Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
05/03 Tha thứ bắt chước Thiên Chúa Cha
- Viết bởi Mt 18, 21-35
Tha thứ bắt chước Thiên Chúa Cha.
Thứ Ba tuần 3 Mùa Chay.
“Nếu mỗi người trong chúng con không tha thứ cho anh em, thì Chúa Cha cũng không tha thứ cho chúng con”.
Lời Chúa: Mt 18, 21-35
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?”
Chúa Giêsu đáp: “Ta không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy. Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ.
Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả”. Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.
Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc. Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: “Hãy trả nợ cho ta”. Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh”. Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện.
Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?” Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.
Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hết lòng tha thứ
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
“Tôi viết cho anh, người bạn vào giây phút cuối của đời tôi…
Vâng, tôi cũng xin nói với bạn tiếng Cám ơn và lời Vĩnh biệt này…
Ước gì chúng ta, những người trộm lành hạnh phúc,
được thấy nhau trên Thiên đàng, nếu Thiên Chúa muốn,
Người là Cha của hai chúng ta.”
Đây là những câu cuối trong di chúc của cha Christian de Chergé,
tu viện trưởng của một đan viện khổ tu ở Tibhirine, nước Algérie, châu Phi.
Cha viết những câu này vào cuối năm 1993 cho một người nào đó sẽ giết mình.
Ngày 21-5-1996, cha đã bị nhóm Hồi giáo vũ trang chặt đầu
cùng với sáu tu sĩ khác trong đan viện.
Cha Christian gọi kẻ sẽ giết mình là bạn, chứ không phải là kẻ thù hay sát nhân.
Cha coi mình cũng là tên trộm lành chẳng khác gì anh ta, cũng cần được tha thứ.
Cha chỉ mong gặp lại anh ta trên Thiên đàng,
vì cả hai đều là con, cùng được tha vì được yêu bởi Thiên Chúa.
Dụ ngôn hôm nay hẳn đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của cha Christian.
Có hai người mắc nợ, cả hai đều là đầy tớ của cùng một ông chủ.
Một người mắc nợ ông chủ một món nợ cực lớn, mười ngàn yến vàng.
Một người mắc nợ đồng bạn mình một món nợ nhỏ, một trăm quan tiền,
mà người đồng bạn ấy lại chính là người đang mắc nợ ông chủ.
Cả hai đều không trả nổi và năn nỉ xin hoãn.
Ông chủ chạnh lòng thương tha luôn món nợ cho người thứ nhất.
Nhưng người này lại dứt khoát không chịu hoãn lại cho người thứ hai.
Anh ta đã tống bạn mình vào ngục.
“Đến lượt ngươi, ngươi lại không phải thương xót người đầy tớ đồng bạn
như chính ta đã thương xót ngươi sao?” (c. 33).
Lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa như dòng suối chảy vào đời tôi.
Thương xót tha thứ chính là để cho dòng suối ấy chảy đi,
chảy đến với người xúc phạm đến tôi nhiều lần trong ngày.
Tôi tha bằng chính sự tha thứ mà tôi đã nhận được từ Thiên Chúa.
Không tha là giữ dòng suối đó lại, và biến nó thành ao tù.
Không tha là đánh mất cả những gì mình đã nhận được.
Người mắc nợ ông chủ nhiều, đã được tha một cách quảng đại bất ngờ,
nhưng sự tha thứ đó đã bị rút lại.
Chỉ ai biết cho đi sự tha thứ mới giữ lại được nó cho mình.
Chúng ta đều là người mắc nợ và đều là đầy tớ của Thiên Chúa.
Tôi nợ Chúa nhiều hơn anh em tôi nợ tôi gấp bội.
Sống với nhau tránh sao khỏi có lúc thấy mình bị xúc phạm.
Chỉ tha thứ mới làm cho tôi đi vào được trái tim của Thiên Chúa nhân hậu.
Chỉ tha thứ mới làm tôi được nhẹ lòng, và người kia được giải thoát.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen.
R. Tagore (Đỗ Khánh Hoan dịch)
Suy Niệm 2: Tha thứ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người vốn yếu hèn. Lầm lỗi là con người. Biết sống là biết tha thứ.
Tha thứ là biết Chúa. Thiên Chúa nhân hậu, nhẫn nại, giầu lòng xót thương và luôn tha thứ. Ta tội lỗi ngập tràn. Nhưng Chúa luôn tha thứ. Dụ ngôn hôm nay cho thấy sự tha thứ của Chúa là không giới hạn. Nợ 10 ngàn yến vàng là nợ quá lớn không ai có thể trả nổi. Vậy mà chỉ cần một lời van xin, Thiên Chúa tha ngay. Người tha thứ dễ dàng, tức khắc, không điều kiện, và vĩnh viễn. Nhận biết Thiên Chúa rộng lượng, giầu lòng thương xót, luôn luôn tha thứ sẽ dẫn ta đến biết mình.
Tha thứ là biết mình. Khi biết mình yếu đuối, ta dễ thông cảm với người khác. Nếu người khác chấp nhất tội lỗi của ta, ta sẽ không sống nổi. Vì ta cũng đã lỗi phạm đến người khác nhiều lần. Biết mình cần được tha thứ, ta sẽ dễ tha thứ cho người khác. Nhưng trên hết khi tha thứ ta nhận được ơn tha thứ của Chúa. Chúa tha thứ cho ta nhưng với điều kiện ta cũng phải tha thứ cho anh em. Cho người khác 100 quan tiền để nhận được 10 ngàn yến vàng. Ta được lợi lớn.
Tha thứ như thế là biết sống. Đời sống thành công là đời sống an vui hạnh phúc. Ta an vui khi mọi người chung quanh cùng an vui. An vui chỉ có được với những tâm hồn quảng đại, tha thứ. Chúa là yêu thương, là tha thứ. Không yêu thương tha thứ, ta không thể phù hợp với Thiên Chúa, không thể lãnh nhận được hạnh phúc. Con người là bất toàn. Muốn sống chung cần tha thứ và được tha thứ. Đó là biết sống, tạo hạnh phúc cho chính mình.
Tóm lại, tha thứ là biết yêu. Xét cho cùng tha thứ chính là tình yêu. Đây là cốt lõi của vấn đề. Tha thứ chỉ có được khi có tình yêu. Chúa tha thứ cho ta vì yêu thương ta. Và Chúa dạy ta phải tha thứ cho tha nhân. Vì tha nhân không phải người xa lạ, mà là anh em ta. Phê-rô nhận điều này khi hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần?” Người khác là anh em ta trong gia đình Thiên Chúa. Anh em phải có tình yêu thương. Đó chính là giới răn của Chúa. Tình yêu là không giới hạn nên phải tha thứ mãi mãi. Còn tha thứ là còn yêu thương. Còn yêu thương là còn thuộc về Chúa, còn là con cái trong nhà Cha, còn là công dân Nước Trời. Hết tha thứ là hết yêu thương, không còn là con Cha yêu thương, không còn là công dân trong Vương quốc tình yêu.
Suy Niệm 3: Tha thứ
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Tha thứ đến 7 lần, đó là tha thứ theo đúng công bằng của lề luật, của lý luận con người. Nhưng Chúa Giêsu còn đi xa hơn bằng cách nói: tha thứ cho đến 70 lần bẩy.
Trong dụ ngôn người đầy tớ mắc nợ, người này xin chủ chờ thêm thời gian nữa anh sẽ trả hết, nhưng chủ đã tha luôn cả số nợ. Thế mà anh đã không hành xử như vậy đối với người bạn chỉ mắc nợ anh một trăm bạc. Chúa Giêsu đã đưa ra bài học từ dụ ngôn này: “Cha Ta trên trời sẽ xử với các người như thế nếu mỗi người trong các ngươi thật lòng tha thứ cho anh em mình”.
Chúng ta hãy kiểm điểm xem chúng ta đã sống thế nào về điều chúng ta thường cầu nguyện: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Về vấn đề này tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã chia sẻ như sau:
“Tính phê bình chỉ trích là một trở ngại lớn cho đời sống siêu nhiên. Chỉ tiêu cực phàn nàn kẻ khác, con quấy rầy họ, và muôn đắng cay trong lòng con. Va chạm người khác là sự thường. Sống trong một xã hội không va chạm nhau chỉ có thể là Thiên đàng. Một hòn đá nhờ va chạm mà bóng láng hơn, sạch đẹp hơn. Phàn nàn là bệnh dịch hay lây, triệu chứng là bi quan, mất bình an, nghi ngờ, mất nhuệ khí kết hiệp với Chúa. Bác ái không chỉ có yêu thương và tha thứ. Bác ái là cả một hành động để tạo bầu khí mới giữa cộng đồng xã hội, quốc gia và quốc tế, biến thế giới của thú vật nên thế giới của con người, biến thế giới của con người nên thế giới của con Chúa. Chỉ giây phút hiện tại là quan trọng. Đừng nhớ ngày hôm qua của anh em để chỉ trích. Đừng nhớ ngày hôm nay của con để khóc lóc, nó đã vào dĩ vãng. Đừng nhìn ngày mai của con để bi quan, nó còn trong tương lai. Giao quá khứ cho lòng nhân từ của Thiên Chúa, giao tương lai cho sự quan phòng của Ngài và giao tất cả cho tình yêu Chúa”.
Xin Chúa hướng dẫn chúng ta trên con đường canh tân cuộc sống đức tin và đức ái. Xin Chúa ban cho chúng ta mỗi ngày được nên giống Chúa hơn để xây dựng hoà bình và hoà hợp trong môi trường chúng ta sống.
Suy Niệm 4: Tha thứ vô bờ
Bấy giờ ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” Đức Giê-su đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.” (Mt. 18, 21-22)
Khi Phê-rô hỏi: “Nếu anh em cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha thứ mấy lần? Có phải bảy lần không”. Thế là ông tốt lắm rồi. Ông đã vượt mức luật cũ: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Còn chúng ta, có ai đã tha thứ đến bảy lần chưa?
Những trường phái Rabbi đã định mức tha thứ thế nào? Tha cho vợ mấy lần, cho con cái, cho anh chị em mấy lần? Họ cãi nhau xem phải ấn định mấy lần, phải tha thứ, luật của trường phái nào mới đúng?
Nhưng Đức Giê-su không đứng đầu trường phái nào, với Người, không có mức nào hết, vì Người không tự đóng khuôn vào khu vực số lượng nhiều hay ít. Chúng ta muốn được Thiên Chúa tha thứ vô cùng thì chúng ta phải biết tha thứ không tính toán.
Khi bạn tha thứ, bạn đừng nhìn vào sức nặng của xúc phạm, nhưng hãy nhìn vào Thiên Chúa và nhìn lại cuốn sổ ghi lỗi của bạn. Chỉ có kẻ vô tội mới được phép luận tội và tha thứ thôi. Tất cả chúng ta đều là kẻ có tội và được thương xót tha thứ, cho nên chúng ta đo lòng thương xót của mình đối với kẻ có nợ chúng ta là tự phụ. Chúng ta cần nhớ bài học này: Theo đức tin, trước nhất chúng ta phải luôn luôn nhìn lên Chúa trước khi xét đoán anh em mình, và lúc đó chúng ta sẽ được đầy lòng nhân hậu khoan dung êm ái và yêu thương.
Lời của Đức Giê-su ban đầu có vẻ kỳ dị, nhưng nhìn kỹ, thì thấy khôn ngoan biết bao … Trong thế giới pháp chế trói buộc nặng nề này, không còn quan tâm đến con tim, thì tốt lành biết bao khi được nghe những bài diễn văn về lòng thương yêu tha thứ.
J.G
Suy Niệm 5: Hãy biết “yêu” như Chúa
Có một anh bạn hỏi một người Công Giáo rằng: “Nếu để nói một câu ngắn gọn nhất nhằm tóm gọn toàn bộ giáo lý về đạo Công Giáo thì bạn sẽ nói câu nào?”; bạn trẻ Công Giáo trả lời, đó là chữ: “Yêu”.
Thật vậy, chữ “yêu” là chữ cốt lõi của đạo Công Giáo. Vì yêu, Thiên Chúa dựng nên trời đất và con người. Vì yêu, Ngài đã cứu thoát họ khỏi Ai Cập, đưa về Đất Hứa. Vì yêu Thiên Chúa đã gửi các ngôn sứ đến để dạy dỗ dân. Vì yêu, Thiên Chúa đã ban Con Một của mình đến để cứu chuộc nhân loại. Đấng ấy là Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã dạy dỗ, yêu thương, tha thứ cho kẻ thù và cuối cùng, vì yêu nên Đức Giêsu đã chết cho người mình yêu.
Hôm nay, Tin Mừng một lần nữa xác định căn cốt đó khi trình thuật cuộc nói chuyện giữa Đức Giêsu và Phêrô. Khởi đi từ câu hỏi của Phêrô: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" Đức Giêsu đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy".
Tha như thế là tha mãi, tha không giới hạn, không điểm dừng, không so đo tính toán thiệt hơn. Tha như thế là đi vào mối tương quan với Thiên Chúa là tình yêu, và làm toát lên đạo mới, “đạo yêu thương”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tha thứ và tha thứ không ngừng nghỉ!
Tha thứ như thế thì mới được Thiên Chúa tha thứ cho mình.
Tha thứ là một điều rất khó, nhưng nó là tuyệt đỉnh và cao quí nhất mà Đức Giêsu đã cống hiến cho con người.
Tha thứ còn là của lễ đẹp lòng Thiên Chúa nhất, bởi vì nhờ tha thứ, con người trở nên giống Thiên Chúa vì Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải cho loài người là Thiên Chúa của tha thứ không ngừng. Vì thế, chỉ có một mình Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy, mới có thể đòi hỏi con người: “Ta không bảo con phải tha đền bẩy lần, nhưng là đến bẩy mươi lần bẩy”, tức là tha không ngừng.
Nếu có khó khăn trong việc tha thứ, ấy là chúng ta vẫn nhìn vào sức nặng của sự xúc phạm mà đối phương đã gây ra cho ta, trong khi đó, lẽ ra chúng ta phải nhìn vào tình thương của Thiên Chúa đối với mình khi Ngài tha thứ tội lỗi cho ta.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa dạy chúng con hôm nay thật tuyệt vời, vì nếu chúng con không tha thứ thì làm sao chúng con được Chúa thứ tha trong khi chúng con là kẻ có tội? Xin Chúa ban cho chúng con có lòng nhân hậu như Chúa là Đấng Nhân Hậu. Biết yêu tha thiết để sẵn sàng tha thứ không ngừng nghỉ như Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Tha thứ cho nhau, vì được Chúa tha thứ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Hãy tha thứ cho nhau, vì ta đã được Thiên Chúa tha thứ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa thật quảng đại vô cùng. Không những Chúa đã tác tạo nên con, ban ơn để con được sống, mà ngay cả khi con xúc phạm đến Chúa, Chúa cũng tha thứ cho con. Cuộc đời con là những chuỗi ngày tội lỗi và phản bội tình yêu của Chúa. Nhưng Chúa đã tha thứ cho con từ khi con chưa có mặt trên đời này. Từ ngày con chưa sinh ra, tình yêu của Chúa đã lấp đầy trên con. Rồi từng ngày trong cuộc sống, tình yêu Chúa hằng ấp ủ con. Tấm lòng Chúa thật bao la vô bờ bến.
Hôm nay đây, khi đứng trước tấm lòng bao la ấy, đứng trước một tình yêu ngất trời như vậy, con chợt thấy lòng mình hẹp hòi nhỏ nhoi làm sao! Con hẹp hòi nhỏ nhoi với Chúa và với anh em con. Chúa đã tha thứ cho con tất cả. Vậy mà chúng con vẫn chưa biết tha thứ cho nhau, vẫn chấp nhất nhau trong từng lời nói, và từng việc làm nhỏ bé. Bao nhiêu cuộc chiến tranh khốc liệt, bao nhiêu sự đổ vỡ không hàn gắn được, tất cả đều xuất phát từ tấm lòng nhỏ nhen ích kỷ của chúng con. Xin Chúa tha thứ cho chúng con và giúp chúng con biết tha thứ cho nhau.
Chúa dạy con làm việc bác ái, con có thể làm được. Nhưng Chúa dạy con tha thứ cho anh em thì lạy Chúa, con thấy thật khó. Bởi vì khi cho đi tiền bạc của cải, con cho những cái ở ngoài con. Còn khi cho đi sự tha thứ, con phải lấy chính lòng con để trao tặng cho người khác. Có nghĩa là con chấp nhận để người khác cào cấu vào tim con. Xin Chúa ban ơn giúp sức để con biết tha thứ cho anh em con. Con tha thứ không những để được Chúa tha thứ, mà con muốn tha thứ, vì trước hết chính Chúa đã tha thứ cho con hết rồi. Xin cho con biết sống xứng đáng với lòng quảng đại của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu mỗi người trong chúng con không tha thứ cho anh em, thì Chúa Cha cũng không tha thứ cho chúng con”.
Suy Niệm 7: Tha đến đến bảy mươi lần bảy
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Văn hào Ernest Hemingway đã kể câu chuyện về một người cha và cậu con trai đang ở lứa tuổi thiếu niên. Mối quan hệ cha con của họ không được tốt đẹp và luôn căng thẳng. Cuối cùng, sau một trận cãi vã kịch liệt, cậu bé đùng đùng bỏ nhà ra đi.
Tuy giận dữ và đau lòng, nhưng người cha biết rằng con mình rất cần sự uốn nắn và dạy dỗ để trưởng thành. Vậy nên, ông đã bôn ba khắp nơi để tìm kiếm đứa con nổi loạn. Cuối cùng, khi tới Madrid, trong nỗ lực cuối cùng của mình, ông cho đăng một thông cáo trên báo: “Paco thương yêu, hãy đến gặp cha chiều mai trước cửa tòa soạn. Mọi tội lỗi đều được tha thứ. Cha yêu con. Cha của con”.
Chiều hôm đó, người cha đến tòa soạn thật sớm vì ông không muốn trễ giây phút nào để gặp đứa con thân yêu của mình. Và điều bất ngờ là, tới đó, ông đã gặp… 800 cậu bé tên Paco. Cả 800 cậu bé này đều đã bỏ nhà ra đi và đều đang mong đợi sẽ gặp được người cha rộng lượng của mình ở đó với vòng tay dang rộng yêu thương.
Suy Niệm
Sự khoan dung tha thứ là đỉnh cao của đức ái Kitô giáo mà Kinh Thánh đã dạy: Yêu thương tha thứ trước lỗi lầm của anh em: Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?”. Chúa Giêsu đáp: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy. Không phải một màlà bảy mươi lần bảy (x. Mt 18,21-22; Lc 23,34), nghĩa là luôn tha thứ. Chính Chúa Giêsu đã làm gương sống động của lòng thứ tha khi trên thập giá Ngài tha thứ cho những kẻ giết hại mình (x. Lc 23,34).
Trước lỗi lầm của anh em mà họ đã chân thành nhận lỗi. Như Chúa Giêsu dạy người môn đệ phải có lòng vị tha, tha thứ không chỉ quên đi những điều không phải nhưng sẵn sàng tái lập lại sự giao hảo giữa hai người.
Hơn nữa, sống tha thứ con giải thoát chính chúng ta khỏi những xiềng xích của cảm xúc giận hờn đè nặng, làm cho cuộc sống được thư thái tự do, sức khỏe, thăng tiến. Thiếu tha thứ, đời sống con người bị ảnh hưởng từ cá nhân đến đời sống cộng đồng. Vị tha để sự bình an tâm hồn và thân xác mỗi cá nhân được đơm hoa kết trái và chính hoa trái đó làm nên hạt giống gieo hòa bình cho quốc gia và thế giới.
Trong bình diện tâm linh, tương quan ơn cứu độ, sách Huấn Ca dạy: “Ngươi hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha” (Hc 28,2). Chúa Giêsu qua kinh Lạy Cha cũng dạy: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12; Lc 11,4). Tha nợ do đòi hỏi bó buộc của Thiên Chúa, Ngài tha nợ cho chúng ta như chúng ta biết đã tha thứ cho anh em. Đây không chỉ là một điều kiện mà còn là một thái độ chuẩn bị: Khi tha thứ cho anh em, chúng ta cũng ao ước được Chúa tha thứ rộng rãi cho mình. Người có tha thứ mới thật lòng muốn được tha thứ và mới đáng nhận được ơn tha thứ.
Lạy Chúa, con khẩn thiết xin ơn tha thứ, hãy cho con có sức mạnh, can đảm để con tha thứ cho anh em và chính con cũng được ơn thứ tha.
Ý lực sống: “Vì nhân ái nên lòng khoan dung độ lượng thứ tha là của bậc quân tử. Quân tử không tưởng, không nhớ lỗi lầm của người khác, mà chú trọng giáo hóa người lầm lỗi biết hối cải và nên người - quân tử vị tiểu nhân tức là người lầm lỗi là “quân tử chưa thành và sẽ thành” (Khổng Tử).
Suy Niệm 8: Hãy tha thứ cho nhau
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Hôm nay Đức Gêsu dạy ta về sự tha thứ. Dụ ngôn về sự tha thứ nhắm tới đời sống cộng đoàn. Quả vậy, trong đời sống chúng ta, vì tính tình xung khắc, nên đã gây ra nhiều điều phiền toái, chia rẽ, đố kỵ, thù oán... Nhưng nhờ sự tha thứ, đời sống chung lấy lại được hòa khí, bình an và hiệp nhất. Nhưng Đức Giêsu lưu ý chúng ta vài khía cạnh quan trọng:
-Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho chúng ta cho dù tội chúng ta xúc phạm đến Ngài rất nhiều. Ta không thể đền tội cho đủ nhưng Chúa vẫn tha vì Ngài “động lòng thương”.
- Nhưng chúng ta củng phải rộng lòng tha thứ cho anh chị em chúng ta. Nếu không thì Chúa sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài đối với chúng ta.
- Ngoài ra hãy khôn ngoan tha lỗi nhỏ cho anh em để Chúa sẽ tha thứ những lỗi lầm lớn của chúng ta đối với Chúa.
2. Tha thứ xem ra không phải là điều tự nhiên đối với con người. Phải trải qua một thời gian lâu dài, nhân loại mới nhận ra được ý nghĩa và sự cần thiết của tha thứ. Xã hội nguyên thủy không dung tha cho tội phạm của cá nhân.
Sách Khởi nguyên nói đến sự trừng phạt mạnh hơn 70 lần 7 lỗi phạm của con người. Sang đến sách Xuất hành, người ta thấy có một tiến bộ quan trọng khi luật Maisen đã ra luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, ít ra ở đây hình phạt cũng tương xứng với lỗi phạm. Sách Lêvi đi xa hơn, tuy không bắt buộc phải tha thứ, nhưng sách này nói đến tình liên đới giữa anh em với nhau và cấm không được nại đến việc tố tụng để giải quyết những tranh chấp giữa anh em với nhau. Như vậy, ít ra sự tha thứ cũng đã manh nha trong quan hệ ruột thịt (Mỗi ngày một tin vui).
3. Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng vĩ đại. Cốt lõi giáo huấn của Ngài là tình yêu, mà cao điểm là sự tha thứ. Chính Ngài đã tha thứ cho những kẻ giết Ngài. Vậy tha thứ bao nhiêu lần là tối đa, hay tha thứ bao nhiêu lần là không thể tha thứ được nữa? Xưa kia ông Phêrô cũng đã băn khoăn như thế và ông cho rằng chỉ tha thứ đến 7 lần là tối đa, vì như thế là đã vượt quá sự khuyến cáo của các luật sĩ đến bốn lần rồi: “Quá tam ba bận”. Nhưng Đức Giêsu bảo ông: Tha thứ thì không có giới hạn, không phải ba lần, bảy lần mà là bảy mươi lần bảy. Chúa không có ý bảo là 490 lần mà có nghĩa là phải tha thứ luôn luôn, phải tha thứ mãi mãi, bao lâu người ta còn xúc phạm đến mình thì còn phải tha thứ.
4. Chính Đức Giêsu đã làm gương sống động của lòng tha thứ khi trên Thập giá Ngài tha thứ cho nhưng kẻ giết hại mình. Vì vậy Đức Giêsu dạy môn đệ phải có lòng vị tha, tha thứ không chỉ quên đi những điều không phải nhưng sẵn sàng tái lập sự giao hòa giữ hai người.
Hơn nữa, sống tha thứ còn giải thoát chính chúng ta khỏi những xiềng xích của cảm xúc giận hờn đè nặng, làm cho cuộc sống được thư thái tự do, sức khỏe thăng tiến. Thiếu tha thứ, đời sống con người bị ảnh hưởng từ cá nhân đến đời sống cộng đồng. Vị tha để sự bình an tâm hồn và thân xác mỗi cá nhân được đơm hoa kết trái và chính hoa trái đó làm nên hạt giống gieo hòa bình cho quốc gia và thế giới.
5. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết: Nợ nần của chúng ta đối với Chúa hết sức lớn lao, đó là tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Chúa rất kinh khủng, và tự sức mình chúng ta không thể nào thanh toán nổi. Trong khi đó món nợ của anh em mắc với chúng ta chỉ là những lỗi lầm không đáng kể, thế mà chúng ta lại khắt khe với anh em: xin không tha, trả không nhận, rồi bực tức ngày đêm, để lòng hờn giận, tìm dịp báo thù, thật là quá tệ. Kết quả là chúng ta chẳng được Thiên Chúa tha thứ, vì chính chúng ta đã tự lên án mình, khi chúng ta không tha thứ cho người khác. Chúa cũng chẳng tha cho chúng ta.
6. Truyện: Gương Bà Coritanbun tha thứ.
Liền sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình Bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, đã đi khắp Âu châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.
Thế nhưng vào một Chúa nhật nọ, sau khi kêu gọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài Bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc. Đó là dung mạo của người lính đã hành hạ Bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí Bà.
Lúc đó người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt tay bà vừa nói: “Thưa Bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của Bà kêu gọi sự tha thứ. Xin Bà tha thứ cho tôi”. Bà Coritanbun như chết điếng người, vì trước đây Bà đã cầu nguyện và quyết tha thứ thật sự, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng im lặng, tay không thể nào bắt tay người đến xin Bà tha thứ.
Sau này vào năm 1971 khi kể lại biến cố ấy trong tập sách “Nơi ẩn trốn”, Bà đã cho biết “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó Bà đã hiểu rằng con người chỉ có thể tha thư cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và sự tha thứ của Chúa. (Món quà ngày Giáng Sinh).
Suy Niệm 9: Sự tha thứ của Thiên Chúa
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc Cựu Ước trích lời cầu xin của Adaria. Khi đó dân Do Thái đang bị lưu đày bên Babylon. Họ biết họ đang khổ sở là vì tội họ đã phạm trước kia. Adaria xin Chúa tha tội cho dân. Nhưng hiện nay trong hoàn cảnh bị lưu đày, dân chẳng có lễ vật dâng lên Chúa để đền tội như luật định, cho nên Adaria chỉ biết kêu xin đến tình thương của Chúa: “Lạy Chúa, vì lòng từ bi sung mãn của Chúa, xin làm những việc lạ lùng mà cứu thoát chúng tôi”.
2. Dụ ngôn trong bài trích Phúc Âm cũng nói đến sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng lưu ý vài khía cạnh quan trọng:
- Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ chúng ta cho dù tội chúng ta xúc phạm đến Ngài rất nhiều (như ông quan thiếu nợ ông vua một ngàn nén bạc). Ta không thể nào đền tội cho đủ (ông quan không có gì để trả chỉ biết nài xin. Và ông vua tha chỉ vì “động lòng thương”).
- Nhưng chúng ta cũng phải rộng lòng tha thứ cho anh chị em chúng ta. Nếu không thì Chúa sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài đối với chúng ta.
- Dụ ngôn còn khuyên ta chớ ngu dại vì không chịu tha cho anh chị em một trăm đồng bạc để không được Chúa tha cho ta mười ngàn nén bạc và còn phải “trao cho lý hình hành hạ cho đến khi trả hết nợ”.
B. Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Muốn tha thứ thì chỉ nên nghĩ đến tình chứ không nghĩ đến lý, cũng không tính theo lẽ công bằng. Để cầu xin ơn tha thứ cho dân, Adaria không dám kể đến những lễ vật dâng cho Chúa, mà chỉ dám nói ”Xin hãy đối xử với chúng con theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa”. Ông vua trong dụ ngôn mà bài trích Phúc Âm hôm nay nói đến, tha thứ cũng chỉ vì ”động lòng thương”.
2. Sau khi nói đến ông vua phạt người đầy tớ không chịu tha cho bạn mình, Chúa Giêsu kết luận ”Cha trên trời cũng sẽ đối xử với các con đúng như thế nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Ta đừng coi đây chỉ là một lời hăm dọa suông, mà hãy coi đây là một sự thật.
3. Một trong những việc cần làm ngay trong Mùa Chay là hãy duyệt lại những mối tương giao của mình với người khác. Nếu thấy có bất hoà, xung khắc hoặc nghịch với ai thì phải lo giải quyết cho xong.
4. Liền sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình Bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, đã đi khắp Âu châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.
Thế nhưng vào một Chúa Nhật nọ, sau khi kêu gọi mọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài Bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc. Đó là dung mạo của người lính đã hành hạ bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí Bà.
Lúc đó người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt tay bà vừa nói: “Thưa Bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của Bà kêu gọi sự tha thứ. Xin Bà tha thứ cho tôi”. Bà Coritanbun như chết điếng người, vì trước đây bà đã cầu nguyện và quyết tha thứ thật sự, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng lặng im, tay không thể nào bắt tay người đến xin bà tha thứ.
Sau này vào năm 1971 khi kể lại biến cố ấy trong tập sách “Nơi ẩn trốn”, bà đã cho biết “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó Bà đã hiểu rằng con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và sự tha thứ của Thiên Chúa. (Trích “Món quà giáng sinh”)
Suy Niệm 10: Chúa tha thứ, và chúng ta tha thứ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Các bản văn Phụng vụ hôm nay nói đến sự tha thứ của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ miễn là chúng ta cũng phải rộng lòng tha thứ cho anh chị em chúng ta. Nếu không thì Chúa sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài.
Vâng, muốn tha thứ thì chỉ nên nghĩ đến tình chứ không nên nghĩ đến lý, cũng không được tính theo lẽ công bằng. Để cầu xin ơn tha thứ cho dân, Adaria không dám kể đến những lễ vật dâng cho Chúa, mà chỉ dám nói: “Xin hãy đối xử với chúng con theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa”. Ông vua trong dụ ngôn Tin Mừng tha thứ cũng chỉ vì “động lòng thương”.
Sau khi nói đến việc ông vua phạt người đầy tớ không chịu tha cho bạn mình, Chúa Giêsu kết luận: “Cha trên trời cũng sẽ đối xử với các con đúng như thế nếu các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18,35). Ta đừng coi đây chỉ là một lời hăm dọa suông, mà hãy coi đây là một sự thật.
Như vậy, một trong những việc cần làm ngay trong Mùa Chay là hãy duyệt lại những mối tương giao của mình với người khác. Nếu thấy có bất hoà, xung khắc hoặc nghịch với ai thì phải lo giải quyết cho xong.
Đây là chứng từ của một tù nhân Đức Quốc Xã trong thời Đệ Nhị Thế Chiến.
Tác giả của câu chuyện tên là bà Anne Furish, người Tiệp Khắc. Vì bà đã lén lút săn sóc các thương binh, nên đã bị quân Đức Quốc Xã bắt giữ. Đây là chứng từ bà kể lại:
“Mỗi ngày, những người lính canh chỉ cho chúng tôi một mẩu bánh mì nhỏ có dính cả mạt cưa, cho nên nhiều người trong chúng tôi ăn vào đã mắc bệnh. Những khi nhận được bánh mì đã khô cứng không còn ăn được, thì chúng tôi vò lại để làm thành những hạt chuỗi. Ở đó, có một tên quản giáo đặc biệt hung ác. Nếu mỗi tuần hắn không giết được hai tù nhân thì hắn ta không ăn ngủ được. Tôi đã bị hắn đánh đập nhiều lần. Nhưng tôi vẫn hằng cầu xin Chúa cho tôi biết tha thứ cho hắn, bởi vì tôi biết rằng, nếu tôi không tha thứ, thì thù oán có thể đục khoét và trở thành độc dược phá hủy tâm hồn tôi. Tôi cầu xin Chúa cho tôi có thể nói với hắn thế này: “Tôi tha thứ cho anh và tôi thương yêu anh, bởi vì Đức Kitô đã chết cho tôi và anh trên cây Thập Giá”. Lần cuối cùng, khi hắn đánh đập tôi, tôi tưởng mình chết đến nơi, thế nhưng, Chúa đã dùng trận đòn ấy để nhận lời tôi.
Sau trận đòn, tên quản giáo đưa tôi về trại giam. Và lạ lùng thay, từ đó, hắn đến thăm tôi mỗi ngày. Hắn còn mang cả sữa tới và nhờ các tù binh khác dùng muỗng đút cho tôi uống nữa. Tôi bị hôn mê nhiều ngày và khi tỉnh dậy, tôi đã ngạc nhiên hết sức khi thấy tên quản giáo đang ngồi bên cạnh tôi. Lính tráng như họ vì sợ lây bệnh cho nên ít có khi nào họ đến trại giam. Hắn nói với tôi:
- Cô hãy nói cho tôi biết ai là bạn trai của cô?
Tôi hỏi lại hắn:
- Ông muốn nói gì?
Hắn giải thích:
- Người bạn trai tên là Giêsu của cô đó! Tôi muốn được nghe cô nói cho tôi biết về người đó!
Tôi hiểu rằng, Chúa đã cho tâm hồn sắt đá này trở nên dịu dàng. Tôi bắt đầu khóc vì sung sướng. Và từ lúc đó, tên quản giáo không bao giờ đánh đập tôi nữa. Mỗi ngày hắn đến thăm tôi và nghe tôi nói về Đức Giêsu, từ lúc Ngài sinh ra cho đến khi Ngài chết trên cây Thập Giá.
Một ngày nọ, tên quản giáo lại hỏi tôi:
- Cô có nghĩ rằng, Chúa của cô cũng yêu thương cả tôi nữa không? Cô có nghĩ rằng, Chúa đã tha thứ cho những gì tôi đã làm không?
Tôi nói với hắn ta:
- Dĩ nhiên Chúa yêu thương anh, cũng như chính Ngài đã ban ơn để anh đến hỏi tôi về điều đó.
Năm 1946, vào một đêm kia, người quản giáo ấy đến đánh thức tôi dậy. Ông ra hiệu cho tôi thinh lặng và đưa tôi lên một chiếc xe tải đậu gần đấy. Sau này tôi mới được biết là đúng lý ra, một người đàn bà khác đã được chọn để di chuyển trong chuyến xe đó, nhưng rồi bà ta lại qua đời trong chính đêm ấy, nên người quản giáo đã tráo tên tôi vào tên của người quá cố. Tôi đã được cứu sống trên chuyến đi này. Và cũng kể từ đó, tôi đã không gặp lại người quản giáo ấy nữa. Qua sự tha thứ, tôi cảm thấy mình được tự do để yêu mến người khác. Thêm vào đó, tôi còn cảm thấy mình dễ dàng thông cảm với thân phận con người hơn! Phải, nhờ sự tha thứ mà tôi đã trưởng thành hơn nhiều!
Biết đâu trong chúng ta đã có lần cưu mang trong mình những kỷ niệm oán thù. Xin Chúa tha thứ và ban cho chúng ta được tham dự vào sự sống Thần Linh, sự sống tuôn trào niềm yêu thương và sự cảm thông tha thứ của Ngài.
04/03 Đời sống đức tin thật.
- Viết bởi Lc 4, 24-30
Đời sống đức tin thật.
Thứ Hai tuần 3 Mùa Chay.
“Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi đâu”.
Lời Chúa: Lc 4, 24-30
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội đường rằng): “Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria”.
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Băng qua giữa họ mà đi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong Mùa Chay Giáo Hội cho chúng ta nghe
về kết cục khá bất ngờ và đau đớn của Đức Giêsu
khi Ngài trở về với hội đường của làng Nazareth thân quen.
Nơi đây Ngài gặp lại những người đồng hương.
Họ ngỡ ngàng trước những lời Ngài giảng.
Họ muốn Ngài làm những điều Ngài đã làm ở Caphácnaum (Lc 4, 23).
Nhưng Đức Giêsu đã đáp lại bằng câu tục ngữ:
“Không một ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê nhà của mình” (c. 24).
Đức Giêsu tự nhận mình là một ngôn sứ.
Như những ngôn sứ khác trong lịch sử Israel,
Ngài cũng không được đón nhận và tin tưởng bởi những người cùng quê.
Họ nghĩ mình đã quá biết Ngài, biết gia tộc, biết nghề nghiệp,
biết quá khứ từ ấu thơ đến lúc trưởng thành.
Chính cái biết ấy, đúng nhưng không đủ,
lại trở thành một chướng ngại cho việc họ nhận ra Ngài thật sự là ai.
“Ông này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4, 22).
Đúng Ngài là con ông Giuse, một người thợ mộc.
Đúng ngài là ông thợ mộc độc thân người làng Nazareth.
Giêsu Nazareth là tên được ghi trên thập tự,
Nazareth sẽ mãi mãi đi với tên Ngài để phân biệt ngài với những Giêsu khác.
Đức Giêsu chẳng bao giờ coi thường Nazareth, quê nhà của mình.
Ngài quen biết những khuôn mặt trong hội đường này và yêu mến họ.
Nhưng sứ mạng của Ngài trải rộng hơn Nazareth nhiều.
Ngài cho thấy mình không bị trói buộc bởi mối dây làng xã,
cũng không bị giữ chân bởi những người đồng bào cùng tôn giáo.
Để biện minh cho thái độ rộng mở của mình,
Đức Giêsu đã nhắc đến hành động của hai vị ngôn sứ thời Cựu Ước.
Êlia, vị ngôn sứ đầy quyền năng, được Thiên Chúa sai đến với một bà góa.
Bà này là một người dân ngoại sống ở Siđôn vùng dân ngoại.
Êlisa, vị ngôn sứ học trò của Êlia, đã chữa bệnh phong cho Naaman.
Ông này là người dân ngoại, chỉ huy đạo quân của Syria.
Như thế các vị ngôn sứ nổi tiếng đã không bị bó hẹp trong dân Do thái.
Họ đã mở ra với dân ngoại.
Đức Giêsu cũng chẳng bị giới hạn bởi bất cứ biên cương nào.
Ngài chẳng dành cho quê nhà Nazareth một ưu tiên nào.
Phải chăng vì thế mà Ngài làm họ phẫn nộ đến độ muốn xô Ngài xuống vực?
Nỗi đe dọa lại đến từ chính những người đồng hương.
Làm sao chúng ta nhận ra và chấp nhận những ngôn sứ bề ngoài rất bình thường
đang sống trong cộng đoàn chúng ta hôm nay?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
Suy Niệm 2: Đức tin trong đời thường
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đức tin là ánh sáng giúp ta nhìn thấy những gì mắt thường không thấy hay khó thấy.
Mắt thường chỉ nhìn những gì lớn lao. Mắt đức tin nhìn những gì bé nhỏ. Chúa Giêsu dạy ta hãy biết nhìn những gì bé nhỏ. Như cánh chim sẻ trên bầu trời. Như bông hoa huệ ngoài đồng. Bé nhỏ nhưng lại tuyệt vời nói lên sự quan phong của Chúa Cha.
Mắt thường chỉ nhìn những gì may mắn. Mắt đức tin mới biết nhìn những gì thiệt thòi. Bá góa Sa-rép-ta đã tin nên dám chấp nhận thiệt thòi. Vì tin tiên tri Ê-li-a nên bà đã dám làm bánh cho vị tiên tri ăn trước. Đây là việc làm nhỏ nhoi nhưng đức tin thật lớn. Dám đánh cuộc cả mạng sống mình.
Mắt thường chỉ nhìn những gì lạ lùng. Mắt đức tin biết nhìn những gì quen thuộc bình thường trong đời sống. Người ta dễ thần tượng những người xa lạ. Người có đức tin thật sẽ biết thấy Chúa trong những gì quen thuộc bình thường trong đời sống hằng ngày. Dân làng Na-za-reth không tin Chúa Giê-su vì biết rõ gốc gác tầm thường của Người.
Tướng Na-a-man đã có đức tin. Dám tin người giúp việc cho mình. Đức tin hành động cụ thể. Nên ông không ngại đường xa, mang theo cả lễ vật lớn lao để ra mắt vị tiên tri. Và nhất là ông đã chấp nhận những việc tầm thường. Đó là tắm dưới sông 7 lần.
Mắt thường không thấy Chúa đâu. Mắt đức tin thấy Chúa trong mọi sự. Ga-ga-rin, khi lên mặt trăng, đã tuyên bố: “Tôi không thấy Thiên Chúa đâu cả”. Trái lại Amstrong, người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng, đã đọc kinh Lạy Cha để cảm tạ Chúa. Newton, nhà thiên văn học lừng lẫy, khi quan sát bầu trời đầy sao đã thốt lên: Tôi thấy Chúa đi qua viễn vọng kính của tôi.
Có lẽ chúng ta từng kỳ vọng được có đức tin lớn lao như dám chịu tử đạo, đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi… Nhưng hôm nay Lời Chúa mời gọi tôi hãy có đức tin trong đời thường để nhìn thấy Chúa trong mọi sự và trong mọi người, trong những sự bé nhỏ, những con người tầm thường, trong những khó khăn thử thách ta gặp phải, những thất bại cay chua, những thiệt thòi đau xót. Đó mới là đức tin thật.
Suy Niệm 3: Đời sống đức tin thật.
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong cuốn phim Mỹ do tài tử Marcel Marso thủ diễn có kể câu chuyện sau:
Một thanh niên đang lim dim đôi mắt tận hưởng ánh nắng tuyệt vời vào một ngày đẹp trời. Nhưng bỗng nhiên niềm vui của anh bị quấy rầy do tiếng ồn ào của đám trẻ, tiếng chó sủa, tiếng chim hót, tiếng người qua lại. Mỗi tiếng động đều có nguyên do và niềm vui riêng của nó, nhưng đối với chàng, tất cả đều trở thành cực hình. Để chống lại sự phiền nhiễu ấy, anh xây quanh mình một bức tường ngăn cách âm thanh. Mỗi tiếng động vọng tới là mỗi lần anh gắng sức xây. Cứ như thế bức tường lớn cao dần, cho đến lúc ngăn cản được hết mọi tiếng động, thì bức tường cũng che mất ánh nắng tuyệt vời, bức tường trở thành chiếc mộ khổng lồ giam hãm anh trong đó.
Dân Do Thái cũng đã được tắm gội ánh sáng. Đó là niềm tin được trao ban từ Tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn, ích kỷ, họ đã hành động chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Không chịu mở lòng đón nhận khiến niềm tin của họ trở nên khô cằn mất sức sống. Xây lên bức tường để bảo vệ mình hoá ra lại tự hại chính mình.
Chúa Giêsu đã chỉ trích thái độ đó trong bài Tin mừng hôm nay. Người Do Thái trong Hội đường Nazaret đã tìm cách hãm hại Chúa Giêsu khi Ngài lên tiếng chê trách niềm tin của họ. Có lẽ ai trong chúng ta cũng bất bình về việc làm của nhóm người này, nhưng kỳ thực nhiều khi trong cuộc sống chúng ta đã sao chép nguyên bản việc làm ấy. Tự hào là Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin nhưng niềm tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất nhựa sống chờ ngày gẫy đổ. Đó là thứ niềm tin mà tác giả cuốn sách “Đường Hy Vọng” đã nhắc nhở: “Nhiều người nói tôi có đức tin, tôi còn đức tin, có lẽ đức tin của giấy khai sinh, không phải đức tin của đời sống. Ít người sống theo đức tin. Đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin lý thuyết, hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thực, thiết ái, trung thành”.
Tự mãn với chính mình mà không chịu mở lòng đón nhận khiến người Do Thái đã mất đi Chúa Giêsu –nền tảng của niềm tin. Cũng vậy, nếu Kitô hữu chỉ đóng khung trong một nghi thức, luật lệ, thì sớm muộn gì họ cũng xa cội nguồn sự sống, vì sống là gì nếu không phải là một luân lưu trao đổi. Con người sẽ chết khi hệ tuần hoà không lưu chuyển, hệ thần kinh không vận động. Đời sống đức tin cũng đòi hỏi một sự luân lưu trao đổi với Thiên Chúa và với anh em.
Đối với người Kitô hữu, tin trước hết là chấp nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương, Chúa không phải là Đấng bắt con người ta phải kính mến, nói đúng hơn Thiên Chúa là Đấng mà con người phải để cho Ngài yêu thương vô hạn. Tin là chấp nhận Đức Kitô và quyết tâm sống chết cho Ngài.
Trong Mùa Chay này, xin cho chúng ta biết trở về, trở về trước hết trên căn bản của một đức tin không co cụm trong lý thuyết, trong nghi lễ, nhưng là biết mở rộng lòng đón nhận để tìm được ý nghĩa đích thực của đời sống đức tin.
Suy Niệm 4: Không một tiên tri nào
Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. (Lc. 4, 24)
Lại thêm một lần đòi dấu lạ. Con người nổi dậy chống Thiên Chúa, họ đòi Ngài phải chứng tỏ sứ vụ tiên tri của Ngài bằng cách làm hài lòng và thỏa mãn họ. Nhưng Thiên Chúa phải cúi phục trước con người sao? Thiên Chúa ban ơn cứu độ, nhưng Ngài chỉ ban cho kẻ tin kính vâng lời Ngài, cho kẻ trông chờ trong kiên nhẫn âm thầm. Ngài đòi có đức tin, vâng lời nhận lãnh biết ơn đối với tất cả tâm tình của họ.
Dân làng Na-gia-rét không nhận biết Đức Giê-su, vì họ phán đoán hoàn toàn theo sở thích loài người. Đức Giê-su là ngôn sứ, Người hành động theo sứ mạng Thiên Chúa.
Không phải những đòi hỏi của người trần ấn định cho hành động của các ngôn sứ, của Đức Ki-tô, các ngài không hành động vì lợi riêng cho mình. Các ngài chỉ hành động theo ý Thiên Chúa. Ngôn sứ không được hành động theo quyết định bản thân mình, nhưng luôn luôn theo quyết định của Thiên Chúa, Đấng đã sai mình.
Thiên Chúa quyết định cho hai ngôn sứ: Ê-li-a và Ê-li-sê đến làm phép lạ cứu giúp những người lương dân, chứ không cứu người đồng hương. Đức Giê-su không hoàn toàn đến thực hiện ơn cứu độ cao cả cho quê hương mình, Người phải đi cứu độ những người dân xa lạ. Thiên Chúa dành cho mình có quyền tự do phân phát ơn cứu độ.
Không ai có thể đòi quyền được ơn cứu độ. Quả thật như vậy, không ai được phép đòi có quyền đó, phải tin ơn cứu độ mình được là nhưng không. Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su rao giảng và thực hiện ơn cứu độ cho những người Thiên Chúa yêu thương. Ơn cứu độ là một ân huệ chứ không do công lao mình làm. Nhưng đó là ân huệ chúng ta được quyền hưởng vì Đức Giê-su đã chết cho chúng ta, và chúng ta phải sống hoàn toàn theo ý Cha của Người, đó là điều kiện căn bản, còn chúng ta vẫn có tự do đón nhận hay từ chối ơn cứu độ.
Nhờ Đức Giê-su, Thiên Chúa đến viếng thăm dân Ngài và ban các ân huệ dồi dào, xưa kia Ngài cũng ban cho dân như vậy qua các ngôn sứ, số phận các ngôn sứ thế nào thì số phận Đức Giê-su cũng vậy.
J.M
Suy Niệm 5: Không chừng sẽ mất ơn cứu độ vì kiêu ngạo
Quê hương đã trở nên máu thịt cho mỗi người. Nó chẳng khác gì tâm tư của nhà thơ Chế Lan Viên: “Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở, khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.
Với nhà thơ Đỗ Trung Quân thì: “Quê hương là chùm khế ngọt, nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”. Vì thế, trong dân gian, người ta không ngớt khen ngợi quê hương và tự hào: “Không nơi đâu đẹp bằng quê hương mình”; hay để nói về tình nghĩa quê hương, người ta cũng thường nhắc nhở nhau: “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.
Những tâm tình ấy cho chúng ta thấy một điều là: nơi mà mình đã từng chôn nhau cắt rốn sẽ theo ta suốt cuộc đời, và dù có đi muôn phương ngàn lối, nhưng ai cũng chỉ có một chốn để về, đó là quê hương.
Có lẽ mang trong mình tâm tình ấy, nên Đức Giêsu cũng đã trở về quê hương của Ngài, nhưng điều oái oăm thay, dân làng đã không đón nhận Ngài, ngược lại, họ tìm cách để hãm hại Ngài. Vì thế, Đức Giêsu đã nói một câu bất hủ mang tính tiên tri: “Không tiên tri nào được sùng mộ nơi quê hương”.
Thật thế, người đương thời với Đức Giêsu, họ không thể chấp nhận một con người bình dân học vụ như thế mà lại là Đấng Cứu Thế! Dưới mắt họ, Ngài chỉ là con của ông thợ mộc Giuse và bà Maria, bản thân Ngài không hơn không kém một thanh niên như mọi thanh niên khác trong làng.
Chính sự coi thường, khinh khi, nên lòng họ ra chai cứng, không còn khiêm nhường, nhạy bén để nhận ra Đấng Uy Quyền, là Chúa Tể trời đất đang ở giữa họ, vì thế, họ đã khước từ chân tính đích thực của Đức Giêsu. Thấy vậy, Đức Giêsu mặc khải cho họ biết: họ sẽ không được bằng dân ngoại, và ơn cứu độ lẽ ra đến với họ trước tiên và phong phú, nhưng khi đã từ chối thì ơn đó sẽ đến với dân ngoại.
Xuyên suốt câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta thấy, người Dothái "thích sự thật khi sự thật tán tụng họ, nhưng họ căm ghét sự thật khi sự thật lên án họ" (thánh Augutstinô).
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết khiêm tốn nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến ơn cứu độ. Cần tránh thói hư là: “Gần Chùa gọi Bụt bằng anh”; hay “bụt nhà không thiêng”. Hãy biết tôn trọng anh chị em mình trong sự thật, đừng vì ghen ghét, hiềm khích hay sợ người anh em trổi trang hơn mình mà ra tay làm hại hay nói năng những lời nguy hại đến thanh danh tiếng tốt của họ! Làm như thế, ấy là chúng ta đang đi vào vết xe đổ của những người đồng hương với Đức Giêsu, và như một lẽ tất yếu, chúng ta sẽ mất ơn cứu độ vì không thuộc về Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết tôn trọng và yêu mến mọi người. Nhất là những người cùng sống và làm việc trên quê hương với chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Đồng hương Nadarét không đón nhận Chúa Giêsu
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã gặp chống đối ngay tại quê hương, nơi những người thân không chấp nhận đường lối và cách thức Chúa thể hiện sứ mạng cứu độ. Chúng ta đừng bao giờ khước từ hoặc chống lại Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chỉ người nào có đức tin mới hiểu được đường lối của Chúa. Và chỉ kẻ nào có lòng yêu mến mới đón nhận được tình thương của Chúa. Chúa ơi, chắc chắn Chúa rất đau lòng khi đứng trước thái độ của người đồng hương. Họ không đón nhận, không nghe những lời Chúa giảng dạy, không muốn sự có mặt của Chúa. Họ đã đuổi Chúa ra khỏi hội đường, ra khỏi thành, nhẫn tâm đưa Chúa lên triền núi để xô xuống vực thẳm.
Lạy Chúa, con thấy hình ảnh đó vẫn diễn ra hằng ngày trong bối cảnh thế giới hôm nay, trong tầng lớp Kitô hữu là những người thân thuộc của Chúa. Chúa đang bị từ chối nơi biết bao người nghèo hèn, nơi những kẻ bị bỏ rơi, nơi những quốc gia đang bị kỳ thị chủng tộc, phân biệt giàu nghèo, hận thù dai dẳng.
Chính con cũng bao lần từ chối Chúa khi con từ chối giúp đỡ anh em. Con đã đẩy Chúa ra khỏi tâm hồn khi con ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, khi con không chịu hồi tâm, không chịu ăn năn sám hối để trở về với Chúa. Con cũng đã không đón nhận Chúa khi con không chấp nhận Ý Chúa mà chỉ muốn Chúa đáp ứng lời con cầu nguyện theo ý con.
Lạy Chúa, xin tha thứ những lỗi lầm của con và xin cho con luôn mở rộng tâm hồn để đón tiếp Chúa. Xin ban cho con một trái tim yêu thương biết đón nhận Chúa nơi anh em, để trong từng giây từng phút của ngày sống, trong từng công việc dù nhỏ bé, mọn hèn, con đều có Chúa hiện diện bên con. Amen.
Ghi nhớ: “Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi đâu”.
Suy Niệm 7: Vượt thẳng định kiến, để sống yêu thương
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một du khách mới đi Trung Hoa về báo cáo rằng giới trí thức Trung Hoa tuyên bố: “Không, việc truyền giáo của quý vị không bám rễ vào đất nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyền giáo của quý vị mới đến chưa hiểu gì đã tuyên bố đạo của chúng tôi là sai lạc”. Và một người Á đông khác cũng nói: “Các ông muốn chúng tôi bỏ những gì mà chúng tôi tin và chấp nhận những gì mà các ông tin”. Đi truyền giáo mà có định kiến thì thà ở nhà còn hơn.
Suy Niệm
Dân làng Nadarét đã nghe về những điều Chúa Giêsu đã giảng và làm cho toàn dân, nay trực tiếp nghe những lời giảng dạy của Ngài, dân làng Nadarét ngưỡng mộ nhưng lòng mang nặng định kiến trong ghen tị như thánh Giêrônimô nhận định: “Sự đố kỵ ghen tỵ là phổ biến giữa các cư dân cùng một quê hương. Họ nhớ lại thời thơ ấu của Người mà họ xử sự ngay cả khi họ không có kinh nghiệm cho chính họ khi bằng tuổi này”.
Dân làng Nadarét, theo cắt nghĩa của thánh Phêrô Kim Khẩu: “Ngưỡng mộ trí tuệ sự khôn ngoan, những việc làm và lời gỉảng dạy của Đức Giêsu, nhưng họ biết cha mẹ của Ngài, và sự gần gũi này ngăn cản họ nhìn nhận thiên tính của Ngài. Một đám mây dày trước mặt trời, đêm đen không mang lại nhiều đêm tối trên bầu trời bằng sự đố kị ghen ghét trong tâm hồn”.
Chúa Giêsu đã trả lời thái độ của họ: “Không có ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê hương mình” Những kẻ quá quen thuộc với những bậc vĩ nhân thường không thể nhận biết được sự vĩ đại của vĩ nhân vì “quen quá hóa lờn” như thành ngữ có câu: “ Bụt nhà không thiêng”.
Chúa Giêsu qua hai sự kiện trong Cựu ước nói đến thái độ không tin cố chấp của người đồng hương. Họ biết rõ về Ngài hơn hết, vì định kiến ganh ghét nên họ không tin vào Ngài, cho nên chính họ không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi dành cho tất cả những người tin và đón nhận dù là người ngoại bang. Ngài tự so sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp bà góa Sarépta thuộc xứ Siđôn dân ngoại (1V 17,10-15), vì bà đã tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu và chống đối ông. Rồi Naaman người Syria vì tin, đến với tiên tri Êlisê và được chữa lành khỏi bệnh cùi (2V 5,1-19), còn những người đồng quê với tiên tri lại cứng lòng tin.
Dân làng Nadarét dù đã được cảnh báo, nhưng tâm trí của họ vẫn không thức tỉnh, không thoát khỏi định kiến “đồng hương” mà trái lại cao trào định kiến bằng giận dữ dẫn tới toan tính loại trừ Ngài khi đưa Ngài lên núi cao mà xô xuống vực thẳm. Và cuộc sống của mọi người chúng ta cũng đã từng ít nhiều mang định kiến dẫn đến sự loại trừ nhau... mang con tim hận thù.
Giải phóng mọi định kiến trong ghen ghét để được tự do trong suy nghĩ và phán đoán, để thoát khỏi bị những hành động loại trừ nhau như một thứ nô lệ hiện hữu trong tim. Hình ảnh Chúa Giêsu băng qua giữa họ mà đi (x. Lc 4,30), là hình ảnh gợi trong tâm trí của chúng ta cố gắng vượt thẳng mọi định kiến, loại bỏ mọi sự loại trừ để đi trong yêu thương.
Ý lực sống: “Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu”... (1Cr 13,4-5).
Suy Niệm 8: Chúa bị quê hương từ chối
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu trở về quê hương, vào hội đường Nagarét ngày thứ bảy. Người ta trao cho Ngài sách tiên tri, để Ngài đọc và giải thích. Lúc đầu họ cảm phục tài hùng biện và dáng vẻ thuyết phục của Ngài. Nhưng sau, họ bực tức, vì thấy Ngài ưa thích Capharnaum, nơi dân ngoại nhiều hơn quê mình. Trước thái độ đó, Đức Giêsu tỏ bày cho dân làng biết sứ vụ thiên sai của Ngài.
Đồng thời Chúa cũng cho họ biết rằng Ngài không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng nhận ơn Ngài.
2. “Tôi bảo thật các ông...”
Đức Giêsu dựa vào câu ngạn ngữ này để diễn tả thân phận của Ngài tại quê hương:
- Gần chùa gọi bụt bằng anh.
- Bụt nhà không thiêng
- Quen quá hoa nhàm.
Thật vậy, những người đồng hương trong làng Nagiarét tưởng rằng, họ đã biết rõ Ngài: gốc gác, lý lịch; người đã từng chung sống, đọc kinh cầu nguyện chung từ tấm bé. Nên họ chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài, mà không thấy được Thiên tính của Ngài để tin vào Ngài.
3. “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay...”
Để dẫn chứng cho ý nghĩa cho câu ngạn ngữ trên đây, Đức Giêsu đã trưng ra hai sự kiện có tính lịch sử, để hiểu:
- Tiên tri Êlia đã không được sai đến để cứu đói cho bà góa nào trong dân Israel, ngược lại, cứu đói cho bà góa thành Sarepta miền Siđon là dân ngoại.
- Tiên tri Êlisê cũng không được sai đến chữa lành bệnh phong cho người nào trong dân Israel, nhưng lại được sai đến chữa trị cho Naaman, người Syria, cũng là dân ngoại.
Hai sự kiện trên muốn nêu lên rằng: các tiên tri tuy thuộc dân Israel, nhưng không được dân mình thiện cảm, lại được thiện cảm nơi dân ngoại, vì thế, dân ngoại được hưởng nhờ. Cũng vậy, Đức Giêsu không được thiện cảm nơi người đồng hương, vì họ đòi hỏi hơn là đón nhận Người. Còn dân ngoại ở Capharnaum tin nhận Ngài, nên được hưởng nhờ ân sủng qua các phép lạ Ngài làm.
4. “Ơn cứu độ được dành cho mọi người”.
Qua sự kiện của tiên tri Êlia và Êlisê, chúng ta nhận ra rằng: Điều kiện để được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa, là đức tin và ý hướng tốt lành. Vì vậy, dù là Israel hay dân ngoại, nếu biết tin nhận vào Đức Giêsu, và có ý hướng tốt lành thì đều được hưởng ơn cứu độ.
Qua hai sự kiện trong Cựu ước, Đức Giêsu nói đến thái độ không tin cố chấp của người đồng hương. Họ biết rõ về Ngài hơn hết, vì định kiến ganh ghét nên họ không tin vào Ngài, cho nên chính họ không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi dành cho tất cả những người tin và đón nhận dù là người ngoại bang. Ngài tự so sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp bà góa Sarépta thuộc xứ Siđon dân ngoại, vì bà tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu và chống đối ông. Rồi Naaman người Syria vì tin, đến với tiên tri Êlisê và được chữa lành khỏi bệnh cùi, còn những người đồng quê với tiên tri lại càng cứng lóng tin.
5. Hãy tránh thành kiến cố hữu.
Dân làng Nazareth dù đã được cảnh báo, nhưng tâm trí của họ vẫn không thức tỉnh, không thoát khỏi định kiến “đồng hương” và trái lại cao trào định kiến bằng giận dữ dẫn tới toan tính loại trừ Ngài khi đưa Ngài lên núi cao mà xô vào vực thẳm. Và cuộc sống của mọi người chúng ta cũng đã từng ít nhiều mang định kiến dẫn đến sự loại trừ nhau... mang con tim hận thù.
Như chúng ta đã biết, Thành kiến hay định kiến là ý kiến đã có lâu không thể thay đổi được. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người không ai thoát khỏi: “Bụt nhà không thiêng”. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm do người này thì có giá trị, do người kia thì lại vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở vô cùng.
6. Truyện: Sư huynh hỗn xược.
Ở Canađa, trong tỉnh Québec, một sư huynh dòng Thiện giáo (Frères de l’Enseignement chrétien) giáo viên trường trung học Alma, vừa xuất bản một cuốn sách bàn về đường lối giáo dục, nhan đề “Những sự hỗn xược của một sư huynh” (Les Insolences du Frère Un Tel). Tác giả đã khéo áp dụng một lối văn châm biếm, trào phúng nhí nhảnh, làm cho quyển sách được đệ nhất ăn khách trong năm. Chỉ trong vòng một tháng trời thôi, sách đã bán ra được một số kỷ lục là 30.000 cuốn.
Một hôm trường đại học Công giáo Montréal bỗng nhộn nhịp hẳn lên như đàn ong vỡ tổ: Sư huynh Pierre Jérome, tác giả cuốn sách “Những sự hỗn xược” nói trên, sắp đến viếng trường. Toàn thể nhà trường náo động lên. Từ viện trưởng, các giáo sư, các sinh viên, cho đến anh gác cổng, đều hăng say phấn khởi tổ chức cuộc tiếp rước.
Đức thượng khách đã từ từ tiến vào khung cảnh văn vật của trường đại học, giữa một cuộc khải hoàn trọng thể vĩ đại. Sau đó, Sư huynh đã lộng lẫy ung dung bước lên diễn đàn ngỏ lời cùng 650 giáo sư và sinh viên.
Diễn giả đã thao thao bất tuyệt một thôi, lả lướt như rồng bay phượng múa, như hoa nở suối reo. Những tràng pháo tay nổ vang lên liên tiếp, liên tiếp, chứng tỏ các thính giả được kích thích đến tột độ. Cả trường đại học Montréal hôm đó như rượu nếp lên men. Trong lịch sử trường đã bao giờ có sự phấn khởi nô nức như lần này chưa? Tác giả “Những sự hỗn xược” sao mà huy hoàng trác tuyệt đến thế?
... Nhưng sáng ngày hôm sau, họ đã phải một phen hú vía, tưởng chừng hồn lìa khỏi xác. Có người đến tiết lộ rằng sư huynh Pierre Jérome hôm qua chỉ là một sư huynh... thứ giả! Chàng là một sinh viên quèn của trường Kịch nghệ, cải trang trong bộ áo dòng và cổ trắng của các Sư huynh... để thực tập một phen!
Cả trường uất lên, tưởng ai nấy hộc máu chết tươi tại chỗ trước “sự hỗn xược của một Sư huynh” chưa từng thấy này.
Thế mới hay sức ám thị của những người có tên tuổi mảnh liệt đến chừng nào (Vũ Minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 337-339).
Suy Niệm 9: Chúa không thiên vị nhưng yêu thương tất cả mọi người
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc I kể chuyện ngôn sứ Êlisê chữa bệnh cùi cho Naaman một người ngoại đạo.
2. Bài Tin Mừng cũng nhắc lại câu chuyện trên và còn nhắc thêm chuyện ngôn sứ Êlia giúp cho một bà góa - cũng ngoại đạo- ở xứ Sarépta khỏi đói trong thời kỳ hạn hán.
3. Như thế, Lời Chúa hôm nay muốn nói rằng Chúa không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng lãnh nhận ơn Ngài.
B. Suy Niệm (...nẩy mầm)
1. Vì kiêu căng, ban đầu, tướng Naaman không chịu đến với một ngôn sứ xứ Israel nhỏ bé. Cũng vì kiêu căng, ông không chịu đi tắm ở sông Giođan nhỏ bé. Nhưng sau đó, nhờ khiêm tốn nghe theo lời khuyên của những người đầy tớ nên ông đã chịu đến với Êlisê và đã được khỏi bệnh cùi. Câu chuyện này cho thấy nét tương phản rõ rệt và hậu quả khác nhau giữa kiêu căng và khiêm tốn.
2. Đối với những người đồng hương ở Nadarét, Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị. Ưu ái và thiên vị khác nhau. Vì ưu ái họ nên Chúa chọn Nadarét làm nơi Ngài công bố chương trình cứu độ của Ngài, vì ưu ái họ nên Chúa muốn ban cho họ ơn lớn nhất là đức tin. Nhưng Chúa không thiên vị: nếu họ không tin thì Ngài không làm phép lạ cho họ.
3. Có lẽ mãi đến thời nay nhiều người vẫn còn nghĩ cách hẹp hòi là Thiên Chúa chỉ thương những người “có đạo”, còn “kẻ ngoại” thì bị bỏ ra rìa. Thực ra Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Ngày nay vẫn có những người như bà góa xứ Sarépta và tướng quân Naaman được Chúa thương đến. Còn những người có đạo cũng có thể giống như dân làng Nadarét, bị “Chúa tiến qua giữa họ mà bỏ đi”.
4. Kết thúc không đẹp của câu chuyện Tin Mừng hôm nay là do những người làng Nadarét có thái độ chỉ muốn thu vào mà không biết mở ra. Nói rõ hơn: họ chỉ chờ được ban ơn, không biết mở rộng cõi lòng để tin Chúa Giêsu, cũng không nghĩ đến dân ngoại đàng cần ơn cứu độ.
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Bài đọc I kể chuyện tiên tri Êlisê chữa bệnh cùi cho ông Naaman, một người ngoại đạo.
Bài Tin Mừng cũng nhắc lại câu chuyện trên và còn nhắc thêm chuyện tiên tri Êlia giúp cho một bà góa - cũng ngoại đạo - ở xứ Sarepta khỏi đói trong thời kỳ hạn hán.
Như thế, Lời Chúa hôm nay muốn nói rằng, Chúa không thiên vị ai. Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù là người ngoại nhưng nếu họ tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng lại không tin thật thì không đáng lãnh nhận ơn Ngài.
Chúng ta thấy ban đầu vì kiêu căng, tướng Naaman đã không chịu đến với một tiên tri xứ Israel nhỏ bé. Cũng vì kiêu căng, ông đã không chịu đi tắm ở sông Giodan mà ông cho là quá nhỏ và thua kém xa những con sông trong nước của ông. Thế nhưng, sau đó, nhờ khiêm tốn nghe theo lời khuyên của những người đầy tớ nên ông đã chịu đến với Êlisê, làm theo lời chỉ dạy của Êlisê mà ông đã được khỏi bệnh cùi. Câu chuyện này cho thấy những nét tương phản rõ rệt và hậu quả khác nhau giữa kiêu căng và khiêm tốn.
Đối với những người đồng hương ở Nazareth, Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị. Ưu ái và thiên vị khác nhau. Vì ưu ái họ nên Chúa đã chọn Nazareth làm nơi Ngài công bố chương trình cứu độ của Ngài, vì ưu ái họ nên Chúa muốn ban cho họ ơn lớn nhất là ơn đức tin. Nhưng Chúa không thiên vị: vì họ không tin nên Ngài không làm phép lạ cho họ.
2. Có lẽ ngày nay nhiều người cũng vẫn còn nghĩ một cách hẹp hòi là Thiên Chúa chỉ thương những người “có đạo”, còn “kẻ ngoại đạo” thì bị bỏ ra rìa. Thực ra, Thiên Chúa là Chúa của tất cả mọi người. Ngày nay, chẳng thiếu gì những người như bà góa xứ Sarepta và tướng quân Naaman được Chúa thương. Còn những người có đạo tự hào mình là người có đạo, coi chừng lại bị “Chúa tiến qua giữa họ mà bỏ đi” (Lc 4,30) giống như ở làng Nazareth thuở xưa.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay kết thúc không có hậu, không phải vì Chúa muốn như thế, nhưng là do thái độ của những người làng Nazareth chỉ muốn thu vào mà không biết mở ra. Nói rõ hơn: họ chỉ muốn được ban ơn, mà không biết mở rộng cõi lòng ra để tin Chúa Giêsu, cũng không nghĩ đến dân ngoại đang cần ơn cứu độ bên cạnh mình.
Trong một cuốn phim Mỹ do tài tử Marcel Marso thủ diễn, có diễn lại câu chuyện sau: một thanh niên đang lim dim đôi mắt để tận hưởng những ánh nắng tuyệt vời vào một ngày đẹp trời. Bỗng nhiên niềm vui của anh bị quấy rầy do những tiếng ồn ào của đám trẻ. Tiếng chó sủa, tiếng chim hót, tiếng người qua lại, mỗi tiếng động đều có nguyên do và niềm vui riêng của nó, nhưng đối với chàng, tất cả đều trở thành cực hình. Để chống lại sự phiền nhiễu ấy, anh xây quanh mình một bức tường cách âm để ngăn chặn các âm thanh. Mỗi tiếng động vọng tới là mỗi lần anh gắng sức xây. Cứ như thế bức tường lớn dần, cao dần, cho đến lúc ngăn cản được hết mọi tiếng động lúc đó anh mới bằng lòng. Thế nhưng, anh có ngờ đâu rằng, khi ngăn chặn được hết các âm thanh thì lúc đó bức tường cũng che mất hết ánh nắng tuyệt vời. Bức tường đã trở thành chiếc mộ khổng lồ giam hãm anh trong đó.
Dân Do Thái cũng đã được tắm gội trong ánh sáng. Đó là niềm tin được trao ban từ tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn, ích kỷ, họ đã hành động chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Họ tưởng đã xây lên được bức tường để bảo vệ niềm tin của mình nhưng hóa ra lại tự hại chính mình.
Nhiều khi chúng ta tự hào là Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin, nhưng rồi với một mớ lễ nghi hình thức, niềm tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất hết nhựa sống chờ ngày gãy đổ. Đó là thứ niềm tin được chứng minh bằng tấm giấy rửa tội, chứ không phải đức tin của đời sống.
Nếu chỉ đóng khung trong một số nghi thức, luật lệ, thì sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ xa rời cội nguồn sự sống, vì sống là gì nếu không phải là một luân lưu trao đổi. Con người sẽ chết khi hệ tuần hoàn không lưu chuyển, hệ thần kinh không vận động. Đời sống đức tin cũng đòi hỏi một sự luân lưu trao đổi với Thiên Chúa và với anh em như vậy.
Trong Mùa Chay này, xin cho chúng ta biết trở về, trở về trước hết trên căn bản của một đức tin không co cụm trong lý thuyết, trong nghi lễ, nhưng là biết mở rộng lòng để đón nhận được ý nghĩa đích thực của đời sống đức tin.
Lạy Chúa,
Xin cho con một quả tim quảng đại như Chúa
vượt lên mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con một quả tim đủ lớn
để yêu những người con không ưa.
và đôi tay rộng mở
để có thể ôm cả những kẻ thù. Amen.
03/03 Đền thờ tâm hồn
- Viết bởi Ga 2, 13-25
Đền thờ tâm hồn.
CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY năm B.
"Các ngươi cứ phá huỷ đền thờ này, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại".
Lời Chúa: Ga 2, 13-25
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ.
Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán". Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".
Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy".
Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người.
Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói. Trong thời gian Người ở lại Giêrusalem mừng lễ Vượt qua, nhiều kẻ tin danh Người, vì mục kích những phép lạ Người làm. Nhưng chính Chúa Giêsu không tin tưởng họ, vì Người biết tất cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều trong lòng người ta.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY B
Lời Chúa: Xh 20,1-17; 1Cr 1,22-25; Ga 2,13-25
MỤC LỤC
1. Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây--‘Manna’
2. Thanh tẩy Đền Thờ--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
3. Canh tân cách thực hành Đức Tin--TGM Giuse Vũ Văn Thiên
4. Nhà của Cha Tôi--GM. Arthur Tone
5. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
6. Đền thờ của Thiên Chúa--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
7. Đền thờ là Nhà Cha Ta--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
8. Đức Yêsu là chuẩn mực--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
9. Với Đức Giêsu: Thiên Chúa trên hết--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
10. Thanh tẩy đền thờ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
11. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Đan Vinh
12. Nhà Chúa Cha và nơi buôn bán--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
13. Nôi ba ngày Tôi sẽ xây dựng lại --Lm. Trầm Phúc
14. Hãy thanh tẩy đền thờ Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
15. Nơi chốn và phương thức phụng thờ đích thực--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
16. Hãy xem lại lối sống đạo của chúng ta--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P
17. Thanh tẩy đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
18. Làm mới đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
19. Thân xác chúng ta là đền thờ cần được thanh tẩy--Lm. Ignatiô Trần Ngà
20. Sự lạm dụng thân xác--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
21. Thế giới tục hóa--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
22. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
23. Nhà Cha là nhà cầu nguyện--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
24. Điên rồ cho Thiên Chúa--Peter Feldmeier--Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ
25. Uy quyền Đấng Thiên Sai--Lm. Hồng Phúc
26. Cơn Giận Thánh--AM Trần Bình An
27. Điện Thờ Thân Thể của Người--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
28. Chúa Giêsu, Đấng kiện toàn lề luật --Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
29. Đền Thờ Thiên Chúa--Lm. Minh Vận, CRM
30. Cứ phá hủy Đền Thờ này đi …--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
31. Thánh Đường, điểm hẹn--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
32. Giao ước mới--Lm. Đỗ Vân Lực
33. Thiên Chúa thanh tẩy người tình--Lm. Giuse Lê Danh Tường
34. Thanh tẩy tâm hồn--Lm. Giuse Lê Danh Tường
35. Tẩy rửa--Lm. Vũ Đình Tường
36. Chăm lo đền thờ Giáo Xứ, tu bổ đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
37. Đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
38. Đền Thờ sống động--Lm. Vũ Thái Hoà
39. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
40. Luật vĩnh hằng--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
41. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
42. Luật Chúa truyền và luật trần gian--Lm. Xuân Hy Vọng
43. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
44. Thánh luật--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
45. Chúa Giêsu đánh đuổi con buôn trong hành lang đền thờ--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
46. Nhà Ta là nhà cầu nguyện--Lm. Trần Bình Trọng
47. Nhà Ta là nhà cầu nguyện--Lm Trần Bình Trọng
48. Đức Giêsu tại Samari--JKN
49. Đền thờ Thiên Chúa--Lm Anphong Trần Đức Phương
50. Chúa nhật 3 Mùa Chay--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
51. Thanh tẩy “Nhà Thờ”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
52. Phải bị thiệt thân--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
53. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
54. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Alfonso
55. Đức Giêsu tẩy uế đền thờ--Lm Vũ Phan Long
56. Bắt đầu lại trong sự thật--Jean-Yves Garneau
57. Đền thờ đích thật của sự thờ phượng và tập hợp--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
58. Dấu lạ của việc thanh tẩy đền thờ (2,13-22)--Alain Marchabour
59. Giữ trong sạch nhà Cha--Noel Quesson
60. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Noel Quesson
61. Tẩy uế đền thờ--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
62. Đức Giêsu xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ--Fiches Dominicales
63. Cơn giận của Chúa Giêsu (2,12-16)--William Barclay
64. Thanh tẩy đền thờ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang - Joshepus Quang Nguyễn
65. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
66. Ánh sáng Phục Sinh
67. Yếu tố con người
68. Đền thờ
69. Xây dựng đền thờ Chúa ngự
70. Đức Giêsu là chuẩn mực
71. Chúa Nhật 3 Mùa Chay
72. Đền thờ vật chất, đền thờ tâm hồn
73. Đền thờ
74. Chúa Nhật 3 Mùa Chay
75. Đền thờ đích thực
76. Con người và Đền Thờ
77. Đền thờ
78. Thanh tẩy
79. Đền thờ
80. Đền thờ tâm hồn
81. Thanh tẩy Đền Thờ
82. Cơn tức giận
83. Thanh tẩy đền thờ
84. Chúa Nhật 3 Mùa Chay
85. Giữ các giới răn
86. Người bị kết án tử hình
87. Mười điều răn mới
88. Tẩy uế đền thờ
89. Đền thờ di động--Huệ Minh
1.Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây--‘Manna’
Suy Niệm
Trong sách Tin Mừng, hiếm khi ta thấy Đức Giêsu nổi giận.
Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa.
Ngài lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội.
Chính Ngài đã mời ta học nơi Ngài
bài học hiền lành và khiêm nhượng.
Vậy mà ở đây ta lại thấy Đức Giêsu dùng roi
để đuổi những người buôn bán bồ câu, chiên bò,
Ngài còn lật nhào bàn ghế của những người đổi bạc!
Dù rằng những chuyện buôn bán này
chỉ diễn ra ở ngoài phạm vi Đền Thờ, nơi tiền đình dành cho dân ngoại,
nhằm phục vụ cho nhu cầu tế tự
của những người đi hành hương vào dịp lễ Vượt qua,
nhưng Đức Giêsu vẫn thấy đó là một điều bất kính,
vì chúng tạo ra một bầu khí ồn ào, hỗn độn.
Đức Giêsu vốn qúy trọng Đền Thờ Giêrusalem.
Ngài gọi đó là nhà Cha của tôi, nhà cầu nguyện.
Ngài không muốn nơi Thánh này trở thành cái chợ.
Ngài không chấp nhận nhà của Cha Ngài bị xúc phạm.
Chính tình yêu đã khiến Đức Giêsu nổi giận.
Ngài thấy cần phải thanh tẩy Đền Thờ,
dù điều đó sẽ đưa Ngài đến chỗ thiệt thân.
"Cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại."
Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Đền thờ ở đây là chính thân thể Đức Giêsu.
Thân thể được phục sinh của Ngài sẽ là Đền Thờ mới,
nơi nhân loại thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem.
Ngài cũng muốn thanh tẩy các nhà thờ của chúng ta.
Ngài muốn chúng thực sự là nơi thờ phượng,
nơi lắng đọng để con người gặp gỡ Thiên Chúa.
Có khi thánh lễ của chúng ta trở nên máy móc, buồn tẻ.
Có khi lại ồn ào, nặng tính trình diễn.
Dù sao thánh lễ vẫn cần một cái hồn,
một sức sống lan tỏa từ Chúa Giêsu phục sinh.
Để tâm đến việc sửa nhà thờ là cần, nhưng không đủ.
Mỗi Kitô hữu cần để tâm xây dựng con người mình,
bởi lẽ đó là đền thờ của Cha và Con (x. Ga 14,23).
Chính thân xác ta cũng là đền thở của Thánh Thần (x. 1Cr 6,19).
Có những đền thờ thánh thiêng đã trở nên phàm tục.
Đam mê vô độ của thân xác đã trục xuất Thánh Thần.
"Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây!"
Chúa Giêsu hôm nay cũng giận dữ như thế
khi thấy con người của chúng ta bị vấy bẩn,
đền thờ của Ba Ngôi bị nhơ nhớp.
Tha nhân quanh ta cũng là những đền thờ.
Có nhiều đền thờ bị xuống cấp, tước đoạt và sụp đổ...
Mùa chay là mùa tu sửa các đền thờ,
để mọi đền thờ đều dẫn đến Đền Thờ Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về bầu khí nơi nhà thờ của bạn? Bạn nghĩ gì về bầu khí của Thánh Lễ? Bầu khí đó có giúp bạn lắng đọng để gặp mình và gặp Chúa không?
Trong mùa Chay này, bạn thấy có đền thờ nào cần sửa gấp không? Đền thờ lòng bạn có gì cần phải loại bỏ để có chỗ cho Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh
bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết, xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
2.Thanh tẩy Đền Thờ--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Một trong những vấn đề lớn của thế giới hiện nay là nạn ô nhiễm môi sinh. Các giòng sông đang bị ô nhiễm vì biết bao chất thải dơ bẩn, độc hại. Không khí ta hít thở đang bị đe dọa vì bụi bặm, vì khói xe, khói nhà máy. Nước biển bị ô nhiễm vì nạn dầu nhớt rò rỉ, vì chất thải của những lò phản ứng nguyên tử. Tầng khí quyển bị những chất khí độc chọc thủng đang làm thay đổi khí hậu và gây ra những căn bệnh nguy hiểm. Để con người có thể sống và phát triển được, thế giới cần phải được thanh tẩy khỏi các nguồn ô nhiễm.
Sự ô nhiễm không chỉ trong môi trường vật lý. Nhiều môi trường khác như môi trường văn hóa, môi trường đạo đức cũng đang bị ô nhiễm trầm trọng. Tôn giáo không tránh khỏi nạn ô nhiễm. Muốn cho bầu khí đạo đức được trong sạch, muốn cho đời sống tâm linh tồn tại và phát triển, tôn giáo cũng cần được thanh tẩy. Hôm nay Đức Giêsu vào Đền thờ và đã thanh tẩy Đền thờ. Người đã làm 3 cuộc thanh tẩy
1) Người đã thanh tẩy Đền thờ khỏi ô nhiễm vì súc vật. Trong nghi lễ của đạo Do Thái, cần có súc vật để dâng cho Thiên Chúa. Khi dâng lễ hy sinh, người ta mổ một con thú, đặt trên bàn thờ rồi đốt lửa thiêu con vật. Mùi mỡ cháy quyện khói xông lên nghi ngút. Người giầu thì dâng một con bò hay một con chiên. Người nghèo có thể dâng một cặp chim bồ câu hoặc một đôi chim gáy. Để đáp ứng nhu cầu của tín đồ,dịch vụ cung cấp lễ vật mau chóng thành hình ngay trong khuôn viên Đền thờ. Ta hãy tưởng tượng một chợ trâu bò ngay trong Đền thờ. Thật là dơ bẩn, ồn ào và chướng tai gai mắt. Nhưng nhu cầu đã biện minh cho sự ô nhiễm. Và dân Do Thái mặc nhiên chấp nhận để cho súc vật nghễu nghện ngự trị ngay trong khuôn viên Đền thờ rất nguy nga, rất lộng lẫy, rất cao sang mà họ từng ca tụng là “đền vàng”, là “nơi thánh”. Thấy nhà Chúa bị xúc phạm, Đức Giêsu không kiềm chế được cơn giận, đã lấy roi xua đuổi hết súc vật và cả đám con buôn ra khỏi Đền thờ.
2) Khi xua đuổi các con buôn ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu đã thanh tẩy thói tôn thờ ngẫu tượng. Theo Đức Giêsu, ngẫu tượng nguy hiểm nhất là tiền bạc, tức là thần “Mammon”. Đã có lần Người lên tiếng cảnh báo: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của”, và “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào nước Thiên đàng”. Những con buôn đưa súc vật vào Đền thờ không do lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng vì lợi nhuận. Đưa súc vật vào nơi tôn nghiêm, họ đã coi trọng tiền bạc hơn Chúa. Để cho súc vật làm ô uế Đền thờ cao trọng, họ đã dùng Đền thờ làm phương tiện phục vụ túi tiền của họ. Các tư tế coi sóc Đền thờ có lẽ cũng được chia phần nên đã cho phép con buôn được tự do họp chợ trong Đền thờ. Họ cũng như con buôn, coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Họ đã rơi vào thói tôn thờ ngẫu tượng: thờ tiền bạc, dùng Chúa và Đền thờ để phục vụ tư lợi.
3) Khi đuổi súc vật ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu muốn thanh tẩy cung cách thờ phượng của ta. Trước kia người ta dâng súc vật làm của lễ. Lòng đạo đức được đo lường bằng sức nặng của con vật. Dâng con vật to sẽ được nhiều ơn phúc. Nay, Đức Giêsu cho thấy Chúa đã chán thịt bò, mỡ dê. Chúa đã ghê sợ mùi khói mùi khét lẹt, mùi máu tanh tưởi (cf. Is 1,11). Thánh vương Đavít đã hiểu: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). Chúa muốn ta đến với Người bằng chính bản thân ta. Lễ dâng đẹp lòng Chúa là thái độ khiêm nhường thống hối như lời Thánh vịnh: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn thống hối. Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Lễ dâng đẹp lòng Chúa là phó thác trót cả tâm hồn thân xác trong tay Chúa như Đức Giêsu đã làm trên Thánh giá: “Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong tay Cha”. Lễ dâng được Chúa vui lòng chấp nhận là sát tế chính bản thân mình để làm theo ý Chúa: “Máu chiên bò Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu Chúa không nhận. Thì này con đến để làm theo ý Chúa (Tv). Ta sát tế chính bản thân mỗi khi ta từ bỏ ý riêng, chiến đấu chống lại những cơn cám dỗ của dục vọng, tiền bạc, thói gian tham, tính tự ái kiêu căng, sự chia rẽ bất hòa.
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ. Người muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người. Giữ gìn cho nhà thờ luôn sạch đẹp, có bầu khí tôn nghiêm là điều cần thiết. Nhưng cần hơn vẫn là giữ gìn ngôi Đền thờ thiêng liêng là chính bản thân ta. Tâm hồn chính là cung thánh nơi Chúa ngự. Ta phải luôn luôn thanh tẩy tâm hồn để xứng đáng với Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói tôn thờ tiền bạc, coi trọng tiền bạc hơn Chúa. hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi những dục vọng đam mê làm ô uế cung thánh của Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói gian tham, bất công. Hãy thanh tẩy tâm hồn ta khỏi những kiêu căng đố kỵ. Thân xác ta là Đền thờ của Chúa. Hãy kính trọng thân xác của mình và của người khác. Hãy tu bổ những Đền thờ thân xác đã xuống cấp, suy tàn, bị xúc phạm, bị bán rẻ. Hãy sửa chữa những Đền thờ thân xác đang bị bào mòn vì bệnh tật, vì đói khát, vì thương tích. Hãy kính trọng thân xác của người khác vì đó là Đền thờ của Chúa.
Trong mùa Chay này, ta hãy cố gắng thanh tẩy bản thân, để tâm hồn và thân xác ta trở thành một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Khi tham dự thánh lễ, bạn có giữ cho nhà thờ có bầu khí trang nghiêm, lắng đọng không?
2) Đền thờ tâm hồn và thân xác bạn có những gì cần phải thanh tẩy không?
3) Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để trở nên một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự?
3.Canh tân cách thực hành Đức Tin--TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Cứ mỗi độ xuân về, người dân Việt chúng ta, sau khi đón xuân mới, là khởi đầu chiến dịch đi lễ hội đầu năm. Từ một hai thập kỷ trở lại đây, nhờ đời sống kinh tế được cải thiện, những lễ hội truyền thống sau một giấc ngủ dài trong thời bao cấp, được khôi phục khắp nơi, đua nhau nở rộ như nấm mọc sau mưa. Nhìn chung, những lễ hội này diễn tả truyền thống văn hoá phong phú của người Việt, và đều góp phần tích cực giúp con người hướng thiện. Tuy vậy, khá nhiều lễ hội bị nhuốm màu thương mại và mê tín dị đoan, mang theo những hệ lụy không đẹp do cách hành xử thiếu văn hóa, như cướp giật, đánh nhau đến đổ máu. Lễ hội đang bị lạm dụng nghiêm trọng và làm mất đi ý nghĩa linh thiêng.
Vào thời Chúa Giêsu, Đền thờ Giêrusalem là nơi thiêng thánh cũng bị lạm dụng. Người ta buôn bán chiên bò, chim câu và đổi tiền. Tất cả những dịch vụ này cũng núp dưới danh nghĩa phục vụ khách hành hương, nhất là vào dịp lễ trọng của người Do Thái là lễ Vượt qua. Chúa Giêsu đã chứng kiến cảnh này. Người đã nghiêm khắc xua đuổi họ ra khỏi Đền Thờ. Cả bốn thánh sử đều ghi lại sự kiện này, nhưng Thánh Gioan là người diễn tả hành động của Chúa Giêsu một cách mạnh mẽ quyết liệt nhất: “Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò, ra khỏi Đền Thờ”. Tuy vậy, nếu ba tác giả của Tin Mừng nhất lãm đều nói đến việc Đức Giêsu “đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ”, thì thánh Gioan lại cho biết, Chúa chỉ yêu cầu mang các loại hàng hóa trần tục xâm nhập Đền Thờ và làm cho nơi thánh trở thành chốn thương mại. Phải chăng Thánh Gioan muốn nói với chúng ta: Chúa Giêsu không xua đuổi con người tội nhân, nhưng xua đuổi những hành động tội lỗi, và như thế, Người mời gọi chúng ta hãy canh tân cách thực hành Đức Tin.
Từ đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã mời gọi chúng ta canh tân đổi mới cuộc đời. Canh tân để làm cho trái tim, tâm hồn và cuộc đời của chúng ta được đổi mới. Chúa nhật thứ Ba của Mùa Chay, Phụng vụ dạy chúng ta hãy xem xét lại cách tôn thờ Chúa của mình. Nói cách khác, mỗi chúng ta là người tin vào Chúa. Đức tin ấy phải được thể hiện qua tâm tình thờ phượng Chúa. Có nhiều người tin Chúa mà không thực hành các bổn phận của đức thờ phượng. Thờ phượng Chúa là nhận ra quyền năng vô biên và tình yêu của Ngài đối với chúng ta, đồng thời dâng lời tạ ơn, ca tụng và cầu nguyện với Ngài. Đối với một số tín hữu, đức tin của họ mang tính vụ lợi, tức là chỉ chạy đến nài van Chúa khi gặp hoạn nạn gian nan, còn những lúc khác thì không cần biết Chúa là ai. Nhiều người khác coi Chúa như Bà Chúa Kho, đến để xin lộc và vay tiền lúc đầu năm với hy vọng năm mới phát tài.
Hành động của Chúa Giêsu khi xua đuổi chiên bò ra khỏi Đền thờ được gọi là “thanh tẩy Đền thờ”. Quả thật, Chúa muốn khôi phục tinh thần thờ phượng đích thực, không nhuốm màu thương mại và cạnh tranh vật chất. Mùa Chay cũng giúp ta thanh tẩy đời sống đức tin và tâm tình thờ phượng Chúa. Những thực hành đạo đức của cộng đoàn cũng như cá nhân phải dẫn đưa người tín hữu đến gặp gỡ Đức Giêsu, Đấng đang sống và đang hiện diện giữa chúng ta. Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết trong Tông huấn Đức Kitô đang sống như sau: “Chúng ta có nguy cơ coi Chúa Giêsu Kitô chỉ như một mẫu gương trong quá khứ, như một kỷ niệm, như một Đấng đã cứu chúng ta cách nay hai ngàn năm. Điều này không ích gì cho chúng ta, vì nó sẽ để chúng ta cũ kỹ y như trước, nó sẽ không giải thoát chúng ta. Đấng đổ đầy ân sủng của Người trên chúng ta, Đấng giải thoát chúng ta, Đấng biến đổi chúng ta, Đấng chữa lành và an ủi chúng ta đang sống. Người là Đức Kitô phục sinh, tràn đầy sức sống siêu nhiên, mặc lấy ánh sáng vô hạn” (số 124). Những lời trên đây của Đức Thánh Cha giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống hiện tại. Nhiều người tín hữu chỉ coi Người như một vĩ nhân đã lùi vào dĩ vãng. Không phải như vậy. Người đang sống và hiện diện giữa chúng ta. Nếu ý thức được điều ấy, lời nói, cử chỉ và cách sống của chúng ta sẽ thận trọng hơn. Lời cầu nguyện và việc thờ phượng Chúa sẽ thấm đượm tâm tình mến yêu hơn. Xác tín điều đó, người tín hữu cảm thấy như được chạm tới Chúa, được Người hướng dẫn và soi sáng đường đi nước bước trong cuộc đời.
Gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng đang sống, sẽ giúp chúng ta sống tốt hơn trong cuộc sống hằng ngày. Bài sách thánh trích sách Xuất hành ghi lại luật Giao ước Thiên Chúa ban cho dân Israel qua ông Môisen mà chúng ta vẫn gọi là Mười điều răn. Có thể nói Mười điều răn trong sách Xuất hành là bộ luật đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Vì dân tộc Do Thái là một dân được tuyển chọn, nên phải có một bộ luật làm tiêu chuẩn và để duy trì trật tự trong việc điều hành cai quản, làm chuẩn mực chung cho mọi nền văn hoá và mọi dân tộc. Rất tiếc, nhiều Kitô hữu, nhất là những bạn trẻ, không thuộc kinh Mười Điều Răn, vì vậy, họ không định hướng được cuộc đời của mình. Họ nói tin vào Chúa mà không biết Chúa là ai và phải làm gì để thực hành Đức Tin.
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem. Người cũng dùng máu Người đổ ra trên thập giá để thanh tẩy tội lỗi của nhân loại. Hai ngàn năm nay, Giáo Hội không ngừng rao giảng mầu nhiệm thập giá, “điều mà người Do Thái coi là ô nhục và dân ngoại cho là điên rồ” (Bài đọc II). Trái lại với sự xét đoán của thế gian, Đức Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Có những lúc, người tin vào Chúa bị coi như những người điên rồ hoặc những người đi ngược dòng. Tuy vậy, cũng như sự điên rồ của thập giá đã cứu vớt nhân loại, những ai theo Chúa Giêsu, dù có thể bị coi là ngu dại, chắc chắn sẽ tìm được sự thanh thản trong tâm hồn và niềm vui của Đấng phục sinh. Mùa Chay cũng là mùa suy niệm cuộc thương khó của Đức Giêsu. Thập giá là một huyền nhiệm của tình thương Thiên Chúa. Thập giá không phải là câu chuyện của quá khứ, nhưng là câu chuyện của hiện tại. Thập giá đang đi ngang qua những mâu thuẫn gia đình, những khó khăn về tài chính tiền bạc, những xung khắc trong mối tương quan với người xung quanh, những thất bại trong học vấn, những bế tắc trong nghề nghiệp. Đó là những thập giá mà chúng ta đang phải vác đi. Vác thập giá không phải là cam chịu, nhưng là đón nhận và hoá giải những thất bại và khúc mắc thành kinh nghiệm, để rồi nhờ ơn Chúa, chúng ta sẽ vượt lên những khó khăn, biến gian khổ thành niềm vui và biến nước mắt thành nụ cười. Quả vậy, khi có lòng bao dung, sự kiên nhẫn và nhất là tình yêu quảng đại, chúng ta sẽ có thể hoá giải mọi thương đau trong cuộc đời.
Đức tin của người Công giáo không phụ thuộc vào mùa lễ hội và những cạnh tranh. Lòng yêu mến Chúa và tâm tình thờ lạy tôn vinh Ngài như hơi thở, như cơm ăn nước uống đối với người tín hữu. Con người cần có Chúa để hiện hữu, để hoạt động và để nên trọn lành. Ý thức được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, dâng lên Chúa tâm tình yêu mến và cầu xin Ngài trợ lực để vượt lên mọi khó khăn thử thách, những điều này làm cho đức tin của chúng ta nên vững mạnh.
Mùa Chay là mùa canh tân đổi mới. Canh tân cách thực hành Đức Tin là điều kiện thiết yếu để chúng ta đổi mới cuộc đời. Bởi lẽ, nhờ Đức Tin tinh tuyền, chúng ta mới có thể sống Đạo chân thành trước mặt Chúa và trước mặt mọi người.
4.Nhà của Cha Tôi--GM. Arthur Tone
Người mẹ có 4 người con. Bà khổ tâm biểu chúng dọn dẹp đồ chơi, nhất là vào lúc cha của chúng đi làm sắp về. Dọa nạt, dụ ngọt đều vô ích. Đồ chơi ngổn ngang như thể cơn lốc vừa thổi qua.
Một bữa nọ, bà tìm ra một ý tưởng hiệu nghiệm, ít ra trong gia đình của các con bà: Bà chỉ nói đơn giản: “Chúng con thử xem hết bao lâu để dọn nhà sạch sẽ để đón cha chúng con về”. Không đầy năm phút mọi đồ chơi được cất trong hộp.
Người mẹ này gợi cho chúng ta cách thực hành ít nhất một ý tưởng được nêu ra trong bài Tin Mừng hôm nay: Đức Giêsu nói về “Nhà Cha Tôi”. Đức Giêsu yêu mến Đền thờ, nhà của Cha Người trên trần gian. Thỉnh thoảng, đôi khi mỗi ngày, Người ở trong Đền thờ. Người khích lệ những gì làm cho Đền thờ trở nên nơi cầu nguyện và phụng thờ. Người lên án những gì làm cho nhà Cha Người mất vẻ thánh thiện. Đó là lý do Chúa đuổi những người đổi tiền ra khỏi Đền thờ.
Cùng với Đức Giêsu, Người anh cả, mỗi người chúng ta có thể nói: “Đây là nhà Cha tôi”. Ngôi nhà thờ này, nhà thờ của chúng ta, dù nhỏ bé, nó rất thanh lịch. Nó thật là nhà của Cha chúng ta.
Như Chúa chúng ta, như các em nhỏ trong câu chuyện. Chúng ta muốn làm hết sức cho nhà của Cha chúng ta xứng đáng, đẹp và thánh thiện.
Khi chúng ta dâng cúng để bảo quản nhà thờ, chúng ta phải coi đó như món quà dâng cho Cha chúng ta, không có gì là quá đáng.
Quan trọng hơn bảo quản phương tiện vật chất, là bảo quản giá trị và vẻ đẹp thiêng liêng: Ngôi nhà của Chúa. Nơi đây, nhờ Bí tích Rửa Tội, chúng ta được nhận vào gia đình Chúa. Nơi đây với việc Rước Lễ, chúng ta đoàn tụ quanh bàn tiệc của Cha chúng ta. Nơi đây, nhờ Bí tích Thêm Sức, chúng ta được can đảm và sức mạnh để làm vui lòng Người. Nơi đây, trong Bí tích Hôn Phối, Chúa đóng ấn sự kết hợp vợ chồng. Chúng ta tới đây để hầu chuyện với Người và lắng nghe lời Người. Chúng ta đến đây để xin Người trợ giúp và lời chỉ bảo.
Chúng ta tới đây để thổ lộ với Người niềm vui, nỗi buồn của chúng ta, sự thành công, thất bại của chúng ta.
Chúng ta tới đây để làm lại điều mà Đức Kitô đã làm trong bữa tối sau hết. Chúng ta sẽ làm điều đó trong chính giờ này.
Hãy đến nhà Cha của bạn, chắc chắn Người yêu bạn, bất kể mọi chuyện, hơn những người cha tuyệt hảo ở trên trời. Chúa sẵn sàng tha thứ, phù giúp, an ủi và khích lệ. Bạn hãy nhớ trong kinh nguyện Thánh Thể, chúng ta thường gọi Người là Cha. Bạn hãy biết tại sao chúng ta gọi Người là Cha trong kinh Lạy Cha. Bạn chú ý tới những lời trong kinh Tiền xướng rước lễ hôm nay: “Ngay cả con chim se sẻ còn tìm được cái nhà. Con chim nhạn tìm ra tổ ấm để ấp con. Cạnh bàn thờ Chúa, lạy Chúa các đạo binh. Vua của con, Chúa của con – Hạnh phúc thay những ai cư ngụ trong nhà Chúa”.
Bạn tự nhiên trong nhà của Cha bạn. Như người mẹ trong câu chuyện. Mẹ Giáo Hội bảo chúng ta: “Chúng ta cố gắng hết sức làm cho nhà của Cha chúng ta đẹp và ấm cúng.
Xin Chúa chúc lành bạn.
5.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Vì thương, Thiên Chúa dạy chúng ta một cách sống khôn ngoan. (Ga 2,17)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Thế nào là khôn ngoan? Phải chăng là khéo léo để được hơn người, để làm ăn thành đạt, để được người đời khen ngợi? Thế nhưng "lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích gì?" Sự khôn ngoan của thế gian chỉ là ngu dại trước mắt Thiên Chúa. Hôm nay Lời Chúa sẽ dạy chúng ta một cách sống khôn ngoan thực sự sẽ mang hạnh phúc đến cho ta chẳng những ở đời này mà còn cả đời sau. Xin Chúa thương ban cho chúng ta sự khôn ngoan ấy.
II. Gợi ý sám hối
Người khôn ngoan là người sống theo luật Chúa. Thế nhưng rất nhiều lần chúng ta đã vi phạm luật Ngài.
Thập giá Ðức Giêsu là sự điên rồ đối với thế gian, nhưng là sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Nhưng nhiều khi chúng ta trốn tránh thập giá, vất bỏ những thập giá Chúa gởi đến cho chúng ta.
Thân xác và tâm hồn chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta đã để đền thờ ấy ra dơ bẩn. Xin Chúa thương thanh tẩy.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Xh 20,1-17
Sau khi dân Israel được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập, họ xuất hành qua sa mạc. Khi đến núi Sinai, Thiên Chúa gọi Môsê lên với Ngài và Ngài ban cho dân 10 điều luật.
Thực ra khi mới ra khỏi Ai cập, họ chỉ là một đám đông chưa biết cách sống chung với nhau, chưa có tinh thần tập thể, cũng như chưa có một đức tin chung. Nhờ những điều luật này, họ biết sống với nhau bằng tình thương (phần thứ hai của thập giới: yêu người) và biết sống với Thiên Chúa bằng lòng kính mến (phần đầu của thập giới: mến Chúa).
2. Ðáp ca: Tv 18
Thánh vịnh này ca ngợi luật pháp của Chúa: a/ đó là luật toàn thiện; b/ rất hữu ích cho cuộc sống; c/ vì thế nó đáng quý chuộng hơn mọi thứ quý giá nhất ở đời.
3. Tin Mừng: Ga 2,13-25
Tường thuật việc Ðức Giêsu đánh đuổi những người buôn bán trong sân Ðền thờ Giêrusalem. Ðối với Thánh Gioan, điều đáng chú ý nhất là sự nguy hiểm của việc làm này: nó sẽ dẫn Ðức Giêsu tới chỗ chết (c 20: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi. Nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại". c 21 "Ðền thờ Ðức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Ngài"). Nhưng vì nhiệt thành với Thiên Chúa nên Ðức Giêsu dám chấp nhận mọi nguy hiểm (c 17 "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân").
4. Bài đọc II: 1 Cr 2,13-25
Thánh Phaolô so sánh sự khôn ngoan của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của thế gian. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa thể hiện rõ nhất nơi thập giá. Nhưng thập giá là cớ vấp phạm đối với người Do Thái và là sự điên rồ đối với người Hy Lạp. Tuy nhiên sự khôn ngoan Thiên Chúa trổi vượt mọi khôn ngoan của con người.
Vì thế Thánh Phaolô tự hào về sự khôn ngoan của thập giá. Ngài hăng hái rao giảng sự khôn ngoan ấy và kêu gọi tín hữu hãy tìm kiếm sự khôn ngoan ấy.
IV. Gợi ý giảng
* 1. "Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh"
Người thời nay dị ứng với từ "luật" vì cho rằng luật gò bó tự do. Họ ghét chủ trương "vị luật".
Chính Ðức Giêsu cũng đả phá chủ trương vị luật. Ngài kịch liệt công kích những người Pharisêu vì họ chủ trương như thế.
Thế nhưng Chúa không phá bỏ lề luật: "Ta đến không phải để huỷ bỏ lề luật mà để kiện toàn" (Mt 5,17).
Ngài kiện toàn luật thế nào? Bằng cách chỉ cho thấy "trái tim" của lề luật là thương yêu. Ngài tóm lược tất cả mọi lề luật vào 2 khoản là mến Chúa và yêu người. Thánh Augustinô đã hiểu như thế nên đã nói: Ama et fac quod vis, Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm.
Chính Ðức Giêsu nêu gương giữ luật với tất cả tấm lòng yêu thương. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Ngài nổi giận khi thấy người ta làm hại đến sự thánh thiện của Ðền thờ. Vì yêu mến lề luật và nhiệt thành với Thiên Chúa, Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, một việc làm sẽ dẫn Ngài tới cái chết. "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân".
* 2. Sự khôn ngoan của Thập giá
Một vài ý tưởng của Nino Salvaneschi (trong quyển Savoir souffrir):
Không có tình yêu, ta không thể sống
Không có đau khổ, ta không thể yêu
Phải học yêu để sống tốt hơn
Và phải học chịu khổ để yêu nhiều hơn.
Tình yêu là nhung nhớ về cõi trời; đau khổ là giải thoát khỏi cõi đất. Vì thế trong mọi đau khổ luôn có một cái gì đó của trời, và trong mọi tình yêu luôn có một cái gì đó của đất.
Vui sướng làm cho tâm hồn mềm yếu, đau khổ làm cho tâm hồn cứng cáp. Vui sướng làm thỏa mãn cho riêng mình, đau khổ đi tìm một trái tim khác. Vui sướng làm hư (déformer), đau khổ huấn luyện (former) nhân cách.
Tình yêu đến và đi, đôi khi nó đem lại cho ta một cái gì đó, nhưng đôi khi nó cướp đi tất cả. Tình yêu chỉ cất tiếng hát trong một mùa. Trái lại đau khổ đến thăm ta vào mọi lứa tuổi. Nó đến thì biến đổi đời ta, và trước lúc ra đi nó luôn để lại một cái gì đó.
Dĩ nhiên bạn có thể chấp nhận hoặc từ chối đau khổ. Nhưng nếu chấp nhận thì bạn sẽ bình an. Còn nếu từ chối thì bạn vẫn còn phải chiến đấu mãi với chính mình.
Chịu đựng là dấu chỉ kẻ bại trận. Chấp nhận là dấu chỉ của người đang cầm vũ khí để chiến đấu.
* 3. Bài học khôn ngoan
Một thiếu niên đi xem đấu bóng với cha sở, nói với cha rằng anh không thích vâng phục. Anh nói: "Thưa cha, con rất ghét ai bảo phải thế này, thế nọ. Không có tự do trong việc này".
Cha sở không nói một lời. Liền sau đó, họ gặp một biển chỉ đường chỉ hướng đi tới sân chơi. Cha sở làm như không thấy. Cậu bé la lên: "Chúng ta đi sai đường! Thưa cha, cha không thấy dấu đằng kia à!".
Cha sở bình tĩnh trả lời: "Cha thấy chứ, nhưng cha nghĩ đường này xem ra tốt hơn, và cha ghét bị chỉ bảo đi đường này đường kia bởi một biển chỉ đường cũ kỹ. Nó không cho cha tự do hành động".
Cậu bé nhận ra bài học, và họ vòng trở lại đi vào hướng sân chơi.
* 4. Tuân giữ lề luật
Một người Do Thái nọ muốn sống thánh thiện nên đến tham khảo ý kiến của một vị Rabbi. Vị Rabbi hỏi:
- Từ trước tới nay anh sống thế nào?
- Rất tốt, thưa ngài.
- Anh nói "rất tốt" nghĩa là sao?
- Nghĩa là tôi không vi phạm giới luật nào cả. Tôi không kêu tên Chúa vô cớ, tôi không tục hóa ngày sabát, tôi không bất kính với cha mẹ, tôi không giết người, tôi không bất trung với vợ tôi, tôi không trộm cắp, tôi không làm chứng dối, tôi không tham muốn của cải và vợ người khác.
Vị Rabbi nói:
- Tôi hiểu. Anh đã không vị phạm giới luật nào cả.
- Ðúng vậy, thưa ngài.
Nhưng vị Rabbi hỏi tiếp:
- Nhưng anh có tuân giữ các giới luật không?
