Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Thư của Bộ Giáo lý Đức tin: “An tử luôn là tội ác chống lại sự sống”
Vatican News (22.9.2020) – “Samaritanus bonus” – Người Samaria nhân hậu, thư của Bộ Giáo lý Đức tin được Đức Thánh Cha phê chuẩn, tái lên án mọi hình thức “an tử” và “trợ tử”, và kêu gọi hỗ trợ các gia đình và các nhân viên y tế.
“Không thể chữa được không bao giờ đồng nghĩa với không thể chăm sóc”: người bị bệnh nan y cũng như người chào đời được dự báo khó có thể sống sót đều có quyền được chào đón, chăm sóc, yêu thương. Giáo hội phản đối việc cố trị liệu khi không còn hy vọng, nhưng nhắc lại như một "giáo huấn chắc chắn" rằng "an tử là một tội ác chống lại sự sống con người"; "bất kỳ sự hợp tác trực tiếp nào vào việc thực hành an tử đều là một tội trọng" mà không một cơ quan có thẩm quyền nào "có thể áp đặt hoặc cho phép một cách hợp pháp".
Đó là những điều được nói đến trong tài liệu Người Samari nhân hậu, thư của Bộ Giáo lý Đức tin về "về việc chăm sóc những người bệnh nặng và ở giai đoạn cuối đời", được Đức Thánh Cha Phanxicô phê chuẩn vào tháng 6 vừa qua và được công bố ngày 22 tháng 9 năm 2020.
Tính thời sự của văn kiện “người Samaria nhân hậu”
Tài liệu tái khẳng định lập trường đã được Giáo hội nhiều lần trình bày về chủ đề này; nó cần thiết vì càng ngày càng có nhiều tin tức thời sự về vấn đề trợ tử và vì sự mở rộng của luật pháp, ngày càng nhiều quốc gia cho phép áp dụng an tử và trợ tử cho những người bị bệnh nặng và cho cả những người đơn độc hoặc có vấn đề về tâm lý. Mục đích của lá thư là cung cấp những chỉ dẫn cụ thể để thực hiện sứ điệp của Người Samari nhân hậu. Ngay cả khi "việc chữa lành bệnh là không thể hoặc không thể xảy ra, thì việc đồng hành về mặt chăm sóc y tế, tâm lý và tâm linh là một nghĩa vụ không thể chối bỏ, vì làm ngược lại sẽ là hành động bỏ rơi người bệnh một cách vô nhân đạo".
Không thể chữa lành nhưng không bao giờ không thể chăm sóc
“Hãy chữa lành nếu có thể, hãy luôn chăm sóc”. Những lời này của Đức Gioan Phaolô II giải thích rằng không thể chữa lành không bao giờ đồng nghĩa với không thể chăm sóc. Chăm sóc cho đến cùng, "ở bên" bệnh nhân, đồng hành với họ bằng cách lắng nghe họ, giúp cho họ cảm thấy được yêu thương và quý mến, là những gì có thể tránh được sự cô đơn, sợ hãi, đau khổ và cái chết, và hậu quả là tuyệt vọng: đó là những yếu tố mà ngày nay là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến yêu cầu an tử hoặc trợ tử. Đồng thời tài liệu nhấn mạnh rằng "có nhiều vụ lạm dụng được chính các bác sĩ tố cáo rằng đã lấy đi mạng sống của những người không bao giờ muốn áp dụng an tử cho chính họ". Toàn bộ tài liệu tập trung vào ý nghĩa của đau đớn và đau khổ dưới ánh sáng của Phúc Âm và sự hy sinh của Chúa Giê-su: "Người ta chỉ có thể chịu được đau khổ trong cuộc sống khi có hy vọng" và hy vọng mà Chúa Ki-tô ban cho người đau khổ chính là "sự hiện diện gần gũi thực sự của Người". Chăm sóc giảm đau sẽ không đủ "nếu không có ai 'ở' bên cạnh bệnh nhân và chứng tỏ cho họ thấy giá trị độc nhất vô nhị của họ".
Giá trị bất khả xâm phạm của sự sống
Thư của Bộ Giáo lý Đức tin khẳng định: "Giá trị bất khả xâm phạm của sự sống là một chân lý cơ bản của quy luật đạo đức tự nhiên và là nền tảng thiết yếu của trật tự pháp lý”. "Giống như không thể chấp nhận người khác là nô lệ của chúng ta, ngay cả khi họ yêu cầu chúng ta, thì người ta cũng không thể trực tiếp lựa chọn tấn công sự sống của một con người, ngay cả khi họ yêu cầu". Giết chết một bệnh nhân yêu cầu được chết không có nghĩa là "công nhận quyền và đánh giá cao sự tự chủ của họ", nhưng trái lại, nó có nghĩa là "xem thường giá trị của tự do, bị điều kiện hóa mạnh mẽ bởi bệnh tật và đau đớn, và giá trị sự sống của họ". Khi làm như vậy, "người ta thay Chúa quyết định giờ phút của cái chết". Vì lý do này, "việc phá thai, cố ý trợ tử và tự sát đầu độc nền văn minh nhân loại, làm cho những người thực hiện những việc này bị thiệt hại nhiều hơn cả những người chịu những hành động này. Hơn nữa chúng là một sự từ chối tuyệt đối Đấng Tạo Hóa".
Những trở ngại làm lưu mờ giá trị thánh thiêng của sự sống
Tài liệu đề cập đến một số yếu tố làm hạn chế khả năng hiểu được giá trị sự sống. Đầu tiên là việc sử dụng một cách phiến diện khái niệm "cái chết xứng đáng" khi liên kết nó với "chất lượng cuộc sống", với quan điểm nhân học thực dụng. Sự sống được coi là "xứng đáng" chỉ khi có một số đặc điểm tâm lý hoặc thể lý. Một trở ngại thứ hai là sự hiểu sai về "lòng trắc ẩn". Lòng nhân ái đích thực của con người "không bao gồm việc gây ra cái chết nhưng ở việc chào đón người bệnh, nâng đỡ họ" bằng cách đem đến cho họ tình cảm và phương tiện để giảm bớt đau khổ của họ. Một trở ngại khác nữa đó là sự gia tăng của chủ nghĩa cá nhân, gốc rễ của "căn bệnh tiềm ẩn nhất của thời đại chúng ta: sự cô đơn". Đứng trước các luật lệ cho phép an tử, "đôi khi nảy sinh những tình trạng tiến thoái lưỡng nan liên quan đến đặc tính luân lý của các hành vi đó, trong thực tế, đó không chỉ là những hành vi cần có để chăm sóc người bệnh, chẳng hạn như tiếp nước và cho người bệnh ăn trong tình trạng hôn mê không có triển vọng hồi phục".
Huấn quyền của Giáo hội
Đối mặt với sự phổ biến của các phác đồ y tế về giai đoạn cuối của cuộc sống, "sự lạm dụng quan điểm về an tử đang bị tố cáo rộng rãi hiện nay" mà không hỏi ý kiến bệnh nhân hoặc gia đình gây nên lo ngại. Vì lý do này, tài liệu tái khẳng định như một giáo huấn quyết định rằng "an tử là một tội ác chống lại sự sống con người", một hành vi "tự bản chất là xấu xa trong bất kỳ trường hợp và hoàn cảnh nào". Do đó, bất kỳ sự hợp tác trực tiếp nào cũng đều là tội trọng chống lại sự sống con người mà không có thẩm quyền nào "có thể áp đặt hoặc cho phép một cách hợp pháp". Do đó, "những người phê chuẩn luật về an tử và trợ tử là đồng lõa với tội trọng" và "phạm tội gây xi-căng-đan vì những luật này góp phần làm biến dạng lương tâm, thậm chí của các tín hữu". Do đó, giúp đỡ tự tử là "một sự hợp tác thái quá vào một hành động bất hợp pháp". Việc áp dụng an tử vẫn không thể được chấp nhận ngay cả khi sự tuyệt vọng hoặc đau khổ có thể giảm nhẹ và thậm chí không quy trách nhiệm cá nhân cho người yêu cầu nó. "Do đó, đây luôn là một lựa chọn sai lầm" và các nhân viên y tế không bao giờ có thể cộng tác "thực hiện bất kỳ hành động an tử nào dù đương sự yêu cầu, huống chi là người thân của họ". Do đó các luật hợp pháp hóa an tử là không đúng. Những lời cầu xin của những bệnh nhân bệnh nặng cầu xin cái chết "không được" hiểu là một "biểu hiện của một ý muốn thực sự muốn chết" mà là một lời cầu xin giúp đỡ và tình thương.
