Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
23/8 Lời ban sự sống đời đời
- Viết bởi Ga 6, 61-70
Chúa Nhật tuần 21 thường niên năm B
Lời ban sự sống đời đời.
"Chúng con sẽ đi đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống".
Lời Chúa: Ga 6, 61-70
Khi ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: "Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" Tự biết rằng các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu nói với họ: "Điều đó làm các con khó chịu ư? Vậy nếu các con thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Nhưng lời Ta nói với các con là thần trí và là sự sống. Nhưng trong các con có một số không tin". Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: "Bởi đó, Ta bảo các con rằng: Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho". Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa. Chúa Giêsu liền nói với nhóm Mười Hai rằng: "Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?" Simon Phêrô thưa Người: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa".
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Gs 24,1-2a.15-17.18b; Ep 5,21-32; Ga 6, 54a. 60-69
1. Thử thách
Một chiếc tàu đánh cá Xô Viết được đưa vào sửa chữa bên cạnh tàu tuần dương hạm của Hoa Kỳ tại bờ biển New England. Các quan chức Mỹ-Xô cùng ngồi trên chiếc tàu Nga bàn luận sôi nổi về kỹ thuật đánh cá. Câu chuyện và mối liên hệ của họ thật tốt đẹp cho đến một đêm nọ một thuỷ thủ người Nga tên là Kudirka lẻn ra khỏi tàu Xô Viết, nhảy xuống biển và bơi qua tàu Mỹ, năn nỉ xin được tị nạn chính trị. Thế nhưng, vị chỉ huy tàu Mỹ đã từ chối. Quyết định này về sau đã bị các thượng cấp quở trách. Chàng thuỷ thủ bị trao lại cho nhà cầm quyền Xô Viết, và bị giam vào ngục. Thời gian ở tù chàng đã nhiều lần tuyệt vọng, nhưng nhờ người bạn đã dạy cho chàng một bài thơ, chính những vần thơ này đã giúp chàng đương đầu với hiện tại và hy vọng tiến đến tương lai. Bài thơ ấy như thế này: Nếu giành được chiến thắng hay gặp phải thất bại mà con vẫn xử sự như nhau. Nếu sự thật con nói ra bị vu khống là gian dối mà con vẫn tỏ ra bình thản. Nếu toàn bộ sự nghiệp đời con tan vỡ, mà con vẫn kiên trì xây dựng lại. Phải, nếu con làm được như thế, thì trái đất và mọi sự trên đó sẽ thuộc về con. Và hơn thế nữa, hỡi con, con sẽ là một con người đích thực.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Trong cuộc đời, có những lúc chúng ta dường như sắp sửa mất tất cả, thì điều quan trọng đó là chúng ta cần phải được giúp đỡ để không thất vọng và nản chí. Các môn đệ cũng vậy, niềm tin của các ông đang bị thử thách. Trước lời xác quyết của Chúa: Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống, thì một số môn đệ đã bỏ Chúa mà đi, vì không thể nào chấp nhận được lời giảng dạy ấy. Số còn lại thì vẫn trung thành với Chúa và Phêrô đã thay mặt cho nhóm còn lại ấy tuyên xưng: Bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Bị dồn vào chân tường, nhóm còn lại vẫn tin tưởng vào Chúa, trong khi đó, nhóm thứ nhất thì chỉ biết chú tâm vào vấn đề của họ mà thôi: Tại sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn? Như thế, một đàng biết chú tâm vào Chúa, còn một đàng chỉ biết chú tâm vào mình. Hai hình ảnh này một lần nữa được diễn tả qua đoạn Tin Mừng kể lại: Đêm khuya, sóng biển nổi lên Chúa Giêsu đi trên mặt nước tiến lại thuyền các môn đệ khiến họ hoảng sợ vì tưởng là ma. Thấy vậy Chúa Giêsu lên tiếng trấn an: Thầy đây, đừng sợ. Phêrô xin Chúa cho mình cũng được đi trên mặt nước tiến đến với Ngài. Thế nhưng khi ông bắt đầu nghi ngờ, thì lập tức ông bị chìm xuống. Lập tức Chúa Giêsu nắm lấy ông vào nói: Sao đức tin của con kém thế. Tại sao con lại hồ nghi? Như thế bao lâu Phêrô biết vững tâm nhìn vào Chúa Giêsu, thì ông được an lành. Nhưng khi ông rời khỏi Người và bắt đầu chú tâm lo vấn đề của riêng mình, thì lập tức ông lâm vào tình trạng nguy hiểm.
Giữa những cơn gian nguy thử thách, giữa những lúc khổ đau cay đắng, hãy tin tưởng vào Chúa để cuộc đời chúng ta tìm thấy được sự bình an và hạnh phúc.
2. Theo ai?
Cứ nhìn vào các nhà thờ đông nghẹt người xem lễ, thì ai cũng nói lòng đạo đức của người tín hữu hôm nay thật là lớn. Tuy nhiên, cuộc sống của họ có đúng là đạo đức hay không? Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay sẽ giúp chúng ta xác định xem mình đang theo Chúa hay là đã xa lìa Ngài?
Thực vậy, nếu chúng ta chỉ dừng lại ở bí tích Thánh Thể mà thôi thì chưa đủ theo đòi hỏi của Tin Mừng. Bởi vì Lời Chúa phải được đem ra thực hiện thì mới trở thành bánh trường sinh được và mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa càng sâu sắc hơn nếu mỗi người biết chia sẻ cho nhau không những của cải vật chất mà còn cả tình thương trong cuộc sống.
Vẫn còn có nhiều người quan niệm đi lễ, giữ chay, đọc kinh, giữ luật đạo, lâu lâu bố thí cho kẻ nghèo hay dâng cúng cho nhà thờ, thì đã thể hiện được lòng đạo đức của mình. Còn ngay trong cuộc sống hằng ngày, họ không cần biết đến người láng giềng đang sống như thế nào? Không cần biết đến xóm làng đang có những vấn đề gì? Họ không cần để ý đến tình người ngay trong mối quan hệ bình thường với kẻ khác. Và như thế vô tình họ đã khoanh vùng hoạt động cho Chúa ở trong nhà thờ mà thôi, họ chưa đưa Chúa vào trong cuộc đời, đang lúc Chúa Giêsu lại sinh hoạt ngay giữa lòng xã hội loài người. Nếu sống đạo như thế, thì làm sao lời Chúa trở thành bán ban sự sống cho được?
Không ít người đã theo Chúa Giêsu chỉ vì phép lạ bánh hoá nhiều, nhưng rồi họ lại vội vã bỏ Chúa mà đi vì lời Ngài thật chướng tai, không thể chấp nhận được. Chỉ riêng nhóm 12 là đã xác tín rằng: Chỉ mình Chúa mới có Lời ban sự sống. Điều xác tín này đã rõ nét trong khi xây dựng cộng đoàn tiên khởi: mọi người bỏ của chung, chăm lo cho nhau và ai cũng no đủ, hạnh phúc.
Giáo Hội kết hợp với Đức Kitô, không chỉ trong các nghi lễ phụng tự mà mỗi người trong Giáo Hội phải sống với tinh thần của Ngài ngay trong cuộc sống hằng ngày. Xã hội vẫn còn những kẻ thiếu ăn, vẫn còn những bất công và áp bức, thì Giáo Hội vẫn còn có những vấn đề được đặt ra cho mình. Làm thế nào để ngày càng đẩy lùi những bất công, đói khổ và lạc hậu. Điều đó đồng nghĩa với làm thế nào để tỏ lộ khuôn mặt Đức Kitô một cách rõ nét nhất trong cuộc sống hiện tại.
Thiên Chúa không thích những của lễ, nhưng Ngài cần lòng nhân ái. Lễ vật nào có ích gì khi sự thù hận đố kỵ vẫn còn trong người tín hữu hay vẫn còn những kẻ đói khổ đau đớn bên cạnh mình. Xác tín đi theo Chúa trên con đường cứu độ là phải mang lấy nỗi ưu tư, ray rứt về một xã hội chưa được an vui hạnh phúc.
Vậy thì chúng ta đã theo Chúa như thế nào và đã thực hiện lời Chúa ra làm sao để lời Chúa thực sự đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu?
3. Lời ban sự sống
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Bảo rằng lương thực hằng ngày như cơm, như bánh có thể mang lại cho con người sự sống tạm bợ đời nầy là điều dễ chấp nhận, vì rõ ràng nhờ cơm bánh mà chúng ta có thêm sức mạnh để lao động hằng ngày.
Bảo rằng thuốc men và các chất bổ dưỡng làm gia tăng sinh lực cho con người thì cũng dễ hiểu thôi, vì chúng ta có thể cảm nhận hiệu quả ấy trước mắt.
Thế nhưng Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô trong Tin Mừng hôm nay: "Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời" là những lời khó thuyết phục, vì lời nói thoảng bay trong gió, chứ có phải là lương thực, là thuốc men đâu mà có sức kéo dài tuổi thọ của con người.
Thiên Chúa dùng Lời để tác tạo vũ trụ và thông ban sự sống.
Từ nguyên thuỷ, khi tất cả còn hư vô trống rỗng, Thiên Chúa đã dùng Lời mà tác thành vũ trụ và sáng tạo muôn loài. Mọi sự sống trong hoàn vũ, từ sự sống của các loài sinh vật đơn giản cho đến sự sống của loài người đều do Lời Chúa phán mà ra.
Sáng thế ký chương I viết: "Thiên Chúa phán: "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc,... liền có như vậy."
Thiên Chúa phán: "Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy.
Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta..." Và từ Lời thần thiêng đó, con người đã được tạo thành và được thông ban sự sống. (Stk 1, 20.24.26)
Lời Chúa hồi sinh kẻ chết
Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu cũng dùng Lời thần thiêng của mình để phục hồi sự sống cho những kẻ chết.
Hôm ấy, khi Chúa Giêsu thấy người ta khiêng cậu con trai duy nhất của một bà goá ở thành Na-im đi chôn, người mẹ theo sau xác con gào khóc thảm thiết. Động lòng thương, Chúa truyền cho người khiêng đứng lại và Người dùng Lời của mình ban lại sự sống cho người thanh niên: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho anh hãy chổi dậy" (Lc 7,14), lập tức người chết được hồi sinh.
Rồi đến lượt La-da-rô đã chết đến bốn ngày, xác đã nặng mùi, thế mà Chúa Giêsu cũng chỉ dùng Lời của mình ban lại sự sống cho anh. "La-da-rô, hãy ra ngoài!". Vừa nghe lời quyền năng đó, người chết đội mồ sống lại. (Gioan 11, 43)
Thế thì rõ ràng là Chúa Giêsu có những Lời truyền ban sự sống, nhưng không chỉ thông ban sự sống sinh vật tạm thời mà còn đem lại sự sống vĩnh cửu trên thiên quốc.
Khi giảng tại Hội Đường Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu khẳng định Người chính là Bánh hằng sống, ai ăn thịt và uống máu Người sẽ được sống đời đời. Lời đó khiến dân chúng và các môn đệ bị sốc, không chấp nhận và tuần tự bỏ đi. Dầu vậy, thánh Phê-rô vẫn kiên vững tuyên xưng: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời." (Ga 6, 68)
Chúa Giêsu được mệnh danh là Ngôi Lời, đã hiện hữu từ trước muôn đời, "nhờ Người vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành" (Gioan 1, 1-3) thì chắc chắn Người có đủ quyền năng ban sự sống đời đời cho những ai tin nhận Người.
Nếu hôm nay trên thị trường có thuốc trường sinh, chắc chắn sẽ có nhiều người xô đẩy nhau quyết tìm mua bằng mọi giá. Thế mà nay Chúa Giêsu tặng ban miễn phí những Lời đem lại sự sống đời đời cho nhận loại, lẽ nào chúng ta lại thờ ơ.
Vậy thì cùng với thánh Phê-rô, chúng ta hãy tuyên xưng với tất cả lòng tin: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời".
Cùng với Mẹ Maria là Đấng hằng ghi nhớ và suy niệm Lời Chúa trong lòng, chúng ta hãy hấp thụ Lời Chúa vào tâm hồn, để Lời Chúa sinh hoa kết quả trong cuộc sống hằng ngày, nhờ đó mỗi người chúng ta được hưởng sự sống hoan lạc đời nầy và sự sống vĩnh cửu mai sau.
4. Chọn lựa.
Cả chúng con nữa, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?
Câu hỏi Chúa Giêsu đưa ra đòi buộc các môn đệ phải chọn lựa, phải dứt khoát lập trường. Đây không phải là một việc dễ dàng, vì ngay trước đó đã có nhiều môn đệ rút lui, bởi điều Ngài xác quyết một cách mạnh mẽ về thứ lương thực thiêng liêng nuôi sống linh hồn, thật là chói tai không thể nào chấp nhận được theo lẽ tự nhiên: Thịt Ngài là của ăn và Máu Ngài là của uống mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Với lời tuyên bố ấy, chúng ta có thể nghĩ tới bí tích Thánh Thể, chúng ta đã cử hành trong suốt cả cuộc đời người công giáo, mà chẳng có lấy một chút băn khoăn hay do dự. Chúng ta cũng đã từng đón nhận Mình và Máu thánh Ngài một cách quen thuộc theo nghi lễ và chúng ta không còn nhận ra tính cách chói tai và những khó khăn mà các môn đệ đã găp phải.
Sự tuyên xưng của các ông chính là một sự dấn thân, một hành đông liên quan tới vận mạng của một con người. Tuy nhiên, điều đáng cho chúng ta suy nghĩ hơn cả, đó là mặc dầu chúng ta tin tưởng vững chắc vào lời xác quyết của Chúa: Thịt Máu Ngài chính là lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đem đến cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, nhưng trong thực tế, chúng ta lại sống, lại hành động trái ngược với niềm tin tưởng ấy.
Đúng thế, có những người công giáo vốn tự xưng là đạo dòng, đạo gốc... Thế mà cả chục năm không rước Chúa lấy được một lần. Có những người khác, ngày Chúa nhật cũng đến nhà thờ nhưng cho qua lần đoạn lượt mà thôi. Họ đứng ở ngoài sân, vừa nói chuyện, vừa phì phèo điếu thuốc lá và vừa tham dự thánh lễ. Mình không tham dự đã đành, mà còn cả trở và làm cho người khác lo ra, chia trí.
Hơn thế nữa, phần đông chúng ta lại tách biệt thánh lễ ra khỏi cuộc sống.
Chúng ta giữ đạo ở trong nhà thờ như một người công chức tới giờ đến sở làm việc. Có nghĩa là khi đến nhà thờ, chúng ta trang nghiêm sốt sắng. Nhưng khi thánh lễ kết thúc, cửa nhà thờ đóng lại và chúng ta trở về với cuộc sống thường ngày. Lúc bấy giờ chúng ta lại vội vã gian than, độc ác và bất công. Trong nhà thờ chúng ta là những con chiên ngoan, nhưng giữa lòng cuộc đời, chúng ta lại hoá kiếp thành một loài sói dữ. Như vậy, thánh lễ cũng chỉ là một chiếc ngăn kéo rất nhỏ bé giữa những ngăn kéo biệt lập khác của cuộc sống.
Thế nhưng, với những người có đức tin thì khác, cuộc sống phải trờ thành thánh lễ, hay nói cách khác, tinh thần thánh lễ phải thấm sâu vào cuộc sống của họ. Có nghĩa là chúng ta phải biến đổi đời sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài, bằng cách thực thi tinh thần yêu thương và hợp nhất, giúp đỡ những người chung quanh, như một bài hát quen thuộc: Ta về thôi khi thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để làm chứng nhân.
Hãy góp nhặt những hy sinh rải rắc trong đời thường, để làm nên tấm bánh và chén rượu, như những của lễ chúng ta dâng lên Chúa. Từ đó chúng ta đi đến một câu hỏi, một kết luận, đó là chúng ta đã thực sự sống tinh thần thánh lễ giữa lòng cuộc đời của chúng ta hay chưa?
5. Tình đời thay trắng đổi đen!
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Con người thường đổi trắng thay đen. Lòng người thường thay lòng đổi dạ khiến cho nhiều người đã chua chát nhìn đời mà bảo rằng:
"Còn tiền còn bạc còn đầy tớ.
Hết tiền hết bạc hết ông tôi".
Người ta gắn bó với nhau thường là vì tình, vì tiền và quyền lợi. Và một khi quyền lợi của mình bị lung lay, họ liền thay lòng đổi dạ để rồi "gió chiều nào xuôi theo chiều đó" để được an toàn bản thân. Xem ra tình cảm giữa con người với nhau thật mong manh. Mọi quan hệ đều được liên kết với nhau bằng những quyền lợi và nghĩa vụ phải thi hành với nhau. Tình đời thường thay trắng đổi đen nên mới có chuyện "ông ăn chả bà ăn nem". Bất trung và phản bội với lời đoan hứa thường là sự mất tín nhiệm nơi nhau và hậu quả là chẳng ai tin ai, ai cũng lo cho chính mình để khỏi bị thiệt hại bản thân.
Lịch sử cứu độ là một chuỗi dài sự tha thứ của Thiên Chúa và sự bất trung, phản bội của dân tộc được tuyển chọn. Họ hứa rồi quên. Họ đứng lên rồi lại ngã qụy. Dân Do Thái đã từng hứa trung thành với Giavê Thiên Chúa, nhưng rồi họ lại tin thờ thần ngoại bang. Mặc dầu Thiên Chúa luôn bảo vệ họ, chăm sóc họ như tình phụ tử dành cho con cái. Ngược lại, họ thường lãng quên ân huệ của Thiên Chúa. Họ năm lần bảy lượt quay lưng lại với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho họ.
Lời Chúa trong bài đọc thứ nhất là bằng chứng về quá khứ đầy thất trung của dân tộc được tuyển chọn. Cha ông họ đã từng thờ thần ngoại bang. Hôm nay họ tuyên hứa chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa Giavê duy nhất, nhưng rồi lời hứa lại đi vào quên lãng chỉ còn lại những thất tín, bội thề. Thiên Chúa đối với họ như là một kho ơn, chỉ đề rút tỉa và một khi không đáp ứng nguyện vọng là họ lại tìm kiếm nơi các thần ngoại bang. Thế nhưng, Thiên Chúa là Đấng tín trung với lời giao ước. Ngài chỉ giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương trọn đời.
Hôm nay, Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ một chọn lựa. Chọn gắn bó với Chúa hay chạy theo thói đời của thế gian "hạnh phúc thì xum vầy, gian nan thì bỏ chạy". Chúa đòi các môn đệ không lấp lửng, lập lờ "làm tôi hai chủ", mà phải tỏ rõ lập trường. Bỏ đi hay ở lại. Chọn sự sống đời đời hay sự sống chóng qua đời này. Các môn đệ đã gắn bó với Chúa bao lâu nay nhưng liệu rằng bằng đó thời gian có đủ để niềm tin các ông trưởng thành và có thể nhận ra Thầy là Chúa, là Đấng ban sự sống hay chưa? Trước câu hỏi: "cả anh em, anh em cũng muốn bỏ Thầy đi sao?". Nhiều môn đệ đã bỏ đi. Và chắc chắn ngay trong số 12 vẫn còn có kẻ muốn bỏ đi. Số còn lại do dự, im lặng, chỉ có một mình Phêrô đã mạnh dạn thưa lên rằng: "bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Vì chỉ có Thầy mới có lời ban lại sự sống đời đời". Thánh Phêrô đã ở lại với Thầy, vì ông tin vào Thầy mình là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Ông ở lại với Thầy vì chỉ có Thầy mới mang lại sự sống đời đời.
Người xưa thường nói: "Qua gian nan mới biết ai là bạn, là thù". Chúa Giêsu biết rõ một trong nhóm sẽ nộp mình. Ngài cũng Phêrô sẽ ba lần chối Thầy và đa số sẽ bỏ Thầy cho người ta hành hạ và treo lên thập tự giá, nhưng Ngài vẫn yêu thương. Ngài vẫn tìm mọi cách cho các môn đệ ở lại mãi trong tình yêu của Ngài. Tình yêu của Thiên Chúa đời đời vẫn thế. Tựa như tình yêu của cha của mẹ sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái. Tình yêu của Thiên Chúa vẫn mãi mãi trung thành với tình yêu ban đầu. Ngài vẫn hằng tha thiết mời gọi con người hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Dù rằng đó là đứa ngỗ nghịch, dù rằng đó là đứa thường phạm sai lầm, đôi khi còn bất hiếu bất trung. Ngài vẫn yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn hỏi chúng ta "phần các con có muốn bỏ Thầy không?". Chúng ta có dám ở lại với Thầy khi mà nhiều người đã không còn tin có thế giới thần linh? Chúng ta có dám gắn bó với Người khi mà cả khối đông nhân loại đang bỏ đi để chạy theo ma lực của đồng tiền và địa vị? Có lẽ phần nhiều chúng ta do dự, phần nhiều chúng ta im lặng. Vì biết bao lần chúng ta cũng bị cám dỗ bỏ đạo để được tiến thân trên đài cao danh vọng. Vì biết bao lần đồng tiền đã làm mờ con mắt, khiến chúng ta chao đảo đức tin, muốn buông xuôi theo thói gian dối của thế gian để tìm mối lợi cho bản thân của mình. Có thể chúng ta đang đóng vai trò một Giuđa vẫn ở xen lẫn với nhóm 12 nhưng chỉ chờ cơ hội để bán đứng Thầy và bán đứng anh em.
Nguyện xin Thiên Chúa tình yêu tha thứ những yếu đuối, nhỏ nhen đầy ích kỷ của chúng con. Xin Mình Máu Thánh Ngài nâng đỡ chúng con thoát khỏi những cám dỗ trần thế để mãi mãi con có thể nói như thánh Phêrô ngày nào: "Bỏ Ngài chúng con biết đến với ai. Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời". Amen.
6. Bỏ Thầy, Con Sẽ Theo Ai?
(Lm. Trần Bình Trọng)
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã ban cho loài người được tự do lựa chọn: hoặc chấp nhận hay khước từ ơn Chúa. Sau khi chu toàn sứ mệnh Môsê trao phó để đưa dân Chúa chọn vào miền đất hứa, ông Giôsuê đã triệu tập các vị đại diện dân chúng tại Si-khem để khẳng định lại niềm tin vào Chúa. Ông nói với họ rằng: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ... Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Gs 24:15). Dân Ít-ra-en cũng đã lựa chọn. Họ quyết định phụng thờ Thiên Chúa vì Người đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai cập, đã làm những việc kỳ diệu và dẫn đưa họ vào miền đất hứa.
Tuy nhiên khi gặp khó khăn và thử thách trong sa mạc, họ lại bất trung, phản nghịch cùng Chúa. Và mỗi lần họ ăn năn sám hối thì Chúa lại giang tay đón nhận họ trở về với lòng bao dung tha thứ. Trong Phúc âm tuần trước, Đức Giêsu dạy họ về việc ăn bánh hằng sống là thịt và uống máu Người thì mới có sự sống muôn đời. Người Do thái liền tranh luận hỏi nhau: làm sao ông này có thể cho họ ăn thịt Người được (Ga 6:52)?
Lớp thính giả thứ hai trong Phúc âm hôm nay là các môn đệ khi nghe Đức Giêsu giảng dạy về việc ăn thịt và uống máu Người để được sống muôn đời, cũng lẩm bẩm cho rằng lời nói thật là chướng tai (Ga 6:60). Và theo Phúc âm thuật lại: Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa (Ga 6:66). Từ ngữ môn đệ được hiểu là người theo Đức Giêsu và con số được ghi là bảy mươi hai môn đệ. Và khi có những môn đệ bỏ cuộc, Đức Giêsu không ngạc nhiên, cũng không buồn giận, và không thay đổi lập trường. Người không giải thích, cũng không rút lại lời giảng dạy để mong bắt được mẻ cá lớn là các môn đệ.
Đến lượt lớp thính giả thứ ba là các tông đồ thì Đức Giêsu còn thách đố các ông thêm nữa. Người đòi hỏi nơi các tông đồ một đức tin không dè dặt, không lưỡng lự. Đức Giêsu gần làm hoảng hồn các tông đồ, khi Người hỏi thêm các ông: Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi không (Ga 6:67)? Hoặc ở lại hay bỏ đi, một câu hỏi mà họ không thể nào tránh né được. Để trả lời câu hỏi, ông Phêrô tiến lên, đóng vai trò lãnh đạo, đáp lại: Thưa Thầy, nếu bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6:68). Ông muốn nói là không có ai khác để mà theo cả. Đức Giêsu đòi hỏi một quyết định nơi các tông đồ. Và Người đã nhận được lời cam kết của thánh Phêrô. Một lời cam kết đã làm tiêu tan những nghi ngờ của các tông đồ khác.
Cũng vậy, tất cả những người đã quyết định theo Chúa qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức đều phải đương đầu với những thử thách về đức tin. Hằng ngày ta gặp nhiều cám dỗ để chối bỏ đức tin công giáo tông truyền. Ta gặp nhiều tiếng gọi dụ dỗ bảo ta điều gì phải tin, điều gì không cần tin, việc gì phải làm, việc gì không nên làm, điều gì cần phải được xét lại. Ta bị cám dỗ để giữ đạo theo xu hướng nhất thời, tuỳ theo hứng khởi: vui thì đi lễ thờ phượng, không thì ở nhà. Ta bị cám dỗ chỉ giữ đạo nếu Giáo hội thay đổi lập trường về một vài nguyên tắc luân lý nào đó, nếu Giáo hội chiều theo ước muốn của ta.
Ta bị cám dỗ chối bỏ đức tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh thể vì không hiểu sao bánh rượu sau khi linh mục đọc lời truyền phép vẫn giống bánh rượu trước khi truyền phép? Và đó chính là mầu nhiệm trong đạo mà loài người không thể dùng lí trí để giải thích và hiểu được. Nếu người ta có thể hiểu được mầu nhiệm trong đạo, thì cái được gọi là mầu nhiệm, không còn phải là mầu nhiệm nữa, mà chỉ là một triết thuyết hay một hệ thống khoa học. Vì thế mầu nhiệm vẫn mãi mãi là mầu nhiệm, nếu không thì đức tin không còn phải là đức tin nữa, mà chỉ là sự hiểu biết thôi. Tuy nhiên, nếu không hiểu, tại sao lại tin? Tin là chấp nhận dựa trên lời nói hay thế giá của người khác. Các tông đồ không hiểu, nhưng vẫn tin vì dựa trên lời nói của Thầy mình.
Khi cảm thấy khó chấp nhận về đường lối giáo huấn chính thức của Giáo hội, là phản ảnh của đường lối Phúc âm, về một vài vấn đề như tính dục, ly dị, phá thai..., đó là lúc mà câu hỏi Chúa đặt ra cho các tông đồ sẽ lại vọng lên bên tai ta: Còn con, con có muốn lìa bỏ Giáo hội mà Thầy đã thiết lập trên nền tảng các tông đồ không? Khi bất đồng ý kiến với Giáo hội về một số chính sách của Toà Thánh Vatican, đó là lúc mà một câu hỏi tương tự sẽ vọng lên bên tai ta: Còn con, con có muốn chấp nhận đường lối của Giáo hội mà Thầy thiết lập không? Khi thấy những gương xấu xẩy ra ngay trong hàng giáo sĩ, câu hỏi khác sẽ vọng lên: Còn con, con có muốn ở lại trong Giáo hội để cầu nguyện và xây dựng Giáo hội của Thầy không?
Khi phải đối chất với những lời giảng dậy chướng tai (Ga 6:60) trong đạo, hoặc giáo lí khó khăn của đạo thì người theo đạo nửa mùa, hoặc mạo nhận theo đạo, toan cắt nghĩa sao cho phiên phiến đi, để cho trở nên dễ dãi, hoặc thay đổi lẽ đạo sao cho phù hợp với ước muốn và quan niệm của họ cũng như của quần chúng. Thính giả trong Phúc âm hôm nay hiểu rõ lời Đức Giêsu giảng dạy, hiểu ý Người muốn nói gì nên mới cho là chướng tai đấy. Vậy mà Chúa cũng không cải chính về sự chướng tai đó đâu. Họ hiểu Chúa không nói đến việc ăn thịt và uống máu theo nghĩa tượng trưng thôi đâu. Khi cảm thấy Chúa mà mình tôn thờ, sao mà khó thế nếu so sánh với những chúa và thần của những đạo khác, đó là lúc mà câu hỏi giả sử của ông Giôsuê cũng vọng bên tai ta: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ (Js 24:15).
Phúc thay cho những gia đình, cộng đoàn giáo xứ và trong Giáo hội mà có được những người nói được những lời bất hủ để bầy tỏ đức tin quả quyết như Thánh Phêrô và ông Giôsuê hầu giúp củng cố đức tin của người khác trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ và trong cả Giáo hội.
Lời cầu nguyện xin cho được giữ vững niềm tin vào Bí tích Thánh Thể:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể.
Con xin cảm tạ Chúa đã lập Phép Thánh Thể
để làm của ăn uống thiêng liêng cho loài người.
Xin Chúa làm no thoả những đói khát của con
khi con lãnh nhận Mình Thánh Chúa
Và xin cho con giữ vững lời Chúa.
Đừng để con nghe theo lời quyến rũ rỉ tai
mà chối bỏ đức tin và xa lìa Chúa. Amen.
7. Mầu nhiệm Giêsu
(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu là một thực tại. Ngài hiện hữu như một sự kiện lịch sử. Ngài là người không dễ hiểu tuy dù người ta biết cha mẹ và dòng tộc Ngài. Ngài đã có những lời mà người đương thời không hiểu được, nhưng qua đó những người tin vào Ngài biết rằng Ngài có nguồn gốc thần linh: Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
I. Lời nói của Đức Giêsu khó hiểu
"Mình Ta là thật của ăn, máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, sẽ được sống đời đời". Làm sao chấp nhận được câu nói này, khi người ta biết Ngài từ nhỏ đã sống ở Nadarét, khi người ta biết cha mẹ Ngài là Yuse và Maria! Ngài không được học hành gì, không có gì trổi trang hơn người khác khi sống tại Nadarét. Không thể chấp nhận được lời nói này của Ngài, đó là chuyện thường tình. Kể cả một số môn đệ, những người đã từng thán phục lời giảng của Ngài trước đó, cũng không thể chấp nhận lời này: "lời chi sống sượng thế, ai nghe cho nổi". Họ đã bỏ đi, không muốn làm môn đệ của Ngài nữa.
Đức Giêsu nói với nhóm 12: cả các anh nữa, các anh có muốn bỏ đi không? Phêrô được một ơn riêng nên trả lời: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai. Thầy có lời ban sự sống đời đời. Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa". Để chấp nhận lời của Đức Giêsu về chính Ngài, con người phải có ơn đặc biệt từ trên, vì những gì Ngài nói vượt trên cái bình thường. Đức Giêsu cũng biết điều này: "Không ai đến được với Ta, trừ phi được Cha Ta ban ơn đó". Ngài cũng biết những gì Ngài nói không phải chuyện "thuộc hạ giới".
Những biểu lộ bên ngoài diễn tả điều gì sâu kín bên trong. Lời nói diễn tả nội tâm và bản tính mỗi người. Đức Giêsu không chỉ là một con người; qua lời Ngài, người ta nhận ra còn cái gì rất đặc biệt nơi Ngài. Làm sao lý giải những gì Đức Giêsu nói về chính Ngài, khi những lời này cho thấy như thể Ngài còn hơn là một con người? Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội, thế mà Ngài lại nói: "Tội con đã được tha" (Mc.2, 7); Abraham là ông tổ của cả dân Do Thái, thế mà Đức Giêsu lại nói: "trước khi có Abraham, Ta là Ta" (Ga.8, 58); Thiên Chúa là Đấng vượt trên tất cả, thế mà có lúc Đức Giêsu lại nói: "Ta và Cha Ta là một" (Ga.10, 30). Nếu không phải là người mất trí, thì ắt hẳn còn một điều gì đó mà người ta chưa hiểu về con người Đức Giêsu.
II. Đức Giêsu là một sự kiện khó lý giải
Biến cố Đức Giêsu phục sinh, giúp những người thân thiết với Đức Giêsu, cụ thể là các tông đồ, hiểu hơn về Đức Giêsu. Nếu Ngài thuộc loại gian dối, phạm thượng, thì Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài. Nếu Ngài được phục sinh, ắt hẳn những gì Ngài nói về Ngài phải là sự thật. Vậy Đức Giêsu là ai? Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa như thế nào? Đức Giêsu là một vấn đề cho con người thời đó, và cho cả con người thời nay nữa.
Với những người đơn thuần nghĩ Ngài là người phạm thượng, cái án tử hình dành cho Ngài thật là chính đáng. Nhưng biến cố phục sinh cho thấy cách nghĩ như vậy là không thỏa đáng và sai lầm. Vậy Ngài là ai? Các môn đệ thân tín, nhóm 12, có câu trả lời về người thầy thân yêu của họ. Ngài là tiên tri và còn hơn một tiên tri, Ngài là Đấng Kitô và còn hơn một Đấng Kitô, Ngài là con Thiên Chúa và còn hơn là con Thiên Chúa như những người công chính từng được gọi là con Thiên Chúa. Vậy Ngài là ai?
Tin Mừng Gioan diễn tả Ngài là Lời đã thành xác phàm (Ga.1, 14). Một số người diễn tả Ngài là con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt. Đức Giêsu cũng thắc mắc về điều người ta nói về Ngài: "người ta bảo Con Người là ai?" Đức Giêsu có vẻ hài lòng với câu trả lời của Phêrô: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Tuy nhiên, điều này cũng không rõ ràng lắm với con người ngày nay, vì có nhiều Đức Kitô, nghĩa là nhiều người được xức dầu, nhiều người là Đấng Thiên Sai, chẳng hạn Môsê, Đavít. Cũng có nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn các thiên thần, những người công chính, các vị vua. Công Đồng Chung Nicea sau này (năm 325) xác định, Ngài là con đồng bản tính với Thiên Chúa. Công Đồng Chung Chalcedoine xác định Ngài có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính con người, Ngài thực sự là người và thực sự là Thiên Chúa. Công Đồng Chung Epheso xác định Ngài là một ngôi vị Thiên Chúa trong hai bản tính. Dù thế nào chăng nữa, những tín điều về Đức Giêsu Kitô của Hội Thánh sau này, là để giúp các tín hữu hiểu đúng những mặc khải đã được tỏ lộ cho các tông đồ. Đức tin của Giáo Hội tựa trên nền tảng các tông đồ. Đức tin của các Kitô hữu, là đức tin tông truyền.
III. Mở lòng đón nhận sự kiện Giêsu Kitô
"Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời". Không thể hiểu lời này, vì xưa nay chưa có lương thực nào cho con người sự sống vĩnh cửu. Vậy làm sao có thể chấp nhận lời nói này! Hơn nữa, con người Giêsu cũng mong manh như bao người, vậy Giêsu lấy gì để bảo đảm cho lời nói của Ngài là đáng tin, là sự thật?
Đức Giêsu là một sự kiện, một biến cố, và là một mầu nhiệm. Những từ ngữ và lý giải, là để hiểu đúng và hiểu hơn về Đức Giêsu Kitô. Người ta chưa hiểu hết về Ngài, người ta đang cố gắng hiểu và diễn tả về Ngài. Có thể, mỗi một diễn tả giúp con người hiểu hơn về mầu nhiệm Giêsu; và có thể, cũng che khuất Ngài dưới một khía cạnh nào đó. Một điều đáng mừng là ngày nay người ta vẫn còn đang truy tìm về Đức Giêsu Kitô, người ta đang cố gắng diễn tả về Đức Giêsu Kitô với hy vọng giúp con người ngày nay hiểu và chấp nhận Đức Giêsu Kitô hơn. Tất cả những điều này cho thấy, Thánh Thần Thiên Chúa vẫn đang hoạt động nơi con người ngày hôm nay một cách rất sống động.
Xin cho con người ngày nay biết mở lòng và đón nhận mầu nhiệm Giêsu Kitô, và xin cho mầu nhiệm Giêsu Kitô soi sáng mầu nhiệm con người, giúp con người sống an bình và hạnh phúc trên đường trần gian này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có câu hỏi hoặc thao thức gì về Đức Giêsu?
2. Đức Giêsu có ảnh hưởng nhiều trên đời bạn không? Xin bạn cho biết điều đó.
8. Lòng trung thành
(Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
Chúng ta vẫn thường hay nghe nói người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Chính bản thân nhiều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống, đến những vấn đề quan trọng nhất, người ta đều có thể bất trung thất tín. Ví dụ: Ai cũng biết, hôn nhân là mối dây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp diễn. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả.
Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản bội, cũng bất trung không kém. Từ thuở bình minh của nhân loại, thế giới, theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài. Nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm hai ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó, mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.
Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường nếm đủ mùi vị của khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn..., đã làm cho dân của Chúa mất kiên nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron. Không dừng ở đó, họ còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc để giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu?... Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn..." (Ds 11, 12tt). Trong sa mạc, lòng dân quên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại, nhiều lần họ đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.
Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất trung của dân Người. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: "Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ các thần khác", và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi bậc lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoan dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba động từ: phản bội – nổi giận – tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.
Đó là bài đọc I trích trong sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của thánh Phêrô: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa". Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm, cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá... Chính những giờ phút quan trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quên mất lời tuyên xưng mới đó, tính cho đến thời điểm diễn ra cuộc thương khó của Thầy, chưa được bao lâu. Vì một chút sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!
Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Hội Thánh mời gọi ta suy niệm các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành trong ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một lòng khoan dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi vẫn có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không hy vọng nữa mà thôi. Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính mình đã đánh mất.
9. Lời Hằng Sống
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Sau khi ông Môisen qua đời, ông Joshua, con của ông Nun, lên kế vị dẫn dân Do-thái vượt qua sông Jordan vào miền Đất Hứa. Toàn dân và gia đình ông Joshua đến trước Thiên Chúa ở giữa công đường, ông Joshua gợi ý cho dân chọn lựa tôn thờ Thiên Chúa hay tôn thờ các thần dân ngoại:Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Jos 24, 15). Dân chúng và gia đình ông Joshua đã chọn Thiên Chúa làm phần gia nghiệp. Ông Joshua đã trở thành người lãnh đạo tín trung và can đảm dẫn đưa dân vào miền đất chảy sữa và mật như lời đã hứa.
Dân Do-thái đã chọn đi theo Chúa tiến vào miền Đất Hứa nhưng rồi chẳng được bao lâu, dân chúng quên lời đã thề hứa. Họ bỏ Chúa, chạy theo các thú vui trần thế, tôn thờ các tà thần và sống theo thói tục của dân ngoại. Chúa phạt tội lỗi của họ, nhưng rồi Chúa lại tha thứ. Lịch sử cứu độ cứ thế lập đi lập lại với hết dòng dõi này sang dòng dõi khác. Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn đợi chờ. Qua các thử thách, Thiên Chúa hé mở những mầu nhiệm cao siêu trong cuộc sống bình thường. Từ những biến cố xảy ra hằng ngày, Thiên Chúa lại mở thêm những cánh cửa để dẫn con dân đi tìm về nguồn yêu thương. Không có một sự cố nào xảy ra mà không ghi dấu ấn tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa. Con đường cứu độ là con đường tình yêu và tha thứ. Yêu thương là ban tặng và dâng hiến. Thiên Chúa trao cho nhân loại bánh hằng sống, chính là Con Một của Thiên Chúa.
Sau khi Chúa Giêsu đã mạc khải về bánh ban sư sống bởi trời là thịt và máu Chúa, có nhiều người khó chịu về giáo lý này. Họ nói rằng: Lời này chói tai qúa! Ai nghe được. Chúa Giêsu biết rõ lòng họ nhưng Chúa không rút lại lời đã nói. Chúa không ngại để họ được tự do ra đi. Ngay cả các tông đồ, Chúa đã hỏi: Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không? Phêrô thưa: Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Chúa không muốn mị dân để làm vừa lòng mọi người. Chúa cho chúng ta được tự do chọn lựa thái độ. Chúng ta không thể đi nước đôi theo kiểu bắt cá hai tay. Tông đồ Phêrô đại diện cho anh em tuyên xưng niềm tin một cách xác tín: Thầy mới có lời ban sự sống đời đời.
Thái độ của Chúa Giêsu khác biệt thái độ của nhiều nhà lãnh đạo. Các lãnh tụ thế gian muốn mình trở thành số một, có quyền hành và muốn được người khác phục vụ. Người cầm quyền dùng nhiều thủ đoạn tìm vinh quang và thu gom cho mình mọi thứ ở trần gian. Họ thường dùng những lời hứa suông vượt trên khả năng và quyền hạn của họ để bảo đảm sự an toàn cho người khác. Họ muốn giới hạn tự do và ngay cả quyền thiêng liêng của con người để phục vụ cho chính sách và đường lối chính trị của phe nhóm họ. Trái lại, Chúa Giêsu không tìm vinh quang cho chính mình. Ngài qui mọi vinh quang và danh dự về Chúa Cha.
Khi Chúa chữa lành cho người phung hủi. Chúa nói với anh: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết (Mc 1, 44). Chúa chối từ sự tôn vinh của người đời. Khi Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no nê, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã từ chối. Chúa Giêsu từ trời hạ sinh làm người, nhưng Chúa lại chọn con đường phục vụ từ dưới thấp đi lên. Chúa khiêm hạ trong phục vụ. Chúa cúi xuống rửa chân cho các tông đồ. Khi Chúa xua đuổi qủy ám ra khỏi người đàn ông Gerasene, ông ta muốn ở lại với Chúa: Nhưng Chúa không cho phép, Người bảo: "Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào (Mc 5, 19). Chúa mời gọi mọi người đi theo Chúa để được lãnh nhận ơn cứu độ, nhưng Chúa không ép buộc hay cưỡng bức. Chúa để họ được hoàn toàn tự do lựa chọn.
Chúa Giêsu là thủ lãnh, là chủ chiên tốt lành và là Chúa đầy lòng xót thương. Chúa đã thí mạng sống vì đàn chiên. Trong vườn Cây Dầu, trước lúc bị bắt trói và dẫn đi, Chúa đã yêu cầu quân lính cho các tông đồ được tự do.Đức Giêsu nói: "Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi (Ga 18, 8). Chúa còn có những sứ mệnh khác cho các tông đồ. Các Ngài sẽ nên nhân chứng cho sự đau khổ, sự chết và sự sống lại của Thầy. Chúa không hứa một cuộc sống sung túc, đầy đủ, an bình và hưởng lạc, nhưng là con đường thánh giá có nhiều chông gai. Chúa đáp lời môn đệ muốn đi theo: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu (Lc 9, 58).
Lời Chúa là thần trí và là sự sống. Tác giả thơ Do-thái đã viết: Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử (Dt 1, 1-2). Qua Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta về tình yêu của ơn cứu độ. Lời của Chúa Giêsu là lời hằng sống. Lời Chúa có uy quyền tác động biến đổi và có hiệu qủa ngay: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy (Ga 6, 56). Chúa Giêsu đã từng chữa lành các bệnh nhân qua lời của Ngài.Người bảo anh bại tay: "Anh giơ tay ra! " Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường (Mc 3, 5). Khi Chúa Giêsu đang ngủ trên tàu gặp sóng gió:Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: "Im đi! Câm đi! " Gió liền tắt, và biển lặng như tờ (Mc 4, 39). Thánh Phêrô chỉ cho chúng tabiết rằng Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô đã khuyên dạy chúng ta: Anh em hay phục tùng nhau trong sự kính sợ Thiên Chúa (Eph 5, 21). Phaolô dùng hình ảnh của Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội để nói về việc vợ chồng phục tùng lẫn nhau trong đời sống hôn nhân gia đình:Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy (Eph 5, 25). Giáo Hội luôn gắn kết với Chúa Kitô là đầu. Lời Chúa là kim chỉ nam và là nguồn sống của Giáo Hội. Thánh Kinh và Thánh Truyền là hai nguồn bảo chứng giúp Giáo Hội tồn tại.Giáo Hội tin tưởng vào quyền năng thánh hóa qua lời hằng sống:Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống (Eph 5, 26).
Chúng ta lắng nghe, học hiểu, nhận biết và thực hành lời Chúa. Lời Chúa là lời quyền năng giúp chúng ta biến đổi nội tâm. Chúng ta cần học hỏi để có những kiến thức về đạo, nhưng điều quan trọng là tri và hành. Giống như chúng ta cầm được tấm bản đồ, chúng ta học biết các vị thế và nơi chốn nhưng chúng ta chỉ ngồi một chỗ thì sẽ chẳng bao giờ tới nơi. Lời của Chúa Giêsu mở cửa tâm hồn dẫn chúng ta đến hạnh phúc. Thực thi lời Chúa là chúng ta đang đi trên con đường chính thật. Chúng ta không thể đốt giai đoạn, mà hãy suy niệm và sống lời Chúa trong từng giây phút và qua từng cách ăn nết ở trong cuộc sống hằng ngày. Dấu chỉ của người môn đệ của Chúa là:Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau (Ga 13, 35).
Lạy Chúa, bỏ Chúa, chúng con biết theo ai. Chỉ có Chúa là Đấng Cứu Độ và là nguồn an lạc cho đời chúng con. Chúng con xin chọn Chúa làm gia nghiệp và là nơi chúng con nương náu ẩn thân. Chúng con xin chúc tụng và ngợi khen danh Chúa đến muôn ngàn đời.
10. Chọn Chúa là gia nghiệp đời tôi
Cuộc đời con người là một chuỗi dài những sự chọn lựa. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không có quyền lựa chọn, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Nếu chọn đúng, thì đời mình sẽ tốt đẹp và hạnh phúc, còn nếu chọn sai thi đời sẽ bất hạnh. Sống là phải lựa chọn luôn. Đời là vậy. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn.
Trong bài đọc I hôm nay, chúng ta nghe ông Giôsuê triệu tập toàn thể dân chúng lại, truyền cho họ đứng trước nhan Chúa, rồi ông nói với họ: "Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần?". Dân Do Thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã cứu họ thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Mặc dù họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại phụng thờ Ngài. Toàn dân đã biết hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đã đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài. Họ thưa với Giôsuê: "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi". Đó là một sự lựa chọn của dân Do Thái quyết tâm theo Chúa Giavê.
Trong Bài Phúc âm hôm nay kể lại việc sau khi dân chúng được ăn no nê, họ được Chúa giảng về Bánh Hằng Sống và lương thực bởi trời; Ngài tự xưng mình là Bánh Hằng Sống và quả quyết với họ rằng: "ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". Đứng trước lời mời gọi này có những kết quả chọn lựa khác nhau, có nhiều người chọn giải pháp không đi theo Ngài nữa và cũng nhóm những tâm hồn thành tâm thiện chí chọn đi theo Chúa Giêsu. Nhiều người cho rằng "lời gì mà nghe chói tai quá" và họ quyết định không đi theo.
Vì thế, sau khi họ bỏ Chúa Giêsu ra đi, Ngài quay lại hỏi các Tông Đồ: "Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy ra đi không?" Thánh Phêrô đại diện các Tông Đồ thưa với Chúa rằng: "Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời". Đó là sự chọn lựa của Phêrô. Như thế, dân Do Thái chọn bỏ Chúa còn Phêrô thì chọn theo Chúa Giêsu, chọn Chúa Giêsu là gia nghiệp đời mình.
Là người Công Giáo, khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, chúng ta quyết định chọn Chúa và đi theo Chúa, chúng ta tôn nhận Chúa là Thiên Chúa và chỉ tôn thờ, phụng sự, yêu mến duy một mình Người. Đó chỉ là sự chọn lựa của đức tin. Tuy nhiên, trong cuộc sống của mình, chúng ta đứng trước nhiều cơ hội để chọn lựa hơn nữa, để sống và làm chứng cho đức tin. Chúng ta hãy triệt để thi hành những điều phù hợp với ý Chúa, đó là cách chọn lựa thích hợp nhất theo bản vẽ mà Chúa đã thiết kế cho đời chúng ta. Vì thế, chọn sống theo ý Chúa và thực hành theo đức tin là một việc làm liên tục, thường xuyên cho đến chết. Đó là một đòi hỏi của đức tin.
Vì thế, đức tin này là một con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một con đường dài mà ta sẽ phải đi suốt cuộc đời. Con Đường đức tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ, ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ Chúa, được Chúa an ủi, mọi sự diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải trải qua những quãng đường gian nan đầy sóng gió không còn êm trôi. Có khi ta gặp khó khăn thử thách, gặp đau khổ, thất bại. Đôi khi chúng ta không tìm đâu ra lối thoát như chìm trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh sáng nào soi đường dẫn lối. Lúc đó, chúng ta sẽ cảm thấy mệt mỏi chán chường, muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác, bị cám dỗ tìm con đường dễ dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn. Đó là trường hợp của những người Do Thái và một số môn đệ hôm nay.
Thật thế, Khi Đức Giêsu hóa bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi và mừng vui. Họ tin Người chính là Đấng Cứu thế đến cứu dân tộc Do Thái. Thế nhưng khi Đức Giêsu tuyên bố: "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời", khi nghe nói như thế thì đám đông và một số môn đệ bỏ Chúa mà đi. Đức tin tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước, nay đã tan biến. Đức tin gặp thử thách và họ không thể vượt qua. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín.
