên Chúa là sự bình an: ''Người xây dựng bình an thu hoạch được hoa trái đã gieo trong bình an, là cuộc đời công chính.'' Người công chính là người biết sống đúng mối liên hệ với Thiên Chúa và với tha nhân, nên họ sẽ có bình an trong tâm hồn và sống hòa bình với mọi người.
(2) Hậu quả của lối sống khôn ngoan theo con người là sự bất an và chiến tranh: Thánh Giacôbê chỉ rõ: ''Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau."
3/ Phúc Âm: Ai muốn đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.
3.1/ Chúa Giêsu báo trước Cuộc Thương Khó của Ngài: Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu báo về Cuộc Thương Khó sắp tới của Ngài: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại." Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người. Một số những lý do đàng sau thái độ im lặng này:
+ Các ông không dám đương đầu với sự thật: Lần đầu, Phêrô đã kéo Ngài ra một nơi để khuyên: "Xin những sự đó đừng xảy ra cho Thầy!" Chấp nhận sự thật là phải chấp nhận thay đổi lối sống, các ông chưa sẵn sàng để chấp nhận con đường phải hy sinh đau khổ.
+ Các ông sợ phải đương đầu với đau khổ: Như bao người Do-thái, các ông đang mong đợi một Đấng Thiên Sai uy quyền. Ngài sẽ dùng quyền lực để tiêu diệt kẻ thù và khôi phục địa vị ưu việt cho dân Do-thái.
3.2/ Tranh giành chức vụ và quyền lợi: Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Capernaum. Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: "Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?"
Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Lý do các ông làm thinh, vì:
- Các ông biết Chúa thấu hiểu tà ý của các ông: Cuộc Thương Khó của Chúa sắp tới, là người môn đệ mà các ông không quan tâm để an ủi Ngài; nhưng lại chỉ để ý đến việc được quyền cao chức trọng. Các ông không những mong chức vụ, mà còn là một chức vụ lớn nhất. Điều này các ông sẽ bày tỏ rõ ràng hơn khi Chúa Giêsu tiên đoán Cuộc Thương Khó lần thứ ba. Ngay sau đó, mẹ của hai tông-đồ Giacôbê và Gioan mang hai con đến xin Chúa cho hai con, một người ngồi bên phải và một người ngồi bên hữu trong vương quốc của Ngài. Mười môn đệ kia tỏ vẻ bất bình với hai anh em về lời xin này.
Nghịch lý của con người là ở chỗ muốn làm lớn nhưng lại không muốn làm gì cả! Muốn quyền cao chức trọng, nhưng không chịu chiến đấu! Nếu các ông muốn chung phần vinh quang với Ngài, các ông cũng phải chung phần đau khổ với Ngài. Đàng này, các ông chỉ mong muốn vinh quang, và bỏ chạy hết để Chúa chịu đau khổ một mình trên Thập Giá. Chúng ta không bơi móc để trách cứ các tông đồ; nhưng muốn nhận rõ sự nghịch lý này nơi mỗi người chúng ta, với hy vọng sẽ giúp mỗi người thay đổi não trạng đã quá ăn sâu nơi con người. Các tông-đồ sau khi đã nhận ra tội lỗi của mình và tình yêu vô biên của Chúa Giêsu, đã thay đổi cuộc đời và sẵng sàng chịu mọi gian khổ, ngay cả cái chết để làm chứng cho Đức Kitô.
3.3/ Phục vụ là cách thức để trở nên lớn nhất:
(1) Bổn phận phải phục vụ: Khuynh hướng của nhiều người là thích ăn trên ngồi chóp, và được người khác phục vụ; Chúa Giêsu đảo ngược khuynh hướng này khi Ngài dạy các môn đệ: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người." Nếu một người chịu suy xét Lời Chúa và đối chiếu với kinh nghiệm của cuộc đời, họ sẽ thấy sự hợp lý của Lời Chúa: chẳng ai thích người có thói quen ăn trên ngồi chóp; nhưng yêu mến những người sẵn sàng hy sinh và phục vụ tha nhân. Hơn nữa, người tín hữu đã lãnh nhận bổn phận phải phục vụ tha nhân trong ngày lãnh nhận Bí-tích Rửa Tội, cùng với bổn phận tiên tri và tư tế.
(2) Phục vụ người cô thân, cô thế: Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: "Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy." Chúa Giêsu biết rõ con người thường có thói quen săn đón những người cao sang, quyền quí, với hy vọng sẽ được nhận lại sự giúp đỡ khi cần tới. Vì thế, Chúa dạy các môn đệ phải làm ngược lại, bằng cách phục vụ những người chẳng có gì để cho lại như trẻ nhỏ. Các em chẳng có gì để cho lại người lớn, nhưng cần người lớn cho mọi sự. Người lớn có lý do phải giúp đỡ trẻ nhỏ vì họ đã nhận được mọi giúp đỡ từ Thiên Chúa, cha mẹ, và thế hệ đi trước. Ngoài ra, Chúa Giêsu còn dạy: khi người môn đệ đón tiếp trẻ nhỏ là họ đón nhận Thiên Chúa, và chính Ngài sẽ trả công cho họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải cố gắng học hỏi và thay đổi nếp sống của chúng ta cho phù hợp với đường lối của Thiên Chúa; chứ đừng ngông cuồng tìm dịp thử thách Ngài bằng cách thử thách và tiêu diệt những người đang sống theo đường lối của Thiên Chúa.
- Chúng ta cần khiêm nhường nhìn nhận lối sống theo sự khôn lanh của con người chỉ đưa đến ghen tị, tranh chấp, và bất an. Chỉ có lối sống theo sự khôn ngaon của Thiên Chúa mới đem lại bình an, trật tự, và xây dựng cho con người.
