Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
24/9 Câu hỏi về Chúa Giêsu
- Viết bởi Lc 9, 7-9
Câu hỏi về Chúa Giêsu.
Thứ Năm tuần 25 thường niên.
"Ông Gioan đã bị trẫm chém đầu rồi, ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế".
Lời Chúa: Lc 9, 7-9
Khi ấy, quận vương Hêrôđê nghe biết tất cả các việc Chúa Giêsu đã làm thì phân vân, vì có kẻ nói rằng: "Ông Gioan đã từ cõi chết sống lại"; còn kẻ khác lại nói: "Ông Êlia đã hiện ra"; kẻ khác nữa nói rằng: "Một tiên tri thời xưa đã sống lại". Nhưng Hêrôđê thì nói: "Ông Gioan trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế?" và vua tìm cách gặp Người.
SUY NIỆM 1: Dấu hỏi cho người khác
Trong những dòng cuối cùng của Thông điệp "Hòa Bình Dưới Thế", Ðức Gioan XXIII đã định nghĩa một người Kitô hữu chân chính: Mỗi người Kitô hữu trong thế giới phải là một mảnh sao băng chiếu sáng, là tụ điểm của tình yêu, là men sống động giữa anh em mình. Người Kitô hữu càng đóng trọn vai trò của mình, khi càng sống mật thiết với Chúa. Người Kitô hữu không sống cho mình, nhưng sống cho và vì người khác. Một mảnh sao băng chỉ chợt lóe lên rồi lịm tắt, nhưng cũng đủ thu hút con người về một góc trời nào đó; một chút men bé nhỏ trong khối bột, nhưng cũng đủ làm dậy cả khối bột. Như thế đó, sự hiện diện của người Kitô hữu, có sức thu hút, tạo chú ý, quấy rầy lương tâm người khác, nếu cuộc sống ấy là một cam kết, một dấn thân trọn vẹn.
Tin Mừng hôm nay cũng muốn nhắc nhở chúng ta về chân lý ấy. Qua lời nói, việc làm, và nhất là cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã không ngừng là một dấu hỏi cho người đương thời. Mỗi người một câu trả lời, nhưng bất cứ ai cũng được mời gọi để bày tỏ lập trường đối với con người của Chúa Giêsu. Riêng Vua Hêrôđê, ông tiến thêm một bước là muốn đến gặp Chúa Giêsu.
"Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Câu hỏi ấy, Chúa Giêsu không ngừng đặt ra cho chúng ta, và qua chúng ta, Ngài tiếp tục đặt ra cho mọi người. Qua cuộc sống của mình, người Kitô hữu cũng phải là một câu hỏi cho những người chung quanh; và dĩ nhiên câu hỏi càng trở nên dồn dập khi cuộc sống ấy là một hành trình đi ngược dòng đời.
Giữa một xã hội lấy bon chen làm khuôn vàng thước ngọc, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống tinh thần nghèo khó. Giữa một xã hội lấy hận thù làm luật sống, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi nếu họ vẫn tiếp tục yêu thương và tha thứ đến cùng. Giữa một xã hội mà nhiều người thường buông xuôi, thất vọng, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống lạc quan tin tưởng vào Ðấng luôn hiện diện trong lịch sử nhân loại. Giữa một xã hội mà sự tử tế đối với nhau đã thành một thứ xa xỉ phẩm, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống tử tế với mọi người, ngay cả những người thù địch. Sống như thế quả là một đòi hỏi gay go, nhưng đó không chỉ là một cố gắng suông, mà là một thể hiện của một cuộc sống mật thiết với Chúa. Không có ơn Chúa, không sống kết hiệp với Chúa, người Kitô hữu không thể đi đến cùng những cam kết sống chứng nhân của họ.
Xin Chúa ban thêm sức mạnh, để trong cuộc sống chứng tá, chúng ta luôn xác tín rằng chúng ta đang sống nhờ Chúa, với Chúa và cho Chúa.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Kinh nghiệm của vua Hêrôđê
Bài Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến mối tương quan giữa Chúa Giêsu và vua Hêrôđê. Vua Hêrôđê là ai? Dựa theo vài chi tiết trong Phúc Âm, chúng ta có thể nói ông là một con người dám làm điều nghịch lại với lương tâm mình vì say mê quyền hành và danh vọng. Dĩ nhiên, ông biết rõ điều gì đúng và điều gì sai, ông biết rằng ông không nên sống với người đàn bà không phải là vợ của mình, ông biết rõ ông không nên chiều theo áp lực của những bạn bè, ông biết rõ ông không được giết người vì sự sống con người là thiêng thánh. Nhưng ông đã làm những điều xấu đó, ông đã hành động nghịch lại với lương tâm vì áp lực xã hội. Khuyết điểm khác nữa cũng của vua Hêrôđê là sau khi đã hành động nghịch lại lương tâm, ông muốn trấn an lương tâm và thuyết phục mình rằng không có gì sai quấy trong việc đã làm. Ông đã giết chết Gioan Tẩy Giả, nhưng khi ông thấy Chúa Giêsu Kitô thì ông tự nhủ là Gioan đã sống lại và như thế thì mình không có lỗi gì và rằng điều xấu ông đã làm đã được đền bù. Vua Hêrôđê đã hành động nghịch lại lương tâm và tệ hại nhất là việc ông không muốn đối diện với yêu cầu của lương tâm, ông đã hành động nghịch lại với lương tâm và muốn che đậy những gì mình đã làm.
Căn bệnh của vua Hêrôđê tiếp tục là căn bệnh của chúng ta. Nhiều người trong chúng ta hành động nghịch lại với lương tâm; chúng ta biết rõ điều gì nên làm nhưng chúng ta lại không làm điều đó, vì chúng ta sợ kẻ khác sẽ nói; chúng ta biết rõ điều gì nên làm nhưng chúng ta lại không làm, bởi vì chúng ta yêu thích những niềm vui nhục dục hơn mọi sự khác; chúng ta biết rõ điều gì nên làm, lương tâm chúng ta dạy chúng ta rằng chúng ta nên sống liêm chính, nhưng chúng ta vẫn gian lận với nhau và lường gạt những kẻ thân yêu nhất, bởi vì rất dễ làm như vậy. Ðiều tệ hại là sau khi đã hành động nghịch lại lương tâm chúng ta che đậy căn bệnh bằng miếng băng cứu thương và giả đò mọi sự vẫn như bình thường. Sau khi hành động nghịch lại lương tâm, chúng ta che đậy tội ác, dường như thể không có gì xảy ra cả.
Thật là khủng khiếp biết chừng nào việc chúng ta phạm tội rồi chối bỏ không nhận tội. Tội nặng nề nhất của thời đại chúng ta là việc chối bỏ điều tội trong chúng ta. Chúng ta hãy trở về lại nơi chúng ta cần phải làm, trở về lại với bản tính tự nhiên của mình. Có lúc vua Hêrôđê khao khát muốn gặp Chúa Giêsu, chúng ta không biết đây là vì tò mò hay là vì tiếng lương tâm thúc đẩy, vì trong nội tâm còn có chút khao khát muốn thoát ra khỏi vòng nô lệ của tội lỗi, nhưng khao khát của vua Hêrôđê có lẽ còn quá yếu ớt và có thể là vì những điều trần tục và những sự đam mê không được phép bóp chết đi.
Chúa Giêsu đã cho vua Hêrôđê được dịp gặp Ngài trong cuộc thương khó và chúng ta biết rõ vua Hêrôđê đã bỏ qua tất cả cơ hội để sống với thực thể thật của Chúa Giêsu, đã bỏ mất cơ hội canh tân đời sống mình. Chúng ta hãy học lấy kinh nghiệm của và từ vua Hêrôđê, ông đã hành động nghịch lại lương tâm và đã che giấu tội ác của mình.
Phần chúng ta, ước chi chúng ta không rơi vào cùng một lỗi lầm như vậy và cũng đừng bóp chết chút khao khát còn sót lại trong tâm hồn sau phút lầm lỗi, để khiêm tốn ăn năn thống hối trở về với tình yêu Thiên Chúa.
Lạy Chúa,
Xin thương hướng dẫn con trở về với Chúa mỗi lần con lầm lỗi, xúc phạm đến Chúa và anh chị em chung quanh. Xin cho con biết lắng nghe lương tâm và thực hành và thực hành điều lương tâm chỉ dạy.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Đức Giêsu gây nhiều câu hỏi
"Ông Gio-an ta đây đã chém đầu rồi! Vậy ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?"Rồi vua tìm cách thấy mặt Đức Giêsu. (Lc. 9, 9)
Không phải quá khứ mới đặt câu hỏi về Người. Ngày nay vẫn còn nhiều câu hỏi lúng túng hơn xưa về Đức Giêsu. Lúc còn sinh thời, Người đã có vấn đề. Ông hoàng Hê-rô-đê xứ Galilê nghe tất cả những điều Người nói và làm. Ngay ở một thời, cả khối trung đông không cóvấn đề gì lớn,thế mà ông đã có những thông tín viên săn lùng tin tức cho ông. Tiếng tăm về Đức Kitô lan ra hầu khắp nơi. Những ý kiến về Người: tốt có, xấu có được loan truyền rộng rãi như trong thế giới chúng ta hiện nay.
Phải chọn lựa thế nào? làm sao biết được chính xác về nhân vật kỳ lạ nay?
Những người này coi Người là Gio-an Tẩy Giả đã sống lại. Những người khác cho là Ê-li-a tái xuất hiện. Nhiều kẻ nói: đây là một trong những tiên tri thời xưa sống lại. Họ đã có ý kiến khác xa nhau về cùng một vấn đề, quần chúng dễ tin và hầu như lúc nào cũng thèm khát những điều lạ lùng dễ cảm động. Đức Kitô, qua sứ điệp và cử chỉ cư xử của mình, đã nuôi nấng cái lòng ham thích lẫn lộn của những hạng người nhỏ bé chỉ biết hướng về cái trước mắt và tầm thường.
Hê-rô-đê bối rối về những tin đồn về Đức Giêsu, vì ông không bao giờ có lương tâm yên ổn. Ông không thể quên Gio-an đã bị ông ra lệnh chém đầu. Ông luôn tự vấn, nếu chém đầu một người vô tội và thánh thiện, sẽ bị công lý trừng phạt. Ông cũng muốn gặp Đức Giêsu. Ông mong có ngày sẽ gặp Người, nhưng như với Gio-an, ông sẽ bỏ qua một bên ơn phúc được ban cho ông.
Những người của thế kỷ chúng ta vẫn tiếp tục tra hỏi về Đức Kitô. Những người này khám phá thấy Người là con Thiên Chúa và con Đức Maria. Những người khác chẳng bao giờ đi đến cùng sự thật về căn tính của Người. Bất hạnh thay! Tại sao thế? vì lý lẽ của họ giống như của Hê-rô-đê, không có lòng khiêm tốn cần thiết để chấp nhận những điều khó hiểu của đức tin và họ không có tinh thần từ bỏ mà đức tin yêu cầu. Sự thật về Đức Kitô, theo Tin Mừng của Người là một thách đố phiền phức. Chỉ có những người có tinh thần nghèo khó mới có thể được nâng lên tới đỉnh vinh quang.
GF
23/9 Sai 12 Tông Đồ đi rao giảng
- Viết bởi Lc 9, 1-6
Sai 12 Tông Đồ đi rao giảng.
Thứ Tư tuần 25 thường niên - Thánh Piô Pietrelcina, linh mục. Lễ nhớ.
"Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân".
* Thánh nhân sinh tại làng Pi-ết-ren-si-na gần Bênêventô nước Ý năm 1887. Người vào tu dòng Anh Em Hèn Mọn, ngành Capútxinô, và sau khi thụ phong linh mục đã tận tình lo việc mục vụ nhất là tại tu viện ở thị trấn Xan Giovanni Rôtônđô miền Pu-li-a. Trong tinh thần cầu nguyện và khiêm nhường, người phục vụ dân Chúa qua việc linh hướng, bí tích Hòa Giải và việc săn sóc giúp đỡ những người ốm đau, nghèo khổ. Người đã được nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô chịu đóng đinh và ngày 23 tháng 9 năm 1968, người kết thúc cuộc hành trình ở thế gian này.
Lời Chúa: Lc 9, 1-6
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai Tông đồ lại, ban cho các ông sức mạnh và quyền năng trên mọi ma quỷ và được chữa lành các bệnh tật. Đoạn Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người bảo các ông rằng: "Khi đi đàng, các con đừng mang gì cả, chớ mang gậy và bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc hai áo. Các con vào nhà nào, thì hãy ở lại đó, và đừng rời khỏi nơi ấy. Những ai không tiếp đón các con, thì khi rời bỏ thành đó, các con hãy giũ cả bụi chân lại, để làm chứng tố cáo họ". Các ông liền đi rảo khắp các làng mạc, rao giảng Tin Mừng, và chữa lành bệnh tật khắp nơi.
SUY NIỆM 1: Huấn Lệnh Truyền Giáo
Ðược Chúa Giêsu tuyển chọn và sống với Chúa, các Tông đồ cũng đã nghe Chúa giảng dạy và chứng kiến những phép lạ Ngài làm. Trong bài Tin Mừng hôm nay, tác giả Luca thuật lại biến cố Chúa Giêsu sai các ông đi rao giảng Tin Mừng, Ngài nhắc nhở các ông phải sống khó nghèo và hoàn toàn tin tưởng vào Chúa quan phòng.
So với lần Chúa sai các môn đệ thì lần này có điểm khác biệt là thay vì được sai đi từng hai người, các Tông đồ được sai đi từng người một và được ban cho sức mạnh và quyền năng để trừ ma quỉ và chữa lành bệnh tật. Tuy nhiên, các ông cũng chỉ được sai đi trước để loan báo Ngài sắp đến. Huấn lệnh cho các Tông đồ trước khi lên đường có thể gồm 3 phần: Thứ nhất, trên đường đi các ông không được mang theo gì cả, mặc dù sứ vụ của các ông kéo dài một thời gian, chứ không phải chỉ có một vài ngày; điều đó có nghĩa là các ông phải hoàn toàn từ bỏ chính mình và chỉ tin vào sức mạnh của Lời Chúa. Thứ hai: khi tới nhà nào thì phải kiên trì, không được lùi bước; nói khác đi, các ông phải tin vào sứ mệnh của mình, tin vào sự quan phòng và chờ đợi thời giờ của Chúa. Thứ ba: các ông phải có can đảm trước sự cứng đầu của những kẻ chống đối các ông.
Mỗi thời đại có những cám dỗ riêng. Ma quỉ đã cám dỗ Chúa Giêsu từ bỏ sứ mệnh cứu thế, cũng như cám dỗ Ngài làm những việc lạ lùng, như hóa đá thành bánh, gieo mình xuống từ nóc Ðền thờ để mọi người thấy và tin. Ngày nay, không thiếu những người chỉ muốn dùng tiền bạc để giảng dạy hoặc dùng quyền bính để làm cho người khác kinh sợ. Một cám dỗ khác mà người Tông đồ thời nay thường mắc phải, đó là sự thiếu kiên nhẫn, chờ đợi thời giờ của Chúa. Họ dễ thoái lui rời bỏ nhiệm sở, thay đổi công việc. Cũng có những người Tông đồ không dám nói rõ những sai lầm của người khác cũng như những gì trái ngược với giá trị Tin Mừng. Thái độ chung của con người thời nay là ích kỷ và hưởng thụ, số người sẵn sàng để Chúa sai đi thật hiếm hoi, số các tệ nạn do sự sai lầm thiêng liêng ngày càng gia tăng, trong khi đó cái tôi tự do được thổi phồng.
Có lần nhà hiền triết Diogène đứng ở một góc đường và cười rã rượi như người điên loạn. Một khách bộ hành hỏi ông: "Có gì mà ông cười ngặt nghẽo như thế?" Ông đáp: "Anh có thấy tảng đá to ở giữa đường kia không? Từ khi tôi tới đây, đã có mười người vấp ngã vì nó và nguyền rủa nó, nhưng không ai quan tâm lấy nó đi để tránh cho người khác khỏi vấp ngã".
Có nhiều cách làm việc Tông đồ, nhưng hữu hiệu nhất là bằng chính đời sống tốt lành của mình. Xin Chúa giúp chúng ta đáp lại lời mời của Chúa và hăng say dấn thân phục vụ những người xung quanh vì Chúa.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Trung Thành Với Lệnh Truyền Của Chúa
Chúng ta vừa đọc lại bài tường thuật của thánh sử Luca nói về việc Chúa sai nhóm Mười Hai Tông Ðồ ra đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh tật. Ðây là cuộc sai đi trước biến cố Phục Sinh để chuẩn bị cho cuộc sai đi quyết định sau Phục Sinh, khi đó Chúa sẽ nói với các ông một cách vĩnh viễn: "Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao ban cho Thầy. Vậy, các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con, và đây Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".