Đức tin phải trải qua thử thách. Chỉ có những người bạn trung thành qua những khó khăn mới là những người bạn đích thực. Chỉ có niềm tin kiên vững bất chấp mọi thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Giữa cơn khủng hoảng ấy, thánh Phêrô đã đại diện nhóm 12 tuyên xưng niềm tin sắt đá vào Đức Kitô. Dù chưa hiểu những điều Đức Giêsu nói, nhưng các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào Người. Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều và sau khi chứng kiến Người đi trên mặt nước, các môn đệ có cơ sở để đặt niềm tin nơi Người. Lời tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có giá trị trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng. Nhưng vẫn gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách.
Hành trình đức tin và sự chọn lựa của chúng ta chắc chắn sẽ không khác của các tông đồ. Có những lúc thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt. Khi đó Lời Chúa êm ái ngọt ngào. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng. Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa, chúng ta dễ dàng chọn Chúa. Nhưng rồi tới những ngày tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy lời Chúa làm cho ta mất bình an. Lời Chúa đánh vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Phúc âm hôm nay, không còn muốn chọn Chúa nữa. Vì thế, trong những giờ phút gặp gian nan thử thách như thế, ta hãy nhớ đến lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên xưng trong đau đớn thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Sự trung tín vượt qua được những cơn khủng hoảng mới minh chứng một tình yêu chân thực. Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh dạn thưa với Chúa như thánh Phêrô: "Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời". Đó là cách chọn lựa phù hợp ý Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khôn ngoan và sáng suốt để biết chọn Chúa là gia nghiệp đời mình. Cho dù chọn Chúa thì chúng con phải can đảm sống đức tin, biết theo Chúa, phụng sự Chúa suốt cuộc đời con. Tuy nhiên, đó là cách chọn lựa bảo đảm sự sống đời đời cho chúng con. Xin cho chúng con biết đáp trả bước đi theo Chúa suốt cuộc đời chúng con. Amen.
11. Lội ngược dòng
(Lm. Phêrô Hồng Phúc)
"Đối với loài người thì không có thể,
nhưng đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể".
Chúa Giêsu đã đưa ra mô hình sau để chúng ta kiểm nghiệm: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa.
Chúa Giêsu không lên án những người giàu, bởi vì giàu có hay nghèo khó đều là của cải Chúa ban trên mặt đất này. Bản thân của cải chưa nói lên điều gì, sở hữu của cải cũng chưa phải là tội hay là phúc. Điều quan trọng, người ta dùng của cải để giúp đỡ anh em hay là họ ham mê của cải đến mức độ tích trữ, thậm chí tìm mọi cách tham lam mưu mô để chiếm đoạt của cải của người khác. Tội hay phúc từ đó mới phát sinh.
Những người mà lòng tham vô đáy, tìm mọi mưu mô và chiếm đoạt của mọi người, để làm giàu cho mình dù là họ không đạt được ý nguyện, có khi trong tay cũng chẳng có tiền của nữa nhưng lòng tham vẫn là lòng tham, giàu có vẫn là giàu có. Những hạng như vậy: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn những người giàu có kiểu đó mà vào được Nước Trời.
Có những người của cải Chúa ban có thể họ được rất nhiều nhưng họ có cơ hội để giúp đỡ anh em, chị em, hoặc là những công việc từ thiện, những công việc truyền giáo, họ có rất nhiều tiền của mà họ vẫn là những người có tinh thần nghèo khó.
Như vậy Chúa Giêsu đề cao tinh thần nghèo khó và Chúa kết án lòng tham vô độ của con người khi chỉ muốn hưởng thụ và đam mê đời này. Một kiểm nghiệm trên để cho chúng ta thấy rằng tiền của hay thế giới vật chất chưa phải là điểm đến của chúng ta, lời mời gọi mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta cao hơn, xa hơn và vì thế khi Phêrô hỏi Chúa Giêsu: "Chúng con đã bỏ mọi sự mà đi theo Thầy, chúng con được gì". Đức Giêsu không ngần ngại cho chúng ta thấy một hoa trái thật là lớn lao: "Thầy nói thật với các con: không ai đã bỏ cha mẹ vợ con ruộng nương vì Thầy, vì Phúc âm mà không được gấp trăm ngay ở đời này và ngày sau được ngự trên tòa xét xử mười hai chi tộc Israel"(Mt 19,29); Khi Giacôbê và Gioan xin được ngồi bên tả bên hữu trong Nước Thầy, Chúa Giêsu từ chối. Thế nhưng hôm nay Chúa Giêsu lại hứa cho tất cả những ai từ bỏ mọi sự mà theo Chúa sẽ được ngồi trên tòa xét xử mười hai chi tộc Israel, tức là ở nơi vinh dự cao sang, nhưng đó là vinh dự cao sang của Nước Trời, mặc dầu thế, ngay ở đời này họ cũng được gấp trăm. Chúa không nói ai bỏ ra một nghìn đồng Chúa sẽ cho một trăm nghìn đồng, ai bỏ ra một triệu đồng Chúa sẽ cho trăm triệu đồng. Nhưng Chúa nói gấp trăm về nhiều phương diện: sự bình an, niềm vui, hạnh phúc... Họ là những người được chúc phúc ngay ở đời này, họ cảm thấy về ý nghĩa đời sống, về sự may lành, về những gì mà Thiên Chúa gìn giữ yêu thương quan phòng dẫn dắt họ, nghĩa là họ đi trong ánh sáng, trong niềm vui, những điều đó gấp trăm gấp nghìn lần những gì mà của cải hứa hẹn hưởng thụ trong mệt mỏi, trong rã rời, trong âu lo thậm chí trong chán nản và thất vọng.
Hôm nay, với mô hình Chúa đưa ra để cho chúng ta lựa chọn và rõ ràng là có những người đã lựa chọn sai cho nên có những kẻ trước hết danh vọng, chức quyền, của cải ngất trời ở đời này thì lại lên sau hết. Còn có những người đã dám hy sinh từ bỏ đến cả mạng sống của mình, từ bỏ của cải, từ bỏ đam mê, từ bỏ hưởng thụ, họ là những người nghèo khó, thậm chí là những người hành khất, họ nên giống Chúa Giêsu lang thang nhưng họ sẽ là những người ở đời này là bé mọn là rốt hết sẽ lên trước nhất.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đưa ra mô hình mà chúng con thấy khó thực hiện quá!
Tất cả đều là đảo ngược so với những suy nghĩ,
những bước đi tự nhiên của chúng con.
Nhưng chúng con đã thấy các thánh là những người thực hiện
theo những bước đi lội ngược dòng mà Chúa đề ra.
Các thánh đã đạt tới đỉnh điểm của hạnh phúc,
Các thánh đã đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của Nước Trời.
Xin cho chúng con ngày hôm nay dám từ bỏ,
dám lội ngược dòng để chúng con là những người rốt hết,
sẽ được nên những người trước nhất trong ngày sau hết.
Xin đừng để chúng con leo lên bậc trước nhất
để rồi ngày sau hết ngã xuống bậc rốt hết.
Chúa gọi chúng con đi ngược dòng
chính là trở về với cội nguồn ơn cứu độ.
Xin Chúa ban ơn để chúng con đạt tới ơn cứu độ đời đời. Amen.
12. Thách đố lớn nhất
(Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
Trên bước đường theo Chúa, các môn đệ gặp rất nhiều thách đố từ ngoại cảnh hay nội tâm. Có bao giờ họ có thể tưởng tượng chính Chúa lại trở thành thách đố lớn nhất? Thế mà hôm nay, khi lên tiếng đòi hỏi một niềm tin lớn lao về quyền năng Thiên Chúa, chính bản thân Đức Giêsu đã trở thành một vấn đề khó vượt nhất, vấn đề có tính cách quyết định cho cả định mệnh con người, vì liên quan tới chính sự sống nhân loại.
Nguồn sống
Trước bao nhiêu đe dọa mạng sống, con người cảm thấy bất lực. Những sản phẩm tử thần phơi bày nhan nhản khắp nơi. Trươc tình cảnh ấy, Đức Giêsu xuất hiện như một nguồn sống: "Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời." (Ga 6:54a) Lời đề nghị vô cùng lạ lùng, chưa từng nghe thấy bao giờ. "Nghe vậy nhiều môn đệ của Người liền nói: 'Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" (Ga 6:60) Người trở thành đối tượng của lời xầm xì. Kết quả nhiều môn đệ đã theo Người lâu năm, cũng đành giũ áo ra đi (x. Ga 6:66). Tưởng việc ra đi đó sẽ khiến Người đổi thái độ. Nhưng không, Người vẫn không hề nao núng, dù chỉ còn ít người ở lại: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" (Ga 6:67) Thật là căng thẳng! Thật là một thách đố lớn!
Trước sự im lặng đến ngộp thở, ông Phêrô lên tiếng: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa." (Ga 6: 68-69) Chính Chúa Cha đã mạc khải tất cả sự thật về Chúa Con. Thật vậy, "Không ai đến được với Thầy, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho." (Ga 6:65) Bởi đó, niềm tin là một ân sủng vô cùng cao quí. Đến với Đức Giêsu tưởng như một hành vi đơn giản. Thực tế phải có một sức mạnh nội tại phát xuất từ Thiên Chúa, chúng ta mới có thể tin vào Lời Chúa và sự hiện diện đích thực của Chúa nơi con người Đức Giêsu và nhất là trong bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu hiện diện thật trong bí tích Thánh Thể. Nhưng sự hiện diện đó vẫn khác với sự hiện diện trong thân xác tại thế của Đức Giêsu. Nói khác, "thịt và máu" chỉ hiện diện một cách bí tích trong "bánh hằng sống". Đây là một sự hiện diện sâu xa và đích thực. Bên ngoài chỉ là một tấm bánh hay một chén rượu. Nhưng dấu chỉ bên ngoài đó nói lên sự thật lớn lao bên trong. Đức Giêsu trở thành của ăn thức uống nuôi sống muôn dân khỏi cơn đói khát thiêng liêng. Bởi đó lấy sự hiểu biết bình thường để đo thực tại Thiên Chúa, con người sẽ bất lực. Trái lại phải có sức mạnh Thần khí mới có thể hiểu nổi Lời Chúa. Thực vậy, "Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống." (Ga 6:63) Bản chất Lời Chúa là thần khí mà lại lấy con mắt xác thịt để nhìn, thật là không cân xứng. Xác thịt chỉ dẫn đến xác thịt, hoàn toàn bất lực trước những đòi hỏi của Thần khí. "Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống." (2 Cr 3:6)
Những người còn ở lại với Chúa vì đã chấp nhận Lời Chúa và tin vào sự hiện diện đích thực của Người trong "bánh hằng sống". Họ đã hiểu Lời Chúa dưới lăng kính Thần khí. "Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô." (Rm 8:9) Đó là lý do tại sao "nhiều môn đệ rút lui" (Ga 6:66) và nhiều người "lấy làm chướng" và "xầm xì về vấn đề ấy." (Ga 6:61) Thần Khí sẽ làm im bặt mọi tiếng xầm xì và nghi hoặc, vì Người chính là sức mạnh của Chúa Cha kéo ta lại gần Đức Kitô. Thần Khí không pha chút vẩn đục mới thấy hết được chiều sâu Lời Chúa. Xác thịt không có độ trong suốt đó để thấy tất cả sự thật. Thách đố chính là cuộc đối đầu giữa Thần Khí và xác thịt. Người môn đệ Đức Giêsu luôn bị đặt trước sự lựa chọn.
Ngày xưa, dân Do thái cũng đứng trước lựa chọn lớn lao đó. Ông Giôsuê đã lên tiếng trước toàn dân: "Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ... Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa." (Gs 24:15) Giữa bao nhiêu cám dỗ, dân Do thái đã có lúc nghiêng ngả. Đã đến lúc họ phải dứt khoát. Oâng Giôsuê "đã cho họ một cơ hội để canh tân giao ước Sinai (Xh 19-24)" (Faley 1994:557) Họ đã nhớ lại tất cả sự nghiệp hiển hách Chúa đã làm trên đường về Đất Hứa. Tất cả đều lặp lại lời tuyên xưng đức tin như ông Giôsuê: "Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi." (Gs 24:18b) Tất cả lịch sử Do thái đều xây trên lời tuyên tín này. Như vậy ông Giôsuê đã chinh phục được toàn dân về cho Chúa. Nhưng suốt lịch sử không phải lúc nào niềm tin cũng trong sáng như vậy. Cuộc thách đố không bao giờ chỉ đến một lần. Trái lại, cuộc phấn đấu dai dẳng suốt bốn mươi năm trên sa mạc là cuộc phấn đấu với niềm tin.
Những sự kiện trái ngược
Các môn đệ Đức Giêsu còn phải phấn đấu cam go hơn nữa khi Đức Giêsu đòi hỏi phải tin "ai ăn thịt tôi và uống máu tôi..." (Ga 6:54) Ngày xưa, sau khi Người công bố về bánh hằng sống, "nhiều môn đệ rút lui." (Ga 6:66) Đức Giêsu đã dám đánh đổi cả sự nghiệp lấy niềm tin đó. Giả sử lúc đó Chúa cũng chiều theo thị hiếu quần chúng, thử hỏi hôm nay Người còn độ hấp dẫn không?
Chính vì niềm xác tín lớn lao đó, ngày nay Giáo hội vẫn còn là điểm thu hút giới trẻ về với Đức Giêsu. Bằng chứng gần 3 triệu bạn trẻ khắp thế giới đã tề tựu về Roma trong ngày Quốc Tế Giới Trẻ từ ngày 15 đến 20 tháng 8 năm 2000 để lắng nghe Lời Chúa và tìm kiếm Đức Giêsu. Một biến cố lớn lao vượt ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Các bạn trẻ đã tuốn về Roma với niềm phấn khởi hân hoan. Họ đã đi bộ hằng chục cây số để vác tượng thánh giá theo gót Đức Giêsu. Họ đã quì gối giữa phố xá để cùng đọc kinh Truyền tin lúc 12 giờ trưa giữa những tiếng chuông nhịp nhàng nơi kinh thành ánh sáng đó. Để chuẩn bị cho ngày Đại Hội, hằng chục ngàn bạn trẻ đã phải làm việc mệt nhọc hằng tháng hay hằng năm trước. Các bạn trẻ hoàn toàn thoải mái vì được ăn uống ngủ nghỉ hoàn toàn miễn phí. Đại hội đã chuẩn bị 9 triệu bữa ăn cho các bạn trẻ. Có đủ dịch vụ y tế và vệ sinh đáp ứng nhu cầu của các bạn. Các nhà dân chúng ở Roma đã mở rộng cửa đón tiếp các bạn. Cả Đức Giáo Hoàng cũng đón tiếp 15 bạn trẻ vào ở chung với Người. Nhiều bạn trẻ thuộc thế giới thứ ba đã được bao vé máy bay về Roma. Các ân nhân đã đóng góp 3.5 triệu đô la giúp đỡ các bạn trẻ. Thật là một ngày vui lớn có tầm mức quốc tế. Niềm vui có thể đo lường được bằng những màn hội diễn văn nghệ, nhảy múa, ca hát. Tất cả đều tìm thấy nhau trong niềm vui hòa hợp với nhau và nhất là với Thiên Chúa. Có khoảng 2.000 linh mục sẵn sàng đáp ứng nhu cầu hòa giải nơi 300 tòa cáo giải ngay tại quảng trường Colossê.
Cũng trên chính quảng trường đó, trước đó hơn một tháng, nghĩa là ngày 8 tháng 7 năm 2000, một cảnh tượng trái ngược đã diễn ra. Cũng một Đại Hội Giới Trẻ. Cũng vào đầu thế kỷ 21. Những chuẩn bị cũng rất công phu. Ước vọng cũng rất lớn. Người ta hi vọng một triệu người trẻ đồng tính luyến ái sẽ qui tụ về Roma để biểu tình phản đối Tòa Thánh Vatican. Kết quả sau những ngày kêu gọi ầm ĩ và chuẩn bị rầm rộ, chỉ non 7000 bạn trẻ tham dự. Còn đâu hứa hẹn tự do đáp ứng mọi nhu cầu ăn chơi của tuổi trẻ bằng thế giới những người đồng tính luyến ái? Các bạn trẻ không nghe thấy tiếng kêu gào của những người tổ chức hay sao? Trong khi đó, một tiếng kêu gọi của một cụ già 80 tuổi đã được các bạn trẻ đón nhận nồng nhiệt. Gần 3 triệu bạn trẻ nghe tiếng nói của lẽ phải. Chưa tới 7000 nghe theo những hò hét điên cuồng. Nguyên con số cũng cho thấy thất vọng về tuổi trẻ là một sai lầm. Tuổi trẻ là niềm hi vọng lớn lao!!!
13. Lời ban sự sống.
('Manna')
Chẳng nên ngạc nhiên nếu có lúc đức tin gặp khủng hoảng.
Cả lịch sử Cựu Ước đong đưa giữa tin và không tin.
Khi Đức Giêsu đến, người ta phải đứng trước một lựa chọn: tin hay không tin vào Lời Ngài, vào con người Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một kinh nghiệm về khủng hoảng đức tin nơi chính các môn đệ. Kinh nghiệm ấy thật gần gũi với con người hôm nay.
Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?
Đó là phản ứng của các môn đệ ngày xưa khi nghe Thầy Giêsu vén mở căn tính của Thầy. Thầy khẳng định mình từ trời mà xuống (Ga 6,38), và Thầy sẽ trở lại nơi Thầy đã ở trước kia (c.62), sau khi hiến mình chịu chết cho nhân loại (c.51) và nuôi nhân loại bằng chính máu thịt mình (c.53).
Hôm nay chúng ta vẫn có thể thấy chúng chướng tai. Mầu nhiệm Nhập thể, mầu nhiệm Tử nạn của Con Thiên Chúa, bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm Chúa về trời: đó vẫn là và mãi mãi là những mầu nhiệm khôn dò.
Phải yêu mến mới hiểu được, mới chấp nhận được.
Hôm nay vẫn có câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng, vì chướng tai, chướng cả với suy nghĩ và tình cảm của ta. Lời Chúa đòi tôi đi xa hơn và bắt tôi điều chỉnh lại mối tương quan đã có với Chúa.
Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Ngài nữa. Họ đã đi với Ngài một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng cuộc phiêu lưu này.
Trở nên môn đệ hay trở nên một Kitô hữu không phải là một bảo đảm chắc chắn mình sẽ trung tín mãi mãi với Đức Kitô.
Trở nên môn đệ là bước vào cuộc phiêu lưu, là khám phá ra một Đức Kitô luôn luôn mới, là để Ngài từ từ đưa ta đi sâu vào mầu nhiệm hơn.
Cuộc phiêu lưu nào cũng có chút rủi ro, cũng đòi chút liều lĩnh, vì đây là cuộc phiêu lưu của tình yêu, của lòng tin.
Đã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại cũng có kẻ phản bội. Để khỏi bỏ cuộc, cần bỏ mình...
Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?
Đại diện Nhóm Mười Hai, Phêrô bày tỏ thái độ ở lại. Không phải vì ông và các bạn hiểu được lời Thầy Giêsu, nhưng vì họ tin vào con người của Thầy, tin Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng đã cho dân ăn no nê, Đấng đã đi trên biển. Lòng tin này khiến họ chấp nhận cả những lời chướng tai.
Lời chướng tai là lời đem lại sự sống đời đời.
Nhiều bạn trẻ hôm nay cô đơn, nhưng không biết đến với ai. Hãy cùng nhau đến với và ở lại bên Thầy Giêsu, Ngài sẽ không làm chúng ta thất vọng.
Gợi Ý Chia Sẻ
"Giới trẻ hôm nay khó tin vào Thiên Chúa, vào Đức Kitô, vào tương lai tươi sáng, vào tình bạn bền lâu, vào tình yêu chung thủy..." Bạn nghĩ gì về nhận xét này? Nhận xét này có đúng cho giới trẻ ở Việt Nam không?
Ở một số nước phương Tây, đang rộ lên cả ngàn giáo phái. Người trẻ bị mê hoặc đến độ cuồng tín bởi các vị tự xưng là giáo chủ. Bạn nghĩ gì về hiện tượng này? Đâu là nguyên nhân và cách giải quyết?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa. Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa. Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái. Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
14. Hành trình đức tin
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đức tin là một con đường: con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một con đường dài. Vì ta sẽ phải đi suốt cuộc đời mới hết. Đường đức tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ và tiếng chim hót véo von. Đó là những khi niềm tin dâng đầy. Ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ Chúa, được Chúa an ủi, mọi sự diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải trải qua những quãng đường gian nan đầy chông gai sỏi đá. Ta gặp khó khăn thử thách. Ta gặp đau khổ thất bại. Ta không tìm đâu ra lối thoát. Ta như chìm trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh sáng nào soi đường dẫn lối. Đó là khi niềm tin bị thử thách, bị nghiêng ngả chao đảo. Ta cảm thấy mệt mỏi chán chường. Ta muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác. Ta bị cám dỗ tìm con đường dễ dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn.
Đó là trường hợp của những người Do Thái và một số môn đệ hôm nay.
Khi Đức Giêsu hoá bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi mừng vui. Họ tin tuyệt đối rằng Người chính là Đấng Cứu Thế đến cứu dân tộc Do Thái. Niềm tin của họ mạnh mẽ đến nỗi khi Đức Giêsu trốn đi, họ vẫn đuổi theo sát nút với ý định tôn Người lên làm vua cai trị họ.
Thế mà hôm nay, khi Đức Giêsu tuyên bố: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời", đám đông đã bỏ Chúa. Một số môn đệ cũng bỏ Chúa mà đi. Đức tin bồng bột tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước nay đã tan tành như mây khói. Sự gắn bó tưởng chừng như không gì chia cắt nổi bỗng trở nên nhạt nhẽo lạnh lùng. Đức tin gặp thử thách và họ đã không đủ mạnh tin để vượt qua thử thách. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín. Người không vì thế mà nói những lời nhẹ nhàng hơn. Đức tin phải trải qua thử thách. Lửa thử vàng, gian nan thử lòng trung tín. Chỉ có những người bạn trung thành qua những khó khăn mới là những người bạn đích thực. Chỉ có niềm tin kiên vững bất chấp mọi thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa.
Giữa cơn khủng hoảng ấy, thánh Phêrô đã đại diện nhóm 12 tuyên xưng niềm tin sắt đá vào Đức Kitô. Dù chưa hiểu những điều Đức Giêsu nói, nhưng các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào Người. Thế mới gọi là tin. Vì chưa thấy nên mới cần tin. Đã thấy rõ, đã biết rõ thì đâu cần tin nữa. Tuy nhiên niềm tin không phải là cái gì vô lý. Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều và sau khi chứng kiến Người đi trên mặt nuớc, các ông hoàn toàn có cơ sở để đặt niềm tin nơi Người. Đó là hai khía cạnh trái ngược của niềm tin. Tin là một ngọn đèn soi cho ta bước đi trong đêm tối. Ngọn đèn chỉ sáng đủ cho ta bước đi từng bước nhỏ trong niềm tin. Nhưng màn đêm vẫn tăm tối đủ cho ta nghi ngại. Chính vì thế mà niềm tin mới có giá trị và cần thiết.
Lời tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có giá trị trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng. Nhưng vẫn tin tưởng gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách đó mới thật sự là niềm tin chân chính.
Hành trình đức tin của chúng ta chắc chắn sẽ không khác hành trình đức tin của các Tông đồ. Có những thời gian thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt. Khi ấy Lời Chúa là những lời êm ái ngọt ngào làm phấn chấn lòng ta. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng. Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa.
Nhưng rồi tới những ngày u ám tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy Lời Chúa làm cho cuộc đời ta mất bình an. Lời Chúa gõ vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta. Lời Chúa gõ vào sức khoẻ ta. Lời Chúa gõ vào gia sản ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Tin Mừng hôm nay.
Trong những giờ phút gặp gian nan thử thách như thế, ta hãy nhớ đên những lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên xưng trong đau đớn thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Sự trung tín vượt qua được những cơn khủng hoảng mới minh chứng một tình yêu chân thực.
Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh dạn thưa với Chúa như thánh Phêrô: "Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời". Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đã có khi nào bạn cảm thấy niềm tin chao đảo, lung lay? Bạn đã làm gì để vượt qua những giờ phút khó khăn đó?
2- Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Bạn có xác tín điều đó không?
3- Sau khi những khó khăn qua đi, bạn nhìn thấy tất cả đều là ơn Chúa. Bạn có kinh nghiệm đó không?
15. Trung thành theo Chúa.
('Niềm Vui Chia Sẻ')
Cha Maurice Zundel đã kể một câu chuyện: Trong căn phòng chỉ còn lại hai người: linh mục phụ trách tu viện và viên sĩ quan Xô Viết. Viên sĩ quan nói: Hiện giờ chỉ có hai chúng ta. Ông và tôi, không một ai chứng kiến. Vậy ông hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả. Hãy nói cho tôi biết là ông không tin vào tất cả những chuyện về Chúa, Mẹ, trong tôn giáo mà ông vẫn tuyên xưng phải không?
Linh mục đáp: Có, tôi tin chứ!
Viên sĩ quan buông súng xuống, ôm chầm lấy người linh mục. Ông reo lên: Quả thật, đây là điều tôi trông đợi. Đây là người tìm kiếm. Vâng, thưa cha, bây giờ thì tôi cũng thế: Tôi tin Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Có lẽ vị linh mục trong tu viện đó đã từng xác định sự chọn lựa đi theo Chúa của mình, nên cha mới có được một phản ứng dứt khoát, kiên trung, điềm nhiên đến như thế. Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta xác định lại sự chọn lựa của chúng ta.
Bài đọc 1 đã cho ta thấy, bốn mươi năm về trước, dân Do Thái đã cam kết chọn Thiên Chúa trong Giao Ước tại núi Sinai. Nhưng hôm nay họ đã đặt chân và Đất Hứa, nhưng năm tháng rong ruổi trong sa mạc đã qua, những ngày tháng đói khát thiếu thốn đã chấm dứt, và từ nay họ bắt đầu cuộc sống định cư, đất đai phì nhiêu, cuộc sống thoải mái. Trước hoàn cảnh mới này, niềm tin của họ có còn mạnh mẽ sốt sắng như xưa hay đã sớm bỏ quên Chúa để chạy theo các thần địa phương. Ông Giôsê, mà cả toàn dân đã nói lên sự chọn lựa dứt khoát: "Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác".
Khi Chúa Giêsu làm phép lạ bánh hoá nhiều, dân chúng theo Chúa rất đông. Nhưng từ phép lạ ấy, Chúa dẫn họ đến lương thực hằng sống: "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời". Nhưng họ cho rằng "lời này chói tai quá, ai mà nghe được". Nên từ lúc đó, có nhiều người rút lui không còn theo Chúa nữa. Bấy giờ Chúa đặt thẳng vấn đề với nhóm Mười Hai: "Cả anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?". Nhưng Phêrô đã đại diện các Tông Đồ xác định sự chọn lựa của mình: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh".
Thưa anh chị em,
Sống trong một thế giới đổi thay không ngừng, con người dễ bị lôi kéo vào thái độ thay lòng đổi dạ. Ngày nay con người gặp nhiều thứ khủng hoảng, trong đó khủng hoảng về lòng trung thành là một vấn đề quan trọng. Các hợp đồng kinh tế bị vi phạm, giao ước hôn nhân bị đổ vỡ, tình bạn bị phản bội. Ngay cả các Kitô hữu nhiều lúc cũng bị cám dỗ bỏ Chúa hoặc không sống đúng ơn gọi của mình, nhất là khi đứng trước một biến cố hay một hoàn cảnh; một thử thách hay một cám dỗ; một nỗi buồn hay một niềm vui... Xã hội Việt Nam hôm nay đổi thay từng ngày, và sự đổi thay nhanh chóng ấy đang tác động mạnh trên đời sống đức tin của các Kitô hữu. Ảnh hưởng tích cực có, mà tiêu cực cũng nhiều. Khá nhiều Kitô hữu trước kia là những người đạo đức, nhưng nay không còn đứng vững trước sức tấn công của nền kinh tế thị trường, của tiền bạc, lạc thú, công việc kinh doanh. Có những người đang từ nghèo thành giàu mà quên Chúa. Và ngược lại, một số khác đang từ giàu thành nghèo cũng bỏ Chúa. Nhiều người không còn muốn bước theo Chúa vì không thể chấp nhận được những nỗi ô nhục của thập giá trong đời mình. Cũng như những người không còn muốn trung thành với giáo huấn của Hội Thánh vì "lời này chói tai quá, ai mà nghe cho nổi?" Người môn đệ Chúa Kitô cần xác định lại để trung thành bước theo Chúa.
Từ lòng trung thành với Chúa sẽ dẫn đưa con người đến lòng trung thành với nhau, nhất là trong đời sống gia đình. Đời sống gia đình hôm nay của đang gặp khủng hoảng. Người ta cam kết thề hứa trung thành suốt đời, nhưng chỉ đi với nhau một đoạn đường ngắn để rồi sau đó chia tay nhau. Thánh Phaolô hôm nay mời gọi các bậc vợ chồng ngước nhìn lên mầu nhiệm Chúa Kitô yêu thương Hội Thánh để trung thành trong tình yêu hôn nhân.
Anh chị em thân mến,
Chúa muốn chúng ta trung thành và chúng ta cũng muốn trung thành. Nhưng trung thành bước theo Chúa không phải là điều dễ dàng. Quả vậy, có những lúc ta cảm thấy mình quá yếu đuối, tầm thường, quá bé nhỏ mỏng manh trước sức tấn công của thử thách, của cám dỗ, của tiện nghi vật chất, tiền bạc, thú vui sắc dục, danh vọng, quyền lực.... Chỉ có ơn Chúa mới có thể giúp ta trung thành đi theo Chúa: "Thần Khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì... không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơi ấy cho". Thánh Phêrô đã nhìn lên Chúa, để tiếp tục chọn lựa đi theo Chúa: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh" Quả thực, Thánh Phêrô đã cảm nhiệm được Lời Chúa là ánh sáng, là niềm vui, là sự sống và Ngài đã an tâm tín nhiệm vào Chúa. Cũng thế, ở đại hội Sikem, dân Do Thái kiên quyết chọn Chúa vì đã nhận biết những việc kỳ diều Chúa đã làm khi giải phóng họ khỏi nô lệ Ai Cập và đưa về Đất Hứa.
Mỗi người chúng ta hôm nay phải đích thân nói lên lời cam kết trong ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi hôn nhân hay ơn gọi dâng hiến. Chúng ta muốn chọn lựa một cách dứt khoát và vĩnh viễn, dù hôm nay ta chưa biết hết được những gì sẽ đến trong ngày mai. Sự chọn lựa ấy đòi ta tín trung. Và để tín trung trong ơn gọi, ta cần bắt đầu lại mỗi ngày, chỗi dậy mỗi ngày để "trung thành với tình yêu ban đầu" (Kh 2,4).
Chúa Giêsu Thánh Thể tự hiến trên bàn thờ và ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế chính là bằng chứng của tình yêu trung thành. Chúa là nguồn sự sống luôn luôn tươi mới và là nguồn động lực để ta mãi mãi trung thành đi theo Chúa.
16. Hãy làm điều bạn có thể
(Gm. Arthur Tone)
John là một người thanh niên, chàng lần lần rời xa Giáo Hội. Chàng không đi lễ nữa, không chịu các bí tích. Trong thế chiến thứ hai, khi chàng đăng ký nhập ngũ, sự lo âu của mẹ chàng tăng thêm: Nếu chàng bị chết thì sao? Linh hồn chàng sẽ ra sao? Khi chàng chuẩn bị lên đường. Mẹ chàng nói với chàng: "John ơi, mẹ muốn con làm cho mẹ một việc". John hỏi: "Cái gì đó, mẹ?".
"Mẹ muốn con đọc ít nhất mỗi ngày 1 lần kinh Kính Mừng. Hãy đọc, bất kể con bận hay con mệt tới mức nào". Một chút do dự, John đã hứa.
Trải qua năm, tháng. Những bức thơ của John thưa dần. Một ngày kia một bức thơ của cha tuyên úy cho hay John bị thương nặng và chàng đã xin chịu các phép bí tích. May mắn, John bình phục. Trong bức thơ đầu về nhà, chàng viết: "Mẹ ơi, cám ơn mẹ đã bảo con làm lời hứa ấy. Con đã giữ. Mỗi lần có dịp con đi lễ và rước lễ".
Mỗi vị linh mục đều đã nghe những câu chuyện như thế. Nó làm tôi nghĩ ngay: Dẫu một linh hồn trôi dạt xa Chúa bao xa. Nếu họ giữ một liên hệ nào đó với Chúa dù chỉ một kinh Kính Mừng một ngày, có hy vọng và có cơ may linh hồn ấy sẽ dần tìm đường trở về với Chúa.
Như rất nhiều người Công giáo ngày nay, John đã bắt chước những người môn đệ trong Tin Mừng hôm nay: Họ không đến với Chúa nữa. Những môn đệ ấy từ chối tin rằng Đức Kitô có thể lấy thịt sống của riêng Ngài cho họ ăn, Máu Ngài cho họ uống. Dẫu rằng họ đã thấy với 5 cái bánh, Đức Giêsu đã làm cho 5.000 người ăn no và họ đã thấy Người đi trên mặt nước.
Hầu hết những lý do người Công giáo xa lìa Giáo Hội có liên quan tới điều này. Thí dụ: "Thánh Lễ không liên hệ đến tôi". Họ muốn nói Thánh Lễ không cho họ một rung động thể lý hay xúc cảm. Họ làm gì thay vào đó? Không làm gì cả. Kinh nghiệm cho thấy những người như vậy thường không đọc lấy một kinh, điều đó không lạ. Họ phải nói điều các Tông đồ đã nói với Chúa Giêsu: "Chúng con biết theo ai?". Điều này áp dụng đặc biệt cho người Công giáo kết hôn ngoài Giáo Hội, và họ không thể lãnh các bí tích. Hầu hết mọi nơi, họ chẳng làm gì cả.
Quan điểm của tôi là người ta phải làm cái gì họ có thể làm được, điều này đem lại sự nâng đỡ và ơn của Chúa.
Đây là mấy đề nghị: Hãy đọc kinh "Lạy Cha", kinh "Kính Mừng". Hãy cầu nguyện bằng ngôn ngữ của riêng bạn như: "Lạy Chúa, xin giúp con làm mọi cái con có thể, để làm vui lòng Chúa".
Bạn để ý cho con em của bạn để chỉ dạy về tôn giáo. Chính bạn phải dạy chúng. Hãy tham gia công việc của họ đạo. Bố thí cho người nghèo, người túng thiếu. Hãy giữ luật Chúa, những luật bạn có thể giữ được.
Rất thường xảy ra là một người Công giáo, khi họ nghĩ họ không thể giữ một giới răn nào đó của Chúa, họ sẽ gác bỏ tất cả mọi giới răn của Chúa qua một bên.
Bạn hãy làm những gì bạn có thể làm được, nhất là cố gắng tham dự Thánh Lễ mỗi ngày Chúa Nhật. Nếu bạn không thể rước lễ, bạn hãy rước lễ thiêng liêng. Nghĩa là bạn hãy thưa với Chúa Giêsu rằng bạn muốn rước Người vào trái tim bạn. Hãy thưa với Người rằng bạn hối hận vì tội lỗi của bạn, bạn ước ao Người đến với bạn một cách thiêng liêng. Bạn đón tiếp Người.
John trong câu chuyện chỉ làm một việc rất nhỏ là đọc mỗi ngày một kinh Kính Mừng. Chúa đã thưởng anh. Bạn hãy làm những gì bạn có thể làm được. Chúa sẽ thưởng bạn.
Xin Chúa chúc lành bạn.
17. Lời Chúa là thần trí và là sự sống
(Noel Quesson)
Một người vô tín ngưỡng dừng chân ở một nông trại bên Hòa Lan, anh lớn giọng với ông chủ trại:
- Chẳng bao giờ tôi tin điều gì tôi không hiểu.
Ông chủ nông trại nói:
- Điều này khó đấy. Này nhé, thí dụ trong trại này, cậu có thấy đống cỏ không? Ngựa của tôi ăn cỏ, lớn lên lông nó mọc khắp mình. Con cừu ăn cỏ, thế là nó có len. Con ngỗng của tôi ăn cỏ, cả mình nó đầy lông vũ. Cậu có hiểu tại sao không nào?
Thực vậy, cho dù thông minh uyên bác đến mấy, người ta cũng không thể hiểu rõ toàn bộ những hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên. Một số kiến thức khoa học, chúng ta cũng chỉ nghe nói lại chứ đâu phải ta đích thân thí nghiệm và biết cặn kẽ chính xác. Vậy mà chúng ta vẫn tin. Chúng ta tin có vi trùng, tin trái đất tròn, tin nước gồm hai thành phần khí hợp lại...
Từ lãnh vực tự nhiên bước sang siêu nhiên cũng vậy. Không ai hiểu được các mầu nhiệm trong đạo. Chúng ta tin là vì Chúa dạy, vì Chúa thấu suốt mọi sự và cũng vì yêu thương ta, Chúa đã tỏ bày cho chúng ta. Đó là căn bản của mọi niềm tin.
Mầu nhiệm Thánh Thể là mầu nhiệm mà Chúa Giêsu đích thân dạy dỗ. Thánh Gioan đã nghe và tường thuật cho chúng ta khá đầy đủ. Nhưng chính Gioan cũng như đa số người nghe Chúa, không ai hiểu hết được. Họ đã chia ra làm hai phe. Một phe tỏ ra khó chịu, cho rằng những lời này làm chói tai, họ đã bỏ đi. Một phe thiểu số còn lại cũng không hiểu gì mấy, nhưng vẫn tin vào Chúa vì tin Ngài là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa hằng sống. Chúa biết trình độ hiểu biết hữu hạn của con người, kể cả những nhà hiền triết Đông Tây, nên Chúa đòi hỏi phải có lòng tin, tin vào Lời Ngài.
Thầy nhiều người bỏ đi, Chúa buồn lắm, nhưng Chúa không rút lại lời đã khẳng định. Chúa cũng không níu kéo họ, vì lòng tin phải được biểu lộ hoàn toàn tự do. Niềm tin đòi hỏi ta vượt trên ánh sáng khoa học. Không phải chỉ học hỏi về lòng tin mà là dấn thân, là thực hành trong cầu nguyện, trong việc đón nhận lời mạc khải từ Thiên Chúa. Lắng nghe Lời Chúa và làm theo Lời Chúa dạy, từ đó sẽ có lòng tin, một lòng tin chính Chúa ban tặng cho. Lòng tin vào Thánh Thể, có thể nói được là lòng tin trung tâm của đời sống Kitô hữu đến nỗi người ta thường gọi người giữ đạo là những người có đi lễ. Lòng tin vào Thánh Thể gồm hai khía cạnh rõ rệt: thứ nhất là ăn bánh sự sống; thứ hai là chia sẻ sự sống Đức Kitô, Ngài là tình yêu hiện thực.
Lòng tin như thế, nhất thiết phải xây dựng trên Lời Chúa, phải tiếp nhận Lời Chúa với lòng mến yêu tôn kính. Vì "Lời Chúa là Thần Trí và là Sự Sống". Đó là một tâm tình cần phải có khi đọc Tin Mừng. Chúa Giêsu thường được kể là một vĩ nhân, một học giả, một ngôn sứ, một nhà giải phóng... Nhưng còn hơn thế nữa, Chúa là Thiên Chúa yêu thương.
Lạy Chúa, bỏ Ngài, chúng con biết theo ai? Vì Ngài có những lời hằng sống. Chúng con tin nhận Ngài là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Xin thêm lòng tin cho chúng con và giúp chúng con chia sẻ tình thương Chúa cho mọi người trong cuộc sống bác ái hôm nay.
18. Dứt khoát theo Chúa.
Sau khi rao giảng về Bí tích Thánh thể, dân chúng và ngay cả một số đông môn đệ đã lấy làm chướng tai gai mắt và khó nghe, nên đã lìa bỏ Chúa. Thấy vậy, Chúa bèn quay về với nhóm Mười Hai. Ngài đòi các ông phải có thái độ và lập trường dứt khoát, Ngài hỏi các ông:
- Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?
Và như thế chúng ta đã thấy, Phêrô thay mặt cho tất cả anh em trong nhóm đã thưa lên cùng Chúa:
- Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Hẳn chúng ta còn nhớ, một lần khác, khi thầy trò tới địa hạt xứ Cêsarêa Philipphê, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ:
- Người ta bảo con người là ai?
Các ông đã lượm lặt dư luận đó đây và thưa lên cùng Chúa:
- Người thì bảo là Êlia, người thì bảo là Giêrêmia, người thì bảo là một tiên tri nào đó và kẻ khác lại nói là Gioan tẩy giả.
Có lẽ lúc bấy giờ, Chúa Giêsu đã nhìn các ông và đặt một câu hỏi nòng cốt, đòi các ông phải bày tỏ lập trường:
- Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Và Phêrô cũng thay mặt cho anh em trong nhóm tuyên xưng đức tin:
- Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.
Xuyên qua những lời giảng dạy, Chúa Giêsu bao giờ cũng đòi hỏi nơi những người muốn bước theo Ngài một thái độ dứt khoát, một lập trừờng rõ rệt. Ngài bảo:
- Ai yêu thương cha mẹ, vợ con, tiền bạc nhà cửa hơn Ta, thì không xứng đáng làm môn đệ Ta. Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì nếu yêu chủ này thì sẽ ghét chủ kia, cũng vậy không thể làm tôi vừa Thiên Chúa vừa tiền bạc. Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Sở dĩ như vậy là vì tinh thần của Chúa thì trái với tinh thần của thế gian như lửa với nước, như ánh sáng và bóng tối. Theo Chúa là theo trót cả tâm hồn, chứ không thể trung lập, lửng lơ, đi nước đôi và bắt cá hai tay.
Cựu ước có kể lại một mẩu chuyện như sau: Ngày ấy, Giosuê triệu tập tất cả các chi tộc lại ở Sikem và ông nói với họ:
- Hôm nay các ngươi hãy lựa chọn, một là thờ phượng Đức Giavê, hai là thờ phượng các thần của dân ngoại. Riêng phần tôi và gia đình, chúng tôi nhất quyết chỉ thờ phượng một mình Đức Giavê mà thôi.
Bấy giờ dân chúng trả lời rằng:
- Không hề có chuyện chúng tôi lìa bỏ Đức Giavê mà tôn thờ những thần dân ngoại. Đức Giavê là Thiên Chúa của chúng tôi, chính Ngài đã dẫn chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, đã làm những việc kỳ diệu trước mặt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt những con đường chúng tôi đã đi qua. Chúng tôi chỉ phụng thờ Đức Giavê vì chỉ mình Ngài là Thiên Chúa chúng tôi.
Có lẽ giờ đây Chúa Giêsu cũng nhìn mỗi người chúng ta và muốn chúng ta tỏ bày cái thái độ dứt khoát. Thế nhưng, có lẽ chúng ta đã phải cúi mặt xuống, bởi vì mặc dù mang tiếng là người có đạo, là kẻ đã tin theo Chúa, nhưng cuộc đời chúng ta vẫn còn chồng chất quá nhiều tội lỗi, bản thân chúng ta vẫn thường xuyên nhượng bộ cho những cám dỗ, những khuynh hướng xấu xa. Chúng ta vừa muốn phụng thờ Chúa, vừa muốn phụng thờ ma quỷ. Vừa muốn bước theo Chúa lại vừa muốn phạm tội.
Chúng ta giống như người tân tòng khi được ghìm xuống nước để lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thì ông cứ giơ một bàn tay lên cao. Vị linh mục bèn hỏi tại sao, thì ông trả lời:
- Con muốn tin theo Chúa thật đấy, nhưng lại muốn dành bàn tay này cho tội lỗi, để khi bàn tay này ăn trộm ăn cắp, gây gỗ đánh lộn thì nó không thuộc về Chúa.
Hãy có một thái độ và một lập trường dứt khoát. Hãy dâng hiến cho Chúa trọn vẹn cả tâm hồn lẫn thể xác bởi vì nếu chúng ta nói rằng mình yêu mến Chúa, mà còn giữ lại một xó góc con tim cho tội lỗi, dù là một xó góc nhỏ bé nhất, thì đó là một dấu chỉ chắc chắn nhất chứng tỏ chúng ta chưa hề yêu mến Chúa.
19. Bánh Thánh Thể
Ba bài Tin Mừng của ba Chúa nhật trước đã thuật lại bài giảng của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống và cho biết thái độ cũng như phản ứng của dân chúng. Mặc dầu được thấy các sự lạ, được ăn bánh hóa nhiều, nhưng khi nghe Chúa nói Ngài là manna mới, là bánh bởi trời đích thực, Ngài bởi trời xuống, thịt Ngài thật là của ăn, máu Ngài thật là của uống, ai ăn thịt Ngài và uống máu Ngài thì sẽ được sự sống đời đời... họ lẩm bẩm với nhau, xô xát nhau và phản đối Chúa dữ dội, họ đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và cũng chính là ý nghĩa mà Chúa muốn nói, nên chẳng những Chúa không cải chính mà còn giải thích rõ hơn và nhấn mạnh hơn, nên có nhiều người đã bỏ đi không nghe Chúa nói nữa.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại phản ứng của các môn đệ nói chung và của nhóm 12 tông đồ nói riêng, mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giải thích thêm. Trước hết, nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người Do Thái khác: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi", họ lẩm bẩm với nhau như thế. Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải thích thêm cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu xa hơn vào bản thân và sứ mạng của Ngài. Nhưng có nhiều môn đệ đã rút lui không đi theo Chúa nữa. Như vậy, không những dân chúng chán ngán vì những lời Chúa Giêsu tuyên bố với họ, mà cả các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm 12, những người được coi là thân tín nhất của Chúa. Những người này đã có thái độ thế nào hay phản ứng của họ ra sao? Ông Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: Họ không bỏ Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Như vậy, ông Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, tin vào sứ mạng của Ngài, Ngài có những lời đem đến sự sống đời đời.
Như vậy, qua bài giảng về Bánh Hằng Sống, chúng ta thấy đám đông dân chúng vì thấy Chúa không đáp ứng nguyện vọng của họ, nên lẩm bẩm, không tin và bỏ đi. Ngay cả các môn đệ cũng bỏ Ngài, vì không chấp nhận nổi những lời tuyên bố của Ngài, họ cũng thất vọng và bỏ đi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn còn một niềm an ủi, đó là các tông đồ thân tín, vẫn cương quyết đi theo Ngài và tin vào lời Ngài.
Nhìn về chúng ta, đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người phải đích thân chọn lựa. Đành rằng cộng đoàn đức tin nâng đỡ mỗi người sống đức tin, nhưng mỗi người phải đích thân dứt khoát: đứng lại với Chúa không phải chỉ vì thấy người khác còn đứng lại hay vì chưa gặp dịp thuận tiện để tháo lui. Nhưng đứng lại với Chúa vì tin rằng Ngài là Đấng có lời ban sự sống đời đời, không còn ai khác để mình đi theo, tức là đòi hỏi chúng ta phải luôn trung thành với Chúa dù gặp hoàn cảnh nào cũng vậy, chẳng hạn như ông Ma-ranh trong câu chuyện sau:
Thời vua Ga-liên bách hại đạo, trong quân đội Rôma có một sĩ quan tên là Ma-ranh, xuất sắc, lừng danh, bách chiến bách thắng. Ai cũng biết Ma-ranh sắp được thăng đại tướng, chính ông cũng rất hy vọng như thế. Nhưng Ma-ranh là người Công giáo tốt, suốt đời ông chỉ xin ơn trung thành với lời hứa ngày chịu phép Rửa tội. Khi ấy, một trong các đại tướng Rôma chết bất ưng. Hôm sau, vị toàn quyền mời Ma-ranh đến vui vẻ nói: "Tôi vừa được lệnh nhà vua gọi ngài lên chức đại tướng, và tôi được hân hạnh trao quyền tổng chỉ huy cho ngài, nhưng nghe đâu ngài là người Công giáo, mà nhà vua thì không chịu để một người Công giáo nào trong sĩ quan quân đội hoàng gia, vậy xin ngài nói cho biết ngài có phải là người Công giáo không?". Ma-ranh quả quyết: "Thưa, đúng thế, tôi là người Công giáo". Viên toàn quyền nghiêm nghị nói: "Tôi cho ngài ba tiếng đồng hồ để nghĩ lại, nếu chối Giêsu thì làm đại tướng, nếu không ngài phải chết". Ma-ranh ra về, đến gặp vị giám mục và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vị giám mục cầm tay Ma-ranh đưa vào nhà thờ, dẫn lên cung thánh, là chính nơi ngày xưa Ma-ranh đã thề trọn đời trung thành với Chúa Kitô. Rồi vị giám mục rút thanh gươm bên hông của Ma-ranh đặt bên cạnh sách Tin Mừng trên bàn thờ và nói: "Này ông Ma-ranh, dễ giải quyết lắm, phải chọn một trong hai, xin ông nhớ lại ngày rửa tội, rồi tùy ý ông". Ma-ranh mạnh mẽ cầm sách Tin Mừng nói: "Con thề trung thành với Chúa, con xin trung thành". Vị giám mục âu yếm nhìn Ma-ranh nói: Con hãy đi bình an, ngày hôm nay sẽ là ngày vinh quang của đời con, ngày hôm nay là ngày con đại thắng". Và ngày hôm đó, Ma-ranh đã đổ máu vì đức tin Công giáo.