- Chúng ta có bổn phận, không chỉ phục vụ mọi người, mà nhất là những người cô thân, cô thế, không có gì để trả ơn lại. Đây là những con người cần được giúp đỡ hơn ai hết.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
19/9 Tin Thiên Chúa phải thực hành những gì Ngài dạy
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 24 TN1
Bài đọc: I Tim 6:13-16; Lk 8:4-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin Thiên Chúa phải thực hành những gì Ngài dạy.
Tin một đàng làm một nẻo cũng như học mà không hành. Một đức tin như thế sẽ chẳng giúp gì cho con người tin cả đời này và đời sau. Ở đời này, sẽ không sinh hoa kết quả của niềm tin; ở đời sau, sẽ không được hưởng hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa. Nhưng nếu một người tin và thực hành Lời Chúa, người đó sẽ thu nhận được kết quả ngay từ đời này như: niềm tin tưởng vững mạnh nơi Thiên Chúa, cuộc sống hòa thuận vui vẻ, tâm hồn bình an, yêu thương mọi người; và đời sau sẽ được chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay khuyên các tín hữu phải thực hành những gì mình tin tưởng và tuyên xưng. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô nhắc nhở cho Timothy biết những gì ông đã tuyên xưng vào Thiên Chúa. Mục đích là để Timothy biết giữ cẩn thận những gì Chúa đã truyền và để đạt được những gì Thiên Chúa đã hứa ở đời sau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn "Người Gieo Giống" để nhắc nhở cho các môn đệ biết quí trọng và thực hành Lời Chúa trong cuộc đời; để họ có thể sinh hoa kết trái.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Kitô là vua và là Chúa.
1.1/ Nhìn lại những gì xảy ra trong quá khứ: Thánh Phaolô muốn Timothy nhìn lại hai điều xảy ra trong quá khứ:
(1) Lời tuyên xưng của Đức Kitô trước toà tổng trấn của Phongxiô Philatô: Trong Cuộc Thương Khó, Đức Kitô bị mang ra trước tòa tổng trấn để xét xử. Người Do-thái phải tìm một lý do chính trị để bắt Philatô phải buộc tội Chúa Giêsu; chứ lý do tôn giáo sẽ không đủ để buộc tội. Họ bàn với nhau rồi tố cáo Chúa Giêsu với Philatô: "Người này đã xưng mình là vua; bất cứ ai xưng mình là vua, là chống lại Caesar."
Vì thế, quan Philatô hỏi Chúa Giêsu: "Ông là Vua dân Do-thái sao?" Người trả lời: "Chính ngài nói đó." (Lk 24:3). Người Do-thái không muốn nhận Đức Kitô là vua và là Chúa của họ; nhưng đó lại là kế-hoạch của Thiên Chúa: Đức Kitô sẽ là vua cai trị tất cả mọi người, Do-thái cũng như Dân Ngoại. Tuy nhiên, Chúa Giêsu cắt nghĩa rõ ràng chức vụ vua của Ngài trong trình thuật Gioan: "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi" (Jn 18:37). Chức vụ vua người Do-thái của Chúa Giêsu được Philatô cho đóng trên Thập Giá bằng ba thứ tiếng Latin, Do-thái, và Hy-lạp, cho dù họ đã phản đối cách viết như thế.
(2) Lời tuyên xưng của Timothy khi lãnh nhận Bí-tích Rửa Tội và khi lãnh nhận chức vụ Giám-quản: Timothy đã tuyên nhận Đức Kitô là vua, và là Chúa của lòng mình; như Đức Kitô đã tuyên xưng trước Phongxiô Philatô. Người tín hữu phải tin và tuyên xưng như thế mới được cứu rỗi (Rom 10:9, Phi 2:11).
1.2/ Những gì cần phải làm ở hiện tại: Tuyên xưng thế nào, phải sống như thế ấy. Thánh Phaolô truyền cho Timothy: "Hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xuất hiện." Cũng thế, khi người tín hữu tuyên nhận Đức Kitô là vua của lòng mình, họ phải giữ cẩn thận những gì Ngài dạy dỗ.
1.3/ Những gì sẽ xảy đến trong tương lai: Đàng sau lời tuyên xưng của Đức Kitô trước tòa Tổng Trấn và niềm xác tín của các tín hữu vào lời tuyên xưng này, là Thiên Chúa, Đấng sẽ chứng tỏ cho mọi người thấy địa vị độc tôn của Đức Kitô vào đúng thời đúng buổi. "Ngài là Chúa Tể duy nhất, Đấng đáng chúc tụng, là Vua các vua, Chúa các chúa. Chỉ mình Người là Đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy. Kính dâng Người danh dự và uy quyền đến muôn đời. Amen."
2/ Phúc Âm: Phải biết quí trọng và thực hành Lời Chúa.
2.1/ Chúa Giêsu thuật cho dân chúng nghe dụ ngôn "Người Gieo Giống:" Có người gieo giống đi ra gieo hạt giống của mình. Trong khi người ấy gieo, bốn trường hợp có thể xảy ra:
(1) Có hạt rơi xuống vệ đường: Những hạt này sẽ bị người ta giẫm lên và chim trời ăn mất.
(2) Hạt khác rơi trên đá: Những hạt này có thể mọc lên, nhưng bị héo đi vì thiếu ẩm ướt.
(3) Có hạt rơi vào giữa bụi gai: Những hạt này mọc lên, nhưng gai làm nó chết nghẹt.
(4) Có hạt lại rơi nhằm đất tốt: Khi mọc lên, nó sinh hoa kết quả gấp trăm.
Nói xong, Người hô lên rằng: "Ai có tai nghe thì nghe."
2.2/ Chúa Giêsu cắt nghĩa dụ ngôn "Người Gieo Giống:" Các môn đệ không hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì, nên họ yêu cầu Ngài cắt nghĩa thêm về dụ ngôn. Chúa Giêsu cắt nghĩa: Đây là ý nghĩa dụ ngôn: Hạt giống là Lời Thiên Chúa, chỗ hạt giống được gieo vào là tâm hồn mỗi người.
