Niên lịch phụng vụ chu kỳ năm B.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lịch phụng vụ trong Giáo Hội Công giáo khởi hằng năm vào chúa nhật thứ nhất mùa Vọng cho tới hết chúa nhật 34. mùa thường niên, và chia làm ba chu kỳ: A,B,C.
Từ chúa nhật 01. mùa Vọng ngày 29.11.2020 cho đến chúa nhật 34. mùa thường niên ngày 21.11.2021 là chu kỳ phụng vụ năm B. Trong chu kỳ phụng vụ năm B phúc âm Chúa Giêsu Kitô theo Thánh sử Marco được chọn đọc vào các ngày lễ chúa nhật mùa thường niên.
Thánh sử Marco là ai?
Tác gỉa viết phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh Marco ngay từ thời Giáo hội sơ khai có tên là Gioan Marco. Theo truyền thống từ thời Giáo hội lúc ban đầu, Marco và Thánh Tông đồ Phero có liên hệ mật thiết với nhau. Giám mục Papias thành Hieropolis vào năm 120. sau Chúa giáng sinh, cho rằng Marco là học trò, người thông ngôn những bài giảng của Thánh Phero từ tiếng Do Thái sang tiếng Hylạp, tiếng Latinh cho những người lương dân thời đó, mà họ không thuộc về vùng nền văn hóa Do Thái giáo. Marco viết lại những gì Thánh Phero đã nghe Chúa Giêsu rao giảng khi xưa, lúc sống theo Chúa Giêsu ba năm.
Người ta phỏng đoán Marco đã viết Phúc âm ở Roma hay trong vùng của đế quốc Roma.
Thời điểm Marco viết phúc âm được cho là vào năm 65. sau Chúa giáng sinh, trước khi thành Gierusalem bị quân đội Roma xâm chiếm tàn phá năm 70. sau Chúa giáng sinh. Nhưng Giáo sư Kinh Thánh Gioakim Gnilka cho rằng sau khi thành Gierusalem năm 70. bị tàn phá, phúc âm theo Marco mới được viết ra.
Thánh sử Marco viết phúc âm Chúa Giêsu, như cuốn sách giáo lý. Và cuốn sách giáo lý đó không chỉ là sách lịch sử, nhưng còn chứa đựng ý nghĩa thần học đạo đức nữa.
Lúc khởi đầu
Thánh sử Marco viết phúc âm Chúa Giêsu bắt đầu với dòng chữ: „Khởi đầu tin mừng Đức Giêsu Kitô, con Thiên Chúa“ (Mc 1,1)
Dòng chữ xác định này nhắc nhớ đến sách Sáng thế: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất.“ (St 1,1).
Và như thế, Thánh sử Marco muốn đặt Chúa Giêsu là nền tảng một khởi đầu mới. Chúa Giêsu tạo dựng con người mới và thực hiện ơn cứu độ mới. Đó là tin mừng Chúa Giêsu Kiô theo thánh sử Marco muốn loan báo mang niềm vui cho con người.
Thánh sử Marco là người thứ nhất viết sách phúc âm tường thuật về Chúa Giêsu. Sách phúc âm có nghĩa là sách tin mừng.
Trong thời cựu ước phần lớn các Thiên Thần là những sứ gỉa loan báo tin mừng cho con người. Họ là những sứ gỉa mang tin vui, loan báo sự chiến thắng của Thiên Chúa trên các thù địch.
Trong thời đế quốc Roma những chiếu chỉ mệnh lệnh của hoàng đế được gọi là tin mừng. Và các vị hoàng đế được xưng tụng là người mang tin mừng đến cho dân chúng. Vì các vị hoàng đế mang phát đi lời hứa mang lại bình an hạnh phúc cho dân chúng.
Thánh sử Marco viết loan báo tin mừng Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô mang đến một triều đại vương quốc mới. Trong đó Thiên Chúa ngự trị và con người cảm nhận sự gần gũi của Thiên Chúa, Đấng là bình an hạnh phúc cho đời sống con người.
Danh hiệu Con Thiên Chúa
Thánh sử Marco viết xưng tụng Chúa Giêsu Kitô trong tin mừng là „Con Thiên Chúa“ ngay đầu sách tin mừng (Mc 1,1). Và vào cuối tin mừng, khi Chúa Giêsu chết trên thập gía qua môi miệng của Viên đại đội trưởng nói lên danh xưng “Qủa thật, người này là Con Thiên Chúa“ (Mc 16,39).
Trong đạo Do Thái Vua được gọi là „Con Thiên Chúa“, nhưng không phải như Thiên Chúa, mà thuộc về Thiên Chúa.
Chúa Giêsu Kitô thuộc về Thiên Chúa trong một cách thế đặc biệt khác thường, sát gần Thiên Chúa cách đặc biệt, vì có tràn đầy thần linh của Thiên Chúa.
Theo thần thoại văn hóa Hylạp danh xưng „Con Thiên Chúa“ được hiểu nghiêng nhiều hơn về sự sinh ra bởi qua Thiên Chúa. Thần Zeus đã sinh sản nhiều con trai và con gái. Họ cũng được xưng tụng là „những người con của Thiên Chúa“. Họ là tín hiệu truyền tin thần thánh của Thiên Chúa. Vì họ có nguồn gốc từ Thiên Chúa.
Theo triết học cổ xưa bên Hylạp hiểu „Con Thiên Chúa„ là người qua nền tảng lý trí có nguồn gốc từ Thiên Chúa, và có mầm mống căn cơ giống nòi Thiên Chúa ngay trong dòng máu bản thân con người họ.
Danh xưng Chúa Giêsu Kitô „Con Thiên Chúa“ có lẽ Thánh sử Marco nghiêng nhiều hơn theo ý nghĩa hiểu theo truyền thống Do Thái giáo.
Thánh sử Marco viết phúc âm cho những người Kitô hữu bên lương, họ là những người Hylạp có nền học thức văn hóa cao. Nên danh xưng này với họ có ý nghĩa nhiều hơn trong văn hóa thần thọai và triết học Hylạp.
Hình ảnh chim bồ câu
Thánh sử Marco ngay từ chương thứ nhất sách Tin mừng nói về phép Rửa của Thánh Gioan Tẩy gỉa trong hoang địa., để dọn đường cho Chúa Giêsu đến. Và chính Chúa Giêsu cũng đã xin nhận phép rửa của Thánh Gioan. Qua đó Marco muốn trình bày bản thể con người thật của Chúa Giêsu được Thiên Chúa chứng thực xác nhận.
Phép Rửa Chúa Giêsu nhận lãnh khi đó đã trở thành biến cố ơn kêu gọi cá nhân của ngài: „Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.“ (Mc 1,10- 11).
Thông thường xưa nay, khi ai được Thiên Chúa kêu gọi, họ cảm nhận được tiếng kêu gọi âm thầm trong tâm hồn. Nhưng nơi Chúa Giêsu thì lại khác, ơn kêu gọi của ngài tai nghe mắt nhìn thấy tiếng của Thiên Chúa nói: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.“ (Mc 1,10).
Tầng Trời mở ra để Thần Linh Thiên Chúa ngự đáp xuống. Biến cố này là sự trông mong chờ đợi nguyên thủy từ ngàn xưa của dân Israel. Họ hằng trông mong Thiên Chúa sau cùng dùng quyền năng mở tung màn trời ra, sai gửi Thần Linh của Chúa đáp ngự xuống, và con người được cứu thoát.
Hình ảnh chim bồ câu đáp ngự xuống lúc Chúa Giêsu chịu phép Rửa ở bờ sông Jordan, không là hình dạng như các nhà nghệ thuật sau này khắc vẽ trình bày. Nhưng Thánh sử Marco muốn căn cứ có thể nhiều hơn đến Thần Linh Thiên Chúa bay là là trên mặt nước khi vũ trụ được tạo dựng. (Sách sáng Thế, 1,1-2)
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ mới nơi Chúa Giêsu. Đây là bước khởi đầu mới. Con người có hình dạng giống hình ảnh Thiên Chúa, mà ngay từ thuở ban đầu Thiên Chúa đã tạo dựng nên, và yêu thương qúi trọng. Hình ảnh này được trình bày rõ nét nổi bật trong phép rửa của Chúa Giêsu đã lãnh nhận. Chúa Giêsu là người như Thiên Chúa từ nguyên thủy đã tạo dựng nên và yêu thương.
Chúa Giêsu đã có cung cách nếp sống làm đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, và không như Adong khi xưa đã phạm tội quay lưng lại với Thiên Chúa.
Chim bồ câu trong tường thuật về đại hồng thủy thời Ông Noe là hình ảnh con chim bồ câu mang tin hòa bình, loan báo sự hòa giải giữa Thiên Chúa và con người (Sách Sáng Thế 8, 6-11).
Trong nền văn hóa thần thoại Hylạp tin cho rằng chim bồ câu là con vật thánh hiện thân của nữ thần Aphrodite (nữ Thần tình yêu và vẻ đẹp), một hình ảnh tượng trưng về tình yêu Thiên Chúa xuống trên con người.