Không “cố” điều trị
Tài liệu giải thích rằng "bảo vệ phẩm giá của cái chết có nghĩa là loại trừ sự dự đoán về cái chết cũng như sự trì hoãn nó bằng cái gọi là ngoan cố điều trị", được thực hiện bởi phương tiện y học hiện đại, có thể "trì hoãn cái chết một cách nhân tạo, mà trong một số trường hợp bệnh nhân không nhận được một lợi ích thực sự". Và do đó, trước một cái chết không thể tránh khỏi, "việc quyết định từ bỏ các phương pháp điều trị chỉ giúp kéo dài tuổi thọ một cách bấp bênh và đau đớn là điều chính đáng", nhưng không dừng những chăm sóc bình thường mà bệnh nhân phải được có. Do đó, việc từ bỏ các phương tiện đặc biệt và không cân xứng là thể hiện sự chấp nhận thân phận con người khi đối mặt với cái chết. Nhưng cung cấp thức ăn và nước uống phải được đảm bảo hợp lý bởi vì "sự chăm sóc cơ bản một người phải nhận được là cung cấp thực phẩm và chất lỏng cần thiết". Điều quan trọng là các giai đoạn dành riêng cho chăm sóc giảm đau, "một công cụ quý giá và không thể thiếu" để đồng hành cùng bệnh nhân: việc áp dụng các phương pháp điều trị này làm giảm đáng kể số người yêu cầu an tử. Trong số các dịch vụ chăm sóc giảm đau, không bao giờ có thể bao gồm khả năng an tử hoặc trợ tử; tài liệu cũng bao gồm sự hỗ trợ tinh thần cho người bệnh và gia đình của họ.
Giúp đỡ gia đình
Trong điều trị, cần để bệnh nhân không cảm thấy mình là gánh nặng, nhưng để họ "có sự gần gũi và yêu thương của những người thân yêu của mình. Trong nhiệm vụ này, gia đình cần sự giúp đỡ và phương tiện đầy đủ”. Do đó, điều cần thiết là các quốc gia “thừa nhận chức năng xã hội cơ bản và nền tảng của gia đình và vai trò không thể thay thế của nó trong lĩnh vực này, bằng cách cung cấp các nguồn lực và cấu trúc cần thiết để hỗ trợ nó”.
Chăm sóc trước khi sinh và nhi khoa
Ngay từ khi được thụ thai, những đứa trẻ bị dị tật hay bất cứ dạng bệnh lý nào "là những bệnh nhi nhỏ bé mà y học ngày nay luôn có thể hỗ trợ và đồng hành theo cách trân trọng sự sống." Lá thư giải thích rằng "trong trường hợp mắc các bệnh lý trước khi sinh mà chắc chắn sẽ dẫn đến tử vong trong một thời gian ngắn - và trong trường hợp không có các liệu pháp có khả năng cải thiện tình trạng sức khỏe của những đứa trẻ này, thì chúng không nên bị bỏ rơi không được trợ giúp, nhưng chúng phải được đồng hành cho đến khi chết tự nhiên” mà không bị ngừng cung cấp dinh dưỡng và nước. Những từ này cũng có thể được dùng để chỉ một số tin tức thời sự gần đây. Tài liệu cũng lên án việc sử dụng "việc chẩn đoán trước khi sinh, đôi khi gây ám ảnh" và nền văn hóa thù địch với tình trạng khuyết tật thường dẫn đến việc lựa chọn phá thai, điều vốn "không bao giờ là hợp pháp".
Đưa vào hôn mê sâu
Để giảm đau cho người bệnh, liệu pháp giảm đau sử dụng các loại thuốc có thể gây mất ý thức. Giáo hội "khẳng định tính hợp pháp của thuốc an thần như là một phần của phương pháp điều trị dành cho bệnh nhân, để những giây phút cuối đời có thể đến trong sự bình an nhất có thể". Điều này cũng đúng trong trường hợp các phương pháp điều trị "đưa người bệnh đến gần với giờ chết (dùng thuốc an thần giảm đau đưa vào hôn mê sâu trong giai đoạn cuối), luôn luôn, trong mức độ có thể, với sự đồng ý của bệnh nhân". Nhưng thuốc an thần không thể được chấp nhận nếu nó được sử dụng để gây ra "cái chết trực tiếp và cố ý".
Trạng thái thực vật hoặc có ý thức tối thiểu
"Suy nghĩ cho rằng những người còn tự thở nhưng không còn ý thức là dấu hiệu cho thấy họ không còn là một con người với tất cả phẩm giá của họ" là suy nghĩ luôn luôn sai lầm. Ngay cả trong tình trạng "thiếu ý thức kéo dài, được gọi là trạng thái thực vật hoặc trạng thái ý thức tối thiểu", bệnh nhân "phải được công nhận giá trị của mình và được hỗ trợ chăm sóc đầy đủ", có quyền được cung cấp dinh dưỡng và nước. Tài liệu thừa nhận rằng ngay cả khi "trong một số trường hợp, các biện pháp này có thể trở nên không cân xứng", bởi vì chúng không còn hiệu quả hoặc do các phương tiện để thực hiện chúng tạo ra gánh nặng quá mức. Văn bản cho rằng cần phải cung cấp "hỗ trợ đầy đủ cho các thành viên trong gia đình trong việc mang gánh nặng kéo dài khi hỗ trợ người bệnh trong tình trạng thực vật".
Sự phản đối của lương tâm
Cuối cùng, lá thư yêu cầu lập trường rõ ràng và thống nhất từ phía các Giáo hội địa phương về những vấn đề này, và mời gọi các cơ sở y tế Công giáo làm chứng tá, hạn chế các hành vi "rõ ràng là trái đạo đức". Các luật chấp thuận an tử "không tạo ra các nghĩa vụ lương tâm" nhưng "chúng gợi lên một nghĩa vụ nghiêm túc và chính xác chống lại chúng thông qua sự phản đối của lương tâm". Bác sĩ "không bao giờ chỉ là người thi hành ý muốn của bệnh nhân" nhưng luôn giữ "quyền và nghĩa vụ tự do không làm những điều trái với điều tốt lành luân lý được lương tâm nhận thấy". Mặt khác, cần nhắc lại rằng không tồn tại "quyền tự ý định đoạt tính mạng của mình, vì vậy không nhân viên y tế nào có thể là người giám hộ thực hiện một quyền không tồn tại". Điều quan trọng là các bác sĩ và nhân viên y tế phải được đào tạo để có sự đồng hành Ki-tô giáo đối với người hấp hối, như các sự kiện kịch tính gần đây liên quan đến dịch Covid-19 đã cho thấy. Đối với những người yêu cầu an tử, sự đồng hành thiêng liêng và bí tích "cần là một sự gần gũi luôn luôn mời gọi hoán cải", nhưng "không được có cử chỉ bên ngoài nào có thể bị hiểu là đồng thuận với an tử, ví dụ như ở lại, hiện diện trong giây phút trợ tử được thực hiện. Sự hiện diện này chỉ có thể được hiểu là sự đồng lõa”.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Một câu chuyện trong Kinh thánh bị bóp méo làm người công giáo Trung quốc mất tinh thần
missionsetrangeres.com, 2020-09-23, Ucanews, Hong-Kong
Một quyển sách giáo khoa dành cho nhà giáo ở cấp trung học do ban xuất bản của Đại học Khoa học và Công nghệ Điện tử Trung Quốc do chính phủ điều hành, đã làm cho người công giáo ở Trung quốc thất vọng. Văn bản, được xuất bản để dạy sinh viên “đạo đức nghề nghiệp và tôn trọng luật pháp” đã trích một đoạn trong Tin Mừng về người phụ nữ ngoại tình được tha thứ, nhưng câu chuyện bị bóp méo và chuyển hướng với mục đích chính trị. Một linh mục ẩn danh tuyên bố: “Làm sao dạy đạo đức nghề nghiệp với một quyển sách hướng dẫn như vậy?”
