Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
14/9 Quyển sách cao siêu nhất
- Viết bởi Ga 3, 13-17
Quyển sách cao siêu nhất.
Thứ hai tuần 24 thường niên - SUY TÔN THÁNH GIÁ. Lễ kính.
"Con Người phải bị treo lên".
* Lễ Suy Tôn Thánh Giá được cử hành sau lễ Cung Hiến Thánh Đường Phục Sinh, được xây ở Giê-ru-sa-lem trên mồ thánh (335). Từ cõi chết phục sinh, Chúa Kitô đã chiến thắng sự chết. Thánh giá của Người tiêu biểu cho cuộc chiến thắng này. Truyền thống còn thấy ở đây dấu chỉ của Con Người, Đấng sẽ xuất hiện trên trời để loan báo ngày Người trở lại.
Lời Chúa: Ga 3, 13-17
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: "Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.
"Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ".
SUY NIỆM 1: Quyển sách cao siêu nhất
Người ta thường mượn câu chuyện sau đây để nói đến tinh thần hy sinh, chấp nhận trong cuộc sống.
Có một người kia cứ phàn nàn trách Chúa vì đã gửi đến cho mình một thập giá quá nặng... Chúa bèn đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa.
Người đó hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường. Người đó tự nhủ trong lòng: "Ðây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức cẩn thận".
Thế là anh ta đi rảo khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác. Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng... Anh lại tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng ý nhất. Anh mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: "Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy". Khi anh vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: "Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá. Ðây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng".
Hôm nay Lễ Suy Tôn Thánh Giá, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu Mầu Nhiệm Thập Giá trong đời sống Ðức Tin của chúng ta.
Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars bên Pháp, đã nói: "Thập giá là quyển sách cao siêu nhất... Chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là người thông thái".
Thập giá Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất của Tình Yêu. "Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng vì người mình yêu". Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng của Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến cho nhân loại...
Suy tôn Thánh Giá Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào Mầu Nhiệm Tình Yêu của Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặmg của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa: đó là ý nghĩa của Tình Yêu.
(Trích trong 'Lẽ Sống')
SUY NIỆM 2: Lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Giêsu
Chúng ta hết thảy đều biết, hôm Ðức Giêsu chịu chết trên Thập giá, chỉ có mấy bạn hữu nghĩa thiết của Người đứng gần. Họ là những người yếu đuối nghèo khó. Chẳng ai biết phải làm gì! May thay có các ông Giuse và Nicôđêmô đi xin Philatô cho phép hạ xác Chúa xuống và táng trong huyệt. Còn thập giá của Người thì chẳng ai để ý đến. Sau ngày Phục sinh, các môn đệ cũng chỉ bận đầu với việc Chúa sống lại. Và với ơn trợ giúp của Thánh Thần, họ bắt đầu đi rao giảng ở mọi nơi. Người ta quan tâm đến việc xây dựng các giáo đoàn và lo nhớ lại giáo huấn cũng như cuộc đời của Chúa Giêsu chứ những di vật và kỷ niệm vật chất của Người, không ai để ý.
Cho đến khi có nhiều người ở xa Ðất Thánh đã tòng giáo và muốn cũng như có điều kiện hành hương những nơi Chúa đã sinh sống, việc thu lượm những di vật kỷ niệm về Chúa trở thành một cuộc săn tìm. Chính trong hoàn cảnh ấy người ta nghĩ rằng đã tìm lại được cây Thập giá mà Chúa đã vác và đã nằm trên khi bị đóng đinh. Lập tức hình cụ ấy đã trở thành vật thánh; thập giá trở thành Thánh giá; và người ta suy tôn kính mến.
Lễ hôm nay muốn nhắc lại kỷ niệm này. Hội Thánh thúc giục con cái đến với Thánh giá, bắt chước các tín hữu khi mới tìm lại được cây gỗ đã đóng đinh Chúa Giêsu, để nơi cây Thánh giá mà hằng ngày vì quá quen không còn ý nghĩa bao nhiêu, chúng ta được dịp khám phá lại giá trị vinh quang cao cả của nó. Phụng vụ giúp chúng ta ba bài đọc để suy nghĩ. Ba bài thường thôi nhưng hàm chứa biết bao sự thật!
A. Câu Truyện Rắn Ðồng
Bài sách Dân số kể lại một câu truyện, mà nếu không có bài Tin Mừng hôm nay, thì hầu chắc đã chẳng được mấy ai để ý. Ðó là truyện con cái Israel hồi đó đang đi loanh quanh trong sa mạc để hướng về Ðất Hứa. Một hôm họ bị rắn lửa cắn quá nhiều; Môsê theo lệnh Chúa dựng lên một con rắng đồng để chữa họ.
Câu truyện vắn tắt quá! Ai tin thì nghĩ đây là một phép lạ. Còn ai không tin, có thể cho rằng tác giả sách Thánh đã bịa đặt. Nhưng một chữ viết ở thời xưa vẫn có giá trị. Và thường ý nghĩa của nó không hiện ra tức khắc. Các khoa học lịch sử, địa dư, văn minh, tôn giáo có thể cung cấp cho chúng ta ngày nay nhiều yếu tố quý giá để hiểu câu truyện này.
Việc có nhiều rắn lửa trong sa mạc là điều có thật. Ðó là loại rắn độc cắn chết người. Nhưng đồng thời ở các mỏ đồng gần đó, người ta cũng bới tìm được nhiều hình rắn đồng. Ðó là hình ảnh một vị thần của dân ngoại, nổi tiếng có sức chữa lành bệnh tật. Như vậy chắc chắn ngày xưa khi bị rắn lửa cắn, người ta đã khẩn cầu vị thần này, cũng như ngày nay khi mắc bệnh người ta đi tìm dược liệu; và nhiều tiệm bào chế vẫn trình bày hình một con rắn.
Môsê dẫn con cái Israel đi qua nhiều dân ngoại. Chắc chắn họ đã thấy các dân này thờ thần rắn để được khỏi bệnh. Và chắc chắn khi bị đau yếu con cái Israel cũng bị cám dỗ chạy đến với vị thần nổi tiếng này. Môsê coi đó như là một nguy hiểm cho tôn giáo độc thần. Ông thấy có bổn phận phải mở mắt và dạy dỗ Dân. Có lẽ khi nhiều người trong họ bị rắn lửa cắn là dịp để ông giải quyết vấn đề.
Chúng ta hãy đọc câu truyện của bài sách Dân số trong viễn tượng ấy. Rõ ràng có nhiều bài học tôn giáo trong câu truyện này. Và phải nói đây là Lời Chúa dạy dỗ Dân về mặt đạo đức đi từ một câu truyện chứ không phải là bài chỉ muốn tường thuật câu truyện ấy.
Trước hết chúng ta được biết vì sao con cái Israel bị rắn lửa cắn. Họ muốn bỏ Chúa, bỏ con đường đi tới tự do để trở về mảnh đất nô lệ. Họ phàn nàn đã nghe Môsê và Chúa để đi tìm Ðất Hứa. Giả như họ cứ ở lại Aicập thì làm gì phải cảnh ngộ này: gối mỏi chân chồn, nước uống thiếu hụt, thức ăn chán ngấy! Họ đã quên ơn giải phóng, tỏ ra bạc nhược trước khó khăn và bất trung, thất tín đối với Giao ước. Ðã đành có khó khăn, vất vả; nhưng Chúa không toàn năng và đáng tin tưởng sao? Vì sao không phấn đấu để cứ tin Người và Môsê, vị Ngôn sứ của Người? Phàn nàn, trách móc là điều không tốt; muốn bỏ Chúa để trở về đời sống cũ là phản bội. Rắn lửa bò ra cắn những kẻ kêu trách là hình phạt Chúa gửi đến. Bệnh tật và các sự dữ ở đời đều do tội lỗi: Ðó là bài học thứ nhất của câu truyện hôm nay.
Nhưng tội lỗi và sự chết không có tiếng nói cuối cùng. Con cái Israel đã nhận ra bài học Chúa dạy. Họ đến với Môsê, thú nhận tội lỗi và nhờ ông khẩn cầu lòng Chúa tha thứ. Họ để lại cho hậu thế bài học sám hối ăn năn.
Chúa rộng lòng tha thứ, dạy Môsê làm hình một con rắn đồng treo lên một cây sào để ai bị rắn cắn, nhìn vào sẽ được khỏi. Như vậy rắn đồng không phải là thần thánh mà chỉ là dấu hiệu hoặc khí cụ Thiên Chúa dùng. Chính Người chữa lành người ta, khi họ ăn năn hối cải trở về với Người.
Con cái Israel đã hiểu như vậy. Về sau mỗi lần có khốn khó ập tới, các ngôn sứ của Chúa chỉ cần kêu gọi thống hối ăn năn, chứ không cần treo lên một dấu hiệu nào nữa. Chẳng bao giờ người Dothái thờ thần Rắn như nhiều lân bang. Câu truyện con rắn đồng hầu như không còn được nói đến nữa. Ngược lại dần dần người ta cảm thấy rằng chẳng có gì có thể chữa dứt được thứ bệnh của con cái Israel, thứ bệnh "tội lỗi" mà các ngôn sứ làm cách nào cũng không ngăn ngừa nổi. Các lễ thiêu và kinh nguyện sáng chiều không sao rửa sạch tội lỗi của Dân cứng đầu hay kêu trách. Cuối cùng người ta chỉ còn biết đợi cánh tay uy hùng của Chúa. Chính Người phải ra tay cứu độ mới được. Bất cứ người Dothái đạo đức nào cũng nghĩ như vậy. Và Nicôđêmô, khi đến với Ðức Giêsu ban đêm, cũng chỉ muốn được hiểu biết thêm về kế hoạch cứu độ này. Chúng ta hãy nghe Chúa dạy dỗ trong bài Tin Mừng.
B. Ý Tưởng Về Thập Giá
Nicôđêmô là một Biệt phái. Ông còn là một đầu mục trong Dân, tức là có chân trong Hội đồng tối cao. Nhưng ông không nghĩ như đồng bạn về Ðức Giêsu. Ðối với Người, ông có lòng tôn kính và muốn được Người chỉ dẫn đường lối cứu độ. Người bảo ông: muốn nhìn thấy Nước Thiên Chúa, người ta phải sinh lại. Ông bỡ ngỡ và lo sợ. Già như ông làm sao có thể sinh lại được? Thấy vậy Ðức Giêsu phải cắt nghĩa rõ hơn cho ông về đường lối cứu độ của Thiên Chúa.
Người nói: "Như Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ bị giương cao như vậy". Có thể Nicôđêmô đã bắt được ý của Chúa, ông là người học rộng biết nhiều. Ông là bậc làm thầy của Israel, nên không những ông đã biết câu truyện Rắn đồng trong sách Dân số, mà có thể ông còn nhớ cả lời bàn của sách Khôn ngoan về câu truyện ấy (16,6-10). Sách viết: kẻ nào quay lại nhìn thì được cứu, không phải nhờ điều nó thấy nhưng là nhờ Người là Ðấng cứu chữa mọi người. Phải, ơn cứu độ thì bởi Chúa, nhưng con rắn đồng kia cũng là dấu hiệu độ sinh. Dấu hiệu này, bây giờ Ðức Giêsu nói, sẽ là Con Người khi bị giương cao. Và đó là mạc khải hôm nay Người ban cho Nicôđêmô.
Chắc chắn ông đã không thắc mắc gì về từ ngữ "Con Người". Ðã nhiều lần Ðức Giêsu dùng kiểu nói ấy để ám chỉ mình. Nhưng việc Con Người sẽ bị giương cao là điều mới lạ hoàn toàn đối với ông. Nó còn là điều mầu nhiệm nữa. Chúng ta có thể chắc chắn rằng: hôm đó ra về ông đã chẳng hiểu bao nhiêu. Và luôn luôn nó sẽ là một tư tưởng ám ảnh ông cho đến ngày sự thật ấy xảy ra.
Quả vậy, cho dù ông thông thạo Kinh Thánh và biết những đoạn Isaia về Người Tôi Tớ đau khổ, hoặc lời sấm của Zacarya viết rằng: chúng sẽ nhìn lên Người chúng đã đâm, hôm nói chuyện với Ðức Giêsu, Nicôđêmô vẫn chưa hình dung được sự thật. Còn Ðức Giêsu, Người đã không tiếc lời với ông. Người đã gieo vào lòng ông những điều cần thiết để sau này sẽ giúp ông hiểu.
Người muốn nói với ông rằng: dấu hiệu độ sinh sau này sẽ là Con Người khi bị treo trên Thập giá. Nhưng ông chưa mang nổi một sự thật như vậy; giống như Phêrô khi nghe nói cũng không chịu được và xin Chúa từ nay đừng nói như vậy nữa. Tuy nhiên đó vẫn là sự thật cứu độ, sự thật duy nhất có thể cứu độ người ta. Ðức Giêsu đã phải làm cho mọi người hiểu. Và hôm nay Người cố gắng giúp Nicôđêmô. Người cho ông biết: đứng trước Thập giá của Người sau này chỉ ai tin mới được sự sống đời đời. Không gì có thể giải thích được đường lối cứu độ của Thiên Chúa đâu! Chỉ có lòng tin mà thôi. Lòng tin sẽ là ánh mắt nhìn vào dấu hiệu độ sinh. Không có lòng tin này, người Dothái đi qua sẽ thấy Thập giá là cớ vấp phạm và người Hylạp sẽ bảo là điên rồ; duy đối với ai được kêu gọi thì đó là khôn ngoan của Thiên Chúa (1C 1,23).
Quả vậy, đức tin sẽ bảo cho người ta biết: Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế đó, đến nỗi đã thí ban Con Một Người để ai tin vào Ngài... được có sự sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã không sai Con của Người đến để xử án thế gian nhưng để cứu độ. Người ta đừng chờ Con của Người đến lẫm liệt oai phong khiến mọi người phải sợ hãi. Vì thế đừng ai hiểu việc Con của Người được giương cao theo nghĩa được hiển vinh ở đời này và theo cách thức trần gian. Ngài đến để cứu sống nên muốn được giương cao lên như rắn đồng nơi sa mạc. Lúc đó mọi người sẽ thấy quả thật Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi thí ban Con Một Người chịu chết đền tội chúng ta. Ðó là dấu hiệu của tình yêu lớn nhất, mà không tình yêu nào sánh được. Ðó là dấu chỉ Thiên Chúa đã yêu thương thì Người muốn yêu thương chúng ta đến cùng. Mầu nhiệm cứu độ là mầu nhiệm yêu thương. Yêu thương sẽ sáng chói trong hy sinh đổ máu. Thế thì Con Người trên Thập giá vừa bị giương cao vừa được lên cao. Thập giá của Ðức Kitô chỉ bị ô nhục bề ngoài; chứ bên trong, quả là khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Ðó là cây gỗ Chúa leo lên để làm sáng chói tình yêu lớn nhất. Các vết thương của Người đầy vinh quang. Ai tin thì thấy đó là dấu hiệu độ sinh và Thập giá đã trở nên Thánh giá.
Hôm nay, một cách đặc biệt chúng ta tin như vậy, thì phụng vụ mời chúng ta tung hô Thánh giá theo bài thư Phaolô dưới đây:
C. Ca Tụng Thánh Giá Chúa Giêsu
Có lẽ Thánh Tông đồ đã chỉ có công chép lại một ca vãn lưu hành trong các cộng đồng Kitô giáo thời bấy giờ. Nó là đức tin của Hội Thánh ở trước Thánh giá Chúa Giêsu. Ðức tin ấy tuyên xưng rằng: Ðấng nằm trên cây gỗ là một vị Thiên Chúa; Ngài không nghĩ phải đòi cho được tôn trọng đồng hàng cùng Thiên Chúa; nhưng Ngài đã muốn hủy mình ra không, tức là lột bỏ những vẻ uy nghi cao cả, để mặc lấy thân phận và hình thức tôi đòi; vì quả thực Ngài đã sống rất bình dị ở giữa mọi người và có khi còn muốn đóng vai trò người tôi tớ. Ðặc biệt trong cuộc tử nạn, Ngài đã hạ mình thấp hèn vâng phục ý định của Thiên Chúa cho đến chết và chết trên Thập giá!
Nhưng chính vì vậy, Thiên Chúa đã suy tôn Ngài trong việc phục sinh, đặt Ngài làm Chúa để bất cứ thụ tạo nào cũng phải quỳ gối bái lạy...
Hôm nay chúng ta cũng đặc biệt bái lạy Thánh giá Chúa Giêsu; Chúng ta sẵn sàng tuyên xưng niềm tin của tất cả Hội Thánh như các tín hữu tiên khởi đã viết ra trong bài thánh ca này.
Nhưng nếu chỉ có thế thì vẫn chưa đạt được ý của thánh Phaolô. Người đã chép lại bài thánh ca để gửi cho giáo dân Philip. Họ đang có nhiều bất hòa và cãi cọ, mà nguyên nhân là những sự kèn cựa không chịu nhịn nhục nhau. Thế nên, chép bài thánh ca gửi cho họ, thánh Phaolô muốn họ nhìn vào gương Chúa Giêsu mà đừng ganh tị vì hư danh nữa, nhưng hãy khiêm nhượng và vâng lời.
Lời khuyên này đối với chúng ta nhiều khi hãy còn thức thời và thiết thực. Nếu chúng ta muốn cho các tương quan xã hội tốt đẹp hơn, há chẳng phải trở về gương Chúa Giêsu trên Thập giá sao? Hơn nữa mỗi khi muốn tiếp tục công việc cứu thế, thiết tưởng chúng ta phải trở về với Thánh giá Chúa Giêsu. Ðó là dấu hiệu độ sinh duy nhất đã được Thiên Chúa mạc khải từ đầu trong sách Dân số cũng như các sách Tiên tri. Chúng ta phải nhìn vào với lòng tin. Chúng ta phải nhìn vào để bắt chước. Chắc chắn chúng ta sẽ được cứu độ và có thể cứu thế.
Mầu nhiệm Thánh giá giờ đây được cử hành trong Thánh lễ. Ðức Giêsu không nghĩ phải giằng cho được vinh dự của một Thiên Chúa. Người chấp nhận hình bánh rượu tầm thường để nên lương thực nuôi sống chúng ta. Người dùng hình thức thập giá này để thông ban tinh thần của Người cho chúng ta.
Ðó là tinh thần yêu mến vâng phục Thiên Chúa; nhưng đồng thời cũng là tinh thần yêu thương đồng loại cho đến cùng đến nỗi thí ban cả mạng sống mình để mọi người được cứu độ. Chúng ta hãy học và đem ra thi hành trong đời sống cả hai mặt của tinh thần yêu thương đó, tức là vừa mến Chúa vừa thương người, không phải chỉ bằng tư tưởng hay môi miệng nhưng bằng cả việc làm và sự sống. Chắc chắn như vậy có khổ, có thiệt thì cũng chỉ là những hy sinh vinh quang nói lên mầu nhiệm Thánh giá là dấu hiệu độ sinh, mà chúng ta suy tôn hôm nay.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
SUY NIỆM 3: Ba cuộc đời - ba cách chết
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ duy Tuyền)
Trên đồi Golgotha cách đây hơn hai ngàn năm, có 3 tử tội trên thập giá. Ba con người đều chết trên thập giá với ba thái độ khác nhau. Ðó chính là Thầy Giê-su ở giữa. Một người bên hữu được gọi là trộm lành. Một người bên tả truyền thống vẫn gọi là trộm dữ. Tại sao cùng một hoàn cảnh mà cách thức đón nhận lại khác nhau? Ðâu là điểm khác biệt giữa ba con người?
Trước hết đó là Thầy Giê-su, một con người đã tự nguyện vác thập giá để cứu độ chúng sinh. Ngài chấp nhận đi vào cái chết không phải do tội của mình mà vì tội của nhân gian. Ngài đã chết để thí mạng vì bạn hữu. Cả cuộc đời của Ngài đã sống vì người khác. Ngài đã sống một cuộc đời để yêu thương và yêu thương cho đến cùng. Ngài đã đi đến tận cùng của yêu thương là thí mạng mình vì bạn hữu. Cái chết của Ngài là bằng chứng cho tình yêu. Ðau khổ Ngài chịu cũng vì yêu thương nên Ngài không than vãn, không uất hận vì đời đen bạc. Không nguyền rủa cuộc đời vì những gánh nặng đang đè trên vai. Vì yêu đối với ngài không chỉ là tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, mà còn dám chết cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Thế nên, đau khổ đối với Ngài là niềm vui. Và ngài đã đi vào cái chết trong thanh thản vì đã hoàn thành sứ mạng đời mình: "yêu thương và phục vụ cho" người mình yêu. Ngài không hối tiếc về cuộc sống đã qua. Ngài không hối hận vì việc mình đã làm. Ngài rất vui vì đã đi trọn con đường của tình yêu. Ngài đã trút hơi thở cuối cùng trong an bình khi Ngài nói cùng nhân loại "mọi sự đã hoàn tất" và nói cùng Chúa Cha "Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha".
Người thứ hai là anh trộm lành. Anh là một tội nhân. Anh đón nhận hình phạt và cái chết vì chính tội của mình. Nhưng anh là một con người biết phải trái. Anh biết việc mình làm là đáng tội, là đáng phải chịu hình phạt. Cuộc đời anh chưa làm điều gì tốt cho tha nhân. Anh đã sống một cuộc đời chỉ làm hại người khác. Thế nên, anh đã nói với Chúa: "Tôi đã bị như thế này là xứng đáng với tội của tôi". Anh đón nhận thập giá để đền bù những lầm lỗi đã qua. Anh chấp nhận cái chết nhục nhã như là hình phạt đích đáng vì tội của mình. Anh đã tìm được bình an trong giờ phút cuối cùng của đời người. Anh cũng biết rằng anh không xứng đáng chung phần hạnh phúc thiên đàng với Thầy Giê-su, anh chỉ mơ ước Thầy Giê-su nhớ tới anh khi Thầy về thiên đàng. Ðối với anh thập giá là cơ hội để anh để anh đền bù lầm lỗi. Thập giá là nhịp cầu đưa anh vào thiên đàng. Thế nên, anh đón nhận thập giá với lời xin vâng theo mệnh trời. Anh không oán trời, oán đất. Anh đi vào cái chết với tâm hồn thanh thản vì anh đã đền bù những lầm lỗi của quá khứ cuộc đời.
Người thứ ba là anh trộm dữ. Anh lao vào cuộc đời như con thú đang tìm mồi. Cuộc đời anh chỉ tìm hưởng thụ cho bản thân. Vì ham muốn danh lợi thú anh đã sẵn sàng hạ thấp nhân phẩm mình và chà đạp phẩm giá của tha nhân. Anh đang có nhiều toan tính để hưởng thụ. Thế nên, anh không chấp nhận thập giá trên vai anh. Anh không chấp nhận kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thảm trên thập giá. Anh đòi quyền sống. Sống để hưởng thụ. Anh nổi loạn vì đời anh còn quá trẻ, còn quá nhiều tham vọng nên anh không thể chấp nhận cái chết đến với mình. Thế nhưng, anh vẫn phải chịu hình phạt vì tội của mình. Công lý đòi buộc anh phải thi hành, dầu anh không muốn. Thập giá làm cho anh đau khổ. Cái chết làm cho anh nổi loạn. Anh nguyền rủa trời, nguyền rủa đất và xúc phạm cả đến Thầy Giê-su, một con người đang phải chịu cái chết vì đã liên đới với anh. Anh đã chết trong sự hoảng loạn và khổ đau.
Mỗi người chúng ta đang sống một cuộc đời cho chính mình. Mỗi người chúng ta đang đón nhận thập giá với thái độ khác nhau. Có người chấp nhận thập giá để đền tội. Có người chấp nhận thập giá vì lòng yêu mến tha nhân. Và cũng có người đang từ chối thập gía trong cuộc đời. Hạnh phúc hay đau khổ tuỳ thuộc vào việc chọn lựa sống của chúng ta. Nhưng dù con người có muốn hay không? Thập giá vẫn hiện diện. Thập giá của bổn phận. Thập giá của hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những ham muốn tội lỗi, những ích kỷ tầm thường. Ðón nhận thập giá sẽ mang lại cho ta tâm hồn bình an vì đã sống đúng với bổn phận làm người. Ðón nhận thập giá còn là cơ hội để ta đền bù những thiếu sót trong cuộc sống của mình và của tha nhân. Ðón nhận thập giá còn là cơ hội để ta tiến tới vinh quang phục sinh với Chúa trên thiên đàng.
Nguyện xin Chúa là Ðấng đã vui lòng đón nhận thập giá vì chúng ta, nâng đỡ và giúp chúng ta vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Xin giúp chúng ta biết sống một cuộc đời hy sinh cao thượng để chúng ta không hối hận vì quá khứ, nhưng luôn bình an vì đã sống chu toàn bổn phận của mình với lòng mến Chúa, yêu người. Amen.
SUY NIỆM 4: Lễ suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Suy tôn Thánh giá. Thánh giá là một nghịch lý trong đạo Thiên Chúa giáo nói chung và đạo công giáo nói riêng. Một đàng thánh giá là nguyên nhân thất vọng, tai họa và sự chết. Ðàng khác Thánh giá mang lại nguồn hy vọng, toàn thắng và sự sống. Trước khi Ðấng Cứu thế đến, thánh giá là hình phạt khiếp sợ cho tội nhân. Bị coi là một tội nhân nên Ðức Giêsu phải chịu đóng đinh trên thánh giá với hai người trộm cướp. Ngày nay Thánh giá đã trở nên dấu hi vọng và toàn thắng cho người Kitô giáo. Ðó chính là điều mà thánh Phaolô đã khẳng định: Rao giảng Ðức Kitô chịu đóng đanh, điều mà người Do thái coi là ô nhục, không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hi lạp, Ðấng ấy chính là Ðức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1Cr 1,23-24).
Phúc âm hôm nay nhắc đến một việc khủng khiếp xẩy ra cho dân Chúa trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân chúng phàn nàn, kêu trách Chúa vì họ thiếu đồ ăn, nước uống, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến cắn. Rồi với lòng thương xót, Chúa lại truyền cho ông Môsê làm cây gậy đồng để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn cắn, mà nhìn lên con rắn đồng thì được chữa khỏi (Ds 21,4b-9). Ðức Giêsu coi việc treo con rắn đồng trong sa mạc là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để những ai tin vào Người thì được sống muôn đời (Ga 3,15). Thánh Phaolô cũng đã rao giảng về Ðức Kitô chịu đónh đanh cho tín hữu Phi-líp-phê: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Pl 2,8).
Như vậy theo Thánh kinh thì ơn cứu độ đến với loài người qua thánh giá và phục sinh. Thánh giá và phục sinh của Ðức Kitô không thể nào tách rời được. Không có thánh giá, không thể có phục sinh. Không có phục sinh, không thể có sự sống vĩnh cửu. Ðó là lý do tại sao Giáo Hội có thể nói đến sự toàn thắng của thánh giá trong nền tảng thần học của thánh giá.
Người Kitô giáo không thể tin vào Ðức Kitô mà lại chối bỏ thánh giá. Người Kitô giáo không thể chối bỏ thánh giá, mà phải tôn vinh Thánh giá như phương tiện cứu rỗi. Họ phải hãnh diện về biểu hiệu của Thánh giá. Tuy nhiên họ không được dừng lại ở thánh giá mà phải vượt qua thánh giá và tìm cho ra ý nghĩa của việc mang vác thánh giá. Vì có sự liên hệ giữa thánh giá và phục sinh mà Ðức Giêsu mời gọi người môn đệ vác lấy thánh giá để theo Người (Mt 16,24; Mc 8,34; Lc 9,23). Tại một một tiểu chủng viện kia trong quá khứ, các chủng sinh được ban giáo sư tập cho thói quen đặt thánh giá bên gối đầu giường để khi chưa ngủ được thì suy niệm về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh. Sau khi chịu chức linh mục, có linh mục kia vẫn giữ thói quen để thánh giá bên gối đầu giường. Khi không thấy thánh giá, linh mục đó cảm thấy như thiếu thốn một báu vật gì khiến cho linh mục đó cảm thấy khó ngủ.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay nhắc nhở người tín hữu về nền tảng của đức tin: qua thánh giá thì có triều thiên, triều thiên cứu rỗi, triều thiên đợi chờ những ai chạy tới cùng đích. Ðối với người tín hữu, Thánh giá đã trở nên biểu hiệu của tình yêu thương bao la mà Thiên Chúa dành cho loài người. Do đó mà thánh Gioan Newman đã có thể đặt bút viết: Thập giá Chúa Kitô đã khiến cho những giá trị nhân bản phải được xét lại, bằng cách bầy tỏ một tình yêu mạnh đến nỗi đã san bằng hố sâu giữa sự sống và chết.
Nhìn quanh, người ta thấy biết bao người đang phải mang vác thánh giá về đau yếu, bệnh hoạn và tật nguyền về thể lý, tâm lý và tinh thần. Có những người uống thuốc chữa trị nhiều năm mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Có những người đi bác sĩ, nằm nhà thương liên tiếp, mà bệnh tật vẫn còn đó. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh băn khoăn, lo âu, sợ hãi và hiểu lầm trong suốt cả cuộc sống.
Nhiều người còn phải mang vác thánh giá của cảnh nghèo túng và đói khát, ta cầu xin Chúa cho đất đai của họ trở nên mầu mỡ để họ có thể sản xuất thực phẩm. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh kì thị, ta cầu xin Chúa là sức mạnh và nguồn hi vọng của họ. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh bách hại vì tin vào Chúa ngay cả trong thời đại ta đang sống ở những miền đất khác nhau trên thế giới, ta cầu xin Chúa là nguồn an ủi và là sức mạnh của họ, ban chọ họ lòng can đảm, cậy trông. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh chia li, ta cầu xin Chúa cho họ được đoàn tụ với người thân yêu. Nhiều người khác phải mang vác thánh giá của cảnh li dị, ta cầu xin Chúa hàn gắn những vết thương lòng của họ.
Cuối cùng ta cầu xin Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho những người phải mang vác những thánh giá khác nhau của cuộc sống để họ có thể biến đổi thánh giá thành dụng cụ của sự toàn thắng và ơn cứu độ.
Lời cầu nguyện cho những ai đang phải mang vác thánh giá của cuộc sống:
Lậy Ðức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người!
Vì yêu thương nhân loại,
Chúa đã chịu đau khổ và vác thánh giá vì tội lỗi loài người
gồm tội lỗi của chính con.
Xin Chúa ban sức mạnh và niềm an ủi cho những ai
đang phải vác thánh giá của cuộc sống
về bệnh tật, đau khổ phần hồn, phần xác và tinh thần.
Xin Chúa làm vơi nhẹ những thánh giá của họ
và biến đổi thánh giá của họ thành dụng cụ cứu rỗi. Amen.
SUY NIỆM 5: Suy tôn Thánh Giá
Thập giá nhắc đến một nghịch lý này : Chính lúc hạ mình xuống cùng cực, Con Người được nâng lên, được tôn vinh. Lúc Người bị kết án tử hình, thế gian lại được cứu độ.
Bài ca của Thánh Phaolô
Thập giá tới độ thấp nhất trong âm điệu của bài ca trong thơ gởi giáo đoàn Philíphê. Âm điệu của Con Thiên Chúa đời đời tự hạ mình xuống làm người, rồi lại tiến hành được tôn vinh trở về với vinh quang Thiên Chúa. Trung tâm thập giá là phụng vụ, khổ hình là dụng cụ tối cao đem ơn cứu chuộc đến cho loài người. Thập gía mang nặng ý nghĩa sự dữ cùng cực của chúng ta và vì Đức Giê-su đã chịu treo vào nó là dấu chỉ ơn cứu độ chúng ta.
Tôn vinh
Thánh Gioan dùng hình ảnh con rắn đồng Môsê treo lên, những ai bị rắn độc cắn nhìn lên rắn đồng sẽ được chữa khỏi. Đức Ki-tô bị treo lên thánh giá đem lại ơn cứu độ cho những người nhìn lên Người với lòng cậy trông, sẽ nhận biết Người là con Thiên Chúa. Người trộm lành, môn đệ Gioan, viên sĩ quan Rôma, ông biệt phái Nicôđêmô, ông Giuse Arimathia, nghị viện hội đồng, đây là những vị được vây quanh Thánh Giá Đức Giê-su, mọi sự đã lìa những vị này, chỉ có một người liên kết với các vị ấy là Đức Giê-su trên thập giá.
Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết những mầu nhiệm của Thiên Chúa : Đức Giê-su là Người tôi tớ đã chiếu tỏa vinh quang Thiên Chúa. Vinh quang xuất hiện từ thập giá, một nghịch lý của mặc khải Kitô giáo tại thế này. Thiên Chúa đã hạ mình thấp hèn trong Đức Giê-su, để mặc khải những sự lạ lùng hơn tất cả mọi quyền năng của thế gian này và nhờ thế đã giải thoát chúng ta khỏi thế gian này.
Trong khi nhìn lên thánh giá, chúng ta cảm tạ Chúa Cha, Ngài đã ban Con Ngài cho chúng ta, và chúng ta nhận ra ý nghĩa đời sống của chúng ta :
Mỗi lần chúng ta cầu nguyện, chúng ta biết đặt mình trước mặt Đức Ki-tô trên thánh giá. Chúng ta muốn chiêm ngắm Chúa, thì hãy nhìn lên thánh giá, Ngài sẽ hiện ra cho chúng ta nhìn ngắm, nhờ cái nhìn này chúng ta được cứu độ.
J.M
SUY NIỆM 6: Suy tôn Thánh Giá
Tuần báo Thế Kỷ Kitô, xuất bản bên Hoa Kỳ có kể lại kinh nghiệm sau đây của một vị linh mục công giáo tại bang Carolina vào Tuần Thánh.
Ðể giúp các tín hữu trong giáo xứ suy niệm về mầu nhiệm thập giá, linh mục này cho dựng một cây thập giá cao to, bằng gỗ sơn đen ngay trong sân nhà thờ. Chẳng may trong ngày hôm đó, có người xưng mình là đại diện cho hãng du lịch trong vùng gọi điện thoại đến khiếu nại. Lý do như sau: khách du lịch đi qua trước nhà thờ không thích nhìn thấy cây thập giá đen thui này, họ muốn xem những gì vui tươi hơn. Ðó là câu chuyện của đời này ở bên Hoa Kỳ. Nhiều người đã quên hay cố quên mầu nhiệm thập giá trong đời sống đức tin, nhưng không phải chỉ là chuyện đời này mà thôi, ngay từ thời xa xưa, thời các thánh tông đồ cũng đã xảy ra như thế. Thánh Phaolô đã thốt lên rằng: "Nhiều người sống nghịch lại thập giá Chúa. Họ chỉ sống theo cái bụng, chạy theo lợi lộc, ham vui". Thập giá Chúa còn có ý nghĩa gì đối với người Kitô hôm nay chăng?
Trước khi mạc khải về ý nghĩa của mầu nhiệm thập giá, Chúa Giêsu nhắc lại cho ông Nicôđêmô về nguồn gốc thần linh từ trời xuống của chính mình như là Con Thiên Chúa: "Không ai đã lên trời, ngoài trừ Con Người, Ðấng từ trời xuống". Tự nó, thập giá là chặng dưới đất và thực tại đau buồn do con người tạo ra, nhưng để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của nó thì cần phải đóng đinh Con Thiên Chúa vào đó, cần phải hiểu mầu nhiệm thập giá trong cái nhìn từ trên cao, trong cái nhìn của Thiên Chúa, Ðấng muốn và đã sai Con Một mình xuống trần gian và chịu chết treo trên thập giá, để biến dấu chỉ của sự trừng phạt trở thành dấu chỉ của tình yêu cứu rỗi. "Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, như con rắn đồng của Môsê, để ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời". Chúa muốn ông Nicôđêmô nhìn về thập giá từ trên cao theo cái nhìn của chính Chúa, và lúc đó con người sẽ khám phá ra rằng Thiên Chúa dùng thập giá để mạc khải tình yêu thần linh, để hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau.
Như lời mời gọi của Chúa cho ông Nicôđêmô, cần phải đặt Con Thiên Chúa vào thập giá, cần phải treo Con Thiên Chúa lên thập giá, con người chúng ta có hiểu được ý nghĩa của thập giá? Thập giá mạc khải cho con người biết tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là dấu chỉ của sự khước từ của con người đối với Thiên Chúa, là dấu chỉ của sự thù ghét của con người đối với con người, của con người say mê quyền hành và danh vọng, muốn làm mọi cách để loại bỏ đối thủ của mình như những người biệt phái pharisiêu ngày xưa đã dùng thập giá để loại bỏ Chúa Giêsu, Ðấng đang lôi kéo dân chúng bỏ họ mà theo Chúa.
Mỗi người Kitô chúng ta hôm nay, nhân ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá, hãy kiểm điểm lại thái độ của mình đối với thập giá Chúa. Phải chăng thập giá Chúa đã bị tục hóa, bị chúng ta biến trở thành món trang sức để khoe của, để củng cố địa vị, để lường gạt anh chị em? Chúng ta làm dấu thánh giá trên mình, chúng ta mang dấu thánh giá trên áo, trên cổ nhưng chúng ta đã sống ý nghĩa của thập giá như Chúa đã mạc khải như thế nào?
Lạy Chúa,
Xin thương dạy con hiểu biết, đón nhận và sống mầu nhiệm thập giá trong chính đời sống của con. Xin cho con một tâm hồn quảng đại, không chạy trốn trước lời mời gọi của thập giá Chúa, nhưng sẵn sàng để cho cuộc đời con được đóng đinh vào thập giá với Chúa, trở thành của lễ hy sinh, giúp anh chị em nhận ra tình yêu Chúa.
13/9 Thầy là Ðấng Kitô chịu đau khổ
- Viết bởi Mc 8, 27-35
Thầy là Ðấng Kitô chịu đau khổ.
Chúa Nhật tuần 24 thường niên năm B.
"Thầy là Ðấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều".
Lời Chúa: Mc 8, 27-35
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: "Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông đáp lại rằng: "Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri". Bấy giờ Người hỏi: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy là Ðấng Kitô". Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả. Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó. Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: "Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người". Người tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình".
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Is 50,5-9a; Gc 2,14-18; Mc 8,27-35
1. Nói và làm
Kể từ khi xuất hiện trong cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã trở nên một vấn đề thời sự nóng bỏng, làm cho người ta phải bàn tán xôn xao.
Dân làng Nadarét đã thầm nghĩ: Ngài chẳng phải là con bác phó mộc, Mẹ Ngài và anh em Ngài chẳng phải là những người đang sống giữa chúng ta đó sao? Bởi đâu mà Ngài lại làm được những việc lạ lùng như vậy? Hêrôđê cũng đã thắc mắc: Gioan thì trẫm đã chém đầu, còn người này là ai mà lại thực hiện được những việc kỳ diệu đến thế? Còn dân chúng, người thì bảo Ngài là tiên tri Elia, hay một tiên tri nào đó. Kẻ thì nói Ngài là Gioan Tiền Hô.
Trước những luồng dư luận khác biệt như vậy, Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ phải xác định lập trường của mình, nên đã lên tiếng hỏi: Còn các con, các con bảo Ta là ai? Phêrô thay mặt cho nhóm 12 đã tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Và như thế, Phêrô đã tuyên xưng đức tin bằng lời nói.
Liền sau đó, Chúa Giêsu tiên báo cho các ông về cuộc tử nạn của Ngài. Và lần này, Phêrô đã lên tiếng can ngăn và đã bị Chúa quở trách nặng lời: Hỡi Satan, hãy xéo đi, vì tư tưởng của ngươi chỉ là tư tưởng của loài người, chứ không phải là của Chúa. Và như vậy, mặc dù ông đã tuyên xưng đức tin bằng lời nói, nhưng rốt cuộc ông đã không tuyên xưng bằng việc làm, bằng chính cuộc sống của mình.
Với chúng ta cũng vậy, hằng ngày chúng ta vốn thường làm dấu thánh giá, đọc kinh Tín Kính và kinh Sáng Danh, chúng ta tuyên xưng những mầu nhiệm chính trong đạo. Tuy nhiên, đó mới chỉ là tuyên xưng bằng lời nói mà thôi. Còn việc làm và cuộc sống của chúng ta thì sao? Rất có thể lúc này chúng ta mới chỉ tuyên xưng đức tin bằng lời nói, bằng miệng lưỡi, chứ chưa hề tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống. Bởi vì bản thân chúng ta còn chìm trong tội lỗi, con người chúng ta còn đang chối từ thập giá để chạy theo ý riêng.
Do đó, cần phải kiểm điểm lại cuộc sống xem chúng ta đã tuyên xưng đức tin của mình như thế nào? Để giúp chúng ta trở nên môn đệ của Chúa cũng như tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống, Chúa Giêsu đã đưa ra hai điểm chính yếu:
Điểm thứ nhất, đó là hãy từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ tất cả những tư tưởng, lời nói và việc làm đi ngược với thánh ý Chúa, từ bỏ con người cũ với những tội lỗi để mặc lấy con người mới với tinh thần của Chúa.
Điểm thứ hai đó là hãy vác lấy thập giá mình. Nghĩa là hãy chấp nhận những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải, bởi vì chính những hy sinh gian khổ này, tuy âm thầm và nhỏ bé, sẽ kết thành cây thập giá đời thường, Chúa muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
2. Về phần con, con bảo Thầy là ai?
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, "Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai?" Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó." (Mc 8, 27-28)
Như thế, người Do-thái đồng thời với Chúa Giêsu không biết đích xác Người là ai. Họ tưởng Người chính là Gio-an Tẩy Giả bị Hê-rô-đê trảm quyết nay sống lại. Có kẻ thì tưởng lầm Người là ngôn sứ Êlia xưa kia được đưa lên trời nay lại giáng lâm. Kẻ khác thì cho rằng Người là một ngôn sứ nào đó.
Sau khi nghe các môn đệ cho biết dư luận quần chúng về mình, Chúa Giêsu quay sang hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô." (Mc 8, 29)
Thế là ngoài Phêrô, dường như chẳng ai biết được chân tướng của Chúa Giêsu. Phêrô quả có phúc lớn vì được biết căn tính của Thầy mình.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đặt lại câu hỏi nầy với mỗi người chúng ta. Người muốn chúng ta bày tỏ nhận định ta có về Người: "Về phần con, Thầy là ai đối với con?"
Khi câu hỏi nầy được đặt ra với một nhóm thanh niên đang ngồi tận ngoài cổng nhà thờ sáng chúa nhật, vừa hút thuốc vừa dự lễ, thì họ trả lời qua khói thuốc: "Đối với chúng tôi, Chúa Giêsu là một vị Thẩm Phán khắt khe, hay bắt bẻ những người phạm luật. Dù chẳng yêu mến gì Chúa Giêsu, nhưng vì sợ bị khép vào tội bỏ lễ chúa nhật, nên chúng tôi miễn cưỡng đến ngồi đây dự lễ."
Khi câu hỏi nầy được nêu ra với một số doanh nhân tất bật với việc làm ăn buôn bán, thì họ trả lời rằng: "Đối với chúng tôi, Chúa Giêsu là một ông Thần Tài. Dù chẳng yêu mến gì ổng, nhưng chúng tôi biết đối xử sòng phẳng với ổng. Nếu ổng phù hộ chúng tôi ăn nên làm ra, thì chúng tôi còn đặt ổng lên bàn thờ, có nhang đèn hẳn hoi. Nếu ổng không giúp chúng tôi phát đạt, chúng tôi mời ổng đi chỗ khác."
Khi câu hỏi nầy được nêu lên với một nhóm người khác đang theo đuổi lạc thú, họ đáp: "Chúa Giêsu là ai ư? Thật tình chẳng mấy khi chúng tôi nghĩ đến. Điều đó chẳng đáng quan tâm. Có lẽ khi nào chúng tôi già yếu, lâm bệnh nguy kịch, hoặc gặp gian nan khốn đốn trong cuộc đời, chúng tôi sẽ tìm đến với Người... Vâng, lúc đó, chúng tôi sẽ thành khẩn kêu cầu Người như những người đi biển gặp nạn cần đến tấm phao cứu sinh!"
Thế là đối với nhiều người, Thiên Chúa chỉ là vị Thẩm Phán khắt khe, một Thần Tài xa lạ hay đơn giản chỉ là một tấm phao cứu sinh hay là một nô bộc phục dịch con người. Đúng như lời Chúa Giêsu: "dân nầy tôn kính Ta ngoài môi miệng còn lòng chúng thì quá xa cách Ta." (Mc 7,6)
Thiên Chúa đau buồn biết bao khi đoàn con yêu dấu của Người nhận định về Người như thế.
Khi thấy dân chúng chẳng hiểu căn tính của mình, ngay cả các môn đệ cũng chẳng biết Đấng Kitô là ai, Chúa Giêsu liền bày tỏ cho họ biết Người chính là Đức Kitô, nhưng không phải là một "Đức Kitô vinh thắng" chinh phục các lân bang và báo thù cho dân riêng của Chúa như người Do-thái mong đợi, nhưng là một "Đức Kitô nhẫn nhục" hiến mạng sống mình chết thay cho muôn dân. Người tỏ cho môn đệ biết: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại." (Mc 8,31)
Thế đó, Đức Kitô là Đấng yêu thương chúng ta hết lòng hết sức trên hết mọi sự, yêu đến nỗi đã hiến mạng vì ta. "Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của Người chết vì bạn hữu mình."
Vậy mà tiếc thay, nhiều người không nhận ra tình yêu vô biên của Chúa nên xem Người như kẻ xa lạ, không dành cho Người một chỗ đứng trong trái tim mình, trong cuộc đời mình. Đối với một số người, có Chúa cũng như không.
Dostoievsky, văn hào vĩ đại nhất của nước Nga vào thế kỷ 19, đã tôn Đức Giêsu làm Thần Tượng của mình và đã tuyên xưng:
"Đối với tôi, không có gì đẹp đẽ, sâu xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Kitô, và hơn thế nữa, dù có ai chứng minh với tôi rằng Đức Kitô ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn ở lại với Đức Kitô hơn là chiều theo chân lý". (Thư gửi bà Von Vizine)
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu hôm nay Chúa đến và hỏi: Về phần con, con bảo Thầy là ai, thì con xin thưa:
Chúa là Đấng đã nộp mình chịu chết để đền tội cho con. Chúa đã hy sinh đời mình cho con được sống. Chúa là Đấng yêu thương con hết lòng hết sức trên hết mọi sự.
Vì thế, con xin chọn Chúa làm Thần Tượng của đời con. Con xin dành chỗ nhất cho Chúa trong trái tim con.
3. Người ta bảo Thầy là ai?
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một thời người ta đổ xô nhau đi tìm đọc quyển sách "Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu". Nhiều người cho rằng quyển sách này đã viết đúng tâm lý của con người, vì tác giả đã mô tả Chúa Giêsu như một con người thực sự, có khác chăng là người đã vượt thắng được cám dỗ cho tới giờ phút cuối cùng.
Quyển sách "cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu" mô tả về một chàng trai Giêsu đầy sức sống. Đẹp trai và nhiều tài năng. Có một thiếu nữ rất xinh đẹp đã đem lòng yêu mến chàng, tên là Madalêna. Thế nhưng, tình yêu đã không đem lại cho chàng hạnh phúc. Chàng luôn bị thôi thúc bởi một tiếng gọi cao siêu, vượt trên cuộc sống tầm thường như bao bao người khác. Chàng quyết định từ bỏ người yêu và ra đi rao giảng về một Tin mừng có thể đem lại cho con người hạnh phúc đời này và đời sau. Mađalêna thất tình đã buông trôi cuộc đời trong chốn lầu xanh tội lỗi. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng cao siêu. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng cao siêu, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Và sau đó gục đầu tắt thở.
Tác giả đã dựa vào tâm lý chung của con người để viết về nhân tính của Chúa Giêsu. Một con người bình thường, sinh ra, lớn lên, rung cảm với tình yêu đầu đời, nhưng ở chàng thanh niên Giêsu đã từ khước tiếng nói của con tim để theo đuổi một lý tưởng cao siêu. Điều này đáng được con người kính trọng. Nhưng đáng tiếc, lý tưởng đó bị người đời khước từ vì không thực tế, và cho dù cuộc sống của Ngài được nhiều người kính trọng nhưng người ta lại không muốn sống theo lối sống của Ngài.
Thực vậy, con người ngày hôm qua cũng như hôm nay, luôn cần tiền, cần tiện nghi, cần địa vị và cần cuộc sống bất tử để hưởng thụ mãi hạnh phúc ở chốn gian trần. Vì thế, người ta không chấp nhận đường lối của Chúa Giêsu, vì phương thế này không thoả mãn nhu cầu vật chất của con người. Có chăng, họ chỉ kính trọng một Giêsu thánh thiện, một vĩ nhân của nhân loại, nhưng đạo của Ngài thiết lập chẳng giúp ích gì cho cuộc sống thường ngày của họ. Đôi khi còn trở thành gánh nặng khiến họ không thể tuân giữ giới răn của Người. Đôi khi họ còn coi Chúa Giêsu là nguyên nhân gây nên phiền toái cho họ.
Có người nói rằng theo đạo làm chi, phải đi lễ hằng ngày, hằng tuần, ngủ cho sướng.
Có người nói rằng theo đạo làm chi để bị ràng buộc bởi quá nhiều lề luật.
Có người cho rằng theo đạo phải giữ luật công bằng thì làm sao làm ăn có lời, có lãi.
Có những bà mẹ cho rằng nếu giữ đúng luật Chúa thì gia đình sẽ mất hạnh phúc, con cái sinh ra ai sẽ nuôi cho nổi.
Có biết bao cuộc đời là có bấy nhiêu khó khăn. Càng khó khăn người ta lại đổ tội cho Chúa. Vì Chúa mà họ thiệt thòi. Vì Chúa mà họ phải sống nghèo đói. Vì Chúa mà họ phải thua kém bạn bè. Xem ra phần đông nhân loại nhìn Chúa như một quan toà, một cảnh sát chỉ để ngăn cấm và xét đoán. Và rồi, họ nhìn biết bao nhiêu người không có đạo vẫn sống hạnh phúc, đôi khi lại giầu có hơn mình, có địa vị hơn mình...
Phải, phần đông nhân loại đã nhìn Chúa Giêsu như vậy. Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Chúa Giêsu vẫn tôn trọng tự do của các môn đệ. Ngài vẫn hằng tôn trọng tự do của chúng ta hôm nay. Ngài vẫn đòi hòi triệt để những kẻ tin theo Ngài phải từ bỏ, phải hy sinh vác thập giá, phải đi qua cửa hẹp và phải sống thanh thoát với của cải trần gian. Nghĩa là Ngài vẫn đòi hỏi chúng ta phải sống vượt lên trên nhu cầu thể xác tầm thường, phải sống làm chủ bản năng của mình bằng hy sinh, khổ chế để sống như những con người tự do đích thực. Không bị những đam mê danh lợi thú ràng buộc. Không bị những cám dỗ tội lỗi làm mất lương tri, mất phẩm giá cao qúy của con người.
Với những đòi hỏi đó, phải có cái nhìn đức tin như Phêrô mới có thể bỏ mọi sự mà theo Thầy, mới có thể tuân giữ lời Thầy và sống gắn gó mật thiết với Thầy. Phêrô và các môn đệ đã nhìn thấy Thầy là Chúa, là Đấng hằng sống và các ông còn hiểu rằng: ai bước đi theo Ngài sẽ không phải chết đời đời. Các ông đã dám đánh đổi cuộc đời này để đổi lấy hạnh phúc bất diệt đời sau. Các ông đã dám khước từ vinh hoa phú qúy đời này để lãnh triều thiên vinh hiển ngày mai.
Vâng cuộc đời này sẽ đi qua. Tiền tài, danh vọng, lạc thú tất cả chỉ là phù vân. Cái chết sẽ làm chúng ta đoạn tuyệt tất cả. Nếu cuộc đời chết là hết thì chẳng có gì đáng nói. Nếu chết là hết thì cuộc đời là một thảm hoạ đối với bản thân và đồng loại. Người ta đâu cần rèn luyện tài đức. Người ta chỉ cần hơn thiên hạ. Người ta chỉ cần vun quén cho bản thân, và mặc xác đồng loại. Cuộc sống sẽ là một bãi chiến trường mà con người là nguyên nhân và cũng là hậu quả của tất cả khổ đau. Nhưng cuộc đời không dừng lại ở cái chết. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra sự sống vĩnh cửu. Và ở cõi đời đời con người đau khổ hay hạnh phúc lại tuỳ thuộc ở cuộc đời hôm nay. Vì thế, nếu bạn chọn sự sống đời đời phải từ bỏ tham sân si, từ bỏ mọi đam mê bất chính. Từ bỏ đòi hy sinh, đòi khổ chế để vượt thắng cám dỗ. Các tông đồ đã vượt thắng tất cả vì tin rằng Chúa là Đường là sự thật, là sự sống. Các Ngài đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, còn chúng ta có dám vì sự sống bất diệt ngày mai bên Chúa để can đảm từ khước những đam mê bất chính, những bon chen danh lợi thú để sống theo giáo huấn của Chúa hay không? Hạnh phúc hay đau khổ còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của chúng ta hôm nay?
Ước gì chúng ta có cái nhìn đức tin như Phêrô để làm chứng cho thế giới hưởng thụ hôm nay về một cuộc sống hạnh phúc trường sinh mai sau. Amen.
4. Đức Kitô.
Người ta bảo Thầy là ai? Qua câu hỏi này, phải chăng Chúa Giêsu đã khởi sự quan tâm tới dư luận của quần chúng về Ngài? Hay Ngài muốn làm một cuộc thăm dò ý kiến về kết quả công việc Ngài đã làm? Không phải là như vậy. Ở đây, Chúa Giêsu muốn chuẩn bị các môn đệ của Ngài đón nhận những điều Ngài sắp nói với các ông về điểm then chốt của sứ mạng Ngài và cũng là điểm khó nuốt đối với mọi người.
Dư luận, như các môn đệ ghi nhận được, tuy chưa rõ đích xác Ngài là ai nhưng cũng tỏ ra đã thấy được những điểm khác người trong giáo huấn và trong hành động của Ngài. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu muốn nhắm tới ở đây chính là việc các môn đệ bày tỏ ý kiến của mình về Ngài. Do dó mà Ngài mới đạt thêm câu hỏi thứ hai: Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Tin không phải là lặp lại ý kiến, lập trường của kẻ khác mà là biểu lộ chính ý kiến, chính lập trường của mình. Phêrô đã trả lời đúng câu hỏi Chúa Giêsu đã đặt ra: Thầy là Đức Kitô. Qua câu trả lời, Phêrô đã tuyên xưng lòng tin của ông nơi Thầy mình. Ông đã nhận ra được Thầy mình là ai.
Nhưng sự việc diễn ra sau đó lại chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng lòng tin của Phêrô chưa trọn vẹn. Ông mới chỉ có những hiểu biết đúng về Thầy. Thực ra, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định, chẳng phải tự ông đã biết được Ngài là Đức Kitô, mà là do Chúa Cha mà ông biết được điều đó. Lòng tin ấy, sự hiểu biết ấy chỉ trọn vẹn khi ông chấp nhận đi con đường Chúa Giêsu đang chuẩn bị đi tức là con đường cứu độ, con đường thập giá.
Và ở điểm này, Phêrô đã vấp ngã thật nặng nề, bởi vì ông đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, không phải bằng cái nhìn của Thiên Chúa, hay đúng hơn, theo như Ngài hoạch định, mà là bằng chính cái nhìn của ông, theo cách tính toán của ông. Lời can ngăn của Phêrô đã trở thành việc cản trở chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện. Phêrô không muốn Thầy mình bị bắt, bị giết đi trong khi chính Chúa Giêsu lại thấy rằng đó là con đường Ngài phải đi. Đó là con đường của Ngài và đó cũng là con đường của những ai muốn theo Ngài, muốn trở nên môn đệ của Ngài.
Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Câu hỏi này vẫn tiếp tục được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay. Và chúng ta có thể như Phêrô, đã trả lời đúng câu hỏi của Ngài với tất cả vốn liếng về Thánh Kinh và thần học, về giáo lý của chúng ta. Thế nhưng trong hành động thì sao? Phải chăng trong hành động chúng ta đã là những người ngăn cản việc thực hiện chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa bằng thái độ khước từ đau khổ, khước từ thập giá mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày.
5. Đau khổ.
Kinh nghiệm cho thấy: Đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người. Giáo lý nhà Phật thì cho rằng: Đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Tuy nhiên, đau khổ không phải chỉ là một cái gì đáng nguyền rủa và lẩn tránh, trái lại nó còn có một giá trị tích cực, đem lại nhiều lợi ích cho chúng ta như tục ngữ đã bảo: Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Hay như Khổng Tử cũng đã bảo: Ngọc không dũa không sáng, người không bị gian nan thử thách, thì cũng khó mà trở nên hoàn thiện.
Cũng trong chiều hướng ấy mà Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Sau đây tôi xin đưa ra một vài trường hợp cụ thể để nói lên sự thật ấy.
Trường hợp thứ nhất là của O'Neill. Mãi đến năm 23 tuổi, ông vẫn còn là một kẻ thất bại, sống không mục đích, không định hướng, không kỷ luật. Thế rồi ông bị đau và chính nhờ thời gian nằm điều trị tại bệnh viện, ông mới có được dịp may để suy nghĩ và định hướng cho cuộc đời mình. Ông đã khám phá ra tài năng soạn kịch của ông, để rồi ông đã trở thành một người nổi tiếng.
Trường hợp thứ hai là của bà Golda Meir. Lúc ban đầu bà rất thất vọng vì mình chỉ là một cô gái trời bắt xấu. Thế nhưng về sau, bà mới nhận ra rằng: không được đẹp đối với bà lại là một may mắn, bởi vì điều đó đòi buộc bà phải phát triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng bà hiểu ra rằng phụ nữ không được ỷ lại vào sắc đẹp của mình, nhưng trái lại phải làm việc chăm chỉ, nhờ đó mang lại lợi ích cho bản thân. Nói cách khác, bà đã biết chấp nhận thập giá của mình, can đảm vác nó lên vai để rồi cuối cùng bà đã trở thành vị nữ thủ tướng đầu tiên của người Do Thái.