(1) Hạt rơi xuống vệ đường: Những kẻ bên vệ đường là những kẻ đã nghe, nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Họ nghe, nhưng không hiểu, vì không chú ý hay cho Lời Chúa là không quan trọng.
(2) Hạt khác rơi trên đá: Những kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời, nhưng họ không đâm rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp thử thách, họ bỏ cuộc. Đây là những kẻ không chịu thực hành Lời Chúa, để làm cho đức tin nên vững mạnh.
(3) Có hạt rơi vào giữa bụi gai: Hạt rơi vào bụi gai là những kẻ nghe, nhưng dọc đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành. Đây là trường hợp của những người không dành cho Lời Chúa địa vị ưu việt trong cuộc đời và cũng không tìm dịp để thi hành Lời Chúa.
(4) Có hạt lại rơi nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết quả gấp trăm. Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả.
Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ khán giả cách thức để Lời Chúa có hiệu quả trong cuộc đời: Trước tiên, họ phải chuẩn bị tâm hồn trước khi lắng nghe và học hỏi Lời Chúa; khi tâm hồn chưa sẵn sàng, có nghe cũng chẳng hiểu. Kế đến, họ phải dành thời giờ để suy niệm và tìm cách cụ thể để áp dụng Lời Chúa trong cuộc đời. Sau cùng, Lời Chúa sẽ đòi họ phải hy sinh từ bỏ nếp sống hưởng thụ và theo tiêu chuẩn của thế gian; họ phải can đảm để sống theo đường lối của Thiên Chúa. Nếu họ chịu theo cách thức này, họ sẽ sinh hoa quả gấp bội cả đời này và đời sau.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải sống những gì chúng ta đã tuyên xưng vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô. Đừng tuyên xưng một đàng rồi làm một nẻo. Nếu đã tuyên nhận Ngài là vua và là Chúa, thì đừng để bất cứ ai hay bất cứ sự gì thay thế địa vị của Ngài trong tâm hồn.
- Là người tín hữu, phải biết quí trọng Lời Chúa trên hết mọi sự và luôn tìm dịp áp dụng trong cuộc sống. Khinh thường Lời Chúa sẽ không biết cách sống. Biết mà không thực hành Lời Chúa sẽ chẳng sinh ích lợi gì cho cuộc đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
18/9 Góp phần trong việc rao giảng Lời Chúa và loan truyền Tin Mừng
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 24 TN1
Bài đọc: I Tim 6:2c-12; Lk 8:1-3.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Góp phần trong việc rao giảng Lời Chúa và loan truyền Tin Mừng.
Nhìn lại lịch sử ơn cứu độ, chúng ta thấy sự cộng tác giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau, trong việc đem Tin Mừng đến cho muôn người. Trước hết, Thiên Chúa bắt đầu mọi sự: Ngài sai các thiên sứ, các ngôn sứ, và chính Con của Ngài đến để mang Tin Mừng cho con người. Khi các thiên sứ, các ngôn sứ, và Chúa Giêsu, Ngôn Sứ Tối Cao đến, các ngài ngoài việc rao giảng Tin Mừng, còn lựa chọn và huấn luyện môn đệ để tiếp tục thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho con người. Mọi sự cứ tiếp tục như vậy, hết thời đại này đến thời đại kia, cho đến khi Tin Mừng được lan rộng đến mọi người trên toàn cõi đất.
Các Bài Đọc hôm nay chú trọng đến bổn phận phải góp phần vào việc loan truyền Tin Mừng. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên môn đệ là Timothy phải chú trọng đặc biệt đến 3 điều quan trọng: (1) rao giảng giáo lý chân thật của Chúa thay vì chạy theo sự phù phiếm của nghệ thuật hùng biện; (2) sống đơn giản để có thời gian rao giảng Tin Mừng thay vì dành thời gian để tích trữ của cải thế gian; và (3) tập luyện để sống đời nhân đức thì mới có thể thắng vượt được mọi cạm bẫy nguy hiểm của ba thù. Trong Phúc Âm, sau khi đã được Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi bệnh tật xác hồn, Nhóm Mười Hai và nhóm phụ nữ đã đi theo Chúa. Họ hy sinh nghề nghiệp, gia đình, và của cải để góp phần vào việc rao giảng và loan truyền Tin Mừng cho mọi người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời.
1.1/ Hãy giảng dạy Lời Chúa thay vì chạy theo những xảo thuật của ngành hùng biện: Khi đạo Công Giáo được loan truyền vào thế giới văn hóa của Hy-lạp và Rô-ma, các tín hữu thường xuyên bị đe dọa bởi các triết thuyết của Hy-lạp và nghệ thuật hùng biện của Rô-ma. Thánh Phaolô có kinh nghiệm cá nhân về điều này; nên Ngài khuyên môn đệ Timothy: "Nếu có ai dạy một giáo lý khác, không theo sát các lời lành mạnh, tức là các lời của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và không theo sát giáo lý phù hợp với đạo thánh, thì người ấy lên mặt kiêu căng, không biết gì cả, nhưng mắc bệnh ham tranh luận và thích cãi chữ." Phaolô biết rõ khôn ngoan của con người chỉ là tro bụi khi so với khôn ngoan của Thiên Chúa; nhưng rất nhiều con người, vì kiêu căng hay không biết, đã đặt những triết thuyết nhân loại lên trên giáo lý chân thật của Thiên Chúa.
Hậu quả là họ đi trật đường và phải lãnh bao hậu quả như: "ganh tị, tranh chấp, lộng ngôn, nghĩ xấu, đấu khẩu liên miên giữa những người đầu óc lệch lạc, mất cả chân lý và coi việc giữ đạo là một nguồn lợi."