Con đường sứ vụ Chúa Giêsu
Hình ảnh con đường sự vụ Chúa Giêsu là hình ảnh đậm nét nổi bật trong Tin mừng theo Thánh Marco. Con đường sứ vụ Chúa Giêsu khởi đầu với Thánh Gioan Tẩy gỉa đi rao giảng làm phép Rửa dọn con đường cho Chúa Giêsu đến, và con đường sứ vụ của Chúa Giêsu chấm dứt khi Chúa sống lại đi đến Galileo trước chờ đợi các Tông đồ.
Con đường sứ vụ của Chúa Giêsu bao gồm những việc ngài đi rao giảng thực hành nước tình yêu Thiên Chúa, và sau cùng là con đường đi đến cuộc tử nạn trên thập gía. Con đường sứ vụ Chúa Giêsu là mẫu gương cho con đường các Tông đồ, cho những người tin theo Chúa.
Mặc khải từ trời cao
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, từ trời cao sinh xuống trần gian làm người. Biến cố giáng sinh này Thánh sử Marco không nói thuật đến trong Tin mừng. Nhưng ngay từ khởi đầu khi Chúa Giêsu đi ra rao giảng công khai, Thánh sử Marco đã lần lượt tường thuật lại mặc khải của Thiên Chúa Cha từ trời cao về bản chất nhân phẩm của Chúa Giêsu: khi Chúa Giêsu nhận phép Rửa của Thánh Gioan nơi bờ sông Jordan (1,11), biến cố biến hình trên núi Tabor (9,7), và khi Chúa Giêsu chết trên thập gía (15,34- 39. 16, 6.).
Từ đầu sách tin mừng , rồi vào giữa sách Tin mừng và vào cuối sách Tin Mừng, Chúa Giêsu Kitô được trình bày qua sự mặc khải của Thiên Chúa Cha từ trời cao là Con Thiên Chúa, là người chiếu sáng sự vinh quang của Thiên Chúa, đem ánh sáng vào đêm tối trần gian vì tội lỗi.
Tin mừng Chúa Giêsu theo Thánh sử Marco loan báo cho mọi dân tộc nhân phẩm thiên tính của Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa.
Hình ảnh con sư tử trong Tin mừng Thánh Marco.
Thánh giáo phụ Hieronymus đã căn cứ theo nội dung của phúc âm sắp xếp Con Sư tử là hình ảnh biểu tượng cho phúc âm theo Thánh Marco. Vì phúc âm này khởi đầu với Thánh Gioan tiền hô rao giảng là tiếng hô trong sa mạc, Ông sống giữa thiên nhiên trong rừng hoang dã thú vật.
Thánh sử Marco được đặt cho hình ảnh biểu tượng con sư tử, vì khởi đầu thuật lại Chúa Giêsu ra đi rao giảng nước Thiên Chúa loan báo thời thái bình, bò con và sư tử đêm nằm cạnh nhau, cùng được chăn nuôi ăn trên đồng cỏ, và sư tử cũng ăn cỏ như chiên bò.
Ở thành phố Venezia bên nước Ý có vương cung thánh đường kính Thánh Marco thánh sử. Ngoài công trường nơi mặt tiền thánh đường có cây cột trụ cao, trên đó có tượng con sư tử mầu vàng có đôi cánh là hình ảnh biểu tượng cho Thánh Marco thánh sử phúc âm Chúa Giêsu.
Ở bên trong đền thờ Thánh Phero bên Vatican, nơi vị trí bàn thờ đức tin gian cung thánh, ở bốn góc có vẽ bốn hình biểu tượng 4 Thánh sử viết phúc âm Chúa Giêsu. Thánh sử Marco được vẽ với hình con sư tử có đôi cánh và cuốn sách Phúc âm do ngài viết.
Và Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Marco có 16 chương, là cuốn sách Tin mừng ngắn nhất trong bốn cuốn sách Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô: Thánh sử Mattheo viết Tin mừng với 28 chương, Thánh sử Luca viết Tin mừng với 24 chương, và Thánh sử Gioan viết Tin mừng với 21 chương.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Sứ điệp cây nến mùa vọng.
- Viết bởi Lm. Dauyễnminh Ng ngọc Long
Vào mùa Vọng hằng năm, trong các nước theo Kitô giáo có tập tục làm vòng tròn, hay có nơi làm thành một khúc thẳng. Trên có có 4 cây nến hoặc mầu tím, hoặc mầu trắng họăc mầu đỏ, được dựng trưng bày nơi cung thánh nhà thờ, hay nơi nhà tư nữa.
Đâu là ý nghĩa vòng mùa vọng với bốn cây nến ?
Vòng mùa vọng được bện theo hình tròn không có khởi đầu và cũng không có tận cùng như hình mặt trời. Vòng tròn là biểu hiệu cho Thiên Chúa, Đấng không có khởi đầu và cùng tận.
Còn làm theo hình đường thẳng trong ý nghĩa chỉ về con đường Chúa đến trần gian, như Thánh Gioan tiền hô kêu gọi: Hãy sửa dọn con đường cho Chúa đến! (Mc 1,3)
Vòng hình tròn hay khúc thẳng được bện bằng các cành lá cây thông xanh tươi. Mầu xanh tươi tốt là biểu hiệu của niềm hy vọng, của tương lai cho đời sống luôn luôn đổi mới. Chúa Giêsu giáng sinh làm người là niềm hy vọng tương lai cho đời sống.
Bốn cây nến được lần lượt thắp sáng trong bốn tuần lễ mùa Vọng muốn nói lên ý nghĩa: Nước Thiên Chúa cũng triển nở lần lượt như bốn cây nến được thắp lên cho tới ngày lễ Chúa Giêsu giáng sinh, Đấng là ánh sáng trần gian. Ánh sáng bốn cây nến toả ra bốn phương trời đất trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Bốn cây nến là mốc cho bốn chặng đường, bốn tuần lễ chuẩn bị đón mừng lễ Thiên Chúa xuống thế làm người. Trong thời gian này Hội thánh Công giáo kêu mời mọi người dành thời giờ dọn tâm hồn đón mừng lễ Chúa xuống làm người, lễ ánh sáng mặt trời công chính.
Cây nến là hình ảnh Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng trần gian (Gioan 8,12 ). Ánh sáng toả ra từ cây nến không làm chói mắt khi nhìn thẳng vào nó, nhưng cảm thấy thi vị đầm ấm. Khi nhìn thẳng vào Chúa Giêsu trong nhà tạm, khi tiếp nhận người qua tấm Bánh Thánh Thể, khi nghe lời người trong phúc âm, ta không có cảm giác khó chịu. Nhưng trái lại tìm được bình an ơn tha thứ làm hoà cho tâm hồn. Một điều rất cần thiết cho cuộc sống thể xác lẫn tâm hồn.
Khi cây nến được đốt lên cũng cắt nghĩa về hình ảnh Chúa Giêsu. Chất sáp làm nên cây nến là hình ảnh thân xác con người của Chúa Giêsu. Thân xác con người được Thiên Chúa dựng nên có khởi đầu, có phát triển, có những yếu đuối bệnh tật giới hạn và sau cùng có cùng tận. Chúa Giêsu xuống trần gian làm người, sống cuộc sống hy sinh của con người như chất sáp bị cháy hao mòn thiêu huỷ.
Còn ngọn lửa đốt sáng cây nến là hình ảnh bản tính Thiên Chúa của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa và cũng là người, nên ngài có hai bản tính: Thiên Chúa và con người.
Ngọn lửa đốt cháy chất sáp và tỏa ra ánh sáng hơi ấm tình yêu cho mọi người.
Tuần lễ thứ nhất mùa Vọng, cây nên thứ nhất được đốt thắp sắng lên. Cây nến này chiếu sáng phát tỏa sứ điệp của Chúa Giêsu nói "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến.“ (Phúc âm Thánh Marco 13,33)
Canh chừng tỉnh thức luôn là lời được nói đến, được nghe đến trong, được suy nghiệm cuộc sống con người. Cha mẹ canh chừng tỉnh thức trong việc nuôi dậy giáo dục con em mình. Bạn trẻ canh chừng tỉnh thức trong việc học hành tập luyện cho đời sống được thành công. Người làm việc canh chừng tỉnh thức vào việc phải thi hành cho đạt đúng tiêu chuẩn đề ra.
Trong hết mọi lãnh vực đời sống canh chừng và tỉnh thức luôn cần thiết giúp tập trung chú ý đến đích điểm cần phải đạt tới.
Từ những tháng ngày qua, bệnh đại dịch Covid 19 lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ đời sống con người ngày càng lan rộng kéo dài. Nên canh chừng tỉnh thức giữ gìn đề phòng để cho không bị lây nhiễm bệnh gây nguy hiểm sức khoẻ mạng sống luôn hằng được các Chính phủ, các nhà khoa học, các nhà y tế nhắc cho mọi người.