Trong những thế kỷ đầu của Giáo hội, dân ngoại bỡ ngỡ khi thấy người có đạo anh dũng chịu chết vì Chúa. Đâu là lý do của sự can đảm lạ lùng ấy? Thánh Síp-ri-a-nô trả lời: "Chính nhờ Mình Thánh Chúa gìn giữ mà người có đạo mới ra pháp trường một cách anh dũng như vậy". Đời vua Tự Đức, tổ tiên chúng ta cũng không thua kém các vị tử đạo đầu tiên ở Rôma, nhờ đâu? Nhờ rước Mình thánh Chúa, trong một sắc lệnh cấm đạo của vua Tự Đức có một điều sau: "Không được để cho người ta đem đến cho kẻ có đạo một thứ bánh mầu nhiệm gì đó, vì thứ bánh ấy làm cho họ không biết sợ và vui vẻ chịu chết".
Trong cuộc sống, có thể chúng ta không phải lựa chọn như ông Ma-ranh hay không bị bách hại như các vị tử đạo, nhưng rất có thể có nhiều lựa chọn khác hay những thử thách khác, đòi hỏi chúng ta phải sống ngay thẳng, công bình, bác ái. Xin Mình Thánh Chúa mà chúng ta rước lấy, tăng thêm sức mạnh để chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách ở đời này, nhất là về phương diện đức tin.
20. Sống Lời Chúa.
Chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Hẳn chúng ta còn nhớ, Chúa Giêsu vào trong hoang địa và bị cám dỗ. Lúc bấy giờ ma quỉ hiện ra và nói với Ngài:
- Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy biến những hòn đá này trở nên bánh mà ăn.
Sở dĩ ma quỉ cám dỗ Ngài như thế là vì nó biết sau 40 ngày đêm ăn chay cầu nguyện, hẳn Ngài phải đói. Thế nhưng, Ngài đã thẳng thắn trả lời ma quỉ:
- Con người ta không phải chỉ sống bởi bánh, mà còn sống bởi những lời từ miệng Thiên Chúa phán ra.
Và qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng đã thấy: Sau phép lạ bánh hóa nhiều nuôi năm ngàn người trong hoang địa, lợi dụng biến cố đó, Chúa Giêsu đã giới thiệu với họ một thứ lương thực thiêng liêng bổ dưỡng cho tâm hồn, đó là Mình Máu Thánh Ngài như lời Ngài đã phán:
- Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời và Ta, ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.
Trước những lời giới thiệu đầy trang trọng ấy, một số các môn đệ đã lấy làm chướng tai, không thể chấp nhận được, và thế là họ đã bỏ Chúa mà đi. Bấy giờ Chúa Giêsu quay lại vànói với nhóm mười hai:
- Còn các con, các con không bỏ Thầy mà đi hay sao?
Phêrô bèn thay mặt cho nhóm nhỏ ấy mà tuyên xưng:
- Lạy Thầy, bỏ Thầy, chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Tuân giữ và thực thi lời Chúa truyền dạy là điều Ngài luôn luôn nhấn mạnh và đòi buộc mỗi người chúng ta. Thực vậy, có lần Ngài đã phán:
- Không phải những kẻ nói rằng Lạy Chúa tôi mà được vào nước trời, nhưng là những người tuân giữ những điều Ta truyền dạy.
Trước khi về trời, Ngài cũng đã căn dặn các môn đệ:
- Các con hãy đi giảng cho muôn dân, dạy họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho các con và đây Thầy ở cùng các con cho đến tận thế.
Sở dĩ, lời Chúa dẫn chúng ta tới cuộc sống vĩnh cửu vì lời Chúa vạch ra cho chúng ta con đường phải đi và chính con đường ấy sẽ dẫn đưa chúng ta trở về với Chúa. Như thế, việc tuân giữ lời Chúa sẽ là một bảo đảm chắc chắn nhất cho chúng ta ơn cứu rỗi, cũng như niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Để kết luận, tôi xin kể lại một mẩu chuyện nho nhỏ:
Trong một xưởng thợ, người ta bàn tán và cho rằng tôn giáo, nhất là Thiên Chúa giáo làm mê muội trí khôn, bức hiếp lẽ phải và làm sai lạc phán đoán.Một anh công nhân nghe thế bèn góp ý:
- Đúng thế, đạo Chúa và lời Ngài đã làm cho tôi mất đi tất cả.
Mọi người ngạc nhiên, sững sờ đưa mắt nhìn anh. Anh nói tiếp:
- Các bạn có biết không, tôi là người rượu chè be bét, nhưng đạo Chúa và lời Ngài giúp tôi chừa bỏ được rượu. Tôi là người thích cờ bạc, nhưng đạo Chúa và lời Ngài giúp tôi xa tránh được tật này. Xưa kia gia đình tôi luôn cãi vã xô xát nhau, nhưng đạo Chúa và lời Ngài, làm tôi mất đi cái địa ngục ấy và đem vào đó một bầu khí cảm thông và hạnh phúc. Và còn nhiều thứ khác nữa, đạo Chúa và lời Ngài đã làm mất đi nơi tôi và gia đình tôi. Các bạn hãy thực hành lời Ngài và sống đức tin của mình chắc chắn, các bạn sẽ không bao giờ phải hối hận đâu.
Hãy lắng nghe Lời Chúa, hãy suy gẫm Lời Chúa và nhất là hãy sống Lời Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ đạt tới niềm hạnh phúc Nước Trời.
21. Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh
Chắc bạn vẫn nghe thường xuyên về người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Hoặc chính bản thân nhều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống đến những vấn đề quan trọng nhất, người ta đều cóp thể thất trung, bất tín. Ví dụ: Ai cũng biết, hôn nhân là mối giây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp diễn từng ngày. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả của nó.
Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản bội, cũng bất trung không kém. Từ thủơ bình minh của nhân loại, thế giới theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người thôi: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài, nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống lại Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường hết được: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.
Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường, nếm đủ mùi vị của khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn..., đã làm cho dân của Chúa mất kiên nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron đã vậy, họ còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: " Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu, có phải con sinh ra nó đâu?... Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn..." (Ds 11, 12 tt). Trong sa mạc, lòng dân quyên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại nhiều lần đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.
Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về sự bất trung và lòng thương xót ấy. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: " Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác", và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính vì sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần phải chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi bật lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoang dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba động từ: phản bội - nổi giận - tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.
Đó là bài đọc I trích sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của thánh Phêrô: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa". Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm, cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá... Chính những giờ phút quan trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quyên mất lời tuyên xưng mới đó, tính cho đến nay chưa được bao lâu. Vì một chúc sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!
Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Giáo Hội mời gọi ta suy niệm các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành của ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một lòng khoang dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi vẫ có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không còn hy vọng nữa mà thôi. Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính mình đã đánh mất.
22. Suy niệm của JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Câu Đức Giêsu nói: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời" có lạ tai không? Câu nói trên cần phải hiểu theo nghĩa tâm linh hay theo nghĩa vật chất? Sau khi câu nói câu ấy, Đức Giêsu có nói câu nào để hướng dẫn người nghe phải hiểu theo nghĩa tâm linh không? Ngài nói gì?
2. Nếu bạn là các môn đệ Ngài hồi ấy, khi nghe lời ấy, bạn sẽ phản ứng thế nào? bỏ Ngài và rút lui, hay theo Ngài tới cùng như Phêrô?
3. Trước hai phản ứng khác nhau của các môn đệ, ta rút ra bài học gì? Có nên tin vào lý trí của mình hơn tin vào Thầy mình, hay vào Thánh Thần chăng?
Suy tư gợi ý:
1. «Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?»
Khi nghe Đức Giêsu nói: «Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời», chẳng những người Do-thái nghe không lọt tai, mà ngay cả các môn đệ cũng có những người không chấp nhận được. Họ đã hiểu câu Ngài nói theo nghĩa vật chất, theo mặt chữ, mà không chịu hiểu theo nghĩa tâm linh, theo Thần Khí. Thế là «nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa». Ngài đã để mặc họ bỏ Ngài, vì thấy họ không thích hợp với công việc của Ngài, vốn mang nhiều tính chất «thần khí» hay tâm linh.
a) «Ai có tai thì nghe!» hay «ai hiểu được thì hiểu!»
Trong Tin Mừng có nhiều trường hợp tương tự như trường hợp này. Nhiều lần, Đức Giêsu nói xong, người ta không hiểu, Ngài chẳng những không giải thích thêm, lại còn nói: «Ai có tai thì nghe» (nghĩa là ai hiểu được thì hiểu) (Mt 11,15; 13,9; 13,43; Mc 4,9; 4,23; 7,16; Lc 8,8). Vì chân lý không phải là ai cũng có thể hiểu và sẵn sàng đón nhận, như Ngài đã nói: «Thế là đối với họ, lời sấm của ngôn sứ Isaia đã ứng nghiệm: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, vì lòng dân này đã ra chai đá» (Mt 13,14). Một hình thức của chai đá tâm trí là chỉ hiểu được lời Chúa theo nghĩa vật chất mà không thể hiểu theo nghĩa tâm linh, chỉ biết chấp vào lời mà không chịu hiểu ý, nhất là khi lời đó diễn tả những chân lý thâm sâu về Thiên Chúa và đời sống tâm linh.
b) Đừng hiểu theo nghĩa vật chất, mà theo nghĩa tâm linh
Khi thấy có những môn đệ không chấp nhận vì hiểu sai, Ngài đã soi sáng thêm: «Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?» Ngài gợi ý cho họ thấy hai cách hiện hữu của Ngài: cách hiện tại là hiện hữu trong xác thịt, còn cách hiện hữu trước kia là hiện hữu trong thần khí. Nhắc tới hai cách hiện hữu ấy, Ngài gợi ý cho các ông hiểu rằng: lời của Ngài cần hiểu theo nghĩa tâm linh, chứ không thể hiểu theo nghĩa thể chất. Câu nói kế tiếp của Ngài lại càng khai sáng vấn đề hơn: «Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống». Lời Ngài nói là thần khí chứ không phải xác thịt, nên phải hiểu theo nghĩa tâm linh chứ không phải nghĩa thể chất. Hiểu theo nghĩa thể chất thì những từ «thịt» và «máu» Ngài vừa nói chính là thịt và máu vật chất, tức xác thịt. Ngài đã loại bỏ cách hiểu này: «Xác thịt chẳng có ích gì». Ngài đề cao cách hiểu theo nghĩa tâm linh qua câu: «Thần khí mới làm cho sống».
Thánh Phaolô cũng so sánh hai cách hiểu ấy: «Giao Ước Mới không phải là Giao Ước căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống» (2Cr 3,6). Chữ viết là vật chất, ai chỉ biết hiểu lời Chúa theo nghĩa vật chất của chữ viết, thì cách hiểu ấy sẽ giết chết tâm linh của người ấy. Lời Chúa cần được hiểu theo nghĩa tâm linh, nghĩa là «dựa vào Thần Khí», cách hiểu này mới «ban sự sống». Sự sống ở đây là sự sống tâm linh chứ không phải thể chất. Về vấn đề giữ luật, thậm chí luật cắt bì là một luật hết sức quan trọng trong Cựu Ước, thánh Phaolô chủ trương phải giữ theo tinh thần của lề luật chứ không phải theo chữ viết: «Phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật» (Rm 2,29). Vậy, khi đọc Kinh Thánh, đặc biệt sách Khải Huyền, những chân lý thâm sâu cần được hiểu theo nghĩa tâm linh. Hiểu theo nghĩa vật chất nhiều khi dẫn tới sự phi lý và không đem lại «sự sống» hay lợi ích thực tế.
2. Hai phản ứng khác nhau của các môn đệ
Khi nghe Đức Giêsu nói câu khó hiểu, thậm chí có vẻ phi lý và chướng tai ấy, tôi nghĩ, chắc hẳn ngay lúc ấy chẳng ai trong các môn đệ đủ trình độ để hiểu được ý nghĩa lời của Ngài. Nhưng các môn đệ đã phản ứng theo hai cách: một số rút lui và số còn lại vẫn trung thành theo Ngài.
a) Đừng quá cố chấp vào những hiểu biết mình đang có:
Những môn đệ từ bỏ Ngài, không chịu làm môn đệ Ngài nữa, là vì họ nghe Ngài nói điều mà họ thấy là phi lý không thể chấp nhận được. Họ hoàn toàn có lý của họ. Nhưng phải nói họ là những người đã bị chai đá về mặt lý trí. Hễ điều gì họ đã cho là đúng, mà có ai nói ngược lại, nói những điều không lọt tai họ, thì họ tiên thiên cho là sai, và không thèm nghe, suy nghĩ hay tìm hiểu thêm. Những người này sẽ không bao giờ tiếp nhận được những kiến thức mới, những khám phá mới về chân lý. Vì chân lý thì vô tận, con người khám phá không ngừng và không bao giờ hết. Những khám phá mới nhiều khi phủ nhận hoặc vượt qua những khám phá cũ. Chẳng hạn nếu các em học sinh cấp I cứ chấp cứng vào kiến thức mà các em thu thập được ở trường lớp là: không được lấy số lớn trừ số nhỏ vì đó là một sự phi lý, thì các em sẽ cho các thầy dạy cấp II là dạy bậy. Vì ở cấp II, việc lấy số nhỏ trừ số lớn để ra một số âm là chuyện bình thường. Hay ở cấp II và III, việc đặt số âm trong một căn hiệu là phi lý, nhưng ở đại học, khi học về số ảo, thì một số âm vẫn luôn luôn có căn số.
Đức Phật có đưa ra một minh họa về vấn đề này: Một người có duy nhất một đứa con mà ông rất thương yêu. Khi ông đi vắng để đứa con ở nhà thì kẻ cướp đến đốt làng cướp bóc và bắt con ông đi. Khi về, ông thấy thi hài một đứa bé cháy đen bên căn nhà mình. Ông tin ngay là con mình và chôn cất trong sự thương tiếc. Mấy tháng sau, con ông tìm cách thoát được bọn cướp, tìm về đến nhà lúc nửa đêm và gõ cửa xin vào. Nhưng ông không chịu ra mở cửa vì cứ nhất định là con ông đã chết rồi, và cho rằng đứa gõ cửa là một thằng mất dạy nào đó trêu chọc ông. Rồi ông nhất quyết không nhận nó là con, bất chấp những bằng chứng hợp lý trước mắt.
Người ta nói: «Khoa học là mồ chôn những giả thuyết», vì giả thuyết mới phủ nhận giả thuyết cũ. Sự vật thì không thay đổi, nhưng khi ta biết 10 điều, ta nghĩ về sự vật thế này. Khi biết 100 điều, ta lại nghĩ thế khác. Khi biết 1000 điều, ta lại nghĩ hoàn toàn khác nữa. Ta nên tiếp tục nghĩ rằng khi biết 2000, 3000... điều, ta cũng sẽ tiếp tục nghĩ khác. Vậy trong đời sống tâm linh, hãy luôn luôn tỉnh thức để đón nhận những đổi mới của Thánh Thần trong cả cách nhìn về Thiên Chúa và về những chân lý cao sâu. Các tư tế và kinh sư Do-thái chính vì chấp vào những hiểu biết dựa trên Kinh Thánh và thần học của họ mà đã lên án và giết Đức Giêsu!
b) Hãy tin tưởng vào sự hướng dẫn của Thánh Thần:
Còn những môn đệ khác mà điển hình là Phêrô, tuy cũng thấy phi lý và chói tai, nhưng nghĩ rằng mình chưa hiểu được hết ý của Ngài. Qua những sự kiện thấy được nơi Đức Giêsu, họ tin Ngài là người nắm được những chân lý cao siêu, là «Đấng Thánh của Thiên Chúa». Vì thế, dù Ngài nói điều gì nghe không lọt tai, họ vẫn tạm chấp nhận để tiếp tục theo Ngài, mong có cơ hội sau này hiểu được điều ấy. Và đương nhiên sau này họ đều hiểu. Đó là thái độ khiêm nhường nhưng rất hợp lý: cho rằng khả năng hiểu biết mình còn non kém thì đúng hơn là cho rằng Thầy mình nói sai.
Tất cả những hiểu biết của nhân loại - kể cả của Giáo Hội - đều là những hiểu biết tương đối, phù hợp với số lượng những khám phá của họ. Khi khám phá ra nhiều sự kiện hơn nữa, ắt nhiên mọi người sẽ phải thay đổi quan niệm hay hiểu biết của mình. Trong đời sống tôn giáo hay tâm linh, điều quan trọng là chúng ta phải sẵn sàng đổi mới quan niệm và sẵn sàng từ bỏ những kiến thức cũ của mình thì mới theo kịp Thánh Thần. Ngài là Đấng luôn luôn «đổi mới mặt đất này» (Tv 104,30) và sẽ dẫn chúng ta «tới sự thật toàn vẹn» (Ga 16,13). Nên nhớ cách hành động của Thiên Chúa là: «Khi Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới, Người làm cho giao ước thứ nhất hoá ra giao ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi, thì sẽ tan biến đi» (Dt 8,13). Nếu ta cứ chấp vào giao ước cũ, làm sao ta đón nhận được giao ước mới? Nên nhớ, chỉ một mình Thiên Chúa là không thay đổi, còn mọi hiểu biết của con người về Thiên Chúa thì phải thay đổi theo trình độ trí thức và tâm linh con người. Cứ chấp vào hiểu biết cũ làm sao đón nhận những hiểu biết mới?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, Thánh Thần của Cha luôn luôn đổi mới mọi sự trong thế gian này. Xin cho chúng con biết thích ứng với Thánh Thần, sẵn sàng từ bỏ quan niệm cũ, cách hiểu biết cũ để theo quan niệm và cách hiểu biết mới mà Thánh Thần hướng dẫn. Đừng để chúng con đi vào bánh xe đã đổ của các kinh sư Do-thái: cứ chấp vào hiểu biết cũ nên không theo kịp cái mới của Thánh Thần, để cuối cùng bị đào thải về mặt tôn giáo. Amen.
23. Chọn lựa: một hành vi không dễ
(Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Cả anh em nữa, anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không? Chúa Giêsu không hỏi: anh em có tiếp tục theo Thầy không mà lại hỏi thẳng thừng: anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không. Một câu hỏi không thuộc dạng mời gọi như trước đây mà là đặt vấn đề chọn lựa rõ ràng, dứt khoát.
Kitô hữu chúng ta theo đạo không phải là theo một học thuyết mang tính triết lý hay thần học nào đó, nhưng là theo một "con người", theo một "ai đó", một "Đấng nào đó". Đấng hay con người mà chúng ta lựa chọn đi theo, lựa chọn để gắn bó, đó là Đức Giêsu Kitô. Phụng Vụ Lời Chúa ngày Chúa nhật XXI TN B đặc biệt lưu ý chúng ta đến hành vi lựa chọn. Chọn lựa một công việc để làm kế sinh nhai quả không mấy dễ. Chọn lựa một bậc sống thật lắm phân vân đủ bề. Chọn lựa một con người để làm bạn đời trăm năm cũng lắm sự nhiêu khê. Và chọn lựa Đấng để trao gửi hạnh phúc hôm nay và vĩnh cửu chắc chắn sẽ khó khăn hơn nhiều. Vì thế, khi phải chọn lựa trong một vấn đề quan trọng, chúng ta cần có đủ cơ sở một cách nào đó.
Sau khi nhắc lại cho dân tình yêu của Thiên Chúa qua các kỳ công Người đã thực hiện để bảo vệ dân, Giosuê khẳng khái trước toàn dân rằng: "Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa" (Gs 24,15). Và dân đã đáp lại rằng họ không hề có ý định bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Họ sẽ thờ phụng Thiên Chúa, vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của họ dùng quyền năng thực hiện những dấu lạ lớn lao để đem họ cùng với cha ông họ ra khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ mà vào đất hứa. Như thế, cơ sở để dân Chúa xưa chọn thờ phụng Người đó là vì Người quyền năng đã đưa họ ra khỏi nhà nô lệ.
Trước câu hỏi của Chúa Giêsu, một kiểu đặt vấn đề đòi hỏi có sự chọn lựa dứt khoát thì Phêrô đã thay mặt nhóm Mười Hai trả lời: " Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6,68). Không kể trường hợp một phần tử trong nhóm không tin, thì câu trả lời của Phêrô nói lên sự chọn lựa của cả nhóm Tông Đồ. Và sự chọn lựa ấy đặt cơ sở trên điều này: vì Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Để nói lên được những lời này, chắc chắn cùng với các bạn, Phêrô đã từng chứng kiến uy quyền của Thầy khi khiến nước lã hóa thành rượu ngon (x.Ga 2,1-12). Các vị đã từng nghe Thầy nói với viên sĩ quan cận vệ nhà vua rằng: "Ông cứ về đi, con ông sống" và đứa con trai của ông ta đang đang hấp hói đã đuợc cứu sống (x. Ga 4,46-54). Và các ngài chưa thể quên lời tạ ơn mới đây của Thầy đã giúp cho năm ngàn người đàn ông chưa kể đàn bà và con trẻ no nê chỉ từ năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá (x. Ga 6,1-15).
Không ai tự nguyện dấn thân theo một lý tưởng, thực hiện một trách vụ hay gắn bó với một con người mà không ấp ủ một hoài bão, một ước mơ hay niềm hy vọng nào đó. Xưa, dân Do Thái chọn tôn thờ Thiên Chúa là để một mặt khỏi bị Người giáng họa, trừng phạt, mà trái lại sẽ được Người chúc phúc và che chở trước các "kẻ thù" lân bang (Gs 24,19-20).
Cái hoài bão, uớc mơ, đúng hơn là cái mục đích việc Phêrô thay mặt anh em chọn gắn bó với Thầy đó là vì "Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời". Sự sống đời đời là một ước mơ của con người, mọi thời và mọi nơi. Dù đủ đầy của cải vật chất, dù nắm trong tay quyền sinh sát của bậc đế vương thì con người vẫn cảm nhận cái hữu hạn của cuộc sống đời này. Danh vọng quyền lực, của cải hay tiền tài không thể giúp ta kéo dài cuộc sống đến vô tận. Một thanh niên có nhiều sản nghiệp đã đến tham vấn Chúa Giêsu: Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời? Sau khi biểu anh ta giữ các giới răn, Chúa Giêsu đã mời gọi anh ta hãy bán của cải, phân phát cho người nghèo rồi đến mà theo Người (x. Mt 19,16-22; Mc 10,17-22; Lc 18,28-30).
Chọn lựa là hy sinh. Một câu nói cho thấy một lẽ tất yếu của việc chọn lựa, Chọn ra đi thì phải hy sinh chuyện không ở lại, chọn việc cất tiếng nói thì đương nhiên phải mất thái độ giữ im lặng, đã chọn tôn thờ Thiên Chúa thì phải bỏ các thần của dân ngoại (x. Gs 24,23)... Tuy nhiên sự hy sinh trong việc chọn lựa không chỉ dừng lại ở các nội dung xem như đối lập của sự chọn lựa mà còn có đó sự hy sinh ngay trong chính hành vi chọn lựa. Sự hy sinh ở đây được hiểu như một sự đánh cược, một sự dân thân, một sự "liều lĩnh" nào đó. Vì chưng, chúng ta vốn khó có được các cở sở một cách chắc chắn kiểu trăm phần trăm khi chọn lựa một điều gì đó. Chúng ta dễ nhận ra ngay hiện thực này qua việc các bạn thanh niên nam nữ chọn bạn đời hay chọn ơn gọi tu trì. Như thế, sự hy sinh ở đây có thể hiếu như sự can đảm dấn thân, chấp nhận nhiều "cái giá" phải trả khi chọn lựa.
Cái giá mà chúng ta phải trả khi chọn lựa đi theo Chúa Giêsu, gắn bó với Người đó chính là "vác thập giá". "Ai không các thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc 14,27). Cái giá mà Phêrô sẽ phải trả được Đấng Phúc sinh báo trước: "Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đế nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi Người bảo ông: "Hãy theo Thầy" (Ga 21,18-19).
"Thiên Chúa dựng nên tôi không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà cần có tôi" (thánh Augustinô). Tự do là một quà tặng cao quý Chúa ban cho loài người, loài cao trọng nhất trong các loài hữu hình Người dựng nên. Tự do là một ân ban cao quý và cũng là một thử thách ắt có của tình yêu. Được sống đời đời hay phải chết đời đời có nghĩa là được hạnh phúc bất diệt hay bị trầm luân mãi mãi, các khả thể này đang tùy ở sự lựa chọn của chúng ta. Ai lại không muốn được sự sống đời đời, được hạnh phúc bất diệt, nhưng vấn nạn khó vượt qua đó là chúng ta thường e ngại phải trả giá.
24. Bỏ đi hoặc ở lại
(Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Với bản văn hôm nay, độc giả đi tới đỉnh cao của Diễn từ về Bánh trường sinh, đỉnh cao của cuộc "khủng hoảng" báo trước cuộc Thương Khó của Đức Giêsu: các thính giả phản ứng lại các lời của Đức Giêsu; họ bị đặt trước một chọn lựa là tin hoặc không tin vào Người.
Thứ lương thực lạ lùng và Bài Diễn từ về Bánh khác các dấu lạ và các diễn từ khác của Đức Giêsu do sự kiện là trong vấn đề này, các môn đệ lấy lập trường. Tại đây Đức Giêsu đã mạc khải các ân ban đặc biệt của Người và các ân ban này chính là thịt máu của Người. Các môn đệ của Người chia rẽ về điểm này: bỏ đi vì không thể chấp nhận các lời Đức Giêsu nói, hoặc ở lại với Người, vì tin rằng chỉ Người mới có "những lời đem lại sự sống đời đời".
2.- Bố cục
Bản văn phụng vụ có thể chia thành ba phần:
1) Một câu tóm nội dung bài giảng về Bánh hằng sống (6,54a);
2) Những môn đệ bỏ đi (6,60-66);
3) Nhóm Mười Hai ở lại (6,67-69).
3.- Vài điểm chú giải
- Nghe rồi, [...]: "Ai mà nghe nổi? (60): Động từ "nghe" (akouein) được dùng hai lần với nghĩa khác nhau: lần đầu, từ này có nghĩa là "nghe" mà không có sắc thái một sự chấp thuận; lần sau, có nghĩa là "nghe" với sự chấp thuận.
- nhiều môn đệ của Người (60): Bản văn không nói là các "môn đệ" này có hàm chứa cả Nhóm Mười Hai hay không. Tuy nhiên, vì Phêrô đã lấy lập trường mà nói nhân danh Nhóm Mười Hai, rất có thể Nhóm Mười Hai không được kể vào số các "môn đệ" càm ràm, xầm xì này (có lẽ ngoại trừ Giuđa, vì Đức Giêsu gọi ông là "quỷ", x. c. 70).
- lên nơi đã ở trước kia (62): tức lên với Chúa Cha (x. Ga 17,5).
- Lời Thầy nói với anh em (63): dịch cho nổi bật các sắc thái là: "Những lời mà Thầy đây, Thầy đã nói với anh em". Chủ từ egô được viết ra trong bản văn để tạo sự cường điệu.
- là Thần Khí và là sự sống (63): Đây là một "phép thế đôi"[1], nên cần dịch diễn ra là "lời Thầy nói với anh em là Thần Khí ban sự sống".
- Nhóm Mười Hai (67): Ga 6,67-71 là nơi duy nhất trong TM IV mà tác giả minh nhiên nói đến Nhóm Mười Hai (ngoại trừ một hoạt cảnh khác chỉ được nhắc tới trong TM này, ở Ga 20,24). Hai lần nhắc tới "Nhóm Mười Hai" (hoi dodeka) ở cc. 67 và 71 "đóng khung" phân đoạn ngắn này thành một đơn vị văn chương. Tác giả ghi nhận rằng Nhóm Mười Hai đã được Đức Giêsu chọn (Ga 6,70), dù không cho biết vào dịp nào và trong những hoàn cảnh nào. Do sự trung tín của họ với Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai ở vào thế tương phản với những môn đệ đã sa sút. Không giống với các môn đệ đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai ở lại với Đức Giêsu. Đối với các ông, các ông không còn chỗ nào khác mà đi. Phêrô đã nói thay anh em: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6,68).
Đoạn Ga 6,67-71 là nơi duy nhất trong TM mà tác giả minh nhiên nói đến Nhóm Mười Hai (ngoại trừ một hoạt cảnh khác chỉ được nhắc tới trong TM IV, ở Ga 20,24). Hai lần nhắc tới "Nhóm Mười Hai" (hoi dodeka) ở cc. 67 và 71 "đóng khung" phân đoạn ngắn này thành một đơn vị văn chương.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Một câu tóm nội dung bài giảng về Bánh hằng sống (54a)
Sau các vòng giới thiệu, đây là khẳng định tối hậu Đức Giêsu nêu ra về mầu nhiệm bản thân Người: "Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời" (c. 54a). Các động từ được chọn để diễn tả tính hiện thực của ân ban là thịt máu Đức Giêsu đã đạt mục tiêu: các môn đệ sẽ phản ứng.
* Những môn đệ bỏ đi (60-66)
Phần lớn các môn đệ không thể chấp nhận được các lời Đức Giêsu đã nói, đến mức không còn có thể lắng nghe được nữa. Và thật sự các lời của Đức Giêsu không thể chịu nổi, nếu Người chỉ là một người phàm. Các lời Đức Giêsu đã nói quả không thể chấp nhận được, nếu người ta chỉ đón nhận theo cảm xúc và hời hợt, nếu người ta chỉ để ý đến các chi tiết chứ không thấy bối cảnh tổng quát. Đức Giêsu tìm cách cung cấp cho các môn đệ một điểm hỗ trợ hầu có thể hiểu, nhưng Người cũng nói rõ ra lý do đích thực của phản ứng khó chịu của họ: họ thiếu đức tin. Trước hết, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng Người không nói như một người thường, nhưng như là Con Người, đã từ Thiên Chúa mà đến và sẽ quay về với Thiên Chúa. Trong bài Diễn từ về Bánh trường sinh, Đức Giêsu đã nhiều lần nêu bật điều này là Người được Thiên Chúa cử đến và có sự sống phát xuất từ Thiên Chúa (x. Ga 6,27.57). Điều kiện tiên quyết để hiểu được các lời của Đức Giêsu, đó là hiểu và nhìn nhận bản thân Người.
Thế rồi Đức Giêsu đi vào một điểm đặc biệt trong Bài Diễn từ. Các môn đệ dường như cảm thấy bị vấp phạm nhất về sự kiện Người ban thịt làm của ăn và máu làm thức uống. Đức Giêsu đảm bảo với họ rằng nếu đi từ "thịt" hiểu là con người phàm trần – kể cả nhân tính của Đức Giêsu – người ta chẳng có gì để mong đợi, vì "thịt" thì hư hoại và tiến về cái chết; đi từ "thịt", ta không thể chờ đợi sự sống bất hoại. Sự sống này chỉ đến từ Thánh Thần, từ quyền lực không bao giờ cạn kiệt ban sự sống của Thiên Chúa (x. Ga 3,6). Nhưng Đức Giêsu cũng nhấn mạnh rằng toàn thể các lời Người là Thần Khí và sự sống. Người không chỉ trình bày một vài suy tư về Thánh Thần và sự sống, về quyền lực không bao giờ cạn kiệt ban sự sống của Thiên Chúa và về sự sống bất hoại, nhưng Thần Khí và sự sống hiện diện trong chính các lời nói của Người và Người cho một chứng minh rõ ràng nhất về điểm này. Kể cả các lời Người nói về thịt và máu Người là Thần Khí và là sự sống, theo nghĩa là các lời ấy nói về Đấng không chỉ là thịt, mà là Ngôi Lời trở thành xác thịt (x. 1,14). Người ta chỉ hiểu Đức Giêsu đúng đắn nếu để ý đến chuyện Người là ai và bản chất các lời Người nói là thế nào. Nhưng người ta lại đáp lại bằng sự thiếu lòng tin, sự từ khước, sự ngờ vực đối với Người và đối với lời Người. Đức tin là một ân ban của Thiên Chúa (x. 6,37-44); nhưng đồng thời vẫn còn nguyên trách nhiệm của những người không tin và xa lìa Đức Giêsu. Nhiều môn đệ lãnh trách nhiệm này khi "rút lui, không còn ở với Người nữa" (c. 66).
* Nhóm Mười Hai ở lại (67-69)
Mẩu đối thoại của Đức Giêsu với nhiều môn đệ đã khởi đầu bằng lời phản đối của họ và bằng cách họ đánh giá các lời của Người theo cảm xúc. Bây giờ Đức Giêsu ngỏ lời với nhóm thứ ba bên trong đám đông, Nhóm Mười Hai, một nhóm rất gần gũi với Người, nhưng cũng bị cám dỗ, bị lay động, bị thách thức bởi những lời đòi hỏi của Người. Mẩu đối thoại của Người với Nhóm Mười Hai bắt đầu bằng một câu hỏi Người đặt ra: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" (Ga 6,67). Câu hỏi này không hề có đặc tính gây hấn, như thể Đức Giêsu muốn nói: "Anh em cứ việc bỏ đi!", trái lại câu hỏi này hàm chứa một lời mời ở lại. Đức Giêsu đặt câu hỏi và để cho các môn đệ tự do quyết định. Nhưng Người không rút lại bất cứ điều gì Người đã nói. Simôn Phêrô đã nhân danh nhóm ("chúng con") nói lên một câu trả lời có suy ngẫm và nêu ra ba lý do khiến các ông ở lại với Đức Giêsu chứ không đi theo đa số: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Ga 6,68-69).
Lý do thứ nhất là một suy tư sáng suốt: 'Chúng con không thể bỏ đi kiểu mù quáng. Khi bỏ đi, chúng con cần phải biết chúng con muốn bỏ ai, và gặp được điều gì tốt hơn và thuyết phục hơn nơi người nào. Chỉ đơn giản bỏ đi thì không có ý nghĩa'. Suy tư này giúp tránh những quyết định vội vã, theo tình cảm. Bởi vì không tìm được một vị thầy nào dứt khoát khá hơn, thì khôn ngoan là ở lại với Đức Giêsu.
Lý do thứ hai nhắc đến đặc tính của các lời Đức Giêsu. Chính Người đã nói: "Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống" (6,63). Bây giờ Phêrô chấp nhận điều ấy: "Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (c. 68). Ông đã hiểu rằng ân ban cao trọng nhất của Đức Giêsu là sự sống đời đời và nhận biết rằng Đức Giêsu nói về điều đó trong tư cách đáng tin nhất; Đức Giêsu không chỉ nói về điều đó, Người còn mang sứ điệp chắc chắn về sự sống đời đời và mở đường vào sự sống đó.
Lý do thứ ba liên hệ đến việc nhận biết bản thân Đức Giêsu. Phêrô nói về con đường giúp nhận biết như thế và nói về nội dung của nhận thức này. Nhóm Mười Hai đã ký thác và tín nhiệm hoàn toàn vào Đức Giêsu. Trên nền tảng của thái độ này, các ông đã hiểu và nhận biết rằng Đức Giêsu là "Đấng Thánh của Thiên Chúa" (c. 69). "Thánh" chính là điều thuộc về Thiên Chúa. Nếu Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, điều này có nghĩa là Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và được kết nối với Thiên Chúa trọn vẹn. Chính vì Đức Giêsu có một tương quan đặc biệt với Thiên Chúa, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, mà Người có những lời ban sự sống vĩnh cửu, và do đó, thật là điên rồ nếu xa lánh Người.
Qua câu trả lời ấy của ông, Phêrô đề cập đến ba chủ đề lớn của TM IV: (1) "sự sống đời đời" (36 lần; các TMNL: 14 lần); (2) "tin" (98 lần; toàn bộ Tân Ước còn lại: 145 lần); (3) "[nhận] biết"(56 lần; các TMNL: 58 lần). Lời tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu cũng chính là lời tuyên xưng tình yêu đối với Người.
+ Kết luận
Các lập trường đã rõ, các phe đã được xác định. Giuđa và những người Do-thái có thể chuẩn bị vụ xét xử Đức Giêsu. Trong thực tế, chính Con Người mới sắp xử dân bị Thiên Chúa loại trừ, ngay giữa niềm hân hoan của Lễ Lều và lễ Cung hiến Đền Thờ, là hai ngày lễ quy tụ Dân Thiên Chúa (Ga 7–10). Các môn đệ của Đức Giêsu cũng sẽ "bị xét xử": các hoàn cảnh sống của Đức Giêsu buộc các ông phải chọn lựa dứt khoát. Chỉ có một trong hai cách: bỏ đi hoặc ở lại với Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khi suy niệm bản văn Ga 6,60-69, người tín hữu hôm nay không được phép bằng lòng với việc trách móc nhóm môn đệ đã bỏ đi hoặc khen ngợi Nhóm Mười Hai vẫn còn ở lại. Làm như thế là quên mất rằng chính mình cũng là một môn đệ, là một trong Nhóm Mười Hai. Do đó, họ phải tự hỏi: Quan niệm của tôi về Đức Giêsu lâu nay như thế nào? Tôi đang đặt những niềm chờ mong gì nơi Người? Tại sao tôi còn ở lại với Người? Những câu hỏi này bắt tôi phải ra khỏi tình trạng nửa vời để dứt khoát chọn Đức Giêsu.
2. Người ta không thể nhận biết Đức Giêsu từ xa, nhưng chỉ khi ở gần; và người ta cũng không thể nhận biết Đức Giêsu khi dựa trên sự lãnh đạm, sự chỉ trích và kiêu ngạo, nhưng chỉ nhờ tin tưởng hoàn toàn vào Người. Phêrô không nhắc lại một trong cách danh hiệu quen thuộc của Đức Giêsu; ông không nhấn mạnh trên tầm quan trọng của Người đối với loài người, nhưng ông xác định được về Người nhờ dựa trên tương quan của Người với Chúa Cha.
3. Chúng ta không được lãnh nhận Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể rồi lại đi tìm các thú vui riêng cho mình; nếu chúng ta chỉ nghĩ đến mình, chúng ta không thật sự tin vào Đức Kitô. Đức Giêsu biết khó khăn này, nên Người mời chúng ta đi vào thế giới của Thánh Thần. Nếu chúng ta đặt sự chọn lựa của chúng ta trên nền tảng là lô-gích người phàm, chúng ta sẽ thất vọng. Chỉ khi nào chúng ta có thể lắng nghe tiếng gọi của Chúa Cha, khi nào chúng ta để cho Thần Khí thúc đẩy, chúng ta mới có thể hiểu và chọn Đức Kitô.
4. Có thể nói hoạt cảnh ngắn trong đó Phêrô xuất hiện ra như là người phát ngôn của Nhóm Mười Hai là phương tiện giúp tác giả suy tư về Nhóm Mười Hai. Tác giả ghi nhận rằng Nhóm Mười Hai đã được Đức Giêsu chọn (Ga 6,70), dù không cho biết vào dịp nào và trong những hoàn cảnh nào. Do sự trung tín của họ với Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai ở vào thế tương phản với những môn đệ đã sa sút. Không giống với các môn đệ đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai ở lại với Đức Giêsu. Tuy nhiên, tương lai còn đó để Nhóm Mười Hai xác nhận sự chọn lựa của các ông: cuộc Thương Khó của Đức Giêsu sẽ là biến cố tối hậu bắt các ông phải minh định lập trường của mình.
25. Bánh hằng sống
(Noel Quesson)
Đức Giêsu đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um: "Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời... Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi".
Chúng ta đã đọc đến đoạn cuối của diễn từ "Bánh hằng sống". Chúng ta sẽ tìm hiểu hiệu quả bài giảng của Đức Giêsu đối với thính giả, qua ngòi bút của một nhân chứng đã đích thân tham dự buổi diễn giảng này. Có hai hiệu quả:
Đó là sự vấp phạm và khước từ của đa số cử tọa.
Nhưng cũng là sự trung thành, khiêm tốn đầy tin cậy của nhóm nhân tố "Mười Hai".
Ở đây chúng ta có chứng tích lịch sử bậc nhất về cuộc sống của Đức Giêsu. Ba thánh sử kia cũng đã ghi lại rõ ràng khúc quanh quan trọng này trong sứ vụ của vị tiên tri làng Nagiaret: Đó là cơn khủng hoảng! Cho tới bây giờ, đám đông đã đi theo và tìm kiếm Người: Ở đây Gioan đã gọi họ là "môn đệ". Nhưng các "môn đệ" này, những người đã bắt đầu đi một đoạn đường với Đức Giêsu, đang từ bỏ Người. Sự mạc khải mầu nhiệm Thánh Thể bắt đầu làm cho đa số thính giả chán ngán vào cuối chương này, chúng ta có thể đếm số môn đệ nhỏ nhoi còn lại.
Tin Mừng đã thẳng thắn không che giấu chúng ta rằng Chúa đã thất bại trong ý định giúp ta hiểu về "bánh" của Người, "Bánh đích thực". Bởi vì nói cho cùng thì ai có thể hơn Đức Giêsu để giải thích cho chúng ta vấn đề này? Hai mươi thế kỷ qua đi, chúng ta vẫn tiếp tục ngạc nhiên khi thấy những con người nam nữ già trẻ từ chối bước theo Đức Giêsu để "nhận lấy mà ăn bánh và cầm lấy mà uống rượu của Người, và như Người tuyên bố thì đó là thịt và máu của Người". Và có thể chúng ta vẫn lên án Giáo Hội về điểm đó: "ôi giá kể Giáo Hội đã không thay đổi nhanh hơn... ôi, nếu Giáo Hội có lập trường như lập trường của tôi".
Thực ra chính "đức tin" là nguyên nhân của sự việc này, chứ không phải là một truyền thống phụng vụ, văn hóa, xã hội nào đó, và Đức Giêsu sẽ nói lại điều này với chúng ta một cách rõ ràng, không chút nhượng bộ.
Nhưng Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy.
Các bạn thấy không? Đức Giêsu không cần nghe những lời lẩm bẩm đó. Người biết trước, Người không ngạc nhiên, Người đang chờ đợi những lời đó. "Đức tin" khó khăn biết bao! Vì đức tin là "khước từ cách hiểu biết thông thường, nhờ giác quan và lý trí, lý luận" để "tin vào một người khác" đó là "tin mà không thấy", như Thánh Gioan sẽ nói rất nhiều lần.
Người bảo các ông: "Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?".
Vâng lạy Thầy, điều đó làm chúng con vấp phạm. Và Thầy biết rõ như thế. Từ Hy Lạp là động từ "Scandahzô" Ở đây dịch là vấp phạm, có nghĩa là điều đó làm các ngươi bất bình, các ngươi vấp phải ta như vấp phải một hòn đá chướng ngại. Chúng ta thường có khuynh hướng làm cho đức tin trở thành một thứ giáo huấn. Nếu giảng hay, những người trẻ sẽ đi dự lễ. Họ sẽ hiểu, họ không còn "biết" gì thêm nữa. Nhưng đối với Đức Giêsu, như chúng ta đã thấy đức tin luôn gây đụng chạm! Đức tin không hẳn nhiên là thế? Đức tin luôn luôn cho ta thấy chướng. "Đức tin" không phải là một bài học được lặp đi lặp lại, "nhưng" là một dấn thân trong cuộc sống". Đức tin là một "thực hành có hiệu quả". Đức tin là một sự "thúc hối" phải chấp nhận từ bỏ ánh sáng riêng của mình, được coi là có tính khoa học, để đón nhận mạc khải của một người khác mà không thể kiểm chứng được bằng những phương thế nhân loại. "Tuyên xưng đức tin" thực sự, không phải là đọc kinh Tin kính hay một "công thức" nào hay nhất do bộ óc văn minh của chúng ta, mà là thực hành không gì Chúa đã dạy. Mầu nhiệm trung tâm của đức tin, chắc chắn là Bí tích Thánh Thể. Khi ta nói "Người Kitô hữu là người đi dự lễ", thì ta chưa nói hết. Nhưng ta đã nói một phần nào cốt yếu, nếu ta hiểu Thánh lễ như chúng ta đang cố cử hành với chính Chúa Giêsu. Đức tin đó là một "quyết định". Quyết định này bao gồm hai khía cạnh:
1 "An bánh hằng sống".
2. "Sống đời mình bằng yêu thương hữu ích".
Thế khi anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?
Làm sao người này có thể cho thịt của mình để chúng ta ăn? Chính vì người này không chỉ là một con người. Đức Giêsu, thay vì rút lại lời khẳng định của mình hay là giải thích hoặc làm giảm nhẹ chúng, Người lại nhấn mạnh bằng cách gợi cho chúng ta một "mầu nhiệm" khác mà mầu nhiệm Thánh Thể chỉ là sự diễn dịch. Chúng ta đang thực sự ở trong đề tài Nhập Thể của Thiên Chúa. "Thần Khí" trở thành xác phàm.
Đây thực là một mầu nhiệm "thần linh" (không ai đã thấy Chúa) và vì thế con người không thể tự sức riêng mà hiểu được. Đức Giêsu ám chỉ rõ ràng "hữu thể thần linh của Người". Người nói Người sẽ trở về nơi mà trước kia Người đã ở. Chúng ta hãy lưu ý tới giọng nói hạch hỏi của Đức Giêsu này. Câu nói của Người hầu như chưa dứt: "Và khi anh em sẽ thấy Con Người lên nơi mà Người đã ở trước thì sao?".
Vâng, xuyên qua sự tối tăm, vẻ tầm thường, sự thân mật nơi thân phận con người hiện tại của Đức Giêsu, cần phải tiến đến sự khám phá vinh quang của Chúa Ba Ngôi. Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha, trong sự sống động của Thần Khí, mà Người đã lãnh nhận từ Chúa Cha. "Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi và Tôi sống nhờ Chúa Cha, thế nào thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy".
Thực sự chúng ta không biết sự sống là gì: sự sống bình thường của thảo mộc, cũng như động vật, không ai, không một nhà bác học nào đã có thể nói sự sống là gì?
Vậy thì "sự sống" của Thiên Chúa thì sao? Những phương tiện để hiểu biết mà con người có được đều bất lực, không thể giúp hiểu mầu nhiệm này. Người ta không thể giải thích Bí tích Thánh Thể chỉ bằng lý trí con người: Mầu nhiệm này thật vĩ đại, khôn dò, đó là mầu nhiệm đức tin.
Thần khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì
Lạy Chúa, xin lặp lại cho con những lời đó. Ước chi những lời này không làm cớ cho con vấp phạm và nghi ngờ.
Những lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ không tin. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người.
Hơn mọi lời khác, lời Chúa, nói về phép Thánh Thể, đã giả định trước tác động của Chúa thánh Thần. Chúng ta thực sự đang ở trung tâm điểm của Tin Mừng. Làm sao có thể giản lược Tin Mừng vào những giải thích luân lý: Đức Giêsu con người vĩ đại nhất, nhà hiền triết, vị ngôn sứ nhà cách mạng, là phong trào xã hội, là giải phóng... tất cả đều đúng, nhưng không phải là bản chất riêng của Chúa. Có một khía cạnh nổi bật khác, không thể thu nhỏ được mà chúng ta gọi là thần linh! Tức là vô hình, vượt trên tất cả. Chúng ta chỉ thấy được một phần nào siêu việt qua con người hữu thể của Người, mà phải mất một chút đoán nhận ra "ngang qua xác thể" nhưng đó vẫn thuộc về trật tự Thần khí và Sự sống.
Người nói: "Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho".
Chúng ta đang ở trong mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa, sự sống của Ba Ngôi. Hình trạng Chúa Ba Ngôi của Rublev đã diễn tả mầu nhiệm này cách kỳ diệu.
Ba nhân vật ngồi chung quanh một "cái bàn" và chỉ dùng một "chén". Tam vị nhất thể được tiếng trưng bằng một vòng tròn mà chu vi bên ngoài của ba ngôi vẽ nên cách ăn khớp tuyệt hảo. Là 3 hình nhưng để tạo nên một vòng duy nhất. Đó là một vòng tròn sống động luôn vận chuyển. Chúa Cha chủ tọa bên kia bàn. Người nhìn bằng cái nhìn tình yêu xuyên suốt trái tim, lồng ngực của Chúa Con. Còn Chúa Con lại nhìn sang Chúa Thánh Thần. Nhưng ta hãy nhìn kỹ dung mạo của Ngôi Ba và cử động bàn tay phải của người: Cả mặt và tay hướng xuống đất! Hình tròn được mở về phía chúng ta là những người đang đứng phía trước bàn, để ngắm nhìn "hình" này. Vâng, sự sống của Ba Ngôi được ban cho chúng ta, tại chiếc bàn này: Thần khí là sự sống được ban cho chúng ta, được dâng tặng cho chúng ta. Thiên Chúa, vì là Tình yêu, nên rõ ràng Người không thể ép buộc ai.
Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa. Nên Đức Giêsu mới hỏi Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?".
Dường như Chúa nói': "Tôi không giữ anh em, anh em được tự do". Trong cuộc xung đột đang xảy ra giữa những "môn đệ ra đi" và những người ở lại với Chúa, trong cuộc xung đột giữa cha mẹ và con cái chẳng hạn... chúng ta hãy nhớ lời của Chúa: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? "ông Simon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh, phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa".
Đây là những lời đầy khiêm hạ và đơn thành: "Bỏ Thầy, thì chúng con biết đến với ai bây giờ". Lời nói chứa chan tình yêu và sự phó thác, vì đối với họ, Đức Giêsu là Đấng "không ai có thể thay thế được". Tuy nhiên chúng ta nên ghi nhớ, Nhóm Mười Hai đêm trước đã có một kinh nghiệm có thể soi sáng cho họ: Giữa phép lạ hóa bánh ra nhiều và diễn từ về Bánh hằng sống là thịt của Người các ông đã thấy thân thể đó "bước đi trên mặt nước hồ đang nổi sóng dữ dội trong cơn bão tố" (Ga 6,16-21). Thân thể này không có trọng lượng như chúng ta. Đó là Thánh Thể Đấng Thánh của Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại giới hạn Thiên Chúa vào trong khả năng hiểu biết của chúng ta? Thiên Chúa vượt mọi khả năng của chúng ta. Điều đó thật hiển nhiên!
22/8 Luật sĩ và biệt phái giả hình
- Viết bởi J.M
Luật sĩ và biệt phái giả hình.
Thứ Bảy tuần 20 thường niên - Đức Maria Nữ Vương. Lễ nhớ.
"Họ nói mà không làm".
* Vì cả thân xác cũng đã được biến đổi, Đức Maria trong vinh quang mông triệu đã trở nên thành công tối hậu của công trình cứu chuộc. Nhưng Đức Maria vô cùng diễm lệ đồng thời cũng rất quyền thế bởi vì Người là Thánh Mẫu của Đấng mà "triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận". Chính vì thế, từ bao thế kỷ, các tín hữu đã kính chào Mẹ là Đức Nữ Vương, Đấng Trung Gian tối cao của ân sủng.
Lời Chúa: Mt 23, 1-12
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta: còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy". Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là "Thầy", vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là "cha", vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là "người chỉ đạo": vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Đức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
SUY NIỆM 1: Ðề phòng thái độ giả hình
Theo các văn thư của Ðức Giáo Hoàng Innocentê để lại, thì thời của Ngài, tức thế kỷ 12, là một trong những thời kỳ suy thoái nhất của giáo huấn về đức tin và luân lý: tệ đoan lan tràn khắp nơi, các phe phái quá khích nổi lên, nhiều người phê bình chỉ trích các vị lãnh đạo Giáo Hội vì cuộc sống phản chứng của các ngài. Lúc đó thánh Phanxicô Assisiô xuất hiện, ngài không chỉ trích ai, nhưng ý thức rằng kẻ phải ăn năn sám hối trước tiên là chính ngài; ngài không khoe khoang, không tham lam, không giả hình, nhưng cố gắng sống đạo một cách nghiêm túc; ngài đi cho đến tận cùng trọng cuộc sống nghèo khó, bác ái, phục vụ, khoan dung. Lý tưởng của thánh Phanxicô chẳng mấy chốc đã được nhiều người chia sẻ, Giáo Hội được hồi sinh, nhiều tâm hồn được đổi mới, mùa xuân thiêng liêng được nở rộ nhiều thế kỷ liên tiếp.
Trong giai đoạn hiện nay, mẫu gương của thánh Phanxicô Assisiô thôi thúc chúng ta hơn bao giờ hết.
Tin Mừng hôm nay không phải là một bản án trút xuống một vài thành phần nào đó trong Giáo Hội, mà phải là một lời mời gọi sám hối cho mọi người. Quả thật, Chúa Giêsu không chỉ kết án thái độ giả hình của những biệt phái, mà còn kêu gọi mọi người hãy đề phòng thái độ giả hình ấy. Giả hình là căn bệnh chung của tất cả những ai mang danh Kitô. Thật thế, nếu giả hình là tách biệt giữa niềm tin và cuộc sống, thì có ai trong chúng ta dám tự phụ mình không rơi vào một thái độ như thế? Giả hình vẫn là cơn cám dỗ cơ bản và triền miên trong cuộc sống người Kitô hữu. Khi căn tính Kitô chỉ là một danh xưng mà không được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày, khi sinh hoạt tôn giáo chỉ đóng khung trong bốn bức tường nhà thờ, khi lòng đạo đức được thúc đẩy bởi khoe khoang, tự phụ, khi cuộc sống đạo không là lối sống về niềm tin, mà là trở ngại cho nhiều người đến với Chúa và Giáo Hội, phải chăng đó không là một cuộc sống giả hình?
Câu hỏi mà chúng ta không ngừng đặt ra là cuộc sống đạo của tôi có thực sự là một đóng góp vào việc cải tạo một xã hội đang băng hoại về đạo đức và những giá trị tinh thần không? Giáo Hội mà tôi là thành phần, có xứng đáng là điểm tựa đạo đức cho nhiều người không?
Xin Chúa soi sáng hướng dẫn chúng ta để chúng ta không ngừng nhìn lại bản thân và nhận ra những thiếu sót lầm lỡ trong cuộc sống đạo, ngõ hầu từ đó chúng ta quyết tâm vươn lên mỗi ngày trên đường theo Chúa.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Trung Thực Với Lời Nói
Những lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với các kinh sư, những nhà thông thái Kinh Thánh biết rõ về Luật Môsê để giảng dạy cho dân chúng được hướng tới hai tật xấu quan trọng là giả hình và khoe khoang. Giả hình vì nếp sống cụ thể của họ không phù hợp với những gì họ giảng dạy cho dân chúng. Họ nói mà không làm, họ giải thích Luật Môsê cách tỉ mỉ nhưng là để cho kẻ khác tuân giữ còn họ thì không thèm động ngón tay vào đó. Thật ra không phải là họ không tuân giữ, vì họ luôn ăn chay, bố thí cho đền thờ, họ cầu nguyện, họ đọc Kinh Thánh. Nhưng họ làm tất cả những điều này để làm cho người ta trông thấy, để được khen thưởng, được danh lợi. Họ làm những điều tốt lành đó là để khoe khoang, là để được người khác nhìn thấy, là để được tranh hơn thiệt, để được chỗ ngồi danh dự, để được gọi là thầy, đó là họ thực hành những hình thức bên ngoài và không có tinh thần tôn thờ và yêu mến Chúa nơi chính họ. Chúa Giêsu trách những kinh sư và biệt phái như thế là để cảnh tỉnh các môn đệ đừng đi vào con đường không tốt.
Việc người thì sáng, việc mình thì quáng. Chúng ta dễ dàng nhìn thấy và phơi bày những tật xấu của anh chị em nhưng lại làm ngơ hoặc che dấu những tật xấu của chính mình. Trước đó, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh các môn đệ Người như sau: "Nếu sự công chính của các con không hơn sự công chính của các kinh sư và những biệt phái, thì các con sẽ không được vào Nước Trời; các con đừng để ai gọi mình là Thầy, vì chỉ có một Thầy, còn tất cả các con là anh chị em với nhau". Cộng đoàn các môn đệ chỉ có một Chúa Giêsu là Thầy và một Thiên Chúa là Cha. Chúng ta nên lưu ý đoạn Tin Mừng này không có ý chối bỏ quyền hành trong cộng đoàn những đồ đệ, nhưng chỉ chống lại lòng ham quyền, ham danh, lạm dụng địa vị để phục vụ cho cái tôi cao ngạo của mình. Những con người ham quyền ham danh như vậy muốn chiếm chỗ của Thiên Chúa trong tâm hồn anh chị em.
Chúa Giêsu không loại bỏ tác vụ phục vụ cộng đoàn để hướng dẫn cộng đoàn: "Ai nghe các con là nghe Thầy", nhưng Chúa muốn lưu ý rằng những thừa tác viên của Chúa có trách nhiệm đối với cộng đoàn cần sống nêu gương cho anh chị em, thực hành trung thực những gì mình rao giảng.
"Ai làm lớn trong các con phải là kẻ phục vụ cho tất cả". Quyền hành trong cộng đoàn những kẻ tin Chúa là quyền thừa tác nhân danh Chúa và phục vụ anh chị em, giúp anh chị em đến với Chúa chứ không phải là để cho quyền hưởng lợi cá nhân. Tất cả mọi thành phần trong cộng đoàn, những đồ đệ đều phải hướng về cùng một điểm trung tâm duy nhất là Thiên Chúa Cha và sống hiệp nhất, hiệp thông với nhau trong Chúa Kitô.
Lạy Chúa,
Xin giải thoát các con khỏi cám dỗ sống giả hình, khoe khoang. Xin thương củng cố chúng con tất cả trong ơn gọi và sứ mạng riêng biệt của mình nơi cộng đoàn dân Chúa. Xin đổ tràn ơn Chúa Thánh Thần xuống trên các con, giúp các con hiểu biết và yêu mến Chúa hết lòng và dấn thân hết sức mình phục vụ lẫn nhau vì yêu mến Chúa.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Phục Vụ Người Khác.
Bấy giờ Đức Giêsu nói với đám đông và các môn đệ Người rằng: "Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ của họ mà làm, vì họ nói mà không làm.
Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên. (Mt. 23, 1-3. 12)
Chúa nhấn mạnh: "Người lớn hơn cả phải là người phục vụ anh em" lần thứ nhất, Người nói với các môn đệ: "Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, là người lớn nhất trong Nước Trời" (Mt. 18, 4) Khi Phê-rô lên tiếng thay cho các tông đồ hỏi: "Chúng con sẽ được gì?" Đức Giêsu đáp: "Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, nhiều kẻ đứng hàng chót sẽ được lên đầu." (Mt. 19, 30). Rồi Người kết thúc dụ ngôn thợ làm vườn nho thế này: "Thế là kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và những kẻ đứng hàng đầu sẽ đứng chót." (Mt. 20, 16). Sau đó một chút, Đức Giêsu còn nhắc lại: "... Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải là người phục vụ anh em. Ai muốn làm đầu giữa anh em, thì phải là người phục vụ anh em. Ai muốn làm đầu giữa anh em, thì phải làm đầy tớ anh em" (Mt. 20, 26-27) Chúa lên Giê-ru-sa-lem lần cuối cùng, người lại kêu gọi các tông đồ: Ai giầu có về tài năng, về sáng kiến, về thông minh, về tấm lòng, phải làm đầy tớ! vì chính con người, đứng hàng đầu phải làm người đứng chót! "Chính con người đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ, và thí mạng sống mình" (Mt. 20, 28).
Chỉ cho tiền ...
Đức Giêsu khiển trách Pha-ri-sêu và luật sĩ thời đó, và cả thời chúng ta nữa: không giúp đỡ anh em! càng giầu, người ta càng phải cho đi! cho đi tiền của có thể là một lăng nhục, nếu người ta chỉ vì cậy có tiền.
Tiền không diễn tả được sự hy sinh hiến thân, tiền của giầu sang không làm cho ai hài lòng, bởi vì khi cho tiền, họ lại trở nên kẻ biển lận mà họ có.
Chúng ta cần lưu ý Chúa luôn luôn nói với những người giầu: chính họ cần thiết phải sống theo Tin Mừng ... Vậy người ta có can đảm dùng mọi của cải giầu có, dùng mọi quyền thế đề phục vụ người nghèo vì thực thi Tin Mừng không?
J.M
21/8 Giới răn trọng nhất
- Viết bởi J.M
Giới răn trọng nhất.
Thứ Sáu tuần 20 thường niên - Thánh Piô 10, giáo hoàng. Lễ nhớ.
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".
* Thánh nhân sinh năm 1835 tại Ri-ê-sê, nước Ý. Sau khi làm linh mục, người dấn thân thi hành việc mục vụ. Người làm giám mục Man-tô-va, rồi làm thượng phụ giáo chủ Vê-nê-xi-a và cuối cùng, năm 1903, được chọn làm giáo hoàng. Người chu toàn bổn phận của mình theo khẩu hiệu người đã chọn: "Canh tân mọi sự trong Chúa Kitô" với lòng đơn sơ, đời sống thanh bần và can đảm. Cùng với những đức tính ấy, người đã giúp các tín hữu sống đạo nhiệt thành và đối phó với những sai lầm đang lan tràn trong Hội Thánh. Người qua đời ngày 20 tháng 08 năm 1914.
Lời Chúa: Mt 22, 34-40
Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại. Đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?" Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".
SUY NIỆM 1: Giới Răn Yêu Thương
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là "Sư máy". Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.
Yêu thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người. Trả lời cho thắc mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất là mến Chúa và yêu người. Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì không thể kính mến Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật. Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa Giêsu đã điểm mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so sánh thái độ giả hình ấy với một người máy: người máy có thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục, nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.
Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Ðạo. Ði Ðạo, sống Ðạo, giữ Ðạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công thức: "Thiên Chúa là Tình Yêu", và ngài dẫn giải: "Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Ðấng nó không thấy".
Nguyện xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt lõi của Ðạo là Yêu Thương.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Ý Nghĩa Ðích Thực Trong Cuộc Sống
Những người theo phái Pharisiêu và phái Sađốc là hai nhóm người luôn đối nghịch với Chúa Giêsu vì Ngài đã nhiều lần mạnh mẽ lên tiếng khiển trách thái độ kiêu căng tự mãn và đạo đức giả của họ. Trước đó, Chúa Giêsu đã tranh luận với nhóm người Sađốc về sự sống lại của những người chết; theo đó thì người Sađốc không tin có sự sống lại ở đời sau, họ cũng không tin vào sự bất diệt của linh hồn cũng như vào sự vĩnh cửu của Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu, qua sự khôn ngoan và tài hùng biện xuất chúng đã chứng minh về sự sống lại ở đời sau và sự bất tử của linh hồn khi Ngài bảo với họ: "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của những kẻ chết, mà là của kẻ sống" khiến họ phải im miệng. Thấy vậy, những người Pharisiêu thừa cơ hội này mà trách móc Chúa Giêsu với chủ ý tìm ra kẽ hở để buộc tội Ngài bằng cách hỏi Ngài các lề luật của Thiên Chúa, để xem Ngài có hiểu tường tận về lề luật hay không hay cũng chỉ lập lại với những giới răn của Thiên Chúa, bởi vì những người Pharisiêu luôn tự mãn cho rằng họ hiểu rõ lề luật và các tập tục lễ nghi tôn giáo của dân Do Thái. Họ đã bỏ ra nhiều năm trời để học hỏi sáu trăm mười ba điều răn trong Cựu Ước và vô số điều luật khác. Trước câu hỏi của người luật sĩ về điều răn nào lớn hơn hết, Chúa Giêsu đã không trích dẫn một điều răn nào trong Mười Ðiều Răn mà Thiên Chúa đã mạc khải với ngôn sứ Môsê trên núi Sinai, mà chỉ tóm lược tất cả trong một điều răn lớn nhất là điều răn yêu thương: "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi, và ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình".
Qua câu trả lời này, Chúa Giêsu thay vì trích dẫn Mười Ðiều Răn trên núi Sinai, là một loạt những điều cấm đoán làm những việc tội lỗi với mục đích giữ dân Do Thái sống trong hồng ân của Ngài, thì Chúa Giêsu lại đưa ra một điều răn mới tích cực và có sức tác động hơn đó là yêu thương bằng với tất cả tâm hồn khiêm tốn. Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy biết yêu mến Thiên Chúa với tất cả tâm hồn vì Thiên Chúa là Ðấng tạo dựng vũ trụ. Ngài là sự toàn thiện và cội nguồn của tình yêu. Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại trước hết và tình yêu mến của chúng ta đối với Ngài là tất cả lời tích cực nhất về những hồng ân cao cả và lòng quảng đại bao la của Ngài. Tình yêu thương đối với những người thân cận vì thế cũng bắt rễ từ tình yêu Thiên Chúa.
Tất cả các giới răn của Chúa Giêsu trong toàn bộ Tân Ước cũng chỉ xoay quanh theo chiều hướng lòng yêu mến những người thân cận không thể nào tách rời khỏi tình yêu mến đối với Thiên Chúa, vì khi yêu mến người anh em là những người mà Thiên Chúa yêu thương có nghĩa là chúng ta thực sự yêu mến Thiên Chúa; ngược lại, thù ghét người anh em là chúng ta thù ghét và đối nghịch lại với Thiên Chúa. Khi chúng ta thực sự yêu mến người anh em của mình, tức là chúng ta sống trong tình yêu mến của Thiên Chúa và như thế tình yêu của Thiên Chúa trở nên toàn thiện trong chúng ta.
Lời răn yêu thương trong Phúc Âm hôm nay giúp chúng ta tìm thấy ý nghĩa đích thực trong cuộc sống, đó là trở nên toàn thiện trong tình yêu thương và trong sự hiệp nhất của Thiên Chúa. Ðây chính là lý tưởng sống cao cả của người tín hữu Kitô. Thêm vào đó, đức tin và lòng hy vọng vào tình yêu và lời hứa cứu rỗi của Chúa Giêsu là những động lực làm tăng trưởng tình yêu mến trong tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta luôn sống hiệp nhất với người anh em và với Thiên Chúa. Khi chúng ta càng hiểu biết về Thiên Chúa, thì chúng ta càng yêu mến Ngài nhiều hơn. Thiên Chúa thông qua hồng ân của Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta sự tự do đích thực để yêu thương như Ngài yêu thương, như thánh Phaolô tông đồ nói trong thư gửi tín hữu thành Rôma: "Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta".
Lạy Chúa,
Vì tình yêu của Chúa vượt lên trên hết mọi sự trên thế gian này, xin hãy đổ tràn tình yêu của Chúa vào trong con tim chúng con cũng như Chúa cho đức tin và lòng hy vọng trong chúng con thêm lớn mạnh. Xin dạy cho chúng con biết quảng đại hiến mình trong các công việc từ thiện và cho những người anh em khác như Chúa đã hy sinh vì chúng con.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Yêu Mến, Vâng Lời.
Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong sách luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn lớn nhất?" Đức Giêsu đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Trời, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình." (Mt. 22, 35. 36-39)
Mọi nỗ lực của con người đều khởi động từ cùng một nguồn gốc và hướng về một mục đích độc nhất là tình yêu. Con người không chỉ được dựng nên để vâng lời Thiên Chúa. Như vâng lời ông chủ, ông Chúa, nhưng con người còn được dựng nên để yêu mến Thiên Chúa như cha mẹ mình. Vâng lời chân thật khi yêu mến. Thiên Chúa không muốn có những kẻ nô lệ đầy sợ hãi, Ngài muốn có những người con tự do, tự nguyện. Tình yêu Thiên Chúa phải là trung tâm và nguồn mọi hiếu thảo.
Tình yêu của mọi người cũng phát xuất từ cùng nguồn mạch này. Mọi người đều có thể là người lân cận của tôi nhưng thực tế họ không cần thiết gần gũi tôi. Họ có lẽ ở rất xa, nhưng vẫn là đối tượng của tình yêu chân thật. Người lân cận là bất cứ ai được tôi liên hệ với họ một cách hữu hiệu và cụ thể. Tình yêu của môn đệ Đức Giêsu không có biên giới. Gương mẫu của họ là tình yêu Cha trên trời hằng làm cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ lành người dữ, ban mưa xuống cho người công chính cũng như kẻ bất lương. Mọi tương quan với người khác phải theo luật đồng đều: đó là tình yêu tạo nên sức mạnh hấp dẫn và đưa lại mối tương quan chân thật giữa người với người.
Thái độ duy nhất.
Chỉ có một sự đáng kể đối với người môn đệ của Đức Giêsu là thái độ yêu mến thâm sâu. Thật dễ hiểu, theo bản văn này. Người ta không bao giờ bị bó buộc đi tìm một câu đáp bất định cho một trường hợp cụ thể, ý Thiên Chúa luôn được sáng tỏ nhất định bởi tình yêu lớn lao nhất.
Hai tình yêu?
Có hai hướng khác nhau về tình yêu chăng? Một hướng về Thiên Chúa, một hướng về người ta. Tình yêu khác nhau cho trường hợp này và cho trường hợp kia ư? Chúa chỉ cho chúng ta qua đời sống của Người: Đâu là tương quan giữa hai tình yêu này. Trong đời sống của Đức Giêsu, sự chu toàn thánh ý Thiên Chúa và tình yêu phục vụ mọi người được thể hiện duy nhất trong một thực thể độc nhất. Thực hiển nhiên vì tình yêu đối với loài người mà Chúa đã chu toàn công cuộc cứu độ, nhưng tình yêu này không hề tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa, cũng chính là thánh ý của Thiên Chúa.
J.M
20/8 Tiệc cưới Nước Trời
- Viết bởi J.M
Tiệc cưới Nước Trời.
Thứ Năm tuần 20 thường niên – Thánh Bênađô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Các ngươi gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới".
* Thánh nhân sinh năm 1090 gần Đi-giông, nước Pháp. Được giáo dục theo nếp sống đạo đức, năm 1111, người nhập dòng các đan sĩ Xitô. Ít lâu sau, người được chọn làm viện phụ. Người đã dùng hoạt động và gương sáng để hướng dẫn các đan sĩ tập luyện các nhân đức. Vì có sự phân ly trong Hội Thánh, người đã đi khắp châu Âu để lo vãn hồi sự hòa bình và hiệp nhất. Người đã biên soạn nhiều tác phẩm thần học và tu đức. Người qua đời năm 1153.
Lời Chúa: Mt 22, 1-14
Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới". Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới". Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.
Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!" Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".
SUY NIỆM 1: Tiệc Cưới, Áo Cưới
Dụ ngôn tiệc cưới và chiếc áo cưới trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta mặc lấy một trong những tâm tình cơ bản nhất của Kitô giáo, đó là hân hoan, vui mừng. Kitô giáo thiết yếu là đạo của Tin Mừng.
Trong rất nhiều sinh hoạt và hình ảnh của cuộc sống, Chúa Giêsu đã chọn bữa ăn như dấu chỉ ưu việt nhất để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Nước Trời giống như một tiệc cưới, đây là một trong những hình ảnh được Chúa Giêsu sử dụng nhiều nhất để nói lên niềm vui của Nước Trời. Chúa Giêsu cũng mặc cho bữa tiệc của Ngài một ý nghĩa tượng trưng đặc biệt. Chúng ta chỉ cần nhớ lại tiệc cưới Cana, trong đó Chúa Giêsu đã biến nước thành rượu để khách dự tiệc được tiếp tục cuộc vui. Ngài dự tiệc do Lêvi, do Zakêu và rất nhiều người thu thuế khoản đãi; Ngài đồng bàn với họ, chia sẻ một tấm bánh và uống một chén rượu với họ.
Không những đồng bàn với những người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng không từ chối lời mời của những người Biệt phái, những người giàu có. Ngài chia sẻ bữa ăn thân thiết với gia đình Marta, Maria và Lazarô tại Bêtania. Ngài thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng của Ngài với các môn đệ. Sau khi sống lại, Ngài ngồi đồng bàn với hai môn đệ trên đường Emmau. Ngài hiện ra trên bờ hồ và chuẩn bị bữa ăn cho các môn đệ, rồi Ngài cùng ăn cùng uống với các ông.
Bữa ăn là nơi thể hiện của những giá trị cao quí nhất trong cuộc sống của con người, như gặp gỡ, hiệp thông, trao ban, chia sẻ, hân hoan. Chính vì ý nghĩa cao quí ấy, Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh bữa tiệc để nói lên những thực tại Nước Trời. Ðến đây, chúng ta hiểu được ý nghĩa của hình ảnh chiếc áo cưới mà thực khách phải mặc vào khi dự tiệc cưới. Chiếc áo cưới ấy chính là tâm tình gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, hân hoan mà con người phải mặc lấy để thuộc về Nước Trời.
Có người đã tưởng tượng ra Thiên đàng, hỏa ngục như hai bàn tiệc. Bàn tiệc dưới hỏa ngục cũng mâm cao cỗ đầy, thế nhưng khách dự tiệc thì ngồi ủ rũ buồn thiu, bởi vì mỗi người đều cầm trong tay một đôi đũa dài đến độ thức ăn thì gắp được, nhưng không thể đưa thức ăn vào miệng. Bàn tiệc trên Thiên đàng cũng y hệt, nhưng khác một điều, là thay vì gắp thức ăn cho vào miệng mình, người ta lại gắp thức ăn và đưa vào miệng người đối diện, thế là vui vẻ cả, vì ai cũng được ăn uống no nê.
Ước gì niềm vui bàn tiệc thánh mà chúng ta tham dự cũng được tiếp tục thể hiện trong đời thường của chúng ta. Ước gì cả cuộc sống chúng ta luôn được diễn ra trong gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, vui tươi, nhờ đó chúng ta cảm nhận được niềm vui đích thực của Nước Trời và thắng vượt được mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Mặc Áo Cưới
Thiên Chúa ban ơn và mời gọi mọi người đến lãnh nhận ơn cứu rỗi để được hưởng hạnh phúc đời đời, điều này được diễn tả qua hình ảnh bữa tiệc cưới được dọn ra cho con người nhưng những kẻ được mời đã không đến dự. Con người tìm hạnh phúc ở nơi khác ngoài Thiên Chúa, ngoài chương trình Thiên Chúa mong muốn. Sự chối từ của con người không làm cho Thiên Chúa bỏ dở công cuộc của Ngài, Ngài tiếp tục mời gọi con người đến với Ngài. Nhưng có một chi tiết đáng lưu ý, những kẻ bước vào dự tiệc phải giữ điều tối thiểu đó là mặc áo cưới. Các nhà chú giải hiểu việc mặc áo cưới như là mặc lấy Chúa Kitô và được thánh Phaolô tông đồ giải thích nơi thư Êphêsô như sau: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa kia, là con người phải hư nát vì những ham muốn lừa lọc. Anh em phải để Thánh Thần đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thực sự sống công chính và thánh thiện". Ðể vào Nước Thiên Chúa theo lời mời gọi của Chúa, mọi người phải mặc áo cưới, tức là mặc lấy Chúa Kitô, sống thánh thiện, từ bỏ những hành vi xấu xa tội lỗi. Thiên Chúa luôn ban ơn nhưng con người cần cộng tác với ơn Chúa. Chúng ta đừng tìm lý do trì hoãn sự dấn thân đáp trả lời mời gọi của Chúa.
Lạy Chúa
Chúng con chúc tụng lòng nhân từ của Chúa muốn ban ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người. Xin giúp chúng con mau mắn đáp lại tiếng Chúa kêu mời, luôn canh tân đời sống, mặc lấy Chúa Kitô để thực sự vui hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa, cùng hiệp an với các thánh nhân trên trời.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Cơ Hội Cho Kẻ Giàu
Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: "Nước Trời cũng giống như vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến."
Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.
Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy đó có một người không mặc y phục lễ cưới. (Mt. 22, 1-3, 10-11)
Người ta cho rằng dụ ngôn này ám chỉ người Do-thái trước hết. Chính họ là những người nghe đầu tiên, thế mà khi nói với họ, Người lại bị họ theo dõi... truy lùng.... Họ là những người giầu trong Nước Trời. họ được đặc quyền sống với Thiên Chúa từ bao thế kỷ rồi.
Khách mời của Chúa.
Luôn luôn có nhiều người giầu trên thế giới. Nước Trời được dâng biếu cho họ trước hết. Đúng vì họ giầu, họ có thể giúp đỡ người nghèo. Họ có thể hiến thân. Nếu họ đi sai, có phải chính vì họ không nghe tiếng Chúa không?
Để dự tiệc cưới...
Không thiếu những kẻ muốn dự tiệc cưới. Không phải chỉ vì họ không có gì tặng, nhưng chỉ vì họ không chịu mặc áo cưới: đó là điều kiện độc nhất như luật tiệc cưới buộc. Ngạc nhiên ư? nếu người ta chấp nhận thì phải mặc trang phục tiệc cưới để vào ăn cưới theo tục lệ thời đó. Thế mà vào dự tiệc, chúng ta lại quá tự do, tự diễn không theo ý chủ mời nên mới phải chịu trách nhiệm! Đàng khác, chúng ta được lựa chọn, có thể từ chối. Nhiều người đã xin lỗi từ chối. Ngày nay, người ta lấy cớ giữ giới răn thì cổ lỗ chừng nào. Giáo lý của Giáo Hội nhất là về công bằng, bác ái thì lạc hậu biết bao!
Người ta thỏa mãn với nhiều thần tượng khác, người ta sống trong giầu có dư thừa và độc lập tự mãn; tại sao tự khép kín, tự tôn mình làm Thiên Chúa như thế?
Vua sai đầy tớ đi thỉnh khách đã được mời trước, nhưng họ từ chối. Chúng ta từ chối, chúng ta phải hứng chịu những hậu quả ghê gớm mai ngày sau cái chết, và ngay ngày hôm nay chúng ta đang sống. Những giới răn của Thiên Chúa không còn giá trị nữa sao? Chúng ta đã thay thế giới răn đó bằng thứ gì? Người ta từ chối dự tiệc Nước Trời để được tự do: như đứa con hoang đàng, chúng ta bằng lòng dự tiệc với đồ ăn của heo sao?
Nhưng Cha trên trời đang ở đó để chờ đợi chúng ta luôn luôn! chúng ta không chỉ là khách được mời, chúng ta còn là con Cha nữa.
J.M
19/8 Lòng nhân lành của Chúa
- Viết bởi J.M
Lòng nhân lành của Chúa.
Thứ Tư tuần 20 thường niên.
"Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng".
Lời Chúa: Mt 20, 1-16a
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông.
"Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
"Đến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: "Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng: "Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta".
"Đến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết". Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Đang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?" Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?"
"Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".
SUY NIỆM 1: Lòng Quảng Ðại Của Thiên Chúa
Dụ ngôn Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài cho dân chúng được các nhà chú giải xếp thành hai loại: tỷ dụ và dụ ngôn. Loại tỷ dụ là thể văn mà toàn bộ những chi tiết đều mang ý nghĩa nòng cốt, còn các chi tiết phụ chỉ làm cho câu truyện thêm thú vị và khiến người đọc quan tâm chú ý đến ý chính mà thôi.
Câu truyện về những người thợ vào làm vườn nho của chủ là một dụ ngôn. Chủ đề chính của dụ ngôn là mối liên hệ của con người với Thiên Chúa trên bình diện ân sủng.
Trong lúc các Rabbi Do thái thường tính toán phần thưởng Thiên Chúa ban cho mọi việc lành, thì cách tính toán sòng phẳng theo công bình giao hoán này hoàn toàn bị dụ ngôn làm đảo lộn, vì nếu chúng ta tính với Chúa, Ngài sẽ tính với chúng ta, và chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc và chúng ta sẽ là kẻ thiệt thòi.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để cảnh cáo người Do thái không nên so đo, phân bì với người tội lỗi hay người ngoại giáo được ơn Chúa trở lại và thừa hưởng Nước Trời, bởi vì Nước Trời là phần thưởng nhưng không do lòng quảng đại của Chúa, chứ không do lòng đạo đức hay công nghiệp của con người. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho những kẻ phàn nàn kêu trách nêu bật lòng quảng đại của Thiên Chúa: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một quan sao; cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn, tôi không có quyền được tùy ý sử dụng của cải tôi sao?". Thiên Chúa đối xử tốt với mọi người, Ngài ban ơn cho mọi người chỉ vì lòng thương của Ngài mà thôi. Còn con người thì dễ bị cám dỗ, ghen tỵ, hẹp hòi, muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy xét xem mình đã có thái độ nào đối với người khác, nhất là khi thấy họ được sự lành? Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tính ghen tỵ và cho chúng ta sống quảng đại với mọi người.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Giá Trị Và Nhân Phẩm Con Người (Mt 20,1-16a)
Qua câu chuyện ngụ ngôn về người chủ vườn và các công nhân làm vườn nho, Chúa Giêsu đã diễn tả lòng quảng đại và lòng bác ái vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại. Ngài đã dùng một thực tại rất gần gũi với đời sống xã hội của người Do Thái đương thời là vào thời ấy các công nhân thường hay đứng đợi ở những nơi công cộng như chợ búa chẳng hạn, để chờ các chủ nhân đến mướn làm việc. Thường là những công việc làm ngắn hạn, có khi chỉ là một ngày công mà thôi cho nên nếu ngày nào mà có những công nhân đó không có việc làm có nghĩa là ngày ấy thiếu những bát cơm nóng trên bàn ăn của gia đình.
Trong chuyện ngụ ngôn hôm nay, người chủ nhân đã gọi các công nhân làm việc vào giờ cuối cùng nhưng đã rộng lượng trả tiền thù lao cho họ ngang bằng với tiền trả cho những người làm việc cả ngày. Qua lối nói ẩn dụ này Chúa Giêsu cho thấy lòng nhân ái của Chúa Cha đối với nhân loại, nhất là đối với những kẻ tội lỗi, những người bị áp bức và bị đẩy ra bên lề của xã hội phong kiến thời ấy. Có những người thất nghiệp không phải vì họ lười biếng không chịu làm việc mà vì hệ thống kinh tế thời đó không tạo ra công ăn việc làm cho người dân. Người chủ nhân mướn và trả công thật hậu cho những người làm việc vào giờ chót, cho thấy tấm lòng quảng đại bao la của ông, vì nếu ông chỉ trả lương đúng theo số giờ họ đã làm việc thì chắc chắn là gia đình của những người này sẽ thiếu ăn trong ngày hôm đó.
Thiên Chúa chính là vị chủ nhân tốt lành và quảng đại với tất cả tạo vật của Ngài. Ngài luôn quan tâm và thương xót nhân loại, nhất là đối với những người đau khổ về mặt vật chất lẫn tinh thần như lời Ngài nói: "Tất cả những ai mang gánh nặng nề hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng". Như thế, người chủ nhân đã rộng lòng trả tiền lương cho tất cả các công nhân ngang bằng nhau, không kể họ làm việc vào giờ nào, điều đó không phải là sự bất công. Người chủ vườn là Thiên Chúa luôn công bằng với các tạo vật của Ngài, ai làm việc nhiều giờ hay ít giờ đối với Ngài không là việc thiết yếu; điều quan trọng là ý định và thái độ làm việc của các công nhân.
Thiên Chúa yêu mến những ai phục vụ Ngài bằng với tinh thần yêu thương và hân hoan chứ không làm việc vì muốn được hưởng công hậu hay vì mục đích tham vọng cá nhân. Sự làm việc có một giá trị thiêng liêng đối với con người vì qua sự làm việc, con người làm vinh danh Thiên Chúa và cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu độ của Ngài. Qua công việc làm, con người trở nên hữu ích và góp phần vào công việc xây dựng và làm thăng tiến xã hội, và cũng qua đó tìm thấy giá trị và nhân phẩm của mình.
Qua chuyện ngụ ngôn hôm nay những công nhân được mướn làm giờ đầu tiên ám chỉ đến dân tộc Israel, là dân tộc đã được Thiên Chúa chọn làm dân riêng và được Ngài mạc khải chương trình cứu độ, nhưng dân Do Thái đã từ khước Thiên Chúa lại còn giết hại Con Một do Ngài sai tới để cứu chuộc thế gian. Nhưng tình yêu thương được thể hiện qua công trình cứu độ của Thiên Chúa không giới hạn trong quốc gia Do Thái mà còn mở rộng đến mọi dân tộc trên thế gian.
Các công nhân được gọi làm việc trong vườn nho vào giờ cuối cùng là hình ảnh tiêu biểu cho tất cả các dân ngoại đã từng hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa như Ngài đã ban ơn cho dân Do Thái.
Lạy Chúa,
Xin dạy cho chúng con biết phục vụ Chúa và những anh chị em khác với lòng quảng đại và niềm hân hoan. Xin cho chúng con biết dâng hiến nhiều hơn là cầu xin cho sự ích lợi của riêng mình.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Sống Hằng Ngày Với Ý Hướng Đời Đời
"Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.
Chiều đến ông bảo người quản lý: Anh gọi thợ lại và trả công cho họ, bắt đầu từ người vào làm sau chót tới người làm trước nhất."
Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: "Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt."
Thế là những kẻ đứng sau chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. [Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.] (Mt. 20, 1.8.11.12.16)
Người ta cho rằng: "Sự giải thích thực tế của cổ truyền không được nhất trí về chủ đề của dụ ngôn này" Xin cho phép tôi diễn tả ý tưởng của riêng tôi như sau.
Tình yêu đối với kẻ đứng chót.
Tình yêu Thiên Chúa đối với kẻ đứng chót là tình yêu vô cùng, vô cùng đối với tất cả và từng người. Mỗi người nhận được tình yêu vô cùng này tùy theo khả năng yêu mến của mình.
Tình yêu Thiên Chúa là ân huệ cho không, nhưng có tính cách như một nghĩa vụ, Thiên Chúa yêu ta nhưng không, như cha thương con của Ngài, chúng ta được quyền đó. Đức Kitô không chết để tô điểm cho tình yêu thêm bóng bẩy, Người chết vì vâng lời Chúa Cha. Sự vâng phục của Đức Kitô cho chúng ta thêm khả năng yêu mến Thiên Chúa như chúng ta ước muốn. Cái chết của Đức Kitô nhắc nhở chúng ta nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa vô cùng, đời đời. Ngài là chủ nhà, là cha trong gia đình. Ngài ban tình yêu của Ngài cho từng đức con mộtc cách trọn tình. Chúng ta phải đáp lại tình yêu của Ngài, phải làm sống lại tình yêu của Ngài.
Luôn luôn làm việc hết mình.
Đừng nghĩ rằng những giờ trong ngày làm việc là những khoảng khắc thời gian đồng hồ! Tôi xin gợi ý rằng cần phải biết giá trị thời gian này là kỳ hạn của đời người, của những thái độ chúng ta trước dung nhan Thiên Chúa. Sáng sớm chủ đi, mướn tất cả thợ mà ông gặp, nhưng đến giờ chót vẫn còn một số thợ.
Phần đông chúng ta cũng là số thợ được tình yêu vô cùng của Chúa vào giờ chót. Vì thế chúng ta phải có ý thức hăng hái làm việc hết mình để đáp lại tình yêu vô bờ bến ấy. Những thợ giờ chót không phải là những kẻ chậm trễ, nhưng là những kẻ sống hằng ngày với ý hướng đời đời rồi.
Được Chúa tiếp nhận, được tình yêu lạ lùng của Thiên Chúa đối với con người. Những người thợ này hiến thân hết lòng đối với tình yêu đã an ủi họ.
Hơn nữa, những kẻ trở về, đừng nghĩ chuộc lại thời gian đã mất, nhưng hãy kính mến Chúa hết lòng vì Người đã mong chờ mình mọi ngày như người cha chờ mong đứa con phung phá trở về.
J.M
18/8 Đường vào Nước Trời.
- Viết bởi J.M
Đường vào Nước Trời.
Thứ Ba tuần 20 thường niên.
"Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời".
Lời Chúa: Mt 19, 23-30
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo thật các con: Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời. Thầy còn bảo các con rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời". Các môn đệ nghe vậy thì bỡ ngỡ quá mà thưa rằng: "Vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu nhìn các ông mà phán rằng: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được". Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: "Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết".
SUY NIỆM 1: Giáo Hội Của Người Nghèo
"Giáo Hội của người nghèo", "Ưu tiên phục vụ người nghèo", đó là những khẩu hiệu đã trở thành thời trang trong Giáo Hội kể từ vài thập niên qua. Bất cứ ai có ý thức về công bằng xã hội hoặc đôi chút trăn trở về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, cũng đều thốt lên những khẩu hiệu ấy. Nhưng Giáo Hội có thực sự là Giáo Hội của đại đa số dân nghèo khổ chưa?
Sự hiện diện của người nghèo quả là một thách đố lớn cho Giáo Hội. Ngày nay, tiếng kêu than của họ luôn là một nhắc nhớ cho Giáo Hội về bản chất và sứ mệnh của mình trong thế giới. Cuộc trở lại của Hoàng đế Constantinople vào thế kỷ thứ 4 đã chấm dứt những cuộc bách hại đẫm máu và đã biến Tây Phương thành thế giới Kitô giáo, nhưng không chừng đã làm Giáo Hội quên đi bản chất đích thực của mình. Sự tương nhập giữa thế quyền và giáo quyền đã biến Giáo Hội thành một thế lực chính trị, và các vị lãnh đạo Giáo Hội thành những vua chúa trần gian. Nhiều người đã có lý để nói rằng nhờ những lay động của Karl Marx mà Giáo Hội đã lắng nghe được tiếng kêu than của người nghèo, đồng thời ý thức được vai trò và sứ mệnh của mình trong thế giới ngày nay.
Ngay từ khi mới khai sinh, cộng đoàn Kitô tiên khởi đã ý thức được vấn đề ấy. Tin Mừng hôm nay là một phản ánh về những trăn trở của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, cách riêng cộng đoàn Giêrusalem là cộng đoàn gồm toàn những người nghèo trong xã hội thời bấy giờ. Ðọc lại giáo huấn của Chúa Giêsu về thái độ của Kitô hữu đối với tiền bạc của cải, cộng đoàn tiên khởi đặt lại vấn đề về sự hiện diện của người giầu trong Giáo Hội. Theo quan niệm quen thuộc của người Do thái, thì sự giầu sang phú quí là một chúc lành của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đánh đổ quan niệm sai lầm ấy, khi nói rằng: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó", và rằng sự nghèo khó là điều kiện thiết yếu để vào Nước Trời.
Giáo Hội của người nghèo, điều đó có nghĩa là trước tiên tất cả những ai thuộc về Giáo Hội đều phải có tinh thần nghèo khó đích thực, họ phải sống phó thác và quảng đại chia sẻ cho nhau. Các Kitô hữu tiên khởi đã hiểu được điều ấy: họ để chung của cải lại, chia sẻ với nhau và yêu thương đùm bọc nhau như trong cùng một gia đình. Giáo Hội của người nghèo, điều đó cũng có nghĩa là các tín hữu phải lấy sự phục vụ người nghèo làm ưu tiên hàng đầu. Bản sắc của người Kitô hữu do đó được xác nhận bằng chính tương quan với người nghèo.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại cách sống đạo của chúng ta. Thách đố của Giáo Hội hiện nay cũng chính là thách đố của mỗi người chúng ta. Nếu những người cùng khổ chưa phải là thao thức trăn trở của chúng ta, thì có lẽ chúng ta còn quá xa với Giáo Hội Chúa Kitô. Nếu cuộc sống chúng ta chưa phải là cuộc sống liên đới chia sẻ với người khốn khổ, thì có lẽ chúng ta chỉ là những Kitô hữu hữu danh vô thực.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Chiến Thắng Mọi Cám Dỗ (Mt 19,23-30)
Sự ham tiền và bám víu vào tiền của làm cho con người trở nên mù quáng và cản bước con người trên con đường theo Chúa. Bài Phúc Âm hôm qua mô tả thái độ của chàng thanh niên buồn rầu bỏ cuộc, không muốn theo Chúa nữa vì anh ta có nhiều của cải. Chúa Giêsu rút ra bài học cho các môn đệ như sau: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa". Câu kết luận xem ra thật khắt khe, nhưng đây là một lối nói phóng đại của vùng Cận Ðông nhằm đánh động người nghe, khơi lên ý thức về một sự thật quan trọng. Trong đời thường, có bao giờ con lạc đà có thể chui qua lỗ kim nhỏ xíu được. Thế nhưng, giả như có thể có trường hợp này thì nó cũng còn dễ dàng hơn việc người giàu có vào nước Thiên Chúa. Và cách nói qua hai lần phủ định cho rằng không thể được đã nói lên sự thật quan trọng.
Chúng ta không nên hiểu lầm phán quyết khắt khe của Chúa Giêsu về thái độ bám víu của cải và quí trọng của hơn là con người. Chàng thanh niên rút lui vì có nhiều của cải, không phải chỉ có mà thôi nhưng còn bám víu vào đó.
Lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu không phải chỉ áp dụng cho những ai sắp dấn thân bước theo Chúa cách đặc biệt mà thôi, nhưng còn cho tất cả những ai đang theo Chúa nữa. Cám dỗ của quyền lực và tiền của là cám dỗ trường kỳ của thân phận làm người. Thoát ra khỏi cám dỗ này không phải là việc dễ dàng, vì thế Phêrô vội vàng hỏi Chúa Giêsu: "Vậy thì ai có thể được rỗi?" Ðáp lại, Chúa Giêsu mạc khải bí quyết sống cho các môn đệ và cũng là trấn an các ngài: "Ðối với con người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể".
Thiên Chúa có thể làm được mọi sự, con người cần tin tưởng phó thác vào Người. Bí quyết của Chúa Giêsu đề ra qua câu nói trên là bí quyết sống kết hiệp với Chúa để nhờ sức mạnh của Người mà chiến thắng cơn cám dỗ và thoát khỏi những cản trở không cho ta gặp Chúa. Sự bám víu vào của cải là dấu chỉ của người đồ đệ chưa phát triển được mối tương quan thân tình với Chúa. Chúng ta đang ở mức độ nào đây?
Lạy Chúa
Xin thương giúp con phát triển mối thân tình. Xin giúp con tăng sự sống kết hiệp với Thiên Chúa để trổ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy chúng con không làm chi được.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Từ Bỏ Tất Cả
Bấy giờ Đức Giêsu nói với các môn đệ của Người: "Thầy bảo thật anh em, người giầu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào Nước Thiên Chúa." (Mt. 19, 23-24)
Của giầu mà cậy chi giầu...
Hiển nhiên là đống vàng chẳng tạo ra được liêm chính hay bất chính. Kẻ tôn thờ của cải chẳng khá bao giờ, mà còn bị lòng tham và tính hà tiện dày vò; Người giầu trong đoạn Tin Mừng này chắc chắn là người có gia tài kếch sù và đối với nó có gí trị sinh sống.
Tất nhiên, Đức Giêsu biết tài sản sở hữu không phải là không có giá trị, nó là loại khá quan trọng như tiền bạc, bất động sản, nữ trang. Nó giúp cho có đủ khả năng chính đáng khi người ta biết dùng của cải để thương giúp người khác. Không ai phủ nhận những việc làm tốt lành đó, nếu họ không hoàn toàn từ bỏ Thiên Chúa.
Những kẻ đứng đầu những kẻ rốt hết...
Phê-rô phản ứng đúng theo những ước muốn của chúng ta, những đòi hỏi của chúng ta, cũng là bầy tỏ lòng chân thành. Như hầu hết chúng ta, Phê-rô không ngại phát biểu: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy..." Bỏ ai, bỏ gì? truyền thống cho biết phải có gia đình, có nhà cửa ở Ca-phát-na-um, gần biển hồ, có thuyền chài lưới. Ông chưa bỏ nhà cửa, thuyền lưới, người ta thấy ông nhiều lần đem thuyền đi đánh cá. Thế mà ông quả quyết: Chúng con bỏ mọi sự. Chúa đã không trách chi, trái lại Chúa nói: "Anh em hãy theo Thầy."
Đó là lời mời gọi tiến hơn nữa để yêu mến Chúa. Một tình yêu độc nhất phải từ bỏ tất cả. Người không muốn các ông dựa vào ai nữa.
Người luôn luôn nhắc nhở chúng ta: càng trơ trọi càng gần Thiên Chúa. Càng nghèo khó, càng cố kết với Thiên Chúa. Trong nhiều dụ ngôn Chúa đã nói như thế. Giờ đây chúng ta chọn Chúa hay chọn Mammon (thần tài)?
J.M
17/8 Sống trọn lành
- Viết bởi Mt 19, 16-22
Sống trọn lành.
Thứ Hai tuần 20 thường niên.
"Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời".
Lời Chúa: Mt 19, 16-22
Khi ấy, có một người đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?" Người bảo kẻ ấy rằng: "Sao ngươi hỏi Ta về việc lành? Chỉ có một Ðấng nhân lành là Thiên Chúa. Nếu ngươi muốn vào nơi hằng sống, ngươi hãy tuân giữ các giới răn". Người ấy hỏi rằng: "Những giới răn nào?" Chúa Giêsu đáp: "Ngươi chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ, và yêu thương kẻ khác như chính mình". Người thanh niên thưa lại rằng: "Tất cả những điều đó tôi đã giữ từ khi còn niên thiếu, vậy tôi còn thiếu sót gì nữa chăng? Chúa Giêsu bảo anh: "Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta". Khi người thanh niên nghe lời đó thì buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều sản nghiệp.
SUY NIỆM 1: Ðường Ðến Sự Sống Ðời Ðời
Tin Mừng hôm nay ghi lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên giàu có. Người thanh niên đến gặp và xin Chúa Giêsu chỉ con đường dẫn đến sự sống đời đời, đó là một ý nghĩ khôn ngoan. Tuy nhiên, thái độ của anh đáp ứng Lời Chúa Giêsu chứng tỏ anh mới chỉ có ý nghĩ một chút về sự khôn ngoan. Anh thoáng thấy của cải không phải là hạnh phúc đích thực, vì thế, anh đến với Chúa để tìm sự khôn ngoan. Khốn nỗi, con đường khôn ngoan mới vạch ra đã bị của cải cản lối khiến anh không nhận ra được rằng sự sống đời đời mới là của cải quí giá nhất mà anh phải tìm kiếm.
