Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
18/10 – KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO. "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân".
- Viết bởi Giáo Phận Long Xuyên
Lời Chúa: Mt 28, 16-20
Bài kết thúc Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mátthêu.
Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: "Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thày. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thày đã truyền cho các con. Và đây Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".
Các bài suy niệm
* CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Is 53,10-11; Dt 4,14-16; Mc 10,35-45
* CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO
Lời Chúa: Is. 2, 1-5; 1Tm. 2,1-8; Mt. 28,16-20
* CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN
1. Làm lớn
Qua đoạn Tin Mừng nay, chúng ta thấy rõ được cái tham vọng của Giacôbê và Gioan, đó là cái tham vọng xôi thịt, muốn được chia chác chức vụ nọ chức vụ kia, một khi Chúa Giêsu thành công trong việc giải phóng dân Israel khỏi sự kìm kẹp của đế quốc Lamã, dẫn đưa quê hương này tới một thời đại hoàng kim. Cái nhìn của các ông là một cái nhìn trần tục và ước mơ của các ông là ước mơ được làm lớn trong địa hạt chính trị. Nhân cơ hội này Chúa muốn dạy cho các tông đồ và tất cả những ai muốn làm chính trị một bài học. Người bảo: Trong các nước, những người làm lớn thường sai khiến dân chúng như ông chủ, họ lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con, không được như thế, ai trong các con muốn làm lớn thì hãy tự làm đầy tớ anh em và ai muốn cầm đầu giữa các con, thì hãy trở nên tôi tớ cho mọi người. Vì chính Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng đến để phục vụ và ban mạng sống làm gái cứu chuộc cho nhiều người.
Quan niệm của Chúa Giêsu thật gần với quan niệm của Nho giáo và hai quan niệm này thì lại khác xa tâm địa của nhiều người, coi làm chính trị là một kế sinh nhai, ăn trên ngồi trốc. Đúng thế, theo quan niệm của Nho giáo thì người cầm quyền chính trị là vua. Vua là người thay Trời để cai trị dân, nên được gọi là thiên tử, hay con của trời. Thế nhưng ông vua phải hành quyền như thế nào? Chữ Vương theo Hán tự, có ba nét ngang và một nét dọc. Ba nét ngang là chữ Tam, hay quẻ Càn, tượng trưng cho tam tài hay ba đạo, đó là thiên đạo, địa đạo và nhân đạo. Sổ dọc đứng giữa ngụ ý rằng vua là người thụ mệnh trời, đứng ra dung hoà ba đạo: trời đất và người, thành một mối duy nhất. Vì thế Khổng Tử đã nói: Nhất quán tam vi vương là thế.
Còn những người ra giúp vua trị an thiên hạ thì được coi như là con của nhà vua, vì vậy được gọi là quân tử. Người quân tử phải lấy sự học đạo của thánh hiền, tức là lấy sự tu thân làm căn bản. Muốn tu thân cho thành người đức hạnh, trước hết phải giữ tâm mình cho chính. Tâm đã chính rồi thì tự nhiên cái minh đức, hay là lương năng của mình sẽ thành ra mẫn nhuệ, lúc bấy giờ việc làm, cách xử sự sẽ điều hoà, hợp với đạo lý, thuận với thiên lý, tức là theo đúng lẽ trung dung vậy.
Trung dung được thì chính. Chữ chính cũng là chữ vương biến thể. Một bên ngang một bên dọc. Kẻ làm vua quan mà chính thì thiên hạ sẽ được thái bình trị. Cho nên mới gọi là chính trị. Vậy người làm chính trị phải ở cho chính. Nếu họ mà không chính, thì bên dưới sẽ loạn: Thượng bất chính hạ tất loạn. Bởi đó người xưa cũng đã bảo: Dục tri kỳ quốc, tiên tề kỳ gia. Dục tề kỳ gia, tiên tu kỳ thân. Có nghĩa là muốn trị quốc thì phải tề gia. Muốn tề gia thì phải tu thân. Hay nói một cách vắn gọn hơn, đó là: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Có nghĩa là phải tu thân, tề gia trước đã, rồi sau đó mới trị quốc và bình thiên hạ.
2. Phục vụ
Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy nổi bật lên tinh thần phục vụ.
Thực vậy, vì yêu thương nhân loại, Ngài đã xuống thế làm người và ở giữa chúng ta. Suốt quãng đời công khai, Ngài đã làm biết bao nhiêu phép lạ, cho kẻ què được đi, kẻ mù được sáng, kẻ phong cùi được lành sạch, hầu xoa dịu phần nào những đớn đau và bất hạnh. Chúng ta có thể nói về Ngài như sau: Đi tới đâu, Ngài liền thi ân giáng phúc tới đó.
Và sau cùng để cứu độ chúng ta, Ngài đã phải chịu chết trên thập giá, như lời Ngài đã xác quyết: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Chính Ngài cũng đã đúc kết về cuộc đời của mình: Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Đồng thời, Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài đi vào con đường dấn thân để phục vụ. Trong bữa tiệc ly vào buổi tối ngày thứ năm Tuần thánh, Ngài đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và nói: Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm. Nhưng nếu ta là Thầy và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Vậy chúng ta cần phải phục vụ và giúp đỡ người khác như thế nào?
Bác sĩ Tom Dolly, người đã từng hy sinh cả cuộc đời của mình giữa chốn rừng thiêng nước độc ở bên Lào, để giúp đỡ cho những người thiếu may mắn vào khoảng đầu thế kỷ này, đã nói như sau: Không ai quá nghèo đến độ không có một cái gì đó để trao tặng cho người khác.
Cũng vậy, dầu bất tài, xấu xí hay bệnh tật đến đâu chăng nữa, thì chẳng ai là một kẻ vô dụng cho người khác và cho xã hội. Như thế có nghĩa là ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng ta đều có thể thực hiện được những hành động bác ái yêu thương, phục vụ và giúp đỡ người khác.
Đúng thế, một người ăn xin ư? Họ có thể cho chúng ta một dịp để sống quảng đại và chia sẻ. Một kẻ tàn tật và đau ốm ư? Họ có thể mời gọi chúng ta sống cảm thông và nâng đỡ, đồng thời còn đặt ra cho chúng ta những câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời, của đau khổ và của sự chết. Một kẻ thù của chúng ta ư? Họ có thể đem lại cho chúng ta một cơ may để sống kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ.
Phải, bất kỳ ai cũng có thể ban tặng cho chúng ta một cái gì đó. Vấn đề là chúng ta có biết mở rộng cõi lòng để đón nhận hay không? Đồng thời chúng ta cũng phải tự vấn lương tâm xem chúng ta đã làm được những gì để phục vụ và giúp đỡ những người chung quanh? Chẳng hạn như một nụ cười, một ánh mắt, một sự lắng nghe, một lời nói cảm thông, an ủi và khích lệ.
Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ, mỗi việc làm của tình bác ái yêu thương sẽ là như một quà tặng mà từng giây từng phút, chúng ta có thể và phải đem đến cho người khác.
Giữa đám đông dân chúng đang dâng cúng tiền bạc tại đền thờ, đôi mắt Chúa Giêsu đã dừng lại nơi một bà goá nghèo hèn. Bà chỉ bỏ vào hòm tiền có một đồng xu, thế nhưng Ngài đã nhìn thấy giá trị to lớn của hành vi và đồng xu nhỏ bé ấy. Bởi vì dưới cái nhìn của Chúa, mọi sự dù nhỏ bé đến đâu chăng nữa cũng vẫn có giá trị của nó.
3. Ý nghĩa của sự đau khổ
(Lm Hồng Phúc)
"Vì Ngài trải qua thử thách"
Các bài phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa sự đau khổ trong chương trình cứu chuộc. Bốn câu thi văn của Isaia về người Tôi tớ đau khổ là chóp đỉnh của Cựu ước, là mạc khải ý nghĩa của sự đau khổ. Trước đây, người ta quan niệm sự đau khổ là hình phạt do tội lỗi. Đành rằng người phạm đến Thiên Chúa thì đáng lãnh nhận một hình phạt, nhưng rồi cả những ngươì trong trắng, các trẻ em vô tội và người công chính, các vị tử đạo cũng phải đau khổ. Người ta đi đến quan niệm rằng người công chính đau khổ có thể chuộc thay tội lỗi của người khác. Người Tôi tớ của Thiên Chúa chính là Chúa Giêsu đến, dùng sự đau khổ để cứu chuộc nhân loại.
Thánh Thư Hêbrêô gọi Chúa Giêsu là vị Thượng tế, "vì Ngài trải qua thử thách bằng đau khổ, thì Ngài có thể đáp ứng những ai chịu chử thách" (Hêb. 2,17). Ngài cũng là người anh em của chúng ta, vì Ngài cũng chia sẻ sự yếu hèn của chúng ta, khi nhận lãnh sự cám dỗ trên núi, khi lo buồn hấp hối trong vườn Cây Dầu: "Xác thịt thì yếu đuối" (Mt 26,41); "Nhưng nếu chén này không thể qua đi được mà con phải uống thì xin theo ý Cha" (c. 42). Với lời Fiat của Chúa Kitô, chúng ta có thể hiệp thông sự đau khổ của chúng ta làm giá cứu chuộc với Chúa vậy.
Phúc âm kể lại việc can thiệp của hai con của ông Giêbêđê, muốn được ngồi bên hữu và bên tả Thầy trong vinh quang. Việc đó đã gây bất bình cho các Tông đồ khác. Chúa Giêsu dùng dịp này để giải thích điều kiện làm lớn trong Nước Trời. Không có vấn đề nào lớn lao cho bằng vấn đề đau khổ. Vì sao đau khổ? Đây là câu trả lời của Chúa: Đau khổ là để phục vụ, một việc phục vụ công hiệu hơn cả. Cha Maximilien Kolbe đã hy sinh để cứu một người bạn tù khỏi chết phần xác thì Chúa Giêsu đã chết cho mọi người để họ được sống đời đời. Ngài nói: "Con người đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người". Phục vụ là cứu thoát, là dấn thân. Vì thế, trước ngày đi chịu nạn, Chúa đã quì dưới dân các Môn đệ, rửa chân cho họ và phán: "Chúng con hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu chúng con. Thầy ở giữa chúng con như một người tôi tớ".
Như vậy, chúng ta mới hiểu vai trò của quyền bính trong Giáo Hội. Quyền bính được trao cho ai là để người đó giúp đỡ anh em có phương tiện phát triển, là để phục vụ kẻ khác chứ không phải để cho mình tiến thân. Người nắm quyền bính tối thượng trong Giáo hội là người "đầy tớ trên mọi đầy tớ", servus servorum. Ngày này, không ai lại không biết Mẹ Têrêxa, thành Calcutta, một nữ tu Bác ái, áo trắng viền xanh, lặn lội với các chị em cùng dòng, để cứu giúp những người hấp hối nằm la liệt bên vỉa hè thành phố Calcutta, Ấn độ, để "cho họ được hưởng những giây phút hấp hối cuối đời xứng là một con người, trước khi chết". Trước đây, có một vị Sư Phật Giáo nói với Mẹ: "Tôi biết và yêu mến Đức Kitô lắm. Nhưng tôi ghét Hội thánh của Ngài. Nếu các chị làm điều các chị nói, có lẽ chúng tôi có thể gặp gỡ Hội thánh của Đức Kitô". Sau một năm làm việc với Mẹ, vị sư phát biểu: "Tôi đã quan sát. Bây giờ tôi thực sự tin các chị chỉ làm việc để phục vụ người nghèo và xấu số nhất. Chúng tôi sẽ dâng cho các chị một ngôi nhà trong khuôn viên Chùa chúng tôi để làm bệnh xá miễn phí".
Phục vụ người nghèo là phương cách làm cho kẻ khác biết Chúa và thương mến Giáo hội.
4. Phục vụ và hạnh phúc
(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Có chức quyền phải chăng là điều tốt nhất?
Dường như hầu hết mọi người đều nghĩ: giầu sang chức quyền, được người khác phục vụ, là điều đáng ao ước và làm người ta hạnh phúc! Thái độ của các tông đồ trong Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy như vậy. Gioan và Yacôbê mong ước được ngồi bên phải bên trái khi Đức Giêsu "lên ngôi", còn các tông đồ khác tức tối khi biết Gioan và Giacôbê "chơi gác" mình. Nếu các tông đồ khác không tham muốn như hai anh em Gioan và Giacôbê, chắc các ngài không đến nỗi phải tức bực như vậy.
Đức Giêsu không cho Gioan và Giacôbê điều các ông mong muốn, vì đó không là điều tốt cho hai ông: "các anh không biết điều các anh xin"! Và Đức Giêsu đã cho hai tông đồ Gioan và Giacôbê điều tốt hơn: "Chén thày uống các anh sẽ được uống", còn chuyện ngồi bên phải hay bên trái (không cần thiết cho hai anh) thì tùy Thiên Chúa Cha xếp đặt. Ngài sẽ xếp đặt cho ai Ngài thấy tốt nhất, tốt nhất cho người đó và tốt nhất cho cả Hội Thánh nữa.
Có nhiều điều chúng ta xin mà không được, vì điều đó không tốt cho chúng ta.
Phục vụ là hạnh phúc
Đứng trước thái độ của các tông đồ, Đức Giêsu đã gọi họ lại, dạy cho họ biết rằng người đời thì tìm được phục vụ, còn trong vương quốc của Ngài thì không như vậy: "ai muốn làm đầu thì phải làm tôi tớ phục vụ người khác".
Cảm nghiệm hạnh phúc khi phục vụ người khác, đó là một ơn mà ngay cả các tông đồ trong thời gian đầu tiên cũng chưa cảm nghiệm được. Ước gì con người hiểu rằng chính khi mình phục vụ, chính khi mình giúp người khác hạnh phúc, thì chính mình cũng được hạnh phúc.
Yêu thì hạnh phúc hơn là được yêu. Phục vụ thì hạnh phúc hơn là được phục vụ. Ai cảm nghiệm được điều này, thì không ai tước được hạnh phúc nơi họ. Đây là một ơn mà chúng ta cần xin cho nhau.
Phục vụ theo gương Đức Giêsu
Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng làm giá chuộc con người. Ngài trở nên giống con người mọi đàng, Ngài chia sẻ những giới hạn của con người. Có thể nói: ai bị cám dỗ thử thách như thế nào thì Đức Giêsu ít nhất cũng bị cám dỗ và thử thách như vậy.
Ngài trở thành tôi tớ phục vụ con người! Tại sao Ngài phải sinh trong chuồng chiên cừu nghèo hèn như vậy? Tại sao Ngài phải lang thang rong ruổi hết nơi này nơi kia để rao giảng Tin Mừng? Tại sao Ngài phải bữa đói bữa no? Tại sao Ngài phải ngủ bờ ngủ bụi "chồn cáo có hang chim trời có tổ nhưng con người không có chỗ tựa đầu"? Tại sao Ngài phải nói sự thật để phải chết? Tại sao bây giờ Ngài vẫn tự hủy nơi bí tích Thánh Thể? Tất cả là để phục vụ con người, để con người biết sự thật về Thiên Chúa, về tình yêu Thiên Chúa đối với con người đến độ nào. Và Ngài sẵn sàng chấp nhận tất cả, miễn là con người nhận ra sự thật, được giải phóng và hạnh phúc.
Phục vụ là thái độ của người tôi tớ. Tôi tớ không ra lệnh cho chủ, không đòi chủ làm theo ý mình, không đòi chủ phải tôn trọng mình, nhưng sẵn sàng làm tất cả để thực hiện ý chủ. Người tôi tớ là người sau khi phục vụ xong, phải luôn luôn coi mình là tôi tớ vô dụng (Lc.17, 10). Ai muốn làm lớn thì phải là người phục vụ người khác. Đức Giáo Hoàng vâng theo lời Đức Giêsu, nên coi mình là "tôi tớ của các tôi tớ". Tuy vậy, các môn đệ của Chúa phải phục vụ lẫn nhau: "Thầy đã rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau" (Ga.13, 14). Không ai được đòi người khác phục vụ mình, cũng như không ai được từ chối phục vụ. Thái độ đòi người khác phục vụ mình, cũng như từ chối người khác "rửa chân" cho mình, đều là thái độ của người kiêu ngạo, không phải là thái độ của môn đệ Đức Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn được đánh động bởi gương phục vụ của ai nhất? Về điểm nào?
2. Theo bạn, thái độ phục vụ đích thực đòi hỏi điều gì?
3. Bạn có cảm nghiệm hạnh phúc khi phục vụ người khác bao giờ chưa? Làm sao để bạn hoặc người khác cảm nghiệm hạnh phúc khi phục vụ?
5. Quyền hành để phục vụ
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Có chức có quyền là điều nhiều người mong ước, vì người có chức có quyền thường thống trị người khác và bắt người khác phục vụ mình; tuy nhiên theo Đức Giêsu, người lớn nhất phải là người phục vụ người khác, phải là người "nô lệ" người khác.
I. Chức quyền: điều nhiều người mong ước
Tiền của địa vị, giầu sang chức quyền, là những điều người đời vẫn tìm kiếm. Người có tiền của, có thể dùng tiền của để mua gần như được tất cả; người có chức quyền được người khác phục vụ, vì những người này có thể cho người ta điều họ mong muốn. Có những người có chức có quyền được hối lộ để họ cho người ta được quyền này quyền nọ, phép này phép kia, hầu những người này có thể làm được nhiều tiền hơn. Người có chức quyền thường được người ta trọng vọng, ăn trên ngồi trước. Có lẽ đó là những lý do nhiều người thích có chức vị quyền hành.
Các tông đồ khi theo Đức Giêsu cũng còn có tham vọng tương tự. Họ có ao ước lớn muốn giải phóng Israel khỏi ách thống trị của người Roma, nhưng cũng ao ước có chức có quyền. Điều này được thấy khi hai anh em Giacôbê và Gioan xin cho được ngồi bên tả bên hữu thầy khi thầy được vinh quang. Các tông đồ khác tức giận khi biết hai ông xin điều đó; sở dĩ vậy vì các ông cũng ao ước cùng một điều. Gioan và Giacôbê quá khôn nên muốn "qua mặt" các ông.
Đức Giêsu sẵn sàng cho hai môn đệ thân yêu được chia sẻ chén đắng và phép rửa của Ngài, nhưng còn việc ngồi bên tả bên hữu thì lại không thuộc quyền Ngài. Cái nhìn của Đức Giêsu về quyền hành chức vị khác người đời quan niệm rất nhiều. Với người đời, những người có chức có quyền được người khác phục vụ; còn đối với Đức Giêsu và cả những người theo Đức Giêsu, những người muốn làm lớn nhất giữa anh em mình, thì phải làm người phục vụ anh em, phải là tôi tớ anh em, phải là người "tùy thuộc" anh em để mưu lợi ích cho anh em mình.
II. Ai muốn làm lớn nhất phải là nô lệ của tất cả
Quyền hành đối với những người theo Đức Giêsu, không được dùng để trục lợi riêng cho mình như người đời thường làm, nhưng phải dùng để xây dựng, để làm tốt cho cộng đoàn. Với những thẩm quyền trong Giáo Hội, chẳng hạn như các cha xứ hoặc nơi những bề trên của các hội dòng, quyền bính là để phục vụ những thành viên trong giáo xứ hoặc cộng đoàn. Ai dùng quyền hành để bắt người khác phục vụ mình, là không sống theo lời dạy của Đức Giêsu, là không sống theo Đức Giêsu, và không là môn đệ đích thực của Ngài.
Trong Giáo Hội, có nhiều giáo xứ mà các tín hữu trong giáo xứ không phục tùng cha xứ, cũng có tu sĩ không phục tùng bề trên vì cho rằng bề trên không cai quản như người đại diện Thiên Chúa mà xử sự theo ý riêng của mình. Một người sống theo Đức Giêsu có lẽ cũng không buộc người khác phải vâng phục mình. Con người chỉ phải vâng phục Thiên Chúa thôi, và chỉ không vâng phục Thiên Chúa mới là tội thôi, còn con người với nhau, mình có khá gì hơn người khác mà đòi người ta tùng phục mình! Thiên Chúa đâu phải của riêng ai. Thiên Chúa đâu có thiên tư tây vị. Đâu phải chỉ mình có Thánh Thần còn người khác không có Thánh Thần! Đâu phải chỉ có những người có địa vị hoặc chức thánh mới có Thánh Thần! Đâu phải các tín hữu không có Thánh Thần! Kéo Thánh Thần về mình và "không cho" Thánh Thần hiện diện với người khác, là tội "ngăn cản" Thiên Chúa (mà đâu có ngăn cản được Thiên Chúa!).
"Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ" (Ga.20, 23). Quyền này được ban để tha tội; còn nếu người đó không có tội thì quyền này đâu được ban để buộc tội người ta. "Ai nghe các con, là nghe Ta" (), nhưng điều này đâu có nghĩa: ai không nghe các con là không nghe Ta. Khi những người có trách nhiệm ở trên tòa giảng dạy dỗ nhân danh Thiên Chúa, thì phải vâng phục họ, nhưng đừng bắt chước việc họ làm (Mt.23, 2-3). Tuy nhiên, nếu có một vị nào đã không dùng quyền hành để phục vụ dân Chúa, thì cũng không vì vậy mà phải liên minh chống lại họ. Hơn nữa, có chắc là họ dùng quyền hành để phục vụ họ không? Sao mình dám làm quan tòa mà phán xét họ. Thiên Chúa là Đấng thông biết tất cả, biết cả những gì kín ẩn, sẽ là Đấng phán xét chí công. Còn con người, có chắc gì những điều tôi biết về người đó là đúng, có chắc gì những gì tôi biết về người đó không nằm trong một "âm mưu" của một con người nào đó?
III. Phục vụ giúp người ta triển nở và hạnh phúc
Có lẽ những ai bận tâm về quyền hành nhiều, cũng là người thích quyền hành. Phải chăng nên là đừng bận tâm về quyền hành, hoặc nên tự do với quyền hành? Hãy phục vụ theo gương Đức Giêsu, phục vụ những con người cụ thể, làm tất cả những gì mình có thể làm được. Ai muốn có quyền để phục vụ, cứ để họ dùng quyền mà phục vụ. Những người không có quyền, cứ phục vụ như những người không có quyền. Cứ vâng phục lẽ phải, sẵn sàng vâng phục tất cả mọi người, cứ coi mình như nhỏ bé nhất để phục vụ, như vậy là theo gương Đức Giêsu. Bận tâm về những điều thuộc quyền bính làm gì! Đòi hỏi người khác phải làm điều này điều kia để làm gì! Tại sao họ lại phải làm theo ý tôi? Đâu phải chỉ những điều tôi cho là đúng mới là đúng!
Quyền hành không quan trọng bằng phục vụ. Nếu chọn giữa chức quyền địa vị và việc phục vụ, thiết tưởng tôi sẽ chọn việc phục vụ, vì phục vụ làm mình lại gần con người, làm mình có "trọng lượng thật" hơn, làm mình có công phúc hơn, làm mình triển nở và hạnh phúc hơn. Quyền hành địa vị so với việc phục vụ, là như tiếng thanh la vang dội, như phù vân giả tạo, như hình bóng so với cái thực. "Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và làm giá cứu chuộc nhiều người".
Tạ ơn Đức Giêsu, Ngài đã dạy con đường hạnh phúc đích thực cho con người. Phục vụ, là điều làm cho con người triển nở và hạnh phúc. Không có con đường nào tuyệt vời hơn con đường Đức Giêsu đã đi. Đức Giêsu đã tự hủy để phục vụ, để dạy con người bước đi theo Ngài; và một khi theo Ngài, con người sẽ tìm được bình an, triển nở, và hạnh phúc đích thực.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Địa vị chức quyền đem lại gì cho bạn? Nó có giúp bạn triển nở hơn không? Tại sao?
2. Bạn có nghĩ: phục vụ làm bạn triển nở và hạnh phúc hơn không? Tại sao?
3. Làm sao để một người hiểu rằng: phục vụ làm cho người phục vụ triển nở và hạnh phúc thật sự?
6. Con đường vương giả
(Lm Phạm Quốc Hưng)
Ước muốn làm lớn hay ước muốn được trở nên cao trọng luôn được ấp ủ trong nơi sâu kín của tâm hồn mỗi người chúng ta. Ai lại chẳng muốn làm lớn? Ai lại chẳng muốn trở nên cao trọng? Điều này là một thực tại phù hợp với bản tính con người, vì chúng ta là thụ tạo "linh ư vạn vật", được Thiên Chúa cao cả yêu thương tạo dựng theo giống hình ảnh của chính Người mà!
Điểm đáng lưu ý ở đây là điều gì làm cho chúng ta trở nên cao trọng thực sự? Đây chính là một trong những chủ đề được nhận thấy trong Phụng Vụ hôm nay.
Trong đời sống xã hội, người ta thường quan niệm việc làm lớn hay trở nên cao trọng luôn gắn liền với quyền bính, chức tước, danh vọng. Như vậy, làm lớn đồng nghĩa với việc được phục vụ, được ca tụng, được ngưỡng mộ. Biết bao người đã xử dụng mọi thời giờ, vận dụng mọi tài sức, chấp nhận mọi hy sinh và lắm khi không từ nan mọi thủ đoạn đê hèn để thực hiện ước muốn đạt được danh vọng, chức tước, quyền bính trong nhiều lãnh vực khác nhau: chính trị, kinh tế, văn nghệ, thể thao...và cả tôn giáo nữa!
Các môn đệ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu vì vốn nghĩ Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, Đấng Kitô, Đấng Thiên Sai và Đấng Thiên Sai đầy quyền bính trong lời nói và hành động. Như thế, chắc hẳn sẽ có ngày Người đạt tới một thứ vinh quang cao trọng nào đó, như Thánh Vương Đavít năm xưa chẳng hạn. Và chắc chắn họ sẽ được chia sẻ vinh quang với Người. Như để nắm chắc được phần thưởng tương lai, hai anh em con Ông Giêbêđê trong Tin Mừng hôm nay đã mạnh dạn đến bày tỏ với Chúa Giêsu ước muốn thầm kín xưa nay của họ: "Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy" (Mc10:37). Chúa Giêsu không trách mắng các ông vì sự mê muội của các ông, nhưng Người nhẹ nhàng hướng các ông về mầu nhiệm Thập Giá khi nói các ông: "Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng phép rửa Thầy sắp chịu không?" (Mc 10: 38).
Vốn có cùng ước muốn làm lớn theo lối thế gian như hai anh em con Ông Giêbêđê, mười môn đệ còn lại trong Nhóm Mười Hai nghe chuyện đó liền bực tức với hai ông. Chúa Giêsu nhân cơ hội này đã dạy các ông một bài học để đời, một bài học về con đường vương giả dẫn đến vinh quang đích thực, giúp người ta đạt được ước muốn làm lớn thực, trở nên cao trọng thực.
Đó là con đường Thánh Giá, con đường yêu thương được thể hiện qua tinh thần khiêm nhường phục vụ, xả kỷ vị tha. Đó là con đường mà chính Chúa Giêsu đã khai mở và bước đi đến cùng để cứu độ nhân loại, để trở thành Vua lòng mọi người, để trở thành gương mẫu tuyệt hảo cho mọi người bước theo. Người nói: "Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người" (Mc 10:42-45).
Hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu-Đấng Mêsia-được ngôn sứ Isaia đã diễn tả như Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa nơi bài đọc một: "Chúa đã muốn hành hạ Người trong đau khổ. Nếu Người hiến thân làm lễ vật đền tội, Người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ Người, ý định của Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của Người, Người sẽ thấy và sẽ được thỏa mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hóa nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ" (Is 53:10-11).
Tác giả Thư Gửi Tín Hữu Do Thái trong bài đọc hai cũng nhắc lại việc Đấng Cứu Thế đã vì yêu thương loài người mà gánh lấy mọi đau khổ thử thách để cứu chuộc chúng ta. Chính vì thế mà Người đã trở thành Vị Thượng Tế đem lại ơn cứu độ cho chúng ta: "Vì chưng, không phải chúng ta có vị Thượng Tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi" (Dt 4:15).
Theo cùng một tinh thần ấy, tác giả sách Gương Chúa Giêsu nhận ra rằng Thiên Chúa chính là Đấng phụng sự con người hơn là Đấng để cho người ta phụng sự khi viết: "Mọi của con có, mọi cái con dùng để phụng thờ Chúa thảy đều là của Chúa! Mà xét lại, chính Chúa đã phụng sự con nhiều hơn là con phụng sự Chúa. Kìa, trời và đất Chúa đã tạo nên để mưu ích cho người đời; chúng sẵn sàng luôn và ngày ngày thi thành mệnh lệnh Chúa. Hơn nữa, Chúa đã tổ chức nên sứ bộ thiên thần cũng vì nhân loại. Nhưng cái trỗi vượt hơn cả chính là Chúa đã tự hạ để phụng sự người đời, và Chúa đã tự đoan sẽ ban cả mình Chúa cho người đời nữa" (Q. III, Ch. #10).
Bàn về sự cao trọng của con người, Mẹ Terêsa Calcutta nói: "Bạn được dựng nên cho những điều cao cả hơn: để yêu và được yêu". Và Mẹ luôn tâm niệm: "Hoa trái của yêu thương là phục vụ" và "Yêu thương là trao ban đến đớn đau". Đó là lý do khiến Mẹ từ giả đời sống êm đềm của một nữ tu dạy học để tìm đến phục vụ những người cùng khổ bị bỏ rơi trên những khu ổ chuột ở Calcutta và lập nên Dòng Thừa Sai Bác Ai. Đó cũng là lý do khiến Thánh Đamien đang là một linh mục Dòng Thánh Tâm tráng kiện tình nguyện đến sống và phục vụ những người phong cùi ở đảo Molokai, và chia sẻ cả bệnh phong cùi với họ, chết giữa họ. Đó cũng là lý do biết bao tín hữu Chúa Kitô tiếp tục dấn thân âm thầm phục vụ tha nhân đến hy sinh chính mình, trong mọi môi trường trong mọi nơi mọi thời mà chỉ có Chúa mới có thể thẩm định đúng mức sự cao cả của tình yêu trong trái tim họ.
Trong tác phẩm Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy vọng, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận kể về chứng từ của cô Sophie Berdanska. Vì túng nghèo, cô phải đi làm thuê cho một gia đình Do Thái tên là Merston. Công việc của cô là chăm sóc mấy đứa con của ông chủ. Biết Sophie là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là cô "không được giảng đạo" cho con cái ông. Tối hôm ấy, Sophie lấy một miếng giấy nhỏ ghi ít chữ vào đó rồi bỏ vào huy chương ba cô trối lại và đeo vào cổ. Các con ông chủ nhiều lần đòi coi huy chương ấy, nhưng cô không cho. Nhờ sự chăm sóc tận tâm của Sophie, các con ông Merston càng ngày càng ngoan ngoãn giỏi giang. Ít năm sau, các con ông lần lượt đau nặng. Cô Sophie tận tình lo lắng phục vụ lũ trẻ, và chúng lần lượt được bình phục. Nhưng vì quá tận tâm lo cho chúng, Sophie kiệt sức và qua đời. Ít lâu sau, ông Merston tình cờ mở chiếc huy chương nàng để lại và đọc được hàng chữ trong mảnh giấy trong đó: "Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo trước mặt họ như một chứng tích hùng hồn". Chợt hiểu ra tất cả và cảm phục Sophie, cả gia đình Merston sau đó đã xin theo đạo! Sophie là người đã hiểu và bước theo con đường vương giả của Chúa Giêsu, đường yêu thương phục vụ, đường xả kỷ vị tha!
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ của tình yêu mỹ diệu. Xin Mẹ dạy con biết trung thành và vui tiến trên con đường vương giả của Chúa Giêsu, đường yêu thương phục vụ, đường xả kỷ vị tha, để đạt được vinh quang đích thực là được nên giống Chúa Giêsu, nên một với Người, và cảm hóa mọi người thiết tha yêu mến Chúa và Mẹ. Amen.
7. Hy tế
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Khi bước vào trong nhà thờ Công giáo, chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh đau thương của Chúa Giêsu Kitô chết treo trên Thánh giá nơi cung thánh. Thân mình Chúa trần trụi, đầu đội mạo gai, hai chân hai tay bị đóng đinh vào thánh giá, cạnh sườn bị đâm thủng, mình mẩy dính đầy máu và chết trong tư thế gục đầu xuống. Cái chết của Chúa thật bi thương. Những người tin vào Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế đã kính thờ bái lạy và ghi dấu thánh giá trên mình. Chúa đã hiến thân mình làm hy tế để giao hòa nhân loại với Chúa Cha. Của lễ hiến tế là chính thân xác của Chúa Giêsu. Chúa Kitô đã chết trên Thánh giá và đã sống lại vinh hiển đang ngự bên hữu Chúa Cha. Nhiều người không biết và không tin vào Chúa Kitô, họ không thể hiểu tại sao người Công giáo lại tôn thờ một Đấng, bị xem như là tội nhân của đế quốc Rôma đã phải xử tội tử hình.
Tiên tri Isaia đã tiên báo về Đấng sẽ đến, người tôi tớ trung tín và công chính sẽ chịu khổ hình để gánh tội: "Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ" (Is 53,11). Làm người ai cũng muốn sống an vui và hạnh phúc, chẳng mấy ai muốn đời mình bị đau khổ. Thực ra, chỉ có đau khổ mới hoá giải được khổ đau. Nếu chúng ta không gặp đau khổ, chúng ta không biết thế nào là vui sướng hạnh phúc. Nếu chúng ta không có đau đớn bệnh hoạn, chúng ta không biết mình đang an khang khoẻ mạnh. Người tôi tớ công chính đã lãnh chịu mọi thống khổ ở đời để biến đổi nó thành hoa trái tốt lành của ơn cứu độ.
Người Tôi Trung của Tiên tri Isaia là hình ảnh của Đấng Được Xức Dầu, Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã chấp nhận thân phận con người yếu đuối, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chọn con đường thánh giá để giao hoà. Thư gửi tín hữu Dothái đã viết: "Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội" (Dt 14,15). Con đường Chúa đi là con đường ngược chiều, có nhiều đau thương và chông gai. Thư Dothái gọi Ngài là Thượng Tế để gắn kết với hy tế mà chính Ngài đã hiến dâng. Hy lễ đền tội cho nhân loại hiến dâng lên Thiên Chúa Cha một lần là đủ.
Câu truyện trong bài Phúc Âm rất tuyệt vời. Thánh Marcô rằng hai anh em ông Giacôbê và Gioan đến gần Chúa và thưa: "Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy". Sự khẩn cầu của hai ông cũng giống như sự cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Mở lời cầu xin, nếu nhận được ơn ngay, thì dễ dàng quá. Ai cũng có thể cầu xin được. Chúa Giêsu vạch rõ con đường mà mỗi Kitô hữu phải đi qua: Đức Giêsu nói: "Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?"(Mc 10,38). Không trải qua đắng cay thử thách, chúng ta không thể đạt được triều thiên vinh quang. Chúa Giêsu đã thẳng thắn trả lời cho hai ông và các Tông đồ về cách sống đạo. Muốn được hưởng vinh quang, các ngài phải uống chén đắng mà Chúa sắp uống. Có nghĩa là phải sống, phải tu luyện, phải phấn đấu trường kỳ và phải chịu mọi thử thách gian nan trong niềm tin.
Ngày nay, có những phong trào đưa dẫn nhiều người đi qua con đường tắt. Họ mở ra cho thấy hào quang thánh thiện hiện diện ngay trong đời sống mà không cần phải trải qua tu luyện và thử thách. Cứ đến mà xin, xin gì được nấy. Không phải tốn phí tiền bạc, thuốc thang, thời gian trị liệu hay phải hy sinh từ bỏ điều gì. Kiểu hành đạo quá nhẹ nhàng, dễ dãi và thoải mái, ai mà không mến chuộng. Có nhiều người quan niệm rằng chúng ta cứ tụ nhóm đọc kinh cầu nguyện và xin ơn chữa lành, Chúa sẽ ban cho tất cả. Trong khi đó chúng ta chối từ chén đắng của sự hy sinh, từ bỏ, sám hối, tránh tội, kiêng cữ và hãm mình. Chúng ta chỉ muốn thực hành đạo tại chỗ nơi hội họp và xin đừng nhắc đến đời sống riêng tư lầm lỗi. 2.000 năm trước, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh các Tông đồ về hành trình theo Chúa. Các ngài phải qua thánh giá và đau khổ để bước vào vinh quang.
Chúa Giêsu rất hài lòng với câu trả lời của hai ông: Các ông đáp: "Thưa được". Đức Giêsu bảo: "Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu"(Mc 10,39). Chúa Giêsu đã uống chén đắng qua tất cả những khổ đau mà Ngài phải chịu. Chúa bị người đời ruồng bỏ, chống đối, tẩy chay, khinh dể, nhạo báng, đánh đập, xô đẩy, khạc nhổ, la hét, phản bội, chối từ, đóng đinh và chết trên thập giá. Chúa chấp nhận tất cả như người tôi tớ trung tín để cảm thông mọi nỗi cơ cực của con người. Hai Tông đồ Gioan và Giacôbê đã đi trọn con đường theo Chúa. Tông đồ Giacobê là người đầu tiên trong mười hai tông đồ đã đổ máu đào làm nhân chứng cho Chúa Giêsu đã chết và sống lại. Thánh Gioan đã một đời rao giảng về tình yêu của Chúa và tín trung cho đến giây phút cuối cùng.
Tin vào Chúa là bước theo con đường Chúa đã đi. Chúng ta không thể đi theo con đường tắt để đạt vinh quang. Con đường vắn gọn, thư thái nhẹ nhàng chỉ là bánh vẽ và ảo tưởng. Muốn hành đạo tốt, chúng ta phải bước xuống: "Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em"(Mc 10,43). Sống đạo phải khởi đi từ trái tim yêu thương. Chúa Giêsu đã trải nghiệm kiếp người trong khiêm hạ phục vụ. Chúa là Thầy và là Chúa đã quỳ xuống, lấy nước rửa và lau chân cho các môn đệ. Chúa đã không loại trừ một ai, cho dù Chúa biết có những đôi bàn chân không xứng đáng. Chúa đã hạ mình xuống tận cùng để lãnh nhận công việc của người tôi tớ. Từ đáy vực thẳm thấp hèn, Chúa đã nâng con người lên làm bạn hữu và được đồng thừa tự vinh quang trong Nước Chúa.
"Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người"(Mc 10,44). Lấy tinh thần phục vụ để làm thước đo giá trị đời mình. Phục vụ trên môi miệng thì rất dễ dàng nhưng phục vụ qua hành động mới mang giá trị. Đôi khi thực hành một việc rất nhỏ nhưng có giá trị lớn. Tự hỏi: Ai là người tôi tớ phục vụ trong mái ấm đời sống gia đình? Phải chăng là người mẹ. Mẹ không than van hay quản ngại việc gì, dù bề bộn khó khăn, bẩn thỉu và dơ dáy. Hằng ngày mẹ lau chùi nhà vệ sinh, quét dọn nhà cửa, rửa ráy từng cái ly, cái chén mà chồng con đã vô ý chất chồng trong bồn rửa. Có khi người bố và các con nghĩ rằng đã có người làm việc trong nhà, nên cứ việc bừa bãi. Người mẹ cứ phải nai lưng chịu đựng (after you). Trong đời sống chung, chúng ta đừng quá ỷ lại vào người khác. Mỗi người có thể góp phần phục vụ lẫn nhau, có đi có lại mới toại lòng nhau.
Chúa Giêsu mở con đường phục vụ trong khiêm hạ: "Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người"(Mc 10,45). Một lời mời gọi phục vụ chân tình đối với tất cả các phẩm trật trong Giáo Hội. Đặc biệt trong các giờ phụng vụ thánh lễ và các nghi lễ, linh mục và các thừa tác viên có những trách nhiệm và bổn phận riêng phải chu toàn. Chúng ta hãy ý thức tôn trọng lẫn nhau, đừng dẫm chân lên nhau, đừng lớn tiếng phàn nàn, đừng tỏ thái độ cau có và xúc phạm danh dự của nhau. Chúng ta cùng đến để phục vụ cộng đoàn, chứ không phải được phục vụ.
Lạy Chúa, con đường Chúa đã đi xưa là con đường khổ giá, khiêm tốn và phục vụ, xin cho chúng con biết dõi theo lối gót của Chúa để cùng xả thân hy sinh phục vụ tha nhân.
8. Thưa được
(Lm Trịnh Ngọc Danh)
Cách đây vài tuần, chúng ta đã nghe Chúa tiên báo lần thứ hai về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải qua; và qua lần tiên báo ấy, Ngài cũng đã hứa với các môn đệ là Ngài sẽ cho họ được ngồi trên ngai để xét xử mười hai chi tộc Israen; và các ông vẫn cứ đinh ninh rằng Chúa sẽ làm vua thống trị và họ sẽ được một chức vụ nào đó, nên dọc đường, các ông đã tranh cãi với nhau xem ai là người lớn hơn cả.
Trên đường lên Giêrusalem lần này, hai con ông Giêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Chúa và nói: "Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây". Ngài hỏi: "Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?" Các ông thưa: "Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang".
Việc hai anh em con ông Giêbêđê xin được ngồi bên tả bên hữu Chúa, một lần nữa, lại gây ghen tức giữa các môn đệ, lại tranh giành địa vị xã hội vào ngày mà họ nghĩ Thầy sẽ lập vương quốc ở trần thế!
Đúng như lời Thầy khiển trách: ""Các anh không biết các anh xin gì!"
Gián tiếp Chúa cũng cho các ông biết: anh em lấy tư cách gì để xin ngồi bên tả, bên hữu Thiên Chúa! Ngồi bên tả hay bên hữu là việc Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được; "Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?"
Đây cũng là lần tiên báo thứ ba về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải chịu.
Hai ông dám công khai xin cho được ngồi bên hữu, bên tả Chúa kể ra cũng là một lời xin lộ liễu trước mặt các môn đệ khác, và tuy chẳng hiểu chén mà Thầy sắp uống, phép rửa mà Thầy sắp chịu là gì, nhưng hai ông vẫn quả quyết: "Thưa được".
Có lẽ lúc bấy giờ hai ông "Thưa được" là để cho qua chuyện, nhưng về sau, lời quả quyết ấy đã trở nên sự thật. Hai ông đã uống chén đắng như Thầy đã uống và đã chịu phép rửa như Thầy đã chịu: Vào năm 44, thánh Giacôbê đã chịu tử đạo dưới thời vua Agrippa đệ nhất. Còn thánh Gioan bị bỏ vào vạc dầu sôi, nhưng được cứu thoát nhờ phép lạ; và cuối cùng ngài cũng chết anh hùng sau những tháng ngày sống lưu đày trên đảo Patmô.
Giacôbê và Gioan xin cho họ được ở vị trí cao nhất trong vương quốc của Chúa. Họ chỉ nghĩ đến mình nên gây bực tức cho người khác. Hai ông là biểu tượng cho những khát vọng trần thế: điạ vị xã hội, danh lợi, quyền thế, vinh quang, thống trị; đó là khát vọng của người đời.
Thực ra "ai ước mơ được làm thủ lãnh, là mơ ước một điều tốt lành" (1Tm. 3,1); Trong bất cứ tổ chức, tập thể nào cũng cần có người lãnh đạo. Chúa cũng không hủy bỏ vai trò của người đứng đầu, người thủ lãnh; nhưng làm thủ lãnh, làm đầu để phục vụ người khác thì khác với tinh thần làm lớn để người khác phục vụ mình.
Chúa Giêsu đưa ra hai mẫu người làm lớn, người cầm đầu thiên hạ, người thủ lãnh: mẫu người thứ nhất dùng uy quyền để thống trị và cai quản dân, mẫu người thứ hai đối nghịch với mẫu người thứ nhất là phục vụ và là đầy tớ của mọi người:"Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người".
Mẫu người làm thủ lãnh theo yêu cầu của Chúa Giêsu là phục vụ và làm đầy tớ người khác.
Có ông vua nào trên trần thế này quì xuống mà rửa chân cho các gia nhân trong triều không?
Có người nào giàu nhất thế giới mà chịu sống cảnh không cửa, không nhà, không có gối đầu để tìm đến những người nghèo khổ không?
Có vị thủ lãnh nào dám hy sinh mạng sống mình để cứu muôn người không?
Có vị thủ lãnh nào, bị nghiền nát, chịu kiếp sống lao đao, bị liệt vào hàng ngỗ nghịch vì hạnh phúc của con người không?
Thưa có. Vị vua ấy, vị thủ lãnh ấy là Vua Giêsu Kitô.
Thánh Paulinô, Giám mục thành Nôla ( 353-431), sau khi thu xếp xong việc gia đình, từ bỏ chức lãnh sự ở Rôma, đã sống một cuộc đời tu đức khổ hạnh và làm đến chức Giám mục. Khi quân Goths chiếm đóng xứ ngài và bắt nhiều người làm nô lệ, ngài đã bán tất cả gia sản để nuôi người nghèo và chuộc nhiều kẻ nô lệ trong số đó. Tới lúc quân Vandales tiến đến, ngài không còn gì để bán nữa nên đã hy sinh chính bản thân mình, đi làm nô lệ thay cho con trai của bà góa và bị điệu sang Phi châu. Mãi lâu sau, ngài được trả tự do và trở về lại giáo phận Nôla của ngài trước niềm hân hoan cảm phục của mọi giáo hữu.
Ngoài ra, nhân dịp này Chúa còn dạy các môn đệ một bài học sâu xa về lòng khiêm nhường phục vụ mà người thủ lãnh, người cầm đầu cần phải có.
Bất cứ ở địa vị nào, chúng ta cũng có thế phục vụ người khác; nhưng người ở địa vị có quyền lực cao là người có nhiều điều kiện và cơ hội để phục vụ người khác hơn. Quyền bính phải đi đôi với phục vụ và làm đầy tớ mọi người. Người đứng đầu lại là người rốt hết. Người có quyền lực lại là người phục vụ kẻ khác, người tôi tớ của mọi người. Vị trí vai trò đảo ngược trong Vương quốc của Thiên Chúa! Chúa đời hỏi người làm lớn, người có địa vị, quyền lực phải chấp nhận uống chén Thầy đã uống, chịu phép rửa Ngài đã chịu khác với quan niệm của thế nhân là người có quyền lực áp bức người yếu thế, người giàu sang cai trị, bắt nạt người nghèo khó.
Câu hỏi Chúa Giêsu nêu lên cho hai môn đệ Giacôbê và Gioan cũng là câu hỏi Chúa đặt ra cho mỗi người chúng ta: "Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?"
Chén mà Thầy sắp uống là chén đau khổ trong vườn cây dầu: " Lạy Cha, nếu có thể, thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng không theo ý Con một theo ý Cha mà thôi"; và phép rửa Thầy sẻ chịu là phép rửa bằng máu, là cái chết đau thương trên Thập gía. Tóm lại, chúng ta có sẵn sàng chịu đau khổ với Chúa không?
Có lẽ chúng ta cũng "Thưa được" với Chúa, nhưng lại sống khác đi. Miệng chúng ta quả quyết mạnh mẽ là sẽ uống chén Chúa đã uống, sẽ sẵn sàng chịu phép rửa Chúa đã chịu, nghiã là vác lấy Thập gía theo Chúa, nhưng có thể trong thâm tâm chúng ta lại mong muốn có một cây Thập giá nhẹ nhàng, tiện lợi theo ý riêng của mình hơn là vác lấy Thập giá theo thánh ý của Chúa gởi đến cho mình.
Có lẽ chúng ta cũng đã "Thưa được" với Chúa, nhưng vẫn còn e dè tránh né chén và phép rửa Chúa đã đi qua. Chúng ta nói tới chứ chưa dám dấn thân thực sự vào, dầu Chúa đã tạo cho chúng ta nhiều cơ hội trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
Làm đầu hay làm người hèn mọn trong Nước trới đều là môn đệ của Chúa, đều được mời gọi phục vụ tha nhân đến quên mình, đến hy sinh mình. Không biết chúng ta đã đổ được bao nhiêu giọt mồ hôi cho Chúa, nói chi đến uống chén của Chúa, chấp nhận cuộc thanh tẩy của Chúa!
Chúa cho tôi một chỗ đứng trong Giáo hội, trong cộng đoàn, dầu chỗ đứng ấy lớn hay nhỏ, hãy lợi dụng nó để phục vụ anh em.
Chén đời sống của chúng ta có chén cay đắng, chén ngọt bùi, chén khó khăn trong việc đi theo Chúa là hy sinh và phục vụ người khác. Ai chia sẻ với Chúa chén cay đắng của Thập giá thì cũng sẽ chia sẻ với Ngài sự vinh quang Phục sinh.
9. Hơn thua
(Lm. Anmai)
Sống không hơn thua, không tranh giành chắc không thú vị hay sao đó?
Hôm nay, chúng ta lại bắt gặp câu chuyện tranh giành và những người tranh giành không ai khác đó chính lại là những người thân cận, những môn đệ thân tín của mình.
Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến gần Chúa Giêsu và thưa với Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con muốn Thầy ban cho chúng con điều chúng con sắp xin Thầy". Nghe xong, Chúa Giêsu hỏi luôn: "Các con muốn Thầy làm gì cho các con?" Các ông nghe thế cũng thưa lại ngay: "Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy".
Chúa Giêsu hết sức bình thản và từ tốn nới với các ông: "Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?" Nghe như thế, tưởng sẽ được Chúa ban cho điều mình xin nên đáp ngay: "Thưa được". Chúa Giêsu bảo: "Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định".
Các ông có lẽ buồn thiu trước lời của thầy mình. Tưởng chừng với hai tiếng thưa được đó các ông cũng được điều mà các ông xin.
Sau đó, Chúa Giêsu gọi các ông lại gần mà bảo: "Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người".
Chúa Giêsu, có lẽ nhân cơ hội này muốn mời gọi các ông nhìn lại con đường của các ông theo Chúa. Con đường theo Chúa không phải là con đường vinh quang mà là con đường thập giá.
Trang sách ngôn sứ Isaia cho chúng ta hình ảnh của người tôi tớ đau khổ. Hình ảnh người ngôn sứ đó là Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định của Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của người, người sẽ thấy và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ.
Chắc có lẽ không cần phải nói nhiều, chúng ta phần nào thấy được cuộc đời của các ngôn sứ và cách riêng với ngôn sứ Isaia. Phải nói là quá đau khổ chứ không phải là đau khổ bình thường nữa. Thế nhưng mà, qua đau khổ đó, Chúa Giêsu cứu độ con người.
Trong thư Do Thái chúng ta vừa nghe, chúng ta lại bắt gặp một lần nữa hình ảnh, thân phận của Chúa Giêsu: Anh em thân mến, chúng ta có một Thượng tế cao cả đã đi qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Vì chưng, không phải chúng ta có vị Thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Vậy chúng ta hãy cậy trông vững vàng mà tiến đến trước toà ân sủng, ngõ hầu lãnh nhận lòng từ bi và tìm kiếm ân sủng để gặp được ơn phù trợ kịp thời.
Đây là chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian! Thánh Gioan đã hơn một lần giới thiệu với mọi người, giới thiệu với chúng ta về Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đến trong thân phận con người, Ngài đồng thân đồng phận để thông cảm sự yếu đuối của con người và thậm chí Ngài còn chịu những thử thách hết sức nghiệt ngã ngoại trừ tội lỗi để cứu con người tội lỗi của chúng ta.
Hành trình lịch sử, dòng lịch sử cứu độ đã để lại cho chúng ta bài học hết sức rõ ràng về vị ngôn sứ thời đại là Chúa Giêsu.
Quá nhiều lần, chúng ta đã than trách Chúa đủ thứ điều này điều kia hết. Và rồi, khi không được như điều mà ta xin thì ta lại quay quắt với Chúa.
Ngày hôm nay, nếu có mặt ở đây với ta, Chúa Giêsu cũng sẽ hỏi ta là ta có uống được chén đắng mà Chúa đã uống hay không? Có đi qua con đường thập giá như Chúa đã đi không?
Bao nhiêu lần chúng ta đau khổ với Chúa, bao nhiêu lần chúng ta cũng đã hát thật to rằng con xin theo Chúa đến giây phút cuối cuả cuộc đời nhưng rồi ta có theo thật hay không? Hay là chúng ta cũng chỉ hát ngoài môi ngoài miệng thôi.
Con đường đau khổ mà Chúa đang gửi đến cho chúng ta, chúng ta bình tâm nhìn lại thử xem? Chúng ta hạnh phúc hơn quá nhiều người nhưng chúng ta đâu có cảm nhận ra cái hạnh phúc đó để rồi chúng ta càm ràm thế này thế nọ. Và, có những đau khổ do chính chúng ta gây ra nhưng chúng ta không biết đó thôi.
Nhìn lại từ gia đình, từ bản thân chúng ta, Chúa ban cho qua nhiều nhưng rồi chúng ta không nhận ra để rồi cứ mãi ganh tỵ với anh chị em đồng loại thôi. Cũng chỉ vì ganh tỵ mà ngay trong chính gia đình của chúng ta mới xáo trộn.
Chúa Giêsu đã đến trong trần gian này để gánh tội cho chúng ta rồi, xin đừng chất thêm tội trên cuộc đời của Ngài nữa. Hãy bớt đi những lầm lỗi của chúng ta để Ngài bớt đi gánh nặng của chúng ta.
Nhiều lúc, do vô tình hay cố ý, chúng ta lại chất thêm gánh nặng cho anh chị em đồng loại của chúng ta.
Xin cho chúng ta trong sâu lắng của lòng mình, bớt đi những tôi lỗi, bớt đi những yếu đuối để làm bớt đau khổ cho Chúa. Và nếu có, xin Chúa thêm ơn cho chúng ta để chúng ta vác thập giá mà Chúa gửi cho đến hơi thở cuối cùng.
10. Đầy tớ và nô lệ.
('Manna')
Ghế tượng trưng cho địa vị, quyền lực và quyền lợi, nên ghế là nỗi ám ảnh của nhiều người.
Ghế trưởng phòng, ghế giám đốc, ghế đại biểu... Tất cả nỗ lực dồn vào việc có một ghế, sau đó là giữ ghế, hay tìm cách lên ghế cao hơn. Ngay cả những người đã bỏ mọi sự để theo Chúa cũng bị ám ảnh bởi những chiếc ghế danh dự.
Chính lúc Đức Giêsu nói đến cái chết gần kề của mình, thì Gioan và Giacôbê lại xin được ngồi hai bên tả hữu. Có vẻ họ không bắt được tần số của Thầy!
Thanh tẩy mình khỏi tội lỗi không khó lắm. Nhưng thanh tẩy mình khỏi nhân đức và công trạng của mình thì khó hơn bội phần.
Hai môn đệ đã từ bỏ những điều rất cao quý, nhưng bây giờ lại muốn kiếm chút lợi lộc từ chính sự từ bỏ và phục vụ của mình.
Họ dám lên tiếng đòi hỏi Đức Giêsu: "Chúng con muốn Thầy làm cho chúng con điều chúng con xin." Thái độ bực tức của mười môn đệ còn lại có thể bắt nguồn từ một sự ganh tỵ ngấm ngầm. Nhiều môn đệ cũng ước mơ hai ghế tả hữu.
Đức Giêsu kéo hai ông ra khỏi tham vọng và đam mê để đưa họ trở về với thực tại gai góc sắp đến. Họ muốn được chung phần với Ngài trong vinh quang, nhưng liệu họ có dám chia phần với Ngài trong đau khổ? Uống chung chén đắng Thầy sắp uống, chịu chung phép Rửa Thầy sắp chịu là chấp nhận bị dìm sâu xuống dòng nước khổ đau.
Thật ra được ngồi hai bên tả hữu Thầy trong vinh quang đâu phải là phần thưởng để trả công cho người bền chí. Trung tín theo Chúa đến cùng đã là phần thưởng rồi.
Chúng ta không giữ đạo để đòi một chỗ thật cao, nhưng mong được ban một chỗ thật gần bên Chúa.
Người đứng đầu, người làm lớn, người có quyền thường dễ có thái độ thống trị, áp đặt, hống hách. Chức vụ và quyền lực trở thành phương tiện phục vụ bản thân. Đó là lối lãnh đạo dễ thấy nơi người đời.
Đức Giêsu không chấp nhận chuyện đó nơi Hội Thánh: "Nơi anh em thì không như vậy." Ngài đề xướng một lối lãnh đạo mới. Ai muốn làm lớn, làm đầu trong Hội Thánh phải trở nên đầy tớ và nô lệ cho mọi người.
Đức Giêsu mời chúng ta làm một cuộc cách mạng lớn, không phải chỉ là đổi ngôi, mà là đổi lòng. Tận diệt trong tim những tham vọng ăn trên ngồi trước. Đức Giêsu không ủng hộ một xã hội hay Giáo Hội vô tổ chức. Nhưng Ngài coi lãnh đạo là khiêm nhường phục vụ.
Phục vụ là động từ tóm kết toàn bộ đời Đức Giêsu.
Ngài đến trần gian để phục vụ, sống như người phục vụ, và chết như dấu chứng lớn nhất của phục vụ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Giêsu chết để chuộc ta khỏi cảnh nô lệ. Ngài tự nguyện trở nên nô lệ để giải phóng ta. Theo bạn, con người hôm nay vẫn nô lệ cho những điều gì? Đâu là những hình thức nô lệ mới của thế kỷ 21?
"Lãnh đạo là phục vụ". Câu này khá quen thuộc với chúng ta. Bạn nghĩ sống khẩu hiệu này có khó không? Tại sao?
Cầu Nguyện
Lạy Thầy Giêsu, Thầy không gọi chúng con là tôi tớ, Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ. Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy, vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con những điều riêng tư thầm kín nhất trong tương quan giữa Thầy với Cha. Hơn nữa, sau phục sinh, Thầy đã gọi các môn đệ là anh em. Mặc nhiên Thầy tự nhận mình là Anh Trưởng đứng đầu một đoàn em đông đúc. Xin cho chúng con luôn thi hành ý muốn của Cha để trở nên những người em cùng huyết nhục với Thầy.
Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy. Còn Thầy lại hạ mình xuống phục vụ chúng con như người tôi tớ rửa chân cho chúng con như một nô lệ và chết thay cho chúng con trên thập giá. Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.
11. Con Người đến để phục vụ
(Noel Quesson)
Martin Caphu là người Bangla thuộc Cameroun Phi Châu. Cha anh là quốc vương Bangla. Từ thiếu niên, anh đã quen với phong trào Tổ Ấm, một tổ chức Công giáo làm việc xã hội ở Phi châu. Thấy các thành viên Tổ Ấm xả thân giúp đỡ người đồng loại, anh Caphu rất cảm phục, và tới năm 1963, vào lúc mười bảy tuổi, anh xin trở lại Công giáo. Sau khi tốt nghiệp Trung học, anh được Gia đình gởi về Rôma học ngành điện tử. Đậu tiến sĩ điện tử xong, anh Caphu gia nhập phong trào Tổ Ấm.
Năm 1980, cha anh qua đời, và theo chúc thư, ông đã chọn Caphu kế vị ngai vàng. Caphu vội vã trở về Bangla, anh họp cả sắc tộc lại và xin mọi người đề cử người khác làm vua. Còn anh, anh muốn dành cả cuộc sống làm việc xã hội theo tinh thần Kitô giáo. Và mọi người đã đồng ý.
Trong cuộc sống trần gian, ai cũng muốn có danh vọng, và người ta thường xếp tiền tài danh vọng như một cặp bài trùng. Caphu đã từ chối ngai vàng để phục vụ Chúa đắc lực hơn. Còn Giacôbê và Gioan, hai ông lại tới xin Chúa cho một địa vị trong Nước Chúa, các ông hiểu đây là nước trần gian mà các ông nghĩ Chúa sắp thiết lập.
Nhân dịp này Chúa Giêsu cắt nghĩa cho các ông hiểu thêm về công việc của Người. Người là Chúa Cứu Thế, Đấng Cứu chuộc trần gian bằng đau khổ, bằng thập giá chứ không phải bằng một hoạt động chính trị, Chúa buồn rầu trách nhẹ các ông. Các con chẳng biết mình xin cái gì! Nhưng Chúa thấy các ông chân tình và nồng nhiệt, nên Chúa cũng hé mở cho các ông một vài nét về tương lai: Các con sẽ uống chén đắng Ta uống, và đắm mình trong phép rửa bằng máu như Ta. Còn việc ngồi bền tả hay bên hữu Ta thì lại là chuyện khác. Những lời này làm hai tông đồ hoang mang, nhưng về sau các ông sẽ hiểu và coi đó là một động cơ cho niềm tin trong hoạt động rao giảng Tin Mừng.
Đọc lại câu chuyện hai tông đồ, có lẽ chúng ta mỉm cười. Nhưng trong cuộc đời Kitô hữu, nhiều khi chúng ta cũng chỉ nhằm lợi ích, địa vị cho mình, chúng ta nghĩ tới một bảo đảm cho cuộc sống hiện tại và mai sau. Đáng lẽ chúng ta phải đặt Chúa làm trung tâm đời sống, chúng ta muốn thực thi lòng tôn sùng, muốn dâng lời cảm tạ ngợi khen và phó thác tin tưởng vào Chúa. Còn tương lai của ta hoàn toàn do Chúa xếp định. Đó mới là tâm tình của người con thảo sống bên Cha hiền.
Lời thỉnh cầu của Giacôbê và Gioan đã làm các tông đồ khác khó chịu, vì tất cả các ông đều cùng tâm trạng như nhau, dù chưa dám xin Chúa. Cho tới lúc đó chưa ai hiểu được tư tưởng của Chúa. Chúa đã nói về cuộc khổ nạn của Người tới ba lần (Mc 10, 32-34) với những lời lẽ rõ rệt: Con Người sẽ bị bắt nộp, sẽ bị xử tử, bị chế giễu, ngừơi ta khạc nhổ vào mặt, đánh đòn và giết chết... Trong lúc Chúa Giêsu tự chọn chỗ rốt hết, thì các môn đệ lại mơ màng danh vọng, lại nghĩ tới địa vị cao sang. Một lần nữa Chúa nói lại chủ trương của Chúa trong tổ chức Người. Khác hẳn mọi tổ chức trần gian, ở đây người nào muốn lãnh đạo phải là tôi tớ, ai muốn đứng đầu phải trở thành nô lệ cho mọi người. "Vì Con Người không đến để cho người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn dân". Đó là căn bản Hiến pháp của Giáo hội Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết noi gương Chúa, không màng tới địa vị cho mình, nhưng luôn dấn thân phục vụ anh em, như Chúa đã đến phục vụ và hy sinh cả mạng sống làm giá cứu chuộc chúng con.
12. Phục vụ.
Con Người đến để phục vụ.
Nhìn vào cuộc đời Chúa Giêsu, chúng ta thấy chính Ngài đã thực hiện lời giảng dạy của mình.
Thực vậy, với tinh thần phục vụ, Ngài đã xuống thế làm người, để giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ của tội lỗi. Với tinh thần phục vụ, Ngài đã thực hiện những phép lạ để xoa dịu nỗi đớn đau của những người mà Ngài có dịp tiếp xúc. Với tinh thần phục vụ, Ngài đã chấp nhận cái chết trên thập giá để cứu độ chúng ta khỏi án phạt đời đời.
Đồng thời, Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài thực hiện tinh thần phục vụ trong đời sống thường ngày. Ngài phán:
- Ai muốn làm lớn thì hãy trở nên rốt hết và làm tôi tớ cho mọi người.
Trong bữa tiệc ly vào buổi chiều ngày thứ năm tuần thánh, Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ để dạy cho các ông bài học khiêm nhường và phục vụ:
- Nếu Ta là Thày và là Chúa của các con, mà còn quỳ xuống rửa chân cho các con, thì các con cũng phải quỳ xuống mà rửa chân cho nhau.
Trải qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người đã thực hiện lời khuyên trên đây của Chúa Giêsu.
Phanxicô d'Assie, mặc dù thuộc về gia đình quyền quý và giàu sang, nhưng đã từ bỏ tất cả, để sống khó nghèo, trở nên một người anh em hèn mọn để phục vụ những người khổ đau.
Gần đây, một Kitô hữu Nhật Bản nổi tiếng, tên là Kagawa, cũng đã từ bỏ căn nhà tiện nghi, đến sống trong những khu tồi tàn vùng Tokyo, để chia sẻ chính bản thân và của cải mình cho những ai đang cần đến một sự giúp đỡ. Một tác giả đã viết về ông như sau:
- Ông đã cho đi tất cả quần áo của mình và chỉ mặc trên người chiếc áo thụng đã cũ. Lần kia, mặc dù đang ốm, ông vẫn tiếp tục đi dạy giáo lý dưới cơn mưa, ông lặp đi lặp lại không ngừng: Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu thì ở đó có Thiên Chúa. Trong một bức thư, chính ông đã viết như sau: Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất. Ngài hiện diện giữa những kẻ ăn xin, Ngài nằm chung với những bệnh tật. Ngài đứng về phe những người thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Chúa thì hãy đến thăm nhà tù trước khi đến nhà thờ, đến thăm bệnh viện trước khi tham dự thánh lễ. Hãy giúp đỡ người nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta phải làm gì để sống tinh thần phục vụ một cách thiết thực hơn? Chúng ta phải làm gì để trở thành những Kitô hữu đích thực trong chính gia đình và môi trường làm việc của mình?
Tất cả chúng ta đều có thể làm một điều gì đó, dù rất nhỏ bé và vô nghĩa, khởi đầu là cho những người thân yêu trong gia đình, rồi từ đó mở rộng việc phục vụ ra môi trường rộng lớn hơn. Còn nếu không khởi sự từ gia đình thì chúng ta cũng sẽ chẳng bao giờ khởi sự được ở bất cứ nơi nào khác.
Và để kết luận, chúng ta nên nhớ:
- Mỗi khi chúng ta phục vụ anh em, cho dù bằng những việc làm nhỏ bé và tầm thường nhất, thì đó cũng là chúng ta phục vụ cho chính Chúa vậy.
13. Khôn ngoan.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc hai ông Gioan và Giacôbê muốn ngồi hai bên tả hữu của Chúa Giêsu Kitô. Họ đang nghĩ đến chuyện thăng quan tiến chức. Họ cũng nghĩ rằng mình có khả năng và xứng đáng ngồi ở địa vị cao. Phản ứng của Chúa Giêsu là: "Các con không biết các con xin gì". Thay vì nói đến vinh quang và sung sướng. Chúa Giêsu nói với họ về việc chia sẻ "chén đắng" và "phép rửa" với Chúa. Chén trong Kinh Thánh là hình ảnh tượng trưng cho những đau khổ lớn lao. Còn phép rửa tượng trưng cho những lo âu, buồn sầu, đau đớn. Đây là những điều đang chờ đón người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.
Khi người môn đệ kia nghe biết thì đâm ra tức tối với hai ông, không phải vì họ khiêm tốn nhưng vì họ cũng muốn những điều tương tự như hai ông. Họ tức giận vì nghĩ rằng họ có đủ tư cách hơn hai ông Gioan và Giacôbê.
Có lẽ mỗi người trong chúng ta cũng bực mình với hai ông Giacôbê và Gioan, vì họ đầy tham vọng và ích kỷ. Nếu chúng ta có thái độ đó, là do chúng ta quên rằng mình cũng đang khiển trách y như họ. Chúng ta cũng đang làm những điều tương tự đối với những bạn đồng nghiệp của mình. Chúng ta cũng muốn vượt lên trên họ, bước lên họ mà đi, dùng họ như bàn đạp để thăng tiến bản thân mình. Chúng ta cũng muốn phục vụ, cũng muốn cho đi thời giờ, cống hiến tài năng và tiền bạc, bao lâu chúng ta có thể thu lại được một điều gì đó.
Rất ít người tự nguyện làm việc cho Giáo hội, bởi vì không được trả lương. Người làm việc phụ thuộc vào sự từ tâm của các giáo dân trong giáo xứ. Nhưng tạ ơn Chúa, vì cũng còn những người muốn chia sẻ tài năng ít ỏi của mình, thời giờ và tiền bạc cho công việc của Giáo hội. Đó là những bậc làm cha mẹ muốn giáo dục con cái theo các giá trị Kitô giáo, những giáo viên khơi dậy nơi học trò của mình lòng khao khát sống cho một lý tưởng cao đẹp, những y tá chăm sóc cho các bệnh nhân, và những người tình nguyện thăm viếng những người tản cư.
Lạy Chúa, xin cho con nhớ Chúa là Thầy, là Chúa nhưng Chúa đã hạ mình xuống để phục vụ tất cả mọi người.
14. Làm lớn.
Lắng nghe đoạn Tin Mừng hôm nay, tôi bỗng nhớ tới một vài câu đố, thoạt xem ra thì có vẻ vô lý, nhưng ngẫm nghĩ lời giải đáp thì lại thấy có lý.
Câu đố thứ nhất: cái gì càng kéo thì lại càng ngắn. Tôi xin thưa đó là điếu thuốc lá. Câu đố thứ hai: cái gì càng to lại càng bé. Tôi xin thưa đó là con cua.
Từ câu đố thứ hai này, tôi muốn đi vào tinh thần của lời Chúa:
- Ai muốn làm lớn thì phải trở nên kẻ hầu hạ. Còn ai muốn làm đầu, thì phải trở nên đầy tớ.
Như vậy có nghĩa là càng làm to thì càng phải sống bé nhỏ khiên tốn trong tinh thần phục vụ.
Suy đi nghĩ lại, tôi thấy lời Chúa hôm nay quả thật rất đúng cho mọi mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thời buổi nào cũng vậy, ngày xưa cũng như ngày nay. Thực vậy, bất kỳ chế độ nào cũng hô hào lấy dân làm gốc. Người công an cảnh sát là bạn của dân. Còn công chức cán bộ là nô bộc, là đày tớ của dân. Nhưng đó mới chỉ là những khẩu hiệu, việc thực hiện mới chỉ được phần nào, nếu không muốn nói là nhiều khi đã đi ngược lại với những lời hô hào kể trên.
Ngày xưa, ông vua làm đầu trong một nước. Vua phải tôn trọng dân, vì ý dân là ý trời, như người đời vốn thường bảo:
- Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Nghĩa là dân đáng quí nhất, tiếp đến là đất nước, rồi sau mới tới nhà vua.
Thế nhưng, nhiều ông vua đã không tôn trọng nguyên tắc ấy, cai trị dân như tên hôn quân bạo chúa, dùng pháp luật và quyền lực để áp chế dân, đúng như Chúa đã nói.
Còn ngày nay, những cán bộ và công nhân viên cấp lớn, cũng vốn tự xưng mình là bạn dân, là đầy tớ của dân, thế nhưng lại quan liêu hống hách, khiến cho người dân thấp cổ bé miệng phải khốn đốn khổ sở.
Nhiều kẻ vơ vét về cho đầy túi bằng tham nhũng hối lộ, theo kiểu làm quan để được vinh thân phì gia. Nhiều kẻ lợi dụng chức quyền để bênh vực hay đề bạt đàn em, gương cao ô dù theo kiểu: một người làm quan cả họ được nhờ.
Vì thế, trong những ngày gần đây báo Tuổi Trẻ cũng như nhiều báo khác đã có những bức biếm họa, những bài phiếm luận đượm mùi cay đắng, nói lên tình trạng trộn đảo lộn khác thường: đầy tớ thì đi xe con còn ông chủ thì đi xe lớn, đầy tớ thì quát tháo còn ông chủ thì đứng mà run...
Vì thế, cần phải đổi mới cách nghĩ và cách sống, nhất là cần phải bám sát vào tinh thần của lời Chúa. Càng làm lớn thì càng phải tỏ ra khiêm nhường và bé nhỏ trong tinh thần phục vụ. Chúa Giêsu đã nói và đã làm như vậy. Là Thiên Chúa, Ngài đã trở nên một người như mọi người và hơn thế nữa, Ngài còn vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta.
Trong ngày thứ năm tuần thánh, để nêu gương khiêm nhường và phục vụ, Ngài đã quì xồng rửa chân cho các môn đệ, như lời Ngài đã phán:
- Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người... Các con gọi Ta là Thày và là Chúa thì phải lắm. Nếu Ta là Thày và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Trải qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người đã thực thi lời Chúa, đã sống khiêm nhường và phục vụ anh em. Ngay cả đến Đức Thánh Cha, trong mọi văn thư chính thức, bao giờ cũng tự xưng là "Servus servorum" nghĩa là đầy tớ của các đầy tớ.
Chúng ta cũng vậy, dù nắm giữ chức vụ nào trong xã hội cũng như trong tôn giáo, phần đạo cũng như phần đời, chúng ta hãy sống khiêm nhường và phục vụ. Bởi vì như lời Chúa đã xác quyết:
- Ai muốn làm lớn thì phải trở nên kẻ hầu hạ. Còn ai muốn làm đầu thì phải trở nên đầy tớ.
Nghĩa là càng to, thì lại càng phải nhỏ.
15. Khiêm nhường phục vụ.
Trên đường đi lên Giêrusalem, một lần nữa, đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu lại loan báo cho các môn đệ về những đau khổ và cái chết Ngài phải chịu ở Giêrusalem. Lần này thánh Marcô không kể lại phản ứng của các môn đệ như thế nào, nhưng câu chuyện kể ra liền sau đó đã nói lên một cách sâu sắc rằng các ông vẫn chưa hiểu gì. Trái lại, các ông tưởng đâu Chúa sẽ ra đi làm vua thống trị, thì họ sẽ được những ghế cao trong nước Chúa, bởi vì trước đây vài tuần Chúa đã hứa là họ sẽ được ngồi trên ngai xét xử mười hai chi tộc Ítraen. Nhân câu chuyện này, Chúa Giêsu lại giảng thêm về ý nghĩa cái chết của Ngài và về cách thức làm môn đệ của Ngài.
Khởi đầu câu chuyện là việc hai anh ruột Giacôbê và Gioan đến xin Chúa Giêsu cho họ được ngồi hai bên tả hữu Chúa trong nước Chúa. Tức là hai ông muốn xin được địa vị cao trong nước Chúa khi Ngài được làm vua dân Do thái. Theo bài Tin Mừng thánh Marcô hôm nay thì chính hai môn đệ Giacôbê và Gioan xin Chúa Giêsu. Còn Tin Mừng thánh Matthêu lại cho biết: không phải hai môn đệ thỉnh nguyện mà là bà mẹ của hai ông đã đến thỉnh cầu cho hai con bà. Bà mẹ nào chẳng thế! Ai lại chẳng muốn cho con mình được chỗ tốt nhất, được vinh dự. Chúa Giêsu quá biết tâm lý tự nhiên của mỗi người: muốn được làm lớn, được vinh dự, được làm thủ lãnh sai bảo người khác. Chúa đã sửa bảo họ một cách tế nhị.
Trước hết, Chúa hỏi họ: "Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?" Hai ông vui vẻ và mau mắn trả lời ngay: "Thưa được". Chắc chắn lúc ấy hai ông chưa ý thức và chưa hiểu rõ thế nào là uống chén và thế nào là chịu phép rửa. Bởi vì ngay những tư tưởng về nước trời và vinh quang nước trời hai ông cũng chưa hiểu đúng, nên mới xin Chúa một cách đơn sơ được ngồi hai bên tả hữu Chúa.
Vậy "chén" và "phép rửa" Chúa Giêsu nói ở đây là gì? Trong Cựu ước, "chén" đôi khi cũng dùng để chỉ phúc thái ơn lộc, nhưng qua thời các ngôn sứ, "chén" thường được dùng để chỉ đau khổ, bất hạnh. Trong vườn cây dầu, Chúa Giêsu đã cầu nguyện: xin Chúa Cha cất chén đau khổ, nhưng đừng theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi. Còn "phép rửa" ở đây là cái chết đau thương của Ngài, đây là phép rửa bằng máu, cũng có nghĩa là đau khổ. Nói chung, điều kiện mà Chúa đòi hỏi hai anh em Giacôbê và Gioan là có sẵn sàng chịu đau khổ với Ngài không? Lúc ấy hai ông thưa được dù chưa hiểu, nhưng sự thật sau này hai ông đã uống chén và chịu phép rửa như đã cam kết với Chúa. Vào năm 44, thánh Giacôbê đã chịu tử đạo dưới thời vua A-gờ-ríp-pa đệ nhất, và là thánh tông đồ chịu tử đạo đầu tiên. Còn thánh Gioan, nếu không có một phép lạ thì cũng đã chết tử đạo khi bị bỏ vào vạc dầu sôi. Nhưng dù sao ngài cũng chết anh hùng sau chuỗi ngày bị lưu đày ở đảo Pát-mô.
Ngoài ra, nhân dịp này Chúa còn dạy các môn đệ một bài học sâu xa về lòng khiêm nhường phục vụ và thắng vượt lòng ghen tị. Sở dĩ các môn đệ khác bực mình với Giacôbê và Gioan bởi vì họ cũng có lòng ghen tị không muốn cho hai anh em kia được phần hơn. Các môn đệ suy nghĩ về nước Chúa Giêsu ở trần gian này. Nhưng Chúa lại suy nghĩ một cách khác. Nước Ngài không thuộc về thế gian, nơi đó người có quyền áp bức người yếu thế, người giàu sang cai trị người nghèo đói. Nước Trời ngay trong lòng mỗi người, là Giáo Hội của Chúa, nơi đó không dựa trên quyền bính nhưng dựa trên tình thương. Đó là nơi không có hận thù, ghen tị, tranh chấp.
Trong Giáo Hội cũng như trong bất cứ một tập thể nào, thường có một người đứng đầu để điều khiển những người khác và tổ chức sinh hoạt, không thể nào có cảnh "cá đối bằng đầu" mà mọi việc được xuôi lọt, vì sẽ không ai muốn tùng phục ai. Điều quan trọng mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh: không phải là hủy bỏ chức vụ của những người đứng đầu, chức vụ của những người lãnh đạo, nhưng đừng dùng địa vị và quyền bính của mình để áp bức người khác, lên mặt ta đây tự cao tự đại. Trái lại, phải biết phục vụ. Lòng kiêu ngạo muốn tranh đấu để làm đầu mọi người vốn là điều không tốt, nhưng lòng ghen tị cũng không tốt đẹp gì. Hai tật xấu này vốn là những khuyết điểm đã từng làm cản trở sự phát triển đời sống con người về mọi phương diện. Nên Chúa Giêsu bảo chúng ta phải loại bỏ hai tật xấu ấy.
Xin Chúa cho chúng ta luôn có tham vọng tốt để phát triển khả năng của chúng ta và sử dụng khả năng đó để phục vụ mọi người. Đồng thời xin Chúa cho chúng ta luôn vui vẻ với mọi người, không ghen tị, để chúng ta luôn được mọi người yêu mến, và nhất là Chúa Giêsu cũng sẽ hài lòng về chúng ta.
16. Phục vụ.
Bài Tin Mừng bàn về một chủ đề quan trọng – sự thực thi quyền bính. Nó liên can đến tất cả chúng ta. Nhiều người đã có kinh nghiệm xấu về quyền bính.
Người ta tìm kiếm quyền bính vì những lý do khác nhau. Một số người thích có quyền lực đi chung với quyền bính: nó làm cho người ta cảm thấy quan trọng. Những người khác thích uy thế mà nó đem lại. Những người khác nữa thích được trả lương cao. Tất cả những lý do ấy đều có một điểm chung – quyền bính được xem như một cơ hội để thăng tiến bản thân.
Jean Vanier phân biệt hai loại quyền bính: một quyền bính áp đặt, thống trị và điều khiển; và một quyền bính đồng hành, lắng nghe, giải phóng, phân quyền, làm cho người dân tự tin và kêu gọi họ ý thức về những trách nhiệm của mình.
Còn có một loại quyền bính thứ ba thinh lặng, yêu thương và ẩn giấu – quyền bính yêu thương nhưng không dùng quyền lực, xây dựng lòng tín thác và đôi khi chờ đợi đêm ngày trong nỗi lo âu. Cha mẹ đôi khi phải chờ đợi suốt đêm trường mong sao đứa con mình lầm đường lạc lối trở về.
Một vài người có tham vọng quyền lực, và sử dụng quyền bính của họ để thống trị những người khác. Đó là một sự lạm dụng quyền bính. Tham vọng quyền lực không mọc rễ trong sức mạnh nhưng trong sự yếu đuối. Chỉ có kẻ yếu mới đo lường giá trị của mình bằng những con người mà họ có thể thống trị. Thực hành quyền bính theo cách này sẽ làm cho người có quyền bị cô lập và lúc đó quyền bính chỉ đem lại điều xấu nhất cho mọi người.
Khi Giacôbê và Gioan xin Đức Giêsu cho họ có chỗ cao nhất trong vương quốc của Người thì họ chỉ nghĩ về mình. Họ không nghĩ đến lòng ganh tị và sự bực bội to lớn mà họ gây ra cho các bạn mình. Rõ ràng họ đã nghĩ đến vương quốc của Người theo kiểu mẫu của các nước ở trần gian trong đó những người ở địa vị cao phải được hưởng danh dự, vinh quang và quyền lực. Nhưng Đức Giêsu nói với họ điều ngược lại. Trong vương quốc của Người, ai lớn nhất phải sẵn sàng phục vụ người khác thay vì chính bản thân mình.
Trước tiên, Đức Giêsu phác họa tiêu chuẩn mà người ta chấp nhận về chính quyền dân sự: sự thống trị với quyền lực của các thủ lãnh trên những thần dân của họ. Nhưng trong cộng đoàn của Người thì không phải như thế. Người coi quyền bính như một cơ hội để phục vụ. Và lúc nào cũng thế, Người lấy chính mình làm gương. Người không làm một chúa tể hống hách trên dân. Người kêu gọi, mời gọi để họ đáp lại. Người muốn hướng dẫn nhưng không muốn điều khiển. Quyền bính của Người phản ánh quyền bính của Thiên Chúa. Thiên Chúa dùng quyền lực của Người không phải để điều khiển mà để cho phép.
Đó là cách thi hành quyền bính mà Người muốn có trong cộng đoàn của Người. Quyền bính không nên ban cho những người tìm kiếm nó, nhưng chỉ ban cho những người đã chứng tỏ mình sẵn sàng để phục vụ. Những người được giao cho quyền bính trên anh em mình phải cẩn trọng, công bằng, nhân hậu, khôn ngoan, khoan dung và quảng đại.
Để phục vụ, người ta phải sẵn sàng uống chén mà Đức Giêsu đã uống – chén hy sinh và đau khổ. Người ta có thể phục vụ ở bất cứ địa vị nào. Tuy nhiên, những người ở địa vị có quyền bính có vị trí tốt nhất để phục vụ. Chúng ta đang khám phá lại tinh thần này trong Giáo Hội và đây là một điều rất tốt. Quyền bính được sử dụng để phục vụ của người Kitô hữu có thể trở thành một sức mạnh kỳ diệu cho điều thiện hảo.
17. Đảo ngược.
Trong bữa Tiệc ly, Đức Giêsu đã rửa chân cho các tông đồ. Người bắt các tông đồ phải nhớ lại một bài học mà Người đã dạy họ trước đó, tức là bài học quyền bính đối với họ là một hình thức của sự phục vụ. Thế nên trong tâm trí các tông đồ không còn chút mơ hồ, nghi hoặc về những lời Đức Giêsu muốn nói: "Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em".
Ngày nay, thường có một hố sâu ngăn cách giữa những người cai trị và những người bị cai trị. Đặc biệt một số tổn hại là do những điều sau đây. Những người ở địa vị thấp cảm thấy không được những người ở địa vị cao đánh giá đúng. Họ thấy những người này xa cách và coi thường họ. Những người đã cố sức leo lên địa vị cao rất dễ quên lúc mình còn dưới "đất đen" thì sự việc ra sao. Nhớ lại chính là hiểu biết. Cha mẹ tốt nhớ lại sự việc như thế nào khi mình còn nhỏ như con mình bây giờ.
Giá mà những người quyền cao chức trọng theo được tấm gương của Đức Giêsu đã đưa ra trong Bữa Tiệc Ly. Hãy để cho anh cảnh sát bị bắt; linh mục xuống ngồi ở hàng ghế dành cho giáo dân; ông thầy giáo xuống ngồi ở bàn học trò, đốc công xuống con mương; cai ngục bị nhốt vào xà lim; bác sĩ bị bệnh nặng; quan tòa ngồi vào ghế bị cáo; ông tướng phải ra tiền tuyến; người có công việc ổn định phải đứng xếp hàng nhận trợ cấp... hẳn chúng ta sẽ có sự quan tâm và nhạy cảm nhiều hơn trong việc thực thi quyền bính?
Dĩ nhiên trường hợp ngược lại cũng xảy ra – những người cấp trên không được người cấp dưới hiểu, và những lời phê phán khó nghe đôi khi được truyền cho nhau nghe.
Một ngày nọ một đồng hồ đeo tay đi ngang qua quảng trường tháp đúng lúc đồng hồ lớn trên tháp chuông gõ mười hai giờ trưa. Chiếc đồng hồ đeo tay nhìn lên đồng hồ lớn và nói: "Có phải ông tưởng rằng mình tốt hơn chúng tôi sao? Ông hãy nhìn lại chính mình xem. Khuôn mặt ông thì thường quá, tay ông thì vụng về, lóng ngóng, còn giọng nói của ông thì thô lỗ?"
Nhưng đồng hồ lớn bình tĩnh đáp lại: "Chú em nhỏ của tôi hãy lên đây và anh sẽ chỉ cho chú em cái này".
Đồng hồ đeo tay leo lên những cầu thang dài và sau cùng đứng bên cạnh đồng hồ lớn. Phong cảnh nhìn từ nơi này đẹp làm sao! Nhưng chẳng mấy chốc, nó nhận thấy ngất ngưởng trên này thật nguy hiểm và cũng luôn cô độc.
"Này chú em, có một người ở dưới kia muốn biết giờ. Tại sao chú em không nói cho người đó biết?"
"Ôi, tôi không thể nào làm cho người đó nghe và thấy tôi từ chỗ này. Đồng hồ đeo tay đáp.
"Thế thì chú em không thể nói cho người đó biết", đồng hồ lớn đáp: "Nhưng tôi có thể làm được. Mỗi người chúng ta có một việc phải làm. Việc tôi làm được thì chú em không thể, việc chú em làm được thì tôi không làm được. Vì thế, chúng ta không nên phê phán lẫn nhau. Trái lại, mỗi người hãy theo cách của mình và từ vị trí của mình để nói cho người ta biết thời giờ. Bằng cách đó, chúng ta không những bình đẳng mà còn là anh em của nhau".
Đức Giêsu phá bỏ khoảng cách giữa ông chủ và tôi tớ. Trong Người hai bên đã trở nên một.
18. Đắng cay.
Một trong những hình ảnh mà Kinh Thánh dùng để chỉ đời sống là cái chén. Cũng giống như một cái chén có thể đựng một thứ đồ uống vừa đắng vừa ngọt, cuộc đời của mỗi người chúng ta có thể nói được là sự pha trộn giữa ngọt ngào và đắng cay. Đây là một hình ảnh phong phú và mạnh mẽ.
Nếu chén có thể hiểu như cả một cuộc đời thì nó cũng có thể hiểu như một phần cuộc đời. Vậy thì, có những lúc chén đời sống đầy những điều đắng cay, đắng cay đến nỗi chúng ta không muốn uống hoặc cảm thấy không thể nào uống được. Nhưng có những lúc khác, chén ấy tràn đầy sự ngọt ngào. Có lúc chúng ta không có đủ. Và còn những lúc khác, chén ấy có thể nhạt nhẽo và vô vị. Sau cùng, có những lúc, chén của đời mình trống rỗng.
Giacôbê và Gioan đến cùng Đức Giêsu với một đòi hỏi rất ích kỷ. Họ đòi được một người ngồi bên tay phải và người kia ngồi bên tay trái Đức Giêsu trong nước trời. Rõ ràng họ nghĩ vương quốc của Đức Giêsu cũng theo kiểu mẫu của các nước ở trần gian. Người ở địa vị cao sẽ được hưởng danh dự, vinh quang và quyền lực.
Đức Giêsu đáp lại bằng một câu hỏi: "Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống không?" Họ liền đáp lại: "Thưa được". Bởi vì họ nghĩ rằng đó là một chén rất ngọt ngào.
Nhưng điều mà Đức Giêsu thật sự muốn hỏi hai môn đệ là: "Các anh có sẵn sàng đi qua những đau khổ mà Thầy sắp trải qua không?"
Uống chén đau khổ và hy sinh không phải là việc dễ dàng. Dĩ nhiên khi giờ đã đến để Đức Giêsu phải uống chén đó, Người đã chùn bước. Ba lần Người xin Chúa Cha cất chén ấy khỏi tay Người: "Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha", và Người đã uống chén đó.
Các tông đồ lúc đó không biết chén của Chúa sẽ là chén rất đắng cay. Họ cũng không biết sự yếu đuối của mình. Thế nên khi giờ của Chúa đến, họ không cùng uống chén ấy với Người mà để Người uống chén đắng cay ấy một mình.
Chúng ta không biết trước chén đời sống nào được đưa cho chúng ta. Chúng ta khám phá dần dần khi chúng ta tiến bước. Đức Giêsu, Đấng vô tội đã chọn uống chén rất đắng cay. Nhưng như chúng ta đã thấy. Người không thấy việc đó dễ dàng. Thế nhưng Người đã uống cạn chén đó và làm thế vì yêu thương chúng ta (sự cần thiết bi thảm cũng thế – hãy nghĩ đến những viên thuốc đắng mà người ta phải uống)
Dù Đức Giêsu vô tội, Người đã cảm nghiệm sự yếu đuối và cám dỗ mà chúng ta cảm nghiệm. Người biết sự yếu đuối của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải đến gần Người với lòng trông cậy, vì biết rằng Người có thể và sẽ giúp đỡ chúng ta.
Nếu chúng ta thấy chén đời sống cay đắng lạ lùng, thì chúng ta không cần phải cho rằng nó ngọt ngào hoặc nghĩ rằng chúng ta uống nó bởi sức mạnh của riêng mình. Không giống như hai môn đệ Giacôbê và Gioan, chúng ta không nên sợ hãi hay xấu hổ mà nói rằng: "Không, Lạy Chúa, con không thể uống và không muốn uống. Nhưng nếu con phải uống thì với sự giúp đỡ của Chúa con sẽ uống được".
Uống chén đời sống, đặc biệt chén khó khăn được làm bởi một cuộc đời hy sinh và phục vụ người khác, chính là đi theo Đức Kitô. Nhưng những ai chia sẻ với Người chén đắng cay của thập giá Người thì cũng sẽ chia sẻ với Người vinh quang phục sinh của Người.
19. Chết vì người khác
(Lm Nguyễn Ngọc Long)
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: "Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây." Người hỏi: "Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?". Các ông thưa: "Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang."
Đức Giêsu bảo: "Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không? ". Các ông đáp: "Thưa được." Đức Giêsu bảo: "Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được."
Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: "Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người."
Các con thiếu nhi thương,
Thời Thế chiến, một tù nhân đã vượt ngục trốn khỏi trại tập trung Auschwitz, một nhà tù khét tiếng tàn ác của Đức Quốc Xã tại Ba Lan. Để cảnh cáo những tù nhân còn lại, bọn cai ngục đã bắt mười tù nhân khác phải chịu tử hình để thế mạng. Chúng chỉ ra mười tù nhân, trong đó có một người là bố trong một gia đình. Khi mười nạn nhân bước ra khỏi hàng, thì một người tù khác, cha Maximilianô Kolbê, một linh mục dòng Phanxicô, đã tiến ra và tình nguyện chết thay cho người cha gia đình kia.
Viên sĩ quan cai tù sửng sốt, nhưng cũng chấp nhận lời đề nghị kia. Và Cha Maximilianô đã chết (ngày 14/08/1941). Trong nghi thức phong hiển thánh cho vị tử đạo được cử hành 41 năm sau, người ta đã chứng kiến gương mặt giàn dụa nước mắt của người cựu tù năm xưa đã được thánh nhân thế mạng được truyền hình trên khắp thế giới (10/10/1982).
Ông ấy đã gặp được một con người thực sự có lòng yêu thương: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu mình." (Ga 15, 13).
Các con thiếu nhi thương,
Câu chuyện của cha Maximilianô Kolbê mà các con vừa nghe có vẻ đi ngược lại với khuynh hướng tự nhiên của Nhóm Mười hai Tông đồ trong thời gian đầu đi theo Chúa Giêsu. Các ông muốn nắm hai chức vụ lớn nhất trong Vương quốc mà các ông tưởng rằng Chúa Giêsu sắp thiết lập, điển hình là hai anh em nhà Dêbêđê là ông Giacôbê và ông Gioan.
Hai ông đã xin gì, các con biết không? Thưa, hai ông đã xin rằng: "Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang." Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời, như thách thức hai ông cũng như các Tông đồ còn lại: "Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?".
Đức Giêsu cố ý nói đến cơn hấp hối và cái chết mà Người phải chịu. Hai anh em được thách đố để theo Đức Giêsu đến cùng.
Đức Giêsu kết thúc cuộc trao đổi bằng cách đặt hai anh em trước một câu trả lời đòi họ phải được hoán cải để theo ý muốn của Thiên Chúa. Người nói: "Có thể Chúa Cha sẽ dành địa vị cho các anh, nhưng các anh phải sẵn sàng vác thập giá tôi vác, uống chén đắng tôi uống và chịu phép rửa tôi chịu". Nghĩa là hai anh em phải bước theo Đức Giêsu cho tới cái chết trên thập tự.
Các con thương,
Sau này, khi Chúa Giêsu về trời, các vị Tông đồ Giacôbê và Gioan cùng với các Tông đồ khác đã hiểu được lời của Chúa Giêsu: "Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người". Và các Tông đồ đã đem ra áp dụng trong đời sống của mình, khi hầu hết các ông đã chịu chết vì Danh Chúa trong khi các ông phục vụ công việc rao giảng Tin mừng. Làm như thế, các ông đã bắt chước Thầy của mình là: "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người".
Các con thương,
Thầy Giêsu, các Tông đồ, Cha thánh Maximilianô đã "hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người", trong số đó có cha, có các con và nhiều người khác nữa. Ngày nay, noi gương Thầy Giêsu, các Tông đồ và thánh Maximilianô Kolbê, thiếu nhi có thể làm gì để phục vụ và hiến mạng vì người khác? Cha nghĩ rằng, các con có thể làm những việc nhỏ cụ thể sau đây:
– Phục vụ và hiến thân vì người khác khi các con biết nghĩ tốt cho bạn bè, không ghen tị, nói xấu hay chửi tục;
– Phục vụ và hiến thân vì người khác khi các con bớt tiền ăn sáng để đóng góp cùng với nhiều người để cứu giúp những người nghèo khổ, già cả, bệnh tật...
– Phục vụ và hiến thân vì người khác là các con học biết yêu mến Chúa Giêsu và bắt chước thánh Maximilianô Kolbê lòng yêu mến Đức Maria qua tràng chuỗi mân côi trong tháng Mân côi này và đặc biệt trong tháng Mân côi.
Thực hành:
1. Biết sống vì mọi người bằng cách sẻ chia vật chất với ai nghèo khó.
2. Noi gương Chúa Giêsu, tập sống đời phục vụ.
Tâm niệm: "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người".
Đi tìm kho báu: Mời các con cùng suy nghĩ và trả lời các câu hỏi sau
1. Hai tông đồ Giacôbê và Gioan đã xin với Chúa Giêsu điều gì?
2. Câu trả lời của Chúa Giêsu đã dạy họ bài học gì?
3. Để được ở bên Thiên Chúa, các con cần phải trở nên như thế nào?
20. Chú giải của Noel Quesson.
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: "Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây."
Đây là hai chàng thanh niên con trai của ông Dêbêđê, làm nghề chài lưới, ở Bết-sai-đa một cảng nhỏ trên bờ hồ Ti-bê-ri-át. Mẹ của họ có lẽ là bà Xalômê, chị em với Đức Maria mẹ Đức Giêsu (Mc 15,10 - 16,l). Theo tục lệ tự nhiên trong nhiều nền văn minh phương Đông, họ cho là tự nhiên khi sử dụng các quyền của người trong dòng họ: Vì là anh em bà con với Đức Giêsu, họ đến xin người bà con cho "dòng họ" được tham dự vào sự thành công của một thành viên trong gia tộc.
Vả lại Đức Giêsu đã chẳng nói như thế sao: "Các ngươi hãy xin, thì sẽ nhận được". Vậy họ đưa ra một lời xin: "Thưa Thầy, chúng tôi muốn Thầy ban cho điều mà chúng tôi xin". Đây là một dịp mà chúng ta cần phải nắm vững, vì đôi khi chúng ta cũng ngạc nhiên về một số lời cầu xin của mình không được chấp nhận, 'như' chúng ta mong muốn.
Người hỏi: "Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?"
Lời cầu xin của họ quá mơ hồ. Đức Giêsu bảo họ hãy nói rõ lời yêu cầu đó.
Các ông thưa: "Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy.
Lần thứ ba, Đức Giêsu vừa loan báo cho các môn đệ sự thương khó của Người (Mc 10,32-34) "Nào chúng ta lên Giê-ru-sa-lem; Con Người sẽ bị giao nộp cho các Thượng tế. Họ sẽ lên án tử hình Người. Họ sẽ nhạo báng Người, sẽ khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết Người". Vào lúc Đức Giêsu "chọn chỗ chót" thì các ông lại cố "đua nhau" chiếm chỗ tốt hơn: Họ vẫn còn mơ mộng về Đấng Cứu Thế vinh quang của dân tộc. Đấng Cứu Thế đối với họ (và đối với chúng ta?), đó là Đấng chiến thắng hiển hách, sẽ dùng quyền lực của mình điều khiển mọi sự. Vậy tại sao lại không lợi dụng người anh em bà con để được thăng tiến, được hưởng đặc quyền, được tiến cử? Chúng ta chớ nên xét đoán các ông một cách khắt khe.
Chính chúng ta đã không làm như thế, khi chúng ta có dịp hay sao? Đó là chuyện thường tình của con người! Khi chúng ta quen lớn, thì tự nhiên chúng ta không muốn nhờ vả để trục lợi sao? Nhưng chúng ta hãy đi xa hơn: Đời sống Kitô hữu của chúng ta có phải là một cuộc sống phụng sự Thiên Chúa hay không? Hay đó là một cuộc sống mà chúng ta chỉ muốn Thiên Chúa phục vụ chúng ta? Việc hành đạo của chúng ta có phải là một sự thờ phượng, ca ngợi và vâng phục hướng về Thiên Chúa không? Hay đó chỉ là một thứ "bảo hiểm cho đời sau"? Lạy Thầy, xin dành cho con một chỗ phụ chắc chắn ở trên trời.
"Các anh không biết các anh xin gì!"
Thực vậy, họ đâu có biết "ai" sẽ ở "bên phải và bên trái" của Đức Giêsu, khi Người ở trong "vinh quang" của Người trên thập giá? Họ đang xin mà không biết chỗ của hai tên cướp bị đóng đinh cùng với Người trên đời. Họ vẫn chưa hiểu gì cả về định mệnh đích thực của Chúa Giêsu. Bằng những câu hỏi, Đức Giêsu đang cố chuyển biến tư tưởng của họ từ "vinh quang của Đấng Mêsisa" sang "con đường dẫn đến vinh quang" đó. Chúng ta cũng vậy thường chúng ta không biết điều mà chúng ta xin: Đó là lý do tại sao những lời cầu xin của chúng ta không được chấp nhận.
Chúng ta hãy để cho Thiên Chúa dời chúng ta đi, cho Người sửa đổi lời xin của chúng ta. Thiên Chúa nói: "Các con không biết các con xin những gì, các con hãy tin Ta hơn". "Sự vinh quang" mà các ông xin, hỡi Giacôbê và Gioan, các ông sẽ nhận được vào một ngày nào đó! ước mộng tuổi trẻ của các ông sẽ được thực hiện trong tuổi chín muồi của các ông.
Thực vậy, Giacôbê sẽ là vị tử đạo đầu tiên ở Giêrusalem (Cv 12,2) và Gioan sẽ phải chịu bắt bớ thời hoàng đế Nêrông, bị khổ sai tại đảo Patmos (Kh 1,9).
Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Đức Giêsu dùng hai hình ảnh cổ truyền của Kinh Thánh để giúp họ sửa đổi lời yêu cầu và ý muốn của họ: Đó là chén đắng và phép rửa. "Chén" trong Kinh Thánh là "chén đắng", thức uống ghê tởm, khó nuốt. "Chúa cầm chén trong tay". Người rót một thứ rượu thuốc đã lên men: Họ sẽ uống rượu này, họ nốc đến cạn (Tv 75,9). 'Phép rửa' có một ý nghĩa tương tự: Đó là hình ảnh sự nhào nặn, chìm nghỉm; "Hết thảy nước đó sóng tràn ngập lút trên tôi" (Tv 42,9). Đức Giêsu biết rõ những gì sẽ xảy đến cho Người. Và Người hỏi hai môn đệ: "Các con có thể uống được chén đắng của sự thương khó Thầy không? Và chịu dìm vào phép rửa bằng máu của Thầy không? Như Thầy và cùng với Thầy, các con có chấp nhận vùi sâu dưới dòng nước chết đuối bi thảm này nghĩa là chia sẻ cái chết của Thầy không?
Các ông đáp: "Thưa được"
Họ tỏ ra quảng đại trong sự hăng say của tuổi trẻ.
Họ sẵn sàng trả giá bằng chính bản thân của mình, để 'uống' chén đắng và bị dìm sâu trong phép rửa. Chúng ta đừng quên rằng khi Máccô viết Tin Mừng của ông, thì đã có 2 bí tích đang được các Kitô hữu thể nghiệm, như chúng ta ngày nay. Chúng ta gán cho Phép rửa tội và Thánh Thể mà ta lãnh nhận ý nghĩa nào? "chén mà chúng ta hiệp thông có thông hiệp với sự hy sinh của Đấng đã hiến ban mạng sống của Người không? Đức tin ngày chịu phép rửa có làm cho chúng ta "Theo Đức Giêsu không? và theo tới đâu?
Đức Giêsu bảo: "Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu.
Khi Máccô ghi lại lời tiên tri này của Đức Giêsu, thì nó đã được thực hiện một phần rồi. Vào năm 44, Giacôbê đã tử đạo. Vào thời đó Vua Hêrôđê đã bách hại một số thành viên của Giáo Hội. ông ấy đã cho chém đầu Giacôbê, người "anh em" của Gioan. Và khi nhận thấy người Do Thái hài lòng về việc làm đó, ông lại cho tiến hành cuộc bắt giữ khác (Cv 12,2-3). Kitô hữu là theo Đức Giêsu!
Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.
Một lần nữa Đức Giêsu nói lên những lời khiêm nhường lạ lùng, trước Cha của Người: Người nói Người "không có quyền". Người tỏ ra vâng phục. Qua lời này Người mời gọi chúng ta đến lượt mình, cũng để Thiên Chúa tùy nghi định đoạt về chúng ta. "Vinh quang" đó, Giacôbê và Gioan sẽ nhận được, nhưng không phải là thứ vinh quang mà hai ông ước vọng: Đó sẽ là vinh quang của Đức Giêsu cho. Do đó Chúa đã chấp nhận lời cầu xin của hai ông. Còn chúng ta thì sao? Khi lời cầu nguyện của chúng ta xem ra không được chấp nhận, chúng ta có luôn phó thác nơi Chúa, để Chúa chấp nhận, lời xin đó theo ý của Người hay không? Chính Đức Giêsu cũng đưa dẫn các bạn hữu của Người tới mầu nhiệm không thể dò thấu được của ý định Thiên Chúa.
Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan
Các ông bực mình vì các ông cũng có tham vọng như thế!
Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: "Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân
Một lần Đức Giêsu nói về "chính trị" thì Người lại mô tả quá mạnh và khá mù tối. Ta không thể nói, Đức Giêsu muốn thiết lập một thế giới không có hệ thống hành chánh hay san bằng cấp bậc.
Nhưng, một lần nữa như đối với cách sử dụng (tiền bạc hay vấn đề tính dục), Người bác bỏ những lạm dụng: Quyền thế không được áp dụng như một cách để thống trị và hà hiếp, hay như một "tương quan lực lượng" mạnh được yếu thua. Đức Giêsu nói: "Không được như vậy".
Nhưng giữa anh em thì không được như vậy
Đức Giêsu dứt khoát loại bỏ trong Giáo Hội, trong cộng đoàn Kitô hữu, kiểu quyền bính vẫn được thực thi trên thế giới.
Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.
Đây không phải là một điều luật trong những điều luật khác nhưng đó là "hiến chương" của Giáo Hội, của cộng đoàn các môn đệ: Mỗi người phải trở nên đầy tớ của mọi người.
Hình ảnh mà Đức Giêsu đưa ra ở đây lại càng rõ nét. Ý mà chủ "đầy tớ" không nói ra ở đây, thì từ "nô lệ" lại nói lên một cách mạnh mẽ, bằng cách thêm ý "tùy thuộc" vào người mà ta phục vụ. Trong Giáo Hội, phải triệt để từ bỏ nguyên tắc thăng thưởng, quân hàm, công nghiệp, tước vị huy chương và chỗ danh dự. Chỉ có một nguyên tắc mà thôi: Đó là sự phục vụ, khiêm tốn. Cần nói về những vị có một vai trò đặc biệt, ta sẽ dùng kiểu nói "thừa tác viên" chữ này trong tiếng La tinh có nghĩa là "đầy tớ". Không có lãnh tụ theo nghĩa thế gian trong Giáo Hội. Chỉ có những "thừa tác viên", những "người phục vụ".
Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Lý do căn bản của "hiến chương" nguyên thủy này của Giáo Hội, là Giáo Hội đương nhiên phải bắt chước Đức Giêsu. Cần lưu ý về ý nghĩa tích cực mà Đức Giêsu đã gán cho cái chết của Người. Trong ý thức của Người, Người không nghĩ về cái chết này một cách đau khổ; con đường thập giá đối với Người không phải là "chịu đau khổ" mà là "phục vụ". Mặc dù Người có quyền hạn đầy đủ vì là con Thiên Chúa, thế mà Đức Giêsu đã không hành xử như một vị thống trị, nhưng như "một người đầy tớ". Người đã không đóng vai "lãnh chúa" mà là "gia nhân" (Ga 13,13) bằng cách hầu bàn chiều Thứ Năm Thánh. Các bác cha mẹ Kitô hữu cũng phải hành xử như thế, đối với những kẻ dưới quyền của mình. Các người có trách nhiệm cũng phải hành xử như thế, đối với thuộc cấp của mình. Chúng ta có đón nhận lời mời gọi của Đức Giêsu một cách nghiêm chỉnh không? Chúng ta chớ nên xét lương tâm kẻ khác. Tôi đang có khuynh hướng "thống trị" ai? Tôi phải "thương yêu" ai? Tôi phải "phục vụ"ai?
* LỄ TRUYỀN GIÁO
1. Xin hãy sai con
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Thông thường khi cầu xin bất cứ ân huệ gì, chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân, cho gia đình mình trước. Thế nhưng, giả như khi đất nước lâm nguy, cần có người ra biên thuỳ bảo vệ, thì người ta lại sốt sắng cầu xin cho người khác, ngoại trừ bản thân, được can đảm xông ra chiến trường gìn giữ giang sơn. Nếu ai cũng cầu như thế và những lời cầu kiểu nầy được chấp nhận, thì làm gì còn Tổ Quốc!
Trong việc cầu cho công cuộc truyền giáo cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng: "Lạy Chúa, xin cho có đông người, ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương loan báo Tin Mừng cứu độ". Nếu ai cũng cầu xin kiểu đó, nghĩa là cầu cho người khác lên đường, ngoại trừ bản thân mình, thì cánh đồng truyền giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.
Vậy thì lời cầu xin thiết thực nhất mà mỗi người chúng ta phải cầu xin với Chúa là: "Lạy Chúa, tuy con bất xứng, nhưng xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay."
Dù muốn dù không, chúng ta cũng là tông đồ của Chúa ngay từ ngày lãnh bí tích thanh tẩy. Bí Tích Thanh Tẩy làm cho chúng ta trở thành chi thể Chúa Giêsu, cho thông dự vào vai trò ngôn sứ của Người, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin Mừng cứu độ của Người.
Chính vì thế, trước khi về trời, Chúa Giêsu long trọng chuyển trao cho chúng ta, là môn đệ Người, tiếp tục thi hành sứ vụ: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em." (Mt 28, 19-20)
Vậy thì sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ thích. Thánh Phaolô thú nhận: "đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng." (1 Cr 9,16).
Việc loan Tin Mừng là một bổn phận bắt buộc. Chỉ khi nào chúng ta tự khai trừ mình ra khỏi Hội Thánh, tự tách mình ra khỏi Thân Thể Chúa Giêsu, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo bằng chia sẻ tình thương
Phải truyền giáo cách nào?
Đối với Mẹ Têrêxa Calcutta, truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng chẳng chủ trương yêu thương đại chúng cách chung chung, nhưng là yêu thương từng người đang đối diện.
Mẹ nói: "Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy... Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân Đức Kitô, mà chỉ có một Chúa Giêsu thôi. Người đó phải là người duy nhất trên thế gian trong giây phút đó."
Với tâm tình nầy, Mẹ Têrêxa đã thu phục nhân tâm rất nhiều người khắp nơi trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội công giáo Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mươi năm!
Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.
Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như thân quyến của mình, sẵn sàng chia sẻ buồn vui sướng khổ; khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng thông hiệp. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và qua tình thân nầy, Tin Mừng của Chúa Kitô sẽ được lan toả.
Giáo Hội Hàn Quốc đã chứng tỏ đây là phương thức truyền giáo rất hiệu quả mà mỗi tín hữu đều có thể thực hiện trong đời mình.
2. Hãy thả lưới bên phải thuyền
Các Tông đồ đã đánh cá vất vả suốt đêm mà không được con cá nào. Nay Chúa Giêsu bảo các ngài phải ra khơi một lần nữa. Chắc các ngài phải ngần ngại lắm. Ngần ngại vì vừa qua một đêm vất vả, thân thể mỏi nhừ vì suốt đêm phải vật lộn với biển cả, với sóng gió, với chài lưới. Ngần ngại vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt đêm không ngủ, đang cần một giấc ngủ để hồi phục sinh lực. Ngần ngại vì vừa bị thất bại ê chề, đã mất hết ý chí phấn đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa, ra khơi, thả lưới. Và kết quả thật là bất ngờ. Lưới đầy cá chất đầy hai thuyền đến gần chìm.
Qua bài Tin Mừng này Chúa muốn dạy tôi những bài học về việc truyền giáo.
Bài học thứ nhất: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi vất vả. Phải lao động đêm ngày. Như các Tông đồ đã chài lưới suốt đêm thâu trong sương đêm giá lạnh, trong sóng gió biển khơi, trong vất vả cực nhọc. Suốt đêm đã lênh đênh trên biển cả, sáng sớm vừa mới về tới đất liền, tưởng được nghỉ ngơi, không ngờ lại phải ra khơi ngay tức khắc. Ra khơi cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải noi gương các tông đồ. Làm việc không nghỉ. Phải đầu tư sức lực và trí tuệ. Phải phấn đấu không ngừng. Làm cho hết việc chứ không làm cho hết giờ. Và phải chấp nhận tất cả những mỏi mệt, những thử thách.
Bài học thứ hai: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc truyền giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: "Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện" (2Tim 4,2). Các Tông đồ thật kiên trì, mặc dù đã thất bại sau suốt một đêm vất vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong việc truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra khơi, hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm việc trên cánh đồng truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi chán nản.