Lời nhắc bảo canh chừng tỉnh thức nghe có vẻ là đe dọa, nhưng không phải như thế, mà mang âm hưởng tích cực cần thiết giúp phản tỉnh nhớ đến việc bổn phận, đến luật lệ nguyên tắc sống xử sự cho đúng tiêu chuẩn.
Lm. Dauyễnminh Ng ngọc Long
Sáu việc bác ái ngày phán xét ( Mt 25,31-46)
- Viết bởi Dân Chúa
Hằng năm vào Chúa nhật 34. thường niên, cuối năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ.
Phụng vụ ngày lễ mừng kính nhấn mạnh đến việc bác ái của con người trong ngày phán xét sau cùng, như phúc âm Thánh Mattheo (25,31-46) thuật lại.
Hình ảnh này không là sự đe dọa, nhưng muốn nói đến sự thể những việc làm trong đời sống của con người cho con người với nhau. Công việc bác ái tình người không chỉ nói đến khía cạnh lòng nhân đạo, nhưng còn diễn tả chiều sâu tâm linh: Ubi caritas et amor, deus ibi est - Nơi đâu có nếp sống bác ái tình yêu thương, ở đó có Thiên Chúa.
- Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn - Cho kẻ đói ăn.
Trong đời sống luôn hằng có những người gặp bước đường bất hạnh. Họ thiếu thốn cả những thứ cần thiết nhất cho đời sống, thực phẩm. Hình ảnh những nạn nhân sống trong thiên tai lũ lụt bên miền Trung Việt Nam rất nóng bỏng thời sự lúc này về sự thiếu thốn .Họ cần sự giúp đỡ chia sẻ miếng cơm bánh.
Người nghèo khó thiếu thốn không chỉ luôn cần đến miếng cơm bánh để cho qua khỏi cơn đói của bao tử, nhưng còn cần điều gì khác hơn nữa. Khi Chúa Giêsu Kitô nói đến sự nghèo đói, Ngài muốn nói đến cơn đói sự công chính.
Con người đói khao khát tình yêu thương, sự được an ủi nhìn nhận. Họ đói khát điều gì về tinh thần mang đến cho tâm hồn có sức sống niềm vui, như lời khuyến khích phấn chấn an ủi.
- Ta khát các người đã cho uống - Cho kẻ khát uống.
Nước là nhu cầu căn bản cho đời sống trong thiên nhiên cho cây cối hoa trái, cho thú động vật và cho con người. Không có nước sự sống sẽ dần
héo khô tàn lụi. Khng có nước, hay thiếu nước sự sống không phát triển nảy sinh lên được.
Nước mang đến cho cây cỏ, cho thú động vật cho con người sức bồi dưỡng. Và khi có đầy đủ nước uống, chúng ta còn nhận ra phép lạ làm cho sự sống được toàn vẹn tròn đầy.
Vì thế cho người khát uống nước thiên nhiên là dẫn đưa họ đến nguồn mạch nước sự sống tâm linh phát xuất từ nơi Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa.
- Ta là khách lạ các người đã tiếp rước cho trú ngụ - Cho khách đỗ nhà!
Lòng hiếu khách là một nhân đức cao qúi trong đời sống xã hội con người. Không gì hạnh phúc bình an cho đời sống hơn, khi trong bước đường bơ vơ tỵ nạn mà được quốc gia đất nước nào nhận cho vào sinh sống.
Không gì an ủi tăng thêm sức khoẻ cho thể xác lẫn tâm hồn hơn, khi đến nơi xa lạ mà có người đón tiếp cho trú ngụ, cho ăn uống, cho tắm rửa.
Không gì mừng rỡ qúy hơn cho người mất mát nhà cửa, vì thiên tai, khi họ nhận được sự che chở cho tạm trú ở một nơi an toàn.
Vào những dịp Đại hội giới trẻ thế giới, Giáo Hội nơi tổ chức Đại hội thường kêu gọi các gia đình nơi đó mở rộng cánh cửa đón tiếp các bạn trẻ tham dự đại hội, cho họ ngủ nghỉ ăn uống. Người mở rộng cánh cửa tiếp đón cảm nhận có niềm vui. Vì họ đã có dịp thực hành hiến chương nước trời: Cho khách đỗ nhà!
Lòng hiếu khách còn diễn tả một chiều sâu tâm linh nữa, như Kinh Thánh nói đến: „Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết.“ ( Thư gửi Do Thái 13,2) 4. Ta trần truồng các người đã cho quần áo mặc- Cho kẻ rách rưới ăn mặc.
Quần áo mặc để che thân, như trong Kinh thánh thuật lại, Ông Bà Adong Evà của chúng ta sau khi lỗi luật Thiên Chúa cấm ăn qủa trái cấm, bỗng Ông Bà thấy mình trần truồng. Xấu hổ qúa nên trốn vào bụi cây lấy lá cây làm quần áo che thân thể. ( Sách Sáng Thế 3, 7-10 ).
Thấy tình cảnh đó, Thiên Chúa đã làm cho Ông bà, con cháu „ quần áo để mặc che bảo vệ thân thể“ Sách Sáng Thế 3, 21) Quần áo ngoài công dụng trang điểm cho đẹp theo nếp sống văn hóa trong dòng thời gian, còn có nhiệm vụ căn bản bảo vệ cho khỏi bị mưa gío rét lạnh, nắng nóng tạt thấm vào thân thể gây bệnh họan.
Quần áo che đậy phần thân thể bên ngoài con người. Nhưng qua đó bảo vệ tôn trọng nhân vị phẩm gía của con người, mà Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa ban cho mỗi con người: Được tạo dựng hình ảnh giống Thiên Chúa. ( Sách Sáng Thế 1,27).
Vì thế xưa nay khi đi cứu trợ tai nạn thiên tai nơi đâu, ngoài thực phẩm cần dùng, các cơ quan bác ái còn mang theo quần áo nữa để phân phối cho những nạn nhân gặp hoàn cảnh thiếu quần áo mặc.
- Ta đau yếu bệnh nạn, các người đã thăm viếng - Viếng kẻ liệt Từ khi vườn địa đàng bị Thiên Chúa cất khỏi trần gian, vì Ông Bà nguyên Tổ Adong-Evà lỗi luật Chúa, hậu qủa là con người phải sống với bệnh tật, không trừ một ai trên trần gian ( Sách Sáng Thế 3, 16-18).
Nhiều em bé bị bệnh ngay từ cung lòng mẹ. Rồi trong suốt dọc đời sống nhiều người xưa nay hầu như cả đời sống chịu đựng bệnh tật trong chính cơ thể mình. Con người xưa nay ai cũng mắc bệnh không nặng thì nhẹ, không lúc tuổi còn trẻ thì vào lúc tuổi gìa cao niên.
Nền y khoa trên thế giới hằng có những phát minh mới cập nhật chữa trị các thứ bệnh nạn, mong giúp đời sống con người được khoẻ mạnh.
Cơn khủng hoảng đại dịch do vi trùng Corona lây lan đang đe dọa sức khoẻ gây ra sự khủng hoảng sâu rộng làm cho mọi sinh hoạt đời sống con người trên thế giới bị ngưng đình trệ, gây tử vong khủng hoảng lo sợ cùng đi tới khánh tận.... Hơn lúc nào hết nhân loại trông mong chờ có thần dược thuốc chủng chữa trị bài trừ bệnh đại dịch C ovid 19 lúc này.
Tình cảnh những người mắc bệnh đại dịch Covid 19, hay những người gìa cao niên trong nhà riêng hoặc nơi nhà hưu dưỡng phải sống cách ly một mình gây ra tình trạng cô đơn hoang mang cho thể xác lẫn tinh thần họ rất sâu rộng. Họ hằng mong có người đến thăm hỏi.
Người bị bệnh cần có thần dược chữa trị, nhưng họ cũng cần sự thăm viếng an ủi. Sự thăm viếng người bệnh nói lên tâm tình: Trong khủng hoảng cô đơn vì bị bệnh, Ông, Bà, anh chị, con...không bị quên lãng. Không cô đơn đâu. Có chúng tôi bên cạnh!
Sự thăm viếng người bệnh mang đến niềm an ủi khác gì một „thần dược „ tâm linh cho người bệnh có niềm hy vọng và có lại sức khoẻ.
- Ta bị giam cầm, các ngươi đã đến với ta - Thăm người tù rạc.
Bị tù tội không ai muốn bị vướng mắc vào. Nhưng trong đời sống xưa nay ở khắp nơi trên thế giới vào mọi thời gian, đều có những người bị vướng mắc vào hoàn cảnh bị tù tội. Lý do có nhiều, cùng khác nhau.
Bị vướng vào tù tội, sự tự do bị giới hạn cả thân xác thể lý cùng cả tinh thần. Họ bị sống trong giới hạn về không gian cùng thời gian chỗ ở, về giao tiếp thông thương bị ngăn cách. Vì thế người bị tù tội sống trong cô đơn lẻ loi.