- Ngài hỏi vậy nghĩa là sao ạ?
- Nghĩa là: anh có tôn kính tên Chúa không? Anh có thánh hóa ngày sabát không? Anh có hiếu kính cha mẹ không? Anh có tôn trọng và bảo vệ mạng sống của người khác không? Lần gần đây nhất anh nói với vợ rằng anh yêu nàng là khi nào? Anh có chia sẻ của cải cho người nghèo không? Anh có bảo vệ danh dự và tiếng tốt cho ai chưa? Anh có thường giúp đỡ người khác không?
Người Do Thái ra đi và suy nghĩ miên man. Từ trước tới nay anh chỉ nhìn các giới luật theo khía cạnh tiêu cực nên mọi cố gắng của anh chỉ là làm sao khỏi vi phạm luật. Nhưng nay vị Rabbi vừa chỉ cho anh một cách nhìn mới hẳn: không chỉ cố tránh vi phạm luật, mà còn phải làm những việc tốt mà luật chỉ dạy.
Kitô hữu ngày nay cũng cần lưu ý:
Chúng ta tuân giữ lề luật không phải vì sợ Chúa phạt, mà vì yêu mến Chúa.
Chúng ta giữ luật không phải để được Chúa yêu, mà chúng ta giữ luật bởi vì Chúa đã yêu ta.
* 5. Sự điên rồ khôn ngoan
Ðức Giêsu quả là điên rồ khi dám đụng tới Ðền Thánh Giêrusalem, vì đó chính là kết tinh của tình cảm, đức tin và niềm kiêu hãnh của toàn dân do thái. Việc Ngài thanh tẩy Ðền thờ mang tính cách trầm trọng chẳng khác gì ai đó dám xé cờ tổ quốc hoặc đập nát tượng lãnh tụ một nước. Cho nên cái giá mà Ðức Giêsu phải trả cho việc này là Ngài sẽ bị giết chết. Bài Tin Mừng hiểu được cái giá đó, nên có câu "Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân".
Còn ông Phaolô thì nói với các tín hữu Côrintô: "Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Ðức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ". Phaolô có đầy đủ mọi điều kiện để làm một Rabbi đáng kính đối với người do thái, hoặc làm một triết gia đáng nể đối với người hy lạp. Thế mà ông bỏ tất cả để đi làm một việc điên rồ là rao giảng về thập giá.
Có nhiều điều trong cách sống của kitô hữu cũng bị người không kitô coi là điên rồ. Do người ta coi thế nên tôi không dám làm? hay dù người ta coi thế, tôi vẫn can đảm làm, theo gương Ðức Giêsu và Thánh Phaolô?
6. Thanh tẩy đền thờ
Mahatma Gandhi, vị thánh của dân tộc Ấn Ðộ, trong nhật ký tự thuật của mình, ông kể rằng khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất thích đọc Kinh Thánh, đặc biệt là "Bài giảng trên núi". Ông xác tín rằng Kitô giáo chính là giải đáp cho hệ thống đẳng cấp đã gây thương tổn cho đất nước Ấn Ðộ của ông từ bao thế kỷ. Ông thực sự nuôi ý định trở thành Kitô hữu.
Ngày kia, ông vào một nhà thờ để dự lễ và nghe giảng. Người ta chặn ông lại ở cửa nhà thờ và nhẹ nhàng cho ông hay rằng nếu ông muốn dự lễ, xin mời ông đến một nhà thờ dành riêng cho người da đen.
Ông ra đi và không bao giờ trở lại.
***
Tin mừng hôm nay thuật lại Ðức Giêsu xua đuổi những người bán chiên bò, chim câu và những người đổi tiền ra khỏi Ðền Thờ. Chắc chắn Người không hề xua đuổi những con người thành tâm thiện chí. Nhà thờ là nơi tôn nghiêm, qui tụ các tín hữu, cử hành phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, mọi người chung một niềm tin, một lời cầu tôn vinh Thiên Chúa. Nhà thờ chính là Hội thánh thu nhỏ, không phải là ngôi nhà kín rào luỹ cấm, trái lại phải mở rộng để đón tiếp mọi người.
Hôm nay Ðức Giêsu phải xua đuổi người ta ra khỏi Ðền Thờ, vì Người không muốn nơi thánh thiêng trở thành cái chợ. Người không muốn nhà Cha Người bị xúc phạm. Người thấy cần phải thanh tẩy Ðền Thờ. Thái độ quyết liệt của Ðức Giêsu đòi chúng ta phải xét lại chính mình.
Dường như không khí chợ búa vẫn vương vấn đầu đây: Người ta hẹn hò vào các giờ lễ, họ đi nhà thờ nhưng mắt trước mắt sau, họ lo trình diễn áo quần kiểu tóc.
Có kẻ đến nhà thờ để thắp sáng hào quang cho chính mình hơn là cho Chúa.
Có những đám cưới yêu cầu bật sáng mọi bóng đèn trong thánh đường.
Có những đám ma nhà thờ phải treo cờ tang phướn rũ như một biển tím, một rừng tang. Ðồng tiền đã che mờ nét tôn nghiêm nhà Chúa.
"Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây" (Ga.216). Lời bất bình đó của Ðức Giêsu vẫn như còn đang nói với chúng ta hôm nay. Người muốn các nhà thờ phải là nơi thờ phượng, nơi tĩnh lặng để con người gặp gỡ Thiên Chúa. Không cần ồn ào, nặng phần trình diễn, cũng không nên máy móc, buồn tẻ khi cử hành các nghi thức phụng vụ.
Nếu mỗi thánh lễ là tái diễn Hy lễ thập giá của Ðức Giêsu, Ðấng đã yêu cho đến cùng, thì mỗi thánh lễ cũng mang một sức sống mới của Ðấng Phục sinh. Người chính là Ðền Thờ mới, nơi nhân loại sẽ thờ phượng Thiên Chúa Cha cách đích thực.
***
Lạy Cha, Mùa chay là mùa thanh tẩy các đền thờ: đền thờ vật chất là những thánh đường và đền thờ thiêng liêng là mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con biết thanh tẩy những nhơ nhớp trong tâm hồn, hầu xứng đáng đến thờ phượng Cha trong Ðền Thờ mới là Ðức Giêsu, Con Cha. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
7. Nhà của Chúa
Lời nguyện sau đây được viết trên cửa một nhà thờ nọ:
Lạy Chúa, xin làm cho cánh cửa này đủ rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của đồng loại, anh em,
nhưng cũng đủ hẹp để có thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị, bất hòa.
Xin làm cho ngưỡng cửa này đủ phẳng để những bước chân của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối vào đây mà không bị vấp ngã.
Xin làm cho nhà này là nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước Chúa.
(Viết theo Flor McCarthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu là Ðền thờ, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng là Ðền thờ sống động của Thiên Chúa. Ðền thờ này cũng cần được thanh tẩy cho xứng đáng hơn. Trong mùa Chay này, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta:
1. Hội thánh là Ðền thờ của Thiên Chúa nơi mọi người hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với nhau /. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi thành phần trong Hội thánh / biết loại bỏ những thái độ giả hình, kiêu căng, chia rẽ, kỳ thị / làm cản trở cho sự hiệp thông đó.
2. Thế giới và các quốc gia là đại gia đình của nhân loại, nhưng luôn trở thành chiến trường về kinh tế và chính trị / Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền / biết loại trừ tất cả mọi hình thức xâm lăng và bóc lột nhau / để các nước tôn trọng và giúp đỡ nhau phát triển.
3. Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa / nhưng nhiều người đã khiến nó trở thành hình ảnh dễ sợ của ma quỉ /Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho họ ý thức sự ghê tởm đó / để bắt tay vào việc sám hối và thanh tẩy.
4. Mỗi người Kitô hữu chúng ta đã trở thành đền thờ sống động của Thiên Chúa / Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng con / không ngừng thanh tẩy mình khỏi mọi tội lỗi nhất là các tội nặng.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, vì nhiệt tâm phục vụ Chúa Cha mà Chúa đã thanh tẩy đền thờ, xin ban cho chúng con thêm nhiệt tâm yêu mến Chúa, để luôn thanh tẩy tâm hồn hầu xứng đáng đón nhận dồi dào hồng ân cứu độ của Chúa. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là cha chúng ta. Vì thương yêu, Ngài đã chỉ dạy cho chúng ta một con đường khôn ngoan mà những kẻ thông thái nhất của thế gian cũng không thể nghĩ ra. Trong tâm tình hiếu thảo, chúng ta hãy thân thưa với Ngài.
- Trước lúc rước lễ: Thân xác chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng đền thờ này đã bị dơ bẩn vì tội lỗi. Chúng ta hãy thành tâm sám hối, xin Chúa thanh tẩy để xứng đáng cho Chúa ngự vào. "Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian..."
VII. Giải tán
Chúa đã dạy cho chúng ta biết rằng lề luật Chúa chính là con đường dẫn đến sự khôn ngoan và hạnh phúc đích thực. Anh chị em hãy ra về và sống theo luật Chúa. Chúc anh chị em được bình an.
6.Đền thờ của Thiên Chúa--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay nói về lề luật của Chúa và đền thờ của Ngài. Ngài ban bố lề luật qua ông Maisen và dùng Con Ngài là Đức Giêsu Kitô để nói về đền thờ. Luật của Chúa là đường lối dẫn con người đến hạnh phúc, còn đền thờ của Ngài là nơi chúng ta đến gặp gỡ, tiếp xúc với Ngài, hầu chúng ta tìm được niềm tin và sức mạnh cho tâm hồn.
Mỗi người có nhiều đền thờ vật chất nhưng chỉ có một đền thờ thiêng liêng là thân xác mình theo lời thánh Phaolô dạy: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao”?(1Cr 3,16). Chúng ta có nhiệm vụ phải tôn trọng và bảo vệ cả hai loại đền thờ đó bằng bất cứ giá nào dựa vào Thánh kinh: “Lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa làm hao tổn thân tôi” (Tv 68.10). Hãy tôn trọng thân xác mình và đừng biến nó thành hang trộm cướp. Đừng để cho của cải vật chất chi phối tâm hồn mình. Hãy biến thần Mammon thành đầy tớ trung thành phục vụ ta, và hãy cố gắng biến thân xác và linh hồn mình thành”Ngôi Thánh Đường” của Thiên Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Xh 20,1-17
Thiên Chúa đã dùng ông Maisen giải phóng dân Israel ra khỏi ách nộ lệ của Ai cập. Khi đến núi Sinai, Thiên Chúa ban bố lề luật cho Maisen và ông đã truyền lại cho dân chúng. Luật ấy được gọi là “Thập giới” hay “Mười điều răn”. Đối với họ “mười điều răn” là cách đọc được ý muốn của chính Thiên Chúa ngõ hầu sống hiệp thông với Ngài. Đó chính là điểm cốt lõi, cho dầu phần lớn các điều răn còn được thấy ở những nơi khác ngoài Israel.
Thập giới không phải là xiềng xích nặng nề, kìm hãm tự do con người, nhưng là luật chỉ đạo của Thiên Chúa để hướng dẫn và bảo đảm bước đường tiến tới tự do và hạnh phúc. Thiên Chúa đòi Israel phải tuyệt đối trung thành và tuân giữ các điều răn của Ngài. Có như vậy, Ngài mới là Chúa của Israel và Israel là dân riêng của Ngài. Ngày nay, chúng ta là dân riêng của Ngài. Điều mà Ngài đòi hỏi Israel cũng là điều Ngài đòi hỏi chúng ta ngày nay.
+ Bài đọc 2: 1Cr 1,22-25
Thánh Phaolô rao giảng Đức Kitô bị đóng đinh. Theo Ngài, nhờ thập giá Đức Kitô, chúng ta đến được với Chúa Cha, nhưng thập giá lại là điều ô nhục đối với người Do thái và là sự điên rồ đối với người Hy lạp. Người Do thái mong đợi Đấng Cứu thế quyền năng chứ không hèn yếu; người Hy lạp trông một sự can thiệp của Thiên Chúa phù hợp với sự khôn ngoan của họ, và đối với Đấng ấy, cái chết không được phép chạm đến.
Nhưng thánh Phaolô lại quả quyết rằng sự khôn ngoan của Thiên Chúa thể hiện rõ nhất nơi thập giá và sự khôn ngoan của Thiên Chúa trổi vượt hơn sự khôn ngoan của con người. Do đó, Ngài tự hào về sự khôn ngoan của thập giá bởi vì sức mạnh của Ngài tỏ lộ trong sự yếu đuối: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”.
+ Bài Tin mừng: Ga 2,13-25
Thánh Gioan thuật lại việc Đức Giêsu xua đuổi những kẻ buôn bán ở sân đền thở Giêrusalem. Đền thờ là nơi dân Chúa thập phương tụ họp lại để tỏ lòng tôn thờ và dâng tiến lễ vật cho Thiên Chúa. Đền thờ phải là nơi trang nghiêm dành cho việc thờ phượng. Nhưng người ta vì ham lợi lộc đã biến Đền thờ thành nơi buôn bán, ồn ào nhộn nhịp. Đức Giêsu vì nhiệt thành với Thiên Chúa đã dám chấp nhận nguy hiểm dẫn đến cái chết khi nghĩ đến câu Thánh vịnh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 68,10).
Để trả lời cho những thách thức của họ, Đức Giêsu nói: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi. Nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,21). Đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Ngài. Và “Nhà Cha” thực sự từ nay sẽ là “đền thờ thân thể Ngài”, và Ngài sẽ là vị tư tế duy nhất muôn đời. Nhưng nhân tính của Ngài sẽ chỉ giữ vai trò trên sau khi bị phá hủy và trỗi dậy (Ga 2,20).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Thanh tẩy đền thờ Thiên Chúa
I. ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA
Đền thờ là nơi qui tụ mọi người thành cộng đồng tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý là ngợi khen, cảm tạ, cầu nguyện với tinh thần đức tin, đức cậy và đức mến sâu sắc như Đức Maria đã thể hiện trong lời kinh Magnificat (Sách Giáo lý số 2906-2907).
1. Đền thờ Giêrusalem
Đền thờ Giêrusalem là một đền thờ nguy nga tráng lệ đã được vua Hêrôđê Cả ra lệnh trùng tu đại qui mô từ năm 19 trước công nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện Đức Giêsu xua đuổi kẻ buôn bán xẩy ra vào năm 27-28 sau Chúa Giêsu thì việc trùng tu đó kéo dài 46 năm. Điều này rất phù hợp với thánh Luca 3,2 nói về ngày Chúa chịu phép rửa năm 15 đời hoàng đế Tiberiô. Đây là một nêu mốc khá chắc chắn để tính niên lịch của Chúa. Công việc trùng tu đền thờ đòi hỏi rất nhiều nhân công. Flavius Joseph nói rằng khi xong việc người ta phải thải về 18.000 thợ. Như thế mới thấy rằng Đền thờ Giêrusalem lớn lao và đẹp đẽ đến chừng nào.
2. Đức Giêsu xua đuổi người buôn bán
Vào dịp lễ Vượt qua của người Do thái, Đức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền, mua bán súc vật làm ô uế Đền thờ, Ngài lấy làm khó chịu xua đuổi họ ra khỏi đền thờ: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Cũng nên biết là những người ở xa đến khó có thể đem theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong Đền thờ là cần thiết hay ít ra được dung thứ. Vậy nếu việc mua bán súc vật là tiện lợi cho người từ xa tới, thì sao Đức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật quanh Đền thờ? Thưa chúng ta thấy có một số lý do:
a) Những khách hành hương
Lễ Vượt qua của người Do thái được tổ chức rất long trọng ở Giêsrusalem. Theo luật pháp, mọi người nam Do thái sống cách xa Giêrusalem trong vòng 25 cây số bắt buộc phải đi dự lễ. Trong các lễ của người Do thái, lễ Vượt qua là lễ trọng nhất. Không phải chỉ có người Do thái trong xứ Palestine đến dự lễ mà các người Do thái ở khắp nơi cũng hướng về quê hương và mong được mừng lễ Vượt qua tại Giêrusalem ít nhất một lần trong đời, giống như người Hồi giáo muốn hành hương về thánh địa La Mecque. Chuyện nghe thật đáng kinh ngạc, nhưng dường như cũng đã có đến 2. 200.000 người Do thái đã tập họp về Xứ thánh dự lễ Vượt qua,
b) Việc dâng của lễ
Theo thói quen, mỗi khi hành hương lên Giêrusalem mừng lễ người ta thường dâng của lễ bằng con vật sống. Trong sân đền thờ có chỗ bán con vật sống là việc bình thường. Nhưng cái không bình thường là sự lạm dụng. Luật qui định là bất cứ con vật nào dùng làm lễ tế đều phải lành lặn, không tỳ vết. Các chức sắc quản trị đền thờ bổ dụng những người kiểm tra để khám xét con vật, mỗi lần khám xét đều phải trả lệ phí một phần mười hai siếc-lơ. Nếu khách hành hương mua một con vật ngoài đến thờ, chắc chắn con vật ấy sẽ bị từ chối khi khám xét. Ngoài ra, mỗi con vật mua trong đền thờ có khi phải trả đắt gấp 15 lần so với giá mua bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công xã hội này càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
c) Việc đổi tiền
Luật buộc mỗi người Do thái phải nộp thuế cho đền thờ từ 19 tuổi trở lên. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, bằng hai ngày lương công nhật. Trong việc giao dịch bình thường, có đủ mọi thứ tiền ở Palestine, nhưng thuế nộp cho đền thờ là một thứ tiền riêng của người Do thái, khách hành hương phải đổi lấy thứ tiền này. Người ta lấy lý do là các thứ tiền khác bị xem là ô uế không thể dùng để trả nợ cho Thiên Chúa.
Việc đổi tiền bạc có ăn lời đôi chút là chuyện thường. Kinh Talmud qui định:”Mỗi người cần có đồng nửa siếc-lơ, người ấy phải chi cho người đổi bạc chút ít tiền lời”. Nhưng đàng này khách hành hương phải chịu những tệ nạn bọn đổi bạc với giá cắt cổ. Nhìn thấy những sự bóc lột quá đáng như thế, Đức Giêsu bừng bừng nổi giận. Thánh Gioan cho biết là Chúa đã lấy dây bện thành một ngọn roi xua đuổi bọn họ và đạp đổ tung thùng tiền.
3. Đức Giêsu bảo vệ đền thờ
Đức Giêsu đã cảnh cáo bọn họ: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Đây cũng là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng lõa trong việc trần tục hóa và thương mại hóa Đền thờ. Tin Mừng thánh Matthêu (21,14), Marcô (11,17),và Luca (19,36) còn trích sách ngôn sứ Isaia để cảnh giác họ: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Is 56,7).
Khi xua đuổi những người buôn bán trong Đền thờ, Đức Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy lòng tôn kính của Ngài đối với nhà của Chúa, và để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về cung cách tôn kính những nơi thờ phượng như những thánh địa dành riêng cho việc cầu nguyện mà thôi.
II. ĐỀN THỜ CỦA CHÚNG TA
1. Hai loại đền thờ
Khi Đức Giêsu nói với người Do thái: “Hãy phá hủy Đền thờ này đi. Nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Nếu hiểu chữ “Đền thờ” theo nghĩa vật chất thì làm sao xây dựng lại được vì Đền thờ này lớn lao phải dựng lại mất 46 năm mới hoàn thành? Người Do thái không thể hiểu câu nói của Đức Giêsu và cho đó là câu nói hồ đồ và có tính cách phạm thượng. Nhưng ý Đức Giêsu muốn nói: Đền thờ ấy chính là thân thể Ngài.
a) Đền thờ vật chất
Đền thờ vật chất đây là những nhà thờ mà chúng ta xây dựng. Bất cứ một giáo xứ nào, họ giáo nào cũng có một nhà thờ nhà nguyện để giáo dân qui tụ lại tôn vinh Thiên Chúa, nghe lời Chúa và dâng Thánh lễ. Nhà thờ có thể to hay nhỏ, tráng lệ hay bình thường, trang trí bằng mọi hình dạng nhưng luôn phải có vẻ trang nghiên đạo đức. Ngày nay các nhà thờ đang mọc lên rất nhiều, đó là một điều tốt nhưng rồi người ta lại lơ là với nhà Chúa, không chịu đi dự Thánh lễ, cầu nguyện, làm các việc đạo đức khiến nhà thờ trở nên... hoang vắng như nhiều nhà thờ ở bên Tây phương !
b) Đền thờ thiêng liêng
Đền thờ thiêng liêng ở đây được hiểu là thân xác chúng ta, con người chúng ta hay là Hội thánh. Chúng ta không ngại tốn công, tốn của để sửa sang hay xây cất nhà thờ. Dù phải hy sinh đến mấy, miễn là làm được nhà thờ là chúng ta không quản ngại. Nhưng còn một đền thờ khác nữa, mà có khi chúng ta chưa lo sửa sang cho đủ, đó là con người chúng ta, thân xác chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa, nơi Thánh Thần ngự trị”. Vì vậy, song song với việc lo xây cất nhà thờ ở bên ngoài là xây cất nhà thờ nội tâm với một nền móng vững chắc là đức tin và những sự hiểu biết cần thiết về đạo và những đồ trang trí là những đức tính của một Kitô hữu trưởng thành như khoan dung, quảng đại, thông cảm và tha thứ.
2. Tôn trọng đền thờ chúng ta
a) Nhiệt thành với đền thờ
Thánh kinh hôm nay nhắc nhở ta: “Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn tôi” (Tv 68.10). Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa phải nhắc nhở cho chúng ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, biết giữ sạch sẽ cho nhà Chúa. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy dỗ cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng. Dạy cho con cháu biết tôn trọng nhà thờ, nơi thờ phượng thì phải giữ nghiêm trang, không la hét, trò chuyện, xả rác... Ta cũng nên xét theo phương diện tích cực xem, ta có thể làm gì để tỏ ra tôn kính nhà Chúa như săn sóc, giữ gìn và bảo vệ nhà Chúa.
Nhìn ra các tôn giáo bạn, ta thấy người Hồi giáo khi vào nhà thờ của họ, phải để giầy ngoài sân. Ta có thể tưởng tượng giả sử có một ngàn người để một ngàn đôi giầy, tức là hai ngàn chiếc bên ngoài, ra khỏi đền thờ đi tìm chiếc giầy nào là của mình trong hai ngàn chiếc giầy thì sẽ lộn xộn và khó khăn như thế nào. Tuy nhiên, để tỏ ra tôn kính nơi thờ phượng, người Hồi giáo vẫn giữ điều lệ này cho tới ngày nay.
b) Bênh vực nhà Chúa
Nói tới việc bênh vực nhà Chúa theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng cần phân biệt hai loại đền thờ, đó là đền thờ vật chất mà mọi người qui tụ về đó để tôn vinh Thiên Chúa. Và còn một đền thờ nữa là con người chúng ta, thân xác chúng ta.
* Bênh vực đền thờ vật chất
Chúng ta đã có nhà thờ dùng để thờ phượng Chúa, để tổ chức những sinh hoạt phụng vụ hay làm các việc đạo đức. Ai cũng yêu mến nhà thờ của mình. Ai cũng bênh vực, không để cho người khác phạm đến nhà thờ. Có khi chúng ta chịu đổ máu để bênh vực nhà thờ của chúng ta. Nhưng chúng ta phải lưu ý: nhà thờ là nhà của muôn dân, nơi dành cho mọi người đến cầu nguyện, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, mầu da, chủng tộc. Nhiều khi vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta cũng có lần thành chướng ngại vật ngăn cản anh em tìm đến gặp Chúa: chỉ cần một lời nói cứng cỏi và thiếu tế nhị, một thái độ lạnh nhạt thiếu nhã nhặn hay một cử chỉ khinh thường tha nhân... là chúng ta đã có thể xua đuổi anh chị em lương dân ra khỏi nhà thờ và sau này họ khó có cơ hội khác để trở lại.
Truyện: Mahatma Gandhi vào nhà thờ
Khi còn là một sinh viên, Gandhi được du học tại Nam Phi, một thuộc địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Gandhi có dịp đọc Kinh thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất là kinh Tám mối phúc thật trong Bài Giảng trên núi. Ông rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do thái hay lương dân... Gandhi nghĩ rằng: Có lẽ Kitô giáo là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong xã hội Ấn độ quê hương của ông. Gandhi nghĩ mình nên tìm hiểu và sẽ gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Gandhi có ý định đi bộ đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Công giáo. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại và không cho ông bước vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định tìm hiểu đạo của mình. Nhưng thật là bất ngờ khi người giữ cửa lại nói như sau:”Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da mầu mà xin”! Gandhi rất tức giận và bỏ về nhà, ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau:”Tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Ngài ! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo có hơn gì Ấn giáo có phân biệt giai cấp của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ”!
* Bênh vực đền thờ thiêng liêng
Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa và trở thành đền thờ của Chúa như thánh Phaolô đã nói (x. 1Cr 3,16). Trong nghi thức rửa tội cho trẻ em, Linh mục đọc lời nguyện trừ tà xua đuổi ác thần ra khỏi em bé để em được trở nên đền thờ của Chúa:”Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã sai Con Chúa xuống thế gian, để trục xuất quyền lực của ác thần Satan ra khỏi chúng con, giải thoát và đem con người được giải thoát khỏi tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của Nước Chúa. Chúng con nài xin Chúa làm cho những em này, sau khi khỏi tội nguyên tổ, được trở thành đền thờ của Chúa uy linh, và xin Chúa cũng cho Thánh Thần ngự trong các em”.
Khi đã trở thành đền thờ thiêng liêng của Chúa chúng ta có nhiệm vụ bảo vệ cho xứng đáng, đừng bao giờ để cho thần Mammon trở vào chiếm giữ, vì như Chúa nói: “Kho tàng của con ở đâu thì lòng con ở đấy” (Mt 6,21). Tiền của là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống vì “Đồng tiền liền khúc ruột”, nhưng đừng để cho tiền của lấn át linh hồn. Chúng ta phải khôn ngoan biến tiền của thành đứa đầy tớ trung thành phục vụ mình, đừng bao giờ để cho nó trở thành ông chủ khắc nghiệt chế ngự ta.
Truyện: Tiếng chim hót trong bụi mận gai.
Thỉnh thoảng đài truyền hình Việt nam lại cho chiếu bộ phim “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” mà tác giả là một nữ văn sĩ người Úc theo đạo Tin lành. Khi viết cuốn tiểu thuyết này, bà đã đứng trong quan điểm của đạo Tin lành để phê phán luật độc thân của hàng giáo sĩ Công giáo. Tuy nhiên, câu chuyện này cũng là cơ hội để chúng ta suy nghĩ về sức mạnh của đồng tiền ảnh hưởng thế nào trong cuộc sống cá nhân và cộng đoàn Giáo hội.
Câu chuyện về một Linh mục là cha Ralph. Ralph là một linh mục trẻ nhiều tài năng nhưng cũng đầy tham vọng. Vị linh mục này có nhiều ưu điểm, có sức cuốn hút nhiều người đến với mình. Nhưng đồng thời ông ta cũng muốn được nổi danh và ham mê tiền bạc. Trong số các người mến mộ cha Ralph, có một bà già qúi phái giầu có. Bà qúi mến cha cách đặc biệt nhưng không được đáp lại, nên tình yêu đã biến thành hận thù. Thay vì trả thù theo kiểu thường tình, thì người đàn bà này có sáng kiến gài bẫy để bôi đen cuộc đời vị linh mục trẻ: Trước khi chết, bà đã làm tờ di chúc dâng cúng toàn bộ tài sản kếch sù của bà cho Giáo hội Công giáo, với điều kiện duy nhất là Giáo hội phải cử cha Ralph quản lý số tài sản đó. Cách trả thù của bà quí phái giầu có đã thành công: Cha Ralph dần dần được cất nhắc lên địa vị khá cao trong Giáo hội. Nhưng đồng thời chính đồng tiền mà Cha quản lý đã làm cho đời sống tinh thần của Cha ngày một xuống cấp và cuối cùng Cha đã sa ngã vào các đam mê tội lỗi, trái với sự tình nguyện “sống độc thân vì Nước Trời” mà Cha đà khấn hứa (Theo Lm Đan Vinh).
3. Hãy biến cuộc đời mình thành đền thờ
Chúng ta là những Kitô hữu, cuộc sống chúng ta đã được dâng hiến cho Thiên Chúa và đã trờ thành đền thờ cho Chúa ngự. Nỗ lực của chúng ta là phải làm sao sống xứng đáng là đền thờ của Chúa, đừng bao giờ đuổi Chúa ra khỏi đền thờ này. Vì thế, chúng ta hãy cố gắng biến cuộc đời của chúng ta thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi.
Charles Singer có một bài thơ ngụ ngôn nói về đề tài nay: hãy biến cuộc đời thành “Ngôi Thánh Đường”. Xin trich một đôi câu trong bài thơ này:
Lạy Chúa, cuộc đời con là một ngôi Thánh đường,
Từ tro bụi, bao năm trường xây đắp,
Con tự hào với tất cả niềm tin,
Bằng đôi tay, bằng mối tình nghệ sĩ,
Để vươn lên thật cao qúi tôn nghiêm...
Lạy Chúa,
Ngôi thánh đường của đời con,
Không thể xong trong một sớm một chiều,
Nhưng vun đắp trải qua nhiều năm tháng...
Lạy Chúa, con chỉ là người thợ cả,
Chính Ngài, con không quá lời đâu:
Là Thiên Chúa, là Khởi Đầu, Chung Cuộc,
Chính Ngài, Nhà Kiến Trúc của đời con.
(Lm Trương đình Hiền)
Và để kết thúc, ta hãy đọc lời nguyện sau đây được viết trên cửa một nhà thờ nọ:
Lạy Chúa, xin làm cho cánh cửa này đủ rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của đồng loại, anh em.
nhưng cũng đủ hẹp để có thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị, bất hoà.
Xin làm cho ngưỡng cửa này đủ phẳng để buớc chân của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối vào đây mà không bị vấp ngã.
Xin làm cho nhà này là nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước Chúa.
(Theo Flor McCarthy)
7.Đền thờ là Nhà Cha Ta--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Đền thờ có mục đích quy tụ mọi người thành cộng đồng tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Tôn thờ Thiên Chúa trong chân lý là nhận biết những điều chân thật để kính mến và tuyệt đối vâng lời Thiên Chúa. Những điều chân thật đó là: Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và cứu độ, là Chúa và Chủ tể duy nhất hằng hữu, là tình yêu vô biên và hằng thương xót: “Ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa là Chúa ngươi và chỉ một mình Ngài” (Mt. 4, 10). Tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần là ngợi khen, cảm tạ, cầu nguyện với tinh thần đức tin, đức cậy, đức mến sâu sắc như Đức Maria đã thể hiện trong lời kinh “Magnificat - Linh hồn tôi ngợi khen Chúa …” (Giáo lý c. 6. 1992, số 2096-2097).
So sánh với trường học là nơi đào tạo học sinh thâu thái những kiến thức khoa học và những luật lệ xã hội để trở thành công dân hữu ích, mục đích tốt của trường học đạt tới thành nhân. Đền thờ đào tạo tín hữu thành thánh nhân, thành công dân nước trời bây giờ và vĩnh viễn muôn đời. So sánh với gia đình, nơi con người được sống trong tình thương ấm cúng, được nuôi dưỡng, săn sóc tới khôn lớn, được chia vui sẻ buồn, an ủi khuyến khích lẫn nhau, che chở, đùm bọc, hy sinh cho nhau. Đền thờ nơi tín hữu sống trong tình thương bao la của Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bằng của ăn thịt máu Con Thiên Chúa, được ấp ủ soi sáng bằng ân sủng Thánh Thần, được chia sẻ lời hằng sống. Và cùng cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa những hy sinh đau khổ, hiệp thông Thánh giá cứu độ của Đức Kitô, cùng với các thánh chung hưởng vinh phúc bất tận của Đấng Cứu Thế phục sinh.
Đền thờ đối với dân Do thái là lẽ sống của dân tộc. Đền thờ còn thì dân tộc còn. Đền thờ tan thì đất nước mất. Đền thờ bị xúc phạm thì toàn dân bị ô nhục. Thời vua Sêđêkia, đền thờ bị quân Babylon thiêu hủy, dân bị lưu đầy. Đền thờ được xây dựng lại, dân được trở về nước (2Ks. 36, 17). Thời Đức Giêsu khi toàn quyền Philatô treo ảnh hoàng đế Caesar (Sêda) ở khuôn viên đền thờ, lập tức dân nổi dậy mạnh mẽ chống đối quân La mã, dù phải chết, phải chịu đóng đinh vào thập giá.
Công vụ Tông đồ cũng kể trường hợp thánh Phaolô dẫn bốn người dân ngoại đã được tẩy uế trước khi dẫn vào đền thờ, thế mà Phaolô vẫn bị người Do thái xách động đám đông bắt ông và đang tìm cách giết Phaolô. May nhờ binh sĩ Rôma đã đến kịp thời, xiềng còng ông lại dẫn về đồn (Cvtd. 21, 26-32).
Đền thờ được tôn trọng như thế, nhưng chính họ lại biến đền thờ thành chợ búa, như hang trộm cướp, không còn là nhà Thiên Chúa, nhà Cha chung để cầu nguyện, tôn thờ Thiên Chúa, nơi quy tụ mọi người trong tình thương mến anh em nữa.
Phải chăng, chỉ còn một mình Đức Giêsu “vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà sẵn sàng thiệt thân, sẵn sàng bị giết đi, sẵn sàng chịu phá hủy, nhưng Người sẽ xây lại đền thờ chỉ trong ba ngày”. Để cứu nguy dân tộc, giải thoát muôn dân, một đền thờ mới sống động bất diệt là “chính mình Người” (Ga. 2, 17. 19-21).
Chính mình Người mới đích thực là đền thờ, là nhà cầu nguyện: “Toàn thể được xây dựng trên tảng đá góc tường là chính Đức Giêsu Kitô để thành ngôi đền thờ. Trong Người cả anh em nữa, cùng với những người khác cũng được xây thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí (Eph. 2, 20-22).
Trong đền thánh cực trọng này, Người dâng lên Chúa Cha tâm tình trìu mến con thảo: “Này con xin đến, để làm theo thánh ý Cha”. Trong đền thánh này, Người cầu nguyện: “Lạy Cha, giờ đã đến! xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha … Lạy Cha, tất cả những gì Cha ban cho Con đều do bởi Cha. Con đã ban lời Cha cho họ … Lời Cha là sự thật, xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ … Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho tất cả những ai nhờ họ mà tin vào Con …” (Ga. 17, 1. 7-8. 17-20).
Trong đền thánh này, Đức Giêsu còn dâng lên Cha bao nhiêu những người đói nghèo, bệnh hoạn, tật nguyền mà Người cứu chữa hàng ngày; bao nhiêu những lao công vất vả gồng gánh nặng nề mà Người đến bổ sức cho họ; bao nhiêu những tội nhân, quỷ ám, mà Người xin Cha cho họ vì họ lầm chẳng biết; bao nhiêu những người bị đả thương nửa sống nửa chết, bao nhiêu những người đau khổ, nhục nhã oan khiên, tù đày, tử đạo thập giá như Người.
Trong đền thờ này, “chính Người là thượng tế đến muôn đời … Một vị thượng tế thánh thiện vẹn toàn, vô tội … cao cả vượt các tầng trời … Người dâng chính mình, và chỉ dâng một lần là đủ … và chỉ mình Đức Kitô dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại” (Pt. 7, 11.26. 28 và 10, 12).
Mỗi người chúng ta đang được dự phần vào đền thờ Đức Giêsu muôn thuở. Mỗi người là một viên gạch nhỏ, một đền thờ nhỏ trong một đền thờ vĩ đại bao trùm cả trời đất. Nhưng mỗi người chúng ta tự hỏi mình là đền thơ, là “nhà Cha Ta”, là “nhà cầu nguyện” hay đã tự biến thành chợ búa, hang trộm cướp.
Thực ra, mỗi người chúng ta đã được là đền thờ Ba Ngôi Thiên Chúa ngay khi chúng ta được rửa bằng nước và Thánh Thần. Thánh Thần đã xức dầu thánh hiến chúng ta thành đền thờ Chúa. Muốn cho đền thờ chúng ta mãi mãi là nhà Cha Ta, là nhà cầu nguyện, chúng ta không được treo một tà thần nào, một thần tượng nào của vùng trời, vùng đất, vùng biển trong đền thờ mình, dù là tiên giáng trần, hay thần tài, thần quyền, chỉ được treo hình ảnh Thiên Chúa mà thôi, vì “Ta là Đức Chúa, Chúa của ngươi … Những ai yêu mến Ta và giữ giới răn của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa với họ đến ngàn đời”. (Xh. 20, 1-17).
Lạy Cha, trong mùa Chay thánh này, xin cho chúng con biết khuyến khích nhau kéo nhau: “nào ta lên đền thánh Cha” để cầu nguyện, dâng lời cảm tạ Cha với tấm lòng sám hối, tan nát, khiêm cung và dâng lên Cha những của lễ hy sinh bác ái, cùng với của lễ duy nhất là Mình Máu thánh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
8.Đức Yêsu là chuẩn mực--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
I. Đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán
Không được biến đền thờ thành nơi buôn bán. Đền thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa. Không tôn trọng nơi tôn nghiêm, là không tôn trọng những người đang hiện diện hoặc đến đây thờ phượng Thiên Chúa.
Người ta có thể lý luận "những người buôn bán này đang làm một việc bác ái", họ tạo điều kiện thuận tiện cho những người dâng lễ có của lễ để dâng kính Thiên Chúa. Thực ra khi làm như vậy, họ đã đặt cái lợi về vật chất trên Thiên Chúa và coi thường Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta là đền thờ sống động của Thiên Chúa. Đừng biến thân xác mình, con người mình thành nơi buôn bán, thành đối tượng buôn bán. Thân xác chúng ta là thánh vì thuộc về Thiên Chúa. Chính Đức Yêsu cũng coi thân mình Ngài là đền thờ: "Cứ hủy đền thờ này và trong ba ngày Ta sẽ xây lại"!
Nếu chúng ta để đam mê thống trị mình, nếu chúng ta còn mê say tiền bạc, danh vọng, địa vị chức quyền, thì Thiên Chúa không có chỗ nhất nơi chúng ta. Bài Tin Mừng còn giúp chúng ta nhìn lại xem đâu là thái độ của tôi đối với thân xác, với sức khỏe, với con người toàn diện của tôi?
Với Đức Yêsu, Thiên Chúa là nhất đối với Ngài. Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán khỏi đền thờ, dù bị những người có quyền hành không đồng ý và tra hỏi: "ông lấy quyền gì mà làm như vậy?" . Hôm nay Đức Yêsu đuổi họ ra khỏi đền thờ, nhưng ngày mai thì sao? những người này có tiếp tục tôn trọng đền thờ không, hay mai họ vẫn làm như cũ? Đức Yêsu vẫn làm điều phải làm. Ngài vẫn làm cho dầu bị người ta ghét bỏ, cho dù người ta không vâng theo ngay trong ngày mai. Đức Yêsu sống giây phút hiện tại cách trọn vẹn, bất chấp tất cả.
II. Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá
Cho dù người Hy Lạp coi trọng và tìm kiếm khôn ngoan, cho dù người Do Thái sính phép lạ, thì Phaolô vẫn "rao giảng Đức Yêsu Kitô chịu đóng đinh".
Cứ sự thường nếu không đáp ứng mong ước, không thỏa mãn thị hiếu của người ta, thì sẽ thất bại! Ấy vậy Phaolô vẫn rao giảng "Đức Yêsu Kitô chịu đóng đinh" cho dù không đáp ứng mong ước của người đương thời. Sở dĩ vậy vì rao giảng "Đức Yêsu chịu đóng đinh" là điều tuyệt đối cần thiết. Đức Yêsu chịu đóng đinh thập giá là một giá trị, và là giá trị tuyệt đối.
"Đức Yêsu chịu đóng đinh", đòi người ta xét lại cách sống của mình. Đức Yêsu đã chọn điều gì? Tại sao Ngài bị đóng đinh? Tôi có cùng cách sống và chọn lựa với Đức Yêsu không?
Rao giảng Đức Yêsu chịu đóng đinh, là rao giảng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Nếu không yêu, tại sao Thiên Chúa lại để Con của Ngài bị khốn khổ như vậy? Nếu không yêu, tại sao Đức Yêsu phải chịu đau đớn khổ cực và ô nhục dường ấy?
Đức Yêsu chịu đóng đinh, là niềm vinh dự, mối tự hào của mọi kitô-hữu. Đức Yêsu chịu đóng đinh, biểu tượng và bằng chứng cho biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.
III. Ta là Thiên Chúa, ngươi không được...
Nội dung của thập giới là gì? Hãy tôn thờ Thiên Chúa, thảo kính cha mẹ và yêu thương con người! Đừng xúc phạm con người, đừng chà đạp nhân phẩm!
Tại sao tôi không được làm điều này điều kia? Thập giới cho thấy khi tôi vi phạm lệnh cấm của thập giới, là tôi xúc phạm con người và Thiên Chúa. Thập giới có là để bảo vệ con người. Ngày sabbat được lập ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabbat.
Luật Cựu Ước lấy con người là chuẩn, còn luật Tân Ước lấy Đức Yêsu làm chuẩn. Luật Cựu Ước dạy "hãy yêu thương tha nhân như chính mình", còn luật Tân Ước dạy: "hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga.13, 34-35).
Luật Cựu Ước cho thấy: nếu xúc phạm con người sẽ bị xử, còn luật Tân Ước cho thấy: nếu không yêu thương, sẽ bị xét xử (Mt.25, 31tt).
Chính Đức Yêsu là Đấng làm cho lề luật nên trọn "Ta đến không phải để phá hủy, nhưng để làm nên trọn".
Xin cho chúng ta trở nên giống Đức Yêsu trong mọi sự.
9.Với Đức Giêsu: Thiên Chúa trên hết--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu Nadarét là một sự kiện rất đặc biệt. Những người đồng hương nhận ra Ngài là một người như bao người; tuy nhiên, sau khi Ngài chết và sống lại, người ta nhận ra Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Ngài là Đấng sống ơn gọi làm người cách trọn vẹn, là Người sống theo Thánh Ý Thiên Chúa Cha dù phải chết. Thiên Chúa là tất cả đối với Đức Giêsu.
I. Thập Giới diễn tả Ý Muốn Thiên Chúa
Thiên Chúa khi sai Môsê đi giải phóng dân Israel khỏi Aicập, đã nói: “khi ngươi đưa dân ra khỏi Aicập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này” (Ex.3, 12). Môsê đã dẫn dân đến núi này, và Thiên Chúa đã “thần hiển” với Môsê và dân (Ex.19). Thập giới là điều khoản Thiên Chúa giao kết với Israel, nghĩa là, nếu dân Israel giữ các điều khoản này, Thiên Chúa sẽ là Thiên Chúa của dân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ dân.
Điều khoản giao ước không thêm gì cho Thiên Chúa, nhưng giúp dân Israel triển nở và hạnh phúc. Một khi người ta giữ giao ước, những người được hưởng nhờ đầu tiên là gia đình và những người thân yêu, sau đó là những người lân cận, rồi tới những người trong đất nước. Khi giữ giao ước, con người sẽ sống an bình với chính mình, và sau đó với người khác. Giao ước Thiên Chúa ban cho con người, không nhằm lợi cho Thiên Chúa nhưng cho con người. Tuy vậy, khi con người tuân giữ không vi phạm thập giới, thì Thiên Chúa được con người. Vinh quang Thiên Chúa được tỏ lộ hơn khi con người triển nở và sống hạnh phúc hơn.
Vi phạm thập giới là dấu chỉ cho con người biết họ đã vi phạm quyền lợi của ngôi vị, dù ngôi vị đó là Thiên Chúa hay tha nhân. Thiên Chúa tạo dựng con người, nên theo lẽ công bình, con người phải tôn kính Ngài. Thờ phượng là từ ngữ dùng để chỉ lòng và thái độ kính trọng đặc biệt dành cho Thiên Chúa. Cha mẹ sinh ra mình, mình cũng phải có thái độ hiếu thảo. Không tôn kính Đấng tạo dựng, không tôn kính cha mẹ, là bất công đối với Thiên Chúa và với cha mẹ mình. Vi phạm những điều khác của thập giới, là xúc phạm đến quyền lợi của người khác, chẳng hạn như giết người, cướp của người ta. Khi vi phạm thập giới, người ta biểu lộ có điều gì đó trục trặc, gây xáo trộn nơi chính tâm hồn mình, và gây xáo trộn bất an trong tương quan với người khác, ngay cả đối với những người thân và những người xung quanh.
II. Đừng biến Nhà Cha Ta thành cái chợ
Sau khi chịu phép rửa ở sông Yordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã trải qua thời gian dài tĩnh tâm cầu nguyện, Ngài ý thức hơn sứ mạng của Ngài, và Ngài đã khởi đầu sứ mạng rao giảng. “Nước Thiên Chúa đang tới gần, hãy thống hối và tin vào Tin Mừng.” Hôm nay khi lên đền thờ dự lễ Vượt Qua, một lễ lớn nhất đối với người Do Thái, kỷ niệm Thiên Chúa giải phóng dân khỏi Aicập, Ngài đã thấy một việc trái tai gai mắt: người ta buôn bán ngay trong đền thờ. Để có thể phục vụ những người từ xa tới có của lễ dâng cho Thiên Chúa, thì người ta đã đem cả súc vật đến bán; cũng có bàn đổi tiền cho những khách phương xa tới. Đức Giêsu đã phản đối. Ngài lấy dây làm thành roi đánh đuổi những người buôn bán chiên cừu trong đền thờ, lật đổ bàn của những kể đổi tiền, nói với những người bán bồ câu: “đem những thứ này ra khỏi đây, đừng biến Nhà Cha Ta thành cái chợ.”
Đức Giêsu đã bị phản ứng: “ông lấy quyền gì mà làm như vậy?” Theo luật, chỉ những người trách nhiệm mới có quyền cho phép hay không cho phép người ta buôn bán trong đền thờ. Đức Giêsu lấy quyền gì mà đánh đuổi người ta? Cứ theo “phép đời,” Đức Giêsu làm trái vì Ngài làm như thể Ngài có quyền mà thực Ngài không có; thế nhưng Đức Giêsu nói với họ: “cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày ta sẽ dựng lại.” Câu trả lời của Đức Giêsu là câu trả lời “như không trả lời” Ai dám làm điều đó, ai dám tin vào lời Đức Giêsu mà dám phá đền thờ này. Tác giả Tin Mừng “giải thích” Ngài nói về đền thờ của Ngài, nghĩa là Ngài sẽ sống lại sau ba ngày. Nhưng chuyện giải thích này chỉ có thể làm sau khi Ngài chết và sống lại, chứ lúc đó, ai mà hiểu như vậy.
Đức Giêsu có quyền làm điều đó. Ngài ý thức điều đó và Ngài đã làm cho dù đối với người khác Ngài không có quyền làm như vậy. Ngài coi đền thờ là Nhà Cha Ngài. Ngài có quyền từ Thiên Chúa là Cha Ngài. Qua những hành vi “bất bình thường” như thế này, giúp các tông đồ và các tín hữu sau này hiểu rõ chân tướng của Ngài hơn. Ngài và Thiên Chúa có một mối tương quan đặc biệt, mà Ngài dám gọi Thiên Chúa là Cha Ngài. Ngài đến từ Thiên Chúa, Ngài là hình ảnh và biểu tượng giúp người ta hiểu biết hơn về Thiên Chúa. Ngài liên kết với Thiên Chúa và phản ánh Thiên Chúa tuyệt đến độ người ta nhận ra Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
III. Chúng tôi rao giảng Đức Giêsu bị đóng đinh
Người Do Thái tìm phép lạ để biết điều gì đó có đến từ Thiên Chúa hay không; người Hylạp tìm kiếm những điều khôn ngoan vì đối với họ: chỉ có khôn ngoan mới là giá trị thật; tuy nhiên, với thánh Phaolô, Đức Giêsu chịu đóng đinh là một giá trị, và là giá trị tuyệt đối. Kể từ khi biết Đức Giêsu, Phaolô coi những điều khác như phân bón, rác rưởi. Biết Đức Giêsu là mối lợi tuyệt vời đối với Phaolô (Pl.3).
Với cái nhìn tổng hợp và không loại trừ, ta có thể nói Đức Giêsu chịu đóng đinh là một “phép lạ” cả thể và là sự khôn ngoan tuyệt vời của Thiên Chúa ban cho con người. Qua cách sống kết hiệp với Thiên Chúa trong cầu nguyện, qua những hành vi dứt khoát chọn Thiên Chúa trên hết như việc đánh đuổi những người buôn bán khỏi đền thờ, qua việc vâng phục thánh Ý Cha trên tất cả như trong vườn dầu và trên thập giá, Đức Giêsu dạy con người biết sống sao cho đúng trên đời này. Đức Giêsu là mẫu gương sống.
Thiên Chúa là trên hết đối với Đức Giêsu, và cũng phải như vậy đối với những ai muốn là môn đệ của Ngài. Tất cả đời sống và hành vi của Đức Giêsu chuyển động và quy hướng về Thiên Chúa. Đức Giêsu đã vâng phục Thiên Chúa cho đến bằng lòng chấp nhận chết trên thập giá. Đức Giêsu chịu đóng đinh, là mẫu gương sống của Phaolô và của tất cả các Kitô hữu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, đâu là tiêu chuẩn sống của Đức Giêsu? Tại sao bạn nghĩ như vậy?
2. Con người là đền thờ của Thiên Chúa, bạn có được Thiên Chúa mời gọi thanh tẩy tâm hồn dịp Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ không? Bằng cách nào?
10.Thanh tẩy đền thờ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Vào thời Chúa Giêsu, dân Do thái vẫn có những hội đường để mỗi ngày sa-bát, ngày thứ bảy, họ đến đây để nghe lời Chúa và cầu nguyện. Đây không phải là nhà thờ hay đền thờ như chúng ta ngày nay. Họ chỉ có một đền thờ duy nhất tại Giê-ru-sa-lem để tế lễ Thiên Chúa, là một nơi linh thiêng thánh thiện. Vậy tại sao lại có chuyện buôn bán, đổi chác tiền bạc ở đền thờ, đến nỗi Chúa Giêsu phải nổi giận, xua đuổi?
Trước hết, về việc buôn bán ở đền thờ. Mỗi năm, vào những dịp đại lễ, như lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần...theo tập tục và thói quen đã trở thành như một luật lệ, bắt buộc các tín hữu khi đến đền thờ dự lễ đều phải dâng vào đền thờ một lễ vật nào đó làm của lễ dâng Thiên Chúa. Người giàu có thì dâng chiên bò, người nghèo thì dâng bánh rượu, dầu hương, chim câu...Nhưng vì gần đền thờ không có chợ, nên các tư tế đã lợi dụng cơ hội để làm ăn: hoặc là chính họ hoặc họ cho phép các con buôn đã nộp thuế cho họ, được buôn bán các thứ lễ vật đó cho những người đến dự lễ. Và đã là chuyện buôn bán thì có người mua kẻ bán, người trả người thách, lại với số đông người, không thể không ồn ào, om xòm, lộn xộn... làm cho khu vực đền thờ có vẻ là một chợ phiên hơn là nơi yên tĩnh để cầu nguyện và tế lễ.
Về chuyện đổi chác tiền bạc. Theo luật buộc: mỗi năm mỗi người trưởng thành phải nộp ½ đồng Xê-ken, tức là một nửa đồng tiền Do thái. Đây là một thứ thuế nghĩa vụ, ai cũng phải nộp và chỉ được nộp tiền Do thái, chứ không nộp thứ tiền nào khác, mặc dầu thời ấy tiền Rô-ma và tiền Hy lạp rất thông dụng, vì những thứ tiền ấy in hình vua ngoại đạo, nên cấm lưu hành trong khu vực đền thờ. Vì thế, để có tiền Do thái nộp thuế cho đền thờ, những người đến dự lễ phải đổi tiền. Đó là lý do sinh ra cái nạn đổi tiền và có những quầy đổi tiền trong đền thờ.
Trước sự bất kính đối với đền thờ như thế, Chúa Giêsu đau xót và nổi giận. Ngài xua đuổi họ. Việc này làm cho các tín hữu hài lòng, duy có nhóm tư tế bực mình, hạch hỏi Chúa: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?". Chúa bảo họ: "Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại".
Hành động của Chúa Giêsu không chỉ đơn thuần là xua đuổi các con buôn, là đụng chạm đến quyền lực và lợi nhuận của hàng tư tế, nhưng sâu xa hơn, đó là cử chỉ tượng trưng, nhằm phủ nhận một cung cách thờ phượng đã bị làm cho biến chất. Và không những phủ nhận nghi thức phụng tự, Chúa Giêsu còn phủ nhận luôn đền thờ bằng gỗ đá, một đền thờ lộng lẫy, huy hoàng, tráng lệ đã được vua Hê-rô-đê cả ra lệnh xây dựng từ năm 19 trước công nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Tin Mừng kể lại hôm nay xảy ra vào năm 28 sau công nguyên. Như vậy đã ròng rã 46 năm trời xây cất vẫn chưa xong.
Khi phủ nhận các nghi thức phụng vụ cũ, phủ nhận cả đền thờ gỗ đá, Chúa Giêsu giới thiệu một đền thờ mới, đền thờ đích thực, đó là thân xác Phục Sinh của Ngài, khi Chúa nói: "Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại", Chúa có ý nói đến thân xác của Ngài. Ngài sẽ bị giết chết, nhưng trong ba ngày Ngài sẽ sống lại.
Chúng ta đang sống trong Mùa Chay, đoạn Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, mỗi người tín hữu đươi coi là một đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng hiện giờ đền thờ ấy có xứng đáng để Thiên Chúa ngư hay không hay là một cái chợ trưng bày đủ thứ, nhất là những thứ cấm kỵ: tham vọng, ích kỷ, hận thù, bất trung, ghen ghét, gian dối...? Không nhiều thì ít, có lẽ đền thờ nơi chúng ta còn đang bất xứng, chúng ta cần thanh tẩy, sửa chữa.
Thứ hai, gia đình Ki-tô hữu cũng được mời gọi trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Liệu trong ngôi đền thờ ấy, các thành viên có biết lấy yêu thương, sự khoan dung tha thứ mà đối xử với nhau, hay ngôi đền thờ đã trở thành quán trọ mạnh ai nấy sống? Liệu trong ngôi đền thờ ấy có Thiên Chúa ngự trị hay đang bị đủ thứ ngẫu tượng chi phối, những ngẫu tượng có tên là tiền bạc, tham vọng, ích kỷ, hận thù, gian dối?
Tóm lại, mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị. Nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi, những cái xấu, những cái tiêu cực...đã chiếm chỗ của Chúa. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những cái đó để trả lại chỗ cho Thiên Chúa bằng sự ăn năn sám hối và cải thiện đời sống.
Xin Chúa cho Mùa Chay thánh này là mùa hồng ân cho chúng ta: cho mỗi người chúng ta trở thành một đền thờ xứng đáng, và cho gia đình chúng ta cũng là một đền thờ tốt đẹp để Thiên Chúa ngự trị, chúc lành và ban ơn cho chúng ta.
11.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Đan Vinh
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý chính: Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ.
Với lòng nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể chấp nhận được cảnh tượng bát nháo diễn ra nơi Đền Thờ của Chúa Cha. Người đã biểu lộ uy quyền của Con Thiên Chúa bằng việc dùng roi xua đuổi bọn con buôn với tiền bạc, chiên bò, chim câu... ra khỏi Đền Thờ. Người tẩy uế Đền Thờ của Chúa Cha và khẳng định rằng: Từ nay việc thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa sẽ phải được cử hành trong Đền Thờ Mới là thân xác Phục Sinh của Người và sẽ tồn tại mãi mãi, thay cho sự thờ phượng tại Đền Thờ Giêrusalem bằng gỗ đá chỉ có tính tạm thời và sẽ bị phá hủy sau này.
2) Chú thích:
* Gần đến Lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem. Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò r a khỏi Đền Thờ. Còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ (Ga 2, 13-15):
+ Lễ Vượt Qua của dân Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem: Vào thời Đức Giêsu, lễ Vượt Qua là một trong ba đại lễ, buộc người Do Thái ở khắp nơi phải hành hương về đền thánh Giêrusalem để sát tế và ăn bữa tiệc chiên vượt qua, kỷ niệm biến cố Xuất Hành, trong đó Đức Chúa dùng Môsê, giải phóng con cháu Giacóp là dân Do Thái khỏi ách làm nô lệ cho dân Ai cập.
+ Người thấy trong Đền Thờ: Đền Thờ là dấu chỉ Đức Chúa hiện diện giữa dân Người.
Câu hỏi: Theo lịch sử dân Ítraen thì đã có bao nhiêu Đền Thờ được xây dựng tại Giêrusalem và cấu trúc của các Đền Thờ ấy thế nào?
Đáp: Không kể đền thờ tạm là Nhà Lều trong thời gian 40 năm dân Do Thái đi qua sa mạc, còn có ba Đền Thờ được xây dựng tại Giêrusalem là Đền Thờ Salômon, Đền Thờ Sau Lưu Đầy và Đền Thờ Hêrôđê như sau:
Đền thờ Salômon: Dưới triều vua Đavít, tuy Hòm Bia đã được đem về Giêrusalem, nhưng vẫn còn được để giữa Mái Lều Vải Nhà Tạm (x.2 Sm 6,17). Vua Đavít muốn xây một Đền Thờ để kính Đức Chúa. Nhưng ngôn sứ Nathan tuyên sấm lời Đức Chúa là sẽ dành việc xây dựng ấy cho con của ông (x.2 Sm 7,2.13). Sau đó, vua Salômon đã thực hiện ý định của vua cha Đavít vào năm 970 và Đền Thờ đã được hoàn tất sau 7 năm thi công (1 V 6,37-38). Đền Thờ này nằm giữa một khu đất rộng là Sân Trước. Tại đây có Bàn Thờ Toàn Thiêu bằng đồng (x. 1 V 8,64). Đền Thờ có chiều dài ba mươi thước, chiều rộng mười thước và chiều cao mười lăm thước, gồm Gian Tiền Đình, Gian Cung Thánh và Nơi Cực Thánh. Tại Gian Cung Thánh có Bàn Thờ Hương, Bàn Bánh Tiến và Mười Chân Đèn bằng vàng (x. 1 V 6,20-21; 7,48-49). Nơi Cực Thánh nằm giữa Đền Thờ có một Bàn Thờ bằng gỗ bá hương và được dát bằng vàng ròng (x.1 V 6,2. 16-22). Tại Nơi Cực Thánh, Hòm Bia Giao Ước được đặt ngay dưới đôi cánh của hai bức tượng Thần sứ Kêrubim. Vào năm 586 trước Công Nguyên, quân Babylon xăm lăng tàn phá thành Giêrusalem và Đền Thờ Salômon này cũng bị phá hủy. Các báu vật trong Đền Thờ đã bị chiếm đoạt mang về Babylon.
Đền thờ sau lưu đày: Được xây trên nền của Đền Thờ cũ và kích thước cũng như trước. Đền Thờ này kém bề thế hơn và Nơi Cực Thánh để trống không. Trong Gian Cung Thánh có đặt một Chân Đèn 7 Ngọn thay cho 10 ngọn đèn như trong Đền Thờ Salômon trước đó. Dân hồi cư trước hết đã tái lập Đền Thờ Toàn Thiêu. Việc xây dựng Đền Thờ Kéo dài trong 5 năm và được thánh hiến vào năm 515 trước Công Nguyên. Năm 169 Đền Thờ này lại bị vua Antiôcô IV chiếm đoạt và xúc phạm. Đến năm 164, Giuđa Máccabê đã thanh tẩy Đền Thờ, lập một Bàn Thờ Toàn Thiêu mới và trang hoàng lại Gian Cung Thánh.
Đền thờ Hêrôđê: Để tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng, Hêrôđê đã mở rộng chu vi và trang trí lại bên trong Đền Thờ. Công việc trùng tu Đền Thờ bắt đầu từ năm 20 trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công Nguyên mới tạm xong và được tổ chức khánh thành các công trình chính (x.Ga 2,20). Sau đó việc trùng tu Đền Thờ lại tiếp tục đến năm 63 sau Công Nguyên mới chấm dứt. Về mặt cấu trúc: Đền Thờ có bốn hàng cột nằm ở ba mặt của Đền Thờ: Về phía Đông có hành lang Salômon (x. Cv 3,11; 5,12); Phía Tây Bắc có pháo đài Antônia thông ra sân ngoài. Nơi đây thường xuyên có một tiểu đoàn quân lính Rôma trú đóng, mục đích giữ gìn an ninh trật tự trong các dịp lễ lớn của dân Do Thái và sẵn sàng trấn áp bạo loạn (x. Cv 21,31-37). Đền Thờ có bốn cổng lớn. Một bức tường bằng đá được dùng làm ranh giới cấm lương dân vượt qua. Nội vi Đền Thờ có nhiều sân: Bên ngoài bức tường đá là sân lương dân, là nơi các luật sĩ thường lui tới bàn luận với nhau (x. Cv 3,11). Sân nữ giới nằm giữa nơi có dân chúng ra vào và ăn thông với Cửa Đẹp (x. Cv 3,2). Tiếp theo là sân Ítraen dành cho nam giới. Cuối cùng là sân Tư Tế. Tại đây có đặt một Bàn Thờ Toàn Thiêu. Cách đó 10 thước, toàn bộ thánh điện được thiết kế giống như Đền Thờ ngày xưa gồm Tiền đường, Nơi Thánh và Nơi Cực Thánh. Về số phận của Đền Thờ Hêrôđê: Đức Giêsu đã tiên báo sự sụp đổ của Đền Thờ này (x. Lc 21, 5-7). Người cũng báo cho các tín hữu biết trước về ngày thành Giêrusalem bị quân thù kéo đến bao vây và sẽ bị tiêu diệt. Sự kiện này được coi như hình bóng của Ngày Tận Thế (x. Lc 21,20-28). Quả thật, lời tiên báo của Đức Giêsu đã trở thành hiện thực: Dân Do Thái đã nổi loạn và quân Rôma do tướng Titô chỉ huy đã đến bao vây Giêrusalem. Đến ngày mùng 06 tháng 8 năm 70, thành đã bị thất thủ. Trong lúc hỗn loạn, một tên lính Rôma đã ném một bó đuốc vào trong Đền Thờ, lửa bốc cháy tấm màn che giữa Gian Cung Thánh và Nơi Cực Thánh và toàn bộ Đền Thờ đã bị thiêu hủy. Chỉ một ít đồ thánh như chân đèn 7 ngọn và Bàn Thờ Dâng Bánh còn sót lại và được mang về Rôma như chiến lợi phẩm (x. Dcr 14,1).
+ Có những kẻ bán chiên bò bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền: Tại sân lương dân, các Tư Tế cho một số người bán chiên, bò và chim câu... để dân chúng mua mà dâng làm lễ vật cúng tế trong Đền Thờ (x. Ga 2,14; Lc 2,24). Cũng có cả những người ngồi đổi tiền từ đồng tiền của Rôma lưu hành ngoài xã hội, trên đồng tiền có hình và ký hiệu của hoàng đế Xêda (x. Lc 20,24-25), nên bị cấm lưu hành trong Đền Thờ. Dân Do Thái muốn đóng thuế Đền Thờ hay góp tiền trùng tu Đền Thờ (x. Lc 21,1-2) thì trước hết phải đổi từ tiền của Rôma thành tiền của Đền Thờ tại bàn đổi tiền rồi mới được đóng góp (x. Ga 2,14).
+ Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ: Sự bất kính do bọn con buôn gây ra như thế khiến Đức Giêsu rất đau lòng. Người nổi cơn thịnh nộ và đã dùng giây thừng cột thú vật được ném bừa bãi ở nơi đó, chấp lại thành roi rồi dùng roi ấy đánh đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ.
* Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán". Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân". Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" Đức Giêsu đáp: "Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại" (Ga 2,16-19):
+ "Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán": Nói câu này, Đức Giêsu tự xưng là Con Thiên Chúa. "Nơi buôn bán" hay "hang trộm cướp" là kiểu nói diễn tả tình trạng bất kính ở trong Đền Thờ, một nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa! Thế là ứng nghiệm lời các ngôn sứ đã tuyên sấm quở trách dân Do Thái xưa (x. Gr 7,11).
+ "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân": "Sẽ phải thiệt thân" nghĩa là "sẽ phải chết". Như vậy ý nghĩa lời Thánh Vịnh 69,10 như sau: lòng nhiệt thành với Đền Thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x.Ga 15,5).
+ Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?": "Người Do Thái" trong câu này ám chỉ các chức sắc Đền Thờ như các Tư Tế và Lêvi. Họ bực tức khi thấy Đức Giêsu đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ. Do đó họ hạch hỏi Đức Giêsu dựavào dấu lạ nào để chứng minh mình được Thiên Chúa sai đến thực sự và có quyền xua đuổi con buôn như thế. Trước đây họ cũng nhiều lần đòi Đức Giêsu chứng minh Người được Thiên Chúa sai đến, bằng cách phải làm phép cho họ thấy mà tin Người (x. Mt 12,38; Mc 8,11; Lc 11,16).
+ "Các ông cứ phá Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại": Ở đây, Đức Giêsu cho họ một phép lạ làm chứng Người được Thiên Chúa sai đến, là phép lạ Người sẽ sống lại nội trong ba ngày. Tuy nhiên Đức Giêsu xử dụng kiểu nói dụ ngôn mà các ngôn sứ hay dùng là đã gọi thân thể của mình là Đền Thờ. Câu này có nghĩa là: Dù họ có giết chết Người thì cũng chỉ trong ba ngày Người sẽ sống lại.
* Người Do Thái nói: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?" Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết chổi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói (Ga 2,20-22):
+ Phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong: Các đầu mục Do Thái đã hiểu sai ý của Đức Giêsu. Họ hiểu lời Người theo nghĩa đen nên mới nói về thời gian xây dựng Đền Thờ mất 46 năm (Khởi công năm 20 trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công Nguyên mới tạm hoàn thành những công trình chính), đang khi ý Đức Giêsu ám chỉ Đền Thờ là Thân Thể của Người. Sau này khi Thượng Hội Đồng Do Thái xét xử Đức Giêsu do Caipha chủ tọa có hai kẻ đứng ra cáo gian rằng: "Tên này đã nói: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày sẽ xây cất lại" (Mt 26,61). Họ cũng nhắc lại điều tố cáo này khi lăng nhục Người trên thập gía (x. Mt 27,40).
+ Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người: Thân Thể Đức Giêsu phục sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình ra cho loài người (x. Ga 1,14). Thân Thể ấy là Đền Thờ Mới, là nơi thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật (x. Ga 4,23-24).
+ Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó: Chỉ dưới ánh sáng Phục Sinh và được ơn Thánh Thần tác động, các môn đệ mới hiểu chính xác về lời nói và việc làm của Đức Giêsu (x. Ga 12,16; 14,26).
+ Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói: Lời Thiên Chúa trong Kinh Thánh và Lời Đức Giêsu tiên báo đều đã được ứng nghiệm (x. Ga 18,9.32). Do đó cả hai đều được các môn đệ tôn trọng.
* Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. Nhưng chính Đức Giêsu không tin họ, vì Người biết họ hết thảy, và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người (Ga 2,23-25):
+ Nhiều kẻ tin vào danh Người. Nhưng chính Đức Giêsu lại không tin họ: Phép lạ chỉ kích thích trí tò mò làm cho người ta đến xem để biết thực hư ra sao. Nhưng đức Tin là bởi nghe (x. Rm 10,17) chứ không bởi thấy, như lời Đức Giêsu Phục Sinh nói với Tôma: "Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"(Ga 20,29). Một số khá đông dân chúng tin Đức Giêsu vì đã thấy các phép lạ Người làm (x. Ga 12,17-18). Nhưng đức tin dựa trên mắt thấy như vậy là đức tin bất toàn và không bền vững. Do đó Đức Giêsu không mấy tin các tín hữu này. Thực vậy, khi bị xét xử trước tòa quan Philatô, trong số đám đông dân chúng đòi kết án tử hình thập gía cho Đức Giêsu, chắc không thiếu những kẻ đã từng tin và hoan hô Người là "Con Vua Đavít", "Đấng nhân Danh Chúa mà đến!" lúc Người khải hoàn vào thành Giêrusalem (x. Lc 19,37-38; Ga 12,12-15). Đàng khác, không phải cứ trông thấy phép lạ là người ta sẽ tin. Các kẻ thù của Đức Giêsu đã từng chứng kiến bao phép lạ người làm, thế mà họ đâu có tin. Ngược lại còn quyết tâm tiêu diệt Người nữa (x. Ga 11,45-53). Họ xuyên tạc để lôi kéo dân chúng đừng tin theo Người, như nói rằng: "Ông ta nhờ tướng quỉ mà trừ quỉ" (Mc 3,22).
+ Người biết họ hết thảy: Thánh gioan đã ghi lại nhận xét này khi thấy dân chúng nô nức đi theo Đức Giêsu. Người biết rõ ý của họ và đã nói thẳng với họ rằng: “Thật, tôi bảo thật các ông: Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê!" (Ga 6,26). Trong phép lạ chữa bệnh nhân bại liệt, Mátthêu cũng viết: "Đức Giêsu biết ý nghĩa của họ liền nói: Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy?..." (Mt 9,4).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây. Đừng biến Nhà Cha tôi thành nơi buôn bán" (Ga 2,16):
Câu chuyện: Tiếng chim hót trong bụi mận gai.
Thỉnh thoảng đài truyền hình VN lại cho chiếu bộ phim "Tiếng chim hót trong bụi mận gai" mà tác gỉa là một nữ văn sĩ người Úc theo đạo Tin Lành. Khi viết cuốn tiểu thuyết này, bà đã đứng trên quang điểm của đạo Tin Lành để phê phán luật độc thân của hàng giáo sĩ Công Giáo. Tuy nhiên, câu chuyện này cũng là cơ hội để chúng ta suy nghĩ về sức mạnh của đồng tiền ảnh hưởng thế nào trong cuộc sống cá nhân và cộng đoàn Giáo Hội.
Câu chuyện về một linh mục là Cha Ráp (Ralph). Ráp là một linh mục trẻ nhiều tài năng nhưng cũng đầy tham vọng. Vị linh mục này có khá nhiều ưu điểm, có sức cuốn hút nhiều người đến với mình. Nhưng đồng thời ông ta cũng muốn được nổi danh và ham mê tiền bạc. Trong số các người mến mộ Cha Ráp, có một bà già quí phái giàu có. Bà quí mến Cha cách đặc biệt nhưng không được đáp lại, nên tình yêu đã biến thành thù hận. Thay vì trả thù theo kiểu thường tình, thì người đàn bà này có sáng kiến gài bẫy để bôi đen cuộc đời vị linh mục trẻ: Trước khi chết, bà đã làm tờ di chúc dâng cúng toàn bộ tài sản kếch sù của bà cho Giáo Hội Công Giáo, với điều kiện duy nhất là Giáo Hội phải cử Cha Ráp làm quản lý số tài sản đó. Cách trả thù của bà quí phái giàu có đã thành công: Cha Ráp dần dần được cất nhắc lên địa vị khá cao trong Giáo Hội. Nhưng đồng thời chính đồng tiền mà Cha quản lý đã làm cho đời sống tinh thần của Cha ngày một xuống cấp và cuối cùng Cha đã sa ngã vào các đam mê tội lỗi, trái với sự tình nguyện "sống độc thân vì Nước Trời" mà Cha đã khấn hứa.
Suy nghĩ và thảo luận:
+ Suy nghĩ: Câu chuyện trên dầu sao cũng nói lên một thực tại: Hễ là người thì dù ở trong bất cứ hoàn cảnh hay bậc sống nào, nếu không biết khôn ngoan phòng tránh, thì đều có nguy cơ bị ngã gục trước sức mạnh của đồng tiền! Thực ra: Tiền của là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống: "Đồng tiền liền khúc ruột!", hay như lời Chúa dạy: "Kho tàng của anh ở đâu thì lòng anh ở đó" (Mt 6,21). Tiền bạc giúp người ta sống xứng với nhân phẩm: "Phú quí sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc!". Tiền bạc cần để duy trì các hoạt động của mọi tổ chức từ trên xuống dưới, mà còn làm được rất nhiều việc hữu ích về phụng vụ, truyền giáo, bác ái xã hội, phục vụ những người nghèo khổ, bệnh tật và bất hạnh... Tuy nhiên, "Tiền của sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu". Bao lâu ta coi đồng tiền là phương tiện thì nó giúp ta làm được rất nhiều việc tốt đẹp hữu ích cho Chúa và tha nhân. Vì "có tiền mua tiên cũng được!". Nhưng nếu ta quá coi trọng đồng tiền, biến nó trở thành mục đích cuộc đời mình. Nếu lúc nào ta cũng lo kiếm tiền bằng bất cứ giá nào, thì bấy giờ đồng tiền sẽ trở thành ông chủ và sẽ sai khiến ta ăn ở bất công với người dưới, bất nhân độc ác khi cố tình làm ngơ trước nỗi đau của đồng loại, hoặc khi tranh chấp quyền lợi với đối phương, gian dối và lừa đảo trong các quan hệ kinh doanh làm ăn, vô lương tâm và không còn nghĩ tới tội phúc, thưởng phạt đời sau...
+ Thảo luận: Theo bạn thì việc thờ phượng Thiên Chúa tại nhà thờ và làm chứng cho Đức Kitô ngoài xã hội, Giáo Hội có cần tiền bạc không và cần tiền làm gì? Bạn sẽ làm gì để giúp Giáo Hội có tiền bạc để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân cách tốt đẹp hơn? Giả như Đức Giêsu sắp đến viếng thăm bạn, vậy cần phải cấp thời thanh tẩy những gì trong tâm hồn của bạn để tránh bị Người nổi giận?
2) Tránh trở nên chướng ngại vật cản trở tha nhân tìm đến với Chúa:
Câu chuyện: Niềm tin của Thánh Găngđi nước Ấn độ:
Khi còn là một sinh viên, Găngđi (Mahatma Gandhi) được du học tại Nam Phi một thuộc địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Găngđi có dịp đọc Kinh Thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất là kinh Tám Mối Phúc thật trong phần Bài Giảng Trên Núi. Ong rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do Thái hay lương dân...Găngđi nghĩ rằng: Có lẽ Kitô giáo chính là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong xã hội An Độ quê hương của ông. Găngđi nghĩ mình nên tìm hiểu và sớm gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Găngđi có ý định đi bộ đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Công Giáo. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại và không cho ông bước vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định tìm hiểu đạo của mình. Nhưng thật là bất ngờ khi người giữ cửa lại nói như sau: "Đây là Nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến Nhà thờ khác dành riêng cho dân da màu mà xin!". Găngđi rất tức giận và bỏ về nhà, ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau: "Tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Người. Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Người! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo đâu có hơn gì Ấn Giáo có phân biệt giai cấp của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn Giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ!".
Suy niệm: Vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta chắc cũng có lần trở thành một chướng ngại vật, ngăn cản anh chị em lương dân tìm đến gặp Chúa. Chỉ cần một lời nói sẵng giọng và thiếu tế nhị, một thái độ lạnh nhạt thiếu nhã nhặn hay một cử chỉ khinh dễ coi thường tha nhân, một hành động hẹp hòi ích kỷ trái với tinh thần quảng đại vị tha của Tin Mừng hoặc một gương mù gương xấu nơi vị chủ chăn...là có thể chúng ta đã xua đuổi anh chị em lương dân ra khỏi nhà thờ và sau này họ khó còn cơ hội nào khác để trở lại.
3) Cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại (Ga 2,19):
Câu chuyện: Tiền vào nhà, Chúa đi ra:
Ở bên Pháp, có đôi vợ chồng bác nông dân kia làm tá điền cho một ông bá tước giàu có. Đội vợ chồng này tuy nghèo nhưng lại có lòng đạo đức. Mỗi buổi sáng, khi vừa nghe tiếng chuông nhà thờ là hai vợ chồng đã lập tức thức dậy và mau mắn đến nhà thờ tham dự Thánh Lễ và Rước lễ sốt sắng. Sau lễ, họ trở về nhà, vội ăn sáng rồi vác cuốc ra đồng làm việc và mãi đến chiều tối mới trở về nhà. Ngày nào hai vợ chồng cũng đều đọc kinh tối chung với nhau trước khi ngủ. Họ luôn sốngvui vẻ hòa thuận và chưa hề nghe họ cãi vã to tiếng với nhau bao giờ. Họ được mọi người trong làng khen ngợi bình chọn là một gia đình đạo đức tiêu biểu và họ trở thành gương sáng cho các đôi vợ chồng khác học tập noi theo. Ông chủ đất này muốn thử xem lòng đạo đức của đôi vợ chồng tá điền kia có thật hay không. Một hôm, ông sai gia nhân mang một túi đựng 100 đồng tiền vàng đến bí mật để ngay trước cửa nhà của đôi vợ chồng bác tá điền. Sáng hôm ấy, khi mở cửa đi lễ như thường lệ thì phát hiện ra một túi tiền vàng được ai đó để trước cửa nhà. Thế là đôi vợ chồng thôi không đi lễ nữa và vội đóng cửa lại để đếm tiền. Đếm đi đếm lại mãi, đến nỗi họ chẳng thiết gì đến ăn uống và không ra đồng làm việc. Sau khi đã nắm vững số tiền đang giữ, hai vợ chồng bàn định tìm chỗ để cất giấu cho an toàn. Mỗi người một ý không ai chịu ai cả, và lần đầu tiên họ đã cãi vã nhau. Cuối cùng họ nhất trí sẽ để túi tiền ngay dưới gối và nằm đè lên cho chắc ăn. Tuy vậy, họ vẫn khống yên tâm, nên cả hai đều không dám rời xa chiếc giường. Thực đúng như lời Chúa đã phán: "Kho tàng của ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó" (Mt 6,21). Lúc nào tâm trí họ cũng nghĩ tới số tiền kia đến dộo ăn uống ngủ nghĩ thất thường. Cũng từ hôm ấy, hai vợ chồng chẳng còn tha thiết cùng đi dâng lễ mỗi sáng và đọc kinh tối chung với nhau nữa! Lòng họ lúc nào cũng lo sợ sẽ có ngày chủ nhân túi tiền đến đòi lại số tiền ấy. Sau một tuần căng thẳng, cả hai vợ chồng đều suy nhược và bị cảm ho đau nhức phải nằm liệt giường. Khi biết rõ tình trạng của đôi vợ chồng này, một hôm ông bá tước đã đến thăm hỏi. Trong cuộc nói chuyện, ông đã ôn tồn giải thích cho đôi vợ chồng biết nguyên nhân gây ra bệnh của họ. Ông cũng tường thuật cặn kẽ các việc ông đã làm cách đó một tuần để chứng minh lời Đức Giêsu nói: "Không ai có thể làm tôi hai chủ!...Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được" (Mt 6,24), và lời thánh Phaolô: "Lòng yêu mến tiền của là căn nguyên của mọi sự dữ" (1 Tm 6,10). Ông bá tước đã thuyết phục được đôi vợ chồng tá điền sẵn lòng trả lại túi vàng cho ông không thiếu đồng nào. Cũng từ lúc đó, đôi vợ chồng tá điền đã tìm lại được sự bình an trong tâm hồn. Họ lại vui tươi yêu đời, sớm hôm đọc kinh dự lễ để thờ phượng Chúa, phó thác cuộc sống trong tay Chúa Quan Phòng, và thực thi giới răn yêu thương như Đức Giêsu đã dạy.
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ ra uy nghiêm và quyết liệt khi dùng roi xua đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ, không ngại bị họ thù ghét làm hại. Nếu Chúa sống trong thời đại của chúng con hôm nay, chắn hẳn Chúa đã phải mạnh tay hơn để tẩy uế, khi nhiều ngôi Thánh Đường đã bị coi thường. Một số nhà thờ vì không có khuôn viên và chung quanh là đường đi, nên bị một số nười thiếu ý thức đem rác đến đổ bừa bãi, biến sân nhà thờ thành một bãi rác lộ thiên. Rồi chó mèo tự do phóng uế làm mất vệ sinh chung sân Nhà Chúa. Rồi cả những phần tử bất hảo cũng kéo đến tổ chức ăn nhậu, bài bạc, hút chích và đàng điếm... gây cảnh ồn ào náo loạn làm mất sự trang nghiêm trật tự lẽ ra phải có ở nơi dành riêng cho việc thờ phượng.
Lạy Chúa, nhất là thân xác của chúng con là Đền Thờ Chúa Thánh Thần, thế mà nhiều lần đã trở nên nhơ uế khi chúng con suy nghĩ, nói năng và hành động theo thói thế gian, chiều theo tính xác thịt của mình thay vì theo ý Chúa, khi chúng con chiều theo các đam mê lạc thú bất chính mà phạm tội mất lòng Chúa. Trong những ngày Mùa Chay này, xin Chúa giúp chúng con thanh tẩy tâm hồn và thể xác nhờ siêng năng đến nhà thờ cầu nguyện dâng lễ, tích cực tham dự các buổi tĩnh tâm, làm các việc hãm mình để biểu lộ tâm tình sám hối, quyết tâm đổi mới đời sống để mỗi ngày trở nên con ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, và sống hòa thuận yêu thương để trở thành anh chị em thực sự của mọi người.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Thánh Mẫu Maria, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã trả lời cho các đầu mục Do Thái về dấu lạ chứng minh Người có quyền xua đuổi con buôn ra khỏi Đền Thờ. Đó là: " Cứ phá hủy Đền Thờ do tay người phàm xây dựng, và chỉ trong ba ngày tôi sẽ xây dựng một Đền Thờ khác không phải do tay người phàm!" (Mc 14,58; Ga 2,19).
Lạy Mẹ, chúng con hiểu rằng Chúa muốn dạy chúng con: cần phải phá hủy con người cũ với những đam mê tội lỗi, để từ đó phát sinh ra một con người mới thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa. Những việc thờ phượng có tính hẹp hòi, nặng hình thức phải được thay bằng một tâm tình yêu mến tha thiết. Cần phải thờ phượng Chúa trong thần khí và sự thật (x. Ga 4,23). Vậy trong những ngày Mùa Chay này, xin Mẹ giúp chúng con thanh luyện và đổi mới cách thờ phượng theo thánh ý Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
12.Nhà Chúa Cha và nơi buôn bán--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
1. Lề Luật và Đền Thờ
Bài đọc I của Thánh Lễ Chúa Nhật II Mùa Chay trích sách Xuất Hành, kể lại biến cố trọng đại: qua trung gian ông Mô-sê, Đức Chúa công bố cho dân Mười Điều Răn, vốn sau này sẽ trở thành trung tâm của toàn bộ Lề Luật[1]. Và trình thuật Tin Mừng theo thánh Gioan cũng kể lại một biến cố trọng đại không kém: Đức Giê-su “sắp xếp” lại Đền Thờ, vốn là trung tâm của đời sống Dân Chúa. Có thế nói, Người “sắp xếp” lại khởi đi từ tình trạng “hỗn mang” của Đền Thờ. Vì thế, hành động “sắp xếp” của Người có ý nghĩa “sáng tạo”; bởi lẽ, sáng tạo theo trình thuật “Sáng Tạo Bảy Ngày” (St 1), không chỉ là tạo ra sự vật, nhưng còn là sắp xếp những sự vật đã hiện hữu. Nhưng đâu là tương quan giữa hai biến cố trọng đại này?
* Cả hai biến cố đều có bối cảnh Xuất Hành: “Ta là Đức Chúa… đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai cập” (Xh 20, 2); “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái…” (Ga 2, 13). Như thế Lề Luật và Đền Thờ đều đặt nền tảng trên ơn huệ Thiên Chúa ban và có mục đích vừa tưởng nhớ ơn huệ Thiên Chúa ban và vừa bày tò lòng biết ơn bằng việc phụng tự và bằng cuộc sống. Điều này cũng phải là như thế đối với chúng ta, trong việc giữ luật và việc cử hành phụng vụ, nhất là cử hành phụng vụ Thánh Thể.
* Tuy cả hai là đều là “trung tâm”, như chúng vừa nói, nhưng cả hai đều có “vấn đề”: Đền Thờ, Nhà của Thiên Chúa, nhưng bị Sự Dữ, ngang qua những con người cụ thể, biến thành nơi buôn bán. Và tương tự như thế, Luật là tốt và thánh, nhưng trong thực tế đã để cho Tội, nghĩa là Sự Dữ, lợi dụng để mang lại bầu khí chết chóc và gây ra cái chết cho con người (St 3, 1-7 và Rm 7, 7-13).
* Vì thế, cả hai, Lề Luật và Đền Thờ, cần được Đức Giê-su “sắp xếp” lại. Và điều lạ lùng là Ngài thực hiện bằng chính cái chết của Ngài, nghĩa là bằng mầu nhiệm Vượt Qua, vì Lề Luật và vì Đền Thờ. Vì Lề Luật: “Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết” (Ga 19, 7)[2]. Vì Đền Thờ: người ta sẽ dựa vào hành động “sắp xếp” lại Đền Thờ để chất vấn (x. Ga 2, 18) và kết án Đức Giê-su (x. Mt 26, 61), như lời Thánh Vịnh loan báo: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân” (Tv 69, 10); hơn nữa, Đức Giê-su muốn thay thể Đền Thờ bằng chính thân thể của Người (x. Ga 2, 19 và 21).
Chết vì Lề Luật và vì Đền Thờ, phải chăng công trình “sắp xếp” của Đức Giê-su bị thất bại? Để mình bị lên án và bị giết chết, đó là sỉ nhục và điên rồ đối với con người, như thánh Phao-lô nói trong bài đọc II: “; nhưng đối với TC, đó lại là sức mạnh và khôn ngoan, là con đường ĐGS hoàn tất công trình “sắp xếp” hai vấn đề “trung tâm” nhất của đời sống con người, Lề Luật và Đền Thờ.
Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. (1Cr 1, 22-24)
Đó là chính là “công trình kì diệu của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Mt 21, 42 và Tv 118, 23), mà chúng ta được mời gọi chiêm ngắm trong mầu nhiệm Vượt Qua.
2. Nhà Chúa Cha và nơi buôn bán
Hình ảnh Đức Giê-su bừng bừng nổi giận đánh đuổi những người buôn bán trong Đền Thờ, có thể làm chúng ta kinh ngạc. Tương tự như sự kinh ngạc được gây ra bởi những lời nguyền rủa chống lại kẻ dữ trong các Thánh Vịnh (chẳng hạn Tv 69; Tv 139, 19-22; Tv 141, 10).
Về biến cố này, trong ba Tin Mừng nhất lãm, Tin Mừng theo thánh Luca kể nhẹ nhàng nhất: “Đức Giê-su vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán” (Lc 19, 45); hai Tin Mừng còn lại kể lại cùng một biến cố với nhiều chi tiết hơn: kẻ mua người bán, các bàn đổi tiền, các sạp bán bồ câu… (x. Mt 21, 12 -14; Mc 11, 15 -19). Nhưng thánh sử Gioan, trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ Chúa nhật hôm nay, tường thuật biến cố này cách đặc biệt nhất:
* Đức Giê-su đi Giê-ru-sa-lem và vào Đền Thờ ngay từ đầu thời gian rao giảng Tin Mừng. Chính vì thế, biến cố này có liên quan và hướng đến mầu nhiệm Vượt Qua. Tương tự như ngay từ đầu, Người đã so sánh con rắn đồng với mầu nhiệm Thập Giá, khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô (x. Ga 3, 14).
* Và hành động của Ngài rất mạnh mẽ: Ngài tự bện cho mình cái roi đánh đuổi mọi người và hất tung tất cả ra khỏi Đền Thờ: súc vật, tiền bạc, bàn ghế, những người buôn bán.
Các môn đệ chứng kiến cảnh tượng, liền trích Tv 69, 10: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân” !
***
Tuy nhiên, lời của Đức Giêsu sẽ giúp chúng ta hiểu và nhất là cảm nếm hành vi mạnh mẽ của Ngài:
Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,
đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán. (c. 18)
Bởi vì có một tương phản rất lớn, nếu không muốn nói là tuyệt đối, giữa Nhà Chúa Cha và nơi buôn bán. Tin Mừng Luca nói cho chúng ta biết yếu tính của từng nhà, nhà Chúa Cha và nơi buôn bán:
Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi biến thành sào huyệt của bọn cướp. (Lc 19, 46)
Thật là lạ lùng, khi Đức Giêsu nhìn ra “sào huyệt của bọn cướp” ở nơi người ta buôn bán ! Tuy nhiên, kinh nghiệm sống của chúng ta cho thấy, trong cách người ta buôn bán ngày nay, nhất là trong cách người ta buôn bán ngày nay, thường hay có sự gian dối, lọc lừa, thậm chí hành vi nguy hại cho sự sống, chỉ vì ham lợi trước mắt. Một đàng, nhà của Thiên Chúa là nhà cầu nguyện, nghĩa là nơi Dân Chúa diễn tả và sống tương quan Giao Ước với Thiên Chúa của mình, là nơi Thiên Chúa hiện diện và nói với dân của Ngài; đàng khác, là “sào huyệt của bọn cướp”. Hai thực tại quá khác biệt, quá tương phản, quá đối lập, và có thể nói, trái ngược nhau tuyệt đối:
* Nơi chốn của nhưng không, hiệp thông, của sự thật, của ý nghĩa, của ánh sáng, của hiền lành, của sự sống.
* Nhưng trong thực tế, nơi này đã trở thành nơi của loại trừ, nơi của gian dối, của vô nghĩa, nơi của bóng tối, nơi của bạo lực, nơi của sự chết. Sào huyệt của bọn cướp chính xác là như vậy.
Chứng kiến cảnh tượng Đền Thờ như thế và hiểu ở mức độ tuyệt đối như Đức Giê-su đã hiểu, làm sao Ngài không nổi giận cho được? Tuy nhiên, sự nổi giận của Ngài mang tính giải phóng, chứ không phải loại bỏ: giống như những lời nguyền rủa của các Thánh Vịnh, Đức Giêsu làm bật sự dữ khỏi chỗ ẩn nấp của nó, để chúng ta nhìn thấy, và khi nhìn thấy, chúng ta không thể chấp nhận được, vì nó không tương hợp với hình ảnh Thiên Chúa có nơi chúng ta. Đó chính là cách Người chữa lành và giải thoát chúng ta khỏi sự dữ trong cuộc Thương Khó và mầu nhiệm Thập Giá.
Chúng ta được mời gọi đọc tình trạng của Đền thờ như biểu tượng diễn tả, nhưng chính xác hơn phải nói là mặc khải, sự thật sâu xa và rất đau lòng về thế giới của chúng ta, về xã hội, về Giáo Hội, về cộng đoàn, về chính con người của chúng ta, nhất là nội tâm của chúng ta, bởi vì đó cũng là những “nơi tôn nghiêm” như đền thờ, nhưng đã bị biến dạng, trở thành “nơi buôn bán” !
Hiểu ra như vậy, chúng ta được mời gọi tự nguyện xin Chúa nổi giận và làm như Ngài đã làm xưa kia nơi Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, với con người của chúng ta, với nội tâm của chúng ta, để tái tạo con người chúng ta như ơn gọi ban đầu: nghĩa là để cho Lời của Ngài vang vọng mỗi ngày trong nội tâm và trong ngày sống của chúng ta, như xưa Ngài đã đến giảng dạy trong Đền Thờ hằng ngày.
3. Thanh tẩy Đền Thờ và mầu nhiệm Vượt Qua
Qua hành động “thanh tẩy”, Đức Giê-su không chỉ phá đổ cái trật tự đang có của Đền Thờ, nhưng còn đụng đến “quyền lợi” của các thượng tế và kì mục. Hơn nữa, Ngài còn gọi cái “trật tự” đang có của Đền Thờ là cái hang trộm cướp! Chính vì thế, chúng ta không lạ gì khi các thượng tế và kì mục đến chất vấn Người về quyền hạn:
Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế? (c. 18)
Tất cả các thánh sử đều kể lại lời chất vấn này (x. Mt 21, 23; Lc 20, 2; Mc 11, 28), bởi vì câu hỏi này là một câu hỏi liên quan đến căn tính của Đức Giê-su, đến tương quan duy nhất của Ngài với Thiên Chúa Cha: quyền của Ngài đến từ Chúa Cha, bởi vì Ngài đến từ Chúa Cha, Ngài là Con Duy Nhất của Chúa Cha. Chính vì thế, Người trả lời bằng cách nói về mầu nhiệm Vượt Qua, là mầu nhiệm qua đó, Người mặc khải cho người Do Thái và cả loài người chúng ta, Người là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống:
“Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”… Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. (c. 19 và 21)
Hành động và lời nói của Đức Giê-su về Đền Thờ loan báo cuộc Thương Khó của Người. Chính vì thế, theo lời kể của thánh sử Mác-cô, các thượng tế, kinh sư và kì mục đã có ý định giết Đức Giê-su khi chứng kiến Ngài đánh đuổi tất cả những người mua bán, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu, và khi nghe Ngài nói: “Nào đã chẳng có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc sao? Thế mà các người đã biến thành sào huyệt của bọn cướp!” (Mc 11, 17).
Các thượng tế và kinh sư nghe thấy vậy,
thì tìm cách giết Đức Giê-su. (Mc 11, 18)
Một cung cách đã khơi dậy nơi người chứng kiến ý định loại trừ, thì hẳn phải là một cung cách có tầm mức rất lớn, tầm mức lịch sử cứu độ, bởi vì đó là ý định loại trừ Đức Giê-su, Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa. Nhưng, đó lại là con đường Thiên Chúa chọn để xây dựng Đền Thờ mới, để hoàn tất lịch sử cứu độ.
Như thế, với mầu nhiệm Vượt Qua, Đức Giê-su sẽ thay thế Đền Thờ và cơ chế lễ tế của Đền Thờ bằng Lời của Ngài, bằng sự hiện diện của Ngài và bằng chính thân mình Ngài, làm của lễ hoàn thiện dâng lên Chúa Cha, vì loài người chúng ta. Đó là chính là Thánh Lễ Tạ ơn mà chúng ta cử hành mỗi ngày.
***
Sự Dữ, ngang qua những con người cụ thể, đã “phá hủy” Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, khi biến Đền Thờ thành “hang trộm cướp”. Sự phá hủy này loan báo Sự Dữ sẽ “phá hủy” Đức Giê-su trong cuộc Thương Khó. Nhưng Thiên Chúa đã dùng chính sự phá hủy này để xây dựng Đền Thờ Mới, là Đức Ki-tô Phục Sinh chiến thắng Sự Dữ và sự chết.
Chúng ta vốn là “đền thờ của Thiên Chúa”, nhưng đã bị Sự Dữ phá hủy. Xin cho chúng ta biết mở lòng ra để đón nhận Đền Thờ mới là chính Đức Ki-tô.
--------------------
[1] Mười Điều Răn (MĐR) là trung tâm của toàn bộ Lề Luật, bởi vì MĐR qui định hai mối tương quan cản bản: tương quan với Thiên Chúa và tương quan với người khác. Vì thế, những luật khác không phải là những khoản thêm vào MĐR, nhưng là một giải thích hay chi tiết hóa MĐR. Mười Điều Răn chi phối tất cả các lề luật khác như ngọn núi vượt trên đồng bằng, hay đúng hơn, chứa đựng tất cả những lề luật này; chúng xuất phát từ Mười Điều Răn và trở về với Mười Điều Răn. Ngày nay, Mười Điều Răn vẫn còn hiện diện như bộ luật căn bản của Giáo Hội.
[2] Và trước đó, đã biết bao lần, họ nhân danh luật Sa-bát, trung tâm của Mười Điều Răn (Xh 20, 8-11), họ rình rập, lên án và lập mưu giết Đức Giê-su (x. Mc 3, 1-6).
13.Nôi ba ngày Tôi sẽ xây dựng lại --Lm. Trầm Phúc
“Các ngươi cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Một câu nói táo bạo không thể tưởng được. Theo luật Do Thái, ai nói phạm đến Đền thờ là bị ném đá. Ông Navót thời vua Akháp, đã bị ném đá vì hoàng hậu Ysaven đã vu cáo cho ông nói phạm đến Đền thờ. Chúa Giêsu không bị ném đá vì nhờ hậu thuẫn của dân chúng. Câu nói của Chúa Giêsu là một vấn đề chúng ta cần suy nghĩ. Chúa muốn gì khi tuyên bố một câu kinh khủng như thế?
Đền thờ là trung tâm thờ phượng của người Do Thái từ khi vua Salômôn đã xây dựng. Trước đó, từ thời Môsê, khi dân Do Thái lưu lạc trong hoang địa, Thiên Chúa chỉ ngự giữa dân Người trong Lều tạm gọi là Lều Chứng Tri, trong đó có Hòm Bia. Đi đến đâu, dân vẫn mang theo Lều đó và Môsê, khi cần mới vào xin ý kiến của Chúa.
Sau khi định cư, Hòm Bia được đặt vào trong một Đền thờ nhỏ để dân đến đó cầu nguyện như thời tiên tri Samuen, Hòm Bia được đặt ở Silô. Vua Đavít đã kiệu Hòm Bia về Giêrusalem, đặt Hòm Bia vào trong một Đền Thờ nhỏ nhưng cũng được làm bằng gỗ quí. Vua cũng định xây một Đền Thờ xứng đáng cho Chúa như lòng vua ước nguyện, nhưng Chúa không để cho vua Đavít xây mà chọn vua Salômôn làm việc đó.
Từ khi Đền Thờ nguy nga được xây dựng tại Giêrusalem, việc phụng thờ Chúa được thực hiện tại đó, xem như trung tâm thờ phượng của toàn dân và cũng là nơi Chúa ngự trị giữa dân Người. Đền thờ là nơi thánh, dành riêng cho việc thờ phượng và ai phạm đến Đền thờ sẽ bị ném đá. Thế nhưng hôm nay, chúng ta nghe Chúa Giêsu phán một lời không thể chấp nhận được đối với người Do Thái. Tại sao thế?
Tuy có Đền thờ nguy nga, việc thờ phượng của người Do Thái dần dần đã trở thành những lễ nghi không hồn. Lòng đạo đã bị xói mòn vì thói quen, vì thế Chúa phán qua các tiên tri: “Dân này thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng nó xa Ta muôn trùng”. Và một ngày nào đó tiên tri Êdêkien đã được thấy thị kiến là Vinh quang của Chúa rời bỏ Đền thờ…Và sau cùng vua Nabukôđônôso sẽ phá hủy Đền thờ và dân Do Thái bị lưu đày sang Babilon, và khóc dài suốt bảy mươi năm nơi đất khách: “Lễ toàn thiêu, lễ hy sinh đã hết, lễ tiến lễ hương cũng chẳng còn. Chẳng còn nơi để dâng của lễ đầu mùa lên Chúa để chúng con được Chúa xót thương”.
Đây cũng là kinh nghiệm quí báu cho dân thấy rằng, việc thờ phượng không chỉ là những của lễ mà là tâm hồn chân thật.
Sau cuộc lưu đày, Đền thờ được xây lại và việc thờ phượng được nội tâm hơn.
Chúa Giêsu tôn trọng Đền thờ và xem đó như nhà của Cha Ngài, là nhà cầu nguyện. Nhưng hôm nay, khi bước vào Đền thờ, Ngài thấy cảnh buôn bán tấp nập, không còn gì là nơi thờ phượng: “Các ngươi hãy phá Đền thờ này đi!” Một lời phán như một lời tuyên án. Vì nếu các ngươi đã biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán thì để Đền thờ này làm gì? Đâu còn là nhà cầu nguyện nữa, đâu còn là nơi cực thánh nơi Chúa ngự nữa.
Thờ phượng Chúa không thể đi đôi với trục lợi. Thiên Chúa không cần của lễ chiên bò, Ngài chỉ muốn những tâm hồn thống hối và tinh thần khiêm nhượng của chúng con thay của lễ chiên bò…”.
“Các ngươi hãy phá Đền thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Một lời xem ra như một thách thức. Những ông Pharisêu xem như một lời nói ngoa vì phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong. Không ai biết Ngài muốn nói gì và xem đó như một lời phạm thượng. Thánh Gioan giải thích: “Nhưng Đền thờ Người muốn nói đây là chính thân thể Người”. Các môn đệ cũng không hiểu ngay lúc đó mà sau này, khi Chúa từ cõi chết sống lại, các ông mới hiểu. Hôm nay, chúng ta được hiểu vì mọi sự đã hiển nhiên. Nhưng chúng ta có hiểu thực sự không? Chúng ta có biết rằng Đền thờ của chúng ta hôm nay không chỉ là những ngôi nhà bằng gỗ đá mà bằng chính Đấng đã từ trời xuống, xây dựng cho chúng ta một Đền thờ bằng cái chết và phục sinh của Ngài không? Ngài chính là Đền thờ duy nhất, xứng đáng để chúng ta thờ phượng Chúa trong tinh thần và chân lý. Chỉ có sự thờ phượng đó mới thực sự đẹp lòng Đấng đã trao phó Con Một Người cho chúng ta. Chỉ có Người Con Một đó thay cho chúng ta để dâng lễ tạ ơn liên lỉ, Người Con Một đầy ân sủng và chân lý. Từ nay, mọi hy sinh, mọi lời cầu, mọi của lễ của chúng ta đều quy tụ vào Đền thờ duy nhất đó, vì thế Giáo hội luôn cầu xin “nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta”. Ngài là bàn thờ và là của lễ, sách Khải Huyền đã viết như thế, nhưng hơn thế nữa, Ngài là Vị Thượng tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là Vị Thượng Tế duy nhất, nhưng Ngài cũng muốn chúng ta trở thành một dân thánh, một dân tư tế như thánh Phêrô đã nói: “Hãy để cho Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô”. Đó là ơn gọi của Kitô hữu. Chúng ta là một dân tư tế thánh. Chúng ta là những kẻ được tuyển chọn để thành một dân tư tế. Như thế Giáo hội chính là Đền thờ mới của Thiên Chúa. “Hãy phá Đền thờ này đi”. Đền thờ Giêrusalem giờ này chỉ còn là kỷ niệm, là hình bóng của Đền thờ mới xây là thân thể Chúa Kitô.
Tiến xa hơn, thánh Phaolô, trong thư gởi giáo đoàn Côrintô cũng dạy rằng: “Anh em là Đền thờ của Thiên Chúa” “Thân xác anh em là Đền thờ của Chúa Thánh Thần”. Vinh dự cho chúng ta biết bao! Nhưng mấy người đã hiểu được hồng ân cao quí này? Nhờ Chúa Giêsu, chúng ta được nâng lên đến một địa vị cao quí mà chúng ta không hay biết.
Thánh Phaolô còn nói: “Ai phá hủy đền thờ của Thiên Chúa (là thân xác), Thiên Chúa sẽ hủy diệt người ấy”. Không có lời nào mạnh mẽ hơn! Vì thế, sống là sống cho Thiên Chúa và chết là chết cho Thiên Chúa.“Hãy dâng thân xác anh em làm của lễ đẹp lòng Thiên Chúa”. Chúng ta thuộc trọn về Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã tẩy sạch Đền thờ Giêrusalem để cho chúng ta thấy rằng chúng ta cần tẩy sạch đền thờ của chúng ta để xứng đáng làm tư tế để thờ phượng Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng đã rất mực yêu thương chúng ta và đã thánh hiến chúng ta bằng phép rửa tội, đổ tràn tình yêu Thánh Thần vào lòng chúng ta bằng phép Thêm sức, để chúng ta thành con yêu dấu của Người. Xưa kia Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái và dạy họ: “Các ngươi hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh”. Thì hôm nay, hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải thánh thiện hơn để xứng đáng với tình yêu vô biên của Người.
Mùa Chay chính là lúc chúng ta lắng nghe lời Chúa chăm chú hơn, đi theo đường nẻo của Người, giữ lời của Người như Chúa Giêsu đã giữ lời của Chúa Cha, sống hoàn toàn theo ý Cha. Như thế, cuộc sống trần gian của chúng ta sẽ thành của lễ đẹp lòng Cha. Chúng ta còn yếu đuối lỡ lầm, nhưng lòng thương xót của Cha trên trời còn rộng hơn sự yếu hèn của chúng ta. Hãy tin tưởng bước tới trong Chúa Giêsu, vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Hãy tìm về Ngài như nguồn tình thương vô biên dành sẵn cho chúng ta. Đừng ngại ngùng cầm lấy dây thừng, đánh đuổi những kẻ buôn bán làm nhơ nhớp Đền thờ của chúng ta. Chúa Giêsu đã gánh chịu tất cả vì chúng ta, chúng ta hãy đi vào con đường hẹp là con đường hoán cải để có thể cùng Ngài cứu vớt chính mình và anh em chúng ta, những người đang cần ơn cứu độ. Chúa Giêsu mong mỏi biết bao thấy chúng ta dám cùng Ngài vác thập giá để cùng sống lại với Ngài trong vinh quang!
Vác thập giá với Ngài chúng ta cần được can đảm. Thánh Thể chính là của ăn Chúa ban cho chúng ta nhờ đó chúng ta mạnh đủ để bước theo Ngài trên con đường hẹp Ngài đã đi. Hãy ăn lấy Chúa chúng ta vì Ngài đã trao ban chính mình Ngài cho chúng ta. Ăn lấy Ngài để như tiên tri Êlia xưa ăn bánh trong sa mạc và đã đi suốt bốn mươi đêm ngày đến điểm hẹn.
Cuộc sống chúng ta vẫn không dễ dàng, nhiều cam go thử thách đang chờ chúng ta trên mọi nẻo đường, hãy ăn lấy lương thực hằng sống để đi đến điểm hẹn muôn đời. Vinh quang Chúa sẽ là phần thưởng cho những ai dám theo Ngài đến cùng. Hãy tô điểm cho đền thờ tâm hồn chúng ta bằng những bông hoa bác ái, khiêm nhu để đón chào tân lang của chúng ta mỗi ngày. Có thể chúng ta còn ngại ngùng, e sợ, hãy nghe tiếng mời gọi của tình yêu và tin tưởng. Chúa chúng ta là Thiên Chúa nhẫn nại nhẹ nhàng, Ngài sẵn sàng tiếp đón chúng ta dù chúng ta không xứng. Hãy dành cho Ngài tất cả để Ngài biến đổi tất cả thành tình yêu vì Ngài chính là Tình Yêu nhập thể.
14.Hãy thanh tẩy đền thờ Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Vượt qua của người Do thái thường diễn ra tại Đền thờ. Vào dịp này, Chúa Giêsu lên dự lễ, Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi Đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Chứng kiến cảnh tượng Chúa làm, các môn đệ khám phá ra lòng nhiệt thành với nhà Cha nơi tâm hôn Chúa Giêsu, họ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi” (Tv 69,10).
Thật là tệ! Đền thờ, nhà của Thiên Chúa đã bị biến thành nơi chợ búa. Mục đồng thì mang cừu đến bán, kẻ bán chim câu mong kiếm được vài đồng, kẻ giữ Đền thờ cũng vậy...