Bài học thứ ba: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi thanh luyện bản thân. Truyền giáo là công việc thánh thiện nên người truyền giáo phải thánh thiện. Sự thánh thiện khởi đi từ nhận thức thân phận yếu hèn tội lỗi. Và từ đó nảy sinh nhu cầu được thanh luyện. Như Phêrô cảm thấy mình tội lỗi không xứng đáng ở gần Chúa. Như Phaolô ngã ngựa cảm thấy mình lầm lạc. Như Isaia cảm thấy môi miệng mình ô uế. Sau khi được thanh luyện các ngài đã trở thành những nhà truyền giáo gương mẫu. Thánh hoá bản thân là một điều kiện quan trọng để truyền giáo thành công.
Bài học thứ tư: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa. Vì truyền giáo là một công việc thiêng liêng. Nên ta không thể cậy dựa vào sức lực phàm nhân, phương tiện phàm trần. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp. Các ngài biết rõ biển hồ Galilê như lòng bàn tay. Thế mà các ngài đánh cá suốt đêm chẳng được con nào. Đó là bài học dạy ta biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức riêng, việc truyền giáo sẽ không có kết quả. Việc các tông đồ vâng lời Chúa ra khơi và vâng lời Chúa thả lưới bên phải mạn thuyền cho ta thấy một thái độ khiêm nhường lắng nghe. Dù Chúa Giêsu không phải là ngư phủ chính gốc. Dù Chúa Giêsu không hiểu biết biển hồ, nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa. Chính nhờ thế, các ngài đã thành công. Người làm việc truyền giáo phải noi gương các tông đồ biết khiêm nhường nhận biết sự bé nhỏ nghèo hèn của bản thân để thao thức lắng nghe Lời Chúa. Chỉ làm theo Lời Chúa, làm theo ý Chúa, làm vì Chúa việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta một nghị lực mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận những vất vả khổ cực trong việc truyền giáo. Xin cho chúng ta biết chấp nhận cả những thất bại mà vẫn kiên trì lên đường truyền giáo. Và nhất là xin cho mọi người chúng ta được Chúa dạy bảo, để biết làm theo ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu, xin kêu gọi chúng con lên đường truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin thanh luyện chúng con để xứng đáng làm việc truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết cách làm việc truyền giáo. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Truyền giáo là lẽ sống của Hội Thánh, bạn có ý thức điều này không?
2. Muốn truyền giáo phải có những điều kiện nào?
3. Bạn đã bao giờ bắt tay vào việc truyền giáo chưa?
4. Năm nay bạn đã quyết tâm làm gì để đóng góp vào việc truyền giáo?
3. Nhân chứng Phúc Âm
(ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên - Bài giảng Lễ Khánh nhật truyền giáo)
Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội. Bí tích Thanh Tẩy trao cho mỗi Kitô hữu sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu cho anh em đồng loại của mình.
Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội. Bí tích Thanh Tẩy trao cho mỗi Kitô hữu sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu cho anh em đồng loại của mình. Sau mỗi Thánh lễ, vị chủ tế tuyên bố với cộng đoàn tham dự: "Lễ xong, chúc anh em đi bình an!". Đây không chỉ là lời chào tạm biệt trước lúc chia tay. Đây chính là lời sai đi, mang nội dung và ý nghĩa như lời Chúa nói với các tông đồ trước khi về trời: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo..." (Mc 16,15). Như vậy, vào lúc thánh lễ trong phụng vụ kết thúc, cũng là lúc khởi đầu cho một cuộc lên đường mới để loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu.
Hội đồng Giám mục Việt Nam vừa tổ chức Đại hội tại Trung tâm Mục vụ Sài-gòn từ ngày 7 đến ngày 12 tháng 10-2013. Trong Thư Chung gửi cho cộng đoàn Dân Chúa, các Giám mục đã chọn đề tài Tân Phúc-Âm-Hóa như một định hướng cho Giáo Hội công giáo tại Việt Nam. Đó cũng là thao thức của các vị Giáo Hoàng trong thời hiện đại này. Có một nghịch lý hiện nay, đó là ngày càng có nhiều hiệp hội truyền giáo ở cấp quốc tế cũng như cấp địa phương, nhưng số tín hữu công giáo thực hành Đức tin lại ngày càng giảm. Phải chăng đó là hậu quả của não trạng cho rằng việc truyền giáo là của các linh mục và tu sĩ. Chính vì vậy, Giáo Hội luôn khích lệ người tín hữu tham gia cộng tác trong sứ vụ cao cả này, với hy vọng công cuộc truyền giáo sẽ đem lại nhiều kết quả tích cực.
Thế nào là Phúc-Âm-hóa? Đó là "mang Tin Mừng đến mọi môi trường nhân loại và, nhờ sự tác động này, làm biến đổi từ bên trong, đổi mới chính nhân loại:"Này đây Ta đổi mới mọi sự" (Kh 21,5; ĐGH Phaolô VI,Tônghuấn Loan Báo Tin Mừng, 18). Phúc-Âm-Hóa là làm cho tinh thần của Phúc Âm được thấm nhuần trong mọi lãnh vực của cuộc sống, từ việc giải trí đến việc lao động; từ đời sống gia đình đến xã hội; từ người già đến người trẻ... Tân Phúc-Âm-Hóa là một cách thức canh tân để loan báo Phúc Âm có hiệu quả hơn. Đức Chân phước Gioan Phao-lô II đã giải thích khái niệm Tân Phúc-Âm-hóa trong bài diễn từ tại Đại hội lần thứ 19 của HĐGM Mỹ Châu năm 1983: "Tân Phúc-Âm-Hóa không phải là loan báo một Phúc Âm mới, nhưng là mới trong nhiệt thành, trong phương cách, trong cách diễn đạt"'. Như thế, mọi thành phần Dân Chúa, từ giáo sĩ đến giáo dân phải kiểm điểm lại cách thức truyền giáo của mình. Phải chăng phương pháp truyền giáo của chúng ta không còn hợp thời, hoặc thiếu lửa truyền giáo nên không đem lại những kết quả như chúng ta mong muốn.
Trong nhiều định nghĩa về truyền giáo, chúng ta thường hay nghe nói đến một khái niệm: truyền giáo là làm chứng cho Chúa. Chúng ta dành ít phút để suy tư về khái niệm này.
"Làm chứng" chính là lệnh truyền của Chúa Giêsu trước khi Chúa về trời: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8). Trong cuộc sống đời thường, nhiều khi chúng ta đã được mời làm chứng về một vụ việc xảy ra hoặc một tranh chấp quan trọng. Người làm chứng là nhân vật trung gian giữa hai bên. Muốn làm chứng, chúng ta phải biết rõ nội dung vụ việc đã xảy ra, với những chi tiết quan trọng có liên quan. Người làm chứng cũng phải là người có cuộc sống tốt, có uy tín, đáng tin đối với cả hai bên đang tranh chấp.
Truyền giáo là làm chứng cho Chúa. Để làm chứng cho Chúa, trước hết chúng ta phải hiểu Chúa, biết Chúa và tin vào Chúa. Một người không tin Chúa hoặc có một đức tin sơ sài thì không thể "kể về Chúa" được. Tiếp đến, người làm chứng phải có một cuộc sống tốt lành thì chứng của người đó mới đáng tin và có giá trị thuyết phục người khác. Một người nói về Chúa mà chính bản thân họ không sống những lời Chúa dạy thì không thể thuyết phục người khác theo Chúa, thậm chí họ còn làm biến dạng giáo huấn của Chúa và giáo lý của Giáo Hội.
Trở lại với Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Các Giám mục kêu mời các thành phần Dân Chúa, nhất là các linh mục, cộng tác nhiệt thành để truyền giáo theo những sáng kiến và phương pháp hợp với thời đại, được thúc đẩy bởi nhiệt tình mới, nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ đem đến cho Giáo Hội Việt Nam những mùa lúa chín dồi dào. Một cách cụ thể, trong năm 2014 sắp tới, các vị chủ chăn mong muốn chúng ta dành thời giờ và tâm huyết cho việc "Phúc-Âm-hóa gia đình", tức là việc học giáo lý hôn nhân đối với các bạn trẻ; là trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái; là việc cầu nguyện chung thường xuyên trong gia đình. Những việc làm đó nhằm củng cố tình yêu gia đình và giáo dục Đức tin cho các thế hệ tương lai.
4. Khánh nhật truyền giáo
(Lm Trần Ngà)
Mến Chúa và yêu người là hai giới răn trọng nhất. Điều đó thì trẻ con cũng thuộc. Nhưng điều quan trọng là làm sao thực thi lòng mến Chúa qua việc yêu thương con người là hiện thân của Thiên Chúa.
Yêu Chúa mà lại ghét người thân cận thì thật là điều trớ trêu như câu chuyện sau đây:
Có một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên. Hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến và rồi anh khẩn khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực hay không, vua cha dạy cho hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái... Thế là hoàng tử hoá thành người nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân. Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và mong được kết hôn với hoàng tử, nhưng cô tạ không nhận ra hoàng tử nơi người nông dân nghèo khổ nầy. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh. Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lai.
Như vị hoàng tử kia hoá thân thành nông dân để thử lòng cô gái, Thiên Chúa cũng hoá thân thành người phàm để thử thách tình yêu của chúng ta. Ngài đã từ trời xuống thế, hoá thân làm người, cắm lều ở giữa loài người, trở nên người thân cận của mỗi người.
Thế nên, khi yêu thương người thân cận là chúng ta yêu thương Chúa, và khi chúng ta từ khước hay bạc đãi người thân cận là bạc đãi Chúa. Tình yêu thương người thân cận là thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Mẹ Têrêxa là người giữ điều răn yêu thương nầy cách tuyệt hảo. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi, trong những người bần cùng khốn khổ và mẹ tận tình yêu thương săn sóc những người ấy hết sức tận tình. Mẹ dạy nữ tu của mẹ: "Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ."
Mẹ là người vừa yêu mến Thiên Chúa trên trời lại vừa yêu mến Chúa hịên diện trong những người khốn khổ. Mẹ không tách rời hai giới răn mến Chúa và yêu người, nhưng mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người.
Khi hỏi tại sao người công giáo chúng ta truyền đạo mà không thu hút được nhiều người về với Hội Thánh?
Chắc chắn là vì chúng ta chưa sống theo đạo yêu thương. Nếu chúng ta theo phương cách sống đạo của mẹ Têrêxa Calcutta, tha thiết yêu mến Thiên Chúa nơi con người, thì đạo chúng ta trở thành hấp dẫn, và bản thân chúng ta cũng có sức thu hút được nhiều người như mẹ Têrêxa đã minh chứng bằng đời sống của mẹ: Mẹ được người đời xem là bà thánh sống, được mọi người yêu mến, cả những người Hồi Giáo, Ấn giáo, Bà La Môn và các đạo khác đều vô cùng quý mến mẹ.
Nhân ngày Truyền Giáo, xin cho chúng ta biết áp dụng phương thế truyền giáo tuyệt hảo của mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người, hy vọng nhờ đó, đạo Chúa trở thành một tôn giáo rất đẹp, rất hấp dẫn và nhiều người sẽ quay về với đạo yêu thương nầy.
5. Chứng nhân trong sự hiệp nhất yêu thương
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Thế giới ngày hôm qua cũng như hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu. Một Tê-rê-sa thành Calcutta nhỏ bé nhưng có một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt Nam, người công giáo hay không công giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa để đến ở cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức Giám mục Cassien. Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho người cùng khổ. Ngài đã chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế qua mọi thời đại.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng nhân tin mừng của giáo hội sơ khai. Một giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến đổi trần gian. Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa đến tận cùng thế giới. Một giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền giáo, khiến thánh Phao-lô đã từng nói rằng: "Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên". Vậy đâu là điểm son để giáo hội có thể vượt qua mọi trở ngại để phát triển và canh tân bộ mặt trái đất? Thưa đó chính là tinh thần hiệp nhất yêu thương.
Theo sách tông đồ công vụ, thời giáo hội sơ khai, các tín hữu "sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự là của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu" (Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn hiệp nhất trong tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Sự liên đới này tạo nên một cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu của từng người.
Chính đời sống yêu mến nhau nơi các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương mến. Sự thương mến đó đã đem nhiều người về với Chúa. Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các tín hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn. Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội sơ khai đã được "toàn dân thương mến" (Tđcv 2,47a), thì đời sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng đoàn được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân thương. Đó cũng là cách chúng ta ca tụng Chúa và giúp cho "càng ngày càng có nhiều người gia nhập Giáo hội" (Tđcv 2, 47b).
Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất, không chỉ là những người có đạo mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự chia sẻ này cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng đoàn để đón nhận nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy "dĩ hòa vi quý" để sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ, cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt Nam.
Vì chưng, giới luật quan trọng nhất của kytô giáo chính là Mến Chúa - yêu người, thì người người Kitô hữu chúng ta phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn được cân nhắc cho vừa ý trời và phù hợp với luân thường đạo lý làm người. Vì vậy, một đời sống chứng nhân Tin mừng cũng phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp với cộng đồng, với tha nhân. Nhất là biết thể hiện sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó mà Tin mừng mới nở hoa trên từng môi trường sống của người tín hữu. Chúng ta không thể là một người kytô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em chung quanh. Lối sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những người chưa biết Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng nói: "Nếu những người kytô giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ mời gọi cả dân tộc Ấn trở lại". Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ. Lối sống này đã không thu góp về cho giáo hội những tín đồ mới mà còn đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi lối sống ích kỷ, độc đoán của chúng ta. Thực tế đã có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối đạo vì sự bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng có rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn đến chúng ta, chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu lòng bao dung.
Thế nên mỗi người tín hữu phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu người nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo. Chúng ta yêu mến tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình yêu chân thành, không khoe khoang, không giả dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã từ trời xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì đời sống chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho tin mừng khi chúng ta dám sống triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Amen.
6. Lễ Khánh Nhật Truyền Giáo
Chúa Nhật trước Chúa Nhật cuối tháng mười là khánh nhật truyền giáo. Năm nay cũng là năm thánh truyền giáo của Giáo Hội Việt Nam, đây cũng là dịp thuận lợi để Kitô hữu Việt Nam tìm hiểu sâu xa về sứ mạng truyền giáo.
Truyền giáo, là giúp người ta tin nhận Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, để họ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, để họ trở nên Kitô hữu. Tại sao phải truyền giáo?
Một số người cho rằng nếu không truyền giáo, nghĩa là nếu không giúp người ta trở lại đạo Công Giáo thì người ta không được cứu độ. Họ tưởng rằng những người ngoại đạo chết sẽ sa hỏa ngục, hoặc ít là không được lên thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời. Công Đồng Chung Vaticanô II dạy rằng, cả những người không biết Đức Giêsu, cả những người không biết Thiên Chúa, thậm chí những người vô thần cũng có thể được cứu độ (Hiến Chế Giáo Hội số 16).
Đứng trên quan điểm của một người không tôn giáo, tất cả các tôn giáo đều như nhau: tất cả các tôn giáo đều tốt, đều dạy ăn ngay ở lành. Có nhiều người Công Giáo sống tốt hơn những người không theo đạo nào hoặc sống tốt hơn một số người theo đạo khác, nhưng cũng có những người sống trong tôn giáo ngoài Kitô giáo hoặc không theo một tôn giáo nào cũng ăn ngay ở lành và thậm chí còn sống tốt hơn một số Kitô hữu. Như vậy, Kitô hữu truyền giáo không phải vì Kitô hữu sống tốt hơn những người không tôn giáo hoặc sống trong các tôn giáo khác.
Tin Mừng theo thánh Matthêu cho thấy Đức Giêsu truyền lệnh cho các tông đồ "dạy muôn dân trở thành môn đệ," dạy bảo người ta tuân giữ những điều Đức Giêsu đã dạy các môn đệ. Kitô hữu truyền giáo không phải vì sợ người ta nếu không theo đạo Công Giáo thì phải sa hỏa ngục, nhưng bởi vì Đức Giêsu đã truyền lệnh.
Một số Kitô hữu không thích chữ truyền giáo, vì họ cho rằng từ ngữ này mang tính bá quyền, thống trị, độc tôn, tự kiêu, vì nó hàm chứa rằng Kitô giáo là nhất, chỉ có Kitô giáo là đúng. Nhiều người cho rằng, nếu dùng từ ngữ truyền giáo thì rất khó có thể đối thoại với những người sống trong các tôn giáo khác, vì nếu tiếp xúc với ai mà lại nghĩ người đó đang theo một tôn giáo sai lầm, và rồi chỉ tìm mọi cách làm cho người đó vào đạo của mình, thì làm sao có thể trân trọng và trao đổi chân tình một vấn đề.
Một số Kitô hữu thích dùng từ ngữ rao giảng Tin Mừng. Từ ngữ này có thể hiểu khi một người trình bày cho người khác tôn giáo của mình, họ nghĩ rằng điều họ biết họ tin là đúng, nên họ loan báo cho người khác biết, để nếu người đó thấy như họ và tin theo, thì người đó sẽ được hạnh phúc như họ cảm nghiệm. Việc người khác trở lại hay không là tùy do người đó, Kitô hữu chỉ chia sẻ những gì mình thấy là hay là tuyệt, và để người đó hoàn toàn tự do theo điều mà họ thấy đúng nhất hay nhất tuyệt nhất. Kitô hữu luôn tôn trọng tự do tôn giáo của người khác. Tự do tôn giáo là quyền của con người, quyền này đã được công đồng chung Vatican khẳng định. Kitô hữu không được rửa tội cho ai nếu người đó không muốn. Thực ra, từ ngữ "truyền giáo" là từ ngữ được sử dụng "nội bộ" thôi, nghĩa là, chỉ dùng giữa những Kitô hữu với nhau thôi, chứ không thể dùng để nói với những người theo các tôn giáo khác được. Nếu nói với những người ngoài Kitô giáo, từ ngữ loan báo Tin Mừng có lẽ dễ được chấp nhận hơn.
Rao giảng Tin Mừng là nói về Đức Giêsu Kitô. Kể cho người ta nghe Đức Giêsu là ai, Ngài đã làm gì, Ngài thực sự là ai. Tín hữu tin rằng Đức Giêsu chết và phục sinh là Tin Mừng tuyệt đối cho tất cả mọi người, thế nên, họ muốn chia sẻ Tin Mừng cho người khác. Tin Mừng Đức Giêsu Phục Sinh làm cho Kitô hữu hạnh phúc, nên Kitô hữu muốn người khác được bình an, hạnh phúc như họ, nên họ rao giảng Tin Mừng tuyệt vời này.
Đức Giêsu đã chết và đã phục sinh, ai tin vào Ngài sẽ không phải chết, và nếu có chết cũng sống lại. Đức Giêsu đã chết và đã sống lại. Đức Giêsu phải chết, vì Ngài mang thân phận con người. Không có ai là người mà đã không chết. Đức Giêsu đã phục sinh. Sự Ngài phục sinh trở thành dấu chỉ cho người ta nhận ra sự thật về chính Ngài: Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Thiên Chúa đã làm người để chỉ cho con người biết con đường cứu độ, chỉ cho người ta biết cách sống giúp người ta hạnh phúc đích thực.
Đức Giêsu là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa. Ngài là biểu tượng tình yêu Thiên Chúa. Đức Giêsu là chính tình yêu Thiên Chúa cho con người. Biết Đức Giêsu, là biết hơn về Thiên Chúa. Biết Đức Giêsu, là biết Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào; vì nếu không yêu thương, tại sao Thiên Chúa lại nhập thể, lại vĩnh viễn làm người! Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người như một lời mời gọi con người đáp trả tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu đáp trả tình yêu, ân tình đền đáp ân tình. Con người đáp trả tình yêu Thiên Chúa bằng việc phó thác tất cả cho Thiên Chúa trong niềm tin tưởng tuyệt đối.
Bước theo Đức Giêsu, trở nên môn đệ của Ngài, là đã bắt đầu được giải phóng, được an bình hạnh phúc vì biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Kitô hữu muốn người khác biết Đức Giêsu, là để họ được bình an và hạnh phúc thật sự. Đó là lý do tại sao Kitô hữu rao giảng Tin Mừng, rao giảng Đức Giêsu đã chết và đã phục sinh. Đức Giêsu là chính Thiên Chúa nhập thể. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, nên đã sai Con Ngài nhập thể để đưa con người đến với Thiên Chúa, để con người được hạnh phúc đích thực.
Con người ngày nay dường như được đánh động bởi những việc làm hơn là những lời nói xuông. Họ được đánh động bởi chứng từ cuộc sống hơn là bài giảng hay. Nếu Kitô hữu cho người khác thấy niềm tin vào Đức Giêsu chết và sống lại đã chi phối đời sống của họ, giúp họ vượt qua khó khăn và giúp họ chấp nhận cuộc sống đích thực như thế nào, thì chắc có nhiều người sẽ tìm hiểu về Đức Giêsu, Đấng đã làm cho các Kitô hữu những điều tuyệt vời như vậy.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Truyền giáo là gì? Tại sao Kitô hữu phải truyền giáo?
2. Hôm nay tại môi trường bạn sống, phải loan báo Tin Mừng thế nào để người ta tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa?
7. Cách thức truyền giáo
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn còn vang vọng tới hôm nay: "anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo". Chúa không nói riêng một ai. Chúa mời gọi tất cả. Chúa không đòi hỏi khả năng, bằng cấp, học vị mà chỉ cần có nhiệt huyết làm tông đồ cho Chúa. Chúa cũng không đòi hỏi người truyền giáo phải hiểu biết tín lý thần học sâu xa, hay luân lý uyên thâm, Chúa chỉ cần có lòng quảng đại dấn thân mở mang nước Chúa. Chúa đã sai 72 môn đệ ra đi với đôi bàn tay trắng, thế mà khi trở về ai cũng vui mừng vì thành quả họ đã đạt được. Chúa đã thưởng công cho mỗi người như nhau, không phân biệt người đến sớm, kẻ đến muộn, người đạo gốc hay mới theo đạo. Từ người thợ giờ thứ 9 cho tới giờ thứ 11 đều được ân thưởng theo lòng nhân từ của Chúa.
Vậy đâu là cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất cho người tông đồ của Chúa?
Thánh Gioan Tông đồ đã viết: "Ngôi lời đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta". Chúa Giêsu là Lời hằng sống gieo vào thế gian, nhưng Lời đã mang lấy xác phàm giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngôi Lời đã trở thành nguồn ơn cứu độ để những ai tiếp xúc với Ngài đều có thể nhận lãnh được sự sống dồi dào cả tinh thần lẫn thể xác. Ngôi Lời đã mặc lấy thân phận con người, để có thể gần gũi, cảm thông và chia sẻ với những khổ đau của con người. Cuộc sống của Ngài đã trở thành trở thành lẽ sống cho con người, "Sống để yêu thương", và Ngài đã đi trọn con đường tình yêu là "dám chết cho người mình yêu". Vì vậy, cách thức duy nhất mà Chúa trối lại cho chúng ta là "anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Lời Chúa và giáo huấn của Chúa phải trở thành cung cách sống của người tín hữu. Một đời sống bác ái yêu thương mới thực sự là phương thế hữu hiệu nhất để giới thiệu về Chúa cho tha nhân. Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau. Mang danh kytô hữu và sống đời kytô hữu phải nên một trong con người có đạo mới thực sự trở thành chứng nhân cho Chúa.
Vì vậy, Truyền giáo không thể chỉ đi lễ, đọc kinh cầu nguyện là xong bổn phận chứng nhân cho Chúa. Nếu như thế mới chỉ là hành vi trả lại công bằng cho Chúa, vì việc tạ ơn là hành vi đền đáp lại ân ban của Thiên Chúa dành cho con người. Truyền giáo không phải là việc tuân giữ các giới răn của Chúa. Nếu như thế mới là giữ đạo chứ chưa truyền đao. Truyền giáo không phải là nói thật hay, thuyết trình thật hùng hồn là có thể đem nhiều người về với Chúa. Nếu như thế mới chỉ là tiếp thị chứ chưa mang đạo vào đời như muối như men ướp mặn trần gian.
Trong thông điệp "khánh nhật truyền giáo 2006", Đức Thánh Cha Bênedictô 16 đã viết: "Sứ mạng truyền giáo, nếu không được định hướng bởi Lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành động sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó liền bị rút gọn về chỉ còn như là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có đối với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh nghiệm sống và loan báo Phúc Âm".
Như vậy, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định cách thức mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đi đó là thực hành bác ái. Không có lòng mến thì không thể trở thành nhân chứng cho niềm tin của mình. Yêu Chúa luôn đi liền với yêu mến tha nhân. Và thánh Phaolô còn quả quyết "Lòng mến chính là sợi giây ràng buộc chúng ta nên một với Đức Kytô".
Hôm nay nhân ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta hãy rà xét lại lòng mến của chúng ta đã trở nên dấu chỉ của người kytô hữu hay chưa? Ngày xưa cộng đoàn tín hữu tiên khởi họ đã sống thật hiệp nhất với nhau, ngày ngày họ đến hội đường để nghe các tông đồ rao giảng. Họ chia sẻ đời sống hằng ngày với nhau, để không ai phải thiếu thốn. Họ được toàn dân thương mến và ngày càng có thêm nhiều người gia nhập Giáo Hội. Ước gì cộng đoàn xứ đạo chúng ta cũng được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến, đầy thiện cảm và tôn trọng, và ngày càng có những người muốn sống đời kytô hữu như chúng ta. Amen.
8. Khánh Nhật Truyền Giáo
(Lm. G.B. Văn Hào)
Trong cuộc tông du tại Hoa Kỳ vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ ngày 23 tháng Chín năm 2015 tại Đền Thánh Đức Mẹ Vô nhiễm ở Washington DC để tuyên thánh cho Cha Junipero Serra, một vị thừa sai dòng Phanxicô gốc Tây Ban Nha. Vị Thánh đã đến Châu Mỹ làm việc cho thổ dân da đỏ và đã đón nhận cái chết tử đạo để minh chứng đức tin. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nhắc lại câu châm ngôn của vị thánh, đó là "Hãy luôn tiến lên phía trước để rao giảng Tin mừng". Đức Thánh Cha cũng gợi lại tư tưởng mà Ngài đã viết trong tông huấn 'Niềm vui của Tin mừng' (Gaudium Evangelii): " Từ sâu tận tâm hồn, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ra đi. Đừng ở lỳ một chỗ để an hưởng một cuộc sống nhàn hạ. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: Hãy đi rao giảng. Niềm vui Tin mừng là điều chúng ta phải trải nghiệm cách cụ thể. Chúng ta không có niềm vui đó nếu chúng ta không biết xả thân và trao ban". Đây cũng là sứ điệp Giáo hội gửi trao đến chúng ta trong ngày Chúa nhật truyền giáo hôm nay.
Truyền giáo là lên đường.
Trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô đã nói đến bốn phần vụ trong Giáo hội để xây dựng nhiệm thể Đức Kitô, đó là: làm tông đồ, làm ngôn sứ, làm người loan báo Tin mừng, làm người coi sóc và dạy dỗ (Eph 4, 11). Trong bốn chức năng đó, trở thành người loan báo Tin mừng đòi hỏi sự hi sinh và dấn thân hơn cả, bởi vì người đó phải ra đi và lên đường. Người đi rao giảng Tin mừng phải rời bỏ tất cả: từ gia đình, quê hương, đến nơi ăn chốn ở và mọi dính bén khác. Căn gốc của sự ra đi chính là từ bỏ chính mình. Khi sai các học trò đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu chỉ trang bị cho các ông một món hành trang duy nhất, đó là 'năng quyền trừ quỷ và chữa lành các bệnh tật', ngoài ra không tiền bạc, không bao bị, không mặc hai áo, không giầy dép..( Lc 9,3). Vì vậy truyền giáo trước hết là phải sẵn sàng lên đường và ra đi đến mọi ngõ ngách của thế giới, đặc biệt đến những vùng ven (peripheries) như lời Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi. Cuộc ra đi như vậy đòi hỏi phải chấp nhận phiêu lưu cách mạo hiểm, và cao điểm của cuộc hành trình liều lĩnh đó là chấp nhận cái chết như Đức Kitô trên Thập giá. Khi phong Thánh cho Cha Serra cuối tháng Chín vừa qua, Đức Thánh Cha đã nhắc lại đôi nét về sự ra đi của Ngài. Vị Thánh đã quảng đại từ khước địa vị danh giá là ghế giáo sư đại học ở Tây Ban Nha để lên đường sang Tân thế giới, phục vụ cho Tin mừng và ơn cứu độ. Cuộc mạo hiểm của Ngài đã phải trả giá, nhưng là cái giá của vinh thắng. Vừa khi mới đặt chân đến Mexicô, chân của Ngài đã bị sưng tấy vì dị ứng và đau đớn tột cùng, giống như bị ung thư hay bị nhện rừng cắn. Cao điểm của cuộc phiêu lưu này là Ngài đã bị giết chết, để bảo vệ các thổ dân. Một thi sỹ đã viết: " Ra đi là chết trong lòng một ít". Nhưng sự ra đi trong hành trình truyền giáo là sao chép lại tận căn chính cái chết của Đức Giêsu, vị truyền giáo đầu tiên, và cũng là nguyên mẫu cho chúng ta trong việc thực thi sứ mệnh rao giảng Tin mừng.
Đức Giêsu, nguyên mẫu của ơn gọi truyền giáo.
Năm mươi năm trước, Công đồng Vaticanô 2 đã ban hành sắc lệnh về truyền giáo 'Ad Gentes'. Ngay từ chương đầu tiên của giáo huấn này, Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn về Đức Kitô như là nguyên mẫu cho sứ vụ truyền giáo. Công đồng đưa dẫn nhiều trích đoạn kinh thánh để cho chúng ta thấy Đức Kitô là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian hầu thực hiện sứ mạng cứu thế ( Col 1, 13; Cv 10, 38; 2C 8, 9..). Vì vậy khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta có thể nghiệm ra rằng, 2000 năm trước Ngài đã đi vào trần thế không phải để sáng lập một tôn giáo, cũng như không phải để quảng bá một học thuyết chính trị. Ngài đến chỉ với sứ mạng duy nhất là công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là Tin mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu đã lập đi lập lại sứ điệp này trong suốt ba năm rao giảng công khai, và cái chết của Ngài trên Thập giá chính là đỉnh điểm của lời công bố Tin mừng vĩ đại ấy. Vì vậy, để sống tinh thần truyền giáo, chúng ta phải học nơi Thập giá Đức Giêsu. Ngài chính là vị truyền giáo đầu tiên, và là mẫu gương trọn hảo cho tất cả chúng ta (trích Tông huấn Evangelii Nuntiandi số 7). Trong các đợt xuất phát truyền giáo, các hội dòng thường trao cho các vị thừa sai Thánh giá truyền giáo cũng với hướng đích này.
Truyền giáo là bản chất của Giáo hội
Trong các phiên họp khoáng đại của công đồng chung Vaticanô 2, Đức Thánh Cha Phaolô đệ lục có nêu ra một câu hỏi rất giản đơn cho các nghị phụ: " Ta sống ở đời này để làm gì?" Đây cũng là câu hỏi đầu tiên trong các sách giáo lý căn bản mà chúng ta đều biết cũng như đã thuộc lòng câu trả lời, đó là:'Ta sống ở đời này để nhận biết và kính mến Chúa, cho ngày sau được hưởng hạnh phúc đời đời'. Các nghị phụ cũng trả lời như thế. Nhưng Đức Thánh Cha nói rằng câu trả lời còn thiếu. Ngài cắt nghĩa: " Ta sống ở đời này để nhận biết và yêu mến Chúa, cho ngày sau được cứu rỗi, nhưng chúng ta cũng sống ở trần gian này còn để giúp người khác yêu mến và nhận biết Thiên Chúa, để họ cũng được ơn cứu độ như chúng ta". Cha Thomas Merton, một tu sỹ dòng Trappist ở Hoa Kỳ có viết một tác phẩm tựa đề: 'Không ai là một hòn đảo'. Tư tưởng của Ngài rất thâm thúy, và trong dịp viếng thăm Hoa Kỳ vừa qua, khi đọc diễn văn tại lưỡng viện quốc hội, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng gợi nhắc khuôn mặt tiêu biểu này. Cha Thomas Merton lý luận rằng, không ai trong chúng ta có thể sống cô lẻ một mình như một ốc đảo. Khi sống hiệp thông trong Hội thánh, chúng ta liên đới với anh chị em mình trong sự thánh thiện cũng như cả trong tội lỗi. Vì vậy không ai trong chúng ta sẽ lên thiên đàng một mình hoặc cũng không ai xuống hỏa ngục một mình. Chúng ta nên thánh bằng cách giúp người khác nên thánh, và đây cũng là ý nghĩa của sứ mệnh truyền giáo. Sứ mệnh này thuộc bản chất của Giáo hội, gắn liền với Giáo hội và cũng là bổn phận của mọi Kitô hữu. Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã chuyển giao sứ mạng cứu thế cho Giáo hội bằng mệnh lệnh: " Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân" (Mc 16,15). 'Cho muôn dân' tức " ad gentes", cũng chính là tựa đề của sắc lệnh về truyền giáo mà công đồng Vaticanô 2 đã để lại cho chúng ta.
Chứng nhân hơn là thầy dạy
Trong một sứ điệp ngày truyền giáo, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 cũng viết: " Truyền giáo là thước đo đức tin của mọi tín hữu". Lời khẳng định này cũng tương hợp với giáo huấn của Thánh Giacôbê tông đồ khi Ngài viết: " Đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Gc 2,17). Việc làm đó được thực hiện rõ nét nhất qua sứ vụ truyền giáo. Rao giảng Tin mừng là một bổn phận của những ai thuộc về Đức Kitô và được Chúa mời gọi trở nên môn đệ Ngài. Thánh Phaolô xác tín mạnh mẽ bổn phận ấy nên Ngài nói: " Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng"(1Cr 9,16). Nhưng, cách thái rao giảng Tin mừng để đạt hiệu quả mới là điều quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm.
Có lần, một số các vị truyền giáo đang làm việc ở Ấn Độ đến gặp ông Mahatma Gandhi và hỏi ông bí quyết làm sao để có thể truyền giáo cho người dân Hindu ở đây. Ông Gandhi mời gọi các vị truyền giáo hãy suy nghiệm bí quyết từ cánh hoa hồng. Người ta thích hoa hồng không phải chỉ vì vẻ đẹp bên ngoài mà còn vì mùi hương quyến rũ từ bên trong tỏa ra. Ông kết luận, muốn truyền giáo thành công, phải học bí quyết ấy, tức là rao giảng không phải bằng lý thuyết xuông nhưng bằng gương sáng cụ thể của cuộc sống. Điều ông ta nói tới cũng giống như giáo huấn của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 khi Ngài diễn tả: " Ngày nay, Giáo hội cần những chứng nhân hơn là những thầy dạy."
Kết luận: Chứng tá Tin mừng
Sau biến cố 30 tháng 04 năm 1975, một cán bộ nhà nước thuộc dạng cao cấp có hỏi một anh em tu sĩ dòng Tên ở Thủ Đức: " Các anh là những người theo tôn giáo, chắc các anh rất sợ chúng tôi là những người vô thần?". Vị tu sĩ đó bình thản trả lời: "Vâng thưa ông, chúng tôi rất sợ những người vô thần. Nhưng nếu các ông là những người vô thần thực sự và sống đúng với lý tưởng của các ông, thì chẳng có gì đáng sợ cả. Xin chúc mừng các ông nếu các ông thật sự cảm thấy hạnh phúc trong sự xác tín lý tưởng của mình. Nhưng ngược lại, chúng tôi rất sợ những người vô thần trong thực hành. Họ mang danh là Kitô hữu, nhưng lại sống như những người vô thần thực sự và còn tệ hơn cả những con người công khai chối bỏ Thiên Chúa. Bởi vì, cuộc sống của họ đang tàn phá Giáo hội, làm lung lạc đức tin người khác và làm cho Giáo hội của chúng tôi ngày càng suy yếu."
Nếp sống vô thần trong thực hành như thế chính là một lối sống phản chứng tá. Thay vì rao giảng Tin mừng, thì cuộc sống như vậy lại cản che và bóp chết hạt giống Lời Chúa trong những sỏi đá và gai góc nơi chính tâm hồn của họ. Trong ngày khánh nhật truyền giáo hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống chính mình để duyệt xét xem chúng ta đã thực thi bổn phận quan trọng ấy như thế nào.
9. Nối bước các Thừa Sai
(Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong tông huấn Ecclesia in Asia, Đức Cố Gioan Hoàng Gioan Phao-lô II đã kêu gọi: "Thiên niên kỷ thứ nhất truyền giáo cho Châu Âu. Thiên niên kỷ thứ hai truyền giáo cho Châu Mỹ. Thiên niên kỷ thứ ba phải truyền giáo cho Á Châu".
Cách riêng với Giáo Hội việt Nam năm 2003 mừng 470 năm Tin Mừng được rao giảng trên quê hương đất nước chúng ta, các Đức Giám mục Việt Nam đã hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha, công bố thư mục vụ mang tựa đề "Sứ Mạng Loan báo TinMừng Của Hội Thánh Việt Nam Hôm Nay" đã khẳng định: "Đầu thiên niên kỷ mới, sứ mạng loan báo Tin mừng được đặc biệt trao vào tay chúng ta. Chúng ta hãy tiếp bước các vị thừa sai đầy nhiệt tình tông đồ, hãy phát huy truyền thống kiên cường của các bậc tiền nhân anh hùng tử đạo. Ta hãy đáp lại kỳ vọng của Hội thánh đem Tin mừng cho anh em trên lục địa mênh mông này. Và đặc biệt đem Tin mừng cho anh chị em sống ngay trên quê hương Việt nam". (Thư chung 2003)
Hơn nữa, Giáo hội Việt Nam ngày nay là con cháu của 117 vị thánh Tử Đạo và của hàng chục ngàn người Việt Nam đã chết vì đạo. Nhưng gần 5 thế kỷ trôi qua, Giáo hội Việt Nam xem ra vẫn còn bé nhỏ giữa lòng dân tộc Việt nam. Theo thống kê năm 2006 thì Giáo hội việt nam có 26 Giáo Phận, gồm khoảng 7 triệu giáo dân, trên tổng số hơn 80 triệu người Việt Nam, chiếm tỉ lệ 6,62%.
Là người con của dân tộc Việt Nam, là dòng máu các anh hùng Tử đạo Việt Nam chúng ta cần phải có bổn phận loan báo Tin mừng cho chính quê hương, dân tộc của mình. Đạo làm người dạy chúng ta phải "thương người như thể thương thân", thì đạo làm con Chúa đòi hỏi chúng ta chia sẻ tất cả những gì mình có cho tha nhân, cho đồng loại. Các thánh Tông Đồ, các vị Thừa Sai đã đem niềm vui lớn nhất là Tin mừng Chúa Giêsu được công bố cho toàn thế giới. Các Ngài đã không quản ngại hy sinh tính mạng để đổi lấy niềm vui ơn cứu độ được trao ban tới muôn triệu tâm hồn. "Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau đem Tin mừng đến tận cùng thế giới". (Thư chung 2003)
Nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin mừng. Nhờ đời sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân mà thế hệ chúng ta được thừa hưởng một gia tài đức tin vô cùng quý giá. Gia sản này chúng ta không có quyền lưu giữ cho riêng mình, nhưng phải có bỗn phận chia sẻ cho con người thời đại hôm nay. Chúa Giêsu sau khi phục sinh, Ngài đã uỷ thác cho Hội Thánh nhiệm vụ loan báo tin mừng khi Ngài nói: "Anh em hãy đi tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin mừng" (Mc 16,15). Lệnh truyền này đã trở thành sứ mạng chính yếu của Hội Thánh Chúa Kitô. Hội thánh hiện hữu là để loan báo Tin mừng và làm cho những ai thành tâm đón nhận Tin mừng trở nên môn đệ Chúa Kitô, đồng thời quy tụ cho Thiên Chúa mọi con cái tản mác khắp nơi về một mối (Ga 10,52). Thế nên, là người công dân của Nước Trời, chúng ta phản có bỗn phận chu toàn sứ vụ đó cho anh chị em chung quanh chúng ta, cụ thề là cho chình đồng bào và dân tộc Việt Nam.
Vậy, truyền giáo là gì?
Theo công đồng Vat II: "Việc truyền giáo là tất cả những công tác đặc biệt qua đó các nhà rao giảng Phúc âm được Giáo hội sai đi khắp thế gian, thi hành nhiệm vụ rao giảng Phúc âm và vun trồng Giáo hội nơi các dân tộc cũng như giữa những nhóm người chưa tin vào Chúa". (TG 6c)
Trước đó, cha Pierre Charles cũng cho rằng: "mục tiêu truyền giáo không phải là cứu rỗi các linh hồn", hoặc "làm cho dân ngoại trở về với Chúa"...; song là "mở rộng biên cương Giáo hội hữu hình, nhằm hoàn tất tiến trình lớn lên, hầu bao phủ toàn thế giới với lời cầu nguyện và việc phụng tự, tức là để mang cho Đấng Cứu Thế toàn bộ gia sản của Ngài".
Như vậy, việc truyền giáo là "đưa Thiên Chúa đến với con người và đưa con người trở về với Thiên Chúa". Đó chính là mục tiêu chính của việc truyền giáo và cũng là sứ mạng cấp bách của Giáo hội Chúa Kitô. Vì Giáo hội được hình thành để tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, Đấng sang lập Giáo hội. Khi hoàn tất sứ mạng của mình ở trần gian, Chúa Giêsu đã sai phái các tông đồ tiếp tục sứ mạng đó cho đến tận cùng trái đất. "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sia anh em" (Ga 20, 21". "Anh em hãy làm chứng cho Thầy khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem đến tận cùng trái đất" (Lc 24, 47)
Vì vậy, là người công giáo chúng ta phải có bổn phận mang Tin mừng của Chúa đến cho anh em minh. Hãy tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô đưa muôn người đang còn tản mác khắp nơi về với Chúa. Hãy tiếp nối truyền thống của các Thừa sai Việt Nam mang Tin mừng đến cho những anh em nghèo đói, đến những phận người bị bỏ rơi.. # Hãy tiếp nối tinh thần quả cảm hy sinh, kiên cường của các tiền nhân mà mạnh dạn làm chứng cho Chúa, cho dù có bị thua thiệt trước mặt người đời, cho dù có bị hiểu lầm, ngược đãi... nhưng cùng chịu chết với Đức Kitô là một mối lợi mà không có một gia sản nào trên trần gian có thể sánh bằng.
Nguyện xin Chúa Giêsu là người thợ lành nghề được sai đến trần gian để gặt lúa của Người, xin giúp chúng con biết dấn thân quảng đại vào cánh đồng truyền giáo Việt Nam hôm nay. Amen.
10. Truyền giáo bằng chứng tá: Ai cũng có thể làm được
(Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Truyền giáo bằng chứng tá: Ai cũng có thể làm được
Có lẽ chúng ta đã nghe nói nhiều đến việc truyền giáo. Và thường chúng ta nghĩ rằng đó là việc của các linh mục, các nam nữ tu sĩ, của tiểu ban truyền giáo, hay của một số người có ơn gọi đặc biệt như Thánh Phaolô, Thánh Phanxicô Xaviê,... chứ chẳng phải là việc của mình. Tuy nhiên, truyền giáo là ơn gọi, là trách nhiệm gắn liền với mọi người Kitô hữu. Bao lâu còn là Kitô hữu, bấy lâu còn phải loan báo Tin Mừng. Có thể chúng ta không có khả năng lôi kéo, thuyết phục để cho người khác theo đạo, nhưng "nói" cho người khác biết về đạo bằng chứng tá đời sống thì ai ai cũng có thể làm được. Vậy chứng tá cụ thể đó là gì?
- Trước hết là chứng tá bằng đời sống cầu nguyện hy sinh
Đây là hoạt động đi đầu và không thể thiếu trong việc loan báo Tin Mừng. Nhìn thấy gương chúng ta cầu nguyện, gương chúng ta hy sinh, người ta sẽ được đánh động, được cảm hoá. Nếu đời sống tâm linh của chúng ta được cắm rễ sâu trong đời sống cầu nguyện hy sinh, thì mọi việc ta làm đều có giá trị truyền giáo, đều có khả năng làm cho người khác nhận biết Chúa và đem lại rất nhiều lợi ích cho các linh hồn. Như vậy, ngồi ở nhà, chúng ta vẫn có thể truyền giáo. Về điểm này, Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta noi theo. Ngài nói: "Dù cúi xuống nhặt một cây kim vì lòng yêu mến Chúa, tôi cũng có thể cứu được một linh hồn".
Không ai có thể nói là tôi không có thì giờ để cầu nguyện. Không ai có thể nói là tôi không có cơ hội để hy sinh. Và để rèn luyện được nếp sống thấm nhuần tinh thần cầu nguyện hy sinh, có sức giới thiệu Đức Kitô cho người khác, thiết tưởng chúng ta có thể nhờ đến Chuỗi Kinh Mân Côi. Nhờ Mẹ dẫn chúng ta bước đi từng bước nhỏ trên đường vâng phục thánh ý Chúa và phục vụ các linh hồn.
- Thứ đến là chứng tá bằng lối sống hiệp nhất yêu thương
Truyền giáo bằng việc giảng dạy, bằng sách báo, bằng các lớp Giáo lý, bằng các lễ nghi, bằng các hoạt động tôn giáo, thực tế là rất cần. Nhưng cách truyền giáo hữu hiệu nữa là chính nếp sống đạo đức nổi trội của chúng ta về sự hiệp nhất yêu thương: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em hãy thương yêu nhau". Tình yêu thương hiệp nhất ấy được thể hiện qua cách suy nghĩ, cách phán đoán, cách chọn lựa, cách đối xử, cách phản ứng, cách hiện diện, cách phục vụ nói năng, ăn uống, giải trí, cách dùng thời giờ, sức khoẻ, của cải,...
Những dấu chỉ yêu thương hiệp nhất giữa mọi người trong gia đình, trong hội đoàn, trong giáo họ, giáo xứ là dấu chỉ loan báo Tin Mừng hữu hiệu nhất, giá trị nhất. Ngược lại, nếu thiếu tình bác ái yêu thương thì những việc tông đồ truyền giáo sẽ phản tác dụng. Xin dẫn chứng:
Một cô gái ngoại giáo lấy người Công giáo, láng giềng, bà con thấy cô ta đẹp người đẹp nết, nên giục cô ta vào đạo. Cô ta trả lời: "Khi nào cháu thấy đạo Chúa hơn đạo Phật, cháu mới vào". Tìm hiểu, người ta mới biết được bà mẹ chồng dù rất siêng năng đọc kinh, dự lễ và đã từng bỏ ra gần cả một chục triệu bạc cùng với nhiều bà khác giúp cha sở đi Roma xin ơn Đức Giáo hoàng, nhưng bà đã từng sang giật nồi, lấy niêu của một bà hàng xóm nghèo chưa có tiền trả nợ cho bà. Cô dâu in trong lòng hình ảnh không tốt về mẹ chồng và về đạo. Do đó cô nhất quyết không theo đạo bao lâu chưa thấy người theo đạo sống tốt hơn.
Một khi tất cả nếp sống của chúng ta phảng phất hương thơm của tình hiệp nhất yêu thương thì dù ở đâu, nếp sống ấy cũng là truyền giáo.
- Sau nữa là chứng tá bằng nếp sống có văn hoá, văn minh
Ngày hôm nay, xã hội đang phải đối diện với biết bao tệ nạn, môi trường sống bị ô nhiễm trầm trọng, các giá trị đạo đức luân lý bị băng hoại. Chính vì thế, nỗ lực của xã hội là xây dựng nếp sống lành mạnh, có văn hoá, văn minh. Đi đâu chúng ta cũng thấy có các bảng hiệu "khu phố văn hoá", "thôn văn hoá, ấp văn hoá"..., lẽ nào chúng ta lại đứng ngoài, lẽ nào chúng ta lại không chung tay góp sức mình vào việc đó. Dĩ nhiên, nền văn hoá mà chúng ta phải xây dựng không phải là văn hoá sự chết, văn hoá tiêu diệt sự sống, mà là nền văn hoá bảo vệ và thăng tiến sự sống, sự sống ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Nền văn minh mà chúng ta phải kiến tạo không phải là văn minh của nền khoa học kỹ thuật khô cứng hay của chủ nghĩa duy vật hưởng thụ cực đoan, mà là nền văn minh của tình thương, nền văn minh của lòng bao dung tha thứ.
Như mọi người khác, người Công giáo cũng đang hiện diện tại mọi môi trường xã hội hôm nay. Chúng ta cũng làm ăn sinh sống trong mọi lĩnh vực: kinh doanh, sản xuất, buôn bán... với mọi hoàn cảnh từ thương gia đến kỹ sư, bác sĩ, giáo viên, công nhân viên. Cũng làm việc, cũng mưu sinh, nhưng chúng ta làm việc với tinh thần khác: tinh thần công bình bác ái và phục vụ hy sinh.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn ý thức được sứ mạng truyền giáo bằng chứng tá của mình, đặc biệt trong Năm Đức Tin, để ra sức sống tinh thần cầu nguyện hy sinh, yêu thương hiệp nhất, đồng thời nỗ lực xây dựng một cuộc sống tốt đạo đẹp đời hầu cho danh Chúa được ngày một cả sáng hơn. Amen.
11. Truyền giáo.
Công đồng Vat. II trong sắc lệnh về truyền giáo có viết: Được Thiên Chúa sai đến với muôn dân để nên bí tích cứu độ phổ quát, Giáo Hội vì những đòi hỏi căn bản của mình và vì mệnh lệnh của Đấng sáng lập, nhất quyết loan báo Tin Mừng cho mọi người. Việc loan báo này được thực hiện bằng nhiều phương thế khác nhau của toàn thể dân Chúa vẫn luôn được Giáo Hội cổ võ, khuyến khích và chỉ dẫn. Vì vậy hàng năm Giáo Hội đã chọn một ngày vào Chúa nhập áp cuối tháng 10 để thúc đẩy mọi linh mục tu sĩ và giáo dân ý thức hơn về việc rao giảng Tin Mừng. Việc này không dành cho riêng ai và không thể một cá nhân, một đoàn thể nào làm được hết. Trái lại mọi thành phần dân Chúa phải có trách nhiệm để thực hiện lời Chúa đã truyền dạy trước khi về trời: Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
Vì thế, theo lệnh truyền của Chúa, từ ngày chịu bí tích Rửa Tội, chúng ta đã trở nên con cái Chúa, rồi từ ngày lãnh nhận bí tích Thêm Sức, chúng ta đã lãnh nhận sứ vụ tông đồ để thi hành đúng chức năng ngôn sứ của mình. Vì vậy, bổn phận đòi buộc hết mọi người giáo dân trong bất kỳ lãnh vực nào cũng phải là chứng nhân cho Đức Kitô. Hơn thế nữa, người giáo dân có một lợi thế hơn hẳn hàng giáo sĩ là sống giữa các môi trường xã hội khác nhau với đủ ngành nghề, địa vị xã hội để có thể cảm hoá cảnh vực và trở nên như men, như ánh sáng, như muối cho những người chung quanh.
Lời thánh Phaolô tông đồ mời gọi chúng ta suy nghĩ: Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Giáo Hội luôn ý thức điều đó và hôm nay nhắc nhở chúng ta luôn tích cực thi hành sứ mạng truyền giáo cả những lúc bận tâm lo lắng công việc trần thế. Tất cả mọi người đều phải cộng tác vào việc mở mang Nước Chúa trên trần gian và trở thành chứng nhân cho Ngài. Lời Chúa nói: Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít, sẽ nhắc nhở chúng ta phải trở nên là những thợ gặt trên cánh đồng nhân loại, và trở nên ngư phủ trên đại dương trần thế.
Tuy nhiên, như chúng ta đã nói, có nhiều phương thế để góp phần vào công cuộc trọng đại này, chẳng hạn cầu nguyện và rao giảng như các tông đồ, các vị thừa sai, sống đức tin và đức ái phục vụ như Mẹ Têrêsa Calcutta. Thực vậy, tục ngữ cũng đã bảo: Lời nói như gió lung lay việc làm như tay lôi kéo. Chính đời sống gương mẫu của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn nhất có sức lôi cuốn và hấp dẫn người khác đến cùng Chúa. Chính nhờ những việc làm cụ thể trong khi dấn thân để phục vụ, chúng ta sẽ trở nên là những chứng nhân sống động cho Đức Kitô.
Để kết luận, chúng ta hãy ghi nhớ lời nói sau đây của Đức Phaolô VI: Con người thời đại thích lắng nghe các nhân chứng hơn là những nhà giảng thuyết. Và nếu họ có nghe những nhà giảng thuyết chỉ vì những nhà giảng thuyết này đã là những chứng nhân.
12. Sứ điệp Truyền giáo năm 2012.
"Được kêu gọi làm rạng ngời Lời Chân Lý"
(Tông Thư Porta Fidei, 6)
Anh chị em thân mến!
Cuộc cử hành Ngày Thế giới Truyền giáo năm nay mang một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Việc kỷ niệm 50 năm Sắc Lệnh Ad Gentes của Công đồng, việc khai mạc Năm Đức Tin và Thượng Hội đồng Giám mục về đề tài Tân Phúc Âm Hoá là các sự kiện cùng diễn ra trong năm nay để tái xác nhận ý muốn của Hội Thánh là dấn thân một cách hăng say và can đảm hơn vàomissio ad gentes (sứ vụ đến với muôn dân) hầu đem Tin Mừng đến tận cùng trái đất.
Với sự tham dự của các Giám mục Công giáo từ khắp nơi trên thế giới, Công đồng Chung Vatican II đã là một dấu chỉ sáng ngời về tính phổ quát của Hội Thánh, qua việc lần đầu tiên quy tụ một con số đông đảo như thế các Nghị phụ đến từ Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ Latinh, và Châu Đại Dương. Các giám mục truyền giáo và các giám mục bản xứ, các mục tử của các cộng đoàn rải rác khắp nơi giữa các dân không Kitô giáo, tất cả các vị ấy đã đem đến cho các phiên họp của Công đồng hình ảnh của một Hội Thánh hiện diện trên mọi châu lục và đã trở thành những người cắt nghĩa về thực tại phức tạp mà thời ấy được gọi là "Thế Giới Thứ Ba". Là những người giàu kinh nghiệm thực thi sứ vụ mục tử tại các giáo hội non trẻ đang hình thành, và đầy nhiệt huyết loan truyền Nước Thiên Chúa, các ngài đã góp phần rất quan trọng vào việc tái xác nhận nhu cầu và sự cấp bách của việc loan báo Tin Mừng cho các dân tộc, từ đó đưa bản chất truyền giáo của Giáo Hội vào trung tâm của khoa Giáo hội học.
Khoa Giáo hội học hướng đến truyền giáo
Ngày nay, quan điểm trên vẫn còn nguyên giá trị, hơn nữa còn được tiếp nhận những suy tư thần học và mục vụ phong phú, và đồng thời lại càng tỏ ra cấp bách, vì số người chưa biết Chúa Kitô ngày càng nhiều thêm. "Những người mong chờ Đức Kitô vẫn còn đông vô kể", như lời khẳng định của Chân phước Gioan Phaolô II trong Thông điệp Redemptoris Missio về giá trị muôn đời của huấn lệnh truyền giáo, và ngài thêm: "Chúng ta không thể ngồi yên khi nghĩ tới hàng triệu anh chị em chúng ta đang sống trong tình trạng không biết đến tình yêu của Thiên Chúa, chính họ cũng được cứu chuộc bằng máu Chúa Kitô" (số 86). Phần tôi, khi công bố Năm Đức Tin, tôi đã viết rằng Đức Kitô "hôm nay cũng như hồi ấy, sai chúng ta đi khắp các nẻo đường trên thế giới để loan báo Tin Mừng của Người cho mọi dân tộc trên mặt đất" (Tông Thư Porta Fidei, 7); việc loan báo này, như lời Vị Tôi tớ Chúa Phaolô VI trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, "đối với Hội Thánh không phải là một sự cống hiến tuỳ ý, nhưng là một bổn phận Hội Thánh phải thực thi theo lệnh truyền của Chúa Giêsu, để loài người có thể tin và được cứu rỗi. Quả thế, đây là sứ điệp cần thiết. Đây là sứ điệp độc nhất. Sứ điệp không thể thay thế" (số 5). Vì vậy chúng ta cần phải lấy lại cùng một nhiệt huyết tông đồ như các cộng đoàn Kitô hữu sơ khởi, tuy chỉ là một nhóm ít người và không thể tự vệ, nhưng bằng lời loan báo và chứng tá, họ đã có thể loan truyền Tin Mừng trên toàn thế giới được biết đến thời bấy giờ.
Vì vậy không lạ gì khi Công đồng Vaticanô II và Huấn quyền sau Công Đồng của Hội Thánh luôn nhấn mạnh một cách đặc biệt về nhiệm vụ truyền giáo mà Đức Kitô đã uỷ thác cho các môn đệ của Người, và là nhiệm vụ mà toàn thể Dân Thiên Chúa: các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân phải dấn thân thực hiện. Nhiệm vụ loan báo Tin Mừng trên khắp thế giới trước tiên là nhiệm vụ của các giám mục, vì trong tư cách là thành viên của Giám mục đoàn cũng như là Mục tử của các Giáo Hội địa phương, các ngài là những người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc rao giảng Tin Mừng trên thế giới. Thực vậy, các ngài "đã được tấn phong không chỉ cho một giáo phận, mà cho sự cứu rỗi của toàn thế giới" (Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio, 63), "các ngài là những người rao giảng đức tin dẫn đến cho Đức Kitô những người môn đệ mới" (Ad Gentes, 20) và làm cho mọi người "thấy được tinh thần và nhiệt huyết truyền giáo của Dân Chúa, để toàn giáo phận trở thành những nhà truyền giáo" (nt., 38).
Địa vị ưu tiên của rao giảng Tin Mừng
Vì vậy, đối với một Chủ Chăn, nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng không chỉ giới hạn vào việc chăm lo cho thành phần Dân Chúa được giao phó cho ngài chăm sóc về mục vụ, cũng không chỉ là sai một số linh mục hay giáo dân đi truyền giáo như là fidei donum (quà tặng đức Tin). Nhiệm vụ ấy phải bao gồm toàn thể hoạt động của Hội Thánh địa phương, mọi lĩnh vực của Hội Thánh ấy, tóm lại, phải bao gồm toàn thể đời sống và hoạt động của Hội Thánh ấy. Công đồng Vaticanô II đã nói rõ điều này và Huấn quyền sau Công đồng đã mạnh mẽ xác nhận lại. Điều này đòi hỏi rằng các bậc sống, các kế hoạch mục vụ và việc tổ chức giáo phận phải không ngừng được thích nghi với chiều kích nền tảng này của Hội Thánh, đặc biệt trong thế giới không ngừng biến đổi của chúng ta ngày nay. Điều này cũng đúng với các Hội Dòng và các Tu đoàn Tông đồ, cũng như các Phong trào trong Giáo Hội: mọi thành phần trong bức tranh lớn của Hội Thánh phải cảm thấy lệnh truyền rao giảng Tin Mừng của Chúa chất vấn mình mãnh liệt, để Đức Kitô được rao giảng khắp nơi. Là những mục tử, tu sĩ nam nữ và tất cả các tín hữu trong Đức Kitô, chúng ta phải tiếp bước Thánh Phaolô Tông Đồ, là "tù nhân của Đức Kitô vì anh em, những người dân ngoại" (Ep 3, 1), ngài đã chịu đau khổ và chiến đấu để đem Tin Mừng đến giữa dân ngoại (x. Cl 1, 24-29), không ngại tiêu hao sức lực, thời giờ và của cải để loan báo Sứ điệp của Đức Kitô.
Ngày nay cũng thế, sứ mạng ad gentes –đến với muôn dân– phải không ngừng là chân trời và khuôn mẫu cho mọi hoạt động của Hội Thánh, vì chính căn tính của Hội Thánh được tạo thành bởi đức tin vào Mầu Nhiệm Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra cho chúng ta trong Đức Kitô để đưa chúng ta đến ơn cứu độ, và bởi sứ mạng làm chứng và loan báo Người cho thế giới, cho tới khi Người trở lại. Cũng như Thánh Phaolô, chúng ta phải quan tâm tới những người ở xa, những người chưa biết Đức Kitô và chưa cảm nghiệm được tình phụ tử của Thiên Chúa, và chúng ta phải ý thức rằng "sự hợp tác truyền giáo hôm nay phải mở ra những hình thức mới để bao gồm không chỉ việc trợ giúp kinh tế, mà cả sự tham gia trực tiếp vào việc rao giảng Tin Mừng" (Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 82). Việc cử hành Năm Đức Tin và Thượng Hội đồng Giám mục về Tân Phúc Âm hoá sẽ là những cơ hội thuận lợi để phát động sự hợp tác truyền giáo, nhất là trong khía cạnh thứ hai này.
Đức Tin và việc loan báo
Mối quan tâm loan báo Đức Kitô cũng thúc đẩy chúng ta đọc lịch sử để từ đó nhận ra những vấn đề, những khát vọng và hi vọng của nhân loại mà Đức Kitô phải chữa lành, thanh tẩy và kiện toàn bằng sự hiện diện của Người. Thực vậy, Sứ điệp của Người luôn mang tính thời sự, đi vào giữa lòng lịch sử và có khả năng đáp lại những mối lo lắng thâm sâu nhất của mỗi người. Vì vậy mọi thành phần trong Hội Thánh phải ý thức rằng "các chân trời bao la của sứ mạng Hội Thánh và tình hình phức tạp hiện nay đòi hỏi những phương thức mới để có thể truyền đạt hiệu quả Lời Thiên Chúa" (Bênêđictô XVI, Tông huấn hậu THĐGM,Verbum Domini, 97). Điều này trước hết đòi hỏi phải gắn bó với Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô bằng đức Tin được canh tân nơi mỗi cá nhân cũng như các cộng đoàn "lúc nhân loại đang sống giữa những thay đổi sâu xa như hiện nay" (Tông thư Porta Fidei, 8).
Thực vậy, một trong các trở ngại cho việc đẩy mạnh hoạt động rao giảng Tin Mừng chính là cơn khủng hoảng đức tin, không chỉ của thế giới phương Tây, mà của phần lớn nhân loại; họ cũng đói khát Thiên Chúa và phải được mời gọi và dẫn đưa tới bánh sự sống và nước hằng sống, như người phụ nữ Samaria đến giếng Giacóp và nói chuyện với Đức Kitô. Như tác giả Tin Mừng Gioan đã kể lại, câu chuyện về người phụ nữ này có một ý nghĩa đặc biệt (x. Ga 4,1-30): bà gặp Chúa Giêsu, Người xin bà nước uống, nhưng sau đó Người nói về một thứ nước mới, có khả năng làm cho bà không bao giờ còn khát nữa. Thoạt đầu bà không hiểu, bà vẫn dừng lại trên bình diện vật chất, nhưng dần dần bà được Chúa dẫn đi trên con đường đức tin giúp bà nhận ra Người chính là Đấng Mêsia. Về điểm này, Thánh Augustinô quả quyết: "Sau khi đã đón nhận Chúa Kitô vào tâm hồn mình, [người phụ nữ này] còn có thể làm gì khác hơn là bỏ lại thùng nước ở đó để chạy đi loan báo Tin Mừng?" (Bài giảng 15, 30). Một khi gặp được Đức Kitô hằng sống, là Đấng làm thỏa cơn khát của trái tim, người ta không thể không mong muốn chia sẻ với người khác niềm vui có Đức Kitô đang hiện diện và giúp họ nhận ra Người để tất cả đều cảm nghiệm được sự hiện diện ấy. Cần phải đổi mới niềm hăng say loan truyền đức tin để cổ vũ một cuộc tân phúc âm hoá các cộng đoàn và các nước vốn có truyền thống Kitô giáo lâu đời mà nay chẳng còn màng đến Chúa, để họ tìm lại được niềm vui của đức tin. Không bao giờ được gạt mối quan tâm loan báo Tin Mừng ra khỏi mọi hoạt động của Giáo Hội cũng như đời sống cá nhân của người Kitô hữu, nhưng phải ý thức rõ mình là đối tượng đón nhận Tin Mừng, đồng thời cũng là những thừa sai của Tin Mừng. Tâm điểm của lời loan báo vẫn luôn như thế: đó là Kerygma (lời rao giảng cơ bản) về Đức Kitô chịu chết và phục sinh để cứu độ thế giới,Kerygma về tình yêu tuyệt đối và trọn vẹn của Thiên Chúa đối với mọi người nam cũng như nữ, đạt đến tột đỉnh trong việc Thiên Chúa sai Con Một hằng hữu của Người là Chúa Giêsu, Đấng không ngại nhận thân phận nghèo hèn của bản tính loài người chúng ta, yêu thương và cứu chuộc bản tính ấy khỏi tội lỗi và sự chết, bằng việc hiến mình trên thập giá.
Trong kế hoạch yêu thương được thể hiện nơi Đức Kitô, đức tin vào Thiên Chúa trước hết là một hồng ân và một mầu nhiệm mà chúng ta phải đón nhận trong lòng và trong cuộc sống, và phải luôn luôn tạ ơn Chúa vì hồng ân ấy. Đồng thời đức Tin còn là một ân huệ được ban cho chúng ta để chia sẻ cho người khác; là một nén bạc chúng ta nhận được để sinh lời; là ánh sáng không được đem giấu đi, nhưng phải soi sáng cho cả nhà. Đức Tin là ân huệ quan trọng nhất được ban cho cuộc đời chúng ta mà chúng ta không được phép giữ lại cho riêng mình.
Loan báo trở thành bác ái
"Khốn thân tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng!", Thánh Phaolô nói như thế (1 Cr 9, 16). Lời này vang dội với sức thúc bách mỗi người Kitô hữu và mỗi cộng đoàn Kitô hữu trên mọi châu lục. Ngay cả đối với các giáo hội tại các xứ truyền giáo, phần lớn là các giáo hội non trẻ, mới lập, hoạt động truyền giáo đã trở thành một chiều kích tự nhiên, cho dù chính các giáo hội này vẫn còn cần đến các nhà truyền giáo. Nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ từ khắp nơi trên thế giới, rất đông giáo dân và thậm chí cả gia đình sẵn lòng rời bỏ quê hương mình, rời bỏ các cộng đoàn mình và đi đến các giáo hội khác để làm chứng và loan báo Danh Chúa Kitô, nhờ Người mà nhân loại tìm được ơn cứu độ. Đây là một biểu hiện của sự hiệp thông sâu xa, sự chia sẻ và bác ái giữa các giáo hội, để mọi người có thể nghe và nghe lại lời loan báo có sức chữa lành, và có thể đến với các Bí Tích, nguồn mạch đời sống đích thực.
Cùng với dấu chỉ siêu vời của đức tin được biến đổi thành đức ái này, tôi ghi nhận và biết ơn các Hội Giáo hoàng Truyền giáo, công cụ của sự hợp tác trong sứ vụ phổ quát của Hội Thánh trên thế giới. Qua hoạt động của các Hội truyền giáo này, việc loan báo Tin Mừng còn trở thành hành động giúp đỡ tha nhân, thúc đẩy đối xử công bằng với những người nghèo khổ nhất, đưa giáo dục về tận những thôn làng xa xôi nhất, trợ giúp y tế tại các vùng sâu vùng xa, giải phóng khỏi cảnh khốn cùng, giúp những người bị gạt ra lề xã hội tìm lại được quyền sống, nâng đỡ sự phát triển các dân tộc, khắc phục những chia rẽ sắc tộc, tôn trọng sự sống ở mọi giai đoạn của nó.
Anh chị em thân mến, tôi khẩn cầu Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy trên việc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc, đặc biệt trên những ai đang loan báo Tin Mừng, để Ân Sủng của Thiên Chúa làm cho công cuộc rao giảng Tin Mừng tiến bước vững vàng trong lịch sử thế giới. Cùng với Chân phước John Henry Newman, tôi muốn cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, xin đồng hành với các nhà truyền giáo tại các xứ truyền giáo, xin đặt trên môi miệng họ những lời lẽ chính đáng, xin làm cho công lao khó nhọc của họ sinh nhiều hoa trái." Lạy Trinh Nữ Maria, Mẹ là Mẹ Hội Thánh và là Ngôi Sao dẫn đường loan báo Tin Mừng, xin đồng hành với tất cả các thừa sai Tin Mừng.
Vatican, ngày 6 tháng 1 năm 2012.
Đại lễ Chúa Hiển Linh
Bênêđictô XVI, giáo hoàng
(Bản dịch của Ủy ban Loan Báo Tin Mừng / HĐGMVN)
13. Hãy đi khắp thế gian.
('Manna')
"Hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng..."
Lời Đức Giêsu mời gọi làm chúng ta nhức nhối.
Thế giới chẳng phải ở đâu xa. Thế giới là quê hương tôi với gần 80 triệu dân. Thế giới là những người tôi vẫn gặp, những nơi tôi vẫn sống. Thế giới ấy, chân tôi chưa một lần đi hết, miệng tôi chưa một lần loan báo tin vui.
Tôi có lòng tin không? Tôi có dám tin Lời Chúa không?
Chúa hứa cho những ai tin được khả năng trừ quỷ, nghĩa là giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô lệ, khả năng chữa bệnh để xoa dịu nỗi đau của trần gian, khả năng nói những ngôn ngữ mới để đem lại hiệp nhất. Các tông đồ đã tin và thấy Chúa cùng làm việc với mình. Họ chẳng bao giờ cô đơn trên bước đường rao giảng.
Có nhiều cách loan Tin Mừng, nhiều cách truyền giáo.
Cách thứ nhất là bằng chính cuộc sống bản thân. Nếu các Kitô hữu đều siêu thoát danh lợi, sống trung thực, thanh khiết, sống chung thủy, yêu thương... Một Kitô hữu nghèo mà vui tươi, hạnh phúc, thì đó là một lời chứng đáng tin cậy.
Làm cho xã hội được tốt đẹp hơn, đó cũng là một cách loan báo Tin Mừng rất hiệu quả. Kitô giáo phải góp phần xây dựng một thế giới hòa bình và huynh đệ, công bằng và ấm no, nơi nhân phẩm của từng người được tôn trọng, nơi bóng tối của sự ích kỷ tàn nhẫn bị đẩy lui.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã âm thầm loan báo Tin Mừng bằng những cử chỉ nhân ái với bao người cùng khổ. Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để lập các cộng đoàn.
Còn thánh Têrexa nhỏ đã truyền giáo tại chỗ bằng lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ bé. Chị là nữ tu dòng Kín, sống trong bốn bức tường, nhưng lại được phong làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Chị đã đi khắp thế giới, không phải bằng đôi chân, nhưng bằng lòng ước ao của một trái tim cháy bỏng.
Phải sống sao để người ta thắc mắc, đặt câu hỏi. Nhưng cũng phải sẵn sàng trình bày câu trả lời.
Dù bạn chẳng uyên thâm về giáo lý nhưng hãy bập bẹ nói về Chúa bằng kinh nghiệm của bạn.
Truyền giáo là giới thiệu cho người khác Đấng tôi đã quen. Có thể người ấy đã biết Đấng này từ lâu rồi.
Anrê đã gọi Simon, Philipphê đã gọi Nathanaen đến gặp Chúa. Cần tập đến với người khác như Đức Giêsu đã đến với người phụ nữ Samari. Hãy xin nước uống, trước khi nói về Nước Hằng Sống. Hãy tìm hiểu người đối diện trước khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta cần thấm nhuần văn hóa dân tộc thì mới biết cách nói về Chúa Cha cho đồng bào mình.
Nếu cả đời, mỗi Kitô hữu mời được một người theo đạo, thì nguyện ước của Đấng Phục Sinh được thành tựu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội Thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh của chị? Bây giờ có hợp thời không?
Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người cùng khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da... Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện. (dựa theo lời của thánh Têrêxa)
14. Hãy loan báo Tin Mừng – Mc 16,15-20.
(TGM. Ngô Quang Kiệt)
Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò và con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: Không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thày có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thày vẫn lắc đầu: Không phải. Thấy không ai trả lời được, thày mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.
Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy.
Mẹ Têrêxa là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đã đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ đã lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel Hoà bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn độ, đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc táng. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.
Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ, Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn cởi mở tin yêu. Giữa đêm tối lạnh lẽo cô đơn. Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy toả lan tới muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.
Vào thời Cộng sản còn mạnh và còn chống đối Công giáo kịch liệt. Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu toả ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.
Hôm nay Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Nhờ đâu Mẹ Têrêxa đến được cả những nước Cộng sản?
2- Nhờ đâu việc truyền giáo của Mẹ Têrêxa thành công tốt đẹp?
3- Đời sống bạn là ánh sáng hay là bóng tối cho những người chung quanh?
4- Bạn quyết tâm làm gì để loan báo Tin Mừng cho mọi người?
15. Ưu tiên bốn hạng người
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Thư mục vụ Năm Đức Tin của HĐGMVN viết:
Cùng một nhịp bước với Giáo Hội toàn cầu, Năm Đức Tin phải là cơ hội thuận lợi cho mọi thành phần Dân Chúa tại Việt Nam củng cố đức tin của mình, hoán cải và đổi mới đời sống, trở về với Chúa là Đấng Cứu độ duy nhất của thế giới. Khi chúng ta tái khám phá niềm vui đức tin, chúng ta sẽ hăng say dấn thân cho công cuộc Tân Phúc Âm hoá loan báo Tin Mừng cho 93% người Việt Nam chưa biết Chúa, đem tinh thần Phúc Âm thấm nhập mọi lĩnh vực đời sống, góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh theo những giá trị Tin Mừng và truyền thống văn hoá của dân tộc. (Số 5).
Năm Đức Tin giúp cho Giáo Hội trở về cội nguồn của mình là chính Chúa Kitô và Tin Mừng của Chúa. Nhờ đó có thể canh tân đời sống và cách làm việc, nhằm thể hiện tốt đẹp hơn Sứ vụ Loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu (x. Ga 15,13). Truyền giáo đồng nghĩa với làm chứng cho Chúa Kitô (x. Lc 24, 47, 48, Cv 1,8) bằng đời sống theo gương của Người.
A. Truyền Giáo theo gương Chúa Giêsu
Giáo Hội luôn trong nỗ lực loan báo Tin mừng của Chúa Giêsu cho toàn thể thế giới. Công đồng Vatican II đã phác họa hướng đi mục vụ truyền giáo: "Vui mừng và hy vọng, buồn sầu và lo sợ của con người ngày hôm nay, nhất là của người nghèo khổ, bị ruồng bỏ quên lãng, cũng là niềm vui, hy vọng, nỗi buồn sầu lo lắng của môn đệ Chúa Kitô..."( Hiến chế Giáo hội, số 1).
Sứ vụ truyền giáo của Giáo hội thời nào và ở đâu cũng bắt đầu từ mẫu gương Chúa Giêsu.
Khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu ưu tiên để ý đến những người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Chúa Giêsu áp dụng vào chính mình những lời tiên tri Isaia xưa đã nói: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn" (Lc 4,17-20). Chúa Giêsu cũng đã xác định: "Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi" (Mt 9,13).
Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại giáo Samaria: "Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem... Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế" (Ga 4,21-24).
Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi với 4 hạng người: người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Chúa Giêsu đến với họ, cho họ thấy, Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người. Chúa Giêsu hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên thánh giá mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Chúa Giêsu đã nói trước khi hiến tế: "Lạy Cha, giờ đã đến. Xin Cha tôn vinh Con Cha, để con Cha tôn vinh Cha" (Ga 17,1).
Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng hãy theo gương Thầy, đem Tin Mừng đến cho 4 hạng người đó.
Đây cũng là sứ mạng truyền giáo của mỗi kitô hữu.
ĐGH Gioan Phaolô II đã khẳng định trong Thông điệp 'Sứ Vụ Đấng Cứu Độ': "Truyền giáo là trình bày tình yêu của Thiên Chúa được tỏ bày trong Đức Giêsu Kitô." (số 2)
Nói cách khác, truyền giáo là yêu như Chúa Giêsu yêu. Chúa dành tình yêu đặc biệt cho 4 hạng người: người ngoại, người tội lỗi, người bệnh tật và người nghèo.(x.Nhật ký truyền giáo, Lm Piô Phúc Hậu).
1) Yêu thương Lương dân
Chúng ta phải yêu thương và kính trọng Lương dân theo gương Chúa Giêsu.
- Chúa Giêsu về thăm quê hương Nazareth. Đồng hương đang niềm nở đón tiếp Chúa thì bổng dưng đổi thái độ. Họ đã đảo và đòi giết Chúa vì Chúa đề cao người ngoại, coi người ngoại hơn người đạo (Do Thái Giáo)."Vào thời Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà góa trong nước Itrael, thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Sarépta miền Siđôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Itrael, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman người xứ Syri thôi" (Lc 4, 25-37).
- Tại Caphanaum, Chúa đã đề cao một viên sĩ quan người ngoại, đề cao đến mức độ có thể bị hiểu lầm: "Tôi chưa thấy một niềm tin nào như thế trong dân tộc Israel" (Lc 7,9). Tại miền Tia và Xiđon, Chúa đề cao niềm tin người đàn bà xứ Canaan: "Này bà, lòng tin của bà lớn thật."(Mt 15,21-28). Chúa Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).Giờ đây Chúa đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin, khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Chúa Giêsu,và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Chúa.
Thật ra ttrong nước Israel có nhiều người có niềm tin lớn hơn ông sĩ quan, người mẹ Canaan ấy nhiều. Bà Êlisabeth, Gioan Tẩy Giả, thánh Giuse và Đức Mẹ đều là người Israel. Chúa cường điệu lời khen để ta thấy Người thương người ngoại đến mức độ nào.
- Dụ ngôn người Samari tốt lành (Lc 10, 29-37) đề cao người ngoại hơn cả mấy ông trợ tế và tư tế. Đặc biệt là khi Chúa nói với ông kinh sư bậc thầy của Do Thái giáo: "Ông hãy về và làm như thế!". Làm như thế tức là noi gương một người ngoại.
- Khi Chúa cho 10 người phong cùi được khỏi, chỉ có một người trở lại cám ơn Chúa. Chúa bảo: "Không phải cả mười người được sạch sao? Thế thì 9 người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại đạo này?" (Lc 17,17-18).
2) Yêu thương người tội lỗi.
Trong lịch sử loài người, từ trong gia đình ra ngoài xã hội, từ trong đạo ra tới ngoài đời, Chúa Giêsu yêu thương trìu mến người tội lỗi nhất.
Thánh vịnh 100, đòi "quét sạch thành đô, những đứa làm điều ác, không sót một tên". Luật Do Thái loại trừ người tội lỗi, không cho tín đồ liên hệ với họ.
Còn Chúa Giêsu:
- Đề cao người phụ nữ tội lỗi hơn ông Simon biệt phái.
- Dụ ngôn con chiên bị mất (Lc 15,4-7) cho thấy chủ chăn khi tìm được con chiên lạc (người tội lỗi), không mắng, không đánh, mà còn âu yếm vác lên vai đưa về và còn mở tiệc mừng.
- Dụ ngôn người cha nhân từ (Lc 15,11-32) cho thấy, Chúa yêu người tội lỗi tới mức nào. Chỉ thấy đứa con sám hối và trở về mà người cha quên hết bao tội lỗi của nó. Cha làm tiệc mừng vì con trở về. Cha đã quên con ngỗ nghịch phá tan tài sản với bọn đàng điếm.
- Yêu người tội lỗi, để cứu họ, Chúa đã phải trả giá rất cao. Khi Chúa vào nhà ông Giakêu, thánh Luca đã ghi lại: "mọi người xầm xì với nhau: ông này lại vào trong nhà người tội lỗi".
3) Yêu người bệnh tật
Bệnh tật là một trong bốn nỗi khổ của kiếp người. Nó gắn liền với đời người vốn là hữu hạn.
Chúa Giêsu luôn tỏ ra đặc biệt quan tâm tới những người yếu đau. Nhiều câu chuyện chữa lành tuyệt vời được kể lại:
- "Thiên hạ đem đến cho người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã chữa họ." (Mt 4, 24).
- "Chúa Giêsu trên núi đi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người. Và kìa, một người phong hũi tiến lại...Người giơ tay đụng vào anh và bảo, tôi muốn, anh sạch đi. Lập tức, anh được sạch bệnh phong hủi." (Mt 8, 1-3) -"Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa các bệnh hoạn tật nguyền." (Mt 9, 35) -"Ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ". (Mt 14, 14) -"Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành... (Mt 15, 30) -"Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai." (Mc 1, 34)
- "Chính giờ ấy, Chúa Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám và ban cho nhiều người mù được thấy..." (Lc 7, 21)
Quan niệm của Cựu Ước cho rằng bệnh gắn liền với tội. Bệnh tật như là một sự trừng phạt bởi tội lỗi gây ra. Vì thế, người ta xa lánh bệnh nhân, nhất là bệnh phong cùi. Đó là một bệnh nan y bị mọi người kinh tởm, không chỉ vì sự dơ bẩn "ô uế theo luật Do thái", hay lây nhiễm, mà còn bị xa lánh như kẻ tội lỗi. Chính các Tông đồ vẫn còn mang cái nhìn ấy khi hỏi Chúa, người mù từ khi mới sinh là do tội của anh hay gia đình anh.(x. Ga 9, 2-3). Chúa đã trả lời không bởi tội, nhưng để làm vinh danh Thiên Chúa.
Chúa yêu người bệnh tật, và cứu họ khỏi nỗi đau thân xác tâm hồn. Thần học Do thái giáo cho rằng bệnh tật là hậu quả của tội. Chúa phản đối điều đó. Cứ mỗi lần Chúa chữa bệnh, Chúa lại gánh lấy nỗi khổ nhân loại.
Chúa đã thông truyền khả năng chữa lành cho các tông đồ: "Rồi Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền" (Mt 10, 1). Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Chúa cũng ra lệnh chăm sóc bệnh nhân: "Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch và khử trừ ma quỷ". (Mt 10, 8). Sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu gắn liền với sứ vụ chăm sóc bệnh nhân. Chính các tông đồ nối tiếp công việc của Chúa Giêsu, vừa truyền giáo vừa chữa lành.
4) Yêu người nghèo
Chúa yêu người nghèo và kêu gọi người giàu chia cơm sẻ áo cho người nghèo. Ai giúp người nghèo thì Chúa bảo là đã giúp Chúa. Ai từ chối người nghèo, thì Chúa bảo là từ chối Chúa (Mt 25, 31-46). Người giàu mà chỉ lo ăn xài, chứ không lo chia cơm xẻ áo thì Chúa gọi là đồ ngốc (Lc 12,20).
Yêu người ngoại, yêu người tội lỗi, yêu người nghèo và người bệnh tật như thế là truyền giáo theo gương Chúa Giêsu.
B. Truyền Giáo như Mẹ Maria
Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Hội Thánh và là Ngôi Sao dẫn đường loan báo Tin Mừng (x.Sứ điệp Truyền Giáo 2012).
Truyền giáo là đem Chúa Giêsu đến cho tha nhân. Mẹ Maria là nhà truyền giáo đúng nghĩa nhất. Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa và đưa Người vào trong thế gian. Đó là Tin Mừng.
Sứ vụ truyền giáo là sứ vụ của người mang tin vui, tin cứu độ, tin được Thiên Chúa đoái thương.
Người truyền giáo là người được Chúa Thánh Thần tác động và làm trổ sinh hoa trái giống như Mẹ: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ ngự xuống trên Bà" (Lc 1, 35). Hoa trái của Chúa Thánh Thần là "hoan lạc, bình an...". Hân hoan trong Thánh Thần, từ đó: "Đức Maria lên đường vội vã" thăm Êlisabet (Lc 1,39), gợi lại hình ảnh ngôn sứ Isaia tiên báo: "Đẹp thay trên núi đồi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: "Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị" (Is 52,7). Đức Maria mang trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi. Đức Maria trở nên người loan báo Tin Mừng vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần. Ai để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn niềm vui loan báo.
Đức Maria còn là người công bố Tin Mừng: "Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn" (Lc 1, 49). Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình nên lời công bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy.
Để trở thành người loan Tin Mừng, Đức Maria đã "hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng" (Lc 3,51). Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình. Cầu nguyện là cuộc trao đổi, đối thoại giữa những khó khăn và thử thách. Đức Maria trở thành người công bố Tin Mừng, bởi Mẹ đã chiêm ngắm công trình của Thiên Chúa thực hiện cho dân tộc, cho chính Mẹ.
Đối với Đức Maria, truyền giáo là đem chính Chúa Giêsu cho nhân loại.
Chúa Giêsu là lẽ sống, là hạnh phúc, là niềm vui của cuộc đời mỗi kitô hữu. Chúng ta phải xác tín như Đức Maria: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa" (Lc 1, 46). Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và cưu mang chính niềm vui có Chúa Giêsu trong lòng Mẹ. Đức Maria reo ca: "Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi" (Lc 1, 47). Đức Maria đã cưu mang chính Chúa Giêsu, quà tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho nhân loại.
Đức Maria luôn đặt mình dưới sự bảo trợ hoạt động của Chúa Thánh Thần.
Đức Maria là công trình tuyệt hảo của Chúa Thánh Thần.
Người truyền giáo cũng như thế, không thể tách rời Chúa Thánh Thần với hoạt động của mình được. Ai có thể chinh phục sự sâu thẳm của lòng người quy hướng về Thiên Chúa, nếu đó không phải là tác động của Chúa Thánh Thần?
Giáo Hội không truyền giáo bằng cách áp đặt, cưỡng chế những người khác theo mình. Giáo Hội cũng không mua chuộc bằng tiền của bằng quyền lợi hay bằng những hứa hẹn. Giáo Hội cũng không dụ dỗ người khác theo đạo.
Truyền giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh họa, là thuyết phục. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày nơi môi trường mính sống và làm việc.
Truyền giáo là giới thiệu Chúa cho anh chị em mình bằng chính đời sống chứng tá yêu thương dưới sự bảo trợ của Mẹ Maria. Hy vọng mỗi người chúng ta cũng có thể nói được như người Công Giáo Hàn Quốc với đồng bào lương dân của mình: "Anh chị em cứ nhìn chúng tôi sống thế nào, thì anh chị em bắt chước mà sống như thế".
C. Vài gợi ý thực hành.
Đức Tin là một ân huệ được ban cho chúng ta để chia sẻ cho người khác; là một nén bạc chúng ta nhận được để sinh lời; là ánh sáng không được đem giấu đi, nhưng phải soi sáng cho cả nhà. Đức Tin là ân huệ quan trọng nhất được ban cho cuộc đời chúng ta mà chúng ta không được phép giữ lại cho riêng mình. (Sứ điệp Truyền Giáo 2012).
Cách riêng, trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, đức tin của người Công giáo cần được thể hiện qua việc thực thi bác ái. Đức Tin và Đức Mến cần đến nhau và hỗ trợ cho nhau: "Chính đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta chạy đến phục vụ Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống". Được Lời Chúa soi sáng và tình yêu Chúa thấm nhập trong suy nghĩ cũng như hành động, chúng ta sẽ trở nên những chứng tá đáng tin trong xã hội ngày nay. (Thư Năm Đức Tin HĐGMVN, số 7).
Thực thi sứ vụ truyền giáo trong Năm Đức Tin bằng cách:
- Mỗi Giáo xứ khởi động phong trào: mỗi thành viên phải làm sao giúp cho một người khác theo đạo.
- Mỗi giáo dân nên kết thân với một Lương dân. Mỗi gia đình kết thân với một gia đình bên Lương. Kết thân để cầu nguyện, nâng đỡ nhau.
- Các hội đoàn đi tìm người tội lỗi và người nghèo trong địa phương của mình. Nên có một danh sách cụ thể. Sau đó sẽ cùng nhau thăm viếng, an ủi và giúp đỡ.
16. Truyền giáo theo gương Mẹ Têrêsa.
(TGM. Ngô Quang Kiệt)
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Ngày Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị tuyên phong Mẹ Têrêxa lên bậc Chân Phúc mà ta quen gọi là Á thánh cũng là ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo. Và Đức Thánh Cha khuyên nhủ chúng ta hãy truyền giáo theo gương Mẹ Têrêxa. Vậy Mẹ Têrêxa là ai và Mẹ đã truyền giáo như thế nào?
1- CUỘC ĐỜI
Mẹ Têrêxa sinh tại nước Anbani cũ. Mẹ đã xin gia nhập dòng Đức Mẹ Loretto và được sai đi Ấn độ để phục vụ nguơì nghèo. Khi đến Ấn độ, Mẹ được chứng kiến cả một đại dương mênh mông những người nghèo đói. Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi nằm la liệt ngoài đường. Những người già cả bệnh tật nằm chờ chết bên những đống rác, và khi chết, bị vất vào đống rác như một con thú vật. Xúc động trước cảnh nghèo khổ. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo. Việc đầu tiên là mở những trung tâm đón tiếp, đưa những người hấp hối ngoài đường về, săn sóc để họ được chết như một con người. Rồi mở cửa nhà cô nhi nuôi dưỡng trẻ em bị bỏ rơi. Rồi mở bệnh viện chăm sóc chữa trị những người nghèo khổ. Rồi mở trường cho trẻ em nghèo đến học. Công việc càng ngày càng phát triển. Số người theo giúp Mẹ càng ngày càng đông. Chẳng bao lâu, một dòng mới được thành hình với tên Nữ tử Thừa sai Bác ái. Ngoài 3 lời khấn như những nữ tu khác, còn có lời khấn phục vụ người nghèo. Mẹ được thế giới biết tiếng. Cả thế giới gọi Mẹ là Mẹ Têrêxa. Khi Mẹ qua đời, 80 nhà lãnh đạo quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến nghiêng mình kính cẩn trước thi hài của Mẹ. Nước Ấn độ có đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, thế mà đã nghi thức quốc táng cho Mẹ,đã bắn hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về thiên đàng.
2- TRUYỀN GIÁO
Mẹ Têrêxa đã truyền giáo cách nào mà thành công như thế? Thưa, Mẹ đã dùng 4 phương cách sau:
Phương cách thứ nhất: cầu nguyện. Có nhiều người tưởng Mẹ Têrêxa là con người hoạt động. Không phải thế. Trước hết Mẹ là con người cầu nguyện. Những giờ cầu nguyện triền miên phát xuất từ nỗi niềm khao khát Chúa. Cầu nguyện đã đưa Mẹ đến phục vụ người nghèo. Rồi việc phục vụ người nghèo đã đưa Mẹ trở về với kinh nguyện. Dòng chảy cầu nguyện liên lỷ không bao giờ ngừng. Có thể nói cuộc đời Mẹ là cuộc đời chiêm niẹm trong hoạt động.
Phương cách thứ hai: thấm nhuần Lời Chúa. Mẹ tha thiết yêu mến Lời Chúa. Lời Chúa thấm vào tận mạch máu thớ thịt, để Mẹ suy nghĩ, nói năng và hành động theo Lời Chúa. Mẹ thường nói: Lời Chúa phải ở trên đầu ngón tay ta. Theo Mẹ 5 từ ngữ quan trọng khắc ghi tên 5 đầu ngón tay của Mẹ là: You did it for me. Đó là 5 từ tóm tắt 25 chương Tin Mừng theo thánh Mátthêu: "Mỗi lần các con làm những việc này cho một trong những anh em bé nhỏ nhất, đó là các con làm cho Thày".
Phương cách thứ ba: yêu mến người nghèo. Nơi Mẹ, yêu mến người nghèo không phải là cảm tính nhất thời. Yêu mến người nghèo thực sự phát xuất từ một đức tin sâu xa. Tin thật Thiên Chúa đang ở trong nhưng người nghèo. Vì yêu mến người nghèo Mẹ đã tự nguyện sống nghèo. Mẹ sống trong một căn phòng đơn sơ, chỉ có một chiếc giường, một bàn nhỏ, một ngọn đèn và một chậu nước.
Phương cách thứ tư: phục vụ bằng tình yêu. Vì tin Chúa đang ngự trong người nghèo, nên phục vụ người nghèo chính là phục vụ Chúa. Vì thế, phục vụ người nghèo là một bổn phận phải thực hiện trong khiêm nhường. Phải phục vụ một cách kính cẩn. Phải phục vụ bằng tình yêu.
Giữa thế kỷ 20 tôn trọng vật chất, quay lưng lại với đời sống tâm linh, Mẹ Têrêxa đã trở nên một nhân chứng sống động của thế giới thần linh. Giữa nước Ấn độ xa lạ với Kitô giáo, Mẹ Têrêxa đã trình bày được khuôn mặt dễ thương dễ mến của Chúa, làm cho mọi người yêu mến đạo Cháu. Mẹ xứng danh là nhà truyền giáo của thế kỷ 20. Giữa những bế tắc Mẹ đã khai thông một lối đi. Lối đi vào thẳng trái tim con người. Trong bóng tối dày đặc, Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn. Ngọn đèn đó chiếu lên ánh sáng niềm tin. Giữa trần gian lạnh lẽo, Mẹ đã đốt lên ánh lửa yêu mến. Ánh lửa đó sưởi ấm tình người.
Năm 2004 sắp tới được Hội đồng Giám mục Việt Nam chọn làm Năm Truyền Giáo. Chúng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, biết tha thiết cầu nguyện, biết yêu mến Lời Chúa, nhất là biết yêu mến người nghèo và biết phục vụ bằng tình yêu. Để mỗi người Công giáo thực sự là một ngọn đèn chiếu toả ánh sáng của Chúa. Để mỗi người Công giáo là một niềm vui cho những người chung quanh.
Lạy Chân Phúc Têrêxa, xin cầu cho chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Mẹ Têrêxa đã truyền giáo bằng những phương cách nào?
2- Trong hoàn cảnh của bạn, bạn có thể thực hiện phương cách nào trong 4 phương cách của Mẹ Têrêxa để truyền giáo?
3- Qua cuộc đời Mẹ Têrêxa, bạn thấy ngày nay còn có thể truyền giáo được không?
17. Tinh thần truyền giáo (Lc 18, 1-8)
('Với Cả Tâm Tình' – ĐGM. Vũ Duy Thống)
"Không biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?". Trang Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế.
Có thể đó là câu hỏi một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình Người. Cũng có thể đó là câu hỏi dự báo một tình huống không vui Chúa Giêsu cảnh giác cho các môn đệ. Có khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích cực mở ra cho lối sống đức tin lạc quan. Và biết đâu, câu hỏi đó lại chẳng tố giác một thực trạng tiêu cực đang dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?
Nhưng đặt trong bối cảnh của Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo, theo tinh thần của các bài đọc, câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải đáp. Đó là: để lòng tin còn mãi trên mặt đất, mọi thành phần của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền giáo.
1) Tinh thần truyền giáo ấy được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.
Nói đến truyền giáo người ta thường nghĩ là phải dấn thân làm việc truyền giáo, và ai càng làm được nhiều, người ấy lại càng được xem là nhà truyền giáo lớn. Thực ra, quan niệm ấy cũng đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ nhận những kết quả lớn lao trong lịch sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo mang lại, nhưng bao giờ cũng thế, bên trong những hoạt động ấy còn là cả một tinh thần cầu nguyện tích cực của bản thân các nhà truyền giáo cũng như của mọi thành phần Dân Chúa.
Thiếu cầu nguyện, hoạt động sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang một hướng khác có nguy cơ "sáng danh tôi, tối Danh Chúa". Vắng cầu nguyện, hoạt động có thể trở thành nguy hại, nó đồng nghĩa với náo động nếu không muốn nói là khua động ầm ĩ hoặc khuấy động ồn ào. Quên cầu nguyện, hoạt động chỉ là hời hợt mang tính phong trào bùng lên đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó. Bạo phát bạo tàn, mau xộp mau xẹp! Bỏ cầu nguyện, hoạt động coi chừng chỉ còn là một việc cá nhân, dẫu bỏ ra nhiều công sức, nhưng vẫn không phải là hoạt động của Hội Thánh vốn luôn được nuôi dưỡng phong phú bởi nguồn ơn Chúa Thánh Thần.
Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo. Nó đem đến cho những hoạt động một sức sống kín múc tận nguồn sứ mạng.
Bài đọc thứ nhất kể lại một hình ảnh sống động cho thấy mối tương liên không thể tách rời giữa việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc Giosuê đánh bại quân Amalếch. Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên, phần thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy không riêng của Môsê hay riêng của Giosuê, mà là của Môsê cùng với Giosuê, là dung hòa của cầu nguyện và hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa và nỗ lực con người.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được mừng kính vào đầu tháng mười này cũng là một hình ảnh khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động truyền giáo. Chín năm khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền giáo bên ngoài, thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo Hội đặt làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời bươn chải giảng giải đạo Chúa đến tận miền xa Châu Á.
Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi truyền giáo. Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền giáo nữa. Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự sống còn của Giáo Hội. Và tinh thần truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn thấy niềm tin trên mặt đất.
2) Tinh thần truyền giáo ấy được thể hiện khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.
Được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện dung hòa với hoạt động cây truyền giáo nhất định sẽ vươn lên, nhưng không thể không biết đến yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa, hoặc nắng hạn mưa giông. "Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống", đó là kinh nghiệm trồng cây. Song một cây lành như cây truyền giáo phải biết chứng minh bằng phẩm chất của mình. Nói khác đi, tinh thần truyền giáo cũng phải được chứng minh bằng chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên tâm thực hiện những điều tốt, vừa kiên gan chịu đựng ngay cả những điều xấu nữa (thánh Augustinô), phải bền chí khi thuận tiện cũng như khi không thuận tiện.
Khi thuận tiện là khi chí bền truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để mất mình trong hoạt động đến nỗi quên đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ ràng đâu là đóng góp nhỏ nhoi của mình và đâu là ơn ban vô cùng to lớn của Thiên Chúa, và còn mãi giúp ta không chạy theo những thành công trước mắt để sau này khỏi phải trả giá đắng cay trắng tay thất vọng. Trong một chừng mực nào đó, biết đâu lối sống của ông thẩm phán bạo ngược "chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì" trong bài Phúc Âm lại chẳng có vài tương đồng với quan niệm háo thắng hoặc đắc thắng của cách truyền giáo thời Trung cổ, vốn xem Kitô giới như một xã hội lý tưởng, nên cố mà đưa người ta vào bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép người ta về bằng cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?
Xem ra kiên tâm thực hiện những điều tốt trong truyền giáo vào thời thuận tiện cũng không ít vấn đề.
Khi không thuận tiện là khi chí bền truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng những khắc nghiệt thường xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng hoàn cảnh để mà thanh luyện tâm hồn. Nếu những hoạt động phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì chí bền như một mạch điện tự động "kiểm soát lợi suất" sẽ bù lại những giới hạn ấy bằng một thao thức phong phú của lời nguyện cầu. Và nếu như hoàn cảnh cụ thể không cho phép có một hoạt động bên ngoài nào nữa, thì vẫn còn đó mênh mông một phương tiện truyền giáo bằng gương sáng tình mến, bằng chứng tá đức tin và bằng cách sống tốt đẹp đời Kitô của mình.
Điều đáng sợ không phải là hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính mình không đủ chí bền mà vượt qua những khắc nghiệt ấy. Trong ý tưởng này, có lẽ rất thích hợp khi đặt hình ảnh người đàn bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến quấy rầy ông thẩm phán mong được minh xét minh định minh oan, ở đây như một cổ võ sống động cho chí kiên bền.
Và dầu hoàn cảnh thuận tiện hay không (bài đọc thứ hai), chí truyền giáo thiết tưởng cũng là biểu tỏ của niềm hy vọng, là tình mến khởi đi từ một đức tin sống động vào Thiên Chúa là Cha nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Được như thế, chắc chắn khi Chúa Kitô trở lại vẫn thấy niềm tin còn trên mặt đất trong chí bền của Giáo Hội là thân mình Người.
Ước mong rằng suy nghĩ trên sẽ trở nên ý lực cho cuộc sống và trở nên ý nguyện trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo hôm nay.
18. Sứ mạng truyền giáo
(ĐTGM. Phaolô Bùi Văn Đọc - Bài Giảng Thánh Lễ Đại Hội Truyền Giáo - tại Trung Tâm Mục vụ Sài Gòn)
1. Giáo Hội tự bản chất có sứ vụ truyền giáo (x. AG,2). Chúa Giêsu Phục Sinh, khi hiện ra với các Tông đồ, đã trao sứ vụ của Người lại cho Giáo hội: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy sai anh em" (Ga 20,21). "Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hay nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20,22).
Chúa Giêsu đã trao sứ vụ truyền giáo lại cho chúng ta, và Người cũng đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta, cho tất cả chúng ta, không trừ một ai, cho mọi thành viên của Giáo hội, mọi người đã chịu Phép Rửa và trở thành môn đệ của Chúa.
2. Có lẽ một số đông người Công giáo Việt Nam chưa hiểu mình có sứ mạng truyền giáo, chưa xác tín về sứ mạng, chưa đón nhận sứ mạng từ nơi Chúa. Dịp Đại hội Truyền giáo của Giáo phận Sài Gòn hôm nay, chúng ta hãy nhắc lại cho nhau lệnh truyền của Chúa:
- "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ" (Mc 16,15-16).
- "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền dạy cho anh em" (Mt 28,19-20).
- "Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thư ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy" (Lc 24,46-48).
3. Cả bốn sách Tin Mừng cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa của việc truyền giáo, thấy nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội.
Trước hết, truyền giáo là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người Ngài gặp gỡ, mà còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải tình yêu đó, nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa. Nơi Ngài tình yêu đó đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy vọng cho toàn thể nhân loại.
4. Truyền giáo còn bao gồm việc thiết lập và xây dựng Giáo hội, bắt đầu bằng việc gầy dựng những cộng đoàn các môn đệ của Chúa. Rồi mạnh dạn thúc đẩy các cộng đoàn ấy "làm chứng cho Chúa" hoặc bằng lời nói, hay bằng những việc lành, bằng chính đời sống huynh đệ, đời sống bác ái yêu thương, như lời Chúa dạy: "Cứ dấu này, người ta nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau" (Ga 13,35).
5. Dĩ nhiên cách truyền giáo trong thế giới hôm nay không thể nào rập khuôn với những cách làm của cha ông, vì sứ vụ của chúng ta là đưa Tin Mừng của Chúa vào các môi trường khác nhau của xã hội hôm nay. Có những môi trường rất khó thâm nhập, mặc dù chính những nơi ấy rất cần những hạt giống Tin Mừng, như môi trường giáo dục, môi trường y tế, môi trường kinh doanh, môi trường xã hội đen, môi trường của những con người khốn khổ..., cả môi trường chính trị nữa.
Chúng ta không truyền giáo bằng cách áp đặt, cưỡng chế những người khác theo chúng ta. Chúng ta cũng không mua chuộc bằng tiền của, hay bằng quyền lợi, bằng những hứa hẹn. Chúng ta cũng không dụ dỗ, như người ta dụ dỗ vị thành niên.
6. Truyền giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh họa, là thuyết phục. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những người chúng ta gặp. Chúng ta đừng sợ: sự nhút nhát của chúng ta có hậu quả rất lớn. Nhiều người mất cơ hội để biết Chúa. Hãy mạnh dạn như anh em Tin Lành. Họ ít khi bỏ lỡ cơ hội để nói về Chúa.
Một thống kê khá chính xác ở Trung Quốc cho thấy một sự khác biệt quá lớn giữa sự dấn thân truyền giáo của anh em Tin Lành và người Công Giáo: năm 1815, cách đây gần 200 năm, số người công giáo ở Trung Quốc là 215.000 người, số người Tin lành chỉ có 20 người. Hơn 10.000 người Công giáo mới có 1 người Tin Lành. Nhưng thống kê năm 2006 cho biết ở Trung Quốc có 12 triệu người Công giáo, và có tới 36 triệu người Tin Lành, có nghĩa là 3 người Tin Lành mới có 1 người Công giáo.
7. Hãy dùng mọi phương tiện lành mạnh chúng ta có được để loan báo Tin Mừng, phần còn lại Chúa Thánh Thần sẽ bổ túc cho, vì Chúa Thánh Thần mới là tác nhân chính của việc truyền giáo. Ngài sẽ làm những việc lớn lao mà chúng ta không ngờ, miễn là chúng ta tự nguyện trở nên khí cụ trong tay Ngài. Chính Chúa Giêsu, khi hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ đã nói về sứ mạng làm chứng của Chúa Thánh Thần: "Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Cha. Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu" (Ga 15, 26-27).
8. Chúng ta chỉ có thể cùng với Chúa Thánh Thần làm chứng cho Chúa Giêsu, khi chúng ta có "ở với Người", gần gũi với Người, mặc dù chúng ta không thấy Người. Chính vì thế mà đời sống cầu nguyện rất cần thiết để chúng ta có thể loan báo Tin Mừng. Tất cả chúng ta đều là những con người yếu đuối tội lỗi, hãy cầu nguyện cách khiêm nhường như người thu thuế (Publicano) trong Tin Mừng Luca hôm nay, chắc chắn Thiên Chúa sẽ nhậm lời chúng ta, vì như sách Huấn Ca viết: "Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các từng mây" (Hc 35,16).
Hãy làm sao để có thể nói được ít nhất là một phần nào như Phaolô: "Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàn tất, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng" (2 Tm 4,17).
19. Thầy Ở Cùng Anh Em.
('Manna')
Truyền giáo là một mệnh lệnh và cũng là một ước mơ của Chúa Phục Sinh: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ."
Ngài đòi ta phải ra đi loan báo Tin Mừng, nhưng cuối cùng là phải giúp người khác trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, nghĩa là có tương quan thân thiết với Ngài, dám sống như Ngài, sống cho Cha và con người.
Đấng Phục Sinh nắm quyền trên cả thế giới, nên Ngài sai chúng ta đến với mọi dân tộc. Tin Mừng không còn bị giới hạn trong mảnh đất Israel, nhưng lan rộng khắp trái đất (x. Mt 10,5). Ngày nào còn một người chưa trở thành môn đệ, ngày ấy trách nhiệm chúng ta vẫn còn.
"Bằng cách làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Phép Rửa khiến người ta trở thành môn đệ Đức Kitô, và đi vào tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa.
"Bằng cách dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em", như thế các môn đệ thuộc bất cứ thời đại nào đều có một điểm chung, đó là cùng tuân giữ toàn bộ giáo huấn của Chúa.
"Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" Đây không phải là một lời hứa cho tương lai, nhưng là một điều đang xảy ra trong hiện tại. Chúa Giêsu thật là Emmanuel (Mt 1,23), Ngài ở cùng Giáo Hội, ở cùng các môn đệ, Ngài ở bên họ trong mọi bước đường rao giảng (Mc 16,20).
Khi nhìn đến quê hương Việt Nam, chúng ta thấy hơn 70 triệu người chưa biết Chúa. Chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin Mừng, có bổn phận nói về Chúa cho họ, nói bằng lời và nói bằng cuộc sống cụ thể. Làm sao qua cuộc sống của tôi: yêu thương, tha thứ, hy sinh phục vụ, bình an vui tươi, người ta gặp được Đấng Vô Hình mà gần gũi? Làm sao tôi có thể trả lời được những câu hỏi, soi sáng được những vấn đề nhức nhối của họ bằng ánh sáng Tin Mừng?
Truyền giáo không phải là tuyên truyền hay mua chuộc, cũng không phải là áp đặt một cách tinh vi, Truyền giáo là hát lên niềm vui chất chứa nơi lòng mình, là tỏa hương tự nhiên như đoá hoa. Truyền giáo là hơi thở của một Giáo Hội đầy sức sống Thánh Thần.
Chúng ta phải biếu Chúa Giêsu cho con người hôm nay. Nhưng trước hết chúng ta phải có Chúa Giêsu, và phải biết lắng nghe con người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, tại sao ít người Việt Nam theo đạo Công Giáo? Có gì cần sửa đổi để người khác dễ chấp nhận đạo chúng ta hơn không?
Cha Đắc Lộ đã đi truyền giáo ở Việt Nam và đã đóng góp nhiều cho việc hình thành chữ Quốc Ngữ. Theo bạn, người Công Giáo Việt Nam hôm nay có thể làm được điều gì cho quê hương Cha Đắc Lộ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Chúa đã muốn trở nên con của loài người, con của trái đất, con của một dân tộc. Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa dù họ từ khước Tin Mừng và đóng đinh Chúa vào thập giá. Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương, một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu sau những năm dài chiến tranh, một quê hương đang mở ra trước thế giới nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên trong sự an toàn và tiện nghi vật chất, nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau, và làm một điều gì đó thật cụ thể cho những đồng bào quanh chúng con. Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước bằng khối óc, quả tim và đôi tay. Và ước gì chúng con biết khiêm tốn cộng tác với muôn người thiện chí.
20. Truyền giáo.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Ấn Độ hồi tháng 11.1999. Cao điểm của chuyến viếng thăm này là nghi thức công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu. Tông Huấn này là một đúc kết kết quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Á Châu nhóm họp tại Rôma hồi tháng 4.1999. Việc chọn Ấn Độ làm nơi công bố Tông Huấn mang một ý nghĩa đặc biệt. Những nơi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong mỏi đến viếng thăm nhất hẳn phải là Đài Loan, Hồng Kông, Trung Hoa Lục Địa và đặc biệt là Việt Nam. Thế nhưng, cho đến nay người ta vẫn cứ nại đến lý do chính trị và quan hệ ngoại giao để không cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Giáo Hội ở phần đất này. Dĩ nhiên đằng sau những lý do chính trị và quan hệ ngoại giao ấy, ai cũng thấy rõ chủ trương bài trừ tôn giáo và nhất là chống lại Giáo Hội. Tựu trung linh hồn của bất cứ một chế độ độc tài ý thức hệ nào cũng là tinh thần bất khoan nhượng. Người dân không những bị cưỡng bách phải tuyên xưng ý thức hệ của chế độ mà còn bị kỳ thị loại trừ và bách hại về niềm tin tôn giáo của mình.
Tuy là một quốc gia có nền dân chủ lớn nhất thế giới hiện nay, Ấn Độ đang bị xâu xé vì tinh thần bất khoan nhượng. Tại một quốc gia với một tỷ dân này, liên minh cầm quyền gồm những người theo chủ nghĩa Ấn Giáo, trong đó có một số thành phần cực đoan lại tái cử thêm nhiệm kỳ nữa, tinh thần bất khoan nhượng ngày càng gia tăng tại Ấn Độ. Trong những năm gần đây, người ta ước tính là đã có gần 150 vụ tấn công nhắm vào nhân sự và các cơ sở của Kitô Giáo, nhiều vị mục sư và linh mục bị sát hại, nhiều nữ tu bị bạo hành, nhiều nhà thờ bị đốt phá.
Một nhóm Ấn Giáo cực đoan đã tổ chức cuộc biểu tình phản đối nhân dịp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Ii viếng thăm Ấn Độ. Họ đòi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lên án các cuộc trở lại Công Giáo cũng như xin lỗi người Ấn Độ về những phương pháp truyền giáo cho người Ấn trong quá khứ. Chính trong bầu khí đầy bất khoan nhượng ấy mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm Ấn Độ, đúng hơn chính bầu khí bất khoan nhượng ấy đã khiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn Ấn Độ làm nơi để công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu.
Trong bầu khí đó chúng ta thấy rằng, sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ với các tín hữu Kitô tại Ấn Độ và toàn thể Á Châu, cũng như với tất cả mọi người Ấn Độ là sứ điệp về lòng khoan nhượng. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trưng dẫn cuộc cách mạng bất bạo động vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại do Mahatma Gandhi chủ xướng, Ngài cũng nói đến tấm lòng khoan dung độ lượng của biết bao nhiêu nhà hiền triết Ấn Độ.