Họ mong ngày được bước ra sống trong không khí ánh sáng tự do. Họ mong được có nếp sống giao tiếp thông thương. Vì thế, sự thăm viếng họ là biểu hiệu một tình thương yêu cao đẹp, mang đến cho tâm hồn đang sống trong cô đơn lẻ loi niềm an ủi lớn lao.
Giáo Hội hằng quan tâm đến hoàn cảnh của họ. Nên đã cắt đặt những người lo việc mục vụ thăm viếng an ủi họ. Chính Đức Giáo hoàng Phanxicô rất quan tâm việc mục vụ cho họ. Ngài đã nhiều lần vào nhà tù bên Roma thăm các người bị tù tội.
Ngày phán xét trước tòa Thiên Chúa, như kinh thánh thuật lại lời Chúa Giêsu Kitô nói đến trong dụ ngôn ( Mt 25, 31-46) về những việc bác ái của con người làm cho nhau là thước đo cho sự thưởng phạt linh hồn con người ngày chung thẩm trước tòa Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên vũ trụ cùng con người..
Việc bác ái tuy nhỏ thôi cho người cần tình yêu lòng thương xót, nhưng lại là nếp sống đạo đức tinh thần rất cần thiết, và trở thành quan trọng có gía trị lớn lao cho sự sống đời sau.
„ Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.“ ( Mt 25, 40) Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đời sống người cao niên tuổi gìa.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong nếp sống truyền thống đức tin Công giáo có lễ mừng kính Ba Vua. Ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm, sau khi Chúa Giêsu sinh ra trên trần gian, họ đã vượt đường xa từ phương Đông tìm đến bái lạy thờ kính hài nhi Giêsu, vị Vua mới sinh tại hang đá Bethlehem bên nước Do Thái. ( Phúc âm thánh Mattheo 2,1-12).
Phúc âm không nói đến tên tuổi của họ. Nhưng có nhiều truyền thuyết suy diễn nghiên cứu của các nhà lịch sử nhân văn cũng như Kinh Thánh. Một trong những suy diễn hiểu con số Ba nói chỉ về ba giai đoạn đời sống con người: thời tuổi trẻ, thời tuổi trung niên và thời tuổi gìa cao niên.
Đời sống con người luôn phát triển từ thời thơ ấu tuổi còn trẻ trung phấn khởi vươn lên cả thân thể cũng như tinh thần tâm trí. Thời tuổi cắp sách vở tới trường học khai mở tâm trí thu lượm kiến thức cho hướng về ngày mai.
Rồi sang đến thời kỳ tuổi đời trung niên năng lực khoẻ mạnh chững chạc chín muồi có nhiều sáng kiến năng động đạt được thành công đích điểm mong muốn. Thời tuổi lao động làm việc.
Và sau cùng bước sang thời kỳ cao niên tuổi gìa với nhiều kinh nghiệm khôn ngoan trong trường đời sống, sau khi đã trải qua nhiều uốn khúc lên xuống trong đời sống. Thời tuổi nghỉ hưu.
Mỗi giai đoạn đời sống, mỗi thế hệ con người có gía trị riêng và làm nền tảng nâng đỡ cho nhau.
Người trẻ, người tuổi trung niên cần người cao niên tuổi gìa, để học hỏi kinh nghiệm khôn ngoan đời sống.
Giai đoạn tuổi trung niên làm việc năng động mang đến thành tích xây dựng gia đình, xây dựng xã hội. Sức lực của họ là cột trụ nuôi sống con em thế hệ tuổi trẻ, kinh nghiệm họ thu lượm được là nền tảng cho đời sống phát triển, tài trí sức lức họ nâng đỡ thế hệ người tuổi gìa cao niên.
Người cao niên tuổi gìa cần thế hệ tuổi trẻ, cần thế hệ tuổi trung niên để được giúp đỡ thể lý cũng như tinh thần, nhất là niềm an ủi, niềm vui hạnh phúc. Vì thế hệ người trẻ tuổi khác gì bông hoa tươi nở mang đến sức sống hồn nhiên tươi thắm cho con người.
Cứ nhìn xem trong một gia đình khi ba thế hệ Ông Bà, cha mẹ, con cháu cùng sống trong liên đới có nhau, hay nhìn những người trẻ chăm sóc những người già cao niên trong các nhà hưu dưỡng, liền nhận ra niềm an ủi, niềm vui hạnh phúc thế nào cho người già cao niên, cùng sự cần thiết phải có nhau như thế nào.
Hình ảnh người con cháu nuôi dưỡng chăm sóc cha mẹ ông bà với cả trái tim tấm lòng biết ơn yêu mến, lúc họ bước vào tuổi cao niên tuổi gìa sức khoẻ yếu kém, thật không gì đẹp hơn, sống động hơn cùng cảm động hơn. Và điều này nói lên sự thành công đời sống gia đình, thành công đời sống giữa con người với nhau, cùng là thể hiện nếp sống lòng hiếu thảo của con cháu với ông bà cha mẹ tuổi gìa cao niên.
Ngày nay đời sống trong xã hội phát triển có nhiều hoàn cảnh biến chuyển thay đổi, nhất là bên xã hội các nước kỹ nghệ tân tiến, sự chung sống ba thế hệ trong gia đình với nhau còn rất hiếm hoi. Cha mẹ gìa cao niên thường sống với nhau trong ngôi nhà riêng. Giải pháp đưa cha mẹ gìa vào nhà hưu dưỡng ở một mình cô đơn là giải pháp bắt đắc dĩ phải chấp nhận. Và con cháu khi có cơ hội vẫn đến thăm viếng họ thể hiện tình liên đới lòng yêu mến luôn nhớ tới nhau.
Mùa bệnh đại dịch do vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ đời sống con người trên hoàn cầu năm 2020 qúa trầm trọng. Nên mọi người phải sống cách ly xa nhau để bảo vệ phòng ngừa vi trùng bệnh dịch lây lan truyền nhiễm.
Những người gìa cao niên phải sống biệt lập ở nhà, hay trong nhà hưu dưỡng. Con cháu, người thân không thể đến thăm hỏi nhau như trước được. Hoàn cảnh này làm cho hai bên nhớ nhau, nhất là gây ra sự buồn tủi cô đơn cho người cao niên tuổi gìa. Họ nhớ con cháu, nhớ người thân không đến thăm. Và tình tự cảm thấy như bị bỏ rơi cuộn trào lên mãnh liệt.
Thời kỳ bệnh đại dịch nhiều người gìa cao niên đã qua đời trong cô đơn không có thân nhân bên cạnh, không ai từ biệt. Đây là một hình ảnh thảm sầu đau buồn qúa thương tâm.
Con người hầu như ai cũng muốn sống đạt được tới tuổi thọ cao niên. Nhưng ai cũng sợ cuộc sống lúc tuổi gìa. Vì càng thêm tuổi tuy trường đời từng trải khôn ngoan kinh nghiệm đời sống gặt hái có nhiều. Nhưng bệnh tật cũng xảy đến nhiều thêm. Rồi sức lực gân cốt yếu kém xuống dần, cả sức khoẻ tinh thần tâm trí cũng suy giảm theo, nên dẫn đến tình trạng lệ thuộc vào giúp đỡ của người khác. Vì thế họ sợ cảnh sống cảm thấy như gánh nặng, như dư thừa, cùng có khi cảm thấy cô đơn như bị bỏ rơi…
Hơn khi nào hết lúc đó họ cần sự chăm sóc nâng đỡ an ủi, cần tình người, cần đời sống tâm linh.
Đức giáo hoàng Phanxicô đã nói lên tâm tình mục vụ hay đúng hơn lời kêu gọi về cung cách sống đối xử với thế hệ những người cao niên tuổi gìa:
“ Lạy Chúa, xin đừng vứt bỏ con lúc tuổi già; đừng bỏ rơi con lúc con đã lực tàn sức yếu” (Tv 71:9).
Đó là lời van xin của người cao niên, sợ bị quên lãng và từ bỏ. Như Thiên Chúa đã yêu cầu ta trở thành phương thế để Người nghe thấy tiếng than của người nghèo thế nào, Người cũng muốn ta nghe tiếng kêu của người cao niên như vậy (211). Điều này nói lên một thách đố cho các gia đình và cộng đồng, vì “Giáo Hội không thể và không muốn sống theo não trạng nôn nóng, nhất là não trạng dửng dưng và khinh miệt, đối với tuổi già. Ta phải đánh thức một lần nữa cảm thức biết ơn, biết đánh giá cao, biết hiếu khách một cách tập thể nhằm làm cho người cao niên cảm thấy như đang là thành phần sống động của cộng đồng.
Các người cao niên của chúng ta đều là những người đàn ông đàn bà, những người cha người mẹ, đến trước chúng ta trên chính con đường ta đang đi, trong chính căn nhà ta đang ở, trong cuộc đấu tranh hàng ngày của ta để có được một cuộc sống đáng sống” (212).
Thực thế, “Tôi sẽ yêu thương xiết bao một Giáo Hội biết thách thức nền văn hóa vứt bỏ bằng một niềm vui tràn trề của cái ôm mới giữa người trẻ và người già!” (213).“ ( Đức giáo hòang Phanxico, Thông điệp Amoris Laetitia, số 191.).