Một tác giả nổi tiếng, Oscar Wilde đã viết: Đau khổ chính là mảnh đất thánh. Đức Kitô không thể đi vào tâm hồn chúng ta bằng nẻo đường nào khác ngoài trái tim đã tan nát.
Từ những kinh nghiệm trên, chúng ta đi tới kết luận: Cuộc đời không phải lúc nào cũng chỉ là một mầu hồng, trái lại rất nhiều khi nó bị nhuộm bởi một màu đen với những đau khổ và cay đắng.
Tuy nhiên, dưới ánh sáng Phúc âm, thì đau khổ không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc và hủy diệt, bởi vì nó có thể trở nên một nguồn sống. Thiên Chúa thường dùng khổ đau để biến đổi chúng ta thành người tốt lành hơn, thánh thiện hơn, khiêm nhường hơn, cảm thông hơn. Đau khổ có thể mở mắt cho chúng ta thấy được cuộc đời tốt đẹp hơn là chúng ta đã từng mơ ước.
Ngoài ra, đau khổ sẽ giúp chúng ta nhận ra bàn tay yêu thương của Thiên Chúa bởi vì giữa ánh nắng chói chang của mặt trời, chúng ta không thể nào nhìn thấy những vì sao. Trái lại, vào những đêm khuya tăm tối chúng ta sẽ dễ dàng thấy được những ánh sao trên bầu trời. Cũng vậy, nhiều người trong chúng ta đã tìm thấy Chúa giữa những đêm đen của khổ đau, mà trong những lúc hạnh phúc chói chang họ đã quên lãng Ngài. Hãy biết đón nhận thập giá cuộc đời, bởi vì mọi sự đều là hồng ân.
6. Thần tượng của ta là ai?
(Lm. Anmai)
Cuộc sống chúng ta, nhất là giới trẻ, ngày hôm nay giới trẻ chạy theo một nền trào lưu, một nền văn hóa đó là văn hóa thần tượng.
Người thích đá banh thì chọn cho mình người nào mà mình thích làm thần tượng cho mình, người thích ca nhạc thì cũng sẽ tìm cho mình một ca sĩ để làm thần tượng, người thích xem phim thì sẽ chọn cho mình một diễn viên điện ảnh nào đó hot để làm thần tượng. Điều này, xem ra thì cũng có lý đó nhưng rồi những ngôi sao ca nhạc, ngôi sao đá banh, ngôi sao điện ảnh đến một lúc nào đó cũng sẽ chìm vào quên lãng để nhường ngôi cho người khác. Thế rồi những thần tượng mà xưa kia người ta tôn lên sẽ chợt tắt, và cứ như thế mãi, thần tượng cứ mãi vần xoay vì lẽ chẳng ai có thể tồn tại mãi trong cõi đời này.
Tất cả những ngôi sao mà người ta chọn đó vẫn chỉ là con người để rồi không thể tồn tại mãi, không bền vững như người ta tưởng.
Thần tượng, vẫn là sự tự do lựa chọn của mỗi người, chẳng ai có quyền ép người khác chọn cho mình thần tượng.
Ngày hôm nay, trong câu chuyện của thầy Giêsu với các môn đệ chúng ta cũng nghe Chúa Giêsu chất vấn các môn đệ của mình về Thầy: "Người ta nói Thầy là ai?". Các môn đệ đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó". Và, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ thì Phêrô trả lời ngay: "Thầy là Đấng Kitô".
Thế đấy! Đi theo Thầy, ở chung với Thầy, sống chung với Thầy nhưng người ta không nhận ra để rồi định nghĩa không đúng hay không dám định nghĩa hay không dám nói về Thầy của mình. Thật là chán! Chỉ có mình Phêrô can đảm nói về Chúa Giêsu.
Sau đó, Chúa bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại.
Nghe những lời đó xong thì ông Phêrô liền kéo riêng Chúa ra và bắt đầu trách Chúa thế nhưng Chúa lại trách ngược lại Phêrô: "Xatan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người".
Như thế, thêm một chuyện nữa là xác nhận Chúa Giêsu là một chuyện nhưng Chúa Giêsu đó là ai trong cuộc đời là chuyện khác. Giêsu thật sự được Isaia vẽ lên trong trang sách mà chúng ta vừa nghe:
Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.
Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,
vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên.
Ai tranh tụng với tôi?
Cùng nhau ta hầu toà!
Ai muốn kiện cáo tôi?
Cứ thử đến đây coi! Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,
ai còn dám kết tội?
Một hình ảnh Giêsu, một hình ảnh thần tượng như thế nghe xong cũng sẽ phản ứng như Phêrô là kéo Thầy ra để bảo Thầy đừng làm như thế nghĩa là lên Giêrusalem chịu đau khổ. Nếu như phản ứng như thế cũng chỉ là phản ứng, suy nghĩ của thế gian. Phản ứng, suy nghĩ của những người có niềm tin vào Chúa sẽ là người đi theo con đường khổ nạn của Thầy Chí Thánh vì lẽ chỉ có con đường thập giá mới đạt đến vinh quang như Thầy của mình.
Ngày hôm nay, nếu có mặt ở đây, Chúa Giêsu cũng sẽ hỏi chúng ta rằng người ta bảo Chúa là ai và ta, ta sẽ trả lời với Chúa rằng Chúa là ai trong cuộc đời chúng ta. Ngày hôm nay, cũng có nhiều người tuyên tín vào Chúa Giêsu nhưng chỉ tuyên tín ngoài môi ngoài miệng. Niềm tin như Thánh Giacôbê trong trang thư của Ngài mà chúng ta vừa nghe không phải ở môi miệng nhưng ở hành động: "Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: "Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin.
Rõ ràng tin là hành động chứ không chỉ dừng lại ở lời tuyên tín.
Với khả năng hạn hẹp cũng như yếu đuối của mình, con người thường dừng lại ở lời tuyên tín hay chỉ ở trên môi miệng. Khoảng cách từ miệng đến bàn tay quả là xa. Nói yêu Chúa, tin Chúa thì dễ nhưng thực hành lời yêu thương không phải là chuyện giản đơn.
Những lời yêu thương, những lời trao nhau niềm tin chúng ta vẫn thường nghe hàng ngày, hàng giờ và thậm chí ngay bản thân chúng ta vẫn nói lời tin yêu đó nhưng lời nói đó thực hiện được như thế nào hay nó chỉ ở bờ môi chót lưỡi mà thôi. Điều nghịch lý là ai trong chúng ta cũng mong những lời nói thành hiện thực nhưng chúng ta lại không thực hiện.
Và với con người bất nhất đó, chúng ta cứ mãi tôn thờ và chạy theo thần tượng nào khác như thần tượng ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên để lấp vào thần tượng căn cốt trong đời chúng ta. Tệ hơn những thần tượng nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên... chúng ta chạy theo thần tượng là tiền, là danh, là vọng. Mà, thật sự chẳng cần phải nói nhiều ai ai trong chúng ta cũng biết những thần tượng đó chỉ là phù vân, bạc bẽo, mau qua chóng tàn...
Cứ nhìn kỹ lại, tất cả những thần tượng vật chất, con người ấy thật mau qua chóng tàn vô cùng. Mỗi người chúng ta, ngày mỗi ngày lại già thêm một tuổi, lại cứ phải gần đất xa trời thêm một tí và thử nhìn lại xem, tất cả chẳng là gì cả. Phù vân và tất cả cũng chỉ là phù vân thôi.
Xin cho chúng ta học nơi tấm gương của Thánh Phêrô là tuyên tín Thầy mình cũng như đã sống niềm tin ấy trọn vẹn. Vẫn mang trong mình phận người yếu đuối, Phêrô không chỉ dừng lại ở chỗ kéo Thầy mình không cho Thầy đi lên Giêrusalem chịu khổ nạn mà còn chối phăng Thầy mình. Thế nhưng đàng sau những vấp ngã của con người ấy Phêrô chợt giật mình tỉnh giấc để sống trọn vẹn niềm tin của mình.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta, qua lời chuyển cầu của Thánh Phêrô để chúng ta không chỉ tuyên tín nhưng còn sống lời tuyên tín về Thầy Chí Thánh trong cuộc đời của mình.
7. Thầy là ai?
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Nhiều người đã gặp Chúa, nghe Chúa giảng và chứng kiến các phép lạ Chúa đã thực hiện nhưng vẫn chưa biết Chúa là ai. Cho dù nhiều người đã được thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian (Ga 1, 29). Ngay cả những người thân tín nhất là các tông đồ, cũng không biết căn tính thật của Chúa. Người ta đi hết ngạc nhiên ngày tới ngạc nhiên khác, tò mò nhìn xem phép lạ, muốn thưởng thức bánh miễn phí và chứng kiến nhiều sự lạ nhưng nhiều người chỉ nghĩ Chúa Giêsu là một tiên tri nào đó. Hôm nay Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô." (Mc 8, 29).
Sau lời tuyên xưng của ông Phêrô: Thầy là Đấng Kitô, Chúa Giêsu đã hé mở về sứ mệnh của Ngài:Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại (Mc 8,31). Chúa Kitô chọn con đường khổ giá để tới vinh quang sống lại. Con đường Chúa đi là con đường hẹp, con đường thánh giá và đỉnh cao là núi Sọ. Lời tiên báo của Chúa Giêsu ứng nghiệm với những lời diễn tả của tiên tri Isaia về Người Tôi Tớ chịu nhạo báng trong đau khổ: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 5, 6).
Thầy là ai? Chúng ta thử tìm hiểu qua chính lời mạc khải của Chúa Giêsu.Chúa phán: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Ngài nói tiếp: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống."(Ga 8, 12). Chúa Giêsu là đường dẫn chúng ta đến sự sống muôn đời. Chúa chính là ánh sáng soi dẫn đưa chúng ta đến sự thật viên mãn. Ngài là nguồn và là trung gian ban phát sự sống. Có có uy quyền tạo dựng, biến đổi và thánh hóa cả hồn lẫn xác.
Thầy là ai? Chúa Giêsu giới thiệu: Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 11). Thầy đã hy sinh mạng sống để đền bù và chuộc tội cho nhân loại. Ngài là Đấng trung gian giao hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người. Ngài đã mang lại niềm hy vọng cho những ai đang trong cơn lầm than sầu khổ. Ngài phán: Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ (Ga 10. 9). Chúa Giêsu mở lối cho mọi người tìm đến ơn cứu độ. Muốn vào nước trời, chúng ta phải đi qua cửa chính là Chúa Kitô. Chịu Phép Rửa trong Chúa, tuyên xưng niềm tin, sống và thực hành lời Chúa. Chúng ta không chỉ nói: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào nước trời nhưng là thực hành ý Chúa.
Thầy là ai? Chúa Giêsu phán:"Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! (Ga 6, 35). Thầy là bánh từ trời ban xuống cho nhân loại: "Tôi là bánh từ trời xuống." (Ga 6,41). Thầy là bánh có đủ mọi mùi thơm ngon và là bánh trường sinh. Hãy đến và đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, chúng ta sẽ được nuôi dưỡng thỏa thuê bằng chính nguồn ân sủng của Ngài. Lãnh nhận bánh hằng sống là nguồn sự sống và là sự sống viên mãn. Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống (Ga 11, 25). Niềm hy vọng tuyệt hảo của thân phận của con người là sự sống lại ngày sau để hưởng phúc thanh nhàn.
Thầy là ai? Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tin vào Ngài: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm (Ga 14, 11). Khi Chúa Giêsu biến hình trên núi đã có tiếng phán từ trời cao: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người."(Mc 9, 7). Chúa Giêsu thuộc về thượng giới đã hạ sinh mang thân phận con nguời như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Chúa Giêsu bảo: "Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này (Ga 8, 23). Chúa Giêsu được Chúa Cha sai xuống thế gian và khi hoàn tất sứ mệnh Ngài trở về cùng với Cha của Ngài.
Đối với các Kitô hữu, chúng ta xưng tụng Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ. Chúng ta cần lắng nghe của lời Ngài chỉ dạy. Vâng nghe theo lời của Chúa Giêsu là bước theo con đường của Ngài đã đi qua.Đường của Chúa là con đường khiêm hạ, con đường sự thật và con đường khổ giá. Khổ giá sẽ tôi luyện niềm tin. Niềm tin vào Chúa Kitô không phải là học hiểu một số kiến thức, tỏ lòng sùng mộ hay việc cử hành một số nghi lễ, mà chính là sống niềm tin của mình trong cuộc lữ hành trần thế. Chúng ta phải sống đức tin trưởng thành mà chúng ta đã được lãnh nhận qua các Bí Tích trong Hội Thánh. Đức tin là ánh sáng soi đường dẫn chúng ta bước theo gót Chúa Kitô. Thánh Giacôbê tông đồ đã phát biểu rằng: Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết (Giac 2, 17). Lời nói đi đôi với việc làm. Người ta nói: Lời nói mây bay, gương bày lôi kéo. Đời sống đức tin được thể hiện qua cách sống đạo hằng ngày trong ý tưởng, lời nói và việc làm.
Chúa Giêsu mời gọi:Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28). Chúa Giêsu đầy lòng thương xót với những ai cậy trông vào Chúa. Chúng ta cũng biết rằng Chúa có quyền năng ban phát ân huệ cho mọi loài nhưng theo chương trình và sự quan phòng của Chúa. Chúa ban cho con người có tri thức, có khả năng, có thời giờ và có phương tiện để chế ngự những khó khăn bất thường. Chúng ta phải có gắng với hết sức mình trong mọi lãnh vực cuộc sống để tìm phương hướng giải quyết các vấn đề. Chúng ta đừng khi nào thất vọng, chán nản và bỏ cuộc. Chúa nói điều quan trọng là: Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 29). Lời của Chúa thật ngọt ngào, nhẹ nhàng và thấu đạt tâm hồn.
Lời tâm huyết nhất của Thầy Chí Thánh gởi gắm cho các môn đệ là: Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau."(Ga 13, 35). Dấu chỉ để nhận ra sự hiện diện của Chúa giữa anh chị em là chúng ta hãy yêu thương nhau. Yêu thương là cốt lõi của mọi sinh hoạt sống đạo và là giới răn trọng nhất. Thiếu sự yêu thương, cuộc sống trở thành trống rỗng và vô nghĩa. Không có tình yêu, ngôn từ trở thành sáo ngữ. Vắng bóng tình yêu, các công việc bác ái trở thành sự khoe khoang. Không có lòng yêu thương, mọi cách đối xử giao tế nhân sự trở thành hình thức và giả hình. Yêu thương là chất keo gắn kết tinh thần của mọi người chung hợp với nhau. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, muốn trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải yêu thương nhau.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa là Con Thiên Chúa, là Đức Kitô, là Thầy, là người chỉ đạo, là nguyên khởi và là cùng đích của cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết đặt niềm tin tưởng nơi Chúa và bước theo con đường Chúa đã đi xưa, để chúng con cùng được chia sẻ đau khổ thập giá và vinh quang sống lại. Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Chúa.
8. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Phụng vụ Lời Chúa trước đây đã tường thuật những việc làm và lời giảng của Chúa. Hôm nay, các bài đọc hướng đến những người nghe Chúa và nói về đức tin của họ. Đức tin của người Tôi trung trong Cựu Ước và của ông Phêrô trong Tân Ước đều là những thí dụ điển hình để ta có những ý niệm phong phú về lòng tin ta. Tuy nhiên đức tin không phải là mớ lý thuyết suông, mà phải được thực hành trong cuộc sống. Đó cũng là điều thánh Giacôbê Tông đồ nhấn mạnh qua bài đọc hai.
1. Đức tin của người Tôi trung: "Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?" (bài đọc Cựu Ước – I-sai-a 50:5-9a)
Vì có lòng tin vững vàng vào Thiên Chúa nên người Tôi trung mới dám thách thức như vậy. Đây là bài thứ ba trong loạt bài ca người Tôi trung trong sách ngôn sứ I-sai-a. Gọi là người Tôi trung, vì người ấy luôn trung thành đặt tất cả niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin ấy giúp họ biết nhận ra những điều Thiên Chúa làm cho mình và sẵn sàng thi hành những gì Chúa muốn. Niềm tin cũng là sức mạnh để nhờ đó họ có thể đương đầu với tất cả những khó khăn, thậm chí những bách hại cũng không làm họ nao núng chút nào. Vậy Thiên Chúa đã làm gì cho người Tôi trung?
Trước hết, Thiên Chúa "mở tai" cho người Tôi trung. Mở tai là để họ có thể lắng nghe lệnh truyền của Thiên Chúa. Tuy nhiên người Tôi trung vẫn có tự do trước lệnh truyền của Người, hoặc đón nhận, hoặc cưỡng lại hay từ chối. Ở đây niềm tin vững mạnh khiến người Tôi trung đặt lệnh truyền của Chúa lên trên hết và quyết tâm thi hành.
Khi người Tôi trung bị thử thách và bách hại, niềm tin ấy là động lực giúp họ can đảm ứng phó với mọi hoàn cảnh. Cử chỉ "đưa lưng cho người ta đánh đòn", "giơ má cho người ta giật râu" và "không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ" diễn tả thái độ bình tĩnh và tự chủ, là những đặc nét của niềm tin lớn lao nơi Thiên Chúa. Để làm vinh danh Chúa, người Tôi trung chấp nhận cả những điều bất công đáng lẽ họ có thể phản kháng. Đối với người Tôi trung, sự phù trợ của Thiên Chúa là một thực tại rõ ràng và tuyệt đối. Không gì có thể làm cho họ mất xác tín vào sự phù trợ ấy. Mối nguy hiểm lớn lao nhất của người Tôi trung là phải làm chứng cho công lý. Nhưng có Thiên Chúa là "Đấng tuyên bố rằng họ công chính và ở kề bên họ" nên họ không sợ bất cứ ai kết tội họ.
Nhưng người Tôi trung đó là ai? Chính là Chúa Giêsu Kitô. Trong suốt cuộc sống trên trần gian từ khi xuống thế làm người, thi hành sứ vụ cứu độ cho tới lúc chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn những gì ngôn sứ I-sai-a nói về Người. Người là mẫu gương đức tin vào Thiên Chúa. Người rao giảng và chữa lành trong sự trung thành với sứ mệnh Thiên Chúa đã trao phó. Đức tin của Người biểu lộ hùng hồn nhất vào những giờ phút bi thảm của cuộc Thương khó. Sự trung thành đã đem lại cho Người sự phục sinh và vinh quang vĩnh cửu bên hữu Thiên Chúa Cha.
2. Đức tin vào Chúa Kitô của người môn đệ (bài Tin Mừng – Mác-cô 8:27-35)
Như Chúa Giêsu đã tin vào Chúa Cha thế nào, ta cũng phải tin vào Chúa Giêsu như vậy. Trong cuộc đào tạo môn đệ, Chúa Giêsu lúc nào cũng ưu tư về đức tin của các môn đệ vào Người. Người muốn mặc khải cho họ biết dần dần về Người. Sách Tin Mừng Mác-cô có lối trình bày rât độc đáo về chân tính của Chúa Giêsu. Người ta quen gọi đó là "bí mật Đấng Mê-si-a. Từ khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho đến lúc chết trên thập giá, Chúa Giêsu luôn luôn cấm người được chữa lành không được nói về Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng hôm nay, sau khi ông Phêrô tuyên xưng "Thầy là Đấng Kitô", Chúa Giêsu cũng "cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người". Chân tính của Chúa Kitô chỉ được tiết lộ khi "viên đại đội trưởng đứng đối diện với Chúa Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: 'Quả thật, người này là Con Thiên Chúa".
Theo câu truyện Tin Mừng hôm nay về việc ông Phêrô tuyên xưng đức tin, ta có thể nhận ra một số nét chính về đức tin. Tin nghĩa là nhìn nhận phẩm giá của người mình muốn tin. Tin vào Chúa Giêsu có nghĩa là nhận biết Chúa là Đấng nào và sứ mệnh của Người là gì. Chính vì hai điểm này, đức tin mở đầu với câu hỏi "người ta nói Thầy là ai?" Trả lời cho câu hỏi trên, đức tin đòi hỏi việc nhìn nhận chân tính của Chúa Giêsu phải là nhìn nhận của riêng cá nhân, chứ không thể do những điều nghe người này người kia nói. Do đó, Chúa Giêsu mới hỏi môn đệ: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Sự nhìn nhận này nảy sinh từ đáy tâm hồn của từng người. Đức tin không thể là điều vay mượn của người khác, nhưng là khởi đầu cho một mối quan hệ giữa ta với Chúa. Quan hệ này sẽ đưa ta đi khám phá thêm con người, đạo lý và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Đây chính là điều ông Phêrô và các bạn chưa biết hoặc không muốn biết. Nói khác đi, đức tin giúp ta tìm hiểu và nhìn nhận sứ mệnh của Chúa Giêsu. Để bổ túc cho thiếu sót rất lớn lao này, Chúa Giêsu "bắt đầu dạy cho các ông biết: Con Người phải chịu đau khổ nhiều..., bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại". Vừa nghe vậy, ông Phêrô phản kháng, chẳng muốn nhìn nhận một thứ sứ mệnh không đáp ứng với mong mỏi của ông và các bạn. Đối lại, Chúa Giêsu còn phản kháng mạnh hơn, cốt để khắc phục các ông phải nhìn nhận cả điều đi ngược lại mong muốn của mình. Người mắng ông là thứ kỳ đà cản mũi, không muốn đi theo đường lối Thiên Chúa và bắt chước Người làm Tôi trung của Thiên Chúa. Như vậy, điều cốt yếu về đức tin là phải tùy thuộc vào phẩm giá của Chúa chứ không phải tùy thuộc vào điều ta mong mỏi, hoặc đức tin là ta tùy thuộc vào Chúa chứ không phải Chúa tùy thuộc vào ta.
Một điều nữa vô cùng quan trọng về đức tin, là đức tin không là điều nằm trong trí óc, nhưng được thể hiện bằng đời sống và việc làm. Nhận biết chân tính và sứ mệnh của Chúa chưa đủ, ta còn phải đi theo Chúa. Điều này Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết cái giá đắt khi ta theo Người. "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mc 8:34). Đức tin trở nên nguyên lý sự sống đời đời. Sự sống đời này và sự sống đời đời là hai thực tại khác nhau, nhưng lại liên hệ chặt chẽ với nhau. Đức tin trong sự sống đời này là điều kiện phải có để được sự sống đời đời. Mà trong cuộc sống đời này, đức tin sẽ gặp nhiều thử thách như vàng thử lửa, luôn đòi hỏi ta sẵn sàng "liều mất mạng sống mình vì Chúa và vì Tin Mừng". Chúa Giêsu không ngại gọi việc liều mất mạng sống đời này như phương thức duy nhất để "cứu được mạng sống đời sau". Ta mới chỉ liều mất mạng sống vì đức tin, còn Chúa Giêsu thì đã thực sự mất mạng sống vì lòng tin vào Thiên Chúa và nhân loại. Người đã trả giá đắt cho lòng tin vào tình yêu Chúa Cha và nhân loại. Vì mất mạng sống do tin yêu nên Người đã được phục sinh và đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.
3. Đức tin không có hành động là đức tin chết (bài đọc Tân Ước – Giacôbê 2:14-18)
Thánh Giacôbê đi vào thực tế khi ngài quả quyết: Đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết. Đức tin chết đâu có gây được tác động gì, khác chi cái xe hỏng máy nằm ụ một chỗ và không thể chuyên chở ta đi nơi này nơi kia. Ngài lập lại ý tưởng của Chúa Giêsu về chức năng của đức tin là "cứu mạng". Thực tế hơn nữa, ngài dùng hình ảnh người anh chị em của ta sống trong hoàn cảnh thiếu thốn và cần đến sự giúp đỡ của ta để áp dụng vào việc sống đức tin. Hành động vì đức tin của ta trong hoàn cảnh này là quảng đại giúp đỡ người anh chị em ấy. Hành động là dấu chỉ nói lên đức tin sống động. Ta giúp đỡ anh chị em là vì ta tin lời Chúa dạy ta sống bác ái và thương yêu anh chị em như chính mình. Ta cho anh chị em túng đói cơm ăn áo mặc là vì ta thực hành điều Chúa dạy: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 26:40). Thánh Giacôbê quả quyết không thể chứng minh đức tin khi không được biểu lộ bằng hành động. Trái lại khi ta hành động thì hành động đó sẽ cho người khác thấy động lực khiến ta hành động là vì có đức tin. Một thí dụ cụ thể: hành động ta cho anh chị em túng thiếu ăn khi họ đói, áo mặc khi họ lạnh nói lên rằng ta tin có Chúa nơi anh chị em và họ cùng với ta đều là con cái Thiên Chúa.
Có lẽ việc tách rời đức tin với hành động là điều rất thường thấy nơi nhiều Kitô hữu. Chính vì họ tách rời như vậy nên đời sống của họ có hai phạm trù riêng biệt. Họ tưởng hành động của đức tin là đọc kinh cho to, xem lễ cho nhiều, rước sách cho linh đình... Nhưng ra khỏi nhà thờ, hết kinh hết lễ thì đời sống họ vẫn giậm chân tại chỗ, không thêm được một chút tình thương nào đối với những người đói khổ túng thiếu, trái tim họ không hề rung động trước cảnh khốn khó của anh chị em. Cây đức tin của họ khô cằn, thiếu sự sống, nên không sinh được hoa trái nào. Thánh Giacôbê mô tả đức tin hết sức đơn sơ, một đức tin sống hay là chết, nhưng lại là hình ảnh thực tế đòi hỏi mỗi người phải xét lại đức tin của họ.
4. Sống đức tin
Đề tài đức tin của Lời Chúa hôm nay không phải là một bài thần học hoặc giáo lý cao siêu, nhưng nằm ngay trong kinh nghiệm cuộc sống của người Tôi trung, của thánh Phêrô và thánh Giacôbê cũng như của mọi người muốn làm môn đệ Chúa Kitô. Đức tin hệ tại tâm hồn quyết tâm gắn bó với Chúa và sống theo điều Người dạy. Tin vào Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã suốt đời sống theo "tư tưởng" hoặc đường lối của Chúa Cha. Cũng vậy, nếu ta tin vào Chúa Giêsu, ta cũng phải uốn nắn đời sống ta theo khuôn mẫu đời sống của Người, sống vì Người và vì Tin Mừng.
Suy nghĩ: Thánh Giacôbê viết: "Tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin". Vậy để chứng tỏ cho những người chung quanh thấy tôi là người có đức tin, tôi phải có những hành động nào? Đối với những người trong gia đình? Trong sở làm? Trong cộng đoàn? Những hành động ấy nói lên điều gì nơi tôi?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa hằng hữu là Cha chúng con, xin cho lòng chúng con luôn hướng về với Chúa Kitô, để khi quyết tâm làm môn đệ Người như việc quan hệ nhất trong đời, và lấy tình bác ái phục vụ anh chị em, chúng con hoàn toàn hiến thân phụng thờ Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
9. Từ bỏ chính mình
(Thiên Phúc)
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc: "Họa Mi và Bông Hồng Đỏ". Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: "Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi". Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nỗi dằn vật bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:
- Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?
- Họa mi ơi! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.
- Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ?
- Họa mi ơi! đời cần hoa chi cho thương đau?
- Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình.
- Được, nhưng phép màu cần phải có màu đỏ.
- Bằng mọi giá chị ạ.
- Bằng giá sinh mạng?
- Kể cả sinh mạng em.
- Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông bồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị... Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.
Câu chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình" (Mc.8,34). Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.
Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể "được cả" mà cũng có thể "ngã về không". Chính cái bắp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.
Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.
Nhưng "Từ bỏ chính mình" không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
"Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống" (Mc.8,35). Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Đấng Tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì "Ai biết chết thì sẽ biết sống".
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng mang mầm ích kỷ; thích hưởng thụ hơn là hy sinh, thích thu tích hơn là cho đi, thích cai trị hơn là phục vụ.
Xin dạy chúng con biết chiến đấu mà không sợ thương tích, làm việc cực nhọc mà không tìm nghỉ ngơi, biết hy sinh mà không đòi phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng: chúng con đang thực thi thánh ý Chúa. Amen. (Ignatiô Loyola).
10. Mầu nhiệm cứu độ
(Phêrô Trần Đình Phan Tiến – 'Bước Theo')
"Hành động của Thiên Chúa", chủ đề CN 24 TN (B) (Mc 8, 27-35), thoạt nhìn ta thấy có hai chủ đề là "tuyên xưng niềm tin" (c 29) và "Mầu nhiệm Tử nạn" (c31), hay là Hành Động của Thiên Chúa.
Vâng! thật hợp lý với lời giảng giải của thánh Giacôbê ở đoạn( Gc 2, 14-18): "Đức tin và Hành Động". Qủa thật, Đức tin không thôi chưa đủ, vì Chúa Giêsu kêu gọi phàm nhân "tin vào Người" (Ga 3,15) để đón nhận ơn cứu độ. Nhưng ơn Cứu Độ không phải là lời nói suông, mà là một hành động cụ thể, thật vậy, Thiên Chúa đã hành động.
Hành động của Thiên Chúa thì không phải hành động như phàm nhân. Hành động của Thiên Chúa là hành động yêu thương, hành động quên mình để hy sinh cho kẻ khác. Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ đáng bị tiêu diệt, Thiên Chúa không trừng phạt kẻ đáng bị trừng phạt. Vì Ngài là Thiên Chúa yêu thương, yêu thương là gánh lấy về mình tất cả. Như vậy, thoạt đầu đọc đoạn Tin Mừng (Mc 8,27-35) hôm nay, ta nghĩ rằng có sự mâu thuẫn, vì tại sao con người tuyên xưng niềm tin vào Chúa như Phêrô lại bị quở trách nặng nề.Nhưng suy niệm sâu xa ta thấy ý nghĩa của Lời Chúa hôm nay, không phải là lúc con người tuyên xưng đức tin, hay nói cách khác tuyên xưng niềm tin, nhưng chưa hiểu mầu nhiệm mà ta tuyên xưng. Như vậy vấn đề cho thấy, tin vào Chúa và tín thác vào Ngài, cần phải có hành động cụ thể là thực thi Ý Định của Thiên Chúa, tin vào Thiên Chúa đồng thời phải lắng nghe Lời của Thiên Chúa để thực thi Ý Ngài. Vì tin mà không hành động thì niềm tin ấy không sinh kết quả, như vậy niềm tin ấy không có lợi ích gì. Vì "...tin trong lòng thì được công chính, còn tuyên xưng ngoài miệng thì được ơn cứu độ" (Rm 10,10). Như vậy, muốn đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa cần phải có hai điều kiện là "Tin" và "thực thi" niềm tin vào Thiên Chúa. Vd: Thiên Chúa là tình yêu, khi ta tin vào Thiên Chúa, thì ta cũng phải hành động như Thiên Chúa là ta phải yêu tha nhân như Chúa đã yêu ta. Đó là nguyên lý của niềm tin, nhưng thực tế ta không thể yêu tha nhân như Thiên Chúa đã yêu ta, vì ta chưa trở nên như Thiên Chúa được.Nhưng ít ra ta cũng phải hành động theo ý định của Thiên Chúa, điều nầy phù hợp với chúng ta hơn, vì trong giới hạn của nhân trần. nhưng ta có thể chứng minh lòng tin của ta vào Thiên Chúa bằng nhiều cách, như vậy là niềm tin của ta được hành động. Thánh Giacôbê đã so sánh rất tuyệt vời về "Đức Tin và Hành động" như sau: "Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?... cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết". (Gc 2,14.17).
Như vậy Chúa Giêsu không phải quở trách Phêrô vì ông tuyên xưng niềm tin vào Người, mà quở trách Phêrô vì ông đã can thiệp vào mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa cần phải hành động để minh chứng "Lời" của Thiên Chúa từ ngàn xưa. Khi Chúa Giêsu nói: "Ai tin vào tôi thì có sự sống muôn đời" (Ga 3,15), nhưng Người không phải là vị Vua của trần thế. Nếu chi ngồi đó mà nói như vậy, thì quả thật không đáng tin. Nhưng Đấng cứu thế là vị Vua đích thực của Nước Trời, vì vậy Người đã hành động như một vị cứu thế đúng nghĩa. Người đã trở nên con chiên hiền lành bị đem đi giết.
Vâng! Đấng Cứu Thế đã hành đông đúng như lời Isaia đã nói: "Ta đã trao thân cho kẻ đánh Ta, giơ má cho người ta vả; Ta đã chường mặt mình cho họ mắng, họ nhổ" (Is 50,6). Một Đấng cứu thế như vậy, đã được loan báo trong Cựu Ước, nhưng phàm nhân không đón nhận. Vì phàm nhân không thích Thập giá. Nhưng Thiên Chúa lại dùng chính sự từ chối của trần thế để cứu chuộc thế trần. Vì vậy, Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng nề: "Hỡi satan! hãy lui ra đằng sau, vì tư tưởng của ngươi không phải là tư tưởng của Thiên Chúa". (Mc 8, 33b).
Niềm tin là biết có ánh sáng, nhưng hành động là phải tiếp nhận ánh sáng và chuyển giao ánh sáng cho người khác. Nếu hành động không có niềm tin thì hành động mù quáng, nếu chỉ có niềm tin mà không hành động thì niềm tin ấy không tỏa sáng, bị lu mờ và tắt đi vì thiếu thực tế.
Lời Chúa là ánh sáng, khi tin theo trong cuộc sống hằng ngày phải được chiếu soi cho hành động của con người. Niềm tin cần cho hành động và hành động cần cho niềm tin. Niềm tin có hành động là niềm tin sống. Hành động có niềm tin là hành động tuyệt vời.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã quở trách Thánh Phêrô vì niềm tin của ông chỉ suy nghĩ đơn thuần nông nổi. Niềm tin ấy chưa đủ yếu tố để mang ơn cứu độ đến cho người khác. Niềm tin xác đáng là niềm tin phải hành động, như Chúa đã hành động là chu toàn thánh Ý Chúa Cha một cách tron vẹn. Xin ban cho chúng con là những kẻ mỏng giòn ,yếu đuối cũng có được sức mạnh của lòng tin vào Chúa và những hành động của lòng tin vào Chúa, là những hành động cụ thể của chúng con, để trần gian nhìn thấy hành động của chúng con mà ngợi khen Cha trên trời. Amen.
11. Tưởng lầm
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong đời sống có rất nhiều điều hiểu lầm. Chẳng hạn xưa kia khi thấy mặt trời cứ sáng mọc tối lặn, người ta tưởng rằng trái đất đứng yên và mặt trời di chuyển chung quanh trái đất. Nhưng khoa học tiến bộ đã minh chứng mặt trời đứng yên, chính trái đất mới xoay chung quanh mình và chung quanh mặt trời. Trong đời sống đạo cũng đã có những hiểu lầm như thế. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện đến. Không ngờ Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ Người lại sinh ra trong chuồng bò lừa. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải uy quyền lẫm liệt. Nhưng không ngờ Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do Thái lên địa vị bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế là một ông vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ.
Có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa, người ta cũng sai lầm về người môn đệ. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được chức cao quyền trọng trong Nước Chúa. Nên bà Giêbêđê mới xin Chúa cho hai người con là Gioan và Giacôbê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong Nước Chúa. Nhưng không ngờ Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống, nghĩa là phải chết. Người ta cứ tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được trọng vọng, được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: "Ai trong anh em muốn làm lớn thì phải phục vụ anh em". Người ta cứ tưởng theo Chúa thì Chúa sẽ cho mọi sự may mắn ở đời, được thành công. Được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: "Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo".
Hôm nay, sau khi nghe các môn đệ báo cáo về dư luận quần chúng, Đức Giêsu thấy họ quá sai lầm về Người, về vai trò Cứu thế của Người, về con đường cứu chuộc. Nên Người đã dậy rõ ràng cho các môn đệ biết Đấng Cứu thế thực là Con Thiên Chúa. Nhưng con đường Người đi là con đường thập giá. Người phải chịu đau khổ, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, và phải chịu chết.
Người cũng cho các môn đệ biết ai muốn theo Người cũng sẽ phải đi vào con đường của Người. Phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người.
Phải chăng Thiên Chúa muốn hành hạ con người, muốn con người tàn lụi chứ không muốn con người phát triển, muốn con người phải chịu đau khổ chứ không muốn con người được hạnh phúc? Tại sao trên trần gian, người ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh phúc sung sướng mà Chúa thì làm ngược lại, chỉ hứa cho những người theo mình thánh giá và đau khổ? Thưa, chắc chắn Chúa muốn cho con người được hạnh phúc. Chính vì muốn con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con người. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua. Chúa muốn cho con người được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Những vất vả đau đớn không phải là vì Chúa độc ác muốn hành hạ con người. Những đau đớn từ bỏ mình không phải là vì Chúa muốn con người đi vào tàn lụi diệt vong. Nhưng đó là qui luật, là điều kiện để được sự sống, được hạnh phúc đích thật.
Chính Đức Giêsu cũng phải đi qua con đường thập giá khổ nhục mới đến hạnh phúc. Chính Người phải kinh qua cái chết đau đớn mới tới ngày phục sinh vinh quang. Nên Chúa đã nói với các môn đệ: "Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy".
Thành ra, đau khổ Chúa hứa không phải để hành hạ con người, nhưng là con đường dẫn con người đến hạnh phúc đích thực. Thập giá và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để con người được tái sinh và triển nở trong đời sống mới, đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc không bao giờ tàn.
Những lời Chúa nói hôm nay, tuy khó nghe và khó chấp nhận. Nhưng đó là sự thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu. Chúa đã không lừa mị ta, không hứa hẹn cho ta những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ cho ta đường ngay nẻo chính. Chúa mời gọi ta phải dũng mạnh, can đảm và quyết liệt trong cuộc chạy đua dành lấy hạnh phúc nước trời.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình, vác thập giá mình mà bước theo Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đâu là những hiểu sai lầm về Chúa?
2) Đâu là những hiểu sai lầm về người môn đệ của Chúa?
3) Có phải Chúa muốn ta khổ sở khi bảo ta phải từ bỏ mình không?
4) Tại sao Chúa phải chịu đau khổ?
12. Chúa Giêsu là ai trong cuộc đời tôi?
Nhìn thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi:
- Liệu Ngài có phải là Đấng Cứu Thế hay không?
Nhất là trong hoàn cảnh họ đang phải sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã, họ trông chờ một Đấng Cứu Thế đến giải phóng họ và đem lại cho quê hương họ sự phồn thịnh.
Theo mong ước của nhiều người Do thái thì Đấng Cứu Thế là một vị anh hùng dân tộc, đến đánh đuổi quân ngoại xâm. Ngài sẽ là người dùng quyền lực thống trị các dân, trừng phạt những người tội lỗi và quân ngoại xâm. Đàng này, Đấng Cứu Thế Giêsu đến lại tỏ ra nhân từ với hết mọi người, kể cả người tội lỗi và dân ngoại. Tuy Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền và làm những dấu lạ chưa ai từng có. Tuy nhiên, Ngài lại không chấp nhận làm vua, làm Messia theo quan niệm của họ. Và họ bất đồng quan điểm khi nhận xét về sứ mạng của Chúa Giêsu. Người thì nói Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại, kẻ thì bảo là Elia, số khác cho là một trong số các tiên tri. Họ không nhận ra Đức Giêsu là Messia, Con Thiên Chúa làm người!
Bấy giờ, Đức Giêsu hỏi các môn đệ xem họ đã hiểu lời dạy, hiểu thân thế của Ngài đúng chưa. Thật không bỏ công khó nhọc của Đức Giêsu, Phêrô đã trả lời chính xác: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Các Tông đồ khác cũng đồng ý với câu trả lời của Phêrô như vậy. Tuy nhiên, các Tông đồ cũng chưa thật sự hiểu rõ bản tính và sứ mạng của Đức Giêsu. Có lẽ họ cũng chịu ảnh hưởng của quan niệm dân chúng bấy giờ: Messia là vị cứu tinh Dân tộc Do thái, họ nghĩ đơn giản như vậy, họ chưa nhận ra vai trò cứu chuộc nhân loại của Đức Giêsu và những đau khổ người phải chịu để đền thay vì tội lỗi nhân gian. Bằng chứng là sau đó, khi Đức Giêsu công bố về cuộc khổ nạn thì Phêrô liền can gián: Thầy không phải như vậy đâu! Nhưng Đức Giêsu quay lại quở trách Phêrô và các môn đệ: các con không biệt việc Thiên Chúa làm mà chỉ biết việc loài người. Đã theo Đức Giêsu thì không tìm lợi danh đời này. Ai theo ta thì hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta. Ai lo cho mạng sống đời này thì sẽ mất nó, nhưng ai biết hy sinh mạng sống vì Chúa thì Người sẽ ban cho hạnh phúc vĩnh cửu bên Ngài. Ai gắn mình với vật chất chóng qua thì sẽ tàn tạ như nó. Còn ai gắn bó với Đấng Vĩnh Cửu thì được Thiên Đường làm nơi cư ngụ.
Mỗi người chúng ta hôm nay hãy thử trả lời câu hỏi của Đức Giêsu: còn con, con bảo Thầy là ai? Đối với tôi, Đức Giêsu là ai? Hiện giờ tôi theo Chúa vì lý do nào? Tôi theo Chúa vì nhận ra Chúa là Thiên Chúa duy nhất, là Đấng hứa ban cho tôi sự sống đời đời hay tôi theo Chúa đề Ngài ban cho của cải, giàu sang, địa vị đời này? Tôi theo Chúa mà tôi có sống theo Tám Mối Phúc thật: phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, hiền lành, khóc lóc, khao khát nhân đức trọn lành, biết xót thương kẻ khác... tôi có coi Chúa trên của cải vật chất, coi Chúa hơn ý riêng của mình, hay có khi nào tôi coi trọng tiền bạc, của cải hơn Chúa không?
Nhiều khi chúng ta theo Chúa, nhận ra Chúa là Đấng Cứu Thế, nhưng cũng như Phêrô và các tông đồ trong Tin Mừng hôm nay: muốn can ngăn Chúa, không muốn Ngài vác thánh giá, không muốn Ngài đau khổ. Như vậy, khi đi theo Chúa, bắt chước Chúa, chúng ta cũng không phải vác thánh giá, không phải chịu đau khổ với Ngài. Chúng ta hãy xem Đức Giêsu có đồng ý với các Tông đồ như vậy không? Ngài chẳng những không đồng ý mà còn khiển trách Phêrô nữa: Satan, con hãy lui lại đàng sau Thầy. Đức Giêsu không đồng ý với các Tông đồ vốn muốn ngài làm một Messia an nhàn. Ngài cho biết đó là cám dỗ của Satan. Ngài cũng như những người đi theo ngài phải chọn con đường thập giá. Chính thánh giá mới đem lại bình an hạnh phúc. Ai không nép mình sống theo 10 Điều Răn mà tự mình sống buông thả theo ý riêng thì sẽ gặt hậu quả rất tệ: mất hạnh phúc đời đời, vì đã không đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.
Vậy, để hưởng ơn cứu chuộc của Đức Giêsu, chúng ta hãy tuyên xưng rõ trong lòng mình như thánh Phêrô hôm nay: Thầy Đấng Kitô, Đấng Cứu Độ đời con, con xin đi theo Ngài trên mọi nẻo đường dù là đường êm ả hay đường chông gai, để mai sau, Đức Giêsu ở đâu con cũng được ở nơi đó, Chúa được hạnh phúc nào thì con cũng được tham dự vào hạnh phúc đó với Chúa.
13. Thách đố của niềm tin.
('Niềm Vui Chia Sẻ')
Một giai thoại kể lại rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò mạo hiểm để tìm cảm giác mạnh. Anh đem theo một chiếc dù đến bên bờ vực thẳm, định chơi cho thoả chí mạo hiểm. Không biết loay hoay thế nào, anh trượt chân. Đang trên đá lăn dài xuống vực sâu, may mắn được một cành cây mọc chìa ra. Thế là anh lơ lửng trên cành. Thật hú vía, tuy chưa qua hết nguy hiểm, nhưng thế này còn có hy vọng thoát được.
Ngước mắt lên bờ vực, anh không thấy bóng dáng một ai. Nhìn xuống, anh choáng váng vì vực quá sâu. Anh cũng biết không thể nào đu lơ lững mãi trên cành được, vì thế, cách cuối cùng là anh cầu nguyện. Thế là anh cầu nguyện: lậy Chúa, xin cứu con, con xin hứa làm bất cứ điều gì Chúa muốn.
Bỗng anh nghe như có tiếng Chúa nói: Được, Ta sẽ cứu con. Nhưng trước khi cứu, Ta muốn biết là con có thực sự tin rằng Ta làm được việc này không?
- Lạy Chúa, con tin chứ! Con tin chắc là Chúa cứu được con mà! Cứu ngay đi Chúa ơi, con mỏi tay lắm rồi!
- Được, nếu con tin Ta thì hãy buông tay ra.
Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào cành cây chứ không chịu buông. Rồi anh ngẩng lên bờ vực và la lớn: "Có ai trên đó không, cứu tôi với'.
Thưa anh chị em, giả sử chúng ta là chàng thanh niên đó, liệu chúng ta có dám buông tay ra không? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh đang xẩy ra trong đời, hay chúng ta sẽ tìm cách bám víu vào những thực tại khác?
Muốn đi theo ai, muốn ở với ai, thì phải biết rõ người ấy, biết người ấy xuất thân từ đâu và có đáng tin không. Muốn "đi theo Chúa Giêsu và ở với Chúa Giêsu" thì người Kitô hữu phải biết Chúa Giêsu là ai, đường lối của Ngài như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta hiểu về con người Giêsu ấy.
Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ câu hỏi: "Người ta bảo Thầy là ai?" trước khi đòi hỏi chính các môn đệ của mình phải bày tỏ ý kiến riêng, Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc thăm dò ngay trong nội bộ mình xem người khác nói về Ngài như thế nào? Có nhiều ý kiến, nhưng rõ ràng dân chúng đã thấy được một số nét căn bản nơi con người Giêsu. Nơi giáo huấn của Ngài, người ta thấy được sức sống và sự siêu thoát khỏi những ràng buộc vô lý của lề luật. Thế nhưng, điều quan trọng không phải chỉ biết đúng về Chúa Giêsu mà con phải biết đủ về Ngài nữa: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật.
Nhờ các phương tiện truyền thống và nhờ học hành, kiến thức của ta ngày càng gia tăng. Nhưng ta có một sự hiểu biết sâu xa về Chúa chưa? Cần phải xác tín như Thánh Phaolô: "Cái lợi tuyệt vời là được biết Chúa Giêsu kitô, Chúa của tôi" (Pl 3,8).
Các môn đệ là những người "ở với Chúa Giêsu", cũng ăn cùng uống, gắn bó, gần gũi với Ngài và được Ngài dạy dỗ đặc biệt cùng chứng kiến nhiều phép lạ, giờ đây, các ông phải bày tỏ lập trường. Chắc hẳn giây phút thinh lặng nặng nề khi bị hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?". Phêrô thay mặt anh em tuyên xưng đức tin "Thầy là Đấng Kitô". Phêrô đã cứu nguy cho anh em! Thế nhưng sau đó ông lại can ngăn Thấy Giêsu. Ông đã cản Chúa Giêsu làm theo ý Chúa Cha. Và như vậy là đi theo đường lối của Satan. Rõ ràng ông chưa hiểu bao nhiêu về đường lối của Chúa. Thực ra, ông và các bạn đã hiểu Đấng Kitô theo nghĩa trần thế, một Đấng Cứu thế hiển hách, oai phong... thành ra ông không sao hiểu được việc "Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ và phải chết...".
Thưa anh chị em,
Để biết Chúa Giêsu Kitô là ai và đâu là đường lối của Ngài, ta cần phải giũ bỏ những hình ảnh trần tục ta vẫn có về Chúa Kitô, những hình ảnh do con người tạo ra: một Đức Kitô của quyền lực, của thống trị... Nên nhớ bài học cùng Ngài: "Anh em hãy học cùng Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường".
Vậy thì, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là ai? Sau khi đã tin vào Chúa một thời gian, ta vẫn có thể đặt lại câu hỏi này: Bấy lâu nay, Đức Giêsu là ai đối với tôi? Đức Giêsu không thay đổi, "hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi" Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất. Nhưng mỗi ngày, sau mỗi biến cố, có khi ta lại khám phá ra những nét mới mẻ nơi sự phong phú của Ngài. Đời ta luôn là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi của Chúa Giêsu: "Còn con, con bảo Thầy là ai?". Và cuộc đời của ta sẽ chuyển biến tuỳ theo câu trả lời này của mình.
Trong đêm canh thức với hai triệu bạn trẻ từ các nước trên thế giới về Rôma tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 15 (15-20/8/2000) Đức Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II đã hỏi lại các bạn trẻ câu hỏi của Chúa Giêsu: "Các con nói Đức Giêsu là ai?" – Có khó tin trong thế giới hôm nay không? Có khó tin trong Ngàn Năm Thứ Ba này không? Vâng, khó đấy. Không cần phải dấu diếm điều này. Khó khăn, nhưng với sự trợ giúp của ơn thánh, điều đó vẫn có thể làm được, như Chúa Giêsu đã giả thích cho Phêrô: "Chẳng phải bởi xác thịt hay máu huyết đã mạc khải cho anh điều đó, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời"(Mt 16,17).
"Ngày nay, để tin vào Chúa Giêsu, để theo Chúa như Phêrô, Tôma, các Tông Đồ tiền khởi và các chứng nhân, như trong quá khứ, đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn một lập trường, sự lựa chọn này nhiều khi gian nan đến độ là một cuộc tử đạo mới: cuộc tử đạo của những người, hiện tại cũng như quá khứ, được mời gọi lội ngược giòng chảy để đi theo Thầy Chí Thánh"... Hôm nay các bạn tụ họp nơi đây để tuyên xưng rằng trong thế kỷ này, chúng ta sẽ không để mình trở thành trong thế kỷ này, chúng ta sẽ không để mình trở thành dụng cụ của bạo lực và tàn phá. Chúng ta sẽ đấu tranh gìn giữ hoà bình dù có phải hy sinh tính mạng. Chúng ta sẽ không thối lui trước một thế giới mà người ta còn chết vì đói, thất học và không có việc làm. Chúng ta sẽ bảo vệ sự sống ở mỗi thời kỳ của nó. Chúng ta sẽ chiến đấu tới cùng để làm trái đất này dễ sống hơn cho mọi người".
Các bạn trẻ thân mến của thế kỷ đang bắt đầu, khi nói "vâng" với Chúa Giêsu, các bạn có thể nói "vâng" với tất cả các lý tưởng cao đẹp của các bạn. Tôi cầu xin Chúa Giêsu thống trị trong lòng các bạn và trong tất cả nhân loại trong thế kỷ mới này cũng như trong ngàn năm mới này. Đừng sợ phó thác cho Ngài. Ngài sẽ dẫn dắt các bạn, sẽ ban cho các bạn sức mạnh để theo Ngài trong mọi ngày và trong mọi tình huống.
Cầu xin Đức Mẹ Rất Thánh, người Trinh Nữ nói "Xin vâng" với Thiên Chúa trong suốt cuộc đời Người, xin Thánh Phêrô và Phaolô và các Thánh đã thắp sáng cuộc hành trình của Giáo Hội qua mọi thế hệ, gìn giữ các bạn luôn trung tín với quyết tâm thánh thiện này (ĐGH Gioan Phaolô II 19/8/200).
14. Vấn nạn đau khổ
(Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
"Con Người phải chịu nhiều đau khổ, và bị hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục phế thải, bị giết đi, và sau ba ngày sẽ sống lại"
Từ xưa đến nay một vấn đề gai góc, nan giải và làm cho nhiều người thất vọng nhất là vấn đề đau khổ. Con người sinh ra bắt đầu bằng tiếng khóc, rồi trải qua cuộc đời với đầy vơi đắng cay và nước mắt, để cuối cùng, nằm xuống và được đưa đi giữa những tiếng khóc, có khi chân thật, có lúc giả dối của kẻ khác. Cho nên không lạ gì khi có người than thở: "Đời là bể khổ."
Nhưng tại sao đời lại là bể khổ? Có lẽ câu hỏi này đã được các nhà hiền triết từ bao đời nay bóp óc tìm câu giải đáp, nhưng rồi đâu vẫn hoàn đó, đau khổ vẫn là khổ đau. Đau khổ vẫn là một thực trạng trong kiếp sống con người.
Thế rồi vì không hiểu được lý do cũng như không tìm được câu trả lời thích đáng cho vấn đề đau khổ, nên người ta không chấp nhận và tìm mọi cách để hủy diệt nó. Thậm chí, lắm khi người ta cũng đã hủy diệt nó. Thậm chí, lắm khi người ta cũng đã hủy diệt luôn kẻ đang gánh chịu đau khổ. Đã có lần chính phủ Nhật ra lệnh tập trung tất cả mọi người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo ngoài khơi Thái bình Dương, rồi tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo cùng những người mắc bệnh phong cùi trên đó. Đã có lần Hitler đã ra lệnh cho bác sĩ giám đốc bệnh viện Bethel thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh thần kinh, không muốn sự hoạn nạn khốn cùng của họ đè nặng trên "dân tộc và quốc gia." Đã có vô số lần, chính vì không chịu đựng được đau khổ, hay sâu xa hơn, bởi vì không tìm thấy chân lý trong những khổ đau nên đã có không biết bao bạn trẻ cũng như bạn già tự chấm dứt cuộc đời, đi tìm cái chết để mong đạt được một điều duy nhất: chấm dứt khổ đau.
Chắc chắn không ai có thể đem lại cho con người một câu trả lời thoả đáng ngoài Thiên Chúa. Không ai minh chứng một cách sâu xa và hùng hồn ý nghĩa của sự khổ đau ngoài Thượng đế, được tỏ hiện nơi con người của Chúa Giêsu, Đấng mà Tiên tri Isaia đã gọi là "Tôi tớ Đau khổ của Giavê".
Nhìn vào con người của Đức Giêsu, người ta phải tự hỏi tại sao một Thiên Chúa toàn năng toàn phép lại chọn lựa con đường khổ đau để cứu nhân loại? Tại sao Ngài cũng đã sinh ra với tiếng khóc, trải qua kiếp sống với những thăng trầm, và cuối cùng chịu chết nhục nhằn tận cùng trên khổ giá, giữa bao nước mắt thảm thiết của những người thân quen?
Càng suy gẫm câu hỏi trên người ta càng có thể khám phá thâm sâu chân lý và ý nghĩa của cuộc đời. Nhưng đây không phải là cuộc đời của bể khổ, song là của bể tình, một biển tình vời vợi. Càng nhìn vào những gì Đức Kitô đã chịu, và qua ánh sáng Phúc Âm, con người càng hiểu ra nguyên do của khổ đau.
Thế thì nguyên do của đau khổ là gì? Xin thưa chính là TỘI. Thưở tạo thiên lập địa con người đã hạnh phúc biết mấy. Mọi sự tốt đẹp biết bao. Kinh Thánh đã xác nhận: tất cả mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp-đẹp từ trăng sao trên trời đến muôn loài cây cỏ dưới đất, đẹp từ con người cho đến muông chim cầm thú, đẹp từ cuộc sống loài người cho đến cuộc sống loài vật.
Ấy thế mà điều tươi đẹp đó đã bị tan nát. Tan nát vì tội. Thánh Phaolô đã viết, "Cũng như vì một người, mà sự tội đã nhập vào trần gian, và vị tội thì sự chết nữa; và như vậy sự chết lan tràn qua hết mọi người" (Rm 5:12). Nói cách khác tội đã kéo theo khổ đau và đau khổ tận cùng chính là sự chết.
Vì tội mà đời mất đẹp, hồn mất vui. Vì tội mà đời mới là bể khổ đấy thôi!
Thế nhưng, vì "là Đấng trung tín và giàu lòng xót thương," Thiên Chúa không thể không cứu con người. Từ trong Xót-Thương mà Đức Giêsu đã ra đời. Ngài đến bằng con đường đau khổ, và rồi đã chết trong đau khổ để cứu con người. Một linh mục từng suy niệm rằng: "Đời sống Chúa Giêsu là một đời sống đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận, Ngài mong chờ, bởi vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc."
"Không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc." Đúng lắm! Thế nhưng nếu chỉ nhìn vào những đớn đau thể xác cùng trí lòng của Đức Giêsu và nghĩ rằng đau khổ của một người đã làm nên ơn cứu độ cho muôn người thì cũng còn thiếu sót lắm. Bởi vì đọc kỹ Thánh kinh sẽ thấy trên đồi Golgotha có tới ba người chịu đau khổ chứ đâu phải một người. Cả hai tên trộm cướp nữa chứ đâu phải một mình Đức Giêsu. Thế nhưng cả ba người cùng chịu đau khổ, cả ba người cùng chịu cái chết trần truồng nhục nhã, nhưng chỉ một người mang ơn cứu độ đến cho toàn nhân loại. Lý do là vì sự khổ đau của người đó đã được kết tinh trong tình yêu. Nói cách khác vì quá yêu thương nhân loại nên Thiên Chúa đã mang lên mình mọi tội lỗi con người, mọi căn nguyên đau khổ, để đóng đinh chúng vào thập giá; trước là giải thoát nhân loại khỏi sự thống trị của tội, sau là thánh hoá sự đau khổ, để rồi từ nay đau khổ có một chỗ đứng-một giá trị mới trong đời sống con người; giá trị đó chính là nếu đau khổ được ướp đượm trong tình yêu, thì nó sẽ trở thành ân phúc cứu độ.
Đã có không biết bao nhiêu các nhà hiền triết, văn hào thông thái bó tay trước vấn nạn đau khổ, và cũng đã có không biết bao nhiêu nhân vật lừng danh lẫn thấp hèn đã thất vọng, đầu hàng trước khổ đau. Nhưng chính nhờ Đức Giêsu và qua ánh sáng của Lời Ngài mà ta không còn thất vọng. Ta thấy được rằng trong sự chết có mầm sự sống, trong gian lao có tia sáng của chiến thắng vinh quang, trong đau khổ có chồi non của hạnh phúc, nếu như sự chết, nỗi gian lao và đau khổ mà ta đang mang đó có nền tảng của yêu thương: yêu thương Đức Kitô và yêu thương các linh hồn.