Quả thật, tôn giáo nào cũng tốt trong một mức độ nào đó, câu nói này nói lên tinh thần khoan nhượng vốn là yếu tính của tất cả mọi tôn giáo. Thật thế, tôn giáo nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành; tôn giáo nào cũng lên án ích kỷ, bạo động, hận thù và tinh thần bất khoan nhượng.
Trong tuyển tập có tựa đề "Con Đường Đơn Sơ" của Mẹ Têrêsa Calcutta, vị Sáng Lập Dòng Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái đã viết như sau: "Chỉ có một Thiên Chúa và Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Do đó, cần phải nhận ra mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Tôi vẫn luôn luôn nói rằng, chúng ta phải giúp cho một người Ấn Giáo trở thành người Ấn Giáo tốt hơn; một người Hồi Giáo được trở thành một người Hồi Giáo tốt hơn và một người Công Giáo trở thành một người Công Giáo tốt hơn." Lễ quốc táng mà chính phủ Ấn Độ đã dành cho Mẹ cách đây 4 năm chứng tỏ rằng, sứ điệp mà Mẹ mang đến cho dân tộc này đã được mọi người đón nhận. Sứ điệp ấy không chỉ được Mẹ Têrêsa nói lên bằng những lời nói suông mà còn bằng cả cuộc sống của Mẹ nữa.
Hôm nay là ngày thế giới truyền giáo, chúng ta hiệp nhau cầu nguyện cho công việc truyền giáo của Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện cách đặc biệt cho các nhà thừa sai trên cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội. Chúng ta tuyên xưng rằng, Chúa Giêsu Kitô là Đấng duy nhất cứu rỗi nhân loại, nhưng quan trọng hơn cả là chúng ta được Giáo Hội mời gọi mỗi người ý thức về sứ mệnh truyền giáo của mình, nhất là hiểu được ý nghĩa đích thực của việc truyền giáo trong thế giới hôm nay.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo: "Đó là một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài". Mẹ Têrêsa không những chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêsa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu.
Truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương. Đây chính là cốt lõi mà Chúa Giêsu cô đọng trong giới răn mến Chúa và yêu người được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay. Trong xã hội mà Kitô giáo chỉ là thiểu số thì truyền giáo đối với Kitô hữu hiện nay là quyết tâm sống như thế nào để cho mọi người nhận biết Chúa Giêsu là Đấng đã đến chỉ để rao giảng một thứ đạo, đó là đạo của tình thương. Trong một chế độ chối bỏ những quyền tự do cơ bản nhất của con người, thì truyền giáo đối với các tín hữu Kitô hiện nay chính là biểu lộ được bộ mặt đích thực của Đạo là yêu thương và khoan nhượng.
21. Chứng tá.
Truyền giáo là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu. Đây là điều công đồng Vaticanô II nhắc đi nhắc lại nhiều lần: việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu. Bổn phận căn bản của Giáo hội và mỗi Kitô hữu. Công đồng đã làm nổi bật vấn đề truyền giáo và đã định nghĩa Giáo hội là Giáo hội truyền giáo và coi việc truyền giáo là nghĩa vụ tông đồ của mỗi Kitô hữu. Theo công đồng, không một tín hữu nào đáng gọi là tín hữu mà có thể khước từ nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không thể là một việc tùy sở thích, nhưng mỗi tín hữu phải coi đây là vấn đề sống đạo, vấn đề sinh tồn của Giáo hội và là trách nhiệm của chính mình.
Đối với người giáo dân, qua sắc lệnh về tông đồ giáo dân. Công đồng còn cho thấy vai trò quan trọng của người giáo dân trong việc truyền giáo, vai trò là men, là muối, là ánh sáng, là chứng nhân giữa đời. Bởi vì giáo sĩ không thể sống chân bùn tay lấm nơi đồng ruộng với những nông dân; giáo sĩ không thể gồng gánh theo chân những người buôn bán đi vào đầu đường xó chợ; giáo sĩ không thể đầu tắt mặt tối làm việc trong những cơ xưởng, nhà máy, công trường... nhưng chính những giáo dân nhà nông, những giáo dân buôn bán, những giáo dân công nhân, có nhiệm vụ đem Chúa đến cho anh em mình nơi đồng ruộng, chợ búa, xí nghiệp, nhà máy, nghĩa là những nơi mà giáo sĩ không thể có mặt và không thể đi đến, thì giáo dân sẽ đóng vai trò chủ chốt và chủ động. Bởi đó, không những giáo dân đóng vai trò yểm trợ cho giáo sĩ mà còn đóng vai trò chính yếu, thay thế cho giáo sĩ trong những nơi hay những hoàn cảnh đó.
Như vậy cách truyền giáo tốt nhất và có hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu, đời sống Công giáo đích thực, nhất là đời sống thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những bạn tốt, những công nhân gương mẫu trong nhà máy, những công nhân gương mẫu ngoài công trường. Tóm lại, chúng ta hãy nắm lấy những cơ hội đi lại đây đó, khi thi hành công tác, khi làm ăn sản xuất, khi xê dịch thăm viếng... để nói hay làm chứng về Chúa qua lời nói, thái độ và cách đối xử đầy tình yêu thương của chúng ta.
Mẹ Têrêxa Cancutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo như sau: đó là "một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài". Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêxa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu, truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương.
Có người đã kể lại lý do và động lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: "Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: "Chị quỳ làm gì thế?". Chị trả lời: "Tôi cầu nguyện cho ông". Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy. Giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa".
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những người bạn tốt của nhau.
Trong thư mục vụ năm 2003 của các Giám mục Việt Nam, số 10 cũng nói đến cách truyền giáo này: cầu nguyện cho việc truyền giáo là việc quan trọng hàng đầu, việc truyền giáo phải đặt nền tảng trên lời cầu nguyện: cá nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ. Trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống, chúng ta hãy nêu gương về đời sống hiệp nhất yêu thương, không có lời rao giảng nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo phận, như lời Chúa phán: "Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy, ấy là nếu anh em thương yêu nhau".
Tóm lại, ngày thế giới truyền giáo hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy luôn ý thức về sự quan trọng của việc truyền giáo và nhắc nhở chúng ta hãy góp phần mình vào công cuộc truyền giáo của Giáo hội bằng việc cầu nguyện và bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta.
22. Đời sống chứng nhân.
Hôm nay, ngày thế giới truyền giáo. Chúng ta cùng tìm hiểu xem: Truyền giáo là gì? Chúng ta phải truyền giáo thế nào?
Trước hết, truyền giáo là gì? Truyền là tuyền bá, truyền thông, chuyển giao, rao giảng, loan truyền... Giáo là giáo lý, đạo giáo, Tin Mừng, Phúc âm... Truyền giáo là truyền bá đạo, là rao giảng Phúc âm, là loan truyền chân lý của Chúa cho người khác. Đó là ý nghĩa thứ nhất, nghĩa hẹp, nghĩa chặt và chính xác. Đàng khác, truyền giáo còn có nghĩa là lập những cộng đoàn Kitô hữu trong đức tin, trong phụng tự Thánh Thể, bác ái như Giáo hội mong muốn. Nói khác đi, truyền giáo là "trồng" Giáo hội vào các dân tộc, các địa phương, cho đến khi những người trong địa phương ấy trở nên tín hữu, thành một đoàn chiên. Theo ý nghĩa này, truyền giáo không phải chỉ là truyền bá một số giáo lý, nhưng là truyền thông sự sống của Chúa cho anh em khác, vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống, đạo Chúa là đạo sự sống, là nguồn sống, có khả năng thay đổi, biến cải những con người từ không có Chúa trở thành có Chúa, từ mất Chúa trở thành tìm lại được Chúa. Truyền giáo theo nghĩa này là truyền sự sống của Chúa Kitô mà chúng ta đã có sang cho anh em mình, như thân cây nho chuyển nhựa sống sang cho cành nho. Sau hết, truyền giáo còn có một nghĩa nữa là củng cố, tăng cường, huấn luyện đức tin cho một cộng đoàn, cho các tín hữu, để họ lại ra đi truyền giáo cho những người khác.
Những ý nghĩa trên đây cho thấy hai chiều của việc truyền giáo: chiều rộng và chiều sâu. Nếu làm cho những người chưa biết Chúa hoặc những người biết mà đã bỏ Chúa, được nhận biết và yêu mến Chúa. Đó là truyền giáo theo chiều rộng, là mở rộng nước Chúa và làm tăng thêm số người thờ phượng Chúa. Còn nếu làm cho những người đã biết và yêu mến Chúa được hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, để rồi họ lại tiếp tục làm những công việc ấy nơi những người khác. Đó là truyền giáo theo chiều sâu, vì làm cho nước Chúa được vững chắc hơn và làm tăng thêm số người Công giáo sốt sắng, đạo đức.
Việc phân biệt ý nghĩa như trên đây rất quan trọng để chúng ta hiểu rõ hơn việc truyền giáo, vì truyền giáo không phải chỉ có nghĩa là làm cho những người ngoại, những người lương, những người chưa biết được biết và yêu mên Chúa, nhưng còn có nghĩa là truyền giáo cho cả những người Công giáo sống trong một họ, một xứ với chúng ta nữa. Chúng ta phải sống một đời đạo đức, sốt sắng, thánh thiện để làm gương tốt cho họ, để giúp cho họ thêm lòng yêu mến và tôn kính Chúa.
Đó là ý nghĩa của việc truyền giáo. Và như vậy tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không của riêng ai và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được. Nhưng đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc. Mỗi người chúng ta phải coi đây là vấn đề sống đạo, là vấn đề sinh tồn của Giáo Hội và là trách nhiệm của chính mình.
Vậy chúng ta phải truyền giáo thế nào? Có rất nhiều cách. Chúng ta muốn dùng cách nào cũng được, nhưng nhất thiết phải thi hành hai cách này là cầu nguyện và đời sống chứng nhân: Cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất quan trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa. Cụ thể như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả đời không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thế mà Giáo Hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê. Xin anh chị em hãy suy nghĩ: Chúng ta có thường xuyên thi hành việc này không? Chúng ta có cầu nguyện cho việc truyền giáo không? Nếu không thì đó là tội thiếu sót, bỏ việc phải làm. Thứ hai là truyền giáo bằng chính đời sống chứng nhân của mình: Đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất, đó là truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì "Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo". Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa, cho đạo không?
23. Tin Mừng cho người ngoại biên.
(GM. Gioan B. Bùi Tuần)
Thuở còn nhỏ, tôi đã sớm nhận thấy sự khác biệt giữa người giàu và người nghèo.
Lớn lên, tôi cảm được sâu sắc cảnh nghèo. Nghèo thì hèn. Nghèo thì khổ. Cái Nghèo, cái Hèn, cái Khổ dính vào nhau khăng khít. Đồng thời, tôi cũng nhìn được cảnh giàu. Giàu thì sang. Giàu thì có. Cái Giàu, cái Sang, cái Co đồng hành ung dung.
Khi đi qua nhiều nơi, ở lại nhiều nước, tôi lại thấy giàu nghèo làm thành những giai cấp. Giàu là giai cấp cao. Nghèo thuộc giai cấp thếp. Cấp cao, cấp thấp đều có nhiều bậc. Đôi khi, người nghèo khổ bậc dưới không thể và cũng không dám nhìn người giàu sang ở bậc trên. Vì khoảng cách quá xa về địa lý, nhất là về tâm lý.
Trung tâm và ngoại biên.
Để đơn giản hoá tình trạng chênh lệch giữa giàu và nghèo, tôi tạm chọn cho mình một hình ảnh gợi ý. Hình ảnh đó là Trung tâm và Ngoại biên.
Trung tâm có thể áp dụng về nhiều mặt. Như trung tâm kinh tế, trung tâm văn hoá, trung tâm chính trị, trung tâm tôn giáo. Những ai được ở trong hoặc gần những trung tâm đó thường được coi là những người hưởng nhiều may mắn về phát triển, về danh dự, về cuộc sống.
Ngoại biên cũng được hiểu về nhiều lãnh vực như trên. Những ai ở ngoại biên kinh tế, văn hoá, xã hội, tôn giáo thường phải chịu nhiều mất mát, thua thiệt, kém cỏi.
Trung tâm và ngoại biên không hẳn chỉ là địa lý, mà còn là tâm lý và pháp lý.
Thời Chúa Giêsu giáng thế, theo truyền thống lâu đời, thì Giêrusalem là trung tâm chính trị, văn hoá và kinh tế, còn đền thờ là trung tâm tôn giáo. Đền thờ này cũng toạ lạc tại Giêrusalem.
Giêrusalem là nơi tập trung những người có địa vị, nắm quyền lực, sống trong phẩm trật và được ưu đãi.
Đền thờ là nơi thờ phượng của người có đạo. Gian trên dành cho các chức sắc. Gian giữa dành cho các đàn ông Do Thái. Gian cuối dành cho phụ nữ và trẻ con. Ngoài hè dành cho các người ngoại giáo, các kẻ tội lỗi và những ai tàn tật.
Chúa Giêsu đi về ngoại biên.
Trong một tình hình như thế, Thiên Chúa có những lựa chọn lạ lùng.
Thực vậy, Chúa Giêsu xuất hiện ở Galilêa. Xứ này là vùng biên, xa trung tâm Giêrusalem.
Người sinh ra trong một gia đình làm nghề mộc, thuộc dạng nghèo.
Như vậy, Người mang thân phận kẻ nghèo để chia sẻ với thế giới những người ngoại biên.
Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người ưu tiên để ý đến những người nghèo, người người tội lỗi và những người cùng khổ. Người áp dụng vào chính mình những lời tiên tri Isaia xưa đã nói:
"Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn" (Lc 4,17-20).
Người cũng đã xác định: "Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi" (Mt 9,13).
Người muốn dạy cho mọi người thấy: Trước mặt Chúa không có vấn đề ưu đãi cho trung tâm và bỏ quên hoặc loại trừ những ngoại biên. Người nói rõ ràng với người phụ nữ ngoại giáo xứ Samaria:
"Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem... Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế" (Ga 4,21-24).
Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi những người ngoại biên, Người đến với họ, Người chia sẻ những nỗi đau của họ, Người được kể như người ngoại biên. Người cho họ thấy Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người.
Người hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên thánh giá, mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Người đã nói trước khi tự nạp mình chịu chết: "Lạy Cha, giờ đã đến. Xin Cha tôn vinh Con Cha, để con Cha tôn vinh Cha" (Ga 17,1).
Người muốn các môn đệ Người cũng hãy theo gương Người, mà đem Tin Mừng đến cho người nghèo khổ như vậy. Muốn được thế, các ngài cần đón nhận sẵn tình thương cứu độ của Người. Để đón nhận, các môn đệ phải rất khiêm nhường trong phục vụ. Gương phục vụ khiêm nhường sau cùng Nguời trối lại là chính Người quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Sau đó, Người truyền dạy: "Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm như Thầy đã làm cho các con » (Ga 13,15).
Phục vụ rất khiêm nhường là một cách tốt nhất để mở cửa lòng, đón nhận lửa tình yêu của Chúa, một thứ lửa đầy ánh sáng chân lý và yêu thương. Nhờ đó, môn đệ Chúa có thể ra đi ngoại biên, đem Tin Mừng cho mọi người, ưu tiên cho những người nghèo khổ.
Vui buồn về thực tế truyền giáo.
Đem mấy tư tưởng Phúc Âm trên đây chiếu dọi vào thực tế truyền giáo tại địa phương, tôi thấy có những điều đáng mừng và có những điểm đáng lo ngại.
Những điểm đáng mừng là từng triệu những người nghèo khổ vẫn đón chờ Tin Mừng, và vẫn sẵn sàng đón nhận Tin Mừng. Nhiều nơi, nhiều người đã gặp được Tin Mừng, nhờ gặp được những người môn đệ Chúa đến với họ, thương cảm đời họ, phục vụ họ một cách khiêm nhường, và dấn thân hy sinh vì họ. Các môn đệ như thế thuộc mọi thành phần, trong đó các nữ tu và giáo dân giữ một vai trò quan trọng.
Những điểm đáng buồn là ở nhiều nơi còn thiếu gương sáng về truyền giáo.
Trên đường đời, không thiếu trường hợp, người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, đã xử sự lạnh lùng với người ngoại biên. Thái độ của ta cũng giống thái độ thầy tư tế và Lêvi xưa trước nạn nhân nằm quằn quại bên vệ đường. Mặc người ngoại Samaria lo cho người ngoại biên (Mt 12,41-44). Ta cứ an tâm đi về đền thờ là trung tâm.
Trong cuộc sống, không thiếu trường hợp, người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, cũng đã xua đuổi người ngoại biên, không cho họ đến gần Chúa. Giống như các môn đệ Chúa xưa đã muốn xua đuổi người đàn bà xứ Canaan. Khi bà cứ lẽo đẽo sát lại bên Chúa Giêsu, để xin Người chữa con bà bị quỉ ám (Mt 15,21-28). Ta bảo vệ Chúa là trung tâm bằng cách loại trừ ngoại biên, tức những ai ta coi là bất xứng.
Trong những công việc chung, không thiếu trường hợp người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, cũng đã đánh giá thấp người ngoại biên. Không giống cách Chúa Giêsu xưa đã đánh giá rất cao người đàn bà goá nghèo, đã dâng cúng vào đền thờ chỉ một đồng xu (Mt 12,41-44). Ta tôn vinh con người theo tiêu chuẩn tiền bạc và địa vị, như thể tiền bạc và địa vị là giá trị của trung tâm đạo.
Hiện nay, Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đang được đề cao như một gương mẫu rao giảng Tin Mừng cho người ngoại biên. Mẹ không làm việc gì khác ngoài đi theo đường lối mà Chúa Giêsu đã đi trước. Điều đáng ngợi khen nhất nơi Mẹ là Mẹ làm, chứ không chỉ nói. Với những việc làm yêu thương cụ thể, Mẹ là một người mẹ âm thầm hy sinh, trước khi là thánh vinh quang.
Khi tôn vinh Mẹ Têrêsa, Toà Thánh muốn tôn vinh một tinh thần truyền giáo sáng ngời, một phương cách truyền giáo khôn ngoan, đã rất hữu hiệu, đã gây được nhiều thiện cảm ở các xã hội và tôn giáo đa dạng, tại Ấn Độ nói riêng và Á châu nói chung.
Qua đời sống của mình, Mẹ Têrêsa Calcutta đã giới thiệu dung mạo một Hội Thánh dễ thương, dễ mến. Một Hội Thánh dịu dàng, khiêm tốn phục vụ, đầy tình xót thương, luôn đi tìm những người nghèo khổ, tội lỗi, bị loại trừ, sống trong bế tắc, để đưa họ vào tình Chúa bao la.
Ước gì mọi người truyền giáo chúng ta cũng theo gương Mẹ, để bất cứ ai, nhất là các người ngoại biên, đón nhận được hy vọng là Tin Mừng nơi Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
24. Kitô hữu, chứng nhân truyền giáo
('Niềm Vui Chia Sẻ')
"Anh chị em đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng cho muôn dân". Thưa anh chị em, đó là mệnh lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các Tông đồ trải qua các thời đại cuối cùng của Chúa, bất chấp mọi trở ngại.
Thế nhưng, qua 20 thế kỷ truyền giáo, số người tin theo Chúa Kitô vẫn là một thiểu số đáng lo ngại so với dân số thế giới ngày càng gia tăng. Hiện nay, dân số thế giới đã lên đến trên 5 tỷ người, thế mà số tín hữu công giáo chỉ được 900 triệu, nhưng 50 phần trăm là ở Nam Mỹ, còn triệu kia rải rác ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi.
Riêng tại Châu Á của chúng ta, một lục địa với hơn 3 tỷ người, trong số đó chỉ có 3% là người Công giáo. Tại Trung Quốc chỉ có 4 triệu người Công giáo giữa một tỷ dân. Tại Nhật Bản có lối 500 ngàn người Công giáo giữa 123 triệu dân. Ở Nam Triều Tiên, 5 triệu người Công giáo trên 42 triệu dân. Tại đất nước Việt Nam chúng ta chỉ có hơn 4 triệu rưỡi người Công giáo trên 72 triệu dân, tỷ lệ hơn 6%. Tại TP. Hồ Chí Minh chúng ta có khoảng hơn 450 ngàn (485.584) người Công giáo trên hơn 5 triệu dân, tỷ lệ 13%. (Tại Hạt Tân Định, có 41.105 người Công giáo trên 266,000 dân). Đó là những con số trên giấy tờ, trong sổ Rửa Tội, còn trên thực tế, họ có sống đạo hay không là chuyện khác.
Như chúng ta được biết, ở những miền có đông giáo dân Công Giáo- ở Nam Mỹ chẳng hạn- đời sống dân chúng ở đó lại nghèo đói và thiếu linh mục.Ở Braxil, một nước lớn nhất Nam Mỹ, dân số 107 triệu, đại đa số là Công giáo. Thế mà gần đây người Công giáo đã bỏ Giáo Hội để sang Hội Thánh Tin Lành tính ra có trên 17 triệu người (lý do có lẽ là để được hưởng trợ cấp). Trái lại, ở các nước giàu có, phồn thịnh về vật chất- như ở Châu Âu và Bắc Mỹ- người Công giáo lại đánh mất niềm tin và không còn tôn trọng các giá trị đạo đức tinh thần nữa, coi thường các luật luân lý của Giáo Hội về đời sống hôn nhân gia đình. Sự kiện đó đang trở nên mối lo âu và là một vết thương đau nhức nhối nhất của Giáo Hội ngày nay.
Xin đan cử ra đây một dấu chỉ của thời đại: Đầu năm 1998, tại thành phố Amsterdam ở Hà Lan, Hội Đồng Giáo Mục đã quyết định đóng cửa một loạt 5 ngôi thánh đường đồ sộ của thành phố, vì không có giáo dân lui tới nữa, trong khi đó phí khoản 9dê3 bảo trì các ngôi thánh đường này lại quá lớn. Tại Bắc Mỹ cũng thế, Đức Hồng Y Josef Bernardin, Tổng Giáo Mục Chicago tuyên bố: ngài buộc lòng phải đóng cửa 13 giáo xứ, 2 cơ sở truyền giáo và 6 trường tiểu học Công giáo trong giáo phận của ngài. Còn Đức Hồng y Szoka, Tổng Giám Mục Giáo phận Detroit cũng tuyên bố quyết định đóng cửa 30 giáo xứ thuộc giáo phận của ngài. Lý do đóng cửa là vì thiếu người và thiếu tiền (x. Bùi Tuần, Ơn Trở Về, tr.85).
Nói lên những dấu chỉ thời đại ấy để chúng ta thấy rằng: Con người ngày nay đã bỏ Chúa, không còn tin vào Chúa nữa, hoặc có nhiều người tin, nhưng với một niềm tin hời hợt, hững hờ. Chính vì thảm trạng nầy mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệp "Sứ Vụ Đấng Cứu Độ" (Redemptoris Missio, 1990) để đặt toàn thể Giáo Hội trước sứ mạng truyền giáo và tái truyền trong Thiên Niên Kỷ Thứ III.
Hôm nay, ngày Thế Giới Truyền Giáo, Đức Thánh Cha lại gởi đến toàn thể Dân Chúa một sứ điệp với chủ đề: "Tất cả các kitô hữu đều được mời gọi làm người truyền giáo và chứng nhân". Đức Thánh Cha nói: "Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Chúa Giêsu quyết liệt lập lại những lời Ngài đã nói với các Tông đồ trước khi về trời, những lời hàm chứa bản chất sứ vụ của người Kitô hữu: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8). Quả thực, Kitô hữu là ai? Thưa họ là người được Chúa Kitô "chiếm đoạt" (x.Pl 3,12), và vì thế, là người khao khát làm cho Chúa Kitô được mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp mọi nơi "cho đến tận cùng trái đất". Chính niềm tin vào Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta trở thành những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài. Nếu không thực hiện được điều đó, có nghĩa là niềm tin củ chúng ta còn bất toàn, khiếm khuyết và chưa trưởng thành.
Do đó, "Truyền giáo là vấn đề của niềm tin, nó là thước đo niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu và nơi tình yêu của Ngài dành cho chúng ta" (RM số 11). Đức tin và truyền giáo đi đôi với nhau: đức tin càng mạnh càng sâu thì nhu cầu truyền thông, chia sẻ và làm chứng niềm tin càng bức thiết. Ngược lại, nếu đức tin suy yếu thì nhiệt tình truyền giáo cũng suy giảm và khả năng làm chứng cũng mất đi sức mạnh. Đó là điều vẫn xảy ra trong lịch sử Giáo Hội: sự sút giảm lòng nhiệt thành truyền giáo là triệu chứng của sự khủng hoảng đức tin. Điều này phải chăng xảy ra khi người ta đánh mất xác tín sâu xa là: "Đức tin càng vững mạnh khi đem chia sẻ" (RM.2). Vì chính khi loan báo Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về Ngài mà đức tin của chúng ta được củng cố và tái khám phá con đường đưa đến một nếp sống đúng theo Tin Mừng của Ngài. Như thế, chúng ta có thể nói: "Truyền giáo là một phương thuốc chắc chắn nhất chống lại cuộc khủng hoảng đức tin. Chính nhờ dấn thân truyền giáo mà mỗi thành phần Dân Chúa củng cố căn tính mà mình và hiểu rõ là: không ai có thể là Kitô hữu đích thực nếu không là chứng nhân" (số 2).
"Mỗi Kitô hữu được sáp nhập vào Giáo Hội nhờ Bí tích Thanh Tẩy, đều được mời gọi làm nhà truyền giáo và chứng nhân. Đó là sự ủy nhiệm rõ ràng của Chúa Kitô. Và Thánh Thần sai mỗi người kitô hữu ra đi loan báo và làm chứng về Chúa Kitô cho muôn dân: đó là nhiệm vụ và đặc ân, bởi vì đó là một lời mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ mỗi người và cả nhân loại" (số 3).
Truyền giáo bằng đời sống chứng tá Tin Mừng giữa đời, làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống yêu thương, bác ái, công bình, cụ thể trong gia đình, ngoài xã hội, là sứ vụ của mọi người giáo dân. Làm chứng cho sự thánh thiện, như những người sống các Mối Phúc của Tin Mừng, đó là căn tính của người Kitô-hữu-chứng-nhân. Con người ngày nay có vẻ dửng dưng không muốn tìm về Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ cảm thấy cần đến Thiên Chúa và họ bị các Thánh thu hút và đánh động, những vị thánh đã biểu lộ khuôn mặt của Thiên Chúa trong đời sống của mình, như những ánh sao trong đêm tối.
Giáo Hội Việt Nam chúng ta ngày nay phải truyền giáo trong môi trường cụ thể chúng ta đang sống, với những con người cụ thể chúng ta đang gặp. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng vào lòng dân tộc. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống nhân chứng của chúng ta để bày tỏ cho anh em đồng bào tình yêu thương vô biên của Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc Phúc-âm-hóa mới, đó là công việc đặc trưng của những năm chuẩn bị tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của Hồng Ân Cứu Độ.
25. Anh em là chứng nhân
('Manna')
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã làm một điều quan trọng,
đó là đào tạo những chứng nhân.
Hội Thánh tương lai phải được xây nền vững chắc
trên những con người có kinh nghiệm cá nhân
về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Chính vì thế Ngài đã hiện ra cho Simon,
cho hai môn đệ về Emmau, cho các tông đồ.
Ngài cho họ xem chân tay và Ngài đã ăn bánh
để họ đừng nghi Ngài là ma.
Hơn nữa Ngài còn soi sáng cho họ
để họ hiểu những lời Kinh Thánh nói về Ngài.
Các môn đệ đã là chứng nhân, đã tử đạo
để làm chứng cho điều mình xác tín.
Mỗi năm Hội Thánh dành một ngày Chúa Nhật
để nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận của mình,
bổn phận truyền giáo cho thế giới.
"Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân"
Chúng ta phải tiếp tục sứ mạng của các tông đồ,
vinh dự đứng vào hàng ngũ các chứng nhân.
Để truyền giáo, chúng ta phải quen thân với Chúa Giêsu,
có kinh nghiệm gặp gỡ Ngài thật sâu lắng,
sống cái chết của Ngài mỗi ngày
và nếm được niềm vui phục sinh Ngài ban tặng.
Để truyền giáo cần có nhiều tình yêu:
tình yêu đối với Chúa Giêsu và đối với con người.
Chính vì mến yêu Ngài
mà ta muốn Ngài được mọi người nhận biết.
Chính vì mến yêu mọi người
mà ta muốn chia sẻ hạnh phúc mình đang hưởng.
Thế giới hôm nay đầy lạc thú và hưởng thụ,
nhưng vẫn là một thế giới buồn.
Buồn vì nạn phá thai, ly dị, tự tử;
buồn vì hận thù, thất vọng và lo âu.
Nhiều bạn trẻ tìm quên trong vui chơi, nghiện ngập,
vì không thấy cuộc sống có ý nghĩa.
Như thế truyền giáo là loan báo tin vui
cho một thế giới buồn.
Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ giới trẻ:
"Hội Thánh ủy thác cho giới trẻ nhiệm vụ hô to lên
cho thế giới biết niềm vui vì gặp được Đức Kitô...
Hãy đi rao giảng Tin Mừng giải thoát.
Hãy là những điều ấy với tâm hồn hân hoan."
Chúng ta không thể là những chứng nhân buồn.
Chính cuộc sống của ta phải đầy ắp niềm vui,
sự lạc quan và sự sống của Chúa Phục Sinh.
Chỉ như thế chúng ta mời hy vọng đáp ứng
những đòi hỏi gay gắt của thế giới
đang bước vào đệ tam thiên niên kỷ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn nói về Chúa cho một người bạn không? Bạn có thấy mình cần học giáo lý và cầu nguyện để có thể truyền giáo tốt hơn không?
Hơn 90% người Việt Nam chưa tin Chúa. Theo ý bạn, chúng ta có truyền giáo đủ chưa? Phải sửa đổi gì để việc truyền giáo có hiệu quả hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
26. Chúa sai tôi đi
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác định. Đó là tất cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.
Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào?
- Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: "Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt". Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lở mất cơ hội.
- Thứ đến ta phải cầu nguyện. Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.
- Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: "Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép" để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.
- Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.
Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi người đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên chúa. Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác
Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.
Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: "Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt". Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: "Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi".
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?
2) Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người tông đồ cần có những đức tính nào?
3) Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không? Bạn đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?
27. Cánh cửa truyền giáo
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong bài báo: "Khi các sao Việt quy y cửa Phật", tác giả Ngọc Hoa đã viết: là một trong những nữ diễn viên hàng đầu thời phim "Mỳ ăn liền" còn hoàng kim. Thế nhưng, Việt Trinh lại luôn lận đận về chuyện tình duyên. Những người đàn ông đã từng yêu Việt Trinh sau này đều dính đến pháp luật, chính điều đó đã khiến có người dành những lời không thiện cảm cho người đẹp này. Cùng thời gian đó, dòng phim "mỳ ăn liền" xuống dốc, Việt Trinh trở nên hụt hẫng, tuyệt vọng, có những lúc chị cảm thấy bi quan và chán nản cuộc sống.
Thế nhưng, chính trong những lúc tuyệt vọng nhất, một cánh cửa khác đã mở ra cho người phụ nữ đa truân này. Đó chính là Phật pháp. Vô tình đến với đạo Phật, Việt Trinh ngộ ra nhiều điều, chị tìm hiểu rõ hơn về đạo Phật, về nhân quả, nghiệp báo, bỏ tính nóng này, thậm chí còn làm phim liên quan đến đề tài này. Chính xác là từ năm 2001, chị quyết định đi theo đạo Phật bằng sự thành kính. Cô tâm sự:
"Cách đây không lâu, trong lúc tôi đang còn ngụp lặn trong biển khổ ái tình, tôi rất buồn, lúc nào cũng chỉ biết khóc, không biết làm sao để giải thoát khỏi mối tình cay nghiệt. Khi lồng tiếng cho phim Duyên Trần Thoát Tục, đọc tới đoạn Hòa thượng dạy cho Thường Chiếu: "Còn duyên thì hợp hết duyên thì tan", tự nhiên tôi rùng mình, tự hỏi rằng tại sao mình phải ngụp lặn trong sự đau khổ của ái tình? Từ đó, tôi không vướng bận vào chuyện tình cảm đau khổ nữa"
Đối với những người theo đạo Phật thì Cửa Phật là nơi ẩn náu bình yên sau những vật lộn của thế gian. Họ sẽ tìm đến cửa Phật một khi không còn thấy hạnh phúc nơi phong trần. Họ quy y cửa Phật như nói lên quyết tâm của họ rũ bỏ đường trần để tìm sự thanh thoát bình yên nơi cửa Phật.
Còn đối với đạo Công giáo thì lý do nào khiến người ta trở về với Chúa? Chúng ta sẽ giới thiệu Chúa như thế nào để những người ngoại trở lại để náu nương, và những người lạc bước được sớm quay trở về? Chúng ta có con đường nào cho anh em quay trở về như cửa Phật đã từng rộng mở cho thiện nam tín nữ của họ?
Có lẽ điều này thì nơi đạo Phật dễ dàng hơn. Cửa Phật luôn rộng mở miễn là con người muốn quay trở về. Còn với đạo Công Giáo chúng ta thì còn phải trải qua rất nhiều thử thách trong thời kỳ dự tòng, phải học giáo lý, phải thể hiện ý hướng ngay lành, phải có lý lịch rõ ràng . . .
Có một người bạn ngoại đạo hỏi tôi: Người ta ai cũng muốn tự do thoải mái, vậy đi đạo làm gì cho mệt vì phải giữ quá nhiều luật lệ?
Và anh ta còn thêm: Luật lương tâm là đủ rồi, tại sao còn phải thêm biết bao luật do con người quy định hoặc thêm thắt vào?
Thực ra, ở đời, ai cũng muốn được tự do thoải mái, nhưng không phải vì thế mà mình muốn làm gì thì làm. Đối với chính bản thân, mình cũng cần có những nguyên tắc phải tuân thủ để bảo vệ và phát triển sự sống; trong tương quan với tha nhân (gia đình và xã hội) mình có những bổn phận, những trách nhiệm phải chu toàn nên cũng cần có những quy định ràng buộc. Đạo Thiên Chúa qui định những luật lệ đối với bản thân, gia đình, xã hội và Giáo hội là để giúp cho mọi người được sống an vui hạnh phúc. Ngoài ra, chúng ta còn có bổn phận tôn thờ Thiên Chúa, nên mỗi ngày bỏ ra 10 phút, mỗi tuần bỏ ra một tiếng đồng hồ để thờ phượng Thiên Chúa và cứu rỗi linh hồn thì đâu có gì là quá đáng, là mất tự do!
Phân tích như vậy thì đúng lắm! Nhưng làm sao để cho anh em lương dân cảm thấy nhẹ nhàng khi theo đạo thay vì sợ hãi vì cha quá khó, luật quá nhiều . . .? Luật Chúa, luật Giáo hội thì ít mà luật giáo xứ lại quá nhiều?
Chúa luôn mời gọi con người hãy đến với Chúa vì "ách của Chúa thì êm ái và gánh của Chúa thì nhẹ nhàng", sao chúng ta lại chồng chất lên nhau quá nhiều những gánh nặng khiến đạo trở thành nặng nề, khó khăn cho biết bao người. Chúng ta sợ quá dễ dãi người ta sẽ bỏ đạo. Thế nhưng, quá khó khăn có chắc để họ giữ được đạo hay không? Bởi vì có rất nhiều người "nín thở qua sông", học giáo lý, học kinh cho thật thuộc để lấy được vợ là thôi nhà thờ! Vậy phải làm thế nào để những người lương dân cảm thấy bình an khi đến với Chúa mà không cảm thấy khó khăn bởi những yếu tố bên ngoài tác động?
Hãy nhìn vào cung cách sống của Chúa Giêsu, Ngài đã sống hòa mình vào mọi hạng người để nâng đỡ, cảm thông và chia sẻ với họ. Ngài tạo mọi điều kiện cho con người đến với Chúa từ trẻ nhỏ, người già, người tội lỗi, tật nguyền đều có thể tìm thấy bình an khi đến với Chúa. Chính vì thế, mà Ngài luôn có một số rất đông đi theo Người.
Hãy nhìn vào Giáo hội sơ khai họ đã thành công khi sống bác ái huynh đệ với nhau, họ gom của cải vào của chung và chia sẻ cho nhau đến nỗi không một ai thiếu thốn trong cộng đoàn của họ, nhờ đó mà họ được toàn dân thương mến.
Cánh cửa Giáo hội công giáo luôn rộng mở nhưng quan yếu vẫn là thái độ của từng người công giáo chúng ta có rộng mở với anh em qua đời sống bác ái huynh đệ, luôn chia sẻ, cảm thông với mọi hạng người, luôn sẵn lòng đến với anh em trong tinh thần hiệp thông bác ái? Cuộc sống của người tín hữu chúng ta phải là cánh cửa của hiệp thông, của bác ái để có thể đón nhận và hòa nhập với mọi hạng người. Cuộc đời của chúng ta thực sự có bình an khi sống đạo mới có thể mang bình an chia sẻ cho tha nhân.
Nét son của đạo Phật là tại tâm. Nét son của Kytô giáo là yêu thương. Liệu rằng chúng ta có trở thành dấu chỉ tình yêu, của bình an và hy vọng cho anh em mình không?
Xin cho đời truyền giáo của chúng ta phải khởi đi từ những nghĩa cử yêu thương nhân hậu với tha nhân. Xin đừng là vật cản trở anh em đến với Chúa vì đời sống thiếu bác ái, thiếu lòng nhân từ của chúng ta. Amen.
11/10 Giàu có khó vào Nước Chúa
- Viết bởi Mc 10, 17-27
Giàu có khó vào Nước Chúa!!!!!.
Chúa Nhật tuần 28 thường niên năm B.
"Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta".
Lời Chúa: Mc 10, 17-27
Khi ấy Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại quỳ gối trước Người và hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?" Chúa Giêsu trả lời: "Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ". Người ấy thưa: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ". Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: "Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta". Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh và bảo các môn đệ rằng: "Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao!" Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: "Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa". Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: "Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự". {Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Ðây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương, cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất".}
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Kn 7,1-7; Dt 4,12-13; Mc 10,17-30
1. Tiền của
Tiền của đã làm cho chàng thanh niên phải bỏ cuộc, không còn đủ sức đi theo Chúa. Chàng đành phải sống một nếp sống bình thường. Bởi sức ràng buộc của nó, tiền của là một trở ngại lớn để vào Nước Trời. Vì thế Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải từ bỏ. Sự từ bỏ này mang nhiều hình thức và mức độ khác nhau tuỳ hoàn cảnh mỗi người. Nhưng trong mọi trường hợp, điều không thể thiếu vắng đó là lòng siêu thoát. Vậy thì chúng ta phải sống tinh thần siêu thoát ấy như thế nào?
Trong một thế giới mà sức mạnh của đồng tiền được khẳng định và sự thịnh vượng vật chất đang nổi lên hàng đầu. Đất nước nào cũng mơ ước sẽ trở thành những con rồng kinh tế. Liệu chúng ta có phải quay lưng lại với sự giàu sang để ca tụng tinh thần nghèo khó hay không? Thực ra chẳng có ai chống lại sự thịnh vượng giàu có và cũng chẳng có ai tìm kiếm sự nghèo khổ. Kitô giáo lại càng không làm như vậy. Chính Thiên Chúa đã truyền cho con người phải tiếp tục công trình sáng tạo của Ngài, nghĩa là phải làm chủ và khai thác tối đa tài nguyên của thế giới này để nâng cao mức sống. Kitô giáo không phải là kẻ thù của sự phát triển và là đồng minh với sự nghèo đói. Tuy nhiên, không phải lúc nào tiền của cũng phục vụ con người.
Trước hết là phương thức kiếm tiền. Người ta đã kiếm tiền bằng những phương thức bất công, chèn ép bóc lột kẻ khác. Tiếp đến là cách thức tiêu tiền. Thừa tiền dư của, thường dẫn tới một lối sống hưởng thụ, phi đạo đức, sa đoạ. Vì chạy theo lợi nhuận và tiền của người ta đã giết chết lương tâm, bán rẻ nhân phẩm, bằng những hành động lường gạt, giả dối. Tiền của nhiều khi còn là nguyên nhân gây nên tàn ác, bất công, bạo lực, đàn áp và chiến tranh. Đam mê và lòng tham vốn tiềm ẩn nơi con người, dễ bị tiền của thổi bùng lên. Chính vì những cạm bẫy khéo nguỵ trang đó mà Chúa Giêsu đã phải cảnh cáo: Những người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa. Cho nên vấn đề được đặt ra cho người Kitô hữu không phải là chính tiền của mà là cách thức tìm kiếm và sử dụng cũng như thái độ đối với tiền của.
Tinh thần nghèo khó luôn được Tin Mừng đề cao và sự từ bỏ được coi là thái độ không thể thiếu vắng của người môn đệ Chúa. Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt rõ ràng tinh thần nghèo khó khác với tình trạng nghèo khó. Nghèo khó chẳng những là điều không dám mơ ước mà còn phải tìm cách chống lại, bởi vì sự nghèo khó sinh ra không biết bao nhiêu hậu quả tai hại, tệ đoan, bất ổn, tội ác, con người thiếu điều kiện điều kiện sống xứng đáng với phẩm giá của mình, như tục ngữ cũng đã nói: Bần cùng sinh đạo tặc. Trong khi đó, thực hiện tinh thần nghèo khó của Tin Mừng thì khác. Người nghèo khó trong tinh thần luôn giữ lòng siêu thoát, kể cả khi tiền của dư dật, không lấy của cải làm chủ đích đời mình nhưng sử dụng của cải đúng mức, theo nhu cầu chính đáng của mình và trong tinh thần liên đới, chia sẻ với anh em. Tột đỉnh của tinh thần nghèo khó là sự từ bỏ.
Từ bỏ là mức độ siêu thoát cao nhất, là thái độ chọn lựa Thiên Chúa và Nước Trời làm ưu tiên hàng đầu. Đó là một thái độ tích cực chứ không phải là tiêu cực. Nó không bao hàm sự khinh chê những giá trị vật chất và nhân bản, nhưng biểu thị nỗ lực tìm kiếm những giá trị tâm linh thiết yếu mà nếu thiếu thì ngay cả những giá trị vật chất và nhân bản ấy sẽ bị sụp đổ, bởi vì: Người ta không sống chỉ bằng cơm bánh.
2. Lấy của cải tạm thời đổi lấy kho tàng bền vững.
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chàng thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay là con người có đầu óc, biết nhìn xa thấy rộng. Anh có nhiều của cải nhưng anh biết rằng mai đây anh chết đi thì tài sản cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Vì thế anh tìm gặp Chúa Giêsu để xin Ngài chỉ giáo cho biết phương cách đạt được sự sống đời đời.
Chúa Giêsu dạy anh giữ các giới răn. Anh đáp: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ".
"Bấy giờ Đức Giêsu nhìn anh ta và đem lòng yêu mến, Người bảo: "Anh chỉ còn thiếu có một điều: là hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo tôi."
"Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi..."
Anh bỏ đi vì anh có nhiều của cải. Anh đã hành động dại dột vì không muốn đánh đổi của cải phù du hiện có để lấy gia nghiệp tồn tại muôn đời.
Qua đoạn Tin Mừng nầy, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta một bài học quan trọng, đó là phải khôn ngoan dùng những của cải tạm bợ đời nầy để đổi lấy kho tàng vô tận trên thiên quốc; hay nói một cách bình dân là "bỏ con tép bắt con cá" mà cá đây lại là cá voi! Vì phần bỏ ra rất nhỏ nhưng phần thu lại thật lớn lao.
Chúa Giêsu tiếp tục khẳng định điều nầy với thánh Phê-rô và các tông đồ: "Thầy bảo thật anh em: Chẳng ai từ bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin Mừng mà không được gấp trăm và được sống đời đời."
Vào khoảng năm 1975-1980, thời điểm kinh tế Việt Nam gặp khủng hoảng, vật giá leo thang từng ngày, giá vàng nhích lên liên tục, đồng tiền mỗi ngày một mất giá.
Rồi lâu lâu lại có vụ đổi tiền, sau mỗi lần đổi tiền, giá trị đồng tiền lại giảm sút thêm. Từ đó, những người có tiền không dại gì giữ tiền trong tủ, có tiền cứ mua vàng mà trữ. Vàng thì càng lúc càng lên giá, Nhà Nước có đổi tiền mấy lần cũng không sợ. Thế là khi có chút ít tiền dư, người ta đua nhau sắm vàng. Kẻ có nhiều tiền thì sắm cả cây vàng, người ít tiền thì sắm nửa chỉ hoặc một hai phân. Thế là an lòng chắc dạ.
Người khôn thời đó biết đổi tiền giấy lấy vàng, nhưng vàng cũng không còn giá trị khi người ta nằm xuống nhắm mắt xuôi tay. Thế nên Chúa Giêsu dạy chúng ta phải đổi bạc, đổi vàng, đổi tất cả của cải ta có đời nầy để lấy thứ quý kim muôn đời có giá, đó là công phúc. Ai có nhiều công phúc là có cả một kho báu trên trời không bao giờ mai một, hư hao.
Mai đây, ngày chết của chúng ta rồi cũng ụp đến thình lình. Nếu hôm nay không kịp chuyển đổi những gì ta có thành công phúc, thì lúc đó ta sẽ trở thành người trắng tay, chẳng còn gì tồn tại với mình khi bước qua thế giới bên kia. Đến lúc ấy, có hối tiếc thì cũng đã quá muộn màng!
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Xét về một vài khía cạnh nào đó, chúng con cũng là những người giàu có, không giàu của cải thì cũng có thể giàu thời giờ, hoặc giàu sức lực, hay giàu khả năng, trí tuệ... Xin dạy chúng con biết đem những thứ của cải tạm bợ nầy đổi lấy thứ tài sản không bao giờ hư nát.
Xin cho chúng con biết dùng thời giờ Chúa ban để tôn vinh Chúa và phục vụ con người. Đó là cách chuyển của cải tạm bợ đời nầy thành công đức bền vững cho mai sau.
Xin cho chúng con biết cống hiến sức lực, tài năng, trí tuệ... để gánh vác việc đời, để góp phần xây dựng xã hội, để phúc âm hoá môi trường, để phụng sự Hội Thánh. Đó là những cách biến của cải tạm bợ đời nầy thành công phúc, thành của cải không bao giờ hư nát dành cho mai sau.
3. Sự giầu có đích thực
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận đã có một lần nói với nhà tỷ phú Bill Gatte rằng: "Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau". Nhà tỷ phú trả lời rằng: "Sẽ có một ngày tôi trả lại cho thế giới những gì mà tôi đã thu lại hôm nay". Câu trả lời này xem ra có sự tiến bộ hơn chàng thanh niên trong đoạn Tin mừng hôm nay. Anh thanh niên nghe Chúa nói liền buồn rầu bỏ đi. Nhà tỷ phú khôn ngoan trả lời rồi để đó. Ngày mai sẽ làm nhưng không phải là ngày hôm nay. Ngày mai có thể là một ngày không xa nhưng cũng có thể là một ngày rất xa, xa lắm. Điểm chung của cả hai là: đều "lắm tiền, nhiều của". Cả hai đều làm ra tiền bằng chính mồ hôi công sức của mình. Có thể nói cả hai đều hoàn hảo về mặt đạo đức. Họ đều thành đạt trong cuộc sống. Họ đều có một vị trí tốt trong xã hội. Họ đều có cố gắng vươn lên bằng chính sức lực, trí tuệ của mình. Thế nhưng, tại sao Chúa Giêsu lại đề nghị anh thanh niên phải bỏ tiền ra cho người nghèo? Tại sao Đức Hồng Y lại nhắc nhở Bill Gatte phải quan tâm tới những người kém cỏi hơn mình? Họ đâu có lỗi với người nghèo? Họ đâu cản trở sự tiến bộ của người khác? Họ đâu lấy chiếc bánh của người nghèo, họ cũng không cản bước con đường thành công của người nghèo hay được lợi từ sự thiếu may mắn của người bất hạnh. Họ đâu phải chịu trách nhiệm về sự nghèo đói của những người chung quanh? Vậy đâu là điểm then chốt mà Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay?
Thưa, bởi vì cả hai đều thiếu sự chia sẻ. Họ có tất cả nhưng không có lòng quảng đại. Họ giầu có về vật chất nhưng không giầu có về tấm lòng. Sống ở đời cần có tình có nghĩa. Nghĩa và tình đều là hoa trái của sự trao ban. Tình yêu cần có sự trao ban. Ân nghĩa cần có sự đền đáp. Dòng sông luôn có bên lở bên bồi mới cải tạo lại ruộng đất, làm phong phú hoa màu. Con người sống ở đời cũng cần có tình có nghĩa mới làm phong phú cho cuộc đời và hữu ích cho tha nhân. Chính Chúa Giêsu đã nói với người thanh niên: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi."
Nhưng tiếc thay, sự ích kỷ đã bóp chết con tim của anh. Anh không thể trao ban vì lòng ích kỷ của anh lớn hơn lòng quảng đại. Núi tiền của anh chất quá cao nên anh không thể nhìn thấy sự khốn cùng của tha nhân. Lòng tham của anh quá sâu nên không thể lấy ra để trao ban. Chúa đã đau xót nhìn anh bước đi trong vùng tối của cõi lòng. Anh đã tự đi vào trong sự cô đơn đầy chán chường. Con người sinh ra là để sống với đồng loại. Không ai sống một mình. Cuộc sống chung đòi hỏi phải chia sẻ, phải trao ban mới mang lại những giây phút hạnh phúc trong cuộc đời. Cuộc sống mới thi vị và đầy ý nghĩa. Anh thanh niên giàu có đã không có niềm vui của sự trao ban. Anh có tiền nhưng đồng tiền không sinh lời cho cuộc đời của anh. Anh lo cất giấu đồng tiền như cất giấu cuộc đời anh trong một thế giới rộng lớn bao la mà lòng anh vẫn cô đơn chán chường, bởi thiếu tình liên đới, chia sẻ với tha nhân. Anh không dám dùng đồng tiền mua lấy lòng nhân. Anh đã đánh mất cơ hội dùng của cải Chúa ban để mua lấy bạn hữu nước trời. Cuộc đời anh đã chết bởi thiếu giá trị sự hiện diện hữu ích cho tha nhân.
Đó chính là thảm cảnh của cuộc sống hôm nay. Người ta có tiền nhiều nhưng lại có rất ít bạn thân. Người ta dùng nhiều thời gian cho việc kiếm tiền nhưng lại rất thiếu thời gian cho thân nhân bạn bè. Người ta tìm cách sở hữu thật nhiều của cải nhưng lại ít khi trau dồi nhân cách cho bản thân. Người thời nay giỏi tìm cách mưu sinh nhưng lại không biết tạo dựng cuộc sống cho có giá trị và ý nghĩa. Người thời nay sống thọ hơn nhưng tình người lại mong manh dễ tan vỡ. Con người dường như đang vong thân, đang đánh mất ý nghĩa của cuộc đời, đang giảm dần giá trị sự hiện diện của mình giữa tha nhân, bạn bè.
Vâng, có thể khi nghe đoạn tin mừng hôm nay, nhiều người cho rằng Chúa không nói với tôi, vì tôi vẫn còn nghèo lắm! Tôi đâu có gì để cho! Chúa đang nói với người hàng xóm ích kỷ gần cạnh nhà tôi. Chúa đang nhắc nhở những người giầu có ở trong xứ đạo của tôi. Thế nên, tôi an tâm. Vì Chúa không trách cứ những người nghèo đói như tôi. Vâng, có lẽ nhiều người đã nghĩ như vậy. Có những người cả một đời chưa một lần bố thí cho một ai đó. dù chỉ là một chén cơm, một chút mắm muối gọi là "tối lửa tắt đèn có nhau". Có những người cả một đời chỉ biết dùng đôi tay để nhận lãnh mà quên rằng đôi tay còn có khả năng để trao ban. Có những người chỉ chờ mong anh em nói tốt về mình, nhưng bản thân lại chưa một lần nói tốt cho anh em. Cuộc đời họ vẫn còn thiếu. Thiếu lòng quảng đại. Thiếu tấm lòng chia sẻ, trao ban. Họ cần phải bán đi cái tôi ích kỷ của mình để mở rộng trái tim đến với anh em. Họ cần bán đi một chút nhu cầu của bản thân để chắt chiu từng nghĩa cử tốt với tha nhân. Họ cần bán đi bản tính tự cao tự đại của mình để sống khiêm nhường với tha nhân. Có như vậy, cuộc đời họ mới thực sự có ý nghĩa. Vì giá trị sống ở đời là trở nên có ích cho đồng loại, nếu cuộc đời của chúng ta thực sự không mang lại ích lợi gì cho gia đình, cho xã hội thì cuộc sống đó có dài đến trăm năm vẫn là con số không, hay chỉ là một đời sống thực vật, vì trái tim đã không đủ cung cấp nhựa sống cho cơ thể của mình.
Ước gì mỗi nguời chúng ta luôn cảm nhận được niềm vui của sự trao ban để luôn trở nên có ích cho gia đình và xã hội. Vì sự khôn ngoan đích thực là hãy Dùng của cải cách quảng đại, trọng của cải cách tế nhị, xa của cải cách anh hùng. Amen.
4. Người tự do
(Lm. Hồng Phúc)
"Vì anh có nhiều của cải"
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến hai điều. Đó là tình và tiền; tình yêu phụng sự Thiên Chúa và tiền bạc nhiều khi phản lại lý tưởng Chúa.
Một thanh niên được Chúa chú ý và kêu gọi đáp lại tình yêu của Ngài. Anh vốn là người đạo đức từ thuở nhỏ. Anh nói: "Những giới răn ấy, con đã giữ từ thuở nhỏ". Nhưng hôm nay, Chúa kêu gọi anh tiến lên một bậc nữa, để đáp lại tình yêu của Ngài, là "bỏ, bán, bố thí" của cải và theo Ngài. Tình yêu đòi hỏi cởi bỏ để đi theo, như người vợ thương chồng, bỏ tất cả để theo chồng, "chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo". Nhưng người thanh niên này bỏ không đành, "bỏ thì thương vương thì tội", anh bị chi phối quá nhiều. Phúc Âm nói: "Vì anh có nhiều của cải". Tiền đã thắng anh.
Nhân cơ hội này Chúa Giêsu đã nói về tiền của. Ngài không lên án người có của. Ngài biết "đồng tiền nối liền khúc ruột", cần có tiền để sống, để giữ đạo nữa, "có thực mới vực được đạo". Nhưng Ngài lên án sự ham mê tiền bạc. Tiền của hay làm người ta ham mê dính bén. Tiền bạc hay làm cho lòng người ta đen bạc, khó vào Nước Thiên Đàng. Chúa phán: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa". Câu nói ấy có nghĩa làm sao? Đây là một từ ngữ Á đông để chỉ một việc làm rất khó. Sách Talmud của Do thái cũng có một thành ngữ tương tự: "Khó như con voi chui qua lỗ kim!"
Thật ra Chúa Giêsu không lên án người giàu cũng không chúc lành cho người nghèo. Những người "đàn bà thánh thiện" đi theo Chúa, họ là những người giàu có, đem tiền của trợ giúp Ngài và các môn đệ trong công việc truyền giáo, họ đâu bị kết án. Cũng như khi Maria, em của Martha và chị của Lagiarô, đem bình thuốc thơm mà Giuđa đánh giá đến 300 đồng (công nhật một người thợ thời ấy là một đồng), Ngài không chối bỏ cử chỉ yêu mến đó. Cũng như nhiều lần, Ngài đi dự những bữa ăn sang trọng của người biệt phái giầu có (Lc 7,36-38; Mc 14,3-9), hay những người thâu thuế có tiền (Lc 19,1-10). Vậy, Chúa lên án sự gì?
Ngài lên án những người không biết dùng tiền của, làm nô lệ tiền của. Thật khó cho người giầu, có thể trở nên một Kitô hữu chân thật khi họ coi đồng tiền là chúa tể. Điển hình là người thanh niên hôm nay, anh không dám hay không đành dấn thân theo chân Chúa, như Phêrô và các bạn ông đã làm.
Chỉ có những người có tinh thần nghèo khó Phúc Âm mới là những người tự do, những chứng chân thật sự và quả cảm. Phaolô nói: "Chúng tôi là những kẻ được coi là không mảy may, nhưng lại được mọi sự làm sở hữu" (IICor 6,10). Và chị Thánh Têrêxa nói: "Từ khi tôi từ bỏ mọi sự, tôi sống thật hạnh phúc, tôi như được sống lại".
Người từ bỏ tất cả được Chúa cho tất cả.
Thánh Giuse Corrodengo (1786-1842) là gương mẫu từ bỏ mọi sự, sống phó thác vào tình yêu và sự quan phòng của Chúa. Mỗi ngày, tiền của người ta bố thí, còn dư bao nhiêu, người dạy đem chia sẻ cho người nghèo. Người điều khiển một cô nhi viện với 700 trẻ ở Turin (Ý). Một hôm giờ cơm đã gần đến mà nhà bếp xem ra chưa "động tĩnh" gì cả. vả lại túi tiền đã cạn. Chị nữ tu quản lý chạy vào báo động. Thánh nhân bảo: "Cứ cho các em sắp hàng vào nhà cơm như thường lệ". Rồi ngài chạy vào nhà thờ cầu nguyện. Bỗng dưng có tiếng chuông nhà khách vang reo. Một tiểu đội lính hớt hải chạy vào thưa: "Lạy cha, tiểu đoàn chúng con đi hành quân, gọi về cho ban ẩm thực biết sẽ không về kịp... Vậy xin cha nhận của ăn chúng con đã nấu sẵn, cho các em cô nhi!"
Thánh nhân qua đời lúc 56 tuổi, sau khi đã lập hai dòng nữ Bác Ái và hai dòng nam để tiếp tục công việc. Ngài được Đức Piô XI tôn phong hiển thánh ngày 19-5-1934.
"Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm... mà không được gấp trăm ở đời này và đời sau được sự sống vĩnh cửu" (Mc 10,29-30).
5. Người giầu khó vào Nước Trời
(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Hơn gì nhau giữa một người có 30 tỷ dollars và một người có 1 tỷ dollars, khi mỗi người đều chỉ có một bụng để ăn, chỉ có 24 giờ để ăn chơi, cũng không thể ngủ quá 24 giờ một ngày, cũng chẳng thể sống quá 100 năm! "Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" Người hỏi Đức Giêsu câu này quả là người có đầu óc, và cũng có thể được coi là người khôn ngoan.
I. Khôn ngoan qúy hơn vàng bạc
Đã có thời người Do Thái tự hào với lề luật của mình: thập giới là 10 lời Thiên Chúa ban cho dân, là những lời giúp dân thấy được điều hay lẽ phải để theo, điều dữ phải tránh. Thập giới đã mang lại cho dân bình an. Quả vậy, ba giới răn đầu tiên về bổn phận đối với Thiên Chúa, giúp con người không tin vào bất cứ thần linh nào khác; và điều này giúp con người được tự do không phải sợ hãi bất cứ uy quyền nào, vì Thiên Chúa là Đấng tối cao trổi vượt tất cả thần thánh. Thờ phượng Ngài, được Ngài yêu thương và bảo vệ, thì còn sợ ai nữa?
Tuân giữ ba giới răn về bổn phận đối với Thiên Chúa, giúp người ta sống an bình. Những giới răn tiếp sau, từ giới răn thứ tư đến thứ mười, giúp người ta đối xử công bình với tha nhân: bảo vệ quyền lợi của tha nhân, cũng là bảo vệ quyền lợi của chính mình, cũng là bảo vệ quyền lợi của tất cả mọi người. Con người có một số quyền căn bản mà người khác không được phép tước đoạt, cho dù nhân danh bất cứ điều gì chăng nữa, vì nó gắn liền với phẩm giá con người. Tôn trọng quyền lợi của người khác, và người khác tôn trọng quyền lợi của mình, làm cho xã hội an ninh, và con người sống an bình. Khôn ngoan là tuân giữ luật Thiên Chúa.
Đức Giêsu xuất hiện như một giá trị. Tin Mừng cho thấy người giầu có này truy tìm sự sống đời đời làm gia nghiệp; anh ta mong muốn điều trường tồn tuy dù anh ta giầu sang nhiều của. Anh ta có mong ước tốt lành; điều này đã làm Đức Giêsu rung động. Ngài nhìn anh đem lòng yêu mến! Ngài nói: anh chỉ thiếu một điều. Đi và bán tất cả những gì anh có mà cho kẻ nghèo, rồi đến theo tôi. Đi theo Đức Giêsu, là điều khôn ngoan và giá trị hơn cả giầu sang.
II. Bán hết của cải mà cho người nghèo
Để có thể đi theo Đức Giêsu, phải bán những gì mình có mà cho kẻ nghèo. Nếu không dứt khoát đi theo Chúa bằng bán tất cả, thì e rằng sẽ quay đầu trở lại. Nếu không bán tất cả, khi gặp cảnh túng nghèo không có gì để ăn, phải tuốt lúa dọc đường mà ăn cho đỡ đói, anh ta sẽ quay về. Đức Giêsu cũng có lúc đói lúc khát, cũng mong cây vả bên đường cho một trái để ăn mà cũng không có. Bao nhiêu lần trong đời, Đức Giêsu đã ngủ ngoài trời. Đã bao nhiêu lần Đức Giêsu và các tông đồ đã qua đêm ở trên vườn dầu! Nếu không từ bỏ tất cả, nếu không từ bỏ tiền của, làm sao có thể theo Đức Giêsu cho được! Đức Giêsu đã sống nghèo, vì Ngài thấy giá trị của cái nghèo. Ngài cũng muốn người khác chọn lựa như Ngài. Hãy bán hết những gì anh có mà cho kẻ khó, anh sẽ có một kho tàng trên trời, rồi đến theo tôi.
Theo Đức Giêsu là một điều gì quý hơn cả vàng bạc, mà anh thanh niên giầu có và nhiều người không hiểu được. Người ta thích tiền, nghĩ rằng tiền của có thể mang lại cho người ta nhiều điều nếu không muốn nói là tất cả: "đồng tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, sức khỏe của tuổi già, cái đà của danh vọng, cái lọng để che thân, cán cân của công lý". Đức Giêsu không nghĩ như vậy, Ngài lại cho rằng tiền của làm người ta khó vào Nước Trời.
Với Đức Giêsu, điều gì quý hơn tiền của? Tiền của, là điều người ta sở hữu, điều người ta có; còn nghèo là tình trạng một người không có tiền của, không coi tiền của là quan trọng. Không có gì, cũng có thể là tình trạng của một người tự do. Một người đeo đầy vàng trên tay, và một người không có gì trên tay, bàn tay nào thanh thoát và nhanh nhẹn hơn, bàn tay nào tự do hơn? Một người có của, coi trọng tiền của, phải lo giữ tiền, bất quá cũng "thủ tài chi lỗ". Một người nghèo có cái thú và tự do của người nghèo mà người giầu không thể có được. Nếu người giầu luôn có những người ham tiền mà nghèo đeo bám để xin xỏ, cách này hay cách khác, thì người nghèo quả thật là người có cái thú tự do mà người giầu không có được.
III. Hãy đến theo tôi
Theo Đức Giêsu, là điều quý: không chỉ là không có gì như một lối sống thanh thoát, mà chính yếu là trở thành một thực tại cao quý hơn. Sống theo Đức Giêsu là một giá trị. Các tông đồ khi theo Chúa vẫn còn ham danh lợi, còn tranh nhau ngồi bên phải bên trái, tranh nhau "làm lớn" ngay khi thầy mới báo tin Ngài sẽ bị bắt bị giết; nhưng các tông đồ đã ra khác vì các ngài được diễm phúc sống với Đức Giêsu, sống bên một người thanh thoát với tất cả, tự do với tất cả, và phó thác tất cả cho Thiên Chúa.
Các tông đồ nhận ra thầy mình thực sự là ai, một khi các ông biết Đức Giêsu đã thực sự sống lại. Ngài là Đấng rất đặc biệt của Thiên Chúa, người thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa, người được siêu tôn ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngôn từ diễn tả về chân tướng của Đức Giêsu thời các tông đồ chưa rõ ràng; từ ngữ thông dụng để chỉ một người rất đặc biệt là tiên tri, Đấng Kitô (Đấng được xức dầu); cũng có một vài từ ngữ đặc biệt khác như con người, con người ngự bên hữu Thiên Chúa, người tôi tớ của Thiên Chúa, con chí ái của Thiên Chúa; và mãi trễ sau, công đồng chung Nicea (325) dùng từ ngữ triết học diễn tả chân tướng của Đức Giêsu: đồng bản tính với Thiên Chúa: "Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng thật bởi ánh sáng thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành".
Thời Đức Giêsu đang tại thế, người ta khó hiểu tại sao Đức Giêsu lại đòi người nhà giầu này bỏ tất cả để theo Ngài, mặc dù thực tế các tông đồ cũng là những người đã bỏ tất cả mà theo Đức Giêsu. Với các tín hữu ngày nay, điều này dễ hiểu hơn khi người ta biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Thiên Chúa làm người. Nếu Đức Giêsu thực là Người từ cõi trên, có nguồn gốc thần linh, thì việc đòi người ta bỏ tất cả để đi theo Ngài là điều có thể hiểu được. Các tông đồ cũng chỉ hiểu về chân tướng của Đức Giêsu khi Ngài đã từ cõi chết sống lại, khi các ngài đã được ơn Thánh Thần, và được dẫn vào sự thật trọn vẹn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao con người của mọi thời đại ham thích có nhiều tiền của?
2. Tiền của quan trọng đến mức nào để giúp con người hạnh phúc?
3. Tại sao theo Đức Giêsu lại có thể giúp con người sống hạnh phúc?
6. Hãy theo Tôi
(Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
Tiền bạc có một sức mạnh kinh hồn. "Có tiền mua tiên cũng được." Ai có thể thoát được ma lực của đồng tiền? Nhưng Đức Giêsu sẽ cho thấy có những giá trị không thể mua bằng tiền. Những giá trị cao vượt đó chỉ có thể tạo được khi thoát khỏi mọi ma lực của đồng tiền. Đó là điều rất khó hiểu. Nhưng đó cũng là sự thật.
Đồng tiền liền khúc ruột
Một hôm, có chàng thanh niên con nhà giàu đến gặp Đức Giêsu. Chàng có nhiều đức tính thật dễ thương. Khác với những bạn đồng lứa ăn chơi xa xỉ, chàng cố giữ những điều luật luân lý nghiêm nhặt. Mọi người đều nhìn vào anh như mẫu người lý tưởng. Chính Đức Giêsu cũng "đem lòng yêu mến."(Mc 10,21) Anh chẳng thiếu thứ gì trên đời. Nhưng anh vẫn không hoàn toàn hạnh phúc. Anh thấy còn thiếu một cái gì trong cuộc đời. Anh ưu tư, khắc khoải. Bởi đó nêu thắc mắc với Đức Giêsu: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" (Mc 10,17) Có mấy công tử bột có thể nêu được câu hỏi sâu sắc đó? Anh đã bị dằn vặt rất nhiều vì không thấy thỏa mãn hoàn toàn với những hứa hẹn vật chất. Anh tin Đức Giêsu sẽ trả lời dứt khoát và rõ ràng về vấn đề quan trọng cho cuộc đời anh.
Xưa nay anh cứ tưởng một đời sống luân lý hoàn hảo đã đủ bảo đảm về mặt đạo đức. Tiền bạc dư thừa bảo đảm về mặt vật chất. Đời sống như thế đã quá đủ tiêu chuẩn đạt hạnh phúc. Nhưng anh không thể ngờ hạnh phúc lại vượt lên trên những tiêu chuẩn tầm thường đó. Hạnh phúc là quan tâm tới người nghèo. Quan tâm tới độ "bán những gì anh có mà cho người nghèo." (Mc 10,21) Bán sạch. Trở nên nghèo vì người nghèo. Chính lúc nghèo như thế, "anh sẽ được một kho tàng trên trời." (Mc 10,21) Kho tàng đó đang hiện diện ngay trước mặt anh. Bởi đó Đức Giêsu mới nói: "Rồi hãy đến theo tôi." (Mc 10,21) Đức Giêsu là một giá trị vượt trên tất cả những của cải trần gian, vì Người là "sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa." (1 Cr 1,24) "Trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết." (Cl 2,3) Gia tài của chàng thanh niên đó là cái gì so với Đức Khôn Ngoan? Nếu biết Đức Giêsu là Đức Khôn Ngoan hiện thân, có lẽ anh sẽ nói: "Tôi coi của cải chẳng là gì so với Đức Khôn Ngoan." (Kn 7,8)
Chàng thanh niên là người có thiện chí, nhưng vì chưa ý thức được kho tàng khôn ngoan nơi Đức Giêsu, nên đã không thể có một lựa chọn đúng. Có lẽ anh kinh ngạc về đề nghị và mời gọi của Đức Giêsu. Anh không thể tưởng tượng có một thứ hạnh phúc ngoài tiền bạc. Để theo đuổi hạnh phúc đó, Đức Giêsu đề nghị anh dấn thân cho ngươì nghèo và mạo hiểm theo Người đi rao giảng Tin Mừng. Nhưng "nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi," (Mc 10,22) vì trong anh đang nổi lên một cơn thất vọng và cuộc xung đột giữa hai tiêu chuẩn hạnh phúc: hạnh phúc do tiền bạc và bổn phận, hạnh phúc do từ bỏ và dấn thân.
Trước khi nói tới lời mời gọi tin tưởng nơi Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn cho mọi người thấy mối nguy hiểm của tiền bạc hay của cải: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!" (Mc 10,23) Thực ra, tiền bạc không phải là một sự dữ. "Có của" không đương nhiên là xấu. Thái độ khi "có của" mới xác định giá trị con người. Giáo Hội từng có những vị thánh xuất thân tự ngai vàng như vua Louis nước Pháp, vua Stephan nước Hung. Giữa đống tiền của, họ vẫn lắng nghe tiếng Chúa và dấn thân cho ngươì nghèo.
Của cải chính một phúc lành của Thiên Chúa. Thực vậy, "chính phúc lành của ĐỨC CHÚA cho ta được giàu sang." (Cn 10,22) "ĐỨC CHÚA bắt phải nghèo và cho giàu có." (1 Sm 2,7) Người giàu cũng không bị kết án vì có nhiều tiền của. Chính Đức Giêsu cũng giao du với những người giàu sang quyền quí, như Giakêu, Nicôđêmô, Máthêu v.v. Như vậy cả tiền bạc lẫn người giầu có đều không phải là đối tượng của lời nguyền rủa. Đức Giêsu muốn cho thấy cái đáng quan tâm là mối tương quan giữa con người và tiền bạc. Ưu tư quá về tiền của đến nỗi không thể dấn thân cho người nghèo và Tin Mừng là đánh mất cơ hội lớn nhất cuộc đời: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!" (Mc 10,23)
Đòi hỏi gắt gao
Đầu óc bình thường coi đạo nào cũng như đạo nào. Nhưng Đức Giêsu muốn môn đệ phải sống trên mức đạo đức bình thường, không thể thỏa mãn với những đòi hỏi luân lý mà thôi. Chính khi vượt lên trên hạnh phúc bình thường, họ mới thấy rõ giá trị tiền bạc. Chính tiền bạc sẽ trở thành phương tiện giúp đỡ và cứu thoát những người anh em nghèo khổ khỏi cơn túng quẫn. Nếu "từ bỏ mọi sự" một cách tuyệt đối, sẽ chẳng còn phương tiện nào để làm việc bác ái. Bởi đó, đúng hơn phải nói về "tinh thần khó nghèo," (Mt 5,3) một tinh thần cần thiết để sẵn sàng lên đường với Đức Giêsu, chấp nhận mọi thử thách thương đau vì hạnh phúc đồng loại. Đó là con đường làm vinh danh Thiên Chúa.
Mặc dù đã "bỏ mọi sự" theo Chúa, Phêrô cũng không chấm dứt mọi tương quan với bên nhà vợ. Chính ông đã mời Đức Giêsu vào nhà mình và xin Người chữa bà mẹ vợ mình khỏi cơn sốt (Lc 4,38-39; Mt 8,14; Mc 1,30). Mối liên hệ vẫn còn đó. Phải chăng Phêrô chưa "bỏ mọi sự"? Vậy làm sao hưởng gấp trăm? Phải chăng lời Chúa mâu thuẫn với thực tế? Mâu thuẫn vì có nhiều nhà truyền giáo sống rất nghèo khổ, bị tù đầy, đói khát, chết chóc vì Chúa thì sao? Suốt đời họ chẳng được gấp trăm, mà chỉ toàn bị "ngược đãi" (Mc 10,30). Lời Chúa được thực hiện ở đâu? Vả lại có những người không hề biết đến từ bỏ, lại được hưởng gấp trăm ngàn lần những người đã hiến thân theo Chúa.
Đúng hơn, Đức Giêsu muốn so sánh hạnh phúc tự nhiên với siêu nhiên. Thực vậy, "đời sống cộng đoàn Kitô hữu sẽ thay thế cho sự hỗ trợ và hạnh phúc gia đình cũng như của cải đã từ bỏ. Đời sống Kitô hữu "ở đời này" tràn đầy niềm vui." (Faley 1994,661) Ngay trong bắt bớ, niềm vui đó vẫn không chấm dứt, vì phát xuất tự Thiên Chúa. Niềm vui từ của cải hay huyết tộc làm sao so sánh với niềm vui là chính Chúa? Cuộc sống hôm nay đang thiếu vắng niềm vui chân thật đó. Vì thế gian không chịu nổi sự phân rẽ của lời Chúa. "Lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người." (Dt 4,12) Lời Chúa gây nhức nhối và thách đố cho lương tâm thời đại. Đúng như Chúa nói: "Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo." (Mt 10,34) Lời Chúa vẫn còn đó như một tra vấn liên tục, khiến họ không thể ngủ yên. Quả thực, "lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy," (Dt 4,12) nghĩa là vào chỗ sâu kín nhất: lương tâm con người. Không ai có thể trốn chạy Lời Chúa. "Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa." (Dt 4,13)
Lời Chúa hôm nay đang thúc bách chúng ta dấn thân hơn nữa vào việc xây dựng Nước Chúa, tức là đem cả nhân loại vào "sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần." (Rm 14,17) Không còn con đường nào khác ngoài việc hiến thân, từ bỏ và mạo hiểm vì Nước Trời. Cuộc mạo hiểm đầy thú vị, nhưng cũng chan chứa niềm hi vọng, vì Đức Giêsu đã quả quyết: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất." (Mt 28,18)
7. Tin và theo Chúa Giêsu
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Báo Tuổi Trẻ Cười có bài thơ:
"Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên,
Ba ông đứng lại, ông Tiền cao hơn.
Tiền nhiều: mặc kệ... vẫn hơn,
Dẫu cho nhân sự ngã nghiêng tứ bề.
Tiền nhiều chẳng ngán chẳng lo,
Phất tay một cái nhằm nhò gì ông".
Con người dù sở hữu nhiều "ông tiền" và "mua tiên cũng được", nhưng chắc gì đã hạnh phúc?
Ngày 06.6.1976, tỷ phú Paul Getty qua đời, để lại một gia sản từ hai đến bốn tỷ đôla. Sau năm lần ly dị, ông đã tuyên bố với báo chí: Tôi mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi thất bại. Tôi không đạt được hạnh phúc gia đình. Tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Trái lại, nó còn có họ hàng bà con với những nỗi bất hạnh nữa.
Cơ quan vũ trụ Nasa của Mỹ đã từng tiết lộ: khi phi hành gia lần đầu tiên trên trái đất đặt chân lên mặt trăng, nhìn cảnh vật, ông ấy đã thốt lên " Ôi, yên bình quá, ở đây không có tiền".
Một cuộc sống đầy đủ không thể không có tiền, nhưng nhiều tiền chưa hẳn đã có hạnh phúc. Sự giàu sang không đương nhiên mang lại hạnh phúc cho con người.
Trang Tin mừng hôm nay kể chuyện một thanh niên đạo đức và có nhiều tiền của và vẫn thao thức đi tìm hạnh phúc với lý tưởng hằng ấp ủ từ thuở nhỏ.
Một thanh niên công chính, ngay thẳng, không dối gian. Một người trẻ tuổi tốt có thiện chí, giữ trọn các giới răn của Thiên Chúa và còn muốn làm điều tốt hơn nữa để được sự sống đời đời. Chàng trai thật dễ thương, khao khát muốn vươn lên, băn khoăn muốn làm thêm gì đó để nên tốt hơn, thao thức hướng tới trọn lành. Một thiếu gia có của mà không tìm hưởng thụ, nhưng lại nuôi ước vọng cao xa hơn. Chàng trai trẻ ước mơ một vùng trời lý tưởng. Ước mơ ấy cất tiếng gọi anh đi tìm bậc "Thầy nhân lành". Gặp Chúa Giêsu, anh quỳ xuống và thưa: Thưa Thầy, tôi phải làm gì để đạt được ước mơ mà tôi hằng ấp ủ? Người thanh niên hỏi Chúa Giêsu với cả tấm lòng chân thành. Người hỏi "anh có giữ các giới răn không?". Anh đáp dứt khoát và mau lẹ: "Thưa, tất cả những điều đó tôi đã giữ từ nhỏ".
Chúa Giêsu nhìn anh với ánh mắt trìu mến. Khi biết anh đã giữ trọn các giới răn, Chúa "Chăm chú nhìn anh và đem lòng thương". Chúa thương vì thấy chàng trai trẻ thành tâm thiện chí. Chúa muốn giúp anh đi xa hơn trên con đường trọn lành, con đường tìm kiếm, con đường đòi hỏi từ bỏ và quảng đại. Chúa chỉ cho anh thấy con đường: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi" (Mc 10, 21). Đây là điều duy nhất, căn bản và cốt yếu để anh được hạnh phúc, được sự sống đời đời.
Thánh Máccô kể chuyện cách dí dỏm: "Nghe lời đó, anh ta sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải" (Mc 10, 22). Niềm vui lịm tắt, người thanh niên buồn bả bỏ đi (Mt 19,20-21). Và từ đó ước mơ của anh héo úa theo dòng đời. Anh muốn hạnh phúc, muốn được sự sống đời đời nhưng lòng gắn bó với của cải vật chất đã chặn bước đường đi tới.
Có lẽ các môn đệ tiếc nuối: sao Thầy không chiêu mộ người thanh niên giàu có này làm môn đệ nhỉ?
Chàng trai trẻ tiếc của bỏ đi. Chúa cũng tiếc thanh niên thiện chí. Chúa "nhìn chung quanh" và nói: "Những kẻ cậy dựa vào của cải, thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao". Theo Chúa Giêsu, người ta không thể thờ hai chủ cùng một lúc. Kẻ có nhiều của cải thì để tâm vào của cải "kho tàng ở đâu thì lòng trí ở đó" (Lc 12,34), cho nên phải chọn: một là Thiên Chúa, hai là tiền tài (x. Lc 16,13). Lời Chúa thật "sắc bén như gươm hai lưỡi". Người giàu thiện chí cần phải cắt những ràng buộc vật chất để vươn cao lên.
Chàng trai trẻ vui mừng và hy vọng đi tìm con đường trọn lành. Phấn khởi gặp Chúa nhưng trở về với nổi buồn.Chàng trai trẻ không muốn trả giá, không muốn mạo hiểm làm môn đệ. Anh ta chỉ muốn giữ của cải đảm bảo cho cuộc sống vật chất. Muốn theo Chúa Giêsu nhưng anh ta vấp phải một chướng ngại, một sức khống chế, đó là lòng gắn bó với của cải. Của cải như tấm kính mờ che lấp ánh sáng khi mà ánh sáng muốn soi vào lòng anh. Người thanh niên này có tất cả để được hạnh phúc nhưng chỉ còn thiếu một điều là khả năng theo Chúa.
Những thanh niên tốt như vậy thời nào cũng có. Người trẻ sùng đạo và khao khát sự sống đời đời. Anh có duyên may gặp được Chúa Giêsu, một bậc thầy có lòng nhân hậu. Nhưng tiếc thay! Anh không đủ can đảm, không đủ quãng đại bác ái để đáp ứng đòi hỏi của Chúa Giêsu là từ bỏ những gì mình có để theo Người.
Chúa đòi hỏi nơi anh điều anh muốn giữ lại vì của cải là chỗ dựa của đời anh. Anh sẵn sàng làm mọi điều Chúa đòi hỏi trừ việc bỏ chỗ dựa này. Nô lệ cho của cải, người thanh niên không đủ can đảm để ra khỏi ràng buộc.
Người giàu có không được cứu độ chẳng phải vì họ giàu, nhưng sự trói chặt của vật chất làm họ nô lệ cho của cải và lãng quên Thiên Chúa. Của cải có thể là cạm bẫy che mất lương tâm, cản trở bước đường đến trọn lành. Người ta thường nói: Người giàu lấy của che thân. Người nghèo lấy thân che của. Đồng tiền liền với khúc ruột. Giàu không phải là tội, nghèo chẳng phải là nhân đức. Điều quan trọng theo tinh thần Phúc âm là thái độ con người trước của cải vật chất. Chúa Giêsu đã nhiều lần ví những người giàu có như ông phú hộ tích trữ thóc lúa ăn chơi thỏa thích. Hay như ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, không để ý đến Lagiarô đói khổ thèm được mấy thứ rơi từ bàn ăn rơi xuống mà vẫn không được (Lc 12, 16-21; 16, 19-26). Thiên Chúa bảo các ông phú hộ đó: "Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng sống ngươi" (Lc 12, 20). Khi các phú hộ ở dưới âm phủ, ngước mắt lên kêu: "Ở đây con bị thiêu đốt khổ lắm", Tổ phụ Abraham đáp lại: "Con ơi, hãy nhớ lại, suốt đời con đã được sướng rồi, bây giờ, phải chịu cực khổ thế là phải rồi" (Lc 16, 23-25).
Con người thường bị giằng co giữa ước mơ bay cao và sự kéo gì của vật chất. Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Con người làm chủ nó và dần dần để nó làm chủ mình. Của cải trở thành lẽ sống mà con người không thể dứt bỏ.Những tiêu chuẩn mà con người hôm nay đang đặt ra để trói buộc nhau như là tiền tài, địa vị, danh vọng; thực tế, nó không thể làm cho con người đạt tới hạnh phúc đích thực.
Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta một tin vui. Có những niềm hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua từng phút giây đang sống. Biêt dừng lại để thưởng thức những niềm vui nhẹ nhàng trong cuộc sống. Gặp một nụ cười, ngắm một bông hoa. Thực thi một cử chỉ yêu thương, một việc làm bác ái. Đọc một cuốn sách hay. Một cuộc trò chuyện thân mật. Một buổi tối đọc kinh chung trong gia đình, trong khu xóm. Dâng một thánh lễ sốt sắng. Dự một giờ chầu sốt mến...Biết bao niềm vui an hòa mang đến hạnh phúc trong cái bình thường của đời thường. Có những người, giàu tiền bạc mà không biết vui cười, lắm của cải mà không biết yêu thương, sang trọng bề ngoài mà không có niềm vui nội tâm, thì cũng chỉ là bất hạnh. Con người không chỉ dừng lại nơi cơm áo gạo tiền. Con người còn có rất nhiều niềm vui tinh thần, biết bao hạnh phúc thiêng liêng.
Chúa Giêsu không chọn những thanh niên "học giỏi, đẹp trai, con nhà giàu". Chúa chọn những thanh niên, những người lao động xem ra chẳng bảnh trai hay học thức, nhưng Chúa cần nơi họ là có "tấm lòng", vì "chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài".
Người trẻ luôn ước mơ, luôn khao khát, luôn tìm kiếm và luôn có đủ nghị lực để vươn tới Chân Thiện Mỹ. Nhân loại sẽ không tìm thấy giải đáp nào thoả đáng hơn ngoài Chúa Giêsu Kitô, Đấng "là Con Đường, là Chân Lý và là Sự Sống" (Ga 14,6). Trong xã hội ngày nay, có biết bao cuộc vui chơi giải trí, có biết bao phong cách hào hoa, có biết bao chủ thuyết hứa hẹn một tương lai tươi sáng... đang lôi cuốn giới trẻ. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận một sự thật là: con người đứng trước một thế giới tương đối, hữu hạn nhưng tâm hồn lại luôn hướng về những giá trị tuyệt đối, vô biên. Đó là một mâu thuẫn lớn nhất trong con người, đặc biệt là nơi giới trẻ. Nếu không có một đời sống tâm linh vững vàng thì người trẻ dễ rơi vào tình trạng chán chường, thất vọng và phản ứng nổi loạn. Ý tưởng đó được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong sứ điệp ngày Quốc Tế Giới Trẻ 1993 xác nhận: "Chỉ có Đấng tạo dựng nên tâm hồn con người mới có thể đáp ứng cách thích đáng những mong chờ mà con người mang trong mình".
Vì thế, cần phải cầu xin cho có được sự hiểu biết để "coi của cải chẳng là gì so với Đức Khôn Ngoan"; "Đức Khôn Ngoan hơn vương trượng, ngai vàng... của cải bằng không. So với Đức Khôn Ngoan, vàng trân châu bảo ngọc chẳng qua là một chút cát, bạc chẳng qua như chút bùn". (Bài đọc 1). Khôn ngoan là sự giàu sang, là sự hiệp thông với ân sủng của Thiên Chúa. Người đời thường quý chuộng tiền bạc và sự giàu có, còn người Công chính coi Đức Khôn Ngoan là điều quý trọng hơn cả. Khôn ngoan quý trọng hơn tiền bạc, ngọc ngà, châu báu. Khôn ngoan quý hơn sức khoẻ và sắc đẹp. Cùng với Đức Khôn ngoan, mọi sự tốt lành đến với người công chính.
Người thanh niên trong Tin mừng hôm nay là người trẻ đàng hoàng và lương thiện, sống một cuộc sống không có gì đáng chê trách, không có tội lỗi gì đáng phàn nàn, không có tật xấu để sửa sai. Anh là hình ảnh người Công chính Cựu ước chu toàn lề luật. Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh và muốn anh tiến thêm một bước nữa để nên người Công Chính Tân Ước: bán gia tài đem bố thí cho người nghèo, sẽ có một kho báu trên trời và hãy theo Người. Đó là điều kiện nên người Công chính Tân ước.
Không ngoại tình, không giết người, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ. Đó mới là điều kiện thứ nhất sống tốt lành về mặt luân lý. Điều kiện thứ hai là tin và theo Chúa Giêsu.
Giá trị của con người không hệ tại ở cái mình có, mà ở tại chính cái mình làm. Tất cả sự khôn ngoan và minh triết được đúc kết nới Chúa Giêsu. Tin vào Chúa Giêsu và sống theo giáo huấn của Người là sự khôn ngoan của người Kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chỉ dẫn con đường hạnh phúc đời đời. Xin cho chúng con trung thành theo đường lối khôn ngoan thánh thiện Chúa dạy, luôn giữ các giới răn, chia sẽ tình thương với tha nhân, tin và bước theo Chúa mỗi ngày. Amen.
8. Được gấp trăm.
('Manna')
Khi đọc bài Tin Mừng trên đây ta nếm được nỗi buồn của Đức Giêsu và của anh nhà giàu. Đức Giêsu buồn vì bị từ chối bởi người mà mình yêu mến. Anh kia buồn vì có sự rạn nứt nơi bản thân. Anh đã phấn khởi gặp Chúa, rồi ra đi đầy muộn phiền.
Thầy Giêsu đòi anh đúng điều anh muốn giữ lại, vì của cải vốn là chỗ dựa của đời anh.
Anh sẵn sàng làm mọi điều Thầy đòi hỏi, trừ việc bỏ chỗ dựa này.
Bây giờ anh thấy rõ hơn mình nô lệ cho điều gì. Tiếc thay anh không có can đảm ra khỏi sự nô lệ này dù anh vẫn khát khao sự sống đời đời.
Bi kịch của anh cũng là của chúng ta.
Ai trong chúng ta cũng từng bị giằng co giữa ước mơ bay cao và sự kéo ghì của vật chất.
Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Tôi làm chủ nó, nhưng sau đó nó lại làm chủ tôi và trở thành thịt xương mà tôi không thể dứt bỏ.
Không chắc người giàu này sẽ bị luận phạt, nhưng chắc chắn anh ta khó hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ đến với người dám sống theo ý Chúa.
Người có của khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!
Vào thời Đức Giêsu, giàu có được coi là một phúc lành. Vậy mà Ngài lại coi đây là một cản trở nguy hiểm.
Của cải dễ làm người ta khép kín trước Thiên Chúa và nỡ tâm chà đạp lên quyền lợi anh em.
Tệ nạn tham nhũng, hối lộ ở Châu Á là một thí dụ về nguy hiểm của tiền bạc.
Đức Giêsu và các môn đệ đã sống nghèo, sống như những người lữ hành, không chỗ cậy dựa, để tín thác vào Cha và dễ dàng đến với anh em.
Theo Đức Giêsu là chấp nhận tay trắng, bấp bênh. Nhưng đừng quên theo Ngài cũng là trở nên giàu có.
Không phải sự giàu có do ích kỷ giữ lại, nhưng là sự giàu có do mở ra trao hiến.
Không phải sự giàu có do tìm kiếm chiếm đoạt, nhưng là sự giàu có đến như một quà tặng biếu không.
Theo Ngài không phải chỉ là bỏ nhà cửa, ruộng vườn, bỏ những người thân yêu, bỏ đến cả mạng sống. Theo Ngài còn là được gấp trăm ngay từ đời này, và nhất là đời sống vĩnh cửu mai hậu.
Khi Phêrô ra khỏi hồ Galilê, với nghề đánh cá, ông được biết những biển khơi mênh mông hơn nhiều. Khi Phêrô bỏ lại cha mẹ, vợ con, ông đứng đầu một cộng đoàn đông đảo là Hội Thánh.
Chắc Têrêxa Hài Đồng không ngờ mình trở nên Thánh Sư.
Chắc Têrêxa Calcutta không ngờ đám táng của mình sẽ có cả triệu người tham dự.
Theo Đức Giêsu, ta sẽ được lại cả những điều đã mất. Cái được quan trọng nhất là được Đức Giêsu (x. Pl 3,8).
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về giá trị của tiền bạc, của cải? Đâu là thái độ cần có trước những cạm bẫy của tiện nghi vật chất đang mời mọc chúng ta?
Theo Chúa trong tư cách là một Kitô hữu đòi hỏi ta phải từ bỏ nhiều. Bạn có thấy mình được lại điều gì không? Bạn có khi nào được gấp trăm so với điều đã mất không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
9. Khôn ngoan
(TGM. Ngô Quang Kiệt)
Câu chuyện chàng thanh niên giàu có tốt lành có một khởi đầu tốt đẹp. Đẹp cho đến nỗi Chúa nhìn và đem lòng yêu thương anh. Nhưng lại có một kết thúc đáng buồn. Anh thanh niên bỏ đi buồn bã vì không thể theo Chúa. Chúa Giêsu cũng buồn vì anh gắn bó với tiền bạc hơn yêu mến Chúa.
Câu chuyện người thanh niên có thể là câu chuyện của mỗi người. Cũng như chàng thanh niên, bình thường ta giữ đạo rất dễ dàng. Sáng đi lễ, chiều đọc kinh, không làm điều gì gian ác, không bất công tham lam của người khác. Nhưng khi gặp mâu thuẫn giữa cuộc sống với việc đạo, phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và những giá trị trần gian, nhiều khi ta nao núng và rất nhiều người đã vì những giá trị trần gian mà bỏ Chúa. Có những người khi còn nghèo túng thì giữ đạo rất tốt. Nhưng khi đứng trước những cám dỗ của tiền của thì vì ham mê tiền của mà sống gian dối, đánh mất lương tâm Công giáo. Có những người khi còn nhỏ thì rất ngoan ngoãn đạo đức, nhưng khi đến tuổi trưởng thành thì vì thú vui mà bỏ quên việc đạo. Nhưng nhất là có những người vốn con nhà đạo gốc rất sốt sắng, nhưng khi gặp cám dỗ về chức quyền thì vì một chút danh vọng, đành bỏ Chúa, bỏ đạo.
Theo suy nghĩ của người đời, những ai tìm được tiền của, đạt được danh vọng, nay lên chức mai lên quyền, là những người tài khéo khôn ngoan. Nhưng đó chỉ là khôn ngoan nhất thời kiểu trần gian. Vì cuộc sống trần gian có hạn. Con người ai cũng phải chết. Chết rồi có ai mang theo được của cải, danh vọng, chức quyền vào thế giới bên kia đâu. Thế mà cuộc sống sau cái chết mới là quan trọng, vì là cuộc sống vĩnh cửu không bao giờ phai tàn.
Chúa muốn ta đừng gắn bó với của cải nhưng phải gắn bó với Chúa, không phải vì Chúa muốn con cái phải khổ sở, hèn hạ. Nhưng vì Chúa muốn cho ta chọn con đường khôn ngoan, để đạt tới hạnh phúc đích thực, vĩnh cửu.
Ta đi đạo để chọn Chúa. Vì chọn Chúa ta phải từ bỏ tất cả những gì ngăn cản ta đến với Chúa. Những cản trở có thể là tiền bạc, danh vọng, chức quyền. Những cản trở cũng có thể là một người mà ta gắn bó, một nơi mà ta không thể dứt bỏ. Những cản trở đó cũng có thể là một lòng tự ái, một sự ghen ghét, bất mãn.
Nếu ta biết bỏ tất cả những gì cản trở để đến với Chúa ta sẽ đạt được chính Chúa. Được Chúa là được tất cả. Vì Chúa là hạnh phúc viên mãn. Được Chúa rồi ta sẽ không còn khao khát gì khác nữa.
Vì thế khi thánh Phêrô hỏi Chúa: Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, chúng con sẽ được gì. Chúa đã trả lời: ai bỏ mọi sự mà theo Chúa, sẽ được gấp trăm và được sự sống vĩnh cửu.
Người khôn ngoan thì phải biết nhìn xa trông rộng. Biết bỏ những mối lợi trước mắt để tìm những giá trị vĩnh cửu.
Như thế yêu mến Chúa là chìa khóa của sự khôn ngoan. Chọn Chúa là chọn giá trị tuyệt đối, vĩnh cửu không gì có thể so sánh được.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Vì Chúa chính là hạnh phúc của con. Amen.
10. Lựa chọn hai kho tàng.
('Niềm Vui Chia Sẻ')
Một bác nông dân người Anh có dịp nghe John Wesley giảng thuyết. John Wesley là một nhà giảng thuyết nổi tiếng: hôm ấy ông giảng về việc sử dụng tiền của. Wesley bắt đầu bài giảng bằng tư tưởng; Phải ra công tích luỹ tối đa, phải dùng hết khả năng tìm cách làm giàu. Bác nông dân gật gù bảo người bạn ngồi bên cạnh: Đúng lắm! Rồi wesley triển khai điểm thứ hai: Phải tiết kiệm tối đa. Ông lên án thói phung phí tiêu xài quá đáng. Bác nông dân xuýt xoa: bài giảng tuyệt vời! Cám ơn Chúa, mình vẫn sống tiết kiệm. Cuối cùng, nhà giảng thuyết đi tới điểm thứ ba: Phải chia sẻ tối đa. Hãy coi hoàn cảnh thiếu thốn của người chung quanh là thuộc trách nhiệm của mình. Nghe đến đây, bác nông dân lắc đầu rồi bỏ nhà thờ đi ra...
Anh chị em thân mến
Chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng hôm nay cũng thế. Anh muốn theo Chúa Giêsu để được sống đời đời. Nhưng khi nghe Chúa Giêsu bảo: "Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo tôi". "Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải". Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng thương tiếc, vì anh ta vốn là một người rất tốt. Anh đã tuân giữ các điều răn của Chúa từ thuở nhỏ. Chúa Giêsu tỏ ra thán phục anh ta, nhưng đồng thời Ngài lại cho anh ta thấy rõ: Kitô Giáo không phải chỉ là việc tuân giữ các điều răn một cách tiêu cực: "Không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không làm hại ai...". Kitô giáo mang tính tích cực hơn nhiều. Chúa Giêsu nói thẳng với anh chàng giàu có: anh chưa bao giờ làm gì gây thiệt hại cho ai, vì anh có nhiều tiền của, có vợ đẹp con khôn, đâu cần phải đi ăn trộm, ăn cướp hay ngoại tình... nhưng anh đã làm gì để giúp đỡ ai chưa? Anh đã dùng tiền của để cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho người trần trụi ăn mặc, cho kẻ vô gia cư có nơi trú ngụ chưa? Chính khi nghe điều này, anh chàng giàu có kia đã nhận ra mình vẫn còn nhiều khiếm khuyết biết bao. Vì vậy, Chúa Giêsu mới thách thức anh: Nếu muốn theo Tôi, anh hãy thay đổi cách nhìn đi. Đừng chỉ nhắm đến sự tốt lành một cách tiêu cực, chẳng hạn như không gây thiệt hại cho ai. Anh hãy nhắm sống tốt lành một cách tích cực hơn, chẳng hạn như giúp đỡ những người nghèo đói. Cứ thực hành điều này, anh sẽ tìm thấy hạnh phúc ngay trong cuộc sống này và cả trong cuộc sống mai sau. Thách đố Chúa Giêsu đặt ra cho chàng thanh niên giàu có có thể tóm lược như sau: Anh có dám chấp nhận mọi thiệt thòi để đạt được cuộc sống vĩnh cửu mà anh mong muốn không? Anh có quan niệm bước theo Tôi là bị thiệt thòi không? Nghĩa là anh có sẵn sàng hy sinh của cải của anh để được sống đời đời không? Anh chàng giàu có trả lời: Thưa Thầy, tôi cũng muốn theo Thầy lắm, nhưng tôi không muốn chấp nhận sự thiệt thòi kia! Thế là chàng thanh niên giàu có đành từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu. Việc sử dụng của cải ngoài mục đích lo riêng cho bản thân và gia đình xem ra là một hy sinh quá lớn đối với anh.
Nhiều người trong chúng ta có lẽ cũng giống như chàng thanh niên giàu có kia. Chúng ta biết rõ mình có thể trở thành một Kitô hữu tốt hơn, nhưng chúng ta vẫn thiếu nhiệt tình để sống tích cực Tin Mừng của Chúa. Chúng ta đã tuân giữ các điều răn, nhưng chúng ta vẫn chưa đủ quảng đại đối với những người túng thiếu, trần trụi, đói khát. Vì việc đó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ, phải can đảm và phải khôn ngoan sáng suốt để nhận ra rằng sự hy sinh đó là cần thiết để đem lại bình an và niềm vui trong tâm hồn. Và để có thể hy sinh và chấp nhận những thiệt thòi đau khổ đó, điều hết sức quan trọng là phải có một động lực mạnh để thúc đẩy ta, và động lực đó chính là tình yêu: yêu Chúa và yêu người. Tình yêu đó sẽ thúc đẩy chúng ta làm nhiều hơn những đòi hỏi tiêu cực của các điều răn: không hại người, không gian dối, không trộm cắp... Một thanh niên yêu một thiếu nữ sẽ không chỉ hài lòng với việc không làm hại nàng, không nói dối, không xúc phạm đến nàng. Tình yêu khiến anh phải làm tích cực hơn như thế rất nhiều, vì nếu không làm hơn được như thế, chắc chắn đó không phải là tình yêu. Cũng vậy, nếu chúng ta chỉ hài lòng với những điều răn Chúa dạy, chúng ta chỉ là người "quen biết" Chúa chứ chưa phải là người yêu Chúa. Nếu chúng ta không muốn làm điều gì tích cực hơn nữa, chính là vì chúng ta thiếu tình yêu. Chúng ta chưa yêu Chúa và chưa yêu tha nhân.
Rất nhiều người trong chúng ta có tâm trạng hài lòng vì đã được biết Chúa, tự mãn vì mình đã giữ các điều răn của Ngài từ thuở nhỏ, giống như chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng. Đó là một điều rất đáng khen, vì Thiên Chúa cũng rất hài lòng vì chúng ta đã sống được như vậy. Chính Chúa Giêsu cũng đã nhìn chàng thanh niên đó một cách thiện cảm và đem lòng yêu thương. Nhưng qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn kêu mời chúng ta đi xa hơn một bước nữa, đó là sẵn sàng hy sinh nhiều hơn nữa cho Chúa và cho anh em. Đang khi bên cạnh chúng ta còn biết bao nhiêu người nghèo khổ túng thiếu, cần đến sự giúp đỡ cụ thể của chúng ta. Chúng ta không thể nói mình yêu Chúa mà lại làm ngơ hay phớt lờ những nhu cầu của họ. Tình yêu thúc đẩy chúng ta phải làm một cái gì cụ thể để thoả mãn phần nào những nhu cầu thiết yếu của anh em. Và chúng ta cũng cần có con mắt nhận xét và tâm hồn nhạy bén để nhận ra những nhu cầu ấy nơi những người sống gần mình nhất.
Chàng thanh niên nghe Chúa Giêsu nói phải phân phát tiền của cho người nghèo, anh đã buồn rầu bỏ đi, vì anh quá thiết tha với tiền của. Từ đó Chúa Giêsu đưa ra nhận định: "Người giàu có khó vào được Nước Trời". "Khó vào" chứ không phải là không vào được, nếu không biết chia sẻ, giúp đỡ những người túng thiếu, nghèo đói, để được một kho tàng trên trời. Dĩ nhiên, tiền của cần cho cuộc sống, nhưng tiền của dễ làm cho con người trở nên mù quáng và ích kỷ. "Tiền của là đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu". Tiền của là đầy tớ đắc lực cho mọi người, nhưng khi chúng ta coi tiền của như một ông chủ, thì lúc đó nó sẽ trở thành ông vua thống trị với những luật lệ ác nghiệt của nó, nó hành hạ, sai khiến chúng ta như tên nô lệ. Vì thế, Chúa đã nói: "Không ai vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của" (Lc 16,13). Phải lựa chọn một.
Chúa Giêsu đã tỏ ra tuyệt đối trong đòi hỏi của Ngài: "Ai trong anh em không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Thầy" (Lc 14,33). Từ bỏ của cải không nhất thiết là từ bỏ quyền sở hữu. Từ bỏ đây, đối với đa số Kitô hữu là có của mà lòng không tham lam, không nô lệ cho tiền của. Có của mà biết dùng của để mua sắm kho tàng không bao giờ hư nát trên trời. Có của mà biết quan tâm đến nhu cầu của người khác, coi hoàn cảnh thiếu thốn của người chung quanh là thộc trách nhiệm của mình. Đó phải là cách sống của tất cả những ai muốn thực sự là môn đệ của Chúa Kitô.
11. Sự chọn lựa khôn ngoan
(Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Một đám cưới sang trọng tiêu tốn hết ba triệu rưỡi đô la để chỉ tồn tại không quá 15 năm là đám cưới của công nương Diana và hoàng tử Charles. Một chiếc nhẫn trị giá đến 205 ngàn đô la để chỉ ngự trị trên bàn tay quí phái của Diana không quá năm tiếng đồng hồ là chiếc nhẫn mà nhà triệu phú Dodi Fayer đã tặng cho công nương trong đêm định mệnh. Tai nạn bất ngờ sảy ra. Diana đi về thế giới bên kia. Không mang theo được đồng đô la nào. Chiếc nhẫn kim cương đắt giá cũng được tháo ra trao lại cho gia đình Spencer.
Nằm trong quan tài, Diana với đôi tay không nhẫn cưới và cũng chẳng có nhẫn kim cương. Điều kỳ lạ là trên đôi tay ấy người ta có thấy một cỗ tràng hạt do Mẹ Têrêsa trao tặng trong một lần tiếp xúc. Phải chăng:
Kiếp ngắn dài, một mộ bia
Xoay vần cát bụi ngày lìa dương gian
Dừng chân đếm túi hành trang
Những gì còn lại, chuỗi vàng lời kinh?
(Lm. Trần Cao Tường)
Phải chăng những người có trách nhiệm sau cùng trên thi hài của công nương đã muốn nói với mọi người: tiền bạc, kim cương, danh dự, vật chất, sang giàu, thế gian... không phải là hành trang cho một cuộc sống hạnh phúc đời đời, nhưng là những mầm sống yêu thương và những giá trị thiêng liêng mà Mẹ Têrêsa, qua bộ tràng hạt, đã trao lại cho Diana và thế giới như một lời nhắn nhủ?
Hạnh phúc sung mãn và trường tồn không thể tìm thấy trong sự sang giàu của thế gian. Thánh kinh đã khẳng định điều đó. Cả ba Phúc âm Nhất lãm đều ghi nhận: một ngày kia khi Chúa Giêsu đang trên đường đi về Giêrusalem để bước vào cuộc khổ nạn hầu mang lại ơn cứu độ và hạnh phúc cho muôn người, thì một chàng thanh niên giàu có "chạy" đến. Anh ta quì xuống trước mặt Đức Giêsu và thưa: "Lạy thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời làm cơ nghiệp." Chắc hẳn câu hỏi của anh thanh niên đã làm bối rối và sửng sốt cho không ít người: cứ tưởng "có tiền mua tiên cũng được," đàng này trong con người còn có một thứ mắc hơn tiên đến nỗi có tiền chưa chắc đã mua được. Đấy chính là một khát vọng vô biên.
Vì là khát vọng vô biên nên chắc chắn không một thực tại hữu biên nào trên thế gian này có thể lấp đầy. Dù đó là xác thịt, kiến thức, giàu sang hay bất cứ thứ gì... ngoại trừ Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa, Đấng Vô Biên, mới có thể thoả mãn cái khát vọng vô biên nơi lòng con người. Chính Thánh Augustinô, sau khi trải qua biết bao kinh nghiệm tìm kiếm đối tượng cho khát vọng vô biên nơi lòng mình, đã thốt lên:
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi
Hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.
Trước những trăn trở không câu trả lời, người thanh niên giàu có thấy được Đức Giêsu như một cứu cánh. Anh đã "chạy" đến với Ngài. Chạy là thái độ của khao khát, nôn nóng kiếm tìm chân lý, trái nghịch với thái độ thẫn thờ, bàng quang, chẳng thiết tha.
Trước tâm tình và ước nguyện của chàng thanh niên, Đức Giêsu đã làm một cuộc phỏng vấn liên quan đến các giới răn: ngươi không được giết người, không được ngoại tình, không được trộm cắp, không làm chứng gian, không.... Và người đó đáp lại: "Thưa Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở còn thơ." Nghe thế Đức Giêsu bảo anh ta: "Ngươi còn thiếu một điều. Có gì thì hãy đem bán mà cho kẻ nghèo. Đoạn hãy đến theo Ta" (Mc 10:21).
Thật kỳ lạ! Sống không giết người, không trộm cắp, không ngoại tình, không bất công, không gian dối, ấy thế mà Chúa Giêsu còn bảo là chưa đủ. Chàng thanh niên giữ các giới răn khá là trọn vẹn mà còn bị cho là thiếu. Không biết đời tôi từng phạm điều này, lỗi nghịch điều kia, chắc là còn thiếu nhiều lắm!
Thế nên không thể cho rằng tôi sống đàng hoàng, không phạm 10 điều răn Đức Chúa Trời, chẳng để sót sáu điều răn Hội Thánh, tôi không làm hại ai, không gây tổn thương cho người nào là bảo đảm vào thiên đàng 100% rồi đâu. Nếu chỉ không điều này, không điều kia mà đủ tiêu chuẩn để sống hạnh phúc đời đời thì cần gì theo Chúa. Theo vô vi cũng được vậy. Song người ta cần phải có. Đó là có yêu thương, có quảng đại, có trao ban, có thứ tha, có cho đi chính mình như Đức Giêsu.
"Hãy đến mà theo Ta" cũng có nghĩa là bước theo Ngài trên nẻo đường dâng hiến đời mình cho sự sống tha nhân. Và chỉ khi trao ban dâng hiến như thế con người mới tìm thấy ý nghĩa và hạnh phúc thật sự cho cuộc đời.
Nong nả đi tìm câu trả lời cho đâu là ý nghĩa của cuộc sống, ấy thế mà khi nhận được lời giải đáp, chàng thanh niên lại sa sầm nét mặt, bỏ đi buồn rầu. Thánh kinh cho biết "vì anh ta có nhiều của" (Mc 10:22).
Bước theo Đức Giêsu đòi hỏi một thái độ vươn mình trên những gì là của cải vật chất. Bởi vì "không ai có thể làm tôi hai chủ: hoặc nó sẽ ghét người này mà mến người kia, hoặc tha thiết với chủ này mà khinh màng chủ nọ. Các ngươi không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền của được." Ấy thế mà, nếu thành tâm xét lại, thì hình như trong đời tôi vẫn còn đó những khoảnh khắc vừa mang danh Kitô hữu lại vừa xem tiền bạc như lẽ sống. Phải chăng vừa theo Chúa, tôi vừa tự biến mình làm "con vật kinh tế," thậm chí có khi còn giành giật, lừa gạt, chà đạp, sát phạt kẻ khác... vì đồng tiền.
Bao lâu chỉ biết thu về mà không hề trao ban, người ta sẽ cứ mãi "sầm mặt xuống, buồn rầu." Khi nào biết san sẻ cho kẻ nghèo khó, người ta sẽ lớn lên trong tình yêu và tiếng cười. Đã có một thời nhà tỉ phú George Soros than thở: "Tôi không biết mình đang giàu hay đang nghèo; đang làm chủ số phận hay nô lệ cho thành công. Bởi vì để thành công tôi phải làm việc như một con chó. Để giàu có tôi phải chịu cảnh bất an liên tục." Nhưng rồi sau những công việc từ thiện bác ái, George đã tươi cười chia sẻ: "Chỉ từ khi biết yêu thương, đời tôi mới bắt đầu nếm được mùi hạnh phúc và sung túc thật sự."
Cha Albert Marie thuộc dòng khổ tu Soligay ở Bỉ cũng có một kinh nghiệm tương tự. Trước khi vào dòng, ngài từng là một chính khách triệu phú với danh xưng Van Cruyssen. Trong đại chiến thế giới, ngài là một sĩ quan mang cấp bậc đại úy, với sáu huy chương và đệ nhất Bắc đẩu Bội tinh chói ngời trên ngực áo. Nhưng giờ đây những huy chương và bội tinh ấy lại được đặt trước bàn thờ kính Trái Tim Chúa Giêsu trong tu viện.
Trong dịp ngài tuyên khấn, có rất nhiều vị dân biểu, chủ tịch và phó chủ tịch thượng viện, cũng như chủ tịch hiệp hội giới trẻ Công giáo Bỉ quốc đến tham dự. Sau lễ nghi, vị tân khấn đã chia sẽ tâm tình với những người hiện diện: "Cha Albert Marie sung sướng và hạnh phúc hơn nhà triệu phú Van Cruyssen nhiều."
Yêu thương và san sẻ cuộc đời cho kẻ khó nghèo chính là điều kiện tất yếu mà những ai muốn trở thành môn đệ chân chính của Đức Kitô đều phải thực thi. Yêu thương san sẻ không hệ tại nơi tiền bạc của cải, song là ở tất cả những gì mình có. Đức Giêsu đã bảo: "Hãy đi bán tất cả những gì ngươi có mà cho kẻ nghèo." Người nghèo là người túng thiếu-không chỉ thiếu về của cải, nhưng còn có thể thiếu về giáo lý, kiến thức, sức lực, cảm thông, tha thứ, tiếng ca, nụ cười....
Vậy nếu trong gia đình, nơi giáo xứ, cộng đoàn, hay tại sở làm của tôi vẫn còn những người thiếu thốn như thế, liệu tôi có can đảm đáp trả lời mời gọi của Đức Kitô-"Hãy cho, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời"-hay tôi sẽ cúi mặt, bỏ đi, buồn rầu.