Tâm hồn đặt tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa, như vua thánh David đã thốt lên tâm tình cầu nguyện:
„ Cả lúc con già nua, da mồi tóc bạc,
lạy Thiên Chúa, xin đừng bỏ rơi con,
để con tường thuật quyền năng của Chúa
cho thế hệ này được rõ,
và dũng lực của Ngài cho thế hệ mai sau. ( Thánh vịnh 71, 18)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Sự sống đời đời
- Viết bởi Dân Chúa
Trong nghi lễ Rửa tội người lớn, còn gọi là rửa tội Tân Tòng, có hai câu hỏi căn bản mà vị chủ tế hỏi người Tân Tòng:
- Chủ tế: Ông, Bà, Anh, Chị…xin gì cùng Hội Thánh?
Người Tân Tòng trả lời: con xin đức tin.
- Chủ tế: Đức tin sinh ơn ích gì cho Ông, Bà, Anh, Chị…?
Người Tân Tòng trả lời: đức tin đem lại cho con sự sống đời đời.
Từ khi thành hình sự sống trong cung lòng mẹ, rồi sau đó mở mắt chào đời trong suốt đời sống trên trần gian, ai cũng được Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa ban cho sự sống.
Nhưng xưa nay nhân loại đều phải trải qua giới hạn của sự sống. Ai cũng có ngày sinh ra đời và ngày tận cùng phải chết. Có ngày đến trong trần gian, và cũng có đi ngày ra khỏi trần gian. Kinh nghiệm thất bại đau thương này không có luật trừ cho ai vào bất cứ giai đoạn không gian cùng thời gian nào.
Trong Kinh Thánh, Kohelet đã nói lên trải nghiệm về những giai đoạn giới hạn của sự sống con người trên trần gian:
„ Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời :
2 một thời để chào đời, một thời để lìa thế ;
một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây ;“(Kohelet 3,1-2)
Như thế sự sống con người trên trần gian giới hạn trong khoảng thời gian nhất định, mà Đấng Tạo Hóa đã đặt ra chương trình cho đời sống mỗi người ngắn hay dài bao lâu!
Vậy sự sống đời đời là gì?
Kinh Thánh trong sách Sáng Thế thuật lại việc Thiên Chúa tạo dựng con người ban cho họ đời sống hạnh phúc. Nhưng Ông Bà nguyên tổ Adong Eva đã phạm tội lỗi luật Thiên Chúa cấm, nên bị phạt không còn được có sự sống vĩnh cửu ngay trên trần gian nữa:
“ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa nói: "Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi." ( Sách Sáng Thế 3,22).
Chúa Giêsu, con Thiên Chúa sinh xuống trần gian làm người, đã rao giảng giáo lý nói về sự sống đời đời:„ Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống. ( Phúc âm Thánh Gioan 5,24)
Và giáo lý đó là kim chỉ nam hướng đi cho đời sống mai sau:
„ Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời.“ ( Phúc âm Thánh Mattheo 25,46)
Kinh Tin Kính chúng ta đọc có lời tuyên xưng: „ Tôi trông đời kẻ chết sống lại và sự sống đời sau. Amen.“
Hay lời tuyên xưng“ Tôi tin hằng sống vậy . Amen“
Như vậy sự sống đời đời không là sự sống thể lý của thân xác trên trần gian được kéo dài, nhưng là sự sống tinh thần thiêng liêng của linh hồn con người mai sau.
„Thật vậy, “Đời đời” gợi cho chúng ta ý tưởng về điều gì đó không chấm dứt, và điều đó làm chúng ta lo sợ; “sự sống” khiến chúng ta nghĩ đến cuộc sống mà chúng ta biết và yêu mến nó, cũng như không muốn đánh mất đi, dù rằng thường khi nó mang lại nhiều phiền nhiễu hơn là thỏa mãn, đến mức một mặt chúng ta muốn, một mặt chúng ta lại không muốn cuộc sống đó.
Hãy tưởng tượng chúng ta đang được đứng bên ngoài cõi tạm đang giam cầm chúng ta và ở một mức nào đó cảm thấy được rằng đời đời không phải là một chuỗi vô hạn những ngày tháng kế tiếp nhau của thời gian, nhưng là điều gì đó giống giây phút tột cùng của thỏa mãn hơn, trong đó tổng thể ôm lấy chúng ta và chúng ta ôm lấy tổng thể – chúng ta chỉ có thể thử nghĩ như vậy. Nó giống như là nhào vào đại dương của tình yêu vô hạn, một thời khắc trong đó thời gian – trước và sau – không còn hiện hữu nữa.
Chúng ta chỉ có thể nắm bắt ý tưởng là một thời khắc như vậy là cuộc sống đầy đủ ý nghĩa, một sự nhận chìm mới mẻ chưa từng có vào trong cõi bao la của nhân sinh, trong đó chúng ta ngập tràn niềm vui. Đó chính là cách Chúa Giêsu đã diễn tả trong Tin Mừng theo Thánh Gioan: “Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” (Ga 16:22). ( Đức Giáo hoàng Benedictô 16., Spe Salvi số 12.)
Tháng cầu nguyện cho các Linh Hồn
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chiếc áo mầu trắng
- Viết bởi Dân Chúa
Hằng năm vào ngày 01.11. toàn thể Giáo hội Công giáo mừng kính Các Thánh nam nữ trên trời.
Các Thánh nam nữ trên trời là ai vậy?
Thánh Gioan Tông đồ được Thiên Chúa cho nhìn thấy quang cảnh các Thánh trên trời như ông thuật viết lại: „Tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế.“( Sách Khải huyền 7, 9)
Như thế, theo Kinh Thánh họ là những người „mặc áo trắng“.
Vậy đâu là ý nghĩa mầu áo trắng trong đời sống xã hội và trong nếp sống đạo đức?
Theo khía cạnh văn hóa, mầu trắng là hình ảnh dấu chỉ về sự vui mừng, sự vô tội thanh sạch trong trắng. Theo nếp sống văn hóa cổ truyền trong dân gian, gía trị đời sống thanh sạch còn trinh trong của người phụ nữ trước khi đi lập gía đình được đề cao qúi trọng. Vì thế, ngày thành hôn, theo tập tục cổ truyền xưa nay, cô dâu mặc áo cưới mầu trắng.
Trong đời sống đạo đức Công giáo, hình tượng Đức mẹ Maria được tô khắc vẽ với áo mầu trắng, áo choàng bên ngoài mầu xanh da trời, để trình bày nói lên đức mẹ đồng trinh vô nhiễm nguyên tội, như đức mẹ năm 1858 đã hiện ra nói với Thánh nữ Bernadette ở Lourdes: Ta là đấng vô nhiễm nguyên tội!
Trong đời sống đức tin của Do Thái giáo và Kitô giáo, mầu trắng là mầu dùng trong phụng vụ diễn tả sự trong sáng.
Đức Chúa Thánh Thần xưa nay theo truyền thống được trình bầy qua hình ảnh con chim bồ câu mầu trắng
Mầu trắng là mầu nói về sự trường sinh bất tử, sự không cùng tận. Mầu trắng cũng là mầu hình ảnh nói chỉ về sự hòa bình. Vì thế trong chiến tranh, khi bên đầu hàng buông vũ khí, hay có thỏa ước ngừng bắn đấu tranh, họ kéo cờ trắng lên làm dấu hiệu báo tin hòa bình.
Theo văn hóa Á Đông, mầu trắng diễn tả sự tang tóc buồn thương nhớ tiếc. Vì thế, thân nhân người qúa cố mặc áo hay thắt khăn tang mầu trắng trên đầu, hay quàng trên hai bờ vai trong ngày an táng.
Mầu trắng chỉ về sự thanh sạch trong sáng. Nhưng cũng diễn tả nói lên sự trống rỗng, như tờ gíấy trắng không có hình chữ viết nào trên đó.
Mầu trắng mầu trong sáng còn nói lên sự chân thật ngược lại với mầu đen. Có lẽ vì thế người ta thường hay dùng hai mầu cạnh nhau, để nói lên sự trái ngược nhau: trắng hay đen, trong sáng rõ ràng hay mờ tối không minh bạch rõ ràng.
Trong nếp sống phụng vụ Công giáo, phẩm phục mầu trắng chỉ về sự vui mừng được dùng trong các ngày lễ trọng, như lễ mừng Chúa giáng sinh, mừng Chúa phục sinh, lễ kính các Thiên Thần, lễ kính mừng các Thánh, lễ kính các Thánh đồng trinh, lễ kính mừng Đức mẹ Maria, lễ kỷ niệm tạ ơn.
Trong nghi thức rửa tội, tấm áo trắng được mặc hay phủ trên em bé, người lớn tân tòng lúc nhận lãnh bí tích rửa tội cũng mặc áo trắng. Như dấu chỉ mặc lấy đời sống mới của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã sống lại từ cõi chết.