Thế nên, mỗi khi gặp đau khổ, ta đừng thất vọng, buông trôi, cũng đừng chửi trời rủa đất, cũng đừng trách móc người khác hoặc chính mình, cũng đừng như Phêrô đã can trách Chúa khi nghe nói đến khổ đau (Mc 8:32), song hãy đưa vào khổ đau một chút hương vị thương yêu, bằng việc than thưa với Ngài: "Lạy Chúa, con xin kết hiệp đau khổ của con với khổ đau của Chúa, để làm sáng danh Chúa và cứu các linh hồn." Chắc chắn nỗi khổ đau sẽ không còn là một thực tại vô giá trị hoặc đáng nguyền rủa, song nó đã trở thành phần ơn cứu độ mà Chúa Giêsu muốn ban xuống cho nhân trần.
Từ ngày Đức Giêsu dùng thân xác mình để thánh hiến sự khổ đau của con người cho đến nay, đã có hàng triệu tâm hồn được nung đốt bởi lửa yêu thương đến độ dám đón nhận mọi hy sinh, gian lao và khó nhọc, vì muốn mang ơn cứu độ đến cho mình và tha nhân. Trong số đó, gương mặt đáng kể nhất phải là gương mặt của Thánh Phaolô tông đồ. Thánh nhân đã làm mọi sự trong yêu thương, chấp nhận mọi gian nan trái ý trong tình mến. Ngài viết: "Chúng tôi bị ép dồn mọi mặt, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phẳi chết của chúng tôi. Như thế, sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em" (2 Cr 4:8-12).
Đồng hành với Thánh Phaolô là hàng vạn tâm hồn nhiệt thành rao giảng để mở mang Nước Trời, trong đó có bạn và tôi. Cũng như Thánh Nhân, chúng ta chỉ tham vọng một điều là "làm đẹp lòng Chúa" (2 Cr 5;8b).
15. Thiên hạ nói Thầy là ai?
(Noel Quesson)
Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm, và họa sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một bức ảnh tựa đề: "Người bị khinh chê chối bỏ". Họa sĩ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ chính tóa Thánh Phaolô, trong một khu phố đông đúc ở trung tâm Luân đôn, nhưng không một ai để ý tới Chúa. Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa. Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không nhìn lên Chúa. Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước, nhưng không thấy Đức Kitô. Có một nhà thần học đang hăng say thuyết minh về Đức Kitô mà không nhìn về Người. Duy chỉ có một nữ tu nhìn về Chúa, nhưng vẫn tiếp tục đi con đường của mình.
Ông Barclay (William Barclay), một học giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức họa: "Những hoàn cảnh này thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Kitô tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai chú ý tới. Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện cao sâu hơn là việc lưu tâm tới Chúa hoặc theo dõi Lời Chúa. Chuyện đó lạ đời, nhưng lại thực sự xảy ra ngay lần Chúa xuống trần gian hai ngàn năm trước. Sau một thời gian Chúa xuất hiện rao giảng Tin Mừng Cứu độ. Người đã làm bao phép lạ sôi nổi, gây chấn động trong dân chúng, rồi Chúa hỏi các môn đệ xem người ta bảo Chúa là ai, thì mỗi người lại nói mỗi khác. Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả Phục Sinh, người nói là Êli, người khác bảo là một ngôn sứ... Tất cả nói đúng nhưng chưa đủ. Chỉ có Phêrô mới có thể nói đúng và đầy đủ về Chúa: "Thầy là Đấng Cứu Thế".
Lời tuyên bố của Phêrô là câu trả lời Chúa Giêsu muốn có. Nhưng Chúa cũng nói ngay đó là do Cha trên trời tỏ bày cho, chứ không phải nhờ học hỏi hay nghiên cứu. Phêrô và các Tông đồ được ơn soi sáng, được dạy dỗ và hướng dẫn để hiểu biết sự thật về Đức Kitô, vì các ông là môn đệ Chúa, sẽ tiếp tục sự nghiệp Chúa nơi trần thế. Lời tuyên bố này rõ ràng là một ơn mạc khải, vì chính Phêrô nói ra mà cũng không hiểu tường tận về lời mình nói. Ngay lúc đó Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ về số phận của Người. Chúa nói sẽ chịu đau khổ nhiều, bị bắt, bị hành hạ, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại. Nghe vậy, các môn đệ khó chịu, các ông đã không để ý tới việc Chúa sẽ sống lại, và cho là Chúa thất bại, thua kẻ thù. Vì thế, Phêrô kéo Chúa ra một chỗ và can ngăn Chúa đừng nói vậy, đừng để chuyện đó xảy ra. Vì thế, Chúa Giêsu nổi giận mắng ông: "Satan, hãy lui đi!".
Chúa Cứu Thế sẽ cứu chuộc trần gian bằng thập giá. Đó là điều quan trọng vì Chúa đòi buộc các môn đệ của Người cũng đi con đường này: "Ai muốn theo Thầy hãy bỏ mình đi, vác thập giá mà theo. Vì ai muốn cứu mạng mình thì sẽ mất. Còn ai sẵn sàng bỏ mạng sống vì Thầy và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được sự sống mình".
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu biết Chúa hơn để chúng con biết vác thập giá đi theo Chúa và được vào hưởng vinh quang với Chúa.
16. Kitô-hữu là ai?
Như chúng ta đã biết: qua lời giảng dạy, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình, Chúa Giêsu đã trở thành một vấn đề, một câu hỏi cho những kẻ còn nghi ngờ về Ngài. Vậy Ngài là ai? Kẻ thì bảo Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy giả, là một tiên tri. Mỗi người một câu trả lời. Nhưng điều quan trọng chính là niềm xác tín vào Chúa của mỗi người chúng ta, bởi vì chính Chúa đã hỏi các môn đệ:
- Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Câu hỏi ấy Chúa cũng không ngừng đặt ra cho chúng ta ngày hôm nay và qua chúng ta, mọi người cũng sẽ tiếp tục tự hỏi:
- Kitô hữu, bạn là ai?
Đúng thế, người Kitô hữu qua lời nói, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình phải là một câu hỏi cho những người chung quanh. Dù âm thầm nhỏ bé đến đâu chăng nữa, thì đời sống của người Kitô hữu phải làm cho những người chung quanh thắc mắc.
Dĩ nhiên câu hỏi càng trở nên khẩn thiết hơn khi cuộc sống của người Kitô hữu mang tính cách chứng nhân giữa một xã hội đầy giành giật và bon chen, đầy bạo lực và bất công.
Đời sống của họ sẽ là một câu hỏi nếu như họ thực thi tinh thần nghèo khó, chấp nhận thua thiệt mất mát hơn là bán đứng lương tâm của mình để chạy theo những lợi lộc bất chính.
Có những kẻ đã lấy hận thù làm luật sống, thì người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi, nếu như họ vẫn yêu thương mọi người, kể cả kẻ thù địch và bước theo Chúa cho đến cùng.
Giữa một xã hội mà nhiều người đang buông xuôi thất vọng, người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi nếu họ biết sống lạc quan, tin tưởng vào một Đấng có tình yêu thương trải dài trong suốt lịch sử con người.
Giữa một xã hội mà sự thành thật đã trở nên như một đồ dùng xa xỉ, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi nếu họ vẫn tiếp tục sống tử tế, cư xử tốt đẹp với mọi người.
Sống như thế quả là một đòi hỏi cam go, nhưng đó không chỉ là một cố gắng suông, mà còn là kết quả của việc chúng ta gắn bó mật thiết với Chúa. Bởi vì không có ơn Ngài trợ giúp, chúng ta sẽ không bao giờ thực hiện được như vậy.
Kết thúc thông điệp "Hòa Bình Trên Thế Giới", Đức Thánh Cha Gioan 23, đã viết như sau: Mỗi người Kitô hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, một tụ điểm của tình yêu, một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Người Kitô hữu sẽ đóng trọn vai trò ấy hơn khi họ còn sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Sống trọn vẹn những cam kết trên, thì quả thật người Kitô hữu là một thách thức, một câu hỏi đối với người khác...
Đúng thế, người Kitô hữu không sống cho mình, nhưng sống cho người khác.
Một mảnh sao băng chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó.
Một hạt men nhỏ bé vô danh mất hút trong đống bột, nhưng cũng đủ làm dạy cả khối bột.
Sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo nên những ấn tượng tốt nơi người khác, nếu như chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Chúa.
Lý tưởng là như vậy, còn trong thực tế thì sao? Liệu cuộc sống của chúng ta đã trở thành một câu hỏi, một vấn đề cho những người chung quanh phải băn khoăn và suy nghĩ hay chưa?
17. Chọn lựa một con đường
Trong quyển sách "Niềm vui sống đạo", Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã kể ra được 10 "khuyết điểm" của Chúa Giêsu. Và ngài nói là ngài yêu lắm 10 "khuyết điểm" ấy. Một trong 10 "khuyết điểm" mà Chúa Giêsu mắc phải Ngài "không biết làm kinh tế". Chúa Giêsu đã coi 1=99. Khi Ngài thấy mất một con chiên trong đàn thì lại bỏ 99 con kia lại để đi tìm cho bằng được con chiên bị mất. Hơn nữa, Chúa Giêsu cũng không biết cách tiếp thị và quảng cáo. Quảng cáo mời gọi người ta đến với mình thì phải tìm cái gì đó hấp dẫn và lôi cuốn bằng cách "tô son" lên những điều mình nói một chút. Đằng này Chúa Giêsu lại nói: "Ai muốn theo tôi, thì hãy từ bỏ mình, vác thập mình mà theo" (Mc 8,34). Quảng cáo và chiêu mộ lính kiểu này thì "thua" là cái chắc! Bởi lẽ, nghe nói đến thập giá thì ai mà chẳng sợ. Chẳng ai háo hức ôm lấy thập giá vào mình bao giờ! Hơn nữa, theo Thầy tưởng đâu được cái gì hấp dẫn một chút như lãnh vài triệu đồng một tháng, được người ta kính trọng, hoặc có địa vị cao trong xã hội hay cái gì đại loại như thế. Chứ theo Thầy mà chỉ có vác thập giá thôi thì dại gì mà liều mạng như thế! Như vậy, xem ra Chúa Giêsu dở hơn con người ngày nay trong chuyện làm ăn và quảng cáo nhiều lắm!
Nhưng Chúa Giêsu không đến trần gian để làm kinh tế! Ngài cũng không biết dùng ngôn ngữ của quảng cáo của con người thường làm để tô son cho mình và sứ vụ của mình. Ngài đến trần gian với một sứ mạng duy nhất là "nói lên Sự thật, sống cho Sự thật và làm chứng cho Sự thật" (x. Ga 18,37). Ngài đã nói như thế trước mặt tổng trấn Philatô. Và đặc biệt, trong những năm tháng ra đi rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, Ngài đã từng lớn tiếng nói rằng: "Sự thật sẽ giải phóng các ngươi" (Ga 8,32). Philatô đã hỏi Chúa Giêsu: "Sự thật là cái gì?". Nhưng Chúa đã không trả lời ông ta câu hỏi đó. Bởi lẽ, Sự thật chính là bản thân của Ngài. Ngài là hiện thân của Sự thật. Từng lời nói, từng hành động và trọn cuộc sống của Ngài đều là Sự thật trọn hảo!
Tin mừng hôm nay chỉ cho chúng ta thấy có rất nhiều nội dung, nhiều vấn đề nói lên Sự thật nơi Thiên Chúa. Nhưng tôi xin chọn câu nói mà Chúa Giêsu xem ra rất thao thức, rất tha thiết mời gọi chúng ta thực hiện nó trong cuộc sống của chúng ta. Ngài nói rất rõ rằng: "Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8,35). Đó là sự thật, một Sự thật trọn hảo dành cho những ai dám dấn thân vào con đường của sự hy sinh và từ bỏ- Con đường Thập giá.
Có lẽ việc chọn lựa cho mình một con đường sống là cần kíp và chính đáng nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Theo thói thường thì ai cũng muốn có một cuộc sống dễ dàng, một cuộc sống tiện nghi, sung túc và vui vẻ...Nhưng có điều là một cuộc sống dù đáng ước mơ như thế cũng không có gì đảm bảo cho con người ta được sống hạnh phúc. Vì hạnh phúc đích thực không thể tìm thấy được nơi cuộc sống ở trần gian. Thế nhưng, nhiều người lại say mê và đi ra sức tìm kiếm để sở hữu nó! Biết bao nhiêu cố gắng và khó nhọc của con người nhằm tìm kiếm và giữ lại hạnh phúc trần gian đều tan biến. Bởi vì, "con người từ đất mà ra thì cũng phải trở về với đất bụi" (x. St 3, 19). Và con người đã không mang gì vào trần gian thì cũng đừng mong đem gì ra khỏi chốn gian trần. Điều chắc chắn duy nhất là: "ba tấc đất mới thật là nhà, nơi nó ở muôn đời muôn kiếp" (Tv 49, 12).
Con đường đưa con người tới hạnh phúc thật chính là con đường "liều mất mạng sống mình vì Chúa Giêsu và vì Tin mừng". Nói cách khác, đó là con đường của Thập giá. "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất". Kẻ yêu mạng sống mình thì chỉ biết sống cho mình, muốn được mọi người nhìn nhận và phục vụ cho mình. Đó là con đường sống được lót bằng những chiếc thảm hoa êm ái và rực rỡ nhưng sẽ dẫn con người ích kỷ đi tới hố diệt vong. Thật bất hạnh cho những người chỉ biết yêu mình, qui hướng về mình và sống cho riêng mình!
Trong Thần thoại Hy Lạp có kể câu chuyện về một anh chàng có tên là Narcise. Narcise là một chàng trai trẻ đẹp không còn chỗ nào chê được, và cũng không có dung mạo của ai có thể so sánh với anh ta được. Anh ta cũng nhận ra điều đó nên rất tự hào về chính mình. Dần dần anh ta khám phá ra là không ai xứng đáng để anh ta kết bạn cả. Cuối cùng, anh ta chỉ còn cách là quay trở lại để yêu chính mình. Anh ta đã yêu mình cách tha thiết và say mê mình ngây ngất đến độ quên hết mọi sự. Ngày đêm lo tìm cách để nhìn ngắm mình cho đã thèm! Bất cứ nơi đâu có thể soi mình được là anh ta không tiếc thời gian để nhìn ngắm mình cho thoả lòng khao khát. Một hôm, anh ta đi ngang qua một cái giếng sâu, có nước rất trong xanh. Anh chàng Narcise liền soi mình dưới lòng giếng sâu. Tiếc thay, vì không kìm chế được lòng say mê vẻ đẹp của mình, nên anh ta đã lao mình xuống lòng giếng để ôm lấy mình. Nhưng khốn khổ thay, anh ta đã chết chìm một mình trong lòng giếng ấy.
Câu chuyện trên muốn đem đến cho chúng ta một thông điệp này là: kẻ nào quá yêu mình và say mê mình thì khó có thể tránh được cái chết trong cô đơn và tủi nhục. Đó cũng chính là sứ điệp mà Tin mừng hôm nay gửi đến chúng ta: "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy".
Chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết can đảm chọn lấy con đường "thập giá" và vui vẻ vác lấy thập giá đời mình để theo Chúa đến cùng. "Vác thập giá" theo Chúa là chu toàn việc bổn phận của mình hằng ngày, là trung tín sống niềm tin tưởng phó thác vào Chúa qua mọi biến cố buồn vui trong cuộc sống của mình.
Ước gì Lời của Chúa hôm nay luôn vang vọng mãi trong từng ngày sống của chúng ta để chúng ta để chúng ta được sáng suốt nhìn thấy con đường mà Chúa Giêsu đang mời gọi và chờ đợi ta bước theo Ngài, ngõ hầu mai sau được Chúa cho đứng vào hàng ngũ những người Chúa chọn và tìm được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Amen.
18. Đức Kitô.
Nhóm Mười Hai, tức là các tông đồ, sau một thời gian dài được ở bên Chúa, được nghe những lời Chúa giảng dạy, và được chứng kiến những việc Chúa làm, nay đến Chúa muốn các ông phải dứt khoát lập trường, phải bày tỏ lòng tin của các ông. Nhưng đây cũng là khúc quanh quan trọng: Chúa bắt đầu tỏ ra cho các môn đệ biết con đường đau khổ Ngài phải đi để hoàn thành sứ mạng. Bởi vậy việc ông Phêrô tuyên xưng lòng tin và việc Chúa Giêsu báo trước con đường đau khổ của Ngài là một biến cố bản lề trong quá trình thi hành sứ mạng của Chúa cũng như trong quá trình huấn luyện các môn đệ, vì khi nói về con đường đau khổ của Ngài thì Chúa cũng nói về con đường mà những ai tin Ngài phải đi. Đó là nội dung bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ba điều rõ ràng: Thứ nhất, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: dân chúng nói Ngài là ai và chính các ông nói Ngài là ai? Thứ hai, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết về con đường đau khổ của Ngài. Thứ ba, Chúa Giêsu cho biết đây cũng là con đường của các môn đệ và của mọi người khi đi theo Ngài. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu điều thứ nhất mà thôi.
Dân chúng nói Chúa Giêsu là ai và các môn đệ nói Chúa Giêsu là ai? Từ hai câu hỏi của Chúa chúng ta có thể đặt ra hai câu hỏi cho chúng ta: chúng ta tự hỏi và tự trả lời: đối với tôi, Đức Kitô là ai? và đối với mọi người, tôi là ai? Trước hết, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Đây là một câu hỏi quan trọng, câu hỏi này dẫn chúng ta vào việc kiểm điểm niềm tin và cách sống của mình: có thật chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường sống không? Nếu tin như thế thì cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp, hay chúng ta vẫn tin một đàng, sống một nẻo, xem ra niềm tin và cuộc sống là hai thực thể tách rời nhau, không ăn nhập gì với nhau.
Có thể nói, đối với một số không nhỏ người Công giáo, thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung, mờ nhạt thuộc niềm tin. Vì thế, trả lời được câu hỏi: đối với tôi, Đức Kitô là ai? Không phải chỉ là chuyện kiến thức, sách vở, lặp lại những gì đã đọc được trong sách báo hay nghe được qua các bài giảng, nhưng trả lời được câu hỏi ấy chính là chuyện của cuộc sống, của chọn lựa cá nhân thâm tín và dấn thân.
Chúng ta hãy nhìn vào ông Nây Am-troong, ông là một phi hành gia đầu tiên của Mỹ đã đặt chân lên mặt trăng ngày 20.7.1969. Khi còn là một sinh viên, ông đã ghi trong cuốn sổ tay câu hỏi của Chúa Giêsu: "Anh em bảo Thầy là ai?" và ông đã trả lời: "Ngài là người không hề phạm tội, là người vị tha, là người biết quan tâm săn sóc kẻ khác, là người gần gũi Thiên Chúa". Như vậy, ông Am-troong đã không trả lời theo thần học hay giáo lý cho câu hỏi "Anh em bảo Thầy là ai?", nhưng ông đã đưa ra câu trả lời của riêng mình, ông đã nhìn sâu vào tâm hồn mình và nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong cuộc sống riêng tư của ông.
Mỗi người chúng ta cũng phải làm giống như ông Am-troong, chúng ta cũng phải nhìn sâu trong tâm hồn mình để nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong chính cuộc sống của mình, và cảm nghiệm này mang tính riêng tư không ai giống ai. Vậy, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Nói chính xác hơn, mỗi người chúng ta hãy hỏi: "Hôm nay, đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi?". Phải thêm hai chữ "hôm nay" và chữ "rồi" vào câu hỏi, bởi vì "hôm nay" chứ không phải hôm qua hay hôm nào khác, và chữ "rồi" cũng thật quan trọng, bởi vì có thể trong quá khứ, chúng ta đã gặp Ngài, đã yêu Ngài hết mình, nhưng rồi hôm nay, Ngài thì không thay đổi, nhưng tình chúng ta yêu Ngài có đổi thay chăng? Thế nên, mỗi ngày chúng ta phải tự hỏi để đừng bao giờ Đức Kitô trở thành kỷ niệm, chỉ còn là một niềm tin trong quá khứ, để đừng bao giờ bỏ Ngài lủi thủi bước bên cạnh đời chúng ta.
Câu hỏi thứ hai, đối với mọi người, tôi là ai? trong những dòng cuối của sứ điệp "Hòa bình dưới thế", Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo Hoàng nhân từ, dễ thương, đã đưa ra cho chúng ta một định nghĩa: thế nào là một người Kitô hữu chân chính như sau: "Mỗi người tín hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, là một tụ điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Nếu người tín hữu đóng trọn vai trò ấy, họ sẽ là người Kitô hữu chân chính".
Sống trọn những cam kết trên quả thật người Kitô hữu luôn là một thách thức, một câu hỏi, một sự hiện diện quấy rầy đối với mọi người. Thực vậy, một mảnh sao băng khi chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó. Một hạt men bé nhỏ, mất hút trong khối bột, nhưng cũng đủ sức làm dậy nên cả khối bột. Một thể hiện yêu thương, dù nhẹ nhàng đơn giản cũng đủ sưởi ấm cõi lòng, đủ sức chinh phục hay cảm hóa bất cứ người nào. Như thế đó, sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo được ảnh hưởng tốt cho người khác, với điều kiện họ phải sống đúng danh nghĩa người Kitô. Và như thế, qua cuộc sống của mình, sự hiện diện của chúng ta cũng luôn là một câu hỏi cho những người chung quanh, nghĩa là nhìn vào đời sống chúng ta, họ bảo chúng ta là ai?
Tóm lại, người ta có nhận ra tôi là người Kitô không? Nghĩa là sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào, gặp gỡ bất cứ ai, người ta có nhận ra chúng ta là người Kitô không? Không phải chúng ta tự xưng, tự giới thiệu mà cách sống của chúng ta khiến người khác phải đặt câu hỏi hoặc phải cảm phục đời sống tốt đẹp của chúng ta. Và như thế chúng ta đã trả lời được câu hỏi: đối với mọi người, tôi là ai? Tôi là một người Kitô hữu, đơn giản thế thôi.
19. Đau khổ.
Nhìn thấy Chúa Giêsu làm những phép lạ, nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi:
- Liệu Ngài có phải là Đấng cứu thế hay không?
Đã từ lâu họ sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã, cho nên cũng đã từ lâu họ, trông chờ một đấng cứu thế đến giải phóng họ và đem lại cho quê hương họ sự phồn thịnh.
Sống trong một hoàn cảnh như vậy, các môn đệ phần nào cũng đã chia sẻ quan niệm ấy, thế nhưng Chúa Giêsu thì khác, Ngài đã không suy nghĩ và hành động như họ.
Sau phép lạ bánh hóa nhiều, nuôi sống năm ngàn người giữa chốn hoang vu. Dân chúng đã nồng nhiệt tung hô Chúa và họ muốn tôn Ngài lên làm vua. Trước ý đồ ấy, Chúa Giêsu đã trốn lên núi một mình.
Các môn đệ cũng không hơn gì những người Do thái. Trước khi Chúa Giêsu về trời, các ông đã hỏi Ngài:
- Phải chăng đã đến lúc Thày lập nước Israel?
Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã nói cho các ông biết Ngài không đến nhằm mục đích chính trị, nhưng đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi và dẫn đưa họ về cùng Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương họ.
Mặc dù các ông cũng đã tin, nhưng giấc mơ về nền độc lập của dân tộc vẫn âm ỉ cháy trong cõi lòng các ông.
Thái độ của Chúa Giêsu trước vấn đề quyền bính đã là một sự khó hiểu đối với các ông, huống nữa là vấn đề đau khổ, thập giá và cái chết của Ngài. Làm sao các ông có thể dễ dàng chấp nhận?
Thực vậy, bài Phúc Am hôm nay đã cho chúng ta thấy, sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, Chúa Giêsu đã nói trước cho các ông biết:
- Con Người sẽ đi lên Giêrusalem, ở đó Ngài sẽ phải đau khổ và sẽ phải chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Phản ứng của Phêrô thật là bộc trực và thẳng thắn, ông kéo Chúa Giêsu ra một chỗ và nói:
- Ước chi Thiên Chúa sẽ gìn giữ Thày để Thày khỏi phải như thế.
Có lẽ phản ứng của các tông đồ khác cũng như vậy. Một khi đã yêu mến Chúa, thì làm sao các ông có thể chấp nhận Ngài phải khổ đau. Hơn thế nữa, như mọi người Do thái khác, các ông quan niệm đau khổ là như một sự chúc dữ của Thiên Chúa.
Trước một người mù từ khi mới sinh, các ông đã chẳng hỏi Chúa Giêsu:
- Nó bị mù là do tội của nó hay là do tội của cha mẹ nó?
Chúa Giêsu hiểu điều ấy, nhưng Ngài cũng không thể chấp nhận để các ông làm cản trở chương trình tình thương của Thiên Chúa. Cuộc thương khó của Ngài phải được nhìn trong toàn bộ chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.
Bởi đó Chúa Giêsu đã quở trách Phêrô:
- Hỡi satan hãy xéo đi, ngươi làm cản trở cho Ta vì ngươi chỉ nhìn thấy những việc của loài người mà chẳng nhìn thấy những việc của Thiên Chúa.
Ít lần sau Chúa Giêsu lại tiên báo một lần nữa cho các ông:
- Chẳng bao lâu nữa Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta, họ sẽ giết chết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Lần này thì các ông không dám lên tiếng, nhưng Phúc âm đã ghi lại rằng:
- Các ông đã tỏ ra buồn bã.
Rồi cùng với thời gian, những sự việc đã xảy ra đúng như lời Chúa đã tiên báo: Ngài đã bị treo trên thập giá. Dưới mắt các ông thì đây là một thất bại ê chề.
Chính vì thế, hai môn đệ trên đường đi Emmaus đã nói với Chúa Giêsu:
- Chúng tôi hy vọng Ngài sẽ cứu thoát Israel, nhưng những sự kiện đau buồn ấy đã xảy ra ba ngày rồi.
Chỉ dưới sự soi dẫn của Chúa, các ông mới hiểu được rằng: Ngài sẽ phải đau khổ để được bước vào chốn vinh quang, và để đem lại cho chúng ta ơn cứu độ.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có tìm thấy ý nghĩa đích thực của những đau khổ gặp phải, hay là chúng ta cũng đã phản ứng như Phêrô và các tông đồ ngày xưa?
20. Đau khổ.
Thời Chúa Giêsu, vác thập giá là một cực hình khổ nhất, nhưng thông dụng nhất mà người Rôma đế quốc đã đem áp dụng ở Do thái. Vậy nói tới thập giá, đối với thời Chúa Giêsu, là một khổ hình và chắc chắn chết nhục nhã. Người nào vác thập giá là người bị đưa tới pháp trường để chịu đóng đinh mình vào cây thập giá đó. Vác thập giá lên vai có nghĩa là bắt đầu đi đến chỗ chết. Vác thập giá cũng có nghĩa là bắt đầu đau khổ thực sự. Vì thế, những đau khổ trong cuộc đời chính là thập giá Chúa bảo chúng ta phải vác mà đi theo Ngài. Đây chính là vấn đề chúng ta muốn hiểu biết: vấn đề đau khổ trong cuộc đời.
Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Cho nên, Kinh Thánh nói: "Đời là thung lũng nước mắt". Đã là thung lũng nước mắt thì cũng là bể khổ, vì sao vậy? Xưa nay các nhà hiền triết đã nát óc đi tìm một câu trả lời thỏa đáng. Đức Phật Thích Ca đi tu cũng vì muốn tìm một câu trả lời cho câu hỏi gai góc ấy.
Không hiểu lý do sự đau khổ, người ta tìm cách hủy diệt người đau khổ mà họ cho là những chiếc gai phản tiến hóa. Đã có một thời chính phủ Nhật Bản ra lệnh tập trung tất cả những người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo nằm ở giữa biển Thái Bình Dương và tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo chứa đầy bệnh nhân ấy. Họ mắc bệnh nan y, họ không có quyền sống. Trong thế chiến thứ hai, nhà độc tài Hitler đã ra lệnh cho giám đốc bệnh viện Bê-then thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh tâm thần, vì họ là thành phần vô dụng, ăn hại xã hội và quốc gia. Không tin ở Thiên Chúa thì người ta không làm sao hiểu nổi vấn đề đau khổ. Và người ta có thể tuyệt vọng khi không làm sao tránh được đau khổ và bệnh tật. Văn hào vô thần Hen-ri đờ Mông-thơ-lan, thuộc hàn lâm viện Pháp, lúc về già, bị mù. Vì không chịu được sự đau khổ ấy, ông đã dùng súng lục bắn vào họng tự sát.
Vấn đề đau khổ, ai sẽ đem lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng? Chỉ có một Đấng là Chúa Giêsu mới có thể trả lời cho chúng ta. Và nhờ ánh sáng Tin Mừng của Chúa chúng ta mới hiểu được nguyên do của đau khổ, đó chính là tội lỗi. Đau khổ đã xuất hiện từ khi loài người bắt đầu phạm tội và sẽ còn mãi cho đến tận thế. Mở trang đầu của Kinh thánh, chúng ta thấy Chúa dựng nên vạn vật, chim trời, cá biển, cầm thú và con người, rồi Kinh Thánh kết luận: "Mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, rất tốt đẹp". Nhưng rồi chương trình tốt đẹp ấy đã bị đổ vỡ. Tội lỗi đã len vào thế gian. Và vì tội thì có sự chết nữa. Nghĩa là từ ngày nguyên tổ phạm tội thì đau khổ báo trước sự chết và sự chết đã ngự trị trên trần gian. Mỗi ngày có biết bao nhiêu tiếng khóc, có biết bao nhiêu dòng nước mắt. Mỗi ngày có hàng vạn người chết. Bản án còn vang lên: "Vì ngươi đã phạm tội thì trái đất sẽ sinh gai góc, ngươi phải làm ăn vất vả, đổ mồ hôi trán mới có ăn và ngươi là tro bụi thì sẽ hoàn về tro bụi". Từ đó, đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt. Đau khổ là do tội lỗi phát sinh. Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Nhờ sự chết và sống lại, Ngài đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Nhưng Ngài không cất đi hình phạt của tội lỗi là gian nan đau khổ. Hơn nữa, Ngài dùng đau khổ làm giá cứu chuộc chúng ta. Vì thế, đời sống Chúa Giêsu là một đời đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận. Ngài mong chờ nữa, vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.
Chúa đã chịu đau khổ để đền tội chúng ta, thì Ngài cũng thánh hóa sự đau khổ để nêu gương sáng cho chúng ta. Hơn nữa, Ngài lấy sự nhẫn nại chịu đau khổ như là một điều kiện để theo Ngài, để làm môn đệ của Ngài: "Ai muốn theo tôi, hãy vác thập giá mình mà theo". Từ đây không ai có thể tự hào là môn đệ Chúa mà không tham gia vào cuộc thương khó của Chúa, không vui lòng lãnh nhận phần đau khổ riêng tư của mình. Vì thế, khi gặp đau khổ, Chúa dạy chúng ta đừng buông xuôi, đừng thất vọng, đừng lồng lộn rủa trời, chửi đất mà hãy đến cầu xin với Chúa: Hãy đến với tôi, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho".
21. Đức tin.
Có hai loại đức tin. Loại thứ nhất là đức tin của những người tin tưởng vì họ đi theo truyền thống của tổ tiên, họ mạnh mẽ duy trì truyền thống đức tin ấy. Đây có thể gọi là đức tin thừa hưởng. Loại thứ hai có thể được gọi là đức tin cá nhân. Có một sự khác nhau quan trọng giữa hai loại ấy. Người sở hữu một đức tin thừa hưởng hoặc kế thừa có lợi thế là họ không bị cám dỗ dễ dàng. Cả khi phải đương đầu với những lý lẽ triết học có thể nói ngược lại đức tin của họ. Đức tin này được duy trì mạnh mẽ vì thuộc về truyền thống mà họ thừa hưởng từ tổ tiên họ. Ngoài ra họ không bao giờ lệ thuộc vào tư duy triết học. Nhưng họ cũng có những sự bất lợi. Đức tin của họ thường không có lý luận hoặc suy tư vững chắc, và thường là một đức tin của tập quán và lề thói cổ xưa.
Người sở hữu một đức tin cá nhân cũng có một lợi thế. Họ đã khám phá Thiên Chúa với lý lẽ của họ, và vì thế, lý lẽ này rất mạnh trong đức tin của họ. Nhưng họ cũng có một điều bất lợi. Họ có thể bị thuyết phục bởi lý luận, và nếu đối đầu với những lý lẽ chống lại mạnh mẽ, họ có thể bị cám dỗ bỏ đức tin. Để có thể chống cự lại những thử thách, đức tin phải có nền tảng trong những gì vượt xa hơn kinh nghiệm cá nhân của mình.
Những người có được đức tin của họ theo hai cách trên được hưởng lợi thế mỗi cách. Họ phụ thuộc mạnh mẽ vào truyền thống của tổ tiên, nhưng đồng thời được hưởng ưu điểm của khả năng tư duy những sự vật khách quan. Vì thế, họ có được đức tin tốt nhất và hoàn hảo nhất.
Sinh ra trong đức tin chưa đủ. Một đức tin thừa hưởng là một đức tin đã qua sử dụng và có thể rất trống rỗng. Nói rằng: "Cha mẹ tôi là những tín hữu" chưa đủ. Mỗi thế hệ phải tòng giáo lại. Có người đã nói rằng nhiều người đi lễ không tốt hơn những người ngoại giáo tân tòng. Điều này xem ra khắt khe quá. Tuy nhiên, chúng ta thấy nhiều khuôn mặt buồn chán và mệt mỏi trong nhà thờ, khuôn mặt của những người đến trễ và bỏ ra về khi thánh lễ chưa xong.
Câu hỏi mà Đức Giêsu hỏi các tông đồ là câu hỏi quan trọng nhất trong Tin Mừng. Nó liên quan đến căn tính của Đức Giêsu. Người hỏi họ câu hỏi ấy không phải vì Người mà là vì họ. Một câu hỏi bắt người ta phải suy nghĩ về niềm tin của họ.
Trước tiên Người hỏi: "Người ta nói Thầy là ai?" Các môn đệ thuật lại với Người. Những câu đáp là những câu không trúng. Kế đó, Người quay lại họ và hỏi "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Và Phêrô đáp: "Thầy là Đấng Kitô". Đấng Kitô có nghĩa là Đấng Mêsia. Thánh Matthêu đã ghi lại câu trả lời của Phêrô như sau: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Đây là cốt lõi của đức tin trên đó Giáo hội được xây dựng.
Điều quan trọng là chúng ta phải đưa ra câu trả lời của mình tức là có khả năng khẳng định giá trị và niềm tin của mình như những Kitô hữu. Nếu chỉ lặp lại những câu trả lời chính thức sẽ không đủ. Chúng ta phải làm cho đức tin của mình thành xác tín, khi sống đức tin ấy và để nó ảnh hưởng lên đời sống chúng ta. Đức tin của cha mẹ chúng ta không phải là đức tin của chúng ta chừng nào chúng ta chưa tự mình bước đi.
Chúng ta cần trưởng thành trong sự hiểu biết đức tin. Chúng ta phải tin bằng chính niềm xác tín của bản thân. trong Giáo hội, càng có nhiều người như thế, thì Giáo hội càng được thiết lập vững vàng trên đá tảng.
Rõ ràng Phêrô không hoàn toàn hiểu hết những lời ông nói. Khi ông thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia, ông không biết Đức Giêsu là một Đấng Mêsia đau khổ. Đó là một điều ông phải học biết và học biết một cách khó khăn.
Phêrô đã thực hiện một tuyên xưng hoàn hảo về đức tin. Ông có một đức tin hoàn toàn đúng với ngôn ngữ của ông. Nhưng khi phải hành động theo đức tin ấy, ông thất bại. Điểm kém cỏi nhất của ông là khi ông chối Chúa. Điều này cho chúng ta thấy rằng chúng ta cần ân sủng của Thiên Chúa, không chỉ để tuyên xưng đức tin, mà còn để sống đức tin ấy.
22. Vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa
Anh chị em thân mến
Có một đoàn lữ hành đặc biệt, đang vượt chặng đường dài với hành trang trên vai. Nhưng hành trang không phải bình thường, mà là, mỗi người mang một cây Thánh Giá. Địa hình của chặng đường khi thì bằng phẳng, khi thì rất khó khăn, nên mọi người đều thấm mệt. Trong số đó, có một người bỗng có một suy nghĩ rất hay. Anh ta cắt bớt đi một phần của cây Thánh Giá. Cũng từ đó anh ta bước đi nhẹ nhàng thoải mái hơn bao nhiêu người khác. Anh ta rất hài lòng về sáng kiến của mình. Nhưng rồi, khi đến một con suối, không có phương tiện gì để vượt qua, mỗi người chỉ còn cách dùng cây Thánh Gia làm chiếc cầu để vượt qua, sau đó, vác Thánh Giá và tiếp tục lên đường. Còn cây Thánh Giá đã mất đi một phần, giờ đây không còn xử dụng được trong trường hợp nầy, nên chủ nhân của nó đành phải ngồi lại bên bờ vực, một mình, cô đơn mà nhìn mọi người từ từ rời xa mình.
"Mọi người chung quanh bảo Thầy là ai?" Tất cả mọi câu trả lời đều không được Chúa Giêsu chấp nhận. "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" -- "Thầy là Đức Kitô". Một câu trả lời được Chúa Giêsu chấp nhận. Nhưng rồi khi nghe Ngài nói về cuộc khổ nạn, thì cũng chính môi miệng đó, cũng chính con người đó, lại bị khiển trách nặng nề. Ngài gọi là satan có nghĩa là kẻ thù, vì đã ngăn cản việc làm của Thiên Chúa.
Phêrô đã theo Chúa Giêsu, nhìn thấy và biết những việc làm của Ngài. Ông cũng mới vừa được khen, ông ngở rằng những gì ông suy tính đều tốt đẹp, nên ông muốn hướng dẫn Đấng ông vừa tuyên xưng là Đức Kitô đi theo con đường của ông. Ông theo Chúa nhưng sợ con đường mà Ngài dẫn đi, sợ những hành trang mà Ngài trao cho. Theo Chúa nhưng ông muốn mang những hành trang của chính mình, đi trên con đường của riêng mình và ông đòi Chúa phải ở bên ông. May thay, lời quở trách đã làm ông thức tỉnh, bài học tiếp theo đã hướng dẫn và giúp ông đi đến nơi đến chốn bình an. "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất".
Tâm trạng của Phêrô, cũng là tâm trạng cuả mỗi ngưới chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng muốn tìm cho mình sự thoải mái, sung sướng cho thân xác. Chúng ta vẫn tự hào là người Công giáo. Chúng ta vẫn biết vác thập giá hàng ngày theo Chúa. Chúng ta biết rất rỏ những gì Thiên Chúa muốn nơi con người chúng ta. Đôi khi chúng ta còn tự hào vì mình luôn vác Thánh giá hằng ngày theo Chúa. Chính những lúc tự hào như thế, là những lúc chúng ta có hành động như Phêrô: kéo Ngài ra để khuyên can.
Cũng nhiều lần trong cuộc sống, Chúa Giêsu khiển trách chúng ta như đã khiển trách Phêrô ngày xưa. Phêrô biết lắng nghe, còn ngày nay, chúng ta vẫn phớt lờ, vẫn sống với niềm tự hào của chính mình và bước đi trong niềm tự hào đó.
Chúng ta vẫn sống, vẫn giữ đạo, hay nói cách khác là đang vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa. Nhưng coi chừng cây Thánh đã bị mất đi một phần. Bao nhiêu lần nó đã bị cắt mất đi vì những luồn lách của cuộc sống. Những lần thân xác được dung dưỡng để nó được thoải mái trong những cuộc vui không chính đáng. Những lần thân xác cảm thấy thỏa mản khi đạt được mục đích lợi nhuận mà bất cần đến sự chính đáng hay không chính đáng. Những lần chúng ta không chu toàn trách nhiệm chính đáng của một người trong xã hội, trách nhiệm của một người công giáo, trách nhiệm của mình trong gia đình, và với bao nhiêu người chung quanh. Đôi lúc chúng ta cũng mỉm cười mãn nguyện, vì cảm thấy mình khôn ngoan hơn bao nhiêu người khác vì những trò vặt như thế. Đó là những lần chúng ta đã cắt bớt đi Thánh giá cuộc đời của mình, để nó được nhẹ nhàn hơn. Chính những lúc thất bại, bị người đời chỉ trích, những lúc đó nếu biết lắng nghe, đó là lúc Chúa khiển trách và bảo chúng ta vác Thánh Giá hằng ngày theo Chú; những lúc đó Chúa cũng nói với chúng ta: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất". Nếu chúng ta không biết lặng thinh khiêm nhường cuối đầu nhận tội như Phêrô, thì chúng ta cũng sẽ không có được cuộc sống tốt đẹp như Ông.
Xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa, xin cho chúng ta biết chấp nhận cuộc sống để biết vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa cho đến cùng.
23. Đức Giêsu.
Đức Giêsu là ai? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ra ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.
Ngày xưa, nhiều người Do thái trả lời rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ, tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhưng nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống bình an của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết chết các tiên tri: họ đã lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan tẩy giả và họ cũng đã đóng đinh Giêsu.
Riêng Phêrô thì trả lời rằng Giêsu chính là Đức Kitô, nghĩa là một người có thừa khả năng để cứu rỗi đời mình và đáng cho mình đi theo cho đến hơi thở cuối cùng. Chính vì thế mặc dù muốn theo Thầy thì phải bỏ mình vác thập giá, nhưng Phêrô đã sẵn sàng trung thành với Thầy cho đến chết.
Giêsu là ai? Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo lôi theo một nếp sống khác nhau. Có hai câu trả lời tiêu biểu sau đây ở trong 2 quyển tiểu thuyết:
. Quyển "The last temptation" (Cơn cám dỗ cuối cùng) mô tả Giêsu như một chàng thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai, nhiều khả năng. Chàng có một người yêu tên là Mađalêna. Nhưng một ngày nào đó, Giêsu bỗng bị ám ảnh rằng mình không thể sống nếp sống tầm thường mà phải sống như siêu nhân. Vì thế chàng từ bỏ tình yêu của nàng Mađalêna và lên đường rao giảng một thứ giáo thuyết siêu nhiên. Mađalêna thất tình buông trôi cuộc đời trong nếp sống trụy lạc, đĩ thõa. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng siêu nhiên. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng siêu nhiên, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối cùng). Nhưng sau đó gục đầu tắt thở.
Đó là một câu trả lời, rằng: Giêsu chỉ là một người phàm, tuy người phàm này theo đuổi một lý tưởng siêu nhiên và do đó cũng đáng được người khác kính trọng, nhưng cái lý tưởng đó không thể thực hiện được. Thành thử chúng ta dù kính trọng Ngài nhưng không thể sống theo Ngài được.
Có lẽ đó là câu trả lời của rất nhiều người thời nay. Họ nhìn nhận Giêsu là một vĩ nhân, họ nhìn nhận đạo Đức Giêsu là đạo tốt. Nhưng cái đạo đó chẳng giúp ích gì cho cuộc sống. Cuộc sống của họ cần có vật chất, cần có tiền bạc, cần có sự nghiệp, công danh, chứ không cần đến lý tưởng tôn giáo bao nhiêu. Vì thế họ lao mình vào cuộc sống vật chất, để sang một bên những vấn đề lý tưởng tôn giáo cho hạng đàn bà, trẻ nít, hay có cho mình thì cũng là tới khi về già, gần đất xa trời.
. Câu trả lời thứ hai chúng ta gặp trong quyển "Quovadis": quyển truyện này lấy khung cảnh thời hoàng đế Néron của đế quốc Lamã đang thịnh trị. Tất cả các nước chư hầu đều phải gửi một con tin sang thủ đô Rôma. Đó là một cách để bảo đảm sự tùng phục của các chư hầu. Trong số các con tin ấy có một nàng con gái đẹp tuyệt vời làm cho người cháu của hoàng đế Néron si mê. Chàng này vừa có địa vị, vừa có thế lực, vừa có bạc vàng. Chàng tin chắc mình sẽ chinh phục được con tim của người đẹp. Lúc đó bạo Cháu Néron cũng đang thẳng tay bắt giết những người theo đạo Đức Giêsu. Phêrô đã phải sợ hãi bỏ thành Rôma chạy trốn. Nhưng đang khi đi trên đường thì Phêrô gặp Đức Giêsu từ ngoài thành vác thập giá đi vào. Phêrô hỏi "Quovadis", tiếng Latinh nghĩa là "Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?" Đức Giêsu trả lời: Ta vác thập giá vào Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa, vì con đã không dám chịu đóng đinh. Phêrô nghe vậy vội trở vào Rôma và cùng với các tín hữu khác chịu đựng những cuộc bắt bớ, cho đến chết. Tấm gương anh dũng của các tín hữu Đức Giêsu đã làm cho nàng con gái đang làm con tin ấy cảm phục và tìm ra được lý tưởng cho đời mình.
Đó là câu trả lời: Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống. Con xin theo Thầy cho dù phải vác thập giá và phải bỏ mình vì Thầy!
Đức Giêsu không phải chỉ là siêu nhân mà còn là Con Thiên Chúa. Và vì là Con Thiên Chúa cho nên lý tưởng Ngài đề ra cho ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viển vông không thể thực hiện. Là Con Thiên Chúa, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực hiện được lý tưởng của Ngài cho dù có phải trải qua muôn ngàn gian truân khổ sợ. Mà chính cái lý tưởng ấy mới khiến chúng ta sống xứng đáng là người. Con người nếu chỉ biết mê ăn uống, có tiền bạc, có vật chất, sinh ra để ăn, ăn rồi đói, đói rồi phải kiếm ăn, cứ như vậy cho đến lúc chết thì chẳng khác gì hơn con vật. Đức Giêsu muốn giúp chúng ta sống hơn con vật, cho nên Ngài đã chọn kiếp là người, sống cho chúng ta thấy và sống theo để chúng ta sống xứng đáng là người. Chẳng những là người mà còn là Con Thiên Chúa như Ngài. Mà muốn được như Ngài, chúng ta phải đi theo Ngài, phải bỏ mình đi, phải vác thập giá... Nghĩa là phải cố gắng vươn lên, vươn lên cao hơn những nhu cầu vật chất xác thịt tầm thường. Chúa Giêsu đã tiên phong sống được như thế và Ngài sẽ giúp chúng ta sống được như thế, nếu chúng ta nhớ làm theo Lời Ngài: Ai muốn theo ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ được sống đời đời".
Trên đây là hai câu trả lời tiêu biểu cho câu hỏi "Giêsu là ai?" Còn câu trả lời của chúng ta là gì? Nếu chúng ta trả lời như Phêrô "Thầy là Đức Kitô" thì chúng ta cũng hãy can đảm bỏ mình vác thập giá đi theo Thầy".
24. Từ bỏ.
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc: "Họa mi và bông hồng đỏ". Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: "Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi". Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:
- Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?
- Họa mi ơi! Em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.
- Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ?
- Họa mi ơi! Đời cần hoa chi cho thương đau?
- Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình.
- Được, nhưng phép mầu cần phải có mầu đỏ.
- Bằng mọi giá chị ạ.
- Bằng giá sinh mạng?
- Kể cả sinh mạng em.
- Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đóa hồng bí nhiệm đỏ thắm.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đóa hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị... Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đóa hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.
Câu chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình". Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.
Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể "được cả" mà cũng có thể "ngã về không". Chính cái bấp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.
Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.
Nhưng "Từ bỏ chính mình" không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
"Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống". Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Đấng tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì "Ai biết chết thì sẽ biết sống".
25. Từ bỏ và vác thập giá
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ với đòi hỏi hết sức lạ lùng: "từ bỏ và vác thập giá". Những ai đáp ứng được yêu cầu ấy thì mới " xứng đáng làm môn đệ Thầy".
Tại Xêdarê Philipphê, Chúa hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai?". Từ từ Chúa dẫn đưa các ông đến câu hỏi quan trọng nhất, xác tín nhất: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? ".
Chúa Giêsu có thể tự giới thiệu về mình, tự nói lên căn tính của mình. Nhưng Người đã không làm thế. Chúa muốn người môn đệ phải tự khám phá ra Thầy của mình là ai. Chúa muốn lời tuyên xưng của người môn đệ phải phát xuất từ nỗ lực tìm hiểu và cảm nghiệm chân thực trong cuộc sống sinh hoạt với Người.
Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống". Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế, Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người. Con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy". Đó là con đường tủi nhục. Con đường khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Chúa không lừa mị, không hứa hẹn những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ đường ngay nẻo chính và muốn những ai theo Người phải dũng mạnh, can đảm, quyết liệt. Vì thế, Chúa nói thẳng thắn với các môn đệ: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo".
Muốn theo Chúa, các môn đệ phải "từ bỏ và vác thập giá".
1. Từ bỏ
Chúa đòi buộc người theo Chúa phải từ bỏ, phải đặt tất cả dưới Người, phải yêu Người trên mọi sự. Đưa ra đòi hỏi này và biết đó là một chọn lựa khó khăn nên Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ cần biết tính toán cẩn thận rồi mới chọn lựa dứt khoát. Muốn xây tháp cần tính toán có đủ tiền bạc không. Muốn thắng trận cần có lính Tráng. Muốn theo Chúa phải từ bỏ. Từ bỏ ý riêng, từ bỏ sự tự do, từ bỏ những điều mình ưa thích khi những điều ấy đi ngược lại với lời dạy của Chúa hay làm cho bản thân xa cách Người.
Từ bỏ là quy luật của cuộc sống và sự phát triển.Thai nhi không thể ở mãi trong lòng mẹ cho dẫu nơi đó an toàn, êm ấm nhất. Đứa trẻ phải từ giã lòng mẹ để sinh ra làm người. Đứa trẻ không thể nào trưởng thành nếu nó cứ sống mãi bằng sữa mẹ, nó phải thôi bú, ăn cơm bánh mới lớn lên.
Cuộc sống đặt con người trước những sự lựa chọn. Chọn lựa là giới hạn. Chọn điều này phải bỏ điều kia. Sống là chấp nhận từ bỏ. Chọn những điều tốt loại bỏ những điều xấu. Có những điều xấu cần từ bỏ như cờ bạc, rược chè, ma tuý, truỵ lạc, trộm cắp, gian dối... Cũng có những điều tốt phải từ bỏ để chọn điều tốt hơn. Chẳng hạn, khi chọn trường học, chọn nghề nghiệp, chọn nơi ở, chọn bậc sống, chọn bạn bè, chọn vợ chồng. Thanh niên nam nữ khi tìm hiểu nhau thì có nhiều người nhưng khi chọn vợ chồng, chỉ chọn một mà thôi.
Từ bỏ đòi hỏi nhiều hy sinh. Mỗi sáng thức dậy đi lễ, bỏ lại chiếc giường êm ấm. Mỗi tối gia đình tắt tivi để cùng quy tụ đọc giờ kinh hạt. Giữ ngày Chúa nhật, bỏ công việc làm ăn có nhiều lợi nhuận. Bỏ đi một tật xấu để tập một nhân đức. Cao cả hơn, bỏ đời sống hôn nhân để sống đời tận hiến cho Chúa...
Sự từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Khi yêu người ta cảm thấy nhẹ nhàng. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập. Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình.
Từ bỏ giống như cuộc leo núi. Leo núi là một cuộc mạo hiểm. Đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ. Nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo, lòng can đảm. Càng lên cao, người leo núi càng hưởng nhiều niềm vui, càng tắm mình trong ánh sáng chan hoà và được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ.
2. Vác thập giá
Theo Chúa giống như đi leo núi. Thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.
Thập giá đi liền với tình yêu. Phải nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng. Nếu không chẳng thể chấp nhận nổi thập giá. Thập giá phát xuất từ tình yêu của Đấng Cứu Độ.
Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thập giá.Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người.
Tình yêu như là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến với niềm vui. Thiếu tình yêu, hy sinh chỉ còn là đau khổ gánh nặng và buồn chán. Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Hôm nay, nơi nào có bóng thập giá là nới ấy có dấu chân người Kitô hữu. Ba cây thập giá dựng lên chiều thứ sáu tử nạn, Đức Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là Thánh Giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Người đi vào đời sống mới thì cây thập giá khốn khổ ấy trở thành cây cứu rỗi và trở nên thánh thiêng. Sự thánh thiêng ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết và là vinh quang. Không có tình yêu thì thập giá không là Thánh Giá.
Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành Thánh Giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.
26. Anh em bảo Thầy là ai?
('Manna')
"Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?"
Đức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ sau khi họ đã ở với Ngài và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14), sau khi họ đã thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng.
Hôm nay Đức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho tôi sau khi tôi đã theo đạo một thời gian dài, đã cầu nguyện và tham dự các bí tích...
"Còn anh, anh bảo Thầy là ai?"
Câu hỏi này nhắm thẳng vào tôi, đòi tôi phải trả lời. Tôi không được trả lời qua loa hay máy móc.
Câu trả lời của tôi phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm, kinh nghiệm gặp gỡ và quen biết Đức Giêsu. Chẳng nên theo một người mà mình không quen và tin tưởng.
Đời tín hữu là một hành trình tìm kiếm không ngừng để khám phá ra khuôn mặt luôn mới mẻ của Đức Giêsu.
Ngài thật là một mầu nhiệm khôn dò và quá phong phú. Chúng ta chỉ mon men đến gần, nhưng không sao múc cạn được mầu nhiệm ấy. Phải thanh lọc những hình ảnh ta vốn có về Ngài.
Người làng Na-da-rét cứ nghĩ Đức Giêsu chỉ là bác thợ. Gioan Tẩy Giả nghĩ Ngài là một Mê-si-a vinh quang toàn thắng.
Phải gột bỏ cái biết cũ về Ngài để đón nhận một Đức Kitô khác, vượt xa điều mình nghĩ.
"Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa".
Cần trở nên trẻ thơ để nhận ra khuôn mặt thật của Giêsu.
Hôm nay, chúng ta dễ dàng trả lời như Phêrô: "Thầy là Đức Kitô", và hơn Phêrô: "Thầy là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa". Nhưng vấn đề không phải chỉ là trả lời đúng câu hỏi mà còn là sống tận căn thân phận của Thầy.
Ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi, Đức Giêsu loan báo con đường dành cho người môn đệ. Môn đệ chỉ có một con đường, con đường của Thầy.
Thầy đã sống phận người với tất cả bấp bênh tăm tối, tôi có dám sống phận người của tôi trong niềm vui không?
Thầy đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật, tôi có dám hiến mạng tôi vì Thầy và vì Tin Mừng không?
Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt, tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?
"Người ta bảo Thầy là ai?"
Ta cần biết cái nhìn của con người hôm nay về Đức Giêsu.
Nhiều cái nhìn đúng nhưng chưa đủ.
Truyền giáo là giúp người ta biết đúng và đủ về Ngài. Không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở, nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ.
Cuộc sống của ta vén mở căn tính của Đức Giêsu.
Dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Ngài.
Đức Giêsu đã nói: "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14,9).
Chúng ta ao ước nói: "Ai thấy tôi là thấy Đức Giêsu".
Gợi Ý Chia Sẻ
"Đức Giêsu là ai?" Bạn hãy trả lời câu hỏi này cho một người bạn trẻ đang tìm hiểu đạo.
Tin là bước theo Đức Giêsu trên con đường khổ giá. Bạn có thấy theo Chúa là khó không? Đoạn Tin Mừng hôm nay có giúp bạn vác thập giá một cách an bình hơn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con, nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt, và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến, xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây, xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố vì biết rằng cuối cùng chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
27. Đức tin sống
(PM. Cao Huy Hoàng)
Được gọi là tín hữu Chúa Kitô hay Kitô hữu, ít là một lần chúng ta đã tuyên xưng "tôi tin" vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xuống thế làm người, chịu đóng đinh chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta, phục hồi cho chúng ta sự sống mới trong Thiên Chúa".
Hầu hết chúng ta được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội từ nhỏ, vì thế, Cha Mẹ, người đỡ đầu, có bổn phận hướng dẫn chúng ta thành toàn ơn Đức Tin đã được lãnh nhận. Việc thành toàn ấy bao gồm việc học biết về Đấng mình đã Tin và Sống theo ý muốn của Đấng mình đã tin. Thánh Giacôbê nói: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Gc 2, 17). Vậy, muốn cho ĐỨC TIN SỐNG, Đức Tin phải có việc làm.
Lời Chúa hôm nay giúp ta khám phá một vài việc làm của Đức Tin:
1. Tuyên xưng Đức Tin:
Tuyên xưng Đức Tin vào Chúa Giêsu không phải là công bố một công thức hay một kiến thức kinh điển thần học, hoặc một số vốn liếng Giáo Lý. Những người có học thần học hay có ít vốn liếng Giáo Lý cũng không nên xem thường đức tin bậc giáo dân thấp kém hay những người mù chữ, ít học. Bởi đức tin là một ân huệ hơn là một khả năng của lý trí. Và ơn huệ của đức tin được nhân lên mỗi phút giây cho những ai biết rõ Đức Giêsu Kitô, Người mình tin, kết hiệp mật thiết với Người và sống theo điều Người dạy. Một số giáo dân tưởng rất kém cỏi, nhưng thực ra, đức tin của họ thật mãnh liệt. Họ Tuyên Xưng Đức Tin bằng đời sống anh dũng của họ trước những làn tên mũi đạn của cuộc đời, của những cuộc bức bách có tổ chức, nhờ họ có lòng mến thực thà, chân thành.
Trong khi các tông đồ không nhận ra "người mình tin" là ai, thì Phêrô, người đánh cá tầm thường nhất, đại diện cho những con người ít học, đã biết "người mình tin", sống thiết thân với "người mình tin" và được ân huệ nhân lên do bởi ánh sáng của Chúa Thánh Thần của lòng mến đã công bố: "Thầy là Đức Kitô" (Mc 8, 29), hiểu là "Đấng đã được Thiên Chúa Xức Dầu", "Đấng Cứu Chuộc Thế Gian"
2. Từ bỏ mình:
Việc làm cụ thể của Đức Tin còn phải là từ bỏ mình, như Chúa Giêsu nói: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình". (Mc 8, 34-35)
Từ bỏ mình cũng đồng nghĩa với từ bỏ ma quỷ, từ bỏ con người cũ của ma quỷ, từ bỏ cái tôi kiêu ngạo được ma quỷ nâng đỡ, khuyến khích, xúi giục, từ bỏ những thứ tham sân si thuộc về cõi phù vân, cõi tạm mang tính-hay-chết hoặc không tồn tại trên đời, cũng là từ bỏ tất cả những gì chúng ta không thể mang theo vào cuộc sống mai sau.