1.2/ Hãy bằng lòng với việc có đủ cơm ăn áo mặc thay vì ham muốn giầu có.
(1) Sống ở đời này là để giữ đạo: cố gắng làm sao cho mình được cuộc sống đời đời: Khi nguyện kinh Lạy Cha, người tín hữu cầu xin cho được hằng ngày dùng đủ, để còn thời gian và có sức lực lo cho Nước Chúa trị đến, và ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Thánh Phaolô cũng dạy Timothy: "Đã hẳn, việc giữ đạo là nguồn lợi lớn đối với ai lấy cái mình có làm đủ. Quả vậy, chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Vậy nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ."
(2) Sống ở đời này không phải để làm giàu: Nhưng biết bao tín hữu cầu nguyện một đàng, nhưng thực hiện một nẻo trong cuộc sống. Chúa Giêsu đã từng cảnh cáo: "Người giàu có, rất khó vào Thiên Đàng." Thánh Phaolô cũng đề phòng cho môn đệ Timothy: "Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh huỷ diệt tiêu vong. Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé." Lòng ham muốn tiền bạc không chỉ ảnh hưởng sâu rộng đến các tín hữu; nhưng còn len lỏi vào hàng ngũ tu sĩ, linh mục, và Giáo Hội.
1.3/ Hãy cố gắng sống cuộc đời nhân đức: Để diệt trừ những thói quen xấu ngăn cản con người trên bước đường đạt tới sự sống vĩnh cửu, Phaolô khuyên người môn đệ phải chú trọng đến việc tập luyện các nhân đức: "Phần anh, hỡi người của Thiên Chúa, hãy tránh xa những điều đó; hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hoà. Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời; chính vì sự sống ấy, anh đã được Thiên Chúa kêu gọi, và anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng."
2/ Phúc Âm: Từ khắp các thành thị, người ta kéo đến cùng Đức Giêsu.
2.1/ Những người đi theo Chúa Giêsu: Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Trình thuật hôm nay liệt kê hai nhóm người chính mà Chúa Giêsu đã thu phục được.
(1) Nhóm Mười Hai: Tên dành đặc biệt để chỉ 12 Tông-đồ. Các ông được Chúa huấn luyện đặc biệt, để thay thế Ngài trong vai trò điều khiển Giáo Hội và làm cho Tin Mừng được lan rộng đến mọi nơi.
(2) Nhóm phụ nữ đã được Ngài trừ quỷ và chữa bệnh: Sống trong xã hội ở một thời mà vai trò của người đàn bà chưa được đề cao, Chúa Giêsu đánh đổ sự phân chia giai cấp và dành cho các phụ nữ một vai trò quan trọng trong việc rao giảng Tin Mừng. Trình thuật hôm nay tường thuật nhóm phụ nữ đi theo Chúa; các bà đi theo vì đã được chữa lành phần hồn hay phần xác.
+ Bà Maria: gọi là Maria Magdalene, người đã được Chúa giải thoát khỏi bảy quỷ. Cả 4 Tin Mừng đều đề cập đến Bà: là người đã đứng dưới chân Thập Giá, và được Chúa hiện ra đầu tiên khi Ngài sống lại từ cõi chết.
+ Bà Joanna: vợ ông Chuda quản lý của vua Herode. Chỉ có Luca đề cập đến Bà ở đây và trong trình thuật sống lại (Lk 24:10). Bà là người khá giả, nhưng biết dùng tiền của dư thừa để góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng.
+ Bà Susanna và nhiều bà khác nữa: Bà Susanna cũng chỉ được đề cập tới trong Tin Mừng Luca. Ngòai ra, Luca cũng đề cập đến một số bà khác nữa.
2.2/ Hy sinh và đóng góp cho việc rao giảng Tin Mừng: Không chỉ bằng lòng với việc đi theo Chúa, "các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ."
+ Khi đã được hưởng lợi ích do Chúa Giêsu và Tin Mừng mang tới, mọi người đều có bổn phận góp phần vào việc loan truyền Tin Mừng cách khác nhau tùy quà tặng Thiên Chúa ban cho họ, chứ không nhất thiết là tất cả phải rao giảng. Các Tông-đồ được Chúa Giêsu huấn luyện để rao giảng Tin Mừng; các phụ nữ góp phần vào việc lo lắng cho Chúa Giêsu và các Tông-đồ ăn uống để có sức khỏe để rao giảng Tin Mừng. Cả hai đều được phần thưởng của người rao giảng.
+ Một cánh én không làm nên một mùa xuân; khi mỗi người đều góp phần theo khả năng và quà tặng mình nhận được, Tin Mừng được lan rộng ra khắp nơi: "Người ta tụ họp đông đảo. Từ khắp các thành thị, người ta kéo đến cùng Đức Giêsu."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải lấy đức tin để đáp trả đức tin, và lấy tình yêu để đáp trả tình yêu, mà Thiên Chúa, Đức Kitô, và những người đi trước đã gieo vào tâm hồn chúng ta.
- Chúng ta phải luôn nhớ: mục đích của chúng ta sống ở đời này, không phải thu tích của cải để làm giàu; nhưng là lo sao cho mọi người được hưởng ơn cứu độ.
- Đã nhận ơn là phải đền trả. Nếu chúng ta đã đón nhận mà không chịu góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng, chúng ta phải chịu trách nhiệm trước Thiên Chúa và với tha nhân.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
17/9 Hãy biết sống xứng đáng với ơn gọi của mình
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 24 TN1
Bài đọc: I Tim 4:12-16; Lk 7:36-50
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy biết sống xứng đáng với ơn gọi của mình.
Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên Timothy hãy sống xứng đáng với ơn gọi làm Giám-quản mà Thiên Chúa và Hội-thánh đã trao phó: phải làm cho mọi người tin cậy mình trong lời nói cũng như trong hành động; xây dựng mọi sự trên nền tảng Lời Chúa; và luôn ý thức về sứ vụ mình phải chu toàn. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cư xử như một người Mục Tử Nhân Lành: Ngài tha thứ và ban bình an cho chị phụ nữ nổi tiếng tội lỗi, và kiên nhẫn sửa sai người Biệt-phái chỉ biết xét đoán cách hời hợt bên ngoài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Các đức tính quan trọng của nhà lãnh đạo Công Giáo
1.1/ Nhà lãnh đạo là người chín chắn: Khi chọn nhà lãnh đạo, con người có khuynh hướng chọn những người lớn tuổi, đã chín chắn, và có nhiều kinh nghiệm. Trường hợp của Timothy là trường hợp ngoại lệ: làm Giám-quản khi tuổi vẫn còn trẻ. Vì thế, Phaolô khuyên: "Chớ gì đừng có ai coi thường anh vì anh còn trẻ." Để tránh bị khinh thường, Timothy cần tập luyện để trở thành người đáng tin cậy trong:
(1) Lời nói: Phải biết cẩn thận trong lời nói và làm sao để các tín hữu tin những gì mình nói. Cần tránh nói một đàng làm một nẻo; đừng vội hứa, khi đã hứa phải giữ lời; đừng nói những chuyện nhảm nhí, tục tĩu, vô bổ. Nói có sách, mách có chứng; đừng nói mà không có bằng chứng kèm theo. Nói tóm, phải nói sự thật.
(2) Cách cư xử: Phải biết cách cư xử đúng với mọi người: kính trên, nhường dưới; cẩn thận trong việc tiếp xúc với phụ nữ.
(3) Đức ái, đức tin và lòng trong sạch: Yêu thương mọi người; trung thành trong ơn gọi và các mối liên hệ; và có tâm hồn trong sạch.
1.2/ Xây dựng cá nhân và cộng đoàn trên Lời Chúa: Mỗi khoa học hay nghề nghiệp đều có một lãnh vực để chuyên chăm và đào sâu, lãnh vực của nhà lãnh đạo Công Giáo là Kinh Thánh.
(1) Phải chú trọng đến việc học hỏi Kinh Thánh: Không biết Kinh Thánh là không biết Thiên Chúa (St. Jerome). Nếu không biết Thiên Chúa, làm sao nói về Thiên Chúa cho các tín hữu của mình? Khi không am tường Kinh Thánh, nhà rao giảng có khuynh hướng rao giảng những gì mình biết mà chẳng có liên hệ gì đến Lời Chúa.
(2) Hiểu biết Kinh Thánh để dạy dỗ: Khi rao giảng, nhà lãnh đạo phải rao giảng Lời Chúa, chứ không rao giảng lời của mình hay của người nào khác. Phải dành địa vị ưu việt cho Lời Chúa, vì chỉ có Lời Chúa có uy quyền để giải thoát con người.
(3) Dùng Kinh Thánh để khuyên nhủ: Nhà lãnh đạo Công Giáo không phải là nhà tâm lý hay nhà xã hội, mặc dù những lãnh vực này giúp trong việc khuyên nhủ; nhưng trước tiên nhà lãnh đạo phải dùng lời khôn ngoan của Thiên Chúa qua Kinh Thánh để giúp giải quyết vấn đề.
1.3/ Ý thức ơn gọi của mình: Một sự xét mình thường xuyên sẽ giúp nhà lãnh đạo biết:
(1) Mình đã được thánh hiến: "Đừng thờ ơ với đặc sủng đang có nơi anh, đặc sủng Thiên Chúa đã ban cho anh nhờ lời ngôn sứ, khi hàng kỳ mục đặt tay trên anh." Phải chú trọng đến việc thánh hiến mình trước khi có thể thánh hiến người khác.
(2) Phải nhiệt thành với ơn gọi của mình: "Anh hãy tha thiết với những điều đó, chuyên chú vào đó, để mọi người nhận thấy những tiến bộ của anh.'' Cần phải thường xuyên xét mình để xem mình có còn sự nhiệt thành thuở ban đầu không, vì thời gian và nhiều va chạm dễ làm phai lạt sự nhiệt thành của nhà lãnh đạo.
(3) Phải làm gương sáng và chu toàn nhiệm vụ: "Anh hãy thận trọng trong cách ăn nết ở và trong lời giảng dạy. Hãy kiên trì trong việc đó. Vì làm như vậy, anh sẽ cứu được chính mình, lại còn cứu được những người nghe anh giảng dạy." Lời nói lung lay, gương bày lôi cuốn. Cuộc sống chứng nhân là dấu chỉ hùng hồn để nhà lãnh đạo làm chứng cho Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.
2.1/ Hai phản ứng khác nhau: Trình thuật hôm nay là một ngoại lệ trong mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và những người Biệt-phái. Thường thường, chúng ta thấy luôn có sự đụng độ giữa Chúa Giêsu và họ; nhưng hôm nay, có người thuộc nhóm Biệt-phái mời Đức Giêsu dùng bữa với mình. Tuy nhiên, chân tướng họ dần dần lộ ra, và kết quả cũng chẳng khác gì những lần khác.
(1) Phản ứng chân thành của người phụ nữ tội lỗi: Trình thuật kể: "Có một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Biệt-phái, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên." Có nhiều điều khác thường trong cách cư xử của người phụ nữ: Thông thường, người ta chỉ rửa chân bằng nước và lau bằng khăn, chị rửa chân Chúa bằng nước mắt và lau bằng tóc; người ta tỏ dấu tình yêu bằng hôn má, chị tỏ bằng hôn chân như Chúa Giêsu hôn chân các môn đệ; người ta chỉ nhỏ vài giọt dầu thơm, chị dùng cả một bình bạch ngọc. Tất cả những điều này có ý muốn nói lên lòng ăn năn chân thành, sự can đảm, và tình yêu thâm sâu của chị dành cho Chúa Giêsu.