Có những lễ an táng người qúa cố, tùy theo ý muốn của thân nhân cùng sự thỏa thuận với vị chủ tế, lễ phục mầu trắng thay vì mầu tím, được vị chủ tế mặc trong thánh lễ, để nhấn mạnh nói lên niềm hy vọng của sự phục sinh sống lại.
Đức thánh cha, vị giáo hòang của Hội Thánh Công giáo mặc áo dài màu trắng, đội mũ Pileolus ( chiếc mũ nhỏ úp trên đỉnh đầu) mầu trắng.
Bây giờ có những đòan hành hương khi đến bờ sông Jordan nước Do Thái, nơi Chúa Giêsu ngày xưa đã nhận lãnh làn nước rửa của Thánh Gioan tẩy gỉa, họ cũng mặc chiếc choàng áo mầu trắng, và bước lội xuống dòng nước sông. Để tưởng nhớ đến phép rửa ngày xưa của Chúa Giêsu và của chính mình lúc còn thơ bé. Một hình ảnh thật cảm động và thi vị đẹp chất chứa tràn đầy ý nghĩa nội dung văn hóa đạo đức thiêng liêng.
Chiếc áo mầu trắng phẩm phục phụng vụ cùng của người nhận lãnh bí tích rửa tội và như các Thánh trên trời mặc ( Khải huyến 7,9) diễn tả sự thanh sạch trong sáng, niềm vui mừng hân hoan cùng vẻ nét đẹp của Đấng phục sinh sống lại.
Các Thánh nam nữ trên trời mặc áo mầu trắng, nhưng đời sống của họ khi xưa trên trần gian không phải lúc nào cũng có được vui mừng hạnh phúc. Trái lại họ đã từng phải trải qua những đoạn đường đời sống đau khổ hy sinh chịu đựng. Và đời sống của họ biểu hiện sâu đậm ý nghĩa trọn vẹn tràn đầy đạo đức bác ái.
Tất cả đời sống họ đều qui hướng về một trung tâm: Chúa Giêsu Kitô phục sinh, Đấng là ánh sáng niềm vui mừng hy vọng.
Lễ kính mừng Các Thánh Nam Nữ trên trời.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nén hương lòng tưởng nhớ các Linh hồn.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm, xưa nay từ thế hệ này sang thế hệ kế tiếp, Giáo hội Công giáo luôn hằng kêu gọi khuyến khích người tín hữu Chúa Giêsu Kitô nhớ đến cầu nguyện cho người đã qua đời.
Cung cách sống đức tin như thế biểu lộ niềm hy vọng cho đời sống con người sau khi cuộc sống trên trần gian chấm dứt: có một đời sống ở bên kia sau khi chết. Có một khởi đầu mới sau, khi con đường đời sống trên trần gian đã qua đi.
Cung cách sống đức tin liên kết với người đã qua đời qua lời cầu nguyện, qua tưởng nhớ đến họ còn nói lên: đời sống con người không chỉ như cơ hội về sinh vật học, về tâm lý giới hạn thu hẹp trong một không gian và thời gian nào. Sự chết không là sự chấm dứt căn bản sự sống.
Cung cách sống tưởng nhớ đến người qúa cố không căn cứ vào phần mộ của người đã qua đời có hay không còn nữa. Người đã qua đời, dù đã lâu năm hay không còn phần mộ, không biến mất khỏi tâm hồn, khỏi trái tim lòng nhớ nhung, lòng biết ơn nơi người còn sống trên trần gian.
Giữa người đã qua đời và người còn sống, như vợ chồng, cha mẹ con cái, anh chị em, bạn bè… ngày xưa khi còn chung sống với nhau, sợi dây đời sống tình nghĩa, tình máu mủ ruột thịt gắn liền chặt khăng khít với nhau suốt đời sống rồi. Nên một người tuy đã qua đi, họ vẫn hằng sống động trong tâm hồn trái tim người còn đang sống trên trần gian.
Nấm mồ của người qua đời là cái gì cụ thể cho người còn sống trông thấy được. Và ai cũng muốn rằng có nấm mồ người đã qua đời để ra thăm viếng chăm sóc. Nhưng khi nấm mồ không còn, hay không có nữa, hình ảnh người qua đời, công đức tình nghĩa của người đã qua đời đâu có thể vì thế mà không còn hiện diện trong tâm hồn của người còn sống. Trái lại có khi càng hiển thị sâu đậm khăng khít hơn nơi tâm hồn họ. Họ vẫn hằng sống động trong tâm hồn trong trái tim lòng nhớ nhung biết ơn của người còn trên trần gian.
Và con người được Thiên Chúa tạo dựng nên không chỉ có thân xác, xương cốt, bắp thịt dòng máu lưu chuyển, nhưng còn có phần tinh thần, phần tinh anh linh hồn nữa. Khi chết thì thân xác xương con người cốt tan rã, nhưng linh hồn, lịch sử đời sống mỗi người trở về với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên mình.
Thiên Chúa dựng nên thân xác con người từ hư vô, từ bụi đất. Và ngày sau cùng , như chúng ta tuyên xưng: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Thiên Chúa cũng sẽ cho người đã chết sống lại với một đời sống mới và khác, do quyền năng của Ngài tạo dựng nên từ hư vô. Và như thế nào con người chúng ta không ai biết được.
Hằng năm trong tập tục nếp sống đạo Công giáo, Tháng Mười Một là tháng dành tưởng nhớ cầu nguyện cho các Linh Hồn. Xưa nay có tập tục từ ngày 01. đến 08. Tháng 11., Giáo Hội kêu gọi mọi người tín hữu Công Giáo đi thăm viếng phần mộ người qúa cố, đọc kinh cầu nguyện cho các Linh hồn. Năm nay 2020 vì tình hình bệnh đại dịch do Vi trùng Corona đả cùng đang lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ đời sống con người trên khắp thế giới, nên Giáo Hội có qui định mổ rộng thêm về việc đạo đức bình dân này.
“Ơn Toàn Xá được ban cho những ai viếng nghĩa trang và cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, thông thường chỉ trong những ngày từ 1.-8., có thể chuyển sang các ngày khác đến hết tháng 11. Những ngày này, do mỗi tín hữu tự chọn, có thể tách biệt nhau” (không cần các ngày liên tiếp).
Bên cạnh đó, sắc lệnh cũng điều chỉnh việc lãnh nhận Ơn Toàn Xá vào ngày 2.11, ngày lễ “cầu nguyện cho các tín hữu qua đời”, khi viếng nhà thờ hoặc nhà nguyện và đọc một Kinh Lạy Cha và một Kinh Tin Kính, có thể dời không chỉ vào ngày Chúa Nhật trước hoặc sau đó, hoặc vào ngày lễ Các Thánh, mà còn có thể vào một ngày nào khác của tháng 11., do mỗi tín hữu tự chọn.
Thêm vào đó, riêng đối với những người già, người bệnh hoặc những ai vì lý do nghiêm trọng không thể ra khỏi nhà, cũng có thể lãnh nhận Ơn Toàn Xá, miễn là họ hiệp nhất thiêng liêng với các tín hữu khác, hoàn toàn xa lánh tội lỗi và với ý hướng thực hành ba điều kiện thông thường: xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng. Họ có thể làm việc này trước một bức ảnh Chúa Giêsu hay Đức Mẹ, đọc kinh cầu cho những người đã qua đời hoặc một bài đọc Kinh Thánh vv… để dâng cho Chúa những đau khổ và khó khăn của mình.“ ( Bản tin Vatican)
Tưởng nhớ cầu nguyện cho các linh hồn là tập tục nếp sống đạo đức, và cũng là nét đẹp đời sống văn hóa tình nghĩa con người với nhau trong dòng thời gian xã hội xưa nay.
Tưởng nhớ cầu nguyện cho các Linh hồn là cung cách thể hiện lòng yêu mến cùng lòng biết ơn ngày xưa họ đã trao tặng làm ơn cho ta.
Tưởng nhớ cầu nguyện cho các Linh hồn là cung cách biểu lộ đức tin niềm hy vọng vào đời sống ngày mai: „Tôi trông đợi kẻ chết sống lại. Tôi tin sự sống đời sau. Amen.“( Kinh Tin Kính).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Kitô Hữu nói không với Halloween
- Viết bởi Giuse Đồng Chánh Lợi
Được diễn ra vào cố định hàng năm, ngày 31/10 là lễ hội Halloween được rất nhiều các bạn trẻ hưởng ứng và cả các bạn trẻ Công giáo. Nhưng ít bạn trẻ Công giáo biết rằng: lễ hội Halloween ngày nay không còn ý nghĩa nguyên vẹn như xưa và bị nhiều linh mục, giám mục phản đối.
Nhắc đến ngày 31-10 là ngày hội Halloween, nhưng không nói gì đến ngày 1-11 vì không biết mối liên hệ giữa hai ngày này. Ở nguồn gốc, ngày này được gọi là All Hallows’ Eve, nghĩa là buổi chiều áp lễ Các Thánh. Kể từ thời Đức Grêgôriô III (năm 741), Lễ Các Thánh được cử hành vào ngày 1-11 hằng năm, là ngày ngài thánh hiến một nhà nguyện trong Đền Thánh Phêrô để tôn vinh toàn thể Các Thánh. Rồi sau đó, Đức Grêgôriô IV (năm 835) truyền lệnh cử hành lễ này trong toàn thểGiáo Hội. Nhưng thuở xa xưa, lễ này được cử hành vào Thứ Sáu sau lễ Phục sinhđể làm nổi bật sự chiến thắng của Chúa Kitô trên tâm hồn của biết bao người, cụthể là các thánh. Chúa Kitô đã chiến thắng sự chết và Người cũng chiến thắng ma quỷ qua việc chinh phục các tâm hồn. Dù sau này, ngày cử hành lễ đã được thay đổi nhưng ý nghĩa chính yếu trên vẫn được giữ lại.
Các tín hữu thời xưa tin rằng vào ngày áp lễ Các Thánh 1-11, trái đất rung chuyển, đất đai nứt nẻ và ma quỷtừ địa ngục chui lên với nỗ lực cuối cùng nhằm lôi kéo các linh hồn về với nó. Thế nên vào buổi chiều áp lễ Các Thánh, họ túa ra ngoài đường, mặc những trang phục kinh dị như ma quỷ, đồng thời miệng hô vang Danh Chúa Giêsu và khua chiêng gõ mõ để xua đuổi ma quỷ, đuổi chúng về địa ngục. All Hallows’ Eve là thế.
Rất tiếc là ngày nay, ý nghĩa tôn giáo đó đã phai mờ, nếu không nói là biến mất, để chỉ còn là lễ hội Halloween mang tính giải trí thuần túy, tệ hơn nữa còn thành dịp ăn chơi đàng điếm. Thay vì xua đuổi ma quỷ đi thì lại rước nó vào nhà mình, vào linh hồn mình. Thế nên đã có những Giáo Hội phản ứng mạnh mẽ trước tình trạng này, cụ thể là Hội đồng Giám mục Philippines mới đây lên tiếng cảnh giác các tín hữu và gọi lễ hội Halloween là lễ hội phản Kitô.
Nhắc lại nguồn gốc ngày lễ như thế để thấy rõ hơn xu hướng tục hóa trong thời hiện đại, tước đoạt nội dung tôn giáo và thay vào đó bằng nội dung phản tôn giáo. Đừng tưởng rằng xu hướng tục hóa chỉ diễn ra ở phương Tây! Tiến trình tục hóa cũng đang diễn ra ngay tại Việt Nam, nhất là khi cái hay thì ít học mà cái dở lại tiếp thu rất nhanh. Người ngoài công giáo không biết đã đành, nhưng đáng tiếc là cả người công giáo cũng không biết và cứ thế mà làm, người ta làm sao thì mình làm vậy, thay vì giúp người khác thấy được vẻ đẹp của Tin Mừng thì lại thành kẻ tiếp tay để giết chết Tin Mừng!
Nhắc lại nguồn gốc của ngày lễ như thế còn để nhắc nhở nhau sống tinh thần lễ Các Thánh, tinh thần có thể tóm gọn trong lời kêu gọi nổi tiếng của Đức Chân phước Gioan Phaolô II:“Đừng sợ, hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô”. Cách cụ thể, hãy mang trong lòng mình những tâm tư của Đức Kitô Giêsu: tâm tư hiền lành và khiêm nhường, thương xót và tha thứ, dấn thân và phục vụ. Chính vì thế, bài Tin Mừng được công bố trong ngày lễ Các Thánh là Tin Mừng về Tám Mối Phúc Thật:
“Phúc thay những ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.
Phúc thay ai xót thương người vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bịbách hại vì lẽ công chính vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3-11).
Mang lấy tâm tư của Đức Kitô Giêsu giữa lòng thời đại hôm nay quả là không dễ,vì thời đại này cổ võ lối nghĩ và lối sống hầu như hoàn toàn ngược lại Tin Mừng. Sách Khải Huyền (bài đọc II) diễn tảthực tế này bằng hình ảnh vừa bi hùng vừa sống động: “Những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu đến? Tôi trả lời: Thưa Ngài, Ngài biết đó. Vị ấy bảo tôi: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,13-14).
Áo chỉ được trắng sạch khiđược giặt bằng máu! Thật lạ thường. Nhưng sự thật là thế. Phải chấp nhận cộng tác với tác động thánh hóa của Chúa Thánh Thần, giặt tấm áo cuộc đời bằng máu của hi sinh từ bỏ, chiến đấu chống trả cám dỗ, gian nan tập luyện các nhân đức. Đó là tín thư mà lễ Các Thánh gửi đến tất cả chúng ta, những người cũng được gọi là “thánh” vì đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, nhưng còn phải thể hiện tiềm năng thánh thiện ấy bằng chính cuộc sống của mình. Để có thể hòa chung với Các Thánh trong lời chúc tụng:
“Amen! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta
Lời chúc tụng và vinh quang,
Sự khôn ngoan và lời tạ ơn,
Danh dự, uy quyền và sức mạnh,
Đến muôn thuởmuôn đời. Amen!” (Kh 7,12)
+ Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Vừa rồi là bài giảng của GM Phêrô Nguyễn Văn Khảm về lễ hội Halloween . Hi vọng rằng qua bài viết vừa rồi, các bạn mà đặc biệt các bạn Công giáo sẽ biết để tránh xa lễ hội Halloween. Hãy chia sẻ bài viết này đến cho nhiều người vì Đạo Công giáo tin chắc rằng, nhiều người Công giáo chưa biết điều này đâu.
Cùng trong chiếc thuyền đời sống
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ai cũng mong muốn có sự an toàn cùng niềm vui cho đời sống. Sự an toàn và niềm vui giúp cho sức khoẻ tinh thần lẫn thể xác được mạnh mẽ hăng say vươn lên. Kinh nghiệm này ai cũng đều có.
Trong đời sống sự an toàn và niềm vui nảy sinh tùy theo hoàn cảnh không gian, địa lý, thời gian tuổi tác cùng tâm lý, văn hóa và tâm tính con người.
Niềm tin tôn giáo là một niềm vui, niềm an ủi cho tinh thần con người. Vì niềm tin tôn giáo chỉ hướng đi cùng là điểm tựa tinh thần cho tâm hồn trong đời sống.
Từ những tháng ngày qua, khắp thế giới đang trải qua trong lo sợ hoang mang. Vì bệnh đại dịch do vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ sự sống con người cùng làm tê liệt các sinh hoạt trong đời sống xã hội. Gìn giữ bảo vệ sức khoẻ cho chính mình và cho người khác là việc thời sự được đặt lên hàng đầu ưu tiên trong hoàn cảnh đe dọa lúc này.
Hằng năm theo tập tục nếp sống đức tin, Giáo hội nhắc mọi người tín hữu Chúa Kitô nhớ đến bổn phận việc truyền giáo, mà họ đã lãnh nhận từ ngày nhận lãnh làn nước Bí tích rửa tội. Người tín hữu Chúa Kitô làm sao sống trình bày, làm chứng cho hình ảnh tình yêu Thiên Chúa được tỏ hiện trong đời sống con người qua lời cầu nguyện, qua việc làm hy sinh dấn thân nâng đỡ tinh thần cùng đời sống vật chất cho các vị Thừa Sai đi đến những nơi xa lạ thiếu thốn loan báo tin mừng Chúa, cùng cho con người sống trong hoàn cảnh sống thiếu thốn khó khăn gặp những thử thách sống còn.
Nhưng trong hoàn cảnh đe dọa hoang mang đời sống lúc này năm nay, việc truyền giáo được hiểu như thế nào?
Đức thánh cha Phanxicô trong thông điệp truyền giáo đã đưa ra hướng chỉ dẫn như sau:
„Trong năm nay, năm được ghi dấu bởi những đau khổ và thách đố do đại dịch Covid-19 gây ra, con đường truyền giáo này của toàn Giáo hội tiếp tục được tìm thấy dưới ánh sáng trong tường thuật ơn gọi của tiên tri Isaia: “Dạ, con đây, xin sai con đi” (Is 6,8). Đây là câu trả lời luôn luôn mới trước câu hỏi của Chúa: “Ta sẽ sai ai đây?” (nt.).
Lời kêu gọi này xuất phát từ con tim của Thiên Chúa, từ lòng thương xót của Người, chất vấn cả Giáo hội và nhân loại trong cuộc khủng hoảng thế giới hiện nay. “Như các môn đệ trong bài Tin Mừng, chúng ta bất ngờ bị bão tố hung bạo vùi dập. Chúng ta nhận thấy mình đang ở trên cùng một con thuyền, tất cả đều mong manh và mất hướng, nhưng đồng thời tất cả đều quan trọng và cần thiết, tất cả được kêu gọi cùng chèo với nhau, tất cả đều cần an ủi nhau. Tất cả chúng ta đều ở trên con thuyền ấy.