Nhiều người đã tập buông bỏ tất cả cho tâm hồn bình an thư thái, thân xác khỏe mạnh, nhưng cách buông bỏ ấy chưa hẳn là cách buông bỏ theo ý muốn của Chúa Giêsu. Bởi thế, Chúa đã thêm vào việc "từ bỏ mình" là "vác thập giá mình mà theo Chúa". Một đòi hỏi thật tích cực của Đức Tin vào "Đấng Đã Chịu Đóng Đinh" là phải chịu đóng đinh với Đấng mình đã tin. Như vậy, từ bỏ là biến đau khổ thành niềm vui, biến gian nan thử thách thành con đường sống, biến sự chết thành sự sống lại ngay trong bản tính hay chết của mỗi con người. Con mắt Đức Tin nhìn đau khổ và sự chết ở đời này, chính là hạnh phúc và sự sống ở đời sau.
Hãy cảm phục những lời tuyên xưng đức tin cách sống động, những việc làm cụ thể của đức tin, nơi những Kitô hữu đang đau khổ, bệnh tật, phong cùi, bị đàn áp, bị bức bách... Đừng nên xem thường họ, nhưng hãy kiểm lại cách từ bỏ và vác Thập Giá của mình.
3. Làm việc bác ái:
Tuyên xưng Đức tin vào Chúa Giêsu mà không mặc lấy trái tim nhân hậu của Ngài thì quả thật là giả dối, là môi miệng. Bởi thế, Thánh Giacôbê giải thích việc làm của Đức Tin là việc Bác Ái: "Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em lại bảo họ rằng: "Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm", mà anh em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì?" (Gc 2, 15-16)
Có những tín hiệu đáng vui mừng nơi những Giáo Dân hôm nay đang khá trưởng thành về việc thực hành Đức Bác Ái trong một xã hội vô cảm. Ý nghĩa "Bác Ái vì Chúa" của người Công Giáo, của các nhóm Công Giáo vẫn luôn là kim chỉ nam để mọi người thể hiện việc làm của Đức Tin hơn là việc làm cách giả hình, cách đạo đức mỵ dân của một xã hội gian dối. Chúng ta được quyền tin tưởng nơi những ủy ban Caritas rằng sẽ không thể có chuyện ăn chặn, bớt xén những phần giúp đỡ người nghèo, người bị thiên tai bão lụt...cũng không có chuyện lạc địa chỉ vào túi ông kia vào nhà bà nọ... bởi vì, tất cả đang trưởng thành về việc phải thực hiện đời sống Đức Tin bằng một Đức Bác Ái chân thành, Đức Bác Ái Kitô Giáo.
4. Hiên ngang sống công chính:
Thánh vịnh Đáp ca hôm nay cũng góp phần vào việc hướng dẫn một đức tin sống động: Hiên ngang sống công chính giữa cuộc đời giả trá điêu ngoa. "Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (Tv.114,9).
Hiên ngang sống công chính vì đã tin vào Đấng Công Chính và có Ngài nâng đỡ, phù trợ, như tiên tri Isaia khẳng định: "Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Đấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh tụng với tôi được? Chúng ta hầu toà, ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây! Này đây Chúa là Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?" (Is 50, 5-9a)
Vâng, Từ bỏ mình, vác thập giá mình, rồi "theo Chúa". Theo Chúa là theo cách sống công chính của Chúa. Sự công chính ấy lan tỏa ra cho thế gian bằng một đời sống chứng nhân can đảm: "Tôi đã đưa lưng tôi cho kẻ đánh, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không che mặt giấu mày, không tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi". (x. Tv 114, 1-9).
Người Công Giáo Việt Nam hôm nay đang bị trong đấm vào lưng, ngoài vả vào mặt, trong giật râu, ngoài nhạo cười phỉ báng. Các Kitô hữu Việt Nam, thuộc mọi thành phần, phẩm trật đang bị hành hình đủ kiểu, mà kiểu nào cũng đòi hỏi một sự kiên cường làm chứng cho Đức Tin Công Giáo và hiên ngang sống công chính giữa mọi thế lực trong ngoài đều có thể là gian tà. Trước tình hình nhiễu nhương hư thực, chẳng biết đâu là gian đâu là thật, Người công Giáo Việt Nam chỉ còn có thể Tin vào Chúa Giêsu Kitô đích thực là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống mà nhắm thẳng đích đến trong cuộc sống chứng nhân.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, là Đấng Cứu Chuộc chúng con. Xin cho Đức tin của chúng con được sống và lớn lên nhờ việc từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa, sống bác ái với mọi người và anh dũng làm chứng nhân cho Chúa giữa đời. Amen.
28. Chú giải và suy niệm của Lm. Ignatiô Hồ Thông
Chúa Nhật XXIV này được định vị vào trong viễn cảnh của cuộc Khổ Nạn. Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo cuộc Khổ Nạn của Ngài theo Tin Mừng Mác-cô.
Is 50: 5-9
Bài đọc I trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị là bài ca thứ ba trong bốn bài ca về Người Tôi Trung chịu đau khổ; Người Tôi Trung này tìm gặp nơi Chúa sức mạnh của mình và chấp nhận mọi đau thương thử thách.
Gc 2: 14-18
Trong đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay, thánh nhân dạy rằng "đức tin không hành động là đức tin chết".
Mc 8: 27-35
Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi đã nghe lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô: "Thầy là Đấng Ki-tô", Đức Giêsu loan báo cuộc Khổ Nạn sắp đến của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 50: 5-9)
Bản văn này được trích dẫn từ một trong bốn bài thơ về một dung mạo bí ẩn của một Người Tôi Trung thập toàn của Đức Chúa trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Hai bài thơ sau cùng đều cho thấy Người Công Chính này chịu mắng nhiếc phỉ nhổ (bài thơ thứ ba mà chúng ta đọc hôm nay), đoạn bị giết chết một cách nhục nhã nhưng tiếp đó tràn đầy vinh quang (bài thơ thứ tư). Chúng ta gặp thấy ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ này, dung mạo của Chúa Giêsu, Đấng chịu đau khổ để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
1. Dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ
Người Tôi Trung này là sứ giả của Thiên Chúa, ông đã được thông báo cho biết: sứ mạng được trao phó cho ông không là dể dàng, nhưng ông "không cưỡng lại cũng chẳng tháo lui". Sứ mạng này được xác định ở đoạn trên: "biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức". Ông chẳng đón nhận gì ngoài những vô ơn bạc nghĩa: bách hại, đánh đòn, nhục mạ; ông cam chịu mà không hề than vãn một lời. Sức mạnh và sự thanh thản của ông đến từ niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng phù trợ ông, Đấng tuyên bố rằng ông công chính, Người ở kề bên ông. Vì thế chẳng có gì phải nao núng cả: "Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!".
2. Dung mạo của Đức Ki-tô
Ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung này chúng ta đọc thấy số phận của Đức Ki-tô. Chính Ngài cũng là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Sứ điệp mà Ngài mang đến là Tin Mừng cho những người nghèo khổ. Ấy vậy, chính Ngài phải gánh chịu muôn vàn đau khổ và bách hại mà không hề than van một lời. Và cũng chính Ngài công bố: "Ai có thể bắt lỗi tôi điều gì?". Ngài biết rằng Chúa Cha sẽ tôn vinh Ngài và Chúa Thánh Thần sẽ minh oan cho Ngài.
BÀI ĐỌC II (Gc 2: 14-18)
Chúng ta tiếp tục đọc Thư của thánh Gia-cô-bê.
1. Đức tin không hành động là đức tin chết:
Đoạn trích hôm nay tập trung vào một chủ đề: "đức tin không hành động là đức tin chết". Đức tin tích cực năng động là đức tin hướng đến việc thực thi đức ái. Lời khuyên bảo của thánh Gia-cô-bê rất thực tế: lời khuyên này được minh họa bởi một ví dụ cụ thể và được trình bày rất thấm thía. Những lời hay ý đẹp chỉ là như gió thoảng qua, thậm chí chỉ là giả hình, nếu người ta không đề ra những phương sách cứu giúp những người anh em đau khổ của chúng ta.
2. So sánh giáo huấn của thánh Giacôbê và của thánh Phaolô:
Liệu có nên nghĩ rằng thánh Giacôbê có lập trường trái ngược với thánh Phao-lô như được trình bày trong các thư gởi tín hữu Galát và Rôma: "Con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Kitô" (Gl 2:16)?. Nói đúng hơn, thánh Gia-cô-bê cố cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do thái coi chừng một lối giải thích lạm dụng giáo huấn của thánh Phao-lô. Người ta không thể trách cứ thánh Phao-lô là không ca ngợi những việc làm, đặc biệt là đức ái, vì nếu không có đức ái thì đức tin "chỉ là tiếng phèn la inh ỏi".
Tuy nhiên, thánh Phao-lô, vị Tông Đồ dân ngoại, muốn chứng minh rằng những việc lành phúc đức của luật Mô-sê không thể đạt được ơn cứu độ, từ nay chỉ có một nguồn ơn cứu độ duy nhất là "tin vào Đức Ki tô". Mục đích của thánh Gia-cô-bê là làm nổi bật những thành quả của luật mới, mà thành quả hàng đầu là Đức Ái. Đành rằng đức tin là Thiên Ân và nhờ đức tin chứ không vì công nghiệp mà chúng ta được nên công chính hóa, nhưng việc làm của chúng ta chứng tỏ rằng đức tin ấy đầy sức sống, chứ không èo uột héo khô.
Liệu có nên nghĩ rằng ở bên kia những tư tưởng này, có một dư âm nào đó về hai thái độ của hai vị thánh này xuất hiện ở Công Đồng Giê-ru-sa-lem? Thánh Gia-cô-bê bày tỏ lập trường phải tuân giữ vài mối giây ràng buộc với luật Mô-sê, trong khi thánh Phao-lô muốn giải thoát các Ki-tô hữu tiên khởi khỏi những thực hành Lề Luật...Có thể lắm chứ.
TIN MỪNG (Mc 8: 27-35)
Chúng ta đang ở giai đoạn Đức Giêsu tìm kiếm một sự yên tỉnh ngoài biên giới miền Ga-li-lê để được ở một mình với các môn đệ và dành trọn thời gian vào việc huấn luyện họ.
1. Bối cảnh của cuộc chuyện trò:
Như chúng ta đã biết, Đức Giêsu đã rút lui vào vùng Tia, đoạn miền Thập Tỉnh. Bây giờ Ngài rời Bết-sai-đa để tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp, vùng cực Bắc xứ Pha-lê-tinh. Lãnh địa này không thuộc quyền của tiểu vương Hê-rô-đê, nhưng em của ông là Phi-líp, một nhà cai trị cẩn trọng và khôn ngoan. Chính Phi-líp là người xây dựng thành Xê-da-rê mang tên ông để phân biệt với thành Xê-da-rê duyên hải. Như vậy Đức Giêsu đã dẫn các môn đệ đi sâu vào vùng đất lương dân, lên đến thượng nguồn của dòng sông Giô-đan.
Trên lãnh địa này, người ta có thể đi lại một cách thanh bình. Đức Giêsu đồng hành với các môn đệ của Ngài. Những dòng suối của sông Giô-đan thì rất gần, cảnh vật êm ả, chính trong khung cảnh êm ả và bầu khí thanh bình này mà cuộc nói chuyện giữa Thầy trò diễn ra.
Thánh Lu-ca đặt câu chuyện này vào trong bối cảnh Đức Giêsu cầu nguyện một mình và có các môn đệ ở đó với Ngài (Lc 9: 18-21: thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giêsu cầu nguyện vào những giờ phút trang trọng), trong khi thánh Mác-cô nói với chúng ta rằng Đức Giêsu và các môn đệ vừa đi vừa trò chuyện với nhau. Đối với thánh Mác-cô, chính nhờ đồng hành với Đức Giêsu, lắng nghe Ngài, mà chúng ta có thể hiểu được khuôn mặt đích thật của Ngài hơn.
2. Thăm dò niềm tin của các môn đệ về Ngài:
Trước hết Đức Giêsu hỏi các môn đệ về dư luận quần chúng: họ nói gì về Ngài, ngõ hầu giúp các ông hiểu rõ hơn niềm tin của họ vào Ngài. Các môn đệ đáp: "Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả; có kẻ bảo là ông Ê-li-a; kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó". Trong những dư luận này, việc đồng hóa Đức Giêsu với ông Gioan Tẩy Giả thật lạ lùng nhưng nhắc nhớ lời phát biểu của tiểu vương Hê-rô-đê khi nghe danh tiếng Đức Giêsu: "Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ" (Mt 14: 1-2). Việc dân chúng nhận biết Đức Giêsu là một trong những đại ngôn sứ đã là một bước tiến đáng kể trên con đường đức tin rồi, tuy nhiên vẫn còn xa với chân lý.
Vì thế, Đức Giêsu muốn trắc nghiệm niềm tin của các môn đệ về Ngài sau những ngày tháng được sống bên Ngài, lắng nghe những lời Ngài nói và thấy những việc Ngài làm: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?". Thay mặt cho các môn đệ, ông Phêrô đáp: "Thầy là Đấng Ki tô". Tại Mát-thêu, thánh Phêrô còn nói thêm: "Con Thiên Chúa hằng sống". Tại Lu-ca, thánh Phêrô nói: "Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa". Quả thật, đây là một câu trả lời vượt quá khả năng của thánh Phêrô mà trong cùng một câu chuyện, thánh Mát-thêu ghi lại nhận xét của Đức Giêsu: "Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều này, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 16: 17). Bởi vì chỉ mới vừa trước đây thôi Ngài đã quở trách các ông vì lòng trí các ông quá chậm hiểu trước sứ điệp và con người của Ngài.
Ngay lập tức Đức Giêsu cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Lệnh cấm này được lập đi lập lại nhiều lần trong Tin Mừng Mác-cô mà các nhà chuyên môn gọi "bí mật Đấng Mê-si-a". Bí mật Đấng Mê-si-a này thường liên quan đến các phép lạ, bây giờ chính là căn tính Mê-si-a của Ngài. Tại sao lại có lệnh cấm này? Bởi vì Ngài sợ người ta hiểu lầm tước hiệu Mê-si-a trên bình diện trần thế và chính trị. Mặt khác, lúc này các môn đệ không thể hiểu hết được mầu nhiệm Mê-si-a hàm chứa trong ý định của Thiên Chúa. Rõ ràng, Đức Giêsu sắp vén bức màn mầu nhiệm này.
3. Loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài:
Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo cho họ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, các thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại". Cái tất yếu mà Đức Giêsu nêu lên: "Con Người phải...", không là tất yếu của định mệnh, nhưng là cái tất yếu thuộc trật tự thần học, chính là cái tất yếu của chương trình Thiên Chúa. Cuộc Khổ Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ sửa sai, nhưng là một phần của mầu nhiệm cứu độ nhân loại. Vào giây phút này, Đức Giêsu không cho các ông bất cứ lời giải thích nào khác ngoài cái tất yếu ("phải") này.
4. Phản ứng của thánh Phêrô:
Trong lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn của Ngài, Đức Giêsu cẩn trọng tránh nói đến việc Ngài bị đánh đập và bị đóng đinh vào khổ giá. Nhưng như thế cũng đủ gây nên một sự choáng váng ở nơi các môn đệ. Một cách tế nhị, "thánh Phêrô liền kéo riêng Người ra mà trách". Chúng ta có thể hiểu được phản ứng của thánh Phêrô. Trong tâm trí, thánh nhân đã hình thành nên ở nơi Thầy mình một Đấng Mê-si khải hoàn và vinh quang: thánh nhân ôm ấp những kỳ vọng trần thế; nhưng chắc chắn lời trách cứ của thánh nhân hàm chứa lòng yêu mến của mình đối với Thầy mình. Không ai có thể chấp nhận người mình yêu có thể bị đau khổ.
5. Phản ứng của Đức Giêsu:
Đức Giêsu phản ứng rất mãnh liệt; thái độ của thánh Phêrô tái hiện trong tâm trí của Ngài cơn cám dỗ mà Ngài đã kinh qua trong hoang địa; Đức Giêsu đáp trả vị Tông Đồ của Ngài cũng bằng những lời mà Ngài đã dùng để trục xuất Tên Cám Dỗ: "Xa-tan kia, xéo đi!" (Mt 4: 10), nhưng với thánh Phêrô, Ngài còn nói thêm: "Lui ra đằng sau Thầy", nghĩa là "Anh không hiểu rằng nếu là môn đệ trung thành, anh phải bước đi theo con đường của Thầy".
Và với tất cả những ai muốn làm môn đệ của Ngài, Đức Giêsu cũng căn dặn một lời như vậy: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo". Hễ mỗi lần gợi lên cuộc Khổ Nạn của Ngài, Đức Giêsu đều liên kết các môn đệ của Ngài, và qua họ, tất cả các Ki tô hữu, vào con đường đau khổ này: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được mạng sống ấy". Ở đây Đức Giêsu sử dụng một từ hai nghĩa: "mạng sống" vừa có nghĩa cuộc sống tạm thời ở đời này vừa cuộc sống đời đời ở mai sau.
Những lời này âm vang xuyên suốt nhiều thế kỷ và đã tạo nên niềm tin tưởng và phó thác vô bờ của các thánh tử đạo mọi thời, hôm qua cũng như hôm nay.
29. Lời tuyên xưng đức tin của Phêrô và lời loan báo thương khó lần đầu
(Lm. PX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Có thể nói đoạn 8,27-30 đưa quyển TM II sang một khúc quanh, vì chúng ta ghi nhận được nhiều khác biệt giữa phần này với phần trước. Có những thay đổi về từ vựng và cách hành văn như: không còn nhắc đến "bánh" nữa; không còn minh nhiên nhắc đến sự tối tăm (không hiểu) của các môn đệ nữa (dù đề tài này vẫn được đề cập đến dưới một dạng khác); Đức Giêsu nói thẳng ra với các môn đệ ... Có những thay đổi trong cách trình bày dung mạo của Đức Kitô: tác giả bắt đầu giới thiệu Đức Giêsu với định mệnh của Người bằng câu "Con Người phải chịu đau khổ" (8,31). Đây là định mệnh nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Số phận ấy trở thành nền tảng để Đức Giêsu khuyến khích các môn đệ: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (8,34).
Về nội dung, ta thấy trước đó, Đức Giêsu đã liên tục đặt cho các môn đệ một số câu hỏi (x. 8,17-21). Các câu hỏi này cho hiểu rằng các môn đệ phải hiểu chuyện gì đó, nhưng các ông lại không hiểu. Lý do: lòng các ông còn ngu muội (8,17: dịch sát: "trái tim các ông còn chai cứng").
Có thể nói rằng: sau khi đã chứng kiến Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa ngọng (7,31-37) và chữa người mù (8,22-26), và đặt mình vào vị trí của những người ấy, các môn đệ hẳn phải biết là những người ấy tượng trưng cho tình trạng mù lòa điếc lác của chính các ông trước mầu nhiệm Đức Giêsu, và chỉ mình Người có thể giúp các ông đánh tan sự tăm tối ngu muội khiến các ông không hiểu biết Người. Và khi đã được mở tai, mở miệng, mở mắt, hẳn các môn đệ có thể tuyên xưng niềm tin vào Người và chấp nhận mọi đòi hỏi của đời môn đệ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (8,27-30);
2) Lời loan báo Thương Khó lần đầu (8,31-33);
3) Giáo huấn về đời các môn đệ (8,34-35).
3.- Vài ghi chú về chú giải
- Xêdarê Philipphê (27): Đức Giêsu tiến về miền Iturê, nơi có thành Xêdarê Philipphê trấn ngữ. Thành này là nơi cư trú của Hêrôđê Philipphê, được gọi là "Xêdarê" để tôn vinh hoàng đế Rôma. Nó nằm tại nguồn sông Giođan trên sườn núi Khemôn. Trong khi "đi đường" tiến gần đến trung tâm quyền lực chính trị này, Đức Giêsu hỏi các môn đệ về dư luận liên can đến chân tính của Người.
- Họ bảo Thầy..., có kẻ thì bảo..., kẻ khác... (28): Những ý kiến mà các môn đệ nêu ra thì tương tự với ba ý kiến trước đây liên hệ đến Gioan Tẩy Giả (x. 6,15). Sự tương đồng giữa Đức Giêsu và vị Tẩy Giả đã khiến một số người tin rằng Đức Giêsu là vị Tẩy Giả đã sống lại. Có những người lại nghĩ rằng Người là ngôn sứ Êlia, nay đã trở lại để hoạt động lần thứ hai. Lại có những người chỉ coi Đức Giêsu là như một ngôn sứ. Những phỏng đoán trên xuất hiện theo cùng một thứ tự vào thời gian Gioan bị chém đầu. Đấy là quan điểm của những người quan sát Đức Giêsu và những hoạt động của Người từ xa.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó là nhận định của những người ở gần bên Đức Giêsu, những người đã gắn bó với Đức Giêsu như là môn đệ của Người, và những người sẽ nhận tác phẩm Mc: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?"
- Anh em bảo Thầy là ai? (29): Đức Giêsu đã được gọi bằng nhiều danh hiệu: "Đấng Thánh của Thiên Chúa" (1,24), "Con Thiên Chúa" (3,11), "Thầy" (4,38), "Con Thiên Chúa tối cao" (5,7), "Ngài (Chúa)" (7,28). Nhưng Người không hề tỏ ra muốn làm cho những kẻ đi theo Người xác định Người là Đấng Mêsia. Người chỉ cho thấy rằng Người hiểu mình có sứ mạng như "Con Người", có quyền hành động trên trái đất nhân danh Thiên Chúa (x. 2,10).
Vào thuở đầu, các môn đệ gọi Đức Giêsu là "Thầy" (4,38). Với thời gian đi theo Người, các ông đã chứng kiến các tà thần bị trục xuất (1,21-27; 5,1-20), những bệnh nhân được chữa lành (1,29-31; 1,40-45...), những người chết được sống lại (5,21-24.35-43) và đông đảo những người nghèo đói được ăn no (6,30-44; 8,1-10). Lời nói và việc làm được Đức Giêsu liên kết với nhau. Người vừa là Đấng công bố vừa là Đấng hoàn tất Tin Mừng của Thiên Chúa.
Nhưng các môn đệ thời Đức Giêsu cũng như thời Mc đã ý thức về những điều đó đến mức nào? Họ nghĩ Đức Giêsu là ai, và như thế, họ nghĩ làm môn đệ Đức Giêsu nghĩa là gì? Lần đầu tiên họ đã nêu lên câu hỏi về chân tính Đức Giêsu khi chứng kiến trận bão bị dẹp yên (4,35-41; x. 1,27). Bây giờ dường như các môn đệ đã có một câu trả lời mà Phêrô vừa nói ra như là người phát ngôn: "Thầy là Đấng Kitô".
- Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô": Tên "Phêrô" đã biến mất sau 5,37, nhưng từ đây tên này sẽ được nhắc đến thường xuyên. Phêrô đã nhận thức được những gì khi tuyên xưng như thế? Tất cả những gì chúng ta có thể nói là, ít ra, ông coi Đức Giêsu hẳn là Đấng hoàn tất những niềm hy vọng từ lâu đời là tái thiết Dân Thiên Chúa. Bản văn Lc thêm "của Thiên Chúa", và bản văn Mt: "Con Thiên Chúa hằng sống".
- Đức Giêsu liền cấm ngặt (30): Hẳn là câu trả lời của Phêrô đúng, thế mà Đức Giêsu đã cấm không những ông mà tất cả những môn đệ nữa là "không được nói với ai về Người". "Cấm ngặt", epitimaô, đã được dùng trong các câu truyện trừ quỷ" (1,25; 3,12). Với từ ngữ này, chúng ta hiểu không phải Đức Giêsu muốn che giấu chân tính đích thực của Người, mà là muốn tránh cho người ta khỏi hiểu sai hoàn toàn Người là ai và Người đang làm gì. Các tông đồ không được phổ biến một lối nhìn sai lạc như thế.
Xuyên qua Cựu Ước, danh hiệu Mêsia (Kitô) gợi lên nơi tâm trí đám dân đen cũng như giới lãnh đạo hình ảnh một vị vua ngự trên đỉnh kim tự tháp xã hội kinh tế để mà điều khiển kim tự tháp này. Để cho triều đại được tồn tại mãi mãi, ngài dùng quân đội, thu thuế, và nâng đỡ một đền thờ có giới tư tế phục dịch. Giống như vua Đavít, Đấng Mêsia phải là vị thủ lãnh được xức dầu mang uy quyền thần thánh mà điều hành xã hội sao cho có công bình về mọi mặt. Nhưng các cơ cấu của xã hội này là cơ cấu hàng dọc, chúng đưa đến sự áp chế và bóc lột, nên chúng phi nhân.
Luật lệ của Thiên Chúa mà Đức Giêsu thiết lập trong tư cách là con người mới là trật tự luân lý mới, theo chiều ngang, hoàn toàn bình đẳng, trong đó định mệnh con người được thể hiện vừa theo cách cá nhân vừa theo cách tập thể. Vậy, cần giữ lại lời tuyên xưng của Phêrô, nhưng cần phải lấp đầy lời tuyên xưng ấy bằng một nội dung mới. Vì thế, Đức Giêsu bắt đầu dạy các ông về số phận của Con Người.
- Con Người phải chịu đau khổ nhiều (31): Trong nửa đầu của quyển TM Mc, Đức Giêsu đã nối kết Con Người với tư cách chúa tể và với uy quyền (2,10.28). Nhưng bây giờ, phản ứng lại lời tuyên xưng của Phêrô, Người đưa vào một viễn tượng gắn liền với chân tính của Con Người: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều". Người diễn tả hai đối cực trong một khái niệm. Một đàng, Người được ngự trên ngai cùng với Đấng Tạo Hoá, và như thế, cùng có quyền chủ tể với Đấng Tạo Hoá. Đàng khác, Người phải chịu đau khổ và chịu chết, bởi vì Người chia sẻ mọi phương diện của thân phận con người. Tuy nhiên, sự sống, chứ không phải sự chết, mới có tiếng nói cuối cùng. Cho dù Người có bị giết, Người sẽ lại trỗi dậy. Không gì có thể cản trở việc thể hiện nhân tính mới để loài người hoàn toàn sống theo luật Thiên Chúa. "Phải; cần thiết", dei, diễn tả một điều nằm trong chương trình của Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Đấng Mêsia, như Phêrô (và các anh em) đã tuyên xưng. Nhưng Người là Đấng Mêsia một cách nghịch lý: là vị đại diện của Thiên Chúa, Người có quyền tối cao. Nhưng tương lai gần lại đưa Người đến đau khổ và cái chết, chứ không phải là sự huy hoàng và vinh quang của một vị vua.
- bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ: Điều đáng lưu ý là những đau khổ và cái chết của Người lại bị gây ra bởi giới ưu tuyển đang nắm giữ quyền bính và đặc quyền trên đỉnh cao kim tự tháp Do Thái: đó là các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư. Họ sẽ loại trừ Người và giao nộp Người cho nhà cầm quyền Rôma xử tử. Họ làm như thế, bởi vì luật lệ của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đang thiết lập có nghĩa là đã đến lúc chấm dứt cái trật tự mà họ cho là phát xuất từ Thiên Chúa và họ đang ra sức bảo vệ bằng mọi phương thế có thể được.
- Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người (32): Phêrô (và các anh em) không thể chấp nhận được rằng trong khái niệm Đấng Mêsia họ vẫn hiểu, lại có sự đau khổ và sự chết. Ông liền kéo Đức Giêsu ra một bên và trách Người (epitimaô).
- Satan! Lui lại đằng sau Thầy (33): Đức Giêsu đã mắng ngược lại: "Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người". Ý kiến của Phêrô không diễn tả nếp sống môn đệ mà ông được mời gọi theo. Tư cách Mêsia mà ông tuyên xưng và cách hiểu đời môn đệ tương ứng với Đấng Mêsia ấy không thể hài hoà với cách Đức Giêsu hiểu thánh ý Thiên Chúa. Ý kiến của Phêrô chỉ dựa trên những quan điểm của loài người, nên đã tương đương với những nỗ lực của Satan nhằm kéo Đức Giêsu ra khỏi đường sứ mạng (so với Mt 4,10). Trong Mc 8,31-33, tác giả đề cập đến những hậu quả của tư cách Mêsia đối với chính Đức Giêsu. Trong 8,34-38; 9,1, ngài sẽ đề cập đến hậu quả đối với các môn đệ của Đức Giêsu.
Lời tuyên xưng duy nhất về Đấng Mêsia mà Đức Giêsu chấp nhận được, là lời tuyên xưng đưa các môn đệ đến chỗ hiểu về tư cách môn đệ phù hợp với đường lối của Thiên Chúa về mầu nhiệm Đức Kitô.
- Đức Giêsu gọi đám đông cùng vói các môn đệ (34): Đức Giêsu tiếp tục giải thích chân lý trên đây thật rõ ràng cho các môn đệ, nhưng, bởi vì điều này hết sức quan trọng, Người gọi cả đám đông lại mà nghe.
- Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình ...: Nẻo đường tuân thủ thánh ý Thiên Chúa bắt đầu với cái chết, như chính Đức Giêsu đã cho thấy. Aparneomai, "chối mình", nghĩa là không màng tới quyền lợi hoặc sở thích của mình. Vì Phêrô không chịu "chối mình" (aparneomai), sau này ông đã chối (arneomai) Thầy (14,68).
- ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được (35): Lời này cho thấy Đức Giêsu tự đồng hoá với Tin Mừng của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu, Con Người, sẽ hướng dẫn người ta đi vào một cuộc tái lập trật tự cho thế giới chúng ta, trong đó giá trị của con người không nằm ở "sở hữu" (cái "có"), nhưng ở "hiện hữu" (cái "là"). Người môn đệ Đức Giêsu sẽ đạt được sự sống vĩnh cửu ở bên kia kinh nghiệm về cái chết được diễn tả bằng công thức "vác thập giá bước theo Đức Giêsu". Đây là sự sống vĩnh cửu bởi vì đạt được xuyên qua cuộc tái tạo bằng hơi thở ban sự sống của Thiên Chúa và bằng việc tháp nhập vào trong đời sống không bao giờ chấm dứt của Con Người (nhân loại mới).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (27-30)
Tác giả TM II đã nêu bật tầm quan trọng của câu hỏi của Đức Giêsu khi đặt câu hỏi ấy ở trung tâm của tác phẩm của ngài. Những gì ngài tường thuật trước đó (trong phân đoạn 1,1–8,26) nhắm đưa tới câu hỏi này và cung cấp các nền tảng để trả lời. Các môn đệ đã đồng hành với Đức Giêsu trong mọi chuyến đi và đã chứng kiến tất cả hoạt động của Người, phải có thể trả lời câu hỏi Người đặt ra.
Đức Giêsu không nhấn mạnh tổng quát về tình trạng thiếu hiểu biết của các môn đệ nhưng, với một độ tăng dần, Người nêu ra cho họ hai câu hỏi: ý kiến của dân chúng và của chính các ông về bản thân Người. Các môn đệ, qua Phêrô, đã tỏ ra hiểu hơn về bản thân Người: họ thấy Người là Đấng Mêsia, Đấng Xức dầu của Đức Chúa, Vị Sứ giả tối hậu và vĩnh viễn của Thiên Chúa, sẽ thực hiện ơn cứu độ trọn vẹn cho loài người bằng quyền lực và nhân danh Thiên Chúa. Câu đáp của Phêrô sẽ được triển khai bởi mạc khải của Thiên Chúa đến sau đó: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người" (9,7). Chính vì Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà các môn đệ phải nghe lời Người và để cho Người hướng dẫn.
* Lời loan báo Thương Khó lần đầu (31-33)
Phêrô vừa tuyên xưng niềm tin xong, Đức Giêsu tức khắc nói về cuộc Thương Khó. Đây là lần đầu tiên Người nói rõ ra những gì đang chờ đợi Người ở cuối "con đường". Người sẽ còn ngỏ lời với các ông về đề tài này hai lần nữa (9,31; 10,33-34). Vì các ông đã nhận biết và tuyên xưng Người là Đấng Mêsia, các ông phải được chuẩn bị đi trên con đường mà Đấng Mêsia sẽ rảo qua. Đức Giêsu coi như các môn đệ có khả năng đón nhận lời loan báo này. Nhưng bây giờ lại chính là Phêrô phản đối Người (c. 32). Ông muốn cho Đức Giêsu hiểu rằng lộ trình Người loan báo đó là một lộ trình điên rồ, phi lý. Nhưng Đức Giêsu cũng đã đẩy ông đi với một sự quyết liệt không kém. Lộ trình Người theo là lộ trình Thiên Chúa muốn, nên khi phản đối Người, Phêrô đã trở thành hiện thân của ma quỷ mà chống lại Thiên Chúa.
* Giáo huấn về đời các môn đệ (34-35)
Kế đó, vì biết rằng giáo huấn Người sắp ban có giá trị cho mọi người, Đức Giêsu đã nói với toàn dân và các môn đệ: Ai muốn làm môn đệ Người, thì phải mô phỏng đời mình theo lối sống của Người. "Vác thập giá mình mà theo" là công thức nói lên một công việc sẽ kéo dài, công việc đưa lại nhiều tủi nhục đau đớn, như chuyến đi vác thập giá đến nơi chịu đóng đinh, tiến bước giữa hai hàng người say sưa chế nhạo, căm hờn chửi bới,... Đấy chính là chấp nhận thua thiệt vì trung thành sống theo Tin Mừng, cũng chính là trung thành bước theo Đức Kitô.
+ Kết luận
Cuộc sống của người Kitô hữu tham dự vào nghịch lý của bản thân Đức Kitô. Đức Kitô đã chỉ đạt được vinh quang thiên sai nhờ đi qua Khổ Nạn và cái chết, theo đúng chương trình của Thiên Chúa. Bất cứ ai tự hào mang danh "Kitô hữu", đều phải sống nghịch lý Kitô giáo: muốn cứu mạng sống mình, là mất mạng; chấp nhận mất mạng vì Đức Kitô, là cứu được mạng. Các môn đệ phải thích ứng với nẻo đường của Đức Giêsu, mặc dù trái tim chai đá sẽ toan tính đủ cách để tránh xa con đường này, để đẩy nó đi.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu không chỉ muốn có những môn đệ chấp nhận phần nào giáo huấn của Người với một chút thiện cảm hoặc một chút quan tâm. Họ phải biết rõ Người là ai và tương quan của Người với Thiên Chúa là thế nào, để dám bỏ hết mọi sự mà ký thác trọn vẹn cuộc đời vào tay Người. Phản ứng của Phêrô sau khi Đức Giêsu loàn báo Thương Khó (8,32b) cũng như chuyện các ông tranh cãi về sự cao cả và danh dự (9,33-34), và lời thỉnh cầu của hai anh em nhà Dêbêđê (10,37) cho hiểu rằng các môn đệ xác tín rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, nhưng lại gán cho Người những quan niệm, những ước muốn và hy vọng của riêng họ, tức họ chưa hoàn toàn biết rõ Người trong cái nhìn của Thiên Chúa. Muốn biết rõ Người, phải "bước theo" Người (x. 1,17).
2. Phản ứng theo bản năng con người chúng ta rất có thể khiến ta ở trong thế chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Những lời Đức Giêsu trách mắng Phêrô cho hiểu là chúng ta không được để cho ý muốn của bản năng phàm trần hướng dẫn, nhưng phải bước theo Đức Giêsu và đón nhận những lời dạy dỗ của Người, bởi vì chỉ Người mới hiểu rõ mục tiêu và biết con đường đưa tới đó. Ai muốn cung cấp cho Người những chỉ dẫn về những gì Người phải làm hoặc phải bỏ, thì đã tuyên xưng Đức Kitô với những lời vô nghĩa.
3. Như vậy, người nào nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô thì cũng bị bó buộc bước theo Người vô điều kiện, tức là cho dù việc tiến bước này hàm chứa việc vác thập giá của mình và bước đi như Người, bên cạnh Người, được Người nâng đỡ, để tiến về với Chúa Cha. Như thế là phải chấp nhận rằng để đưa lại một ý nghĩa mới mẻ đích thực và mang tính Kitô giáo cho đời sống và niềm tin của chúng ta, chúng ta phải đón nhận cả đau khổ.
4. Thật ra con đường thập giá, với những hy sinh, những đau khổ, không phải là thời gian Thiên Chúa thử thách chúng ta nhằm thỏa mãn "ý chí hùng cường" của Người, khiến chúng ta phải sự hãi và khuất phục Người như những tên nô lệ khiếp nhược. Đấy chính là lộ trình giúp chúng ta loại bỏ dần dần "con người cũ", để nhận lấy "con người mới". Kho tàng phong phú là sự sống muôn đời trong hạnh phúc với Thiên Chúa khiến chúng ta thấy rằng chấp nhận đi vào lộ trình này cũng bõ công!
30. Chú giải của Noel Quesson.
Các nhà chú giải Tin Mừng theo Thánh Maccô đều đồng ý công nhận rằng, trong bài Tin Mừng mà chúng ta sắp suy niệm là đỉnh cao của Tin Mừng ông. Cho tới đây, Maccô mới viết trình thuật để minh chứng rằng mọi người vẫn còn thắc mắc về con người đích thực của Đức Giêsu, vị ngôn sứ thuộc Nagiarét:
"Đây là gì?" (Mc 1,27).
"Chúng tôi chưa bao giờ thấy như vậy" (Mc 2,12).
"Ông ấy mất trí rồi " (Mc 21).
"Thực sự ông này là ai " (Mc 4,41).
"Tất cả mọi người đều kinh ngạc" (Mc 5,20).
"Bởi đâu ông ta được như thế" (Mc 6,2).
"Đó là ma" (Mc 6,49).
"Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả" (Mc 7,37).
Vâng, sự nhận biết Thiên Chúa trong Đức Giêsu, cũng như sự nhận biết toàn diện con người phát triển dần dần từ trong tâm hồn con người tự do, những con người đã cùng sống và quan sát người. Con đường Đức tin luôn tiệm tiến. Tôi có tiến lên không?
Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ:
Đó là làng Xêdarê Philípphê: Maccô xác định vị trí rõ ràng và chính xác. Tin Mừng không phải được viết trên không. Vùng này, dưới chân núi Hécmôn, là một nơi xanh tươi nước chảy trên những sườn đồi có tuyết: Nguồn của sông Giođan phát xuất từ đó. Đức Giêsu đã dẫn dắt các bạn hữu đến giữa cảnh thiên nhiên, xa các đám đông. Người biết Người muốn gì? Người sẽ trắc nghiệm đức tin của các môn đệ.
Người ta nói Thầy là ai?
Đây là một cuộc thăm dò dư luận. Những tổ chức Sofrès và Ifop đã dành thời giờ của họ để thăm dò xem ta nghĩ gì về những nhân vật chính trị, về trường học, về một sản phẩm nào đó. Ngày nay, chúng ta có chấp nhận câu hỏi trên đây của Đức Giêsu không?
Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.
Vậy thì dư luận cũng khá nhất quán: Người ta cho rằng Đức Giêsu là một vĩ nhân, là Gioan Tẩy giả đã sống lại thì cũng không phải là việc thường, là ngôn sứ Êlia, kẻ phải đến liền trước Đấng Mêsia. Do đó Đức Giêsu được coi như là phát ngôn viên của Thiên Chúa. Ngày nay, đa số người ta cũng vẫn coi Đức Giêsu như là một nhân vật siêu phàm. Ngu dốt thì mới quả quyết ngược lại, hay xem thường Người. Không một người hiểu biết nào đã học lịch sử mà lại có thể chối bỏ sự kiện Đức Giêsu Nagiarét đã ghi dấu ấn của Người lên lich sử hành tinh chúng ta.
Người lại hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?
Ngày nay, câu hỏi này vẫn còn đặt ra cho chúng ta: Người ta nói gì về Đức Giêsu chung quanh chúng ta?
Không nên trả lời bằng những câu sẵn có. Các bạn hãy nhìn xem những gì các bạn đã sống trong tuần qua, nơi khu phố, trong công viên, trong những ngày nghỉ "Giêsu? Tôi có bao giờ nghĩ nói về ông ấy".
Giêsu ư? Ta đâu cần biết tới. Trong một khóa huấn luyện thể thao mà người ta hoàn toàn không để ý đến một yếu tố luân lý sơ đẳng nào, tôi đã tự hỏi xem có phải mình đã bất bình thường, khi không làm như những người khác? Nhưng còn bạn, bạn nói gì về tôi? Trong nhóm người kinh doanh, giải trí, làm việc, bạn có bị 'người ta hạch hỏi về nội dung đức tin của mình không?' Có thể chúng ta không thích điều đó lắm, vì nó quá bó buộc.
Có thể chúng ta sống một cách nào đó mà không ai nảy ra ý kiến đặt câu hỏi như trên. Điều này không đáng lo ngại sao? Đức tin của chúng ta nơi Đức Giêsu không làm thay đổi gì cuộc sống chúng ta sao? Như Thánh Giacôbê đã nghiêm khắc nhắc nhở chúng ta? (2,14-18).
Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô"
Nói lên quan điểm của người khác chưa đủ. Mỗi người chúng ta cần phải trả lời. Chúng ta nói lên lời "Tuyên xưng đức tin" nào?
Do đó, nhóm Mười Hai mà Thánh Phêrô đứng đầu, sẽ trả lời vượt xa hơn những câu trả lời thông thường của quần chúng. Họ là một thiểu số rất nhỏ. Không ai nghĩ ra một điều như thế, chỉ trừ nhóm này.
Tước vị "Christos" "Meshiah" trong tiếng Hêbrơ có một nghĩa rất mạnh như biến cố bùng nổ tại Israel: Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đó là Đấng được mọi người mong đợi để đến "hoàn tất lịch sử". Đấng các Ngôn sứ đã báo trước, Đấng sẽ cho cuộc sống con người có ý nghĩa.
Đức Giêsu liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người
Bản kịch đã làm nhẹ bản văn Hy Lạp. Đúng ra phải dịch là: 'Chúa đã la mắng họ để họ đừng nói điều đó với ai cả'. "Bí mật về Đấng Mêsia" là một trong những đề tài của Maccô. Đức Giêsu đã luôn yêu cầu người ta đừng công bố tước vị của Người (Mc 1,34; 1,44-45; 3,11; 5,43; 7,33-36; 8,26; 8,30).
Đó không phải là không công nhận tước vị Mêsia mà Thánh Phêrô gán cho Người, nhưng chỉ là đề cao cảnh giác để người ta đừng tiết lộ Người quá sớm. Thái độ chờ đợi Đấng Mêsia nơi người Do Thái đã quá hàm hồ. Lát nữa chúng ta sẽ nhận ra điều này, khi nghe Phêrô nói. Thiên Chúa không giống như chúng ta thường mong đợi. Thiên Chúa không tìm kiếm vinh hiển, quyền năng, thành công theo nghĩa của loài người. Thiên Chúa ưa ẩn dật. Thiên Chúa thích thinh lặng. Thiên Chúa lánh mình sau tạo vật của Người. Thánh Phaolô sẽ nói rằng: "Người là mầu nhiệm được bao phủ trong im lặng" (Rm 16,25).
Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại
Đây là khúc ngoặt lớn của Tin Mừng Đức Giêsu đang rời xứ Galilê, bắt đầu tiến lên Giêrusalem, và biết rõ mình sẽ bị giết chết tại đó. Thập giá đã hiện ra trước Đấng Mêsia của Thiên Chúa.
Maccô sẽ kể lại cho ta ba lần Chúa loan báo rõ ràng cuộc thương khó của Người (Mc 8,31; 9,31; 10,33). Đây là cớ vấp phạm cho con người.
Về mặt lịch sử, chắc chắn Đức Giêsu đã phân tích rất kỹ những phản ứng bất lợi đối với lời rao giảng của Người: Người đã thấy trước sự kết thúc số phận đời mình và Người đã ý thức tự mình đối chất với nhưng nhà lãnh đạo Do Thái Người kể ra ở đây ba nhóm người làm nên Thượng Hội Đồng, là cấp xét xử tôn giáo cao nhất bây giờ. Người bắt đầu nói với họ rằng cần phải Người bắt đầu nói với họ, Người sẽ bị đau khổ, ruồng bỏ, trục xuất ra khỏi dân tộc và phải chết dữ dằn. Mỗi lần Đức Giêsu loan báo với họ về biến cố đó. Người đều khẳng định về sự Phục sinh của Người. Nhưng lạ thay, các tông đồ hình như không bao giờ nghe được lời cuối này.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta không bao giờ nghe Chúa nói đến cùng. Do đó, chúng ta tiếp tục bị khựng lại trước sự dữ trên thế gian, trước những thử thách riêng của ta: Như thể thế gian và những thử thách đó thắng thế luôn mãi, như thể sự Phục sinh, sự sống đời đời không thể có bao giờ. Chúng ta cần thú nhận điều đó.
Người nói rõ điều đó, không úp mở
Tiếc thay, một lần nữa bản dịch lại làm nhẹ bớt bản văn Hy Lạp. Lẽ ra phải dịch như sau: "Một cách quả quyết, Đức Giêsu đã nói Lời". Lạy Chúa, con cần biết như Maccô đã nói, Chúa đã phát biểu những lời đó "một cách quả quyết" không chút sợ hãi, đầy can đảm. Con cần biết rằng, Chúa là Lời Thiên Chúa qua kiểu nói mạnh mẽ này (Người đã nói lên lời Chúa). Con đoán rằng, nhân cách của Chúa không chỉ là nhân cách của nhà hiền triết, một bậc Thầy, một vĩ nhân, nhưng là sự "hiện diện" của Ngôi Lời Thiên Chúa. "Từ khởi thủy đã có Ngôi Lời" (Ga 1,1) "Người nói Lời cách quả quyết". Con Người phải bị giết và sống lại; chữ "phải" này làm chúng ta chìm đắm trong "ý định đời đời và không hiểu được" của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa thấy cái chết và sự Phục sinh của Chúa hoàn toàn khác hẳn với biến cố ngẫu nhiên. Đó là chương trình mầu nhiệm của Chúa Cha. Chúng ta cũng cần lưu ý, đây là kinh "Tin kính" đầu tiên, từ chính môi miệng Đức Giêsu thốt lên.
Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người. Nhưng khi Đức Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phêrô: "Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy!"
Do đó, lệnh truyền giữ bí mật không phải là vô ích.
Mặc dù vừa gán cho Thầy mình tước vị đẹp đẽ, nhưng Phêrô đã không hiểu gì cả. Ông vẫn đợi một Đấng Mêsia vinh quang, chiến thắng theo kiểu loài người, một Đấng Mêsia hoạt động chính trị, một nhà giải phóng trần gian.
Còn chúng ta thì sao? Không phải chỉ đọc kinh "Tin kính" thật đúng là đã đủ. Những từ đúng nhất cũng có thể hàm chứa sai lầm, và những từ không đúng lắm cũng có thể diễn tả chân lý. Các bạn tin ở Đấng Mêsia nào? Có phải Đấng Mêsia của Thánh Phêrô ngày đó không? Con người do trời sai đến để tái lập cách kỳ diệu trật tụ dưới thế gian này? Con người mà chúng ta có thể trút đổ vào tay người đó những trách nhiệm của chúng ta?
Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." Rồi Đức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy
Đức Giêsu kiên quyết loan báo thập giá cho Phêrô. Liền sau đó, Người cũng loan báo điều đó "cho chúng ta", cho các môn đệ của Người, sau khi đã hỏi: "Anh em nói Thầy là ai?" Người hỏi: "Anh em nói anh em là người thế nào?". Anh em cho cuộc sống của mình ý nghĩa nào? Sự sống được ban cho anh em để làm gì? Để giữ nó ư? Để cho nó ư? Để yêu thương? Hay để làm gì?
31. Yêu và ghét
(Trầm Thiên Thu)
Yêu và ghét là hai động thái trái ngược nhau, nhưng luôn xảy ra song song. Lằn ranh giữa yêu và ghét quá mong manh đến nỗi khó nhận ra. Khi ghét mà người ta cứ tưởng là mình đang yêu, và khi bảo là yêu mà thực ra lại chỉ là ghét!
Không ai lại ghét chính mình, vì thế mà đôi khi người ta yêu mình thái quá. Đó là tự ái - tự yêu mình quá mức. Nhưng Chúa Giêsu dạy "ghét mình" mà "yêu tha nhân". Vẫn theo chiều hướng "ngược đời". Vậy Ngài có quá đáng hoặc xúi dại chúng ta không?
Có thể là "hơi quá đáng" đối với chúng ta, nhưng tuyệt đối Ngài không hề xúi dại ai cả! Chúa bảo chúng ta "ghét mình" vì Ngài biết chung ta dễ ỷ lại, thích tự tôn, ưa tự cao tự đại, khoái "nổ" banh-ta-lông, dễ "chứng", khó thuần hoá, thế nên Ngài phải đặt "hàm thiếc" vào chúng ta để kiềm chế thói "chứng" của chúng ta. Mà cũng rất hợp lý. Vì nếu Ngài không làm vậy thì chúng ta sẽ dám chỉ coi trời bằng... nắp bia mà thôi!
Bài đọc I hôm nay là bài ca thứ ba trong các Bài ca Người Tôi Trung. Tôi trung nào cũng khổ sở "trần ai khoai củ". Không đâu xa, lịch sử Việt Nam cho thấy có những trung thần mà phải bị hàm oan, trong Giáo hội Công giáo cũng không thiếu những con người bị khổ oan như vậy, thậm chí có những vị thánh đã từng bị vạ tuyệt thông!
Ngôn sứ Isaia kể một mạch: "Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui" (Is 50,4-5). Ngoan cường quá! Không ngại khó, không sợ khổ, không "tham sanh, uý tử" (ham sống, sợ chết). Thế mới xứng danh Người Tôi Trung. Và đó chính là hình bóng của Đức Kitô.
Ngôn sứ Isaia kể tiếp: "Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ" (Is 50,6). Rất tự tin, rất hiên ngang. Mọi gian truân chẳng là "cái đinh" gì ráo trọi! Tại sao? Thánh nhân cho biết động lực thúc đẩy: "Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên" (Is 50,7-8a). Càng lúc càng an tâm, vững dạ; càng lúc càng tin tưởng. Ngôn sứ Isaia "đặt vấn đề" rất thẳng thắn, ngỡ như thách thức: "Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!" (Is 50,8b).
Sống công chính thì chẳng có gì phải sợ, và cũng chẳng ngán bất kỳ ai. Mãi mãi là chính mình!
Nếu theo Chúa và hoàn toàn tín thác vào sự quan phòng của Ngài, chúng ta sẽ không ngại nói: "Lòng tôi yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi khẩn nài, Ngài lại lắng tai ngày tôi kêu cứu" (Tv 116,1-2). Và dù "dây tử thần đã bủa vây chằng chịt, lưới âm ty chụp xuống trên mình" (Tv 116,3), chúng ta cũng vẫn ngước cao đầu mà tiến bước. Nếu gặp gian truân sầu khổ mà chúng ta thành tín kêu cầu danh Chúa: "Ôi lạy Chúa, xin cứu gỡ mạng con!" (Tv 116,4), Ngài sẽ thương cứu ngay, vì Ngài luôn đồng hành với chúng ta, nhất là trên những chặng đường đầy chông gai. Bởi vì Ngài mệnh danh là Thiên Chúa tình yêu (x. 1 Ga 4,8), là Đấng nhân từ chính trực, luôn một dạ xót thương, hằng gìn giữ những ai bé mọn, những người yếu đuối, đặc biệt là luôn giữ lời hứa. Tác giả Thánh vịnh đã là nhân chứng sống động: "Chúa cứu gỡ mạng tôi khỏi chết, giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ, ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt chân. Tôi sẽ bước đi trước mặt Ngài trong cõi đất dành cho kẻ sống" (Tv 116,8-9). Thật vậy, Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không của người chết.
Thánh Giacôbê chất vấn: "Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?" (Gc 2,14), và phân tích: "Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: 'Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no', nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?" (Gc 2,16). Thế thì đời sống tâm linh cũng vậy, "đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết" (Gc 2,17). Một cách định nghĩa đức tin rất ngắn gọn mà sâu sắc và rất hay. Quả thật là thế: "Bạn có đức tin; còn tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin" (Gc 2,18). Cứng họng. Không ai có thể đưa ra bất cứ lý do nào để tự biện hộ. Cách biện luận của Thánh Giacôbê rất thuyết phục, chắc hẳn ai cũng phải "tâm phục, khẩu phục".
Có lần Chúa Giêsu đã từng "ví von" thế này: "Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn?" (Mt 7,9-10). Chỉ có nước câm miệng chứ ai nói lại được gì? Đó là yêu thương, là sống đức tin, là sống đạo (chứ không chỉ giữ đạo), là thể hiện lòng thương xót của Chúa. Đừng thương xót Chúa mà hãy thương xót nhau, cũng như Chúa Giêsu đã nói: "Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu" (Lc 23,28).
Một dịp Đức Giêsu và các môn đệ tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai?" (Mc 8,27). Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó" (Mc 8,28). Ngài lại hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?". Ông Phêrô nhanh nhẹn đại diện trả lời: "Thầy là Đấng Kitô" (Mc 8,29). Một câu trả lời trên cả tuyệt vời, Phêrô nhà ta là "số dzách", là "number one"!
Thế nhưng Đức Giêsu liền nghiêm mặt và cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Rồi Ngài không nói về vinh hoa, phú quý, hoặc chức quyền, địa vị, mà Ngài bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Thánh Máccô cho biết rằng Chúa Giêsu nói rõ về điều đó, không hề úp mở.
Có lẽ Phêrô nhà ta "cụt hứng", thế nên ông liền kéo riêng Ngài ra và bắt đầu trách Ngài. Nhưng Ngài quay lại nhìn các môn đệ và trách ông Phêrô: "Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mc 8,33). Chúa Giêsu chưa một lần trách ai nặng như đã trách vị Giáo hoàng tiên khởi. Điều đó chứng tỏ Chúa rất công bình, chính trực, hay thì khen mà dở thì chỉnh ngay, không thiên tư hoặc vị nể. Thật vậy, những người khác chỉ bị trách là thế này hay thế nọ, còn Giáo hoàng Phêrô bị nguyền rủa là Satan. Quá nặng!
Nói xong thì thôi, không để bụng, Ngài liền gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và nói: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mc 8,34). Thuận ngôn, nghịch nhĩ. Khó quá, Chúa ơi! Thế nhưng Ngài vẫn thật thà và thẳng thắn: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8,35). Ngài không ép. Hoàn toàn cho tự do. Tuỳ ý. Thích thì chiều!
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con chỉ là những tội nhân khốn nạn, lúc nào cũng chỉ muốn "nổi dậy" bằng đủ cách, chỉ đòi được Ngài yêu mà không muốn yêu tha nhân, không muốn bị ghét mà chúng con lại lườm nguýt hoặc xỉa xói những người lân cận. Chúng con thật hồ đồ, thật đáng tội. Xin Ngài thương xót, tha thứ, và giúp chúng con quyết "bỏ mình" như Chúa Con đã nêu gương. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
12/9 Nghe mà không thực hành
- Viết bởi Lc 6, 43-49
Nghe mà không thực hành
Thứ bảy tuần 23 thường niên.
"Tại sao các con gọi Thầy 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà không thi hành điều Thầy dạy bảo?"
Lời Chúa: Lc 6, 43-49
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra. Tại sao các con gọi Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành. Thầy sẽ chỉ cho các con biết người ấy giống ai. Người ấy giống như người xây nhà: ông ta đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề".
Suy Niệm 1: Căn Nhà Ðức Tin
Một người giàu có nọ muốn thưởng cho người quản lý của mình. Ông cho biết ông sắp đi xa và giao cho người quản lý đứng ra xây cho một căn nhà sang trọng, với những vật liệu đắt giá và những nhân công tài giỏi nhất. Người quản lý xem đây là cơ hội để làm giàu: ông tính toán từng đồng trong việc mua sắm vật liệu cũng như chỉ mướn những thợ xoàng nhất với giá rẻ mạt. Dĩ nhiên, căn nhà cũng được hoàn thành một cách tương đối tốt đẹp.
Khi người giàu có trở về, người quản lý đem tất cả chìa khóa của căn nhà đến cho ông và báo cáo đã làm đúng như chỉ thị của ông. Ông chủ hài lòng, khen người quản lý và thưởng cho ông căn nhà đó. Trong những năm kế tiếp, khi phải chi tiền để tu sửa căn nhà, người quản lý không ngừng hối tiếc: giả như tôi biết trước, đây căn nhà ông chủ tặng cho tôi, thì tôi đã không xây cất nó một cách xoàng xĩnh như thế.
Ðức tin có thể ví như một căn nhà Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho con người. Tuy nhiên, đón nhận và xây dựng căn nhà ấy là phần của con người; căn nhà ấy có bền vững và đẹp đẽ hay không là tùy ở con người; căn nhà ấy có làm cho con người được hạnh phúc hay không là tùy ở việc xây dựng của con người. Chúa Giêsu đã nói: Ngài đến để con người được sống và sống dồi dào. Sự sống dồi dào ấy không chỉ ở đời sau; hạnh phúc thật không chỉ được hứa hẹn cho mai sau, nhưng ngay từ đời này, khi con người đón nhận và sống đức tin một cách sung mãn, con người sẽ cảm nếm được hạnh phúc. Chính Chúa Giêsu đã hứa cho các môn đệ và những ai từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài sẽ được gấp trăm ngay từ đời này. Và nhận được gấp trăm ngay từ đời này là gì, nếu không phải là niềm vui và bình an trong tâm hồn. Niềm vui và bình an ấy, con người chỉ có được khi sống cho đến tận cùng những cam kết của niềm tin.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt lại câu hỏi nền tảng: Chúng ta có thực sự an vui, hạnh phúc và hãnh diện vì được làm môn đệ Chúa Kitô không? Niềm tin của chúng ta có được diễn tả cụ thể bằng những hành động bác ái yêu thương chưa? Những giá trị của Tin Mừng có thực sự thấm nhập vào tâm hồn và hướng dẫn cuộc sống chúng ta không?