Đền thờ Giêrusalem
Luật Do thái cấm mua bán nơi Ðền thờ. Tuy nhiên hàng tư tế quản trị Ðền thờ lại dung túng cho dịch vụ này để nhằm chuộc lợi. Kẻ đổi tiền ăn bớt phần trăm, người bán coi đó như là cách thế làm tiền, khiến người mua thì phải mua đồ lễ một cách bất đắc dĩ cho việc dâng hiến, với giá cắt cổ thay vì mua ở ngoài theo giá thị trường. Các tư tế cho đấu thầu hai dịch vụ này cũng có món tiền bỏ túi riêng. Thay vì nhắm đến việc giúp những người từ xa đến khó có thể mang theo lễ vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong khu vực Ðền thờ là tiện lợi. Tiện lợi chứ không hẳn là cần thiết, vì việc mua bán vẫn có thể thực hiện bên ngoài Ðền thờ. Nếu tiện lợi, sao Ðức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật và đổi tiền quanh Ðền thờ? Chúa đuổi họ, vì họ cũng như con buôn, coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Chúa lên tiếng cảnh giác họ: “Ðừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Ðó là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng lõa trong việc thương mại hoá và phàm tục hoá Ðền thờ.
Chúa Giêsu là Đền Thờ
Thật ra, cơn giận của Chúa Giêsu không nhằm chống lại những người buôn bán cho bằng chống lại chính việc thờ phượng bị thương mại hóa theo kiểu ấy. Khi lật nhào các quày buôn bán, Ngài lật đổ chính tôn giáo và phá hủy đền thờ. Hành động đó gây phẩn nộ cho tất cả mọi người, nhất là khi biết rằng đền thờ Giêrusalem có một vị trí trong tâm hồn mọi người Do thái. Họ hỏi Ðức Giêsu: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (Mc 2,18) Và Ngài đáp: “Các ông cứ phá hủy Ðền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Mc 2,19).
Thánh Gioan tường thuật chi tiết chính xác quan trọng ấy. Đền thờ Chúa Giêsu nói đây chính là Thân thể Người, hiện thân của Chúa Cha. Khi sánh ví Người là Đền Thờ, Chúa Giêsu khẳng định chính mình là Đền Thờ Thiên Chúa Cha ngự trị. Chúa Giêsu chính là sự tôn vinh Thiên Chúa. Theo thánh sử Gioan, chúng ta được tiên báo về cái chết và sự sống lại của Ðức Kitô: thân thể của Người, vốn bị bạo lực của tội lỗi hủy hoại trên thập giá, Thiên Chúa gặp gỡ con người qua sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Vì thế, nhân tính của Người chính là Ðền Thờ đích thực, là nơi Thiên Chúa mặc khải chính mình, để phán bảo và gặp gỡ con người; và những ai thờ phượng Thiên Chúa đích thực không phải là những kẻ giữ cửa của Ðền thờ vật chất, cũng chẳng phải những người nắm giữ quyền lực hay có kiến thức về tôn giáo, nhưng là những ai thờ phượng Thiên Chúa trong “Thần Khí và sự thật” (Ga 4, 23).
Chúng ta là Đền thờ
Thánh Phaolô nói: “Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa sao?.. Đền thờ của Thiên Chúa là thánh thiêng, anh chị em cũng vậy” (1 Cr 3,16-17). Như thế, chân lý và phẩm giá Thiên Chúa được liên kết với sự thật và phẩm giá con người. Thánh Phaolô cảnh cáo: “Anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và ai xúc phạm Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy” (1Cr 3, 17).
Người ta xúc phạm đến Đền Thờ của Thiên Chúa bằng nhiều cách. Nếu người Do thái xưa kia đã biến Đền Thờ thành nơi buôn bán. Và Chúa Giêsu đã nổi giận đến nỗi thắt dây thừng thành roi để đánh đuổi họ và lật đổ bàn ghế của họ. Ngày nay, có nhiều nơi dùng Thánh Đường để buôn thần bán thánh, nhưng cách xúc phạm thông thường nhất là phạm đến Đền thờ trong tâm hồn và thân xác của mỗi người và của tha nhân.
Phá thai là một hình thức xúc phạm nặng nề đến Đền thờ Thiên Chúa. Không những xúc phạm, mà còn phá hủy những Đền thờ nhỏ bé của Thiên Chúa, tước quyền Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên các thai nhi ấy theo hình ảnh của Ngài.
Linh hồn cũng là Đền thờ Thiên Chúa. Chúng ta xúc phạm đến Đền thờ này bằng cách xúi dục người khác phạm tội, làm dịp cho người khác phạm tội, làm gương mù cho người khác, nhất là trẻ em (x. Mc 9:42), hay làm lơ không nhắc nhở khi mình có trách nhiệm. Có nhiều người nghĩ rằng mình không làm hại ai là đủ rồi. Thật ra những người có trách nhiệm giáo dục và hướng dẫn người khác, mà lơ là bổn phận của mình, cũng là xúc phạm đến Đền Thờ của Thiên Chúa vì mình không chu toàn bổn phận bảo trì và xây dựng những ngôi Đền Thờ mà Thiên Chúa đã trao cho.
Khi đuổi súc vật ra khỏi đền thờ, Chúa Giêsu muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người là gìn giữ đền thờ bản thân chúng ta. Tâm hồn chúng ta là cung thánh Chúa ngự. Chúa biết rõ những khao khát nồng nhiệt nhất của chúng ta: đó là được Ngài cư ngụ trong cõi lòng mình, chỉ một mình Chúa thôi. Chúng ta hãy để cho Ngài bước vào cuộc đời, gia đình, và cả cõi lòng của chúng ta nữa. Để được như thế Ta phải luôn luôn thanh tẩy tâm hồn hầu xứng đáng với Chúa.
Lạy Mẹ Maria, nơi cư trú đặc biệt của Con Thiên Chúa, xin đồng hành với chúng con và xin nâng đỡ chúng con trong hành trình Mùa Chay này, để chúng con có thể tái khám phá ra vẻ đẹp của cuộc gặp gỡ với Ðức Kitô, Ðấng sẽ giải thoát và cứu độ chúng con.
15.Nơi chốn và phương thức phụng thờ đích thực--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Việc tẩy uế đền thờ tạo dịp để Đức Giêsu đề cập với giới lãnh đạo Do Thái về một đề tài rất nóng bỏng và thiết thân đối với họ: phải phụng thờ Thiên Chúa như thế nào cho phải lẽ? Thật vậy, đền thờ Giê-ru-sa-lem vốn là trái tim của cả dân tộc Do Thái, là nơi họ dâng lễ vật phụng thờ lên Đức Chúa Gia-vê, đồng thời thanh tẩy mình khỏi tội nhơ. Vì thế cho nên, khi Đức Giêsu thách thức: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại!” thì các tư tế lập tức có những phản ứng gay gắt; Nhưng ngược lại, các môn đệ qua đó lại dần nghiệm ra: đây mới chính là mạc khải mới mẻ nhất mà Đức Giêsu, không chỉ tuyên bố xuông, mà còn thực tế minh định bằng sự kiện Vượt Qua thập giá do chính Người thực hiện; ‘Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, và họ tin rằng… Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói đây là chính thân thể Người’.
‘Làm thế nào thờ phượng, hay đúng hơn, đi vào tương quan với Thiên Chúa cách chân thực nhất?’ hẳn đây là vấn nạn thầm kín của rất nhiều tâm hồn tín hữu qua mọi thời đại. Các tư tế Do Thái thì đinh ninh họ đã sở đắc được lời giải đáp quá rõ như ban ngày: cứ lên đền thánh Giê-ru-sa-lem dâng tiến lễ vật theo luật định! Sau này người phụ nữ Sa-ma-ri bình dân và tầm thường cũng sẽ nêu lên cùng một vấn nạn: “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa”. Khi giải đáp vấn đề thiết thân này, Đức Giêsu đã rất thẳng thừng tuyên bố, một lời công bố mang tính cách mạng triệt để trong lãnh vực tôn giáo: “Giờ đã đến, và chính là lúc này đây, những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4:19-26)
Nối kết hai đoạn văn liên quan tới đền thờ này lại với nhau, ta sẽ khám phá ra một mạc khải có tầm quan trọng bậc nhất đối với hết thảy các tín hữu Kitô: nơi thờ phượng Thiên Chúa xứng hợp nhất chính là con người Đức Kitô, và phương thức thích hợp nhất để tôn thờ Chúa Cha đó là tôn thờ trong thần khí và sự thật. Nói cách khác, chỉ duy nhất trong Đức Giêsu Kitô ta mới tôn thờ được Chúa Cha cách chân thực, và chỉ nơi thâm sâu nhất của cõi lòng ta mới thực sự thờ phượng trong thần khí và sự thật.
- ‘Thần khí’, nếu trong suy nghĩ của người Do Thái và Sa-ma-ri thần khí là sức mạnh của Đức Chúa, thì Đức Giêsu chắc hẳn cũng đang đề cập tới một sức mạnh gì ghê gớm hơn hẳn. Đúng vậy, đó là sức mạnh mà Người sẽ thực hiện cũng chính tại Giê-ru-sa-lem, qua cái chết thập giá và sống lại của mình: sức mạnh của yêu thương cứu độ. Thờ phương Chúa Cha trong ‘thần khí – sức mạnh’ của tha thứ và xót thương thì chỉ có Kitô hữu mới làm được, nhờ đi vào cái chết thập giá của Đức Giêsu.
- ‘Sự thật’, đối với Kitô hữu sẽ không phải là thứ triết lý gì cao siêu, nhưng là một điều rất cụ thể và thực tế mà ai cũng phải giáp mặt và có thể nắm bắt. Tông đồ Gio-an đã từng khảng định: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1Ga 1:8-10). Sự thật đơn giản là thế đó! Quả vậy, không thể phụng thờ một Chúa Cha đầy từ tâm và xót thương nếu không chân thành và khiêm tốn nhìn nhận sự thật mười mươi ‘tôi đã phạm tội!’ Đó cũng là cách thờ phương Thiên Chúa chân chính và độc đáo nhất mà chỉ các Kitô hữu mới có thể tích cực chu toàn.
Đức Giêsu không chỉ muốn ‘tẩy uế’ đền thờ Giê-ru-sa-lem, Người thậm chí còn công khai yêu cầu phá bỏ nó hoàn toàn để xây dựng lại một nơi thờ phượng mới, và phải thiết lập một phong cách thờ phương mới. Phải chăng điều này đồng nghĩa tới việc kẻ phụng thờ phải từ bỏ lề thói tôn thờ Thiên Chúa theo kiểu phụng tự với những nghi lễ rình rang mà mọi các tôn giáo cổ điển đều làm, để triển khai một lối phụng thờ mới tập trung vào một Thiên Chúa từ nhân và cứu độ, trong thái độ thẳng thắn và khiêm tốn nhìn nhận con người tội lỗi và yếu hèn của mình, đồng thời kín múc lấy nguồn nước hằng sống là ơn cứu độ của thập giá Đức Kitô? Công việc phá bỏ và xây dựng mới này đương nhiên không thể thực hiện trong một sớm một chiều, vì “đền thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà trong ba ngày ông xây lại được sao?” Phải, không thể nếu ta không dứt khoát, đặc biệt trong ba ngày thánh thiêng nhất của năm phụng vụ, thật lòng đi vào của cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô Giêsu.
Nếu sự thật là như thế thì những ngày này của mùa chay sẽ quan trọng đối với các Kitô hữu chúng ta biết bao. Ta phải dứt khoát thôi, để chuẩn bị mình cho việc thờ phượng chân chính nhất được cử hành bên ngoài, nhưng nhất là bên trong cõi lòng ta… và được biểu hiện cách tuyệt vời trong Thánh Lễ Thập Giá trên bàn thờ!
Lạy Thiên Chúa cứu độ, xin dạy cho con biết tôn thờ Chúa trong thần khí và sự thật. Trước hết xin giúp con can đảm phá hủy đền thờ Giê-ru-sa-lem (lề thói giữ đạo / đi nhà thờ) mà con đã mất bao công sức xây dựng nên. Từ nay con muốn dứt khoát xây dựng ngôi đền thờ mới là đi vào con đường thập giá: khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi mình và mở rộng lòng đón lấy ơn cứu độ. Như Phao-lô, con không muốn tôn thờ một Thiên Chúa nào khác ngoài Đức Kitô thập giá. Amen.
16.Hãy xem lại lối sống đạo của chúng ta--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
Trước và sau tết Nguyên Đán, người dân Việt Nam nói chung, nhất là miền Bắc, không ai lại không biết đến ít nhiều lễ hội.
Theo thống kê 2009 trên vi.wikipedia, hiện cả nước có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%). Các địa phương có nhiều lễ hội là Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Hải Dương và Phú Thọ.
Qua những lễ hội này, chúng ta thấy được một phần nào truyền thống, văn hóa của dân tộc Việt Nam. Điều này rất bổ ích, nhất là cho thế hệ trẻ! Tuy nhiên, trong những năm gần đây, có khá nhiều nơi đã lạm dụng lễ hội để kinh doanh, buôn bán và mê tín dị đoan. Từ đó, kéo theo một loạt những hệ lụy không đẹp như trộm cắp, đánh đập, chửi bới và hành xử thiếu văn hóa ngay chốn linh thiêng…, làm cho lễ hội nhuốm màu trần tục!
Hôm nay, Tin Mừng cũng thuật lại việc những nhà lãnh đạo tôn giáo thời Đức Giêsu đã biến đền thờ là chốn linh thiêng, là nơi dành riêng để tôn thờ Thiên Chúa thành nơi buôn bán và trao đổi tiền bạc. Thấy vậy, Đức Giêsu đã thẳng tay đánh đuổi để trả lại cho đền thờ đúng với ý nghĩa của nó.
Qua đó, Ngài muốn dạy cho chúng ta rất nhiều bài học sau biến cố này.
1. Lý do khiến Đức Giêsu đánh đuổi con buôn
Đền thờ Giêrusalem là một đền thờ nguy nga, tráng lệ vào bậc nhất thời đó. Đền thờ này được dùng vào việc tôn thờ Thiên Chúa và là nơi quy tụ những người Dothái hằng năm vào dịp lễ Vượt Qua.
Câu chuyện căng thẳng giữa Đức Giêsu và dân chúng đã xảy ra đúng vào thời điểm này.
Khởi đi từ việc Đức Giêsu quan sát và thấy được người ta đổi tiền, mua bán súc vật ngay trong đền thờ, làm cho đền thờ trở nên ô uế!
Điều đáng nói là: theo quy định, những con vật được dùng vào việc tế lễ phải là con vật lành lặn không tỳ vết. Những người chính thức được các chức sắc chỉ định mới đủ thẩm quyền để tuyên bố con vật xứng đáng sau khi đã kiểm tra! Tuy nhiên, con vật đủ kiều kiện để dùng vào việc tế lễ phải là con vật được mua trong nơi quy định của các tư tế và nó sẽ đắt gấp 15 lần so với bên ngoài. Hơn nữa, người mua còn phải trả một loại phí không nhỏ cho những người kiểm tra!
Bên cạnh đó, nơi đây còn diễn ra chuyện đổi tiền. Theo luật thì buộc mỗi người Dothái phải nộp thuế cho đền thờ từ 19 tuổi trở lên. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, tương đương với hai ngày lương công nhật.
Vì là lễ Vượt Qua không chỉ dành riêng cho người Dothái tại chỗ, mà còn cho cả những người Dothái ở nhiều nơi khác hội tụ về, nên tiền họ mang theo cũng đủ loại…. Nhưng tiền nộp vào đền thờ lại chỉ được chấp nhận là thứ tiền của người Dothái, vì họ cho rằng chỉ có tiền này mới xứng đáng để nộp thuế đền thờ, các thứ tiền khác là ô uế!
Chính vì lý do đó nên việc đổi tiền đã diễn ra tại nơi đây với giá cắt cổ.
Chứng kiến cảnh tượng đó, cộng thêm: “Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn”(Tv 68.10), nên Đức Giêsu đã bừng bừng nổi giận. Thánh Gioan cho biết là Ngài đã lấy dây bện thành một ngọn roi xua đuổi bọn họ và đạp đổ tung thùng tiền (x. Ga 2, 14-17).
Khi có hành vi ấy, Đức Giêsu cho thấy những hệ lụy đầy bất công của những kẻ lãnh đạo tinh thần thời bấy giờ, đó là: họ đã nhân danh tôn giáo để đè đầu cưỡi cổ và bóc lột dân, nên Ngài đã không thể chấp nhận tình trạng ấy diễn ra ngay tại nơi dành riêng để tôn thờ Thiên Chúa, vì thế, Đức Giêsu nói: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Lời cảnh cáo này của Đức Giêsu cho thấy Ngài đã nhắc lại lời của Ngôn Sứ Isaia khi xưa: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Is 56,7).
2. Thực trạng đời sống đạo của chúng ta
Khi xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, Đức Giêsu mặc khải và dạy cho chúng ta những bài học thật bổ ích, đó là:
Cần cẩn trọng và đừng nên mừng vội khi thấy mỗi Chúa Nhật và các dịp lễ trọng, người đi lễ nườm nượp và ngồi chật kín cả nhà thờ, nhất là tuần làm phúc (trước Tuần Thánh) và Tuần Thánh. Có lẽ về khía cạnh này, Giáo Hội Việt Nam đứng đầu bảng trên toàn thế giới. Đây là một tín hiệu rất đáng mừng và rất nên khuyến khích cũng như phát huy.
Tuy nhiên, điều đáng tự hào ấy lại cần phải xem xét lại, vì biết bao nhiêu người chỉ tập chung vào những chuyện bên ngoài như đi “xem lễ” chứ không “sống thánh lễ” trong đời sống của mình.
Lại có những người siêng năng tham dự thánh lễ và chăm chú nghe giảng rồi lên rước lễ rất sốt sắng như thiên thần. Nhưng khi ra khỏi nhà thờ, họ sẵn sàng chửi bới, nói hành nói xấu, buôn gian bán lận, ăn chơi trác táng… không khác gì dân chơi thứ thiệt hạng sang ngoài đời! Hơn nữa, việc đi lễ, thuộc kinh là một chuyện, còn chuyện coi bói, xem quẻ, thờ ông địa, bái gốc đa, khấn gốc gạo với viện cớ rằng: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành…” lại là chuyện thường tình xảy ra hằng ngày ngay tại các cộng đoàn tín hữu với những sinh hoạt tôn giáo sầm uất!
Và, vẫn còn đó những người rất năng nổ tham gia chuyện quyên góp để xây dựng những công trình tôn giáo, nhưng đền thờ tâm hồn lại không màng chi đến hoặc có quan tâm thì cũng chẳng khác gì cưỡi ngựa xem hoa! Vì thế, việc xây dựng đền thờ tâm hồn với những nét đẹp như: từ bi, nhân hậu, bao dung, tha thứ, xây dựng tình huynh đệ, tạo sự hiệp nhất, liên đới, cảm thông…, thì lại quá xa lạ đối với những người xem ra có vẻ đạo đức ấy!
Hơn nữa, điều đáng buồn nhất, đó là nhiều khi chúng ta lại đi lại chính vết xe của những nhà lãnh dạo tôn giáo khi xưa, đó là: nhân danh lề luật, tôn giáo và nhân danh Thiên Chúa để làm bình phong, nhằm ngụy trang cho những thói lưu manh, gian dối bẩn thỉu của mình!!!
Tắt một lời, tin Chúa như vậy là hình thức, là vỏ bọc, là đầu môi chóp lưỡi, còn thực chất bên trong là rỗng tuếch! Tin Chúa như vậy được ví như tin có mùa vụ. Tin lúc thuận tiện. Tin khi có lợi mà thôi….
3. Sứ điệp Lời Chúa
Bài học cho chúng ta hôm nay chính là: ngoài việc tôn kính nhà thờ, nhà nguyện là nơi dành riêng để thờ phượng Thiên Chúa, chúng ta còn có một đền thờ khác, đó là đền thờ thân xác của mỗi người. Thánh Phaolô nói: “Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa” (1 Cor 3, 16).
Vì vậy, mỗi người chúng ta phải có bổn phận xây dựng cho mình một ngôi đền thờ xứng đáng để cho Thiên Chúa ngự. Ngôi đền thờ này phải được xây dựng bằng nền móng vững chắc là đức tin và lòng mến thật tâm. Cần phải được trang trí bằng những việc đạo đức, bác ái, khoan dung, quảng đại, thông cảm và tha thứ.
Mặt khác, chúng ta đang sống trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy canh tân để đổi mới. Canh tân lối sống cũ không phù hợp với giá trị Tin Mừng. Đổi mới từ con người tội lỗi, hình thức, hào nhoáng bên ngoài thành con người có chiều sâu nội tâm bên trong qua việc ăn năm sám hối thật lòng….
Ước gì sứ điệp Lời Chúa hôm nay được chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận và sống sao cho thật đẹp lòng Chúa, ngõ hầu xứng đáng là đền thờ cho Thiên Chúa Ba Ngôi ngự. Amen.
17.Thanh tẩy đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Trên tờ tuổi trẻ Online Thứ Năm, 12/3 có bài viết của tác giả Trần Thị Thanh với nhan đề: "Rãi tiền lẻ khắp đền chùa!". Trong đó có đoạn viết: "Cứ mỗi dịp gần tết kéo dài đến tháng ba (âm lịch) hằng năm, cổng chùa lại léo xéo cảnh đổi tiền lẻ vào lễ chùa. Những tờ tiền 200, 500 đồng được đổi thành từng cục như viên gạch mộc, cứ "10 ăn 8 hoặc 10 ăn 7". Tức 100.000 đồng tiền chẵn thì đổi được 70.000 hoặc 80.000 đồng loại chuyên dùng để "sắp lễ" (200, 500 đồng). Không biết bao nhiêu triệu đồng tiền "bé" được quay vòng cả năm không chán: người đi lễ đổi tiền, tiền ấy được ném vào xó xỉnh, cài vào chân tay, nách, đùi của các pho tượng đẹp nổi tiếng của quốc gia; rồi nhà chùa xách túi hoặc rổ rá đi gom tiền ấy lại đem ra đổi ngoài cổng chùa. Và vòng quay lại bắt đầu.
Chỉ xót thương cho văn hóa đi chùa và xót thương cho "viên ngọc điêu khắc và kiến trúc" chùa Mía đã bị những đồng tiền của người "đồng cốt quàng xiên" làm mất vẻ trang nghiêm, thanh tịnh. Du khách, người có liêm sỉ đều thấy xao xác cái cảm giác thần linh bị báng bổ. Ông ngọc hoàng, ngài thiên lôi, bà Liễu Hạnh, rồi đến ông Quan Công, bà bồ tát, 18 vị la hán, tất tật đều bị ép ngồi ôm (hoặc trông nom)... tiền lẻ.
Đáng sợ, đã thành 'đại dịch' kinh niên, ở Bắc Ninh có đền thờ Bà Chúa Kho, nạn sắp lễ bằng tiền rồi rải khắp di tích đã trở thành công nghệ. Dài dằng dặc khu vực đường dẫn vào đền là chi chít biển quảng cáo cho dịch vụ đổi tiền, sắp lễ. Níu kéo, chèn ép, lừa lọc, chửi bới cũng là bởi sắp tiền lẻ.... Cái lệ 'mua thần bán thánh' kiểu này diễn ra ở rất nhiều đền, chùa".
Đọc bài viết này làm tôi liên tưởng đến một cảnh tượng thậm chí còn bát nháo hơn thế đang diễn ra ngay tại một nơi cực kỳ thánh thiêng đối với Dân Dothái, đó là Đền thờ Giêrusalem vào thời Chúa Giêsu.
Quả vậy, chúng ta biết rằng Đền thờ Giêrusalem là trung tâm đời sống tôn giáo của dân tộc Do Thái. Nó được coi như con ngươi của đạo Giavê Thiên Chúa. Tuy nhiên theo thời gian, Đền Thờ ấy đã bị tục hoá, bị giải thiêng nhiều mặt vì nạn buôn thần bán thánh và thói ham danh ham lợi của một số người. Điều này khiến Chúa Giêsu nỗi giận, cơn giận mà người ta gọi là cơn giận thánh. Ngài đã thực hiện ngay một cuộc thanh tẩy quyết liệt nhằm trả lại ý nghĩa đích thực của Đền thờ; đồng thời qua đó, Ngài cũng muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể Ngài.
Đọc lại lịch sử dân thánh, ta thấy Đền Thờ Giêrusalem mang nhiều ý nghĩa nghĩa rất quan trọng:
- Trước hết, Đền thờ Giêrusalem là địa chỉ của sự gặp gỡ nối kết. Từ xa xưa, người Do thái vẫn xem đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Nói cách khác, Đền Thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện và gặp gỡ con người; đồng thời cũng là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau. Gặp gỡ để phượng thờ, cảm tạ, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa, đặc biệt là vào các ngày Sabát và các ngày đại lễ.
Thế nhưng, một số người đã biến nó thành nơi nhếch nhác của những kẻ tụ tập buôn bán và đổi chác. Chúa Giêsu xua đuổi những kẻ lạm dụng này ra khỏi Đền Thờ là để trả lại chổ đứng của nó, vốn là "Nhà cầu nguyện".
- Thứ đến, Đền thờ Giêrusalem là dấu chứng của tình yêu thương hiệp nhất. Quả thế, Đền Thờ Giêrusalem là nơi biểu lộ rõ nét nhất tình yêu của Giavê Thiên Chúa đối với dân Người và đồng thời cũng là nơi hiệp nhất muôn dân nước: "Từ muôn phương ta về đây sánh vai lên đường, đường đưa ta đi lên Đền Chúa ta...".
Thế mà các giới chức Do thái đã biến thành nơi cạnh tranh, kèn cựa, xô bồ và phận biệt đối xử (phụ nữ, dân ngoại, kẻ tội lỗi....). Chúa Giêsu đã lật nhào, xô đổ tất cả nhằm thanh tẩy Đền thờ khỏi những điều bất xứng, cách riêng là khu vực dân ngoại. Từ nay, mọi người không phân biệt sắc tộc, tôn giáo... đều được tôn trọng và đón nhận. Đối với Chúa Giêsu, Đền Thờ phải là nơi dành cho hết mọi người.
- Sau nữa, Đền thờ Giêrusalem còn là biểu tượng của sự thánh thiêng. Khi nói đến sự thánh thiêng, người Do thái thường nói đến Đền Thờ. Vì đối với họ, không có nơi nào khác ngoài Đền Thờ, con người có thể tìm được tất cả những gì là thiêng thánh và siêu việt của cõi thiên giới. Bởi đó chúng ta không ngạc nhiên gì khi thấy người Do Thái khi phải thề thốt một điều gì quan trọng, họ thường lấy Đền Thờ Giêrusalem mà thề.
Tuy nhiên, Đền Thờ ấy đã bị làm cho ô uế bằng đủ mọi thứ dối gian, trở thành nơi trục lợi, chổ mua danh, chốn lạm quyền, v.v... Trước thực trạng đó, Chúa Giêsu đã xua đuổi tất cả những kẻ làm cho Đền Thờ bị ô nhơ, nhằm trả lại sự thánh thiêng cho Đền Thờ. Đồng thời qua hành động và lời nói của mạnh mẽ của mình, Chúa Giêsu muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể của Ngài.
Đức Kitô chính là Đền thờ sống động, nơi Ngài chúng ta tìm được 3 ý nghĩa trên một cách tròn đầy nhất.
- Trong Đức Kitô, chúng ta được gặp gỡ Thiên Chúa là Cha và được nối kết với mọi người là anh em. Trong Đức Kitô, chúng ta có thể thưa lên "Aba"- lạy Cha, và đối xử với nhau như anh chị em con cùng một Cha trên trời.
- Trong Đức Kitô, chúng ta nhận được tình yêu tràn đầy mà Thiên Chúa dành cho nhân loại và hiệp nhất nên một với nhau, như lời Vinh Tụng Ca mà chúng ta thường nghe đọc: "Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời".
- Trong Đức Kitô, chúng ta cũng tìm lại được sự thánh thiện nguyên thuỷ dư đầy của mình vốn là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Ađam và Evà đã đánh mất khi phạm tội.
Và trong Đức Kitô, chính chúng ta cũng đã trở nên đền thờ sống động đã được thánh hiến ngày chúng ta lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô đã minh định điều này với giáo đoàn Côrintô: "Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần ngự trong đền thờ ấy". Đó là một hồng ân cao cả Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta qua Con Một yêu dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ thế nào đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.
Vậy hằng ngày chúng ta đã thực sự sống xứng đáng là đền thờ Thiên Chúa ngự chưa? Hay chúng ta đang làm cho đền thờ tâm hồn mình ra nhơ uế bởi những tính toan ích kỷ, bởi lòng ghen tị, óc thành kiến hẹp hòi và bao nhiêu thói hư tật xấu khác?
Xin Chúa Giêsu hằng yêu thương thanh tẩy đền thờ tâm hồn của chúng ta mỗi ngày, đặc biệt trong Mùa Chay thánh này. Xin Ngài tiếp tục xua đuổi, lật nhào khỏi lòng trí chúng ta những gì làm cho tâm hồn ra ô nhơ và trả lại cho Chúa Thánh Thần một nơi xứng hợp để Ngài ngự vào. Amen.
18.Làm mới đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Trong những năm gần đây, báo chí thường chạy những bài phóng sự về cảnh tượng xô bồ nơi các đền chùa trong những dịp lễ hội đầu năm: nào là chen lấn xô đẩy để lĩnh ấn Đền Trần, nào là buôn bán chặt chém khách hành hương Chùa Hương, nào là hỗn loạn xin lộc đền bà Chúa Kho, v.v... Mục đích đi chùa chiền là để cầu an, hay cầu tài, cầu lộc. Nhưng nhiều khi tài lộc đâu không thấy mà thấy mất tiền vì bị kẻ gian móc túi, hay bị những người bán hàng chặt chém. An bình đâu không thấy chỉ thấy bất an vì bị chen lấn, xô đẩy, bị văng tục khi không mua hàng của người mời hay mua cho người này mà không mua cho người kia, v.v... Thế mới thấy rằng chính não trạng vụ lợi muốn biến thần thánh thành công cụ phục vụ lòng ham muốn của mình đã mở đường cho việc thương mại hoá những giá trị cao quý linh thiêng của văn hoá và tín ngưỡng.
Cũng với não trạng ấy, người Do Thái xưa kia đã biến sân Đền Thờ Giêrusalem, một nơi thánh thiêng, thành một nơi bát nháo để trao đổi buôn bán, nhằm trục lợi. Là Con Thiên Chúa và là Đấng Thánh, Chúa Giêsu không chấp nhận để Đền Thờ, “nhà của Cha Ngài,” bị tục hoá, giải thiêng, và làm cho trở nên ô uế. Ngài đã hành động thẳng thắn để trả lại ý nghĩa đích thực của nó; đồng thời Ngài muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể của Ngài.
Đọc lại lịch sử dân thánh, ta có thể thấy Đền Thờ Giêrusalem mang ba ý nghĩa rất quan trọng sau đây:
1. Trước hết, Giêrusalem là địa chỉ của sự gặp gỡ nối kết.
Từ xa xưa, người Do thái vẫn xem đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Nói cách khác, Đền Thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện và gặp gỡ con người; đồng thời cũng là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau. Gặp gỡ để phượng thờ, cảm tạ, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa, đặc biệt là vào các ngày Sabát và các ngày đại lễ.
Thế nhưng, một số người đã biến nó thành nơi nhếch nhác của những kẻ tụ tập buôn bán và đổi chác. Chúa Giêsu xua đuổi những kẻ lạm dụng này ra khỏi Đền Thờ là để trả lại chổ đứng của Đền Thờ, vốn là “Nhà cầu nguyện”, nhà của sự gặp gỡ và nối kết giữa Thiên Chúa và con người.
2. Thứ đến, Giêrusalem còn là dấu chứng của tình yêu và hiệp nhất.
Quả không sai khi nói rằng Đền Thờ Giêrusalem là nơi biểu lộ rõ nét nhất tình yêu của Giavê Thiên Chúa đối với dân Người, đồng thời cũng là nơi hiệp nhất muôn dân nước. Thánh Vịnh Lên Đền 122 đã nói lên ý nghĩa này: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: ‘Ta cùng trẩy lên Đền thánh Chúa!’ Và giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân”.
Thế mà các giới chức Dothái đã biến thành nơi cạnh tranh, kèn cựa, xô bồ và phận biệt đối xử (phụ nữ, dân ngoại, kẻ tội lỗi…). Chúa Giêsu đã lật nhào, xô đổ tất cả nhằm thanh tẩy Đền thờ khỏi những điều bất xứng, cách riêng là khu vực dân ngoại. Từ nay, mọi người không phân biệt sắc tộc, tôn giáo … đều được tôn trọng và đón nhận. Tắt một lời, Đền Thờ phải là nơi dành cho tất cả mọi người.
3. Sau nữa, Giêrusalem còn là biểu tượng của sự thánh thiêng tinh tuyền.
Khi nói đến sự thánh thiêng, người Do thái thường nói đến Đền Thờ. Vì đối với họ, không có nơi nào khác ngoài Đền Thờ, con người có thể tìm được tất cả những gì là thiêng thánh và siêu việt của cõi thiên giới. Bởi đó ta không ngạc nhiên khi thấy người Do Thái khi phải thề thốt một điều gì quan trọng, họ thường lấy Đền Thờ Giêrusalem mà thề.
Tuy nhiên, Đền Thờ ấy đã bị làm cho ô uế bằng đủ mọi thứ dối gian, trở thành nơi trục lợi, chỗ mua danh, chốn lạm quyền, v.v... Trước thực trạng đó, Chúa Giêsu đã xua đuổi tất cả những kẻ làm cho Đền Thờ bị ô nhơ, nhằm trả lại sự thánh thiêng cho Đền Thờ. Đồng thời, qua hành động và lời nói của mạnh mẽ của mình, Chúa Giêsu muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân Thể của Ngài.
Quả vậy, Đức Kitô chính là Đền thờ sống động, nơi Ngài chúng ta tìm được ba ý nghĩa trên một cách tròn đầy nhất.
- Trong Đức Kitô, chúng ta được gặp gỡ Thiên Chúa là Cha và được nối kết với mọi người là anh em. Trong Đức Kitô, chúng ta có thể thưa lên “Aba” - lạy Cha, và đối xử với nhau như anh chị em con cùng một Cha trên trời.
- Trong Đức Kitô, chúng ta nhận được tình yêu tràn đầy mà Thiên Chúa dành cho nhân loại và hiệp nhất nên một với nhau, như lời Vinh Tụng Ca mà chúng ta thường nghe đọc: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời”.
- Trong Đức Kitô, chúng ta cũng tìm lại được sự thánh thiện nguyên thuỷ dư đầy của mình vốn là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Ađam và Evà đã đánh mất khi phạm tội vì bất phục tùng.
Hãy nhớ rằng trong Đức Kitô, chính chúng ta cũng đã trở nên đền thờ sống động đã được thánh hiến ngày chúng ta lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô đã minh định điều này với giáo đoàn Côrintô: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta qua Con Một yêu dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có nguy nga đồ sộ như Đền thờ Giêrusalem đi chăng nữa, cũng đã tiêu tan. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ bền vững thiên thu. Thế nhưng hằng ngày chúng ta đã thực sự sống xứng đáng là đền thờ Thiên Chúa ngự chưa? Hay chúng ta đang làm cho đền thờ tâm hồn mình ra nhơ uế bởi những tính toan ích kỷ, bởi lòng ghen tị, óc thành kiến hẹp hòi, và bao nhiêu thói hư tật xấu khác?
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để ta làm mới lại tâm hồn của mình. Xin Chúa Giêsu tiếp tục yêu thương thanh tẩy tâm hồn chúng ta mỗi ngày. Xin Ngài tiếp tục xua đuổi và lật nhào những gì làm cho tâm hồn chúng ta ra ô nhơ để trả lại cho Chúa Thánh Thần một nơi xứng hợp để Ngài ngự vào. Amen.
19.Thân xác chúng ta là đền thờ cần được thanh tẩy--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chúa Giêsu rất mực hiền lành và Người cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời Người mời gọi: "Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng". (Mt 11, 29)
Khi Chúa Giêsu và các môn đệ bị người dân xứ Sa-ma-ri-a ngăn chặn không cho đi qua làng của họ để tiến về Giê-ru-sa-lem, Giacôbê và Gioan nổi giận đùng đùng, đòi khiến lửa trời thiêu đốt làng mạc của chúng. Thế nhưng Chúa Giêsu liền quở trách Giacôbê và Gioan vì lối xử sự nóng nảy mang tính gây hấn nầy. (Lc 9, 54)
Khi bị người đời phê phán là người mất trí (Mc 3, 21), là kẻ nói phạm thượng (Mt 9, 3), là người lấy phép của tướng quỷ mà trừ quỷ (Mt 9, 34), là người bị quỷ ám (Ga 7,20), là người dại dột; Chúa Giêsu vẫn bình thản như không.
Nhất là trong cuộc thương khó, dù bị lăng nhục hành hạ đủ điều, bị chế nhạo đủ cách, Chúa Giêsu vẫn nín lặng và thản nhiên. Khi chịu treo trên thập giá đớn đau tủi nhục lại còn bị chế giễu nhạo cười, Chúa Giêsu chẳng những không nóng giận mà lại còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ hành hạ và đóng đinh Người.
Tóm lại, Chúa Giêsu là Đấng rất dịu hiền và rất bao dung khiến ta nghĩ rằng Người không hề nổi giận bao giờ.
Dù rất hiền lành, Chúa Giê-su cũng không thể khoan dung với việc tục hoá đền thờ.
Vậy mà khi vào đền thờ Giê-ru-sa-lem, thấy người ta làm ô uế đền thờ thì Người không thể nào chịu nổi. Người nổi giận thật sự. Tin Mừng Gioan ghi lại: "Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." (Ga 2, 14-16)
Thật không ngờ! Một Chúa Giêsu rất mực hiền lành khiêm nhượng. Đấng mà 'cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi' (Mt 12,20) giờ đây đã nổi trận lôi đình, phải dùng roi vọt và biện pháp cứng rắn đối với những người xúc phạm đến sự linh thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Chúa Giêsu, việc làm ô uế Đền Thờ là một xúc phạm nặng nề mà Người vốn rất nhân từ và bao dung cũng không thể nào chịu đựng nổi!
Thân thể chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa.
Thế nhưng còn một đền thờ khác còn cao trọng hơn đền thờ Giê-ru-sa-lem xưa. Đó là đền-thờ-thân-xác chúng ta. Thánh Phao-lô khẳng định: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (I Cor 3,16), hoặc: "Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? (I Cor 6, 19)
Chúa Giêsu cũng dạy rằng thân xác chúng ta là đền thờ cho Ba Ngôi ngự trị: "Ai yêu mến Thầy và tuân giữ lời Thầy, thì Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng ta (tức Ba Ngôi Thiên Chúa) sẽ đến ngự trong người ấy". (Ga 14, 23)
Chính vì yêu quý đền-thờ-thân-xác chúng ta quá đỗi nên Chúa Giêsu sẵn sàng chuộc lại bằng giá máu của Người, đã thánh hoá nó bằng lời hằng sống và hiến ban Thịt Máu Người trong bí tích thánh thể để bồi bổ nó nên vạn lần cao đẹp.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Thiên Chúa thì thân xác con người là đền thờ vô giá!
Vì thế, nếu hôm xưa người Do-thái làm ô uế đền thờ Giê-ru-sa-lem khiến Chúa Giêsu đau lòng một phần, thì hôm nay, nếu có ai làm cho đền thờ cao quý là thân xác các môn đệ Người ra nhơ uế thì Người đau xót gấp trăm. Thế nên, Người nghiêm khắc lên án những người nầy: "Ai làm cho một kẻ nhỏ tin vào Thầy vấp phạm, (tức là làm hư hại đền-thờ-thân-xác người khác), thì thà lấy cối đá cột vào cổ người ấy rồi xô xuống biển còn hơn."
Thánh Phao-lô cũng quả quyết: "Ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy.Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em." (1Cr 3, 13-17)
Hãy sớm thanh tẩy đền thờ thân xác mình
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn thật sâu vào nội tâm kín ẩn của mình để truy tìm những điều làm cho chúng ta ra nhơ uế và quyết tâm thanh tẩy tâm hồn, vì "từ trong lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế" (Mt 15, 19-20)
Ngoài ra, chúng ta phải tôn trọng thân xác chúng ta là đền thờ Thiên Chúa, được Chúa Giêsu cứu chuộc, được Chúa Thánh Thần xức dầu thánh hiến, được Ba Ngôi Thiên Chúa vui thích chọn làm nơi ngự trị. Phải trang điểm đền thờ thân xác chúng ta bằng những đức tính tốt; phải nâng cấp bản thân bằng rèn luyện cho mình những phẩm chất cao đẹp cho xứng với danh hiệu đền thờ cao quý của Thiên Chúa Ba Ngôi.
20.Sự lạm dụng thân xác--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Từ ngày 06 đến 11/02/2012, chúng tôi có dịp tham quan Singapor và Malaysia. Ở đất nước của họ thật văn minh hiện đại, nhưng xem ra lại không có cái nhìn tích cực về người con gái Việt Nam. Tôi đã chứng kiến một cô gái Việt Nam bị từ chối nhập khẩu tại hải quan Singapor vì nghi ngờ qua đây làm nghề mại dâm. Điều này khiến tôi cảm thấy khó chịu với nhân viên hải quan Singapor khi từ chối cô gái vào Singapor chỉ vì cô ta mang theo quá ít tiền (200USD) mà cho rằng qua đây để bán thân. Nhưng rồi vào tối ngày 09/02/2012 khi ngồi xem tivi đài Malaysia, tôi mới cảm thấy thật xấy hổ khi đài truyền hình của họ thông báo đã bắt được một ổ mại dâm toàn là các cô gái Việt Nam. Quả thực, nhìn lên truyền hình tôi thấy có tất cả 11 cô gái Việt Nam bị dắt lên xe cảnh sát vì tội hành nghề mại dâm.
Thật đau xót cho hình ảnh người con gái Việt Nam: Công - dung - ngôn - hạnh của truyền thống Việt Nam nay còn đâu! Những đức tính này đang bị lu mờ bởi nhiều cô gái Việt nam hôm nay đang cố gắng tu sửa thân xác của mình để kiếm tiền chứ không trau dồi nhân đức. Người ta dùng thân xác để kiếm tiền mà bỏ qua nhân phẩm con người. Người ta trau truốt vẻ đẹp thân xác hơn là vẻ đẹp tâm hồn. Người ta cũng bỏ công sức nhiều cho sắc đẹp nhưng trau dồi nhân cách thì lại dửng dưng xem thường. Cha ông ta bảo rằng: "Cái nết đánh chết cái đẹp", nhưng đời con cháu hôm nay thì dường như: "cái đẹp đang đè bẹp cái nết". Người ta chuộng cái đẹp nhiều hơn cái nết vì cái đẹp mang lại lợi nhuận còn cái nết đâu mang lại lợi nhuận kinh tế cho ai? Trong các lễ hội, kể cả cưới xin người ta đều tôn vinh trai tài - gái sắc nhưng có mấy ai tôn vinh vẻ đẹp tôn hồn? Cái đẹp là dấu chỉ của giầu sang và cũng là cơ hội giầu sang của biết bao cô gái chân dài? Vì thế mà người ta bất chấp lợi nhuận miễn sao có thể lợi dụng vẻ đẹp thân xác thành một món hàng để trao đổi, mua bán, làm ăn...
Ngày nay, người ta nói nhiều về việc suy thoái đạo đức, nhưng điểm suy thoái nguy hiểm nhất vẫn là suy thoái về nhân phẩm con người. Thân xác con người là đền thờ của Chúa đã bị tục hoá vì thói đời hưởng thụ hôm nay. Người ta xem thân xác chỉ là một món hàng để có thể trao đổi, mua bán, lạm dụng... mà không cần bàn tới luân thường đạo lý. Khi thân xác chỉ là món đồ hàng thì người ta cố gắng trang trí cho đẹp, cho lộng lẫy, cho kiêu sa để bắt mắt, để thu lời mà quên rằng cái đẹp chỉ được tôn vinh khi có duyên thắm đi cùng. Người đẹp nhưng lòng dạ xấu xa chắc chắn cũng bị xem thường.
Sự lạm dụng thân xác để hưởng thụ không chỉ ở chợ đời mà còn len lỏi vào cả trong sân Chúa, Nhà Thờ là nơi trang nghiêm, linh thánh cũng bị tục hoá bởi những lối sống của một số thành phần suy thoái như câu ca:
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho Sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
Cách đây hơn 2,000 năm, Chúa Giêsu cũng chứng kiến sự ô uế của một môi trường được xem là thánh thiêng, là nơi cực thánh, thế nhưng đã bị tục hoá từ vật chất đến tinh thần. Đền thờ là nơi linh thánh đã bị lạm dụng vào việc làm ăn, buôn bán, trao đổi tiền. Nhìn vào Đền thờ Giêrusalem bị tục hoá mà lòng Chúa Giêsu quặn đau. Ngài đã không thể chần chờ. Ngài đã hành động dứt khoát để thanh tẩy đền thờ, để mang lại vẻ đẹp ban đầu của đền thờ là nơi Chúa ngự, là nơi linh thánh cho con người gặp gỡ Thiên Chúa. Phúc Âm nói rằng: Chúa Giêsu bện roi xua đuổi tất cả những ai can dự vào việc làm ô uế đền thờ như: những người buôn bán chiên, bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người đã đổ tung và lật nhào bàn ghế của họ. Người khuyến cáo họ: "Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán". Đó là đền thờ vật chất, con người cũng phải tôn trọng sự linh thánh của đền thờ, huống chi là một đền thờ linh thánh hơn nửa, đó chính là thân xác con người.
Thực vậy, thân xác chúng ta là đền thờ Thiên Chúa hãy biết kính trọng thân xác mình và anh em. Đừng lạm dụng thân xác trong những đam mê bất chính. Đừng lạm dụng thân xác để tìm thú vui xác thịt và kiếm tiền. Đừng phá huỷ đền thở tâm hồn trong những xa hoa truỵ lạc. Hãy biết sống đúng với phẩm giá con người là "nhân linh ư vạn vật". Hãy sống cao thượng hơn các loài sống theo bản năng hoặc các loài vô tri vô giác. Hãy thanh tẩy từ chính tâm hồn chúng ta khỏi những bợn nhơ tội lỗi, những ước muốn gian dâm và trộm cắp. Hãy loài trừ trong tâm hồn chúng ta những cái nhìn bất chính, những ước muốn tầm thường, những đam mê vô độ. Hãy để Chúa ngự trị và chiếm đoạt tâm hồn chúng ta. Hãy sống thanh sạch. Hãy thanh tẩy tâm hồn mình thường xuyên bằng các bí tích nhất là bí tích Hoà Giải và Thánh Thể. Nhờ bí tích Hoà Giải mà ta luôn làm mới lại tâm hồn, và nhờ bí tích Thánh Thể mà ta luôn có Chúa ở trong mình.
Nguyện xin Chúa luôn nâng đỡ và trợ giúp để chúng ta biết thanh tẩy mình mỗi ngày nên tinh tuyền, xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự, và là viên đá sống động xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô mỗi ngày một vững mạnh hơn. Amen.
21.Thế giới tục hóa--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày nay người ta nói nhiều đến tục hóa. Thế giới tục hóa, con người tục hóa, nhà thờ, nhà chùa cũng tục hóa! Vậy tục hóa là gì?
Người xưa hay dùng chữ “hoàn tục” để nói về người bỏ tu để về với thế gian. Thực ra, tục hóa không chỉ là hoàn tục của người đi tu mà còn nói về một trào lưu loại bỏ sự hiện diện của thần linh để đưa tinh thần thế tục vào chính sự linh thánh.
Cụ thể ta vẫn thấy ở Việt Nam rất nhiều ngôi Chùa hoàn toàn để tham quan du lịch, người ta còn cổ vũ cả một tour du lịch tâm linh tại Bái Đính. Các nước phương tây đã sử dụng các ngôi nhà thờ cổ kính để làm nơi tham quan du lịch và tìm lợi nhuận như nhà thờ Đức Bà Pari . . . Sự tục hóa len lỏi trong cả những việc bác ái từ thiện. Trước đây việc bác ái hoàn toàn dựa vào sự hảo tâm của bá tánh, ngày nay nhiều nhà thờ, nhiều hội dòng cũng biết kiếm tiền bằng cách kinh doanh buôn bán nhân danh gây quỹ từ thiện. Ở thời đại này ta rất dễ thấy bóng dáng các nữ tu, các đệ tử, các thầy dòng đứng bán tranh ảnh, băng dĩa, đồ dùng ở những nơi hành hương hay những ngày lễ hội lớn nơi các giáo xứ. . .
Nhiều nhà thờ nhân danh người nghèo để biến sân nhà thờ thành nơi thuê mướn mặt bằng để đám tiệc linh đình, ca hát, nhảy nhót trên cả lễ đài vẫn để dùng làm lễ Chúa nhật! Điều tệ hại là khuôn viên nhà thờ thì không có khu vệ sinh để đáp ứng nhu cầu tối thiểu nên ta vẫn vô tình nhìn thấy những cách thiếu tôn kính nơi tường rào chung quanh hay một góc khuất nào đó quanh nhà thờ của những người say sỉn, thiếu ý thức. . . Đây là điều mà Đức Cha Giuse giáo phận Xuân Lộc đã thấy nhà thờ bị tục hóa nên đang đề nghị các giáo xứ chấm dứt dùng sân nhà thờ để cho thuê đám cưới.
Phúc âm kể rằng ngày hôm ấy Chuá Giêsu vào trong Đền Thờ, Ngài thấy người Do Thái đã biến đền thờ thành nơi trao đổi buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để kiếm lời. Kẻ buôn bán súc vật và đổi tiền. Ngay cả các tư tế cũng chủ trương kiếm lợi nhuận hoa hồng từ những việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần thiết của Đền thờ.
Chính vì Đền thờ bị lạm dụng., Chuá đã hành động thẳng thắn để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền thờ. Chúa bảo rằng “đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Ngài đã tẩy chay một lối thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi của mình.
Thế giới tục hóa vẫn là lời mời gọi chúng ta đem đạo vào đời. Đem ánh sáng lời Chúa thánh hóa thế gian đang hư đốn bởi tham sân si. Hãy dùng lời Chúa để canh tân xã hội. Người ky-tô phải làm sao dậy men tin mừng trong đời sống của mình. Đừng vì lợi nhuận mà bán rẻ lương tâm, mà tục hóa những nơi linh thánh, nhất là trong chính thân xác con người là đền thờ của Chúa. Xin đừng tục hóa đến độ xem thường thân xác để chỉ tìm thú vui bất chính, để thỏa mãn tính xác thịt mà tìm lợi nhuận trên thân xác.
Muà Chay là muà mợi gọi chúng ta sám hối và canh tân đời sống. Có thể nói mùa chay là mùa giúp chúng ta nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chúa thanh tẩy tâm hồn khỏi những đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá ngự trị.
Lạy Chúa, tâm hồn con là đền thờ của Chúa, thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.
22.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
“Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16)
Các em thiếu nhi thân mến,
Có bao giờ các em đọc kinh hay hát thánh ca trong nhà thờ mà không suy nghĩ gì đến lời kinh, tiếng hát cuả mình không? Có khi nào ngồi đây nghe giảng mà tâm trí các em đang bay ở mãi tận khung trời xa xôi nào đó không? Ðó chính là lối thờ phượng máy móc, vụ hình thức của những nguoi đi đạo lâu năm. Họ đọc kinh theo thói quen. Họ hát theo thói quen. Họ nghe giảng theo thói quen. Họ không còn ý thức đến hành vi của mình nữa, và cũng không có một cảm xúc hay một tâm tình thờ phượng đích thực nào trong những việc làm của mình.
Người ta kể rằng: một người kia nằm mơ, thấy thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày chúa nhật. Tại đó người này thấy người nhạc sĩ đang đàn phong cầm nhưng không nghe thấy tiếng âm nhạc, ca đoàn và cộng đoàn hát nhưng không nghe có âm thanh nào cả. Rồi đến khi linh mục đứng lên giảng, môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói nào cả. Người ấy rất đỗi ngạc nhiên hỏi thiên sứ, thì thiên sứ nói: "Ông không nghe thấy gì, vì không có gì để nghe cả. Những người trong nhà thờ không tham dự vào buổi thờ phượng, mà chỉ dự phần vào hình thức thờ phượng mà thôi. Tâm hồn họ trống rỗng. Họ không thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ chỉ là những chiếc máy vô hồn phát ra. Họ nếu không nói là giả hình thì cũng là những loại người thờ Chuá bằng môi bằng miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu rồi.
Qua câu chuyện này, người ta muốn nói điều gì? Thưa, câu chuyện này dậy ta một bài học quan trọng: khi nào ta vào nhà thờ, thờ phượng Chúa, ta hãy đến đó với một tấm lòng ước muốn ra mắt Chúa, và tôn kính Ngài trong mọi việc ta làm trong nhà thờ. Ta hãy đọc kinh với thái độ tin tưởng và yêu mến. Ta hãy hát với thái độ ca ngợi Chúa thật, dù là hát trong ca đoàn hay chung với cộng đoàn. Nếu ta đứng lên nói, hãy nói với thái độ tôn thờ Chúa. Cầu nguyện cũng phải chân thành tập trung vào Chúa, ngay cả khi nghe lời Chúa cũng phải có thái độ thờ phượng. Khi nào ta ý thức được như thế thì giờ thờ phượng mới có ý nghĩa. Và chỉ những lúc đó, tiếng ca ngợi của ta từ nơi đất thấp, mới bay lên tận trời cao được.
Hôm nay Chuá Giêsu vào trong Đền Thờ, Ngài đã thấy gì trong đó? Họ đã biến đền thờ thành nơi trao đổi buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để lợi dụng lẫn nhau. Kẻ buôn bán súc vật và đổi tiền nhằm lợi nhuận. Kẻ mua để dâng cúng trong đền thờ chỉ nhằm mục đích phô trương giả hình. Ngay cả các tư tế cũng chủ trương như thế, để họ thu lợi nhuận hoa hồng từ những việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần thiết của Đền thờ. Chính vì Đền thờ bị lạm dụng., Chuá đã hành động thẳng thắn để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền thờ. Vậy ý nghiã đích thực của Đền thờ là gì?
Thưa, Đền thờ là nơi cầu nguyện. Chuá bảo rằng “đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Ngài đã tẩy chay một lối thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi của mình. Đồng thời, khi Chuá Giêsu nói với những kẻ chất vấn Ngài: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Ngài ám chỉ đến Đền thờ mới chính là thân thể Ngài. Như vậy qua hành động thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chuá Giêsu còn cho biết thêm: sự thờ phượng đích thực của thời Tân ước là thờ phượng Thiên Chuá trong Thần Khí và Sự Thật. Thế nên, “đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chuá Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, vì Thiên Chuá là Thần Khi và những kẻ thờ phượng Người phải thờ trong Thần khí và sự thật” (Ga 17, 23).
Ngày hôm nay, người ta vẫn có thể lạm dụng Đển thờ bằng nhiều cách:
Có những người đến nhà thờ nhưng lại lo ra chia trí trong lòng. Đó là những người có xác mà không có hồn. Họ chỉ là những thây ma trơ trẽn và nguội lạnh. Họ xem lễ chứ không dự lễ, vì họ không đóng góp tấm lòng của mình vào việc thờ phượng Chuá.
Có những người đi lễ vì người khác đi mình cũng đi hay chỉ vì cha mẹ bắt phải đi. Đó là những người thờ phượng giả hình. Họ không sống những điều mình tin. Họ lấy “vải thưa che mắt thánh”. Họ chỉ che được mắt thế gian nhưng không che dấu được Thiên Chuá. Họ đến nhà thờ nhưng không gặp được Chuá nên đời sống họ cũng không có gì thay đổi.
Nhưng điều quan trọng mà hôm nay sứ điệp Lời Chuá muốn nhắn gởi chúng ta, chính là hãy chỉnh đốn lại đền thờ tâm hồn chúng ta. Tâm hồn chúng ta có Chuá ngự trị hay không? Chúng ta đang tôn thờ Thiên Chuá hay tôn thờ những danh lợi thú trần gian?
Mùa Chay là muà mợi gọi chúng ta sám hối và canh tân đời sống. Có thể nói muà chay là muà giúp chúng ta nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chuá thanh tẩy tâm hồn khỏi những đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá ngự trị.
Lạy Chuá, tâm hồn con là đền thờ của Chuá, thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.
23.Nhà Cha là nhà cầu nguyện--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một người nằm mơ, thấy thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày Chúa Nhật. Tại đó, ông thấy người nhạc sĩ đang đàn phong cầm nhưng không nghe thấy tiếng nhạc, ca đoàn và cộng đoàn hát nhưng không nghe có âm thanh nào cả. Rồi đến khi linh mục đứng lên giảng, môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói nào cả. Người ấy rất đỗi ngạc nhiên hỏi thiên sứ, thì thiên sứ nói: "Ông không nghe thấy gì, vì không có gì để nghe cả. Những người trong nhà thờ không tham dự vào buổi thờ phượng, mà chỉ dự phần vào hình thức thờ phượng mà thôi. Tâm hồn họ trống rỗng. Họ không thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ chỉ là những chiếc máy vô hồn phát ra. Họ nếu không nói là giả hình thì cũng là những loại người thờ Chuá bằng môi bằng miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu rồi!
Đôi khi chúng ta cũng đến với Chúa bằng hình thức bên ngoài mà chằng có tâm tình bên trong. Ðó chính là lối thờ phượng máy móc, vụ hình thức của những người đi đạo lâu năm. Họ đọc kinh theo thói quen. Họ hát theo thói quen. Họ nghe giảng theo thói quen. Họ không còn ý thức đến hành vi của mình nữa, và cũng không có một cảm xúc hay một tâm tình thờ phượng đích thực nào trong những việc làm của mình.
Hôm nay Chuá Giêsu vào trong Đền Thờ, Ngài đã thấy gì trong đó? Người Do Thái đã biến đền thờ thành nơi trao đổi buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để lợi dụng lẫn nhau. Kẻ buôn bán súc vật và đổi tiền nhằm lợi nhuận. Kẻ mua để dâng cúng trong đền thờ chỉ nhằm mục đích phô trương giả hình. Ngay cả các tư tế cũng chủ trương như thế. Họ thu lợi nhuận hoa hồng từ những việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần thiết của Đền thờ.
Chính vì Đền thờ bị lạm dụng., Chuá đã hành động thẳng thắn để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền thờ. Chuá bảo rằng “đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Ngài đã tẩy chay một lối thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi của mình. Đồng thời, khi Chuá Giêsu nói với những kẻ chất vấn Ngài: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Ngài cũng ám chỉ đến Đền thờ mới chính là thân thể Ngài. Thân thể Ngài cũng bị phá huỷ bởi sự gian ác của con người, nhưng rồi Ngài sẽ sống lại sau ba ngày trong mồ.
Ngày hôm nay, người ta vẫn có thể lạm dụng Đển thờ bằng nhiều cách:
- Có những người đến nhà thờ nhưng lại lo ra chia trí trong lòng. Đó là những người có xác mà không có hồn. Họ ví tựa như những thây ma trơ trẽn và nguội lạnh. Họ xem lễ chứ không dự lễ, vì họ không đóng góp tấm lòng của mình vào việc thờ phượng Chuá.
- Có những người đi lễ vì người khác đi mình cũng đi hay chỉ vì cha mẹ bắt phải đi. Đó là những người thờ phượng giả hình. Họ không sống những điều mình tin. Họ lấy “vải thưa che mắt thánh”. Họ chỉ che được mắt thế gian nhưng không che dấu được Thiên Chuá. Họ đến nhà thờ nhưng không gặp được Chuá nên đời sống họ cũng không có gì thay đổi.
- Nhưng điều quan trọng mà hôm nay sứ điệp Lời Chuá muốn nhắn gởi chúng ta, chính là hãy chỉnh đốn lại đền thờ tâm hồn chúng ta. Tâm hồn chúng ta có Chuá ngự trị hay không? Chúng ta đang tôn thờ Thiên Chuá hay tôn thờ những danh lợi thú trần gian?
Mùa Chay là muà mợi gọi chúng ta sám hối và canh tân đời sống. Có thể nói muà chay là muà giúp chúng ta nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chuá thanh tẩy tâm hồn khỏi những đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá ngự trị.
Lạy Chuá, tâm hồn con là đền thờ của Chuá, thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.
24.Điên rồ cho Thiên Chúa--Peter Feldmeier--Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ
“Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh” (1Cr 1,23)
Tin Mừng quả là điên rồ, nhưng điên rồ như thế nào? Bài đọc phụng vụ hôm nay trích trong thơ thứ nhất Thánh Phaolô tông đồ gửi cho giáo đoàn Côrinthô. Ngài viết: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp kiếm tìm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đanh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ (1Cor 1,22).
Vậy, phải chăng Tin mừng thật điên rồ, thật vô lý, và dẫn con người đi vào lầm lạc? Sự khôn ngoan mà con người thường hay đề cao có thực sự phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương phản ánh hoạt động của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân hậu của Chúa (Kn 7,26) hay không?
Chắc chắn, Thánh Phaolô muốn khẳng định rằng, sự khôn ngoan theo quy chuẩn xã hội loài người sẽ bị cáo chung bởi Tin mừng. Tin mừng đưa dẫn chúng ta tiếp cận sự khôn ngoan không theo dạng thức mà thế gian vẫn hướng về. Cũng trong lá thư này, Thánh Phaolô đã nhắc các độc giả, để giúp họ biện phân đâu là sự khôn ngoan đích thực. “ Khi anh em được Chúa kêu gọi, trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. Song, những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh…(1,26-27). Sự xét định theo tiêu chí của thế gian không phải là đường lối của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã tóm kết nghịch lý này, khác với suy nghĩ bình thường của xã hội loài người, khi Ngài tuyên bố “ Phúc cho những ai sống tinh thần nghèo khó ” và “Những ai tìm mạng sống mình, sẽ mất nó. Ai liều mất mạng mình vì tôi, sẽ tìm được chính mạng sống ấy (Mt 5,3; 10,39).
Đức Giêsu không phải là người hùa chạy theo đám đông, hay dễ theo xu hướng của cộng đồng xã hội. Thay vì rập theo não trạng chung của dân chúng, Ngài lại tuyên bố những điều hoàn toàn trái ngược. Chúng ta cũng thấy điều tương tự trong trình thuật Tin mừng hôm nay. Đức Giêsu lên Giêrusalem, Ngài thấy trong đền thờ có một khu vực người ta đang bán bê, chiên, bồ câu, và có những người đổi tiền ngồi đó. Đức Giêsu mạnh tay xua đuổi họ ra ngoài, và còn lật tung những bàn đổi tiền, khiến tiền bạc đổ vãi tung tóe. Ngài truyền lệnh đem tất cả thứ đó ra khỏi đền thờ, “ Đừng biến nhà Cha ta thành nơi bán buôn”.
Việc mua bán trong khu vực đền thờ hồi xưa, không bị coi là một sự phạm thánh. Thậm chí, người Do Thái còn xem đó là một việc đạo đức tốt lành. Khách hành hương thường mua những lễ vật để tiến dâng cho Chúa. Điều này chẳng có gì xấu. Vả lại việc mua bán này chỉ diễn ra tại khu vực tiền sảnh bên ngoài đền thờ, là những chỗ mà ngay cả dân ngoại vẫn có thể lui tới. Khách hành hương đến đền thờ cần có lễ vật, và những người buôn bán giúp họ thực thi bổn phận tôn giáo rất chính đáng. Có lẽ, vì luật Do Thái cấm tôn thờ ngẫu tượng, nhưng việc buôn bán giao dịch lại phải dùng tiền Rôma có in hình Xêda, hoàng đế của đế quốc, nên phải chăng vì thế mà Đức Giêsu đã phản ứng gay gắt? Có phải thế không? Chúng ta sẽ từ từ tìm ra câu trả lời, và khám phá ra ý nghĩa sâu xa của câu chuyện nêu trên.
Đối với dân Israel, đền thờ là chốn linh thiêng nhất, biểu thị cho việc Thiên Chúa luôn hiện diện giữa dân Ngài. Tác giả Thánh vịnh đã viết “ Một điều tôi kiếm tôi xin, là luôn được ở trong đền Chúa tôi, mọi ngày trong suốt cuộc đời, để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt vời cao sang, ngắm xem thánh điện huy hoàng (Tv 27,4). Tin mừng thuật lại, sau này các học trò của Đức Giêsu nhìn vào hành động của Ngài trong đền thờ Giêrusalem như một hành vi tiên tri, diễn bày niềm tin sâu xa mà tác giả thánh vịnh đã miêu tả: “Vì nhiệt tâm lo cho nhà Chúa, mà con đã chịu thiệt thân (Tv 69,4)”. Đi sâu vào ý nghĩa của biến cố, chúng ta mới có thể nhận ra rằng, những quy chuẩn theo não trạng con người dễ làm cho chúng ta trở nên mù tối trước những thực tại thánh thiêng. Chúng ta cần phân định đâu là những gì hợp pháp mang tính phàm tục, và đâu là những gì thuộc phạm trù linh thánh.
Khi những vị đầu mục Do thái giáo cai quản đền thờ tra vấn Đức Giêsu, đòi Ngài phải minh chứng bằng một dấu chỉ cho thấy Ngài có quyền hành xử như vậy, Đức Giêsu một lần nữa lại tuyên bố sự cáo chung của những quy chuẩn khôn ngoan theo não trạng con người. Ngài nói” Cứ phá hủy đền thờ này đi, sau ba ngày ta sẽ xây lại”. Họ chỉ biết nghĩ về một ngôi đền thờ bằng gỗ, bằng đá, nhưng Đức Giêsu nói về ngôi đền thờ khác, là chính thân xác Ngài. Sự sống lại của Ngài là dấu ấn chung cuộc, khải thị cho thế giới về những gì Ngài đã nói, đã hành xử. Ngài muốn nói về sự khôn ngoan đích thực cho thế giới hôm nay, một thế giới trong đó người ta vẫn nghĩ tưởng rằng cái chết là dấu chấm hết cuối cùng. Đức Giêsu chính là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa, và sự hiện diện của Ngài diễn bày cho chúng ta chân lý này.
Tất cả những điều đó bị coi là ngu xuẩn đối với họ. Những luật lệ theo quy ước và não trạng hạn hẹp đã khiến họ trở nên mù tối trước chân trời rộng mở của chân lý vĩnh hằng.
Tin mừng không phải là những gì xuẩn ngốc hay ngu dại. Tuy nhiên, sống giữa một thế giới đầy sợ hãi, khi con người thường hay sống cố thủ và tự mãn, người ta vẫn nghĩ tưởng Tin mừng là như thế. Lá thư mục vụ của Hội đồng Giám mục Hoa kỳ vừa qua nói về vấn đề hòa bình đã bị quần chúng công kích mạnh mẽ. Người ta cho rằng Giáo hội quá ấu trĩ và không đi sát với những trào lưu chính trị của thế giới. Lá thư nêu bật giáo huấn về sự phân bổ của cải sao cho công bằng và hợp lý, đồng thời phải phân phối những tiện ích xã hội để phục vụ đồng đều cho hết mọi người. Chế độ tư bản, khuyến khích người ta làm giàu, khuyến khích quyền tư hữu một cách ích kỷ, mà không lo cho thiện ích chung, là một chế độ đáng bị lên án và cần phải loại trừ. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị và cả Đức Thánh Cha Bênêđictô đều nhấn mạnh về giáo huấn này. Lệnh truyền của Thiên Chúa là phải chăm lo cho sự sống nội tại nơi từng mỗi con người. Nhưng điều này dường như con người xã hội hiện nay vẫn không chấp nhận. Người Công giáo từ lâu đã cố gắng hòa nhập với xã hội, nhưng có một nguy hiểm to lớn là chúng ta dễ bị chao đảo về đức tin, hoặc đức tin trở nên suy yếu, khi chúng ta đang từ từ bị xã hội đồng hóa, bị thỏa hiệp và chúng ta không dám can đảm nêu bật căn tính của mình.
Chúng ta có dám can trường sống đức tin, phần nào có vẽ như “điên rồ” trong cái nhìn của thế giới ngày hôm nay hay không?
25.Uy quyền Đấng Thiên Sai--Lm. Hồng Phúc
Chúng ta thường gọi 10 giới răn là căn bản lề luật Thiên Chúa. Người Do thái gọi đó là “Thập điều” (Decalogue) của Thiên Chúa nói lên ý muốn cứu độ của Ngài. Mười lời đó không phải bản tuyên xưng đức tin, một bản tóm lược luân lý, nhưng là những lời nhắn nhủ của Chúa gửi đến con cái của Ngài. Trong mùa Chay, chúng ta hãy đến dưới chân núi Sinai, như ngày xưa dân Israel tập họp dưới núi thánh, để nghe lời thân mật của Chúa. Chúa nói như Cha nói với con, Cha khuyên bảo con. Tất cả Thập điều đều tóm tắt trong một câu và phải được khắc ghi vào tâm khảm mỗi người: “Ngươi hãy thương yêu”. Hãy yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.
Tình thương đó, khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã tỏ ra một cách cực độ khi chịu đóng đinh trên thập giá. Phaolô gọi đó “là cớ vấp phạm cho người Do thái, một sự điên rồ cho người ngoại giáo”. Làm sao hiểu được tình thương của Thiên Chúa? Yêu đến bỏ trời xuống thế, yêu đến chết trên thập giá để đền tội chúng ta.
Thiên Chúa đã cứu rỗi chúng ta bằng phương cách chúng ta không thể hiểu nổi.
Trong khi có người tự cho là thông thái như dân Hy lạp dùng lý luận để tự cứu vãn, trong khi người Do thái tự cho là có thể dùng chay giới, giữ luật lệ để vào thiên đàng thì Thiên Chúa dùng tình thương và tình thương đến điên dại như Phaolô suy tưởng.
Tình yêu Chúa Cha nung nấu tâm can của Chúa Giêsu và bộc lộ ra bên ngoài hôm nay bằng một cử chỉ táo bạo mà Gioan đã chứng kiến và tường thuật lại. Đó là việc Chúa xua đuổi con buôn bán ra khỏi đền thờ. Lễ vượt qua của dân Do thái gần đến, Chúa Giêsu lên đền thờ. Ngài thấy trước mắt trong khuôn viên đền thờ Cha Ngài, diễn ra một cảnh hỗn loạn không thể chịu được. Người ta bày bán chiên bò. Người ta mở bàn đổi tiền bạc. Ngài chắp giây thừng làm roi, hất tung bàn ghế và đánh đuổi tất cả ra khỏi đền thờ. Ánh mắt Ngài chiếu sáng và miệng Ngài hô to: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán.”
Ngài phẫn nộ để cho mọi người biết Ngài là ai.
Ngài tỏ uy quyền của Đấng Thiên Sai, như lời tiên tri Malachia đã loan báo; Ngài xuất hiện trong đền thánh để tẩy uế nơi tôn nghiêm này. Nhà chức trách đền thờ hiểu điều đó nên họ không vặn hỏi lý do mà chỉ đòi một dấu chứng minh. Chúa trả lời cách khô khan: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”; “Ngài có ý nói đền thờ là thân thể Ngài.”
Ngài cho biết “Con Chiên chân thật của Thiên Chúa chính là Ngài” (Gio. 1,29) đến trong đền thờ. Nghi lễ của đạo cũ đã quá thời. Ngài là Con Chiên Pascal bị tế sát vì chúng ta (1Cor. 5,7-8) và sẽ dẫn đưa chúng ta vào “trong nhà của Cha Ngài” (Gio. 14,2).
Bằng cử chỉ hôm nay, Chúa Giêsu không có ý bãi bỏ những nơi thờ phượng, nhưng đã chấn chỉnh và nói lên bản chất chân thật của nó. Dưới con mắt của Gioan, đền thờ của Đạo mới chính là Thánh Thể của Chúa Giêsu, rồi đây sau 3 ngày nằm trong nhà mồ, sẽ khởi hoàn sống lại.
Là người tín hữu trong Giáo hội, chúng ta có bổn phận lo cho Chúa có một nơi thờ phượng trang nghiêm xứng đáng, vì “nhiệt thành với nhà Chúa”. Nhưng đừng quên xua đuổi quét sạch những gì làm hoen ố tâm hồn chúng ta là đền thờ Chúa ngự.
26.Cơn Giận Thánh--AM Trần Bình An
Theo Phúc Âm Nhất Lãm, sau cuộc nghênh đón trọng thể của dân chúng rước Chúa Giêsu vào Đền Thánh Giêrusalem, Người đã đơn phương xua đuổi con buôn ra khỏi nơi linh thiêng, mặc dù họ đã được các thầy tư tế cho phép hành nghề.
Dĩ nhiên, họ đã phải nộp đầy đủ các khoản hoa chi, thuế má, hay phí kiểm tra chất lượng các vật hy tế. Hơn nữa, lợi dụng luật cấm dân chúng không được phép tự ý mua lễ vật bên ngoài đem vào, họ nâng giá vô tội vạ, thường gấp hàng chục lần giá thị trường.
Vì thế Chúa Giê su mới nổi cơn thịnh nộ.
Người liền lấy dây làm roi, mà xua đuổi tất cả chiên, cũng như bò, ra khỏi Đển Thờ. Còn tiền của những người đổi bạc, Người lật tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” (Ga 2, 15 -17) Trong khi Phúc Âm Nhất Lãm đều chép lại lời quở mắng của Chúa Giê su còn đanh thép hơn nữa: “Đã có lời chép rằng: Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện,(Is 56,7) thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp.”(Mt 21, 13. Mc 11, 17. Lc 19, 46)
Ngày nay, nhiều chốn linh thiêng cũng vẫn tiếp tục bị ô uế, chẳng phải vì cảnh buôn bán bát nháo chiên bò, chim câu như xưa nữa, mà khéo léo che đậy tinh vi hơn. Có nơi bị biến tướng thành chốn rạp hát, vũ trường. Có nơi còn thành chốn ca ngợi tà thuyết, truyền bá văn minh sự chết. Có nơi trá hình thành điểm giao dịch buôn thần bán thánh, biến thành hang ổ của tập đoàn tội ác.
Cơn giận Chúa làm sao nguôi được?
Còn đền thờ sống động của tín hữu, cũng chẳng mấy tươm tất, sạch sẽ, hay sáng sủa cho cam, mà trái lại, cũng hoen ố bụi bặm, rác rười, ruồi nhặng, xú uế hôi hám, vì chất chứa thói mê tật xấu. Vì thế ông Gioan Tẩy Giả đã mời gọi ăn năn, sám hối, để chào đón Chúa đến viếng thăm. Nhưng hình như lời kêu gọi ấy chỉ vang vọng trong hoang mạc, chưa kịp dội vào vào tâm hồn kẻ tin vào Chúa.
Làm sao Chúa không nổi cơn thịnh nộ?
Nhưng Ngài vẫn xót thương, thứ tha, không tiêu diệt,
Nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí (Tv 78, 38)
Thánh Phaolô đã phải tha thiết nhắn nhủ trong thư gửi cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền thờ của Chúa Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế anh em đâu còn thuộc về chính mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1 Cr 6, 19-20).
Lạy Chúa, nhờ vào lòng thương xót vô biên của Ngài, xin thanh tẩy đền thờ tâm hồn con, để con trở nên thanh sạch, xứng đáng đón nhận Lời Hằng Sống.
Lạy Mẹ từ bi nhân hậu, xin giúp con thấy được những lỗi lầm, vấp phạm và tội lỗi, để con sớm sám hối, canh tân, đổi mới, hầu con được ơn cứu rỗi. Amen.
27.Điện Thờ Thân Thể của Người--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Chương hai gồm hai câu chuyện: phép lạ tại Cana, như là dấu lạ đầu tiên để các môn đệ tin vào Chúa Giêsu (2,1-11) và việc thanh tẩy đền thờ và loan báo đền thờ thân thể Người, như là dấu lạ cho người Do thái, nhưng họ không hiểu (2,13-25). Đoạn 2,13-25 gồm hai phần song song với nhau: - phần 2,13-17 gồm: hành động của Chúa Giêsu (c.14-15), lời của Người về nhà của Thiên Chúa bị làm thành cái chợ (c. 16), và việc nhớ lại của các môn đệ (c. 17); - và phần 2,18-25 gồm: hành động của người Do thái (c. 18), lời của Chúa Giêsu về điện thờ mới (c.19), và việc nhớ lại của các môn đệ (c. 22). Trong phần nầy có thêm ghi nhận việc không hiểu của người Do thái (c. 20) và lời giải thích của thánh sử (c. 21). Phần thứ hai hoàn thành phần thứ nhất.
Theo thánh Gioan, đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Người còn lên đó nhiều lần khác nữa (6,4; 11,15; 12,1; 13,1). Ba sự kiện: lễ Vượt Qua, thanh tẩy đền thờ và loan báo việc sống lại liên kết với nhau rất ý nghĩa. Mỗi dịp lễ Vượt Qua là lúc đền thờ được sử dụng cách đặc biệt để cử hành biến cố Thiên Chúa đưa dân Do thái ra khỏi kiếp nô lệ ở Ai cập. Chúa Giêsu thanh tẩy đến thờ là để phục hồi lại phẩm giá cho nhà của Thiên Chúa, vì những người buôn bán trong đền thờ đã tục hóa khi làm nơi đó thành cái chợ. Trong bối cảnh nầy, Chúa Giêsu loan báo một điện thờ mới, xứng đáng cách tuyệt đối làm nơi thờ phượng Thiên Chúa. Đó là thân thể phục sinh của Người. Muốn được thế, Người phải chịu hủy hoại, cũng vào dịp lễ Vượt Qua (2,17; 19,14).
Điện thờ mới gắn liền với sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã đi từ một đền thờ, ieros, Giê-ru-sa-lem cụ thể, với những gian nhà và không gian chung quanh (2,14.15) đến một không gian hẹp hơn. Đó chỉ là điện thờ, naos, là nơi để cử hành các nghi thức thờ phượng Thiên Chúa (2,19.20. 21). Đền thờ Giêrusalem tượng trưng cho cơ chế và quyền bính của Do thái giáo. Chúa Giêsu không nói gì đến việc phá hủy đền thờ và quyền bính nầy, theo như lời cáo buộc sau nầy (Mc 14,58; Mt 26,61). Việc thanh tẩy đền thờ dẫn đến việc loan báo dựng lên một điện thờ mới chứng tỏ đền thờ cũ không cần thiết nữa và phải được thay thế (cf. 4,21).
Việc thay thế sẽ không là xây dựng một đền thờ trong bốn mươi sáu năm, mà trong ba ngày. Thân thể Chúa Giêsu chính là điện thờ. Người sẽ chết và sống lại trong ba ngày. Sự chết của Người được ám chỉ trong trích dẫn Thánh vịnh 69,10: “Nhiệt tâm cho nhà Người sẽ hủy hoại tôi” và trong mệnh lệnh “Các ông hãy phá huỷ điện thờ này đi” (2,19). Trong khi để chỉ sự sống lại, thánh Gioan đã cố ý dùng chữ egeiro, có hai nghĩa: dựng lên một căn nhà hay một đền thờ, và làm cho đứng dậy, trỗi dậy. Động từ nầy được dùng để chỉ việc Chúa Cha làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ cõi chết (2,22; 21,14).
Điện thờ là nhà của Thiên Chúa, là nơi gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa. Nơi đó sẽ không còn là một không gian, mà là một đấng: Chúa Giêsu Kitô Sống Lại.
28.Chúa Giêsu, Đấng kiện toàn lề luật --Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Kính thưa quý anh chị em,
Lề luật là những chuẩn mực con người phải tuân giữ để giao ước được luôn mãi duy trì và lời hứa được thực hiện.
Lề luật đồng hành với sự sống, từ những hình thức rất đơn sơ đến những quy định chi tiết phức tạp, nhằm đảm bảo và phong nhiêu sự sống.
Vào thời sáng tạo, Chúa chỉ lệnh cho nguyên tổ “không được ăn trái cây giữa vườn”. Một lệnh truyền rất đơn giản, nhưng mang nhiều ý nghĩa biểu tượng.
Nếu quy chiếu vào các bản văn Kinh Thánh có liên hệ đến lề luật, lệnh cấm ăn trái cây giữa vườn chứa đựng cả “Mười” giới luật được ghi chép trong các sách luật sau này. Đó là luật tự nhiên, là đạo tự nhiên, Chúa in vào lương tâm con người, để tuân giữ và được sống.
Chúa Giê-su tuyên bố: ai giữ và dạy người ta tuân giữ thì được kể là kẻ cao trọng trong Nước Trời, ngược lại, ai vi phạm và dạy người khác làm sai điều luật dạy, thì bị coi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời (cf. Mt 5, 19).
Vì cớ con người hay quên do thiếu hiểu biết, do tham, sân, si, lề luật phải luôn được gióng lên giữa cộng đoàn cho dân nghe, kiện toàn, học hỏi, ghi nhớ, đem ra thực hành, đáng được Chúa chúc phúc và ban ơn.
Phụng vụ Lời Chúa, chúa nhật III mùa chay, phác họa bức tranh toàn cảnh lề luật và sự kiện toàn lề luật trong Đức Kitô, giúp con người sống đúng, sống đẹp trọng tâm lề luật “tình yêu và vâng phục” đúng ý Chúa muốn.
Bài đọc I, trích sách Xuất Hành, tuyên bố “Mười” giới luật, hay còn gọi là “mười điều răn”.
Việc tuyên đọc luật điều là một phần của giao ước tại núi Si-nai, trong bối cảnh dân Chúa không còn muốn thực hành các điều luật dạy: thờ lạy con bò vàng như vị thần bảo hộ, bất công bóc lột lẫn nhau, nuôi lòng hận thù ghen ghét đố kị...
Trong khi tuyên bố các khoản luật, sách thánh đưa độc giả tới tận thời điểm sáng tạo, vì Thiên Chúa sáng tạo mọi sự trong “sáu ngày và ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi” (Xh 20, 11), nhấn mạnh đặc tính trường tồn, bất di, bất dịch của lề luật và khi đối chiếu cách sống của dân với luật Chúa, họ nhận ra sự sai thù, cách biệt, nên cần phải được canh tân, kiện toàn đúng ý Chúa muốn.
Chúa đã ban hành lề luật cho nguyên tổ thế nào, Người cũng ban luật điều cho dân như vậy. Sự chúc lành và chúc dữ đã áp dụng cho Adam/Eva thế nào, cũng sẽ được áp dụng cho dân như vậy. Gương của nguyên tổ là lời cảnh báo dân hôm nay: Hãy lắng nghe các lề luật, huấn lệnh của Chúa, đem ra thực hành thì các ngươi sẽ được sống và được vào chiếm hữu phần đất mà Chúa là Thiên Chúa cha ông các ngươi sẽ ban cho các ngươi (cf. Đnl 4, 1).
Việc không vâng giữ luật Chúa đã làm cho tâm hồn méo mó biến dạng. Thân xác không còn là đền thờ của Chúa Thánh Thần, hoạt động không đem lại tình yêu và sự sống. Con người cần được Thiên Chúa thanh tẩy.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, xuất hiện như Đấng thanh tẩy có thẩm quyền: xua đuổi chiên cừu ra khỏi đền thờ, hất tung tiền bạc, lật nhào bàn ghế kẻ buôn, người bán, với một lời cảnh cáo nặng nề: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Jn 2, 16).
Còn hơn gấp nhiều lần việc thanh tẩy, Chúa Giê-su còn đòi phá hủy đền thờ này, để Người xây lại nó nội trong “ba ngày”.
Ở đây, Giê-su muốn mạc khải một điều rất quan trọng: đền thờ là chính thân thể Người, mỗi chúng ta cũng là đền thờ của Thiên Chúa.
Nếu thân xác là dụng cụ cho tội lỗi, vi phạm lề luật trở nên thù nghịch với Thiên Chúa, làm thành hang trộm cướp, thì có còn xứng đáng là đền thờ nữa không ? Có đáng tồn tại hay nên phá bỏ ?
Chúa đòi phá bỏ đền thờ xác thịt, cũ nát, để xây lại một đền thờ mới trong Chúa Thánh Thần là điều cần thiết, phải lẽ. Cởi bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới trong Chúa Giê-su chẳng phải là phá hủy cái cũ, xây lại cái mới mẻ đó sao !
Khi mặc lấy thân xác giống chúng ta mọi đàng, Chúa Giê-su chấp nhận tình trạng nhân tính sau tội nguyên tổ, nghĩa là, cái hậu quả của tội lỗi con người phải gánh chịu theo nghĩa liên đới, để chính trong kinh nghiệm về sự yếu hèn, bất lực, Giê-su xây lại ngôi đền thờ thiêng liêng vững bền.
Vậy nên, khi Người từ cõi chết sống lại, các môn đệ nhớ lại lời Người đã nói, họ tin vào Kinh Thánh và tin vào Người (cf. Jn 2, 22).
Thưa anh chị em,
Xây lại đền thờ là làm cho chúng ta trở nên một thụ tạo mới trong Chúa Giê-su, nghĩa là, trở nên những con người biết mến yêu, lắng nghe và thực thi luật Chúa.
Giê-su xây lại đền thờ trong Chúa Thánh Thần là thiết lập cái cốt lõi của lề luật, còn kiện toàn, là thực hành lề luật trong tình yêu và tự do, loại bỏ thái độ sợ hãi, giả hình và nô lệ.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, đưa chúng ta về “vườn địa đàng” chiêm ngắm Chúa Giê-su, Đấng ban hành lề luật mới. Người chỉ cho chúng ta cây sự sống đích thực, cho trái trường sinh, để ai hái mà ăn thì có sự sống đời đời.
Cây thánh giá đặt đối diện với cây sự chết. Mười luật điều ban ra từ thánh giá có sức thánh hóa và cứu độ con người. Tất cả mọi người đều được mời gọi thực thi luật Chúa, nhưng hiệu quả thì luôn khác nhau. Những ai tuân giữ luật Chúa với tình yêu và tự do đích thực mới là người được giải phóng khỏi sự sợ hãi và luận phạt, vì họ ở trong Thiên Chúa.
Hiểu như thế, chúng ta mới tâm đắc lời dạy về thập giá của thánh Pha-lô trong bài đọc II. Phao-lô không bận tâm đến sự khôn ngoan theo kiểu thế gian đòi dấu lạ điềm thiêng. Lời rao giảng của ngài tựa vào thập giá của Đấng chịu đóng đinh. Ngài kín múc từ thập giá luật yêu thương là con đường thanh tẩy và đổi mới.
Đối với Phao-lô, những ai tin và kết hợp với Đấng chị đóng đinh, sẽ được tẩy sạch mọi hành vi mang sự chết, mà phụng sự Thiên Chúa hằng sống, xứng đáng hưởng sự sống muôn đời.
Thật, họ là những đền thờ đã được Đức Giê-su phục sinh xây lại nội trong ba ngày. Cuộc đời họ từ đây, tuân giữ lề luật theo tinh thần mới với men yêu thương vâng phục của Chúa Giê-su, men của “tình yêu và sự sống” tuân trào từ cạnh sườn Đấng chịu đóng đinh, nghĩa là, cùng chết với Chúa, sẽ được cùng Người phục sinh.
Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi tuân hành luật chúa cách mới mẻ theo gương Chúa Giê-su. Lấy tình yêu thương làm dây ràng buộc mọi điều toàn thiện. Toàn thể lề luật và giáo huấn ngôn sứ đều quy tụ trong một tình yêu.
Hãy làm mọi điều luật dạy vì lòng mến Chúa, yêu người, chúng ta sẽ tìm được sự bình an, hạnh phúc và niềm vui cứu độ.
Xin Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta trong chúa nhật hôm nay. Amen!
29.Đền Thờ Thiên Chúa--Lm. Minh Vận, CRM
Theo luật Maisen thì việc tôn thờ Thiên Chúa gồm có mục dâng con vật sống làm lễ vật hy sinh. Luật còn buộc cha mẹ dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa trong Đền Thờ.
Vì thế, việc mua bán súc vật quanh Đền Thờ là cần thiết, hay ít nhất cũng được dung thứ, vì những người ở xa đến, khó có thể đem theo súc vật để hiến dâng. Vậy nếu việc mua bán súc vật là tiện lợi cho những người ở xa tới, thì tại sao Chúa Kitô lại tỏ ra thái độ khó chịu và thịnh nộ lên tiếng quở mắng những người mua bán như thế?
I. TẠI SAO CHÚA CỨU THẾ THỊNH NỘ
Thưa, việc mua bán lễ vật dâng hiến của họ đã trở thành việc thương mại, thiếu lòng thành tín bên trong: Người bán súc vật chỉ lợi dụng cơ hội để làm tiền, để trục lợi, chứ không chú ý cung cấp nhu cầu cần thiết cho khách hành hương tới thờ phượng Chúa. Còn người mua thì coi bổn phận dâng lễ vật chỉ là một việc bất đắc dĩ, một gánh nặng cực chẳng đã.
Trước cảnh tục hóa này, Chúa Giêsu đã dùng uy quyền của một Đấng được Thiên Chúa sai đến trần gian, và với nhiệt tâm của một Người Con có trách nhiệm phải bảo vệ nhà Cha Mình. Chúa đã lên tiếng cảnh giác họ: "Hãy cất những thứ này khỏi nơi đây, các ngươi không được làm cho Nhà Cha Ta trở nên hãng buôn, nên hang trộm cướp". Đồng thời, Chúa đã nổi cơn thịnh nộ, chắp giây thừng làm roi, đánh đuổi bọn họ cùng với chiên bò, hất tung khay tiền, xô đổ bàn ghế của họ.
II. CHÚNG TA LÀ ĐỀN THỜ THIÊN CHÚA
Cũng như một ngôi Đền Thờ được xây cất với mục đích hiến dâng làm nơi thờ phượng Thiên Chúa, làm nhà cầu nguyện của muôn dân; mỗi người chúng ta cũng đã được thánh hiến cho Thiên Chúa, ngày chúng ta lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, để làm nơi Thiên Chúa ngự. Chính Thánh Phaolô đã lưu ý chúng ta rằng: "Anh chị em lại không biết rằng, anh chị em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Chúa Thánh Linh ngự trong anh chị em sao? Ai tục hóa Đền Thờ Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ hủy diệt họ; vì Đền Thờ Chúa là Thánh, mà chính bản thân anh chị em là Đền Thờ đó" (1 Cor 3:16-17). Đây là một chân lý rất an ủi và làm cho chúng ta được sung sướng hạnh phúc; nhưng đồng thời cũng khiến chúng ta phải lo sợ hãi hùng.
Các Thánh Nhân và những người công chính luôn sống trong ơn nghĩa thánh, có tâm hồn trong sạch, nhiều lúc Chúa cho các ngài được cảm nghiệm thấy niềm an vui hạnh phúc này, nên các ngài đã để lộ trên khuôn mặt hân hoan, thốt lên trong lời nói, trào ra qua nét bút.
Chị Nữ Tu Elizabeth Chúa Ba Ngôi đã thường quen nói: "Hồn tôi là một Cõi Trời, nơi tôi sống, trong khi chờ đợi Jerusalem Thiên Quốc. Tôi đã gặp Thiên Quốc ngay tại thế, vì Thiên Quốc chính là Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong tâm hồn tôi". Một hôm, Chị Dòng gởi một bức thư khuyên bà chị đã lập gia đình có nội dung như sau: "Thiên Quốc ở trong tâm hồn chúng ta. Giữa những lo âu do nhiệm vụ của một bà mẹ, lúc nào chị bị chia trí vì công việc bề bộn chồng chất, chị cứ bước vào giữa linh hồn chị, nơi vị Thượng Khách Thần Linh cư ngụ. Như vậy không phải là đơn sơ an ủi và hạnh phúc lắm sao?"
Ông Leoniđê, thân phụ của Giáo Phụ Origenê, đã cảm nghiệm được niềm tin vào hạnh phúc Thiên Chúa ngự trong tâm hồn những người sống trong ơn thánh, nên một hôm ông đã nghiêng mình trước đứa con nằm trong nôi, ông đã đặt môi hôn ngực con. Thấy người ta bỡ ngỡ trước cử chỉ ấy, ông sung sướng trả lời: "Tôi thờ lạy Thiên Chúa hiện diện trong trái tim của trẻ thơ đã nhận lãnh Bí Tích Thánh Tẩy này".
Thấu hiểu và cảm nghiệm được sự sống thần linh cao cả này, cùng với tâm tình của các Thánh, chúng ta có thể sung sướng kêu lên: "Thực đúng, Thiên Chúa ngự trong tôi mà xưa nay tôi không nghĩ tới. Tôi đã sống qua một phần lớn đời tôi mà tôi không nhận biết và quan tâm đến Ngài. Ôi con người tôi là cả một Thánh Vật đáng quí trọng biết bao! Tôi là Đền Thờ của Thiên Chúa, là Cửa Thiên Quốc!"
III. CHÚNG TA PHẢI CÓ NGHĨA VỤ NÀO
Đức Tin dạy cho chúng ta biết: Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta, khi chúng ta sống trong ơn nghĩa thánh, khi chúng ta có tâm hồn trong sạch. Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta không những như một Thiên Chúa toàn năng cao cả, mà còn:
* Như một người Cha Nhân Từ, hằng yêu thương săn sóc đến mọi nhu cầu của con cái, như chính Chúa Kitô đã dạy chúng ta dâng lời cầu xin Người với tâm tình của một con ngoan thảo: "Lạy Cha chúng con ngự trên trời" (Mt 6:6).
* Như một Bạn Tâm Phúc, Chúa luôn tha thiết yêu thương thân mật, tâm giao với chúng ta bằng tất cả tâm tình của một Người Yêu: "Cha không gọi các con là tôi tớ nữa, nhưng gọi các con là Bạn Tâm Phúc" (Jn 15:15).
* Như Đấng Thánh Hóa, Chúa luôn soi sáng lương tâm, dạy chúng ta biết những điều đẹp lòng Chúa, kích thích chúng ta làm điều thiện tránh điều ác, ban cho chúng ta sức mạnh giúp chúng ta chiến thắng kẻ thù, thực thi các việc lành phúc đức, sống đời thánh thiện đẹp lòng Chúa, như lời Thánh Phaolô quả quyết: "Nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi có thể làm được mọi sự" (Phil 4:13).
Để đáp lại ơn phúc cao cả được Chúa Ba Ngôi ngự trong linh hồn chúng ta, như Ngai Tòa, như Đền Thờ, như Thiên Đàng của Chúa, chúng ta cần có 3 nghĩa vụ sau đây:
1. Tôn Thờ: Chúng ta hãy dâng lên Chúa lòng tôn thờ xứng đáng, tôn nhận Chúa là Thiên Chúa , một Chủ Tể tối cao và phải hết lòng tôn thờ Người, không bao giờ dám cố tình phạm tội làm phiền lòng Người, dù là những lỗi rất nhỏ mọn, những khiếm nhã sơ xuất.
2. Yêu Mến: Chúng ta hãy hết lòng yêu mến Chúa, không những bằng tâm tình người con thảo luôn làm hài lòng Cha; mà còn bằng tâm tình một người yêu, luôn tha thiết thân mật khăng khít nên một với Chúa, đáp lại lòng Chúa khát khao: "Chúng con hãy dâng trái tim chúng con cho Cha". Và: "Cha muốn chiếm trọn trái tim chúng con, các Bạn Tâm Phúc của Cha, các Linh Mục và Tu Sĩ của Cha, Cha không muốn một thái độ hững hờ và một tình yêu chia sẻ" (Đại Thông Điệp Tình Yêu).
3. Biết Ơn: Được Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta là một đặc ân cao cả. Vì thế, chúng ta hãy luôn cảm tạ lòng Chúa yêu thương và sống xứng đáng với ơn Chúa ban, bằng cách:
* Không bao giờ cố tình phạm tội trọng, vì tội trọng là trục xuất Chúa ra khỏi linh hồn mình, rồi rước ma quỉ vào thống trị linh hồn.
* Luôn làm tăng trưởng Ơn Thánh Chúa, bằng việc thực thi các nhân đức, giúp linh hồn tiến bước trên Đường Thánh Thiện.
* Giãi sáng gương đời sống thánh thiện, để tất cả những ai chúng ta giao tiếp được nhận ra chúng ta là người mang Thiên Chúa trong mình.
Kết Luận
Quyết tâm không bao giờ cố tình làm điều gì phiền lòng Chúa, không bao giờ để cho tội lỗi tính mê nết xấu lấn át, khiến tâm hồn ra ô uế, tục hóa Đền Thờ Chúa, kẻo bị Chúa hủy diệt.
Luôn biết thánh hóa Đền Thờ tâm hồn mình, luôn sống đời trong sạch, để bản thân chúng ta được trở nên Đền Thờ, nên Cung Thánh, nên Thiên Đàng xứng đáng làm nơi Chúa sung sướng hiển ngự.
30.Cứ phá hủy Đền Thờ này đi …--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
Trong những năm gần đây, việc xây dựng các ngôi thánh đường mới, hay các trung tâm mục vụ diễn ra khá ồ ạt. Có những nơi, Thánh đường xuống cấp hay không có nơi học giáo lý cho các em thì việc xây dựng quả là cần thiết. Tuy nhiên, cũng có những nơi muốn hoành tráng, muốn giáo xứ của mình hơn giáo xứ bạn nên những ngôi nhà thờ cổ hay nhà xứ cổ bị phá hủy đi để thay thế bằng những công trình đồ sộ thì quả là lãng phí. Đằng sau những công trình đó là biết bao nhiêu câu chuyện khó diễn tả thành lời.
Trong bữa cơm trưa nay, tôi trao đổi với vài người trong bàn ăn về đề tài xây dựng này. Có một bạn trẻ nói với tôi rằng nơi bạn sinh sống và học tập, bạn thấy các thánh lễ cứ dâng của lễ liên tục. Bạn cảm thấy thánh lễ mất đi vẻ thiêng thánh. Bạn cũng chia sẻ thêm là có những người nói với bạn đó rằng đi lễ thấy người ta lên dâng của lễ mà mình không lên thì ngại. Vì thế mà họ bắt buộc phải lên. Bản thân tôi cũng được nghe những chia sẻ từ những giáo dân tôi quen biết. Có người nói rằng con không dám đi dự thánh lễ đó bởi biết chắc sẽ có dâng của lễ mà con thì không có tiền. Một người khác thì nói: nhà con có ba khẩu. Mỗi khẩu đóng góp 200 ngàn đồng. Trong nhà con chỉ còn có 500 ngàn, nhưng người đi thu tiền nhất định không nhận, phải đủ 600 mới được. Thế là con lại phải đi vay thêm 100 ngàn để đóng cho đủ số.
Tin Mừng Chúa Nhật III Mùa Chay năm B kể lại câu chuyện Chúa vào Đền Thờ và đánh đuổi tất cả bọn buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Chúa nói đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán. Có lẽ chưa bao giờ tôi thấy Chúa tỏ thái độ dứt khoát và mạnh mẽ như hôm nay. Một Đức Giê-su hiền lành và khiêm nhường lại có thể có những hành động thực sự quyết liệt. Người Do Thái chất vấn Chúa rằng ông lấy quyền gì mà làm như vậy. Chúa đáp cứ phá hủy Đền Thờ này đi nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại. Người Do Thái kinh ngạc vì phải mất 46 năm họ mới xây dựng được Đền Thờ này. Thế mà Chúa bảo chỉ xây dựng lại trong ba ngày. Nhưng họ không biết rằng Chúa ám chỉ Đền Thờ là chính Thân Thể của Chúa. Qua câu chuyện này, Chúa muốn dạy tôi một bài học thật rõ ràng. Đền Thờ vật chất dù có nguy nga tráng lệ tới đâu thì cũng không bao giờ quan trọng bằng Đền Thờ là chính tâm hồn mỗi con người. Con người mới thực sự quan trọng. Con người dù bé nhỏ nghèo hèn tới đâu cũng đều là thánh thiêng. Chúa không chấp nhận sự thỏa hiệp. Tâm hồn con người không thể bị đồng tiền chi phối, điều khiển. Vì thế, cần có một thái độ dứt khoát với tiền bạc như chính Chúa đã dạy: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. (Lc 16,13)
Người ta thường nói Đình sang thì Làng siêu. Việc xây dựng những Đền Thờ vật chất chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó được làm nên bởi những tâm hồn thiện lành. Khi con người cảm nghiệm sâu xa mọi sự mình có đều do Chúa tặng bạn, họ sẽ đóng góp xây dựng không phải là sự bắt buộc mà là sự tự nguyện dâng hiến. Những công trình vật chất dù hoành tráng tới đâu, nếu được làm nên từ sự ép buộc thì cũng chẳng có giá trị gì. Nếu vì xây dựng Đền Thờ vật chất mà phá hủy đi Đền Thờ thiêng liêng là tâm hồn các tín hữu thì quả là đáng buồn. Thú thật, tham dự các thánh lễ tạ ơn khánh thành các ngôi thánh đường mới những năm gần đây, tôi cứ thấy không ổn lắm. Bước vào nhà thờ, tôi không cảm nghiệm được vẻ thiêng thánh. Tôi cảm thấy rất khó cầu nguyện. Có vẻ như những ngôi nhà thờ mới chỉ đáp ứng được một việc là rộng lớn hơn chứ không thể tạo ra một cái gì đó huyền bí so với các ngôi nhà thờ trước đây. Khuôn viên Nhà thờ cũng thiếu đi cây xanh, thiếu đi một cái gì đó là thiên nhiên. Nhiều giáo xứ xây dựng bừa bãi không quy hoạch đã làm mất đi cái hồn thiêng mà bao đời cha ông và các vị tiền bối đã dày công xây dựng. Tôi băn khoăn và tự hỏi rồi chúng ta sẽ đi về đâu?
Lạy Chúa, xin biến đổi con thành Đền Thờ đích thực của Chúa. Xin Chúa giúp xua đuổi khỏi con những gì nhơ bẩn. Xin tẩy rửa con trong sạch để con luôn mãi thuộc về Chúa. Amen.
31.Thánh Đường, điểm hẹn--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Một giáo xứ miền quê nọ đã được thành lập từ lâu, nhưng chưa có một ngôi nhà thờ xây cất hẳn hoi. Giáo dân lại nằm rải rác trong hai ngôi làng sát cạnh nhau. Khát vọng duy nhất của giáo dân là được có nơi thờ phượng đàng hoàng. Với sự hăng say bộc phát của những người nông dân, mọi người đã quảng đại đáp lại lời kêu gọi của cha chính xứ: kẻ góp công, người góp của. Thế nhưng vấn đề cơ bản vẫn là: đâu là địa điểm xứng hợp nhất để xây cất ngôi nhà thờ mới. Người ở làng bên này thì muốn ngôi nhà thờ toạ lạc trong làng của mình. Người ở làng bên kia thì lại muốn nhà thờ được xây cất gần bên chỗ mình ở. Thế là hai bên cứ tranh luận, không bên nào muốn nhường bên nào. Tiền của đã có sẵn, vật liệu cũng không thiếu, nhưng không biết phải đặt viên đá đầu tiên ở đâu.
Giữa lúc vấn đề địa điểm xây cất chưa ngã ngũ, một nạn hạn hán trầm trọng đang đe doạ dân chúng trong cả hai làng. Thế là người ta chỉ còn nghĩ đến việc chống hạn hán hơn là xây cất nhà thờ. Năm ấy toàn dân trong hai làng đều phải chịu cảnh đói khát. Trong cảnh túng quẫn, lá lành đùm lá rách, dân làng hai bên mới nghĩ đến nhau. Một đêm kia, dân làng bên này lặng lẽ phân chia lúa thóc rồi mang qua cứu trợ dân làng bên kia. Trong khi đó, dân làng biên kia cũng có một ý nghĩ tương tự, họ cũng mang lúa thóc qua cứu trợ dân làng bên này. Giữa đêm tối, không hẹn mà hò, dân làng hai bên đã gặp nhau trong cùng một ý nghĩ và hành động. Không cần một lời giải thích, không cần một lời chào hỏi, họ đã hiểu nhau: Họ đặt những bao lúa xuống đất và ôm chầm lấy nhau… Điểm gặp gỡ của tình tương thân tương ái, của tình liên đới chia sẻ ấy đã được giáo dân gọi là “đất thánh” và họ đã nhất trí chọn địa điểm này làm nơi đặt viên đá đầu tiên xây cất ngôi nhà thờ mới của giáo xứ.
Thưa anh chị em,
Nhà thờ đúng là nơi hẹn hò gặp gỡ: hẹn hò gặp gỡ với Thiên Chúa và với anh em đồng bào. Không ai đến nhà thờ mà không tìm gặp được sức mạnh từ chính Chúa, sự an ủi nâng đỡ từ cộng đoàn anh em. Do đó, nhà thờ phải là điểm hẹn của mọi nẻo đường, là nơi hội tụ của mọi xây dựng, là giải đáp của mọi tranh luận, là nơi gặp gỡ của tình yêu thương.
Đền thờ Giêrusalem là nơi tập họp của dân Do Thái trên mọi khắp mọi miền đất nước vào dịp lễ Vượt Qua hằng năm, mừng kỷ niệm dân được Thiên Chúa giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ về miền Đất Hứa. Năm ấy, Chúa Giêsu cũng hoà mình vào đoàn dân tiến bước về đền thờ. Vừa bước vào đền thờ, Chúa Giêsu đã chứng kiến những cảnh chướng tai gai mắt: buôn bán chiên bò, trao đổi tiền bạc, đám đông ồn ào náo nhiệt, vô trật tự. Không cầm mình được trước cảnh tượng đền thờ linh thiêng bị biến thành thị trường, sào huyệt của bọn đầu trộn đuôi cướp, Chúa Giêsu đã “nhào vô” thẳng tay đánh đuổi những kẻ buôn thần bán thánh, thanh tẩy đền thờ, trả lại sự trong sáng cho nơi cầu nguyện và gặp gỡ của Cha Ngài và của mọi người.
Nhưng không phải chỉ có thế. Dưới ngòi bút của Thánh sử Gioan, hãnh động của Chúa Giêsu còn mang một ý nghĩa biểu tượng sâu sắc hơn nhiều, khi Gioan nói: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Sau này, dưới anh sáng Phục Sinh, các môn đệ mới hiểu đền thờ Chúa muốn nói ở đây chính là thân xác của Chúa Giêsu sẽ được Phục Sinh sau ba ngày ở trong mồ.
Chúa Giêsu đã xua đuổi bọn con buôn, xô đổ lật nhào bàn ghế những người đổi tiền. Ngài phá hủy không phải chỉ để phá hủy. Phá hủy sẽ không có nghĩa gì cả, nếu không găn liền với xây dựng. Ngài chỉ phá hủy những gì hủy hoại con người, hủy hoại mốt tương giao giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Thực ra, chính việc buôn bán đổi chác, ồn ào trong đền thờ mới phá hủy đền thờ, làm cho đền thờ không còn là đền thờ, không còn là nơi gặp gỡ Thiên Chúa và anh em đồng bào, trái lại trở thành sào huyệt trộm cướp, bóc lột, cắt cổ nhau. Chính vì thế, việc phá đổ, giết chết, đánh mất ý nghĩa là “việc của các ông”: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi”. Còn “việc của Thiên Chúa” là xây dựng lại đền thờ mới, là cứu sống và tái tạo tất cả trong Đức Giêsu khi cho Ngài Phục Sinh sau ba ngày ở trong mồ, và đặt Ngài làm Đức Chúa, để từ nay, Đức Giêsu Kitô trở thành trung tâm phụng tự duy nhất. Trong Ngài toàn thể nhân loại sẽ “thờ phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và chân lý”.