Một phần trang bìa quyển sách giáo khoa đã gây tranh cãi làm cho người công giáo ở Trung quốc choáng váng.
Việc xuất bản quyển sách giáo khoa trong đó có câu chuyện bị bóp méo và vặn vẹo đã làm cộng đồng tín hữu công giáo ở Trung Quốc đại lục giận dữ. Sách dùng để dạy “đạo đức nghề nghiệp và tôn trọng pháp luật” trong đó nói đến câu chuyện người đàn bà ngoại tình được Chúa Giêsu tha thứ. Trong quyển sách, tường thuật đoạn Tin Mừng Thánh Gioan (Ga 8, 1-11) bị bóp méo và khẳng định Chúa Giêsu đã ném đá người phụ nữ tội lỗi để tuân theo luật pháp của thời đại Ngài. Bản văn kể lại đoạn đám đông muốn ném đá một phụ nữ theo luật, và Chúa Giêsu trả lời họ “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” Tuy nhiên, phần cuối của câu chuyện lại hoàn toàn khác, bản văn nói thêm, khi đám đông giải tán, Chúa Giêsu bắt đầu ném đá người phụ nữ đến chết và nói thêm “Tôi cũng là kẻ có tội, nhưng nếu luật pháp chỉ được thi hành bởi những người không có tội thì luật pháp sẽ vô ích”. Một giáo dân đã đăng đoạn văn này lên mạng xã hội, tố cáo việc làm sai lệch văn bản kinh thánh vì mục đích chính trị là một sự xúc phạm đối với Giáo hội công giáo. Ông nói: “Tôi muốn mọi người biết, Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn tìm mọi cách để xuyên tạc lịch sử Giáo hội, bôi nhọ Giáo hội và lôi kéo sự thù hận của người dân đối với Giáo hội chúng ta.”
Ông Mathew Wang, một nhà giáo kitô giáo ở một trường dạy nghề xác nhận nội dung của văn bản gây tranh cãi, ông cho biết thêm việc xuất bản chính xác khác nhau tùy theo nơi ở Trung quốc. Ông cũng cho biết văn bản do sách giáo khoa xuất bản đã được Ủy ban Kiểm soát Sách giáo khoa về Giáo dục Đạo đức hiệu đính, như một phần của giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học. Ông lấy làm tiếc các tác giả này đã dùng một ví dụ sai lầm như vậy để biện minh cho các luật xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc. Theo một số người công giáo Trung Quốc, các tác giả của cuốn sách này muốn nhấn mạnh rằng luật pháp là thiêng liêng ở Trung Quốc, và sự tôn trọng là tuyệt đối cần thiết. Một linh mục công giáo ẩn danh khẳng định, văn bản được xuất bản “tự nó là vô đạo đức và bất hợp pháp. Vậy làm sao dạy đạo đức nghề nghiệp bằng một cuốn sách giáo khoa như vậy được?” Linh mục lấy làm tiếc: “Đó là một hiện tượng xã hội rất đáng buồn mà chúng ta thấy ở Trung Quốc đại lục.” Ông Paul, một người công giáo Trung Quốc nói thêm, các bóp méo về các câu chuyện trong kitô giáo và lịch sử Giáo hội được tiếp tục quan sát, nhưng linh mục cho rằng các chống đối của kitô hữu không có một tác động nào. “Khuynh hướng này luôn lặp lại hàng năm nhưng Giáo hội không bao giờ trả đũa, hoặc cũng không bao giờ Giáo hội nhận được sự tôn trọng và lời xin lỗi đáng lý phải có”. Kama, một người công giáo quản lý nội dung cho một nhóm người công giáo trên mạng xã hội nhấn mạnh nội dung trong quyển sách này là xúc phạm niềm tin tôn giáo của tín hữu kitô giáo. Ông kêu gọi các tác giả và các nhà xuất bản liên hệ công khai xin lỗi và sửa lại văn bản. Ông nói thêm, “chúng tôi hy vọng các nhà chức trách kitô giáo sẽ lên tiếng”.
Đức tính tha thứ của kitô giáo bị xem là thiếu công bằng
Tuy nhiên, linh mục Jean Charbonnier, thuộc Dòng Thừa Sai Paris (MEP), hiện ở Pháp sau một thời gian dài sống ở Trung quốc gần như không bực mình gì về việc bóp méo một đoạn trong Tân Ước này. Ngài cười: “Điều này không có gì mới trong lịch sử Trung Quốc. Từ thế kỷ 17, các học giả Trung Quốc đã lên án kitô giáo vì họ không chấp nhận tinh thần tha thứ của kitô giáo, bị cho là thiếu công bằng”.
Một hình ảnh biếm họa Tin Mừng như thế không phải chỉ có ở trong Đảng Cộng sản Trung Quốc nhưng “cũng nằm trong não trạng người Trung Hoa” và vì thế không có gì đáng ngạc nhiên. Ngược lại, theo Linh mục Charbonnier, điều ngạc nhiên là Ủy ban kiểm tra quyển sách đã không nêu lên lỗi này và họ cho phép công bố một đoạn Tin Mừng bị bóp méo, đây là điều rất lố bịch đối với một người Trung quốc”.
Quan tâm đến những gì “tích cực” đang diễn ra ở Trung quốc, linh mục Charbonnier cho biết hai ngày trước đây, vào ngày lễ Thánh Mathêu 21 tháng 9, mười linh mục đã được chịu chức ở Bắc Kinh: “Buổi lễ rất long trọng và được phát trực tiếp trên mạng xã hội.”
Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Chức sắc Vatican bênh vực ý định gia hạn hiệp định với Trung Quốc
Ba chức sắc ở Vatican bênh vực lập trường Tòa Thánh dự kiến gia hạn hiệp định tạm thời với Trung Quốc về việc bổ nhiệm giám mục, đứng trước sự phê bình của ngoại trưởng Mỹ, Mike Pompeo
Trong những ngày qua, ngoại trưởng Pompeo đã truyền đi một loạt các Tweets và một bài xã luận trên một báo Công giáo ở Mỹ, trong đó ông cho rằng Tòa Thánh không nên gia hạn hiệp định với Trung Quốc. Trong một sứ điệp ngắn, ông viết: “Vatican làm cho uy tín tinh thần của mình bị lâm nguy, không nên gia hạn hiệp định”. Trong bài xã luận đăng trên báo trực tuyến “First Thing” ở Mỹ, ngoại trưởng Pompeo viết: “Bây giờ, hơn bao giờ hết, nhân dân Trung Quốc đang cần chứng tá tinh thần và uy tín của Vatican để hỗ trợ các tín đồ tôn giáo tại Trung Quốc”.
Phái viên hãng tin Reuters của Anh quốc, Philip Pullella, đã tiếp xúc với ba chức sắc cấp cao của Tòa Thánh. Ba vị này muốn ẩn danh, và nói rằng Tòa Thánh ngỡ ngàng vì những bình luận của ngoại trưởng Pompeo, nhất là ông sẽ viếng thăm Tòa Thánh vào cuối tháng Chín này.
Một chức sắc nhận định về cách hành động của ngoại trưởng Mỹ và nói rằng: “Đó không phải là một cách bình thường để thiết lập một chương trình nghị sự. Bình thường, giữa các bộ, bạn có những trao đổi kín đáo để xác định những gì cần bàn đến trong cuộc gặp gỡ”.