Hai lần sai đi này, trước và sau Phục Sinh, trước và sau biến cố vượt qua của Chúa Giêsu, rất quan trọng và bổ túc cho nhau. Nếu lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh, sau biến cố vượt qua mà không có lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh thì người ta sẽ dễ dàng rơi vào cám dỗ quả quyết rằng, những đồ đệ của Chúa Giêsu tự bày vẽ công việc cho mình để thành lập cộng đoàn Giáo Hội do theo sáng kiến riêng chứ không phải do ý muốn của Chúa Giêsu. Ngược lại, nếu lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh mà không có lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh thì người ta cũng sẽ dễ dàng rơi vào cám dỗ khác nữa cho rằng, Chúa Giêsu đã thất bại trong dự án của Ngài sau khi bị giết chết trên thập giá. Nhưng các sách Phúc Âm đã ghi lại cho chúng ta hai lần sai đi trước và sau Phục Sinh, và điều này làm nổi bật ý định của Chúa Giêsu, một ý định vượt qua giới hạn thời gian, Chúa đã kêu gọi huấn luyện và sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng, vì Chúa muốn rằng sứ mệnh rao giảng của Chúa cần được tiếp tục mãi trong thời gian từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhờ qua những con người được mời gọi cộng tác với Chúa, làm công việc của Chúa với những quyền năng do Chúa ban cho.
Sự hiện diện và sứ mệnh của Giáo Hội qua các thời đại trong lịch sử nhân loại đều nằm trong chương trình của Chúa ngay từ đầu và do ý Chúa muốn, chứ không do sáng kiến của con người. Hơn nữa, chúng ta thấy tác giả Phúc Âm thánh Luca mô tả sứ mệnh của các tông đồ được Chúa sai đi bằng hai cụm từ rao giảng và chữa lành bệnh tật.
Nói theo ngôn ngữ ngày nay, chúng ta có thể nói rằng đây là sứ mệnh toàn diện ôm trọn cả con người xác hồn. Rao giảng và chữa lành, công bố sự thật ban ơn cứu rỗi của Chúa và chăm sóc cho cuộc sống phần xác được lành mạnh, đó là cứu rỗi và phát triển luôn đi đôi với nhau. Người đồ đệ của Chúa khi làm công việc của Chúa, công bố sự thật của Chúa, phân phát ơn cứu rỗi đã được Chúa thực hiện. Khi làm công việc này không thể nào lơ là hay đóng kín trước những việc phục vụ cho công cụ phát triển xã hội, phục vụ lợi ích tốt lành cho anh chị em chung quanh.
Nhà thờ để phụng thờ Thiên Chúa, nhà thương để chăm sóc bệnh nhân, nhà dưỡng lão để săn sóc người cao niên, nhà học tập dành cho người trẻ, nhà ở cho người nghèo, nhà cứu trợ cho anh chị em gặp nạn, đó là những nhà, những loại công tác nằm trong sứ mệnh của người đồ đệ của Chúa. Lịch sử hai ngàn năm qua của Giáo Hội cho thấy những đồ đệ của Chúa còn luôn trung thành với lệnh truyền của Chúa: rao giảng và chữa lành, mặc dù không thiếu những sơ sót lỗi lầm mà giờ đây những đồ đệ chân thật của Chúa không ngần ngại ăn năn xin tha thứ và dốc quyết thực hiện tốt đẹp hơn trong tương lai.
Lạy Chúa,
Xin thương ban cho chúng con quyền năng của Chúa để chúng con được canh tân và dấn thân nhiều hơn nữa, để chu toàn tốt hơn sứ mệnh Chúa đã trao phó cho trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Xin Chúa hãy thương hiện diện với chúng con và cùng hoạt động với chúng con luôn mãi.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Rao giảng và chữa bệnh
Đức Giêsu tập họp nhóm mười hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật. Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân." (Lc. 9, 1-2)
Mục đích và điều kiện truyền giáo là mang sứ điệp của Đức Giêsu đến cho mọi người vẫn không thay đổi từ thời Giáo Hội sơ khai của các tông đồ cho đến nay đều theo mệnh lệnh của Thầy Chí Thánh.
Đức Kitô đã ban cho nhóm muời hai quyền đuổi quỷ, chữa lành các bệnh nhân và rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa. Tận nền tảng, vị truyền giáo không thể bằng lòng với lời nói, ông cần phải hành động yểm trợ cho lời nói, và lời nói cần giải nghĩa và soi sáng cho hành động. Từ nhiều năm nay có thể chúng ta đã vịn lý do chỉ cần những hành động công khai nên đã bỏ phần hỗ trợ thiết yếu của lời giảng, có khi còn loại bỏ lời nói để thay bằng lối sống chứng nhân cho Đức Giêsu Kitô. Đến một mức nào đó, chúng ta phải cảm phục một số những nhà hùng biện ngày nay có sức thuyết phục thính giả chịu nghe các ông nói hằng giờ.
Đức Kitô đã làm khác với chúng ta và những nhà hùng biện, Người không chỉ dùng lời nói,mà vừa rao giảng vừa hành động. Bằng lời nói và chữa bệnh, Đức Kitô qui tụ chung quanh mình hàng ngàn, hàng ngàn người dân. Ngày nay, Người vẫn còn nói bằng rất nhiều hành động từ thiện và nhiều cách khác nữa để nâng đỡ lời giảng dạy. Như vậy việc truyền giáo đòi có cả hai điều: Lời giảng và việc làm: "Lời nói đi đôi với việc làm".
Thử nhìn chung quanh mình, sẽ thấy khá rõ có giáo phái dù nhỏ bé, họ biết khôn khéo lợi dụng mọi cách để truyền giáo.
Phải chăng, chúng ta kém khôn khéo khi rao truyền đức tin Kitô giáo?
Nghèo khó và từ bỏ vẫn còn hữu ích và hơn bao giờ hết là điều kiện cho việc truyền giáo thật sự tiến triển. Chúng ta dễ bị cám dỗ dùng những phương tiện to tát và hấp dẫn đầy ấn tượng để truyền giáo. Sự từ bỏ là một vẻ đẹp, ngày nay cần thiết phải thực hiện để giúp chúng ta không quên điều Đức Kitô đã dạy muời hai người đánh cá làm nền tảng xây lên Giáo Hội, và nhờ đó mà chinh phục được thế giới, nhất là sự từ bỏ trên thập giá. Lời Chúa sẽ mãi mãi là hạt cải nhỏ bé đã lớn lên thành cây vĩ đại cho muôn chim trời đến trú ngụ.
GF
22/9 Mẹ Chúa và anh em Chúa
- Viết bởi Lc 8, 19-21
Mẹ Chúa và anh em Chúa.
Thứ Ba tuần 25 thường niên.
"Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".
Lời Chúa: Lc 8, 19-21
Khi ấy, mẹ và anh em Chúa Giêsu đến tìm Người, nhưng vì đám đông, nên không thể đến gần Người được. Người ta báo tin cho Người rằng: "Có mẹ và anh em Thầy đứng ở ngoài muốn gặp Thầy". Người trả lời với họ rằng: "Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".
SUY NIỆM 1: Lắng Nghe và Thực Hành Lời Chúa
Cả ba tác giả Nhất Lãm đều kể lại sự kiện Ðức Maria và các thân nhân Chúa Giêsu đi tìm Ngài, nhưng mỗi tác giả có một dụng ý riêng: Matthêu, Marcô xếp đoạn này lên trước phần Chúa Giêsu giảng dạy dụ ngôn người gieo giống, còn Luca thì đặt sau dụ ngôn ấy, liền sau dụ ngôn chiếc đèn cháy sáng. Luca không đề cập đến việc các thân nhân đến tìm Chúa Giêsu để đưa Ngài về Nazarét, nhưng nhấn mạnh đến điểm này: "Ai nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, đó là người sống trong gia đình Thiên Chúa, là Mẹ, là anh em của Ngài.
Một điểm nữa cần ghi nhận là trong đời sống thực tế, nhiều khi người ta cảm thấy gần gũi thân thiết với những người cùng chung chí hướng, nguyện vọng, hơn là những người ruột thịt, nhất là khi những người ruột thịt ấy không cùng chí hướng, nguyện vọng. Như thế, mối liên hệ sâu xa giữa con người với nhau không phải là liên hệ huyết thống, mà còn là liên hệ của cả tư tưởng, ý chí, tình cảm.
Chúa Giêsu đến trần gian để xây dựng một gia đình duy nhất của Thiên Chúa, gia đình của những người cùng một mục đích là nguyện cho Danh Cha được cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Ðể cho thấy sự duy nhất về cùng một gia đình đó, Chúa Giêsu đã cầu nguyện: "Lạy Cha, xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha". Ðó là hình ảnh Chúa Giêsu muốn diễn tả khi Ngài nói: "Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".
Với ý nghĩa đó, Ðức Maria hai lần xứng đáng làm Mẹ Chúa Giêsu: Mẹ theo huyết thống và Mẹ của Thân mình mầu nhiệm của Ngài là Giáo Hội. Chẳng những là Mẹ thật vì đã sinh ra Chúa Giêsu, mà còn là Mẹ vì đã thực thi ý Cha trên trời. Trong biến cố truyền tin, Ðức Maria đã thưa với Sứ thần: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng theo lời thiên thần truyền". Ðiều đó nói lên suốt đời Ðức Maria, người luôn làm theo ý Chúa.
Câu định nghĩa của Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta con đường đi vào gia đình của Thiên Chúa, đó là làm theo thánh ý Chúa Cha. Xin cho chúng ta luôn biết thực thi thánh ý Chúa trong suốt cuộc sống chúng ta, để xứng đáng được thuộc về gia đình của Chúa.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Ai thật là mẹ và là anh chị em tôi
Đức Giêsu nói: "Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành". (Lc. 8, 21)
Theo Thánh Mar-cô, khi gia đình Đức Giêsu định chặn bắt Thầy, chính vì họ xét thấy "Người đã mất trí" (Mc. 3, 21). Người ngột ngạt vì họ. Họ không để Người yên.
Thánh Lu-ca không nói đến chuyện khó chịu đó. Nếu Đức Maria và thân nhân không tới được Đức Giêsu, chính là kết quả lạ lùng của Đức Giêsu. Đông đảo dân chúng chen lấn tứ phía làm các Ngài không tới gần Người. Vượt qua hàng rào người xiết chặt chung quang là vô phương. Người ta chỉ có thể gợi lại cảnh đó bằng nhìn thấy những kẻ lãnh đạo vĩ đại thế giới thời nay được quần chúng ngưỡng mộ. Dân chúng vây quanh bắt tay gặp gỡ, ngó nhìn tận mắt, mỉm cười với các ông lớn đó. Đức Kitô không tránh khỏi cảnh vây quanh đó. Đó là lý do tại sao Mẹ Người và anh em chú bác không tới thăm và gặp được Người để có thể thông cảm với Người.
Khi người ta báo có thân nhân Người muốn gặp Người, lợi dụng lúc đó để lưu ý mọi người Đức Giêsu nhìn trừng trừng chung quanh, kêu lên như từ chối gia đình trần gian để nhấn mạnh đến tình nghĩa gia đình thiên quốc, Người nói: "Mẹ Tôi và anh em Tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành", như Người đã nhấn mạnh: Ai nghe lời Thiên Chúa là đất tốt sinh ra nhiều hoa trái, họ cũng là đèn sáng đặt trên đế đèn soi sáng cho tất cả chung quanh, và hơn hết họ thật là anh em bà con của Người.
Cố gắng thực hiện đầy đủ lời Chúa, chính là gia nhập vào gia đình Chúa thật sự, chính là ước muốn, suy niệm, hành động và thực hiện như Đức Kitô, chính là đón nhận hiến chương nước trời Người đã rao giảng trên núi, chính là đón nhận những đòi hỏi khó khăn của ơn tái sinh, chính là bước theo đường thánh giá tới đỉnh vinh quang phục sinh.
Anh em bà con của Đức Giêsu Kitô thực sự là thế! Người không chối bỏ thân nhân về ruột thịt, nhưng vượt lên cao hơn. Đức Maria là mẹ của Đức Kitô về cả hai phương diện, mẹ thân xác và mẹ theo Đức Kitô tới đỉnh Can-vê. Mẹ cưu mang sinh thành và mẹ cưu mang thực thi lời Chúa.
GF
21/9 Vị Thánh Là Ai?
- Viết bởi Mt 9, 9-13
Vị Thánh Là Ai?
Thứ Hai tuần 25 thường niên – Thánh Mát-thêu, tông đồ, tác giả sách Tin Mừng. Lễ kính.
"Hãy theo Ta". - Và ông ấy đứng dậy đi theo Người.
* Thánh nhân là một nhân vật quen thuộc trong số các Tông Đồ. Câu chuyện người thu thuế ở Ca-phác-na-um là một trong những đoạn văn quen thuộc nhất trong phần nói về sứ vụ của Đức Giêsu ở Galilê. Người đã biên soạn sách Tin Mừng bằng tiếng Híp-ri. Sách Tin Mừng hiện nay mang tên thánh nhân cho thấy sự liên tục giữa Cựu và Tân Ước. Tương truyền người đã đi giảng ở Đông Phương.
Lời Chúa: Mt 9, 9-13
Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông ấy đứng dậy đi theo Người. Và xảy ra khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?" Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải hy lễ. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".
SUY NIỆM 1: Vị Thánh Là Ai?
Ngày kia một em bé được theo mẹ đi chợ. Từ nhà đến chợ, hai người phải đi qua một thánh đường nguy nga, to lớn. Em bé ngước mắt nhìn thánh đường, chợt em giơ tay chỉ cho mẹ và nói: "Mẹ xem kìa, những cửa kiếng màu bị đóng đầy bụi, xem thật dơ bẩn và không đẹp tí nào".
Bà mẹ không nói không rằng về nhận xét của con, nhưng tiếp tục nắm lấy tay dẫn em tiến vào bên trong nhà thờ. Tại đây, những cửa kiếng bên ngoài xem ra dơ bẩn, xấu xí lại trở nên sáng chói và rực rỡ nhiều màu sắc lộng lẫy.
Em bé ngạc nhiên mở to đôi mắt nhìn những cửa kiếng màu diễn tả nhiều hình ảnh đẹp mắt. Bỗng mắt em dừng lại ở cửa kiếng sau bàn thờ diễn tả hình của bốn thánh sử viết Phúc Âm trong lúc ánh mặt trời đang chiếu rọi qua. Em bé hỏi mẹ đó là những thánh nào và được mẹ giải thích vắn tắt về từng vị thánh.
Vài ngày sau, trong một lớp giáo lý, tình cờ giáo lý viên hỏi các em: "Này, trong các em có ai trả lời được: một vị thánh là ai?" Trước một câu hỏi có vẻ không có ý nghĩa, cả lớp giáo lý thinh lặng, chỉ có em bé được mẹ dẫn vào bên trong nhà thờ để nhìn ngắm các cửa kiếng giơ tay xin trả lời. Em nói: "Vị thánh là một người để cho ánh sáng mặt trời chiếu thấu qua".
Kinh nghiệm và câu trả lời của em bé trên có lẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn phần nào về cuộc đời của thánh Matthêu, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay, trước và sau khi được Ðức Giêsu kêu gọi, như được chính thánh nhân vắn tắt thuật lại như sau: Ði khỏi đấy, Ðức Giêsu thấy một người ngồiở bàn thâu thuế, tên là Matthêu. Chúa bảo ông rằng: "Hãy theo Ta". Ông Matthêu liền đứng dậy và đi theo Chúa.
Một tiếng gọi và một hành động đáp trả được diễn tả vắn gọn trong những dòng trên đây có thể nói được chỉ là bề mặt của trận chiến nội tâm diễn ra từ lâu nơi ông Matthêu. Một trận chiến giằng co để suy tính thiệt hơn, để cân nhắc cái lợi và cái bất lợi, để đắn đo nhưng cái mình phải mất với những cái mình sẽ đạt được, khi ông bỏ mọi sự để theo Chúa:
- Ông phải mất một nghề hái ra bạc nhưng tìm được một số mệnh và sứ mệnh thật sự có giá trị vĩnh viễn.
- Ông phải mất một gia tài to lớn nhưng tìm lại được danh dự.