Anh chị em thân mến,
Thời Cựu Ước, dân Do Thái tôn thờ Thiên Chúa một cách vụ hình thức, bôi bác, máy móc. Họ nghĩ rằng, cứ dâng cúng vào đền thờ nhiều tiền của, nhiều lễ vật là Chúa hài lòng, Chúa sẽ xí xóa mọi tội lỗi cho họ. Họ tưởng dùng tiền của, lễ vật, quà cáp là mua chuộc, hối lộ được Thiên Chúa. Thành thử ra, dù có sống gian tà, xảo trá, độc ác, bất công, chỉ cần đợi dịp đại lễ hành hương lên đền thờ, dâng cúng cho nhiều, thế là vừa bình an trong lương tâm vừa được tiếng đạo đức. Chính ngôn sứ Giêrêmia đã thốt lên lời sấm chống lại đền thờ, vì ở đó không còn nền thờ phượng đích thực nữa. Dân chúng chỉ sống đạo bề ngoài mà không hoán cải đời sống, không tuân giữ Giao Ước mười điều răn của Thiên Chúa (x.Bđ.1). ngôn sứ nói: “Chúa phán: Sao? trộm cướp, giết người, ngoại tình, thề dối, thờ cúng Thần Baal, đi theo các tà thần, rồi chạy vào đến trước mặt Ta trong đền thờ này, các ngươi cho thế là thoát nợ, để rồi tiếp tục cái trò quái gở ấy ư? Các ngươi đã biến đền thờ này là nơi Danh Ta được kêu cầu thành sào huyệt trộm cướp” (Gr 7,9-11). Điều Thiên Chúa muốn, rõ ràng không chỉ là thái độ phải có trong đền thờ mà là thái độ phải có trong cả cuộc sống.
Trong cuộc sống, chúng ta thường quan niệm bổn phận đối với Thiên Chúa trong các nhà thờ tách rời khỏi bổn phận đối với anh em ngoài xã hội. Thực ra, thờ phượng Thiên Chúa đâu chỉ là đến nhà thờ đọc kinh, dự lễ và rồi người anh em bên cạnh có chết đói, chết rét, có gặp tai ương hoạn nạn… cũng chỉ là việc riêng tư của họ, không cần biết đến. Người ta không thể xây dựng những ngôi nhà thờ nguy nga đồ sộ mà lại làm ngơ trước những người đang giẫy chết bên cạnh. Người ta không thể nhắm mắt đi đến nhà thờ trong khi bên lề đường có bao nhiêu người lê lết trong đói khổ. Nhà thờ phải là nơi hẹn hò gặp gỡ với Thiên Chúa và với anh em đồng loại. Nhà thờ chỉ có thể xây dựng ngay chính trên “Đất Thánh” của tình yêu thương, chia sẻ, của tình liên đới anh em mà thôi. Và việc đi đến nhà thờ cũng chỉ có ý nghĩa khi nó là điểm hẹn, là biểu tượng của chính những viên đá sống động, những viên gạch bác ái mà người ta không ngừng xây dựng trong cuộc sống hằng ngày. Vì chính các Kitô hữu là đền thờ của Chúa Thánh Thần (x.Cv 7,49-51; 1Cr 3,16; 2Cr 6,16).
Chúng ta đang tham dự Thánh Lễ là lễ tế của Chúa Giêsu trên thập giá. Chính Thánh Thể của Ngài giờ đây vĩnh viễn thay thế mọi lễ tế chiên bò trong đền thờ Giêrusalem và khánh thành một đền thờ mới với một phụng tự mới trong Thánh Thần và chân lý là yêu thương và phục vụ anh em cũng là chi thể của thân xác Chúa Giêsu Phục Sinh và là Đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi.
32.Giao ước mới--Lm. Đỗ Vân Lực
Lời hứa có một ảnh hưởng nào trong cuộc sống? Hôn ước cũng chỉ là một lời hứa vắn tắt, nhưng ràng buộc con người suốt đời. Thiên Chúa cũng bị lời hứa ràng buộc. Giao ước chính là lời Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Nhưng rõ ràng có một sự khác biệt lớn lao giữa Thiên Chúa và con người trong việc giữ lời hứa. Chính nhờ lời hứa, giá trị được xác định. Vì chữ tín càng cao, con người càng được mọi người kính nể. Chúng ta thử xem Thiên Chúa đã giữ lời hứa như thế nào trong khi thiết lập tương giao với nhân loại.
TƯƠNG QUAN HAI CHIỀU
Thiên Chúa đã chứng tỏ tất cả uy quyền khi thiết lập giao ước với loài người. Chính vì yêu thương, Chúa đã hạ cố đến với Môsê. Người đã dẫn ông qua những nẻo đường, đến tận núi Sinai để thiết lập giao ước với dân tộc Do thái. Mười Điều Răn chính là cách diễn tả cụ thể giao ước đó (Faley 1994:244). “Mười Điều răn thể hiện quyền bình Thiên Chúa trên chúng ta” (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:13). Quyền bính ấy không nhằm đè bẹp, nhưng thăng tiến con người. Con người chỉ thực sự thăng tiến khi biết rõ mình là ai trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Bởi vậy “ trước khi ban Mười Điều Răn cho Israel, Thiên Chúa mạc khải Người là ai. Israel khám phá mình là ai khi đáp trả lại lời Thiên Chúa mời gọi bước vào tương quan giao ước, nhờ vậy có một căn tính mới” (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:13). Quả thực chính nhờ giao ước, Do thái thực sự được Chúa yêu thương và trở thành người con đầu lòng của Thiên Chúa. Họ rất hãnh diện vì như chiếm được lòng ưu ái của Thiên Chúa, trong khi dân ngoại bơ vơ giữa đủ thứ thần tượng. Nhờ thực thi giao ước, họ sẽ chiếm được niềm hi vọng thiên sai.
Chính vì thế, Đức Giêsu đã sinh ra trong dân tộc Do thái. Người đến để thực hiện tất cả những gì Thiên Chúa đã hứa qua giao ước. Thiên Chúa phải được tôn thờ là vị Thần độc nhất. Đối với Do thái, nhận thêm một vị thần vào bảng phong thần không khó lắm. Nhưng tôn thờ Người là vị thần độc nhất, loại trừ tất cả các thần khác là cả một vấn đề. “Giới răn thứ nhất (cc.3-6) là một cách diễn tả niềm tin độc thần trong thực tế” (Faley 1994:245). Đền thánh là lãnh vực tuyệt đối dành cho một mình Giavê mà thôi. Nếu ai đem thần ngoại bang vào đền thờ, tức là chối bỏ Giavê. Xúc phạm tới đền thánh tức là xúc phạm tới Thiên Chúa. Đền thờ trở nên trung tâm sinh hoạt tôn giáo và chính trị của toàn dân. Đó là biểu tượng của niềm tin và hi vọng. Dân tộc trở thành một cộng đồng qui tụ quanh đền thờ. Cộng đồng đó cần được Thiên Chúa hướng dẫn về Đất hứa.
“Mười Điều Răn đã được Thiên Chúa phác họa để dẫn dân Do thái tới một cuộc sống thánh thiện trong thực tế. Trong Mười Điều Răn đó, họ sẽ nhìn thấy bản tính Thiên Chúa và kế hoạch Người chỉ vẽ cho dân lối sống. Mệnh lệnh và những chỉ dẫn nhằm hướng dẫn cộng đoàn gặp gỡ từng nhu cầu cá nhân một cách đầy thương yêu và có trách nhiệm” (Life Application Study Bible 1991:136). Thực hành Mười Điều Răn là cách duy nhất để cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa đối với dân Người.
Biểu tượng của tình yêu và niềm hi vọng chính là đền thờ. Bởi vậy mỗi khi nhìn đến hay hướng về đền thờ, dân Chúa vô cùng phấn khởi và hăng say giữ tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi qua giao ước. Họ không cảm thấy gò bó hay miễn cưỡng khi giữ luật vì đó là “phương tiện duy nhất chu toàn luật thương yêu của Thiên Chúa” (Life Application Study Bible 1991:136). Ngày sabát là một bằng chứng. Chính vì biến phương tiện thành mục đích, người Do thái đã đánh mất nét tinh hoa cao quí nhất của lề luật. Nói khác, khi không còn là phương tiện đạt mục đích Thiên Chúa đã vạch ra, luật lệ hay đền thờ trở thành những thứ thừa thãi, vô bổ.
Chính vì thế Đức Giêsu mới không ngần ngại nổi nóng với những lạm dụng đền thờ, cản trở việc thờ phượng. Làm sao có thể tưởng tượng nổi một Đấng “hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29) lại có thể “lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế ho.” (Ga 2:15). Giữa chốn ồn ào hỗn loạn đó, chắc chắn Người đã phải quát lên: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Công cuộc thanh tẩy Đền Thờ làm Người hầu như quên bản chất hiền lành của mình. Người sẵn sàng vượt lên trên mức thường tình để thanh tẩy Đền Thờ. Người còn muốn cho mọi người thấy mạc khải lớn lao về bản chất đích thực. Người chính là Đền Thờ mới thay thế Đền Thờ cũ vào thời Thiên sai (Ml 3:1-4; Dcr 14:21). Bởi thế, “hành động của Đức Giêsu mang tính cánh chung, thúc đẩy người Do thái thắc mắc về tư cách Thiên sai của Người” (Ga 2:18) (Faley 1994:248). Thắc mắc đó phải đợi sau cái chết và phục sinh của Người được trả lời thỏa đáng. “Đền Thờ ấy sẽ được một thực tại mới thay thế là Đức Kitô tràn đầy Thần khí” (Faley 1994:248). Chính nơi Người, Thiên Chúa sẽ hiện diện cách sung mãn và sống động nhất. Người sẽ trở nên trung tâm thu hút mọi người về với Thiên Chúa. Quả thế, sau khi phục sinh, Đức Giêsu là nơi nhân loại tìm được dung nhan Thiên Chúa và sự tôn thờ đích thực trong “thần khí và sự thật” (4:23-24). Trước đó, Người đã làm nhiều dấu chỉ chứng tỏ nơi Người, sự thật mới đạt đến độ sâu sa nhất. Vì nhờ thiên tính, Người đã đi sâu vào tận bản tính nhân loại (c.25; 1,47).
ĐỀN THỜ HÔM NAY
Đức Giêsu cũng muốn thanh tẩy Đền Thờ hôm nay là Giáo hội. Nếu Giáo hội không được thanh tẩy, những hoạt động trần tục sẽ che khuất dung nhan Thiên Chúa trước mắt mọi người. Nói khác, chính vì Giáo hội quá nặng nề với lỗi lầm quá khứ, những nghi lễ và luật lệ rườm rà, nhiều người đã không thể đến được với Chúa Kitô. Bởi đấy, ngày 12.3.2000, ĐGH Gioan Phaolô II đã làm một cử chỉ ngoạn mục trước mắt toàn thể nhân loại. Giáo hội đã tự thanh tẩy. Đúng hơn, Thánh Linh đã thanh tẩy khuôn mặt Giáo hội, không phải để Giáo hội được nổi tiếng, nhưng để mọi người nhận biết Đức Kitô là “sự thật và là sự sống” (Ga 14:6), có sức giải thoát nhân loại khỏi mọi cảnh khốn cùng hiện tại.
Trong khi rao giảng Đức Kitô, Giáo hội nhìn nhận lịch sử Giáo hội là một chuỗi “các tội đã phạm trong khi phục vụ chân lý, các tội đã làm tổn thương đến sự hiệp nhất Kitô giáo, các tội chống lại dân tộc Israel, các tội chống lại tình yêu, hòa bình và kính trọng đối với các nền văn hóa và các tôn giáo, các tội chống lại phẩm giá của người phụ nữ và sự hiệp nhất của loài người, và các tội phạm đến các quyền cơ bản của con người” (VietCatholic 19/3/2000). Không phải vì những lầm lỗi ấy mà Giáo hội phải bị phá hủy, vì bản chất Giáo hội vẫn là thánh. Hi vọng sau lời thú tội này, Giáo hội sẽ phục vụ Thiên Chúa và con người đắc lực hơn. Mọi người có thể dễ dàng đến với Đức Kitô qua cung cách khiêm nhường của Giáo hội. Nhân loại như bước vào “thời gian hòa giải, thời gian cứu độ cho tất cả mọi người tín hữu và cho tất cả mọi người đang tìm kiếm Thiên Chúa!” (ĐGH Gioan Phaolô II, “Ngày Xin Ơn Tha Thứ”, VietCatholic, 19/3/2000). Đức Giáo Hoàng đã tô một nét son thật đậm vào lịch sử Giáo hội. Các Giáo hội địa phương cũng theo gương sáng đó. Chẳng hạn tại Giáo hội Hoa Kỳ, các Đức Hồng y Roger Mahony, TGM Los Angeles, đã xin lỗi cả những người đống tính luyến ái và những tín đồ thuộc các tôn giáo khác. Người cũng xin lỗi cả những gia đình hay cá nhân về những lạm dụng tình dục của một số linh mục. Đức Hồng y Bernard Law tại Boston cũng xin lỗi về nạn nô lệ tại Hoa Kỳ. Các Giám mục Âu châu cũng thú nhận người Kitô hữu đã không cố sức cứu người Do thái trong thời Đệ nhị thế chiến (VietCatholic 19/3/2000).
33.Thiên Chúa thanh tẩy người tình--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Trong Chúa nhật trước, câu chuyện tình của Thiên Chúa và con người đã đi tới chỗ con người phải lòng Thiên Chúa. Con người đã chấp nhận đi theo Chúa mà không đòi hỏi gì. Nhưng khốn nỗi, thân phận nó lúc này đâu phải là thánh nhân. Nó đang là một kẻ lang thang, hoang dã, tả tơi bởi cái tội dám cao ngạo với Trời. Thế nên Thiên Chúa đã tìm cách thanh tẩy nó, Thiên Chúa thanh tẩy người tình của mình.
Thiên Chúa đơn phương tỏ tình với con người – Chúa Nhật I Mùa Chay năm B
Con người phải lòng Thiên Chúa – Chúa nhật II Mùa Chay – Năm B
Thanh tẩy nếp sống
Dòng dõi tổ phụ Abraham ngày một đông. Sau thời gian lưu lạc bên Ai-cập, họ đã trở nên một đám dân có thế lực khiến triều đình Ai-cập cũng phải dè chừng. Ngày mà ông Mô-sê dẫn dân ra khỏi Ai-cập để tiến về miền đất mà Chúa đã hứa, là ngày không thể quên đối với dân này. Họ đã vượt qua Biển Đỏ, thoát khỏi sự truy đuổi của quân lính Ai-cập cách diệu kỳ. Họ đã cảm được uy quyền của Thiên Chúa, cảm được tình thương cụ thể mà Thiên Chúa cứu họ khỏi chết.
Kể từ khi ra khỏi Ai-cập, Thiên Chúa đã từng bước thanh tẩy họ, uốn nắn họ đi trong đường lối của Ngài. 40 năm trong sa mạc Dân được Chúa dẫn lối: ban ngày có mây che nắng, ban đêm có cột lửa dẫn đường. Họ phải bỏ đi những nếp sống bừa bãi theo ý mình và tập làm quen dần với nếp sống có kỷ cương.
Đỉnh điểm của cuộc thanh tẩy là tại núi Sinai. Thiên Chúa quyết định làm một cuộc thanh lọc để chỉ còn lại những ai chấp nhận sống theo khuôn phép. Giao ước mà con người với ông Mô-sê là người đại diện ký kết với Thiên Chúa, là giao ước đầu tiên được ký kết thực sự giữa con người và Chúa. Trong Giao ước ấy, mỗi bên đều có nghĩa vụ và quyền lợi của mình: về phía Thiên Chúa, Ngài nhận dân là dân riêng của Ngài và sẽ gìn giữ họ; về phía dân, họ nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất của họ và tuân giữ 10 Điều Luật. Bài đọc thứ nhất được trích trong sách Xuất Hành (Xh 20, 1-17) liệt kê 10 điều luật này. Đây chính là Kinh 10 Điều Răn Đức Chúa Trời mà ngày nay chúng ta vẫn đọc thường ngày. Đây không phải lời Chúa khuyên dạy con người, ai thích thì làm theo. Nhưng đây là 10 điều mà con người phải tuân giữ. 10 điều trong giao ước mà con người đã ký với Chúa. Nếu ai không thực hiện đủ thì đồng nghĩa với việc người đó phá vỡ giao ước và họ phải chịu hình phạt.
Trước cuộc Giao ước này, con người chỉ được giao tiếp với Chúa qua 1 nhân vật đại diện. Giờ đây, con người đã có thể gặp gỡ Chúa nơi có sự hiện diện của Hòm Bia. Hai tấm bia trong hòm ấy ghi lại 10 lời của Chúa. Đó cũng chính là lời của Chúa, mặc dù lời ấy chưa trọn vẹn, chưa hoản hảo như Ngôi Lời sau này. Nhưng cách nào đó, sự thân tình giữa con người và Chúa đã dần trở nên gần gũi. Con người được tiếp cận gần hơn với trái tim của Chúa. Và Thiên Chúa cũng dễ bề vỗ về, uốn nắn con người hơn.
Thanh tẩy tâm hồn
Khi dân đã định cư tại vùng đất Canaan, họ xây dựng đền thờ nguy nga vững chắc để thờ phượng Chúa. Hòm Bia Giao ước được đặt nơi cực thánh của Đền Thờ. Hằng năm, ít là dịp lễ Vượt Qua họ kéo về Đền Thờ để tế lễ, để gặp gỡ Chúa. Dịp lễ Vượt Qua là thời gian họ cùng nhau nhắc lại biến cố vĩ đại mà Chúa đã giúp họ vượt qua Biển Đỏ thoát chết. Họ cùng nhau ca tụng quyền năng và tình thương của Chúa. Nhưng cuộc sống bon chen đã khiến tâm hồn họ hướng về những sự thế gian hơn là hướng về Chúa. Họ cần được thanh tẩy không ngừng.
Câu truyện trong Tin mừng trong Chúa nhật này (Ga 2, 13-25) liên quan đến những lệch lạc của dân chúng trong dịp lễ Vượt Qua tại Đền Thờ. Đức Giêsu đã có mặt ở đó. Ngài đã không chấp nhận cảnh bát nháo buôn bán làm ô uế Đền Thờ. Ngài đã thẳng tay xua đuổi: “người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ”. Sự công thẳng của Thiên Chúa được thể hiện rất rõ. Ngài yêu con người. Nhưng Ngài không chấp nhận để cho người yêu của mình trở nên nhơ uế. Ngài đau lòng khi thấy con người nhếch nhác. Bằng mọi cách, Ngài thanh tẩy cho bằng được tâm hồn của người tình để cho nó ngày thêm xinh tươi.
Kết lại bài Tin Mừng, Thánh Gioan đã khẳng định “Người biết tất cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều trong lòng người ta”. Thế đấy, Chúa biết rõ tâm hồn con người. Mọi sự kín đáo mà con người có thể che giấu đồng loại thì nó đều bị phơi bày trước nhan Thiên Chúa. Nếu tôi ghét ai thì việc người ấy phơi bày những sự xấu xa của họ chỉ làm tôi chán ghét hơn và rời xa họ. Nhưng nếu tôi yêu bạn, thì việc phát hiện ra điều không hay nơi bạn càng làm tôi gần gũi bạn hơn. Bạn càng làm điều xấu tôi càng thương bạn và tìm mọi cách để cứu bạn. Thiên Chúa đau khổ đến tột cùng chính bởi Ngài yêu con người hết mực mà con người thì xa đi ngã lại, tội lỗi ngập tràn. Những cái roi mà Đức Giêsu quất xuống biểu lộ cơn giận giữ trong tâm hồn Ngài, nhưng là cơn thịnh nộ thánh. Nó xuất phát từ một trái tim ngập tràn tình yêu con người.
Ngẫm
Khi gục ngã hay khi lao đao chẳng còn ai bám víu, tôi thường quay về kêu cứu Trời cao. Tôi nại đến tình thương của Chúa để xin Chúa cứu tôi. Và khi tôi thoát nạn, tôi lại lạm dụng tình thương của Ngài. Tôi tiếp tục đi vào con đường lầm lỗi mà bỏ ngoài tai những giáo huấn của Ngài.
Thiên Chúa là Đấng luôn yêu con người, nhưng Ngài cũng là Đấng rất mực công minh. Sự công thẳng của Chúa khiến con người bao phen sợ hãi. Nhưng dường như chỉ khi tôi bị luận phạt bấy giờ tôi mới sợ hãi. Đành rằng sống trong sự sợ hãi là điều dễ làm người ta không trưởng thành nổi. Nhưng khi ta biết sợ thì ta sẽ không dám làm điều dữ trước mặt Chúa.
Chúa yêu tôi và Chúa mãi yêu tôi. Tôi mon men chạm đến tình Ngài nhưng chân tôi run rẩy đứng không vững. Tôi gục đổ trước nhan Ngài không phải vì tôi đã kiệt sức hay bị đánh té tua. Tôi gục xuống bởi toàn thân tôi đã khuất phục Ngài.
Lậy Chúa, con muốn được ở lại trong Ngài. Xin giữ con lại trong tình yêu Ngài. Xin Thần Khí Chúa thấm đậm trong con, thúc đẩy con, dẫn lối con đi trong đường lành. Xin Tình Yêu Chúa thanh tẩy và tái tạo con.
34.Thanh tẩy tâm hồn--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Mùa Chay thánh đã qua một phần ba thời gian. Mọi người tiếp tục được mời gọi sống tinh thần sám hối của Mùa chay. Sám hối để được nên thánh thiện hơn. Trong Chúa nhật thứ III Mùa chay, Lời Chúa liên quan đến việc thanh tẩy tâm hồn. Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm xua tan mọi nhơ uế trong tâm hồn để cho tâm hồn mình phần nào xứng đáng là nơi Chúa ngự.
Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan thuật lại trình thuật Chúa Giêsu xua đuổi những người buôn bán tại Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Đền thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng từ thời vua Salomon vào thế kỷ thứ 10 TCN. Đền thờ ấy tồn tại được 400 năm. Nó bị phá hủy hoàn toàn vào năm 587 TCN. Đền thờ thứ hai được xây dựng theo đúng kích thước Đền thờ cũ trên đống đổ nát vào năm 537 tcn và được tái thiết vào năm 19 TCN. Ngôi đền thờ bằng đá đồ sộ tưởng như không ai có thể phá hủy, nhưng vào năm 70 SCN nó đã bị cháy dụi bởi một người lính ném cây đuốc đang cháy trên tay vào trong đền thờ.
Đền thờ bao gồm những khu vực dành riêng cho từng thành phần: tại cửa vào là phần sân chư dân. Phần tiền đình này những người ngoại giáo được đi vào. Đi tiếp vào bên trong là nơi thánh chỉ dành cho người Do thái. Nơi này được chia thành các phần dành cho nam giới, dành cho nữ giới, và dành cho các tư tế riêng. Trong cùng là gian cực thánh, nơi đặt Hòm bia Giao ước. Hòm đựng tấm bia bằng đá trên đó khắc 10 điều răn Đức Chúa Trời.
Bài đọc thứ nhất trích từ sách Xuất Hành nói về 10 điều răn này. Đây là 10 điều trong Giao ước mà ông Mô-sê đã đại diện cho toàn dân ký kết với Thiên Chúa trên núi Sinai. Sau khi thoát khỏi Ai cập, dân Do thái đã ở trong sa mạc 40 năm để được thanh tẩy dần dần. Trong giai đoạn này, tại núi Si nai, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với dân. Trong Giao ước ấy: về phía Thiên Chúa, Ngài nhận dân là dân riêng của Ngài và sẽ gìn giữ họ; về phía dân, họ nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất của họ và tuân giữ 10 Điều. 10 Điều dân phải giữ ấy được khắc ghi trên bia đá. Và kể từ ấy, sự hiện diện của hai tấm Bia có khắc 10 Điều được coi là sự hiện diện của chính Thiên Chúa.
Chiếc hòm đựng Bia Giao ước, còn gọi là Hòm bia Giao ước hay Hòm bia Thiên Chúa được đặt nơi cực thánh của Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Đây là đền thờ duy nhất của dân Do Thái thời đó. Người ta lên Đền thờ là để gặp gỡ Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu đã không chấp nhận Đền thờ ấy lại trở thành nơi buôn bán.
Khi thấy Giêsu xua đuổi người ta như vậy, dân chúng gạn hỏi Giêsu về tư cách của Ngài: “Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy”. Giêsu đã kéo họ ra khỏi óc suy tư hạn hẹp trong thế giới vật chất: “Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”. Người dân khi ấy không thể hiểu nổi điều mà Giêsu nói với họ. Nhưng sau khi Chúa sống lại thì các môn đệ đã hiểu Giêsu muốn nói về chính thân thể của Ngài. Từ Đền thờ Giê-ru-sa-lem bằng đá và đất, Chúa Giêsu đã kéo chúng ta đến với Đền thờ vĩnh cửu đó chính là Ngài.
Ở cuối bài Tin mừng, cái nhìn của Giêsu đã không còn hướng về sự nhơ uế của Đền thờ Giê-ru-sa-lem nữa. Ngài nhìn thẳng vào sự nhơ uế và u tối của tâm hồn những người đang đứng quanh Ngài: “Người biết tất cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều trong lòng người ta”. Tâm hồn chúng ta thế nào, Ngài biết rõ. Ngôi đền thờ mà mỗi chúng ta đang sở hữu, nó đang trong tình trạng thế nào, Ngài biết rõ.
Mỗi lần tôi đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng là dấu chỉ rõ rệt nhất Chúa ngự trong tâm hồn tôi. Nhưng khi Chúa Giêsu bước vào tâm hồn tôi Ngài sẽ thấy gì? Tâm hồn tôi có xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự chăng?
Giêsu sẵn sàng ngồi xuống đồng bàn với những người tội lỗi. Ngài sẵn sàng đưa tay chạm đến những người phong cùi; Ngài ôm lấy những con người tội lỗi; Ngài tha thứ cho kẻ có tội ngay khi mọi người xung quanh đều kết án tội nhân. Nhưng Ngài không chấp nhận bất cứ hành vi nào biến nơi thánh thiêng thành nơi chợ búa, mặc cả so đo, lọc lừa đồng loại, lợi dụng lòng tốt. Ngài tha thứ vào kéo chúng ta lên để chúng ta được bước vào sự thánh thiện, bước vào nơi thiêng thánh có sự hiện diện của Thiên Chúa.
Lời mời gọi trở nên thánh thiện và trong sạch không chỉ đối với những người tín hữu. Thánh Gioan không kể việc Chúa làm sạch khu vực Đền thờ dành cho người Do Thái mà là phần Đền thờ dành cho dân ngoại, những người không tin vào Chúa. Ngay cả những nơi dành cho dân ngoại Chúa cũng không chấp nhận sự nhơ bẩn, nhếch nhác.
Lạy Chúa, Mùa Chay thánh còn lại hai phần ba chặng đường. Xin Chúa giúp con luôn can đảm xua đi những nhơ uế trong tâm hồn mình. Để tâm hồn con trở nên thanh sạch mà đón tiếp Chúa, đón tiếp anh chị em của con trên mọi nẻo đường của cuộc sống.
35.Tẩy rửa--Lm. Vũ Đình Tường
Trong hình ảnh thế giới loài vật có những điều nhờ ống kính và phát minh khoa học ta mới được nhìn thấy. Đó chính là hình ảnh một đàn cá con không sợ mà lại bu quanh một con cá lớn. Con cá lớn rất thân thiện, hiền lành, tỏ ra hoà nhã và có nhiều cảm tình với lũ cá bé. Chúng không đồng loại cá, khác loại nhưng lại thân thiện đến thế. Người ta hay ví von xỉa răng cọp nhưng ít ai nhìn thấy; còn xỉa răng cá thì quá rõ ràng. Cá bé bơi vào miệng cá lớn ăn những thịt cá dính chân răng con cá lớn. Con cá lớn mở miệng, phồng mang, xoè vây cho lũ cá con nhào vào những chỗ hiểm hóc, đầy nguy hiểm đó. Vì sao? Theo các nhà nghiên cứu thì con cá lớn cần đám cá con tẩy rửa những nơi hiểm yếu mà nó không tự tẩy rửa được. Người ta thấy hình ảnh con cá trườn mình trên cát vì chúng dùng cát lau rong rêu dơ dính trên vảy cá. Một hình thức tẩy rửa thông thường của loài cá. Bạn nào nuôi hồ cá trong nhà thấy cá con hay hớp cát rồi phun ra là hình thức rửa răng cá cho sạch. Những chỗ khó khăn như mang cá, miệng và vi là những nơi cá tự nó không thể thanh tẩy nên nhờ lũ cá con đến làm công việc thanh tẩy dùm. Cả hai đều có lợi. Cá lớn được tẩy sạch vết nhơ lại được một màn đấm bóp không mất tiền. Lũ cá nhỏ cũng có lợi vì được một bữa ăn ngon lại không tốn phí chi cả. Trên đồng cỏ lũ chim đậu lưng trâu cũng làm cùng công việc thanh tẩy đó. Chúng bắt rận cho trâu bò.
Đời sống động vật là như thế. Con người cũng cần thanh tẩy qua hình thức tắm rửa cho sạch sẽ bản thân. Thử quên tắm vài ngày bạn sẽ biết ngay cái mùi vị của chính mình. Có lẽ không cần phải lâu như thế chỉ cần đóng kín cửa phòng sau một đêm ngủ dài, sáng ra bạn nhận thấy cái mùi khác lạ. Trên chuyến bay dài hơn mười giờ đồng hồ, không khí trong máy bay lúc mới tươi mát thế nào, nửa đường bay bạn cảm thấy cái không khí đó vẫn mát lạnh nhưng vẻ trong lành bắt đầu nhiễm mùi vị và cuối chặng bay thì cái mùi đó tăng rõ.
Thông thường chúng ta cho đền thờ là nơi thánh nên gọi là đền thánh. Thực ra trên trần gian không nơi nào dơ hơn đền thờ. Đền thờ là nơi cực dơ, quy tụ mọi thứ bẩn thỉu. Một Chúa Nhật nào đó bạn ngồi quan sát xem. Còn có một thứ tội nào trên gian trần mà không xuất hiện trong đền thờ. Thùng rác chứa các chất dơ trần thế từ thề gian đến nói dối, từ cướp của đến giết người, từ gian dâm đến bán dâm đều có mặt nơi toà giải tội. Xét về phương diện đó thì đền thờ chính là nơi bẩn thỉu nhất, phòng giải tội chất chứa mọi thứ dơ bẩn trên đời. Đền thờ được gọi là đền thánh vì con người tội lỗi đến đó đổ bỏ mọi thứ dơ bẩn để trở nên tốt lành, trở nên thánh thiện hơn nên đền thờ là đền thánh vì giúp người ta nên thánh. Đền thờ là nơi tất cả các tội phạm, các bí ẩn cuộc đời được phơi bày. Mọi dấu kín được thổ lộ để tâm tư con người được thoải mái, để tâm hồn được bình an, để bản thân thấy nhẹ nhàng. Đền thờ chính là thùng rác công cộng cho mọi người tự do đến đổ rác, không từ loại rác nào, từ rác thông thường đến rác nguy hiểm mang chất phóng xạ đều được tự do đổ.
Thế sao Đức Kitô lại dùng roi, xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ. Ngài lật tung bàn của người đổi tiền, thả chim cho bay đi tự do. Câu trả lời cho thắc mắc này nằm gọn trong hai chữ ' buôn bán hay chợ búa'. Buôn bán hay nơi chợ búa là nơi trao đổi. Đền thờ là thùng rác chung của xã hội. Ai muốn đổ rác đều có quyền và được tự do làm công việc đổ rác. Những người bị Đức Kitô xua đuổi vì họ không đến đền thờ để đổ rác mà đến đền thờ để buôn bán rác. Kẻ đến đổ rác thì được mời gọi. Kẻ đến sống nhờ buôn bán rác thì bị xua đuổi. Đức Kitô thanh tẩy đền thờ vì người ta làm cho đền thờ thành nơi buôn bán. Trung tâm của buôn bán dối trá, điêu ngoa, thề gian, làm chứng dối.
Đến đền thờ đổ rác chính là tìm sự sống chân thật. Có được sự sống thật nhờ biết vất bỏ rác rưới trói buộc con người. Nhờ vất bỏ nên cảm thấy tự do, thảnh thơi, thoải mái. Đến đền thờ buôn bán rác kiếm sống là tìm kiếm sự sống giả tạo, sư sống tạm bợ nên bị ngăn cản, cấm đoán.
Chúng ta xin ơn biết cách đổ rác và tránh xa việc buôn rơm, bán rác.
36.Chăm lo đền thờ Giáo Xứ, tu bổ đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đối với Do Thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt Qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch. Mọi người trong đất nước Palestine đều về Giêrusalem dự lễ. Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này. Dầu sống ở xứ nào, người Do Thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự Lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời. Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự Lễ Vượt Qua với các môn đệ.
Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do Thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng. Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật. Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều co giá trị tại Palestine. Nhưng tiền thuế Đền Thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Ga-li-lê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền. Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1 đồng. 4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền Thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn.
Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ. Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh tôn giáo để trục lợi. Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền Thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong Đền Thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. “Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ...”
Trong Tin Mừng hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Người bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Người bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nỗi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.
Khung cành Đền Thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất. ”Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2, 16). “Nhà của Ta là nhà cầu nguyện, còn các ngươi làm thành hang trộm cướp” (Mt 21, 12 – 13). Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy. ”Nơi buôn bán”, “Hang trộm cướp”, Đền Thờ, nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do Thái xưa đã nên ứng nghiệm (x. Gr 7, 11). Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền Thờ vì Người yêu mến Đền Thờ. “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69, 10). Lòng nhiệt thành với Đền Thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x. Ga 15, 5).
Tại sao Chúa Giêsu lại hành động như vậy? Chúa Giêsu làm như vậy vì Nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm. Trong sân Đền Thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính. Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng. Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ. Trong sân Đền Thờ, người ta cãi vã cò kè về giá cả các món hàng, tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền Thờ.
Chúa Giêsu hành động như vậy để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa. Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta chán ngấy. Máu chiên dê Ta chẳng thèm”. (Is 1,11). ”Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu Người cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). Thái độ thanh tẩy Đền Thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính. Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.
Lý do thứ ba chính là “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện”. Đền Thờ là nơi Thánh, là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người. Các chức sắc Đền Thờ, các con buôn người Do Thái đã biến Đền Thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khàch hành hương không thể cầu nguyện được.
Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem. Ngày nay Chúa cũng muốn người tín hữu chúng ta thanh tẩy nhà xứ giáo xứ mình, thanh tẩy Đền Thờ tâm hồn mình.
Chúa Giêsu đã quan tâm đến Đền Thờ, đã thanh tẩy Đền Thờ và coi đó là nhà của Cha Người. Chúng ta cần quan tâm đến Nhà Thờ giáo xứ. Bảo vệ nơi thánh thiêng, tôn nghiêm. Loại trừ những thái độ bất kính. Giữ giữ Nhà Thờ, khuôn viên được sạch đẹp. Cùng nhau góp phần xây dựng Nhà Chúa.
Chúa Giêsu có lòng nhiệt thành đối với Nhà Cha. Người Kitô hữu cũng phải nhiệt thành đối với Nhà Thờ giáo xứ bằng cách giữ gìn trật tự ngăn nắp trong ngoài. Nhà Thờ không phải của Cha Xứ mà là của mỗi người góp công góp sứ xây dựng nên. Nhà Thờ là nơi người Kitô hữu họp nhau mỗi ngày để cử hành các Mầu Nhiệm Thánh nên luôn cần lòng tôn kính chân thành, yêu mến thiết tha.
Thiên Chúa không cần Nhà Thờ. Chỉ có con người mới cần Nhà Thờ. Không có Đền Thờ nào đẹp bằng Đền Thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa thấy sự huy hoàng của Đền Thờ, nhưng Chúa Giêsu lại nói rằng: ”...sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào!”
Khi người Do Thái chất vấn: “Ông lấy quyền nào mà làm như vậy?” Chúa Giêsu bảo: “Cứ phá Đền Thờ này đi, trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự Phục Sinh của Người. Đền Thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên Đền Thờ ấy. Thân thể phục sinh của Người là Đền Thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý.
Sự thờ phượng thiêng liêng và hoàn hảo nhất chính là sự thờ phượng trong Bí Tích Thánh Thể. Chúa Giêsu vừa hiện diện vừa tự hiến. Một sự tự hiến để thờ phượng liên tục khắp mặt đất và chung của giáo hội toàn cầu. Một hiến tế vừa cảm tạ, vừa ban phát ân sủng. Người tín hữu họp nhau trong Nhà Thờ cử hành thánh lễ chính là đỉnh cao của việc thờ phượng và đón nhận ân sủng Thiên Chúa ban.
Chăm lo giữ gìn, xây dựng Nhà Thờ Giáo Xứ, người tín hữu còn phải lưu tâm xây dựng con người mình vì đó là Đền Thờ của Cha và Con (x. Ga 14, 23) và chính thân xác ta cũng là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần (x. 1 Cr 6, 19). Mùa Chay là mùa tu sửa Đền Thờ tâm hồn bằng việc siêng năng đến với Nhà Thờ Giáo Xứ hàng ngày với tất cả lòng nhiệt thành yêu mến.
37.Đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Phụng vụ Lời Chúa qua hai Chúa Nhật Mùa Chay cho thấy Đức Giêsu vừa là con người phải chịu cám dỗ trong sa mạc, vừa là Con Thiên Chúa nơi biến cố Hiển Dung trên núi Tabor.
Phụng vụ Lời Chúa tuần 3 Mùa Chay trình bày Đức Giêsu là Đền Thờ của Thiên Chúa qua sự kiện thanh tẩy đền thờ Giêrusalem.
1. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ
Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch.
Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ.Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này. Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời.Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ.
Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng.Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật.
Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều có giá trị tại Palestin. Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền.Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1đồng. Cứ 4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn.
Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi.
Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ;còn tiền của những người đổi bạc,Người đổ tung ra,và lật nhào bàn ghế của họ.
Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nỗi giận đùng đùng,lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.
Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất. “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). “Nhà của Ta là nhà cầu nguyện,còn các ngươi làm thành hang trộm cướp” ( Mt 21,12-13).Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy.”Nơi buôn bán“, “Hang trộm cướp“, Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x. Gr 7,11).
Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ: “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,10).Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Chúa Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x. Ga 15,5).
2. Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ?
– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.
Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng.Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ.Trong sân Đền thờ người ta cãi vả về giá cả,tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ.
– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa.
Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu,mỡ bê mập, Ta chán ngấy.Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11). “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” ( Tv 50,16).
Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.
– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện“
Đền thờ là nơi Thánh,là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.
Các chức sắc Đền thờ,các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được.
3. Xây dựng đền thờ tâm hồn.
Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn của mình.
Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá. Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.
Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ,nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy ? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi,trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.
Đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24). Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của mọi nhà thờ trên thế giới này đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông. “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9). Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác;
Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.
38.Đền Thờ sống động--Lm. Vũ Thái Hoà
Trong các sách Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu là Đấng từ bi và nhân hậu, luôn đón tiếp và tha thứ những kẻ tội lỗi, chữa lành các bệnh nhân... Thế mà, trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nổi giận “khi thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.” Người còn nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Tại sao Đức Giêsu lại giận dữ như thế?
Chúng ta thường hiểu sai câu chuyện Đức Giêsu đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Sự hiện diện của họ rất cần thiết vì họ phục vụ khách hành hương đến từ xa, cần mua thú vật tại chỗ để dâng của lễ trong Đền Thờ theo Luật Chúa truyền. Khi bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa, chắc hẳn rất hài lòng khi mua được cặp bồ câu non ngay trong Đền Thờ (Lc 2,22-24).
Thật ra, khi đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, Đức Giêsu chống đối việc thờ phượng của người Do Thái. Khi lật nhào các quầy hàng, Người muốn lật nhào thứ tôn giáo hám lợi, mà Đền Thờ là tượng trưng. Mỗi lần Đền Thờ bị phá đổ, người Do Thái luôn xây cất lại. Lần này xây mất bốn mươi sáu năm mới xong. Thế mà Đức Giêsu nói phải phá hủy nó đi: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Thánh sử Gioan giải thích ngay sau đó: Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là thân thể Người, là chính Người. Đức Giêsu ám chỉ sự thương khó và phục sinh của Người.
Đức Giêsu muốn nói với họ rằng: “Bây giờ tôi đã ở đây, các ông có thể phá hủy Đền Thờ được rồi!” Nếu đền thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện, thì bây giờ chính Người là sự hiện diện của Thiên Chúa. Nếu đền thờ là nơi Lời Thiên Chúa, thì bây giờ chính Người là Lời Chúa.
Sau khi Đức Giêsu sống lại, các môn đệ mới hiểu ra lời nói của Người, cũng như lời Người nói với người phụ nữ miền Samari: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem...” (Ga 4,21). Đã đến giờ họ nhận ra Đền Thờ Thiên Chúa là chính Đức Kitô, là tất cả những ai tin vào Người như theo lời thánh Thánh Phaolô: “Các anh em là thân thể Đức Kitô” (1 Cr 12,27), “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cr 3,16-17).
Đền Thờ mới này là nhiệm thể của Chúa Kitô, nghĩa là Giáo Hội, được xây dựng không bằng những viên gạch vô tri, nhưng bằng những viên đá sống động (1 P,2-5), đó là những môn đệ của Người, tất cả các tín hữu được Người cứu chuộc bằng cái chết của Người, tất cả những ai tuân theo giới răn của Người, như bài đọc I (trích sách Xuất Hành) đã nhắc nhở chúng ta. Và xi-măng gắn chặt các viên đá sống động này để làm nên Đền Thờ tuyệt hảo đó, chính là Tình Yêu.
Nếu khi xưa, Đức Giêsu tuyên bố với những người buôn bán ở đền thờ Giêrusalem, hôm nay Người cũng phán với chúng ta: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Đừng lấy danh nghĩa Giáo Hội, danh nghĩa giáo xứ hay cộng đoàn công giáo của mình để làm việc thương mại, kinh doanh và mưu ích cá nhân. Đừng biến lời cầu nguyện thành chuyện buôn bán. Nói cách khác, cầu nguyện, không có nghĩa là mặc cả với Chúa. Không phải tôi dâng cúng cho nhà thờ hoặc cho người nghèo là Chúa phải nhận lời cầu xin của tôi! Không! cầu nguyện không phải là chuyện thương mại!
Đức Giêsu muốn chúng ta cầu nguyện với niềm tin tưởng như đứa con thơ ngỏ lời với cha mẹ mình. Chúng ta cầu nguyện, vì biết rằng Chúa biết những gì chúng ta cần (Mt 6,8), vì biết Người chọn điều tốt nhất cho mình (Mt 7,11), vì biết Người luôn ở với chúng ta trong lúc hạnh phúc cũng như trong lúc gian nan thử thách (Mt 28,20).
Trong lời cầu nguyện, không phải chúng ta thay đổi Chúa, nhưng để Chúa hành động trong tâm hồn và trong đời sống chúng ta. Cũng như mỗi sáng, khi mở cửa sổ, không phải chúng ta làm cho mặt trời mọc lên, nhưng để mặt trời chiếu sáng khắp căn nhà. Cầu nguyện là mở rộng những cánh cửa tâm hồn chúng ta để đón nhận ánh sáng của Chúa. Do đó, cầu nguyện không phải là việc mặc cả với Chúa, nhưng là sự đón nhận tình yêu bao la của Người.
Ước gì trong Mùa Chay này, mỗi người chúng ta siêng năng cầu nguyện để Thiên Chúa chiếu sáng tâm hồn chúng ta hầu chuẩn bị đón mừng Chúa phục sinh là Đền Thờ Vĩnh Cửu.
39.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.
Sống trong thời đại tự do khi mà người ta coi luật lệ như rơm rác và tự quyết định cho mình điều này đúng điều kia sai, chúng ta có thể tự hỏi số phận của 10 điều răn rồi sẽ ra sao đây. Thập giới thật sự có còn chỗ đứng hay là đã hơi cổ hủ lỗi thời? Việc Thiên Chúa trao ban thập giới cho ông Môsê trên núi Sinai đánh dấu ngày khai sinh ra đất nước Israen. Bởi thế đối với dân Do thái, tuân giữ lề luật trong đời sống hằng ngày không nhằm tới việc làm điều đúng, tránh điều sai, nhưng được coi là thể hiện trong cuộc sống mối tương quan với chính Thiên Chúa. Giữ giới luật, đối với họ, chính là đem tình yêu đáp lại khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa, Đấng đã tự mình kết giao với dân Ngài. Họ xem những giới luật như là những điều khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa chia sẻ với họ như một quà tặng - như một lời mời gọi họ cư xử như chính Thiên Chúa chứ không phải là một thước đo lòng tuân phục - vâng lời nơi họ. Xã hội chúng ta tiến bộ và lý luận cao hơn dân Israen thời ông Môsê, nhưng đúng sai phải trái thì ngàn đời vẫn thế. Mười giới răn ngày xưa vẫn còn là cội rễ của đức tin chúng ta ngày nay. Bất cứ quốc gia nào không giữ được điều cơ bản này làm thành mẫu mực cho cuộc sống, thì quốc gia đó khó lòng tồn tại. Chúng ta vẫn còn cần đến thập giới vì chúng ta là gạch, là vữa để kết xây nên nền tảng vững chắc của một xã hội ổn định.
Khi xua đuổi những người buôn bán trong Đền Thờ, Đức Chúa Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy lòng tôn kính của Người đối với nhà của Chúa, và để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về cung cách tôn kính những nơi thờ phượng như là những thánh địa dành riêng cho việc cầu nguyện mà thôi. Đền thờ hôm ấy không khác gì một chốn chợ búa náo nhiệt với kẻ mua người bán. Các con buôn có lỗi vì đã dùng nơi cư ngụ của Thiên Chúa làm nơi trục lợi ích kỷ cho mình. Họ không mấy quan tâm đến tinh thần thờ phượng đích thực. Chúng ta thấy Đức Chúa Giêsu đã tái khẳng định mạnh mẽ vì lòng tôn kính Thánh Danh Thiên Chúa và Nhà Chúa vì toàn bộ mọi việc diễn ra nơi đây đã biến thành nghi thức trống rỗng che mờ nhiệm vụ đích thực của đền thờ.
Cộng đoàn Kitô hữu thường tụ họp nhau mỗi Chúa Nhật để cử hành mầu nhiệm Thánh Thể và Tạ Ơn Thiên Chúa vì một tuần lễ đã qua. Mỗi một ngày của Chúa lẽ ra phải là một bước dẫn đưa chúng ta về quê trời, nhưng liệu có thật như thế chăng? Chúng ta có được gần Chúa hơn qua việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật hay là việc thờ phượng ngày Chúa Nhật lại trở nên xuống dốc, trở thành một nghi thức trống rỗng, một ước lệ của xã hội hay là một cái gì chúng ta phải làm chỉ vì người ta muốn chúng ta làm? Ngày Chúa Nhật lẽ ra phải làm cho chúng ta tôn vinh Thiên Chúa cao cả, ca ngợi thế giới mà Ngài đã ban tặng cho chúng ta, và chúc mừng mọi người quanh chúng ta. Thiên Chúa mong muốn chúng ta tôn thờ Ngài không chỉ bằng môi miệng hay cử chỉ bên ngoài. Thờ phượng Thiên Chúa có nghĩa là nói: "Chúa cao cả biết bao!", là tiếng đáp trả của chúng ta khi chúng ta nhận ra sự thiện hảo của Thiên Chúa trong cuộc sống chúng ta, nhất là khi chúng ta biết rằng có Chúa là chủ chiên chăn dắt, chúng ta không còn muốn gì, không còn sợ gì? Thờ phượng Thiên Chúa và cuộc sống hằng ngày của chúng ta không hề bị chia cắt nhau. Ngày Chúa Nhật chúng ta được mời gọi đi tới nhà thờ, còn ngày thường trong suốt tuần lễ chúng ta cũng được kêu gọi trở nên ngôi thánh đường ngay trong lòng xã hội chúng ta đang sống.
40.Luật vĩnh hằng--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
Văn hào Victor Marie Hugo (1802-1885, Pháp) phân biệt: “Đối với nhân dân, quyền lực duy nhất là pháp luật; đối với cá nhân, quyền lực duy nhất là lương tâm”. Còn văn thi sĩ Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832, Đức) nói: “Có hai sức mạnh mang đến sự yên ổn: pháp luật và đạo đức”. Những ý tưởng thật hay! Kinh Thánh xác định: “Chính nhân cầm quyền, dân mừng rỡ. Ác nhân cai trị, dân oán than” (Cn 29:2). Và chắc chắn chỉ có luật Chúa là tuyệt đối, được đề cập trong Tv 119 (rất dài, với 176 câu). Thật vậy, “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8).
Trong xã hội loài người, bất cứ một quốc gia nào, một tổ chức nào, một gia đình nào, một nhóm nào, dù chỉ là một “nhóm” vài người,… cũng đều phải có luật lệ, nội quy, quy tắc, hoặc nguyên tắc để bảo đảm trật tự – ở phạm vi lớn gọi là an ninh, ở phạm vi thế giới gọi là hòa bình. Vì con người làm hư trật tự Thiên Chúa đã thiết lập nên cần phải có luật để tái lập trật tự.
Bởi vì luật có sau con người nên luật được lập ra cốt để phục vụ con người, giúp xã hội tốt hơn, gọi là “luật vị nhân sinh” – luật vì con người, chứ con người không câu nệ hoặc quá lệ thuộc vào luật. Tuy nhiên, lề luật của Thiên Chúa là Thập Giới, tức là Mười Điều Răn. Luật Chúa là Thánh luật, là Thánh chỉ, là luật giao ước, là Ý Chúa. Luật của Thiên Chúa là luật vĩnh hằng và bất biến. Còn luật của con người có thể thay đổi cho phù hợp, ngay cả luật của Giáo hội cũng thay đổi – trước đây là SÁU Điều Răn, nhưng nay là NĂM Điều Răn.
Xin “mở ngoặc” nho nhỏ: Vào các ngày Chúa nhật (và Lễ Trọng), nhiều nơi vẫn đọc “Hội thánh có SÁU điều răn…” thay vì Năm Điều Răn (*). Như vậy là không kịp cập nhật thông tin cần thiết về giáo huấn của Giáo hội. Trách nhiệm của ai đây? Có những nơi đã sử dụng kinh Năm Điều Răn Hội Thánh, nhưng kinh Nghĩa Đức Tin (Ngày Chúa Nhật hôm nay chúng con họp nhau kính lạy thờ phượng Chúa…) vẫn thấy đọc “…song phải giữ Mười Điều Răn Đức Chúa Trời cùng SÁU Luật Điều Hội Thánh…” chứ không sửa là “năm”. Chuyện nhỏ mà… không nhỏ. Lệch pha!
BIẾT LUẬT
Cựu Ước có đề cập Thập Giới (Xh 20:3-17; Đnl 5:7-21). Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng con người, đồng thời trao quyền tự do cho con người, bởi vì chính Ngài đã “đưa dân Chúa ra khỏi đất Ai Cập, để thoát khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Thoát khỏi nô lệ là được tự do. Tự do rất cần, mà Thiên Chúa đã cho con người tự do, nhưng đồng thời Ngài cũng có luật đòi hỏi con người phải thực hành: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20:3-4).
Các Phúc Âm nhất lãm lặp lại Giới Răn thứ nhất: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22:37; Mc 12:30; Lc 10:27), hoặc như tiên tri Samuel xác định: “Hãy phụng thờ Đức Chúa hết lòng” (1 S 12:20). Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất (Mt 22:39). Theo kinh Mười Điều Răn, chúng ta quen đọc là “thứ nhất, thờ phượng và kính mến Người trên hết mọi sự”.
Tiếp theo, Thiên Chúa nghiêm cấm: “Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” (Xh 20:5a). Ngài không ngần ngại tự nhận Ngài là “một vị thần ghen tương” (Xh 20:5b), và Ngài nhấn mạnh: “Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông” (Xh 20:5c). Có phải vì Thiên Chúa đã “ấn định” như vậy nên ngày xưa người ta cũng “bắt chước” mà ra luật “tru di tam tộc” chăng?
Có lẽ chúng ta cảm thấy cách nói của Chúa có vẻ “gay gắt”, nhưng thật ra không phải như vậy. Ngài là Đấng giàu lòng thương xót thì chắc chắn không độc đoán, và vì yêu thương mà Ngài hứa chắc chắn: “Những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời” (Xh 20:6). Ôi, Ngài quả là rất tâm lý và công bằng, Ngài “bắt buộc” về lĩnh vực này thì Ngài lại “thưởng công” về lĩnh vực khác. Đó là công lý. Chính Thánh Vịnh gia đã xác định: “Chúa giữ gìn những ai thành tín, nhưng thẳng tay trừng trị người ăn ở kiêu căng” (Tv 31:24). Thiên Chúa còn giải thích rất rõ ràng: “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng” (Xh 20:7). Và đó chính là Giới răn thứ hai: “Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”.
Đối với các Giới răn từ thứ ba tới thứ mười, trình thuật Xh 20:9-17 “liệt kê” chi tiết: “Ngươi HÃY nhớ ngày Sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày Sa-bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi KHÔNG được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày Sa-bát và coi đó là ngày thánh. Ngươi HÃY thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Ngươi KHÔNG được giết người. Ngươi KHÔNG được ngoại tình. Ngươi KHÔNG được trộm cắp. Ngươi KHÔNG được làm chứng gian hại người. Ngươi KHÔNG được ham muốn nhà người ta, ngươi KHÔNG được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta”. Trong tám Giới răn đó có hai cái HÃY và bảy cái KHÔNG. Rất rõ ràng, rất rạch ròi.
Là Kitô hữu, ai cũng biết luật của Thiên Chúa và luật của Giáo hội. Biết thì phải giữ. Không biết thì không có tội, biết mà không giữ thì có tội (x. Ga 9:40-41).
GIỮ LUẬT
Giữ luật không chỉ là duy trì và bảo vệ luật mà còn phải thi hành – nghiêm túc chứ không lơ là, gặp chăng hay chớ. Vô tri bất mộ – không biết nên không yêu thích. Ngược lại, càng hiểu biết thấu đáo điều gì thì người ta càng yêu quý. Hiểu biết sâu sắc về Luật Chúa, Thánh Vịnh gia đã vui mừng thốt lên: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Luật pháp khiến người ta “sáng mắt” để khả dĩ phân biệt đâu là đúng và đâu là sai. Còn Luật Chúa khiến “người dại hóa khôn”. Chính các “huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng” có thể “làm hoan hỷ cõi lòng” và “mệnh lệnh Chúa minh bạch” để làm cho “đôi mắt rạng ngời” (Tv 19:9).
Thánh Vịnh gia cũng chân nhận rằng “quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” nên thực sự “quý báu hơn vàng ròng muôn lượng” và “ngọt ngào hơn mật ong nguyên chất” (Tv 19:10-11). Như vậy, luật làm cho người ta hạnh phúc hơn chứ không làm cho người ta bị gò bó, chịu lệ thuộc hoặc đau khổ. Luật phải hợp lòng dân, phải bắt nguồn từ yêu thương chứ không vì tư lợi, nếu không thì đó chỉ là ác luật để hành dân, là luật không hợp lý, và luật đó khiến người dân khổ sở. Tất nhiên luật đó trái với Ý Chúa. Và người ta thường nói: “Quan nhất thời, dân vạn đại”.
Trong cuộc sống đời thường, chúng ta thấy luôn có những điều trái ngược, như người ta thường nói rằng chín người mà có tới mười ý, và đôi khi có những tình huống rất khó xử. Không ai chịu nghe ai, nếu không có nghiêm luật thì xã hội sẽ rối loạn. Thánh Phaolô nói: “Người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1 Cr 1:22). Hai thái cực khác nhau. Còn những người tin yêu Chúa, như thánh Phaolô, thì “lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1:23). Người ta chỉ theo những người có uy tín – dù “uy tín” đó chỉ là vàng bạc, chức tước, địa vị, quyền hành,… chứ ai lại ủng hộ người “nghèo rớt mồng tơi”, không có cục đất chọi chim? Thậm chí người ta còn “chửi xéo” là kẻ “thừa nói thiếu ăn”! Những người “chịu” theo Chúa chắc chắn cũng bị người ta cho là “tâm thần”, là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, hoặc chí ít cũng là “khờ khạo”. Tuy nhiên, “đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1:24). Thật tuyệt vời!
Quả thật, Chúa Giêsu là “dị nhân” đúng nghĩa, bởi vì Ngài có những động thái “ngược đời”, hoàn toàn khác loài người. Trong xã hội cũng vậy (cả đạo lẫn đời), những người có tư tưởng “mới lạ” là những người “đi trước thời đại”, có khả năng “nhìn xa, hiểu rộng”, nhưng họ thường bị coi là cấp tiến, bị xa lánh, bị cô lập, bị ghét bỏ, thậm chí là bị hại. Thật phũ phàng! Thực tế cho thấy đã có những người chỉ được chấp nhận là vĩ nhân sau khi họ chết từ lâu rồi – đơn vị thời gian có thể tính bằng thế kỷ. Thật đáng buồn! Những người có tư tưởng mới mà “yếu bóng vía” sẽ ái ngại, và rồi có thể “bỏ của chạy lấy người”. Còn những người “dị ứng” với những tư tưởng mới thì chỉ là những người không theo kịp thời đại, thậm chí có thể là “tiểu nhân”, không muốn người khác hơn mình, hoặc cố chấp, không muốn thay đổi nếp nghĩ dù vẫn biết mình cổ hủ, lỗi thời. Ngày nay người ta gọi loại người đó là “đầu đất” hoặc “đầu tôm”. Tồi tệ thật!
Đối với “nhà thông thái” Saolê, sau lần ngã-ngựa-chí-tử, ngài chợt nhận ra cái “ngược-đời-xem-chừng-nghịch-lý” kia, và hóa thành Phaolô, và ông đã can đảm xác nhận: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Thật vậy, có lần Thiên Chúa đã xác định: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9). Khoảng cách biệt quá lớn, và chẳng bao giờ phàm nhân có thể hiểu hết Thánh Ý của Ngài. Nhưng Ngài rất công minh chính trực, công bằng tuyệt đối, chắc chắn sẽ “bù lỗ” cho những người chịu thua thiệt ở đời này.
HƯỞNG LUẬT
Trình thuật theo Thánh sử Gioan cho biết rằng…
Gần dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem, Ngài hết sức ngạc nhiên khi thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Ngài liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.
Bản tính thẳng thắn và nghiêm túc, Chúa Giêsu nói thẳng với những kẻ buôn bán: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Lúc đó, các môn đệ “giật mình” nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2:17; Tv 69:10). Thấy Chúa Giêsu “nổi nóng” và dám chê họ sai, người Do Thái ấm ức nên chất vấn Ngài: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (Ga 2:18). Nhưng Ngài vẫn thản nhiên: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19).
Ui da! Ngôi Đền Thờ Giêrusalem phải mất 46 năm mới xây xong, thế mà Chúa Giêsu nói có thể xây lại chỉ nội trong 3 ngày. Ai cũng lắc đầu và nói: “Bó tay luôn!”. Bó toàn thân luôn chứ bó tay là chuyện nhỏ. Đối với họ thì đúng là Chúa Giêsu sinh sống gần kho đạn, “nổ” hết mức, hoặc là “tâm thần” thật. Tuy nhiên, Ngài muốn nói về chính thân thể Ngài mà họ không thể nghĩ kịp tư tưởng của Ngài. Ngay cả các môn đệ, dù đã từng rong ruổi với Ngài khắp nơi, cùng chia ngọt sẻ bùi với Ngài, đúng ra là họ phải hiểu Ngài, thế mà các ông cũng đã “miệng chữ A, mắt chữ O” khi nghe Sư phụ mình nói như vậy. Và chúng ta cũng chẳng hơn gì!
Tất cả còn trong “bức màn bí ẩn”. Mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ mới “tá hỏa tam tinh” mà nhớ lại điều Ngài đã nói thì mới đủ tin vào Kinh Thánh và lời Ngài nói. Trong lúc Ngài ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều người tin Ngài vì đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm. Thế nhưng chính Đức Giêsu chưa đủ tin họ, vì Ngài biết rõ có gì trong lòng con người.
Chắc chắn chúng ta cũng chẳng hơn gì người Do Thái. Thật vậy, thấy cái gì lạ thì tin ngay, nhưng rồi “đâu lại vào đấy”, xin và được ơn thì tin lắm, xin không được thì “nhăn mặt” và muốn “đặt vấn đề” hoặc lung lay niềm tin. Thậm chí, đôi khi chúng ta cầu nguyện mà kỳ thực chúng ta đang “ngã giá”, “hối lộ” hoặc “mua chuộc” Chúa và các vị thánh mà chúng ta cho là “thiêng lắm”. Quả thật, đó là điều chúng ta phải suy tư nhiều, bởi vì ngày xưa chính Thiên Chúa cũng đã từng đặt vấn đề: “Cho đến bao giờ nữa quý vị từ chối, không tuân giữ các mệnh lệnh và luật lệ của Tôi?” (Xh 16:28). Coi bộ “căng” dữ nghen!
Lạy Thiên Chúa duy nhất mà con tôn thờ, con chẳng khác những kẻ bơ vơ, lạc hướng trong thế giới ngày nay, vì khó tìm được người thực sự đáng tin cậy, trong khi xung quanh con có nhiều loại thần ô uế, thần tài, thần nhục dục, thần danh vọng, thần địa vị, thần quyền lực,… nhất là thần hóa “cái tôi”. Đôi khi con còn mắc những chứng bệnh trầm kha trong cách nhìn, trong nếp nghĩ, và trong lối sống, thế nên con vẫn làm ngơ những người sống bên lề xã hội, mặc họ bị bóc lột, bị áp bức, bị khinh miệt, bị tước đoạt nhiều thứ… Con chân thành xin lỗi Chúa, cầu xin Ngài thương giúp con nhận diện chính mình để có thể nhìn rõ tha nhân mà chạnh lòng thương xót họ bằng chính trái tim của Đức Kitô, đồng thời cũng xin giúp con can đảm chấp nhận mọi thứ dù trong hoàn cảnh nào. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
-----------------------
(*) Hội Thánh có năm điều răn:
– Thứ nhất: Dự lễ và kiêng việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc;
– Thứ hai: Xưng tội trong một năm ít là một lần;
– Thứ ba: Rước Mình Thánh Chúa trong mùa Phục Sinh;
– Thứ bốn: Giữ chay và kiêng thịt những ngày Hội Thánh buộc;
– Thứ năm: Góp công góp của xây dựng Hội Thánh, tùy theo khả năng của mình.
41.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chúa Nhật III Mùa Chay Năm B có thể được gọi là “Chúa Nhật về sự thánh thiện của Thiên Chúa”
Xh 20: 1-17
Bài Đọc I trích từ sách Xuất Hành trình bày Thập Giới trong đó việc thờ phượng Thiên Chúa chân thật và tôn kính Danh Thánh của Ngài được định vị ngay ở hàng đầu tiên.
1Cr 1: 22-25
Bài Đọc II, trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô, dành một chỗ đặc biệt cho biến cố Tử Nạn: Đấng Mê-si-a bị đóng đinh là hình ảnh kỳ chướng đối với người Do thái và điên rồ đối với dân ngoại, nhưng đó lại là sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa.
Ga 2: 13-25
Tin Mừng Gioan tường thuật hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, vì họ làm ô uế nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài.
BÀI ĐỌC I (Xh 20: 1-17)
Sách Xuất Hành là cuốn sách thứ hai của bộ Ngũ Thư. Sách tường thuật cuộc ra khỏi Ai-cập và giai đoạn đầu tiên của cuộc hành trình trong hoang địa. Biến cố này được định vị có lẽ vào thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên (giữa 1250 và 1230).
Qua trung gian của ông Mô-sê, Thiên Chúa không chỉ giải thoát dân Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, nhưng Ngài còn quy tụ dân và ban cho họ Lề Luật. Thập Giới chỉ là một phần rất nhỏ của Luật Mô-sê, nhưng phải nói là căn bản của Luật Mô-sê. Trong các bộ luật được gặp thấy trong Ngũ Thư chỉ có Thập Giới được đặt vào bối cảnh cuộc Thần Hiển, ở đó Thiên Chúa trực tiếp phán với dân Ngài (Xh 20: 18-19); còn các bộ luật khác Thiên Chúa ban gián tiếp cho dân Ngài qua trung gian của ông Mô-sê.
Trong Ngũ Thư, có hai bản văn Thập Giới: bản văn của sách Xuất Hành (Xh 20: 1-17) và bản văn của sách Đệ Nhị Luật (Đnl 5: 6-21) với vài tiểu dị. Hai bản văn nêu lên hai lý do khác nhau về việc tuân giữ ngày sa-bát. Trong Thập Giới của sách Xuất Hành, lệnh truyền tuân giữ ngày sa-bát quy chiếu đến cuộc Sáng Tạo (Xh 20: 11) để nêu bật tính chất tôn giáo của ngày sa-bát; còn trong Thập Giới của sách Đệ Nhị Luật, lệnh truyền tuân giữ ngày sa-bát quy chiếu đến cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập (Đnl 5: 15) để nhấn mạnh tính chất xã hội của ngày sa-bát. Cả hai bản văn nầy đều cho thấy chúng không là bản văn nguyên thủy nhưng được khai triển rồi. Vài chi tiết cho thấy chúng được gởi đến dân chúng không còn hành trình trong hoang địa nhưng đã định cư rồi.
1. Tính chất cổ xưa của Thập Giới:
Có nhiều dấu chỉ cho thấy tính chất cổ xưa của Thập Giới. Việc luật được ghi khắc trên hai bia đá là nét đặc trưng cho thấy tính chất cổ xưa của nó. Mặt khác, cách thức luật được trình bày nhắc nhớ vài hiệp ước được soạn thảo ở miền Cận Đông vào giữa những thế kỷ thứ mười lăm và mười ba trước Công Nguyên, nhất là những hiệp ước được ký kết giữa các vua Hít-ti và các vua Át-sua hay giữa vua Hít-ti và Pha-ra-ô Ai-cập. Vị bá vương đề xuất hiệp ước của mình với các chư hầu khi nhắc lại cho họ trước tiên những ân phúc mà vua đã ban cho họ. Cũng vậy, Đức Chúa nhắc lại cho dân Do thái rằng Ngài đã can thiệp để giải phóng họ khỏi miền đất nô lệ. Giờ đây, Ngài ngỏ lời với họ như với những con người tự do, những con người được luật pháp bảo vệ hẳn hoi; nhưng bù lại, Ngài đưa ra những yêu sách của mình.
2. Nội dung của Thập Giới:
Thập Giới trình bày một tổng đề về những bổn phận tôn giáo và luân lý. Vả lại, con số “mười” đánh dấu sự viên mãn. Trong số mười giới luật, tám giới luật được phát biểu theo hình thức phủ định tức lệnh cấm: “Ngươi không được…”; còn hai giới luật được đặt vào giữa Thập Giới và được phát biểu theo hình thức khẳng định tức lệnh buộc: tuân giữ ngày sa-bát để kính Đức Chúa và giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ (20: 8-12). Thập Giới được phân chia thành những giới luật để nhắc nhớ những bổn phận đối với Thiên Chúa và những bổn phận đối với tha nhân.
2.1-Bổn phận đối với Thiên Chúa:
Những bổn phận đối với Thiên Chúa cốt yếu là những lời cảnh báo mà Thiên Chúa nhắc nhở dân Do thái khi dân định cư ở giữa dân ngoại: không được tạc các tượng thần; không được thờ lạy các tượng thần đó, nhưng chỉ phụng thờ Thiên Chúa độc nhất. “Đức Chúa, Thiên Chúa ghen tuông” là cách diễn tả tính không nhân nhượng của Ngài. Đoạn văn nầy chứa đựng một ghi nhận hùng hồn bằng con số: những kẻ ghét Ngài, Ngài phạt con cháu đến “ba bốn đời”, nhưng những ai yêu mến Ngài, Ngài giữ trọn niềm nhân nghĩa đến “ngàn đời”. Lối nói song đối nghịch đảo nầy diễn tả lòng xót thương nhân hậu vô cùng tận của Thiên Chúa: Ngài trừng phạt có chừng có mực, nhưng Ngài yêu thương vô bờ bến. Đây là kinh nghiệm về mối quan hệ của dân Do thái với Thiên Chúa của mình trong lịch sử của dân tộc mình: Thiên Chúa nổi giận, giận trong giây lát, nhưng Ngài yêu thương, thương cho đến trọn một đời.
Bổn phận của dân đối với Thiên Chúa liên quan đến định chế ngày sa-bát: “Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát…”. Lệnh buộc nầy nhấn mạnh nét đặc thù của dân Ít-ra-en: mọi ngày sống trong một tuần lễ phải hướng đến ngày sa-bát, ngày của Chúa, Đấng đem lại ý nghĩa cho cuộc sống.
2.2- Bổn phận đối với tha nhân:
Về những bổn phận đối với tha nhân, Thập Giới trở về luân lý phổ quát, có giá trị thường hằng và khắp nơi. Điều cốt yếu ở nơi những bổn phận này là tôn trọng gia đình, con người và của cải. Tuy nhiên, những ý định ẩn kín ở trong lòng con người được gợi lên ở đây: “Ngươi không được ham muốn…”. Căn nguyên của mọi tội lỗi hệ tại ở trong lòng con người. Khẳng định nầy chuẩn bị giáo huấn của các ngôn sứ và của chính Đức Giê-su.
3. Nét độc đáo của Thập Giới:
Tuy nhiên, Thập Giới bày tỏ nét độc đáo của riêng mình. Chắc chắn nó dựa trên luân lý tự nhiên, nhưng nguồn gốc của nó thì siêu việt: chính Thiên Chúa đích thân ban Thập Giới cho dân Ngài. Thập Giới chủ yếu lấy sự thánh thiện của Thiên Chúa làm khuôn vàng thước ngọc, vì thế Luân Lý của Thập Giới trổi vượt trên luân lý của dân ngoại chung quanh, nhất là ở nơi lời kêu gọi ăn ngay ở lành. Tính siêu việt nầy sẽ đảm bảo sự thăng tiến tinh thần của một dân tộc nhỏ bé có một vận mệnh đặc biệt.
Thập Giới được đặt ở dưới dấu chỉ lịch sử của cuộc giải phóng khỏi Ai-cập. Chúng ta hãy đọc lại lời mào đầu, ở đây Đức Chúa không phán như trước đây: “Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi: Thiên Chúa của Áp-ra-ham, của I-sa-ác và của Gia-cóp”, nhưng “Ta là Đức Chúa, Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ”. Đức Chúa tự giới thiệu mình như Đấng Giải Phóng. Chính ách nô lệ khác mà giờ đây Thiên Chúa muốn giải phóng dân Ngài, tức ách nô lệ của tội lỗi, nhằm làm cho họ thành một dân thánh.
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 22-25)
Đoạn văn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô được cấu trúc rất chặc chẻ. Một cách nào đó, đoạn trích nầy tự nó là trọn nghĩa; tuy nhiên, để hiểu chiều kích của đoạn trích này rõ hơn, chúng ta đặt nó vào trong bối cảnh của bức thư.
Xin được nhắc lại cách vắn tắt: các tín hữu Cô-rin-tô bất hòa với nhau về những nhà rao giảng của họ. Những bất hòa này đã dẫn đến những bè phái. Chống lại những chia rẽ nầy, thánh Phao-lô vạch cho họ thấy rằng óc bè phái không phù hợp với tinh thần Tin Mừng. Đối với những người thích“lý sự” tự cho mình là “khôn ngoan hiểu biết”, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng thánh nhân đã không rao giảng cho họ những lời lẽ khôn ngoan, nhưng sự điên rồ của thập giá. Thánh nhân đề cập đến việc người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ và người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan. Tuy là hai tinh thần rất khác nhau, nhưng hình ảnh thập giá trên đồi Can-vê không thể nào có chỗ đứng trong những viễn cảnh của họ. Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh nhân đã gặp phải cả hai chướng ngại nầy.
1. Thập giá đối với người Do thái:
Người Do thái mong chờ một Đấng Mê-si-a đầy quyền năng, Ngài sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ và đem lại sự toàn thắng cho dân tộc của mình. Vì thế, nhiều người Do thái đã không chịu nổi ý tưởng về Đấng Mê-si-a chịu khổ hình thập giá một cách nhục nhã đến như vậy. Vì thế, thánh nhân bị họ bách hại ở An-ti-ô-khi-a, ở Thê-xa-lô-ni-ca và ở những nơi khác.
2. Thập giá đối với người Hy-lạp:
Người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan thì hình ảnh một con người bị đóng trên thập giá chẳng khôn ngoan một chút nào. Thánh nhân đã chạm trán với họ ở A-thê-na; ngài đã ra sức thuyết phục họ, nhưng vô ích. Họ chờ đợi một hệ thống triết lý cao vời trong khi thánh Phao-lô lại rao giảng “Một Con Người”. Đoạn trích thư nầy tự nó cho thấy rằng việc rao giảng thập giá khó mà tránh khỏi sự thất bại. Đối với người Hy-lạp, phẩm tính đầu tiên của thần linh chính là vẻ đẹp; ấy vậy, Đấng chịu đóng đinh không ra hình tượng người không tương xứng với hình ảnh của vị thần linh.
3. Rao giảng một Đức Ki tô chịu đóng đinh:
Nhưng thập giá không là một bài thuyết giáo, cũng không là một sự chứng minh mà là một sự kiện, một sự kiện khác thường, ở nơi sự kiện đó ẩn dấu sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa, hoàn toàn khác với những viễn cảnh của con người.
Một trong những bài học vĩ đại của bức thư nầy đó là “rao giảng mầu nhiệm đau khổ như yếu tố cốt yếu của Tin Mừng”. Một cách khái quát, thần học của thánh Phao-lô không tách Tử Nạn ra khỏi Phục Sinh. Ở đây là một trường hợp ngoại lệ, thánh nhân có chủ ý chỉ giương cao “hình ảnh Đức Ki tô bị đóng đinh” đối diện với sự tự mãn của con người.
TIN MỪNG (Ga 2: 13-25)
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ Tin Mừng Gioan. Hoạt cảnh thật khác thường: cơn phẩn nộ của Đức Giê-su: “Ngài bèn lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ”. Đối với những kẻ bán bồ câu – của lễ của những người nghèo – Ngài không mở tung các lồng chim của họ, nhưng cho họ một lời giải thích: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi chợ búa”. Vì thế, phải chăng Đức Giê-su đến để chấn chỉnh tôn giáo Ít-ra-en và thanh tẩy Đền Thờ mà chẳng bao lâu sau bị phá hủy? Không phải như thế, trái lại, Ngài loan báo rằng một thời đại mới đang khởi sự. Cách hành xử của Ngài cốt yếu mang tính ngôn sứ.
Để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của hoạt cảnh quá đặc biệt nầy, phải định vị nó trước hết vào trong khung cảnh bên ngoài; đoạn vào trong khung cảnh tôn giáo: lễ Vượt Qua; và sau cùng, vào trong văn mạch của Tin Mừng thứ tư.
1. Khung cảnh bên ngoài:
Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng trên một tiền sảnh bát ngát có những hàng hiên bao quanh. Khi băng qua hàng hiên, người ta ở trên tiền đình được gọi “Tiền Đình dân ngoại”, được gọi như thế vì lương dân nào muốn cầu nguyện với Thiên Chúa của dân Do thái đều được phép đi vào ở đây. Tiếp đó, là nơi thánh, chỉ dành riêng cho người Do thái, được phân chia thành nhiều khu vực khác nhau: khu vực nữ giới, khu vực nam giới, và sau cùng sân của các tư tế.
Chính ở nơi Tiền Đình dân ngoại nầy mà những kẻ buôn bán súc vật được dùng làm hy lễ. Công việc buôn bán của họ rất thịnh đạt. Có nhiều lý do để nghĩ rằng các chức sắc tư tế đã kiếm nhiều lợi nhuận từ những thương vụ này.
Những người đổi bạc cũng ở nơi Tiền Đình nầy. Việc đổi bạc từ hiện kim sang “tiền đền thánh” là một nhu cầu cần thiết cho khách hành hương, vì người Do thái không được nộp thuế cho Đền Thờ bằng những đồng tiền “ô uế” được đúc hình của hoàng đế Rô-ma hay của vị thần linh ngoại giáo.
2. Khung cảnh lễ Vượt Qua:
Thánh ký nói với chúng ta: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái”. Qua kiểu nói: “lễ Vượt Qua của người Do thái”, thánh ký hàm ý với độc giả rằng vào thời tác giả và từ nhiều năm rồi có một lễ Vượt Qua khác: “lễ Vượt Qua của người Ki-tô hữu”.
Niên biểu lễ Vượt Qua của người Do thái này được chính bản văn cung cấp: “Đền Thờ nầy phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong”. Đền Thờ được vua Hê-rô-đê Cả khởi công tái thiết vào năm 19 trước Công Nguyên, vì thế, đây là lễ Vượt Qua vào năm 28 sau Công Nguyên.
Khung cảnh lễ Vượt Qua nầy đem lại ý nghĩa sâu xa cho hoạt cảnh. Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, vì đây là nơi dành riêng để cầu nguyện. Nhưng Ngài cũng còn xua đuổi những súc vật dành riêng cho các hy lễ, vì chính Ngài sẽ là “con chiên sát tế”, con chiên Vượt Qua đích thật, hy lễ có giá trị duy nhất từ nay sẽ thay thế tất cả hy lễ vô giá trị khác (chúng ta quen lối đọc đa nghĩa nầy của Tin Mừng Gioan). Thư gởi tín hữu Do thái cho chúng ta một bài suy niệm sâu xa về ý nghĩa này: “Khi vào trần gian, Đức Ki-tô đã nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến lễ, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xóa tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10: 5-6).
Đức Giê-su xua đuổi những người đổi bạc vì công việc làm ăn của họ bất lương không xứng hợp với khung cảnh thánh thiêng, nhưng cũng vì những tiền dâng cúng chẳng bao lâu nữa không còn lý do tồn tại nữa: sẽ không còn Đền Thờ, không còn tư tế…
Sau cùng, Đức Giê-su thanh tẩy Tiền Đình dân ngoại vì dân ngoại có quyền đòi hỏi phải tôn trọng những lời cầu nguyện của họ. Quả thật, sẽ đến một ngày không xa lắm, dân ngoại sẽ không còn phải bị loại ra ngoài, chính họ cũng sẽ là một phần không thể thiếu Dân Mới của Ngài và sẽ được mời gọi dự phần vào ơn cứu độ như dân Ít-ra-en.
3. Văn mạch của Tin Mừng Gioan:
Tin Mừng Gioan đặt sự kiện Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, sau tiệc cưới Ca-na và sau vài ngày lưu lại ở Ca-phác-na-um. Ba Tin Mừng nhất lãm tường thuật việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem vào lúc Ngài sắp bước vào tuần Tử Nạn và xem biến cố nầy như đổ thêm dầu vào lửa khiến cho giáo quyền Do thái công phẩn đến cực độ. Đây là một trong những lý do họ ra lệnh truy nả Đức Giê-su.
Tin Mừng Gioan có một quan điểm thần học khác với các Tin Mừng nhất lãm. Thánh Gioan muốn dẫn chúng ta tiến bước vào trong mầu nhiệm của Đấng Mê-si-a (“Đức Ki-tô”). Đức Giê-su đã được Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Đấng Mê-si-a. Ở Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su hành xử với tư cách “Con Thiên Chúa”. Ngài cho mọi người tiên cảm những mối liên hệ rất đặc biệt của Ngài với Thiên Chúa, Cha Ngài, qua việc Ngài ra tay hành động để buộc người ta phải tôn kính nơi thánh thiêng, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”.
Ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đã ban “rượu mới”, báo trước rượu sẽ trở thành máu Ngài (Ga 19: 31-37). Ở Giê-ru-sa-lem, Ngài loan báo “đền thờ mới” đền thờ này sẽ là Thân Thể Ngài. Như vậy, Ngài ám chỉ đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Các ông cứ phá hủy đền thánh nầy đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (2: 19). Điều mà thánh Gioan muốn chúng ta lưu ý ở đây chính là khi nói đến Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, tác giả dùng từ “Iros” có nghĩa “không gian thánh” (2: 14, 15) nhưng khi nói về đền thờ sẽ là thân thể của Ngài, Đức Giê-su sử dụng từ “Naos” là nơi cực thánh của Đền Thờ. Khi nói về thân thể của Ngài bị giết chết nhưng sống lại, Đức Giê-su không dùng động từ “oikodomein” (“xây dựng”), nhưng “egeirein” (“chỗi dậy”), động từ được các bản văn Tân Ước sử dụng để nói về cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su. Vì thế, tác giả giải thích: “Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói”.
Mặt khác, toàn bộ Tin Mừng Gioan được trình bày như một phiên tòa ở đó những người xét xử Đức Giê-su mà thánh Gioan gọi là “người Do thái” với nét nghĩa tiêu cực (chủ yếu là các chức sắc tư tế và các kinh sư). Hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ cấu thành điểm nhấn của phiên tòa nầy. Ai đọc hoạt cảnh này chắc chắn nghĩ đến lời công bố của các ngôn sứ: “Việc Thanh tẩy Đền Thờ sẽ đánh dấu việc khai mạc thời đại Mê-si-a”.
Cuối cùng, thánh Gioan ghi nhận rằng có nhiều người đến với Ngài và tin vào Ngài vì họ đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm, nhưng Ngài không tin họ vì Ngài “biết có gì trong lòng con người”. Như vậy, Đức Giê-su tiên cảm họ sẽ quay lưng lại với Ngài trong tương lai.
Như vậy, trong Tin Mừng Gioan, hoạt cảnh nầy có giá trị mặc khải: bày tỏ con người Đức Giê-su với tư cách Con Thiên Chúa và loan báo những đảo lộn mà Ngài sẽ thực hiện cũng như sự vô tri mà Ngài sẽ là đối tượng. Khung cảnh của lễ Vượt Qua sắp đến phóng chiếu trên những dữ kiện nầy một sự soi sáng mang tính ngôn sứ.
42.Luật Chúa truyền và luật trần gian--Lm. Xuân Hy Vọng
Bôn ba khắp trốn tìm lời giải đáp cho những vấn nạn cuộc đời, anh Suzuki dừng chân trước một ngôi thánh đường nguy nga, tráng lệ, anh ngỡ ngàng với sự hồ hỡi sống vui tươi, thân thiện của giáo dân vùng Nam Mỹ. Đứng hồi lâu trước khuôn viên nhà thờ, anh tự hỏi mình: tôi là một người Công Giáo, nhưng tâm hồn tôi xa Chúa, dẫu rằng mỗi tuần đến tham dự Thánh lễ Chúa Nhật; biết bao lần tôi cầu nguyện nhưng tâm trí tôi cứ quanh quẩn bởi nhiều điều lo toan với cuộc sống vật chất; biết bao lần tôi phải đối diện với luật đời và luật đạo; và biết bao phen tôi vật lộn với chính sự ương hèn của chính mình, v.v...
Thưa quý bà và anh chị em, tâm tư của anh Suzuki phần nào cũng là nỗi trăn trở của chúng ta. Sống trong xã hội bị chi phối với nhiều luật lệ, nguyên tắc, dường như chúng ta bị cuốn vào guồng xoáy giữ luật hơn là sống tinh thần luật; xem trọng luật trần gian hơn luật Chúa truyền qua sứ vụ của Hội Thánh. Đáng buồn hơn nữa, chúng ta rơi vào chủ nghĩa duy luật, và trở nên cứng nhắc với những điều lệ mà quên đi phần cốt lõi của luật, đó là tình yêu và giải thoát. Thậm chí, trong một ý nghĩa nào đó, chúng ta trở nên ‘nô lệ’ của luật lệ, hoặc để cho những điều lệ xã hội trói buộc chúng ta.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến luật Chúa truyền dạy qua Mười Điều Răn (x. Xh 20, 1-17). Nói đến điều răn, chúng ta thường nghĩ ngay đến những điều phải tuân giữ, những điều bắt buộc với ý nghĩ tiêu cực; trái lại, Mười Điều Răn cũng có thể được gọi là Mười Điều Cam Kết giữa Thiên Chúa và con người. Và khi nói đến cam kết, thì chắc hẳn phải có hai bên, và đôi bên đều tự nguyện giao ước và tuân giữ. Quý ông bà và anh chị đã thuộc nằm lòng Mười Điều Răn này, nhưng thiết nghĩ để sống đúng tinh thần của nó lại là một vấn đề khác. Thí dụ, nhiều năm qua đã biết bao lần chúng ta tham dự Thánh lễ với thói quen, hoặc với ý nghĩ: không đi thì Chúa phạt. Hoặc khi tham dự Bàn tiệc Thánh, chúng ta chỉ hiện diện với thân xác, còn tâm trí chúng ta đang lo nghĩ đến điều khác, hay đang suy tính...Dĩ nhiên, chỉ có Chúa và bản thân chúng ta mới biết những gì đang xảy ra trong tâm hồn hay trong tâm trí ta thôi, nhưng nếu ý thức lại thì ắt hẳn chúng ta cũng cảm thấy xấu hổ khi đến với Chúa với thái độ bất xứng này vì như Lời Kinh Thánh chép rằng: “dân này chỉ thờ Ta ngoài môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (x. Mt 15, 8). Thiên Chúa mong muốn, mời gọi chúng ta sống cam kết tình yêu với Ngài, vui tươi tuân giữ giới răn yêu thương, quảng đại trao ban, hy sinh cho tha nhân và phụng sự Chúa. Đừng tần tiện thời giờ với Chúa, đừng chôn giấu tài năng, ơn sủng Chúa ban, nhưng hãy dâng lên Chúa tất cả thời gian, cơ hội để phụng sự Chúa và yêu mến tha nhân, cũng như quảng đại cho đi, dân hiến qua việc phục vụ cộng đoàn. Như thế, chúng ta đang sống tinh thần luật, sống những điều chúng ta đã và đang cam kết với Thiên Chúa.
Thứ đến, Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy ưu tiên, chăm lo về phần thiêng liêng nữa “người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (x. Mt 4, 4b). Xã hội thực dụng ngày nay đưa chúng ta vào chỗ quy tất cả giá trị tinh thần ra vật chất, những gì có thể ‘cân, đo, đong, đếm’ được; hoặc nhiều lúc, chúng ta cứ để con thuyền đời sống thiêng liêng bị sóng gió, bảo tố ‘danh vọng, tiền tài, địa vị’, những gì có thể nhìn thấy, hay chóng qua đưa đẩy đến chỗ chìm sâu dưới đáy đại dương ‘hư vô’. Để khỏi rơi vào tình trạng bi đát này, chúng ta cần tỉnh thức, cải hối tận căn, sống theo tinh thần luật Chúa truyền dạy tóm lại trong giới răn yêu thương: Yêu Chúa – thương người. Thật vậy, chúng ta không phủ nhận điều này: vật chất cần thiết cho cuộc sống thân xác của con người chúng ta; tuy nhiên, nó không quyết định đời sống hạnh phúc trường tồn của chúng ta. Hơn nữa, nó chẳng phải là tiêu chuẩn đánh giá, khuôn vàng thước ngọc của giá trị tâm linh, đời sống thiêng liêng. Tiền tài, danh vọng, chức tước, địa vị, vật chất sẽ qua đi, nhưng giá trị tinh thần, đời sống đạo đức sẽ còn mãi, và được lưu truyền mãi mãi.
Giờ đây, chúng ta hãy đặt mình trước Chúa và tha nhân; trong thinh lặng, chúng ta nhìn lại thái độ, động lực thúc bách chúng ta sống theo luật Chúa truyền, hay chỉ giữ luật Chúa dạy? Chúng ta biết chăm lo, vun trồng đời sống đức tin hay chỉ chạy theo đời sống vật chất chóng qua? Trong niềm tín thác, tin tưởng và nhận mình là kẻ yếu hèn trước Chúa, chúng ta cùng xin Chúa ban cho chúng ta biết can đảm dứt bỏ những gì đang cản trở đời sống đức tin, cắt bỏ những gì khiến chúng ta xa lìa Chúa, xa lìa luật Chúa truyền dạy.
Trần gian này chọn đường thênh thang
Chúa dạy con đi qua con đường hẹp
Gian trần này chọn đường vinh quang
Chúa hy sinh bước trọn đường thập hình.
Trần gian này chọn đường huênh hoang
Chúa dạy con đi trong khiêm nhường
Gian trần này chọn đường lợi danh
Chúa đưa con bước trọn đường hy sinh.
Trần gian này chọn đường khinh chê,
Chúa dạy con bao dung nhân hiền
Gian trần này chọn đường âu lo
Chúa đưa con bước vào đường an vui.
Trần gian này chọn đường vinh hoa
Chúa dạy con đi qua thập hình
Gian trần này chọn đường hư vô
Chúa đưa con bước vào đường ơn thiêng.
43.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
Trong cuộc sống, đã là con người ai cũng có lần bị vấp ngã vì những yếu đuối, tội lỗi. Nhưng điều tốt đẹp nơi con người đó chính là mỗi khi chúng ta biết ý thức để nhận ra những giới hạn của bản thân, nhận ra những điều chưa tốt, những lỗi lầm để ăn năn hối lỗi và nhất là biết quyết tâm, cố gắng để sống tốt hơn. Vậy thì, câu hỏi cần được đặt ra: Làm sao để tôi có thể sống tốt hơn đây, mặc dầu tôi đã cố gắng rất nhiều, nhưng rồi chứng nào vẫn tật nấy; những yếu đuối lỗi lầm cũ, tôi lại cứ sa ngã và tái phạm. Thưa ACE, vì lẽ đó mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay soi sáng, hướng dẫn cho chúng ta để chúng ta cần biết cậy dựa vào ơn thánh Chúa ban mà bắt đầu trở lại.
Trong bài đọc một từ sách Xuất hành, Thiên Chúa vì yêu thương, quan tâm đến dân chúng, nên Ngài đã qua ông Môisê truyền lại những giới răn, lề luật cho dân chúng hầu giúp họ sống xứng đáng với phẩm giá của những người được Thiên Chúa tuyển chọn. Khi nói đến lề luật-giới răn, người ta thường nghĩ đến là: Tôi đang bị mất tự do, bị trói buộc, bị kìm hãm…Thế nhưng, với Thiên Chúa và qua Giáo hội, giới răn, huấn lệnh và lề luật chính là để giúp con người nên hoàn thiện và mục đích tối hậu là để cứu rỗi các linh hồn. Đây chính là tất cả tình thương và thánh ý mà Thiên Chúa muốn cho chúng ta, Ngài biết chúng ta cần những phương thế để giúp cho chúng ta sống và trở nên hình ảnh tốt đẹp của Thiên Chúa, mà ngay từ ban đầu Ngài đã tạo dựng nên chúng ta. Có người đã hỏi tôi: “Thưa Cha, đạo Công giáo có tới 10 điều răn, nhiều và khó vậy, sao mà theo và sống cho được?” Tôi đã trả lời: “Để biết 10 điều răn khó hay không thì tùy thuộc vào cách chúng ta trả lời với hai câu hỏi sau đây. Thứ nhất: Tôi có muốn trở nên người tốt không? Thứ hai: Tôi có yêu mến Chúa và thương yêu tha nhân không? Thưa ACE, câu trả lời của mỗi người chúng ta là gì?
Thánh vịnh 18 trong bài đáp ca giúp chúng ta xác tín hơn ý nghĩa cao đẹp của việc thực thi những giáo huấn và lề luật của Chúa. “Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh. Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt”. Thật vậy, chỉ những ai tin, chấp nhận và đón nhận “quà tặng lề luật” này của Chúa ban, thì sẽ được Chúa nâng đỡ, giúp sức hầu chu toàn và đạt tới sự hoàn thiện. Suy cho thấu, thật ra, ai trong chúng ta cũng biết những giá trị tốt lành của giới răn và lề luật Chúa ban. Nhưng để sống, tuân giữ, thực thi thì không phải là điều dễ dàng. Chính vì lẽ đó mà Thánh Phaolo trong bài đọc hai đã chỉ cho chúng ta một kinh nghiệm sống, nghĩa là: hãy “Rập theo khuôn mẫu của Đức Kitô chịu đóng trên Thập giá”. Hay nói khác hơn, đây là mẫu gương của sự hy sinh, tha thứ, mẫu gương của hiến tế, ban ơn và cứu sống. Những ai chấp nhận và muốn sống theo Chúa và đi theo con đường Thánh giá này thì sẽ cảm nghiệm được sự ngọt ngào và ơn thánh của lề luật và giới răn yêu thương. Thế nhưng thưa ACE, con đường Thánh giá Chúa đã nêu gương, con đường mà Thánh Phaolô đã mời gọi chúng ta noi theo, nhiều người cho là điên rồ, khờ dại. Nhưng với Thiên Chúa, thì đây chính là sự khôn ngoan và ơn thánh dành cho chúng ta. Về phần mình, chúng ta nhận định và chọn theo cách nào?
Nếu chúng ta còn chần chừ, lưỡng lự chưa biết lựa chọn, thì Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta ý thức và xác tín hơn về con đường và sứ vụ của Chúa Giêsu. Sứ vụ của Chúa Giêsu không gì khác hơn đó là: Trong mọi sự luôn làm để tôn vinh danh Thiên Chúa Cha. Ở đây chúng ta sẽ nhận ra lòng yêu mến, nhiệt thành của Chúa Giêsu cho Nhà của Thiên Chúa. Vì với Chúa Giêsu, nơi “Nhà Chúa” phải chính là nhà cầu nguyện, nhà để gặp gỡ, tiếp xúc, thưa chuyện với Thiên Chúa Cha, để từ đây nơi “Nhà Chúa” này, ân sủng từ Thiên Chúa Cha phải được lan tỏa và trao ban đến cho mọi người. Đồng thời, cũng vì tôn vinh danh Chúa Cha, mà chính từ nơi Cha Chúa mỗi ngày, Chúa Giêsu trở nên của lễ tinh tuyền, tuyệt hảo để dâng lên cho Thiên Chúa. Của Lễ Giêsu này từ đây thay cho tất cả mọi lễ vật mà con người dâng tiến. Do đó, ai kết hiệp những lễ vật của mình dâng tiến Chúa với Của Lễ Hiến Tế là Đức Kitô Giêsu, thì sẽ được Thiên Chúa Cha chấp nhận và ban ơn chúc phúc.
ACE rất thân mến, Mùa Chay chính là mùa hồng phúc mà Thiên Chúa ban tặng để cho chúng ta có thể sống kết hiệp với Chúa Giêsu trong sứ mạng của Ngài. Xin cho chúng ta biết trân quý những ơn thánh Chúa ban qua những giới răn lề luật, qua mẫu gương nhiệt thành-hiến tế của Chúa Giêsu, để nhờ đó chúng ta cũng trở nên lễ phẩm đẹp lòng Chúa. Lạy Thánh cả Giuse, xin chuyển cầu ơn Chúa cho chúng con để cuộc đời chúng con luôn trở nên con thảo đẹp lòng Chúa mọi đàng. Amen.
44.Thánh luật--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
Bất cứ một quốc gia nào, một tổ chức nào, một gia đình nào, một nhóm nào, dù chỉ là một “nhóm” vài người,… cũng đều phải có luật lệ, nội quy, quy tắc, hoặc nguyên tắc để bảo đảm trật tự – ở phạm vi lớn gọi là an ninh, ở phạm vi thế gới gọi là hòa bình.
Luật vị nhân sinh – luật vì con người, chứ con người không lệ thuộc luật, bởi vì luật có sau con người nên luật được lập ra cốt để phục vụ con người, giúp xã hội tốt hơn. Còn lề luật của Thiên Chúa là Thập Giới, tức là Mười Điều Răn. Luật Chúa là Thánh luật, là Thánh chỉ, là luật giao ước, là Ý Chúa.
THẬP GIỚI
Thiên Chúa đã tạo dựng con người, cho con người tự do, vì chính Ngài “đưa dân Chúa ra khỏi đất Ai Cập, để thoát khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Thoát khỏi nô lệ là được tự do. Tự do rất cần, mà Thiên Chúa đã cho con người tự do, nhưng đồng thời Ngài cũng có luật đòi hỏi con người phải thực hành: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20:3-4).
Phúc âm nhất lãm lặp lại Giới răn thứ nhất: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22:37; Mc 12:30; Lc 10:27), hoặc như tiên tri Samuel xác định: “Hãy phụng thờ Đức Chúa hết lòng” (1 S 12:20). Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất (Mt 22:39). Theo kinh Mười Điều Răn, chúng ta quen đọc là “thứ nhất, thờ phượng và kính mến Người trên hết mọi sự”.
Rồi Thiên Chúa nói tiếp: “Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” (Xh 20:5a). Ngài không ngần ngại tự nhận Ngài là “một vị thần ghen tương” (Xh 20:5b), và Ngài nhấn mạnh: “Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông” (Xh 20:5c). Có phải vì Thiên Chúa đã “ấn định” như vậy nên ngày xưa người ta cũng có luật “tru di tam tộc” chăng?
Nghe cách nói của Chúa có vẻ “gay gắt” nhưng thực ra không phải vậy. Ngài không độc đoán, vì Ngài luôn yêu thương và hứa chắc chắn: “Những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời” (Xh 20:6). Ngài rất tâm lý và công bằng, Ngài “bắt buộc” cái này thì Ngài lại “thưởng công” cái khác. Công lý là thế. Chính tác giả Thánh vịnh đã xác định: “Chúa giữ gìn những ai thành tín, nhưng thẳng tay trừng trị người ăn ở kiêu căng” (Tv 31:24). Thiên Chúa còn giải thích rõ ràng: “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng” (Xh 20:7). Đó chính là Giới răn thứ hai: “Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”.
Sách Xuất hành, chương 20, câu 9-17 “liệt kê” các Giới răn từ thứ ba tới thứ mười: “Ngươi hãy nhớ ngày Sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày Sa-bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày Sa-bát và coi đó là ngày thánh. Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian hại người. Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta”.
VUI, BUỒN VÌ LUẬT
Vô tri bất mộ – không biết nên không yêu thích. Càng hiểu biết thấu đáo điều gì thì người ta càng yêu quý. Tác giả Thánh vịnh đã vui mừng thốt lên: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Luật pháp khiến người ta “sáng mắt” để khả dĩ phân biệt đâu là đúng và đâu là sai. Còn Luật Chúa khiến “người dại hóa khôn”. Chính các “huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng” có thể “làm hoan hỷ cõi lòng” và “mệnh lệnh Chúa minh bạch” để làm cho “đôi mắt rạng ngời” (Tv 19:9). Tác giả Thánh vịnh chân nhận “quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” nên thực sư “quý báu hơn vàng ròng muôn lượng” và “ngọt ngào hơn mật ong nguyên chất” (Tv 19:10-11). Như vậy, luật làm cho người ta hạnh phúc hơn chứ không làm cho người ta bị gò bó, lệ thuộc, hoặc đau khổ. Luật phải hợp lòng dân, phải bắt nguồn từ yêu thương chứ không vì tư lợi, nếu không thì đó chỉ là ác luật để hành dân, là luật không hợp lý, và luật đó khiến người dân khổ sở. Tất nhiên luật đó trái với Ý Chúa. “Quan nhất thời, dân vạn đại”, người ta thường nói vậy.
Cuộc sống luôn có những điều trái ngược, như người ta thường nói: “Chín người mười ý”, và đôi khi có những tình huống rất khó xử. Không ai chịu nghe ai, nếu không có nghiêm luật thì xã hội sẽ rối loạn. Thánh PhaoLô nói: “Người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1 Cr 1:22). Hai thái cực khác nhau. Còn những người tin yêu Chúa, như thánh Phaolô, thì “lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1:23). Người ta chỉ theo những người có uy tín – dù “uy tín” đó chỉ là vàng bạc, chức tước, địa vị, quyền hành,… chứ ai lại ủng hộ người “nghèo rớt mồng tơi”, không có cục đất chọi chim? Người ta còn “chửi xéo” là kẻ “thừa nói thiếu ăn”! Những người “chịu” theo Chúa chắc chắn cũng bị người ta cho là “tâm thần”, là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, hoặc chí ít cũng là “khờ khạo”. Tuy nhiên, “đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1:24).
Thiên Chúa là “dị nhân” đúng nghĩa, với những động thái “ngược đời”, hoàn toàn khác loài người. Trong xã hội cũng vậy (cả đạo lẫn đời), những người có tư tưởng “mới” là những người “đi trước thời đại”, có khả năng “nhìn xa, nhìn rộng”, nhưng họ thường bị coi là cấp tiến, bị xa lánh, bị cô lập, bị ghét bỏ, thậm chí là bị hại. Thức tế cho thấy đã có những người chỉ được chấp nhận là vĩ nhân sau khi họ đã chết lâu rồi – đơn vị thời gian có thể tính bằng thế kỷ. Thật là buồn! Những người có tư tưởng mới mà “yếu bóng vía” sẽ ái ngại rồi có thể “bỏ của chạy lấy người”. Còn những người “dị ứng” với những tư tưởng mới thì chỉ là những người không theo kịp thời đại, thậm chí có thể là “tiểu nhân”, hoặc không muốn người khác hơn mình!
Riêng thánh Phaolô, sau lần ngã-ngựa-chí-tử, ngài chợt nhận ra cái “ngược-đời-xem-chừng-nghịch-lý” kia, và đã can đảm xác nhận: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Cũng có lần Thiên Chúa đã nói: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9).
THỰC HÀNH LUẬT
Thánh sử Gioan kể: Gần dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem, Ngài hết sức ngạc nhiên khi thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Ngài liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.
Ngài nói thẳng với những kẻ buôn bán: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Lúc đó, các môn đệ “giật mình” nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2:17; Tv 69:10). Thấy Chúa Giêsu “nổi nóng” và dám chê họ sai, người Do Thái ấm ức hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (Ga 2:18). Đức Giêsu thản nhiên đáp: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19). Đền Thờ Giêrusalem phải mất 46 năm mới xây xong, thế mà Chúa Giêsu nói có thể xây lại chỉ nội trong 3 ngày. Đối với họ thì đúng là Chúa Giêsu sinh sống gần kho đạn, “nổ” hết mức, hoặc là “tâm thần” thật. Tuy nhiên, Ngài muốn nói về chính thân thể Ngài mà họ không thể nghĩ kịp tư tưởng của Ngài. Ngay cả các môn đệ, dù đã từng rong ruổi với Ngài khắp nơi, cùng chia ngọt sẻ bùi với Ngài, hẳn là phải hiểu Ngài, thế mà các ông cũng đã “miệng chữ A, mắt chữ O” khi nghe Sư phụ mình nói như vậy!
Mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ mới “tá hỏa tam tinh” mà nhớ lại điều Ngài đã nói thì mới đủ tin vào Kinh Thánh và lời Ngài nói. Trong lúc Ngài ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều người tin Ngài vì đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm. Thế nhưng chính Đức Giêsu chưa đủ tin họ, vì Ngài biết rõ có gì trong lòng con người.
Chúng ta cũng chẳng hơn gì người Do Thái, thấy cái gì lạ thì tin ngay, nhưng rồi “đâu lại vào đấy”, xin và được ơn thì tin lắm, xin không được thì “nhăn mặt” và nghĩ: “Kỳ vậy ta?”. Thậm chí, đôi khi chúng ta cầu nguyện mà kỳ thực chúng ta đang “ngã giá”, “hối lộ” hoặc “mua chuộc” chính Chúa và các vị thánh mà chúng ta cho là “thiêng lắm”! Thật đáng để chúng ta phải trầm tư suy nghĩ nhiều với câu hỏi của Chúa: “Cho đến bao giờ nữa quý vị từ chối, không tuân giữ các mệnh lệnh và luật lệ của Tôi?” (Xh 16:28).
Lạy Chúa, chúng con chợt thấy mình như những kẻ bơ vơ, lạc hướng trong thế giới ngày nay, vì khó tìm được người đáng tin cậy, trong khi xung quanh chúng con có nhiều thần ô uế, thần bạc tiền, thần nhục dục, thần danh vọng, thần địa vị, thần quyền lực,… Đôi khi chúng con còn mắc những bệnh trầm kha trong cách nhìn, trong nếp nghĩ, và trong lối sống, thế nên chúng con vẫn bỏ mặc những người sống bên lề xã hội, mặc họ bị bóc lột, bị áp bức, bị khinh miệt, bị tước đoạt nhiều thứ… Chúng con xin lỗi Chúa. Xin Ngài thương giúp chúng con nhận ra chính mình để có thể nhìn rõ tha nhân mà chạnh lòng thương họ bằng chính trái tim của Đức Kitô, đồng thời giúp chúng con dám chấp nhận mọi thứ dù phải thiệt thân. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
45.Chúa Giêsu đánh đuổi con buôn trong hành lang đền thờ--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Ga 2: 13-25: Hôm nay, Chúa Giêsu đã phẫn nộ khi bước vào hành lang đền thờ Giêrusalem. Tại sao Chúa lại có thái độ như thế?
Hôm nay, Chúa Giêsu đã phẫn nộ khi bước vào hành lang đền thờ Giêrusalem. Tại sao Chúa lại có thái độ như thế? Chúng ta hãy tìm hiểu một chút về cách tổ chức cũng như sinh hoạt tại đền thờ Giêrusalem vào thời Chúa Giêsu.
1. Trước hết là về việc đóng thuế cho Đền Thờ
Thuế Đền Thờ là sắc thuế mà mỗi người Do Thái từ 19 tuổi trở lên phải nộp. Đó là phần dành cho việc dâng các sinh tế và lễ nghi trong Đền Thờ hằng ngày. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, bằng gần hai ngày lương của một công nhân. Trong việc giao dịch bình thường, mọi loại tiền đều có giá trị ở Palestine. Các loại tiền bằng bạc lưu hành từ Rôma, Hy Lạp, Ai Cập đến Tia, Siđôn và Palestine đều có giá trị. Nhưng tiền thuế Đền Thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. Đó là loại tiền Do Thái dùng để dâng cho Đền Thờ. Các loại tiền khác là của người ngoại, do đó bị xem là ô uế. Chúng được dùng trả các món nợ thường, nhưng không thể dùng trả nợ cho Chúa. Khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới đến với đủ loại tiền, nên trong Đền Thờ có nhiều người đổi bạc. Nếu họ hành nghề ngay thẳng, thật thà, thì họ đã thực hiện một mục đích chân thật và cần thiết. Nhưng muốn đổi lấy một đồng nửa siếc-lơ tiền để dâng cho Đền Thờ, người ta phải trả tương đương với ¼ tiền lương một ngày; như vậy cứ đổi 4 đồng nửa siếc-lơ thì người đổi lợi được một số tiền tương đương một ngày công. Do đó, số tiền thuế Đền Thờ thu được và lợi tức đổi bạc thật khủng khiếp.
Thu nhập của Đền Thờ về khoản thuế đó hằng năm ước lượng khoảng 75.000 bảng Anh, lợi tức hằng năm của những người đổi bạc là 9.000 bảng Anh. Năm 54 TC, Crassus chiếm thành Giêrusalem, cướp kho Đền Thờ, đã lấy của kho ấy 2.500.000 bảng Anh, nhưng chưa lấy hết.