Chọn lựa bước theo Đức Kitô là một chọn lựa quyết liệt và rướm máu. Nhưng đó lại chính là một lựa chọn khôn ngoan và đáng giá vô cùng.
12. Giàu: tốt hay xấu
(Gm. Arthur Tonne)
Ngày 6 tháng 6 năm 1976. Một người giàu nhất xưa nay đã qua đời, thọ 83 tuổi; ông I. Paul Getty để lại từ khoảng 2 đến 7 tỷ đôla. Sau năm lần ly dị, mấy năm trước đây ông tuyên bố với một người phỏng vấn: "Tôi mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một hôn nhân hạnh phúc. Tôi sợ thất bại. Tôi sợ không thể tạo được hạnh phúc hôn nhân". Có lần một phóng viên làm ông phải thú nhận là ông đã không đạt được hạnh phúc gia đình. Suy nghĩ vài giây, ông trả lời: "Vâng, thật đáng buồn". Một lần khác ông xác nhận: Tiền bạc không thể mua hạnh phúc, hơn nữa ông còn tin rằng tiền bạc có bà con với bất hạnh nữa.
Chúng ta nhớ đến nhà tỷ phú này khi đọc câu chuyện người thanh niên giàu có trong bài Tin Mừng hôm nay. Người thanh niên giàu có này sống đời luân lý tốt đẹp, nhưng anh cảm thấy thiếu một cái gì. Chúa Giêsu đã nói cho anh điều anh thiếu: "Bạn về và bán những gì bạn có. Giúp người nghèo và bạn sẽ có một kho tàng ở trên trời. Rồi đến theo tôi". Chàng thanh niên bỏ đi, vì anh giàu có.
Điều này áp dụng cho bạn và tôi làm sao? Trước khi trả lời, chúng ta lưu ý hai sự kiện: Một là từng người một trong chúng ta, không kể giàu nghèo. Chúng ta phải làm điều Chúa Giêsu đòi hỏi người thanh niên: Chúng ta sẽ phải từ bỏ mọi sự chúng ta có – Cái chết.
Hai là có hàng ngàn người nam, nữ trong suốt dòng lịch sử và trong thời đại chúng ta, tình nguyện bỏ mọi sự để làm linh mục, làm tu sĩ nam nữ. Cả một số giáo dân cũng làm như vậy để phụng sự Chúa tự do hơn.
Chúa Giêsu có truyền tất cả chúng ta phải bỏ mọi sự mình có không? Người có mong tất cả chúng ta là tu sĩ không?
Không, hoàn toàn không. Nhưng người truyền chúng ta biết dùng của cải một cách nào đó để đừng quên Cha trên trời, Đấng ban cho chúng ta những cái đó.
Có phải tiện tặn là là sai? Phải chung góp vốn là sai? Để dành tiền phòng khi già yếu? Hay xây dựng gia đình là sai? Không, hoàn toàn không. Cái sai của sự giàu có là tôn thờ, phục vụ và tin tưởng vào đồng đôla vạn năng thay thế cho Thiên Chúa quyền phép.
Khi các Tông đồ hỏi Chúa: "Vậy ai có thể được cứu rỗi?". Chúa tuyên bố: "Với người ta thì không thể được, nhưng không phải với Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa làm được mọi sự".
Như thế người giàu cũng có thể được cứu rỗi, nhưng phải nhờ ơn Chúa giúp. Tôi đề nghị chúng ta hãy xin Cha trên trời giúp chúng ta sử dụng của cải đúng cách, giúp chúng ta ý thức rằng của cải vật chất cũng là hồng ân và ơn huệ của Chúa. Tôi xin được phép giới thiệu một lời kinh:
"Lạy Cha trên trời, con cảm tạ Cha vì gia đình con đầy đủ và và quá đầy đủ nữa, xin giúp con biết sử dụng của cải theo ý Chúa. Xin giúp con biết chia sẻ cho những người ít hơn hoặc không có. Xin giúp con tiếp tay trong công cuộc của Chúa trên trần gian. Xin giúp con tin tưởng nơi Chúa chứ không phải nơi tiền bạc. Xin giúp con sống rộng rãi với mọi người như Chúa hằng quảng đại với con".
Bạn đọc kinh này khi dâng bánh và rượu trong Thánh Lễ.
Xin Chúa chúc lành bạn.
13. Người giàu khóa mà vào nước Thiên Chúa
(Noel Quesson)
Một bác nông dân người Anh có dịp nghe Dôn Oets-lây (John Wesley) giảng. Oets-lây là một nhà giảng thuyết nổi tiếng. Hôm đó ông giảng về việc sử dụng tiền của.
Oets-lây bắt đầu bài giảng bằng tư tưởng, phải ra công tích lũy tối đa, phải dùng hết khả năng tìm cách làm giàu. Bác nông dân gật gù bảo người bạn ngồi bên cạnh: Hay lắm.
Rồi Oets-lây khai triển điểm thứ hai: phải tiết kiệm tối đa. Ông lên án thói phung phí xa xỉ, tiêu xài quá đáng. Bác nông dân suýt xoa: Bài giảng tuyệt vời. Cám ơn Chúa, mình vẫn sống tiết kiệm.
Cuối cùng nhà giảng thuyết đi tới điểm thứ ba: Hãy chia sẻ tối đa. Phải quan niệm sự thiếu thốn của người chung quanh là thuộc trách nhiệm của mình. Nghe thế, bác nông dân lắc đầu bỏ nhà thờ đi ra.
Người thanh niên mà Tin Mừng kể hôm nay, anh cũng có nhiều đức tính, vốn thi hành luật Chúa từ nhỏ, nhưng khi nói tới tiền của, phải hy sinh tiền của cho người khác thì anh không chấp nhận.
Khi người thanh niên hỏi Chúa: Phải làm gì để được sống đời đời. Chúa đã kể ra những việc phải làm. Chúa chỉ kể ra những việc mà Chúa cho là quan trọng: đừng giết người, đừng ngoại tình, đừng trộm cướp, đừng làm chứng gian, đừng lừa dối ai, hãy thảo kính cha mẹ. Nói tới điều quan trọng nhất trong việc giữ đạo, ta thường nghĩ tới việc thờ phượng, đọc kinh xem lễ. Nhưng trong cách diễn tả của Chúa Giêsu thì quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người, mà hai điều đó giống nhau (Mt 22,39). Hay đúng hơn phải bắt đầu bằng biểu lộ bác ái yêu thương với anh chị em đồng loại, vì chính đó là dấu hiệu của lòng mến Chúa.
Nhưng những việc luật đòi giữ đây mới là phần tiêu cực, và Chúa Giêsu chưa cho thế là đủ. Chúa đòi ta chia sẻ với anh chị em những gì mà ta quý trọng nhất, những gì tha thiết nhất với chúng ta. Chúa bảo ta yêu thương nhau như Chúa đã yêu, và chúng ta biết Chúa yêu thương cho tới cùng, cho tới hiến cả mạng sống mình. Chúng ta phải sẵn sàng chia sẻ những gì thiết thực nhất, trong đó có tiền của và có thể coi tiền của là một thước đo mức độ bác ái của ta với anh em.
Anh thanh niên nghe Chúa nói phải phân phát tiền của cho người nghèo, anh đã buồn rầu bỏ đi, có nghĩa là anh quá thiết tha với tiền của. Và từ đó Chúa đưa ra nhận định: Người giàu khó vào Nước Thiên Chúa. Tiền của cần cho cuộc sống. Tiền của là đầy tớ đắc lực cho mọi người. Những ý niệm này rất đúng, và Chúa Giêsu hoàn toàn tán đồng. Nhưng khi chúng ta coi tiền như một ông chủ, thì lúc đó nó sẽ là một ông chủ khắc nghiệt, nó hành hạ, sai khiến chúng ta. Và khi đó Chúa không chấp nhận, "Không ai vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của" (Lc 16,13), phải chọn một.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết quan tâm đến những người anh chị em nghèo khó, sẵn sàng chia sẻ cho họ những gì chúng con có, để chúng con xứng đáng làm môn đệ Chúa và được thừa hưởng sự sống muôn đời.
14. Giàu.
Ngày 06.6.1976, một nhà tỷ phú, giàu có và hạnh phúc nhất trên thế giới, là ông Paul Getty, đã qua đời, để lại một gia sản từ hai đến bốn tỷ đôla. Sau năm lần ly dị, ông đã tuyên bố với một phóng viên báo chí: Tôi mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi sợ thất bại. Tôi lo không thể tạo được hạnh phúc hôn nhân. Có lần ông cũng đã thú nhận rằng mình đã không đạt được hạnh phúc trong gia đình. Và ông đã kết luận: Tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Trái lại, nó còn có họ hàng bà con với những nỗi bất hạnh nữa.
Từ hình ảnh nhà tỷ phú Paul Getty chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Chàng thanh niên giàu có, sống một đời sống luân lý tốt đẹp, nhưng chàng vẫn cảm thấy còn thiếu vắng một cái gì đó. Và rồi Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho chàng biết điều thiếu vắng ấy: Ngươi hãy về, bán tất cả những gì ngươi có, làm phúc bố thí cho kẻ nghèo túng, rồi hãy đến và theo Ta. Thế nhưng chàng thanh niên đã buồn bã, cúi mặt bỏ đi vì chàng là một người giàu có.
Câu chuyện về chàng thanh niên giàu có sẽ đem lại cho chúng ta những kết luận cụ thể nào? Trước khi trả lời, chúng ta hãy lưu ý tới hai sự kiện:
Sự kiện thứ nhất, đó là từng người một, bất luận giàu sang hay nghèo túng, chúng ta đều phải thực hiện điều Chúa Giêsu đòi hỏi, là từ bỏ mọi sự chúng ta đang có, nhất là khi chúng ta phải đối đầu với cái chết. Thực vậy, khi thần chết đã lên tiếng gọi, thì chúng ta không thể mang theo bất cứ tiền bạc của cải vật chất nào sang thế giới bên kia, vì đó là một chuyến đi, một cuộc hành trình cô đơn nhất.
Sự kiện thứ hai, đó là trong dòng thời gian, có biết bao nhiêu người, nam cũng như nữ, đã từ bỏ mọi sự để dâng hiến trọn vẹn cho Chúa, sống trong những dòng tu cũng như sống giữa lòng cuộc đời, để nhờ đó được tự do phụng sự Chúa.
Vậy Chúa Giêsu có truyền cho tất cả chúng ta phải từ bỏ mọi sự mình có và Ngài có mong cho tất cả chúng ta đều trở thành linh mục, tu sĩ hay không? Dĩ nhiên là không, hoàn toàn không. Thế nhưng Ngài truyền cho chúng ta phải biết dùng của cải một cách nào đó, để sinh ích cho linh hồn chúng ta, cũng như đừng bao giờ quên rằng Thiên Chúa, là Cha trên trời, Đấng đã ban cho chúng ta tất cả những cái đó.
Ngoài ra sự tiết kiệm, góp vốn, phòng xa có phải là điều sai quấy hay không? Dĩ nhiên là không, hoàn toàn không. Cái sai quấy của sự giàu có là tôn thờ tiền bạc, phục vụ tiền bạc, tin tưởng vào tiền bạc như một đấng vạn năng thay cho Thiên Chúa.
Trước những khó khăn là như thế, các tông đồ đã hỏi Chúa Giêsu: Vậy thì ai có thể được cứu rỗi? Chúa Giêsu đã tuyên bố: Đối với người ta thì không thể được, nhưng không phải là đối với Thiên Chúa vì Ngài làm được mọi sự. Như thế người giàu cũng có thể được cứu rỗi nhưng phải cậy nhờ vào ơn Chúa giúp.
Bởi đó, hãy biết tìm kiếm tiền bạc một cách công bằng và hãy biết xử dụng tiền bạc một cách chính đáng, vì của cải vật chất cũng là một thứ hồng ân của Thiên Chúa. Cái khó là đừng để cõi lòng mình quá quyến luyến, quá dính bén, quá đam mê chạy theo tiền bạc, để rồi bỏ quên Chúa và bóc lột những người anh em của chúng ta.
15. Làm nhiều hơn.
Có một thanh niên làm nghề bán sách rong. Ngày kia anh vào nhà một bác nông dân và giới thiệu:
- Thưa bác, cháu có bán một cuốn sách chỉ cách canh tác sinh lợi gấp mười cách bác đang làm.
Bác nông dân yên lặng, bắn một điếu thuốc lào rồi nói:
- Này anh bạn, chẳng cần sách của anh, nhưng tôi cũng đã biết phải làm thế nào để canh tác sinh lợi gấp mười lần cách thức hiện nay tôi đang làm.
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu rõ hơn đoạn Tin Mừng hôm nay. Thực vậy, bác nông dân biết cách canh tác tốt hơn nhưng bác lại thiếu nhiệt tình để cố gắng làm điều ấy.
Cũng như chàng thanh niên giàu có, dư sức làm nhiều hơn việc tuân giữ các giới luật, nhưng anh ta đã không đủ nhiệt tình để thực hiện những yêu cầu của Chúa. Sau khi anh ta cho biết mình đã tuân giữ các giới luật từ thuở nhỏ, Chúa Giêsu đã tỏ ra thán phục, nhưng đồng thời Ngài lại cho anh ta thấy rõ: Kitô giáo không chỉ là việc tuân thủ các huấn lệnh tiêu cực ấy như đừng trộm cắp, lừa đảo... nhưng phải mang tính cách tích cực hơn nhiều. Và Ngài đã nói với anh ta:
- Con chưa hề gây thương tổn cho ai, điều đó quả là đáng khen. Nhưng con đã làm gì để giúp đỡ người khác. Con đã biết dùng của cải để cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống và người trần trụi được mặc?
Chính khi nghe những điều ấy, anh ta đã nhận ra mình vẫn còn nhiều khuyết điểm.
Rồi Chúa đề nghị cùng anh:
- Nếu muốn theo Ta, con hãy thay đổi cách nhìn. Đừng chỉ nhắm đến sự tốt lành một cách tiêu cực, nhưng phải nhắm sống tốt lành một cách tích cực hơn, chẳng hạn như giúp đỡ người khác. Vì thế, hãy bán mọi sản nghiệp, bố thí cho người khác, rồi hảy đến và theo Ta. Cứ thực hành điều như vậy, thì con sẽ tìm thấy hạnh phúc đời này và đời sau.
Thế nhưng, anh ta đã không có đủ can đảm để chấp nhận những thiệt thòi trên con đường bước theo Chúa, trên con đường trở nên trọn lành. Và anh ta đã buồn sầu cúi mặt bỏ đi.
Nhiều người trong chúng ta cũng giống như bác nông dân. Chúng ta biết rõ mình có thể trở thành một Kitô hữu tốt lành gấp mười lần tình trạng hiện nay, nhưng chúng ta lại thiếu nhiệt tình để làm điều ấy.
Cũng giống như chàng thanh niên giàu có. Chúng ta đã tuân giữ những giới luật của Chúa, nhưng lại chưa tỏ ra rộng lượng đối với những kẻ túng thiếu, khổ đau và bất hạnh. Bởi vì công việc đó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, phải chấp nhận những thiệt thòi. Và cốt lõi của vấn đề, đó là vì chúng ta còn thiếu tình yêu đối với Chúa và đối với anh em.
Đúng thế, tình yêu sẽ thúc đẩy chúng ta làm nhiều hơn những đòi hỏi tiêu cực của lề luật: không gian dối, không trộm cắp... Một thanh niên yêu một thiếu nữ, sẽ không chỉ hài lòng với việc không làm hại cô ấy, không xúc phạm đến cô ấy, nhưng hơn thế nữa, tình yêu thúc đẩy anh phải làm cho cô ấy được hài lòng, được vui mừng, được hạnh phúc. Bằng không thì đó chưa phải là tình yêu đích thực.
Cũng vậy, nếu chúng ta chỉ hài lòng với những giới luật Chúa dạy, thì chúng ta mới chỉ là những người "quen biết" với Chúa, chứ chưa phải là người yêu Chúa.
Nếu chúng ta không muốn làm những điều tích cực hơn nữa, thì đó chính là vì chúng ta thiếu tình yêu. Chúng ta chưa thực sự yêu Chúa cũng như chưa thương người.
16. Tiền của.
Một bác nông dân người Anh đang ngồi nghe một nhà giảng thuyết tài ba tên là Dôn Oét-lây (John Wesley) rao giảng Tin Mừng. Hôm đó, nhà giảng thuyết đề cập đến vấn đề tiền bạc của cải, đầu tiên, nhà giảng thuyết nói đến việc "phải ra công tích lũy tiền bạc tối đa, phải dùng hết khả năng để kiếm tiền và làm giàu". Bác nông dân gật đầu và nói nhỏ vào tai ông bạn thân đang ngồi bên cạnh: "Thật là một tư tưởng hay". Rồi nhà giảng thuyết khai triển điểm thứ hai của bài giảng: "Phải tiết kiệm tối đa, ông lên án những thói ăn chơi xa xỉ, quăng tiền qua cửa sổ". Bác nông dân một lần nữa lại xuýt xoa: "Bài giảng thật là tuyệt vời, cám ơn Chúa, từ trước đến giờ ta vẫn luôn làm như ta vẫn luôn làm như lời ông ta nói là tiết kiệm". Cuối cùng, nhà giảng thuyết đề cập đến điểm then chốt của bài giảng: "Hãy đem những của cải đã thu gom được chia sẻ cho những Đức Kitô hiện thân nơi những người nghèo chung quanh, vì của cải vật chất là của Thiên Chúa ban chung cho nhân loại, chúng ta chỉ là những người quản lý. Do đó, chúng ta phải tích cực làm việc bác ái xã hội, phải dạy người nghèo một nghề để tự kiếm sống, phải tạo ra nhiều việc làm, đừng để xảy ra tình trạng người thì ăn sung mặc sướng, trong khi nhiều người khác lại bị đói khát, bất hạnh...". Nghe vậy, bác nông dân sụ nét mặt lại, lắc đầu tỏ ý không bằng lòng và bỏ ra về, ông vừa đi vừa lẩm bẩm: "Cái lão thầy tu này giảng không thực tế chút nào, tại sao lại phải đem tiền của kiếm được do công lao mồ hôi nước mắt của mình mà chia sẻ cho kẻ khác?"
Bác nông dân trên đây đã phản ứng trước đòi hỏi của Tin Mừng về vấn đề tiền của rất giống với chàng thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay. Anh thành tâm thiện chí xin Chúa Giêsu một lời khuyên để đạt sự sống đời đời. Có lẽ ít có thanh niên nào lại bận tâm đến cuộc sống đời đời như anh thanh niên này, vì thường họ chỉ nghĩ sống cho hiện tại. Chúa âu yếm nhìn anh và nói: "Hãy giữ các điều răn", đó là phương thế rất phổ thông và truyền thống trong đạo Do Thái. Có thể nói anh rất hài lòng về câu trả lời của Chúa, và hãnh diện vì mình đã tuân giữ các điều răn ngay từ nhỏ. Vậy tại sao anh còn tìm kiếm thêm? vì đó chỉ là mức tối thiểu đối với đa số người Do Thái. Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi anh bước thêm bước nữa: "Bán của cải và chia sẻ cho người nghèo để theo Ngài". Nhưng anh đã chùn bước.
Giả như Chúa Giêsu bảo anh giữ thêm một điều răn nữa, dù có khắt khe hơn, chắc anh sẵn sàng nhận ngay, nhưng Chúa lại mời gọi anh chia sẻ cái anh có cho người nghèo, nên anh khó chấp nhận và buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều của cải. Quả thật, giữ thì không khó khăn lắm, nhưng cho thì không dễ dàng gì. Người ta có thể dễ dàng theo Chúa khi họ không phải từ bỏ của cải mình có, nhưng khi đòi phải từ bỏ những đồng tiền thì họ không dứt được, vì "đồng tiền liền khúc ruột". Con đường giữ đạo và con đường hoàn hảo còn cách xa nhau lắm, vì con đường hoàn hảo là con đường từ bỏ, kể cả mạng sống mình. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đảo lộn mọi dự đoán của chàng thanh niên ấy: vấn đề không phải là làm việc gì hay giữ điều gì, nhưng là từ bỏ những cái thân thiết, gần gũi, quý giá để thong dong và dễ dàng đón nhận Chúa là nguồn gốc và đích điểm của cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu.
Chúng ta thấy bác nông dân trong câu chuyện trên và anh thanh niên trong bài Tin Mừng, cả hai đều có thiện chí muốn nên tốt hơn nên đã đi tìm và hỏi ý kiến Chúa Giêsu, cả hai đều hài lòng về những điều mình đã làm là tuân giữ các điều răn. Nhưng khi Chúa đòi phải từ bỏ bằng việc bán gia sản mà chia sẻ cho những người nghèo khổ, thì cả hai đều sụ nét mặt và buồn rầu thất vọng bỏ đi.
Liền sau đó Chúa đề cập đến vấn đề tiền của và sự giàu có: Đối với phần đông chúng ta, Chúa không đòi chúng ta phải từ bỏ tiền của, như mọi người khác, chúng ta cũng cần có tiền của, và có tiền của mới sống được " chúng ta cần có một căn nhà để tránh "ăn nhờ ở đậu" gây phiền hà cho người khác. Chúng ta cần có đủ áo mặc, có đủ cơm ăn để khỏi nên gánh nặng cho tha nhân, không đánh mất phẩm giá của mình và tránh lệ thuộc vào người khác. Ngoài ra, nhiều người đã biết khởi điểm của mọi sự là "thủ tục đầu tiên", không có "thủ tục đầu tiên" này thì mọi việc khó mà êm xuôi. Hơn nữa, không có tiền có lẽ khó mà lấy vợ có chồng, một tiệc cưới cũng tốn kém từ vài triệu đến vài chục triệu. Ở Hàn Quốc, họ nói như sau: "muốn cưới vợ thì chàng phải có ba chìa khóa: chìa khóa xe hơi, chìa khóa nhà, và chìa khóa hòm tiền ở ngân hàng". Nhưng đối với chúng ta, cần phải có chìa khóa thứ tư nữa, ba chìa khóa kia mở cửa "tiền", còn chìa khóa thứ tư mở cửa "lòng".
Bởi lẽ: tiền có thể mua nhà cửa nhưng không mua được tổ ấm, tiền có thể mua giường nệm nhưng không mua được giấc ngủ yên, tiền có thể mua lạc thú nhưng không mua được hạnh phúc, tiền có thể mua thế gian nhưng không mua được thiên đàng. Cửa lòng mà chìa khóa thứ tư mở ra, đó là lòng bác ái, lòng yêu thương của chúng ta.
Tóm lại, điều Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta phải sống là đừng coi tiền bạc là ông chủ, nhưng hãy coi nó là đầy tớ. Tiền của là ông chủ xấu, nhưng lại là một đầy tớ tốt. Một khi trở thành phương tiện, thì tiền của sẽ là một trợ thủ đắc lực, giúp chúng ta làm được nhiều việc lớn lao và chu toàn được sứ mệnh làm vinh danh Chúa và góp phần cứu rỗi anh em.
17. Dâng hiến.
"Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa".
Lời tuyên bố trên đây của Chúa Giêsu có bao gồm và đụng chạm đến những người đang sống trong các khu vực sang trọng giàu có ở Manila như Forbes Park, Corinthian Gardens và Ayala Alabang hay không? Lời tuyên bố này có đánh động những người đang làm chủ các tập đoàn thương mại khổng lồ ở Philippies hay không?
Trên thực tế, tiền bạc hay sự giàu có không phải là một sự dữ tất yếu. Ngay cả Chúa Giêsu cũng đã hưởng những thực phẩm, những bữa tiệc và cả nơi nghỉ ngơi do những người bạn giàu có của Ngài cung cấp. Cũng vậy, với tiền bạc, bạn có thể làm được nhiều việc tốt, chẳng hạn như lo việc ăn học cho con cái, mua những vật nhu yếu phẩm, làm những việc từ thiện bác ái. Nhưng với tiền bạc, bạn cũng có thể làm nhiều điều ác. Với tiền bạc, bạn có thể hối lộ, mua các lá phiếu trong các cuộc bầu cử, thuê những tên khủng bố và làm những hành động bất lương khác. Sống như vậy, con người thay vì làm chủ tiền bạc thì lại trở nên nô lệ cho nó.
Mặt khác, nghèo khó hay sống trong nghèo khó cũng không phải đương nhiên là một nhân đức. Lấy ví dụ: một người nghèo luôn miệng nguyền rủa thân phận nghèo khổ của mình. Anh ta bị ám ảnh muốn trở nên giàu có như người hàng xóm. Nhưng thực tế anh vẫn phải sống trong cảnh nghèo. Và một người nghèo khác, mặc dù nghèo khổ nhưng anh vẫn hướng về Thiên Chúa, chuyên chăm cầu nguyện và tham gia vào các hoạt động truyền giáo của Giáo hội, giúp đỡ những người khác. Lúc đó, nghèo khó trở thành một nhân đức Kitô giáo, vì giúp ta sống gắn bó với Thiên Chúa và không dính bén với của cải thế gian.
Chúa Giêsu muốn mỗi người chúng ta sống một cuộc đời dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa đúng với căn tính của mình là Kitô hữu. Vì thế, nếu bạn là một người đã kết hôn, hãy là một người chồng hay một người vợ tốt, đừng tìm kiếm một người khác xinh đẹp hơn người phối ngẫu của mình. Nếu bạn là một người làm công, hãy làm việc chu đáo. Nếu bạn là một người chủ, hãy ở công bằng. Cuối cùng, chúng ta hãy suy nghĩ về bốn hướng dẫn quan trọng sau đây:
- Hãy nhớ rằng vào một thời điểm nào đó, bạn sẽ phải ra đi.
- Hãy tìm niềm vui trong sự trao ban hơn là khi thu góp.
- Sống gắn bó với thánh giá hơn là dính chặt vào đồng pêsô.
- Hãy nhớ rằng tiền bạc thì mau qua, và bạn chỉ có một bảo đảm chắc chắn ở nơi Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con nhớ rằng không dính bén với của cải thế gian là một phương thế giúp sống gắn bó với Chúa.
18. Sự lựa chọn.
Cách đây một vài năm, Sir Kenneth Clark người Anh làm đầu chương trình trên TV "Nền Văn Hóa" nổi danh khắp thế giới. Clark theo chủ nghĩa nhân bản, không cho tôn giáo là việc quan trọng. Điều này không có nghĩa rằng ông khinh khi việc theo đạo hoặc lãnh đạm việc thờ phượng. Ngược lại, ông còn nói một vài nét đặc biệt của việc theo đạo. Một hôm, tại nhà thờ San Lorenzo ông đã lãnh nhận được một cảm nghiệm. Ông viết: "Trong một vài phút, cả người tôi như được soi sáng với một niềm vui thiên đàng mà còn hơn tất cả những cảm giác mà tôi đã từng trải qua."
Khi nói về cảm tưởng đó, Clark đối diện với một câu hỏi: "Tôi phải làm gì với cái ơn đó?" Công khai, ông không phải là người theo đạo. Nếu ông tự nhiên trở thành một người theo đạo, thì gia đình ông và bạn bè ông sẽ nghĩ rằng ông đã dẫm vào chỗ lầm lạc. Và như thế, Clark đã lựa chọn không làm một cái gì hết với cảm tưởng mà ông đã lãnh nhận được. Ông hoàn toàn quay lưng lại trong vấn đề đó.
Câu truyện của Sir Kenneth Clark mang một ý nghĩa giống như câu truyện về người thanh niên giàu có trong bài Phúc Âm hôm nay.
Giống như người thanh niên giàu có, Kenneth là một người rất tốt, Kenneth tìm thấy một hấp dẫn ở nơi Chúa Giêsu một cách không thể ngờ được, Kenneth đã phải đương đầu với câu hỏi thật khó khăn để tìm được câu trả lời: Tôi phải làm gì?
Giống như người thanh niên giàu có, Sir Kenneth đã nghĩ đến cái giá phải trả nếu ông chọn theo Chúa Giêsu, nhưng ông đã từ chối ơn Chúa..
Sự hưởng ứng của người thanh niên giàu có và Sir Kenneth nhắc nhớ chúng ta dụ ngôn người gieo hạt giống. Đặc biệt là phần những hạt giống rơi trên vệ đường.
Chúa Giêsu đã giải thích rằng những hạt giống rơi trên vệ đường tượng trưng cho những người đón nhận lời Chúa, nhưng để cho quỉ dữ lấy đi trước khi nó đâm rễ vào cuộc đời của họ (Mc 4,15).
Hai câu truyện trên rất thích hợp với chúng ta bởi vì nó rất thực tế. Chúng diễn tả con người ngày nay cũng đang phải chiến đấu giữa những sự lựa chọn.
Người thanh niên giàu có trong Phúc Âm đã bị của cải thế gian làm cho lù mờ lời mời gọi của Chúa Giêsu. Cũng như thế, Sir Kenneth đã lựa chọn làm hài lòng gia đình và bạn bè hơn là theo Chúa. Cả hai người đều chạy theo vui thú thế gian thay vì kho tàng trên trời.
Điều này dẫn chúng ta đến con người của chúng ta. Sự ưu tiên của chúng ta là cái gì? Kho tàng thế gian quan trọng hơn hay là kho tàng đời sau?
Nếu sự ưu tiên của chúng ta là thế gian, thì chúng ta phải làm thế nào để đổi mới? Chúng ta phải làm sao để không đưa đến hậu quả giống như người thanh niên trong Phúc Âm? Vậy, chúng ta hãy cầu nguyện và nài xin ơn khôn ngoan để có thể nhìn ra những sự giả trá của thế gian mà không chạy theo chúng.
Bài đọc thứ hai nhắc nhở chúng ta rằng một ngày nào đó, chúng ta sẽ phải tính sổ về cuộc đời của chúng ta với Chúa. Thiên Chúa sẽ bắt chúng ta phải chịu trách nhiệm về những quyết định mà chúng ta làm. Ngài sẽ bắt chúng ta trả lời về những hành vi của quyết định của chúng ta.
Nói một cách khác, sự lựa chọn mà người thanh niên đã đương đầu thì chúng ta cũng vậy. Giống như họ, chúng ta phải làm một quyết định. Quyết định này sẽ giúp chúng ta định rõ không phải sự hạnh phúc thế gian mà thôi, nhưng là hạnh phúc vĩnh cửu.
19. Chúa nhìn chàng.
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, có một chi tiết đáng cho chúng ta ghi nhận, đó là sau khi chàng thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu:
- Thưa Thày nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?
Chúa Giêsu trả lời:
- Hẳn anh đã biết các điều răn: chờ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ ám hại ai, hãy thảo kính cha mẹ.
Anh ta nói:
- Thưa Thày, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.
Bấy giờ, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến.
Phải, Chúa Giêsu nhìn chàng và yêu mến chàng. Thế nhưng, đâu là điều đã làm cho Chúa Giêsu yêu mến?
Theo tôi nghĩ, điều làm cho Chúa Giêsu yêu mến không phải là sự trọn lành tương đối mà chàng đã đạt được ngay từ hồi còn nhỏ, đó là tuân giữ các điều răn của Ngài, nhưng là sự khắc khoải muốn được vươn lên, là sự cầu tiến của một tâm hồn thấy mình chưa được trọn lành, và chưa được thỏa mãn, là sự băn khoăn trước nhu cầu cần phải làm thêm hơn nữa.
Đó là một tâm hồn cởi mở tự nhận thấy, ít nữa là một cách lu mờ, rằng mình chưa làm gì hết, bao lâu còn có sự phải làm, mình chưa cho gì cả bao lâu còn có sự phải cho.
Thế nhưng, sau khi nghe Chúa Giêsu chỉ cho biết điều kiện cần thiết, điều kiện ắt có và đủ để được trở nên trọn lành, đó là hãy trở về, bán hết mọi của cải, làm phúc bố thí cho người nghèo khổ, rồi hãy đến mà theo Chúa...thì chàng đã hoang mang suy nghĩ, vì đó là một điều kiện cân não đòi buộc chàng phải từ bỏ. Sau đó, chàng đã lưỡng lự phân vân, để rồi cuối cùng chàng đã cúi mặt bỏ đi. Chàng đã không dám liều, không dám đánh đổi tất cả để được theo Chúa, chàng đã không có can đảm để hiến dâng trọn vẹn cho Chúa.
Phúc âm còn ghi rõ: sở dĩ như vậy vì chàng có nhiều sản nghiệp. Tiền bạc đã cản ngăn bước chân của chàng. Chúng ta cảm thấy tiếc xót cho chàng và cho Giáo hội vì đã mất đi một vị tông đồ nhiều thiện chí.
Rất có thể trong một giờ cầu nguyện sốt sắng nào đó, chúng ta cũng đã cảm thấy khắc khoải như chàng thanh niên. Chúng ta muốn thoát khỏi sự tầm thường, chúng ta muốn vươn lên, muốn ra khỏi tình trạng nọa lực thiêng liêng và chúng ta đã thành thực thưa lên cùng Chúa:
- Lạy Chúa, xin dạy cho con đường nẻo trọn lành.
Rất có thể trong thinh lặng, Chúa Giêsu cũng đã nhìn chúng ta và đem lòng yêu mến chúng ta. Và rồi sau cùng, Ngài cũng đưa ra một điều kiện cân não. Dĩ nhiên, Ngài không bảo chúng ta phải bán hết mọi của cải, nhưng Ngài bảo chúng ta phải từ bỏ ý riêng để theo ý Ngài:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình.
Ý riêng ấy có thể là một mơ ước, một đam mê hão huyền. Ý riêng ấy có thể là cái chúng ta ưa thích nhưng không được đẹp lòng Chúa...
Rất có thể chúng ta cũng đã phân vân và lưỡng lự, chúng ta cũng đã hoang mang suy nghĩ và rồi cuối cùng chúng ta cũng đã buồn sầu bỏ đi vì cõi lòng chúng ta đã quá quyến luyến với những thực tại trần gian hay với những ước mơ hão huyền. Chính những cái đó đã cảm bước chân chúng ta tiến đến cùng Chúa.
Vì vậy, muốn theo Chúa, muốn đáp trả lời mời gọi của Ngài, chúng ta phải có can đảm, dám liều, dám đánh đổi tất cả những gì mình đang có và yêu thích để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu.
Theo Chúa là phải từ bỏ. Không phải chỉ từ bỏ những của cải vật chất mà thôi, trái lại nhiều khi còn phải từ bỏ cả những khắc khoải của con tim như lời Chúa đã phán dạy:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình,vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Xin cho con biết quảng đại và trung thành theo Chúa dù có gặp phải những gian nan thử thách trên bước đường tiến đến cùng Chúa.
20. Chia sẻ- tiền của.
Có một người giàu có kia thường đến xưng tội với thánh Philipphê Nêri. Ông có nhiều tiền của, có thiện chí, nhưng ông vẫn cảm thấy mình không đạt được sự tiến bộ nào trên đường thiêng liêng. Từ chán nản đến thất vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc và không trở lại xưng tội với thánh nhân nữa. Thấy ông đã lâu không đến xưng tội, thánh nhân tìm đến nhà ông để gặp ông. Sau một hồi trò truyện, ngài nhìn lên cây thánh giá treo trên tường, ngài cân nhắc độ cao của thánh giá rồi đề nghị với người đàn ông giàu có: "Ông là người cao lớn, ông thử với coi tới thánh giá không". Ông đứng dậy giơ cánh tay lên cố với nhưng không thể nào chạm tới Chúa Giêsu trên thánh giá. Bấy giờ thánh Philipphê dùng hết sức đẩy cái hòm tiền của người giàu đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái hòm tiền để với tới cây thánh giá. Ông làm theo ý thánh nhân và sờ được Chúa Giêsu trên thánh giá. Sau đó ngài nói với ông: "Để có thể nắm lấy được Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng trên tiền bạc của cải".
Câu truyện trên phần nào tương tựa như câu truyện trong bài Tin Mừng. Một thanh niên giàu có đến hỏi Chúa Giêsu: làm sao vừa có được đời sống giàu sang sung sướng lại vừa được sống đời đời? Chúa thông cảm, nhìn anh một cách trìu mến, vì thấy anh là một thanh niên mà đã biết nghĩ đến đời sống trọn lành, đã biết lo lắng cho cuộc đời mai sau.
Sở dĩ anh hỏi Chúa Giêsu như vậy là vì anh muốn làm môn đệ của Chúa. Anh nghĩ anh đã giữ được sáu điều răn của Chúa rồi: không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ. Vậy anh còn thiếu điều gì nữa? Chúa bảo anh hãy về bán hết của cải, không phải để cất giấu dành dụm, nhưng là đem chia sẻ cho người nghèo. Đối với Chúa, đó là điều kiện cho riêng anh để được trọn lành và làm môn đệ của Ngài. Nhưng điều kiện này anh lại không chấp nhận được vì anh có nhiều của cải, nên anh buồn bã rút lui. Đại bàng muốn cất cánh lên mây xanh, nhưng đã bị xiềng xích. Của cải vật chất đã xiềng anh ta lại mất rồi. Rõ ràng giữa Chúa và của cải, giữa đời sống trọn lành và tiền của, anh đã chọn của cải, chọn tiền của.
Qua trường hợp anh thanh niên này, Chúa Giêsu nghĩ tới tất cả những người bị xiềng xích như anh, nên Chúa nói với các môn đệ: "Các con ơi, vào được nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa". Chúa nói đến nỗi khó chung của mọi người để vào nước Thiên Chúa rồi mới nói đến nỗi khó đặc biệt của người giàu. Đây chỉ là một kiểu nói sánh ví thôi, để chỉ một việc rất khó thực hiện, như những câu nói của Việt Nam: "Lấy đá vá trời", "Tát bể đông cũng cạn". Đây là kiểu nói nhấn mạnh để in sâu vào tâm trí người nghe và làm nổi bật nỗi khó của người giàu. Tại sao có nhiều của cải, có nhiều tiền của lại khó vào nước trời?
Ai ai cũng công nhận rằng: của cải cần thiết cho đời sống con người. Của cải sẽ đem lại cho con người nhiều hạnh phúc hơn. Cả tây phương lẫn đông phương đều có chung quan niệm: bao tử đi trước, đầu óc theo sau; có thực mới vực được đạo; hoặc cần phải ăn trước đã, kế đến mới suy tư, triết lý. Tiền của cần thiết như thế nên Chúa Giêsu không bao giờ lên án tiền của hay người có tiền của, tức là người giàu. Ngài biết con người cần phải có tiền của để sống xứng đáng với cuộc sống của mình. Ngài biết "đồng tiền liền với khúc ruột", cần có tiền để sống, để giữ đạo nữa. Sự túng thiếu, bần cùng là một sự dữ, loài người không ai muốn, thì Chúa cũng không muốn con cái Ngài phải vướng mắc vàoTuy nhiên, tiền bạc của cải vẫn luôn là con dao hai lưỡi: được sử dụng như một phương tiện, tiền của sẽ giúp cho chúng ta sống đúng với phẩm giá của mình hơn. Trái lại, khi chúng ta chạy theo tiền của như cứu cánh cho cuộc đời mà quên đi những giá trị khác trong cuộc sống, nhất là những giá trị thiêng liêng, tinh thần thì nó sẽ làm cho chúng ta bị phá sản về vật chất cũng như tinh thần. Sự ham mê tiền của dễ làm cho người ta ra đen bạc, khó vào nước trời.
Nói rõ hơn, tiền của tự nó tốt và giúp ích cho con người. Nó chỉ xấu và có hại khi đem sử dụng vào những mục tiêu xấu. Đúng vậy, vì tiền của, người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời. Vì tiền của, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như của người khác.. Vì tiền của, người ta có thể chối bỏ niềm tin. Vì tiền của, người ta có thể phớt lờ luôn cả tiếng lương tâm. Vì tiền của, người ta có thể làm những điều bất chính, tội lỗi... Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào. Và người nào ham mê tiền của đến quên cả Chúa và quên cả anh em, thì đó chính là thứ lạc đà đứng trước lỗ kim, đó chính là người khó vào nước trời.
Anh thanh niên giàu có đã từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu. Anh không dám từ bỏ mọi sự để đi theo làm môn đệ Chúa. Tin Mừng lại cho biết: các tông đồ chính là những người đã đáp lại lời mời gọi ấy. Ông Phêrô đã nói lên điều đó như một niềm hãnh diện: "Còn chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy". Theo bản văn Tin Mừng Marcô thì ông Phêrô chỉ nêu lên thực trạng đó thôi, ông không đòi hỏi gì và cũng không xin xỏ gì. Nhưng trong Tin Mừng Matthêu thì lại cho biết ý của ông Phêrô muốn hỏi: "Vậy chúng con sẽ được cái gì?". Vì thế, nhân dịp này Chúa đã giải đáp một thắc mắc ngấm ngầm trong lòng các môn đệ. Việc các ông tranh giành ngôi thứ với nhau chứng tỏ các ông vẫn băn khoăn về chuyện các ông sẽ được cái gì. Không riêng gì ông Phêrô hay các môn đệ mà người tín hữu nào cũng có lúc thắc mắc như thế: chúng ta đi đạo, chúng ta tin Chúa, chúng ta sẽ được cái gì?
Chúa Giêsu bảo chúng ta: hãy dùng tiền của và cư xử cách nào để đem lại ích lợi cho cuộc sống hôm nay và đồng thời cũng đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau nữa. Một phương thế Chúa dạy là: hãy chia sẻ. Chúa không đòi chúng ta phải từ bỏ tất cả để theo Chúa, nhưng Chúa đòi chúng ta phải biết chia sẻ: chúng ta chia sẻ cho người khác một, Chúa sẽ trả cho chúng ta gấp nhiều lần hơn. Bởi vì một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi. Một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa tỏa lan. Một vết dầu thả lỏng là một vết dầu loang. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nhiều nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới tràn ngập vui sướng. Về mặt thiêng liêng cũng thế, chúng ta cho đi chúng ta sẽ được nhận lại. Chúng ta càng chia sẻ, chúng ta càng nhận lãnh trở lại nhiều hơn, nhất là Chúa sẽ trả lại nhiều hơn cho chúng ta ở đời sau.
21. Lòng nhân từ.
Tại sao người thanh niên đã đến với Đức Giêsu? Một người thanh niên ở vào địa vị của anh ta hẳn sẽ hạnh phúc nhiều hơn với số phận của mình. Điều gì vẫn còn làm anh phải thắc mắc? Điều gì còn làm cho tâm hồn anh chưa chai cứng vì của cải? Chúng ta không biết. Nhưng chúng ta biết chắc người ta có thể trở thành tự mãn đến nỗi họ không còn nghe được sự kêu gọi của một đời sống tốt đẹp hơn. Anh ta hỏi: "Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?" Là một thanh niên, anh khao khát hành động. Anh đã nhận thức rằng chỉ có công việc mới đáng kể. Điều này hẳn đã làm Đức Giêsu yêu mến anh ta. Vì khi chúng ta càng già, chúng ta càng kiên định trong công việc.
Và anh đã có một nền tảng vững chắc dưới chân mình. Anh ta có thể nói: "Tôi đã giữ mọi giới răn. Tôi không giết người. Tôi không ăn cắp của ai, hoặc lừa đảo ai. Tôi không phạm tội ngoại tình. Tôi không làm mất danh dự của cha mẹ tôi".
Ở đây không chút nghi ngờ, anh có một cuộc sống tốt và là một thanh niên đáng kính – một người con mà bất cứ cha mẹ nào cũng phải tự hào. Một kiểu mẫu chăng? Phải – đến một mức độ nào đó. Khi chúng ta xem xét yêu sách của anh ta về sự cao cả, người ta ít bị thuyết phục hơn. Vậy anh ta không giết người, không trộm cắp, không phạm tội ngoại tình... hay tóm gọn lại, điều anh thanh niên nói là: "Tôi không làm cho ai bị tổn hại" – đây là một tiêu chuẩn phủ định. Và thật ngạc nhiên khi có nhiều người nghĩ rằng đó là tiêu chuẩn cao nhất của đức hạnh.
Chắc chắn chúng ta đang đối diện với một thanh niên tốt, một người có cuốn vở bài học sạch sẽ. Nhưng có phải là một người nổi bật không? Có phải là một thanh niên đã trải qua gian khổ và đã chứng tỏ được chính mình? Không, anh ta chỉ đơn giản là không bị thử thách. Nhưng sắp được thử thách. Đức Giêsu nhìn anh với lòng yêu mến. Người đã nhìn thấy những tiềm năng lớn trong anh. Rồi Người đề nghị với anh một quan điểm mới về nhân từ – một quan điểm tích cực – chủ yếu không phải chỉ là tránh điều xấu mà là làm điều tốt. Người nói: "Nếu anh muốn làm điều trọn hảo, anh hãy bán hết những gì anh có mà cho người nghèo – rồi hãy đến theo tôi, và anh sẽ có được một kho tàng trên trời".
Đức Giêsu muốn giải phóng người thanh niên ấy khỏi lòng ham mê sở hữu và chỉ cho anh con đường chia sẻ thương xót. Nhưng người thanh niên không vươn lên nổi. Vì thế, anh bỏ đi lòng buồn bã.
Tại sao anh ta buồn? Bởi vì thách đố mà Đức Giêsu xuất phát từ anh ta đã tạo thành một quan điểm về sự cao cả thật lóe sáng trong tâm hồn trẻ trung và quảng đại của anh. Tuy nhiên, cái giá đó quá cao. Vì thế anh ta trở về với đời sống cũ và với những tiện nghi và an toàn cũ. Chắc chắn anh ta sẽ còn tiếp tục mơ đến việc làm một điều gì thật sự đáng giá với cuộc đời mình. Nhưng trong thời gian, giấc mơ ấy sẽ phai nhạt dần.Thật thú vị khi Đức Giêsu để anh ta đi. Người ta từ bỏ của cải rất khó khăn, bởi vì điều ấy có nghĩa là tước đoạt họ khỏi mọi tài sản mà họ phải dựa vào đó như thân thế, sự an toàn và thụ hưởng đời sống. Nhưng đó chính là lý do tại sao các môn đệ của Đức Giêsu phải từ bỏ của cải. Cốt lõi của đức tin Kitô giáo là đặt sự tín thác của con người vào Thiên Chúa và trông cậy vào Thiên Chúa như là suối nguồn duy nhất cho sự an toàn và hạnh phúc. Khi Đức Giêsu nói: "Hãy đi bán những gì anh có..." Người không có ý nói rằng các môn đệ phải túng thiếu. Đời sống của người nghèo, với khó khăn và đau khổ không được đưa ra như một lý tưởng cho các môn đệ của Đức Kitô. Nhưng mặt khác ước muốn chiếm hữu và tích lũy của cải cũng không được chấp nhận. Giống như người thanh niên, một đôi khi chúng ta cũng mơ đến đời sống của một Kitô hữu chân chính. Chúng ta mơ – nhưng có sẵn sàng hành động không? Chúng ta chỉ mơ ước những điều ấy mà không nỗ lực thực hiện. Đối với những người nỗ lực thực hiện, phần thưởng sẽ to lớn ngay cả trong đời này bằng những từ ngữ đầy ý nghĩa, tràn đầy và vui mừng – mặc dù phải trải qua những nỗi gian nan và khó khăn. Ngay khi nói với người thanh niên, Đức Giêsu không cho phép chúng ta bằng lòng với một lời giải đáp không đòi hỏi điều tốt nhất trong chúng ta. Một người bạn chân thành là một người bạn buộc chúng ta phải thực hiện giấc mơ đẹp nhất của tuổi thanh xuân. Người bạn ấy thách thức và kéo căng chúng ta đến giới hạn của khả năng chúng ta và vượt qua nó, để sau đó, chúng ta sẽ có những tiêu chuẩn mới qua đó tự phán đoán chính mình.
22. Quan trọng.
Người thanh niên hỏi Đức Giêsu: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để thừa hưởng sự sống đời đời?" Rõ ràng là anh ta đã hỏi một câu hỏi khác, nếu không hỏi Đức Giêsu thì cũng đã hỏi một người khác. Câu hỏi đó là: Mục đích của đời này là gì? Câu trả lời là: để có được sự sống đời đời.
Đấy là hai câu hỏi quan trọng nhất trong cuộc đời. hầu hết chúng ta cũng đã hỏi như thế khi chúng ta còn trẻ. Có lẽ chúng ta không còn hỏi những câu hỏi đó nữa? Hiện nay chúng ta đang ở trên chuyến tàu hỏa của đời sống, được nó đưa về phía trước không thể lay chuyển được, và dường như với một tốc độ ngày càng tăng dần, nhưng nơi mà con tàu hướng về không còn là giải pháp mà chúng ta muốn biết.
Tại sao lại như thế? Có thể vì chúng ta quá vướng bận với hành lý, hoặc với những trò chơi hay sự tiêu khiển đến nỗi chúng ta không còn thời gian dành cho những vấn đề như thế? Hoặc có thể giống như người thanh niên đã đến với Đức Giêsu, chúng ta thấy rằng đặt những câu hỏi như thế quả là nguy hiểm.
Bầu khí chúng ta đang sống không khuyến khích kiểu đặt câu hỏi và suy tư đó. Những vấn đề về tinh thần hiếm khi là chủ đề trong các câu chuyện ở bàn ăn hoặc trong các câu chuyện thân mật giữa bạn bè. Người ta chú trọng nhiều hơn đến việc làm, những vấn đề gia đình, và những giải pháp chính trị và kinh tế trong ngày. Những cuộc tranh luận về các giá trị đạo đức và niềm tin về tâm linh hiếm khi xảy ra. Thật vậy, những đề tài này dù ít hay nhiều cũng là điều cấm kỵ.
Chúng ta là những con người thực tiễn. Chúng ta muốn có những lời giải đáp mà không muốn có vấn đề. Những vấn đề đạo đức và tinh thần là những giải pháp khó khăn. Một nhà phân tâm học người Mỹ đã nói:
"Ở một tầm mức rộng lớn, đời sống chúng ta được dùng để tránh đối đầu với chính mình. Hầu hết những hoạt động hàng ngày của chúng ta làm cho điều đó được dễ dàng. Chúng làm chúng ta xao lãng chính mình và việc suy tư. Chúng ta được trấn an bởi những sự tầm thường".
Đức Giêsu đã trả lời người thanh niên: "Anh hãy giữ các giới răn". Và người thanh niên nói: "Tôi đã giữ các giới răn".
Đối với Đức Giêsu giữ các giới răn chỉ là mức tối thiểu. Người biết rằng người thanh niên này có khả năng nhiều hơn. Thật vậy, anh có khả năng đạt được điều cao cả. Vì thế Người nói với anh: "Nếu anh muốn nên trọn lành, anh hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo rồi hãy đến theo tôi".
Người thanh niên đã đứng trên bờ vực của một thế giới mới mẻ và lôi cuốn. Tuy nhiên, anh lập tức nhận ra rằng anh không thể bước vào thế giới mới này mà không nói lời giã từ thế giới cũ của anh. Anh ngần ngại. Anh phân vân. Anh nhìn về thế giới cũ ấy và bắt đầu cân nhắc những gì anh đang bỏ lại phía sau. Thình lình anh đã nhận ra rằng anh không thể làm được điều đó. Có quá nhiều điều trong thế giới cũ mà anh yêu thích và thèm muốn, chính vì thế mà anh từ khước lời mời gọi của Đức Giêsu.
Một số người không muốn bỏ mất dù chỉ một giá trị cũ của họ để có được một giá trị mới. Nếu chúng ta sợ mất đi những lạc thú của thế giới cũ, chúng ta sẽ không bao giờ nếm hưởng những niềm vui của thế giới mới.
Đức Giêsu đòi hỏi nỗ lực tối đa của chúng ta khi Người đòi hỏi người thanh niên. Người không muốn chúng ta bằng lòng với bất kỳ điều gì kém cỏi. Lời thách thức: "Nếu anh muốn nên trọn hảo", cũng xuất phát từ chính chúng ta. Tuy nhiên, để đảm nhiệm thách thức đó, chúng ta được kêu gọi phải hy sinh. Hy sinh điều gì còn tùy vào mỗi người chúng ta. Chúng ta phải nhìn kỹ tâm hồn mình để biết chúng ta phải từ bỏ điều gì để đáp lại lời kêu gọi ấy.
Sự hiện diện của chúng ta ở đây mỗi Chúa nhật bắt chúng ta phải suy nghĩ về những câu hỏi cao cả ấy. Chúng ta được nhắc nhở đời sống là một cuộc hành hương đến nước trời vĩnh cửu. Chúng ta nghe Lời Chúa và đón tiếp Thánh Thể. Nhưng chúng ta phải nhớ lại rằng sự cứu chuộc luôn luôn là sự thành tựu của Thiên Chúa. Người nào tin vào chính mình sẽ không bao giờ được cứu. Người nào tin vào quyền năng cứu độ và tình yêu cứu thoát của Thiên Chúa mới có thể bước vào ơn cứu độ một cách tự do.
23. Bước theo Chúa Giêsu
(Lm Nguyễn Hữu An)
Các bạn trẻ thân mến!
Tôi xin được chia sẻ một đôi suy niệm của mình về người thanh niên trong trang Tin Mừng hôm nay.
- Đây là một người trẻ rất giàu có.
Tin Mừng không nói cho ta hay nguồn gốc về tài sản của anh, nhưng qua cuộc sống đạo hạnh của mình, chứng tỏ rằng anh là người dễ thành công trong cuộc sống và thực sự anh thành công trong cuộc sống trần thế. Anh ta có nhiều của cải
- Anh cũng là một người trẻ Do Thái công chính, ngay thẳng, không dối gian.
Bằng chứng qua việc anh tuân giữ các giới răn của Chúa thật tốt ngay từ lúc còn bé và dĩ nhiên đến hôm nay "chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ". Thật là một người trẻ tuyệt vời trong đời sống niềm tin và xã hội của người Do Thái. Chính Chúa Giêsu cũng nhìn anh với ánh mắt yêu thương và trìu mến.
- Anh là người biết cầu tiến.
Sự cầu tiến ở đây không chỉ ở phương diện thế trần mà còn thể hiện trong đời sống tâm linh của anh " Lạy Thầy nhân lành! Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?". Sự giàu có về vật chất, lòng đạo tinh tuyền của một người Do Thái, không làm cho anh tự kiêu tự mãn như anh biệt phái trong câu chuyện "người thu thuế và anh biệt phái lên đền thờ cầu nguyện", trái lại anh vẫn luôn nghe được tiếng réo gọi trong tâm hồn anh về khát vọng sống đời đời. Anh khao khát và anh kiếm tìm. Anh kiếm tìm và anh đã gặp Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống đời đời. Thánh Luca ghi lại "khi ấy Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người ". Đây là một cử chỉ mang tính phụng vụ, cử chỉ của con người trước thần linh và như thế, người thanh niên này đã bước từ Do Thái giáo sang Kitô giáo. Thật là một quyết định sáng suốt, can đảm và khôn ngoan. Anh muốn được Đức Giêsu chỉ dạy như một vị Thầy.
- Nhưng tiếc thay! Anh không thể hoàn tất khởi đầu thuận lợi ấy. Anh thiếu một điều cơ bản là " bỏ mọi sự để thuộc về Đức Kitô"
Thật vậy! Trang Tin Mừng cho ta thấy một khởi đầu thuận lợi nơi cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên. Ai trong chúng ta và có lẽ chính anh cũng nghĩ rằng anh đầy đủ điều kiện để đón lấy sự sống đời đời mà không cần phải làm gì hơn nữa. Chính lúc ấy, và lần đầu tiên anh phải đối diện với Lời là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Lời mà thư Do Thái đã diễn tả thật hay " Lời Thiên Chúa là lời hằng sống, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ, lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người ..." (Dt 4,12-13). Lời đã hoá thành xác phàm và đang đứng trước mặt anh: Đức Giêsu thành Nagiaret. Lời muốn anh đón tiếp Người để trao cho anh quyền làm Con Thiên Chúa, đây là ân huệ tuyệt đỉnh nhất mà Thiên Chúa muốn ban cho con người, đó cũng là sự sống đời đời mà anh khao khát kiếm tìm. Đón tiếp Ngài bằng một sự khó nghèo, một sự từ bỏ "anh chỉ thiếu có một điều, là hãy về bán hết những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời rồi hãy đến theo tôi.".
Nghe lời trên anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều tiền của. Anh sáng của Lời Hằng Sống tưởng sẽ xuyên thấu và đổi mới tâm hồn chàng trai trẻ bỗng khựng lại bởi bức tường của tiền bạc đang bao phủ vây kín cuộc đời anh, níu chặt lấy anh không cho anh bước theo Đức Giêsu. " tim anh phút chốc bừng nắng hạ, nhưng tiếc thay mặt trời là lời chân lý không thể chói qua tim anh bởi anh đã khép tim mình lại trong bóng tối của tham sân si".
Các bạn trẻ thân thương!
Qua câu chuyện của người thanh niên trong Tin Mừng, tôi rút ra mấy xác tín cho người trẻ chúng mình:
+ Thiên Chúa mới chính là gia nghiệp và là hạnh phúc đích thực cuộc đời của chúng ta chứ không phải tiền bạc, danh vọng, địa vị hay bất cứ một thế lực nào đó trên trần gian này. Người trẻ trong trang Tin Mừng là một minh chứng hùng hồn về nhận định "tiền không phải là tất cả". Sự giàu sang không thể khoả lấp cơn đói khát nằm sâu trong tâm hồn con người. Trái lại sự giàu có dễ trở biến thành rào cản ta lãnh nhận hạnh phúc đích thực từ Thiên Chúa. Thánh Augustinô sau những tháng năm tìm kiếm sự thoả mãn cơn đói khát trong tâm hồn mình bằng danh - lợi - thú trần gian, cuối cùng Ngài mới nhận ra rằng " Lạy Chúa! Chúa dựng nên chúng con là để cho Chúa, và vì thế tâm hồn chúng con khát khao cho đến khi nào được an nghỉ trong Ngài". Sống và được no thoả trong Thiên Chúa thánh nhân đã nức nở " ôi con yêu Chúa quá muộn màng, Ngài đã chiến thắng, con mù loà Ngài đã chiếu sáng, Ngài toả ngát hương và làm con say mến, Ngài là dịu êm và lòng con thao thức ngày đêm". Mong thay, bạn sẽ không phải hối hận thốt lên như Augustiô "ôi! Con yêu Chúa quá muộn màng". Nhưng nếu đã thấy đã muộn thì mau quay về với Ngài. Ngài vẫn chờ bạn như người cha ngóng chờ đứa con hoang đàng trở về. Bạn ơi! Hãy cho Chúa một cơ hội, một niềm vui, một lễ hội trên thiên đàng qua sự trở về của bạn. Bạn ơi với Chúa " một ngày ví tựa ngàn năm". Bởi đó, đối với Chúa không bao giờ là trễ cả.
+ Chúa Giêsu là vị Thầy duy nhất hướng dẫn ta đến cùng Thiên Chúa. Chính Ngài đã khẳng định " không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". Thánh Phêrô cũng đã tuyên xưng" bỏ Thầy con biết đi theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Bởi Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Và như vậy hạnh phúc và ý nghĩa đời ta tuỳ thuộc vào thái độ và tương quan của ta với Đức Kitô. Anh Charles de Foucaul xác tín " biết Đức Kitô đó là tất cả, phần còn lại chẳng là gì hết". Biết Đức Kitô là biết, yêu mến và nên một với Người.
+ Bước theo Đức Kitô đòi ta phải từ bỏ không phải một lần nhưng là mọi ngày trong suốt đời ta. " Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình hàng ngày mà theo tôi". Sự đòi hỏi của Đức Kitô có tính triệt để hiến dâng "không có tình yêu nào cao hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu". Bạn và tôi được mời gọi từ bỏ những gì mình có, từ bỏ những gì làm thành cuộc đời mình, để thuộc về Đức Kitô cách trọn vẹn hơn. Cụ thể, người trẻ chúng mình phải bỏ qua lối sống đạo hời hợt bên ngoài, sống đạo cách tiêu cực, sống đạo theo thói quen mà thiếu hẳn xác tín, thiếu hẳn tình yêu và nhất là thiếu tính dấn thân trong việc sống, làm chứng và loan báo Chúa Kitô cho những người xung quanh
Cầu chúc các bạn hạnh phúc và làm cho mọi người và Thiên Chúa hạnh phúc.
24. Vì tình yêu chugn1 ta phải làm nhiều hơn nữa
(Lm Mark Link)
"Chỉ cần chúng ta tiến về phía Chúa một bước, thì Ngài sẽ chạy về phía chúng ta mừơi bước"
James Kallam kể lại một mẩu chuyện vui trong các bài viết của ông như sau: Cách đây nhiều năm, có một thanh niên làm nghề bán sách rong từ nhà này đến nhà kia, anh đến hành nghề tại một vùng quê nọ. Một hôm, anh vào nhà một nông gia, ông này đang ngồi trên chiếc ghế xích đu ở cổng trước. Chàng thanh niên đến gần người nông dân nhiệt tình ngỏ lời: "Thưa ông, tôi có bán một cuốn sách chỉ cách canh tác sinh lợi gấp 10 lần cách ông đang làm".
Người nông dân chẳng thèm ngước lên. Ông tiếp tục đong đưa chiếc ghế đu. Cuối cùng, sau vài phút, ông ta liếc mắt nhìn chàng thanh niên rồi nói; "Này anh bạn trẻ, tôi chả cần sách của anh, tôi cũng biết làm thế nào để canh tác sinh lợi gấp 10 lần cách thức tôi hiện đang làm".
***
Câu chuyện trên giúp ta hiểu rõ điều Chúa Giêsu đang nói trong bài Phúc Âm hôm nay. Người nông dân có khả năng canh tác tốt hơn nhưng ông ta lại thiếu nhiệt tình để dấn thân làm điều ấy. Chàng thanh niên giàu có trong bài Tin Mừng cũng dư sức làm nhiều hơn là chỉ tuân giữ các giới luật, nhưng anh ta chả có nhiệt tình để làm điều ấy. Bài Phúc Âm hôm nay nói thẳng cho ta thấy Kitô giáo không chỉ hệ tại việc tuân giữ các lệnh truyền. Chúa Giêsu tra vấn anh chàng giàu có về sự tuân giữ lệnh truyền như là khởi điểm cho đời sống Kitô hữu. Chàng trả lời là đã tuân giữ tất cả lệnh truyền ấy, tức là chưa hề làm gì thương tổn ai... Về điểm này Chúa Giêsu tỏ ra thán phục anh ta. Nhưng đồng thời Ngài lại cho chàng ta thấy rõ Kitô giáo không chỉ là việc tuân giữ các huấn lệnh tiêu cực ấy như đừng trộm cắp hay lừa đảo.... Kitô giáo mang tính tích cực hơn nhiều: Ngài nói thẳng với anh chàng giàu có:
"Anh chưa bao giờ gây thương tổn cho ai quả là đáng khen, nhưng anh đã làm gì để giúp đỡ ai chưa? Anh đã biết dùng của cải để cho kẻ đói ăn, cho kẻ trần truồng mặc, cho kẻ vô gia cư trú ngụ chưa?"
Chính khi nghe điều này anh chàng giàu có kia nhận ra mình vẫn còn khiếm khuyết biết bao. Vì vậy Chúa Giêsu bèn thách thức anh: 'Nếu muốn theo tôi thì anh hãy thay đổi cách nhìn đi, đừng chỉ nhắm đến sự tốt lành một cách tiêu cực, tỉ như không gây thiệt hại cho ai – và anh hãy nhắm sống tốt lành một cách tích cực hơn, chẳng hạn như giúp đỡ người khác. Cứ thực hành điều này, anh sẽ tìm thấy hạnh phúc ngay trong cuộc sống này và cả trong cuộc sống mai sau"
Thách đố Chúa Giêsu đặt ra cho anh chàng giàu có thể tóm lược như sau; Anh có dám chấp nhận mọi thiệt thòi để đạt được cuộc sống vĩnh cửu mà anh mong muốn không? Anh có quan niệm bước theo tôi là bị thiệt thòi không? Nghĩa là anh có sẵn sàng hy sinh của cải của anh để được sống vĩnh cửu, cũng như để theo tôi không?
Anh chàng giàu có trả lời:
- Thưa thầy, tôi cũng muốn theo Ngài lắm, nhưng tôi không muốn chấp nhận sự thiệt thòi kia;
Thế là anh chàng thanh niên giàu có đành từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu. Việc dùng của cải không chỉ cho bản thân và gia đình xem ra là một hy sinh quá lớn đối với anh.
Điều này bày ra trước mắt mỗi người chúng ta ngay bây giờ hình ảnh sau: Nhiều người trong chúng ta giống như anh nông dân ngồi chơi trước cổng nhà. Chúng ta biết rõ chính mình có thể trở thành một Kitô hữu, tốt hơn gấp mười lần tình trạng hiện nay nhưng chúng ta vẫn thiếu nhiệt tình để làm điều ấy.
Chúng ta khác nào anh chàng giàu có trong Phúc Âm hôm nay. Chúng ta cũng đã tuân giữ những luật truyền, nhưng chúng ta vẫn chưa đủ quảng đại hết sức có thể đối với những người túng thiếu, kẻ trần trụi và người đói khát.
Vì công việc đó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ, phải can đảm và phải khôn ngoan sáng suốt để nhận ra rằng sự hy đó là cần thiết để đem lại an bình và vui tươi trong tâm hồn. Và để có thể hy sinh và chấp nhận những thiệt thòi đau khổ đó, điều hết sức quan trọng là phải có một động lực mạnh để thúc đẩy ta, và động lực đó chính là tình yêu: yêu Thiên Chúa và thương tha nhân. Tình yêu đó sẽ thúc đẩy chúng ta làm nhiều hơn những đòi hỏi tiêu cực của lề luật: cấm hại người, cấm gian dối, cấm trộm cắp... Một thanh niên yêu một thiếu nữ sẽ không chỉ hài lòng với việc không làm hại cô ấy, không nói dối, không xúc phạm đến cô ấy.. Tình yêu khiến anh phải làm hơn như thế rất nhiều, và nếu không làm hơn được như thế, chắc chắn đó không phải là tình yêu. Cũng vậy, nếu chúng ta chỉ hài lòng với những giới luật Chúa dạy, chúng ta mới chỉ là người "quen biết" với Chúa, chưa phải là người yêu Chúa. Nếu chúng ta không muốn làm điều gì tích cực hơn nữa, chính là vì chúng ta thiếu tình yêu, chúng ta chưa yêu Chúa và thương tha nhân.
Chắc chắn nhiều người trong chúng ta đã biết mình phải làm gì để trở thành một Kitô hữu tốt hơn gấp mười lần hiện nay, nhưng chúng ta đã không làm, vì chúng ta thiếu tình yêu, thiếu nhiệt tình. Cũng như anh chàng nông dân ngồi trên ghế xích đu kia, anh đã biết rõ phải làm gì để canh tác có hiệu quả gấp mười lần phương pháp anh đang làm, nhưng anh đã không thèm làm. Lý do có thể là anh ngại ngùng phải bỏ vốn ra nhiều hơn, phải bỏ ra nhiều công sức hơn, phải mệt mỏi hơn. Lý do sâu xa hơn khiến anh ngại là vì anh chưa thấy nhu cầu của vợ con anh đang càng ngày càng tăng lên, hay anh chưa đủ quan tâm đến những nhu cầu ấy, hay nói cách khác đi là tình yêu của anh đối với những người thân của mình chưa đủ mạnh để thúc đẩy anh hoạt động, làm những gì phải làm và nên làm.
Tình trạng đó Thánh Phaolô cũng đã cảm nghiệm được nơi con người của ngài. Ngài viết: "Quả thực ngay những gì điều tôi làm tôi cũng không hiểu được nữa, vì những gì tôi muốn thì tôi lại không làm, còn những gì tôi không muốn thì tôi lại cứ làm" (Rm 7:15). Và ngài đã giải thích tình trạng đó như sau: không phải là tôi hành động, mà là tội lỗi ở trong tôi đã hành động (Rm 7:20). Và theo ngài chỉ có Đức Kitô mới có thể cứu ta ra khỏi tình trạng ấy. (Rm 7:24). Do đó, muốn thoát khỏi tình trạng ù lỳ không chịu làm những gì cần phải làm, ta phải tin tưởng vào ngài đã đến để giải phóng ta khỏi tình trạng đó, và ta cũng phải hết lòng yêu mến ngài qua những người sống bên cạnh ta, chung quanh ta. Chỉ có tình yêu mới giải phóng ta khỏi tình trạng ù lỳ đó. Tình yêu phát sinh sức mạnh.
Rất nhiều người trong chúng ta có tâm trạng hài lòng vì mình đã theo được chính đạo, và tự mãn vì mình đã giữ luật Chúa một cách trọn vẹn từ hồi nhỏ, giống như anh chàng thanh niên giàu có trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là một điều rất đáng khen, và Thiên Chúa cũng rất hài lòng vì ta đã sống được như vậy. Chính Chúa Giêsu cũng đã nhìn chàng thanh niên đó một cách thiện cảm và đem lòng yêu thương. Nhưng qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu còn kêu mời chúng ta đi xa hơn một bước kia, là sẵn sàng hy sinh nhiều hơn nữa cho Thiên Chúa và tha nhân. Đang khi bên cạnh chúng ta còn biết bao nhiêu người nghèo khổ túng thiếu, hay cần tới sự giúp đỡ cụ thể của chúng ta, chúng ta không thể vừa nói mình yêu Chúa lại vừa làm ngơ hay phớt lờ những nhu cầu của họ. Tình yêu thúc đẩy ta phải làm một cái gì cụ thể để thoả mãn phần nào những nhu cầu đó của anh em. Và chúng ta cũng cần phải có con mắt nhận xét và tâm hồn nhạy bén để nhận ra những nhu cầu ấy nơi những người sống gần mình nhất. Để đi vào cụ thể, tôi xin đề nghị với anh chị em là mỗi ngày chúng ta dành ra ít phút suy nghĩ để xét xem những người ở gần ta có nhu cầu gì mà ta có thể giúp đỡ cụ thể được, và chúng ta quyết định mỗi ngày làm một hai việc cụ thể giúp ích cho người khác, việc đó càng buộc ta phải hy sinh, thiệt thòi, mất mát thì càng tốt, và tối đến ta xét lại xem mình đã thực hành quyết định đó thế nào. Làm được như thế, chính là đã áp dụng phần nào tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay.
Để kết thúc, tôi xin nhắc lại lời kinh Cáo Mình mà chúng ta đọc mỗi khi chuẩn bị dâng Thánh Lễ, trong đó có câu; "tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót". Tôi xin nhấn mạnh đến "những điều thiếu sót", là những gì mà chúng ta đáng lẽ phải làm, nên làm, mà chúng ta đã không làm. Là những lần đáng lẽ chúng ta phải ra tay cứu giúp người khác mà ta đã không ra tay. Là những lần đáng lẽ chúng ta phải hy sinh cho người khác mà ta đã không hy sinh, vì chúng ta không muốn bị thiệt thòi, bị mất mát, bị phiền hà, là những lần đáng lẽ chúng ta phải bỏ tiền bạc ra để cứu giúp ai đó, nhưng vì tính bỏn xẻn, tính toán, khiến chúng ta lại thôi. Là những lần đáng lẽ chúng ta phải can đảm đứng ra bênh vực lẽ phải, nhưng vì sợ bị liên lụy, sợ bị lôi thôi, mà chúng ta đành làm ngơ để cho bất công được tự do hoành hoành. Mỗi lần đọc kinh Cáo Mình khi dâng Thánh lễ, chúng ta phải nghĩ đến những thiếu sót đó.
25. Đức Giêsu giáo huấn về của cải.
(Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Trong chuỗi các sự cố xảy ra liên can đến dân chúng và giáo huấn ban cho các môn đệ, phân đoạn này phù hợp với Mc 10,1-12. Cũng như trong trường hợp ấy, ở đây, phần giáo huấn cho các môn đệ đã được thêm vào sau, bởi vì ta thấy truyện người giàu có (cc. 17-22) tự nó đã kết thúc và được khoanh vùng rõ ràng.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người giàu có (10,17-22);
2) Gíáo huấn các môn đệ về sự khó khăn của việc từ bỏ (10,23-27);
3) Giáo huấn về phần thưởng dành cho người môn đệ (10,28-30).
3.- Vài điểm chú giải
- Đức Giêsu vừa lên đường (17): Ekporeuomenon autou eis hodon, ở dạng "thuộc-cách tuyệt đối" (absolute genitive), một lối hành văn rất quen thuộc của Mc.
- có một người chạy đến: Chỉ khi đến cuối câu truyện, ta mới biết anh này là một người giàu (10,22). Không có một ghi chú nào về tuổi của anh (x. Mt 19,20).
- quỳ xuống: Cử chỉ này cho thấy người này hết sức kính trọng Đức Giêsu (x. 1,40).
- Thưa Thầy nhân lành: Lời xưng hô kiểu này rất hiếm trong Do Thái giáo thời Đức Giêsu, cho dù từ "nhân lành" thường được áp dụng cho Thiên Chúa ở trong Cựu Ước (x. Tv 117/118,1; 1 Sb 16,34; 2 Sb 5,13). Nói chung, người Do Thái cho rằng chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng được coi là "nhân lành", còn không ai khác là "tốt" cả (x. Rm 7,18). Tuy vậy, khẳng định này cũng không tuyệt đối, bởi vì thọ tạo cũng được mô tả là "tốt" (St 1,31). Phaolô cũng nói như thế về Lề Luật trong Rm 7,12.16. Đức Giêsu cũng có nói đến người "tốt" và kẻ "xấu".
- tôi phải làm gì: Người này lấy mình làm điểm chuẩn: "tôi cần làm gì để thủ đắc sự sống đời đời".
- sự sống đời đời (x. 10,30): Đây là công thức của Đn 12,2 (LXX), có thể hiểu là sự sống sau khi sống lại, không nhất thiết hàm ý "bất tử". Có thể coi như đồng nghĩa với "Nước Thiên Chúa" (x. 9,43-47).
- Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa (18): Không thể giải thích là có một vực thẳm giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa, vì như thế thì quá mâu thuẫn với truyền thống Tin Mừng. Có thể coi đây là một phản ứng của Đức Giêsu nhằm trắc nghiệm người ấy hoặc một phương thức sư phạm nhằm gián tiếp giới thiệu về mình như là Con Người.
- anh biết các điều răn (19): Loạt các điều răn trong bài phần lớn được rút từ phần hai của Thập Điều (Xh 20,12-17; Đnl 5,16-21), là phần nói về những quan hệ giữa người với người.
- đem lòng yêu mến (21; thì quá khứ aorist của agapaô): Hẳn là Đức Giêsu thấy anh này đơn sơ chân thành nỗ lực tìm cách quan hệ với Thiên Chúa nên đã tận tình giữ các điều răn; Người "đem lòng yêu mến" anh. Tình thương này đi đến chỗ gọi anh làm môn đệ.
- Anh chỉ thiếu có một điều: Dù anh đã cam đoan là giữ tất cả các điều răn từ thuở bé, Đức Giêsu bảo rằng anh vẫn "còn thiếu" (hystereô).
- hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo: Câu này nên hiểu như một thách đố Đức Giêsu đề ra cho anh này hơn là một nguyên tắc chung của đời sống Kitô hữu hoặc thậm chí, nền tảng của một bậc sống đạo cao hơn. Người ấy không được hiểu rằng mình chỉ cần làm một điều tốt hơn, là được thừa hưởng sự sống đời đời! Đức Giêsu yêu cầu anh bỏ hết mọi điểm tựa an toàn để tín nhiệm vào bản thân và sứ vụ của Người: "Rồi hãy đến theo tôi".
- anh ta có quá nhiều của cải (22): Anh đã hỏi, nhưng câu trả lời của Đức Giêsu thật quá khó đối với anh.
- các môn đệ sững sờ (24): Các ông sững sờ kinh ngạc bởi vì Đức Giêsu vừa nhận định rất tiêu cực về của cải, trong khi các ông trung thành với truyền thống Do Thái giáo, coi của cải là một dấu chỉ về phúc lành của Thiên Chúa, với điều kiện là bố thí cho người nghèo. Thật ra, cái khó không nằm ở chính của cải, nhưng những cám dỗ chúng gây ra.
- con lạc đà .... lỗ kim (25): Mặc dù trong quá khứ, các nhà giảng thuyết và chú giải đã tìm ra một cái cửa nhỏ bên cạnh một cái cổng lớn ở tường thành Giêrusalem, mà một con lạc đà không thể đi qua, và mặc dù có một vài thủ bản nhỏ đọc là kamilos (sợi dây thừng) thay vì kamêlos (con lạc đà), chúng ta phải kết luận rằng đây là một ví dụ về lối nói ngoa, thậm xưng (x. Mt 23,24; Lc 6,41-42).
- đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể được (27): Trước khi nói câu này, Đức Giêsu "nhìn thẳng vào các ông", một công thức riêng của Mc để nêu bật tầm quan trọng của câu nói sau. Đức Giêsu nhấn mạnh tới quyền năng của Thiên Chúa và sự ký thác cậy dựa vào Thiên Chúa để được cứu độ.
- chúng con đã lìa bỏ mọi sự mà theo Thầy (28): "Lìa bỏ" (aphêkamen) ở thì quá khứ aorist, diễn tả một hành vi đã hoàn tất, còn "theo" (ekolouthêkamen) ở thì vị hoàn, để diễn tả một hành vi còn đang thực hiện.
- vì Tin Mừng (29): Chi tiết của riêng Mc, nhằm đồng hoá Đức Giêsu với Tin Mừng.
- sự ngược đãi ("bách hại", 30): Đây cũng là một xác định riêng của Mc, để nói rằng bước theo Đức Kitô, là phải chấp nhận bị bách hại như Thầy mình đã từng bị bách hại.
- mà bây giờ, ngay ở đời này... và sự sống đời đời ở đời sau (30): Đức Giêsu hứa ban phần thưởng không chỉ vào đời sau nhưng ngay vào lúc này, khi các môn đệ được hưởng một tình bằng hữu phong phú về mặt xã hội và về mặt tôn giáo.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người giàu có (17-22)
Điều gì thật sự có giá trị? Điều gì thạt sự có ý nghĩa? Cuộc sống hiện tại kết thúc với cái chết. Người giàu đến găp Đức Giêsu xác tín rằng có một sự sống đời đời. Anh có nhiều của cải, anh biết cách lo liệu cho cuộc sống trần thế, nhưng cảm thấy có trách nhiệm đối với cuộc sống tương lai. Anh muốn sống cuộc sống trần gian thế nào để không mất chỗ trong cuộc sống vĩnh cửu. Anh rất tin tưởng đến gặp Đức Giêsu, và chờ đợi nhận được những lời khuyên tốt. Đức Giêsu chỉ cho anh các điều răn: ai muốn tôn trọng ý muốn của Thiên Chúa, thì đang ở trên đường dẫn tới sự sống đời đời. Người đến gặp Đức Giêsu đây đang đi đúng đường: anh đã giữ các điều răn từ thuở nhỏ. Lạ lùng là Đức Giêsu không cổ võ cách sống của anh mà bảo anh về, Người lại bảo anh tự giải thoát khỏi mọi của cải và đến đi theo Người. Người chỉ cho anh thấy một nôi dung và một lối sống hoàn toàn mới: anh phải đi theo Người mãi mãi, lắng nghe lời Người nói, nhìn xem các công việc Người làm, có đầy Thần Khí của Người, ở lại mãi mãi với Người, chia sẻ lối sống của Người. Sự hiệp thông liên tục với Người đưa anh đến chỗ hiểu thế giới và đời sống của Đức Giêsu và chuẩn bị cho anh đi vào trong cuộc sống đời đời, nghĩa là cuộc sống trong Nước Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Ở đây Đức Giêsu khẳng định rằng con đường mà Người đang theo được hướng dẫn bởi thánh ý Thiên Chúa cũng một cách trực tiếp và đảm bảo như các điều răn. Và Người cũng khẳng định rằng chính Người có khả năng dẫn đưa tuyệt đối chắc chắn đến sự sống đời đời. Và Đức Giêsu mời gọi anh làm cử chỉ như các môn đệ đầu tiên (x. 1,16-20; 10,28-30). Nhưng người giàu đã không hiểu lời mời gọi của Đức Giêsu là Tin Mừng; anh muốn vừa bám vào của cải vừa đi theo Đức Giêsu. Sự kiện phải chọn lựa làm cho anh buồn rầu.
* Giáo huấn các môn đệ về sự khó khăn của việc từ bỏ (23-27)
Đức Giêsu không nói ỡm ờ về sự khó khăn trong việc từ bỏ của cải. Thái độ sửng sốt của các môn đệ là dịp để Người nhắc lại giáo huấn: đến được Nước Thiên Chúa là chuyện khó khăn. Sự kiện các môn đệ được gọi là "con" (chỉ có ở đây trong TM Mc) cho hiểu rằng lời khẳng định được nhắm trực tiếp cho họ. Nhưng Đức Giêsu cất đi cho họ nỗi lo âu về tương lai khi qui hướng họ về Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, có những câu với nọi dung như thế: G 42,2; x. St 18,14; Dcr 18,6.
* Giáo huấn về phần thưởng dành cho người môn đệ (28-30)
Trong câu trả lời cho Phêrô, Đức Giêsu cho thấy là người ta có thể đạt được sự sống này nếu liên kết với bản thân Người. Người nào siêu thoát với những liên hệ với của cải và với gia đình mình, mà gắn bó với Đức Giêsu, thì sẽ thấy mở ra trước mắt một chân trời các quan hệ bao la hơn. Một người đi vào trong gia đình những người đã liên kết với Đức Giêsu, thì gặp lại những của cải và các người thân thuộc của mình, nhờ đó đạt được một cuộc sống mới mẻ và phong phú hơn; đồng thời người ấy lại đang ở trên con đường chắc chắn đưa tới sự sống đời đời. Câu trả lời của Đức Giêsu hàm chứa Tin Mừng. Người cho thấy rằng nhờ trung gian là bản thân Người, người ta có thể đạt được sự sống hoàn toàn mới mẻ, một sự sống có giá trị không thể triệt tiêu.
+ Kết luận
Khuôn khổ trong đó bản văn hôm nay được đặt vào khiến chúng ta phải lưu ý: đây là những điều xảy ra trong cuộc hành trình Đức Giêsu tiến về Giêrusalem để ở đó, Người cảm nhận sự từ bỏ đau đớn nhất, tức là cái chết. Giữa lần loan báo Thương Khó lần hai (9,30-31) và lần ba (10,32-34), chủ đề "Con đường" thúc bách chúng ta xem xét những điều kiện để theo Đức Giêsu và để được vào Nước Thiên Chúa: đó là sẵn sàng mở lòng ra đón tiếp, đồng thời sẵn lòng siêu thoát mọi sự để đi theo Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa có thể đưa đến những thiệt thòi trong cuộc sống hiện tại, nhưng nối kết chúng ta với ý muốn của Thiên Chúa, tức là với chính Thiên Chúa. Như thế, nền móng của sự sống vĩnh cửu đã được củng cố. Quả thật, chỉ từ sự kết hợp với Thiên Chúa, là Đấng Sống vĩnh cửu và tuyệt đối, mới trào vọt ra sự sống đời đời.
2. Mọi người được yêu cầu đặt việc bước theo Đức Giêsu, vì Người và vì Tin Mừng, trước tất cả mọi sự, thậm chí trước chính bản thân mình và sự trọng kính của người đương thời (x. 8,34-38). Tính mới mẻ triệt để của lời Đức Giêsu kêu gọi đi theo Người không hệ tại lời mời từ bỏ, nhưng hệ tại khả năng kết dệt một liên hệ mới, có được một nội dung mới cho cuộc sống.
3. Lời kêu gọi của Đức Giêsu là Tin Mừng và thật ra là một đặc quyền cao cả: bởi vì, chẳng hạn, đặc quyền này đã không được ban cho người ở Ghêrasa sau khi đã được giải thoát khỏi ma quỷ (5,18t). Đức Giêsu mời gọi chúng ta tách mình khỏi của cải không phải để rồi chỉ còn hai bàn tay trắng, nhưng để chúng ta trở nên tự do và có khả năng liên kết với Người.
4. Ta chỉ có thể đạt tới sự sống đời đời nhờ đức tin, nhờ liên kết vô điều kiện và đầy tin tưởng vào Người. Nhờ hiệp thông với Đức Giêsu và với gia đình Người, ta nhận được sự sống đời đời như một ân huệ. Dây liên kết với Đức Giêsu không bị hủy diệt bởi cái chết.
26. Chú giải của Noel Quesson.
Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?"
Đây là một cảnh sống động. Một người đầy ham muốn: Người ấy chạy đến và sụp quỳ dưới chân Đức Giêsu, vừa thở hổn hển, người ấy vừa đặt câu hỏi.
Khi ta biết người này là ai (nhờ đoạn tiếp sau của trình thuật ta sẽ ngạc nhiên, vì đây là một người có đầy đủ mọi thứ để được hạnh phúc theo tiêu chuẩn thông thường: Anh ta giàu sang, có nhiều "của cải lớn", hơn nữa, cuộc sống anh ta ngay thẳng, anh tuân giữ những giới răn từ thuở còn nhỏ. Trong mọi tương quan với người khác. Chắc hẳn anh ta được kính nể. Vậy anh ta còn thiếu điều gì? Anh ta còn cần gì nữa? Tại sao anh ta lại mong ước điều gì khác?
Đức Giêsu đáp: "Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa".
Đó là câu trả lời sắc bén như dao. Con người giàu có này đã quen với những "tước vị". Vì quá hâm mộ, anh ta nói thêm. Thường thường người ta chỉ gọi Đức Giêsu bằng "Thầy", còn anh ta quen giao thiệp rộng nên đã thêm từ "nhân lành". Đức Giêsu không thích những kiểu nói tâng bốc đó. Người thích sự đơn giản hơn, Người khước từ những tước vị mang tính khoe khoang. Hơn nữa, Đức Giêsu là Người luôn nói về Thiên Chúa. Người luôn hướng về Chúa. Ở đây chúng ta nghe người thốt lên một lời dễ gây ngạc nhiên: Dường như Đức Giêsu không biết Người là Thiên Chúa! Người khước từ chữ "nhân lành". Đây không phải là trường hợp - duy nhất mà Đức Giêsu khiêm tốn tự cho mình là "thấp kém" hơn Chúa Cha, hơn Thiên Chúa: Một hôm khác người còn dám quả quyết, Người "không biết ngày chung thẩm, mà chỉ có mình Chúa Cha mới biết" (Mc 13,32).
Đức Giêsu nói chỉ có một mình Thiên Chúa mà thôi. Tôi cầu nguyện từ lời quả quyết triệt để này.
"Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ".
Danh sách và thứ tự các giới răn làm cho ta ngạc nhiên. Trước tiên, Đức Giêsu không nêu những giới răn "đối với Thiên Chúa" như là giới răn đầu tiên. Hình như qua tình yêu tha nhân, ta chứng tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa. Thông thường tự nhiên ta dễ nghĩ đến những "bổn phận" về tôn giáo hơn, để đạt đến sự sống đời đời. Một lần nữa, Đức Giêsu hướng chúng ta thiết thân gắn bó với những người anh em của mình, với những mối tương quan nhân bản.
Hơn nữa, Đức Giêsu đã thêm một điều răn mới rất ý nghĩa vào mười giới răn cố hữu: "Chớ làm thiệt hại ai" như thể điều răn này tóm tắt các điều khác. Chúng ta cũng nên để ý rằng, "bổn phận đối với cha mẹ" được kể cuối cùng. "Điều răn thứ bốn" được đời ra sau chót, như Đức Giêsu đã muốn đặt lên hàng đầu những cám dỗ đối với người có tiền của: Lấy của kẻ khác, làm thiệt hại kẻ khác, làm giàu cách bất chính...
Anh ta nói: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ".
Quả thật đây là một người ngay thẳng, có hướng tâm.
Anh ta tuân giữ lề luật. Anh ta sống có kỷ cương. Đức Giêsu không phủ nhận sự thành thực của những lời anh ta nói. Người ta tưởng câu chuyện sẽ kết thúc ở đây. Đây là một người có quyền hưởng sự sống đời đời! Chúng ta hãy nghe đoạn sau.
Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến.
Đó là cái nhìn của Đức Giêsu. Tôi cố tưởng tượng lại: Một cái nhìn đầy thương yêu. Đức Giêsu tỏ vẻ trìu mến. Người đang yêu thương. Người cảm động.
Người bảo anh ta: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi."
Vậy sống lương thiện và tuân giữ mọi giới răn cũng chưa đủ sao?
Ta tưởng rằng con người này trung thành không có gì chê trách được, thế mà bây giờ lại gặp một đòi hỏi mới, sẽ rọi chiếu vào tận đáy lòng anh: Anh có tự do không hay chỉ là nô lệ? Thái độ của anh đứng trước tiền bạc của cải vật chất như thế nào?
Thật lạ lùng và đáng ngạc nhiên khi ta liên tục gặp thấy đòi hỏi trên đây của Đức Giêsu. Người không ngớt nhắc lại điều này. Đó là lời kêu gọi đầu tiên của Người: "Hãy theo Ta", tức khắc họ bỏ lưới và cha của mình dưới thuyền... (Mc 1,18-19). Đó cũng là chỉ thị đầu tiên của Đức Giêsu đối với các môn đệ Người sai các ông đi thi hành sứ vụ,Người truyền cho họ không được đem gì đi đường, không bánh, không bị, không tiền trong thắt lưng! (Mc 6,8).
Đó còn là hệ luận đầu tiên phải rút ra từ lời loan báo cuộc thương khó của Chúa: "Kẻ nào muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình" (Mc 8,34). Đức Giêsu đã không bao giờ nói khác Người có những ý nghĩ theo nhau rõ ràng. Người yêu cầu một sự lựa chọn dứt khoát. Người đòi hỏi "trọn vẹn". Muốn theo Người, phải bỏ tất cả. Đây là một đòi hỏi vô biên. Tin Mừng không phải là một cách giải quyết dễ dàng cho mọi vấn đề, mà là một cuộc phiêu lưu vĩ đại, đầy nguy cơ liều lĩnh tối đa. Thật là một tham vọng quá lớn.
Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải
Đây là một người cũng giống chúng ta thôi. Chúng ta chớ nên lên án anh ta. Chúng ta cũng không thường mong muốn nếp sống hoàn hảo và sự sống đời đời sao?
Thế mà lại không nhất quyết trả giá cho những điều đó Trình thuật về ơn gọi lúc này, nhắc chúng ta rằng chính chúng ta cũng đã từng khước từ những lời mời gọi của Thiên Chúa tới hưởng nguồn vui, mặc dầu bề ngoài chúng ta phải dứt bỏ nhiều thứ sự "buồn bã" của người này rất có ý nghĩa: Anh ta có nhiều tiền, có nhiều của cải lớn, và với sự sung túc này anh ta vẫn không được hạnh phúc. Đó không phải là hình ảnh của phương Tây quá tràn đầy của cải vật chất sao? Nhưng chúng ta hãy đi xa hơn, và hãy can đảm nhìn nỗi đau buồn đang làm tối sắm khuôn mặt của anh. Đấy phải chăng là dấu hiệu hồng ân đầu tiên đã bắt đầu đến với anh sao? Cho đến lúc đó, anh không ý thức được điều cốt yếu mà anh còn thiếu. Anh vẫn tưởng rằng, của cải là đủ. Bây giờ anh mới biết, anh còn có một định mệnh khác.
Lạy Chúa xin biến những nỗi buồn của chúng con trở nên tích cực, có thể đánh thức chúng con ra khỏi không ảo ảnh và ngủ mê. Chúng con đã được tạo dựng cho Chúa. Tâm hồn chúng con, ước muốn của chúng con quá cao không thể chỉ thỏa mãn những của cải hữu hạn trần gian: "Lạy Chúa, xin hãy đến, vì chỉ có Chúa mới làm cho chúng con được no thỏa".
Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ
Một lần nữa, Thánh sử Máccô ghi nhận ánh mắt của Đức Giêsu. Chúa nhìn tôi. Chúa nhìn những người mà tôi thương yêu. Chúa nhìn thế giới của chúng ta. Chúa nhìn những đám đông ở những siêu thị. Chúa nhìn dân chúng trong những nước thuộc thế giới thứ ba. Và cái nhìn này không thể lãnh đạm Người bắt đầu nói:
Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!
Một lần nữa Đức Giêsu tố cáo quyền lực ghê gớm của tiền tài. Đây là một sự cảnh giác thường xuyên trong suốt thời gian rao giảng của Đức Giêsu: "Các ngươi không thể phục vụ Thiên Chúa và Mammon cùng một lúc" (Lc 16, 13).
Người giàu trở nên điên rồ và phi lý. Người ấy tưởng mình không cần gì đến Thiên Chúa nữa (Lc 12,16-20). Người giàu từ từ đóng cửa con tim và không còn thấy người anh em của mình đang đau khổ bên cạnh mình (Lc 16,19-31). Sự giàu sang bóp nghẹt Lời Chúa (Mt 13,22).
Một lần nữa, chúng ta không nên lên án kẻ khác. Hãy nhận mình cũng là những người giàu: Số tiền trợ cấp thất nghiệp của một người Pháp là cả một sản nghiệp đối với một người châu Phi hay châu Á.
Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ.
Sự kinh ngạc của những môn đệ không phải là không có ý nghĩa. Tâm trạng người Do Thái đinh ninh rằng, sự giàu sang là một ân huệ của Thiên Chúa, ý định của Thiên Chúa sáng tạo không phải là để giao cho con người quyền sở hữu và thống trị thế gian này, nhằm xây dựng và làm cho thế gian thêm giá trị sao? (St 1,27-31). Nhưng phải thú nhận rằng, chính chúng ta cũng không chấp nhận lời này của Chúa Kitô. Thế kỷ 20 càng sẵn sàng hơn để đón nhận luân lý cách mạng sau đây:
- Phải chăng chúng ta làm việc để "kiếm tiền", càng nhiều càng tốt.
- Phải chăng chúng ta mong cho con cái chúng ta làm một nghề "có nhiều tiền".
- Phải chăng hàng ngày chúng ta thường bị sự quảng cáo tấn công, thúc đẩy chúng ta tiêu thụ ngày càng nhiều hơn và ám chỉ rằng, càng có nhiều, càng hạnh phúc.
Nhưng Người lại tiếp: "Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa"
Thay vì rút lại sự cứng rắn trong lời vừa nói, Đức Giêsu lại tăng cường một hình ảnh không thể quên được. Đức Giêsu nhà thuyết giảng nổi tiếng, đã có nghệ thuật dùng những kiểu nói gây ấn tượng mạnh và dễ nhớ: Chúng ta không nên làm nhẹ những câu nói này, nại cớ là chúng nghịch lý. Thực sự, chúng nói lên mạnh mẽ rằng, giữa giàu sang và sự cứu rỗi, luôn có tình trạng xung khắc nhau: Chúng ta phải chọn lựa giữa hai kho tàng này, kho tàng trần gian, kho tàng trên trời. Tiền của là cần thiết. Đức Giêsu không phủ nhận điều đó. Tiền của phục vụ chúng ta, Đức Giêsu đồng ý. Nhưng nếu tiền của thống trị chúng ta, và chúng ta trở nên nô lệ của nó, thì Đức Giêsu không thể chịu đựng nổi.
Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: "Thế thì ai có thể được cứu?" Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được"
Lại một lần nữa, cái nhìn của Đức Giêsu, được ghi nhận lần thứ ba trong cùng một trang Tin Mừng. Ở đây Đức Giêsu trích một lời trong Thánh Kinh dành cho Abraham (St 15,14). Mặc dầu tuổi cao, không đủ điều kiện thể lý. Bà Xara sẽ sinh ra một con trai, vì tất cả có thể được đối với Thiên Chúa. Thiên Thần Gabriel cũng đã nói điều này với Mẹ Maria (Lc 1,37). Vậy sau khi lên án khắt khe thái độ chiếm hữu của chúng ta, Đức Giêsu đã mở ra cho chúng ta một niềm hy vọng.
Lạy Chúa, là Chúa tể càn khôn, Chúa đòi hỏi điều không thể làm được. Xin hãy đến giải thoát chúng con! Và tay chúng con sẽ mở ra trước Chúa, để đón nhận những gì còn thiếu trong tình thương của chúng con.
27. Điều cần phải bỏ trên đường theo Giêsu
(Lm. Nguyễn Ngọc Thế)
Vài hàng sơ lược
- Đoạn phúc âm này là bài giáo huấn thứ 3 trong chương 10, sau lời giáo huấn về hôn nhân (10,2-12) và về tinh thần của trẻ em (10, 13-16). Đề tài chính của đoạn này là câu hỏi về sự sống đời đời làm gia nghiệp trên nước Trời, và tinh thần theo Giêsu.
- Đoạn này có thể chia làm 3 phần: (1) từ câu 17-22 là cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa Giêsu và người thanh niên giàu có đi tìm sự sống đời đời làm gia nghiệp. (2) Từ câu 23-27, Đức Giêsu giáo huấn tinh thần nghèo khó cần có trên đường theo Chúa, và cần có để được vào nước Trời. Và (3) từ 28-31, câu hỏi của Phêrô về phần thưởng khi theo Giêsu, và câu trả lời của Giêsu.
Suy niệm
"17 Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?"
- "Giêsu lên đường" trong câu này, là đi tới Giê-ru-salem (ss. Mc 10,32), để Ngài sẵn sàng chịu đau khổ, chịu bắt hại và chịu chết. Và trên đường đó, có một người chạy đến gặp Giêsu. Người này, theo Mt 19,22, là người thanh niên. Theo Adolf Pohl, trong xã hội Do-thái, đàn ông đến 40 tuổi vẫn có thể được gọi là thanh niên. Ngoài ra, so sánh với Lc 18,18-23, thì người hỏi Giêsu là một thủ lãnh. Người này có thể là trưởng hội đường, là quan tòa, hay một thành viên trong hội đường. Vì thế, không biết người anh em trong đoạn phúc âm của chúng ta có phải là một thanh niên hay không? Tuy nhiên, thuận theo Mát-thêu chúng ta cứ coi là một thanh niên.
- Anh ta chạy đến và quỳ xuống trước mặt Giêsu và hỏi. Thái độ quỳ xuống ở đây nhắc nhớ chúng ta đến hình ảnh của người phong hủi quỳ xuống xin Giêsu: "Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." (Mc 1,40) Thái độ này còn có ý nghĩa công nhận Giêsu là một vị Thầy. Vì thế, trong câu hỏi, anh ta đã nói rằng: "Thưa Thầy nhân lành". Tính từ "nhân lành" hay "tốt lành" ở đây được thêm vào, có ý nghĩa chỉ về vị thầy được nhắc trong Mc 12, 14, mà các người Pha-ri-sêu nói về Giêsu: "Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa." Và "tốt lành" ở đây chỉ vị Thầy khiêm nhường, như Gioan Tẩy Giả nhỏ đi, để Thiên Chúa lớn lên: "Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi." (Ga 3, 30). Vâng, quên chính bản thân mình, để tất cả chỉ vì vinh danh Thiên Chúa mà thôi.
- "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Câu hỏi của chàng trai trẻ đặt ra cho vị Thầy tốt lành, trở nên một câu hỏi quan trọng cho mỗi con người trong từng thời đại. Một câu hỏi nói lên lòng khao khát của con người về kho tàng quý giá nhất, về hạnh phúc tuyệt vời và vĩnh cửu, hạnh phúc mà con người không thể tìm thấy trong cuộc sống trên trái đất này. Sự khao khát về sự sống vĩnh cửu, sự sống không bao giờ quen tới chữ "hết" và chữ "chết". Nhưng để cho cuốn phim cuộc đời không "hết" và sự sống con người không "chết", thì cần phải làm gì đây? Vấn nạn của chàng thanh niên thuở xa xưa cũng là vấn nạn của từng người trẻ thời nay. Trước vấn nạn này, chúng ta hãy lắng nghe Giêsu trả lời.
"18 Đức Giê-su đáp: "Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa."
- Đúng theo kiểu của Giêsu, Ngài trả lời bằng cách đặt một câu hỏi cho người đã hỏi. (ss. Mc 10,3). "Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa." Ở đây, chúng ta cũng có thể thắc mắc, tại sao Giêsu lại đặt ra câu hỏi đó. Và tiếp đến tại sao Giêsu lại từ chối tính từ "nhân lành hay tốt lành"?
Câu hỏi Giêsu đặt ra và sự từ chối của Ngài như là một cách thức và "phương tiện" Giêsu dùng để hướng về một điều quan trọng trong câu chuyện này. Điều quan trọng đó nằm trong câu trả lời: "Chỉ một mình Thiên Chúa tốt lành" (ss. Mc 12, 29). Câu trả lời này, theo R. Pesch, có ý nghĩa là, Giêsu qua câu hỏi của người thanh niên về điều cần làm, muốn hướng mọi người về giới răn chính yếu của Thiên Chúa tốt lành. Chỉ có giới răn này là quan trọng, là cần được thực thi. Đó chính là giới răn được nhắc trong Đnl 6,4-5: " Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em)." Điều răn chính yếu này hướng về điều răn khác cũng quan trọng không kém. Đó là: "Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình." Và "chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó." (Mc 12, 31).
19 Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ."
Tiếp đến Giêsu hướng anh chàng thanh niên về các giới răn mang tính cách xã hội, trong tương quan giữa ngưới với người: "Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ." Đây là những giới răn quan trọng được nhắc tới trong Mười điều răn căn bản của Đức Chúa Trời dạy. Mười điều răn này tựu trung lại chính là giới răn: "Yêu người thân cận như chính mình." Ai thực thi những điều răn này thì đang đi trên con đường công chính, và sự sống đời đời thuộc về người đó. Như vậy, anh chàng thanh niên của chúng ta có sống theo các giới răn đó không?
20 Anh ta nói: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ."
Thật tuyệt vời! Còn gì bằng nữa. Từ năm 13 tuổi anh thanh niên đã sống theo các giới răn. Vâng, như các trẻ em Do-thái khác, khi được 13 tuổi anh đã đón nhận trách nhiệm sống tương hợp với những điều Gia-vê truyền. Theo Billebeck, thì Do-thái giáo coi những người, dù ở trong một xã hội sô bồ và tội lỗi, vẫn sống theo lề luật mà Mô-sê truyền là những người công chính. Đó là 365 điều răn cần làm và 248 điều răn cần tránh trong các sách của Mô-sê.
Cuộc gặp gỡ giữa Giêsu và chàng thanh niên có thể chấm dứt ở đây, và anh ta có thể ra về trong hân hoan. Nhưng không, chính Đức Kitô không để cho anh đi dễ dàng như vậy. Ngài lên tiếng và thêm vào một điều quan trọng khác kế bên các giới răn trên. Điều đó người thanh niên cần có để có thể đạt được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
21 Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi."
Trước câu trả lời của chàng thanh niên, Giêsu hướng nhìn anh và đem lòng yêu mến. Ở đây, theo R. Pesch, thì đó không phải là kiểu Giêsu biểu lộ cảm tình của mình với anh thanh niên, mà là một thái độ cao thượng của người Thầy có quyền dạy dỗ về giới răn và quyết định giới răn. Sau đó, Giêsu đã chỉ ra một điều thiếu thốn, kế bên những giới răn mà anh thanh niên đã hiểu và sống theo. Đó là: "hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." Trong Mát-thêu 19, 29 thì: ""Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." Điều Giêsu đòi hỏi liên hệ đến chính sự sống và và vệnh mạng của anh thanh niên. Một sự đòi hỏi tận căn cho những con người muốn sống hoàn thiện.
Thực ra, nếu so sánh với kho tàng trên trời mà Giêsu hứa ban, thì của cải tài sản trên trái đất này có là gì đâu. Nói vậy, nhưng thực tế lại hoàn toàn khác. Có biết bao người đã coi của cải trần gian như ông chủ của mình, và bị lệ thuộc vào nó hoàn toàn. Hơn nữa, cái mình đang có trong tay bao giờ cũng quý, và cái mà mình được hứa ban cũng thật quý. Nhưng ai dám đánh đổi hay bỏ hết cái mình đang có trên tay, đề rồi nhận cái mà mình được hứa trong tương lai? Rồi còn cái "lòng tham vô đáy" của con người nữa chứ.
Dù vậy, vẫn có rất nhiều anh chị em trong lịch sử đã thấu hiểu cái giá trị cao quý của Nước Trời, nên chẳng màng tới của cải trần gian. Đó là Phan-xi-cô A-si-si, là Ê-li-sa-bét miền Thue-ring-gen, là I-nhã thành Lô-giô-la, và một vị thánh khác rất gần gũi với người Châu Á, Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Tất cả đều là những con nhà quyền quý và giàu sang, nhưng đã rũ bỏ tất cả những vật hồng trần, để trở nên con người tự do thực sự. Đây chính là điều Giêsu muốn nói trong đoạn phúc âm này. Bỏ hết của cải để được tự do cho Nước Chúa, tự do cho Tin Mừng, tư do theo Đức Kitô, và cùng với Ngài sống hoàn toàn cho tình yêu thương. Chắc chắn phần thưởng của họ không gì khác hơn là kho tàng lớn nhất. Đó là Nước Trời. Về điều này, R. Pesch đã giúp cho chúng ta đọc những tâm tình của các thầy Ráp-bi Do-thái giáo. Dưới đây là một trích dẫn mang suy nghĩ "công trạng và phần thưởng": "Người công chính rất thích chờ đợi giây phút cuối cùng, họ chẳng sợ gì khi lìa bỏ cuộc đời này. Vì ở nơi Thiên Chúa, họ có một kho tàng từ chính những công trình của mình. Kho tàng đang được giữ gìn cho họ trong phòng cất giữ đồ quý." Tuy nhiên, kho tàng ở trên trời không phải là thước đo, bắt người có niềm tin phải sống sao cho có hiệu quả, phải sinh ra lợi ích này hoa trái kia. Suy nghĩ của Giêsu không theo suy nghĩ của các Ráp-bi, "công trạng và phần thưởng". Kho tàng trên trời là một hướng đích, giúp cho người có niềm tin định hướng cho hành động của mình sao cho được tốt, có thái độ hợp tình hợp lý với anh chị em bên cạnh, từ chối những gì mang mùi vị của sự dữ, không làm cho người bên cạnh bị tổn thương. Kho tàng trên trời giúp biết ý thức sống công chính với người nghèo, sẵn sàng chia sẻ và nâng đỡ họ, ... Tóm lại, có thể nhắc đến nguyên tắc vàng trong Mt 7,12: "Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta."
Như vậy, ai nhận ra được giá trị cao quý của Nước Trời, và sống theo tinh thần đó, thì giống như những người được nhắc trong dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý ở Mt 13, 44-46: "Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. "Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp.Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy."
Và người đó đang bắt chước Đức Kitô, Đấng
"vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự." (Pl 2, 6-8).
- Cùng với Đức Kitô, người sống tinh thần từ bỏ tất cả của cải, và chỉ hướng về Nước Trời, đang sống chứng tá giữa lòng thế giới đầy phức tạp, với chủ nghĩa hưởng thụ, đề cao của cải vật chất, tiện nghi hiện đại, đến nỗi chẳng còn màng gì đến nhân phẩm con người, đến lòng bác ái cần có trong xã hội. Trong thế giới này thiếu vắng văn minh của tình thương. Theo Carlo Maria Martini, tinh thần nghèo khó của Kitô giáo cần trở nên dấu chỉ sống động cho sự đoàn kết và tương trợ giữa con người với nhau. Đàng khác, tinh thần sống nghèo khó của người Kitô hữu cần mang một "khuôn mặt" khác nữa. Sự nghèo khó của chúng ta cần phải tự tách biệt ra khỏi thế giới này, trở nên lời phê bình đối với thế giới xung quanh chúng ta. Sự nghèo khó của Kitô giáo cần phải đem lại thước đo giá trị khác về con người và vật chất. Nghĩa là, phẩm giá con người không thể được đo và đánh giá theo chuẩn mực của danh vọng địa vị, của tiền bạc vật chất. Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng, con đường nghèo khó cũng chính là con đường giải phóng, con đường của niềm vui và mừng rỡ. Kinh nghiệm này nối kết chúng ta với Đức Giêsu Kitô. Con đường nghèo khó này giúp cho chúng ta thấu hiểu và cảm nhận được sức mạnh của Thánh Giá.
Ai đã cảm nhận được phần nào niềm vui này, ai đã tập sống chú ý và sống thật giản dị đơn sơ, sống khiêm nhường và ý thức thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, thì người đó sẽ khám phá nhiều điều mới trong những trang của Tin Mừng. Không có sự cố gắng sống tinh thần nghèo khó này, các trang giấy Tin Mừng luôn là những trang giấy "câm lặng".
Ai cất bước đi trên con đường nghèo khó của Đức Kitô, thì lời của Đức Kitô sẽ trở nên sống động đối với người đó. Lời của Đức Kitô sẽ bắt đầu ngân vang lên những khúc nhạc thật tuyệt vời, đem lại cho cuộc đời nhiều niềm vui, bình an và cuộc đời thật đáng sống, vì cuộc đời đẹp lắm thay.
- Ngoài ra, liên quan đến câu nói của Đức Kitô, Anselm Grun, một tu sĩ người Đức thuộc tu viện Biển Đức Muensterschwarzach, đã có những suy niệm khá lý thú. Trước hết cha đã trích dẫn lời của Evagrius (346-400), một vị ẩn sĩ khắc khổ, và một nhà văn người Hy-lạp: "Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, hãy vác lấy thánh giá của anh trên vai anh, để anh có thể cầu nguyện sốt sắng, mà không bị chia trí gì cả." Tiếp đến, cha Grun đã giải thích lời này như sau.
Evagrius đã thay đổi câu nói của Đức Kitô theo một ý nhất định. Trong phúc âmcủa Mát-thêu Chúa Giêsu nói với người thanh niên: "Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." (Mt 19,21) Evagrius đã đồng nhất sự theo chân Đức Kitô với việc cầu nguyện thật sốt sắng. Thật là táo bạo, khi thay đổi ý nghĩa lời của Giêsu. Và như vậy, việc theo chân Đức Kitô được hoàn thiện trong cầu nguyện, trong chiêm niệm.
Nhưng điều kiện cho việc cầu nguyện sốt sắng không chia trí là, chúng ta phải bán tất cả những gì mà chúng ta đang bám vào và lệ thuộc vào, và cho người nghèo. Chúng ta cần phải trở nên tự do hoàn toàn, tự do với tất cả những gì chúng ta đang sở hữu. Không chỉ là những vật chất bên ngoài, mà là tất cả những gì mà chúng ta đã đồng nhất hóa với chúng: như thói quen của chúng ta, suy nghĩ của chúng ta, công việc của chúng ta, lo toan của chúng ta, kết quả tốt đẹp và cả tiếng tốt của chúng ta. Sự tự do nội tâm là điều kiện cho việc cầu nguyện, mà trong đó chúng ta được trở nên một với Thiên Chúa.
Evagrius cũng nêu lên một điều kiện khác. Đó là chiêm niệm (contemplation). Chúng ta cần phải đón nhận thánh giá và vác trên vai mình. Thánh giá là sự hiệp nhất của tất cả mọi sự đối lập tương phản. Chúng ta cần phải đón nhận vào trong mình tất cả mọi tương phản, cả cái bóng của chúng ta, cái bóng làm cho hình ảnh lý tưởng của chúng ta bị lu mờ. Đón nhận Thánh Giá cũng còn có ý nghĩa là nói «Vâng» với tất cả những gì đi ngang qua chúng ta, nói «vâng» với đau khổ đến với chúng ta, nói « vâng » với thất bại, nói «vâng» với tương quan đổ vỡ, nói «vâng» với những «vết rách» trong cuốn sách lịch sử cuộc đời của chúng ta.