Một nguồn tin cho biết Tòa Thánh đã biểu lộ lập trường đối với những bình luận của ngoại trưởng Pompeo, nhưng không nói cho công chúng về nội dung những điều đó.
Ba chức sắc Tòa Thánh trao đổi với phái viên hãng Reuters, nhìn nhận rằng hiệp định giữa Tòa Thánh với Trung Quốc không hoàn hảo nhưng nó cho Tòa Thánh một kênh trực tiếp để đối thoại với nhà nước Bắc Kinh, sau gần 70 năm trời. “Duy trì đối thoại là một trong những phương thế, nếu không muốn nói là biện pháp duy nhất, để giữ những liên lạc trực tiếp với Trung Quốc”.
Về đề nghị của ngoại trưởng Pompeo cho rằng Tòa Thánh cần tỏ ra cứng rắn hơn, một chức sắc nói: “Chúng ta có thể đưa ra những tuyên ngôn to lớn, vĩ đại, nhưng không có dấu chỉ cho thấy chúng sẽ có công hiệu, ngoài việc làm cho tình thế trở nên tệ hại hơn đối với các tín hữu Công giáo ở Hoa Lục”.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Sứ điệp Video Đức Thánh cha gửi Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc
Sáng ngày 25/9/2020, Đức Thánh cha Phanxicô gửi sứ điệp Video cho Đại hội đồng thứ 75 của Liên Hiệp Quốc, nhân tuần lễ nhóm họp cấp cao của tổ chức này. Ngài nói đến thực trạng thế giới trước đại dịch, đồng thời mời gọi chính quyền các nước quan tâm giải quyết các vấn đề cấp bách của nhân loại.
Chọn lựa giữa hai con đường
Trong sứ điệp bằng tiếng Tây Ban Nha, Đức Thánh cha nhắc đến những hậu quả tiêu cực của đại dịch trên nhân loại, nhưng ngài cũng nhận định rằng “đại dịch này cũng có thể là một cơ hội đích thực để hoán cải, biến đổi, nghĩ lại lối sống và các chế độ kinh tế và xã hội của chúng ta đang gia tăng sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo, do sự phân phối bất công các tài nguyên”.
“Vì thế, chúng ta đang đứng trước sự chọn lựa giữa hai con đường: con đường thứ nhất dẫn tới sự củng cố đa nguyên, biểu lộ tinh thần đồng trách nhiệm mới trên thế giới, một tình liên đới dựa trên công bằng và xây dựng hòa bình, hiệp nhất gia đình nhân loại, là dự án của Thiên Chúa về thế giới. Con đường thứ hai dành ưu tiên cho thái độ tự mãn, quốc gia chủ nghĩa, chính sách bảo vệ thị trường, chủ nghĩa cá nhân và cô lập, loại trừ những người nghèo hơn, dễ bị tổn thương hơn, những người dân ở bên lề cuộc sống. Chắc chắn con đường này gây hại cho toàn thể cộng đoàn, vì đó là thái độ tự làm hại đối với tất cả mọi người”.
Bảo đảm vắc-xin cho mọi người
Từ tiền đề trên đây, Đức Thánh cha kêu gọi các vị lãnh đạo chính trị và các lãnh vực tư hãy đề ra những biện pháp thích hợp để bảo đảm cho mọi người được vắc-xin chống coronavirus và các kỹ thuật tối cần thiết để giúp đỡ các bệnh nhân. Và nếu cần dành ưu tiên cho ai, thì đó là người nghèo nhất, dễ bị tổn thương nhất, là những người thường bị kỳ thị vì không có quyền hành và tài nguyên kinh tế.
Kêu gọi tìm ra những hình thức lao động mới
Đức Thánh cha đặc biệt nhắc đến vấn đề công ăn việc làm bị đe dọa vì thị trường ngày càng bấp bênh và sự robot hóa toàn diện. Ngài nói: “Cần tìm ra những hình thức lao động mới, có khả năng thỏa mãn tiềm năng của con người và đồng thời khẳng định phẩm giá của chúng ta. Để bảo đảm công việc làm xứng đáng, cần thay đổi mô hình kinh tế thịnh hành ngày nay, chỉ tìm cách gia tăng lợi nhuận của các xí nghiệp”.
Nhiều nhân quyền tiếp tục bị vi phạm
Đức Thánh cha cũng tố giác sự kiện bao nhiêu quyền căn bản của con người tiếp tục bị chà đạp mà không bị trừng phạt. Danh sách những vi phạm này rất dài, và nó gợi cho chúng ta hình ảnh một nhân loại bị vi phạm, bị thương tổn, tước mất phẩm giá, tự do và khả năng phát triển. Các tín hữu tiếp tục phải chịu đủ mọi thứ bách hại, kể cả cuộc diệt chủng vì tín ngưỡng của họ. Trong số các tín hữu ấy, cả các Kitô hữu cũng là nạn nhân: bao nhiêu người đang chịu đau khổ trên thế giới, nhiều khi bị bó buộc phải trốn chạy khỏi quê cha đất tổ, bị cô lập khỏi lịch sử và văn hóa phong phú của họ.
Võ khí lan tràn
Một tệ nạn khác bị Đức Thánh cha tố cáo là hiện tượng các võ khí qui ước ngày càng càng trở thành những võ khí không qui ước, ngày càng trở thành những võ khí tàn sát tập thể, phá hủy các thành thị, trường học, nhà thương, các di tích tôn giáo, các hạ tầng cơ cấu và các dịch vụ căn bản dành cho dân chúng.
Thảm cảnh người di dân và tị nạn
Đề cập đến hoàn cảnh đau thương của những người di dân, tị nạn, di tản nội địa, Đức Thánh cha nhắc đến tình trạng trầm trọng nhất, đó là hàng ngàn người bị chặn bắt trên biển khơi và gửi tới các trại tập trung, giam cầm, tại đó có những vụ tra tấn và lạm dụng. Nhiều người là nạn nhân những vụ buôn người, nô lệ tình dục và cưỡng bách lao động, bị bóc lột trong những công việc hạ nhục con người, không có đồng lương xứng đáng. Tất cả những điều đó không thể dung thứ được, nhưng ngày nay chúng là một thực tại mà nhiều người cố tình không biết tới.
Nhiều nước không giữ lời hứa
Đức Thánh cha than phiền rằng bao nhiêu nỗ lực quốc tế quan trọng để đáp ứng cuộc khủng hoảng vừa nói, bắt đầu bằng những lời hứa to lớn, trong đó có hai hiệp ước hoàn cầu về tị nạn và di dân, nhưng rồi nhiều cố gắng không được sự hỗ trợ chính trị cần thiết nên không thành công. Có những nỗ lực khác bị thất bại vì các quốc gia trốn tránh trách nhiệm và những cam kết của họ.
Kêu gọi xét lại vai trò các tổ chức kinh tế tài chánh
Trong chiều hướng trên đây, Đức Thánh cha kêu gọi xét lại vai trò của các tổ chức kinh tế và tài chánh, làm sao để mang lại câu trả lời cho tình trạng gia tăng mau lẹ sự chênh lệch giữa những người giàu sụ và những người nghèo trường kỳ. Cần có một kiểu mẫu kinh tế thăng tiến tinh thần phụ đới, nâng đỡ phát triển kinh tế ở cấp địa phương và đầu tư vào giáo dục cũng như các cơ cấu hạ tầng, mưu ích cho các cộng đồng địa phương. Cộng đồng quốc tế cần cố gắng chấm dứt những bất công kinh tế.
Thảm trạng ở vùng Amazzonia
Đức Thánh cha không quên nhắc đến tình trạng nguy hiểm ở miền Amazzonia với các dân bản địa tại đây. “Tình trạng này nhắc nhở chúng ta rằng cuộc khủng hoảng môi trường gắn liền với một cuộc khủng hoảng xã hội, và việc chăm sóc môi trường đòi phải có một đường lối tiếp cận toàn diện để bài trừ nghèo đói và tình trạng bị loại trừ.”