Thực ra, việc những kẻ đổi bạc ăn lời khi đổi tiền cho khách hành hương tự nó không có gì sai quấy. Kinh Talmud quy định: “mỗi người cần có đồng nửa siếc-lơ để nộp thuế cho mình. Do đó, khi đổi đồng một siếc-lơ để lấy hai đồng nửa siếc-lơ, người ấy phải cho kẻ đổi bạc chút ít tiền lời”. Nhưng điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu đựng tệ nạn đổi bạc bóc lột với giá cắt cổ. Thật là một bất công, và càng tệ hại hơn nữa là người ta nhân danh tôn giáo để làm việc ấy.
2. Bên cạnh bọn đổi bạc, còn có một số người bán bò, chiên và bồ câu
Thường thì mỗi lần đến Đền Thờ là một lần dâng lễ vật. Nhiều khách hành hương muốn dâng một lễ vật cảm tạ vì chuyến hành trình đến thánh địa bình an, hầu hết các hành động hoặc biến cố xảy ra trong đời sống đều có một lễ vật tương ứng. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua được các con vật tại sân Đền Thờ. Nhưng luật quy định bất cứ con vật nào dùng làm của lễ đều phải lành lặn, không tì vết. Ban quản trị Đền Thờ phân công những người kiểm tra súc vật. Mỗi lần khám xét đều phải trả lệ phí 1/12 siếc-lơ. Nếu khách hành hương mua con vật ngoài Đền Thờ, chắc chắn con vật ấy sẽ bị từ chối khi khám xét. Vấn đề dường như chẳng có gì quan trọng, nhưng khốn nỗi, một con vật mua trong sảnh Đền Thờ có khi phải trả đắt gấp mười lăm lần giá mua bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Bất công xã hội này càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo. Chính điều ấy đã khiến Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận.
3. Nhà Ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân
Một lý do khác khiến Chúa Giêsu hành động như thế mà chỉ có Maccô ghi lại: “Nhà Ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Mc 11,17). Để hiểu điều này, chúng ta phải biết cách bố trí của Đền Thờ Giêrusalem. Đền Thờ gồm nhiều hành lang dẫn vào trong Đền Thờ và nơi Thánh. Trước hết có hành lang dành cho dân ngoại, rồi đến hành lang dành cho phụ nữ, tiếp đến là hành lang dành cho Israel, rồi đến hành lang cho các tư tế. Cảnh buôn bán kể trên diễn ra trong hành lang dành cho dân ngoại, là nơi duy nhất người ngoại có thể tới trong Đền Thờ. Một người ngoại chỉ có thể đến đó và bị cấm không tiến xa hơn nữa. Như thế, một người ngoại có thể vào hành lang dành cho họ để cầu nguyện và đứng từ xa tiếp xúc với Chúa. Đây là chỗ cầu nguyện duy nhất dành cho họ. Thế mà, ban quản trị Đền Thờ và các con buôn người Do Thái đành biến hành lang ấy thành nơi huyên náo, hỗn loạn khiến không ai có thể cầu nguyện được. Quang cảnh như vậy của hành lang Đền Thờ đã loại bỏ mất những người ngoại muốn tìm kiếm Chúa. Có thể đó là điều đập mạnh vào tâm trí Chúa Giêsu; và chỉ một mình Maccô mới giữ được câu nói ngắn ngủi nhưng đầy ý nghĩa : “Nhà Ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Mc 11,17). Chính vì vậy Chúa đã xúc động tận tâm can khi thấy những người muốn ra mắt Chúa lại bị ngăn chặn lại.
4. Trong sinh hoạt của Giáo Hội chúng ta ngày hôm nay như thế nào?
Biết đâu có khi thái độ kỳ thị, phân chia giai cấp, lạnh lùng, kém niềm nở, thái độ kiêu căng, làm khó dễ của chúng ta đã đẩy những người lương, những người muốn tìm kiếm Thiên Chúa ra khỏi nhà thờ, ra khỏi xứ đạo của chúng ta. Chúng ta hãy nhớ lại cơn giận của Chúa Giêsu đối với những ai làm khó dễ những người thiện chí muốn tìm kiếm Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay.
Một câu chuyện minh họa: khi còn là một sinh viên, Gandhi được du học tại Nam Phi, một thuộc địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Gandhi có dịp đọc Kinh Thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất là Tám Mối Phúc Thật trong Bài Giảng trên núi. Ông rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do Thái hay lương dân... Gandhi nghĩ rằng: Có lẽ Kitô giáo là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong xã hội Ấn Độ quê hương của ông. Gandhi nghĩ mình nên tìm hiểu và sẽ gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Gandhi đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Công Giáo. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại và nói như sau:”Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu ông muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da mầu”! Gandhi tức giận bỏ đi và ông đã ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau: ”tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Ngài! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo có hơn gì Ấn Giáo của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn Giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ rồi”!
46.Nhà Ta là nhà cầu nguyện--Lm. Trần Bình Trọng
Theo luật Môsê thì việc thờ phượng gồm có mục dâng con vật sống để làm lễ vật hi sinh. Luật Môsê buộc cha mẹ phải dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa trong đền thờ. Đó là lý do tại sao sau khi Chúa cứu thế giáng sinh thì được cha nuôi và mẹ Người dâng vào đền thờ. Khi dâng Chúa trong đền thờ, ông Giuse và bà Maria vì nghèo nên chỉ mang được đôi chim câu làm lễ vật.
Vào dịp lễ Vượt qua của người Do Thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền, mua bán súc vật, Người lấy làm khó chịu xua đuổi họ ra khỏi Đền Thờ. Cũng nên biết là những người ở xa đến khó có thể mang theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong đền thờ là cần thiết hay ít ra được dung thứ. Vậy nếu việc mua bán súc vật là tiện lợi cho những người từ xa tới, thì tại sao Chúa Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật quanh đền thờ? Thưa rằng việc dâng hiến lễ vât của họ đã trở thành một việc chỉ nhắm mục đích thương mại. Người bán thì coi đó như là cách thế làm tiền, còn người mua thì coi việc dâng lễ vật như là bổn phận phải làm một cách bất đắc dĩ mà thiếu tâm tình bên trong.
Vì thế trong Phúc âm hôm nay Chúa lên tiếng cảnh giác họ: Đừng biến nhà cha ta thành nơi buôn bán (Ga 2:16). Đây cũng là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng loã trong việc trần tục hoá và thương mại hoá Đền Thờ. Phúc âm thánh Matthêu (21:14), Maccô (11:17), và Luca (19:36) còn trích Sách tiên tri Isaia để cảnh giác họ: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp (Is 56:7). Người Do thái thường tỏ ra tôn kính đền thờ và bàn thờ dâng lễ vật của họ. Họ thường cảm tạ Thiên Chúa cho họ có được đền thờ và bàn thờ dâng lễ vật. Nếu bạn có dịp sang Giêrusalem mà đến đền thờ đã bị phá huỷ, chỉ còn lại một phần tường đền thờ, mà người ta gọi là tường ô nhục, bạn sẽ thấy người Do thái gục đầu vào tường mà than khóc, vì đền thờ của họ đã bị phá huỷ mà chưa xây được đền thờ mới. Còn thực tế và cụ thể hơn, người Hồi giáo khi vào đền thờ của họ, phải để giày bên ngoài. Ta có thể tưởng tượng giả sử có một ngàn người để một ngàn đôi giày, tức là hai ngàn chiếc bên ngoài, ra khỏi đền thờ đi tìm chiếc giày nào là của mình trong hai ngàn chiếc giày thì sẽ lộn xộn và khó khăn thế nào? Tuy nhiên để tỏ ra tôn kính nơi thờ phượng, người Hồi giáo vẫn giữ điều lệ này cho tới ngày nay.
Sống ở đô thị hay ở ngoại quốc, ta có dịp va chạm với nhiều người thuộc các tôn giáo khác nhau, và được mời đến nơi thờ phượng của họ, có thể giúp ta làm tăng triển, hoặc làm giảm căn tính tôn giáo của mình khi vào nhà thờ. Nếu vào nhà thờ có Mình Thánh Chúa ngự, mà ta tỏ ra những cử chỉ như đi đứng nghêng ngang, xỏ tay túi quần giống như vào xem viện bảo tàng hay nhà triển lãm thì ta cần xét lại cái căn tính tôn giáo của mình.
Kinh Thánh hôm nay nhắc nhở cho ta: Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn tôi (Tv 69:10). Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa phải nhắc nhở cho ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, biết giữ gìn sạch sẽ cho nhà Chúa. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng. Dạy cho con cháu biết trong nhà thờ, nơi thờ phượng thì không chạy nhảy, la hét, không xả rác rưởi, không chơi đồ chơi phát ra tiếng động... Ta cũng nên xét theo phương diện tích cực xem, ta có thể làm gì để tỏ ra tôn kính nhà Chúa như săn sóc, giữ gìn, và bảo trì nhà Chúa.
47.Nhà Ta là nhà cầu nguyện--Lm Trần Bình Trọng
Vào dịp lễ Vượt qua của người Do thái, Ðức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền bạc và mua bán súc vật trong quảng trường của Ðền thờ, Người liền lấy giây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò ra khỏi Ðền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ (Ga 3:15). Luật Do thái cấm chỉ việc mua bán trong khu vực Ðền thờ. Tuy nhiên hàng tư tế quản trị Ðền thờ lại dung thứ cho dịch vụ này. Việc dung thứ có thể hiểu được vì những người từ xa đến khó có thể mang theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong khu vực Ðền thờ được hiểu là tiện lợi. Tiện lợi chứ không hẳn là cần thiết vì việc mua bán vẫn có thể được thực hiện bên ngoài các cổng ngoại tường Ðền thờ. Vậy nếu việc mua bán súc vật và đổi tiền được coi là tiện lợi cho những người từ xa tới, thì tại sao Ðức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật và đổi tiền quanh Ðền thờ? Thưa rằng dịch vụ hối đoái để trả thuế Ðền thờ và mua bán súc vật để hiến dâng đã trở thành một việc chỉ nhắm mục đích thương mại. Người bán thì coi đó như là cách thế làm tiền, còn người mua thì phải mua một cách bất đắc dĩ cho việc dâng hiến. Rồi súc vật hiến dâng phải chịu sự khám xét của nhân viên đền thờ để được chứng nhận con vật không có vết tì ố. Thực tế thì viên chức Đền thờ muốn có độc quyền cho người đấu thầu bán súc vật trong khu vực đền thờ cho nên người dân nghĩ rằng họ phải mua súc vật được đấu thầu bên trong thì mới được bảo đảm là con vật có đủ tiêu chuẩn cho việc hiến dâng. Rồi họ còn phải trả tiền khám xét súc vật nữa. Do đó người nghèo cũng phải mua súc vật của họ với giá cắt cổ thay vì mua ở ngoài theo giá thị trường.
Thứ đến việc đổi tiền để nộp thuế cho Ðền thờ cũng có gì không chỉnh. Theo luật Do thái, mỗi người nam công dân Do thái phải đóng thuế đền thờ, tương đương với hai ngày công. Ðức Giêsu cũng đóng thuế đền thờ (Mt 17:27). Thuế đóng cho Ðền thờ mỗi năm một lần bằng tiền Do thái vì tiền Rôma có hình vua ngoại đạo là Xêdarê, nên không được lưu hành trong Ðền thờ. Ðổi từ tiền Rôma hay những loại tiền ngoại quốc khác sang tiền Do thái phải trả tiền huê hồng đáng kể cho quầy đổi tiền.
Ðền thờ Giêrusalem đồ sộ, nguy nga và lộng lẫy vừa được xây cất lần thứ ba là qùa tặng của vua Hêrôđê, có lẽ nhắm mục đích chính trị hầu làm vừa lòng dân chúng hơn là sùng đạo. Như vậy không có vấn đề dân chúng phải trả nợ. Do đó dịch vụ buôn bán súc vật và đổi tiền chỉ còn đem tiền lời chồng chất lên ngân khố Đền thờ. Còn nhóm người đổi tiền và buôn bán súc vật cũng đã phải trở nên giầu có. Rồi hàng đại tư tế cho đấu thầu hai dịch vụ này cũng phải có món tiền bỏ túi riêng. Vì thế mà Ðức Giêsu lên tiếng cảnh giác họ: Ðừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán (Ga 2:16). Ðó là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng loã trong việc thương mại hoá và phàm tục hoá Ðền thờ. Phúc âm thánh Mát-thêu, Mác-cô, và Luca còn ghi lại lời Ðức Giêsu trích dẫn sách ngôn sứ Isaia ghi: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện (Is 56:7), rồi dùng lời ngôn sứ Giêrêmia (Gr 7:11) để khiển trách họ vì họ đã biến nơi thờ phượng thành sào huyệt của bọn cướp (Mt 21:14; Mk 11:17; Lk 19:46). Khi người Do thái hỏi xem Ðức Giêsu lấy dấu chỉ nào mà tỏ uy quyền làm như vậy, thì Chúa dùng cơ hội này tiên báo về việc phục sinh của Người: Các ông cứ phá huỷ Ðền thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (Ga 2:19). Ở đây Chúa muốn nói đến đền thờ là thân thể phục sinh của Người sau khi đã nằm trong mộ ba ngày, mà họ không hiểu. Ngay cả các môn đệ cũng chưa hiểu nổi. Khi có mấy môn đệ trầm trồ khen ngợi Ðền thờ, thưa với Chúa: Thầy xem kìa: đá lớn thật! Công trình kiến trúc vĩ đai thay (Mk 13:1) thì Chúa trả lời: Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ (Mc 13:2). Năm bảy mươi sau công nguyên, tướng Titô của đế quốc La mã cho đem quân đội đến phá huỷ Ðền thờ, chỉ để chừa lại một phần của bức tường Đền thờ đế chứng minh cho hậu thế biết rằng quân đội La mã hùng mạnh đến thế nào. Trong một nhóm linh mục hành hương sang Thánh địa khi thăm một phần bức tường than khóc Đền thờ còn tồn tại, ghé vào tai linh mục bạn nói: Chu choa! Sao người ta có thể phá huỷ bức tường này vậy (khi chưa có chất nổ, xe tăng và xe ủi).
Phúc âm hôm nay nhắc đến việc các môn đệ nhớ lại lời Thánh kinh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa làm hao mòn thân tôi (Tv 69:10). Luật Chúa ban cho Mosê dậy dân Người phải giữ ngày Sabát (Xh 20:8-10) là ngày thứ Bảy, ngày thánh, ngày lễ nghỉ. Khi Ðức Giêsu sống lại vào ngày thứ Nhất trong tuần, Giáo hội mới chuyển sang ngày Chúa nhật để thờ phượng và nghỉ ngơi. Do lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa mà Giáo hội hoàn vũ cũng như giáo phận địa phương còn đưa ra những luật lệ nơi thánh đường và trong khuôn viên nhà thờ trong giờ thờ phượng công cộng để bảo đảm cho giáo dân khỏi bị chia trí trong khi thờ phượng. Vậy thì lòng nhiệt thành với việc nhà Chúa phải nhắc nhở cho ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, khi đến nhà thờ làm việc thờ phượng và cầu nguyện.
Do đó Giáo hội đòi hỏi khi đến nhà thờ ngày Chúa nhật để thờ phương cách công cộng, người công giáo nên ăn bận thế nào, tỏ ra những cử chỉ ra sao để giúp khơi dậy tâm tình đạo đức thích hợp. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng và nhắc cho con cháu tránh những cử chỉ và hành động gây chia trí cho người khác. Có linh mục kia nhận được lá thư của một người đàn ông có kí tên, mà ngài không quen biết, được trích nguyên văn như sau: Thưa Cha, tôi đi nhà thờ hằng ngày, hầu hết bảy ngày trong tuần và lần nào ở hàng ghế đầu, đều thấy mấy bà rất trẻ, rất khoẻ mạnh, mang hài cao, mặc váy ngắn, tóc tai ngắn ngủi, đi lễ rất trễ, cứ chạy xoong xoong lên hàng ghế đầu để gần các cha. Có những bà ăn mặc không được kín đáo, mà ngồi gần như vậy, thì không tốt mấy. Tôi xin Cha đề nghị với Cha sở xem có cách nào giảỉ quyết? Ông cha nhận được thư thì thắc mắc sao ông này có mắt quan sát hay thiệt.
Giáo hội còn đưa ra những nguyên tắc về phụng vụ, về thánh nhạc, về kiến trúc thánh và nghệ thuật thánh và mở những lớp huấn luyện nhằm cải tiến những bộ môn trên. Không cần phải đào sâu, mà chỉ cần hiểu biết sơ qua cũng thấy thánh nhạc, dụng cụ nhạc khí dùng trong nhà thờ và các cơ sở thánh thì mầu sắc, âm thanh, ánh sáng, vật liệu và phẩm chất của vật liệu xử dụng phải khác biệt. Vậy thì những mầu sắc hay bóng đèn mầu loè loẹt nhấp nháy có thích hợp trong nhà thờ không? Người am hiểu nghệ thuật, kiến trúc và hội họa thánh khi đến thánh đường mà thấy không phải là nghệ thuật, kiến trúc và hội hoạ thánh, khiến họ có thể chia trí, khó chịu và còn ẫm ức nữa. Những xứ đạo nghèo ở miền quê, thì chưa có đủ điều kiện, khả năng và phương tiện để đạt tới mức độ khả quan đó thì người ta cũng thông cảm. Còn những xứ đạo lớn ở thành thị: có nhân lực, vật lực và nhân tài có thể gửi người đi học để được huấn luyện về kiến trúc và hội hoạ thánh, về những nguyên tắc phụng vụ và thánh nhạc và nhạc khí để rồi cho áp dụng.
Việc kiến thiết và tu bổ nơi thờ phượng công cộng nhất là trên cung thánh tại những xứ đạo có những điều kiện và phương tiện trên, phải nhờ đến kiến trúc sư có khả năng và được huấn luyện về kiến trúc và nghệ thuật thánh chứ không phải là việc làm vá víu có tính chất mộc mạc của thợ cây nhà lá vườn. Nếu công trình kiến trúc lớn và phức tạp, kiến trúc sư còn phải nhờ đến giới chuyên môn khác như kĩ sư điện, kĩ sư máy móc, kĩ sư âm thanh, kĩ sư ánh sáng, kĩ sư đo độ co dãn của vật liệu tuỳ theo thời tiết... Bức họa hình thánh để tôn kính cũng phải được nghiên cứu và theo dõi việc thực hiện của hoạ sĩ chứ không phải như cho vẽ tấm phông cho buổi trình diễn văn nghệ. Khuôn viên nhà thờ cũng phải được kiến thiết sao cho có vẻ thẩm mỹ làm đẹp mắt nữa.
Một linh mục kia có lần đến xin đồng cử hành cuộc Khổ nạn của Chúa vào Thứ Sáu Tuần Thánh tại một xứ đạo kia. Linh mục khách được trao cho cây thập giá có tượng chịu nạn để cho giáo dân hôn kính. Chiều đứng cây thập giá dài độ sáu mươi phân. Hình như cả cây thập giá và tượng chịu nạn làm bằng kẽm. Linh mục đó quan sát cây thập giá thấy chia trí vì không khơi dậy được tâm tình đạo đức. Chân tượng chịu nạn quá dài sánh vói thân hình tượng. Hai đầu gối giang ra quá xa và nhô lên quá cao khỏi thân cây thập giá cho thấy việc thiết kế tượng chịu nạn thiếu cân đối và thiếu nét thuần phong mĩ tục. Linh mục đó nói cầm thập giá bằng tay trái thấy khá nặng, rồi còn phải đưa chân tượng vào gần miệng cho giáo dân hôn kính và tay kia cầm khăn lau chân tượng sau mỗi lần có người hôn kính. Linh mục đó lại nói thấy hơi mỏi tay và còn phải cẩn thận kẻo nhỡ đầu gối của tượng chịu nạn đụng vào trán hay xương gò má của người hôn kính thì cũng có thể làm họ đau. Câu chuyện này có ý nhắc nhở việc cung cấp tượng chịu nạn cần cân nhắc xem chọn tượng nào, cho treo ở đâu và có nên dùng để cho giáo dân hôn kính, hầu khỏi làm họ chia trí không?
Nghệ thuật và kiến trúc thánh gồm biểu hiệu bàn đến ở đây là kiến trúc và nghệ thuật Kitô giáo. Do đó muốn hội nhập văn hoá mà đem nét văn hoá bản xứ vào mà không chọn lọc, đào thải và thích ứng, có thể trở thành lạc lõng, méo mó. Và khi đem một nét văn hoá hay phong tục không phải là Kitô giáo vào đạo Kitô, thì giống như việc cắt râu ông nọ cắm cằm bà kia vậy, nếu không cho rửa tội cho sản phẩm văn hoá và phong tục đó.
Tóm lại về phương diện tiêu cực tại nơi thờ phượng công cộng, phải giữ những kỉ luật nào đó để khỏi gây chia trí và than phiền nơi người đến thờ phượng. Còn về phương diện tích cực, thì tuỳ khả năng và phương tiện của mỗi địa phương, cần đạt tới mức độ tương xứng trong nghệ thuật thánh, kiến trúc thánh và việc cử hành phụng vụ để giúp người đến thờ phượng có tầm hiểu biết khá về các bộ môn trên đánh giá được vẻ đẹp được diễn tả qua các bộ môn liên hệ và giúp người chưa hiểu biết, để với thời gian, họ cũng thưởng thức được vẻ đẹp của kiến trúc thánh, nghệ thuật thánh và thánh nhạc mà ca tụng Ðấng sáng tạo.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn biết tôn kính nhà Chúa:
Lạy Chúa là Ðấng sáng tạo và quan phòng muôn loài.
Chúa hiện diện khắp mọi nơi, trên toàn cõi địa cầu.
Ðặc biệt Chúa diện diện trong thánh đường
nơi có Mình Thánh Chúa Kitô ngự trị.
Xin dạy con biết tỏ ra tôn kính và yêu mến nhà Chúa,
và cho con được tìm thấy nơi nhà Chúa
nguồn sức mạnh, niềm an ủi và sự cậy trông
của đời con. Amen.
48.Đức Giêsu tại Samari--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Các cụm từ “đã đến giờ” và “giờ đã đến - và chính là lúc này đây” trong bài Tin Mừng có ý nghĩa gì? Giờ đó là giờ nào?
2. Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí”? Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật”? Trái ngược với hai kiểu thờ phượng ấy là thờ phượng thế nào? Chúng ta đang thờ phượng Thiên Chúa theo kiểu nào: kiểu lỗi thời của các kinh sư Do Thái hay kiểu “mới” của Đức Giêsu?
3. Có cần thiết phải sửa đổi cung cách thờ phượng của chúng ta không? Nếu không thì sao? Việc thờ phượng kiểu lỗi thời có còn giá trị không?
Suy tư gợi ý:
1. Việc thờ phượng Thiên Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước
Vào thời Cựu Ước, trình độ tâm linh của con người còn non kém, đầu óc con người thường chỉ hướng về những gì cụ thể, hữu hình, dễ thấy, nghĩa là họ hướng ra ngoài hơn là vào nội tâm. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa chủ yếu gồm những việc cụ thể, thấy được, được thực hiện trong thời gian và không gian rõ rệt. Từ bản chất, thờ phượng Thiên Chúa chính là nhìn nhận Thiên Chúa là chủ tể vũ trụ, có toàn quyền trên tất cả mọi sự, trong đó, con người coi mạng sống và của cải của mình là quí giá nhất. Để biểu lộ sự nhìn nhận quyền chủ tể đó của Thiên Chúa, đúng ra con người phải sát tế chính mạng sống mình; nhưng làm như thế, con người sẽ dần dần chết hết, là điều mà Thiên Chúa không muốn. Vì thế, con người bèn sát tế những con vật như chiên bò làm của lễ hy sinh dâng lên Thiên Chúa thay cho mạng sống của mình (x. St 4,3; 8,20; Xh 20,24; 29,18; Lv 1,14; v.v...). Có lần, để thử thách niềm tin và tinh thần hy sinh hiến dâng ấy, Thiên Chúa yêu cầu Abraham sát tế đứa con trai duy nhất của mình là Isaác làm lễ vật toàn thiêu: khi thấy Abraham không tiếc với mình đứa con duy nhất, Thiên Chúa đã ra tay cứu Isaác (x. St 22,1-14). Đó là cách thờ phượng Thiên Chúa thời Cựu Ước.
Đến thời Đức Giêsu, Ngài đã khai mở một kỷ nguyên mới, thích hợp với trình độ tâm linh con người vốn đã lên cao hơn. Vì càng về sau, con người càng có khả năng tư duy trừu tượng hơn, biết hướng vào nội tâm hơn. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa phải mặc lấy một hình thức mới hợp với trình độ mới: tức cao hơn, mang tính nội tâm hơn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chủ trương một cách thờ phượng Thiên Chúa mới mẻ hơn, cao cấp hơn. Ngài nói: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem (...) Giờ đã đến - và chính là lúc này đây - những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật. (...) Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”.
2. Thời Tân Ước: thờ phượng trong thần khí và sự thật
Đức Giêsu nói khi Ngài còn sống: “Đã đến giờ”, “Giờ đã đến - và chính là lúc này đây”. Như vậy, Đức Giêsu yêu cầu con người thay đổi cách thờ phượng Thiên Chúa cho xứng hợp với trình độ mới của con người đã được 2000 năm, một thời gian rất dài! Nhưng ta thử xét lại xem, cách thờ phượng của chúng ta trong thế kỷ 21 này đã thay đổi và tiến bộ đúng như yêu cầu của Đức Giêsu cách đây 2000 năm chưa? Sau 20 thế kỷ tiến bộ về vật chất đến mức chóng mặt, con người đã tiến bộ về tâm linh thế nào, đặc biệt trong cách thờ phượng Thiên Chúa? Chúng ta đã nội tâm hóa việc thờ phượng ấy chưa, hay vẫn còn mang nặng tính bề ngoài, tính vật chất, tính câu nệ hình thức, và vẫn còn lệ thuộc nặng nề về thời gian lẫn không gian? Việc thờ phượng Thiên Chúa của chúng ta hiện nay đã đúng với tinh thần Tân Ước của Đức Giêsu chưa, hay vẫn theo tinh thần Cựu Ước của đám kinh sĩ và biệt phái Do Thái xưa, vốn đã bị Đức Giêsu coi là lỗi thời từ 2000 năm nay?
Thiết tưởng chúng ta nên đặt lại vấn đề này một cách nghiêm chỉnh, và sửa đổi lại những gì chưa đúng. Điều quan trọng chúng ta cần tìm hiểu là: Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật”?
* Thờ phượng trong thần khí
Đức Giêsu nói: “Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí”. Thần khí (pneuma - esprit - spirit) là tinh thần, tâm linh, thuộc thế giới nội tâm, không thấy được. Thần khí thì ngược với vật chất, thể lý, thuộc thế giới bên ngoài, cụ thể, thấy được. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa hữu hình, nên việc thờ phượng Thiên Chúa không nhất thiết phải xảy ra ở bên ngoài, trong không gian và thời gian. Theo Đức Giêsu, Ngài là thần khí, là tinh thần, là thiêng liêng, nên việc thờ phượng Ngài cũng phải thực hiện trong thần khí, trên bình diện tinh thần, nghĩa là một cách thiêng liêng, trong nội tâm con người. Hành vi thờ phượng phải là hành vi của tâm hồn, là thái độ của nội tâm, hơn là hành vi của thể xác. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa cứ phải nghe ta nói, nhìn ta biểu lộ ra ngoài mới hiểu được ta; trái lại, Ngài biết hết, thấu hiểu hết những gì ta nghĩ, ta cần, ta muốn nói: “Cha trên trời thừa biết anh em cần những gì rồi” (Mt 6,32; Lc 12,30). Vì thế, xét về phía Thiên Chúa, việc thờ phượng Ngài không cần thiết phải biểu lộ ra bên ngoài bằng lời nói, bằng lễ nghi, bằng những biểu hiện bên ngoài: “Khi cầu nguyện, anh em đừng nhiều lời như dân ngoại; họ tưởng cứ nói cho nhiều là được nhận lời” (Mt 6,7). Điều Ngài mong muốn nằm trong thái độ nội tâm của chúng ta: tinh thần từ bỏ, tự hủy, lòng quảng đại, biết ơn, khâm phục, nhất là tình yêu dành cho Ngài. Nếu Giáo Hội chủ trương phải biểu lộ việc thờ phượng ra bên ngoài thì không phải là vì Thiên Chúa mà vì con người: để việc thờ phượng mang tính cộng đoàn, tính Giáo Hội, hay để biểu lộ vinh quang Thiên Chúa cho con người, v.v...
Ngày nay, cần phải thay thế việc thờ phượng Thiên Chúa qua những hình thức bên ngoài bằng việc thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí. Lễ vật dùng để sát tế, để toàn thiêu không còn là chiên, bò, hay bất kỳ một vật nào khác, mà phải là “cái tôi” ích kỷ và kiêu căng của ta, là ý riêng của chúng ta, là những dự định dù tốt hay xấu nhưng không phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Bàn thờ hay đền thờ - nơi sát tế - là chính tâm hồn ta. Thời điểm sát tế không còn là một thời điểm cố định nào do con người qui định, mà phải là thời gian liên tục. Vì sát tế không còn là một hành động xảy ra vào những thời điểm nhất định nào đó, cho bằng một thái độ nội tâm thường hằng trong đời sống ta, thậm chí trở thành một yếu tố cố định trong bản tính của ta. Cầu nguyện cũng không còn là một hành động cho bằng một trạng thái thường hằng của nội tâm. Một biểu hiện lý tưởng của việc thờ phượng trong thần khí đã được Đức Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”. Việc quan tâm thi hành thánh ý Thiên Chúa phải thay thế cho việc quan tâm thực hiện ý riêng mình, phải trở thành lương thực nuôi sống đời sống tâm linh của ta.
* Thờ phượng trong sự thật
Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật khác với thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối. Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật đòi hỏi những gì mình nói với Thiên Chúa phải phản ảnh đúng những tâm tình, ý nghĩ trong đầu óc mình, và đúng với thực tế của đời sống mình. Còn thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối là có sự khác biệt giữa điều mình cầu nguyện với tâm tư, tình cảm và đời sống thực tế của mình. Cầu nguyện như thế chẳng những hoàn toàn vô ích mà còn xúc phạm và tỏ ra coi thường Thiên Chúa nữa. Nếu không thể thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật, thì thà rằng đừng thờ phượng còn hơn là thờ phượng Ngài trong giả dối.
Ngày xưa, người ta có thể giết chết một con vật làm lễ toàn thiêu, để tượng trưng cho việc họ nhìn nhận quyền Chủ Tể trên mọi sự của Thiên Chúa. Hành động tế tự đó hoàn toàn xảy ra ở bên ngoài. Nhưng bên trong, người ta vẫn có thể tiếc với Thiên Chúa những chuyện rất nhỏ: chẳng hạn họ không thể từ bỏ một ý riêng, một sở thích, một vật đang muốn chiếm hữu, hoặc hoãn thi hành một dự định, hy sinh một cơ hội, v.v... để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Như vậy, hành động thờ phượng bên ngoài chẳng phù hợp chút nào với tâm trạng bên trong. Chính vì thế, có lần Đức Giêsu nói về việc thờ phượng của họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng trí chúng thì lại xa Ta. Việc chúng thờ phượng Ta thật là vô ích” (Mt 15,8-9; Mc 7,6-7; x, Is 29,13).
Ngày nay, có biết bao người khi cầu nguyện thì nói rằng mình yêu mến Chúa, sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa; nhưng trong đời sống thì chẳng thấy họ yêu mến Ngài ở chỗ nào. Họ thường nói với Chúa: “Xin tha cho con như con vẫn tha kẻ có nợ với con”, nhưng trong thực tế, họ chấp nhất và bắt bẻ lỗi người khác từng chút một! Điều tệ hại là người ta vẫn cảm thấy an tâm, họ tưởng rằng làm như thế là đã chu toàn bổn phận thờ phượng đối với Thiên Chúa! Thiên Chúa rõ ràng không ưa lối thờ phượng đó. Ngôn sứ Isaia diễn tả sự ngao ngán và dị ứng của Thiên Chúa đối với kiểu thờ phượng bên ngoài ấy: “Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng thèm! Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương; Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình. Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu” (Is 1,11b.13b-15). Thử đặt mình vào địa vị của Ngài xem ta có thể chấp nhận một cung cách thờ phượng như thế không? Tại sao ta lại có thể đang tâm tiếp tục thờ phượng Ngài theo kiểu ấy?
Cầu nguyện
Tôi nghe Chúa nói với tôi: “Ta đã chán những lễ nghi rỗng tuếch, ghét những những nghi thức trang trọng mà người cử hành chẳng tỏ ra có chút tình thương nào trong lòng. Ta cần tình thương của con người, nhưng họ lại chỉ dâng lên Ta toàn những nghi thức, lời kinh trống rỗng!”
49.Đền thờ Thiên Chúa--Lm Anphong Trần Đức Phương
Đền Thờ Giêrusalem hùng vĩ đã được xây cất thời vua Salomon từ năm 967-964 trước Chúa Giáng Sinh (BC) trong thành Giêrusalem Cổ, trên đồi Moriah (nơi được coi như Abraham đem con trai duy nhất là Isaac đến hiến tế cho Thiên Chúa theo lệnh Chúa truyền (Stk 22, 1-18). Đền thờ này bị người Babylon thời vua Nabuchodonosor II phá hủy vào năm 586 (BC), khi họ đến chiếm đóng Giêrusalem và bắt người Do Thái đi lưu đày ở Babylon. Đến năm 536 (BC), người Do Thái được hồi hương; sau đó, họ lại tái thiết Đền Thờ hùng vĩ như trước. Đến năm 19 (BC), Hêrôđê Đại Đế cho xây cất lại hùng vĩ hơn. Đến năm 70 sau Chúa Giáng Sinh, khi người Do Thái vùng lên chống lại sự cai trị của người Rôma, Đại Tướng Titus đã dẫn đoàn quân Rôma đến dẹp tan cuộc vùng dậy, phá hủy hoàn toàn Đền Thờ Giêrusalem (đúng như Chúa Giêsu đã nói trước vào khoảng năm 30: “Sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào…” (Mt. 24, 2; Mc. 13,2; Lc. 21,6), và bắt tất cả người Do Thái đi lưu đày khắp nơi trong Đế Quốc Rôma, và từ đó dân Do Thái lại phải rời bỏ quê hương. Sau gần 2 ngàn năm mất nước, người Do Thái lại tìm cách trở về và khôi phục lại quê hương là nước Israel ngày nay từ năm 1948.
Đền Thờ Giêrusalem luôn luôn là trung tâm thờ phượng của người Do Thái. Vào dịp Đại lễ, người Do Thái ở các nơi trở về thờ phượng Chúa tại Đền Thờ Giêrusalem thường phải đổi tiền và mua các con vật như chiên, bò, bồ câu để dâng làm lễ vật theo nghi thức Do Thái Giáo thời đó. Vì thế, người ta lợi dụng dịp này, biến Đền Thờ thành chỗ buôn bán, đổi chác để kiếm lời.
Trong bài Phúc Âm Thánh lễ hôm nay (Ga 2, 13-25), Chúa Giêsu đã phải tỏ thái độ mạnh mẽ để tìm cách thanh tẩy Đền Thờ cho xứng đáng nơi thờ phượng: “Mang tất cả những thứ này đi nơi khác! Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán!” Trước phản ứng của người Do Thái, Chúa Giêsu cũng dùng dịp này để nói về việc chính Chúa Giêsu sẽ bị họ giết đi, nhưng sau 3 ngày, Ngài sẽ sống lại.
Đền Thánh Giêrusalem đã bị phá hủy hoàn toàn để chấm dứt thời gian Cựu Ước và bước sang thời Tân Ước, và việc thờ phượng Thiên Chúa không phải chỉ lệ thuộc vào ‘Đền Thờ’, nhưng quan trọng là thờ phượng Chúa trong ‘tinh thần và chân lý’ (Gioan 4,23-24), bằng tâm hồn và lương tâm ngay thẳng của chúng ta do việc giữ đầy đủ các giới răn của Chúa đã được ghi rõ trong sách Xuất Hành (Bài Đọc I: Xh. 20, 1-17): Chu toàn các bổn phận thờ phượng Chúa, phụng dưỡng cha mẹ già yếu, thương yêu nhau, giúp đỡ những người nghèo khó, bệnh tật, giữ phép công bằng và xa tránh các tội lỗi theo ham muốn xác thịt. Đó cũng là điều chúng ta đều phải suy nghĩ nhiều trong Mùa Chay Thánh để sửa đổi các lầm lỗi trong quá khứ và canh tân cuộc sống.
Vào Thánh Đường nào chúng ta cũng nhìn thấy Thánh Giá là ảnh tượng chính, để nhắc nhở chúng ta về những hy sinh đau khổ Chúa Giêsu đã phải chịu để đền thay tội lỗi chúng ta, để chúng ta thấy rõ hậu quả của tội lỗi mà chừa bỏ và xa lánh dịp tội. Vì thế, Thánh Phaolô trong Bài Đọc II (1Cr 1, 22-25) nhấn mạnh: Ngài không rao giảng sự khôn ngoan thế gian, nhưng rao giảng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, dù có những kẻ cho là điên rồ.
Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta phải nhắc bảo nhau, cha mẹ có bổn phận phải nhắc nhở con cái phải giữ thái độ xứng đáng khi đến các nơi Thờ Phượng, đặc biệt vào các Thánh lễ cuối tuần. Ăn mặc nghiêm trang, kín đáo, nhất là các người có nhiệm vụ lên đọc Sách Thánh, và các Thừa Tác Viên Thánh Thể… Tất cả mọi người khi vào Thánh Đường phải giữ cử chỉ cung kính, nhất là khi lên Rước Lễ, rước Chúa Trời Đất cao cả, thánh thiện vào lòng chúng ta. Nói chung, Thánh Đường là nơi thờ phượng chứ không phải nơi để trò chuyện, không phải nơi để khoe tài, khoe sắc, khoe quần, khoe áo!
Thánh Đường giáo xứ cũng là trung tâm thờ phượng của mỗi giáo xứ. Bổn phận mọi giáo hữu chúng ta là chung tay xây dựng và gìn giữ Thánh Đường luôn xứng đáng là nơi thờ phượng Thiên Chúa là Cha chúng ta, là trung tâm tinh thần của giáo xứ, là gia đình thiêng liêng của chúng ta. Hơn nữa, khi đến Thánh Đường, chúng ta cùng dâng lễ thờ phượng Chúa chung với cả Cộng Đoàn Đức Tin, chứ không phải chỉ là việc cá nhân hay riêng cho mỗi gia đình. Chúng ta cùng đọc kinh, cùng hát thánh ca, cùng hiệp nhất với nhau trong việc thờ phượng Chúa trong một gia đình Giáo xứ đầm ấm.
Sau hết, tâm hồn mỗi tín hữu cũng là một Đền Thờ, nơi Ba Ngôi thiên Chúa ngự trị. Luôn luôn chúng ta phải thanh tẩy Đền Thờ tâm hồn chúng ta để xứng đáng là Đền Thờ Thiên Chúa, qua việc giữ mình sạch tội: xét mình, ăn năn sám hối lỗi lầm, chừa bỏ tội lỗi hàng ngày; đặc biệt qua việc lãnh nhận Bí tích Hòa Giải. Xin Chúa thương thanh tẩy, thánh hóa chúng ta trong Mùa Chay Thánh này.
50.Chúa nhật 3 Mùa Chay--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
CON NGƯỜI THỜI CHÚA GIÊSU CŨNG PHẢI ĐỐI MẶT VỚI THÁCH THỨC VỀ SỰ ĐA DẠNG QUAN ĐIỂM
Các bài đọc Chúa nhật III Mùa Chay hôm nay nhắc nhở về những cuộc chiến đấu và cam kết nhằm giúp chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn. Chúng tạo cho chúng ta cơ hội suy ngẫm về những mong ước để trở thành thành viên trong một cộng đoàn đức tin.
Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe về Mười Điều Răn được ban cho Môsê để công bố cho dân Israel. Sau cuộc Xuất hành khỏi Ai Cập, dân chúng quy tụ tại chân núi Sinai, và Môsê lên núi nhận bản luật để tuân giữ khi vào đất hứa. Lề luật đưa ra một ô cửa để nhìn vào những lý tưởng của người Israel cổ đại trong việc thờ phượng và hành xử đúng đắn nơi cộng đoàn. Lề luật là lời nhắc nhở các đòi hỏi đi kèm với tư cách thành viên trong một cộng đoàn đức tin.
Tương tự, bài đọc thứ hai, nêu bật những thách thức khi sống trong một xã hội có nhiều quan điểm khác nhau. Thánh Phaolô viết thư cho cộng đoàn ở Côrintô và ngài lưu ý rằng những Kitô hữu sơ khai đang sống giữa những người Do Thái và Hy Lạp. Những người này có thể chỉ trích đức tin của Kitô hữu về cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô. Tuy nhiên, ngài khuyến khích cộng đoàn duy trì niềm tin và sự tín thác vào sức mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa. Thánh Phaolô mở ngỏ việc đón nhận cả người Do Thái lẫn dân ngoại vào cộng đoàn nếu họ nhận ra tầm quan trọng của Chúa Kitô.
Trong bài Tin mừng, chúng ta nghe câu chuyện Chúa Giêsu đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, lên án việc buôn bán trong sân đền thờ. Trong khi việc họ hiện diện ở những nơi này có lẽ không sai trái, Chúa Giêsu tức giận vì họ buôn bán súc vật và tuyên bố, “Đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán.” Nhìn bề ngoài, vấn đề này xảy ra như một lời chỉ trích chống lại các giao dịch kinh doanh ở nơi thánh. Tuy nhiên, sự việc này có mục đích mang tính biểu tượng nhiều hơn.
Chúa Giêsu xua đuổi những người buôn bán và súc vật dùng để hiến tế vào lễ Vượt Qua, tưởng niệm quyền năng cứu độ của Thiên Chúa trước và trong cuộc Xuất hành khỏi Ai Cập. Hành động đầy kịch tính của Chúa Giêsu cho thấy rằng những hy lễ Vượt Qua sẽ không còn cần thiết nữa. Trước khi hoàn tất sứ vụ của mình, Chúa Giêsu trở thành con chiên Vượt Qua (Paschal) tối hậu. Vào cuối Tin mừng thánh Gioan, Chúa Giêsu bị đóng đinh vào lễ Vượt Qua. Ở đầu Tin mừng, thánh Gioan Tẩy Giả đã tuyên bố: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian” (Ga 1, 29). Qua việc xua đuổi súc vật và những người buôn bán, Chúa Giêsu rõ ràng xác nhận rằng hy lễ không còn cần thiết nữa vì Ngài sẽ là Chiên vượt qua, sẽ chết và sống lại từ cõi chết.
Khi chuẩn bị tưởng niệm cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta cần nhìn nhận những khó khăn và đòi hỏi đi kèm với đức tin. Cũng vậy, chúng ta cần tiếp tục cầu nguyện và suy ngẫm về ý nghĩa của mầu nhiệm Vượt qua.
Nguồn: http://www.americamagazine.org/faith/2021/02/18/third-sunday-lent-gospel-reflection-catholic-scripture-239994
51.Thanh tẩy “Nhà Thờ”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Các môn đệ Chúa Giêsu khi chứng kiến việc Thầy mình thịnh nộ trước sự kiện người ta biến đền thờ thành nơi buôn bán, đã nhớ lại lời Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”. Một cơn thinh nộ đúng nghĩa bằng việc lấy dây làm roi đánh đuổi người buôn bán chiên bò, lật nhào bàn ghế và hất tung tiền của những người đổi bạc. Quả là to gan, nếu không là tên phạm thượng thì cũng là phường phá hoại. Cần phải nghiêm trị nếu không sẽ mất hết luật lệ, mất hết truyền thống, tôn ti…
Trước hết cần phải cật vấn ông này lấy quyền gì mà làm những sự to gan, tày trời như vậy. Những người Do Thái lúc bấy giờ, cách riêng những người đang có trọng trách đã kinh ngạc trước câu trả lời của Chúa Giêsu: Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại. Dĩ nhiên họ chẳng thể hiểu nội hàm câu trả lời của Người. Sau này, khi chứng kiến cuộc khổ nạn và phục sinh của Thầy chí thánh, các môn đệ mới hiểu Thầy dùng chính mạng sống của mình để làm dấu chỉ cho việc Người có quyền hành sử những sự to gan như thế. Đã chấp nhận hy sinh mạng sống vì sự việc gì đó thì nó phải có tầm quan trọng đáng kể và việc đó chính là thanh tẩy đền thờ.
Thanh Tẩy nhà thờ vật chất gỗ đá (église - church): Chuyện nhỏ. Quét bụi, lau chùi bàn ghế nhà thờ… là chuyện phải làm. Người ta vẫn làm thường nhật hay thường kỳ mà chẳng một ai thắc mắc. Ra những quy luật để gìn giữ các nhà thờ thực sự là nơi quy tụ tín hữu cho việc thờ phượng, tránh các lạm dụng làm mất sự thiêng thánh, thì cũng là chuyện dễ đón nhận và tuân giữ. Nhiều nơi, nhiều giáo xứ khi có điều kiện đã xây phòng hội, xây phòng giáo lý để tách các việc hội họp, dạy giáo lý ra khỏi nhà thờ. Đây là việc làm chính đáng nhưng cũng vẫn là chuyện không lớn.
Thánh hiến hay làm phép một ngôi nhà thờ cũng chẳng là chuyện trọng đại nếu xét về công sức bỏ ra. Chỉ một thánh lễ do đức Giám mục chủ sự hay do một linh mục được uỷ quyền thì mọi sự gọi là hoàn tất.
Thanh tẩy Nhà Thờ (Église – Church): Chuyện lớn. Khi hai từ nhà thờ được viết hoa thì đã không còn là một công trình kiến trúc vật chất, cho dù vẫn còn nhiều người, nhiều tập thể, vì thiếu hiểu biết hay cố tình làm như không biết, gọi là “bọn Nhà Thờ” hay “Nhà Thờ”, mà thực ra đó là Giáo Hội. Thanh tẩy Giáo Hội ư? Chuyện lớn đấy! Đó là một cơ cấu tổ chức, là một thực thể có tính thánh thiêng. Đó là tập thể những người có niềm tin. Và cũng không thể không kể, cho dù chỉ là đại diện, đó là những người đang có quyền cao, chức trọng. Trong niềm tin và theo giáo lý, Giáo Hội được Công đồng Vatican II trình bày với hình ảnh nền tảng đó là đoàn dân Thiên Chúa. Thế nhưng dưới cái nhìn người bình dân trong đạo và theo nhãn quan của bà con ngoài đạo thì quý đấng bậc có “chức vụ cao trọng” được đồng hoá với Giáo Hội cách nào đó.
Để làm cho cơ cấu tổ chức và luật lệ thực sự có ra vì con người chứ không ngược lại, thì quả là chuyện không nhỏ chút nào (x. Mc 2,27). Công đồng Vatican II đã kết thúc vào năm 1965, thế mà phải đến năm 1983 Bộ tân Giáo Luật mới được hình thành. Thử hỏi nội dung và tinh thần của bộ Giáo Luật 1983 đã được triển khai và áp dụng ra sao và ở mức độ nào? Chuyện “phép vua thua lệ làng” hình như vẫn tồn tại ít nhiều nơi này nơi kia. Để giúp những người đang mang trọng trách với chức vị lớn trở thành “người hầu thiên hạ” thì cũng không phải là việc một sớm một chiều (x.Mc 9,35). Chuyện “phủ bênh phủ, huyện bênh huyện” là chuyện vẫn không là cá biệt. Thỉnh thoảng có một vài tín hữu giáo dân vì thành tâm mà bạo miệng lên tiếng về một vài tình trạng “cha chú” đó đây, hoặc lên tiếng về thái độ thụ động của đấng này, vị kia trước bất công, bạo quyền, thì cũng dễ bị hứng “búa rìu” cách này cách khác.
Thanh tẩy đền thờ tâm hồn: chuyện hệ trọng. “Bách niên chi kế, mạc như thụ nhân” (Quản Trọng). Và kế ngàn đời là trồng con cái Chúa. Trồng người con Chúa ra sao đây? Bản Thập giới mà bài trích sách Xuất Hành trình bày không hề lỗi thời mà trái lại. Chúa Kitô đã minh nhiên nhắc lại điều này với một vị luật sĩ và với người thanh niên muốn nên trọn lành (x.Mt 19,16-19). Để mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình thì chuyện thanh tẩy là chuyện phải làm cả đời.
Theo thiển ý, để có những đền thờ tâm hồn trong sáng, thánh thiện, xứng đáng, thì một trong những điều cần thanh tẩy đó là sự tham lam. Thánh Tông đồ dân ngoại đã từng gọi tham lam là một hình thức “thờ ngẫu tượng”. Chúa Kitô cũng đã từng ví “của tiền” (dĩ nhiên có cả chức quyền, danh vị) như một vị thần, khi Người nói rằng không được làm tôi hai chủ (x.Lc 16,13). Và thực tiển minh chứng rõ ràng lòng tham lam, tham danh, hám lợi đã giết chết hay làm băng hoại tình người thật khó lường. Sự tham lam khi đã được quyền bính bảo kê hay được luật lệ hợp thức hoá thì hậu quả thật khó lường.
Đức Bênêđictô XVI trong cuốn “Đức Giêsu thành Nagiarét” nhận thức rằng khi Chúa Giêsu thanh tẩy đền Thờ Giêrusalem, Người không phá bỏ lề luật nhưng Người đánh đổ các sai trái của con người vốn đã được lề luật hoá (Phần II trang 24).
Thanh tẩy nhà thờ gỗ đá, cách riêng Nhà Thờ viết hoa hay đền thờ tâm hồn chắc chắn phải có trả giá. Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng, dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan thì chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh…(1Cr 1,22). Chúa Kitô đã chấp nhận để người ta phá “thân thể Người” để rồi xây lại sau ba ngày không phải chỉ để thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem mà đặc biệt để thanh tẩy cái Nhà Thờ viết hoa cũng như các đền thờ tâm hồn, tức là con người qua mọi thời đại.
Môn đệ không trọng hơn Thầy (x.Ga 15,20). Rất nhiều người, nhiều vị thánh đã từng to gan tiếp bước chân Thầy chí thánh nhiệt thành lo việc thanh tẩy Nhà Thờ viết hoa, thanh tẩy các đền thờ tâm hồn. Và số phận của họ đã dẩy đầy truân chuyên. Nói gì cho xa, để có được thành quả là Công Đồng Vatican II và gìn giữ cũng như phát triển thành quả ấy thì nhiều vị, nhiều đấng bậc đã chấp nhận bao hy sinh, khổ ải, truân chuyên. Cuộc đời của Hồng Y Ives Congar, cha Marie –Dominique Chenu, Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô VI… là những minh chứng hùng hồn.
Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Một quy luật như là tất yếu. Đã sợ thiệt thân thì hầu chắc không làm được sự gì tốt cho việc nhà Chúa. An thân, thủ phận, hay sống theo “chủ nghĩa cơ hội” thật không xứng với người môn đệ Chúa Kitô. Có thể có nhiều lý do, nhưng chắc chắn có lý do này, đó là chưa nhiệt tâm lo việc nhà Chúa. Khi chưa nhiệt tâm lo việc nhà Chúa thì có lẽ chúng ta đang mải mê lo việc nhà mình chăng?
52.Phải bị thiệt thân--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Các môn đệ Chúa Giêsu khi chứng kiến việc Thầy mình thịnh nộ trước sự kiện người ta biến đền thờ thành nơi buôn bán, đã nhớ lại lời Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Một cơn thinh nộ đúng nghĩa bằng việc lấy dây làm roi đánh đuổi người buôn bán và chiên bò, lật nhào bàn ghế và tung vãi tiền của những người đổi bạc. Quả là to gan, nếu không là tên phạm thượng thì cũng là phường phá hoại. Cần phải nghiêm trị nếu không sẽ mất hết luật lệ, mất hết truyền thống, tôn ti...
Trước hết cần phải cật vấn ông này lấy quyền gì mà làm những sự to gan, tày trời như vậy. Những người Do Thái lúc bấy giờ, cách riêng những người đang có trọng trách đã kinh ngạc trước câu trả lời của Chúa Giêsu: Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại. Dĩ nhiên họ chẳng thể hiểu nội hàm câu trả lời của Người. Sau này, khi chứng kiến cuộc khổ nạn và phục sinh của Thầy chí thánh, các môn đệ mới hiểu Thày dùng chính mạng sống của mình để làm dấu chỉ cho việc Người có quyền hành sử những sự to gan như thế. Đã chấp nhận hy sinh mạng sống vì sự việc gì đó thì nó phải có tầm quan trọng đáng kể và việc đó chính là thanh tẩy đền thờ.
Thanh Tẩy nhà thờ vật chất gỗ đá (église - church): Chuyện nhỏ. Quét bụi, lau chùi bàn ghế nhà thờ... là chuyện phải làm. Người ta vẫn làm thường nhật hay thường kỳ mà chẳng một ai thắc mắc. Ra những quy luật để gìn giữ các nhà thờ thực sự là nơi quy tụ tín hữu cho việc thờ phượng, tránh các lạm dụng làm mất sự thiêng thánh, thì cũng là chuyện dễ đón nhận và tuân giữ. Nhiều nơi, nhiều giáo xứ khi có điều kiện đã xây phòng hội, xây phòng giáo lý để tách các việc hội họp, dạy giáo lý ra khỏi nhà thờ. Đây là việc làm chính đáng nhưng cũng vẫn là chuyện không lớn.
Thánh hiến hay làm phép một ngôi nhà thờ cũng chẳng là chuyện trọng đại nếu xét về công sức bỏ ra. Chỉ một thánh lễ do đức Giám mục chủ sự hay do một linh mục được uỷ quyền thì mọi sự gọi là hoàn tất.
Thanh tẩy Nhà Thờ (Église - Church): Chuyện lớn. Khi hai từ nhà thờ được viết hoa thì đã không còn là một công trình kiến trúc vật chất, cho dù vẫn còn nhiều người, nhiều tập thể vì thiếu hiểu biết hay cố tình làm như không biết, gọi là "bọn Nhà Thờ" hay "Nhà Thờ", mà thực ra đó là Giáo Hội. Thanh tẩy Giáo Hội ư? Chuyện lớn đấy! Đó là một cơ cấu tổ chức, là một thực thể có tính thánh thiêng. Đó là tập thể những người có niềm tin. Và cũng không thể không kể, cho dù chỉ là đại diện, đó là những người đang có quyền cao, chức trọng. Trong niềm tin và theo giáo lý, Giáo Hội được Công đồng Vatican II trình bày với hình ảnh nền tảng đó là đoàn dân Thiên Chúa. Thế nhưng dưới cái nhìn người bình dân trong đạo và theo nhãn quan của bà con ngoài đạo thì quý đấng bậc có "chức vụ cao trọng" được đồng hoá với Giáo Hội cách nào đó
Để làm cho cơ cấu tổ chức và luật lệ thực sự có ra vì con người chứ không ngược lại, thì quả là chuyện không nhỏ chút nào (x. Mc 2,27). Công đồng Vatican II đã kết thúc vào năm 1965, thế mà phải đến năm 1983 Bộ tân Giáo Luật mới được hình thành. Thử hỏi nội dung và tinh thần của bộ Giáo Luật 1983 đã được triển khai và áp dụng ra sao và ở mức độ nào? Chuyện "phép vua thua lệ làng" hình như vẫn tồn tại ít nhiều nơi này nơi kia. Để giúp những người đang mang trọng trách với chức vị lớn trở thành " người hầu thiên hạ" thì cũng không phải là việc một sớm một chiều (x.Mc 9,35). Chuyện "phủ bênh phủ, huyện bênh huyện" là chuyện vẫn không là cá biệt. Thỉnh thoảng có một vài tín hữu giáo dân vì thành tâm mà bạo miệng lên tiếng về một vài tình trạng "cha chú" đó đây, thì cũng dễ bị hứng "búa rìu" cách này cách khác.
Thanh tẩy đền thờ tâm hồn: chuyện hệ trọng. "Bách niên chi kế, mạc như thụ nhân" (Quản Trọng). Và kế ngàn đời là trồng con cái Chúa. Trồng người con Chúa ra sao đây? Bản Thập giới mà bài trích sách Xuất Hành trình bày không hề lỗi thời mà trái lại. Chúa Kitô đã minh nhiên nhắc lại điều này với một vị luật sĩ và với người thanh niên muốn nên trọn lành (x.Mt 19,16-19). Để mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình thì chuyện thanh tẩy là chuyện phải làm cả đời.
Theo thiển ý, để có những đền thờ tâm hồn trong sáng, thánh thiện, xứng đáng, thì một trong những điều cần thanh tẩy đó là sự tham lam. Thánh Tông đồ dân ngoại đã từng gọi tham lam là một hình thức "thờ ngẫu tượng". Chúa Kitô cũng đã từng ví "của tiền" (dĩ nhiên có cả chức quyền, danh vị) như một vị thần, khi nói rằng không được làm tôi hai chủ (x.Lc 16,13). Và thực tiển minh chứng rõ ràng lòng tham lam đã giết chết hay làm băng hoại tình người thật khó lường.
Thanh tẩy nhà thờ gỗ đá, cách riêng Nhà Thờ viết hoa hay đền thờ tâm hồn chắc chắn phải có trả giá. Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng, dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan thì chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh...(1 Cr 1,22). Chúa Kitô đã chấp nhận để người ta phá "thân thể Người" để rồi xây lại sau ba ngày không phải chỉ để thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem mà đặc biệt để thanh tẩy cái Nhà Thờ viết hoa cũng như các đền thờ tâm hồn, tức là con người qua mọi thời đại.
Môn đệ không trọng hơn Thầy (x.Ga 15,20). Rất nhiều người, nhiều vị thánh đã từng to gan tiếp bước chân Thầy chí thánh nhiệt thành lo việc thanh tẩy Nhà Thờ viết hoa, thanh tẩy các đền thờ tâm hồn. Và số phận của họ đã dẩy đầy truân chuyên. Nói gì cho xa, để có được thành quả là Công Đồng Vatican II và gìn giữ cũng như phát triển thành quả ấy thì nhiều vị, nhiều đấng bậc đã chấp nhận bao hy sinh, khổ ải, truân chuyên. Cuộc đời của Hồng Y Ives Congar, cha Marie -Dominique Chenu, Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô VI... là những minh chứng hùng hồn.
Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Một quy luật như là tất yếu. Đã sợ thiệt thân thì hầu chắc không làm được sự gì tốt cho việc nhà Chúa. An thân, thủ phận, hay sống theo "chủ nghĩa cơ hội" thật không xứng với người môn đệ Chúa Kitô. Có thể có nhiều lý do, nhưng chắc chắn có lý do này, đó là chưa nhiệt tâm lo việc nhà Chúa.
53.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Phép lạ hoặc những việc làm của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan thường mang ý nghĩa biểu tượng. Dấu lạ được thánh Gioan kể lại là để nói lên một thực tại khác về Chúa Giêsu. Thí dụ phép lạ khiến ông La-da-rô sống lại cho ta biết Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Cũng vậy, việc Chúa lên Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua và tẩy uế Đền Thờ là để nói lên rằng Chúa Giêsu sẽ thay thế cho Đền Thờ. Thiên Chúa không còn ngự trị trong Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem hay tại Ga-ri-dim nữa, nhưng trong Đức Kitô, để “những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,23). Thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ Mới là Chúa Kitô chắc chắn phải là một đề tài ta cần suy nghĩ và xét lại trong mùa Chay về cách thờ phượng và cầu nguyện của ta.
a) “Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người”
Khác với các sách Tin Mừng nhất lãm, sách Tin Mừng Gioan nói Chúa Giêsu lên Giê-ru-sa-lem nhiều lần và việc tẩy uế Đền Thờ xảy ra ngay ban đầu sứ vụ của Người. Đặc biệt những lời của Chúa Giêsu nói trong dịp này cũng mang một sắc thái hoàn toàn khác. Không phải những câu trích dẫn ngôn sứ I-sai-a và Giê-rê-mi-a, nhưng là những lời của chính Chúa Giêsu nói với mọi người: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Do đó lệnh truyền của Chúa Giêsu không chỉ đòi ta phải suy tư về ý nghĩa của Đền Thờ Mới, nhưng còn đòi ta phải có những hành động cụ thể để thanh tẩy đền thờ của Chúa Thánh Thần, tức là thân xác và tâm hồn của ta.
Thật là một hình ảnh tuyệt vời nếu ta hiểu tất cả con người Chúa Giêsu là Đền Thờ Thiên Chúa ngự. Nơi Người, bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại kết hiệp với nhau trong một ngôi vị, tức là Ngôi Hai Thiên Chúa. Không những Thiên Chúa hoàn toàn ngự trong Chúa Giêsu, mà còn nhờ Chúa Giêsu ở lại với nhân loại (Emmanuel = Thiên Chúa ở cùng chúng ta). Đến với loài người qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa muốn mọi sự đổi mới. Đời sống mới của ta phải theo lề luật mới là giáo lý Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng đến để kiện toàn Lề Luật. Việc phụng tự biểu lộ quan hệ giữa ta với Thiên Chúa cũng phải đổi mới. Đền thờ Giê-ru-sa-lem không còn là trung tâm thờ phượng, nơi duy nhất người ta đến với Chúa nữa. Nhưng từ nay, Chúa Giêsu thay thế cho Đền Thờ và là nơi thể hiện việc thờ phượng đích thực. Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Sa-ma-ri: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem... Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật”. Chỉ trong Chúa Giêsu mới có sự thật toàn vẹn và thần khí Thiên Chúa đầy tràn. Do đó chỉ trong Người mới thể hiện việc thờ phượng đích thực. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn muốn mỗi người môn đệ phải là “người thờ phượng đích thực” và trở nên một đền thờ sống động, hoặc những viên đá sống động để xây dựng Hội Thánh Người. Thánh Phao-lô khẳng định: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3,16).
Giáo Hội là Thân Thể Mầu nhiệm Chúa Kitô. Người là Đầu và ta là chi thể của Nhiệm Thể ấy. Như vậy, khi ta hiệp cùng Giáo Hội thờ phượng Thiên Chúa trong Chúa Kitô thì việc thờ phượng đó là đích thực. Ta cũng hiểu được tại sao Giáo Hội luôn luôn kết thúc các lời nguyện với câu: Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Bởi vì nếu không nhờ Đức Kitô, Đấng Trung gian giữa Thiên Chúa và con người, lời cầu nguyện cũng như việc thờ phượng của ta không bao giờ có thể đạt tới mức thập toàn được.
b) “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”
Nếu ý thức ta là đền thờ Thiên Chúa ngự, ta sẽ thấy lời nói trên của Chúa Giêsu bắt ta phải suy nghĩ về tình trạng đền thờ của ta. Trước hết Chúa gọi tâm hồn ta là “nhà Cha tôi” và lúc nào cũng phải là nơi xứng đáng để Chúa Cha hiện diện tại đó. Chúa đã nhìn thấy nguy cơ có thể xảy ra cho ta, đó là tâm hồn ta biến thành “nơi buôn bán”. Ta thử tưởng tượng lại khung cảnh buôn bán tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Những ồn ào, cãi vã, gian dối, lường gạt... đầy dẫy trong khung cảnh buôn bán ấy và không thích hợp chút nào cho việc thờ phượng và cầu nguyện. Sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Gr 7:11) gọi nơi buôn bán ấy là “sào huyệt của bọn cướp”. Thực đúng như vậy. Khách hành hương từ xa tới Đền Thờ ít khi quan tâm vấn đề tiền bạc. Còn đám con buôn thì lợi dụng thời cơ và lòng đạo đức của khách hành hương, tìm đủ cách moi tiền của họ để làm giầu cho mình.
Tình trạng này vẫn xảy ra tại nhiều nơi hành hương trên thế giới hôm nay. Nếu tới Đất Thánh và Giê-ru-sa-lem, ta cũng khó mà kiếm được vài ba chỗ có được khung cảnh cầu nguyện thích hợp. Có lẽ chỉ có Na-da-rét và núi Tám Mối phúc là còn khung cảnh thanh tĩnh giúp ta sống lại những quan hệ mầu nhiệm Chúa Kitô. Tại những nơi hành hương nổi tiếng như Lộ-đức và Fatima, chung quanh Đền thánh việc buôn bán sầm uất không kém! Đó là những buôn bán bên ngoài. Còn những buôn bán bên trong tâm hồn thì sao? Trong Giáo Hội, tinh thần buôn thần bán thánh vẫn là điều khiến nhiều người đặt vấn đề. Ngày nay Giáo Hội Hoa-kỳ đã bị ràng buộc trong cơ cấu hành chánh và tiền bạc, không sao tìm được lối thoát. Không có tiền, làm sao trả lương các linh mục, thư ký văn phòng, giám đốc thánh nhạc, giám đốc giáo lý... chưa kể những khoản bảo trì cơ sở vô cùng tốn kém. Có những giáo phận bỏ ra cả mấy triệu bạc để thuê một công ty “gây quỹ”, đặt chỉ tiêu cho các giáo xứ phải quyên góp cho đủ! Do đó thật khó mà tránh được tinh thần buôn bán ngay trong những công việc đạo đức.
Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là tình trạng buôn bán trong tâm hồn mỗi Kitô hữu. Chúa Giêsu dạy ta “đem tất cả những thứ này ra khỏi đây”. Người để cho ta nhận diện từng thứ, rồi đem “tất cả” ra khỏi tâm hồn ta. Tâm hồn ta trước hết phải là “lều hội ngộ” để Chúa và ta gặp gỡ mọi lúc. Chúa Giêsu, sự thật toàn vẹn và Thần Khí đầy tràn, phải chiếm hữu tất cả con người của ta để loại trừ đi cảnh buôn bán và sào huyệt của bọn cướp. Thánh Phao-lô cho ta thấy sự trái ngược giữa hoa quả của Thần Khí và hoa quả của tính xác thịt, là những điều có thể gặp thấy trong tâm hồn ta. Nếu ta biết đem tất cả những gì thuộc tính xác thịt ra khỏi tâm hồn và thay thế bằng những hoa quả tốt lành của Thần Khí, ta sẽ là một đền thờ xứng đáng cho Chúa Ba Ngôi ngự trị. “Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy... Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,19-24).
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Nếu coi mùa Chay như là mùa “dọn dẹp tâm hồn”, tôi có chương trình cụ thể nào để tẩy uế đền thờ tâm hồn tôi? Tôi phải đem “tất cả những thứ này” ra khỏi tâm hồn tôi, vậy đó là những thứ gì?
Tôi hiểu thế nào là thờ phượng trong sự thật và thần khí? Chúa Giêsu là sự thật toàn vẹn giúp tôi hiểu gì về Thiên Chúa? Và thần khí của Người dạy tôi sống như thế nào?
Việc thờ phượng với tính cách cá nhân và cộng đồng của tôi như thế nào? Tôi tham dự vào việc thờ phượng của toàn thể Giáo Hội một cách tích cực hay hời hợt? Tôi tham dự vào đời sống của Nhiệm Thể Chúa Kitô như thế nào? Tôi đã làm gì để đóng góp vào việc giúp cho Giáo Hội được lành mạnh thêm và chiếu tỏa hình ảnh Chúa Kitô hơn ngay trong cộng đoàn đức tin tôi thuộc về?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
nếu Hội Thánh được ví như một thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu
một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất.
Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,
ơn gọi của con chính là tình yêu.
Con đã tìm thấy
chỗ đứng của con trong Hội Thánh:
nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu,
và như thế con sẽ là tất cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,
mọi ước mơ của con được thực hiện.”
- dựa theo lời của thánh Têrêxa
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 62)
54.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Alfonso
Tin mừng Ga 2: 13-25: Tin mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu hành hương lên đền thờ Giêrusalem, nhìn thấy những người đang đổi tiền, buôn bán chiên bò, chim câu, Chúa Giêsu đã nổi giận, cầm roi đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền thờ.
Suy Niệm
Thiên Chúa đã chọn cho Con của Ngài nhập thể làm người có một nơi một chốn, một xã hội và môi trường văn hóa. Chính vì thế theo năm tháng lớn lên, Chúa Giêsu được cha nuôi Giuse và Mẹ Maria chỉ dạy để trở nên một người Do Thái nhiệt thành sống đạo. Thánh sử Gioan đã bảy lần ghi lại Chúa Giêsu hành hương lên Giêrusalem vào những dịp lễ trọng (Ga 5,1; 6,4; 7,2; 10,22; 11,55; 12,1; 13,1), đặc biệt là Lễ Vượt qua vào Mùa Xuân và Lễ Lều trại vào Mùa Thu.
Trong đoạn Tin mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu hành hương lên đền thờ Giêrusalem, nhìn thấy những người đang đổi tiền, buôn bán chiên bò, chim câu, Chúa Giêsu đã nổi giận, cầm roi đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền thờ. Những người buôn bán nơi đây không hẳn là những người xấu, bởi vì đồng tiền sử dụng bên ngoài thị trường mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma đang đô hộ dân Israel, nên buộc đổi sang một đồng tiền chỉ dành cho phụng tự nơi đền thờ. Còn những người bán chiên, bò, chim bồ câu phục vụ đáng kể cho khách hành hương từ xa đến, đang cần sắm sửa tại chỗ những lễ vật cần thiết để tiến dâng, đỡ vất vả mang lễ vật khệ nệ đi đường. Nhưng sở dĩ Chúa Giêsu nổi giận là vì vị trí quá lớn của tiền bạc đang dần ngự trị trong Đền thờ. Và họ tự biến việc phục vụ của mình trở thành nghề thương mại, biến mình thành những con buôn, lòng họ trở nên dính bén với tiền bạc.
Vì thế mà Chúa Giêsu dứt khoát: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Điều này làm cho những người chứng kiến liền phản ứng. Mọi người đều biết lời tiên báo này gợi nhớ tiên tri Giacaria loan báo việc tẩy uế Đền thờ (14,21). Họ hiểu ngay rằng người đang đánh đuổi họ không những là một vị cải tổ để tố cáo những lạm dụng nơi Đền thờ, mà còn trong tư cách Đấng Messia, đến để làm cho lời tiên tri thực hiện.
Chúng ta hãy lắng nghe kỹ kiểu nói lạ thường mà Chúa Giêsu sử dụng để nói về đền thờ. Người đã không dùng từ “nhà của Chúa”, mà Người nói “nhà Cha Ta”. Điều này tỏ cho thấy mối liên hệ đặc biệt giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha, trong tương quan Cha-Con. Người nói hết sức tự nhiên, chỉ nơi đây chính là nhà của Cha Người, là nhà của Người. Điều này làm cớ cho những người Do Thái xem Chúa Giêsu phạm thượng, vì đối với họ, ông Giêsu con ông thợ mộc và bà Maria ở làng quê Nazarerth vô danh tiểu tốt cùng lắm là một vị tiên tri. Để rồi đỉnh điểm, những người đang muốn làm lợi kinh tế cho mình nơi đền thờ sôi sục khi Chúa Giêsu phán rằng: “Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”.
Câu nói của Chúa Giêsu làm cho chúng ta phải thót tim nếu như đang ở trong khung cảnh đó, vì khi dám đụng tới Đền Thờ Giêrusalem, kết tinh của tình cảm, đức tin và niềm kiêu hãnh của toàn dân Do Thái “phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?” Vì thế mà án tử họ dành cho Chúa Giêsu là điều khó tránh khỏi. Nhưng điều Chúa Giêsu muốn nhắm tới là việc thanh tẩy đền thờ tâm hồn con người. Vâng! Đền thờ vật chất rồi cũng qua đi, và thánh sử Gioan viết đoạn Tin mừng này trong bối cảnh sau năm 70, khi mà đền thờ Giêrusalem đã bị thiêu rụi. Gioan chỉ ra điều Chúa Giêsu nhắm đến trước tiên là yếu tố phụng tự mà con người thể hiện với Thiên Chúa, không phải là những gì bên ngoài như bò, chiên, bồ câu… cho bằng tấm lòng con thảo ta đặt vào đó. Tấm lòng con thảo luôn muốn giữ Lời Chúa, Lời mà Ngài mời gọi dân khi đã vượt ra khỏi Ai Cập, bằng giao ước Mười Điều Răn Ngài trao cho Môisen trên núi Sinai. Khi dân khôn ngoan, trung thành sống các Giới luật đó thì Chúa sẽ gìn giữ dân. Dẫu cho việc tin vào Chúa Giêsu là cớ vấp phạm đối với người Do Thái, và là sự điên rồ đối với người Hy Lạp, là thua thiệt đối với dân ngoại gán cho những các Kitô hữu, song chính các Kitô hữu đang là những người được hướng dẫn tiến đến sự khôn ngoan khi chọn lấy Chúa Kitô là Đường Cứu Độ, vì chính họ được giáo huấn để sống trong tình thương Thiên Chúa dành cho con người.
Chuyện Mạnh Tử, nhà tử tưởng, chính trị và giáo dục lớn của Trung Hoa, là người kế thừa tư tưởng Nho gia của Khổng Tử, mồ côi cha từ nhỏ, vì thế mà người mẹ Chương Thị rất lưu tâm đến việc nuôi dưỡng giáo dục Mạnh Tử nên người. Nhà Mạnh Tử ban đầu ở dưới chân núi, gần nghĩa trang. Mạnh Tử cùng lũ trẻ con chơi đùa, thường gặp cảnh đưa tang nên cũng bắt chước theo: đào, chôn, lăn, khóc. Mẹ Mạnh Tử thấy vậy ái ngại: “Chỗ này u ám, tang tóc không phải chỗ con ta ở được”. Bà bèn chuyển nhà tới gần một chợ phiên, đến buổi chợ là ồn ào huyên náo cảnh mặc cả trả giá, cảnh buôn bán lời qua tiếng lại, chẳng thiếu chuyện lừa lọc, điêu ngoa. Mẹ Mạnh Tử lại nghĩ: “Chỗ thị phi, gian dối này cũng không phải chỗ con ta ở được”. Mạnh mẫu không muốn con bị ô nhiễm bởi thói chợ búa chỉ biết mưu đồ kiếm lợi. Lần thứ ba bà chuyển nhà đến gần trường học. Tuy nhà cửa nhỏ bé tồi tàn, nhưng luôn có những Nho sinh dáng vẻ cao nhã, phong thái chuẩn mực. Mạnh Tử cùng lũ trẻ túm tụm dưới gốc cây tập tành học lễ nghĩa, nhân cách, chắp tay cúi chào, nhường nhịn, rất ra dáng và cung kính, khiến Mạnh mẫu từ xa nhìn xem, trong sâu thẳm nội tâm rất vui mừng: “Đây mới là hoàn cảnh cư trú tốt nhất cho con ta nên người”. Sách Tam Tự Kinh cũng viết rằng “Dưỡng bất giáo, nãi phụ quá”, “Giáo bất nghiêm, sư chi nọa”. Nuôi mà không dạy, là lỗi người cha; dạy mà không nghiêm, là lỗi người thầy.
Lạy Chúa, xin cho con biết vượt lên trên con người ích kỷ của con, những bon chen thường ngày, để chọn lấy Chúa là niềm vui và cùng đích đời con. Amen.
55.Đức Giêsu tẩy uế đền thờ--Lm Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Lần đầu tiên, tác giả Gioan có một bản văn song song với các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 11,15-19; Mt 21,12-17; Lc 19,45-48). Tuy nhiên, có những khác biệt:
- Trong khi Tin Mừng IV đặt biến cố này vào đầu sứ vụ của Đức Giêsu, các Tin Mừng Nhất Lãm lại đặt ở đầu tuần Khổ Nạn.
- Lý do đã thúc đẩy Đức Giêsu can thiệp được gợi hứng bởi các bản văn ngôn sứ, cũng không giống nhau: “một nơi buôn bán” (Ga 2,16) thì nhắm đến chuyện mua qua bán lại, còn “sào huyệt của bọn cướp” (Mc 11,17 và //) thì hàm chứa một cáo giác về sự trộm cắp.
- Cuối cùng, cuộc cãi vã giữa Đức Giêsu và các đối thủ xảy ra ngay sau đó (theo Ga), hoặc lại vào ngày hôm sau (theo các Tin Mừng Nhất Lãm: Mc 11,28 và //).
Trong quá khứ, người ta thường đề nghị một giả thuyết, theo chiều hướng tương phù (concordism): Đức Giêsu đã đuổi những người buôn bán khỏi Đền Thờ 2 lần, vào đầu sứ vụ (Ga) và cuối sứ vụ (Tin Mừng Nhất Lãm). Nhưng dường như khó tin được rằng Đức Giêsu có thể lặp lại được một thách đố như thế đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đàng khác, giữa bản văn của Ga và của các Tin Mừng Nhất Lãm có những nét tương đồng, khiến người ta phải nghĩ rằng hầu chắc các bản văn ấy đều đề cập tới một biến cố duy nhất: nơi cả hai bên, ta đều thấy cùng một cơ hội đã khiến Đức Giêsu làm cử chỉ ấy (sự hiện diện của những người buôn bán và đổi tiền trong Đền Thờ), có một lời Đức Giêsu trách mắng những người bán hàng, sự can thiệp của các thủ lãnh Do Thái, và nhất là dây liên hệ chặt chẽ giữa hành động này và cái chết của Đức Giêsu (Ga 2,17.19; Mc 11,18; Lc 19,47).
Vậy phải chọn giữa bài của Gioan và bài của Tin Mừng Nhất Lãm: bài nào đã đặt biến cố này vào đúng thời điểm?
1. Đa số các nhà chú giải Công Giáo và nhiều nhà chú giải Tin Lành ủng hộ bài của Gioan. Luận điểm chính nằm trong chi tiết về thời gian do 2,20 cung cấp: Công việc xây dựng Đền Thờ bắt đầu từ năm 20/19 tr CG (Fl. Josèphe, Ant XV, 380); vào lúc này là năm 28/27 CN: thời điểm này phù hợp với khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu hơn. Khi đó, người ta hiểu các Tin Mừng Nhất Lãm đã đặt biến cố này vào cuối sứ vụ của Đức Giêsu, bởi vì các Tin Mừng Nhất Lãm chỉ nói đến một chuyến đi lên Giêrusalem duy nhất và một lễ Vượt Qua duy nhất.
2. Những người nghiêng về các Tin Mừng Nhất Lãm thì ghi nhận trước tiên rằng dây liên kết giữa thách đố này của Đức Giêsu và cái chết của Người không mấy phù hợp với thời gian khởi đầu sứ vụ của Người. Tại cuộc xử án Đức Giêsu, lời của các nhân chứng nhắc lại câu tuyên bố của Người về việc phá Đền Thờ giả thiết là sự việc mới xảy ra, nên người ta còn nhớ rõ. Nhưng luận điểm mạnh nhất, là tác giả Gioan đã đưa bài tường thuật này ra đầu sứ vụ của Đức Giêsu, vì ông trung thành với quan điểm ông đã biểu lộ trong bài tường thuật Dấu lạ Cana (Ga 2,4.11): ông muốn quy hướng toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu ngay từ đầu về “giờ” Khổ Nạn của Người; hơn nữa, Gioan muốn rằng Do Thái giáo chính thức được chứng kiến Đức Giêsu biểu lộ tư cách Mêsia của Người ngay từ đầu, để những người Do Thái phải ở trong một tư thế bị phán xét.
Nói cho cùng, thật khó chọn bài nào, bởi vì cả hai luận đề đều có những lập luận vững chắc.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (2,13-17);
2) Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (2,18-22);
3) Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (2,23-25).
3.- Vài điểm chú giải
- Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái (13): Thời gian của dấu lạ này dĩ nhiên gợi nhớ tới lễ Vượt Qua trong đó Đức Giêsu sẽ bị xử tử. Tương quan giữa việc tẩy uế Đền Thờ và cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47t sẽ ghi nhận rằng sự can thiệp của Đức Giêsu, vì kết án cả giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ khiến các thượng tế và các kinh sư quyết định “giết Người”.
- trong Đền Thờ (en tôi hiêrôi, 14): Đây là tiền đường của Đền Thờ (đối lại với naos là Đền Thờ đúng nghĩa, gần gian Thánh và gian Cực Thánh).
- Các môn đệ của Người nhớ lại (17): Sau khi Đức Giêsu sống lại, khi Thánh Thần đã ban cho các ông hiểu các dấu chỉ Thầy đã làm, các môn đệ đã hiểu biến cố hôm nay:
- Người Do Thái (18): Trong thực tế, đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), những người chịu trách nhiệm về tình trạng vừa bị Đức Giêsu kết án. Như ở khắp nơi trong Tin Mừng, tác giả Gioan không phân biệt giữa các nhà lãnh đạo và dân Do Thái đã từ chối tin vào Đức Kitô. Vậy phải nói là toàn thể hệ thống phượng tự của dân này đang được đề cập đến.
- Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy) (19): Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy...”. Thật ra, các động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả.
- bốn mươi sáu năm (20): Đền Thờ, với phần cung thánh và tiền đường, đã được vua Hêrôđê rộng tay chi tiền sửa sang lại thật huy hoàng. Khởi công vào năm 16 triều đại ông (x. Fl. Josèphe, Ant. jud., 15, 11, 1) vào năm 734-735 thành Rôma, là năm 20-19 tCN, các công việc đã kéo dài cho tới thời Tổng đốc Anbinô, năm 62-64 (Ant. jud., 20, 9, 7). Vào thời điểm của bài tường thuật này, chúng ta ở vào năm xây dựng thứ 46. Lấy khởi điểm là năm 20 hoặc 19, sự cố tẩy uế Đền Thờ đã xảy ra vào lễ Vượt Qua năm 27 hoặc 28. Điều này phù hợp với Lc 3,2, vì bản văn này đã xác định phép rửa của Đức Giêsu xảy ra vào năm 15 triều đại Tibêriô, tức giữa ngày 1-10-27 và 30-9-28.
-... là chính thân thể Người (21): Đền Thờ mới sẽ thay thế Đền Thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của Đức Kitô. Với lời giải thích của thánh Phaolô (x. 1 Cr 3,16 và 12,27; Ep 2,21 và 4,12), Đền Thờ mới là Giáo Hội, thân thể vinh hiển của Đức Kitô phục sinh, và tất cả các tín hữu được kết hợp với Người.
- Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại... Họ tin (22): Tác giả Máccô cứ đều đặn ghi nhận rằng các môn đệ không hiểu. Gioan thì nói cách tích cực rằng các môn đệ hiểu sau khi Đức Kitô đã sống lại (12,16). Chỉ khi Đức Giêsu được tôn vinh, các ông mới được nhận Thánh Thần (7,39), và Thánh Thần mới cho các ông hiểu tất cả những dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện (14,26; 15,26t). Vậy, đức tin của các môn đệ không được liên kết với cuộc Phục Sinh như với một bằng cớ về tính xác thực của những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng như với nguyên do (= nguồn) ban Thánh Thần, là Đấng duy nhất cho phép hiểu.
- Họ tin vào Kinh Thánh (22): Không thể xác định rõ tác giả Gioan ám chỉ tới đoạn Cựu Ước nào. Có thể so sánh Cv 2,24t; 13,34tt, trong đó có những bản văn thường được Giáo Hội tiên khởi nhắc đến trong quan hệ với sự Phục Sinh của Đức Giêsu (đặc biệt Tv 16/15,10). Chúng ta ghi nhận rằng Kinh Thánh (Lời Thiên Chúa) và lời Đức Giêsu được đặt trên cùng một bình diện (so sánh 18,9.32) để làm nên đối tượng đức tin của các môn đệ.
- nhiều kẻ tin (23): Nhiều người tin rằng Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm bản thân Người. Lòng tin của họ chỉ dựa trên các phép lạ, nên không phải là không có giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu cũng tham dự vào một đại lễ khác. Đây không phải là một lễ của một đôi vợ chồng được cử hành bởi gia đình và mọi người thân thuộc trong khung cảnh một thôn làng như Cana ở Galilê, nhưng là lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của Israel, khi đó toàn dân quy tụ lại Giêrusalem. Israel tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi Ai Cập và tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã làm cho họ thành một dân độc lập và thành Dân Người.
* Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (13-17)
Tại Đền Thờ, Đức Giêsu đã không góp phần cứu lấy và gia tăng niềm vui của ngày đại lễ, nhưng đã hòa vào cảnh sống náo nhiệt trên sân Đền Thờ. Con người đã rảo qua xứ sở cách an hòa (1,29.36) và đã ra tay cứu lễ mừng Cana cách hiệu quả, nay lại tỏ mình ra dưới một phương diện hoàn toàn khác. Là một người khách hành hương vô danh đến từ miền Galilê, Người đã gây ra một sự cố “động trời” tại Đền Thờ Giêrusalem. Theo TM IV, vào chuyến hành hương đầu tiên thuộc đời sống công khai của Người, Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động tại Giêrusalem như thế đó, bắt đầu từ sân dành cho Lương dân, phần ít cao quí nhất của tiền đường, phần duy nhất mà người ngoại quốc được đặt chân đến.
Truyền thống vẫn yêu cầu người ta tỏ ra trang nghiêm kính cẩn tại vùng sân này, chẳng hạn, phải tránh đi qua đó chỉ để đi tắt. Nhưng các quy định này, đặc biệt vào dịp lễ Vượt Qua, không được tuân giữ: do khách hành hương phải chuẩn bị các của lễ đúng quy định (một con bò hoặc một con chiên cho trường hợp những người giàu, một con bồ câu cho trường hợp những người nghèo), và một nửa đồng bạc Do Thái (một siklos, hoặc shéqèl bằng 4 ngày công) đóng thuế Đền Thờ, họ đã mua bán đổi chác gây huyên náo hỗn độn ngay tại đây. Các cửa hàng của những người bán bò và chiên được bố trí dưới các cổng, bàn của những người đổi bạc được đặt ngay ngoài trời, đã biến vùng sân này thành một cửa hàng tạp hóa vĩ đại. Tất cả tùy thuộc cách người ta quan niệm việc thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Hẳn là dân chúng nghĩ rằng có thú vật và tiền lẻ ngay tầm tay và đặt mọi sự dưới quyền kiểm soát của giới hữu trách Đền Thờ là tiện nhất. Nhưng điều này lại không phù hợp với quan niệm của Đức Giêsu về nhà của Cha Người. Người gọi Thiên Chúa là Cha và xác định cách cư xử dựa trên ý tưởng Người có về nhà Thiên Chúa. Không phải là mọi chuyện đều có thể chấp nhận. Không phải là cứ chuyện nào tiện lợi hoặc đưa lại tiền bạc là đúng đắn. Buôn bán thú vật được dùng làm lễ hy sinh là một sinh hoạt đáng trọng, nhưng phải cách xa nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa và nơi người ta tôn kính Ngài. Đức Giêsu thấy có những lạm dụng.
Nay đã được đặt để trong chức năng Mêsia-Con Thiên Chúa, Đức Giêsu không chỉ vào Nhà Thiên Chúa như một khách hành hương, mà còn là người quản lý và chủ nhân. Nếu Người đã làm hành vi chứng tỏ uy quyền này ngay tại Đền Thờ có lẽ là để tự mạc khải ngay giữa lòng Do Thái giáo, trước mặt các nhà lãnh đạo và đám đông đa tạp các khách hành hương, nhờ thực hiện sấm ngôn Malakhi: “Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mới mà các ngươi đợi trông đang đến... Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim... Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi (các thừa tác viên Đền Thờ)...” (Ml 3,1-3).
Không màng tới các rủi ro, Đức Giêsu không ngần ngại nối kết sức lực của cánh tay vào sức mạnh của lời nói để thực hiện nguyện vọng của Cha Người, được diễn tả qua miệng ngôn sứ Dacaria: “Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn trong Nhà Đức Chúa các đạo binh nữa” (Dcr 14,21). “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7), nhưng “Phải chăng các ngươi coi nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, là hang trộm cướp sao?” (Gr 7,11). Đức Giêsu đã can thiệp với biện pháp rõ ràng và dứt khoát: “Người xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: ‘Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây’” (2,15-16). Trong nhà Chúa Cha, Chúa Cha đang hiện diện; người ta phải suy nghĩ và hành động tương ứng với chân lý này.
Cử chỉ này, trực tiếp nhắm đưa Đền Thờ trở lại với sự thanh sạch vẫn có, dường như có một tầm mức biểu tượng. Bằng cử chỉ này, Đức Kitô muốn nói rằng Người sẽ truất các tư tế mất quyền điều hành Đền Thờ Thiên Chúa và sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng lễ dâng tinh tuyền mà Thiên Chúa cũng đã loan báo qua miệng ngôn sứ Malakhi: “Ta chẳng ưng nhận lễ phẩm từ tay các ngươi dâng... Và ở khắp nơi, người ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta” (Ml 1,10-11). Đúng là đã tới giờ rồi.
Vào lúc ấy, hẳn là sự can thiệp cương quyết của Thầy đã khiến các môn đệ thắc mắc, nhưng nhất là khiến các ông lo sợ rằng Người sẽ phải gánh chịu những hậu quả tệ hại, từ phía những lái buôn và những thừa tác viên Đền Thờ. Khi đó, các môn đệ đã nghĩ tới tiếng kêu của tác giả Tv 69/68: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân...”, thiệt thân vì sự nhiệt thành của mình và vì những đối thủ. Vào lúc chịu Khổ Nạn, khi tuyên bố rằng Thánh vịnh này được ứng nghiệm nơi Người (Tv 69/68,5; x. Ga 15,15), Đức Giêsu công nhận rằng các ông đã linh cảm đúng: sự nhiệt thành đã thiêu đốt Người bên trong vào lễ Vượt Qua đầu tiên, sẽ thiêu đốt Người hoàn toàn vào lễ Vượt Qua cuối cùng, để biến Người thành một lễ hy sinh “đẹp lòng Chúa hơn bò bê đủ móng đủ sừng” (Tv 69/68,32). Người chính là Đấng công chính chịu đau khổ để thanh tẩy Đền Thờ và nền phượng tự cũ hầu xây dựng một Đền Thờ mới và thiết lập một nền phượng tự mới (cc.19-21). Việc chuyển đi từ cái cũ sang cái mới sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (18-22)
“Người Do Thái” đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), nhưng cũng là dân Do Thái, đã hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (c. 18). Đây là đề tài căn bản của tất cả những xung đột sau đó giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Do Thái giáo. Người đã yêu cầu trả lại phẩm cách trang nghiêm cho nhà Chúa Cha; điều này không thỏa mãn người Do Thái, cũng như tất cả những gì Đức Giêsu sẽ nói và sẽ làm cũng chẳng thỏa mãn họ (x. 5,16; 6,30; 9,16; 11,45-53). Hẳn là các nhà chức trách Do Thái cảm thấy khó chịu gai chướng bởi một sáng kiến vừa lạ lùng vừa cách mạng như thế: dù không có chức tư tế và không có nhiệm vụ gì ở Đền Thờ, Đức Giêsu vừa kết án một hệ thống được các nhà chức trách chuẩn nhận, mà như thế là tự cho mình có một uy quyền cao hơn uy quyền của họ. Thậm chí Người còn muốn nói là Người triệt tiêu nền phượng tự đã từng được Thiên Chúa thiết lập ở đấy, và như thế là tự gán cho mình có một uy quyền ngang bằng với uy quyền của Thiên Chúa mà Người gọi là “Cha Người”! Bởi vì Người cho rằng Người có một uy quyền thần linh, thì Người phải chứng minh điều ấy bằng cách làm một dấu lạ: một hành động phi thường cho thấy dấu ấn của Thiên Chúa trên sứ mạng cứu thế của Người (x. Mt 11,38; 16,1; Mc 8,11; Lc 11,16; 1 Cr 1,22).
Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy)” (c. 19). Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy...”. Với bối cảnh của cuộc tranh luận, Đức Giêsu dường như ám chỉ việc phá hủy và xây lại ngôi Đền Thờ bằng đá tọa lạc ngay gần bên. Người Do Thái nghĩ ngay đến Đền Thờ ấy, và cho rằng không thể được. Quả thật, phải là điên thì mới nghĩ có thể xây lại trong ba ngày; cũng phải là điên thì mới nghĩ rằng có thể đụng chạm được tới Đền Thờ này! Cứ lấy lương tri mà xét, lẽ ra người Do Thái không nên gán những ý tưởng ấy cho một người có đầu óc sáng suốt: là những người Đông phương, đã quen với giọng văn bóng bảy cũng như những câu nói hiểm hóc, hẳn là họ phải ngờ rằng ở đây có một ý hướng biểu tượng, nhất là những động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả. Nhưng họ cố ý xoáy vào ý nghĩa vật chất, cũng như người phụ nữ Samari khi đề cập tới nước ban sự sống (4,11-15), như những người Do Thái khi đề cập tới bánh ban sự sống (6,34) [xem lời các nhân chứng tạo tòa án (Mt 26,61; Mc 14,58) và những người qua đường (Mt 27,40; Mc 15,29)]. Dấu lạ Đức Giêsu loan báo ở đây tương ứng với câu trả lời cho người Pharisêu trong Mt 12,39t và 16,4.
Người Do Thái quy các lời Đức Giêsu nói vào ngôi Đền Thờ bằng gạch đá nên đã hiểu sai ý Người (x. 3,4). Đức Giêsu đang nói với họ: Các ông có thể giết chết tôi. Các ông có thể đẩy tôi đến thử thách lớn lao cùng cực nhất. Nhưng rồi tôi sẽ hoàn tất công trình của tôi và sẽ tự mạc khải ra vĩnh viễn.
Phần các môn đệ, sau khi Đức Giêsu sống lại, các ông mới hiểu được ý nghĩa của câu nói huyền bí ấy, và “đã tin vào lời Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói” (c. 22). Nhưng ở đây tác giả Gioan cho chúng ta được hiểu trước biến cố ấy: Đức Giêsu nói, không phải về Đền Thờ bằng gạch đá, nhưng hoàn toàn về Đền Thờ là thân thể của Người, nhân tính của Người. Các từ ngữ Người dùng phù hợp với ý nghĩa đó hơn: “Cứ làm tan rã Đền Thờ là thân thể của tôi đi (Các ông sẽ gây ra sự tan rã, cái chết, cho thân thể tôi), và trong ba ngày, tôi sẽ dựng lại (sẽ đánh thức dậy khỏi giấc ngủ ấy)”. Đàng khác, ý nghĩa hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh. Nếu các môn đệ đã linh cảm rằng lòng nhiệt thành của Đức Giêsu đối với ngôi nhà vật chất của Thiên Chúa sẽ khiến Người bị các đối thủ hãm hại (c. 17), Đức Giêsu còn biết rõ hơn các ông rằng cử chỉ này sẽ đưa Người tới cái chết. Như vậy, cái chết đối với Đức Giêsu không phải là một tai nạn bất ngờ hoặc một thất bại không thể tránh được, nhưng là một thử thách Người tự do chấp nhận, để rồi tiếp theo là một Sự Sống dồi dào phong phú hơn. Đã được báo trước như vậy, người Do Thái sẽ không thể coi đó là một chiến thắng, còn các môn đệ không thể coi đó là một cớ vấp phạm được.
Ở đây, ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, ta đã thấy rõ các hậu quả của cuộc xung đột sẽ là thế nào và mục tiêu của con đường Đức Giêsu theo là gì: chết và sống lại. Cuộc Phục Sinh sẽ chuẩn nhận cho tư cách của Đấng đã bị đẩy đến một cái chết khốc liệt do việc làm và yêu sách của Người. Do cái chết này, Đền Thờ mới sẽ được xây lên. Đức Giêsu Phục Sinh là “nơi” vĩnh viễn có Thiên Chúa hiện diện với Dân Người và có Dân Người thờ phượng Thiên Chúa: đây là “ngôi nhà Cha” hoàn hảo. Lời tiên báo của Đức Giêsu một phần cảm hứng từ một sấm ngôn của ngôn sứ Hôsê (Hs 6,2). Theo lời hứa của Đức Giêsu cho ông Nathanaen, các môn đệ khi ấy sẽ thấy Thầy họ là “Bết-Ên” thật, là Nhà Thiên Chúa và Cửa thiên đàng (1,51). Một cách gián tiếp, Đức Giêsu mạc khải cho các thính giả rằng Chúa Cha cư ngụ nơi Người một cách viên mãn và vĩnh viễn (8,16; 10,38; 14,10;16,32) và chỉ nơi Người, các tín hữu mới có thể gặp được Chúa Cha vô hình (14,6-10).
* Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (23-25)
TM IV nổi bật với sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các đối thủ. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, đã lộ rõ các yếu tố tiêu biểu của cuộc chiến đấu này: các người tranh chấp, đối tượng của cuộc tranh chấp và kết luận. Cuộc xung đột liên hệ đến quan niệm đúng đắn về Thiên Chúa: Đức Giêsu nhận biết Thiên Chúa như là Cha Người; tất cả những gì Người làm đều do Thiên Chúa gợi hứng và Người làm chứng về những điều đó; còn các đối thủ của Người lại cảm thấy bị Người gây chuyện, nên yêu cầu Người trưng ra những bằng chứng khác, và họ loại trừ Người. Phần các môn đệ, do đã để cho Người dẫn dắt, các ông đạt tới đức tin và sự hiểu biết đầy đủ. Còn đám đông bị đánh động bởi những gì Đức Giêsu thực hiện; nhưng Đức Giêsu không tin họ, nên Người giữ khoảng cách với họ. Tình trạng xung đột này sẽ đưa Đức Giêsu đến cái chết dữ dội, nhưng Người sẽ được xác nhận trọn vẹn bằng cuộc Phục Sinh.
+ Kết luận
Hôm ấy, Đức Giêsu đã vào Đền Thờ như vào “nhà Cha Người”; hôm ấy, vì yêu thương Chúa Cha, Người đã đuổi những con buôn khỏi Đền Thờ. Vì nhiệt thành lo cho nhà của Cha, vì muốn hoàn toàn dành ngôi nhà này cho Cha, Đức Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền lợi của Cha, trong khi vẫn làm chủ chính mình. Như thế, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, là bạn của kẻ tội lỗi, cũng biết nổi giận khi cần, vì vinh quang của Thiên Chúa Cha.
Sau này, đàng sau tấm màn bị xé rách của Đền Thờ và xuyên qua thân thể bầm dập của Đức Giêsu hấp hối, Thiên Chúa xuất hiện, bằng một tấm thân con người thật sự, đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu Ước, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, nay được thực hiện mãi mãi trong Đức Giêsu Phục Sinh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Theo Đức Giêsu, người ta không thể chấp nhận hay nhượng bộ mọi sự. Người ta có thể thông cảm cho việc trục trặc này, chuyện không xuôi chảy kia. Nhưng khi sự việc liên hệ đến việc thờ phượng Thiên Chúa, thì không được phép có lối suy nghĩ tương-đối-hóa. Khi sự việc liên hệ đến làm chứng cho mầu nhiệm Thiên Chúa, thì không được phép nửa vời. Phần chúng ta, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta đang có quan niệm nào về “nhà của Cha”, hoặc về nhiệm vụ và mục tiêu mà Ngài đã ban cho con người? Chúng ta có vận dụng trọn bản thân mình cho điều đó không?
2. Các đối thủ của Đức Giêsu cứ đòi Đức Giêsu phải trưng ra thêm các bằng chứng. Lý do không phải là để họ đạt được niềm tin tròn đầy, nhưng nói có vẻ nghịch lý, họ đòi các bằng chứng là để phủ nhận đức tin, để họ có cớ mà nói rằng họ không tin là phải. Toàn bọ TM IV là một bài học với nhiều minh họa về niềm tin như một sự phó thác vào Đấng được Thiên Chúa sai phái tới, là Đức Kitô. Trong những trường hợp nào, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đề những ranh giới dè dặt cho niềm tin tưởng của chúng ta vào Đức Giêsu, chúng ta nêu ra những điều kiện, và chúng ta đòi những đảm bảo?
3. Chứng từ của các môn đệ còn đấy: lời của Đức Giêsu có một trọng lượng như chính lời Kinh Thánh. Nhờ được Kinh Thánh thôi thúc, các ông hiểu lý do khiến Đức Giêsu phải chết; nhờ được lời Đức Giêsu soi sáng, các ông hiểu Đấng Phục Sinh chính là “nơi” vĩnh viễn có sự hiện diện và chăm sóc ân cần của Thiên Chúa. Đấy là một kinh nghiệm quan trọng được chia sẻ cho chúng ta, để hôm nay chúng ta biết tiếp tục dựa vào ánh sáng của Kinh Thánh mà khám phá thêm nữa mầu nhiệm Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể, đã chết và đã sống lại.
4. Để thực hiện được điều này, cần nhận lấy bài học khác của các môn đệ. Các ông đã rảo qua một đoạn đường dài cùng với Đức Giêsu và đã được Người liên tục dạy dỗ, rèn luyện. Chúng ta có thể chờ đợi để được dẫn đến chỗ hiểu biết đầy đủ về con đường của Đức Giêsu và con đường của chúng ta chăng?
56.Bắt đầu lại trong sự thật--Jean-Yves Garneau
Khi sự việc hư đi
Đa số những của cải trần thế này đều mau chóng biến chất. Chưa đầy hai năm mà chiếc xe lộng lẫy đắt tiền của chúng ta đã bắt đầu trục trặc rồi. Ghế trường kỷ đẹp đẽ trong phòng khách nhanh chóng bạc màu, nhất là nếu có trẻ con trong nhà. Nước sơn trên tường nhà bếp, những cánh cửa bằng gỗ, những chỗ nối các viên gạch hoặc các viên đá… Mọi sự đều xuống cấp một cách mau chóng lạ lùng.
Cũng y như vậy trong nhiều lãnh vực khác nữa. Một tình bạn nẩy sinh: mươi ngày sau, có lẽ người ta đã cãi nhau rồi. Kết hôn: đó là tình yêu lớn. Sáu tháng sau người ta không còn như trước nữa. Mọi sự không suôn sẻ nữa. Có những điều làm ta khó hiểu nhau. Có những hố sâu bắt đầu xuất hiện. Cũng một hiện tượng đó về mặt tôn giáo. Với thời gian, tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và anh em nguôi đi. Ta buông thả. Ta có những thói quen nhỏ ít nhiều không đúng đắn. Cũng như mọi sự khác, đời sống thiêng liêng cũng có thể xuống cấp… và trong thực tế rất thường xuống cấp.
Vào thời Chúa Giêsu, Đền Thờ phải là nơi cầu nguyện và dâng của lễ, nhưng người ta đã biến nó thành một cửa tiệm và một trung tâm buôn bán. Ở Công đồng Vatican II, người ta đã ý thức rằng phải thanh tẩy Giáo hội về nhiều mặt. Phải đổi mới nhiều điều khác. Phải loại bỏ đi nhiều điều khác nữa. Thật vậy, với thời gian mọi sự đều có thể xuống cấp.
Thẳng thắn nhìn vấn đề.
Sự kiện có bao nhiêu thứ hư hỏng đi theo thời gian xem ra không trầm trọng lắm. Nhưng không nhìn thấy điều đó hoặc tệ hơn nữa không chịu nhìn thấy, không ý thức vấn đề, làm như thể không có chuyện gì cả, đó mới là trầm trọng.
Chúa Giêsu đã thấy ngay những gì không ổn tại cửa đền thờ. Ngôi nhà dùng cho việc phụng tự đã trở thành nơi buôn bán. Chúng ta có sáng suốt như vậy để nhận thấy những gì đang xuống cấp trong cuộc sống Kitô của chúng ta không? Hay là chúng ta cứ nhắm mắt làm ngơ?
Tìm biết sự thật về tình trạng hiện thời của chúng ta. Đó là việc đầu tiên phải làm. Việc thiết yếu.
Cầm roi trong tay.
Sau khi thấy những gì không ổn trong Đền Thờ. Chúa Giêsu không mặc kệ bỏ đi, Ngài không làm ngơ. Cầm roi trong tay, Ngài hành động. Một cách hành động nghiêm khắc mà Ngài ít khi dùng trong đời Ngài.
Không cố gắng thì ta không đạt được gì cả. Điều này đúng về mặt luân lý và đời sống Kitô hơn về mọi phương diện khác. Chết đối với bản thân, móc mắt, chặt tay chân v.v… đó là kỹ thuật mà Chúa Kitô dạy. Roi ư? Tức là mọi năng lực ta có thể có được để xa lánh những nẻo đường mà trong đó chúng ta có nguy cơ sa lầy và để tiếp tục tăng trưởng.
Bắt đầu lại.
Cây không còn trổ lá nữa bởi vì đất đã khô cằn. Người ta bón phân cho nó. Thế là những chồi mới lại nhú ra. Lập gia đình đã hai năm rồi, đôi vợ chồng trẻ không còn yêu nhau như trước kia nữa. Họ muốn dành một buổi tối để kiểm điểm lại, nói với nhau vài sự thật. Cách bình thản. Và tình yêu của họ đã tìm lại được vẻ tươi mát ban đầu. Họ yêu nhau hơn trước kia nữa.
Cũng giống như vậy về mối tương quan giữa mỗi người chúng ta với Thiên Chúa. Đối với Ngài, không bao giờ có điều gì hoặc có ai đó đã hoàn toàn mất đi. Lầm đường vẫn còn có thể trở lui và đổi hướng. Những mối liên hệ bị cắt đứt có thể nối lại được. Tình yêu đã nguội lạnh có thể trở thành lò lửa. Với Ngài bao giờ cũng có thể bắt đầu lại và bao giờ cũng là lúc để bắt đầu lại. Và việc trước hết để bắt đầu lại là có cái nhìn sáng suốt về mình, về chính mình, về con người mà ta đang trở thành. Đó là Sự thật.
57.Đền thờ đích thật của sự thờ phượng và tập hợp--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Đoạn Phúc âm của thánh sử Gioan nói về Chúa đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ có một mạch lạc và đầy đủ ý nghĩa mà người ta khó lòng nhận ra được dễ dàng như vậy ở các thánh sử khác. Các thánh sử này biên soạn Phúc âm từ những quan điểm khác và quy tụ một các khác những tài liệu do đời sống Chúa cung cấp. Có những câu hỏi được đặt ra ở đây về sự phù hợp giữa những gì mà Gioan nói và những gì mà các Phúc âm Nhất lãm nói. Không đi sâu vào chi tiết, chúng ta chỉ đồng ý rằng: các khó khăn sẽ tan biến một khi người ta nhớ lại là thánh Gioan ưa trình bày một cảnh trí chung từ một sự kiện riêng rẽ. Cuộc đời Chúa Giêsu do thánh sử Gioan viết không có tính cách giai thoại. Bằng cách dùng những chi tiết cụ thể, thánh sử Gioan trình bày ở đây cho chúng ta thấy một bối cảnh qua đó, thánh sử muốn làm cho chúng ta nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai.
Giáo huấn rút ra từ cảnh tượng các kẻ buôn bán trong Đền thờ bị đuổi, có tính cách song đôi. Nó chứng tỏ cho chúng ta: 1. Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai; 2. Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai đích thân kế tiếp thực- tại tôn-giáo, được biểu thị qua Đền Thờ.
1) Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Chúa xử sự trong Đền thờ với một uy quyền mà chỉ có Đấng được Thiên Chúa sai đến và người Do Thái hằng mong đợi, mới dám tự cho mình như vậy, Người xuất hiện như trưởng tử của ngôi nhà và Người xưng hô Thiên Chúa là ‘Cha’ Người. Trước mắt người Do thái đương thời thì đó là đặc quyền dành cho Đấng Thiên Sai. Họ quả không lầm nên liền đó, họ xin Chúa Giêsu một dấu chỉ bảo đảm nguồn gốc Thiên Sai của Người. Nhưng Chúa Giêsu không cho dấu chỉ mà họ đòi hỏi, vì Chúa biết họ không thể tin được. Người ta đã vạch lá tìm sâu rất nhiều câu nói sau đây của Chúa: “Đừng biến nhà Cha Ta thành cửa tiệm buôn bán”. Dĩ nhiên khi người ta buôn bán trong nhà thờ, người ta xúc phạm đến Ngôi Nhà của Thiên Chúa. Thỉnh thoảng cũng cần phải lột mặt nạ sự buôn bán thật sự này nọ. Ví dụ, khi người ta gay gắt đả kích thói tục đốt nến, thì từ khi đó, người ta có quyền dùng toà giảng để đề cao những lợi ích có tính cách thế tục, dầu là ở lãnh vực chính trị hay bất cứ lãnh vực nào không?
2) Hãy phá Đền thờ này, trong 3 ngày Ta sẽ xây lại. Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho người Do thái khi họ đòi hỏi Người một dấu chỉ. Dấu chỉ đó là cái chết, và sự phục sinh của Người. Quả thật, Chúa Giêsu đã đưa ra một câu trả lời che đậy mà chính các môn đệ cũng không hiểu ngay. Họ sẽ hiểu sau này khi Chúa sống lại. Sau này, họ sẽ hiểu là Đền thờ vật chất nơi tế lễ và tập hợp dân chúng, sẽ bị phá huỷ, sẽ trở thành vô ích. Nó sẽ bị “giải nhiệm” theo ý nghĩa là, một Đền thờ khác sẽ được dựng lên cho việc tế lế và tập hợp nhân loại. Đền thờ đó, chính là bản thân Chúa Giêsu. Người đích thân chu toàn việc tế lễ trọn hảo của sự ngợi khen và đền tạ. Người quy tụ nơi mình Người tất cả chúng sinh trong một sự hiệp thông chặt chẽ và phổ quát. Chúng ta phải tìm gặp Thiên Chuá (cách đích thật) và anh em ta (cách sâu sắc) ở đâu?
Ba ngày đây ám chỉ đến quãng thời gian vắn vỏi giữa cuộc khổ nạn và sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Kiểu nói ‘Ba ngày’ này còn có cái lợi khác: nó dùng để chỉ ‘chẳng bao lâu nữa’. Ngày nay, chúng ta quen nói: ‘Trong giăm phút nữa’ để diễn tả một thời gian ngắn nữa thôi. Chúa Giêsu phán: ‘Trong ba ngày’ để chỉ rằng: Chúa làm chủ thời gian và khi nào Người muốn, Thiên Chúa sẽ chi phối mọ chi tiết. Nhân dịp này, chúng ta có thể nghĩ đến thân xác chúng ta mà thánh Phaolô gọi là ‘Đền thờ’ của Thiên Chúa. Nó sẽ bị cái chết phá huỷ. Bao giờ nó sẽ được tái thiết, chừng nào nó sẽ phục sinh? Chúng ta biết rằng mọi kỳ hạn nơi Thiên Chúa vắn vỏi, mặc dầu những tính toán của con người đo lường thời gian bằng đơn vị nghìn vạn thế kỷ.
58.Dấu lạ của việc thanh tẩy đền thờ (2,13-22)--Alain Marchabour
Cả bốn Tin Mừng đều trình thuật về Đền thờ (Mc 11,15-17 và tương đương). Thế nhưng giữa ba Tin Mừng khác, có nhiều điểm khác biệt quan trọng, đặc biệt nhất là vấn đề xác định thời gian: đối với Gioan, đó là vào lúc Chúa mới bắt đầu cuộc đời công khai, đối với các sách Tin Mừng Nhất Lãm thì lại vào cuối đời sống công khai. Hơn nữa Gioan là tác giả duy nhất tường thuật dài về việc xua đuổi con buôn ra khỏi Đền thờ bằng việc người Do Thái yêu cầu một dấu lạ và Chúa Giêsu trả lời về việc phá hủy Đền thờ và xây dựng lại trong ba ngày. Chính Gioan phải chịu trách nhiệm về việc di dịch biến cố. Ông chỉ tỏ sự đoạn tuyệt với Do Thái giáo ngay từ lúc Chúa khởi đầu đời sống công khai của Chúa Giêsu (phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của Giáo Hội của mình). Từ ngữ được sử dụng xác quyết điều đó: đó là lễ Vượt Qua của người Do Thái; dung ngữ này còn lặp lại trong 6,4 và 11,55 (cũng như trong 7,2 nhân dịp lễ Lều) và làm lệch đi sự xa cách và ngay cả sự đoạn tuyệt giữa các tín hữu tiên khởi và cộng đoàn Do Thái.
DẪN NHẬP (cc. 13-14)
Phần dẫn nhập xác định quang cảnh và địa điểm. Chúa Giêsu lên Giêrusalem lần này là lần đầu tiên và Người lên đây đúng vào “lúc gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái”. Dụng ngữ này, lặp lại ba lần trong Tin Mừng (6,4; 11,555) xác định sự chính xác về nguồn tin của Gioan. Ba lần lễ Vượt Qua phù hợp với hai năm rưỡi đời sống công khai của Chúa Giêsu. Đem so chiếu với những đại lễ Do Thái với những đại lễ Do Thái này có một ý nghĩa khác nơi con người của Chúa Giêsu.
Con buôn bày bán dưới các hành lang trên sân Dân ngoại (tiếng Hy Lạp hieron, dịch ra ở đây là “đền”) chứ không phải bên trong Đền thờ. Ngoài ra điều đó rất khó mà tránh khỏi khi người ta muốn cho khách hành hương, nhân dịp về Giêrusalem, có thể đổi bạc để có được chiên bò dâng làm của lễ hiến tế. Chúa, vị ngôn sứ đầy nhiệt tâm trước những quyền của Thiên Chúa, xem điều đó như làm ô uế Đền thờ.
HÀNH ĐỘNG NGÔN SỨ (cc. 15-16)
Việc can thiệp của Chúa Giêsu liên kết với những hành động mà các ngôn sứ thường làm để thông truyền sứ điệp cho có hiệu quả hơn. Nó gồm một hành động và hai lời giải thích. Hành động ở đây dồi dào hơn ở trong bài trần thuật Nhất Lãm: lấy dây làm roi, có nhiều chiên bò trong Đền thờ. Thời bấy giờ dọc theo Cédron hay trên núi Olivêtê có một chợ súc vật dùng làm của lễ dâng cúng, do nhóm Sanhédrin tổ chức. Trước cảnh tục hóa như thế, Chúa Giêsu chống đối theo đường hướng của các ngôn sứ như Giêrêmia (7,14), Malakhi (3,1) hoặc Israel (65,7) đã làm trước Người. Người chứng tỏ việc tẩy uế Đền thờ được tiên liệu vào thời cánh chung hiện đang tiến hành.
Lời Người nói có hai phần: Trước hết Người yêu cầu chính đáng một tập tục bất xứng với Thiên Chúa. Lời này không hẳn là một trích dẫn Kinh Thánh, dù rằng điều đó được nói đến trong Zacaria 14,21: “Vả trong ngày đó sẽ không còn kẻ buôn bán nơi Đền thờ Chúa quân lực nữa”. Ở đây Chúa Giêsu hành xử như Người bênh vực quyền lợi của Thiên Chúa. Người vén lên bức màn về mối liên hệ duy nhất giữa Người với Chúa Cha. Sau đó, Chúa Giêsu đáp ứng yêu cầu dấu lạ bằng một lời huyền nhiệm về Đền thờ. (không phải hieron nữa, mà là naos, nghĩa là chính cung thánh).
Việc so chiếu với các sách Tin Mừng Nhất Lãm về vấn đề này sẽ làm cho dễ hiểu hơn. Ở trong Nhất Lãm có một câu gần gũi với câu trên nhưng với những điều khác biệt quan trọng: trong Nhất Lãm, lời tuyên bố về việc phá hủy Đền thờ được những kẻ làm chứng gian hiểm độc nói lại; còn trong Gioan, lời này được đặt vào trong môi miệng Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng Maccô, việc phá hủy Đền thờ được quy cho Chúa Giêsu: “Tôi sẽ phá” (14,58); trong Tin Mừng Gioan, lời nói đó đối đáp với những người đối thoại: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi”. Ngoài ra Gioan cố ý dùng cụm từ “Tôi sẽ xây dựng lại Đền thờ này” để chỉ công việc xây dựng cũng như để chỉ sự sống lại.
GIẢI THÍCH (cc 17-22)
Như vậy không dễ gì hiểu được nền tảng lịch sử rõ ràng về bài trần thuật này. Ta có thể nghĩ đến một hành động tượng trưng chống lại các lạm dụng trong Đền thờ. Sự hiện diện của các người đổi bạc là cần thiết để khách hành hương có thể đổi những đồng bạc mang dấu ấn triều đình để lấy đồng tiền trong sạch. Cũng vậy việc buôn bán gia súc dùng làm của lễ dâng cúng là một nhu cầu. Trừ khi nghĩ đến sự phản kháng triệt để về việc thờ phượng do Chúa Giêsu… còn thì toàn thể Tin Mừng không đi theo chiều hướng đó. Chỉ cần lưu ý đến sự băng hoại nổi tiếng của gia đình Anna, thượng tế tiền nhiệm của Caipha. Bù lại, một sự công kích triệt để như thế về của lễ dâng cúng đã được cộng đoàn của Gioan nhấn mạnh, sau khi Đền thờ bị phá hủy, đánh dấu sự kết thúc việc hiến tế.
Tác giả thận trọng về các vấn đề trên: ông để tâm đến việc khác. Ông chứng tỏ điều đó bằng cách đưa vào trong bài trần thuật của mình nhiều chú thích. Chúng ta hãy ghi lại:
a. Sự liên quan mật thiết với phép lạ ở Cana. Quả vậy cả hai cảnh tượng có nhiều điểm tương đồng. Cả hai đều kể đến một sự chuyển tiếp: những chum đá rỗng không, đền thờ trống vắng. Mối liên hệ với lễ Vượt Qua được chú ý trong bài trần thuật thứ nhất: “ngày thứ ba, vinh quang”, và trong bài thứ hai: “vào dịp lễ Vượt Qua”, “nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (2,19), “khi Người từ cõi chết chỗi dậy”(2,22).
b. Các lời chú giải của thánh sử. Tác giả trong khi đưa vào trong bài trần thuật những suy tư của riêng mình hướng dẫn chúng ta xem xét: “Các môn đệ của Người nhớ lại…” (2,17). Thánh vịnh 69,9-10 soi dẫn cộng đoàn tiên khởi của Gioan, có đoạn sau:
“Anh em nhà kể con như người dưng nước lã
Hàng máu mủ xem con bằng khách lạ mà thôi.
Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân.
Lời kẻ thoá mạ Ngài, này chính con hứng chịu”.
Vậy nên, Gioan hiểu được sự cô đơn của Chúa Giêsu đối với anh em của Người (và rộng hơn đối với dân tộc của Người) cũng như hiểu được số phận bị thảm của Người: nhiệt tâm lo việc nhà Chúa của Chúa Giêsu đưa Người đi đến cái chết. Thế nhưng suy tư tiếp theo của thánh sử tiến dẫn nguyên nhân của sự phục sinh. “Các môn đệ nhớ lại…và tin”.
Trong bài trần thuật này, Đền thờ mới, Chúa Kitô, chiếm vị trí của Đền thờ cũ (biến mất vào thời biên soạn Tin Mừng), ta sẽ không khỏi khâm phục tác giả đã khéo léo liên kết Kinh Thánh, các sự kiện liên quan đến Chúa Giêsu và sự suy niệm Phục Sinh.
CHUYỂN TIẾP (2,23-25)
Cảnh tiếp theo tạo nên một sự chuyển tiếp khéo léo giữa hai cảnh Cana và cảnh tẩy uế Đền thờ và cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô. Ta có thể nhận thấy ở đó một kết luận đã tỉnh ngộ với sự cương quyết dứt khoát với Do Thái giáo được thể hiện trong bài trần thuật về Cana và hành động ngôn sứ từ việc xua đuổi những người mua bán trong Đến thờ. Đồng thời sự cảm nghiệm thất bại này chuẩn bị cuộc gặp gỡ với một nhân vật tiêu biểu của Do Thái giáo: ông Nicôđêmô, dù có thiện chí phấn đấu, vẫn được xem như không thể tiếp bước theo Chúa Giêsu với những đòi buộc của Người. Sự nghi ngờ này xảy ra ở giữa sự từ khước có hệ thống cho nhóm Do Thái chính cống và đức tin của các môn đệ. Gioan không xác định bản chất các dấu lạ Chúa Giêsu đã làm tại Giêrusalem (xem thêm 4,45)
59.Giữ trong sạch nhà Cha--Noel Quesson
“Đừng biến nhà Cha Tôi, thành nơi chợ búa”
Trong tác phẩm “Chim hót trong bụi gai” tác giả kể chuyện một linh mục, cha Rap (Ralph). Cha Rap là một linh mục trẻ, có khả năng nhưng lại đầy tham vọng. Cha mong muốn thành công, muốn nổi danh và cũng ham tiền. Một giáo dân đã nhận ra chân tướng của vị linh mục. Bà phú hộ thương thầm cha nhưng không được đáp lại. Bà liền trả thù bằng cách hiến toàn bộ tài sản của bà cho Giáo Hội, với điều kiện phải cử cha Rap làm quản lý tài sản đó. Cách trả thù của bà phú hộ đã thành công.
Câu chuyện cốt phê bình chỉ trích Giáo Hội, nhưng cũng nói lên một thực tại, Giáo Hội của Đức Kitô bản chất tinh tuyền, nhưng lại gồm những con người bằng xương bằng thịt và có thể bị ảnh hưởng xấu do tiền của. Là con người, thì ai cũng phải cẩn thận lắm, khi sử dụng tiền của. Tiền của cần thiết cho mọi người, cho mọi tổ chức và cho cả Giáo Hội. Nhưng nó dễ chiếm địa vị độc tôn, khi ấy nó trở thành chủ nhân như Chúa cảnh giác ta về tình trạng đó: “Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của” (Mt 6,24).
Tục ngữ có nói, đồng tiền liền khúc ruột. Còn Chúa Giêsu bảo ta: “Kho tàng con nơi đâu thì lòng dạ con ở đó” (Mt 6,21). Cũng như khi ta đặt một đồng tiền trước mắt, thì nó che chắn hết mọi cảnh vật, và trong thực tế nó có thể che chắn cả việc đạo đức, cả mọi ý hướng tốt lành.
Và nhiều khi có tiền bạc xen vào các việc thờ tự thì người ta dễ hiểu lầm. Phụng vụ xưa cũng như nay, cần có những lễ vật. Lễ vật trong phụng vụ xưa là chiên bò, chim câu cũng như bây giờ có hương hoa, đèn nến. Những thứ đó là tùy phụ, giúp con người biểu lộ tâm tình thờ phượng. Nhưng một khi những thứ tùy phụ đó lại trở thành chính cốt thì con người quên cả tâm tình bên trong. Và Chúa Giêsu đã phải tuyên bố: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Chúa không ưa kiểu tính toán của dân buôn, không thích nghe tiếng sột soạt, leng keng của tiền bạc bên cạnh bàn thờ.
Chúa Giêsu nói tới Nhà Cha với một cảm tình quen thuộc, thân thương. Chúng ta tới với Chúa như người con về nhà Cha mình. Đó là cốt lõi của phụng tự, của nghi lễ của cầu nguyện, của cuộc đời Kitô hữu. Vậy điều cần thiết là phải lo sao cho tinh thần mình xứng hợp với ý Chúa, lo cho cuộc sống Kitô hữu của mình được trong sạch, hơn mọi mối lo khác, hơn mọi dáng vẻ vật chất, và đẹp đẽ trong phụng vụ, trong tổ chức, trong việc tô điểm Giáo đường, và mọi sinh hoạt tôn giáo khác.
Giá trị chính yếu của con người, và việc giúp con người phụng sự Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dâng hiến chính bản thân mình chúng con làm lễ tế sống thánh thiện để tôn thờ Chúa!
60.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Noel Quesson
Gần đến Lễ Vượt qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem.
Đức Giêsu là một người Do Thái nhiệt thành sống đạo. Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan đã bảy lần ghi lại Đức Giêsu tham dự những buổi lễ trọng phải hành hương (Ga 5,1; 6,4; 7,2; 10,22; 11,55; 12,1; 13,1), đặc biệt là Lễ Vượt qua vào Mùa Xuân và Lễ Lều trại vào Mùa Thu. Trước hết tôi chiêm ngưỡng Đức Giêsu, với tư thế là một người trần hòa lẫn trong đám đông, đang cầu nguyện ca hát trên bước đường hành hương, rồi trên sân trước của Đền thờ. Cho dù trên thực tế, Đức Giêsu đã sửa đổi rất kỹ những nghi thức phụng tự Do Thái, nhưng về mặt giáo lý Người không chủ trương bài xích. Cuốn phim “Lễ vật toàn thiêu” nhắc lại cho ta thấy sự đau khổ của dân tộc này mà Đức Giêsu là thành phần; một dân tộc luôn mang một định mệnh đặc biệt cách nhiệm mầu. Trang Tin Mừng trên đây của thánh Gioan bắt đầu bằng "Lễ Vượt Qua của người Do Thái" (câu 13), và kết thúc với "Lễ Vượt Qua của Đức Giêsu (câu 2) nhằm nhắc lại những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu đều là người Do Thái, là những kẻ “tin vào danh Người trong dịp lễ Vượt Qua" (câu 23). Từ ‘lễ Vượt qua của người Do Thái’ đến ‘Lễ Vượt qua Kitô giáo’, luôn thể hiện cùng một mầu nhiệm khôn dò: Mầu nhiệm phá hủy một đền thờ, rồi nhờ đó lại mọc lên một đền thờ khác.
Người thấy trong Đền thờ có những kẻ bán chiên bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người bèn lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây”.
Tranh ảnh Kitô giáo đã không bỏ sót diễn tả những cảnh này với màu sắc và hành động thật là phong phú. Đức Giêsu đang nổi giận, cầm roi trong tay, xua đuổi "phường buôn bán ra khỏi Đền thờ". Chúng ta cần phải vượt qua giới hạn của "biến cố" trên, để tìm hiểu ý nghĩa thần học sâu xa của pha cảnh. Trong câu này, ta nhận thấy, hình như Đức Giêsu đối xử với những kẻ bán bồ câu với thái độ khác thường, tử tế hơn so với những kẻ khác: Vì bồ câu thuộc "lễ vật của người nghèo", lễ vật của những người như Đức Maria xưa kia, đã không đủ tiền để mua những con vật lớn. Ở đây, Đức Giêsu chứng tỏ thái độ ưu ái đối với những người nghèo mà Người không ngừng biểu lộ.
Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi chợ búa.
Những con buôn và phường đổi tiền không nhất thiết là những người xấu. Thực ra, họ đã phục vụ đáng kể đối với các tín hữu từ xa đến, đang cần sắm sửa tại chỗ những lễ vật cần thiết để tiến dâng: Như trướng hợp Maria và Giuse, đến đền thờ trong ngày hiến dâng con mình, hẳn là rất hài lòng gặp được những người buôn bán như thế, để mua sắrn một cặp bồ câu non (Lc 2,24). Vì thế, chúng ta dễ sai lầm nếu chúng ta chỉ đọc trang Tin Mừng trên cách hời hợt, nhất là chúng ta chỉ áp dụng trang sách đó cho kẻ khác. Chúng ta rất dễ nổi giận, dễ dùng lời nói mà không sợ bị liên lụy để chống lại tiền bạc, sự mua bán trái phép, những "ồn ào của bạc tiền" chung quanh bàn thờ, xã hội tiêu thụ, đề cao lợi nhuận trong các nền kinh tế phương Tây. Đức Giêsu quả đã là một người nghèo thực sự. Người đã nổi giận trước vị trí quá lớn của tiền bạc đang ngự trị trong Đền thờ. Chắc chắn là thế! Như vậy, chính chúng ta cũng phải hoán cải về vấn đề này. Lạy Chúa, xin cứu chữa chúng con khỏi lòng dính bén với tiền bạc.
Nhưng điểm cốt yếu của trang Tin Mừng hôm nay không nằm ở đó.
Chúng ta hãy lắng nghe kỹ kiểu nói lạ thường mà Đức Giêsu sử dụng để nói về đền thờ: "Nhà của Cha Tôi". Chúng ta quá chán với kiểu nói đó. Tuy nhiên chúng làm cho ta càng phải tìm hiểu sâu xa hơn căn tính của "con người" này, Giêsu thành Nagiarét? Trong con người đó đang ẩn chứa một bí nhiệm to lớn biết bao! Giữa Người và Thiên Chúa, có một mối tình yêu thương mật thiết biết bao! Người đang hiện diện nơi nhà mình, trong đền thánh của Giavê. Nơi thánh này, chính diện bất khả xâm phạm này, không ai được phép vào trừ vị Thượng tế, mỗi năm một lần (Dt 9,7). Đó là nơi "chí thánh", nó "tách biệt" với tất cả "không ai được đụng chạm" đến, không ai bước vào mà không phải chết. Thế mà nói một cách hết sức tự nhiên, đó là "nhà của Cha Người", là nhà của Người, vì Người là con. Vào lúc 12 tuổi, Người cũng nói như thế, nhưng không ai hiểu cả, ngay cả mẹ Người là Đức Maria: Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?" (Lc 2,49).
Vâng! yếu tố trước nhất trong việc phụng tự mà ta thể hiện với Thiên Chúa, không phải là việc làm bề ngoài (như bò, chiên, bồ câu) mà là tấm lòng con thảo ta đặt vào đó. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi mối bận tâm quá đề cao những nghi lễ, những hình thức bên ngoài.
Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh thánh: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây đã phải thiệt vào thân" (Tv 69,10).
Đối với Đức Giêsu "tình yêu Chúa Cha" luôn thiêu đốt Người, nói cách văn vẻ, như ngọn lửa ngốn trọn những nhánh củi khô. Lễ vật dâng lên Chúa Cha của Đức Giêsu không theo "nghi thức", nghĩa là những gì ở bên ngoài Người. Người sẽ dâng hiến chính bản thân mình làm lễ vật và trọn cuộc sống Người luôn là một của lễ như thế. Còn đối với tôi, việc phụng tự ra sao? Nó mang hình thức nào? Tôi ‘dự lễ’ hay tôi ‘chung phần’ vào thánh lễ? Cùng với Đức Giêsu, tôi có được Thiên Chúa khơi lửa nhiệt tình, nung đốt tình yêu và làm cho say đắm không? Ôi! lạy Cha, con cũng muốn rằng, từ giờ trở đi, nhà của Cha sẽ làm cho con phải thiệt vào thân vì yêu mến, Nếu Đức Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ như thế, chính là vì danh dự và vinh quang của Cha Người đã bị xúc phạm trong việc "buôn bán trái phép" đó. Đức Giêsu quả là một con người say mê Thiên Chúa, sống cho quyền lợi của Thiên Chúa.
Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại. Người Do Thái nói: Đền thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây dựng lại được sao?”
Ở đây bản văn Hy Lạp không dùng từ "đền thờ" (iéron) mà là từ "thánh điện" (naos). Và đó không phải là điều ngẫu nhiên, bởi vì trước đó, cùng trong cùng bản văn, Gioan đã sử dụng chính xác từ "đền thờ". Người thấy trong đền (iéron) có những kẻ buôn bán; và Người xua đuổi họ ra khỏi đền thờ (iéron). Theo nghĩa này, đền thờ là toàn bộ những công trình kiến trúc, kể cả đường dạo chơi, công trường, các sân phía trước. Nhưng giờ đây Đức Giêsu đi xa hơn nhiều, khi Người nói: "Các ông cứ phá hủy thánh điện (naos) này đi”, tai hại biết bao, nếu những người dịch không tôn trọng bản văn! Thánh điện chỉ là phần kiến trúc hoàn toàn bé nhỏ, những quý giá nhất của toàn bộ đền thờ; là trung tâm điểm, nơi Thiên Chúa hiện diện (shékinah). Chúng ta đừng quên rằng, Đức Giêsu sẽ bị kết án tử hình do lời tố cáo sai lầm vì Người đã tuyên bố: “Tôi sẽ phá thánh điện này và sẽ xây cất lại" (Mt 26,6). Thực sự đó là một lời phạm thượng. Thánh điện này vẫn hoàn toàn mới mẻ, được Hêrôdê cho phép khởi công xây cất 50 năm trước đó. Đó là niềm tự hào của quốc gia, là nơi tôn kính để cầu nguyện và hành hương, mà mỗi năm hàng triệu người tới viếng thăm. Đó cũng là nơi phụng tự duy nhất" của Israel. Quả thực, con người này bạo gan mới dám nói như thế! Phát triển như thế, cũng như người nào đó tuyên bố: "Cứ phá Đền thờ thánh Phêrô ở Rôma đi hay cứ phá đền thánh Lộ Đức, nhà thờ Đức bà ở Paris hay vương cung thánh đường ở Angers...". Thế mà, Đức Giêsu nói năng tự nhiên, không có vẻ gì của một kẻ khiêu khích cả.
Nhưng đền thờ (naos) Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính mình Người.
Đền thờ ở đây, bản văn Hy Lạp dùng từ "thánh điện" (naos). Hiển nhiên, ta đang ở vào trung tâm của trang Tin Mừng trên. Ta thử tìm hiểu thêm, Đức Giêsu đã ý thức về mình thế nào. Người biết Người là ai. Người nói: Người là một thánh điện. Đức Giêsu tự tạo cho mình thành "nơi Thiên Chúa hiện diện". Chính thân xác Người là "đền thờ mới", là nơi "phụng tự mới". Gioan Tẩy giả đã chỉ Người như Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Phải, Đức Giêsu đã phịu sát tế trên ngọn đồi ngoài cửa thành, hy sinh vào đúng giờ mà trong Đền thờ người ta đang sát tế nhiều chiên Vượt Qua, ngày áp lễ "Vượt Qua trọng đại" (Ga 19,31). Bằng chính thân xác mình chịu hy sinh, Đức Giêsu đến thay thế cho mọi lễ vật và làm cho Đền thờ Giêrusalem trở nên vô tích sự và màn trong Đền lúc đó có thể bị xé bỏ (Mt 27,51). Từ thân xác đó sẽ tuôn ra "con sông với dòng nước mạnh" (Ga 19,84): Nước và máu đã được ngôn sứ Edêkien báo trước, sẽ từ thánh điện chảy ra (Ed 41,l-12).
Vậy khi người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó.
Do đó, Lễ Vượt qua của Đức Giêsu và của các Kitô hữu đã kết thúc "Lễ Vượt qua của người Do Thái", như đã đề cập đến đầu trang Tin Mừng trên. Đây là cuộc giải phóng phi thường và triệt để, mà cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập chỉ là sự báo trước và là hình ảnh tiêu biểu. Đây là Đền thờ mới, làm vô hiệu mọi nơi thờ tự khác. Như vậy, nơi Thiên Chúa hiện diện không còn là một lâu đài nữa, mà là một Đấng nào đó: Đó là Thân mình Đức Kitô. Tất cả phụng vụ Kitô giáo chỉ được thể hiện chung quanh thân thể này. Nhưng chúng ta cần hiểu thêm, mầu nhiệm này còn đi xa biết bao? Sau này, thánh Phaolô sẽ nói với các Kitô hữu, các kẻ bốc dỡ hàng tại cảng Côrintô: “Anh ern là Thân mình Đức Kitô” (1Cr 12,27). Đó là cơ sở để xây dựng phẩm giá cao cả của con người: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (1Cr 3,16-l7).
Như thế, không phải chỉ có "thân xác Phục sinh" của Đức Giêsu mới là Đền thờ mới, mà cả "thân xác của mỗi người đã chịu phép rửa": "Anh em không biết rằng thân xác của anh em là Đền thờ của Thánh Thần, và Thánh Thần đang ngự trong anh em sao?" (1Cr 6,19-20). Thánh Âu Tinh cũng nói với các tín hữu của mình: "Khi linh mục nói với anh em "Mình Thánh Chúa Kitô", anh em đáp lại: “Amen" với niềm xác tín anh em đang "hiện diện trong Đức Kitô". Có một bản thánh ca ngợi khen mầu nhiệm này như sau: "Chớ gì chúng con trở nên mình thánh biết sung sướng tạ ơn; chớ gì chúng con trở nên mình thánh, giữ gìn Giao ước của Chúa...".
Chúng ta tuôn có huynh hướng "ấn định chỗ ở cho Thiên Chúa", xây dựng cho Người những "nhà tù sơn son thiếp vàng", những "thánh điện" để cô lập Người, gạt Người ra khỏi thế giới, khỏi cuộc sống của ta. Nhưng không có nhà thờ nào, vương cung thánh đường hay đền thánh nào có thể giam giữ Thân mình Đức Kitô được? Anh em là Thân mình Đức Kitô! Tôi là Thân mình Đức Kitô! Khi nhận mình thánh Đức Giêsu, tôi "trở nên" Thân mình của Người, trở nên thánh điện.
Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp Lễ Vượt qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người.
61.Tẩy uế đền thờ--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Lễ vượt qua của người Do thái gần đến”. Thời gian xảy ra dấu chỉ đây tự nhiên làm ta nghĩ tới lễ Vượt qua trong đó Chúa Giêsu sẽ bị lên án tử hình; tương quan giữa việc tẩy uế Đền thờ và cuộc Tử nạn của Chúa Kitô như thế là đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47 ghi chú rằng việc can thiệp này của Chúa Giêsu nhằm lên án giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ thúc đẩy các tư tế và ký lục "tìm cách hại Người".
"Người gặp thấy trong Đền thờ": Đền thờ gợi lên tất cả hệ thống phụng tự cổ xưa vốn tập trung hoàn toàn tại đó. Cũng tại đó, các lái buôn bán súc vật để làm lễ hy tế riêng và những người đổi tiền đổi cho bạn tiền Do thái (tiền cũ của vùng Tyrô) là thứ tiền duy nhất được chấp nhận để trả thuế Đền thờ.
"Một cái chợ": thành ngữ này cảm hứng từ Dcr 14,21, trong khi Tin mừng Nhất Lãm, vì muốn đối chọi hoàn cảnh hiện tại (‘một hang trộm cướp’) với lý tưởng Thiên Chúa muốn (‘một nhà cầu nguyện’), nên dã trích dẫn Gr 7,11 và Is 56,7.
"Môn đồ nhớ lại": Các môn đồ chỉ hiểu được câu chuyện này sau khi Chúa Giêsu sống lại, lúc Thần khí đã cho họ ơn thông hiểu các dấu chỉ Thầy đã làm.
"Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa sẽ nghiến cả mình tôi”: Thánh vịnh 69 trình bày người Công chính trị thiêu đốt bởi lòng nhiệt thành đối với sự thánh thiện của nhà Thiên Chúa, nhưng lòng nhiệt thành này khiến ông phải bị bách hại. Ga 15,25 và 19,29 cũng sẽ còn trích dẫn thánh vịnh 69, luôn luôn trong tương quan với cuộc Khổ nạn chia Chúa Kitô. Thành thử ý nghĩa của câu trích dẫn này trong văn mạch hiện tại là như sau: cũng như người Công chính đau khổ đã phải trả giá cho lòng nhiệt thành đối với Đền thờ thì Chúa Kitô, khi tẩy uế Đền thờ cũng gây nên đau khổ và cái chết cho bản thân.
Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ và phụng tự cũ hầu xây dựng một Đền thờ mới cùng thiết lập một phụng tự mới (cc.19-20); việc đi từ cũ sang mới này sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Người.
"Người Do thái": Trong thực tế, đây là các chức sắc trong Đền thờ (tư tế, Lêvi và vệ binh) có trách nhiệm về những chuyện Chúa Giêsu kết án. Tuy nhiên, như hết mọi nơi trong Tin Mừng của ông, Gioan không phân biệt giới lãnh đạo với toàn thể dân Do thái đã từ chối tin vào Chúa Kitô. Thành thử đây là vấn đề hệ thống phụng tự của toàn dân Do thái.
"Dấu nào ông tỏ ra được cho chúng tôi?": Qua câu này, người Do thái muốn nói tới một hành động phi thường vốn sẽ biểu lộ dấu ấn Thiên Chúa trên sứ mệnh Chúa Giêsu. Mt 12,38; 16,1; Mc 8,11 và Lc 11,16 cũng ghi lại một lời yêu cầu tương tự của Biệt phái. Dcr 1,22 bảo người Do thái hay đòi hỏi như vậy.
"Hãy phá hủy Đền thờ này đi": Vì không tin, người Do thái sẽ trở thành dụng cụ gây nên dấu chỉ họ đòi hỏi. Về sau câu nói này của Chúa Giêsu sẽ bị nhắc lại bởi các chứng nhân trong vụ án xử Người (Mt 26,61; Mc 14,58) và bởi khách bộ hành lăng nhục Người dưới chân thập giá (Mt 27,40; Mc 15,29) Dấu chỉ Chúa Giêsu loan báo đây tương ứng với câu Người trả lời cho Biệt phái trong Mt 12,29t và 16,4: "Con Người, Người đã nói về Đền thờ thân thể Người'': Đền thờ mới thay thế Đền thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của Chúa Kitô.Tín hữu thành Ephêsô, độc giả trực tiếp của Gioan, rất quen thuộc với một sự đồng hóa như vậy vì Dcr 3,16 và 12,27 (được viết tại Ephêsô) cũng như Ep 2,21 và 4,12 đều nói Kitô hữu vừa là Đền thờ của Thiên Chúa, vừa là thân thể Chúa Kitô, với lối giải thích này của Phaolô, Đền thờ mới chính là Giáo hội, Thân thể vinh hiển của Chúa Kitô phục sinh mà mọi tín hữu đều kết hợp vào.
"Vậy khi Người phục sinh từ cõi chết, môn đồ người nhớ lại... họ đã tin": Maccô thường ghi nhận là các môn đồ không hiểu gì hết. Gioan thì nói cách tích cực là họ hiểu rõ sau ngày Chúa Kitô phục sinh (12,16). Bởi vì chỉ sau khi Chúa Giêsu được tôn vinh, họ mới nhận lãnh Thần khí (7,39), Đấng sẽ soi sáng cho họ hiểu các dấu chỉ Chúa Giêsu đã làm (14,26; 15,26tt). Thành thử ở đây đức tin của các môn đồ được liên kết với sự Phục Sinh không như với một bằng chứng về sự xác thực của những gì Chúa Giêsu đã bảo, song như với nguyên nhân ban ơn Thần khí, Đấng duy nhất giúp cho họ hiểu.
"Họ đã tin vào Kinh thánh": Ta không rõ Gioan muốn ám chỉ đoạn nào trong Cựu Ước. Có thể so sánh với Cv 2,24t; 13,34tt, nơi có những bản văn thường được Giáo hội sơ khai trích dẫn đối chiếu với sự Phục sinh của Chúa Giêsu (đặc biệt là Tv 16,10). Xin lưu ý là Kinh Thánh (lời Thiên Chúa) và Lời Chúa Giêsu đều được đặt trên cùng bình diện (so sánh Ga 18,9.32) và đều là đối tượng niềm tin của các môn đồ.
Các câu 23-25 là những câu chuyển mạch nhằm chuẩn bị cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với Nicôđêmô; chúng giải thích việc Nicôđêmô đến (3,2), niềm tin bất toàn của ông và những lời Chúa Giêsu khiển trách ông (3,11t). Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với Nicôđêmô như thế được đặt trong một khung cảnh cụ thể. Thói quen của Gioan là vậy: để ra một vài câu để đặt các trình thuật biểu tượng và thần học của ông trong một khung cảnh lịch sử: so sánh 4,43-45; 7,1-13; 10,19-21.40-42; 11,55-57; 12,17-19.41-43.
"Lắm kẻ tin vào Danh Người": Nhiều kẻ tin rằng Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm con người của Người. Niềm tin của họ chỉ dựa trên phép lạ mà thôi: nó không phải là vô giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
KẾT LUẬN
Sau bức màn bị xé toang của Đền thờ và qua thân thể bầm dập tắt thở của Chúa Giêsu Thiên Chúa đã xuất hiện trong một thân xác người đích thực, phủ đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu ước Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, giờ đây được thực hiện trong Chúa Giêsu Phục Sinh mãi mãi.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Vì yêu Chúa Cha, Chúa Giêsu đã chắp dây thừng làm roi đánh đuổi quân buôn bán ra khỏi Đền thờ, nơi mà 20 năm về trước, Người đã vào như vào nhà thân phụ khi làm cử chỉ đầu tiên của một người Israel khôn lớn. Người đã dùng võ lực bênh vực quyền lợi của Cha, vì bị nung nấu bởi lòng nhiệt thành đối với nhà Cha, vì muốn nhà Cha được sử dụng cách xứng đáng, vì bị thúc đẩy bởi một cơn thịnh nộ. Thành thử, dù là Đấng "hiền lành và lòng đầy khiêm nhượng", bạn bè của các trẻ nhỏ và tội nhân, Chúa Giêsu cũng là người biết nổi giận và phẫn uất. Người chẳng phải là một thượng thánh im lìm song là một con người bằng xương bằng thịt, biết phản ứng và tỏ ra kinh khủng khi phải bênh vực vinh quang Cha Người.
2) Chúa Giêsu cũng muốn dùng phương pháp trên để giải phóng tâm hồn nhân loại, biến nó thành Đền thờ đích thực của Thiên Chúa hằng sống. Người biết rõ mọi cái có nơi con người ta hơn cả những nhà tâm phân học; biết những uẩn khúc của ý thức, tiềm thức, vô thức của chúng ta, biết các con vật đang thu mình và gầm gừ trong đó. Người hết sức muốn giải phóng ra khỏi cảnh nô lệ này, khỏi sự tục hóa này cái con người đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, cái con người đã được mời gọi sống sự sống thần linh. "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài hầu những ai tin vào Người sẽ được sống vĩnh cửu” (Ga 3,16).
3) Trong dịp lễ Vượt qua đầu tiên của đời sống công khai này, Chúa Giêsu tỏ mình như một nhà giải phóng khác với Môsê: Người thiết lập một ngày sabbat mới và một lễ Vượt Qua mới. Vì danh Cha, Người muốn có một phụng tự khác trong Thần Khí và sự thật, trong tình yêu và tự do, một phụng tự tôn thờ đích thực trong đó giới răn thứ nhất được thi hành một cách tuyệt hảo: "Ngươi hãy thờ lạy một mình Thiên Chúa và mến yêu Ngài trên hết mọi sự".
4) "Hãy phá hủy Đền thờ này đi, và nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại". Nghĩa là thân xác Chúa Giêsu sẽ bị đánh dập nhừ tử, sẽ bị giết chết nhưng rồi sẽ phục sinh. Trong thực tế, vào ngày thứ sáu Tuần thánh, hai nhân chứng sẽ đến lặp lại những lời này: Tên này đã nói: Ta có thể triệt hạ Đền thờ Thiên Chúa và trong ba ngày sẽ xây cất lại (Mt 26,61). Tại đồi Canvê, dân chúng sẽ lắc đầu nhạo báng Người mà rằng: "Mày định triệt hạ Đền thờ và trong ba ngày sẽ xây lại, hãy tự cứu mình đi" (Mt 27,41). Nhưng rồi cuộc Phục sinh đã khôi phục cái Đền thờ, trong đó, Chúa Giêsu đã dâng hy tế hoàn hảo, đã dâng của lễ giải phóng nhân loại. Trên thập giá, Người đã vừa dâng lễ vừa tự hiến, là tư tế và hy lễ cùng một lúc; thành thử đối với chúng ta, Đền thờ mến yêu và thờ lạy chính là thân thể Chúa Kitô, trái tim Chúa Kitô. Trong thân thể của Người, chúng ta có thể kết hợp với Chúa Kitô tư tế và hy lễ. Trong thân thể phục sinh của Người là tạo vật được giải phóng tuyệt hảo nhất, thuần tính (nguồn tự do toàn vẹn) đã chiến thắng trong thân thể phục sinh của người, Giao ước mới đã được ký kết và củng cố mãi mãi.
5) Người Kitô hữu là Đền thờ Thiên Chúa. Phạm tội là biến Đền thờ Thiên Chúa là hang trộm cắp, và như thế xua đuổi Thiên Chúa ra khỏi lòng mình. Mùa chay là lúc trùng tu, kiến thiết đền thờ tâm hồn chúng ta để xứng đáng làm nơi Thiên Chúa ngự trị.
62.Đức Giêsu xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ--Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ đền thờ bằng đá, nơi Đức Giêsu đuổi quân buôn bán.
Nếu Tin mừng của hai Chúa nhật trước trích từ Maccô, thì Tin Mừng của ba Chúa nhật cuối cùng Mùa Chay này trích từ Gioan.
Các thánh sử khác đã đặt câu chuyện này vào cuối thời gian rao giảng của Chúa (Mt 21,12-17; Mc 11,15-17; Lc 19,45-46). Còn Gioan chủ ý đặt biến cố này vào đầu đời công khai của Chúa. Để như vậy, nêu rõ sự đoạn tuyệt với đạo Do Thái chính thống, lúc đó đang là hoàn cảnh lịch sử của Giáo Hội, đồng thời khôn khéo nối kết Kinh Thánh, các sự kiện và cử chỉ của Đức Giêsu bằng cái nhìn sau Phục Sinh.
Câu chuyện này xảy ra trong hoàn cảnh Đức Giêsu lên Giêrusalem "bởi vì lễ Vượt Qua đã đến gần Gioan nhắc lại công thức này 4 lần trong Tin Mừng (Ga 6,4; 11,55) để chuẩn bị cho độc giả thấy lễ Phục Sinh của Kitô giáo trùng hợp với lễ Vượt Qua của Israel (X.Léon-dufour, "Lecture de L'evangile selon Jean" cuốn 1, Seuil, trang 253).
Đức Giêsu thấy "trong đền thờ có những kẻ bán chim, bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền”? Danh từ "Đền thờ” nhắc đến ở đây không phải khu vực thánh của ngôi đền, cung thánh, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Người. Những người đổi tiền ở đó, là cần thiết, bởi vì đồng tiền chính thức mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma không được dùng trong phụng tự, và buộc phải đổi sang một đồng tiền không dơ. Còn bọn bán chiên, bò, chim bồ câu ở đó để bán những vật cần cho việc hy tế.
Chính trong khung cảnh này mà Gioan đặt cuộc can thiệp của Đức Giêsu, một cuộc can thiệp gồm hành động và lời quở trách.
+ Cử chỉ của Đức Giêsu giống với cử chỉ của các ngôn sứ thời xưa, khi thông báo sứ điệp của các ông. Gioan đã tả hết sức tỉ mỉ với những chi tiết mà không thấy nơi các tác giả Nhất Lãm: "Đức Giêsu cầm lấy một dây thừng dùng làm roi, Người đuổi những lái buôn chiên, bò, người lật đổ bàn của người đổi tiền bạc; người xua đuổi bọn bán chim bồ câu”.
+ Lời giải thích rất ý nghĩa: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” - Lời này gợi nhớ ngôn sứ Giacaria 14,21 loan báo việc tẩy uế Đền thờ được tiên báo vào cuối đời, lúc này đã khởi sự rồi (A. Marchadour, "L'evangile de Jean", Centurion, trang 60). Lời này tỏ cho thấy mối liên hệ đặc biệt giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa. Khi nói về Đền thờ, Người đã không dùng từ "nhà của Chúa”, mà Người nói "nhà của Cha tôi”.
Những người chứng kiến liền phản ứng tức khắc. Mọi người đều biết lời tiên báo về việc tẩy uế đền thờ. Họ hiểu ngay rằng: Đức Giêsu không những đến như một người cải tổ, chỉ tố cáo những lạm dụng nơi Đền thờ, mà còn như một vị đến để làm cho lời tiên tri thực hiện.
Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”. Bởi vì dưới con mắt họ, quyền thiên sai mà Đức Giêsu tự nhận, cũng như những gì thuộc Đền Thờ phải được chuẩn nhận bằng một dấu lạ.
2. Đến đền Thờ mới là Thân Thể của Chúa.
Bấy giờ Đức Giêsu đáp: "Các ông cứ phá Đền Thờ này đi Đền Thờ này "nos”); nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại" (từ ‘dựng lại’ là từ mà thánh ký sau này, câu 22 dùng để chỉ "sống lại) X. Léon-dufour quảng giải: "Trong câu nói long trọng mà chúng ta đang được Đức Giêsu đối chiếu đền thờ sẽ bị phá huỷ với đền thờ mà Người sẽ là kẻ xây dựng lại, (Lecture de L'evangile selon Jean", cuốn 1, Seuil, trang 261).
Những kẻ đối thoại với Chúa càng tỏ ra bực bội và ngạc nhiên. Sự không hiểu nhau về vấn đề Đền Thờ - đây là lần đầu trong một loạt những không hiểu dẫn Người đến núi Canvê – như vậy là hết cứu chữa.
Và cuối cùng, cộng đoàn Kitô hữu đã làm gì khi đọc lại những lời này dưới ánh sáng của Đức Giêsu Phục sinh: “Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói".
+ Nhớ lại cử chỉ của Chúa, cộng đoàn Kitô hữu khám phá ra rằng lời Thánh Vịnh 69 đã thực hiện, lời mà họ đặt ở tương lai: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân". Họ hiểu ra rằng, câu chuyện Đền Thờ này, mọi tiến trình đã bắt đầu để dẫn Đức Giêsu đến cái chết; rằng Đức Giêsu đã trả giá bằng chính mạng sống Người, để thực hiện lời tiên tri về việc tẩy uế Đền Thờ mà Giacaria đã loan báo.
+ Nhớ lại những lời của Chúa về Cung Thánh Đền Thờ:
“Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, họ hiểu rằng người nói về thân thể Người, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người; nơi mở cửa cho hết thảy mọi người, nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người; là Đền thờ của Giao ước mới.
Và X. Léon-Dufour kết luận: "Có thể nghĩ rằng, đoạn văn đã được biên tập sau năm 70, tức là sau khi đền thờ Giêrusalem thực sự bị phá huỷ, đền thờ mà Israel coi là nơi có sự hiện diện Thiên Chúa. Bởi đó, sau khi đền thờ bị phá huỷ, câu hỏi hóc búa được đặt ra là: cung thánh đã tan tành, vậy từ nay Thiên Chúa hiện diện ở đâu? Theo thúc đẩy của đức tin, người Do Thái thời đó tin rằng: nơi mà họ gặp Thiên Chúa là Lề Luật. Còn đối với những Kitô hữu, những người còn chăm chỉ lên đền thờ cầu nguyện, câu trả lời sẽ là: Chúa Kitô sống lại hiện diện ở giữa họ khi họ tụ họp để cử hành lễ tưởng niệm Người" (Sđd, trang 266-267).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Ơn gọi của chúng ta: làm dấu chỉ sự hiện hiện của Thiên Chúa giữa loài người
(Đức cha Daloz, trong cuốn "Nous avons vu Sa gloire", Desclée de Brouwer, trang 38-39).
"Ngay từ những chương đầu của Tin Mừng, thánh Gioan đã nói cho chúng ta biết về cuộc hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu nhân dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái. Chính trong dịp này, ngài đề cập đến việc tẩy uế Đền thờ, trong khi những thánh sử khác thuật lại việc này sau khi Đức Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem lần cuối. Cử chỉ của Đức Giêsu là cử chỉ của một tiên tri. Người xua đuổi những kẻ mua bán chiên bò để cúng tế và những kẻ đổi tiền ra khỏi đền thờ.
Ở đây hành vi đầy bạo lực của Đức Giêsu là hành vi của một tiên tri, chính các môn đệ của Người cũng hiểu như vậy. Họ nhớ tới lời Thánh Vịnh: “Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”. Người Do thái cũng hiểu rõ ý nghĩa của cử chỉ này. Họ đòi Đức Giêsu phải làm một đấu lạ để biện minh cho hành động của mình: "Ông lấy dấu lạ nào để chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" Đức Giêsu trả lời họ bằng rnột câu bí ẩn, mầu nhiệm: "Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Chúa có ý nói đến tính cách tạm thời của những hy lễ trong đền thờ của giao ước cũ. Chúa nói về một đền thờ khác, đền thờ mà ở đó sẽ ký kết giao ước mới. Những đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Chính nơi Đức Giêsu mà từ nay Thiên Chúa bày tỏ sự hiện diện của Người. Cần chờ đến biến cố phục sinh, các môn đệ mới nhớ lại và tin vào Kinh Thánh và những lời Chúa đã nói. Chính đền thờ mới, thân thể Đức Kitô và nhà của Chúa Cha, mà tạ ngày nay cần phải gìn giữ, đừng biến nó thành nơi buôn bán. Ta cần phải hết sức cung kính đối với lễ vật của giao ước mới, đã thay thế cho lễ vật hy sinh của đền thờ ngày xưa. Ta cần phát hết lòng tôn trọng đốt với thân thể mầu nhiệm, mà Đức Giêsu là đầu, thân thể có ơn gọi làm dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại".
2. Một đền thờ mới xây dựng những viên đá sống
(H. Denis, trong cuốn "100 mots pour dire la foi", Desclée de Brouwer, trang 39-40).
Đức Giêsu làm một cuộc cách mạng, lật đổ cấu trúc tôn giáo. Không những người muốn cho người ta hiểu rằng những ngôi đền thờ vật chất trở nên vô dụng, mà Người còn muốn tỏ cho biết một ngôi đền thờ mới, đích thực là thân thể Người, đã chết đi và sống lại.
Đền thờ mới là chính Người, trong Người tình yêu của Thiên Chúa và của con người chuyển thông nhau trong một cuộc hiệp thông duy nhất.
Thật là một giao hoán lạ lùng. Nhưng chưa hết, Tân Ước còn thêm rằng ngôi đền thờ này mà Đức Giêsu là viên đá góc, được xây dựng bằng những viên đá sống là các Kitô hữu, và nói rộng ra là toàn thể nhân loại. Là đền thánh, bởi vì nó không được làm bằng đá, gạch hay bất cứ vật liệu cao quí nào, nhưng bằng những con người, con người được kêu gọi để thương yêu nhau, để hiến mạng sống cho nhau, nhờ đó lưu thông tình yêu vô hạn của Đức Giêsu.
3. Thánh lễ Chúa nhật: lúc dân mới kết hợp nên một thân thể hữu hình.
(Thơ mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Pháp “Lettre aux catholiques de France", Cerf, 93-94).
Trong tiệc Thánh Thể, các cộng đoàn ý thức hơn về tầm quan trọng của mình trong đời sống của Giáo Hội. Nhưng điều tuyệt đối cần thiết là phải canh tân rộng khắp ý nghĩa của việc cử hành ngày Chúa nhật, hiểu như thời điểm mà dân mới, gồm những người đã được rửa tội, làm nên thân thể hữu hình, để đáp lại lời Đức Kitô mời gọi các môn đệ, kêu gọi họ dâng hiến sự sống kết hiệp với của lễ Đức Giêsu Kitô để thế giới được sống. Chúng ta hết thảy đều có lần cảm nghiệm những lần cử hành cởi mở, đầm ấm, khiến ta dường như cảm nhận được ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng, nhờ đó, ta được bồi dưỡng sức lực để tiếp tục lên đường. Điều đó không chỉ là một lý tưởng viễn vông đối với các cộng đoàn, nhất là nếu những cảm nhận và những truyền thống tu đức biết hoà hợp những đòi hỏi mà đôi khi người ta lầm tưởng là đối nghịch nhau, như tôn trọng truyền thống phụng vụ, kêu gọi mọi thành phần tham gia tích cực, và sự góp phần của thẩm mỹ và mỹ thuật vào phụng vụ.
Như vậy, việc thực hiện lễ tạ ơn không thể tách rời khỏi ý thức về thừa tác vụ được uỷ thác để ban sự sống và xây dựng cộng đoàn Giáo Hội.
63.Cơn giận của Chúa Giêsu (2,12-16)--William Barclay
Bây giờ chúng ta hãy xét xem tại sao Chúa Giêsu hành động như thế. Cơn giận của Ngài là một điều đáng sợ. Hình ảnh Chúa Cứu Thế cầm roi khiến chúng ta phải kinh hãi. Điều gì đã khiến Ngài nổi cơn giận thánh tại sân Đền Thờ như vậy?
Trong các ngày lễ của dân Do Thái, lễ Vượt Qua là quan trọng nhất. Như chúng ta biết, luật quy định mỗi người nam Do Thái trưởng thành, sống trong vòng hai mươi lăm cây số chung quanh Giêrusalem phải đến đó dự lễ. Nhưng không phải chỉ có người Do Thái trong xứ Palestine đến dự lễ Vượt Qua. Thời bấy giờ dân Do Thái tản lạc khắp thế giới, họ chẳng bao giờ quên tôn giáo và đất nước của tổ tiên họ. Người Do Thái dù sống ở xứ nào, họ vẫn mong ước và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất một lần. Chuyện nghe thật đáng kinh ngạc nhưng dường như đã có đến hai triệu hai trăm ngàn người Do Thái đã tập họp về xứ thánh dự lễ Vượt Qua.
Thuế Đền Thờ là sắc thuế mà mỗi người Do Thái từ 19 tuổi trở lên phải nộp. Đó là phần dành cho việc dâng các sinh tế và lễ nghi trong Đền Thờ hằng ngày. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, gần hai ngày lương của một công nhân. Trong việc giao dịch bình thường, mọi loại tiền đều có giá trị ở Palestine. Các loại tiền bằng bạc lưu hành từ Rôma, Hy Lạp, Ai Cập đến Tia, Siđôn và Palestine đều có giá trị. Nhưng tiền thuế Đền Thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. Đó là loại tiền Do Thái, nên có thể dùng dâng cho Đền Thờ. Các loại tiền khác là của người ngoại, do đó bị xem là ô uế. Chúng được dùng trả các món nợ thường, nhưng không thể dùng trả nợ cho Chúa.
Khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới đến với đủ loại tiền, nên trong Đền Thờ có nhiều người đổi bạc. Nếu họ hành nghề ngay thẳng, thật thà, thì họ đã thực hiện một mục đích chân thật và cần thiết. Nhưng muốn đổi lấy một đồng nửa siếc-lơ tiền để dâng cho Đền Thờ, người ta phải trả tương đương với ¼ tiền lương một ngày; vậy cứ đổi 4 đồng nửa siếc-lơ thì người đổi lợi được một số tiền tương đương một ngày công. Do đó, số tiền thuế Đền Thờ thu được và lợi tức đổi bạc thật khủng khiếp. Thu nhập của Đền Thờ về khoản thuế đó hằng năm ước lượng khoảng 75.000 bảng Anh, lợi tức hằng năm của những người đổi bạc là 9.000 bảng Anh. Năm 54 TC, Crassus chiếm thành Giêrusalem, cướp kho Đền Thờ, đã lấy của kho ấy 2.500.000 bảng Anh, nhưng chưa lấy hết.
Việc những kẻ đổi bạc ăn lời khi đổi tiền cho khách hành hương tự nó không có gì sai quấy. Kinh Talmud quy định: “Mỗi người cần có đồng nửa siếc-lơ để nộp thuế cho mình. Do đó, khi đổi đồng một siếc-lơ để lấy hai đồng nửa siếc-lơ, người ấy phải cho kẻ đổi bạc chút ít tiền lời”. Từ chỉ tiền lời là kollubos, những kẻ đổi bạc được gọi là kollubistai. Chữ này sản sinh một vai hề tên kollybos trong tiếng Hy Lạp, trong tiếng La Tinh là Collybus. Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu đựng tệ nạn đổi bạc bóc lột với giá cắt cổ. Thật là một bất công, và càng tệ hại hơn nữa là người ta nhân danh tôn giáo để làm việc ấy.
Bên cạnh bọn đổi bạc, còn có số người bán bò, chiên, bồ câu. Thường thì mỗi lần đến Đền Thờ là một lần dâng lễ vật. Nhiều khách hành hương muốn dâng một lễ vật cảm tạ vì chuyến hành trình đến thánh địa bình an, hầu hết các hành động hoặc biến cố xảy ra trong đời sống đều có một lễ vật tương ứng. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua được các con vật tại sân Đền Thờ. Nhưng luật quy định bất cứ con vật nào dùng làm của lễ đều phải lành lặn, không tì vết. Ban quản trị Đền Thờ phân công những người kiểm tra con vật. Mỗi lần khám xét đều phải trả lệ phí 1/12 siếc-lơ. Nếu khách hành hương mua con vật ngoài Đền Thờ, chắc chắn con vật ấy sẽ bị từ chối khi khám xét. Vấn đề dường như chẳng có gì quan trọng, nhưng khốn nỗi, một con vật mua trong sảnh Đền Thờ có khi phải trả đắt gấp mười lăm lần hơn giá mua bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Bất công xã hội này càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính điều ấy đã khiến Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Gioan biết là Chúa đã lấy dây bện thành một cái roi. Thánh Jerôme nghĩ rằng chính cái nhìn của Chúa Giêsu cũng đủ rồi, không cần đến cây roi nữa. “Một tia giận sáng như sao từ đôi mắt Ngài chiếu ra, và oai nghi của Chúa rạng ngời khuôn mặt Ngài”. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha, và chính vì yêu mến các con cái Thiên Chúa, cho nên Ngài không thể thụ động đứng ngoài vòng, trong khi những kẻ khốn khổ đến Đền Thờ để thờ phượng Chúa tại Giêrusalem bị đối xử như thế.
CƠN GIẬN CỦA CHÚA GIÊSU (Ga 2,12-16)
Chính những kẻ vô lương tâm, bóc lột khách hành hương đã khiến Chúa Giêsu nổi giận, nhưng phía sau sự kiện dọn sạch Đền Thờ này còn có nhiều điều sâu sắc. Chúng ta thử đi sâu hơn vào các lý do đã khiến Chúa Giêsu mạnh tay như thế.
Để có một bức tranh chính xác về lời Chúa Giêsu nói, chúng ta ghi ra những gì các tác giả Phúc Âm đã nhớ và chép lại, vì mỗi người đã tường thuật một cách. Mátthêu ghi lại lời Chúa Giêsu nói: “Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện, nhưng các ngươi thì làm cho nhà ấy thành ra ổ trộm cướp” (Mt 21,13). Maccô viết: “Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân… Nhưng các ngươi đã làm thành cái hang trộm cướp” (Mc 11,17). Luca thì chép: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện song các ngươi làm thành ra một cái hang trộm cướp”. Gioan viết: “Hãy cất bỏ đồ đó khỏi đây, đừng làm cho nhà Cha Ta thành ra nhà buôn bán” (Ga 2,16). Có ít nhất ba lý do khiến Chúa Giêsu hành động như vậy, tại sao Ngài nổi giận:
1) Chúa Giêsu làm như vậy vì nhà của Chúa đã bị xúc phạm. Trong Đền Thờ, có thờ phượng mà không có lòng tôn kính. Lòng tôn kính là một bản năng bẩm sinh. Nhà nghệ sĩ Edward Seago kể lại có lần ông dẫn hai đứa bé du mục vào một nhà thờ lớn ở Anh. Hai đứa bé này bình thường rất ngỗ nghịch. Nhưng khi vào trong đại giáo đường, chúng giữ yên lặng cách kỳ lạ. Trên đường về, chúng tỏ ra trang trọng cách khác thường, cho đến tối chúng mới trở lại nghịch ngợm bình thường. Bản năng tôn kính nằm sâu trong lòng chúng ta.
2) Chúa Giêsu hành động như thế để chứng minh việc dâng con vật làm sinh tế không còn thích đáng nữa. Từ nhiều thế kỷ trước, các ngôn sứ đã nói: “Đức Chúa phán: Muôn vàn của lễ các ngươi có can hệ gì đến Ta? Ta đã chán chê của lễ thiêu chiên đực và mỡ của bò con mập. Ta chẳng hài lòng về máu của bò đực, chiên con và dê đực đâu. Thôi đừng dâng của lễ chay vô ích cho Ta nữa” (Is 1,11-17). “Vì Ta đã đem tổ phụ các ngươi ra khỏi đất Ai Cập, Ta chẳng hề phán và chẳng hề truyền lệnh gì về của lễ toàn thiêu và các của lễ khác” (Gr 7,22). “Chúng nó sẽ đi với các bầy chiên, đàn bò để tìm kiếm Đức Chúa, song không thấy Ngài” (Os 5,6). “Còn như của lễ dâng cho Ta thì chúng nó dâng thịt và thức ăn, nhưng Đức Chúa chẳng nhận đâu” (Os 8,13), “Vì Chúa không ưa thích của lễ, nếu Ngài ưa tôi chắc đã dâng. Của lễ toàn thiêu cũng không đẹp lòng Chúa” (Tv 51,16). Tiếng nói ngôn sứ luôn nhắc đi nhắc lại với loài người tính cách bất thích hợp của các lễ toàn thiêu và các sinh tế vẫn còn tiếp tục bốc khói từ bàn thờ tại Giêrusalem. Chúa Giêsu hành động như vậy là để chứng tỏ không có một lễ vật hay một sinh tế nào có thể làm cho loài người hòa thuận lại với Chúa được.
Ngày nay chúng ta cũng không thoát khỏi khuynh hướng này. Chúng ta không còn dâng sinh vật làm của lễ cho Chúa. Nhưng chúng ta đồng hóa việc phục vụ Chúa với việc lắp đặt những cửa sổ bằng kính màu, việc có thêm một cây đàn phong cầm vang tiếng hơn, việc hao phí thực hiện nhiều công trình chạm trổ trên đá, trên thạch cao, trên gỗ quý, trong khi tinh thần thờ phượng đích thực không thấy đâu. Chúng ta không lên án những việc đó, trái lại tạ ơn Chúa, điều đó thường là do những tấm lòng yêu mến Chúa dâng hiến. Chúng được dùng hỗ trợ cho thờ phượng chân thật, là những việc được Chúa ban phước; nhưng khi chúng thay thế cho lòng thờ phượng chân thật, thì lại khiến Chúa phải ghê tởm.
3) Một lý do khác khiến Chúa Giêsu hành động như thế mà Maccô có thêm một chi tiết đáng chú ý, không tác giả nào đề cập đến: “Nhà Ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Mc 11,17). Đền Thờ gồm nhiều hành lang (sân) dẫn đến bên trong Đền Thờ và nơi Thánh. Trước hết có hành lang dành cho dân ngoại, rồi đến hành lang dành cho phụ nữ, tiếp đến là hành lang dành cho Israel, rồi đến hành lang cho các tư tế. Cảnh buôn bán kể trên diễn ra trong hành lang dành cho dân ngoại, là nơi duy nhất người ngoại có thể tới trong Đền Thờ. Một người ngoại chỉ có thể đến đó và bị cấm không tiến xa hơn nữa. Như thế, một người ngoại có thể vào hành lang dành cho họ để suy gẫm, cầu nguyện và đứng từ xa tiếp xúc với Chúa. Đây là chỗ cầu nguyện duy nhất của họ.
Thế mà, ban quản trị Đền Thờ và các con buôn người Do Thái đành biến hành lang ấy thành nơi huyên náo, hỗn loạn khiến không ai có thể cầu nguyện được. Quang cảnh như vậy của hành lang Đền Thờ đã loại bỏ mất những người ngoại muốn tìm kiếm Chúa. Có thể đó là điều đập mạnh vào tâm trí Chúa Giêsu trên hết; và chỉ một mình Maccô mới giữ được câu nói ngắn ngủi nhưng nhiều ý nghĩa đó. Chúa đã xúc động tận tâm can khi thấy những người muốn ra mắt Chúa lại bị ngăn trở như vậy.
Trong sinh hoạt của Giáo Hội chúng ta, giai cấp, kỳ thị, lạnh lùng, kém niềm nở, khuynh hướng biến cộng đoàn thành một câu lạc bộ khép kín, thái độ kiêu căng, làm khó, đã ngăn trở những người lạ có lòng tìm kiếm Chúa phải ở bên ngoài hay không? Chúng ta nên nhớ lại cơn giận của Chúa Giêsu đối với những ai làm khó những người thiện chí tìm Chúa nhưng không thể tiếp nhận Ngài được.
ĐỀN THỜ MỚI (Ga 2,17-22)
Một hành động, như việc dọn sạch Đền Thờ, chắc chắn phải gây phản ứng tức khắc từ phía những người đã mục kích. Đây không phải là loại sự việc mà người ta có thể đứng nhìn với thái độ hoàn toàn dửng dưng, vì hành động đó quá táo bạo.
Có hai phản ứng. Một là phản ứng của các môn đệ của Chúa. Họ nhớ lại những lời trong Thánh Vịnh 69,9; được xem như chỉ về Đấng Mêsia. Khi Đấng Mêsia đến, Ngài có lòng sốt sắng, nóng nảy như nung nấu về nhà Chúa. Khi Thánh Vịnh này hiện lên trong trí các môn đệ, thì niềm tin Chúa Giêsu là Đấng Mêsia càng sâu xa và dứt khoát hơn. Hành động ấy không thích hợp với ai khác ngoài Đấng Mêsia. Các môn đệ càng tin hơn bao giờ hết Chúa Giêsu đúng là Đấng được xức dầu của Thiên Chúa.
Hai là phản ứng tất nhiên của người Do Thái. Họ hỏi Chúa Giêsu lấy quyền gì để hành động như vậy, và đòi Ngài phải làm một dấu lạ để chứng minh thẩm quyền của Ngài. Họ nhìn nhận hành động của Chúa Giêsu là hành động tự tuyên xưng của Đấng Mêsia. Người ta luôn luôn trông chờ Đấng Mêsia, khi Ngài đến, Ngài sẽ chứng minh và bảo đảm những lời xưng nhận của Ngài bằng nhiều phép lạ. Thật ra nhiều Mêsia giả đã xuất hiện, và hứa sẽ rẽ nước sông Giođan làm hai, hoặc chỉ nói một lời thì các vách thành liền đổ xuống. Ý niệm phổ thông về Đấng Mêsia gắn liền với phép lạ. Do đó, người Do Thái mới nói: “Bằng hành động dọn sạch Đền Thờ, Thầy đã công khai tự xưng là Đấng Mêsia, bây giờ, hãy cho chúng tôi thấy phép lạ để chứng minh lời tự xưng đó của Thầy”.
Câu trả lời của Chúa Giêsu đã tạo nên vấn đề lớn cho đoạn này. Chúa Giêsu thật sự đã nói gì? Ngài muốn ngụ ý gì? Chúng ta thấy rõ hai câu 21, 22 là lời diễn giải Gioan viết sau này. Tất nhiên ông đã đưa các ý niệm vốn là kết quả của 70 năm suy nghĩ và kinh nghiệm về Chúa Cứu Thế Phục Sinh vào đoạn này. Giáo phụ Irenaeus kinh nghiệm: “Không có lời tiên tri nào được thấu hiểu đầy đủ, cho đến khi nó đã được ứng nghiệm”. Nhưng nguyên thủy, Chúa Giêsu nói gì, và đã ngụ ý gì?
Không có gì để nghi ngờ là Chúa Giêsu đã nói mấy lời giống như câu này, những lời có thể bị những kẻ quỷ quyệt xuyên tạc thành lời tuyên xưng có tính cách phá hoại. Lúc Chúa Giêsu bị đem ra xét xử, có lời chứng dối đưa ra để tố cáo Ngài: “Người này nói: Ta có thể phá Đền Thờ của Chúa rồi dựng lại trong ba ngày” (Mt 26,61). Lời tố cáo chống lại Têphanô: “Chúng ta đã nghe người này nói rằng Giêsu ở Nagiarét sẽ phá nơi đây và đổi tục lệ Môsê đã truyền lại cho chúng ta” (Cv 6,14)
Có hai điều chúng ta phải nhớ và ghép chúng lại với nhau. Trước hết, chắc chắn Chúa Giêsu không bao giờ bảo Ngài sẽ phá hủy Đền Thờ bằng vật liệu thấy được ấy, rồi sẽ xây dựng lại. Thật ra, Chúa Giêsu chờ ngày chấm dứt Đền Thờ. Ngài đã nói cùng người đàn bà Samari, đã đến ngày mà người ta không còn thờ phượng Đức Chúa Trời hoặc trên núi Garidim, hoặc tại Giêrusalem, nhưng phải thờ phượng Ngài bằng tinh thần và chân lý (Ga 4,21). Điều thứ hai, có thể việc Chúa Giêsu mạnh tay dọn sạch Đền Thờ là một cách để chứng tỏ toàn thể thờ phượng với nghi lễ và lễ vật đó không còn phù hợp, và không thể đưa người ta đến với Chúa. Như thế, Chúa Giêsu đã dự liệu đền thờ này sẽ bị phá bỏ, Ngài đã đến để khiến cho sự thờ phượng tại đó trở thành lỗi thời không cần thiết, vì thế chẳng bao giờ Ngài lại gợi ý là sẽ xây lại đền thờ.
Bây giờ chúng ta quay sang Maccô. Như thường lệ chúng ta thấy một câu nhỏ thêm vào có tính cách gợi ý và soi sáng trong tường thuật của Maccô. Theo Maccô kể thì lời tố cáo Chúa Giêsu là: “Ta sẽ phá đền thờ này bởi tay người ta cất lên, khỏi ba ngày, Ta sẽ cất một đền thờ khác không bởi tay người ta cất” (Mc 14,58). Rõ ràng, điều Chúa muốn nói là Ngài đến để chấm dứt tất cả những gì do tay người ta làm ra, cách thức thờ phượng Chúa do người ta sắp xếp, để đưa vào sự thờ phượng thiêng liêng. Ngài đã kết thúc mọi việc dâng của lễ bằng súc vật và lễ nghi do các thầy tế lễ chủ trì, thay vào đó bằng việc trực tiếp đưa tâm linh người ta đến gần Thánh Linh của Chúa mà không cần các nghi lễ dâng hương, dâng lễ vật. Lời xác nhận của Chúa Giêsu là: “Sự thờ phượng tại Đền Thờ, các nghi lễ rườm rà, vô vàn lễ vật của các ngươi phải chấm dứt, bởi vì Ta đã đến”. Lời hứa tiếp theo của Chúa là: “Ta sẽ mở cho các ngươi một con đường đến với Thiên Chúa mà không cần các nghi lễ tỉ mỉ đó nữa. Ta đã đến để phá hủy Đền Thờ Giêrusalem, khiến cả trái đất này thành một ngôi đền thờ, ở đó loài người có thể đến gần và biết có sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống”.
Người Do Thái đã thấy việc đó. Năm 19 TC, vua Hêrôđê đã bắt đầu xây dựng ngôi đền thờ vĩ đại ấy. Nhưng đến năm 64 SC việc xây dựng mới xong. Từ ngày khởi công đến lúc bấy giờ là 46 năm, còn hai mươi năm nữa mới hoàn thành. Chúa Giêsu khiến người Do Thái phẫn nộ khi bảo rằng tất cả những huy hoàng tráng lệ, tiền bạc kỹ thuật mà người ta đã đổ vào công trình ấy hoàn toàn vô ích, và Ngài đã đến để chỉ cho người ta một con đường đến với Đức Chúa Trời mà không cần một đền thờ nào cả.
Đây là điều thực sự Chúa Giêsu đã nói. Những năm sau đó Gioan còn nghiệm thấy thêm nhiều điều trong những lời Chúa Giêsu nói. Ông thấy đó là một lời tiên tri về sự Phục Sinh, và Gioan đã đúng. Ông đã thấy đúng, vì cả thế gian này không thể trở thành ngôi đền thờ của Thiên Chúa hằng sống, cho đến khi Chúa Giêsu lìa bỏ thân xác trần gian hiện diện khắp nơi, ở với mọi người, mọi chỗ, cho đến tận cùng trái đất.
Chính sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh và hằng sống đã khiến cả thế gian trở thành đền thờ của Thiên Chúa. Cho nên khi các môn đệ gẫm lại, họ mới hiểu đó là lời hứa về sự Phục Sinh. Lúc ấy họ không thể hiểu được, nhưng sau khi chính họ kinh nghiệm về Chúa Cứu Thế Hằng Sống, họ mới thấy được ý nghĩa sâu nhiệm của những gì Chúa Giêsu đã nói.
Cuối cùng Gioan bảo: “thì (họ) tin Kinh Thánh”; Kinh Thánh nào đây? Ông muốn nói đến câu Kinh Thánh vẫn ám ảnh Hội Thánh sơ khai: “Chúa không để cho người thánh Chúa thấy sự hư nát” (Tv 16,10). Đó là câu Phêrô đã trích dẫn vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2,31); Phaolô đã trích dẫn tại Antiokia (Cv 13,35). Câu Kinh Thánh đó diễn tả lòng tin của Hội Thánh vào quyền năng của Thiên Chúa và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô.
Tại điểm này chúng ta được đưa vào chân lý, chúng ta được tiếp xúc với Chúa, ra mắt Ngài, đến gần Ngài, không tùy thuộc vào bất cứ điều gì do bàn tay và trí tuệ con người làm ra. Ngoài đường phố, ở trong nhà, lúc làm việc, khi ở trên núi, trên đường dài vắng vẻ hay trong nhà thờ, chúng ta đều có đền thờ nội tâm, có sự hiện diện vĩnh viễn của Chúa Kitô Phục Sinh, Ngài vẫn ở với chúng ta khắp mọi nơi.
ĐẤNG DÒ XÉT LÒNG NGƯỜI (Ga 2,23-25)
Gioan không thuật lại các phép lạ Chúa Giêsu đã làm tại Giêrusalem trong mùa lễ Vượt Qua ấy. Nhưng nhiều người sau khi thấy phép lạ Ngài làm, thì tin Ngài. Vấn đề Gioan đặt ra ở đây là: Nếu đã có nhiều người tin Ngài tại Giêrusalem ngay từ buổi đầu, tại sao Chúa Giêsu không ở lại đó, dựng cờ lên để tự xưng là Đấng Mêsia, công khai tuyên bố mình là ai?
Câu trả lời là, Chúa Giêsu vốn biết rõ tâm địa con người. Ngài biết rõ, đối với nhiều người Ngài chỉ là một hiện tượng lạ chóng qua. Ngài biết có nhiều người chỉ bị lôi cuốn bởi những việc lạ lùng Ngài làm. Ngài đã biết rõ chẳng có ai thấu hiểu con đường Ngài đã chọn. Ngài biết nhiều kẻ chỉ theo Ngài vì phép lạ, dấu kỳ, nhưng khi Ngài bắt đầu nói với họ về phục vụ, từ bỏ mình, tuân phục ý Chúa, về thập giá và việc vác thập giá, chắc chắn họ sẽ trố mắt nhìn Ngài mà chẳng hiểu gì cả, sẽ bỏ Ngài ngay.
Một đặc điểm quan trọng của Chúa Giêsu là Ngài không muốn những ai theo Ngài mà chưa hiểu biết thật rõ ràng, và dứt khoát chấp nhận trả giá. Ngài khước từ việc nắm lấy cơ hội nổi tiếng trong chốc lát. Nếu Ngài tự phó mình cho đám quần chúng tại Giêrusalem, chắc họ tôn Ngài là Đấng Mêsia ngay tức khắc, để sau đó họ trông mong vào những hành động vật chất trần gian Đấng Mêsia thực hiện. Nhưng Chúa Giêsu không yêu cầu người ta thừa nhận Ngài, cho đến khi họ biết rõ tiếp nhận Ngài có ý nghĩa gì. Ngài đòi hỏi mỗi người phải nhận biết điều Ngài đang làm.
Chúa Giêsu biết rõ bản chất, tấm lòng bất định, dễ đổi thay của loài người. Ngài biết rõ con người có thể bị bốc đồng, bị lôi cuốn trong những khoảnh khắc xúc động mạnh, nhưng lại rút lui sau khi thấy rõ những gì phải trả giá. Ngài biết bản chất con người thèm những kích động tình cảm. Ngài không muốn đám đông hoàn toàn chẳng biết gì cả mà cứ tung hô, Ngài chỉ cần một số ít người biết rõ mình đang làm gì, và sẵn sàng theo Ngài cho đến cùng.
Có một điều cần chú ý trong đoạn này, vì chúng ta còn nhiều lần lặp lại. Khi Gioan đề cập đến những phép lạ của Chúa Giêsu, ông gọi đó là những dấu lạ. Tân Ước dùng ba từ khác nhau chỉ các công việc lạ lùng của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu, mỗi từ cho chúng ta biết một phần về ý nghĩa và bản chất của phép lạ.
1) Chữ Teras chỉ có nghĩa là một cái gì đó lạ lùng, đáng ngạc nhiên, kỳ lạ. Chữ này không bao hàm một ý nghĩa đạo đức nào cả. Một trò lừa đảo bằng phù phép có thể là một teras, nó chỉ là một điều xảy ra khác lạ khiến người ta phải ngạc nhiên. Tân Ước không dùng chữ này một mình để chỉ các công việc của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu.
2) Chữ Dunamis theo nghĩa đen là năng lực, do từ này mà có chữ cốt mìn (dynamite). Nó có thể được dùng để chỉ bất cứ một năng lực khác thường nào, hoặc chỉ sức tăng cường, các năng lực thiên nhiên, năng lực của một thứ thuốc, năng lực của một người có tài. Nó luôn luôn có nghĩa là một năng lực hữu hiệu để làm việc mà ai cũng nhìn nhận.
3) Chữ Semeion có nghĩa là một dấu hiệu (sign). Đây là chữ mà Gioan thích dùng. Theo ông, phép lạ không chỉ là một việc xảy ra kinh ngạc, một việc làm bởi quyền năng và là một dấu hiệu; nghĩa là nó cho người ta biết về người đã làm việc lạ ấy, phô bày một điều gì đó về tính tình, bản chất của người ấy, đó là một hành động mà qua đó người ta có thể biết rõ hơn, đầy đủ hơn về phẩm cách của người đã hành động. Với Gioan, điều tối quan trọng trong các phép lạ của Chúa Giêsu là bày ra cho người ta biết về bản chất và phẩm cách của Thiên Chúa. Quyền phép Chúa Giêsu đã được sử dụng để chữa kẻ bệnh, cho kẻ đói được ăn, an ủi kẻ gặp bối rối; chính sự kiện Chúa dùng quyền phép mình như thế, là bằng chứng Chúa quan tâm đến sầu khổ, thiếu thốn và đau đớn của con người. Với Gioan thì các phép lạ là các dấu hiệu bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa.
Vậy, trong bất cứ phép lạ nào cũng có ba điều: có điều lạ làm cho người ta bàng hoàng, sững sờ, kinh ngạc. Có phần quyền năng hoạt động hữu hiệu đối phó và hàn gắn thân thể bị thương tật, tâm trí bị rối loạn, tấm lòng tan nát, một quyền năng có thể làm mọi việc. Có phần dấu hiệu bày tỏ tình yêu và tấm lòng của Thiên Chúa, Đấng đã làm những việc như thế cho loài người.
64.Thanh tẩy đền thờ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang - Joshepus Quang Nguyễn
Trong tất cả các tôn giáo, đền thờ là nơi thánh, nơi thần linh hiện diện với con người để tiếp nhận sự phụng tự của họ và cho họ thông phần vào các ân huệ và sự sống của thần linh. Đương nhiên thế giới các thần linh không thuộc thế gian này, nhưng đền thờ được coi là nơi cư ngụ của các thần linh. Cho nên, thời Cựu Ước đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người. Nhưng đó chỉ là dấu chỉ tạm thời sẽ được thay thế bằng một dấu chỉ loại khác trong thời Tân ước: Thân Thể Chúa Kitô và Giáo Hội Người.
Thời các tổ phụ không có đền thờ mà chỉ có nơi thánh để thờ phượng Chúa như Bêtel (nhà của Thiên Chúa: St 12,8), Bersabê (St 26,25), Sikhem (St 33,18tt). Đặc biệt Núi Sinai là nơi thánh và đã được thánh hiến do việc Thiên Chúa tỏ mình (Xh 3,19). Trong suốt cuộc hành trình về đất hứa, dân Israel đã dùng Nhà Tạm (đền thờ lưu động) nhờ đó Thiên Chúa hiện diện và dẫn dắt họ (Xh 26-27). Sau khi chiếm lại hòm bia khỏi tay người Philitin (2Sm 6), Đavít thiết lập thánh địa liên tộc ở Giêrusalem. Và khi đã cất cho mình một cung điện, ngài mơ ước xây một đền thờ cho Giavê (2Sm 7,1-3). Vua Đavít chuẩn bị ba ngàn tấn vàng, ba mươi ngàn tấn bạc, đồng, sắt, gỗ, đá nhiều vô kể. Ngài kêu gọi nhiều nhân công: thợ đá, nghệ nhân chạm trỗ và đủ thứ thợ cao tay trong mọi ngành nghề (2Sm 22,1-16). Nhưng tiếc thay ông không thực hiện được. Kế nghiệp cha, Salomon đã cho xây dựng một Đền Thờ nguy nga, lộng lẫy và tráng lệ trong vòng bảy năm (1V 5,15-7,51).
Chúa Giêsu tỏ lòng tôn kính sâu đậm đối với đền thờ Giêrusalem nơi Người đã được Đức Maria dâng hiến (Lc 2,22-39). Trong các đại lễ, Người lên đó như lên để gặp gỡ Cha Người (Lc 2,41-50). Chúa Giêsu luôn coi đền thờ là nhà của Thiên Chúa, một ngôi nhà để cầu nguyên, nhà của Cha Người. Cho nên hôm nay, Ngài lên án, nổi giận khi người ta biến nó thành nơi buôn bán (Mt 21,12-17; Ga 2,16tt). Ngài không muốn nơi Thánh này trở thành nơi buôn bán, đổi chác tiền bạc. Khi xua đuổi các con buôn ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu đã thanh tẩy thói tôn thờ ngẫu tượng. Theo Đức Giêsu, ngẫu tượng nguy hiểm nhất là tiền bạc, tức là thần “Mammon”. Những con buôn đưa súc vật vào Đền thờ không do lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng vì lợi nhuận. Họ đã coi trọng tiền bạc hơn Chúa. Họ đã dùng Đền thờ làm phương tiện phục vụ túi tiền của họ. Các tư tế coi sóc Đền thờ cũng như con buôn, coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Họ đã rơi vào thói tôn thờ ngẫu tượng: thờ tiền bạc, dùng Chúa và Đền thờ để phục vụ tư lợi.
Hôm nay, Chúa Giêsu một mặt ra tay thanh tẩy đền thờ vật chất mặc khác tiên báo cho chúng ta biết về đền thờ thiêng liêng nữa. Đền thờ thiêng liêng trước hết phải là chính Chúa Giêsu, “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, Chúa có ý nói đến thân xác của Ngài. Ngài sẽ bị giết chết, nhưng trong ba ngày Ngài sẽ sống lại. Nhờ vậy, qua Chúa Giêsu Thiên Chúa đã trở thành Emmanuel, đã trở thành Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đồng thời nhờ Ngài, chúng ta sẽ dâng lên cho Thiên Chúa của lễ tuyệt hảo nhất. Tiếp đến, đền thờ thiêng liêng còn là Giáo hội, bởi vì nhờ Giáo hội, Thiên Chúa đến với chúng ta qua những hoạt động của bí tích và lời giảng dạy, cũng như qua Giáo hội mà chúng ta không ngừng tôn vinh và thờ phượng Chúa. Sau cùng, đền thờ thiêng liêng là chính tâm hồn chúng ta, bởi vì nhờ công cuộc cứu độ với dòng nước Rửa tội, tâm hồn chúng ta trở nên như một gian cung thánh sống động cho Thiên Chúa ngự trị, đồng thời cũng chính tại thẳm sâu cõi lòng, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những tâm tình cầu nguyện tha thiết và kết hợp chặt chẽ với Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, để tâm hồn chúng ta luôn xứng đáng là nơi cho Chúa ngự trị, thì có một việc chúng ta cần phải làm ngay, đó là khử trừ tội lỗi, vì tội lỗi sẽ làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ nhớp. Vậy, nếu Thiên Chúa viếng thăm vào giữa lúc chúng ta đang lặn ngụp trong tội lỗi, thì có lẽ Ngài sẽ tức giận mà nói với chúng ta như xưa Ngài đã nói với phường buôn bán tại đền thờ: đừng biến nhà Cha ta thành hang trộm cướp.
Chúng ta đang sống trong mùa chay, đoạn Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, mỗi người tín hữu được coi là một đền thờ của Thiên Chúa. Vì vậy, Mùa Chay này là dịp tốt nhất để thanh tẩy tâm hồn. Chúng ta hãy nhanh chóng thanh tẩy tâm hồn khỏi thói tôn thờ ngẫu tượng tiền bạc vì chưng, bài đọc 1, Sách Xuất Hành dạy: “Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20,4). Thứ hai, trong tinh thần năm Phúc âm hóa giáo xứ, mọi thành phần dân Chúa trong giáo xứ chúng ta hãy trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Một đền thờ trong đó các thành viên biết lấy yêu thương, sự khoan dung tha thứ mà đối xử với nhau. Một đền thờ mà trong đó có Thiên Chúa ngự trị không còn bị những ngẫu tượng có tên là tiền bạc, tham vọng, ích kỷ, hận thù, gian dối chi phối nữa!
Tóm lại, mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị. Nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi, những cái xấu, những cái tiêu cực… đã chiếm chỗ của Chúa. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những cái đó để trả lại chỗ cho Thiên Chúa bằng sự ăn năn sám hối và cải thiện đời sống.
Xin Chúa cho Mùa chay thánh này là mùa hồng ân cho chúng ta: cho mỗi người chúng ta trở thành một đền thờ xứng đáng, và cho gia đình và giáo xứ chúng ta cũng là một đền thờ tốt đẹp để Thiên Chúa ngự trị, chúc lành và ban ơn cho chúng ta.
65.Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại câu chuyện Đức Giêsu đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi sân đền thờ Giê-ru-sa-lem. Lý do Ngài làm như vậy là vì: Đền thờ là nơi tôn nghiêm, Đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự trự, Đền thờ là nơi dành để dân thập phương qui tụ lại để cầu nguyện và dâng tiến lễ vật cho Thiên Chúa nhưng người Do thái đã biến thành nơi buôn bán.
Thật vậy, từ thời Cựu ước, dân Thiên Chúa đã đặt niềm tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đền Thờ. Niềm tin đó dựa vào những sự kiện sau đây:
Sự kiện thứ nhất là giấc mơ của tổ phụ Gia-cóp tại Bết Ên: Sau khi ra khỏi Bơ-e Se-va và đi về Kha-ran, Gia-cóp đến một nơi kia và nghỉ đêm tại đó vì mặt trời đã lặn. Gia-cóp lấy một hòn đá để gối đầu và nằm ngủ ở đó. Gia-cóp chiêm bao thấy một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống. Thiên Chúa đứng bên trên thang và hứa với ông nhiều điều: ban đất cho ông, dòng dõi ông đông đúc như sao trên trời, sẽ ở với ông, gìn giữ ông…(x. St 28, 10-22). Sau giấc mơ, tổ phụ Gia-cóp đã thốt lên rằng: “Quả thật, có ĐỨC CHÚA ở nơi này mà tôi không biết!”; “Nơi này đáng sợ thay! Đây là nhà của Thiên Chúa, là cửa trời, chứ không phải là gì khác.”;
Sự kiện thứ hai là Nhà xếp: Sau khi giải phóng dân Do thái khỏi ách nô lệ Ai-cập, ông Mô-sê được lệnh bởi trời dựng Nhà xếp tức là thánh đường di động để dành riêng cho Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn luôn hiện diện trong Nhà xếp để đồng hành với dân Người. Cho nên, ông Mô-sê mới khẳng định rằng: “Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người?” (Đnl 4,7);
Sự kiện thứ ba diễn ra tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem: Khi Sa-lo-mon vừa cung hiến thánh đường Giê-ru-sa-lem mà ông đã xây xong, ông truyền đem Hòm bia giao ước vào Đền thờ thì có áng mây sà xuống bao phủ nơi cực thánh, hình ảnh đó là dấu chỉ Thiên Chúa ngự xuống giữa dân Người (x. 1V 8,10-11).
Tuy nhiên, Bết Ên, Nhà xếp hay Đền thờ Giê-ru-sa-lem chỉ là hình bóng của Nhà thờ (Thánh đường) công giáo ngày nay. Người công giáo tin tưởng có Chúa ngự thật trong Nhà thờ. Vì nơi Nhà thờ đã được làm phép hay cung hiến luôn có cất giữ Thánh Thể, tức là có Đức Giêsu hiện diện cả nhân tính lẫn thần tính.
Vì sự hiện diện của Chúa nơi Nhà thờ nên người giáo giáo luôn gắn bó với Nhờ thờ. Hầu hết các sinh hoạt quan trọng trong cuộc đời của người công giáo đều diễn ra tại Nhà thờ: Khi mới sinh ra, chúng ta được cha mẹ đem đến Nhà thờ để lãnh nhận Bí tích Rửa tội, trở thành con cái Thiên Chúa. Khi đến tuổi khôn, chúng ta được học giáo lý và lãnh nhận Bí tích Giao hòa cũng tại Nhà thờ. Sau khi lãnh nhận Bí tích Giao hòa lần đầu chúng ta được lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Từ đó, chúng ta có thể đến Nhà thờ hằng ngày để tham dự thánh lễ Misa và lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Khi đến tuổi trưởng thành, chúng ta được lãnh nhận Bí tích Thêm sức với đầy đủ bảy ơn cả của Chúa Thánh Thần cũng tại nhà thờ. Các anh chị đến tuổi lập gia đình cũng đem nhau đến nhà thờ để thề nguyền chu toàn các bổn phận vợ chồng, cha mẹ trước mặt Thiên Chúa và Hội Thánh. Những người sống đời dâng hiến được cam kết với Chúa và Giáo hội bằng một nghi thức truyền chức hay khấn dòng cũng được diễn ra tại Nhà thờ. Khi kết thúc cuộc đời trần thế, mỗi người công giáo cũng được đem đến Nhà thờ để được linh mục dâng thánh lễ và cử hành các nghi thức sau hết.
Ngoài ra, Nhà thờ là nơi người công giáo có thể đến để thi hành những nhiệm vụ khác liên quan đến phần rỗi đời đời, đó là việc thờ phượng Thiên Chúa. Thờ phượng Thiên Chúa không chỉ mang tính riêng tư mà còn mang tính tập thể, cộng đoàn. Vì Nhà thờ là nơi thích hợp nhất để cầu kinh, ca hát, xin ơn, cảm tạ, chúc tụng Thiên Chúa. Vì Nhà thờ là nơi chúng ta được bồi dưỡng bởi ơn trên bằng việc cầu nguyện và lãnh nhận các Bí tích. Vì Nhà thờ là nơi chúng ta được nghe Lời Chúa, được nghe giảng dạy để mọi người hiểu đúng giáo lý và sống tốt bổn phận của mình. Vì Nhà thờ là nơi chúng ta được sống hiệp thông với Thiên Chúa và liên kết với mọi thành viên trong cộng đoàn xứ đạo và trong Giáo hội.
Chính vì Nhà thờ là nhà của Chúa, là nơi Chúa ngự và là nơi diễn ra các sinh hoạt quan trọng trong cuộc đời người kitô hữu nên Nhà thờ rất cần thiết. Thông thường, mỗi giáo xứ, giáo họ đều có một Nhà thờ hay nhà nguyện. Nhà thờ hay nhà nguyện thường được xây dựng nên bởi công sức của mọi thành phần trong giáo xứ. Người công giáo thường rất quảng đại trong việc đóng góp công của để xây dựng Nhà thờ. Không những nhiệt tình khi xây dựng mà họ còn ra sức bảo vệ Nhà thờ có khi bất chấp cả tính mạng. Đúng như thánh vịnh: “Lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa làm hao tổn thân tôi” (Tv 68.10).
Tuy nhiên, trong thực tế không phải ai cũng có tinh thần đóng góp công của để xây dựng Nhà thờ hay nhiệt thành trong việc bảo vệ Nhà thờ. Đó là điều mà mỗi người công giáo chúng ta phải xét mình lại. Nếu ngày hôm nay, Đức Giêsu đến một số các Nhà thờ công giáo chắc chắn Ngài cũng sẽ nỗi nóng và xua đuổi nhiều người ra khỏi Nhà thờ hay khuôn viên Nhà thờ. Đó là thái độ của những người xả rác bừa bãi trong khuôn viên hay thậm chí trong Nhà thờ. Đó là thái độ của những người cố tình ngồi ngoài nhà thờ để tham dự thánh lễ trong khi bên trong nhà thờ vẫn còn nhiều chỗ. Đó là thái độ thiếu tôn kính của nhiều người khi vào Nhà thờ: đứng ngồi không ngay ngắn, nói chuyện riêng, nghe điện thoại, quay fim chụp hình và làm những việc riêng khác đang khi tham dự thánh lễ. Đó là chưa nói tới hiện tượng phá nhà thờ bởi các nhà chức trách tại một số nước thiếu tự do tôn giáo đây đó trên thế giới như tại Trung quốc.
Trên đây, chúng ta đề cập đến ngôi Nhà thờ vật chất. Nhưng có một Đền thờ quan trọng hơn Nhà thờ vật chất rất nhiều đó là tâm hồn của mỗi người chúng ta. Tất cả các Nhà thờ vật chất được xây dựng nên đều nhằm mục đích giúp ích cho đền thờ tâm hồn. Thật vậy, khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, mỗi người chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô nói: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?”(1Cr 3,16). Tuy nhiên, cũng như nhiều Nhà thờ bị tàn phá bởi con người, nhiều Đền thờ tâm hồn cũng đang bị tục hóa trở thành nơi tôn thờ Ma quỷ. Đó là những người ham mê tiền của nên tham ô, tham nhũng, chiếm đoạt tài sản của người khác. Đó là những người tham quyền, nên bất chấp mọi thủ đoạn kể cả giết người để đạt được mục đích. Đó là những người ham mê sắc dục nên đã bán rẻ thân xác của mình cũng như làm hại thân xác của tha nhân. Và nhiều hình thức khác tương tự đang làm tục hóa Đền thờ của rất nhiều tâm hồn.
Chính vì thế, mỗi người chúng ta hãy tự xét mình để quyết tâm gìn giữ Đền thờ tâm hồn bằng cách giữ gìn thân xác sạch sẽ và tâm hồn sạch tội, nhất là tội trọng. Vì khi phạm tội trọng tức là chúng ta đuổi Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn mà rước Ma quỷ vào. Để bảo vệ đền thờ tâm hồn cần phải tuân giữ lề luật của Thiên Chúa, đó là Mười điều răn, Cựu ước gọi là “Thập Giới”. Đó là điều mà Thiên Chúa đã ban bố cho Môi-sê và ông đã truyền lại cho dân chúng rằng: “Ngươi không được thờ thần nào khác trước mặt Ta. Ngươi đừng lấy danh Chúa, Thiên Chúa ngươi, mà lường gạt, vì Chúa không thể không trừng phạt kẻ nào lấy danh Người mà lường gạt. Ngươi hãy nhớ thánh hoá ngày Sabbat. Ngươi hãy tôn kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu dài trong xứ mà Thiên Chúa sẽ ban cho ngươi. Ngươi chớ giết người; chớ phạm tội ngoại tình; chớ trộm cắp; chớ làm chứng dối hại anh em mình; chớ tham lam nhà của kẻ khác; chớ ham muốn vợ bạn hữu, tôi tớ nam nữ, bò lừa và bất cứ vật gì của bạn hữu.” (x. Xh 20, 1-3. 7-8. 12-17).
Xin cho tất cả mỗi người chúng ta luôn biết đóng góp công của xây dựng, tu sửa và bảo vệ Nhà thờ vật chất. Đồng thời, xin cho mỗi người chúng ta luôn biết tôn trọng tâm hồn của mình là Đền thờ của Thiên Chúa bằng cách năng đến Nhà thờ cầu nguyện, tham dự thánh lễ và lãnh nhận các Bí tích. Amen.
66.Ánh sáng Phục Sinh
Sau khi xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ, các nhà lãnh đạo Do Thái đã đến hỏi Chúa Giêsu: Ông có thể làm một phép lạ nào để chứng minh rằng ông có quyền làm như thế không? Và Chúa Giêsu đã trả lời: Hãy phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại. Thánh Gioan đã ghi chú: Ngôi đền thờ mà Chúa Giêsu nói đến chính là thân xác Ngài. Vì thế khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại, các môn đệ mới nhớ rằng Ngài đã nói như vậy, nên họ tin vào Thánh Kinh và những gì Chúa Giêsu đã nói.
Như thế có nghĩa là ngay cả các môn đệ cũng không hiểu hoàn toàn những điều Ngài nói. Chỉ sau khi Ngài sống lại trong vinh quang, thì những điều ấy mới được sáng tỏ. Nói cách khác, biến cố phục sinh chính là luồng ánh sáng chiếu soi, nhờ đó mà chúng ta hiểu được những biến cố và toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu.
Thực vậy, khi Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem một cách trọng thể, thánh Gioan cũng đã viết: Lúc đó, các môn đệ không hiểu những điều ấy, nhưng khi Ngài sống lại trong vinh quang, họ mới nhớ lại rằng Thánh Kinh đã nói những điều đó về Ngài. Rồi khi Ngài biến hình trên đỉnh Taborê, lúc xuống núi Ngài đã căn dặn các ông không được tiết lộ cho bất kỳ ai biết những việc xảy ra cho đến khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại. Phúc Âm đã ghi chú: Các ông tuân giữ lời căn dặn ấy, nhưng vẫn thắc mắc: từ trong kẻ chết sống lại có ý nghĩa gì? Tất cả những điều vừa trình bày có phần nào giống với công việc của người thợ rửa hình. Anh ta rọi phim xuống tấm giấy. Lúc bấy giờ chỉ là tấm giấy trắng, không hình ảnh, không màu sắc. Thế nhưng sau đó, anh ta đem ngâm tấm giấy đã được rọi vào thau đựng thuốc: Thế là hình ảnh và màu sắc bắt đầu hiện lên trên tấm giấy ấy. Cũng thế, những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu, mới đầu không có gì đặc biệt. Nhưng sau biến cố phục sinh, ý nghĩa sâu xa của nó mới bắt đầu xuất hiện.
Từ đó chúng ta hãy nhìn cuộc đời chúng ta qua ánh sáng của sự phục sinh. Đúng thế, nếu không có sự phục sinh thì đời sống của chúng ta chỉ là một mớ hỗn mang, một chùm những sự kiện vô nghĩa, nếu không muốn nói là phi lý. Bởi vì người giàu và kẻ nghèo, người đạo đức thánh thiện và kẻ gian ác bất lương rồi cũng sẽ bằng nhau trước cái chết. Nếu không có ánh sáng của sự phục sinh, thì chết là hết, là trở về với hư vô và cát bụi. Thế nhưng, với ánh sáng của sự phụng sự, thì tất cả đều chuyển biến, tất cả đều đổi thay, tất cả đều mang một giá trị và ý nghĩa. Đúng thế, nếu như cuộc đời tôi chất đầy những đắng cay và chua xót, thì không có nghĩa là tôi đã thất bại, bởi vì nếu tôi biết thánh hoá, biết chấp nhận những đắng cay chua xót ấy vì lòng yêu mến Chúa, thì rồi mai ngày tôi sẽ sống lại và được Chúa ân thưởng niềm hạnh phúc Nước Trời. Dưới ánh sáng của sự phục sinh thì dù cuộc sống hiện tại của chúng ta có vắn vỏi, có buồn phiền, thì mãi mãi vẫn là một kho tàng quý giá, bởi vì nhờ nó mà chúng ta có thể chiếm được sự sống đời đời, cũng như nhờ nó chúng ta có thể lãnh nhận niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
67.Yếu tố con người.
Paganini là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng của Ý vào thế kỷ XIX. Trong một cuộc trình diễn, ông linh cảm như có một điều gì bất ổn và khi nhìn kỹ cây đàn, ông khám phá ra đó không phải là cây đàn quen thuộc đã từng đưa ông lên đài danh vọng. Ông đứng lặng trong giây lát, rồi lên tiếng: Vì lý do kỹ thuật, xin quý vị vui lòng chờ đợi trong giây lát, vì tôi đã cầm lộn cây đàn. Nói xong, ông vào hậu trường bước thẳng đến nơi ông vẫn để cây đàn quen thuộc. Ông bàng hoàng nhận ra có người đã đánh cắp cây đàn quý giá của ông và đã đặt một cây đàn rẻ tiền thay thế vào đó. Trong lúc còn bàng hoàng thì bỗng một ý tưởng loé lên trong đầu, khiến ông mạnh dạn cầm lại cây đàn rẻ tiền kia mà bước ra sân khấu. Ông nói vơi khán giả: Kính thưa quý vị, ai đó đã đánh cắp cây đàn quý giá của tôi, nhưng trong buổi trình diễn này tôi muốn chứng minh cùng quý vị là vẻ đẹp và nét tinh tuý của âm nhạc không nằm trong nhạc khí, nhưng hàm ẩn nơi chính con người của nhạc sĩ. Phải yếu tố con người mới là quan trọng.
Từ câu chuyện này chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó chúng ta thấy Chúa Giêsu xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ, vì họ đã biến đền thờ, nơi cầu nguyện thành một chốn buôn bán, thành một hang ổ trộm cướp. Và những người Do Thái đã vặn hỏi: Ông lấy quyền gì mà làm như vậy? Chúa Giêsu đã trả lời: Các ông cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại. Và Phúc âm đã ghi nhận: Đền thờ Ngài muốn nói đến ở đây chính là thân xác Ngài. Lần khác, bên bờ giếng Giacóp, Ngài đã nói với người phụ nữ Samaria: Không phải thờ phương Thiên Chúa ở núi này hay núi nọ, mà phải thờ phượng trong tinh thần và chân lý.
Với những lời xác quyết trên, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đặt nặng yếu tố con người. Con người với thân xác và tâm hồn chính là một đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị, chính là một nhạc sĩ làm vang lên muôn cùng điệu chúc tụng Thiên Chúa. Thực vậy, nhờ bí tích Rửa Tội, tâm hồn chúng ta trở thành ngôi đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa. Chính vì thế, chúng ta phải gìn giữ tâm hồn chúng ta khỏi mọi dấu vết của tội lỗi, để xứng đáng làm đền thờ của Ngài. Mặc dầu bên ngoài chúng ta nghèo túng, ốm đau, hay gặp phải những điều bất hạnh, thì trong thẳm sâu cõi lòng, trong ngôi đền thờ thiêng liêng ấy, luôn vang lên những lời ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa.
Thế nhưng, nếu lúc này Chúa Giêsu cũng đến và viếng thăm chúng ta, liệu Ngài có nhận ra tâm hồn chúng ta là một nơi cư ngụ lý tưởng cho Ngài hay là bằng những hành động tội lỗi, chúng ta đã biến tâm hồn chúng ta thành một hang ổ trộm cướp?
68.Đền thờ.
Những người quản lý đền thờ, lúc ban đầu, có thể đã tổ chức bán chiên bò, chim bồ câu, hay đổi tiền đổi bạc với tinh thần phục vụ, với ý hướng ngay lành là để giúp cho người lên đền thờ có sẵn lễ vật, khỏi phải mang theo từ xa. Cũng là một thứ dịch vụ, thế nhưng đồng tiền lại là một cái dốc, có thể nói được là êm ả và người ta cũng có thể bị tuột trên cái dốc này một cách êm ả không hay biết.
Có biết bao nhiêu việc khởi đầu là phục vụ, là cứu trợ, là bác ái, là từ thiện, là tôn vinh Chúa và mưu ích cho các linh hồn, cho xã hội. Nhưng rồi theo hơi men của đồng tiền đã biến thành chuyện kinh tài thuần tuý, chạy theo lợi nhuận, mưu cầu địa vị, thanh danh hay quyền lực riêng cho mình. Lợi nhuận sẽ kéo theo gian dối, chèn ép, bất hoà và bất công.
Và như chúng ta đã thấy, đền thờ, mặc dù vẫn được coi là nơi thiêng liêng, nơi để con người hướng tâm hồn lên trên những cái quen được gọi là trần tục, chóng qua, nơi giúp con người tìm gặp cái vô giá, cũng có thể biến thành chợ búa, thành hang trộm cướp, nơi người ta cãi cọ nhau, giành giật nhau.
Trước cảnh tượng như vậy, cùng với lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa, Ngài đã lấy dây thừng làm roi để xua đuổi phường buôn bán và quân đổi tiền ra khỏi đền thờ. Ngài đổ tung tiền của họ xuống đất và xô nhào bàn ghế của họ.
Với chúng ta cũng thế, kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, tâm hồn chúng ta đã trở nên như một đền thờ, một gian cung thánh sống động, một nơi cho Thiên Chúa ngự trị. Thế nhưng, cùng với thời gian, lòng đam mê tiền bạc, của cải vật chất đã xô đẩy chúng ta vấp phạm hết tội này đến tội khác. Bởi vì như chúng ta thường nói: tiền bạc là một tên đầy tớ tốt nhưng nó lại là một ông chủ hà khắc, khả dĩ bóp nghẹt những tình cảm cao đẹp nhất của chúng ta.
Đúng thế, vì đam mê chạy theo tiền bạc mà chúng ta sao lãng những bổn phận đối với Chúa. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng gian tham, chèn ép và đối xử bất công với những người chung quanh. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng ăn trộm, ăn cắp, ăn gian, ăn quỵt, cũng như ăn hối lộ. Tất cả những tội lỗi phát sinh từ lòng đam mê chạy theo tiền bạc ấy, đã biến tâm hồn chúng ta trở nên như một cái chợ, một hang ổ trộm cướp, chứ không còn phải là một gian cung thánh, một ngôi đền thờ sống động cho Chúa nữa.
Nếu như bây giờ Chúa bước vào trong tâm hồn chúng ta thì liệu, Ngài sẽ vui mừng hay là sẽ nổi nóng vì tất cả những sai lỗi đã làm cho tâm hồn chúng ta trở thành ô uế và nhơ nhớp?
69.Xây dựng đền thờ Chúa ngự
Đền thờ là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và anh chị em. Người ta đến Đền thờ để tìm gặp sức mạnh của Chúa, người ta đến Đền thờ để tìm sự an ủi nâng đỡ từ cộng đoàn anh em. Có thể nói Đền thờ là nơi gặp gỡ của tình yêu thương. Vì thế, Chúa Giêsu muốn chúng ta xây dựng Đền thờ mình trong tình yêu thương đúng nghĩa của nó.
Đối với người Do Thái, kể từ thời vua Salomon, họ đã có được một ngôi Đền thờ, để làm nơi thờ phượng Thiên Chúa. Như thế, Đền thờ Giêrusalem là nơi tập họp tôn giáo của người Do thái từ mọi miền của đất nước vào dịp lễ vượt qua hằng năm, mừng kỷ niệm dân Chúa được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, vượt qua biển đỏ về Đất Nước, để tạ ơn, để xá tội, để xin ơn...Đền thờ Giêrusalem vừa cụ thể hóa sự hiện diện uy nghiêm của Thiên Chúa vừa chính thức hóa việc phụng tự của cả dân tộc. Bởi đó, Đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho muôn dân, và không ngừng mang tính chất thánh thiêng. Nhưng dần dần người ta đã ngang nhiên biến một phần của nơi thánh thiện ấy thành nơi thương mại, tuy dù với lý do tốt đẹp bên ngoài là để phục vụ việc tế tự. Họ đã biến nơi đó thành một cái chợ, thành một hang ổ trộm cướp khiến Chúa Giêsu đã phải giận dữ, ra tay dọn dẹp và loan báo ngày tận cùng sắp tới của chính Đền thờ.