(2) Phản ứng của người Biệt-phái: Thấy vậy, ông Biệt-phái đã mời Chúa Giêsu liền nghĩ: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!" Ông không nhìn thấy tình yêu và lòng ăn năn thống hối trong tâm hồn người phụ nữ; nhưng chỉ nhìn thấy quá khứ tội lỗi và thái độ bất cẩn của Chúa Giêsu, để sẵn sàng kết án.
2.2/ Phản ứng của Chúa Giêsu: Biết những gì ông đang nghĩ, Chúa Giêsu vẫn kiên nhẫn tìm cách thuyết phục ông, bằng cách trước tiên đưa ra nguyên tắc ông phải chấp nhận, sau đó chỉ cho ông thấy sự kết án sai trái của mình.
(1) Đưa ra nguyên tắc: Chúa Giêsu đưa ra một ví dụ về hai con nợ: "Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?" Ông Simon đáp: "Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn." Đức Giêsu bảo: "Ông xét đúng lắm."
(2) Áp dụng vào thực tế: Người nói với ông Simon: "Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ôliu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít."
(3) Chúa tha tội cho người phụ nữ: Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Tội của chị đã được tha rồi." Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: "Ông này là ai mà lại tha được tội?" Nhưng Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Là những nhà lãnh đạo tinh thần, chúng ta hãy chứng tỏ cho mọi người thấy mình biết sống khôn ngoan, nhân đức, và trung thành hoàn tất sứ vụ được trao phó bởi Thiên Chúa.
- Đừng giam tha nhân trong quá khứ tội lỗi để kết án họ; nhưng hãy cho tha nhân một cơ hội để ăn năn trở về, như Thiên Chúa đã cho chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
16/9 Con người phải lấy sự thật để xét mình
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư, Tuần 24 TN1, Năm B
Bài đọc: I Tim 3:14-16; Lk 7:31-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người phải lấy sự thật để xét mình; chứ không lấy mình để xét sự thật.
Nhiều người cho mình là trung tâm điểm của vũ trụ mà mọi sự phải quy về; vì thế, họ lấy tiêu chuẩn và cách thức suy nghĩ của họ để xét đoán Thiên Chúa và tha nhân. Hậu quả là họ không có bình an, vì họ sẽ chẳng bao giờ đạt được điều họ mong muốn. Để có bình an, con người cần học hỏi để tìm ra sự thật; rồi lấy sự thật mà xét mình, và nhất là, phải sống theo sự thật. Hậu quả của việc sống theo sự thật sẽ giải thoát con người khỏi sai lầm, và đạt được kết quả như lòng mong ước.
Các Bài Đọc hôm nay nhắc nhở con người phải biết sống và hành động theo sự thật, chứ không lấy mình để xét đoán sự thật. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên môn đệ của Ngài là Timothy phải sống theo sự chỉ dẫn của Đức Kitô và Hội Thánh. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách mắng thế hệ của các kinh-sư và biệt-phái, vì họ lấy mình làm tiêu chuẩn để xét đoán và bắt người khác phải noi theo: Ông Gio-an Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì họ bảo: "Ông ta bị quỷ ám." Chúa Giêsu đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì họ lại bảo: "Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải xoay cuộc đời mình chung quanh trọng tâm là Đức Kitô.
1.1/ Sống theo sự chỉ dẫn của Hội Thánh: Thánh Phaolô nhắn nhủ Timothy: "Tôi viết cho anh thư này, dù vẫn hy vọng sớm đến với anh. Nhưng nếu tôi chậm trễ, thì thư này sẽ cho anh biết phải ăn ở thế nào trong nhà của Thiên Chúa, tức là Hội Thánh của Thiên Chúa hằng sống, cột trụ và điểm tựa của chân lý."
Phaolô nhiều lần dùng hình ảnh Đền Thờ của Thiên Chúa, và các tín hữu như một phần của Đền Thờ (I Cor 3:16-17; 6:19; 8:10; 9:13; II Cor 6:16; Eph 2:21; II Thess 2:4). Trong trình thuật hôm nay, Phaolô dùng 4 hình ảnh để khuyên các tín hữu phải cư xử thế nào trong Đền Thờ.
(1) Nhà của Thiên Chúa (oikos): nơi mà mọi người sống chung, đoàn kết và yêu thương nhau; vì tất cả đều cùng có chung một chủ nhà là Thiên Chúa.
(2) Cộng đoàn của Thiên Chúa hằng sống (ekklesia): Cộng đoàn là tập hợp những người đáp trả tiếng mời gọi của Thiên Chúa, để cùng chung sức lo cho một sứ vụ là rao truyền Tin Mừng.
(3) Cột trụ của sự thật (stulos): Trong Đền Thờ, cột trụ là những gì nâng đỡ Đền Thờ. Trong Hội Thánh, sự thật nâng đỡ mọi hoạt động của Hội Thánh.
(4) Nền tảng của chân lý (edaioma): Nhà có vững chắc phải được xây trên một nền tảng vững chắc. Thánh Phaolô gọi nền tảng của Đền Thờ là các tông-đồ và các tiên tri, với Đức Kitô là Tảng Đá Góc (Eph 2:20). Trong trình thuật hôm nay, nền tảng của Đền Thờ là sự thật.
Nói cách khác, Phaolô khuyên các tín hữu phải xây dựng cuộc đời mình trên nền tảng và cột trụ của sự thật, phải yêu thương mọi người, và phải góp phần vào công cuộc rao giảng Tin Mừng.