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Thách Ðố Của Người Tín Hữu
Một nhóm truyền đạo của một giáo phái đến ngay trước cửa một nhà thờ để chiêu dụ các tín đồ, họ giảng thao thao bất tuyệt về giáo lý của họ. Vị mục sư cai quản nhà thờ rất kiên nhẫn, ông đứng nghe giảng một hồi lâu rồi đưa tay ra hiệu và nói với các nhà truyền đạo:
- Thưa quí ông, tôi xin được đưa ra một đề nghị: tôi hiện đang có một ly thuốc độc, nếu các ông uống ly thuốc độc này mà vẫn còn sống thì không những tôi mà tất cả mọi người giáo dân đang có mặt ở đây cũng sẽ bỏ đạo của chúng tôi để gia nhập vào giáo phái của các ông; nhưng nếu các ông không uống ly thuốc độc này thì tôi chỉ có thể kết luận là các ông chỉ là những nhà truyền đạo giả hiệu của Tin mừng bởi vì các ông không tin tưởng ở Chúa là Ðấng, như các ông vừa mới loan báo, sẽ không bao giờ để các ông phải chết.
Nghe thế, các nhà truyền đạo không biết phải làm như thế nào. Họ liền kéo nhau đến một góc và bàn bạc với nhau: Chúng ta phải làm sao đây?
Cuối cùng, sau một lúc họ đã quyết định, họ trở lại trước mặt vị mục sư và nói: chúng tôi vừa nghĩ ra một kế hoạch, xin mời ông cứ uống thuốc độc, chúng tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông sống lại.
Giữa những điều chúng ta tuyên xưng và những gì chúng ta sống; giữa những gì chúng ta rao giảng và những gì chúng ta làm chứng luôn có khoảng cách. Ðạt được thống nhất giữa lời nói và hành động, giữa tin và sống, giữa nhà thờ và cuộc sống không phải là chuyện dễ. Mỗi ngày chúng ta vấp phạm đến bao nhiêu lần, mỗi ngày chúng ta chối bỏ đức tin của chúng ta biết bao nhiêu lần.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta điều ấy, mượn hình ảnh của cây và trái, của ngôi nhà và nền móng Ngài kêu gọi chúng ta sống điều chúng ta tin, thực hành điều chúng ta rao giảng. Thánh Giacôbê tông đồ đã diễn đạt một cách tuyệt hảo lời dạy của Chúa Giêsu khi ngài nói: "Ðức tin không có thực hành là đức tin chết". Tin mà không sống điều mình tin thì cũng chẳng khác nào không có đức tin.
Trong thông điệp Rao Giảng Tin Mừng, ban hành vào năm 1975, Ðức Cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã trình bày giáo huấn của Giáo Hội về việc rao giảng Tin Mừng. Trong số 14 của thông điệp, ngài viết: "Rao giảng Tin Mừng là ân sủng và ơn gọi riêng của Giáo Hội, là bản sắc sâu xa của Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu là để rao giảng Tin Mừng, nghĩa là để rao truyền và giảng dạy để trở thành máng thông ân". Như vậy, mục đích của rao giảng Tin Mừng là thay đổi tấm lòng của con người, việc công bố Tin Mừng phải được thực thi trước tiên bằng chứng từ của cuộc sống. Ðức Phaolô VI khẳng định: "Con người thời đại thích nghe các chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này là các chứng nhân".
Chúng ta đang sống trong thời đại của bùng nổ thông tin. Con người thời đại đang choáng ngộp vì lượng thông tin, họ mệt mỏi vì những lời nói suông. Thời đại của thông tin cũng là thời của khủng hoảng về lời nói, đây chính là thách đố của người tín hữu Kitô. Nếu cuộc sống của họ không là một thể hiện của niềm tin của họ, nếu cuộc sống đời thường của họ hoàn toàn cách biệt và xa lạ với những gì tuyên xưng trong nhà thờ thì cộng đồng của họ dù có được tập trung trong một nhà thờ dù nguy nga đồ sộ đến đâu cũng vẫn là một đám ma buồn tẻ hơn là một cộng đồng có sức sống.
Sống đạo và truyền đạo là một ơn và là một nghĩa vụ của người tín hữu Kitô. Chúng ta cảm tạ Chúa đã trao phó cho chúng ta một nhiệm vụ cao cả như thế.
Nguyện xin Ngài ban ơn giúp sức cho cuộc sống mỗi ngày của chúng ta trở thành lời tuyên xưng và rao giảng sống động cho mọi người.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 3: Nói hay làm dở
Tại sao anh em gọi Thầy: Lạy Thầy, Lạy Chúa! mà anh không làm điều Thầy dạy?
"Ai đến với Thầy, và nghe những điều Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em người ấy ví được như ai. Người ấy được ví như một người khi xây nhà, đã cuốc đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây cững chắc. Còn ai nghe mà không thực hành, thì ví được như người xây nhà ngay trên mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào, nhà sụp đổ ngay và bị phá hủy tan tành." (Lc. 6, 46-49)
Những bài thuyết trình càng hay, càng đáng thở dài, hứa nhiều làm ít: Lạy Chúa, lạy Chúa, kêu dễ dàng và bao nhiêu cũng được, nhưng vào việc lại chậm trễ ươn hèn chẳng làm điều cam kết chi cả. Đức Kitô phải khó chịu khi nói ra điều này và không nhịn được nên kêu gọi người ta phải chú ý đến nó.
Nói hay làm dở, ai trong chúng ta cũng không nhiều thì ít, rất đơn giản, có đầy trong thực tế hằng ngày. Chúa đã chỉ cho chúng ta thấy rõ điều đó khi so sánh nói mà không làm giống như xây nhà trên cát không có nền chắc chắn. Mưa sa lũ lụt và bão làm nhà sụp đổ. Nói và làm, thì như người xây nhà trên đá, nước dâng lên, sóng vỗ, nhà vẫn không lay chuyển. Cũng như trồng cây trên đất tốt, sẽ gặt được mùa bội thu hoa trái tốt đẹp.
Chỉ đến nghe Đức Kitô giảng thì không đủ. Phải sống lời Chúa. Cầu nguyện nhiều không đủ, phải cải tạo cách nghĩ và cách làm. Chỉ chấp nhận những đòi hỏi vác thập giá Đức Kitô xuông chưa đủ. Phải biết kết hiệp với Người khi gặp gian nan, thử thách, gặp đau khổ, nghịch cảnh. Phải biết đón nhận những đau khổ trong mầu nhiệm sự chết để hy vọng tràn trề được sống lại vui mừng.
Chỉ nhận biết cần thiết phải hy sinh vì lý do đức tin đòi chấp nhận sự vô lý, thì không đủ, còn phải sẵn lòng hy sinh liên lỉ, dầu phải chiến đấu cam go để giải thoát những tấn công của những khuynh hứng xấu xa tàn bạo.
Chỉ kêu gào công lý và bác ái không đủ, phải chính mình đương đầu với những bất công, bất nhân, dù biết rằng mình không luôn luôn chiến thắng. Như thế, chúng ta có thể nuôi hy vọng trở nên người không nói hay, nhưng làm hay.
11/9 Nhận biết chính mình
- Viết bởi Lc 6, 39-42
Nhận biết chính mình.
Thứ sáu tuần 23 thường niên.
"Người mù có thể dẫn người mù được chăng?"
Lời Chúa: Lc 6, 39-42
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi.
"Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh', trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi. Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".
Suy Niệm 1: Hãy Tự Biết Mình
Chỉ là thụ tạo mà muốn làm Thượng đế, đó là ảo tưởng muôn đời của con người. Ngay từ đầu lịch sử nhân loại, Ông Bà nguyên tổ của loài người đã trải qua cơn cám dỗ ấy. Ma quỉ nói với Ông Bà: Các ngươi hãy ăn trái cấm, các ngươi sẽ trở thành Thiên Chúa, nghĩa là các ngươi hãy chối bỏ Thiên Chúa và tự tôn mình thành Thiên Chúa để sống mà không cần có Thiên Chúa. Ðó là cơn cám dỗ triền miên của con người: sống không cần Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, để tự tạo cho mình một bậc thang giá trị và trở thành thẩm phán tối cao cho mọi hành động của mình cũng như của người khác.
Tin Mừng hôm nay không chỉ là một bài học có tính cách luân lý. Chúa Giêsu không chỉ khuyên chúng ta không nên xét đoán người khác, Ngài còn mời gọi chúng ta tự đặt mình vào mối tương quan với Thiên Chúa: Chỉ có Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt lòng con người mới có thể xét xử con người. Nhìn nhận quyền xét xử của Thiên Chúa, con người cũng sẽ nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. "Hãy lấy cái dằm ra khỏi mắt ngươi trước đã", nghĩa là hãy nhận ra thân phận bất toàn của mình trước.
Có nhận ra mối tương quan đích thực với Thiên Chúa, con người mới thấy được tương quan của mình với tha nhân. Thật thế, chối bỏ và cắt đứt mối tương quan với Thiên Chúa, con người cũng đi đến chỗ chối bỏ tha nhân. Ngược lại, nhận ra Thiên Chúa là Chủ tể, con người cũng sẽ nhận ra thân phận thụ tạo yếu hèn của mình và tình liên đới với tha nhân. "Hỡi người, hãy tự biết mình", đó là khẩu hiệu mà nhà hiền triết Hy Lạp là Socrate thường đề ra như bài học vỡ lòng cho các môn sinh, có lẽ cũng được Chúa Giêsu nhắc lại theo một công thức khác: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". "Hãy sám hối" trước tiên là nhận ra thân phận bất toàn của mình, để từ đó sống cảm thông, kiên nhẫn, bao dung và tha thứ đối với người khác. Sống như thế, con người mới đạt được cùng đích của mình là trở nên giống Thiên Chúa, chứ không phải trở thành Thiên Chúa để gạt bỏ chính Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Ánh Sáng Thế Gian
Ngày 11/09/2003 Hoa Kỳ và cả thế giới đã tưởng niệm các nạn nhân của cuộc khủng bố ngày 11/09/2001. Thế giới không những tưởng nhớ những người đã chết, thế giới còn nhắc nhở để ý thức về những sức mạnh mù quáng của sự dữ đang lôi kéo con người vào vòng tội ác. Những kẻ gây ra đau thương tang tóc cho người đồng loại mà vẫn nghĩ rằng mình đang làm điều tốt. Nhiều người đang bị lôi kéo vào vòng tội ác mà không hay biết.
Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian. Ngài đến để cứu thoát con người khỏi tăm tối của sự dữ. Ngài nói với loài người rằng họ đang bị sức mạnh mù quáng của sự dữ lôi kéo và trói buộc. Ngài đến để mang lại cho chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận thân phận tội lỗi của mình chúng ta mới thấy được sự cần thiết để được giải thoát.
Chúa Giêsu đã khẳng định: "Chỉ có sự thật mới giải thoát các ngươi". Sự thật ở đây trước hết là sự thật về thân phận yếu hèn tội lỗi của chúng ta. Thật thế, chỉ khi nào biết mình đang đi trong bóng tối chúng ta mới cảm thấy cần có ánh sáng. Trái lại bao lâu vẫn không nhận ra thân phận mù lòa của mình, bấy lâu chúng ta sẽ chẳng bao giờ cảm thấy cần có ánh sáng.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh của người mù dắt người mù để nói lên tình trạng khốn khổ của con người. Ðể có thể là người dẫn đường, chúng ta phải là người thấy đường đã. Thấy đường ở đây không hẳn là nắm bắt hay chiếm hữu chân lý. Thấy đường thiết yếu là thấy được thân phận tội lỗi của mình và từ đó có một thái độ khiêm tốn hơn trong quan hệ với người khác. Chính vì thế mà Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy lấy cái xà trong con mắt mình trước đã rồi mới thấy rõ hầu lấy cái rác trong con mắt người anh em.
Tựu trung, chúng ta được mời gọi để sám hối và sống khiêm tốn hơn. Thế giới đang bị những sức mạnh mù quáng của sự dữ lôi kéo, xã hội trong đó chúng ta đang sống cũng đang bị nhận chìm trong tăm tối của sự dữ. Sự dữ đúc chế những danh từ hoa mỹ, sự dữ được cơ chế hóa, sự dữ được luật pháp che chở. Sống trong bóng tối con người chẳng còn phân biệt được ánh sáng và bóng tối. Ði trong tăm tối của sự dữ con người chẳng còn biết thế nào là thiện thế nào là ác, và cuối cùng ý thức về tội lỗi cũng bị đánh mất.
Lời đầu tiên của Chúa Giêsu khi khởi đầu sứ vụ công khai là kêu gọi con người sám hối và tin vào Tin Mừng. Có nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người mới có thể nhận ra được sự cần thiết của ơn cứu rỗi. Ðây chính là điều Giáo Hội nhắc nhở con cái mình mỗi ngày. Ở đầu mỗi thánh lễ chúng ta đấm ngực và xưng thú tội lỗi của mình, làm như thế chúng ta không những nói lên thân phận tội lỗi của mình mà còn mời gọi mọi người ý thức về những sức mạnh của sự dữ đang hoành hành trên thế giới. Sám hối là tâm tình cơ bản nhất của người tín hữu Kitô.
Nguyện xin Chúa cho đôi mắt tâm hồn chúng ta luôn được sáng suốt để nhìn thẳng vào nội tâm sâu kín của chúng ta, hầu nhận ra những bất toàn sai sót của mình. Ý thức về tội lỗi của mình chúng ta mới nhận ra được những sức mạnh của sự dữ đang bủa vây chung quanh chúng ta, và, với sự trợ giúp của ơn Chúa chúng ta mới đủ sức để chiến đấu chống lại sự dữ.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 3: Cái rác, cái xà
Sao anh lại có thể nói với người anh em: này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong mắt anh ra, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong mắt người anh em! (Lc. 6, 42)
Chúa có lý, chắc chắn đúng! thực vậy làm sao người mù lại có thể dắt người mù được! nhất là không thấy cái xà trong mắt mình thì làm sao thấy cái rác trong mắt người lân cận được. Kẻ đó quá bệnh tật, không chỉ bệnh mù mắt mà còn mù trí khôn, không thấy và cũng không biết suy nghĩ phán đoán.
Biết bao nhiêu kẻ mù như thế trên con đường nhân trần này! có thể trong đó có tôi! biết bao nhiêu người tưởng mình có cái nhìn sâu sắc thiên bẩm, nhưng chỉ khi nhìn người khác thôi, còn mình thì lại mù. Tất cả chúng ta ít nhiều đều mắc tật đó! nếu chúng ta có cái nhìn khách quan, chúng ta sẽ run sợ vào chính mình và nhận ra tại sao mình lại sùng bái cái xà trong mắt mình mà lại không tôn trọng người khác chỉ có cái rác thôi. Lúc đó chúng ta mới lo sửa mình.
Khi Đức Kitô nói về những người biệt phái và về những tiến sĩ luật: "Hãy làm những điều họ nói và đừng làm như họ sống, họ đặt những gánh nặng cho người khác, còn họ không vác". Chúng ta có thể chắc rằng họ phải nổi giận bất bình với lời tố cáo như thế vì họ không cho họ là giả hình. Chúng ta có tốt hơn họ chăng?
Chúng ta tố giác anh chị em mình, chê trách họ đủ điều sai trái, chúng ta thấy họ nhiều thiếu xót không thể tha thứ được, không thể khoan hồng, không thể thông cảm và không cần tử tế với họ. Chúng ta sẽ giật mình ghê sợ nếu họ cũng kết án chúng ta như chúng ta kết án họ, nếu họ bảo chúng ta biết rõ những lỗi lầm của chúng ta như chúng ta khám phá thấy nơi họ.
Chúng ta mù lại thích tôn mình hướng dẫn người mù khác!
Trái lại, người khác phải là cái gương giúp ta soi thấy ta, nếu không thì không thể tha thứ cho ta được. Chúng ta thích than trách thảm thiết những nhỏ nhen người ta làm cho ta phải chịu, vậy ta hãy tự hỏi mình xem ta có làm đúng như họ không? Cái xà chống cái xà, cái rác chọi cái rác. Hãy nhớ: "Ác giả ác báo, tích thiện giả thiện".
10/9 Bắt chước Thiên Chúa Cha
- Viết bởi Lc 6, 27-38
Bắt chước Thiên Chúa Cha.
Thứ năm tuần 23 thường niên.
"Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót".
Lời Chúa: Lc 6, 27-38
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại.
Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng. Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Đấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác. Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ. Đừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".
Suy Niệm 1: Yêu Thương Kẻ Thù
Thiên Chúa là Tình Yêu, ai sống trong Tình Yêu là sống trong Thiên Chúa; ai sống trong hận thù, người đó cũng chối bỏ Thiên Chúa. Ðã đi vào cuộc sống là đặt mình vào tương quan với Thiên Chúa: hoặc là sống cho và với Thiên Chúa; hoặc là chối bỏ Ngài.
Chúa Giêsu không đến trần gian để thiết lập một hệ thống luân lý, Ngài đến trước hết là để mặc khải tình yêu của Thiên Chúa và đặt con người vào mối tương quan với Thiên Chúa. Vì là hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu nên con người cũng phải sống như Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ có một tình yêu đúng nghĩa nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa, và cũng chỉ có một cách yêu đúng đắn nhất, đó là yêu như Thiên Chúa yêu. Qua cuộc sống của Ngài, qua các quan hệ của Ngài với tha nhân, và nhất là qua cái chết của Ngài trên thập giá, Chúa Giêsu đã tỏ cho con người thấy được tình yêu của Thiên Chúa. Yêu như Thiên Chúa yêu là trao ban và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu; yêu như Thiên Chúa yêu là yêu mọi người, ngay cả kẻ thù mình.
Chúa Giêsu sẽ không mặc khải trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa, nếu từ Thập giá, Ngài không tha thứ cho chính những kẻ đang hành hạ Ngài. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là đang lúc giang tay ra cho kẻ thù đóng đinh vào Thập giá mà vẫn có thể thốt lên: "Lạy Cha! Xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Chúa Giêsu đã không rao giảng bất cứ điều gì mà chính Ngài không sống và minh chứng trước: dạy chúng ta tha thứ cho kẻ thù, Ngài đã chứng minh đó là điều nằm trong khả năng của con người.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về ơn gọi cao cả của người Kitô hữu: Như Chúa Giêsu đã tha thứ cho những kẻ hành hạ Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để yêu thương và tha thứ không ngừng, bởi vì chỉ có lòng tha thứ, chúng ta mới thực sự trở thành nhân chứng tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Tiến Mãi Không Ngừng
Ghi lại kinh nghiệm sống của mình trong tập nhật ký có tựa đề là Những người bạn muôn thuở, bà Ressa Marita, vợ của triết gia công giáo người Pháp Jack Maritain đã viết như sau:
"Trong cuộc sống thiêng liêng, chúng ta không nên so sánh mình với ai cả, mà chỉ so sánh mình với mẫu gương trọn lành của Chúa mà thôi. So sánh mình với kẻ khác, ta sẽ thấy mình dễ bị cám dỗ, thấy những điểm tiêu cực nơi anh chị em và trở nên tự kiêu, luôn cho mình là tốt hơn. Nhưng nếu nhìn vào mẫu gương trọn lành của Chúa, ta được mời gọi canh tân liên lỉ, tiến mãi không ngừng, vì Chúa là Ðấng trọn tốt trọn lành vô cùng".
Những lời tâm sự của bà Ressa Marita hướng chúng ta đến những lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ mà tác giả Phúc Âm thánh Luca đã ghi lại nơi chương 6.
Mức độ đo lường của tình yêu thương chúng ta là không có mức độ nào cả, hay đúng hơn là chính mẫu gương trọn tốt trọn lành vô cùng của Thiên Chúa Cha. Bao lâu còn sống trên trần gian này, chúng ta còn cần tiến thêm mãi trên con đường yêu thương. Không ai dám tự phụ cho rằng mình đã thành toàn, đã đạt đến mức độ trọn lành như Thiên Chúa rồi. Những hành động yêu thương được Chúa Giêsu nhắc đến mà tác giả Phúc Âm theo thánh Luca ghi lại là những hành động yêu thương thiết thực, yêu thương kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét mình, chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.
"Hãy ra đi mà không tính toán hơn thiệt, đừng xét đoán, hãy tha thứ". Ðó là những chân trời mới, bao la, rộng mở tình yêu thương nơi tâm hồn người môn đệ Chúa. Chúng ta không thể nào chỉ nói ngoài môi miệng mà còn cần phải thực hiện tình yêu thương như Chúa đã nêu gương bằng những hành động cụ thể. Nếu không, ta sẽ bị xét xử như là những kẻ giả hình, nói mà không làm, không sống thật Lời Chúa dạy.
Một cô giáo nọ ra bài cho các học sinh như sau: "Chiều nay về nhà, mỗi em phải làm một việc tốt đối với người thân nào đó trong gia đình".
Ngày hôm sau, một em học sinh đến trường than phiền với cô giáo như sau: "thưa cô, con không thể tiếp tục làm công tác này được nữa".
Trước sự ngạc nhiên của cô giáo, học sinh này giải thích như sau: Bữa cơm tối qua con đã khen mẹ nấu ngon. Thay vì vui mừng, mẹ con nổi giận nói con chọc tức và gián tiếp chê bữa ăn không ngon. Con giải thích với mẹ nhưng mẹ không tin, và nổi giận ra lệnh con phải rửa chén để chứng minh cụ thể bữa ăn ngon.
Tiếc thay, em bé thành tâm khen ngợi mẹ, nhưng người mẹ thì ngược lại không tin, cho rằng em giả vờ khen và có hậu ý nào khác. Thay vì yêu thương thật tình và cảm nhận tình thương của anh chị em đối với mình, thì nhiều lúc ta cũng hành động như người mẹ trong câu chuyện vui trên. Ta nghi ngờ tình thương của anh chị em vì có bao giờ ta yêu thương thật sự anh chị em đâu, có chăng chỉ là những lời nói xã giao bên ngoài cho qua lúc. Thật là, suy bụng ta ra bụng người.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 3: Yêu người tột độ
"Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù va làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em." (Lc. 6, 27-28)
Qua đoạn Tin Mừng này, Đức Kitô dẫn chúng ta tới đỉnh cao của bác ái, càng đi theo Người càng dốc hết hơi, leo lên cao mãi, cao mãi liên tục.
"Hãy yêu thương kẻ thù", Chúa dạy thế, không lý thuyết xuông nhưng rất cụ thể. Người cho thấy những công việc rõ ràng trước mắt, không để chúng ta phải tưởng tượng. "Hãy làm ơn cho kẻ ghét anh em, chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em...". Tất cả những kẻ đó không phải là ảo ảnh ma quái, nhưng là con người bằng xương bằng thịt mà lý tự nhiên mình phải xa lánh, ghét bỏ. Chính những kẻ đó phải được nâng đỡ, phải sẵn lòng mỉm cười với họ.
Đức Kitô nói thêm: "Ai vả má bên này, thì hãy giơ má bên kia. Ai đoạt áo ngoài đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin hãy cho, ai lấy gì của anh thì đừng đòi lại...".
Có lẽ chúng ta sẽ thẳng thắn trả lời: "Lạy Chúa, Chúa đã đi quá mạnh, không thể tới được". Nhưng, Đức Kitô vẫn tiếp tục không khoan nhượng: "Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì còn gì là ân nghĩa? ngay cả những kẻ tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì còn gì là ân nghĩa? ngay cả những người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân nghĩa? cả kẻ tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay để được trả lại sòng phẳng.
Không thể tới được bác ái Kitô giáo, chúng ta cần tiếp tục suy nghĩ. Làm sao sống vượt mức như thế! sống yêu thương tột độ! nhiều môn đệ của Chúa đã sống vượt mức như thế và còn sống vượt mọi mức tới tột độ nữa. Họ đã theo Đức Kitô Đấng giầu lòng thương xót và tha thứ. Đức Kitô sẽ hài lòng và âu yếm nhìn Phê-rô và tất cả mọi người đã nên giống Người.
GF
09/9 Phúc thật và khốn thay
- Viết bởi Lc 6, 20-26
Phúc thật và khốn thay.
Thứ tư tuần 23 thường niên.
"Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có".
Lời Chúa: Lc 6, 20-26
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các môn đệ và nói:
"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ các ngươi như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.
"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".
Suy Niệm 1: Các Mối Phúc Thật
Nhiều người cho rằng tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng, là những sức mạnh chống lại sự tiến bộ và phát triển của nhân loại. Lời cáo buộc này xem ra được củng cố hơn khi người ta đọc những lời chúc phúc của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay.
Thật thế, trong quan niệm thông thường của con người, dù ở đâu và ở bất cứ thời đại nào: có tiền của là có tất cả. Trong khi đó, Chúa Giêsu lại tuyên bố: Phúc cho những người nghèo khó, phúc cho những kẻ bây giờ phải đói khát, phúc cho những kẻ bây giờ đang phải than khóc, phúc cho những kẻ đang bị oán ghét. Phải chăng Chúa Giêsu không là kẻ lừa bịp đang cười cợt trên những đau khổ của nhân loại? Phải chăng đó không phải là sứ điệp cổ võ sự bần cùng, đói khổ, lạc hậu, đi ngược với tiến bộ và phát triển của nhân loại?
Chúa Giêsu quả thực đã sống như một người nghèo giữa những người nghèo; đã tuyên bố: Phúc cho những kẻ nghèo đói, phúc cho những kẻ đang khóc lóc, phúc cho những kẻ bị bách hại, Chúa Giêsu hẳn phải là người hạnh phúc nhất, vì Ngài đã đi đến tận cùng sự nghèo đói, bách hại ấy. Chúa Giêsu đã không làm phép lạ cho trái đất luôn chảy sữa và mật, Ngài đã không đem lại một giải pháp chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể nào; thế nhưng, cuộc sống, lời nói và cái chết của Ngài lại là chìa khóa giúp giải quyết các vấn đề của con người. Quả vậy, vấn đề cơ bản của con người là gì, nếu không phải là được sống hạnh phúc; tuy nhiên, sai lầm lớn nhất của mọi thời chính là nghĩ rằng càng có nhiều tiền của, quyền bính, danh vọng thì càng được hạnh phúc.
Khi tuyên bố: "Phúc cho những kẻ nghèo khó", Chúa Giêsu không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất là phương tiện cần thiết để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người để nó thống trị và hưởng dụng mọi sự trong vũ trụ. Khi tuyên bố: "Phúc cho những kẻ nghèo khó", Chúa Giêsu nhắc nhở cho con người bậc thang giá trị đích thực trong cuộc sống. Của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh của cuộc sống. Người nghèo khó như Chúa Giêsu đã từng sống là người sống theo bậc thang giá trị ấy. Người sống nghèo khó như Chúa Giêsu là người biết sống cho những giá trị vĩnh cửu, là yêu thương, quảng đại, liên đới, tình người.
Ðược lời Chúa soi sáng hướng dẫn, người Kitô hữu chúng ta phải là người luôn tìm kiếm và sống cho những giá trị vĩnh cửu. Giữa những vất vả vì chén cơm manh áo từng ngày, xin cho chúng ta luôn tìm kiếm Nước Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ là người hạnh phúc nhất, vì chúng ta biết mình sống để làm gì và sẽ đi về đâu.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Những Hạnh Phúc Bất Tiện
Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ rồi nói:
"Phúc cho anh em những kẻ nghèo khó,
vì Nước Thiên Chúa là của anh em.
Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói,
Vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.
Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc,
Vì anh em sẽ được vui cười. (Lc. 6, 20-21)
Với lý trí chúng ta rất khó hiểu về các mối hạnh phúc này. Lý trí đành chịu thua. Chúng đả đảo lý luận con người. Chúng làm ta phát điên. Nhưng chúng lại làm ta kinh ngạc và chúng ta không dám từ bỏ chúng vì nghĩ đến những bao nhiêu quả phúc chúng đã sinh ra qua những thế hệ. Những hạnh phúc theo Thánh Lu-ca và Thánh Mát-thêu đều gây kinh ngạc, tuy hai Thánh có viết khác nhau, nhưng cùng một mục đích là hạnh phúc nước trời. Thánh Mát-thêu nhấn mạnh đến tinh thần nghèo khó, đến thái độ con tim. Thánh Lu-ca nhấn mạnh đến nghèo khó thật sự, nghèo khó của giai cấp xã hội chẳng có gì hết trơn hết trọi, giai cấp xã hội nghèo khó này đang qui tụ lại thành tín đồ của Tin Mừng Đức Giêsu. Thánh Mát-thêu kêu mời từ bỏ bên trong. Thánh Lu-ca kêu gọi cải tạo cơ cấu xã hội để giảm bớt những khổ đau trong xã hội.
Chính trong thảm trạng cụ thể của lịch sử mà Đức Kitô nói: " Các bạn là những người nghèo khổ, đói khát, khóc lóc, bị khinh bỉ, ghen ghét, bị bắt bớ, bị nhục nhã, phúc cho các bạn. Vì nếu bây giờ các bạn chịu được như thế, ngày kia tất cả sẽ đổi lại, các bạn sẽ giầu có, no nê, vui cười, được mến chuộng trong nước Thiên Chúa".
Có thật không hay trò đùa? Đức Kitô nói thế nào? có phải Ngài nói dỡn để cho những kẻ khốn khổ thể xác, tình cảm, tinh thần được vui chút ư? có phải Ngài là chú hề đã nói đến sự đền bù ở tương lai mơ hồ giả định ư? có phải chỉ là giấc mơ hạnh phúc có thể giúp cho người ta chịu khổ bây giờ để đè nén cho nguôi đi những đau đớn và uất ức chăng? hiểu sai lầm các mối phúc thật, như thế là độc ác và vô liêm sỉ. Đức Kitô không bao giờ phong thần đau khổ và bất hạnh. Người không ngừng làm giảm bớt nỗi đau khổ của con người suôt đời Ngài đã cứu chữa, an ủi những bệnh nhân, tật nguyền, nghèo khổ và tha thứ cho những tội nhân, giải phóng những kẻ bị ma quỷ xiềng xích. Ngài muốn chúng ta hiểu và chấp nhận thập giá như Ngài. Vì mến Chúa và yêu người. Lúc đó thập giá trở nên lời hứa thực hiện ơn cứu độ. Như vậy khác xa những thứ mỵ dân!
GF
08/9 Cuốn sách một chữ
- Viết bởi Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Cuốn sách một chữ.
Thứ ba tuần 23 thường niên – Sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria. Lễ kính.
"Bà đã thụ thai bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần".
* Sinh nhật của Đức Maria vượt hẳn cả sinh nhật của thánh Gioan, vị Tiền Hô. Sinh nhật của Đức Maria loan báo Sinh Nhật của Đức Giêsu, là khúc dạo đầu của Tin Mừng. Một người con gái ra đời trong gia đình bà Anna và ông Gioakim đã làm cho "niềm hy vọng và bình minh ơn cứu độ mọc lên chiếu soi thế giới". Chính vì thế, Hội Thánh mời gọi chúng ta cử hành ngày lễ này trong tâm tình hân hoan.
Lời Chúa: Mt 1, 1-16. 18-23
Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham.
Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.
Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.
Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Sala-thiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, chồng Bà, là người công chính, không muốn tố giác Bà, nên mới định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; Bà sẽ sinh hạ một Con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:
"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
SUY NIỆM 1: Cuốn sách một chữ
Người ta kể chuyện rằng: ngày kia một văn sĩ bỗng nảy sinh ra một ý kiến ngộ nghĩnh. Ông ta muốn viết một cuốn sách. Mà cuốn sách ấy, ông muốn làm sao cho nó không được dài quá một trang. Cuốn sách một trang này lại phải làm sao cho nó không được dài quá một dòng. Dòng ấy phải làm sao cho nó chỉ vỏn vẹn có một chữ.
Chữ độc nhất ấy, cố nhiên, phải làm sao diễn tả được hết mọi tư tưởng cao xa, tốt đẹp của văn sĩ.
Ý nghĩ ấy ngày đêm ám ảnh ông ta, làm cho ông ta mất ăn, mất ngủ. Làm thế nào viết được cuốn sách một chữ ấy?
Cuối cùng nhà văn kia đành ngồi khoanh tay bó gối, thở dài thất vọng... Tất cả những danh từ trên thế giới, không đủ cung cấp tài kiệu, và ý nghĩa cho công việc ông ta dự định thực hiện.
Nhưng, cuốn sách một chữ ấy Thiên Chúa đã viết được. Chữ độc nhất, hàm súc mọi ý nghĩa, vừa hùng hồn, sâu rộng, vừa nhẹ nhàng ý nhị để diễn tả được những kỳ công kiệt tác trong vũ trụ. Tất cả những gì là tươi mát, là xinh đẹp, tất cả những gì là đáng quý chuộng, đáng yêu thương, đáng đòi hỏi, đáng tìm kiếm, đáng ước ao, đáng khát vọng.
Chữ ấy là: Maria, tên của người Trinh Nữ đã được thiên Chúa tuyển chọn và tô điểm cho cân xứng với thiên chức làm Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể, cân xứng để trở nên vườn địa đàng thật hoàn hảo, thật sặc sỡ, thật kiều diễm để trong cung lòng của Maria, Thiên Chúa sẽ cử hành một lễ cưới long trọng, không phải giữa một người với một người, nhưng là giữa Thiên Chúa và nhân loại.
Ngày hôm nay toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng ngày chào đời của công trình tuyệt hảo ấy của Thiên Chúa. Hân hoan vì với tiếng khóc và nụ cười của em bé mang tên Maria này, vầng đông của lịch sử và công trình cứu rỗi của toàn thể nhân loại đã ló dạng.
Một ngày nọ, thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, gặp trong nhà thờ một người đàn bà có vẻ đang đau khổ nhiều. Bà ta vừa trở thành góa phụ. Ông chồng đã rơi từ cầu xuống sông và bị chết đuối. Ông ta đã chết khi chưa kịp ăn năn thống hối. Do đó, đối với bà, ông chồng chắc chắn đã mất linh hồn.
Cha Vianney đã nhẹ nhàng đến gần, và được Chúa soi sáng, cha đã nói:
- Chồng bà đã được cứu thoát. Qúa ngạc nhiên và tỏ vẻ không tin, bà ta lại hỏi:
- Thưa cha, làm sao lại có thể như vậy? Cha Vianney cắt nghĩa:
- Có Chúa ở giữa chiếc cầu và dòng sông. Chồng bà đã cùng rơi với Chúa và khi rơi, ông đã làm hòa với Ngài.
- Nhưng làm sao có thể như vậy được? Bà vợ hỏi lại:
- Ðó là một ơn của Ðức Mẹ. Cha Vianney trả lời và cắt nghĩa tiếp:
- Vì một hôm, trên đường từ đồng về nhà, chồng bà đã hái một đóa hoa đem chưng trước tượng Ðức Mẹ ở bên đường. Ðức Mẹ có thể quên được cử chỉ tốt đẹp này sao?
Mừng ngày sinh nhật của Mẹ Maria hôm nay, chúng ta hãy quyết hái nhiều chiếc hoa xinh đẹp dâng kính Mẹ. Nhất là chúng ta hãy tiếp tục làm những việc đạo đức thông thường dâng kính mẹ, như: lần hạt Mân Côi, đọc kinh truyền tin, nguyện kinh cầu. Nhưng chúng ta hãy làm những việc đạo đức thông thường ấy một cách phi thường. Có nghĩa là: miệng đọc, lòng suy và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, để cuộc đời của Ðức Mẹ, vốn đã trở nên một với cuộc đời của Chúa Giêsu, cũng được thể hiện trong cuộc sống của mỗi người trong chúng ta.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Gia phả của Chúa Giêsu Kitô
Hôm nay, lễ sinh nhật Ðức Mẹ, quyển gia phả của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe và suy niệm trong ngày sinh của Ðức Mẹ có một ý nghĩa đặc biệt. Quyển gia phả này được chia thành 3 phần: Phần thứ nhất kể tên các vị tổ phụ, phần thứ hai nhắc đến các vua trước thời lưu đày bên Babylon, và phần thứ ba dành cho các vua sau thời lưu đày.
Tất cả những tên tuổi được nhắc đến trong quyển gia phả của Chúa Giêsu gợi lên cho chúng ta chương trình và sự lựa chọn vô cùng lạ lùng của Thiên Chúa.
Quả thật, gia phả của Chúa Giêsu như được thánh Máthêu dựng lại là một dòng sông lịch sử được dệt bởi rất nhiều tội nhân và những kẻ gian ác, nhưng lịch sử ấy lại cũng là lịch sử của tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Chúa Giêsu cũng đã hành xử theo cung cách ấy của Thiên Chúa, Ngài đã chọn Phêrô là kẻ đã chối Ngài, Ngài đã chọn Phaolô là kẻ đã bách hại Giáo Hội của Ngài.
Thông thường, khi viết về lịch sử của dân tộc, người ta thường che dấu những thất bại để chỉ đề cao những chiến thắng, các bậc anh hùng và những hành động lẫm liệt của họ. Lịch sử của ơn cứu độ đã không được viết như thế, Thiên Chúa đã viết thẳng bằng những đường cong, Ngài đã chọn viên đá bị loại ra làm viên đá góc tường, Ngài đã chọn những con người yếu đuối và tội lỗi để thực hiện chương trình cứu độ của Ngài. Chính trong dòng sông đầy tội lỗi ấy mà Mẹ Ngài đã được sinh ra để chuẩn bị cho Ngài một chỗ trong lịch sử nhân loại. Chính vì là thành phần của một nhân loại tội lỗi mà Mẹ mới có thể sinh ra Chúa Giêsu như một con người hoàn toàn như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Chính vì sinh ra trong một gia đình tội lỗi mà Mẹ mới có thể cảm thông với những yếu đuối bất toàn của kiếp người. Chính vì gắn liền với một lịch sử đầy những phản bội hất ngã mà Mẹ mới là nơi nương tựa cho những người tội lỗi. Còn lời kinh nào xứng hợp để dâng lên Mẹ trong ngày sinh của Mẹ cho bằng lời kinh Kính Mừng: "Thánh Maria, Ðức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen".
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Sinh nhật Đức Maria
Ma-ri-a là nguồn cậy trông vì lý do tối cao của Mẹ để sống chính là Thiên Chúa. Mẹ sống vì Chúa. Mẹ khao khát làm theo thánh ý Chúa "Này tôi là tôi tớ Chúa, mong sao lời Chúa đến với tôi". Mẹ sống vì con để chia sẻ ước muốn của con cứu độ thế giới để giải thoát mọi người khỏi áp chế của sự dữ. Mẹ cộng tác vào sứ vụ của Con. Mẹ dâng lời cầu nguyện hiến lễ cho nước Chúa ngự đến. Mẹ kết hiệp những đau đớn của Mẹ với đau đớn của Con.
Thiên Chúa là nguồn hy vọng của Ma-ri-a
Ma-ri-a hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Mạnh mẽ hy vọng, Mẹ có thể đương đầu với mọi hoàn cảnh đau khổ, dù thật bi đát. Mẹ chịu đau khổ khi Đức Giê-su bị hiểu lầm, bị oán ghét. Lòng Mẹ bị xâu xé, khi mẹ đứng dưới chân thánh giá để chứng kiến con hấp hối.
Mẹ suy niệm trong lòng lời trối cuối cùng của con khi Người phó Mẹ cho Gioan : "Thưa Bà, này là con Bà... Này là mẹ con..."
Trước xác con mẹ không một chút nghi ngờ lời Người đã nói : "Ngày thứ ba Thầy sẽ sống lại". Con Mẹ đã sống lại và hằng sống ngự bên hữu Đức Chúa Cha, Mẹ vui mừng về hạnh phúc và vinh quang của con Mẹ : "Mọi thế hệ sẽ khen tôi có phúc".
Hy vọng của chúng ta là gì ?
Hy vọng của chúng ta bị suy nhược vì nó không đặt vững chắc trên nền tảng tốt lành và toàn năng của Thiên Chúa.
Mẹ Ma-ri-a là mẫu mực của lòng trông cậy. Mẹ mời gọi chúng ta đặt tất cả nguồn trí tri của chúng ta, con tim của chúng ta, ý chí của chúng ta làm theo lời kêu gọi trở về với Chúa, nâng cao cái nhìn của chúng ta vượt trên trái đất này để đến với ánh sáng lời Chúa, đến với nguồn an ủi trong tình yêu của Chúa, đến với nguồn sức mạnh toàn năng của Chúa.
"Sống giữa trần gian đầy bất công, chia rẽ, đói khổ, người Kitô hữu cẫn phải trở nên niềm hy vọng cho trần gian. Đây thật là một thách đố lớn lao ; thách đố quét sạch mọi hận thù. Sự hiện diện của người Kitô đem lại Tin Mừng xây dựng. Thách đố này đang thiêu đốt con tim đem yêu thương mạnh mẽ vào nơi thất vọng". (Schutz R... Violence despacifiques P. 158) J.M
SUY NIỆM 4: Bà sẽ sinh con trai
Một bé gái được sinh ra ở ngôi làng Nadarét,
thuộc vùng Galilê, nước Do Thái, cách đây hơn hai mươi thế kỷ.
Trong một xã hội trọng nam khinh nữ, điều ấy đâu có gì là quan trọng!
Nhưng dưới mắt Thiên Chúa, em bé này thật là một kiệt tác,
bởi lẽ tất cả những gì tốt đẹp nhất làm được, thì Ngài đã làm cho em.
Ngay từ khi em còn trong bụng mẹ,
Thiên Chúa đã chuẩn bị em cho một sứ mạng hết sức lớn lao,
sứ mạng trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của Ngôi Lời nhập thể.
Em bé ấy tên là Maria.
Hôm nay Hội Thánh mừng sinh nhật của Đức Maria.
Ngày bé gái Maria chào đời, Thiên Chúa chan chứa mừng vui và hy vọng.
Maria vừa là quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại,
vừa là đại diện của nhân loại để đón nhận ơn cứu độ từ trời cao.
Thiên Chúa cần một người mẹ xứng đáng cho Con Một của mình.
Ngài muốn Con của mình được sinh ra từ cung lòng của một phụ nữ,
để Người Con chí thánh ấy thực sự là người trọn vẹn.
Maria được chọn để làm người mẹ ấy, dù chẳng có công chi.
Vì thế ngay từ giây phút đầu tiên, khi thai nhi Maria còn trong bụng mẹ,
Thiên Chúa đã ưu ái ban dồi dào ơn thánh, đã bao bọc em trong tình yêu.
Em được gìn giữ khỏi những vết nhơ của tội nguyên tổ.
Nhưng những ơn siêu phàm của Thiên Chúa không bóp chết tự do,
không cưỡng ép Maria phải chấp nhận một định mệnh có sẵn,
dù Thiên Chúa đã dành cho Maria một chỗ trong chương trình cứu độ.
Bé gái Maria đã lớn lên, đã thành một thiếu nữ, đã đính hôn với Giuse.
Chị Maria đã đi con đường tự nhiên của các thiếu nữ Do Thái.
Ơn Chúa tuy không làm cho Maria mang bề ngoài khác hẳn mọi người,
nhưng vẫn âm thầm hoạt động mãnh liệt nơi tâm hồn của Chị.
Maria đã mềm mại để Thiên Chúa thì thầm với mình về dự định của Ngài.
Dự định ấy có thể làm đảo lộn những gì Chị ước mơ.
Khác với bà Evà, Chị tự nguyện buông đời mình để Chúa sử dụng.
Cả tình yêu và hôn nhân với Giuse, bây giờ cũng mang ý nghĩa mới.
Maria tin tưởng để Thiên Chúa dắt mình đi vào những lối chưa tường.
Bài Tin Mừng hôm nay về màu nhiệm Nhập thể, gồm ba tiếng Xin Vâng.
Tiếng Xin Vâng thứ nhất của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, được thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, để cứu dân mình khỏi tội.
Tiếng Xin Vâng thứ hai của Đức Maria, cô trinh nữ làng Nadarét. Maria đã đón lấy Đấng Cứu thế bằng cả tâm hồn và thân xác mình.
Tiếng Xin Vâng thứ ba của Thánh Giuse, người bạn đời của Đức Maria. Nghe lời trong giấc mơ, và vâng lời khi thức dậy.
Nhờ tiếng Xin Vâng này mà Con Thiên Chúa có chỗ dựa của người cha, và Maria được tiếp nhận như một người vợ đàng hoàng.
Mỗi lần mừng sinh nhật của mình, chúng ta lại nhớ đến ước mơ của Chúa về ta.
Vẫn cần những tiếng Xin Vâng của tôi để Thiên Chúa cứu cả thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ, tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại, không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn, yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi, để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những kẻ vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
07/9 Làm việc tốt ngày Sabbat.
- Viết bởi Lc 6, 6-11
Làm việc tốt ngày Sabbat.
Thứ Hai tuần 23 thường niên.
"Các ông quan sát xem Người có chữa lành bệnh trong ngày Sabbat không".
Lời Chúa: Lc 6, 6-11
Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Khi ấy ở đó có một người tay hữu bị khô bại. Những luật sĩ và biệt phái quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người. Nhưng Người biết tư tưởng các ông, liền bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy chỗi dậy mà đứng ra giữa đây". Người đó đứng thẳng dậy. Đoạn Chúa Giêsu bảo các ông ấy rằng: "Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?" Rồi đưa mắt nhìn mọi người, Chúa bảo người đó rằng: "Ngươi hãy giơ tay ra". Người ấy giơ ra, và tay người ấy được lành.
Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận, và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu.
Suy Niệm 1: Cốt Lõi Của Ðạo
Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể câu truyện ngụ ngôn như sau: Một ông chủ nọ giao cho các gia nhân một công việc và bảo họ chỉ chu toàn công việc ấy mà thôi. Ông hứa sẽ thưởng công cho họ, nếu họ làm tốt công việc. Lúc mới bắt tay vào việc, ai cũng muốn làm vừa lòng ông chủ, cho nên để hết tâm trí vào công việc được giao. Thế nhưng, một thời gian sau đó, nhiều người cho rằng để làm vừa lòng ông chủ và để được phần thưởng bội hầu hơn, cần phải làm nhiều việc khác nữa. Họ nghĩ ra nhiều việc khác và dần dần chú tâm vào đó đến độ quên bẵng đi công việc được chủ giao cho lúc đầu. Bận bịu với những công việc mới, chẳng những họ không còn nhớ tới công việc đã được giao, mà cũng chẳng màng tới phần thưởng ông chủ đã hứa. Cuối cùng, tưởng mình đã có thể tự túc với công việc của mình, họ cũng gạt luôn ông chủ ra khỏi cuộc sống của họ. Léon Tolstoi đưa ra kết luận: Người ta thường thấy một thái độ như thế nơi các Kitô hữu; họ thay thế đạo của tình thương bằng vô số những nghi lễ trống rỗng vô hồn.
Nhiều người Do thái thời Chúa Giêsu, nhất là các thành phần lãnh đạo trong dân cũng có lối hành đạo tương tự. Thật ra, đạo của mạc khải Do thái giáo cốt yếu cũng là đạo của tình thương; thế nhưng trong thực tế, cái cốt lõi ấy thường bị quên lãng để nhường chỗ cho biết bao nghi thức trống rỗng vô hồn; người ta sẵn sàng loại trừ tha nhân và chối bỏ tình thương để tuân giữ những nghi thức và luật lệ vô hồn ấy.
Chúa Giêsu đã đến và đưa con người trở lại cái cốt lõi của đạo. Tin Mừng hôm nay ghi lại một nỗ lực của Chúa Giêsu nhằm nhắc nhở cho người Do thái về cái cốt lõi của đạo được thể hiện qua lề luật. Một trong những khoản quan trọng của lề luật chính là ngày Hưu lễ. Chúa Giêsu đã không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật chính là mặc cho tinh thần và ý nghĩa của yêu thương; không có tình thương, lề luật chỉ còn là một cái xác không hồn. Như vậy, kiện toàn luật giữ ngày Hưu lễ chính là biến ngày đó thành ngày tôn vinh Thiên Chúa, và không gì đúng đắn và xứng hợp hơn để tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Hưu lễ cho bằng thể hiện tình thương đối với tha nhân. Chính trong ý nghĩa ấy mà Chúa Giêsu đã chữa lành một người có bàn tay khô bại trong ngày Hưu lễ. Lề luật là một thể hiện ý muốn của Thiên Chúa, và ý muốn của Chúa không gì khác hơn là con người được sống, và sống dồi dào, sung mãn chính là sống yêu thương. Như vậy chu toàn lề luật trước tiên là sống yêu thương.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Ðọc kinh, dự lễ, tham gia sinh hoạt giáo xứ mà không sống yêu thương, điều đó có thật sự là sống đạo chưa? Sống đạo đích thực là sống yêu thương: một lời kinh đích thực phải phát xuất từ cõi lòng rộng mở yêu thương; một của lễ đẹp lòng Chúa phải là một nghĩa cử yêu thương dành cho tha nhân. Xin Chúa giúp chúng ta mỗi ngày thêm thấm nhuần cái cốt lõi của đạo là yêu thương.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Làm việc ngày sabát
Ðoạn Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chữa lành người bị bại tay phải trong ngày nghỉ sabát, hoặc cho những luật sĩ và những biệt phái đang rình xem Chúa có lỗi luật nghỉ ngày sabát hay không, ngõ hầu có lý do ám hại Chúa.
Chu toàn bổn phận bác ái có ưu tiên trên việc tuân giữ luật nghỉ ngày sabát, một việc thực hành đạo đức quan trọng của Do Thái Giáo. Thực hành việc đạo đức mà không có lòng bác ái yêu thương anh chị em thì việc thực hành kia có thể trở thành vụ lợi, khoe khoang. Bảo vệ cách quá khích luật nghỉ ngày sabát, các luật sĩ và những người biệt phái đã làm cớ cho người ta hiểu lầm rằng Thiên Chúa đối nghịch với con người. Trong đoạn Phúc Âm hôm nay, các luật sĩ và biệt phái xem ra bắt buộc Chúa Giêsu phải chọn một trong hai việc: hoặc tuân giữ luật nghỉ ngày sabát, hoặc chữa lành người bị bại tay phải. Tinh thần vụ hình thức đã làm hư cốt tủy của đạo Chúa. "Tôi hỏi các ông, ngày sabát được làm sự lành hay sự dữ, cứu sống người hay giết chết?" Câu hỏi của Chúa Giêsu thức tỉnh những kẻ sống đạo vụ hình thức.
Nơi đoạn Phúc Âm theo thánh Luca mà chúng ta vừa đọc lại trên đây, những luật sĩ và những người Pharisiêu xem ra có thái độ dứt khoát phải chọn một trong hai việc là giữ ngày sabát hoặc làm việc thiện để cứu người bị bại tay phải. Nhưng theo Phúc Âm thánh Mátthêu chương 12 câu 11 và những câu kế tiếp, chúng ta được biết rằng những luật sĩ và biệt phái có một giải thích rộng rãi khác về luật nghỉ ngày sabát. Họ cho phép cứu thoát con vật bị sa xuống giếng trong ngày sabát. Thật là nghịch đời, họ cho phép cứu con vật mà lại không cho phép cứu con người. Phải chăng các luật sĩ và biệt phái coi trọng con vật hơn con người. Ngày nay, chúng ta có thể gặp trường hợp tương tự, có những người nhân danh lòng nhân từ để kêu gọi bảo vệ súc vật nhưng lại thẳng tay loại trừ những thai nhi còn trong lòng mẹ, mạnh mẽ cổ võ việc phá thai.
Phần Chúa Giêsu, qua hành động chữa lành người bị bại tay cả trong ngày sabát, Chúa Giêsu biểu lộ tâm hồn tràn đầy yêu thương đối với con người và đặt luật nghỉ ngày sabát trong viễn tượng rộng rãi hơn của tình yêu thương. Các ngày sabát được làm việc lành để thể hiện tình thương. Một tâm hồn khô khan không có tình yêu đối với Thiên Chúa cũng như đối với anh chị em thi sẽ dễ dàng rơi vào cám dỗ chạy trốn trước việc lành cần phải làm để phục vụ anh chị em. Họ dễ dàng biện hộ cho thái độ sống thiếu quảng đại, thiếu bác ái bằng lý do hết sức đạo đức nhưng có thể đó là sự đạo đức giả hình, chưa trưởng thành.
Lạy Chúa,
Chúng con cảm tạ Chúa vì đã thức tỉnh chúng con qua mẫu gương và bài học căn bản. "Trong ngày sabát được làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay giết chết?" Xin thương giải thoát con khỏi thái độ sống đạo vụ hình thức, ham danh lợi, lo củng cố địa vị hơn là thực hành yêu thương bác ái. Xin thương ban cho chúng con tâm hồn tràn đầy tình yêu Chúa để có thể trổ sinh những việc làm tốt phục vụ anh chị em mọi nơi và mọi lúc.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 3: Làm việc thiện lúc nào
Đức Giêsu nói với họ: "Tôi xin hỏi các ông: ngày sa-bát được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay hủy diệt?" Người rảo mắt nhìn họ tất cả, rồi bảo người bại tay: "Anh hãy giơ tay ra!" Anh ấy làm như vậy và tay anh liền trở lại bình thường. (Lc. 6, 9-10)
Luôn còn tái diễn trong ngày sabát! Đức Giêsu hỏi biệt phái: ngày sabát, được phép làm việc thiện hay điều dữ, cứu mạng người hay hủy diệt? có phải lúc làm việc tốt, việc bác ái, lúc khác không được chăng? nếu nhân danh Thiên Chúa mà chủ trương thế thì quá tệ.
Cấm làm việc thiện trong ngày thờ phượng Chúa có đúng không? có làm sáng danh Chúa khi đặt ra luật lệ vụn vặt hẹp hòi không? chúng ta nên nhận định rõ rằng: Khi xoa dịu những đau đớn của tha nhân bằng mọi cách có thể thì làm sáng danh Chúa biết chừng nào. Đó là điều Đức Giêsu đã thực hiện. Người vào hội đường, Người dạy dỗ. Ánh mắt Người bắt gặp một người bại tay. Những kẻ bảo toàn luật lệ rình rập xem: Thầy này táo bạo, chẳng sợ gì, sẽ làm gì để đảo lộn lề luật đây? Ông có dám chữa kẻ tàn tật đó trong ngày sabát không? Đức Kitô biết rõ ý nghĩ của những thẩm phán cay nghiệt này luôn luôn săn bắt Người. Người vẫn coi thường họ, một lần nữa trịnh trọng, công khai, giữa ban ngày, không hề che giấu, Người nói với kẻ khô bại tay: " Anh chỗi dậy, ra đứng giữa đây! người ấy liền chỗi dậy và ra đứng đó. Người hỏi những kẻ ghen ghét dò xét Người rằng: ngày sabát được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay hủy diệt?" Tất nhiên, không ai trả lời, không ai có can đảm dám nói ra ý nghĩ của mình. Nếu nói ra đúng ý nghĩ của mình, tất nhiên, phải liên minh với Người vì tự nhiên phải chấp nhận trong ngày của Chúa thì phải làm điều lành, phải cứu mạng sống, không thể làm điều dữ. Và như thế sẽ thấy rõ người ta đã hiểu sai luật ngày sabát.
Một lần nữa Đức Kitô đã thấu suốt ý nghĩa của luật lệ. Một lần nữa Người đã được sự ủng hộ của con người để Người cứu chữa bệnh nhân: "Anh hãy giơ tay ra,... và tay anh được bình thường".
Trong Giáo Hội được đổi mới là nhờ Chúa Thánh Thần luôn hoạt động hơn bao giờ hết, không thiếu những người theo chân Đức Giêsu, muốn làm cho chúng ta hiểu rõ con người có giá trị vô biên hơn muôn vàn luật lệ. Chúng ta cố gắng nghe và theo chân Đức Giêsu và những vị đó.
GF
06/9 Chúa Giêsu chữa người câm điếc
- Viết bởi Mc 7, 31-37
Chúa Giêsu chữa người câm điếc.
Chúa Nhật tuần 23 thường niên năm B.
"Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
Lời Chúa: Mc 7, 31-37
Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon, đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Ðoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: "Eppetha!" (nghĩa là "Hãy mở ra!"), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng. Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!"
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Is. 35,4-7a; Gc. 2,1-5; Mc 7,31-37
1. Câm và điếc
Qua việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm và điếc, chúng ta cùng suy nghĩ về việc sử dụng đôi tai và miệng lưỡi của mình.
Trước hết là đôi tai. Chúa đã ban cho chúng ta đôi tai để nghe, nhất là nghe những lời cha mẹ thầy cô và những người có trách nhiệm giáo dục chúng ta, để rồi chúng ta sẽ đem ra thực hành những lời khuyên nhủ đó, hầu trở thành những người hữu ích. Hơn thế nữa, chúng ta còn phải lắng nghe lời Chúa qua việc học hỏi Phúc Âm, qua việc tìm hiểu giáo lý, để sống xứng đáng người con ngoan của Chúa. Thế nhưng tội lỗi cũng thường hay đột nhập vào tâm hồn chúng ta qua đôi tai của mình. Bởi vì có những đôi tai đóng lại không muốn nghe những lời khuyên bảo và khiển trách, thế nhưng lại mở ra để lắng nghe những câu chuyện nhảm nhí do những người bạn xấu thổi vào. Vậy chúng ta thử xét xem mình có như thế hay không?
Tiếp đến là miệng lưỡi. Chúa đã ban cho chúng ta miệng lưỡi để chúng ta thân thưa với Chúa, để cùng với gia đình, chúng ta dâng lên Chúa những lời kinh ban tối và ban sáng, để chúng ta hát những bài thánh ca chúc tụng Chúa, để chúng ta xưng thú tội lỗi nơi toà cáo giải, để chúng ta luôn có những lời nói ôn tồn và thành thực đối với người khác. Trên môi miệng chúng ta phải luôn có những lời lẽ lịch sự, chẳng hạn như hai chữ: Cám ơn. Miệng lưỡi của chúng ta không phải chỉ mở ra đón nhận của ăn phần xác mà còn mở ra để đón nhận của ăn phần hồn, đó là rước lấy Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Ước chi chúng ta sử dụng miệng lưỡi chúng ta như thế.