Chỉ khi chúng ta hòa giải với Thánh Giá đang ở trên cuộc sống của chúng ta, thì chúng ta mới có khả năng cầu nguyện sốt sắng và không chia trí. Chỉ có những người đón nhận tất cả một cách vô điều kiện, thì mới có thể cầu nguyện thực sự. Còn không, thì người đó sẽ bị quấy rầy thường xuyên, bởi những gì khó chịu ở bên trong mà người đó đang chống lại.
22 Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
- Khi nghe lời của Đức Kitô, anh chàng thanh niên của chúng ta sầm nét mắt lại. Thái độ hăng say đầu tiên đã biến mất. Vâng, đụng tới tiền bạc là thế! Tiền bạc đã làm cho Anh không thể tìm thấy nơi Giêsu ách êm ái và gánh nhẹ nhàng được (ss. Mt 11,30). Vì vậy, anh ta bỏ đi, trở về lại với kho tàng của mình, để tiếp tục gánh cái gánh nặng nề đang đè trên vai mình. Không chỉ thế, bỏ đi nhưng bỏ đi một cách buồn rầu nữa chứ. Anh ta buồn rầu vì suy nghĩ của anh ta về "công trạng và phần thưởng" không được phê chuẩn hoàn toàn? Hay anh ta buồn rầu, vì phải lìa xa Giêsu, sau khi đã nhận được một chút "hơi thở" tốt lành, nhân ái của Giêsu? Nhưng anh ta còn thiếu cái gì để có thể từ bỏ được của cải vật chất? Chắc chắn rằng, anh ta chưa yêu Chúa hơn yêu của cải của mình. Của cải của anh ta nhiều quá, đến nỗi che mắt anh ta, làm cho anh ta không còn thấy Chúa nữa, không còn sáng suốt để nhận định giá trị đích thực của vật chất là gì. Vâng, thật tiếc vì anh ta chưa hiểu được điều: "Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại." (1 P 1,18) Hơn nữa, con người như một bình sành dễ vỡ. Một lúc nào đó, bỗng chợt anh ta bị một tai nạn gì hay mang cơn bệnh gì, thì thử hỏi rằng, của cải nhiều vô kể có đi theo với anh ta xuống hầm mộ không? Tất cả những của cải dù có lớn kếch sù đến mấy cũng không thể "mua được chiếc hỏa tiễn chở" anh ta lên Trời.
- Ngoài ra, anh ta còn thiếu thái độ bình tâm. Thái độ bình tâm coi Chúa và thánh ý Chúa là trên hết, đến nỗi: "chúng ta không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu và tương tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa chọn cái gì dẫn đưa chúng ta tới cứu cánh của mình hơn cả." (Linh Thao số 23)
- Thái độ bình tâm này giúp chúng ta biết hướng con tim của mình về trời. Hướng con tim về trời nghĩa là chúng ta biết lo lắng những điều lớn hơn cả sự sống của mình, lớn hơn cả của cải, sự nghiệp, gia đình và bạn vè, lớn hơn cả những lời hứa hẹn và dự định tương lai. Theo Henri J. M. Nouwen, các điều đó là những điều thuộc về Thiên Chúa: Sự thật, tình yêu, niềm tin, ánh sáng và thánh ý của Chúa. Chừng nào chúng ta còn hướng con tim mình về những điều này, thì lý trí của chúng ta sẽ không còn nghĩ đến những "chuyện vớ vẩn", những sự vật hấp dẫn chúng ta, đến nỗi chúng ta luôn muốn có, nhưng thực sự thì chúng ta chẳng cần đến chúng. Chừng nào chúng ta còn hướng về chân lý, ánh sáng và sự sống của Thiên Chúa là tình yêu, cũng như đi tìm thánh ý Ngài, thì chúng ta còn tham dự vào trong cộng đoàn của Thiên Chúa. Đấng luôn hiện diện ở đó ngay trong lúc này. Chính Ngài sẽ ban tặng cho chúng ta những gì chúng ta thực sự cần tới. Như thế, thì những lo lắng cuộc đời của chúng ta trở thành lời cầu nguyện, và những cảm giác bất lực của chúng ta sẽ được biến đổi và thánh hóa trong sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa.
- Thực thế, nếu chúng ta hướng lòng mình vào của cải, vào những lo toan làm sao được sung sướng tiện nghi hơn, nhiều tiền của hơn để hưởng thụ, thì chúng ta vẫn không thể làm cho cuộc sống của mình dài thêm một gang tấc nào cả. Vì thế, điều khôn ngoan cần có ở đây, là không chỉ mong sao cho được sống sung sướng trên nhung lụa, mà còn dám bỏ nhung lụa để chạy đến và nép vào lòng của Thiên Chúa; dám bỏ tất cả, để tự do hoàn toàn trên đường làm con trai con gái của Thiên Chúa, Đấng sẽ đem lại cho chúng ta sự sống đời đời làm gia nghiệp.
- Nói thế, nhưng không phải như vậy là chúng ta không còn "tham lam" của cải, và bám chặt vào chúng, và ngày ngày lo toan sao có thêm nhiều hơn nữa. Khuynh hướng này vẫn ở đó trong chúng ta. Như vậy, chúng ta sống trong tình trạng "què quặt". Một đàng là vậy, đàng khác thì lại mong ước điều khác hẳn. Vâng, chúng ta không bao giờ thoát khỏi cái ước muốn của chúng ta, và thoát khỏi lòng tham muốn có thêm của cải, để trở nên con người tự do thực sự. Có lẽ hiểu được điều đó mà Tagore đã lên tiếng: "Ước muốn trong tôi nhiều vô kể và tiếng nói tôi than nghe não nuột, thảm thương." (Lời dâng, 14)
Trong tình trạng "què quặt" này, Henri J. M. Nouwen đã khuyên chúng ta biết luôn trở về và biết ý thức hướng trọn tâm hồn mình về với Chúa, Đấng Tốt Lành vô cùng. Ở bên Ngài chứ không phải ở bên cạnh "đống của cải", chúng ta có thể thảnh thơi và mỉm cười về chính cái ích kỷ của mình, lòng tham vô đáy của mình, và song song luôn mở đôi mắt mình và đôi tai mình cho sự bắt đầu mới, bắt đầu tập sống tinh thần từ bỏ, tinh thần làm con cái Thiên Chúa, những người con thực sự tự do trên đường theo Thầy, và sống tinh thần của Thầy. Và khi đi trên con đường của Đức Kitô, chúng ta không cần phải lo lắng quá đỗi cho chính mình. Vì "Ngày lại ngày người làm tôi xứng đáng với tặng vật lớn lao giản đơn người ban, mà chẳng cần để tôi xin hỏi – này bầu trời, ánh sáng, này xác thần, này trí tuệ, này cuộc đời – cứu tôi khỏi những hiểm nguy của vũng lầy ước muốn." (Lời dâng, 14)
23 Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! "24 Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: "Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao!25 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa." 26 Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: "Thế thì ai có thể được cứu?"
- Khi anh chàng thanh niên bỏ đi, Giêsu liền rao mắt nhìn chung quanh và nói với các môn đệ. Cái nhìn chung quanh của Giêsu chính là cái nhìn giáo dục, cái nhìn dạy bảo những môn đệ gần gũi với Ngài nhất. Ngài dạy bảo điều gì? "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!" Chắc chắn rằng, việc vào Nước Trời là một quà tặng của Thiên Chúa ban, nhưng không vì thế mà có nghĩa là sẽ dễ dàng nhận được món quà này. Trở về lại với Mc 9, 43.45.47, chúng ta sẽ thấy Giêsu đã nói mạnh bạo như thế nào. Vâng, "thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục." (Mc 9,47)
Trước những lời của Giêsu, các môn đệ sững sờ. Vâng, không ngạc nhiên sờ sững sao được, khi hiểu được cửa vào Nước Thiên Chúa đâu phải là cánh cửa rộng thênh thang, mà chính là cánh cửa hẹp: "Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy." (Mt 7,13-14)
Trở về với Mác-cô, chúng ta thấy cánh cửa hẹp của Nước Trời Giêsu đã so sánh với cánh cửa "lỗ kim". Cánh cửa rất nhỏ tại bức tường vào thành Giê-ru-sa-lem. Thật là tương phản biết bao, khi con lạc đà đứng trước "lỗ kim" này.
Nghe tới hình ảnh so sánh rất tương phản của Giêsu, các môn đệ lại sững sỡ hơn nữa, và các ông đã hỏi nhau: "Thế thì ai có thể được cứu?" Câu hỏi này của các môn đệ được Giêsu trả lời như sau:
27 Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được."
Câu trả lời của Giêsu có hai vế. Vế đầu tiên là: ""Đối với loài người thì không thể được." Vế này chỉ là phần phụ. Vế thứ hai chính là điều mà Giêsu muốn nói rõ: "nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được." Ở đây, chúng ta nhớ lại câu chuyện của bà Sa-ra, đã không tin vào lời của Chúa hứa cho bà sẽ sinh con dù tuổi đã cao. Sau đó, Chúa đã hiện ra với bà và ông Áp-ra-ham, và Ngài đã nói rằng: "Nào có điều gì kỳ diệu vượt sức ĐỨC CHÚA?" (St 18,14). Còn Gióp, dù bị rơi vào trong hoàn cảnh đau khổ, nhưng ông vẫn tin tưởng vào Chúa, Đấng sẽ cứu thoát. Ông đã cầu nguyện như sau: "Con biết rằng việc gì Ngài cũng làm được, không có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu." (G 42,2). Thực vậy, cuối cùng " ĐỨC CHÚA đã khôi phục tài sản cho ông Gióp...ĐỨC CHÚA đã tăng gấp đôi những gì ông Gióp đã có trước kia." (G 42, 10)
Chữ "nhưng" nổi tiếng mà Đức Giêsu nhắc đến ở đây thật có ý nghĩa sâu sa. Chữ "nhưng" đó Thiên Chúa đã nói với Sa-ra, khi bà thầm cười, như cười hình ảnh con lạc đà với lỗ kim. Chữ "nhưng" đó Gióp đã hiểu rõ ràng, nên đã không thầm cười, mà đầy tin tưởng cầu nguyện với Gia-vê Thiên Chúa, Đấng chắc chắn sẽ cứu độ ông. Và chữ "nhưng" này còn được làm nổi bật nơi Áp-ra-ham, chồng của bà Sa-ra: " Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế. Ông đã gần một trăm tuổi, nhưng ông vẫn vững tin không nao núng, khi nghĩ rằng thân xác ông cũng như dạ bà Xa-ra đều đã chết. Ông đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện. Bởi thế, ông được kể là người công chính." (Rm 4, 18-22)
Trở về lại với cuộc đời thường ngày, nhiều lần tôi cũng đọc được chữ "nhưng" này trong một số cuộc đời. Vâng, có cuộc đời bị thế lực sữ dữ đe dọa và hãm hiếp, nhưng dù vậy người anh chị em đó vẫn luôn bám vào Chúa, vì tin rằng, sự dữ dù lớn đến thế nào, nhưng vẫn không lớn bằng tình yêu của Chúa. Còn cuộc đời khác, bị đồng tiền hãm hại, bóc lột, nhấn chìm xuống vực sâu, nhưng vẫn can đảm vươn lên, không nằm chết dưới bóng đêm trong hố sâu thăm thẳm kia, vì người anh chị em đó tin rằng, đồng tiền dù có giá, dù con người ai ai cũng cần đến, nhưng nó không là ông chủ của mình, mà Ông Chủ đích thực của đời người là Thiên Chúa, đấng mạnh mẽ hơn đồng tiền nhiều lắm. Vâng, dù một số người cứ tưởng rằng: "Có tiền mua tiên cũng được", nhưng họ đã lầm to, dù trả giá cao đến mấy, họ vẫn không bao giờ mua Chúa được đâu. Còn cuộc đời khác thì đang quằn quại đau đớn, vì bị người thân yêu nhất của mình bỏ rơi, cái đau thê thảm nhất, nhưng dù sao thì người anh chị em đó trong cơn đau vẫn không đánh mất niềm hy vọng, không đánh mất niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, vào Thần Khí của Ngài, Đấng có thể thúc đẩy một tâm ác phải lên đường trở về với chính lộ, với chánh niệm, trở về lại với tình yêu nhân từ của Chúa, và từ đó trở về với mái ấm mà mình đã lỡ dại một lần bỏ rơi và đi hoang.
Thực, dù con người và thế giới này có bất lực hoàn toàn, "nhưng" đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.
28 Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!"
Câu 28 này nối tiếp với câu chuyện anh chàng thanh niên hỏi Chúa, và ở đây Phêrô xuất hiện như là người đại diện cho các anh em. Ông lên tiếng hỏi Giêsu: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!" Một cách nào đó, Mác-cô đã đặt câu chuyện của Phêrô ở đây tương phản với câu chuyện của người thanh niên, đã không dám bỏ mọi sự theo Chúa. Song song với Mác-cô, câu hỏi của Phêrô trong phúc âm Mát-thêu rõ hơn một chút: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?" Đây là câu hỏi mà các nhà chú giải thường giải thích theo cái nhìn "công trạng và phần thưởng", tương hợp với suy nghĩ của các Ráp-bi. Theo Adolf Pohl, thì Giêsu đã đón nhận câu hỏi của Phêrô một cách bao dung. Ngài cũng đã trả lời Phêrô rõ ràng, nhưng câu trả lời này không theo suy nghĩ của các thầy Ráp-bi, cũng theo suy nghĩ mang tính cách luân lý, mà là một lời hứa:
29 Đức Giê-su đáp: "Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, 30 mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.
- Trước hết, đọc kỹ hai câu này, chúng ta thấy Mác-cô trong câu 30, đề cập đến những gì các môn đệ nhận được ngay bây giờ, thì lại không nhắc đến cha, mà chỉ là mẹ và anh chị em. Theo Pesch, thì ở đây trong cái nhìn của Giêsu, chỉ có một cha trên trời mà thôi, và Ngài muốn hướng mọi người về Cha: "Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời." (Mt 23,9). Cha trên trời chình là "nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất." (Ep 3,15) Và trong câu 30, Giêsu nhắc đến sự ngược đãi, có nghĩa là Giêsu hướng về sự bắt bớ mà các môn đệ sẽ hứng chịu, khi thi hành sứ vụ truyền giáo trong thời giáo hội tiên khởi
- Ngoài ra, câu trả lời của Giêsu nhắc nhớ đến sự đòi hỏi của Ngài giành cho những ai muốn theo Ngài: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá." (Mc 1, 16), và "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy." (Mc 8, 34b-35) Như vậy, động lực đầu tiên thúc đẩy các môn đệ từ bỏ là theo Giêsu, và động lực thứ hai là vì Tin Mừng, Tin Mừng mà Giêsu rao giảng: "Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa." Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng." (Mc 1,14-15)
Những gì các môn đệ bỏ lại đàng sau đều là những con người gần gũi, và những nhu cầu rất cần thiết cho đời sống thường ngày. Đó là nhà cửa, là gia đình... Nhưng đâu phải vậy mà các ông phải sống vất vưởng nơi đầu đường xó chợ. Cuộc đời của các ông giờ đây là cuộc đời của Đức Kitô, một cuộc đời của người gieo giống đem hạt giống Tin Mừng rải khắp mọi nơi, một cuộc đời đến với những anh chị em nghèo khổ, là cuộc đời luôn cất lời để rao giảng về Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng cứu độ tất cả mọi người. Chính trong sứ vụ cao quý này, mà các ông đã nhận lại được biết bao nhiêu. Vâng, lời nói của Giêsu: "ngay bây giờ" là lời nói rất đúng. Nếu ngồi chiêm ngắm cuộc đời của những người chân tu theo Chúa thực sự, và sống hoàn toàn cho Tin Mừng, chúng ta sẽ nhận ra ngay ở đời này họ đã nhận được biết bao nhiêu là nhà cửa, là ruộng đất. Rồi cả cha mẹ, lẫn anh chị em, con cái nữa. Mà tất cả lại là "gấp trăm" nữa chứ! Cái "gấp trăm" này tương hợp với con số tăng trưởng 30, 60 và 100 của dụ ngôn người gieo giống (ss. Mc 4, 1-20)
Những người từ bỏ hoàn toàn giờ đã được lại tất cả và còn nhiều hơn thế nữa. Đó là mẹ Tê-rê-sa, người mẹ có biết bao nhiêu con cái nghèo nàn. Là Frere Roger có biết bao người trẻ là môn đệ, và con mình. Và điều quý báu nhất là Mẹ Tê-rê-sa và Frère Roger trở nên những người anh chị em của Đức Kitô: "Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi." (Mc 3,35).
Cả hai chẳng thiếu thốn nhà cửa và ruộng đất. Nhà cửa ở khắp mọi nơi trên thế giới, ruộng đất tại mọi ngõ nghách của trái đất này. Không chỉ thế, món quà lớn nhất mà Giêsu hứa ban đó là "sự sống vĩnh cửu ở đời sau." Sự sống mà anh chàng thanh niên đã ao ước. Sự sống ở bên Thiên Chúa, trong tương quan gần gũi với Người, tương quan như cha với con vậy. Sự sống thông hiệp với tất cả các thiên thần, các thánh và các anh chị em, những người con yêu dấu của Chúa ở trên thiên quốc.
Một cách nào đó, Thiên Quốc đã được bắt đầu ngay từ bây giờ, nơi các môn đệ của Đức Kitô đang sống vì Chúa và vì Tin Mừng. Nơi đó, các ông đã trở nên những người anh em ở bên Đức Kitô.
31 Quả thật, nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu."
Câu này thường xuất hiện trong phúc âm nhất lãm. Lúc thì trong bối cảnh này, lúc thì trong bối cảnh khác, và có những chủ đích khác nhau. Như trong dụ ngôn thợ làm vườn nho trong Mt 20, 1-6 hay trong Lc 13,30, khi Đức Giêsu khi lên Giê-ru-salem, đã rao giảng trên đường, và Ngài đã nhắc đến điều này: "Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót."
Còn trong đoạn Tin Mừng của chúng ta, thì lời của Đức Kitô mang âm thanh thật an ủi. Trong sự sụp đổ của ngày cánh chung, tất cả kẻ chết sẽ chỗi dậy, người nghèo khó sẽ được tặng ban, kẻ đói khát sẽ được no thỏa, người buồn sầu sẽ được ủi an, ké bé nhỏ sẽ trở thành "người lớn", người đau yếu sẽ mạnh khỏe, kẻ bị tù đày sẽ được giải thoát, và người rốt hết sẽ nên trước hết.
Ngoài ra, với câu 31 này, Mác-cô muốn nêu bật chủ đề mà ông muốn nói trong đoạn 10, 17-31. Đó là chủ đề trở về và theo chân Chúa. Vâng, những ai nhờ giàu có, địa vị, và quyền lực mà trở nên những người trước hết, thì họ sẽ trở nên người cuối hết trong ngày cánh chung, vì họ đã không từ bỏ được của cải, địa vị và quyền lực. Còn những ai trong cuộc sống này chẳng có gì cả, và cũng không là ai nổi tiếng và danh giá cả, mà chỉ là người môn đệ đơn sơ của Đức Kitô, những người ngồi ở chỗ cuối cùng trong "căn phòng thế giới" này, thì họ sẽ trở thành những người trước hết trong "căn phòng Thiên Quốc", với sự sống vĩnh cữu.
10/10 Ưu tiên là tuân giữ lời Chúa
- Viết bởi Lc 11, 27-28
Ưu tiên là tuân giữ lời Chúa.
Thứ Bảy tuần 27 thường niên.
"Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy".
Lời Chúa: Lc 11, 27-28
Khi ấy, Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ cất tiếng nói rằng: "Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!" Nhưng Người phán rằng: "Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn".
Suy Niệm 1: Cưu Mang Lời Chúa
Chúa Giêsu đã đến để đem Tin Mừng cứu độ cho nhân loại. Nơi nào Ngài đặt chân đến, thì nơi đó Vương quyền và Nước Thiên Chúa xuất hiện.
Nhận thấy quyền năng và sự khôn ngoan nơi các phép lạ cũng như lời nói và việc làm của Chúa Giêsu, một người phụ nữ trong đám đông không thể cầm mình được. Bà đã lên tiếng ca ngợi Chúa Giêsu cách gián tiếp bằng cách ca ngợi người mẹ đã cưu mang Ngài: "Hạnh phúc thay bà mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm". Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Ðúng hơn phải nói rằng: "Hạnh phúc thay kẻ lắng nghe và giữ Lời Thiên Chúa".
Chúa Giêsu không có ý phủ nhận vai trò của Mẹ Maria trong việc cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Ngài; nhưng qua những lời trên đây, Ngài mạc khải mối tương quan sâu xa giữa Ngài và Mẹ Maria; mối tương quan ấy không chỉ dừng lại ở huyết nhục, nhưng hơn ai hết, Mẹ là người đã triệt để lắng nghe và giữ Lời Thiên Chúa: cả cuộc đời Mẹ, từ biến cố Truyền tin cho đến khi đứng dưới chân Thập giá, Mẹ đã đón nhận Lời Chúa, qua tiếng Xin Vâng.
Một đời sống đạo đức gương mẫu vẫn luôn là một hấp lực và tác động người khác hơn cả những gì được viết trong sách vở. Mẹ Maria đã nêu gương cho chúng ta trong việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Ðó là mối phúc mà ai trong chúng ta cũng có thể đạt được. Ước gì chúng ta tìm được hạnh phúc trong việc cưu mang Lời Chúa: cưu mang bằng cách lắng nghe, đón nhận và tuân giữ, để rồi một khi Lời Chúa đã trở thành sức sống, chúng ta có thể đem sự sống đó đến cho những người xung quanh.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Lắng Nghe Và Sống Thực Hành Lời Chúa
"Phúc cho những ai lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành". Chúng ta gặp thấy nơi đây một mối phúc khác nữa, ngoài tám mối phúc đã được Chúa Giêsu công bố trong bài giảng trên núi, và chúng ta có thể gọi mối phúc được nhắc đến nơi đây là mối phúc "lắng nghe Lời Chúa và sống thực hành Lời Chúa". Ðây là lời chúc phúc Chúa Giêsu nói không những cho Mẹ Maria mà còn cho tất cả mọi người. Ðáp lại lời của người nữ, đám đông dân chúng chúc tụng Mẹ Maria vì lý do tự nhiên phàm trần là cưu mang và nuôi dưỡng Chúa Giêsu: "Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm", thì Chúa Giêsu mạc khải lý do sâu xa hơn: mối phúc được xây dựng trên nền tảng siêu nhiên là lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Khi trả lời như vậy, Chúa Giêsu không phải là không muốn làm vinh danh Mẹ Maria nhưng Chúa muốn nêu chỉ cho dân chúng thời đó biết và cho chúng ta hôm nay thấy rõ nền tảng của mối phúc mà Mẹ Maria đang vui hưởng, đó là lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành.
Hơn ai hết, Mẹ Maria là kẻ đầu tiên đã lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành khi Mẹ thưa: "Vâng, này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi điều Ngài truyền". Lời thưa "Xin vâng" của Mẹ Maria khai mở một thế giới mới của ơn cứu rỗi và của sự sống mới. Mẹ đã trở nên gương mẫu cho mọi người Kitô để lắng nghe và thực hành lời Chúa dạy, và mối phúc lắng nghe lời Chúa và sống thực hành cũng được mở ra cho tất cả mọi người thuộc mọi thời đại.
Mọi người, mọi thời đại, đều có thể hưởng được mối phúc thật khi họ biết khiêm tốn lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Mối phúc lời Chúa này không phải là độc quyền Mẹ Maria, nhưng Mẹ đã đi trước nêu gương và muốn cho chúng ta sống như Mẹ đã sống. Nơi tiệc cưới Cana, Mẹ đã nói với các gia nhân hãy làm theo lời Chúa Giêsu truyền. Và hành động vâng phục của họ đối với lệnh Mẹ Maria "hãy làm theo lời Ngài truyền", hành động đó đã dọn sẵn mọi sự để Chúa làm phép lạ mang đến niềm vui cho những người chung quanh.
Lạy Cha.
Nhờ qua Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, chúng con xin chúc tụng Cha vì đã trao ban cho chúng con một mẫu gương lắng nghe lời Chúa và sống thực hành. Xin Cha giúp chúng con noi gương Mẹ Maria sống trọn vẹn lời thưa: "Này con là tôi tớ Chúa, xin vâng theo như lời Ngài truyền, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, vâng Ý Cha dưới đất cũng như trên trời".
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 3: Lời Chúa hơn mối dây ruột thịt
Khi Đức Giêsu đang giảng dạy, thì giữa đám đông có mộtng phụ nữ lên tiếng thưa với Người: "Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!"Nhưng Người đáp lại: Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa." (Lc. 11, 27-28)
Một lần nữa, Đức Kitô thiết lập những ưu tiên. Người không đối lập lời Chúa với những mối dây liên hệ ruột thịt. Người dạy lời Chúa phải vượt lên trên liên hệ ruột thịt. Này, một phụ nữ vô danh được Người cho một bài học. Chị đã không thể kìm hãm được sự cảm phục tinh tế của chị đối vời Người, nên chị đã thốt lên những lời, không dám trực tiếp nói với Người như lòng chị muốn tung hô: "Lạy Thầy, Thầy thật sáng chói vinh hiển, không ai nói được như vậy. Không ai có kiến thức, có lòng nhân hậu, có tình yêu cao quý là lùng như Thầy". Chị chỉ gián tiếp theo bản năng phụ nữ ca ngợi Mẹ Đức Giêsu, Ngài đã sinh cho thế gian một người con số một, một người Thầy độc đáo!: "Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm".
Nhưng Đức Kitô đã đáp lại đối ứng từng chữ từng chữ như câu đối: "Phúc hơn kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Chúa".
Đức Kitô không chê bỏ dây ruột thịt đã kết hợp Người với Mẹ Maria. Người biết phải cần đến bản tính nhân loại của Mẹ Người, nhờ đó, Người cứu độ loài người. Nhưng Người muốn cho chị này hiểu về hạnh phúc thật trước mặt Thiên Chúa, không hệ ở con ruột thịt dù nó có trong sáng cao thượng. Cũng thế, Chúa không đánh giá chúng ta theo phẩm chất trí thức dù có chói sáng, theo địa vị trong Giáo Hội, theo chức vụ lãnh nhận và theo vinh quang rạng rỡ của ta.
Đối với Người, chúng ta có giá trị nhờ chúng ta có biết lắng nghe lời Chúa, biết hăng say lãnh nhận sứ điệp của Người với lòng yêu mến chân thành, biết quảng đại thực thi lời Chúa hằng ngày, biết sốt sắng làm cho mọi người cảm nhận lời Chúa, biết trung thành tuân giữ lời Chúa dù gặp những lúc gian lao khó khăn cũng như những lúc được vui mừng thuận lợi. Chúng ta có giá trị nhờ ở thiện chí vững chắc và không ngừng bước theo con đường thánh giá của Chúa luôn luôn mở ra trước mắt của chúng ta ánh sáng phục sinh cho ta ở đời này cũng như ở trời cao. Chúng ta có giá trị nhờ thực thi bác ái với người thân cận, nhờ ở hiến thân phục vụ những đại nghĩa công chính, phục vụ người nghèo và người cùng khổ thuộc mọi giới.
Đó là hạnh phúc thật, không còn ở đâu nữa.
GF
09/10 Quyền năng của Chúa
- Viết bởi Lc 11, 15-26
Quyền năng của Chúa.
Thứ Sáu tuần 27 thường niên.
"Nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Lời Chúa: Lc 11, 15-26
Khi ấy, (lúc Chúa Giêsu trừ quỷ), thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: "Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ". Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống.
Nhưng Người biết ý của họ, liền phán: "Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tán hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán.
"Khi thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: "Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi". Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước".
Suy Niệm 1: Nương Tựa Vào Chúa
Dù với công thức dài như ở Tin Mừng Matthêu hay ngắn gọn nơi Tin Mừng Luca, Kinh Lạy Cha được kết thúc bằng câu: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ". Nhắc nhở các môn đệ cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ, Chúa Giêsu cũng muốn nói đến một thực tại luôn có mặt trong thế giới này để làm hại con người, đó là sự dữ hay ma quỉ. Ở bên cạnh con người, nhưng ma quỉ không hiện nguyên hình, mà lại mượn chính hình dạng con người để quyến rũ và lôi kéo con người đến điều ác.
Ðó cũng là sự kiện đã xảy ra như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay: sau khi Chúa Giêsu chữa cho một người bị quỉ ám được khỏi, trong đám đông có mấy người nói rằng Ngài đã nhờ thế của quỉ vương Beelzebul mà trừ quỉ. Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để mạc khải về Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa đã đến và trong đó có bóng dáng của ma quỉ. Một Phêrô vừa được khen thưởng vì đã tuyên xưng đúng tước hiện của Chúa Kitô, thì lập tức đã bị khiển trách là Satan khi ông căn ngăn Chúa Giêsu lên Yêrusalem để chịu khổ nạn.
Chúa Giêsu đã đến để chiến thắng ma quỉ và tội lỗi, đồng thời Ngài cũng đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải có một thái độ dứt khoát: "Ai không theo tôi, là chống tôi, và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán". Hình ảnh người võ trang canh giữ nhà của mình là một lời mời gọi những kẻ theo Chúa biết hoàn toàn đặt tin tưởng, phó thác vào Ngài. Tìm một người hùng mạnh để canh giữ cho mình được an toàn thì có ai bằng Thiên Chúa; kiếm một nơi ẩn náu trước những tấn công của kẻ thù, thì có đâu vững chắc cho bằng núp bóng dưới cánh tay Ngài.
Chúng ta phải tìm nơi nương tựa mạnh mẽ, vững chắc, vì ma quỉ như sư tử luôn gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé, làm hại chúng ta. Một lần thất bại, nó không nản lòng, nó sẽ trở lại với một lực lượng hùng mạnh hơn. Bởi đó, chúng ta phải kiên trì trong lời cầu nguyện: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ". Cám dỗ là vũ khí ma quỉ dùng để đánh bại chúng ta, nhưng chúng ta vẫn không nao núng, nếu biết đứng vững trong đức tin để chống cự và biết ẩn núp dưới sự che chở của Chúa.
Nguyện xin Chúa gìn giữ chúng ta luôn kiên vững trong niềm xác tín đó.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Quyền Năng Trên Quỉ Dữ
Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện là một dấu chỉ để mạc khải nước Thiên Chúa và tình thương giải phóng của Thiên Chúa đối với con người. Nhưng mọi dấu chỉ đều lưỡng vị, hai nghĩa và người ta có thể giải thích cách này hay cách khác, tùy theo tâm hồn họ như thế nào. Thiên Chúa chấp nhận để cho con người làm như vậy là vì Ngài kính trọng tự do của người chứng kiến và giải thích dấu chỉ. Ðó là điều đã xảy ra và được kể lại trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây.
Nhiều người kính phục quyền năng giải phóng và tình thương nhân từ của Thiên Chúa được thể hiện nơi và qua hành động của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vài người khác thì giải thích xấu đi, cho rằng Chúa Giêsu cấu kết với quyền lực của quỷ vương để trừ quỷ con. Nhưng giải thích như vậy không hợp lý gì cả. Lòng gian tà và ý xấu muốn bôi nhọ Chúa Giêsu làm cho họ ra mù quáng và lý luận không còn hợp lý nữa. Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy khuyết điểm này với những lời như sau: "Vương quốc nào chia rẽ thì sẽ bị tan rã. Giờ đây, nếu Satan cũng chia rẽ thì làm sao chúng đứng vững được". Giải thích duy nhất đúng là qua dấu lạ đó mà nhìn nhận Ðấng thực hiện dấu lạ có quyền năng trên quỷ dữ và như thế là Nước Thiên Chúa và hành động giải phóng của Ngài đã đến giữa con người trước mặt họ.
Ðể chấp nhận lời mạc khải của Chúa và trong trường hợp này, lời giải thích của Chúa Giêsu về ý nghĩa của dấu lạ Chúa vừa thực hiện, con người cần nhờ đến ánh sáng siêu nhiên hướng dẫn, cần có đức tin, cần có sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Ðây là điều mà những kẻ thù của Chúa Giêsu không có được đức tin là hồng ân của Thiên Chúa, chứ không phải là kết luận của suy tư. Vì thế, trước dấu lạ Chúa Giêsu thực hiện, con người không nhất thiết có thể nhìn nhận ý nghĩa của dấu lạ đó và tuyên xưng đức tin. Nếu đức tin là kết luận của suy tư lý trí thì trước dấu lạ Chúa thực hiện, mọi người đều đã tin Chúa hết cả rồi.
Con người cần khiêm tốn cầu xin Thiên Chúa ban cho ơn đức tin, để có thể nhận ra ý nghĩa của dấu lạ và được củng cố trong đức tin. Trước dấu lạ của Chúa, con người chỉ có một trong hai thái độ: tin hay không tin; chấp nhận hay chối từ mà thôi. Và một khi đã tin rồi, người đồ đệ cần phải góp phần của mình để bồi dưỡng thêm cho đức tin, góp phần làm cho đức tin được phát triển, được vững mạnh hơn. Nếu không, tình trạng bị mất đức tin sau đó sẽ trở thành tồi tệ hơn trước khi tin Chúa, ma quỷ tấn công trở lại mạnh mẽ hơn muôn vạn cho đến bảy lần hơn.
Ðể hiểu rõ một ai thì cần phải yêu mến người đó và thường xuyên trao đổi với người đó. Ðối với Chúa Giêsu cũng vậy, để biết Chúa nhiều hơn, thì cần phải yêu mến Ngài và có những trao đổi thường xuyên với Ngài qua việc cầu nguyện, lắng nghe lời Chúa. Ðể có thể luôn luôn đứng về phe Chúa, luôn luôn trung thành theo Chúa thì không có cách nào tốt hơn là hữu hiệu hơn là sống thân mật kết hiệp với Chúa qua việc cầu nguyện và lắng nghe lời Ngài. Ðiều này đòi hỏi chúng ta phải luôn sám hối, hoán cải, để có thể cùng với Chúa mà chiến thắng sức mạnh thần dữ muốn chiếm đoạt chúng ta theo phe chúng.
Lạy Chúa là Cha chúng con.
Chúng con cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng con đức tin. Xin thương ban xuống tràn đầy Chúa Thánh Thần trên chúng con để chúng con được củng cố mỗi ngày một thêm trong đức tin.
Lạy Chúa.
Xin gia tăng đức tin cho chúng con.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 3: Không thuận là chống
"Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán." (Lc. 11, 23)
Đó là lý luận đơn giản. Người ta không thể vừa thuận vừa chống cùng một lúc. Người ta tố cáo Đức Kitô lấy quyền quỷ mà trừ quỷ! Thưa quý vị, quý vị nếu có một chút thông minh, quý vị sẽ thấy rõ đó là cuộc nội chiến ghê gớm của Satan. Thiên Chúa nhân lành đã làm rất nhiều để chống lại Satan và bè lũ của nó. Muốn diệt chúng hoàn toàn, Chúa chỉ để chúng đánh nhau từ trong nội bộ là xong. Nhưng khốn nỗi, không bao giờ Ngài làm thế.
Không, không phải Đức Kitô nhờ tướng quỷ Bendêbút mà trừ quỷ. Người Aramê đã gọi Bendêbút là "chúa phân bớn" "chúa ruồi nhặng". Những tiếng khinh bỉ đó không bao giờ dám gán cho Đức Kitô. Nhưng những kẻ dám gán cho Người rất quỷ quyệt, tuy nhiên họ lại ngu dốt đến nỗi cho thấy họ đã tự mâu thuẫn với chính mình!
Chính nhờ ngón tay Thiên Chúa có ý nghĩa là sức mạnh của Thiên Chúa mà Đức Kitô hành động. Vì từ nay đi, nhờ Người triều đại Thiên Chúa đã tiếp tục trị đến trong thế gian. Satan không thể nào chống được Con Thiên Chúa. Nó đã rình mò thám thính thử đến thuê mướn Người lúc ăn chay 40 ngày trong sa mạc. Người mạnh hơn nó trên thế gian, từ nay chính Người là Đấng Thiên Sai Cứu Thế! Người đến cứu độ nhân loại. Người ở lại đây, không bỏ đi nữa. Ai ở với Người và không chống lại Người thì được bảo vệ và được nâng đỡ mãi mãi trong tình yêu của Người.
Nhưng xin chú ý, chú ý! Người ta có thể thuận theo Người, thành thật chọn Người, muốn theo Người tới cùng, bằng mọi giá, tin cậy núp bóng Người luôn luôn! Nhưng đừng tưởng Satan không còn nữa, thời của nó đã trôi vào quá khứ, nó không còn thể chống lại loài người nữa; chối quyền lực của nó thì liều mình đi đến sa ngã thất bại. Nó còn hoạt động hơn bao giờ hết! nó biết lừa cơ hội để khai thác những yếu đuối sâu sa của chúng ta một cách đáng sợ! những làn sóng ngầm của sự dữ lôi cuốn thế giới chúng ta là chứng cớ rõ ràng có bàn tay lầm ngầm của ma quỷ. Sự đánh thức những bản năng hạ đẳng nhất của nhân loại là dấu chỉ chắc chắn quỷ đang có mặt giữa chúng ta! đừng sợ, đừng đánh thức những thú hạ đẳng đó, dù thần dữ không bao giờ đầu hàng, nhưng hãy tin cậy vững mạnh vào Đức Kitô vì Người đã chiến thắng thế gian; Phần chúng ta phải sáng suốt đi theo Người.
GF
08/10 Hiệu Lực Của Lời Cầu Nguyện
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hiệu Lực Của Lời Cầu Nguyện.
Thứ Năm tuần 27 thường niên.
"Các con hãy xin thì sẽ được".
Lời Chúa: Lc 11, 5-13
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: "Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi anh ấy". Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: "Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được". Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần. "Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người".
Suy Niệm 1: Hiệu Lực Của Lời Cầu Nguyện
Một tác giả kể lại câu truyện như sau: Một hôm ông theo đoàn đánh cá ra khơi, trời thật đẹp, nhưng đến trưa, gió thổi mạnh và cơn bão rất lớn ập tới. Ðoàn người chống chọi quyết liệt nhưng vô ích, nước đã tràn vào đầy tàu. Lúc ấy, viên thuyền trưởng ra lệnh: "Các bạn hãy cầu nguyện". Người phụ tá bảo: "Sao lại cầu nguyện? Mây che kín cả bầu trời rồi, Chúa chẳng nghe thấy đâu". Nhưng viên thuyền trưởng dứt khoát: "Chúng ta cứ cầu nguyện".
Tất cả đều sốt sắng cầu nguyện, bỗng từ đám mây đen nghịt ấy lóe ra một tia sáng xanh trong vắt. Viên thuyền trưởng la lên: "Cửa trời đã mở, Chúa đã nghe lời của chúng ta, và tia sáng đó là ánh mắt nhân từ Ngài nhìn xuống chúng ta. Hãy tiếp tục cầu nguyện". Và rồi sau đó, sóng gió im lặng và trời càng sáng rõ, các thủy thủ tạ ơn Chúa và đã cập bến an toàn.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta: "Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho". Ngài đưa ra hai dụ ngôn để nhắc nhở chúng ta kiên tâm trong lời cầu nguyện và siêng năng cầu nguyện cùng Chúa. Ngài đoan hứa Thiên Chúa là người Cha tốt lành sẽ ban cho chúng ta những gì chúng ta cầu xin, đặc biệt Ngài sẽ ban cho chúng ta món quà tuyệt hảo là Thánh Thần, nhờ đó chúng ta sẽ tìm được hạnh phúc đích thực.
Trong thực tế, có lẽ chúng ta đã cầu xin rất nhiều, thế mà nhiều khi chúng ta chẳng nhận được. Tại sao thế? Thánh Giacôbê trả lời: "Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc". Do đó, khi cầu nguyện, chúng ta hãy ý thức điều chính yếu chúng ta phải nhắm tới trước hết, đó là "Xin cho Ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời". Thiên Chúa là Cha, Ngài khôn ngoan thấu suốt những nhu cầu của chúng ta và sẽ ban cho những gì lợi ích cho phần rỗi chúng ta. Ðiều cần thiết là phải kiên trì trong niềm tin và xác tín Thiên Chúa yêu thương và ban cho những điều vượt quá sự mong ước của chúng ta.
Nguyện xin Chúa củng cố chúng ta trong đời sống và tâm tình cầu nguyện, cho chúng ta biết xin những gì đẹp lòng Chúa và phó thác tất cả cho tình yêu thương quan phòng của Chúa.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Ban Thánh Thần
Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người. (Lc. 11, 13)
Thiên Chúa thích cầu nguyện và quấy rầy.
Đức Kitô chứng tỏ cho chúng ta thấy thế. Người nói về những người bạn còn không thể từ chối nhau được ngay cả khi họ gặp những bất tiện. Về tình cảm bạn bè nên ông bạn này đến quấy rầy bạn bè ban đêm!
Dù cho bạn bè cạu cọ, kêu trách, muốn đuổi ông bạn quấy rầy đi. Nhưng sau cùng, bạn cũng dậy đưa tất cả những gì ông bạn cần, cho xong chuyện.
Thiên Chúa cũng vậy, và còn vô cùng tốt lành hơn nữa, không bao giờ Ngài chán nghe chúng ta kêu cầu, không bao giờ chán thấy chúng ta chạy đến xin Ngài giúp đỡ. Thiên Chúa vô cùng nhẫn nại hơn tất cả mọi người, hơn bất cứ những người quen thân nhất với chúng ta. Đức Giêsu đã dùng ba mẫu mực khác nhau để nhấn mạnh cho chúng ta biết cầu xin cha chúng ta ở trên trời đến cứu giúp.
"Anh em cứ XIN thì sẽ được, cứ TÌM thì sẽ thấy, cứ GÕ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai XIN thì sẽ nhận được, ai TÌM thì sẽ thấy, cứ GÕ cửa thì sẽ mở cho". Còn gì rõ ràng hơn nữa! Ai có thể vẽ được bức họa cho chúng ta cụ thể hơn nữa! có lẽ chúng ta hiểu, tuy nhiên, để tốt cho chúng ta hơn. Thiên Chúa không ban những gì chúng ta xin như chúng ta muốn, nhưng Ngài sẽ ban ơn khác tốt hơn cho chúng ta. Có lẽ chúng ta hiểu được tằng Thiên Chúa không mở cho chúng ta như chúng ta gõ, nhưng Ngài sẽ mở cho chúng ta sau này. Có lẽ chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa sẽ không cho chúng ta thấy những gì chúng ta tìm, nhưng cho thấy điều cốt yếu hơn.
Vì điều cốt yếu này, chính là Thánh Thần. Thánh Thần sẽ giúp chúng ta phân biệt được điều gì tốt hơn cho chúng ta khi chúng ta xin, khi chúng ta tìm và khi chúng ta muốn vào sâu thánh ý Thiên Chúa. Thánh Thần khôi phục lại thế giới Kitô đã bị thất thoát nhiều hay ít! Chính Thánh Thần mà Đức Kitô đã hứa ban cho các tông đồ, chỉ mình Ngài mới có thể giúp chúng ta đi sâu vào mầu nhiệm và sứ điệp của Đức Kitô. Chính Thánh Thần là sức mạnh, khôn ngoan, thông minh sáng suốt, ánh sáng và dịu hiền. Chính Thánh Thần kiến thiết xây dựng Hội Thánh và thánh hóa chúng ta trong ngọn lửa tình yêu.
GF
Suy niệm 3:
Một thách đố lớn đối với đức tin của người Kitô hữu đó là sự thinh lặng của Thiên Chúa. Gặp cơn cùng khốn, con người cầu cứu Ngài nhưng không nghe thấy tiếng đáp lại. Người lành bị trù dập, kẻ vô tội bị hàm oan, nỗi đau khổ thể xác tinh thần vây bọc lấy đời người. Con người quằn quại, rên xiết, gào thét, nổi loạn. "Chúng tôi tố cáo Thiên Chúa vì Ngài vắng mặt." Ngài không được quyền vắng mặt và thinh lặng. Nếu Ngài là Thiên Chúa quyền năng, Ngài phải tiêu diệt sự dữ và kẻ dữ.
Nếu Ngài là Cha yêu thương, Ngài không thể quay lưng trước nỗi khổ của con người. Có nhiều người đã lý luận như thế và kết luận: "Vì có đau khổ, nên không có Thiên Chúa."
Có lúc người ta tưởng đau khổ là một vấn đề có thể đem ra mổ xẻ, giải quyết. Nhưng rồi người ta thấy đó là một mầu nhiệm. Chỉ ai tin mới đến gần được mầu nhiệm ấy, và đón nhận nó trong bình an.
Ðức Giêsu đã không trình bày con đường diệt đau khổ, nhưng Ngài mang lấy đau khổ vào thân. Trên thập giá, Ngài nghe được sự thinh lặng của Thiên Chúa, và thấy được sự vắng mặt của Người. "Lạy Thiên Chúa của tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?" Như ta, Ngài cũng bước đi trong bóng tối của lòng tin, dù bị thử thách, vẫn một niềm tín thác: "Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha."
Thiên Chúa vẫn là Ðấng toàn năng và yêu thương, nhưng Ngài hành động không giống điều ta nghĩ. Ngài không đưa Ðức Giêsu xuống khỏi thập giá nhưng đưa Con của Ngài ra khỏi nấm mồ, điều đó khó hơn nhiều.
Hôm nay Ðức Giêsu mời chúng ta cứ xin, cứ tìm, cứ gõ và tin chắc sẽ được, sẽ thấy, sẽ mở cho. Chúng ta tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu, Ngài chỉ ban cho ta những điều tốt lành, những điều có lợi thực sự cho ta, những điều làm ta trưởng thành và triển nở, những điều đưa ta gặp hạnh phúc đích thực, thứ hạnh phúc không chỉ hạn hẹp ở đời này. Chúng ta tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu, nhưng Ngài không nuông chiều con cái, Ngài dám cắt tỉa để chúng ta sai trái hơn.
Bạn hãy cứ cầu xin nhưng hãy để cho Ngài định liệu, vì Ngài biết rõ điều gì là tốt hơn cho bạn trong hoàn cảnh này, ở đây, bây giờ. Cần cầu nguyện nhiều, bạn mới biết điều bạn phải xin, vì những điều chúng ta xin còn mang nhiều cặn bẩn. Lắm khi chúng ta xin rắn mà không hay. Cũng có khi ta tưởng Chúa cho chúng ta bọ cạp. Cần có đức tin mới nhận ra rằng Chúa đã nhận lời mình rồi, nhưng theo một kiểu khác với kiểu ta muốn. Cần đợi đến một lúc nào đó bạn mới thấy mọi biến cố trong đời đều là quà tặng yêu thương.
Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn. Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn. Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
07/10 Xin Vâng
- Viết bởi Lc 1, 26-38
Xin Vâng.
Thứ Tư tuần 27 thường niên – Đức Mẹ Mân Côi. Lễ nhớ.
"Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai".
* Ngày 7 tháng 10 năm 1571, Tây Phương thoát khỏi sự đe dọa của quân Thổ Nhĩ Kỳ nhờ chiến thắng ở vịnh Lê-pan-tô. Người ta cho rằng chiến thắng đó là kết quả của Kinh Mân Côi. Ngày nay, mừng lễ này không có nghĩa là mừng biến cố xa xưa đó, nhưng là nhắc nhở việc suy niệm các mầu nhiệm nhập thể, thương khó và phục sinh vinh hiển của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa cũng như khám phá ra vị trí của Đức Trinh Nữ Maria trong mầu nhiệm cứu độ.
Lời Chúa: Lc 1, 26-38
Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ". Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận. Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được". Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
1. Chuỗi Mân Côi
Ngày kia có một vị linh mục nói chuyện với đám tù nhân vừa mới được trả tự do. Sau khi đã thăm hỏi họ về chuỗi ngày cực khổ, thì một người trong đám họ đã nói: Chính những cực nhọc của kiếp sống đoạ đày đã đem lại nhiều lợi ích cho chúng con. Vì nhờ đó chúng con mới hiểu được giá trị và yêu thích sự cầu nguyện. Rồi anh ta giơ ra cho vị linh mục xem một khúc tràng hạt, chỉ gồm có 10 hạt mà thôi. Vị linh mục ngỏ ý muốn tặng anh một chuỗi khác, nhưng anh đã cám ơn, đã từ chối và nói: Thưa cha đây là một kỷ niệm sâu xa nhất trong cuộc đời của con, con sẽ cẩn thận gìn giữ nó, vì nó gợi cho con nhớ đến chuỗi ngày bi thảm. Chúng con cả thảy gồm 3 người, bị thương nặng trên trận địa và nằm chờ chết. Bấy giờ trong thinh lặng giữa lúc màn đêm buông xuống, con khẽ lần hạt, và rồi hai người bạn kia lên tiếng xin một mẩu tràng hạt để cùng lần, thì ra họ cũng là người công giáo. Con bèn dứt chuỗi tràng hạt thành ba khúc, mỗi người một khúc, và chúng con cùng nhau lần hạt một cách sốt sắng như thể là lần cuối cùng trong cuộc sống.
Nghe xong câu chuyện này, có thể một số người trong chúng ta sẽ nói: Tôi sẽ không chờ cho đến những giây phút bi thảm và đen tối như vậy mới cầu nguyện. Tốt lắm. Phải cầu nguyện liên tục, nhất là những lúc gặp phải gian nguy thử thách. Thế nhưng nhiều người trong chúng ta lại thờ ơ với chuỗi Mân côi, vì nó tẻ nhạt, vì nó buồn chán. Thật là đáng tiếc.
Cách đây 1000 năm, đạo quân Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa trầm trọng thế giới công giáo. Tình hình càng thêm bi thảm hơn nữa vào thế kỷ XVI. Họ tiến vào châu Âu và quyết tâm dứt điểm bằng một cuộc hải chiến tại vịnh Lépante. Trong khi đạo quân Công giáo với một lực lượng yếu kém hơn nhiều xông ra chiến trận, thì tại Rôma, Đức Giáo Hoàng đã tổ chức những hiệp hội Mân Côi, liên tục lần chuỗi, dâng lên Mẹ những lời kinh thắm thiết để xin Mẹ nâng đỡ phù trợ. Và sau cùng đạo quân công giáo đã chiến thắng. Để tạ ơn Đức Mẹ và để ghi nhớ cuộc chiến thắng này, Đức Thánh Cha Piô V đã thiết lập lễ Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng kính ngày hôm nay.
Còn với chúng ta thì sao? Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi, ngán ngẩm khi phải lần chuỗi. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta chưa lần chuỗi cho đúng cách. Tại một giáo xứ nọ, thầy giúp xứ hướng dẫn một số em vào nhà thờ để lần hạt chung với nhau. Tại mỗi ngắn, thầy bèn trao cho các em xem một bức hình liên hệ. Chẳng hạn năm sự Mừng thứ nhất thì ngắm, Đức Chúa Giêsu sống lại. Các em sẽ nhìn thấy bức hình lộng lẫy: Chúa Giêsu phục sinh, khải hoàn ra khỏi mồ, còn những tên lính canh thì hoảng sợ vứt bỏ khí giới trước luồng ánh sáng chói loà.
Dĩ nhiên chúng ta không thể làm như vậy mỗi khi lần hạt, nhưng chúng ta có thể nghĩ tưởng trong đầu óc, nhờ đó mà chúng ta như được tham dự vào chính những biến cố mà mỗi ngắm, mỗi mầu nhiệm của kinh Mân Côi gợi lên. Trong tháng 10 cũng như trong suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy dâng lên cho Mẹ những lời kinh Mân Côi sốt sắng, là như những bông hồng tươi xinh, để xin Mẹ nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta luôn mãi.
2. Lời kinh của mỗi cá nhân.
Sáng hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu ảnh hưởng của kinh Mân côi đối với cá nhân mỗi người chúng ta.
Trước hết tôi xin đưa ra một vài trường hợp cụ thể. Năm 1507, ông Valentinô bị một bọn cướp bắt cóc để tống tiền. Chúng đã xiềng chân và khóa tay ông, rồi giam ông trong một ngọn tháp cao, tối tăm, bẩn thỉu và hôi hám. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, ông và gia đình vẫn tin tưởng và lần hạt kính Đức Mẹ. Rồi một lần kia, khi đã cầu nguyện xong, ông vô cùng bỡ ngỡ vì bỗng thấy xiềng xích đều mở ra. Tay chân được thong dong, ông bắt đầu lần mò trong bóng tối, gõ khắp lượt vào tường tháp, đến một chỗ ông nghe bục bục và ọp ẹp. Ông đẩy mạnh và viên đá nhúc nhích. Ông vội cậy viên đá để tìm lối thoát thân và thế là ông chạy trốn được bình an vô sự. Phải chăng Đức Mẹ đã cứu chữa ông và ban xuống cho gia đình ông niềm an ủi.
Kinh Mân côi không phải chỉ cứu chữa phần xác, mà nhất là nó còn cứu chữa phần hồn. Hélène là một nàng kỹ nữ đã làm cho bao nhiêu người say đắm. Ngày kia nàng theo chị em bạn vào trong một nhà thờ, gặp lúc vị linh mục đang giảng về kinh Mân côi. Về nhà, nàng mua một cỗ tràng hạt, và thỉnh thoảng cũng lần trộm vì sợ thiên hạ trông thấy và chê cười. Ít lâu sau, nàng được Đức Mẹ ban ơn sốt sắng khi lần hạt. Rồi từ đó, nàng ăn năn sám hối, làm lại cuộc đời, quyết tâm dâng mình cho Đức Mẹ, sống một cuộc sống nghèo khó và nhân đức.
Có một thiếu phụ khác, thuộc gia đình quí phái, chẳng may bị bệnh nặng và đang trong cơn hấp hối. Đức cha Dupanloup được mời đến viếng thăm. Ngài nhận thấy bệnh nhân rất bình thản khi hỏi: Thưa Đức cha, liệu con có được lên trời hay không? Cha hy vọng là có. Bệnh nhân đáp lại: Còn con, con tin đó là một điều chắc chắn. Sao con có thể tin chắc chắn như thế? Thưa Đức cha, từ nhỏ cho đến nay, mỗi ngày nhiều lần con đã kêu xin Mẹ giúp con trong giờ lâm tử, lẽ nào Mẹ lại bỏ rơi con.
Qua những chứng tích sống động ấy, chúng ta nhận thấy kinh Mân côi đã giúp đỡ chúng ta rất nhiều cả về phần hồn lẫn phần xác. Bởi đó từ xưa cho đến nay, kinh Mân côi đã trở nên một việc đạo đức quen thuộc với người tín hữu.
Tuy nhiên, chúng ta phải lần hạt như thế nào để việc đạo đức này thực sự đem lại những lợi ích cho bản thân chúng ta? Tôi xin thưa vừa đọc, chúng ta vừa phải suy gẫm về những mầu nhiệm kinh Mân côi đã gợi lên cho chúng ta, và nhất là chúng ta phải sống tinh thần kinh Mân côi, thực hiện những nhân đức mà chúng ta van xin ở mỗi ngắm. Có như thế, kinh Mân côi mới trở nên là như hơi thở của tâm hồn, cũng như trở nên là như những cánh hồng tươi xinh dâng kính Mẹ, để Mẹ ban xuống cho bản thân chúng ta những ơn lành hồn xác.
3. Kinh Mân Côi.
Hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu về kinh Mân Côi. Trước hết kinh Mân Côi là một việc đạo đức bắt nguồn từ Phúc Âm.
Thực vậy, kinh Lạy Cha là gì nếu không phải là lời kinh mà chính Chúa đã dạy cho các môn đệ. Còn kinh Kính Mừng là gì nếu không phải là lặp lại lời chào của sứ thần Gabriel và của bà Elisabet. Tất cả đều được rút ra từ Phúc Âm. Hơn thế nữa, chúng ta còn sống lại trọn bộ Tin Mừng qua những mầu nhiệm của kinh Mân Côi. Đúng thế 20 mầu nhiệm làm một bản tóm lược Tin Mừng, trình bày cho chúng ta những giai đoạn chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu từ khi nhập thể cho đến lúc về trời, cao điểm của chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước. Với một nội dung như thế, kinh Mân Côi không phải chỉ là một lời kinh chúng ta đọc trên môi trên miệng, mà còn là những đề tài suy gẫm. Đây là một việc làm hết sức đơn giản. Chúng ta chỉ cần mường tượng ra những biến cố, những hình ảnh mà mỗi mầu nhiệm gợi lên, cũng giống như khi chúng ta đi chặng đàng thánh giá. Nó không đòi buộc chúng ta phải suy gẫm từng lời chúng ta đọc hay dừng lại lâu giờ nơi mỗi mầu nhiệm. Chẳng hạn chúng ta mường tượng ra Chúa Giêsu vai vác thánh giá và chúng ta nghĩ đến những khổ đau chúng ta phải gánh chịu. Như thế mà thôi cũng đã đủ lắm rồi. Chúa Giêsu không phải là một ông chủ hà khắc, chỉ đánh giá theo những kết quả đã đạt được, nhưng Ngài còn là một người cha nhân từ thấu rõ thiện chí của mỗi người chúng ta. Nói vậy không có nghĩa là xoá bỏ những con đường dẫn chúng ta tới đỉnh cao trọn lành. Như thế kinh Mân Côi sẽ là một việc đạo đức thích hợp cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc, sẽ đem lại cho chúng ta một nguồn nghị lực thiêng liêng.
Tiếp đến kinh Mân Côi là một việc đạo đức luôn được Giáo Hội cổ võ.
Thực vậy các Đức Thánh Cha không ngừng khuyến khích chúng ta siêng năng lần chuỗi. Đức Thánh Cha Piô IX khuyên chúng ta lần hạt tại gia đình trong những giờ kinh tối sớm. Ngài nói: Kinh Mân Côi là một kho tàng quý giá của Giáo Hội công giáo. Tiếp đó, Đức Thánh Cha Lêô XIII còn đi xa hơn nữa và người ta đã dành cho ngài tước hiệu là Đức Thánh Cha của kinh Mân Côi. Ngài đã công bố cả thảy 12 thông điệp và 8 văn kiện khác nữa bàn về kinh Mân Côi. Chính ngài đã thiết lập tháng Mân Côi để thúc đẩy việc lần chuỗi, cũng như đã thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi. Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắn nhủ: Nếu các con muốn cho gia đình mình được bình an và hạnh phúc thì hãy lần chuỗi với nhau mỗi buổi tối. Đức Thánh Cha Piô XII đã huấn dụ: Chúng ta khuyên nhủ những người cha, những người mẹ trong gia đình, hãy tập cho con cái thói quen lần chuỗi, và ngay cả chúng ta nữa, chúng ta vẫn lần chuỗi mỗi ngày. Năm 1951, trong một thông điệp, ngài đã tha thiết hêu gọi những người công giáo hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng này để cầu xin những ơn lành cho Giáo Hội và cho nhân loại. Chính ngài khi đã 80 tuổi, mặc dù bận rộn nhiều công việc nhưng ngài đều lần chuỗi trước khi đi ngủ. Rồi gần đây, Đức Thánh Cha Gioan XXIII, Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đều đề cao giá trị của kinh Mân Côi và khuyên nhủ chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi.
Để kết luận tôi xin kể lại mẫu gương của thầy Peyton. Thầy bị bệnh nặng, các bác sĩ đều chịu thua, tuy nhiên trong âm thầm mẹ thầy đã xin được chết thay cho thầy. Lời cầu xin được Đức Mẹ nhận lời, thầy được bình phục và được thụ phong linh mục. Mẹ chết. Dành trọn cuộc sống để loan truyền sứ điệp Fatima và kinh Mân Côi.
Với chúng ta cũng vậy, hãy dâng lên Mẹ những lời kinh Mân Côi sốt sắng, để xin Mẹ nâng đỡ phù trợ cho bản thân chúng ta, gia đình chúng ta luôn mãi.
4. Này tôi là tôi tớ của Chúa.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt nhân dịp Kỷ niệm 95 năm ngày Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. 1917-2012)
Với lời thưa "Xin Vâng" của Đức Mẹ, điều vô cùng kỳ diệu xẩy ra: Thiên Chúa đến ở với loài người. Thiên Chúa vô hạn đến ở trong thân xác hữu hạn. Thiên Chúa vô thủy vô chung đi vào lịch sử để trở nên có sinh có tử. Đây là đại hạnh của con người. Nhân loại khổ đau có Thiên Chúa đến cùng chia sẻ nâng đỡ, chữa lành. Nhân loại đi trong đêm tối có Thiên Chúa đến dẫn đường chỉ lối. Nhân loại bơ vơ có Thiên Chúa đồng hành. Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa không chỉ đến để đồng hành, để an ủi nhưng Thiên Chúa còn đến biến đổi thân phận con người. Thư Galata cho biết Thiên Chúa sinh làm con loài người để ta được nâng lên làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa chịu nghèo để ta được giầu có vì được thừa kế gia tài, được hưởng vinh phúc của Thiên Chúa.
Những điều kỳ diệu ấy chỉ được thực hiện nhờ thái độ của Đức Mẹ. Khi thưa với thiên thần: "Này tôi là tôi tớ của Chúa", Đức Mẹ đã cộng tác trọn vẹn với Thiên Chúa để chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Vào thời Đức Mẹ nô lệ có nghĩa là không có quyền gì hết. Nô lệ hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của chủ. Chủ có thể bán đi. Chủ có quyền hành hạ, giết chết nô lệ mà không có tội trước pháp luật. Nô lệ không có quyền sống cho mình, mà sống vì chủ, cho chủ. Khi xưng mình là "tôi tớ", Đức Mẹ từ bỏ tự do, từ bỏ quyền sống của mình để hoàn toàn cho Thiên Chúa sử dụng. Từ đó Chúa ở trong Đức Mẹ. Đức Mẹ đi đâu cũng có Chúa ở cùng. Vì thế sự hiện diện của Đức Mẹ là hiện diện của Chúa. Đức Mẹ đi đến đâu là sinh ơn phúc đến đấy. Đến thăm bà Isave đem ơn cứu độ cho thánh Gioan Baotixita khiến thánh nhân nhảy mừng từ trong lòng mẹ. Đến tiệc cưới Cana làm cho đám cưới ngập tràn niềm vui vì được thưởng thức thứ rượu ngon chưa bao giờ có.
Từ khi về trời Đức Mẹ vẫn tiếp tục viếng thăm con cái trần gian. Lavang, Lộ đức, Fatima... không sao kể xiết những ơn lành Chúa xuống qua tay Đức Mẹ. Tuy Lavang, Lộ đức đều là chứng tích việc Chúa và Đức Mẹ đồng hành với con người trong những nỗi khổ đau. Nhưng Fatima mới tỏ tường là nơi Chúa và Đức Mẹ can thiệp vào lịch sử nhân loại. Thực vậy vào tháng 5 năm 1917, tại Fatima, Đức Mẹ tiên báo nước Nga sẽ gieo rắc lạc thuyết vô thần khắp thế giới. Đúng tháng 10 năm đó cách mạng vô sản nổ ra tại Nga và thế giới bị chia đôi. Một nửa theo lý thuyết cộng sản vô thần gay khổ đau cho biết bao người. Tuy nhiên Đức Mẹ cũng chỉ cho ta con đường thoát khỏi sự dữ này bằng cách cầu nguyện cho nước Nga và tuân giữ 3 mệnh lệnh là : ăn năn sám hối, lần hạt Mân Côi và tôn sùng đền tạ Trái Tim Đức Mẹ. Có thực hành lời Đức Mẹ dậy, nhân loại mới thoát khỏi cơn thịnh nộ của Chúa, thế giới mới được hòa bình. Sứ điệp Fatima quả đã đi vào lịch sử thế giới, hướng dẫn lịch sử thế giới và chữa trị những vết thương của thế giới.
Nếu chương trình của Chúa cần có Đức Mẹ "xin vâng", thì trong chương trình của Đức Mẹ cũng cần một người con quảng đại dâng hiến toàn thân cho Đức Mẹ sử dụng. Người đó chính là Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lòng yêu mến Đức Mẹ nồng nàn. Ngài đã viết Tông huấn "Kinh Mân Côi" để tôn vinh Đức Mẹ. Ngài là vị Giáo hoàng lần hạt chung với dân chúng. Ngài đã lập thêm Năm Sự Sáng cho tràng chuỗi Mân Côi. Nhưng nhất là Ngài dâng hiến toàn thân cho việc phụng sự Đức Mẹ. Khẩu hiệu của ngài là "Totus Tuus", trích từ câu nói của thánh Louis Grignon de Monfort:Totus Tuus ego sum et omnia mea Tua sunt (Con là tất cả của Mẹ và mọi sự của con đều là của Mẹ).
Ngài đã dâng nước Nga cho Đức Mẹ. Và đáp lại Đức Mẹ đã thực hiện những lời hứa và những bí mật Fatima trong cuộc đời của ngài. Việc nước Nga được ơn trở lại dưới triều Giáo hoàng của ngài là bằng chứng rõ rệt nhất về lời hứa Fatima: "Trái Tim Mẹ Sẽ Thắng". Theo sau nước Nga là các nước Đông Âu khác. Bản đồ thế giới được vẽ lại. Tình hình thế giới đổi mới khác hẳn. Quả thật Chúa và Đức Mẹ đã can thiệp vào lịch sử thế giới.
Tuy nhiên Đức Thánh Cha phải chịu đau khổ. Và thị kiến chị Lucia thấy người áo trắng bị ám sát đã ứng nghiệm trong đời ngài. Ngài bị bắn đúng ngày 13-5-1981. Tay thiện xạ Ali Agca đứng sát ngài và nhắm bắn trúng chỗ hiểm. Nhưng ngài thoát chết trong gang tấc. Ngài biết Đức Mẹ đã cứu ngài. Nên ngài đến hành hương Fatima tạ ơn Đức Mẹ và đặt đầu viên đạn lên triều thiên Đức Mẹ để tôn vinh quyền phép của Đức Mẹ. Vết thương hành hạ suốt đời đã biến cuộc đời ngài thành cuộc đền tạ Trái Tim Mẹ không ngưng nghỉ.
Đã 95 năm trôi qua kể từ ngày Đức mẹ hiện ra tại Fatima, nhưng sứ điệp Fatima vẫn còn mang tính thời sự và cấp thiết. Vì hiện nay biết bao lạc thuyết vẫn lan tràn gieo đau thương chết chóc cho con người. Đức Mẹ vẫn luôn đồng hành với ta như Người đã cùng cầu nguyện với các tông đồ trong nhà Tiệc ly. Đức Hồng Y Fulton Sheen diễn giải lời thiên thần Gabriel: "Này cô Maria, cô có đồng ý đem xương thịt cho Con Thiên Chúa không? Liệu Thiên Chúa có trở nên loài người qua thân xác của cô không?". Hôm nay Đức Mẹ cũng hỏi ta: "Con có đồng ý cho ta thân xác của con để ta hiện diện với các con, đồng hành với các con không". Nếu ta đồng ý Đức Mẹ sẽ nhờ thân xác ta mà hiện diện trong thế giới, sẽ uốn nắn thế giới và lịch sử sẽ thay đổi. Ta hãy noi gương ĐTC Gioan Phaolô thưa với Mẹ: Lạy Mẹ, tất cả của con là của Mẹ, xin Mẹ hãy dùng con theo ý Mẹ để Thiên Chúa được vinh danh và nhân loại được hạnh phúc. Amen.
5. Hoa Mân Côi – ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Mỗi khi tháng Mười về, những người con thảo của Đức Mẹ lại rộn ràng với những điệu vãn lời kinh để cùng tôn vinh Mẹ và cùng Mẹ suy ngắm cuộc đời Chúa Cứu thế. Mỗi lời kinh "Ave Maria" được sánh ví như một đóa hồng dâng kính Đức Mẹ. Lời kinh Mân Côi muốn diễn tả với chúng ta biết bao điều tốt đẹp.
"Vườn Rôsa bao quanh lái (trái) đất,
Cảnh thiên nhiên thật rất diệu huyền" (Ngắm Rôsa)
Vườn Rôsa trong câu thơ trên chính là Giáo Hội. Giáo Hội của Chúa được sánh ví như một vườn hoa rộng lớn mênh mông, mà ở đó được trồng những cây hồng với muôn sắc hoa rực rỡ. Giáo Hội của Chúa thật đẹp biết bao. Vẻ đẹp ấy không thể hiện nơi những tòa nhà cổ kính khang trang kiến trúc cầu kỳ, mà là nơi những cộng đoàn tín hữu, nhất là khi họ hội họp nhau để cử hành phụng vụ: tất cả cùng một đức tin, một tình mến, một tâm hồn để tôn vinh và ca tụng Chúa. Vẻ đẹp của Giáo Hội được tỏa rạng từ nụ cười móm mém của các lão ông lão bà, đến những gương mặt rất thơ ngây của các em nhỏ trong những cuộc rước tôn vinh Chúa, Đức Mẹ hay các thánh. Vẻ đẹp của Giáo Hội còn được thể hiện nơi những người cha người mẹ, nơi các bạn trẻ công giáo, được thấm nhuần tinh thần Phúc âm, đang hăng hái nhiệt tình góp phần làm cho quê hương đất nước thêm tươi đẹp. Những nụ cười, những tâm hồn hy sinh ấy chính là những đóa hồng trong vườn Giáo Hội, làm cho Danh Chúa được rạng rỡ vinh quang.
Lời "Vãn Mân Côi" cũng đưa chúng ta về một thời của lịch sử Giáo Hội: vào thế kỷ 13, Giáo Hội gặp nhiều khủng hoảng, nhất là từ những nguy cơ đến từ một bè lạc giáo có tên là Albigeois ở miền nam nước Pháp. Năm 1213, Đức Mẹ đã hiện đến với Thánh Đaminh và trao cho ngài một cỗ tràng hạt. Mẹ hứa, nếu các tín hữu siêng năng lần hạt thì Giáo Hội sẽ được an bình trở lại. Thánh Đaminh vâng lời Đức Mẹ, nhiệt thành kêu gọi mọi người đọc kinh Mân Côi và đúng như lời Đức Mẹ hứa, bè lạc giáo đã tan rã và Giáo Hội được hưng thịnh. Chính từ biến cố lịch sử này mà Giáo Hội được gọi là "vườn Rôsa" - vườn của những đóa hoa hồng, vì nhờ kinh Mân Côi, Giáo Hội đã tìm lại được vẻ đẹp huy hoàng của mình. Ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 7-10 hằng năm cũng được Đức Piô V thiết lập để ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7-10-1571. Chiến thắng này có được là nhờ các tín hữu lần hạt Mân Côi trong ngày giao chiến.
Một câu chuyện kể rằng Thánh Đaminh đã có sáng kiến kết 150 bông hoa hồng thành một chuỗi dài, tượng trưng cho 150 thánh vịnh. Ngài đã dùng những cánh hồng thơm ngát, nén chặt như ép khuôn và làm thành từng hạt hình tròn, nối liền với nhau thành một tràng hạt. Từ đó, tràng hạt được gọi là chuỗi Mân Côi, tức chuỗi hoa hồng.
"Đức Bà như Hoa Hường (hồng) màu nhiệm vậy" (Kinh cầu Đức Bà)
Trong vườn Rôsa, tức vườn Giáo Hội, có một đóa hoa vượt trổi về màu sắc và hương thơm. Đóa hoa ấy mang tên là Maria. Đức Maria vừa là Mẹ của Giáo Hội, đồng thời cũng là chi thể của Giáo Hội. Mẹ là mẫu mực cho đời sống đức tin của các tín hữu. Nơi Mẹ, Giáo Hội chiêm ngưỡng hình ảnh của mình trong tương lai. Mẹ diễn tả một hình ảnh không tỳ ố, không vết nhơ của Giáo Hội. Mẹ là hy vọng của Giáo Hội đang vươn tới vinh quang rạng rỡ như Mẹ.
Là Mẹ của Đức Giêsu, Mẹ cũng là Mẹ của Giáo Hội. Bằng sự quan tâm hiền mẫu của mình, Mẹ luôn đỡ nâng chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu. Cũng như tại Cana ngày nao, Mẹ đang dặn dò chúng ta: "Người bảo sao, các con hãy cứ làm như vậy" (Ga 2,5). Mẹ dạy chúng ta phó thác nơi Chúa, như Mẹ đã kiên trung tín thác suốt đời, để Thánh ý của Chúa được thực hiện, vì ơn cứu độ của toàn thể nhân loại.
Khi tôn vinh Đức Mẹ là Hoa Hồng, chúng ta ca tụng quyền năng của Chúa đã tác tạo nên Mẹ, như một tạo vật hoàn hảo, xứng đáng là ngai tòa cho Ngôi Lời nhập thể. Khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp cao siêu của Mẹ, chúng ta nguyện ước noi gương Mẹ, trau dồi các nhân đức, mến Chúa yêu người, luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
"Mỗi người là một cành hoa, cùng đem về đây góp gió,
Làm thành vườn hoa, muôn màu muôn sắc tươi xinh" (Lời một bài hát)
Mỗi chúng ta, khi sinh vào cuộc đời, cũng giống như một loài hoa để tô điểm cho thế giới này tươi đẹp. Sự khác biệt về tuổi tác, giới tính, trình độ văn hóa hay điều kiện kinh tế không phải là những lý do gây mâu thuẫn, nhưng làm cho cuộc sống thêm phong phú. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã nhận mình là một loài hoa được Thiên Chúa chăm sóc yêu thương một cách đặc biệt. Đã là hoa trong vườn, dù thuộc chủng loại nào, những bông hoa đều cống hiến hương sắc cho đời. Con người cũng thế, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng có trách nhiệm góp phần làm cho cuộc sống thêm nhân ái hơn.
Kinh Mân Côi giúp ta gắn bó với Chúa. Hai mươi mầu nhiệm diễn tả cuộc đời của Chúa Cứu thế, đồng thời cũng phác họa đời sống chúng ta. Cuộc đời được dệt nên bằng một chuỗi những vui buồn. Những ai kiên trung cậy trông vào Chúa trong mọi biến có vui buồn ấy, sẽ trở thành môn đệ chân chính của Đức Giêsu. Đức Mẹ đã thực hiện điều ấy và Mẹ đang mời gọi chúng ta tiến bước theo Chúa Giêsu, Con của Mẹ.
Tràng hạt Mân Côi cũng tượng trưng cho tình liên đới giữa con người với nhau. Là những đóa hoa trong vườn hoa cuộc đời, chúng ta liên kết với nhau làm thành một chuỗi hoa hồng. Những đóa-hoa-cuộc-đời được gắn liền với nhau bằng tình mến Chúa yêu người, làm cho cuộc sống này thêm tươi đẹp và thi vị hơn.
Khi ước mong trở thành những đóa hồng dâng kính Đức Mẹ, mỗi người chúng ta cũng cần phải là một đóa hoa để trao tặng cho nhau. Những nghĩa cử thân thiện, những lời động viên khích lệ hoặc sự chia sẻ tinh thần vật chất mà chúng ta thực hiện xuất phát từ tình mến, đó chính là những đóa hoa lòng mà chúng ta trao tặng cho nhau. Những đóa hoa ấy không tàn phai theo thời gian, nhưng mãi mãi thắm sắc ngát hương, làm nên một cuộc sống an bình. Đó là ý nghĩa của Kinh Mân Côi mà chúng ta đọc hằng ngày.
Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã nói: "Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy" (Tông thư Kinh Mân Côi).
Lạy Mẹ Mân Côi, xin chúc lành và hướng dẫn chúng con trên mọi nẻo đường trần gian. Amen.
6. Xin Vâng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng hai tiếng "Xin vâng" của Đức Mẹ. Hai tiếng "Xin vâng" thật đơn sơ nhỏ bé, nhưng lại có ảnh hưởng lớn lao.
Trước hết hai tiếng "Xin vâng" có ảnh hưởng tới chương trình của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho loài người. Nhưng để chương trình ấy thành công, cần có sự tham gia, đồng thuận, vâng phục của con người. Chúa muốn con người được hạnh phúc. Nhưng nếu con người từ chối, Thiên Chúa không thể ban hạnh phúc cho con người. Chương trình đầu tiên của Chúa đã thất bại vì ông bà nguyên tổ không vâng lời Chúa. Ông bà nguyên tổ đã nghe ma quỷ hơn nghe Chúa. Ông bà nguyên tổ đã làm theo ý riêng hơn làm theo ý Chúa. Trái lại Đức Mẹ đã tham gia, đã đồng ý, đã vâng phục, nên chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Kế hoạch cứu độ loài người của Thiên Chúa nhờ hai tiếng "Xin vâng" của Đức Mẹ mà thành công.
Hai tiếng "Xin vâng" của Đức Mẹ vọng lại hai tiếng "Xin vâng" của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Vì vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã vui lòng xuống thế làm người. Hôm nay, khi Đức Mẹ nói tiếng "Xin vâng" với Thiên thần, Đức Giêsu cũng nói "Xin vâng" với Đức Chúa Cha. Với hai tiếng "Xin vâng", Đức Mẹ khai thông chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Sau hai tiếng "Xin vâng", Ngôi Hai xuống thế làm người, tượng thai trong lòng Đức Mẹ.
Hai tiếng "Xin vâng" có ảnh hưởng tới cả cuộc đời.
Hai tiếng "Xin vâng" nghe thật bé nhỏ, khiêm tốn, những ảnh hưởng tới cả cuộc đời Đức Giêsu và Đức Mẹ. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã từ trời xuống thế, như lời Thánh vịnh: "Máu chiên bò, Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu, Chúa không nhận. Thì này con đến để làm theo ý Cha". Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã chấp nhận con đường bé nhỏ, khiêm nhường. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu vui lòng chịu chết, chết nhục nhã trên cây Thánh giá: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này. Những xin đừng làm theo ý Con, chỉ xin vâng ý Cha mà thôi".
Cũng vậy, khi nói tiếng "Xin vâng" với Thiên thần, Đức Mẹ ràng buộc tất cả đời mình vào chương trình của Thiên Chúa. Vì xin vâng mà phải sinh con trong hang đá nghèo nàn. Vì xin vâng mà phải trốn chạy sang Ai cập. Vì xin vâng mà chấp nhận lời tiên tri Simêon: "Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim bà". Vì xin vâng mà theo Đức Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo. Vì xin vâng mà phải đứng dưới chân thập giá, chịu mọi đau đớn, khổ nhục với con, dường như cùng chết với con vậy.
Như thế, để nói tiếng "Xin vâng" với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ đã phải nói "Không" với chính mình. Để một lần nói "Xin vâng" với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ phải nhiều lần nói "Không" với chính mình. Tiếng "Vâng" lớn thành hình nhờ những tiếng "Không" nhỏ bé. Ý Chúa được thể hiện nhờ biết bỏ ý riêng. Chương trình lớn thành công nhờ những hy sinh bé nhỏ âm thầm.
Khi tạo dựng nên ta, Chúa đã có chương trình cho mỗi người chúng ta. Đó chính là chương trình tốt đẹp nhất. Nhưng nếu ta không cộng tác, thì chương trình ấy không thực hiện được. Để chương trình của Chúa được thực hiện, ta hãy noi gương Đức Mẹ, nói tiếng "Xin vâng" với Chúa. Hãy biết bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Hãy biết bỏ chương trình riêng để đi vào chương trình của Chúa. Hãy xin vâng khi vui. Hãy xin vâng khi buồn.Hãy xin vâng khi hạnh phúc. Hãy xin vâng khi đau khổ. Hãy noi gương Đức Mẹ, xin vâng trong ngày truyền tin vui tươi, và xin vâng cả khi đứng dưới chân thập giá đau buồn. Xin Vâng từng giây phút trong cuộc đời. Khi chương trình của Chúa được thực hiện, ta sẽ được hạnh phúc và đem hạnh phúc cho những người chung quanh ta.
Lạy Mẹ, xin dạy con hai tiếng XIN VÂNG như Mẹ. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Hai tiếng "Xin vâng" của Đức Mẹ có ảnh hưởng thế nào đến chương trình của Thiên Chúa?
2- Hai tiếng "Xin vâng" Đức Mẹ có ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời của Đức Mẹ.
3- Chúa Giêsu đã sống lời "Xin vâng" thế nào?
4- Ta phải làm gì để chương trình của Chúa nơi ta được thực hiện"
7. Việc ấy sẽ xảy ra cách nào
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Bài Phúc Âm được đọc trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi đề cập tới biến cố truyền tin. Điều đó có vẻ như thiếu thiếu một gì đó, vì thật ra truyền tin chỉ là 'mầu nhiệm Mân Côi' thứ nhất trong số 20 mầu nhiệm được đem ra suy gẫm? Phụng vụ muốn nói gì khi chọn đoạn Tin Mừng này, đặc biệt cho giáo dân Việt Nam khi mà Hội Đồng Giám Mục trong khóa họp tháng 4 năm 1991 đã quyết định cho phép mừng trọng thể lễ này vào ngày Chúa Nhật? Đặt vấn nạn như thế có nghĩa là muốn xác định nội dung đích thực của việc lần hạt Mân Côi: một việc đạo đức được Đức Mẹ ưa thích, hay còn là một con đường sống Tin Mừng bình dân nhưng hữu hiệu và sâu sắc?
Người Công giáo chúng ta vẫn biết rằng giá trị của việc lần hạt Mân Côi hệ tại ở suy niệm các sự kiện hay biến cố xảy ra trong cuộc đời đức Giêsu và đức Ma-ri-a, hầu giúp ta nhận ra, ngày càng sâu sắc hơn, hồng ân cứu độ. Tuy nhiên sự nhận biết này nhiều khi chỉ dừng lại ở nhận thức, một cảm thức chung chung mang tính lý thuyết; hoặc giả hồng ân cứu độ đó chỉ là điều ta đã từng nhận lãnh một lần ngày rửa tội xa xưa. Biến cố truyền tin nói riêng, và mọi biến cố liên quan tới đức Ma-ri-a nói chung, theo như tác giả Lu-ca trình bày, cho thấy một khía cạnh khác của cuộc sống Hồng Ân cứu độ: các biến cố thường nhật cần phải được nhìn nhận và được đưa vào hồng ân này, nhất là khi chúng xem ra càng khó hiểu và xa lạ với kế hoạch từ ái của Thiên Chúa.
Biết bao lần tôi phải tự hỏi, trong tư cách một Ki-tô hữu đứng trước nhiều biến cố liên quan tới mình, tới tha nhân và xã hội loài người, thì "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?" Câu hỏi này không mong tìm cho ra một giải đáp hợp lý cho từng sự kiện, nhưng là để nhận ra lòng từ bi thương xót của Chúa đang được thực hiện ra sao. Trong lần hạt Mân Côi, cùng với đức Ma-ri-a, tôi giáp mặt với cuộc sống hàng ngày, có thể là những niềm vui, những biến cố trang trọng mang nhiều ý nghĩa, cũng có thể là những nỗi buồn, những đổ vỡ..., những chuyện vụn vặt vu vơ, những thành công hay thất bại, những kỳ vọng hay hoài bão...
Đối với một Ki-tô hữu như tôi, tất cả mọi biến cố bất luận tốt xấu, đều có giá trị nếu được nhìn nhận và đưa vào tình yêu nhân ái của Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Đối với Ki-tô hữu, sẽ không chỉ có vấn đề 'thánh hóa = làm phép' các biến cố hàng ngày, theo kiểu dâng chúng lên cho Thiên Chúa, như cách nói bình dân thông thường. Điều một Ki-tô hữu cần làm là dìm mọi biến cố của cuộc sống mỗi ngày ngập sâu trong hồng ân cứu độ. Truyền tin, và nhiều biến cố khác nữa, đã được đức Ma-ri-a sống như thế. Mẹ đã 'ghi nhớ tất cả các điều ấy... và suy đi nghĩ lại trong lòng' (Lc 2,19.51). Ma-ri-a đã không lần hạt, nhưng là Mẹ Mân Côi vì đã không ngừng khám phá và sống từng biến cố đời mình trong hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.
Dành được thời giờ mỗi ngày để xét mình và suy gẫm các 'mầu nhiệm phép Mân Côi' là điều tốt, nhưng rồi cũng có lúc trở thành nhàm chán. Chung qui đó vẫn còn là công việc nặng tính lý thuyết và khá trừu tượng. Lần hạt Mân Côi sẽ làm cho cả hai việc trên trở nên sống động hơn, hiện sinh hơn, nếu qua đó tôi cùng với Mẹ nhìn nhận lòng từ ái Chúa trong từng biến cố cuộc sống mình. Mà các biến cố thì luôn thực tế, thiết thực và biến đổi không ngừng trong đời sống thường ngày. Các biến cố không chỉ được phân loại tối hay xấu theo nghĩa luân lý, mà tất tất đều cần được ánh sáng hồng ân cứu độ của Chúa soi chiếu và biến đổi, Như thế tôi không chỉ lần chuỗi hạt, mà sống Mân Côi mỗi ngày. Chắc chắn sống Mân Côi như thế sẽ thiết thực dẫn đưa tôi đạt tới một cuộc sống Ki-tô ngày càng Tin Mừng hơn, hiểu theo nghĩa cho phép tôi ngày càng vào sâu hơn trong hồng ân cứu độ, và mau mắn biến đổi đời tôi - không theo nghĩa ngày càng trở nên tốt lành thánh thiện hơn - nhưng ngày càng thâm tín khi nhận ra rằng tình thương của Chúa trên tôi (và trên toàn nhân loại) không bao giời vơi cạn, bất chấp tất cả những yếu đuối biến thiên vô hình vạn trạng của con người.
Sứ điệp Fa-ti-ma sẽ không bao giờ mất đi cái ý nghĩa thâm sâu của nó, đã được vang vọng từ thời Thánh Đa-minh, và sẽ còn tiếp tục mãi qua mọi thời: "Hãy năng lần Mân Côi!"
Lạy Mẹ Mân Côi! Cùng với Mẹ, xin cho con sống Mân Côi hàng ngày. Xin cho con luôn tìm được giải đáp thỏa đáng cho mọi tình huống và biến cố trong đời con qua câu nói của sứ thần mà chính Mẹ đã được nhắc nhở: "Vì đối với Thiên Chúa - nhân lành, không có gì là không thể làm được'. Cùng với Mẹ, con mong rằng việc lần hạt Mân Côi sẽ trở thành con đường Tin Mừng đích thực cho con. Amen.
8. Phương thuốc thần diệu – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Mọi tội lỗi của con người đều do một cội rễ mà sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Sở dĩ thủy tổ loài người là A-đam và E-và bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu đời sau... là vì hai ông bà đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người. Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy, cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao vào vực thẳm. "Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân..." (Rôma 5, 19)
Vậy muốn cứu loài người khỏi tội, khỏi đau khổ và sự chết, thì vấn đề tiên quyết là phải diệt trừ tận gốc căn nguyên gây nên tội, đó là tình trạng bất phục tùng Thiên Chúa.
Tràng chuỗi Mân Côi được xem là phương thuốc thần diệu để diệt trừ tận gốc căn bệnh trầm kha nầy vì chuỗi Mân Côi dạy ta biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
* Gương Vâng Phục Của Mẹ Maria
Lắm khi chúng ta muốn Thiên Chúa thi hành ý muốn của mình hơn là mình phải thi hành ý Chúa.
Khi đau bệnh, chúng ta muốn Thiên Chúa chữa chúng ta mau lành; khi đói khát, chúng ta muốn Thiên Chúa lo liệu cho chúng ta cơm ăn nước uống; khi sắp đi thi, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thi đậu; khi làm việc, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thành công; khi hết tiền, chúng ta muốn Thiên Chúa cho chúng ta đầy túi...
Nếu Thiên Chúa không mau mắn nghe lời chúng ta xin, chúng ta sẽ hờn giận Chúa, chúng ta hăm bỏ đạo, có khi chúng ta hạ bệ Chúa xuống khỏi bàn thờ...
Thế nhưng, dù Mẹ Maria được Thiên Chúa đưa lên địa vị cao vời làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì Mẹ vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn, không hề đòi hỏi Thiên Chúa điều gì mà chỉ biết vâng theo lệnh Chúa truyền. "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Đó là bài học vâng phục mà Mẹ Maria dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của người nữ tỳ nơi Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Gương Vâng Phục Của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục sáng chói của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải "lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: "Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!" (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng và xin thưa với Cha: "Xin cho ý Cha thể hiện".
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Ngài, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng chịu đựng và xin thưa với Cha: "Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha".
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn nạn nhất, phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn xin vâng: "Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha".
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Lc 23, 34)
Như thế, từ gẫm thứ nhất cho đến thứ năm thuộc mầu nhiệm thương, rực sáng lên tấm gương vâng phục của Chúa Giêsu. Tấm lòng vâng phục vô bờ bến đó đã được thánh Phaolô khắc hoạ lại trong bài ca gửi tín hữu Philíp:
"Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự..." (Philíp 2, 6-8)
Sự vâng phục đến mức tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Ngài đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: "Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..." (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: "Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.(Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi chứa đựng bài học vô giá về đức vâng lời: Vâng phục Thiên Chúa là phương thuốc diệt trừ tận gốc cội rễ mọi tội lỗi là sự bất phục tùng Thiên Chúa; vâng lời là phương thế giúp con người khỏi sa đoạ và là con đường dẫn đưa nhân loại về cõi trời.
Phương thuốc thần diệu đó đã được Mẹ Maria và Hội Thánh trao vào tay mỗi người chúng ta qua tràng chuỗi Mân Côi. Ước gì mỗi người vui lòng đón nhận phương dược Mẹ ban để diệt trừ tận căn mầm mống tội lỗi ngay trong lòng mình.
9. Lá sầu riêng – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ở đời tình mẹ là thiêng liêng nhất, cao cả nhất. Nếu không có tình mẹ, có lẽ chúng ta khó có thể cảm nghiệm được thế nào là một tình yêu tinh ròng, thanh khiết, không một toan tính ích kỷ nhỏ nhoi nào. Tình mẹ là một tình yêu vô vị lợi, sống hết mình vì con. Ca dao đã nói rất nhiều về những hy sinh của mẹ như:
"Nuôi con chẳng quản chi thân,
Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn".
Và rồi khi trái gió trở trời, lòng mẹ cũng quặn đau vì con:
"Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi".
Có lẽ chúng ta đều biết đến câu chuyện "Lá sầu riêng" của sân khấu cải lương đã từng trình diễn. Đó là câu chuyện thật cảm động về tình thương của người mẹ hết mình vì tương lai và hạnh phúc của con. Truyện kể về một người mẹ nhà quê, nghèo nàn. Cuộc đời cơ cực với cảnh mẹ goá con côi. Cuộc sống bữa no bữa đói, khiến bà lo sợ cho tương lai của đứa con. Bà đã chấp nhận gửi con cho một gia đình giầu có trong làng, và rồi bà tình nguyện ở bên đứa trẻ để chăm sóc nó với tư cách là một vú nuôi. Năm tháng trôi qua, khi bà đã già yếu, và đứa con do tay bà chăm sóc đã thành danh giữa đời. Bà nghĩ rằng đã tới lúc nói cho con biết sự thật về nguồn gốc của nó, và chắc chắn nó sẽ vui mừng lắm, vì có một người mẹ đã quên cả bản thân mình để lo cho con. Bà nghĩ rằng, lúc đó những giọt nước mắt sung sướng của hai mẹ con nhận ra nhau sẽ dạt dào lắm! Nhưng tiếc thay, điều đó đã không xảy ra! Đứa con không chấp nhận sự thật ấy. Nó đã xua đuổi bà. Nó không dám nhận bà là mẹ. Nó sợ điều này sẽ ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp nó ở đời. Thay cho những giọt nước mắt sung sướng là những giọt nước mắt tủi nhục đắng cay. Bà đã thốt lên trong tiếng nấc nghẹn ngào: "Con ơi! Ngày con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo, con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con cả cuộc đời, sao con nỡ lòng xua đuổi mẹ hở con?".
Tình thương của mẹ trần thế đôi khi cũng quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Tình thương của người Mẹ thiên quốc càng quặn đau hơn khi con đang xa lìa vòng tay che chở của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con đã không nhìn nhận sự trợ giúp của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính thái độ khước từ của con.
Tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của chúng ta. Xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giêsu. Từ nay Mẹ Maria sẽ chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng bên cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ nay cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi là thế. Hết mình vì con. Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: "Đêm mùa thu mẹ ru con ngủ - Năm canh dài thức trọn năm canh".
Thế nhưng, Mẹ Maria đã được gì khi làm mẹ chúng ta? Mẹ có vui khi làm mẹ nhân loại hay không? Nếu vui tại sao mỗi khi Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia Mẹ đều khóc, đều trầm ngâm, đều lo lắng cho sự an nguy của con cái? Mẹ đều khóc cho nhận thế tội tình. Mẹ đều khóc vì những đứa con sa đàng tội lỗi nhưng không chịu quay trở về. Phải chăng mẹ cũng đang đau khổ khi nhìn thấy những người con vì danh vọng ở đời, vì vinh hoa phú quý mà đánh mất tình mẹ? Phải chăng kịch bản "lá sầu riêng" đang diễn tả nỗi lòng của Mẹ thiên quốc? Nếu đúng vậy, Mẹ cũng đang bảo chúng ta: "Con ơi! Chẳng lẽ chỉ vì một chút bổng lộc trần gian mau qua mà con đã vội quên tình mẹ? Và không lẽ chỉ vì những vinh hoa trần thế mau qua mà con đã từ chối mẹ sao? Hãy nhận mẹ làm mẹ để mẹ tiếp tục yêu con, để mẹ tiếp tục hy sinh cho con, và để mẹ tiếp tục che chở bảo vệ con".
Xin cho mỗi người chúng ta biết nhận ra tình thương của mẹ để sám hối ăn năn về những lỗi lầm của mình. Xin giúp chúng ta đừng vì vinh hoa phú quý mà lạc xa tình mẹ. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa. Amen.
10. Lễ Mẹ Mân Côi.
"Hỡi Maria, xin đừng sợ, vì Bà được đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và sinh hạ một con trai và đặt tên trẻ ấy là Giêsu" (Lc 1,30-31).
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh Nữ mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã được thực hiện một cách sáng tỏ. Đó là Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui, cùng thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: "Kính Mừng Maria, Hãy Vui Lên".
Qua lời chào và mời gọi của Thiên Chúa: "Hỡi Maria, hãy vui lên", vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến. Như vậy, làm sao Mẹ Maria không vui lên được khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào Mẹ qua Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy chúng ta được tham gia vào niềm tri ân và niềm vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.
"Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phước", vì chính Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn thuộc về tôi tớ Giavê, như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia: "Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta tuyển chọn, Người đẹp lòng Ta mọi đàng" (Is 42,1). Mẹ được đầy ơn phúc vì Đấng sắp ngự đến nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người được đầy tràn niềm vui, vì Mẹ đã được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho dân Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Zacaria: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài đã trung tín với lời hứa cho Abraham và con cháu ông".
"Thiên Chúa ở cùng Bà". Đó là lời Mẹ đã từng suy niệm, khi tiên tri Isaia loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến. Vì vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng Bà". Giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc Maria được hay tin Đấng là: "Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Mẹ vui mừng vì chính Đấng được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở trong chính cung lòng Mẹ. Chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đến ở với nhân loại.
"Hỡi Maria đừng sợ". Kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình không khỏi làm cho con người run sợ, không những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Đây là một điều mà không bao giờ Mẹ dám nghĩ đến. Nhưng Thiên Chúa đã mạc khải chính những ý định của Ngài cho Mẹ. Vì thế, Mẹ rất vui mừng, nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm với niềm run sợ, một sự run sợ thánh.
Kinh nghiệm sống đời Kitô của chúng ta cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria: "Vui và Sợ". Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp để thắng vượt cái sợ và Mẹ đã phó thác tin tưởng hoàn toàn trong Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em xung quanh.
Lạy Cha là Chúa trời đất, chúng con chúc tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những mầu nhiệm cao cả ấy cho kẻ khôn ngoan kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Cha đã chọn Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, nhờ lời cầu khẩn của Đức Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện của Người và tiếp rước Người đến ở với chúng con.
Lạy Mẹ Maria, chúng con Kính Mừng Mẹ, Đấng "Đầy Ơn Phước", Mẹ đã lãnh nhận mọi ơn lành của Thiên Chúa để giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa. Thiên Chúa ở cùng Mẹ để Thiên Chúa ở cùng với chúng con, chúng con sẽ cảm nhận được điều này như Mẹ nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.
Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có Chúa hiện diện bên cạnh trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.
11. Bài học quan trọng của kinh Mân Côi.
(Suy niệm của Lm. Ignatio Trần Ngà – Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng')
Mọi tội lỗi của loài người đều do một cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông loài người là Ađam và E-và đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu về sau.
Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội lỗi. "Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân..." (Rm 5, 19)
Vì thế, muốn cứu chuộc loài người hư vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giêsu chính là "đầu tàu" nầy: "Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (là Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính". (Rm 5, 19)
Tràng chuổi Mân Côi chính là một lời động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót Chúa Giêsu và Mẹ Maria, đi theo con đường vâng phục như Chúa Giêsu và Mẹ Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc muôn đời.
* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria
Bà E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của mình vào cõi chết.
Đức Maria là E-và mới đã uốn nắn lại những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội dung của kinh Mân Côi.
Dù được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin rằng: "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Đó là bài học vâng phục mà Mẹ dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Theo gương vâng phục của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải "lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: "Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!" (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha: "Xin cho ý Cha thể hiện".
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Người, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng uống cạn chén đắng Cha trao: "Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha".
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã định: "Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha".
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm.(Luca 23, 34)
Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: "Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..." (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: "Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính. (Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Vâng theo ý Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh phúc đời đời như lời Chúa Giêsu dạy: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).
12. Đức Chúa Ở Cùng Bà – Lm. Nguyễn Cao Siêu.
Suy Niệm
Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân Côi làm lòng ta lắng xuống, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Kính Mừng Maria đầy ơn phúc.
Đây là lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền tin, lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã đến.
Mẹ đầy ơn phúc vì được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương. Tình thương Chúa chở che Mẹ ngay từ lúc chưa chào đời, và tình thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi.
Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên tội.
Chúng ta được dự phần vào niềm vui và ân phúc của Mẹ vì chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương được tẩy xóa nguyên tội để trở nên thụ tạo mới.
Đức Chúa Trời ở cùng Bà.
Trong Cựu Ước, có bao người được Thiên Chúa ở cùng, để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân Chúa. Nhưng Thiên Chúa ở cùng Mẹ một cách độc nhất vô nhị.
Khi được đầy tràn Thánh Thần và cưu mang Ngôi Lời, Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa hiện diện giữa con người.
Nhiều lần trong mỗi Thánh Lễ, vị linh mục chúc chúng ta: Chúa ở cùng anh chị em.
Kitô hữu là người có Đức Kitô ở cùng và được mời gọi đem Ngài đến cho thế giới.
Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.
Đó là lời bà Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1, 42) vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ Đấng Mêsia. Mẹ đã cưu mang Người và cho Người bú mớm (Lc 11, 27).
Nhưng sau đó bà Êlisabét còn ca ngợi Mẹ có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói với Mẹ (Lc 1, 45).
Tin là dám buông đời mình trong tay Chúa và để Ngài dẫn đi trong đêm tối của lòng tin.
Mọi tín hữu đều được mời sống hành trình đức tin như Mẹ, để được cùng Mẹ chung hưởng hạnh phúc: "Phúc cho ai không thấy mà tin" (Ga 20, 29)
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời.
Chỉ Thiên Chúa là Đấng Thánh và là nguồn mọi sự thánh thiện.
Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách tuyệt vời, vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ.
Chúng ta chẳng được diễm phúc sinh ra Đức Giêsu, nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm mẹ của Ngài: "Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" (Lc 8,21).
Khi thực thi Lời Chúa trong cuộc sống, chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại hôm nay. Ngài vẫn cần những người mẹ để có mặt đến tận thế.
Chẳng có gì Đức Maria được hưởng cách viên mãn, mà Hội Thánh và từng người lại không được dự phần.
Xin Mẹ cầu cho ta khi này và trong giờ lâm tử.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có khi nào lần chuỗi không? Bạn có biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi là một cách cầu nguyện nhẹ nhàng và lắng đọng không?
Bạn nghĩ gì về Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải là Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là Đấng rất gần bạn trong cuộc sống đức tin?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
13. Mẹ Đầy Ơn Phước – R. Veritas.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giỡ đây được chỉ định rõ ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: "Kính mừng Maria, hãy vui lên, Maria". Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui lên được, khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúc Mẹ Maria qua kinh Kính Mừng "Kính Mừng Maria đầy ơn phước" chúng ta tham dự vào niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ là Đấng đầy ơn phước, Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Đức Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1: "Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn phước vì Đấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa". Mẹ Maria được đầy tràn niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria:
"Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
Ngài là Đấng trung tín như lời đã hứa
Abraham và con cháu ông".
"Thiên Chúa ở cùng Bà", Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa sâu xa. "Thiên Chúa ở cùng Bà", giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
"Hỡi Maria, đừng sợ", kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:
"Lạy Cha là Chúa tể trời đất,
Chúng con chúc tụng Cha
Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ khôn ngoan kiêu ngạo
Nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn
Cha đã chọn Mẹ Mari để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con,
Nhờ lời cầu khẩn của Mẹ Maria
Đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay
Và nhân danh Chúa Giêsu Kitô,
Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con".
Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng con.
14. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
HỌC SỐNG KHIÊM NHƯỜNG VỚI CHÚA QUA KINH MÂN CÔI.
Để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.
Trong những lần hiện ra, Mẹ Maria thường cầm tràng hạt trên tay. Khi hiện ra với ba trẻ ở Fatima, Mẹ còn lần hạt với ba trẻ tại đó. Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cũng như nhiều vị giáo hoàng khác rất siêng năng lần hạt và kêu gọi tín hữu năm châu sốt sắng lần hạt hằng ngày. Như thế, Mẹ Maria cũng như Hội Thánh luôn khuyến khích chúng ta lần hạt vì Kinh Mân Côi là một phương thế giúp cho người ta nên thánh.
Nhưng để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, thì chỉ đọc suông ngoài miệng không đủ, mà cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.
Giờ đây, chúng ta cùng chiêm ngắm lòng khiêm nhường sâu thẳm của Ngôi Hai Thiên Chúa qua Kinh Mân Côi.
Gương khiêm nhường của Ngôi Hai Thiên Chúa nổi bật trong những phần suy gẫm sau đây:
- Gẫm thứ nhất năm sự vui: Ngay khi Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, Thiên Chúa Ngôi Hai là Đấng cao sang quyền phép đã chấp nhận hóa thân thành một phôi thai nhỏ, chỉ bằng hạt cát thôi, nằm trong tử cung của Mẹ Maria để chờ ngày được sinh ra làm người. Một Thiên Chúa cao sang là Chúa Tể trời đất mà lại hạ mình đến thế thì tôi là ai mà dám nhắc mình lên cao!
- Gẫm thứ ba năm sự Vui: Khi Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu trong hang đá, Thiên Chúa Ngôi Hai là Vua Trời đầy quyền uy phép tắc hiển trị trên các tầng trời đã chấp nhận chọn hang bò lừa làm nơi nương náu, chọn máng súc vật làm nôi để đến ở cùng nhân loại. Hạ mình và khiêm nhường như vậy là hết mức, không thể hạ mình sâu hơn được nữa.
- Gẫm thứ nhất trong năm sự Sáng: Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Gio-đan; Chúa Giêsu là Thiên Chúa hoàn toàn vô tội, ngàn trùng chí thánh, vậy mà Người chấp nhận hòa mình với những người tội lỗi bên bờ sông Gio-đan, xếp hàng đứng chung với những người tội lỗi, những tay đâm thuê chém mướn, những cô gái điếm, những gã côn đồ... để chờ đến phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan, cúi mình xuống để cho Gioan làm phép rửa cho. Đấng không hề biết tội là gì lại khiêm nhường cúi mình nhận tội, còn tôi thì cứ cho mình vô tội và tìm mọi cách trút tội lên đầu người khác.
- Và đặc biệt là trong năm sự Thương, chúng ta thấy nổi lên hình ảnh Chúa Giêsu quá đỗi khiêm nhường khi Người tự xóa mình đi, trở thành tên tử tội, để cho người ta hành hạ Người đủ cách cho đến chết.
- Chúa Giêsu chịu đánh đòn: Chúa tốt lành thánh thiện vô cùng nhưng lại bị đưa ra tòa xét xử như một tên gian phi, bị vu cáo, bị khạc nhổ vào mặt, bị đánh đòn tan nát thân mình mà vẫn khiêm nhường chịu đựng chẳng hé môi kêu trách hay phản kháng.
- Chúa Giêsu chịu đội mão gai. Thay vì đội mão triều thiên vinh hiển của các bậc vua chúa cao sang, Chúa Giêsu chịu đội vòng gai nhọn đâm sâu vào đầu, để cho người ta sỉ nhục nhạo cười mà không hận thù hay oán trách. Khiêm nhường hạ mình đến thế thật là hết mức.
- Chúa Giêsu vác thập giá: Là Chúa Tể trời đất, lẽ ra Chúa Giêsu bắt mọi người quy phục mình, nhưng trái lại, trên chặng đường thương khó, Chúa để cho quân lính chế ngự Người, bắt Người vác thập giá lảo đảo tiến lên pháp trường theo lệnh truyền và những lời quát tháo của những tên lính hung hăng. Chúa Tể trời đất đã khiêm nhường chịu thua hết thảy mọi người và để mặc cho người ta hành hạ.
- Chúa chết trên thập giá: Cuối cùng, tuy là Chúa Tể càn khôn, Chúa chịu để cho quân lính lột áo ra, đóng đinh tay chân Người vào thập giá và bị treo thân trên thập giá giữa hai tên đạo tặc, chia chung án chết với những kẻ côn đồ. Dù bị hành hạ đến mức nào đi nữa, Chúa Giêsu vẫn khiêm nhường chịu mọi nhục hình cho đến chết.
Kiêu ngạo là đầu mối, là nguồn mạch phát sinh nhiều tội lỗi, là một trong bảy mối tội đầu; còn khiêm nhường là nhân đức cao vời và là liều thuốc thần diệu cứu con người khỏi kiêu căng tự mãn. Ước chi mỗi lần đọc Kinh Mân Côi, chúng ta biết nhìn ngắm tấm gương khiêm nhường sâu thẳm của Chúa Giêsu, học sống khiêm nhường như Chúa để nhờ đó, chúng ta triệt bỏ được tính kiêu căng và làm cho đời sống mình trở nên cao đẹp và giống Chúa hơn.
15. Tại sao chúng ta đọc Kinh Mân Côi
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Kính thưa cộng đoàn, Trên các trang mạng công giáo ngày hôm nay, cách riêng trang mạng của HĐGMVN, người ta thấy xuất hiện một lá thư của Hội đồng gửi đến toàn thể cộng đoàn dân Chúa Việt Nam. Bức thư ấy cho biết nỗ lực làm việc của Đại hội XI mới kết thúc hôm qua, tập trung vào tài liệu làm việc dành cho đại hội dân Chúa sẽ được qui tụ vào cuối tháng 11. Ở cuối bức thư, có xin toàn thể mọi người bằng kinh Mân Côi, hãy cầu nguyện cho Đại hội đem lại những thành quả tích cực.
Tại sao xin cầu nguyện mà lại cầu nguyện bằng kinh Mân Côi? Có lẽ vì lý do thực tế bức thư được viết vào lễ Đức Mẹ Mân Côi, bức thư được viết vào tháng Mân Côi. Nhưng bên trong, HĐGMVN muốn kêu gọi toàn thể dân Chúa vốn là dân vẫn yêu mến Đức Trinh Nữ Maria, vẫn yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy bằng chính tràng hạt Mân Côi ký thác Đại hội dân Chúa tháng 11 này cho Đức Trinh Nữ Maria. Đó là một tình cảm rất đậm đà, mà cũng là nhiều gợi ý cho chúng tôi muốn chia sẻ với cộng đoàn trong thánh lễ sáng nay về kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm hiệp thông và sứ vụ.
I. Trước hết, thưa cộng đoàn, kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm ai trong chúng ta cũng biết từ thưở còn tấm bé, vẫn nghe nói đến và sướng lên những mầu nhiệm Mân Côi. Ngày xưa là 15 mầu nhiệm, nhưng hôm nay là 20: Vui, Sáng, Thương, Mừng đầy đủ. Mỗi một sự kiện được xướng lên, mệnh danh là một mầu nhiệm trong tâm tình kinh đọc.
Nhưng cùng với Đức Maria và trong Đức Maria, người ta thấy những mầu nhiệm ấy cũng thoát lên cả một sức sống mầu nhiệm mà Đức Trinh Nữ Maria cá nhân đã được dẫn dắt vào, và mở ra cho cộng đoàn Giáo Hội cả một sức sống rộng dài lịch sử cứu rỗi hôm qua cho đến hôm nay, và còn mãi ngàn sau.
Chỉ xin đan cử mầu nhiệm Truyền Tin trong Tin Mừng hôm nay vừa gợi lên, cũng là ngắm thứ nhất Mùa Vui. Cộng đoàn chúng ta cũng thấy là cả một mầu nhiệm tuyển chọn Thiên Chúa dành cho Đức Maria. Nếu như trong Tin mừng hôm nay có tô đậm lời chào của Thiên sứ Gabrien dành cho Đức Mẹ trong buổi Truyền Tin với một danh xưng tuyệt vời, nằm mơ cũng không thấy, đó là danh xưng Đấng Đầy Ơn Phúc. Một danh xưng họa hiếm trong Thánh Kinh, và cũng là một danh xưng nói lên cả một mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa tuyển chọn Đức Trinh Nữ Maria, để thông qua Mẹ tuôn đổ xuống tất cả mọi người. Ông bà anh chị em cứ nghĩ mà xem, trước đó Đức Maria chưa là gì. Thế nhưng, kể từ buổi Truyền Tin, cách riêng với lời chào Đấng Đầy Ơn Phước, Mẹ đã trở nên một nhân vật không thể thiếu được, và cũng là nhân vật mẫu gương, nhân vật điển hình, hay nói theo kiểu ngày hôm nay, Mẹ là người mẫu để khởi đi từ đó mở ra một nhãn giới sự sống mầu nhiệm cho toàn thể Hội Thánh.
Mẹ được tuyển chọn trong mầu nhiệm mà ngày hôm nay chúng ta gọi là mầu nhiệm Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ cũng được tuyển chọn trong mầu nhiệm đồng trinh khi thụ thai, và cũng là mầu nhiệm tuyển chọn khi Mẹ cung cấp chất liệu xác thân của mình cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành làm người trong cuộc sống nhân lọai. Ở đây, Mẹ chính là Mẹ Thiên Chúa. Và mầu nhiệm của tháng 8 vừa qua chúng ta cử hành, mầu nhiệm Mẹ Hồn Xác Lên Trời, tất cả đều quyện lại trong một sự sống, sự sống Thiên Chúa đã ban cho Mẹ trong mầu nhiệm tuyển chọn, để rồi với hình mẫu ấy, tất cả mọi tín hữu đều gắn bó với Mẹ, đi theo bước đường Mẹ đã đi, cũng được tháp nhập vào trong sự sống của Đức Kitô, để đến với sự sống của Thiên Chúa, vốn là sự sống hồng ân Chúa dành cho tất cả mọi người.
Vâng, mầu nhiệm không phải là cái gì đơn thuần mình nghĩ là vượt quá tầm hiểu biết, có tin cũng không đạt được. Mà mầu nhiệm ở đây trước hết xin hiểu là một sự sống mênh mông trong đó mỗi người chúng ta được dìu dắt đến và cứ như vậy, như biển cả, như đại dương, càng ngụp lặn đến thỏa thích, mà vẫn không bao giờ no thỏa cơn khát của tấm lòng. Bằng kinh Mân Côi, Đức Maria đã dẫn chúng ta vào tất cả những mầu nhiệm từ ân tuyển chọn cho đến thông qua Đức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm cứu độ, và còn mở ra cho tương lai của hậu thế của mọi người chúng ta trong Đức Kitô. Đó là mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa trao gửi cho con người, ban tặng cho con người, và làm sao mỗi người khi đọc kinh Mân Côi, cũng để cho chính mầu nhiệm sự sống ấy được triển nở lên trong cuộc đời riêng của mình cũng như trong cộng đoàn mà mình là thành phần.