Vấn đề bảo vệ môi sinh
Cũng trong lãnh vực bảo vệ môi sinh, Đức Thánh cha ghi nhận có một sự nhạy cảm hơn về môi sinh và ước muốn hành động gia tăng. Ngài kêu gọi đừng đặt những gánh nặng về môi trường trên các thế hệ tương lai: “Chúng ta phải nghiêm túc tự hỏi xem có một ý chí chính trị, trong tinh thần lương thiện, trách nhiệm và can đảm, dành nhiều nhân lực, tài chánh và kỹ thuật hơn để làm dịu bớt những hậu quả tiêu cực do sự thay đổi khí hậu gây ra, và để giúp đỡ các dân tộc nghèo, dễ bị tổn thương hay không, họ là những người bị thiệt hại nhiều nhất.”
Thảm trạng các trẻ em
Cũng trong sứ điệp, Đức Thánh cha đề cấp đến tình trạng các trẻ em và trẻ vị thành niên di dân và tị nạn không có người tháp tùng, nạn bạo hành chống trẻ em, đặc biệt là nạn lạm dụng tính dục và dâm ô trẻ em, đang gia tăng mạnh. Hàng triệu trẻ em không thể trở lại trường học. Và rất tiếc là các quốc gia và tổ chức quốc tế cũng đang cổ võ phá thai như một trong những “dịch vụ thiết yếu”, như câu trả lời nhân đạo. Thật là buồn khi thấy thật là dễ dàng, đơn giản và tiện lợi, đối với một số người chối bỏ sự sống như một giải pháp cho các vấn đề có thể và phải được giải quyết cho người mẹ cũng như cho hài nhi chưa sinh ra.
Thăng tiến phụ nữ
Đức Thánh cha cũng đề cập đến việc thăng tiến phụ nữ. Nhiều phụ nữ còn bị thụt lùi đằng sau, hoặc là nạn nhân của nạn nô lệ, buôn người, bạo hành, khai thác bóc lột và đối xử nhục nhã. “Tôi bày tỏ sự gần gũi huynh đệ đối với họ và những phụ nữ phải sống xa gia đình, đồng thời tôi kêu gọi gia tăng quyết tâm và dấn thân trong cuộc chiến đấu chống những thói tục đồi bại không những hạ giá phụ nữ nhưng toàn thể nhân loại, những người im lặng và thiếu những hành động cụ thể trở thành đồng lõa trong tệ nạn này.”
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Tu sĩ Công giáo góp phần phòng chống Covid-19
WGPSG -- Mấy tháng nay toàn thế giới hoang mang vì sự bùng phát nạn dịch viêm phổi cấp do Virus Corona Vũ Hán gây nên. Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, Covid-19 đã giết chết hàng trăm ngàn người. Vì thế làm sao đẩy lui và chấm dứt dịch bệnh quái ác là ưu tiên số một của tất cả nhân loại.
Các nhà khoa học, các bác sĩ và các nhân viên y tế đã tận tâm chống dịch cứu người. Các nhà chức trách đạo đời đã đưa ra nhiều kế sách an sinh xã hội. Còn dân chúng đã ý thức tích cực bảo vệ tính mạng của mình và người thân… nhờ thế giảm thiểu sự lây lan dịch bệnh.
Đặc biệt, chúng ta cần ghi nhận một số người hoạt động dù âm thầm nhưng rất hiệu quả, đó là các tu sĩ Công Giáo sống đời thánh hiến ở khắp nơi trên thế giới. Họ đã tận tâm chia sẻ vật chất, nâng đỡ tinh thần và hỗ trợ thiêng liêng cho mọi người trong nạn dịch, họ đã góp phần quan trọng phòng chống đại dịch Covid-19.
Dấn bước theo gương Chúa Giêsu yêu thương phục vụ và hiến mạng vì anh em mình, những người sống đời thánh hiến đã thực thi lý tưởng đó trong cuộc sống thường nhật của mình nhất là khi dịch Covid-19 bùng nổ.
Tại tỉnh Bergamo, ở miền bắc nước Ý, có dòng Nữ tu của người nghèo do cha Palazzolo thành lập. Ngay khi đại dịch Covid-19 tràn vào nước Ý, nữ tu Carla Fiori - phụ trách tỉnh dòng - và các chị em cùng dòng đã điều chỉnh thời gian làm việc, sửa sang lại cơ sở, để đón những bệnh nhân từ bệnh viện Gioan XXIII đến điều trị tại bệnh xá và hai nhà dưỡng lão của các sơ. Các nữ tu đã vui vẻ đón tiếp họ đến điều trị để giảm tải cho bệnh viện tỉnh Bergamo, và còn để các bệnh nhân được chăm sóc tốt hơn trước sức tấn công của virus. Chia sẻ với Radio Vatican, nữ tu Carla Fiori cho biết đã phát động sáng kiến “With a Big Heart. Coronavirus Emergency” (mở rộng con tim vì tình trạng khẩn cấp do virus Corona) để tìm nguồn trợ giúp mua các máy móc và dụng vụ bảo vệ cho các nhân viên y tế, nhằm tránh sự lây lan khủng khiếp của dịch bệnh[1].
Tại một số dòng tu khác, như Dòng Các Nữ Tu Thánh George Tử Đạo tại tỉnh Lampung, trên đảo Sumatra ở Indonesia, các nữ tu chú tâm đến vấn đề cung cấp lương thực thực phẩm và khẩu trang cho dân nghèo. Nữ tu Maria Pauli cho biết: các chị em của Dòng miệt mài chuẩn bị những phần thức ăn cho người nghèo, những người dễ bị tổn thương nhất vì đại dịch. Một số chị em khác sản xuất nhiều khẩu trang để phát tặng cho những ai có nhu cầu, với mong muốn mọi người thoát khỏi nạn dịch Covid-19 [2].
Còn nữ tu Anna Maria Marconi, thuộc dòng Đức Mẹ Hài Nhi, một tình nguyện viên của văn phòng tuyên úy của bệnh viện địa phương, kể với Vatican News rằng: Sơ ở lại bệnh viện để an ủi và xoa dịu các bệnh nhân đang chờ chết. Sơ kể: những bệnh nhân đăm đăm nhìn vào sơ vẻ mặt đau đớn, trong khi cố gắng thở những hơi cuối cùng trước khi lìa thế. Dù họ không thể thốt nên lời nữa, nhưng sơ vẫn hiểu được là họ muốn sơ cầu nguyện cho họ.
Không chỉ an ủi các bệnh nhân, sơ Marconi còn tế nhị an ủi những thân nhân của người quá cố đang đau xót thương tiếc người thân. Một cô gái khóc ròng, kể với sơ: “Cha tôi được đưa vào bệnh viện, thế là mẹ con chúng tôi chẳng bao giờ gặp lại cha nữa. Chúng tôi đang phải cách ly và chẳng biết bao giờ mới nhận được tro cốt của cha mình”. Thế nhưng, giờ Sơ Marconi đành phải ngưng việc giúp đỡ người khác, bởi bản thân sơ cũng bị cách ly vì trong nhà sơ đã có 70 nữ tu bị nhiễm bệnh[3].
Chính do nhiệt tâm phục vụ tha nhân trong cơn dịch mà nhiều tu sĩ đã bị lây nhiễm Covid và một số đã hy sinh tính mạng. Sơ Carla Fiori nghẹn ngào rằng: “Chúng tôi đã mất nhiều người già, và 13 nữ tu đã rời bỏ chúng tôi… Tôi muốn nhớ đến sơ Costantina Ranioli, một nữ tu y tá nổi tiếng và được yêu mến trong bệnh viện Bergamo, người đã về Thiên đàng ngày hôm qua. Sơ ấy là một y tá tốt, rất dấn thân, luôn luôn vui tươi và chúng tôi nhớ về chị với lòng thương mến thật nhiều”[4].