Ngày xưa ở vùng Bretagne, có một em nhỏ đạo đức và thánh thiện. Em chưa biết đọc biết viết nhưng lại rất yêu mến Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Trong một ngày, nhiều lần em đọc lên lời kinh Ave Maria, kinh Kính Mừng. Ít lâu sau em bị bệnh và chết, nhưng rồi trên mộ em, có một loại huệ mọc lên. Và trên mỗi cánh huệ người ta đều thấy có hai chữa Ave. Người ta từ khắp nơi đến kính viếng và sau cùng đã xây một ngôi thánh đường kính Đức Mẹ trên phần mộ của em nhỏ.
Thế nhưng miệng lưỡi cũng chính là con đường dẫn tới tội lỗi. Thực vậy, có những miệng lưỡi tham ăn tục uống, lúc nào cũng nghĩ đến cái ăn được, lúc nào cũng đòi phần to hơn, tốt hơn và ngon hơn, nếu không được thì vùng vằng và phụng phịu. Chính vì thế chúng ta phải biết làm chủ miệng lưỡi của mình như một câu danh ngôn đã bảo: Người ta ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn, hay như thánh Phaolô đã cảnh cao: Đừng lấy cái bụng của mình làm chúa. Ngoài ra còn có những miệng lưỡi điêu ngoa, xảo trá và gian dối, không tôn trọng sự thật, luôn tìm cách lừa đảo người khác, nói những lời đầy ác ý, hạ nhục uy tín của người khác và tạo nên sự chia rẽ, hay nói những lời tục tĩu làm hoen ố tâm hồn trong trắng của mình. Đồng thời có những cái miệng cái lưỡi bị câm, không biết cầu nguyện và thân thưa cùng Chúa, Không biết nói lời bênh vực đức tin, không biết can ngăn người khác trước những ý đồ đen tối của họ.
Hãy cầu xin Chúa mở tai chúng ta để biết lắng nghe lời Chúa, cũng như mở miệng chúng ta để biết nói về Chúa cho những người chung quanh.
2. Câm và điếc.
Tám thế kỷ về trước, tiên tri Isaia đã loan báo một thời đại mới, khi Đấng cứu thế đến, Ngài sẽ canh tân và đổi mới. Sẽ không còn đui mù, câm điếc, bệnh tật. Và phép lạ hôm nay chứng minh thời gian cứu độ đã đến, và Đức Kitô chính là Đấng giải phóng thiên hạ đợi trông, bởi vì Ngài đã thực hiện lời tiên tri Isaia: Cho kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người câm nói được và người què quặt được nhảy như nai.
Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ chữa lành những tật bệnh phần xác, điều quan trọng là Ngài chữa lành những tật bệnh phần hồn. Ngày hôm nay, qua Giáo Hội Ngài vẫn tiếp tục mở mắt mở tai cho một nhân loại câm điếc đối với lời Chúa, đối với Tin Mừng Phúc Âm.
Chúa Giêsu đem người câm điếc ra một nơi và Ngài chữa lành cho anh ta. Với chúng ta, Ngài cũng chăm sóc đến mọi người như thế, Ngài lo lắng cho mọi người như người mẹ lo lắng cho con mình. Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời chúng ta trong bàn tay quyền năng và đầy tình thương xót của Ngài. Đồng thời chúng ta hãy kêu cầu Ngài: Lạy Chúa, xin mở miệng con để con không nói lời vu khống, phạm thượng, nhưng để ca ngợi Thiên Chúa và xây dựng tình bác ái huynh đệ.
Ngày xưa, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, vị linh mục đã diễn lại động tác của Chúa, khi ngài đặt tay trên tai và trên miệng chúng ta rồi bảo: Ephata, nghĩa là hãy mở ra, để chúng ta biết lắng nghe lời Chúa và biết tuyên xưng những kỳ công của Ngài. Khi lãnh nhận bí tích Thêm Sức, Chúa Thánh Thần tăng cười nghị lực để chúng ta có đủ can đảm làm chứng cho đức tin.
Thế nhưng chúng ta đã sử dụng miệng lưỡi chúng ta như thế nào? Một giáo dân đã phải đau khổ thốt lên: Có những người cho đến cuối đời đã chẳng mở miệng nói về Chúa Giêsu cho một ai, ngay cả cho những người muốn tìm hiểu về Ngài. Chúng ta đã thua những người quảng cáo hàng hoá trên vỉa hè thành phố và những em bé bán báo, cũng như những người cổ động cho một nhân vật chính trị hay một thiên đàng trần thế.
Chúng ta hãy có can đảm như Bazin, một tiểu thuyết gia, trong một bài diễn văn đọc giữa hàn lâm nước Pháp, đã long trọng tuyên xưng đức tin của mình như sau: Với triệu triệu sinh linh, tôi sung sướng và tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa.
Tuy nhiên trước khi nói với người khác về Chúa, thì trong âm thầm chúng ta phải biết lắng nghe tiếng Chúa, qua những giây phút tâm sự và cầu nguyện, vì chúng ta chỉ có thể cho cái chúng ta đã có, chúng ta chỉ có thể nói về những cái chúng ta đã biết và đã kinh nghiệm. Chính vì thế mà Đức Thánh Cha Phaolô VI đã tuyên bố: Nếu không có một đời sống cầu nguyện sâu xa, làm sao người công giáo, giữa muôn vàn tiếng nói ô hợp của thế giới, có thể lớn tiếng ca ngợi Thiên Chúa, làm cho mọi người phải xao xuyến và được cứu rỗi. Và hơn nữa, thế giới đang mong đợi nơi chúng ta một thứ ngôn ngữ được diễn tả bằng hành động, tức là một đời sống trong sạch và ngay thẳng, một đời sống đạo đức và thánh thiện, một đời sống bác ái và yêu thương.
Bởi vì đời sống gương mẫu của chúng ta cũng chính là một tiếng nói hùng hồn nhất để giới thiệu Đức Kitô cho những người chung quanh.
3. Đức Giêsu - Dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện
(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu xuất hiện ở đâu, thì mang niềm vui và bình an cho những người "thiện tâm" ở đó. Ngài là biểu tượng của tình yêu và là chứng từ cho thấy con người là một giá trị tuyệt đối. Ngài cũng là Đấng cho thấy Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Vời.
I. Đức Giêsu- niềm vui và hy vọng của người đương thời
Sau khi Đức Giêsu chữa người câm điếc bằng cách kéo anh ta ra khỏi đám đông, đặt tay vào tai anh, và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta, thì dân chúng khen Đức Giêsu: "Người làm mọi sự tốt đẹp". Danh tiếng Đức Giêsu được loan ra cho dù Ngài không muốn người ta biết Ngài đã làm sự lạ cả thể này. Qua cách chữa người câm điếc này, người ta có cảm tưởng Đức Giêsu đã làm phép lạ thật "vất vả". Ngài đã phải đặt ngón tay vào tai anh ta, bôi nước miếng của Ngài vào lưỡi anh ta. Dường như Ngài nghĩ rằng sự đụng chạm của thân xác Ngài, sẽ giúp người khác được biến đổi, được chữa lành.
Qua Đức Giêsu, người ta nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với con người. Nơi nào Đức Giêsu hiện diện, người ta tìm thấy lòng thương xót, chữa lành, niềm vui, và chiến thắng sự dữ. Cái chết của Đức Giêsu, và cũng vậy, cái chết của các thánh tử đạo, cho thấy sự dữ đã thất bại. Người ta tìm cách hủy diệt hay giết người khác, bởi vì người ta thua người đó. Khi kẻ dữ muốn hủy diệt người công chính, là họ thấy họ không thể thắng người công chính, và hơn nữa, họ thấy họ bị thua. Cain giết Abel, vì thấy người em hơn mình; Cain không muốn người em hơn mình, nhưng anh ta đã không thể tốt hơn Abel. Hêrôđiađê giết Yoan Tẩy Giả, vì nếu để ông sống, bà không thể làm điều bà muốn: lấy Hêrôđê làm chồng.
Đức Giêsu, con người nghèo hèn khiêm tốn, nhưng là niềm vui và hy vọng của con người thời đó. Ngài rảo khắp đất nước Do Thái, để loan tin mừng Nước Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa hiện diện với con người. Ngài cần rảo khắp đất nước Do Thái, để con người thời đó được nhìn thấy Thiên Chúa "hữu hình" hiện diện. Ngài là ân sủng cho những người được gặp gỡ Ngài. Có thể những người thời đó không nhận ra ân sủng và tình yêu đang viếng thăm họ, đang hiện diện với họ, nhưng thực sự là Thiên Chúa đang hiện diện với con người một cách rất cụ thể, con người có thể nhìn thấy và đụng chạm tới Thiên Chúa được.
II. Đừng thiên vị nhưng hãy tôn trọng mọi người vì họ là người
Con người của mọi thời đại vẫn "trọng phú khinh bần". Người giầu luôn được người ta kính trọng, còn người nghèo thường bị khinh dể. Đây là cách cư xử của người "đời". Nếu một người tin vào Đức Giêsu, mà còn cư xử như người "đời", thì liệu họ có niềm tin vào Đức Giêsu một cách thực sự không! Thư thánh Giacôbê cho thấy cách cư xử của người tin vào Đức Giêsu phải khác với cách cư xử của người "đời". Những người tin vào Đức Giêsu, phải nhận ra giá trị đích thực của con người không hệ tại nơi của cải, nhưng hệ tại họ là người.
Mỗi người, là một giá trị tuyệt đối đối với Thiên Chúa và ngay cả đối với con người. Giầu sang không có giá trị gì khi đem so với giá trị của một con người. Niềm tin Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, cho người ta thấy con người có giá trị như thế nào trước Thiên Chúa. Vì nếu không có giá trị cao quý, tại sao Thiên Chúa đã vĩnh viễn làm người, tại sao Thiên Chúa phải chấp nhận sinh ra và sống nghèo hèn như thế, tại sao Ngài phải chấp nhận cái chết đau đớn và nhục nhã trên thập giá. Với Kitô giáo, nhờ biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể, con người nhận ra giá trị tuyệt vời của con người. Con người là một giá trị tuyệt đối chỉ sau Thiên Chúa.
Đối xử với con người, là đối xử với Thiên Chúa. Thiên tư tây vị, trọng phú khinh bần, trọng người giầu khinh người nghèo, là coi trọng vật chất hơn con người. Đây là cách đối xử sai lầm của nhiều người. Thiên Chúa không đối xử như vậy; người của Thiên Chúa cũng không đối xử như vậy. Nếu người nào trọng người giầu và khinh người nghèo, là người đó đang có "vấn đề". Đối xử như vậy, là dấu chỉ cho thấy người đó chưa là một với Thiên Chúa, chưa hiểu biết và chưa sống theo Thiên Chúa thật sự.
III. Thiên Chúa- Đấng Tuyệt Vời
Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa, nghĩa là, Ngài tạo dựng con người biết yêu thương, cho con người có lý trí để làm chủ vũ trụ thiên nhiên. Con người được mời gọi để làm thế giới này trở nên đẹp hơn, nơi con người biết sống cho người khác, biết phục vụ và giúp người khác; và như vậy con người sẽ sống hạnh phúc. Yêu thương không là một điều gì đã hoàn toàn thể hiện, nhưng là chính con người với tất cả cuộc sống của mình. Con người được mời gọi trở nên con cái Thiên Chúa bằng tất cả đời sống của mình, từng giây từng phút của cuộc sống mình.
Khi con người không yêu thương, không yêu thương Thiên Chúa và không yêu thương anh chị em mình, thì bầu khí không còn là bầu khí tin tưởng lẫn nhau. Lúc đó không có hạnh phúc nữa. Lúc này, con người là một mối đe dọa cho nhau. Thiên Chúa lại tiếp tục có sáng kiến mới để làm con người trở lại với Thiên Chúa, để con người sống yêu thương và sống hạnh phúc. Sáng kiến của Thiên Chúa đạt tới tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô, và điều này vẫn còn được tiếp tục trong dòng lịch sử, nơi cuộc đời của mỗi con người. Thiên Chúa vẫn đang mời gọi, và làm con người sống yêu thương từng ngày trong cuộc sống mỗi người.
Đức Giêsu là Đấng sống yêu thương con người. Nhiều người được mời gọi để trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện và yêu thương con người hôm nay. Hành vi cứu độ là hành vi đang thực hiện, đang hoàn tất. Công cuộc này sẽ hoàn tất vào ngày cánh chung, ngày Con Người vinh quang ngự đến để xét xử địa cầu, để làm tất cả nên hoàn hảo, để làm tất cả đạt tới tầm mức tuyệt vời của nó trong chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa thật là Đấng Tuyệt Vời trong hành vi sáng tạo và liên tục làm người ta sống yêu thương qua Đức Giêsu và trong Thánh Thần Tình Yêu của Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Thiên Chúa là ai, với bạn?
2. Đức Giêsu mang gì lại cho bạn?
3. Làm gì để môi trường bạn sống tin tưởng nhau hơn và hạnh phúc hơn?
4. Thiên Chúa vẫn ở bên tôi
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện vui kể về một tín đồ rất ngoan đạo, bị kẹt trong một cơn lũ lụt mà nước mỗi lúc một dâng cao. Anh ta từ chối việc di tản. Anh nhất quyết phải chứng minh rằng Thiên Chúa sẽ giải cứu anh.
Nước lụt mỗi lúc lại dâng cao hơn, và người ấy đến lúc đã bị kẹt trên mái nhà mình, đang cầu nguyện xin Chúa một phép lạ. Ba lần người ta dùng thuyền tới cứu, song anh không chịu lên thuyền, bảo họ hãy đi đi. Anh quyết bám vào mái nhà để chờ phép lạ của Chúa. Cuối cùng anh bị nước cuốn đi và bị chết chìm. Khi ra trình diện tại cửa thiên đàng, anh ta phẫn nộ thưa với Chúa:
- Lạy Chúa, vì sao Ngài không tôn trọng đức tin của con?
Chúa trả lời:
- Ta đã ba lần đưa thuyền đến cứu con, nhưng con đã không chịu bước vào!
Vâng, Thiên Chúa luôn cứu giúp chúng ta qua trung gian con người là hình ảnh của Chúa. Ngài vẫn luôn thể hiện tình thương của Ngài qua tha nhân, qua bạn bè. Đó là lý do mà Ngài tao dựng con người theo hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Ba Ngôi vị liên kết với nhau thành một cộng đoàn tình yêu. Con người cũng được mời gọi liên kết với nhau trong một cộng đoàn của yêu thương và hiệp nhất. Sự liên đới, chia sẻ với nhau đó chính là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa giữa thế gian.
Bài tin mừng hôm nay nói về một người câm điếc từ thuở mới sinh. Sinh ra trong tật nguyền là một thiệt thòi mà chẳng ai mong muốn điều đó xảy đến với mình. Cuộc đời câm điếc đã giới hạn mọi giao tế của anh. Anh không thể nghe người khác tâm sự, và anh cũng không thể thổ lộ hết nỗi lòng của mình cho tha nhân. Một con người sinh ra mà không thể hiểu và thông cảm với tha nhân là một đau khổ triền miên. Có lẽ anh đã sống trong đau khổ thầm lặng và cả những người thân của anh cũng khổ đau như anh.
Nét đẹp của bài phúc âm hôm nay quan yếu là ở tấm lòng những người thân và tình thương của Chúa. Anh sinh ra trong tật nguyền nhưng anh lại được mọi người thương mến, cảm thông với nỗi bất hạnh của anh. Cha mẹ và hàng xóm láng giềng đều mong muốn cho anh có ngày nói được, có ngày nghe được như bao người khác. Họ đã nghe về một Giêsu quê làng Nagiaret đầy tình thương và đầy quyền năng. Một vị cứu tinh của nhân trần có thể sẽ giải thoát và cứu chữa anh khỏi tật nguyền. Họ đã đem anh đến với Chúa. Sự nỗ lực của mọi người đã được Chúa Giêsu bù đắp bằng sự đáp ứng nguyện vọng của họ và chữa lành cho anh.
Thế giới hôm nay vẫn còn đó những con người bị câm điếc do bẩm sinh, do môi trường tác động. Câm điếc về thể xác đã khổ, câm điếc tâm hồn lại còn khổ hơn. Câm điếc tâm hồn khiến họ mất tương quan nghĩa thiết với Thiên Chúa và với tha nhân. Họ không còn nghe được tiếng Chúa và tiếng của tha nhân. Họ không nghe được sự thật và không nói được sự thật. Họ không nghe được tiếng nói của lương tri và không nói được tiếng nói của con tim. Họ đang chôn vùi cuộc đời trong đam mê lầm lạc. Họ là những người cần được khôi phục khả năng để hiểu, để cảm thông và để sống tình liên đới với Chúa và mọi người.
Biết bao người vì những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trói buộc cuộc đời của họ trở thành kẻ tật nguyền đáng tội. Biết bao người đã trở thành câm điếc lương tri, vì ngay từ nhỏ đã không được cha mẹ khai trí mở lòng bằng những lời dạy bảo, những lời hay lẽ phải. Họ không được huấn luyện để nói những lời yêu thương, để lắng nghe tiếng nói của sự thật. Dần dà với thời gian môi miệng của họ không còn khả năng nói lời yêu thương, chân thành đối với tha nhân. Dần dà với thời gian con tim của họ không còn có khả năng để nghe và cảm thông nỗi đau khổ, bất hạnh của anh em. Thay vào đó là những lời độc ác, hận thù, gian dối, và với một trái tim chai cứng, thờ ơ, lãnh đạm với nỗi khổ của anh em. Sự câm điếc tâm hồn khiến họ không còn khả năng để yêu thương, để trao ban và chia sẻ với nỗi bất hạnh của người khác. Điều tệ hại nhất là họ không còn nghe được tiếng nói của lương tâm luôn nhắc nhở họ từ bỏ lối sống u mê, tội lỗi để sống theo lẽ phải, theo lề luật của Thiên Chúa. Họ thật đáng thương vì họ sống trong lầm lạc mà họ không biết. Họ thật bất hạnh vì họ thiếu đi những cảm giác vui tươi, an bình của tâm hồn.
Đôi khi trong cuộc đời chúng ta cũng trở nên kẻ câm điếc giữa tha nhân. Có thể vì thói ích kỷ mà chúng ta làm ngơ trước nỗi khổ của anh em. Có thể vì đam mê và lười biếng chúng ta làm ngơ trước tiếng nói của lương tri.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã đến để phục hồi những gì đã bị hủy hoại bởi tội lỗi, xin Người giúp chúng ta biết lắng nghe tiếng nói của sự thật và biết sống yêu thương với mọi người. Xin Người ban cho chúng ta một tấm lòng quảng đại để chúng ta biết giúp đỡ anh chị em vượt qua những giới hạn và yếu đuối của bản thân để sống hoàn thiện con người mình mỗi ngày nên tốt hơn. Amen.
5. Giải thoát
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Sứ vụ giảng dậy của tiên tri Isaia tại Giêrusalem vào khoảng năm 742-701 trước Công Nguyên, dưới thời các vua Giuđêa là Uzziah, Jotham, Ahaz và Hezekiah. Isaia đã nói tiên tri về Đấng sẽ đến và giải thoát con dân khỏi sự cùng khổ. Một niềm hy vọng bừng sáng lên cho những ai biết đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em" (Is 35, 4). Tiên tri đã loan báo ơn cứu độ sẽ đến như suối nước chảy vào nơi đồng vắng, tràn ngập vào hoang địa khô cằn và lòng người hoan hỉ được chữa khỏi bệnh hoạn tật nguyền. Họ sẽ được nghe loan báo tin mừng giải thoát khỏi sầu khổ, tội lỗi và sự ràng buộc của ma quỷ.
Isaia nhìn thấy những khổ đau chất chồng trong đời sống của cộng đồng và cá nhân. Những hoang mang xao xuyến, lo lắng sầu muộn và những khiếm khuyết của cá nhân như mù, què và câm điếc. Thiên Chúa sẽ quan tâm chữa lành cho từng người: Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được (Is 35, 5). Những khuyết tật của con người như những cửa ngõ để lãnh nhận lòng thương xót của Chúa. Chúng ta thường không lo lắng chi, khi đang sống an vui khỏe mạnh. Chỉ lúc đau yếu, bệnh hoạn, khiếm khuyết, chúng ta mới cảm nhận được những ân phước may mắn đã lãnh nhận. Khi đau yếu bệnh hoạn chúng ta mới trân qúi sức khỏe. Khi mắt mờ hay mù lòa mới nhận ra hồng ân ánh sáng. Khi tai bị nghễnh ngãng hay câm điếc mới tiếc nuối âm thanh giao tiếp.
Đấng Cứu Thế đến mang lại niềm vui mừng và hy vọng chan hòa cho mọi người đang lữ hành trong đêm tối thế trần. Bài phúc âm hôm nay kể câu truyện Chúa Giêsu chữa người câm điếc bằng cách đặt ngón tay vào tai và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn Ngài cầu nguyện và bảo "hãy mở ra", tức thì tai anh ta mở ra và lưỡi nói được. Hành động của Chúa Giêsu xem ra thật dễ dàng. Chúa không cần đến thuốc thang và thời gian chữa lành. Với ý muốn, Chúa dùng quyền năng biến đổi và chữa lành ngay lập tức. Đây là phép lạ. Ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã loan báo từ xưa là Người sẽ đến mở miệng người câm và mở tai người điếc. Chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu có thể chữa lành qua ý muốn, cử chỉ, hành động của Ngài và nhờ qua chính đức tin của bệnh nhân.
Bất cứ một sự khiếm khuyết nào trong thân xác cũng gây nỗi phiền muộn ám ảnh cả tinh thần lẫn thể xác. Nếu chúng ta có dịp vào các Trung Tâm Khuyết Tật, chúng ta sẽ nhìn thấy có muôn vàn chứng bệnh khác nhau. Tất cả mọi thứ khuyết tật đều có thể xảy ra nơi thân xác con người. Có những người dị tật, người mù, kẻ đui, người điếc, kẻ thiếu tay, người thiếu chân, tứ chi bất thường, đa số khi sinh ra họ đã mang thân phận như thế. Đạo Phật gọi là Nghiệp. Chúng ta xem đây như là số phận đã an bài. Hầu như những khiếm khuyết tự bẩm sinh rất khó có thể chữa lành. Khoa học kỹ thuật có thể can thiệp để chữa lành một phần qua các cuộc giải phẫu. Cách tốt nhất mà khoa học có thể giúp là sáng chế những dụng cụ thích hợp để những người bị dị tật hay khiếm khuyết có thể tự xử dụng để bước vào đời.
Những người bị khuyết tật rất cần sự giúp đỡ và thông cảm của những người chung quanh. Họ không thể di chuyển nhanh, không nhìn thấy cảnh vật xung quanh, không nghe thấy âm thanh tiếng nói và không thể giãi bày tư tưởng cảm thông. Họ bị đóng kín, bị giới hạn và bị thiệt thòi đủ thứ. Nhiều người khuyết tật và tàn tật đã phải đi xin ăn hay sống tựa dựa vào lòng bác ái của người khác hay các cơ quan từ thiện. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều anh chị em dù bị khiếm khuyết nhưng đã phấn đấu vượt lên trên số mệnh. Nhiều người đã thành công để tự đứng trên chính đôi chân của mình. Trong khi có rất nhiều người lành lạnh, có khả năng, có tiền bạc và có sức khỏe nhưng lại lười biếng và lạm dụng ăn bám vào xã hội.
Tôi có quen biết một ông bị mù cả hai mắt mà rất linh hoạt trong cộng đoàn. Ông đã làm việc nhiều hơn những người bình thường. Để có tiền tiêu pha trong gia đình và giúp đỡ việc bác ái, ông làm nghề nấu rượu. Ông tự làm men, nấu cơm, ủ cơm lên men, nấu rượu và pha chế rượu. Ông còn chế rượu ngâm thuốc bắc và các loại rượu bóp dẹo để bán và để tặng. Đôi khi ông ấy còn làm đồ nhắm rất tuyệt vời đãi bạn bè với rượu đế và thịt nai đồng quê nữa. Có những người bị sút lưng, trật gân hay trẹo tay chân đều tìm đến ông để được xoa bóp và chữa trị. Tuy không nhìn thấy nhưng đôi tay và đôi tai rất bén nhậy. Ông rất nhiệt tình trong việc nuôi dưỡng ơn gọi linh mục như giúp đỡ tiền bạc và nhận đỡ đầu các chủng sinh. Lập hội bác ái giúp người nghèo khổ, phong cùi và các trẻ mồ côi ở Việt Nam. Không quản ngại mưa nắng và gió tuyết lạnh lẽo, ông trung thành trong việc đưa rước tượng Đức Mẹ Maria tới từng gia đình trong cộng đoàn quanh năm suốt tháng. Được biết trong thời gian mới nhập cư tại Hoa Kỳ, ông là người cộng tác đắc lực của linh mục quản nhiệm, là cố vấn và là giáo lý viên đặc biệt dạy tất cả các lớp giáo lý cho các em từ lớp vỡ lòng, xưng tội, rước lễ lần đầu, Thêm Sức, Tân tòng và cả Hôn Phối. Nghĩ rằng ít có ai chạy theo cho kịp những sinh hoạt và nhân đức tốt lành của ông. Nay ông đã về yên nghỉ bên Chúa.
Chúa Giêsu thương yêu và cảm thông những khiếm khuyết của họ. Bất cứ người tàn tật nào đến van xin, Chúa đều chữa lành. Dân chúng đã nhận ra dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa đang ở giữa họ: Họ hết sức kinh ngạc, và nói: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được." (Mc 7, 37). Qua sự chữa lành phần xác, Chúa đưa dẫn họ đến sự chữa lành tâm hồn. Đây là mùa hồng ân, Đấng Cứu Thế xuất hiện rao giảng và làm các phép lạ chỉ trong vòng thời gian rất ngắn. Chúa không xuống thế chỉ để làm phép lạ hóa bánh nuôi dân hay chữa lành các loại bệnh hoạn tật nguyền, nhưng Chúa đến mang tin vui giải thoát. Giải thoát tâm hồn con người khỏi những ràng buộc của sự dữ và tội lỗi. Chúa mở con đường cứu độ qua sự đau khổ, sự tha thứ và yêu thương. Tất cả những khổ đau ở đời là những nấc thang đưa dẫn chúng ta đến gần Chúa hơn. Chấp nhận đau khổ như những thánh giá vác mang đi theo Chúa:Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được (Lc 14, 27).
Thánh Giacôbê khuyên dạy chúng ta đừng thiên vị khi xét xử anh chị em. Chúng ta thường chú ý và đánh giá người khác qua diện mạo bề ngoài. Điều này dễ bị lầm lẫn: Anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: "Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này", còn với người nghèo, anh em lại nói: "Đứng đó! " hoặc: "Ngồi dưới bệ chân tôi đây! (Giac 2, 3).Con mắt phàm trần dễ đưa đến những phán đoán sai lạc. Có những sự việc xảy ra ngay trước mắt nhưng chúng ta cũng chẳng nhận ra. Không phải chúng ta có mắt sáng là có thể nhìn biết mọi sự. Chỉ có con mắt tâm linh mới nhìn thấy thấu tỏ và quán chiếu mọi sự. Kho tàng cao qúy của con người nằm ở trong tâm. Chúa Giêsu chữa lành mắt cho người mù, khi được sáng mắt cả thể xác và tâm hồn, anh đã nhận biết Chúa.
Lạy Chúa, xin Chúa mở mắt tâm hồn để chúng con được nhìn, được nghe và được biết rõ hơn. Cho chúng con biết cảm thông những nỗi bất hạnh, những đớn đau và những muộn phiền của những anh chị em chung quanh. Chúng con dâng lời cảm tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một thân xác đầy đủ vẹn toàn. Xin cho chúng con biết dùng tất cả ngũ quan và các khả năng đặc thù để phục vụ Chúa và anh chi em. Chúng con xin phó thác cuộc đời trong tay Chúa, xin Chúa chúc lành và giải thoát chúng con.
6. Lắng nghe.
Trong một cuộc hội thảo, anh bạn ngồi bên tôi, không hiểu vì ngủ gật hay vì chia trí lo ra những chuyện đâu đâu, nên khi được mời lên phát biểu, anh đã đưa ra một ý kiến và để trình bày ý kiến này, anh đã đi vòng vo tam quốc, từ chuyện trên trời đến chuyện dưới đất, từ chuyện bên tây đến chuyện bên tàu, trong khi đó mọi người thì cứ tủm tỉm cười thầm. Cuối cùng, người điều khiển phải tạm ngắt ý kiến của anh ta và nói: Tất cả những điều anh diễn tả, cũng như đề nghị, chúng tôi đã trao đổi và bác bỏ ngay từ lúc mới bắt đầu cuộc hội thảo này rồi. Lúc bấy giờ, mọi người mới dám cười ồ lên.
Lâu ngày có người bạn tới chơi vào ban tối, chúng tôi đã nằm tâm sự với nhau về những ngày tháng xa xưa. Tôi nói và anh bạn gợi lại. Cứ thế cho tới một lúc tôi cảm thấy hình như chỉ còn mình tôi nói, ngó sang bên cạnh thì anh bạn tôi đã ngủ thiếp từ lúc nào không biết.
Từ hai mẩu chuyện trên chúng ta nhận thấy hai anh bạn yêu quí của tôi đã không biết lắng nghe hay không chịu lắng nghe nữa, cho nên một anh thì tưởng rằng ý kiến của mình là ý kiến đầu tiên được đề nghị. Còn anh bạn kia thì lại để tôi nói chuyện một mình với đêm tối.
Trong cuộc sống, có biết bao nhiêu người cũng đã không biết lắng nghe như thế. Phải chăng không biết lắng nghe đã trở nên như một lầm lỗi, một cơn bệnh thông thường.
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu chữa lành cho một người không thể lắng nghe vì anh ta điếc. Cái điếc này không đáng trách. Điều đáng trách, đó là biết bao nhiêu người có đôi tai thính, nhưng họ lại không nghe thấy bởi vì họ không lắng nghe.
Kinh nghiệm cho thấy lắng nghe là một điều kiện rất quan trọng trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Thực vậy, đời sống gia đình sẽ hạnh phúc hơn nhiều nếu mọi người đều biết lắng nghe, để cố gắng hiểu được điều người khác muốn nói.
Sự cảm thông không phải là con đường một chiều. Nói và nghe đúng cách sẽ giúp chúng ta hiểu nhau hơn và sẽ bắc được nhịp cầu cảm thông giữa chúng ta với những người chung quanh.
Dĩ nhiên dưới mái ấm gia đình, con cái phải lắng nghe cha mẹ nhưng đồng thời cha mẹ cũng phải lắng nghe con cái. Hãy bình tĩnh lắng nghe con cái mình nghĩ gì, cảm gì, muốn gì để rồi từ đó có những hướng dẫn, vừa không mang tính cách độc đoán, nhưng lại vừa hợp tình lại và hợp lý.
Ở trường, học trò phải lắng nghe thày cô, bởi vì nếu không lắng nghe thì chẳng hiểu được chi về bài vở của mình. Nhưng đồng thời thày cô cũng phải lắng nghe học trò trả lời hay đặt câu hỏi, nhờ đó mà trắc nghiệm được sự hiểu biết của học trò mà đổi mới cách thức giảng dạy.
Và nhất là ở đây, trong nhà thờ này, lắng nghe lời Chúa là một việc hết sức quan trọng. Lời Chúa muốn nói gì với tôi và Ngài mong muốn nơi tôi điều chi. Điểm chính của bài giảng hôm nay là gì? Phải chăng là hai chữ lắng nghe. Chúng ta cần nói với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện, nhưng đồng thời chúng ta cũng phải lắng nghe tiếng Chúa qua những giây phút thinh lặng. Chúng ta hãy thưa lên với Chúa như Samuel ngày xưa: Lạy Chúa xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe...
7. Cho người điếc được nghe
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
"Trong thiên hạ có anh giả điếc
Khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là ngây,
Chẳng ai ngờ: sáng tai họ điếc tai cày..."
(trích bài "Anh giả điếc" của Nguyễn Khuyến)
Sáng tai họ điếc tai cày
Theo nghĩa đen, khi người cày ruộng ra lệnh cho trâu đi cày thì tai trâu như điếc chẳng nghe gì, nên cứ đứng ỳ một chỗ. Tật đó gọi là điếc tai cày. Trái lại khi đang cày ngon trớn mà chợt nghe người cày hô nhỏ: "họ!" (tức là dừng lại) thì tai trâu trở nên sáng tỏ, trâu bèn đứng lại liền. Tật nầy gọi là sáng tai họ.
Thành ngữ nầy ám chỉ có những đôi tai luôn mở ra (sáng tai) đối với những lời có lợi và thường xuyên đóng lại (điếc tai) trước những lời mà lòng chẳng muốn nghe.
Tai của vị hôn quân chỉ sáng trước những lời đường mật của lũ nịnh thần nhưng điếc đặc trước những lời chân thật của các bậc trung thần, vì thế mà triều đình băng hoại và sụp đổ.
Tai của những nhà lãnh đạo tham lam và mù quáng chỉ biết nghe những lời có lợi cho bản thân và điếc hẳn trước những oán than của dân nghèo, vì thế mà nhân dân khốn cùng, Nước nhà mạt vận.
Cách đây 150 năm, giá như triều đình của Vua Tự Đức (trị vì: 1847-1883) sáng tai trước những lời điều trần kêu gọi cải cách về nhiều mặt của Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) thì Việt Nam ngày nay lớn mạnh biết chừng nào.
Và giá như nhân loại sáng tai trước những lời giáo huấn của Chúa Giêsu thì mọi người đã được sống trong yêu thương hạnh phúc, đâu còn cảnh chiến tranh, khủng bố, áp bức, bất công...
Tuy nhiên, nhận ra sự điếc lác của mình trước một số lãnh vực nào đó và tìm cách chữa trị nó là điều không dễ.
Điếc tâm linh
Trong tác phẩm "tự thú", thánh Âu-tinh nhìn nhận đôi tai của người đã điếc lác trước Lời phán dạy của Chúa trong thời gian lâu dài:
"Con yêu Chúa quá muộn! Này Chúa vẫn ở trong con mà con cứ tìm Chúa bên ngoài... Chúa gọi con. Chúa la to và đã phá tan sự điếc lác của con. Chúa rực sáng. Chúa chiếu tỏa và đã xua tan sự mù loà của con..."
Cho đến năm 33 tuổi, đôi tai điếc của thánh Âu-tinh đã được Chúa Giêsu khai mở để đón nghe Lời Người.
Chúa Giêsu cho người điếc được nghe:
Qua bài đọc thứ nhất hôm nay, ngôn sứ Isaia đã báo trước một thời đại hồng phúc, thời Chúa Giêsu đến mở mắt cho người mù, mở tai cho người điếc: "Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai và miệng lưỡi người câm sẽ reo hò" (Is 35, 5-6).
Lời tiên báo đó đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu qua trình thuật của thánh sử Máccô: "Hôm ấy, Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Ép-pha-tha", nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng" (Mc 7, 31-35)
Hôm nay, nếu không được Chúa Giêsu và Thánh Thần của Người mở tai, chúng ta cũng chỉ là những người điếc trước những lời ban sự sống. Nếu không được Chúa Giêsu và Thánh Thần Người mở mắt, chúng ta mãi mãi vẫn chỉ là những người mù không thể nhận biết Thiên Chúa là Cha.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã mở tai cho người điếc ở miền Thập tỉnh được nghe.
Chúa cũng đã thương cho đôi tai điếc lác của thánh Âu-tinh được mở ra để đón nhận những lời thần thiêng của Chúa.
Nay xin Chúa cũng cúi xuống trên chúng con, đoái thương tình cảnh "điếc lác" của chúng con, cho tai tâm hồn chúng con được sáng trước những lời dạy khôn ngoan của Chúa, là những lời có sức mang lại cho chúng con sự sống muôn đời.
8. Sự sống thiêng liêng
(Cố Lm. Hồng Phúc)
Trong Thánh Thư gửi giáo đoàn hôm nay, Thánh Giacôbê mời gọi tín hữu kiểm xét lại cách đối xử với anh em. Ngài viết: "Anh em là những người tin vào Đức Kitô vinh hiển thì anh em đừng thiên vị ai". Người ta có cảm tưởng rằng Thánh Tông đồ đã dự một cuộc họp cộng đoàn, đã mục kích những sự kiện xảy ra và buộc lòng phải lên tiếng. Người ta hay đặt vấn đề giai cấp, trọng người giàu, coi thường kẻ nghèo, miệng hô hào tình huynh đệ bình đẳng, nhưng cách cư xử lại phân chia giai cấp.
"Anh em xét xử thiên vị và trở nên những quan xét đầy tà tâm". Không phải tiền của, sự giàu sang hay nghèo hèn làm nên giá trị của con người, nhưng là đức tin, nghĩa là sự chấp nhận và đặt để Thiên Chúa vào trong đời mình. Người giàu hay trở nên bần tiện và người nghèo thường hay cởi mở, biết chia sẻ với người khác và "trở nên giàu có và được hưởng Nước Trời".
Thánh Marcô là vị ngôn sứ duy nhất đã thuật lại việc Chúa chữa lành một người câm và điếc. Những chi tiết rõ rệt và thú vị làm liên tưởng đến Phêrô người đã chứng kiến phép lạ tại chỗ, và đã kể cho đồ đệ chép lại. Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđan, đến gần biển Galilê giữa miền thập tỉnh. Người ta dẫn đến một người câm và điếc. Chúa đã chữa lành.
Câm và điếc là một tật bệnh gây đau khổ nhiều, vì nạn nhân bị cắt đứt mọi đối thoại với kẻ khác và sống một mình lẻ loi. Chúa tỏ ra thông cảm và yêu mến anh, nêu gương cho Giáo hội lập nên những tổ chức bác ái để trợ giúp hạng người xấu số đó, như các nhà gọi là "Nhà Effata" (Hãy mở ra), danh xưng trích từ đoạn Phúc Âm này.
Chúa đã làm gì? Phúc Âm nói: Ngài đem anh ra khỏi đám đông. Vì Ngài không muốn dân chúng coi việc người làm có tính cách phù thủy. Phép lạ là do quyền năng của Chúa thực hiện, thật ra không cần đến sự việc bên ngoài, mà do tình thương của Chúa, như trong phép lạ Chúa chữa người đàn bà loạn huyết. Ở đây, Chúa dùng nhiều tác động bên ngoài, để làm nên phép lạ, như đặt ngón tay vào tai, bôi nước miếng vào lưỡi và phán: "Ephpheta", nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh mở ra, lưỡi anh được tháo gỡ và nói được.
Phải chăng những tác động và lời nói ấy tiên báo các phép bí tích mà một ngày xưa kia Chúa sẽ thiết lập trong Giáo hội, để thông chuyển sự sống ơn thánh. Chúa sẽ dùng chất liệu bên ngoài như nước, dầu, bánh, rượu, hiệp với lời thánh hóa để ban sự sống thiêng liêng cho chúng ta.
Phép lạ Chúa làm cũng là một bài học cho môn đệ. Người môn đệ Chúa phải là người cởi mở, vừa đón nhận vừa thông chuyển Lời Chúa. Phải mở tai để nghe Lời Chúa và mở miệng để tuyên xưng đức tin, như nhà Tiên tri Isaia từng nói: "Đức Giavê đã cho tôi lưỡi của môn sinh, để tôi biết nâng đỡ người cùng khổ. Và sáng sáng, Người lay tỉnh tai tôi cho tôi biết nghe như những môn sinh" (Isaia 50, 4).
Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta ơn đức tin, ngày chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội. Chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội. Chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với một người bạn chí thiết. Xin Chúa hãy đặt lên câu "Epphata –Hãy mở ra", trên con để con được nghe, được suy niệm, được biết công bố Lời Chúa. Giáo hội tiên khởi đã đặt nghi thức vào lễ rửa tội.
Hồi ấy, Hiêrônimô (342-420) là một văn hào lỗi lạc về văn chương cổ điển và không biết gì mấy về Thiên Chúa. Người say mê đọc các tác phẩm của Cicéron. Một hôm, người nghe tiếng Chúa hỏi:
- Hiêrônimô, con là môn đệ của ai?
- Thưa con là môn đệ của Chúa.
- Không phải, con là môn đệ của Cicéron!
Từ đó, Hiêrônimô giác ngộ và quyết chí học hỏi Lời Chúa. Ngài được ơn Epphata. Ngài qua thánh địa vào ẩn tu trong hang đá Bêlem để phiên dịch Thánh Kinh, để suy niệm Lời Chúa, sống trong khung cảnh Chúa đã sống. Ngài đã nói: "Ai không hiểu biết Thánh Kinh là không biết Chúa Giêsu". Bản dịch Vulgate (phổ thông) của ngài đã được Công đồng Triđentinô (thế kỷ XVI) nhìn nhận là phù hợp với đức tin và được coi là bản dịch chính thức của Giáo hội.
"Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời" (Ga. 1, 14 – Đáp ca).
9. Nói được rõ ràng.
('Manna')
Khi đến thăm những trẻ em khuyết tật, ta thấy mình dễ tiếp xúc, gần gũi các em mù, hơn các em bị câm điếc.
Thật khó làm cho các em câm điếc, hiểu được chúng ta, và chúng ta cũng không hiểu được điều các em diễn tả. Đôi bên cứ như ở hai thế giới, không gặp được nhau.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chữa một người vừa ngọng vừa điếc.
Người ngọng là người gặp khó khăn khi trình bày, khi phải diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu. Ta có cảm tưởng lưỡi anh bị một sợi dây trói buộc. Đức Giêsu đã đụng đến lưỡi anh, và sợi dây đó được tháo cỡi. Giờ đây anh có thể nói được tự nhiên và rõ ràng.
Nói sao để người khác hiểu được mình, đó là ước mơ của nhiều người trong chúng ta. Nhưng ta lại thấy có cái gì đó trói buộc mình khiến mình ngần ngại, sợ hãi, né tránh...
Nhiều người đã trở nên ngọng hay câm vì đã trải qua những kinh nghiệm đau đớn: kinh nghiệm bị châm chọc, bị khinh miệt, bị khước từ... Bao kinh nghiệm làm con người mất tự tin và khép lại. Có những đe dọa ám ảnh làm con người câm nín.
Ép-pha-tha, xin hãy mở miệng con để con có thể hồn nhiên vén mở thế giới của mình, hầu gặp được sự cảm thông và nâng đỡ.
Nếu bệnh ngọng làm chẳng ai hiểu tôi, thì bệnh điếc làm tôi chẳng hiểu ai. Tôi như người đang xem một phim trên truyền hình mà máy đột nhiên mất tiếng. Tôi chỉ thấy hành động, nhưng không hiểu được ý nghĩa.
Chẳng ai muốn mình bị điếc hay lãng tai, nhưng trong thực tế, ta vẫn có thể mắc bệnh này, nghĩa là mất khả năng lắng nghe người khác. Chúng ta thường chỉ nghe điều mình muốn nghe, hay lắm khi nghe điều người khác nói nhưng lại hiểu dưới cái nhìn chủ quan của mình. Như thế vẫn là chưa hiểu được điều người kia muốn nói.
Nghe bằng tai, không đủ. Cần lắng nghe bằng cả trái tim. Chỉ trái tim yêu thương mới giúp ta hiểu đúng, hiểu đủ, hiểu ý nghĩa đàng sau lớp vỏ ngôn từ.
Ép-pha-tha, xin giúp con ra khỏi cái tôi cứng cỏi, ra khỏi những thành kiến, những suy nghĩ cứng nhắc, để nghe được cái tôi của anh em.
Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại, vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần. Bệnh này làm người ta thành những hòn đảo, chẳng có gì để cho, chẳng có gì để nhận, để rồi chết dần trong sự nghèo nàn của mình.
Xin cho con đừng câm điếc trước Thiên Chúa và anh em, đồng thời giúp người khác ra khỏi sự câm điếc của họ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi gặp một người bạn khép kín, cô độc, bạn làm gì để có thể đến gần và làm quen với người bạn đó?
Lắng nghe Thiên Chúa, lắng nghe tha nhân, bạn thấy điều nào khó hơn? Bạn nghĩ gì về khả năng lắng nghe của bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm đôi mắt cho ai phải đui mù, làm lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng lưỡi cho người không nói được, làm tiếng kêu cho người chịu bất công.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa, để đem cơm cho người đói đang chờ, và đem nước cho người họng đang khô, đem thuốc thang cho người đang đau ốm, đem áo quần cho người đang trần trụi, đem mền đắp cho người rét đang run.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đường vắng, thắp đèn soi cho ai bước trong đêm, đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh, truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi, nâng phẩm giá cho kẻ đời chà đạp, đem tự do cho những kiếp đọa đày.
10. Hãy mở ra
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Khi ở nước ngoài, có dịp gặp những người Việt sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi họ: "Sống ở nước ngoài, điều gì khiến ông bà buồn khổ nhất". Họ trả lời: "Khổ nhất là chúng con sống như những người điếc và ngọng. Không biết tiếng nên ngọng nghiụ, nói chẳng nên lời, thành ra không làm cho người ta hiểu được mình. Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, thật y như người điếc".
Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với thế giới bên ngoài. Có gì tích chứa trong lòng, phải nói ra thì người khác mới hiểu. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Phải nghe mới hiểu được người khác. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu nhau thì thật đáng buồn và đáng sợ.
Nếu điếc và ngọng thể lý đã đáng buồn và đáng sợ, thì điếc và ngọng tâm lý còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội.
Có nhiều thứ điếc.
Có thứ điếc vì khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Nghe mà không hiểu. Hoặc nghe tưởng là hiểu hoá ra lại hiểu sai. Trường hợp này còn tệ hại hơn là không nghe thấy gì.
Có thứ điếc vì định kiến. Đã có sẵn định kiến với ai, ta không muốn nghe người ấy nói nữa. Người ấy có nói hay đến đâu, ta cũng cho là dở. Người ấy có nói tốt đến đâu, ta cũng cho là xấu. Những ý kiến của người ấy không thể lọt vào tai ta. Nếu có vào thì chỉ vào những phần xấu.
Có thứ điếc vì bịt tai không muốn nghe. Đây là trường hợp của người tự làm cho mình trở thành điếc. Mất tin tưởng vào anh em. Tuyệt vọng vì cuộc sống. Tự đóng kín trong vỏ ốc của bản thân. Đoạn tuyệt với mọi người.
Sau cùng, có thứ điếc thiêng liêng không nghe được Lời Chúa. Không nghe được Lời Chúa vì thiếu học hỏi. Nhưng nhất là không nghe được Lời Chúa vì cứng lòng. Vì để nghe Lời Chúa, mở tai chưa đủ, cần phải mở lòng nữa. Bao lâu tâm hồn đóng kín, không nhậy cảm trước những lời mời gọi ăn năn sám hối, không tỉnh thức tiếp thu những lời hướng dẫn về đường lành, thì tai người ta sẽ chẳng nghe được Lời hằng sống. Bao lâu tâm hồn còn đuổi theo dục vọng, còn toan tính những điều gian dối, bấy lâu người ta vẫn còn điếc đặc trước những Lời của Thiên Chúa.
Tương tự như thế, có nhiều thứ ngọng.
Có thứ ngọng do khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Ta không hiểu người mà cũng chẳng thể làm cho người hiểu ta.
Có thứ ngọng do ích kỷ. Ta chỉ nói về những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của ta, mà chẳng xét đến những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của anh em. Nên lời ta nói chẳng lọt vào tai anh em. Lời ta nói trở nên ngọng nghịu, anh em nghe mà không hiểu.
Có thứ ngọng do sợ sệt. Vì sợ sệt, ta không dám nói lên sự thật. Những nỗi sợ mất quyền lợi, sợ mất danh dự, sợ mất lòng người khiến ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có thứ ngọng do lười biếng. Vì lười biếng, ta không nói được những lời tốt đẹp khích lệ anh em. Vì lười biếng, ta không nói được những lời an ủi người đang buồn sầu. Vì lười biếng, ta không nói được những lời chia vui với người anh em gặp may mắn. Nhất là vì lười biếng, ta không nói lên được những lời ca tụng Thiên chúa. Những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có nhiều bức tường ngăn chặn làm tai ta điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho lưỡi ta ngọng.
Hôm nay, Đức Giêsu cũng đến nói với ta: "Ephata". Hãy mở ra.
Hãy mở tai ra để lắng nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận anh em và đón nhận Lời Chúa.
Hãy mở miệng lưỡi ra để đi đến với anh em và đi đến với Chúa.. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để ta mạnh dạn nói những lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh ngọng trong tâm hồn con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những thứ ngọng và nói lý do của những thứ ngọng đó.
2) Hãy kể ra những thứ điếc và nói lý do của những thứ điếc đó.
3) Khi gặp người khác bạn thích nói hay thích nghe. Hoặc bạn không muốn nói cũng chẳng muốn nghe?
4) Lắng nghe có dễ không? Bạn có để ý lắng nghe Chúa và nghe nhau không?
5) Nói những điều tốt đẹp rất có ích lợi. Bạn đã có kinh nghiệm gì về điều này chưa?
11. Hãy mở ra
(ĐGM. Phêrô Nguyễn Khảm)
"Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và Người câm nói được"
Có nhiều khi tôi tự hỏi: Nếu một ngày nào đó tự nhiên mình bị câm và điếc lúc ấy cuộc đời mình sẽ ra sao? Tôi lại nghĩ: Lúc ấy chắc sẽ buồn, sẽ thất vọng lắm.
Kinh Thánh Kitô Giáo của mình trình bày con người của mình là một sinh vật được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không phải là một Thiên Chúa đơn độc, cô đơn. Nhưng mà là một Thiên Chúa Ba Ngôi, là một cộng đồng hiệp thông trong yêu thương. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa. Mình phải làm thế nào để cuộc sống của mình sẽ vươn tới chỗ hiệp thông, hiệp thông với nhau, hiệp thông với cả vũ trụ. Đến lúc ấy cuộc sống chúng ta sẽ phong phú lắm.
Để tiến tới sự hiệp thông chúng ta phải dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời nói chúng ta có thể diễn tả được suy tư, cảm xúc tâm tư trong lòng. Đồng thời chúng ta có thể nghe được tâm sự của người khác. Từ đó nó sẽ hình thành một cuộc đối thoại, kiến tạo một sự hiệp thông giữa hai người và làm cuộc sống của chúng ta phong phú hơn.
Như vậy, nếu chúng ta không thấy, không nghe, rõ ràng chúng ta sẽ bị cắt đứt khỏi thế giới bình thường của con người. Vì thế trong các trường khuyết tật bây giờ người ta cố gắng giúp cho các em tập nghe và tập nói, để các em có thể hội nhập vào thế giới bình thường của con người. Biết được nỗi đau của những người câm điếc ta sẽ thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận được đấy chính là ân huệ và là một quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban cho ta mà ta không biết tạ ơn.
Chúng ta có miệng và tai tốt lắm. Nhưng có khi nào chúng ta nghĩ mình bị câm điếc theo nghĩa toàn diện không? Chúa Giêsu đã có lần mắng các tông đồ: "Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc". Thực sự vậy, nếu chúng ta quay lại định nghĩa của Kitô Giáo về mục đích của con người là sự hiệp thông. Và ngôn ngữ là phương thế để dẫn chúng ta đến sự hiệp thông. Lúc ấy chúng ta sẽ khám phá ra rằng: Rất nhiều khi tai và miệng thay vì dẫn đến sự hiệp thông thì nó lại ngăn cản và có thể sẽ huỷ diệt sự hiệp thông. Chúng ta trở thành câm điếc theo nghĩa đó.
Một hôm, đọc sách báo tình cờ tôi có đọc được một câu chuyện kể về một người phụ nữ đã có chồng 5 con. Chị được đưa vào bệnh viện để giải phẩu mắt. Suốt ngày đêm chị than thân trách phận. Chị sợ hãi, lo âu đủ chuyện. Chị chả hề quan tâm đến ai, kể cả những bệnh nhân nằm chung phòng. Tuần sau có một phụ nữ khác nhập viện nằm gần chị. Người phụ nữ mới vào ngày nào cũng thăm hỏi an ủi khuyến khích nâng đỡ chị suốt mấy tuần lễ như vậy. Một hôm, sau khi chồng và các con đến thăm chị, người phụ nữ mới vào sau nói với chị "Này Chị ơi! Chị phải biết là chị may mắn và hạnh phúc nhiều lắm, vì có biết bao nhiêu người quan tâm và chăm sóc chị". Câu ấy làm cho chị suy nghĩ và phải nhận đúng như vậy. Biết bao nhiêu người quan tâm đến chị mà chị chả biết quan tâm đến ai, ngay cả những người trong gia đình. Chị nhận ra người bạn nằm cùng với mình chả có ai thăm nuôi. Vậy mà chị ta không hề than vãn một lời lại còn động viên an ủi mình. Chị cảm thấy hối hận định sáng hôm sau sẽ an ủi xin lỗi chị ấy. Nhưng đã muộn. Chị ấy đã được Chúa gọi. Vài hôm, sau khi tháo băng chị đọc được lá thư người bạn gởi cho mình. Nội dung bức thư:
"Bạn thân mến, cảm ơn bạn về những ngày rất đặc biệt này. Tôi cảm nhận niềm hạnh phúc trong tình bạn của chúng ta. Tôi biết rằng bạn cũng chăm sóc cho tôi dù bạn không nhìn thấy tôi. Đôi khi để lôi kéo sự chú ý của chúng ta Thiên Chúa đã đánh gục chúng ta, hay ít ra Chúa làm cho ta mù loà, với hơi thở cuối cùng này tôi cầu xin Chúa cho chị đựơc nhìn thấy trở lại. Nhưng không phải thấy như chị thường thấy. Nếu biết tập nhìn bằng con tim, cuộc đời của chị sẽ phong phú hơn."
Chúng ta có đôi tai rất thính, đôi mắt rất sáng, miệng rất đẹp. Vấn đề ở đây là chúng ta không nhìn bằng cặp mắt bình thường, nghe và nói bình thường. Nhưng phải nói và nghe bằng con tim.
Chúng ta câm điếc khi chúng ta không nghe được những nỗi niềm ray rứt của người khác. Câm điếc khi chúng ta dửng dưng trước những đau khổ của những người bệnh hoạn, tật nguyền, trẻ thơ bơ vơ.
Chúng ta câm điếc khi chúng ta không nghe Chúa Giêsu nói lời sự thật, nói lời yêu thương, nói lời hoà giải. Có khi trong một ngày chúng ta nói biết bao là lời hằn học, hận thù, độc ác, gây đau khổ, gây oán thù, gây chia rẽ. Muốn tránh đựơc những câm điếc này chúng ta phải cầu nguyện: "Lạy Chúa xin cho con được nói, xin cho con được nghe. Xin Chúa hãy phán một lời hãy mở ra".
Không phải chúng ta chỉ nghe nói một mình. Chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ và bước xa hơn nữa. Chúa Giêsu đã chữa lành cho người câm điếc và Ngài mời gọi chúng ta thi hành tác vụ chữa lành cho những người câm điếc. Chúng ta không thể chữa được như Chúa. Nhưng chúng ta có thể trở nên đôi tai cho người điếc, trở nên cái miệng cho người câm.
Ở bên Mỹ, muốn đoạt được giải thưởng nổi tiếng thì tác phẩm của mình phải làm tác động đến trái tim người đọc và có thể vượt qua mọi biên giới của các quốc gia. Có một nhà văn cũng là một nhà báo mơ ước như vậy. Nhưng một ngày kia, tình cờ ông ta đến một nhà dưỡng lão, gặp một cụ già ngồi ghế đá. Ông cụ kể về gia đình, con cái của cụ. Ông có nhiều con nhưng chúng đi xa hết, đứa con gái út ở tận bên Đức, ít khi liên lạc được bằng điện thoại. Tay ông bị liệt nên không viết thư được cho con, nghe vậy ông nhà báo liền lấy giấy viết ra viết dùm ông cụ một lá thư. Viết xong anh cầm tay cho ông cụ ký tên. Và hai hàng nước mắt của cụ lăn trên má. Ông cụ cảm thấy hạnh phúc vô cùng, anh nhà báo trở về nhà và hai hàng nứơc mắt cũng tuôn chảy. Anh cảm thấy ngày hôm ấy anh đã đoạt được giải thưởng rồi. Anh chỉ viết một lá thư thôi. Nhưng những dòng chữ ấy đã chạm đến trái tim con người, anh đã cho cụ mượn đôi tay, mượn cái miệng để diễn tả nỗi lòng của ông cụ đối với đứa con gái thân yêu và xa cách nghìn trùng.
Trong cuộc sống hàng ngày có biết bao nhiêu công việc, biết bao dịp để chúng ta có thể giúp đỡ người khác. Chúng ta phải biết làm tác vụ chữa lành câm điếc của Chúa Giêsu, chúng ta cho người không biết nói mượn miệng lưỡi của chúng ta, cho người khác nghe đựơc lời sự thật, lời an ủi, lời khuyến khích.
Hôm nay tôi chỉ mời anh chị em chiêm ngắm hình ảnh của người câm điếc để từ lòng chúng ta thốt lên một lời tạ ơn về quà tặng và ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Đồng thời chúng ta ý thức được chính mình cũng ở trong tình trạng câm điếc theo nghĩa toàn diện để xin Chúa chữa lành. Xin Thiên Chúa đưa chúng ta vào trong tác vụ chữa lành mà Chúa đã sống suốt cuộc đời của Ngài.
Tôi xin anh chị em hãy nhớ lại một cử chỉ rất quen thuộc mà mỗi lần tham dự thánh lễ chúng ta đều thực hiện. Đây là lúc nghe đọc Tin Mừng chúng ta đọc: "Lạy Chúa vinh danh Chúa" và ta làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực. Đấy chính là dấu chỉ bề ngoài để nói lên ý nghĩa bên trong. Hãy mở ra: ý muốn nói: Lạy Chúa xin hãy mở trí khôn con, xin mở miệng con, xin mở trái tim con, để con được hiểu, để con cảm nhận, để con có thể nói lời của Chúa. Một cử chỉ rất quen thuộc và vì quá quen nên chúng ta xem thường. Ước gì mỗi lần làm dấu thánh giá chúng ta ý thức được: Phải mở trí, mở lòng, mở miệng ra để chúng ta thoát khỏi cảnh câm điếc.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con theo ý Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm đôi mắt cho những ai phải đui mù, làm lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng lữơi cho những người không nói được, làm tiếng kêu cho những người bị bất công. Lạy Chúa xin cứ gởi con ra đồng lúa để đem cơm cho những người đói đang chờ, đem nước cho những người bị khát, đem thuốc thang cho những người đau ốm, đem áo quần cho những người trần trụi, đem mềm đắp cho người rét đang run. Lạy Chúa, xin cứ gửi con ra đường thắp đèn soi cho ai bước trong đêm, đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh. Truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi, nâng đỡ dậy cho những kẻ bị chà đạp, đem tự do cho những kiếp đoạ đày. Amen.