Kết thúc mấy ngày đại hội vừa qua, các Giám mục chúng tôi được mời tra lại sức khỏe, ở đó có việc thử máu, cũng như các Linh mục của các giáo phận nước Việt Nam trong năm vừa qua cũng được mời để làm như thế. Kết quả là Giám mục nào cũng khám phá ra được điều gì đó trong vận hành máu huyết của mình không phù hợp lắm với chính bước đi của mình hôm nay. Có những lắng lo, và bên cạnh đó cũng có những vui mừng khi ai đó khám phá ra mình hôm nay vẫn còn khỏe mạnh cho dẫu đã ở tuổi 65 hoặc 70. Quan sát như thế và cũng chia sẻ với nhau ưu tư một chút về vấn đề ấy, chúng tôi trộm nghĩ mỗi một tín hữu, từ Giám mục cho đến mọi người giáo dân, ắt hẳn ai cũng khám phá trong máu huyết của mình có một sức sống. Sức sống ấy không được ý tự, sức sống có thử máu cũng không tìm ra. Nhưng sức sống ai cũng cảm nghiệm được, cũng nhận thấy, đó là sức sống Kitô nơi chính máu huyết của mình, bất kể đó là những loại máu A, B, C, D,... Nhưng ở đây, là Kitô hữu, chúng ta mang dòng máu Kitô. Dòng máu ấy chỉ được thử nghiệm trong tình yêu thật với Đức Kitô và cách riêng bằng tràng hạt Mân Côi. Vào dịp này, ta sẽ nghiệm được đó là mầu nhiệm dàn trải và mời gọi mỗi người chúng ta đón nhận cũng như sống lấy. Vâng, đó là khía cạnh trước hết trong nhãn giới mầu nhiệm.
II. Khía cạnh thứ hai chia sẻ với cộng đoàn, bằng kinh Mân Côi, người ta cũng nhận ra khía cạnh hiệp thông trong đời sống tín hữu. Nếu như phần đầu của từng mầu nhiệm Mân Côi, theo như thói quen chúng ta vẫn đọc. Ví dụ ngắm thứ nhất Mùa Vui Thiên Thần truyền tin cho Đức Mẹ,..., và phần sau là Ta hãy xin cho được khiêm nhường. Phần sau này chính là tâm tình hiệp thông của tất cả mọi tín hữu, của từng cá nhân, khởi đi từ mầu nhiệm mình gẫm suy, cũng như của từng cộng đoàn gắn bó nhịp sống của mình với mầu nhiệm mà mình đang suy tưởng. Ở đây là một sự nối kết giữa mầu nhiệm sự sống với hành trình sự sống của mỗi người trong tinh thần hiệp thông. Chính nhãn giới hiệp thông này, ta gặp thấy trọn vẹn đời sống của mình được dàn trải ra từ những ngóc ngách của suy tư, cho đến những lối ngõ của hành động. Ở đó, đâu đâu cũng có sự đồng hành của Đức Trinh Nữ Maria. Cộng đoàn cứ thử nghĩ mà xem, trong ngày thăm viếng, Đức Maria đã làm gì. Ngài không đến để chia sẻ, để niềm vui của Mẹ được hiệp thông với Bà Isave, mà cuối cùng là bừng vỡ lên niềm vui của hai thai nhi, hai bà bầu trẻ và trọng tuổi hơn gặp nhau, làm cho hai thai nhi cũng gặp gỡ. Rốt cuộc, phát tỏa trong điệu nhảy niềm vui của Gioan Baotixita, nhảy hôm qua cho đến hôm nay và ngàn đời vẫn cứ tiếp tục nhảy.
Trong lịch sử của âm nhạc, có nhiều điệu nhảy kết thúc bằng chữ A, điệu nhảy Chachacha hay Lămbada... Vì thế, đây cũng có thể gọi là điệu nhảy Gioan Baotixita, để tất cả mọi người trong mầu nhiệm ấy được hiệp thông niềm vui của mình, làm sao cho kinh đọc, cho suy tưởng, và cho đời sống của mình cũng vươn lên trong những điệu nhảy của tấm lòng, điệu nhảy niềm vui, sẻ chia. Và rồi còn nhiều mầu nhiệm khác trong 15 hoặc là 20 ngắm Mân Côi, người ta cũng thấy Đức Trinh Nữ Maria ở đó khuôn mẫu cho tình hiệp thông gắn bó. Gắn bó với đối tượng mà Mẹ tìm đến gặp gỡ, cũng như gắn bó trong nhãn giới của Hội Thánh hôm nay. Đây là một niềm vui không bao giờ chấm dứt.
Ngày hôm nay, cộng đoàn của mỗi người chúng ta cử hành lễ Mân Côi, được nhìn trong nhãn giới hiệp thông. Hiệp thông của từng người với nhau làm thành niềm vui lớn đã đành, nhưng còn là niềm vui hiệp thông cảm tạ Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban cho Hội Thánh hiệp thông với Đức Trinh Nữ Maria. Đó là nhãn giới thứ hai, nhãn giới hiệp thông. Và gắn với liền đó là mênh mông bao là những biến cố cũng như tâm tình mà cộng đoàn có thể gắn bó tiếp nối vào đó mà tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria.
III. Nhãn giới thứ ba chính là nhãn giới sứ vụ. Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Không phải vì có Giáo Hội, rồi mới có sứ vụ truyền giáo. Nhưng bởi vì đã có lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu trao cho các tông đồ, thế nên phải thành lập một tổ chức để thi hành, đó chính là Giáo Hội. Giáo Hội được khai sinh từ lệnh truyền truyền giáo của Đấng Phục Sinh, và khởi đi từ đó, tất cả những ai biết mình là thành viên của Giáo Hội luôn luôn canh cánh bên lòng, từ ước vọng cho đến thao thức, và thể hiện ra qua những công việc truyền giáo cụ thể mình thực hiện được tại địa bàn dân cư mà mình là thành phần. Nói một cách vắn gọn, sứ vụ ở đây có nghĩa là mình đã hiệp thông với mầu nhiệm sự sống, mình đã đáp ứng bằng nhịp sống cá nhân làm thành niểm vui, thì tới phiên mình, trong tư cách là thành viên của Hội Thánh, mình cũng trao gửi, mình cũng sẻ chia niềm vui ấy cho tất cả những ai mình gặp gỡ. Có thể là những người chưa biết đến đạo giáo, có thể là những người năm nào đó đã biết rồi, đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đã là Kitô hữu rồi, nhưng đã bị lớp bùn thời gian và nếp sống của họ phủ lên chính lòng tin. Vì vậy, khi mình trao gửi niềm vui, khi mình chia sẻ lại ơn mình lãnh nhận được, mình mời gọi họ bước vào nẻo đường tạ ơn. Đó cũng chính là lúc mình đang sống tinh thần sứ vụ của Hội Thánh.
Kinh Mân Côi là một kinh mở ra cho mỗi tín hữu nhãn giới sứ vụ ấy. Nếu như trong biến cố thăm viếng, Đức Maria đã bước chân trong sứ vụ vượt qua nẻo đường cả một trăm kilômét, không biết bằng đi bộ hay ngồi trên lưng lừa, nhưng Mẹ đã vượt nẻo đường xa để chia sẻ niềm vui với một người chị em trọng tuổi hơn mình. Hay là trong năm sự sáng, Đức Maria hiện diện tại đám cưới Cana, Mẹ đã đôn đáo, mới đầu chỉ như một thông tin cỏn con dành cho người con thân yêu của mình họ hết rượu rồi, để rồi sau đó ngược xuôi, chạy đi chạy lại đôn đáo, làm sao cho hòa cùng vào một nhịp. Nhất là giải quyết được vấn đề - rượu được tràn đầy và niềm vui của đám cưới được diễn tả ra. Không mất danh dự của đám cưới, mà còn khơi thêm niềm vui, cách riêng khơi thêm niềm tin cho các môn đệ đầu tiên tìm theo Chúa Giêsu. Rõ ràng, trong biến cố ấy, Đức Maria là hình mẫu của con người sứ vụ, để rồi hôm nay, mỗi người chúng ta qua Kinh Mân Côi cũng khám phá lại được tiếng gọi sứ vụ đang thúc đẩy chúng ta đến với tất cả những anh chị em xung quanh mình. Bất luận bằng một lời kinh, bằng một tâm tình chia sẻ, bằng một lời nói ủi an. Rõ hơn nữa, bằng một cử chỉ gì đó giúp đỡ, Vâng, chỉ xin thâu tóm lại trong nhãn giới ấy, nhãn giới mầu nhiệm, nhãn giới hiệp thông, nhãn giới sứ vụ của kinh Mân Côi.
Trong dịp cử hành thánh lễ Mân Côi cùng với cộng đoàn đây. Trong niềm vui cảm tạ khơi lên cùng với HĐGMVN lời chia sẻ dành cho cộng đoàn dân Chúa – hãy yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy cầu nguyện bằng tràng hạt Mân Côi, và hãy thả vào đó tất cả tâm tình của mình. Một mặt để nhận được sức sống mầu nhiệm Thiên Chúa gửi trao, và một mặt khác, chính mình cũng nhận ra sức sống ấy trong từng nhịp sống, trong từng lời kinh của mình. Một khi đã nhận được như vậy, chính mình trở thành tông đồ sẻ chia cho những người xung quanh.
Xin nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi, mà chúng ta đang cử hành trong thánh lễ đây, cho mỗi người tín hữu chúng ta, cách riêng trong tháng này, cũng biết yêu mến tràng hạt Mân Côi. Trước đây đã yêu rồi, đã lần hạt nhiều lần rồi, nhưng ta thử đọc lại bằng một tâm tình, một tâm tình mới mà HĐGM mời gọi ấy, để thấy được rằng cả một sức sống nhiệm mầu, hiệp thông, và sứ vụ đang ùa vào tâm hồn mỗi người chúng ta. Xin kết thúc bằng một vần thơ nhỏ:
Gửi em một chục Mân Côi
Để em sớm tối học lời cầu kinh
Mẹ trên cao sẽ thương tình
Cho em hạnh phúc, gia đình an vui.
Gia đình đây là cộng đoàn. Gia đình đây là gia đình riêng của mỗi người. Gia đình đây cũng là tập thể giáo xứ, là giáo phận, là đất nước, là tất cả mọi người chúng ta.
Xin Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi ban muôn ơn lành xuống trên tất cả mọi người. Amen.
16. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu.
(Trích trong 'Từng Bước Một Thôi' – ĐGM. Vũ Duy Thống)
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là "lời kinh diệu kỳ".
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư "Kinh Mân Côi", một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?
1) Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử.
Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ "Mẹ ơi" từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.
Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nếu "nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một" là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội "khi nay và trong giờ lâm tử". Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.
2) Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô.
Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là "cuốn Phúc Âm rút gọn", rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.
Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp người..., nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là "lưu giữ và suy niệm trong lòng", tức là "khẩu tụng" đều đều lời kinh Đức Mẹ và "tâm suy" dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.
"Ad Jesum per Mariam" chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.
3) Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh
Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù "ma quỷ, thế gian, xác thịt", và là sinh tố tăng cường ba việc "nên thánh, mến Chúa, yêu người".
Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.
Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà "tu hành" nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện "bỏ túi" (hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.
Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên đường thánh hóa. Đối với cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm khởi đầu cho năm học mới, ta quyết tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm học mới tâm hồn được bình an hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.
17. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng.
(Trích trong 'Với cả tâm tình' – ĐGM. Vũ Duy Thống)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn. Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không phải là mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân Côi.
1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
"Kính mừng Maria đầy ơn phúc". Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan trọng và chính yếu. Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý Chúa. Phần chìm ấy là tiếng "Xin Vâng".
"Xin Vâng" là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của Thiên Chúa. "Xin Vâng" là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần, mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để đánh đổi. "Xin Vâng" là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn. "Xin Vâng" là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa.
Rõ ràng tiếng "Xin Vâng" đã thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.
Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng "Xin Vâng", để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.
"Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội". Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm tình duy nhất. Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên chính phận mình để trở nên "Đức Mẹ Chúa Trời", thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh đức. Do đó, danh hiệu "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời" chính là lời kính mừng trang trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong đời mình.
Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Vì thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan "Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội" một cách chân tình với lòng trông cậy.
Bên kia lời "cầu cho chúng con là kẻ có tội" là cả một tình mẫu tử thiêng liêng. Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin "Thánh Maria", và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.
Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.
3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi
Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.
Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi người. Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.
Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu "Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng", để thấy được rằng muốn có chiến thắng không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.
Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u đầu sứt trán. Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi là "đất Đức Bà", đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ. Người ta gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.
Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.
18. Kinh Mân Côi và Giáo Hội.
Kinh Mân côi là một việc đạo đức của Giáo hội Công giáo.
Thực vậy, trước hết các Đức Giáo Hoàng, nhất là các Đức Giáo Hoàng gần đây nhất, đã không ngừng kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi, nơi mỗi cá nhân cũng như trong các gia đình.
Chẳng hạn Đức Thánh Cha Piô IX đã khuyên nhủ chúng ta hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình. Cũng chính ngài đã xác định:
- Kinh Mân côi là một kho tàng quý giá nhất của Giáo hội.
Tiếp đến Đức Thánh Cha Lêô XIII đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải lần hạt, và người ta đã gọi ngài là vị Giáo Hoàng của kinh Mân côi. Ngài đã xuất bản khoảng 12 thông điệp nói về Kinh Mân Côi, ấy là không kể đến 8 văn kiện khác nữa, chính ngài đã thiết lập tháng Mân Côi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ vương rất thánh Mân côi, cầu cho chúng con.
Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắc bảo chúng ta:
- Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối.
Đức Thánh Cha Piô XI cũng đồng quan điểm ấy khi ngài viết:
- Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Piô XII cũng đã khuyên nhủ các bạn trẻ:
- Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi.
Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân côi, ngài xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục:
- Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày.
Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Gioan XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại, ngài cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi.
Xem đó chúng ta thấy các Đức Thánh Cha đều nhất trí về sự tuyệt hảo của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi.
Và các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi khẩn thiết ấy. Từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, đâu đâu người ta cũng lần chuỗi. Tôi xin kể lại mẫu gương của thày Patrick Peyton.
Thày là một đại chủng sinh bị đau yếu trầm trọng. Các bác sĩ đều bó tay. Trong âm thầm, mẹ thày đã cầu nguyện và xin được chết thay cho thày. Và sự thực đã xảy ra. Người mẹ chết và thày được sống. Sau khi thụ phong linh mục và để tạ ơn Đức Mẹ, thày đã dâng hiến trọn cuộc đời cho việc loan truyền sứ điệp Fatima bằngcách thành lập một tu hội với lời dốc quyết lần chuỗi mỗi ngày. Tu hội này ngày nay có trên mười triệu người gia nhập. Họ thường đọc kinh chung với những người khác trong nhà thờ, nơi xưởng thợ và trong những môi trường khác nhau.
Có những trường đại học bên Mỹ vẫn lần chuỗi mỗi ngày để cầu cho những người tội lỗi ăn năn. Có những chương trình lần chuỗi trên truyền thanh, truyền hình vào những giờ giấc nhất định, để những người Công giáo có thể hợp ý cầu nguyện, dù ở nhà, trong xe hơi hay đang làm việc.
Bởi vậy, hãy siêng năng lần hạt để thực thi lệnh truyền của Mẹ, để đáp trả lại những lời mời gọi của các Đức Thánh Cha và nhất là để chúng ta được Mẹ yêu thương và chúc phúc.
19. Suy niệm của ĐGM. Bùi Tuần.
THÁNG MÂN CÔI: NHỚ LỜI ĐỨC MẸ NHẮN NHỦ
Thế giới đang đi vào một hoàn cảnh nghiêm trọng. Nghiêm trọng nhất là bệnh tình của tâm hồn con người: Lỗi lầm cá nhân tăng. Tội ác tập thể tăng. Suy thoái đạo đức tăng. Người ta huỷ hoại nhau và tự huỷ. Nhiều nơi đang rơi vào nguy cơ tan rã. Quỉ ác xem ra đã thiết lập được một trật tự tội lỗi vững chắc trong thế giới, kể cả những vùng cực kỳ hữu thần.
Tình hình này đang bùng nổ ra những bất ngờ bi đát. Chúng ta khó tránh được những ảnh hưởng đa dạng của các chuyển biến bi thảm.
Những thời sự gay gắt đang khiến những ai thao thức với sự sống con người và Nước Trời phải băn khoăn. Họ nhớ lại những gì Đức Mẹ Maria đã cảnh báo tại Lộ Đức, tại La Salette, tại Fatima.
Đức Mẹ báo trước những tai hoạ khủng khiếp sẽ xảy ra do tội lỗi chồng chất của thế giới gây nên.
Để làm nhẹ đi những tai hoạ này, Đức Mẹ nhắn bảo các con cái Mẹ hai điều:
Một là hãy cầu nguyện,
Hai là hãy ăn năn sám hối.
Dưới đây, tôi xin phép góp ý sơ qua về sự thực hiện hai điều trên đây.
Cầu nguyện.
Nhìn qua thế giới xung quanh, tôi thấy có những người không hề cầu nguyện, có những người không thích cầu nguyện, có những người rất ít cầu nguyện, có những người không biết cầu nguyện. Bốn hiện tượng này đã khá phổ biến.
Vì thế, khi cầu nguyện, thiết tưởng nên khởi sự từ việc xin Chúa ban cho ta ơn cầu nguyện. Kinh nghiệm bản thân cho tôi thấy: Cho dù tuổi nào, bậc nào, con người ta vẫn cảm thấy ứng nghiệm lời thánh Phaolô viết: "Có Thánh Thần giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Nhưng chính Thánh Thần cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can, biết Thánh Thần muốn nói gì, vì Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho các thánh đúng ý Thiên Chúa" (Rm 8,26-27).
Thực vậy, rất nhiều khi chúng ta cầu nguyện không đúng ý Thiên Chúa. Rất nhiều khi chúng ta cầu xin Chúa làm theo ý chúng ta, chứ chúng ta không sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Hoặc là cầu xin một cách phô trương, kiêu hãnh kiểu Pharisêu, chứ không với cách khiêm nhường kín đáo như người thu thuế.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: Biết bao lần cả trong chính khi đọc kinh, dâng lễ, chúng ta cũng có thể sa vào những tư tưởng, lời nói, việc làm sai trái, mà thánh Phaolô đã than: "Sự lành tôi muốn, thì tôi không làm. Còn sự xấu tôi không muốn, thì tôi lại làm" (Rm 7,20). Hiện tượng cầu nguyện với sự nguội lạnh, khô khan, với những tâm tình ghen ghét hận thù, gian dối, tham lam, kiêu căng, tự phụ tự đắc là hiện tượng không phải hiếm hoi gì.
Những việc cầu nguyện như thế chắc chắn không đáp ứng lời nhắn nhủ của Đức Mẹ. Hãy xin ơn biết cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện theo cách lần chuỗi mân coi như ý Đức Mẹ. Hãy tập cầu nguyện trong thân phận khiêm tốn của người tội lỗi van nài lòng thương xót Chúa tha tội và giúp chúng ta khỏi sa vào bẫy ma quỉ. Hãy cầu nguyện để chúng ta nên giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu.
Ăn năn sám hối.
Chúa đã thương yêu ta từng chi tiết nhỏ. Như thánh vương David nói: "Tạ ơn Chúa đã thương con cách lạ lùng. Công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con Ngài không lạ lẫm gì. Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy. Mọi ngày đời được dành sẵn cho con, đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu đời của con khởi sự" (Tv 139,14-16).
Chúa thương ta và muốn ta phát triển theo hướng tốt lành Chúa muốn. Nhưng thực tế cho thấy nhiều khi ta phát triển sai hướng. Tiên tri Baruc nói: "Chúng tôi đã không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, đã không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng tôi. Mỗi người chúng tôi đã cứ theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình mà phục vụ các thần khác, và làm điều dữ trước mặt Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi" (Br 1,21-22).
Các thần tượng mà nhiều người chúng ta thường đi tìm, chạy theo và tôn thờ là danh vọng, tiền của, thành công, lạc thú, biếng lười. Thần lớn nhất là cái tôi.
Khi Đức Mẹ khuyên nhủ chúng ta ăn năn sám hối, Đức Mẹ muốn chúng ta khởi sự bằng việc đốt nóng lên niềm tin. Tin là gắn bó thân mật với Chúa. Ngài là khởi đầu, là cùng đích và là hạnh phúc của ta. Tin là chấp nhận Lời Chúa là chân lý. Tin là sống theo thánh ý Chúa. Tin là thực thi điều răn: Mến Chúa yêu người.
Với niềm tin như thế, người sám hối cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn đổi mới. Khi được ơn Chúa Thánh Thần, họ sẽ nhìn thấy rõ hơn những tai hại của tội lỗi, họ sẽ hối hận vì đã xa lìa Chúa. Quyết tâm của họ sẽ không dừng lại ở sự gỡ bỏ khỏi tội lỗi, mà còn ước muốn được sống trong' tình yêu Chúa. Hơn nữa, họ muốn đi theo Chúa, dấn thân cứu đời.
Dấn thân đòi phải có tinh thần chiến đấu. Trong chiến đấu để làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu, nhiều khi tôi có cảm tưởng là phải rất can đảm. Nhưng kinh nghiệm cho tôi thấy ơn biết sống dịu dàng, nhân hậu, tế nhị, khiêm tốn và thương cảm còn cần hơn.
Ăn năn sám hối cũng còn đòi tinh thần đền tội. Tinh thần đền tội đi theo tinh thần đức tin và xuất phát từ tinh thần đức tin.
Chúng ta tin chắc rằng: "Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta" (1Ga 4,10).
Nếu chính Đức Kitô đã dâng mình chịu nạn để làm của lễ đền tội cho chúng ta, thì không lẽ chúng ta lại được phép dửng dưng với việc đền tội của chính chúng ta.
Hiện nay, việc đền tội được hiểu một cách qúa sơ sài và được thực hiện một cách quá tượng trưng. Tôi thiết nghĩ thói quen đó là không đúng. Chúa Giêsu có lần đã phán: "Giống quỉ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện" (Mt 17,21). Lời Chúa dạy trên đây rất có thể áp dụng vào việc đền tội, khi việc đền tội vừa là sửa chữa lại lỗi lầm đã qua, vừa ngăn ngừa ma quỉ trở lại tái chiếm con người sám hối.
Với vài gợi ý trên đây, tôi tin rằng rất nhiều con cái Đức Mẹ khắp nơi sẽ nhìn lên Đức Mẹ. họ sẽ sốt sắng cầu nguyện và sám hối. Chắc chắn Đức Mẹ nhân lành sẽ cầu bầu cho nhân loại đáng thương này.
20. Tôi là nữ tỳ của Chúa.
(Trích trong 'Manna')
Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu. Ngài là Con Đấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35). Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo. Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương. Thiên thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được Đức Chúa ở cùng (c.28), là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30). Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm mẹ Đức Giêsu. Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô" (c.35). Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Lời mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây xáo trộn những dự định và tính toán riêng tư. Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con. Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một cách bình thường với ông Giuse, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có một người con, không phải với Giuse, và tương quan giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi.
Maria không hiểu hết con đường mình sắp đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối. Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài không làm được. Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác. Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Lắm khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có. Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời. Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ, chuyện đó cần đến lòng tin. "Phúc cho em là kẻ đã tin..." (Lc 1,45).
Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không? Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ tất cả những tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.
Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa đã nói với Đức Maria qua vị thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn và mời bạn cộng tác không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua một người hay một biến cố trong cuộc sống không?
Để xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người đời để dựa vào Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa
21. Cầu nguyện và cải thiện đời sống
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một "chuồng ngựa". Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Thế giới hôm nay ngày càng tục hoá. Ma quỷ cũng đang biến thế giới này thành nơi hưởng lạc, hưởng thụ và sa đoạ. Đặc biệt là Việt Nam hôm nay có rất nhiều cái nhất:
* Tai nạn giao thông nhất thế giới mỗi ngày trung bình 31 người chết. Đa số là coi thường tính mạng của mình và của tha nhân nên chảy ẩu, chạy thiếu nhường nhịn nhau...
* Tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới mỗi năm khoảng 2 triệu thai nhi bị giết.
* Với mức tiêu thụ 2,7 tỷ lít bia trong năm, khoảng 24 lít trên/đầu người/năm, bằng 1/10 so với châu Âu, Việt Nam đã trở thành nước thứ ba có sản lượng tiêu thụ bia cao nhất châu Á, sau Nhật và Trung Quốc.
* Theo thống kê năm 2010 của Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội cho thấy, tỷ lệ trẻ em chết đuối ở Việt Nam cao nhất khu vực Đông Nam Á. Cứ mỗi ngày lại có 10 trẻ em tử vong vì chết đuối, độ tuổi từ 7- 15. Điều đáng nói là những cái chết tức tưởi của trẻ em hầu hết đều xuất phát từ... người lớn.
Xem ra xã hội ngày hôm nay cũng đáng báo động. Báo động về một làn sóng hưởng thụ bất chấp tính mạng của mình và của người khác. Con người ngày nay đáng báo động như thời ông Noe đóng tàu, còn nhân loại thì vẫn say sưa, vẫn chè chén, vẫn truỵ lạc... Phải chăng đây cũng là thời kỳ mà Mẹ Maria đang mời gọi con cái mình không chỉ sám hối mà còn gia tăng cầu nguyện cho các tội nhân.
Trong cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi, Thánh Luy Maria Mongpho thuật lại sự tích Kinh Mân Côi như sau:
Vào cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:
- Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế giới không?
Thánh Đaminh đáp:
- Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho phần rỗi chúng con.
Đức Mẹ bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
- Mẹ muốn cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho các linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của Mẹ.
Thánh nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy. Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
Khi thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung, trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo oán nếu họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh Mongpho cho rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen năm xưa, để chứng thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình cứu độ nhân loại.
Dân chúng thành Toulouse đã yêu chuộng Kinh Mân Côi và từ bỏ bè rối để trở về với đức tin chân thật. Từ ấy, việc sùng kính Phép Lần Hạt Mân Côi được gắn liền với sự thánh thiện của người tín hữu. Vậy nên, mỗi khi thấy một tín hữu bắt đầu sống sa đọa, người ta có thể kết luận một cách chắc chắn rằng: một là người ấy đã bỏ đọc Kinh Mân Côi; hai là người ấy chỉ đọc Kinh Mân Côi cách cẩu thả.
Trong tháng Mân côi, giáo hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng cầm lấy Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Khi đọc kinh Mân côi chúng ta cậy nhờ lời bầu cử của Mẹ, xin Chúa ban cho những kẻ tội lỗi được ơn trở lại, xin cho chúng ta ơn can đảm để chống lại những cám dỗ của ma quỉ, và theo gương Mẹ sống gắn bó và tuân hành thánh ý Chúa.
Vì thế trong tháng Mân Côi và Tháng Các linh hồn, xin mỗi gia đình hãy dâng chuỗi Mân Côi hằng ngày của gia đình mình cầu nguyện cho một gia đình đang bất hòa, đang rối đạo hay nguội lạnh được ơn trở về. Xin mỗi một cá nhân hãy chọn lấy một người bạn để cầu nguyện cho họ sớm ăn năn sám hối và tin phục Thiên Chúa. Ước gì mỗi người trong giáo xứ chúng ta biết dâng những hy sinh, những lời kinh Mân côi để đền bù lại những tội lỗi của con người hôm nay. Amen.
22. Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Nói về Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi, nhân loại đang sống trong lòng tin sẽ không bao giờ có thể phủ nhận được con đường Mẹ dậy mọi người đi với ba mầu nhiệm: Nhập thể, Đau khổ và Phục sinh của Con duy nhất của Mẹ là Chúa Giêsu Kitô luôn rõ nét, sáng ngời giữa mọi biến cố của lịch sử cứu độ. Mẹ Maria như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết: "Vào bình minh của ngàn năm mới, chúng ta vui mừng nhận thấy nổi bật lên 'chiều kích Thánh Mẫu' của Hội Thánh, ấp ủ trong mình nội dung sâu thẩm nhất của việc canh tân do công đồng đề xướng". Con cái của Mẹ theo sau Mẹ đi từng chặng đường của Con Mẹ đã đi qua. Con đường ấy không đâu xa, đó là con đường: Vui, Thương, Mừng mà nhân loại muốn đi vào nước trời không thể nào không bước qua những chặng đường ấy.
MẸ MARIA TRONG LỊCH SỬ CỨU ĐỘ
Maria được Thiên chúa tuyển chọn để làm Mẹ Đức Giêsu Kitô và làm Mẹ nhân loại. Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm đảo lộn cả lịch sử nhân loại, mặc cho nhân loại một ý nghĩa mầu nhiệm, sâu xa. Nếu không có lời Xin Vâng của Mẹ, nhân loại đã khác hẳn, nhân loại chẳng bao giờ có ngày hôm nay. Với tiếng Xin Vâng, Mẹ Maria đã tận hiến và chấp nhận ý định của Thiên Chúa, hiến toàn thân mình cho Thiên Chúa, để cùng với Ngài thực hiện chương trình cứu độ nhân loại. Mẹ Maria đã nắm một vai trò thật đặc biệt và quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Sở dĩ Mẹ Maria được Thiên Chúa trao cho một vai trò lớn lao, quan trọng như thế là vì Maria được tràn đầy ân sủng,Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa ở cùng, ở với Mẹ là hạnh phúc lớn nhất, khiến Mẹ luôn đầy phước lộc chứa chan, nhờ đó Mẹ chiếu tỏa ánh sáng và ân sủng cho mọi người. Maria là một người Mẹ, người Mẹ hoàn toàn đúng nghĩa của nó, một người Mẹ đầy yêu thương, vì Mẹ có đầy hồng phúc. Mẹ Maria là một người trong nhân loại, là một người nữ đúng nghĩa nhất, nhưng Maria lại là một người nữ đặc biệt vì Maria làm đẹp lòng Thiên Chúa. Maria đặc biệt hơn nữa vì tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, tinh trong, sáng ngời của Mẹ. Maria hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu Mẹ Thiên Chúa vì Mẹ đã chỉ cho nhân loại phải bước theo những chặng đường con của Mẹ là Chúa Giêsu đã bước qua.
"CÁC CON ĐỪNG SỢ, THẦY ĐÃ THẮNG THẾ GIAN"(Ga 16,33)
Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã sống lại, lên trời, ban Thánh Thần cho các môn đệ và trở thành niềm cậy trông vững bền cho mọi người, Chúa hứa với các môn đệ và nhân loại: " Sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế "(Ga 14,18). Chúa là con của Mẹ Maria,nên Chúa phục sinh ở với nhân loại mãi mãi cho tới ngày cùng tận trời đất, chắc chắn Mẹ cũng ở với nhân loại cho tới tận thế, vì lúc nào Mẹ cũng mang Chúa trong lòng và giới thiệu Chúa cho nhân loại. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: " Nếu có sự chiến thắng thì Mẹ Maria là người chiến thắng". Mẹ đã hiện ra tại nhiều nơi như Lộ Đức, Fatima, Labouret, Nam Tư, La Vang và nhiều nơi khác trên khắp thế giới. Nơi nào Mẹ cũng khuyên nhủ:" phải ăn năn sám hối, và năng lần chuỗi Mân Côi ". Mẹ đã luôn giữ lời hứa và Mẹ luôn muốn con của Mẹ tất cả được thừa hưởng nước trời. Mẹ chiến thắng ma quỉ, sức mạnh của sự dữ. Mẹ chiến thắng tà thần."Trái tim hiến tế của Mẹ đã thắng tội lỗi và những tối tăm của quyền lực ma quỉ, sự dữ..."
LỄ MÂN CÔI NÓI GÌ CHO NHÂN LOẠI
Lễ Mân Côi làm cho dân Chúa hồi tưởng lại thời đạo binh thánh giá chiến thắng quân Phổ ở Lê-pan vào năm 1571 nhờ sự can thiệp của Đức Trinh Nữ Maria.Tuy nhiên, đó chỉ là lý do phụ. Điều cốt thiết của nhân loại là hiệp ý với Mẹ Maria, Nữ Vương An Bình, cầu nguyện cho mọi người nhìn nhận ý Thiên Chúa và tuân theo ý Người. Mẹ Maria đã nhiều lần hiện ra cho nhiều người ở nhiều nơi như Lộ Đức, Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette và tự giới thiệu ngài là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tại Fatima, Mẹ đã hiện ra với ba trẻ là Lucia, Phanxicô và Jacintha. Trong các lần hiện ra Mẹ đều khuyên các trẻ và nhân loại phải ăn năn sám hối, lần chuỗi và sống trung thành với Chúa. Chắc chắn, mọi người ở muôn thời đều muốn được hạnh phúc và vui vẻ để sống. Nhưng thái độ của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân như thế nào? Ta đã sám hối và cầu nguyện, lần chuỗi theo ý Mẹ đủ chưa? Nếu chưa, ta cần thay đổi lối sống, lần chuỗi siêng năng hơn để cùng với Mẹ đi vào các biến cố, các chặng đường của Chúa: Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh. Ta đã sống bác ái, yêu thương đủ chưa? Nếu chưa, ta cần sống tốt hơn và cố gắng đi vào định luật của tình yêu: " Chúng con hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con".
Lễ Mân Côi, một dịp để ta đi vào chương trình cứu rỗi của Chúa Giêsu và là một dịp để chúng ta cố gắng thay đổi con người mới, kết hiệp với Mẹ và sống theo lời khuyên của Mẹ: Sám hối, Cầu nguyện và Lần chuỗi.
Chuỗi Mân Côi là phương thế dễ dàng và hữu hiệu nhất để giúp ta sống trung thành với Đạo tình thương của Chúa Giêsu.
"Lạy Chúa,...xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con,để nhờ công ơn con Chúa chịu khổ hình thập giá,và nhờ Thánh Mẫu Maria chuyển cầu,Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh" (Lời nguyện nhập lễ, lễ Đức Mẹ Mân Côi).
23. Canh tân đời sống, lần chuỗi Mân Côi.
"HÃY CANH TÂN ĐỜI SỐNG & LẪN CHUỖI MÂN CÔI MỖI NGÀY"
* Câu hỏi gợi ý
1. Đức Ma-ri-a có vai trò gì trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa?
2. Đức Ma-ri-a và việc lần hạt Mân Côi.
3. Hãy học cùng Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Kitô.
* Suy tư gợi ý
1. Vai trò của Đức Ma-ri-a trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa:
1.1 Bài Tin Mừng về Truyền Tin trong Phúc Am Lu-ca cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của Đức Ma-ri-a trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa. Như bao thiếu nữ Do Thái khác khi sắp đến tuổi lấy chồng, Ma-ri-a cũng đã có chương trình riêng của mình. Người thanh niên mà nàng yêu thương và tính lấy làm chồng là Giu-se, thuộc chi tộc Đa-vít. Nhưng sau khi thiên sứ trình bày về kế hoạch của Thiên Chúa và được giải đáp thắc mắc một cách thỏa đáng, thì Ma-ri-a đã mau mắn chấp thuận lời đề nghị của Thiên Chúa và phó thác cuộc đời mình cho Ngài: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói."
1.2 Bài đọc 1 của Sách Tông đồ Công vụ cho chúng ta thấy vị trí của Đức Ma-ri-a giữa các Tông Đồ, tức giữa lòng Giáo hội sơ khai. Các vị chờ đợi Thánh Thần trong thanh vắng và cầu nguyện.
1.3 Bài đọc 2 của Thư Gá lát của Thánh Phaolô nói về việc Con Thiên Chúa sinh ra từ một phụ nữ theo đúng chương trình của Thiên Chúa để cứu chuộc mọi người và làm cho mọi người trở thành con Thiên Chúa, có quyền gọi Thiên Chúa là Cha (Abba).
2. Đức Ma-ri-a và việc lần hạt Mân côi.
2.1 Một trăm năm mươi Thánh vịnh đã được thay thế bằng 150 kinh Kính Mừng: Miệng đọc lòng suy 15 Mầu Nhiệm Mân Côi: Năm Sự Vui, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng. Đó chính là bản tóm tắt cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô và cũng là của Đức Ma-ri-a, vì hơn ai hết, Đức Mẹ đã cùng với Con bước các chặng đường Vui-Thương-Mừng ấy với tinh thần của lời "XIN VÂNG = FIAT!" mà Mẹ đã tuyên xưng trước khi Ngôi Lời Thiên Chúa đầu thai làm người trong cung lòng Mẹ.
2.2 Khi chúng ta đọc sự tích về các cuộc Đức Mẹ hiện ra, dù ở Lộ Đức hay ở Fa-ti-ma, dù ở Gua-da-lu-pe hay ở Mễ Du, hay ở La Vang.... chúng ta đều thấy Đức Mẹ nhắn nhủ người tín hữu hãy canh tân đời sống và siêng năng lần hạt Mân Côi để làm đẹp lòng Thiên Chúa: "Ta là Đức Mẹ Mân Côi, ta đã đến để cảnh báo các tín hữu canh tân đời sống và xin ơn tha thứ tội lỗi của họ. Họ không được xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì Ngài đã quá phiền muộn vì tội nhân loại. Loài người hãy lần chuỗi Mân Côi. Họ hãy tiếp tục lần chuỗi hàng ngày." (Thông điệp Đức Mẹ gởi cho chị Lu-xi-a 13/10/1917).
2.3 Thánh Đa Minh là người cố công rất lớn trong việc quảng bá việc đọc kinh Mân Côi trong Giáo hội, để cầu xin Chúa bảo vệ Giáo hội trước sự tấn công của kẻ thù.
Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: "Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân Côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân Côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân Côi".
Còn cha Stefano Gobbi viết: "Chuỗi Mân Côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân Côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân." Và "Chuỗi Mân Côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu"
3. Hãy học cùng Đức Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Kitô.
Chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể cứu độ nhân loại. Chân lý ấy không bao giờ chúng ta được lãng quên! Đức Mẹ, dù là Mẹ Thiên Chúa cũng chỉ là tạo vật. Nhưng Mẹ là tạo vật hoàn hảo nhất của công trình Tạo Dựng của Thiên Chúa và Mẹ là môn đệ "gương mẫu" nhất của Đức Giêsu. Tuy thế, Mẹ cũng đã phải vất vả, khổ đau trên con đường theo Đức Giêsu. Vì thế mà Mẹ có đủ khả năng, kinh nghiệm hướng dẫn, chỉ bảo chúng ta nếu chúng ta muốn bước theo Mẹ trên con đường theo Chúa! Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ để học cùng Mẹ!
Hơn nữa Thiên Chúa đã có ý đặt Đức Mẹ bên cạnh Chúa Giêsu và giữa Chúa Giêsu và chúng ta. Nếu nhờ có Chúa Giêsu mà Thiên Chúa trở nên gần gũi với con người hơn, thì cũng nhờ có Đức Mẹ mà chúng ta mạnh dạn và tin tưởng hơn khi dâng lời khẩn nguyện và tạ ơn lên Thiên Chúa.
NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con. Chúng con cũng cảm tạ Cha vì Cha đã chọn cho Con Một Cha một người Mẹ tuyệt vời là Đức Ma-ri-a. Cha đã đổ tràn ân sủng của Cha trên người Nữ Tỳ đặc biệt này. Chúng con xin ngợi khen và chúc tụng Tình Thương và Quyền Năng của Cha!
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã sinh ra từ một người mẹ, đã lớn lên và trưởng thành bên cạnh Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se, đã lên đường rao giảng Nước Trời với sự cộng tác của Mẹ, đã trao Mẹ cho thánh Gio-an trước giờ tắt thở. Chúng con cảm tạ và ngợi khen Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng đã xuống tràn đầy trên các Tông Đồ và Đức Ma-ri-a, để khai sinh Hội Thánh là Cộng đoàn của Chúa Kitô Phục Sinh. Xin Chúa xuống trên tất cả chúng con, để chúng con nhận được ánh sáng, bình an và sức mạnh cần thiết cho cuộc lữ hành của chúng con.
24. Suy niệm của ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần.
CẦU NGUYỆN BẰNG CHUỖI MÂN CÔI
Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.
Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.
Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.
Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến.
Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille.
Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.
Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.
Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.
Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.
Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.
Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo.
Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.
Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ.
Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.
Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.
Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.
Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.
Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào "Kinh Mân côi sống". Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.
Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.
Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.
Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.
Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ.
Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng.
Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.
Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.
Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: "Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau". Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác.
Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1,37).
25. Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
KÍNH MỪNG MARIA ĐẦY ƠN PHÚC ĐỨC CHÚA Ở CÙNG BÀ
Julbell có một bài hát nổi tiếng khắp thế giới từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, và chắc có lẽ mãi mãi còn đọng lại trong lòng người nghe. Bài hát rất quen thuộc. Đó là bài Ave Maria.
Điều gì đã khiến cho nhạc sĩ có được cảm xúc một cách dạt dào để viết lên một bản nhạc tuyệt vời như vậy?
"Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng Bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ". Chính lời kinh tuyệt vời đó đã làm nên cảm xúc không phải chỉ một Julbell mà cho biết bao nhạc sĩ trong lịch sử âm nhạc của thế giới viết nên những bản nhạc tuyệt vời và chính lời kinh đó làm nên ngày lễ Mân Côi hôm nay. Tại sao vậy?
Trong lịch sử Giáo Hội vào khoảng thế kỷ 16. Anh em Hồi giáo làm một cuộc chinh phục thế giới. Bởi vì họ đi từ vùng Trung Đông sang Á châu đến Ấn Độ. Họ đổ bộ lên Âu châu. Đi đến đâu thắng đến đó. Khi đổ bộ đến Âu châu, đi vào một vịnh của nước Ý. Một đoàn quân thiện chiến như thế thì quân Ý làm sao mà đối đầu được. Nếu để thua thì Ý sẽ thất thủ, thủ đô của Hội Thánh Công giáo là Rôma cũng biến mất và cả Âu châu cũng bị đe dọa.
Đức Giáo Hoàng Piô V bấy giờ lên tiếng kêu gọi cầu nguyện, và cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng.
Ngày 7/10 năm ấy quân của Công giáo chiến thắng. Chiến thắng không phải nhờ khả năng quân sự mà là nhờ sự phù trợ của Mẹ Maria. Vì thế Đức Giáo Hoàng đã lấy ngày đó làm ngày lễ Đức Bà chiến thắng. Sau này thành lễ Mân Côi.
Nói đến chiến thắng, có lẽ chúng ta nghĩ đến chiến thắng về quân sự, kinh tế, chính trị. Không, Chúa Giêsu không ban cho mình chiến thắng đó. Khi đối diện với Philatô Ngài đã trả lời: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì binh lính tôi đã đến giải thoát tôi khỏi tay người Do Thái".
Ta cần nhìn vào chiến thắng ở một góc độ khác. Đó là chiến thắng chính mình. Một danh tước trong lịch sử thế giới đã thường nói: "Không có cuộc chiến đấu nào khó khăn hơn chiến đấu với chính bản thân mình."
Mỗi chúng ta có thể cảm nghiệm điều đó trong cuộc sống. Đức Cha Pul-ton-Shin, Ngài nói: "Nếu bạn chấp nhận một cuộc chiến đấu trong tâm hồn bạn, thì sự bình an sẽ giải tỏa trong cuộc sống xã hội. Ngược lại, nếu bạn không chấp nhận cuộc chiến đấu đó, mà bạn đi tìm thỏa hiệp với cái xấu và tội lỗi trong tâm hồn bạn, thì chiến tranh sẽ lan tỏa trong cuộc sống xã hội".
Nói như thế có nghĩa là chuyện chiến thắng chính mình là một cuộc chiến rất khó, nhưng nó lại là căn bản để dẫn đến cuộc sống bình an cho mọi người. Chuỗi Mân Côi, những lời kinh Kính Mừng đan kết lại với nhau thành xâu chuỗi. Chuỗi Mân Côi đó có khả năng giúp cho ta tập chiến thắng chính mình. Tại sao vậy?
Ở phương Đông khi nói về con người, người ta hay nói đến thân, trí, tâm. Triết học phương Tây ngày xưa, khi học tâm lý học nói đến con người, người ta nói đến tình cảm và ý chí. Cũng tựa như nhau. Khi các bạn lần chuỗi Mân Côi thì cả thân, cả trí, cả tâm, có nghĩa là tất cả con người toàn diện chúng ta được chi phối. Chúng ta hãy nhớ lại, khi ta lần chuỗi có nghĩa là trong tay của mình cầm chuỗi đó là cái thân. Việc cầm một xâu chuỗi ảnh hưởng đến trí và tâm mình.
Có một linh mục kể chuyện: Trong một lần ngài đi máy bay, ngồi cạnh nhà sư, thấy trên tay nhà sư cầm xâu chuỗi, miệng lâm râm nam-mô-a-di-đà-phật. Linh mục hỏi nhà sư: Tại sao lần chuỗi vậy? Nhà sư bảo: Chúng tôi lần chuỗi như thế này tâm trí đỡ căng thẳng. Thế thì bên các ngài không có cái gì giống vậy à?
Linh mục trả lời: Có chứ, nhưng mà chúng tôi lần chuỗi không phải để cho tâm trí bớt căng thẳng, mà chúng tôi nhắm cái khác cơ. Nhà sư nói với vị linh mục thế này: Cha ạ, nếu cha muốn tập trung vào một điều gì, thì trong tay của cha phải có một cái gì, nhờ đó cha sẽ dễ tập trung hơn.
Vị linh mục học được một bài học, hóa ra chuỗi Mân côi mình cầm trong tay giúp cho cái trí của mình tập trung. Khi các bạn lần chuỗi là trong tay cầm xâu chuỗi, nó giúp cho trí của mình tập trung vào lời kinh, và còn tập trung vào cuộc đời của Chúa Giêsu mà kinh Mân Côi mô tả từ khi Ngài sinh ra cho đến cuộc sống công khai, đến khi bị chết trên thánh giá chịu táng trong mồ, sống lại, lên trời, ban Thánh Thần xuống cho Giáo Hội.
Tất cả cuộc sống của Chúa Giêsu. Một thứ Tin Mừng thu gọn được tóm lại ở trong chuỗi Mân Côi, đồng thời khi chúng ta lần chuỗi như vậy tâm của mình tịnh lại. Đối với người trẻ hôm nay đang sống trong một thời đại tốc độ, mà người đọc như thế thật mất thì giờ. Tôi đã từng nghĩ như vậy. Nhưng sau này khi tìm hiểu lại lịch sử linh đạo, tôi mới thấy đó là một phương pháp rất hay cho cuộc sống tâm linh. Những lời con người vắn tắt được lặp đi lặp lại như thế nó làm cho tâm của mình tĩnh lại.
Có một người học trò người Việt Nam, sau này sang Mỹ viết thư về kể cho tôi nghe kinh nghiệm về việc sống đạo của anh ta: Cuộc sống quá nhiều khó khăn đến mức độ chịu không được, nên đêm đến về nhà muốn phá toang, la toáng lên: Tại sao lại đổ trên đầu tôi những sự khổ sở thế này. Bất chợt nhìn lên đầu giường thấy một tràng chuỗi treo ở đấy. Nó liền chạy đến cầm lấy ngồi đọc kinh. Chỉ mới có 10 kinh thôi là thấy tâm hồn của mình lắng xuống....
Khi lần chuỗi Mân côi thì toàn diện con người của mình: thân, trí và tâm đều được chi phối. Cùng sự chi phối đó thì chuỗi Mân côi làm cho nơi chúng ta hình thành một con người mới chống lại những gì xấu trong tâm hồn mình.
Con người ta sống ở đời này bao giờ cũng sống trong ba mối tương quan chính: tương quan với Thiên Chúa, tương quan với tha nhân, tương quan với thế giới vật chất. Tội lỗi chúng ta nó cùng nằm trong ba mối tương quan đó. Khi lần chuỗi Mân Côi, Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta sống những tương quan đó tốt đẹp.
Chẳng hạn khi chúng ta lần chuỗi chúng ta đọc: Chúa Giêsu lên trời, xin cho lòng con được hưởng những sự lên trời. Chúng ta sẽ sống mối tương quan với Thiên Chúa; chúng ta sẽ sống một tâm hồn siêu thoát hơn; khi chúng ta đọc: Mẹ Maria đi viếng thăm bà Isave, xin cho được lòng yêu người. Đó là lời cầu xin tương quan với tha nhân, bằng tình yêu thương chứ không phải là hận thù ghen ghét; khi chúng ta đọc Chúa Giêsu chịu đóng đinh, xin cho đóng đinh tính xác thịt mình vào thánh giá Chúa; đó là tương quan với thế giới vật chất, với chính xác thịt của mình.
Chuỗi Mân Côi giúp cho chúng ta chiến thắng cái xấu ở nơi bản thân mình, hoàn thành một con người mới, con người mới đó sẽ tác động trong cuộc sống, làm cho cuộc sống được đẹp hơn.
Đức Cha Pul-ton-Shin là một diễn giả nổi tiếng ở Mỹ. Ngài chỉ giảng trên đài truyền hình chứ không giảng ở nhà thờ. Nhiều bạn trẻ xin Ngài chứng hôn cho lễ cưới của mình. Ngài đồng ý chứng nhận với hai điều kiện, hai bạn đó phải hứa với Ngài mỗi ngày vợ chồng phải đọc chung với nhau 50 kinh Kính Mừng. Lời kinh nối kết vợ chồng giúp cho vợ chồng xây dựng cuộc sống gia đình tốt đẹp hơn.
Hình như bây giờ các bạn trẻ ít lần chuỗi lắm. Hôm nay tôi muốn nói về giá trị của kinh Mân côi. Chúng ta đừng xem thường, lại càng không nên xem đó là chuyện đạo đức rẻ tiền. Chúng ta hãy cầu nguyện để khám phá ra giá trị tuyệt vời của kinh Mân Côi. Nếu chúng ta không đọc được nhiều, tôi xin đề nghị mỗi ngày chỉ đọc 1 kinh Lạy Cha, 3 kinh Kính Mừng, 1 kinh Sáng Danh. Chúng ta hãy nuôi dưỡng trong tâm trí mình ý nghĩ: khi tôi đọc kinh Mân Côi, đó là phương cách để tôi đào luyện bản thân, để tôi chiến thắng chính mình, để tôi sống đời đức tin tốt hơn. Amen.
06/10 Con đường yêu Chúa
- Viết bởi Lc 10, 38-42
Con đường yêu Chúa.
Thứ Ba tuần 27 thường niên.
"Martha rước Người vào nhà mình. Maria đã chọn phần tốt nhất".
Lời Chúa: Lc 10, 38-42
Khi ấy Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với". Nhưng Chúa đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện (quá). Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất".
Suy Niệm 1: Lắng Nghe và Chiêm Niệm
Ngày nay, những tiện nghi do tiến bộ kỹ thuật mang lại đang tạo ra một nền văn hóa mới đặt tính hiệu năng và khả năng tiêu thụ lên hàng đầu bậc thang giá trị: người được đánh giá cao là người tài giỏi, giầu có, làm ra tiền và có khả năng tiêu thụ cao. Trong một nền văn minh như thế, dĩ nhiên những giá trị luân lý, tôn giáo hoặc bị đưa xuống thành thứ yếu, hoặc bị quên lãng và ngay cả bị chà đạp. Ðây là một thách đố lớn lao đối với Giáo Hội. Giáo Hội qua các Kitô hữu hiện diện như một dấu chỉ của cuộc sống mai hậu và những giá trị siêu việt, nhưng liệu các Kitô hữu có còn đủ thức tỉnh và can đảm làm chứng cho những giá trị siêu việt ấy không hay chính họ cũng chiều theo cám dỗ chạy theo dòng đời, thỏa hiệp với những sức mạnh tăm tối đang xói mòn những giá trị luân lý đạo đức và loại bỏ chiều kích thiêng liêng ra khỏi cuộc sống con người?
Tin Mừng hôm nay có thể được lắng nghe và suy niệm với nỗi thao thức ấy. Chúa Giêsu hẳn không làm một cuộc so sánh về hai thái độ: một của Marta tất bật với việc tiếp đãi khách, và một của Maria ngồi bên chân khách để trò chuyện. Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết: tinh thần hiếu khách được biểu lộ cụ thể và tích cực qua việc chuẩn bị bữa ăn, nhưng cũng được thể hiện không kém qua sự hàn huyên ân cần. Chúa Giêsu đề cao thái độ của Maria, nhưng không hề giảm thái độ của Marta. Ngài chỉ muốn mượn hình ảnh của Maria đang ngồi dưới chân Ngài để nói lên thái độ cơ bản mà con người phải có đối với Thiên Chúa, đó là thái độ lắng nghe và chiêm niệm.
Hơn bao giờ hết, sự hiện diện của những người hiến dâng cho việc cầu nguyện và chiêm niệm là một trong những kho tàng quí giá nhất của thời đại chúng ta, để nhắc nhở cho thế giới rằng cuộc sống con người không chỉ giản lược vào điều mà thánh Phaolô gọi là chuyện ăn, chuyện uống, tôn thờ cái bụng, và rằng cuộc sống chỉ có giá trị và đứng vững vì chính chiều kích siêu việt, thiêng liêng của nó.
Trong một bài nói chuyện với các nữ tu của một Dòng Kín tại Mêhicô năm 1979, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cao sự hy sinh của họ như sau:
"Cuộc sống của chị em quan trọng hơn bao giờ hết; sự hiến thân trọn vẹn của chị em đầy tính thời sự. Trong một thế giới đang đánh mất dần ý thức về thần linh, trong một thế giới đề cao quá mức những thực tại vật chất, hỡi các nữ tu thân mến, các chị lại dấn thân vào các tu viện Kín để làm chứng cho những giá trị mà các chị sống cho. Các chị là những chứng nhân của Chúa cho thế giới ngày nay; với lời cầu nguyện, các chị đang thổi một luồng sinh khí mới vào trong Giáo Hội và con người ngày nay".
Những lời của Ðức Gioan Phaolô II không chỉ đề cao chứng từ của các Tu sĩ chiêm niệm, mà còn nhắc nhở cho các Kitô hữu về chính chứng từ của sự cầu nguyện của họ. Có những người hiến thân trọn vẹn cho sự cầu nguyện, nhưng cầu nguyện không phải là độc quyền của một số người, mà phải là hơi thở cho tất cả những ai có niềm tin. Có những giây phút dành cho việc cầu nguyện đã đành, nhưng người Kitô hữu phải sống thế nào để biến cả cuộc sống của họ thành lời cầu nguyện. Chiêm niệm không chỉ là hoạt động dành riêng cho một số người hay một số giờ hoặc một số nơi nhất định. Chiêm niệm chính là thái độ tìm kiếm, lắng nghe và suy niệm bao trùm mọi sinh hoạt của người Kitô hữu.
Nguyện xin Chúa nung nấu sự khát khao trong tâm hồn chúng ta, để chúng ta luôn hướng về Ngài, tìm kiếm Ngài và kết hiệp với Ngài trong mọi sự. Nguyện xin Mẹ Maria là Ðấng luôn cất giữ và suy niệm mọi sự trong lòng, hướng dẫn chúng ta trong thái độ cầu nguyện và chiêm niệm của Mẹ.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Lao Ðộng Và Cầu Nguyện
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho Mácta đáng cho ta suy nghĩ thêm. Các nhà chú giải đề ra hai điểm. Trước hết Chúa Giêsu không có ý định giảm giá trị của công việc tiếp rước Chúa mà Mácta đang làm nhưng Ngài cảnh tỉnh Mácta về nguy hiểm Mácta đang lao vào, đó là thái độ ganh tị, thái độ muốn tách rời Maria ra khỏi Chúa Giêsu; kế đến Chúa Giêsu làm nổi bật một điểm tốt mà Maria đã biết rút ra từ hoàn cảnh, đó là đến ngồi bên Chúa lắng nghe và nói: "Việc lắng nghe Chúa có ưu tiên hơn, vì con người không sống nguyên bởi bánh mà thôi, nhưng còn do bởi lời Thiên Chúa phán ra. Vì thế, hãy tìm nước Thiên Chúa trước rồi mọi sự khác sẽ được ban cho dư đầy". Chúa Giêsu không đề ra một lựa chọn giữa một trong hai điều: hoặc làm việc, thái độ của Mácta; hoặc chiêm niệm, thái độ của Maria, để rồi chỉ chấp nhận một thái độ duy nhất của Maria mà thôi.
Không có sự đối nghịch giữa hoạt động và chiêm niệm trong đời sống người Kitô, bởi vì cả hai đều phát xuất từ một nguồn mạch là lời Chúa và cùng hướng đến một mục tiêu là phục vụ nước Chúa.
Việc lắng nghe lời Chúa được hướng đến hành động và hành động cần được nuôi dưỡng bởi lời Chúa. Ðây là hai khía cạnh của mối phúc thật: lắng nghe và tuân giữ lời Chúa. Mối phúc thật này đã được Chúa Giêsu tuyên bố khi Ngài trả lời với người nữ từ trong dân chúng cất tiếng chúc tụng mẹ, cũng như trả lời cho những kẻ báo tin cho Chúa biết là có mẹ và anh em Chúa đang chờ, thì lúc đó Chúa Giêsu trả lời: "Nhưng phúc thật cho những ai lắng nghe lời Chúa và tuân giữ lời ấy; những kẻ đó mới là mẹ Ta và anh em Ta". Hai chị em Mácta và Maria nhắc nhở cho cộng đoàn Kitô cũng như cho mọi người Kitô thuộc mọi thời đại về hai thái độ luôn bổ túc cho nhau, để tiếp nhận nước Chúa được hiện diện nơi chính Chúa Giêsu Kitô. Không phải chỉ cầu nguyện chiêm niệm không mà thôi; cũng không phải chỉ có hoạt động vì hoạt động. Nhưng chiêm niệm và hoạt động phải là hai chiều kích hòa hợp với nhau của cùng một trách vụ, đây là hai yếu tố không thể nào thiếu vắng của việc theo Chúa. Trong những hoàn cảnh cụ thể và tùy theo mỗi hoàn cảnh cụ thể, mà người đồ đệ của Chúa thực hiện việc hòa hợp cụ thể này giữa cầu nguyện và hoạt động. Thật là sai lầm to nếu ta muốn canh tân xã hội mà không cần cầu nguyện, nghĩa là không cần lắng nghe lời Chúa, không đối thoại với Ngài. Ðể hoạt động của chúng ta có thể trổ sinh kết quả, người đồ đệ của Chúa cần dành thời giờ im lặng để lắng nghe lời Chúa và đối thoại với Ngài. Trong ý nghĩa này, chiêm niệm là phần tốt hơn mà Maria đã chọn, nhưng không phải là phần tách rời ra khỏi việc làm, không ăn thua gì đến việc làm. Ðức tin chúng ta phải là đức tin có sức tác động qua đức bác ái, đàng khác cầu nguyện không làm cho người đồ đệ xa lạ với cuộc sống và những vấn đề của con người. Nhưng ngược lại, cầu nguyện làm cho người đó được thêm sức mạnh để hoạt động biến đổi xã hội, ngõ hầu Thiên Chúa được tôn vinh và con người được hạnh phúc.
Lạy Chúa,
Xin giúp con hiểu và thành công hòa hợp được hai yếu tố không thể tách rời của đời sống Kitô đích thực này là làm việc và cầu nguyện. Ước chi mọi việc con làm đều phát xuất từ cầu nguyện, từ việc lắng nghe lời Chúa và được nâng đỡ bởi sức mạnh của Chúa, sức mạnh được trao ban trong những giây phút con trở về lắng nghe Chúa nói.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 3: Hành động và chiêm niệm
Chúa đáp: "Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi." (Lc. 10, 41-42)
Trong đoạn Tin Mừng này, Thánh Luca kể lại biến cố trong bữa cơm gia đình ấm cúng giữa Đức Giêsu, Matha và Maria, ông đặc biệt lưu ý đến vấn đề chiêm niệm và hành động, không phải chỉ có chiêm niệm hay hành động riêng rẽ.
Chắc hẳn, Đức Kitô không muốn đối lập Maria với Matha. Người chỉ ghi nhận những ưu tiên, nhưng không lên án những hành động của Matha. Cả hai chị em đều mến Chúa bằng nhau! nhưng mỗi người mỗi vẻ. Matha thích hành động, chị cảm thấy cần thiết đón khách chu đáo đàng hoàng mới tỏ ra lòng mến khách, quý khách. Cho nên, chị cần chuẩn bị nhiều thứ.... như vậy rất có lý! nhưng chị quá lo lắng bối rối nhiều chuyện quá. Chúa đã lưu ý chị thế! Chắc chắn là cần thổi nấu, sắp đĩa bát, dọn bàn ăn! quá lo lắng, áy náy không hợp với lúc này! Điều quan trọng chính là họp mặt, gặp gỡ nhau, trao đổi tâm sự hơn là mâm cao cỗ đầy.
Maria, cô ngồi bên chân Thầy rất mến, ngây ngất lắng nghe Người không ngớt! Hai người nói gì với nhau? bản văn không nói gì đặc biệt. Có phải nói về cái chết sắp tới của Người như đã nói với các Tông Đồ, về mọi thứ đau khổ Người mong chờ và chấp nhận để cứu chuộc loài người chăng? Cũng có thể Người nói với Maria về ý nghĩa ngược đời của tám mối phúc thật, về hạnh phúc nước trời. Khó với tới và những đòi hỏi vượt sức loài người của đức ái Kitô giáo! Không ai biết được câu chuyện đó như thế nào! nhưng Maria rất ham thích lắng nghe! Khi người ta yêu, người ta không chán nghe người yêu nói.
Matha bất bình như mọi người hoạt động bất bình với những người chiêm niệm: không làm gì nhưng lại rất hoạt động và hoạt động đúng nhất. Đức Giêsu đã đặt lại những giá trị, Người nói: "Tội nghiệp Matha, chị làm cũng được, Thầy khen chị, cám ơn chị, nhưng hãy tin Thầy đi, chị không biết rằng chị cần thấy: lúc chúng ta ngồi với nhau để chia vui sẻ buồn là tốt nhất, là lịch duyệt và dễ thương nhất! chị thử coi tình yêu chứng tỏ bằng những cử chỉ chị làm lúc này, không thể bằng ánh mắt chăm chú biểu lộ lòng yêu mến đối với sự hiện diện của Thầy được!
Không cần tiếng khua nồi niêu bát dĩa... nhưng cần thinh lặng hết lòng yêu mến tôn thờ".
GF.
05/10 Người Samaritanô Nhân Hậu
- Viết bởi Lc 10, 25-37
Người Samaritanô Nhân Hậu.
Thứ Hai tuần 27 thường niên.
"Ai là anh em của tôi?"
Lời Chúa: Lc 10, 25-37
Khi ấy, có một người thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?" Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?" Chúa Giêsu nói tiếp: "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: "Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông". "Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".
Suy Niệm 1: Người Samaritanô Nhân Hậu
Một phóng viên nọ muốn biết cách đối xử với con người thế nào, ông đã giả vờ làm người bị thương nằm bên vệ đường cùng với chiếc xe bị hư của ông. Nhiều người đã đi qua..., cuối cùng có một người dừng xe lại xem xét và đến trạm gọi điện thoại cho cảnh sát. Người phóng viên đã cẩn thận ghi các số xe đã chạy qua, sau đó, ông đến tận nhà họ để phỏng vấn. Mỗi người đều nói lên lý do của mình, nhưng không ai nghĩ mình một ngày kia có thể rơi vào hoàn cảnh như thế: bàn tay của mình đưa ra để mong tìm được sự nâng đỡ của người khác mà không gặp được.
Người Samaritanô nhân hậu được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay là chính Chúa Giêsu. Dĩ nhiên, các tư tế, lêvi có lý do của họ: họ đã sống đúng luật, tuy nhiên luật đã giết chết lòng yêu thương của con người vì trọng mặt chữ mà thôi. Chúa Giêsu đã vượt qua luật lệ và hướng dẫn tâm hồn con người lên cao, đi vào chiều sâu của bác ái. Ngài đã đến với từng con người, Ngài không đứng xa nhìn con người đương đầu với những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Như người Samaritanô nhân hậu, Ngài đến gần bên con người, Ngài nhìn họ với ánh mắt đầy trắc ẩn, cảm thông, Ngài cúi xuống băng bó các vết thương của họ và còn tình nguyện trả nợ cho họ bằng giá máu của Ngài khi chấp nhận chết trên Thập giá để cứu sống và đưa họ về quê trời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi theo gương mẫu của người Samaritanô nhân hậu là hình ảnh của chính Chúa. Chung quanh chúng ta còn biết bao nạn nhân, dưới nhiều hình thức, đang chờ bàn tay nâng đỡ của chúng ta. Nhưng thử hỏi chúng ta đã làm được gì? Có thể chúng ta không có tiền bạc, nhưng một lời nói, một nụ cười, một cử chỉ, một việc làm tốt cũng có sức xoa dịu và cảm thông với những nỗi khổ đau của đồng loại.
Nguyện xin Chúa kiện cường lòng bác ái của chúng ta, một lòng bác ái biết tìm đến, dừng lại và xoa dịu những nỗi khổ đau của người khác; một lòng bác ái vị tha, không bị lấm bẩn bởi bản tính ích kỷ trục lợi.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Biến Ðổi Tâm Hồn
Chủ đề chính của đoạn Phúc Âm trên đây là tình yêu thương đối với người lân cận và chủ đề được nhắc đến do bởi hai câu hỏi của luật sĩ: "Tôi phải làm sao để được sống đời đời?" và "Ai là người anh em tôi?"
Chúa Giêsu đã để cho chính luật sĩ phải trả lời cho câu hỏi thứ nhất: "Tôi phải làm gì để được sống đời đời?", và vị luật sĩ đã trả lời đúng trăm phần trăm, dựa trên chính lời Kinh Thánh mà ông đã biết nằm lòng. Và nếu đã biết rõ như vậy rồi thì đâu còn lý do gì để hỏi Chúa Giêsu nữa. Không cần phải luật sĩ mới trả lời cho câu hỏi này, mọi thành phần dân Chúa đều có thể trả lời. Vấn đề là nơi câu hỏi thứ hai: "Ai là người anh em tôi?" Sự hiểu biết thông thái của luật sĩ làm ông ta lúng túng vì hẳn thật vào thời Chúa Giêsu có nhiều trường phái luật sĩ khác nhau đã cố gắng trả lời cho câu hỏi này, nhưng chưa có câu trả lời nào thỏa đáng cả. Có trường phái cho rằng người lân cận mà luật Môisen buộc phải yêu thương là cha mẹ, bạn bè, người đồng hương. Như thế, nhà luật sĩ có lý do để hỏi Chúa Giêsu: "Ai là anh em tôi?", ông muốn biết những giới hạn của tình thương đối với anh chị em để rồi từ đó xác định những bổn phận cần phải tuân giữ. Chúa Giêsu trả lời bằng dụ ngôn người Samari nhân hậu để giúp cho luật sĩ biết là không có giới hạn nào cho tình thương đối với anh chị em và bất cứ ai cần trợ giúp thì người đó là anh chị em của mình. Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đặt lại vấn đề như sau: "Ai trong số những kẻ qua đường là người anh em của kẻ bị cướp?", và dĩ nhiên luật sĩ cũng đã trả lời đúng: "Thưa là kẻ có lòng thương xót người ấy".
Giải quyết vấn đề trên bình diện tri thức hiểu biết xem ra rất dễ, chỉ cần một chút hướng dẫn như Chúa Giêsu đã làm trong dụ ngôn thì ta có thể biết được câu trả lời cho vấn đề, nhưng để vào nước Chúa không phải chỉ có biết mà thôi, cũng không phải chỉ nói Lạy Chúa, Lạy Chúa mà thôi, nhưng còn phải thực hành, phải làm nữa, phải thực hiện lời dạy của Chúa và phải làm ngay không được chần chờ.
"Hãy đi và làm như vậy!" xem ra Chúa Giêsu không muốn vị luật sĩ ở lại để tranh luận lý thuyết với Chúa mãi mãi mà hãy dấn thân hành động, vì thế liền sau câu trả lời thứ hai của vị luật sĩ, Chúa Giêsu khuyến khích ngay: "Hãy đi và làm như vậy!"
Khi phải hành động giúp đỡ anh chị em, chúng ta thường hay có thái độ chần chờ, tìm sự chân thành lý do để tránh né để khỏi phải cho đi, để khỏi phải làm ngay công việc bác ái phải làm. Vì thế, vấn đề là luôn luôn phải sẵn sàng phục vụ, vấn đề bắt đầu từ tâm hồn của chúng ta trước, vì phải có tâm hồn yêu thương, cần canh tân chính mình trước. Chúng ta đã thấy Chúa Giêsu đã đổi lại viễn tượng, đã đổi lại câu hỏi của luật sĩ, câu hỏi không còn là: "Ai là anh em ta?" nhưng là: "Ai là anh em của người bị nạn?"
Khi tâm hồn chúng ta đã được biến đổi rồi, đã có đầy tình yêu Chúa rồi thì chúng ta sẽ dễ dàng chu toàn mệnh lệnh yêu thương của Chúa hơn, sẽ yêu thương như Chúa, yêu thương không giới hạn, không tính toán, yêu thương cả đến hy sinh mạng sống mình. Không có tình yêu này to lớn hơn tình yêu của kẻ hiến mạng sống mình cho người mình thương. Vấn đề không phải là biết: "Ai là anh em của tôi?" nhưng vấn đề là biến đổi tâm hồn chúng ta để chúng ta trở thành người lân cận, người anh em của tất cả những anh chị em chung quanh chúng ta.
Lạy Chúa, xin giúp con canh tân chính tâm hồn mình trước và giúp con trở thành người lân cận của tất cả mọi người, mọi nơi và mọi lúc.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 3: Ai là người thân cận của tôi?
Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sồng đời đời làm gia nghiệp?"Người đáp: "Trong luật đã viết gì? ông đọc thế nào? Ông ấy thưa: "ngươi hãy yêu mến Đức Chúa,Thiên Chúa của ngươi, và người thân cận như chính mình." (Lc.10, 25-27)
Đây là vấn đề chính luôn luôn được đặt ra qua các thời đại: Ai là người thân cận của tôi? Chính ở điều này, Đức Kitô đã hoàn thành một cuộc cách mạng vĩ đại. Người sắp cho ông luật sĩ một bài học sáng giá về bác ái qua một dụ ngôn rất ý nghĩa và rõ nét.
Ông đã hỏi Ngài: "Ai là người thân cận của tôi?"Đức Kitô đã giải đáp vấn đề cho chúng ta biết cách thực hiện ai là người thân cận của chúng ta. Trong những người chung quanh tôi, những người tôi gặp, ai là anh chị em tôi? Đức Kitô nói: "Một người nào đó đi từ Giê-ru-sa-lem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch và đánh nhừ tử người ấy rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết bên lề đường. Tình cờ có thầy tư tế cũng đi xuống con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi! cũng thế, một thầy lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, bỏ tránh qua bên kia mà đi! nhưng một người Samari đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương, ông lại gần lấy dầu rượu băng bó vết thương người ấy, đặt lên lừa, đưa về quán trọ mà săn sóc, lấy tiền nhờ chủ quán cứu chữa bệnh nhân!
Một người Samari nào đó chẳng quen biết! thuộc dân tộc ly giáo với Do-thái, họ không thờ Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem nhưng ở núi Garidim! Thế mà ông đã lo chăm sóc cho một người cùng khổ hoạn nạn cướp bóc đánh đập và gánh lấy trách nhiệm cứu chữa. Ông không cần biết đó là ai, dân mình hay dân khác, bạn hay thù! không kể đến tốn phí bao nhiêu! ông chỉ thấy đó là một người cần giúp đỡ. Bác ái không từ bỏ một ai trong bất cứ một hoàn cảnh nào, nơi nào, thuộc hạng nào! bác ái có mặt mọi nơi, nơi nào có khổ sở cần xoa dịu giúp đỡ là có bàn tay êm ái nâng đỡ, có lòng tận lực chi trả, có lời an ủi âm thầm tâm sự, thông cảm mọi cảnh éo le, chia sẻ mọi cuộc sống ngoài lề xã hội, băng bó những xung đột, âu yếm những người bị bỏ rơi, hy vọng làm sáng lên những nơi đen tối, chia vui cho những nơi bị xáo trộn, bất ổn.
Bác ái hiện diện khắp nơi, nơi nào có tiếng nhân loại kêu cùng khổ là có con tim đến tiếp cứu, đến biến đổi nó lên tươi sáng. Bác ái hiện diện trên mọi trận tuyến, bạn cũng như thù, tương trợ lẫn nhau trong khắp thế giới. Lúc đó và chỉ như thế, chúng ta mới là anh chị em thân cận với nhau.
GF
04/10 Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp
- Viết bởi Mc 10, 2-14
Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp.
Chúa Nhật tuần 27 thường niên năm B – Kính trọng thể Đức Mẹ Mân Côi.
"Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".
Lời Chúa: Mc 10, 2-14
Khi ấy, những người biệt phái đến gần và hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?" Người đáp: "Môsê đã truyền cho các ông thế nào?" Họ thưa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị". Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Như thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ". Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng và lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình". Bấy giờ người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.
1. Giá trị của gia đình
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chưa bao giờ các gia đình lại gặp nhiều khốn đốn, nhiều đe doạ và sóng gió hung tợn như ngày hôm nay. Hàng loạt rồi hàng loạt gia đình bị rạn nứt, bị sụp đổ, bị tan tác trước những cơn địa chấn kinh hồn do nếp sống hưởng thụ và vô thần gây nên (nạn ly dị tràn lan, hôn nhân thử cũng như kết hôn đồng tính gia tăng đáng sợ...)
Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận ra giá trị cao cả của gia đình để chúng ta trân trọng yêu mến gia đình và từ đó quyết tâm xây dựng gia đình nên tốt lành thánh thiện hơn.
Dựa vào Lời Chúa, chúng ta có thể khẳng định rằng gia đình có một giá trị rất cao quý, vì những lý do sau:
* Chính Thiên Chúa là kiến trúc sư đã thiết kế và trực tiếp xây dựng nên gia đình:
Bài đọc thứ nhất cho thấy Thiên Chúa đã thiết lập nên gia đình đầu tiên bằng hình ảnh rất nên thơ: Trước tiên, Ngài dựng nên ông Ađam và trong khi Ađam say ngủ, Ngài rút một xương sườn của ông mà dựng nên E-và. Ađam hoan hỉ đón nhận Evà làm bạn đời và xác nhận rằng đó là xương thịt của ông.
Đó là cách diễn tả rất thi vị, rất độc đáo để trình bày cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã sáng tạo nên gia đình và gia đình là tác phẩm ưu việt của Ngài.
Ta có thể hình dung mỗi gia đình như một toà lâu đài và lâu đài đặc biệt nầy được chính Thiên Chúa vừa là nhà thiết kế, vừa là kỹ sư xây dựng. Vì thế, gia đình là một công trình rất đáng trân trọng của Thiên Chúa.
* Lý do thứ hai khiến cho gia đình đáng cho mọi người chúng ta tôn trọng là vì chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa Ngôi Hai quyền năng phép tắc cũng đã vui lòng đến sống dưới mái gia đình Na-da-rét. Trong ba mươi ba năm mang lấy thân phận con người, Ngài đã dành ra đến gần ba mươi năm nương náu trong gia đình Na-da-rét. Thế là tại đây, mái ấm gia đình trở nên cung điện của Thiên Chúa.
* Lý do thứ ba là Chúa Giêsu rất quý trọng gia đình.
Khi có một gia đình mới được thành lập tại Cana, Chúa Giêsu, Mẹ Maria cùng các môn đệ được mời dự tiệc. Đang giữa tiệc vui bỗng hết rượu, Mẹ Maria phải cậy nhờ Chúa Giêsu cứu nguy cho đôi tân hôn. Chúa Giêsu biết là giờ Ngài chưa đến, chưa đến lúc để làm phép lạ đầu tay. Mà nếu cần thực hiện một phép lạ đầu tay thì cũng phải thực hiện vì một lý do rất hệ trọng. Thế mà Chúa Giêsu lại chấp nhận làm phép lạ đầu tiên hoá nước thành rượu cho gia đình mới được vui.
Sự kiện Chúa Giêsu, Mẹ Maria cùng các môn đệ đến tham dự tiệc cưới tại Ca-na và Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tay chỉ vì hạnh phúc của một đôi tân hôn, của một gia đình mới xây dựng chứng tỏ Chúa Giê -su rất quý trọng gia đình.
* Lý do thứ tư là Chúa Giêsu lập bí tích hôn phối để nâng cấp gia đình những người con cái Chúa.
Đối với những người sống trong Hội Thánh, Chúa Giêsu còn thiết lập nên bí tích hôn phối để làm cho gia đình họ trở thành gia đình thánh. Thế là nhờ bí tích hôn phối, gia đình là một tổ chức thế tục trở thành một Hội Thánh nhỏ của Chúa Giêsu.
Vì những lý do kể trên, gia đình là một công trình cao đẹp và rất đáng trân trọng. Có thể nói rằng không một công trình kiến trúc vĩ đại nào của con người, ngay cả đại thánh đường Phêrô tại Rôma được xây dựng trong suốt 130 năm bởi nhiều kiến trúc sư tài năng nhất thế giới, cũng không thể sánh bằng.
Giả như có một ai đó đang tâm phá huỷ đền thờ thánh Phêrô tại Rôma, thì đó là một tội ác lớn lao đối với nền văn minh nhân loại, thì kẻ nào phá vỡ gia đình là thánh điện của Thiên Chúa, là kiến trúc tuyệt mỹ của Thiên Chúa Ba Ngôi thì đáng chịu tội nặng nề hơn.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu củng cố nền tảng gia đình và lên tiếng cảnh cáo mọi người nhớ rằng: gia đình là "công trình mà Thiên Chúa đã kiến tạo, thì loài người không được phá huỷ". Phá huỷ gia đình là xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa.
Vậy xin đừng ai phá huỷ gia đình hay làm cho gia đình xuống cấp bằng cách đưa vào nhà mình những tệ nạn xã hội, những gương xấu, những nguyên nhân phát sinh tội lỗi.
Trái lại, mỗi người hãy xây dựng gia đình mình trở thành tổ ấm cho tình thương và sự sống phát triển, xây dựng tình hiệp nhất yêu thương, để cho sự "hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa" (thư chung Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2002)
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã chọn gia đình làm nơi cư ngụ của Ngài, ban ơn giúp sức để chúng ta biết dựng xây gia đình mình ngày càng hạnh phúc, an vui và thánh thiện như gia đình của Chúa Giêsu ngày xưa. Amen.
2. Bất khả phân ly
Bọn Biệt phái hôm nay đưa vấn đề ly dị ra hỏi Chúa Giêsu, không phải là để có thêm kiến thức hay tranh thủ ý kiến của Ngài, nhưng là để giăng bẫy gài Ngài. Một cái bẫy không kém phần thâm độc. Họ chọn đúng lúc có đông đảo dân chúng tụ tập xung quanh Chúa Giêsu để đòi buộc Ngài phải bày tỏ rõ lập trường. Uy tín của Ngài sẽ tùy thuộc vào cách giải quyết của Ngài. Mà theo những người Biệt phái, Chúa Giêsu sẽ không dễ gì thoát được cạm bẫy của họ. Nếu trả lời được phép, thì Ngài sẽ đi ngược lại lề luật của Thiên Chúa. Còn nếu trả lời không được phép, thì Ngài sẽ vi phạm điều Maisen qui định.
Thế nhưng Chúa Giêsu đã vạch trần âm mưu của bọn Biệt phái bằng cách kéo họ về với điều Thiên Chúa muốn người ta thực hiện. Chúa Giêsu đã gợi lại: Khởi đầu cuộc sáng tạo con người, Thiên Chúa dựng nên người nữ, để làm vợ của người nam, nghĩa là làm người bạn đường, bình đẳng với người nam...
Để diễn tả ý tưởng này, Kinh Thánh cho thấy Thiên Chúa đã dựng nên người nữ, không phải bằng bụi đất, mà bằng chính xương thịt của người nam. Và trong quan niệm của người Do Thái, thì lồng ngực được cấu tạo bởi bộ xương sườn đó chính là trung tâm của sự sống con người. Như thế, giữa người nam và người nữ, giữa người vợ và người chồng, có một mối quan hệ mật thiết với nhau, quan hệ xương máu, quan hệ cuộc sống. Và trong ý định của Thiên Chúa, nam và nữ, vợ và chồng được tạo dựng để trở nên một huyết nhục. Do đó mà điều gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly.
Nhưng trong thực tế, Maisen đã cho phép ly dị. Theo Chúa Giêsu, thì việc làm của Maisen không có tính cách qui định về một lý tưởng phải theo đuổi, mà chỉ là một nhượng bộ bởi sự cứng lòng của người Do Thái. Thay vì thực hiện lý tưởng của khởi đầu cuộc sáng tạo, nghĩa là coi vợ mình như một người bạn đường, như một phần của cuộc sống mình, thì người ta đã coi vợ mình như là một phương tiện thỏa mãn những ước muốn ích kỷ, để rồi sẽ dẫy bỏ khi không cần thiết.
Sự ích kỷ đó đã phổ biến đến nỗi Maisen phải nhượng bộ, nhằm giải quyết sự yếu đuối của con người cùng thời với ông, đồng thời nó còn phản ảnh cho một quan niệm hôn nhân thời bấy giờ: Người vợ không được nhìn nhận là bình đẳng với người chồng.
Ngoài ra, có lẽ cũng nhằm sửa đổi cái nhìn của người ta về con người trong xã hội, mà ở đây Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ thái độ phải có đối với các trẻ nhỏ, vì trẻ nhỏ chính là mẫu mực cho những ai muốn vào nước Thiên Chúa. Mẫu mực ở sự đơn sơ vô tội đã đành, mà còn mẫu mực ở thái độ sẵn sàng đón nhận với tất cả sự chân thành.
Đoạn Tin Mừng vừa nghe thường được xử dụng trong lễ cưới, và câu nói của Chúa Giêsu: Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly, vốn được coi là nền tảng cho sự bền vững của gia đình Công giáo. Thế nhưng chúng ta đừng vội hiểu việc Thiên Chúa liên kết theo một ý nghĩa hoàn toàn pháp lý hay nghi lễ. Vợ chồng kết hợp với nhau không phải bằng một nghi lễ, mà bằng chính sự tôn trọng lẫn nhau, đặt mình trong kế hoạch tạo dựng của Thiên Chúa, bằng sự trở nên một huyết nhục, qua hành động, qua tình cảm, qua cuộc sống thường ngày, qua sự chọn lựa diễn ra trong từng giây từng phút.
Bởi đó, hãy sống việc Thiên Chúa liên kết hơn là coi đó chỉ là một nghi lễ có tính cách pháp lý mà thôi.
3. Không thể chia lìa
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Khi những người biệt phái đặt vấn đề với Chúa Giêsu về việc ly dị, Chúa Giêsu khẳng định dứt khoát rằng vợ chồng không thể phân li. Người trích dẫn lại lời Kinh thánh: "Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân li." (Mc 10, 6-9)
Sự kiện vợ chồng nên một xương một thịt đã được cụ thể hoá qua hình ảnh Thiên Chúa lấy xương sườn Ađam để dựng nên Evà. E-và như thân cây được Thiên Chúa làm cho nẩy sinh từ gốc cây A-đam; gốc cây và thân cây chỉ là một, nên A-đam và E-và cũng chỉ là một. Thế nên khi Thiên Chúa trao Evà cho Ađam, ông vui mừng mừng xác nhận rằng nàng không là ai xa lạ mà chỉ là xương thịt của mình: "Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi". (Sáng Thế 2, 18-23)
Trong hôn nhân, tuy người nam và người nữ là hai chủ vị khác nhau, nhưng họ được Thiên Chúa liên kết thành một với nhau như chim liền cánh, như cây liền cành. Họ là một như A-đam, E-và là một với nhau.
Tuy nhiên, một số người không nhìn nhận vợ chồng là một và bất khả phân li vì họ có cái nhìn phân mảnh nên không thấy được tính duy nhất trong đa tạp.
Đối với hạng người nầy, khi nhìn vào chiếc kìm hay chiếc kéo, họ chỉ thấy có hai gọng thép ghép lại với nhau và nói rằng đây chẳng là gì ngoài hai gọng thép; nhưng người hiểu biết thì cho rằng đây không đơn thuần là hai gọng thép mà là một chiếc kéo hay một chiếc kìm.
Khi nhìn vào một ngôi nhà gạch, người có nhãn quan phân mảnh cho rằng đây là tập hợp của rất nhiều gạch đá. Nhưng người hiểu biết thì quả quyết đó là một ngôi nhà.
Tay phải và tay trái, tuy là hai cánh tay riêng biệt nhưng cũng nên một với nhau vì cùng thuộc về một thân mình.
Đầu và thân mình tuy là hai phần riêng biệt, nhưng cũng chỉ là một vì cả hai đều thuộc về nhau và cùng thuộc về một thân mình.
Tương tự, khi nhìn vào người nam và người nữ đã kết hôn, người không đón nhận giáo lý của Chúa thì cho rằng đây chỉ là một người nam sống bên cạnh một người nữ; nhưng người am hiểu giáo lý Chúa dạy thì biết rằng đó là một gia đình gồm hai người đã nên một xương một thịt với nhau.
Hôm nay, Chúa Giêsu tái khẳng định với chúng ta rằng vợ chồng không còn là hai mà là một huyết nhục và điều gì Thiên Chúa đã kết hợp thì loài người không được phân li.
Đã nên một xương một thịt với nhau mà phân li, chia cắt thì đau xót biết bao! Phân li như thế khác chi tự phanh thây xẻ thịt mình.
Cấu trúc của máy bay có hai cánh. Nhờ hai cánh mà máy bay cất cánh và giữ được thăng bằng. Nhờ cấu trúc nầy, máy bay lướt gió, vượt lên trên các tầng mây, bay xuyên qua đại dương và các lục địa. Nếu có ai đó chặt bỏ mất một cánh, thì máy bay không thể cất cánh được, hoặc nếu có cất cánh được thì cũng lảo đảo mấy vòng rồi lao xuống đất.
Cấu trúc của gia đình là nam và nữ kết hợp nên một như hai cánh máy bay. Nếu ai phá vỡ cấu trúc nầy, gia đình sẽ bị đổ vỡ và gây ra tổn thất rất lớn cho xã hội loài người.
Lạy Chúa Giêsu,
Hôm xưa Chúa đã cầu xin cho các môn đệ được hợp nhất nên một như Ba Ngôi là một, thì nay xin Chúa cũng lặp lại lời cầu đó cho mỗi thành viên trong các gia đình: "Lạy Cha, xin cho người chồng, người vợ, người con trong các gia đình nầy được "nên một như chúng ta là một" (Ga 17,22), nhờ đó các gia đình con cái Chúa được hiệp nhất trong yêu thương và trở nên hình ảnh sống động của Gia Đình Ba Ngôi.
4. Điều Thiên Chúa kết hợp.
Điều Thiên Chúa đã kết hợp thì loài người không được phân ly.
Trong một năm chúng ta cử hành rất nhiều lễ cưới, nhưng phụng vụ Chúa nhật thì hầu như lại không đề cập tới hôn nhân. Một vài trường hợp ít ỏi như ngày hôm nay chẳng hạn, vấn đề hôn nhân được đặt ra, không phải một cách trực tiếp, nhưng là một cách gián tiếp. Tuy nhiên, qua phần Lời Chúa, chúng ta có thể rút ra một vài kết luận về cuộc sống gia đình.
Trước hết, với bài đọc I trích từ sách Sáng Thế Ký, chúng ta thấy: Con người, trong bàn tay tạo dựng của Thiên Chúa, không phải chỉ là nam hay nữ, mà là nam và nữ. Người nữ được dựng nên từ xương thịt của người nam. Cả hai cùng có một bản chất, cùng mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa. Có lẽ, không một tài liệu cổ xưa nào có được một quan niệm vừa rõ ràng vừa thơ mộng về sự bình đẳng giữa người nam và người nữ cho bằng câu chuyện của sách Sáng Thế Ký. Đồng thời, sự kết hợp giữa người nam và người nữ, hay nói một cách cụ thể hơn, cuộc sống lứa đôi, cuộc sống hôn nhân, cuộc sống gia đình không phải là một sự chúc dữ, không phải một chuyện chẳng đặng đừng, mà là một sự thật xuất phát từ Thiên Chúa. Cuộc sống ấy là khởi điểm cho sự hiện diện của con người trên mặt đất này: Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình và cả hai trở nên một thân thể. Đây là một sự kết hợp có tính cách thánh thiện và thiêng liêng, bởi vì từ sự kết hợp này mà nảy sinh những con người mới, có tự do, có hiểu biết, có yêu thương và cũng mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa. Như vậy hôn nhân chính là hành động cộng tác và tiếp nối công trình tạo dựng của Thiên Chúa.
Rồi qua đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã thẳng thắn gạt bỏ những dễ dãi do sự cứng lòng của con người để trở về với ý định ban đầu của Thiên Chúa. Sự gắn bó giữa vợ chồng để trở nên một là do Thiên Chúa thiết lập.
Tiếp nối vào đó, thánh Phaolô còn xác quyết: Sự gắn bó ấy còn là hình ảnh tượng trưng cho sự kết hợp giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Một sự kết hợp làm nên cuộc sống mới. Bởi đó, sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly vì phá đổ sự kết hợp này chính là phá đổ công trình của Thiên Chúa, là bôi bác hình ảnh của Thiên Chúa đã có đó trong cuộc sống hôn nhân. Không phải ngẫu nhiên mà phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu, dấu chỉ về sự hiện diện của Nước Trời giữa trần gian, lại đã được Ngài thực hiện trong một đám cưới.
Ngày nay, gia đình tại nhiều nơi đang lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Chồng bỏ vợ và vợ bỏ chồng, con cái thì bơ vơ vất vưởng. Chính vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa củng cố nền tảng của gia đình bằng cách làm cho vợ chồng biết trung thành và gắn bó với nhau trong suốt cuộc sống yêu thương của mình.
5. Bài tình ca đầu tiên
(Lm. Hồng Phúc)
"Đây là xương bởi xương tôi..."
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một quan niệm về tình yêu hôn nhân và gia đình trong đạo mới.
Trước hết, Sách Sáng thế mô tả cái nhìn đầu tiên, âu yếm và ngây ngất của ông Ađam trên Eva, người bạn đường từ trong bàn tay tạo dựng của Thiên Chúa xuất hiện. Đó là bài tình ca đầu tiên: "Đây là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là đàn bà (Ishâh) vì bởi đàn ông (Ish) mà ra". (Stk 2,23). Hai nguyên tổ là những tạo vật do Thiên Chúa dựng nên, giống hình ảnh Người và do một tình thương đặc biệt. "Người đàn ông ở một mình không tốt, Ta phải ban cho nó một người bạn tri kỷ". Vì thế, hai người sẽ phối hợp với nhau trở nên một xương một thịt. Tình yêu vợ chồng phải là một tình yêu, duy nhất và chung thủy: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly".
Nhưng tình yêu loài người có thể vươn lên tột đỉnh non cao, mà cũng có thể rơi xuống hố sâu vực thẳm. Sách Sáng Thế mở màn bằng mối tình keo sơn giữa hai nguyên tổ. Nhưng, than ôi, lịch sử cũng đầy nhan nhãn những cuộc chia ly, đổ vỡ và phản bội. Không phải chỉ trong hàng ngũ người ngoại đạo mà cả trong tập đoàn dân Chúa. Theo linh mục Lawrence Wrenn, chánh án tòa án hôn phối giáo phận Hartfort, Connecticut, thập niên trước đây có 120,000 đôi ly hôn tại tòa án dân sự và có phân nữa tái hôn. Họ cảm thấy bối rối, buồn phiền nên lập ra nhiều nhóm đòi sự thông cảm của Giáo Hội.
Ngày xưa, người Do Thái nói với Chúa: Ông Môsê cho phép rẫy vợ thì ngày nay họ nói: Luật pháp cho phép! Như xưa Chúa trả lời vì sự cứng đầu của các ông, thì ngày nay Chúa vẫn khẳng định: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly". Lời Chúa đưa ta đến nhận định này: Luật pháp trần gian chỉ có hiệu lực khi không phản lại luật Thiên Chúa. Chứng chỉ ly dị, trước mặt Chúa chỉ là mảnh giấy vụn: "Ai bỏ vợ mình mà lấy vợ khác thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng và lấy chồng khác thì cũng phạm tội ngoại tình". Những nguyên tắc căn bản của luật Chúa sẽ giúp cho đôi vợ chồng trong lúc gặp khó khăn, bão bùng, giông tố, biết tự chủ, biết nhịn nhục, để giữ vững hạnh phúc. Đó cũng là một ơn của Bí tích hôn nhân.
Và Phúc Âm Marcô kết luận bằng một bối cảnh rất dễ thương. Một đám con trẻ đến quây quần chung quanh Chúa. Ngài ôm chúng vào lòng và đặt tay chúc lành cho chúng. Phải chăng đó cũng là một sự mời gọi các đôi vợ chồng, các người làm cha mẹ? Khi trái tim đôi bên không còn cùng rung một nhịp, khi phải chước cám dỗ muốn từ bỏ, chia ly, hãy nhìn vào con cái mình, những nạn nhân vô tội. Bỏ nhau, đường ai nấy đi là một cách giải quyết cho mình, nhưng còn chúng, chúng đi đâu? Biết dâu chúng lại trở nên kẻ thù của cha mẹ, bỏ công sinh thành. Đây chứng từ của một em bé tên là Nina, trích trong cuốn "Dossier des enfants du divorce" (Con cái người ly dị) của Jeanne Delas: Ba thương mến, con viết về bàn giấy của ba vì con không biết bây giờ ba ở đâu, vì ba đã bỏ gia đình. Con mong rằng ba mạnh khoẻ và nhớ đến bé Nina mỗi tối khi ba đi ngủ. Con mong rằng bà ấy không dữ lắm. Con chắc là bà dữ, vì bà đã bắt ba bỏ nhà ra đi. Con hôn ba. Nina" (trg 74).
Chúa phán: "Hãy để con trẻ đến với Ta, dừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng". Nước Trời là thiên đàng của nhi đồng. Một người thanh niên đã nói: "Nhìn thấy cha mẹ tôi thương yêu nhau, tôi hiểu hơn về Thiên Chúa".
Phía sau đại thánh đường kính Bà Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu ở Lisieux, có hai phần mộ nằm song song. Đó là các phần mộ của thân phụ và thân mẫu của Thánh Nữ. Ông Louis Martin và bà Zelie Guérin. Trước hai phần mộ có pho tượng vị Thánh Nữ, với câu khắc ghi lời Bà đã nói: Tôi cám ơn Thiên Chúa đã cho tôi những người làm cha mẹ đáng thiên đàng hơn là trần thế (Đọc: Chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu của H.P. trg 246).
"Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trogn gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như chồi non của nhóm ôliu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. Đó là phúc lột dành cho người biết kính sợ Chúa" (Tv 127, 1-2 - Đáp Ca)
6. Chung thủy trong tình yêu.
(Thiên Phúc – Như Thầy đã yêu)
Thu Hồ Tử người nước Lỗ, mới cưới vợ năm ngày đã nhận lệnh đi làm quan ở nước Tần. Năm năm sau, Hồ Tử xin phép về quê thăm vợ và mẹ. Khi về gần đến nhà, chàng bỗng thấy một thiếu nữ rất xinh đẹp đang hái dâu bên đường.
Hồ Tử xuống xe, thả lời ong bướm trêu cợt. Nàng hái dâu thản nhiên như không nghe thấy gì, tay không ngừng bứt lá.
Hồ Tử nói:
- Này em kia, dùng tận lực mà làm ruộng cũng không bằng một năm được mùa. Dùng hết sức mà hái dâu, sao bằng gặp được một người chồng làm quan. Ta đây là quan lớn, vàng bạc sẵn có, nàng mà ưng thuận lấy ta thì không thiếu thứ gì, chẳng cần hái dâu cho vất vả tấm thân!
Người thiếu nữ ấy vẫn giữ thái độ dửng dưng, nhìn ông quan với ánh mắt đầy khinh bỉ.
Hồ Tử về nhà lạy mẹ. Khi vợ chàng ra gặp thì Hồ Tử choáng váng mặt mày, vì vợ chàng chính là thiếu nữ hái dâu lúc nãy. Chàng hổ thẹn vô cùng, lúc ấy nàng mới dạy cho chàng một bài học:
- Chàng đi làm quan năm năm mới về. Đáng lẽ chàng phải vội vã về thăm mẹ, gặp vợ, thế mà chỉ thấy một người đàn bà ở dọc đường, không biết người ta chồng con thế nào đã ngừng lại trêu ghẹo, không nhớ gì đến mẹ, cũng chẳng thiết gì tới vợ. Quên mẹ thì bất hiếu, ham sắc thì lòng dâm, tính hạnh nhơ thì bất nghĩa, bất nghĩa thì trị dân chúng bất minh, người như thế sao đáng gọi là quan giỏi chồng quý được!
***
Câu chuyện trên đây nhắc nhở chúng ta về sự chung thủy vợ chồng mà Tin mừng hôm nay xác định lại. Đó là luật đơn hôn và vĩnh hôn trong bậc hôn nhân: "Lúc khởi đầu cuộc sáng tạo: Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly" (Mc.10,6-9). Ý định của Thiên Chúa là sáng tạo người nam và người nữ. Việc kết hợp với nhau để trở thành một huyết nhục "là giao ước tình yêu". Hiệu quả của giao ước này là "hai người trở nên một". Điều này chứng tỏ việc ly dị là bất trung với hôn ước, đồng thời cũng là sự bất tuân thánh ý Thiên Chúa.
Kể từ khi Kinh Thánh mở đầu với mối tình keo sơn giữa hai ông bà nguyên tổ, thì tình yêu vợ chồng đã trở nên duy nhất và chung thủy: "Mình với ta tuy hai mà một". Nhưng tình yêu hôn nhân ấy có thể vươn lên tột đỉnh non cao, mà cũng có thể rơi xuống hố sâu vực thẳm.
Có những cặp vợ chồng bước đi bên nhau trong đời. Thế mà những bước chân dẫm lên đời nhau rất đau đớn. Bếp lửa gia đình đã tắt, cuộc vui đã tàn hơi, hành trình không trọn vẹn, như mơ ước của thiên đường.
Lịch sử con người đầy dẫy những cuộc chia tay, đổ vỡ, phản bội. Từ thời Môsê dân chúng đã đòi ly dị, rồi đến vua Đavít chiếm đoạt vợ Uria, sang vua Antipas ly dị vợ để cưới nàng Hêrôđia. Cứ thế tiếp diễn đến ngày nay. Theo thống kê vào tháng 12/89 tại các nước Phương Tây, cứ hai đôi hôn nhân thì có một đôi ly dị và hệ quả là 1/3 trẻ em sống như trẻ mồ côi.
Xét cho cùng luật Chúa cấm ly dị lại là một trợ giúp đắc lực cho các đôi vợ chồng trong lúc gặp khó khăn, giông tố, biết nhẫn nhịn, kiềm chế để giữ gìn hạnh phúc gia đình, và lành mạnh hóa xã hội. Đó cũng là một ơn huệ của bí tích Hôn nhân.
Hình ảnh "Đức Giêsu ôm các trẻ nhỏ vào lòng và chúc lành cho chúng" (Mc.10,16) là một lời nhắc nhở các bậc cha mẹ. Nếu "cơm không lành canh không ngọt", muốn chia tay, hãy nhìn vào con cái mình, những nạn nhân vô tội. Nếu muốn chọn giải pháp "đường ai nấy đi" thì hãy nhớ đến những đứa trẻ đáng thương. Chúng sẽ đi về đâu? Thống kê cho thấy đại đa số thanh thiếu niên phạm pháp là con của những cha mẹ ly tán.
Đức Gioan Phaolô II trong Tông huấn Gia đình, số 59, có viết: "Phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Kitô hữu, xét như là một Hội thánh tại gia, chỉ có thể sống được với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn".
****
Lạy Chúa, "Chúa là tình yêu", xin ban Tình yêu Chúa xuống trong các gia đình đã nguội lạnh tình yêu.
Xin cho các bậc cha mẹ luôn biết nhẫn nhục và tha thứ cho nhau, để họ trọn đời chung thủy trong tình yêu mà Chúa đã chúc phúc cho họ trong ngày thành hôn. Amen.
7. Suy niệm của Guy Marin.
Những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu xem người ta có thể hủy bỏ mối liên hệ hôn nhân không. Chúng ta biết câu trả lời rồi. Trước nỗi khó khăn mà giáo lý này đặt ra, phản ứng đầu tiên của chúng ta là chúc dữ cho những kẻ đặt câu hỏi ấy. Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Không hài lòng với việc làm cho Chúa Giêsu phải lúng túng, các ông còn phá rầy chúng tôi, báo hại cả ngàn năm sau nữa. Ước gì họ không bao giờ nêu lên câu hỏi này và Chúa Giêsu chẳng bao giờ phải trả lời cả! Như vậy các nhà chức trách trong Giáo Hội sẽ có một khoảng cách không gian để xoay sở và các Kitô hữu có một khoảng không gian để sống.
Chúng ta có thể thực sự nghĩ như thế không? Chúng ta có thể nghiêm túc nghĩ như vậy không, nếu chúng ta tin vào Lời Chúa? Chắc chắn là không. Chúng ta không có quyền lựa chọn trong Tin Mừng những gì hợp với chúng ta hoặc tuyên bố rằng lời này lời nọ không phải là lời của Tin Mừng. Thực ra tội ở địa đàng lại không phải là khẳng định cái gì tốt hoặc xấu theo ý chúng ta chứ không theo ý Thiên Chúa đó sao?
Có được phép rẫy vợ không?
Vào thời Chúa Giêsu, việc rẫy vợ thường được chấp nhận nơi người Do Thái. Người chồng có quyền rẫy vợ và điều này bao giờ cũng cho phép người chồng được tái giá. Người vợ không có quyền này. Những cuộc tranh cãi thường liên quan đến những lý do khiến người chồng sử dùng quyền rẫy vợ: tùy theo trường phái đó có thể là vì người vợ xấu nết hoặc làm cháy món ăn. Bởi vậy trong Phúc Âm thánh Matthêu, câu hỏi gần với thực tại hơn: "Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do nào không?".
Thánh Marcô nêu lên ý xấu của những kẻ nêu câu hỏi, đó là "để làm cho Ngài lúng túng". Người ta đưa ra cho Chúa Giêsu một câu hỏi để gài bẫy Ngài, tương tự như câu hỏi về việc trả thuế cho Xêda vậy. Trả lời câu hỏi ấy xem ra rất khó về nhiều phương diện. Ngài phải tránh nói ngược với luật Môsê cho phép ly dị. Khó khăn khác nữa: lúc bấy giờ Chúa Giêsu ở trên lãnh thổ của Hêrôđê, và ông này vừa mới cho chém đầu Gioan Tẩy Giả vì đã trách ông về cuộc hôn nhân bất hợp pháp của ông (6,17). Đây không phải là một địa điểm dễ dàng để nói sự thật. Và Ngài có thể bị chống đối bởi những thính giả thuộc phái đàn ông kiên quyến bảo vệ quyền được rẫy vợ. Phản ứng của các môn đệ cho thấy rõ điều này: "Nếu không thể rẫy vợ được thì thà đừng cưới vợ còn hơn" (Mt 19,10). Khi trả lời, xem ra Chúa Giêsu phải mạo hiểm lắm.
Chúa Giêsu đề nghị một cái nhìn đức tin.
Trước hết, Chúa Giêsu đưa ra cho mấy người Pharisiêu một câu hỏi về lệnh truyền của Môsê và sau đó Ngài giải thích câu trả lời của họ: đây là một sự nhượng bộ. Nhưng Ngài sẽ không để mình bị giam hãm trong một cuộc tranh cãi về những gì được phép và không được phép. Ngài mời gọi các thính giả của Ngài hãy có cái nhìn đức tin hướng về Thiên Chúa và về con người từ bản văn của sách Sáng Thế. "Lúc ban đầu khi Thiên Chúa tạo nên nhân loại, Ngài đã làm ra cho họ có nam có nữ..." Chúa Giêsu khẳng định rằng việc phân biệt phái tính không những là một sự kiện tự nhiên nhưng còn là ý muốn của Thiên Chúa nữa. Giới tính không do bởi ngẫu nhiên, cũng không do bởi sự trà trộn những giống loại sinh vật, nhưng do ý muốn của Thiên Chúa. Ở đây ta thấy có giáo huấn về con người. Con người không phải là một hòn đảo, nhưng là một hữu thể tương quan. Con người cần thiên nhiên để có thức ăn, áo mặc. Tuy nhiên, nỗi cô đơn của họ vẫn không được lấp đầy; họ cần một kẻ ngang hàng, với người này họ có thể chia sẻ mọi sự. Và Thiên Chúa ban cho con người người phụ nữ. Để triển nở theo ý định của Thiên Chúa, con người cần phải liên hệ với thiên nhiên, với tha nhân và đặc biệt là với một người phối ngẫu.
Thánh Kinh rút ra những hậu quả từ việc sáng tạo này. Khi người nam và người nữ rời bỏ cha mẹ để gắn bó với nhau và trở thành một thân xác, thì họ tự do chấp nhận làm theo điều Thiên Chúa muốn về họ. Quả thật, theo quan niệm Thánh Kinh, việc sáng tạo vẫn còn tiếp tục chứ không phải chỉ là một tác động lúc ban đầu mà thôi. Như vậy mối dây liên hệ vợ chồng không do bởi lề luật cũng không do bởi sự lựa chọn của cha mẹ, nhưng do Thiên Chúa sáng tạo hành động trong sự ưng thuận của đôi vợ chồng. Sự kết hợp này từ Thiên Chúa mà đến, vì vậy nên nó không thể bị cắt đứt được.
Sứ điệp không tưởng.
Nếu cứ nhìn vào thực tại hiện nay: vô số những cuộc ly dị, ly thân, tái giá, không kể những cặp nam nữ chung sống với nhau ngoài hôn nhân thì trong Tin Mừng này lại chẳng là không tưởng ư? Nó không tưởng theo nghĩa là nó đề nghị một lý tưởng mà các Kitô hữu được mời gọi theo đuổi phải triệt để cậy dựa vào Chúa Thánh Thần, Đấng tạo nơi họ một quả tim mới.
Một điều chắc chắn là các nhà chức trách của Giáo Hội cũng như dân Kitô không thể chối bỏ một giáo huấn như thế được. Đàng khác, không ai được kết án những anh chị em mà đã thất bại trong quan hệ hôn nhân. Chúng ta vừa buộc phải theo lý tưởng được Chúa Giêsu đề nghị và buộc phải có tình thương huynh đệ đối với những kẻ đã phạm lỗi. Trong cuộc thi Olympic, không phải tất cả các lực sĩ đều lãnh huy chương, nhưng mục đích của hết thảy mọi người trong họ đều là đạt cho được huy chương.
8. Gia đình - Hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi
(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Gia đình là phần tử nền tảng của Giáo Hội và xã hội. Gia đình được xây dựng trên tình yêu: tình yêu của vợ chồng với nhau, tình yêu của cha mẹ đối với con cái, và tình yêu của con cái đối với cha mẹ. Tình yêu, tương quan giữa con người với nhau, cần được trân trọng và vun trồng, để đạt tới mức trọn hảo trong Thiên Chúa.
I. Thật tuyệt vời tình yêu nam nữ
Sách Sáng Thế chương hai cho thấy Thiên Chúa đã tạo dựng con người, đặt con người trong vườn địa đàng, và cho con người được quyền đặt tên mọi sinh vật. Adam không tìm thấy cái gì thích hợp với mình cho tới khi Thiên Chúa tạo dựng Evà, và dẫn Evà tới gặp Adam. Adam tìm được niềm vui đặc biệt khi được Evà sống bên cạnh làm bạn đồng hành. Người nam và người nữ được tạo dựng, để sống bên nhau và nâng đỡ nhau, để cùng nhau tiến bước về với Thiên Chúa.
Thật đẹp tình yêu giữa người nam và người nữ. Hai người quyến luyến và cảm nghiệm hạnh phúc bên nhau. Họ sẵn sàng hy sinh cho nhau, hạnh phúc khi thấy người mình yêu hạnh phúc. Họ sống cho nhau và vì nhau. Con cái là tình yêu của hai người, là điểm nối kết hai người, giúp họ sống triển nở và hạnh phúc. Tình yêu và hạnh phúc giữa hai người nam nữ, là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện và chúc phúc cho con người, cụ thể là hai người đang yêu nhau này. Không ai phá hủy được tình yêu giữa hai người, nếu không phải là chính một trong hai người. Hành vi tội của một trong hai, có thể phá vỡ hạnh phúc của họ.
Sau khi Evà và Adam phạm tội, Adam đã nhìn Evà với một ánh mắt khác, như nguyên nhân làm cho mình trở nên tệ hơn và xa lìa Thiên Chúa: "chính người đàn bà mà Ngài đã đặt bên tôi, đã hái trái Ngài cấm đưa cho tôi nên tôi đã ăn". Adam đã không dám nhận trách nhiệm và đổ lỗi cho Evà. Đúng là Evà có cám dỗ Adam ăn trái cấm, nhưng Adam hoàn toàn tự do. Nếu Adam dứt khoát không ăn, thì Evà đâu có làm gì được ông. Adam ăn, là do chọn lựa của ông, vì Adam tự do!
II. Điều Thiên Chúa liên kết con người không được phân ly
Tình yêu không chỉ là cảm tính mà còn là hành vi nhân linh. Để thành vợ thành chồng, hai người nam nữ phải chọn nhau suốt đời. Họ muốn chọn nhau ngay cả lúc bệnh hoạn yếu đau, họ chọn nhau lúc vui cũng như khi buồn, khi thành công cũng như khi thất bại. Tuy nhiên, con người là hữu thể tự do, một hữu thể có thể thay đổi chọn lựa của mình. Hôm nay một người chọn điều này, ngày mai có thể họ lại chọn điều khác. Hai người nam nữ muốn thành vợ thành chồng, họ cũng ý thức thân phận con người mong manh mỏng dòn đó, nhưng họ vẫn muốn tình yêu của họ thành vĩnh cửu, thế nên họ đã thề nguyền chọn nhau cả đời, thề nguyền trọn đời chung thủy với nhau.
Tội là cố tình làm điều xấu. Chính hành vi chọn điều xấu này đã làm biến dạng con người phạm tội, đã làm họ ra khác, trở nên "xấu như quỷ". Quỷ chính là thiên thần đã muốn độc lập với Thiên Chúa, đã không vâng phục Thiên Chúa, đã từ chối sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Evà đã muốn thành một thần linh không tùy thuộc Thiên Chúa; tuy nhiên không thể là một thần linh mà không tùy thuộc Thiên Chúa vì con người chỉ là tạo vật. Không chấp nhận thân phận thụ tạo, là không chấp nhận chính mình, là muốn phản kháng chống lại Thiên Chúa. Một hành vi như vậy không làm con người triển nở và hạnh phúc; Hành vi đó đã làm biến dạng con người, đã làm họ ra xấu, và làm họ không hạnh phúc; Họ không hạnh phúc với chính họ, và không hạnh phúc với người khác.