Mặc dù biết nguy cơ lây nhiễm cao và có thể mất mạng bất cứ lúc nào, nhưng các tu sĩ vẫn nhiệt thành chăm sóc các bệnh nhân về phần xác và đặc biệt về phần hồn, đó là tinh thần các tu sĩ dòng Cappuchino đang thực hiện tại bệnh viện Gioan XXIII. Các tu sĩ này thường trực ngày đêm, một mặt để khích lệ các bác sĩ, nhân viên y tế, nhưng quan trọng hơn để an ủi và xức dầu các bệnh nhân trong giờ lâm tử, để cầu nguyện và làm phép các quan tài người quá cố[5].
Ngoài ra, còn nhiều giám mục, linh mục và các tu sĩ từ hơn 50 quốc gia trên toàn cầu đã viết thư cho tổ chức ‘Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ’ (CAN), đề nghị những buổi cầu nguyện cho đại dịch sớm chấm dứt, đồng thời cảnh báo về thảm họa khi nó lan sang một số quốc gia nghèo nhất thế giới [6].
Có thể nói, qua sự hy sinh đến mức anh hùng, các tu sĩ phản ánh tình thương của Chúa luôn ở cùng nhân loại đang chìm ngập trong đau khổ vì dịch Covid-19. Trong cơn dịch này người ta càng thấy nhiệt tâm của các tu sĩ khắp nơi trên thế giới với nhiều phương thế khác nhau để cùng chung tay phòng chống dịch bệnh với mọi người.
Tại Việt Nam, ngay từ những ngày đầu tiên phát hiện dịch bệnh, các dòng tu đã mau mắn thi hành sứ vụ tông đồ với đầy tính sáng tạo trong hoàn cảnh mới:
Trong khi nhiều nhà thuốc hay cửa hàng lợi dụng cơ hội chặt chém tăng giá bán khẩu trang cũng như nước rửa tay sát khuẩn… với giá “cắt cổ”, thì các tu sĩ đứng cả ngày ở đường phố để tặng phát khẩu trang và nước rửa tay sát khuẩn miễn phí cho mọi người.
Sống trong hoàn cảnh toàn dân thực hiện cách ly để tránh sự lây lan của Covid, một số tu sĩ có trình độ chuyên môn y khoa vẫn sẵn sàng tiếp tục dấn thân làm việc trong các bệnh viện hay cơ sở y tế. Nhiều tu sĩ khác sử dụng các phương tiện truyền thông như trang web, mạng xã hội… để tư vấn, động viên tinh thần mọi người hãy bình tĩnh, nghiêm chỉnh thực hiện cách ly hầu có thể bảo toàn sinh mạng cho mình và người thân.
Để có thêm kiến thức phòng tránh dịch bệnh cho mình và cho mọi người, vào đầu tháng Ba, các ứng sinh Dòng Truyền Giáo Thánh Carolo Scalabrini đã mời bác sĩ chuyên khoa hô hấp thuộc Đại học Y Dược TP.HCM đến trao đổi, hướng dẫn cụ thể các biện pháp phòng tránh dịch Covid-19. Với kiến thức nhận đượ, các tu sĩ đã thực hiện các các bài viết để chia sẻ lại cho mọi người những phương pháp khả thi để phòng tránh dịch bệnh, đồng thời hướng mọi người có tư duy tích cực, sống tích cực, dành thời gian cho gia đình và bồi dưỡng đời sống tâm linh.
Giữa cơn đại dịch, các tu sĩ cùng chung “những ưu sầu và lo lắng của con người thời đại”, nhưng luôn vững lòng tín thác vào tình thương của Chúa. Họ tha thiết trầm lắng trong cầu nguyện. Hưởng ứng sáng kiến “24 giờ dành cho Chúa”, các tu sĩ tại Việt Nam cùng sốt sắng hiệp ý với Đức thánh Cha Phaxicô và toàn thể Giáo hội khẩn nài lòng Chúa xót thương dân nước Việt và toàn thế giới. Cụ thể trong hai ngày 20 và 21-3-2020, nhiều dòng tu đã dành trọn “24 giờ cho Chúa”. Các tu sĩ đã luân phiên làm giờ chầu Thánh Thể, dâng tâm tình sám hối, tiếng hát, lời kinh… tha thiết xin Chúa cho Giáo hội và thế giới sớm vượt qua dịch bệnh.
Đặc biệt trong ngày Thứ bảy 4-4-2020, khi Giáo hội Việt Nam tổ chức ngày "Toàn quốc cầu nguyện cho dịch bệnh mau chấm dứt", các tu sĩ trên khắp mọi miền tổ quốc, với những cách thức khác nhau, sốt sắng hiệp ý tham dự Thánh lễ, gia tăng cầu nguyện, hy sinh hãm mình, thực thi bác ái… xin Chúa cho các khoa học gia sớm tìm ra vắc xin chữa trị Covid, đồng thời, khẩn nài Chúa ban thêm sức mạnh cho các bác sĩ, nhân viên y tế quảng đại cứu giúp các bệnh nhân, và cho các bệnh nhân và thân nhân của họ lòng can đảm tín thác vào lòng Chúa xót thương…
Hẳn là còn rất nhiều hoạt động thiết thực khác của các tu sĩ Công giáo trong nước cũng như ở nhiều nơi trên thế giới. Họ xả thân vì tha nhân hoan hỷ chia sẻ vật chất, động viên tinh thần, trợ giúp tâm linh và quảng đại hy sinh bản thân, nhiệt thành đi vào tâm chấn của dịch bệnh để chăm sóc các bệnh nhân, đồng thời khích lệ chí khí các bác sĩ và nhân viên y tế…
Chúng ta biết ơn và trân trọng những đóng góp quý báu của họ và cầu xin Chúa cho họ được “thân mạnh khỏe, tâm bình an, đức đầy tràn” để tiếp tục sứ mệnh yêu thương phục vụ Chúa trong mọi người giữa thế giới hôm nay.
Nhịp Sống Tin Mừng 6.2020 / Nguồn: WGPSG
ĐHY Hummes cùng người bản địa yêu cầu Liên Hiệp Quốc hành động cho Amazon
Thư được gửi hôm 22/9, sau cuộc gặp gỡ do các Tổ chức bản địa của lưu vực sông Amazon tổ chức. Sự kiện có sự tham gia của Đức Hồng y Cláudio Hummes, Chủ tịch Mạng lưới liên Giáo hội miền Amazon. Chủ đề cuộc gặp gỡ: “Amazon với cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất: Covid-19, hỏa hoạn, bạo lực và biến đổi khí hậu”.
Trong thư, người bản địa kêu gọi các vị lãnh đạo không thực hiện các quyết định một cách vô ích, và trên hết hãy để người bản địa được đóng góp ý kiến. Tiếng nói được đưa ra như sau: “Chúng tôi ở đây, dường như không thể thở được do khói từ đám cháy rừng hoặc do sức mạnh của Covid-19 trong cơ thể chúng tôi. Tuy nhiên, chúng tôi đang làm mọi thứ có thể để ngăn chặn sự tấn công của hỏa hoạn, virus và các cuộc xâm lược trong một cuộc chiến không cân sức để tồn tại và đảm bảo sự sống còn của toàn nhân loại”.
“Chúng tôi yêu cầu những người có trách nhiệm cam kết tôn trọng và kết hợp các thực hành bền vững trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Nếu bỏ sót điều này thì những lời nói sẽ thiếu trung thực và sáo rỗng. Bởi vì, sẽ không có cách nào khác để phục hồi nền kinh tế của chúng ta nếu chúng ta không nghiêm túc trong việc phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên của chúng ta”.
Đại diện người bản địa yêu cầu các vị lãnh đạo ở Liên Hiệp Quốc xem xét để làm sao có thể “cam kết giữ nguyên vẹn ít nhất 80% diện tích rừng Amazon và công nhận các lãnh thổ của người dân bản địa, để trong thập kỷ tới, ít nhất một nửa diện tích đất có thể được bảo vệ”. Người bản đại giải thích: “Chúng tôi chỉ có 10 năm để trồng lại rừng và đồng thời khắc phục tình trạng phá rừng. Điều này khó thực hiện, nhưng không phải là không thể”.