12. Ephata! Hãy mở ra
(Đức Ông Nguyễn Quang Sách)
Bài giảng của Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, cha giảng Phủ giáo hoàng, về những bài đọc phụng vụ Chúa Nhật 23 Thường Niên năm B tuần này như sau:
Đoạn Tin Mừng nhắc chúng ta về một sự chữa lành đẹp do Chúa Giêsu thực hiện.
"Và người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Epphatha", (nghĩa là "Hãy mở ra!"), và lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết buộc lại, anh ta nói được rõ ràng" (Mc 7,32-35).
Chúa Giêsu không làm phép lạ như có người vung chiếc đũa thần hay lả bật ngón tay. Tiếng rên thoát ra từ miệng Người lúc Người rờ tới tai người điếc nói với chúng ta rằng Người đồng hóa với sự đau khổ người ta, Người chia sẻ mãnh liệt trong sự rủi ro của họ, đã thành gánh nặng của Người.
Trong một dịp, sau khi Chúa Giêsu đã chữa nhiều người bịnh, tác giả tin mừng bình luận: "Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta" (Mt 8,17).
Những phép lạ của Chúa Giêsu không bao giờ tự nó là cùng đích, chúng là những dấu. Điều Chúa Giêsu ngày trước đã làm cho một người trên bình diện thể lý, chỉ điều Người muốn làm hằng ngày cho mọi người trên bình diện thiêng liêng.
Người Chúa Giêsu chữa lành đã điếc và ngọng, anh ta không thể thông truyền với những kẻ khác, nghe tiếng nói của anh và bày tỏ những cảm giác và nhu cầu của anh. .Nếu bịnh điếc và ngọng không có khả năng thông truyền đầy đủ với người thân cận mình, để có những tường quan tốt đẹp, thì chúng ta phải hiểu ngay rằng tất cả chúng ta bị điếc và ngọng nhiều hay ít, và đó là lý do Chúa Giêsu rên với tất cả chúng ta tiếng: Epphatha, Hãy mở ra!
Sự khác biệt là bịnh điếc thể lý không tùy thuộc vào cá nhân và người đó hoàn toàn không đáng trách, đang khi bịnh điếc luân lý thì đáng trách.
Ngày nay người ta tránh dùng từ ngữ "điếc" và chúng ta chuộng hơn cách nói "khuyết tật thính giác," chính là để phân biệt sự kiện đơn thuần không nghe nói về sự điếc luân lý.
Chúng ta điếc, xin đan cử ví dụ, khi chúng ta không nghe tiếng kêu cứu với chúng ta và chúng ta thích đặt giữa chúng ta và người thân cận "hai thứ nước men" sự dửng dưng. Cha mẹ điếc khi không hiểu rằng những thái độ kỳ dị và rối loạn của con cái dấu một tiếng kêu xin chú ý và yêu thương.
Một người chồng điếc khi ông không thể thấy trong sự nhút nhát sợ hãi của vợ mình dấu chỉ sự kiệt sức hay sự cần có một sự làm sáng tỏ. Và cũng một sự kiện đó áp dụng cho người vợ.
Chúng ta điếc khi chúng ta khép kín mình, vì kiêu hãnh, trong một sự yên lặng lãnh đạm và đầy phẫn nộ, đang khi có lẽ với chỉ một tiếng xin lỗi hay tha thứ chúng ta co thể mang lại bình an và an toàn cho nhà cửa.
Chúng ta những tu sĩ nam và nữ có những thời gian thinh lặng trong ngày, và thỉnh thoảng chúng ta cáo mình khi xưng tội: "Con đã phá vỡ sự thinh lặng." Tôi tưởng thỉnh thoảng chúng ta phải cáo mình về điều ngược lại và nói: "Con đã không phá vỡ sự thinh lặng."
Điều quyết định chất lượng sự truyền thông, dầu sao, không phải chỉ nói hay không nói, nhưng làm như vậy hay không làm như vậy vì tình yêu. Thánh Augustine nói với dân chúng trong một phát biểu: Không thể biết trong mọi hoàn cảnh phải làm gì: nói hay thinh lặng, sửa chữa hay là buông xuôi.
Đây là một luật đúng đúng cho mọi trường hợp: "Hãy yêu và hãy làm gì anh muốn." Hãy quan tâm có tình yêu trong con tim lúc đó, nếu anh nói, là do tình yêu, nếu anh thinh lặng là do tình yêu, và mọi sự sẽ nên tốt đẹp bởi vì duy chỉ sự lành đến từ tình yêu.
Kinh Thánh giúp chúng ta hiểu nơi nào bắt đầu sự phá vỡ truyền thông, nơi nào sự khó khăn của chúng ta phát sinh để thông cảm với nhau một cách lành mạnh và tốt đẹp. Khi Adam và Eva ở trong những quan hệ tốt với Thiên Chúa, sự liên hệ giũa hai ông bà cũng tốt đẹp và sung sướng: "Đó là thịt bởi thịt tôi." Tương quan của ông bà với Thiên chúa vửa gián đoạn. vì sự bất phục tùng, thì bắt đầu những sự cáo tội lẫn nhau: "Tại ông ấy, tại bà ấy..."
Chính từ đó mà người ta phải bắt đầu trở lại. Chúa Giêsu đến để "hoà giải chúng ta với Thiên Chúa" và như vậy hoà giải chúng ta với nhau. Người làm như vậy hơn hết qua các bí tích. Giáo Hội đã luôn thấy trong những cử chỉ xem ra kỳ dị mà Chúa Giêsu đã làm với kẻ điếc-ngọng (Người đặt ngón tay trong tai anh và động tới lưỡi anh) một biểu trượng của các bí tích nhờ vậy mà Người tiếp tục "rờ" chúng ta phần xác hầu chữa lành chúng ta phần thiêng liêng.
Đó là lý do tại sao trong bí tích rửa tội thừa tác viên thực hiện những cử chỉ trên một người được rửa tội như Chúa Giêsu đã làm trên người điếc-ngọng: Thừa tác viên ấy đặt ngón tay mình vào tai anh và rờ tới đầu lưỡi anh, lập lại lời Chúa Giêsu: "Ephphatha, Hãy mở ra!"
Bí tích Thánh Thể cách riêng giúp chúng ta chiến thắng sự bất lực thông truyền với người thân cận chúng ta, làm cho chúng ta kinh nghiệm sự hiệp thông kỳ diệu nhất với Thiên Chúa.
13. Hãy cao rao tình yêu Thiên Chúa
(Lm. Anmai)
Nhớ lại tâm tình của một số người Do Thái khi họ đặt vấn đề với Chúa Giêsu về dấu lạ. Họ đòi Chúa Giêsu làm dấu lạ thì họ mới tin.
Cũng hay đó chứ! Đó là quyền tự do của họ, quyền tự do của mỗi người khi đối diện với Thiên Chúa. Với bản thân tôi, đơn giản, mỗi ngày được thở, mở mắt ra sống với Chúa một ngày mới nữa đó là dấu lạ rồi.
Nhiều và nhiều dấu lạ xung quanh Chúa đã làm cho con người, đã làm cho chúng ta là dấu lạ nhưng chuyện quan trọng là chúng ta không nhận ra.
Một lần kia, lang thang ở trong Viện Tim với một cha đang điều trị. Ngồi trước phòng thay băng, hai bà mẹ bế hai đứa con khoảng 5 tuổi ngồi chờ thông tin về con mình. Đang lúc đó, hỏi thăm thì tôi nghe hai bà nói là 2 đứa bị tim và phải tốn cả vài trăm triệu để phẫu thuật cho hai đứa này.
Nghe xong giật thót cả người. Mình mà bị như hai đứa nhỏ này thôi thì cũng mệt.
Đâu cần nghĩ đâu xa, ngay người anh em vừa phải qua lần phẫu thuật vừa rồi đã là phát khiếp. Một vết mổ thật dài ngay trước ngực! Tạ ơn Chúa là ca mổ thành công và người anh em đang bình phục. Nếu tôi bị như thế không biết tôi sẽ ra sao vì sức khỏe không khá mấy và rất nhát những chuyện dao kéo.
Đó là tim, còn nhiều bộ phận khác trong cơ thể con người. Chi thể nào, bộ phận nào con người cũng cần cả. Chỉ cần khiếm khuyết một cái thôi thì ta sẽ thấy đời ta bao là rắc rối.
Nhớ đến những em bị câm điếc khi có thời gian sống chung với các em. Thật khổ sở, muốn nói cái gì thì phải dùng cái ngôn ngữ riêng của những em khiếm thính. May chăng học được vài từ của chúng để hiểu những cái sinh hoạt thường ngày chứ đâu biết hơn. Với chính bản thân chúng thì quả là khổ sở, để diễn tả tình cảm, tâm tư cho người khác các em phải vận dụng ngôn ngữ của các em, chỉ có thế giới của những người khiếm thính mới hiểu được với nhau.
Và, thử đặt trong trường hợp chúng ta khiếm thính chúng ta sẽ cảm nhận gì?
Dĩ nhiên, thoạt đầu thì cha mẹ và người thân phải tìm đến sự trợ giúp của y khoa cũng như bằng mọi cách hỗ trợ để cho người khiếm thính hội nhập với mọi người. Cuối cùng không làm được gì thì đành phải cho em học ở trường khiếm thính.
Ngày hôm nay, trong hành trình đi rao giảng Tin Mừng của mình, người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Chúa Giêsu và xin Chúa Giêsu đặt tay trên người câm điếc ấy. Chúa Giêsu đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: "Effetha!" (nghĩa là "Hãy mở ra!"), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng.
Sau đó, Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Chúa Giêsu càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!"
Dĩ nhiên, sứ mạng của Chúa Giêsu đến trong cuộc đời này là Ngài băng bó những tâm hồn tan vỡ, Ngài chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền ... và chuyện quan trọng nhất đó là cứu độ con người.
Tâm tình đó, lời loan báo đó chúng ta vừa được nghe ngôn sứ Isaia nói: Các ngươi hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi.
Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước.
Vâng! Thiên Chúa đến mang lại bình an, mang lại hạnh phúc, mang lại ơn cứu độ cho con người.
Trong cuộc sống thường ngày, Thiên Chúa vẫn yêu thương, vẫn chở che mỗi người bằng tình yêu thương của Ngài. Thế nhưng, đáng tiếc thay con người đã không nhận ra tình yêu thương đó mà đôi khi cáu gắt, hận thù, hơn thua, ganh tỵ nhau.
Chúng ta vừa nghe tâm tình của Thánh Phaolô: Anh em thân mến, anh em là những người tin vào Đức Giêsu Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên vị. Giả sử trong lúc anh em hội họp, có người đi vào, tay đeo nhẫn vàng, mình mặc áo sang trọng; lại cũng có người nghèo khó đi vào, áo xống dơ bẩn, nếu anh em chăm chú nhìn người mặc áo rực rỡ mà nói: "Xin mời ông ngồi chỗ danh dự này". Còn với người nghèo khó thì anh em lại nói rằng: "Còn anh, anh đứng đó", hoặc: "Anh hãy ngồi dưới bệ chân tôi".
Đó không phải là anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em và trở nên những quan xét đầy tà tâm đó sao?
Anh em thân mến, xin hãy nghe: Không phải Thiên Chúa chọn người nghèo trước mắt thế gian, để nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được hưởng nước Người đã hứa cho những kẻ yêu mến Người đó sao?
Thánh Phaolô nhắc nhớ chúng ta về tâm tình khiêm hạ. Nhiều lần nhiều lúc chúng ta đã coi thường những người nghèo, những người thấp bé hơn chúng ta.
Thật ra, Chúa ban cho chúng ta quá nhiều ơn huệ nhưng chúng ta đã không nhận ra những ân huệ đó để rồi chúng ta cứ than vãn, chúng ta cứ ganh đua nhau.
Ngay cả bản thân chúng ta, như ông bà thường nói nhìn lên chúng ta không bằng ai nhưng nhìn xuống chúng ta hạnh phúc hơn quá nhiều người.
Tại sao chúng ta không nhận ra diễm phúc, ân sủng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta để chúng ta cao rao tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời của chúng ta.
Chúng ta hãy bắt chước anh chàng câm điếc hôm nay để cao rao tình yêu Thiên Chúa trên cuộc đời của chúng ta.
14. Ôi! đẹp thay bao việc Chúa làm
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Theo Hiến Chế Mặc Khải của công đồng Vaticano II, Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa nói với loài người để mặc khải cho họ về chính Thiên Chúa, về tình thương, sự an bài săn sóc, ý định và chương trình cứu độ của Người. (Dei Verbum 25). Đề cập đến Kinh Thánh, thánh Augustinô đã không tiếc lời nói: "Thánh Kinh là bức thư tình mà Thiên Chúa gửi cho chúng ta là bạn hữu của Người" (Augustino, Enarr in Ps 90).
Đúng như thế, Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia (35, 4-7a), hôm nay thật đẹp biết bao, vì nó chứa đầy những dòng chữ yêu thương của Thiên Chúa đối với Dân Ngài. Trong lúc dân Israel đang bị giam cầm, khó lòng thoát khỏi. Họ đã bị quân Babylon đánh bại nặng nề. Họ bị cướp bóc và lôi ra khỏi nhà. Họ phải sống trong thân phận tù đày nơi đất kẻ thù địch. Nhà cửa và thành trì của họ bị tàn phá. Đền thờ bị phá đổ tan hoang. Thời huy hoàng không còn nữa. Họ phải sống cảnh lưu đày, tương lai mù mịt. Không ai có sức cứu họ thoát khỏi cảnh khổ cực này. Và nếu họ có thoát được cảnh lưu đày, thì làm sao có thể vượt qua được sa mạc khô cằn để về nước. Và nếu họ có thể chạy thoát về đất nước của họ thì ở đó không còn gì nữa.
Đang lúc lối tận, đường cùng, quẫn bách như thế, những lời lẽ dịu dàng của Thiên Chúa phán qua miệng Isaia, lời của Thiên Chúa tình thương đầy an ủi, như tiếp thêm nghị lực cho Dân Chúa đang bị xao xuyến trong cảnh lưu đày: "Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các người đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các người" (Is 35, 4).
Tại sao ngôn sứ Isaia phải khuyến khích họ Can đảm lên, đừng sợ? Có lẽ họ đang sợ hãi khủng khiếp. Tại sao ngôn sứ lại nói đến nước chảy lên trong sa mạc, suối chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn thành hồ ao, và hoang địa sẽ trở nên suối nước? Có lẽ dân chúng đang bị hạn hán chăng? Tại sao ngôn sứ lại dùng hình ảnh người mù sáng mắt, tai người điếc sẽ mở ra, và người què quặt nhảy nhót như nai? Nếu không phải vì dân chúng đang gặp lúc khó khăn không nhìn, không nghe, không lê bước được (x. Is 35, 4-7).
Thật ủi an biết bao, bởi dân Chúa cảm thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, mình là đối tượng của lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa. Lòng thương xót ấy nay thể hiện cụ thể nơi lời nói cũng như việc làm của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người.
Tin Mừng Marcô hôm nay thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu "làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được" (Mc 7, 37), giúp chúng ta suy ngẫm về tình yêu và lòng từ bi của Thiên Chúa thể hiện qua việc chữa lành của một "câm điếc" (Mc 7,32).
"Effatà", có nghĩa là "hãy mở ra" (Mc 7,34). Chúa Giêsu đang đi qua vùng "Thập tỉnh", giữa Tiro, Sidone và vùng Galilea, vùng đất của dân ngoại. Người ta đem đến cho Chúa một người câm điếc, để Người chữa cho anh, hiển nhiên là danh tiếng Chúa Giêsu đã được đồn thổi cho tới đây. "Effatà - Hãy mở ra" (Mc 7,34). Chúa Giêsu đem anh riêng ra một chỗ, đụng vào tai và lưỡi anh, rồi ngước mắt nhin trời Người thở một hơi sâu, anh câm điếc ấy bắt đầu nghe và nói sõi sàng (x. Mc 7, 35). Thật tốt đẹp biết bao việc Chúa làm.
Khởi đầu công trình sáng tạo, sau khi hoàn tất công trình sáng tạo vũ trụ: "Thiên Chúa thấy mọi sự Người làm: đều tốt đẹp" (St 1, 31). Nay thời Thiên Sai, thời Đấng Cứu Thế đến thực hiện công trình cứu chuộc và sự sáng tạo mới, Tin Mừng cũng nói cùng một cách: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!" (Mc 7, 37) Chúa đã làm cho anh "mở ra".
"Effatà - Hãy mở ra" (Mc 7,34). Từ việc chữa lành đối với anh câm điếc là một sự "mở ra" cho người khác và cho thế giới, một sự mở ra khởi đầu với các cơ quan nghe Lời Chúa và ca tụng những kỳ công công Thiên Chúa cũng như lòng thương xót của Ngài. Chúa đã làm người để cho con người bị câm điếc bên trong do tội lỗi có khả năng lắng nghe tiếng của Thiên Chúa, tiếng của Tình Yêu nói với con tim, và như thế học nói thứ ngôn ngữ của tình yêu, và thông truyền với Thiên Chúa và với các người khác về công trình tốt đẹp Chúa đã làm.
Chắc chắn, tự bản chất của nó, ngọn lửa không thể tỏa hơi âm, và không thể phát sinh khí lạnh; mặt trời chiếu tỏa ánh sáng, và đương nhiên không thể là nguyên nhận của bóng tối được. Tương tự như thế, Thiên Chúa chỉ có thể làm ra những điều tốt lành bởi vì Ngài là Đấng vô biên tốt lành, là ánh sáng. Ngài là Mặt Trời công chính chiếu tỏa ánh sáng rạng ngời, là lửa hồng tỏa hơi ấm vô biên: "Người làm mọi sự tốt đẹp" (Mc 7,37).
Theo sách Sáng Thế, thì Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành, và Tin Mừng cũng thuật lại: Chúa Giêsu làm mọi sự tốt đẹp (x. Mc 7, 37). Nhưng làm những điều tốt lành không chỉ đơn giản là để làm cho chúng tốt. Nhiều người, thực sự, làm những điều tốt đẹp mà không làm chúng tốt, bọn giả hình chẳng hạn, họ là những người làm những điều tốt đẹp, nhưng trong một tinh thần xấu với một ý định gian tà. Thiên Chúa, Ngài đã tạo dựng tất cả đều tốt lành và làm cho chúng trở nên tốt. "Chúa chỉ là trong tất cả các cách của mình, tín hữu trong tất cả mọi thứ anh ấy làm" (Tv 144, 17)... Và nếu Thiên Chúa biết rằng chúng ta tìm thấy niềm vui của mình nơi những điều tốt đẹp Chúa đã làm, thì Thiên Chúa vui biết mấy.
Xin với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Ngôi Lời nhập thể, Mẹ đã luôn luôn "mở ra" cho tình yêu của Chúa, và trái tim Mẹ liên lỉ lắng nghe Lời Chúa, với lòng từ mẫu giúp chúng ta là con cái Mẹ hàng biết "effatà" mỗi ngày để ca tụng những điều tốt đẹp kỳ diệu Chúa đã làm và nhất là sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân. Amen.
15. Ephata - Hãy mở ra.
('Niềm Vui Chia Sẻ')
Có lẽ cái tên của Helen Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở thành bậc khoa bảng, không còn xa lạ với chúng ta nữa. Vừa được 9 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh này trở thành mù loà và câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc đã khép hẳn cánh cửa lại với cô.
Làm thế nào để truyền thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù loà? Cha mẹ của cô bé dường như muốn bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan đã không muốn bỏ cuộc. Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là có thể truyền thông và liên hệ với cô gái mù loà và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô. Chỉ có thể tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, thế mà cô Helen keller đã có thể học xong đại học, tốt nghiệp tiến sĩ và trở thành văn sĩ.
Thưa anh chị em,
Với kỹ thuật khoa học hiện đại, ngày nay người ta dường như có thể mở mắt, mở tai, mở miệng cho người mù, người câm, người điếc. Ngày xưa Chúa Giêsu đã làm phép lạ cứu chứa những người bất hạnh này. Phép lạ Chúa Giêsu đã làm để chứa người câm và điếc được Thánh Marcô ghi lại xem ra thật là đơn giản dễ dàng: Ngài kéo riêng người câm điếc ra khỏi đám đông, xỏ ngón tay vào lỗ tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, ngước mắt lên trời lâm râm cầu khẩn rồi lớn tiếng truyền lệnh: "Ephata!" nghĩa là "Hãy mở ra!" Tức thì lỗ tai điếc của anh mở ra, nghe được rõ ràng, lưỡi bị cột cứng của anh uốn được và nói được sành sõi. Cuối cùng là sự kinh ngạc thán phục của đám đông. Họ nói: "Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói".
Lời thán phục của dân chúng chính là lời Ngôn Sứ Isaia đã loan báo cho dân Israel về Đấng Cứu Thế. Ông nói: "Đấng Thiên Sai sắp đến cứu thoát anh em. Lúc đó mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc đó, chân người què sẽ nhảy như nai và lưỡi người câm sẽ nói sõi sàng" (Is 35,3-7). Như thế chứng tỏ là dân chúng đã nhận ra Đấng Thiên Sai Cứu Thế đã đến rồi. Ngài chính là Đức Giêsu đang thực hiện lời Ngôn Sứ Isaia trước mắt họ.
Nhưng giữa đám đông dân chúng chứng kiến phép lạ của những người có tai nghe được, có miệng lưỡi nói được, những lại câm, lại điếc. Họ giả điếc, giả câm trước Lời Chúa. Họ cố chấp không đón nhận sự thật. Đó là những người Biệt Phái Pharisêu: "Họ có mặt mà không thấy, có tai mà không nghe!" Quả thật, họ đang điếc trước công lý, mù trước phép lạ đang diễn ra. Họ chẳng những không chịu hiểu Lời Chúa mà còn loan truyền toàn những điều lệch lạc, sai trái. Họ thay thế Lời Chúa bằng các tập tục của cha ông họ. Họ cầm phải được chữa cho khỏi mù tội, khỏi câm điếc, mới có thể hiểu đúng và công bố Tim Mừng cho người khác. Họ phải mở tai, mở mắt để đón nhận Lời Chúa, để tin vào Ngài, thì mới được cứu độ.
Anh chị em thân mến,
Trong số những người câm điếc đó, ngày nay có thể có cả chúng ta nữa. Phải chăng chúng ta cũng nằm trong hạng người có tai thích nhưng không nghe; không nghe vì không biết lắng nghe. Có miệng lưỡi nói được sõi sàng, nhưng không mở lời ca tụng Chúa, không nói lên tiếng nói yêu thương anh em? Phải chăng chính chúng ta cũng là những người câm điếc cần được Chúa Giêsu cứu chữa? Ca dao tục ngữ nước ta có nhiều câu nói gợi hình để tránh cứ những người có tai mà không biết lắng nghe. Chẳng hạn, nghe mà không biết nghe, mà hiểu, tai nghe mà lòng không suy nghĩ, thì người ta lại bảo: "Nghe tai này lọt qua tai khác" hoặc "như nước đổ lá khoai môn"... Chính vì thế mà khả năng nghe là một tình trạng tinh thần tốt cần để đón nhận ơn cứu độ. Trong Kinh Thánh, biết bao lần Chúa nói rõ điều đó: Mỗi lần ban bố lề luật, Thiên Chúa kêu gọi: "Hỡi Israel, hãy nghe đây!" Hôm nay các ngươi hãy lắng nghe tiếng Chúa phán và đừng cứng lòng". "Ai có tai để nghe thì hãy nghe". Chính Chúa Cha cũng ra lệnh cho chúng ta hãy nghe lời Con Của Ngài: "Này là Con Ta rất yêu dấu, các con hãy nghe lời Ngài". Vì thế, khi chữa lành người câm điếc, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rằng Ngài đến không chỉ để nói mà còn để chữa lành khả năng nghe của chúng ta nữa, nếu không, thì có nguy cơ là Ngài nói mà chẳng được ai lắng nghe cả.
Nghe và nói là hai phương tiện truyền thông luôn đi đôi với nhau. Con người sống trong xa hội là phải biết tiếp nhận chân lý qua việc nghe và nói, trao đổi, đối thoại, trao đổi, mà chỉ biết sống trong ao tù suy tư của mình, nên khi phát biểu hay hành động, chỉ có thể là những tư tưởng chủ quan, cố chấp, những hành động sai trái, lỗi thời. Ta thử nghĩ xem: Trong gia đình mà vợ chồng không biết lắng nghe nhau hoặc mạnh ai nấy phát ngôn, hoặc ông nói gà bà nói vịt, không ai chịu nghe ai nữa, thì làm sao gia đình có được hạnh phúc? Biết lắng nghe nhau và đối thoại cởi mở chân thành sẽ giúp vợ chồng thông cảm chia sẻ, như thế sẽ tránh được biết bao bữa cơm không lành canh không ngọt! Tình cha mẹ và con cái cũng sẽ đậm đà mật thiết khi con cái biết lắng nghe cha mẹ và cha mẹ cũng biết lắng nghe con cái. Ở trường học cũng thế, giữa học sinh và thầy cô giáo, giữa các bạn trẻ, cũng phải biết lắng nghe nhau. Và nhất là trong nhà thờ, người Kitô hữu phải biết lắng nghe Lời Chúa để hiểu ý Chúa muốn nói gì với chúng ta và mở miệng lưỡi ra để ca khen chúc tụng Ngài. Chúng ta không chỉ biết lắng nghe trong nhà thờ, trong gia đình, ở trường học mà còn phải biết lắng nghe ngoài cuộc sống xã hội nữa. Hãy tập lắng nghe tiếng nói của người cô đơn, người phiền muộn, kẻ âu lo, người nghèo đói. Đối vời nhiều người, liều thuốc hiệu nghiệm nhất, món quà quý giá nhất, đó là có được một ai đó thực sự lắng nghe nỗi phiền muộn cũng như niềm vui sướng của họ và biết nói với họ những lời tình nghĩa yêu thương...
Anh chị em thân mến,
Nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được Thánh Thần mờ tai, mở lưỡi, mở mắt để ta có thể hiệp thông với Chúa và với anh chị em. Tuy nhiên, chúng ta thường vẫn điếc khi Chúa nói với chúng ta qua các biến cố thường ngày. Chúng ta vẫn câm, vẫn ngọng khi nói lời ngợi khen Chúa và lời cảm thông với anh chị em. Chính tính kiêu căng, lòng ích kỷ, tội lỗi đã bịt tai, cột lưỡi chúng ta lại không cho chúng ta hiệp thông với Chúa và với anh chị em. Vì thế, chúng ta còn phải nhờ quyền năng cứu chữa của Chúa Giêsu để ngày càng nghe rõ hơn, nói sành sõi hơn những lời ngợi khen Chúa, những lời cảm thông với anh chị em, ngày càng thấy rõ hơn đường lối kỳ diệu của Chúa và đường lối phục vụ anh chị em. Vì "Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói". Ngài chính là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, nơi Ngài ơn cứu độ, sự giả thoát đã đến với chúng ta.
16. Chúa Giêsu chữa người câm điếc
Anh chị em thân mến.
Có lần đi trên chiếc xe đò với đoạn đường dài, và thời gian cũng đã lâu, nên xe tìm chỗ nghĩ. Khi xe vừa dừng lại, thì có nhiều người chạy đến bên xe chào mời đủ thứ món hàng. Có một người chậm chạp hơn, nhưng rồi cũng đến bên xe. Anh ta không chào mời món hàng nào, nhưng anh ta cầm nơi tay một chiếc nón đã cũ. Không phải anh ta bán nón, nhưng anh ta dùng chiếc nón để xin những người trên xe, nếu có lòng hảo tâm thì cho một chút ít tiền vào chiếc nón cũ đó. Anh đi từ đầu đến cuối xe, rồi sang bên kia cũng thế. Xe tiếp tục chuyển bánh. Tôi suy nghĩ : dường như những người ngồi trên xe không nhìn thấy, không nghe được những lời van xin, nên họ cũng không có một lời nào với người hành khất. Không phải những người trên xe không sáng mắt, nhưng trong tường hợp này họ không nhìn thấy. Không phải họ bị câm điếc, nhưng trong trường hợp nầy họ không nghe, cũng không nói được lời nào.
Chúng ta vừa chứng kiến một người câm điếc được tháo mở. Chúa Giêsu kéo anh ra khỏi đám đông, sờ vào tai và lưỡi anh. Người còn bảo: "Hãy mở ra" Lập tức lưỡi và tai anh được tháo cởi. Ngài muốn đem anh ra một nơi riêng biệt, không bị những thứ ồn ào khác làm náo động, không bị bao nhiêu người khác che lấp trói buộc. Ngài muốn chỉ có riêng anh ta với Ngài, thì anh ta mới có thể nghe được Lời Ngài phán bảo. Điều quan trọng là anh ta đã chịu bước đi theo Ngài, không một chút cự tuyệt. Nên anh ta đã được chữa lành.
Ngày hôm nay, còn biết bao nhiêu người câm điếc, nhưng họ đành bó tay. Trái lại, có những người, tai vẫn mở, nhưng không nghe gì hết, miệng vẫn mở, vẫn nói rất nhiều, nhưng họ không nói được gì hết. Đó là vì những người đó không nghe được những lời nói với họ khi cần thiết, họ cũng không nói được những lời tốt đẹp với những người chung quanh, họ chỉ biết nói lời khiến người khác phải đau khổ, khó chịu.
Mỗi người trong chúng ta nhìn lại mình xem, hiện giờ mình đang nghe, hay không nghe gì. Còn môi miệng chúng ta đang mở và luôn phát ra âm thanh, nhưng những âm thanh đó có phải là những lời nói thật sự, hay chỉ là những âm thanh rỗng tuếch, hay là những âm thanh mà bao nhiêu người nghe phải bịt tai của họ lại và chạy trốn chúng ta.
Biết bao lần, chúng ta đã để cho những tiếng động của cuộc sống vật chất, những tiếng động của những lời nói êm tai, những lời nịnh hót, tiếng động của lời nói chìu theo sở thích, ý muốn của mình, những tiếng động đó làm ù tai khiến chúng ta không còn nghe được gì nữa hết. Còn những tiếng động của những đồng tiền, qua công việc làm ăn, tiếng động của những bước chân vươn lên cách bất chính và chà đạp kẻ khác. Ngoài ra, âm thanh của những trận cười mãn nguyện, những lời nói say sưa trong chiến thắng, khi thấy người khác thất bại. Tất cả những tiếng động đó, đã làm cho chúng ta trở thành những người điếc. Mặc dù vẫn nghe, nhưng không nghe được những gì Chúa muốn nói qua công việc hằng ngày, qua những người chung quanh. Chính vì không nghe nên chúng ta cũng trở thành một người câm, vì lưỡi đã bị trói buộc bởi lợi nhuận của cuộc sống, bởi danh dự trần gian nầy. Đó là những lúc chúng ta không dám nói sự thật, khi sự thật đó làm cho chúng ta mất đi một chút lợi nhuận nào đó, có thể về tiền bạc, hay về danh dự, hoặc địa vị trong xã hội. Đó là vì sự ích kỷ đã trói buộc con người, trói buộc miệng lưỡi không cho chúng ta nói. Còn những lúc nóng giận, đưa đến sự ngoan cố, thay vì những lời nói tốt đẹp, chúng ta lại thốt ra những lời chua cay gắt gỏng. Chính sự ngoan cố trói buộc miệng lưỡi.
Có những lần Chúa Giêsu muốn tách rời chúng ta ra khỏi đám đông, khỏi những tiếng ồn ào đó, khỏi những trói buộc đó để Ngài chữa cho chúng ta khỏi chứng câm điếc. Chính những lúc trong cuộc sống chúng ta biết lắng nghe và sống thật với những gì mình nghe. Những lúc chúng ta biết nói những lời tốt đẹp, yêu thương từ con tim chân thành, nói những lời động viên an ủi, nói những lời chân thật. Đó là những lúc chúng ta đã để cho Ngài dẫn đi, tách rời khỏi đám đông và phán: "Hãy mở ra".
Lạy Chúa, xin mở tai con để biết lắng nghe tiếng Chúa trong mọi hoàn cảnh. Xin mở miệng con để con biết nói những lời yêu thương chân thật với anh em.
17. Hãy mở ra
(Noel Quesson)
Một ông già nổi tiếng là hiểu rộng. Ông học hành rất ít nhưng lại có kiến thức uyên bác. Nhiều người tới thăm ông và bàn luận với ông về nhiều vấn đề cao xa. Trong số đó, có một giáo sư nổi tiếng, cũng ngạc nhiên về ông và đặt câu hỏi:
- Ông lấy những hiểu biết đó ở đâu ra vậy? Tôi không thấy cuốn sách nào viết như thế.
Ông già đáp:
- Hàng ngày tôi đọc ba cuốn sách mà bất cứ ai cũng có thể đọc. Cuốn thứ nhất là những việc Chúa làm quanh tôi. Cuốn thứ hai là lương tâm của tôi. Và cuốn thứ ba là Kinh Thánh.
Đúng như ông già nói, những điều kỳ diệu có sẵn quanh ta, ai cũng có thể nhìn, ai cũng có thể nghe và nói về những điều kỳ lạ này. Nếu chúng ta không hiểu, là vì chúng ta không vận dụng ngũ quan và không muốn suy nghĩ tìm tòi. Chính Chúa Giêsu cũng nhiều lần phàn nàn về các môn đệ; Sao các con tối dạ thế? Có mắt mà không xem, có tai mà không nghe. Và chúng ta cần được Chúa chữa trị như Chúa đã chữa người câm điếc mà Tin Mừng mới kể.
Đây là một bệnh nhân thuộc vùng Siđon, dân ngoại bang. Sau một thời gian dài Chúa hoạt động ở Galilê, có một vài thành công nhưng cũng gặp nhiều thất bại. Một trong những thất bại đó, là bài diễn văn về bánh hằng sống, đa số dân chúng và các môn đệ không tiếp thu, họ đã bỏ Chúa mà đi. Chúa quay sang các dân ngoại bang, những người chưa biết Chúa nhưng có thiện chí, chỉ cần Chúa khai quang, họ sẽ nghe được Lời Chúa và biết lên tiếng ca ngợi Chúa.
Chúa chữa người câm điếc như thực hiện một bí tích. Cũng có một cử chỉ và một lời nói. Chúa đưa anh ra xa đám đông, chạm vào tai và lưỡi anh ta. Chúa ngước nhìn trời, cầu nguyện rồi nói: Hãy mở ra. Và anh khỏi câm khỏi điếc. Phép lạ nào cũng do niềm tin của người xin. Nhưng phép lạ cũng do sức mạnh từ thân mình Chúa Giêsu phát ra. Như các bí tích chúng ta chịu bây giờ, cũng là sự tiếp xúc giữa người lãnh nhận với vị chủ sự, đại diện Hội Thánh. Và có khi tiếp cận chính Chúa Giêsu, như bí tích Thánh Thể. Đó cũng là Đức Giêsu đã xuôi ngược trên các nẻo đường Do Thái xưa. Nhưng ít khi ta thấy phép lạ, vì niềm tin của ta còn yếu kém.
Chuyện người câm điếc được lành hôm nay cũng là một ẩn dụ. Vì vậy Chúa chữa bệnh với một lệnh truyền. Hãy mở ra. Lệnh này không phải nói tới cái tai và cái lưỡi, nhưng nói với người bệnh. Bệnh câm điếc thể xác là một khuyết tật ngoài ý muốn. Nhưng bệnh câm điếc tinh thần thì có thể là một lựa chọn của người bệnh. Có những lúc chúng ta không muốn nghe Lời Chúa nói trong tâm hồn, hay dạy dỗ ta qua Tin Mừng, có lúc chúng ta chẳng khác gì người câm điếc. Chúng ta mất khả năng giao tiếp với Chúa và với anh em. Chúng ta cần cầu xin Chúa, để Chúa chạm tới ta và nói với ta: Hãy mở ra, và chúng ta khỏi câm điếc, lại tiếp nối sự hiệp thông với Chúa, và anh chị em trong ân sủng và trong cuộc sống bác ái.
Lạy Chúa, xin chữa con khỏi câm khỏi điếc, xin cho con biết lắng nghe Lời Chúa, biết chia sẻ cuộc sống với anh chị em, biết nhiệt thành lên tiếng ca ngợi Chúa và loan báo Tin Mừng Cứu độ cho mọi người.
18. Câm điếc.
Trên một tờ báo, người ta đọc được một lời kinh cầu cho những người câm và điếc như sau:
- Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà những người câm điếc phải gánh chịu, đó là thiên hạ coi họ như những kẻ chuyên môn gây phiền hà. Kết quả là họ thường phải xa lánh bạn bè và ngày càng trở nên khép kín. Vì thế, xin Chúa hay xót thương nhìn đến họ.
Lời kinh trên đây giúp chúng ta hiểu rõ hơn đoạn Tin Mừng hôm nay, cũng như hiểu được niềm vui của người câm điếc được Chúa chữa lành, bởi vì đây là lần đầu tiên trong đời anh ta nghe được và nói được. Vậy tại sao Chúa lại chữa lành cho anh ta?
Lý do thứ nhất là vì qua việc chữa lành này, Ngài hoàn tất những dấu chỉ mà tiên tri Isaia đã nói đến để giúp dân chúng nhận ra Đấng Thiên sai, đó là kẻ điếc được nghe và người câm nói được.
Lý do thứ hai là qua việc chữa lành này, chúng ta thấy được lòng thương xót của Ngài. Thực vậy, người câm điếc thường mặc cảm khi tiếp xúc. Họ không hiểu gì cả nên cảm thấy như mình đứng bên lề những sinh hoạt của cuộc sống. Vì thế, khi dẫn anh ta ra khỏi đám đông, Chúa Giêsu đã biểu lộ lòng thương xót thực sự của Ngài đối với anh.
Sau cùng, lý do thứ ba đó là qua việc chữa lành này, chúng ta tìm thấy được niềm hy vọng. Thực vậy nhiều người trong chúng ta mặc dầu không câm và điếc về thể xác, nhưng lại câm và điếc về mắt tinh thần.
Chẳng hạn như họ không bao giờ nghe thấy tiếng Chúa nói với họ qua lương tâm, qua mười điều răn, qua Kinh Thánh, nhất là Phúc âm, qua Giáo hội cũng như qua những dấu chỉ của thời đại. Họ là những kẻ điếc về phương diện thiêng liêng.
Tiếp đến họ là những kẻ khô khan nguội lạnh, chẳng bao giờ biết thân thưa với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện, cũng như không bao giờ mở miệng lên tiếng bênh vực Chúa và Giáo hội. Họ là những kẻ câm về phương diện thiêng liêng.
Còn chúng ta thì sao? Nếu như chẳng may chúng ta rơi vào tình trạng trên, nghĩa là chúng ta cũng đã là những người câm và nhưng kẻ điếc về phương diện thiêng liêng, thì chúng ta hãy tìm kiếm Chúa và cùng Ngài bước ra khỏi đám đông để được tận hưởng đôi chút thời gian gắn bó với Ngài, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho Ngài mở tai và mở miệng chúng ta.
Nói cụ thể hơn, đoạn Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy cộng tác với Chúa trong việc chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng nơi chúng ta.
Tóm lại, qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta nhận biết Ngài chính là Đấng Thiên sai mà tiên tri Isaia đã loan báo từ hàng trăm năm về trước. Hơn nữa chúng ta còn nhận biết được lòng thương xót của Ngài. Ngài đưa người câm điếc ra khỏi đám đông để chữa lành, bởi vì Ngài không muốn biến người ấy trở thành trò cười cho thiên hạ, nhưng Ngài muốn tiếp xúc thân mật với anh ta.
Cuối cùng chúng ta xin Chúa chữa lành câm điếc thiêng liêng mà chúng ta đang mắc phải để nhờ đó, chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa cũng như biết thân thưa cùng Chúa qua những tâm tình cầu nguyện.
19. Phép lạ.
Các tác giả sách Tin Mừng đã ghi lại cho chúng ta những phép lạ của Chúa Giêsu. Nói đến các phép lạ tức là nói đến những điều lạ lùng, khác thường mà Thiên Chúa đã làm để bày tỏ hay minh chứng một điều gì. Thực vậy, mỗi phép lạ đều bày tỏ cho thấy quyền năng của Thiên Chúa. Ngài là chủ tể vạn vật trời đất, Ngài quyền phép vô cùng. Ngài có thể làm được mọi sự. Ngài là chủ tể của sự sống, Ngài là Đấng ban sự sống, Ngài mạnh hơn sự chết và tất cả những gì loan báo sự chết. Đàng khác, mỗi phép lạ còn cho thấy Thiên Chúa là Đấng thiện hảo, Ngài yêu thương con người và muốn cứu giúp con người. Các phép lạ Chúa Giêsu làm cũng trong ý hướng đó, Ngài làm những phép lạ thường là vì lòng thương, như thương người bệnh tật, thương người đói khát, thương người đau khổ, thương gia đình có người chết... Do đó, chúng ta có thể nói: Chúa Giêsu đã đến cho người ta thấy tình thương Thiên Chúa yêu thương loài người, và Ngài chứng tỏ tình thương ấy bằng cách giúp đỡ loài người.
Nhưng tình thương của Thiên Chúa không phải chỉ giúp đỡ đời sống thể xác của con người mà còn muốn cứu giúp cả con người toàn diện. Vì thế, những phép lạ của Chúa Giêsu còn có ý nghĩa sâu xa hơn, đó là những dấu chỉ của ơn cứu độ mà Ngài đem đến cho nhân loại, Chẳng hạn, khi chữa cho những người bại liệt, Ngài cho thấy Ngài có quyền tháo gỡ con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi. Khi làm cho người mù sáng mắt, Ngài cho thấy Ngài là ánh sáng thật cho người ta nhìn ra "Đấng cứu độ". Khi hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn ngươi ăn no. Ngài cho thấy Ngài là bánh hằng sống đem lại sự sống muôn đời cho con người... Còn phép lạ chữa người câm điếc kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn cho mọi người thấy và biết điều gì?
Trước hết, chúng ta thấy cách hành động của Chúa Giêsu trong trường hợp này hơi khác thường, kỳ lạ: Chúa đưa người ấy ra xa đám đông, đặt ngón tay vào tai người ấy, lấy nước bọt thoa vào lưỡi người ấy, rồi Chúa ngước mắt lên trời, thở dài và bảo người ấy: "Epphata" nghĩa là "Hãy mở ra", kết quả: tai người ấy mở ra, nút buộc lưỡi người ấy được cởi ra, và người ấy nói được rõ ràng. Trong Tin Mừng chúng ta rất ít khi gặp trường hợp Chúa chữa bệnh một cách "vất vả" và khác thường như vậy. Những cử chỉ bên ngoài Chúa làm ở đây chỉ là để thúc đẩy lòng tin bên trong nơi người câm điếc mà thôi. Bởi vì đối với người câm điếc, không nghe được, không nói được, nên không còn cách nào khác hơn là chạm vào tai vào lưỡi người ấy. Theo quan niệm thời đó, người ta gán nguyên nhân bệnh tật cho ma quỷ: người câm là người bị quỷ câm cột lưỡi lại, Chúa thoa nước bọt vào lưỡi rồi phán một lời, tức thì nút cột lưỡi được tháo ra, cho thấy Ngài thắng được quyền lực của Sa tan để giải phóng con người.
Một điều đặc biệt nữa: Chúa Giêsu đã đưa người bệnh ra xa đám đông để chữa, bây giờ Ngài lại truyền cho người ta (người câm điếc và cả những người đã đưa người câm điếc tới) không được nói ra với ai. Chúng ta thấy chỉ thị này có vẻ kỳ cục, vì Ngài đã chữa cho người câm điếc này nói và nghe được, rồi lại cấm không được nói ra với ai thì làm sao cấm được? Làm sao nén được niềm vui của người đã được ơn lạ? Và làm sao nén được niềm vui của đám đông đã chứng kiến chuyện lạ? Bằng chứng là Ngài bảo người ta đừng nói thì người ta lại càng rao truyền mạnh hơn.
Đây là vấn đề về "bí mật Đấng Thiên Sai". Tin Mừng nhiều lần kể lại lời căn dặn giữ kín này sau các phép lạ chứ không phải chỉ có phép lạ hôm nay mà thôi, chẳng hạn Chúa cấm ma quỷ không được nói ra Ngài là ai, cấm những người đã được hưởng phép lạ hoặc chứng kiến không được nói ra, cấm các môn đệ không được nói ra Ngài là ai... Chúng ta có thể trả lời như sau: trong khung cảnh tâm lý của dân Do Thái lúc ấy, lòng háo hức mong chờ một Đấng Thiên Sai giải phóng họ khỏi đế quốc Rôma rất mãnh liệt, nên thấy Chúa Giêsu có uy quyền như thế, họ rất dễ ngộ nhận. Bởi vậy, Chúa căn dặn không được nói ra, vì chưa đến lúc có thể nói thẳng ra được, phải chờ cho đến lúc Ngài chết trên thập giá rồi mới có thể rao giảng, công bố cho mọi người biết Ngài là Đấng Thiên Sai mà không còn ngộ nhận nữa. Nói ngắn gọn: Chúa yêu cầu người câm điếc và những người chứng kiến không được nói ra cho ai biết để người ta khỏi hiểu lầm ý nghĩa của những phép lạ, cho rằng Ngài đến để cứu vớt người ta về mặt chính trị hoặc kinh tế, trong khi sứ mạng của Ngài không phải ở những khía cạnh đó.
Phép lạ là những sự lạ lùng để minh chứng quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, đồng thời khơi dậy niềm tin hoặc củng cố niềm tin cho con người. Nhưng chúng ta hãy nhớ: một lòng tin chỉ dựa vào phép lạ là một lòng tin còn non nớt, yếu đuối và bồng bột, dễ thay đổi. Một lòng tin vững chắc không lệ thuộc vào những gì tai nghe mắt thấy, nhưng chỉ dựa vào lời Chúa, như Chúa Giêsu đã nói với tông đồ Tôma: "Hỡi Tôma. Anh thấy Thầy nên anh tin, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin".
Ngày xưa cũng như ngày nay, phép lạ không phải là cách thế thường xuyên và rõ ràng nhất để làm chứng về Chúa Kitô và về đạo của Ngài. Có những cách chắc chắn hơn để làm chứng, đó là niềm tin chân thành, can đảm và vui tươi của người Kitô, là đời sống bác ái và lòng yêu thương của người Kitô, là sự quên mình xả thân vì người khác theo gương Chúa Kitô. Xin Chúa cho chúng ta luôn tin tưởng và sống được như thế để làm chứng cho Chúa.
20. Câm điếc tâm linh
(Lm. Mark Link)
Chủ đề: "Nhiều người trong chúng ta bị câm điếc về mặt tâm linh cần được Chúa Giêsu chữa lành"
Một phụ nữ kia có người bạn bị điếc. Ngày nọ bà ta hỏi người bạn muốn được tặng gì vào ngày sinh nhật. Người bạn ấy đáp lại thật bất ngờ: "Xin bạn hãy vui lòng viết thư cho Ann Landers yêu cầu bà ta in lại bảng kinh cầu nguyện cho người điếc. Bà ấy đã từng in nó trước đây vào mục của bà trong một tờ báo, nhưng tôi đã đánh mất bản sao mục đó rồi!". Thế là người phụ nữ đã viết thư cho Ann Landers. Và vào ngày 1.6 ngày sinh nhật của cô bạn, bà Ann đã in lại lời cầu nguyện đó trong cột báo của mình. Một đoạn trong lời cầu đó như sau:
"Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà người điếc phải gánh chịu là đa số thiên hạ xem họ như những người chuyên làm phiền người khác. Người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc. Kết quả là người điếc thường phải trốn lánh bạn bè và càng ngày càng trở nên khép kín" (William Barclay)
Lời kinh trên cho chúng ta thấy một nỗi niềm, một uẩn khúc nào đó của người điếc mà chúng ta thường ít người nhận ra được. Đa số chúng ta đều cho rằng mù thì tệ hại hơn điếc. Thế nhưng Helen Keller vừa bị mù lẫn điếc thì cho rằng bị điếc không nghe được, thì quả là phần lớn những cánh cửa trong cuộc đời ta đã bị khép chặt lại, chẳng hạn: mở radio thì chả hiểu gì, xem truyền hình cũng chả thú vị gì mà còn phát chán, và hầu như không thể trò chuyện với ai được cả. Vì thế, sau một thời gian chúng ta sẽ cảm thấy cô đơn như bị bỏ rơi.
Câu chuyện về người điếc nói trên giúp ta hiểu rõ hơn bài Phúc Âm hôm nay. Nó giúp ta hiểu được người câm điếc vui sướng như thế nào sau khi được Chúa Giêsu chữa lành. Lần đầu tiên trong cuộc đời anh ta cảm nếm được một phần nào vui thú của cuộc sống.
Điều này dẫn chúng ta đến một vài câu hỏi:
Tại sao Chúa Giêsu đã chữa lành người câm điếc ấy?
Tại sao Ngài đã khai thông lỗ tai người ấy?
Tại sao Ngài đã phục hồi miệng lưỡi người ấy?
Câu trả lời nằm trong bài đọc thứ nhất ngày hôm nay. Trong lời mô tả vài dấu chỉ sẽ xảy ra khi Đấng Mêsia đến, tiên tri Isaia đã nói: "Kẻ điếc sẽ được nghe, ai không nói được sẽ mừng rỡ reo lên"... Qua việc chữa lành người câm điếc trên, Chúa Giêsu đã hoàn tất hai dấu chỉ mà tiên tri Isaia đã nói để giúp dân chúng nhận ra Đấng Mêsia. Vậy, một trong những mục đích của việc chữa lành ngày hôm nay là xác nhận rõ hơn Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia.
Tuy nhiên, việc chữa lành ngườì câm điếc kia còn tỏ lộ một điều ẩn kín nào đó nơi bản thân Đức Giêsu. Nó cho ta thấy Đức Giêsu là một mẫu người giàu lòng thương xót. Điều này đặc biệt biểu lộ qua cung cách Ngài tách biệt anh chàng câm điếc ra khỏi đám đông. Như ta biết, người điếc thường hay mặc cảm nên lúng túng trước tình cảnh của mình. Họ không hiểu ất giáp gì cả khi nghe người ta hỏi, nên họ luôn cảm thấy mình như ở ngoài rìa. Vì thế khi dẫn anh chàng câm điếc ra khỏi đám đông, Chúa Giêsu đã biểu lộ lòng xót thương thực sự của Ngài đối với anh, Ngài rất nhạy cảm đối với tình cảnh đáng thương của anh. Như thế ngoài việc tỏ cho ta biết Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, việc chữa lành người câm điếc còn cho ta thấy rõ lòng thương xót của Đức Giêsu.
Cuối cùng, việc Đức Giêsu chữa lành cho người câm điếc đã tạo nên nguồn hy vọng cho chúng ta là những kẻ đang sống ở thời đại ngày nay.
Trạng thái của người câm điếc không giống trạng thái của riêng chúng ta. Nhiều người trong chúng ta không điếc về thể lý nhưng lại điếc về tâm linh. Chúng tôi muốn ám chỉ gì đây? Hãy dùng một ví dụ để làm sáng tỏ.
Mới đây một bà mẹ và ông bố đến thăm đứa con gái của họ đang lâm trọng bệnh ở nhà thương. Ngay khi họ lái xe rời bệnh viện, bà mẹ bắt đầu vừa khóc vừa nói; "Anh Ron ơi, em chả biết rõ điều gì đang xảy đến cho em, lẽ ra 10 năm trước em có thể cầu nguyện với tất cả tấm lòng cho con gái chúng ta. Lẽ ra em có thể trình bày với Chúa về nó, và lẽ ra em có thể nghe lời Chúa dặn dò em "Đừng lo". Thế nhưng em không còn làm điều ấy được nữa. Em không còn cầu nguyện được nữa, em không thể nói chuyện với Chúa như em đã thường làm. Hình như về mặt thiêng liêng em đã trở nên như câm như điếc".
Câu chuyện trên mô tả tình trạng của nhiều người trong chúng ta. Chúng ta đôi lúc cũng cảm thấy khó cầu nguyện khác với chúng ta ngày xưa. Chúng ta cũng cảm thấy khó đối thại với Chúa và chúng ta cũng cảm thấy khó khăn trong việc nghe Chúa nói với chúng ta. Vậy trong trường hợp này, chúng ta phải làm gì? Câu trả lời đã nằm sẵn trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúng ta có thể bắt chước người câm điếc trên, nghĩa là tìm kiếm Chúa Giêsu, cùng Ngài bước ra khỏi đám đông và tận hưởng đôi chút thời gian bên sự hiện diện có khả năng chữa lành của Ngài.
Bài Phúc Âm hôm nay khuyên chúng ta nên tạo điều kiện thuận lợi cho Chúa Giêsu để Ngài mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, để Ngài đặt ngón tay của Ngài khai mở đôi tai điếc của chúng ta. Nó cụ thể hơn, Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta hãy làm lại những gì chúng ta đã từng có thói quen hay làm, tức là bỏ ra ít phút mỗi ngày để cầu nguyện, để Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta điều Ngài đã làm cho người câm điếc ấy, nghĩa là bài Phúc Âm mời gọi chúng ta hãy để Chúa Giêsu chữa lành bệnh câm điếc của chúng ta.
Như thế, câu chuyện người câm điếc trên nói với chúng ta 3 điều; Thứ nhất, nó mặc khải cho chúng ta Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia của Israel đã được mong đợi từ lâu. Đức Giêsu đã thực hiện điều mà Isaia tiên báo Đấng Mêsia sẽ làm, tức là cho người điếc được nghe và người câm nói được.- Thứ hai, câu chuyện người câm điếc mặc khải cho ta biết Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng xót thương. Ngài đưa người điếc ra khỏi đám đông để chữa lành cho người ấy. Ngài không biến người ấy thành trò cười cho thiên hạ mà muốn tiếp xúc thân mật riêng tư với người ấy. - Cuối cùng, bài Phúc Âm mặc khải cho chúng ta phương pháp giải quyết các vấn nạn mà nhiều người trong chúng ta đang gặp phải ngày hôm nay. Đó là chúng ta không còn cầu nguyện được nữa, không còn thưa chuyện với Chúa, lắng nghe lời Ngài nói trong tâm hồn chúng ta được nữa. Về mặt thiêng liêng quả thực chúng ta đang bị câm điếc.
Để tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề khổ tâm này, chúng ta hãy bắt chước người câm điếc, là tìm kiếm Chúa Giêsu và xin Ngài chữa lành chúng ta. Cụ thể hơn, chúng ta hãy để riêng vài phút mỗi ngày tiếp xúc với Chúa Giêsu ngõ hầu Ngài sẽ chữa lành và làm cho chúng ta hoàn toàn khoẻ mạnh trở lại.
21. Hãy mở ra!
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Trang nhất tờ Tuổi Trẻ số ra ngày thứ hai, 13 tháng 8 năm 2012 có bài: "Cởi trói cho dân".
Tác giả dùng chữ "Cởi trói" để nói về quyết định trả lại hàng ngàn hecta đất cho nông dân. Đã có một vài tỉnh thi hành quyết định này. Hàng ngàn hộ dân vui mừng và biết chắc mình sẽ thoát nghèo, thoát đói, vì từ nay có ruộng đất để cày cấy. Chuyện chỉ đơn giản như vậy nhưng người dân đã phải chịu bị "trói" hàng mấy chục năm qua.
Ông Lê Minh Hiệp (ấp Nhơn Trị, xã Nhơn Thạnh Trung, TP Tân An, Long An) là một trong hàng ngàn hộ vừa được tỉnh trả đất trồng lúa. Ông nói 10 năm bị "treo" đất, cuộc sống gia đình ông như bị trói chân trói tay. Sáng 12.8, gặp vợ chồng ông Hiệp đang tất bật làm đất chuẩn bị gieo sạ vụ ba, ông bảo đến bây giờ mới an tâm đầu tư sản xuất lúa để năng suất cao hơn, tích lũy mua thêm ruộng. (x. "Tôi như người được cởi trói, thoải mái lắm", tuoitre.vn, ngày 13.8.2012). Hy vọng người dân Việt Nam còn được "cởi trói" nhiều thứ khác nữa.
Trang Tin mừng hôm nay kể câu chuyện, Chúa Giêsu chữa lành một người câm điếc.
Chúa phán: "Epphata" nghĩa là "Hãy mở ra". Lập tức lỗ tai điếc anh mở ra nghe được rõ ràng, lưỡi như bị một sợi dây trói buộc nay được tháo cỡi nên anh nói rành mạch. Chúa "cởi trói" cho tai và lưỡi của bệnh nhân nên anh ta nghe và nói được. Dân chúng ca tụng: "Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói".
Lời thán phục đó vang vọng lại lời Ngôn sứ Isaia: "Đấng Thiên Sai sắp đến cứu thoát anh em. Lúc đó mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc đó, chân người què sẽ nhảy như nai và lưỡi người câm sẽ nói sõi sàng" (Is 35,3-7). Dân chúng nhận ra Đấng Thiên Sai đã đến và Ngài đang thực hiện lời tiên tri Isaia trước mắt họ. Giữa đám đông chứng kiến phép lạ lại có những người giả điếc, giả câm trước Lời Chúa. Họ cố chấp không đón nhận sự thật. Đó là những người Pharisiêu: "Họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe!". Họ đang điếc trước công lý, câm trước sự thật, mù trước phép lạ đang diễn ra. Họ cần được mở tai, mở mắt, mở miệng lưỡi để đón nhận Lời Chúa, để tin vào Ngài.
Phép lạ chú trọng đến sự kiện mở tai để anh ta có thể nghe Lời Chúa, cởi trói cái lưỡi để anh có thể tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu. Như vậy, theo Máccô, phép lạ Chúa chữa người câm điếc mang ý nghĩa sâu xa, đó là chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng.
Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với mọi người. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình.