1.2/ Đức Kitô là trọng tâm: Thánh Phaolô xác tín: "Phải công nhận rằng: mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả, đó là: Đức Kitô xuất hiện trong thân phận người phàm." Phaolô đồng nhất sự thật và mầu nhiệm của Hội Thánh với Đức Kitô trong thân xác con người; qua mầu nhiệm này, Ngài đã mang lại ơn cứu độ cho con người.
(1) Người được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính: Thánh Phaolô quả quyết không ai có thể tin vào Đức Kitô nếu không được Thánh Thần tác động (I Cor 12:3). Các tín hữu được thanh tẩy, thánh hóa, và công chính hóa là do bởi Đức Kitô và quyền năng của Thánh Thần (I Cor 6:11). Quan niệm này được diễn tả rõ ràng hơn trong Tin Mừng Gioan: Thánh Thần là Thần Sự Thật sẽ làm chứng những gì Đức Kitô nói là sự thật (Jn 15:26).
(2) Người được các thiên thần chiêm ngưỡng: Các thiên thần là loài thiêng liêng nên chắc chắn hiểu Kế Hoạch Cứu Độ được thực hiện qua Đức Kitô. Chúa Giêsu hứa với Nathanael, ông sẽ được nhìn thấy thiên thần của Thiên Chúa lên xuống trên Con Người (Jn 1:51).
(3) Người và được loan truyền giữa muôn dân, được thế giới tin kính, và được siêu thăng cõi trời vinh hiển: Phaolô có nhiều kinh nghiệm rao truyền Tin Mừng và làm cho muôn dân nhận biết và tin vào Đức Kitô.
2/ Phúc Âm: Không gì có thể làm hài lòng con người.
2.1/ Người ích kỷ chỉ biết nghĩ đến mình: Trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu nhiều lần phải đương đầu với tính ích kỷ của các kinh-sư và biệt-phái; vì họ chỉ biết nghĩ đến mình, và từ chối đón nhận những mặc khải, cũng như những dạy dỗ của Chúa. Trong trình thuật hôm nay, Ngài trách mắng họ: Tôi phải ví người thế hệ này với ai? Họ giống ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói: "Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than."
Thay vì phải chung vui với cái vui của người khác; người ích kỷ chỉ biết nghĩ đến mình, và từ chối phải chung vui khi họ chẳng có gì để vui. Hay khi tham dự đám táng, họ từ chối chia sẻ nỗi buồn với người khác, vịn lý ho là họ không có gì để buồn. Chúng ta thử tưởng tượng cuộc sống con người sẽ thế nào khi chung quanh toàn những người vô cảm như thế! Người môn đệ Đức Kitô không được có thái độ vô cảm này, họ phải chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn với tha nhân trong cuộc sống.
2.2/ Lấy mình làm tiêu chuẩn để đoán xét người khác: Chúa Giêsu tiếp tục chỉ cho các môn đệ thấy tính ích kỷ của họ bằng một ví dụ cụ thể hơn:
(1) Họ không hài lòng với Gioan Tẩy Giả: Trong khi biết bao người chạy đến với Gioan Tẩy Giả để được nghe giảng và được làm phép rửa bởi ông, thì họ kiếm lý do từ chối và nói: "Ông ta bị quỷ ám!" vì không ăn bánh và không uống rượu như họ.
(2) Họ cũng chẳng hài lòng với Chúa Giêsu: Khi Chúa Giêsu đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì họ lại bảo: "Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi."
Nếu một người thắc mắc với họ: "Thế nào mới gọi là hoàn toàn?" Họ có lẽ cũng chẳng biết thế nào mới gọi là hoàn toàn, nhưng luôn muốn vạch lá tìm sâu để chê trách vì không muốn phục tùng ai cả. Chúa Giêsu cung cấp cho các môn đệ chìa khóa để biết cách nào nên theo: "Nhưng Đức Khôn Ngoan đã được tất cả con cái mình biện minh cho." Hậu quả sẽ chứng minh đâu là cách tốt nhất một người phải theo.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải học hỏi và lấy sự thật từ nơi Thiên Chúa để xét mình, chứ không lấy suy nghĩ của chúng ta để xét sự thật.
- Sự thật phải theo là những lời chỉ dẫn của Đức Kitô và của Thiên Chúa trong Kinh Thánh. Chúng ta đừng bao giờ tin vào sự khôn ngoan của xác thịt con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
15/9 Trung thành trong ơn gọi và bổn phận của mình
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 24 TN1, Năm B
Bài đọc: I Tim 3:1-13; Lk 7:11-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành trong ơn gọi và bổn phận của mình.
Cả Thiên Chúa lẫn con người đều đề cao sự trung thành: Thiên Chúa đòi con người phải trung thành với nhau trong đời sống hôn nhân, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu, để tôn trọng và yêu thương nhau suốt đời. Chúa Giêsu cũng hứa với các môn đệ: "Ai trung thành đến cùng sẽ được cứu rỗi." Khi chọn người lãnh đạo, con người cũng muốn chọn những người khả dĩ có thể tin cậy được, như trung thành với quốc gia và những gì họ đã hứa khi tranh cử.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra những trường hợp khác nhau của những người trung thành. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô liệt kê những điều kiện cần thiết để chọn Giám-quản và Trợ-tá để điều khiển các giáo-đoàn. Điều kiện quan trọng nhất là phải trung thành với Thiên Chúa, với những người trong gia đình, và với những người mà Thiên Chúa đã trao phó cho họ. Trong Phúc Âm, bà góa phụ thành Nain đã làm Chúa Giêsu thổn thức vì những tiếng khóc ai oán của Bà cho người con trai độc nhất. Bà nghĩ anh sẽ là người săn sóc và chôn cất Bà trong lúc tuổi già xế bóng; nhưng nay Bà phải chôn cất con, một điều Bà không ngờ có thể xảy ra. Chúa Giêsu đã an ủi Bà, và Ngài làm cho cậu con trai của Bà sống lại và trao lại cho Bà.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Giám quản phải là người không ai chê trách được.
1.1/ Điều kiện để trở thành Giám-quản (episcopoi): Thánh Phaolô liệt kê nhiều đức tính cần thiết phải có để trở thành Giám-quản, chúng ta có thể sắp xếp theo ba phạm trù sau:
(1) Trung thành với Thiên Chúa: Người Giám-quản không được là tân tòng, kẻo lên mặt kiêu căng mà bị kết án như ma quỷ. Đây là lời khuyên rất khôn ngoan, vì đức tin cần phải được thử thách bằng đau khổ và thời gian. Điều thánh Phaolô lo sợ nhất là sự kiêu căng, tự mãn, vì ma quỉ có thể dùng tính kiêu căng để phá hủy không chỉ cá nhân Giám quản, mà còn cả gia đình và cộng đoàn.
(2) Trung thành với gia đình: chỉ có một đời vợ, biết điều khiển tốt gia đình mình, biết dạy con cái phục tùng cách rất nghiêm chỉnh; vì ai không biết điều khiển gia đình mình, thì làm sao có thể lo cho Hội Thánh của Thiên Chúa được?
(3) Trung thành với tha nhân: không được hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, không hay gây sự, không ham tiền, phải nhã nhặn, hiếu khách, và có khả năng giảng dạy.
1.2/ Điều kiện để trở thành Trợ-tá (deacon): Vẫn theo 3 phạm trù trên, người Trợ-tá phải:
(1) Trung thành với Thiên Chúa: họ phải bảo toàn mầu nhiệm đức tin trong một lương tâm trong sạch và được mạnh dạn nhiều nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô.
(2) Trung thành với gia đình: phải là người chỉ có một đời vợ, biết điều khiển con cái và gia đình cho tốt.
(3) Trung thành với tha nhân: không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn, không bị ai khiếu nại, không nói xấu, và đáng tin cậy mọi bề.
2/ Phúc Âm: Chúa động lòng thương và cho con trai duy nhất của Bà mẹ Nain sống lại.
Đứng trước cái chết con người hòan tòan bất lực và hỏang sợ khi phải đương đầu với cái chết, nhất là những cái chết trẻ, nhiều người, và đột ngột. Như Bà mẹ Nain hôm nay, Bà đã góa chồng và chỉ có một con duy nhất là niềm hy vọng để nâng đỡ Bà trong cuộc sống trên dương gian; thế mà anh cũng vĩnh viễn ra đi. Chắc Bà không bao giờ nghĩ là Bà sẽ phải chôn con.
Người Hy-Lạp, nhất là những người theo chủ thuyết Khắc Kỷ, họ tin có Đấng Tối Cao; nhưng không tin Ngài có cảm xúc trước những đau khổ của con người. Họ lý luận: Nếu con người có thể làm cho Ngài vui hay buồn, tức là con người có ảnh hưởng trên Ngài; khi con người có ảnh hưởng trên Ngài là con người lớn hơn Ngài; nhưng không ai có thể lớn hơn Đấng Tối cao. Vì vậy, Đấng Tối Cao phải là Đấng không có cảm xúc. Niềm tin này hòan tòan ngược lại với niềm tin của người Công Giáo, Thiên Chúa cảm thương với nỗi đau khổ của con người. Thánh Luca tường thuật Chúa Giêsu chạnh lòng thương Bà mẹ góa chỉ có đứa con côi mà giờ đây cũng không còn nữa, Ngài an ủi: "Bà đừng khóc nữa!" Trước khi cho Lazarus sống lại, Gioan tường thuật "Chúa khóc" (Jn 11:35) và "Chúa thổn thức trong lòng" (Jn 11:38).
Thiên Chúa có thể làm cho kẻ chết sống lại. Trong Cựu Ước, chỉ có tiên tri Elisha làm cho con trai của Bà góa miền Shunem sống lại bằng cách kề miệng ông trên miệng nó (2 Kgs 4:34-37). Trong Phúc Âm, có ít nhất 3 lần Chúa làm cho kẻ chết sống lại: Cho con gái của ông trưởng hội đường Giaia sống lại (Mt 9:18-26, Mc 5:35-43, Lk 8:40-56); Chúa Giêsu làm cho anh thanh niên sống lại và trao anh lại cho bà mẹ Nain hôm nay (Lk 7:11-17); và Chúa cho Lazarus chết 3 ngày được sống lại (Jn 11:38-44). Khi chứng kiến quyền năng của Thiên Chúa cho kẻ chết sống lại, con người kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa: "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần phải trung thành với Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời: khi ấm no hạnh phúc cũng như lúc buồn thảm lệ rơi; vì chỉ có ai trung thành mới được cứu thoát.
- Thiên Chúa là Đấng thương xót những người bất hạnh, những mẹ góa con côi. Chúng ta hãy chạy đến với Ngài trong những lúc gian lao khốn khó.
- Đức Kitô muốn chúng ta nhận Đức Mẹ như người Mẹ thiêng liêng của chính mình. Đây là điều lợi ích cho phần linh hồn. Chúng ta hãy đối xử với Đức Mẹ cho hết tình con thảo.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 14/9 Quyền Lực của Thánh Giá
- 13/9 Đau khổ là con đường duy nhất dẫn tới vinh quang
- 12/9 Phải thực hành Lời Chúa dạy
- 11/9 Hãy học biết Thiên Chúa và biết chính mình
- 10/9 Bắt chước Đức Kitô để sống đời trọn lành
- 09/9 Sống như Đức Kitô đã dạy
- 08/9 Đức Mẹ là Mẹ Đấng Cứu Thế
- 07/9 Bổn phận của các tín hữu là xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô
- 06/9 Hãy để Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi mọi bệnh tật hồn và xác
- 05/9 Cần chú trọng đến những gì là chính yếu