- Ông phải mất sự bảo đảm xây dựng trên của cải vật chất để đi theo Ðức Giêsu trong một cuộc hành trình dẫn đến sự sống mà trước đó ông chưa bao giờ mơ ước.
Về phần Ðức Giêsu, khi chọn lựa và kêu gọi ông Matthêu, một người hành nghề thâu thuế, bị các người đồng hương thời đó coi như là người phản quốc, nối giáo cho giặc, bóc lột đồng bào để làm lợi cho dân ngoại xâm, cũng như bị lên án là kẻ tội lỗi, biển thủ, gian lận và bị nhóm biệt phái kết án là kẻ tội lỗi, Ðức Giêsu không nhìn những lỗi lầm, những vết nhơ bên ngoài, nhưng Ngài nhìn sâu thẳm tận tâm hồn, nhìn tận bên trong và nhất là Ngài đã lấy ánh sáng của tình yêu thương, lòng nhân hậu, quảng đại và tha thứ của Thiên Chúa để chiếu sáng và chiếu thấu, biến ông Matthêu từ một người thâu thuế thành một tông đồ và một thánh sử viết Phúc Âm.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Kêu gọi người tội lỗi
Người làm công lau kiếng mà chỉ nhận lau những tấm kiếng sạch thì quả là một người đãng trí, một cơ quan từ thiện bác ái mà chỉ đi giúp cho những người giàu có thì quả là một trò hề đáng trách; một nhà thương mà chỉ nhận săn sóc cho người mạnh khỏe thì quả thật là một nhà thương không thể nào chấp nhận được. Bài Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi người thu thuế tội lỗi tên là Lêvi (sau này là tông đồ Mátthêu) theo Chúa nhắc chúng ta nhớ lại sự thật: Chúa Giêsu không còn là Chúa, là Ðấng cứu thế nữa, nếu Ngài chỉ muốn tiếp xúc với những con người tự phụ cho mình là công chính không cần đến Thiên Chúa.
Lời xác nhận của Chúa Giêsu không ngừng vang dội và mang lại hy vọng cho con người. Ai là kẻ công chính hoàn toàn vô tội trước nhan Thiên Chúa đến độ không cần tới ân sủng của Thiên Chúa, không cần đến Thiên Chúa. Thiên Chúa là Ðấng nhân từ hay thương xót, giàu lòng từ ái, chậm bất bình và hết sức khoan dung nhưng chúng ta đừng vì đó mà lạm dụng và ngồi lì trong tật xấu, trong những tội lỗi của mình.
Chúa Giêsu kêu gọi người tội lỗi để chữa lành, để đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ tội lỗi, được sống trong tự do thật của những con cái Thiên Chúa. Chỉ mình Chúa là Ðấng yêu thương vô cùng và quyền năng vô biên mới có thể đối xử đại lượng được như vậy với những tật xấu, những tội lỗi của con người.
Lạy Chúa,
Con cảm tạ Chúa vì đã thương con, đã cho con nhiều dịp canh tân đời sống. Xin cho con khiêm tốn mở rộng tâm hồn đón nhận sự tha thứ của Chúa và cũng đừng có thái độ giả hình hẹp hòi muốn Chúa trừng phạt thẳng tay những tội lỗi của anh chị em chung quanh, không phải vì con sốt sắng muốn bảo vệ Chúa nhưng có thể là vì con ganh tị muốn trả thù anh chị em, không muốn anh chị em được ơn ăn năn trở lại và nhận sự tha thứ của Chúa. Xin cho con có tâm hồn quảng đại như Chúa, biết vui mừng với Chúa vì người anh chị em đã xa lìa Chúa nay ăn năn trở về.
Lạy Chúa,
Xin tình thương đầy sức mạnh tha thứ của Chúa tác động nơi con và nơi mọi anh chị em.
SUY NIỆM 3: Hãy theo Ta: Thánh Matthêu Tông Đồ
Matthêu người thâu thuế. Một nghề mang tiếng xấu, người bị coi là ô uế, không nên lui tới.
Hãy theo Ta.
Đức Giê-su đã cắt đứt quan niệm xấu về một người : "Hãy theo Ta". Người không quan tâm đến hình ảnh xã hội của ông. "Ông đứng dậy và đi theo Người". Thế là Matthêu đã bỏ cuộc sống ngày thường và lao vào cuộc phiêu lưu theo Tin Mừng. Mạo hiểm thế nào : Đức Giê-su ăn uống với người tội lỗi. Do cách làm đó, Đức Giê-su làm cho những kẻ sống thủ cựu vấp phạm nhưng Người tuyên bố do đó có ơn tha thứ của Chúa Cha. Đức Giê-su đã làm đảo lộn thế gian, Đức Giê-su đã lật ngược những vị thế truyền thống của chúng ta. Đức Giê-su đổi mới tận gốc.
Hãy theo Ta.
Không bắt ép làm những việc lớn, mà chỉ mời theo ơn gọi khác thường. Rất giản dị, hãy chia cơm bánh với người khác, đem một chút niềm vui của tôi, một nụ cười, giải trí cho bầu không khí nơi làm việc, giúp tập một nghề cách lương thiện.
Đối với mỗi người chúng ta, cần thực hiện tiếng gọi tại địa chỉ của mình, nơi chúng ta ở, trong tình trạng của những người tội lỗi. Ngày nay, từng bước từng bước theo Đức Ki-tô như người ta đồng hành với bạn thân, rất đơn giản.
Hãy theo Ta.
Như một bạn hữu ! không nói sẽ đi đến đâu, chỉ đề nghị ta đồng hành, không nói tại sao mời gọi ta hơn là người khác. Vâng ! không cần biết vì chúng ta yêu mến Người ! không cần biết vì chúng ta tín nhiệm Người, để chúng ta theo Người, để chúng ta đặt trọn đời sống chúng ta vào đời sống của Người, theo ân huệ của Người, vì Người đã thương gọi chúng ta, với niềm tin vững chắc chắn rằng Người yêu thương chúng ta !
Một cách rất thật nào đó, chúng ta dám nói với Đức Ki-tô rằng, xin theo con ! chúng ta xin Người đồng hành với chúng ta, làm cho chúng ta tin cậy vào chúng ta như Đức Ki-tô đã làm thế từ mãi mãi cho đến nay rồi.
Tình bạn tươi sáng đòi hỏi tất cả, cho tất cả, dâng tất cả và nhận tất cả. Không phải thế sao ? để đồng hành, nhưng cũng để tiến lên phía trước.
J.M
20/9 Ai muốn làm lớn, hãy trở nên như tôi tớ cho mọi người
- Viết bởi Mc 9,30-37
Chúa Nhật tuần 25 thường niên năm B.
"Ai muốn làm lớn, hãy trở nên như tôi tớ cho mọi người".
TIN MỪNG : Mc 9,30-37
Đức Giê-su và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Ga-li-lê. Nhưng Đức Giê-su không muốn có ai biết, vì Người đang dạy các môn đệ rằng : "Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời. Họ sẽ giết chết Người, và Người bị giết chết, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại". Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người. Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Đức Giê-su hỏi các ông : "Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy ?" Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Rồi Đức Giê-su ngồi xuống gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói : "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người". Kế đó, Người đem một em nhỏ, đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói : "Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy".
NHỮNG BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT TUẦN 25 TN – B
1. Đầy tớ của mọi người.
Bác sĩ Mayo là người đã xây dựng một bệnh viện nổi tiếng trên thế giới tại bang Minnesota. Ngày kia có một đoàn chuyên viên từ Âu châu đến thăm. Và theo tập tục ở đó, thì ban tối, trước khi đi ngủ, khách sẽ để giày của mình ở ngoài cửa phòng và sẽ có người đến lấy để đánh bóng. Bác sĩ Mayo là người về sau cùng khi đêm đã khuya. Ông thấy các đôi giày để ở ngoài của phòng, nhưng ngần ngại không muốn đánh thức các người giúp việc. Ông thở dài rồi đem các đôi giày xuống bếp và tự tay ông, thức đến quá nửa đêm để đánh bóng những đôi giày của khách.
Câu chuyện trên làm cho chúng ta nhớ tới lời Chúa qua đoạn Tin Mừng sáng nay: Nếu ai muốn làm lớn, thì phải trở nên kẻ rốt hết. Cũng như các tông đồ, chúng ta thường hay tranh luận xem ai trong chúng ta là người lớn nhất. Và Chúa Giêsu đã trả lời: Người lớn nhất phải làm đầy tớ cho mọi người. Chính Chúa Giêsu đã làm gương trước cho chúng ta. Ngài phán: Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Và rồi trong bữa Tiệc ly, Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài phán: Các con gọi Ta là Chúa và là Thầy thì phải lắm. Nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Vậy chúng ta phải làm gì để noi theo mẫu gương của Ngài về vấn đề phục vụ? Chúng ta đã giúp đỡ những người anh em như thế nào? Chúng ta đối xử với những người đã làm ơn cho chúng ta ra làm sao? Và thế nào là một người đầy tớ? Tôi xin thưa đó là một người được mướn để làm việc, đặc biệt là những việc trong nhà. Và theo một ý nghĩa rộng rãi hơn, thì người đầy tớ là một người hăng hái nhiệt tình với người khác bằng một mục đích, một niềm tin. Và phục vụ có nghĩa là làm một việc để giúp đỡ hay đem lại lợi ích cho người khác.
Trong chiều hướng đó thì tất cả chúng ta đều được mời gọi để trở nên những tôi tớ. Chẳng hạn: người mẹ trong gia đình thực sự là đầy tớ cho cả nhà, bởi vì mỗi chức vụ đều có những cơ may để phục vụ. Điều quan trọng là chúng ta đã thực hiện được tinh thần tôi tớ ấy hay chưa.
Đức Giáo Hoàng người đứng đầu Giáo Hội công giáo, nắm giữ một địa vị quan trọng nhất trên thế giới, thế mà ngài vẫn tự nhận cho mình là "servus servorum", tôi tớ của các tôi tớ.
Để kết luận, chúng ta hãy đánh giá cao việc phục vụ của những người chung quanh chúng ta, chẳng hạn như người bán hàng, người hốt rác, người giảng dạy. Đồng thời trong giây phút này, chúng ta hãy phục vụ Thiên Chúa bằng việc dâng thánh lễ, như một đỉnh cao của tinh thần phục vụ. Rồi khi trở về với cuộc sống, chúng ta hãy biến cuộc sống trở thành một thánh lễ nối dài bằng chính tinh thần phục vụ của mình. Mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem: Trong hoàn cảnh của tôi, tôi phải làm những gì để phục vụ và giúp đỡ những người anh em của tôi.
2. Phục vụ.
Ai muốn làm lớn, hãy trở nên như tôi tớ cho mọi người. Như chúng ta đã biết, thánh Phanxicô Salêsiô là một giám mục nổi tiếng. Ngài có một người giúp việc, và người giúp việc này lại mắc phải cái tật nghiện rượu. Buổi tối khi công việc đã xong, anh thường hay xuống phố cùng với mấy người bạn nhậu lai rai nơi quán cóc.
Lần kia, anh ta nhậu ngoắc cần câu luôn, về tới nhà thì trời đã khuya. Vì xỉn, anh ta không biết lối vào nhà, thế là anh ta liền nằm trước cửa tòa giám mục mà ngủ. Lúc bấy giờ thánh Phanxicô Salêsiô vẫn còn thức, nghe tiếng động, ngài liền ra mở cửa và khi nhận ra anh giúp việc, ngài bèn bồng anh ta, đặt vào giường của mình để anh được nằm ngủ.
Buổi sáng thức dậy, anh giúp việc thấy mình nằm trong phòng của Đức giám mục, bèn nhớ tới bữa nhậu tối hôm trước và thế là anh vội quì xuống xin Đức giám mục tha thứ. Và cũng kể từ đó anh chừa bỏ được cái tật xuống phố nhậu lai rai với bè bạn nơi quán cóc.
Qua câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy thái độ cư xử của thánh Phanxicô Salêsiô thật là đẹp đẽ. Là một vị giám mục nổi tiếng, thế mà ngài không ngần ngại cúi xuống, bồng ẵm người đầy tớ đang xỉn rượu, lại còn đem về phòng, đặt trên giường của mình cho người đầy tớ ấy được yên giấc. Còn mình thì phải đi tìm chỗ khác.
Thái độ ân cần ấy gợi lại cho chúng ta hình ảnh một người Samaria nhân từ trong Phúc âm, đồng thời cũng nhắc nhở cho chúng ta nhớ tới lời Chúa truyền dạy: Ai muốn làm lớn, hãy trở nên như tôi tớ cho mọi người.
Chính Chúa Giêsu cũng đã làm gương trước cho các môn đệ cũng như cho mỗi người chúng ta bắt chước, khi quì xuống rửa chân cho các ông trong buổi tối ngày Thứ năm Tuần thánh. Rồi Ngài cũng đã tâm sự với các ông: Nếu Ta là Chúa và là Thày mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Trong cuộc sống, chúng ta thường thấy người ta nhắc tới khẩu hiệu sau đây: Mình vì mọi người. Thế nhưng, rất ít người đã thực hiện được khẩu hiệu ấy. Đáng lẽ ra mình phải vì mọi người, thì họ lại muốn mọi người phải vì mình, có nghĩa là họ muốn mọi người phải để ý đến họ, mọi người phải ca tụng họ, mọi người phải nâng đỡ họ, mọi người phải phục vụ họ, mọi người phải đem lại lợi ích cho họ.
Cách sống trên hoàn toàn trái ngược với mẫu gương của Chúa: Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực hiện điều Chúa truyền dạy đó là dấn thân để phục vụ và giúp đỡ người khác hay chưa?
3. Nền văn minh mới – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Vào năm 2000, hàng tỷ người trên thế giới say mê theo dõi những cuộc tranh tài giữa các vận động viên hàng đầu của hành tinh trong Đại hội Olympic Sydney. Điểm đặc biệt của Olympic cuối cùng của thiên niên kỷ này là có sự tham dự của các vận động viên phụ nữ. Đây là một điểm son không của riêng Olympic mà của cả nhân loại. Điều đó chứng tỏ phụ nữ đang được trân trọng. Càng ngày vị trí của người phụ nữ càng được nâng cao. Nữ giới đang đi vào bình đẳng với nam giới trên hầu hết mọi lãnh vực. Thế giới đang đi vào một nền văn minh mới mà Đức Giêsu tha thiết truyền dạy cho các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thời xa xưa, khi còn sống hoang dã, con người ta đối xử với nhau thật tàn nhẫn. Người ta tranh giành thực phẩm. Người ta tranh chấp đất đai. Tất cả đều theo định luật cạnh tranh sinh tồn. Trong cuộc cạnh tranh thì dĩ nhiên mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé.
Khi con người đã biết tổ chức thành xã hội, sự cạnh tranh được định chế hóa trong giai cấp, quyền chức. Người có quyền có chức bao giờ cũng được lợi. Người dân đen thấp cổ bé miệng bao giờ cũng phải chịu thiệt thòi. Người nghèo không được có tiếng nói. Chính vì thế, ai cũng cố gắng vượt lên trên người khác hoặc bằng tiền bạc hoặc bằng chức quyền. Ai cũng muốn làm người đứng đầu. Ai cũng muốn làm lớn. Vì thế luôn luôn có sự cạnh tranh ngôi thứ. Trong cuộc cạnh tranh, người ta nhìn nhau như đối thủ cần phải chà đạp, cần phải loại trừ.
Hôm nay, khi thấy các môn đệ có dấu hiệu ham hố chức quyền, cạnh tranh ngôi thứ, Đức Giêsu đã nhân cơ hội dạy cho các ông biết tinh thần mới mà người môn đệ trong Nước Thiên Chúa phải có. Đó là: "Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người".
Đây thật là một cuộc cách mạng. Vị trí trong xã hội bị đảo lộn. Người đứng đầu không còn phải để ra lệnh, nhưng để phục vụ. Người làm lớn không còn ăn trên ngồi trốc, nhưng chọn chỗ hèn mọn nhất. Người bé nhỏ nhất trở nên người lớn nhất. Người yếu đuối nhất trở nên người được trọng vọng nhất.
Đây là một cuộc cách mạng không đổ máu. Vì người đứng đầu trở thành người phục vụ không phải vì ép buộc nhưng do tự nguyện. Vì người làm lớn xuống chỗ hèn mọn nhất không buồn sầu nhưng trong niềm vui. Thế giới biến đổi không do những đấu tranh giành quyền lợi, nhưng do người có quyền tự nguyện từ bỏ đặc quyền đặc lợi.