Sau cùng, các vị đại diện nhắc nhở các nhà lãnh đạo: “Đứng trước một Amazon không còn đường lui và những tác động nghiêm trọng của nó đối với khí hậu và an ninh lương thực toàn cầu, chúng tôi kêu gọi trách nhiệm của các vị lãnh đạo. Một bài phát biểu cần phải có hành động cụ thể. Chúng ta phải khôi phục Thỏa thuận Paris và tránh các thỏa thuận thương mại khai thác, và các ngân hàng ngừng cấp vốn cho các dự án có hại cho Amazon”. (CSR_6883_2020)
Ngọc Yến - Vatican News
Sơ Marissa Viri, phụ nữ đầu tiên lãnh đạo Hiệp hội Giáo dục Công giáo Philippines
Hiện sơ Viri đang giữ chức vụ Phó Chủ tịch Hiệp hội. Sau ngày tuyên thệ nhậm chức 25/9, sơ sẽ thay thế cha Elmer Dizon, linh mục của Tổng Giáo phận San Fernando, đã đứng đầu tổ chức này từ tháng 9 năm ngoái. Sơ Marissa Viri đã hoạt động lâu năm trong lĩnh vực giáo dục, sơ cũng là hiệu trưởng của Đại học Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội ở Davao.
Được thành lập vào năm 1941 và với 1524 trường liên kết, Hiệp hội Giáo dục Công giáo Philippines là một tổ chức có tiếng vang và uy tín trong lĩnh vực giáo dục. Được tổ chức trên cơ sở tự nguyện, Hiệp hội hoạt động qua các hiệp hội giáo dục địa phương được bố trí tại ít nhất 17 khu vực của quần đảo Philippines. Hiệp hội đại diện cho lợi ích của các cơ sở giáo dục Công giáo ở các địa điểm trong nước và quốc tế. Một trong các mục đích được Hiệp hội chú ý đó là thúc đẩy sự thống nhất hành động với các tổ chức khác trong lĩnh vực giáo dục và hỗ trợ các thành viên của các tổ chức, đặc biệt là các tổ chức trong các khu vực truyền giáo, đạt được các mục tiêu chung và cụ thể.
Hiệp hội góp phần vào việc đạt được mục tiêu “phát triển con người toàn diện”, thông qua định hướng Công giáo lấy cảm hứng từ các chuẩn tắc của Giáo hội và phù hợp với các mục tiêu phát triển quốc gia được thể hiện trong Hiến pháp Philippines. Hơn nữa, Hiệp hội cố gắng đáp ứng các vấn đề xã hội, chính trị và đạo đức trên cơ sở tham vấn các khu vực khác nhau và thúc đẩy hành động tập thể của các thành viên trong trường hợp cần thiết.
Ngọc Yến - Vatican News
Vị linh mục Ấn Độ đạp xe đi thăm giáo dân trong thời gian cách ly vì đại dịch
Trong thời gian đại dịch, cha Vinod đạp xe đi thăm các giáo dân của cha, những người già và các bệnh nhân, những người mà cha sẵn sàng làm mọi điều có thể làm và ngay cả hơn thế nữa. Cha tin rằng thời gian cách ly là lúc cần ở với đàn chiên của cha khi không có ai ở xung quanh họ.
Cha Vinod chia sẻ: “Nếu tôi khóa kín cửa ở trong phòng vì sợ virus thì việc tôi lãnh nhận chức linh mục như một linh mục truyền giáo thật là vô ích.”
Cha Vinod sinh năm 1966 và chịu chức linh mục năm 1998. Từ năm 2008 cha phụ trách giáo xứ thánh Anna, trừ hai năm cha chuyển sang phụ trách một giáo xứ khác. Tại bang Gujarat, nơi mà đa số dân không phải là Ki-tô hữu, cha được tất cả mọi người biết đến, kể cả những người thuộc các tôn giáo khác.
Đi xe đạp để gặp gỡ mọi người
Cha Vinod kể về sứ vụ của cha trong thời gian đại dịch: “Tại giáo xứ thánh Anna chúng tôi có 65 gia đình thuộc tầng lớp trung lưu trở xuống. Chúa Giê-su đã đi bộ và rao giảng Tin mừng, tôi đi xe đạp để gặp gỡ mọi người. Đi bằng xe đạp, tôi có thể nói chuyện với mọi người trên đường đi. Họ là những người rất bình thường. Chúa Giê-su rao giảng cho những người bị áp bức và bị gạt ra bên lề xã hội. Chúng ta là những người theo Chúa Giêsu đó”.
“Trong thời gian Covid này, trong hai lần phong tỏa đầu tiên, người ta không thể đến gặp cha xứ do lệnh giới nghiêm. Từ Chúa nhật Phục Sinh, tôi bắt đầu đến thăm các gia đình trong giáo xứ của mình, và ban phép lành Phục Sinh cho các gia đình. Tôi đi thăm tất cả các gia đình. Mỗi ngày tôi mang Mình Thánh Chúa đi thăm từ sáu đến bảy gia đình, và trong mỗi gia đình, tôi giải tội và sau đó cho họ rước lễ.”
“Tôi đến thăm mỗi gia đình ít nhất ba lần một tháng. Cho đến tháng 6, chúng tôi chưa có nhiều trường hợp nhiễm virus corona ở Junagath. Khi các trường hợp nhiễm virus bắt đầu tăng lên, tôi không còn đến các gia đình. Nhưng khi họ gọi tôi, tôi đi thăm họ. Tôi muốn đi mỗi tuần để cho những người bệnh và người già trong giáo xứ rước lễ và trò chuyện thăm hỏi họ trong khoảng một giờ. Tôi sẽ mang theo một lọ nước sát khuẩn tay và đeo khẩu trang và thực hiện tất cả các biện pháp phòng ngừa.”
“Nhà thờ mở cửa hàng ngày. Bất cứ ai đến nhà thờ, tôi sẽ cho họ rước Mình Thánh Chúa. Mọi người thường đến nhà thờ vào Chúa Nhật, vì vậy tôi luôn sẵn sàng vào Chúa Nhật, bất cứ lúc nào trong ngày.”
Chạm vào các vết thương của Chúa Giê-su
“Như là một linh mục, tôi chạm vào các vết thương của Chúa Giê-su, cả vết thương tinh thần và thể lý, ví dụ: trong giáo xứ của tôi có một gia đình mà người chồng làm việc với mức lương chỉ có 2.500 rupee, nghĩa là khoảng 30 euro. Họ có hai con gái bị thiểu năng trí tuệ, một người 29 tuổi và người kia 31 tuổi. Một người hoàn toàn nằm liệt giường và người kia chỉ có thể bò. Cách đây 3 năm, người vợ bị chấn thương cột sống và bây giờ không thể làm được gì. Tôi đến nhà họ hai hoặc ba lần một tuần. Tôi đưa họ đến bệnh viện mỗi khi có người nào bị đau ốm. Bất cứ thứ gì cần thiết, tôi đều cố gắng cung cấp cho họ, kể cả thức ăn trong dịp lễ. Tôi cũng giúp tiền cho họ khi cần.”
“Thời gian cách ly đã giúp tôi gắn bó hơn với gia đình của họ. Nó đã giúp tôi đến gần hơn với cộng đồng giáo xứ. Mọi người gần gũi với tôi đến nỗi ngay khi có ai đó trong gia đình bị bệnh, tôi cũng được họ thông báo. Tôi giúp đỡ bằng mọi cách khi tôi có thể. Mọi người cảm thấy được an ủi rất nhiều và an toàn khi là một phần của cộng đồng giáo xứ.”