Như những môn đệ trong bài Tin Mừng đồng thanh và lo âu nói với nhau: ‘Chúng ta chết mất’ (Mc 4,38), chúng ta cũng nhận thấy mình không thể tiến bước nếu mỗi người chỉ lo cho mình, nhưng phải cùng nhau.” (Suy niệm tại Quảng trường Thánh Phêrô, 27 tháng 3 năm 2020).( Sứ điệp ngày truyền giáo 2020).
Xưa nay luôn có những vị Thừa Sai, nhất là từ bên Âu Châu, dấn thân trả lời cho tiếng Thiên Chúa hỏi gọi thôi thúc:“Dạ, con đây, xin sai con đi” (Is 6,8). Họ với lý tưởng lòng nhiệt thành đi đến những xứ châu lục xa lạ thiếu thốn khó khăn cùng sinh sống làm chứng cho tình yêu thương của Thiên Chúa giữa lòng xã hội con người.
Luôn hằng có những tâm hồn đạo đức nhiệt thành hy sinh từ bỏ một nếp sống thoải mái đang sẵn có dấn thân đi đến cùng sinh sống với những người gặp hoàn cảnh khốn khó nghèo túng, bệnh nạn cần sự an ủi giúp đỡ về tinh thần lẫn vật chất ở những vùng đất nước xa lạ, nơi đời sống vẫn còn trong hoàn cảnh chưa phát triển. Đời sống hy sinh dấn thân của họ là câu trả lời với tiếng kêu gọi thôi thúc trong thâm tâm:“Dạ, con đây, xin sai con đi” (Is 6,8).
Trong đời sống xã hội, con người luôn gặp những giai đoạn bước đường khó khăn gian nan, khủng hoảng, thử thách, hoàn cảnh tang thương cần được trợ giúp. Những lúc như thế, câu hỏi tiếng nói thiêng liêng “Ta sẽ sai ai đây?” vang lên trong thâm tâm, hay cũng là câu hỏi mời gọi của những vị hữu trách đặt ra.
Và luôn có những tâm hồn quảng đại trả lời đáp lại: “Dạ, con đây, xin sai con đi” (Is 6,8). Họ sẵn sàng ra đi dấn thân phục vụ cho đời sống con người.
Câu trả lời dấn thân “Dạ, con đây, xin sai con đi” (Is 6,8) là câu trả lời ngày xưa tiên tri Isaia nói với Thiên Chúa đặt ra kêu gọi ông.
Nhưng câu trả lời dấn thân đó cũng là câu trả lời của mỗi người với Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa sinh thành tạo dựng nên thân xác cùng linh hồn sự sống con người trong đời sống lữ hành trên trần gian.
Lễ khánh nhật truyền gíao 25.10. 2020
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngôn ngữ đôi bàn tay
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đôi bàn tay con người là phần cơ quan trọng yếu của thân thể. Nó thể hiện sức mạnh, ý chí lòng muốn do trí óc điều khiển biểu dương ra bên ngoài để cầm mang đỡ đồ vật. Nó cũng thể hiện nét đẹp thẩm mỹ cho hình dạng thân thể có được thăng bằng quân bình.
Và đôi bàn tay cũng là phương tiện dùng trong việc tâm linh cầu nguyện, cùng trong cung cách sống văn hóa lịch sự giữa con người với nhau ngoài xã hội.
Đôi bàn tay dang ra giơ lên cao là một cung cách tâm linh cầu nguyện con người thể hiện từ thời xa xưa. Phải, đó là một thứ loại ngôn ngữ bẩm sinh của thân thể con người.
Đôi bàn tay dang ra giơ lên cao hay ra phía trước muốn nói lên tâm tình: Con người mở rộng tay mình ra hướng về người đối diện trong ý hướng tìm kiếm và đặt niềm hy vọng, nhất là với Thiên Chúa, Đấng ẩn hiện trong không gian và thời gian!
Khi cầu nguyện dang mở rộng đôi bàn tay ra hướng lên trời cao tựa như hình ảnh đôi cánh căng dương ra muốn diễn tả: Con người tìm kiếm hướng tới sự cao trọng, muốn lời nguyện cầu được Thiên Chúa cho bay lên cao như đôi cánh.
Ngày xưa khi dẫn đưa dân Do Thái trừ Aicập trở về quê hương đất nước Thiên Chúa hứa, thánh tiên tri Mose đã giơ đôi bàn tay lên trời cao cầu nguyện. Khi mỏi mệt qúa, người ta phải cầm đỡ đôi tay ông cho giữ tư thế dương lên cao. ( Sách Xuất hành 17,11).
Vua Salomon đứng trước bàn thờ giơ hai tay lên cao trong tư thế cầu nguyện cùng Thiên Chúa“ ( Sách 1. Các Vua, 8,22).
Vua Thánh David khuyến khích khi cầu nguyện: „Hãy giơ tay hướng về cung thánh mà dâng lên lời chúc tụng Người. „ ( Thánh vịnh 134,1-2
Với người tín hữu Chúa Giesu Kitô đôi bàn tay dang ra cầu nguyện còn diễn tả ý hướng quy về Chúa Giêsu Kitô nhắc nhớ đến Chúa Giêsu đã bị đóng đinh nơi hai bàn tay dang ra trên cây thập tự. Từ trên thập gía bị đóng đinh, Chúa Giêsu Kitô dang đôi bàn tay ra ôm kéo mọi người lên trời cao với Người. ( Phúc âm Thánh Gioan 12,32).
Trong dòng thời gian muộn sau này, đôi bàn tay thay vì dang giơ lên cao, được chắp úp lại với nhau.. Cử chỉ ngôn ngữ bẩm sinh của thân thể thể diễn tả: Người đón nhận vật hay ân đức được cho vay mượn đặt đôi tay mình khi nhận lãnh trong tay của chủ. Đây là hình ảnh dấu chỉ đẹp cùng có ý nghĩa thâm sâu nói lên sự tin tưởng và lòng trung thành.
Khi cầu nguyện chắp đôi bàn tay lại phía trước ngực muốn diễn tả: Con muốn đặt đôi bàn tay con trong bàn tay của Thiên Chúa. Con muốn với đôi bàn tay của con cùng lịch sử đời con, ý hướng cầu xin của con trong bàn tay của Thiên Chúa trong niềm tin tưởng phó thác cùng lòng trung thành của con.
Hình ảnh đôi bàn tay chắp lại trước ngực thật đẹp huyền nhiệm linh thiêng.
Trong nếp sống xã hội, khi đáp máy bay của hãng hàng không Á châu như của hãng Tháilan, ta bắt gặp những người phục vụ trên đó chắp tay chào hành khách nơi cửa. Một cử chỉ lịch sự văn hóa lễ phép thân thương.
Có những ông bà cha mẹ dẫn con cháu còn nhỏ vào thánh đường, họ dậy cho con cháu mình chắp đôi tay lại trước ngực cung kính. Một hình ảnh tỏ hiện nét đẹp đơn sơ rất dễ thương cùng rất sống động.
Có những nơi khi lên rước lễ, người tín hữu Chúa Kitô chắp tay lại, nhất là trước tòa Đức Mẹ hay các Thánh, họ chắp tay thành khẩn cầu nguyện. Một hình ảnh toát ra nét vẻ thanh thoát của lòng đạo đức khiêm nhường.
Từ những ngày bệnh đại dịch do vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm trong đời sống. Để giữ gìn sức khoẻ cho mình và cho nhau, mọi người không thể bắt tay đụng chạm nhau khi gặp nhau. Thay vào đó họ chắp hai tay lại hơi cúi mình chào nhau.
Hình ảnh cử chỉ chắp tay chào nhau lúc này vừa lịch sự lễ phép, vừa thể hiện nét đẹp văn hóa cao thượng cùng thanh lịch tao nhã, vừa giữ được vệ sinh khoảng cách tránh không để cho vi trùng lây lan sang nhau, cử chỉ này cũng làm cho khoảng cách giữa nhau trở nên sống động không còn dè chừng xa nhau về tinh thần. Và nó cũng nói lên tâm tình thâm sâu đạo đức lòng kính trọng thân thể cùng sự sống của nhau.
Vì thân thể, sự sống mỗi người không do con người chế biến sản xuất làm ra. Nhưng là ân đức, là qùa tặng cao qúi đẹp cùng linh thiêng, mà Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa tạo dựng ban cho con người, như Kinh Thánh thuật lại:
“ Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,
Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. : ( Sách Sáng Thế 1,27).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Vi trùng Corona, một „ Mane thecel fares - Mene mene tekel u-parsin (מנא ,מנא, תקל, ופרסין)“ ?
- Kinh Đức Mẹ mân côi
- Thánh Phanxico, vị thánh sống hòa mình với thiên nhiên.
- Quis ut Deus - Ai bằng Thiên Chúa
- Kinh truyền tin
- Lòng khoan dung nhân hậu
- Rửa tay giữ vệ sinh
- Nhu cầu cần có nước
- Chị em Hội các Bà Mẹ Công giáo yêu qúi,
- Chìa khóa đóng mở cửa