Người thanh niên tìm đến với Chúa Giêsu, vì nhận thấy Ngài là một tôn sư có gì khôn ngoan hơn những bậc thầy trong dân Israel mà anh thường gặp. Anh chưa nhận ra Chúa Giêsu chẳng những là tôn sư dạy sự khôn ngoan, mà còn là chính sự khôn ngoan; Ngài không chỉ đưa ra một lời dạy khôn, mà còn là lời ban sự sống đời đời; ai đón nhận và thực hiện lời Ngài sẽ được sống đời đời. Chính vì thế, anh đã sầm nét mặt, buồn sầu bỏ đi khi Chúa Giêsu bảo anh: Hãy về bán hết của cải, rồi đến theo Ngài. Anh yêu của cải hơn sự sống và hạnh phúc đời đời. Anh tưởng Lời Chúa chỉ là một trong những lời chỉ giáo muôn mặt của các bậc thầy trong Israel, có theo hay không cũng chẳng sao, cứ nắm giữ lề luật cha ông truyền lại đã đủ chiếm được Nước Trời. Do đó, anh làm sao hiểu được lời này: "Anh chỉ còn thiếu một điều".
Anh đã thực hiện những gì ghi trong lề luật, nhưng anh còn thiếu một điều, mà thiếu điều đó, những gì anh đã nắm giữ mới chỉ là thứ công chính của Biệt phái không thể vào Nước Trời được. Ðiều anh còn thiếu chính là tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là liên kết với Ngài và thực hiện Lời Ngài. Vì Lời Ngài là lời thần linh làm cho việc tuân giữ giới răn trở thành sức sống trong tâm hồn con người.
Thật ra, tự nó, của cải không cản trở người ta vào Nước Trời, nhưng thái độ ham mê của cải cản trở người ta yêu mến Thiên Chúa và Chúa Kitô. Cần phải có tinh thần sẵn sàng từ bỏ mọi của cải, mọi đam mê, để được tự do nghe tiếng Chúa dạy dỗ trong tâm hồn. Thái độ từ bỏ của cải và đam mê, không nhất thiết bắt người ta trở thành nghèo mạt, bởi vì từ bỏ mọi sự vì Chúa và vì Tin Mừng, chẳng những không làm người ta bị thiệt thòi, mà còn mở rộng tương giao xã hội của họ, vì họ sẽ được đại gia đình nhân loại, và rồi với những thử thách đã vượt qua, họ sẽ được hưởng sự sống đời đời.
Nguyện xin Chúa kiện toàn nơi chúng ta những gì Ngài đã khởi sự, và cho chúng ta đạt tới lý tưởng là sống theo Chúa, Ðấng là đường, là sự thật và là sự sống đời đời.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Chàng Thanh Niên Nhiều Của (Mt 19,16-22)
Bài Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta xét đến thái độ sống của mình. Chúng ta hiện đang tôn thờ Thiên Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự, hay chúng ta đang tôn thờ một thần tượng trần tục nào đó, như danh vọng, quyền hành, tiền bạc?
Tâm hồn tốt lành, tuân giữ luật Chúa và khát vọng cuộc sống đời đời, đó là những yếu tố đã thôi thúc chàng thanh niên đến gặp Chúa Giêsu. Nhưng cuộc gặp gỡ đã không đưa đến kết quả tích cực, vì chàng thanh niên chưa hoàn toàn tự do khỏi mọi bám víu trần tục. Anh ta buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải.
Giữa việc tuân giữ Lề Luật và thật sự yêu mến Chúa và anh chị em bằng những cử chỉ cụ thể, chàng thanh niên bắt đầu cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu cách tốt đẹp với những phẩm tính tốt như ước muốn làm điều tốt, cố gắng tìm hiểu xem phải làm gì để trọn hảo hơn và tuân giữ những giới răn Chúa truyền dạy. Nhưng không thể dừng lại mãi nơi điểm khởi đầu này, người đồ đệ của Chúa phải tiến lên, phải thực hiện lý tưởng và đạt cho được cùng đích là Chúa Giêsu Kitô, sống với Người, được trở nên giống như Người mỗi ngày một hơn: "Nếu con muốn nên hoàn thiện, hãy bán đi tất cả những gì con có đem cho kẻ nghèo, rồi đến theo Ta".
Mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm mình: tôi có thật sự muốn hay không? Trong những giây phút cầu nguyện sốt sắng, ta có thể hỏi Chúa điều này mà không nhất quyết thực hiện bước thứ hai là làm điều Chúa soi sáng cho.
Ơn Chúa không bao giờ thiếu, nhưng chính chúng ta lại thiếu can đảm, thiếu nhất quyết, thiếu cộng tác với ơn soi sáng của Chúa. Như chàng thanh niên trong Phúc Âm, chúng ta còn bám víu nhiều điều và đã bỏ mất nhiều cơ hội để được trưởng thành trong đời sống thiêng liêng và được theo Chúa trọn vẹn hơn.
Lạy Chúa
Con muốn theo Chúa trọn vẹn cho đến cùng. Xin thương ban ơn trợ giúp cho sự yếu đuối của con người con. Xin hãy kiện toàn nơi con điều Chúa đã khởi sự.
Lạy Chúa
Xin hãy phán dạy, này con đang lắng nghe và sẵn sàng thực hiện điều Chúa muốn.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Thanh thoát để theo Chúa
Và kìa có một người đến thưa Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt, để được hưởng sự sống đời đời?"
Đức Giêsu đáp: "Nếu anh muốn lên hoàn thiện, thì hãy đi bán hết tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." Nghe lời đó người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều của cải. (Mt. 19, 16. 21-22)
Để trả lời người thanh niên, Đức Giêsu không nói tới ba giới răn đầu về kính mến Thiên Chúa. Người chỉ kể đến các giới răn liên hệ đến người ta để người ta hiểu rằng muốn được hưởng sự sống đời đời, phải lo làm điều tốt cho người khác. Ai lo tìm đường tới sự sống đời đời, hoàn toàn phải biết vâng lời Thiên Chúa, nhưng họ luôn luôn phải nhớ rõ rằng họ phải thực hiện sự vâng lời Ngài dạy phải yêu người.
Tôi còn thiếu gì nữa?
Như hầu hết mọi người, chúng ta cũng có thể nói như người thanh niên giầu có rằng: "Tất cả những điều đó tôi đã tuân giữ." Nhưng cố gắng, sống theo giới răn đó, chưa đạt tới hoàn thiện. Phải tiến xa hơn giáo huấn cổ truyền.
Nếu anh em muốn nên hoàn thiện.
Chúng ta phải nên hoàn hảo, như Cha là Đấng hoàn hảo. Nhận biết và làm đầy đủ như giới răn dạy, chưa đủ, phải nên hoàn thiện. Hoàn thiện, hoàn thiện không phải là một lời khuyên, nhưng là một yêu cầu căn bản. Là Kitô hữu không phải lo giữ giới răn, mà chính là hiến toàn thân và yêu thương vô biên.
Đó là Tin Mừng này nói về sự hoàn thiện tổng quát cho tất cả mọi người không phân biệt ai, tuy trực tiếp nói cho người thanh niên, nhưng mọi người cũng phải dùng của cải mình có mà giúp đỡ người nghèo khó.
Trước hết, bất cứ môn đệ nào nghe thấy lời thực hiện theo yêu cầu cụ thể trong hoàn cảnh của mình. Vấn đề ở đây không phải là lo trao nộp tất cả của cải, nhưng là để mình được tự do phục vụ Thiên Chúa theo khả năng của mình có.
Chúng ta phải biết vâng theo Đức Giêsu điều ưu tiên hàng đầu, như bản văn Tin Mừng kêu gọi, là sẵn sàng chịu khổ nạn, tham dự vào sự thương khó của Người.
16/8 Ở trong kẻ ăn Ta
- Viết bởi Ga 6, 51-59
Ở trong kẻ ăn Ta.
Chúa Nhật tuần 20 thường niên năm B.
"Thịt Ta thật là của ăn, và Máu Ta thật là của uống".
Lời Chúa: Ga 6, 51-59
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?" Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha, là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là bánh bởi trời xuống. Không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Cn. 9, 1-6; Ep. 5, 15-20; Ga. 6, 51-58
MỤC LỤC
1. Rước lễ
Có một cô sinh viên, được đặc ân mỗi tuần mang Mình Thánh Chúa đến cho một cụ già sống lẻ loi và cô quạnh. Cô sinh viên đã kể lại như thế này: Sau khi tới nơi, tôi ngồi xuống cạnh cụ, đọc lại bài Phúc Âm ngày Chúa nhật cho cụ nghe, rồi bàn bạc trao đổi với cụ về một vài điểm mà đoạn Phúc Âm ấy đã gợi lên. Tiếp đến là giây phút cụ trông đợi cả tuần lễ. Tôi và cụ cùng nhau đọc kinh Lạy Cha. Rồi tôi giờ Mình Thánh lên và nói với cụ: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian, phúc cho ai được mời tới dự tiệc Con Thiên Chúa. Và cụ đáp lại: Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh. Đoạn tôi trao Mình Thánh cho cụ. Sau một vài phút thinh lặng, tôi giúp cụ cầu nguyện: Lạy Chúa, ước gì Mình Thánh Chúa mà cụ vừa lãnh nhận, mang lại cho cụ sức khoẻ phần hồn cũng như phần xác. Xin Chúa giải thoát cụ khỏi mọi khổ đau và bệnh tật, xin hãy dùng sức mạnh của Chúa mà nâng đỡ, chở che để cụ cũng sẽ được phục sinh trong cuộc sống mới vào ngày sau hết. Sau đó, hai người ngồi nói chuyện một lúc rồi tôi tạm biệt và hứa sẽ cầu nguyện cho nhau và hẹn gặp lại vào Chúa nhật tuần tới.
Câu chuyện đơn sơ trên cho chúng ta thấy loại đức tin mà Chúa Giêsu muốn chúng ta có như lời Ngài đã nói qua đoạn Phúc Âm sáng hôm nay: Ta là bánh Hằng Sống từ trời xuống. Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì kẻ ấy sống trong Ta và Ta sống trong kẻ ấy. Cụ già và cô sinh viên đều chứng tỏ đức tin của họ vào lời nói ấy của Chúa, bằng cách trao ban cũng như nhận lãnh Mình Thánh Chúa Giêsu, bằng cách cùng cầu nguyện chung với nhau.
Và như thế, việc rước lễ phải là một cảm nghiệm của đức tin, được thực hiện kèm theo lời cầu nguyện. Lúc rước lễ là như một viên kim cương. Còn thời gian trước và sau rước lễ là như một sợi dây vàng. Tự bản tính, viên kim cương vốn đã xinh đẹp, nhưng nó sẽ trở nên vô cùng đẹp đẽ hơn nếu được gắn vào giữa sợi dây vàng và trở thành trung tâm điểm. Cũng thế, tự bản tính việc rước lễ là một cảm nghiệm tuyệt đẹp, nhưng nó sẽ trở nên vô cùng tốt đẹp nếu được kèm theo những tâm tình cầu nguyện. Vậy chúng ta đã cầu nguyện thế nào trước và sau khi rước lễ? Tâm hồn chúng ta nghĩ gì khi tiến lên bàn thánh Chúa. Chúng ta có tâm sự với Chúa như với người bạn thân hay không? Chúng ta có biết cảm tạ Ngài, xin Ngài tha thứ và hướng dẫn chúng ta trên vạn nẻo đường đời?
Điểm thứ hai câu chuyện trên cho thấy đó là thứ tình thương Chúa muốn chúng ta phải có với tư cách là những Kitô hữu. Thực vậy, tình thương giữa cụ già và cô sinh viên là loại tình thương mà mỗi người chúng ta cần phải cố gắng vun trồng cho nhau. Và bí tích Thánh Thể chính là một phương tiện giúp chúng ta sống gắn bó mật thiết với nhau hơn như lời thánh Phaolô đã viết: Mặc dù chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Vậy việc rước lễ có làm cho đời sống chúng ta dồi dào tình thương mến, nhất là đối với những người khổ đau và bất hạnh hay không? Nói cách khác, việc rước lễ có lôi kéo chúng ta đến gần Chúa và đến gần nhau hay không?
2. Mình Máu Thánh Chúa.
Nếu hôm nay có ai đến bảo chúng ta rằng: Bạn hãy ăn thịt và uống máu tôi đi, bạn sẽ sống mãi không chết bao giờ, thì chắc chúng ta sẽ cho là người ấy mắc bệnh tâm thần.
Người Do Thái ngày xưa, kể cả các môn đệ, khi nghe Chúa Giêsu nói những lời lẽ tương tự cũng đã bảo nhau: Lời ấy chướng tai quá, ai mà nghe cho nổi.
Thực ra người Việt Nam chúng ta có một cách nói khác: Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. Thực vậy, chén cơm là kết quả của công lao khó nhọc nơi người nông dân: từ lúc gieo xạ, tới lúc chăm sóc, phân bón, làm cỏ, trừ sâu và gặt hái. Bao nhiêu công đoạn là bấy nhiêu nhọc nhằn, có khi còn phải tủi nhục, đoạ đày dưới ánh mắt của những chủ điền độc ác. Chính nhờ mồ hôi nước mắt, nhờ những cay đắng nhọc nhằn ấy mà chúng ta được sống.
Mà không phải chỉ có mồ hôi nước mắt của nhà nông mà thôi. Khi cha mẹ tôi đổ mồ hôi kiếm sống nuôi tôi thì chén cơm trên bàn ăn mẹ xới cho tôi chính là một phần của máu thịt cha mẹ tôi sẻ bớt cho tôi. Tôi sống nhờ thịt máu các ngài.
Chúa Giêsu khi cầm tấm bánh bẻ ra và nói: Tất cả hãy cầm lấy mà ăn, thì Ngài đã nghĩ ngay đến cái chết của mình vì nhân loại, nên đã nói tiếp: Đây là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con.
Nếu sau việc làm này, nghĩa là nếu sau khi đã bẻ bánh và nói những lời ấy Chúa Giêsu không bị giết thì việc làm của Ngài chỉ là một chuyện đùa và không ai nhắc lại làm gì. Nhưng thật sự Ngài đã bị giết, bị mai táng và đã sống lại, bởi thế tấm bánh Ngài bẻ ra thực sự có ý nghĩa. Đó là chính thân thể Ngài bị giết để có thể trở thành của ăn của uống cho chúng ta.
Thật vậy, khi chúng ta ăn cái gì thì cái đó biến thành máu thịt chúng ta. Chúng ta ăn thịt và uống máu Con Người thì thịt máu ấy trở thành thịt máu chúng ta. Người nên một với ta, ta nên một với Người hay nói cách khác, ta ở trong Người và Người ở trong ta. Và như thế, nếu Người sống đời đời thì ta cũng phải được sống đời đời như Người và với Người.
Do đó, nhờ bí tích Thánh Thể chúng ta nhận được từ nơi Người chính sự sống của Người để có thể nói như thánh Phaolô: Tôi sống nhưng không phải tôi sống, nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi. Nếu thực sự Đức Kitô sống trong tôi thì điều đó phải được tỏ hiện qua tâm tình, lời nói và hành động của tôi. Bởi thế ai ăn thịt và uống máu Đức Kitô mà không sống như Người đã sống, nghĩa là không yêu thương anh em như Người đã yêu thương thì kẻ đó đã thực sự rước lễ chẳng nên vì thịt máu Đức Kitô không biến thành thịt máu kẻ ấy. Người đã không ở trong họ và họ cũng chẳng ở trong Người và như vậy họ chẳng bao giờ được sống đời đời.
Bí tích Thánh Thể không được lập ra chỉ để nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta, biến chúng ta thành những kẻ đạo đức, mà chủ yếu đây là bí tích của yêu thương và hợp nhất. Bí tích mời gọi chúng ta biết chia sẻ cuộc sống với người khác. Bởi đó, kẻ chỉ biết ngồi ở bàn tiệc Thánh Thể mà không bao giờ biết ngồi vào bàn ăn với anh em, nhất là không biết dọn bàn ăn cho anh em mình, thì đó là kẻ chưa hiểu được ý nghĩa của bí tích này và cũng chẳng hưởng được hồng ân nơi bàn tiệc của Chúa.
3. Hồng ân Thánh Thể
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà
Không gì trên đời quý bằng sự sống. Dù có bị thiên tai mất hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, nhưng chưa phải chết thì vẫn còn may.
Được sống là một hồng phúc lớn nhất, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Theo nhà văn Jack London thì "thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết". Làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Thế nên người ta thường nói: "Mạng sống quý hơn đống vàng".
Vì yêu thương con người trên hết mọi sự, nên Thiên Chúa muốn dành cho họ quà tặng cao quý hơn tất cả mọi quà tặng, đó là sự sống; nhưng Thiên Chúa không chỉ ban sự sống sinh vật mà còn thông ban cả Sự Sống của chính Thiên Chúa cho con người nữa.
Thông ban sự sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự Sống. Sự Sống bắt nguồn từ Chúa Cha. Người thông ban Sự Sống của Người cho Chúa Con (Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con). Chúa Giêsu xác nhận sự sống của Người từ Chúa Cha mà đến: "Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha" (Ga 6, 57)
Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha, Chúa Giêsu không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống cao quý ấy cho nhân loại.
Bằng cách nào?
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Thế nên, Chúa Giêsu lập nên bí tích Thánh Thể, hiến ban Thịt và Máu Người, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Người thì được nên một với Người, được ở lại trong Người: "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy."
Những ai "ở lại trong Chúa Giêsu và có Chúa Giêsu ở lại trong người ấy", thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giêsu thông ban, qua việc tiếp nhận Mình Máu Người, không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.
"Đức Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời." (Ga 6, 51)
"Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết." (Ga 6, 54)
Thế là thông qua việc ăn Mình và Máu Chúa Giêsu, con người được nên "cùng một thân mình, cùng một dòng máu" với Chúa Giêsu và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho họ.
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà.
Biến đổi con người thành Chúa Giêsu
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong Bí Tích thánh thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giêsu khác. Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định:
"Thực thế, chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa Kitô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy" (trích bài giảng của thánh Lê-ô cả giáo hoàng, trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư, tuần 2 phục sinh)
Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho biết nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa:
"Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân. Nhờ vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa." (trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong bài đọc kinh sách ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giêsu,
Hồng ân Chúa ban thật vô cùng lớn lao và quý báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ.
Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.
4. Thiên Chúa vô cùng yêu thương chúng ta
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Thiên Chúa vô cùng yêu thương chúng ta nên Ngài muốn ban cho chúng ta món quà cao quý nhất.
Nhưng thưa ông bà anh chị em, nếu giờ đây Chúa hiện ra và phán với mỗi người rằng: "Ta sẽ ban cho các con món quà quý báu nhất", thì chúng ta sẽ xin Ngài điều gì? Xin vài tấn gạo? Có nhiều điều khác giá trị hơn gạo. Xin tiền? Vài tỉ bạc cho mỗi gia đình? Còn nhiều điều khác quý hơn tỉ bạc. Xin một tấn vàng ròng? Còn có điều quý hơn vàng bạc, hơn bảo ngọc trân châu. Đó là sự sống! Ông bà chúng ta thường nói: "Mạng sống quý hơn đống vàng". Được sống là một may mắn vô cùng, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Nhà văn Jack London nói: "Thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết". Đúng vậy. Làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Dù mất hết tiền bạc của cải, nhưng còn được sống thì cũng còn may.
Nhưng sự sống cũng có nhiều đẳng cấp khác nhau.
Sự sống của cây cỏ vốn thấp kém, hầu như vô tri vô giác. Cây cối không biết khóc, không biết cười, không biết đau đớn cũng như mừng vui, lại phải chôn chân một chỗ cho đến lúc lụi tàn.
Sự sống của các loài côn trùng như giun, như sâu bọ, như kiến... tuy cao hơn loài thảo mộc một chút nhưng còn ở đẳng cấp thấp.
Sự sống của cá nước, chim trời, của loài cầm thú cao hơn sự sống của cỏ cây, của côn trùng, nhưng vẫn chưa phải là mức sống cao.
Sự sống của con người cao vượt hơn cả: hơn sự sống của hoa lá cỏ cây, hơn sự sống của côn trùng, hơn sự sống của chim trời cá nước, hơn sự sống của các loài muông thú, nhưng dù vậy vẫn còn thua sự sống của các thiên thần và còn thua xa sự sống của Thiên Chúa. Sự sống của Thiên Chúa là sự sống cao quý vô song.
Sự sống con người cao quý thật, nhưng tiếc thay, sự sống ấy đã bị tội nguyên tổ làm cho tổn thương, làm cho khiếm khuyết và giới hạn. Khiếm khuyết vì bệnh tật, vì già yếu, và giới hạn bởi cái chết.
Thế nên Thiên Chúa nhân lành tiên liệu ban thêm cho loài người sự sống khác, vô cùng phong phú, vô cùng cao quý, và không bao giờ cùng tận, đó là sự sống của chính Ngài. Thiên Chúa lấy chính sự sống của Mình làm quà tặng cho loài người khốn hèn tội lỗi! Có ai hiểu nổi không?
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta điều đó.
Chúa Giêsu nói: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời."
Phẩm chất của sự sống Chúa ban là vĩnh cửu, không thể lụi tàn.
Và sự sống nầy chính là sự sống của Chúa Cha: "Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy."
Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng Sự Sống mà Ngài đã nhận được từ nơi Chúa Cha, thì Ngài thông ban lại cho chúng ta. Sự sống thần linh bắt nguồn từ Chúa Cha, thông truyền cho Chúa Con và Thánh Thần, giờ đây lại được Chúa Giêsu khơi dòng để chảy tràn vào mỗi người chúng ta, nếu chúng ta ăn Ngài, tức là đón nhận Ngài, rước lấy Ngài trong bí tích thánh thể.
"Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy."
Thật tuyệt vời không thể tưởng tượng được. Thiên Chúa thông ban sự sống cao quý của chính Ngài cho chúng ta qua Chúa Giêsu.
Món quà vô cùng quý báu, vượt xa tất cả mọi món quà đã được Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho chúng ta. Chúng ta hãy mau mau nhận lãnh món quà quý báu nầy với tất cả tấm lòng cảm tạ tri ân, đồng thời hãy cầu xin Chúa cho sự sống thần linh ấy thực sự trổ sinh hoa trái dồi dào trong cuộc đời mỗi người chúng ta.
5. Đức Kitô mẫu gương tình yêu
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ngày 24/6/2009, tại phòng trọ ở thành phố Tuy Hòa, 2 bình gas loại du lịch đã phát nổ khiến Tuyên và một bạn cùng phòng bị bỏng. Với tình trạng bỏng nặng tới 65%, các bác sỹ đã dự đoán cô gái này khó có thể qua khỏi, đặc biệt là ở thời điểm sau 10 ngày nằm viện, Tuyên được chẩn đoán là bị nhiễm trùng máu khá nặng.
Thương con, người cha là Lê Thanh Tuấn đã năn nỉ các bác sỹ lóc da đùi của mình để cấy ghép vào phần da bị mất do bỏng của con, dù chuyện này rất có thể sẽ đem đến biến chứng nguy hiểm cho người bị huyết áp cao như ông. Nếu những chuyên gia phẫu thuật của bệnh viện Chợ Rẫy không từ chối, thì có lẽ ông Tuấn đã sẵn sàng để họ lấy cả phần da từ bụng, ngực... trên người mình để đắp sang con.
Sự hy sinh của người cha đã được phần nào đền đáp khi sức khỏe của 'bé Út' dần khá hơn. Cô nữ sinh đã tỉnh táo hơn và có thể trò chuyện được đôi lời. Còn ông Tuấn, sau nhiều ngày rất khó khăn trong từng bước đi vì toàn bộ lớp da hai bên đùi đã bị lấy hết, cũng đã dần ổn định và có thể cử động được.
Đến phòng bệnh tại khoa Bỏng của Bệnh viện Chợ Rẫy vào những ngày này, gần như ở thời điểm nào trong ngày, người ta cũng sẽ nhìn thấy cảnh một cô gái băng bó trắng toàn thân nằm trên giường. Bên cạnh cô là người cha bó quanh đùi bằng những sợi băng y tế bị nhuộm đỏ. Ông luôn ngồi đó, động viên chăm sóc cho cô con gái vẫn mang trong mình mong muốn được thi đại học, khối C.
Vâng, nếu chúng ta được tận mắt nhìn thấy những hình ảnh đó, có lẽ chúng ta cũng để cho dòng nước mắt của tình người dạt dào tuôn trào nơi chúng ta. Nước mắt cảm thông. Nước mắt của trái tim hoà nhịp với trái tim yêu thương của người cha lóc thịt cho con. Khóc vì ngưỡng mộ một con người giầu lòng quảng đại. Yêu tha nhân không chỉ yêu như chính mình mà còn quên cả bản thân. Một tình yêu quá cao vời. Nước mắt đồng cảm với một con tim không chỉ biết nói lời yêu thương mà còn thể hiện bằng tình yêu trao ban chính thịt máu mình để cấy trồng lại sự sống cho con.
Đó cũng là tình yêu mà Đức Giêsu đã thể hiện trong cuộc sống của Ngài. Chính Ngài đã hiến dâng mạng sống cho con người được sống và sống dồi dào. Chính Ngài đã sống vì cuộc sống của nhân loại. Ngài đến trần gian để cứu độ nhân loại. Ngài sống không phải vì mình mà cho thế gian được ơn cứu độ. Ngài yêu thương thế gian đến nỗi còn muốn trao ban chính mình làm của ăn của uống cho nhân loại. Chính Ngài đã xác quyết rằng "Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống". Ai ăn và uống Mình và Máu Ngài không chỉ được sống hạnh phúc mà còn hơn thế nữa là được sống muôn đời. Ngài là bánh trường sinh. Dân Do Thái đã từng được ăn Mana từ trời nhưng rồi cũng chết. Còn ai ăn và uống Mình Máu thánh Ngài sẽ được sống muôn đời.
Tình yêu luôn phát sinh những điều kỳ diệu. Có tình yêu sẽ có sáng tạo. Tình yêu đã làm phát sinh biết bao nghĩa cử cao đẹp mà con người dành cho nhau. Từ lời nói đến hành động luôn biết làm đẹp lòng nhau. Người ta chắt chiu từng lời nói, từng việc làm để cho người mình yêu được vui lòng. Tình yêu là một quà tặng vô giá mà chúng ta dành cho nhau. Không có tình yêu sẽ không có tặng ban. Món qùa được trao tặng không có tình yêu chỉ là một thủ đoạn, lừa dối và nhẹ hơn chỉ là sự trao đổi qua lại theo lẽ công bằng với nhau.
Thế giới hôm nay rất cần tình yêu để con người được sống trong an vui và hạnh phúc. Sự sống còn của nhân loại hoàn toàn tuỳ thuộc vào khả năng yêu thương của chính con người. Hàng ngày trên thế giới có hàng triệu người đã chết bởi sự thiếu tình yêu của đồng loại. Bởi thù hận người ta giết nhau bằng súng đạn, gươm giáo. Bởi thiếu trách nhiệm người ta giết nhau bằng sự bỏ rơi và dửng dưng.
Thế giới không có tình yêu sẽ hoang tàn đổ nát tựa như cơn lũ đã tàn phá môi trường chỉ để lại sự dơ bẩn và chết chóc. Đó chính là thảm cảnh mà chúng ta đang phải đối diện. Bởi thiếu vắng tình yêu đã đẩy sự dữ ngày một gia tăng. Sự dữ ẩn chứa khắp nơi. Sự dữ luôn đe doạ hủy diệt địa cầu bất cứ giờ nào. Kẻ dữ luôn gia tăng sự ác. Kẻ lương thiện ngao ngán sự đời. Kẻ khôn ngoan né tránh. Người dại dột thì lãnh đủ. Người ta nói rằng: "Khôn cũng chết. Dại cũng chết. Biết thì sống". Biết để né tránh. Biết để thủ thế. Biết để an phận thủ thường. Một lối sống "biết để sống" đến nỗi bỏ quên đồng loại, chỉ lo toan cho mình nên không có sự sáng tạo trong yêu thương. "Biết để sống" dẫn đến đa nghi nên thế giới chẳng ai tin ai. Thế giới đã chết vì thiếu vắng tình yêu.
Mỗi lần chúng ta rước Chúa là được đón nhận chính sự sống và tình yêu của Chúa. Ước gì tình yêu Chúa tuôn chảy trong con tim của chúng ta để chúng ta dám hiến dâng chính mình vì sự sống của tha nhân. Ước gì mỗi người biết hy sinh cho nhau, và biết kiến tạo hạnh phúc cho nhau, chắc chắn cuộc sống này sẽ đẹp hơn. Ước gì mỗi người chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu trở thành quà tặng mang lại cho anh em niềm vui và hạnh phúc. Xin cho chúng ta luôn cảm nghiệm rằng "chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời". Amen.
6. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời
(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu nói "thịt Ngài là thật của ăn và máu Ngài thật là của uống", và hơn nữa, "ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời".
Kitô hữu tin rằng bánh rượu sau khi linh mục đọc lời truyền phép trong thánh lễ, thực là mình và máu Đức Giêsu Kitô Phục Sinh. Với giác quan, con người vẫn thấy đó là tấm bánh và rượu, nhưng với con mắt đức tin, đó là mình máu Chúa Giêsu Kitô. Đây không là phép lạ, vì nếu là một phép lạ, thì mọi người đã nhận biết đó là thịt máu Đức Giêsu, và con người không thể chối cãi được; chẳng hạn một số người nhận được phép lạ chữa lành bệnh tật ở Lourdes, người ta không thể phủ nhận điều này. Bánh rượu sau truyền phép là một bí tích, nghĩa là, là một dấu chỉ hữu hình để Thiên Chúa ban ơn sủng thiêng liêng cho con người.
Bí tích Thánh Thể không đơn thuần là dấu chỉ hữu hình Thiên Chúa dùng để ban ơn thiêng liêng, nhưng còn là biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa. Biểu tượng là dấu chỉ liên hệ mật thiết với điều dấu chỉ trỏ tới, và cũng là chính thực tại, chẳng hạn thân xác là biểu tượng của con người toàn diện. Bánh rượu nuôi sống và làm hoan lạc con người, bí tích Thánh Thể, mình và máu Đức Giêsu Kitô, cũng nuôi sống và làm hoan lạc con người, thể chất và tinh thần.
Bí tích Thánh Thể cho thấy Lời Thiên Chúa tiếp tục tự hủy cho con người được sống. Lời Thiên Chúa đã tự hủy, nhập thể làm người, giờ đây Đức Giêsu Phục Sinh đã được tôn vinh, thế nhưng Ngài vẫn tiếp tục tự hủy nơi bí tích Thánh Thể. Bánh rượu trở thành mình máu Đức Giêsu Kitô: ôi vật chất sao được diễm phúc đặc biệt này. Lời Thiên Chúa tự hủy cho con người thấy nét đẹp và cao quý của thân xác, điều mà nhiều người tưởng rằng thân xác là cái gì kém giá trị. Bí tích Thánh Thể cho thấy vật chất cũng là cái gì tuyệt vời, vì Lời Thiên Chúa nhập thể đã dùng để làm nên mình máu thánh Ngài.
Bí tích Thánh Thể, mình máu thánh Đức Giêsu Kitô, là bánh ban xuống bởi trời. Là lương thực ban cho con người sự sống vĩnh cửu. Bí tích Thánh Thể là bánh hằng sống đối với những người tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nhập thể. Với những người này, chính qua bí tích Thánh Thể mà các tín hữu được quy tụ, để họ được nghe Lời Chúa và được rước mình và máu Chúa. Bí tích Thánh Thể nuôi sống đời sống thiêng liêng của họ, củng cố đức tin của họ vào Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô, giúp họ sống bình an hạnh phúc trong những ngày ở dương gian này.
Bí tích Thánh Thể là biểu tượng tình yêu của Đức Giêsu cho con người, vì Thánh Thể là chính mình máu Ngài. Nơi bí tích Thánh Thể, người ta đọc thấy tình yêu của Đức Giêsu đã hiến mạng sống cho con người, cho những ai tin vào Ngài. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình (Ga.15, 13). Đức Giêsu đã hiến mạng cho con người, và điều này được thấy một cách cụ thể qua qua bí tích Thánh Thể khi Đức Giêsu nói: "các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy, sẽ bị nộp vì anh em.... Này là chén máu thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội". Bí tích Thánh Thể là chính mình máu thánh Người, được ban tặng cho con người, để trở thành bánh ban sự sống, để trở thành giá cứu chuộc con người. Con người thật là tạo vật được Thiên Chúa quý trọng biết bao, vì nó đã được Đức Giêsu hiến mình cứu chuộc.
Với bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa đang hiện diện với con người một cách bí tích nhưng thật cụ thể đối với những người tin. Thiên Chúa ở với con người qua Ngôi Lời nhập thể là Đức Giêsu; giờ đây Đức Giêsu Phục Sinh đã được siêu tôn ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang ở với con người tuy dù con người không thể thấy Ngài bằng mắt trần, và rồi Ngài đang hiện diện với tín hữu cách đặc biệt nơi bí tích Thánh Thể. Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện cụ thể với con người. Thiên Chúa luôn ở với con người, và Ngài còn luôn ở lại với con người một cách cụ thể qua bí tích tình yêu này.
Khi một người nhận lãnh lương thực nuôi thân xác, lương thực được biến hóa thành thịt máu người nhận; khi một Kitô hữu đón nhận mình và máu Đức Giêsu Kitô vào lòng, Đức Giêsu Kitô làm cho người lãnh nhận được trở nên một với Ngài, được thần hóa nhờ Ngài. Mình máu Đức Giêsu Kitô thánh hóa Kitô hữu, làm Kitô hữu trở nên thánh một khi họ rước mình và máu Ngài. "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi".
Bí tích Thánh Thể, thần lương quy tụ, gầy dựng, và nuôi dưỡng Giáo Hội. Ước gì mỗi Kitô hữu nhận biết giá trị vô lường của bí tích Thánh Thể, để trân trọng và hân hoan đón nhận bí tích cao quý này mỗi ngày, để bí tích Thánh Thể trở thành nguồn sống cho cá nhân và cộng đoàn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bí tích Thánh Thể có giúp bạn sống hạnh phúc không?
2. Theo kinh nghiệm sống, bí tích Thánh Thể ảnh hưởng trên đời bạn thế nào?
7. Đức Kitô hiện diện.
Thân xác cần phải ăn uống thì mới sống được. Một chút thực phẩm dự trữ cũng đủ để người bị lạc trong rừng sống thêm đôi ba ngày. Một chút nước trong sa mạc cũng giúp kéo dài thêm sự sống.
Con người, như chúng ta đã biết, không chỉ là thân xác mà còn là tinh thần. Và tinh thần cũng cần phải được nuôi dưỡng để tồn tại và phát triển. Người ta đã nói đến những món ăn tinh thần như sách báo, nghệ thuật... Chúa Giêsu còn muốn cung ứng cho chúng ta một món ăn tinh thần cao quí và tuyệt hảo hơn nhiều, đó là chính bản thân Ngài, bởi vì Ngài muốn trở nên lương thực nuôi sống nhân loại.
Thế nhưng, làm sao Ngài lại có thể cho chúng ta ăn thịt Ngài và uống máu Ngài? Tôi xin thưa Ngài đã dùng quyền năng mà biến đổi tấm bánh và chén rượu trở thành thịt và máu thánh Ngài, để khi ăn tấm bánh và uống chén rượu, chúng ta được kết hiệp với chính con người của Ngài. Như thế, khi rước lễ, chúng ta không lãnh nhận một Đức Kitô đã chết và nay chỉ còn là một cái xác không hồn. Trái lại, chúng ta đón nhận một Đấng đã sống, đã chết và đã sống lại, hiện đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Thánh Gioan đã diễn tả:
- Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy.
Mà ở trong Chúa, chắc hẳn cuộc đời chúng ta sẽ trổ sinh nhiều hoa trái. Cũng vì xác tín như vậy, mà Giáo Hội luôn tỏ lòng kính trọng sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Sau khi truyền phép, vị linh mục nâng cao mình và máu thánh Chúa, để chúng ta thờ lạy.
Ngoài ra, Giáo Hội còn tổ chức những cuộc rước kiệu, chầu phép lành, các đại hội Thánh Thể trên toàn thế giới. Đức Kitô đến với chúng ta qua bí tích Thánh Thể và Ngài cũng còn đến với chúng ta dưới nhiều hình thức khác nữa.
Khi tham dự thánh lễ cùng với cộng đoàn, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài giữa lòng Giáo Hội:
- Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Giáo Hội là thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô. Thân mình này được nuôi dưỡng bởi mình và máu thánh Ngài. Như thế, chúng ta cần ý thức về sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong Giáo Hội.
Ngoài ra, Chúa Giêsu còn hiện diện khi chúng ta lắng nghe lời Ngài. Chính ngài nói với chúng ta, khi chúng ta đọc Kinh Thánh trong Giáo Hội. Nơi Thánh lễ, chúng ta thấy bàn tiệc mình máu thánh Chúa và bàn tiệc lời Chúa. Đó không phải là haibàn tiệc tách biệt, vì trong Thánh lễ, cả lời Chúa lẫn mình Chúa được dọn ra trên một bàn ăn, để giáo dân được hướng dẫn và bổ sức.
Chúa Giêsu không phải chỉ ở ngoài chúng ta, nhưng Ngài còn ở trong chúng ta. Ngài ở trong trái tim, Ngài ở trong cõi lòng chúng ta. Tuy nhiên, nhiều lúc chúng ta quên đi sự hiện của Ngài nơi chính bản thân mình. Chúng ta quên rằng bản thân mình cũng là một nhà tạm, một đền thờ cho Chúa ngự trị. Không phải chỉ khi lên rước lễ, Ngài mới bắt đầu hiện diện trong chúng ta và lúc đó chúng ta mới có thể gặp gỡ Ngài. Thật ra Chúa luôn ở với chúng ta, và lúc nào ta cũng có thể trở về với lòng mình để gặp gỡ Ngài.
Sau cùng, Chúa Giêsu còn hiện diện ở bên ngoài nhà thờ, nhất là nơi những người bất hạnh, đau khổ, đói khát, ốm yếu, trần trụi... Họ cũng là những bí tích của Đức Kitô. Ẩn dưới tấm bánh là mình thánh Chúa. Còn ẩn dưới những kẻ sống bên lề xã hội là Đức Kitô thiếu thốn đang xin trợ giúp. Cần phải có cặp mắt đức tin để khám phá ra sự hiện diện của Chúa nơi những thực tại của đời thường. Ngài không quen đến với sự hào nhoáng và vinh quan hiển hách. Ngài đến với chúng ta với thận phận của một con người yếu đuối.
Hãy khiêm nhường để tìm thấy sự hiện diện khiêm tốn của Chúa, nhờ đó biến đời mình trở thành một cuộc gặp gỡ liên tục với Ngài.
8. Thịt Ta là của ăn
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nói đến máu thịt là nói đến những gì thâm sâu nhất trong con người. Thâm sâu vì máu thịt chính là sự sống. Thâm sâu vì máu huyết thuộc hệ di truyền. Ta thường nói: máu huyết của cha, thịt xương của mẹ. Yếu tố "gen" là thứ sâu xa trong bản tính con người. Là lực lượng âm thầm điều hướng định mệnh con người. Như thế máu thịt không những làm thành con người thể lý bên ngoài mà còn làm thành con người ở chiều sâu tâm sinh lý nữa.
Máu thịt là thứ thiết thân nhất trong con người. Thiết thân vì nó gắn bó chặt chẽ với bản thân ta, gắn bó với sự sống của ta. Lấy nó ra khỏi con người thì đau đớn lắm. Thiết thân vì ta yêu mến nó. Yêu máu thịt của mình cũng như yêu mạng sống mình là một điều hết sức tự nhiên.
Hôm nay khi nói ban Máu Thịt cho chúng ta, Chúa Giêsu ban cho ta những gì thâm sâu nhất trong bản thân Người. Người không chỉ ban Máu Thịt mà còn ban cho ta cốt lõi của bản tính Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ định nghĩa: "Thiên Chúa là tình yêu". Khi ban cho ta Máu Thịt, Chúa Giêsu ban cho ta chính tình yêu của Người.
Khi ban Máu Thịt cho ta, Chúa Giêsu phải chịu đau đớn. Mạng sống là quý nhất. Nhưng Người yêu ta còn hơn yêu mạng sống của mình. Vì thế, Người hiến mạng sống cho ta như lời Người nói: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình". Mạng sống là thiết thân. Nhưng đối với Người, ta còn thiết thân với Người hơn cả mạng sống của Người nữa. Người chịu tiêu hủy mình đi để trở nên thiết thân với ta. Khi hiến mình làm lương thực, Người chấp nhận chịu nghiền tán, chịu đớn đau để trở thành thịt máu của ta, để trở thành thiết thân với ta, đến nỗi ta không thể tách Người ra khỏi ta được nữa. Thật là một tình yêu lạ lùng. Thật là một sáng kiến tuyệt vời.
Khi ban Mình Máu Thánh cho ta, Chúa Giêsu mong ước ta sống kết hiệp mật thiết với Người. Khi chịu lấy Mình máu Thánh Chúa thì Chúa ở trong ta và ta được ở trong Chúa. Đây là một biến đổi sâu xa. Chúa Giêsu đã làm người để ở với ta, làm tấm bánh để ở lại trong ta. Chúa mong ước ta ở lại trong Chúa. Vì thế khi rước lễ, ta phải biến đổi đời sống cho xứng đáng và phù hợp với Chúa. Ở trong Chúa không phải là ở trong không gian vật lý nhưng ở trong không gian thiêng liêng, trong ảnh hưởng của Chúa, trong tình yêu của Chúa, trong lề luật của Chúa, trong tinh thần của Chúa. Như thế ở trong Chúa có nghĩa là sống như Chúa, suy nghĩ như Chúa, hành động như Chúa, yêu thương như Chúa.
Khi mời gọi ta đến kết hiệp với Người, Chúa mong muốn cho ta được sống. Chúa chính là nguồn mạch sự sống. Ở trong Người là ở trong sự sống. Kết hiệp với Người là kết hiệp với sự sống. Sống nhờ Người là hít thở sự sống của Người, hấp thu sự sống của Người. Người là sự sống vĩnh cửu, sự sống sung mãn, sự sống hạnh phúc. Được sống bằng sự sống của Người ta sẽ được sự sống dồi dào, hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu biết, yêu mến và sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn hiểu thịt máu có ý nghĩa gì?
2) Chúa ban Thịt Máu Chúa cho ta. Điều này có ý nghĩa gì?
3) Thế nào là ở trong Chúa? Muốn ở trong Chúa bạn phải làm gì?
4) Thế nào là sống nhờ Chúa? Muốn sống nhờ Chúa bạn phải làm gì?
9. Kẻ Ăn Tôi Sẽ Sống Nhờ Tôi
('Manna')
"Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết
nhưng tôi muốn con tôi được sống"
Đó là lời của bà Susanna sau khi được cứu
trong trận động đất ở Ácmêni vào tháng 12-1987.
Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch,
có hai mẹ con bà Susanna may mắn còn sống sót.
Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước.
Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra?
Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩ táo bạo,
đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút.
Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu người mẹ.
Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu.
Câu truyện trên giúp ta hiều phần nào bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu đã chết để chúng ta được sống.
Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá,
và Ngài muốn máu Ngài trở nên thức uống cho chúng ta.
Trong các nhà thờ, vào dịp lễ Giáng sinh,
thường có những người ngoài Kitô giáo đến dự lễ.
Cũng có ít người tò mò lên "ăn bánh thánh".
Họ ngạc nhiên vì tấm bánh mỏng manh, nhạt nhẽo.
Nhưng họ sẽ ngạc nhiên hơn nhiều nếu chúng ta bảo họ:
"Ăn tấm bánh đó là ăn thịt Chúa,
uống chén rượu đó là uống máu Chúa".
Thật là kinh khủng, làm sao có chuyện như vậy?
Đây là mầu nhiệm đức tin, không dễ giải thích cho người ngoài.
Tất cả bắt đầu từ ước muốn lạ lùng của Đức Giêsu.
Ngài muốn nuôi nhân loại bằng chính con người Ngài.
Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho nhân loại:
"Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy.
Các con hãy cầm lấy mà uống, đây là Máu Thầy."
Mình và Máu tượng trưng toàn thể con người Đức Giêsu.
Nên khi rước lễ, ta không chỉ rước thịt mình Ngài,
mà rước lấy cả con người Ngài dưới dạng tấm bánh.
Rước lễ là gắn bó với một ngôi vị:
"Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi
và tôi ở lại trong người ấy (c.56).
Rước lễ không phải là đón nhận một xác chết,
nhưng là gặp gỡ Đức Giêsu đã chết và nay đã phục sinh.
"Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào,
kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy" (c.57).
Rước lễ là đón lấy sự sống từ Đấng đang sống,
cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.
Hôm nay, Đức Giêsu phục sinh có một lối hiện diện mới mẻ.
Ngài không hiện diện dưới dạng một con người,
nhưng dưới dạng đồ ăn, đồ uống.
Như thế cả vật chất bất động cũng được nâng lên,
cả lao công của con người cũng được thánh hiến.
Vật chất trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Vật chất có chỗ trong thế giới của Thiên Chúa.
Ước gì thế giới vật chất ở quanh ta
cũng nên thánh, nhờ được chia sẻ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bài Tin Mừng hôm nay có 10 từ "sống". Bí tích Thánh Thể là bí tích ban sự sống. Bạn có thấy thánh lễ đem lại sức sống cho bạn không? Nếu không, tại sao?
Bạn nghĩ gì về thái độ của bạn khi rước lễ? Đó có phải là một cuộc gặp gỡ thân tình không? Bạn có chuẩn bị gì khi rước lễ? Bạn có dành những giây phút lặng lẽ để tâm sự với Chúa sau rước lễ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm,
ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân,
và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp nơi,
để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp,
nơi lớp học tình thương lúc chiều tà,
nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm,
nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ,
nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ,
nơi các tiệm cho mướn băng video,
nơi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ...
Nhưng lạy Chúa, trước hết,
xin cho đời con là một ngọn đèn,
xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ,
mời người ta dừng lại, trầm tư,
và gặp được Chúa.
10. Tôi là Bánh.
('Manna')
Cả các Kitô hữu cũng ngỡ ngàng trước bí tích Thánh Thể.
Ăn thịt và uống máu người mình yêu là điều khủng khiếp chẳng ai dám nghĩ tới. Nhưng Đức Giêsu lại muốn nuôi cả nhân loại bằng Thịt và Máu Ngài. Và thực sự Ngài đã nuôi ta bằng cái chết thập giá - ở đó Ngài đã hy sinh Máu Thịt mình.
Đúng hơn, Ngài nuôi chúng ta bằng sự sống của Ngài: sự sống được trao đi qua cái chết tự nguyện, và sự sống được lấy lại qua phục sinh vinh quang.
Đức Giêsu ban cho ta Tấm Bánh (c.51). Ngài còn tự nhận mình là Tấm Bánh (cc.48.51): Tấm Bánh có sự sống và Tấm Bánh ban sự sống. Tôi là Tấm Bánh: đó là định nghĩa của Đức Giêsu về mình.
Định nghĩa này có làm ta ngạc nhiên không? Bánh là cái gì ăn được và đem lại sự sống. Bánh không sống cho mình, nhưng cho người khác.
Chấp nhận là bánh có nghĩa là chấp nhận mất mình, mà chỉ khi mất mình như thế, bánh mới thật là bánh, mình mới thật là mình. Thật ra bánh vẫn hiện diện và nên một với người ăn. Đức Giêsu là Tấm Bánh đặc biệt. Khi tôi ăn, Ngài thành tôi và biến tôi thành Ngài. Một sự ở lại hai chiều, một sự hiệp thông sâu thẳm.
"Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy" (c.56).
Rước lễ là đón lấy dòng sự sống, chấp nhận sống nhờ.
Đức Giêsu sống nhờ Cha và chúng ta sống nhờ Đức Giêsu (c.57).
Như cành nho sống nhờ thân cây nho, chúng ta cũng sống nhờ, nghĩa là sống trong và sống cho Chúa.
Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh đã từng có thái độ nhìn và thờ lạy Thánh Thể hơn là cầm lấy mà ăn. Động từ ăn được nhắc đến 8 lần trong bài Tin Mừng này, như một lời mời gọi tha thiết của Đức Giêsu.
Ngày nay, người ta rước lễ nhiều hơn trước. Tiếc thay lắm khi cuộc gặp gỡ này khá vội vã, thiếu chuẩn bị và cũng thiếu đối thoại thân tình.
Tôi lên rước lễ chỉ vì mọi người trong hàng ghế đã lên.
Phút thinh lặng sau rước lễ cũng bị cắt ngắn. Tôi phải về ngay vì phải lấy xe, vì nhà thờ đóng cửa... Chính vì thế rước lễ chẳng gây được âm vang nào nơi tôi. Nó trở thành một thói quen, một nghi thức thuần tuý.
Tôi lên ăn một vật thánh, thay vì đón một người.
Ít khi có vị khách quý nào bị thường xuyên tiếp đón lạnh nhạt như thế! Rốt cuộc chẳng có cuộc gặp gỡ nào xảy ra, nên tôi vẫn cứ là tôi như trước.
Hãy dự lễ như người đi dự tiệc Lời Chúa, Mình Chúa.
Chỉ ai biết ăn, biết thưởng thức và nghiền ngẫm, người ấy mới gặp được sự sống và gặp được Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Đức Giêsu tự định nghĩa mình là Cửa (10,7), là Mục Tử (10,11), là Ánh Sáng (12,46), là Con Đường (14,6), là Cây Nho (15,1), là Tấm Bánh (6,48). Những định nghĩa rất gợi hình và đều hướng về con người. Bạn thích định nghĩa nào hơn cả? Tại sao?
Bạn nghĩ gì về việc bạn rước Chúa? Có cái gì không ổn, cần sửa đổi không? Có khi nào bạn thấy mình gặp được Chúa sau khi rước lễ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đến với chúng con dưới dạng tấm bánh bình thường. Tấm bánh chẳng nói gì, chỉ biết lặng lẽ chờ đợi. Tấm bánh hiện diện là để phục vụ cho con người. Tấm bánh quá đỗi mong manh, nhỏ bé, có thể bị ẩm mốc làm hư hoại, và tan rất mau sau khi được nhận lãnh.
Lạy Chúa Giêsu, có cái gì tương tự giữa phận làm người và phận làm bánh của Chúa. Xin cho chúng con biết cách đến với con người hôm nay: đơn sơ, khiêm hạ, không chút vinh quang hay quyền lực. Nhờ ăn tấm bánh của Chúa, chúng con cũng trở nên tấm bánh ngon, được bẻ ra để đáp ứng khẩu vị của nhiều người. Ước gì chúng con dám rước Chúa đi vào mọi vùng mờ tối của lòng mình, để sự hiện diện của Chúa trong con được lớn lên. Và ước gì chúng con trở thành những Nhà Tạm di động, đem Chúa đến cho đồng bào và quê hương chúng con. Amen.
11. Bí Tích Thánh Thể
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Sách Phương Ngôn, cũng gọi là sách Châm Ngôn, bao gồm những lời huấn dụ khôn ngoan của vua Salômôn, con vua Đavít. Sách Châm Ngôn giúp con người tìm biết lẽ khôn ngoan và hiểu được những lời cao siêu của các bậc hiền nhân. Sách này giúp chúng ta tìm mở lòng mở trí và học hỏi thêm kiến thức. Kính sợ Thiên Chúa là bước đầu của kiến thức. Lời mời gọi khôn ngoan: Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta và hãy uống rượu ta đã pha sẵn cho các ngươi (Cn 9, 5). Bánh và rượu đây là thức ăn quý báu dành cho những kẻ đơn sơ chân thành. Bánh sẽ mang lại sự no thỏa thân xác và rượu sẽ làm hoan hỉ lòng người. Được cùng chia sẻ bữa tiệc là cùng được chung hưởng niềm hoan lạc cuộc sống.
Của ăn trao ban qua bánh rượu và các bữa tiệc trần thế được chuẩn bị để đón nhận bữa tiệc hằng sống. Thánh Gioan đã diễn tả những lời mạc khải về thần lương của Chúa Giêsu rất rõ ràng minh bạch. Lời mạc khải trọn vẹn về sứ mệnh của Con Thiên Chúa làm người: Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống (Ga 6, 51). Chúa Giêsu không úp mở hay nói bóng nói gió theo kiểu ẩn dụ hoặc dụ ngôn với các môn đệ và dân chúng. Chúa xác tín lời hằng sống và mời gọi mọi người hãy tin và chấp nhận, vì đây là điều kiện để được sống muôn đời: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống (Ga 6, 54-55). Thịt và Máu của Chúa Giêsu được biến đổi trong Bí Tích Thánh Thể.
Dọc theo lịch sử, Giáo Hội đã trải qua rất nhiều nghịch cảnh để loan truyền niềm tin vào Chúa Kitô đã từ cõi chết sống lại. Cốt lõi của niềm tin là sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể qua hình bánh và rượu. Ngay từ lúc khai sinh, Giáo Hội đã cử hành các nghi thức phụng vụ xoay quanh việc Bẻ Bánh. Thực hành theo lời truyền dạy của Chúa Giêsu: "Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy."(Lc 22, 19). Giáo Hội ở khắp năm châu, bốn biển trong mọi thời khắc, luôn luôn có các linh mục cử hành Bí Tích Thánh Thể để tưởng nhớ đến Thầy Chí Thánh.
Có nhiều phép lạ chứng minh sự biến đổi Thịt và Máu Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể.Vào năm 750, tại Lancianô, nước Ý, trong đan viện thánh Legonziano, có một linh mục dòng Basiliô đức tin lung lay nghi ngờ về sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.Khi linh mục này dâng lễ, sau lời Truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu, đông đặc lại thành năm hột nhỏ theo hình dáng đặc biệt.Sự lưu trữ Thịt và Máu trong mười hai thế kỷ qua là lưu trữ cách tự nhiên, không bằng chất hoá học, giữ trong không khí thường và môi trường sinh vật mà vẫn giữ được nguyên chất.
Tại Ý, năm 1263, thành Bolsène, trong nhà thờ Sainte Catherine, một linh mục sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Máu và Thịt Chúa Giêsu. Tức thì Máu Thánh chảy đẫm khăn thánh và khăn bàn thờ. Đức Giáo Hoàng nghe tin này, đã ra lệnh đem khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette. Sau này Giáo Hội đã xây nhà thờ khang trang để kính khăn thánh này.
Ngày 8 tháng 9 năm 1264, Đức Giáo Hoàng Urbano IV (1262-1268) đã ký sắc lệnh Transiturus, thành lập lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu, cử hành vào sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Trong thời gian đó, thánh tiến sĩ Thomas Aquino đã sáng tác nhiều bài hát vào dịp mừng lễ này như bài Lauda sion, Pange lingua, Adoro Te và các kinh đọc Sacris Solemniis và Verbum Supernum. Vào dịp lễ này, các Giáo xứ tổ chức kiệu Mình Thánh Chúa ra đường phố công cộng để mọi người tôn thờ.
Thời vua Philippe le Bel đang cai trị nước Pháp (1285-1314), năm 1290, có một bà công giáo sống đạo đức. Vì nghèo, bà phải đem cầm chiếc áo cho một người Do Thái. Đến gần lễ Phục Sinh bà đến chuộc lại chiếc áo để mặc đi dự lễ. Người chủ đồng ý trả lại chiếc áo và không lấy tiền lời, với điều kiện buộc bà là rước lễ xong phải nhả Mình Thánh ra và đem về cho anh ta. Bà nghe lời nhả Mình Thánh vào khăn đem về cho anh ta. Anh để Mình Thánh trên bàn lấy dao nhọn đâm nhiều lát. Máu trong Mình Thánh chảy ra. Anh đem Mình Thánh bỏ vào lửa đốt, song Mình Thánh bay lên khỏi lửa.
Năm 1608, trong nhà dòng Faverney tại Besançon, vào ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống có chầu Mình Thánh Chúa trọng thể. Trên bàn thờ trưng hoa và thắp nhiều đèn nến. Người ta sơ ý để đèn cháy khăn bàn thờ, nhà tạm và bàn thờ. Trong khi lửa lan nhanh và bốc cháy khắp cả, Mình Thánh đựng trong hào quang cứ bay lên lơ lửng trên không gian trọn một ngày một đêm. Qua ngày thứ ba, người ta lập một bàn thờ khác thay bàn thờ đã cháy và trong khi cử hành thánh lễ, thì hào quang từ từ đặt xuống bàn thờ. Có nhiều người chứng kiến đã cùng hát kinh chúc tụng và thờ lạy.
Có rất nhiều chứng tích phép lạ Thánh Thể được lưu giữ và ghi lại trong kho tàng tài liệu của Giáo Hội để chứng minh sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể.Thực ra, giáo lý về Bí Tích Thánh Thể vẫn luôn là đề tài suy tư và tranh luận giữa các nhà thần học của các Kitô Giáo. Giữa các giáo phái Tin Lành và Công Giáo có những quan niệm thần học khác nhau về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể. Niềm tin trong đạo Công Giáo là tin thật Chúa Giêsu tiếp tục ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể cả trong nhà tạm, nghĩa là sau khi dâng thánh lễ. Các giáo phái khác không chia sẻ cùng niềm tin này. Một số Kitô hữu (Christians) tin rằng sự thánh hiến bánh và rượu có thể là biểu tượng (symbolic) hay việc tưởng niệm của Bữa Tiệc ly. Niềm tin của Giáo Hội Công Giáo là trong thánh lễ, sau khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép: Đây là mình Ta...Đây là Máu Ta... thì bánh và rượu trở nên Mình và Máu của Chúa Kitô.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô nhắn nhủ rằng: Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha (Eph 5, 20). Thừa hưởng gia tài vô giá của Chúa Giêsu qua Giáo Hội của Ngài, chúng ta được tiếp tục thông hiệp vào tiệc Thánh Thể. Chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và với tha nhân. Chúng ta được trở nên một trong Chúa nhờ một phép rửa, một niềm tin và một niềm hy vọng. Vậy chúng ta hãy thực thi lời của thánh Phaolô: Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan (Eph 5, 15).
Trong mọi sự, chúng ta hãy cùng dâng lời tạ ơn Thiên Chúa là Cha. Chúa đã ban bánh bởi trời cho nhân loại và bánh đó có đủ mọi mùi thơm ngon: Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời (Ga 6. 58). Lạy Chúa, Chúa là nguồn ban sự sống. Xin cho chúng con biết đặt trọn niềm tin tưởng và phó thác vào Chúa. Chúa sẽ cho chúng con bánh ban sự sống đời đời. Amen.
12. Tôi Là Bánh Hằng Sống
(Lm. GB. Văn Hào)
Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục (Presbiterorum Ordinis) đã viết: " Mọi bí tích của Giáo hội đều quy nguồn về Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa mọi kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, là nhiệm thể Đức Kitô. Không có Thánh Thể, không có đời sống cầu nguyện và cũng không có việc rao giảng Tin mừng" (số 8). Lời khẳng quyết của Hội thánh nêu bật nền tảng thiết yếu của bí tích Thánh Thể trong đời sống Đức tin của mọi Kitô hữu.
Suốt bốn tuần qua, chúng ta đã suy gẫm bài diễn từ về "Bánh" trong chương 6 của tin mừng thánh Gioan. Chúa nhật hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta một lần nữa lắng đọng tâm hồn để tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu nơi bàn tiệc thánh. Đó là bàn tiệc yêu thương, bàn tiệc đức tin và cũng là bàn tiệc diễn bày sự hiệp thông huynh đệ.
Bàn tiệc tình yêu.
Thánh Gioan đã viết: "Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm" (Ga 1,14). Thân xác Đức Giêsu sau khi sống lại đã đi vào trong vinh quang với Chúa Cha, nhưng thân xác thánh thiêng ấy vẫn còn hiện diện cách nhiệm mầu nơi bí tích Thánh Thể. Đó là sự hiện diện của tình yêu. "Thiên Chúa vui thích ở giữa dân Ngài". Ngài đã đến cắm lều giữa chúng ta, dọn sẵn cho chúng ta bữa tiệc để tỏ hiện tình yêu nhưng không của Ngài. Đây cũng chính là bữa tiệc mà sách Khôn ngoan nhắc tới trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay. Thực đơn của bàn tiệc này chỉ có một món duy nhất, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu, là lương thực được hiến trao, như chính Đức Giêsu đã khẳng định trong bài Tin mừng: " Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống". Không có từ ngữ nào lột tả được cách trọn vẹn mầu nhiệm tình yêu sâu xa này. Chính Đức Giêsu đã khải thị cho các học trò trong bữa tiệc ly trước khi Ngài đi thụ nạn: " Không ai có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của người hiến ban mạng sống mình cho bạn hữu".
Muốn ngồi vào bàn tiệc tình yêu này, chúng ta phải loại bỏ khỏi mình những gì thuộc ác quỷ, đối kháng với tình yêu mà Thiên Chúa diễn bày. Thánh Augustinô đã nói: "Bánh mì nuôi sống con người, nhưng sẽ giết chết chim diều hâu". Bao tử con người thích hợp với bánh mì nhưng khi diều hâu ăn vào, bánh mì sẽ trương nở, nó bị ngạt thở và sẽ chết. Bàn tiệc tình yêu sẽ không có chỗ để những con người ác tâm với một trái tim diều hâu ngồi vào. Diều hâu chuyên rúc rỉa xác chết, là một hình tượng ám chỉ những hôi thối và bẩn thỉu của tội lỗi. Ngồi vào bàn tiệc thánh, chúng ta cần phải tinh luyện tâm hồn, loại bỏ đi những gian dối lọc lừa, những hận thù ghét ghen, những tham lam bất chính. Chúa nói "Tôi là Bánh trường sinh", bánh đem lại sự sống cho những người ngay lành nhưng sẽ giết chết những tâm hồn diều hâu đầy gian ác.
Bàn tiệc đức tin.
Mỗi khi chầu Thánh Thể, chúng ta mượn lại những vần thơ thánh của thánh Tôma Aquinô để hát lên: " Đây nhiệm tích vô cùng cao quý. Nếu giác quan không cảm nhận ra, chúng ta hãy lấy đức tin bù lại". Đức tin là điều kiện tiên quyết để dẫn đưa chúng ta đến bàn tiệc. Chúa Giêsu đã nói: "Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi sẽ sống muôn đời" (Ga 6,54). Khi đàm đạo với Nicôđêmô, Đức Giêsu cũng đã khải thị: "Ai tin vào con của Người, sẽ được trường sinh" (Ga 3,15-16). Đây là hai cách diễn tả của một thực tại duy nhất: Ăn bánh trường sinh và tin vào Thiên Chúa. Bàn tiệc Thánh Thể chính là bàn tiệc của đức tin. Rất nhiều lần chúng ta đến nhà thờ tham dự thánh lễ nhưng thiếu hẳn cảm thức đức tin cần phải có. Nhiều người coi việc dự lễ mỗi tuần một lần vào Chúa nhật như một bổn phận phải làm để lương tâm được yên ổn, hay để người khác khỏi dị nghị. Thái độ đức tin là điều kiện tất yếu cần phải thể hiện, vì nếu không phát xuất từ đức tin, việc đi lễ cách máy móc sẽ trở nên vô nghĩa và phí phạm thì giờ cách vô ích.
Tin không phải là một động thái mang tính suy lý, nhưng trước hết đây là tác động của ơn sủng. Vì thế trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội luôn nhắc nhở " Đây là mầu nhiệm đức tin". Qua lăng kính đức tin chúng ta mới có thể khám phá nguồn sống vô tận từ Bánh Hằng Sống. Chỉ với đức tin soi dẫn, chúng ta mới có thể tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu linh thánh được diễn bày nơi bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta được mời tới tham dự.
Bàn tiệc hiệp thông.
Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong khung cảnh một bữa ăn. Bữa ăn là dịp để quy tụ, gắn kết mối hiệp thông trong từng mỗi gia đình hay tại bất cứ một tổ chức, một đoàn thể nào. Cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi là gương mẫu cho chúng ta về tinh thần hiệp thông này. Tác gỉa sách Tông đồ Công vụ thuật lại rằng, các tín hữu "luôn chuyên cần lắng nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Họ sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Tất cả đều đồng tâm nhất trí. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ (Cv 3,42-46). Sự hiệp thông này đòi hỏi phải xóa bỏ những hàng rào cách ngăn, dẹp tan mọi toan tính ích kỷ mang tính vụ lợi, và sống gắn kết nên một với nhau như lời ước nguyện của Chúa Giêsu "Ut unum sint" (Xin cho chúng nên một).
Một tu sĩ nọ khi tham dự một Thánh lễ khá đặc biệt ở Bolivia thuộc Châu Mỹ La tinh đã tả lại quang cảnh buổi lễ đó như sau. Phần đầu lễ, vị linh mục mời gọi mọi người thống hối. Vài giây phút thinh lặng để cầu nguyện, sau đó một hồi trống nổi lên. Bốn thanh niên nam nữ từ cuối nhà thờ tiến lên trước cung thánh, trên tay mỗi người mang một sợi xích thật nặng. Họ cố giơ cao tay lên cùng với lời cầu nguyện: Lạy Chúa, đây là những dây xích biểu tượng sức mạnh tội lỗi đang đè nặng trên chúng con. Chúng con chưa hết lòng yêu mến Chúa và mến thương nhau. Trong cuộc sống hằng ngày, đức ái của chúng con vẫn bị khống chế bởi những sợi xích của tham lam và ích kỷ, những trói buộc của đam mê và dục vọng thấp hèn. Xin Chúa phá đi những dây xích nặng nề này nơi tâm hồn tan nát và bầm dập của chúng con. "Lạy Chúa xin thương xót chúng con." Cả cộng đoàn lập lại: "Xin Chúa thương xót chúng con". Đến phần dâng lễ vật, cũng hai cặp thanh niên nam nữ tiến lên dâng bánh và rượu. Đặc biệt họ mang theo một tảng đá lớn cùng với lời cầu nguyện: "Lạy Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa cả tảng đá này, biểu trưng sự chai cứng trong tâm hồn mỗi người. Xin Chúa hãy nhận bánh và rượu để biến nên mình và máu con Chúa. Xin Chúa cũng dang rộng đôi tay đón nhận những con tim lạnh lùng và chai đá của chúng con để biến đổi thành những trái tim thịt mềm. Xin Chúa giúp chúng con biết sống với nhau tử tế hơn, khoan dung hơn và biết quảng đại tha thứ cho nhau hơn".
Kết luận
Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết lại những trang hồi ký trong thời gian Ngài bị biệt giam trong tù. Ngài tóm gọn thành một tập sách nhỏ mang tựa đề "Năm chiếc bánh và hai con cá" để chia sẻ cho giáo triều Rôma trong dịp tĩnh tâm mùa chay vào những năm thập niên 90. Ngài thú nhận, sức mạnh lớn nhất nâng đỡ Ngài trong những năm tháng tù ngục là được cử hành Thánh lễ cho dù lén lút, nhưng rất cảm động và sâu lắng. Thánh lễ Ngài dâng một mình trong bóng tối của nhà tù, không kèn không trống, cũng chẳng có ánh đèn hay một bông hoa trang trí nào. Áo tù Ngài mặc thay cho áo lễ. Đôi bàn tay sần sùi của Ngài đựng những giọt rượu nho thay cho chén thánh. Bánh lễ chứa trong hộp đựng thuốc ho. Những Thánh lễ rất âm thầm và giản đơn, không ồn ào, không một chút hoành tráng bề ngoài, chẳng có ca đoàn hay người giúp lễ.. nhưng sao chép lại gần sát với chính Thánh lễ mà Chúa Giêsu đã cử hành năm xưa trên Thập giá. Đó là những Thánh lễ đẹp nhất trong cuộc đời linh mục của Ngài. Vị Giám mục đáng kính đã dâng những Thánh lễ như thế để kín múc cho mình sức mạnh tâm linh trong những tháng ngày đen tối nhất nơi ngục tù. Còn những thánh lễ chúng ta tham dự mỗi ngày thì sao? Đặc biệt đối với anh em linh mục là những "alter Christus", đã hàng trăm, hàng ngàn lần cử hành thánh lễ "in personna Christi", chúng ta đã dâng các thánh lễ ấy như thế nào? Chúng ta cũng hãy bắt chước tâm tình đơn sơ của một nữ tu dòng Clara khi đến bàn tiệc thánh. Chị chia sẻ với các chị em trong cộng đoàn " Các chị hãy xem một người ăn xin nghèo khổ đến gõ cửa nhà một người giàu có, một bệnh nhân gần chết đến với một bác sĩ tài giỏi, một người đang khát cháy đến bên dòng nước mát trong. Họ đến để làm gì, thì em cũng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể như thế".
Xin Chúa khơi dậy nơi tâm hồn chúng ta một ánh lửa đức tin ngời sáng, mỗi khi chúng ta đến ngồi vào bàn tiệc thánh này.
13. Bánh Thánh Thể
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Bài đọc 1 trích sách Châm Ngôn: "Hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế". Theo lời sách Châm Ngôn, bánh và rượu đây là Đức Khôn Ngoan. Đức Khôn Ngoan được "thiên cách hóa" như chính Thiên Chúa: "đừng ngây thơ dại ngờ nữa, và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết".
Tin Mừng thánh Gioan chương 6 cho thấy Chúa Giêsu Kitô chính là Đức Khôn Ngoan Nhập Thể, là Bánh Hằng Sống, "Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời".
Trang Tin Mừng hôm nay là đỉnh cao của mạc khải Đức Khôn Ngoan Nhập Thể trở thành Bánh Thánh Thể.
Chúa Giêsu khẳng định: "Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống". Người Do thái phản ứng và tranh luận sôi nổi: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?".
Chúa Giêsu giải thích và khẳng định thêm: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết".
Chúa Giêsu cho biết hiệu năng khi "ăn thịt và uống máu" là được kết hiệp mật thiết với Chúa: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy".
Chúa Giêsu nhắc lại hiệu lực của manna cũ để so sánh với hiệu năng của Manna mới: "Tổ tiên các ngươi đã ăn mana và đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời".
Những lời Chúa Giêsu giảng dạy mạc khải rõ ràng về Bí Tích Thánh Thể.
Bí Tích Thánh Thể được Chúa tiên báo trong tiệc cưới Cana, được hứa ban cho dân ở Caphanaum.
Bí Tích Thánh Thể được Chúa thiết lập trong Tiệc Ly: "Đang khi ngồi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ và phán:Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con.Cùng một thể thức ấy, Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói:Tất cả hãy cầm lấy mà uống vì này là chén máu Ta, máu giao ước sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". (Mt 26,26-29).
Bí Tích Thánh Thể được Chúa cử hành đầu tiên tại làng quê Emmau "Người cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho họ. Và họ đã nhận ra Người đã Phục sinh" (Lc 24,13-35).
Thánh Thể là sự sống của Giáo Hội, là lương thực thiêng liêng cho đời sống và là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của người tín hữu chúng ta.
Thánh Thể là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau.
Thánh Thể chính là Tặng Phẩm Thần Linh mà Thiên Chúa trao cho nhân loại.
Lịch sử cứu độ là lịch sử hồng ân và là lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa. Cao điểm của lịch sử này là Thập Giá Đức Kitô. Thập Giá là tột đỉnh hy sinh của Thiên Chúa. Thập Giá biểu lộ tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Thập Giá cũng là tột đỉnh hy sinh của Đức Kitô, Đấng đã hạ mình vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập Giá. Thập giá là cao điểm tình yêu tự hiến của Chúa Kitô.
Tình yêu sâu thẳm và khôn dò của Thiên Chúa biểu lộ nơi Thập Giá Đức Kitô là tình yêu vượt thời gian. Tình yêu tự hiến của Đức Kitô biểu lộ bằng cái chết cũng vượt thời gian. Chúa Kitô chỉ tự hiến một lần, tự hiến trọn vẹn thay cho mọi lần. Chúa đã biểu lộ điều này trong bữa Tiệc Ly. Từ đó, Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch của đời sống Giáo Hội, là trọng tâm và là tột đỉnh của sinh hoạt Giáo Hội. Thánh Thể làm nên Giáo Hội. Không có Thánh Thể thì không có Giáo Hội. Giáo hội là thân mình gồm nhiều người ăn cùng một tấm bánh là thân mình Đức Kitô (1 Cor10,17). Như thế bàn tiệc Thánh Thể là nguồn mạch của yêu thương, cảm thông và hiệp nhất.
Giáo hội luôn định tín rằng: dù chỉ một miếng bánh nhỏ, khi đã được Truyền Phép, vẫn chứa đựng cả thân xác, linh hồn và thần tính của Đức Kitô. Chúng ta có Đức Kitô nguyên vẹn và cụ thể. Chính Chúa Thánh Thần Kitô hóa bánh rượu, làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Khi linh mục, thừa tác viên của Giáo hội, thay mặt Chúa Kitô đọc Lời Truyền Phép. Lời Truyền Phép mà linh mục đọc không phải là một câu thần chú có một ma lực biến bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, giống như linh mục có quyền trên Chúa Kitô, khiến Chúa đến thì Ngài phải đến. Lời Truyền Phép chính là Lời Chúa Kitô, Lời mà Chúa Kitô muốn nói qua môi miệng của linh mục. Chúa Kitô đã chọn một số người để họ lập lại y nguyên Lời Truyền Phép của Ngài. Chính Chúa Thánh Thần lấp đầy "khoảng cách" giữa linh mục và Đức Kitô, khiến Lời Truyền Phép trở nên "công hiệu", làm cho nội dung của Lời trở thành hiện thực. Sau Truyền Phép bánh không còn là bánh mà là Mình Thánh Chúa, rượu không còn là rượu mà là Máu Thánh Chúa. Đã có một sự thay đổi, sự thay đổi ấy là thay đổi bản thể hay "biến thể". Đây là công việc của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là công việc của người phàm, dù người ấy là linh mục. Vì ý thức điều đó, Giáo hội thiết tha khẩn cầu trước lúc linh mục Truyền Phép:
- "Chúng con nài xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này, để biến thành Mình và Máu của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con" (Kinh Nguyện Thánh Thể II).
- "Lạy Cha, chúng con tha thiết nài xin Cha, cũng nhờ Chúa Thánh Thần, mà thánh hóa của lễ chúng con dâng hiến Cha đây, để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, con Cha, Chúa chúng con" (Kinh Nguyện Thánh Thể III).
- "Lạy Cha, xin cho Chúa Thánh Thần đoái thương thánh hóa những của lễ này, để biến thành Mình và Máu Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con" (Kinh Nguyện Thánh Thể IV).
Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Kitô hiện diện thực sự giữa chúng ta, trong hình bánh và rượu. Điều đó không có nghĩa là Đức Kitô không hiện diện thực sự bằng những cách khác, như hiện diện qua lời Kinh Thánh, hiện diện trong Giáo hội, hiện diện nơi những người nghèo khổ, hiện diện giữa hai hoặc ba người họp nhau cầu nguyện (Mt 18, 20). Tất cả những cách hiện diện đó đều là hiện diện thực. Có điều khác là: Đức Kitô không đồng hóa với lời Kinh thánh, Lời Kinh thánh được đọc lên không là bản thân Đức Kitô; Đức Kitô cũng không đồng hóa với người nghèo, vì người nghèo không là bản thân Đức Kitô, dù Ngài đã nói: "Ta đói các ngươi cho ăn, Ta khát các ngươi cho uống..." (Mt 25, 35- 36). Trái lại nơi Bí Tích Thánh Thể, sau Lời Truyền Phép, bánh và rượu là Đức Kitô, là bản thân Ngài, là bản thể Ngài, là Mình và Máu Ngài. Trong Bí Tích Thánh Thể, sự hiện diện của Đức Kitô có một chiều sâu hữu thể mà không nơi nào có. Sự hiện diện đích thực và đặc biệt này của Đức Kitô là kết quả của một sự thay đổi mà tác động thay đổi chính là công việc của Chúa Thánh Thần làm khi linh mục đọc Lời Truyền Phép. (x.simonhoadalat.com, Tặng phẩm Thần Linh, ĐGM Bùi Văn Đọc).
Bí Tích Thánh Thể là sáng kiến của tình yêu. Tình yêu luôn có những sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu. "Thiên Chúa đã yêu thế gian nỗi ban chính Con Một..." (Ga 3, 16) và Con Một là Chúa Giêsu đã yêu cho đến cùng, đã lập Bí tích Thánh Thể để ở với con người luôn mãi.
Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường, nhưng lại là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống con người hàng ngày. Chúa Giêsu đã muốn trở nên những gì cần thiết và gần gũi đó. Người muốn bánh và rượu trở nên thịt máu của Người. Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Vật chất đã trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Trước tình yêu bao la của Thiên Chúa, thánh Phaolô trong bài đọc 2 khuyên các tín hữu: "Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha", đồng thời: "Hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời gian hiện tại...hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa...hãy thấm nhuần Thần Khí". Ý Thiên Chúa muốn chúng ta sống yêu thương như Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương.
Mình và Máu Chúa Kitô là hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa. Tham dự Thánh Lễ tích cực, trọn vẹn là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa. Thỉnh thoảng trong ngày, trong tuần, chúng ta nên quỳ gối trước Thánh Thể, chúng ta có thể học được nhiều điều từ Bí Tích Tình Yêu.
14. Thánh Thể- Hiến Tế.
('Niềm Vui Chia Sẻ')
Cha Piô, tu sĩ dòng Capucinô, ở Itala, mới được phong thánh năm 2004, là vị linh mục đầu tiên đã được in 5 dấu thánh. Ngài là linh mục và đặc ân của Ngài, do thánh chức, là ở toà giải tội và nhất là trên bàn thờ dâng lễ. Cha dâng lễ lâu đến ba tiếng rưỡi đồng hồ. Ai dự lễ do cha Piô làm đều say sưa, sốt sắng, không biết mỏi mệt. Ngài sống mầu nhiệm Chúa hiện diện trên bàn thờ trong Bí tích Thánh Thể. Sau khi dâng Mình Thánh Chúa, thảm kịch tế lễ càng diễn tiến như dưới chân Thánh Giá xưa. Mồ hôi nhỏ giọt, nước mắt dầm dề. Ngài đọc lời truyền phép như một người đang hấp hối, đau khổ tột độ. Ngài cầm Mình Thánh giơ lên, những đường máu từ từ rơi theo dấu ngón tay. Rồi ngài hớn hở như được thấy Chúa. Ai không tin sự hiện diện của Chúa trong hình bánh hình rượu, hãy đến dự thánh lễ cha Piô sẽ biết, sẽ cảm nghiệm. Để Thánh lễ đừng kéo dài quá lâu sau truyền phép, cha bề trên tu viện núp trong cung thánh, phải ra lệnh bằng ý muốn cho ngài tiếp tục (Le vrai visage du Padre Pio, Maria Winowska,Fayard).
Anh chị em thân mến,
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn đi xa hơn nữa trong mạc khải của Ngài về Bánh Hằng Sống. Không những Chúa Giêsu đói buộc phải tin vào Ngài, nhưng Ngài còn đòi buộc phải ăn bánh là chính Mình Ngài, phải uống chén rượu là chính Máu Ngài. Bánh và rượu chính là Thịt và Máu của Ngài. Bánh và rượu này liên hệ đến cái chết của Ngài, cho đến độ không có cái chết của Ngài trên Thập Giá, thì Bánh ngày không thể là Thịt của Ngài và Rựơu này không thể là Máu của Ngài. Vì vậy, Bí tích Thánh Thể vừa là lễ tế hy sinh của Chúa Giêsu trên Thập Giá, vừa là bữa tiệc Thịt và Máu của Ngài, dưới hình thức bánh và rượu. Vì thế, Thánh Thể trước hết là một hy lễ. Chính là máu của Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người được ơn tha tội. Chính là cuộc tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá.
Đoạn Tin Mừng hôm nay gợi lại cho chúng ta Bữa Tiệc Thánh Thể Chúa Giêsu đã cử hành vào những giờ phút cuối cùng của đời Ngài, trước lúc Ngài bị bắt và chết trên Thập Giá. "Trong bứa ăn tối, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, chúc tụng, rồi bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói: Các con hay cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy. Rồi cầm lấy chén rượu, tạ ơn, Ngài trao cho họ mà nói: Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là chén Máu Thầy, máu Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người được ơn tha tội" (Mt 26,26-28). Thánh Phaolô còn nói rõ: "Mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, là anh em loan báo cái chết của Chúa Giêsu cho đến khi Ngài lại đến" (1Cr 11,26).
Chúng ta phải đọc những lời thiết lập Bí tích Thánh Thể dưới ánh sáng của những lời khẳng định của Chúa Giêsu về Bánh ban sự sống. Ngài đã tuyên bố một cách thẳng thừng Ngài là gì và người ta phải quan hệ với Ngài như thế nào để có được sự sống của Thiên Chúa. "Tôi là Bánh ban sự sống... Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì sống mãi trong Tôi, và Tôi sống mãi trong người ấy". "Tôi sống như thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy". Thịt và Máu Chúa Giêsu là của ăn, của uống làm cho người ta "sống trong Chúa Giêsu" và làm cho Chúa Giêsu "sống trong người ấy". Người dùng thức ăn, thức uống này thì được "sống nhờ Chúa Giêsu", sẽ được "sống lại trong ngày sau hết" và được "sống đời đời".
Thưa anh chị em,
Trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, tình yêu liên hệ với sự sống: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã banh Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Không có sự sống thì cũng không có tình yêu. Thiên Chúa đã cứu chúng ta khỏi chết để chúng ta được sống để chúng ta được sống và được sống với Ngài. Bánh Ngài ban tặng chúng ta là bánh ban sự sống đời đời, là dấu chỉ của tình yêu, là dấu chỉ của chính Thân Thể Ngài hy sinh cho nhân loại. Tấm bánh bẻ ra hay là Chúa Giêsu Kitô hy sinh chịu chết vì chúng ta, đó chính là bằng chúng của tình yêu cao cả nhất: "Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu hiến thân mình cho bạn hữu" (Ga 15,13). Vì vậy, Bí tích Thánh Thể được coi là Bí tích của tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu và yêu là muốn kết hợp với người yêu. Yêu là muốn điều tốt, muốn cho người yêu được sống dồi dào, và trong tình yêu có sự đòi buộc phải hy sinh.
Bí tích Thánh Thể là bí tích tình yêu của Chúa Giêsu ban cho chúng ta. Từ khi nhập thể làm người cho đến lúc gục đầu trên Thập Giá. Chúa Giêsu chỉ có một khắc khoải là minh chứng tình yêu cho nhân loại. Ngài muốn loài người được sống và sống dồi dào. Đâu là Bí Tích Thánh Thể của Chúa Giêsu, bí tích của một tình yêu tận hiến. Chúa ban sự sống của Ngài cho chúng ta để chúng ta kết hợp với Ngài và được sống dồi dào nhờ cái chết cứu độ của Ngài.
Thế nhưng, được kết hợp với Ngài để làm gì? Được sống dồi dào để làm gì? Được sống kết hợp với Chúa để tiếp tục sống tình yêu như Ngài. Được kết hợp với Chúa để tiếp tục hoạt động với Ngài để đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Được kết hợp với Chúa Cha ở mọi nơi. Được kết hợp với Chúa để phục vụ cho anh em được sống dồi dào hơn qua cuộc tận hiến chính cuộc đời của mình.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu tiếp tục hiến mình làm bánh, là lương thực nuôi sống Giá Hội, nuôi sống chúng ta qua Bí tích Thánh Thể được cử hành hằng ngày, hằng tuần... Và mỗi người chúng ta cũng như cộng đoàn được mời gọi tiếp rước Mình và Máu của Chúa. Nhưng tiếp rước ở đây không phải chỉ là ăn uống Mình và Máu của Chúa Giêsu mà thôi, mà còn phải là tiếp rước chính Chúa Giêsu với cả cuộc đời và sứ mạng của Ngài, để hoạ lại ý nghĩa của cuộc đời và sứ mạng đó trong chính cuộc sống của mình. Do đó, rước lễ đích thực không thể tách rời khỏi việc tìm hiểu trong Lời của Chúa, trong cuộc đời của Ngài bài học về cách xử sự, về sự lựa chọn, về sự hy sinh, về lòng yêu mến người khác cho chính cuộc đời của mình. Đó là cách thức để người Kitô hữu sống bằng Thịt và Máu của Chúa, sống nhờ Chúa và qua đó, được sống đời đời.
Bí Tích Thánh Thể của Chúa Giêsu phải được nhân lên qua cuộc sống của các tín hữu. Bao lâu chúng ta còn sống hữu ích cho anh em, còn tìm cách làm cho cuộc sống của những người chung quanh bớt nghèo, bớt đói, bớt khổ... là chúng ta đang tế hiến mình với Chúa Kitô Thánh Thể. Chúng ta trở thành bánh ngon để nuôi sống anh em. Lúc đó, chúng ta mới dâng lên Thiên Chúa Bí tích tình yêu của chính bản thân mình mỗi lần họp nhau cử hành Bí tích Thánh Thể của Chúa Kitô.
15. Ai ăn Ta, sẽ sống nhờ Ta
(Noel Quesson)
Đanien Côn-neo (Daniel Connell) là người đã giải phóng dân tộc Ái nhĩ lan. Ông là một tín hữu can đảm và nhiệt thành. Khi người ta cười nhạo ông vì họ không hiểu rõ và cũng không tin bí tích Thánh Thể. Ông đã giải đáp: "Sao các ông lại hỏi tôi? Các ông phải hỏi Chúa Giêsu. Phần tôi, tôi chỉ tin như Chúa Giêsu đã nói. Nếu điều đó không đúng, thì Chúa mới là người đáng trách. Nhưng sự thật của Chúa thì muôn đời tồn tại".
Niềm tin vào bí tích Thánh Thể cũng như toàn bộ niềm tin của chúng ta, phải xây dựng và chỉ có thể xây dựng trên Lời Chúa. Chúa là sự sống của ta và Chúa là căn bản lòng tin của ta. Chúa là lương thực nuôi hồn ta, Chúa liên kết với ta, thông chia sự sống nhiệm mầu của Người cho ta. Nếu chúng ta thấy xao xuyến, mệt mỏi bơ vơ, là tại chúng ta đã xa cách Chúa, tại chúng ta đã cách ly Chúa. Khi đó chẳng những chúng ta lạc lõng khốn cùng mà còn phải chết muôn đời nữa. Vì Chúa đã khẳng định: "Nếu các ngươi không ăn thịt, không uống máu Con Người, thì trong các ngươi không có sự sống" (Ga 6,53).
Khi nói về bánh hằng sống, Chúa Giêsu nói xen lẫn hai sự kiện: Lời Chúa và bí tích Thánh Thể. Chúa nói cả hai chuyện một lúc như vậy, cốt cho ta hiểu rằng cả hai chỉ là một. Tiếp nhận Chúa là đón nghe và làm theo Lời Chúa. Sống Lời Chúa cũng chính là việc ăn Mình, uống Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể, là cụ thể hóa Lời Chúa bằng bí tích Mình Máu Chúa, là hòa nhập sự sống ta với sự sống Chúa. Cũng như Thánh Lễ không phải là hai phần tách biệt mà chỉ là một: đó là mầu nhiệm Chúa Kitô dạy dỗ ta bằng Lời Chúa và Lời Chúa đi vào cuộc sống ta bằng chính Máu Thịt Chúa. Chúa trở nên huyết nhục chúng ta, để biến đổi sự sống ta thành sự sống Chúa, và rồi từ đó, Lời Chúa sẽ thành lời nói và hành động của ta. Ta sẽ là hiện thân Chúa Giêsu giữa trần gian.
Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu biết ba tác dụng của bí tích Thánh Thể: Trước hết là sự sống lại và cuộc sống vĩnh viễn: "Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì được sống muôn đời, còn Ta, Ta sẽ cho người ấy sống lại ngày tận thế" (Ga 6,54). Trong bữa tiệc ly, Chúa đã nối kết tiệc Thánh Thể với tiệc Nước Trời: "Thầy sẽ không uống rượu nho này nữa cho tới lúc Thầy lại uống với các con trong Nước của Cha Thầy".
Thứ đến là tình liên đới giữa Đức Kitô và các tín hữu: "Ai ăn Thịt và uống Máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong người đó". Ở trong Chúa là hưởng hạnh phúc với Chúa. Hạnh phúc lớn nhất là ở bên người mình yêu và được người đó yêu mình. Từ Cựu Ước đã có những lời diễn tả thực tại này: "Các ngươi sẽ là dân Ta và Ta là Thiên Chúa các ngươi" (Xh 6,7); "Người yêu của tôi thuộc về tôi và tôi thuộc về người" (Diễm ca 6,3); "Các con hãy ở trong Thầy như Thầy ở trong các con" (Ga 6,56; 15,4).
Sau cùng là sự tận hiến cho Cha: "Như Chúa Cha hằng sống đã sai Thầy và Thầy sống nhờ Cha, cũng vậy, ai ăn Thầy sẽ sống nhờ Thầy". Chúa Giêsu đã sống kết hiệp với Cha, Chúa cũng đòi ta hiệp nhất với Ngài như thế.
Lạy Chúa, nhờ Lời Chúa và Thánh Thể, chúng con hy vọng chắc chắn sẽ được sống lại và được sống muôn đời với Chúa. Xin giúp chúng con biểu lộ lòng tin này trong việc đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể, trong cuộc sống hiệp nhất với nhau và trong tình liên đới với mọi người.
16. Bánh hóa nhiều.
Tôi còn nhớ, hồi nhỏ mỗi khi ăn cơm mà để những hạt cơm rơi vãi, thế nào cũng bị ba tôi giảng cho một bài luân lý giáo khoa thư.
Một hạt cơm mà thôi cũng do bởi biết bao công lao khó nhọc, như tục ngữ đã bảo:
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hột đắng cay muôn phần.
Rất may là chúng ta chưa lâm vào cảnh đói kém, nhiều khi chỉ vì một nắm cơm mà người ta sẵn sàng làm những công việc đê tiện.
Trong những trại tù, thì giây phút quan trọng và cam go nhất của một ngày là lúc phân phát thực phẩm. Nhiều người chỉ sống cho giây phút này mà thôi. Sau khi đã lãnh phần ăn, họ đã nhìn vào chén cơm hồi lâu, rồi cẩn thận nhai nuốt với tất cả sự trọng kính.
Thế nhưng, cơm bánh chỉ là một hình ảnh tượng trưng, vì ngoài thân xác ra, con người còn có một linh hồn, linh hồn ấy cũng cần phải được nuôi dưỡng bằng một thứ của ăn thiêng liêng. Giữa của ăn vật chất và của ăn thiêng liêng có một mối liên hệ, tuy mầu nhiệm nhưng cũng lại rất hiện thực.
Cũng trong những trại tù, các linh mục âm thầm làm lễ giữa đêm khuya ngay trong chiếc mùng của mình. Rồi Mình Thánh được gói trong những mảnh giấy nhỏ và chuyển đến cho các bạn tù, nhờ đó mà những tù nhân Công giáo tìm thấy được niềm an ủi và khích lệ.
Chúa Giêsu cũng đã biết rằng cái đói là một nỗi bất hạnh và con người luôn cần tới cơm bánh, vì thế Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi sống hàng ngàn người giữa nơi hoang vắng. Rồi từ đó Ngài đã giới thiệu thứ của ăn nuôi sống linh hồn, đó là thịt máu Ngài.
- Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máy Ta thì sẽ được sống đời đới.
Mặc dù đám đông trước đó đã nhiệt tình hoan hô Ngài và muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng với những lời lẽ như thế, họ đã bỏ Ngài, để rồi chỉ còn mình Ngài với các môn đệ.
Sự kiện này vẫn thường xảy ra qua giòng thời gian. Những kẻ không tin tưởng và cho rằng cái đói của linh hồn là một chuyện hoang đường, và họ đã bỏ Chúa mà đi. Còn chúng ta thì sao?
Điều quan trọng đó là chúng ta phải hiểu đúng ý định của Chúa và cố gắng thực hiện bằng cách siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ. Việc rước lễ đã ấn định một lằn mức phân chia những người tin và không tin.
Đúng thế, thánh lễ không phải chỉ là một đề mục trong cuộc sống người Kytô hữu, nhưng đúng là một phép lạ. Trong phần dâng lễ, linh mục đại diện cho tất cả chúng ta dâng tiến Chúa của lễ của cộng đồng. Trong phần truyền phép, qua tay linh mục, Chúa Giêsu đã biến đổi bánh rượu trở nên thịt máu Ngài, đó là giây phút trọng đại, qua đó Chúa tuôn đổ muôn vàn hồng ân của Ngài. Việc rước lễ là một bàn tiệc, để chúng ta được nhận lãnh của ăn nuôi sống linh hồn.
Nếu hiểu được như thế, thì mỗi ngày chúng ta hãy cố gắng thực hiện lệnh truyền của chúa, đó là
- Các con hãy nhận lấy mà ăn...Các con hãy nhận lấy mà uống...
17. Bánh Thánh Thể.
Trong một cuộc họp mặt đông đảo các Kitô hữu tại một nhà thờ ở Tây Đức để đón chào mẹ Têrêxa Calcutta, người ta đã dâng cho mẹ một bó hoa rất đẹp. Bỡ ngỡ trước lòng quý mến và trọng kính mà người ta đã dành cho mình, mẹ Têrêxa mới đầu tỏ ra hơi lúng túng, nhưng sau đó vài phút, với thái độ đơn sơ quen thuộc, mẹ đã ôm bó hoa đi thẳng lên cung thánh, mẹ quỳ gối nơi bậc bàn thờ rồi đặt bó hoa trước nhà tạm. Cử chỉ này cho thấy mẹ Têrêxa rất quý trọng phép Thánh Thể, vì Thánh Thể chính là nguồn tình yêu và nghị lực mà từ đó mẹ đã nhận được tình yêu và nghị lực cho cuộc sống dấn thân và phục vụ vô vị lợi của mẹ.
Qua các hoạt động bác ái, mẹ Têrêxa và các nữ tu dòng của mẹ đã nuôi dưỡng hàng ngàn trẻ em mồ côi, đã phục vụ hàng ngàn người nghèo đói, đã chăm sóc, chữa trị hàng trăm ngàn bệnh nhân và an ủi hàng chục ngàn người hấp hối. Nhưng vượt lên trên tất cả những hoạt động nhằm phục vụ cho sự sống thể xác, mẹTêrêxa đã đặc biệt chú trọng đến một nhu cầu mà mẹ thường nhấn mạnh và cho là căn bản, nó cần thiết hơn cả cơm ăn áo mặc nữa, nhu cầu đó là muốn được chấp nhận và được yêu thương.
Phép Thánh Thể có khả năng thỏa mãn nhu cầu cấp thiết đó, vì phép Thánh thể là một bằng chứng thật hùng hồn nhắc nhở và tái diễn mối tình muôn thuở, đó là mối tình của Thiên Chúa đối với loài người và mối tình của Chúa Giêsu đối với chúng ta. Thánh Gioan tông đồ đã quả quyết: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một yêu dấu của mình cho thế gian". Còn đối với Chúa Giêsu thì Kinh Thánh cho biết: "Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không dành cho mình phận ngang hàng với Thiên Chúa, mà Ngài đã hủy mình đi, Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá". Cái chết của Ngài là một thực hiện lời Ngài mạc khải trong bài Tin Mừng hôm nay: Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời". Bánh đó chính là thịt Ngài.
Quả thực, ai ăn thịt Chúa sẽ được tăng thêm ơn thánh hóa, được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và với các anh chị em tín hữu khác, được tha các tội nhẹ và bảo vệ khỏi tội trọng, và bảo đảm được một hiệu quả vô cùng cao quý là sự sống lại và sự sống đời đời. Nhưng với điều kiện là chúng ta phải rước Mình Thánh Chúa với thái độ tin và yêu. Để biểu lộ thái độ tin và yêu ấy đối với Đấng đã, đang và sẽ còn tiếp tục tự hiến thịt máu mình để cho chúng ta ăn và uống mà được sống, chúng ta hãy để cho tình yêu của Chúa biến đổi chúng ta thành những khí cụ ban phát tình yêu Thiên Chúa cho mọi người như mẹ Têrêxa Calcutta và các nữ tu thuộc dòng do mẹ sáng lập đang thực hiện khắp nơi trên thế giới.
Đó cũng là cách Chúa mời gọi chúng ta cùng làm phép lạ với Chúa, đó là câu kết luận của câu truyện sau đây: Có một gia đình giàu có, quý tộc người Anh, dẫn đứa con trai yêu quý về miền quê chơi. Trong khi nô đùa, chẳng may em bị rơi xuống một hố nước sâu mà cha mẹ không hay biết. Nhưng rất may tiếng kêu cứu của em đã được một chú bé, con của người làm vườn nghèo khó nghe được và chạy đến cứu sống.
Cha của em tỏ lòng biết ơn chú bé đã cứu sống con ông, nhưng thay vì lời cám ơn, ông muốn giúp đỡ chú bé ấy. Ông hỏi: "Khi lớn lên con muốn làm gì?" – "Thưa ông, chắc là con sẽ tiếp tục nghề làm vườn của cha con" – "Con không còn ước mơ nào lớn hơn sao?" – "Dạ, nhà con nghèo thế này thì con còn ước mơ gì được nữa" – "Nhưng nếu con được ước mơ thì con ước mơ gì?" – "Thưa ông, con muốn đi học, muốn là bác sĩ".
Sau này, em bé được cứu sống đã trở thành một vĩ nhân của thế giới, đã giữ một vai trò quan trọng làm thay đổi cục diện thế chiến thứ II và đã làm cho nước Anh hãnh diện vì tài ba chính trị của ông, đó là thủ tướng Uyn-sân Chớc-chiu. Và nhờ lòng thương giúp đỡ của người cha của Chớc-chiu mà chú bé nhà nghèo kia đã trở thành một bác sĩ lừng danh của thế giới và là ân nhân của nhân loại cho đến ngàn đời, vị bác sĩ đó là Phơ-len-ning, người đã tìm ra thuốc trụ sinh Pê-nê-ci-lin.
Sau khi kể xong câu truyện trên, tác giả đã kết luận: "Khi Chúa mời gọi chúng ta giúp đỡ nhau là Chúa mời gọi chúng ta cùng làm phép lạ với Chúa". Chúng ta hãy nhớ: Khi chúng ta giúp đỡ nhau là chúng ta cùng làm phép lạ với Chúa. Trở lại bài Tin Mừng hôm nay, điều chính yếu Chúa Giêsu muốn bảo cho người Do Thái xưa kia và chúng ta hôm nay: Ngài là bánh hằng sống, vì Ngài là Thiên Chúa hằng sống, chính vì thế kẻ ăn bánh này sẽ được tham dự vào sự sống của Chúa, họ sẽ được sống đời đời. Cho nên, người ta phải đón nhận Ngài không những bằng lòng tin mà còn phải ăn bánh đó, tức là ăn thịt Ngài nữa.
Chúa Giêsu dạy chúng ta về Bánh Thánh Thể, chúng ta có chấp nhận với lòng tin không? Nếu chúng ta không lãnh nhận của ăn này thì hậu quả sẽ ra sao? Tất nhiên là chúng ta không được "chất bổ" của thứ bánh bởi trời này, mà ngược lại, còn bị xét xử, đoán phạt, chết đời đời. Cũng như nếu chúng ta bệnh tật, thuốc men có đó mà chúng ta nhất định từ chối không dùng thì chúng ta không khỏi bệnh là tại chính chúng ta thôi. Cũng vậy, ai trong chúng ta cũng muốn ăn no, mặc ấm, mà còn muốn ăn ngon, mặc đẹp nữa, muốn gia đình hạnh phúc, kể cả những người đầy đủ cũng thế, họ vẫn mơ ước thêm nữa, vậy thì chúng ta muốn có sau 50, 60 hay 70 năm trần thế này được sống hạnh phúc mãi bên Chúa không? Hãy đến với bí tích Thánh Thể, hãy hết lòng tin vào phép Thánh Thể. Bánh Thánh Thể là của ăn cho chúng ta no ấm đi hết quãng đời này về trời.
Thánh Thể không phải chỉ là một lời hứa trường sinh bất tử nhưng còn là một bảo chứng: hôm nay thân xác chúng ta đã được dự tiệc Thánh thể, thì sau này thân xác chúng ta sẽ được dự tiệc thiên quốc. Tiệc Thánh thể mới chỉ là khai vị chuẩn bị cho tiệc thiên quốc. Chúng ta hãy siêng năng rước lễ để bảo đảm cho cho cuộc sống hạnh phúc muôn đời.
18. Bánh Hằng Sống.
Nhà văn James Colaianni ghi lại một chuyện như sau:
Một gia đình nghèo khó nọ ở một làng thuộc nước Nam Tư đã định tâm di cư đến nước Hoa Kỳ. Gia đình này gồm ba mẹ, một em bé trai, và bốn em gái nhỏ. Trước khi đi, những người thân thuộc đã cho gia đình đó những món quà đơn sơ như bánh mì và một vài cục phó mát.
Ngày họ lên tàu, họ rất ngỡ ngàng với những cảnh ở thế giới bên ngoài. Ngày đó là một ngày mùa đông giá lạnh, nên sau khi lên tàu, họ liền chui xuống chỗ ngồi hạng ba ở gầm tàu. Họ đã ở đó và ăn những ổ bánh mì mà những người thân đã tặng cho họ lúc họ rời Nam Tư. Họ cố gắng ăn ít bao nhiêu có thể hầu có đủ lương thực cho chuyến đi đến Hoa Kỳ.
Ngày cuối cùng của cuộc hành trình, em bé trai cảm thấy mệt mỏi nên em đã xin phép ông bố để đi lên trên boong tàu nhìn ngắm cảnh vật.
Sau khi em bé đã đi cả một tiếng đồng hồ mà không thấy trở về, ông bố cảm thấy lo và đi lên boong tàu để kiếm em. Ông bố đã tìm thấy em bé đang ngồi trong một cái nhà cơm thật thịnh soạn và đang ngồi tại một cái bàn với đầy đủ đồ ăn thịt rau và trái cây.
Khi nhìn thấy như vậy, tim ông bố như bị ngừng đập. Trong tâm trí, ông đang nghĩ ra cái cảnh khi vừa đặt chân đến nước Hoa Kỳ, ông sẽ phải vô trong tù bởi vì ông quá nghèo không đủ tiền để trả cho những thức ăn mà người con trai của ông đang ăn.
Khi người con trai nhìn thấy bố mình hoảng hồn như thế liền nói: "Bố ơi, đừng sợ, bữa ăn này không mất tiền. Trong khi chúng ta ở dưới gầm tàu ăn uống thanh đạm thì mọi người trên tàu này đều ăn uống thả dàn như thế này. Các món ăn này đã được tính cả vào trong vé tàu của mình rồi."
Trong thế giới này có biết bao nhiêu người nghèo khổ giống như gia đình nghèo khổ Nam Tư đó. Họ hành trình trong cuộc sống mà hoàn toàn không để ý rằng có một Bữa Tiệc Thần Thiêng. Đó là bữa tiệc Thánh Thể và nó đã được tính vào vé của cuộc sống.
Chúa Giêsu đã nói đến bữa tiệc thần diệu này trong bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Gn 6:51).
Sự khác biệt giữa Bánh Hằng Sống và bánh ăn thường thì vượt xa vời vợi. Khi chúng ta ăn bánh thường, bánh ấy sẽ trở nên thân xác chúng ta. Nhưng khi chúng ta ăn Bánh Trường Sinh thì hiệu quả khác biệt. Bánh ấy không trở nên thân xác chúng ta, nhưng chúng ta trở nên Bánh Trường Sinh. Bánh ấy sẽ biến đổi chúng ta thành Thân Mình Chúa Kitô. Và đó chính là lý do tại sao khi chúng ta ăn bánh ấy, chúng ta sẽ được sống đời đời. Nếu chúng ta dành ra một đôi phút để nghĩ về mầu nhiệm kỳ diệu này, chúng ta sẽ cảm thấy rất ngạc nhiên về món quà rất quí giá này.
Thật là một điều bất hạnh khi phải hành trình trong cuộc sống mà không biết gì đến món quà rất quí giá này. Thật là một điều bất hạnh cho những ai đang đi trên đường đời mà không biết gì đến Bữa Tiệc Thần Diệu đi chung với cái vé cuộc đời.
Tuy nhiên, còn đau thương hơn nữa là có những người đi trên đường đời biết đến Bữa Tiệc Thần Diệu, nhưng coi thường bữa tiệc này và không biết ơn Đấng ban cho chúng ta Bữa Tiệc Thánh ấy. Có khi chúng ta lãnh nhận Mình Thánh theo một thói quen và chúng ta khinh thường Mình Thánh. Chúng ta đã không còn biết tôn kính Mình Thánh và sự thiếu kính trọng đó đã được bộc lộ qua các hành động của chúng ta.
Chúng ta hãy xét xem chúng ta có biết cầu nguyện trước khi và sau khi rước Chúa không? Điều gì đã ở trong trí óc của chúng ta trước và sau khi rước Chúa? Chúng ta có cầu nguyện với Ngài như là một người bạn không? Chúng ta có cám ơn Ngài, xin Ngài tha thứ những lỗi lầm, và nói với Ngài những khó khăn của chúng ta không?
Cái gia đình Nam Tư nghèo khổ trong câu truyện trên thật là tội nghiệp, bởi vì đã đi hết chuyến vượt đại dương mà không biết rằng cái vé tàu bao luôn cả phần ăn nữa. Và còn tội nghiệp hơn nữa cho một số người trải qua đường đời mà không biết gì đến Bữa Tiệc Thánh đến với họ cùng với cái vé cuộc đời.
19. Thánh Thể.
Kinh Thánh đã đưa ra nhiều hình ảnh ám chỉ đến bữa tiệc Thánh Thể. Từ những lễ vật của Cựu ước đến Manna trong hoang địa. Thế nhưng, phép lạ bánh hóa nhiều là một hình ảnh vừa gần gũi, lại vừa trực tiếp nhất.
Bởi vì sau phép lạ ấy Chúa Giêsu đã xác quyết:
- Ta là bánh hằng sống từ trời xuống...Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống...
Tất cả những hình ảnh ấy đã được Chúa Giêsu thực hiện một cách trọn vẹn trong bữa tiệc ly vào buổi chiều ngày Thứ Năm Tuần Thánh, khi Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể.
Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và nói:
- Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con.
Rồi Ngài cầm lấy chén rượu và nói:
- Này là chén máu Ta, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội.
Vậy thì Bí tích Thánh Thể có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
Trước hết, Bí tích Thánh Thể là hy tế tưởng niệm và tạ ơn hoàn hảo nhất dâng lên Thiên Chúa để đền bù vì tội lỗi chúng ta.
Thực vậy, qua cái chết và sống lại, Chúa Giêsu đã trở nên lễ tế hoàn hảo nhất, bởi vì Ngài là Đấng thánh thiện tuyệt vời, được sánh ví như một con chiên vượt qua thanh sạch, không tì vết, để đền bù thay cho chúng ta.
Đúng thế, tội lỗi là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa, tự sức riêng chúng ta không thể nào đền bù cho cân xứng. Với cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã đền bù thay cho chúng ta và hy tế này, ngày hôm nay vẫn còn được tái diễn trong thánh lễ để kéo ơn sủng và tình thương của Thiên Chúa xuống cho chúng ta.
Tiếp đến, Bí tích Thánh Thể chính là lương thực nuôi sống tâm hồn chúng ta.
Thực vậy, phần xác chúng ta muốn được sống thì cần phải ăn. Phần hồn chúng ta muốn được sống thì cũng cần phải ăn. Dĩ nhiên, không phải là cơm gạo vật chất, nhưng là chính thịt máu Chúa Giêsu như lời Ngài đã từng xác quyết:
- Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày tận thế.
Nhờ của ăn thần linh này, tâm hồn chúng ta được bổ dưỡng để có đủ sức khỏe tiến bước trong cuộc lữ hành trần gian, và sẽ đạt tới bờ bến Nước Trời.
Sau cùng, Bí tích Thánh Thể còn là sợi dây liên kết, không phải chỉ liên kết chúng ta lại với Chúa, mà hơn thế nữa còn liên kết chúng ta lại với nhau.
Thực vậy, nơi bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta đều bình đẳng với nhau, không phân biệt địa vị và tuổi tác. Đồng thời, nơi bàn tiệc Thánh Thể chúng ta còn chia sẻ cùng nhau một thứ lương thực thiêng liêng, đó là Mình và Máu Thánh Đức Kitô, như lời thánh Phaolô đã nói:
- Mặc dù chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng ăn một bánh, cùng uống một chén, cùng làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Chính vì thế, Bí tích Thánh Thể đòi buộc chúng ta phải biết yêu thương nhau, giúp đỡ nhau và chia sẻ cùng nhau gánh nặng cuộc đời.
Cộng đoàn các tín hữu sơ khai đã để lại cho chúng ta mẫu gương sáng chói về vấn đề này: Họ thường tụ tập nhau lại để tham dự nghi lễ bẻ bánh, tức là Bí tích Thánh Thể. Rồi trong cuộc sống, họ gom góp tài sản đặt dưới chân các tông đồ, để tùy các ngài phân phối theo nhu cầu. Với một nếp sống như thế, dân ngoại đã phải trầm trồ khen ngợi:
- Kìa xem họ yêu thương nhau biết là chừng nào.
Còn chúng ta thì sao? Cuộc đời của chúng ta có phải là một thánh lễ nối dài hay không? Và trong cuộc sống chúng ta có biết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau như Bí tích Thánh Thể đòi buộc? Hay là, ở nhà thờ chúng ta là những con chiên ngoan, nhưng khi bước xuống lòng cuộc đời, chúng ta vội lột xác thành một loài lang sói, luôn oán ghét, thù hận, gầm gừ và cắn xé lẫn nhau.
20. Bánh hằng sống.
Đoạn Tin Mừng này có thể nói có bốn phần: trước hết là phản ứng của người Do thái về lời tuyên bố của Chúa Giêsu, khi Chúa nói thịt Ngài là của ăn ban cho họ được sống muôn đời. Phản ứng của họ lần này có vẻ mạnh hơn trước. Họ xô xát và tranh luận với nhau. Họ đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen: là một người như họ, làm sao có thể lấy thịt mình cho họ ăn?
Phần thứ hai, trước phản ứng có vẻ dữ dội của người Do thái, Chúa Giêsu vẫn không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết", nghĩa là hiệu năng dinh dưỡng mà thịt máu Chúa đem lại cho kẻ lãnh nhận, là sự sống muôn đời và sự phục sinh từ trong cõi chết.
Phần thứ ba, Chúa Giêsu cho biết của ăn của uống này tác động như thế nào. Của ăn vật chất chúng ta ăn thì biến thành thịt máu ta. Còn thịt máu Chúa mà chúng ta ăn, chúng ta uống, lại đưa chúng ta vào một sự kết hiệp mật thiết với Ngài: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy".
Cuối cùng, Chúa Giêsu nhắc lại hiệu lực của manna cũ để so sánh với hiệu lực của manna mới: manna cũ, những người ăn đã chết. Manna mới, những người ăn sẽ sống đời đời. Kết thúc bài giảng của Chúa Giêsu như vậy quả là tốt đẹp và gọn gàng. Chính người Do thái gợi ra câu chuyện manna, thì Chúa Giêsu lại dùng ngay câu chuyện ấy để so sánh và mạc khải về bánh bởi trời đích thực, bánh ban sự sống muôn đời.
Những lời Chúa Giêsu giảng dậy ở đây có đúng là ý nghĩa về bí tích Thánh Thể mà giáo lý Công giáo thường hiểu không hay đây cũng chỉ là kiểu nói tượng trưng? Chúng ta có thể trả lời ngay rằng: Những lời Chúa Giêsu giảng dạy ở đây thực sự là nghĩa đen thông thường, nói về phép Thánh Thể chứ không phải là nói tượng trưng. Cũng như trong bữa Tiệc Ly, Chúa nói: "Nầy là Mình Thầy", "Này là chén Máu Thầy", "Cái này là tượng trưng cho Máu Thầy". Nếu có gì lầm lẫn trong ý nghĩa đó, chắc Chúa đã cải chính hay sửa chữa lại. Nhưng dù dân chúng phản đối dữ dội, Chúa vẫn không thay đổi cách nói, Ngài không cải chính hay sửa lại điều gì, và suốt 20 thế kỷ qua vẫn giữ nguyên ý nghĩa đó.
Là con cái Chúa ở đầu thế kỷ 21 này, chúng ta không có lý do gì để nói rằng: chúng ta không biết, không hiểu về thứ bánh mà Chúa Giêsu đã mạc khải cách đây hai ngàn năm. Thứ bánh đó là bánh Giêsu, bánh có tên là Giêsu, là bánh từ trời xuống, có khả năng đem lại cho con người sự sống và sự sống đời đời. Nói tóm lại, điều chính yếu Chúa Giêsu muốn dạy bảo người Do thái xưa kia và chúng ta hôm nay rằng: Ngài là bánh hằng sống. Ai ăn bánh này sẽ được tham dự vào sự sống của Ngài và sẽ được sống đời đời.
Phép Thánh Thể là một bằng chứng thật hùng hồn nhắc nhở và tái diễn mối tình muôn thuở, đó là mối tình của Thiên Chúa đối với loài người và mối tình của Chúa Giêsu đối với chúng ta. Thánh Gioan tông đồ đã quả quyết: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một yêu dấu của Ngài cho thế gian". Còn đối với Chúa Giêsu thì Kinh Thánh cho biết: "Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không giành cho mình phận ngang hàng với Thiên Chúa, mà Ngài đã hủy mình đi, Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá". Cái chết của Ngài là một thực hiện lời mạc khải trong bài Tin Mừng hôm nay: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời". Bánh đó, vẫn theo lời Chúa Giêsu, chính là thịt Ngài.
Quả thực, ai ăn thịt Chúa sẽ tìm được sức mạnh thánh hóa và nhận được một hiệu quả vô cùng cao quí là sự sống lại và sự sống đời đời. Nghĩa là đến với Chúa, tin vào Chúa, và ăn thịt Ngài là chúng ta lãnh nhận được sự sống đời đời ngay từ bây giờ, bởi vì mỗi lần lãnh nhận Thánh Thể là chúng ta lãnh nhận chính mầm sự sống đời đời. Cũng vậy, tin vào sự sống đời đời không phải là phủ nhận cuộc sống trần gian, nhưng chính là làm cho cuộc sống trần gian có ý nghĩa, vì sự sống đời đời lớn lên trong cuộc sống trần gian, và chính sự sống đời đời thôi thúc chúng ta làm cho cuộc sống trần gian tốt đẹp hơn.
Ai trong chúng ta không những muốn ăn no, mặc ấm mà còn muốn ăn ngon, mặc đẹp nữa, muốn hạnh phúc, kể cả những người đầy đủ cũng thế, họ còn muốn và ước mơ thêm nữa. Vậy anh chị em có muốn sau 60, 70 hay 80 năm trần thế này được sống hạnh phúc mãi bên Chúa không? Hãy đến với Bí tích Thánh Thể, hãy hết lòng tin vào phép Thánh Thể, và hãy siêng năng lãnh nhận Thánh Thể, để Mình Máu Chúa tăng thêm niềm tin, lòng yêu mến, sự hy vọng và giúp chúng ta sống hào hùng, sống tốt đẹp ở đời này và bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc đời sau.
21. Máu thịt Đức Giêsu là của ăn tâm linh
(JKN)
Câu hỏi gợi ý:
1. Chúng ta đã mang danh là «ăn uống Mình Máu Thánh Chúa» bao nhiêu lần, thậm chí hằng ngày suốt bao năm trường. Nhưng đời sống tâm linh của ta có thật sự tiến triển không? Có những bước tiến vĩ đại - như đúng lý phải có - so với những người không «ăn uống Mình Máu Thánh Chúa» không?
2. Nếu không có những bước tiến to tát, thì có phải do Lời của Đức Giêsu không đúng, hay do quan niệm về Thánh Thể và cách thức «ăn uống Mình Máu Thánh Chúa» của chúng ta không đúng?
3. Phải quan niệm về bí tích Thánh Thể thế nào? và phải «ăn uống Mình Máu Thánh Chúa» thế nào cho đúng?
Suy tư gợi ý:
1. «Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống»
Như lời xác nhận của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, thì bản thân Ngài chính là lương thực nuôi dưỡng và bồi bổ tâm linh con người. Vấn đề mà chúng ta cần phải đặt ra hôm nay không còn là lý giải chân lý ấy nữa, mà là áp dụng chân lý ấy vào đời sống tâm linh thực tế của chúng ta. Cả đời người Kitô hữu từ lúc rước lễ lần đầu đến lúc chết, việc áp dụng chân lý này trong đời sống tâm linh luôn luôn được những người hướng dẫn tâm linh nhắc nhở, khuyến khích thực hiện bằng việc rước lễ, tức rước Mình Máu Thánh Đức Giêsu.
Tuy nhiên, lâu lâu chúng ta cũng cần phải nhìn lại xem việc áp dụng chân lý quan trọng ấy có thật sự đem lại kết quả thực tế trong đời sống chúng ta chưa, và kết quả thế nào, có thật sự thỏa mãn chúng ta đúng như lời Đức Giêsu hứa chưa. Nếu quả thực sau nhiều năm rước Mình và Máu Thánh Đức Giêsu vào lòng mà chúng ta cảm thấy có tiến bộ thật sự trong đời sống tâm linh, thì đó là một điều hết sức đáng mừng. Nhưng nếu không được như vậy thì chúng ta cần phải xét lại. Cũng tương tự như khi uống một loại thuốc bổ được mọi người nói là thần dược một thời gian mà không thấy có kết quả gì khác lạ hơn là khi không uống, ắt nhiên ta phải lấy làm lạ, và phải đặt lại vấn đề. Có thể lời người ta ca tụng về loại thuốc ấy là sai sự thật, nhưng cũng có thể là ta đã sử dụng không đúng cách loại thuốc ấy.
Là người Kitô hữu hay tu sĩ lâu năm, nếu ta đã rước lễ hàng ngày hay hàng tuần suốt mấy chục năm trường rồi, mà ta vẫn không thấy mình tiến bộ về mặt tâm linh hơn những người ngoại, hay hơn những người khô khan ít lãnh nhận bí tích, thì ta cần đặt vấn đề lại. Trong thời đại khoa học thực nghiệm này, sự tiến bộ tâm linh nếu có ắt phải được được chứng tỏ bằng những sự kiện rõ rệt như: khả năng yêu thương ngày càng rộng rãi và bao trùm hơn, tính vị tha ngày càng nhiều hơn, có khả năng hy sinh cho tha nhân nhiều hơn, nội lực tinh thần mạnh mẽ hơn, sự khôn ngoan kiểu Thiên Chúa (chứ không phải kiểu trần gian) tăng triển hơn, bình an và hạnh phúc trong tâm hồn nhiều hơn và biểu hiện rõ rệt hơn, v.v... Nếu không có được những dữ kiện cụ thể như thế, chúng ta nên thành thật nhìn nhận rằng mình đã không tiến bộ tâm linh gì cả hay bao nhiêu. Lúc đó, chúng ta cần đặt lại vấn đề quan niệm về bí tích Thánh Thể và cách rước Chúa của chúng ta.
2. Cần quan niệm cho đúng về bí tích Thánh Thể
a) Bí tích Thánh Thể không phải là bùa chú hay phù phép
Nhiều Kitô hữu quan niệm Mình Máu Thánh Chúa tương tự như một thứ bùa chú hay phù phép, cứ việc nuốt vào bụng là tự động sinh hiệu quả mong muốn. Quan niệm như thế thì thật là sai lầm. Họ quan niệm Thánh Thể không khác gì những yêu tinh trong truyện Tôn Ngộ Không quan niệm về thịt Đường Tăng, cho rằng hễ ăn được thịt của ông thì sẽ tự nhiên sống lâu trường thọ. Nếu có khác thì chỉ khác ở chỗ thay vì trường thọ về mặt thể chất thì được trường thọ hay phát triển về mặt tâm linh, mà không cần phải có một ý thức hay nỗ lực nào.
b) Thức ăn tâm linh thì phải ăn bằng tâm linh
Thực ra, Mình Máu Thánh Chúa hay thịt và máu Đức Giêsu là của ăn tâm linh bổ dưỡng tâm hồn. Thức ăn tâm linh thì chủ yếu phải ăn bằng tâm linh chứ không phải bằng thể xác. Điều quan trọng để được bổ dưỡng tâm linh là phải gặp gỡ được Đức Giêsu và nhận được sức mạnh từ nơi Ngài. Việc gặp gỡ Ngài ở đây cũng cần được hiểu là gặp gỡ bằng tâm linh chứ không phải bằng thể chất.
c) Gặp gỡ Thiên Chúa phải gặp gỡ bằng tâm linh
Nếu chỉ gặp gỡ bằng thể chất mà thôi thì hoàn toàn chẳng ích lợi gì. Các kinh sư Do-thái xưa cũng gặp gỡ và nói chuyện với Đức Giêsu nhiều lần, nhưng họ có được biến đổi gì đâu, trái lại họ chỉ trở nên tồi tệ, cứng lòng và độc ác hơn. Một chàng trai ăn chơi hưởng lạc trong ổ gái điếm, tuy chung đụng xác thịt với các cô gái, nhưng như thế đâu phải là gặp gỡ họ đúng nghĩa. Trong một đống gạch, hai viên gạch xếp cạnh nhau hay chồng lên nhau, tuy có trực tiếp tiếp xúc với nhau thật lâu, nhưng như thế đâu thể gọi là gặp gỡ.
Sự gặp gỡ đòi hỏi một thái độ nội tâm hơn là tiếp xúc bằng thể chất. Văn chương Việt Nam có câu: «Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng» (có duyên với nhau thì dù xa cách ngàn dặm vẫn có thể gặp nhau, còn không có duyên với nhau thì dù có đối diện với nhau cũng chẳng thể gặp nhau). Vì thế, có biết bao Kitô hữu nuốt Thánh Thể vào bụng hằng ngày mà chưa bao giờ thật sự gặp được Đức Giêsu. Vì thế, họ có rước lễ hằng ngày suốt cả cuộc đời thì đời sống tâm linh của họ chẳng hề thay đổi, bởi họ chẳng hề được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể. Nếu thật sự gặp gỡ Đức Giêsu, tâm hồn ta chắc chắn phải được biến đổi. Thời Ngài còn tại thế, có những người chỉ cần thật sự gặp gỡ Ngài một lần là được biến đổi hoàn toàn như Da-kêu (Lc 19,1-10), người trộm lành (Lc 23,39-43)...
d) Muốn thật sự gặp gỡ Đức Giêsu, phải có tình yêu
Theo câu nói văn chương trên thì điều quan trọng để thật sự gặp nhau là phải có «duyên» với nhau. Muốn gặp Chúa, kết hiệp hay nên một với Ngài thì phải có «duyên» với Ngài, nghĩa là phải có một sự đồng cảm hay một sự giống nhau nào đấy với Ngài. Ta thấy dầu và nước không thể hòa tan với nhau được, vì hóa tính của hai chất không giống nhau. Hai chất phải có những hóa tính căn bản giống nhau mới hòa tan với nhau được. Cũng vậy, «Thiên Chúa là tình yêu» (1Ga 4,8.16), nên muốn gặp Ngài hay kết hiệp với Ngài thì chính mình cũng phải có ít nhiều tình yêu, có lòng vị tha, có thiện chí muốn gặp gỡ Ngài bằng bất cứ giá nào. Một người có tính ích kỷ, lãnh đạm với mọi người, hay có tính ganh tị, ghen ghét thì khó mà gặp được Chúa, dẫu họ có rước lễ cả chục lần một ngày. Thánh Gioan xác định: « Ai không yêu thương, thì không biết (=kinh nghiệm về) Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu» (1Ga 4,8); « Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta » (4,12); « Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao Thiên Chúa ở trong người ấy được? » (3,17).
Phương cách «ăn» Mình và Máu Thánh Đức Giêsu
Ăn theo nghĩa vật chất đòi hỏi một số tác động như đưa thức ăn vào miệng, nhai, nuốt, và sau đó là cả một tiến trình làm việc âm thầm của dạ dày, gan, mật, ruột... để biến thức ăn thành chất bổ dưỡng. Tất cả đều là tác động thể chất. Còn «ăn thịt» và «uống máu» Đức Giêsu hoàn toàn là những tác động tâm linh. Hình bánh, rượu và tác động nuốt vào bụng đều là những dấu chỉ mang tính bí tích nói lên một thực tại tâm linh có thực ở đằng sau. Nếu chỉ ăn hay uống Ngài theo kiểu vật chất thì chẳng khác gì ăn một mẩu bánh hay uống một ly rượu, chẳng ích lợi gì cho tâm linh ta cả. Do đó, cần phải biết «ăn» hay «uống» Ngài theo kiểu tâm linh. Tôi đã trình bày vấn đề này trong hai bài chia sẻ trước (Chúa Nhật 18 và 19 Thường Niên). Cách «ăn» hay «uống» ấy hệ tại việc ý thức thường xuyên Đức Giêsu là Thiên Chúa với bản chất thần linh, là nguồn sống, nguồn tình yêu, nguồn sức mạnh, nguồn trí tuệ, nguồn của tất cả mọi sự thiện hảo trên trời dưới đất. Bản chất thần linh và tất cả những nguồn này đang hiện diện ngay trong bản thân ta, sẵn sàng lan tràn sang bản chất của ta, biến đổi bản chất ta nên giống Ngài, làm ta nên mạnh mẽ, tràn đầy sức sống, tình yêu, trí tuệ, can đảm, v.v... Ý thức thường xuyên như thế ta sẽ dần dần thấy tâm linh ta được biến đổi thật sự một cách có thể kiểm chứng được. Và sự biến đổi đó sẽ là một thực chứng, một kinh nghiệm tâm linh làm nền tảng cho đời sống thần linh của ta. Đời sống tâm linh phải được xây dựng trên những thực chứng về Thiên Chúa, về sức mạnh của Ngài. Nếu không, nó chỉ là một mớ lý thuyết không có khả năng đem lại lợi ích tâm linh thực tế.
Cầu Nguyện
Lạy Cha, con đã «ăn uống Mình Máu Thánh Đức Giêsu» suốt bao nhiêu năm trường, nhưng dường như con chẳng tiến bộ tâm linh bao nhiêu. Xin cho con biết đặt lại vấn đề một cách nghiêm chỉnh: máu thịt Đức Giêsu là lương thực tâm linh, tại sao con ăn uống máu thịt ấy hằng ngày, hằng tuần, mà tâm linh con vẫn yếu hèn? Xin dạy con cách thức «ăn uống Mình Máu Thánh» cho đúng với ý mà Đức Giêsu mong muốn.
22. Suy niệm
(Lm Vũ Xuân Hạnh)
"Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".
Chữ "manna" chắc hẳn không còn lạ lẫm gì với bạn và tôi. Chúng ta nghe rất nhiều khi đọc Thánh Kinh Cựu ước, nhất là sách Xuất hành. Sách Tân ước cũng đã có nhiều lần nhắc lại. Đặc biệt trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc lại từ "manna" như một so sánh kém hơn để nói về bí tích Thánh Thể, của ăn cao quý. Vậy manna có nghĩa là gì?
Câu chuyện về manna thật lạ lùng. Nó như một phương tiện cứu đói mà Thiên Chúa quan phòng, qua đó đã tỏ bày lòng yêu thương đối với dân của Người. Ngày ấy, dân đi trong sa mạc đến bốn mươi năm. Sa mạc chứ đâu phải đồng bằng. Đồng bằng còn có người khổ, người đói nói gì đến sa mạc đầy khắc nghiệt, đầy nguy nan. Vì thế cuộc sống sa mạc dẫu có đói rét, thiếu thốn đến mức cùng cực, không thể vượt qua đi nữa, vẫn là điều không lạ. Thiên Chúa nhìn thấy nỗi lầm than ấy của dân chúng. Manna là quà tặng mà Người ban cho họ để không chỉ làm lương thực mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương vô cùng của Người. Người cho họ biết rằng, giữa nỗi cơ cực trăm chiều, Người vẫn ở bên họ, Người rất gần với họ.
Manna giống như một thứ nhựa cây, cứng lại khi gặp không khí. Muốn ăn, người ta phải giã nát ra rồi nướng thành bánh. Manna có đủ mọi mùi thơm ngon, điều đó biểu trưng cho lòng nhân hậu của Chúa.
Chúa Kitô ví Thịt Máu Người là BÁNH. Nói cho trọn nghĩa, Bánh ở đây nghĩa là lương thực. Lương thực - Bánh - này "bởi trời xuống". Vì thế Bánh này là Bánh mà không một thứ lương thực nào ví bằng. Dẫu là manna, dẫu là lương thực đã từng biểu trưng cho lòng thương xót của Thiên Chúa với dân Người, vẫn không thể và không bao giờ có thể mảy may sánh được. Bởi thế Chúa Giêsu khẳng định: "Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".
Nếu ngày xưa, manna như một thứ nhựa cây, ngày nay bánh Thánh Thể chính là Mình Máu Đấng là Thiên Chúa làm người. Nếu ngày xưa ăn manna chỉ là ăn bánh, ngày nay lãnh nhận bí tích Thánh Thể là ăn chính Chúa Kitô. Ngày xưa manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, thì hôm nay lòng thương xót của Thiên Chúa đã trao tặng con người chính Người Con Một dấu ái. Ngày xưa manna chỉ là của ăn mang lai sự no nê cho thân xác, ngày nay Mình Máu Chúa Kitô trở thành Thần Lương không chỉ nuôi sống linh hồn mà còn củng cố khả năng hướng thiện của người rước lấy. Ngày xưa manna chỉ là phương tiện cứu đói tạm thời, ngày nay Mình Máu Chúa Kitô không chỉ là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức mạnh, đủ nghị lực tiếp bước hành trình về quê trời, mà còn đưa họ vào vĩnh cửu và sống vĩnh cửu. Ngày xưa manna cho thấy Chúa không bỏ dân của Người, ngày nay Chúa hiện diện giữa Hội Thánh và hiện diện giữa thế giới này bằng chính Con của Người trong bí tích Thánh Thể. Còn hơn cả mọi hiện diện bình thường, nơi bí tích ThánhThể, người cô đơn tìm được nguồn an ủi; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ; người đau đớn tìm được sự chữa lành; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần; người mất niềm tin vào cuộc đời, vào con người tìm được chỗ nương thân; người hấp hối tìm được sự nâng đỡ vững vàng để bước ra khỏi cuộc đời; người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm... Và còn một ý nghĩa quan trọng, rất quan trọng: Nếu ngày xưa manna là của ăn nuôi thân xác, ngày nay còn hơn bất cứ của ăn nào, Mình Máu Chúa Kitô ban cho ta ơn thần hoá...
"Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". Bằng những lời chân thành như thế, Chúa Giêsu giới thiệu cách long trọng Bánh hằng sống, Bánh muôn đời tồn tại và đầy quyền năng trao ban ơn sống đời vĩnh cửu cho tất cả những ai rước lấy với lòng trong sạch, đơn sơ, ngay lành. Bánh ấy, quyền năng ấy chỉ có thể được trao ban bởi một mình Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, Thiên Chúa đã làm người, để bằng tất cả mọi sáng kiến của Người, ta được sung mãn đến mức làm một với Thiên Chúa. Bởi vậy, khi dạy hãy ăn Thịt và uống Máu Người, Chúa Giêsu muốn ta đời đời ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa trong ta. Người muốn ta dùng chính nhân tính của Người mà nuôi dưỡng tâm trí và linh hồn ta. Người muốn ta hãy bồi bổ đời sống của mình bằng sự sống của Người cho đến khi trong ta thấm đẫm, tràn ngập và đầy dẫy sự sống của Thiên Chúa.
Vì Thánh Thể là một sự bồi bổ thần linh tuyệt hảo như thế, nên ăn Chúa Kitô là sống bằng chất bổ dưỡng có tên là CHÚA KITÔ. Vì thế việc rước lễ thường xuyên, cũng có nghĩa là ngay từ bây giờ bạn và tôi đã bước vào đời vĩnh cửu và chắc chắn sẽ được sống đời vĩnh cửu ấy.
23. Sự sống phát xuất từ việc trao ban sự sống
(Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này nằm trong Phần I của TM IV ("Sách các Dấu lạ", ch. 2–12) và thuộc bài diễn từ "Bánh trường sinh" (6,1-71).
Nói chính xác, bài diễn từ "Bánh trường sinh" bắt đầu từ c. 25 và được kết cấu thành năm vòng tròn, mỗi vòng bắt đầu bằng một câu nói của Đức Giêsu và một vấn nạn của người Do Thái: a) 6,25; b) 6,28; c) 6,34; d) 6,41; e) 6,52. Cứ một câu hỏi của người Do Thái lại đưa Đức Giêsu đến một mạc khải mới về mầu nhiệm bản thân Người; mạc khải này càng gây thắc mắc cho người Do Thái hơn. Năm vòng tròn này chuyển theo hình trôn ốc, đưa đến chọn lựa cuối cùng: bỏ rơi Đức Giêsu (6,66) hoặc tiếp tục gắn bó với Người (6,69).
2.- Bố cục
Bản văn có thể được chia thành bốn phần:
1) Đề tài được xác định lần ba (x. cc. 35 và 48): "Tôi là bánh hằng sống" (6,51);
2) Thắc mắc của người Do Thái (6,52);
3) Triển khai đề tài (6,53-56);
4) Nền tảng của đề tài (6,57-58; c. 58a nhắc lại c. 51a).
3.- Vài điểm chú giải
- từ trời xuống (51): hàm ý mầu nhiệm Nhập Thể.
- bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây (51): Chúng ta có thể tự hỏi vì sao tác giả Gioan không dùng từ ngữ "thân thể" (sôma) mà lại dùng từ "thịt" (sarx), nhất là khi mà từ sôma đã trở thành từ quen thuộc trong văn chương Tân Ước để gọi bí tích Thánh Thể (x. Mc 14,22; Mt 26,26; Lc 22,19; 1 Cr 11,24). Đồng ý là trong bữa tiệc cuối cùng, hẳn là Đức Giêsu đã sử dụng từ A-ram bơsar (Híp-ri bâsâr), và từ này, cho dù chỉ "thân thể", vẫn được ưu tiên dịch ra bằng sarx, "thịt", trong Bản dịch LXX. Nhưng thông thường, Ga cũng không mấy để ý đến từ Hy Lạp chính xác. Ở đây hẳn phải có lý do khác.
Sarx đúng là từ để dịch bơsar. Nhưng sarx không chỉ có nghĩa là "thịt" là còn có nghĩa là "toàn thân thể"; "toàn thể con người" [theo nghĩa là có quan hệ với người chung quanh; x. 1,14]. Để diễn tả các sắc thái này, ngôn ngữ Hy Lạp có khả năng tinh tế hơn tiếng A-ram. Nhưng trong Do Thái giáo sau này, người ta đã chọn dịch bơsar là sôma, cho dù trong Tân Ước, đôi khi người ta dùng cả hai từ. Nhưng để nói về bí tích Thánh Thể, từ sôma đã được chọn, ngoại trừ một vài bản văn sau thời các tông đồ, được viết dưới ảnh hưởng của Ga 6, đã dùng từ sarx (vd: thánh Inhaxiô Antiôkhia, thánh Giúttinô...). Như thế, dù trong Hội Thánh tiên khởi, đã có một từ nhất định để gọi bí tích Thánh Thể, nếu Ga vẫn giữ lại từ sarx, là vì sarx-thịt có trong ngôn ngữ A-ram một ý nghĩa rộng hơn sôma-thân thể. Đàng khác, trong Ga, sôma được dùng để gọi một xác chết: làm thế nào một xác chết có thể ban sự sống? Ngược lại, "thịt" vừa có nghĩa là toàn thể con người vừa có nghĩa là thân thể, và "hai nghĩa trong một" này rất lý tưởng để gợi ra một trật cái chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể. Bởi vì ý nghĩa căn bản và tại nguồn của "thịt mà Con Người sẽ ban" không phải là bí tích Thánh Thể, mà là "chính bản thân" Người trong cái chết trên thập giá. Vậy, khi Đức Giêsu nói về "thịt của Người để cho thế gian được sống", Người muốn nói đến "bản thân Người" (chịu sát tế) để cho thế gian được sống".
- làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt (52): Đại danh từ Hy Lạp "ông này" (houtos) hàm ý khinh bỉ (x. c. 42). Trong Kinh Thánh, "ăn thịt ai" là một công thức bóng bảy để diễn tả sự thù nghịch (x. Tv 27,2; Dcr 11,9). Còn việc uống máu bị coi như một việc ghê tởm bị luật Thiên Chúa cấm (St 9,4; Lv 3,17; Đnl 12,23; Cv 15,20).
- ăn... uống (53): Hai động từ Hy Lạp này (esthiein và pinein) là những hành vi rất cụ thể để nuôi dưỡng thân xác.
- thịt... máu (53): Thành ngữ Híp-ri "thịt và máu" có nghĩa là toàn thể con người. Vào thời phong trào Cải Cách (tk. xvi), người ta đã tranh luận là có cần nhận Thánh Thể dưới hai hình không. Tất cả những gì có thể rút ra từ bản văn này là: cần phải nhận trọn vẹn Đức Kitô.
- Ai ăn (54 và 57): Động từ "ăn" ở đây là trôgein (bản văn tiếng Anh dịch là feed) chứ không phải là esthiein như ở trên, để diễn tả một hành động rất cụ thể: "nhai bằng răng". Động từ này nêu bật tính hiện thực của bí tích Thánh Thể.
- ở lại (56): Động từ menein (remain; rester) là một động từ quan trọng của TM Ga (x. chương 15: "Cây nho thật"; động từ này được dùng trong TMNL: 12 lần; Ga: 40 lần; 1-3 Ga: 27 lần; Kh: 1 lần). Tác giả Ga thích dùng động từ này để diễn tả quan hệ trường tồn giữa Chúa Cha và Chúa Con và giữa Chúa Con và các Kitô hữu. Ở trong Cựu Ước, "trường tồn" là một đặc điểm của Thiên Chúa và của những thứ thuộc về Thiên Chúa (x. Đn 6,26; Kn 7,27; 1 Pr 1,25), đối lại với đặc tính tạm bợ, chóng qua của con người. Tuy nhiên, TM IV còn dùng một công thức là "ở trong" (menein en) để nói về tính nội tại liên kết Chúa Cha, Chúa Con và các Kitô hữu lại với nhau: như Con ở trong Cha, và Cha ở trong Con (14,10-11), thì Con cũng ở trong loài người, và loài người phải ở trong Cha và trong Con (17,21.23).
- kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống (57): Bí tích Thánh Thể thông ban cho các tín hữu sự sống mà Chúa Con nhận từ nơi Chúa Cha.
- chết (58): Đây là cái chết thể lý đối lại với sự sống thiêng liêng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong tư cách là Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai đến, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta hiệp thông vào sự sống với Người. Nếu chúng ta tin vào Người, chúng ta được đi vào trong sự sống với Người, trong sự sống vĩnh cửu. Ở đây Người giải thích cặn kẽ Người là bánh ban sự sống cho chúng ta như thế nào: Trong cái chết trên thập giá, Người hiến mình cho thế gian được sống và Người ban cho chúng ta thịt và máu Người làm của ăn của uống.
* Xác định đề tài (51)
Đề tài đã được xác định ở cc. 35 và 48, nay lại được nhắc lại, nhưng mang ý nghĩa phong phú hơn, bởi vì đã được triển khai hai đợt (cc. 35-47 và cc. 48-50). Khi nói "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời" (c. 51a), Đức Giêsu tóm ý nghĩa của dấu chỉ hóa bánh ra nhiều. Chính bản thân Người là sức sống thiên quốc và thần linh, tuyệt đối không thể cạn kiệt. Ai đi vào tương quan đúng đắn với Người thì được thông phần vào sự sống muôn đời. Trong câu "Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống" (c. 51b) chứa đựng những yếu tố sẽ được triển khai sau này. Cho đến nay, các lời Đức Giêsu nói chỉ giới thiệu tổng quát rằng Người là bánh ban sự sống; nhưng bây giờ Người nói rằng trong tương lai, Người sẽ ban bánh. Bánh ấy chính là thịt Người, hoặc là chính bản thân Người với trọn vẹn cuộc sống con người. Người đã đưa nhân tính của Người ra mà phục vụ sự sống của thế giới, của tất cả mọi người không loại trừ ai.
* Thắc mắc của người Do Thái (52)
Người Do Thái bị vấp phạm nặng nề vì lời khẳng định của Đức Giêsu: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?". Với mức độ Đức Giêsu mạc khải rõ ràng hơn, sự đối kháng cũng tăng theo. Lúc đầu, còn là những xầm xì, nay đã trở thành tranh luận. Nếu cố gắng ép nghĩa, thì cũng có thể hiểu lời khẳng định của Đức Giêsu theo nghĩa ẩn dụ: ăn và uống đây chính là học hỏi Lề Luật. Nhưng dựa theo giọng điệu của Đức Giêsu, những lời Người nói, người Do Thái đã hiểu rằng phải hiểu mọi sự theo nghĩa chữ. Và theo họ, như thế là phi lý: "ăn thịt người" đã là một chuyện phi lý, lại còn "ăn thịt" một kẻ tầm thường (houtos) như ông này! Chúng ta gặp lại một hiểu lầm liên hệ đến các điểm trung tâm của Kitô học Gioan (x. 2,19-21; 7,33-36; 8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 14,4-6; 16,16-19).
* Triển khai đề tài (53-56)
Đức Giêsu đã dùng ngôn ngữ hiện thực, thậm chí sống sượng ("ăn", trôgein) để diễn tả tính hiện thực của bí tích Thánh Thể. Để được thông phần vào sự sống muôn đời, cần phải ăn thịt Con Người và uống máu Người. Cùng với thịt, bây giờ còn có máu nữa: Đức Giêsu nhắc đến chính cái chết thảm khốc của Người trên thập giá, được tượng trưng bằng từ ngữ "máu". Trong bánh, là thịt Người, và trong rượu, là máu Người, Người sẽ ban tặng chính bản thân Người như Đấng đã trao ban mạng sống trên thập giá. Các tặng phẩm Thánh Thể có nền tảng là chính cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, trong hành vi Người hiến tặng mạng sống để cho thế gian được sống, như bằng chứng tối cao về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đức Giêsu, Đấng hiến mạng sống trên thập giá, cũng ban thịt Người như là của ăn và máu Người như là của uống. Thịt và máu này là một bằng chứng tối hậu về tình yêu của Người và là bảo chứng về tình yêu mà Người chứng tỏ khi hy sinh mạng sống.
Ai lấy đức tin mà đón nhận quà tặng này, thì cũng tuyên xưng Đấng Chịu Đóng Đinh với tình yêu của Người là nguồn mạch ban sự sống, và sẽ được thông phần vào sự sống của Người, cũng là hiêp thông với Người: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" (c. 54). Một lần nữa, Đức Giêsu lại khẳng định rõ ràng rằng sự sống đời đời và hiệp thông cá nhân với Người chỉ là một. Với người nào ăn thịt và uống máu Người, Đức Giêsu hứa: "[Người ấy] được sống muôn đời (c. 54)" và "người ấy ... ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy" (c. 56). "Ở lại trong nhau" có nghĩa là trao đổi hỗ tương trọn vẹn và kết hợp với nhau chặt chẽ nhất. Dụ ngôn Cây nho và các cành sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa này hơn nữa (x. 15,1-17).
* Nền tảng của đề tài (57-58)
Chúa Cha chính là nguồn phát xuất ra mọi sự: Ngài gửi Chúa Con đến với loài người như là "bánh ban sự sống" (6,32.44), nhưng cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu trong tư cách là "bánh ban sự sống" (cc. 37.44.65). Thiên Chúa là Cha "hằng sống", là chính sự sống, là sức sống viên mãn không bao giờ cạn kiệt, là Thiên Chúa hằng sống. Đức Giêsu được sai phái đi bởi Chúa Cha và có sự sống bởi Chúa Cha; Người cũng có thể thông ban sự sống thần linh. Bánh ban sự sống đến từ Chúa Cha hằng sống và nhận từ Chúa Cha tất cả sức mạnh ban sự sống. Bởi vì Người phát xuất từ Chúa Cha hằng sống, Đức Giêsu là bánh ban sự sống, là bánh từ trời xuống.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã đến để cứu độ thế gian (Ga 3,17), Người là Đấng "Cứu độ trần gian" (4,42). Người đã hy sinh chính mạng sống, để đưa lại sự sống cho thế gian. Do đó, không ai bị loại trừ cả. Bí tích Thánh Thể là bữa tiệc Thiên Chúa đặt để thết đãi loài người. Bàn thờ dâng lễ cũng chính là bàn tiệc, nơi thịt và máu Đức Kitô được chuyển đến cho các thực khách làm thức ăn thức uống. Mọi người đều được mời gọi đến bàn tiệc này. Lương thực là chính Đức Giêsu, mà Người ban cho chúng ta, không được dùng để duy trì sự sống trần gian hoặc ngăn cản cái chết thể lý. Chính Đức Giêsu cũng đã chết, khi trao hiến thịt và máu trên thập giá. Nhưng cũng chính Người, là bánh ban sự sống, sẽ ban sự sống muôn đời, sự sống này không mai một đi trong cái chết và sẽ được viên mãn trong ngày sống lại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nhận lấy Mình Máu thánh Đức Kitô, trước tiên là nhận biết Chúa Cha là nguồn ban cho chúng ta ơn cao trọng ấy. Đức Giêsu đã nhiều lần nói với chúng ta về Chúa Cha như về Đấng ban cho chúng ta tất cả mọi sự. Chúa Cha sai Con đến với loài người như là "bánh ban sự sống" (Ga 6,32.44), nhưng Chúa Cha cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu, "bánh ban sự sống" (6,37.44.65). Đức Giêsu cũng nói về Chúa Cha: "Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (6,40). Người cũng nói rằng tất cả những gì Người ban như là ân huệ riêng, thì có nền tảng là chính Chúa Cha (6,57). Thiên Chúa là Cha hằng sống, là chính sự sống, là sinh lực viên mãn. Như thế, khi đến với Tiệc Thánh Thể, chúng ta cần nhớ rằng chính Chúa Cha đang dẫn chúng ta đến để ban cho chúng ta lương thực là chính Con Một của Ngài.
2. Nếu chúng ta ăn thịt và uống máu Đức Giêsu, chúng ta đón nhận các quà tặng của chính Người và tuyên xưng niềm tin rằng Người hiện diện trong bánh và rượu đã được truyền phép và chỉ nhờ Người, Đấng được giương cao và chịu đóng đinh, chúng ta mới có sự sống đời đời. Khi đó, chúng ta cũng được mời gọi nhận ra rằng Thịt và Máu Người chính là bằng chứng cao cả nhất về tình yêu của Chúa Cha và của chính Người đối với nhân loại, đồng thời cũng là bảo chứng về sự sống đời mà Người muốn ban cho chúng ta.
3. Ăn thịt Đức Giêsu, hoặc ăn chính Đức Giêsu, trong bí tích Thánh Thể, là cách thức duy nhất giúp tránh được tình trạng suy nhược thiêng liêng và cái chết. Ăn Đức Kitô, chính là sống nhờ Đức Kitô. Nếu chúng ta hiệp thông đều đặn vào sự sống của Người, chúng ta đã được đặt để trong tình trạng ân phúc, và tình trạng này sẽ triển nở thành vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu.
4. Đã hiệp thông vào thịt và máu Đức Kitô, chúng ta trở thành "Đức Kitô toàn thể". Do đó, chúng ta cũng phải trở thành "lương thực" nuôi dưỡng anh chị em chúng ta. Mãi mãi chúng ta sẽ thấy mình bất xứng, muốn co lại, khép kín trên chính mình, nên cứ phải để cho Đức Giêsu giúp biết hy sinh hầu phục vụ sự sống của anh chị em mình. "Hồng ân Chúa Kitô và Thánh Thần của Người mà chúng ta lãnh nhận trong việc hiệp lễ hoàn tất cách sung mãn tuyệt vời những ước muốn hợp nhất huynh đệ đang ngự trị trong tâm hồn con người, đồng thời nâng cao kinh nghiệm về tình huynh đệ trong việc tham dự chung vào cùng một bàn tiệc Thánh Thể đến một mức độ vượt hẳn kinh nghiệm đồng bàn đơn thường của con người" (Thông điệp Giáo Hội từ bí tích Thánh Thể, 24).
24. Bánh hằng sống
(Noel Quesson)
Thiên Chúa là duy nhất và Lời Chúa là duy nhất, nghĩa là được gom lại trong một sự phát âm duy nhất: Chúa nghĩ mọi sự trong chỉ một "Lời" lời của Người hoàn toàn duy nhất. Nhưng độc nhất và duy nhất đó, lời đơn giản đó lại được truyền đi thành vô số những chân lý khác nhau, qua những lời nói khác nhau của con người. Cũng như ánh sáng trắng trong tính duy nhất của nó, gồm chứa mọi màu sắc của cầu vồng, rất khác nhau, khi chúng xuyên qua lăng kính của chúng ta. Vậy chúng ta không nên ngạc nhiên khi thấy người ta đưa ra nhiều giải thích về mầu nhiệm bánh sự sống. Mỗi cách giai thích là một sự tiếp cận, một phiến diện của chân lý độc nhất. Chương 6 Tin Mừng Thểo thánh Gioan có thể được hiệu bằng 4 cách:
1. Một vài tác giả thời xưa đã nghĩ đến ý nghĩa thuần túy thiêng liêng "Bánh sự sống " đó là con người và sứ điệp của Đức Giêsu, mà ta "đồng hóa" nhờ đức tin.
2. Một số lớn những nhà chú giải Thánh Kinh thời nay, trái lại cho rằng cách nói này hoàn toàn thuộc về Bí tích Thánh Thể: "Bánh sự sống", chính Thánh Thể mà chúng ta ăn thực sự trong một thứ bữa ăn hiện thực, trong đó chính thân Thể của chúng ta cũng đóng vai trò của nó.
3. Nhiều nhà phê bình đưa ra một ý kiến trung dung: Phần đầu diễn từ cho đến câu 50 nhắm vào đức tin... làm cho chúng ta được nuôi dưỡng bằng Đức Giêsu nhờ thông hiệp với tư tưởng và lời của Người. Phần 2 của diễn từ, bắt đầu từ câu 51 tức là bài đọc Chúa nhật này, nhằm Bí tích Thánh Thể, làm cho chúng ta kết hiệp với Mình Máu Chúa cách Bí tích, trong một "dấu chỉ hữu hiệu".
4. Cuối cùng, đối với một số tác giả hiện đại, diễn từ của Chúa Giêsu nhắm cả vào Đức tin và Bí tích Thánh Thể. Thật vậy, có một sự kết hợp mạnh mẽ giữa hai đề tài này: Đức tin hoàn toàn nơi Chúa Kitô đòi hỏi phải tìm Người hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, vì Bí tích Thánh Thể là "mầu nhiệm đức tin" tuyệt vời.
Suy niệm về Lời và Con Người của Đức Giêsu (phần đầu của Thánh lễ: Phụng vụ Lời Chúa) và rồi thông hiệp với Mình Máu Thánh Người (phần 2 của Thánh lễ: Phụng vụ Thánh Thể), là 2 phần nối tiếp nhau. Làm sao ta có thể nói, người ta thực sự tin vào Đức Giêsu, con Thiên Chúa đã nhập thể không mà ta lại không làm theo lời Người và đón nhận "Mình Thánh" Người? Đức Giêsu thường nói về đức tin trước khi nói cách rõ ràng về Bí tích Thánh Thể, vì sự hiện diện nhiệm mầu" của Người chỉ thực sự nuôi dưỡng những kẻ tin. Ta cũng thấy được sự quan trọng phải đến dự lễ đúng giờ: Nhờ đức tin, chúng ta phải được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa là chính Đức Giêsu, để có thể được nuôi dưỡng bằng chính Người trong mình Chúa đã được phó nộp vì chúng ta. Không có 2 phần trong Thánh lễ, phần đầu có thể tùy ý không bắt buộc. Ngay từ đầu, chúng ta đã thông hiệp với Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Đức Giêsu nói: "Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây để cho thế gian được sống".
Đây là câu 51 lần đầu tiên một từ mới xuất hiện và sẽ được lặp lại 11 lần trong phần cuối diễn từ của Đức Giêsu: "thịt và máu" "ăn và uống". Chứng từ này rất hiện thực chúng ta không làm sao chỉ có thể hiểu một cách tượng trưng được.
Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?".
Họ đã hiểu theo một cách thực tế nhất, và họ đã bất bình. Nếu họ nghĩ đến việc đón nhận Thánh Thể cách thiêng liêng, thì họ đã không bất bình.
Đức Giêsu nói với họ: "Thật, Tôi bảo thật các ông: Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông sẽ không có sự sống nơi mình".
Thay vì làm dịu bớt sự căng thẳng, Đức Giêsu lại càng nhấn mạnh đến tính thực tế của đời Người, và từ bây giờ trở đi, Người còn thêm 2 từ "thịt" và "máu"... Và vấn đề không chỉ nguyên là "ăn" mà còn là "uống" nữa. Việc rước Chúa dưới "hai hình" nằm trong truyền thống xa xưa bắt nguồn từ Đức Giêsu, đến nỗi người ta tự hỏi làm sao có thể bỏ truyền thống này, và cần. phải bao lâu nữa người Kitô hữu mới muốn lăp lại truyền thống này.
Sự liên kết hai chữ "thịt" và "máu" có thể được hiểu bằng nhiều cách.
Theo tâm thức của người Sê-mít, kiểu nói này ám chỉ toàn diện con người, tất cả những gì làm nên thực tại cụ thể con người, với những khả năng và giới hạn của nó. Cũng theo tâm thức của người phương Đông, "máu" thật là linh thiêng, bởi vì nó là biểu tượng phi thường của "sự sống", đến độ có thể dùng chữ này thay thế chữ kia ("nếu các ông không uống sự sống của Người, các ông sẽ không có sự sống của Người trong mình").
Nhưng cuối cùng và quan trọng nhất, đó là sự phân cách giữa 2 yếu tố này: Mình Tôi và Máu Tôi, gợi lên cho biết Đức Giêsu sẽ chết cách nào, bằng cách "tách rời máu Người ra khỏi thân mình Người". Đức Giêsu vừa nói: "Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống": Ở đây rõ ràng Chúa muốn ám chỉ đến lễ hy sinh Thập giá Chúng ta thâm tín với Đức Giêsu, Người cần phải hy sinh để cứu chuộc thế gian. Người biết Người phải "hiến dâng" mạng sống của Người để cho thế gian được sống.
Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được sống muôn đời và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.
Đừng quên rằng Thánh Gioan viết những câu này trong Tin Mừng của ông vào khoảng năm 90 hay 100. Nghĩa là từ 60 năm qua, ông đã cử hành Bí tích Thánh Thể với những cộng đoàn Kitô hữu. Làm sao mà độc giả của ông lại không áp dụng ngay những lời này vào Bí tích Thánh Thể mà họ đã "ăn và uống" thực sự, trong một bữa ăn huynh đệ thân mật. Vả lại, nếu Đức Giêsu không nói như thế thì làm sao các tông đồ trong bữa tiệc ly đã có thể hiểu được việc Đức Giêsu làm? Sự thiết lập Bí tích Thánh Thể, chiều 11 tối Thứ Năm Thánh sẽ không thể hiểu được đối với Nhóm Mười Hai, nếu Đức Giêsu đã không chuẩn bị cho các ông, bằng cách này hay cách khác... Và ở đây, trình thuật của Gioan rất quan trọng: Chắc chắn ông đã hiểu rõ những gì Đức Giêsu nói hôm đó khoảng một năm trước cuộc thương khó của Người, và Gioan đã đưa vào trình thuật của ông tất cả những hiểu biết về sự Phục sinh mà ông đã ghi nhận được qua những biến cố sau cùng này.
Vì Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống.
Thánh Gioan không thuật lại việc thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu, chiều tối Thứ Năm. Nhưng chúng ta thấy có sự song song rất ăn khớp với Tin Mừng nhất là Mátthêu, Máccô và Luca: Thực sự đó chỉ là một Tin Mừng với những từ ngữ khác nhau. Chúng ta đừng quên một tính từ mà Thánh Gioan thường hay dùng, đó là chữ "đích thực". Chữ này phải làm chúng ta chú ý, nó có nghĩa "coi thường". Đó là "của ăn đích thực" một của ăn không giống như những thức ăn khác. Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa đã cho chúng con những chỉ dẫn chính xác, rất quan trọng, giúp chúng con vượt lên trên những quan điểm nhân loại, quá chật hẹp thuần túy.
Sau đó, Đức Giêsu chỉ cho chúng ta 3 hiệu quả của Bí tích Thánh Thể.
1) Sự sống đời đời và sự sống lại
Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại.
Bích tích Thánh Thể làm cho chúng ta kết hiệp với Chúa Kitô Phục sinh đang sống trong vinh quang của Chúa Cha. Và Thân Thể hằng sống này (sống một cách khác, sống sự sống đích thực) trở nên "mầm mống" sự sống Thiên Chúa trong chúng ta. Theo Tin Mừng nhất lãm, vào buổi tối tiệc ly Đức Giêsu sẽ nói về "bữa tiệc trên trời", nơi đó Người sẽ quy tụ các bạn hữu của Người. "Thầy sẽ không uống rượu nho nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống với các con Rượu Mới trong vương quốc của Cha Thầy". Bữa tiệc Thánh Thể là một sự tham dự trước bữa tiệc Nước Trời, nơi đó chúng ta sẽ ngồi đồng bàn với Chúa Cha, với Đức Giêsu và Chúa Thánh Thần, theo hình tượng rất đẹp của Chúa Ba Ngôi. Vâng, chúng ta đang đi tới cuộc gặp gỡ hạnh phúc đó. Tạ ơn Chúa.
2) Sự kết hợp hỗ tương giữa Chúa Kitô và người Kitô hữu.
Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì luôn kết hợp với Tôi, và Tôi luôn kết hợp với người ấy.
Đây cũng là một từ quen thuộc đối với Thánh Gioan "ở cùng". Ơn gọi của mỗi người là "ở cùng Chúa, ở trong Chúa". Đó là đề tài căn bản của Giao Ước, đã được diễn tả trong Thánh kinh suốt dòng lịch sử, qua những kiểu nói ngày càng rõ ràng, riêng tư và thân mật:
"Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi" (Xh 6,7).- "Người yêu tôi thuộc về tôi và tôi thuộc về người ấy (Dc 6,3).- "Các con hãy ở trong Thầy, cũng như Thầy ở trong các con" (Ga 6,56 - 15,4).
3) Sự tận hiến cho Chúa Cha.
Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy.
Giới từ được dịch ở đây là "nhờ Chúa Cha" có những nghĩa phong phú hơn trong tiếng Hy Lạp. Giới từ đó là chỉ "địa", có nghĩa là "qua", "vì", "nhờ". Chúng ta thấy phớt qua một trong những nghĩa cử sâu xa của Đức Giêsu, mà Thánh Gioan đã khéo đoán biết được: Đức Giêsu sống qua Chúa Cha, nhờ Chúa Cha và cho Chúa Cha, và Người mời gọi chúng ta sống như thế!
15/8 Yêu Mến Mẹ
- Viết bởi J.M
Yêu Mến Mẹ.
Thứ bảy tuần 19 thường niên – Đức Mẹ lên trời. Lễ trọng. Lễ HỌ. Lễ cầu cho giáo dân.
"Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ".
* "Kết thúc cuộc đời dương thế, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội là Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, đã được đưa lên hưởng vinh quang thiên quốc cả hồn lẫn xác".
Với những lời đó, năm 1950 đức giáo hoàng Piô 12 đã xác định tín điều Đức Maria hồn xác lên trời. Đặc ân này xuất phát từ ơn được làm Đức Mẹ Chúa Trời và là hy vọng chắc chắn cho toàn thể nhân loại, là lời hứa cho toàn thể nhân loại sẽ được phục sinh.
Lời Chúa: Lc 1, 39-56
Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabeth, và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:
"Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời".
Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.
SUY NIỆM 1: Yêu Mến Mẹ
Ngày nọ có một chiếc máy bay bị trục trặc và rơi xuống trong một khu rừng già. Viên phi công tên là Tom Marmon, mặc dù biết rõ khó mà sống sót để trở về quê nhà, nhưng ông vẫn cố gắng. Cuối cùng ông đã được cứu thoát. Các phóng viên báo chí đã hỏi ông nhờ đâu mà đã làm được một việc kỳ diệu như thế. Ông đã trả lời: Nhờ tôi cầu nguyện. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, ông đã cắt nghĩa: Tôi đã đọc ít nhất cả triệu lời kinh Kính Mừng, suốt thời gian dò tìm đường ra. Tôi không đọc nhỏ, nhưng đã đọc thật to với hy vọng có người nào đó sẽ nghe thấy tiếng tôi mà dẫn đường chỉ lối. Nếu không nhờ lòng tin mạnh mẽ này, có lẽ tôi đã không thể nào ra khỏi khu rừng rậm rạp ấy.
Kinh nghiệm của viên phi công cũng đã là kinh nghiệm của hằng triệu Kitô hữu, bởi vì họ cũng đã dành cho Mẹ Maria một chỗ đứng đặc biệt trong tâm hồn và trong cuộc sống của họ. Đó cũng là lý do hôm nay chúng ta vui mừng tụ hợp nhau đây để mừng kính biến cố Mẹ về trời.
Dưới khía cạnh thần học, biến cố này nhắc nhở chúng ta rằng Mẹ Maria hiện đang ở trên trời cả hồn lẫn xác. Bởi vì suốt trong cuộc đời trần gian, Mẹ không hề phạm tội, nên cũng như thân xác Chúa Giêsu, Mẹ đã được chuyển trực tiếp từ trạng thái của con người dương thế sang trạng thái khải hoàn vinh quang trên thiên đàng.
Tuy nhiên dưới khía cạnh thực tiễn, biến cố này nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta cũng sẽ được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác. Đôi khi chúng ta quên rằng trên thiên đàng, chúng ta vẫn có một thân xác, dĩ nhiên thân xác ấy không phải là thân xác vật chất, mà là thân xác thiêng liêng như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Thân xác bị chôn vùi là thân xác hay chết, nhưng khi sống lại, nó sẽ trở thành bất tử. Khi bị chôn vùi, nó xấu xí và yếu đuối, khi sống lại, nó trở thành xinh đẹp và mạnh mẽ. Khi chôn vùi, nó là thân xác vật chất, nhưng khi sống lại, nó trở nên thân xác thần linh.
Điều này dẫn chúng ta đến một điểm thực tiễn khác, đó là Mẹ Maria không ở trên trời một cách thụ động, chỉ biết vui hưởng nhan thánh Chúa. Nghĩa là Mẹ không chỉ ngồi yên chờ đợi chúng ta lên đoàn tu với Ngài. Trái lại, Mẹ vẫn tích cực quan tâm đến chúng ta. Nói cách khác, Mẹ vẫn muốn giúp đỡ chúng ta chiến đấu để được về quê trời.
Vì thế, cũng như viên phi công, chúng ta cần phải chạy đến với Mẹ và kêu cầu Mẹ trợ giúp trong cuộc chiến đấu chống lại sự dữ bao lâu còn sống nơi trần gian, bởi vì như lời thánh Bernado đã nói: Kêu cầu Mẹ chúng ta sẽ không bao giờ phải thất vọng, bước theo Mẹ sẽ không bao giờ bị lầm đường lạc lối.
SUY NIỆM 2: Lời Thưa Xin Vâng
Triết gia hiện sinh của Pháp, Albert Camert đã nói rằng: "Con người là tạo vật duy nhất không chấp nhận chính mình. Con người đành phải chịu đựng chính mình và chính vì phải chịu đựng mình mà con người luôn phẫn nộ với những giới hạn của mình và tìm cách vượt qua chính mình".
Một trong những thể hiện của thái độ không chấp nhận chính mình là ước mơ bất tử trường sinh được nuôi dưỡng và bày tỏ bằng nhiều cách khác nhau. Từ các vua chúa của Ai Cập qua Tần Thủy Hoàng của Trung Hoa đến những lãnh tụ độc tài của các thời đại, và cuối cùng, những nhà khoa học của thời đại, con người vẫn tìm đủ mọi cách để trở thành bất tử. Các vua Ai Cập khi qua đời không những được ướp xác, mà người ta còn chôn sống cả những người thân tín của họ. Tần Thủy Hoàng cũng đã suốt một đời đi tìm thuốc trường sinh bất tử. Những cái xác ướp của thời đại hiện đang được trưng bày trong những lăng tẩm nguy nga, mà sự bảo trì đòi hỏi bao nhiêu tốn kém cũng là thể hiện của những giấc mơ được sống mãi, dù chỉ là sống mãi với một thứ hào quang giả tạo.
Giấc mơ được sống lại ấy, ngày nay cũng đang được những nhà khoa học muốn hiện thực hóa qua việc tạo sinh vô tính con người, hay sử dụng tế bào gốc của các phôi thai người để chữa trị những căn bệnh nan y, và như vậy vượt qua biên giới của sự chết. Trước khi chết, người ta chỉ cần để lại một tế bào sống của mình và từ đó các nhà phù thủy khoa học sẽ nối dài cuộc sống của người đó bằng cách tạo sinh vô tính một con người y hệt như người đó. Với tế bào gốc rút ra từ phôi thai người, những nhà phù thủy khoa học cũng sẽ đánh bại thần chết bằng cách chữa trị mọi căn bệnh nan y.
Nhưng viễn tượng mà những nhà khoa học đang vẽ ra vì một vài người trường sinh bất tử trên mặt đất này, không chỉ thỏa mãn ước mơ được sống mãi, nó còn gợi lên bao nhiêu hệ lụy mà một cái nhìn có trách nhiệm không thể làm ngơ. Những con người trường sinh bất tử ấy sẽ là những con người bình thường, hay là những quái thai? Có được phép sử dụng hay sản xuất phôi thai để dùng vào việc chữa trị các căn bệnh nan y và làm cho con người trường sinh bất tử không? Ðó là những câu hỏi mà tinh thần trách nhiệm không thể tránh né được.
Tựu trung, sống và cư xử có trách nhiệm là đòi hỏi tất yếu của con người. Ðã là người đương nhiên phải có trách nhiệm. Nhưng nói đến trách nhiệm cũng là nói đến thân phận giới hạn của con người. Chính vì tính giới hạn ấy của con người mà tự do cũng đương nhiên có tính giới hạn.
Ðây là chân lý mà lễ Ðức Mẹ hồn xác lên trời hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta để cùng suy nghĩ. Mẹ Maria là mẫu mực của một con người có trách nhiệm. Trách nhiệm ấy trước tiên là thể hiện qua sự cộng tác của Mẹ trong mầu nhiệm nhập thể. Mẹ đã thưa "Xin Vâng" với tất cả tinh thần trách nhiệm. Thưa "Xin Vâng" là chấp nhận đi vào một chương trình của Thiên Chúa, trong đó sự cộng tác của con người phải là toàn diện. Thưa "Xin Vâng" là ý thức về thân phận bất toàn và giới hạn của con người, nhưng đồng thời cũng triệt để tin tưởng nơi quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa. Chính vì đã thưa xin vâng một cách triệt để mà Mẹ Maria đã là người đầu tiên trong nhân loại vượt qua được ranh giới của sự chết để trở thành trường sinh bất tử thật sự.
Chấp nhận thân phận giới hạn của kiếp người và tin tưởng ở quyền năng của Ðấng có thể làm được mọi sự. Mẹ Maria đã được cất nhắc về trời cả hồn lẫn xác. Mẹ đã trở thành đích điểm của cuộc lữ hành đức tin của chúng ta. Mẹ đã chỉ ra cho chúng ta con đường đích thực để đi, hầu đạt được cứu cánh vĩnh cửu của chúng ta. Nhìn lên Mẹ từ giữa bao nhiêu giới hạn bất toàn và khổ đau của kiếp người, chúng ta được mời gọi củng cố niềm hy vọng của chúng ta. Giữa cuộc đời khổ lụy và tăm tối, chúng ta vẫn nhận ra ánh sáng để tiến tới. Ước gì bài ca Ngợi Khen mà Mẹ và cộng đoàn tiên khởi đã hát vang cũng trở thành tâm tình của chúng ta.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Lễ Mẹ Lên Trời
Nhân ngày Lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau nhắc lại bài giảng của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Lễ Kính Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Ðức Thánh Cha đã giải thích và suy niệm câu: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa" như sau:
"Giáo Hội lữ hành trong lịch sử ngày hôm nay hiệp ý với bài ca vui mừng của Mẹ Maria Ðồng Trinh, Giáo Hội nói lên niềm vui và chúc tụng Thiên Chúa, vì Mẹ của Chúa khải hoàn bước vào vinh quang trên Trời. Trong mầu nhiệm Hồn Xác Lên Trời xuất hiện cho chúng ta thấy ý nghĩa trọn vẹn và quyết định của những lời mà Mẹ Maria đã thốt lên tại Ain Kerem, khi Mẹ đáp lại lời chào của bà Elizabeth: Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả.
Nhờ vào việc chiến thắng của Chúa Kitô vượt qua sự chết, Ðức Nữ Ðồng Trinh Nazareth được kết hợp cách đặc biệt vào hiệu quả của ơn cứu rỗi. Với lời Xin Vâng, Mẹ đã đáp lại trọn vẹn thánh ý Chúa. Mẹ đã tham dự cách sâu xa vào mầu nhiệm Chúa Kitô và đã bước vào vinh quang trước tiên sau Chúa Kitô với trọn cả hồn xác. Lời thưa Xin Vâng của Mẹ là niềm vui của biết bao người sống trong bóng tối và trong sự chết. Thật vậy, nhờ Mẹ mà Chúa của sự sống bước vào thế gian. Các tín hữu vui mừng và tôn vinh Mẹ như là Mẹ của nhiều người con đã được Chúa Kitô cứu chuộc, một cách đặc biệt trong ngày hôm nay, các tín hữu tôn kính Mẹ như là dấu chỉ của sự an ủi, của niềm vui cho mọi người, mọi dân tộc trên đường lữ hành tiến về Quê Trời.
Chúng ta hãy đưa mắt nhìn lên Mẹ Ðồng Trinh mà Phụng Vụ khẩn cầu Mẹ như là: "Ðấng bẻ gẫy xiêng xích trói buộc cho những kẻ bị áp bức, trả lại ánh sáng cho kẻ bị mù, xua đuổi ra khỏi chúng ta mọi sự dữ và cầu xin cho chúng ta được mọi sự lành".
"Linh hồn tôi chúc tụng Chúa", cộng đoàn Giáo Hội trong ngày lễ trọng thể Kính Mẹ Maria hôm nay lập lại bài ca tạ ơn của Mẹ, và Giáo Hội làm công việc này với tư cách là dân Chúa và xin mọi tín hữu hãy hiệp chung với nhau hát bài ca Magnificat dâng lên Chúa. Ngay từ thế kỷ đầu, thánh Ambrôsiô đã khuyến khích: "Ước chi tâm hồn Mẹ Maria hiện diện nơi từng người để chúc tụng Thiên Chúa, và ước chi thần khí của Mẹ Maria hiện diện nơi mỗi người để hoan hỷ trong Chúa". Những lời của bài ca Magnificat là như chúc thư thiêng liêng của Mẹ Maria Ðồng Trinh. Tuy nhiên, những lời này cũng là phần gia tài cho tất cả những ai nhìn nhận mình là con của Mẹ Maria, quyết định tiếp rước Mẹ Maria về nhà mình, như thánh Tông Ðồ Gioan đã làm khi xưa, tiếp nhận Mẹ là Mẹ của mình trực tiếp từ Chúa Giêsu dưới chân thập giá."
Ðó là những lời khuyến khích của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II cho tất cả mọi người trong ngày Lễ Kính Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời hôm nay 15 tháng 8. Ðức Thánh Cha còn đề ra cho mọi người mẫu gương của Mẹ như sau:
"Khi đặt mình vào trường học của Mẹ một cách đặc biệt, trong đó các tín hữu được mời gọi thực hiện cuộc ăn năn trở lại cách sâu xa hơn, củng cố đức tin của họ, sống chăm chú hơn, lắng nghe Lời Chúa và trở nên sẵn sàng hơn để phục vụ những anh chị em của mình. Ðối với tất cả những đồ đệ của Chúa Kitô, Mẹ là mẫu gương tốt nhất cho đời sống Kitô, Mẹ chuẩn bị tâm hồn chúng ta đón nhận và trao Chúa Kitô cho chúng ta, giống như xưa kia Mẹ đã trao cho những người giúp việc tại tiệc cưới Cana một mệnh lệnh: "Hãy làm tất cả những gì Chúa truyền dạy". Mẹ mời gọi chúng ta hãy ra đi đến với những ai đang cần nâng đỡ và trợ giúp của chúng ta như chính Mẹ đã làm cho người chị họ Elizabeth, như thế chúng ta lãnh nhận từ Mẹ rất thân yêu này sự thích thú của cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa và của sứ mạng sống đức ái phục vụ tha nhân".
Ðó là tâm tình của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong muốn cho mọi thành phần trong Giáo Hội, cho tất cả những ai đang tôn kính Mẹ Maria, trong tâm tình này, mọi tín người hãy kết hiệp với nhau, và như Ðức Thánh Cha nói là mời Mẹ đến ở nhà chúng ta. Mời Mẹ đến với chúng ta để xin Mẹ giúp thực thi lời Chúa truyền dạy: "Hãy làm những gì Chúa truyền dạy".
Trẻ em Tây Phương thường được người lớn kể cho câu truyện thần tiên như sau:
Ngày xửa ngày xưa, có một gia đình nghèo sống bên cạnh rừng, người chồng lo việc tiều phu, người vợ lo nội trợ. Họ chỉ có ba người con gái, sáng sớm người chồng đi vào rừng kiếm củi, người vợ đi vào làng để mua thức ăn và các cô gái nhỏ trông chừng nhà cửa.
Một buổi sáng nọ, đang nô đùa trước cửa nhà, ba cô bé nhỏ thấy một bà lão đang tiến lại gần, người đàn bà mặc áo đen, từ xa ba cô bé nhỏ cũng có thể nhận ra gương mặt xấu xí của bà. Vừa thấy bà lão đến gần, người chị hét lên:
- Mụ phù thủy, mụ phù thủy.
Nghe tiếng báo động của người chị, hai cô bé nhỏ chạy vội vào nhà đóng cửa lại, còn cô lớn chạy ra phía sau nhà để thả chó ra. Lão bà dừng lại trước những tiếng gầm gừ của con chó. Bên trong hai đứa nhỏ vẫn còn run cầm cập. Một lát sau người đàn bà xấu xí đành bỏ về phía rừng.
Hôm sau, người tiều phu vào rừng đốn củi và đem theo con chó, người mẹ lại đem đứa con gái lớn theo phụ giúp mình mua sắm ngoài làng, ở nhà chỉ còn lại hai đứa bé gái nhỏ. Vào giữa buổi trưa, khi hai đứa nhỏ đang chơi trước nhà thì lão bà lại xuất hiện, vẫn bộ quần áo đen của phù thủy, dáng điệu cúi gập người trên cây gậy. Ðứa chị có bổn phận trông coi em, nó lại hét lên:
- Mụ phù thủy, mụ phù thủy.
Và cả hai chạy ù vào nhà đóng cửa kín lại, đứa chị còn kịp nhặt mấy viên đá phòng thân.
Khi bà lão tiến đến gần sân, bà nhìn vào trong chuồng chó thấy chuồng trống không, lại không có tiếng chó sủa, vậy là chú chó đã đi vắng. Người đàn bà tiến đến cửa chính của túp lều và tìm then cửa. Khi bà chưa kịp đụng vào then cửa thì đứa chị đã ném viên đá vào người bà. Một tay chống gậy, một tay đỡ lấy mặt, bà lão xấu xí lầm lũi trở về phía rừng.
Hôm sau nữa, sinh hoạt của gia đình tiều phu vẫn diễn ra bình thường, người cha vẫn đưa con chó vào rừng, người mẹ đem đứa con gái lớn và cả đứa kế đi theo ra chợ, chỉ còn lại đứa bé nhỏ nhất mới lên năm tuổi trông nhà. Vào giữa buổi trưa, khi đứa nhỏ đang chơi trước sân thì bà lão xấu xí lại xuất hiện một lần nữa. Vừa trông thấy, nó thét lên như hai đứa chị:
- Mụ phù thủy, mụ phù thủy.
Và chạy nhanh vào nhà cài then cửa lại, đứng nhìn người đàn bà. Qua lỗ nhỏ của khe cửa, bỗng nó nhìn thấy và nhận ra một điều mà nó chưa hề thấy trước đó, người đàn bà không có vẻ gì là một mụ phù thủy cả, nó chỉ thấy một người đàn bà vẻ đau yếu và mệt lả. Ðứa bé năm tuổi tự nhiên cảm thấy thương mến bà vô cùng, nó liền mở cửa và tiến đến bên bà thưa:
- Thưa bà, cháu có thể giúp bà cái gì được không ạ?
Quả thật, gương mặt bà lão xấu xí kinh khủng. Khi trông thấy đứa bé kháu khỉnh bà nói:
- Lão còn phải đi đường xa, lão mệt lắm, cháu có thể cho bà ly nước được không?
Nó liền chạy ra sau nhà, lấy gáo múc nước đem ra cho bà cụ uống. Bà cụ cầm lấy chiếc gáo, cảm ơn đứa bé rồi uống cạn. Bà rùng mình đứng thẳng, đứng thẳng rồi biến thành một cô công chúa xinh đẹp.
Thì ra lão bà là một cô công chúa đã bị một mụ phù thủy nào đó ghen tức làm cho công chúa biến thành xấu xí. Cô công chúa ấy trở lại nguyên hình nguyên trạng khi có ai đó làm một nghĩa cử đẹp cho cô, nhưng bao nhiêu năm trời không có ai đối xử tử tế với lão bà vì quá xấu xí, cho đến ngày hôm đó cô bé năm tuổi đã làm một nghĩa cử đẹp và hành động ấy đã biến đổi bà, trả lại hình dáng yêu kiều cho cô công chúa.
Anh chị em thân mến,
Trên đây là câu truyện nhân gian kể cho trẻ em nghe, nhưng cũng là câu chuyện xảy ra hằng ngày cho người lớn. Mỗi ngày qua đi trong cuộc sống, không biết bao nhiêu khuôn mặt mà chúng ta gán cho bao nhiêu là nhãn hiệu để cố tình xa lánh, nhưng chỉ cần một cử chỉ tử tế rất nhỏ cũng đủ làm cho khuôn mặt ấy trở thành dễ thương. Ðó là sức mạnh biến đổi của tình yêu, là cốt lõi của Tin Mừng. Ðây là điều mà Chúa Giêsu đến trần gian để dạy cho loài người: "Ngài giấu những sự đó với những người thông thái và kẻ quyền thế, mà chỉ tỏ bày cho trẻ em và những kẻ bé mọn" (Mt 11,25). Thật ra chỉ có trẻ thơ mới nhận ra sức mạnh biến đổi ấy của tình yêu.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con được một tâm hồn luôn tươi trẻ để có đủ sức mạnh biến đổi tình yêu chúng con, xin Mẹ giúp chúng con ý thức rằng, chỉ có tình yêu thương mới biến đổi tâm hồn con người và giúp chúng con biến đổi thế giới, xin Mẹ luôn hiện diện bên Chúa, gìn giữ chúng con trên con đường theo Chúa Kitô và làm cho chúng con được trưởng thành trong đức tin mà chúng con tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
(Trích trong 'Sống Tin Mừng' của R. Veritas)
SUY NIỆM 4: Mẹ Lên Trời
Đối với Đức Maria, ngày qua đời là ngày đẹp nhất cuộc đời. Đó là cuộc hành trình hiệp hoan. Mẹ không còn dưới thế nữa. Mẹ về với Chúa Con như Đức Giê-su về với Chúa Cha.
"Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ta sẽ không phải chết bao giờ". Đến vời Đức Maria, chết là chiến thắng, Mẹ không bị tan biến qua lỗ hổng đen tối của hư vô, nhưng đi vào vinh quang trong cuộc sống muôn đời. Hoàn toàn hiệp thông vô cùng với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần vì các Đấng làm nên một.
Thiên Chúa thỏa mãn mọi cơn đói của Mẹ.
"Ai tin vào Ta sẽ không phải khát bao giờ". Mẹ Maria luôn luôn nói xin vâng lời Thiên Chúa suốt cả đời ở trần thế: Thiên Chúa vui lòng làm thỏa mãn mọi ước nguyện của Mẹ cầu xin đề đáp lại sự vâng lời của Mẹ: "Tất cả những gì anh em cầu xin nhân danh Thầy, Thầy sẽ làm điều đó" (Ga 14, 14) "Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì cứ xin, anh em sẽ được như ý". (Ga 15, 7). Chúng ta có cậy tin vào sự can thiệp của Đức Mẹ không?
Tin Mừng.
Ngày lể Đức Mẹ Lên Trời là một Tin Mừng mà Giáo Hội loan báo cho tất cả những người nghèo khổ ngày nay: Cho những người sống khó nghèo - Cho những người lao động - Cho những người cam chịu đau khổ trong thử thách - Cho những người vui lòng vững tin vào Thiên Chúa, dù phải sống trong đêm tối.
Từ nay, là những phần tử trong gia đình Thiên Chúa, chúng ta như những đứa trẻ sắp ra đời, không thể nào kể cho xiết hạnh phúc đang đón chờ chúng ta ngày mai.
Trong cuộc đời ngắn ngủi trên trái đất, như Mẹ Maria, chúng ta chỉ làm những việc nhỏ mọn nặng nhọc, nhưng chúng ta có thể mang lại lợi ích lớn lao cho nó nhờ vào tình yêu của chúng ta, nhờ vào tình yêu vô cùng của Đức Giê-su Ki-tô đang sống trong chúng ta. Trái đất sẽ qua đi, nhưng lời Chúa hứa không bao giờ qua đi. Chỉ có tình yêu của Ngài tồn tại mãi: "Chính tình yêu mới đáng kể thôi". Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng đã nói thế.
J.M
14/8 Sự gì Thiên Chúa phối hợp, loài người không được phân ly
- Viết bởi J.M
Sự gì Thiên Chúa phối hợp, loài người không được phân ly.
Thứ sáu tuần 19 thường niên - Thánh Mácximilianô Maria Kônbê, linh mục, tử đạo. Lễ nhớ.
"Vì lòng chai đá của các ngươi mà Môsê đã cho phép các ngươi rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy".
* Thánh nhân sinh ngày 8 tháng 1 năm 1894 tại Ba Lan. Người gia nhập Dòng Anh Em Hèn Mọn và năm 1918 thụ phong linh mục tại Rôma. Đầy lòng yêu mến nồng nàn đối với Đức Trinh Nữ Maria Thánh Mẫu Thiên Chúa, người lập một hội đạo đức lấy tên là "Đạo binh Đức Maria Vô Nhiễm". Hội này đã được truyền bá rộng rãi cả ở quê hương của người lẫn ở nhiều miền khác. Người đã đến Nhật Bản để truyền giáo, hăng say loan báo đức tin Kitô giáo dưới sự chăm sóc và bảo trợ của Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Khi đã trở về Ba Lan, người phải chịu biết bao cơ cực, nhọc nhằn một thời gian dài trong trại tập trung Ốt-suýt vì chính sách kỳ thị chủng tộc. Người đã hiến dâng mạng sống mình làm lễ toàn thiêu vì lòng bác ái ngày 14 tháng 8 năm 1941.
Lời Chúa: Mt 19, 3-12
Khi ấy, có những người biệt phái đến cùng Chúa Giêsu và hỏi thử Người rằng: "Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lẽ gì không?" Người đáp: "Nào các ông đã chẳng đọc thấy rằng: Từ thuở ban đầu, Tạo Hoá đã dựng loài người có nam có nữ, và Người đã phán: Bởi thế nên người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ nên một thân xác? Cho nên họ không còn là hai, nhưng là một thân xác. Vậy điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly". Họ hỏi lại: "Vậy tại sao Môsê đã truyền cấp tờ ly hôn mà cho rẫy vợ?" Người đáp: "Vì lòng chai đá của các ông mà Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy. Tôi bảo các ông rằng: Ai rẫy vợ, trừ nố gian dâm, và đi cưới vợ khác, thì phạm tội ngoại tình. Và ai cưới người đã bị rẫy, cũng phạm tội ngoại tình".
Các môn đệ thưa Người rằng: "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ". Người đáp: "Không phải mọi người hiểu được điều ấy, nhưng chỉ những ai được ban cho hiểu mà thôi. Vì có những hoạn nhân từ lòng mẹ sinh ra, có những hoạn nhân do người ta làm nên, và có những người vì Nước Trời, tự trở thành hoạn nhân. Ai có thể hiểu được thì hiểu".
SUY NIỆM 1: Vấn Ðề Ly Dị
Vào thời Chúa Giêsu, dựa trên luật Môsê được ghi lại trong sách Tl 14, 1-4, thì mọi trường phái giải thích luật đều phải nhìn nhận việc ly dị, nhưng có điểm khác nhau về lý do ly dị. Trường phái Hillel cho phép ly dị vì bất cứ lý do gì, còn trường phái Shammai gắt gao hơn, chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại tình mà thôi. Những người Biệt phái đến chất vấn Chúa Giêsu như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay, không phải về việc có được phép ly dị hay không, nhưng về lý do của việc ly dị: họ muốn Chúa Giêsu phải chọn một trong hai lập trường: hoặc cho phép ly dị vì bất cứ lý do gì, hoặc chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại tình.
Trong câu trả lời, Chúa Giêsu không theo lập trường của con người, không đứng về nhóm nào, nhưng Ngài kêu gọi trở về với chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa khi tạo dựng con người: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly". Ðời sống hôn nhân và gia đình giữa người nam và người nữ là một định chế do chương trình của Thiên Chúa khi tạo dựng con người, chứ không do con người thiết định. Môsê cho phép ly dị vì chiều theo lòng dạ chai đá của dân chúng, chứ ngay từ đầu không có như vậy.
Chứng kiến cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và những người Biệt phái, các môn đệ phản ứng: "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì thà đừng lấy vợ còn hơn". Trong câu trả lời, Chúa Giêsu cho các ông biết là cần phải có ơn Chúa, con người mới có thể hiểu rõ ơn gọi cao cả của đời sống hôn nhân cũng như của đời sống độc thân trinh khiết vì Nước Trời. Bậc sống độc thân hoặc lập gia đình, không phải thuần túy tùy thuộc ý định con người, nhưng là một ơn ban đến từ Thiên Chúa. Nếu không tin có Thiên Chúa và bị ảnh hưởng của tinh thần thế tục, con người sẽ không hiểu giá trị cũng như không thể sống trọn vẹn ơn gọi độc thân hoặc lập gia đình. "Ai có thể hiểu được thì hiểu", ơn ban của Thiên Chúa tùy thuộc tự do của con người. Con người thời nay đã lạm dụng tự do để quyết định những điều nghịch lại chương trình của Thiên Chúa. Con người đã trần tục hóa cả bậc độc thân lẫn bậc hôn nhân và gia đình. Tất cả đều được phép, kể cả việc hai người cùng phái tính được luật pháp cho phép sống với nhau như vợ chồng, để rồi tình thương của cha mẹ đối với con cái trong trường hợp nào cũng bị hạ thấp.
Người Kitô hữu chúng ta đừng để mình bị cám dỗ chạy theo tâm thức trần tục. Giải pháp cho vấn đề không phải là luật lệ do con người đặt ra, nhưng là tình thương, là trở về với Thiên Chúa và chương trình nguyên thủy của Ngài khi tạo dựng con người. Ðiều này đòi hỏi nhiều cố gắng hy sinh, nhưng đó là bí quyết để con người sống trọn ơn gọi của mình và đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Chúng ta đừng sợ cố gắng hy sinh, bởi vì Thiên Chúa sẽ trợ giúp chúng ta, nếu chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài và để Ngài hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Xin Chúa canh tân tình yêu chúng ta, cho tình yêu chúng ta hòa nhập vào tình yêu thần thiêng của Chúa, để chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi của chúng ta theo đúng chương trình của Chúa.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 2: Thủy Chung Trong Hôn Nhân (Mt 19,3-12)
Cách đây vài năm, không những hai miền nam bắc Triều Tiên mà có lẽ cả thế giới cùng khóc trước cảnh tượng hai trăm người già của từ hai miền của đất nước bị chia cắt từ năm mươi năm nay gặp lại nhau, ôm chầm lấy nhau, chan hòa trong tiếng khóc và niềm vui đoàn tụ. Theo thống kê, có khoảng ít nhất bảy triệu gia đình Nam Hàn có liên hệ máu mủ với Bắc Hàn. Trừ một số nhỏ đã được đoàn tụ tại những nước thứ ba, phần lớn các gia đình Triều Tiên đều bị ly tán kể từ cuộc chiến tranh nam bắc hồi năm 1953. Gia đình đổ vỡ và ly tán vẫn là một trong những nỗi đau lớn nhất trong cuộc sống con người.
Không riêng gì chiến tranh, nạn ly dị mà chúng ta đang chứng kiến trong hầu hết các xã hội đương đại đã và đang là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều vết thương khó hàn gắn nhất trong lòng người. Gia đình đứng vững, xã hội mới ổn định. Nhưng gia đình chỉ có thể đứng vững khi được xây dựng trên ý muốn của Ðấng Tạo Hóa về định chế hôn nhân mà thôi. Ðây là đạo lý mà Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta cùng nhau ôn lại qua đoạn Tin Mừng hôm nay.
Câu hỏi mà những người biệt phái đặt ra cho Chúa Giêsu gợi lại cuộc tranh luận giữa các trường phái Do Thái về luật cho phép ly dị được Môsê qui định trong sách giới luật. Luật Môsê cho phép người đàn ông bỏ vợ, nếu tìm thấy nơi vợ một thứ tì ố kín đáo nào đó. Các trường phái có khuynh hướng phóng khoáng giải thích rằng nếu một người chồng gặp một người đàn bà khác đẹp hơn và nhận thấy vợ mình xấu xí đến độ nhờm tởm, người đàn ông ấy được phép bỏ vợ. Những người có chủ trương nhiệm nhặt thì cho rằng một tì ố đáng khinh tởm nơi người vợ chỉ có thể là hành động ngoại tình mà thôi.
Như vậy, đặt câu hỏi cho Chúa Giêsu, các biệt phái chỉ có ý gài bẫy Ngài, họ muốn Ngài phải đứng hẳn về một trong hai lập trường trên đây. Nhưng Chúa Giêsu đã tránh được cái bẫy do các biệt phái cài ra khi tuyên bố rằng Ngài hoàn toàn chống lại việc ly dị, dù bất cứ lý do nào. Trích dẫn sách Khởi Nguyên, Chúa Giêsu chứng minh rằng ngay từ đầu, Thiên Chúa muốn rằng vợ chồng phải nên một với nhau như một thể xác. Ðây là ý muốn minh thị của Chúa. Không có quyền bính nào trên trần gian này có thể đảo lộn ý muốn ấy của Ðấng Tạo Hóa. Qua khẳng định này, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng hôn phối không chỉ là một giao ước giữa người nam và người nữ, mà còn là một thể hiện của chính ý muốn của Ðấng Tạo Hóa. Duy chỉ có ý muốn của hai người phối ngẫu chưa đủ để làm nên hôn phối, mà còn phải có ý muốn của chính Thiên Chúa. Nên vợ nên chồng không phải là nên một với nhau, mà còn là nên một với Thiên Chúa, hay đúng hơn, chỉ trong Thiên Chúa, hai người phối ngẫu mới thực sự nên một với nhau. Do đó, phá vỡ hôn ước, ly dị không chỉ là xé bỏ giao ước giữa hai con người, mà chính là chối bỏ chính Thiên Chúa.
Tựu trung, ly dị hay ngoại tình là phản bội chính Thiên Chúa; Khi Thiên Chúa bị loại ra khỏi tâm hồn thì dĩ nhiên con người cũng sẽ dễ dàng phản bội và loại trừ người khác. Và ngược lại, mỗi lần chúng ta phản bội hay loại trừ tha nhân, chúng ta cũng xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Con người mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa một cách thâm sâu đến độ xúc phạm đến con người là xúc phạm đến Thiên Chúa; và chối bỏ Thiên Chúa cũng đồng nghĩa với chối bỏ con người. Suy gẫm về sự thủy chung trong đời sống hôn nhân, chúng ta cũng nghĩ đến tình yêu trong mọi quan hệ giữa người với người. Về điểm này, lời của thánh Gioan nên được chúng ta tâm niệm và đem ra thực hành: Thiên Chúa là Tình Yêu, ai sống trong tình yêu, người đó sống trong Thiên Chúa.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
SUY NIỆM 3: Người ngoại tình.
Những người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giêsu để thử Người. Họ nói: "Thưa Thầy, cò được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?" Người đáp: "Các ông không đọc thấy điều này sao: "Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ," Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly." (Mt. 19, 3-4. 6)
"Những người biệt phái bày điên rồ" Ôbelix nói thế. Từ khi họ thử gài bẫy Đức Giêsu, họ biết họ thất bại vì Đức Giêsu luôn trưng Thánh Kinh để trả lời họ.
Hạng đực rựa. (Le mâle)
Đoạn này cho ta thấy xã hội đực rựa thời đó. Chỉ có đàn bà là kẻ phạm tội ngoại tình, bị dãy bỏ. Đàn ông không có tội gì! giờ đây Đức Giêsu nhắc nhở họ phải tôn trọng người nữ, bình đẳng trước pháp luật và đàn ông cũng phải có trách nhiệm " Kẻ dẫy vợ cũng phạm tội như kẻ cưới người đàn bà bị dẫy bỏ."
Người ta thấy các tông đồ phản ứng: "Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ thì hơn."
Ngày nay cũng không khác gì thời Đức Giêsu người ta không nói đến dẫy vợ nữa, nhưng nói đến ly dị, không bàn tán đến kết hôn nữa, nhưng nói đến tự do sống chung.
Người nam.
Giáo huấn của Đức Giêsu chính là luật tự nhiên. Sự kết hợp giữa hai người để xây dựng tốt hơn: hoàn toàn tôn trọng nhau. Đàn ông hay đàn bà không phải là máy móc để hành lạc hay con rối kỳ cục để thỏa mãn. Thời các tông đồ phản ánh ít nhiều thế. Chúa đã nhắc nhở họ nhớ đến phẩm giá là người. Thời đại chúng ta hầu như theo cái thứ luân lý buông thả. Chúa nhắc nhở chúng ta nhớ đến luật thương yêu tôn trọng lẫn nhau.
Chúa còn đi xa hơn về đời sống độc thân tự nguyện, phải kính trọng người khác và bản thân mình! Chúa không nghĩ phải khấn bậc tu trì. Nhưng, thời người đã có những người đáp lại tiếng gọi trở nên chứng nhân của đời sống vĩnh cửu, trường tồn.
J.M
- 13/8 Yêu thương và tha thứ
- 12/8 Yêu thương trong cầu nguyện và sửa lỗi nhau
- 11/8 Sống tinh thần trẻ thơ
- 10/8 Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt
- 09/8 Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống
- 08/8 Lòng tin lớn bằng hạt cải
- 07/8 Theo Chúa, hãy vác thập giá
- 06/08 Vinh quang Phục Sinh
- 05/08 Lòng tin bà mẹ ngoại giáo
- 04/08 Chúa Ði Trên Biển