Không chung thủy, muốn chọn người khác, là một cám dỗ có thể xảy đến trong đầu của một người đã lập gia đình. Con người được mời gọi để thắng vượt cám dỗ, để là một người vợ người chồng chung thủy và tuyệt vời. Muốn những điều mới lạ, đó là khuynh hướng bình thường của con người; tuy nhiên, con người được mời gọi vươn lên thành người tuyệt vời qua việc thắng vượt chính mình, để người bạn đời là người chồng người vợ và con cái được hạnh phúc hơn. Chung thủy trong đời sống gia đình, là dấu chỉ của một người trưởng thành thật sự.
III. Tình yêu cần được vun tưới nuôi dưỡng
Tình yêu là tương quan giữa ngôi vị. Làm sao để hai người mãi yêu nhau? Làm sao để hai vợ chồng tin nhau hơn, trân trọng nhau, quan tâm săn sóc nhau hơn? Có lẽ hai người cần biết rằng tình yêu có thể chết nếu không được vun tưới chăm bón. Nghĩa là, họ có thể mất nhau nếu họ không cố gắng để đẹp hơn mỗi ngày. Nét đẹp về thể lý có thể mai một nhưng nét đẹp về tinh thần có thể được tăng lên với thời gian. Để được vậy, người này phải để ý tới người kia, phải quan tâm đến người bạn mình khi họ vui khi họ buồn, nâng đỡ họ khi họ gặp khó khăn.
Con người, cần được yêu một cách thật cụ thể, chẳng hạn, cần được yêu qua lời nói, qua sự quan tâm săn sóc. Con người cần thấy mình được yêu mỗi ngày. Mỗi người cũng cần cho thấy mình đẹp, mình đáng yêu mỗi ngày. Để được vậy, mỗi người phải tập quên mình, phải tập sống cho người khác, phải tập quan tâm đến người khác, tập săn sóc và biểu lộ tình thương yêu đối với người khác, tập coi người khác là quan trọng và rất quý đối với mình. "Anh (em) cần em (anh) để hạnh phúc" là một câu mà người bạn đời của mình thích được nghe lại, vậy tại sao mình lại tiết kiệm lời này?
Thiên Chúa là tình yêu. Mọi tình yêu đều đến từ Thiên Chúa. Tình yêu nam nữ cũng có nguồn gốc nơi Thiên Chúa. Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương nhau đến độ tất cả tùy thuộc lẫn nhau. Đức Yêsu luôn lấy Ý Cha làm lương thực và lẽ sống cho mình; Ngài luôn cố gắng lấy Ý Cha làm ý mình. Là một trong thân xác, chưa đủ để duy trì và phát triển tình yêu; con người cần là một trong tâm trí, trong phán đoán, trong chọn lựa giáo dục con cái, trong cách sống... Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Thiên Chúa Ba Ngôi là nguyên mẫu và phải là nguyên mẫu của tình yêu gia đình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Làm sao để chung thủy trong đời sống gia đình?
2. Làm sao để tình yêu vợ chồng không bị mai một nhưng mỗi ngày một sâu đậm hơn?
3. Theo bạn, có nên ly dị không? Tại sao?
9. Mors sola - Chỉ có sự chết
(Lm. GB. Trần Văn Hào)
Đại hội quốc tế về gia đình năm nay được tổ chức tại Philadelphia, Hoa Kỳ. Một trong những vấn đề mà Giáo hội rất quan tâm hiện nay là tình trạng gia đình đổ vỡ và những hệ lụy của nó. Lập trường bất di bất dịch mà Giáo hội luôn khẳng định là tôn trọng giá trị gia đình với tính cách bất khả phân ly của Bí tích Hôn nhân mà chính Chúa Giêsu đã thiết định. Tính bền vững của định chế hôn nhân trong đời sống Kitô giáo được lặp lại trong giáo huấn Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsu đã khẳng quyết: "Sự gì Thiên Chúa đã tác hợp, loài người không được phân ly" (Mc 10,9).
Hôn nhân, Một bí tích Thánh thiêng
Hôn nhân Công giáo là một bí tích linh thánh chứ không phải đơn thuần chỉ là một khế ước mang tính xã hội. Xã hội ngày nay, người ta vẫn cho ly dị là hợp hiến. Giáo hội nói không. Giáo hội không bao giờ cho phép, và thực sự Giáo hội cũng không có quyền cho phép. Quyền đó dành cho Thiên Chúa và chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi. Hiểu như vậy, ly dị trong Kitô giáo chính là tiếm quyền của Thiên Chúa, hay nói thẳng ra là ăn cắp độc quyền duy nhất dành choNgài. Cho dù Giáo hộikhông loại bỏ những nạn nhân của sự đổ vỡ trong đời sống gia đình và cố gắng đưa ra những giải pháp để chữa trị tận căn (sanatio), nhưng Giáo hội tuyệt đối không bao giờ cổ xúy việc ly dị. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta những giáo huấn quan trọng này.
Trong bài đọc thứ nhất, tác giả sách Sáng thế gợi lại định chế "một vợ một chồng" giữa người nam và người nữ do chính Đức Chúa Giavê thiết định ngay từ thuở ban đầu: " Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt" (St 2,24 ). Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu cũng lặp lại xác quyết đó: " Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ. Vì thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai nên một xương một thịt (Mc 10,7-9)". Khi nhắc lại giáo huấn này, Đức Giêsu cũng gợi nhắc về tội ngoại tình mà chúng ta thường dễ mắc phải qua nhiều dạng thức khác nhau. Khi đọc diễn văn trước quốc hội Mỹ ngày 25 tháng Chín vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã mạnh mẽ tái khẳng định học thuyết xã hội mà Giáo hội chủ xướng, là nói không với hôn nhân đồng tính. Ngồi ngay trước mặt vị chủ chăn đáng kính là ông chủ tịch Thượng viện, người đã ký vào văn bản cho phép hôn nhân đồng tính trở thành luật hợp pháp. Đức Thánh Cha không run sợ trước bất cứ một áp lực chính trị nào để công bố cho cả thế giới biết những gì thuộc quyền thánh thiêng của Thiên Chúa.
Chủ nghĩa thực dụng hiện nay
Ở bên Mỹ, lớp trẻ rất tâm đắc câu châm ngôn:'Easy come, easy go'. Thích thì đến với nhau, ở với nhau, không thích nữa thì đường ai nấy đi, đơn giản thế thôi. Đây là một não trạng thực dụng mang tínhvô thần, đang dần dần loại bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài. Ở Hoa kỳ, người ta ước tính khoảng 50% các cặp vợ chồng sau khi đã thành hôn, sẽ bỏ nhau. Nhanh hay chậm còn tùy mỗi hoàn cảnh. Cũng may mắn, con số các vợ chồng công giáo ly dị ít hơn. Ở Việt Nam, theo khảo cứu của tiến sỹ Nguyễn minh Hòa thuộc Đại học Khoa học xã hội nhân văn, tỷ lệ ly hôn từ 31 đến 40%, và hơn một nửa thuộc các gia đình trẻ ở độ tuổi từ 23 đến 30. Sự chia tay có muôn vàn lý do, nhưng tựu trung cũng do lối sống ích kỷ và thích hưởng thụ (consumerism), là lối sống mà trước đây Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã mạnh mẽ cảnh báo.
Sống trung thành
Người ta vẫn thường nói: "Một người vợ trung thành là một cô gái suốt đời chỉ đay nghiến duy nhất một ông chồng mà thôi". Đời sống vợ chồng không phải lúc nào cũng bình yên và phẳng lặng. Có những lúc cơm không lành canh chẳng ngọt, và điều đó rất thường xảy ra. Nhưng làm cách nào để chúng ta có thể vượt qua những sóng gió và sống chung thủy. Hơn 10 năm về trước, khi quốc hội Hoa Kỳ cho công bố công khai những cuộn băng tự thú của ông Bill Clinton về những lăng nhăng tai tiếng của ông với cô đào Monica Lewinski, gia đình ông cựu tổng thống Hoa Kỳ bắt đầu dậy sóng. Một con người tài ba đã thành công trong việc điều hành một cường quốc đứng đầu thế giới lại thất bại trong việc điều khiển chính bản thân và gia đình mình. Nạn nhân đầu tiên của sự phản bội này chính là bà Hilary, phu nhân của ông. Cho dù bà ta có bản lĩnh ngoan cường, rất bình tĩnh chống đỡ, nhưng bà đã tỏ lộ sự cay đắng phũ phàng khi phải hứng chịu những búa rìu của công luận. Người ta thường nói khôn ba năm nhưng lại dại một giờ, và sự dại dột đó có khi phải trả giá khá đắt.
Nhìn lại một cách thoáng chung nơi các gia đình Công giáo ở Việt Nam chúng ta, tình trạng ly dị tương đối không nhiều, nhưng không phải là hiếm. Có lẽ, do truyền thống văn hóa, hoặc do lối sống tình làng nghĩa xóm khá chặt chẽ, nên các vợ chồng khó bỏ nhau. Sống giữa một giáo xứ đa phần toàn tòng, nếu một cô gái nào lăng nhăng bỏ chồng đi sống với người khác, chỉ còn cách độn thổ hoặc đi biệt xứ, còn nếu trở về làng, chắc chắc sẽ bị thiên hạ ném đá khủng khiếp. Nhưng điều quan trọng nhất trong đời sống gia đình, là vợ chồng luôn luôn phải canh tân sự trung thành của mình mỗi ngày với cảm thức đức tin và tín thác vào ơn thánh. Người ta vẫn ví von khi so sánh nụ hôn đầu tiên của hai vợ chồng lúc mới cưới nhau, giống hệt cái bắt tay rất lịch lãm và thân thiện của hai võ sĩ trước khi thượng đài. Một nhà xã hội học nọ cũng đã diễn tả: Sự ngọt ngào của hai vợ chồng trong những ngày tháng trăng mật đầu tiên được sánh như những cơn gió hiu hiu giữa bầu trời vần vũ mây đen. Sau làn gió thoảng và những giọt mưa dịu mát, là chớp lòe và sét nổ. Tình trạng này không phải là hiếm, khi chúng ta nhìn vào thực trạng các gia đình của chính chúng ta. Có rất nhiều nguyên do gây nên đổ vỡ. Những lý do ban đầu xem ra chẳng đâu vào đâu, nhưng nếu vết thương không được cứu chữa kịp thời, nó sẽ dần khoét sâu vào cơ thể và biến dạng thành một khối u ác tính vô phương chữa trị.
Để có thể khắc phục, phương thuốc quan trọng nhất chính là sự khiêm tốn và hiền dịu đi đôi với lòng quảng đại biết tha thứ. Chúa Giêsu đã nói: "Anh em hãy học với tôi vì tôi có sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng". Đây là quy chuẩn căn bản để bảo toàn hạnh phúc trong các gia đình. Nếu không biết ứng xử trong sự hiền lành và nhẫn nhục, chúng ta sẽ dần biến gia đình thành một bầu khí hỏa ngục đáng sợ. Khi mới cưới nhau, anh nói em nghe và ngược lại em nói anh nghe. Cưới nhau về một thời gian, nhiều xung khắc xảy ra dẫn đến tình trạng anh nói anh nghe, và em nói chỉ mình em nghe. Cao điểm cuối cùng là chiến tranh bùng nổ: Anh và em chúng ta cùng nói, cả làng cả xóm đều nghe. Có bao giờ trong gia đình của chúng ta, vợ chồng cùng ngồi lại bên nhau để giải gỡ những khó khăn hay không? Đối thoại là điều rất cần thiết để hóa giải những nghi kỵ và hiểu lầm, nhưng đừng bao giờ biến cuộc đối thoại thành một cuộc họp 'chi bộ đảng' chỉ để đay nghiến hay kết án lẫn nhau.
Mors Sola
Có một giai thoại thuật lại. Cô Catherine kết hôn với anh Jean Wasa, một sĩ quan Phần Lan. Người chồng bị kết án tù vì bị gán vào tội phản loạn. Nhà vua khuyên cô Catherine đi lấy chồng khác, vì số phận tù nhân hầu như không có ngày được ra. Catherine đã từ chối và còn xin nhà vua một đặc ân, là cho được vào tù ở chung với chồng mình. 17 năm sau, vua Eric băng hà, cả 2 vợ chồng được tha bổng. Người ta hỏi cô động cơ nào cô xin vào tù cùng sống với chồng, cô chỉ chiếc nhẫn cưới đeo trên tay, trên đó có khắc hàng chữ 'Mors Sola', nghĩa là, chỉ có sự chết mới có thể phân lìa chúng tôi. Chúng ta đều quá biết điều đó, đặc biệt được nghe nhắc đi nhắc lại trong các thánh lễ hôn phối, nhưng nhiều người vẫn lạnh lùng xé rào và gián tiếp tiếm quyền của Thiên Chúa.
Kết luận
Trên đời này không có gì ghê tởm và đáng khinh bỉ cho bằng sự phản bội. Ông Ford, Tổng giám đốc một công ty lớn chuyên sản xuất xe hơi tại Mỹ đã rất thành công trong sự nghiệp xã hội cũng như nơi chính bản thân và gia đình ông. Trong ngày kỷ niệm 50 năm thành hôn, người ta hỏi ông đâu là bí quyết khiến ông thành công và hạnh phúc trong đời sống vợ chồng. Ông dí dỏm trả lời: "Trong cuộc sống gia đình, tôi vẫn tôn trọng nguyên tắc giống như nguyên tắc sản xuất xe hơi, đó là "luôn trung thành với mẫu mã ban đầu".
Trong đời sống vợ chồng, mẫu mã ban đầu của chúng ta có thể đã dúm dó và cũ kỹ theo thời gian, nhưng chỉ sống trung thành, chúng ta mới có thể thành công và hạnh phúc.
10. Đừng chia tay với người mình yêu.
Hôn nhân là con đường thông thường của phần đông nhân loại. Có những người đã bước vào cuộc đời hôn nhân và đang sống với một tổ ấm tươi đẹp, êm đềm và hạnh phúc. Cũng có những người đang kéo lê cuộc sống gia đình "cơm không lành, canh không ngọt", một cuộc sống khổ đau không lối thoát.
Montaigne đã trình bày hôn nhân như một chiếc lồng sơn son thiếp vàng: những con chim ở ngoài khao khát được vào, còn những con ở trong thì lại làm hết cách để thoát ra. Ca dao Việt Nam cũng có câu ý tương tự: "Cá trong lờ đỏ hoe con mắt. Cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô".
Cách đây không lâu, màn ảnh thành phố chúng ta có chiếu bộ phim mang tựa đề: "Chúng tôi muốn ly hôn" rồi một bộ phim khác mang tựa đề ngược lại: "Đừng chia tay người mình yêu". Chắc chắn các bạn trẻ đã biết nội dung những cuốn phim này nói gì. Chúng đã nêu lên những lý khiến những đôi vợ chồng đưa nhau ra toà án để xin dị:
- Tại sao chị xin ly dị? Trước toà án, người vợ trả lời: "Tại vì ông ấy ngáy to quá, không để cho tôi ngủ".
Một bà vợ khác trả lời: "Tại vì ông ấy hôi mùi thuốc lá quá, tôi không chịu được"... và mỗi người đều có lý do không đâu cả, để bỏ nhau một cách dễ dàng, nếu như được phép ly dị.
Vậy có được phép ly dị không? Đây là một vấn đề thời sự, nhưng cũng là một vấn đề đã được đặt ra từ xa xưa: Từ thời Chúa Giêsu những người Biệt Phái Pharisiêu đã từng đặt vấn đề này để thử Chúa Giêsu, bởi vì ông Môsê đã cho phép họ được làm giấy ly hôn để đuổi người vợ nào không vừa mắt chồng ra khỏi nhà (Đnl 24,1-4). Điều này cho ta thấy số phận hẩm hiu của người phụ nữ trong chế độ "chồng chúa vợ tôi".
Chúa Giêsu đã giải quyết thế nào? Ly dị là một trục trặc của tình yêu, nó không phải là vấn đề chính yếu. Cái chính yếu của hôn nhân là tình yêu hiệp nhất. Với Thiên Chúa không có vấn đề ly dị. Vấn đề ly dị là vấn đề của con người. Chúa Giêsu đã trả lời với họ: "Chính vì lòng chai dạ đá của các ông mà ông Môsê đã phải nhượng bộ cho phép các ông làm giấy ly hôn, chứ từ ban đầu, ý muốn của Thiên Chúa không phải như thế".
Chúa Giêsu phân biệt rõ rệt đâu là ý muốn của Thiên Chúa và đâu là ảnh hưởng của thời đại. Và ảnh hưởng của thời đại không những làm lu mờ, mà có khi còn làm mất cả ý muốn rõ rệt của Ngài. Thánh ý Thiên Chuá khi dựng nên con người có nam có nữ là để sống chung với nhau. "Đàn ông ở một mình không tốt". Và Ngài đã dựng nên người đàn bà. Người đàn bà, trước tiên là hông ân của Thiên Chúa ban cho người đàn ông. Đây là quà tặng cao nhất mà Thiên Chúa ban cho người đàn ông, sau khi Ngài đã dựng nên cả vũ trụ đặt dưới chân của ông Ađam. Nhưng Ađam vẫn cảm thấy cô đơn, thiếu thốn, cho đến khi Ađam gặp được chiếc xương sườn cụt của mình là Evà, ông đã reo lên: "Đây đúng là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi". Đó là hôn nhân đầu tiên. Từ đó "người đàn ông luôn luôn đi tìm chiếc xương sườn đã bị lấy mất, còn người đàn bà luôn luôn luyến tiếc nơi mình đã xuất phát" (Osty) để kết hợp với nhau thành một xương một thịt, một thân một thể. "Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly".
Điều Chúa Giêsu muốn bảo vệ trước hết là phẩm giá con người. Con người càng thấp bé, càng bị hiếp đáp bao nhiêu, càng phải được bảo vệ bấy nhiêu. Trong chế độ "chồng chúa vợ tôi", Chúa đã đòi phải trả lại cho phụ nữ quyền làm con người, phải nhìn phụ nữ theo ý muốn của Thiên Chúa. Phải nhìn chân giá trị của người phụ nữ như là người hỗ trợ, bổ túc và làm sung mãn cho người đàn ông. Vì vậy, hôn nhân phải đặt căn bản ở sự tương trợ lẫn nhau, tôn trọng giá trị của nhau. Chính sự hiệp nhất này làm cho hai người trở nên một và phát sinh hoa trái cho sự sống mới. Đó là những đứa con của tình yêu. Cha mẹ có yêu thương nhau thì mới yêu thương con cái là kết quả của tình yêu giữa vợ chồng với nhau. Cha mẹ không được bỏ rơi con cái. Phải đón nhận tất cả con cái Thiên Chúa đã ban cho, bởi vì các em bé là con người. Phải tôn trọng các em như con người, từ bào thai các em đã là hơi thở và là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Cha mẹ, vợ chồng có chung tình vẹn nghĩa với nhau mới có thể đảm bảo hạnh phúc cho con cái mình.
Sở dĩ khi xưa, ông Môsê đã chăm chước cho dân Israel được rẫy vợ là vì lòng dạ họ lì lợm, bướng bỉnh, chai đá. Còn ngày nay, Chúa Giêsu đã rút lại luật Môsê, chính thức thay thế nhừng gì là hủ tục trong Cựu ước bằng luật Tân Ước, chính thức xác nhận ý muốn của Thiên Chúa từ thuở ban đầu là nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly của hôn nhân. Hơn nữa, từ ngày Chúa Giêsu đến, từ ngày Ngôi Lời nhập thể làm người, hôn nhân đã tìm thấy lại tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Bởi vì, việc kết hợp vợ chồng trong hôn nhân là biểu tượng, là hình ảnh của sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Đó là điều Thánh Phaolô đã nhiều lần nói đến trong thư gởi tín hữu Êphêsô: "Cũng như Đức Kitô không thể chia cắt với Hội Thánh, thì chồng cũng không thể chia ly với vợ". Chính với tư cách là Hiền Thê của Chúa Kitô mà Hội Thánh buộc các con cái của mình khi lập gia đình phải tuân giữ định luật vẫn chi phối sự kết hợp giữa Hội Thánh với Chúa Kitô, như Hiền Thê với vị Hôn Phu của mình. Làm sao Hội Thánh có thể trở về với những nhượng bộ của thời Cựu Ước về hôn nhân được, khi mà Hội Thánh đã được nghe chính miệng Chúa Giêsu trả lời cho những người Biệt Phái Pharisiêu: "Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly".
Thánh Phaolô (1Cr 7,10-11) nói rất rõ về điều này: "Ai đã kết hôn, thì tôi truyền –thực ra không phải tôi, mà là Chúa– là vợ không được lìa chồng, và giả như đã lìa chồng, thì phải ở độc thân, hay phải làm hoà lại với chồng, và chồng không được rẫy vợ".
Hôn nhân là một định chế do chính Đấng Tạo Hoá thiết lập, là một giao ước có tầm vóc vững chắc, vĩnh viễn, nghĩa là một sự thoả thuận cá nhân không thể rút lui lại được. Vì lợi ích của vợ chồng, của con cái, của xã hội và của Giáo Hội nữa, nên mối dây liên kết thánh thiện của bí tích Hôn Nhân không lệ thuộc vào sở thích của con người, nghĩa là không còn được tự ý bỏ nhau, một khi đã thề hứa chung tình vẹn nghĩa, nên vợ nên chồng. Vì vậy, Chúa Giêsu còn nói rõ ràng rằng: phải liệt kê vào tội ngoại tình, khi người chồng hoặc người vợ bỏ nhau đi lấy người khác trong lúc mối dây hôn nhân vẫn còn hiệu lực. Chỉ có cái chết của một bên mới cho phép bên kia được tái hôn mà thôi.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa chúc phúc cho mọi gia đình, nhất là các gia đình Kitô hữu mà Chúa đã thánh hiến một cách đặc biệt bằng bí tích Hôn nhân. Nhờ đó, những phẩm giá tự nhiên cũng như những giá trị thiêng liêng cao cả của đời sống hôn nhân được bảo toàn, được cổ võ, được kiên cường và ngày càng tiến gần đến tình yêu trung thành và vĩnh cửu của Thiên Chúa.
11. Suy niệm của Lm. Nguyễn Cao Siêu.
"Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phép phân ly"
Lời của Đức Giêsu đã vang vọng qua hai mươi thế kỷ và vẫn thường được chọn để in trên thiệp cưới.
Phải chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng ly dị là từ không nên có trong từ điển của các đôi vợ chồng?
Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các kitô hữu vẫn tăng.
Sống với nhau suốt một đời trở thành ước mơ khó đạt.
Trong xã hội Do thái giáo thời Đức Giêsu, người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới. Người vợ là một thứ tài sản của người chồng, nên chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ, có khi ly dị vì một lý do cỏn con.
Trước câu hỏi: "Chồng có được rẫy vợ không?" Đức Giêsu kiên quyết nói không. Ngài bênh vực các bà vợ bị áp chế. Họ không phải là một món hàng bỏ đi khi không cần.
Lập trường của ngài đi ngược với nền văn hóa và tôn giáo của thời đó cũng như thời nay.
Điều này khiến các môn đệ của Đức Giêsu có lần bị sốc. Họ nói: "nếu vậy thì thà đừng lấy vợ thì hơn" (Mt 19, 10). Hóa ra các ông vẫn cho mình có quyền bỏ vợ nếu muốn.
Khi người Pharisêu trích sách Đệ Nhị Luật để biện minh cho việc ly dị đúng theo luật Môsê, Đức Giêsu lại trích sách Sáng Thế, để nhấn mạnh đến sự hiệp nhất vĩnh viễn của vợ chồng.
Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Điều này nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa.
Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời. Đức Giêsu đến để hoàn chỉnh luật Môsê và khai mở trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa.
"Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp..."
Vậy trong Lễ Cưới, không phải chỉ có hai người yêu nhau, lấy nhau và cam kết suốt đời sống cho nhau. Hôn nhân không chỉ là bản hợp đồng giữa hai bên. Còn cần một bên thứ ba là Thiên Chúa, Đấng phối hợp và làm cho hai bên kia nên vợ nên chồng.
Thiên Chúa có mặt trong mỗi Lễ Cưới, và tiếp tục bảo vệ tình yêu, cả khi hai người muốn bỏ cuộc.
Chung thủy chưa bao giờ là chuyện dễ dàng.
Khi thịnh vượng, lúc gian nan; khi bệnh tật, lúc mạnh khỏe. Còn nhiều tình huống khác đe dọa hôn nhân: khi buồn chán và thất vọng về nhau, khi yếu đuối vấp ngã, khi đổ vỡ quá lớn và vết thương quá nặng, khi đời sống vợ chồng trở thành như hỏa ngục... Những khi ấy, yêu thương và kính trọng nhau thật khó. Con người bị cám dỗ tìm giải pháp chia tay.
Chúng ta cầu cho những ai đã và sẽ kết hôn.
Xin cho họ bớt một chút ích kỷ, thêm một chút khiêm tốn,
bớt một chút tự ái, thêm một chút phục vụ,
bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ...
Nhờ đó họ cộng tác với Thiên Chúa trong việc bảo vệ và tưới bón tình yêu.
Gợi ý chia sẻ:
1) Đâu là những hậu quả của việc ly dị? Việc ly dị ảnh hưởng thế nào trên xã hội và Giáo hội?
2) Theo ý bạn, đâu là những nguyên nhân đưa đến việc vợ chồng chia tay nhau?
Lời nguyện:
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen.
12. Hôn nhân trong Tin Mừng nhân ái
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Hôn nhân, với các khía cạnh liên quan của nó, vẫn luôn là một vấn đề lớn của xã hội loài qua các thời đại. Trước đây tôi vẫn thường coi nó là một vấn đề thuần luân lý. Chính vì suy nghĩ như thế cho nên trong công tác mục vụ, tôi thường xuyên phải đối mặt với, một bên là những đòi hỏi bền vững của các ràng buộc luân lý, bên kia là sự yếu đuối mỏng dòn của thực tế con người. Không ít lần trong thâm tâm tôi cảm thấy bị xâu xé khủng khiếp; không biết cách nào trung hòa giữa hai trạng thái đối nghịch nhau như thế.
Xét về khía cạnh con người vốn mãi mãi là 'lòng chai dạ đá', thì luân lý hôn nhân, ngay cả trong các nền luân thường đạo lý chặt chẽ nhất, chẳng hạn như Luật Mô-sê của Cựu Ước, cũng vẫn phải mở ra lối thoát; "Ông Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ". Đối với một xã hội thượng tôn luật pháp như Do Thái Giáo thời Đức Giêsu, thì ly dị trong một số trường hợp được pháp luật qui định, đúng là một lối thoát cần thiết. Xã hội nào cũng vậy, thời xưa cũng như ngày nay, mọi người đều nhận thức, cách này hay cách khác, giá trị của hôn nhân, và đều mong muốn duy trì nó cho thật bền vững. Thế nhưng thực tế phũ phàng không ngừng yêu cầu phải chấp nhận, trong một số trường hợp bất khả kháng, một sự phân ly dưới hình thức này hay hình thức khác, ly dị hay ly thân... hay gọi là gì cũng được. Mấy ông Pha-ri-sêu quen đề cao luật pháp, khi đặt câu hỏi trước Thầy Giêsu, họ cũng thừa biết rằng học thuyết mà Người đang giảng dạy, cho dầu có cao đẹp tới mấy, cũng khó có thể đi ra ngoài cái lẽ thường tình này. Hiểu như thế, ta sẽ thấy câu Đức Giêsu trả lời họ thực không đơn giản chút nào. Rõ ràng ở đây Thầy không giới thiệu một nền luân lý mới, chắt chẽ hơn, khắt khe hơn những gì họ từng giảng dạy. Vì là một người phàm 'giống chúng ta mọi đàng' (Dt 4:15), Người chắc chắn không thể nhắm mắt làm ngơ trước một nhân loại mỏng dòn yếu đuối, nhất là trong lãnh vực tình dục nhạy cảm của hôn nhân. Và vì là người đang rao giảng về một Thiên Chúa nhân ái và thứ tha, Đức Kitô chắc chỉ muốn cống hiến một giải pháp cho vấn đề hóc búa này hoàn toàn dưới nhãn quan Tin Mừng. Theo một số nhà chú giải Kinh Thánh thì, trong nền văn hóa cổ đại, 'lúc khởi đầu công trình tạo dựng' không chỉ mang ý nghĩa thời gian hoài cổ, mà còn để chỉ thời vàng son của mạc khải Thiên Chúa (xem chú thích trong Christian Community Bible). Vậy thì rõ ràng Đức Giêsu đang muốn đặt hôn nhân trong bối cảnh của Tin Mừng cứu độ.
Phải rồi, chỉ trong tình yêu bao dung và tha thứ của Thiên Chúa - Đấng đã yêu thương con người tội lỗi tới độ chết trên thập giá, thì 'lòng chai dạ đá' của con người đầy dục vọng mới tìm được thuốc chữa. Chữa đây không phải là tiêu diệt hoàn toàn bất trung - lăng loàn - 'fornicatio' (xem Mt 19,9), để có thể sống trọn đời trung thủy. Nếu có phương pháp cụ thể nào giúp cho các cặp vợ chồng đạt được điều này, thì thật đáng mừng cho hôn nhân biết mấy... Mong rằng, luật pháp cũng như các tổ chức xã hội loài người sẽ ngày càng tiến bộ hầu có thể tiến dần tới mục tiêu hoàn hảo đó. Hãy cứ để các xã hội dân sự, với nền văn hóa và truyền thống của riêng mình, giúp cho hôn nhân ngày càng được thêm củng cố bền vững, dựa trên các qui định của luật pháp con người! Kitô hữu chúng ta chân thành cầu mong cho nền dân luật ngày càng tiến bộ và sáng suốt hơn. Thế nhưng tham lam và yếu đuối vẫn luôn mãi là thực tế phũ phàng mà chỉ lòng nhân ái bao dung của Tin Mừng Đức Kitô mới cống hiến được liều thuốc chữa lành hữu hiệu nhất. Phaolô đã từng so sánh hôn nhân với tình yêu mà Đức Kitô dành cho Hội Thánh; một tình yêu bền vững, không phải là vì Hội Thánh tự mình đã 'xinh đẹp lông lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn, hoặc bất cứ một khuyết điểm nào', nhưng vì nhờ 'Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống' mà Hội Thánh mới được nên 'thánh thiện và tinh tuyền' như thế (Ep 5,25-27).
Hôn nhân Tin Mừng là như thế đó! Ta không thể hiểu đây là một nền luân lý đối kháng với các nền luân lý khác, cũng chẳng phải là một lề luật cạnh tranh với các luật lệ dân sự hay tôn giáo khác, nhưng là niềm tin thâm sâu vào tình yêu Thiên Chúa cứu độ. Thế nhưng, như Đức Giêsu chứ không như các Pha-ri-sêu, mỗi khi đề cập tới hôn nhân gia đình, chúng ta sẽ luôn đề cao giá trị nhân ái - bao dung của Tin Mừng làm nền tảng cho lòng trung tín. Hôn nhân, nếu muốn thực sự là Tin Mừng, phải lấy giới luật yêu thương mới làm nền tảng duy nhất cho mình; "anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13:34). Phải chăng đó mới đích thực là mong muốn của Đức Giêsu khi Người lên đưa ra một khẳng định xem ra mang nặng tính luật pháp: "Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly"?
Lạy Chúa là Đấng thủy trung, Chúa đã đến trần gian không phải để dạy cho con người biết cách cử xử với nhau dựa trên một luân lý hay luật pháp cao đẹp. Tin Mừng nhân ái của Chúa phải trổi vượt trên tất cả, vượt thắng mọi bế tắc của con người yếu đuối! Xin Chúa giúp con, trong khi thi hành mục vụ hôn nhân, luôn biết xa tránh nhãn quan luân lý - luật lệ hạn hẹp, để biết hướng các anh chị em Kitô hữu tới diện mạo Thiên Chúa nhân ái, thứ tha và cứu độ, như cột trụ chống đỡ cho đời sống hôn nhân của họ. Amen.
13. Đừng chia cắt những gì Thiên Chúa đã kết hợp
Noel Quesson
Một ngày kia, có hai vị tu sĩ già cùng ngồi đọc Tin Mừng, hôm đó họ đọc chuyện người con đi hoang. Một vị nhận xét: "Đây thật là một câu chuyện hay. Chúa đã vẽ nên bức tranh sinh động: Người em tự cao tự đại, ham hưởng thụ; người anh cần cù lam lũ nhưng lại nhỏ nhen ganh tỵ; còn người cha thì dịu hiền nhân ái... Mà sao không thấy nói tới người mẹ nhỉ?".
Vị tu sĩ thứ hai là một người lớn tuổi, điềm đạm trả lời: Nhưng bạn ơi, nếu gia đình đó còn mẹ, chắc người con sẽ không bỏ nhà đi hoang đâu!
Một gia đình đầy đủ, mỗi người đều làm chu toàn sứ mệnh của mình thì đó là một bảo đảm về hạnh phúc cho từng người và cũng là một cái nôi an toàn cho đức hạnh, tư cách của mỗi người. Đó cũng là bảo đảm thành công trong hoạt động xã hội, và trợ lực người ta rất nhiều trong việc rèn luyện các đức tính tự nhiên cũng như siêu nhiên.
Và một gia đình như vậy phải xây dựng trên nền tảng hôn nhân vững chắc, một hôn nhân theo đường hướng Chúa Giêsu đã vạch định và củng cố. Từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên mọi sinh vật, từ thực vật, động vật có đực có cái, đến con người có nam có nữ, có đàn ông, đàn bà. Những khác biệt về giới tính đi tới một hòa hợp diệu kỳ, bổ túc cho nhau để đạt thăng tiến phát triển. Nhưng trong lịch sử tiến hóa của nhân loại, quan niệm về giới tính đã trải qua nhiều giao động thăng trầm; khi thì bi quan nghiêm khắc muốn tiêu diệt tính dục, có lúc lại quá lạc quan đến mức tự do phóng túng, chủ trương tìm hưởng lạc thú như mục đích đời người.
Nền luân lý của Do Thái cổ truyền cũng qua nhiều biến động. Các tổ phụ đều chấp nhận đa thê, và luật Môisê cho phép bỏ vợ nếu có lý do chính đáng, chỉ cần thành lập một chứng từ ly hôn. Nhưng tới thời Chúa Giêsu thì luật đó cũng được đưa ra mổ xẻ. Vì thế mới có câu hỏi: "Có được phép bỏ vợ không?". Nhân dịp này Chúa Giêsu xác định quan điểm của Người về hôn nhân. Trước hết nhận xét về luật cho ly dị của Môisê. Chúa bảo đầu tiên không phải như vậy, nhưng Môisê đã chiều theo sự yếu đuối của con người mà tạm thời đưa ra những quy luật rộng rãi. Đã đến lúc phải đặt vấn đề vào đúng chỗ ban đầu của nó. Hôn nhân phải có hai đặc tính: một vợ một chồng và không ly dị.
Chỉ có một vợ một chồng, vì hai người nam nữ phải được bình đẳng. Đó là hai nhân vị cùng quan trọng như nhau, bổ túc cho nhau, chu toàn những sứ mệnh riêng không ai thay thế được. Và phải có tư thế bền vững để mọi thành phần gia đình được yên vui hạnh phúc, nhất là cho những đứa con đang hình thành về thể chất và tinh thần. Không ổn định, không vững chắc thì không thể nào xây dựng những giá trị lâu dài được.
Quan điểm này phần nào khác với một số người đồng thời với Chúa Giêsu, nhất là trái với nếp sống của đa số nhân loại thời nay. Nhưng lại rất cần thiết để đạt hạnh phúc. Hôn nhân phải xây dựng trên tình yêu. Kết hợp với nhau là phải nghĩ tới người khác. Chỉ được hưởng hạnh phúc khi tạo dựng hạnh phúc cho người bạn, cho thành phần khác trong gia đình. Còn nếu chỉ nghĩ tới mình thì rồi sẽ có lúc thấy người khác là gánh nặng mình muốn trút bỏ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết xây dựng niềm tin trên quan điểm của Chúa. Cho chúng con biết kiên tâm bảo vệ hạnh phúc gia đình để chúng con được hạnh phúc trong cuộc sống này trong khi mong đợi cuộc sống hạnh phúc mai sau.
14. Vợ chồng bất khả phân ly.
Ngày hôm nay bọn Biệt phái đã đưa ra vấn đề ly dị để gài bẫy Chúa Giêsu. Họ hỏi Ngài có được phép ly dị hay không? Bởi vì trong sách Đệ Nhị Luật, Maisen đã khẳng định: Một người đàn ông lấy vợ, nhưng sau đó nhận thấy người vợ không đẹp mắt mình, ông ta có quyền dãy vợ và đuổi vợ đi.
Đây là một vấn đề được tranh cãi rất nhiều nơi dân Do Thái. Có người thì chủ trương được ly dị với bất cứ lý do nào, có người thì quan niệm chỉ được ly dị với lý do thật nghiêm trọng và chính đáng mà thôi.
Nếu Chúa Giêsu chấp thuận ly dị thì đi ngược lại với lề luật của Thiên Chúa, còn nếu Ngài không chấp thuận thì Ngài sẽ mất đi cảm tình của dân chúng và không tôn trọng luật lệ Maisen. Đằng nào thì Ngài cũng sẽ rơi vào cái bẫy được gài sẵn.
Hơn thế nữa, lúc bấy giờ chính Hêrôđê cũng đã dãy vợ để lấy người chị dâu của mình. Gioan Tiền hô đã lên tiếng can ngăn và đã phải trả giá bằng chính cái chết của mình.
Chúa Giêsu đã nhìn thấy rõ âm mưu thâm độc ấy và đã nói với họ: Sở dĩ Maisen chấp nhận là vì sự cứng lòng của họ, chứ từ thuở ban đầu thì đã không như thế. Bởi vì Thiên Chúa đã dựng nên người nam và người nữ, để cả hai trở nên một xương một thịt. Nghĩa là cả hai phải bổ túc lẫn cho nhau. Sợi giây hôn nhân này còn bền chặt hơn cả sợi giây máu huyết. Bởi đó người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ để kết hiệp với vợ mình. Và Chúa Giêsu đã kết luận: - Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly.
Lời xác quyết của Chúa Giêsu thì vững vàng như đá tảng. Chính vì thế mà Giáo hội luôn bênh vực cho tính cách bất khả phân ly của hôn nhân.
Như chúng ta đã biết gia đình là tế bào sống động của nhân loại, là nền tảng kiên vững của xã hội. Nền tảng này tồn tại được là do tính cách bất khả phân ly của hôn nhân. Nếu vợ chồng tan rã thì đang sẽ sụp đổ. Một khi gia đình đã sụp đổ hẳn sẽ kéo theo nhiều hậu quả tai hại cho xã hội.
Thực vậy, vì lợi ích của cả hai vợ chồng mà hôn nhân đòi phải được bền vững. Một cuộc tình tan vỡ, hẳn sẽ gây đau khổ cho cả hai, nhất là người vợ. Nơi những quốc gia mà chế độ đa thê còn tồn tại, thì người phụ nữ phải chăng chỉ là một thứ đồ chơi không hơn không kém. Với đặc tính bất khả phân ly, Giáo hội đã lớn tiếng bênh vực quyền lợi của người phụ nữ.
Tiếp đến vì lợi ích của con cái mà hôn nhân đòi phải được bền vững. Trẻ nhỏ như một mầm non, cần phải được che chở bởi sức mạnh của người cha và tình thương yêu của người mẹ. Gia đình là mái trường đầu tiên dạy cho trẻ thơ những bài học làm người, trong đó cha mẹ chính là những bậc thày, những người hướng dẫn không thể thay thế.
Con cái sẽ như thế nào nếu như cha một nơi, mẹ một nẻo và như thế, chính bản chất của hôn nhân đòi buộc tính cách bất khả phân ly.
Để duy trì được đặc tính này, dĩ nhiên chúng ta phải hy sinh và từ bỏ nhiều lắm, nhưng nhờ chính những hy sinh và từ bỏ ấy mà tình yêu của chúng ta ngày một thêm mặn nồng và đằm thắm.
Có lẽ giờ này Chúa Giêsu cũng muốn nhắn nhủ chúng ta, những cặp vợ chồng Công giáo, đó là: Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, thì loài người không được phân ly.
15. Hôn nhân.
Bài Tin Mừng có hai phần: Phần thứ nhất là lập trường của Chúa Giêsu về vấn đề hôn nhân. Phần thứ hai là thái độ của Chúa Giêsu đối với các trẻ em. Phần thứ nhất chính là đoạn Tin Mừng thường được đọc trong thánh lễ hôn phối, chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây.
Đề tài của đoạn Tin Mừng này là vấn đề ly dị do những người Pharisêu đặt ra với ý đồ gài bẫy Chúa Giêsu. Chúng ta nên biết: các kinh sư Do thái thường tranh luận với nhau về những lý do cho phép ly dị chứ không tranh luận về chính việc được phép ly dị hay không. Và luật Do thái chỉ cho phép đàn ông bỏ vợ chứ không cho phép đàn bà bỏ chồng. Như vậy, chuyện những người Pharisêu đặt vấn đề với Chúa Giêsu: "Có được phép ly dị không?" quả là khúc mắc, tế nhị và phức tạp. Họ muốn Chúa phải xác định lập trường rõ ràng trước mặt dân chúng và trước mặt họ. Luật đã cho phép ly dị, nếu Ngài bảo không được, tức là Ngài chống lại luật. Ngược lại, nếu Ngài bảo được, thì họ sẽ chống lại Ngài. Cho nên, rõ ràng những người Pharisêu có ý gài bẫy Chúa. Chúa trả lời thế nào?
Chúa hỏi lại họ: "Ông Mô-sê truyền dạy thế nào?". Thật sự trong Cựu ước không có một chỗ nào ghi một mệnh lệnh tổng quát phải ly dị hay không được ly dị, cũng chẳng có chỗ nào trực tiếp chỉ thị muốn ly dị thì phải làm gì. Vậy những người Pharisêu trả lời câu hỏi của Chúa thế nào? Họ trích dẫn sách Đệ Nhị Luật, đoạn 24 câu 1 đến câu 4. Trong đoạn này, sách Đệ Nhị Luật cũng chỉ gián tiếp nói về việc làm giấy ly dị. Đó là trường hợp một người đàn bà đã bị chồng ly dị và có làm giấy ly dị đàng hoàng, nay đi lấy người khác, rồi lại bị ông chồng mới này ký giấy ly dị, thì người chồng thứ nhất, dù có vì tình xưa nghĩa cũ, muốn đoàn tụ với nàng, cũng không được phép. Vậy khoản luật này chỉ trực tiếp đề cập đến vấn đề người chồng cũ có quyền cưới lại người vợ mình đã ký giấy ly dị không? Luật trả lời không được. Nhân vấn đề đó mà sách này cho chúng ta biết: luật gia đình của người Do thái cho phép chồng ly dị vợ.
Chúa Giêsu đã trả lời cho những người Pharisêu: sở dĩ ông Mô-sê đã ra luật đó, "vì lòng các ông chai đá", nên đó chỉ là điều nhân nhượng mà thôi, chứ từ ban đầu không có như vậy, và Chúa kết luận: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly". Như thế, Chúa Giêsu cho mọi người biết rõ lập trường của Ngài là không bao giờ được ly dị, nghĩa là một người nam và một người nữ đã kết hợp với nhau nên một trong hôn nhân theo luật của Chúa, thì họ không có quyền và cũng không ai có quyền phá vỡ cái nên một ấy.
Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rõ luật của Chúa và Giáo hội: sự nên một trong hôn nhân là một công trình tuyệt vời của Thiên Chúa, nên những ai đang sống trong sự nên một ấy phải tôn trọng và giữ nó cho thật đẹp và thật bền, và phải làm cho nó trọn vẹn hơn mãi, không những một thân xác mà một tâm hồn, một cuộc sống, một hạnh phúc. Chính do sự nên một ấy mà đứa con xuất hiện như một đóa hoa, một trái ngọt ngào và được nên người. Thánh Phaolô đã nêu cao giá trị của sự nên một ấy khi đem đối chiếu với sự nên một giữa Chúa Kitô và Giáo hội.
Còn những người chuẩn bị đi vào cuộc sống hôn nhân phải thận trọng và chuẩn bị kỹ lưỡng để sự nên một ấy có thể được thành tựu tốt đẹp. Nếu Chúa đã an bài con người có nam có nữ để rồi nam nữ thành một, thì Chúa vẫn dành cho con người quyền tự do để lựa chọn. Chuyện hôn nhân là chuyện của hai người trong cuộc. Những người khác dù là cha mẹ, vẫn phải tôn trọng, giúp cho người liên hệ chọn lựa, chứ không có quyền áp đặt. Cần dứt khoát với hủ tục ép buộc con lấy người này người khác. Người ta đã coi đó là lễ giáo, nhưng chắc chắn nó không phù hợp tinh thần Tin Mừng. Vì thế, Giáo hội không bao giờ chấp nhận sự cưỡng ép trong vấn đề hôn nhân.
Xin Chúa cho những ai đang sống đời hôn nhân luôn trung thành với nhau; và những ai sắp bước vào đời hôn nhân, chuẩn bị cẩn thận để bảo đảm trung thành luôn mãi.
16. Sống đạo trung tình nghĩa vợ chồng
(Lm Trần Bình Trọng)
Theo Kinh thánh thì mỗi liên hệ giữa Thiên Chúa với loài người được gọi là một giao ước. Thiên Chúa khởi sự giao ước bằng việc bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại. Và Thiên Chúa mời gọi loài người đáp trả lại tình yêu đó. Không những Chúa thiết lập giao ước hàng dọc, nghĩa là giao ước giữa Thiên Chúa với loài người, Chúa còn thiết lập giao ước hàng ngang giữa người với người nữa. Sách Sáng thế có ghi lại Chúa thiết lập giao ước hôn nhân hàng ngang bằng việc kêu gọi Ađam và Evà sống trung thành với nhau: Bởi thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ, mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt (St 2:24). Lời Kinh thánh này được Chúa Giêsu trích lại để nói lên tính cách bất khả phân ly của hôn nhân (Mc 10:7).
Khi Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, Người đã nâng khế ước hôn nhân lên hàng bí tích. Vậy bí tích hôn nhân là việc hai người công giáo đã chịu phép Rửa tội, thề hứa trung thành yêu thương và phục vụ lẫn nhau cũng như yêu thương và phục vụ con cái. Sự trung tín giữa vợ chồng là phản ảnh lòng trung tín giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Chúa khẳng định tính cách bất khả phân ly của bí tích hôn nhân: Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly (Mc 10:9). Khi mấy người Pharisêu thắc mắc tại sao ông Môsê cho phép li dị thì Chúa Giêsu bảo là tại lòng dạ chai đá của họ mà ông Mosê cho li dị. Thực ra từ đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã trù liệu kế hoạch hôn nhân bất khả phân li để nhằm xây dựng hạnh phúc gia đình: của vợ chồng và con cái. Còn li dị khiến con cái nhất là còn nhỏ tuổi thiệt thòi về mọi phương diện: thể chất, tình cảm, tinh thần và đời sống thiêng liêng.
Trong quá khứ, hôn nhân được bảo vệ một cách tối đa: được gia đình, tôn giáo và xã hội che chở. Hôn nhân còn được phong tục và lễ giáo ràng buộc. Đời sống vợ chồng được cha mẹ, anh chị em, họ hàng, bạn hữu và hàng xóm khuyến khích, nâng đỡ và ủi an khi vợ chồng có chuyện buồn giận lẫn nhau. Trái lại sống trong xã hội hiện tại và hiện đại, hôn nhân bị tấn công bởi nhiều yếu tố như báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình và cả mạng tin. Bằng cách cho phép ly dị, luật pháp xã hội hiện tại và hiện đại không bảo vệ hôn nhân.
Nhận thức được rằng đám cưới chỉ kéo dài có một ngày, còn hôn nhân kéo dài suốt cả cuộc sống, mà đa số các giáo phận tại Mỹ đời nay đòi hỏi những cặp dự bị hôn nhân phải qua chương trình học hỏi và đợi chờ tối thiểu là sáu tháng. Thời gian học hỏi và đợi chờ nhằm giúp cho người dự bị hôn nhân học hỏi về giáo lý hôn nhân và tiếp tục tìm hiểu lẫn nhau xem hai người có thể đi tới đời sống lứa đôi không?
Có những cặp nam nữ sau thời gian tìm hiểu và đợi chờ thấy không hợp đã tự ý chia tay vĩnh viễn. Những cặp dự bị hôn nhân mà thực sự chú tâm học hỏi để sửa sọan bước vào đời sống hôn nhân thì cũng khiến cho các linh mục làm đám cưới hứng khởi. Có linh mục kia không biết nói chơi hay thật cho rằng giả như trước đây nếu người đi tu biết được cái đẹp của tình yêu và đời sống hôn nhân thì chưa chắc đã đi tu. Để cho hôn nhân có thể kéo dài suốt cả cuộc sống, người ta cần khám phá ra nét đẹp và sống nét đẹp của tình yêu và đời sống hôn nhân công giáo. Người ta cần đem Chúa vào đời sống hôn nhân để Chúa cùng đồng hành và làm chủ đời sống hôn nhân. Như vậy ta thấy mối liên hệ hôn nhân là một thứ liên hệ gần gũi và thân mật nhất trong các thứ liên hệ của loài người, đem lại cho hai người niềm an vui và tin cậy. Có người nói yêu nhau là cùng nhìn về một hướng và theo đuổi cùng mục đích. Khi hai người cùng nhìn về một hướng và theo đuổi cùng mục đích, họ sẽ giúp nhau hoàn thành ơn gọi của đời sống hôn nhân.
Tuy vậy đời nay người ta lại thấy cảnh li lan tràn khắp đó đây. Nếu phân tích tại sao đời nay vợ chồng lại li dị dễ dàng như vậy, người ta có thể nêu ra tại những lí do sau đây (dĩ nhiên còn có những lí do khác nữa):
(1) Tại đặt nặng yếu tố tiền bạc trong đời sống hôn nhân. Khi thấy chồng làm ít tiền mà vợ lại thích mua sắm, thì nàng có thể bắt đầu để ý đến người có nhiều tiền hay làm nhiều tiền hơn.
(2) Tại đặt nặng vấn đề chăn gối. Có lẽ vì ảnh hưởng bởi phim ảnh, nghệ thuật quảng cáo, và công ty xây cất nhà cửa với phòng ngủ của chủ gia đình thật lớn và sang có phòng tắm đặc biệt, có bồn tắm jacuzzi sóng ngầm chẳng hạn, mà người ta để ý đến vấn đề này. Vợ chồng cần tìm hiểu và để ý xem những lúc nào, hoặc thời kì nào người phối ngẫu không muốn chuyện chăn gối để tôn trọng nhau. Ngoài ra việc chăn gối hôn nhân phải là việc bày tỏ sự ưng thuận của cả hai người, lòng yêu thương, âu yếm, thông cảm, và coi trọng phẩm giá của nhau, chứ không phải là việc làm ép buộc, chỉ nhắm tìm khoái lạc. Vợ chồng cũng cần tìm những thoải mái về đời sống tinh thần và đời sống thiêng liêng có tính cách bền lâu bằng việc cầu nguyện, săn sóc gia đình và con cái hoặc làm việc xã hội và từ thiện bác ái nữa. Khi người ta cảm nghiệm hạnh phúc thoải mái về đời sống tinh thần và thiêng liêng, thì vấn đề chăn gối không còn phải là một nhu cầu lớn.
(3) Tại ích kỉ trong đời sống hôn nhân. Nếu một người phải đi làm lụng vất vả để nuôi gia đình mà người kia không góp phần mình, để cho nhà cửa lôi thôi, con cái nheo nhóc, cơm nước thất thường, thì người góp phần nhiều sẽ nản lòng. Nếu nấu giở thì cũng nên học cách nấu ăn sao cho người ăn được. Như vậy vợ chồng cần phải để ý để đáp ứng những gì mà người kia đã làm cho mình. Nói cách khác là có đi có lại mới toại lòng nhau. Còn không thì sẽ làm mất lòng.
(4) Tại để ý nhiều đến tình, mà quên nghĩa. Có những khi người ta còn lẫn lộn tình yêu với cảm tình hay cảm xúc trìu mến. Do đó khi không còn cảm thấy có cảm tình là người ta chia tay. Người ta quên đi những hi sinh và công ơn mà người khác đã làm cho mình. Có những người trọng nghĩa vợ chồng mà vẫn có thể chung sống với nhau mặc dù tình đã phai nhạt.
(5) Tại quên rằng vợ chồng còn là thánh giá cho nhau. Lập gia đình là để vợ chồng nâng đỡ nhau và săn sóc con cái về đời sống vật chất, tình cảm, tinh thần và đời sống thiêng liêng. Tuy nhiên vợ chồng còn là thánh giá cho nhau nữa nếu hiểu thánh giá là những bất đồng quan điểm với tính tình khác nhau, ăn ngử khác biệt, lại thêm tập quán, cách nói năng, cách nhìn đời cũng khác. Nếu học để chịu đựng và chấp nhận, những thánh giá sẽ trở nên nhẹ nhàng và mang lại ơn phúc cho đời sống hôn nhân.
(6) Tại quên đi phần sau của lời hứa hôn nhân. Trong thánh lễ cưới, vợ chồng hứa với nhau: Anh hứa nhận em làm vợ, em hứa nhận anh làm chống, và hứa sẽ giữ lòng chung thuỷ với em (anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh nạn cũng như lúc mạnh khoẻ để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em). Vợ chồng phải thường xuyên nhắc nhở cho mình giữ lòng chung thuỷ lúa gian nan và khi bệnh nạn nữa cũng như yêu thương và tôn trọng nhau suốt cả cuộc sống.
(7) Tại không chịu tìm cách thăng tiến hoá đời sống hôn nhân. Tự nhìn và xét mình, người ta thường chủ quan hay vì tự ái mà không nhìn thấy mặt trái của mình. Do đó mà có những phong trào ra đời như Hội Ngộ Phu Thê (marriage Encounter) để giúp vợ chồng thông đạt với nhau cách hữu hiệu; hay phong trào Teams of our Lady để hướng dẫn vợ chồng cách thế phát triển đời sống hôn nhân; hoặc phong trào Thăng tiến Hôn nhân Gia đình để giúp vợ chồng đả thông những vấn đề bất hoà trong đời sống hôn nhân để mà tiếp tục thăng tiến.
(8) Tại nhìn thấy trước mắt có lối thoát. Vì có luật cho phép li dị cho nên khả dĩ tính của việc li dị được nằm trong tiềm thức của người chồng hay vợ nghĩa là đầu óc họ quan niệm rằng họ có lối thoát nếu không cảm thấy thoải mái trong đời sống hôn nhân. Trái lại thời xưa không có luật li dị, cho nên ông bà tổ tiên ta không nghĩ đến chuyện có thể li dị. Vì thế ông bà tổ tiên chỉ nhắm đến tính cách bất khả phân ly của đời sống hôn nhân cho nên cố xây dựng trên những ưu điểm của nhau thay vì chỉ nhìn đến những khuyết điểm. Nếu người ta cứ nhắm đến ý tưởng trung thành trong đời sống hôn nhân thì trong đời sống hàng ngày mà họ có súc phạm đến nhau bằng lời nói hay hành động, thì họ sẽ tìm cách hàn gắn, điều chỉnh và sửa sai, để có thể lèo lái tới đích. Còn nếu nghĩ rằng mình không sống với nhau được thì chia tay, thì người ta sẽ không cố gắng chỉnh đốn vấn nạn hôn nhân, mà cứ để vậy cho tới lúc không còn chịu đựng được nữa thì sẽ bỏ cuộc. Vì thế việc tâm niệm về tính cách bất khả phân ly của hôn nhân sẽ giúp định hướng cho hướng đi trong đời sống lứa đôi. Trong quá khứ luật pháp không cho phép ly dị, vậy mà ông bà tổ tiên ta vẫn sống bên nhau cho đến bạc đầu long răng. Chẳng thế mà quan sát người ta thấy có những ông bà già ngồi ghế đá công viên, nhìn ngắm cảnh vật và người đi qua lại. Ông thì thẩy thức ăn cho chim câu, còn bà thì ngồi ngắm. Hai ông bà chỉ cần ngồi đó, có sự hiện diện của nhau là đủ, mà không cần nói nhiều. Vả lại sống với nhau lâu năm rồi, bây giờ lại lớn tuổi, nói nhiều làm chi cho mỏi miệng, mà cũng chẳng còn gì để nói.
(9) Tại đặt nhẹ việc phát triển tình bạn trong đời sống hôn nhân. Ở xã hội Việt Nam, vợ chồng được gọi là bạn trăm năm, nhưng nhiều vợ chồng lại không phải là bạn. Có lẽ người ta sẽ tìm thấy tình yêu bền vững trong hôn nhân nếu người ta tìm nó trong tình bạn hữu. Trong thời đại ta đang sống, người ta nói nhiều về tình yêu hôn nhân mà ít nói về tình bạn. Tình bạn trong đời sống hôn nhân rất là quan trọng trong việc phát triển tình yêu và đời sống hôn nhân. Nếu trước khi cưới, hai người chưa phải là bạn, họ cần tìm cách để trở thành bạn. Bạn hữu là những người có tính tình, tập quán và cách nhìn đời giống nhau, cùng chia sẻ những giá trị giống nhau. Nếu trước khi cưới chưa phải là bạn, thì sau khi cưới việc quan tâm và đáp ứng nhu cầu người khác cũng có thể khiến họ trở thành bạn với mình. Nếu bạn hữu không muốn xa nhau thì tình bạn trong đời sống hôn nhân sẽ giúp người ta muốn sống bên nhau mãi mãi.
(10) Tại quên đem Chúa vào đời sống hôn nhân. Người ta có thể nhớ đem Chúa vào đời sống cá nhân, nhưng lại quên đem Chúa vào đời sống hôn nhân và đời sống gia đình. Đem Chúa vào đời sống hôn nhân có nghĩa là tuân giữ giới răn Chúa. Đem Chúa vào đời sống hôn nhân để Chúa cùng đồng hành trong đời sống hôn nhân khi vui cũng như khi buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi yếu đau cũng như lúc mạnh khoẻ. Đem Chúa vào đời sống hôn nhân còn có nghĩa là để Chúa làm chủ đời sống hôn nhân. Cũng nên biết khi vợ chồng cùng chung một niềm tin vào Chúa thì dễ thực hiện việc đem Chúa vào đời sống hôn nhân. Theo thánh Gioan định nghĩa thì Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4:16). Và Thiên Chúa chia sẻ tình yêu cho loài người và cho vợ chồng nghĩa là Thiên Chúa có liên hệ mật thiết trong đời sống hôn nhân bằng cách kết hợp hai người nam nữ trong một tình yêu. Nói như vậy có nghĩa là khi chồng yêu vợ thì chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho vợ mình. Ngược lại khi vợ yêu chồng thì cũng chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho chồng mình. Thế nên ngay cả trong những tác động chăn gối, vợ chồng cũng cần đem Chúa vào để cho khỏi trở thành những tác động chỉ bao hàm nhục dục mà thiếu yếu tố yêu đương. Thống kê cho thấy những gia đình thường ăn chung và đọc kinh chung là những gia đình tránh cảnh đổ vỡ.
Sự trung thành giữa vợ chồng thường được Chúa dùng để so sánh với lòng trung thành của Thiên Chúa với loài người. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu ví Người như đức lang quân, còn Giáo hội được ví như là hiền thê. Thiên Chúa luôn trung thành với lời giao ước với loài người và Chúa muốn loài người cũng trung thành với giao ước mà người ta đã làm với Chúa qua các bí tích họ lãnh nhận.
Lời cầu nguyện xin cho được trung thành trong đời sống hôn nhân:
Lạy Thiên Chúa hằng sống! Đấng luôn trung thành với lời giao ước, Chúa làm với loài người.
Xin dạy con cũng biết trung thành với lời giao ước mà con đã làm qua các bí tích mà con lãnh nhận: hôn nhân cũng như thánh chức.
Xin cho con được giữ trọn lời thề. Đừng để con nghe lời cám dỗ rỉ tai mà bất trung với nhau và bất trung với Chúa. Amen.
17. Chú giải của Noel Quesson.
Đàn ông và đàn bà! Tại sao trai và Gái! Tại sao? Tính dục? Tại sao? Ai tình, khoái lạc, âu yếm, hôn nhân. Tại sao?
Tại sao cả thế giới sống động: thực vật, thú vật hay con người, đều được tạo ra theo "mẫu" này? Tại sao sinh vật phải gồm có hai "giống", chia ra làm hai phần "đực và cái" khác nhau, nhưng được tạo ra "cho nhau". Tư tưởng con người không ngớt giao động về vấn đề này giữa phái Janséniste, và những người mệnh danh là lạc quan phóng khoáng, loại người đòi được tự do tình dục và ca tụng lạc thú như mục đích của con người.
Luân lý Kitô giáo trong những thế kỷ vừa qua, đã quá thổi phồng mặc cảm tội lỗi quanh vấn đề "Thanh sạch " và "không Thanh sạch".
Tâm trạng con người hiện nay có khuynh hướng từ bỏ mọi khuôn mẫu và ca ngợi sự phóng khoáng: "Hãy làm điều bạn muốn làm, hãy làm những gì vừa ý bạn".
Đức Giêsu nghĩ gì về vấn đề này?
Có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng: "Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?".
Đó là câu hỏi đầy ác ý. Họ đặt ra để bắt bí Đức Giêsu, một câu hỏi nhằm gài bẫy. Dù Chúa có trả lời như thế nào đi nữa, thì Người cũng phải lãnh chịu một phần công luận, vì đây là vấn đề nóng bỏng và chạm đến những gì thâm sâu nhất của con người. Không ai có thể trung lập trước câu hỏi, vì phải chấp nhận tình trạng này hay tình trạng kia một cách cụ thể. Những vết thương lòng rất khó lành. Câu hỏi do người Pharisêu nêu lên là đáng ngạc nhiên, vì giải đáp đã do luật đưa ra rồi. "Một người nào lấy vợ và đã cưới hỏi rồi, nếu xảy ra là vợ không được vừa mắt chồng nữa, vì chồng gặp thấy nơi nó có điều gì thô bỉ, vậy chồng đã viết cho nó lá thư, mà trao tay nó và đã thải hồi khỏi nhà mình" (Đnl 24).
Câu trả lời của luật pháp thật là rõ ràng: Sự ly dị là hoàn toàn hợp luật, vào thời Đức Giêsu, cũng như thời nay. Chúng ta cũng ngạc nhiên về sự giống nhau giữa những tình huống của các Kitô hữu đầu tiên và tình huống ngày nay mà chúng ta biết: Trong hầu hết các nước trên thế giới đều có luật chấp nhận ly dị và tái giá.
Người đáp: "Thế ông Môsê đã răn dạy các ông điều gì? Họ trả lời ông Môsê đã cho phép viết chứng thư ly dị mà rẫy vợ".
Trả lời như thế thật là đẹp đẽ để giúp ta giữ thái độ khiêm nhường trước- những câu hỏi khó khăn. Những kiểu chú giải Kinh thánh "mang tính truyền thống" (nghĩa là chủ trương phải hiểu Kinh thánh theo nghĩa đen từng chữ một) thực sự chỉ đạt đến những điều ngây ngô và trẻ con. Hiển nhiên là mạc khải luôn tiệm tiến, và luân lý, giáo huấn cũng tiến bộ theo thời đại. Môsê, phần lớn chỉ lấy lại "luật theo tục lệ" của thời ông, mà thời đó chế độ đa thê và ly dị đã nằm trong truyền thống có cơ sở vững chắc. Vì không thể làm hơn được, ông đã cố sửa chữa những sở thích tùy tiện, bằng cách "hợp thức hóa", "quy định" và thiết lập một; "thủ tục". Ong muốn giới hạn sự ác bằng cách buộc phải theo thủ tục rõ ràng. Nhưng cũng như mọi luật lệ, luật này có thể được áp dụng rộng rãi hay là ngược lại: Có hai cách giải thích đối nghịch nhau vào thời Đức Giêsu. Thực vậy vấn đề là giải thích chữ "việc làm gây đụng chạm nặng" trong điều luật mà theo ý của Rabbi Shammai, phải hiểu từ này ám chỉ một tình trạng "vô luân trầm trọng" mà thôi, như thái độ ngoại tình. Trong khi trường phái kém khắt khe hơn của Rabbi Hillel đã hiểu rộng hơn, như đã lỡ để mất một bữa ăn bị cháy khét (Mischna Gittin IX 10).
Qua thí dụ này, chúng ta có thể kết luận rằng: "Tất cả những gì hợp pháp, không hẳn là hợp luân lý". Người Kitô hữu sống trong một thế giới đa dạng. Họ phải đủ sức chịu động để sống theo lương tâm của mình, dù điều đó có thể đưa tới một thái độ anh hùng theo Tin Mừng nào đó, đi ngược lại đa số. Nhưng nói cho cùng, đa số những đòi hỏi của Tin Mừng không yêu cầu chúng ta làm như thế cả sao? Thái độ bất bạo động không phải là một sự điên rồ sao? Tha thứ vô điều kiện, không phải là một lệch lạc sao? Tự nguyện sống nghèo không phải là một điều không tưởng sao? Chính trong bối cảnh ly dị trở thành hợp pháp như thế, mà Đức Kitô sắp bày tỏ lập trường đối với thời đại của mình.
Đức Giêsu nói với họ: "Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn ấy".
Lần này, đáng lẽ Người ta không nên dịch từ Hy Lạp "Sclérocardia" mà nên chuyển từ này sang tiếng Pháp thì mọi người sẽ hiểu: "Vì chứng bệnh "sơ cứng tim" của các người, mà Môsê đã cho phép ly dị". Đây là một chứng bệnh tim rất phổ biến, sự chai cứng của quả tim, sự cứng lòng. Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết thực sự yêu thương Người kia (người phối ngẫu). Có một áp lực xã hội rất mạnh (hãy làm như mọi người). Ngày nay cũng như thời xưa, thúc đẩy chúng ta chỉ cần những mối "tương quan lực lượng". Thí dụ; Thống kê chứng minh rằng ba phần tư những trường hợp ly dị trong năm năm đầu của cuộc hôn nhân xảy ra đối với những đôi vợ chồng đã ăn ở với nhau trước khi cưới. Khước từ "hôn nhân", khước từ "những tiêu chuẩn xã hội", không phải là bằng chứng của sự trưởng thành! Sống chung, ăn ở với nhau mà không làm đám cưới, thực ra điều đó có nghĩa gì? 'Không phải đó là giữ cảm tình ở một mức thiếu niên, và làm cho nó không vượt khỏi trình độ sơ đẳng sao? Không phải đó là giữ một lối thoát. Khước từ dấn thân thể sự, không "tự trao hiến" có nguy cơ cứ ở mãi trong tương quan thống trị giữa hai Người phối ngẫu sao? Tôi luôn phải làm chủ! Tôi phải tỏ ra tự do!
Coi chừng bệnh "chai tim" của bạn đó, Đức Giêsu đã cảnh giác như thế. Có cái gì đang núp ẩn dưới vẻ thân mật tự chủ, tự do? Tình yêu cho người kia, hay là tình yêu của tình bạn?
Còn thuở ban đầu, lúc tạo thành vạn vật, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ.
Luật căn bản của lứa đôi cần phải kiếm tìm, luôn nằm trong lãnh vực đó: Sự bổ túc của hai phái tính là một "sáng tạo", một "Thánh ý" của Thiên Chúa, được ghi khắc trong bản chất thâm sâu của người nam và người nữ.
Một lần nữa, Đức Giêsu không diễn tả bằng những từ luân lý được phép và bị cấm dù trên thực tế những điều này dẫn đến những thái độ rõ ràng. Người đưa ra một lý tưởng. Chúng ta không thể coi việc áp dụng luật là đủ. Đối với Đức Giêsu, cần phải có chiêm ngưỡng "dự án của Chúa về người nam và người nữ".
Trước những quan điểm xã hội, những luồng tư tưởng khác nhau, những chủ truơng "làm như mọi người", chúng ta quan niệm thế nào về tình yêu hôn nhân? Có phải quan niệm như một minh tinh điện ảnh nào đó? Như trong một bài hát nào đó trên máy thu thanh, dành cho những người bình dân? Đức Giêsu nói.. Hãy coi chừng! Trước tất cả những điều này, Thiên Chúa đã có một quan niệm về tình yêu và đã diễn tả quan niệm này trong sự sáng tạo của Người.
Vì thế người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.
Như vậy, Đức Giêsu đã tham chiếu bản văn sách Sáng Thế mà chúng ta đọc trong bài đọc một hôm nay. Chúng ta sẽ không bao giờ khám phá hết những kỳ diệu trong lời khẳng định phi thường của Sách Thánh: "Chúng ta hãy tạo con người theo hình ảnh của chúng ta, theo họa ảnh của chúng ta". Và Thiên Chúa đã tạo con người theo hình ảnh của Người, theo hình của Thiên Chúa, Người đã tạo ra con người nam và nữ (St 1,26-27). Không phải tình cờ mà bản văn Kinh thánh đã chuyển từ số ít ra số nhiều. Thiên Chúa là một trong ba ngôi, đã tạo nhân loại theo hình ảnh của Người, "nhiều" mà chỉ là "một". Từ nhiều người, khác nhau sâu xa, làm nên một. Đó là nguồn gốc của sự hiệp nhất trên thế gian, ngay từ lúc đầu cuộc sáng tạo.
Lạy Chúa, Chúa đã cho chúng con vinh quang của Chúa. Chúa đã tạo người nam và người nữ theo hình ảnh của Chúa. Oi, một giao ước mầu nhiệm thay! Lạy Chúa, là tình yêu chia sẻ, xin cho dân của Người nghị lực yêu thương.
Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.
Chỉ có Thiên Chúa sống động trong ta, mới có thể làm được những gì mà chúng ta coi như bất lực. Bí tích hôn phối đúng là một hồng ân, một quà tặng nhưng không, để chữa bệnh con người không biết yêu thương như Thiên Chúa của giao ước hằng thương yêu. Sự bất khả phân ly của hôn nhân như Đức Giêsu đã tuyên bố, đi ngược lại chuẩn mực thông thường của chúng ta, không thể trở nên dịp cho chúng ta xét đoán hay lên án những gia đình gặp khó khăn: Chúa Kitô không kêu gọi chúng ta làm việc đó! Sự bất khả phân ly là lời thề hứa sâu sắc nhất của tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cảm tạ Chúa đã nói lại điều đó cho chúng con, dù đó là điều khó sống theo, nhưng nhờ sự thương khó và thập giá Chúa, xin cứu giúp tình yêu chúng con. Xin làm cho chúng con biết yêu thương như Chúa.
Ai rẫy vợ mà lấy người khác, là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình, và ai bỏ chồng để lấy người khác thì cũng phạm tội ngoại tình.
Sự đối xung hoàn hảo của hai kiểu nói song hành này, rất có ý nghĩa.
Đối với Đức Giêsu, sự hỗ tướng cần trọn vẹn: Người nam và Người nữ đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Trong thế giới mà các tương quan thống trị đang thắng thế như hiện nay, Đức Giêsu yêu cầu chúng ta phải biết yêu thương người phối ngẫu. Và Người cho chúng ta "sức mạnh" để yêu thương như thế, dù có gặp khó khăn.
Sự hiệp nhất đời sống lứa đôi là do Chúa muốn, không phải chỉ từ "lúc đầu", không phải "một thiên đường đã mất" trong quá khứ. Đây là đường đi hằng ngày mà nơi đó "Thiên đàng đã tìm lại" đang xây dựng, nơi cuối cùng chúng ta sẽ trở nên hình ảnh của Thiên Chúa "Ba" mà là "Một".
18. Đức Giêsu đối với việc ly dị và các trẻ em
(Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Bản văn đọc trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay bỏ câu Mc 10,1 là một tóm lược nhỏ quen thuộc của tác giả Mc: một chi tiết địa lý khá mơ hồ ("miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan"); một mô tả tổng quát về hoạt động giảng dạy của Đức Giêsu cho đám đông đã quy tụ lại. Truyện kế tiếp không liên hệ gì với nội dung của c. 1 cả. Nhưng tác giả có một ý hướng thần học: Đức Giêsu đang tiến đến gần Giêrusalem.
Khi nghiên cứu kỹ đoạn văn cc. 2-12, người ta nhận thấy nòng cốt là cc. 2-9, một cuộc tranh luận với mấy người Pharisêu. Vì bản văn Kinh Thánh được trích từ Bản LXX, người ta nghĩ đến Do Thái giáo thuộc môi trường Hy Lạp. Sự độc lập của phân đoạn này với cc. 10-12 được xác nhận bởi Lc 16,18 trong đó chỉ có câu đầu của giáo huấn ban cho các môn đệ. Có lẽ cc. 10-12 đã được thêm vào sau.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần :
1) Vấn đề ly dị (10,2-12):
a) giáo huấn cho dân chúng (cc. 2-9),
b) giáo huấn cho các môn đệ (cc. 10-12);
2) Đức Giêsu chúc lành cho trẻ em (10,13-16).
3.- Vài điểm chú giải
- chồng có đựơc phép rẫy vợ không? (2): Câu hỏi đề cập đến tính hợp pháp của ly dị, chứ không phải lý do đưa đến ly dị có xung khắc với sự hiểu ngầm theo Đnl 24,1-4. Vào thời ấy, người ta chỉ tranh luận về các lý do. Một nhóm kinh sư nêu ra các lý do: ngoại tình, một bệnh truyền nhiễm, chứng điên hoặc không thể có con. Đối với đa số các kinh sư, còn có nhiều lý do khác: chỉ cần người đàn ông không bằng lòng một điều gì đó nơi vợ mình là có thể rẫy vợ. Dù thế nào, người chồng có tự do rất lớn.
- để thử: Có tác giả cho rằng có lẽ họ nhắm đẩy Đức Giêsu vào thế xung đột với đại gia đình Hêrôđê đầy những vụ ly dị. Nhưng hợp lý hơn thì cho rằng ngưòi Pharisêu muốn gài Đức Giêsu vào thế phải nói ra quan điểm nhiệm nhặt của Người, và như thế Người trở thành đáng ghét trước mắt người ta do Người giới hạn "tự do" của họ.
- Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì? (3): Đnl 24,1-4 coi việc ly dị như được phép; đoạn văn này chỉ đề cập đến thủ tục phải theo khi một người chồng đã quyết định ly dị vợ mình, và lệnh cấm tái kết hôn sau khi cuộc hôn nhân của người phụ nữ này đã chấm dứt. Các lý do để được ly dị được diễn tả mơ hồ: "thấy nơi nàng có điều gì chướng" (bh 'erwat dbr). Sự mơ hồ này đã đưa tới một tranh luận của giới kinh sư. Những nố ngoại lệ trong TM Mt (5,32; 19,9) được hiểu trong bối cảnh này. Nhưng trong TM II, vấn đề được đặt ra tận căn bản: có được phép ly dị không?
- Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị rẫy vợ (4): Người Pharisêu đã trả lời câu hỏi của Đức Giêsu dựa vào nền tảng của Đnl 24,1-4. Trong Do Thái giáo xưa kia, ly dị không phải là một hành vi pháp lý công khai tại toà án. Người chồng chỉ việc viết một giấy ("Tôi bỏ và ly dị vợ tôi ngày này"), rồi đưa giấy ấy cho vợ. Ta thấy rằng người Pharisêu nói về phép (cc. 2.4) trong khi Đức Giêsu lại hỏi họ là có một lệnh truyền (= điều răn) nào chăng (hẳn là người Pharisêu sẽ khó mà tìm được một lệnh truyền nào như thế trong Luật!). Trong Mt 19,7-9, người Pharisêu lại nói về một lệnh truyền của Môsê, còn Đức Giêsu lại trả lời họ rằng đó chỉ là một sự cho phép.
- vì các ông có lòng chai dạ đá (5): Đức Giêsu coi lời dạy của Đnl 24,1-4 như một sự nhượng bộ cho sự yếu đuối của con người và một sự miễn chuẩn cho chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa về hôn nhân. Trong câu trả lời, Đức Giêsu đi từ một lời cho phép ly dị đến lời làm nền tảng cho hôn nhân: sự miễn chuẩn không hủy bỏ được luật căn bản.
- Lúc khởi đầu công trình tạo dựng (6): Đức Giêsu cho thấy Người phản đối ly dị là do Người dựa vào Kinh Thánh: Người trích St 1,27; 2,24. Người khẳng định rằng trong chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa, những người kết hôn thì nên "một xương một thịt", nên không được ly dị. Đnl 24,1-14 cho phép ly dị là một cách nhượng bộ cho sự yếu đuối của con người. Lời giáo huấn của Đức Giêsu nhằm tái lập lại chương trình của Thiên Chúa khi tạo dựng, nên không hề đối lập với Kinh Thánh.
- Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt (8): Lý tưởng hôn nhân này là một suy diễn dựa trên St 2,24; nó cung cấp lý do vì sao không thể ly dị.
- loài người không được phân ly (9): "Loài người" đây là người chồng, chứ không phải là đệ tam nhân như vị thẩm phán. Bởi vì theo Đnl 24,1-4, người chồng có thể một mình bắt đầu thủ tục, thì không cần một đệ tam nhân. Ở đây Đức Giêsu triệt tiêu thủ tục Cựu Ước.
- khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người (10): Đây không thể là ngôi nhà ở Caphácnaum (x. 1,29; 9,33), bởi vì Đức Giêsu và các môn đệ đã bỏ miền Galilê. Đây là một sáng tạo của Mc để tạo cơ hội cho Đức Giêsu dạy riêng các môn đệ.
- Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình (11): Giáo huấn tuyệt đối này cũng xuất hiện trong Lc 16,18c.
- và ai bỏ chồng... (12): Luật Do Thái chỉ nói rằng người chồng có thể tiến hành thủ tục ly dị, chứ không nói là người vợ. Thường thường, các tác giả cho rằng c. 12 này là một cách tác giả ứng dụng giáo huấn của Đức Giêsu cho những người sống dưới luật Rôma và Hy Lạp.
- trẻ em (13): có thể ở trong khoảng ấu nhi đến 12 tuổi. Người ta mong Đức Giêsu đặt tay để chúc lành cho chúng.
- chạm tay vào chúng: để Đức Giêsu chúc lành cho chúng.
- Người bực mình (14): Phản ứng này của Đức Giêsu (x. 1,43; 3,5; 8,12; 14,33-34) đã phát sinh do các môn đệ không hiểu Người và bản chất của Nước Thiên Chúa mà Người rao giảng. Một lần nữa, lối xử sự của các môn đệ lại là cớ để Đức Giêsu ban một giáo huấn tích cực. Mt 19,14; Lc 18,16 đã bỏ đi phản ứng rất người này, có lẽ vì thấy bất xứng với Đức Giêsu.
- vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng: Đặc tính chính yếu của trẻ em là khả năng đón nhận. Vì không có sức mạnh thể lý và không có quy chế pháp lý, trẻ em biết cách đón nhận tốt nhất. Nước Thiên Chúa phải được đón nhận như một quà tặng, bởi vì không một sức mạnh hoặc quy chế nào của loài người tạo ra được hoặc đòi hỏi cho có được Nước Thiên Chúa (x. c.15).
- Thầy bảo thật (15): Từ "thật" dịch từ amên trong bản Hy Lạp: "điều vững vàng", "điều chắc chắn là thế".
- đặt tay chúc lành cho chúng (16): Trong các tác phẩm thời ấy, trẻ em được coi như ví dụ về phong cách thiếu hợp lý hoặc là những đối tượng cần được đào tạo. Trong đoạn này (x. cả 9,33-37), chúng được trân trọng như những nhân vị và được quan hệ với Đức Giêsu và Nước Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Vấn đề ly dị (2-12)
Đức Giêsu đã sang miền Giuđê. Giáo huấn của Người về hôn nhân và ly dị lại là một thách đố nữa cho những ai muốn bước theo Người. Cựu Ước cho thấy có thể ly dị (x. Đnl 24,1); điều chắc chắn là người đàn ông có thể rẫy vợ. Dù các lý do để ly dị thế nào, hệ thống luật lệ thời ấy cho các người chồng một tự do rất lớn và khiến các bà vợ phải trả giá đắt cho tự do này: vị trí của các bà rất mong manh và các bà phải lệ thuộc sự quyết đoán của chồng.
Khi đặt câu hỏi cho Đức Giêsu, người Pharisêu muốn lôi kéo Đức Giêsu vào trong cuộc tranh luận về các lý do cho phép ly dị. Đức Giêsu không đi vào trong tranh luận về các lý do hợp pháp để ly dị. Như trong các trường hợp khác, Người đăt cuộc tranh luận trên một bình diện khác. Người đưa các người đối thoại trở lại với Kinh Thánh, với cách xử sự và ý muốn của Thiên Chúa Tạo Hóa vào thuở tạo thiên lập địa. Tương quan giữa người nam và nữ không phải là điều mà con người tự do định liệu, bởi vì không phát xuất từ con người, nhưng từ Thiên Chúa trong tư cách là Đấng Tạo Hóa. Ngài đã tạo dựng loài người trong sự khác biệt nam nữ; Ngài đã nhắm người này cho người kia, đã quy định rằng họ kết hợp với nhau và nên "một xương một thịt". Phá hỏng sự bố trí này của Thiên Chúa Tạo Hóa là một hành vi xuyên tạc thô bạo và chống lại ý muốn của Đấng Tạo Hóa. Như thế, hậu quả tiêu cực là cấm ly dị và tái kết hôn. Vì vậy, sau đó, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng ly dị và cưới vợ hoặc lấy chồng khác là phạm tội ngoại tình.
* Đức Giêsu chúc lành cho trẻ em (13-16)
Sau một đoạn nói về hôn phối, có một đoạn nói về trẻ em cũng là chuyện hợp tình hợp lý. Nhưng thực ra bản văn này đề cập đến Nước Thiên Chúa và hạng người hy vọng được tham dự vào đó. Các em bé không tự mình hành động theo sáng kiến của mình; chúng không có khả năng lo liệu cho bản thân; chúng chỉ được an toàn dưới sự che chở của cha mẹ. Chỉ những ai nhận biết và đón tiếp Nước Thiên Chúa như một quà tặng (như một em bé nhận quà) mới hy vọng được thông phần vào Nước Thiên Chúa; Nước này được dành cho những ai không cậy dựa vào quyền thế hoặc đặc quyền, bởi vì Nước này vượt trên mọi quyền lực và quy chế loài người. Công thức đặc biệt nói về việc đón nhận Nước Thiên Chúa gợi ý cho ta coi ở đây Nước này như một thực thể hiện tại. Quả thật người ta đi vào trong Nước tương lai, nhưng dĩ nhiên việc đón nhận Nước ấy phải xảy ra trước. Nước ấy cũng đã hiện diện rồi. Tác giả Mc đã hiểu tương quan với hiện tại này theo nghĩa Kitô học: Ngay bây giờ người ta đã có thể trải nghiệm Nước Thiên Chúa trong hoạt động của Đức Giêsu. Một hình ảnh được cung cấp trong cảnh kết thúc, khi Đức Giêsu ôm lấy các trẻ em và chúc lành cho chúng: qua hành động này, nguyện vọng của dân chúng được đáp ứng (c. 13), và nhất là lời hứa được công bố ở cc. 14t được xác nhận.
+ Kết luận
Có thể nói, trong phần thứ nhất, tác giả Mc muốn mô tả Đức Giêsu tiếp tục hoạt động, cả trong chuyến đi lên Giêrusalem. Trong cuộc hành trình này các môn đệ cần được Thầy giáo huấn kỹ càng để có thể bước theo Thầy. Câu hỏi của các ông cho thấy các ông không có khả năng hiểu đường lối của Thầy, và do đó rất cần được giáo huấn. Khi đã nhận được một giáo huấn đặc biệt, các ông có tư cách để truyền đạt Lời Chúa cách thuyết phục cho các cộng đoàn.
Phần thứ hai cho thấy cách mà người môn đệ phải hiểu về chính mình. Họ phải thanh thoát khỏi những định kiến ích kỷ và sống như một em bé trước nhan Thiên Chúa. Chỉ như thế, họ mới có thể gặp người thân cận với tình yêu. Bản văn này cũng cho thấy quan niệm của tác giả về Nước Thiên Chúa. Nước này tuy thuộc về tương lai, nhưng đã bắt đầu hoạt động mạnh mẽ trong hiện tại rồi. Đó là vì Đức Giêsu không những loan báo Nước Thiên Chúa, mà còn đưa Nước này đến gần con người trong hiện tại.
Ngoài nội dung riêng của hai phần trong đoạn này, ta thấy hai phần có một nét chung: người phụ nữ và trẻ em bị coi nhẹ trong xã hội lúc ấy, nhưng dưới mắt Đức Giêsu, họ cũng là những nhân vị, và có lẽ còn được Thiên Chúa chiếu cố đến đặc biệt, vì họ là những người bé mọn. Nước Thiên Chúa được dành cho những con người như thế.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Xuyên qua dây hôn của đôi vợ chồng, phát sinh một điều mới, một đơn vị mới và có thể nói, một hữu thể nhân loại mới. Họ vẫn là hai người với đặc tính riêng và trách nhiệm riêng, nhưng họ không còn độc lập, tách biệt và riêng rẽ nữa. Thiên Chúa đã nhắm làm cho sự kết hợp của họ đưa tới sự phát sinh một đơn vị mới chuyên biệt và thực hữu, một dây liên hệ thường hằng. Đó là cách bố trí của Thiên Chúa. "... Gia đình là tế bào cơ bản của xã hội, ở đó chúng ta học sống chung với nhau bất chấp những khác biệt của người này với người khác và nương tựa vào nhau; gia đình cũng là nơi cha mẹ chuyển giao đức tin cho con cái" (Đức giáo hoàng Phanxicô, Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, số 66).
2. Các môn đệ phải đón nhận Nước Thiên Chúa như các trẻ em, nghĩa là họ không thể đi vào đó bằng sức riêng. Như các em bé, họ phải cảm thấy mình được che chở bởi tình yêu của Thiên Chúa, phải để cho mình được Người lấp đầy bằng những ân huệ. Đi vào Nước Thiên Chúa luôn luôn là một ân huệ mà ta đón nhận với lòng biết ơn.
3. Các môn đệ chu toàn bổn phận chính yếu, bổn phận phục vụ, bằng cách chu toàn trách nhiệm đối với các trẻ em. Cũng như con cái có bổn phận đối với cha mẹ, cha mẹ cũng có bổn phận đối với con cái. Các bổn phận được giao cho chúng ta có thể là lớn lao và đẹp đẽ, nhưng trước nhan Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là như các trẻ em: chúng ta phải luôn luôn tin tưởng vào tình yêu của Người và để cho Người ban chan hòa các ân huệ.
4. Đức Giêsu dạy chúng ta tôn trọng nhân vị của mỗi người, người lớn cũng như em bé. Chúng ta không có quyền khinh bỉ hay chê bai người nào cả, cũng không có quyền coi mình tốt hơn người khác vì mình là Kitô hữu. Thật ra, nếu chúng ta không thấy được những điều sai phạm của mình để xin tha thứ, thì chúng ta có còn là Kitô hữu nữa chăng?
Đức Mẹ Mân Côi: Lc 1, 26-38
"Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai".
Lời Chúa: Lc 1, 26-38
Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ". Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận. Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được". Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
LỄ MÂN CÔI
1. Chuỗi Mân Côi
Ngày kia có một vị linh mục nói chuyện với đám tù nhân vừa mới được trả tự do. Sau khi đã thăm hỏi họ về chuỗi ngày cực khổ, thì một người trong đám họ đã nói: Chính những cực nhọc của kiếp sống đoạ đày đã đem lại nhiều lợi ích cho chúng con. Vì nhờ đó chúng con mới hiểu được giá trị và yêu thích sự cầu nguyện. Rồi anh ta giơ ra cho vị linh mục xem một khúc tràng hạt, chỉ gồm có 10 hạt mà thôi. Vị linh mục ngỏ ý muốn tặng anh một chuỗi khác, nhưng anh đã cám ơn, đã từ chối và nói: Thưa cha đây là một kỷ niệm sâu xa nhất trong cuộc đời của con, con sẽ cẩn thận gìn giữ nó, vì nó gợi cho con nhớ đến chuỗi ngày bi thảm. Chúng con cả thảy gồm 3 người, bị thương nặng trên trận địa và nằm chờ chết. Bấy giờ trong thinh lặng giữa lúc màn đêm buông xuống, con khẽ lần hạt, và rồi hai người bạn kia lên tiếng xin một mẩu tràng hạt để cùng lần, thì ra họ cũng là người công giáo. Con bèn dứt chuỗi tràng hạt thành ba khúc, mỗi người một khúc, và chúng con cùng nhau lần hạt một cách sốt sắng như thể là lần cuối cùng trong cuộc sống.
Nghe xong câu chuyện này, có thể một số người trong chúng ta sẽ nói: Tôi sẽ không chờ cho đến những giây phút bi thảm và đen tối như vậy mới cầu nguyện. Tốt lắm. Phải cầu nguyện liên tục, nhất là những lúc gặp phải gian nguy thử thách. Thế nhưng nhiều người trong chúng ta lại thờ ơ với chuỗi Mân côi, vì nó tẻ nhạt, vì nó buồn chán. Thật là đáng tiếc.
Cách đây 1000 năm, đạo quân Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa trầm trọng thế giới công giáo. Tình hình càng thêm bi thảm hơn nữa vào thế kỷ XVI. Họ tiến vào châu Âu và quyết tâm dứt điểm bằng một cuộc hải chiến tại vịnh Lépante. Trong khi đạo quân Công giáo với một lực lượng yếu kém hơn nhiều xông ra chiến trận, thì tại Rôma, Đức Giáo Hoàng đã tổ chức những hiệp hội Mân Côi, liên tục lần chuỗi, dâng lên Mẹ những lời kinh thắm thiết để xin Mẹ nâng đỡ phù trợ. Và sau cùng đạo quân công giáo đã chiến thắng. Để tạ ơn Đức Mẹ và để ghi nhớ cuộc chiến thắng này, Đức Thánh Cha Piô V đã thiết lập lễ Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng kính ngày hôm nay.
Còn với chúng ta thì sao? Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi, ngán ngẩm khi phải lần chuỗi. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta chưa lần chuỗi cho đúng cách. Tại một giáo xứ nọ, thầy giúp xứ hướng dẫn một số em vào nhà thờ để lần hạt chung với nhau. Tại mỗi ngắn, thầy bèn trao cho các em xem một bức hình liên hệ. Chẳng hạn năm sự Mừng thứ nhất thì ngắm, Đức Chúa Giêsu sống lại. Các em sẽ nhìn thấy bức hình lộng lẫy: Chúa Giêsu phục sinh, khải hoàn ra khỏi mồ, còn những tên lính canh thì hoảng sợ vứt bỏ khí giới trước luồng ánh sáng chói loà.
Dĩ nhiên chúng ta không thể làm như vậy mỗi khi lần hạt, nhưng chúng ta có thể nghĩ tưởng trong đầu óc, nhờ đó mà chúng ta như được tham dự vào chính những biến cố mà mỗi ngắm, mỗi mầu nhiệm của kinh Mân Côi gợi lên. Trong tháng 10 cũng như trong suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy dâng lên cho Mẹ những lời kinh Mân Côi sốt sắng, là như những bông hồng tươi xinh, để xin Mẹ nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta luôn mãi.
2. Lời kinh của mỗi cá nhân.
Sáng hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu ảnh hưởng của kinh Mân côi đối với cá nhân mỗi người chúng ta.
Trước hết tôi xin đưa ra một vài trường hợp cụ thể. Năm 1507, ông Valentinô bị một bọn cướp bắt cóc để tống tiền. Chúng đã xiềng chân và khóa tay ông, rồi giam ông trong một ngọn tháp cao, tối tăm, bẩn thỉu và hôi hám. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, ông và gia đình vẫn tin tưởng và lần hạt kính Đức Mẹ. Rồi một lần kia, khi đã cầu nguyện xong, ông vô cùng bỡ ngỡ vì bỗng thấy xiềng xích đều mở ra. Tay chân được thong dong, ông bắt đầu lần mò trong bóng tối, gõ khắp lượt vào tường tháp, đến một chỗ ông nghe bục bục và ọp ẹp. Ông đẩy mạnh và viên đá nhúc nhích. Ông vội cậy viên đá để tìm lối thoát thân và thế là ông chạy trốn được bình an vô sự. Phải chăng Đức Mẹ đã cứu chữa ông và ban xuống cho gia đình ông niềm an ủi.
Kinh Mân côi không phải chỉ cứu chữa phần xác, mà nhất là nó còn cứu chữa phần hồn. Hélène là một nàng kỹ nữ đã làm cho bao nhiêu người say đắm. Ngày kia nàng theo chị em bạn vào trong một nhà thờ, gặp lúc vị linh mục đang giảng về kinh Mân côi. Về nhà, nàng mua một cỗ tràng hạt, và thỉnh thoảng cũng lần trộm vì sợ thiên hạ trông thấy và chê cười. Ít lâu sau, nàng được Đức Mẹ ban ơn sốt sắng khi lần hạt. Rồi từ đó, nàng ăn năn sám hối, làm lại cuộc đời, quyết tâm dâng mình cho Đức Mẹ, sống một cuộc sống nghèo khó và nhân đức.
Có một thiếu phụ khác, thuộc gia đình quí phái, chẳng may bị bệnh nặng và đang trong cơn hấp hối. Đức cha Dupanloup được mời đến viếng thăm. Ngài nhận thấy bệnh nhân rất bình thản khi hỏi: Thưa Đức cha, liệu con có được lên trời hay không? Cha hy vọng là có. Bệnh nhân đáp lại: Còn con, con tin đó là một điều chắc chắn. Sao con có thể tin chắc chắn như thế? Thưa Đức cha, từ nhỏ cho đến nay, mỗi ngày nhiều lần con đã kêu xin Mẹ giúp con trong giờ lâm tử, lẽ nào Mẹ lại bỏ rơi con.
Qua những chứng tích sống động ấy, chúng ta nhận thấy kinh Mân côi đã giúp đỡ chúng ta rất nhiều cả về phần hồn lẫn phần xác. Bởi đó từ xưa cho đến nay, kinh Mân côi đã trở nên một việc đạo đức quen thuộc với người tín hữu.
Tuy nhiên, chúng ta phải lần hạt như thế nào để việc đạo đức này thực sự đem lại những lợi ích cho bản thân chúng ta? Tôi xin thưa vừa đọc, chúng ta vừa phải suy gẫm về những mầu nhiệm kinh Mân côi đã gợi lên cho chúng ta, và nhất là chúng ta phải sống tinh thần kinh Mân côi, thực hiện những nhân đức mà chúng ta van xin ở mỗi ngắm. Có như thế, kinh Mân côi mới trở nên là như hơi thở của tâm hồn, cũng như trở nên là như những cánh hồng tươi xinh dâng kính Mẹ, để Mẹ ban xuống cho bản thân chúng ta những ơn lành hồn xác.
3. Kinh Mân Côi.
Hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu về kinh Mân Côi. Trước hết kinh Mân Côi là một việc đạo đức bắt nguồn từ Phúc Âm.
Thực vậy, kinh Lạy Cha là gì nếu không phải là lời kinh mà chính Chúa đã dạy cho các môn đệ. Còn kinh Kính Mừng là gì nếu không phải là lặp lại lời chào của sứ thần Gabriel và của bà Elisabet. Tất cả đều được rút ra từ Phúc Âm. Hơn thế nữa, chúng ta còn sống lại trọn bộ Tin Mừng qua những mầu nhiệm của kinh Mân Côi. Đúng thế 20 mầu nhiệm làm một bản tóm lược Tin Mừng, trình bày cho chúng ta những giai đoạn chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu từ khi nhập thể cho đến lúc về trời, cao điểm của chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước. Với một nội dung như thế, kinh Mân Côi không phải chỉ là một lời kinh chúng ta đọc trên môi trên miệng, mà còn là những đề tài suy gẫm. Đây là một việc làm hết sức đơn giản. Chúng ta chỉ cần mường tượng ra những biến cố, những hình ảnh mà mỗi mầu nhiệm gợi lên, cũng giống như khi chúng ta đi chặng đàng thánh giá. Nó không đòi buộc chúng ta phải suy gẫm từng lời chúng ta đọc hay dừng lại lâu giờ nơi mỗi mầu nhiệm. Chẳng hạn chúng ta mường tượng ra Chúa Giêsu vai vác thánh giá và chúng ta nghĩ đến những khổ đau chúng ta phải gánh chịu. Như thế mà thôi cũng đã đủ lắm rồi. Chúa Giêsu không phải là một ông chủ hà khắc, chỉ đánh giá theo những kết quả đã đạt được, nhưng Ngài còn là một người cha nhân từ thấu rõ thiện chí của mỗi người chúng ta. Nói vậy không có nghĩa là xoá bỏ những con đường dẫn chúng ta tới đỉnh cao trọn lành. Như thế kinh Mân Côi sẽ là một việc đạo đức thích hợp cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc, sẽ đem lại cho chúng ta một nguồn nghị lực thiêng liêng.
Tiếp đến kinh Mân Côi là một việc đạo đức luôn được Giáo Hội cổ võ.
Thực vậy các Đức Thánh Cha không ngừng khuyến khích chúng ta siêng năng lần chuỗi. Đức Thánh Cha Piô IX khuyên chúng ta lần hạt tại gia đình trong những giờ kinh tối sớm. Ngài nói: Kinh Mân Côi là một kho tàng quý giá của Giáo Hội công giáo. Tiếp đó, Đức Thánh Cha Lêô XIII còn đi xa hơn nữa và người ta đã dành cho ngài tước hiệu là Đức Thánh Cha của kinh Mân Côi. Ngài đã công bố cả thảy 12 thông điệp và 8 văn kiện khác nữa bàn về kinh Mân Côi. Chính ngài đã thiết lập tháng Mân Côi để thúc đẩy việc lần chuỗi, cũng như đã thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi. Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắn nhủ: Nếu các con muốn cho gia đình mình được bình an và hạnh phúc thì hãy lần chuỗi với nhau mỗi buổi tối. Đức Thánh Cha Piô XII đã huấn dụ: Chúng ta khuyên nhủ những người cha, những người mẹ trong gia đình, hãy tập cho con cái thói quen lần chuỗi, và ngay cả chúng ta nữa, chúng ta vẫn lần chuỗi mỗi ngày. Năm 1951, trong một thông điệp, ngài đã tha thiết hêu gọi những người công giáo hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng này để cầu xin những ơn lành cho Giáo Hội và cho nhân loại. Chính ngài khi đã 80 tuổi, mặc dù bận rộn nhiều công việc nhưng ngài đều lần chuỗi trước khi đi ngủ. Rồi gần đây, Đức Thánh Cha Gioan XXIII, Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đều đề cao giá trị của kinh Mân Côi và khuyên nhủ chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi.
Để kết luận tôi xin kể lại mẫu gương của thầy Peyton. Thầy bị bệnh nặng, các bác sĩ đều chịu thua, tuy nhiên trong âm thầm mẹ thầy đã xin được chết thay cho thầy. Lời cầu xin được Đức Mẹ nhận lời, thầy được bình phục và được thụ phong linh mục. Mẹ chết. Dành trọn cuộc sống để loan truyền sứ điệp Fatima và kinh Mân Côi.
Với chúng ta cũng vậy, hãy dâng lên Mẹ những lời kinh Mân Côi sốt sắng, để xin Mẹ nâng đỡ phù trợ cho bản thân chúng ta, gia đình chúng ta luôn mãi.
4. Này tôi là tôi tớ của Chúa.
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt nhân dịp Kỷ niệm 95 năm ngày Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. 1917-2012)
Với lời thưa "Xin Vâng" của Đức Mẹ, điều vô cùng kỳ diệu xẩy ra: Thiên Chúa đến ở với loài người. Thiên Chúa vô hạn đến ở trong thân xác hữu hạn. Thiên Chúa vô thủy vô chung đi vào lịch sử để trở nên có sinh có tử. Đây là đại hạnh của con người. Nhân loại khổ đau có Thiên Chúa đến cùng chia sẻ nâng đỡ, chữa lành. Nhân loại đi trong đêm tối có Thiên Chúa đến dẫn đường chỉ lối. Nhân loại bơ vơ có Thiên Chúa đồng hành. Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa không chỉ đến để đồng hành, để an ủi nhưng Thiên Chúa còn đến biến đổi thân phận con người. Thư Galata cho biết Thiên Chúa sinh làm con loài người để ta được nâng lên làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa chịu nghèo để ta được giầu có vì được thừa kế gia tài, được hưởng vinh phúc của Thiên Chúa.
Những điều kỳ diệu ấy chỉ được thực hiện nhờ thái độ của Đức Mẹ. Khi thưa với thiên thần: "Này tôi là tôi tớ của Chúa", Đức Mẹ đã cộng tác trọn vẹn với Thiên Chúa để chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Vào thời Đức Mẹ nô lệ có nghĩa là không có quyền gì hết. Nô lệ hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của chủ. Chủ có thể bán đi. Chủ có quyền hành hạ, giết chết nô lệ mà không có tội trước pháp luật. Nô lệ không có quyền sống cho mình, mà sống vì chủ, cho chủ. Khi xưng mình là "tôi tớ", Đức Mẹ từ bỏ tự do, từ bỏ quyền sống của mình để hoàn toàn cho Thiên Chúa sử dụng. Từ đó Chúa ở trong Đức Mẹ. Đức Mẹ đi đâu cũng có Chúa ở cùng. Vì thế sự hiện diện của Đức Mẹ là hiện diện của Chúa. Đức Mẹ đi đến đâu là sinh ơn phúc đến đấy. Đến thăm bà Isave đem ơn cứu độ cho thánh Gioan Baotixita khiến thánh nhân nhảy mừng từ trong lòng mẹ. Đến tiệc cưới Cana làm cho đám cưới ngập tràn niềm vui vì được thưởng thức thứ rượu ngon chưa bao giờ có.
Từ khi về trời Đức Mẹ vẫn tiếp tục viếng thăm con cái trần gian. Lavang, Lộ đức, Fatima... không sao kể xiết những ơn lành Chúa xuống qua tay Đức Mẹ. Tuy Lavang, Lộ đức đều là chứng tích việc Chúa và Đức Mẹ đồng hành với con người trong những nỗi khổ đau. Nhưng Fatima mới tỏ tường là nơi Chúa và Đức Mẹ can thiệp vào lịch sử nhân loại. Thực vậy vào tháng 5 năm 1917, tại Fatima, Đức Mẹ tiên báo nước Nga sẽ gieo rắc lạc thuyết vô thần khắp thế giới. Đúng tháng 10 năm đó cách mạng vô sản nổ ra tại Nga và thế giới bị chia đôi. Một nửa theo lý thuyết cộng sản vô thần gay khổ đau cho biết bao người. Tuy nhiên Đức Mẹ cũng chỉ cho ta con đường thoát khỏi sự dữ này bằng cách cầu nguyện cho nước Nga và tuân giữ 3 mệnh lệnh là : ăn năn sám hối, lần hạt Mân Côi và tôn sùng đền tạ Trái Tim Đức Mẹ. Có thực hành lời Đức Mẹ dậy, nhân loại mới thoát khỏi cơn thịnh nộ của Chúa, thế giới mới được hòa bình. Sứ điệp Fatima quả đã đi vào lịch sử thế giới, hướng dẫn lịch sử thế giới và chữa trị những vết thương của thế giới.
Nếu chương trình của Chúa cần có Đức Mẹ "xin vâng", thì trong chương trình của Đức Mẹ cũng cần một người con quảng đại dâng hiến toàn thân cho Đức Mẹ sử dụng. Người đó chính là Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lòng yêu mến Đức Mẹ nồng nàn. Ngài đã viết Tông huấn "Kinh Mân Côi" để tôn vinh Đức Mẹ. Ngài là vị Giáo hoàng lần hạt chung với dân chúng. Ngài đã lập thêm Năm Sự Sáng cho tràng chuỗi Mân Côi. Nhưng nhất là Ngài dâng hiến toàn thân cho việc phụng sự Đức Mẹ. Khẩu hiệu của ngài là "Totus Tuus", trích từ câu nói của thánh Louis Grignon de Monfort:Totus Tuus ego sum et omnia mea Tua sunt (Con là tất cả của Mẹ và mọi sự của con đều là của Mẹ).
Ngài đã dâng nước Nga cho Đức Mẹ. Và đáp lại Đức Mẹ đã thực hiện những lời hứa và những bí mật Fatima trong cuộc đời của ngài. Việc nước Nga được ơn trở lại dưới triều Giáo hoàng của ngài là bằng chứng rõ rệt nhất về lời hứa Fatima: "Trái Tim Mẹ Sẽ Thắng". Theo sau nước Nga là các nước Đông Âu khác. Bản đồ thế giới được vẽ lại. Tình hình thế giới đổi mới khác hẳn. Quả thật Chúa và Đức Mẹ đã can thiệp vào lịch sử thế giới.
Tuy nhiên Đức Thánh Cha phải chịu đau khổ. Và thị kiến chị Lucia thấy người áo trắng bị ám sát đã ứng nghiệm trong đời ngài. Ngài bị bắn đúng ngày 13-5-1981. Tay thiện xạ Ali Agca đứng sát ngài và nhắm bắn trúng chỗ hiểm. Nhưng ngài thoát chết trong gang tấc. Ngài biết Đức Mẹ đã cứu ngài. Nên ngài đến hành hương Fatima tạ ơn Đức Mẹ và đặt đầu viên đạn lên triều thiên Đức Mẹ để tôn vinh quyền phép của Đức Mẹ. Vết thương hành hạ suốt đời đã biến cuộc đời ngài thành cuộc đền tạ Trái Tim Mẹ không ngưng nghỉ.
Đã 95 năm trôi qua kể từ ngày Đức mẹ hiện ra tại Fatima, nhưng sứ điệp Fatima vẫn còn mang tính thời sự và cấp thiết. Vì hiện nay biết bao lạc thuyết vẫn lan tràn gieo đau thương chết chóc cho con người. Đức Mẹ vẫn luôn đồng hành với ta như Người đã cùng cầu nguyện với các tông đồ trong nhà Tiệc ly. Đức Hồng Y Fulton Sheen diễn giải lời thiên thần Gabriel: "Này cô Maria, cô có đồng ý đem xương thịt cho Con Thiên Chúa không? Liệu Thiên Chúa có trở nên loài người qua thân xác của cô không?". Hôm nay Đức Mẹ cũng hỏi ta: "Con có đồng ý cho ta thân xác của con để ta hiện diện với các con, đồng hành với các con không". Nếu ta đồng ý Đức Mẹ sẽ nhờ thân xác ta mà hiện diện trong thế giới, sẽ uốn nắn thế giới và lịch sử sẽ thay đổi. Ta hãy noi gương ĐTC Gioan Phaolô thưa với Mẹ: Lạy Mẹ, tất cả của con là của Mẹ, xin Mẹ hãy dùng con theo ý Mẹ để Thiên Chúa được vinh danh và nhân loại được hạnh phúc. Amen.
5. Hoa Mân Côi
(GM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Mỗi khi tháng Mười về, những người con thảo của Đức Mẹ lại rộn ràng với những điệu vãn lời kinh để cùng tôn vinh Mẹ và cùng Mẹ suy ngắm cuộc đời Chúa Cứu thế. Mỗi lời kinh "Ave Maria" được sánh ví như một đóa hồng dâng kính Đức Mẹ. Lời kinh Mân Côi muốn diễn tả với chúng ta biết bao điều tốt đẹp.
"Vườn Rôsa bao quanh lái (trái) đất,
Cảnh thiên nhiên thật rất diệu huyền" (Ngắm Rôsa)
Vườn Rôsa trong câu thơ trên chính là Giáo Hội. Giáo Hội của Chúa được sánh ví như một vườn hoa rộng lớn mênh mông, mà ở đó được trồng những cây hồng với muôn sắc hoa rực rỡ. Giáo Hội của Chúa thật đẹp biết bao. Vẻ đẹp ấy không thể hiện nơi những tòa nhà cổ kính khang trang kiến trúc cầu kỳ, mà là nơi những cộng đoàn tín hữu, nhất là khi họ hội họp nhau để cử hành phụng vụ: tất cả cùng một đức tin, một tình mến, một tâm hồn để tôn vinh và ca tụng Chúa. Vẻ đẹp của Giáo Hội được tỏa rạng từ nụ cười móm mém của các lão ông lão bà, đến những gương mặt rất thơ ngây của các em nhỏ trong những cuộc rước tôn vinh Chúa, Đức Mẹ hay các thánh. Vẻ đẹp của Giáo Hội còn được thể hiện nơi những người cha người mẹ, nơi các bạn trẻ công giáo, được thấm nhuần tinh thần Phúc âm, đang hăng hái nhiệt tình góp phần làm cho quê hương đất nước thêm tươi đẹp. Những nụ cười, những tâm hồn hy sinh ấy chính là những đóa hồng trong vườn Giáo Hội, làm cho Danh Chúa được rạng rỡ vinh quang.
Lời "Vãn Mân Côi" cũng đưa chúng ta về một thời của lịch sử Giáo Hội: vào thế kỷ 13, Giáo Hội gặp nhiều khủng hoảng, nhất là từ những nguy cơ đến từ một bè lạc giáo có tên là Albigeois ở miền nam nước Pháp. Năm 1213, Đức Mẹ đã hiện đến với Thánh Đaminh và trao cho ngài một cỗ tràng hạt. Mẹ hứa, nếu các tín hữu siêng năng lần hạt thì Giáo Hội sẽ được an bình trở lại. Thánh Đaminh vâng lời Đức Mẹ, nhiệt thành kêu gọi mọi người đọc kinh Mân Côi và đúng như lời Đức Mẹ hứa, bè lạc giáo đã tan rã và Giáo Hội được hưng thịnh. Chính từ biến cố lịch sử này mà Giáo Hội được gọi là "vườn Rôsa" - vườn của những đóa hoa hồng, vì nhờ kinh Mân Côi, Giáo Hội đã tìm lại được vẻ đẹp huy hoàng của mình. Ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 7-10 hằng năm cũng được Đức Piô V thiết lập để ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7-10-1571. Chiến thắng này có được là nhờ các tín hữu lần hạt Mân Côi trong ngày giao chiến.
Một câu chuyện kể rằng Thánh Đaminh đã có sáng kiến kết 150 bông hoa hồng thành một chuỗi dài, tượng trưng cho 150 thánh vịnh. Ngài đã dùng những cánh hồng thơm ngát, nén chặt như ép khuôn và làm thành từng hạt hình tròn, nối liền với nhau thành một tràng hạt. Từ đó, tràng hạt được gọi là chuỗi Mân Côi, tức chuỗi hoa hồng.
"Đức Bà như Hoa Hường (hồng) màu nhiệm vậy" (Kinh cầu Đức Bà)
Trong vườn Rôsa, tức vườn Giáo Hội, có một đóa hoa vượt trổi về màu sắc và hương thơm. Đóa hoa ấy mang tên là Maria. Đức Maria vừa là Mẹ của Giáo Hội, đồng thời cũng là chi thể của Giáo Hội. Mẹ là mẫu mực cho đời sống đức tin của các tín hữu. Nơi Mẹ, Giáo Hội chiêm ngưỡng hình ảnh của mình trong tương lai. Mẹ diễn tả một hình ảnh không tỳ ố, không vết nhơ của Giáo Hội. Mẹ là hy vọng của Giáo Hội đang vươn tới vinh quang rạng rỡ như Mẹ.