Với lời dạy dỗ ấy, Đức Giêsu đã mở ra một nền văn minh mới. Trong nền văn minh mới này, người ta không còn nhìn nhau như những đối thủ phải loại trừ trong cuộc cạnh tranh. Người ta nhìn nhau như những người anh em phải yêu thương nâng đỡ. Sẽ không còn tranh giành. Sẽ không còn xâu xé, chà đạp nhau. Sẽ chỉ có yêu thương. Sẽ chỉ có quan tâm nâng đỡ. Người mạnh sẽ quan tâm dắt dìu người yếu. Người lớn sẽ cúi xuống bồng bế người bé. Chức quyền là để phục vụ lợi ích của mọi người. Địa vị chỉ là sự phân công hợp lý. Mỗi người một việc vì lợi ích của tập thể.
Để làm gương cho ta, chính Đức Giêsu đã tự hạ mình trước. Là Thiên Chúa, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Là Đấng cầm quyền, nhưng Người đã tự nguyện vâng lời. Là thầy nhưng Người đã tự nguyện phục vụ môn đệ. Là người lãnh đạo, nhưng Đức Giêsu không đòi hỏi đặc quyền đặc lợi, trái lại Người sẵn sàng hiến mạng sống để cứu chuộc nhân loại.
Người đã hóa thân làm một con người bé nhỏ, nghèo túng, hèn yếu nhất. Để từ nay, ai đón tiếp một người bé nhỏ nhất là đón tiếp chính Người. Ai giúp đỡ một người yếu hèn nhất là giúp đỡ chính Người. Ai yêu mến một người nghèo túng nhất là yêu mến chính Người.
Với sự hạ mình của Người, số phận con người từ nay thay đổi tận gốc rễ. Người bé nhỏ trở thành đối tượng được quan tâm phục vụ. Người yếu đuối được nâng niu chăm sóc. Người nghèo hèn được kính trọng yêu thương. Vì họ đã trở thành hình ảnh của chính Thiên Chúa.
Từ nay, nhân loại đi vào một nền văn minh mới, nền văn minh của tình thương. Nhân loại không còn tranh chấp nhau, nhưng trở nên anh em đoàn kết thương yêu nhau. Sức khỏe, của cải, chức quyền không phải là những phương tiện để chà đạp, nhưng là những phương tiện phục vụ. Lãnh đạo không còn là một quyền lợi, nhưng trở thành một nhiệm vụ nặng nề vì phải quan tâm phục vụ mọi người.
Suy gẫm Lời Chúa dạy hôm nay hẳn phải khiến ta giật mình lo lắng. Không những ta không đi vào con đường Chúa đã vạch ra, mà rất nhiều khi còn chống lại Lời Chúa dạy bảo. Ta vẫn nuôi những tham vọng thống trị người khác. Ta vẫn muốn chiếm giữ những địa vị quan trọng. Ta vẫn coi thường những người bé nhỏ, hèn yếu. Ta đang đi ngược trở lại thời tiền sử. Ta đang đi ngược lại con đường Chúa đã đi.
Hôm nay Chúa mời gọi ta hãy trở lại con đường của Chúa. Hãy tự nguyện trở thành người bé nhỏ khiêm nhường. Hãy biết nâng dậy những số phận hẩm hiu. Hãy biết kính trọng những mảnh đời nghiệt ngã. Hãy góp phần xây dựng nền văn minh mới, trong đó những người yếu đuối như phụ nữ và trẻ em được quan tâm và được kính trọng.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Ngày nay, trẻ em phụ nữ, những người bệnh tật được quan tâm hơn ngày xưa. Bạn có thấy đó là dấu hiệu Lời Chúa dạy đang được thực hiện không?
2) Tại sao Chúa Giêsu sinh làm một người bé nhỏ, nghèo hèn?
3) Tại sao con người không nên tranh chấp nhau nhưng phải yêu thương phục vụ nhau?
4. Phục vụ mọi người.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Các kỷ lục thế giới cứ được nâng cao hoài, vì ai cũng muốn phá kỷ lục để được đứng nhất: chạy nhanh nhất, nhảy cao nhất, ném xa nhất... Các đĩa nhạc chỉ muốn nằm mãi trong top-ten. Các cuốn sách chỉ muốn là sách bán chạy nhất.
Đẹp nhất, giỏi nhất, giàu nhất, thế lực nhất... Cuộc sống quả là một cuộc tranh đua không ngừng.
Các nhà tâm lý học coi những tranh đua đó là cần thiết để hình thành nhân cách. Các nhà xã hội học coi những tranh đua đó là cần thiết cho sự tiến bộ của xã hội.
Tiếc thay, lắm khi người ta đã dùng bao mưu mô để đạt được và giữ được vị trí hàng đầu. Đôping trong thể thao chỉ là một thí dụ nhỏ.
Ngay trong Nhóm Mười Hai cũng có tranh chấp.
Sau khi Đức Giêsu loan báo con đường hẹp của khổ đau, các môn đệ vẫn chưa ra khỏi được con đường của mình. Đang lúc đi đường mà các ông cũng cãi nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm. Đức Giêsu tế nhị đợi về tới nhà mới hỏi như thể Ngài không biết rõ đầu đuôi. Các môn đệ làm thinh không trả lời. Đức Giêsu tôn trọng khoảnh khắc lặng lẽ cần thiết ấy để mỗi người trở về với bao thèm khát của lòng mình, đối diện với bao tham vọng đang sôi sục. Đức Giêsu ngồi xuống thư thái như một vị thầy. Ngài chẳng nặng lời với các nhà lãnh đạo Hội Thánh tương lai. Ngài dạy cho họ con đường trở nên lớn lao thực sự:
"Nếu ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người đứng cuối mọi người và phục vụ mọi người."
Đức Giêsu đưa ra một cuộc cách mạng về quan điểm. Người lớn nhất, người đứng đầu không phải là người dùng quyền để lãnh đạo chỉ huy từ trên cao, nhưng là người đến trước mọi người và về sau mọi người, để phục vụ.
Khi phục vụ vô vị lợi, tôi được thực sự lớn lên trước mặt Thiên Chúa, trước mặt anh em.
Người lớn nhất là người phục vụ hết mình nhất.
Chức vụ, chức vị, chức tước, chức quyền đều không phải là điều xấu, nếu chúng được dùng như phương tiện để phục vụ.
Nếu người đứng đầu lại phải sống như người đứng cuối, thì còn ai muốn đứng đầu nữa không?
Thế giới hôm nay rất cần những người muốn đứng đầu theo kiểu Đức Giêsu, nghĩa là trong phục vụ khiêm hạ.
Ai trong chúng ta cũng có chút ít quyền hành, cũng là người đứng đầu một tập thể nho nhỏ. Ước gì chúng ta không để mình bị hư hỏng vì quyền hành, nhưng biết dùng quyền hành để đem lại hạnh phúc cho tha nhân.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cái chết của Mẹ Têrêxa Calcutta, một nữ tu âm thầm phục vụ, đã làm cả thế giới thương tiếc. Bạn thấy đời Mẹ Têrêxa có gần gũi với bài Tin Mừng hôm nay không?
Có khi nào bạn nghe người ta cãi nhau không? Thường cãi về vấn đề gì? Tại sao các cuộc tranh cãi thường chẳng đi tới đâu và lắm khi gây đổ vỡ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin để nhận ra Chúa hôm nay và hàng ngày, nơi khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người bị thử thách: những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn, nhưng vì thiếu Lời Chúa; những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước, nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương; những kẻ vô gia cư, không chỉ tìm kiếm một mái nhà, nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối, không chỉ trong thân xác, nhưng còn trong tinh thần nữa, bằng cách thực thi lời hy vọng này: "Điều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính Ta".
5. Suy niệm của Jean-Pierre Camerelain.
"Những Kitô Hữu Này Thật Là Điên"
Ở mọi thời, những chứng nhân đích thực của Thiên Chúa đều bị coi là điên. Người ta đã chế giễu, bách hại, đôi khi giết họ nữa. Chính Chúa Giêsu đã trải qua một kinh nghiệm như thế. Nhưng sự sống đã tuôn trào từ sự điên rồ kia.
Ngày xưa có một cộng đoàn Do Thái thiểu số nhưng sốt sắng. Người ta có khuynh hướng khinh dể cộng đoàn này. Những cách hành xử của họ, niềm tin của họ làm cho thành phố Alexandria nơi họ sống, phải ngạc nhiên. Các thành viên của cộng đoàn này ngưng làm việc ngày thứ bảy, tụ họp lại xung quanh những cuộn giấy cũ được cất giữ cẩn thận từ nhiều thế kỷ, kiêng ăn thịt heo. Để nâng đỡ cộng đoàn này, một trong những thành viên của cộng đoàn đã viết một quyển sách rất hay. Một quyển sách gọi là Khôn Ngoan trong đó tác giả nhắc lại cho những kẻ cùng tôn giáo với mình rằng người công chính bao giờ cũng bị bách hại, nhưng Thiên Chúa chẳng khi nào bỏ rơi họ. Tác giả nhắc lại những vị anh hùng của lịch sử dân tộc đã chịu một số phận như thế. Chính từ quyển sách này mà hôm nay chúng ta đã nghe một đoạn trích. Tại sao những người công chính lại bị kẻ khác bách hại như thế? Bài đọc hai trích thư thánh Giacôbê sẽ trả lời cho chúng ta.
Sự ghen tương muôn thuở.
Có hai con đường cho nhân loại: Con đường dễ dãi, tìm kiếm của cải để thỏa mãn bản năng của mình, và con đường của sự khôn ngoan, chính trực, hòa bình. Bao giờ cũng sẽ có một sự tranh chấp giữa những kẻ chọn con đường này và những kẻ dấn thân vào con đường kia, giữa những kẻ tìm kiếm quyền uy, sở hữu của cải vật chất, và những người sống theo tinh thần hòa bình, khoan dung, thông cảm. Vào thế kỷ thứ I, kỷ nguyên chúng ta (lúc thánh Giacôbê viết thư của người) cũng như cũng như vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên (thời đại của sách Khôn Ngoan), đã có sự tranh chấp này rồi, vậy ta không nên ngạc nhiên khi thấy nó xuất hiện vào thời Chúa Giêsu hoặc cả thời đại chúng ta nữa!
Ông Giêsu này thật là điên!
Chính Chúa Giêsu cũng bị coi là điên. Một người tự xưng là phát ngôn viên của Thiên Chúa và bị các ký lục và biệt phái thù ghét, đã tự cho mình được tự do đối với luật sabat và nhiều tập tục thiết thân đối với những người đạo đức của dân Ngài, điều này không thể chấp nhận được. Chúa Giêsu biết mình bị thù ghét. Lúc đó Ngài bắt đầu nói về những nỗi đau khổ mà Ngài sắp phải chịu về việc Ngài bị các nhà chức trách của dân tộc ruồng bỏ và thậm chí về cái chết của Ngài nữa. Phêrô không thể chấp nhận được những chuyện như thế. Nhưng khi ông trách móc Ngài thì Chúa Giêsu đã vạch mặt Satan là kẻ ẩn nấp trong sự can thiệp của Phêrô. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn nói với các môn đệ là chính các ông nữa cũng sẽ phải chịu một số phận như Ngài!
Bước theo Chúa Giêsu trong việc tử đạo của cái thường nhật.
Vác thập giá của mình không chỉ "vào giờ chết" mà thôi nhưng "ngay từ bây giờ". Trong cái "ngay bây giờ" của những mối tương quan giữa con người với nhau. Không những dấn thân vì chính nghĩa lớn lao như việc cứu rỗi thế giới hoặc phát huy nhân phẩm, nhưng sống hằng ngày với việc mang niềm vui đến cho những kẻ vì đau khổ mà trở nên gắt gỏng với những người chung quanh, nâng đỡ những người thiếu tình yêu thương, giúp những kẻ bị ruồng rẫy, bị bỏ rơi tìm lại được phẩm giá của họ.
Trở thành đầy tớ của những kẻ bé mọn nhất như Chúa Giêsu đã làm dù có nguy cơ sẽ không được những kẻ đương thời hiểu. Làm sao chúng ta có thể là môn đệ Chúa Giêsu nếu chúng ta chỉ đón tiếp những ai suy nghĩ như chúng ta, những kẻ "trong tình trạng hợp lệ", những kẻ đã thuộc lòng tất cả bộ kinh tin kính hoặc đã tham dự tất cả những buổi họp được yêu cầu để chuẩn bị các bí tích? Chúng ta có hiểu rằng khi đã chấp nhận làm đầy tớ thì phải bỏ đi não trạng làm thầy, dù là thầy dạy suy tư chăng?
Khiêm tốn thật.
Có lẽ đó là khiêm tốn thật. Nhìn nhận rằng dù có đạo từ lâu, thậm chí còn dấn thân trong Giáo Hội nữa, với tất cả lòng thành, ta vẫn còn phải khám phá nơi kẻ bé mọn nhất một cái gì đó phát xuất từ Thiên Chúa. Phải tìm lại cho mình thái độ của đứa trẻ luôn luôn có khả năng ngưỡng mộ trước những con người và sự vật.
Trẻ con ngược hẳn với kẻ chán chường, kẻ biết mọi sự, kẻ đã thấy mọi sự. Trẻ con là kẻ, dù cao niên, vẫn biết thán phục, cởi mở đối với Thánh Linh, Đấng muốn thổi đâu thì thổi và thường gây phiền hà cho chúng ta.
Không phải vô cớ mà Chúa Giêsu đưa một trẻ nhỏ làm gương mẫu cho các tông đồ của Ngài, khi Ngài đòi các ông phải phục vụ theo hình ảnh của trẻ thơ. Ngài muốn các ông trở thành như trẻ nhỏ, có khả năng đón nhận không hậu ý, không nhỏ nhen, không tìm lợi lộc cho riêng mình. Đó là sự cao cả thật sự mà Chúa Giêsu muốn cho những kẻ thuộc về Ngài: sự cao cả của lòng khiêm tốn, sự cao cả của tinh thần phục vụ.
Thánh Phaolô nói: Dù là Con, Chúa Giêsu đã không sợ hạ mình mang thân phận người phàm, Ngài đã khiêm tốn thẳm sâu đến nỗi để cho mình bị kẻ khác ruồng bỏ và chết trên cây thập giá. Tuy nhiên, nhờ vậy mà Ngài đã Phục Sinh và sống muôn đời. Có thể nào khác hơn được đối với các môn đệ của Ngài chăng?
6. Hãy nhận biết giá trị nguồn mạch của chúng ta.
(Trích trong 'Mở Ra Những Kho Tàng' – Charles E. Miller)
Tôi giả thiết rằng tất cả chúng ta đều thích thú với khoảnh khắc khi một người nào đó trong chúng ta nói một điều gì mà chủ ý không muốn cho người khác nghe. Điều đó xảy ra với các môn đệ một ngày kia trong khi có sư hiện diện của Chúa Giêsu. Đó là Giuđa đã nói với các bạn đồng hành của mình: "Tôi thì muốn ốm và mệt mỏi với sự thánh thiện của Người hơn là thái độ của các anh". Không! Đó là một cuộc tranh luận đã xảy ra giữa các tông đồ. Họ đã tranh luận ai là người quan trọng nhất. Ngay tức khắc họ nhận ra điều cãi cọ của họ đã trở thành lố bịch khi Chúa Giêsu hỏi họ đang tranh luận điều gì thế, họ liền im lặng.
Điều đang kinh ngạc nơi cuộc tranh luận của họ là Chúa Giêsu đã dạy họ Ngài sẽ bị nộp cho những người kết án tử Ngài. Như một tôi tớ của Cha, Người sẵn lòng trải qua cái chết và để đối đầu với những kẻ chỉ nghĩ rằng phải nổi dậy với sự xuất chúng và quyền năng. Ngài nói với các môn đồ: "Bất cứ ai muốn ngồi chỗ nhất phải trở nên người rốt hết trong tất cả mọi người và là tôi tớ của mọi người".
Các môn đệ đã không thể hiểu được những lời của Chúa Giêsu, điều đó không có gì ngạc nhiên. Những giá trị của Thiên Chúa thì quá cao xa đối với những tiêu chuẩn mà con người có thể nghĩ đến. Chúa Giêsu đã đưa ra một thí dụ mà Ngài rất thích thú. Trong một cảnh cảm động, Ngài kéo một đứa trẻ vào lòng, dùng tay quàng lấy đứa trẻ và nói: "Bất cứ ai tiếp đón đứa trẻ này vì Ta là tiếp đón Ta". Đứa trẻ là gương mẫu sống động của sự khiêm tốn và đơn sơ mà chúng ta được kêu gọi để thực hành điều đó. Đó là lứa tuổi mà sự khiêm nhường và đơn sơ dẫn dắt hầu hết những trẻ nhỏ. Thường ở tuổi này chúng chưa được đến trường, chưa bước vào thế giới cạnh tranh. Sự thật đáng buồn là ở nơi các trường học những trẻ đã mất đi sự tin tưởng ở chính mình. Chúng trông đợi sự nuông chiều, được học một lớp tốt, có lẽ một đứa con gái nhỏ sẽ nghe: "Vì sao con lại muốn trở nên giống bạn con?". Sự cạnh tranh làm cho nó nghi ngờ chính mình. Một cậu trai chơi cho đội thiếu nhi League, cậu chỉ được ngồi ở ghế dự bị, trên đường về nhà ngoài sự im lặng chỉ còn vang lên tiếng nức nở của cậu bé, cậu ta hoàn toàn thất vọng, tâm trí của cậu ta thì đầy những nghi ngờ, đứa trẻ này nghĩ rằng giá trị của nó thì tùy thuộc vào thành công nhưng những cha mẹ tốt yêu con cái mình không phải vì chúng có gì hay vì những gì mà chúng đã hoàn thành.
Một trong các tông đồ là thánh Giacôbê dần dần đã học được bài học này về sự quan trọng của khiêm nhường, thánh nhân đã viết trong thư của ngài, bất cứ ở đâu có ganh tỵ và tranh chấp, cãi cọ thì ở đó bất ổn và có đủ mọi loại cư xử xấu. Ngài tiếp tục nói về sự cãi cọ và xung đột sẽ đến từ những thèm muốn bên trong. Những khao khát bên trong là những ước muốn đầu tiên trở nên tốt hơn những người khác, trở nên nhất hay thuộc loại "Top Ten".
Có nhiều người trưởng thành cũng có những khao khát này, họ nghĩ rằng giá trị của họ tùy thuộc vào sự thành công của họ. Có lẽ đó là lý do vì sao họ muốn được nhìn và cảm thấy mình quan trọng. Dĩ nhiên nếu bạn muốn đứng đầu, muốn có một công việc tốt hoặc là được trả lương nhiều bạn phải tỏ ra hoặc chấp nhận một sự cạnh tranh. Bạn phải chứng minh chính mình và sẽ phải làm tốt hơn những người khác.
Bất cứ trong trường hợp nào của sự cạnh tranh, chúng ta phải dám "ăn to nói lớn", chúng ta cần nhận biết hệ thống những giá trị của Thiên Chúa. Chúng ta phải nhớ rằng, chúng ta là những đứa trẻ, là con cái của Người Cha hoàn thiện ở trên trời, Đấng đã yêu thương chúng ta vì chúng ta là con cái của Ngài. Chúng ta đừng bao giờ nghi ngờ tình yêu của Ngài dành cho chúng ta, đó là nguồn mạch của giá trị và đáng giá của chúng ta.
7. Phục vụ cách không ham lợi.
(Trích trong 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật' – Achille Degeest).
Một lần nữa, Chúa Giêsu tiên báo cuộc Khổ nạn và sự Phục sinh của Người. Về sự Phục sinh, các môn đệ dường như chẳng có ý niệm gì. Cuộc Khổ nạn là điều xa lạ nhất đối với cách họ nghĩ về Đấng Cứu thế. Chúa nhắc lại lời tiên báo lúc lên đường đi Giêrusalem. Lộ trình Chúa chọn đi ngang qua xứ Galilêa. Chúa và các môn đệ dừng chân ở Capharnaum. Các môn đệ hy vọng vào một Đấng Cứu thế sẽ hiển trị ngay đời này. Họ bám quá chặt vào hy vọng đó, thậm trí dọc đường tranh luận với nhau về vấn đề ngôi thứ bậc nhất trong Vương quốc họ mong đợi. Lời tiên báo của Chúa không thấm nhập họ được. Các môn đệ không hiểu, có vẻ ương gàn không chịu tìm hiểu. Thế giới tinh thần của họ cho rằng Đấng Cứu thế sẽ ngự đến để phục hưng Vương quốc Israen, và họ tự tìm một địa vị trong triều đại quang phục đó. Chúa hiểu biết họ. Người tỏ ra khoan dung vì biết rằng, sau khi Người sống lại, Chúa Thánh Thần sẽ đến mở rộng tâm hồn các môn đệ. Trong khi chờ đợi, Chúa sẽ ban cho họ một điều giáo huấn quan trọng bậc nhất. Dùng một bài học cách trí, Chúa sắp dạy cho các môn đệ phải suy tưởng thế nào để có thể sẵn sàng nghênh tiếp Đức Kitô hiện thực.
Giáo huấn của Chúa dựa trên hai điểm:
a/ Muốn được xứng đáng Nước Trời, phải có tâm hồn của kẻ phục vụ.
b/ Càng khiêm hạ bao nhiêu, càng là kẻ phục vụ xứng đáng bấy nhiêu.
1) Phải có tâm hồn của kẻ phục vụ. Trong các xã hội loài người, những chức vụ được ưa chuộng nhất là những chức vụ đem lại trọng vọng, uy thế, vinh dự, quyền lợi. Cách này hay cách khác, về phương diện vật chất hay tinh thần, con người có khuynh hướng tự đề cao bằng hoạt động, bằng địa vị, bằng sự giúp đỡ người khác. Tất cả chúng ta đều có một bản tính ích kỷ sâu kín khiến chúng ta thích tìm những lời khen ngợi của người khác. Do đó, xảy ra những xung đột vì hư danh, tư lợi, ham thích được trọng nể. Các môn đệ không tránh được thói thường đó.
Trước khi Chúa tự nguyện làm gương mẫu cho các môn đệ, Người phán rằng điều quan trọng cho con người là phải xem mình là kẻ phục vụ anh em không mang tư lợi. Đối với Cha, kẻ trên hết là tìm cách đứng sau chót bằng đường lối vô tư, trong sạch, bình thản, sẵn sàng phục vụ anh em.
2) Xuyên qua một bài học cách trí, Chúa dạy các môn đệ phải phục vụ như thế nào. Chúa lấy ví dụ một em nhỏ. Thời đó trong xã hội Do thái, đứa trẻ đứng sau chót ở bậc thang địa vị. Theo lời giảng dạy của Chúa, kẻ nào vì tự nhận là môn đệ Đức Kitô, cho nên phục vụ người có địa vị thấp kém nhất, ít được trọng vọng nhất giống như trẻ nhỏ, kẻ ấy nghênh đón chính Chúa Giêsu và Cha Người là Thiên Chúa.
Ngoài tình quyến luyến ra, đứa trẻ chẳng có gì để đền đáp kẻ phục vụ nó, đón nhận nó bằng tấm lòng yêu quý không vụ lợi. Kẻ nào tìm cách phục vụ như vậy, sẽ được Chúa hiện diện trong tâm hồn.
Một câu hỏi: Giữa những anh em đồng đạo đang cùng với ta tìm cách theo, và phục vụ Đức Giêsu Kitô, chúng ta chọn lấy vị trí nào?
8. Người lớn nhất?
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Thế vận hội Olmpic Sydney 2000 đã long trọng khai mạc vào ngày 15/9. Buổi lễ khai mạc đã diễn ra tưng bừng vĩ đại nhất thế kỷ. Vận động viên các nước về đây tham dự, ai cũng muốn phá kỷ lục thế giới, để được đứng hạng nhất, đoạt được huy chương vàng. "Nhanh nhất, cao nhất, xa nhất" vẫn luôn là khẩu hiệu của Olympic. Thế nhưng ai là người lớn nhất? Đó là vấn đề tranh cãi giữa các môn đệ của Chúa Giêsu. Cuộc tranh cãi còn kéo dài mãi đến nỗi trong bữa Tiệc ly Chúa Giêsu đã phải quỳ xuống rửa chân cho các ông để dạy một bài học khiêm tốn phục vụ.
Theo cái nhìn thông thương, người lớn nhất là người có địa vị cao, có quyền lực, có nhiều tiền... Và nếu đã là người lớn nhất thì chắc chắn phải được kính nẻ, tôn trọng, phục dịch, được nhiều quyền lợi hơn.
Chúa Giêsu đã đảo ngược cách nhìn thường tình đó để thay thế bằng một thang giá trị mới của Nước Thiên Chúa: Trong Nước Thiên Chúa, người trước hết trở nên sau hết, người sau hết trở nên trước hết. Người cao nhất có thể không bằng người thấp nhất, và người thấp nhất lại được kính trọng hơn người cao nhất. Điều quan trọng đối với Chúa Giêsu không phải là làm gì, nhưng là làm như thế nào, với tinh thần nào, vì mục đích gì? Và cái cao nhất cũng như cái thấp nhất không nắm trong ngôi thứ bên ngoài nhưng tuỳ vào tinh thần bên trong.
Sự đảo lộn các giá trị nói trên cũng làm đảo lộn theo cách sống và cách cư xử với tha nhân. Đối với Chúa Giêsu, người lớn nhất phải là người khiêm tốn nhất, sẵn lòng phục vụ nhất, sẵn sàng chịu thiệt thòi nhất. Lòng khiêm tốn, thái độ vị tha, tinh thần phục vụ chính là thước đo giá trị của mỗi người trong Nước Thiên Chúa. Và trong Nước Thiên Chúa chỉ dùng thước đo duy nhất đó thôi, không dùng thước đo nào khác. "Ai muốn làm đâu thì phải làm hầu thiên hạ. Ai muốn làm người lớn nhất thì phải làm người nhỏ nhất và phục vụ mọi người".
"Nghệ thuật làm lớn" của Chúa Giêsu được đúc kết trong lời khẳng định: "Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người". Tất cả cuộc sống của Ngài mình hoạ rõ nét chân lý đó. Biểu hiện rõ nhất của hiến thân và phụ vụ là thập giá và cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu. Chính khi hiến thân và phục vụ như vậy, Ngài càng trở nên cao cả và đáng suy tôn là "Đức Chúa". Đó là gương phục vụ trọn vẹn. Thiên Chúa phục vụ con người để con người phục vụ nhau vì Thiên Chúa.
Bài đọc 1 hôm nay nói đến "Người Tôi Tớ đau khổ", một danh xưng đã được Ngôn Sứ Isaia sử dụng để tiên báo Đấng Cứu Thế và đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu, Đấng đã trở thành Tôi Tớ của mọi người bằng cuộc sống phục vụ đến hiến mạng sống cho mọi người. Theo nghĩa thích hợp nhất: Chúa Giêsu là Tôi Tớ của mọi người.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu đã đưa một em bé ra đây để dạy các môn đệ: "Ai tiếp đón một em bé như em bé này là tiếp đón Thầy. Và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, mà là tiếp đón Đấng đã sai Thầy". nhiều lần Chúa Giêsu đồng hoá với những người nhỏ bé, nghèo hèn. Ở đây Chúa Giêsu đồng hoá với một em bé, một thành phần không có chỗ đứng trong xã hội Do Thái. Một người nhỏ bé, nghèo hèn nhất, không đáng kể trước mặt người đời, cũng được Chúa Giêsu coi là hiện thân của Ngài. Đón nhận người ấy là đón nhận Ngài và là đón nhận Ngài và là đón nhận chính Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài.
Nếu Thiên Chúa đã tự liên đới với người nhỏ bé, nghèo hèn, không đáng kể nhất, thì chúng ta còn sợ gì mà không dám làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người. Phục vụ một người không đáng kể nhất cũng là phục vụ chính Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao trở nên người rốt hết và phục vụ mọi người lại là người lớn nhất.
Một hoàng đế, một Giáo Hoàng, một tổng thống, một chủ tịch có phải là người lớn nhất hay không, đó còn tuỳ ở chỗ những người ấy có thật sự là "đầy tớ của nhân dân" hay không, có thật sự là "tôi tớ của các tôi tớ" hay không?
Anh chị em thân mến,
Con đường tự hạ, làm người bé nhỏ và phục vụ anh em là con đường để trở nên vĩ đại, trở nên người lớn nhất trước mặt Chúa. Chính Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài đã làm người rốt hết, làm người tôi tớ mọi người, đem chính mạng sống của Ngài mà phục vụ mọi người. "Ngài đã vâng phục đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá, chính vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài đến tột đỉnh vinh quang; "Đức Chúa" (x.Pl 2,5-11). Ai đi con đường đó với Ngài sẽ được Ngài đưa tới vinh quang tột đỉnh với Ngài.
Một khi Chúa Giêsu đã tự hạ làm người rốt hết và đồng hoá với cả những người mà thế gian coi như không có, thì mọi thái độ thống trị đã bị kết án rồi, vì thống trị, cha đạp bất cứ ai cũng là thống trị, chà đạp Thiên Chúa vậy.
9. Đầy tớ của mọi người – Gm. Arthur Tonne.
Bác sĩ Charles Mayo cùng với cha và người em xây dựng bệnh viện Mayo nổi tiếng trên thế giới tại Rochester thuộc bang Minnnesota. Một lần có phái đoàn chuyên viên y khoa từ Âu Châu được mời đến nhà bác sĩ Charles Mayo. Theo tục lệ ở đó, khách sẽ để giầy ở ngoài cửa phòng ngủ để ban đêm có người đánh bóng.
Bác sĩ Charles Mayo về sau cùng. Khi về phòng, ông thấy các đôi giầy để đó và đã quá khuya, ông không muốn đánh thức người giúp việc. Ông thở dài, rồi đem các đôi giầy xuống bếp, tự tay ông, thức hết nửa đêm để đánh bóng các đôi giầy của khách.
Đây là một tấm gương Chúa Giêsu nói với bạn và tôi trong Tin Mừng hôm nay: "Nếu ai muốn làm lớn, phải nên kẻ hèn nhất và làm đầy tớ cho mọi người". Cũng như các Tông đồ chúng ta thường tranh luận ai trong chúng ta là người lớn nhất. Đức Kitô trả lời chúng ta: "Người lớn nhất phải làm đầy tớ cho mọi người". Bác sĩ Charles Mayo là một trong những bác sĩ nổi tiếng trên thế giới. Thế nhưng ông đã đánh giầy cho khách của ông.
Xin nhắc lại Chúa Giêsu rửa chân cho các Tông đồ trong đêm trước khi Ngài chịu chết vì chúng ta.
Bài đọc I hôm nay liên quan đến: "Người tôi tớ đau khổ", một danh xưng và đặc tính của Tiên tri Isaia (40,55) đã tiên báo và được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu, Đấng đã trở thành đầy tớ của mọi người bằng cái chết. Tước hiệu "Đầy tớ" này được chỉ về Chúa Giêsu trong sứ vụ các Tông đồ. Theo những nghĩa thích hợp nhất: Chúa Giêsu là đầy tớ của mọi người.
Chúng ta làm thế nào để theo kịp Chúa Giêsu trong vấn đề phục vụ? Chúng ta phục vụ anh em thế nào? Chúng ta đối xử thế nào với những người phục vụ chúng ta?
Người đầy tớ là gì? Là một người được mướn để làm việc, đặc biệt là làm việc trong nhà. Với một ý nghĩa khác: Người đầy tớ được hiểu như một người hăng hái nhiệt tình với người khác, với một mục đích hay với một niềm tin, phục vụ có nghĩa là làm một việc để giúp đỡ, để có lợi hoặc tình nghĩa cho người khác.
Tất cả chúng ta được gọi để làm tôi tớ, ngay cả nhà giải phẫu tài giỏi nhất. Bác sĩ Mayo phục vụ nhân loại không chỉ bằng việc giải phẫu mà còn bằng việc đánh giầy cho khách.
Người mẹ trong gia đình thật sự là người đầy tớ cho cả gia đình. Mỗi một nghề đều có cơ may để phục vụ.
Chú ý đến việc của bạn để làm tốt cho người khác. Nếu không bạn không thể chu toàn tốt công việc của bạn và bạn sẽ mất mục đích của việc làm. Chân lý Chúa Giêsu công bố hôm nay là: "Bạn sẽ không quan trọng nếu bạn không cố gắng phục vụ mọi người".
Đức Giáo Hoàng, đầu của Giáo Hội Công giáo, một địa vị quan trọng nhất trong thế giới, nhận tước hiệu: "Tôi tớ của các tôi tớ của Chúa".
Điều này dẫn chúng ta chú ý đến hình thức cao nhất của việc phục vụ: Phục vụ Chúa qua phượng tự và làm việc thiện. Trong giờ này chúng ta phục vụ Chúa bằng cách cùng dâng Thánh Lễ, hình thức cao nhất của việc phục vụ. Đồng thời chúng ta cũng phải đánh giá cao việc phục vụ chúng ta của người hàng xóm, của người hốt rác, của người phát thơ, của người mẹ, của mọi người phục vụ chúng ta.
Mỗi người theo Chúa Kitô phải đặt câu hỏi: "Trong địa vị của tôi, tôi có phải làm sao để thực sự phục vụ người khác.
Xin Chúa chúc lành bạn.
10. Suy niệm của Noel Quesson.
AI MUỐN LÀM ĐẦU, HÃY LÀM ĐẦY TỚ MỌI NGƯỜI.
Cùng với ông bố và người em, bác sĩ Sa-ri May-ô (Charies Mayo) đã xây bệnh viện May-ô nổi tiếng ở Rochester, thuộc tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ.
Lần kia, một phái đoàn y khoa tới thăm bệnh viện. Theo tục lệ ở đó, các người khách để giày của mình trước cửa phòng và ban đêm sẽ có người đánh bóng các đôi giày ấy. Tối hôm đó, bác sĩ May-ô làm việc muộn và về phòng sau cùng. Ông thấy các đôi giày của khách để ở cửa chưa được đánh bóng, các người giúp việc đều ngủ cả. Ông tự mình kiếm xi và bàn chải rồi ngồi đánh bóng hết các đôi giày của khách.
Câu chuyện nhỏ này đã thành huyền thoại. Bác sĩ May-ô được ca tụng vì tài năng, vì những công trình y khoa vĩ đại, mà cũng vì nếp sống khiêm nhu bình dị.
Theo Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu huấn luyện nhóm tông đồ Người đã chọn. Chúa Giêsu xuống thế, cốt dạy nhân loại về một Thiên Chúa tình yêu. Thiên Chúa như một người cha nhân từ, sẵn sàng hy sinh tất cả cho chúng ta, giúp đở chúng ta tận tình, tới mức hầu hạ chúng ta vì yêu thương. Những tư tưởng này còn lâu các Tông đồ mới làm quen được, hoặc có thể nói được như Thánh Phaolô: "Hãy sống trong tình yêu như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta và cống hiến chính thân mình Người".
Trong các đức tính cần có, thì đức khiêm tốn có lẽ là xa lạ, khó chấp nhận nhất đối với tính tự nhiên con người. Các Tông đồ không muốn nghe tới sự thua thiệt của Chúa Giêsu. Trong lúc Chúa nói về sự tự hạ, về tình yêu biểu lộ trong hy sinh đau khổ, về phục vụ, tự hiến cho anh em, cho những người cần tỏ tình yêu thương... thì các ông hy vọng chiếm được khi Chúa trở thành người quyền cao chức trọng.
Chúa Giêsu hiểu tâm trạng các Tông đồ, và Chúa dùng kiểu nói cụ thể hơn để diễn tả tư tưởng Người. Dĩ nhiên một tổ chức ở trần gian thì phải có người trên kẻ trước, phải có người lãnh đạo, chỉ huy. Nhưng trong tổ chức của Chúa, thì những người giữ địa vị cao phải ý thức mình là rốt hết, ở thứ hạng sau cùng. Người lãnh đạo phải nên tôi tớ cho mọi người: "Ai muốn làm đầu thì hãy ở cuối hết và hầu hạ mọi người". Chúa nói thế và Người đã làm thế, làm thực sự chứ không chỉ nói bằng lý thuyết. "Các con gọi Thầy là Thầy và là Chúa thì đúng lắm. Vậy mà Thầy đã rửa chân cho các con. Các con cũng hãy rửa chân cho nhau" (Ga 13,13).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu lời Chúa dạy, cho chúng con thực thi điều Chúa muốn, là phục vụ mọi người trong tin yêu và khiêm tốn.
19/9 Dụ Ngôn Người Gieo Giống
- Viết bởi Lc 8, 4-15
Dụ Ngôn Người Gieo Giống.
Thứ bảy tuần 24 thường niên.
"Hạt rơi trong đất tốt, là những người giữ lấy lời và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".
Lời Chúa: Lc 8, 4-15
Khi ấy, có đông dân chúng tụ họp lại, và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa Giêsu. Người dùng dụ ngôn mà nói rằng: "Người gieo hạt giống ra đi gieo hạt giống mình. Và đang khi gieo, có hạt rơi xuống bên vệ đường, bị người ta chà đạp và chim trời đến ăn đi. Hạt khác rơi trên đá sỏi, vừa mọc lên liền héo đi, vì không có đất ẩm. Hạt khác rơi vào bụi gai, và gai góc cùng mọc lên, bóp nghẹt nó. Hạt khác rơi vào đất tốt, đã mọc lên và kết quả gấp trăm".
Khi nói những lời đó, Người kêu lên rằng: "Ai có tai để nghe thì hãy nghe!". Bấy giờ các môn đệ hỏi Người dụ ngôn đó ý nghĩa thế nào. Người nói rằng: "Phần các con, thì cho các con biết những mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; đối với người khác, thì dùng dụ ngôn, để chúng xem mà không thấy, nghe mà không hiểu. Dụ ngôn đó có nghĩa thế này: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những hạt rơi bên vệ đường, tức là những người đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp lời khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Những hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi nghe thì vui vẻ đón nhận lời Chúa, nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng nhất thời, và khi đến giờ thử thách, thì tháo lui. Hạt rơi vào bụi gai, là những người đã nghe, nhưng khi đi đường, những mối lo nghĩ, sự giàu có và thú vui của đời sống bóp nghẹt và họ không sinh hoa kết quả. Còn như hạt rơi trong đất tốt, là những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".
SUY NIỆM 1: Dụ Ngôn Người Gieo Giống
Dụ ngôn, theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là so sánh, là thí dụ. Trong Tin Mừng, là những câu truyện Chúa Giêsu đưa ra dựa trên những hình ảnh quen thuộc trong đời sống hằng ngày của người nghe, để giúp họ hiểu ý nghĩa những sự thật có liên quan đến niềm tin mà Ngài muốn trình bày.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta dụ ngôn về người gieo giống.
Trước hết, cần lưu ý đến sự khác biệt giữa dụ ngôn và những lời giải thích dụ ngôn. Khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu xem ra nhấn mạnh đến sự hiệu nghiệm của hạt giống hay đúng hơn sự thành công của người gieo giống: có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá, có hạt rơi vào bụi gai, nhưng cũng có hạt rơi trên đất tốt và sinh hoa kết quả gấp trăm. Còn khi giải thích dụ ngôn cho các môn đệ, Chúa Giêsu như muốn nhấn mạnh đến thái độ cộng tác của con người để làm cho Lời Chúa được sinh hoa kết quả. Thật ra, hai khía cạnh này không đối nghịch nhau, nhưng được tổng hợp để diễn tả thực tại phong phú của mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa chắc chắn được phát triển, nhưng phần cộng tác của con người trong việc phát triển Nước Chúa cũng không thể bỏ qua được.
Hạt giống Lời Chúa là yếu tố chính của dụ ngôn. Hạt giống này tự nó có sức trổ sinh hoa trái, nhưng khi được gieo vãi thì gặp những hoàn cảnh đối nghịch tùy vào thái độ chấp nhận cộng tác của con người lãnh nhận Lời Chúa. Người gieo giống ở đây là chính Thiên Chúa, Ngài gieo vãi khắp nơi, trao ban nhưng không ơn cứu rỗi cho mọi người. Thiên Chúa có sáng kiến trước, nhưng con người cũng cần cộng tác vào: hai yếu tố này không thể bỏ qua được.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta canh tân đời sống, cộng tác với ơn Chúa ban để trở thành những mảnh đất tốt đón nhận và làm phát triển hạt giống Lời Chúa. Xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín đó.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Mảnh Ðất Tốt
Mỗi người đồ đệ cần phải cộng tác vào việc làm cho Nước Chúa được ngự đến, và trước hết là nơi chính bản thân mình. Chúa Giêsu giảng giải điều này cho các môn đệ qua dụ ngôn về người gieo giống được Giáo Hội nhắc lại trong ngày hôm nay.
Chúng ta có thể lưu ý đến một chút khác biệt giữa dụ ngôn và những lời giải thích về dụ ngôn. Khi kể về dụ ngôn Chúa Giêsu xem ra như nhấn mạnh tới sự hiệu nghiệm của hạt giống hay đúng hơn sự thành công của người gieo giống chắc chắn thu được thành quả. Có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá, có hạt rơi trong bụi gai, nhưng có những hạt rơi trên đất tốt và trổ sinh hoa trái gấp trăm. Còn khi giải thích dụ ngôn cho các môn đệ thì xem ra như Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến thái độ cộng tác của con người để làm cho Lời Chúa sinh hoa trái tốt. Thật ra hai khía cạnh này không đối nghịch nhau mà ngược lại cả hai cùng được tổng hợp để diễn tả thực tại phong phú của mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa chắc chắn được phát triển nhưng phần cộng tác của con người trong việc phát triển Nước Chúa cũng không thể nào bỏ qua được.
Chính hạt giống Lời Chúa là yếu tố chính của dụ ngôn, hạt giống Lời Chúa này tự nó có sức mạnh để trổ sinh hoa trái, nhưng khi được gieo vãi, được rao giảng cho mọi người thì liền gặp phải hoàn cảnh đối nghịch, gai góc, đá sỏi tùy thuộc vào thái độ chấp nhận cộng tác của người lãnh nhận Lời Chúa. Người gieo giống ở đây được hiểu là chính Thiên Chúa. Ngài gieo vãi khắp nơi, trao ban nhưng không cho tất cả mọi người ơn cứu rỗi.
Thiên Chúa đã có sáng kiến ứng trước cho con người nhưng phần con người thì cũng cần cộng tác đáp lại. Hai yếu tố không thể bỏ qua được. Thiên Chúa không áp đặt nhưng kính trọng tự do của con người. Những trở ngại không cho hạt giống Lời Chúa sinh hoa trái là thái độ hời hợt, xu thời, không kiên trì, lo lắng tích trữ giàu sang vật chất, say mê đi tìm thú vui.
Mỗi người chúng ta cần canh tân đời sống cộng tác với ơn Chúa ban, cố gắng sao để trở thành mảnh đất tốt đón nhận hạt giống Lời Chúa. Một tâm hồn cao thượng, quảng đại và kiên trì giữa những gian nan thử thách của cuộc đời, đó là điều Thiên Chúa hằng mong ước gặp được nơi mọi người đồ đệ của Ngài, nơi mỗi người chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa,
Xin ban cho con được trở nên mảnh đất tốt hàng ngày đón nhận và suy niệm Lời Chúa cũng như sống thực hành những gì Chúa truyền dạy.
Lạy Chúa, xin hãy phán, này tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Sinh hoa kết quả nhờ kiên trì
"Người gieo giống ra đi gieo hạt giống của mình, trong khi người ấy gieo, thì có hạt rơi xuống vệ đường, người ta giẫm lên và chim trời ăn mất. Hạt khác rơi trên đá, và khi mọc lên, lại héo đi vì thiếu ẩm ướt. Có hạt rơi vào giữa bụi gai, gai cũng mọc lên làm nó chết nghẹt. Có hạt lại rơi nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết quả gấp trăm. Nói xong, Người hô lên rằng: "Ai có tai nghe thì nghe"
Các môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì. Người đáp: "Anh em thì được ơn hiểu biết các mầu njiệm Nước Thiên Chúa; còn với kẻ khác thì phải dùng dụ ngôn để
Chúng nhìn mà không nhìn
Nghe mà không hiểu." (Lc. 8, 5-9)
Chức vụ Đức Kitô ở Galilê đến hồi kết thúc. Người muốn cho đông đảo dân chúng tụ họ chung quanh hiểu về mầu nhiệm nước trời bằng một dụ ngôn mang ý nghĩa vừa cụ thể vừa cao siêu. Dụ ngôn không có sức gắn liền với trí tuệ, tự nó không bao giờ minh hiển. Nó dự báo chân lý và phải nhờ đường lối của Thiên Chúa mới làm cho tâm hồn nắm bắt được chân lý và trở về với chân lý.
Pascal đã viết: trong tư tưởng của Chúa "Có đủ rõ ràng để soi cho những người được tuyển chọn, và khá tối tăm để giúp họ khiêm hạ. Có đủ tối tăm để làm kẻ thách thức mù quáng, và khá rõ ràng để kết án họ và làm cho họ không thể chối cãi". Những dụ ngôn của Đức Giêsu chứa đựng vừa sáng vừa tối để họ không thể chiến thắng bằng sức riêng của mình, nhưng cũng để tôn trọng tự do của mỗi người. Đối với dụ ngôn người gieo giống trong Tin Mừng hôm nay cũng thế.
Người gieo ra đi gieo giống, cũng gặp nhiều tai họa! có hạt rơi trên vệ đường bị người và vật dày đạp và sau cùng bị chim trời đến ăn. Có hạt chết khô đét trên đá vì thiếu ẩm ướt. Có hạt bị chết nghẹt trong bụi gai không vươn lên được. Sau cùng rơi vào đất tốt sinh hoa kết quả.
Ai có tai thì hãy nghe.
Sứ điệp Tin Mừng trải qua bao nhiêu thời gian đã bị rơi vào những con tim tin ma thờ quấy, hay nông nổi nhất thời hay ham mê danh lợi thú. Chỉ có những con tim chân thành, khiêm tốn, kiên trì, cao thượng mới sinh hoa kết quả cho những mùa gặt phong phú. Lòng yêu mến của họ sẽ giúp họ nắm giữ và thực hành được lời Chúa, dầu gặp những thất bại, thử thách, đau khổ, chống đối, bắt bớ và phải chết, họ vẫn an tâm vững chí kiên trì cho đến tận cùng. Ngày qua ngày, khiêm tốn họ sống thực hiện những điều đã khám phá do Thiên Chúa ban ơn, họ dần dần đi vào cuộc sống thân mật của Thiên Chúa.
GF.
18/9 Vai trò người phụ nữ trong Tin Mừng
- Viết bởi Lc 8, 1-3
Vai trò người phụ nữ trong Tin Mừng.
Thứ sáu tuần 24 thường niên.
"Có mấy phụ nữ đi với Người và họ đã lấy của cải mình mà giúp Người".
Lời Chúa: Lc 8, 1-3
Khi ấy, Chúa rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa. Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: là bà Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy quỷ ám, bà Gioanna vợ của Chusa, viên quản lý của Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác; những bà này đã lấy của cải mình mà giúp Người.
SUY NIỆM 1: Sự Bình Ðẳng Của Phụ Nữ
Vào thế kỷ 14, người ta vẫn còn xem người phụ nữ như một thứ nguy hiểm, một cám dỗ triền miên, một tạo vật thấp hèn, hay cùng lắm chỉ là phương tiện để bảo tồn nòi giống. Một quan niệm và đối xử như thế với phụ nữ vẫn còn rơi rớt trong thời đại chúng ta: trong biết bao xã hội, người phụ nữ vẫn còn bị đối xử như chưa bình đẳng với nam giới. Thời Chúa Giêsu, dĩ nhiên cách đối xử với nữ giới còn tệ hơn. Chúa Giêsu quả thực đã làm một cuộc cách mạng khi đảo lộn quan niệm về nữ giới nơi những người đồng thời với Ngài.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy cách đối xử của Chúa đối với nữ giới. Những người phụ nữ mà thánh Luca nhắc đến có người đã từng bị quỉ ám, bởi vì họ là đối tượng của những sức mạnh huyền bí gây xáo trộn trong cuộc sống và chức năng của họ: không những họ phải mang nặng đẻ đau mà còn bị nguyền rủa khi son sẻ. Mối quan tâm của Chúa Giêsu đối với nữ giới, nhất là việc Ngài chữa lành cho họ, là dấu chỉ cho thấy họ đã được tự do, không những được giải phóng khỏi sức mạnh tăm tối, mà còn trở nên bình đẳng trước mặt mọi người.
Ðể nói sự bình đẳng ấy, Chúa Giêsu cho các phụ nữ được tham gia vào sinh hoạt của Nhóm Mười Hai. Sự hiện diện và phục vụ của họ bên cạnh Chúa Giêsu và Nhóm Mười Hai chứng tỏ rằng trong Giáo Hội của Ngài không hề có sự phân biệt phụ nữ. Sự kiện những phụ nữ đi theo Chúa Giêsu ngay từ lúc Ngài bắt đầu sứ vụ công khai chứng tỏ rằng họ là những người đồng hàng với các Tông Ðồ trong việc loan báo Tin Mừng của Ngài. Có sứ mệnh và trách nhiệm loan báo sứ điệp Tin Mừng, đây là thể hiện cao độ nhất của sự bình đẳng của nữ giới.