Lời chứng của giáo dân
John D’Souza, cha của hai người con khuyết tật, nói với lòng biết ơn: “Chúng tôi còn sống bây giờ là nhờ sự chăm sóc và trợ giúp của cha Vinod.” Biết hoàn cảnh của gia đình ông, vợ con đau ốm, những người hàng xóm khá giả trong giáo xứ giúp đỡ thức ăn và những nhu cầu khác, theo sáng kiến của cha Vinod. Khi đại dịch bùng nổ, những người hàng xóm không trợ giúp được nữa và gia đình ông lâm vào cảnh khó khăn. Chính cha Vinod đã tìm được những nguồn tài chính để trợ giúp họ.
Ông Patrick David, một thành viên của hội đồng giáo xứ, nói rằng cha Vinod đã hạ mình xuống tận đất để có thể gần với đàn chiên của mình. Cha thường hỏi thăm về những người đau khổ và sẵn sàng trợ giúp họ bằng tiền hay thực phẩm hay bất cứ sự giúp đỡ nào họ cần trong cuộc khủng hoảng vì Covid-19.
Trong thời gian phong tỏa, mỗi ngày cha dâng lễ với tên của các gia đình để cầu nguyện cho họ
Trong thời gian phong tỏa vì đại dịch, cha Vinod không cử hành Thánh lễ có giáo dân tham dự, nhưng cha đã gắn tên mỗi gia đình trong giáo xứ lên các hàng ghế và dâng lễ cầu nguyện cho họ mỗi ngày. Cha nói: “Tôi cử hành Thánh lễ mỗi ngày như những ngày bình thường dù không có giáo dân tham dự. Nhà thờ giáo xứ là để dâng Thánh lễ cho giáo dân và tôi dâng lễ mỗi ngày cho họ. Sự hiện diện của họ được nhận thấy qua tên của họ trên các băng ghế.”
Cha Vinod cũng được các anh em linh mục đánh giá cao. Đối với họ, "cha Vinod đã truyền một sức sống mới trong giáo xứ thánh Anna; cha đã thay đổi phong cách làm việc của giáo xứ. Nó được đan kết vào toàn bộ đời sống xã hội của họ”. “Dấn thân cá nhân vẫn là chìa khóa thành công của cha. Cha là một mục tử biết rõ đàn chiên của mình. Các cuộc viếng thăm gia đình, các buổi họp mặt ban tối hàng tháng và mục vụ sinh viên là một số cách thức sáng tạo mà qua đó cha Vinod đã xây dựng cộng đồng giáo xứ và ý thức về tình thân hữu. Cha cũng giữ liên lạc với những giáo dân đã di cư đi nơi khác ”.
Đơn giản là nhiệm vụ của một nhà truyền giáo
Tuy nhiên cha Vinod cho rằng cha chỉ đơn giản thực hiện nghĩa vụ của một linh mục truyền giáo. Cha nói: “Bây giờ chúng ta đang phải đối mặt với một tình huống khác, nơi mọi người thực tế bị nhốt trong nhà của họ do virus corona. Nếu tôi biết rằng một gia đình trong giáo xứ của tôi đang đói, tôi cung cấp thức ăn cho họ. Nếu ai đó cần thuốc, tôi cung cấp. Nếu ai đó cần được đưa đến bệnh viện, tôi sẽ làm điều đó mà không cần đợi ai cả. Vì tôi làm việc cho mọi người, họ sẽ hỗ trợ tôi những khoản tiền cần thiết và tôi chưa bao giờ gặp khó khăn về tiền bạc trong thời gian này. Một khi ý định của bạn rõ ràng và mạnh mẽ, Thiên Chúa sẽ gửi các thiên thần của mình đến hỗ trợ bạn”.
Hồng Thủy - Vatican News
ĐTC nhận đơn từ chức của ĐHY Becciu, Tổng trưởng Bộ Phong thánh
Chiều tối thứ Năm 24/9, Phòng Báo chí Tòa Thánh loan tin: “Hôm nay, thứ Năm, ngày 24/9, Đức Thánh Cha đã chấp nhận đơn từ chức Tổng Trưởng Bộ Phong Thánh và các quyền liên hệ đến chức Hồng Y, được Đức Hồng Y Giovanni Angelo Becciu đệ trình.”
Đức Hồng y Becciu năm nay 72 tuổi. Sau khi đậu tiến sĩ giáo luật, ngài gia nhập ngành ngoại giao Tòa Thánh từ ngày 1/5/1984, làm việc tại nhiều Tòa Sứ thần trên thế giới. Ngày 15/10/2001, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nâng ngài lên tổng giám mục và bổ nhiệm ngài làm Sứ thần tại Angola.
Năm 2009, Đức Biển Đức XVI chuyển ngài đến làm Sứ thần ở Cuba, và ngày 10/5/2011, cũng chính Đức Biển Đức bổ nhiệm ngài làm Phụ tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh.
Đến tháng 5/2018, Đức Thánh Cha Phanxicô thăng ngài làm Hồng y và bổ nhiệm ngài làm Tổng trưởng Bộ Phong thánh. (CSR_301_2020)
Hồng Thủy - Vatican News
Đức Thánh Cha tiếp Hội Bác Ái thánh Phêrô
Khởi đi từ châm ngôn của Hiệp hội “Cầu nguyện, Hoạt động và Hy Sinh”, Đức Thánh Cha nói: “Đây là ba nguyên tắc cơ bản cho đời sống của Hiệp hội. Trong dịp gặp anh chị em vào năm ngoái, tôi đã tập trung vào ‘Cầu nguyện’. Năm nay, tôi muốn nhấn mạnh vào ‘Hoạt động’. Đại dịch đã đòi hỏi anh chị em suy nghĩ lại về các phương thức cụ thể cho các hoạt động bác ái mà thường ngày anh chị em vẫn thực hiện cho người nghèo ở Roma. Thực vậy, một hoàn cảnh khác thường cần phải có một phản ứng khác những phản ứng thường ngày”.
Đức Thánh Cha đưa ra những chỉ dẫn cụ thể: “Trước hết, cần mau chóng xác định các hình thức mới của nghèo đói trong thành phố. Anh chị em biết rõ điều này, có rất nhiều dạng nghèo: nghèo vật chất, nghèo tình người, nghèo xã hội. Chúng ta phải nhìn các hình thức nghèo này với con tim. Cần phải biết nhìn những vết thương của nhân loại với con tim để có thể đón nhận người khác với trọn tâm hồn họ. Vì vậy, người nghèo không chỉ là một người xa lạ cần được giúp đỡ, nhưng trước hết là một người anh chị em cầu xin tình thương. Chỉ khi chúng ta đón nhận được trọn tâm hồn của ai đó, chúng ta mới có thể đáp ứng được kỳ vọng này. Đó là kinh nghiệm của lòng thương xót”.
Đức Thánh Cha nói tiếp: “Sau khi đã nhìn thấy những vết thương của thành phố, lòng thương xót mời gọi chúng ta suy nghĩ, tưởng tượng ra những điều chúng ta thực hiện cho người nghèo. Đây là những gì anh chị em đã làm trong đại dịch này: chấp nhận thách đố để đáp ứng một tình huống cụ thể, anh chị em đã biết điều chỉnh, thích nghi công việc phục vụ của anh chị em cho phù hợp với các nhu cầu mới do virus”.
Đức Thánh Cha cũng đưa ra một ví dụ cụ thể của một nhóm bạn trẻ của Hiệp hội đã thực hiện cho những người già: Gọi điện thoại hỏi thăm sức khỏe, trò chuyện. Theo Đức Thánh Cha, đây là một sáng kiến của lòng thương xót.
Sau cùng, Đức Thánh Cha cám ơn và khuyến khích các thành viên tiếp tục dấn thân vui vẻ trong các hoạt động bác ái, luôn chú ý và sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu của người nghèo.
Hội Bác Ái Thánh Phêrô do một nhóm người trẻ thành lập ngày 28/4/1869. Đặc điểm của Hiệp hội là lòng trung thành vô điều kiện đối với Giáo Hội và Đức Giáo Hoàng, và được biểu lộ qua châm ngôn: Cầu nguyện, Hoạt động và Hy Sinh. Năm 2019, Hiệp hội kỷ niệm 150 năm thành lập.
Ngọc Yến - Vatican News