Là Mẹ của Đức Giêsu, Mẹ cũng là Mẹ của Giáo Hội. Bằng sự quan tâm hiền mẫu của mình, Mẹ luôn đỡ nâng chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu. Cũng như tại Cana ngày nao, Mẹ đang dặn dò chúng ta: "Người bảo sao, các con hãy cứ làm như vậy" (Ga 2,5). Mẹ dạy chúng ta phó thác nơi Chúa, như Mẹ đã kiên trung tín thác suốt đời, để Thánh ý của Chúa được thực hiện, vì ơn cứu độ của toàn thể nhân loại.
Khi tôn vinh Đức Mẹ là Hoa Hồng, chúng ta ca tụng quyền năng của Chúa đã tác tạo nên Mẹ, như một tạo vật hoàn hảo, xứng đáng là ngai tòa cho Ngôi Lời nhập thể. Khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp cao siêu của Mẹ, chúng ta nguyện ước noi gương Mẹ, trau dồi các nhân đức, mến Chúa yêu người, luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
"Mỗi người là một cành hoa, cùng đem về đây góp gió,
Làm thành vườn hoa, muôn màu muôn sắc tươi xinh" (Lời một bài hát)
Mỗi chúng ta, khi sinh vào cuộc đời, cũng giống như một loài hoa để tô điểm cho thế giới này tươi đẹp. Sự khác biệt về tuổi tác, giới tính, trình độ văn hóa hay điều kiện kinh tế không phải là những lý do gây mâu thuẫn, nhưng làm cho cuộc sống thêm phong phú. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã nhận mình là một loài hoa được Thiên Chúa chăm sóc yêu thương một cách đặc biệt. Đã là hoa trong vườn, dù thuộc chủng loại nào, những bông hoa đều cống hiến hương sắc cho đời. Con người cũng thế, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng có trách nhiệm góp phần làm cho cuộc sống thêm nhân ái hơn.
Kinh Mân Côi giúp ta gắn bó với Chúa. Hai mươi mầu nhiệm diễn tả cuộc đời của Chúa Cứu thế, đồng thời cũng phác họa đời sống chúng ta. Cuộc đời được dệt nên bằng một chuỗi những vui buồn. Những ai kiên trung cậy trông vào Chúa trong mọi biến có vui buồn ấy, sẽ trở thành môn đệ chân chính của Đức Giêsu. Đức Mẹ đã thực hiện điều ấy và Mẹ đang mời gọi chúng ta tiến bước theo Chúa Giêsu, Con của Mẹ.
Tràng hạt Mân Côi cũng tượng trưng cho tình liên đới giữa con người với nhau. Là những đóa hoa trong vườn hoa cuộc đời, chúng ta liên kết với nhau làm thành một chuỗi hoa hồng. Những đóa-hoa-cuộc-đời được gắn liền với nhau bằng tình mến Chúa yêu người, làm cho cuộc sống này thêm tươi đẹp và thi vị hơn.
Khi ước mong trở thành những đóa hồng dâng kính Đức Mẹ, mỗi người chúng ta cũng cần phải là một đóa hoa để trao tặng cho nhau. Những nghĩa cử thân thiện, những lời động viên khích lệ hoặc sự chia sẻ tinh thần vật chất mà chúng ta thực hiện xuất phát từ tình mến, đó chính là những đóa hoa lòng mà chúng ta trao tặng cho nhau. Những đóa hoa ấy không tàn phai theo thời gian, nhưng mãi mãi thắm sắc ngát hương, làm nên một cuộc sống an bình. Đó là ý nghĩa của Kinh Mân Côi mà chúng ta đọc hằng ngày.
Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã nói: "Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy" (Tông thư Kinh Mân Côi).
Lạy Mẹ Mân Côi, xin chúc lành và hướng dẫn chúng con trên mọi nẻo đường trần gian. Amen.
6. Xin Vâng
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng hai tiếng "Xin vâng" của Đức Mẹ. Hai tiếng "Xin vâng" thật đơn sơ nhỏ bé, nhưng lại có ảnh hưởng lớn lao.
Trước hết hai tiếng "Xin vâng" có ảnh hưởng tới chương trình của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho loài người. Nhưng để chương trình ấy thành công, cần có sự tham gia, đồng thuận, vâng phục của con người. Chúa muốn con người được hạnh phúc. Nhưng nếu con người từ chối, Thiên Chúa không thể ban hạnh phúc cho con người. Chương trình đầu tiên của Chúa đã thất bại vì ông bà nguyên tổ không vâng lời Chúa. Ông bà nguyên tổ đã nghe ma quỷ hơn nghe Chúa. Ông bà nguyên tổ đã làm theo ý riêng hơn làm theo ý Chúa. Trái lại Đức Mẹ đã tham gia, đã đồng ý, đã vâng phục, nên chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Kế hoạch cứu độ loài người của Thiên Chúa nhờ hai tiếng "Xin vâng" của Đức Mẹ mà thành công.
Hai tiếng "Xin vâng" của Đức Mẹ vọng lại hai tiếng "Xin vâng" của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Vì vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã vui lòng xuống thế làm người. Hôm nay, khi Đức Mẹ nói tiếng "Xin vâng" với Thiên thần, Đức Giêsu cũng nói "Xin vâng" với Đức Chúa Cha. Với hai tiếng "Xin vâng", Đức Mẹ khai thông chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Sau hai tiếng "Xin vâng", Ngôi Hai xuống thế làm người, tượng thai trong lòng Đức Mẹ.
Hai tiếng "Xin vâng" có ảnh hưởng tới cả cuộc đời.
Hai tiếng "Xin vâng" nghe thật bé nhỏ, khiêm tốn, những ảnh hưởng tới cả cuộc đời Đức Giêsu và Đức Mẹ. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã từ trời xuống thế, như lời Thánh vịnh: "Máu chiên bò, Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu, Chúa không nhận. Thì này con đến để làm theo ý Cha". Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã chấp nhận con đường bé nhỏ, khiêm nhường. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu vui lòng chịu chết, chết nhục nhã trên cây Thánh giá: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này. Những xin đừng làm theo ý Con, chỉ xin vâng ý Cha mà thôi".
Cũng vậy, khi nói tiếng "Xin vâng" với Thiên thần, Đức Mẹ ràng buộc tất cả đời mình vào chương trình của Thiên Chúa. Vì xin vâng mà phải sinh con trong hang đá nghèo nàn. Vì xin vâng mà phải trốn chạy sang Ai cập. Vì xin vâng mà chấp nhận lời tiên tri Simêon: "Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim bà". Vì xin vâng mà theo Đức Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo. Vì xin vâng mà phải đứng dưới chân thập giá, chịu mọi đau đớn, khổ nhục với con, dường như cùng chết với con vậy.
Như thế, để nói tiếng "Xin vâng" với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ đã phải nói "Không" với chính mình. Để một lần nói "Xin vâng" với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ phải nhiều lần nói "Không" với chính mình. Tiếng "Vâng" lớn thành hình nhờ những tiếng "Không" nhỏ bé. Ý Chúa được thể hiện nhờ biết bỏ ý riêng. Chương trình lớn thành công nhờ những hy sinh bé nhỏ âm thầm.
Khi tạo dựng nên ta, Chúa đã có chương trình cho mỗi người chúng ta. Đó chính là chương trình tốt đẹp nhất. Nhưng nếu ta không cộng tác, thì chương trình ấy không thực hiện được. Để chương trình của Chúa được thực hiện, ta hãy noi gương Đức Mẹ, nói tiếng "Xin vâng" với Chúa. Hãy biết bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Hãy biết bỏ chương trình riêng để đi vào chương trình của Chúa. Hãy xin vâng khi vui. Hãy xin vâng khi buồn.Hãy xin vâng khi hạnh phúc. Hãy xin vâng khi đau khổ. Hãy noi gương Đức Mẹ, xin vâng trong ngày truyền tin vui tươi, và xin vâng cả khi đứng dưới chân thập giá đau buồn. Xin Vâng từng giây phút trong cuộc đời. Khi chương trình của Chúa được thực hiện, ta sẽ được hạnh phúc và đem hạnh phúc cho những người chung quanh ta.
Lạy Mẹ, xin dạy con hai tiếng XIN VÂNG như Mẹ. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Hai tiếng "Xin vâng" của Đức Mẹ có ảnh hưởng thế nào đến chương trình của Thiên Chúa?
2- Hai tiếng "Xin vâng" Đức Mẹ có ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời của Đức Mẹ.
3- Chúa Giêsu đã sống lời "Xin vâng" thế nào?
4- Ta phải làm gì để chương trình của Chúa nơi ta được thực hiện"
7. Việc ấy sẽ xảy ra cách nào
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Bài Phúc Âm được đọc trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi đề cập tới biến cố truyền tin. Điều đó có vẻ như thiếu thiếu một gì đó, vì thật ra truyền tin chỉ là 'mầu nhiệm Mân Côi' thứ nhất trong số 20 mầu nhiệm được đem ra suy gẫm? Phụng vụ muốn nói gì khi chọn đoạn Tin Mừng này, đặc biệt cho giáo dân Việt Nam khi mà Hội Đồng Giám Mục trong khóa họp tháng 4 năm 1991 đã quyết định cho phép mừng trọng thể lễ này vào ngày Chúa Nhật? Đặt vấn nạn như thế có nghĩa là muốn xác định nội dung đích thực của việc lần hạt Mân Côi: một việc đạo đức được Đức Mẹ ưa thích, hay còn là một con đường sống Tin Mừng bình dân nhưng hữu hiệu và sâu sắc?
Người Công giáo chúng ta vẫn biết rằng giá trị của việc lần hạt Mân Côi hệ tại ở suy niệm các sự kiện hay biến cố xảy ra trong cuộc đời đức Giêsu và đức Ma-ri-a, hầu giúp ta nhận ra, ngày càng sâu sắc hơn, hồng ân cứu độ. Tuy nhiên sự nhận biết này nhiều khi chỉ dừng lại ở nhận thức, một cảm thức chung chung mang tính lý thuyết; hoặc giả hồng ân cứu độ đó chỉ là điều ta đã từng nhận lãnh một lần ngày rửa tội xa xưa. Biến cố truyền tin nói riêng, và mọi biến cố liên quan tới đức Ma-ri-a nói chung, theo như tác giả Lu-ca trình bày, cho thấy một khía cạnh khác của cuộc sống Hồng Ân cứu độ: các biến cố thường nhật cần phải được nhìn nhận và được đưa vào hồng ân này, nhất là khi chúng xem ra càng khó hiểu và xa lạ với kế hoạch từ ái của Thiên Chúa.
Biết bao lần tôi phải tự hỏi, trong tư cách một Ki-tô hữu đứng trước nhiều biến cố liên quan tới mình, tới tha nhân và xã hội loài người, thì "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?" Câu hỏi này không mong tìm cho ra một giải đáp hợp lý cho từng sự kiện, nhưng là để nhận ra lòng từ bi thương xót của Chúa đang được thực hiện ra sao. Trong lần hạt Mân Côi, cùng với đức Ma-ri-a, tôi giáp mặt với cuộc sống hàng ngày, có thể là những niềm vui, những biến cố trang trọng mang nhiều ý nghĩa, cũng có thể là những nỗi buồn, những đổ vỡ..., những chuyện vụn vặt vu vơ, những thành công hay thất bại, những kỳ vọng hay hoài bão...
Đối với một Ki-tô hữu như tôi, tất cả mọi biến cố bất luận tốt xấu, đều có giá trị nếu được nhìn nhận và đưa vào tình yêu nhân ái của Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Đối với Ki-tô hữu, sẽ không chỉ có vấn đề 'thánh hóa = làm phép' các biến cố hàng ngày, theo kiểu dâng chúng lên cho Thiên Chúa, như cách nói bình dân thông thường. Điều một Ki-tô hữu cần làm là dìm mọi biến cố của cuộc sống mỗi ngày ngập sâu trong hồng ân cứu độ. Truyền tin, và nhiều biến cố khác nữa, đã được đức Ma-ri-a sống như thế. Mẹ đã 'ghi nhớ tất cả các điều ấy... và suy đi nghĩ lại trong lòng' (Lc 2,19.51). Ma-ri-a đã không lần hạt, nhưng là Mẹ Mân Côi vì đã không ngừng khám phá và sống từng biến cố đời mình trong hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.
Dành được thời giờ mỗi ngày để xét mình và suy gẫm các 'mầu nhiệm phép Mân Côi' là điều tốt, nhưng rồi cũng có lúc trở thành nhàm chán. Chung qui đó vẫn còn là công việc nặng tính lý thuyết và khá trừu tượng. Lần hạt Mân Côi sẽ làm cho cả hai việc trên trở nên sống động hơn, hiện sinh hơn, nếu qua đó tôi cùng với Mẹ nhìn nhận lòng từ ái Chúa trong từng biến cố cuộc sống mình. Mà các biến cố thì luôn thực tế, thiết thực và biến đổi không ngừng trong đời sống thường ngày. Các biến cố không chỉ được phân loại tối hay xấu theo nghĩa luân lý, mà tất tất đều cần được ánh sáng hồng ân cứu độ của Chúa soi chiếu và biến đổi, Như thế tôi không chỉ lần chuỗi hạt, mà sống Mân Côi mỗi ngày. Chắc chắn sống Mân Côi như thế sẽ thiết thực dẫn đưa tôi đạt tới một cuộc sống Ki-tô ngày càng Tin Mừng hơn, hiểu theo nghĩa cho phép tôi ngày càng vào sâu hơn trong hồng ân cứu độ, và mau mắn biến đổi đời tôi - không theo nghĩa ngày càng trở nên tốt lành thánh thiện hơn - nhưng ngày càng thâm tín khi nhận ra rằng tình thương của Chúa trên tôi (và trên toàn nhân loại) không bao giời vơi cạn, bất chấp tất cả những yếu đuối biến thiên vô hình vạn trạng của con người.
Sứ điệp Fa-ti-ma sẽ không bao giờ mất đi cái ý nghĩa thâm sâu của nó, đã được vang vọng từ thời Thánh Đa-minh, và sẽ còn tiếp tục mãi qua mọi thời: "Hãy năng lần Mân Côi!"
Lạy Mẹ Mân Côi! Cùng với Mẹ, xin cho con sống Mân Côi hàng ngày. Xin cho con luôn tìm được giải đáp thỏa đáng cho mọi tình huống và biến cố trong đời con qua câu nói của sứ thần mà chính Mẹ đã được nhắc nhở: "Vì đối với Thiên Chúa - nhân lành, không có gì là không thể làm được'. Cùng với Mẹ, con mong rằng việc lần hạt Mân Côi sẽ trở thành con đường Tin Mừng đích thực cho con. Amen.
8. Phương thuốc thần diệu
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Mọi tội lỗi của con người đều do một cội rễ mà sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Sở dĩ thủy tổ loài người là A-đam và E-và bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu đời sau... là vì hai ông bà đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người. Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy, cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao vào vực thẳm. "Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân..." (Rôma 5, 19)
Vậy muốn cứu loài người khỏi tội, khỏi đau khổ và sự chết, thì vấn đề tiên quyết là phải diệt trừ tận gốc căn nguyên gây nên tội, đó là tình trạng bất phục tùng Thiên Chúa.
Tràng chuỗi Mân Côi được xem là phương thuốc thần diệu để diệt trừ tận gốc căn bệnh trầm kha nầy vì chuỗi Mân Côi dạy ta biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
* Gương Vâng Phục Của Mẹ Maria
Lắm khi chúng ta muốn Thiên Chúa thi hành ý muốn của mình hơn là mình phải thi hành ý Chúa.
Khi đau bệnh, chúng ta muốn Thiên Chúa chữa chúng ta mau lành; khi đói khát, chúng ta muốn Thiên Chúa lo liệu cho chúng ta cơm ăn nước uống; khi sắp đi thi, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thi đậu; khi làm việc, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thành công; khi hết tiền, chúng ta muốn Thiên Chúa cho chúng ta đầy túi...
Nếu Thiên Chúa không mau mắn nghe lời chúng ta xin, chúng ta sẽ hờn giận Chúa, chúng ta hăm bỏ đạo, có khi chúng ta hạ bệ Chúa xuống khỏi bàn thờ...
Thế nhưng, dù Mẹ Maria được Thiên Chúa đưa lên địa vị cao vời làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì Mẹ vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn, không hề đòi hỏi Thiên Chúa điều gì mà chỉ biết vâng theo lệnh Chúa truyền. "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Đó là bài học vâng phục mà Mẹ Maria dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của người nữ tỳ nơi Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Gương Vâng Phục Của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục sáng chói của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải "lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: "Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!" (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng và xin thưa với Cha: "Xin cho ý Cha thể hiện".
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Ngài, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng chịu đựng và xin thưa với Cha: "Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha".
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn nạn nhất, phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn xin vâng: "Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha".
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Lc 23, 34)
Như thế, từ gẫm thứ nhất cho đến thứ năm thuộc mầu nhiệm thương, rực sáng lên tấm gương vâng phục của Chúa Giêsu. Tấm lòng vâng phục vô bờ bến đó đã được thánh Phaolô khắc hoạ lại trong bài ca gửi tín hữu Philíp:
"Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự..." (Philíp 2, 6-8)
Sự vâng phục đến mức tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Ngài đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: "Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..." (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: "Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.(Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi chứa đựng bài học vô giá về đức vâng lời: Vâng phục Thiên Chúa là phương thuốc diệt trừ tận gốc cội rễ mọi tội lỗi là sự bất phục tùng Thiên Chúa; vâng lời là phương thế giúp con người khỏi sa đoạ và là con đường dẫn đưa nhân loại về cõi trời.
Phương thuốc thần diệu đó đã được Mẹ Maria và Hội Thánh trao vào tay mỗi người chúng ta qua tràng chuỗi Mân Côi. Ước gì mỗi người vui lòng đón nhận phương dược Mẹ ban để diệt trừ tận căn mầm mống tội lỗi ngay trong lòng mình.
9. Lá sầu riêng
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ở đời tình mẹ là thiêng liêng nhất, cao cả nhất. Nếu không có tình mẹ, có lẽ chúng ta khó có thể cảm nghiệm được thế nào là một tình yêu tinh ròng, thanh khiết, không một toan tính ích kỷ nhỏ nhoi nào. Tình mẹ là một tình yêu vô vị lợi, sống hết mình vì con. Ca dao đã nói rất nhiều về những hy sinh của mẹ như:
"Nuôi con chẳng quản chi thân,
Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn".
Và rồi khi trái gió trở trời, lòng mẹ cũng quặn đau vì con:
"Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi".
Có lẽ chúng ta đều biết đến câu chuyện "Lá sầu riêng" của sân khấu cải lương đã từng trình diễn. Đó là câu chuyện thật cảm động về tình thương của người mẹ hết mình vì tương lai và hạnh phúc của con. Truyện kể về một người mẹ nhà quê, nghèo nàn. Cuộc đời cơ cực với cảnh mẹ goá con côi. Cuộc sống bữa no bữa đói, khiến bà lo sợ cho tương lai của đứa con. Bà đã chấp nhận gửi con cho một gia đình giầu có trong làng, và rồi bà tình nguyện ở bên đứa trẻ để chăm sóc nó với tư cách là một vú nuôi. Năm tháng trôi qua, khi bà đã già yếu, và đứa con do tay bà chăm sóc đã thành danh giữa đời. Bà nghĩ rằng đã tới lúc nói cho con biết sự thật về nguồn gốc của nó, và chắc chắn nó sẽ vui mừng lắm, vì có một người mẹ đã quên cả bản thân mình để lo cho con. Bà nghĩ rằng, lúc đó những giọt nước mắt sung sướng của hai mẹ con nhận ra nhau sẽ dạt dào lắm! Nhưng tiếc thay, điều đó đã không xảy ra! Đứa con không chấp nhận sự thật ấy. Nó đã xua đuổi bà. Nó không dám nhận bà là mẹ. Nó sợ điều này sẽ ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp nó ở đời. Thay cho những giọt nước mắt sung sướng là những giọt nước mắt tủi nhục đắng cay. Bà đã thốt lên trong tiếng nấc nghẹn ngào: "Con ơi! Ngày con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo, con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con cả cuộc đời, sao con nỡ lòng xua đuổi mẹ hở con?".
Tình thương của mẹ trần thế đôi khi cũng quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Tình thương của người Mẹ thiên quốc càng quặn đau hơn khi con đang xa lìa vòng tay che chở của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con đã không nhìn nhận sự trợ giúp của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính thái độ khước từ của con.
Tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của chúng ta. Xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giêsu. Từ nay Mẹ Maria sẽ chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng bên cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ nay cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi là thế. Hết mình vì con. Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: "Đêm mùa thu mẹ ru con ngủ - Năm canh dài thức trọn năm canh".
Thế nhưng, Mẹ Maria đã được gì khi làm mẹ chúng ta? Mẹ có vui khi làm mẹ nhân loại hay không? Nếu vui tại sao mỗi khi Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia Mẹ đều khóc, đều trầm ngâm, đều lo lắng cho sự an nguy của con cái? Mẹ đều khóc cho nhận thế tội tình. Mẹ đều khóc vì những đứa con sa đàng tội lỗi nhưng không chịu quay trở về. Phải chăng mẹ cũng đang đau khổ khi nhìn thấy những người con vì danh vọng ở đời, vì vinh hoa phú quý mà đánh mất tình mẹ? Phải chăng kịch bản "lá sầu riêng" đang diễn tả nỗi lòng của Mẹ thiên quốc? Nếu đúng vậy, Mẹ cũng đang bảo chúng ta: "Con ơi! Chẳng lẽ chỉ vì một chút bổng lộc trần gian mau qua mà con đã vội quên tình mẹ? Và không lẽ chỉ vì những vinh hoa trần thế mau qua mà con đã từ chối mẹ sao? Hãy nhận mẹ làm mẹ để mẹ tiếp tục yêu con, để mẹ tiếp tục hy sinh cho con, và để mẹ tiếp tục che chở bảo vệ con".
Xin cho mỗi người chúng ta biết nhận ra tình thương của mẹ để sám hối ăn năn về những lỗi lầm của mình. Xin giúp chúng ta đừng vì vinh hoa phú quý mà lạc xa tình mẹ. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa. Amen.
10. Lễ Mẹ Mân Côi.
"Hỡi Maria, xin đừng sợ, vì Bà được đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và sinh hạ một con trai và đặt tên trẻ ấy là Giêsu" (Lc 1,30-31).
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh Nữ mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã được thực hiện một cách sáng tỏ. Đó là Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui, cùng thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: "Kính Mừng Maria, Hãy Vui Lên".
Qua lời chào và mời gọi của Thiên Chúa: "Hỡi Maria, hãy vui lên", vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến. Như vậy, làm sao Mẹ Maria không vui lên được khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào Mẹ qua Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy chúng ta được tham gia vào niềm tri ân và niềm vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.
"Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phước", vì chính Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn thuộc về tôi tớ Giavê, như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia: "Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta tuyển chọn, Người đẹp lòng Ta mọi đàng" (Is 42,1). Mẹ được đầy ơn phúc vì Đấng sắp ngự đến nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người được đầy tràn niềm vui, vì Mẹ đã được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho dân Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Zacaria: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài đã trung tín với lời hứa cho Abraham và con cháu ông".
"Thiên Chúa ở cùng Bà". Đó là lời Mẹ đã từng suy niệm, khi tiên tri Isaia loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến. Vì vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng Bà". Giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc Maria được hay tin Đấng là: "Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Mẹ vui mừng vì chính Đấng được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở trong chính cung lòng Mẹ. Chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đến ở với nhân loại.
"Hỡi Maria đừng sợ". Kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình không khỏi làm cho con người run sợ, không những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Đây là một điều mà không bao giờ Mẹ dám nghĩ đến. Nhưng Thiên Chúa đã mạc khải chính những ý định của Ngài cho Mẹ. Vì thế, Mẹ rất vui mừng, nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm với niềm run sợ, một sự run sợ thánh.
Kinh nghiệm sống đời Kitô của chúng ta cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria: "Vui và Sợ". Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp để thắng vượt cái sợ và Mẹ đã phó thác tin tưởng hoàn toàn trong Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em xung quanh.
Lạy Cha là Chúa trời đất, chúng con chúc tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những mầu nhiệm cao cả ấy cho kẻ khôn ngoan kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Cha đã chọn Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, nhờ lời cầu khẩn của Đức Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện của Người và tiếp rước Người đến ở với chúng con.
Lạy Mẹ Maria, chúng con Kính Mừng Mẹ, Đấng "Đầy Ơn Phước", Mẹ đã lãnh nhận mọi ơn lành của Thiên Chúa để giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa. Thiên Chúa ở cùng Mẹ để Thiên Chúa ở cùng với chúng con, chúng con sẽ cảm nhận được điều này như Mẹ nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.
Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có Chúa hiện diện bên cạnh trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.
11. Bài học quan trọng của kinh Mân Côi.
(Lm. Ignatio Trần Ngà – Cùng Đọc Tin Mừng)
Mọi tội lỗi của loài người đều do một cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông loài người là Ađam và E-và đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu về sau.
Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội lỗi. "Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân..." (Rm 5, 19)
Vì thế, muốn cứu chuộc loài người hư vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giêsu chính là "đầu tàu" nầy: "Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (là Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính". (Rm 5, 19)
Tràng chuổi Mân Côi chính là một lời động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót Chúa Giêsu và Mẹ Maria, đi theo con đường vâng phục như Chúa Giêsu và Mẹ Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc muôn đời.
* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria
Bà E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của mình vào cõi chết.
Đức Maria là E-và mới đã uốn nắn lại những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội dung của kinh Mân Côi.
Dù được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin rằng: "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Đó là bài học vâng phục mà Mẹ dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Theo gương vâng phục của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải "lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: "Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!" (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha: "Xin cho ý Cha thể hiện".
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Người, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng uống cạn chén đắng Cha trao: "Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha".
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã định: "Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha".
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm.(Luca 23, 34)
Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: "Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..." (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: "Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính. (Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Vâng theo ý Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh phúc đời đời như lời Chúa Giêsu dạy: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).
12. Đức Chúa Ở Cùng Bà
(Lm. Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân Côi làm lòng ta lắng xuống, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Kính Mừng Maria đầy ơn phúc.
Đây là lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền tin, lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã đến.
Mẹ đầy ơn phúc vì được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương. Tình thương Chúa chở che Mẹ ngay từ lúc chưa chào đời, và tình thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi.
Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên tội.
Chúng ta được dự phần vào niềm vui và ân phúc của Mẹ vì chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương được tẩy xóa nguyên tội để trở nên thụ tạo mới.
Đức Chúa Trời ở cùng Bà.
Trong Cựu Ước, có bao người được Thiên Chúa ở cùng, để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân Chúa. Nhưng Thiên Chúa ở cùng Mẹ một cách độc nhất vô nhị.
Khi được đầy tràn Thánh Thần và cưu mang Ngôi Lời, Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa hiện diện giữa con người.
Nhiều lần trong mỗi Thánh Lễ, vị linh mục chúc chúng ta: Chúa ở cùng anh chị em.
Kitô hữu là người có Đức Kitô ở cùng và được mời gọi đem Ngài đến cho thế giới.
Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.
Đó là lời bà Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1, 42) vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ Đấng Mêsia. Mẹ đã cưu mang Người và cho Người bú mớm (Lc 11, 27).
Nhưng sau đó bà Êlisabét còn ca ngợi Mẹ có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói với Mẹ (Lc 1, 45).
Tin là dám buông đời mình trong tay Chúa và để Ngài dẫn đi trong đêm tối của lòng tin.
Mọi tín hữu đều được mời sống hành trình đức tin như Mẹ, để được cùng Mẹ chung hưởng hạnh phúc: "Phúc cho ai không thấy mà tin" (Ga 20, 29)
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời.
Chỉ Thiên Chúa là Đấng Thánh và là nguồn mọi sự thánh thiện.
Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách tuyệt vời, vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ.
Chúng ta chẳng được diễm phúc sinh ra Đức Giêsu, nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm mẹ của Ngài: "Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" (Lc 8,21).
Khi thực thi Lời Chúa trong cuộc sống, chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại hôm nay. Ngài vẫn cần những người mẹ để có mặt đến tận thế.
Chẳng có gì Đức Maria được hưởng cách viên mãn, mà Hội Thánh và từng người lại không được dự phần.
Xin Mẹ cầu cho ta khi này và trong giờ lâm tử.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có khi nào lần chuỗi không? Bạn có biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi là một cách cầu nguyện nhẹ nhàng và lắng đọng không?
Bạn nghĩ gì về Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải là Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là Đấng rất gần bạn trong cuộc sống đức tin?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
13. Mẹ Đầy Ơn Phước
('Mỗi Ngày Một Tin Vui' – R. Veritas)
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giỡ đây được chỉ định rõ ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: "Kính mừng Maria, hãy vui lên, Maria". Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui lên được, khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúc Mẹ Maria qua kinh Kính Mừng "Kính Mừng Maria đầy ơn phước" chúng ta tham dự vào niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ là Đấng đầy ơn phước, Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Đức Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1: "Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn phước vì Đấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa". Mẹ Maria được đầy tràn niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria:
"Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
Ngài là Đấng trung tín như lời đã hứa
Abraham và con cháu ông".
"Thiên Chúa ở cùng Bà", Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa sâu xa. "Thiên Chúa ở cùng Bà", giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
"Hỡi Maria, đừng sợ", kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:
"Lạy Cha là Chúa tể trời đất,
Chúng con chúc tụng Cha
Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ khôn ngoan kiêu ngạo
Nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn
Cha đã chọn Mẹ Mari để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con,
Nhờ lời cầu khẩn của Mẹ Maria
Đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay
Và nhân danh Chúa Giêsu Kitô,
Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con".
Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng con.
14. Học sống khiêm nhường với Chúa qua Kinh Mân Côi
Lm. Ignatiô Trần Ngà
Để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.
Trong những lần hiện ra, Mẹ Maria thường cầm tràng hạt trên tay. Khi hiện ra với ba trẻ ở Fatima, Mẹ còn lần hạt với ba trẻ tại đó. Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cũng như nhiều vị giáo hoàng khác rất siêng năng lần hạt và kêu gọi tín hữu năm châu sốt sắng lần hạt hằng ngày. Như thế, Mẹ Maria cũng như Hội Thánh luôn khuyến khích chúng ta lần hạt vì Kinh Mân Côi là một phương thế giúp cho người ta nên thánh.
Nhưng để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, thì chỉ đọc suông ngoài miệng không đủ, mà cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.
Giờ đây, chúng ta cùng chiêm ngắm lòng khiêm nhường sâu thẳm của Ngôi Hai Thiên Chúa qua Kinh Mân Côi.
Gương khiêm nhường của Ngôi Hai Thiên Chúa nổi bật trong những phần suy gẫm sau đây:
- Gẫm thứ nhất năm sự vui: Ngay khi Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, Thiên Chúa Ngôi Hai là Đấng cao sang quyền phép đã chấp nhận hóa thân thành một phôi thai nhỏ, chỉ bằng hạt cát thôi, nằm trong tử cung của Mẹ Maria để chờ ngày được sinh ra làm người. Một Thiên Chúa cao sang là Chúa Tể trời đất mà lại hạ mình đến thế thì tôi là ai mà dám nhắc mình lên cao!
- Gẫm thứ ba năm sự Vui: Khi Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu trong hang đá, Thiên Chúa Ngôi Hai là Vua Trời đầy quyền uy phép tắc hiển trị trên các tầng trời đã chấp nhận chọn hang bò lừa làm nơi nương náu, chọn máng súc vật làm nôi để đến ở cùng nhân loại. Hạ mình và khiêm nhường như vậy là hết mức, không thể hạ mình sâu hơn được nữa.
- Gẫm thứ nhất trong năm sự Sáng: Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Gio-đan; Chúa Giêsu là Thiên Chúa hoàn toàn vô tội, ngàn trùng chí thánh, vậy mà Người chấp nhận hòa mình với những người tội lỗi bên bờ sông Gio-đan, xếp hàng đứng chung với những người tội lỗi, những tay đâm thuê chém mướn, những cô gái điếm, những gã côn đồ... để chờ đến phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan, cúi mình xuống để cho Gioan làm phép rửa cho. Đấng không hề biết tội là gì lại khiêm nhường cúi mình nhận tội, còn tôi thì cứ cho mình vô tội và tìm mọi cách trút tội lên đầu người khác.
- Và đặc biệt là trong năm sự Thương, chúng ta thấy nổi lên hình ảnh Chúa Giêsu quá đỗi khiêm nhường khi Người tự xóa mình đi, trở thành tên tử tội, để cho người ta hành hạ Người đủ cách cho đến chết.
- Chúa Giêsu chịu đánh đòn: Chúa tốt lành thánh thiện vô cùng nhưng lại bị đưa ra tòa xét xử như một tên gian phi, bị vu cáo, bị khạc nhổ vào mặt, bị đánh đòn tan nát thân mình mà vẫn khiêm nhường chịu đựng chẳng hé môi kêu trách hay phản kháng.
- Chúa Giêsu chịu đội mão gai. Thay vì đội mão triều thiên vinh hiển của các bậc vua chúa cao sang, Chúa Giêsu chịu đội vòng gai nhọn đâm sâu vào đầu, để cho người ta sỉ nhục nhạo cười mà không hận thù hay oán trách. Khiêm nhường hạ mình đến thế thật là hết mức.
- Chúa Giêsu vác thập giá: Là Chúa Tể trời đất, lẽ ra Chúa Giêsu bắt mọi người quy phục mình, nhưng trái lại, trên chặng đường thương khó, Chúa để cho quân lính chế ngự Người, bắt Người vác thập giá lảo đảo tiến lên pháp trường theo lệnh truyền và những lời quát tháo của những tên lính hung hăng. Chúa Tể trời đất đã khiêm nhường chịu thua hết thảy mọi người và để mặc cho người ta hành hạ.
- Chúa chết trên thập giá: Cuối cùng, tuy là Chúa Tể càn khôn, Chúa chịu để cho quân lính lột áo ra, đóng đinh tay chân Người vào thập giá và bị treo thân trên thập giá giữa hai tên đạo tặc, chia chung án chết với những kẻ côn đồ. Dù bị hành hạ đến mức nào đi nữa, Chúa Giêsu vẫn khiêm nhường chịu mọi nhục hình cho đến chết.
Kiêu ngạo là đầu mối, là nguồn mạch phát sinh nhiều tội lỗi, là một trong bảy mối tội đầu; còn khiêm nhường là nhân đức cao vời và là liều thuốc thần diệu cứu con người khỏi kiêu căng tự mãn. Ước chi mỗi lần đọc Kinh Mân Côi, chúng ta biết nhìn ngắm tấm gương khiêm nhường sâu thẳm của Chúa Giêsu, học sống khiêm nhường như Chúa để nhờ đó, chúng ta triệt bỏ được tính kiêu căng và làm cho đời sống mình trở nên cao đẹp và giống Chúa hơn.
15. Tại sao chúng ta đọc Kinh Mân Côi
(ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Kính thưa cộng đoàn, Trên các trang mạng công giáo ngày hôm nay, cách riêng trang mạng của HĐGMVN, người ta thấy xuất hiện một lá thư của Hội đồng gửi đến toàn thể cộng đoàn dân Chúa Việt Nam. Bức thư ấy cho biết nỗ lực làm việc của Đại hội XI mới kết thúc hôm qua, tập trung vào tài liệu làm việc dành cho đại hội dân Chúa sẽ được qui tụ vào cuối tháng 11. Ở cuối bức thư, có xin toàn thể mọi người bằng kinh Mân Côi, hãy cầu nguyện cho Đại hội đem lại những thành quả tích cực.
Tại sao xin cầu nguyện mà lại cầu nguyện bằng kinh Mân Côi? Có lẽ vì lý do thực tế bức thư được viết vào lễ Đức Mẹ Mân Côi, bức thư được viết vào tháng Mân Côi. Nhưng bên trong, HĐGMVN muốn kêu gọi toàn thể dân Chúa vốn là dân vẫn yêu mến Đức Trinh Nữ Maria, vẫn yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy bằng chính tràng hạt Mân Côi ký thác Đại hội dân Chúa tháng 11 này cho Đức Trinh Nữ Maria. Đó là một tình cảm rất đậm đà, mà cũng là nhiều gợi ý cho chúng tôi muốn chia sẻ với cộng đoàn trong thánh lễ sáng nay về kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm hiệp thông và sứ vụ.
I. Trước hết, thưa cộng đoàn, kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm ai trong chúng ta cũng biết từ thưở còn tấm bé, vẫn nghe nói đến và sướng lên những mầu nhiệm Mân Côi. Ngày xưa là 15 mầu nhiệm, nhưng hôm nay là 20: Vui, Sáng, Thương, Mừng đầy đủ. Mỗi một sự kiện được xướng lên, mệnh danh là một mầu nhiệm trong tâm tình kinh đọc.
Nhưng cùng với Đức Maria và trong Đức Maria, người ta thấy những mầu nhiệm ấy cũng thoát lên cả một sức sống mầu nhiệm mà Đức Trinh Nữ Maria cá nhân đã được dẫn dắt vào, và mở ra cho cộng đoàn Giáo Hội cả một sức sống rộng dài lịch sử cứu rỗi hôm qua cho đến hôm nay, và còn mãi ngàn sau.
Chỉ xin đan cử mầu nhiệm Truyền Tin trong Tin Mừng hôm nay vừa gợi lên, cũng là ngắm thứ nhất Mùa Vui. Cộng đoàn chúng ta cũng thấy là cả một mầu nhiệm tuyển chọn Thiên Chúa dành cho Đức Maria. Nếu như trong Tin mừng hôm nay có tô đậm lời chào của Thiên sứ Gabrien dành cho Đức Mẹ trong buổi Truyền Tin với một danh xưng tuyệt vời, nằm mơ cũng không thấy, đó là danh xưng Đấng Đầy Ơn Phúc. Một danh xưng họa hiếm trong Thánh Kinh, và cũng là một danh xưng nói lên cả một mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa tuyển chọn Đức Trinh Nữ Maria, để thông qua Mẹ tuôn đổ xuống tất cả mọi người. Ông bà anh chị em cứ nghĩ mà xem, trước đó Đức Maria chưa là gì. Thế nhưng, kể từ buổi Truyền Tin, cách riêng với lời chào Đấng Đầy Ơn Phước, Mẹ đã trở nên một nhân vật không thể thiếu được, và cũng là nhân vật mẫu gương, nhân vật điển hình, hay nói theo kiểu ngày hôm nay, Mẹ là người mẫu để khởi đi từ đó mở ra một nhãn giới sự sống mầu nhiệm cho toàn thể Hội Thánh.
Mẹ được tuyển chọn trong mầu nhiệm mà ngày hôm nay chúng ta gọi là mầu nhiệm Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ cũng được tuyển chọn trong mầu nhiệm đồng trinh khi thụ thai, và cũng là mầu nhiệm tuyển chọn khi Mẹ cung cấp chất liệu xác thân của mình cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành làm người trong cuộc sống nhân lọai. Ở đây, Mẹ chính là Mẹ Thiên Chúa. Và mầu nhiệm của tháng 8 vừa qua chúng ta cử hành, mầu nhiệm Mẹ Hồn Xác Lên Trời, tất cả đều quyện lại trong một sự sống, sự sống Thiên Chúa đã ban cho Mẹ trong mầu nhiệm tuyển chọn, để rồi với hình mẫu ấy, tất cả mọi tín hữu đều gắn bó với Mẹ, đi theo bước đường Mẹ đã đi, cũng được tháp nhập vào trong sự sống của Đức Kitô, để đến với sự sống của Thiên Chúa, vốn là sự sống hồng ân Chúa dành cho tất cả mọi người.
Vâng, mầu nhiệm không phải là cái gì đơn thuần mình nghĩ là vượt quá tầm hiểu biết, có tin cũng không đạt được. Mà mầu nhiệm ở đây trước hết xin hiểu là một sự sống mênh mông trong đó mỗi người chúng ta được dìu dắt đến và cứ như vậy, như biển cả, như đại dương, càng ngụp lặn đến thỏa thích, mà vẫn không bao giờ no thỏa cơn khát của tấm lòng. Bằng kinh Mân Côi, Đức Maria đã dẫn chúng ta vào tất cả những mầu nhiệm từ ân tuyển chọn cho đến thông qua Đức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm cứu độ, và còn mở ra cho tương lai của hậu thế của mọi người chúng ta trong Đức Kitô. Đó là mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa trao gửi cho con người, ban tặng cho con người, và làm sao mỗi người khi đọc kinh Mân Côi, cũng để cho chính mầu nhiệm sự sống ấy được triển nở lên trong cuộc đời riêng của mình cũng như trong cộng đoàn mà mình là thành phần.
Kết thúc mấy ngày đại hội vừa qua, các Giám mục chúng tôi được mời tra lại sức khỏe, ở đó có việc thử máu, cũng như các Linh mục của các giáo phận nước Việt Nam trong năm vừa qua cũng được mời để làm như thế. Kết quả là Giám mục nào cũng khám phá ra được điều gì đó trong vận hành máu huyết của mình không phù hợp lắm với chính bước đi của mình hôm nay. Có những lắng lo, và bên cạnh đó cũng có những vui mừng khi ai đó khám phá ra mình hôm nay vẫn còn khỏe mạnh cho dẫu đã ở tuổi 65 hoặc 70. Quan sát như thế và cũng chia sẻ với nhau ưu tư một chút về vấn đề ấy, chúng tôi trộm nghĩ mỗi một tín hữu, từ Giám mục cho đến mọi người giáo dân, ắt hẳn ai cũng khám phá trong máu huyết của mình có một sức sống. Sức sống ấy không được ý tự, sức sống có thử máu cũng không tìm ra. Nhưng sức sống ai cũng cảm nghiệm được, cũng nhận thấy, đó là sức sống Kitô nơi chính máu huyết của mình, bất kể đó là những loại máu A, B, C, D,... Nhưng ở đây, là Kitô hữu, chúng ta mang dòng máu Kitô. Dòng máu ấy chỉ được thử nghiệm trong tình yêu thật với Đức Kitô và cách riêng bằng tràng hạt Mân Côi. Vào dịp này, ta sẽ nghiệm được đó là mầu nhiệm dàn trải và mời gọi mỗi người chúng ta đón nhận cũng như sống lấy. Vâng, đó là khía cạnh trước hết trong nhãn giới mầu nhiệm.
II. Khía cạnh thứ hai chia sẻ với cộng đoàn, bằng kinh Mân Côi, người ta cũng nhận ra khía cạnh hiệp thông trong đời sống tín hữu. Nếu như phần đầu của từng mầu nhiệm Mân Côi, theo như thói quen chúng ta vẫn đọc. Ví dụ ngắm thứ nhất Mùa Vui Thiên Thần truyền tin cho Đức Mẹ,..., và phần sau là Ta hãy xin cho được khiêm nhường. Phần sau này chính là tâm tình hiệp thông của tất cả mọi tín hữu, của từng cá nhân, khởi đi từ mầu nhiệm mình gẫm suy, cũng như của từng cộng đoàn gắn bó nhịp sống của mình với mầu nhiệm mà mình đang suy tưởng. Ở đây là một sự nối kết giữa mầu nhiệm sự sống với hành trình sự sống của mỗi người trong tinh thần hiệp thông. Chính nhãn giới hiệp thông này, ta gặp thấy trọn vẹn đời sống của mình được dàn trải ra từ những ngóc ngách của suy tư, cho đến những lối ngõ của hành động. Ở đó, đâu đâu cũng có sự đồng hành của Đức Trinh Nữ Maria. Cộng đoàn cứ thử nghĩ mà xem, trong ngày thăm viếng, Đức Maria đã làm gì. Ngài không đến để chia sẻ, để niềm vui của Mẹ được hiệp thông với Bà Isave, mà cuối cùng là bừng vỡ lên niềm vui của hai thai nhi, hai bà bầu trẻ và trọng tuổi hơn gặp nhau, làm cho hai thai nhi cũng gặp gỡ. Rốt cuộc, phát tỏa trong điệu nhảy niềm vui của Gioan Baotixita, nhảy hôm qua cho đến hôm nay và ngàn đời vẫn cứ tiếp tục nhảy.
Trong lịch sử của âm nhạc, có nhiều điệu nhảy kết thúc bằng chữ A, điệu nhảy Chachacha hay Lămbada... Vì thế, đây cũng có thể gọi là điệu nhảy Gioan Baotixita, để tất cả mọi người trong mầu nhiệm ấy được hiệp thông niềm vui của mình, làm sao cho kinh đọc, cho suy tưởng, và cho đời sống của mình cũng vươn lên trong những điệu nhảy của tấm lòng, điệu nhảy niềm vui, sẻ chia. Và rồi còn nhiều mầu nhiệm khác trong 15 hoặc là 20 ngắm Mân Côi, người ta cũng thấy Đức Trinh Nữ Maria ở đó khuôn mẫu cho tình hiệp thông gắn bó. Gắn bó với đối tượng mà Mẹ tìm đến gặp gỡ, cũng như gắn bó trong nhãn giới của Hội Thánh hôm nay. Đây là một niềm vui không bao giờ chấm dứt.
Ngày hôm nay, cộng đoàn của mỗi người chúng ta cử hành lễ Mân Côi, được nhìn trong nhãn giới hiệp thông. Hiệp thông của từng người với nhau làm thành niềm vui lớn đã đành, nhưng còn là niềm vui hiệp thông cảm tạ Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban cho Hội Thánh hiệp thông với Đức Trinh Nữ Maria. Đó là nhãn giới thứ hai, nhãn giới hiệp thông. Và gắn với liền đó là mênh mông bao là những biến cố cũng như tâm tình mà cộng đoàn có thể gắn bó tiếp nối vào đó mà tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria.
III. Nhãn giới thứ ba chính là nhãn giới sứ vụ. Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Không phải vì có Giáo Hội, rồi mới có sứ vụ truyền giáo. Nhưng bởi vì đã có lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu trao cho các tông đồ, thế nên phải thành lập một tổ chức để thi hành, đó chính là Giáo Hội. Giáo Hội được khai sinh từ lệnh truyền truyền giáo của Đấng Phục Sinh, và khởi đi từ đó, tất cả những ai biết mình là thành viên của Giáo Hội luôn luôn canh cánh bên lòng, từ ước vọng cho đến thao thức, và thể hiện ra qua những công việc truyền giáo cụ thể mình thực hiện được tại địa bàn dân cư mà mình là thành phần. Nói một cách vắn gọn, sứ vụ ở đây có nghĩa là mình đã hiệp thông với mầu nhiệm sự sống, mình đã đáp ứng bằng nhịp sống cá nhân làm thành niểm vui, thì tới phiên mình, trong tư cách là thành viên của Hội Thánh, mình cũng trao gửi, mình cũng sẻ chia niềm vui ấy cho tất cả những ai mình gặp gỡ. Có thể là những người chưa biết đến đạo giáo, có thể là những người năm nào đó đã biết rồi, đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đã là Kitô hữu rồi, nhưng đã bị lớp bùn thời gian và nếp sống của họ phủ lên chính lòng tin. Vì vậy, khi mình trao gửi niềm vui, khi mình chia sẻ lại ơn mình lãnh nhận được, mình mời gọi họ bước vào nẻo đường tạ ơn. Đó cũng chính là lúc mình đang sống tinh thần sứ vụ của Hội Thánh.
Kinh Mân Côi là một kinh mở ra cho mỗi tín hữu nhãn giới sứ vụ ấy. Nếu như trong biến cố thăm viếng, Đức Maria đã bước chân trong sứ vụ vượt qua nẻo đường cả một trăm kilômét, không biết bằng đi bộ hay ngồi trên lưng lừa, nhưng Mẹ đã vượt nẻo đường xa để chia sẻ niềm vui với một người chị em trọng tuổi hơn mình. Hay là trong năm sự sáng, Đức Maria hiện diện tại đám cưới Cana, Mẹ đã đôn đáo, mới đầu chỉ như một thông tin cỏn con dành cho người con thân yêu của mình họ hết rượu rồi, để rồi sau đó ngược xuôi, chạy đi chạy lại đôn đáo, làm sao cho hòa cùng vào một nhịp. Nhất là giải quyết được vấn đề - rượu được tràn đầy và niềm vui của đám cưới được diễn tả ra. Không mất danh dự của đám cưới, mà còn khơi thêm niềm vui, cách riêng khơi thêm niềm tin cho các môn đệ đầu tiên tìm theo Chúa Giêsu. Rõ ràng, trong biến cố ấy, Đức Maria là hình mẫu của con người sứ vụ, để rồi hôm nay, mỗi người chúng ta qua Kinh Mân Côi cũng khám phá lại được tiếng gọi sứ vụ đang thúc đẩy chúng ta đến với tất cả những anh chị em xung quanh mình. Bất luận bằng một lời kinh, bằng một tâm tình chia sẻ, bằng một lời nói ủi an. Rõ hơn nữa, bằng một cử chỉ gì đó giúp đỡ, Vâng, chỉ xin thâu tóm lại trong nhãn giới ấy, nhãn giới mầu nhiệm, nhãn giới hiệp thông, nhãn giới sứ vụ của kinh Mân Côi.
Trong dịp cử hành thánh lễ Mân Côi cùng với cộng đoàn đây. Trong niềm vui cảm tạ khơi lên cùng với HĐGMVN lời chia sẻ dành cho cộng đoàn dân Chúa – hãy yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy cầu nguyện bằng tràng hạt Mân Côi, và hãy thả vào đó tất cả tâm tình của mình. Một mặt để nhận được sức sống mầu nhiệm Thiên Chúa gửi trao, và một mặt khác, chính mình cũng nhận ra sức sống ấy trong từng nhịp sống, trong từng lời kinh của mình. Một khi đã nhận được như vậy, chính mình trở thành tông đồ sẻ chia cho những người xung quanh.
Xin nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi, mà chúng ta đang cử hành trong thánh lễ đây, cho mỗi người tín hữu chúng ta, cách riêng trong tháng này, cũng biết yêu mến tràng hạt Mân Côi. Trước đây đã yêu rồi, đã lần hạt nhiều lần rồi, nhưng ta thử đọc lại bằng một tâm tình, một tâm tình mới mà HĐGM mời gọi ấy, để thấy được rằng cả một sức sống nhiệm mầu, hiệp thông, và sứ vụ đang ùa vào tâm hồn mỗi người chúng ta. Xin kết thúc bằng một vần thơ nhỏ:
Gửi em một chục Mân Côi
Để em sớm tối học lời cầu kinh
Mẹ trên cao sẽ thương tình
Cho em hạnh phúc, gia đình an vui.
Gia đình đây là cộng đoàn. Gia đình đây là gia đình riêng của mỗi người. Gia đình đây cũng là tập thể giáo xứ, là giáo phận, là đất nước, là tất cả mọi người chúng ta.
Xin Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi ban muôn ơn lành xuống trên tất cả mọi người. Amen.
16. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu.
(Từng Bước Một Thôi – ĐGM. Vũ Duy Thống)
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là "lời kinh diệu kỳ".
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư "Kinh Mân Côi", một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?
1) Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử.
Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ "Mẹ ơi" từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.
Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nếu "nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một" là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội "khi nay và trong giờ lâm tử". Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.
2) Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô.
Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là "cuốn Phúc Âm rút gọn", rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.
Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp người..., nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là "lưu giữ và suy niệm trong lòng", tức là "khẩu tụng" đều đều lời kinh Đức Mẹ và "tâm suy" dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.
"Ad Jesum per Mariam" chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.
3) Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh
Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù "ma quỷ, thế gian, xác thịt", và là sinh tố tăng cường ba việc "nên thánh, mến Chúa, yêu người".
Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.
Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà "tu hành" nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện "bỏ túi" (hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.
Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên đường thánh hóa. Đối với cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm khởi đầu cho năm học mới, ta quyết tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm học mới tâm hồn được bình an hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.
17. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng.
('Với cả tâm tình – ĐGM. Vũ Duy Thống)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn. Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không phải là mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân Côi.
1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
"Kính mừng Maria đầy ơn phúc". Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan trọng và chính yếu. Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý Chúa. Phần chìm ấy là tiếng "Xin Vâng".
"Xin Vâng" là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của Thiên Chúa. "Xin Vâng" là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần, mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để đánh đổi. "Xin Vâng" là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn. "Xin Vâng" là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa.
Rõ ràng tiếng "Xin Vâng" đã thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.
Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng "Xin Vâng", để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.
"Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội". Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm tình duy nhất. Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên chính phận mình để trở nên "Đức Mẹ Chúa Trời", thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh đức. Do đó, danh hiệu "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời" chính là lời kính mừng trang trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong đời mình.
Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Vì thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan "Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội" một cách chân tình với lòng trông cậy.
Bên kia lời "cầu cho chúng con là kẻ có tội" là cả một tình mẫu tử thiêng liêng. Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin "Thánh Maria", và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.
Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.
3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi
Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.
Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi người. Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.
Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu "Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng", để thấy được rằng muốn có chiến thắng không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.
Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u đầu sứt trán. Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi là "đất Đức Bà", đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ. Người ta gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.
Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.
18. Kinh Mân Côi và Giáo Hội.
Kinh Mân côi là một việc đạo đức của Giáo hội Công giáo.
Thực vậy, trước hết các Đức Giáo Hoàng, nhất là các Đức Giáo Hoàng gần đây nhất, đã không ngừng kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi, nơi mỗi cá nhân cũng như trong các gia đình.
Chẳng hạn Đức Thánh Cha Piô IX đã khuyên nhủ chúng ta hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình. Cũng chính ngài đã xác định:
- Kinh Mân côi là một kho tàng quý giá nhất của Giáo hội.
Tiếp đến Đức Thánh Cha Lêô XIII đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải lần hạt, và người ta đã gọi ngài là vị Giáo Hoàng của kinh Mân côi. Ngài đã xuất bản khoảng 12 thông điệp nói về Kinh Mân Côi, ấy là không kể đến 8 văn kiện khác nữa, chính ngài đã thiết lập tháng Mân Côi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ vương rất thánh Mân côi, cầu cho chúng con.
Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắc bảo chúng ta:
- Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối.
Đức Thánh Cha Piô XI cũng đồng quan điểm ấy khi ngài viết:
- Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Piô XII cũng đã khuyên nhủ các bạn trẻ:
- Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi.
Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân côi, ngài xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục:
- Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày.
Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Gioan XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại, ngài cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi.
Xem đó chúng ta thấy các Đức Thánh Cha đều nhất trí về sự tuyệt hảo của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi.
Và các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi khẩn thiết ấy. Từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, đâu đâu người ta cũng lần chuỗi. Tôi xin kể lại mẫu gương của thày Patrick Peyton.
Thày là một đại chủng sinh bị đau yếu trầm trọng. Các bác sĩ đều bó tay. Trong âm thầm, mẹ thày đã cầu nguyện và xin được chết thay cho thày. Và sự thực đã xảy ra. Người mẹ chết và thày được sống. Sau khi thụ phong linh mục và để tạ ơn Đức Mẹ, thày đã dâng hiến trọn cuộc đời cho việc loan truyền sứ điệp Fatima bằngcách thành lập một tu hội với lời dốc quyết lần chuỗi mỗi ngày. Tu hội này ngày nay có trên mười triệu người gia nhập. Họ thường đọc kinh chung với những người khác trong nhà thờ, nơi xưởng thợ và trong những môi trường khác nhau.
Có những trường đại học bên Mỹ vẫn lần chuỗi mỗi ngày để cầu cho những người tội lỗi ăn năn. Có những chương trình lần chuỗi trên truyền thanh, truyền hình vào những giờ giấc nhất định, để những người Công giáo có thể hợp ý cầu nguyện, dù ở nhà, trong xe hơi hay đang làm việc.
Bởi vậy, hãy siêng năng lần hạt để thực thi lệnh truyền của Mẹ, để đáp trả lại những lời mời gọi của các Đức Thánh Cha và nhất là để chúng ta được Mẹ yêu thương và chúc phúc.
19. Suy niệm của ĐGM. Bùi Tuần.
THÁNG MÂN CÔI: NHỚ LỜI ĐỨC MẸ NHẮN NHỦ
Thế giới đang đi vào một hoàn cảnh nghiêm trọng. Nghiêm trọng nhất là bệnh tình của tâm hồn con người: Lỗi lầm cá nhân tăng. Tội ác tập thể tăng. Suy thoái đạo đức tăng. Người ta huỷ hoại nhau và tự huỷ. Nhiều nơi đang rơi vào nguy cơ tan rã. Quỉ ác xem ra đã thiết lập được một trật tự tội lỗi vững chắc trong thế giới, kể cả những vùng cực kỳ hữu thần.
Tình hình này đang bùng nổ ra những bất ngờ bi đát. Chúng ta khó tránh được những ảnh hưởng đa dạng của các chuyển biến bi thảm.
Những thời sự gay gắt đang khiến những ai thao thức với sự sống con người và Nước Trời phải băn khoăn. Họ nhớ lại những gì Đức Mẹ Maria đã cảnh báo tại Lộ Đức, tại La Salette, tại Fatima.
Đức Mẹ báo trước những tai hoạ khủng khiếp sẽ xảy ra do tội lỗi chồng chất của thế giới gây nên.
Để làm nhẹ đi những tai hoạ này, Đức Mẹ nhắn bảo các con cái Mẹ hai điều:
Một là hãy cầu nguyện,
Hai là hãy ăn năn sám hối.
Dưới đây, tôi xin phép góp ý sơ qua về sự thực hiện hai điều trên đây.
Cầu nguyện.
Nhìn qua thế giới xung quanh, tôi thấy có những người không hề cầu nguyện, có những người không thích cầu nguyện, có những người rất ít cầu nguyện, có những người không biết cầu nguyện. Bốn hiện tượng này đã khá phổ biến.
Vì thế, khi cầu nguyện, thiết tưởng nên khởi sự từ việc xin Chúa ban cho ta ơn cầu nguyện. Kinh nghiệm bản thân cho tôi thấy: Cho dù tuổi nào, bậc nào, con người ta vẫn cảm thấy ứng nghiệm lời thánh Phaolô viết: "Có Thánh Thần giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Nhưng chính Thánh Thần cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can, biết Thánh Thần muốn nói gì, vì Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho các thánh đúng ý Thiên Chúa" (Rm 8,26-27).
Thực vậy, rất nhiều khi chúng ta cầu nguyện không đúng ý Thiên Chúa. Rất nhiều khi chúng ta cầu xin Chúa làm theo ý chúng ta, chứ chúng ta không sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Hoặc là cầu xin một cách phô trương, kiêu hãnh kiểu Pharisêu, chứ không với cách khiêm nhường kín đáo như người thu thuế.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: Biết bao lần cả trong chính khi đọc kinh, dâng lễ, chúng ta cũng có thể sa vào những tư tưởng, lời nói, việc làm sai trái, mà thánh Phaolô đã than: "Sự lành tôi muốn, thì tôi không làm. Còn sự xấu tôi không muốn, thì tôi lại làm" (Rm 7,20). Hiện tượng cầu nguyện với sự nguội lạnh, khô khan, với những tâm tình ghen ghét hận thù, gian dối, tham lam, kiêu căng, tự phụ tự đắc là hiện tượng không phải hiếm hoi gì.
Những việc cầu nguyện như thế chắc chắn không đáp ứng lời nhắn nhủ của Đức Mẹ. Hãy xin ơn biết cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện theo cách lần chuỗi mân coi như ý Đức Mẹ. Hãy tập cầu nguyện trong thân phận khiêm tốn của người tội lỗi van nài lòng thương xót Chúa tha tội và giúp chúng ta khỏi sa vào bẫy ma quỉ. Hãy cầu nguyện để chúng ta nên giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu.
Ăn năn sám hối.
Chúa đã thương yêu ta từng chi tiết nhỏ. Như thánh vương David nói: "Tạ ơn Chúa đã thương con cách lạ lùng. Công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con Ngài không lạ lẫm gì. Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy. Mọi ngày đời được dành sẵn cho con, đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu đời của con khởi sự" (Tv 139,14-16).
Chúa thương ta và muốn ta phát triển theo hướng tốt lành Chúa muốn. Nhưng thực tế cho thấy nhiều khi ta phát triển sai hướng. Tiên tri Baruc nói: "Chúng tôi đã không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, đã không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng tôi. Mỗi người chúng tôi đã cứ theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình mà phục vụ các thần khác, và làm điều dữ trước mặt Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi" (Br 1,21-22).
Các thần tượng mà nhiều người chúng ta thường đi tìm, chạy theo và tôn thờ là danh vọng, tiền của, thành công, lạc thú, biếng lười. Thần lớn nhất là cái tôi.
Khi Đức Mẹ khuyên nhủ chúng ta ăn năn sám hối, Đức Mẹ muốn chúng ta khởi sự bằng việc đốt nóng lên niềm tin. Tin là gắn bó thân mật với Chúa. Ngài là khởi đầu, là cùng đích và là hạnh phúc của ta. Tin là chấp nhận Lời Chúa là chân lý. Tin là sống theo thánh ý Chúa. Tin là thực thi điều răn: Mến Chúa yêu người.
Với niềm tin như thế, người sám hối cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn đổi mới. Khi được ơn Chúa Thánh Thần, họ sẽ nhìn thấy rõ hơn những tai hại của tội lỗi, họ sẽ hối hận vì đã xa lìa Chúa. Quyết tâm của họ sẽ không dừng lại ở sự gỡ bỏ khỏi tội lỗi, mà còn ước muốn được sống trong' tình yêu Chúa. Hơn nữa, họ muốn đi theo Chúa, dấn thân cứu đời.
Dấn thân đòi phải có tinh thần chiến đấu. Trong chiến đấu để làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu, nhiều khi tôi có cảm tưởng là phải rất can đảm. Nhưng kinh nghiệm cho tôi thấy ơn biết sống dịu dàng, nhân hậu, tế nhị, khiêm tốn và thương cảm còn cần hơn.
Ăn năn sám hối cũng còn đòi tinh thần đền tội. Tinh thần đền tội đi theo tinh thần đức tin và xuất phát từ tinh thần đức tin.
Chúng ta tin chắc rằng: "Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta" (1Ga 4,10).
Nếu chính Đức Kitô đã dâng mình chịu nạn để làm của lễ đền tội cho chúng ta, thì không lẽ chúng ta lại được phép dửng dưng với việc đền tội của chính chúng ta.
Hiện nay, việc đền tội được hiểu một cách qúa sơ sài và được thực hiện một cách quá tượng trưng. Tôi thiết nghĩ thói quen đó là không đúng. Chúa Giêsu có lần đã phán: "Giống quỉ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện" (Mt 17,21). Lời Chúa dạy trên đây rất có thể áp dụng vào việc đền tội, khi việc đền tội vừa là sửa chữa lại lỗi lầm đã qua, vừa ngăn ngừa ma quỉ trở lại tái chiếm con người sám hối.
Với vài gợi ý trên đây, tôi tin rằng rất nhiều con cái Đức Mẹ khắp nơi sẽ nhìn lên Đức Mẹ. họ sẽ sốt sắng cầu nguyện và sám hối. Chắc chắn Đức Mẹ nhân lành sẽ cầu bầu cho nhân loại đáng thương này.
20. Tôi là nữ tỳ của Chúa.
(Manna)
Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu. Ngài là Con Đấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35). Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo. Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương. Thiên thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được Đức Chúa ở cùng (c.28), là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30). Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm mẹ Đức Giêsu. Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô" (c.35). Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Lời mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây xáo trộn những dự định và tính toán riêng tư. Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con. Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một cách bình thường với ông Giuse, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có một người con, không phải với Giuse, và tương quan giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi.
Maria không hiểu hết con đường mình sắp đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối. Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài không làm được. Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác. Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Lắm khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có. Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời. Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ, chuyện đó cần đến lòng tin. "Phúc cho em là kẻ đã tin..." (Lc 1,45).
Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không? Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ tất cả những tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.
Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa đã nói với Đức Maria qua vị thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn và mời bạn cộng tác không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua một người hay một biến cố trong cuộc sống không?
Để xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người đời để dựa vào Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa
21. Cầu nguyện và cải thiện đời sống
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một "chuồng ngựa". Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Thế giới hôm nay ngày càng tục hoá. Ma quỷ cũng đang biến thế giới này thành nơi hưởng lạc, hưởng thụ và sa đoạ. Đặc biệt là Việt Nam hôm nay có rất nhiều cái nhất:
* Tai nạn giao thông nhất thế giới mỗi ngày trung bình 31 người chết. Đa số là coi thường tính mạng của mình và của tha nhân nên chảy ẩu, chạy thiếu nhường nhịn nhau...
* Tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới mỗi năm khoảng 2 triệu thai nhi bị giết.
* Với mức tiêu thụ 2,7 tỷ lít bia trong năm, khoảng 24 lít trên/đầu người/năm, bằng 1/10 so với châu Âu, Việt Nam đã trở thành nước thứ ba có sản lượng tiêu thụ bia cao nhất châu Á, sau Nhật và Trung Quốc.
* Theo thống kê năm 2010 của Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội cho thấy, tỷ lệ trẻ em chết đuối ở Việt Nam cao nhất khu vực Đông Nam Á. Cứ mỗi ngày lại có 10 trẻ em tử vong vì chết đuối, độ tuổi từ 7- 15. Điều đáng nói là những cái chết tức tưởi của trẻ em hầu hết đều xuất phát từ... người lớn.
Xem ra xã hội ngày hôm nay cũng đáng báo động. Báo động về một làn sóng hưởng thụ bất chấp tính mạng của mình và của người khác. Con người ngày nay đáng báo động như thời ông Noe đóng tàu, còn nhân loại thì vẫn say sưa, vẫn chè chén, vẫn truỵ lạc... Phải chăng đây cũng là thời kỳ mà Mẹ Maria đang mời gọi con cái mình không chỉ sám hối mà còn gia tăng cầu nguyện cho các tội nhân.
Trong cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi, Thánh Luy Maria Mongpho thuật lại sự tích Kinh Mân Côi như sau:
Vào cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:
- Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế giới không?
Thánh Đaminh đáp:
- Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho phần rỗi chúng con.
Đức Mẹ bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
- Mẹ muốn cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho các linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của Mẹ.
Thánh nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy. Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
Khi thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung, trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo oán nếu họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh Mongpho cho rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen năm xưa, để chứng thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình cứu độ nhân loại.
Dân chúng thành Toulouse đã yêu chuộng Kinh Mân Côi và từ bỏ bè rối để trở về với đức tin chân thật. Từ ấy, việc sùng kính Phép Lần Hạt Mân Côi được gắn liền với sự thánh thiện của người tín hữu. Vậy nên, mỗi khi thấy một tín hữu bắt đầu sống sa đọa, người ta có thể kết luận một cách chắc chắn rằng: một là người ấy đã bỏ đọc Kinh Mân Côi; hai là người ấy chỉ đọc Kinh Mân Côi cách cẩu thả.
Trong tháng Mân côi, giáo hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng cầm lấy Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Khi đọc kinh Mân côi chúng ta cậy nhờ lời bầu cử của Mẹ, xin Chúa ban cho những kẻ tội lỗi được ơn trở lại, xin cho chúng ta ơn can đảm để chống lại những cám dỗ của ma quỉ, và theo gương Mẹ sống gắn bó và tuân hành thánh ý Chúa.
Vì thế trong tháng Mân Côi và Tháng Các linh hồn, xin mỗi gia đình hãy dâng chuỗi Mân Côi hằng ngày của gia đình mình cầu nguyện cho một gia đình đang bất hòa, đang rối đạo hay nguội lạnh được ơn trở về. Xin mỗi một cá nhân hãy chọn lấy một người bạn để cầu nguyện cho họ sớm ăn năn sám hối và tin phục Thiên Chúa. Ước gì mỗi người trong giáo xứ chúng ta biết dâng những hy sinh, những lời kinh Mân côi để đền bù lại những tội lỗi của con người hôm nay. Amen.
22. Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Nói về Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi, nhân loại đang sống trong lòng tin sẽ không bao giờ có thể phủ nhận được con đường Mẹ dậy mọi người đi với ba mầu nhiệm: Nhập thể, Đau khổ và Phục sinh của Con duy nhất của Mẹ là Chúa Giêsu Kitô luôn rõ nét, sáng ngời giữa mọi biến cố của lịch sử cứu độ. Mẹ Maria như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết: "Vào bình minh của ngàn năm mới, chúng ta vui mừng nhận thấy nổi bật lên 'chiều kích Thánh Mẫu' của Hội Thánh, ấp ủ trong mình nội dung sâu thẩm nhất của việc canh tân do công đồng đề xướng". Con cái của Mẹ theo sau Mẹ đi từng chặng đường của Con Mẹ đã đi qua. Con đường ấy không đâu xa, đó là con đường: Vui, Thương, Mừng mà nhân loại muốn đi vào nước trời không thể nào không bước qua những chặng đường ấy.
MẸ MARIA TRONG LỊCH SỬ CỨU ĐỘ
Maria được Thiên chúa tuyển chọn để làm Mẹ Đức Giêsu Kitô và làm Mẹ nhân loại. Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm đảo lộn cả lịch sử nhân loại, mặc cho nhân loại một ý nghĩa mầu nhiệm, sâu xa. Nếu không có lời Xin Vâng của Mẹ, nhân loại đã khác hẳn, nhân loại chẳng bao giờ có ngày hôm nay. Với tiếng Xin Vâng, Mẹ Maria đã tận hiến và chấp nhận ý định của Thiên Chúa, hiến toàn thân mình cho Thiên Chúa, để cùng với Ngài thực hiện chương trình cứu độ nhân loại. Mẹ Maria đã nắm một vai trò thật đặc biệt và quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Sở dĩ Mẹ Maria được Thiên Chúa trao cho một vai trò lớn lao, quan trọng như thế là vì Maria được tràn đầy ân sủng,Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa ở cùng, ở với Mẹ là hạnh phúc lớn nhất, khiến Mẹ luôn đầy phước lộc chứa chan, nhờ đó Mẹ chiếu tỏa ánh sáng và ân sủng cho mọi người. Maria là một người Mẹ, người Mẹ hoàn toàn đúng nghĩa của nó, một người Mẹ đầy yêu thương, vì Mẹ có đầy hồng phúc. Mẹ Maria là một người trong nhân loại, là một người nữ đúng nghĩa nhất, nhưng Maria lại là một người nữ đặc biệt vì Maria làm đẹp lòng Thiên Chúa. Maria đặc biệt hơn nữa vì tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, tinh trong, sáng ngời của Mẹ. Maria hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu Mẹ Thiên Chúa vì Mẹ đã chỉ cho nhân loại phải bước theo những chặng đường con của Mẹ là Chúa Giêsu đã bước qua.
"CÁC CON ĐỪNG SỢ, THẦY ĐÃ THẮNG THẾ GIAN"(Ga 16,33)
Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã sống lại, lên trời, ban Thánh Thần cho các môn đệ và trở thành niềm cậy trông vững bền cho mọi người, Chúa hứa với các môn đệ và nhân loại: " Sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế "(Ga 14,18). Chúa là con của Mẹ Maria,nên Chúa phục sinh ở với nhân loại mãi mãi cho tới ngày cùng tận trời đất, chắc chắn Mẹ cũng ở với nhân loại cho tới tận thế, vì lúc nào Mẹ cũng mang Chúa trong lòng và giới thiệu Chúa cho nhân loại. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: " Nếu có sự chiến thắng thì Mẹ Maria là người chiến thắng". Mẹ đã hiện ra tại nhiều nơi như Lộ Đức, Fatima, Labouret, Nam Tư, La Vang và nhiều nơi khác trên khắp thế giới. Nơi nào Mẹ cũng khuyên nhủ:" phải ăn năn sám hối, và năng lần chuỗi Mân Côi ". Mẹ đã luôn giữ lời hứa và Mẹ luôn muốn con của Mẹ tất cả được thừa hưởng nước trời. Mẹ chiến thắng ma quỉ, sức mạnh của sự dữ. Mẹ chiến thắng tà thần."Trái tim hiến tế của Mẹ đã thắng tội lỗi và những tối tăm của quyền lực ma quỉ, sự dữ..."
LỄ MÂN CÔI NÓI GÌ CHO NHÂN LOẠI
Lễ Mân Côi làm cho dân Chúa hồi tưởng lại thời đạo binh thánh giá chiến thắng quân Phổ ở Lê-pan vào năm 1571 nhờ sự can thiệp của Đức Trinh Nữ Maria.Tuy nhiên, đó chỉ là lý do phụ. Điều cốt thiết của nhân loại là hiệp ý với Mẹ Maria, Nữ Vương An Bình, cầu nguyện cho mọi người nhìn nhận ý Thiên Chúa và tuân theo ý Người. Mẹ Maria đã nhiều lần hiện ra cho nhiều người ở nhiều nơi như Lộ Đức, Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette và tự giới thiệu ngài là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tại Fatima, Mẹ đã hiện ra với ba trẻ là Lucia, Phanxicô và Jacintha. Trong các lần hiện ra Mẹ đều khuyên các trẻ và nhân loại phải ăn năn sám hối, lần chuỗi và sống trung thành với Chúa. Chắc chắn, mọi người ở muôn thời đều muốn được hạnh phúc và vui vẻ để sống. Nhưng thái độ của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân như thế nào? Ta đã sám hối và cầu nguyện, lần chuỗi theo ý Mẹ đủ chưa? Nếu chưa, ta cần thay đổi lối sống, lần chuỗi siêng năng hơn để cùng với Mẹ đi vào các biến cố, các chặng đường của Chúa: Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh. Ta đã sống bác ái, yêu thương đủ chưa? Nếu chưa, ta cần sống tốt hơn và cố gắng đi vào định luật của tình yêu: " Chúng con hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con".
Lễ Mân Côi, một dịp để ta đi vào chương trình cứu rỗi của Chúa Giêsu và là một dịp để chúng ta cố gắng thay đổi con người mới, kết hiệp với Mẹ và sống theo lời khuyên của Mẹ: Sám hối, Cầu nguyện và Lần chuỗi.
Chuỗi Mân Côi là phương thế dễ dàng và hữu hiệu nhất để giúp ta sống trung thành với Đạo tình thương của Chúa Giêsu.
"Lạy Chúa,...xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con,để nhờ công ơn con Chúa chịu khổ hình thập giá,và nhờ Thánh Mẫu Maria chuyển cầu,Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh" (Lời nguyện nhập lễ, lễ Đức Mẹ Mân Côi).
23. Canh tân đời sống, lần chuỗi Mân Côi.
"HÃY CANH TÂN ĐỜI SỐNG & LẪN CHUỖI MÂN CÔI MỖI NGÀY"
* Câu hỏi gợi ý
1. Đức Ma-ri-a có vai trò gì trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa?
2. Đức Ma-ri-a và việc lần hạt Mân Côi.
3. Hãy học cùng Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Kitô.
* Suy tư gợi ý
1. Vai trò của Đức Ma-ri-a trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa:
1.1 Bài Tin Mừng về Truyền Tin trong Phúc Am Lu-ca cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của Đức Ma-ri-a trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa. Như bao thiếu nữ Do Thái khác khi sắp đến tuổi lấy chồng, Ma-ri-a cũng đã có chương trình riêng của mình. Người thanh niên mà nàng yêu thương và tính lấy làm chồng là Giu-se, thuộc chi tộc Đa-vít. Nhưng sau khi thiên sứ trình bày về kế hoạch của Thiên Chúa và được giải đáp thắc mắc một cách thỏa đáng, thì Ma-ri-a đã mau mắn chấp thuận lời đề nghị của Thiên Chúa và phó thác cuộc đời mình cho Ngài: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói."
1.2 Bài đọc 1 của Sách Tông đồ Công vụ cho chúng ta thấy vị trí của Đức Ma-ri-a giữa các Tông Đồ, tức giữa lòng Giáo hội sơ khai. Các vị chờ đợi Thánh Thần trong thanh vắng và cầu nguyện.
1.3 Bài đọc 2 của Thư Gá lát của Thánh Phaolô nói về việc Con Thiên Chúa sinh ra từ một phụ nữ theo đúng chương trình của Thiên Chúa để cứu chuộc mọi người và làm cho mọi người trở thành con Thiên Chúa, có quyền gọi Thiên Chúa là Cha (Abba).
2. Đức Ma-ri-a và việc lần hạt Mân côi.
2.1 Một trăm năm mươi Thánh vịnh đã được thay thế bằng 150 kinh Kính Mừng: Miệng đọc lòng suy 15 Mầu Nhiệm Mân Côi: Năm Sự Vui, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng. Đó chính là bản tóm tắt cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô và cũng là của Đức Ma-ri-a, vì hơn ai hết, Đức Mẹ đã cùng với Con bước các chặng đường Vui-Thương-Mừng ấy với tinh thần của lời "XIN VÂNG = FIAT!" mà Mẹ đã tuyên xưng trước khi Ngôi Lời Thiên Chúa đầu thai làm người trong cung lòng Mẹ.
2.2 Khi chúng ta đọc sự tích về các cuộc Đức Mẹ hiện ra, dù ở Lộ Đức hay ở Fa-ti-ma, dù ở Gua-da-lu-pe hay ở Mễ Du, hay ở La Vang.... chúng ta đều thấy Đức Mẹ nhắn nhủ người tín hữu hãy canh tân đời sống và siêng năng lần hạt Mân Côi để làm đẹp lòng Thiên Chúa: "Ta là Đức Mẹ Mân Côi, ta đã đến để cảnh báo các tín hữu canh tân đời sống và xin ơn tha thứ tội lỗi của họ. Họ không được xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì Ngài đã quá phiền muộn vì tội nhân loại. Loài người hãy lần chuỗi Mân Côi. Họ hãy tiếp tục lần chuỗi hàng ngày." (Thông điệp Đức Mẹ gởi cho chị Lu-xi-a 13/10/1917).
2.3 Thánh Đa Minh là người cố công rất lớn trong việc quảng bá việc đọc kinh Mân Côi trong Giáo hội, để cầu xin Chúa bảo vệ Giáo hội trước sự tấn công của kẻ thù.
Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: "Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân Côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân Côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân Côi".
Còn cha Stefano Gobbi viết: "Chuỗi Mân Côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân Côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân." Và "Chuỗi Mân Côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu"
3. Hãy học cùng Đức Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Kitô.
Chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể cứu độ nhân loại. Chân lý ấy không bao giờ chúng ta được lãng quên! Đức Mẹ, dù là Mẹ Thiên Chúa cũng chỉ là tạo vật. Nhưng Mẹ là tạo vật hoàn hảo nhất của công trình Tạo Dựng của Thiên Chúa và Mẹ là môn đệ "gương mẫu" nhất của Đức Giêsu. Tuy thế, Mẹ cũng đã phải vất vả, khổ đau trên con đường theo Đức Giêsu. Vì thế mà Mẹ có đủ khả năng, kinh nghiệm hướng dẫn, chỉ bảo chúng ta nếu chúng ta muốn bước theo Mẹ trên con đường theo Chúa! Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ để học cùng Mẹ!
Hơn nữa Thiên Chúa đã có ý đặt Đức Mẹ bên cạnh Chúa Giêsu và giữa Chúa Giêsu và chúng ta. Nếu nhờ có Chúa Giêsu mà Thiên Chúa trở nên gần gũi với con người hơn, thì cũng nhờ có Đức Mẹ mà chúng ta mạnh dạn và tin tưởng hơn khi dâng lời khẩn nguyện và tạ ơn lên Thiên Chúa.
NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con. Chúng con cũng cảm tạ Cha vì Cha đã chọn cho Con Một Cha một người Mẹ tuyệt vời là Đức Ma-ri-a. Cha đã đổ tràn ân sủng của Cha trên người Nữ Tỳ đặc biệt này. Chúng con xin ngợi khen và chúc tụng Tình Thương và Quyền Năng của Cha!
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã sinh ra từ một người mẹ, đã lớn lên và trưởng thành bên cạnh Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se, đã lên đường rao giảng Nước Trời với sự cộng tác của Mẹ, đã trao Mẹ cho thánh Gio-an trước giờ tắt thở. Chúng con cảm tạ và ngợi khen Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng đã xuống tràn đầy trên các Tông Đồ và Đức Ma-ri-a, để khai sinh Hội Thánh là Cộng đoàn của Chúa Kitô Phục Sinh. Xin Chúa xuống trên tất cả chúng con, để chúng con nhận được ánh sáng, bình an và sức mạnh cần thiết cho cuộc lữ hành của chúng con.
24. Suy niệm của ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần.
CẦU NGUYỆN BẰNG CHUỖI MÂN CÔI
Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.
Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.
Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.
Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến.
Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille.
Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.
Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.
Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.
Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.
Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.
Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo.
Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.
Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ.
Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.
Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.
Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.
Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.
Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào "Kinh Mân côi sống". Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.
Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.
Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.
Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.
Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ.
Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng.
Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.
Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.
Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: "Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau". Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác.
Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1,37).
25. Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
KÍNH MỪNG MARIA ĐẦY ƠN PHÚC ĐỨC CHÚA Ở CÙNG BÀ
Julbell có một bài hát nổi tiếng khắp thế giới từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, và chắc có lẽ mãi mãi còn đọng lại trong lòng người nghe. Bài hát rất quen thuộc. Đó là bài Ave Maria.
Điều gì đã khiến cho nhạc sĩ có được cảm xúc một cách dạt dào để viết lên một bản nhạc tuyệt vời như vậy?
"Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng Bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ". Chính lời kinh tuyệt vời đó đã làm nên cảm xúc không phải chỉ một Julbell mà cho biết bao nhạc sĩ trong lịch sử âm nhạc của thế giới viết nên những bản nhạc tuyệt vời và chính lời kinh đó làm nên ngày lễ Mân Côi hôm nay. Tại sao vậy?
Trong lịch sử Giáo Hội vào khoảng thế kỷ 16. Anh em Hồi giáo làm một cuộc chinh phục thế giới. Bởi vì họ đi từ vùng Trung Đông sang Á châu đến Ấn Độ. Họ đổ bộ lên Âu châu. Đi đến đâu thắng đến đó. Khi đổ bộ đến Âu châu, đi vào một vịnh của nước Ý. Một đoàn quân thiện chiến như thế thì quân Ý làm sao mà đối đầu được. Nếu để thua thì Ý sẽ thất thủ, thủ đô của Hội Thánh Công giáo là Rôma cũng biến mất và cả Âu châu cũng bị đe dọa.
Đức Giáo Hoàng Piô V bấy giờ lên tiếng kêu gọi cầu nguyện, và cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng.
Ngày 7/10 năm ấy quân của Công giáo chiến thắng. Chiến thắng không phải nhờ khả năng quân sự mà là nhờ sự phù trợ của Mẹ Maria. Vì thế Đức Giáo Hoàng đã lấy ngày đó làm ngày lễ Đức Bà chiến thắng. Sau này thành lễ Mân Côi.
Nói đến chiến thắng, có lẽ chúng ta nghĩ đến chiến thắng về quân sự, kinh tế, chính trị. Không, Chúa Giêsu không ban cho mình chiến thắng đó. Khi đối diện với Philatô Ngài đã trả lời: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì binh lính tôi đã đến giải thoát tôi khỏi tay người Do Thái".
Ta cần nhìn vào chiến thắng ở một góc độ khác. Đó là chiến thắng chính mình. Một danh tước trong lịch sử thế giới đã thường nói: "Không có cuộc chiến đấu nào khó khăn hơn chiến đấu với chính bản thân mình."
Mỗi chúng ta có thể cảm nghiệm điều đó trong cuộc sống. Đức Cha Pul-ton-Shin, Ngài nói: "Nếu bạn chấp nhận một cuộc chiến đấu trong tâm hồn bạn, thì sự bình an sẽ giải tỏa trong cuộc sống xã hội. Ngược lại, nếu bạn không chấp nhận cuộc chiến đấu đó, mà bạn đi tìm thỏa hiệp với cái xấu và tội lỗi trong tâm hồn bạn, thì chiến tranh sẽ lan tỏa trong cuộc sống xã hội".
Nói như thế có nghĩa là chuyện chiến thắng chính mình là một cuộc chiến rất khó, nhưng nó lại là căn bản để dẫn đến cuộc sống bình an cho mọi người. Chuỗi Mân Côi, những lời kinh Kính Mừng đan kết lại với nhau thành xâu chuỗi. Chuỗi Mân Côi đó có khả năng giúp cho ta tập chiến thắng chính mình. Tại sao vậy?
Ở phương Đông khi nói về con người, người ta hay nói đến thân, trí, tâm. Triết học phương Tây ngày xưa, khi học tâm lý học nói đến con người, người ta nói đến tình cảm và ý chí. Cũng tựa như nhau. Khi các bạn lần chuỗi Mân Côi thì cả thân, cả trí, cả tâm, có nghĩa là tất cả con người toàn diện chúng ta được chi phối. Chúng ta hãy nhớ lại, khi ta lần chuỗi có nghĩa là trong tay của mình cầm chuỗi đó là cái thân. Việc cầm một xâu chuỗi ảnh hưởng đến trí và tâm mình.
Có một linh mục kể chuyện: Trong một lần ngài đi máy bay, ngồi cạnh nhà sư, thấy trên tay nhà sư cầm xâu chuỗi, miệng lâm râm nam-mô-a-di-đà-phật. Linh mục hỏi nhà sư: Tại sao lần chuỗi vậy? Nhà sư bảo: Chúng tôi lần chuỗi như thế này tâm trí đỡ căng thẳng. Thế thì bên các ngài không có cái gì giống vậy à?
Linh mục trả lời: Có chứ, nhưng mà chúng tôi lần chuỗi không phải để cho tâm trí bớt căng thẳng, mà chúng tôi nhắm cái khác cơ. Nhà sư nói với vị linh mục thế này: Cha ạ, nếu cha muốn tập trung vào một điều gì, thì trong tay của cha phải có một cái gì, nhờ đó cha sẽ dễ tập trung hơn.
Vị linh mục học được một bài học, hóa ra chuỗi Mân côi mình cầm trong tay giúp cho cái trí của mình tập trung. Khi các bạn lần chuỗi là trong tay cầm xâu chuỗi, nó giúp cho trí của mình tập trung vào lời kinh, và còn tập trung vào cuộc đời của Chúa Giêsu mà kinh Mân Côi mô tả từ khi Ngài sinh ra cho đến cuộc sống công khai, đến khi bị chết trên thánh giá chịu táng trong mồ, sống lại, lên trời, ban Thánh Thần xuống cho Giáo Hội.
Tất cả cuộc sống của Chúa Giêsu. Một thứ Tin Mừng thu gọn được tóm lại ở trong chuỗi Mân Côi, đồng thời khi chúng ta lần chuỗi như vậy tâm của mình tịnh lại. Đối với người trẻ hôm nay đang sống trong một thời đại tốc độ, mà người đọc như thế thật mất thì giờ. Tôi đã từng nghĩ như vậy. Nhưng sau này khi tìm hiểu lại lịch sử linh đạo, tôi mới thấy đó là một phương pháp rất hay cho cuộc sống tâm linh. Những lời con người vắn tắt được lặp đi lặp lại như thế nó làm cho tâm của mình tĩnh lại.
Có một người học trò người Việt Nam, sau này sang Mỹ viết thư về kể cho tôi nghe kinh nghiệm về việc sống đạo của anh ta: Cuộc sống quá nhiều khó khăn đến mức độ chịu không được, nên đêm đến về nhà muốn phá toang, la toáng lên: Tại sao lại đổ trên đầu tôi những sự khổ sở thế này. Bất chợt nhìn lên đầu giường thấy một tràng chuỗi treo ở đấy. Nó liền chạy đến cầm lấy ngồi đọc kinh. Chỉ mới có 10 kinh thôi là thấy tâm hồn của mình lắng xuống....
Khi lần chuỗi Mân côi thì toàn diện con người của mình: thân, trí và tâm đều được chi phối. Cùng sự chi phối đó thì chuỗi Mân côi làm cho nơi chúng ta hình thành một con người mới chống lại những gì xấu trong tâm hồn mình.
Con người ta sống ở đời này bao giờ cũng sống trong ba mối tương quan chính: tương quan với Thiên Chúa, tương quan với tha nhân, tương quan với thế giới vật chất. Tội lỗi chúng ta nó cùng nằm trong ba mối tương quan đó. Khi lần chuỗi Mân Côi, Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta sống những tương quan đó tốt đẹp.
Chẳng hạn khi chúng ta lần chuỗi chúng ta đọc: Chúa Giêsu lên trời, xin cho lòng con được hưởng những sự lên trời. Chúng ta sẽ sống mối tương quan với Thiên Chúa; chúng ta sẽ sống một tâm hồn siêu thoát hơn; khi chúng ta đọc: Mẹ Maria đi viếng thăm bà Isave, xin cho được lòng yêu người. Đó là lời cầu xin tương quan với tha nhân, bằng tình yêu thương chứ không phải là hận thù ghen ghét; khi chúng ta đọc Chúa Giêsu chịu đóng đinh, xin cho đóng đinh tính xác thịt mình vào thánh giá Chúa; đó là tương quan với thế giới vật chất, với chính xác thịt của mình.
Chuỗi Mân Côi giúp cho chúng ta chiến thắng cái xấu ở nơi bản thân mình, hoàn thành một con người mới, con người mới đó sẽ tác động trong cuộc sống, làm cho cuộc sống được đẹp hơn.
Đức Cha Pul-ton-Shin là một diễn giả nổi tiếng ở Mỹ. Ngài chỉ giảng trên đài truyền hình chứ không giảng ở nhà thờ. Nhiều bạn trẻ xin Ngài chứng hôn cho lễ cưới của mình. Ngài đồng ý chứng nhận với hai điều kiện, hai bạn đó phải hứa với Ngài mỗi ngày vợ chồng phải đọc chung với nhau 50 kinh Kính Mừng. Lời kinh nối kết vợ chồng giúp cho vợ chồng xây dựng cuộc sống gia đình tốt đẹp hơn.
Hình như bây giờ các bạn trẻ ít lần chuỗi lắm. Hôm nay tôi muốn nói về giá trị của kinh Mân côi. Chúng ta đừng xem thường, lại càng không nên xem đó là chuyện đạo đức rẻ tiền. Chúng ta hãy cầu nguyện để khám phá ra giá trị tuyệt vời của kinh Mân Côi. Nếu chúng ta không đọc được nhiều, tôi xin đề nghị mỗi ngày chỉ đọc 1 kinh Lạy Cha, 3 kinh Kính Mừng, 1 kinh Sáng Danh. Chúng ta hãy nuôi dưỡng trong tâm trí mình ý nghĩ: khi tôi đọc kinh Mân Côi, đó là phương cách để tôi đào luyện bản thân, để tôi chiến thắng chính mình, để tôi sống đời đức tin tốt hơn. Amen.
26. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối (Lc 1,26-38)
(Nút Vòng Xoay - ĐGM. Vũ duy Thống)
Chiều qua ghé mừng bổn mạng Phanxicô Khó Khăn của một người bạn là cha của một gia đình một vợ ba con. Đúng lúc gia đình vừa đi lễ về. Đang khi tay bắt mặt mừng, đứa gái út đã nhanh nhẩu chỉ cho tôi chiếc áo mới màu xanh nước biển đang mặc và khoe rằng hôm nay nó là Việt kiều Úc Châu đấy. Tôi còn chưa hiểu ất giáp gì thì nó đã liến thoắng đố tôi hôm nay trong gia đình nó có gì lạ. Tôi đảo mắt nhìn một vòng nhưng chẳng thấy có gì khác nên đành chịu. Con bé lí lắc đã chẳng giữ kín được câu đố của mình nên đã nhanh chóng bật mí cho tôi. Nó nói: gia đình nó hôm nay mỗi người mặc một màu áo: bố màu trắng người Châu Âu, mẹ màu vàng người Châu Á, chị hai màu đỏ người Châu Mỹ, còn anh ba màu xanh lá người Châu Phi. Cả gia đình là năm châu, là thế giới.
Thấy tôi vẫn ngẩn người chưa hiểu, anh bạn tôi đã phải giải thích: chả là vào tháng Mân Côi, má xấp nhỏ muốn làm một chuỗi kinh sống trong gia đình nên phân bổ mỗi người mỗi ngày đọc một chục, năm người thành năm chục, năm chục năm màu năm châu là sáng kiến của Đức Giám Mục Fulton Sheen đã lâu ở bên Mỹ, còn năm màu áo minh họa là sáng kiến của con út nhà này. Con bé đỏ mặt hãnh diện, mọi người cười vui. Và khởi đi từ niềm vui ấy, tôi miên man suy nghĩ: Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối.
1) Kết nối với Đức Maria.
Bởi Kinh Kính Mừng là nối kết lời thiên thần Gabriel chào Đức Maria trong buổi Truyền Tin với lời mừng của bà Êlisabet trong ngày Thăm Viếng, nên mỗi lần được lặp lại đã trở thành lời chào mừng chính thức cho sự kết nối giữa con người với Đức Maria.
Sự kết nối ấy là kết nối với một cá nhân khi đối diện với mầu nhiệm của Thiên Chúa chỉ dám nhận mình là một tôi tớ, nhưng đã được cất nhắc lên vinh quang làm Mẹ Thiên Chúa. Đó là một dung hòa tuyệt hảo giữa một đàng là hồng ân của Thiên Chúa và đàng khác là nỗ lực của con người, nghĩa là nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc Chúa ban nhưng còn ở trong tình trạng tiềm ẩn, chỉ đến khi có sự đáp trả cộng tác bằng lời "xin vâng" thì ơn phúc kia mới lộ hiện.
Nhưng "xin vâng" không chỉ bằng lời mà là bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trên hành trình đức tin bên cạnh Chúa Giêsu.
Sự kết nối ấy là một sự "nối mạng", nghĩa là kết nối vào một vận mạng. Đức Maria trong vinh quang hiện tại không những không xa cách mà còn gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đã nên Mẹ Giáo Hội để qua Kinh Kính Mừng, một tâm tình hiệp thông gắn bó nảy sinh, rất linh động như dòng chảy hai chiều đi đi về về giữa Đức Maria xuống với con người và giữa con người lên với Đức Maria, rất tự nhiên như tình mẫu tử, đằm thắm khi yên ổn nhưng cũng đầy trách nhiệm những khi kêu cầu.
2) Kết nối với Chúa Giêsu.
Nếu đối tượng trực tiếp của Kinh Mân Côi là kết nối với Đức Maria qua những chặng đường mầu nhiệm đời Mẹ, thì hành trình cùng với Mẹ, từng bước, người ta sẽ được dẫn tới đích điểm là kết nối với Chúa Giêsu.
Có một điều ngạc nhiên đến thú vị là nếu có ai hỏi ta Đức Maria có lần hạt không, ta sẽ trả lời khẳng định: Đức Maria cũng lần hạt. Hiện ra ở Lộ Đức hoặc ở Fatima, Mẹ đều lần hạt với con cái mình. Điều này cho thấy người ta không chỉ lần hạt kết nối với Mẹ nhưng còn cùng với Mẹ lần hạt kết nối với Chúa Giêsu nữa.
Chính kết cấu của Kinh Kính Mừng cũng muốn nói lên điều ấy. Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ", nghĩa là kết nối với Mẹ để được nối kết với Con của Mẹ, kết nối với Đức Maria để rồi nối kết với Chúa Giêsu. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.
Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui, Thương, Mừng như cách gọi truyền thống: Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Đức Giêsu xuống thế làm người sống cho mọi người; Thương trong mầu nhiệm Tử Nạn Đức Giêsu chịu chết chuộc tội cho cả nhân loại và Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh Đức Giêsu bước vào vinh quang mở ra tương lai cho mọi sinh linh.
Đây là sự kết nối nền tảng và là đỉnh cao. Thiếu nó, kết nối với Đức Maria dẫu có vẫn còn lỏng lẻo, chưa có nó kết nối dẫu đậm đà vẫn chưa vươn tới đẫy đà cần thiết.
3) Kết nối với mọi người trong Chúa Kitô nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Thực ra đây là hệ lụy tất nhiên của hai mối kết nối nói trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau, nhưng chính ở đây lại mở ra một nhãn giới đầy lạc quan tin tưởng hy vọng cho tất cả những ai lần hạt Mân Côi.
Với Kinh Mân Côi, tín hữu nhận biết người Ấn Độ là anh em của mình, người Châu Âu sung túc cũng nhận ra người Somali đói nghèo là chi thể của mình, người Kinh cảm nhận hơn nữa người Thượng gần gũi với mình. Tại sao ta lần hạt ở nhà thờ, gia đình, trên đường......? Tại sao ai cũng lần hạt được, từ giáo sĩ đến giáo dân, từ trí thức đến nông dân, từ em thơ đến các cụ? Thưa bởi vì Kinh Mân Côi bình đẳng phổ cập, chẳng những phù hợp với mọi người mà còn củng cố hiệp thông với mọi người. Buồn hay vui người ta đều lần hạt, đám cưới thì lần hạt xin hạnh phúc đời này, còn đám tang thì lần hạt xin hạnh phúc đời sau.
Nếu Kinh Mân Côi có được xem là vũ khí thì vũ khí ấy lại là tình thương san sẻ có sức mạnh gắn hàn liên kết hiệp thông. Bằng Kinh Mân Côi, người ta san sẻ cho nhau sứ điệp Tin Mừng như lễ Mân Côi hôm nay theo lịch sử là ghi dấu chiến thắng Lépante năm 1571 giữa Hồi Giáo và Công Giáo, nhưng theo tinh thần lại là ghi dấu một sức mạnh khi mọi người hiệp thông trong Kinh Mân Côi.
Trình bày Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối không có tham vọng đem lại cái gì mới mà chỉ muốn lặp lại ý muốn của Đức Maria và Giáo Hội ở một hòa âm mới hơn trong mối hiệp thông. Để với những ai đã quen lần hạt hằng ngày, xin được kiên trì. Kinh Mân Côi giúp nối mạng tâm linh cho tâm tình bộc bạch thành tâm sự dễ dàng, nhanh chóng. Kinh Mân Côi còn là người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi nơi.
Một lần làm phép xâu chuỗi cho bà cụ và cô gái, thấy họ kính cẩn trong cách trao và nhận, tôi chỉ vào túi mình và nói với hai người: tôi cũng có chuỗi kinh. Tất cả đều cười vui. Mong rằng không chỉ có chuỗi kinh để lần hạt chu toàn nhiệm vụ, mà còn có chuỗi kinh biết hiệp thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau.
03/10 Mừng vui đích thực
- Viết bởi Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Mừng vui đích thực.
Thứ bảy đầu tháng, tuần 26 thường niên.
"Các con hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời".
Lời Chúa: Lc 10, 17-24
Khi ấy, bảy mươi hai ông trở về vui mừng và nói rằng: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Người bảo: "Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rết, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con; nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời". Lúc đó, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. - Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Đấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết". Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều các con xem thấy, vì chưng, Thầy bảo các con: Có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều các con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều các con nghe, mà đã chẳng được nghe".
SUY NIỆM 1: Niềm vui đích thực
Chúa Giêsu chọn 72 môn đệ và sai họ ra đi rao giảng Tin Mừng; họ gặp nhiều chống đối, nhưng cũng gặt hái được nhiều thành công. Tin Mừng hôm nay thuật lại rằng sau một thời gian ra đi rao giảng, các ông hớn hở trở về nói lên niềm vui của mình, vì đã nhờ quyền năng của Chúa mà xua trừ được ma quỉ, nhưng Chúa Giêsu muốn cho các ông thấy rằng Ngài đến là để giải phóng con người nô lệ và đưa họ tới tự do đích thực.
Giải phóng con người khỏi ách nô lệ và đưa con người vào tự do đích thực, đó là sứ mệnh mà Giáo Hội tiếp tục thực thi trong thế giới này. Chúng ta có thể nhận ra sứ mệnh ấy qua diễn văn Ðức Gioan Phaolô II đọc tại trụ sở Liên Hiệp Quốc vào ngày 5/10/1995. Ðức Thánh Cha ghi nhận rằng con người càng ngày càng tìm kiếm tự do và đây chính là điểm nổi bật của thời đại chúng ta. Sự tìm kiếm tự do ấy đặt nền tảng trên các quyền phổ quát của con người. Chính vì phản ứng lại những hành vi man rợ đối với phẩm giá con người, mà chỉ ba năm sau khi thành lập, Liên Hiệp Quốc đã công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Ðây là một gia sản chung của nhân loại, nó bắt nguồn từ chính bản tính của con người, trong đó có phản ánh những đòi hỏi khách quan và không thể hủy bỏ được của một luật luân lý phổ quát.
Sống theo những khát vọng cao thượng nhất của mình, con người có thể làm được những điều xem ra vượt quá khả năng của nó. Ðó là sứ điệp chúng ta có thể đọc thấy trong Tin Mừng hôm nay: các môn đệ ra đi với hai bàn tay trắng, họ không có một khí giới nào khác ngoài sự siêu thoát và niềm tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. Vậy mà khi nói về những thành quả của họ, chính Chúa Giêsu đã thốt lên: "Ta đã thấy Satan như tia chớp từ trời rơi xuống". Ðó chính là sức mạnh của những người mà Chúa Giêsu gọi là những kẻ bé mọn.
Ngày nay, người Kitô hữu cũng có thể thực hiện được những điều cả thể ấy nếu họ cũng biết trang bị cho mình một niềm tin vào quyền năng của Chúa, nhất là nếu họ biết sống theo những khát vọng cao thượng nhất của con người. Những khát vọng đó là gì, nếu không phải là tự do, công bằng, bác ái, liên đới. Nếu họ thực sự sống theo những khát vọng thâm sâu ấy và sống tín thác nơi Thiên Chúa ngay cả khi gặp thất bại khổ đau, lúc đó họ mới có thể hưởng được niềm vui đích thực mà các môn đệ Chúa Giêsu đã bày tỏ khi gặp lại Ngài.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn nếm được niềm vui đích thực ấy trong cuộc sống hằng ngày.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Vui mừng theo Thầy
Ngay giờ ấy được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: "Lạy Cha là Chúa tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã dấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết ngững điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, đó là điều đẹp ý Cha." (Lc. 10, 21)
Mặc dầu gặp những thất bại trên đường truyền giáo, các ông được Đức Kitô sai đi, đã trở về vui mừng vì tổng kết những kết quả không thể bỏ qua. Như những cậu bé sung sướng, các ông kể lại với Thầy: "Nhân danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con". Điều đó làm các ông xúc động mạnh. Đức Giêsu đã cho các ông hiểu chính Người đã hành động trong lúc các ông truyền giáo. Trong cầu nguyện Người đã thấy Sa-tan, kẻ thù, đã từ trời rơi xuống như chớp. "Đây Thầy đã ban cho anh em quyền năng giày đạp rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực kẻ thù mà chẳng có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng Thầy vui mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời".
Như vậy, Đức Giêsu đã làm lắng dịu niềm vui của các môn đệ đi một chút. Điều quan trọng không phải khuất phục được quỷ thần và những thành công khác, nhưng chính là nhiều người đã đón nhận lời Chúa và được ơn cứu độ nhờ các ông, đây mới là điều đáng kể trước mặt Thiên Chúa. Các Tông Đồ đã được đẹp lòng Chúa Cha, Đấng ngự trên trời cao.
Trước công việc tốt lành các bạn hữu đã làm, Đức Kitô không thể ngăn cản được niềm hoan lạc trong Thánh Thần. Và Người đã cảm tạ Chúa Cha đã tỏ những mầu nhiệm cho những kẻ bé mọn mà không tỏ cho những người khôn ngoan thông thái.
Những nhà truyền giáo của Người là những kẻ nghèo khó và khiêm tốn hèn mọn. Người đã chọn các ông từ một giai cấp tầm thường họ không có bằng cấp gì, không phải hạng trí thức, không phải hạng danh tiếng, phần lớn là những người ngư dân chất phát. Vậy không phải kiến thức của họ có thể làm choáng mắt thính giả, nhưng chính đức tin sống động của họ và chân lý của sứ điệp Tin Mừng mà Đức Kitô đã trao phó cho họ.
Giáo Hội sơ khai được đặc ân thay Chúa, như là những dụng cụ truyền giáo, nhưng tất cả những thứ đó đều không thích hợp, không tương xứng với lý trí loài người. Những tiêu chuẩn đánh giá trị của Thiên Chúa không như chúng ta tưởng. Để nhận biết Chúa Cha cũng như nhận biết Chúa Con, những bằng cấp tiến sĩ không cần thiết, dù đôi khi có giúp ích. Chiều dài lịch sư Giáo Hội đã chứng tỏ điều đó. Những cái đầu nhồi nhét đầy, nhưng quá chắc không nhất thiết đạt tới ánh sáng Thiên Chúa. Chúng không có một ki-lô nào đối với những đầu óc bé nhỏ.
GF
SUY NIỆM 3:
Lời của Đức Giê-su trong bài Tin Mừng vừa được công bố, vừa bày tỏ cho chúng ta những điều sâu kín nhất của mối tương quan giữa Ngài và Chúa Cha, và vừa bày tỏ cho chúng ta những điều sâu kín nhất của mối tương quan giữa Ngài và chúng ta. Đó là những điều sâu kín nhất, nhưng đồng thời cũng là những điều an ủi nhất đối với chúng ta.
1. Tên anh em đã được ghi ở trên trời
Ước ao phục vụ, có khả năng phục vụ và làm được cái gì đó cho người khác, Giáo Hội, hay Hội Dòng, đó là điều mọi người thao thức, và việc tuyển lựa ơn gọi và huấn luyện cũng dựa vào những tiêu chuẩn này. Điều đó thật đáng vui, như kinh nghiệm của các môn đệ cho thấy:
Khi ấy nhóm Bảy Mươi Hai môn đệ hớn hở nói với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con"!
Tuy nhiên, Đức Giê-su mời gọi chúng ta hướng tới một niềm vui lớn hơn, đó là "tên anh em đã được ghi trên trời":
Anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời.
Lời Đức Giê-su muốn nói rằng, các môn đệ của Ngài, xưa kia cũng như hôm nay, hiện diện trong cung lòng Thiên Chúa từ muôn thủa và mãi về sau cách nhưng không. Đây không chỉ là niềm vui lớn hơn, mà còn là nguồn hành động và làm cho hành động trở nên đích thực và đi đúng hướng. Hơn nữa, đó chính là lẽ sống, khi chúng ta không còn phục vụ được gì nữa, không còn sức lực nữa. Không chỉ sau này về già, hay những lúc đau bệnh, nhưng ngay những lúc thất bại, bị coi thường, chê bỏ...
2. Con người được dựng nên để ca tụng Thiên Chúa
Nhưng bài Tin Mừng còn mời gọi chúng ta hãy ra khỏi mình để chia sẻ niềm vui với Đức Giê-su, chia sẻ mỗi ngày, vì đây là « niềm vui vĩnh cửu » của Người. Và niềm vui của Người đến từ việc nhận ra cách hành động của Chúa Cha và hoàn toàn được chinh phục. Tương tự như Đức Maria, Mẹ của chúng ta, đã thốt lên trong Thánh Thần : « Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa » vì đã nhận ra « những điều cao cả » Người làm cho Mẹ, là « Nữ Tì hèn mọn » và tương tự như vậy, cho « những ai kính sợ Người », cho « mọi kẻ khiêm nhường », cho « kẻ đói nghèo », cho tôi tớ đau khổ của Người là Israen :
Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha".
Và chuyển động ra khỏi mình để chia sẻ niềm vui ca tụng Chúa Cha của Đức Giê-su, chỉ trọn vẹn, khi chính ta cũng được Thánh Thần tác động, để nhận ra cùng một cung cách hành động của Chúa Cha được thể hiện trong cuộc đời và hành trình ơn gọi của chúng ta, và ca tụng Người trong niềm vui. Đó chính là con đường, là « linh đạo », làm cho chúng ta trở nên giống Đức Ki-tô. Và đây là linh đạo của mọi linh đạo, vì đến từ Kinh Thánh được hoàn tất nơi Đức Ki-tô.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su nói với Chúa Cha : « Lạy Cha là Chúa Tể trời đất... » (c. 21), sau đó với mọi người : « Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi... » (c. 22), và sau cùng với riêng các môn đệ đang hiện diện bên cạnh Người : « Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy... » (c. 23-24). Như thế, « những người bé mọn » mà Chúa Cha tuyển chọn để mặc khải là chính các môn đệ ; và chính khi chúng ta biết khiêm tốn trở thành môn đệ của Đức Giê-su, chúng ta sẽ là « những kẻ bé mọn » mà Chúa Cha ưa thích. Bởi vì, chính Đức Giê-su cũng trở nên « bé mọn » ở giữa chúng ta trong mầu nhiệm Giáng Sinh, trong mầu nhiệm Thánh Thể và trong mầu nhiệm Thương Khó ; và Chúa Cha nói về Người : « Đây là Con ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người ».
Trong cả ba lời nói này, Đức Giê-su đều nói về mặc khải (trái với mặc khải là dấu kín) và hệ quả của mặc khải : « Cha đã dấu kín..., nhưng lại mặc khải... » ; « và những kẻ Người Con muốn mặc khải cho » ; « phúc thay mắt nào được thấy », « muốn nghe điều anh em nghe ». Nhưng Chúa Cha và Người Con mặc khải những gì, để cho các môn đệ, là « những người bé mọn » thấy và nghe ? Điều các môn đệ thấy và nghe là chính Đức Giê-su : Đức Giê-su là mặc khải của Chúa Cha và cũng chính Đức Giê-su mặc khải về Chúa Cha cho những người bé mọn.
3. Mối phúc thấy và nghe Đức Giê-su
Đức Giê-su là mặc khải lớn nhất của Chúa Cha và Chúa Cha là mặc khải lớn nhất của Đức Giê-su cho các môn đệ, là « những người bé mọn ». Vì thế, được « thấy và nghe » Người là một mối phúc. Phúc cho các môn đệ đang vây quanh Đức Giê-su, và cũng phúc cho chúng ta hôm nay, bởi vì chúng ta cũng được mời gọi mỗi ngày nhận ra, lắng nghe, hiểu biết, yêu mến và đi theo Người. Bởi vì, Người hiện diện và lên tiếng trong sáng tạo, trong lịch sử nhân loại và lịch sử đời tôi, và một cách trọn vẹn nơi Lời Kinh Thánh, Bánh Thánh Thể, được hoàn tất nơi mầu nhiệm Vượt Qua.
Chúng ta vẫn có thể sống mối phúc « thấy và nghe » Đấng Vô Hình, bởi đôi mắt của chúng ta được dựng nên, có ơn gọi không phải là nhìn thấy những điều hữu hình, nhưng là nhận ra những thực tại vô hình : ngôi vị, tình yêu, tình bạn, sự hiện diện qua các dấu chỉ, quà tặng, ân huệ Thiên Chúa, sự hiện diện sáng tạo của Thiên Chúa nơi mọi sự :
Lạy Đức Chúa là Chúa chúng con,
lẫy lừng thay Danh Chúa trên khắp cả địa cầu
(Tv 8, 2)
Và đôi tai của chúng ta được ban cho, có ơn gọi không phải là nghe âm thanh, nhưng là nghe ra ý nghĩa, sự hài hòa của âm thanh, giai điệu, kết cấu của âm thanh, nghe ra Ngôi Lời trong mọi sự, vì « Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành » (Ga 1, 3 và St 1):
Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
không trung loan báo việc tay Người làm.
(Tv 19, 2)
Tương tự như với thánh Phê-rô, sau khi vượt qua sự chết để đi vào sự sống vĩnh hằng, Đấng Phục Sinh vẫn mời gọi thánh nhân :
« Hãy theo Thầy »
(Ga 21, 19)
Và ngang qua thánh nhân, Người vẫn tiếp tục mời gọi từng người chúng ta hôm nay và đặc biệt thánh Phan-xi-cô mà chúng ta mừng kính ngày 4 tháng 10 (ngày mai Chúa Nhật, Giáo Hội không cử hành), trong niềm hiệp thông với Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, các tu sĩ nam nữ và mọi người sống theo linh đạo thánh Phan-xi-cô.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc