Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
Ngày 08/12 Suy niện lễ Mẹ Vô Nhiễm
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
CÙNG MẸ CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT BƯỚC VÀO NĂM THÁNH
SUY NIỆM LỄ MẸ VÔ NHIỄM
(Lc 1, 2636)
Bước vào Mùa Vọng với lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Giáo hội mời gọi con cái mình cử hành với niềm vui vẻ, đồng thời tôn vinh Mẹ là Ðấng Tuyệt Ðẹp "Tota Pulchra", vì Mẹ đã được Thiên Chúa Cha, Đấng giầu lòng thương xót yêu thương và tuyển chọn làm Mẹ Con. Mẹ được gìn giữ khỏi mắc tội nguyên tổ, là Ðấng đầu tiên đã được Con Mẹ cứu chuộc. Nét đẹp cao cả của Mẹ phản chiếu nét đẹp của Chúa Kitô, là bằng chứng cho tất cả mọi tín hữu về chiến thắng của tình thương Thiên Chúa trên tội lỗi và sự chết, khi đạp nát đầu con rắn đã cám dỗ Adong và Evà phạm tội. Vì thế, hôm nay chúng ta cùng hát với Mẹ : "Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công mình, tựa cô dâu phục sức huy hoàng" (Ca nhập lễ).
Vui nữa là cánh cửa Năm Thánh Lòng Thương Xót được mở ra với khẩu hiệu Thương Xót Như Chúa Cha (x. Lc 6,36) là lời mời gọi sống lòng thương xót theo gương Cha trên trời, dạy chúng ta đừng xét đoán và kết án, nhưng hãy tha thứ và yêu thương vô giới hạn (x. Lc 6,3738). Thiên Chúa tha thứ và yêu thương Thiên Chúa không ngoan và nhân lành nên mọi việc Người làm đều tốt đẹp. Ngài đã sáng tạo con người theo hình ảnh Ngài, cho họ sống tình thân với Chúa.
Vậy Sự Dữ do đâu mà có ? Đâu là nguyên nhân khiến cho tình thân nghĩa thiết giữa con người với Thiên Chúa và con người với nhau bị phá vỡ? Sách Sáng Thế (x. St 13) cho ta câu trả lời. Thiên Chúa không tạo nên sự chết, nhưng sự chết đã đi vào thế giới vì sự ghen tương của ma quỉ (x. Kn 1,1314; 2,23 24). Khi nổi loạn chống lại Thiên Chúa, ma quỉ đã lường gạt và lôi kéo con người theo chúng. Thiên Chúa hỏi Ađam : "Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi không được ăn ư? "
Thiên Chúa hỏi Evà : "Tại sao ngươi đã làm điều đó? " Evà trả lời : "Con rắn đã cám dỗ tôi".
Là thụ tạo tinh thần, con người chỉ có thể sống tình thân ấy khi tự do tùng phục Thiên Chúa. Ðiều đó được diễn tả trong lệnh cấm con người ăn trái cây biết lành, biết dữ "vì ngày ngươi ăn nó, ngươi sẽ chết" (St 2, l7). Bị ma quỉ cám dỗ, con người đánh mất lòng tín thác vào Ðấng Sáng Tạo, lạm dụng tự do, bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Ðó là tội đầu tiên của con người (x. Rm 5, l9). Hậu quả là Adong và Evà tức khắc đánh mất sự thánh thiện nguyên thủy (x. Rm 3, 23). Sự hài hòa với vạn vật bị phá vỡ : thế giới hữu hình trở nên xa lạ và thù nghịch với con người (x. St 3, l7 l9). Sự kết hợp nam nữ trở nên căng thẳng (x. St 3, lll3); tình huynh đệ tương tàn (x. St 4, 315); tiếp đến là sự sa đọa của cả loài người. Cuối cùng, vì bất tuân : "Con người là tro bụi sẽ trở về bụi tro" (St 3, l9).
Sau khi sa ngã, Thiên Chúa không lỡ bỏ rơi con người. Ngược lại, vì lòng xót thương, Thiên Chúa nâng con người lên. Chúa phán bảo con rắn: "Bởi mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi". (St 3, 915. 20). Đó là thảm kịch tự do mà Thiên Chúa chấp nhận đến cùng vì yêu thương, nhưng Ngài hứa sẽ có người con của một phụ nữ đập dập đầu con rắn xưa (St 3,5); " Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người" (St 3,5). Ðoạn sách Sáng Thế trên được gọi là "Tiền Tin Mừng" vì đó là lời loan báo đầu tiên về Ðấng Mêsia, về cuộc chiến đấu giữa con rắn với người nữ và chiến thắng cuối cùng của một hậu duệ người nữ này. Tình yêu của Thiên Chúa được mặc khải trong Ðức Kitô đã biểu lộ một trật cả trương độ của sự dữ và sự vĩ đại của ân sủng và lòng xót thương hải hà của Thiên Chúa đối với nhân loại (x. Rm 5, 20).
Mẹ của Lòng Thương Xót
"NĂM THÁNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT" khai mạc vào ngày lễ Đức Maria Vô Nhiễm (8/12/2015) và bế mạc vào ngày lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ (26/11/2016). Thật ý nghĩa, bởi chính Mẹ đã được Thiên Chúa tiền định từ muôn thủa trong yêu thương và chọn Mẹ làm Đấng cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và đồng hành cùng Chúa Giêsu Con Mẹ, hiện thân của Lòng Chúa Thương Xót trong công trình cứu chuộc loài người. Thế nên, Mẹ là Mẹ của Lòng Thương Xót.Trong Thư gửi tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô ca ngợi Chúa Cha vì Ngài "đã chúc phúc cho chúng ta bằng mọi phúc lộc thiêng liêng ở trên trời trong Đức Kitô" ( 1, 3 ).
Thiên Chúa đã gửi cho Đức Maria phúc lành thiêng liêng ấy! Mẹ được chúc phúc hơn các người phụ nữ (x. Lc 1, 42) ! Chúa Cha đã chọn Mẹ trong Đức Giêsu Kitô từ trước, để Mẹ trở nên thánh thiện và tinh tuyền. Trong tình thương, Ngài đã tiền định cho chúng ta được làm dưỡng tử đối với Ngài, qua Đức Giêsu Kitô (x. Ep 1 45). Do đó, Đức Maria Vô Nhiễm là một dấu chỉ niềm hy vọng cho tất cả chúng sinh, những người đã chiến thắng Satan nhờ máu của Con Chiên (x. Kh 12 , 11).
Cùng với Mẹ bước vào Năm Lòng Thương Xót
Vì là Mẹ của Lòng Thương Xót, nên suốt cuộc đời Mẹ luôn là máng thông ơn Thiên Chúa xuống cho nhân loại. Để sống Năm Thánh này, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ, cầu xin Mẹ, để tất cả chúng ta có thể khám phá ra niềm vui về sự dịu dàng của Thiên Chúa. Không ai đã bước vào mầu nhiệm sâu xa của việc nhập thể như Mẹ Maria. Toàn bộ cuộc sống Mẹ được hun đúc theo sự hiện diện của lòng thương xót đã hóa thành nhục thể. Mẹ của Đấng Chịu Đóng Đinh và Phục Sinh đã bước vào cung thánh của lòng thương xót Chúa vì Mẹ đã tham gia mật thiết trong mầu nhiệm tình yêu của Ngài. Mẹ minh chứng rằng lòng thương xót của Con Thiên Chúa không biết đến một giới hạn nào và mở rộng cho tất cả mọi người, không một ngoại lệ nào. Chúng ta hãy hướng về Mẹ, xin Mẹ ghé mắt xót thương nhìn đến chúng ta, và làm cho chúng ta xứng đáng chiêm ngưỡng khuôn mặt của lòng thương xót, là Chúa
Giêsu Con Mẹ." (Tông thư Misericordiæ Vultus, số 24). Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
08/12 Nhớ lại và lắng nghe
- Viết bởi Lc 1, 26-38
Nhớ lại và lắng nghe.
Thứ Ba tuần 2 mùa vọng – Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Lễ Trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
"Chào Trinh Nữ đầy ân sủng, Chúa ở cùng Trinh Nữ".
* Ngay từ giây phút đầu tiên trong đời, Đức Maria đã được gìn giữ khỏi vương bất cứ tội lỗi nào, nhờ ân sủng do cái chết của Con mình. Như vậy, tín điều Đức Maria vô nhiễm nguyên tội được đặt căn bản trên đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa. Đức Maria vô nhiễm nguyên tội, cũng như được cất lên trời là hình ảnh tiên báo Hội Thánh. Thiên Chúa muốn cho Hội Thánh không tỳ ố, không vết nhăn, hoặc bất cứ một khuyết điểm nào.
LỜI CHÚA: Lc 1, 26-38
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ, trinh nữ có phúc hơn các người nữ". Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp và triều đại Người sẽ vô tận!" Nhưng Maria liền thưa với Thiên Thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được". Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và Thiên Thần cáo biệt trinh nữ.
SUY NIỆM 1: Nhớ lại và lắng nghe
Mừng lễ Đức Mẹ Vô nhiễm là một niềm vui của các con cái Đức Mẹ. Có nhiều cách mừng.
Riêng tôi, khi cuộc đời đã sang thu, sắp bước vào mùa đông, tôi mừng lễ Đức Mẹ vô nhiễm một cách cũng rất riêng tư.
Tôi mừng lễ bằng cách vừa nhớ lại Đức Mẹ trong Phúc Âm, vừa nhìn lại Đức Mẹ trong đời tôi. Để rồi lắng nghe Mẹ nhắn nhủ hôm nay.
Nhớ lại.
Tôi thấy Đức Mẹ thuở xưa trong Phúc Âm cũng là Đức Mẹ trong chuyến đi dài đời tôi.
Đức Mẹ dạy tôi bằng Phúc Âm. Đức Mẹ cũng dạy tôi bằng những dắt dìu trong dòng lịch sử.
Nếu cần tóm tắt, thì xin vắn gọn thế này:
Đức Mẹ, tuy được ơn vô nhiễm, nhưng cũng chịu nhiều đau đớn, để góp phần vào công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu. Đúng như lời tiên tri Simeon đã báo trước: "Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà" (Lc 2,25).
Những con cái Mẹ, nhất là tôi, mình đầy ô nhiễm, càng không được phép miễn khỏi thánh giá. Ít là phần nào.
Chúa Giêsu là con Mẹ, xưa "đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá" (Pl 2,8).
Đức Mẹ nên giống Chúa cứu thế không phải ở sự chịu đóng đinh, nhưng ở sự Mẹ chịu những lưỡi gươm đâm vào lòng. Những lưỡi gươm vô hình, với những nhát đâm vô hình, cùng những vết thương vô hình. Vô hình, nhưng thực sự đau đớn.
Chẳng nói hết được những đau đớn đó của Mẹ.
Còn những con cái Mẹ, thì kẻ cách này, người cách nọ, họ cũng được thanh luyện bằng trải qua những đớn đau lớn nhỏ. Đớn đau của họ tự nó chẳng có gì là giá trị. Nhưng nhờ Mẹ nhuộm nó vào tình yêu của Mẹ, nên nó trở thành bông hoa.
Những bông hoa như thế nơi tôi chẳng nhiều. Nếu muốn tìm nó, thì phải tìm ở những dòng nước mắt.
Trước hết là hoa sám hối trong những nước mắt ở cuộc chiến nội tâm.
Cuộc chiến nội tâm của tôi cũng đã có một người xưa trải qua và diễn tả rất rõ. Đó là thánh Phaolô. Ngài phơi bày như những tiếng nức nở nghẹn ngào: "Vẫn biết rằng Lề luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu, vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm..
Bởi đó tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí. Nó giam cầm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 7,14-25).
Cuộc chiến nội tâm giữa thiện và ác nơi thánh Phaolô chỉ được tả là rất cam go. Còn chiến thắng hay chiến bại thì không thấy ngài nói. Phần tôi, có lúc thắng và cũng có lúc bại. Vì thế mà tôi sám hối. Sám hối là bông hoa đầu tiên tôi dâng lên Mẹ vô nhiễm. Mẹ đã thương giúp tôi trở về, như Mẹ đã giúp kẻ trộm lành xưa chịu treo trên thập giá.
Bên cạnh bông hoa sám hối trồng trong dòng nước mắt ăn năn, tôi có thể lượm được một bông hoa khác. Tôi tạm gọi nó là hoa cảm thương trôi trong dòng nước mắt bất lực không thể phục vụ.
Biết bao lần, tôi cảm thấy đau đớn vì bất lực trong việc loan báo Tin Mừng. Tôi nghĩ Đức Mẹ xưa đã khóc khi phải chấp nhận âm thầm bồng con trốn sang Ai Cập và ở lại đó ẩn mình trong cảnh nghèo khó (Mt 2,13-18).
Đức Mẹ chắc cũng đã khóc, khi phải chứng kiến cảnh con mình bị hành hạ và bị giết (Ga 19,25-27). Mẹ đã không cứu được con mình. Nhưng Chúa lại muốn như vậy. Sự vâng lời như thế còn đau hơn là chết.
Chương trình cứu độ của Chúa rất khác ý nghĩ của con người. Chúng ta tưởng sẽ cứu được các linh hồn và làm vinh danh Chúa, nhờ những phô trương quyền bính, cao rao chức tước, thổi phồng uy tín, tổ chức lễ lạt linh đình. Nhưng tất cả sẽ không có giá trị bằng sự vâng phục ý Chúa. Ý Chúa là muốn ta chấp nhận hạ mình xuống, đi theo con đường Chúa cứu thế đã đi, và Đức Mẹ vô nhiễm cũng đã vâng ý Chúa bước theo từng bước.
Ngoài ra, biết bao lần, tôi cảm thương đau đớn vì bất lực trong việc cứu giúp những người cần được giúp đỡ, hoặc về vật chất hoặc về tinh thần. Tôi muốn giúp. Nhưng ý muốn của tôi đụng vào những giới hạn khắp nơi của tôi. Những giới hạn đó càng ngày càng lớn, khi tuổi tác bệnh tật càng tăng lên. Phục vụ trong những tình trạng này sẽ chỉ còn là tập trung vào cầu nguyện và dâng đau khổ với tình yêu siêu nhiên lên Chúa giàu lòng thương xót, qua trái tim Mẹ vô nhiễm, để góp phần nào vào việc loan báo Tin Mừng.
Chính trong những tình trạng này, mà tôi được thu hút nhiều hơn đến việc lắng nghe Đức Mẹ nhắn nhủ con cái Mẹ đang sống trong thời điểm hiện nay.
Lắng nghe.
Thời điểm hôm nay là một thời điểm rất đáng ngại. Ngại vì ma quỉ và thế tục xấu đang cố tình tạo ra một môi trường ô nhiễm. Tôi không muốn nói về môi trường ô nhiễm sinh thái, mà về môi trường phong hoá và luân lý.
Ô nhiễm khắp nơi. Ai cũng phải sống chung với ô nhiễm. Nhưng khả năng và mức độ chịu ảnh hưởng ô nhiễm sẽ tuỳ theo ba cái mốc này:
Nơi chốn, lứa tuổi và giới phái.
Nơi chốn là một nước, một vùng, hoặc một văn hoá, một tôn giáo hay không tôn giáo, hoặc một giai cấp, một mức sống, một tổ chức. Có nơi ô nhiễm hơn nơi khác.
Lứa tuổi là lớp già, lớp thanh niên, lớp thiếu nhi, lớp trẻ thơ. Có lớp tuổi dễ bị ô nhiễm hơn lớp tuổi khác.
Giới phái là nam, là nữ. Có giới phái dễ bị ô nhiễm hơn giới phái khác.
Hiện nay, làm sóng ô nhiễm mạnh nhất về phong hoá là hưởng thụ độc hại. Người ta tìm mọi cách để tìm hưởng thụ đó. Hưởng thụ nhờ danh vọng, chức tước, địa vị, quyền lợi, tiền bạc, ăn uống, tiện nghi, giải trí, sắc dục, vv.... Nếu không cảnh giác, thì cả những gì vốn được tôn trọng là thánh thiêng, cũng có thể bị lợi dụng cho mục đích hưởng thụ xấu xa.
Trước một nguy cơ lớn mạnh và tinh vi có khả năng tiêu diệt những giá trị thiêng liêng, đẩy các linh hồn vào tay thần dữ, để chúng tha hồ lôi xuống hoả ngục, Đức Mẹ vô nhiễm đã hiện ra ở Lộ Đức, ở Fatima, ở Mễ Du và nhiều nơi khác, để tha thiết kêu gọi nhân loại sám hối, khiêm tốn đi vào đàng thiện. Kẻo sẽ quá muộn.
Vậy ta hãy lắng nghe Mẹ, mà vâng phục ý Chúa. Chính bản thân ta hãy trở thành đền thờ Chúa Thánh Thần, trong đó ta được hưởng thụ những gì là chân thiện mỹ, bình an, hạnh phúc đích thực và bền vững.
Tôi có cảm tưởng là nhiều người hiện nay đang sống như không có lương tâm, hoặc với một cái tâm đã lạnh cứng. Không còn khả năng rung cảm với những nỗi đau của Chúa, của Đức Mẹ, của Hội Thánh, của những kẻ khốn cùng đang dở sống dở chết xung quanh mình.
Nhưng tôi vẫn tin vững vàng lời Chúa phán trong Phúc Âm: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1,37). Nhất là với lời cầu bầu của Đức Mẹ vô nhiễm. Nên sự phục hưng lại Hội Thánh giữa một thế giới đầy ô nhiễm sẽ thực hiện được.
Nhưng đừng quên sự phục hưng như thế phải bắt đầu từ mỗi người chúng ta, con cái của Mẹ vô nhiễm.
Trong mỗi người, việc phục hưng sẽ bắt đầu và nhấn mạnh ở cái tâm. Cái tâm làm sao giữ không bị nhiễm, sẽ dẫn đưa tất cả con người về đàng thiện. Không bị nhiễm là nhờ thánh giá. Hoặc bị nhiễm mà được rửa sạch cũng là nhờ thánh giá.
Chúng ta ít là hãy ước muốn việc đó, và dâng ước muốn chân thành đó lên trái tim Mẹ vô nhiễm. Người là Mẹ Chúa Cứu thế và cũng là mẹ chúng ta. Người là hy vọng của những ai sống bé mọn và tín thác nơi trái tim vô nhiễm đầy tình mẫu tử dịu dàng xót thương của Người. Người là nơi trú ẩn của những kẻ lỗi lầm biết sám hối. Người là Đấng cầu bầu đắc lực nhất trước toà Chúa cho tất cả những ai tin tưởng nơi Người.
ĐGM. Bùi Tuần
SUY NIỆM 2: Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương
Ðời người, có lẽ ai cũng có một lần trải qua một biến cố lớn trong lịch sử thế giới hay dân tộc...
Một ít cụ già hiện còn sống sót có lẽ đã trải qua cuộc đại chiến thứ nhất. Nhiều người đã có thể chứng kiến những tàn phá khốc liệt của thời đệ nhị thế chiến, cộng với nạn đói kinh hoàng ở Bắc Việt năm 1945. Và đa số chúng ta đã trực tiếp hay gián tiếp chứng kiến không biết bao nhiêu đổi thay, bao nhiêu cuộc chiến trong nước cũng như tại các nước khác trong những năm gần đây... Thêm vào đó, còn có biết bao nhiêu thiên tai và tai nạn khủng khiếp đã xảy ra cho con người.
Chiến tranh và sự sa đọa của con người có lẽ mang lại cho chúng ta cái cảm tưởng rằng sự dữ, tội ác đã lan tràn khắp cả mặt đất; thế giới ngày nay không còn biết đến Thiên Chúa nữa. Cùng với tất cả một đoàn người mà Ðức cố Giáo Hoàng Gioan 23 gọi là "các tiên tri chuyên loan báo thảm họa", có lẽ chúng ta chỉ nhìn vào thế giới bằng đôi mắt của bi quan, thất vọng, chúng ta chỉ nhìn thấy thảm họa, tang tóc... để rồi loan báo ngày tận cùng của thế giới như kề bên.
Thế giới có tội lỗi đó, thế giới có tang thương đó, thế giới có nhiều thảm họa đó, nhưng chúng ta đừng quên rằng chương trình của Thiên Chúa đang được thực hiện dọc theo chiều dài của lịch sử nhân loại. Giữa hai cực: một bên là sự sa ngã ở khởi đầu lịch sử và một bên là ngày tận cùng của thế giới, đã có cuộc nhập thể làm người của Con Thiên Chúa: Ngài đã làm người ngay giữa lòng của một nhân loại tội lỗi của thời đại Ngài...
Thế giới của chúng ta đầy dẫy tội lỗi, Thiên Chúa vẫn yêu thương thế giới ấy. Thay vì chỉ nhìn thấy hận thù, bạo động và sa đọa dưới mọi hình thức, chúng ta hãy cố đọc được những dấu chỉ của thời đại để thấy rằng Thiên Chúa vẫn luôn có mặt trong lịch sử con người, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người.
Mừng lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, hôm nay Giáo Hội cũng muốn lập lại với chúng ta chân lý ấy: Thiên Chúa đã yêu thương con người và không có gì Thiên Chúa không làm được.
Thiên Chúa đã tạo dựng Mẹ và gìn giữ Mẹ khỏi mọi tỳ vết của tội lỗi. Mẹ là nền tảng của niềm hy vọng của chúng ta, Mẹ là bình minh của nhân loại mới, một nhân loại được Thiên Chúa cứu chuộc và ban cho sức mạnh để vươn lên không ngừng.
Chúng ta hãy chiêm ngắm Mẹ với tất cả niềm cậy trông và lạc quan ấy. Qua Mẹ, Thiên Chúa muốn tỏ bày tình yêu không hề lay chuyển của Ngài cho nhân loại và qua Mẹ, Ngài cũng muốn chúng ta bước đi trong vâng phục và yêu mến, cậy trông.
Thân phận yếu hèn của chúng ta được dệt bằng những vấp ngã và chỗi dậy không ngừng. Chúa ban cho chúng ta một người Mẹ không tỳ vết để chúng ta không ngừng ngước mắt nhìn lên. Chúa ban cho chúng ta một người Mẹ luôn "Thưa, xin vâng!" giữa muôn ngàn đớn đau thử thách, để chúng ta tiếp tục chỗi dậy sau những lần vấp ngã.
Chúng ta hãy nhìn lên Mẹ. Mẹ luôn có đó để giúp chúng ta khỏi vấp ngã và nếu chúng ta có vấp ngã, Mẹ sẽ đỡ chúng ta dậy và giúp chúng ta tiếp tục "Thưa, xin vâng!" với Chúa để chúng ta bước đi theo Chúa Giêsu...
(Trích trong 'Lẽ Sống' – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 3: Lạy Mẹ là ngôi sao sáng
Ðôi khi trong thanh vắng chúng ta nghe lòng mình rộn lên bài hát thật du dương về Mẹ Maria: "Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc vượt biển thế gian". Lời văn đã nhân cách hoá Mẹ như một ngôi sao sáng soi giữa cuộc đời tựa như biển đêm đầy rợn rùng, hiểm nguy. Nhưng dù cuộc đời có bao trùm một bóng đêm dầy đặc, ở giữa bầu trời vẫn còn đó đôi bàn tay từ mẫu của Mẹ đang rộng tay ban phát ơn lành, và sẵn lòng nâng đỡ những người con thân yêu đang phải vật lộn với phong ba bão tố cuộc đời.
Ánh sao sáng là Mẹ giữa trời đêm được cha ông ta gọi là sao Bắc Ðẩu. Sao Bắc Ðẩu định hướng cho ngư dân biết đường đến bến bình yên. Sao Bắc Ðẩu còn là điểm báo về thời gian như dân gian có câu: " Bắc thần đã mọc xê xê, chị em thức dậy lo nghề đi buôn". Bên cạnh đó, ngôi sao đối với người phương đông còn mang một ý nghĩa là định mệnh của một con người. Người ta cho rằng mỗi người sinh ra trên cuộc đời này đều mang cung mệnh của một vì sao. Cuộc sống thăng trầm cũng theo điềm của mỗi vì sao. Có những vì sao sáng, có những vì sao mờ và có những vì sao tối và đã tắt, nó cũng giống như cuộc đời của con người, có người sống vinh hiển như chòm sao sáng, có những cuộc đời bình thường như những ngôi sao mờ nhạt, và buồn hơn có những cuộc đời lầm lũi như vì sao đã tắt và như vì sao chết. Cuộc đời càng thanh thoát, càng đầy phúc thì ngôi sao chiếu mệnh càng sáng. Ngôi sao sáng trên hết vì sao trên vòm trời là chòm sao Bắc Ðẩu, thế nên người ta gọi Mẹ là ngôi sao Bắc Ðẩu là ánh sao sáng nhất trong muôn loài thọ tạo được Chúa dựng nên.
Tin mừng hôm nay tường thuật lại cuộc gặp gỡ giữa sứ thần và Mẹ Maria. Mẹ là một thôn nữ miền quê, thế nhưng Mẹ đã được tạo dựng trở thành một ngôi sao Bắc Ðẩu cho nhân gian. Tin mừng khởi đầu với lời chào thật kính cẩn của sứ thần: "Kính chào bà đầy ơn sủng". Ðầy ơn sủng nghĩa là cuộc đời Mẹ đã được bao trùm bằng ân sủng của Chúa ngay từ lúc thụ thai. Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ bằng ân sủng của Ngài để Mẹ không vấn vương tội đời, không tỳ ố trong xác phàm để cung lòng Mẹ xứng đáng là đền thờ cho Chúa Ngôi Hai. Nói như thế, không phải là Mẹ không có công trạng gì, vì cuộc đời Mẹ đã được định đoạt từ ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa chọn Mẹ nhưng Ngài vẫn tôn trọng ý chí và tự do của Mẹ. Mẹ vẫn sống một kiếp người bình thường như bao người khác, có khác chăng là tấm lòng Mẹ luôn thanh khiết, luôn toả sáng bằng việc chọn Chúa hơn là chọn những tạo vật trần gian. Chính vì vậy, mà từ Thiên cung Thiên Chúa đã nhìn thấy ánh sao bắc Ðẩu mà Ngài đã tạo dựng luôn toả sáng giữa bóng đêm tội luỵ. Sứ thần đã nói cùng Mẹ vì "Mẹ hằng đẹp lòng Chúa". Mẹ đẹp rực rỡ không phải là vẻ đẹp kiêu xa bên ngoài mà là vẻ đẹp của một tâm hồn thanh khiết, sống giữa đời nhưng không hoen ố tội đời, tựa như đoá sen "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, chúng ta tạ ơn Chúa đã tạo dựng cho nhân loại một ánh sao sáng giữa trời đêm tội lụy là Mẹ Maria. Một ngôi sao Bắc Ðẩu luôn toả sáng để hướng dẫn những ai đang lầm đường lạc lỗi hãy mau quay về với Chúa tình thương. Tạ ơn Chúa đã tặng ban cho đời một ánh sao luôn toả sáng bởi sự trong sạch, bởi tình yêu hiến dâng cho Chúa để phục vụ cho đời. Tạ ơn Chúa và nguyện cầu cùng Mẹ giúp chúng ta biết trở thành một ánh sao soi dẫn bước cho anh chị em của mình.
Thế giới hôm nay rất cần đến ánh sao dẫn đường của Mẹ. Vì có mấy ai không một chút quyến luyến tội lối? Có mấy ai không vương vấn tội đời? Thế giới hôm nay rất cần sự dẫn lối của Mẹ, vì nhiều người còn mải mê với đam mê trần thế mà quên đi hướng đi về trời. Họ sống như thể chỉ ngụp lặn trong thú vui trần thế đến nỗi đánh mất phẩm giá cao qúy của con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Họ quá bận rộn với chuyện cơm áo gạo tiền đến nỗi quên rằng mục đích của đời người là tìm kiếm Nước Thiên Chúa, là trở thành ánh sao cho tha nhân, vì chưng Chúa đã từng mời gọi chúng ta "anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên trời".
Lạy Mẹ Maria Vô nhiễm nguyên tội, Mẹ là ngôi sao sáng xin dẫn lối chúng con bước về nẻo chính đường ngay, xin gìn giữ chúng con khỏi sa vòng tội lũy và ban phước lành cho nhân gian chúng con luôn được bình an. Amen.
(Trích trong 'Cùng Nhau Suy Niệm' – Lm. Tạ Duy Tuyền)
SUY NIỆM 4: Lễ Vô Nhiễm
Để nhấn mạnh lễ Mẹ Ma-ri-a Vô Nhiễm Nguyên Tội, phụng vụ trích đoạn Tin Mừng Truyền Tin. Đoạn này dẫn chúng ta vào mục đích của Thiên Chúa, Đấng được loài người đoán nhận.
Thực vậy, từ đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã loan báo ngày Ngài đến. Và suốt dòng lịch sử, Ngài không ngừng nhắc lại, biết bao nhiêu lần trong thời cựu ước. Trước cuộc tuyền tin cho Đức Ma-ri-a, Thiên Chúa đã tự loan báo cho loài người. Thời kiên nhẫn chờ đợi đã viên mãn vì đã có người hoàn toàn biết nghe lời Thiên Chúa, Người ấy là Đức Ma-ri-a.
Trong Đức Ma-ri-a, hơi thở thần khí của Thiên Chúa không bị sức nặng của tội lỗi, sức nặng của từ chối ngăn cản. Trong Đức Ma-ri-a không còn bị sai biệt giữa lời loan báo của Thiên Chúa với người lắng nghe, giữa lời đề nghị với lời đón nhận.
Còn chúng ta, chúng ta gọi đó là sự cưu mang Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Vô Nhiễm là không có vết nhơ tội nguyên tổ, nói kiểu tích cực Ma-ri-a tinh tuyền trong sạch ngay lúc ở trong lòng bà Anna, đó là hành động của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta vẫn không hiểu được rõ ràng.
Thiên Chúa, Đấng thương yêu quảng đại vô cùng đối với loài người, đã muốn mọi sự tốt lành cho một con tim loài người biết đón nhận. Thiên Chúa đã làm cho Đức Ma-ri-a được như vậy, cho đôi tai Ma-ri-a luôn lắng nghe lời Chúa trọn vẹn. Không ai lấy làm sững sờ khi Ngài làm cho Ma-ri-a nên nơi Ngài ngự. Vô Nhiễm thai của Ma-ri-a chính là lời Chúa được thực hiện hoàn toàn nơi một người trong loài người, chấm dứt sự xa cách giữa lời mời của Chúa với sự nhận lời của loài người. Đây chính là sự chuẩn bị một khu vườn mầu mỡ cho Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, xuống thế làm người.
Thiên Chúa lại tiếp tục cuộc hành trình với loài người trong mọi thế kỷ, và Ngài hằng theo dõi kế hoạch cứu độ của Ngài nơi loài người cho đến tận thế, nên Đức Giê-su Ki-tô đã loan báo ngày Người đến lần thứ hai nữa. Chúng ta đón tiếp kế hoach của Người thế nào? chúng ta có thái độ gì? chúng ta có chuẩn bị sẵn sàng để hiện diện trọn vẹn trước Đấng lại đến không? hay là lại mặc một bộ áo giáp sắt nhơ bẩn che chắn việc đón nhận Thiên Chúa tái sinh chúng ta và làm cho chúng ta nên thánh để được hoàn toàn nên giống Người.
JM.
SUY NIỆM 5: Lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
Trong quyển "Tiểu Sử Ðời Sống Của Thánh Don Boscô" có thuật lại một sự việc sau đây:
Hôm ấy là ngày 8 tháng 12 năm 1841, ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Cha Don Boscô vị tân Linh Mục đang mặc áo sửa soạn dâng Thánh Lễ, bỗng từ trong phòng áo Cha nghe tiếng ồn ào từ phía ngoài cửa. Cha bước ra và gặp thấy Ông Từ coi phòng áo nhà thờ đang cầm chổi lông gà đánh đuổi một cậu bé nghèo ăn mặc rách rưới, chỉ vì cậu dám bén mảng đến phòng áo và lại không biết giúp lễ. Cha Don Boscô tỏ vẻ không bằng lòng và bảo Ông Từ phải đi tìm cậu bé đem trở lại phòng áo cho Cha. Cha lại còn quả quyết rằng đó là bạn thân của Cha.
Vâng! Tất cả các thanh thiếu niên nghèo bị bỏ rơi đều là bạn thân của Cha hết.
Một lúc sau, Ông Từ trở lại phòng áo, dẫn theo cậu bé bị đánh đuổi. Cha bảo cậu ngồi đợi một chút, sau lễ ngài sẽ nói với cậu về một điều mà cậu rất vui thích. Có lẽ đó chỉ là cách Cha muốn bù đắp lại sự tàn nhẫn của Ông Từ hoặc xóa bỏ đi những mặc cảm và ấn tượng xấu đã gây nên trong tâm hồn cậu.
Nhưng đường lối của Chúa còn đi xa hơn nữa, vì chính trong ngày lễ Kính Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đó, Thiên Chúa muốn ngài khởi công một sứ mệnh Tông Ðồ cao cả mà vẫn còn hiện hữu cho tới ngày nay tại mọi dân tộc, mọi nền văn hóa. Ðiều gì đã xảy ra trong cuộc gặp gỡ đó? Như lời đã hứa, sau lễ Cha bắt đầu cuộc đối thoại thân mật với cậu bé, đó là cậu Bartolômêo Galendy. Don Boscô bắt đầu bằng những câu hỏi thân mật từ gia đình cậu, cha mẹ cậu.
Cậu đáp lại là cả hai đều đã qua đời.
Cha hỏi tiếp về tuổi của cậu, về công ăn việc làm và nơi ăn chốn ở của cậu.
Tuy nhiên câu hỏi đó, cậu chỉ đáp lại bằng tiếng "không" hơi cọc cằn.
Tuy nhiên, Cha vẫn không nản lòng. Sau cùng Cha hỏi: Con có biết huýt sáo không? Mắt cậu sáng lên và cậu bắt đầu mỉm cười gật đầu. Ðó là điều duy nhất Cha mong ước. Cậu đã bị chinh phục và đã trở nên bẹn thân của Cha. Từ đó, cha bắt đầu đối thoại bằng những câu hỏi về đời sống người công giáo của cậu. Ðáng thương thay, tuy cậu đã lên 16 tuổi nhưng chỉ được xưng tội lần đầu mà thôi. Còn về giáo lý thật không biết gì hết, vì không được ai chỉ bảo cho. Ngay cả đến việc làm dấu Thánh Giá và đọc một kinh Kính Mừng cậu cũng không biết. Và cha Don Boscô quì gối đọc kinh Kính Mừng phó thác cho Mẹ Maria và nhân danh Mẹ bắt đầu sứ mệnh Tông Ðồ của Cha, cầu xin Mẹ giúp Cha cứu rỗi linh hồn cậu bé này.
Trước khi cho cậu ra về, Cha tặng cậu một mẩu ảnh Ðức Mẹ và cậu hứa sẽ trở lại tuần tới đem theo chúng bạn của cậu để cùng được học giáo lý nữa.
Nhân dịp toàn thể Dòng Con Cái Don Boscô mừng kỷ niệm một trăm năm mươi năm cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Don Boscô và cậu bé Bartolômêo Galendy, ngày khởi đầu sinh hoạt Khánh Lễ Viện mà Don Boscô là Vị Sáng Lập và cậu bé Bartolômêo là viên đá đầu tiên. Nơi cậu Bartolômêo, Don Boscô đã nhìn thấy trước hàng ngàn thanh thiếu niên bị bỏ rơi cần được nhận biết tình thương của Chúa và ngài đã hiến trọn đời mình để giáo dục niềm tin trong tâm hồn các em. Hơn nữa, ngài còn đào luyện các em trở thành tông đồ giữa chúng bạn, dẫn đưa chúng bạn về với Chúa qua đời sống bí tích và việc học hỏi giáo lý. Một trăm năm mươi năm đã qua và sứ mệnh tông đồ của Don Boscô đã được các con thiêng liêng của ngài tiếp tục tới ngày nay trên khắp Năm Châu. Hàng ngàn hàng triệu thanh thiếu niên qua nhiều năm đã nhận biết, yêu mến Chúa và dấn thân để Chúa cũng được nhận biết, yêu mến và tôn thờ.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, một tấm gương tinh tuyền và tràn đầy ơn thánh Chúa. Cám ơn Chúa đã làm phong phú Giáo Hội Chúa với ơn đặc sủng của Tu Hội Salésien. Xin Chúa chúc lành cho sứ mệnh tông đồ mà ngài đã hiến thân phục vụ đến hơi thở cuối cùng, để giới trẻ qua mọi thời đại và trong mọi môi trường văn hóa tìm được thầy chỉ dẫn, nhận được sự hiểu biết tình thương của Chúa và trở nên vị tông đồ khác giữa giới trẻ, dẫn đưa chúng bạn gặp gỡ Chúa, xa tránh tội lỗi và gìn giữ luôn mãi vẻ đẹp trong sáng của tâm hồn là bí quyết niềm an vui và hạnh phúc thật. Amen.
(Trích trong 'Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày' – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 6: Đặc Ân Vô Nhiễm
Sau khi Adong Eva phản bội, Thiên Chúa đã phán với con rắn, tượng trưng cho uy quyền của ma quỷ rằng: Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa ngươi và người phụ nữ, giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người phụ nữ. Dòng dõi người phụ nữ sẽ đạp dập đầu ngươi, còn ngươi thì chỉ rình cắn trộm gót chân Người.
Lời tiên tri này trước hết muốn nói tới Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ đến đập tan uy quyền hoả ngục để cứu độ chúng ta. Nhưng đồng thời cũng giới thiệu với chúng ta, khuôn mặt Đức Trinh Nữ Maria.
Thực vậy, sứ thần Gabriel đã đến viếng thăm Mẹ với lời chào kính lạ lùng: Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà. Trước lời chào kính lạ lùng ấy, Mẹ đã cảm thấy bối rối. Sứ thần Gabriel đã cắt nghĩa, nhưng đồng thời lại đề nghị một tin vui lạ lùng khác nữa: Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên lá Giê su. Ngài sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là con Đấng Tối Cao. Tin vui này khiến cho Mẹ không khỏi băn khoăn nêu lên câu hỏi: Việc đó xảy đến thế nào được vì tôi không biết tới người nam. Thiên thần liền trả lời: Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao phủ bà. Vì thế con trẻ được sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là con Thiên Chúa. Sau khi biết được thánh ý Thiên Chúa là như thế, Mẹ đã trả lời một cách đơn sơ: Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.
Qua hình ảnh của sách Sáng Thế Ký cũng như qua câu chuyện của Phúc Âm thánh Luca chúng ta thấy được vai trò của Mẹ Maria đối với nhân loại, đồng thời cũng thấy được đặc ân vô nhiễm nguyên tội của Mẹ, ít nữa là một cách gián tiếp.
Jean Guitton trong cuốn "Vie de la Vierge Marie", cuộc đời Đức Trinh Nữ Maria, đã viết: Mẹ như một thửa vườn khép kín, đến nỗi ma quỷ và tội lỗi không thể nào ảnh hưởng và để lại những dấu vết. Cho dù bầu khí tội lỗi đã bao trùm nhân loại ngay từ thuở ban đầu, thì vẫn còn có một nơi không hề bị ô nhiễm. Nơi đó được dành cho Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Phúc Âm cũng cho thấy: Gioan Tiền Hô mà còn được thánh hoá từ trong lòng mẹ, huống chi nữa Đấng cưu mang Ngôi Lời, Đấng cưu mang chính Thiên Chúa.
Từ những suy tư như thế, người tín hữu đã tin chắc đặc ân vô nhiễm của Mẹ Maria, để rồi cuối cùng Đức Thánh Cha Piô IX, vào năm 1854 đã long trọng công bố và ấn định thành một tín điều phải tin. Sau đó bốn năm tức là vào ngày 25.3.1858, chính Mẹ đã hiện ra tại Lộ Đức và xác quyết với chị Bernadette: Ta là Đấng vô nhiễm nguyên tội. Mừng lễ Vô Nhiễm, chúng ta hãy mang lấy tâm tình vui mừng và hy vọng, bởi vì hiện giờ ở trên trời, chúng ta có được một người mẹ vừa thánh thiện lại vừa quyền năng để bầu cử cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Nhất là chúng ta hãy ra sức khử trừ tội lỗi, để nhờ đó tâm hồn chúng ta được trở nên giống Mẹ, là một cánh sen vô nhiễm, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
07/12 Chữa người bất toại và quyền tha tội
- Viết bởi Jos. Vinc. Ngọc Biển
Chữa người bất toại và quyền tha tội.
Thứ Hai tuần 2 mùa vọng – Thánh Amrôxiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Hôm nay chúng tôi đã thấy những việc lạ lùng".
* Thánh Amrôxiô chào đời ở Trêvêrô khoảng năm 340 trong một gia đình người Rôma. Thánh nhân theo học ở Rôma và bắt đầu sự nghiệp hiển hách ở Xiếcmiô. Năm 374, lúc đang ở Milanô, thánh nhân bất ngờ được bầu làm giám mục và được tấn phong ngày 7 tháng 12. Người trung thành thi hành bổn phận, nổi bật nhất về lòng bác ái đối với mọi người. Đối với các tín hữu, người vừa là mục tử, vừa là tôn sư. Người đã can đảm bênh vực các quyền của Hội Thánh, người vừa viết lách, vừa hoạt động để bênh vực giáo lý đức tin chân thật, chống lại những người theo phái Ariô. Người qua đời thứ bảy tuần thánh, ngày 07 tháng 04 năm 397.
LỜI CHÚA: Lc 5, 17-26
Ngày ấy, Chúa Giêsu đang ngồi giảng, có cả những người biệt phái và tiến sĩ luật từ các làng mạc xứ Galilêa, xứ Giuđêa và Giêrusalem đến nghe Người, và Người dùng quyền lực của Thiên Chúa chữa nhiều người. Người ta khiêng một người bất toại đến, họ tìm cách vào nhà để đặt người bất toại trước mặt Người. Nhưng không tìm được lối vào, vì dân chúng quá đông, họ liền trèo lên sân thượng và thả người bất toại xuống giữa cử toạ trước mặt Chúa Giêsu. Thấy lòng tin của họ, Người nói: "Hỡi người kia, tội ngươi đã được tha!"
Các luật sĩ và biệt phái bắt đầu lý luận rằng: "Người này là ai mà dám nói phạm thượng? Trừ một mình Chúa, ai có quyền tha tội?" Chúa Giêsu biết rõ điều họ suy tính, liền nói với họ: "Sao các ngươi lại nghĩ trong lòng như vậy? Nói rằng: "Các tội của ngươi đã được tha", hay nói: "Ngươi hãy đứng dậy mà đi", đàng nào dễ hơn? Song (như thế là) để các ngươi biết Con Người có quyền tha tội ở dưới đất". Người nói với người bất toại rằng: "Ta bảo ngươi, hãy chỗi dậy vác giường về nhà".
Tức thì anh ta chỗi dậy vác giường đi về nhà và ca tụng Thiên Chúa. Ai nấy đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa; họ kinh sợ và nói: "Hôm nay chúng ta đã thấy những việc lạ lùng".
Suy Niệm 1: Tâm hồn bình an.
Một buổi sáng tháng 7/1971, tại một thành phố bên Hoa kỳ, một người đàn ông đã đến nộp mình tại một trạm cảnh sát gần nhà. Ông thú nhận đã giết một người đàn bà cách đó 21 năm. Ông cho biết trong 21 năm qua, ông không bao giờ chợp mắt được mỗi khi màn đêm phủ xuống. Ông nói: "Chỉ vì một phút say sưa, tôi đã biến 21 năm qua thành một cơn ác mộng. Giờ đây sau khi thú nhận tội lỗi, tôi cảm thấy thanh thản trong lương tâm, tôi cảm thấy như được tái sinh".
Những câu chuyện nộp mình và thú nhận tội lỗi như trên đây không phải là chuyện hiếm có trong lịch sử nhân loại. Riêng với người Kitô hữu, đó là một phần của cuộc sống đức tin. Trong những cao điểm của năm phụng vụ, lời nhắc nhở của Giáo Hội về nghĩa vụ này lại càng tha thiết hơn. Đặc biệt mỗi khi Mùa Vọng về, Giáo Hội khẩn khoản kêu mời chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Giáng sinh, Chúa của Hòa bình. Làm sao chúng ta cảm nhận được bình an trong tâm hồn, nếu tội lỗi vẫn còn đè nặng lương tâm của chúng ta?
Có lẽ, vì muốn nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết của Bí tích giao hòa, mà hôm nay Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe việc Chúa Giêsu chữa lành một người bất toại. "Này anh, tôi anh đã được tha rồi". Lời khẳng quyết của Chúa Giêsu với người bất toại cho chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của niềm tin được tuyên xưng bởi chính miệng anh và đám đông khiêng anh đến trước mặt Chúa. Thật thế, tuyên xưng niềm tin trước tiên là nhìn nhận thân phận tội lỗi bất toàn của mình. Ngày nay, nhiều người đã có lý để liên kết cơn khủng hoảng đức tin với việc đánh mất ý thức tội lỗi. Quả thực khi con người không còn ý thức về tội lỗi nữa, thì điều đó cũng có nghĩa là trong sâu thẳm của tâm hồn, con người cũng không còn cảm nhận được mối liên kết của mình với Thiên Chúa nữa. Đánh mất ý thức về tội lỗi cũng có nghĩa là gạt bỏ Thiên Chúa và chối bỏ những giá trị siêu việt trong cuộc sống.
Tuyên xưng đức tin không những là nhận ra thân phận tội lỗi, bất toàn của mình, nhưng còn là nhìn nhận quyền năng cứu rỗi của Thiên Chúa. Chỉ một mình Thiên Chúa Đấng tạo dựng con người mới có thể tái tạo, nghĩa là tha thứ cho con người. Tha thứ đối với con người là tái lập một quan hệ đã bị phá vỡ. Còn đối với Thiên Chúa, tha thứ chính là tái tạo, là ban lại một sức sống mới đã bị đánh mất. Quyền năng tái tạo ấy của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện qua các phép lạ của Ngài, nhất là các phép lạ chữa bệnh tật con người. Qua các phép lạ ấy, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha thứ cho con người, chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tái tạo con người. Đó là lý do tại sao trong phép lạ chữa người bất toại, Ngài đã nói đến hành động tha thứ của Thiên Chúa.
Được Thiên Chúa tha thứ, được Thiên Chúa cứu rỗi, được Thiên Chúa tái tạo để biến thành một tạo vật mới, đó là sứ điệp quan trọng nhất mà Chúa Giêsu đã mang đến cho con người. Ngày nay, qua Giáo Hội, Chúa Giêsu cũng không ngừng nói với chúng ta sứ điệp ấy. Qua Giáo Hội, Ngài không ngừng nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với các bệnh nhân và những người tội lỗi đương thời của Ngài: "Hãy can đảm lên, tôi con đã được tha". "Ta cũng không kết án con".
Mùa Vọng, tâm hồn chúng ta cảm thấy rạo rực hân hoan vì bầu khí chuẩn bị mừng Chúa Giáng sinh. Những chuẩn bị bên ngoài là cần thiết để gợi lên cho chúng ta ý nghĩa đích thực của Lễ Giáng sinh. Chúa Giêsu đã Giáng sinh là để chúng ta được sinh lại, được tái sinh. Chúng ta cần được Ngài tha thứ và tái tạo, do đó không có chuẩn bị nào cần thiết hơn là đến với Ngài trong Bí tích giải tội để được ơn tha thứ. Vào cuối đời, Đức Gioan XXIII đã ghi lại trong nhật ký của Ngài: "Có hai ngõ dẫn chúng ta vào thiên đàng: một là tấm lòng trong sạch, hai là sự thống hối. Là những con người yếu đuối mỏng dòn, không ai trong chúng ta dám nghĩ đến ngõ thứ nhất, tuy nhiên chúng ta có thể tin chắc vào ngõ thứ hai, Chúa Giêsu đã đi qua ngõ ấy". Ngài đã mang lấy Thập giá để đền bù tội lỗi chúng ta và mời gọi chúng ta bước theo Ngài. Nhưng theo Ngài cũng có nghĩa là sám hối, chấp nhận mỗi ngày cần được thanh tẩy thêm.
Ước gì Bí tích giải tội mà chúng ta sốt sắng lãnh nhận trong mùa vọng này đem lại cho chúng ta bình an đích thực, bình an mà các Thiên thần loan báo trong đêm Giáng sinh:
"Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm"
Suy niệm 2 :VÌ GHEN TỨC MÀ TRỞ THÀNH BẤT NHÂN!
Ghen ăn tức ở hay không ăn được thì đạp đổ vốn là thói xấu thường trực trong xã hội mọi thời. Vì thế, chúng ta không lạ gì vào thời Đức Giêsu, tình trạng này lại càng rõ nét nơi những người Pharisiêu và các Luật sĩ khi họ thấy Đức Giêsu được lòng dân và uy tín của Ngài ngày càng lan rộng. Vì thế, họ sinh ra căm phẫn và tức tối, nên muốn loại bỏ Đức Giêsu ra khỏi cuộc sống và xã hội.
Tuy nhiên, họ khó lòng kết tội cho Đức Giêsu khi Ngài làm việc thiện, việc tốt hay đứng lên bảo vệ công lý, công bình, giúp đỡ người nghèo, người không nơi nương tựa... Bởi lẽ, nếu họ chống đối ra mặt những việc Đức Giêsu đã làm trên thì họ sẽ bị dân chúng phản đối và đương nhiên, khuôn mặt giả hình nhân đức của họ bị bại lộ... Như thế, hoàn toàn không có lợi cho bản thân và mưu kế của những người này. Chỉ có một cách là họ ghép Đức Giêsu vào tội lộng ngôn hay phản động thì sẽ dễ dàng hơn.
Thua keo này, họ bày keo khác... Và hôm nay là cơ hội để họ thực thi điều ác tâm đó với Đức Giêsu.
Tin Mừng hôn nay thuật lại câu chuyện Đức Giêsu chữa người bất toại cách công khai và nhân đây Ngài cũng mặc khải Thiên Tính của mình khi nói: "Hỡi người kia, tội ngươi đã được tha!". Khi nói như thế, Đức Giêsu bị những nhà lãnh đạo tôn giáo kết án Ngài nói lộng ngôn vì tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa khi tha tội cho người ta. Theo quan niệm của người Dothái thì những người mắc bệnh tật là do bị Thiên Chúa phạt vì tội lỗi của họ. Và đương nhiên, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Khi họ không tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì hẳn là họ phủ nhận quyền tha tội của Ngài, và như thế, họ có lý do để loại trừ Đức Giêsu bằng cái chết.
Về phía Đức Giêsu: khi Ngài bày tỏ uy quyền của mình bằng việc tha tội, ngay lập tức, người bất toại được lành, điều này cho thấy quyền năng và lòng thương xót của Đức Giêsu đã chứng minh sứ vụ Thiên Sai Con Thiên Chúa nơi Ngài, Ngài đến là để cứu chữa và ban ơn cứu độ cho mọi người.
Mặt khác, niềm tin của những người khiêng anh bại liệt cũng như niềm tin của chính người bại liệt đã để lại cho chúng ta bài học:
Tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, vì Ngài làm được mọi chuyện và Ngài biết điều gì tốt nhất cho ơn cứu độ của ta thì Ngài sẽ ban ơn.
Đức tin cần phải đi đôi với việc làm. Nếu người bại liệt đã tin vào Chúa, và khi được giải phóng khỏi tội lỗi là quyền lực của Ma Quỷ, anh ta đã cất tiếng ngợi ca Thiên Chúa, thì chúng ta, khi cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trên cuộc đời, hãy có tâm tình tạ ơn.
Đức tin cần được biểu lộ qua đức ái. Vì thế, noi gương những người Dothái khi xưa, hãy sẵn sàng giúp đỡ những người nghèo đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Nhất là những người cô thế, cô thân, để tăng thêm niềm tin nơi họ ngang qua những việc thiện chúng ta làm.
Tránh những kiểu kỳ thị như những người Pharisiêu và Luật sĩ. Đừng vì ích kỷ hay hình thức bề ngoài mà ngăn cản ơn Chúa đến với mọi người, cũng như căm tức những người vì lòng tốt mà làm được nhiều việc thiện hơn ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con ơn đức tin để chúng con biết tin tưởng vào Chúa. Xin cũng cho chúng con luôn biết tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh và sống đức ái với nhau cách chân tình. Amen.
Jos. Vinc. Ngọc Biển
06/12 Sửa đường Chúa đi
- Viết bởi Lc 3, 1-6
Sửa đường Chúa đi.
Chúa Nhật tuần 2 mùa vọng năm C.
"Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
LỜI CHÚA: Lc 3, 1-6
Ðời hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn em là Philipphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế; có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, trong hoang địa. Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia rằng: "Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG C
Lời Chúa: Br 5,1-9; Pl 1,4-6. 8-11; Lc 3,1-6
1. Sa mạc.
Sa mạc vốn là một chủ đề quen thuộc trong Kinh Thánh. Thực vậy, những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong sa mạc. Maisen phải lẩn trốn vào sa mạc để được nhận biết Chúa và lãnh nhận sứ mạng giải phóng dân tộc. Dân Do Thái đã phải lang thang trong sa mạc suốt 40 năm trời, đây là thời gian thanh luyện cần thiết trước khi được đặt chân vào miền đất hứa. Và điển hình hơn cả đó là 40 đêm ngày trong sa mạc của Chúa Giêsu. Tại đây, Ngài đã ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ.
Qua phim ảnh, chúng ta thấy sa mạc đồng nghĩa với nắng cháy, nghèo nàn và trơ trụi. Phải chăng có trở nên trống rỗng và nghèo nàn, có trút bỏ bớt đi những cái không cần thiết, chúng ta mới lắng nghe được tiếng Chúa và thanh luyện được niềm tin?
Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh rằng những cuộc bách hại luôn là yếu tố thanh luyện và canh tân Giáo Hội. Trong thử thách và khổ đau, trong nghèo nàn và trơ trụi, Giáo Hội lại càng vững mạnh hơn. Có trút bỏ được những cái không cần thiết va làm cho vướng mắc thì Giáo Hội mới trở nên sáng suốt và giàu có. Giàu có không do những phương tiện vật chất và các thứ đặc quyền đặc lợi, mà giàu có bởi một niềm tin được tinh luyện và can trường hơn.
Từ trong sa mạc, Gioan đã nghe được tiếng Chúa, đã lãnh nhận sứ mạng của ngài và đã loan truyền cho mọi người: Hãy dọn đường Chúa đến, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống. Lời kêu gọi này, Chúa chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị nữa.
Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố cáo hành vi tội ác của Hêrôđê. Số phận của Gioan cho chúng ta thấy ông đã đi đến tận cùng sứ mạng đã lãnh nhận. Ông đã dám nói thẳng và nói thật bởi vì ông không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy, không có gì để mất mát.
Còn chúng ta thì khác. Chén cơm manh áo hay một ít vinh hoa có thể là động lực thúc đẩy con người thoả hiệp và sống dối trá. Đó cũng có thể là cơn cám dỗ của mỗi người chúng ta trong thời buổi hiện nay. Một ít đặc lợi vật chất, một vài ưu đãi và dễ dãi, đó là miếng mồi ngon khiến nhiều người nếu không bán đứng lương tâm, nếu không uốn cong miệng lưỡi, thì cũng chấp nhận thoả hiệp bằng một thái độ yên lặng.
Mùa Vọng là mùa của sa mạc. Có đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới dễ dàng nhận ra tiếng Chúa. Và có từ sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới có đủ nghị lực để gióng lên tiếng của Chúa: Hãy dọn đường Chúa đến.
2. Chết.
Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng. Mùa Vọng của năm phụng vụ cũng như mùa vọng của cuộc đời chúng ta. Chúng ta không phải chỉ đón nhận việc Chúa đến như một biến cố lịch sử trong đêm Giáng sinh, cũng không phải chỉ đón nhận việc Ngài đến mỗi lần chúng ta lên rước lễ, mà đặc biệt là còn đón nhận việc Ngài đến vào ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta, cũng như vào ngày sau hết của vũ trụ vật chất này. Vậy để đón mừng Chúa đến, chúng ta đã chuẩn bị như thế nào?
Chúng ta nên thực thi sứ điệp Gioan Tiền Hô đã gởi đến cho người Do Thái bên bờ sông Giócđan, đó là hãy ăn năn sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi để quay trở về cùng Chúa. Ông đã thẳng thắn cảnh cáo họ: Hãy sinh hoa trái tốt lành để chứng tỏ cõi lòng sám hối của các ngươi, bằng không thì này đây cái rìu đã được đặt dưới gốc cây. Và cây nào không sinh trái tốt thì sẽ bị chặt và ném vào lửa.
Chúng ta hãy nghiêm chỉnh tự vấn lương tâm xem: nếu như lúc này Chúa đến với tôi, thì liệu tôi có sẵn sàng để trình diện, để tính sổ cuộc đời với Ngài hay không?
Có một cậu bé 17 tuổi, người Hoà Lan, đã từng trốn khỏi trại tập trung của Đức Quốc Xã hồi thế chiến lần thứ II, nhưng rồi cậu bị bắt trở lại và bị kết án tử hình. Ngay trước khi bị hành quyết, cậu đã gởi cho bố cậu lá thư như thế này:
"Thưa bố quý yêu!
Thật là khó khăn lắm con mới viết được những hàng chữ này cho bố, để báo tin rằng con đã bị toà án quân sự kết tội tử hình. Xin bố đọc lá thư này một mình và khéo léo báo cho mẹ biết giùm con. Chẳng bao lâu nữa, điều đó sẽ xảy đến với con. Và chỉ trong thoáng chốc, thế là con sẽ về với Chúa. Nói cho cùng đấy có phải là một cuộc chuyển tiếp đáng kinh hãi hay không? Con cảm thấy rõ ràng mình đang ở gần bên Chúa. Con đã chuẩn bị mọi sự cần thiết để đón chờ cái chết. Con nghĩ rằng con sẽ đỡ đau khổ hơn bố nhiều vì con biết rằng mình đã xưng thú hết mọi tội lỗi và hiện tâm hồn con hoàn toàn thanh thản.
Con của bố".
Ước chi vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời, chúng ta cũng nói lên được như vậy. Mùa Vọng là thời gian thuận tiện để chúng ta chuẩn bị những hành trang cần thiết cho cuộc gặp gỡ định mệnh với Chúa. Thế nhưng cho đến lúc này, chúng ta đã làm được những gì để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mạng ấy.
3. Sa mạc.
Thomas Morton là một tiểu thuyết gia nổi tiếng. Mặc dù theo Anh giáo, nhưng khi còn trẻ, chàng đã sống như một kẻ vô thần. Sau khi trở lại, chàng đã vào dòng khổ tu. Chàng đã ghi lại biến cố làm đảo lộn cuộc đời chàng như sau:
Hôm đó tình cờ tôi bước chân vào một nhà thờ Công giáo. Điều đầu tiên lôi kéo sự chú ý của tôi đó là một cô gái duyên dáng đang quỳ cầu nguyện một cách sốt sắng, không để ý tới những gì xảy ra chung quanh. Tôi tự hỏi: Tại sao một thiếu nữ trẻ đẹp lại có thể quỳ cầu nguyện trong một ngôi thánh đường lặng lẽ, một cách hết sức tự nhiên và say đắm như thể bị hút hồn?
Dĩ nhiên cô gái vào nhà thờ không phải là để cho người ta nhìn ngắm, mà là để cầu nguyện và chỉ để cầu nguyện mà thôi. Cuộc gặp gỡ thân tình của cô gái với Thiên Chúa trong khung cảnh vắng lặng ấy đã là một trong những yếu tố dẫn đưa tôi đến chỗ gặp Chúa và theo đạo sau này.
Ngôi thánh đường, trong bầu khí trang nghiêm và thinh lặng ấy, phải chăng là hình ảnh của một sa mạc, nơi con người có thể gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa giữa dòng chảy của một cuộc đời nhiều bon chen và dao động này.
Thực vậy, theo Kinh Thánh sa mạc vừa là nơi con người chịu thử thách, vừa là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa. Như chúng ta thường thấy: sa mạc thì khô cằn sỏi đá. Ban ngày thì nắng cháy, còn ban đêm thì lạnh buốt.
Đó chính là hình ảnh cuộc sống của con người không có bóng dáng và sự hiện diện của Thiên Chúa. Giữa cảnh hoang vu của cát đá, con người đói khát và lạc hướng. Thảm trạng ấy sẽ giúp con người ý thức được cái bé bỏng của thân phận, cái vô nghĩa của đời mình, bởi vì con người là gì nếu không phải chỉ là cát bụi.
Nhận thức này sẽ giúp chúng ta từ bỏ mọi ý nghĩ kiêu căng và ngạo mạn, đồng thời mở rộng tâm hồn mình cho ơn sủng của Chúa hoạt động.
Đường vào sa mạc như thế là con đường dẫn đưa con người đến điểm hẹn, gặp gỡ với Thiên Chúa và đón nhận những ơn phúc của Ngài.
Trong cuộc sống thiêng liêng, càng biết vào sa mạc, nghĩa là càng sống thinh lặng và cầu nguyện, thì càng cảm nghiệm được sự gặp gỡ với Thiên Chúa một cách mật thiết và gắn bó hơn.
Dân Do Thái đã phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm trời. Trong thời gian này, họ đã phải gặp nhiều thử thách, nhưng cũng đã được chứng kiến biết bao việc kỳ diệu Thiên Chúa đã làm vì yêu thương họ.
Chúa Giêsu trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, cũng đã vào sa mạc suốt bốn mươi đêm ngày. Và Phúc âm đã ghi nhận trong thời gian này, Ngài đã ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ.
Còn chúng ta thì sao? Giữa những bon chen của cuộc sống, chúng ta có biết vào sa mạc, có biết dành lấy những giây phút thinh lặng để thực sự cầu nguyện, gặp gỡ và kết hiệp mật thiết với Chúa hay không?
4. Sám hối
(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Gioan con Zacaria xuất hiện rao giảng sám hối. Đây là sứ điệp tiên tri Barúc đã từng loan báo: "hãy dọn đường cho Chúa, thung lũng hãy lấp đầy, đồi núi hãy san phẳng...". Dân Do Thái mong chờ Chúa, hàm chứa, Chúa sai vị Thiên Sai (Kitô) để giải phóng họ khỏi cảnh lưu đầy ở Babylon. Tiên tri đã loan báo phải bạt các núi đồi, san phẳng những thung lũng để dân Chúa trở về. Người ta sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa qua việc Ngài đưa dân từ nơi lưu đầy trở về quê hương. Điều này xảy ra khi vua Kyrô người Ba Tư ban hành chiếu chỉ cho dân Do Thái lưu đầy được trở về quê cha đất tổ. Dân Do Thái vui mừng. Họ nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ. Mỗi người đều được mời gọi trở về để đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.
I. Sám hối để có thể sống hạnh phúc
Sám hối hàm chứa nhận ra mình chưa sống như phải sống. Thiên Chúa vẫn yêu thương và mời gọi con người sống tốt hơn, sống như Thiên Chúa muốn. Thiên Chúa muốn tôi sống hạnh phúc. Tôi có hạnh phúc như Thiên Chúa muốn không? Tại sao tôi không hạnh phúc?
Phải chăng tôi đang quá bận tâm lo lắng về cơm ăn áo mặc? Phải chăng tôi muốn có nhiều tiền, tôi muốn có những gì cần thiết về của ăn áo mặc cho tôi và những người thân yêu trong khoảng thời gian an toàn? Phải chăng tôi muốn có sự an toàn của người phú hộ "hãy ngủ nghỉ yên vì ngươi có nhiều của" (Lc.12, 13-21)? Phải chăng tôi lo lắng mọi sự và không biết rằng Thiên Chúa yêu tôi, Ngài sẽ cho tôi những thứ tôi thật sự cần (Mt.6, 25-34)?
Tôi có buồn bực vì không được người tôi yêu đáp trả? Tôi có thông cảm nỗi lòng của người tôi yêu, có thể họ cũng yêu ai đó mà cũng không được đáp trả? Tôi có muốn người khác yêu tôi, và tôi không cần biết những bận tâm và ao ước của người tôi yêu? Nếu tôi không chấp nhận con người của tôi, và nếu tôi không tôn trọng tự do của người khác, thì làm sao tôi có thể sống hạnh phúc đích thực?
II. Yêu thương để sống hạnh phúc
Con người tùy thuộc nhiều yếu tố để sống hạnh phúc. Có lẽ khi dân lưu đầy trở về, sẽ gặp nhiều vấn đề phát sinh: chẳng hạn vấn đề nhà cửa, cơm bánh hằng ngày, vấn đề tương giao giữa con người với nhau, vấn đề phát triển tối đa con người của mình. Chỉ cần không dung hợp hài hòa những điều trên, con người cũng không cảm thấy hạnh phúc; hoặc nữa, nếu con người muốn một điều gì "quá mức" mà không có được, họ cũng không cảm thấy hạnh phúc. Đức Phật đã đề xuất lý thuyết "diệt dục", đừng muốn nữa, thì sẽ không khổ. Đức Yêsu dạy con người: hãy yêu thương nhau (Ga.13, 34), nghĩa là, muốn điều tốt cho người khác, vui với người vui khóc với người khóc, giúp người khác triển nở và hạnh phúc.
Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa làm tất cả vì yêu. Con người được mời gọi để trở nên giống Thiên Chúa, được mời gọi để chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa. Chính khi con người nên giống Thiên Chúa, thì con người được hạnh phúc. Con người được mời gọi để sống yêu thương như Thiên Chúa là Đấng yêu thương. Chính khi con người sống yêu thương, thì con người được hạnh phúc. Cho đi thì hạnh phúc hơn là nhận. Con người hạnh phúc khi phục vụ và giúp người khác triển nở.
Hãy lấp bằng những hố sâu ngăn cách, hãy bạt những núi đồi kiêu kỳ làm ngăn trở mình sống yêu thương như Thiên Chúa. Mỗi người được mời gọi để nhìn lại chính mình, để thấy mình chưa sống như Thiên Chúa muốn, để thấy mình chưa yêu thương như Thiên Chúa mời gọi, để trở lại với Thiên Chúa là Đấng làm tất cả vì yêu thương.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Chính khi yêu thương là đã hạnh phúc! Bạn có kinh nghiệm về điều này không?
2. Yêu là làm đẹp mình, bạn có đồng ý với câu nói này không? Xin dẫn chứng.
5. Hãy dọn đường
(Lm. GB. Trần Văn Hào)
Khi thành phố bắt đầu về đêm, dòng người và xe cộ trở nên thưa thớt, người ta thấy xuất hiện những công nhân cặm cụi đi ra quét dọn các con đường. Niềm vui của họ là nhìn những con đường sạch bóng cho ngàn người đi qua. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong một bài hát cũng mượn những vần thơ diễn tả hình ảnh người phu quét rác: "Người phu quét lá bên đường, quét cả nắng vàng quét cả chiều thu". Có một vị chính khách nọ khi ra tranh cử tổng thống cũng nói với mọi người: "Nếu tôi được bầu chọn làm nguyên thủ quốc gia, công việc đầu tiên tôi sẽ làm là cho xây dựng những con đường".
Cũng vậy, Giáo hội ngày hôm nay mời gọi chúng ta đóng vai người phu quét lá để dọn con đường trong tâm hồn đón Chúa đến. Giáo hội trích mượn lời hiệu triệu của Thánh Gioan tiền hô để nhắn gửi chúng ta: "Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi. Mọi thung lũng phải lấy cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng (Lc 3, 4 )".
Nhưng dọn đường như thế nào?
Đạo là đường. Đạo Công giáo không phải là một pháo đài gồm chứa những luật lệ cứng ngắc để chúng ta rút lui vào đó cố thủ. Đạo mà Chúa Giêsu khai sáng là một con đường rộng mở thênh thang để chúng ta bước tới, đi đến gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Chúa Giêsu đã nói: "Tôi là đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14,6). Cuộc hành trình đức tin của chúng ta cũng chính là con đường đưa dẫn chúng ta tiến về ánh sáng và sự sống vĩnh cửu. Nhưng con đường đó nhiều khi ngập đầy bụi bặm và rác rưởi của tội lỗi mà chúng ta cần phải quét dọn hằng ngày.
Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma đã viết "Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy anh em hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương" (Rm 13, 12.13). Bóng tối của màn đêm là hình tượng biểu trưng tội lỗi và sự chết. Vũ khí của sự sáng mà Thánh Phaolô nhắc bảo chính là sức mạnh Thiên Chúa ban cho những ai được Thần khí hướng dẫn để không sống theo xác thịt. Điều mà Thánh Phaolô nói tới cũng tương hợp với lời hiệu triệu của thánh Gioan mà chúng ta nghe trong bài Tin mừng hôm nay. Con đường cong queo của những luồn lẹo gian dối phải uốn cho ngay. Lũng sâu chất chứa những thù hận và cách ngăn phải lấp cho đầy. Núi cao của tham vọng và ích kỷ phải bạt cho bằng. Muốn sửa lại những con đường đó, chúng ta phải đi vào hành trình hoán cải nội tâm một cách sâu xa.
Hoán cải và trở về
Có một người đàn ông nọ vô tình đọc thấy một bản cáo phó trên một trang báo. Người ta nhầm lẫn đưa tin ông vừa mới chết. Ông xúc động, nhưng bàng hoàng hơn cả vì bản cáo phó xem ông như một kẻ giết người hàng loạt, vì ông đã chế tạo nhiều vũ khí để sử dụng trong chiến tranh. Bản cáo phó đã đánh động tâm hồn ông, và ông quyết định chuyển hướng. Thay vì phục vụ chiến tranh như trước đây, ông bắt đầu dấn thân phục vụ cho hòa bình. Ông đã hiến dâng toàn bộ tài sản ông sở hữu để cổ vũ cho công lý và hòa bình trên khắp thế giới. Người đàn ông ấy chính là Alfred Nobel, người đã khai lập giải Nobel hòa bình để phục vụ cho mục đích này. Đó là một con người đã biết thức tỉnh và trở về trong sám hối.
Hoán cải (metanoia) theo nguyên ngữ Hy lạp chính là trở về, trở về với Chúa và trở về với anh em. Trong mùa vọng cũng như trong mùa chay, chúng ta được nhắc nhở thực hành việc sám hối. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa rộng, thì trong suốt cuộc lữ hành trần thế, chúng ta vẫn luôn cần phải trở về liên tục, bởi vì đây là thái độ nội tâm căn bản thể hiện đức tin của mọi tín hữu quy hướng về Thiên Chúa. Sám hối không phải chỉ là nhớ lại một vài lỗi phạm và đến tòa cáo giải xưng thú để lương tâm được thanh thản. Sám hối trước hết và trên hết chính là một tư thế nội tâm để quay trở về. Cuộc lữ hành đức tin chúng ta giống như một con thuyền nhỏ trên dòng sông chảy ngược. Con thuyền không thể đứng yên một chỗ mà phải tiến tới, nếu không, con thuyền sẽ bị dòng nước cuốn ngược lại. Vì thế cuộc hành trình trở về được Giáo hội nhắc nhở trong mùa vọng như một động thái cần thiết để đón chờ Chúa đến. Chúng ta không thể trở về với Chúa mà lại không biết cách trở về làm hòa với nhau. Cũng thế, sự hoán cải mà thánh Gioan Tiền hô nói đến, đòi hỏi chúng ta phải phá đổ bức tường cách ngăn của những thù hận, phải uốn lại cho ngay những luồn lẹo gian dối trong cách hành xử thường ngày làm phương hại đến cận nhân chung quanh.
Có lẽ chúng ta đều biết bức tranh nổi tiếng vẽ bữa tiệc ly của danh họa Leonardo da Vinci. Ông tập trung cao độ để phác họa dung mạo Chúa Giêsu ngồi giữa các học trò trong giờ phút ly biệt đầy thân thương và quyến luyến. Nhưng cầm cọ lên, ông lại buông xuống vì không thể vẽ nổi. Nguyên nhân vì chiều hôm trước, ông mới cự cãi kịch liệt với anh hàng xóm bên cạnh và tâm hồn trở nên bất an. Cuối cùng ông quyết định gác bút, đi làm hòa với người bạn ấy rồi mới trở về xưởng vẽ. Chúng ta thấy dung mạo Chúa Giêsu trong bức tranh rất sống động và toát lên một tình yêu vô hạn. Không có bình an trong tâm hồn, Leonardo da Vinci không tài nào thể hiện được chân dung Đức Giêsu trong bức họa nổi tiếng ấy. Cũng vậy, chúng ta không thể nào đến với Chúa mà tâm hồn vẫn còn những rào chắn khổng lồ cách ngăn chúng ta với anh chị em chung quanh mình.
Hình mẫu nơi Gioan tiền hô
Gioan tiền hô là người gác cổng dẫn vào Tin mừng. Ngài là nhịp cầu nối giữa cựu ước và tân ước. Gioan mời gọi dân chúng sám hối để trở về, nhưng ông tự thú ông không phải là đấng Messia, mà chỉ là người phu quét đường, còn Đức Giêsu mới chính là con đường để chúng ta bước tới. Ông chỉ là tiếng kêu giữa sa mạc vọng lại lời, còn Đức Giêsu mới chính là 'Lời', là ngôi Lời đã trở thành xác phàm. Vì thế Gioan tóm kết sứ mạng của mình trong câu châm ngôn 'Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại. Có Đấng đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cúi xuống xách dép cho Ngài'. Sự khiêm tốn mà Gioan nêu gương chính là chìa khóa căn bản để chúng ta bày tỏ tâm thức sám hối, trở về với Chúa và với nhau. Khiêm tốn nhận ra những giới hạn và bất toàn nơi mình, chúng ta mới có thể quét sạch rác rưởi trong tâm hồn, dọn đường cho Chúa đến. Thánh Gioan đã nêu gương mẫu cho chúng ta về thái độ khiêm tốn căn bản này.
Kết luận
Trong một cuộc triển lãm, họa sĩ Vangog có trưng bày một bức tranh tuyệt đẹp với tựa đề 'Chúa đến'. Ông vẽ Chúa Giêsu đang đứng gõ cửa trước một căn phòng. Một người bạn đến xem tranh, tấm tắc khen ngợi tài nghệ của ông, nhưng anh bạn góp ý: "Này Vangog, bức tranh của anh khá hoàn hảo nhưng còn thiếu xót một chi tiết, có lẽ anh quên không để ý tới. Căn phòng Chúa đứng gõ cửa còn thiếu một nắm đấm để mở ra". Vangog trả lời: " Không phải thế đâu. Chúa đang đứng gõ cửa căn phòng tâm hồn mỗi người chúng ta. Còn bạn hay tôi, chúng ta có mở hay không là do chúng ta quyết định. Nắm đấm để mở cửa phòng nằm ở bên trong, chứ không nằm phía bên ngoài".
Trong mùa vọng, chúng ta đợi chờ Chúa đến. Ngài đang đến gõ cửa tâm hồn từng người. Cửa phòng có được mở ra hay không, và Chúa có đi vào được căn phòng tâm hồn chúng ta hay không, còn tùy nơi cá nhân mỗi người.
6. Dọn đường cho Chúa đến
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có vô vàn ngăn trở khiến con người không thể đến được với nhau.
Trước đây, những ngăn cách vì tường cao, luỹ sâu, vì đồi núi chập chùng hiểm trở... đã từng là những trở ngại lớn cản trở con người qua lại với nhau; hôm nay những ngăn cách như thế không còn đáng kể.
Ngăn cách vì đường xa vạn dặm đã dần dần bị thu ngắn lại; hai người ở cách nhau nửa quả địa cầu có thể gặp nhau sau vài ngày du hành bằng máy bay. Thậm chí ngăn cách giữa các hành tinh xa xôi diệu vợi cũng đã được bắc cầu.
Bên cạnh những ngăn cách về không gian, về đường sá thì ngăn cách về quan điểm, về ý thức hệ đáng quan ngại hơn nhiều.
Đã có thời, ngăn cách bởi ý thức hệ (cộng sản và tư bản), bởi những quan điểm đối nghịch và những chủ trương khác nhau, đã tạo nên những chia cắt rất sâu sắc giữa cộng đồng nhân loại, tạo nên những khoảng cách tưởng chừng không bao giờ có thể vượt qua. Vậy mà hôm nay những ngăn cách như thế xem ra đã được thu hẹp rất nhiều.
Rốt cuộc, chỉ còn ngăn cách vô hình trong lòng người, do lòng hận thù, do ghen tị, do hiểu lầm nhau mới là ngăn cách đáng quan ngại nhất và tồn tại lâu dài nhất trong lịch sử loài người.
Những ngăn cách loại nầy đã khiến cho hai người láng giềng cách nhau một bức vách không thể đến với nhau được; khiến cho hai người bạn cùng chung sở làm không nhìn mặt nhau; thậm chí hai anh em ruột thịt, hai vợ chồng chung sống dưới một mái nhà, ngồi quanh một mâm cơm, nhưng tâm hồn xa nhau vạn dặm.
Con người đã xây dựng được nhiều nhịp cầu thật dài và kiên cố, bắc qua những dòng sông rộng mênh mông, để nối kết đôi bờ; nhưng ai có thể xây dựng những nhịp cầu thiêng liêng để kết nối những tâm hồn xa cách?
Thánh Gioan Tẩy Giả là người được sai đến để dựng xây những nhịp cầu như thế.
Theo Tin Mừng hôm nay, Ngài được sai đến làm tiền hô, làm kẻ bắc cầu, dọn đường cho Chúa đến: "Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng." (Lc 3, 4-5)
Phải dọn đường đón tiếp Chúa thế nào đây?
Người con cái Chúa rất sùng mộ Thiên Chúa uy linh ngự trên cõi trời cao thẳm nhưng lại hay thờ ơ, lạnh nhạt, thậm chí bạc đãi chính Thiên Chúa đang hiện diện nơi những người chung quanh; Thế nên việc mở cửa lòng đón tiếp anh chị em chung quanh vốn là hiện thân của Chúa là điều phải ưu tiên thực hiện mỗi ngày.
Chúa Giêsu luôn nhắc nhở chúng ta nhớ rằng Ngài đang hiện diện trong các anh chị em chung quanh và những gì chúng ta làm cho những người chung quanh là làm cho chính Chúa. (Mt 25, 40)
Vậy thì dọn đường Chúa đến với ta không gì khác hơn là tiếp nhận, yêu thương, phục vụ Chúa đang hiện diện nơi người cha, người mẹ, nơi người láng giềng đang sống quanh ta.
Chính khi các chủ quán Bê-lem hôm xưa khước từ hai người lữ hành lạc lõng đi tìm chỗ trọ (thánh Giu-se và Mẹ Maria) là họ trực tiếp khước từ Thiên Chúa.
Chính khi các chủ quán Bê-lem không cho hai người khách lạ trọ nhà là họ từ khước không cho Hài Nhi Giêsu được sinh ra trong nhà mình. Chính Chúa Giêsu thường cảnh báo chúng ta về điều đó: "Ta là khách lạ mà các ngươi không tiếp rước" (Mt 25, 43)
Vậy thì đón tiếp Chúa là sẵn lòng tiếp nhận mọi người không trừ ai.
Dọn đường đón Chúa là xoá bỏ đi những ngăn cách do chúng ta dựng lên giữa mình với tha nhân mà chúng ta giáp mặt hằng ngày.
Chỉ khi nào giữa chúng ta và mọi người chung quanh không còn phân li ngăn cách, ấy mới là lúc đường sá đã dọn xong và Chúa mới có thể đến được với mình.
7. Sửa đường Chúa đến
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Mùa vọng luôn mời gọi: hãy dọn đường cho Chúa - hãy sửa lối cho thẳng để Chúa ngự đến. Hành vi dọn đường và sửa lối cho thẳng được thánh Gioan tiền hô mời gọi là hãy "Sám Hối". Sám hối bao gồm nhận biết tội mình, hối tiếc vì đã phạm tội, và trông cậy vào ơn Chúa giúp mình chừa bỏ nó. Thiếu một trong ba yếu tố đó thì việc sám hối xem ra chưa trọn vẹn. Giuđa biết tội, hối tiếc vì tội đã làm nhưng ông thiếu niềm tin tưởng cậy trông vào sự tha thứ của Chúa, nên ông đã treo cổ tự vẫn. Thánh Phêrô cũng biết tội, cũng hối tiếc tội, nhưng thánh nhân còn trông cậy vào ơn Chúa nên đã trở lại với tình thương của Ngài.
Chúng ta thử nhìn lại lối đường của chúng ta là thẳng ngay hay quanh co để sám hối những lối đường lầm lỗi của mình. Chúng ta có khúc quanh co, lồi lõm nào cần uốn nắn, sửa đổi. Lối mòn của chúng ta đang đi là nhân đức hay tội lỗi thành thói quen không thể sửa? Nhìn lại con đường chúng ta đang đi để uốn nắn sửa đổi cho phù hợp với tin mừng của Chúa.
Trước tiên chúng ta cùng nhìn vào thế giới hôm nay, một thế giới có quá nhiều những lối mòn sai lầm nhưng người ta cố tình không nhìn nhận và không chịu sửa đổi như gian dối trong mọi lãnh vực: thông tin, giáo dục, thương trường. Tình trạng đó dẫn đến sự phá sản khắp nơi và trong mọi lãnh vực từ vật chất đến tinh thần.
Thực vậy, trong những năm gần đây, người ta thường hay xôn xao về những vụ phá sản, bể nợ, thua lỗ và mất khả năng chi trả của rất nhiều công ty xí nghiệp. Song song với những phá sản về tài chính, chúng ta cũng chứng kiến những phá sản về đạo đức và tinh thần. Khủng bố, chiến tranh, bắt cóc, giết người, các tệ nạn xã hội ngày một gia tăng: xì ke, ma tuý, mại dâm. Mỗi ngày xem tivi chúng ta lại đau buồn khi thấy biết bao người đã chết do chiến tranh, khủng bố, cướp bóc, đói nghèo, bệnh tật. Ở Việt Nam còn có một vụ phá sản về tình người, ngay giữa gia đình vẫn không có tình yêu chân thành. Cụ thể: mỗi ngày hơn 1 người tự tử vì thiếu tình yêu từ gia đình. Vợ chồng thiếu chung thuỷ vơi nhau. Con cái thiếu tin tưởng nơi cha mẹ. Anh em lừa dối nhau.
Trước sự phá sản về đạo đức, về giá trị làm người, Đức Piô X đã nói một cách xót xa: "Con người hôm nay đã đánh mất ý thức về tội". Nghĩa là họ không còn sống theo lẽ phải, họ cố tình làm ngơ trước tiếng cảnh tỉnh của lương tâm, họ quá quen với khuynh hướng tuyệt đối về tự do nên họ không còn thấy những điều gì là cấm. Họ muốn, họ thích và họ làm mà không cần suy xét có hợp với luân thường đạo lý hay không?
Có lẽ đây là lúc phải trực diện với một trong những chủ đề then chốt nhất của mầu nhiệm cứu độ: vấn đề sự dữ, tức là tội. Tại sao sự dữ vẫn hoành hành, tỗi lỗi vẫn tràn lan? Đâu là nguyên nhân đưa đến sự xấu hiện diện trong thế giới hôm nay?
Trước tiên cũng nên nhớ lại: tội là toàn bộ những hành vi ác hại, sai quấy, mất trật tự của con người; đó là hành động ác hại làm đổ máu hoặc xúc phạm đến danh dự, là trộm cướp, vu khống, phẫn nộ, lười biếng, là kiêu căng chà đạp người khác, là đam mê nhục dục, v.v... mà truyền thống gọi là bảy mối tội đầu. Như vậy nguồn gốc sự dữ hệ tại ở chính lòng người. Chính lòng dạ con người là nguyên nhân dẫn đến những sự dữ ở trần gian.
Căn nguyên của tội chính là con người đã dùng sai sự tự do. Sự tự do đích thực là tự do hướng về sự thiện, là điều khiển hành vi nhân linh của con người theo lề luật tự nhiên, theo những quy tắc của luân thường đạo lý, hay nói cách khác chính là biết sử dụng tự do để điều khiển hành vi của mình theo lẽ phải. Nhiều người lầm tưởng rằng, tự do là muốn làm gì thì làm, nhưng thực ra họ đã đánh mất tự do khi buông mình theo những đam mê thấp hèn, những thói hư tật xấu. Họ bị lệ thuộc vào đam mê nghĩa là họ mất tự do đích thực. Họ trở thành nô lệ của những thói hư tật xấu mà các nhà luân lý gọi là nô lệ tội lội. Adam tưởng đã sử dụng tự do theo ý mình nhưng thực ra ông đã đánh mất tự do khi không chế ngự được bản tính kiêu căng của mình. Cain đã đánh mất tự do khi để sự ghen tương làm chủ dẫn đến án mạng mà hậu quả là cả đời trốn chạy, bất an và lo sợ. Con người ngày hôm nay tưởng rằng mình có khả năng làm ra vật chất và tận hưởng theo ý mình, nhưng thực ra họ đã để mình lệ thuộc vào những tiện nghi vật chất, trở thành nô lệ cho vật chất một cách mù quáng đến độ, số tiền làm ra chỉ đủ để trang trải cho những tiện nghi, những trò vui chơi giải trí. Rốt cuộc vẫn cảm thấy thiếu thốn vì chẳng bao giờ con người thỏa mãn những nhu cầu vật chất tầm thường.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần xét lại con đường chúng ta đang đi có phải là con đường quanh co, thiếu chân thành với nhau, thế nên, vẫn còn đó sự gian dối, thiếu cởi mở, với nhau không? Con đường chúng ta vẫn còn đó khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm nên hành động hồ đồ và làn thương tổn đến tha nhân. Con đường chúng ta đang đi là con đường gồ ghề bởi những lời nói thiếu suy nghĩ, thiếu bác ái, thiếu xây dựng, luôn chỉ trích nặng lời với nhau, dẫn đến một đời sống thiếu hoà nhã với mọi người, thiếu khiêm tốn nên luôn bẳn gắt, luôn khó chịu về người khác một cách vô cớ, đôi khi nóng giận một cách hồ đồ mà không có nguyên do. Con đường chúng ta vẫn còn những thung lũng của những tư tưởng lỗi đức trong sạch, những ước muốn lầm lạc, luôn làm chúng ta quyến luyến các tạo vật mà xa lìa Chúa, vẫn còn đó những hố sâu của chia rẽ, hận thù, luôn gây ra bất hoà, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ với nhau. Con đường chúng ta đang đi, vẫn còn đó những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn đề cao mình quá đáng đến coi khinh anh em, không bao giờ chịu thua kém người khác.
Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta. Vì thế mùa vọng, là thời gian mời gọi chúng ta hãy sửa chữa lại con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa đến. Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn. Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những sự trống vắng Thiên Chúa nơi tâm hồn bằng đời sống cầu nguyện và hy sinh. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá và giả hình. Hãy san bằng những nghi kỵ, ganh ghét, bất hoà. Hãy san bằng những lượn sóng gồ ghề nói hành, nói xấu nhau nhưng hãy luôn nói tốt, nghĩ tốt về nhau.
Đó là cách duy nhất để dọn lòng Chúa đến, để Chúa giáng sinh mang lại niềm vui cho tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa, xin hãy cất khỏi chúng con tất cả những gì làm cho chúng con xa lìa Chúa, và xin ban cho tâm tình thống hối ăn năn để sửa đổi con người theo tinh thần phúc âm của Chúa. Amen.
8. Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
(Lm. Giacobê Tạ Chúc)
Lời của ca khúc: "Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui", của cố nhạc sỹ họ Trịnh, mang âm vọng của những ca từ mộc mạc, lạc quan và yêu đời cho mọi người. Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn không phải là người công Giáo, thế nhưng bài hát của ông, dòng nhạc của ông trên một bình diện hết sức là con người, cũng có thể mời gọi người Kitô hữu hãy mang tâm tình của một con người đầy hoan hỉ, để mặc lấy chiếc áo cưới huy hoàng, diễm lệ và thật lộng lẫy mà đón mừng Mầu Nhiệm Nhập Thể, Cứu Thế của Ngôi Lời là Đức Giêsu Kitô, Chúa của chúng ta. Mùa Vọng đã khai mở một kỷ nguyên mới và đã dần khép lại với những sợi tơ lòng run rẫy, bởi những niềm vui, và vui mãi trong cuộc đời có Chúa và có nhau.
Chứng minh điều này không khó, Tiên tri Sô-phô-ni-a trong bài đọc thứ nhất đã gợi lên: "Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà It-ra-el hỡi! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi" (Xp 3,14). Thánh Phao-lô Tông đồ cũng hồ hỡi bảo mọi người rằng: " Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa" (Pl 4,4). Như thế niềm vui và nối tiếp những niềm vui trong Chúa Nhật thứ 3 mùa vọng, không phải là màu tím buồn mà là màu hồng hớn hở và hân hoan. Niềm vui trong lòng, niềm hạnh phúc sung sướng sẽ toát ra trên khuôn mặt, trong giọng nói và trong những nụ cười rạng rỡ trên môi. Vui vì Chúa sắp đến, vui vì một đại lễ Giáng sinh, chất chứa biết bao là ân tình, là tín thác, là bác ái, sẻ chia. Người Kitô yêu đời và nhìn đời dưới lăng kính của đức tin. Một làn gió, một sợi sương, một nghĩa cử yêu thương, bốn phương xa gần là anh em, là hình ảnh của Đấng Tạo thành vạn vật. Không lạ gì mà Gioan Tẩy Giả, một con người của sa mạc lại là người có sức mạnh giảng thuyết để thu hút đám đông lũ lượt kéo nhau đến xin đón nhận đức tin. Niềm hạnh phúc của mỗi người không chỉ giữ riêng mình, mà phải biết trao ban. Thánh Gioan Tẩy Giả đề nghị những người đến với ông: " Ai có hai áo, thì chia cho những người không có, ai có gì ăn thì cũng làm như vậy". Người Kitô hữu không sống với một đức tin sáo rỗng, không có hành động cụ thể. Trái lại, niềm vui vủa Tin mừng luôn là một xác tín, một hướng đi cho mọi người thực ý Thánh ý Chúa. Những người dân, hay những người thu thuế, hoặc binh sỹ, phải biết thực thi trách nhiệm với toà án lương tâm của mình.
Chúng tôi phải làm gì? Biết và làm chẳng phải là hai thái độ của con người trước những sức công phá của chủ thuyết hoài nghi, hưởng thụ, của những lối sống hẹp hòi, ích kỷ. Tin Mừng đòi hỏi những việc làm cụ thể, những trách nhiệm liên đới và yêu thương. Mong đợi Chúa đến, đón mừng ngày Chúa Quang lâm là một biểu hiện của những người có niềm tin vào sự xuất hiện của Chúa trong thế giới ngày hôm nay. Cuộc sống có Chúa thì niềm vui mới trường tồn mãi được. Đó chính là những đòi buộc đầy thách đố của Tin Mừng, mà Thánh Gioan Tẩy Giả đã đề nghị với từng lớp người đến với ông qua trang Tin Mừng, của Chúa Nhật Mùa Vọng thứ 3, Phụng vụ năm C.
Lời Chúa là Tin vui mang con người thoát khỏi những nỗi sầu thương, những đoạn trường khổ đau. Trong mọi hoàn cảnh rất thực của cuộc đời, niềm tin vào sự yêu thương của Thiên Chúa luôn mời gọi mọi người, anh em hãy vui luôn, hãy hân hoan và ca hát, hãy lạc quan vì Chúa đến và vì luôn có Chúa trong cuộc đời của mỗi chúng ta.
9. Sám hối, hoán cải tâm lòng
('Suy Niệm Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Thomas Merton là một tiểu thuyết gia nổi tiếng lan rộng khắp thế giới. Vào thập niên 60, chàng theo Anh giáo, nhưng sống như người vô thần. Một ngày nọ, tình cờ đi ngang một nhà thờ Công Giáo, chàng được Chúa thúc đẩy ghé vào nhà thờ trong chốc lát. Từ trước tới nay Thomas Merton cũng đôi lần đi nhà thờ đó, nhưng vì tò mò, vì theo anh em bạn cho vui hơn là vì lòng tin, dầu chàng đã được cha mẹ cho rửa tội ngày còn nhỏ. Sau này, khi đã theo đạo Công Giáo và nhập vào Trappiste khổ tu, Thomas Merton đã kể lại biến cố ấy như sau:
"Khi bước vào trong nhà thờ, điều đầu tiên lôi kéo sự chú ý của tôi đó là, tôi trông thấy một cô gái duyên dáng tuổi chừng 15, 16 đang quì cầu nguyện một cách vô cùng sốt sắng, không để ý đến chuyện gì khác xảy ra chung quanh. Khi cả lúc tôi bước vào nhà thờ, tôi rất đỗi ngạc nhiên trước sự kiện, một thiếu nữ từng ấy tuổi lại quì cầu nguyện trong ngôi thánh đường lặng lẽ, một cách hết sức tự nhiên và say đắm trong lời cầu, như thể bị hút hồn. Dĩ nhiên, là cô gái nọ vào nhà thờ không phải là để cho người ta ngắm nghía, mà là để cầu nguyện và chỉ để cầu nguyện mà thôi. Và nàng đã cầu nguyện chăm chú, sốt sắng như các thánh trong một ngôi thánh đường thanh vắng. Cuộc gặp gỡ và thân tình ấy của thiếu nữ đó với Thiên Chúa trong khung cảnh hoàn toàn vắng lặng của ngôi thánh đường hôm đó, đó là một trong các nhân tố dẫn đưa tôi đến chỗ gặp Chúa và theo đạo sau này".
Ngôi thánh đường công giáo vắng lặng ấy, đó là một bãi sa mạc nơi con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa giữa lòng xã hội loài người nhiều bôn chôn, dao động này. Qua các bài đọc Chúa nhật II Mùa Vọng, Giáo Hội cũng kêu mời chúng ta hãy biết tạo ra sa mạc trong tâm lòng mình khi nào đó để gặp gỡ Thiên Chúa. Chương 5,1-9 sách tiên tri Barúc, là một lời sấm liên quan đến ơn cứu độ theo truyền thống Kinh Thánh. Barúc đã là bạn kiêm thư ký của tiên tri Giêrêmia, nhưng thật ra sách Barúc là một tổng hợp các văn bản thần học góp nhặt đó đây và được soạn chung lại bằng tiếng Hy Lạp vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch. Tiên tri Barúc muốn khẳng định với dân Do Thái rằng: Cuộc sống và niềm hạnh phúc là những điều có thể thực hiện được sau những năm tháng họ phải sống trong cay đắng, tủi nhục, đen tối của kiếp sống lưu vong. Để diễn tả sứ điệp hy vọng và tin tưởng ấy, tiên tri dùng một số hình ảnh biểu tượng như chiếc áo, tên gọi, và các kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa. Chiếc áo đó ám chỉ phẩm giá của con người khi giới thiệu thành thánh Giêrusalem, là biểu tượng của toàn dân Chúa. Trong chiếc áo mới rực rỡ của mừng vui, chớ không phải chiếc áo tang của sầu buồn mà tiên tri Barúc cố ý loan báo cho dân chúng biết, Thiên Chúa sẽ trao ban trở lại cho họ phẩm giá làm dân riêng Chúa chọn và chấm dứt sự sống khổ nhục họ phải chịu trong thời lưu đày. Chiếc áo tang của sầu thương diễn tả thời gian và khung cảnh sống lưu đày tủi nhục. Hình ảnh chiếc áo mới mừng vui trên đây hé mở cho chúng ta thấy ý nghĩa việc Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử nhân loại khi cho Đức Giêsu Kitô nhập thể làm người. Chúa Giêsu Kitô mặc lấy chiếc áo yếu hèn của thân phận làm người, mặc lấy chiếc áo rách nát, tả tơi, hôi thúi của tội lỗi từng biến dạng con người khiến cho nó không còn giống Thiên Chúa nữa, vì đã đánh mất đi phẩm giá làm con Thiên Chúa và là thụ tạo tuyệt diệu nhất trong mọi loài thụ tạo. Chúa Giêsu mặc lấy nó để đánh đổi cho loài người chiếc áo mới, chiếc áo mừng vui được làm con cái Thiên Chúa và giống hình ảnh Ngài. Với phẩm giá mới ấy, thành thánh Giêrusalem đại diện cho dân Chúa, cũng mang một tên gọi mới trong ngôn ngữ của Kinh Thánh.
Đặt tên cho một người, một vật, có nghĩa là tuyên bố người đó hay vật đó thuộc quyền sở hữu của mình. Nó cũng có nghĩa là người đó hay vật đó được che chở yêu thương và săn sóc. Giêrusalem từ nay, Thiên Chúa sẽ đặt tên cho là Hòa Bình, Công Chính và Vinh Quang của lòng thương xót. Dân riêng của Thiên Chúa từ nay, sẽ làm một dân tộc diễn tả sự an bình, công chính, lòng nhân từ, thương xót và vinh quang mà Thiên Chúa hiện thực trong vương quốc thiêng linh của Ngài. Vương quốc mà Thiên Chúa cống hiến cho nhân loại ngay từ bây giờ, trên trần gian này, với biến cố Đấng Thiên Sai nhập thể làm người. Trong tên gọi mới này cũng tiềm ẩn tên gọi Giêsu mà Thiên Chúa sẽ dành riêng cho Đấng Cứu Thế. Chúa Giêsu là ơn cứu rỗi, là sự che chở Thiên Chúa gởi đến cho loài người luôn bị sự dữ cám dỗ và thường bị tội lỗi chiếm hữu. Công trình cứu độ và giải phóng ấy được Thiên Chúa ra tay hiện thực và trao ban cho dân Người, với sự cộng tác của mọi loài, mọi vật, y như trong biến cố xuất hành khỏi Ai Cập thời xa xưa. Thiên Chúa sẽ ra tay gạt bỏ mọi chướng ngại, khó khăn. Đường vào sa mạc dẫn đưa dân Ngài vào Đất Hứa sẽ thẳng băng, không còn gò cao. Sa mạc nắng cháy khô cằn sẽ nở hoa xanh tươi.
Trong chương 3 Phúc Âm của mình, thánh sử Luca ghi lại các biến cố ấy trong khung cảnh lịch sử của thế giới chính trị và tôn giáo thời bấy giờ. Ơn gọi và hoạt động loan báo Tin Mừng của thánh Gioan Tẩy Giả xảy ra vào năm thứ 15, dưới thời hoàng đế Tibêriô, năm 28, sau Tây lịch, bởi vì hoàng đế lên ngôi năm thứ 14. Quan toàn quyền Giuđêa lúc đó là Phongxiô Philatô, Palestine hồi ấy cũng gồm 3 châu quận do 3 quận vương cai trị là Hêrôđê Antipa, Philipphê và Lysania. Hai thượng tế vào thời này là thượng tế Anna (vào năm thứ 6 đến năm 14 sau Tây lịch) và thượng tế Caipha (trị vì từ năm 18 đến năm 36 sau Tây lịch).
Tuy nhiên, điểm thánh sử Luca cố ý nêu bật ở đây chẳng phải là các biến cố lịch sử chính trị và xã hội, mà là ý nghĩa thần học của lịch sử. Thánh Luca muốn khẳng định rằng, chính Lời của Thiên Chúa tạo ra lịch sử. Tất cả mọi biến cố, mọi nhân vật, mọi thời đại, cách tiếp nối của các quyền bính và giới lãnh đạo trần gian, chỉ là khung cảnh trong đó Ngôi lời của Thiên Chúa nhập thể làm người để cống hiến ơn cứu độ cho nhân loại. Lời thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng diễn tả trước sứ điệp mà Chúa Giêsu Kitô loan báo sau này: Muốn được ơn cứu độ, con người phải lãnh nhận bí tích rửa tội, sám hối, hoán cải tâm lòng, thay đổi lối sống, canh tân tư tưởng và cung cách hành sự của mình, bởi vì Đấng Thiên Sai đã hiện diện giữa lòng trần gian.
Sa mạc nơi thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng phép rửa sám hối là một điểm thần học nổi bật khác của truyền thống Kinh Thánh. Trong Kinh Thánh, sa mạc là nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Sa mạc khô cằn, nóng bỏng ban ngày, giá buốt ban đêm, là hình ảnh cuộc sống của con người không có bóng dáng và không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Giữa cảnh hoang vu của cát đá, con người đói khát và lạc hướng. Những tình trạng đó giúp con người ý thức được cái bé bỏng hư không, vô nghĩa của đời mình. Bởi vì nó chỉ là gì, nếu không phải là cát bụi, hư vô? Nhận thức ấy khiến cho con người từ bỏ mọi ý nghĩ kiêu căng, ngạo mạn, mọi chủ trương coi mình là thần thánh và có thể tự giải thoát lấy mình. Thái độ và tâm tình ấy khiến cho con người rộng mở tâm lòng mình, cho hành động và ơn thánh cứu độ của Thiên Chúa. Đường vào sa mạc như thế là con đường dẫn đưa con ngươì về đến chỗ gặp gỡ Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ Ngài ban. Trong cuộc sống thiêng liêng càng biết năng vào sa mạc, chúng ta càng sống cảm nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa sâu đậm hơn.
Sông Giođan, cũng là hình ảnh thần học nổi bật khác. Như tường thuật Phúc Âm thánh Luca, Giođan là con sông của hai thời giao ước, nó là chứng nhân của các biến cố lịch sử ý nghĩa của dân Do Thái. Nước sông Giođan là nước thanh tẩy của cuộc sống phục sinh và của bí tích rửa tội.
Hình ảnh nổi bật sau cùng trong tường thuật Tin Mừng của thánh Luca là hình ảnh thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri của hai thời giao ước, người đã nhận được Lời Chúa trong sa mạc, Thánh nhân loan báo rằng chính Ngôi Lời của Thiên Chúa là động lực hướng dẫn dòng lịch sử của nhân loại, chớ không phải con người và các chương trình loài người đưa ra. Do đó, càng biết san bằng các chướng ngại ngăn cách chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa, chúng ta càng dễ nhận ra sự hiện diện cứu độ của Chúa Giêsu trong đời ta, giữa lòng thế giới.
Trong chương 1 thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta một con đường, một cách thế giúp chuẩn bị hữu hiệu cho ngày Chúa trở lại. Đó là luôn kiên trì sống tình yêu thương, bác ái, biết vun trồng lòng tin, cậy, mến và khả năng bén nhạy giúp nhận ra đâu là thánh ý Chúa và điều đẹp lòng Ngài. Sống được như thế, là tín hữu sinh hoa trái thiêng liêng phong phú và hiện thực nơi con người điều gọi là con cái Chúa và là dân riêng của Ngài.
10. Đổi mới
(Lm Nguyễn Nguyên)
Có thể nói, cuộc đời của mỗi người chúng ta được ví như một con đường. Và trên con đường ấy, mỗi người phải tiến về cùng đích của mình. Cuộc đời chỉ có ý nghĩa nếu ta biết chọn cho mình đường đi đúng đắn. Cho nên, cuộc sống mỗi người cũng là quyết định của một sự chọn lựa tự do. Chúa muốn mỗi người trong chúng ta hãy tự quyết định phần rỗi cho chính mình. Ngài là Người Cha đầy yêu thương và cũng ban đủ mọi phương thế để giúp chúng ta chọn lựa con đường đúng đắn nhất để chúng ta có thể trở về với Ngài. Cũng có những chọn lựa thật đúng đắn, khôn ngoan ; nhưng cũng có những chọn lựa lệch lạc, chủ quan dẫn tới những sai lầm, khiến chúng ta ngày càng xa Thiên Chúa, lắm khi trở thành kẻ đối nghịch với Ngài. Vì thế, mỗi năm vào mùa vọng chúng ta luôn được nghe lại lời kêu mời của Thánh Gioan Tẩy Giả là "hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng" để nhắc nhở chúng ta hãy uốn nắn con đường tâm hồn, cách sống cho thích hợp, để sẵn sàng đón chào ngày Chúa đến.
Chúa muốn chúng ta "hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng", bởi Ngài không thích và không muốn chúng ta đi trong sự quanh co, sống trong sự lừa đảo và lệch lạc. Thiên Chúa, Ngài muốn con cái của mình luôn sống và đi trong đường lối của Ngài, con đường dẫn đến sự sống. Gioan Tẩy giả đã dùng lời tiên tri Isaia mà kêu gọi "hãy lấp mọi hố sâu, bạt mọi núi đồi, nắn lại con đường cong queo, san bằng con đường gồ ghề". Chúa muốn chúng ta hãy sống trong sự công chính, trong sự thánh thiện và cũng đừng chậm trễ thi hành những giới luật của Chúa, vì "ngày của Chúa đến như kẻ trộm". Chúa muốn ta sống trong sự trung thực, thẳng thắn.
"Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng". Chúa đang đến gần và thực sự Ngài đang bên cạnh, ngày đêm chờ đợi sự sám hối, ăn năn của mỗi người chúng ta. Chúa không muốn chúng ta đánh mất cuộc đời mình bằng "sự thiếu hiểu biết". Chính Ngài đã sẵn sàng đánh đổi tất cả, để chỉ mong chúng ta sống và đi trong đường lối của Ngài, con đường sự thật dẫn đến sự sống. Điều quan trọng là mỗi người chúng ta biết nắn lại cho thẳng những gì đang quanh co của gian dối, lừa đảo; lấp đi mọi hố sâu đam mê, ích kỷ, tham vọng; bạt đi mọi gò nổng kiêu ngạo, tự mãn, để tâm hồn chúng ta thật xứng đáng và bình an đón nhận tin mừng cứu rỗi của Chúa.
"Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng" Chúa muốn đến với tất cả chúng ta bằng con đường thẳng, ngắn nhất, bởi con đường mà Ngài giới thiệu và sống chính là con đường của tình yêu, của tha thứ và cứu độ. Chính bản thân Ngài đã không chọn lựa con đường nào ngoài con đường của thí mạng, để làm gương cho tất cả chúng ta. Chính khi yêu thương là lúc chúng ta đang đi đúng con đường của Chúa. Chính khi yêu thương và tha thứ cho anh em, là chúng ta đang đến gần hồng ân cứu rỗi và thuộc trọn về Ngài.
Lời mời gọi "Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng" đang đặt ra cho chúng ta sự lựa chọn : ưu tiên cho những gì thuộc về Chúa, loại trừ ra khỏi tâm hồn chúng ta sự dối trá, quanh co. Uốn nắn những gì lệch lạc, điều đó luôn đòi hỏi mỗi chúng ta phải nỗ lực hằng ngày để cải thiện cuộc sống, đổi mới cách sống để xứng đáng hơn với tình thương của Chúa. Chúa đã và đang đến thật gần với từng người chúng ta, đừng chậm trễ, đừng ươn hèn trong chính những lẫm lỗi của mình, nhưng can đảm và quảng đại để ngày càng xứng đáng hơn với tình yêu của Thiên Chúa.
Dọn đường cho Chúa bằng cách lấp đầy những thung lũng, bạt những núi cao ấy và sửa lại những con đường quanh co hiện đang ở trong tâm hồn từng người chúng ta. Đó là những trở ngại khiến cho Chúa không đến được với ta. Những trở ngại ấy ở từng người không ai giống ai. Nhưng chắc chắn có chung một điểm : để chuẩn bị một con đường cho Chúa ngự đến trong tâm hồn mỗi người chúng ta không gì khác hơn là chúng ta phải luôn ý thức được tình trạng yếu đuối và tội lỗi của mình để sám hối và thay đổi. Thay đổi cuộc sống, thay đổi lối nhìn, thay đổi cách suy nghĩ. Chúng ta thường nhìn người khác bằng những định kiến, những nhãn hiệu do chính chúng ta tạo nên. Những định kiến đó là những lũng sâu tăm tối, nơi thiếu vắng ánh sáng tình yêu làm chúng ta không thể đến với tha nhân.
Chúng ta thường vô cảm trước những nhu cầu của người khác, nhưng chỉ lo toan tính tìm lợi ích cho bản thân mình. Những toan tính ích kỷ đó, là những khúc quanh co, những mấp mô, lồi lõm của tâm hồn khiến chúng ta không thể mở rộng cõi lòng để cảm nhận và chia sẻ những nhu cầu của người khác.
Chúng ta thường tự mãn về những khả năng và thành quả mình thủ đắc được. Chúng ta luôn xem mình là "trung tâm", luôn muốn áp đặt quan điểm, suy nghĩ của mình trên người khác nhằm thỏa mãn khát vọng thống trị của bản thân. Những khát vọng đó, là những núi đồi ngạo nghễ của tự cao, tự mãn làm chúng ta không thể khiêm nhường đến với người khác.
Đổi mới một con đường thì dễ, nhưng đổi mới tâm hồn không dễ chút nào. Đổi nơi sinh sống thì dễ, nhưng thật khó mà thay đổi lối sống. Ước gì qua lời Chúa hôm nay, xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức rằng: con đường sám hối và thay đổi bản thân mỗi ngày chính là con đường xứng đáng để Chúa ngự vào tâm hồn mỗi người chúng ta, để từ đó chúng ta biết từ bỏ những ham muốn ích kỷ của bản thân để có thể nhạy cảm hơn trước những nhu cầu của người khác và khiêm nhường mở rộng tâm hồn chia sẻ với tha nhân. Amen.
11. Dọn đường cho Chúa
(Lm. Hồng Phúc)
Gioan Tiền hô có sứ mạng dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến.
Luca, như một sử gia, nhập đề một cách trang trọng. Người viết: "Đời Hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm..." Bằng sáu mốc điểm, Người định vị trí cuộc rao giảng Tin Mừng cho thế giới được coi như những trang đầu của lịch sử nhân loại mới. Năm thứ 15 thời Vua Tibêriô (14-17) khởi đầu tháng 10 năm 27. Vậy Gioan "xuống núi" như một nhà đạo sĩ, bắt đầu rao giảng vào cuối mùa thu năm ấy và việc Chúa Giêsu chịu phép rửa đã xảy ra vào đầu tháng giêng năm 28 kỷ nguyên.
Gioan xuất hiện như một nhà ẩn sĩ, mình mặc áo da thú, ăn châu chấu, uống mật ong rừng và bắt đầu rao giảng. Ông là một nhà tiên tri chuyển tiếp từ đạo cũ Do-thái sang đạo mới của Chúa Giêsu và đề tài rao giảng cũng là đề tài của các nhà tiên tri, là "Hãy ăn năn trở lại, hãy dọn đường Chúa".
Qua đoạn Phúc âm này, chúng ta chú trọng đến hai điểm.
Một là "Lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, từ trong hoang địa". Nói một cách chung, chúng ta thấy rằng trong Thánh Kinh, Thiên Chúa thường kêu gọi các vị sứ giả từ trong hoang địa, sau một thời gian sống trong thinh lặng, suy tư và cầu nguyện. Moisê lùa đàn chiên của nhạc phụ ở Madian đi vào sa mạc đến núi của Chúa là Koreb (X.H. 3,1). Isaia kêu lên: "Tôi phải nín thinh, vì môi tôi nhơ uế" (Is. 6,5).
Sống suy tư, thinh lặng và cầu nguyện vẫn là đòi hỏi hiện nay của mọi Kitô hữu; không phải đòi hỏi sống đời tu trì, nhưng phải có những lúc đi vào nội tâm, suy tư cầu nguyện, nhất là đối với những ai giữ trọng trách trong Giáo hội, những người làm việc Tông đồ. Phaolô, trong thư gửi giáo đoàn Philiphê (bài đọc II) đã minh xác như vậy. Lời kinh đó ôm choàng cả Giáo hội hoàn vũ. Lời kinh chiêm ngắm ca tụng và "ngày đêm, trong mọi lúc". Không phải chỉ đọc máy móc bên ngoài mà là, như lời Thánh Augustinô, "một sự cầu mong, ước muốn là cầu nguyện, lời kinh liên lỉ, vì yêu mến".
Mùa Vọng là mùa mong đợi, ước muốn và cầu nguyện sốt sắng. Thánh Gioan, Cha sở họ Ars, nhìn thấy một giáo dân ngồi cầu nguyện lâu trước nhà Chầu, đến gần và hỏi:
-"Ông nói gì với Chúa?"
-"Tôi nhìn Ngài và Ngài nhìn tôi" (Je l'avise et II m'avise).
Đó là lời kinh Mùa Vọng.
Điểm thứ hai: Gioan rao giảng một "phép rửa xám hối, cầu ơn tha tội". Người Biệt phái và Saducêô cho rằng chỉ cần giữ Lề Luật là đủ, là hết bổn phận với Thiên Chúa. Gioan khẳng định rằng điều cần thiết là phải có một sự đổi mới tâm hồn: "hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu (tội lỗi), hãy bạt mọi núi đồi, con đường gồ ghề hãy san cho bằng". Sau này, Chúa Giêsu sẽ nói: điều làm cho con người nên dơ bẩn là những điều xuất phát từ tâm hồn như thù oán, ghen tương, dâm ô, bất chính, sống vật chất trụy lạc, và Chúa dạy phải rửa sạch và đổi mới tâm hồn.
Vậy, mùa Vọng là mùa "dọn đường Chúa" (Isaia); khi một vị Thượng khách đến, người ta trải thảm đỏ, khánh thành đại lộ mới. Chúng ta hãy canh tân đời sống, dọn tâm hồn đón Chúa đến trong thân phận thấp hèn.
"Thuở ấy có một Hoàng đế, thuở ấy có một Hài nhi. Suốt ngày Hoàng đế đến đếm đi đếm lại số người dân, số súc vật, số vàng bạc của cải. Còn Hài nhi niềm nở đón tiếp các mục đồng, đám chiên cừu, đoàn thần thiêng...
Hoàng đế không còn nữa, chỉ còn lại Hài nhi. Ai cũng có thể đến gần Người. Thời đại nào cũng có Người, vì thế mà có Giáng Sinh". (Trích "Prier")
12. Sống trọn vẹn Mùa Vọng trong ơn Chúa.
('Suy Niệm Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Với Chúa nhật này, chúng ta đang bước sang tuần thứ II của Mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi chúng ta gia tăng niềm hy vọng bằng cách chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến cứu chuộc con người.
Nơi bài đọc thứ nhất, tiên tri Barúc gợi lên niềm hy vọng cho dân chúng Israel đang tản mác khắp nơi. Sau khi thành thánh Giêrusalem bị thất thủ, ông với một số người cùng với tiên tri Giêrêmia chạy trốn sang Ai Cập. Barúc kêu gọi dân chúng đừng mất niềm tin, niềm hy vọng vào Thiên Chúa. Ông phác họa cho dân lưu đày thời gian nô lệ, lưu vong sắp kết thúc. Một thời đại huy hoàng của Giêrusalem đang gần kề. Và Giêrusalem sẽ vui mừng thấy mình trút bỏ được áo tang chế, mặc lấy áo vinh quang, đầu đội vương miện và hớn hở mở rộng tầm mắt, dang rộng đôi tay để nhìn xem và đón nhận con cái từ các nơi trở về. Đó là hình ảnh của Giêrusalem thiên quốc. Nơi đó, Chúa Giêsu Kitô là vua hiển trị các dân. Các nước tôn thờ Người, trở về với Người sau khi đã bị tội lỗi và sự dữ phân tán tản mác khắp nơi. Và muốn cho sự trở về được dễ dàng, cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người được nhanh chóng: "Hãy san bằng những núi cao và những đồi gồ ghề. Hãy lấp đầy những hố sâu, những vực thẳm. Uốn cho ngay những con đường quanh co, hiểm trở, để mọi người vững vàng bước đi và cao rao vinh quang của Thiên Chúa".
Qua hình ảnh tiên tri đó, Barúc kêu gọi chúng ta hãy hoán cải tâm hồn bằng cách hồi tâm, suy nghĩ về những việc hiện tại mình đang làm, để xem con đường của mình có ngay thẳng không? Không những quanh co, lên đèo, xuống hố, mà nhất là có phải là đường hầm không, con đường đi trong tối tăm và mờ ám?
Nơi bài đọc thứ hai trong thư gởi tín hữu thành Philipphê, thánh Phaolô mở ra con đường lạc quan trong công cuộc trở về cùng Thiên Chúa. Thánh nhân tin tưởng rằng Thiên Chúa đã hứa, để thực hành lời hứa thì việc gì Thiên Chúa đã bắt đầu, Người sẽ hướng dẫn cho đến hoàn thiện, nhất là trong đời sống của những kẻ tin nơi Người. Tin tưởng vào Thiên Chúa thì thánh Phaolô hết lòng tin tưởng. Nhưng điều ngài lo, ngài ao ước, ngài cầu nguyện, là làm sao cho mọi người biết thương yêu nhau, biết thông minh sáng suốt và biết phán đoán mọi sự. Việc yêu thương nhau còn gọi là bác ái, còn gọi là yêu người, sẽ dễ dàng thực hiện khi tất cả mọi người trong một cộng đoàn, một tập thể biết suy nghĩ đến hạnh phúc của nhau, biết sống vì ích lợi, vì sự thăng tiến của tập thể mình đang sống. Bao lâu còn những kẻ lộng hành, chèn ép, bóp nghẹt người khác, thì thánh Phaolô muốn mọi người phải biết sáng suốt phán đoán mọi việc. Một người bị ức hiếp một cách bất công mà tôi bảo người đó cố gắng bằng lòng chịu vì Chúa, yêu kẻ ghét mình và làm ơn cho kẻ làm khốn mình, tức là tôi đồng lõa với kẻ làm điều gian ác, là tôi dùng tôn giáo như á phiện ru ngủ con người. Đành rằng Chúa đã dạy: "Chúng con hãy yêu kẻ ghét chúng con và làm lành cho kẻ làm khốn cho chúng con", nhưng phải sáng suốt phán đoán như thánh Phaolô dạy, để phân biệt con người và điều ác người đó đang làm hại cho kẻ khác. Con người thì phải yêu thương cầu nguyện cho họ, mong cho họ cải tà qui chánh, sống trong tình anh em con một Cha trên trời. Nhưng điều ác họ đang thi hành là nọc độc tác hại cho người khác, phải tận diệt những nọc độc đó mới là yêu thương nhau thật sự.
Dầu vậy, thánh Phaolô cũng khuyên tất cả, trong hoàn cảnh nào cũng hãy sống không có gì đáng trách cho đến ngày của Chúa Kitô. Và thánh nhân đưa ra bằng chứng đời sống của ngài để làm gương nơi câu 7 của đoạn thánh thư này. Nhưng rất tiếc, không hiểu sao khi chọn làm bài đọc phụng vụ thánh lễ, người ta lại bỏ câu 7. Từ câu 6 nhảy đến câu 8 ngay, trong câu 7 đó thánh Phaolô nói: "Tôi cầu xin anh em như thế là điều hợp lý, bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi khi tôi bị xiềng xích, cũng như lúc tôi bênh vực củng cố Tin Mừng, anh em đều thông phần vào ơn sủng tôi đã nhận được". Nói thế, tức là trong mọi hoàn cảnh, thánh Phaolô đều dâng lên Thiên Chúa mọi vui buồn, sướng khổ để cầu nguyện cho nhau.
Nơi bài Phúc Âm, thánh Luca ghi lại rất rõ ràng ngày tháng, niên hiệu hẳn hoi của những nhà lãnh đạo Rôma cũng như Do Thái, đạo cũng như đời, lúc Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng. Một phần vì thánh Luca chú ý đến khía cạnh lịch sử, nhưng dựa vào đó chúng ta thấy rằng, ơn cứu độ bắt đầu thực hiện ngay trên trần gian này, đừng chờ đâu nữa. hãy bắt đầu ngay và dĩ nhiên là đã bắt đầu từ thời xa xưa trong Cựu Ước. Nhưng thời kỳ quyết liệt bắt đầu, với sứ mạng của Gioan Tẩy Giả để cho thấy Cựu Ước và Tân Ước cũng là một công cuộc chuẩn bị. Gioan đã lấy lại lời tiên tri của Barúc trong Cựu Ước mà chúng ta đọc thấy trong bài đọc thứ nhất: "Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa soạn đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Trong khoảng ba tuần nữa, chúng ta sẽ mừng lễ Giáng sinh của Đấng Cứu Thế. Ước gì lễ Chúa Giáng sinh không qua đi như bao ngày lễ tết khác trong năm. Nhưng phải làm sao để Chúa Giêsu sinh lại trong đời sống, trong gia đình, trong cộng đoàn của mỗi người chúng ta. Đó là ý nghĩa của Mùa Vọng và sống được như thế tức là chúng ta sống trọn vẹn Mùa Vọng trong ơn Chúa.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi nhìn lại xem, trong những công việc mệt nhọc hằng ngày của tôi, cái gì giúp tôi càng ngày càng gần Chúa hơn? Để được thế, tôi cũng hãy tìm xem chỗ nào trên con đường nối kết Chúa với cá nhân tôi cần được sửa chữa, để khỏi cản trở việc Chúa đến với tôi. Và nếu được, cũng hãy chuẩn bị tham dự một nghi thức thống hối và coi đó là một sự khai thông bế tắc giữa tôi với Đấng tôi yêu mến và Người luôn yêu tôi hết lòng.
13. Lỗi tại tôi
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Ông Baruc là vị thơ ký của tiên tri Giêrêmia cũng đang bị lưu đầy tại Babylon. Vào thời quân Canđê đánh chiếm và phóng hỏa thành Giêrusalem, ông đã đứng ra qui tụ mọi người cùng đến để nghe đọc sách thánh, ăn chay cầu nguyện và đóng góp tiền bạc gởi về Giêrusalem. Ông đã cầu khẩn và gióng lên niềm hy vọng vào quyền năng can thiệp của Thiên Chúa. Ông dùng những cảnh thiên nhiên sống động để diễn tả hình ảnh nội tâm bên trong: Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nổng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Ít-ra-en tiến bước an toàn dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa (Bar 5, 7). Dân tin tưởng vào lượng từ bi của Thiên Chúa sẽ dẫn dắt họ trở về trong vinh quang.
Từ bảy trăm năm trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, ngôn sứ Isaia đã tiên báo rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi (Lc 3, 4). Tiếng hô trong hoang địa chính là lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả. Gioan xuất hiện mời gọi mọi người sám hối trở về. Gioan đã dùng lại lời của tiên tri Isaia: Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng (Lc 3, 5). Sám hối là một cách chữa lành bệnh tật cả tâm bệnh lẫn thân bệnh. Ai trong chúng ta cũng vương vấn với sai lầm, tội lỗi và bệnh tật thể xác. Lời mời gọi sám hối là phương cách chữa lành.
Con người gồm có xác và hồn. Xác hồn kết hợp và hòa lẫn trong nhau. Nên sự mạnh khỏe của xác hồn luôn cuốn quyện lấy nhau. Xác khỏe thì hồn cũng thư thái. Hồn an vui thì thân xác cũng thảnh thơi. Chúng ta cần chú tâm đến cả hai phương diện thể xác và tâm hồn. Nếu chúng ta chỉ chú tâm lo lắng cho thân xác mà quên phần bổ dưỡng tâm linh, cuộc sống sẽ bị khập khễnh. Vì kết hợp với thân xác nên tâm linh con người cũng không thoát khỏi các thứ bệnh tật. Chúng ta gọi là tâm bệnh. Tâm bệnh cũng cần tìm thầy và tìm thuốc chữa trị. Tâm bệnh khởi đi từ tâm. Từ trong tâm phát xuất ra những sự xấu xa. Chúa Giêsu nói: Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế (Mc 7, 20).
Chúng ta hãy tìm cội nguồn của bệnh tật cả hồn lẫn xác để chữa lành. Trước hết là thân bệnh có trăm ngàn thứ. Chúng ta không biết có bao nhiêu phương thuốc để chữa lành. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy người trẻ kẻ già, người giầu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn, ai ai cũng có thể mắc bệnh. Có các loại bệnh nặng, bệnh nhẹ, bệnh mãn tĩnh hay cấp tính, nan y hay sơ cấp, bệnh ngoại tạng hay nội tạng và thân bệnh hay tâm bệnh. Đã có bệnh thì phải chữa. Chúng ta có thể uống thuốc, tập tành, kiêng cữ và chay tịnh. Trong các tiệm bán thuốc có muôn vàn thứ thuốc chữa muôn ngàn loại bệnh. Chúng ta có thuốc Bắc, thuốc Nam, thuốc Tây và thuốc gia truyền đủ loại. Bệnh nào thuốc đó. Có nhiều bệnh về phần xác chúng ta không thể phát hiện. Biết rằng không có thuốc nào trị bá bệnh. Thuốc nào chữa lành bệnh, đó là thuốc tốt. Đây là những môn thuốc chữa về thân bệnh.
Xét mình, ai trong chúng ta cũng bị con bệnh quấy rầy. Chỉ khi mắc bệnh, chúng ta mới nhận ra sự yếu đuối, khổ đau và lệ thuộc của thân phận con người. Thân bệnh thì dễ chữa hơn là tâm bệnh. Tuy nhiên có những bệnh chết người như ung thư, tai biến và đột qụy. Thân bệnh có thể đưa đến cái chết tự nhiên vì hết sinh lực. Tâm bệnh thì nguy hiểm hơn nhiều. Tâm bệnh cũng có thể xuất hiện nơi mọi tâm hồn. Không phải những người nghèo đói, tàn tật và già cả mới có tâm bệnh. Chúng ta được biết có nhiều người quyền cao chức trọng và giầu sang phú quí cũng ngã đủ thứ bệnh. Những cặp trai trẻ khỏe mạnh đầy sức sống cũng tự quyên sinh vì tâm bệnh. Bệnh về tâm linh là những đột phá thất vọng và tuyệt vọng, đưa đến khổ tâm. Tâm bệnh rất cần các phương thuốc hữu hiệu là sự thức tỉnh tìm giải thoát.
Bệnh tâm linh là các thứ tật bệnh nội tâm, thói hư tật xấu, tội lỗi, mê lầm cả trong tư tưởng, lời nói và việc làm sai trái. Làm sao chúng ta có thể biết được các tật bệnh trong tâm hồn? Có nhiều triệu chứng giúp chúng ta nhận ra các loại bệnh này: Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo và ngông cuồng (Mc 7, 21-22). Bệnh nào cũng nguy hiểm xói mòn cuộc sống. Chúng ta cần tìm thầy chạy chữa cho kịp thời. Có nhiều toa thuốc giúp chữa lành tâm linh. Chữa cho dứt các mầm bệnh trong ngoài. Đôi khi chúng ta bị đánh lừa vì những xuất hiện da non bên ngoài, nhưng bên trong còn âm ỷ mưng mủ đau nhức.Thánh Phaolô viết: Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm (Phil 1, 10).
Bệnh là khổ đế. Bệnh cũng là phương pháp giúp tu học. Một người suốt đời khỏe mạnh không đau bệnh thì tâm tư dễ ngang tàng kiêu ngạo. Khi mắc bệnh, chúng ta mới thấy đời sống mỏng manh, thời gian ngắn ngủi và mọi sự đều thay đổi mau qua chóng hết. Người bệnh cần thức tỉnh nhận biết ý nghĩa cuộc đời để sống vui. Nhờ có bệnh, chúng ta mới biết dừng lại. Chúng ta biết rằng nếu sống không hạnh phúc thì chết không được an vui. Cuộc sống lê thê thì cái chết sẽ đau khổ. Khi con người mang bệnh thì người ta thường có mặc cảm, rồi lo âu sợ hãi bệnh nặng hay nhẹ, chết sớm hay muộn. Họ không dám tiếp xúc với bạn bè, người thân và xa lánh mọi người. Thân tâm ray rứt khổ sở.
Lời mời gọi thung lũng lấp cho đầy. Nơi cao phải bạt xuống. Quanh co uốn cho ngay. Đây là những đòi hỏi cấp bách trong qúa trình sám hối. Muốn có một tâm hồn thanh thản và an vui, chúng ta phải chữa lành mọi tật bệnh. Chẩn đúng bệnh. Tìm đúng thầy. Chữa đúng cách. Cả thân tâm được lành mạnh. Dù thuốc tiên cũng không thể chữa hết mọi bệnh về tâm linh và thể xác. Chúng ta hãy đặt niềm tin vào Đấng có thể chữa lành mọi loại bệnh hoạn tật nguyền. Cầu nguyện để nhận lãnh ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Xin ơn can đảm, ơn chịu đựng và ơn tha thứ để tâm hồn của chúng ta được gội sạch vết nhơ của kiêu căng, bất tín và gian tà. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho Philipphê đã tha thiết nài van: Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt hơn (Phil 1, 9).
Sám hối được khởi đi từ tâm. Vượt qua mọi thách đố để giữ tâm an lạc. Đời sống nội tâm mỗi người khác xa nhau rất nhiều. Để tiến bước trên con đường nhân đức, chúng ta nên bớt bỏ nhưng vấn vương cuộc đời. Đừng quá chấp nhất, đừng gieo hận thù, đừng gây chia rẽ, đừng gian dối hại người và đừng nuôi lòng oán giận. Khi đó tâm hồn chúng ta sẽ tìm được niềm an vui trên con đường thẳng tắp ngút ngàn. Chúng ta không thể lừa dối lương tâm sống đạo bằng những hình thức phô trương bên ngoài làm cho đầy đủ lệ bộ, giống như khi chuẩn bị đón tiếp những vị chính khách. Đời sống tâm linh của chúng ta cần đâm rễ sâu. Các nhân đức cần có nền móng vững chắc. Đời sống đức tin mới có thể tăng triển vững mạnh.
Lạy Chúa, tâm hồn con tội lỗi. Thân xác con bệnh hoạn. Ý chí của con yếu đuối. Trí khôn con chậm chạp. Đức tin con yếu kém. Lỗi tại con. Xin Chúa soi lòng mở trí để chúng con biết cách dọn đường Chúa cho ngay thẳng. Xin giúp chúng con dọn tâm hồn thanh sạch để hân hoan mừng đón Con Chúa đến viếng thăm.
14. Đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát.
('Suy Niệm Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Tin Mừng hôm nay giống như một bức tranh với hai cảnh trí đối nghịch nhau. Trên một cái phông lờ mờ, chúng ta như thấy được cảnh đô thị giàu sang nơi ngự trị của hoàng đế Lamã, người đại diện của ông là tổng trấn Phongxiô Philatô, và các thứ vua bù nhìn là Hêrôđê và Philipphê. Cũng trong cái phông lờ mờ ấy, người ta còn thấy được như hai cái bóng ẩn tàng là Anna và Caipha, hai vị thượng tế lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, Trên cái phông lờ mờ ấy, thánh Luca như muốn tô đậm một cảnh trí khác đó là cảnh sa mạc vắng vẻ, nơi cư ngụ của môt kẻ nghèo nàn ấy là Gioan, con của Giacaria. Thánh Luca có lẽ đã muốn làm nổi bật cái cảnh sa mạc nghèo nàn vắng vẻ ấy, để nói với chúng ta rằng chỉ có trong sa mạc vắng vẻ nghèo nàn, con người mới lắng nghe được tiếng nói của Thiên Chúa.
Sa mạc vốn là một phạm trù ưu việt của Kinh Thánh. Những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong sa mạc. Môisen đã phải lẫn trốn vào sa mạc để được nhận biết Chúa và nhận lãnh sứ mạng giải phóng dân tộc. Bốn mươi năm lang thang trong sa mạc là thời kỳ thanh luyện cần thiết để dân riêng được vào đất Hứa. Truyền thống đi vào sa mạc đã không ngừng được các tiên tri về sau sống lại như một kinh nghiệm cần thiết trước khi thi hành sứ vụ. Nhưng điển hình và mang nhiều ý nghĩa hơn cả vẫn là 40 đêm ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong sa mạc và những đêm cầu nguyện lâu giờ của Ngài trong nơi vắng vẻ.
Sa mạc là đồng nghĩa với nắng cháy trơ trụi, nghèo nàn. Phải chăng có trở nên trống rỗng và nghèo nàn, có trút bớt đi những cái không cần thiết thì con người mới lắng nghe được tiếng nói của Chúa và thanh luyện được niềm tin của mình. Lịch sử Giáo Hội luôn chứng minh rằng những cuộc bách hại luôn là yếu tố thanh luyện và canh tân Giáo Hội. Trong thử thách và khổ đau, trong nghèo nàn và trơ trụi Giáo Hội lại càng vững mạnh hơn. Có trút bỏ được những cái không cần thiết và làm cho vướng mắc thì Giáo Hội mới trở nên sáng suốt và giàu có. Giàu có không do những phương tiện vật chất và các thứ đặc quyền đặc lợi, mà giàu có bởi một niềm tin được tinh luyện và can trường hơn.
Tư trong sa mạc của thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta cũng có thể rút ra được một bài học khác cho niềm tin. Không những từ trong sa mạc Gioan đã nắm được tiếng Chúa, mà còn can đảm để hô lớn tiếng Chúa cho mọi người được nghe thấy: "Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng". Lời kêu gọi ấy, Gioan chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị trong cả nước nữa. Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố gaíc hành vi tội ác của một Hêrôđê, số phận của Gioan cho chúng ta thấy rằng ngài đã đi đến tận cùng sứ mạng tiên tri của ngài. Thánh nhân đã dám nói thẳng và sống thực là bởi vì ngài không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy ngoài chiếc áo da thú của ngài.
Chiếc áo vẫn là tượng trưng của sứ mạng tiên tri. Đó là lý do tại sao trong dịp tấn phong Hồng Y cho một số chức sắc trong Giáo Hội, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói đến ý nghĩa của phẩm phục màu đỏ mà chúng ta quen gọi là Hồng Y. "Màu đỏ là màu của hy sinh, là màu của máu, các Hồng Y phải là những người hy sinh đến độ có thể đổ máu đào". Lời nhắc nhở này chắc phải có một giá trị đặc biệt đối với các vị Hồng Y đến từ những nơi Giáo Hội đang bị bách hại và thử thách, những nơi mà các vị cần phải lên tiếng, cho dẫu phải hy sinh mạng sống của mình. Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo và kêu gọi san bằng bất công. Ngài đã can đảm lên tiếng là bởi vì ngài không có gì để mất. Ngài không sợ phải mất một ít đặc quyền đặc lợi hay bất cứ một thứ ân huệ nào.
Nồi cơm manh áo hay một ít bả vinh hoa có thể là động lực thúc đẩy con người thỏa hiệp và sống dối trá. Đó cũng có thể là cơn cám dỗ của các tín hữu chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Một ít đặc lợi vật chất, một vài ưu đãi, một số đặc quyền đặc lợi, một lời dễ dãi, đó là miếng mồi ngon khiến cho nhiều người nếu không bán đứng lương tâm của mình, nếu không uốn cong miệng lưỡi thì cũng chấp nhận thỏa hiệp im tiếng. Mùa Vọng là mùa của sa mạc, có đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát chúng ta mới dễ dàng nhận ra được tiếng nói của Chúa. Và có từ sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới có đủ can đảm để gióng lên tiếng của Chúa: "Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu, hãy bạt mọi núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng".
Khi cuộc sống của các tín hữu trở thành một lời mời gọi, khi miệng lưỡi của họ nói lên những lời can đảm chân thực, thì lúc đó như Tin Mừng nói với chúng ta, mọi người sẽ được thấy ơn cứu độ của Chúa.
15. Con đường nội tâm
(TGM. Ngô Quang Kiệt)
Bài Tin Mừng mở đầu thật long trọng khi nêu tên tất cả những vị lãnh đạo cao cấp thời đó. Từ Tibêriô, hoàng đế của đế quốc La mã, quyền uy phủ trên toàn thế giới thời ấy, đến Philatô, tổng trấn, đại diện cho hoàng đế cai trị nước Do Thái. Từ Hêrôđê, dù là bù nhìn, cai trị miền Bắc, đến em ông cai trị miền Nam. Từ Anna đến Caipha cùng trong gia đình làm thượng tế nắm giữ quyền đạo Do Thái. Tên tuổi những vị lãnh đạo cao cấp đầy quyền uy nói lên thực trạng của đất nước Do Thái thời đó: bị nô lệ. Chính vì thế, hơn bao giờ hết người Do Thái mong chờ Đấng Cứu Thế đến giải thoát dân Người. Chúa đã đến, không phải bằng con đường phô trương nhưng bằng con đường nội tâm. Thánh Gioan Baotixita hôm nay khi kêu gọi mở đường cũng nhắm đến con đường nội tâm. Chỉ những ai đi đường nội tâm mới gặp được Chúa. Qua lời rao giảng của Thánh Gioan Tiền Hô, đường nội tâm có những đặc điểm sau:
Đường nội tâm đi trong cô tịch. Thật lạ lùng. Một chương trình cứu thế lớn lao như thế mà Chúa chẳng ngỏ lời với các vị lãnh đạo cao cấp uy quyền, nhưng lại ngỏ với Thánh Gioan Baotixita. Một chương trình lớn lao như thế không khởi đầu từ thủ đô đất nuớc nhưng lại phát xuất từ vùng hoang địa xa xôi. Thực ra Chúa vẫn ngỏ lời với nhân loại. Nhưng tiếng Chúa nói âm thầm, sâu thẳm. Các vị lãnh đạo cao cấp sống trong ồn ào của đô thị phồn hoa, bị tiếng thét gào của đam mê, dục vọng, quyền lực lấn át, nên không nghe được tiếng Chúa. Thánh Gioan Baotixita nghe được tiếng Chúa nhờ đi vào con đường cô tịch. Sống ẩn thân nơi hoang địa. Chuyên chăm cầu nguyện trong tu viện. Bỏ ngoài tai tất cả những tiếng ồn ao thế tục. Chỉ khao khát lắng nghe Lời Chúa. Nên đã gặp được Chúa và được biết chương trình cứu độ của Chúa.
Đường nội tâm đi trong đi trong khiêm nhường. Chúa là Đấng vô cùng khiêm nhường. Chỉ những ai khiêm nhường mới gặp được Chúa. Các vị lãnh đạo uy quyền nói trên rất tự mãn. Tự mãn vì Tự mãn vì quyền uy bao trùm khắp mặt đất. Tự mãn vì dinh thự đền đài nguy nga. Tự mãn vì quần áo lụa sang trọng. Tự mãn yến tiệc linh đình. Thánh Gioan Baotixita thật khiêm nhường. Khiêm nhường trong đời sống âm thầm nơi hoang địa. Khiêm nhường trong tu viện đơn sơ. Khiêm nhường trong thực phẩm tự nhiên rất đạm bạc: chỉ ăn châu chấu và mật ong rừng. Khiêm nhường trong trang phục giản dị bằng da thú, chỉ có mục đích che thân. Khiêm nhường xưng mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Nhờ thế đã gặp được Chúa, được Chúa tuyển chọn trở thành người mở đường cho Chúa.
Đường nội tâm đi trong chiến đấu. Không phải chiến đấu với người khác. Nhưng chiến đấu với chính mình. Cuộc chiến đấu được Thánh Gioan Tiền Hô dùng lời tiên tri Isaia diễn tả trong việc sửa chữa con đường. Con đường là tâm hồn. Sửa chữa con đường vật chất tuy khó mà dễ. Sửa chữa con đường tâm hồn khó biết bao. Tâm hồn có những núi đồi kiêu ngạo tự mãn. Để sửa chữa phải bát núi đồi xuống. Phải cắt đi một phần tâm hồn không phải dễ dàng. Tâm hồn có những khúc quanh co, để uốn nắn lại phải vạt bớt chỗ quanh co. Gọt dũa tâm hồn đau đớn lắm. Từ bỏ mình là một cuộc chiến khốc liệt. Thắng được mình khó hơn thắng vạn quân.
Đời sống ta quá lo lắng bon chen nên thiếu chiều sâu nội tâm. Hôm nay ta hãy nghe lời Thánh Gioan Tiền Hô dạy, biết ăn năn sám hối trở về với Chúa. Biết rửa sạch tội lỗi. Biết đổi mới tâm hồn bằng cuộc sống đi vào nội tâm. Tìm những giờ phút thanh vắng cô tịch để lắng nghe tiếng Chúa. Sống đơn sơ khiêm nhường để nên giống Chúa. Muốn được như thế ta phải chiến đấu để từ bỏ ý riêng. Chúa đã đến ở đầu đường. Ta chưa nhìn thấy chỉ vì con đường tâm hồn còn lồi lõm quanh co. khi nào ta cắt bỏ được hết những lồi lõm quanh co trong tâm hồn, ta sẽ được thấy Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đường nội tâm có những đặc điểm nào? Cô tịch, khiêm nhường và chiến đấu, đặc điểm nào cần thiết nhất cho đời sống bạn hiện nay?
2. Thánh Gioan Tiền Hô có sống những lời Ngài rao giảng không?
3. Con đường nội tâm của bạn còn phải sửa chữa ở những đoạn nào? Có dễ không? Tại sao?
16. Dọn đường cho Chúa
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong những trận bão lụt tại miền Trung nước Việt, nhiều làng bị nước ngập; nhiều đoạn đường bị nước lũ cuốn đi hay bị sạt lở, xe cộ không đi lại được... Dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không còn xử dụng được nữa. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có đường đi, nên đành chịu bó tay.
Những con đường thật là quan trọng. Đường đi giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người bị nạn đón nhận được sự cứu trợ. Đường đi nối liên lạc giữa người với người.
Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu trợ, ngăn cách người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ có kết quả, muốn cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật tốt.
* * * * *
Bạn thân mến, Con đường vật lý đã cần, nhưng "con đường thiêng liêng" còn cần hơn...Con đường thiêng liêng có thật tốt mới giúp ta lãnh nhận Ơn Chúa và nhất là đón nhận chính Chúa đến. Thật ra Chúa đã đến từ lâu, nhưng ta chưa đón nhận được Ngài vì con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta đã bị hư hỏng.
Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo, luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không chịu thua kém người khác. Tâm hồn ta có những ngọn núi tự ái cao ngất trời xanh, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.
Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta có những hố sâu chia rẽ, luôn gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh lợi, thú vui dục vọng
Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.
Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì sự lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.
Tất cả những ngọn đồi, những hố sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta.. Trong Mùa vọng này, chúng ta được mời gọi hãy sửa chữa con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta cho tốt đẹp hơn để đón Chúa đến
Hãy bạt đi những thói kiêu căng tự mãn; tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đầy những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà; những đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá, giả hình. Hãy san bằng những lượn sóng gồ ghề độc ác; những câu nói hành nói xấu trong cuộc sống hằng ngày.
* * * * *
Lạy Chúa,
Đổi mới một con đường bằng cách lấp đầy những hố sâu, uốn thẳng những khúc quanh thì thật dễ, dọn dẹp cho sạch sẽ một con đường thì dễ hơn... Nhưng đổi mới tâm hồn, dọn dẹp con đường thiêng liêng trong tâm hồn thì không dễ chút nào. Để chuẩn bị cho ngày Con Thiên Chúa lại đến, xin ban ơn giúp sức cho con trên con đường phấn đấu bản thân, để mỗi ngày con biết "bắt đầu lại" công việc dọn dẹp đổi mới con đường thiêng liêng trong tâm hồn con. Amen.
17. Sửa lại con đường tâm hồn
(Lm. John Nguyễn)
Khi thánh Gioan Tẩy giả đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối, cầu ơn tha tội, thì ngài dùng lời trong sách Tiên tri Isaia nói rằng:
"Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Đoạn Tin mừng này thì rất quen thuộc với chúng ta. Nhưng, khi suy nghĩ đến việc dọn đường Chúa, sửa lại đường Chúa cho ngay thẳng, thì chúng ta có thể tự hỏi: Con đường của Chúa là con đường nào?. Và con đường nào cần sửa lại?.Tại sao Gioan Tẩy Giả đi rao giảng trong hoang địa lại kêu dân chúng dọn đường?. Từ những vấn đề được đặt ra, tôi thiết nghĩ chúng ta sẽ có một cái nhìn thấu đáo hơn về ý nghĩa của Lời Chúa hôm nay. Đó là: Thiên Chúa không cần chúng ta sửa đường cho Ngài, vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng, nhưng chính chúng ta mới cần sửa lại những con đường quanh co, gồ ghề và hố sâu nơi trong tâm hồn của mỗi người chúng ta.
Trở về bối cảnh của Tin mừng, chúng ta nhận thấy rằng, dân Do thái phải sống nô lệ, lầm than khốn khổ bởi các vua chúa quan quyền. Thánh Luca đã thuật lại như sau:" Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn em là Philipphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế". Điều này nói lên rằng, lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả lúc bấy giờ là rất quan trọng và cấp bách. Nó không chỉ cho những dân Do thái đang sống trong cảnh nô lệ, lầm than, đói khổ mà là cho các vua chúa quan quyền hãy sửa lại lối sống của họ. Sự thống trị kiêu căng, độc tài, gian ác của họ trên dân chúng. Hình ảnh con đường là lối minh họa dẫn chúng ta đi vào con đường của nội tâm, con đường của tâm hồn đang mắc phải bởi hố sâu của tội lỗi, bởi những dục vọng ham muốn của con người. Những đam mê dục vọng đang lôi kéo chúng ta vào thế giới của hưởng thụ, trụy lạc và ích kỷ. Hơn nữa, khi đồi núi của thói kiêu ngạo, tự mãn đang lấp đầy nơi tâm hồn, thì làm sao Thiên Chúa có thể ngự trị. Khi lòng người quanh co, giả dối, gian xảo, thì làm sao Con Thiên Chúa có thể đến viếng thăm.
Nếu chúng ta so sánh hoàn cảnh của thánh Gioan Tẩy Giả với cuộc sống chúng ta ngày nay, thì có sự khác biệt rất lớn. Gioan thì sống trong hoang địa đơn sơ, nghèo nàn, đói khát, lam lũ. Con đường thì đồi núi, gồ ghề, sỏi đá. Trái lại, ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới có đầy đủ phương tiện vật chất. Con đường thì bằng phẳng, rộng thênh thang, nhưng lòng người thì hẹp lại. Con đường đến nhà thờ thì không xa, nhưng lòng người thì ngại ngùng và không muốn đến. Thánh lễ ngày càng vắng bóng người trẻ. Khi tôi hỏi các bạn trẻ: "Thánh lễ có ý nghĩa đối với bạn", thì họ cho biết rằng, họ đi lễ là vì bị bắt buộc hơn là yêu mến. Đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận sự thật trong bối cảnh sống của chúng ta ngày nay. Cho nên, Lời Chúa hôm nay không phải là dọn đường cho Chúa đến ở đâu xa xôi, mà là ngay chính nơi cõi lòng mỗi người chúng ta đang còn có những khúc quanh của bóng tối và tội lỗi bởi dục vọng, gian ác, tham lam, tính toán, lọc lừa, giả dối, ích kỷ. Giá trị đời sống thiêng liêng đang bị đảo lộn. Sự thánh thiện đang bị tha hóa bởi đồng tiền, thú vui, danh vọng và quyền lực. Từ đó, đời sống tâm linh của chúng ta đang bị xuống dốc, bấp bênh, chơi vơi giữa dòng đời và mất đi định hướng sống.
Đổi mới một con đường thì dễ, uốn thẳng khúc quanh co thì không khó, nhưng đổi mới tâm hôn, bỏ đi một tật xấu, dọn lại con đường thiêng liêng thì không dễ chút nào. Con đường ngắn nhất để cho chúng ta làm lại cuộc đời, sửa lại những vết thương của tâm hồn, chính là tin vào tình yêu thương khoan dung của Thiên Chúa, và chúng ta quyết tâm sống theo Lời Chúa dạy. Chính thái độ khiêm tốn và vâng phục giúp cho chúng ta nhận ra yếu đuối và tội lỗi của mình.
Mùa vọng là thời gian cho ta sửa lại con đường của tâm hồn đang còn thiếu vắng Thiên Chúa, thiếu vắng lòng khoan dung, yêu thương và tha thứ cho nhau. Những hố sâu của hận thù, ghen ghét đang dằn xé cõi lòng.
Hãy học nơi Chúa Giê-su, Ngài yêu thương chúng ta để đến trong thế gian sống kiếp con người và chết và giải thoát tội lỗi cho chúng ta.
Hãy học nơi thánh Gioan Tẩy Giả, ngài đã cái chết để chống lại sự giả trá, lọc lừa và gian ác.
Hãy học nơi Mẹ Maria, Mẹ đã chấp nhận sống vâng theo thánh ý Chúa để nói lên hai tiếng: "Xin Vâng". Nhờ đó, mọi người đã thấy được ơn cứu độ của Thiên Chúa.
18. Có Lời Thiên Chúa phán.
('Manna' – Lm. Nguyễn Cao Siêu)
Mỗi lần mùa Vọng đến, ta lại gặp Gioan. Một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường.
Hoang địa là nơi vắng người, trơ trụi, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành, trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.
Càng lúc ông càng ý thức về sứ mạng của mình, nhưng ông đã kiên nhẫn chờ đợi nhiều năm tháng, cho đến ngày ông nghe thấy Thiên Chúa ngỏ lời với ông. Lời của Ngài đưa ông ra khỏi hoang địa để đến với mọi vùng ven sông Giođan mà gặp con người. Lời Chúa ông nghe trở thành Lời Chúa ông công bố.
Tiếng Chúa gọi ông trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.
Gioan là vị ngôn sứ cho dân tộc ông sau gần năm thế kỷ vắng bóng ngôn sứ. Ông sống trong dòng lịch sử của đạo lẫn đời: một hoàng đế Tibêriô, hai thượng tế Khanna và Caipha, một Philatô tham lam, tàn bạo, tổng trấn vùng Giuđê, một Hêrôđê, tiểu vương vùng Galilê, kẻ sẽ giết ông sau này. Gioan đón nhận toàn bộ dòng lịch sử ấy.
Lịch sử dân tộc là nơi diễn ra lịch sử cứu độ.
Gioan biết mình là Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế, và ông cố làm tròn sứ mạng của mình trước lịch sử.
Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ.
Ông kêu gọi cả nước hãy sửa sang đường sá, để đón lấy Vua Mêsia, đấng ông không dám cởi dây giày.
Đường quan trọng là đường vào cõi lòng.
Có bao lối nghĩ quanh co, bao tính toán lệch lạc. Có những lũng sâu tăm tối, thiếu vắng ánh sáng tình yêu. Có những núi đồi ngạo nghễ của tự kiêu, tự mãn. Có những chỗ mấp mô, lồi lõm giữa người với người. Phải sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay. Phải san cho phẳng, bạt cho thấp...
Sám hối là dọn con đường của lòng mình và mời mọi người cùng dọn các con đường thành đại lộ. Điều đó chẳng dễ dàng chút nào, và thường gây đau đớn.
Vấn đề không phải chỉ là đi xưng tội qua loa, nhưng là dẹp bỏ những chướng ngại trong tâm hồn, để Chúa có thể dễ dàng đến và ở lại.
Gioan đã là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu.
Chúng ta phải là ngôn sứ chuẩn bị cho Ngài đến lần cuối.
Làm ngôn sứ cho dân tộc mình, cho thời đại mình: đó là ơn gọi của mọi Kitô hữu chẳng trừ ai. Cần cất tiếng hô bằng lời nói và bằng cuộc sống.
Ơn cứu độ đã đến từ hai mươi thế kỷ nay, nhưng vẫn thiếu những con đường phẳng phiu, ngay thẳng, để Thiên Chúa có thể đến gặp con người.
Xin Thánh Thần giúp chúng ta xây dựng những con đường mới trên những nẻo đường quen thuộc của nhân loại.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngôn sứ là người nói lời của Thiên Chúa. Có khi nào bạn dám nói một điều do lương tâm đòi buộc, nhưng đem lại cho bạn nhiều thiệt thòi, nguy hiểm không?
Đường sá là cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc phát triển. Bạn đã làm gì trong mùa Vọng này để dọn đường cho Chúa đến?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con; xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
19. Hãy dọn đường cho Chúa
('Manna' – Lm. Nguyễn Cao Siêu)
Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta muốn tự định nghĩa về mình. Chúng ta tự hỏi mình là ai. Đây là một câu hỏi quan trọng và cần thiết.
Gioan Tẩy Giả cũng đã đặt cho mình câu hỏi tương tự. Nhiều người nghĩ rằng ông là đấng Mêsia, là Êlia... Còn ông, ông biết rõ ông là ai. Gioan không đánh lừa mình hay đánh lừa người khác. Ông tự định nghĩa: "Tôi là tiếng kêu trong sa mạc. Hãy dọn đường cho Chúa đến" (Ga 1, 23).
Cả cuộc đời Gioan là một tiếng kêu. Tiếng kêu ấy đã vang lên từ khi ông được thụ thai, một cuộc thụ thai lạ lùng khi cha mẹ ông đã luống tuổi. Tiếng kêu ấy rõ dần qua cuộc sống đặc biệt của ông: nơi hoang địa, mặc áo lông thú, ăn châu chấu và mật ong rừng. Tiếng kêu ấy vang động khắp vùng ven sông Giođan.
Một tiếng kêu khẩn thiết: hãy sám hối. Một tiếng kêu cấp bách: hãy dọn đường cho Chúa đến. Tiếng kêu cuối cùng của Gioan đã đưa ông đến cái chết: "Vua không được phép lấy bà ấy làm vợ" (Mt 14,4).
Gioan hấp dẫn vì ông sống điều ông giảng: ông sống khổ hạnh và mời gọi người ta sám hối. Gioan mãi mãi hấp dẫn vì ông không bao giờ tìm mình. Ông sống vai trò của người mở đường, người giới thiệu cho Đấng đến sau ông nhưng lại quyền thế hơn ông. Ông vui mừng tự xóa mình đi để Đức Giêsu được nổi bật. Chính vì thế mà ông trở nên cao trọng.
Con người chỉ cao trọng khi sống cho Thiên Chúa.
Mỗi lần mùa Vọng trở về, chúng ta có dịp gặp lại Gioan, người dọn đường.
Chúa Giêsu hôm nay vẫn cần những Gioan Tiền Hô mới biết tiếng kêu thức tỉnh nhân loại, biết dạy cho họ chờ đợi và nhận ra ơn cứu độ đã đến.
Dọn đường là lội ngược dòng, là chấp nhận bị khai trừ, bị từ chối.
Gioan đã dọn đường bằng cả cuộc đời để cuộc hôn nhân giữa Chúa Kitô và nhân loại thành tựu.
Hội Thánh vẫn cần những người dám sống điều mình nói, và dám nói điều mình sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
Giáo Hội mời gọi chúng ta lội ngược dòng trước sự lôi kéo của vật chất, hưởng thụ. Có khi nào bạn dám đi ngược với tập thể, vì muốn sống theo ý Chúa?
Trong cuộc sống của Gioan Tẩy Giả, điều gì đánh động bạn hơn cả?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Khi đến với Chúa con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con; con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con; con đóng lại bút viết: các quan điểm của con; con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con; để con được ở một mình với Ngài, lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
Sau khi được ở với Ngài, con sẽ xỏ giày vào để đi theo đường của Chúa, con sẽ đeo đồng hồ để sống trong thời gian của Chúa, con sẽ đeo kính vào để nhìn thế giới của Chúa, con sẽ mở bút ra để viết những tư tưởng của Chúa, con sẽ cầm chìa khóa lên để mở những cánh cửa của Chúa.
20. Sám hối canh tân.
(Như Thầy Đã Yêu" – Thiên Phúc)
Đời Chiến Quốc, nhà du thuyết Tô Tần sang nước Sở, phải đợi suốt ba ngày mới được vào ra mắt vua Sở.
Nói xong câu chuyện, Tô Tần xin cáo biệt đi ngay. Vua Sở bảo: "Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quý như nghe tiếng một bậc danh nhân xưa. Nay tiên sinh đã không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu ở lại là cớ làm sao?"
Tô Tần thưa: "Tôi xem ra thấy nước Sở này có đồ ăn đắt hơn ngọc, củi đắt hơn quế, quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như trời. Nay nhà vua muốn bắt tôi ở lại để ăn ngọc, thổi quế, nhờ ma thấy trời hay sao?
Vua Sở khẩn khoản nói: "Xin mời tiên sinh cứ ở lại, quả nhân đã hiểu rõ quá rồi".
Một đất nước mà vật giá đắt đỏ: "Gạo châu củi quế", vua quan xa cách dân chúng, thì nhân dân trong nước khổ sở biết bao. Cái đáng khen của vua Sở là sau khi nghe Tô Tần bình phẩm về tình hình kinh tế chính trị của đất nước mình, thì ông liền nhận ra sai lầm và quyết tâm sửa chữa.
Mỗi lần mùa vọng đến, lại có một Tô Tần xuất hiện để vạch ra những lỗi lầm của chúng ta và nhắc chúng ta sám hối canh tân. Đó chính là Gioan Tẩy giả: "Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi" (Lc 3,4)
Nếu Tô Tần là nhà du thuyết cho nước Sở, thì Gioan chính là ngôn sứ của dân tộc Do thái. Ông đã thấy các nhân vật đạo đời: Từ hoàng đế Tibêriô đến quan tổng trấn Philatô, từ vua Hêrôđê, Philip, Lyxaria cho đến các vị thượng tế Anna và Caipha; lòng người đầy những khúc quanh lồi lõm, thung lũng hố sâu, núi đồi hiểm trở.
Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: "Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy; khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho phẳng" (Lc 3,5). Ông kêu gọi mọi người sửa sang đường sá. Nhưng con đường quan trọng chính là đường vào cõi lòng.
Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi.
Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, tính toán lệch lạc.
Phải san cho phẳng những núi đồi ngạo nghễ của tự mãn, tự kiêu.
Phải bạt cho thấp những gồ ghề lồi lõm của bất công, bất chính.
Nếu sám hối là dọn đường của lòng mình, thì chúng ta hãy dẹp bỏ những chướng ngại của tâm hồn, để Chúa có thể đến và ngự lại trong đó.
Nếu Gioan là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu, thì chúng ta sẽ là sứ giả chuẩn bị cho Người đến từng ngày trong cuộc sống của anh em.
Thiên Chúa chỉ có thể đến gặp con người trên những con đường ngay thẳng, phẳng phiu. Và ơn cứu độ của Người cũng chỉ ban cho những ai rộng tay đón nhận.
Lạy Chúa, thật là khó khi nhận mình lầm lỗi, và cũng không dễ dàng khi phải sửa chữa lỗi lầm.
Xin ban cho chúng con ơn sám hối, dám đi đến những hành động cụ thể, và can đảm chấp nhận cắt tỉa đớn đau, để chúng con xứng đáng đón rước Chúa đến, mang nguồn vui ơn cứu độ. Amen.
21. Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người
(André Sève)
Luca là tác giả Tin Mừng của lịch sử cứu độ mà ông triển khai thành ba điệp khúc như trong đoạn rất súc tích này chẳng hạn: "Cho đến thời ông Gio-an, thì có Lề Luật và các ngôn sứ; còn từ thời đó, thì Tin Mừng Nước Thiên Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào" (Lc 16,16)
Luca muốn xây dựng những chiếc cổng qua đó ông làm cho chúng ta đi vào trong lịch sử một cách long trọng. Vào lúc hạ sinh Chúa Giêsu: "Hồi ấy Xêda đại đế ra chiếu chỉ ...". Và đối với bước đầu công khai của Ngài, cùng với Gioan tẩy giả vén màn lịch sử: "Năm thứ mười lăm triều đại vua Xêda Tibê..." Đây là tiếng chuông lớn của lịch sử.
Có một lời loan báo phi thường: "Mọi người sẽ được ơn cứu độ". Đây là điều ông già Simêon đã công bố một cách âm thầm hơn: "Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài". Chúng ta thường quá thu hẹp các chân trời này, loại bỏ những chân trời này, quên lãng những chân trời kia. Và chúng ta luôn có nguy cơ mất đi trên các con đường của lịch sử điều phải là nỗi ám ảnh của chúng ta: Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người, Ngài muốn cứu độ tất cả những người ấy.
Người Do thái thời bấy giờ mong chờ Đấng Cứu Thế đến độ trái tim họ rung động khi nhìn vị tiên tri mới xuất hiện là Gioan Tẩy giả: "Có phải người này là Đấng Cứu Thế hay không?".
Điều này sẽ còn khó tin hơn nữa! Sẽ phải có toàn bộ Tin Mừng, sự phục sinh và hiện xuống để người Do thái độc thần triệt để lòng trí mở ra (một cách khó khăn!) cho điều không thể tưởng tượng được: Đấng Cứu Thế chính là Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa.
Gioan Tẩy giả phác hoạ chân dung đầu tiên đó: "Có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa".
Nhưng cũng sẽ phải có các thần học gia giám mục vĩ đại của các thế kỷ đầu tiên, kinh nghiệm của các thánh, nhất là Chúa Thánh Thần để nói lên điều không thể được trình bày: Thiên Chúa duy nhất là Cha, Con và Thánh Thần; và Chúa Con đã làm người, dưới thời Xêda đại đế, dưới triều vua Tibê.
Mùa vọng lại đặt chúng ta trước những chân trời rộng lớn của việc cứu độ tất cả mọi người mà Chúa Cha đã sai phái Con của Ngài cho họ. Còn việc tiếp nhận: Gioan Tẩy giả yêu cầu chúng ta chuẩn bị cho Ngài một con đường. Hai hình ảnh giải toả và tẩy sạch có thể giúp chúng ta hình dung công việc này một lần nữa: làm bung ra những cái cửa quá rỉ sét và làm sập đổ sự từ chối mà chúng ta đã làm cho chai cứng nơi chúng ta, những núi đồi do dự và bác bẻ. Nói với Chúa: "Xin hãy vào trong con" đòi buộc một sự hoạt động tích cực.
Tôi có đi quá nhanh từ lời loan báo lớn lao của Gioan Tẩy giả "tất cả mọi người sẽ xem thấy ơn cứu độ" đến những lo toan cá nhân nhỏ nhặt hay không? Chúng không nhỏ nhặt đâu, những cái nhìn rộng lớn trên thế giới không được làm cho chúng ta quên đi khu vườn của chúng ta. Trả lời cho một lãnh chúa người Tây Ban Nha, thánh Pierre ở Alcantara nói: "Ông hãy tỏ ra có tấm lòng tốt, thì đó đã là một phần của thế giới sẽ trở nên tốt đẹp". Nói với Chúa trong mùa vọng: "Hãy đến cứu độ tất cả chúng con" sẽ là một lời nguyện của kẻ mơ mộng nếu lời nguyện đó không hướng chúng ta về điều phải được cứu độ nơi mỗi người trong chúng ta.
22. Hãy dọn đường cho Chúa.
Người ta kể lại rằng, một khoa học gia và cũng là họa sĩ nổi danh Leonardo da Vinci vẽ bức tranh Bữa Tiệc Ly, bức tranh được rất nhiều người khen ngợi cho đến ngày hôm nay. Ông có một tranh chấp mạnh mẽ với người láng giềng, tâm tình thù hận trong tâm hồn không cho phép ông vẽ một chân dung nhân từ dịu dàng của Chúa Giêsu. Ngồi trong phòng vẽ hàng giờ, nhưng Leonardo da Vinci không thể nào tập trung tinh thần để vẽ chân dung. Cuối cùng, ông quyết định đi tìm để làm hòa với người đang có tranh chấp, rồi với tâm hồn an bình thư thái, ông đã vẽ được dung mạo Chúa Giêsu trong bức tranh nổi tiếng Bữa Tiệc Ly, và dung mạo của Chúa Giêsu do ông vẽ ra đó thể hiện tuyệt vời đặc sắc tinh thần của Chúa Giêsu mà cho đến ngày hôm nay chưa có hay ít có họa sĩ nào theo kịp.
Hơn Leonardo da Vinci, mỗi người chúng ta được mời gọi không phải chỉ vẽ chân dung Chúa Giêsu trên trang giấy trong bức họa mà thể hiện chính Chúa Giêsu, trở thành một Chúa Giêsu Kitô thứ hai. Chúng ta không thể nào thành công làm công việc này, nếu tâm hồn chúng ta còn tích chứa những tật xấu, những tội lỗi, những tâm tình thù hận, ganh tị với anh chị em. Mỗi người chúng ta cần thực hiện điều mà thánh Phaolô tông đồ gọi là lớn lên trong đức bác ái: "Lòng bác ái của anh em càng ngày càng gia tăng trong sự thông biết và am hiểu, để anh em được trong sạch và không đáng trách cho đến ngày của Chúa Kitô ngự đến". Đây có thể nói là mục tiêu chính của Mùa vọng chúng ta đang cử hành, mùa chuẩn bị tâm hồn của chúng ta hay đúng hơn tẩy sạch tâm hồn chúng ta khỏi những gì là tiêu cực xấu xa, nghịch lại sự thật của Chúa, để chúng ta có thể không phải là họa lại mà là trở thành chính Chúa Giêsu, đón nhận hoàn toàn ân sủng cứu rỗi của Ngài. Đây cũng là điều mà Gioan tiền hô trong bài Phúc âm hôm nay lớn tiếng nhắc lại cho mọi thành phần dân Do thái thời Ngài đang bị cám dỗ bỏ quên Thiên Chúa, hoặc làm méo mó dung mạo Thiên Chúa mà họ đã được mời gọi làm chứng giữa muôn dân. Bí quyết đó là việc ăn năn thống hối, thay đổi nội tâm đã được Gioan rao giảng. Đón tiếp một vị khách phàm trần, người ta chỉ cần chưng diện treo hoa đèn, biểu ngữ, chào đón, chúc tụng và hô to những khẩu hiệu ngoài môi miệng cho qua lượt, nhưng để đón Chúa đến và họa lại chân dung của Chúa trong chính đời sống của mình thì con người phải thay đổi thực sự tâm hồn, phải thực hiện cuộc canh tân thay đổi nội tâm khỏi những tâm tình xấu xa tội lỗi.
Ước chi trong Mùa vọng này giúp chúng ta lắng nghe lời mời gọi của Gioan tẩy giả và nhất là lời mời gọi của chính Chúa đang đứng ngoài gõ cửa chờ ta để trở nên hiện ảnh, hiện thân của Chúa Giêsu giữa anh chị em, làm vinh danh Thiên Chúa và cũng vừa xây dựng được một xã hội tốt đẹp xứng đáng với con người mỗi ngày một hơn.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết hoán cải, canh tân đời sống trở về với Chúa mỗi ngày một nhiều hơn, thiết thực hơn. Amen.
23. Tiếng kêu trong sa mạc.
('Niềm Vui Chia Sẻ')
Một mẩu chuyện của người Phi Châu kể lại rằng: Một người Ả Rập sống ở sa mạc có thói quen nằm sát xuống đất, úp tai trên cát từng giờ lâu. Có người hỏi tại sao làm thế. Anh ta giải thích như sau: "Tôi nghe sa mạc khóc vì nó rất muốn được làm một ngôi vườn xinh tươi".
Sa mạc mong mỏi được trở thành ngôi vườn, cũng vậy, tâm hồn con người luôn hướng tới về điều thiện. Khoảng cách giữa sa mạc và ngôi vườn xinh tươi đó là nước non, điều kiện thời tiết và nhất là công lao của con người. Không có sự chăm sóc của con người, sa mạc vẫn tiếp tục là bãi cát khô cằn. Cõi lòng con người cũng sẽ mãi mãi là một sa mạc cằn cỗi nếu có không được vun xới và tưới bằng cố gắng, phấn đấu, hy sinh và tình yêu. Phải tốn biết bao là kiên nhẫn, biết bao chống đỡ, biết bao cương nghị, biết bao mồ hôi... để biến sa mạc của tâm hồn thành một khu vườn tươi tốt... Sa mạc tâm hồn của chúng ta sẽ khóc mãi nếu chúng ta không ra tay cày xới và vun trồng mỗi ngày.
Tin Mừng hôm nay kêu gọi chúng ta hãy cày xới và vun trồng cho sa mạc tâm hồn chúng ta nở hoa đón mừng Chúa Cứu Thế: "Có tiếng kêu trong sa mạc: "Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi". Đó là tiếng kêu của Gioan Tiền Hô. Là tiếng kêu trong sa mạc, Gioan không thể vắng bóng trong Mùa Vọng – Giáng Sinh, vì đời sống của Gioan đã gắn liền với đời sống của Chúa Cứu Thế như "tiếng kêu" gắn liền với Đấng là "Lời của Thiên Chúa". Đàng khác, đời sống của vị Tiền Hô chỉ có lý do khi có Đấng Cứu Thế xuất hiện phía sau; và đời sống của vị Tẩy Giả làm phép rửa sám hối chỉ có ý nghĩa khi có Chúa Giêsu, Đấng thiết lập Bí tích Thánh Tẩy để tha tội.
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã làm xuất phát những tiếng kêu qua các Ngôn Sứ trong Cựu Ước để tiên báo Đấng Thiên Sai Cứu Thế sẽ đến. Là Ngôn Sứ cuối cùng của Cựu Ước, tiếng kêu của Gioan Tiền Hô đã đúc kết, tổng hợp mọi tiếng kêu của các Ngôn Sứ khác, như tiếng kêu của Isaia, tiếng kêu của Êlia, tiếng kêu của Giêrêmia, của Baruc (Bđ.1). Chính vì vậy "Tiếng kêu trong sa mạc" là tên gọi của Gioan, một tên rất mông lung, có vẻ vô danh, nhưng lại rất súc tích: "Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lung, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ".
Thưa anh chị em,
Ngày nay, khi nói "Tiếng kêu trong sa mạc", người ta thường hiểu là tiếng kêu vô ích, lời hô hào không được hưởng ứng, không được đón nghe. Nhưng tiếng Gioan đã kêu lên trong sa mạc không phải là "tiếng kêu trong sa mạc" theo nghĩa đó. Trái lại, tiếng kêu ấy đã lôi kéo đủ thứ mọi hạng người khắp xứ Palestine đến với Gioan trên bờ sông Giođan. Tiếng ấy mặc dù kêu lên trong sa mạc nhưng đã vang vọng tới tận thủ đô Giêrusalem đến nỗi một phái đoàn chính thức đã được các vị lãnh đạo tôn giáo sai đến để chất vấn Gioan tận nơi sa mạc.
Tiếng kêu của Gioan không vô ích và cũng không lỗi thời, vì ngày nay, sau gần 2000 năm, tiếng kêu ấy vẫn còn tác động mạnh mẽ trong lòng nhiều người. Những điều xưa kia Gioan nói với dân chúng, hiện nay vẫn còn hợp thời, vẫn còn có giá trị. Và trong thực tế, ở khắp nơi trên thế giới, bao lâu hỗn loạn, tranh chấp, hận thù vẫn còn thì công cuộc dọn đường cho Chúa đến vẫn còn cấp bách. Như vậy, tiếng kêu của Gioan vẫn mãi mãi cần thiết để con người thay đổi đời sống cho tốt đẹp hơn.
Mỗi Mùa Vọng, tiếng kêu của Gioan trong sa mạc lại lay động, thức tỉnh chúng ta, đặt chúng ta đối diện trước một số vấn đề thuộc phạm vi lương tâm và công bình xã hội, để chúng ta xét mình, kiểm điểm nếp sống, để cải thiện đời sống mỗi ngày thêm trọn hảo, để dọn đường tâm hồn chúng ta cho Chúa Cứu Thế ngự đến. Tuy nhiên, đối với một số người, tiếng kêu của Gioan đã trở thành thực sự là "tiếng kêu trong sa mạc", không được họ lắng nghe và hưởng ứng bởi vì trong lòng họ là những đô thị ồn ào, nhộn nhịp, hỗn độn, ô nhiễm..., tâm hồn họ thiếu sự thanh vắng, cô tịch của sa mạc khiến họ không nghe được tiếng kêu của Gioan: Hãy dọn đường cho Chúa. Tiếng kêu của Gioan không gặp được một âm vang nào trong lòng họ, hoặc có đi nữa thì cũng chỉ là nhất thời và hời hợt như "hạt giống rơi vào bụi gai" mà Chúa đã giải thích là "những hạng người nghe lời Chúa, rồi bị những mối bồn chồn lo lắng, đam mê khoái lạc trên đời làm nghẽn đi mà không sinh hoa kết quả được" (Mt 13,18-23).
Vì vậy, muốn nghe được tiếng kêu của Gioan Tiền Hô thì phải tạo cho lòng mình trở nên sa mạc. Sa mạc là nơi thuận tiện cho cuộc hẹn hò gặp gỡ thân tình để nghe rõ tiếng Chúa hơn và để nhận lãnh sứ mạng của mình. Như ngôn sứ Hôsê đã viết: "Thiên Chúa sẽ dẫn đưa Israen vào sa mạc, vào nơi thanh vắng, để ở đó, lòng kề lòng, Ta sẽ tâm tình với nó" (Hs 2,16). Ở sa mạc Sahara ngày nay, người ta vẫn còn thấy có những cộng đoàn tu sĩ, như các Tiểu đệ, Tiểu muội Chúa Giêsu, theo tinh thần Cha Charles de Foucauld, các tu sĩ ấy dù ở đâu cũng phải qua một thời gian tu luyện sống với Chúa, lắng nghe Chúa gọi giữa sa mạc, giữa cảnh cô tịch, nghèo khó, để sau khi đã có kinh nghiệm cụ thể về sa mạc, các tu sĩ ấy có thể tạo cho lòng mình trở nên sa mạc trong khi dấn thân phục vụ con người ở giữa lòng đời. Đó chính là công việc vun xới cho sa mạc nở hoa đón mừng Chúa Cứu Thế.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta không đi vào sa mạc như các tu sĩ Tiểu đệ, Tiểu muội của Chúa Giêsu được, nhưng chúng ta cẩn phải tạo cho lòng mình trở thành một sa mạc, một nơi trầm lặng, yên tĩnh, bình an, để dễ dàng lắng nghe tiếng Chúa mời gọi giữa cuộc sống ồn ào, nhộn nhịp, bề bộn, căng thẳng nầy. Có nghe được tiếng Chúa nói qua tiếng kêu của Gioan Tiền Hô hôm nay, chúng ta mới bắt tay vào việc dọn đường tâm hồn chúng ta cho Chúa ngự đến: Phải sửa lại đường xưa lối cũ, uốn nắn cho ngay thẳng những lối quanh co theo sở thích trái chướng của mình, lúc thế này khi thế khác... Phải trung thành trước sau như một, thi hành mọi đòi hỏi của Tin Mừng. Mọi gồ ghề ngăn trở các quan hệ tốt đẹp với Thiên Chúa, với tha nhân, phải bạt xuống và san phẳng đi, để tình Chúa, tình người chan hòa đến với hết mọi người. Có như vậy, xã hội mới dần dần trở thành huynh đệ hơn, tốt đẹp hơn, sẵn sàng cho Chúa đến, và cuối cùng để đón nhận ơn cứu độ từ chính Đấng Cứu Độ như Gioan loan báo: "Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ".
24. Người phu quét lá
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong tác phẩm "Người phu quét lá", ĐGM Nguyễn Khảm đã ví von, đời Linh mục như người phu quét lá: "Người phu quét lá bên đường. Quét cả nắng chiều quét cả mùa thu" (Ns. Trịnh Công Sơn).
Người phu quét lá, hàng ngày dù mưa dầm hay nắng hạn, vẫn luôn có mặt từ sáng sớm tinh sương trên mọi nẻo đường thành phố để dọn đường sạch sẽ cho ngàn ngàn con người sắp đi qua. Linh mục, mỗi ngày cũng dọn đường tâm hồn cho con người đi đến với Thiên Chúa và để Thiên Chúa đến với con người.
Trong ý nghĩa đó, có thể nói Gioan Tiền Hô cũng là "Người phu quét lá" dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến với nhân loại.
Bước vào Mùa Vọng, chúng ta gặp lại Gioan Tiền Hô, vị ngôn sứ đi trước dọn đường và dọn lòng người để đón Đấng Cứu Thế. Thực thi sứ vụ dọn đường, Ngôn Sứ Gioan luôn gắn bó với Thiên Chúa và sống gần gũi với con người. Lời Chúa, Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa, Gioan nghe đã trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.
Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô. Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3012; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế : ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.
Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: "Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng" (Lc 3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.
Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.
Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.
Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu sứ mạng mới bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đầy và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Ngài lên đường về nhà Cha.
Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Tin Mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo Ngài.
Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo hãy san cho thẳng. Những gì cao cao, cần bạt xuống thấp. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.
Con đường mà Gioan nói tới đây chinh là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thân dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Tâm hồn Mẹ bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.
Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng, tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát... Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.
Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường, thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.
Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.
Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Cả cuộc đời Gioan chỉ một tâm nguyện là làm "Người phu quét lá" dọn lòng người khác cho Chúa đến. Mỗi người chúng ta cũng theo mẫu gương của Gioan trở thành "Người phu quét lá" cho chính tâm hồn mình, cho gia đình mình và rồi cho người khác nữa. Dọn đường cũng chính là lên đường theo Chúa Cứu Thế, cho nên dọn đường cho Chúa vừa là một hồng ân vừa là trách nhiệm đòi hỏi mỗi người thi hành nghiêm túc trong cuộc sống hàng ngày của mình.
25. Chuẩn bị đón mừng Chúa đến.
Nếu bây giờ đi thăm một thành phố lớn, chúng ta sẽ thấy những gian hàng thật lộng lẫy, những cây thông, những ông già Noel và những ánh đèn màu nhấp nháy. Nếu hỏi tại sao, lập tức chúng ta sẽ ghi nhận được câu trả lời:
- Lễ Giáng sinh đã gần tới.
Lễ Giáng sinh đối với nhiều người là một dịp để mua sắm, để tặng quà và để ăn nhậu. Họ tích cực chuẩn bị cho ngày lễ lới, nhưng chỉ là những sự chuẩn bị bên ngoài và mang tính cách phù phiếm. Đối với chúng ta thì khác. Lễ Giáng sinh là ngày chúng ta mừng kính biến cố trọng đại nhất của lịch sử: biến cố con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta, Ngài sinh ra trong yếu đuối như một hài nhi bé bỏng, Ngài sinh ra trong nghèo túng nơi máng cỏ Bêlem.
Là một biến cố trọng đại nhất của lịch sử nhân loại, nên chúng ta không thể không chuẩn bị. Nhưng việc chuẩn bị cần thiết và quan trọng nhất chính là việc chuẩn bị cõi lòng của mình: Hãy gột rửa tâm tư, hãy thanh tẩy con tim. Thế nhưng, nhiều khi chúng ta lại quên lãng sự cần thiết và quan trọng ấy.
Chúng ta chống lại khuynh hướng tục hóa những sự kiện linh thiêng. Sự tục hóa này mỗi ngày một lan rộng trong thế giới hôm nay, nhưng lại chạy theo thời trang, về phe với đám đông để không còn nhận ra sự thật. Chúng ta hô hào trở về nguồn, nhưng lại không hiều trờ về nguồn là như thế nào. Đoạn Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy khuôn mặt của Gioan Tiền hô. Ông vào sa mạc để sống cảnh nghèo túng và khắc khổ: ăn châu chấu với mật ong rừng. Trong chốn hoang vu ấy, ông đã chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Đấng Cứu Thế. Lời ông nói thật thẳng thắn và cứng rắn, không đưa đẩy theo kiểu ngoại giao:
- Hỡi nòi rắn độc, ai sẽ cứu các ngươi khỏi cơn thịnh nộ sắp tới. Hãy đâm bông kết trái theo như lòng thống hối. Cái rìu đã đặt dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
Dân chúng ta thắc mắc về những lời cảnh cáo ấy:
- Vậy chúng tôi phải làm gì?
Và Gioan đã không ngần ngại trả lời:
- Ai có hai áo, hãy chia sẻ cho người không có. Ai có của ăn cũng hãy làm như thế.
Với bọn biệt phái và lính tráng, ông đòi hỏi nơi họ sự thành thật và công bằng. Ông lặp lại lời tiên tri Isaia:
- Hãy dọn đường Chúa đến, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Để ngày Chúa đến đem lại niềm vui mừng và hy vọng, mỗi người chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn, cụ thể là hãy ăn năn sám hối, chạy đến nơi tòa cáo giải và xưng thú mọi tội lỗi để được ơn tha thứ.
Nếu chúng ta khô khan nguội lãnh, hãy xin Chúa giúp chúng ta cảm nghiệm được tình thương Chúa đã dành cho chúng ta qua màu nhiệm Giáng sinh, để rồi chúng ta cũng sẽ quì gối thờ lạy Hài nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem như mẹ Maria và thánh Giuse, như các mục đồng và ba nhà đạo sĩ phương đông. Nếu đầu óc chúng ta còn chất chứa nhiều hận thù, thiên kiến và bè phái, hãy xin Chúa giúp chúng ta biết yêu thương và trở nên anh em của tất cả mọi người. Nếu chúng ta còn nóng nảy, tức tối và giận hờn, hãy xin Chúa giúp chúng ta trở nên hiền dịu và khiên nhường, như chính Chúa đã xác quyết:
- Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường.
Rồi trong những sắm sửa cho ngày lễ Giáng sinh, hãy nghĩ đến những người nghèo khổ, bằng cách dành một ngân khoản nào đó để làm phúc bố thí và giúp đỡ họ, bởi vì Đức Kitô đang ở trong họ, như lời Ngài đã phán:
- Sự gì các con làm cho một kẻ bé mọn nhất là các con đã làm cho chính Ta vậy.
Có chuẩn bị như vậy, thì ngày lễ Giáng sinh mới đem lại cho chúng ta niềm an bình và hanh phúc. Niềm an bình và hạnh phúc ấy các thiên thần đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:
- Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm
26. Lời mời gọi.
Đôi khi chúng ta thinh lặng, trong lúc lẽ ra phải nói, vì chúng ta cho là tôn trọng kẻ khác, không muốn làm cho họ tổn thương và tức giận. Ta hãy nhìn nhận điều này: Ngày nay thật là hiếm hoi những tiếng nói mạnh mẽ, dứt khoát, thúc bách và có uy tín kêu gọi vươn lên; và không những vươn lên mà còn hoán cải nữa.
Ta hiểu rằng bản thân chúng ta có những lý do chính đáng để đừng lên tiếng lớn quá và không trách móc kẻ khác trước khi xem xét đến bản thân mình. Nhưng không được nên ngăn cản Thiên Chúa lên tiếng. Vậy ta hãy lắng nghe Gioan tẩy giả nói nhân danh Ngài và ta hãy tự nhủ rằng những lời của ông nói với mỗi người chúng ta, trước khi nói với những người lân cận ta. Hãy để những người lân cận ta lo công việc họ, còn ta hãy lo công việc mình.
"Hãy dọn đường cho Chúa, hãy san bằng lối đi của Ngài. Hãy hoán cải, hãy vứt đi những gì làm chậm bước tiến của bạn hướng về Chúa. Nếu bạn đã lầm đường, thì hãy trở lui và đi vào con đường đưa tới cõi sống". Đó là những tiếng kêu của Gioan tẩy giả, những tiếng kêu của chính Thiên Chúa. Ta đừng hiểu chúng như những lời kết án nhưng như những lời mời gọi lớn lên. Ta đừng nghĩ rằng những tiếng gọi này được ngỏ với chúng ta để khiến chúng ta u buồn; nhưng chính là để chúng ta được vui mừng mà vị ngôn sứ đã lên tiếng.
Chúng ta đừng để cho mình bị lừa dối. Ta đừng tưởng rằng, bất chấp những gì người ta nói, ta vẫn có thể lớn lên mà không cần cố gắng, ta có thể đạt được những đỉnh cao mà không phải hụt hơi, ta có thể tự chủ và thực hiện những điều lớn lao mà không trầy da tróc vẩy.
Muốn đến với Thiên Chúa, bao giờ cũng phải đấu tranh, hoán cải, liên lỉ tự điều chỉnh và dứt khoát nhắm vào điều chính yếu, không để cho mình bị sao lãng bởi những gì không có giá trị và giả dối.
Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Philipphê: "Tôi xin anh em hãy nhận định những gì là quan trọng nhất". Lời khuyên này thật chí lý vào thời đại ấy, và có lẽ còn thích hợp hơn nữa cho ngày hôm nay khi chúng ta rất thường xuyên và rất dễ dàng bỏ qua những gì thật sự quan trọng và quá chú trọng đến những gì ít hoặc không quan trọng chút nào cả.
Điều quan trọng là hướng về Thiên Chúa, là vì Ngài mà can đảm xua đuổi sự dữ và thi hành điều thiện. Điều quan trọng là dành cho tiền bạc, các thú vui dễ dàng và gây thất vọng, quyền bính và những thứ phô trương bên ngoài vị trí thích hợp cho chúng: vị trí phụ thuộc hoặc rốt hết, hoặc không có chỗ nào hết.
"Hãy san bằng... hãy chỉnh đốn... hãy hoán cải..." không phải dễ đâu! Ta có lý mà lặp lại rằng: Đáp "xin vâng" trước những tiếng gọi của Chúa thật là cam go. Nhưng ta cũng phải nhắc đi nhắc lại rằng lời xin vâng này là nguồn mạch phát sinh niềm vui. Tôi rất thích câu kết thúc đoạn sách Ngôn sứ Baruc mà chúng ta vừa nghe: "Thiên Chúa sẽ dẫn đưa Israel đi trong niềm vui, dưới ánh sáng vinh quang của Ngài".
Việc bước đi hướng về Chúa dù có lúc khó khăn, thậm chí đau khổ nữa, nhưng đó là một cuộc mạo hiểm vui tươi. Làm sao có thể khác được! Thiên Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta là Thiên Chúa của niềm vui. Thiên Chúa Đấng đang đến với chúng ta, là Chúa của niềm hoan lạc. Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta gặp được sau những cuộc hoán cải lớn nhỏ của chúng ta, là Thiên Chúa của niềm vui. Vậy khi để cho Ngài lôi cuốn, khi tìm cách đến với Ngài và chuẩn bị đón tiếp Ngài, ta chỉ có thể bước đi trong niềm vui mà thôi.
Niềm vui được lớn lên, niềm vui được thoát khỏi sự dữ, niềm vui được chiến thắng sự tầm thường, niềm vui được mỗi ngày trở nên con cái xứng đáng hơn của Chúa Cha, niềm vui được yêu mến đến nỗi chịu đau khổ như Chúa Giêsu, Đấng đang đến với chúng ta, đã dạy cho chúng ta.
Người ta thường nói mùa vọng là một mùa sám hối. Đúng vậy, nhưng với điều kiện là ta đừng quên rằng nó cũng là, và đặc biệt là một thời gian của niềm vui. Làm sao không vui khi chúng ta được tiếng gọi của Chúa lôi cuốn?
27. Tiếng kêu
Một khuôn mặt quen thuộc của Mùa vọng đó là khuôn mặt của thánh Gioan tiền hô. Thánh Luca trong bài Tin mừng hôm nay đã viết: "Có tiếng người kêu trong hoang địa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng".
Tiếng người kêu trong hoang địa ấy là của thánh Gioan tiền hô. Và con đường mà Người nhắc tới không phải là một con đường trong không gian, nhưng là con đường nội tâm của mỗi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Con Thiên Chúa làm người. Sửa đường cho Chúa đến là điều cần thiết và hợp lý. Bởi khi đón tiếp một vị khách quí, người ta thường sửa sang đường sá, quét dọn những nơi vị khách sẽ đi qua, trang trí đẹp đẽ tại những nơi vị khách sẽ đến. Làm như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách.
Thiên Chúa là một vị khách cao cả không ai sánh bằng. Người đã hạ cố đến thăm và ở lại sống với những thần dân thấp hèn của Người. Vậy mà Người chẳng được đón tiếp như Người đáng được. Thánh Gioan thánh sử đã viết: "Người đã đến nhà Người, nhưng người nhà đã không chịu đón tiếp Người". Vì thế mà lời kêu gọi của thánh Gioan tiền hô trở thành một tiếng kêu trong sa mạc. Tiếng kêu trong sa mạc là tiếng kêu không có người nghe, là tiếng kêu vang vọng vào không trung rồi bay đi, bởi sa mạc là nơi hoang vắng, nơi không có người để tiếp nhận tiếng kêu.
Không phải chỉ dân Do thái ngày xưa không chịu đón tiếp Con Thiên Chúa làm người. Con người thời đại hôm nay cũng thế. Trong thời đại hôm nay, Lời Chúa đã được Hội thánh loan báo không phải ở trong sa mạc nhưng ở nơi đô hội, ở chốn đông người, vậy mà lời loan báo ấy cũng không khác gì tiếng kêu trong sa mạc. Có nhiều thứ sa mạc ở nơi chính cõi lòng con người hôm nay:
- Sa mạc của sự lãnh đạm, thờ ơ. Rất nhiều người đã sống như thể không có Chúa và không cần Chúa. Đối với những người này thì sống như vậy sẽ thoải mái hơn nhiều, bởi họ có thể tự do làm mọi sự theo ý mình, theo sự thúc đẩy của bản năng mà không có gì khuấy động lương tâm làm họ phải day dứt cả. Tin Chúa chỉ bận lòng thêm thôi.
- Sa mạc của sự vô cảm về mặt tâm linh và luân lý. Đối với nhiều người, Thiên Chúa của họ là cái bụng, là tiền bạc, là danh vọng, là lạc thú xác thịt. Bận tâm duy nhất của họ là làm sao kiếm cho thật nhiều tiền bằng bất cứ cách nào. Và khi đã có tiền trong tay thì họ tìm cách để hưởng thụ. Hưởng thụ trong vấn đề ăn uống. Hưởng thụ trong vấn đề nhục dục... Ngoài ra không còn gì nữa cả. Không còn niềm tin, không còn luân thường đạo lý, không còn lương thiện, không còn đạo đức, không còn nhân phẩm, không còn nhân ái, không còn vị tha, không còn công bình, không còn trung tín...
Chính vì vậy mà Lời Chúa vẫn mãi mãi chỉ là những tiếng kêu trong sa mạc. Chính vì thế mà giữa Thiên Chúa và con người không có đường để đi đến với nhau. Mà nếu có thì cũng chỉ là những con đường đầy thung lũng, đầy vực thẳm, đầy núi cao không thể vượt qua được.
Điều cần suy nghĩ và tự vấn lương tâm là: ta có mặt trong số những người sống như trên không?
Thiên Chúa đang ân cần kêu gọi ta trong từng khoảnh khắc của cuộc sống. Chúng ta có nghe thấy tiếng Người hay không?
28. Hãy dọn đường.
Năm cùng tháng tận, chúng ta sắp giã từ một năm cũ. Cũng như mọi năm, tôi có cảm tưởng là trước khi lật sang trang sử mới, con người ghi vội vào cuối trang sử cũ một vài nghĩa cử để nói lên thiện chí của mình, cũng như để bày tỏ niềm hy vọng về cuộc sống ấm no hạnh phúc, một cuộc sống được xây dựng trên nền tảng của công lý và hòa bình.
Một trong các nghĩa tử ấy là việc phóng thích các người bị giam cầm, như việc trả lại tự do cho các con tin Tây phương bên Trung đông chẳng hạn. Quả tim của con người không khỏi bị giao động khi nhìn thấy trên màn ảnh truyền hình những gương mặt hớn hở hân hoan của những người được trả lại tự do. Hay những nụ cười hòa lẫn nước mắt của họ và của những người thân thương của mình trong những giây phút hội ngộ. Đối với những người bị bắt làm con tin ấy cũng như đối với những ai bị giam cầm ở bất cứ nơi nào dưới hình thức nào đi chăng nữa, thì sự phóng thích mang một ý nghĩa của một kinh nghiệm mãnh liệt về sự tự do. Khung cảnh sống bị giới hạn trong bốn bức tường chật hẹp của nhà giam bây giờ là cả một bầu trời rộng thênh thang, cuộc sống tưởng chừng như bị bóp nghẹt, giờ đây có thể được phát triển với bao dự án, bao hy vọng, bao giấc mơ. Tương lai dường như bị chặn đứng giờ đây lại được tự do tiến tới.
Chúa nhật thứ II mùa vọng của phụng vụ năm C cũng có thể gọi được là "Chúa nhật giải phóng". Với những hình ảnh tràn đầy hân hoan trong bài đọc 1 nơi ngôn sứ Baruk diễn tả công việc Thiên Chúa giải phóng và đưa dân Chúa từ một cuộc sống đau khổ lầm than trở về quê cha đất tổ của họ trong vui mừng và trong vinh dự.
Rồi trong bài Phúc âm, thánh Gioan tẩy giả tiếp tục rao truyền Tin mừng giải phóng và lập lại lời kêu gọi của ngôn sứ Baruk: "Hãy sửa đường cong queo cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi làm cản trở công việc hồi hương của dân Chúa và gây chướng ngại cho Đấng Cứu Thế đến ở giữa dân người để giải phóng và cứu rỗi họ". Nhưng làm sao mọi người cảm thấy Thiên Chúa thực sự đến tại đây và trong lúc này để giải thoát họ không những hoàn cảnh lúc họ đang sống, và làm thế nào để mọi người có thể cảm nghiệm rằng thánh Gioan tẩy giả vẫn còn đang tiếp tục rao giảng về sự ăn năn thống hối để chuẩn bị cho ngày Chúa đến mà tất cả mọi người chúng ta trong Chúa nhật hôm nay cũng đang hướng về ơn cứu độ.
Câu trả lời cho hai vấn nạn trên nằm trong ý nghĩa của mùa vọng, bởi lẽ mùa vọng không phải là đợi chờ một biến cố đã xảy ra trong quá khứ xưa, mùa vọng càng không phải là mùa đợi chờ để mừng kỷ niệm Giáng sinh như mừng sinh nhật của Đức Giêsu diễn ra cách đây hơn 2000 năm. Không! Mùa vọng phải là mùa chuẩn bị tích cực để Thiên Chúa qua Đức Giêsu đến giải phóng và cứu rỗi mọi người trong hoàn cảnh cụ thể của ngày hôm nay. Đó là lý do tại sao thánh sử Luca ghi thật rõ ràng niên lịch và nhân vật lịch sử làm bối cảnh chính trị của một biến cố Ngôi hai giáng trần.
Hoàng đế Rôma thống trị khắp vùng Trung đông, Palestine bị lực lượng ngoại xâm chiếm đóng. Giuđêa nằm dưới quyền cai quản của quan trấn thủ Phongxiô Philatô, còn các vùng khác được trao cho các tay sai của hoàng đế Rôma giám quản. Cả tình trạng tôn giáo cũng bị lũng đoạn, vị Anna và Caipha đã cố gắng dung hòa giữa tôn giáo và chính trị để giữ vững địa vị thượng tế của mình. Trong bối cảnh chính trị, xã hội và tôn giáo đen tối ấy, Thiên Chúa đã bắt đầu hành động, qua đó một lần nữa Thiên Chúa chứng tỏ rằng công cuộc giải phóng và cứu rỗi của Người không phải được diễn ra trên trời, nhưng thực sự được diễn tiến trên mặt đất, giữa con người và trong dòng lịch sử. Quả thật, Thiên Chúa đã bắt đầu cuộc giải phóng để mang ơn cứu rỗi cho con người qua lời kêu gọi và rao giảng của thánh Gioan đã được Chúa Giêsu trao phó cho ngài để dọn đường cho Chúa đến và chuẩn bị cho chúng ta đón nhận ngày Chúa đến.
Để chu toàn sứ mệnh Thiên Chúa trao phó, thánh Gioan tẩy giả đã đi vào sa mạc hoang vắng. Thánh Gioan muốn lôi kéo các thính giả của ngài và lôi kéo chúng ta ra khỏi nếp sống bon chen thường nhật, ra khỏi những lo lắng hằng ngày, ra khỏi những thói quen tật xấu, những đam mê và ra khỏi con người cũ để đi vào sa mạc vắng vẻ là nơi con người dễ dàng gặp gỡ Thiên Chúa. Và cuộc gặp gỡ Thiên Chúa đúng nghĩa nào cũng phơi bày con người thật và biết sống thật của mỗi cá nhân.
Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa đích thực nào cũng kêu mời con người phải ăn năn, phải thống hối, có nghĩa là kêu mời con người trở về với Thiên Chúa. Vì thế, sau thời gian vào hoang địa để gặp gỡ Thiên Chúa, để biết rõ con người và nếp sống thật của mình, thánh Gioan tẩy giả hướng dẫn chúng ta trở về cuộc sống hằng ngày, xuyên qua dòng sông Jordan để lãnh nhận phép rửa thống hối là dấu chỉ bên ngoài của một quyết định nội tâm dứt khoát trở về với Chúa. Một Thiên Chúa từ thuở tạo thiên lập địa đã luôn gắn liền lời nói với hành động.
Vì thế, công cuộc thống hối đúng nghĩa của con người không thể chỉ diễn ra bằng lời nói: "Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói và việc làm...", nhưng phải kèm theo những hành động cụ thể, những hành động cụ thể này đã được thánh Gioan loan báo hôm nay: "Hãy dọn đường Chúa đến". Hãy sửa đường cong queo của tinh thần vô trách nhiệm, của lòng ích kỷ, của tính hay mánh mung lừa đảo bằng những con đường ngay thẳng của tinh thần liên đới, chia sẻ, thật thà, biết tôn trọng sự thật. Hãy lấp mọi hố sâu của chia rẽ hận thù, của thiên kiến nghi kỵ bằng sự khoan dung tha thứ, bằng sự tin tưởng thiện chí và tin tưởng vào khả năng của nhau. Hãy bạt mọi núi đồi của lòng kiêu hãnh, của óc địa phương bằng tinh thần khiêm nhu, và biết đặt công ích lên trên quyền lợi của cá nhân, quyền lợi của đảng phái. Hãy san bằng những con đường bi quan yếm thế của những thất vọng, của những ngày đen tối, của những lỗi lầm trong quá khứ bằng những cái nhìn tích cực, lạc quan tràn đầy hy vọng nơi chính mình, nơi kẻ khác và nơi cuộc sống. Đó là những hành động cụ thể, những điều kiện cần phải thực hiện trong ngày Chúa đến, thực hiện trong ngày giải phóng và cứu rỗi của Người, xây dựng trên công lý, hiệp nhất hòa bình và tình thương giữa lòng xã hội của ngày hôm nay.
Vậy! Bạn và tôi sẽ làm gì trong mùa vọng năm nay để chung tay đẩy mạnh tiến trình giải phóng và cứu rỗi của Thiên Chúa trong gia đình, trong làng xóm, trong giáo xứ và trong xã hội chúng ta đang sống?
29. Sám hối và dọn đường
(Anmai)
Chúng ta vừa nghe niềm vui của dân Do Thái khi họ được thoát khỏi cảnh tù đày qua tâm tình của Thánh Vịnh 135:
Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về,
chúng tôi dường như người đang mơ,
bấy giờ miệng chúng tôi vui cười,
lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.
Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng:
Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng.
Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi,
nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng con,
như những dòng suối ở miền nam.
Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.
Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo.
Họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.
Họ cứ ngân nga mà hát với nhau: Chúa đối xử đại lượng với chúng tôi nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. Cũng bình thường thôi vì Thiên Chúa luôn luôn yêu thương dân của Ngài và Ngài cũng muốn cứu độ dân của Ngài chứ Ngài có bao giờ bỏ rơi.
Lời hứa cứu độ đó tự ngàn xưa và cứ tiếp nối từ người này qua người khác, từ ngôn sứ này đến ngôn sứ kia.
Hôm nay chúng ta cũng bắt gặp lời hứa của Chúa qua môi miệng của ngôn sứ Baruc:
Hỡi Giêrusalem, hãy cởi áo tang chế và sầu khổ của ngươi, hãy mặc lấy sự huy hoàng và vinh quang đời đời của Chúa mà Chúa ban cho ngươi. Chúa sẽ mặc cho ngươi áo công lý, và đặt vương miện vĩnh cửu trên đầu ngươi. Vì chưng, Chúa sẽ tỏ bày huy hoàng của Chúa trong ngươi cho mọi kẻ trần gian. Vì Thiên Chúa sẽ đời đời gọi tên ngươi là Hoà bình trong công lý và Vinh dự trong hiếu nghĩa.
Hỡi Giêrusalem, hãy chỗi dậy, đứng nơi cao, và nhìn về hướng đông. Hãy nhìn con cái ngươi từ đông sang tây họp lại theo lệnh của Ðấng Thánh, họ hân hoan thấy Chúa nhớ đến họ. Họ bị quân thù dẫn đi xa ngươi, nhưng Chúa đã đem họ về cho ngươi trong vinh dự như các hoàng tử. Vì Chúa đã ra lệnh triệt hạ mọi núi cao và mọi đồi từ ngàn xưa, lấp đầy những hố sâu, để trái đất được bằng phẳng, hầu Israel vững vàng bước đi cao rao vinh quang Thiên Chúa.
Theo lệnh Chúa, những cánh rừng, những cây có hương thơm, đã cho Israel núp bóng, vì Chúa sẽ hân hoan lấy lòng từ bi và công bình của Người dẫn dắt Israel đến ánh vinh quang.
Thế đó, Thiên Chúa, Đức Chúa sẽ tỏ ánh huy hoàng, tỏ ơn cứu độ của Ngài xuống dân Israel.
Thế nhưng, chuyện quan trọng hơn cả đó là mặc lấy tâm tình gì để đón ơn cứu độ?
Dân Do Thái cứ lầm lũi trong tội lỗi của mình, cứ lầm lũi trong sự cứng đầu của mình để rồi không chuẩn bị cho mình một tâm tình đón ơn cứu độ.
Để chuẩn bị cho Đấng Cứu Độ - Con Thiên Chúa đến trần gian, Thiên Chúa đã tiên báo để cho mọi người dọn đường. Bằng chứng hết sức cụ thể là có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, trong hoang địa.
Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia rằng: "Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Không cần phải nói nhiều hay giải thích nhiều. Chuyện hết sức đơn giản là để đi từ điểm này đến điểm nọ, chúng ta cần có một con đường thẳng để mà đi. Nếu gặp hố sâu, nếu gặp núi đồi và gặp đường quanh co thì không thể nào ta đi được.
Hôm nay, Gioan cũng mời gọi chúng ta là chúng ta cũng phải sửa con đường nhà chúng ta để Chúa đến. Gioan không muốn nhắm đến con đường đi nhưng Gioan muốn nhắm đến cõi lòng, nhắm đến tâm hồn của chúng ta.
Nếu như cõi lòng chúng ta còn qúa nhiều đố kỵ, hờn ghe, kiêu căng, thù oán ... e rằng Chúa hay nói khác đi là Đấng Cứu Độ không thể nào đến với chúng ta được.
Với lời mời gọi của Gioan, trong tâm tình chờ Chúa đến, mỗi người chúng ta hãy đặt mình trước mặt Chúa và xin Chúa thương giúp chúng ta nhìn ra con người thật của chúng ta và xin Chúa cũng thương chữa lành mọi vết thương trong tâm hồn chúng ta. Để có thể đến lúc Chúa đến với chúng ta, chúng ta có một tâm hồn ngay thẳng, có một tấm lòng sạch trong để mời Chúa đến vào trong tâm hồn chúng ta.
30. Tiếng kêu trong hoang địa
(AM Trần Bình An)
Vua Hêrôđê không thể làm điều gì có thể khiến ông được thần dân Giuđê yêu mến, ngay cả việc chi tiền không tiếc cho công trình xây Đền Thờ. Người ta không bao giờ quên ông là người gốc Êđôm. Nếu ông là một người Giuđa về mặt tôn giáo, đã xây lại Đên thờ Giêrusalem, thì điều đó cũng không ngăn ông xây dựng các đền thờ cho các thần ngoại giáo khắp nơi. Trên hết, việc ông tiêu diệt dòng dõi Hasmonaean là điều không thể tha thứ được.
Trên thực tế, hành động thẳng tay này đã không chấm dứt được những bất ổn trong hoàng gia. Có sự xích mích giữa họ hàng bên ngoại với những người vợ của ông, và giữa những người con của các bà vợ. Hai người con của ông và Mariamne, là Alexander và Aristobulus, được dưỡng dục tại La Mã, và được chọn làm thừa kế. Chúng vốn thuộc dòng dõi Hasmonaean (họ mẹ) nên được dân Giuđa chấp nhận. Nhưng sự ưu ái đó làm những anh em khác mẹ ghen tỵ, đặc biệt là Antipater, con cả của Hêrôđê, đã quyết tâm gieo cho cha mình ý tưởng chống lại họ. Cuối cùng, năm 7 TCN, họ bị khép vào tội âm mưu chống lại cha và bị xử tử. Antipater cũng chẳng lợi lộc gì từ cái chết của hai em. Ba năm sau ông cũng là nạn nhân của sự nghi ngờ của vua cha, và đã bị xử từ, chỉ vài ngày trước khi Hêrôđê băng hà, năm 4 TCN.
Bản chất đa nghi của Hêrôđê được minh chứng bằng chuyến thăm viếng của ba vua, và các hài nhi Bêlem bị giết hại. Bất cứ tin đồn nào về sự dấy lên của một vị vua dân Giuđa cũng làm ông sợ hãi tột cùng. Sự nghi ngờ này đã lên đến mức điên cuồng. Hậu quả là Hêrôđê được nhớ đến qua cơn cuồng sát hài nhi, hơn là vì khả năng cai trị. (Flavius Josephus, Ant, A.H.M. Jones, The Herods of Judea)
Trước bối cảnh lịch sử máu me ghê tởm, tràn đầy những âm mưu, thù hận, nghi kỵ, hãm hại, giết chóc, từ nội tình lãnh đạo đế quốc La Mã đến hoàng gia chư hầu Giuđa, Israel, thì ngôn sứ Gioan Tiền Hô xuất hiện như một niềm hy vọng giải phóng dân Israel khỏi lầm than.
Trong khi quyền lực thế gian tập trung trong tay các hoàng tộc kiêu căng, độc đoán, gian manh, ác độc thì lịch trình Cứu Độ của Thiên Chúa lại khởi sự từ sự khiêm nhường, nhân ái, tràn đầy tình yêu.
Chúa nói trong nơi thinh lặng
Chính trong hoang địa, chứ không phải tại đền đài cao sang, ồn ào, nguy nga, tráng lệ, Thiên Chúa phán dạy, trao sứ vụ cho ông Gioan, vốn là con của hai người công chính, thầy tư tế Dacaria và bà Êlisabet. Chúa gần gũi thân mật với người thành tâm nơi cô tịch. Ngài không khoe khoang, không quảng cáo, không tiếp thị nơi phồn hoa, đô hội. Chúa luôn ẩn dấu trong mọi sự, dưới nhiều sự kiện, trong mọi biến cố, mà chỉ thổ lộ tâm tình trong cô liêu, tĩnh lặng.
Ông Gioan theo gương Chúa, cũng đi rao giảng trong hoang địa, cũng chẳng chọn nơi phố xá đông đúc, thị tứ xô bồ, náo nhiệt, ô nhiễm, ồn ào. Thế nhưng, bấy giờ người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giô đan, kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giô đan. (Mt 3, 5)
Do vậy, sẽ thất vọng khi tìm nghe tiếng Chúa nói với mình trên làn sóng radio, TV, trên báo chí, truyền thông, hoặc trên internet. Tất cả những phương tiện đó, nếu có, chỉ là tiếng vang vọng của Chúa. Bởi vì Chúa chỉ nói muốn chuyện tay đôi trong thinh lặng, tĩnh mịch, khi chúng ta giũ bỏ được mọi lo toan, đam mê, hay dục vọng thấp hèn.
Chúa nói cho tâm hồn khiêm nhu
Phần đầu bài Tin Mừng hôm nay có hai ý nghĩa. Trước hết ý nghĩa lịch sử về thời điểm Chúa Giêsu đến thế gian. Ý nghĩa thứ hai, chương trình cứu chuộc của Chúa hoàn toàn trái ngược với khuynh hướng thế gian. Không cần uy lực, không cần vinh quang phù du, không cần bá quyền, lẫn vương quyền. Ngài chỉ dùng đến con người tầm thường, nhỏ bé, khiêm hạ, nhân ái, để loan truyền Ơn Cứu Độ.
Vì thế, Chúa phán truyền sứ vụ cho ông Gioan Tiền Hô, khiêm tốn, ẩn dật trong hoang địa, ăn mặc xuềnh xoàng thô thiển, không khoác áo da thú đắt điền, như quý bà giàu sang bây giờ, không ăn ngon thỏa thuê, thừa mứa như các đại gia, thừa bạc lắm tiền, mà chỉ chay tịnh chấu chấu và mật ong rừng.
Chúa kêu gọi cải tà quy chánh
Khi nêu ra các hoàng gia đương thời, qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Lời Chúa muốn nhắc nhở chúng ta, đừng bắt chước, học đòi những thủ đoạn dã tâm của họ, để củng cố địa vị, để hưởng giàu sang phú quý, mà chà đạp, hay hãm hại người khác.
Trái lại, phải dọn đường cho thẳng, công tâm, chánh trực, phải lấp đầy thung lũng ham muốn, tham lam chức tước, của cải, tiện nghi, phải bạt cho thấp núi đồi kiêu căng, cao ngạo, tự phụ, tự cao, tự đại, phải uốn cho ngay khúc quanh co gian tà, lưu manh, dối trá, phải san cho phẳng đường lồi lõm, đam mê, hưởng lạc thú vui xác thịt..., mới có thể nhận ra Chúa đang đến, mà hưởng được Ơn Cứu Độ.
"Canh tân không phải chỉ đổi nước mã bên ngoài, đổi một số nghi thức cho ngoạn mục...Thánh Phaolô nói rõ: Hãy cởi con người cũ, mặc lấy người mới, là Chúa Giêsu." (Đường Hy Vọng, 635)
Lạy Chúa Giêsu, hãy cho con thoát ra khỏi tiếng ồn ào, huyên náo danh lợi, cám dỗ xác thịt, để nghe được tiếng Thánh Gioan Tiền Hô kêu gọi canh tân đổi mới.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết ăn năn, sám hối, cũng như khiêm nhường, vâng phục và phó thác noi gương Mẹ, để có thể đón mừng Chúa đến. Amen.
31. Gioan Tẩy Giả rao giảng
(Lm. PX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Giai đoạn đầu của công cuộc rao giảng của Đức Giêsu được khoanh vùng rõ ràng. Giai đoạn này gồm một loạt các dấu chỉ loan báo và một khối tường thuật các việc Đức Giêsu làm và các lời Người nói tại Galilê. Kể từ 9,51, Đức Giêsu mới đi ngang qua Samari mà tiến lên Giêrusalem.
Tác giả Luca đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn giáo của đế quốc Rôma và của Israel. Qua cái cổng này, ngài lấy lại cái chặng của Tin Mừng Máccô: Gioan Tẩy Giả (3,1-20), phép Rửa và việc Thánh Thần ngự xuống (3,21-22), Cám dỗ (4,1-13). Giữa phép Rửa và Cám dỗ, ngài ghép gia phả của Đức Giêsu vào (3,23-28).
Đoạn 3,1-6 là phần mở chính thức củaTin Mừng Luca.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh chính trị và tôn giáo (3,1-2a);
2) Hoạt động của Gioan Tẩy Giả (3,2b-3);
3) Lời bình của tác giả theo Is40,3-5 (3,4-6).
3.- Vài điểm chú giải
- Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô (1): Hai câu đầu của đoạn văn khiến ta vừa nhớ đến các lời tựa của các sử gia Hy Lạp (Thucydide, Polybe ...) vừa nhớ đến mở đầu sách Giêrêmia(1,1-2 LXX). Điều này gợi ý là tác giả Lc có ý viết trong tư cách sử gia, và cũng gợi lên ý nghĩa thánh thiêng của biến cố ngài khám phá ra nơi biến cố ông tường thuật. Ngài nêu lên nhiều điểm quy chiếu liên kết biến cố này với lịch sử thời ngài: khi lần lượt kể ra hoàng đế Rôma, tổng trấn của hoàng đế, ba tiểu vương và hai thượng tế,ngài nêu bật tính long trọng đặc biệt của sự kiện.
Là chúa tể thế giới thời đó, hoàng đế Tibêriô kế vị hoàng đế Augúttô ngày 19-8-14 kỷ nguyên chúng ta (năm 767 của Rôma). Vậy "năm thứ mười lăm" có thể chạy từ 19-8-28 đến 18-8-29. Nhưng đa số các nhà phê bình hiện nay cho rằng tác giả Lc tính các năm trị vì của hoàng đế theo kiểu người Xyri, mà với họ, năm dân sự bắt đầu vào ngày 1-10. Như thế, họ xác định năm đầu của triều Tibêriô đi từ 19-8 đến 30-9-14, còn năm thứ mười lăm thì đi từ ngày 1-10-27 đến 30-9-28. Khoảng thời gian này phù hợp với thời gian được ghi trong Ga 2,20 là câu đặt lễ Vượt Qua đầu tiên thuộc sứ vụ của Đức Giêsu vào mùa xuân năm 28.
- Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê (1): Ông này làm tổng trấn Giuđê từ năm 26 đến năm 36. Các tác giả Do Thái nhận định ông là con người "không khoan nhượng và tàn nhẫn" (đây là câu vua Hêrôđê Ácríppa I viết trong thư gửi cho hoàng đế Caligula, được Philon ghi lại, Legatio ad Caium, 38); còn các Tin Mừng thì vĩnh viễn nối kết ông với cuộc xử án Đức Giêsu (Tacite cũng làm như thếtrong các Annales, III, 15,44). Ông cai trị miền Giuđê, Bắc Samari và Nam Iđumê.
- Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê (1): Ông là con của Hêrôđê đại đế, có tên là Antipa, đã được làm tiểu vương cai trị miền Galilê và Pêrê sau khi vua cha qua đời, vào năm 4 tr CG. Ông chỉ lấy tên Hêrôđê sau khi đã hạ bệ anh là Áckhêlao vào năm 6 CN. Ông xuất hiện nhiều lần trong các Tin Mừng: như là ngườiđã giết Gioan Tẩy Giả (Mt 14,3-12; Mc 6,17-29; x. Lc3,19-20), rồi như là đối thủ của Đức Giêsu (Mc 6,14-16; Lc13,31-32; 23,6-12). Cuối cùng ông sẽ bị hoàng đế Caligula đưa đi lưu đày bên xứ Gôn, vào năm 39, sau khi bị cháu là Hêrôđê Ácríppa I tố cáo.
- Philípphê làm tiểu vương miên Iturê và Trakhonít: Ông là người con khôn ngoan nhất trong số tất cả các con của Hêrôđê đại đế. Triều đại bình an của ông kéo dài từ năm 4 tCN đến khi ông chết vào năm 34 CN. Thật ra ông cai trị tất cả vùng đông bắc hồ Tibêriát (miền Gaulanít, Batanêa, Trakhonít, Auranít và vùng Panêa, nơi ông đã xây dựng kinh đô với tên Xêdarê Philípphê: x. Mt 16,13; Mc 8,27). Tác giả Lc cố tình kể tên những miền đất ít có người Do Thái nhất, tức là tượng trưng cho lãnh địa ngoại giáo.
- Lyxania làm tiểu vương miền Abilên: Chỉ có một Lyxania, vua dân Iturê ở Khanxi, bị đại tướng Antôniô giết vào năm 36 tCN để trừng phạt ông đã liên minh với người Pácti. Vị tiểu vương mờ nhạt này với miền đất xa lạ với Paléttina được tác giả Lc nhắc đến có lẽ do những lý do sau: 1) Lc thích các cấu trúc song đối và danh hiệu "tiểu vương" (tetrarchês, trongđó có tetras, "ngày thứ tư trong tháng") hẳn đã gợi ý cho ông giới thiệu ra ở đây bốn miền đất lân cận; 2) Lý do lịch sử: vào lúc TM Lc được viết, tức năm 80-85, lãnh thổ của Lyxania đã thuộc về một ông hoàng Do Thái (Hêrôđê Ácríppa II, trị vì từ năm 53 cho đến cuối thế kỷ, kế vị vua cha là Hêrôđê Ácríppa I, trị vì từ năm 37 đến năm 44). 3) Nhưng có lẽ lý do chính là lý do thần học: miền Giuđê của quan Philatô và miền Galilê của vua Hêrôđê là đất của Dân Thiên Chúa, còn các miền đất của các tiểu vương Philípphê và Lyxania là đất Dân ngoại. Khi nêu ra bốn lãnh địa này vào khởi đầu Tin Mừng của Đức Giêsu, Lc gợi ý là việc loan báo ơn cứu độ liên hệ đến người Do Thái lẫn Dân ngoại. Thật ra ý hướng này cũng được diễn tả ra trong việc nhắc đến song đối hoàng đế ngoại giáo và vịthượng tế của Dân Thiên Chúa, ở đầu và cuối danh sách này.
- Khanan và Caipha làm thượng tế (2): Công thức này gây ngạc nhiên do chỗ gán danh hiệu thượng tế cho hai nhân vật, có tên tuổi rõ ràng, mà trong thực tế chức vụ này chỉ luôn luôn được thực thi bởi một người mà thôi. Ở đây, tác giả Lc muốn nói lên một hoàn cảnh có thật. Khanan đã được Quiriniô đặt làm thượng tế vào năm 6 CN, và chín năm sau, vào năm 15, bị Valerius Gratus truất phế. Nhưng do chỗ các tổng trấn Rôma cho năm con trai và con rể Caipha của ông kế vị, ta hiểu ông vẫn có một uy tín đặc biệt nơi giới tư tế và dân chúng. Dường như chính ông mới là người lãnh đạo cộng đồng Do Thái dưới các đời thượng tế sau ông. Các tác giả Tân Ước gán cho ông một vai trò quan trọng trong việc thẩm cứu vụ án Đức Giêsu (Ga 18,13-24).
Caipha là thượng tế từ năm 18 đến năm 36. Vai trò của ông trong cuộc xét xử Đức Giêsu đã được Mátthêu (26,3.57.63-65) và Gioan (11,49; 18,24-28) ghi lại. Trong vụ án này cũng như trong mọi sinh hoạt của ông, hẳn là ông làm việc hài hòa với và dưới ảnh hưởng của nhạc phụ.
- Công bố một phép rửa sám hối hướng tới ơn tha tội (3): Lời công bố này nối dài lời rao giảng của các ngôn sứ Cựu Ước: y như vị Tẩy Giả, các ngôn sứ đã kêu gọi dân Thiên Chúa"trở lại" với Đức Chúa của mình bằng cách đoạn tuyệt với tội lỗi. Nét mới mẻ đầu tiên của Gioan là đóng ấn sự hoán cải này bằng một phép rửa. Nhưng ông còn thêm vào một nét mới thứ hai: ông chỉ ban phép rửa này một lần mà thôi, bởi vì Cuộc Phán Xét đang đến gần (Lc3,7-9.17); chỉ còn chỗ cho một cuộc hoán cải duy nhất mà thôi để được ơn cứu độ (x. Gr 31,31; Ed 36,25). Phép rửa của Gioan không phải là phép rửa Kitô giáo có khả năng xóa tội (Cv 2,38; 22,16): "Đấng mạnh thế hơn ... sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa"(3,16). Vai trò chính yếu của Gioan là "bảo cho dân Chúa biết rằng Chúa sẽ tha thứ mọi tội khiên" (1,77). Do đó dịch "hướng tới ơn tha tội" thì tốt hơn là dịch "để được ơn tha tội".
- như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia (4): So với các tác giả Tin Mừng khác, Lc nối dài bản văn trích để nêu bật những yếu tố ngài coi là quan trọng. Trước tiên là Is 40,3 (x. Lc 3,5) giúp Lc nhắc lại mối quan tâm của ngài đối với việc đề cao những người nghèo hèn và hạ thấp những kẻ kiêu căng (Lc 1,52; 14,11; 18,14). Nhưng nhất là Is 40,5 (Lc 3,6) mới là mối quan tâm chính của ngài: loan báo ơn cứu độThiên Chúa muốn ban cho "mọi xác phàm".
4.- Ý nghĩa của bản văn
Sau hai chương tác giả Lc dành cho cuộc chào đời và thời tơ ấu của Đức Giêsu, hai chương dầy đặc những quy chiếu về Cựu Ước, nay độc giả gặp lại Gioan Tẩy Giả ra đi thi hành sứ mạng.
- Hoàn cảnh chính trị và tôn giáo (1-2a)
Chương 3 bắt đầu bằng một cái nhìn chăm chú vào lịch quốc tế, quốc gia và địa phương. Năm của triều đại hoàng đế, của quyền lực dân sự và quyền lực tôn giáo được nêu ra. Với khởi đầu long trọng này, độc giả được lưu ý là các biến cố được kể ra ở đây, tuy có màu sắc hoàn cảnh địa phương, đặt bên cạnh biên cương đế quốc, thật ra có một sắc thái vũ hoàn. Chi tiết quy chiếu về hai tên Thượng Tế có hàm ẩn một chút châm biếm tế nhị: trên ngai là Caipha, nhưng người vẫn điều khiển là Khanan, cha vợ ông.
Sau phần dẫn nhập lịch sử, tác giả Lc dùng giọng văn long trọng để giới thiệu Gioan: "Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa" (c. 2b). Bản văn giới thiệu ơn gọi ngôn sứ của Gioan Tẩy Giả. Nhưng do giọng long trọng, ta cảm được là bản văn này muốn đi xa hơn vị Tẩy Giả. Bên kia vị Tiền Hô, tác giả loan báo Đức Giêsu và đặt Người vào giữa lòng lịch sử nhân loại. Chúng ta khẳng định được như thế nhờ một số những nhận xét: 1) Thật đáng ngạc nhiên là tác giả đã dành nhiều quy chiếu về lịch sử như thế để mở đầu hoạt động của Gioan, mà lại không nói gì để định vị cho hoạt động của Đức Giêsu (3,21), mà chắc chắn Đức Giêsu mới là nhân vật trọng yếu. Ta giải thích được sự bất thường này khi nhớ rằng ngay từ đầu Tin Mừng, tác giả đã bàn về Gioan và Đức Giêsu song song và liên đới với nhau. 2) Việc liệt kê ra hoàng đế, tổng trấn và các tiểu vương chỉ thật sự cần thiết nếu hướng về cuộc xuất hiện của Đức vua Giêsu. 3) Tác giả Lc trích sấm ngôn Is 40 như các tác giả Tin Mừng khác để đưa lại ý nghĩa cho sứ mạng của Gioan. Nhưng khi kéo dài câu trích cho tới tận lời loan báo sự tỏhiện của ơn cứu độ của Thiên Chúa, ngài cho thấy rằng trước tiên ngài nghĩ tới cuộc xuất hiện của Đức Giêsu.
Ở đây khi nêu tên vị chúa tể ngoại giáo của thế giới, cũng như vào dịp Đức Giêsu giáng sinh, khi nhắc đến hoàng đế Âugúttô (2,1), tác giả Lc giữ thói quen đặt vương quốc trần gian đối diện với Vương quốc của Thiên Chúa đã đến nơi Đức Giêsu.
Còn lý do chính là lý do thần học: Miền Giuđê của quan Philatô và miền Galilê của vua Hêrôđê là đất của Dân Thiên Chúa, còn các miền đất của các tiểu vương Philípphê và Lyxania là đất Dân ngoại. Khi nêu ra bốn lãnh địa này vào khởi đầu Tin Mừng của Đức Giêsu, tác giả Lc gợi ý là việc loan báo ơn cứu độ liên hệ đến người Do Thái lẫn Dân ngoại. Thật ra ý hướng này cũng được diễn tả ra trong việc nhắc đến song đối hoàng đế ngoại giáo và vị thượng tế của Dân Thiên Chúa, ở đầu và cuối danh sách này. Còn khi nhắc đến cả Khanan lẫn Caipha, tác giả Lc cho hiểu rằng thực quyền nằm nơi thượng tế đã bi truất phế.
- Hoạt động của Gioan Tẩy Giả(2b-3)
Giọng văn của c. 2b rất cổ, như kiểu giới thiệu một ngôn sứ thời Cựu Ước. Có lẽ tác giả Lc đã cảm hứng từ Cựu Ước và đặc biệt từ ơn gọi của các ngôn sứ (x. Is 1,1; Gr 1,1-3; Hs 1,1; Ed 1,2). Gr 1,1 LXX). Như thế,với việc Gioan Tẩy Giả ra làm việc, tác giả cho thấy đã xuất hiện một ngôn sứ, vị đầu tiên sau một thời gian thinh lặng gần năm thế kỷ (Tv74,9; l Mcb 4,46; 9,27; 14,41). Ơn gọi của vị Tẩy Giả được thể hiện trong hoang địa, là nơi ông đã sống thời trai trẻ "cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en"(1,80). Nhiều dấu chỉ cho thấy là ông có quan hệ với phái tư tế ở Qumrân: ông thuộc dòng dõi tư tế, ông sống trong hoang địa, ông đi rao giảng một phép rửa và cả bốn Tin Mừng đều xác định sứ mạng của ông khởi đi từ lời sấm Is40,3 mà Luật Qumrân dùng đề diễn tả lý tưởng của họ (1 QS 8,14). Cho dù thế nào, kể từ nay Thiên Chúa kêu gọi ông thực hiện một sứ mạng của riêng ông.
Theo Mt (3,1-6) và Mc (1,4-5) la hai bản văn theo sát bản Is 40,3, Gioan rao giảng trong hoang địa và làm phép rửa tại sông Giođan ở bìa sa mạc; hoang địa là nơi thử thách và cũng là nơi gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa. Các đoàn người đã từ Giêrusalem và miền Giuđê kéo đến với ông (Mc1,5; x. Mt 3,5). Không như tác giả Mc còn nói đến lối sống khắc khổ của Gioan, tác giả TM III cho thấy tức khắc hoạt động của vị Tiền Hô: Gioan rời hoang địa để rao giảng khắp vùng sông Giođan như là lãnh địa riêng của ông. Rất có thể tác giả Lc đã nghĩ rằng phép rửa ban trong hoang địa có thể khiến các độc giả ngạc nhiên, vì họ không biết địa lý của xứ Paléttina. Trong thực tế, hai bờ sông Giođan là vùng hoang địa. Ông đã kêu gọi dân chúng đến nhạn phép rửa để bày tỏ lòng sám hối, hầu có thể nhận lấy ơn cứuđộ mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trong sứ vụ Vượt Qua (Lc 24,47; Cv3,19; 5,31; 10,43; 13,38; 26,18). Như trong Cựu Ước, điều quan trọng hơn là lời của vị ngôn sứ (cũng là Lời Thiên Chúa), tác giả Lc cho thấy Gioan đi rao giảng sứ điệp ông đã nhận. Lời rao giảng của ông có những cử chỉ kèm theo, đây là phép rửa. Nhưng cử chỉ này vừa thuộc về vị Tẩy Giả vừa thuộc về hối nhân. Như thế, tác giả nêu bật rằng lời rao giảng mang tính ngôn sứ của Gioan đưa đến một hành vi biểu tượng chất chứa sự thống được gợi lên bởi lời và giúp hoán cải.
- Lời bình của tác giả theo Is 40,3-5 (4-6)
Như các tác giả Tin Mừng khác (Mt 3,3; Mc 1,3; Ga 1,23), tác giả Lc xác định ý nghĩa của sứ vụ Gioan đảm nhận khởi đi từ sấm ngôn Is 40 (cc. 3-5). Nhưng ngài đặt lời sấm này vào cuối phần giới thiệu Gioan, để dẫn độc giả đi từ biến cố lịch sử đến lời giải thích biến cố trong khung cảnh lịch sử cứu độ. Và ngài nối dài câu trích để nêu bật các yếu tố ông coi là quan trọng.
TM Lc đã bỏ đi lời loan báo mở đầu của Is40,5: "Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện". Đối với ngài, trách nhiệm của vị Tẩy Giả không phải là loan báo vinh quang này, vì vinh quang này chỉ được tỏhiện vào cuộc Vượt Qua bởi Đức Giêsu thôi. Ngài nói ngay đến đích điểm của sấm ngôn, cũng là đỉnh điểm của sứ điệp của Gioan: loan báo ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đây mới là nhiệm vụ của Gioan (Lc1,77). Lc ưa thích nhấn mạnh trên đềtài "ơn cứu độ": Cụ Simêôn (Lc 2,30); Phaolô (Cv 28,26); ngài là tác giả nhất lãm duy nhất gọi Thiên Chúa và Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ (Lc 1,47) và nói đến ơn cứu độ nơi Đức Giêsu (Lc1,69.71.77; 19,9).
Có lẽ lý do chính đã thúc tác giả kéo câu trích Is đến tận c. 5 là vì câu này có công thức Kinh Thánh "mọi xác phàm". Hẳn là ngài thấy từ này là một lời loan báo kín đáo ơn cứu độ được cống hiến cho tất cả mọi người. Thuật ngữ mơ hồnày đáp lại ý muốn của ngài là ghi dấu các chặng trong việc mạc khải tính phổ quát của Đức Giêsu, là đặc tính đã được cụ Simêôn công bố (Lc 2,30-32): không phải là Gioan có nhiệm vụ loan báo rõ ràng ơn cứu độ Dân ngoại, nhưng là Đức Giêsu.
+ Kết luận
Bản văn đã đặt hoạt động của Vị Tiền Hô trong khung cảnh lịch sử của nó. Thời gian của hoạt động này không còn được quy định theo triều đại của một vị vua Giuđa hay Israel, như đối với các ngôn sứ ngày xưa (x. Is 1,1; Ge 1,2; Ed 1,2; Hs 1,1; Am 1,1; Mk 1,1; Xp 1,1), mà là theo triều đại của Vị Chúa tể thế giới, của hoàng đế Xêda Rôma. Như thế, ngay khi được loan báo, Tin Mừng đã mang tính phổ quát.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Cũng như ơn gọi của Gioan Tẩy Giả, ơn gọi của chúng ta được Thiên Chúa ban cho chúng ta vào thời đại của chúng ta. Do đó, chúng ta phải sống "trong ngày hôm nay của Thiên Chúa" (Dt 4,7); đối với chúng ta, thời đại chúng ta đang sống là thời đại thuận tiện duy nhất giúp phát triển tư cách Kitô hữu của chúng ta. Cũng như Gioan Tẩy Giả, Thiên Chúa gọi chúng ta khởi đi từ một khung cảnh đang quy định tất cả phong thái và cuộc sống chúng ta: giống nòi, gia đình, xứ sở, khí hậu. Cách thức duy nhất để đáp trả ơn gọi chúng ta với cùng một lòng trung thành như Gioan Tẩy Giả, đó là chấp nhận dứt khoát thời đại và môi trường chúng ta, để làm nơi phục vụ Lời Chúa, làm khung cảnh cho cách thức ứng xử Kitô hữu theo gương Đức Kitô.
2. Theo quan điểm của Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là những cuộc chinh phục ngoạn mục của các hoàng đế Rôma hay các mánh khoé của tiểu vương Hêrôđê, mà điều quan trọng là Lời của Thiên Chúa phải được ngỏ với Gioan, con Dacaria. Trong bình diện thiêng liêng, bình diện duy nhất hệ trọng đối với cuộc sống con người, các dáng vẻ bề ngoài hùng mạnh và vinh quang chẳng là gì cả. Bởi vì Thiên Chúa thực hiện những dự phóng lớn của Ngài trên thế giới bằng cách dùng những cái yếu đuối và nhỏ bé theo thế gian. Đối với chúng ta cũng thế, dù chúng ta có nhỏ bé, giới hạn đến đâu, Thiên Chúa vẫn có thể dùng chúng ta mà thay đổi bộ mặt thế giới, nếu chúng ta nghe tiếng Ngài kêu gọi và hoán cải mỗi ngày.
3. Trong sa mạc cuộc đời chúng ta hôm nay, Lời Chúa đang vang lên trên chúng ta nhờ lời rao giảng, khi chúng ta đi dự thánh lễ. Khi đó, chúng ta không chỉ gặp gỡ các anh chị em trong cùng giáo xứ, mà là gặp gỡ tất cả các tín hữu trên thế giới, mặc cho họ theo thể chế nào, nghi thức nào ... Chúng ta được mời gọi điều chỉnh các nẻo đường quanh co của lòng ta: tức là hãy để ý đến ý hướng và cách tiến hành ngay thẳng; hãy kiên vững bước đi theo con đường thẳng của bổn phận, không ngẫu hứng, không thối lui; hãy lấp đầy các thung lũng của lòng ta, nếu chúng còn thiếu quảng đại và lý tưởng Kitô hữu. Hãy san bằng các đồi núi kiêu ngạo. Hãy dũa bớt những sù sì của tính tình chúng ta và chấm dứt những chia rẽ.
4. Gioan Tẩy Giả có thể được mệnh danh là "Nhà rao giảng của Mùa Vọng". Mỗi năm, Phụng vụlại giới thiệu sứ điệp của ngài cho chúng ta. Cũng như ngài đã chuẩn bị cho dân Israel đón tiếp Đấng Mêsia ngự đến, ngài cũng có thể chỉ cho chúng ta cách thức chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh. Lời lẽ của ngài đôi khi rất mạnh. Nhưng thế giới hôm nay cần những con người giống vị Tẩy Giả, để nhắc cho chúng ta nhớ lại tầm mức hệ trọng của đời sống trần gian,để tố giác sự dữ, và để đứng thẳng trước các kẻ quyền thế khi họ xử sự bất công.
5. Thiên Chúa muốn ban ơn cứu độ cho "mọi xác phàm". Chúng ta nên nghĩ đến đoàn người bao la chưa biết Đức Kitô. Hãy cầu nguyện cho họ và xin Thiên Chúa ban cho nhiều ơn gọi truyền giáo. Chúng ta cũng hãy trở thành các nhà thừa sai theo gương vị Tiền Hô, ít ra bằng việc cầu nguyện và chu toàn trung thành nhiệm vụ cá nhân, tại nơi Chúa Quan phòng đặt để chúng ta.
32. Chú giải của Noel Quesson
Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô
Luca muốn loan báo tác vụ của Gioan Tẩy Giả, người dấn thân khai mở cho tác vụ của Đức Giêsu. Đây là sự can thiệp rõ ràng của Thiên Chúa trong lịch sử. Hành động của Thiên Chúa không "ở bên ngoài" thế gian, trên mây gió, nhưng hành động này diễn ra, một cách ẩn kín bên trong những biến cố thế tục. Một "lịch sử Thánh" phát triển giữa những biến cố thế giới. Như Luca chúng ta có tin rằng, Thiên Chúa "nói" và "hành động" trong những biến cố của chúng ta, trong hiện tình kinh tế chính trị, xã hội và văn hóa ngày nay không?
Luca kỹ lưỡng nói với chúng ta rằng, Đức Giêsu đã sinh ra dưới thời Hoàng đế Xê-da Au-gút-tô (Lc 2,1). Bây giờ ông lại nói với chúng ta, Chúa bắt đầu tác vụ, như một người trưởng thành, vào năm 15 Triều Đại Tibêriô, nghĩa là khoảng năm 28 hay 29.
Đức Giêsu, một người Do Thái thấp cổ bé miệng, vô danh tiểu tốt đang đối diện với Hoàng đế đầy uy quyền của Rôma! Đối diện với kẻ đang bá chủ thế giới! Đế quốc của Tibêriô bắt đầu từ bờ Bắc Hải đến cùng tận Địa Trung Hải, hiện nay được 15 quốc gia vây quanh nhưng lúc bấy giờ như một biển hồ của Rôma. Tất cả những gì Luca bàn đến đâu minh chứng cho chúng ta thấy, "Tin Mừng", phát xuất từ Giêrusalem, sẽ đến tận Rôma: Ở đó, sẽ kết thúc "Công vụ Tông Đồ" (29,16-31). Trong lúc này, ta mới chỉ gợi lên tầm lớn rộng của chương trình Thiên Chúa: Đức Giêsu... Hoàng đế Tibêriô.
Thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giu-đê
Cùng với Đức Maria, ông Phongxiô Philatô, là người duy nhất có chỗ đứng trong kinh Tin Kính của chúng ta: "Đức Giêsu, sinh bởi đức Nữ Đồng Trinh Maria đã chịu khổ hình và mai táng thời Phongxiô Philatô... Phongxiô Philatô, tổng trấn Rôma tại Giêrusalem giữa năm 26 và 36, là con người "cứng rắn và không xót thương", theo người lân cận của ông là Hêrôđê Ác-ríp-pa I đã nói. Ong bị Rôma cất chức vì đã sát hại hàng ngàn người Samari tụ họp trên núi Garizim. Các sử gia thới đó (Plavius Josèphe và Philon) mô tả ông như người cai trị xứ sở của mình bằng tham nhũng, khủng bố, cướp bóc do chính cảnh sát của mình tra tấn và hành quyết.
Ngày nay, chúng ta thường than phiền về những khó khăn của thời đại chúng ta: Thế mà Đức Giêsu đã sống trong một miền đất bị kẻ thù chiếm đóng và đàn áp không chút nương tay thế đó!
Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên
Đó chỉ là những ông vua chư hầu bù nhìn, và là những người "hợp tác". Uy quyền thực sự vẩn thuộc Rôma. Luca nhất mạnh đến lãnh thổ mà Tin Mừng sẽ được phổ biến: ông để ý nêu rõ hai miền có đông dân cư là "con cái Israel" (Giuđê và Galilê), và hai miền có dân "ngoại giáo" (Iturê - Trakhonít và Abilên). Đối với Luca, đệ tử của Phaolô thì đây là một chỉ dẫn "thần học": Sứ điệp của Đức Giêsu không chỉ dành riêng cho một số người nào đó! Tôi có tự giam mình trong một khu riêng biệt Kitô giáo nhỏ bé không? Và như vậy tôi đâu còn ở trong luồng khí Tin Mừng nữa.
Khanan và Caipha làm thượng tế
Sau những lãnh tụ chính trị, đây là những lãnh tụ tôn giáo, chịu trách nhiệm về Do Thái giáo thời bấy giờ, mà vài năm sau Đức Giêsu sẽ gặp lại.
Đó là bối cảnh lịch sử và tôn giáo. Những dữ kiện hoàn toàn chính xác, đã được các sử gia thời cổ xác nhận. Người ta đã tìm được tại Xêdarê chỗ ngồi của Philatô trong một nhà hát: Một hàng chữ được khắc ghi vào băng đá dành cho Tổng trấn ngồi, giữa hí trường hình tròn.
Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan
Không phải những chức sắc nêu trên sẽ làm nên lịch sử thực sự: mà là một "phát ngôn viên", một "ngôn sứ", Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ cuối cùng, nhân chứng đầu tiên của Đức Giêsu Kitô. Chính từ "bên trong" những thực tại của con người mà sự thay đổi được thực hiện, nhưng tất cả những động lực của sự thay đổi đó không thể đến từ sự tôn thờ những ý thức hệ và những người đang nắm quyền lực, cũng không từ cơ cấu chính trị. "Chúa lật đổ những người quyền thế xuống khỏi ngai vàng" (Lc 1,52). Một "lời", từ nơi khác đến từ Thiên Chúa, sẽ tạo nên sự mới lạ thực sự làm thay đổi dòng lịch sử - Tôi có để cho Lời Chúa nắm bắt tôi, như Gioan Tẩy giả không?
Trong hoang địa
Đôi khi ta có cảm tưởng về hoang địa như cái gì trống rỗng. Sự cô tịch khó chịu này không phải là điều ngược đời sao? Xa thế gian quay cuồng, xa những tiếng ồn ào náo động, để có thể nghe thấy một Lời mầu nhiệm? "Hãy nghe đây! nghe đây! ngươi chớ có gây tiếng động? gần ngươi, có người đang đi trên đường, có người đang đến gặp ngươi!". Vậy thì, riêng tôi, tôi đã dành cho sự cô tịch, tình trạng hoang vắng thế nào trong cuộc sống náo nhiệt của tôi?
Ông liền đi khắp vùng ven sông Giođan
Lời Chúa, phải vận hành. Đó là một chuyển động. Gioan là một nhà giảng thuyết di động, cũng như Đức Giêsu sắp thể hiện như vậy. Còn chúng ta thì sao?
Gioan đã rời hoang địa hạnh phúc của ông, nơi ông dùng để chuẩn bị, để lắng nghe Lời Chúa, để đi gặp các đám đông, để làm việc này, ông chọn một nơi mà có đủ mọi thứ người qua lại: Chỗ cạn của một dòng sông, nơi mà mọi người phải ngang qua; lối nhỏ giao lưu cho cả đoàn người; bến Bêthama, trên tả ngạn sông Giođan, phía đông thành Giêrikhô (Ga 1,28), nơi mà người Anh đã xây cầu Allenby chỗ duy nhất có thể vượt sông được. Sau khi sống cô tịch, tôi có tìm cách để tiếp gặp kẻ khác không?
Rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối
Dựa vào nguyên ngữ Hy Lạp có thể dịch câu trên – như sau: "Ông kêu gọi người ta dìm mình xuống nước để quay trở lại".
Người phát ngôn của Chúa không phải là một con người nhỏ bé trầm tĩnh, nhưng đó là một cái "loa phóng thanh" với âm lượng được vặn tối đa. Chữ Hy Lạp "Kérygme" có nghĩa là "tiếng la", lời "tuyên bố". Cuộc sống của tôi có kêu lên điều gì không?
Không thể có ảo tưởng được. Người ta không thể gặp Chúa "như thế", nghĩa là không biết Ngài, hay không muốn Ngài. Về phía Chúa, phải "lao mình" vào Ngài! Chữ "batisma" phép rửa, gọi lên hình ảnh những kiểu tắm rửa theo nghi thức, mà những thành viên cộng đoàn lân cận Qumran thường thi hành mỗi ngày để thanh tẩy thân thể mọi nhơ bẩn và thôi thúc tâm hồn họ cũng phải thanh tẩy thiêng liêng: Người ta dìm toàn thân mình trong hồ bơi hay dòng sông. Hoán cải không phải chỉ lâ một tư tưởng thầm kín, không thuộc phạm vi trí não, nhưng đó là một bước đi có ý nghĩa, được thể hiện ra bên ngoài đối với mọi người qua một hành vi công khai theo nghi lễ: "Tôi muốn thay đổi cuộc sống... và trước mặt các bạn, tôi thực hiện cử chỉ tượng trưng, biểu hiện sự trở lại của tôi. Tôi dìm xuống nước cuộc sống trước của tôi, cho nó chết chìm để một sự sống mới phát sinh".
Phép rửa là một tự nguyện dìm chết "con người cũ" để cho "con người mới" tái sinh (Rm 6,6-7,6 - Ep 4,22 – Cl 3,9). Đó là hình ảnh thực sự của Bí tích sám hối là phép rửa thứ hai... mà có thể chúng ta muốn lãnh nhận để cử hành lễ Giáng sinh.
Và hoán cải mà chúng ta đang nói ở đây (metnoia: Sự trở lại) là một sự quay trở lại với Thiên Chúa. Nếu hoán cải chỉ là một sự thay đổi luân lý hay xã hội, thì cuộc sống Kitô hữu có lẽ chỉ là một thứ nhân bản như những học thuyết khác, có khi lại không hoàn hảo bằng chứng học thuyết đó. Nhưng đúng ra là ta "quay trở lại với Chúa" cùng với những hậu quả luân lý và xã hội: chống lại tính ích kỷ, bất công, khuynh hướng duy vật thực dụng, sự nô lệ lạc thú và tiền bạc, nếp sống thiếu trong sạch, tính lười biếng, thái độ chế ngự kẻ khác, v.v...
Phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.
Sự tha thứ? Hành vi của Thiên Chúa luôn luôn tặng ban cho tất cả mọi người, nhưng chỉ hữu hiệu nếu chúng ta đón nhận sự tha thứ đó cách tự do. Luật trời phong bao giờ ngừng chiếu sáng, nhưng chúng ta có thể đóng cửa nhà chúng ta. Hành vi của Thiên Chúa được thể hiện do "thừa tác viên" thi hành bí tích, nói "nhân danh chính Chúa Kitô" (in persona Christi). Hành vi tự do của con người được thể hiện qua thái độ hối nhân, đặc biệt qua sự thú nhận cá nhân hay tập thể.
Mỗi cử hành Thánh Thể cũng giúp chúng ta thông hiệp với Đức Giêsu trong chính hành vi Người "Tự hiến để tha thứ tội lỗi", trong hành vi cứu chuộc nhờ thái độ triệt để sẵn sàng và hoàn toàn vâng phục Chúa Cha: Đó là hành vi Ngài hoàn toàn và triệt để "hướng về" Thiên Chúa.
Như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng.
Máy ủi to lớn làm sao! Công trường sửa đường vĩ đại làm sao! Công trình thật là quá sức tưởng tượng! Và chúng ta thì chỉ có "xưng tội riêng", không đau đớn gì?
Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Đây là mục tiêu phổ quát, rất đặc trưng của Luca, người đồng hành với thánh Phaolô. Công trình của Thiên Chúa không phải là lên án, mà là "Cứu chuộc". Lịch sử Thánh, lịch sử con người mà trong đó Chúa hành động, không thể kết thúc không lối thoát. Cho dù chúng ta "hôm nay đang gieo trong nước mắt, nhưng sẽ gặt trong ca mừng".
05/12 Lúa chín đầy đồng, thợ gặt thì ít
- Viết bởi Mt 9,35 - 10,1.6-8
Lúa chín đầy đồng, thợ gặt thì ít.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 1 mùa vọng.
"Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ".
LỜI CHÚA: Mt 9,35 - 10,1.6-8
Khi ấy, Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".
Và Người triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người bảo: "Các con hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không".
Suy Niệm 1: Sứ Mệnh Tông Ðồ
Chú ý đến những thái độ trên của Chúa Giêsu, chúng ta có thể khám phá ra những sự thật hữu ích cho cuộc đời theo Chúa của mỗi người, nhất là của những ai dấn bước theo Chúa, cách đặc biệt hơn là những kẻ "Tận Hiến" cuộc đời làm chứng cho Chúa. Dung mạo tinh thần xung quanh và trước mặt Chúa Giêsu thời Ngài cũng như của thời đại chúng ta hôm nay được Chúa mô tả như lầm than, vất vả, bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt, bị lạc mất lý tưởng sống, đang tự tranh đấu để sống còn.
Trong đoạn này những điểm tiêu cực nhiều hơn là tích cực, như bơ vơ, lạc lõng, đã bỏ mất hay không biết gì đến giá trị nhân bản Kitô. Ðó là đoàn người của một xã hội bị trần tục hóa trầm trọng của ngày hôm nay. Diễn phác môi trường như thế, Chúa Giêsu không có chút trách móc, khinh thị, tránh né mà nhìn đó như một lời mời gọi dấn thân yêu thương, đó là mùa lúa chín một cơ hội ngàn vàng để biểu lộ tình yêu thương đối với anh chị em.
Sự nhỏ mọn tầm thường nơi tâm hồn có thể làm cho chúng ta có một thái độ tranh chấp, khinh thị, rút lui, nhưng đó không phải là thái độ của chính Chúa Giêsu khi Ngài nhìn thấy đoàn người khủng hoảng tinh thần như đoàn chiên không người chăn dắt, vả lại Chúa Giêsu đã yêu thương họ. Ðây không phải là một sự chạnh lòng thương, không phải là một tâm tình thương hại, tôi nghiệp chóng qua nhưng là một tình thương sâu thẳm từ đáy tâm hồn của Chúa Giêsu.
Qua đoạn Tin Mừng trên, chúng ta thấy tâm hồn Chúa Giêsu tràn đầy tình thương khi nhìn thấy nhu cầu dân chúng đang bị lạc hướng như đàn chiên không người chăn dắt. Tâm hồn Ngài xúc động tận trong thâm tâm, vì Ngài tràn đầy tình thương đối với họ, Ðó là bí quyết của đời sống Tông đồ của mọi đồ đệ theo Chúa. Ðược Chúa mời gọi làm chứng nhân của tình thương cho tình thương thì những sự dữ, những tiêu cực của môi trường chúng ta sinh sống ngày nay là những cơ hội ngàn vàng để chúng ta sống tình thương mà Chúa đã ban tặng cho các đồ đệ của Ngài.
Tư tưởng thứ hai mà bài Phúc Âm gợi lên cho chúng ta là những hành động của Chúa Giêsu: Chúa gọi các Tông đồ, ban cho họ quyền hành như Chúa, trừ các tà thần, giải phóng con người khỏi làm nô lệ cho sự dữ, cho ma quỉ, chữa lành các bệnh tật, thăng tiến cuộc sống con người. Chúa sai các Tông đồ đi rao giảng bằng các chỉ thị, mặc dù đây mới chỉ là sai các ngài đi thử nghiệm lúc ban đầu. Cuộc sai đi chính thức sau này sẽ được thực hiện khi Chúa đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc của Ngài sau biến cố Phục Sinh.
Những hành động của Chúa phát đi từ tình thương của Ngài đối với con người. Nhìn công việc của người khác chúng ta có thể nói trọn vẹn sứ mạng của Giáo Hội, mọi thành phần của Giáo Hội, mọi thành phần đích thực của Chúa đều phát sinh từ tình yêu Thần Linh hiện diện nơi con tim phàm trần. Người đồ đệ của Chúa cần phải được thanh luyện, cần phải được biến đổi, được thay thế quả tim xác thịt bằng một quả tim mới tràn đầy tình yêu thương thần thiêng. Toàn thể cơ cấu Giáo Hội trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng được xây dựng trên nền tảng tình yêu thương thần thiêng này. Chính nơi đây, chúng ta được hiểu thêm hay hiểu lại câu nói của thánh Phaolô Tông đồ viết về bí quyết đời sống Tông đồ của ngài: "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi".
Chúa Giêsu thấy đám đông liền chạnh lòng thương. Tâm hồn Ngài tràn ngập tình thương, Ngài xúc động tận thâm tâm trước nhu cầu của dân chúng đang bị lạc hướng như đoàn chiên không người chăn dắt. Ngài lên tiếng mời gọi các Tông đồ, những con người tầm thường hãy theo Ngài, hãy để Ngài biến đổi thành những chứng nhân tình yêu. Thái độ đáp trả duy nhất của mỗi người chúng ta là để cho tình yêu thần thiêng Chúa biến đổi và thôi thúc chúng ta hành động: "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi".
Trong khiêm tốn và trong thinh lặng của Ðức Tin, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, hãy bắt chước cuộc đời của Chúa Giêsu trên trần gian này: "Thầy đến để mang lửa yêu thương đến trần gian và Thầy không có mong ước nào khác hơn là cho lửa ấy cháy lên, tỏa sáng khắp nơi, soi sáng mọi người, mang tin vui tỏa sáng khắp nơi, soi sáng mọi người, mang tin vui tỏa sáng cho con người". Hãy khiêm tốn lắng nghe và hãy để cho tình yêu Chúa biến đổi và thôi thúc.
Lạy Chúa, xin đổ tràn tình yêu Chúa trên chúng con và biến đổi chúng con thành những chứng nhân cho tình yêu Chúa, chứng nhân kiên trung trong Ðức Tin sống động qua đức Bác Ái. Amen.
Suy Niệm 2: Nhà truyền giáo đích thực
Vào thời Trung cổ, một số tín hữu giàu có muốn sống theo tinh thần của thánh Benado đã từ bỏ mọi tiện nghi và ngay cả ngôi thánh đường ấm cúng của họ để đến cư ngụ trên một đỉnh núi cao. Mục đích của họ là để cảm thông với những khách bộ hành lạc lối giữa núi rừng, nhất là vào mùa đông tuyết rơi. Những tín hữu này quyết định ngày đêm túc trực ở đó để kịp thời cứu vớt những ai kêu cứu. Để làm việc đó, họ đã huấn luyện một đàn chó đi tìm người lạc lối, đưa về nhà Dòng để được tận tình săn sóc.
Sự cảm thông không chỉ là một cảm xúc trong tâm hồn, mà còn là đến gần để lắng nghe, chia sẻ, trao ban. Thiên Chúa là Đấng cảm thông đích thực: Ngài không thể hiện sự cảm thông duy chỉ bằng cái nhìn từ trời cao, nhưng Ngài đã hoá thân làm người, chia sẻ hoàn toàn kiếp sống khốn cùng của con người. Tin mừng hôm nay nói lên sự cảm thông của Thiên Chúa bằng câu: "Ngài động lòng xót thương họ". Chúa Giêsu quả thực chính là Trái tim của Thiên Chúa, một Trái tim không những rung động trước nỗi khốn khổ của con người, mà còn đến ở bên con người.
Chúa Giêsu xuất hiện như một tôn sư. Nhưng trong khi các bậc thầy khác qui tự một số môn sinh trong một ngôi trường hoặc chỉ giảng dạy tại cổng thành, thì Chúa Giêsu đã ra đi khắp nơi, chiêu mộ môn sinh để họ cùng đi với Ngài tìm đến những người bị bỏ rơi nhất trong xã hội.
Qua cung cách thể hiện sự cảm thông ấy, Chúa Giêsu phác hoạ ra mẫu người truyền giáo đích thực: ra đi và tìm đến với người khác. Ra đi dĩ nhiên không chỉ có nghĩa là rời bỏ nơi này đến nơi khác, mà thiết yếu là thái độ ra khỏi chính mình, ra khỏi vỏ ốc của mình để đến với tha nhân.
Chúa Giêsu đã đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ. Ngài đã phục vụ bằng một tình yêu vừa bao la, vừa cụ thể, đến với từng con người trong từng nỗi đau của họ để băng bó, xoa dịu.
Ước gì sự đồng hành cảm thông của Chúa Giêsu cũng hiện thực hoá trong cuộc sống mỗi Kitô hữu, để mọi người chung quanh nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với họ.
Suy Niệm 3: Chứng nhân của niềm vui
(Mt. 9,35 - 10,8)
Rồi Đức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa các bệnh hoạn tật nguyền (Mt.10,1)
Không ai không biết câu châm ngôn này: "Một ông thánh buồn là điều đáng buồn". Lời Chúa trong tất cả các trang Tin mừng mời gọi chúng ta sống vui mừng sâu thẳm và trở nên nhân chứng Tin mừng của Đức Giêsu.
Đức Giêsu trao phó cho các môn đệ một sứ điệp không hề có một chút bất hạnh nào. Người làm cho họ nên những người ban phát sự sống và mời gọi họ đi loan báo Tin mừng nước trời, kèm theo những dấu chỉ: Những dấu chỉ vui mừng chiến thắng buồn sầu, sự sống chiến thắng sự chết, hạnh phúc của Thiên Chúa chiến thắng tội lỗi: "Các con hãy đi chữa lành các bệnh nhân, phục sinh những kẻ chết, thanh tẩy những kẻ phong cùi".
Niềm vui người tông đồ của Đức Kitô còn hơn cảm tính vui mừng tâm lý con người. Niềm vui đó bắt nguồn sâu xa trong sự gặp gỡ sống động với tình yêu Thiên Chúa. Ai cảm thấy được yêu mãnh liệt bởi Đức Chúa Cha và được sống đổi mới bởi Chúa Thánh Thần thì không thể bị lôi cuốn lâu trong buồn sầu. Dù có bị chôn vùi trong những hố sâu nguy khó, họ sẽ nhận ra Đấng đầy quyền năng phá tan đen tối (Is. 30, 20 và 26). Môn đệ quyết tâm nhận lãnh sứ mệnh đưa Tin mừng tình yêu vô hạn cho những kẻ đang tìm ngụp lặn trong những thú vui tạm bợ giữa lòng thế giới chồng chất buồn sầu lai láng. Mỗi cá nhân và tập thể chúng ta phải biết gieo những mầm sống và hy vọng của Tin mừng. Cùng nhau và chính mình chúng ta phải tìm mọi cách xua đuổi những thế lực sự dữ còn đang hiện diện trong thế giới chúng ta. Tìm mọi cách trao ban hương vị tự do cho những ai đã quàng vào cổ mình ách nô lệ, tìm mọi cách rao giảng Đức Giêsu Kitô cho kẻ không nhận biết Người là Chúa sự sống của họ, là Chúa các ngày lễ. Nếu chúng ta quyết tâm hợp tác vào công cuộc cứu độ thế giới, thì chúng ta phải là những sứ giả mang Tin mừng có sức biến đổi bộ mặt trái đất này.
Chúng ta có ý thức rõ như thế không?
C.G
04/12 Chữa lành 2 người mù
- Viết bởi Mt 9, 27-31
Chữa lành 2 người mù.
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 1 mùa vọng.
"Tin vào Chúa Giêsu, hai người mù được chữa lành".
LỜI CHÚA: Mt 9, 27-31
Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, có hai người mù chạy theo Chúa và kêu lớn tiếng rằng: "Hỡi Con vua Đavít, xin thương chúng tôi". Khi Chúa tới nhà, những người mù tiến lại gần Chúa. Chúa Giêsu phán bảo họ: "Các ngươi có tin rằng Ta có thể làm việc ấy không?" Họ thưa: "Lạy Thầy, có". Bấy giờ Chúa sờ vào mắt họ và phán: "Các ngươi tin thế nào, thì hãy được như vậy". Mắt họ liền mở ra, nhưng Chúa Giêsu truyền cho họ rằng: "Coi chừng, đừng cho ai biết". Nhưng vừa ra đi, họ liền đồn tiếng Người trong khắp miền ấy.
Suy Niệm 1: Lòng Tin Khiến Họ Ðược Chữa Lành
Roberto Newman là một người mù từ lúc mới sinh, và mãi đến năm 50 tuổi, một cuộc giải phẫu mới cho phép ông được thấy ánh sáng đầu tiên trong cuộc đời. Với ánh sáng, toàn thể thế giới như thay đổi hẳn viễn tượng trong tâm trí ông với những điều bấy lâu ông hằng tưởng tượng.
Khi được phỏng vấn, ông đã trả lời tờ báo Chicago như sau: "Ðược nhìn thấy mọi vật quả là một diễm phúc trên đời. Tôi không ngờ rằng một giáo thuyết đã dạy tôi sẽ nhìn thấy mọi vật quanh tôi và đêm về tôi có thể nhìn ngắm các vì sao, những vật thể li ti của dãy ngân hà trên thiên không diệu vời. Bạn sẽ chẳng bao giờ thấy chúng tuyệt vời đến thế nào đối với tôi".
Nhận xét của Roberto thật xác đáng. Những ai đã một lần mất đi ánh sáng trong cuộc đời để rồi đánh giá trị của khả năng nhìn ngắm. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng thuật lại cho chúng ta câu chuyện hai người đang cần ánh sáng và cuộc tìm kiếm của họ.
Thật vậy, ánh nắng chói chang của vùng sa mạc cùng với những cơn lốc thổi cát bụi mịt mù và cách sống không mấy vệ sinh về đôi mắt đã khiến cho bệnh mù dễ dàng phát sinh tại vùng Palestina. Chúng ta cũng phần nào thấy được điều này qua con số bị mắc bệnh thường tìm đến với Chúa Giêsu. Tuy nhiên, dù có phải đông người mắc chứng bệnh mù lòa thì không phải vì thế mà người mù lại an phận với kiếp mù lòa của họ, nhưng cuộc sống của họ luôn luôn là một thao thức tìm kiếm ánh sáng, gặp được cơ may có thể tìm thấy ánh sáng thì họ chẳng bao giờ bỏ lỡ cơ hội.
Người mù Thành Giêricô đang ngồi ăn xin bên vệ đường, nhưng vừa nghe biết Chúa Giêsu đi ngang qua, anh liền vội vàng lớn tiếng kêu xin: "Lạy Ngài xin cứu chữa tôi". Những người chung quanh cản ngăn thì anh lại càng la to hơn để rồi một khi đã nghe tiếng Chúa gọi, anh ta vứt bỏ tất cả để kịp đến với Ngài.
Hai người mù trong trình thuật Tin Mừng hôm nay tuy không có những cử chỉ như người mù Thành Giêricô, nhưng thái độ bền bỉ của họ cũng nói lên được tâm trạng khát vọng sự sáng. Chúa Giêsu đã gặp họ dọc đường, họ lớn tiếng kêu xin Người nhưng Ngài không chữa họ tại nơi đó, Ngài tiếp tục hành trình. Dù chưa được Chúa đáp lời chữa ngay nhưng họ không thất vọng bỏ cuộc và vẫn tiếp tục theo Ngài. Về đến nhà, họ tiến lại gặp Ngài để một lần nữa xin Ngài chữa lành. Câu hỏi Chúa Giêsu đã đặt ra cho hai người mù là để gián tiếp diễn tả một câu hỏi khác: "Các ngươi có tin Ta là Ðấng Cứu Thế không?" Vì theo các tiên tri khi thời Ðấng Cứu Thế đến thì mọi bệnh tật sẽ được chữa lành như: người câm nói được, người điếc được nghe, kẻ què được lành và người mù được thấy... Họ đáp: "Có" và lòng tin đã khiến cho họ được chữa lành. Trước và sau khi được chữa lành, người mù đều lớn tiếng. Lúc trước họ lớn tiếng vì lòng khát khao tìm thấy ánh sáng, và lần sau họ cũng lớn tiếng với nỗi vui mừng đã được thấy ánh sáng. Khi tìm được nỗi vui mừng thì dù Chúa Giêsu có ngăn cấm, họ vẫn cao rao danh Ngài.
Thế giới hôm nay cũng đang có những luồng ánh sáng và cơn lốc tối mù lý trí và lương tâm con người, bệnh mù này còn nguy hiểm hơn bệnh mù thể xác. Vì lắm lúc con người đang mù mà vẫn cứ tưởng là mình sáng, hoặc có quá nhiều người mù nên con người lại lấy số đông để khỏa lấp cơn bệnh. Phần nào như tâm trạng của Tú Xương: "Thiên hạ có khi đang ngủ cả, viêc gì mà thức một mình ta".
Ðể chữa trị bệnh mù này cũng không dễ dàng gì, nó đòi hỏi con người phải có một thái độ bền bỉ và vững tin vào Chúa Giêsu như hai người mù ở trên. Bước theo Ngài nhưng nhiều lúc như bị Ngài bỏ quên không nhìn tới. Tha thiết tìm đến Ngài thế mà chẳng được đoái hoài. Thất vọng để rồi buông xuôi bỏ cuộc thì con người sẽ mãi mãi ở trong bóng tối, nhưng vững bước theo Ngài để rồi tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô thì con người sẽ tìm thấy ánh sáng, sẽ được nhìn ngắm những điều tuyệt vời mà trước đấy họ chưa từng thấy và cũng chẳng ai có ngoài một mình Thiên Chúa.
Ước mong rằng trong Mùa Vọng này, mỗi người trong chúng ta sẽ hiểu được giá trị sự sáng Chúa đã đem đến cho trần gian, cũng như biết rõ tình trạng mù lòa của mình để rồi chúng ta sẽ tìm đến với Ngài, bất chấp mọi khó khăn trở ngại và nhờ vào lòng tin, chúng ta sẽ được chữa lành.
Suy Niệm 2: Người mù được sáng
Không riêng gì thế giới siêu hình, ngay cả thế giới hữu hình của chúng ta cũng đầy dẫy những huyền nhiệm, hay đúng hơn nhưng thực tại mà con người vẫn chưa hiểu được bản chất. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến ánh sáng.
Có lẽ ánh sáng vẫn tiếp tục là một huyền nhiệm mà khoa học chưa đưa ra một giải thích thoả đáng hoàn toàn: người thì cho rằng ánh sáng được cấu tạo bằng những tinh thể cực nhỏ, kẻ lại cho rằng ánh sáng được cấu tạo bằng những âm ba...
Tính cách huyền nhiệm của ánh sáng và của biết bao thực tại khác trong thế giới là một mời gọi để con người không ngừng vươn lên chiều kích siêu việt của cuộc sống.
Con người không thể tự mình tìm ra được giải đáp cho mọi vấn đề của cuộc sống. Chỉ Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể đem lại cho con người chân lý về cuộc sống, về con người, về chính Ngài. Chỉ Thiên Chúa mới có thể vén mở cho con người biết được chân lý và sự vén mở ấy được thực hiện trong Chúa Giêsu Kitô.
Nói như thánh Gioan: Chúa Giêsu chính là Ánh sáng thế gian, ai đi theo Ngài sẽ được ánh sáng ban sự sống. Tin mừng hôm nay khi thuật lại việc Chúa chữa hai người mù cũng muốn nêu bật chân lý ấy. Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Chỉ trong Ngài, chúng ta mới thực sự là người được sáng mắt; chỉ trong Ngài, chúng ta mới biết được chúng ta là ai? Sẽ đi về đâu? Và đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Nhưng dĩ nhiên, để có thể tiếp nhận ánh sáng của Chúa Kitô, điều kiện tiên quyết là chúng ta phải ý thức được sự mù loà của mình và quyết tâm ra khỏi sự mù loà ấy.
Mù quáng vẫn là cơm cám dỗ khủng khiếp nhất của con người. Mù quáng chính là không còn nhận thức và chấp nhận sự mù loà của mình. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu đã lên án thái độ mù quáng của Biệt phái, họ cuộn mình trong nấm mồ tăm tối của những thành kiến và mớ kiến thức hạn hẹp của con người để khước từ ánh sáng của Thiên Chúa.
Với tâm tình của hai người mù hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa chữa trị tật mù loà của thiển cận, tham lam, ích kỷ, tự phụ để chúng ta được bước đi trong ánh sáng của Chúa.
Trong ánh sáng của Ngài, chúng ta tin rằng mọi biến cố cuộc sống đều có ý nghĩa. Trong ánh sáng của Ngài, thất bại, khổ đau sẽ là khởi đầu của nguồn ơn dồi dào hơn. Trong ánh sáng của Ngài, tha nhân dù có thấp hèn đến đâu cũng đều phản chiếu vẻ đẹp của Thiên Chúa.
Suy Niệm 3: Chiến thắng thuộc về chúng ta
(Mt. 9, 27-31)
Khi Đức Giêsu về tới nhà, thì hai người mù ấy tiến lại gần. Người nói với họ: "Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?" Họ đáp: "Thưa Ngài, chúng tôi tin."Bấy giờ Người sờ vào mắt họ và nói: " Các anh tin thế nào thì được như vậy." (Mt. 9, 28-29)
Nhiều khi chúng ta chán nản trước một vài thất bại, một vài khó khăn cản trở đời sống riêng tư cũng như chung của xã hội. Chúng ta phiền muộn phải chứng kiến những thế lực tăm tối vẫn hoành hành tàn phá; kẻ mạnh bóc lột kẻ yếu, bạo lực công khai hay che đậy, những kẻ ích kỷ lợi dụng, những kẻ cường quyền kiêu ngạo. Một vài lúc chúng ta có khuynh hướng tiêu cực, thụt lùi trước những sức nặng ngăn chặn bước tiến của chúng ta.
Hôm nay một lời đầy hy vọng vang tới tai chúng ta, thúc giục ta can đảm lên, đừng để nỗi chán nản đè bẹp chúng ta: "Nước Thiên Chúa là đây. Ngài ở với chúng ta, Ngài là hoàng tử ánh sáng đến đánh tan bóng tối". Vâng, những kẻ mù tin Ngài và đang reo vui nhảy múa vì Ngài đã mở mắt cho họ được sáng. Chúng ta chắc chắn chiến thắng sau cùng vì Thánh Thần của Đấng Phục sinh đang sống giữa lòng thế giới: "Kẻ bạo chúa sẽ không còn nữa, và kẻ hỗn xược sẽ mất dạng".
Nhưng niềm cậy trông này xây nhà trong thế giới hư ảo cho ta trú ẩn. Những xung đột vẫn còn đó, những cuộc chiến vẫn tiếp nối. Môn đệ không hơn Thầy. Thầy đã hy sinh mạng sống, trò cũng phải vác thập giá mình để tham gia xây dựng nước trời lớn lên. Nếu sống biết cậy trông, thì phải lo cố gắng, tin rằng mỗi bước đi trong tình yêu chân thật là đạt tới nước trời đời đời. Môn đệ không được miễn trừ khỏi chiến đấu, nhưng với đức tin, họ sẽ có một cái nhìn sâu sắc rằng những cuộc chiến của họ không vô ích vì chúng đưa họ tới giờ chiến thắng cuối cùng.
Nếu đôi khi chúng ta có cảm tưởng kéo lê đời mình trong tầm thường, nếu chúng ta thất vọng về những mù quáng của thế giới, thì tại sao chúng ta không nghiền ngẫm, nuôi dưỡng thái độ cậy trông của những anh mù trong Tin mừng hôm nay và kêu lên rằng: "Lạy con vua Đa-vít, xin thương xót chúng con".
Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta không được phép thất vọng vì Người đến với chúng ta trong quyền năng mạnh mẽ của lòng thương xót và trong tình yêu chiến thắng tất cả mọi tử thần.
C.G
03/12 Giác ngộ
- Viết bởi Mc 16, 15-20
Giác ngộ.
Thứ Năm đầu tháng, tuần 1 mùa vọng
Thánh Phanxicô Xaviê, linh mục. Bổn mạng các xứ truyền giáo. Lễ kính.
"Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng".
* Thánh Phanxicô chào đời tại Tây Ban Nha năm 1506. Khi đang học văn chương ở Pa-ri, người nhập đoàn với thánh I-nha-xi-ô. Người chịu chức linh mục ở Rôma năm 1537 và chăm lo thực hành việc bác ái. Năm 1541, người lên đường sang phương Đông. Trong mười năm, người can đảm loan báo Tin Mừng cho người Ấn Độ và Nhật Bản, giúp cho nhiều người hoán cải mà đón nhận đức tin. Người qua đời năm 1552 ở đảo Xanxian, cửa ngõ vào Trung Quốc.
LỜI CHÚA: Mc 16, 15-20
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép Rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không Tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thày, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh". Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
SUY NIỆM 1: Giác ngộ
"Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?"... Lời thách thức này của Tin Mừng đã khiến cho một vị giáo sư trẻ tuổi bỏ tương lai đầy hứa hẹn, bỏ tất cả để chỉ còn đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của người đồng loại.
Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo, mà hôm nay Giáo Hội kính nhớ... Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến, Phanxicô Xaviê đã nhận được những lời thách thức trên đây từ người bạn thân Inhaxiô Loyola.
Không còn chống cưỡng lại với lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã đến Montmartre để cùng với Inhaxiô sống đời khó nghèo, khuyết tịnh và phục vụ tông đồ, theo những chỉ dẫn của Ðức Thánh Cha.
Năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô lãnh chức linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisboa của Bồ Ðào Nha để lên đường đi truyền giáo tại Ấn Ðộ. Trong 10 năm ngắn ngủi, Phanxicô Xaviê đả rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai và Ấn Ðộ. Cuộc sống của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ nhất... Chưa đạt được giấc mơ đặt chân đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức, tại một hải đảo cách Hồng Kông 100 cây số. Bị những người lái buôn Bồ Ðào Nha bỏ rơi trên bãi cát, thánh nhân đã qua đời trong sự trơ trụi nghèo nàn.
Danh vọng, tiền tài, ngay cả sức khỏe... tất cả đều được đốt cháy để tìm được niềm vui đích thực cho tâm hồn và mang niềm vui đó đến với mọi người: đó là sứ điệp mà thánh Phanxicô Xaviê đã để lại cho tất cả chúng ta...
"Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột"... Có lẽ người ta thường dùng câu nói trên đây không những để nói lên tính cách tương đới của đau khổ, mà còn để nói lên ngay cả sự tương đới của hạnh phúc.
Sau những tháng năm ăn độn, ăn rau, những người nghèo có thể hớn hở reo vui khi được bữa cơm trắng với chút thịt cá. Sau những tháng năm tù đày, một người vừa mới được phóng thích sẽ reo hò sung sướng khi được đi lại tự do, khi được thở không khí trong lành...
Những người giàu có, ngày nào cũng yến tiệc linh đình sẽ thèm khát đôi chút cá kho, mắm cà của người nghèo khổ... Những đứa trẻ giàu có ở đô thị có lẽ sẽ thèm khát những giây phút được cưỡi trâu hay tắm ao của những chú bé nghèo ở nhà quê...
Tựu trung, vấn đề cơ bản nhất của con người vẫn là đi tìm hạnh phúc. Và cuối cùng, sau những miệt mài tìm kiếm, ai cũng nhận thấy rằng mình sẽ không bao giờ đạt được hạnh phúc đích thực và trường cửu trên trần gian này. Kẻ đứng ở núi này sẽ luôn nhìn sang núi nọ...
Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta một bí quyết của hạnh Phúc: Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất và ai mất mạng sống mình vì Ta sẽ gặp lại... Chỉ có một niềm vui đích thực đó là sống trọn vẹn cho Chúa. Chỉ có một điều quan trọng nhất trong cuộc sống: đó là lắng nghe lời Chúa.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Cuộc đời và tiếng gọi
Khi được hỏi về việc chọn một lời Thánh Kinh làm châm ngôn cho đời giám mục của mình, Đức tân Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã trả lời: "Tôi chọn lời Thánh Kinh làm châm ngôn nhắc nhớ chính mình là: "Hãy theo Thầy!".
"Hãy theo Thầy!" là lời nhắc nhớ rằng dù làm linh mục hay làm giám mục, vẫn chỉ là một tiếng gọi mà thôi, có chăng là tiếng gọi ấy thôi thúc hơn và mạnh mẽ hơn.
"Hãy theo Thầy!" là lời nhắc nhớ rằng điều quan trọng trong đời dâng hiến không phải là đi đâu và làm gì, mà là đi với ai. Đi theo Thầy Giêsu thì dù làm gì và ở đâu cũng là đi trên đường sự thật và là đường dẫn đến sự sống.
"Hãy theo Thầy!" là lời nhắc nhớ rằng muốn làm người lãnh đạo thì trước hết phải làm môn đệ, và càng sống tư cách môn đệ tốt bao nhiêu thì càng có hi vọng lãnh đạo tốt bấy nhiêu... Theo Thầy không chỉ là theo bằng trí, mà là theo bằng tâm; cho nên theo Thầy là để tâm mình gắn bó với tâm của Thầy, để mang trong lòng mình những tâm tư của Thầy (x. Pl 2,5). (tinvui.org).
Đọc Phúc Âm, ta nghe âm vang lời mời gọi: "Hãy theo Thầy!". Tiếng gọi của Chúa Giêsu luôn để lại những âm vang làm chuyển biến cuộc đời. Những ngư phủ đã trở thành Tông đồ, những kẻ chuyên nghề đánh bắt cá đã trở nên người chuyên nghiệp bủa lưới các tâm hồn.
Ngày 3.12, Giáo Hội mừng lễ Thánh Phanxicô Xaviê, một nhà truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời đại mới. Đọc lại tiểu sử để thấy cuộc đời ngài được dệt bằng những tiếng gọi "Hãy Theo Thầy!".
1. Cuộc đời
Thánh nhân sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê, trong một gia đình quyền quý của vương quốc Navarre nhỏ bé miền bắc nước Tây Ban Nha ngày nay. Khi ngài 5 tuổi, nước Tây Ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre, khiến gia đình ngài lâm cảnh nước mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức, năm 17 tuổi, ngài đến Paris học (1525-1536).
Tại Paris, ngài sống trong cùng một căn phòng với chân phước Phêrô Favre và sau đó, với thánh Ignaxiô. Lần lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô Xaviê được thánh Ignatiô thu phục. Năm 28 tuổi, ngài cùng với nhóm bạn của thánh Ignatiô, khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi, ngài chịu chức linh mục tại Venezia, miền đông bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi, ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.
Tháng 04.1541, ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau, mới đến được Goa bên Ấn độ.
Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số.
Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaisia và từ đó, đến Indonésia.
Là vị giám tỉnh đầu tiên của tỉnh dòng đầu tiên ngoài Châu Âu, ngài yêu mến và gắn bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em trong Dòng, kính trọng và tuân phục thánh Ignatiô, nhiệt thành lạ lùng với việc tông đồ. Ngài đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh.
Trong vòng 2 năm (1549-1551), ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản. Trước khi ra đi, ngài trao lại cho cho một linh mục Bồ Đào Nha; 20 năm sau, cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người.
Cuối cùng, vì muốn vào Trung Quốc truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên, ngay cửa khẩu Quảng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung Quốc. Tiếc rằng tại đây, ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh, chỉ có anh thanh niên trẻ thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.
Thánh Phanxicô Xaviê qua đời ngày 3/12/1552, được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV phong thánh cùng với thánh Ignatiô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. (x.Phụng vụ chư thánh tập 2, Lm Augustin Nguyễn Văn Trinh).
2. Tiếng gọi.
Đức Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống đã chiêm nghiệm cuộc đời thánh nhân qua 3 tiếng gọi: Lời Chúa, bạn bè và nhu cầu truyền giáo. (x. Làm nụ hoa trắng, tr 135).
a. Tiếng gọi từ Lời Chúa.
Đức Giêsu hỏi: "Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?" (Mt 16,26a). Câu hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo sư triết trẻ tuổi, với một tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh dự đang chờ đón.
Sinh ra trong gia đình quyền quý, nhưng Phanxicô Xaviê luôn nuôi trong mình những ước vọng bay cao, ngài tìm thăng tiến qua nẻo đường học hành.
Phanxicô Xaviê lên Paris theo đuổi khoa bảng, dùi mài kinh sử để cuối cùng trở thành giáo sư môn Triết học. Nhưng trên đỉnh cao danh vọng ấy, một lần tiếp cận Tin Mừng, gặp được câu: "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn liệu ích gì?" và dù không quen cân đo đong đếm kinh tế, ngài cũng đặt tất cả lên cán cân giá trị: lời lãi trần thế mà đời sống linh hồn trống rỗng, không có gì, thì là lỗ vốn, đạt được ước vọng trong cuộc sống này mà đời sau lại mất hết, thì là bể bụi cuộc đời trắng tay sự nghiệp. Vì thế mà thánh Phanxicô Xaviê đã suy nghĩ lựa chọn định hướng đời mình sao cho có lợi cho đời sống Thiên Chúa. Phanxicô Xaviê không muốn dừng lại hưởng thụ cuộc sống đầy đủ muốn gì được nấy, nhưng luôn được kích thích bởi ước vọng vươn lên; không muốn một cuộc đời chật hẹp gò bó dù luôn có kẻ hầu người hạ, mà lại thích vất vả khai phá lên đường; không muốn ngày ngày làm quen với vũ khí chiến đấu phòng thủ hoặc tấn công chỉ vì lãnh địa đồi núi hoang sơ, nhưng lại ham thích vũ khí tinh thần là sách vở kiến thức không gây bực bội tinh thần và cũng chẳng hôi tanh mùi máu.
Lời Chúa ở đây quả là lựa chọn, đã trở thành sức mạnh giúp thánh nhân định hướng đời sống.
b. Tiếng gọi đến từ môi trường bè bạn.
Lời Chúa gọi khi Phanxicô Xaviê mới 24 tuổi, đang sinh sống và giảng dạy ở kinh thành Paris tráng lệ. Ngài không thay đổi ngay lập tức khi nghe những lời ấy, nhưng tất cả là nhờ ở người bạn tốt: Cha Ignatiô ở Loyola đã liên lỉ thuyết phục và sau cùng, đã chiếm được người thanh niên ấy cho Ðức Kitô. Sau đó, Phanxicô tập luyện đời sống tâm linh dưới sự hướng dẫn của Cha Ignatiô, và năm 1534, ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của Cha Ignatiô (là Dòng Tên thời tiên khởi). Tại Montmartre, các ngài khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và hoạt động tông đồ dưới sự hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng.
Bạn bè có một ảnh hưởng không nhỏ đến chọn lựa của Phanxicô Xaviê. Đó là tiếng gọi thứ hai.
Ở Paris, sống đời sinh viên trau dồi trí thức, Phanxicô Xaviê đã gặp gỡ Ignaxiô trong tình thân bạn bè. Sự thân thiết này đã giúp ngài cởi mở cõi lòng, tâm sự chia sẻ cuộc sống tinh thần. Nhận biết Phanxicô là con người đầy cao vọng, nhất là những ước vọng lành thánh, Inhaxiô một hôm nói với Phanxicô rằng: "Con người nhiều cao vọng như anh mà chịu dừng lại trong vinh quang trần thế thì quá uổng. Thiết nghĩ chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với tầm cao ước vọng của anh".
Câu nói của Ignatiô tác dụng như một liều thuốc mạnh, có sức công phá, không gì có thể cầm lại được. "Chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với khát vọng khôn cùng", Phanxicô Xaviê đã coi đây như châm ngôn để ngài dấn thân phục vụ Giáo Hội trong Giáo Hội và theo đường lối của Giáo Hội. Ngài từ bỏ tất cả công danh sự ngthiệp, nhận chức Linh mục, rồi sau đó, cùng với Ignaxiô, thành lập Dòng Tên với khẩu hiệu "cho vinh danh Chúa hơn".
Nhắc lại vài đoạn trong bút tích Thánh Phanxicô Xaviê cũng đủ thấy tình anh em bạn bè luôn nâng đỡ ngài trên hành trình truyền giáo.
- "Tất cả anh em trong Dòng hiện diện liên lỉ trong tâm trí tôi" (Bt 48,1: bút tích Thánh Phanxicô Xaviê, tài liệu 48 số 1);
- "Ở Ấn Độ, để giải trí, tôi rất thường nhớ đến anh em trong Dòng, và nhớ đến thời gian, vì Chúa quá thương, tôi đựoc biết anh em và sống với anh em. Nhờ lời anh em cầu nguyện, và vì anh em luôn nhớ đến tôi, Chúa ban cho tôi ơn rất lớn là dù xa cách anh em về thể xác, nhưng nhờ anh em nâng đỡ và giúp đỡ, Chúa cho tôi cảm thấy muôn vàn tội lỗi của mình, và cho tôi sức mạnh để đến giữa dân ngoại" (Bt 20,14);
- "Để đừng bao giờ quên anh em trong Dòng, và lúc nào cũng nhớ đặc biệt đến anh em, tôi đã cất tên của anh em trong các thư từ chính tay anh em viết cho tôi, tôi có thể luôn luôn mang trên mình, cùng với lời khấn của tôi. Điều này đem lại cho tôi nhiều an ủi...Tôi cảm thấy sung sướng khi mang tên của anh em trên mình" (Bt 55,10).
- "Gặp anh em thì tâm hồn tôi đựơc an ủi hơn nhiều. Vậy mà tôi cứ phải viết thư cho anh em, lại không chắc thư đến, vì từ Ấn Độ đến Roma xa quá...Tôi nghĩ mình không lầm khi nói xa cách phần xác không làm cho chúng ta, vốn yêu mến nhau trong Chúa bớt yêu mến và nghĩ đến nhau" (Bt 48,1).
- "Đặc biệt đối với Cha Ignatiô, Phanxicô đã xúc động thổ lộ tâm tư. Chúa đã ban ân huệ lớn lao khi cho tôi được biết Cha Ignatiô. Bao lâu còn sống, không bao giờ tôi trả được món nợ đối với ngài" (Bt,16).
- "Trong số nhiều lời thánh thiện và an ủi của ngài, tôi đọc được những lời thế này: "hoàn toàn thuộc về nhau. Không bao giờ quên được nhau". Tôi đã rơi lệ khi đọc những chữ ấy, và cũng rơi lệ khi kể lại, vì nhớ lại thời gian đã qua, nhớ đến ngài đã và vẫn luôn luôn rất thương tôi, và nhờ những lời khẩn nguyện thánh thiện của ngài, Thiên Chúa đã cho tôi thoát đựoc bao gian nan, bao nguy hiểm" (Bt 97,1).
- "Đó là một con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, đời sống không có gì chê trách được" (Bt 1,7).
c. Tiếng gọi đến từ nhu cầu truyền giáo.
Ban đầu, nhận công tác đi tìm Vinh Danh Chúa qua việc phục vụ các bệnh nhân, nhưng chừng như chưa đủ, Phanxicô Xaviê vẫn khát vọng xa hơn, là hiến thân loan báo Tin Mừng tận miền sâu miền xa của địa cầu. Tiếng gọi thứ ba đến từ nhu cầu truyền giáo.
Từ Venice, là nơi ngài thụ phong linh mục năm 1537, Cha Phanxicô Xaviê đến Lisbon và từ đó, ngài dong buồm đến Ấn Ðộ, cập bến làng Goa ở bờ biển phía tây nước Ấn. Trong vòng 10 năm tiếp đó, ngài đã tích cực hoạt động để đem đức tin đến cho rất nhiều dân tộc, trong đó có người Ấn Ðộ, Mã Lai và Nhật Bản.
Cha Phanxicô đến các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Ngài học tiếng Nhật và rao giảng cho các người dân chất phác, dạy giáo lý và rửa tội cho họ, cũng như thành lập các trụ sở truyền giáo cho những người muốn giúp đỡ công cuộc của ngài. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.
Tới Goa ngày 6/5/1542, Phanxicô rong ruổi khắp nơi, nhiệt tình rao giảng cho người ta biết con người Nagiaret nghèo nàn kia chính là Thiên Chúa ở giữa loài người. Trong 7 năm (1542-1549), Ngài là nhà truyền giáo rửa tội đựơc nhiều nhất, tới 100.000 người, "có những buổi chiều nhức mỏi cả cánh tay" như thánh nhân viết.
Từ Malaca, Ngài đến Nhật, xứ sở mặt trời. Ngài muốn gặp gỡ tìm hiểu trao đổi để Lời Chúa sáng ngời qua đối thoại. Ngài dự định đến tận kinh đô Nhật, vào các Đại học, gặp gỡ các nhà Sư để trao đổi. Phanxicô hoạt động nhiều nhất tại Kagoshima, Hirado, Bungo trên đảo Kyushu, lên Yamaguchi, từ đó đi hai tháng lên kinh đô Myako (tức Kyoto). Sau hai năm ở Nhật, Phanxicô trở về Goa, trao công việc truyền giáo lại cho cha Torres và tu huynh Fernandez.
Ngày 14.4.1552 nhà truyền giáo lên tàu. Tháng 8 năm đó ngài tới đảo Thượng Xuyên, cửa ngõ Trung Hoa. Ba tháng sau Phanxicô bị sốt nặng, lòng vẫn ngong ngóng đựơc nhà cầm quyền Quảng Đông cho phép vào đất liền. Thật bất ngờ, ngài qua đời vào 2-3 giờ sáng ngày 3/12/1552, mới 46 tuổi đời. Nói theo "thói thế gian", đó là vỡ mộng, mọi việc còn dang dở... Nhưng đối với Thiên Chúa thì Phanxicô đã làm trọn ý Người và mọi sự đã hoàn thành, dù chưa đựơc phép bước vào nước Đại Minh thời đó với dân số dưới 200 triệu người.
Bất cứ chỗ nào ngài đến, ngài đều sống với người nghèo, chia sẻ thức ăn và các phương tiện thô sơ với họ. Ngài dành rất nhiều thời giờ để chăm sóc người đau yếu, nghèo khổ, nhất là người cùi. Rất nhiều khi ngài không có thời giờ để ngủ hoặc ngay cả để đọc kinh nhật tụng, nhưng qua các thư từ ngài để lại, chúng ta được biết, ngài luôn luôn tràn ngập niềm vui.
Hành trình không mệt mỏi, Phanxicô Xaviê rong ruổi những nẻo đường Á Châu, một miền xa lạ và xôi xa. Nhưng mặc kệ. Sợ gì! Đối với thánh nhân: "Tôi không sợ ai ngoại trừ Thiên Chúa, chỉ sợ Người phạt vì chểnh mảng trong việc phục vụ Người, vì vụng về và vô dụng trong việc truyền bá danh Chúa Giêsu giữa những kẻ chưa biết Người" (Bt 78,2).
Ở đâu có vinh quang Thiên Chúa, Phanxicô Xaviê sẵn sàng lên đường. Mỗi một tâm hồn chinh phục được là một niềm vui cho vinh quang Thiên Chúa, mỗi một hao mòn trong thân xác là "một vốn" bỏ ra để có "bốn lời" cho cuộc sống mai hậu. Mỗi một thời khắc sống cho Tin Mừng, cũng chính là một cách đong đầy cho khát vọng cống hiến tìm Vinh Danh Chúa.
Chính vì thế mà Phanxicô Xaviê đã không mỏi mệt ra đi, dấn bước lên đường: từ Nhật đến Ấn Độ, từ Goa đến biên giới Trung Quốc. Mỗi chặng đường đi qua, lại là một lời "còn nữa" vang lên không ngừng. Tiếng gọi từ nhu cầu truyền giáo đã hớp lấy tâm hồn Phanxicô Xaviê. Thánh nhân đã sống do và cho tiếng gọi này đến hơi thở cuối cùng trên con đường sang Trung Quốc. Đúng là một con người đầy cao vọng, nhưng là một cao vọng đích thực chỉ mình Thiên Chúa mới có thể đong đầy, mới làm no thỏa.
3. Biết tận dụng Ơn Chúa ban
Nhìn cuộc đời thánh Phanxicô Xaviê trong ba tiếng gọi: Lời Chúa, bè bạn và nhu cầu truyền giáo, cũng là một cách học tập đời sống của ngài để họa lại trong đời sống của mình.
Đời mỗi tín hữu cũng đong đầy những tiếng gọi như thế.
Xin cho những tiếng gọi của Lời Chúa được ta lắng nghe chân thành và thực thi trung thành, bởi đó là ánh sáng soi lối ta đi.
Xin cho những tiếng gọi từ những người xung quanh không bị ta quên lãng, bởi tưởng như tầm thường, nhưng đó lại là tiếng gọi nhiều khi rất quý hiếm cho vững bước đi lên.
Và xin cho nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội luôn là tiếng gọi ta phải quan tâm để ý, bởi đó là sự sống và là sự sống còn của Giáo Hội.
Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi "Hãy theo Thầy" để "ra đi và rao giảng cho muôn dân" (Mt 28,19).
Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người cùng làm việc với chúng ta.
Rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hàng ngày. Chính nhờ sự hy sinh, từ bỏ tất cả những gì của riêng mình, mà Thánh Phanxicô mới có tự do để đem Tin Mừng đến cho người khác. Hy sinh là quên đi cái tôi của mình vì lợi ích cao cả hơn, lợi ích của sự cầu nguyện, lợi ích khi giúp đỡ người có nhu cầu, lợi ích khi lắng nghe người khác.
Món quà lớn nhất của cuộc đời chúng ta là Ơn Chúa.Thánh Phanxicô đã đón nhận hồng ân ấy, rồi làm trổ sinh hoa trái trong suốt năm tháng truyền giáo. Lời khuyên và cũng là lẽ sống của ngài cho chúng ta: "Không ai là người yếu đuối, nếu biết tận dụng Ơn Chúa ban cho mình" (Bt 90,8.9).
Ơn Chúa có thể đến bất cứ từ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Ðiều quan trọng là chúng ta biết nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nhìn tất cả chỗ nào cũng là ân sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc "Chúa đến viếng thăm", là tiếng gọi trong hành trình cuộc đời.
Lm. Nguyễn Hữu An
SUY NIỆM 3: Thánh Phanxicô Xaviê, quan thầy các xứ truyền giáo
Thánh Phanxicô Xaviê sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê, thuộc giáo phận Pampelune, nước Tây ban nha. Năm 17 tuổi đến Paris theo học tại trường đại học danh tiếng Sorbonne nước Pháp. Tám năm sau Phanxicô tốt nghiệp và được tuyển làm giáo sư triết học tại đại học này. Nổi tiếng nhờ trí thông minh, Phanxicô ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng trần gian.
Ngài có một người bạn thân là Inhaxiô Loyola, một hôm đã gieo lời Chúa vào tai Phanxicô: "Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn thì nào có ích gì"(Mt 16,26). Được ơn thánh Chúa tác động, Phanxicô đã cùng 7 anh em bạn đến Montmartre thành lập dòng Chúa Giêsu (ngày nay là dòng Tên) do Inhaxiô Loyola đứng đầu, cùng khấn khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ.
Năm 31 tuổi ngài chịu chức Linh mục tại Venetia miền bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi ngài xuống tầu từ Lisbonne (Bồ đào nha) đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức thánh Cha Phaolô III.
Suốt 11 năm ngài đã đi giảng đạo tại Ấn độ, Tích lan, qua Nhật và còn dự định vào Trung quốc. Tại Ấn độ ngài rửa tội cho nhiều bậc quân vương. Tại Nhật ngài cũng được Nhật hoàng Bungolu hết sức cảm phục. Ngài đã vượt hàng ngàn cây số đường bộ nhất là đường biển và đã đem lại cho Chúa hàng trăm ngàn linh hồn. Ngoài thánh Phaolô chắc có ít vị thánh nào có hành trình truyền giáo như thánh Phanxicô.
Lòng nhiệt thành cứu các linh hồn còn thôi thúc ngài tới lục địa Trung quốc bao la để truyền giáo, nhưng đang trên cuộc hành trình tới đó, ngài đã qua đời tại đảo Tân châu (Trung quốc) ngày 03/12/1552. Xác ngài được đưa về mai táng tại Goa (Ấn độ). Năm 1622, tức sau 70 năm, Đức giáo hoàng Grêgôriô XV đã phong thánh cho ngài cùng với thánh Inhaxiô và được đặt làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Chúa Giêsu đã từng nhắn nhủ các môn đệ: "Các con hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và con và Thánh Thần"(x. Mt 16,16). Sau khi Chúa Giêsu về trời, các môn đệ chia nhau đi khắp nơi để rao giảng Tin mừng. Việc rao giảng Tin mừng ấy còn phải được kế thừa trong Giáo hội. Như vậy, mọi người đều có trách nhiệm phải rao giảng Tin mừng trong hoàn cảnh thực tế của mình.
Thánh Phanxicô đã ý thức về điều đó. Ngài thấy rằng không có gì quí trọng bằng một linh hồn, bởi vì "Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn thì có ích gì" (Mt 16,16). Ngài thấy cánh đồng truyền giáo còn rộng rãi bao la, nhiều người đang sẵn sàng đón nhận Tin mừng, nhưng tiếc thay, không có người đi rao giảng cho họ. Mối thao thức của ngài được diễn tả trong bức thư ngài gửi về cho thánh Inhaxiô:
"Có rất nhiều người tại những nơi này hiện giờ chưa trở thành người có đạo, chỉ vì thiếu người làm cho họ trở nên người có đạo.
Nhiều lần tôi đã nghĩ đến việc đi tới các đại học bên châu Âu, nhất là ở Paris, để điên cuồng kêu lên khắp đó đây và thúc bách những kẻ chỉ biết lý thuyết hơn là thực hành rằng: "Khốn thay, có vô số linh hồn vì lỗi của các ông mà phải trục xuất khỏi trời và bị đẩy xuống hỏa ngục.
Chớ gì những người đó chuyên chú vào việc tông đồ này như họ đã chuyên chú vào văn chương để có thể trả lẽ cho Chúa về đạo lý và những nén bạc đã ủy thác cho họ (Các giờ kinh Phụng vụ, tr 535).
Thượng hội đồng Giám mục Á châu đã cho thấy mối ưu tư của các Giáo hội ở Á châu. Về việc truyền giáo cho các dân tộc Á châu. Nhìn vào bản đồ Á châu, chúng ta thấy đây là một lục địa đông dân cư nhất, nhưng lại là lục địa có con số Công giáo thấp nhất, khoảng 2,6%. Đây là một thách đố lớn cho công việc truyền giáo. Giáo hội Á châu là một Giáo hội bé nhỏ trong một lục địa mênh mông được mời gọi rao giảng về sứ mạng tình yêu và phục vụ của Chúa Giêsu Kitô tại Á châu.
Thánh Phanxicô đã làm gương cho chúng ta về lòng nhiệt thành truyền giáo vì yêu Chúa và các linh hồn, ngài đã hy sinh tất cả bởi vì như ngài nói: "Tất cả đau khổ phiền muộn là nguồn vui sướng cho tôi". Đúng như lời thánh Augustinô nói: "Ở đâu có tình yêu ở đó không còn khó nhọc nữa. Mà nếu có khó nhọc thì họ lại yêu thích chính sự khó nhọc đó".
Vì thế, sau khi rửa tội cho một bà già đau nặng, ngài đã kêu lên: "Lạy Chúa, bỏ cha mẹ, quê hương, vượt trùng dương để cứu một linh hồn mà thôi thì con cũng thỏa mãn lắm rồi. Nay có chết con cũng vui lòng". Điều đó chứng tỏ ngài yêu các linh hồn như thế nào.
Gương truyền giáo của thánh Phanxicô thật tuyệt vời, còn chúng ta thì sao? Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi để "đi rao giảng cho muôn dân" (x. Mt 28,19). Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người làm việc với chúng ta. Và sự rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hằng ngày.
Một cách cụ thể, chúng ta thực hiện việc truyền giáo trước hết bằng lời cầu nguyện và bằng những việc hy sinh hãm mình. Chỉ có Chúa mới làm cho người khác tin Chúa mà thôi. Chứ người phàm không có khả năng làm được điều đó vì Chúa đã phán: "Hãy xin thì sẽ được" (Mt 7,7-8; Lc 11,9-10; Ga 14,13-14).
Thứ đến phải sống một đời sống tốt lành thánh thiện để làm gương sáng cho người khác vì như người ta nói: "Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi kéo". Gương sáng có tính cách thuyết phục và hấp dẫn hơn lời nói như Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: "Người thời này không thích những thầy dạy cho bằng nhân chứng".
Chúng ta chỉ có thể truyền giáo bằng gương sống của chúng ta qua việc sẵn sàng giúp đỡ mọi người, qua việc thực thi bác ái của Tin mừng mà thôi. Ước gì đời sống mỗi người, mỗi gia đình là tấm gương tốt lành, công bằng, yêu thương minh chứng cụ thể cho đức tin và lòng yêu mến Chúa của chúng ta.
Lm. Đinh Lập Liễm
02/12 Hóa bánh ra nhiều
- Viết bởi Mt 15, 29-37
Hóa bánh ra nhiều
Thứ Tư tuần 1 mùa vọng.
"Chúa Giêsu chữa nhiều người và hoá bánh ra nhiều".
LỜI CHÚA: Mt 15, 29-37
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần biển Galilêa, và Người lên ngồi trên núi; dân chúng lũ lượt đến cùng Người, đem theo kẻ câm, mù, què, liệt và nhiều người khác, và đặt họ dưới chân Người. Người đã chữa lành họ. Dân chúng kinh ngạc nhìn thấy kẻ câm nói được, người què bước đi, người đui lại thấy, và họ tôn vinh Thiên Chúa Israel.
Còn Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ mà phán: "Ta thương xót đoàn lũ này, vì đã ba ngày, họ ở lại với Ta, nhưng không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng đói, sợ họ té xỉu dọc đàng". Các môn đệ thưa Người: "Chúng con lấy đâu đủ bánh trong hoang địa này mà cho ngần ấy dân chúng ăn no?" Chúa Giêsu nói với họ: "Các con có bao nhiêu chiếc bánh?" Họ thưa: "Có bảy chiếc, và ít con cá nhỏ". Người truyền dân chúng ngồi xuống đất. Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các môn đệ đem cho dân chúng. Tất cả đều ăn no, và mảnh vụn còn lại người ta thu lượm được bảy thúng đầy. Số người đã ăn lên tới bốn ngàn, không kẻ đàn bà con nít. Sau khi giải tán dân chúng, Người bước lên thuyền và đến địa phận Magađan.
Suy Niệm 1: Hóa Bánh Ra Nhiều
Khi bàn về đoạn Tin Mừng hôm nay, một học giả Kinh Thánh đã viết: "Mỗi một giai đoạn trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu được đánh dấu bằng một bữa ăn khoản đãi dân Ngài". Trước hết là phép lạ bánh hóa ra nhiều cho 5,000 người ăn, được coi như biến cố chấm dứt sứ vụ của Ngài tại Galilêa. Vì từ đây Ngài không còn giảng dạy tại các Hội Ðường cũng như làm những phép lạ, chữa bệnh tật tại đó nữa. Thứ đến là phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi sống 4,000 người, đánh dấu trong một giai đoạn ngắn giảng dạy tại các vùng dân ngoại biên giới Palestina, miền Tirô và Sidon và miền thập tỉnh. Sau cùng là bữa tiệc ly tại Jérusalem, nơi đây đã kết thúc cuộc đời rao giảng của Ngài ở trần gian.
Với cái nhìn phân tích, chúng ta sẽ thấy rằng mỗi bữa ăn đều nằm trong một bối cảnh khác nhau, thành phần tham dự cũng khác nhau. Tuy nhiên, tất cả cùng phát xuất từ một động lực chính, đó là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Hai lần hóa bánh ra nhiều đều do sự lo lắng của Chúa Giêsu: "Nếu để họ ra về e rằng có những người sẽ bị đói lả dọc đường". Và riêng bữa tiệc cuối cùng, đó là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã phải thực hiện một phép lạ vĩ đại để cho mọi người được đủ sức mạnh mà tiến bước trên con đường lữ hành trần gian. Nếu là một trong 5,000 người của đám dân chúng được Tin Mừng nói đến hôm nay, chắc chắn tâm trạng của chúng ta cũng chẳng khác gì tâm trạng của đám dân chúng lúc bấy giờ, là bụng đói lả sau ba ngày theo ngài nhưng lại không dám lên tiếng cứ giữ thái độ yên lặng.
Có thể họ im lặng vì chưa đủ lòng tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. Thắc mắc của họ phần nào tương tự như thắc mắc của các tông đồ: "Lấy đâu ra bánh trong hoang địa này cho ngần ấy người ăn". Mặc dù các môn đệ đã thấy Ngài chữa lành các bệnh tật như làm cho kẻ điếc được nghe, què được đi, cùi được sạch... Tuy nhiên, có thể họ nghĩ rằng mình không thuộc về những hạng người cần đến Chúa Giêsu, vì thân thể đang khỏe mạnh đâu cần gì đến thầy thuốc. Sự đói mệt chỉ là một nhu cầu thể lý chứ không phải là một căn bệnh làm gì phải bắt Ngài bận tâm. Thế nhưng họ đâu có thể ngờ rằng, tuy không phải là căn bệnh thì chúng có thể làm hại con người hoặc có thể vì chút tự ái cá nhân mà họ đành im lặng mặc cho cơn đói hành hạ. Tại sao không chịu lo xa chuẩn bị chút ít lương thực phòng thân để giờ này lại mở miệng lên tiếng kêu ca.
Nhìn chung thái độ im lặng này xuất phát từ hai nguyên nhân: Thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa và quá quy trách vào bản thân.
Thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa khiến con người không thấy Ngài đầy quyền năng và đầy lòng thương xót. Ngài thấu hiểu hết mọi người và hằng quan tâm đến tất cả mọi nhu cầu của con người, ngay cả những nhu cầu nhỏ nhặt nhất cũng đều được Ngài đáp ứng. Mặt khác, quá thiên về bản thân cũng khiến cho con người xa cách Thiên Chúa. Con người luôn phải cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Về phần Chúa Giêsu, dù cho đám dân chúng im lặng, Ngài không chấp lẽ thái độ của họ, Ngài luôn quan tâm đến họ, Ngài sợ họ đói lả té xỉu dọc đàng, và Ngài đã cho họ ăn một cách dư giả đến nổi ăn xong còn dư được bảy thúng đầy. Con số này tượng trưng cho cái vô biên không đo lường nổi.
Cuộc lữ hành nào mà chẳng mệt nhoc, không lương thực thì chắc chắn sẽ có kẻ rơi rụng dọc đường. Chúa Giêsu đã thấy trước điều này ngay trong cuộc lữ hành trần gian, vì thế Ngài đã ban Mình Ngài để làm lương thực nuôi dân Ngài. Tuy nhiên, căn bệnh im lặng của đám dân chúng ngày xưa còn là căn bệnh của thế giới hôm nay. Căn bệnh đó xem ra còn trầm trọng hơn, vì bàn tiệc đã bày sẵn nhưng chẳng mấy ai đến hưởng dùng.
Mùa vọng là mùa đợi trông, dân Do Thái ngày xưa trông đợi ngày Chúa đến, ngày mà Chủ các cơ binh sẽ thiết đãi một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Sống trong tâm tình của Mùa Vọng, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ hiểu được giá trị trổi vượt của bàn tiệc Thánh Thể mà Thiên Chúa đã thiết đãi dân Ngài để rồi trong cuộc đời lữ hành trần gian chúng ta sẽ được no đủ và vững bước tiến về quê trời, không lo sợ phải mệt lả dọc đường.
Suy Niệm 2: Hoá bánh ra nhiều lần 2
Nạn đói tại Somali và một vài nơi trên thế giới là một ô nhục cho nhân loại ngày nay. Nhưng không riêng gì tại các nước nghèo, ngay trong các nước giàu, người ta cũng nói đến những hình thức nghèo đói và thiếu ăn mới, đó là nghèo đói tình người: con người có thể có một bộ óc phát triển hơn, một thân thể cường tráng hơn, nhưng trái tim thì lại mỗi ngày một nhỏ lại.
Chúa Giêsu đã đến để làm cho con người được giàu có dư dật hơn, nhưng thiết yếu là giàu có dư dật tình người. Ngài đã không mang lại cho con người cây đũa thần kinh tế chính trị để chỉ làm một cử động nhỏ bé là có đủ cơm bánh. Mồ hôi, nước mắt vẫn là định luật của cuộc sống. Chúa Giêsu không muốn xoá bỏ định luật ấy. Phép lạ, hay đúng hơn giải pháp Ngài đem đến chính là tình người: có tình người, con người có thể xoá bỏ được mọi thứ nghèo đói. Đó là sứ điệp mà chúng ta có thể tìm thấy trong bài Tin mừng hôm nay.
Chúa Giêsu xót thương đám đông đi theo Ngài. Ngài xót thương họ không những vì họ đang đói khát cơm bánh thể xác, mà còn vì nỗi đói khát tinh thần của họ. Phép lạ bánh hoá nhiều không phải là một giải pháp tạm thời xoa dịu cơn đói khát, mà là một lời mời gọi, một khơi dậy về một chiều kích vượt trên những nhu cầu thể lý. Bên kia cơm bánh nuôi thể xác, Chúa Giêsu mời gọi con người hướng về một của ăn không hư nát là sự sống thần linh, sự sống làm cho con người biết yêu thương, quảng đại hơn.
Chúa Giêsu đã có thể nói một lời và phép lạ liền diễn ra. Nhưng Ngài đã không làm thế. Ngài tra vấn các môn đệ để khơi dậy nơi các ông mối quan tâm, lo lắng đến người khác. Và chính từ những chiếc bánh và nhưng con cá có sẵn, tượng trưng cho sự đóng góp và lòng quảng đại của con người, Chúa Giêsu đã làm phép lạ bánh hoá nhiều nuôi sống đám đông dân chúng.
Giàu tình người, giàu lòng quảng đại, giàu tình liên đới, đó là sự giàu có đích thực, và với sự giàu có ấy, phép lạ của Chúa Giêsu sẽ không ngừng được tiếp diễn và lúc đó cái đói khát thể xác mới được xoá bỏ và kiếp nghèo mới được hạ giảm.
Suy Niệm 3: Giấc mơ vô tận
(Mt. 15, 29-37)
Đức Giêsu xuống khỏi miền ấy, đến Biển Hồ Galilê. Người lên núi và ngồi ở đó. Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành. (Mt. 15, 29-30)
Một Lời
Niềm hy vọng không ngừng vọt ra từ những bản văn của ngôn sứ I-sai-a. Hôm nay, niềm hy vọng này làm sống lại ước muốn của chúng ta được vượt qua những giới hạn của sự chết, được sống toàn vẹn, thoát khỏi tang tóc đau thương. Chúng ta thấy trong niềm hy vọng đó lời Chúa ban sự sống xứng đáng dồi dào, xóa sạch mọi khổ nhục. Đó là sự sống vô hạn.
Tin mừng lập lại đề tài này, không phải bằng lời loan báo viển vông, mà bằng dấu chỉ thực hiện niềm hy vọng vô tận này rõ ràng, cụ thể qua việc: "Chúa cầm lấy bảy tấm bánh và mấy con cá, Người tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ phân phát cho dân chúng".
Một Xã Hội
Chúng ta đang bị một cú sốc. Sau vài thập niên, ai cũng tưởng rằng trái đất là nguồn phong phú vô tận. Nhưng nếu chỉ trong vòng không đầy một tháng thôi, mỏ dầu cạn kiệt, biển khơi chồng chất cặn bã và làm cá chết, những loài vật biến mất, môi trường bị phá hủy, không khí bị ô nhiễm: trái đất sẽ cạn kiệt, thì không còn sản phẩm mới nữa, nguyên liệu hết, đời sống sẽ chẳng còn gì.
Và chúng ta sẽ ra sao?
Thiên Chúa đã hứa ban cho một đời sống phong phú vô tận, nhưng Ngài nhấn mạnh đến phẩm chất của đời sống này, chứ không nói đến đời sống vật chất. Để niềm hy vọng của chúng ta có một giá trị cao quý đích thực về đời sống, chúng ta hãy nghĩ xem và thử đặt vấn đề: "Tôi hy vọng gì? hay đúng hơn: tôi hy vọng vào ai?". Chúng ta sẽ tìm thấy vô tận ở đâu? Nơi sản phẩm mình có, hay nơi nhân phẩm của mình, nơi cái mình có, hay nơi mình là. Cái mình là, cái phẩm giá mới làm cho đời sống trở thành vô tận. Vậy hãy ném cái thùng của mình vào cái giếng vô tận tuyệt đối, ném cái hữu thể của mình vào hữu thể của Thiên Chúa, ném đời sống mình vào nguồn sống hằng có đời đời của Thiên Chúa.
Sau cùng, để được sống vô biên, cần phải chia sẻ nó. Bánh được hóa ra nhiều để chia sẻ cho đám dân đông đảo, thế mà vẫn còn thu được nhiều thúng đầy. Của cải của chúng ta cần được san sẻ, đời sống của chúng ta cần được bẻ ra phân phát cho nhiều người, nhờ thế, nó được trở nên vô tận.
C.G
01/12 Mặc Khải Cho Kẻ Bé Mọn
- Viết bởi Lc 10, 21-24
Mặc Khải Cho Kẻ Bé Mọn.
Thứ Ba tuần 1 mùa vọng.
"Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần"
Lời Chúa: Lc 10, 21-24
Khi ấy, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. Cha Ta đã trao phó cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!"
Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe, mà đã chẳng được nghe.
Suy Niệm 1: Mặc Khải Cho Kẻ Bé Mọn
Chúng ta đang bước vào Mùa Vọng là mùa trông đợi Ðấng Cứu Thế mang ơn cứu độ đến cho nhân loại. Chờ đợi là thời gian dài thăm thẳm, vì theo tâm lý thì thời gian như kéo dài thêm ra. Trải qua một thời kỳ lịch sử Cựu Ước, kể từ khi con người phạm tội phản nghịch qua Adam và Evà, biết bao nhiêu tổ phụ, bao nhiêu tiên tri đã được sai đến dọn đường cho Con Thiên Chúa là Ngôi Hai mặc lấy thân xác con người, gánh lấy tội lỗi con người và làm cho con người được ơn cứu rỗi.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta lời cầu nguyện của Chúa Giêsu để mạc khải cho chúng ta biết bản tính Thiên Chúa của Ngài: "Không ai biết Chúa Con ngoại trừ ra Cha, cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào ngoài Chúa Con và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết".
Ðôi mắt con người chỉ nhìn xem những vật hữu hình, nếu quá nhỏ có thể dùng kính hiển vi, nếu quá xa có thể dùng kính thiên văn. Trí óc con người có thể suy nghĩ một cách hạn hẹp trong khả năng giới hạn nào đó mà thôi, ví dụ chúng ta có thể nhìn thấy ngôi nhà chúng ta đang ở, chúng ta biết nó không phải tự nhiên mà có nhưng phải do bàn tay thợ nề, thợ mộc, do con người làm nên và tạo ra. Khi nhìn đồng hồ treo tường hay treo đồng hồ đeo tay, chắc hẳn trong chúng ta không ai nghĩ rằng nó tự nhiên mà có nhưng phải có người suy tính và tạo ra.
Từ những thí dụ cụ thể trên, chúng ta có ý nghĩ: Con người chúng ta không phải tình cờ hay ngẫu nhiên mà được sinh ra. Ða số ai cũng chấp nhận có ông Trời tạo dựng nên và điều khiển vũ trụ. Tuy nhiên trí óc con người không dừng lại ở đó, trí óc họ không thể hiểu thêm gì về ông Trời đó, chỉ có thể tưởng tượng ra ông Trời cũng biết thương, biết giận, biết ghét, biết khen thưởng hay trừng phạt như con người. Và con người cũng thường nói: "Ông Trời có mắt" để cùng nhau làm lành làm dữ, sống hòa thuận, bớt làm điều tai ác.
Chúa Giêsu mặc lấy thân phận con người để tiết lộ cho chúng ta biết về Thiên Chúa qua lời cầu nguyện của Ngài hôm nay với Thiên Chúa Cha: "Không ai biết Thiên Chúa Cha ngoại trừ ra Con". Thiên Chúa Con, Ngài từ trời xuống nên Ngài biết rõ những việc trên trời nơi Ngài đã ở với Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu còn cho chúng ta biết về Thiên Chúa Cha có Ba Ngôi, và khi Ngài chịu Phép Rửa ở sông Jordan, Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài, đồng thời có tiếng Thiên Chúa Cha phán ra từ đám mây: "Này là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta mọi đàng". Và trước khi về Trời, Chúa Giêsu cũng đã truyền lệnh cho các môn đệ: "Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Như vậy, con người không thể biết được về bản tính Thiên Chúa nếu Chúa Giêsu Kitô không mạc khải truyền lệnh cho các môn đệ: "Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Như vậy, con người không thể biết được về bản tính Thiên Chúa nếu Chúa Giêsu Kitô không mạc khải cho chúng ta biết, và lời Ngài trên đây cũng cho chúng ta biết thêm dẫn chứng về ngôi vị Thiên Chúa: "Không phải những kẻ thông thái khôn ngoan biết những điều này nhưng là những kẻ đơn sơ". Những kẻ đơn sơ bé mọn đó chính là chúng ta.
Chúng ta đang ở trong Mùa Vọng để chuẩn bị đón mừng một mầu nhiệm rất trọng đại, mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chúng ta là những người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội, thuộc mọi quốc gia, đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi trình độ, mọi ngôn ngữ khác nhau, không phân biệt nhưng cùng chung một niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế đem bình an đến cho mọi tâm hồn.
Chúa Giêsu đã chúc lành cho chúng ta: "Hạnh phúc cho những người được xem thấy những điều chúng con xem thấy, vì đã có nhiều tiên tri, vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy mà chẳng được xem". Biết bao nhiêu người hiện nay chưa biết, chưa được nghe đến Tin Mừng của Chúa, vì chưa được ai rao giảng cho họ.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con tin vững vàng vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ngôi Hai Nhập Thể để chúng con sống thật với mầu nhiệm yêu thương ấy. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con sống trọn vẹn tâm tình tha thiết mong đợi Ðấng Cứu Thế đến để cứu rỗi nhân loại chúng con. Amen.
Suy Niệm 2: Phúc cho mắt nào được thấy
(Lc. 10, 21-24)
Rồi Đức Giêsu quay lại với các môn đệ và bảo riêng: "Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy! Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: Nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe" (Lc. 10, 23-24)
Đức Giêsu sai bảy mươi hai môn đệ đi truyền giáo. Khi trở về, các ông rất vui mừng vì dân chúng đã đón nhận Tin mừng cách tốt đẹp. Nên Đức Giêsu hướng về Chúa Cha và cảm tạ Ngài. Đồng thời Người kêu mời các ông hãy vui mừng vì Thiên Chúa đã thực hiện những điều lạ lùng cho mắt các ông được thấy: "Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy".
Chúng ta đã nhìn thấy những điều tốt lành đó không? Chúng ta đã chú tâm đến những việc tích cực và lạ lùng trong học thuyết Kitô giáo ngày nay không?
Trong Giáo Hội có nhiều thay đổi thật sự. Đó không phải là dấu chỉ của sức khỏe sao? Nếu bất động thì không còn sống nữa?
Cơn khủng hoảng chúng ta đang trải qua, làm chúng ta phải cựa quậy, phải chao đảo, lo lắng. Nhưng đó là dịp cho chúng ta phục hưng, đổi mới và trở nên Kitô hữu trưởng thành và có trách nhiệm.
Giáo Hội này nay cố gắng đi về phía con người, và đặc biệt về phía những người nghèo khổ. Dù phải rước họa vào thân càng ngày càng nhiều, Giáo Hội luôn luôn hợp tác với những ai tranh đấu cho công lý và hòa bình. Đó không phải là sống Tin mừng sao? Giáo Hội canh tân phụng vụ, đó là để giúp chúng ta dễ cầu nguyện. Giáo Hội thay đổi và giảm nhẹ các luật lệ, đó là để khuyến khích chúng ta biết lãnh trách nhiệm riêng của chúng ta. Nếu chúng ta biết mở to mắt hơn và đừng chỉ trích gì của thời quá khứ, có thể chúng ta sẽ khám phá thấy rằng thời đại, mà chúng ta đang sống, không xấu mà còn có thể nói như Đức Giêsu nói: "Phúc thay mắt nào thấy điều anh em thấy".
J.Y.G
Suy Niệm 3: Mạc khải cho kẻ bé mọn
Một chú ếch nọ suốt đời ngồi dưới đáy giếng. Một hôm, nó ngạc nhiên vô cùng khi thấy một con ếch khác xuất hiện trên bờ giếng. Nó lên tiếng hỏi: "Chú mày từ đâu đến?" Từ trên miệng giếng, khách lạ tra lời: "Tôi đến từ một vùng biển".
Lần đầu tiên nghe nói đến biển, con ếch dưới đáy giếng thắc mắc: "Thế biển là gì? Biển giống như cái gì?" Khách lạ lắc đầu đáp: "Biển mênh mông, biển không cùng, không thể dùng bất cứ hình ảnh nào để nói cho một kẻ suốt đời ngồi dưới đáy giếng hiểu được thế nào là biển".
Nghe thế, con ếch ngồi dưới đáy giếng mới nghĩ thầm: "Từ trước đến nay, ta gặp không biết bao nhiêu kẻ lường gạt, nhưng tên này hẳn phải là kẻ trí trá vô liêm sỉ nhất".
Nhiều người có lẽ đang nhìn vào niềm tin Kitô giáo với lối suy nghĩ của chú ếch ngồi đáy giếng trong câu chuyện trên. Người ta dùng cái vùng giếng hẹp hòi của ý thức hệ để đo lường trời biển bao la của niềm tin tôn giáo.
Đức tin thiết yếu là một ân ban nhưng không. Điều đó có nghĩa là người ta không đạt đến đức tin bằng sự lý luận uyên bác của mình; và điều đó cũng có nghĩa là không phải kẻ thông thái đương nhiên là người có đức tin hoặc có đức tin sâu sắc hơn người quê mùa dốt nát.
Lời tá tụng của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay xác quyết tính cách nhưng không của đức tin. Chúa Giêsu cảm ta Chúa Cha vì đã dấu hạng khôn ngoan thông thái những điều đó, tức là ơn đức tin, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn.
Nói đến hạng khôn ngoan thông thái hẳn Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến những Biệt phái và luật sĩ, những người học cao hiểu rộng. Chính cái mớ kiến thức về luật pháp và đạo giáo ấy đã khiến họ cho mình là người nằm giữa chân lý, là người đạo đức và có đức tin sâu sắc hơn người khác. Chúa Giêsu đã không ngừng lên án thái độ huyênh hoang tự đắc ấy.
Chọn những người đơn sơ, thất học làm môn đệ, kết thân với những kẻ bị đẩy ra bên lề xã hội, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ cho mọi ngươi thấy rằng trong nước Ngài không có sự phân biệt đối xử, rằng người ta không nhất thiết là người thông thái mới có thể trở thành môn đệ Ngài. Để thuộc về nước Ngài, để trở nên môn đệ Ngài, điều kiện thiết yêú là phải trở nên bé mọn, khiêm tốn, trút bỏ lối suy nghĩ hẹp hòi của mình.
Quả thực, người có đức tin không còn nhìn, suy nghĩ, lý luận bằng cái nhìn ích kỷ, hẹp hòi của mình, mà bằng cái nhìn của Thiên Chúa, nhờ đó họ tìm được ánh sáng và hy vọng ngay trong cuộc sống tăm tối, cảm nhận được sức mạnh trong những mất mát, thua thiệt, nhận ra được lẽ khôn ngoan ngay trong những gì mà thế gian cho là điên dại. Người có đức tin sẽ sống và yêu thương bằng chính tình yêu của Thiên Chúa, yêu đến độ hy sinh chính mạng sống mình.
Nguyện cho cả cuộc sống chúng ta được trở thành bài ca tán dương và tri ân Chúa vì hồng ân đức tin Ngài đã ban cho chúng ta.
Nguyện cho từng tâm tư, suy nghĩ, hành động của chúng ta không phát xuất từ con người ích kỷ, hẹp hòi của chúng ta, mà là thể hiện của đức tin mà Thiên Chúa đã trao ban cách nhưng không cho chúng ta.
30/11Thánh Anrê, Tông Đồ
- Viết bởi Mt 4, 18-22
Thánh Anrê, Tông Đồ.
Thứ Hai tuần 1 mùa vọng – Thánh Anrê, tông đồ. Lễ Kính.
"Các ông bỏ lưới mà đi theo Người".
* Thánh Anrê quê ở Bétsaiđa. Ban đầu người là môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, sau đó theo Chúa Kitô. Người cũng đã dẫn em là thánh Phêrô đến gặp Chúa. Chính người cùng với thánh Philipphê đã giới thiệu những người ngoại giáo với Chúa Kitô và đã cho biết có một em bé mang theo bánh và cá khi những người nghe Chúa giảng không có gì ăn. Sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, người đã đi loan báo Tin Mừng ở nhiều nơi và đã bị đóng đinh thập giá ở A-khai-a.
LỜI CHÚA: Mt 4, 18-22
Khi ấy, nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: "Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta". Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người. Ði xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người.
SUY NIỆM 1: Thánh Anrê, Tông Đồ
Anrê tiếng Hy lạp có nghĩa là mạnh mẽ can đảm. Thánh Anrê được vinh dự làm một trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Con của Gioana. Như anh mình là Phêrô, Ngài làm thuyền đánh cá và không có gì khác ngoài chiếc thuyền. Như thế Ngài thuộc lớp người khiêm tốn được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênezareth. Ngày ấy đang khi cùng với Phêrô đi thả lưới, Chúa Giêsu đã đi ngang qua và đưa lời gọi sẽ quyết định cuộc đời các Ngài:
- Hãy theo tôi, tôi sẽ làm các anh thành các ngư phủ lưới người ta.
Đây không phải lần đầu Anrê đã gặp Đấng Cứu Thế. Thỉnh thoảng Ngài có tới nghe Gioan Tẩy giả rao giảng trong sa mạc. Khi ấy Chúa Giêsu xuống Galilea và Gioan tẩy Giả đã nói:
- Đây là Chiên Thiên Chúa.
Và Anrê có mặt ở đó với Gioan, đã biết được Người là Đấng Thiên Sai mà nhân loại mong chờ. Gioan và Anrê lên đường theo Người xa xa vì họ cảm động và không dám tới gần. Nhưng Chúa Giêsu quay lại và nói với họ:
- Các anh tìm chi vậy?
Họ, những người chỉ tìm, chỉ muốn Chúa thôi đã thưa lại:
- Thưa Thầy, thày ở đâu?
Chúa Giêsu nói:
- Hãy đến mà xem.
Và cả hai đã ở với Chúa hôm ấy.
Khi trở về nhà Anrê đã nói với anh mình:
- Chúng tôi đã gặp được Đấng Thiên Sai.
Từ đó hai anh em đã bỏ chài lưới để tới gần Chúa Giêsu. Họ nghe Người và thần tính của Người dần dần rọi sáng tâm hồn họ. Họ đã tôn thờ Đấng Cứu Thế ở trong lòng rồi.
Ở tiệc cưới Cana, Anrê đã thấy Chúa Giêsu biến nước thành rượu và lần đầu tiên thấy tỏ lộ vinh quang thần linh của Ngài. Thế là sau biến cố ấy Chúa Giêsu đã gọi hai anh em bên bờ biển Galilea và họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Anrê đã rạng rỡ trong lòng mà tham dự vào cuộc chữa lành các bệnh nhân gặp thấy trên đường đi, việc phục sinh những kẻ chết, việc Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi đoàn người đói lả vây quanh Chúa Giêsu. Chính Anrê đã nói:
- Có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng bằng ấy thì thấm vào đâu đối với ngần này người (Ga 6,8-9).
Và Ngài được thấy Chúa Giêsu tăng gấp số thực phẩm. Ở Giêrusalem, Ngài còn cho Chúa biết rằng: lương dân đã xin với Philipphê cho được gặp Người. Ngài đã nghe loan báo các chân phúc, các dụ ngôn. Ngài đã có mặt trong bữa tiệc ly. Sau phục sinh, Ngài đã sung sướng gặp lại Thày Chí Thánh. Ngày lên trời, Ngài thấy Người tiến lên mây trời. Ngày hiện xuống, Ngài đón nhận Chúa Thánh Thần.
Sau những tường thuật trên của Phúc Âm, người ta không biết gì chắc chắn nữa về Anrê. Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần Phúc Âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc Hải và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay 5 ngày.
Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida: Egêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư? Nhưng Anrê không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài nói:
- Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ông đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.
Egêa vặn lại:
- Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.
Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc: làm sao Ngài để mất danh dự được đóng đinh vào cùng một khổ giá như thày mình được? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Egêa:
- Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.
Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính mà người ta thích lập lại lời chào ấy:
- Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới Thầy Chí Thánh là Đấng đã nhờ ngươi mà cứu chuộc ta.
Dịu dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúng vây quanh Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói:
- Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quí của Thiên Chúa.
Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện:
- Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.
Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.
Tương truyền thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV... người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh Anrê.
SUY NIỆM 2: Thánh Anrê
Chúa đã chọn các tông đồ để tiếp nối sứ mạng rao giảng Tin Mừng và góp tay vào công trình cứu độ của Thiên Chúa.Chúa tuyển chọn các tông đồ thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội.Chúa chọn các tông đồ với ơn huệ nhưng không của Ngài. Chúa muốn chọn ai tùy ý Chúa.
Thánh Anrê
Theo tiếng Hy Lạp, Anrê có nghĩa là trượng phu và thanh nhã.Thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Anrê và một tông đồ khác với Chúa Giêsu. Thánh nhân đã đáp trả lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành ngư phủ lưới người ta". Anrê và Phêrô đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu.Thánh Anrê đã được nhắc nhớ nhiều lần trong các sách Tin Mừng của Chúa Giêsu.Chúa Giêsu đã nói tiên tri về thành thánh Giêrusalem, Anrê đã thắc mắc hỏi Chúa Giêsu khi nào thì sẽ xẩy ra như lời Chúa nói. Sau khi Chúa sống lại, các tông đồ nghe lời Chúa ở lại Giêrusalem để lãnh nhận Chúa Thánh Thần và sau đó ra đi loan báo Tin Mừng. Sử liệu ít ghi lại về công cuộc truyền giáo của các ngài nơi nhiều vùng đất, nơi nhiều nước trên thế giới. Nhưng có đoạn viết đã tường thuật về cuộc tử đạo của thánh Anrê tông đồ. Thánh nhân đã dứt khoát không chịu để cho người ta thương ngài xin quan tha chết cho ngài. Ngài đã dứt khoát chịu chết để được nên giống Chúa Giêsu. Chúa đã chấp nhận lời ngài kêu xin, Ngài đã không chịu khuất phục quan lãnh sự Akai và chấp nhận cái chết như lời Chúa Giêsu đã nói:"Khi nào Ta được giương cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta". Thánh nhân đã được Chúa cho đội mũ triều thiên công chính. Giáo chủ thành Alexandrie năm 357 đã đem hài cốt Ngài về Constantinople.
Lời cầu nguyện
Vì muốn nên giống Chúa Giêsu,thánh nhân đã liều mình, hy sinh chịu chết: "Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng vì người mình yêu" (Ga 15,13). Thánh nhân đã cảm nghiệm sâu xa lời: "vì Người mà tôi chịu đau khổ,tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi" (2Tm 2,9). Và như thế,Ngài cảm nghiệm: Ðức Giêsu, Ðấng"chúng ta sẽ cùng hiển trị với Người, nếu Ta kiên tâm chịu đựng" (2Tm 2,12).
Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng kính thánh Anrê, người ngư phủ đã tin Ðức Giêsu là Ðấng Mêsia và mau mắn giới thiệu cho em mình. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố niềm tin của chúng con để chúng con cũnng chia sẻ niềm tin của mình cho những người chúng con gặp gỡ. (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Anrê, tông đồ).
(Lm. Nguyễn Hưng Lợi)
SUY NIỆM 3: Tông đồ trước nhất, Andrê
Lễ Thánh Andrê là lễ trước nhất trong lịch sử phụng vụ chư thánh, Ngài là người trước nhất đi theo Đức Giêsu và là người trước nhất tuyên bố Đức Giêsu là Đấng Messia. Thánh Gioan kể nhiiều chi tiết về Thánh Andrê hơn Thánh Matthêu cho chúng ta biết thái độ của Thánh Andrê.
Andrê là anh của Simon. Ngài đã thuộc nhóm đạo đức của Thánh Gioan tiền hô. Ngài cùng với Thánh Gioan đi tháp tùng Thánh Gioan Tiền Hô. Khi Thày thấy Đức Giêsu đi ngang qua, thày đã nói: "Đây Chiên Thiên Chúa Andrê đã bỏ thày lại và đi theo Đức Giêsu, đến nơi ở của Người và họ đã ở lại với Người từ ngày đó!"
Ngày hôm sau, khi em mình là Simon, Ngài nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu". (Ga 1, 41-42)
Theo truyền khẩu Ngài chết ở Patras Hy Lạp, bị đóng đinh vào thập giá hình chữ X.
Ngày nay, ta luôn luôn có cảm tưởng rằng để noi gương các thánh, chúng ta phải thực hành nhân đức đặc sác của Ngài. Đúng thế! Nhưng suy nghĩ về các Thánh mà chúng ta biết điều thúc dục chúng ta là luôn cầu nguyện theo gương các Ngài, như phụng vụ khêu gợi cho chúng ta. Tờ kê khai các nhân đức của các Ngài thì dài vô tận và chúng ta sẽ như chim chích vào rừng, nói thế không phải chuyện dỡn!
Nhưng thay vì lạc vào rừng, tiên Việt Nam hãy theo Thánh Andrê, cũng như các thánh, muốn dạy chúng ta bài học độc nhất là: gặp gỡ Đức Ki-tô và yêu mến Người. Đó là đúng nhất. Không còn bài học nò khác, cũng không phải tìm ai nữa, Ngài đã tìm được Đấng giải thích cho lý trí của Ngài: "Tôi đã gặp được Đấng tôi yêu và yêu tôi". "Tôi yêu Người trọn vẹn vì lý do đó".
Andrê nghĩa là dâng hiến, là trung tín, là tất cả trong tình yêu, tình bạn khiêm tốn.
J.M.
- 29/11 Tỉnh thức và cầu nguyện
- 28/11 Tỉnh thức cầu nguyện
- 27/11 Nhận ra tiếng Chúa qua các biến cố
- 26/11 Giờ cứu rỗi đã gần đến
- 25/11 Làm chứng về Chúa
- 24/11 Làm chứng Vì Danh Thầy
- 23/11 Cho Ði Tất Cả
- 22/11 Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi
- 21/11 Chúa Giêsu xác định rõ ràng về sự sống lại
- 20/11 Ðền thờ, nơi gặp gỡ Chúa