Con người sống với nhau trong tương quan hiệp thông. Hàng ngày dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời nói chúng ta có thể diễn tả được suy tư, cảm xúc tâm tư trong lòng. Nhờ lắng nghe chúng ta cảm thông tâm sự của người khác. Từ đó hình thành một cuộc đối thoại, kiến tạo một sự hiệp thông với nhau, cuộc sống sẽ phong phú hơn.
Có dịp đến thăm các trường khuyết tật, cảm thông với những người câm điếc, chúng ta mới thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận được đó chính là ân huệ và là một quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban.
Nhiều người không câm điếc về thể lý nhưng lại câm điếc tinh thần, câm điếc tâm linh.
Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần. Bệnh này làm người ta thành những ốc đảo, chẳng có gì để cho, chẳng có gì để nhận.
Người ta bị câm điếc tinh thần khi tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình, không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.
Người ta bị câm điếc tinh thần khi đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi đau của những người khốn khổ.
Người ta bị câm điếc tâm linh khi không nghe tiếng Chúa để nói những lời sự thật, lời yêu thương lời hòa giải. Nhiều lúc người ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho nhau.
Hãy mở tai ra để lắng nghe Lời Chúa, lời anh em. Đừng "Nghe tai này lọt qua tai khác", đừng nghe "như nước đổ lá khoai".
Hãy mở miệng lưỡi ra để nói Lời Chúa,lời yêu thương đem lại niềm vui hạnh phúc.
Hãy mở trái tim để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của những người xung quanh.
Mỗi khi tham dự thánh lễ chúng ta đều thực hiện một cử chỉ rất quen thuộc. Sau khi nghe bài Phúc Âm, chúng ta đọc: "Lạy Chúa vinh danh Chúa", và làm Dấu Thánh Giá trên trán, trên môi, trên ngực. Đó như là lời cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy mở trí khôn con, xin mở miệng lưỡi con, xin mở trái tim con, để con được hiểu, để con cảm nhận, để con có thể nói lời của Chúa.
Mỗi lần làm Dấu Thánh Giá nhân Danh Ba Ngôi Thiên Chúa, xin Chúa cho chúng con biết mở trí, mở lòng, mở trái tim với niềm tin yêu.
Xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con, xin cho chúng con giống Chúa trong lời nói và việc làm.
Xin cho cuộc sống chúng con nên dấu chỉ yêu thương của Chúa giữa lòng đời hôm nay. Amen.
22. Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa ngọng
(Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Sau khi Đức Giêsu bị dân Nadarét loại trừ (6,1-6a), các môn đệ được sai đi rao giảng sự sám hối và trừ quỷ (6,7-13). Nhưng khi Người đề nghị cho đám đông ăn (6,37), thì các môn đệ sửng sốt, cũng ý như khi họ thấy Người đi trên mặt biển (6,51). Những người nghe đọc Tin Mừng có nắm được tương quan giữa khả năng đi trên mặt nước và khả năng nuôi sống đám đông chăng? Việc Đức Giêsu đi vào vùng Dân ngoại (địa hạt Tia và Xiđôn), tại đó Người đã chữa con gái một bà gốc Phênixi xứ Xyri (7,24-30) và chữa người vừa điếc vừa ngọng (7,31-37) cũng như hóa bánh nhiều lần thứ hai (8,1-10) hẳn là khích lệ các độc giả gốc Dân ngoại nhiều.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh (7,31);
2) Đức Giêsu chữa người tàn tật (7,32-35);
3) Lệnh Đức Giêsu cấm phổ biến và phản ứng của dân chúng (7,36-37).
Tuy nhiên, bản văn có gây ra những thắc mắc: nơi chốn không thể xác định; người tàn tật có vẻ thụ động (không có đối thoại, có vẻ các cử chỉ của Đức Giêsu và công thức A-ram quan trọng hơn); vai trò của nước miếng; một lệnh yêu cầu thinh lặng, nhưng không giữ được...
3.- Vài điểm chú giải
- bỏ vùng Tia, đi qua ... đến... (31): Lộ trình của Đức Giêsu hơi lạ (đi vòng lên phía bắc, rồi quặt xuống phía đông nam, tiếp tục đi xuống phía nam băng qua Xêdarê Philipphê, đi đến phía đông của sông Giođan, và như thế đến gần hồ Galilê về phía nam, trong phần lãnh thổ Thập Tỉnh). Có lẽ tác giả Mc muốn mô tả cuộc hành trình xuyên qua một vùng đất phần lớn thuộc Dân ngoại để báo trước sứ mạng của Giáo Hội là phải đến với muôn dân.
- vừa điếc vừa ngọng (32): Từ ngữ Hy Lạp kôphos (x. 7,37; 9,25) có nghĩa là "điếc". Còn mogilalos (không phải là alalous, "câm", c. 37) không có nghĩa là mất tiếng hoàn toàn, chỉ có nghĩa là nói khó khăn (vì thế, đến c. 35: "anh ta nói được rõ ràng").
- Người kéo riêng ... (33): Tác giả Mc mô tả phép lạ này theo tập tục thời đó trong thế giới Hy-La: tránh những cặp mắt hiếu kỳ, sự đụng chạm bằng tay, dùng nước miếng, nhìn lên trời, thở dài, những lời nói bằng tiếng ngoại quốc. Những chi tiết này phản ánh lối chữa bệnh thời đó, nhưng cũng rất có thể là những quy ước của một thể văn (x. K. Kertelge; K. Tagawa; A. Duprez).
- đặt ngón tay vào lỗ tai: Những hành vi biểu tượng của Đức Giêsu, mà những người chữa bệnh Hy-La và Do Thái thường làm, gợi ý cho người tàn tật biết rằng anh rất có thể được chữa lành.
- nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi: Sử gia Pliniô kể rằng hoàng đế Vespasianô đã chữa một người mù bằng nước miếng (Hist. nat. 28, 4,7; Tacite, Hist. 6,18). Bài tường thuật này, cũng như những bài Mc 8,23 và Ga 9,6, là những dịp trong đó kể rằng Đức Giêsu đã dùng nước miếng. Chúng ta không được biết chắc chắn nước miếng được sử dụng như thế nào. Có những thủ bản cho rằng nước miếng được bôi trên môi, hoặc đặt vào miệng như một cử chỉ tượng trưng; trong khi có những dị bản nói là cả ở trên tai nữa. Bản văn là "nhổ và chạm lưỡi anh", và Zerwich & Grosvenor giải thích: "bằng nước miếng". Mann cho rằng các hành vi này chỉ có tính cách tượng trưng mà thôi.
- Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng (34): Những cử chỉ này diễn tả Đức Giêsu cầu nguyện với Thiên Chúa và động lòng thương người tàn tật. Không nên coi các cử chỉ này như là yếu tố của nghi thức ma thuật.
- Ép-pha-tha: Câu "Hãy mở ra" là lời dịch nghĩa từ Hy Lạp ephphtha phiên âm từ A-ram ippơtah (hoặc itpơtah), do động từ phatah là "mở ra".
- tai mở ra, lưỡi hết bị buộc (35): Đây là chi tiết văn chương nhằm nói rằng Đức Giêsu không phải chỉ là một người chữa bệnh; chân tính Người là khác, và người ta chỉ biết được rõ ràng chân tính của Người khi theo Người đến chân thập giá và đến cuộc Phục Sinh.
- ông làm cho kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói được (37): Nhận định này của đám đông nhắc tới Isaia 35,5-6, mà đoạn văn Isaia này là một phần thuộc về cái nhìn tương lai vinh quang của Israel (Is 34–35). Bản văn Cựu Ước này được sử dụng ở đây, điều này chứng tỏ rằng tương lai vinh quang của Israel đã hiện diện trong sứ vụ của Đức Giêsu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh (31)
Có lẽ câu truyện bắt đầu từ c. 32, còn tác giả Mc đã tạo ra c. 31 để cung cấp một cái khung địa lý cho bản văn, vì chúng ta biết rằng Xiđôn đã được nói đến ở 3,8, còn Thập Tỉnh đã được nhắc đến ở 5,20. Vậy c. 31 là câu nối bản văn với phần đi trước. Các chi tiết gom lại ở đây muốn nói đến các miền đất ngoại giáo chung quanh Galilê và nêu bật chủ trương phổ biến Tin Mừng sang đất Dân ngoại.
* Đức Giêsu chữa người tàn tật (32-35)
Cuộc chữa bệnh có những cách thực hành quen thuộc trong các truyện phép lạ thời đó. Đức Giêsu đưa anh bệnh ra riêng. Tất cả chuyện này có ý là giữ bí mật cách trị liệu của vị thầy. Các cơ quan có bệnh được chạm đến. Vị thầy ấn ngón tay trên hai tai điếc, rồi bôi nước miếng lên cái lưỡi ngọng. Ngước mắt lên trời là để xin sức mạnh siêu phàm; thở dài hay rên cũng nhắm như vậy. Tiếng epphatha trong bối cảnh phép lạ Hy Lạp là lời phù chú không ai hiểu được; nhưng trong Mc, từ này đã được dịch ra rõ ràng (tương tự 5,41). Đức Giêsu cho người ta biết rõ ràng quyền lực của Người. Đây là lời Người nói với anh bệnh cho đến lúc này vẫn chưa có khả năng nghe được, chứ không phải là nói với các cơ quan bị bệnh. Tức khắc, anh này được lành; sự kiện anh được lành được nêu ra như một điệp khúc đáp lại lời vừa được truyền ra. Rất có thể chi tiết "lưỡi bị buộc" có ý nói đến tên quỷ của bệnh, mà nay anh này đã được giải thoát khỏi.
* Lệnh Đức Giêsu cấm phổ biến và phản ứng của dân chúng (36-37)
Đức Giêsu truyền cả anh bệnh đã lành cũng như những người có mặt phải giữ im lăng. Nhưng những người đã đón nhận được mạc khải trong phép lạ này không thể giữ kín được. Tác giả Mc muốn nhắc độc giả vừa phải giữ làm sao để người ta khỏi hiểu sai thân thế và sứ mạng của Đức Giêsu, vừa phải nhận ra và giới thiệu Người là Đấng Cứu Thế. Phản ứng hứng khởi của dân cho ta lời giải nghĩa thần học của phép lạ. Nhờ hoạt động của Đức Giêsu, cuộc tạo thành đã hư hỏng nay được tái thiết (x. St 1,31).
+ Kết luận
Đọc lướt qua, chúng ta thấy đây là một bài tường thuật về một phép lạ chữa bệnh về thể lý. Thật ra, bài này, cùng với các bài tường thuật về việc chữa người mù (8,22tt; 10,46tt) là một lời cam kết rằng Đức Giêsu có thể mở tai, tháo lưỡi, mở mắt cho các môn đệ, và là một lời mời gọi các ông tin tưởng vào Người, và để Người giúp các ông. Hãy nhìn nhận sự giải thoát mà Người đã mang lại cho chúng ta. Cũng hãy cố gắng đón nhận sự giải phóng mà Người đang muốn ban cho chúng ta, trên nẻo đường Người đang mở ra trước mắt chúng ta, xuyên qua những ngờ vực và những nỗi sợ hãi, mà tiến về vinh quang của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Các môn đệ của Đức Giêsu cũng phải có tâm tình tha thiết của Người là đưa Tin Mừng đến cho các Dân ngoại. Nếu ngại ngùng vì đường dài, e dè vì những khó khăn có thể gặp về mọi phương diện, các ông sẽ không đi xa được, và sẽ phản bội bản chất của Tin Mừng vì Tin Mừng là ánh sáng cứu độ được Thiên Chúa ban cho mọi người qua trung gian của các ông.
2. Các môn đệ đã không hiểu bản thân và sứ mạng của Đức Giêsu nên đã bị Người trách (7,18; 8,17-21). Sự kiện Đức Giêsu đã mở tai của người điếc cho hiểu rằng Người có thể ban sự hiểu biết cần thiết để người ta sống đức tin. Và chính các môn đệ cũng cần được Người mở tai cho, hầu nghe được và hiểu được những giáo huấn của Đức Giêsu, và nghe ra tiếng kêu la của những con người khốn khổ hôm nay.
3. Theo thánh Bêđa (PL 92,203t), người Kitô hữu nào không lắng nghe Lời Chúa là người điếc và kẻ nào không truyền đạt lời tuyên xưng đức tin cho kẻ khác là người câm. Nước miếng mà Đức Giêsu bôi vào lưỡi anh câm có nghĩa là sapor Domini sapientiae (hương vị của sự khôn ngoan của Chúa); còn ngón tay mà Đức Giêsu ấn trên tai anh điếc, tượng trưng ân huệ Thánh Thần (x. Lc 11,20).
4. Giai thoại Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa ngọng này có thể được coi như một dụ ngôn nói về biết bao hoàn cảnh khó khăn và bệnh tật của chúng ta hôm nay. Đây là những hoàn cảnh ngặt nghèo khiến chúng ta ở xa rất nhiều "điều", nhưng đồng thời lại cho chúng ta gặp được Chúa tể sự sống. Khi đó, đã được tháo cởi tai và miệng, chúng ta có thể nói: "Ngài làm điều gì cũng tốt cả", với sự kinh ngạc thấm đẫm tâm tình biết ơn.
5. Khi Đức Giêsu nói "hãy mở ra", tai anh ta mở ra lập tức và "anh ta nói được rõ ràng". Đức Giêsu nói ra và điều ấy xảy ra. Hôm nay Đức Giêsu cũng nói Lời Người trên chúng ta, "Hãy mở ra!". Với đôi tai đã được mở ra, chúng ta không những lãnh nhận lời Người, mà lòng chúng ta cũng được mở ra để đón lấy nữa. Nghe Lời Chúa sẽ biến đổi chúng ta.
"Hãy mở ra!". Những lời này mở chúng ta ra với lòng nhân từ của Thiên Chúa. Những lời đó cũng mở ra cho chúng ta thấy Thiên Chúa đang ở trong chúng ta, từng ngày, trong các liên hệ giữa chúng ta và các loài thọ tạo. Đó chẳng phải là một bí nhiệm sao: một người trông thấy và nghe được Thiên Chúa trong những biến cố nhỏ bé, thậm chí không đáng kể thuộc đời sống hằng ngày? (Siciliano)
23. Chú giải của Noel Quesson.
Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh.
Việc mô tả những cuộc hành trình (hơn 100 cây số) không phải là ngây ngô đâu? Chúng ta thử đặt mình vào địa vị Đức Giêsu một chút. Sau khi biến bánh ra nhiều (Mc 6,31-44). Sau bài giảng thất bại về "Bánh hằng sống" (Ga 6,66), Đức Giêsu bị đám dân chúng bỏ rơi hoàn toàn. Người rời xứ Galilê và đi ra "nước ngoài" nơi người ngoại đạo ở xứ Phênixi (Mc 7,24-26) bên kia biên giới phía Bắc xứ Palettin. Tia và Xi-đon ngày nay vẫn là hai thành phố lớn của xứ Libăng. Rời xứ này, Đức Giêsu không trở về Galilê, Người đi rẽ về phía Đông Biển Hồ, vượt qua các đồi cao Gôlăng xứ Xyria và đi về phía miền "Thập Tỉnh", bên kia sông Giođan, trong phần đầu của sa mạc từ I-rắc tới I-ran, mà ngày nay có những ống dẫn dầu từ vịnh Ba Tư chạy ngang qua. Đức Giêsu, con người thông minh, đã thích nghi với hoàn cảnh. Người biết rằng, với những đám đông chỉ có mất thời giờ? Vậy từ bây giờ trở đi, Người sẽ lo đào tạo một nhóm môn đệ nhỏ. Và để thực hiện công cuộc đó, cần phải vượt qua ranh giới Do Thái, mới dễ cảm thấy thoải mái hơn.
Chúng ta cố hình dung ra Đức Giêsu, dừng lại ở mỗi đoạn đường, ở ngoài trời, luôn có khoảng hai mười người vây quanh mười hai người nam và vài người nữ để nấu ăn quanh bếp lửa, họ kể lại những biến cố trong ngày.
Ngày nay, những khối Người, trong mọi biên giới, đã trở nên ngoại đạo. Thái độ của Đức Giêsu thật có ý nghĩa. Người làm gì khi Người sống giữa dân ngoại?
Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.
Danh tiếng Đức Giêsu, con người hay làm phép lạ, đã lan rộng ra ngoài biên giới nước Palettin. Có một người đàn bà gốc Phêmxi, xứ Xirya đã đến mấy ngày trước, để xin Chúa chữa lành cho con gái của bà. Bây giờ lại một người câm điếc. Người ta có thể nói rằng, người ngoại đạo có lòng mở rộng đối với Chúa hơn là người Do Thái. Vậy họ đã có tai để nghe, trong khi những đám đông ở Galilê lại "điếc đối với lời của Người? Người ngoại đạo sẽ được ngồi vào bàn tiệc của Thiên Chúa, để đón nhận Bánh Hằng Sống, trong khi đại đa số dân Israel đã từ chối?
Chúng ta chớ quên rằng, Maccô viết Tin Mừng cho những cộng đoàn Kitô hữu từ' dân ngoại quốc thuộc HyLạp - La Mã trở lại. Ong là thư ký của Phêrô. Chúng ta hiểu tại sao ông lại muốn làm cho nổi bật sự kiện Chúa đã mở rộng sứ vụ của Người cho dân ngoại. Như trong Tin Mừng Chúa nhật trước về vấn đề "Sạch và Nhơ", chúng ta gặp lại ý hướng phổ quát của Đức Giêsu: Người không tự đóng khung trong nền văn hóa riêng biệt của Israel. Người mở rộng cửa: Giáo Hội của Người phải là Công giáo nghĩa là "đa dạng" "mở rộng" "phổ quát". Chúng ta có thực sống như vậy không? Chúng ta không thường giữ những đặc thù thích đề cao chủng tộc của mình sao? Chúng ta không xét đoán quá cứng rắn những người có sở thích văn hóa, những cách cầu nguyện khác chúng ta sao? Trong bàn tiệc chúng ta có những một ít chỗ cho người ngoại quốc không?
Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.
Đức Giêsu làm những cử chỉ trên là có ý nghĩa, chứ không phải tình cờ. Thiên Chúa nói với chúng ta những cử chỉ đó. Chúng ta cũng điếc chăng? Những chi tiết này nói lên không gì?
Đức Giêsu dẫn người khuyết tật xa khỏi đám đông. Khi làm như vậy, Chúa đã tỏ ra khác hẳn những người làm phép lạ khác, những nhà ảo thuật Hy Lạp, luôn tìm sự phi thường. Còn Đức Giêsu, một "Thiên Chúa ẩn kín" lại trốn tránh những cái nhìn soi mói, bắt đầu sợ những đám đông ham muốn phép lạ. Người lánh ẩn như để nói với chúng ta rằng, Người sắp làm một biến cố siêu việt. Sự tránh hoạt động của Thiên Chúa là mầu nhiệm cuối cùng. Người sẽ cố gắng vô ích để xin "người ta giữ bí mật".
Đức Giêsu làm những cử chỉ trên thân xác, hầu như gây khó chịu đối với những tâm trí chúng ta, được coi là duy linh. Ngày nay người ta có khuynh hướng xóa bỏ hình ảnh này của Đức Giêsu. Chúng ta sẽ nghĩ gì nếu có một phim ghi lại cách tự nhiên và chiếu cho chúng ta xem lại cảnh này một cách thực tế? Người dịch một lần nữa đã nghĩ nên kể lại nhẹ nhàng hơn bản văn Hy Lạp của Maccô, mà nếu dịch từng chữ, sẽ kể như sau: "Đức Giêsu thọc ngón tay mình vào tai người điếc, và sau khi đã nhổ nước miếng, Người sờ vào lưỡi người câm, và sau khi nhìn lên trời, Người thở dài".
Vâng, những bí tích, những dấu chỉ của Đức Giêsu đều là những cử chỉ "thuộc thân xác". Thiên Chúa đã có thể ban hồng ân của Người cho chúng ta "từ xa" một cách thiêng liêng, nhưng thực sự Người đã quyết định "tiếp xúc" với chúng ta nhờ nhân tính Con của Người đã nhập thể. Nếu chúng ta cho là điều xỉ nhục để đưa tay ra "đụng chạm" đến Mình Thánh Đức Giêsu, thì chính là vì chúng ta đã mất ý thức về phẩm giá của "Thân xác", là dụng cụ tuyệt vời để liên lạc và yêu thương. Trong Nhiệm Cục Nhập Thể (Economie de l'incarnation) ân sủng thiêng thánh nhất, vô hình nhất phải qua những cử chỉ tầm thường "cụ thể" là những bí tích của Đức Giêsu. Người câm điếc lúc bấy giờ chắc không bị phân tâm trước những thuyết coi thường thể xác của chúng ta, và anh ta cảm thấy những cử chỉ tiếp xúc đơn giản và tự nhiên của Đức Giêsu như mạc khải sự trìu mến của Người: Ngón tay của Chúa trong lỗ tai bị bịt kín của anh, nước miếng của Người trên lưỡi bị thắt buộc của anh.
Lạy Chúa Giêsu, nhờ Thánh Thể của Chúa, xin chữa lành tâm hồn con người ngày nay. Các giáo phụ đầu tiên của Giáo Hội, đối với giáo dân gần thiên nhiên hơn chúng ta, đã khuyên các Kitô hữu lúc bấy giờ rước lễ dưới hai hình thức, lấy rượu đã truyền phép mà môi miệng họ vừa hiệp thông nơi Chén Thánh, để bôi lên mắt và tai của mình, nhằm thánh hóa những cơ quan này? Bây giờ không cần phải trở lại những tục lệ của các thế kỷ đầu tiên, nhưng ít nhất chúng ta chớ làm nhẹ đi cử chỉ rước Mình Thánh Chúa. Chúng ta hãy nhận "lấy" và "ăn" theo như Chúa đã nói. Điều đó rất thích hợp với bản chất con người của chúng ta, cả về thể xác lẫn linh hồn.
Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói.
Cử chỉ này cho ta thấy rằng, quyền năng của Thiên Chúa sẽ thực hiện không phải là một sự can thiệp y khoa bình thường. Còn về lời than thở của Đức Giêsu không những chỉ hiểu rang đó là xách biểu lộ lòng trắc ẩn đối với người bệnh, mà còn là một chuyển động nơi toàn thân Đức Giêsu đang xúc động mãnh liệt để kêu cầu Thiên Chúa, khi nhận thấy một "nỗ lực", một "nhiệm vụ khó khăn", một đối kháng rất ghê gớm cần phải vượt thắng. Đức Giêsu thực sự đang "làm lại" công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Con nói bị hư hỏng sắp tìm lại được vẻ huy hoàng nguyên thủy của mình.
Ép-pha-tha, nghĩa là: hãy mở ra!
Lời nói của Đức Giêsu được Maccô ghi lại bằng tiếng Hy Lạp, nhưng đúng ra được phát biểu bằng tiếng Aramên, là tiếng nói của Đức Giêsu. Chúng hãy nghĩ rằng, đối với những độc giả của mình không hiểu tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu, Máccô phải dịch nghĩa chữ "Effata"!
Chúng ta cũng lưu ý thêm, Đức Giêsu không nói với những cơ quan bị tật nguyền mà nói với chính người bệnh: "Hãy mở ra" hay đúng hơn "hãy mở trở lại".
Nghi thức Effata này, xưa kia được thực hiện trong khi rửa tội. Vị linh mục sờ vào tai và xức nước miếng mình lên một đứa bé hay người lớn.
Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.
Khi dùng nghi thức này để rửa tội, Giáo Hội đã sớm hiểu phép lạ này trên bình diện tượng trưng? "Con người có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe". Đui, điếc và câm: Đó là thân phận con người trước mặt Thiên Chúa, Thánh Maccô sẽ lặp lại nhiều lần trong cùng một bối cảnh rằng, chính những môn đệ của Đức Giêsu cũng là những người điếc và câm, những người không hiểu gì (Mc 8,18; 8,52; 7,18).
Qua phép Rửa, chính Đức Giêsu đích thân hành động. Người gặp một người tự nhốt kín mình, không thể thiên lạc được và chữa trị toàn diện: Chúa đã làm cho người này có thể nghe và hiểu Lời Chúa. Chúa cũng ban cho họ quyền thông truyền lời đó cho kẻ khác. Đó là vấn đề Đức tin. Tình trạng tự nhiên lúc vừa sinh ra của chúng ta, đó là sự tự nhốt kín mình, một tình trạng cô đơn cách biệt: Con người bị "bít kín" trước những sự việc của Thiên Chúa. Con người phải được Đức Giêsu "mở ra" để đón nhận mầu nhiệm Nước Trời.
Biết bao Kitô hữu hiện nay vẫn còn "đóng kín", mắc kẹt trong thế giới tập quán, trong sự hiểu biết hạn hẹp những truyền thống nhỏ nhoi của họ. Chúng ta có thuộc vào số những người đi nhà thờ mà không hề biết mở miệng để đáp lại chủ tế hay để hát xướng không? Chúng ta có phải là những người mà trong cuộc sống hàng ngày, không bao giờ dám nói về Thiên Chúa, về Đức Giêsu, về Tin Mừng không?
Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được"
Những lời ca tụng trên nhắc lại trình thuật đầu tiên về cuộc sáng tạo: "Thiên Chúa thấy tất cả những gì Người đã làm đều tốt đẹp" (St 1,30). Nhờ Đức Giêsu, một sáng tạo mới đang xuất hiện, một con người mới được tái tạo... một con người hiệp thông, một người biết lắng nghe và đáp lại. Lắng nghe Thiên Chúa. Nói với Thiên Chúa. Lắng nghe anh em. Nói với anh em.
Lạy Chúa, Chúa là Chủ sự sống, và mọi công trình của Chúa, thật đáng ca ngợi biết bao!
24. Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa ngọng
(Nguyễn Ngọc Thế SJ)
Vài hàng sơ lược
- Với câu mở đầu (31), Máccô nối kết câu chuyện này với câu chuyện trước, nghĩa là với chuyến đi rao giảng ở ngoài Israel của Giêsu. Sau khi rời Tia, giờ đây Giêsu lại đến một miền đất khác. Đó là miền đất Thập Tỉnh, một miền đất của dân ngoại. Với Mác-cô quan trọng là Giêsu đi khắp miền dân ngoại để rao giảng Tin Mừng. Miền thập tỉnh - Deka,polij (dekapolis), là một liên hiệp của các thành phố trong miền đông Gio-đan. Trong miền thập tỉnh này, chiếm phần lớn là dân Hy-lạp và Sy-ri. Miền này không thuộc về sự cai quản của Hê-rô-đê. Tổng trấn La-mã là người có quyền ở đây và miền này có những ưu tiên riêng biệt. Dân Do-thái là thiểu số trong miền này, và thuộc về tầng lớp thấp hèn. (ss. G. Schille - Horst Balz / Gerhard Schneider (Hrsg.), Band I, s.681-682)
- Câu chuyện chữa bệnh này thuộc về những câu chuyện Giêsu làm phép lạ. Và nó chỉ ra nhiều điểm liên quan đến y học dân gian và cách thức làm phép lạ thời đó: Đụng vào chỗ đau, sử dụng nước miếng, hướng nhìn lên trời để 'kéo' sức mạnh có sức chữa lành xuống, rên lên là công thức bí mật trong khi chữa bệnh. Trong thực tế, Giêsu đã hòa nhập và thích ứng với xã hội thời đó.
- Theo Helmut Meklein, so với Mác-cô, Mát-thêu 15, 29-31 kể lại rằng, sau khi rời Tia, Giêsu đi đến ven Biển Hồ Ga-li-lê ngay. Ở đó Ngài chữa kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Sau sự kiện chữa lành này, Mát-thêu đã kể lại phép lạ hoá bánh ra nhiều lần thứ hai cho bốn ngàn người ăn. (Mt 15, 32-39).
Suy niệm
- Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh.
Trong mỗi phép lạ, Mác-cô đều nêu bật rõ hai phần, phần người làm phép lạ xuất hiện, và phần người cần được giúp đỡ đến. Thêm vào đó, Mác-cô nêu rõ bối cảnh của phép lạ. Như phép lạ Ngài chữa người bị quỷ ám trong Mc 1, 21: "Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um." Hay phép lạ khác cũng liên quan đến người bị quỷ ám trong vùng của người Ghê-sa-ra: "Đức Giê-su và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghê-ra-sa" (Mc 5, 1). Ngoài ra, có thể coi thêm ở Mc 1, 29; 2, 1-3; 7,24tt và 8,22.
Còn ở đoạn phúc âm này, khung cảnh của phép lạ Giêsu sắp làm cũng được nhắc đến: "Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh". Tuy nhiên, theo R.Pesch thì khi diễn đạt bối cảnh như vậy, Mác-cô không có ý nhấn mạnh đến tính cách lịch sử của nơi phép lạ xảy ra, mà Mác-cô muốn diễn đạt một chương trình truyền giáo. Vâng, Đấng làm mọi sự tốt đẹp cần được loan báo không chỉ nơi miền đất đầy ánh sáng, mà còn cần phải được loan truyền tại miền đất của dân ngoại, trong miền Thập Tỉnh.
Theo Meinrad Limbeck, thì đối với Giêsu miền đất dân ngoại không phải là miền đất ô uế. Và ngoài những người ở mảnh đất Israel còn có nhiều người cần đến sự giúp đỡ và cứu thoát của Giêsu.
- Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su, và xin Người đặt tay trên anh.
Một người vừa điếc vừa ngọng – một người bị giới hại rất nhiều trong tương quan với người khác. Thật là khó khăn anh ta mới có thể hiểu được người khác, và ngược lại cũng thế. Chẳng dễ dàng gì để người vừa điếc vừa ngọng có thể hiểu điều mình muốn diễn đạt. Vì vậy, mà cánh cửa mở ra với thể giới bên ngoài, đến với người khác, rất hẹp hay đôi khi bị đóng lại đối với những người điếc và và ngọng. Có thể nói rằng, một bức tường ngăn cách đang đứng trơ trơ ở đó. Cái thê thảm nằm ở chỗ là, bây giờ không chỉ người điếc không nghe được những âm thanh ở bên ngoài, mà anh ta chỉ có thể nghe chính mình mà thôi. Một thế giới như bị đóng kín. Một cuộc đời như bị khóa kỹ vào trong căn phòng đóng chặt tất cả cửa sổ, và bị cách âm hoàn toàn. Chúng ta thử mường tượng, trong hoàn cảnh như vậy, chúng ta chỉ còn nói chuyện với chính mình, chúng ta chẳng còn nghe thấy gì cả và cũng chẳng được người khác lắng nghe. Thật thê thảm. Nếu cứ như vậy thì một lúc nào đó tất cả sẽ bị "xé rách" ra hết. Cả tâm hồn, cả cuộc sống, cả những gì thật là cao quý có thể đều bị "xé nát". Một cuộc sống thật buồn, vì cuộc sống đó bị cô lập, bị tách ra khỏi lòng xã hội.
Hình ảnh này cũng có thể liên hệ đến chính chúng ta. Vâng, chúng ta hãy để Đức Thánh Cha Biển Đức chia sẻ về điều này:
"Các giáo phụ nói về đề tài con người và nói cho con người của thời đại các ngài. Nhưng điều mà các ngài nói, cũng có liên hệ một cách mới mẻ cả với chúng ta, những con người thời hiện đại. Không những có sự điếc tai của thân thể làm cho con người gần như hoàn toàn bị tách ra khỏi sinh họat xã hội. Còn có một sự giảm yếu trong sự lắng nghe đối với Thiên Chúa, mà chúng ta đang gặp phải, nhất là trong thời đại chúng ta. Chúng ta không thể cảm thấy Thiên Chúa được nữa; có quá nhiều làn sóng khác nhau chiếm cứ đôi tai chúng ta. Điều được nói về Thiên Chúa, xem ra như là điều "tiền khoa học" đối với chúng ta, xem ra như không còn thích hợp với thời đại chúng ta nữa. Với sự giảm yếu sự lắng nghe, hoặc nói cách khác, với sự điếc tai tinh thần đối với Thiên Chúa, thì cũng bị mất đi khả năng chúng ta nói cùng với Ngài hoặc nói với Ngài. Như thế, chúng ta bị thiếu đi một nhận thức quyết định. Những giác quan nội tâm chúng ta gặp nguy hiểm bị mai một đi. Với sự thiếu mất sự nhận thức này, thì tầm mức của tương quan chúng ta với thực tại cũng bị bao vây một cách mãnh liệt và đầy nguy hiểm. Chân trời của đời sống chúng ta bị thu hẹp một cách đáng ngại." (Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI trong thánh lễ Chúa Nhật mùng 10 tháng 9 năm 2006 tại thành phố Munich, thủ phủ của Bang Baviera)
Vâng, thật đáng ngại biết bao, khi cuộc sống của chúng ta bị giới hạn trong thế giới nhỏ bé của chính mình, trong thế giới bao la nhưng thiếu vắng Thiên Chúa, thiếu vắng đi khả năng lắng nghe Lời Ngài, và vì thế mà tình yêu của Chúa cũng bị để ngoài tai. Vì vậy, lúc này những đôi tai như bị điếc hay bị điếc thật và những đôi môi như bị ngọng hay bị ngọng thật, cần được dẫn tới với Giêsu. Chính Ngài sẽ ra tay chữa lành, chính Ngài sẽ đến để cứu chữa. Ở đây, chúng ta nghe tiên tri I-sa-ia đã loan truyền:
"Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em." (Is 35, 4)
Như vậy, người ta đưa anh điếc và ngọng đến với Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.
Thái độ đặt tay là thái độ mà Giêsu đôi khi làm để chữa bệnh, như trường hợp chữa cho con gái ông Gia-ia: "Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống." (Mc 5, 23) Ngoài ra, cũng có nhiều đoạn khác nhắc đến việc chữa bệnh của Giêsu qua việc đặt tay, hay dùng tay để đụng tới người bệnh: Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi!" (Mc 1, 40-41) Hay trong trường hợp của người mẹ vợ ông Phêrô: "Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài." (Mc 1,31) Vâng, đôi bàn tay nhân từ yêu thương, bàn tay của Giêsu là đôi bàn tay chữa bệnh, nâng dậy, và dẫn về với con đường của sự sống. Về đôi bàn tay nhân ái này, Đức Thánh Cha Biển Đức đã nói như sau: "Người giơ tay nắm chúng ta trong các bí tích, Người chữa lành chúng ta khỏi bịnh hoạn của những đam mê và tội lỗi nhờ sự xá giải trong bí tích hoà giải. Người ban cho chúng ta khả năng trỗi dậy để đứng trước Thiên Chúa và trước những người nam và nữ." (Bài giảng Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI giảng ngày 5/2/06 khi ngài viếng thăm Giáo xứ Thánh Anna tại Vatican)
- Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Ép-pha-tha", nghĩa là: hãy mở ra!
Không như những thầy thuốc bình thường, sẽ đưa người bệnh đến trước đám đông để chữa, vì qua đó họ muốn được người ta nhìn thấy, trầm trồ thán phúc khen ngợi và công nhận. Giêsu chẳng cần lời khen, và cũng không muốn ai thán phục, nên Ngài đã kéo riêng người bệnh tách khỏi đám đông, tách khỏi đám người tò mò, đám người hay dòm ngó, phê bình. Một cách nào đó, đôi khi Giêsu cũng không muốn đám đông quấy rầy, khi Ngài làm phép lạ, như trường hợp chữa cho con gái ông Gia-ia: "Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm.Người cầm lấy tay nó và nói: "Ta-li-tha kum", nghĩa là: "Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! " (Mc 5, 40-41)
Sau khi tách người bệnh ra, và một mình với anh ta Giêsu đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.
Hành động đầu tiên là đặt ngón tay vào lỗ tai. Theo R. Pesch thì sức mạnh có sức chữa lành không chỉ toát ra từ đôi tay, mà còn từ ngón tay nữa. Chính ngón tay của Thiên Chúa đã giải thoát dân Ngài khỏi quyền lực của Pha-ra-ô. Vâng, qua cây gậy của A-a-ron, các phù thủy đã nhận ra ngón tay của Thiên Chúa: "Hãy nói với A-ha-ron: Anh hãy giơ gậy lên, rồi đập xuống bụi dưới đất cho nó biến thành muỗi trong khắp đất Ai-cập.... Các phù thủy thưa với Pha-ra-ô: "Đó là ngón tay của Thiên Chúa! " Nhưng lòng Pha-ra-ô vẫn chai đá và vua không nghe hai ông, như ĐỨC CHÚA đã nói trước." (Xh 8, 12 và 15) Và cũng với chính ngón tay của Thiên Chúa, Giêsu đã trừ quỷ, đã đuổi thần dữ ra khỏi cuộc đời: "Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông" (Lc 11, 20)
Hành động thứ hai Giêsu làm cũng liên quan đến ngón tay. Vâng, Ngài đã dùng tay bôi nước miếng vào lưỡi anh ngọng. Theo R. Pesch , người ta có thể mường tượng rằng, Giêsu nhổ nước miếng trên tay của mình và sau đó mới bôi cho người bệnh.
Nước miếng là một chất để chữa bệnh. Vâng, tôi vẫn còn nhớ hồi nhỏ Mẹ tôi cũng đã từng dùng nước miếng mình để bôi lên vết xước da chảy máu sau những lần nghịch ngợm. Theo R. Pesch, thì kế bên Nước, Máu, Rượu và Dầu thì nước Miếng cũng thuộc về những chất lỏng có thể dùng để chữa bệnh. Nước miếng cũng có chất nhờn như dầu, và từ cơ thể con người nên cũng có "họ hàng" với máu. Như thời cổ đại Hy-lạp và La-mã, Do-thái giáo cũng coi nước miếng như là chất dùng đặc biệt để chữa bệnh đau mắt. Về điểm này, chúng ta có thể đọc được ở Mc 8,23: "Người cầm lấy tay anh mù, đưa ra khỏi làng, rồi nhổ nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh và hỏi: "Anh có thấy gì không? "
Sau hai hành động trên, Giêsu ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Ép-pha-tha", nghĩa là: hãy mở ra!
Ngước mắt lên trời là hướng về cha mình. Theo Hans Urs von Balthasar, thì mỗi phép lạ mà Giêsu làm là một hành động của Cha được làm qua Giêsu. Chúng ta có thể đọc được thái độ hướng lên trời của Giêsu ở một vài phép lạ khác: "Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người." (Mc 6, 41) Hay như trong phép lạ kêu ông La-gia-rô ra khỏi mồ ở Gioan 11, 41-43: "Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: "Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con." Nói xong, Người kêu lớn tiếng: "Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ! "
Sau khi hướng mắt nhìn lên trời, Mác-cô thuật lại là Giêsu rên lên một tiếng. "stena,zw stenazo – rên " Theo R. Pesch là cách diễn tả về thái độ Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy. Nghĩa là dấu chỉ Giêsu nhận được sức mạnh để chuẩn bị cho phép lạ Ngài làm.
Sau khi đã chuẩn bị như vậy, Giêsu lên tiếng nói: "Ép-pha-tha", nghĩa là: hãy mở ra!
Mác-cô giữ lại từ ngữ này trong tiếng aramaica với ý nghĩa được dịch ra sau đó. Theo R. Pesch thì từ ngữ để chữa bệnh này, trong tai của người Hy-lạp là một lời lạ lẫm có sức chữa bệnh như một câu thần chú. Bình thường, thì lời chữa bệnh là lời đầy quyền năng có thể truyền tải sức mạnh. Vâng, một lời có sức giải thoát đời người khỏi bóng đêm, một lời có thể kéo đời người ra khỏi cái điếc và cái ngọng, một lời của tình yêu thương, một lời của ân sủng tràn đầy trên một đời người, trên cả dân Israel và hôm nay cho toàn thể nhân loại. Lời "Ép-pha-tha", này Giáo Hội cũng dùng trong bí tích rửa tội. Vị linh mục hay thầy phó tế sẽ rờ tới tai và miệng của con trẻ và nói: ""Ép-pha-tha – hãy mở ra". Mở tai ra để lắng nghe Lời của Chúa, và mở miệng ra để loan báo Tin Vui của Chúa. Tin vui về ơn cứu thoát về tình yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa từ nhân. Theo Adolf Pohl, qua lời chữa lành của Giêsu, người đọc ở đây sẽ được nhắc nhớ đến sức mạnh của Thiên Chúa. Ngài đã mở miệng cho con người, mở mắt, mở tai, mở lòng, mở niềm tin, mở cuốn sách cuộc đời, mở cánh cửa cuộc đời, và mở cả cửa lao tù nhốt con người vào trong đêm đen. Và Thiên Chúa mở cả cánh cửa của mồ mả và mở cả cánh cửa của trời cao để đón nhận con người.
Tóm lại, về những hành động của Giêsu trong phép lạ này, Đức Thánh Cha diễn tả rất hay và liên quan trực tiếp đến chúng ta: "
"Phúc âm kể lại rằng Chúa Giêsu đưa ngón tay chạm đến lỗ tai của người câm điếc, và thấm một chút nước miếng của Ngài trên lưỡi của người bệnh và nói: Effata - Hãy mở ra! Tác giả phúc âm đã giữ lại cho chúng nguyên ngữ tiếng aramaica mà Chúa Giêsu đã nói, và như thế đưa chúng ta trực tiếp vào trong giây phút đó. Điều mà được kể lại trong phúc âm, là điều duy nhất, tuy nhiên không thuộc về quá khứ xa xôi: Chúa Giêsu thực hiện cũng một điều như vậy một cách mới mẻ và làm lại điều đó nhiều lần cả trong thời đại hôm nay. Trong bí tích Rửa Tội, Chúa Giêsu đã hoàn tất trên chúng ta cử chỉ chạm đến này, và đã nói với chúng ta: Effata, hãy mở ra! Để làm cho chúng ta có khả năng cảm nghiệm được Thiên Chúa và như thế để cho chúng ta có lại khả thể nói chuyện với Thiên Chúa. Nhưng biến cố này, --- biến cố Bí Tích Rửa Tội --- không có gì là ảo thuật. Bí tích Rửa tội mở ra một con đường. Bí Tích đưa chúng ta vào trong cộng đoàn của những kẻ có khả năng lắng nghe và nói, đưa chúng ta vào trong sự hiệp thông với chính Chúa Giêsu, Đấng duy nhất đã nhìn thấy Thiên Chúa Cha và sau đó đã có thể nói về Ngài (x. Gn 1,18): qua đức tin, Chúa Giêsu muốn chia sẻ với chúng ta việc Người nhìn thấy Thiên Chúa, việc Người lắng nghe Thiên Chúa và nói chuyện với Thiên Chúa. Con đường của kẻ lãnh nhận bí tích rửa tội, phải là một diễn tiến của sự phát triển từ từ, trong đó chúng ta lớn lên trong cuộc sống hiệp thông với Thiên Chúa, và như thế đạt được một cái nhìn mới khác về con người và về tạo vật..... và Phúc âm mời gọi chúng ta hãy ý thức rằng trong chúng ta có bị thiếu hụt về khả năng nhận thấy --- một sự thiếu mà lúc đầu chúng ta không lưu ý được như vậy ---, bởi vì phần còn lại được xử dụng bởi sự khẩn thiết và hợp lý của nó; bởi vì từ bên ngoài xem ra như tất cả đều tiến hành một cách bình thường, cả khi chúng ta không còn đôi tai lắng nghe và đôi mắt nhìn thấy Thiên Chúa nữa và chúng ta sống không có Ngài. Nhưng thử hỏi có phải tất cả đều diễn ra cách đơn thuần, khi Thiên Chúa bị thiếu đi trong đời sống chúng ta và trong thế giới chúng ta hay không? (Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI trong thánh lễ Chúa Nhật mùng 10 tháng 9 năm 2006 tại thành phố Munich, thủ phủ của Bang Baviera)
- Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.
Kết quả của phép lạ được Mác-cô diễn tả tương hợp với hành động Giêsu đã làm trước đây. Đó là "đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh."
Như vậy, Giêsu đã đặt ngón tay vào lỗ tai và đã "mở tai" của người điếc, để anh ta có thể nghe lại được, và với nước miếng Ngài đã bôi vào lưỡi, để nhờ đó lưỡi anh hết bị buộc lại, nghĩa là được cởi ra khỏi "một sức mạnh đang trói buộc anh."
Động từ "trói buộc" chỉ về một căn bệnh bị thần dữ trói buộc. Ở Luca 13,16 cũng nhắc đến người phụ nữ còng lưng được Giêsu tháo cởi khỏi xiềng xích trói buộc bà: "Còn bà này, là con cháu ông Áp-ra-ham, bị Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sa-bát sao? "
Vâng, giờ đây anh bạn điếc và ngọng của chúng ta đã có lại được khả năng nghe và nói. Và anh ta còn nói được rõ ràng nữa, chứ không phải bặp bẹ một vài câu. Mác-cô diễn tả rất rõ ràng. Anh ta đã trở lại con người bình thường như mọi người. Thật là một tin vui lớn lao. Tin vui này ứng nghiệm với lời của tiên tri Isaia 35, 5-6:
"Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.
Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
Vì có nước vọt lên trong sa mạc,
khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu."
- Đức Giê-su truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra.
Lời truyền bảo phải giữ kín của Giêsu ở đây hướng về ngôi thứ hai số nhiều "họ". Như vậy, nhóm người có mặt dù đã bị tách biệt, nhưng có thể vẫn chứng kiến được phép lạ Giêsu làm. Tuy nhiên, điều mà tác giả muốn diễn tả ở đây là việc lời truyền bảo giữ kín của Giêsu đã bị "phá tan". Ngoài ra, Mác-cô cũng hướng về tinh thần truyền giáo của Giêsu và về Giêsu tại miền Thập Tỉnh, miền đất của dân ngoại, như chính một anh bị quỷ ám được Giêsu chữa bệnh, và sau đó được sai đi vào miền Thập Tỉnh để làm chứng: "Người bảo: "Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào." (Mc 5, 19)
Vâng, hành động tốt lành của Giêsu không thể giữ kín được. Điều tốt lành cần được lan rộng, lan rộng như vết dầu loang.
Còn về nguyên nhân Giêsu truyền phải giữ kín, thì chúng ta cũng có thể nhận ra. Đó là Giêsu muốn thi hành sứ mạng của mình. Nếu không, thì người Do-thái có thể bắt Ngài và tôn Ngài lên làm vị thủ lãnh, là Vua theo ý riêng và chương trình của họ. Mà sứ mạng của Giêsu thì đâu có tương hợp với một kế hoạch chính trị nào.
- Họ hết sức kinh ngạc, và nói: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được."
Một lời chứng và ngợi ca giữa mảnh đất dân ngoại, trong miền Thập Tỉnh.
Thật là tuyệt vời!
Vinh danh Thiên Chúa không chỉ tỏ rạng trong vùng trời của niềm tin, mà còn tỏ rạng trong bầu trời của nhiều tâm hồn chưa biết Chúa. Có lẽ vì thế, mà cần phải mở miệng tung hô to hơn và rõ ràng hơn.
Máccô diễn tả thật là hay: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả." Lời ngợi khen này giành cho Giêsu. Và Giêsu được ăn mừng như Đấng được nhắc trong Sáng thế ký 1, 31: "Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp." (ss. thêm ở Hc 39,16)
Vâng, trong Giêsu Gia-vê Thiên Chúa đang đến, như I-sa-i-a đã nói: "Chính Người sẽ đến cứu anh em." (35,4), và khi Người đến thì người điếc sẽ nghe được, người câm sẽ nói được, và què sẽ đi lại đàng hoàng, người còng lưng sẽ đứng thẳng dậy và không chỉ thế, mà còn:
"có nước vọt lên trong sa mạc,
khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.
Miền nóng bỏng biến thành ao hồ,
đất khô cằn có mạch nước trào ra.
Trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ mọc lên." (Is 35, 6b-7)
Vâng, Đấng Cứu Độ đã đến và khi Ngài đến thì Ngài sẽ giải thoát những người con yêu dấu của Ngài và:
"Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về,
tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo,
mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu.
Họ sẽ được hớn hở tươi cười,
đau khổ và khóc than sẽ biến mất." (Is 35, 10)
05/9 Ý nghĩa ngày Sabbat
- Viết bởi Lc 6, 1-5
Ý nghĩa ngày Sabbat.
Thứ bảy đầu tháng, tuần 22 thường niên.
"Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat?"
Lời Chúa: Lc 6, 1-5
Trong một ngày Sabbat, khi Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, thì các môn đệ bứt bông lúa miến, vò xát trong tay, rồi ăn. Có mấy người biệt phái nói với các ông rằng: "Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat?" Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Các ông chưa đọc điều Đavit đã làm khi ông và các người tuỳ tùng bị đói sao? Ngài đã vào đền thờ Thiên Chúa, lấy bánh dâng hiến mà ăn và cho các người bạn tuỳ tùng ăn, bánh đó họ không được phép ăn, nhưng chỉ dành cho các trưởng tế mà thôi". Và Người bảo họ rằng: "Con Người làm chủ cả ngày Sabbat".
Suy Niệm 1: Ý nghĩa của lề luật
Về triết gia Ðavít Hume của Anh vào thế kỷ 18, người ta kể một giai thoại như sau: Một hôm, có một quận công hỏi ông:
- Theo ông thì đối tượng của luật pháp là gì?
Ðavít Hume trả lời:
- Ðó là để phục vụ cho lợi ích lớn nhất của số lớn nhất.
Quận công hỏi lại:
- Thế thì theo ông số lớn nhất là gì?
Triết gia đáp:
- Số lớn nhất là số một.
Ðây là thực tế thường xảy ra trong luật pháp của nhiều quốc gia: số lớn nhất thường chỉ là một thiểu số. Luật pháp được làm ra không phải là để phục vụ mọi người, mà chỉ nhắm đến quyền lợi của thiểu số mà thôi.
Vào thời Chúa Giêsu, không thiếu những người nhân danh luật pháp để triệt hạ và chối bỏ người khác. Truyện được ghi trong Tin Mừng hôm nay là một điển hình cho biết bao trường hợp nhân danh pháp luật để đè bẹp con người. Chúa Giêsu đã thách thức cho đến cùng thái độ như thế. Thật ra, Chúa Giêsu không phải là một con người sống ngoài luật pháp, Ngài đến để kiện toàn lề luật. Nhưng sở dĩ Chúa Giêsu chống lại luật pháp là bởi vì luật pháp đó phi nhân hoặc chối bỏ con người. Các môn đệ vì đói nên bứt bông lúa mà ăn, thật ra không phải là vi phạm ngày Hưu lễ. Không có khoản luật nào trong các sách luật xem một hành động như thế là vi phạm ngày Hưu lễ; nếu có thì chỉ là vi phạm một trong 39 hành động mà các nhà chú giải Do thái đã thêm vào qui định của ngày Hưu lễ mà thôi. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã dẫn chứng hành động của Vua Ðavít và Ngài khẳng định: hành động của các môn đệ không hề vi phạm ngày Hưu lễ. Lề luật vì con người, chứ không phải con người vì lề luật. Ðó là ý nghĩa của luật pháp mà Chúa Giêsu nêu bật trong cuộc tranh luận với những Biệt phái. Khi luật pháp chống lại con người, nghĩa là chối bỏ phẩm giá và quyền lợi cơ bản của con người, thì luật pháp đánh mất ý nghĩa và không còn lý do để hiện hữu nữa; trong trường hợp đó, dĩ nhiên không tuân hành luật pháp là một thái độ thích đáng.
Thật ra, khi luật pháp chối bỏ hoặc chà đạp những quyền cơ bản của con người, thì luật pháp đó cũng xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Thánh Phêrô và thánh Gioan đã hành động một cách cương quyết khi dõng dạc tuyên bố trước Công nghị Do thái: "Thà vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người". Chẳng hạn, khi luật pháp một quốc gia cho phép phá thai, nghĩa là tước đoạt quyền sống của con người, thì chống lại luật pháp đó là một nghĩa vụ. "Thà vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người". đó là nguyên tắc nền tảng hướng dẫn người Kitô hữu trong các quan hệ xã hội của họ. Chúa Giêsu luôn đòi hỏi các môn đệ của Ngài một thái độ dứt khoát tận căn: không thể vừa vâng lời Thiên Chúa, vừa chạy theo những gì chống lại Thiên Chúa.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta ơn can đảm để luôn biết nói không với những gì loại trừ con người và xúc phạm đến Thiên Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm xác tín và vâng phục cho đến cùng, để trong mọi sự, chúng ta chỉ tìm thánh ý Chúa và xây dựng những giá trị Nước Trời.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 2: Ý nghĩa đích thực của lề luật
Một trong những sợi chỉ chạy xuyên suốt các sách Tin Mừng là cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo tôn giáo, tức là những người đứng ra bảo đảm cho việc thi hành Lề Luật. Thật ra, như Chúa Giêsu đã từng khẳng định Ngài đến không phải để hủy bỏ Lề Luật mà để hoàn thành nó.
Với Chúa Giêsu, sống tốt lành, thánh thiện không hệ tại ở chỗ thi hành Lề Luật mà chính là sống theo tinh thần Lề Luật. Một người có thể giữ hết mọi Lề Luật nhưng có thể chưa phải là một người thánh thiện. Lề Luật tự nó là tiêu cực, Lề Luật thường đưa ra những điều cấm đoán. Chúa Giêsu thì trái lại, luôn tích cực. Ngài công bố Lề Luật mới xây dựng trên tình yêu. Con người phải nên thánh thiện như Cha trên trời. Thiên Chúa thánh thiện không phải do tuân giữ Lề Luật. Thiên Chúa thánh thiện bởi vì Ngài là tình yêu và vì Thiên Chúa là tình yêu cho nên ai sống trong tình yêu thì thuộc về Thiên Chúa và nên thánh thiện. Trong bài diễn văn chung luận về ngày sau hết, Chúa Giêsu sẽ không dùng Lề Luật để phán xét con người mà chỉ hỏi con người có yêu thương tha nhân không mà thôi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay sự kiện các môn đệ đi qua cánh đồng lúa và bứt lúa ăn trong ngày sabát làm nổi bật sứ điệp của Chúa Giêsu. Cuộc chạm trán ngắn ngủi giữa Chúa Giêsu và các biệt phái cho thấy ý nghĩa đích thực của Lề Luật. Bánh thánh là biểu hiện sự hiện diện của Thiên Chúa giữa cộng đồng. Bánh Thánh của người Do Thái cũng mầu nhiệm như bánh thánh của Chúa Kitô, nó biểu hiện phép Thánh Thể. Không người Do Thái nào dám sờ đến bánh thánh cũng như không một người công giáo nào dám mở nhà chầu lấy bánh thánh để ăn trưa. Thật là trái tai khi nghe Chúa Giêsu biện hộ cho hành vi của vua Ðavít. Tuy nhiên, qua lời biện hộ này chúng ta hiểu được quan niệm của Chúa Giêsu về Lề Luật. Lề Luật là chỉ để hướng dẫn và hỗ trợ cho con cái của Thiên Chúa, không nên biến nó thành một gánh nặng, nó phải đáp lại nhu cầu của con người. Chính vì thế mà Chúa Giêsu tuyên bố: "Lề Luật được lập ra cho con người chứ không phải con người cho Lề Luật, ngày sabát được lập ra cho con người chứ không phải con người cho ngày sabát". Con cái của Thiên Chúa là thánh thiện chứ không phải Lề Luật.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta, có khi chúng ta giữ đạo một cách chi ly nhưng chưa thực sự sống đạo, chúng ta tuân giữ mọi Lề Luật nhưng chưa sống tinh thần của Lề Luật. Cốt lõi của Lề Luật chính là tình yêu. Tất cả mọi Lề Luật đều thu tóm về giới răn yêu thương, sống yêu thương là chu toàn Lề Luật. Lời của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô đoạn 13 cần được chúng ta đem ra suy niệm và thực hành:
"Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác nào thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi chuyện bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu hay có được tất cả những đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giá như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi".
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Suy Niệm 3: Vì con người hay vì ngày sa-bát
Vào ngày sa-bát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ bứt lúa, vò trong tay mà ăn. Nhưng có mấy người Pha-ri-sêu nói: "Tại sao các ông lại làm điều không được phép làm trong ngày sa-bát?" (Lc. 6, 1-2)
Không quá đáng khi nói trên trái đất này luôn luôn xảy ra cuộc tranh đấu quyết liệt giữa con người và luật lệ. Có thể nói: rút cuộc con người hình như bị bại trận.
Suốt thời gian thi hành chức vụ công khai, Đức Kitô chống lại óc pháp trị không ngừng áp đặt luật sa-bát trên con người. Thà phải chịu chết đói hơn là phạm tới luật thánh để tôn trọng ngày của Chúa. Đức Giêsu muốn cho biệt phái hiểu rằng họ đã khắt khe vô lý đến tột độ. Người kể trường hợp của vua Đa-vít đã cứu đoàn tùy của mình, ông không ngần ngại vào đền thờ lấy bánh hiến tế dành riêng cho tư tế đưa cho họ ăn. Sự bó buộc của biệt phái thật vô nhân đạo, và Người kết luận: luật lệ vì con người chứ không phải con người nô lệ luật pháp.
Người không thành công cũng như bao nhiêu người khác trước và sau Người, họ đã thử bảo vệ sứ điệp này. Kẻ thù không tha cho ai muốn lãnh đạo hay phục vụ như Người. Một ngày nào đó, họ sẽ lên án Người. Kể từ lúc đó, trong thế giới lương cũng như giáo, xuyên suốt dòng lịch sử, có hàng ngàn đàn ông, đàn bà bị loại trừ và thanh lọc vì đòi quyền ưu tiên cho người trên pháp luật bất chính.
Đức Kitô không phải là con Người ngây ngô. Người biết rất rõ cần thiết phải có luật pháp. Người không ngừng nhắc đi nhắc lại: Người đến không phải để phá hủy luật lệ, nhưng để kiện toàn. Tuy nhiên, Người không chấp nhận luật đặt ra để đè bẹp con người, nhưng luật là để giúp con người thăng tiến. Luật không để giết hại mà để phục vụ. Nhiều người công giáo ngày nay chưa ý thức được bài học này. Họ sẵn sàng chia rẽ, xé lẻ để bảo vệ hình thức luật lệ. Có những luật tốt cho xưa kia, nhưng không còn thích hợp với những yêu cầu nhân loại ngày nay. Thế giới đã có những cuộc cách mạng tiến bộ rõ rệt, không còn nữa những hạng quá bảo thủ và quá cấp tiến nếu bài học của Chúa được đón nhận.
GF