Chúa Giêsu đã đến để giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài tái lập con người trong tước phẩm cao trọng của con cái Chúa. Chính tước phẩm ấy là nền tảng sự bình đẳng của con người: nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, tất cả đều có một phẩm giá cao trọng như nhau. Thánh Phaolô đã diễn tả chân lý ấy trong thư Galata: "Không còn Do thái hay Hy lạp, không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ, bởi vì tất cả là một trong Chúa Giêsu Kitô".
Chúa Giêsu đã khẳng định sự bình đẳng của nữ giới không bằng tuyên bố suông, Ngài đã chứng minh điều đó khi để cho các phụ nữ gia nhập vào nhóm mười hai Tông đồ của Ngài. Sự bình đẳng, hay đúng hơn, phẩm giá của con người được thể hiện trước tiên qua hành vi phục vụ: càng phục vụ, con người càng chứng tỏ phẩm giá cao trọng của mình. Thật ra, đây cũng chính là nghịch lý chạy xuyên suốt Tin Mừng: càng đi tìm bản thân, con người càng đánh mất bản thân; trái lại, càng quên mình phục vụ, con người càng tìm lại bản thân và chứng tỏ phẩm giá cao trọng của mình.
Xin Chúa ban đức tin để chúng ta luôn biết tôn trọng phẩm giá nơi mỗi người, nhất là biết cố gắng thể hiện phẩm giá của mình bằng cuộc sống quảng đại phục vụ và yêu thương.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Vai Trò Của Người Phụ Nữ
Thánh nữ tiến sĩ Hội Thánh Edith Stein trước khi trở lại công giáo đã từng là một triết gia nổi tiếng. Thánh nữ đã trở lại công giáo sau khi đọc tiểu sử của thánh nữ Têrêsa Avila. Và mười hai năm sau khi chịu phép rửa đã vào tu trong dòng Kín. Không giống như thánh nữ Têrêsa, Edith Stein vốn là người đàn bà vụng về trong công việc nội trợ trong nhà dòng. Tuy nhiên, theo chứng từ của những người còn sống sót trở về từ các trại tập trung Ðức quốc xã, thánh nữ Edith Stein đã luôn giữ vững được tinh thần và là người đứng ra chăm sóc cho các thiếu nhi cùng bị giam giữ với mẹ chúng trong các trại tập trung Ðức quốc xã.
Bí quyết để thánh nữ có thể giữ vững được tinh thần và nâng đỡ những người chung quanh chính là luôn sống giây phút hiện tại và đặt cả niềm phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Cũng giống như thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu, thánh nữ Edith Stein luôn sống một cách sung mãn từng giây phút hiện tại.
Tin Mừng hôm nay nhắc tới tên của một số người phụ nữ đã được Chúa Giêsu chọn làm cộng tác viên của Ngài trong công cuộc rao giảng Tin Mừng, đây không phải là một sự tình cờ hay phụ thuộc trong chương trình của Ðấng cứu thế. Tuy không được chọn làm tông đồ nhưng sự hiện diện và công việc âm thầm của những người phụ nữ này cũng quan trọng chẳng kém gì công tác tông đồ. Vai trò của họ lại càng quan trọng và nổi bật hơn nữa bởi vì trong những giây phút đau thương nhất của Chúa Giêsu họ là những người duy nhất đứng kề bên Ngài. Sự hiện diện của một số người phụ nữ trong công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu và nhất là trong những giây phút cuối đời của Ngài cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của chứng tá âm thầm của cuộc sống đức tin. Chứng tá ấy nói với chúng ta rằng trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô dù có âm thầm và vô danh đến đâu mỗi người đều có một chỗ đứng quan trọng và không thể thay thế được.
Nguyện xin Chúa ban đức tin để chúng ta luôn biết tôn trọng phẩm giá con người, nhất là thể hiện phẩm giá của mình bằng cuộc sống quảng đại, phục vụ và yêu thương.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Những người giúp vô vị lợi
Sau đó Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người có nhóm mười hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la người đã được giải thoát bảy quỷ. (Lc. 8, 1-2)Người ta nói, không tiền và không giúp đỡ, chẳng làm được gì. Ngay trong việc rao giảng Tin Mừng cũng thế. Đó là lý do chung quanh Đức Kitô để giúp việc truyền giáo, ngoài các tông đồ ra, còn có các bà tận tâm đi theo giúp đỡ, một thứ giúp đỡ vô vị lợi. Nhờ đó Chúa rảnh tay hoàn toàn hiến thân cho công việc cốt yếu nhất. Những người giúp đỡ này chính là các phụ nữ. Thánh Lu-ca hơn các Thánh viết Tin Mừng khác, nói đến vai trò các bà đóng góp vào việc chung quanh Thầy chí thánh và trong đoàn truyền giáo đầu tiên của Giáo Hội. Thánh Lu-ca nhấn mạnh đến công việc nặng nhọc của các bà đã lấy của cải mình giúp đỡ các Ngài.Thánh Lu-ca chắc hẳn lưu tâm đến thời cựu ước và trong nhiều nền văn minh khác, phụ nữ bị coi là thứ cấm kỵ, đối tượng của sức mạnh bí ẩn, bị khuất phục dưới thảm trạng bi đát bên lề. Người phụ nữ Samaria kêu lên ngạc nhiên khi Đức Kitô dám nói chuyện với mình. Tận nền vấn đề, Đức Kitô là Người bảo vệ đầu tiên vĩ đại, là người khởi động đầu tiên thăng tiến giải phóng phụ nữ. Các thầy khác thời người đã loại bỏ phụ nữ khỏi ảnh hưởng các đồ đệ của họ và tổ chức Do-thái giáo lúc đó không chấp nhận phụ nữ tham dự cộng đồng. Chỗ đứng của phụ nữ ở giữa dân ngoại và dân Is-ra-el!
Vậy mà truyền thống kể lại những lần hiện ra đầu tiên của Đức Giêsu sống lại là hiện ra với các bà. Đức Giêsu rất tín nhiệm các bàvà các bà đã chứng tỏ lòng trung thành đặc biệt đối với Người, như: cung cấp nuôi dưỡng các Ngài suốt thời gian truyền giáo, các bà theo Chúa trên đường vác thánh giá lên đồi Can-vê, đứng dưới chân thánh giá, đi ra thăm mồ từ sáng sớm. Khi người ta nhớ đến vai trò mà Đức Giêsu đã dành cho phụ nữ, và so sánh với Giáo Hội xuyên suốt các thời đại, người ta ngạc nhiên thấy rằng vai trò của phụ nữ bị chìm vào quên lãng, khác hẳn với cách cư xử của Đức Kitô đối với phụ nữ.
GF
17/9 Yêu mến nhiều, tha thứ nhiều
- Viết bởi Lc 7, 36-50
Yêu mến nhiều, tha thứ nhiều.
Thứ năm tuần 24 thường niên.
"Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".
Lời Chúa: Lc 7, 36-50
Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người, tự nghĩ rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai, và thuộc hạng người nào chứ: là một đứa tội lỗi (mà)!" Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói".
"Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng". Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít". Rồi Người bảo người đàn bà: "Tội con đã được tha rồi". Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người đàn bà: "Đức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".
SUY NIỆM 1: Lòng Sám Hối
Tin Mừng hôm nay ghi lại một phiên tòa; phiên tòa này không có luật sư biện hộ, không có bản án được đọc lên, nhưng kẻ được ân xá ra về với bình an trong tâm hồn.
Có được bình an trong tâm hồn là điều quí giá nhất Chúa Giêsu mang lại cho con người. Nhưng để có được bình an ấy, điều kiện tiên quyết là con người phải có lòng sám hối. Sám hối vốn là nội dung chủ yếu trong sứ điệp của Chúa Giêsu. Lời đầu tiên của Ngài khi bắt đầu sứ vụ công khai là: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Ngài đến là để khơi dậy lòng sám hối của con người; Ngài đến là để hòa giải tội nhân với Thiên Chúa. Cái chết của Ngài trên Thập giá không phải là cái chết của nhà cách mạng hay chính trị gia, mà thiết yếu là để đền bù tội lỗi con người.
Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay đã nhận ra sự cần thiết của sám hối. Bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người xung quanh, bà đã thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình. Chúa Giêsu đã nói lên ý nghĩa hành động của người phụ nữ này như sau: "Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều". Càng cảm nhận được ơn tha thứ, con người càng được thôi thúc thể hiện lòng yêu mến nhiều hơn.
Lịch sử Giáo Hội được tô điểm bằng lòng sám hối thể hiện qua tình mến. Cuộc đời của bất cứ vị thánh nào cũng đều bắt đầu bằng lòng sám hối, nghĩa là ý thức sâu xa về tội lỗi của mình. Nhưng sám hối không chỉ là ý thức về tội lỗi của mình. Có lẽ không ai ý thức được hành động phản bội của mình cho bằng Yuđa, nhưng ý thức ấy chưa hẳn là sám hối. Phêrô cũng đã chối Thầy, nhưng nơi ngài lòng sám hối không chỉ dừng lại ở ý thức tội lỗi, nhưng đã biến thành tình yêu thương; Phêrô đã nói lên lòng sám hối bằng ba lần thưa với Chúa: "Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa".
Người ta thường nói đến cuộc khủng hoảng về đức tin. Trong thực tế, khủng hoảng đức tin cũng chính là khủng hoảng về lòng sám hối. Khi con người đánh mất ý thức về tội lỗi, con người cũng không còn cảm nhận được thế nào là ơn tha thứ của Chúa, và dĩ nhiên cũng đánh mất sự cảm thông và tha thứ đối với người khác. Thái độ khoan nhượng của con người chỉ xuất phát từ ý thức về nỗi bất toàn và sự tha thứ mà mình cảm nhận được. Xét cho cùng, bác ái chính là hoa trái của lòng sám hối: càng cảm thấy mình được yêu thương và tha thứ, con người càng được thúc đẩy để tha thứ và yêu thương.
Nguyện xin Chúa nung nấu tâm tình sám hối đích thực nơi chúng ta và ban cho chúng ta niềm an bình nội tâm, để chúng ta cũng biết chia sẻ niềm an bình ấy với mọi người bằng cảm thông, tha thứ, và những thể hiện của bác ái.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Tinh Thần Khoan Nhượng
Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta một vài suy nghĩ về tinh thần khoan nhượng đích thực. Chúa Giêsu là hiện thân của tinh thần ấy. Trong những quan hệ xã hội của Ngài, Ngài vốn dành ưu tiên cho người nghèo, những người tội lỗi, những kẻ bị xã hội đẩy ra bên lề. Ngài tìm đến với họ và nhất là ngồi đồng bàn để ăn uống với họ, nhưng Chúa Giêsu không khơi dậy cuộc đấu tranh giai cấp. Ngài không bao giờ đi với người nghèo để kêu gọi chống lại những người giàu có. Ngài đến với những người nghèo và những kẻ tội lỗi nhưng không loại trừ những người giàu có và những người đạo đức thánh thiện. Ngài chia sẻ cơm bánh với những người tội lỗi nhưng cũng không ngại ngồi đồng bàn với những người công chính. Người biệt phái Simon được Tin Mừng hôm nay nhắc tên là một người giàu có và đạo đức, ông có thể là đại biểu cho những người giàu có và thánh thiện mà Chúa Giêsu không hề muốn loại trừ ra khỏi những quan hệ xã hội của Ngài. Chúa Giêsu kết thân với những người nghèo khổ và tội lỗi nhưng không xa cách những người giàu có và đạo đức.
Cuộc gặp gỡ được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay là điển hình của thái độ khoan nhượng của Chúa Giêsu. Chính trong một bữa tiệc được một người giàu có và đạo đức khoản đãi mà Chúa Giêsu đã gặp gỡ một người đàn bà tội lỗi nổi tiếng trong thành phố, Ngài luôn có thái độ khoan nhượng đối với mọi người.
Sự khoan nhượng là thái độ cần thiết cho mọi người bởi vì xã hội nào cũng gồm những thành phần khác biệt nhau bởi vì nhân loại gồm những con người khác biệt mà họ cần đối xử với nhau bằng thái độ khoan nhượng. Hai chìa khóa để mở cánh cửa của khoan nhượng là sự chấp nhận và cảm thông. Chấp nhận thường đi trước sự cảm thông. Chấp nhận sự khác biệt nơi người khác để dễ dàng cảm thông với họ hơn, nhưng dĩ nhiên khoan nhượng không hề đồng nghĩa với đồng lõa. Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông và tha thứ với những người tội lỗi nhưng Ngài không bao giờ nhân nhượng trước tội lỗi; Ngài khoan dung tha thứ bao nhiêu với tội nhân thì lại càng cương quyết bấy nhiêu với tội lỗi. Chính vì thế mà sự tha thứ của Ngài luôn đi kèm với mệnh lệnh: "Con hãy đi về và đừng phạm tội nữa". Với người biệt phái tên là Simon, Ngài đã kêu gọi với thái độ khoan nhượng khi để cho người đàn bà tội lỗi đến thể hiện lòng sám hối của mình bằng việc xức dầu thơm cho Ngài. Với người đàn bà tội lỗi, Ngài cho cảm nhận được ơn tha thứ. Ngài kêu gọi chúng ta: "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng". Lời ấy bảo đảm cho chúng ta ơn tha thứ và sự bình an của Ngài, đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy sống khoan nhượng và tha thứ đối với mọi người.
Ước gì chúng ta luôn cảm nhận được ánh mắt nhân từ tha thứ của Chúa để cũng biết sống cảm thông và tha thứ với mọi người.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Yêu nhiều, được tha nhiều.
Vì thế tôi nói cho ông hay: "Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít."Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Tội của chị đã được tha rồi." (Lc. 7, 47-48)
Lòng quảng đại không phải là một nhân đức ai cũng có thể biết được và luyện tập được. Nó cũng chính thứ tình yêu, không thể đặt giới hạn và thời hạn vì nó quá mạnh. Đức Kitô đã thực hiện tình yêu này không ngừng và Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một gương sáng trong nhiều gương khác.
Đức Giêsu đang dự tiệc tại nhà một người biệt phái đã mời Người đồng bàn, Thánh Lu-ca nói đến ba lần những người biệt phái tiếp đón Người tại nhà họ. Chứng tỏ có những người biệt phái ít hiềm khích Người, họ cũng mong hiểu biết Người hơn.
Đang bữa ăn, một đàn bà tội lỗi trong thành bước vào. Cô mang theo một bình dầu thơm quý giá và khóc nức nở quì xuống lấy nước mắt tưới ướt chân Người, lấy tóc mình mà lau chân Người và xức dầu thơm vào chân Người. Trước cảnh tượng chướng tai gai mắt này, người biệt phái cảm thấy tức giận và xúc phạm nặng nề, ông nói thầm trong lòng rằng: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai!". Nếu biết rõ nó, Giêsu không được ngây ngất như thế.
Đức Kitô biết ý nghĩ của chủ nhà và đề cập đến một dụ ngôn nhỏ để biến đổi con tim của ông: "Một chủ nợ có hai con nợ, một kẻ nợ năm trăm quan tiền, một kẻ nợ năm mươi. Vì họ không có gì trả nên chủ nợ thương tình đã tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó ai mến chủ nợ hơn? Ông Simon đáp: Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn. Đức Giêsu bảo: Ông suy xét đúng lắm". Giữa biệt phái trong sạch và bà này, nhơ bẩn chất chứa tội lỗi chắc là không giống nhau: tội bà này chất đống nhiều hơn, biẹt phái ít hơn, nhẹ hơn. Vậy rõ ràng bà được tha thứ nhiều hơn biệt phái. Đức Giêsu kết luận: điều đáng kể đối với tôi không nhất thiết là tội lỗi nhưng chính là tình yêu để được ơn thương xót: "Tội của chị rất nhiều, nhưng được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều!".
Ồ vâng, yêu đi thì không còn phạm tội nữa!
GF
16/9 Thái Ðộ Thiếu Nhất Quán
- Viết bởi Lc 7, 31-35
Thái Ðộ Thiếu Nhất Quán.
Thứ tư tuần 24 thường niên – Thánh Cornêliô giáo hoàng, và thánh Cyprianô giám mục, tử đạo. Lễ nhớ.
"Chúng tôi đã thổi sáo mà các anh không nhảy múa, chúng tôi đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc".
* Thánh Conêliô làm giám mục giáo phận Rôma năm 251. Người đã chống lại giáo phái Novaxianô. Chưa được bao lâu, người bị hoàng đế Ganlô bắt đi đầy ở Xivitavéckia và đã qua đời ở đây (253). Người đã được thánh Síprianô kính trọng và quý mến. Chính vì thế, ngay từ thế kỷ IV, Hội Thánh Rôma đã mừng lễ thánh Conêliô trong chính hang mộ của người vào ngày lễ thánh Síprianô.
Thánh Xíprianô sinh tại Cácthagô quãng năm 210, trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận đức tin, làm linh mục, rồi làm giám mục năm 249. Trong cuộc bách hại dưới thời hoàng đế Valêrianô, người bị lưu đày, rồi ngày14 tháng 9 năm 258, người chịu chết để làm chứng cho Chúa Kitô. Các thư từ và các tác phẩm của người viết ra cho thấy người có tâm hồn của một vị mục tử đích thực, luôn đứng ở chỗ nguy hiểm nhất để nâng đỡ các anh em đang phải chịu bách hại và để duy trì sự hiệp nhất trong Hội Thánh. Trong mọi việc, người lo nêu gương sáng về lòng trung thành với Chúa Giêsu Kitô.
Lời Chúa: Lc 7, 31-35
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng: "Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa. "Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc". Bởi vì khi Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: "Người bị quỷ ám". Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: "Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi". Nhưng sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình".
SUY NIỆM 1: Thái Ðộ Thiếu Nhất Quán
Ngày nay, nhân danh dân chủ, tự do ngôn luận, nhiều người muốn có một Giáo Hội của mình, một Giáo Hội được định đoạt theo những suy nghĩ của mình, chứ không là giáo lý do Chúa mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội nữa. Muốn là Kitô hữu, nhưng lại không muốn chấp nhận giáo huấn của Chúa Kitô được ủy thác cho Giáo Hội, đó là một thái độ thiếu nhất quán. Chúng ta có thể thấy được một thái độ như thế trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu mượn hình ảnh nhóm trẻ chơi ngoài phố chợ để nói lên thái độ ấy. Chấp nhận cuộc chơi, nhưng khi tiếng sáo thổi lên thì lại không nhảy múa; chấp nhận diễn kịch, nhưng khi bài hát đưa đám được cất lên thì lại không khóc theo. Những người Do thái thời Chúa Giêsu cũng có phản ứng đối với Ngài không khác nào đám trẻ chơi ngoài phố chợ này. Họ mong chờ Ðấng Cứu Thế, Gioan Tẩy Giả loan báo về Ngài, nhưng họ không chấp nhận nếp sống khổ hạnh của ông, họ bảo ông bị quỉ ám; Chúa Giêsu khai mạc thời cứu thế bằng yêu thương, phục vụ, tha thứ, thì họ lại bảo rằng Ngài là tên ăn nhậu, hòa nhập với phường thu thuế và tội lỗi.
Mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng không chấp nhận những thể hiện của thời cứu thế; trông đợi Ðấng Cứu Tinh, nhưng phải là Vị Cứu Tinh do mình tạo ra, đó là thái độ của những người Do thái thời Chúa Giêsu. Thái độ ấy cũng là cơn cám dỗ triền miên của các Kitô hữu thời đại chúng ta. Chúa Giêsu đã nói: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta". Chúng ta mang danh hiệu Kitô, chúng ta muốn làm môn đệ Ngài, nhưng có lẽ chúng ta chưa từ bỏ chính mình để chấp nhận và sống theo giáo huấn của Ngài.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mặc lấy sự khôn ngoan của con cái Chúa, đó là sự khôn ngoan của trẻ thơ luôn biết sống khiêm tốn và tin tưởng. Xin Ngài củng cố chúng ta trong tâm tình ấy, để chúng ta luôn được trung thành với giáo huấn mà Ngài đã ủy thác cho Giáo Hội.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Bất tín kinh niên
"Vậy tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói:
Tụi tôi thổi sáo cho các anh,
mà các anh không nhảy múa;
tụi tôi hát bài đưa đám,
mà các anh không khóc than." (Lc. 7, 31-32)
Dù là ai, dù làm thế nào cũng luôn luôn có những kẻ chối bỏ mọi thứ, chối bỏ tất cả. Đó là trường hợp một số những kẻ đồng hương của Đức Kitô, họ mang bệnh kinh niên không tin gì hết, chối bỏ mọi chứng cớ hiển nhiên tới cùng. Đức Kitô gọi họ là "Dòng giống này", một từ ngữ mang tính chất phán xét. Họ vẫn có ảo tưởng về một dân tộc được tuyển chọn, nhưng trong bốn mươi năm vượt sa mạc dầu được hưởng bao nhiêu phép lạ họ chứng kiến rõ ràng, họ vẫn không muốn theo Chúa.
Đức Giêsu so sánh họ với lũ trẻ ranh con quậy phá cứng đầu ngoài chợ. Chúng chơi dỡn để làm cho nhiều người múa nhảy, mà không ai theo, chúng hát bài đưa ma để làm cho người ta khóc, mà không ai thèm khóc. Chắc hẳn Đức Kitô muốn nói quá về những quậy phá của hạng người tai to mặt lớn quá ngu muội trong dụ ngôn nực cười này.
Khi kém lòng tin, không gì có thể mở tai mở mắt cho họ được. Ngôn sứ Gio-an Tẩy Giả đến và sống khắc khổ đến nỗi không ăn bánh, không uống rượu, họ xử với ông như kẻ bị quỷ ám. Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Thế đến ăn uống như mọi người, không phải để hùa theo kẻ mê ăn uống, nhưng họ coi Người là tay ăn nhậu và họ xỉ nhục tố cáo Người là bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi. "Bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi" đó là điều Đức Kitô muốn và đó là lý do Người đến trần gian: để cứu chữa những người tội lỗi và tật xấu. Người không ngừng nhắc đi nhắc lại điều đó, nhất là bằng việc làm. Điều đó làm cho kẻ chống đối và bất tín kinh niên giận dữ cho đến tận thế, những ai muốn theo Đức Kitô trên con đường này, đều vấp phải tâm thức trẻ con cố chấp này. Họ không bao giờ có lòng thương xót tha thứ. Giáo Hội biết rõ thế và đã quyết chí trở về với con đường của Đức Giêsu.
GF
15/9 Ðây sẽ là niềm an ủi của con
- Viết bởi Ga 19, 25-27
Ðây sẽ là niềm an ủi của con.
Thứ ba tuần 24 thường niên – Đức Mẹ sầu bi. Lễ nhớ.
"Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà". - "Bà mẹ hiền nhìn xem nỗi khổ hình của người con chí thánh mà đau lòng thổn thức tâm can"
* Đức Maria đã hiệp thông sâu xa với cuộc thương khó của Chúa Con. Vì thế, Mẹ cũng được liên kết một cách độc nhất vô nhị với cuộc phục sinh của Người.
Chính vì thế, sau ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá, chúng ta mừng lễ Đức Maria cùng chia sẻ cuộc thương khó của Đức Giêsu. Lễ này nhắc cho chúng ta nhớ rằng: dưới chân thánh giá, tình mẫu tử của Đức Maria đã trải rộng ra khắp Thân Thể nhiệm mầu của Chúa Kitô, tức là Hội Thánh.
Lời Chúa: Ga 19, 25-27
Khi ấy, đứng gần thập giá Chúa Giêsu có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria vợ ông Cơ-lô-pát, và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: "Thưa Bà, này là Con Bà". Rồi Người lại nói với môn đệ: "Này là Mẹ con". Và từ giờ ấy, môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình.
SUY NIỆM 1: Ðây sẽ là niềm an ủi của con
Một trong những hình ảnh thánh thiện nhất về đời sống Kitô có lẽ là hình ảnh của những người hấp hối trên tay cầm thánh giá.
Người ta kể về một người đạo đức nọ như sau: Trong một cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ còn một phương thế duy nhất có thể hy vọng cứu sống bà đó là tiến hành cuộc giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận cuộc giải phẫu, bà yêu cầu cho con trai bà được chứng kiến giờ phút đau khổ của bà. Vào thời buổi mà thuốc tê mê chưa có, thì bệnh nhân thường phải trải qua những cơn đau khủng khiếp. Mặc dù đau đớn vô cùng, nhưng người đàn bà vẫn cứ cắn răng chịu đựng. Nhưng đến cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà rùng mình kêu lên: "Lạy Chúa tôi". Chứng kiến cảnh đau đớn của người mẹ, người con trai không làm chủ được những cảm xúc, anh đã buột miệng thốt lên những lời phàn nàn phạm đến Chúa. Lúc bấy giờ người mẹ liền nghiêm nghị bảo con: "Con ơi, con hãy im đi, con làm mẹ đau đớn hơn các bác sĩ này nhiều. Con đã làm sỉ nhục Ðấng đã ban sức mạnh và an ủi mẹ". Nói xong, bà ta mở bàn tay ra, và giơ cho mọi người xem một tượng chuộc tội nhỏ bà nắm chặt trong tay suốt giờ mổ. Và đó chính là thứ thuốc tê mê đã xoa dịu cơn đau đớn của bà.
Sau mấy tháng quằn quại trong đớn đau, người đàn bà đã yên nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà đã trao lại cho cậu con trai tượng ảnh chuộc tội và căn dặn: "Con hãy giữ lấy tượng chuộc tội này. Ðây sẽ là niềm an ủi của con".
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ Ðức Mẹ Ðau Khổ hay cũng thường được gọi là 7 sự thương khó của Ðức Mẹ.
Suốt cuộc đời trần thế, Mẹ Maria quả thực là một người đàn bà đau khổ. Nhưng cũng giống như người đàn bà can đảm trong câu chuyện trên đây, Mẹ luôn có Chúa bên cạnh. Còn nỗi đớn đau nào bằng khi ôm lấy xác Chúa được tháo gỡ từ thập giá? Nhưng đó cũng là bí quyết của Mẹ. Mẹ luôn có Chúa trong lòng, từ lúc cất giữ mọi sự trong lòng để suy niệm cho đến lúc ôm lấy xác Chúa: từng phút giây của cuộc sống, Mẹ đau khổ nhưng luôn có Chúa trong lòng. Sự hiện diện của Chúa trong lòng đã giúp Mẹ đi hết cuộc hành trình Ðức Tin.
Là mẫu mực trong cuộc hành trình Ðức Tin, Mẹ cũng muốn trao gởi Ðấng Cứu Thế cho mỗi người chúng ta. Mang lấy Ðức Kitô chịu đóng đinh trong mình, chúng ta sẽ cảm thấy được sự nâng đỡ trong muôn nghìn thử thách đớn đau trong cuộc sống.
Mẹ Maria đã đảm bảo cho chúng ta điều đó. Chúng ta hãy kết hiệp với thập giá của Ðức Kitô. Trong mọi đau khổ, chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá của Ngài. Chúng ta hãy thốt lên như thánh Phaolô: "Tooi chỉ biết có mỗi Ðức Kitô chịu đóng đinh".
(Trích trong 'Lẽ Sống')
SUY NIỆM 2: Ðức Mẹ Sầu Bi
Liền sau lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa được mừng hàng năm vào ngày (14/09) là lễ kính Ðức Mẹ Sầu Bi (15/09), chúng ta không thể nào tách rời Mẹ Maria ra khỏi thập giá Chúa. Danh gọi lễ kính Ðức Mẹ Sầu Bi có thể làm chúng ta dễ hiểu lầm chỉ nghĩ đến khía cạnh sầu bị, đau buồn mà quên đi khía cạnh tích cực được tham dự vào sự đau khổ có sức mạnh cứu rỗi của Thiên Chúa. Mẹ Maria âm thầm dâng hiến chính mình cùng với hy tế của Con, được lãnh nhận đặc ân là tham dự vào cuộc cứu rỗi trở nên người Mẹ của toàn thể nhân loại.
Ðoạn Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến khía cạnh Mẹ Maria đứng bên thập giá Chúa và lãnh nhận lời Chúa trăn trối làm Mẹ của Gioan, làm Mẹ của toàn thể nhân loại. Ðoạn Phúc Âm không nhắc tới nỗi sầu bi của Mẹ khi đứng dưới chân thập giá Chúa. Trong số các sách Phúc Âm thì chỉ có Phúc Âm theo thánh Luca có nhắc tới lời loan báo trước của cụ già Simêon, nói về một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua tâm hồn Mẹ (Lc 2,35). Chắc lúc đứng dưới chân thập giá Chúa hơn mọi lúc khác Mẹ Maria đã đau khổ, niềm đau của một người mẹ nhìn thấy con mình đang hấp hối sau khi đã phải chịu những tra tấn, khổ hình và sỉ nhục. Thái độ của Mẹ đáng chúng ta bắt chước. Mẹ đã không tự ý đi tìm vinh quang được ngồi bên hữu bên tả Chúa như một người nọ đã đón đường Chúa lên Giêrusalem để xin đặc ân này cho hai người con của mình. Mẹ Maria không tránh né đau khổ nhưng sẵn sàng đứng bên cạnh con cùng dâng hiến với con trong âm thầm và như vậy được thông phần vào ơn cứu rỗi. Mẹ đã âm thầm nhưng rất mực trung thành hành trình bên cạnh Con Mẹ luôn luôn trong mọi lúc, lúc Con Mẹ mới bắt đầu công việc rao giảng, trong khi rao giảng Tin Mừng và giờ đây kết thúc quan trọng trên thập giá, trên đồi Golgotha.
Lạy Mẹ Maria,
Xin Mẹ hãy đồng hành bên cạnh con như Mẹ hiện diện bên cạnh Con Mẹ. Chúng con cần đến Mẹ nhất là khi gặp những gian nan thử thách. Xin Mẹ giúp chúng con trung thành với ơn gọi và với Chúa Giêsu Con Mẹ.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Đức Mẹ đau khổ
Mẹ đứng kề Thánh Giá ! Mẹ đứng đó với Gioan và với cả hai tên trộm cướp ! Mẹ đứng đó, trên đồi Gôlgôtha, không xa mấy, dưới chân đồi, đám dân, những người tò mò, những người vô can, những người kêu khóc, những người sợ hãi đang đứng dưới bóng cây thánh giá, bóng Đức Mẹ và Con Ngài, họ cảm thấy mình hoàn toàn không chịu trách nhiệm về cái chết này. Còn những kẻ thi hành án và những kẻ có quyền thì sao ? Họ không cúi đầu, lại chê cười thất vọng và chua chát !
Đứng kề !
Đức Mẹ không lo nghĩ đến bị rơi vào bất tỉnh trước những sỉ nhục, những kết tội của kẻ thù, những la ó, Mẹ đứng đó, đứng thẳng ! Điều quan trọng hơn đối với Mẹ là Con Ngài là xương là thịt của xương thịt Ngài, Kìa đang bị treo trên thánh giá, Người là sự hy vọng cùng đích bảo đảm cho tất cả, nhờ sự hiện diện của Mẹ, nhờ bà Mẹ này, mọi sự ước muốn và yêu dấu được toại nguyện !
Mẹ đứng đó, đứng thẳng vững chắc, trong thái độ xin vâng ! Mẹ luôn luôn sẵn sàng tiếp tục ơn gọi suốt đường đời, ơn gọi tới tận chân thánh giá. Chỉ một mình Thiên Chúa xứng đáng trọn đời trên thập giá ! vượt trên mọi lượng định nhân loại của Đức Mẹ. Mẹ không được chọn vì cây thập giá, nhưng được chọn cùng với các con cháu loài người để đón nhận vào cuộc sống của Mẹ như bình thánh đựng máu tình yêu của con Ngài mới có sức tắm rửa, thanh tẩy và làm sống lại.
Chăm chú
Đức Mẹ dâng tiến lên Thiên Chúa và cho thế nhân con của Mẹ, đồng thời Mẹ chăm chú lắng nghe con Ngài, Mẹ chú ý lắng nghe tiếng con Mẹ và đã nghe thấy nguyện vọng sau cùng của Người thốt lên.
Ma-ri-a lúc truyền tin, đã chú ý lắng nghe Đấng Messia của Israel, và đã thành bà mẹ.
Bây giờ Mẹ đang chú ý ! Mẹ đoán mọi sự chưa hoàn tất đối với Mẹ ! Ước chi cuộc sống Mẹ còn tiếp tục ! Mẹ sẽ nhận được lời nguyện cuối cùng của Con Mẹ, Mẹ bắt đầu lắng nghe mọi người bởi vì Mẹ đang lắng nghe Thiên Chúa !
Là chứng nhân về tình yêu Con Mẹ, Mẹ được chia sẻ với Người sống đến tột đỉnh của đức tin.
J.M.