Vừa bước vào Đền Thờ, Chúa Giêsu đã chứng kiến cảnh tượng chướng tai gai mắt. Người ta buôn bán chiên bò và trao đổi tiền bạc. Đám đông ồn ào náo nhiệt gây mất trật tự. Chúa Giêsu vốn quý trọng Đền Thờ Giêrusalem. Ngài gọi đó là nhà Cha của Ngài, là nhà cầu nguyện. Ngài không muốn nơi Thánh này trở thành cái chợ buôn bán. Ngài không chấp nhận nhà của Cha Ngài bị xúc phạm. Chính tình yêu đã khiến Ngài nổi giận. Ngài thấy cần phải thanh tẩy Đền Thờ, dù điều đó sẽ đưa Ngài đến chỗ thiệt thân. Lòng nhiệt thành khiến Ngài thanh tẩy Đền thờ, Ngài không sợ nguy hiểm khi phải ra tay dẹp loạn hầu thể hiện thánh ý Chúa Cha là Đền thờ phải là nơi tôn nghiêm, thánh thiện. Không cầm mình được trước cảnh tượng Đền Thờ thiêng liêng bị biến thành nơi thương mại như thế, Ngài thẳng tay đánh đuổi những kẻ buôn thần bán thánh. Ngài thanh tẩy Đền thờ, Ngài đã xua đuổi con buôn, xô đẩy lật nhào bàn ghế những người đổi tiền. Ngài yêu cầu mọi người trả lại cho đền thờ sự thánh thiêng phải có, trả lại sự trong sáng cho nơi cầu nguyện, nơi gặp gỡ của Cha Ngài và của mọi người.
Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu chắc chắn làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là một kẻ phản động, vì Ngài không có chức tư tế, cũng chẳng có nhiệm vụ nào trong Đền thờ. Vậy mà Chúa Giêsu đã kết án cách tổ chức của các trưởng tế và gán cho mình một uy quyền trên họ. Ngài bãi bỏ việc phụng tự của họ. Ngài đã tuyên bố: "Cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại". Các người Do Thái đã nghĩ ngay đến đền thờ bằng gạch đá, nhưng Chúa Giêsu không có ý nói đến đền thờ bằng gạch đá mà là Đền thờ thân thể Ngài. Nghe Ngài nói thế, các trưởng tế tỏ vẻ khó chịu ra mặt, họ biết Đền thờ đã được vua Hêrôđê sửa sang, xây dựng mất 46 năm mới xong, thế mà bây giờ Ngài bảo phá hủy đi và xây dựng lại chỉ trong ba ngày. Họ không tin lời Ngài. Họ cho rằng Ngài nói phạm thượng.
Chúa Giêsu đã nói: "Cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại". Chúa Giêsu muốn phá hủy nhưng gắn liền với xây dựng. Còn ngược lại các vị lãnh đạo tôn giáo đang phá hủy mà cứ tưởng là mình đang xây dựng điều tốt đẹp. Chúa Giêsu đã xua đuổi con buôn, xô đổ bàn ghế những người đổi tiền. Hay nói đúng hơn Ngài dẹp bỏ trật tự cũ để xây dựng trật tự mới. Ngài phá hủy những gì gây hại cho con người, gây cản trở mối hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa và với nhau. Vì thế, việc buôn bán đổi chác gây ồn ào trong Đền thờ mới phá hủy đền thờ, làm cho Đền thờ không còn là đền thờ nữa; nó không còn là nơi gặp gỡ Thiên Chúa và nhân loại. Trái lại nó trở thành nơi bóc lột, trộm cướp,...đang làm hủy hoại tôn giáo thờ phượng Thiên Chúa của người Do Thái. Chính vì thế, việc phá đổ giết chết là việc của giới lãnh đạo tôn giáo Do thái. Cần phải phá hủy nó đi. Còn việc của Thiên Chúa là cần xây dựng lại Đền thờ mới, là cứu sống và tái tạo tất cả trong Chúa Kitô Phục sinh. Để từ nay, Chúa Kitô trở thành trung tâm phụng tự duy nhất. Trong Ngài, người ta sẽ "thờ phượng Thiên Chúa trong Chân lý và Sự thật".
Người Do Thái tôn thờ Thiên Chúa một cách vụ hình thức, máy móc. Họ nghĩ rằng dâng cúng vào Đền Thờ nhiều tiền bạc, nhiều lễ vật là Chúa sẽ hài lòng, Thiên Chúa sẽ "xí xóa" tội lỗi cho họ. Họ tưởng dùng của cải vật chất để có thể hối lộ được Thiên Chúa. Từ suy nghĩ đó đã dẫn họ đến hành động sống bê tha tội lỗi; họ nghĩ dù sống gian tà, độc ác, bất công với tha nhân đến thế nào đi nữa; họ sống tội lỗi ngập đầu ngập cổ đi nữa nhưng chỉ cần đợi vào dịp đại lễ, vào dịp hành hương lên Đền Thờ, họ sẽ dâng cúng thật nhiều tiền của thì họ nghĩ rằng mình sẽ được tha thứ hết. Làm như thế họ vừa được bình an vừa được tiếng là mình đạo đức. Điều này đã làm cho họ sống đạo bề ngoài mà không cần phải hoán cải đời sống không tuân giữ giao ước Thiên Chúa nữa. Chính vì thế mà Chúa Giêsu thấy họ cần dẹp bỏ cách thờ phượng cũ đó, để mang tâm tình mới, biết thờ phượng Thiên Chúa trong tình yêu thương. Con người cần biết sống tương quan tình yêu với Thiên Chúa và với nhau.
Trong cuộc sống, đôi khi một số người trong chúng ta có quan niệm bổn phận đối với Thiên Chúa trong nhà thờ tách rời khỏi bổn phận đối với tha nhân ngoài xã hội. Người ta chỉ lo đọc thật nhiều kinh, dự nhiều lễ nhưng không biết yêu thương tha nhân đang ở chung quanh mình. Thậm chí có nhiều người siêng năng đọc kinh và đi lễ nhưng khi về nhà thì cứ chửi rủa hàng xóm, ghen ghét và nói xấu anh em mình. Chắc chắc điều đó Chúa Giêsu không muốn rồi. Hay là, người ta không thể nhắm mắt đi lễ trong khi bên lề đường có nhiều người đói khổ cần chúng ta giúp đỡ. Đền thờ phải là nơi gặp gỡ Thiên Chúa và tha nhân. Đến Đền thờ, chúng ta cần biến đổi để trở nên con người của sự hiệp thông, của tình bác ái yêu thương. Chúng ta cần xây dựng ngôi đền thờ trong tình yêu thương, chia sẻ, trong đó mọi người biết sống liên đới với nhau.
Mọi người chúng ta đều là Đền thờ của Thiên Chúa ngự trị (Cv 7, 49 - 51; 1Cr 3, 16, 2Cr 6, 16). Thiên Chúa muốn chúng ta sống hiên ngang như đền thờ Giêrusalem. Thiên Chúa muốn chúng ta sống có lương tâm trong sạch để xứng đáng là Đền Thờ uy nghi cho Thiên Chúa ngự. Thiên Chúa muốn chúng ta hãy xây dựng lòng mình bằng những ý nghĩ và hành động yêu thương tha nhân để xây đựng Đền thờ thiêng liêng thờ phượng Thiên Chúa.
Chính vì thế Chúa Giêsu đã xác định, chính Ngài sẽ trở thành Đền thờ mà con người có thể gặp gỡ và thờ phượng Thiên Chúa và Ngài cũng muốn rằng tất cả những ai tin theo Ngài cũng phải trở nên Đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa ngự trị. Chúng ta phải ra sức xây dựng, trang hoàng và tô điểm chính cõi lòng con người mình để nó xứng đáng trở nên một đền thờ của Thiên Chúa, xứng đáng nơi thể hiện tình yêu thương đối với Thiên Chúa và với nhau.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống hiệp thông trong tình yêu thương. Như thế là chúng con đang xây dựng và trang hoàng ngôi đền thờ thiêng liêng và uy nghi thánh thiện cho Thiên Chúa ngự. Chính nơi đó chúng con sẽ gặp gỡ được chính Chúa và gặp gỡ được anh em mình. Amen.
70.Đức Giêsu là chuẩn mực
1. Đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán
Không được biến đền thờ thành nơi buôn bán. Đền thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa. Không tôn trọng nơi tôn nghiêm, là không tôn trọng những người đang hiện diện hoặc đến đây thờ phượng Thiên Chúa.
Người ta có thể lý luận "những người buôn bán này đang làm một việc bác ái", họ tạo điều kiện thuận tiện cho những người dâng lễ có của lễ để dâng kính Thiên Chúa. Thực ra khi làm như vậy, họ đã đặt cái lợi về vật chất trên Thiên Chúa và coi thường Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta là đền thờ sống động của Thiên Chúa. Đừng biến thân xác mình, con người mình thành nơi buôn bán, thành đối tượng buôn bán. Thân xác chúng ta là thánh vì thuộc về Thiên Chúa. Chính Đức Yêsu cũng coi thân mình Ngài là đền thờ: "Cứ hủy đền thờ này và trong ba ngày Ta sẽ xây lại"!
Nếu chúng ta để đam mê thống trị mình, nếu chúng ta còn mê say tiền bạc, danh vọng, địa vị chức quyền, thì Thiên Chúa không có chỗ nhất nơi chúng ta. Bài Tin Mừng còn giúp chúng ta nhìn lại xem đâu là thái độ của tôi đối với thân xác, với sức khỏe, với con người toàn diện của tôi?
Với đức Yêsu, Thiên Chúa là nhất đối với Ngài. Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán khỏi đền thờ, dù bị những người có quyền hành không đồng ý và tra hỏi: "ông lấy quyền gì mà làm như vậy?". Hôm nay Đức Yêsu đuổi họ ra khỏi đền thờ, nhưng ngày mai thì sao? những người này có tiếp tục tôn trọng đền thờ không, hay mai họ vẫn làm như cũ? Đức Yêsu vẫn làm điều phải làm. Ngài vẫn làm cho dầu bị người ta ghét bỏ, cho dù người ta không vâng theo ngay trong ngày mai. Đức Yêsu sống giây phút hiện tại cách trọn vẹn, bất chấp tất cả.
2. Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá
Cho dù người Hy Lạp coi trọng và tìm kiếm khôn ngoan, cho dù người Do Thái sính phép lạ, thì Phaolô vẫn "rao giảng Đức Yêsu Kitô chịu đóng đinh".
Cứ sự thường nếu không đáp ứng mong ước, không thỏa mãn thị hiếu của người ta, thì sẽ thất bại! Ấy vậy Phaolô vẫn rao giảng "Đức Yêsu Kitô chịu đóng đinh" cho dù không đáp ứng mong ước của người đương thời. Sở dĩ vậy vì rao giảng "Đức Yêsu chịu đóng đinh" là điều tuyệt đối cần thiết. Đức Yêsu chịu đóng đinh thập giá là một giá trị, và là giá trị tuyệt đối.
"Đức Yêsu chịu đóng đinh", đòi người ta xét lại cách sống của mình. Đức Yêsu đã chọn điều gì? Tại sao Ngài bị đóng đinh? Tôi có cùng cách sống và chọn lựa với Đức Yêsu không?
Rao giảng Đức Yêsu chịu đóng đinh, là rao giảng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Nếu không yêu, tại sao Thiên Chúa lại để Con của Ngài bị khốn khổ như vậy? Nếu không yêu, tại sao Đức Yêsu phải chịu đau đớn khổ cực và ô nhục dường ấy?
Đức Yêsu chịu đóng đinh, là niềm vinh dự, mối tự hào của mọi kitô-hữu. Đức Yêsu chịu đóng đinh, biểu tượng và bằng chứng cho biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.
3. Ta là Thiên Chúa, ngươi không được...
Nội dung của thập giới là gì? Hãy tôn thờ Thiên Chúa, thảo kính cha mẹ và yêu thương con người! Đừng xúc phạm con người, đừng chà đạp nhân phẩm!
Tại sao tôi không được làm điều này điều kia? Thập giới cho thấy khi tôi vi phạm lệnh cấm của thập giới, là tôi xúc phạm con người và Thiên Chúa. Thập giới có là để bảo vệ con người. Ngày sabbat được lập ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabbat.
Luật Cựu Ước lấy con người là chuẩn, còn luật Tân Ước lấy Đức Yêsu làm chuẩn. Luật Cựu Ước dạy "hãy yêu thương tha nhân như chính mình", còn luật Tân Ước dạy: "hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga.13, 34-35).
Luật Cựu Ước cho thấy: nếu xúc phạm con người sẽ bị xử, còn luật Tân Ước cho thấy: nếu không yêu thương, sẽ bị xét xử (Mt.25, 31tt).
Chính Đức Yêsu là Đấng làm cho lề luật nên trọn "Ta đến không phải để phá hủy, nhưng để làm nên trọn".
Xin cho chúng ta trở nên giống Đức Yêsu trong mọi sự.
71.Chúa Nhật 3 Mùa Chay
Anh chị em thân mến.
Có những lần tôi đi chợ, len lỏi và đôi khi phải chen lấn để vượt lên phía trước, vậy mà cũng có những lúc phải dừng lại. Quan sát kỹ, thì không phải những người đi chợ làm cho sự lưu thông bị tắc nghẽn. Nhưng chính những người ngồi mới làm cản trở lưu thông. Họ ngồi với một chướng ngại vật phía trước, chiếm một khoảng không gian rộng cùng với những vật dụng trên đó. Họ kêu mời những người đi ngang qua, ghé mắt vào những món hàng mà họ bày bán. Nhưng bổng nhiên, có một sự náo động và lưu thông được dể dàng trở lại. Thì ra xuất hiện bóng dáng một người, mặc bộ đồ đặc biệt, với chiếc băng vấn trên tay áo. Đây là người trong ban quản lý chợ, anh ta đi để lập lại trật tự cho nơi buôn bán.
Công việc đó cứ diễn ra mỗi ngày: Cứ có những người bán rong, và cũng vẫn phải có người lập lại trật tự. Vì người ta chỉ biết tìm lợi ích riêng tư mà không nhìn thấy những ích lợi chung, nên ban quản lý chợ cứ phải làm việc, phải đi, phải dẹp, để lập lại trật tự.
Chúa Giêsu là người quản lý đền thờ, còn hơn thế nữa, Ngài còn là chủ đền thờ. Ngài không thể chịu được khi nhìn thấy đền thờ không có một chút trật tự nào hết. Đền thờ là nơi tôn nghiêm mà giờ đây đã trở thành nơi ồn ào náo nhiệt của buôn bán. Đền thờ là nơi cầu nguyện , mà giờ đây trở thành nơi trao đỗi và gian lận. Đền thờ là nơi dành riêng cho Thiên Chúa, nơi để con người gặp gỡ Thiên Chúa, mà giờ đây con người đã biến thành nơi của riêng mình để biếng thành nơi phục vụ cho lợi ích riêng tư. Ngài mới lập lại trật tự trong đền thờ.
Đi xa hơn nữa, Ngài muốn hướng con người đến ngôi đền thờ thật sự là tâm hồn của mỗi người. Đền thờ vật chất, theo thời gian , nó chẵng còn giá trị và sẽ bị phá đỗ, vì nó là sản phẩm do con người tạo nên, nó sẽ bị biến chất. Thiên Chúa không cần một đền thờ đã bị biến chất. Ngài cần một đền thờ thật sự trong tâm hồn mỗi người, đền thờ đó luôn phải xứng đáng với những gì mà Thiên đã xây dựng nên nó từ thuở ban đầu. Nếu nó không xứng đáng, Ngài sẽ không ngần ngại dùng roi để lập lại trật tự cho ngôi đền thờ của Ngài được xứng đáng hơn.
Có thực mới vực được đạo.
Câu nói mà bao nhiêu người đã dùng nó để biện hộ cho những hành vi sai trái của mình. Biện hộ cho hành vi lười biếng: nào là con nghèo khổ quá, không còn thời gian đến nhà thờ, không thể giữ đạo được, không thể chăm sóc con cái cho tốt được. Nào là không có thời gian để làm việc bác ái, không có thời gian để sống đạo cho tốt. Nhưng cuối cùng là gì? chẵng qua là vì lười biếng, ích kỷ, muốn tìm những lợi lộc cho bản thân mà chúng ta bất chấp tất cả. Chúng ta để ra bên ngoài tất cả những luật công bằng, yêu thương, chúng ta cũng chẵng cần biết đến Thiên Chúa của mình đã nói gì, đã dạy những gì.
Còn thân xác nầy, chúng ta xem nó như là vật sở hữu riêng của chính mình, để rồi chúng ta tùy tiện xử dụng nó vào bất cứ công việc gì cũng được, xấu có , tốt cũng có, ngay chính có, mà bất chính cũng có. Chúng ta quên rằng thân xác nầy là do chính Thiên Chúa dựng nên, và thân xác nầy là đền thờ cho Thiên Chúa ngự. Do đó chúng phải có bổn phận gìn giữ thân xác luôn tốt đẹp để xứng đáng đón rước Chúa. Nếu giờ nầy Chúa đến viếng ngôi đền thờ của mỗi người chúng ta, thử hỏi Ngài có thể yên tâm ngự trong đó cách thoải mái được không? Hay Ngài phải giận dữ tìm một chiếc roi để dẹp tất cả những chướng ngại vật đang ngổn ngang trong ngôi đền thờ nầy.
Chúng ta thử nhìn lại xem, giờ nầy cái gì đang thống lĩnh và chiếm hết tâm hồn của mình. Có phải là Thiên Chúa mà chúng ta hằng tôn thờ hay là chúng ta đã đem Thiên Chúa để bên ngoài , còn hiện tại, chúng ta đang tôn thờ cái gì? Có phải là tiền bạc, hay địa vị chức quyền, hoặc những đam mê nào khác. Để tất cả những cái đó thống lĩnh cuộc sống và điều khiển tất cả mọi hành động của chúng ta. Con tim đã chay lì khô cứng, ngôi đền của Thiên Chúa không còn được một trật tự tốt đẹp nữa. Thiên Chúa sẽ đánh đổ những tiền bạc, tẩy chay dọn sạch những gì đang được bày biện trong tâm hồn chúng ta để Ngài tái lập trật tự cho ngôi đền thờ của Ngài. Đó là những lúc chúng ta gặp thất bại với những toan tính bất chính, và cũng là những lúc công việc làm ăn không được thuận lợi, mặc dù mình đã cố gắng hết sức. Những lúc đó chúng ta có biết nhớ đến Chúa, nhìn lại chính mình, thì thật hạnh phúc biết bao.
Xin Chúa ban ơn giúp cho mỗi người được trở nên xứng đáng là ngôi đền thờ cho Thiên Chúa ngự.
72.Đền thờ vật chất, đền thờ tâm hồn
1. Một ngày kia tôi đi xa, khi trở về thì thấy ở vách tường phía trước phòng ở đầy những vết dơ do một số em nhỏ có lẽ do vô ý thức đã chọi những trái bàng vào vách tường, làm mủ dính gây bẩn, điều này làm tôi khó chịu, cho nên mau mau đi chùi rửa. Có thể nói, đó là tâm lý chung của mọi người, ai cũng muốn giữ sạch sẽ nơi mình ở, dù chỉ là nơi ở tạm. Vì thế, chúng ta chẳng ngạc nhiên gì khi thấy Chúa Giêsu giận dữ xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ Giêrusalem, nơi Ngài xem đó là nhà Cha của Ngài.
Qua hành động này Chúa muốn nhắc nhở chúng ta điều gì? Phải chăng Ngài ước muốn chúng ta quan tâm chăm sóc, trân trọng đối với ngôi nhà Thiên Chúa: ngôi nhà vật chất là nơi thờ phượng cũng như đền thờ thật của Thiên Chúa là tâm hồn của chúng ta.
2. Người Do thái thời Chúa Giêsu họ có rất nhiều hội đường, một cộng đoàn Do thái khá đông là có thể có một hội đường, để các ngày lễ, ngày Sabbat họ tựu lại để cầu nguyện, học hỏi Lời Thiên Chúa. Nhưng chỉ có một đền thờ chính thức, duy nhất ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem được gọi là Đền thánh vì là nơi tượng trưng cho Thiên Chúa ngự. Những dịp lễ lớn người Do thái có thói quen hành hương về Đền thờ Giêrusalem.
Theo tục lệ, khách hành hương lên Đền thờ phải dâng của lễ, người giàu thì thường dâng bò hay chiên, kẻ nghèo thì một cặp bồ câu. Dân buôn bán lợi dụng đem bày bán những thứ này ngay ở sân Đền thờ cho khách hành hương. Luật Do thái cũng buộc người đàn ông hằng năm phải nộp thuế cho đền thờ nữa (1/2) đồng tiền của người Do thái. Tiền Lamã lúc ấy rất thông dụng, nhưng vì in hình vua ngoại đạo, nên không được lưu hành trong Đền thờ. Vì thế con buôn cũng lợi dụng đổi chác tiền bạc để kiếm lời.
Đền thờ Giêrusalem đã bị tục hoá, biến thành cái chợ, không hơn không kém. Việc phụng tự đã trở nên tấm bình phong để người ta tìm kiếm những lợi lộc vật chất, là nơi để người ta phô trương... Đứng trước tình trạng tục hóa, Đức Giêsu rất đau lòng, không nén nổi cơn thịnh nộ, Ngài đã ra tay hành động để nhắc nhở về việc thờ phượng đích thực và trả lại cho Đền thờ sự tôn nghiêm cần thiết phải có của nó.
3. Giờ đây, qua đoạn Phúc Âm này, Ngài cũng nhắc nhở chúng ta cần có một sự quan tâm, trân trọng chăm sóc đối với đền thờ của Thiên Chúa: đền thờ vật chất cũng như đền thờ thật của Thiên Chúa là con người của chúng ta:
* Trước hết đó là đền thờ vật chất. Chúa Giêsu đã sử dụng nhiệt tâm và cả sức mạnh thể lý để bênh vực bảo vệ "Nhà Cha". Cũng vậy, chúng ta cũng phải biết vận dụng mọi khả năng của chúng ta để: xây dựng, gìn giữ nơi thờ phượng; tham gia những sinh hoạt của Giáo Hội để làm sáng danh Chúa.
* Kế đến cùng xây dựng Đền thờ thật của Thiên Chúa. Xây dựng, chăm sóc cho ngôi nhà thờ hữu hình, tích cực xây dựng Giáo hội là cần thiết, nhưng chưa đủ; mỗi Kitô hữu chú tâm xây dựng con người mình thành nơi thờ phượng đích thực của Thiên Chúa.
Nhờ Bí tích Rửa tội, thân xác của mỗi chúng ta được trở nên Đền thờ Chúa Ba Ngôi, thế mà nhiều lần đã trở nên nhơ uế khi chúng ta suy nghĩ, nói năng và hành động theo thói thế gian, chiều theo tính xác thịt của mình thay vì theo ý Thiên Chúa. Đó chính là những cản trở làm Chúa khó đến với ta. Chúa Giêsu cũng giận dữ nói với mọi người chúng ta: "Hãy đem những thứ nầy đi khỏi đây" cho khuất mắt Ta. Chúng ta nghĩ sao? Khi nơi ta ở dơ bẩn thì cảm thấy khó chịu, lẽ nào ta lại cam chịu để tâm hồn chúng ta đầy vết nhơ tội lỗi!
Không riêng gì bản thân mọi người, mà gia đình Kitô hữu, cũng được mời gọi trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Liệu trong ngôi đền thờ ấy các thành viên có biết yêu thương, khoan dung đối với nhau không? Nếu có được những điều đó là dấu hiệu Thiên Chúa ngự trị, rất đáng mừng. Ngược lại, khi để những thứ ngẫu tượng khác ngự trị như: ích kỷ, hận thù, gian dối thật là điều đáng buồn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra rằng gia đình chúng con, thân xác chúng con là hình bóng Giêrusalem trên trời, để chúng con không những biết dọn dẹp, trang hoàng ngôi nhà thờ vật chất mà điều cần thiết hơn là phải làm đẹp nội tâm của chúng con ngay từ bây giờ, nhất là trong những ngày chay thánh này. Amen.
73.Đền thờ
Sau khi nghe đoạn Tin Mừng, chúng ta không khỏi băn khoăn và tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại hành động như thế. Thực vậy, công việc của những người buôn bán và đổi tiền là công việc đem lại lợi ích cho đền thờ và thuận tiện cho khách hành hương.
Theo luật lệ qui định, thì vào những dịp lễ lớn, người Do Thái phải lên đền thờ để chu toàn bổn phận thờ kính đối với Đức Giavê. Họ từ khắp các miền trong nước cũng như ngoài nước hành hương trở về Giêrusalem. Cũng trong những dịp này, họ phải dâng lễ vật và đóng thuế cho đền thờ. Lễ vật có thể là chiên bò hay chim bồ câu, tùy khả năng tài chính của mỗi người. Bởi đó, muốn dâng cúng tiền thì phải đổi ra tiền thông dụng tại Giêrusalem. Muốn có những lễ vật thì phải có những nơi để mua sắm. Biết đâu, chính Mẹ Maria và thánh Giuse cũng đã mua ở đấy cặp chim bồ câu khi dâng tiến Chúa vào đền thờ.
Xem như thế thì những kẻ mua bán đổi chác không những không có hại mà còn đem lại hoa lợi và bổng lộc cho đền thờ. Hơn nữa, mặc dù Kinh Thánh có nói đến cơn giận của Thiên Chúa, nhưng cơn giận ấy không phải sẽ được biểu lộ theo kiểu này và trong một hoàn cảnh cụ thể như thế, vì Chúa Giêsu ở mọi nơi và trong mọi lúc vẫn là Thiên Chúa của lòng từ nhân và bao dung, như lời Ngài đã từng phán: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường.
Vậy thì đâu là ý nghĩa, đâu là mục đích mà Chúa Giêsu muốn nhằm tới? Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy khi đánh đuổi phường buôn bán, Chúa Giêsu đã làm một hành động có tính cách tiên tri, một biểu tượng nhằm đưa chúng ta đến một ý nghĩa khác thâm thúy và cao xa hơn. Các nạn nhân của Ngài cũng đã hiểu được thâm ý ấy nên đã vặn hỏi Ngài: Ông có thể đưa ra dấu hiệu nào để biện minh cho hành động của ông? Và Chúa Giêsu đã đưa ra dấu hiệu để biện minh, dấu hiệu này mãi về sau các tông đồ mới hiểu được: thân xác Ngài sẽ chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Và như vậy, Ngài muốn nói lên rằng chính Ngài là Đấng Thiên sai, là Đấng sẽ đến để cứu chuộc dân Ngài.
Với tư cách là Thiên sai, Chúa Giêsu đã bất bình với phường buôn bán và đổi chác, không phải vì hành động của họ, mà chính vì quan niệm sai lạc của họ. Họ lên đền thờ với thái độ tự mãn.
Với tiền bạc, họ có thể mua được những lễ vật. Và khi đã dâng lễ vật thì họ có cảm tưởng như là đã trả nợ cho Thiên Chúa, họ thảnh thơi ra về vì đã chu toàn lề luật và có quyền ngồi chờ Thiên Chúa thi ân đáp lễ. Họ đã cậy vào uy lực của tiền tài chứ đâu có cậy nhờ vào Chúa.
Dấu hiệu Chúa Giêsu đưa ra: Ngài sẽ phải chết nhưng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại. Đó mới chính là cái uy lực thực sự mà con người phải bấu víu, phải nương tựa vào.
Qua hành động của mình, Chúa Giêsu đã đưa con người từ quan niệm về uy lực trần tục tới quan niệm về uy lực của Thiên Chúa. Đó chính là một cuộc canh tân, đổi mới tận gốc rễ. Ước chi trong Mùa Chay, chúng ta hãy nhìn lại đời sống xem chúng ta đã nghĩ gì và đã thực hiện cuộc đổi mới này như thế nào.
74.Chúa Nhật 3 Mùa Chay
Thưa Quý ông bà anh chị em! Nếu đặt bài Phúc âm của ngày Chúa nhật vừa rồi và bài Phúc âm của ngày Chúa nhật này nằm kề với nhau, thì có lẽ là chúng ta sẽ cảm thấy ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng không phải là vì chúng ta nhìn thấy được những nhân vật siêu phàm hay những bài học chí lý cho cuộc sống; Thế nhưng chúng ta ngỡ ngàng trước sự thay đổi đột ngột của dung mạo đức Giêsu. Chúa nhật vừa rồi chúng ta đã cùng với Phêrô, Gioan và Giacôbê, hãnh diện chiêm ngắm một Đức Giêsu vinh hiển, sáng láng, rạng ngời. Sự vinh hiển ấy, mặc dù chúng ta không tận mắt chứng kiến, nhưng chúng ta cũng có thể cảm nghiệm được phần nào khi nghe các môn đệ này thổ lộ niềm vui và hạnh phúc của mình: "Thưa Thầy! Nếu được ở mãi nơi này tốt quá".
Còn Chúa nhật hôm nay thì sao? Có lẽ là chưa bao giờ chúng ta nhìn thấy cung cách ứng xử của Chúa Giêsu lạ lùng, nếu không muốn nói là bộp chộp nóng nãy như ngày hôm nay. Thánh Gioan thuật lại là hôm ấy, nhân dịp đại lễ Vượt Qua sắp tới, Chúa Giêsu cũng có mặt ở Giêrusalem như mọi người theo luật đã định. Thế nhưng lần này, khi bước vào Đền thờ, dường như Người không còn tự chủ được nữa. Đền thờ từ muôn thuở vẫn được coi là biểu tượng duy nhất cho sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người, là nơi để người ta cầu nguyện gặp gở Chúa. Thế mà giờ đây, nó đã không hơn không kém một cái chợ: ồn ào, mua bán, đổi chác, gian lận, bóc lột. Người ta tụ họp lại nơi đây không còn giống như ngày trước, khi ở chân núi Sinai, lúc Thiên Chúa ban mười điều răn mà bài đọc Cựu Ước hôm nay đã kể lại một cách linh thiêng cảm động. Lòng nhiệt thành vì Nhà Chúa đã khiến Người giận dữ đánh đuổi tất cả mọi thứ ra khỏi đền thờ: "Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây! Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".
Hai hình ảnh hoàn toàn trái ngược nhau về con người của Đức Giêsu. Phải chănglà Giáo hội đã không suy nghĩ, không tiên liệu trước, khi đặt hai câu chuyện này gần nhau, để vô tình gây nên một sự ngỡ ngàng như đã nói ở trên? Thưa không! Nếu đọc hai câu chuyện này trong tinh thần và trong ý nghĩa của Mùa Chay, thì không những là không đối chọi nhau; Mà ngược lại, hai câu chuyện ấy còn bổ túc cho nhau, làm nên một gợi ý liên tục và chính xác trong việc sống Mùa Chay. Rõ ràng là nếu như trong ngày Chúa nhật vừa rồi, chúng ta nghe Chúa Giêsu dạy rằng: muốn đạt tới vinh quang thì phải bước lên con đường thập giá; Muốn có được hạnh phúc thì phải vượt qua con đường của sự đau khổ, thì trong bài phúc âm hôm nay, thập giá ấy, sự đau khổ mà mình phải vượt qua ấy chính là việc tỉa gọt, đổi mới con người và cung cách sống đạo của mình, mà việc thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu là hành động biểu tượng.
Thưa anh chị em! Chính thái độ quyết liệt của Đức Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay, đòi buột chúng ta là những người thường xuyên có mặt trong ngôi nhà thờ này, phải duyệt xét lại thái độ của chính mình. Chắc chắn rằng Chúa không bao giờ xua đuổi những con người thành tâm thiện chí, mà Người chỉ loại trừ những nếp sống giả hình: Lời nói và việc làm không đi chung với nhau. Mỗi người chúng ta hãy tưởng tượng xem; Nếu bây giờ Chúa có mặt ở đây, thì Người sẽ nói với chúng ta điều gì: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng hạnh phúc với chủ ngươi!, hoặc chổ khác "Hỡi bọn giả hình khéo léo kia, các ngươi hãy ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Ta thành nơi chợ búa!"
Ai trong chúng ta cũng biết rằng nhà thờ là nơi thánh thiêng để tôn thờ, cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa. Thế mà rất nhiều lúc chúng ta cũng nhận thấy rằng: không khí chợ búa dường như cũng còn man mác đâu đó, khi mà chúng ta đến nhà thờ trong thái độ mà người ta gọi là "mắt trước mắt sau". Mình phải xuất hiện với bộ trang phục nào cho đúng mốt, với kiểu tóc nào cho sành điệu. Vâng! Chúng ta phải nhìn nhận rằng: không có một kiểu quần áo nào là xấu cả, nhưng chính nó sẽ làm cho mình quê mùa khó coi khi chúng ta xử dụng nó ở những nơi không thích hợp. Chẳng ai khoác lên mình bộ áo dài gấm Thái Tuấn hay veston để đi tắm biển, và cũng chẳng ai đến công sở làm việc với bộ đồ ngủ. Vậy thì tại sao chúng ta không can đảm chọn cho mình, hay giúp con cái chọn lấy một bộ quần áo thích hợp mỗi khi bước vào ngôi nhà thánh thiêng này. Rồi nhà thờ là nơi mà chúng ta chính thức được nghe Lời Chúa: "Các con đừng xét đoán nhau"; Nhưng rất nhiều khi chúng ta vô tình làm cho nó trở thành một nơi để đánh giá lòng đạo đức của người khác: người này thế này, người kia thế nọ. Và cũng chính vì chúng ta đã làm sai đi cái ý nghĩa tốt đẹp của nó mà nhiều lúc chúng ta đến nhà thờ là để thắp sáng hào quang cho mình hơn là cho Chúa. Chúa không cần đến nhà thờ; mà chỉ có chúng ta mới cần nhà thờ. Và rồi con người cũng chẳng cần gì đến nhà thờ nếu họ sống xa lạ, nếu họ đối xử lạnh nhạt với nhau. Điều đó hàm chứa một lời xác định rằng: Nhà thờ chỉ là nhà thờ đúng nghĩa khi nó là trung tâm điểm để dân Chúa được hiệp thông với nhau.
Thưa anh chị em! Bước vào Chúa nhật thứ ba Mùa chay này, chúng ta có được một cơ hội thật tốt để nhìn lại mối liên hệ của mình đối với ngôi nhà thờ hữu hình này. Đồng thời cũng được mời gọi làm mới lại ngôi nhà thờ thiêng liêng là chính con người của mình: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa sao?". Vậy chúng ta hãy làm noi gương Đức Giêsu làm mới ngôi đền thờ hữu hình bằng cách trả lại cho nó tất cả sự tôn nghiêm thánh thiện qua cung cách và thái độ của mình mỗi khi bước vào ngôi nhà này. Hãy noi gương Đức Giêsu làm mới lại ngôi đền thờ thiêng liêng là chính con người của mình bằng cách mỗi ngày cố gắng thay thế những tham vọng, bất trung, ghen ghét, hận thù bằng lòng khoan dung, khiêm tốn, thông cảm và thứ tha. Thực hiện tốt hai mối liên hệ này là chúng ta đang sống đúng tinh thần của Mùa Chay, đang bước đi trên con đường dẫn tới sự sống đời đời.
75.Đền thờ đích thực
Tin Mừng Gioan thuật lại Đức Giêsu xua đuổi những người buôn bán chiên bò, chim câu và những người đổi tiền ra khỏi đền thờ. "Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán" (Ga 2,16). Thái độ quyết liệt của Đức Giêsu đòi chúng ta phải xét lại chính mình. Bởi vì, Người không muốn nhà Cha của mình bị xúc phạm, nơi thánh thiêng trở thành cái chợ.
Tuy nhiên, Nhà thờ là nơi qui tụ các kitô hữu họp nhau lại để cầu nguyện, học hỏi, chúc tụng ngợi khen Chúa, lãnh nhận các bí tích và nhất là tham dự Thánh Lễ để gặp được Chúa. Nhờ bí tích Thánh Tẩy, tất cả chúng ta được trở nên Đền Thờ của Thiên Chúa. Thiên Chúa không chỉ ngự trong những Đền Thờ do tay con người làm ra, đặc biệt Người còn ngự trong linh hồn đã được dựng nên giống hình ảnh của Người và do chính tay Người dựng nên. Vì thế, Thánh Phaolô Tông Đồ nói rằng: "Đền Thờ Thiên Chúa chính là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em".
Ngày nay, nhà thờ được xây dựng nguy nga, tráng lệ, được trang bị khá nhiều tiện nghi để mọi người thoải mái cầu nguyện, đọc kinh xem lễ. đây là điều rất đáng mừng vì đã có nơi để mỗi người dể dàng tìm gặp Chúa. Điều cần chú ý là làm thế nào để ai cũng có thể gặp gỡ tâm sự và lắng nghe Chúa chỉ bảo qua bầu khí thanh tịnh và ấm áp trong nhà thờ. Nhưng đền thờ đích thực chính là tâm hồn của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải biết tôn trọng với chính bản thân của mình. Nghĩa là luôn giữ cho tâm hồn thanh sạch, trong sáng không chìu theo những dục vọng của xác thịt. vì tất cả những điều ấy làm cho tâm hồn ta không còn xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự. cũng như phải có thái độ cung kính, tôn thờ và yêu mến mỗi khi tôi bước vào nhà thờ. Mỗi người trong chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa, và là đền thờ nơi Thiên Chúa ngự, nên cần phải dọn lòng mỗi khi rước Chúa. Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy trở nên đền thờ đích thực cho Ngài ngự vào. Muốn vậy, ta cần phải biến đổi con người của mình không chỉ nơi hình thức bên ngoài mà cả trong tâm hồn: trong cách nhìn sự vật, trong cách đánh giá người khác...
Noi gương Thầy Giêsu: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa..."(Ga 2,17). Hãy làm mọi việc vì lợi ích của người khác chứ không vì bản thân của mình. Đừng đánh giá nhau qua hình thức bên ngoài, nhưng qua tấm lòng nhân ái vì mọi người: Thánh Phaolô viết, chỉ có tình yêu đích thực mới giúp ta vượt qua những gian nan, khó nhọc, cay đắng, tủi nhục xảy đến trong cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu mùa chay là dịp thuận tiện, là cơ hội để con sám hối và quay về với Chúa. Xin cho con đừng tự mãn với những gì mình đã đạt được , nhưng giúp con canh tân con người của mình để mỗi ngày con xứng đáng là đền thờ của Chúa hơn. Amen.
76.Con người và Đền Thờ
Kể từ thời vua Salomon, dân Do Thái đã có được một ngôi đền thờ, để làm nơi thờ phượng Thiên Chúa. Nhưng ngôi đền thờ ấy đã sớm trở thành duyên cớ cho họ phạm tội, bởi vì họ đã biến nơi đó thành một cái chợ, thành một hang ổ trộm cướp, khiến Chúa Giêsu đã phải giận dữ, ra tay dọn dẹp và loan báo ngày tận cùng sắp tới của chính đền thờ.
Vẫn biết rằng Thiên Chúa coi trọng lòng nhân từ hơn của lễ, nhưng người Do Thái, đứng đầu là hàng tư tế, lại nhấn mạnh tới những nghi lễ rườm rà và tốn kém bên ngoài. Chính vì thế có lần bên bờ giếng Giacóp Ngài đã xác định: Phải thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý. Vấn đề không còn là phải thờ phượng Thiên Chúa trên núi này hay núi nọ, trong đền thờ này hay đền thờ kia, mà là thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Hay nói đúng hơn, kể từ nay, chính Chúa Giêsu sẽ trở thành đền thờ nơi mà con người có thể gặp gỡ và thờ phượng Thiên Chúa và Ngài cũng muốn rằng tất cả những ai tin theo Ngài cũng phải trở nên đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa ngự trị. Như thế, chúng ta thấy con người cao trọng hơn đền thờ. Cho nên nỗi ưu tư số một là phải lo làm sao cho có những người thờ phượng Thiên Chúa đích thực, chứ không phải là lo làm sao cho có những đền thờ lộng lẫy. Con người nếu biết thờ phượng Thiên Chúa đích thực, thì có thể thờ phượng Ngài ở bất kỳ nơi nào và bất kỳ lúc nào cũng được.
Trái lại, người ta có thể xây những nhà thờ cao đẹp, mà trong đó lại chẳng có một ai thờ phượng Thiên Chúa, hay tệ hơn nữa, có người hiện diện trong đó, nhưng lại chỉ thờ phượng Thiên Chúa bằng môi bằng miệng mà thôi, còn cõi lòng họ thì lại xa cách Thiên Chúa.
Ngày xưa vua Đavid đã từng ước mơ xây đền thờ cho Thiên Chúa, nhưng Ngài lại phán cùng vua: Ngươi mà lại xây nhà cho Ta ở hay sao? Thật vậy, từ ngày Ta đưa con cái Israel ra khỏi Ai Cập cho tới hôm nay, Ta đã không ở trong một ngôi nhà, nhưng Ta đã nay đây mai đó trong một chiếc lều và trong một nhà tạm.
Thiên Chúa đâu cần nhà để ở, bởi vì trời là ngai của Ngài và đất là bệ chân của Ngài. Chúa Giêsu trong cuộc sống, tuy mang tiếng là một bác thợ mộc, có lẽ chỉ là thợ làm nhà cho người khác, còn chính bản thân thì lại sinh ra trong chuồng bò, vất vưởng bên Ai Cập, lớn lên trong căn nhà của thánh Giuse, cuối cùng trở thành một người lang thang không cả chốn tựa đầu và chết ở trên cây thập giá, được an táng trong ngôi mộ của người khác. Sống không cần nhà cửa, không cần địa chỉ, thì nay sau khi đã Phục sinh liệu Ngài có cần những đền đài lộng lẫy hay không?
Trải qua dòng thời gian, Kitô giáo cũng đã đi vào dấu vết của mọi tôn giáo khác, đó là xây thật nhiều đền thờ. Thực ra đền thờ cũng rất cần thiết. Cần thiết cho chúng ta chứ không phải là cần thiết cho Thiên Chúa. Đền thờ bằng gỗ đá sẽ bị mai một với thời gian nhưng đền thờ thiêng liêng bằng chính con người thì sẽ tồn tại mãi mãi. Bởi đó, cùng với công việc tu bổ kiến thiết ngôi thánh đường này, chúng ta còn phải ra sức xây dựng, trang hoàng và tô điểm chính là cõi lòng con người để nó xứng đáng trở nên một đền thờ của Thiên Chúa.
77.Đền thờ
Chúa Giêsu đã xác định rõ đền thờ là nơi dành riêng cho việc thờ phượng và cầu nguyện. Đây không phải là chỗ để giao dịch buôn bán. Tuy nhiên, ngày nay người ta dễ đánh mất cảm thức về việc tôn kính Nhà của Thiên Chúa. Trong thời đại của điện thoại di động, chúng ta càng phải cẩn trọng và có trách nhiệm gìn giữ sự tôn nghiêm của những nơi dành riêng cho sự thờ phượng. Không có lý do nào có thể biện minh cho việc sử dụng di động trong nhà thờ. Tôi nghĩ rằng việc đem điện thoại di động vào trong nhà thờ là hoàn toàn không thích hợp, vì chúng ta cần phải hết sức tôn kính Chúa Giêsu Thánh Thể đang ngự trong nhà tạm. Chúng ta hoặc là vào nhà thờ để cầu nguyện hoặc đừng vào. Chúng ta dành thời giờ đến nhà thờ là để cầu nguyện, sống thân tình với Thiên Chúa hoặc đừng đến nhà thờ. Nếu chúng ta đem điện thoại di động vào nhà thờ nó sẽ trở thành tác nhân gây chia trí, ngăn cản việc cầu nguyện của chúng ta.
Với tư cách là một linh mục, trong thánh lễ, tôi đứng ở một vị trí thuận lợi trên cung thánh và nhìn xuống dân chúng ở phía dưới, tôi thấy nhiều người không chú tâm đủ đến việc cử hành bí tích Thánh thể. Theo tôi, họ chưa chu toàn đầy đủ bổn phận tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật.
Điều này liên quan đến vấn đề tôn kính Thiên Chúa. Đã đến lúc chúng ta đừng để mình làm nô lệ cho các phương tiện kỹ thuật và phải khẳng định khả năng kiểm soát việc sử dụng chúng. Chúng ta hãy tôn kính nhà thờ là nơi dành riêng cho việc thờ phượng và cầu nguyện, chúng ta hãy bỏ điện thoại di động ở nhàkhi đi tham dự thánh lễ. Tôi quả quyết với bạn, trái đất này vẫn tiếp tục quay, cho dù bạn không để điện thoại di động trong túi áo của bạn. Trái đất cũng chẳng dừng lại cho dù bạn không trả lời các tin nhắn khi chúng được gửi đến cho bạn.
78.Thanh tẩy
Đền thờ Giêrusalem đầu tiên được vua Salomon xây dựng rất đồ xộ, vĩ đại và cũng rất nguy nga, tráng lệ, đây là một công trình quý giá vào bậc nhất thời bấy giờ, phải huy động mỗi ngày cả trăm ngàn công nhân và bảy năm mới hoàn thành, đền thờ này đứng vững được 400 năm thì bị Nabucô, vua nước Babylon phá hủy vào năm 587 trước Công nguyên. Sau thời gian lưu đầy Babylon, Giôrôbaben kiến thiết lại đền thờ, nhưng thô sơ thôi. Đến thời Hêrôđê đại vương, ông cho trùng tu lại toàn bộ đền thờ, rất vĩ đại và nguy nga lộng lẫy, mỗi ngày có 18.000 thợ làm việc, không thể ước tính được số kinh phí, khởi công từ năm 20 trước Công nguyên mãi đến năm 63 sau Công nguyên mới xong, đền thờ này cũng bị tàn phá bình địa vào năm 70 do tướng Titô của Rôma tấn công.
Đền thờ rất vĩ đại, chia ra từng khu cho từng loại người: ngoài cùng là khu dành cho người ngoại giáo đến tham quan đền thờ, rồi đến khu dành cho phụ nữ, rồi đến khu dành cho nam giới, khu thiêu sinh các của lễ, khu dành cho tư tế, rồi đến bàn thờ dâng hương, trong cùng là nơi cực thánh, đặt hòm bia 10 điều răn, tượng trưng sự hiện diện của Thiên Chúa ở đây.
Đối với người Do Thái, đền thờ là trung tâm tôn giáo của dân tộc, vừa cụ thể hóa sự hiện diện uy nghiêm của Thiên Chúa vừa chính thức hóa việc phụng tự của cả dân tộc, bởi đó, đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho muôn dân, và không ngừng mang tính chất linh thiêng thánh thiện. Nhưng dần đà người ta đã ngang nhiên biến một phần của nơi thánh thiện ấy thành nơi buôn bán và trao đổi tiền bạc, dĩ nhiên với lý do tốt đẹp bên ngoài là để phục vụ việc tế tự. Quang cảnh ấy đã làm Chúa Giêsu khó chịu, nổi giận, Ngài yêu cầu mọi người trả lại cho đền thờ sự thánh thiêng phải có.
Bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Giêsu xua đuổi những người buôn bán và trao đổi tiền bạc ở đền thờ Giêrusalem, hành động này của Chúa được gọi là hành động thanh tẩy đền thờ, nhưng làm cho giới lãnh đạo Do Thái giáo khó chịu và hạch hỏi Chúa, nhân cơ hội này Chúa dạy bảo cho họ biết một điều rất quan trọng về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Từ khi lên 12 tuổi và suốt thời gian ẩn dật, hàng năm Chúa Giêsu đều lên đền thờ Giêrusalem dự lễ, tại sao Ngài không đuổi những người buôn bán trong đền thờ mà lại làm bây giờ, khi sắp kết thúc cuộc đời trần gian của Ngài? Vì bây giờ Ngài vào nhà Thiên Chúa không phải với tư cách một người hành hương nhưng với tư thế của một Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, Ngài vào đó và chính thức can thiệp với tư cách quản lý và chủ nhân. Dĩ nhiên trong những lần hành hương trước, chắc chắn Chúa Giêsu đã lấy làm chướng tai gai mắt cái cảnh buôn bán, biến nơi cầu nguyện thành chợ búa, ồn ào, thành hang trộm cướp, bây giờ chính thức lãnh lấy trách nhiệm chu toàn công việc của Chúa Cha, Ngài phải chấm dứt ngay cảnh lộn xộn đó. Lòng nhiệt thành vì Cha đã khiến Ngài dùng mọi phương thế hữu hiệu nhất để thanh tẩy đền thờ, Ngài không sợ nguy hiểm khi phải ra tay dẹp loạn hầu thể hiện thánh ý Chúa Cha là đền thờ phải là nơi tôn nghiêm, thánh thiện.
Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu chắc chắn làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là một kẻ phản động, vì Ngài không có chức tư tế, cũng chẳng có nhiệm vụ nào trong đền thờ. Chúa Giêsu đã kết án cách tổ chức của các trưởng tế và gán cho mình một uy quyền trên họ, Ngài đã bãi bỏ việc phụng tự do Thiên Chúa thiết lập, và còn gán cho mình có quyền bằng Thiên Chúa, Đấng mà Ngài gọi là Cha, nếu vậy thì phải làm một phép lạ từ trời, nghĩa là từ Thiên Chúa để làm bằng chứng, vậy Chúa Giêsu đã làm phép lạ nào?
Chúa trả lời: “Cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Các người Do Thái đã nghĩ ngay đến đền thờ bằng gạch đá, nhưng Chúa Giêsu không có ý nói đến đền thờ bằng gạch đá mà là đền thờ thân thể Ngài. Nghe Chúa nói thế, các trưởng tế tỏ vẻ khó chịu ra mặt, họ biết đền thờ đã được vua Hêrôđê sửa sang, xây dựng mất 46 năm mới xong, thế mà bây giờ Chúa bảo phá hủy đi và xây dựng lại chỉ trong ba ngày, họ không tin lời Chúa nói mà còn cho là Chúa phạm thượng, nên khi Chúa bị đưa ra tòa xét xử, họ đã đưa điều này ra để tố cáo Chúa. Thật ra ở đây Chúa muốn báo trước cho mọi người biết: Ngài sẽ bị giết chết nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại, Ngài dùng đền thờ làm hình ảnh để nói về thân thể Ngài là đền thờ đích thực của Thiên Chúa, lời tiên báo của Chúa đã xảy ra đúng như vậy.
Mỗi người chúng ta đều là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị, nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi đã chiếm mất chỗ của Chúa, vậy chúng ta phải trả lại chỗ cho Chúa bằng việc tẩy trừ tội lỗi. Chúa muốn chúng ta sống hiên ngang như đền thờ Giêrusalem, Chúa muốn chúng ta sống tự do độc lập hoàn toàn với tội lỗi, bởi vì phạm bất cứ tội gì, có tính hư tật xấu nào, mắc một đam mê nào là chúng ta làm nô lệ cho những thứ đó, như Chúa Giêsu đã nói: “Ai phạm tội là nô lệ cho tội”. Muốn độc lập với tội lỗi chúng ta phải đến với Chúa Giêsu, ăn năn sám hối, xin Chúa tha thứ, để được sống trong tự do của con cái Chúa.
79.Đền thờ
Dân Do thái vào thời các tổ phụ đã không biết tới đền thờ, cho dù họ vẫn có các nơi thánh để cầu khẩn Đức Giavê, chẳng hạn như Bêtel, Sikem, Sinai.
Rồi sau đó, trong cuộc xuất hành, họ dùng một thứ đền thờ lưu động, đó là nhà tạm với hai hòm bia giao ước, nhờ đó Thiên Chúa có thể ngự trị thường xuyên giữa dân Ngài.
Sau khi đã định cư tại miền đất hứa, Đavid muốn thiết lập một đền thờ tại thủ đô Giêrusalem, thế nhưng Thiên Chúa đã chống lại ý định ấy, bởi vì không phải Đavid sẽ xây nhà cho Đức Giavê, nhưng chính Đức Giavê sẽ xây nhà cho Đavid.
Thế nhưng, bước sang triều đại của Salomon, ý định của Đavid đã được thực hiện mà không gặp một sự chống đối nào của các tiên tri.
Công cuộc dựng xây này đã kéo dài suốt 40 năm, để rồi từ nay đền thờ Giêrusalem sẽ trở nên trung tâm phụng thờ Thiên Chúa. Người ta từ khắp nơi trong nước hành hương về đó để tôn kính Thiên Chúa. Người Do thái đã dành cho đền thờ một tình cảm hết sức trìu mến.
Trong những năm tháng bị lưu đày bên Babilon, họ luôn hướng tới đền thờ Chúa, và khi được trở về, thì việc đầu tiên họ đã làm ngay, đó là bắt tay vào việc tái thiết đền thờ Chúa.
Như trên chúng ta vừa nói, đền thờ là trung tâm của việc thờ kính Thiên Chúa. Hàng năm người Do thái phải lên đền thờ vào những dịp lễ lớn. Và cũng trong những dịp lễ lớn này, họ thường phải dâng tiến lễ vật như chiên bò hay chim bồ câu, tùy theo như khả năng tài chính, đồng thời đóng thuế cho đền thờ.
Vì thế, người ta đã tổ chức tại khuôn viên đền thờ một cái chợ, để buôn bán và đổi chác tiền nong. Trước cảnh tượng ồn ào và huyên náo ấy, Chúa Giêsu đã tức giận, Ngài lật đổ bàn của những người đổi tiền và xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ và Ngài đã nói với họ:
- Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện thế mà các ngươi đã biến nó thành hang trộm cướp.
Ngoài ra, Ngài còn hướng tâm hồn tới ý nghĩa thiêng liêng của đền thờ.
Thực vậy, đền thờ là nơi Thiên Chúa ở với chúng ta, đồng thời cũng là nơi chúng ta dâng lên Ngài những tâm tình cầu nguyện.
Nếu hiểu như vậy, thì đền thờ thiêng liêng trước hết phải là chính Chúa Giêsu, vì qua Ngài Thiên Chúa đã trở thành Emmanuel, đã trở thành Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đồng thời nhờ Ngài, chúng ta sẽ dâng lên cho Thiên Chúa của lễ tuyệt hảo nhất.
Tiếp đến, đền thờ thiêng liêng còn là Giáo hội, bởi vì nhờ Giáo hội, Thiên Chúa đến với chúng ta qua những hoạt động của bí tích và lời giảng dạy, cũng như qua Giáo hội mà chúng ta không ngừng tôn vinh và thờ phượng Chúa.
Sau cùng, đền thờ thiêng liêng là chính tâm hồn chúng ta, bởi vì nhờ công cuộc cứu độ với giòng nước Rửa tội, tâm hồn chúng ta trở nên như một gian cung thánh sống động cho Thiên Chúa ngự trị, đồng thời cũng chính tại thẳm sâu cõi lòng, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những tâm tình cầu nguyện tha thiết và kết hợp chặt chẽ với Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, để tâm hồn chúng ta luôn xứng đáng là nơi cho Chúa ngự trị, thì có một việc chúng ta cần phải làm ngay, đó là khử trừ tội lỗi, vì tội lỗi sẽ làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ nhớp.
Nếu Thiên Chúa viếng thăm vào giữa lúc chúng ta đang lặn ngụp trong tội lỗi, thì có lẽ Ngài sẽ tức giận mà nói với chúng ta như xưa Ngài đã nói với phường buôn bán tại đền thờ.
Đúng thế, vì tội lỗi, tâm hồn chúng ta không còn phải là nhà cầu nguyện nữa, nhưng nó đã trở thành hang trộm cướp.
80.Đền thờ tâm hồn
Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ. Nhưng sâu xa hơn Chúa muốn nhắc mọi người phải lo thanh tẩy tâm hồn mình là nơi Thiên Chúa hằng hiện diện.
Người Do Thái quan niệm, muốn thờ phượng Thiên Chúa phải đến Đền thờ và có lễ vật. Còn Đức Giêsu, Ngài cho thấy đền thờ và lễ vật không dẫn con ngừơi đến với Thiên Chúa nếu như tâm hồn chúng ta khép kín hay bị lấp đầy bởi những tham lam, ích kỹ và ghanh tỵ. Nên Ngài thay thế tế vật thành tinh thần thờ phượng. Chính vì vậy mà Ngài có thể gặp gỡ Thiên Chúa mọi nơi, mọi lúc: "thờ Chúa trong tinh thần và chân lý". (Ga 4, 23-24)
Trong cuộc sống, chúng ta tìm Chúa khắp nơi, nhưng Chúa luôn hiện diện trong tâm hồn của mỗi người. Như lời Thánh Phaolô dạy rằng: "Anh em không biết sao, chính anh em là đền thờ của Thiên Chúa." Nên điều quan trọng không phải tìm Chúa nơi này hay nơi kia nhưng là làm sao để tâm hồn mình trở thành nơi Thiên Chúa ngự.
Quả thật, điều này không đơn giản như chúng ta nghĩ. Bởi vì, những người buôn bán xem ra rất gần gũi với đến thờ, nhưng Tin Mừng cho thấy đây là những người xa cách Thiên Chúa hơn ai hết. Họ đã đặt sai bậc thang giá trị khi xem tiền bạc ưu tiên hơn việc Thờ phượng Thiên Chúa. Lẽ ra đền thờ là nơi tôn nghiêm, nơi ngự trị của Thiên Chúa và là nơi con người đến đó để gặp gỡ Ngài, nhưng họ đến để buôn bán, để kinh doanh. Tâm hồn họ bị giới hạn trong suy nghĩ và hành động. Việc thờ Thiên Chúa bị đóng kín trong không gian vật chất và bị trói buộc trong cách giữ lề luật máy móc. Khi tâm hồn đầy những lo toan, những bận tâm về danh lợi thì sẽ không con chỗ cho Thiên Chúa hiện diện.
Theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải có lòng nhiệt tâm yêu mến Chúa và lề luật một cách thật sự với một tinh thần ngay chính. Điều này, đòi hỏi chúng ta phải hy sinh rất nhiều. Vì thờ phựơng không chỉ đơn thuần là lễ phẩm dâng hiến cho Thiên Chúa hay các nghi thức bên ngoài, nhưng phải thực thi điều công chính bằng đời sống của mình. Cũng như Đức Giêsu: "vì nhiệt tâm nhà Chúa mà phải thiệt thân" (Ga 2, 17). Nếu nhìn với cái nhìn trần thế, quả thật đây là một điều điên dạy. Ngày nay, con người chỉ làm những gì có lợi cho mình, ách giữa đàng không dạy gì mang vào cổ. Thế nhưng, thời buổi kinh tế đã đưa con người đến chỗ mạnh được yếu thua, nhân nghĩa, hy sinh, nhường nhịn là những từ mà người ta dường như loại bỏ và đi vào quên lãng. Chúng ta không sống theo thời đại "ai làm sao tôi làm vậy, ai làm bậy tôi làm theo". Nhưng Chúa Giêsu dạy cho ta khôn ngoan thật là sống theo đường lối Chúa.
Đền thờ chính là tâm hồn của mỗi người chúng ta. Mỗi năm Mùa chay đến rồi lại đi, chúng ta có thực sống tinh thần chay tịnh: ăn năn sám hối, cải thiện đời sống và bác ái trong việc bố thí và phục vụ tha nhân? Có sẵn sàng thanh tẩy tâm hồn mình sạch hết những lo lắng, bận tâm về danh, lợi, thú? Để tâm hồn ta xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự.
Lạy Chúa! Ước gì Lời Chúa hôm nay thấm nhập vào tâm hồn mỗi người chúng con, để biến đổi chúng con thành đền thờ xứng đáng cho Thiên Chúa ngự.
81.Thanh tẩy Đền Thờ
Vào thời Chúa Giêsu, dân Do thái vẫn có những hội đường để mỗi ngày sabat, ngày thứ bảy, họ đến đây để nghe lời Chúa và cầu nguyện. Đây không phải là nhà thờ hay đền thờ như chúng ta ngày nay. Họ chỉ có một đền thờ duy nhất tại Giêrusalem để tế lễ Thiên Chúa, là một nơi linh thiêng thánh thiện. Vậy tại sao lại có chuyện buôn bán, đổi chác tiền bạc ở đền thờ, đến nỗi Chúa Giêsu phải nổi giận, xua đuổi?
Trước hết, về việc buôn bán ở đền thờ. Mỗi năm, vào những dịp đại lễ, như lễ Vượt qua, lễ Ngũ Tuần… theo tập tục và thói quen đã trở thành như một luật lệ, bắt buộc các tín hữu khi đến đền thờ dự lễ đều phải dâng vào đền thờ một lễ vật nào đó làm của lễ dâng Thiên Chúa. Người giàu có thì dâng chiên bò, người nghèo thì dâng bánh rượu, dầu hương, chim câu… Nhưng vì gần đền thờ không có chợ, nên các tư tế đã lợi dụng cơ hội để làm ăn: hoặc là chính họ hoặc họ cho phép các con buôn đã nộp thuế cho họ, được buôn bán các thứ lễ vật đó cho những người đến dự lễ. Và đã là chuyện buôn bán thì có người mua kẻ bán, người trả người thách, lại với số đông người, không thể nào không ồn ào, om xòm, lộn xộn… làm cho khu vực đền thờ có vẻ là một chợ phiên hơn là nơi yên tĩnh để cầu nguyện và tế lễ.
Về chuyện đổi chác tiền bạc. Theo luật buộc: mỗi năm mỗi người trưởng phải nộp ½ đồng Xêken, tức là một nửa đồng tiền Do thái. Đây là một thứ thuế nghĩa vụ, ai cũng phải nộp và chỉ được nộp tiền Do thái, chứ không nộp thứ tiền nào khác, mặc dầu thời ấy tiền Rôma và tiền Hy lạp rất thông dụng, vì những thứ tiền ấy in hình vua ngoại đạo, nên cấm lưu hành trong khu vực đền thờ. Vì thế, để có tiền Do thái nộp thuế cho đền thờ, những người đến dự lễ phải đổi tiền. Đó là lý do sinh ra cái nạn đổi tiền và có những quầy đổi tiền trong đền thờ.
Trước sự bất kính đối với đền thờ như thế, Chúa Giêsu đau xót và nổi giận. Ngài xua đuổi họ. Việc này làm cho các tín hữu hài lòng, duy có nhóm tư tế bực mình, hạch hỏi Chúa: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng ta thấy là ông có quyền làm như thế?”. Chúa bảo họ: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”.
Hành động của Chúa Giêsu không chỉ đơn thuần là xua đuổi các con buôn, là đụng chạm đến quyền lực và lợi nhuận của hàng tư tế, nhưng sâu xa hơn, đó là cử chỉ tượng trưng, nhằm phủ nhận một cung cách thờ phượng đã bị làm cho biến chất. Và không những phủ nhận nghi thức phụng tự, Chúa Giêsu còn phủ nhận luôn đền thờ bằng gỗ đá, một đền thờ lộng lẫy, huy hoàng, tráng lệ đã được vua Hêrôđê cả ra lệnh xây dựng từ năm 19 trước công nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Tin Mừng kể lại hôm nay xảy ra vào năm 28 sau công nguyên. Như vậy đã ròng rã 46 năm trời xây cất vẫn chưa xong.
Khi phủ nhận các nghi thức phụng vụ cũ, phủ nhận cả đền thờ gỗ đá, Chúa Giêsu giới thiệu một đền thờ mới, đền thờ đích thực, đó là thân xác Phục sinh của Ngài, khi Chúa nói: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, Chúa có ý nói đến thân xác của Ngài. Ngài sẽ bị giết chết, nhưng trong ba ngày Ngài sẽ sống lại.
Chúng ta đang sống trong mùa chay, đoạn Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, mỗi người tín hữu được coi là một đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng hiện giờ đền thờ ấy có xứng đáng để Thiên Chúa ngự không hay là một cái chợ trưng bày đủ thứ, nhất là những thứ cấm kỵ: tham vọng, ích kỷ, hận thù, bất trung, ghen ghét, gian dối…? Không nhiều thì ít, có lẽ đền thờ nơi chúng ta còn đang bất xứng, chúng ta cần thanh tẩy, sửa chữa.
Thứ hai, gia đình Kitô hữu cũng được mời gọi trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Liệu trong ngôi đền thờ ấy, các thành viên có biết lấy yêu thương, sự khoan dung tha thứ mà đối xử với nhau, hay ngôi đền thờ đã trở thành quán trọ mạnh ai nấy sống? Liệu trong ngôi đền thờ ấy có Thiên Chúa ngự trị hay đang bị đủ thứ ngẫu tượng chi phối, những ngẫu tượng có tên là tiền bạc, tham vọng, ích kỷ, hận thù, gian dối?
Tóm lại, mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị. Nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi, những cái xấu, những cái tiêu cực… đã chiếm chỗ của Chúa. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những cái đó để trả lại chỗ cho Thiên Chúa bằng sự ăn năn sám hối và cải thiện đời sống.
Xin Chúa cho Mùa chay thánh này là mùa hồng ân cho chúng ta: cho mỗi người chúng ta trở thành một đền thờ xứng đáng, và cho gia đình chúng ta cũng là một đền thờ tốt đẹp để Thiên Chúa ngự trị, chúc lành và ban ơn cho chúng ta.
82.Cơn tức giận
Bối cảnh Tin Mừng mô tả về một Đức Giêsu đang nóng giận, với cây roi trong tay. Hình ảnh này của Đức Giêsu không phù hợp với hình ảnh quen thuộc một Đức Giêsu hiền lành và tươi cười. Dường như điều này vượt xa tính cách mà chúng ta biết về Đức Giêsu trong những bài Tin Mừng còn lại, đến nỗi khiến chúng ta xua đuổi hình ảnh đó. Điều này chứng tỏ cho chúng ta rằng tính cách của Đức Giêsu có một khía cạnh khác. Tất nhiên, Đức Giêsu là một người hiền dịu. Nhưng điều đó không có nghĩa là Người yếu đuối. Khi cơ hội đòi hỏi, Người có thể rất mạnh mẽ và rất quyết đoán.
Lại nữa, chúng ta bị sốc khi nhận thấy Đức Giêsu không chỉ tức giận, mà còn hung dữ nữa. Và Người còn sử dụng một hình thức như thể là bạo lực. Chúng ta đã từng được dạy dỗ rằng tất cả mọi cơn nóng giận đều xấu xa cả. Nhưng tự thân sự tức giận chỉ là một cảm giác, vì thế, nó không tốt và cũng chẳng xấu về mặt luân lý.
Quả thật cơn nóng giận là một điều nguy hiểm, có thể khiến cho chúng ta có những lời nói hoặc hành động mà chúng ta sẽ phải hối tiếc sau này. Nhưng tức giận cũng có thể là một điều tốt đẹp. Nó có thể thúc đẩy chúng ta chấn chỉnh lại ngay tức khắc những điều sai trái tỏ tường. Có những lúc chúng ta cần phải tức giận. Chúng ta nên tức giận trước một tình huống bất công. Tức giận có thể là một cách diễn tả tình yêu thương.
Chúng ta phải nhìn vào những điều khiến cho chúng ta tức giận. Người ta nói rằng bạn có thể đo lường được mức độ tâm hồn của một con người, qua mức độ các sự việc làm cho người đó tức giận. Hầu hết cơn nóng giận của chúng ta đều do động cơ là quyền lợi cá nhân, và chúng ta thường tức giận về những điều vặt vãnh.
Một người đàn ông sống tại vùng ngoại ô của một ngôi làng. Cách nhà ông ta khoảng độ hơn 10 mét, có trồng một cây chanh lớn. Cây chanh này là ranh giới của ngôi làng. Tuy nhiên, nó đang bắt đầu già cỗi. Rõ ràng chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi nó gãy đổ. Mỗi khi có bão táp, người đàn ông đó đều sợ hãi cho ngôi nhà và mạng sống của mình. Ngày kia, không thể chịu đựng sự căng thẳng lâu hơn nữa, ông ta đốn hạ cây chanh xuống. Ông tin chắc rằng dân làng sẽ hiểu cho ông. Nhưng ông đã lầm: Một người nói “Ông thật xấu hổ, khi đã cắt bỏ một thân cây tuyệt đẹp như vậy”.
Một người khác nói “Ông đã tước đoạt của dân làng một phần gia sản”. Tuy là một cách ngoài lề, nhưng cách thế dân làng nổi nóng khi ý riêng của họ bị đe dọa thật đáng ngạc nhiên. Nhưng khi sở thích của những người hàng xóm bị đe dọa, thì rất ít khi họ nổi nóng.
Đức Giêsu không tức giận vì lý do cá nhân. Cơn nóng giận của Người xuất phát từ tình yêu của Người đối với Thiên Chúa và đối với mọi người. Hành động của Người tại đền thờ phải được coi như một sự phản đối lại việc thương mại hóa tôn giáo và báng bổ thần thánh của đền thờ. Nhưng điều này còn sâu xa hơn.
Trước hết, Người chống đối việc người Do thái không hoàn tất sứ vụ quốc tế đối với nhân loại. Tôn giáo đã trở nên chật hẹp, theo chủ nghĩa dân tộc và mang tính cách độc quyền. Thiên Chúa có ý muốn cho đền thờ trở thành một ngôi nhà cầu nguyện “cho tất cả mọi quốc gia”, nhưng lại trở thành một nơi được bảo vệ một cách ích kỷ, dành riêng cho dân Do thái. Đức Giêsu muốn hủy bỏ khái niệm độc quyền. Ơn Cứu Độ không chỉ dành riêng cho người Do thái, mà còn dành cho tất cả mọi dân tộc.
Thứ hai, Người tấn công vào chính bản chất thờ phượng của người Do thái. Với các lễ nghi và hiến tế súc vật, toàn bộ cách thờ phượng của đền thờ không còn phù hợp nữa, và không thể làm được gì để đưa con người đến với Thiên Chúa. Người đã thay thế lối thờ phượng với hiến tế hy sinh bằng lối thờ phượng trong tinh thần. Việc thờ phượng đòi hỏi nơi chúng ta rất nhiều điều, hơn là chỉ biết dâng lên Thiên Chúa các đồ vật, và biểu diễn một số lễ nghi. Điều mà Thiên Chúa muốn hơn hết, đó là thái độ thờ phượng trong cuộc sống của chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta biến ngôi nhà này thành một ngôi nhà cầu nguyện, vui tươi và hợp nhất. Và xin cho những việc chúng ta thực hiện ở đây giúp chúng ta biết thờ phượng Thiên Chúa trong cuộc sống của chúng ta.
83.Thanh tẩy đền thờ
Gần đến lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Giêrusalem, Ngài vào trong đền thờ. Chúa Giêsu hết sức đau lòng trước cảnh tượng đang diễn ra trước mắt. Nguời người lố nhố kỳ kèo bớt một thêm hai, người mua trả giá xuống, kẻ bán lại chần chừ, đâu đó có tiếng người cãi cọ, văng tục nữa. Người đổi tiền thì rủn rẻn những đồng tiền vừa trao đổi, vui cười tít mắt vì lợi nhuận đã thu được. Gần đến lễ Vượt Qua nhiều người Do thái từ mọi miền trở về để mừng đại lễ của họ. Đây là cơ hội vô cùng tốt đẹp để những người buôn bán trong đền thờ hưởng lợi, trong số những người được hưởng lợi đó làm sao lại không có giới tư tế quản lý Đền thờ? Việc chính là dâng những lễ tế thờ phượng Thiên Chúa, nhưng sự ngọt ngào, hấp dẫn của đồng tiền lại che lấp tất cả, che cả Chúa! Đền thờ của Thiên Chúa đó sao? Thật đáng buồn, đáng tức giận! Chúa Giêsu không chỉ buồn, không chỉ giận mà còn đau, đau nhiều lắm. Chúa đã dùng dây làm roi để đánh, vừa đánh vừa đuổi. Người ta thường bảo " giận quá thì mất khôn " , nhưng Chúa Giêsu giận mà không mất khôn. Vì Chúa không đánh họ cho chết bỏ, đánh cho hả dạ, đánh cho đã tức mà đánh để dạy: " đừng biến nhà ta Cha ta thành nơi buôn bán và là sào huyệt của bọn trộm cướp ". Thực ra những thứ đuợc bày bán trong sân Đền thờ cũng nhằm phục vụ cho việc thờ phượng bên trong Đền thờ như cung cấp các lễ vật để tế lễ cho Thiên Chúa, dịch vụ đổi tiền để giúp tiện lợi trong việc đóng thuế cho Đền thờ. Nhưng điều đáng tiếc là những việc đó đã làm sai lệch việc thờ phượng, vì người bán thì chạy theo lợi nhuận, người mua thì nghĩ rằng nhờ những thứ đó họ có thể mua lòng được Thiên Chúa, bắt Thiên Chúa khi nhận lễ vật thì phải nghe theo lời họ cầu xin, họ kêu ngạo quá chừng, không thể chấp nhận được. Họ xem Thiên Chúa là sở hữu riêng ở trong tay mình. Thiên Chúa là chủ tể mọi loài, là Đấng tạo thành vạn vật, nhưng giờ đây con người đã vô phép bắt Thiên Chúa phải nghe theo lời con người như nô lệ phải vâng lời ông chủ, bởi ông chủ có tiền trong tay. Thật vô lý láo xược vô cùng. Đúng là châu chấu đá xe mà! thật không biết tự lượng sức mình. Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là kẻ phản động, vì Chúa Giêsu không có chức tư tế, cũng không hề có nhiệm vụ nào trong đền thờ. Họ hỏi Chúa Giêsu: " Ông con kia, ông lấy quyền gì mà làm như thế? " Chúa Giêsu trả lời họ: " Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội ba ngày, ta sẽ xây lại. " Chúa Giêsu muốn ám chỉ Ngài là Đền thờ mới, nhưng người Do thái không hiểu. Quả thực Chúa Giêsu là Đền thờ mới, Ngài đòi hỏi phải có nền phụng tự mới. Chúa Giêsu đánh đuổi người buôn bán, xô đẩy các súc vật, hất tung những đồng tiền của họ là một hành động tiên tri; vì các thứ ấy không có lý do tồn tại nữa, Chúa Giêsu đến thay thế mọi sự, Người chính là Đền thờ mới, trên thập giá Người hiến mình làm lễ vật tiến dâng cho Chúa Cha. Chúa Giêsu là Đền thờ mới, nơi đó con người gặp gỡ Thiên Chúa, như lời Chúa Giêsu dạy: " không ai đến được với Cha mà không qua Thầy ". Mỗi Kitô hữu chúng ta nhờ Bí tích Rửa tội và Thánh Thể được trở nên đền thờ của Chúa. Là Đền thờ của Chúa nghĩa là nơi Chúa ngự, nơi anh chị em chung quanh có thể gặp được Chúa. Chúng ta hãy xét mình xem, Đền thờ của Chúa nơi chúng ta có còn chỗ cho Chúa ngự không hay ta dã để cho tội lội và các sự xấu xâm chiếm hết chỗ rồi. Mùa chay là thời gian thích hợp để chúng ta thanh tẩy lòng mình nên tinh sạch va mới mẻ bằng cách tránh xa tội lỗi, xin Chúa tha tội giúp chúng ta sống xứng đáng làm con cái Chúa, là nơi Chúa ngự, là nơi anh chị em gặp Chúa.
84.Chúa Nhật 3 Mùa Chay
"Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán"
Các em thiếu nhi thân mến,
Có bao giờ các em đọc kinh hay hát thánh ca trong nhà thờ mà không suy nghĩ gì đến lời kinh, tiếng hát cuả mình không? Có khi nào ngồi đây nghe giảng mà tâm trí các em đang bay ở mãi tận khung trời xa xôi nào đó không? #ó chính là lối thờ phượng máy móc, vụ hình thức của những nguoi đi đạo lâu năm. Họ đọc kinh theo thói quen. Họ hát theo thói quen. Họ nghe giảng theo thói quen. Họ không còn ý thức đến hành vi của mình nữa, và cũng không có một cảm xúc hay một tâm tình thờ phượng đích thực nào trong những việc làm của mình.
Người ta kể rằng: một người kia nằm mơ, thấy thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày chúa nhật. Tại đó người này thấy người nhạc sĩ đang đàn phong cầm nhưng không nghe thấy tiếng âm nhạc, ca đoàn và cộng đoàn hát nhưng không nghe có âm thanh nào cả. Rồi đến khi linh mục đứng lên giảng, môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói nào cả. Người ấy rất đỗi ngạc nhiên hỏi thiên sứ, thì thiên sứ nói: "Ông không nghe thấy gì, vì không có gì để nghe cả. Những người trong nhà thờ không tham dự vào buổi thờ phượng, mà chỉ dự phần vào hình thức thờ phượng mà thôi. Tâm hồn họ trống rỗng. Họ không thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ chỉ là những chiếc máy vô hồn phát ra. Họ nếu không nói là giả hình thì cũng là những loại người thờ Chuá bằng môi bằng miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu rồi.
Qua câu chuyện này, người ta muốn nói điều gì? Thưa, câu chuyện này dậy ta một bài học quan trọng: khi nào ta vào nhà thờ, thờ phượng Chúa, ta hãy đến đó với một tấm lòng ước muốn ra mắt Chúa, và tôn kính Ngài trong mọi việc ta làm trong nhà thờ. Ta hãy đọc kinh với thái độ tin tưởng và yêu mến. Ta hãy hát với thái độ ca ngợi Chúa thật, dù là hát trong ca đoàn hay chung với cộng đoàn. Nếu ta đứng lên nói, hãy nói với thái độ tôn thờ Chúa. Cầu nguyện cũng phải chân thành tập trung vào Chúa, ngay cả khi nghe lời Chúa cũng phải có thái độ thờ phượng. Khi nào ta ý thức được như thế thì giờ thờ phượng mới có ý nghĩa. Và chỉ những lúc đó, tiếng ca ngợi của ta từ nơi đất thấp, mới bay lên tận trời cao được.
Hôm nay Chuá Giêsu vào trong Đền Thờ, Ngài đã thấy gì trong đó? Họ đã biến đền thờ thành nơi trao đổi buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để lợi dụng lẫn nhau. Kẻ buôn bán súc vật và đổi tiền nhằm lợi nhuận. Kẻ mua để dâng cúng trong đền thờ chỉ nhằm mục đích phô trương giả hình. Ngay cả các tư tế cũng chủ trương như thế, để họ thu lợi nhuận hoa hồng từ những việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần thiết của Đền thờ. Chính vì Đền thờ bị lạm dụng., Chuá đã hành động thẳng thắn để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền thờ. Vậy ý nghiã đích thực của Đền thờ là gì?
Thưa, Đền thờ là nơi cầu nguyện. Chuá bảo rằng "đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán". Ngài đã tẩy chay một lối thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi của mình. Đồng thời, khi Chuá Giêsu nói với những kẻ chất vấn Ngài: "Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại". Ngài ám chỉ đến Đền thờ mới chính là thân thể Ngài. Như vậy qua hành động thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chuá Giêsu còn cho biết thêm: sự thờ phượng đích thực của thời Tân ước là thờ phượng Thiên Chuá trong Thần Khí và Sự Thật. Thế nên, "đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chuá Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, vì Thiên Chuá là Thần Khi và những kẻ thờ phượng Người phải thờ trong Thần khí và sự thật" (Ga 17, 23).
Ngày hôm nay, người ta vẫn có thể lạm dụng Đển thờ bằng nhiều cách:
- Có những người đến nhà thờ nhưng lại lo ra chia trí trong lòng. Đó là những người có xác mà không có hồn. Họ chỉ là những thây ma trơ trẽn và nguội lạnh. Họ xem lễ chứ không dự lễ, vì họ không đóng góp tấm lòng của mình vào việc thờ phượng Chuá.
- Có những người đi lễ vì người khác đi mình cũng đi hay chỉ vì cha mẹ bắt phải đi. Đó là những người thờ phượng giả hình. Họ không sống những điều mình tin. Họ lấy "vải thưa che mắt thánh". Họ chỉ che được mắt thế gian nhưng không che dấu được Thiên Chuá. Họ đến nhà thờ nhưng không gặp được Chuá nên đời sống họ cũng không có gì thay đổi.
- Nhưng điều quan trọng mà hôm nay sứ điệp Lời Chuá muốn nhắn gởi chúng ta, chính là hãy chỉnh đốn lại đền thờ tâm hồn chúng ta. Tâm hồn chúng ta có Chuá ngự trị hay không? Chúng ta đang tôn thờ Thiên Chuá hay tôn thờ những danh lợi thú trần gian?
Muà Chay là muà mợi gọi chúng ta sám hối và canh tân đời sống. Có thể nói muà chay là muà giúp chúng ta nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chuá thanh tẩy tâm hồn khỏi những đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá ngự trị.
Lạy Chuá, tâm hồn con là đền thờ của Chuá, thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.
85.Giữ các giới răn
Lần kia, có một người đàn ông rất thành thật ước ao sống một cuộc sống thánh thiện. Vì thế, anh ta đến gặp vị thầy của mình, để xin được khuyên bảo. Vị thầy này khen ngợi anh ta về ước vọng của anh, rồi hỏi “Tình hình của con tiến triển đến đâu rồi?”.
Người đàn ông đó trả lời “Con nghĩ rằng khá tốt”.
Vị thầy hỏi “Khi con nói rằng tốt, thì ý con muốn nói gì?”
Người đàn ông trả lời “Con không hề vi phạm bất cứ giới răn nào. Con đã không kêu tên Chúa vô cớ. Con không hề xâm phạm vào ngày Sabát. Con không bất kính đối với cha hoặc mẹ con. Con không hề giết bất cứ người nào. Con không thiếu lòng trung thành đối với vợ con. Con không hề ăn cắp. Con không làm chứng dối chống lại bất cứ ai. Và con đã không muốn chiếm đoạt vợ của người khác hoặc tài sản của họ”.
Vị thầy nói “Thầy biết. Như vậy, con không hề lỗi phạm bất cứ giới răn nào”.
Người đàn ông trả lời một cách tự hào “Dạ đúng ạ”.
Vị thầy hỏi “Nhưng con đã giữ các giới răn chưa?”.
Người đàn ông nói “Ý thầy muốn nói gì ạ?”.
“Thầy muốn nói rằng con đã tôn kính thánh danh của Thiên Chúa chưa? Con có giữ ngày Sabát không? Con có yêu thương và kính trọng cha mẹ con không? Con có tìm kiếm cách bảo vệ gìn giữ cuộc sống của con không? Lần cuối cùng con nói với vợ con rằng con yêu thương cô ấy là vào lúc nào? Con có biết chia sẻ tài sản của con cho người nghèo không? Con có biết bảo vệ danh tiếng cho người khác không? Lần cuối cùng con từ chối không giúp đỡ người đồng loại là lúc nào?”.
Người đàn ông đó rút lui. Nhưng theo lòng tin của mình, anh ta ra đi và suy nghĩ về những điều vị thầy đã nói. Anh nhận ra rằng cho đến nay, anh chỉ mới có ý định tránh làm điều sai trái mà thôi. Thật đáng ngạc nhiên khi có nhiều người nghĩ rằng đây là một tiêu chuẩn nhân đức cao nhất. Nhưng vị thầy đã đưa ra cho anh ta một cái nhìn mới về lòng nhân ái không chỉ là tránh làm điều ác, mà còn phải cư xử tốt nữa. Cho đến nay, anh đã có một quan niệm tiêu cực về lòng nhân ái. Bây giờ, thầy đã cho anh thấy một khái niệm tích cực về lòng nhân ái. Thầy đem đến cho anh một phạm vi mới mẻ và tốt đẹp hơn để hướng dẫn anh, một đường lối mới và nhiều thách đố hơn để anh đi theo.
Chúng ta phải cẩn thận để không phạm phải cùng một lỗi lầm như người đàn ông đó. Chúng ta không được tiếp cận với các giới răn theo một cách thức tiêu cực, bởi vì điều này đưa đến việc chỉ thực hiện các giới răn ở mức vừa đủ tối thiểu. Nhưng chúng ta phải tiếp cận với các giới răn theo một cách thức tích cực.
Và chúng ta còn phải giữ các giới răn trong tinh thần ngay chính nữa. Sự vâng phục của chúng ta không được phát xuất từ động cơ là nỗi sợ hãi, mà là tình yêu. Chúng ta không giữ các giới răn để sao cho Thiên Chúa sẽ yêu thương chúng ta, mà giữ các giới răn chính bởi vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta.
Đức Giêsu đưa ra một giới luật mới mẻ và chính xác hơn – giới luật yêu thương. Giới luật này không mâu thuẫn hoặc hủy bỏ giới luật cũ, mà vượt lên trên, để rồi đưa đến việc kiện toàn giới luật cũ. Người nói rằng tất cả những giới luật của Thiên Chúa có thể được rút lại thành hai giới răn: Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến người đồng loại. Trên thực tế, chỉ có một giới luật mà thôi – giới luật yêu thương.
86.Người bị kết án tử hình
Linh Mục Frank Roof, cựu tuyên úy của nhà cải huấn thuộc tiểu bang Kentucky, kể lại một chuyện cảm động về một tù nhân tên là Paul Kordenbrock.
Paul lớn lên trong một môi trường dễ dãi của thập niên 1960. Triết lý phổ thông thời đó là "Hãy làm, nếu cảm thấy thích"
Chính triết lý này đã lôi cuốn cậu Paul trẻ tuổi này lâm vào hết tình trạng tệ hại này đến tệ hại khác. Cho đến một ngày nọ Paul đã bị hoảng hồn khi nhận được tin là mình sẽ bị xử tử.
Bây giờ, cậu đang bị giam giữ trong nhà tù và chiếc ghế điện đang chờ cho sự công lý phân xử cậu.
Vào năm 1982, Paul xin cha Roof ban phép giải tội, và xin được rước Thánh Thể. Cuộc gặp gỡ này đã đưa đến nhiều cuộc gặp gỡ khác. Dần dà, Paul được giới thiệu đến các tử tội Công Giáo khác. Paul đã viết đơn xin phép ban quản trị nhà tù để cho cha Roof cử hành Thánh Lễ cho đám tù tội Công Giáo nhỏ bé đang từ từ chờ đón án tử của mình. Nhà tù đã cho phép điều đó, và như thế cha Roof đã cử hành Thánh Lễ hằng tuần trong một cái phòng tù bằng thép cho các tử nhân.
Tất cả sự kiện này không phải xảy ra một cách bất ngờ. Cha Roof đã tìm hiểu và biết rằng Paul còn theo học các khóa giáo lý hàm thụ: lớp Cựu Ước, Tân Ước, lịch sử Giáo Hội, giáo huấn Giáo Hội, luân lý Công Giáo.
Paul còn đã trở thành một giáo lý viên có bằng cấp thuộc một giáo phận và đã thi hành chương trình RCIA - chương trình dài một năm để khai tâm cho những người lớn- cho các tử tội nhận đức tin Công Giáo. Mỗi năm, Paul đã đưa ít là một người tử tội về với Đức Kitô.
Câu truyện của Paul Kordenbrock cũng giống câu truyện của người đàn bà tại giếng nước.
Phúc Âm ghi lại: "Bà để gầu nước lại và đi về làng và nói với mọi người, 'Hãy đến mà xem Người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm.' "
Phúc Âm thêm rằng mọi người đã rời làng và đến gặp Chúa Giêsu.
Và như thế, người đàn bà, từng là người tội lỗi nhất, đã trở nên nhà truyền giáo đầu tiên của đạo Kitô Giáo. Sau khi bà khám phá ra Chúa Giêsu, bà đã ra đi chia sẻ sự khám phá của bà với bạn bè và tha nhân.
Và đấy thực sự chính là những gì Paul Kordenbrock đã làm. Sau khi khám phá ra Chúa Giêsu, anh đã ra đi chia sẻ sự khám phá của mình với những bạn tử tù. Anh nói cho họ, "Hãy đến và gặp người đã làm những sự vĩ đại cho tôi." Và như thế, anh chàng tội lỗi nhất đã trở nên nhà truyền giáo đầu tiên của những tử tù trong trại Cải Tạo Tiểu Bang Kentucky.
Khi chúng ta để Chúa Giêsu Kitô vào trong đời sống của chúng ta, thì những điều phi thường mới có thể xảy ra. Chúa Giêsu có thể biến đổi đời sống chúng ta triệt để, y như Ngài đã biến đổi cuộc sống của người đàn bà và cuộc sống của Paul.
Qua chúng ta, Chúa Giêsu có thể với tới và biến đổi đời sống của những người khác, giống như Ngài đã chạm tới và biến đổi đời sống của những người khác qua người đàn bà xứ Samaria và qua Paul.
Lạy Chúa, xin hãy giúp chúng con biết khám phá ra Chúa trong Mùa Chay này. Và qua sự khám phá của chúng con, xin hãy giúp chúng con trở nên những nhà truyền giáo trong gia đình và cộng đoàn của chúng con.
87.Mười điều răn mới
Mục đích giới luật của Thiên Chúa không phải là để hạn chế chúng ta, nhưng là để chỉ cho chúng ta phương cách sống. Giới luật của Thiên Chúa chính là ánh sáng cho những bước chân của chúng ta, và là ngọn đèn soi chiếu đường đi cho chúng ta. Mười điều răn của Người rất tốt đẹp. Nhưng lời giảng dậy của Đức Kitô còn đi xa hơn nhiều. Kẻ nào hài lòng với giới luật cũ, thì cũng giống như một người vẫn cứ bước đi bằng ngọn nến, sau khi đã có đèn điện rồi vậy.
Trong phần sau đây, chúng ta nhìn vào mười điều răn dưới ánh sáng lời giảng dạy của Đức Kitô (Có thể sử dụng hai giọng nói):
Cũ: Hãy nghe đây, hỡi nhà Israel! Ta là Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Đấng đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai cập, ra khỏi nơi chốn nô lệ.
Mới: Hãy nghe đây, hỡi những người đi theo Đức Kitô, dân tộc mới của Thiên Chúa! Ta là Chúa, Thiên Chúa của các con. Đấng đã đưa các con ra khỏi cảnh tối tăm, để đi vào ánh sáng. Các con có thể nhìn thấy những hiệu quả của ánh sáng nơi lòng nhân ái, lối sống ngay thẳng và theo lẽ phải.
Các con đã từng nô lệ cho tội lỗi và những hành động sai trái. Hiện nay, các con phải sống trong tự do của con cái Thiên Chúa.
Cũ: Ta là Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. Các ngươi không được có vị thần nào đi trước Ta.
Mới: Ta là Chúa, Thiên Chúa của các con. Ta không phải là một Thiên Chúa xa lạ và xa cách các con. Ta là bạn bè và người cố vấn của các con. Hãy coi chừng các vị thần, họ sẽ phản bội các con. Tiền bạc là một loại thần phổ biến nhất. Các con không thể phục vụ Thiên Chúa và tiền bạc được.
Cũ: Các ngươi không được kêu tên Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, một cách vô cớ.
Mới: Kể từ bây giờ, Ta muốn các con gọi Ta bằng một tên mới. Hãy gọi Ta là Cha. Hãy gọi tên đó không phải trong sự sợ hãi, mà bằng tình yêu. Hãy cầu khẩn danh xưng đó trong sự ca ngợi, biết ơn, cũng như hãy cho Ta biết những nhu cầu của các con. Tên của các con đều được viết trong lòng bàn tay Ta.
Cũ: Các ngươi hãy nhớ giữ ngày sabát.
Mới: Các con hãy ghi nhớ rằng tất cả mọi ngày đều thuộc về Thiên Chúa, và hãy sống thánh thiện. Nhưng hãy dành ngày đầu tiên trong tuần, ngày Chúa nhật, làm một ngày đặc biệt. Đây là một ngày mà Đức Giêsu, người Anh Cả của các con, đã bẻ gãy xiềng xích của sự chết và sống lại vinh quang từ hầm mộ. Ngày này nhắc nhở các con rằng các con là một dân tộc đang hành hương tiến về miền đất hứa của sự sống đời đời. Sự an bình và thư giãn của ngày Sabát là điều dự báo trước về niềm vui sắp đến.
Cũ: Các ngươi hãy kính trọng cha mẹ.
Mới: Các con hãy yêu thương cha mẹ, đó là những tâm hồn quí giá mà nhờ có họ, các con được mời gọi vào bữa tiệc của sự sống. Các con hãy giúp đỡ cha mẹ khi họ cô độc. Hãy an ủi cha mẹ khi họ đau yếu. Hãy săn sóc cha mẹ khi họ già cả và yếu đuối.
Cũ: Các ngươi chớ giết người.
Mới: Các con không được gây đau khổ cho người khác bằng bất cứ cách nào. Hãy thương xót như Cha các con là Đấng thương xót. Đừng phê phán ai, và các con sẽ không bị phê phán. Đừng kết án ai, và các con sẽ không bị kết án. Hãy yêu thương kẻ thù. Hãy cư xử tốt với những người ghét các con. Hãy chúc phúc cho những người nguyền rủa các con. Hãy cầu nguyện cho những người nói điều ác chống lại các con. Từ đó, các con sẽ chứng tỏ rằng các con chính là những con cái của Thiên Chúa.
Cũ: Các ngươi chớ phạm tội ngoại tình.
Mới: Các con hãy yêu thương người bạn đời của các con, như thể đó là một nửa của các con. Sự trung thành về thể lý là điều vĩ đại, nhưng sự trung thành trong tâm hồn lại còn tốt đẹp hơn nữa.
Cũ: Các ngươi chớ lấy của người.
Mới: Có nhiều cách thức ăn cắp. Nếu các con chất đống và tích trữ những của cải mà các con không cần đến, trong khi đồng loại của các con lại đang cần đến – đó là một hình thức ăn cắp. Những tài sản trên trái đất này đều được dành cho tất cả những con cái của Thiên Chúa. Như vậy, Ta nói với các con: hãy đem của cải cho người nào đang cần đến, hãy chia sẻ cơm bánh cho kẻ đói khát, hãy cho kẻ rách rưới ăn mặc, hãy mở lòng ra cho những người cô đơn và không có nhà, và ánh sáng của Thiên Chúa sẽ chiếu tỏa trên các con.
Cũ: Các ngươi chớ làm chứng dối. Mới: Các con hãy trở nên ánh sáng cho người đồng loại, chứ không phải là nguồn tối tăm. Hãy dùng những lời lẽ để xây dựng, nâng đỡ và an ủi người đồng loại. Nếu các con không thể tìm được điều gì tốt đẹp để nói về người đồng loại, thì hãy giữ im lặng.
Cũ: Các ngươi chớ thèm muốn vợ người khác. Mới: Các con vẫn có thể phạm tội ngoại tình trong tư tưởng và lòng ao ước, cũng như trong hành động. Tội ngoại tình ở trong tâm hồn trong ước muốn chiếm đoạt người khác. Do đó, các con hãy phấn đấu giữ tâm hồn thanh sạch.
Cũ: Các ngươi chớ thèm muốn tài sản của người khác. Mới: Ta nói với các con: đừng thèm muốn bất cứ tài sản nào. Đừng tích trữ kho tàng trên trái đất này. Nói đúng hơn, các con hãy phấn đấu để làm cho bản thân mình được trở nên phong phú dưới mắt Thiên Chúa. Nếu các con thèm muốn bất cứ điều gì nơi người đồng loại, thì hãy thèm muốn sự ân cần trong tâm hồn và cách cư xử tử tế. Kết luận: Hãy tuân theo các giới răn, không phải vì sợ hãi, mà vì lòng yêu mến. Và nếu bạn nhận thấy mười điều răn là quá nhiều, không nhớ được, thì bạn có thể rút gọn thành hai giới răn: Yêu mến Chúa hết linh hồn hết trí khôn, và yêu mến người đồng loại như chính bản thân mình.
88.Tẩy uế đền thờ
"Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." (Ga 2,16)
Suy niệm:
Đức Giêsu mang lại những cái mới:
Bài Tin Mừng đặt ta giữa một loạt những điều mới mẻ do Đức Giêsu mang lại. Tại Cana, Người mang lại rượu mới từ nước lã (Ga 2,1-12). Cái mới được loan báo cho ông Nicôđêmô là cuộc "sinh ra bởi nước và Thần Khí" như điều kiện để gia nhập Nước Thiên Chúa (3,5). Cái mới mà Đức Giêsu khẳng định thực sự đã đến khi Người tuyên bố: "Giờ đã đến - và chính lúc này đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và trong sự thật" (4, 23).
Riêng với đoạn Tin Mừng hôm nay, cái mới được loan báo lại là chính Thân Thể Người (2,21)! Tại sao vậy? Thưa, vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Câu Thánh Vịnh 69,10 này được trích khi tác giả Tin Mừng Gioan đặt động từ thiệt thân ở thì tương lai (sẽ phải thiệt thân) để chỉ về cái chết Đức Giêsu phải chịu như hậu quả của lòng nhiệt thành của Người đối với nhà Chúa. Trong thực tế trước Thượng Hội Đồng Do Thái Giáo, Đức Giêsu sẽ bị tố cáo "Tên này đã nói: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày, sẽ xây cất lại" (Mt 26,61). Rồi khi bị đóng đinh trên thập giá, Người sẽ bị kẻ qua lại nhục mạ: "Mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi!" (27,39-40).
Trở lại với bản văn Tin Mừng hôm nay, điều nổi bật là cơn thịnh nộ của Đức Giêsu. Ta đặt mình vào bối cảnh trong đó Người tỏ ra không thể đội trời chung được với cái thế giới làm cho Đền Thờ bị tục hoá. Người nhận lấy sứ mạng tẩy uế nơi thánh. Bản văn cho thấy trước hết là bối cảnh (2,13). Kế đến là sự kiện (cc.14,15 và 16). Sau cùng là những suy nghĩ (cc.17-22).
Về bối cảnh, hãy coi tầm quan trọng mà tác giả dành cho đoạn văn này. Đây là đoạn đầu về đời công khai của Đức Giêsu. Mặc dầu trước đó đã có phép lạ tiệc cưới Cana, nhưng cách nào đó tại tiệc cưới này Đức Giêsu còn hành động cách kín đáo. Người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết) ông mới gọi tân lang lại và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ!" (Ga 2,10). Còn ở đây, ngược lại, là hồi đầu của cuộc đời công khai trong đó Đức Giêsu hành động một cách chính thức và công khai. Thời điểm mà người chọn cho hành động đó cũng rất quan trọng đối với đời sống phụng tự của người Do thái: "Lễ Vượt Qua của người Do thái gần đến." Độc giả nhớ rằng sách Tin Mừng thứ bốn được đặt ăn nhịp với tiến trình của những cuộc lễ mà chính yếu là lễ Vượt Qua về cuối đời Đức Giêsu. Chính với lễ này phụng vụ mới về đời Chúa được khai trương. Vậy lễ Vượt Qua của người Do thái gần đến, Đức Giêsu lần đầu tiên lên Giêrusalem cách chính thức và công khai.
Đức Giêsu nổi giận trước cảnh Đền Thờ bị tục hoá:
Thế rồi sự kiện xảy ra như thế nào? Đức Giêsu thấy Đền Thờ bị biến thành cái chợ! Người ta đang bán bò, chiên, chim bồ câu. Đức Giêsu còn thấy những người đang ngồi đổi tiền. Tại sao đổi tiền? Vì tiền của chính quyền thực dân không thể xài được vào việc dâng cúng nên phải đổi nó ra tiền của Đền Thờ thì mới dâng cúng được. Vậy Người lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ. Bất kể tới tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra khi lật nhào bàn ghế của họ.
Ở đây ta có hình ảnh một Đức Giêsu nổi nóng. Người vớ lấy bất cứ thứ gì, chẳng hạn dây rợ, để bện thành roi. Đó là dụng cụ Người dùng để xua đuổi những người đang buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Làm hành vi tẩy uế đó xong, Người mới cắt nghĩa lý do khi nói với những kẻ bán bồ câu rằng: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." (c.16)
Kế đến trong bài Tin Mừng là ba suy nghĩ như sau:
Trước hết các môn đệ nhớ tới lời Kinh Thánh "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (c.17). Ở đây, các môn đệ áp dụng câu Thánh Vịnh 69,10 này trực tiếp cho số phận của Đức Giêsu. Người sẽ bị thiệt mạng do âm mưu của giới lãnh đạo Do thái giáo. Nhưng với Đức Giêsu, hành vi nhiệt thành của Người, thuộc về đạo làm con vì Người nói: "Đừng biến nhà CHA TÔI thành nơi buôn bán." (c.16).
Người Do thái đòi Đức Giêsu phải làm dấu lạ để chứng minh Người có quyền hành xử như trên (c.18). Nhưng Đức Giêsu đã không làm phép lạ. Người cắt nghĩa Tin Mừng này qui về thân thể của Người là thân thể sẽ trở nên Đền Thờ cuối cùng của Thiên Chúa (cc.19-22).
Điều nổi bật trong bài Tin Mừng là tội được mạc khải như hành vi tục hoá Đền Thờ của Thiên Chúa. Thay vì thờ phượng Thiên Chúa, người ta đặt ngẫu tượng lên để tôn thờ.
Mọi tội đều là hành vi tục hoá công trình của Thiên Chúa. Con người được Thiên Chúa dựng nên để tán dương, tôn kính và phụng sự Người. Mọi sự khác đều được dựng nên để giúp con người thể hiện mục đích cao cả đó. Tội khiến con người hành động ngược lại với ý định của Thiên Chúa nơi công trình của Người bằng cách đặt ngẫu tượng lên để tôn thờ! Thư thứ nhất của Gioan nêu ba loại ngẫu tượng đặc trưng, đó là: "dục vọng của xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình" (2,16). Dục vọng của xác thịt chỉ về những ham muốn vô trật tự của bản tính loài người, trong đó phải kế tới dục tình đang đe dọa trầm trọng tương lai của xã hội loài người. Dục vọng của đôi mắt chỉ về lòng tham của con người muốn sở hữu tất cả những gì mắt thấy bất kể tới đức công bằng và nhu cầu của người khác. Cuối cùng là thái độ cậy mình có của. Nó phát sinh từ tính kiêu căng tự phụ. Kẻ kiêu căng luôn tìm quyền lực để thống trị người khác. Đó là gốc gác của biết bao cuộc chiến từng xảy ra trong lịch sử.
Những dục vọng ấy sẽ trở thành ngẫu tượng khi trở nên giá trị tuyệt đối. Chúng sẽ thay thế Thiên Chúa để điều khiển con người. Và khi ấy không còn phải là đền thờ được xây dựng bằng đá hay bê tông bị tục hoá, nhưng là chính con người bị tục hoá như lời thánh tông đồ Phaolô nói: "Nào anh em chẳng biết anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em." (1Cr 3,16-17).
Vậy cơn thịnh nộ của Đức Giêsu nói lên lòng nhiệt thành chính Người mang nặng. Nó thúc đẩy Người dấn thân giải thoát những ai bị dục vọng kềm kẹp. Thực ra, chỉ thân thể Đức Giêsu chịu chết nay được phục sinh mới thực sự là Đền Thờ mới, là nơi loài người có thể phụng thờ Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật.
Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới:
Một cách chính xác thánh Phaolô khuyên người Kitô của mọi thời là: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện." (Ep 4,22-24).
Vậy sứ điệp cơ bản của bài Tin Mừng hôm nay cũng giống sứ điệp của tông đồ Phaolô khi viết: "Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, cái mới đã có đây rồi." (2Cr 5,17)
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa mạc khải cho chúng con biết chính Chúa là Đền Thờ. Chúa chính là Đền thờ cao quý nhất. Xin cho chúng con biết trân trọng và yêu mến Đền Thờ. Xin cho chúng con chúng con cũng biết dọn dẹp tâm hồn mình trở nên trong sạch, xứng đáng là đền thờ đẹp cho Chúa ngự.
89.Đền thờ di động--Huệ Minh
Với bất kỳ tôn giáo nào, Đền Thờ chính là nơi trang trọng nhất để con người gặp gỡ vị thần linh của mình tin cậy. Và vì thế, Đền Thờ phải nói là nơi được xây cất không chỉ kỹ lưỡng mà còn phải trang trí, tô vẽ cho thật đẹp và dùng những vật liệu qúy giá và đắt tiền.
Dân Do Thái cũng thế, với lòng thành kính dâng lên Thiên Chúa nên họ đã xây cấn đền thờ Giêrusalem thật hoành tráng. Vì tính chất cũng như đặc thù như thế, Giêrusalem phải mất 46 năm cũng như mất biết bao nhiêu tiền của mới xây dựng được như mọi người thấy.
Đền thờ chính là nơi thờ tự, nên mà con người gặp Thiên Chúa và dâng lên Thiên Chúa của lễ của mình theo mỗi thời điểm. Thánh Gioan thuật lại cho ta là Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu cùng với bao nhiêu người khác cùng lên Giêru-salem để tế lễ.
Khi đến Giêrusalem, Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc làm mất đi vẻ trang nghiêm của Đền Thờ. Thấy thế, Ngài không ngần ngại chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Không những thế, Chúa Giêsu đã hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".
Đứng trước cảnh tượng đó, dĩ nhiên dân chúng đã bất bình. Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy?".
Nghe thế, Chúa Giêsu nói: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại"
Ta thấy cuộc tranh luận ngày càng gắt gao. Người Do Thái đáp lại: "Phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?"
Chuyện Chúa Giêsu muốn nói ở đây không phải là cái đền thờ bằng gạch đá này nhưng Chúa Giêsu muốn nói đến chính thân mình của Ngài. Và, ta thấy ngay cả các môn đệ cũng không hiểu được lời của Chúa Giêsu. Chỉ sau khi chết và sống lại các môn đệ mới hiểu điều Chúa Giêsu nói.
Chuyện quan trọng đó chính là thân mình của mỗi người chúng ta, là Đền Thờ của Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, nhìn lại hình ảnh Đền Thờ Giêrusalem với cảnh hoang tàn bởi người ta mua bán, đổi tiền, kiếm ăn trên đó ta cũng phải nhìn lại chính cuộc đời mỗi người chúng ta. Chúng ta, lẽ ra cũng phải có tâm tình như Vua Đavit là Vua ước ao xây cho Thiên Chúa một ngôi Đền Thờ xứng với Thiên Chúa. Vua ngẫm nghĩ rằng Vua sẽ xây nhà cho Thiên Chúa nhưng Ngôi nhà mà Chúa hứa xây cho Vua Đavit không phải là ngôi nhà bằng gạch đá nhưng là một ngôi nhà sống động, nghĩa là Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra từ dòng dõi của Vua Đavit.
Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu đã đến trong thế gian này thật sự để rồi nơi Chúa Giêsu con người được gặp gỡ Thiên Chúa và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Và, Chúa đến trong trần gian này để ghi dấu ấn cho những ai tin vào Chúa qua bí tích Thanh Tẩy. Qua bí tích Thanh Tẩy, con người được cùng hiệp nhất với Thiên Chúa để rồi con người cũng trở nên những đền thờ mà Thiên Chúa ngự.
Đã là đền thờ thì phải thanh sạch, không được vương tội lụy trần gian.
Trải qua bao nhiêu năm lãnh bí tích Thanh Tẩy nhưng rồi cái đền thờ di động chính là tâm hồn của ta như thế nào? Chắc có lẽ giờ này mà Chúa đến Chúa còn giận hơn khi Chúa đến đền thờ Giêrusalem. Chắc có lẽ đền thờ của mỗi người chúng ta thì chúng ta hiểu hơn ai hết.
Có khi ta nghĩ rằng những người Do Thái thời đó thế này thế nọ... Họ không biết gìn giữ Đền Thờ và họ làm cho đền thờ ra ô uế. Thế nhưng, nếu như nghĩ lại bản thân ta, đôi khi đền thờ của ta còn ô uế hơn như thế nữa.
Đời ta, nhiều khi nghĩ lại rất buồn cười đó là ta thấy rõ hơn ai hết về cuộc sống tạm bợ này. Thế nhưng, vẫn mang trong mình tính ích kỷ, bon chen, hơn thua, giận hờn... Chính khi ta sống tâm tình như thế là ta hủy diệt đời ta, ta hủy diệt tâm hồn của ta và khi đó Chúa không thể nào ngự vào tâm hồn của ta được.
Ta nhớ Thánh Phaolô quả quyết: "Ai phá huỷ Ðền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy.Vì Ðền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Ðền Thờ ấy chính là anh em." (1 Cr 3, 13-17)
Và như vậy, khi nhìn lại đền thờ tâm hồn của mỗi người chúng ta, chúng ta lại xin Chúa hãy đến, hãy thánh hóa, hãy tẩy rửa đền thờ tâm hồn của chúng ta. Có như thế Chúa mới có chỗ trong cung lòng của chúng ta được. Và, điều mà Chúa cũng muốn nơi mỗi người chúng ta chính là đền thờ đích thực của Thiên Chúa để rồi bất cứ ai nhìn vào ta họ cũng thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn của ta.
Ngày nay, cũng khó nói bởi vì ai ai cũng phải chạy đua với cuộc sống để rồi giữ đạo được ngày Chúa Nhật cũng là may lắm. Còn lại thời gian, ai ai cũng chạy đua với cuộc sống để rồi gạt Chúa ra khỏi đời của mình.
Thật ngạc nhiên có một gia đình kia bỏ Chúa gần hai mươi năm qua. Tôi nhẹ nhàng nói với họ rằng hãy tập sống đời sống cầu nguyện, hãy tạ ơn Chúa vì những ơn lành mà Chúa đã ban cho mình. Khi mình nhìn thấy những ơn lành thì mình tạ ơn Chúa.
Tưởng chừng mình sẽ cảm hóa được suy nghĩ cũa họ nhưng không. Khi nghe những lời đó, người chồng vui vẻ nói rằng con thấy con sống như thế này là thoải mái lắm rồi, có thấy Chúa gì đâu?
Đáng tiếc thay là họ đã nhận được quá nhiều ơn của Chúa nhưng họ đã không cảm nhận được đó là ơn của Chúa. Thôi thì thêm lời cầu nguyện cho họ để đến một lúc nào đó trong cuộc đời họ nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời họ.
Phần ta, ta hãy luôn cảm nhận rằng tất cả những gì ta có đó là ân huệ mà Thiên Chúa ban cho ta. Có như thế, ta mới tạ ơn Chúa, ta mới ý thức rằng Chúa luôn ở trong cuộc đời ta, Chúa luôn hiện diện trong đời ta và ta chính là đền thờ mà Thiên Chúa ngự.
Có như thế ta mới đi nói với người khác rằng Chúa ở trong tôi và tôi ở trong Chúa. Nếu sống được như vậy, ta mới cảm thấy bình an thư thái vì lúc nào ta cũng là đền thờ của Chúa và Chúa ngự nơi đền thờ là tâm hồn ta vậy.
Xin Chúa thêm ơn cho ta để ta luôn luôn dọn mình, dọn lòng, dọn tâm hồn mình thanh sạch để mời Chúa vào ngự vào lòng ta.
02/03 Người cha nhân hậu
- Viết bởi Lc 15, 1-3. 11-32
Người cha nhân hậu.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 2 Mùa Chay.
“Em con đã chết nay sống lại”.
Lời Chúa: Lc 15, 1-3. 11-32
Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này:
“Người kia có hai con trai. Ðứa em đến thưa cha rằng: “Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con”. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho.
Bấy giờ nó mới hồi tâm lại và tự nhủ: “Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: “Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha”. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: “Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa”. Nhưng người cha bảo các đầy tớ: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu; hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.
“Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: “Ðó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ”. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào, nhưng anh trả lời: “Cha coi, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn; còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó”. Nhưng người cha bảo: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ăn mừng
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Dụ ngôn người cha nhân hậu là một dụ ngôn nổi tiếng,
qua đó Đức Giêsu cho thấy tại sao Ngài đón tiếp và ăn uống với tội nhân.
Đơn giản chỉ vì ngài giống Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.
Người cha nhân hậu là người tôn trọng tự do của đứa con thứ,
người đã chia một phần ba gia sản cho nó ngay khi ông còn sống.
Ông đã không tìm con, như người ta tìm chiên lạc hay tìm đồng bạc bị mất.
Ông tin và hy vọng sớm muộn nó sẽ về, nên ông kiên nhẫn chờ.
Vì chờ, nên ông là người đầu tiên trông thấy con trở về tiều tụy.
Không cầm lòng được vì thương, ông chạy ra, ôm lấy cổ con mà hôn.
Người con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.
Khi con thứ sám hối, ông đã trả lại cho cậu tất cả vinh dự của người con.
Việc duy nhất phải làm ngay là mở tiệc ăn mừng (cc. 23, 24. 29, 32).
Khi con cả giận dỗi, không chịu vào nhà chung vui với cha và em,
một lần nữa người cha lại đi ra và năn nỉ (c. 28).
Ông chấp nhận ở thế yếu vì ông không muốn mất một đứa con nào.
Ông không thể yên tâm ở trong nhà khi còn một đứa con ngoài cổng.
Hoán cải bao giờ cũng khó.
Con thứ phải can đảm lắm mới dám trở về nhà cha.
Làm sao lường được phản ứng của cha, anh, của gia nhân, hàng xóm?
Làm sao dám về nhà trong tình trạng thân tàn ma dại?
Nhưng con cả cũng không dễ vào nhà chút nào,
vì vào nhà là phải bắt tay thằng em đã phung phí hết của cải,
vào nhà là phải chấp nhận sự thiên vị khó hiểu của người cha (cc. 29-30).
Cả hai người con đều cần hoán cải.
Người con cả cũng hỗn hào với cha không kém gì đứa em (c. 30).
Em bỏ nhà ra đi nên đói, còn anh không chịu vào nhà nên cũng có thể bị đói.
Anh phục vụ cha rất tốt nhưng lại mong cha trả công như người thợ (c. 29).
Anh ở gần cha, nhưng thực sự trái tim lại xa cha.
Khi cha vui vì em trở về thì anh lại buồn giận.
Mùa Chay là thời gian trở về với Cha, trở lại với anh em.
Người con thứ đã đứng lên trở về nhà cha và tìm được hạnh phúc.
Không rõ người con cả có vào nhà cha và ôm lấy em mình không?
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ,
khi coi Cha
như người cản trở hạnh phúc của chúng con.
Chúng con thèm được tự do bay nhảy
ngoài vòng tay Cha,
nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo.
Như người con thứ,
chúng con bỗng thấy mình tay trắng,
rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.
Lạy Cha đầy lòng bao dung,
xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày,
giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc.
Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui
vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên,
thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ,
chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân. Amen.
Suy Niệm 2: Tấm lòng Cha
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trung tâm điểm của mùa chay, đó là trở về với Chúa là Cha chúng ta. Thiên Chúa là người Cha rất yêu thương có tấm lòng nhân hậu vô biên. Cha là người ban sự sống. Không có cha thì không có sự sống. Có sự sống là có tất cả. Không có sự sống là không có gì hết. Vì thế cha không những là nguồn cội phát sinh mà còn là nguồn mạch hạnh phúc.
Nhưng ma quỉ đưa ra một cơn cám dỗ tinh vi. Làm cho người ta nghĩ rằng lệ thuộc vào Thiên Chúa là mất tự do. Xui khiến người ta tìm cách làm chủ đời mình, bằng cách tách lìa khỏi Thiên Chúa. Nhưng họ đã phải đón nhận hậu quả phũ phàng.
Khi chiếm đoạt của cải của Thiên Chúa, con người nghĩ rằng mình giầu có. Nhưng không ngờ con người trở nên nghèo túng nhất.
Khi ra khỏi ảnh hưởng của Thiên Chúa, con người tưởng mình tự do. Nhưng không ngờ lại trở nên nô lệ nhất.
Khi con người chống lại Thiên Chúa, mọi thứ chống lại con người. Cả thiên nhiên, cả súc vật. Và con người chống lại nhau.
Khi không còn lệ thuộc Thiên Chúa, con người tưởng phẩm giá mình được nâng cao. Không ngờ con người trở nên tồi tệ, mất nhân phẩm.
Nhưng khi trở về nhà Cha, mọi sự lập tức thay đổi. Người con tưởng như không có gì mà giờ đây có tất cả. Có áo đẹp, giầy mới, nhẫn quí và bữa tiệc thịt béo rượu ngon. Hơn nữa nó có phẩm giá cao quí, được mọi người kính trọng. Trên hết nó được đón nhận và được yêu thương. Về nhà người con hoang đàng thấy rõ. Lìa bỏ cha là mất tất cả. Ở trong cha là có tất cả. Vì mọi sự của cha là của con. Và đặc biệt tấm lòng cha bao dung tha thứ như tiên tri Mika nói: “Người không giữ mãi cơn giận, nhưng chuộng lòng nhân nghĩa. Người sẽ lại thương xót chúng ta. Tội lỗi chúng ta, Người chà đạp dưới chân. Mọi lỗi lầm chúng ta, Người ném xuống đáy biển”.
Tôi đang theo mốt thời đại, muốn thể hiện sĩ diện khi muốn tự do, tách lìa quyền năng của Thiên Chúa. Tôi đang bị cám dỗ muốn toàn quyền sử dụng tiền của, kể cả sức khỏe, thân xác của mình và của người khác. Tôi đang phạm tội. Nhưng cha đang chờ tôi. Hãy mau mắn như người con hoang đàng quyết định: “Vâng, tôi quyết chỗi dậy và đi về nhà Cha”.
Suy Niệm 3: Người con hoang đàng
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Văn hào Nga Dostoievki khi biết mình không còn sống bao lâu nữa, đã gọi các con đến bên giường bệnh và yêu cầu vợ đọc cho chúng nghe dụ ngôn người con hoang đàng. Khi bà vợ vừa dứt lời, Dostoievki nói như để lại di chúc riêng của ông như sau:
“Các con yêu dấu, các con đừng quên những gì các con vừa nghe đọc. Hãy tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, đừng bao giờ thất vọng về sự tha thứ của Ngài. Cha thương các con vô cùng, nhưng tình thương của cha không thể sánh được với tình yêu Thiên Chúa dành cho những ai Ngài đã tạo dựng. Cho dù các con có phạm tội ác, các con đừng bao giờ thất vọng về Thiên Chúa. Các con là con cái Ngài, hãy khiêm tốn đến trước mặt Ngài. Hãy xin Ngài tha thứ và Ngài sẽ vui mừng vì sự sám hối của các con, như người Cha đã vui mừng khi người con hoang trở về”.
Những lời trăn trối của Dostoievki có lẽ cũng chính là tâm tình mà Giáo Hội mời gọi chúng ta khi cho chúng ta lắng nghe dụ ngôn về người con hoang đàng. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa được chính Ngài cụ thể hoá qua sự gần gũi của Ngài với các tội nhân. Nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người, Chúa Giêsu cũng nhắm đến thái độ chai đá của các biệt phái và luật sĩ, được Ngài tô vẽ qua hình ảnh của người con cả. Trong một vài nét ngắn ngủi, nhưng Chúa Giêsu đã phô bày được bộ mặt chai đá, ích kỷ, mù quáng của biệt phái và luật sĩ. Người con cả là hạng người không bao giờ nhận ra được tình thương của Thiên Chúa. Bao lâu nay sống bên cạnh cha, người con cả vẫn xem mình như một thứ người làm công trong nhà, mà không nghĩ rằng “tất cả những gì của cha đều là của con”.
Đó có thể là tâm tình của rất nhiều người trong chúng ta. Chúng ta tuân giữ và thực hành đúng đắn với giới răn, nhưng có lẽ chúng ta chỉ ngước lên Chúa như một quan toà công thẳng hay như một viên cảnh sát lúc nào cũng rình rập theo dõi để trừng phạt chúng ta. Từ một hình ảnh như thế về Thiên Chúa, tâm tình mà chúng ta có đối với Ngài có lẽ chỉ là sợ hãi, nô lệ. Và bởi lẽ không nhận ra Thiên Chúa như một người cha, cho nên con người cũng không nhận ra tha nhân là anh em của mình và như vậy cũng là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Mùa Chay là mùa của hoán cải. Hoán cải trước tiên là trả lại cho Thiên Chúa gương mặt mà Chúa Giêsu đã mạc khải, đó là gương mặt của người Cha yêu thương con người đến thí ban Con Một mình. Nhưng không thể trở về với Thiên Chúa là Cha mà lại không yêu thương tha thứ cho người anh em của mình.
Suy Niệm 4: Người cha nhân hậu
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Ðoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe trên đây là một trong những đoạn rất quen thuộc với người Kitô. Trước đây, đoạn Tin Mừng này có tên gọi là Người Con Hoang Ðàng, nhằm nhấn mạnh đến sự hư hỏng và sau đó là sự ăn năn hối lỗi của người con thứ. Theo cách nhìn này thì người con hoang đàng là nhân vật chính trong câu chuyện, nhưng trọng tâm của câu chuyện không phải là người con đi hoang mà là người cha nhân hậu, do đó dụ ngôn này có tên gọi là dụ ngôn về người cha nhân hậu, và được chia làm hai phần với hai dụng ý rõ rệt. Phần đầu nói về Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Ngài luôn luôn yêu thương con người, sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm của họ và hằng mong chờ họ quay trở về với Ngài. Phần thứ hai nói về tính ghen tị của những người tự xưng mình là con của Thiên Chúa, nhưng lại rất nhỏ mọn, thiếu vị tha đối với anh chị em.
Qua ba hình ảnh người cha, người em đi hoang, người anh cả ở nhà trong dụ ngôn trên đây, chúng ta thấy rõ bài học mà Chúa Giêsu muốn nếu lên đó là hãy tin vào lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa Cha, hãy ăn năn sám hối mà trở về với Ngài, hãy chìa tay nâng đỡ anh chị em sa ngã đứng lên.
Lạy Chúa là Cha tuyệt vời của chúng con, xin cho chúng con biết thực hành ba điều giáo huấn mà Chúa Giêsu đã dạy chúng con trong dụ ngôn hôm nay.
Suy Niệm 5: Trả lời cho anh cả
Đức Giê-su nói: “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tai sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. (Lc. 15, 11-13)
Trong dụ ngôn này, chính anh cả là quan trọng nhất, vì chính anh đặt ra những thắc mắc phải được giải đáp.
Người cha vui như điên khi thấy đứa con lầm lạc trở về. Thiên Chúa quan tâm săn đón thương xót kẻ tội lỗi biết bao, để tỏ cho người ta thấy một chút về trái tim thương yêu của Thiên Chúa, để người ta có một chút về hình ảnh công chính của Thiên Chúa. Nhưng bao nhiêu đứa con có vẻ trung thành, lại tỏ ra ngang ngược với cha như đứa con cả, đó là một mầu nhiệm.
Chính ra chúng phải nói tốt và làm tốt như người cha, ông không bao giờ được lợi lộc gì ở đứa ăn bám, nhưng ông vẫn đối xử đẹp với nó, dầu suốt đời ông đã chịu khổ nhọc vì nó. Có lẽ chúng ta vừa mới trách người anh cả khá tệ vì chúng ta cũng nuôi dưỡng cùng một thái độ như anh ta. Vậy nên trách mình trước rồi trách người sau “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Đức Giê-su cũng nói: “Hãy lấy cái xà khỏi mắt anh trước, rồi sẽ lấy cái rác ra khỏi mắt người”.
Trung tín luôn luôn là giá trị tốt nhất của người Ki-tô. Những bản văn Tin mừng đều đề cập đến chủ đề này rất dồi dào: “Hãy đến, tôi tớ tốt lành và trung tín, anh đã trung tín trong việc nhỏ, Ta sẽ trao phó cho anh việc lớn”. “Phúc thay tôi tớ tỉnh thức cho tới lúc chủ về …”
Nhưng đức tin đòi kẻ trung tín không được lộng quyền qua mặt lòng thương xót của Thiên Chúa. Lòng trung tín chân chính biết sống nhân hậu, nó không ghen tương, không tìm cái không thuộc quyền nó, nó không tính toán công lao. Ai dám có quyền trên Thiên Chúa?
Lời đáp của cha rất đẹp: “Con ơi, tất cả của cha là của con”. Thực ra ta phải nói ngược lại và rất hợp lý rằng: “Tất cả của con, con đã nhận được, kể cả lòng trung tín đều là của cha”. Không ai trung tín nếu Thiên Chúa không đoái thương.
Đức trung tín và đức tin đều là ơn huệ của Thiên Chúa ban và vô phúc cho kẻ lạm dụng chiếm lấy như một quyền lợi. Người con cả đã lầm tưởng mình trung tín với cha nên chẳng còn chân thành nghe lời cha nữa, anh tưởng anh phục vụ cha khi ở với cha, nhưng chính cha đã ban cho anh tất cả.
J.G.
Suy Niệm 6: Trở nên giống Thiên Chúa trong tình thương
Có một người mẹ đã suốt một đời hy sinh cho con cái. Tuy nhiên, ngay cả đến lúc già nua tóc bạc, bà vẫn không nhận được một nghĩa cử đền ơn báo nghĩa nào của người con. Nhưng mang trong mình tâm tư của người mẹ, với một tình mẫu tử, bà vẫn hết mực thương con.
Câu chuyện trên đây phản chiếu một phần nào hình ảnh của người cha nhân hậu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Ông đã quá vất vả vì con cái! Tuy nhiên, thay vì tuổi già, ông được con cái phụng dưỡng, đằng này, nó lại đòi chia gia tài để rồi đi ăn chơi trác táng với phường tội lỗi gian dâm. Hết tiền, hết bạc, bị người ta coi thường, khinh miệt trong thân phận nô lệ và bụng đói thì mò về với Cha của mình!
Tuy nhiên, thay vì xua đuổi, ông lại tỏ ra nhân hậu khi đứa con tội lỗi trở về. Vì thế, người cha này đã tìm mọi cách để phục hồi nhân phẩm và phục quyền cho đứa con lêu lổng một thời đi hoang, và cuối cùng là mở tiệc ăn mừng...
Thế nhưng, hành động của ông nhân từ bao nhiêu, thì hình ảnh, lời nói và thái độ của người con cả lại ngược lại với ông bấy nhiêu.
Người con cả trong bài Tin Mừng hôm nay đã không chấp nhận tha thứ cho người em của anh. Anh ta trách móc cha mình rồi tỵ nạnh với em mình khi kể lể công trạng của anh ta với cha của anh.
Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta vẫn thấy hình ảnh phóng đãng ăn chơi của người con thứ, hay thái độ ích kỷ, kiêu ngạo như người con cả ngay trong con người của chúng ta, mỗi lần chúng ta đi xa hay không chịu hiểu về tình thương của Thiên Chúa và lời mời gọi của Ngài.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, đứng dạy và trở về để được ơn tha thứ của Thiên Chúa. Đừng sợ tình thương của Thiên Chúa, vì tội lỗi của chúng ta có đỏ như son thì Chúa cũng làm cho trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều, Chúa cũng làm cho trắng như bông. Thiên Chúa luôn chờ đợi chúng ta từng ngày, từng giờ như người cha trong bài Tin Mừng hôm nay để tha thứ, tẩy rửa tội lỗi cho chúng ta.
Mặt khác, Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta đừng vì ích kỷ mà ngăn cản tình thương của Chúa xuống trên anh chị em mình như người con cả trong bài Tin Mừng vừa nghe.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết quay trở về với Chúa trong Mùa Chay này như người con thứ, biết từ bỏ thói kiêu ngạo, tự phụ như người con cả, và biết mặc lấy tâm tình từ bi, nhân hậu nơi người Cha trong dụ ngôn hôm nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Vui mừng đón nhận con cái trở về
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Niềm vui trở về không phải chỉ là của kẻ quyết tâm sám hối ăn năn, nhưng đó là niềm vui chung của mọi người, niềm vui của cả Thiên Đàng. Chúa Cha vui mừng đón nhận con cái trở về.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, người con hoang đàng trên đường trở về nhà cha trĩu nặng ưu tư lo lắng. Tâm hồn anh xao xuyến nhưng vẫn dũng cảm đến gặp cha mình. Nhưng tất cả ưu tư xao xuyến kia đã bị xóa sạch vì cha yêu thương hơn anh tưởng. Tình thương luôn mang lại nhiều bất ngờ.
Lạy Chúa, cũng như người con thứ kia, có lúc con đã tự tạo cho mình những ngày vui tươi, hạnh phúc theo cách nghĩ riêng con. Nhưng cuối cùng, con cảm nhận những niềm vui và hạnh phúc đó thật là bèo bọt, phũ phàng! Vì thế, hôm nay con muốn dứt khoát, quyết tâm trở về nhà Cha.
Lạy Chúa, đường trở về nhà Cha tràn đầy niềm vui vì là con đường duy nhất có thể cứu sống. Con biết điều đó. Nhưng vẫn còn nhiều trở ngại ngăn cản con. Cũng như người con thứ, con tưởng mình không được đón tiếp mà chỉ mong được cư xử như người làm thuê. Nhưng không! Chúa đón nhận con hơn cả người cha trong dụ ngôn. Hôm nay, không phải người giúp việc mặc áo mới cho con, xỏ nhẫn, xỏ giày cho con. Nhưng chính Chúa làm cho con điều ấy. Tình thương Chúa luôn chờ đợi con trở về và đổi mới cuộc đời con. Niềm vui của con trước hết bắt đầu từ nơi Chúa. Và đó là niềm vui chung của cả gia đình, của cả Nước Trời. Xin cho con biết tin vào tình yêu Chúa và xin nâng đỡ lòng quyết tâm của con.
Lạy Chúa, khởi điểm của lòng sám hối là nhận biết mình yếu đuối tội lỗi. Xin Chúa soi sáng để con nhận ra con người thật của mình với bao lầm lỗi khuyết điểm, và giúp con can đảm đứng dậy trở về với Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Em con đã chết nay sống lại”.
Suy Niệm 8: Dụ ngôn người cha nhân hậu
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Danh họa Rembrandt, người Hà Lan, vào thế kỷ thứ XVII là một thanh niên kiêu hãnh, tự hào về tài năng. Anh làm ra nhiều tiền, nhưng cũng phung phí nhiều và cuối cùng mất hết tất cả.
Tiếp theo giai đoạn thành công và giàu có ngắn ngủi ấy là một chuỗi những thất bại, tai họa và phiền muộn: Năm 1635, người con trai của ông tên là Prubertus qua đời; ba năm sau đến lượt người con gái đầu tiên của ông là Cornelia cũng ra đi, hai năm sau đó, chính người vợ của ông cũng từ giã cõi đời. Ông phải sống cảnh gà trống nuôi con với một đứa con trai là Titô vừa mới được chín tháng tuổi. Sau khi vợ chết, ông toàn gặp khổ đau và thử thách, cuộc tình bất hạnh với bà vú nuôi của Titô đã để lại cho ông thêm hai đứa con khác. Trong những năm sau đó, mặc dù các nhà sưu tầm và giới phê bình nghệ thuật nhìn nhận tài năng của ông, nhưng tiếng tăm của ông đã bắt đầu đi xuống. Ông đã nhìn lại bản thân và cuộc đời để rồi ký thác cái nhìn về cuộc sống đầy sóng gió của mình trong bức tranh nổi tiếng “Người con hoang đàng”.
Suy Niệm
Dụ ngôn người con hoang đàng, hay còn gọi là dụ ngôn ba cha con vì ba nhân vật trong dụ ngôn: Cha, con cả và con thứ hoang đàng hoặc gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu làm nổi bật trái tim của người cha: Một trái tim nhân hậu, bao dung tha thứ và tràn đầy yêu thương. Đức Giêsu qua hình ảnh người cha, Ngài mạc khải Thiên Chúa - một người Cha luôn bao dung như lời tuyên bố của ngôn sứ Hôsê: “Chúa vẫn trung thành tiếp tục thương yêu người bất trung” (Hs 14,5). Người con thứ bất trung, bất hiếu lấy tài sản ra đi hoang đàng ăn chơi, bỏ cha già ở nhà, nhưng cha vẫn mong mỏi đứa con trở về.
Người em lạm dụng tình thương, tự cắt bỏ cung lòng yêu thương của cha, của gia đình ra đi hoang đàng sống theo ý mình. Khi rơi xuống tận đáy cặn bã của cuộc đời, trong sự hoang tàn không sức sống và nghèo đói, nghèo hơn cả thân nô lệ, anh trở về xin lỗi mong được nương nhờ nơi nhà cha trong thân phận người làm công, nhưng hơn cả mong đợi, từ sự sám hối, anh được sống trong cảm nghiệm lòng thương của cha.
Người con cả hờn dỗi trách cha vì đón tiếp em về trong niềm vui vô bờ với tiệc mừng và sự đối xử bao dung của cha dành cho đứa em hoang đàng. Anh tự hào về phẩm hạnh của mình, anh sống bên cha trong ân tình của cha mà vẫn không khám phá và cảm nghiệm tình yêu. Vì thế, dù sống bên cha mà sống như người nô lệ không ý thức địa vị là con. Như nhận định của thánh Ambrôisiô: Anh là “biểu tượng của những tâm hồn khi tin vào sự trung thành, yêu và dành hết với những sự việc bên ngoài nhưng xa lạ tinh thần của Thiên Chúa”. Cho nên, dù tất cả là của anh nhưng anh không cảm nghiệm được mình đang có. Thánh Gioan Kim Khẩu suy diễn lời của cha nói với anh “tất cả của cha là của con” bằng lời diễn giải: “Bầu trời là của con, đất đai là của con... Giáo hội, bàn thờ, của lễ hiến dâng, thiên thần, tông đồ, tử đạo, hiện tại, tương lai, sự phục sinh, vĩnh cửu, tất cả là của con. Cha đã không hề lấy cẩm bào của con mà mặc cho em. Cha cũng không lấy gì của con để cho em. Nhưng khi chúng ta nhìn thấy một người chết sống lại, niềm vui thật vô bờ, và người này chính là con cha”. Với người anh cả, đứa em hoang đàng - con của cha, cũng là em của anh, nhưng anh chẳng tình nghĩa gì với cậu em trai, đã không biết chia sẻ niềm vui của cha… anh dù bên cha, nhưng vẫn nhạt nhòa không có tình yêu trong tim.
Một người cắt nguồn tình yêu cha, ra đi sống hoang đàng, nay quay về. Một người sống bên cha, nhưng tinh thần lại xa cách. Anh cả cũng cần mang tinh thần quay về khám phá lại tình yêu sống bên cha... Cả hai mang hình ảnh của mỗi người chúng ta ngày hôm nay hoang tàng đời mình, hay sống thánh thiện phẩm hạnh nhưng lại khô héo tình yêu trong tâm hồn.
Cả hai người con cả và thứ đều cần trở về trong tâm tình sám hối. Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui, sự sống. Trở về trọn vẹn để được sống lại trong cung lòng thương xót của Chúa như người con thứ. Trở về để khám phá và sống trọn vẹn tình yêu cha, như người anh cả cần khám phá.
Ý lực sống:
“Sự hối cải là một lời cầu nguyện, những người ăn năn sám hối sẽ thấy lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ những thực tại tuyệt vời” (Thánh Gioan Kim Khẩu).
Suy Niệm 9: Dụ ngôn đứa con hoang đàng
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Để nói về tình yêu tha thứ của Thiên Chúa đối với người tội lỗi, thánh Luca đưa ra cho chúng ta 3 dụ ngôn: con chiên bị thất lạc, đồng tiền của bà góa bị mất và nhất là đứa con hoang đàng. Hôm nay thánh Luca dưa ra dụ ngôn đứa con hoàng đàng để nói về tình yêu tha thứ của Thiên Chúa đối với người tội lỗi biết ăn năn sám hối. Thực ra, dụ ngôn hôm nay không nhằm đứa con hoang đàng, nhưng Lời Chúa nhấn mạnh đến lòng nhân từ thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với người tội lỗi.
2. Người con hoang đàng này là người con thứ và cũng là con út trong gia đình khá giả, nên cậu được nhiều ưu đãi, cưng chiều. Vì được ưu đãi nuông chiều nên dễ hư hỏng, đúng với câu phương ngôn của Pháp: “Con cưng là con hư”. Vì muốn sống tự do, thoải mái, cậu đòi người cha chia gia tài, và người cha đã chia gia tài cho cậu. Số gia tài được đổi thành tiền để dễ dàng ra đi. Vừa trẻ, lại có tiền, lại được tự do không bị ai ràng buộc... nên chỉ có một con đường nhào tới là hư hỏng.
Thực vậy, cậu đi phung phí tiền bạc, chơi bời trác táng. Thế là tiền mất tật mang. Địa vị của cậu suy sụp quá mau lẹ, rơi vào tình trạng khốn đốn phải đi chăn heo cho người ta để sống qua ngày. Nhưng rất may, câu chuyện không chấm dứt ở đây. Giữa cảnh túng đói cùng cực, chàng trai trẻ đã biết nghĩ lại và quyết tâm trở về với gia đình. Cậu can đảm trở về cũng như cậu đã can đảm ra đi, cậu quay gót 180 độ để về cùng cha.
3. Một trong những cách đánh động lương tâm nhân loại mà Đức Giêsu mang đến, đó là lòng thương xót của Thiên Chúa, được diễn tả qua nhiều câu nói, qua nhiều dụ ngôn, như dụ ngôn được đề tựa: ”Người con hoang đàng” được Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay. Đúng hơn, dụ ngôn đó phải được đề tựa là: “Người cha nhân hậu”, bởi vì nhân vật chính trong câu chuyện là người cha với lòng thương xót vô bờ bến của ông. Người cha ở đây chính là Thiên Chúa. Thánh Luca đã nêu bật khuôn mặt của một người cha nhân từ, thương xót và xem niềm vui tha thứ là niềm vui to lớn nhất đối với ông.
Thiên Chúa nhân từ thương xót chúng ta như thế đó nhưng phần đông chúng ta lại ăn ở bội bạc với Thiên Chúa. Vậy cả hai ngươi con đều phải quay trở về với cha, cả hai đều phải bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái tim cha: nhân hậu, bao dung, tha thứ và tròn đầy yêu thương.
4. Trong dụ ngôn đứa con hoang đàng ra đi, người cha không dùng sức mạnh của uy quyền để giữ lại. Ông đã tôn trọng sự tự do, đó là mầu nhiệm lớn lao. Đối với Thiên Chúa, Ngài có thể ngăn cản tội lỗi và sự dữ, nhưng làm như thế, Ngài sẽ tước mất sự tự do của con người. Không có tự do, con người không thể yêu mến Thiên Chúa như Ngài mong muốn. Mặt khác, con người sẽ không tìm thấy trong cuộc sống, một tình yêu trọn vẹn dẫu là có trách nhiệm.
5. Đó là ý nghĩa dụ ngôn. Chúng ta có thể rút ra được nhiều điều hữu ích cho cuộc sống. Hôm nay chúng ta chỉ cần ghi nhớ một điều thôi: Những người Do thái xưa kia đã nhạo báng, xỉ nhục, đánh đòn và đóng đinh Chúa Giêsu. Chúng ta ngày nay có xử với Chúa như vậy không? Chúng ta đừng tưởng rằng chúng ta không đối xử với Chúa như vậy. Thưa rằng: Có đấy, và rất nhiều lần, mỗi khi chúng ta phạm tội nhẹ là một lần chúng ta nhạo báng, xỉ nhục Chúa, và nhất là khi phạm tội trọng là chúng ta đã đánh đòn và đóng đinh Chúa mà giết Chúa ngay bên lòng chúng ta. Chúng ta hãy xin lỗi Chúa và quyết tâm sống đẹp hơn.
6. Truyện: Chúa quên hết rồi.
Một bà già thường đến gõ cửa phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo: “Lần sau, nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài “Cha xứ con có tội gì nặng nhất?“, sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
- Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.
- Thế bà có hỏi Ngài không?
Cha xứ bắt đầu hồi hộp:
- Bà hỏi thế nào?
- Thì con hỏi y như cha đã bảo: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất”?
Cha xứ càng hồi hộp thêm:
- Vậy Chúa có trả lời không?
- Có chứ.
Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:
- Chúa nói sao?
- Chúa nói: “Ta đã quên hết rồi”
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm (Kể theo ĐHY Nguyễn Văn Thuận).
Suy Niệm 10: Lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến lòng nhân từ thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với người tội lỗi:
1. Bài đọc 1 có câu: “Chúa không khư khư giữ mãi cơn thịnh nộ của mình, vì Chúa ưa thích lòng từ bi. Chúa còn thương xót chúng tôi, còn dày đạp những bất công của chúng tôi dưới chân Chúa, và ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển”.
2. Hình ảnh người Cha trong bài Tin Mừng minh hoạ rất sống động tấm lòng nhân từ bao la đến độ không thể ngờ của Thiên Chúa.
3. Bởi đó, câu xướng trước bài Tin Mừng mời gọi người tội lỗi hãy an tâm quay về với tình thương tha thứ của Chúa, vì “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Nhà truyền giáo T.R. Stevenson ở Thượng hải kể: một thương gia giầu có ở Quảng đông có hai con trai, người con lớn thường kết bè tụ đảng với bọn bất lương phá phách làng xóm. Một lần, quá túng, hắn dẫn cả một băng về cướp ngay tại nhà mình. Khi tội hắn bị lộ, người cha cho người đến nói với hắn: nếu biết đường cải tà qui chánh thì sẽ được tha. Người nhắn còn bảo đây là lần gia ân cuối cùng của ông chủ. Hắn chầm chậm đứng lên và quay về nhà cha. Một bữa tiệc đón tiếp xem ra cũng vui vẻ, nhưng trong dĩa thức ăn của hắn có bỏ thuốc độc. Hắn chết ngay đêm đó, nhưng người cha không bị ra toà vì theo luật Trung hoa, cha có quyền giết con. Từ câu chuyện này, các nhà truyền giáo thường đem đối chiếu với đoạn 15 Tin Mừng thánh Luca.
2. Dụ ngôn này giống như một bộ tranh gồm 3 bức. Bức nào cũng đáng ta chiêm ngưỡng:
- Hãy nhìn bức tranh người cha, và chiêm ngưỡng tấm lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa.
- Hãy nhìn bức tranh đứa em, để suy nghĩ về con đường hư đốn của kẻ tội lỗi và con đường trở về của kẻ sám hối.
- Hãy nhìn bức tranh người anh, để thấy cõi lòng “người công chính” có thể trở nên hẹp hòi như thế nào.
3. Một bà già thường đến gõ cửa phòng Cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo: “Lần sau, nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài ‘Cha xứ con có tội gì nặng nhất?’, sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
- Thưa Cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.
- Thế bà có hỏi Ngài không?
- Thưa có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp:
- Bà hỏi thế nào?
- Thì con hỏi y như Cha đã bảo: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất?”
Cha xứ càng hồi hộp thêm:
- Vậy Chúa có trả lời không?
- Có chứ.
Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:
- Chúa nói sao?
- Chúa nói: “Ta đã quên hết rồi”
Cha xứ thở phào nhẹ nhỏm (Kể theo Đức Cha Px NVT)
Suy Niệm 11: Sống như Chúa đầy yêu thương và nhân từ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến lòng nhân từ thương xót vô biên của Thiên Chúa.
Hình ảnh người Cha trong bài Tin Mừng minh họa rất sống động tấm lòng nhân từ bao la đó.
1. Hãy nhìn bức tranh đứa em, để suy nghĩ về con đường hư đốn của kẻ tội lỗi và con đường trở về của kẻ sám hối.
Trong một tuyển tập ngụ ngôn, tác giả người Ý, ông Yacob Basavalti có kể câu chuyện như sau: Một tên cướp nọ muốn trút bỏ gánh nặng tội lỗi đang đè nặng trên lương tâm, nên đã tìm đến với một linh mục. Nhưng vừa nghe xong những lời thẳng thắn của linh mục, anh ta liền nổi giận, tuốt gươm chém chết vị linh mục. Một thời gian sau, cảm thấy hối hận, anh ta lại tìm đến một vị linh mục khác, lần này vị linh mục cho biết để được ơn tha thứ của Chúa, anh phải đến Tòa Thánh. Cũng thấy bị xúc phạm, anh ta liền tuốt gươm kết thúc cuộc đời vị linh mục thứ hai.
Vị linh mục thứ ba mà tên cướp tìm đến xưng tội sẵn sàng ban phép giải tội cho anh, nhưng về việc đền tội, ngài yêu cầu anh hãy đi chôn cất tất cả những người chết mà anh gặp, đồng thời hãy khóc lóc như thể họ chính là người thân của anh. Vị linh mục trao cho anh một cái chai nhỏ để hứng nước mắt. Tên cướp ra về và nghe bất cứ nơi nào có đám tang, anh cũng tìm đến, nhưng mắt anh vẫn luôn khô ráo, anh không thể nhỏ được một giọt nước mắt nào. Cho đến một hôm tình cờ anh được đối diện với Chúa Giêsu đang khóc trên một cây Thập Giá, anh nhìn lên và than thở với Chúa về nỗi khổ đau không hề biết khóc là gì. Chính lúc đó, tự nhiên nước mắt anh trào ra. Anh lấy chai đã nhận được từ tay vị linh mục trao cho để hứng lấy và từ lúc đó anh đã hiểu được thế nào là sám hối. Sau đó anh đã tìm vào sa mạc để sống những ngày còn lại.
2. Hãy nhìn bức tranh người anh, để thấy cõi lòng “người công chính” có thể trở nên hẹp hòi như thế nào.
Nhà tu đức học nổi tiếng người Ấn Độ là cha Anthony de Mello có kể câu chuyện ngụ ngôn:
Một ngày nọ, Thiên Chúa đi vào Thiên Đàng, và ngài ngạc nhiên khi khám phá ra tất cả mọi người đều được vào đó cả. Thế là ngài dừng lại suy nghĩ: “Phải chăng ta không phải là Đấng công bình vô cùng”.
Ngài liền cho gọi sứ thần Gabriel:
- Ngươi hãy tập trung mọi người lại trước mặt Ta và đọc cho họ nghe 10 giới răn của Ta.
Tất cả mọi người đều đến trình diện trước tòa Chúa. Sứ thần Gabriel đọc giới răn thứ nhất, và Chúa phán:
- Tất cả những ai đã phạm giới răn thứ nhất hãy xéo khỏi mặt Ta, và đi vào hỏa ngục.
Một số người từ từ ra khỏi đám đông, buồn bã đi vào hỏa ngục.
Sứ thần tiếp tục đọc các giới răn khác, và cứ sau mỗi giới răn thì có một số người lặng lẽ đi vào hỏa ngục như trên.
Sau khi sứ thần Gabriel đọc giới răn thứ 6, thì cả đám đông đều tự động đi vào hỏa ngục, chỉ còn lại vị ẩn sĩ già, đầu hói, “béo mập”.
Thiên Chúa đưa mắt nhìn sứ thần rồi hỏi:
- Phải chăng chỉ có người này được vào Thiên Đàng thôi sao? Nếu vậy thì hắn phải cô độc lẻ loi lắm.
Nói xong, Thiên Chúa truyền lệnh cho sứ thần gọi đám đông lại và cho họ được trở lại Thiên Đàng. Nhìn thấy đám người tội lỗi xấu xa bỗng nhiên có được sự tha thứ, vị ẩn sĩ già bèn nổi giận và hằn học nói:
- Chúa không phải là Đấng công bình. Tại sao Chúa không cho con biết trước điều đó.
Đây quả là hình ảnh của người anh trong dụ ngôn: Rất hẹp hòi với anh em mình.
3. Hãy nhìn bức tranh người cha, và chiêm ngưỡng tấm lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa. Đây là câu chuyện Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận rất thích kể:
Một bà già thường đến gõ cửa phòng cha xứ, kể cho ngài nghe việc Chúa hiện ra với bà mỗi đêm. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, cha xứ bảo:
- Lần sau, nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài xem ‘Cha xứ con có tội gì nặng nhất, sau đó tới kể cho cha nghe”.
Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm tưởng là bà đã trúng kế của ngài.
Nhưng rồi một tuần sau, bà già lại trở lại.
- Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.
- Thế bà có hỏi Ngài không?
- Thưa có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp:
- Bà hỏi thế nào?
- Thì con hỏi y như Cha đã bảo: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất?”
Cha xứ càng hồi hộp thêm:
- Vậy Chúa có trả lời không?
- Có chứ.
Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:
- Chúa nói sao?
- Chúa nói: “Ta đã quên hết rồi”
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm.
Lạy Chúa,
xin cho mỗi người chúng con biết sống đầy lòng yêu thương và nhân từ như Chúa. Amen.
01/03 Dụ Ngôn Tá Điền Vườn Nho
- Viết bởi Mt 21, 33-43. 45-46
Dụ Ngôn Tá Điền Vườn Nho.
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 2 Mùa Chay.
"Ðứa con thừa tự kia rồi, nào anh em, chúng ta hãy giết nó".
Lời Chúa: Mt 21, 33-43. 45-46
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh; đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa.
Ðến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi. Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: "Ðứa con thừa tự kia rồi: Nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó". Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết. Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào?
Các ông trả lời: "Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi". Chúa Giêsu phán: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh sao:
"Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc; đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta?" Bởi vậy, Ta bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái".
Các Thượng tế và biệt phái nghe dụ ngôn đó, thì hiểu Người ám chỉ về mình. Họ liền tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì thiên hạ đều tôn Người là Tiên tri.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Sinh hoa lợi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong Mùa Chay, Giáo Hội cho chúng ta nghe dụ ngôn những tá điền.
Những tá điền này được chủ nhà cho canh tác vườn nho của mình,
để đến mùa hái nho họ giao lại cho ông hoa lợi.
Đây là một vườn nho được ông chủ quan tâm săn sóc.
Ông đã trồng, đã rào giậu, khoét bồn đạp nho và xây tháp canh.
Tiếc thay, khi ông chủ sai các đầy tớ đến để thu hoa lợi
các tá điền chẳng những không nộp, mà còn hành hạ họ và giết đi (c. 35).
Nhóm đầy tớ thứ hai cũng chịu chung số phận (c. 36).
Nhưng ông chủ vẫn không thất vọng trước sự độc ác của các tá điền.
Sau cùng, ông đã sai chính con trai mình đến với họ.
Đứa con thừa tự cũng chẳng được nể vì, bị lôi ra khỏi vườn nho và giết đi.
Khi kể dụ ngôn này Đức Giêsu muốn nói mình chính là người con ấy,
người Con của ông chủ vườn nho là Thiên Chúa.
Ngài tiên báo về cái chết sắp đến của mình
bởi tay những tá điền sát nhân là các nhà lãnh đạo Do thái giáo đương thời.
Cái chết của Đức Giêsu nằm trong chuỗi những cái chết của các ngôn sứ
là các đầy tớ đã được Thiên Chúa sai đến với dân Ítraen trong dòng lịch sử.
Tuy nhiên, cái chết ấy đặc biệt cao quý vì là cái chết của chính Người Con.
Hơn thế nữa, cái chết ấy không phải là một dấu chấm hết.
Nó là cánh cửa mở ra một trang mới của lịch sử,
không phải chỉ là lịch sử của dân tộc Ítraen, mà còn của cả nhân loại.
“Viên đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên viên đá đầu góc.
Đó là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (c. 42).
Giáo Hội sơ khai thích dùng trích dẫn trên đây của thánh vịnh 118, 22
để nói về việc Đức Giêsu bị loại trừ và được tôn vinh (x. Cv 4,11; 1Pr 2,7).
Bị loại bỏ là việc độc ác của con người,
còn trở nên viên đá góc là việc làm kỳ diệu của Thiên Chúa.
“Thu hoa lợi”, “nộp hoa lợi”, “sinh hoa lợi” (cc. 34, 41, 43).
Hoa lợi là điều mà ông chủ nhắm tới khi ông đầu tư cho vườn nho.
Ông đã không thu được hoa lợi gì từ những tá điền độc ác,
bởi đó ông đã lấy vườn nho lại, cho người khác làm để lấy hoa lợi.
Vườn nho bây giờ được hiểu là Nước Thiên Chúa.
Nước này không còn nằm trong tay giới lãnh đạo dân Do thái nữa,
nhưng được trao cho một dân biết sinh hoa lợi (c. 43).
Dân mới ấy chính là Giáo Hội phổ quát,
trong đó gồm cả dân ngoại và những người Do thái tin Đức Giêsu.
Chúng ta thuộc về Giáo Hội, thuộc về đoàn dân mới.
Chúng ta hãnh diện vì được trao phó vườn nho là Nước Thiên Chúa,
và lo lắng trước trách nhiệm phải sinh hoa lợi cho xứng ở đời này.
Làm thế nào để Giáo Hội nộp hoa lợi đúng mùa cho Chủ?
Làm thế nào để chúng ta không rơi vào tội của các tá điền đi trước?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con thường thấy mình không có thì giờ,
nhưng đồng thời cũng thấy mình
lãng phí bao thời gian quý báu.
Nhiều khi con tự hỏi
mình thực sự làm việc bao nhiêu giờ mỗi ngày.
Xin cho con biết quý trọng từng giây phút
đang trôi qua mà con không sao giữ lại được.
Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian,
để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa.
Xin cho con luôn làm việc như Chúa:
hăng say, tận tụy và vui tươi,
vâng phục, có phương pháp và đầy sáng tạo.
Vì quá khứ thì đã qua,
và tương lai thì chưa đến,
nên xin dạy con biết trân trọng giây phút hiện tại.
Xin cho con thấy Chúa
lúc này đang ở đây bên con,
và đang mời gọi con đáp lại tiếng của Ngài
bằng những hành động cụ thể.
Con xin hiến dâng Chúa giây phút này
như một hy lễ,
với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố.
Ước gì con dám sống hết mình giây phút hiện tại
để hiện tại đưa con vào vinh cửu của Chúa. Amen.
Suy Niệm 2: Đá góc tường
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đất sét chẳng thể chống lại thợ gốm. Đất tốt là ngoan ngoãn để thợ gốm đúc nặn nên hình tượng. Những người thợ làm vườn nho bất nhân và anh em tổ phụ Giu-se là những viên đá muốn tự đặt mình lên cao. Thoát khỏi tay thợ xây. Chiếm đoạt quyền Thiên Chúa. Anh em nhà Gia-cob bán Giu-se sang Ai cập. Thợ làm vườn bất nhân giết chết người con thừa tự. Họ muốn có quyền thế. Có danh vọng. Có tiền tài. Nhưng họ trở thành xấu xa đáng ghê tởm trước mặt Thiên Chúa.
Tổ phụ Giu-se và Chúa Giê-su là những viên đá bị người đời chê bỏ, giết chết. Nhưng các ngài luôn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Tuân phục Thiên Chúa. Không oán hận những kẻ làm hại mình. Vì biết mình thuộc về Thiên Chúa. Nên các ngài đã trở thành đá góc tường.
Chúa Giê-su chịu chết để đem lại sự sống cho nhân loại. Trở thành ơn cứu độ cho nhân loại. Ban sự sống cho nhân loại. Cho nhân loại được trở lại hạnh phúc làm con Thiên Chúa. Người làm cho thế giới được cứu rỗi, được hạnh phúc, được sống.
Tổ phụ Giu-se bị bán làm nô lệ, bị giam cầm bất công. Nhưng ở đâu ngài cũng vui vẻ chấp nhận số phận. Nên Thiên Chúa đặt ngài lên địa vị cao trọng. Cứu sống mọi người.
Chúng ta là ai? Có lẽ chúng ta giống anh em tổ phụ Giu-se và giống đám thợ làm vườn nho bất nhân. Thiên Chúa ban cho ta sự sống, thời giờ, trí tuệ, sức khỏe và linh hồn. Để ta sinh lợi cho Thiên Chúa. Nhưng ta chiếm đoạt tất cả để sử dụng theo ý riêng. Có khi còn dùng ơn Chúa ban để phạm tội chống lại Chúa.
Mùa Chay ta hãy biết ăn năn sám hối. Dành hết cuộc đời sống theo ý Chúa. Dành hết khả năng phục vụ Chúa và tha nhân. Ta sẽ bị cười chê trước mặt người đời. Nhưng ta sẽ được Thiên Chúa yêu thương. Chính những con người biết từ bỏ ý riêng làm theo ý Chúa mới trở thành những người xây dựng sự sống. Sự sống sung mãn vĩnh cửu.
Suy Niệm 3: Dụ Ngôn Tá Điền Vườn Nho
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Qua dụ ngôn người làm vườn nho sát nhân, không những Chúa Giêsu ám chỉ đến cái chết dã man mà các Thượng tế và Biệt phái sẽ gây ra cho Ngài, nhưng Ngài còn loan báo về sự phục sinh mà Thiên Chúa quyền năng sẽ thực hiện cho Ngài. Với sự phục sinh âý, Thiên Chúa như tuyên bố rằng tình yêu mạnh hơn sự chết, yếu đuối đã trở thành sức mạnh, thất bại biến thành khơi nguồn của ân ban. Chúa Giêsu đã gói ghém tất cả các mạc khải ấy trong câu trích từ Tv 118: “Chính viên đá thợ xây loại bỏ, đã trở nên viên đá góc tường”. Cái bị loại bỏ đã trở thành chuẩn mực, cái yếu đuối đã trở thành sức mạnh, cái điên dại đã trở thành lẽ khôn ngoan, cái chết đã trở thành cửa ngõ và khởi đầu nguồn sống mới.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng phó thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa. Màu tím của Mùa Chay có lẽ không nên phủ lên khuôn mặt chúng ta lớp khăn tang của buồn sầu, thiểu não; trái lại, việc Suy Niệm cuộc Tử nạn của Chúa Giêsu, việc chay tịnh trong thể xác và tâm hồn phải hướng chúng ta đến sự phục sinh của Chúa Kitô. Cuộc Tử nạn của Ngài không phải là con đường hầm không có lối thoát, nhưng ở cuối con đường ấy là nguồn sáng chan hoà của phục sinh. Đó cũng phải là ánh sáng chiếu dọi vào những Suy Niệm của chúng ta.
Cũng như thánh Phaolô, chúng ta cũng có thể góp phần bổ túc những gì còn thiếu trong cuộc Tử nạn của Chúa Kitô. Những mất mát, thua thiệt, những thất bại khổ đau trong cuộc sống đều là những đóng góp của chúng ta với điều kiện chúng ta biết đón nhận chúng với tinh thần phó thác của Chúa Giêsu, biết nhìn vào đó như những viên đá để Thiên Chúa biến thành viên đá góc xây dựng Giáo hội Chúa Kitô.
Suy tôn Thánh giá Chúa Kitô trong Mùa Chay, xin cho chúng ta biết nhìn lên ánh sáng Phục sinh, để từ đó nhận ra được ý nghĩa và giá trị của đau khổ trong cuộc sống chúng ta.
Suy Niệm 4: Thay Ðổi Hướng Ði
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Ðối với người Israel, vườn nho là một hình ảnh rất quen thuộc. Các ngôn sứ Isaia, Giêrêmia, Edêkiel thường dùng hình ảnh này để ám chỉ dân Israel được Thiên Chúa tuyển chọn và chăm sóc để trở thành dân riêng của Người. Chúa Giêsu cố ý đưa hình ảnh quen thuộc ấy vào trong phần mở đầu của dụ ngôn trên đây. Cách diễn tả của Chúa Giêsu chắc chắn làm cho người nghe nhớ đến lời ngôn sứ Isaia nói về sự bất trung của dân Israel. Cách mở đầu bài giảng như thế khiến cho các thượng tế và kỳ mục phải ở trong tư thế chuẩn bị đối phó, bởi vì họ đang là những nhà lãnh đạo của dân Israel, đang quản lý vườn nho của Thiên Chúa. Và sau phần mở đầu, Chúa Giêsu tấn công ngay vào vị thế đó của họ. Chúa gọi họ là những tá điền, mà lại là những tá điền bất nhân bất nghĩa. Người nói thẳng với họ: "Tôi nói cho các ông hay, Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa mà ban cho một dân khác với mục đích làm cho Nước ấy sinh hoa lợi."
Thoạt nghe dụ ngôn trên đây, chúng ta có thể nói nó chẳng ăn nhập gì đến mình cả. Chúa Giêsu hiện trước các thượng tế và các kỳ mục Do Thái thời xưa chứ Ngài đâu khiển trách chúng ta. Chúng ta đâu có dính dự gì vào chuyện của họ. Chúng ta đâu có giết các ngôn sứ của Thiên Chúa, chúng ta đâu có xử tử Chúa Giêsu. Thế nhưng, nếu chịu khó xét cho kỹ thì chúng ta phải giật mình vì chúng ta đã có những phản ứng chẳng khác gì họ, có khác chăng là trong một bối cảnh khác và với hành động như vậy, chúng ta không giết các ngôn sứ, nhưng chúng ta bỏ ngoài tai những lời giảng dạy của các vị, chúng ta không kết án tử Chúa Giêsu, nhưng chúng ta đẩy Người ra ngoài lề cuộc sống chúng ta. Nếu chịu khó xét mình, không khéo chúng ta lại tìm thấy hình ảnh của các thượng tế và kỳ mục của Israel nơi bản thân chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, nhiều lần chúng con trách cứ dân Do Thái ngày xưa đã cứng đầu không nhận ra Chúa, không nghe lời Chúa mà còn giết Chúa nữa, nhưng chúng con cũng đang bước theo lối mòn ấy của họ. Xin Chúa tha thứ cho con và giúp con sửa đổi đời mình để được Nước Trời làm gia nghiệp mãi mãi.
Suy Niệm 5: Giết con thừa tự
Các ông hãy nghe một dụ ngôn khác: “Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác và trẩy đi xa. Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền và thu hoa lợi. Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” (Mt. 21, 33-34, 38)
Dụ ngôn những tá điền sát nhân loan báo rõ ràng về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Sau khi gửi nhiều ngôn sứ đến dân Ít-ra-en, Thiên Chúa gửi chính con mình, nhưng cũng không được đón nhận, chẳng hơn gì số phận những ngôn sứ xưa.
Dụ ngôn này nói lên sự tàn bạo kinh khủng, nó phản ảnh sự dã man ghê sợ của loài người đến cùng cực, khó có thể tưởng tượng nổi. Nhưng đừng để cho những xúc động ghê sợ đó trở nên cạm bẫy che lấp sứ điệp chân chính mà Đức Giêsu truyền dạy chúng ta. Sứ điệp chân chính đó là vườn nho được trao cho những người lương thiện canh tác.
Vườn nho đã được trao cho những tá điền biết làm sinh hoa kết quả. Thực sự những trái nho ở đây là những hoa trái nước trời. Dân tộc được tuyển chọn trước đã thất bại. Một dân khác đã lãnh nhận vườn nho và sẽ không làm ông chủ thất vọng.
Bức tranh này, tuy có thể tối tăm, nhưng sau cùng lại chứa đầy hy vọng. Người ta thấy ở đây chương trình của Thiên Chúa, Ngài muốn nhân loại sinh nhiều hoa trái, không bao giờ được thất vọng do những quản lý xấu. Thiên Chúa không bao giờ chịu thất bại do sự quản lý đồi tệ của con người. Ngài tái lập lại rất dễ dàng và trao lại cho những người khác công việc đã bị hư hại.
Những kẻ bất trung đã làm hỏng việc, nhưng nước Thiên Chúa thì vẫn bất diệt, vì tất nhiên Ngài sẽ thực hiện lại, và phúc cho ai được Ngài dùng để thực hiện lại công việc của nước trời.
Người ta thường nghe rằng thế hệ chúng ta có những người đang phá hủy Hội thánh của Đức Kitô. Người ta nói Đức Kitô đã bị đóng đinh rồi, Thiên Chúa đã chết rồi.
Hội thánh được hứa bảo đảm bất tử. Nhưng những kẻ bất xứng đã phung phá vườn nho của Chúa sẽ bị xô xuống vực thẳm, để cho những người khác đến và ơn cứu độ lại được loan báo cho tới khi Chúa lại đến. Chúng ta sẽ qua đi. Chúa vẫn tồn tại.
J.G.
Suy Niệm 6: Sám hối để được cứu độ
Trong Kinh Thánh Cựu Ước có kể câu chuyện của vua thánh Đavít như sau: khi vua Đavít đã thỏa mãn nhục dục với Bathsêba, vợ của vị tướng Uria. Không dừng lại ở đó, ông đã tìm cách để phủ lấp chuyện đồi bại của mình bằng cách đẩy Uria ra mặt trận ác liệt, ở đó, vị tướng này chắc chắn sẽ tử trận, và sự việc đúng như kế hoạch thâm độc mà nhà vua đã hoạch định.
Khi nghe biết sự tàn ác của vua Đavít như thế, tiên tri Nathan đến kể cho vua một câu chuyện nhằm cảnh báo nhà vua, ngài kể: một anh nhà giàu kia có rất nhiều chiên, nhưng khi có khách, thì lại truyền lệnh cho quân lính sang nhà hàng xóm bắt con dê của họ để làm thịt ăn mừng. Điều đáng nói là người hàng xóm này chỉ có duy nhất một con dê là tài sản của anh ta. Nghe đến đây, Vua Đavít tức giận và tuyên bố một câu xanh rờn: thằng đó phải chết! Nghe thấy thế, tiên tri Nathanel chỉ thẳng vào mặt vua và nói: “Thằng đó chính là vua!” Đến đây, nhà vua mới giật mình nhận ra tội lỗi của ông và ăn năn sám hối.
Câu chuyện trên đây thật trùng khớp với câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay.
Đức Giêsu biết rõ những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ có một cái tôi rất lớn được xây dựng bằng thành trì của sự kiêu ngạo, tự phụ, tự tôn, luôn coi mình là đạo đức hơn người. Thế nên, bản thân họ rất khó nhận ra con người thực chất của chính mình để sám hối. Vì thế, Đức Giêsu đã kể cho họ nghe dụ ngôn: “Những tá điền sát nhân”.
Ngài kể về những người làm công ác nhân, thất đức khi đối xử bất nhân với những người nhà của chủ được sai đến, không những thế, sự bất nhân của họ còn được sử dụng ngay với chính con của ông chủ, nên họ đã giết luôn cả đứa con thừa tự và cướp luôn vườn nho.
Sau đó, Đức Giêsu hỏi những người đang nghe: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?" Nghe đến đây, các Thượng Tế và Kỳ Mục lên tiếng khí thế, họ nói: "Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông”.
Cũng như Đavít, họ vui vẻ và khẳng khái kết án cái ác, đúng lúc ấy, trong câu 43, Đức Giêsu tuyên án với họ: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi, không cho các ông nữa, mà ban cho dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”.
Đến đây, Đức Giêsu đã làm cho các Thượng Tế và Kỳ Mục nhận ra con người gian dối của họ khi dùng ngón đòn: “Gậy ông đập lưng ông”, khi chính họ tuyên án cho thảm án nặng nề nơi mình.
Trong cuộc sống hôm nay, nhiều khi chúng ta không nhận ra tội của mình mà cứ đi lôi tội của người khác một cách không thương tiếc. Vì thế, có lúc chúng ta không khác gì những nhà lãnh đạo tôn giáo thời Đức Giêsu, hay như Vua Đavít trong câu chuyện trên!
Tuy nhiên, Vua Đavít thì sám hối, còn những Thượng Tế và Kỳ Mục thì không, nên họ vẫn tiếp tục sa lầy vào con đường tội lỗi...
Mùa Chay là mùa Chúa mời gọi chúng ta hãy sám hối để được cứu độ, ngược lại, nếu không sám hối sẽ đời đời diệt vong.
Sám hối sẽ được ban nhiều hồng ân, mà hông ân lớn lao nhất chính là ơn cứu độ. Nếu không, ngay cả cái đang có cũng sẽ bị lấy đi và trao cho người khác.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết nhận ra con người thật của mình để biết sám hối, ăn năn. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Lịch sử cứu độ: Thiên Chúa tình yêu-tha thứ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Lịch sử cứu độ là lịch sử của Thiên Chúa trung thành với tình yêu cứu độ, còn loài người thì bất trung và từ chối tình yêu ấy. Tuy nhiên, kế hoạch cứu độ của tình yêu Thiên Chúa vẫn thành công.
Cầu nguyện: Lạy Cha, Chúa Giêsu cho con hiểu được tình yêu vô bờ của Cha, hiểu được ý nghĩa của lịch sử cứu độ Cha thực hiện cho loài người chúng con. Tình yêu Cha quá cao cả, Cha không ngừng sai các sứ giả đến mời gọi chúng con bước theo chân lý của Cha. Cha không ngừng đi tìm chúng con trở về, nhưng chúng con lại từ chối và quay lưng lại với Cha. Tuy nhiên dù chúng con phản bội, bất trung, Cha vẫn một lòng trung thành yêu thương chúng con và còn yêu thương hơn nữa. Tình yêu Cha vẫn tuôn trào, vẫn luôn đầy sáng kiến để thực hiện những kỳ công, để rồi cuối cùng ban tặng Con Một Cha cho chúng con. Cha chạy đua với tội lỗi chúng con. Tội lỗi càng dâng cao, tình yêu và ân sủng Cha lại càng chan chứa.
Lạy Cha, con biết nói sao cho hết tâm tình tạ ơn. Con biết Cha không cần con phải làm điều gì vĩ đại cho bằng biết mở lòng đón nhận tình yêu của Cha. Xin đừng để con cứng lòng và bịt tai nhắm mắt mãi. Chắc chắn trong đời có nhiều lúc con đã từ chối và phản bội Cha, nhiều lúc đã giết Con Cha. Nhưng con biết Cha vẫn một lòng thương yêu con. Xin Cha giúp con trở về với tình yêu Cha, không ngừng hoán cải để nối lại dây tình yêu đã bị con cắt đứt. Chẳng những Cha không bao giờ thất vọng về con mà lại còn tìm muôn vàn phương thế để lay động trái tim con. Xin Cha giúp con vững lòng trông cậy, không bao giờ thất vọng, cho con biết chỗi dậy mỗi ngày, biết làm lại từ đầu. Xin Cha cho con dù có bao lần vấp ngã, nhưng suốt cuộc đời vẫn trung thành với tình yêu ban đầu. Con tin tình yêu Cha sẽ chiến thắng trái tim con. Amen.
Ghi nhớ: “Ðứa con thừa tự kia rồi, nào anh em, chúng ta hãy giết nó”.
Suy Niệm 8: Những tá điền bất lương và vườn nho
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Có người chủ vườn nho “ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho” (Is 5,2a). Anh rất quý vườn nho đến nỗi anh có thể làm tất cả cho sự trù phú của nho: “Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?” (Is 5,4). Với sự chăm sóc ân cần cho vườn nho, anh mong những cây nho thân yêu của mình sinh ra những trái nho ngon ngọt. Đó là hình ảnh vườn nho được chăm sóc, mà ngôn sứ Isaia đã phác họa để làm nổi bật Thiên Chúa đã yêu thương, chăm sóc dân “tuyển chọn”- Israel rất ân cần chu đáo.
Tuy nhiên dân Israel được chăm sóc ân cần vẫn bạc tình bạc nghĩa, như một vườn nho chỉ sinh trái dại… Ngôn sứ Isaia đã chỉ rõ ràng: “Vườn nho đó chính là nhà Israel; Cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, chính là người xứ Giuđa. Người những mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than” (Is 5,7), Thiên Chúa thất vọng về vườn nho của mình…
Suy Niệm
Với dụ ngôn “Những tá điền bất lương và vườn nho”, Đức Giêsu chỉ đích danh các thượng tế và kỳ lão. Họ là những người được Thiên Chúa trao phó trách nhiệm chăm sóc vườn nho. Nhưng thay vì mang hoa lợi về cho chủ là Thiên Chúa, họ lại muốn chiếm đoạt hoa lợi ấy cho mình. Vì thế, những sứ giả được Thiên Chúa sai đến là các ngôn sứ đều bị họ giết chết. Ngay người con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu cũng bị họ đóng đinh và treo Người trên cây thập giá.
Vườn nho mà Thiên Chúa trao cho dân Israel, được trao lại cho mọi dân tộc, và từ nay Thiên Chúa chăm sóc cho tất cả mọi dân nước: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho nước ấy sinh hoa lợi”. Trong Tân ước, mọi người, mọi dân tộc đều được mời gọi đi làm và ở trong vườn nho (x. Mt 20,1-16a). Dân nước này sẽ được làm thành bởi mọi kẻ sẽ sinh hoa trái của nước Trời, nghĩa là những kẻ, khi tiếp nhận Người Con, sẽ tụ họp quanh Người để làm nên dân mới của Thiên Chúa (x. Rm 9,25; 1Pr 2,10).
Dụ ngôn “Những tá điền bất lương và vườn nho” có tính cách lịch sử: Nghĩa là diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ, thái độ của họ với chính Chúa. Dụ ngôn cũng mang tính cách tiên tri: Nơi con người thời đại đang và sẽ đến đối xử với Thiên Chúa, và những tá điền vườn nho là hình ảnh của các giới lãnh đạo Do Thái nhưng cũng chỉ trực diện mỗi chúng ta ngày hôm nay, những người trong giao ước mới, được mời gọi đi làm vườn nho. Chúng ta là những tá điền được Chúa trao phó trách nhiệm trông coi vườn nho và làm phát sinh hoa lợi. Những gì ta đang có chính là hoa lợi từ vườn nho.
Tự tước lấy hoa trái của Thiên Chúa, muốn mình định đoạt tất cả, loại Thiên Chúa trong cuộc đời mình, chính là hình ảnh những tá điền bất lương của ngày hôm nay, con người vẫn đang đi vào vết xe đổ của lịch sử: Khi chúng ta chọn lựa cho mình một cách sống tự mình là chủ định đoạt “vườn nho” mà không cần biết Đấng làm chủ vườn nho, chúng ta muốn tước đoạt của “thừa tự” của Đấng làm Con Thiên Chúa. Chúng ta đang phác họa lại hình ảnh nguyên tổ trong Vườn Địa Đàng xưa: Muốn lấy cái “biết” của Thiên Chúa qua hành động hái và ăn trái “hiểu biết” theo ý đồ của Satan, để có vinh quang bằng Đấng Tạo Hóa. Nhưng, sự “biết” không thấy, lại bị tước đoạt Vườn Địa Đàng được trao phó. Những tá điền vườn nho cũng vậy, khi giết con thừa tự, vườn nho không những không được hưởng, mà còn bị chủ vườn nho lấy lại giao cho các tá điền khác.
Hôm nay, tôi và bạn là người tá điền làm vườn nho được Thiên Chúa ký thác. Ước chi chúng ta luôn ý thức trách nhiệm mình là tá điền chuyên chăm trong vườn nho của Chúa. Tá điền biết cộng tác xây dựng công trình vườn nho cho vinh quang Thiên Chúa...
Ý lực sống: “Hãy đi vào vườn nho của tôi... Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25,21-23).
Suy Niệm 9: Dụ ngôn những tá điền sát nhân
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Qua dụ ngôn này ta thấy Thiên Chúa đã yêu thương tuyển chọn và chăm sóc dân Người. Nhưng những con người bất tín, điển hình là các nhà lãnh đạo Do thái đã đưa dân vào con đường bất nghĩa. Người đã sai các tiên tri đến với họ, và đã bị đối xử tàn tệ. Cuối cùng Thiên Chúa đã sai chính Con Một của Người đến. Ngài đã bị họ sỉ nhục, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Nhưng chính nhờ Ngài, ơn cứu độ đã được thực hiện cho muôn người. Qua cái chết của Đức Giêsu, một dân tộc mới được hình thành. Giáo hội được khai sinh.
2. Ý nghĩa của dụ ngôn: Chủ vườn nho là Thiên Chúa, vườn nho là dân Do thái, những tá điền làm vườn nho là các tư tế, biệt phái và luật sĩ, các đầy tớ được sai đến bị bắt, bị đánh đập và bị giết chết là các tiên tri, hoa lợi là kết quả của những việc lành, con trai duy nhất của ông chủ là Đức Giêsu, bị lôi ra khỏi vườn tức là bị đem ra khỏi thành Giêrusalem mà giết. Cuối cùng, ông chủ sẽ tru diệt bọn hung ác đó, tức là Thiên Chúa sẽ trừng phạt dân Do thái.
3. Dụ ngôn này có tính cách lịch sử: Nghĩa là một đàng diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do thái, và thái độ của dân Do thái đối với những tiên tri Chúa sai đến với họ, thái độ của họ đối với chính Chúa.
Dụ ngôn cũng mang tính cách tiên tri: Nơi con người thời đại đang và sẽ đến đối xử với Thiên Chúa, và những tá điền vườn nho là hình ảnh các giới lãnh đạo Do thái nhưng cũng chỉ trực diện mỗi chúng ta ngày hôm nay, những người trong giao ước mới, được mời gọi đi làm vườn nho. Chúng ta là những tá điền được Chúa trao phó trách nhiệm trông coi vườn nho và làm phát sinh hoa lợi. Những gì ta đang có là hoa lợi từ vườn nho.
4. Mình muốn tước lấy hoa trái của Thiên Chúa, muốn mình định đoạt tất cả, loại Thiên Chúa trong cuộc đời mình, chính là hình ảnh của những tá điền bất lương của ngày hôm nay, con người vẫn đang đi vào vết xe đổ của lịch sử: Khi chúng ta chọn lựa cho mình một cách sống tự mình là chủ định đoạt “vườn nho” mà không cần biết Đấng làm chủ vườn nho, chúng ta muốn tước đoạt của “thừa tự” của Đấng làm Con Thiên Chúa. Chúng ta đang phác họa lại hình ảnh Nguyên tổ trong Vườn Địa đàng xưa: Muốn lấy cái “biết” của Thiên Chúa qua hành động hái và ăn trái “hiểu biết” theo ý đồ của Satan, để có vinh quang bằng Đấng Tạo Hóa. Nhưng, sự “biết” không thấy, lại bị tước đoạt vườn Địa đàng được trao phó. Những tá điền vườn nho cũng vậy, khi giết con thừa tự, vườn nho không những không được hưởng, mà lại còn bị chủ vườn nho lấy lại giao cho tá điền khác (Vinh Sơn, Suối nguồn tình yêu, I, tr 198).
5. Ngày nay, chúng ta cũng được coi là vườn nho của Thiên Chúa. Tất cả những gì Chúa ân cần săn sóc ban cho đều là hồng ân của Chúa. Chúng ta được tự do hành động, sắp xếp công việc theo ý ta, nhưng ta phải chịu trách nhiệm về những việc làm ấy. Bổn phận của chúng ta là phải cố gắng làm việc cho tốt đẹp để đáp lại tình thương của Chúa đối với chúng ta.
Sách có chữ rằng: “Tiền xa ký phúc, hậu xa khả giới”: xe trước đổ, xe sau phải coi chừng. Dân Do thái ngày xưa đã bất trung nên đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ. Ngày nay chúng ta là dân Do thái mới được Thiên Chúa săn sóc giữ gìn, chúng ta phải tránh xa vết xe cũ kẻo phải hư đi, nhưng phải trung thành với hồng ân Chúa ban, bằng cách làm cho ơn Chúa được sinh hoa kết quả dồi dào trong đời sống; đồng thời cũng phải biết chia sẻ cho người khác nữa.
6. Truyện: Không biết chia sẻ của Chúa ban.
Một người nghèo nọ được thần tài gõ cửa, nên không mấy chốc căn nhà của anh bỗng rộn lên tiếng cười của vợ con, họ hàng và láng giềng. Một cuộc sống xứng với nhân phẩm hơn đó là điều mà con người may mắn này đã cảm nhận được.
Tuy nhiên, may mắn nào cũng kéo theo những đòi hỏi, mà đòi hỏi thách thức nhất của người nghèo bỗng trở thành giầu có là: hãy chia sẻ với người khác. Không mấy chốc, bà con họ hàng từ các nơi đổ xô về căn nhà nghèo nàn của anh để xin giúp đỡ, trước là nhận họ sau là nhận hàng, đó là thói thường của người đời.
Kẻ trúng số hiểu được các tâm lý thông thường ấy, lúc đầu được thúc đẩy bởi lòng quảng đại, ông không ngần ngại chia sớt cho mọi người. Nhưng dần dà con số người đến xin giúp đỡ ngày càng gia tăng, cho đến một lúc cuộc sống riêng tư và êm ấm của gia đình hầu như bị xáo trộn triền miên. Người đàn ông không còn đủ kiên nhẫn nữa.
Một hôm, ông đề nghị với vợ:
- Hay là ta dọn đi một nơi khác.
Người vợ lắc đầu bảo:
- Mình có đi đâu thì thiên hạ cũng tìm tới.
Nhưng người chồng giải thích:
- Mình sẽ đi đến một chỗ không ai biết, mình sẽ đổi tên đổi họ, cũng không cho ai biết mình đi đâu, và sẽ cố gắng sống một cách đơn giản để không ai để ý đến mình nữa, ngay cả mấy đứa nhỏ cũng không cho biết mình đã trúng số.
Người vợ thắc mắc:
- Còn tiền bạc thì mình để đâu?
Chồng trả lời dứt khoát:
- Mình sẽ đem chôn giấu, mình sẽ sống như thể không hề trung số, chỉ đem ra dùng khi nào cần thiết mà thôi.
Thế là cả gia đình dọn đến một nơi khác như dự kiến: họ lén lút ra đi không ai biết, tiền bạc đem chôn cất, con cái còn quá nhỏ nên không biết việc gì đã xẩy ra, họ sống nghèo nàn trong một khu ổ chuột. Ngày qua ngày, chính họ cũng quên rằng mình đã có lần trúng số, và khi họ chết thì tất cả mọi tài sản đều mất hết. Họ quên cả việc viết chúc thư cho con cái để trao lại tài sản cho chúng.
Suy Niệm 10: Giuse mới, Đấng cứu rỗi muôn dân
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ.
1. Bài đọc Cựu Ước kể chuyện tổ phụ Giuse bị các anh ganh ghét nên bán đi cho các lái buôn. Giuse trở thành nô lệ (Phần sau của chuyện Giuse kể tiếp là sau này Giuse lên chức tể tướng nước Ai cập và đã cứu cả gia đình mình khỏi nạn đói).
2. Qua dụ ngôn những thợ vườn nho ác ôn, Chúa Giêsu nói Ngài chính là Giuse mới, bị dân mình giết chết, nhưng lại là Đấng cứu rỗi muôn dân. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc”.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Lòng ganh ghét đã khiến các con Giacóp coi đứa em ruột của mình là kẻ thù. Lòng ganh ghét cũng khiến các thượng tế và kỳ lão Do Thái giết chết Đấng Messia mà toàn dân mong đợi bấy lâu nay. Dù chiếc xe đã ngã, nhưng vết xe cũ vẫn luôn có người theo. Tôi có như vậy không?
2. Giuse đã lấy ơn để trả oán. Chúa Giêsu đã lấy cái chết để cứu chuộc cả những người hành hạ Ngài. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc”. Xin Chúa giúp ta cách “báo thù” tuyệt vời ấy.
3. Một hoàng đế Trung Hoa muốn chiếm đất của kẻ thù và tiêu diệt họ. Nhưng ít lâu sau, thần dân thấy nhà vua đi lại, ăn uống với kẻ thù trước kia.
- Chẳng phải ngài đã từng nói là sẽ tiêu diệt hết kẻ thù?
- Đúng, ta đã tiêu diệt hết kẻ thù, vì ta đã biến họ thành bạn bè của ta.
4. Cái nhìn của Chúa khác cái nhìn của loài người. Khả năng của Chúa cũng tuyệt vời hơn khả năng loài người. Viên đá mà “những người thợ xây” - tức loài người chúng ta - coi là đồ bỏ đi, thì Thiên Chúa có thể biến thành tảng đá góc tường. Thí dụ viên đá Phêrô đã 3 lần chối Chúa, viên đá Phaolô và biến cố trên đường Đamát, viên đá Augustinô... Nhiều anh chị em tôi cũng có thể là những viên đá như thế, vậy tôi hãy khoan dung... Ngay cả tôi cũng có thể là như thế, nên tôi hãy trông cậy.
Suy Niệm 11: Giuse mới lấy cái chết, cứu chuộc người hành hạ mình
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta nhìn vào Chúa Giêsu như một Giuse mới. Giuse cũ trong Cựu Ước đã lấy ơn để trả oán. Chúa Giêsu - Giuse mới trong Tân Ước còn hay hơn: Không phải chỉ lấy ơn trả oán mà còn lấy cái chết để cứu chuộc cả những người hành hạ mình nữa. Việc làm của Chúa quả là một việc lạ thường, con người khó mà hiểu nổi.
“Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc” (Mt 21,42).
Viên đá mà “những người thợ xây” - tức loài người chúng ta - coi là đồ bỏ, thì Thiên Chúa đã biến thành tảng đá góc tường. Xin mở một dấu ngoặc: Vào thời Chúa Giêsu, khi phải xây ngôi nhà có mái vòm lớn trên nóc, người ta phải có một viên đá đặt ở trên chóp đỉnh để chịu lực. Viên đá đó có một vai trò rất đặc biệt. Nó giữ cho những viên ngói trên mái vòm được liên kết với nhau nhờ thế mà cả mái vòm được đứng vững. Khi ví mình như một viên đá góc, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng: Hãy nhìn mọi sự trong tinh thần lạc quan, không được phép thất vọng hay buồn phiền, nhất là khi phải đối diện với những bất công khổ đau trong cuộc sống.
Ở Mỹ có một tảng đá rất nổi tiếng. Đó là tảng đá Balebon tại tiểu bang California.
Ngày nọ, có một người dân làm đơn khiếu nại sở Kiều lộ. Người này báo động rằng vì nạn đất chùi, tảng đá này có thể đổ xuống làm hư nhà cửa của họ; và thế là với hai chiếc trực thăng yểm trợ cho hai xe cẩu loại lớn, người ta đã đưa tảng đá lên xa lộ.
Theo dõi câu chuyện trên đài truyền hình, một người Úc nọ đã đến xin mua tảng đá ấy. Sở Kiều lộ của thành phố đã bán tảng đá này với giá 100 Mỹ kim. Những người có trách nhiệm của thành phố đã mừng thầm vì cảm thấy ít ra cũng có người giúp họ di chuyển cái “của nợ” ấy đi. Sau đó, người Úc kia đã bỏ ra 20.000 Mỹ kim nữa để thuê xe chuyên chở tảng đá ấy về nhà, và sau bốn tháng miệt mài làm việc, anh đã tạc được chân dung của một tài tử nổi tiếng chuyên đóng phim cao bồi. Đó là món quà quí nhất mà người này dành cho tài tử yêu quí trước khi nhắm mắt lìa đời. Không bao lâu sau đó, tác phẩm ấy đã được bán cho một người chuyên sưu tầm tượng ảnh với giá một triệu Mỹ kim.
Tảng đá Balebon trên đây đã bị nhiều người xem là một “của nợ”, nhưng một người Úc đã nhìn ra những giá trị tiềm ẩn trong đó. Nó đã trở thành một thách đố để thực hiện một công trình vĩ đại. Và cuối cùng, công trình đã được hoàn thành. Từ một tảng đá đáng bỏ đi nó đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật và giá trị của nó không thể ngờ được.
Trước Công nghị Do Thái, thánh Phêrô đã giải thích về cái chết của Chúa Giêsu, với câu nói thời danh: “Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ đã trở thành viên đá góc tường” (Cv 4,11).
2. Hãy nhìn vào tấm gương đó để chúng ta bắt chước.
Thời Xuân Thu chiến Quốc, nước Sở và nước Lương có chung biên giới và dân cư của hai nước sống ở gần biên giới đều trồng dưa. Người bên nước Lương, vì chịu khó vun xới chăm bón cho nên dưa tốt, quả nhiều. Còn người bên nước Sở thì vừa lười vừa làm biếng, chẳng chịu chăm sóc tưới bón nên dưa xấu, quả ít. Quan huyện sở tại bên nước Sở thấy vậy thì tức giận lắm. Những người trồng dưa bên Sở thấy vậy cũng đem lòng ghen ghét, nên cứ tối tối, lẻn sang nhổ cây, bứt lá làm cho dưa bên nước Lương đang tốt tươi bỗng trở nên héo hon, xơ xác.
Những người trồng dưa bên nước Lương rình biết, bèn trình báo lên quan sở tại của mình và cũng định rắp tâm sang phá dưa bên nước Sở để trả thù. Nhưng quan sở tại của nước Lương là người thâm trầm, mưu cao liền can ngăn và bảo:
- Nếu lấy ác mà xử ác thì chỉ gây thù chuốc oán, gieo mầm loạn lạc binh đao. Thay vì trả thù, ta cứ lẳng lặng sang tưới dưa cho họ, đó mới là thiện chí.
Nói là làm. Một thời gian sau, dưa bên nước Sở xanh tốt, quả nhiều. Dân nước Sở lấy làm lạ, cũng để ý rình rập, sau mới hay người bên nước Lương sang tưới dưa cho mình. Quan bản địa bên nước Sở thấy vậy lấy làm hổ thẹn. Sự việc đến tai vua nước Sở. Vua nước Sở cũng lấy làm xấu hổ và nghĩ rằng, ngoài cái tội phá dưa của người ta ra, còn thêm một tội khác nữa là gây ra thù oán. Vua nước Sở bèn xuống chiếu trách cứ quan huyện, khuyến cáo dân chúng nước Sở, rồi viết thư sai sứ giả sang nước Lương xin lỗi, tỏ lòng hiếu hòa bang giao.
Thế là hai nước giữ được sự yên bình lâu dài và dân cư thái bình.
Giá mà mỗi người chúng ta cũng biết sống như quan huyện nước Lương thì cuộc sống của mọi người sẽ đẹp biết bao!
29/02 Người giầu có và Ladarô
- Viết bởi Lc 16, 19-31
Người giầu có và Ladarô.
Thứ Năm tuần 2 Mùa Chay.
“Con đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ”.
Lời Chúa: Lc 16, 19-31
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái rằng: “Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy.
Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các thiên thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đằng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng: “Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này. Abraham nói lại: “Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn tự đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ đó qua đây được”.
Người đó lại nói: “Ðã vậy, tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này”. Abraham đáp rằng: “Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các Ngài”. Người đó thưa: “Không đâu, lạy Cha Abraham! Nhưng nếu có ai trong kẻ chết về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải”. Nhưng Abraham bảo người ấy: “Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Có một vực thẳm
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới
còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển.
Bill Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất.
Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu
cho giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh
cho cả thế giới trong một thời gian dài.
Khi nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô,
chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới.
Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị,
giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.
Có 800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực.
Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc.
Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày,
vì không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi xuống.
Ông nhà giàu trong dụ ngôn có thấy, có biết Ladarô,
nhưng thấy mà như không thấy có Ladarô trên đời.
Tiện nghi vật chất đã thành bức tường kín.
Ông sống an toàn mãn nguyện trong khoảng không gian riêng.
Chính ông đã tạo ra một vực thẳm ngăn cách.
Không cần Chúa, cũng chẳng cần biết đến anh em.
Có thể nói vực thẳm đó lớn dần và kéo dài mãi đến đời sau.
Hỏa ngục là sự tự cô lập mình không thể đảo ngược được.
Chẳng ai có thể cho tôi một giọt nước.
Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau
là do chính con người đã tạo ra từ đời này.
Ông nhà giàu bị phạt, không phải vì ông đã bóc lột ai,
nhưng vì ông không bị sốc chút nào
trước sự chênh lệch ghê gớm giữa ông và Ladarô.
Từ sốc mới nẩy sinh thức tỉnh, và dẫn đến hoán cải.
Nhiều nước giàu vẫn trợ giúp các nước nghèo,
nhưng không muốn loại bỏ sự bất bình đẳng.
Các nước nghèo vẫn bị bóc lột về tài nguyên, nhân công,
và bị nô lệ cho những món nợ không sao trả hết.
Ông nhà giàu bị phạt không phải vì ông đã nhận nhiều,
nhưng vì ông đã không san sẻ những gì mình nhận.
Giàu không phải là một tội, của cải tự nó không xấu.
Có bao người giàu tốt như Dakêu, Nicôđêmô, Giuse Arimathia.
Nhưng giàu sang có thể dẫn đến cám dỗ nguy hiểm:
Tích trữ, tham lam, hà tiện, khép kín, tự mãn, hưởng thụ,
bị ám ảnh bởi đồng tiền, bị mê hoặc bởi lợi nhuận.
Chúng ta có thể nghèo của cải, nhưng giàu có về các mặt khác:
giàu kiến thức chuyên môn, giàu thế lực ảnh hưởng,
giàu sức khỏe, giàu tình bạn tình yêu, giàu niềm vui, ơn Chúa.
Hãy tập nhìn xuống để thấy bao người dưới mình.
Chia sẻ là lấp vực thẳm, nâng người khác lên bằng mình.
Ước gì chúng ta để cho Lời Chúa hoán cải,
để thấy trách nhiệm của mình trước những Ladarô
nằm ngay nơi cửa, trong khu xóm...
Chỉ cần bớt chút dư thừa, xa xỉ của chúng ta
cũng đủ làm nhiều người no nê hạnh phúc.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Suy Niệm 2: Giàu và nghèo
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ai giầu ai nghèo? Tùy cách nhìn và tầm nhìn. Giê-rê-mi-a có một cách nhìn và một tầm nhìn xa rộng khi cho biết ai tin ở người đời sẽ nghèo nàn và mau tàn lụi. Như bụi cây trong hoang địa khô cằn tàn tạ. Chỉ người tin tưởng ở Thiên Chúa mới trường tồn và phong phú. Như cây trồng bên dòng nước xanh tươi không ngừng trổ sinh hoa trái. Giầu nghèo đời này và đời sau thật khác biệt.
Chỉ say mê của cải đời này thì thật nghèo nàn. Vì cơm áo gạo tiền không phải là tất cả. Tài nguyên của vũ trụ còn mênh mông không thể đo lường. Ông phú hộ khi bước vào đời sau mới thấy mình trắng tay. La-za-rô nghèo ở đời này nên chỉ trông cậy kho tàng thiêng liêng. Nhưng khi bước vào đời sau ông thật giầu có. Kho tàng thiêng liêng vô tận. Quí giá nhất là được hạnh phúc với Chúa.
Chỉ đóng kín vào bản thân thì thật chật hẹp. Con người là tương giao. Càng mở rộng càng phong phú. Ông phú hộ chỉ nhìn vào bản thân, chỉ nghĩ đến bản thân, chỉ chăm chút cho bản thân. Khi chết mới thấy mình cô đơn. La-za-rô không có gì nên biết mở lòng ra. Nên khi chết ông được nằm trong lòng thương mến của mọi người, của Chúa và các thánh. Ông phong phú biết bao.
Chỉ tin vào người đời thì thật dại dột. Vì người đời giới hạn. Dù thành tâm nhưng cũng chẳng hiểu biết mọi lẽ của vũ trụ. Người đời cũng yếu ớt mong manh, mau tàn. Cậy dựa vào người đời khác nào tựa vào thân cây mục nát. Gẫy đổ sẽ kéo theo con người rơi xuống vực thẳm. Ông phú hộ rơi xuống vực sâu vô tận không có thể thoát ra. La-za-rô không tìm gì được ở nơi người đời. Ông chỉ tin vào Thiên Chúa. Nên ông có chỗ dựa vững chắc. Đời đời.
Chỉ nhìn vào mặt đất thì thật thiển cận. Còn trời cao. Còn Thiên Chúa. Còn đời sau. Ông phú hộ khi chết rồi mới biết ngước nhìn lên. Nhưng đã muộn. Chỉ còn hối tiếc. La-za-rô không mong gì dưới đất. Lòng trí ông hướng lên trời. Tầm nhìn ông mở rộng. Vì thế khi chết ông vươn cao bay xa. Ông đạt đến viên mãn.
Mùa Chay hãy biết xác định lại các bậc thang giá trị để chọn lựa đúng đắn. Chọn lựa đúng đắn theo Chúa giúp ta được phong phú, được giầu sang, được vững chắc và viên mãn trong hạnh phúc.
Suy Niệm 3: Người giầu có và Ladarô.
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại rằng một lần nọ đặt chân đến Ethiopi, Mẹ đã ngỏ ý với một vị Bộ trưởng để xin một khu đất xây bệnh viện cho những người cùng khốn nhất. Ông Bộ trưởng trả lời: “Thưa bà, việc săn sóc bệnh nhân và người nghèo là trách nhiệm của chính phủ, không một cá nhân hay đoàn thể nào có thể gánh được công việc này”. Mẹ liền nói: “Nhưng tôi thấy chính phủ các ông đã không chu toàn được trách nhiệm ấy; vả, việc săn sóc người nghèo khổ là trách nhiệm của mỗi người”. Và ông Bộ trưởng đã phải chấp nhận đề nghị của Mẹ.
Câu trả lời và việc làm của Mẹ Têrêxa là một minh hoạ cho giáo huấn của Chúa Giêsu về người giầu có và Ladarô nghèo khổ. Quan tâm đến người anh em, nhất là những người cùng khổ là một bổn phận, một bổn phận mà Chúa Giêsu cũng khẳng định trong diễn từ về ngày chung thẩm. Nhiều người ngỡ ngàng khi nhận ra rằng số phận mai hậu của họ gắn liền với một bát nước lã, một chén cơm họ chia sẻ cho một kẻ vô danh.
Dửng dưng trước khổ đau của người khác là một tội. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nêu bật qua hình ảnh người giầu có trong Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsu không nói đến nguồn gốc của sự giầu có mà người phú hộ đang hưởng. Ngài cũng không nói đến một hành động gian ác nào của ông. Thế nhưng, sự dửng dưng đến độ mù loà của ông trước một người hành khất lê lết trước cửa nhà ông, một thái độ như thế cũng là một tội ác rồi. Mỗi người đều có trách nhiệm về người anh em, nhất là người nghèo khổ trong xã hội. Giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay có lẽ cũng gợi lại câu hỏi Thiên Chúa đặt ra cho Cain sau khi Cain giết Abel em mình: “Cain, em ngươi đâu?”. Cain trả lời: “Tôi có phải là người giữ em tôi đâu”. Câu trả lời ấy có lẽ cũng là thái độ của chúng ta khi đứng trước nỗi khổ đau của người khác. Thiên Chúa đã tạo dựng nhân loại như một gia đình, trong đó tất cả chúng ta đều có bổn phận và trách nhiệm đối với nhau.
Mùa Chay, mùa trở về với Chúa và cũng là mùa trở về với anh em. Nhận ra mỗi người, nhất là người cùng khổ như người anh em con cùng một cha, đó là lời mời gọi mà Cha trên trời luôn ngỏ với chúng ta, và đó cũng là thông hành để chúng ta về gặp gỡ Cha trên trời.
Suy Niệm 4: Hãy thật lòng hoán cải
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Chúa Giêsu đã dùng một câu chuyện dài để minh họa mối tương quan đảo ngược giữa cuộc sống đời này với cuộc sống đời sau, nhằm mục đích kêu gọi người Do Thái sống theo lời của tổ phụ và các ngôn sứ được ghi lại trong sách Thánh để được hưởng hạnh phúc mai sau. Khi nghe phần đầu của câu chuyện về ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó trên đây, chắc chắn người Do Thái sẽ nhớ đến lời Chúa Giêsu dạy trong bài giảng về các Mối Phúc Thật, cụ thể là những mối phúc dành cho kẻ nghèo khó, đói khát và khóc lóc. Từ hình ảnh của ông nhà giàu trong âm phủ và anh Ladarô trong lòng tổ phụ Abraham, Chúa Giêsu đưa các thính giả trở về với cuộc sống thực tại ấy. Mượn lời ông Abraham, Chúa Giêsu trách cứ lối sống ương ngạnh của của họ, vì họ không chịu tin vào giáo huấn của ông Môsê và các tiên tri. Họ cứng đầu như thế, thì cho dù người chết sống lại thuyết phục họ, họ cũng sẽ bỏ ngoài tai.
Hạnh phúc đời sau thì ai cũng muốn được hưởng, nhưng gian khổ đời này thì chẳng ai muốn trải qua. Bởi thế, chúng ta thường tìm giải pháp có lợi cho chúng ta hơn hết, chúng ta tìm cách sống như thế nào để được cả đôi đàng, chúng ta trở thành người quá khôn ngoan và cũng quá tham lam, muốn được hưởng hạnh phúc tạm bợ đời này lẫn hạnh phúc đời sau. Lối sống bắt cá hai tay như thế dần dần dẫn chúng ta tới chỗ nhượng bộ hoặc thỏa hiệp với các nhu cầu vật chất của mình, mà coi nhẹ các nhu cầu tâm tình sâu thẳm, đáng ra phải được đáp ứng trước tiên. Cuộc sống thiêng liêng của chúng ta vì thế mà nghèo nàn đi khi đời sống vật chất của chúng ta có thể dư dật ra. Các giá trị Tin Mừng dần dà bị chúng ta coi nhẹ trong khi những giá trị trần tục lại được chúng ta càng lúc càng tôn vinh. Cán cân các giá trị cứ thế mà lệch dần đi. Chúng ta trở nên như người giàu có trong dụ ngôn trên đây, chúng ta yên tâm với những gì mình tích góp được, những gì mình sở hữu trong tay. Mãi lo lắng cho mình, lòng chúng ta đông đặc lại, chúng ta không còn quan tâm đến người chung quanh, chúng ta tự thỏa mãn với thế giới khép kín của mình. Thế rồi, có những lúc nào đó, khi lâm bịnh tật, khi gặp tai ương, chúng ta hốt hoảng nhận ra rằng cuộc đời trần thế chỉ là phù vân, chúng ta hối hận ăn năn, chúng ta hứa với Chúa là nếu Chúa giúp chúng ta ra khỏi nguy nan, chúng ta sẽ làm lại tất cả. Thế nhưng ai trong chúng ta đã giữ trọn lời hứa với Chúa? Hết tai ương hoạn nạn, chúng ta có thể quay về với nếp sống cũ. Qua cơn khốn đốn, chúng ta lại chễm chệ leo lên chiếc ghế trang trọng của mình.
Lạy Chúa Giêsu, con thật cứng đầu chẳng kém gì những người Do Thái thời xưa, có lẽ con còn đáng trách hơn họ nữa, vì con chẳng những không chịu tin lời Môsê và các ngôn sứ, mà ngay cả Lời Chúa dạy bảo con cũng chẳng chịu nghe theo cho tới nơi tới chốn. Trong mùa Chay này, xin Chúa giúp con thật lòng hoán cải và sống trong lòng Tin Mừng để khỏi rơi vào tình trạng bất hạnh như ông nhà giàu trong dụ ngôn được nhắc lại trong đoạn Phúc Âm hôm nay.
Suy Niệm 5: Cần có Thiên Chúa
“Có một ông nhà giầu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giầu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng Áp-ra-ham. Ông nhà giầu cũng chết và được đem đi chôn.” (Lc. 16, 19-22)
1) Câu chuyện Tin mừng đã đạt tới tuyệt đỉnh, nó trình bày cho ta thấy một cảnh bi thảm sống động về những kẻ giàu có ích kỷ bị chúc dữ ghê sợ, những kẻ giàu sang này ăn chơi thỏa thích, dưới những lời van xin thảm thiết của những kẻ bần cùng đói khổ than khóc. Đây là bản văn nghiêm khắc cảnh cáo những kẻ giàu và an ủi người nghèo khổ.
La-gia-rô có nghĩa là người nghèo khổ được Thiên Chúa cứu giúp. Anh là một trong những kẻ nghèo khổ biết nhẫn nại chịu đựng cảnh khốn cùng và đầy lòng tin tưởng vào Thiên Chúa. Họ chỉ có thể kiên nhẫn chịu đựng cuộc sống tối tăm của họ nhờ họ cậy trông vào Thiên Chúa. La-gia-rô là một trong số họ được lời hứa của Thiên Chúa an ủi như lời Thánh vịnh và các ngôn sứ nói, là một trong những người được Tám Mối Phúc Thật chúc mừng.
Người phú hộ sống không màng chi đến Thiên Chúa. Ông có tất cả rồi, còn cần chi đến Thiên Chúa? Ông không thấy Thiên Chúa, ông không thấy kẻ khốn khổ. Ông hoàn toàn giàu có và sống dư đầy, ông không chống lại Thiên Chúa, ông không đàn áp kẻ nghèo. Ông chỉ mù thôi, mù đối với Thiên Chúa và những người nghèo khổ, mù đối với Mô-sê và những ngôn sứ.
2) Câu chuyện nhấn mạnh đến đời sau cái chết. Cả hai đều chết, cả người nghèo lẫn người giàu hoàn toàn chết như nhau. Nhưng có khác nhau: Người giàu được đưa chôn long trọng xôm trò. Người nghèo không thấy nói được an táng chi cả, phải chăng nó không đáng được nói tới. Nhưng người nghèo lại được các thiên thần đón rước.
Người giàu phải ở chốn cực hình. La-gia-rô được ngồi bàn tiệc nước trời, trong lòng Áp-ra-ham, nơi hạnh phúc vinh quang.
3) Nội dung Kinh thánh là chính Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và sống lại. Ai biết nghe và sống theo lời Đức Giê-su, sẽ không bị số phận như kẻ phú hộ đã bị phạt. Hình phạt được nói rõ trong bản văn Tin mừng này, cho biết chắc có sự chết và sống lại, có hình phạt và phần thưởng đời sau.
J.M
Suy Niệm 6: Dửng dưng vô cảm là tội ác
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại một câu chuyện thật ấn tượng rằng: có hai bạn trẻ nghe biết các sơ trong dòng của mẹ hàng ngày nấu ăn cho 7 ngàn người, và cung cấp thực phẩm cho khoảng 9 ngàn người. Vì thế, họ đã tặng cho mẹ một số tiền lớn để giúp người nghèo. Khi được hỏi về nguồn gốc số tiền lớn mà các em dâng tặng, các em trả lời:
“Chúng con vừa cưới nhau được hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã suy nghĩ nhiều. Sau cùng, chúng con quyết định không may đồ cưới, cũng không tổ chức yến tiệc linh đình, và chúng con muốn dùng khoản tiền chi phí cho đám cưới và mua tặng phẩm để cho những người không được may mắn như chúng con". Khi thấy thế, mẹ phân vân! Hai bạn nói tiếp:
“Vì chúng con yêu nhau, chúng con muốn có cái gì đặc biệt, đẹp đẽ cho nhau. Vì thế, chúng con muốn tặng cho nhau một món quà cưới thật đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống của mình bằng một hy sinh mà cả hai đều dự phần vào”.
Ôi một nghĩa cử anh hùng! Vì ở bên Ấn Độ, đám cưới mà không có quần áo cưới cũng như tiệc cưới là một điều nhục nhã và gây tủi hổ cho cả hai gia đình, đàng trai cũng như đàng gái.
Câu chuyện trên đây ngược hẳn với câu chuyện của nhà phú hộ giàu có và Lazarô nghèo khổ!
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy: giàu không phải là tội, nhưng nó chỉ là cạm bẫy nguy hiểm dễ dẫn đến tội nếu không có lòng bác ái. Ông nhà giàu trong bài Tin Mừng hôm nay đã rơi vào tình trạng tội khi ông vô cảm với người nghèo ngay ở cổng nhà ông. Vì thế, ông đáng phải sa hỏa ngục vì tiền bạc và sự sung túc đã làm cho mắt ông mù lòa, trái tim se thắt, tấm lòng trai cứng và sự dửng dưng đã trở thành tội ác và mất hạnh phúc đời đời...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có trách nhiệm liên đới với nhau, nhất là với người nghèo, người cô thế, cô thân, không nơi nương tựa... Không bao giờ chúng ta được để cho chủ trương: “Sống chết mặc bay” thường trực trong tâm hồn của mình.
Có thế, chúng ta mới xứng đáng được gọi là con Thiên Chúa và đáng được Người cứu chuộc.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết yêu thương những người nghèo khổ hơn chúng con bằng tình yêu vô vị lợi như Chúa. Xin cho chúng con đừng bao giờ để cho tư tưởng phân biệt giàu nghèo, giai cấp, địa vị ngự trị trong tâm hồn chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Tiêu chuẩn là sống bác ái với anh chị em
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tiêu chuẩn để được vào Quê Trời không phải ở chỗ giàu hay nghèo, nhưng hệ tại việc sống bác ái với anh chị em.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con tin Chúa là Cha yêu thương, Chúa chẳng loại bỏ ai ra khỏi nhà Cha. Nhà Cha luôn rộng mở đón mọi thành phần, mọi giới. Nhưng quyết định số phận chung cuộc của đời con tùy thuộc tự do của con. Xin cho con biết đi trên đường yêu thương, yêu Chúa và thương mọi người, để con tới được bến bờ yêu thương là Quê Trời, nơi Chúa là tình yêu ngự trị. Xin đừng để con đi trên đường bất công hận thù, kẻo con phải đi tới bến bờ thù hận mà người ta thường gọi là hỏa ngục. Chúa cho con thấy ông La-da-rô được hưởng nơi lòng Tổ Phụ Áp-ra-ham, nơi vĩnh cửu, không phải vì ông nghèo cho bằng vì ông nghèo mà vẫn không oán hận ai, nghèo mà vẫn giữ được lòng ngay thẳng: chỉ xin chứ không gian tham.
Nhà phú hộ kia bị trầm luân không phải do giàu có. Giàu có đâu phải là tội. Số phận đời đời của ông là kết quả của một đời ích kỷ. Sống trong nhung lụa dư thừa mà không nhìn thấy người anh em thiếu thốn quanh mình, đó là trọng tội của ông.
Lạy Chúa, nếu con gặp cảnh nghèo, xin cho con đừng vì nghèo mà gian tham, cáu kỉnh với mọi người. Xin giữ đôi tay con luôn trung thực, xin giữ môi miệng con đừng nói lời gian dối. Xin cho con luôn vui tươi dù giữa nghịch cảnh trong cuộc sống. Xin cho con luôn quảng đại cả khi con nghèo túng như bà góa thành Xarépta quảng đại với tiên tri Êlia trong Cựu ước.
Và Lạy Chúa, nếu con được đủ ăn đủ mặc, xin cho con đừng ích kỷ mà quên bao anh chị em đang khổ cực quanh con. Xin mở to mắt con, mở rộng tay con, mở toang lòng con, để con biết chia sẻ. Xin đừng để con vì giàu mà tự mãn xa cách, cao ngạo với mọi người. Xin cho con biết tạ ơn, khiêm tốn và quảng đại. Amen.
Ghi nhớ: “Con đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ”.
Suy Niệm 8: Ông nhà giàu vô cảm và Ladarô
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Vào buổi sáng ngày 10.8.2012, tại ngã tư đường Tân Hoa giao với đường Tây Hoài Hải ở thành phố Thượng Hải, một cụ ông được phát hiện nằm ngất xỉu trên đường, đầu chảy nhiều máu do va đập sau cú ngã. Một vài người chứng kiến đầu tiên bấm số 120 để gọi xe cấp cứu… rồi thôi. Khi chưa có xe đến kịp để đưa ông cụ đi, người qua lại trên đường chỉ dửng dưng nhìn rồi bỏ mặc hoặc dừng lại chỉ trỏ. Họ tuyệt nhiên không có một động tác sơ cứu nào, thậm chí đến đỡ ông cụ dậy.
Một người phụ nữ nước ngoài đi ngang thấy sự việc trên. Ngạc nhiên trước thái độ vô cảm của những người chứng kiến, cô chạy đến nâng đầu ông cụ lên đặt trên một tấm khăn mềm, vừa khóc vừa khẩn nài mọi người xung quanh mau gọi xe cứu thương đến. Sự việc chỉ kết thúc khi cô này đưa tiền và thúc họ gọi xe cứu thương lần nữa. Nửa tiếng sau, ông cụ mới được đưa đến bệnh viện gần đó.
…Ông cụ bị nạn họ Tiền, 87 tuổi, được bệnh viện chẩn đoán thuyên tắc mạch máu não đột ngột khiến ông chóng mặt và ngã khuỵu trên đường. May mắn được cấp cứu kịp nên ông đã phục hồi… (Theo Tuổi trẻ Mobile)
Suy Niệm
Người phú hộ giàu có sung túc với vật chất sống bên cạnh người anh em Ladarô nghèo khổ, bệnh tật nằm đói lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy, nhưng người phú hộ vẫn dửng dưng coi như không có gì. Hai người ở gần nhau, chỉ cách nhau một cái cổng, nhưng cánh cổng vẫn thường khép kín, khiến hai người tuy rất gần nhưng lại rất xa nhau. Chúa Giêsu nhấn mạnh: Người phú hộ bị hình phạt vì ông vô cảm không để ý và quan tâm tới người anh em khốn khổ Ladarô đang nằm trước cổng nhà ông chờ đợi từng mẩu bánh từ bàn ông ăn rơi xuống.
Cánh cửa đóng kín của nhà phú hộ tượng trưng cho tấm lòng của con người luôn đóng kín trước đau khổ của anh chị em chung quanh. Sự giàu có cộng với vô cảm khiến cho con người khép kín lòng mình với Thiên Chúa là nguồn suối hướng về anh chị em, họ bằng lòng và khép kín hưởng thụ những của cải vật chất và những lạc thú trần gian mà quên đi Thiên Chúa với đời sống vĩnh cửu. Trong tương quan với tha nhân, sự giàu có và vô cảm làm khép kín lòng mình với những người anh em: Người ta không nhìn thấy người nghèo, người khổ ngay cổng nhà mình.
Đức Giêsu khẳng định nguy cơ của người giàu và quan tâm “đặc quyền của những người nghèo” qua lời của tổ phụ Abraham so sánh về Ladarô và người phú hộ: “Suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi, còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ” (Lc 16, 25). Bài ca Ngợi khen (Magnificat) nói rất rõ: “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,52-53).
Trước những Ladarô của thời đại hôm nay là những con người đói khổ, tuyệt vọng ở khắp mọi nơi, chúng ta sống theo lời giáo huấn của Giáo hội: “Mỗi người phải coi người đồng loại - không trừ ai như “cái tôi thứ hai”, cho nên trước hết phải quan tâm đến sự sống của họ và quan tâm đến những phương tiện cần thiết giúp họ sống một đời sống xứng đáng, chứ đừng bắt chước người giàu có kia đã không săn sóc tới Ladarô bất hạnh” (Hiến chế Mục vụ, số 27).
Mong rằng trái tim của tôi, của bạn, không đóng kín, và trở nên vô cảm trước nhu cầu và sự khốn khổ của anh em, mà luôn rộng mở lòng nhân ái chia sẻ.
Ý lực sống: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15).
Suy Niệm 9: Người giầu có và người nghèo khó
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Hôm nay Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn người phù hộ và Lazarô nghèo khó. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu cho chúng ta biết số phận con người sẽ được hạnh phúc viên mãn hay bị luận phạt muôn đời tùy theo họ biết yêu thương tha nhân hay không. Ngài vạch ra cho chúng ta con đường dẫn tới ơn cứu độ: biết nghe theo lời hướng dẫn của Maisen, các tiên tri, đặc biệt là Lời Chúa để sám hối, hoán cải và yêu thương mọi người, nhất là những anh chị em đau khổ. Thiên đàng không dành cho một mình chúng ta, chúng ta chỉ có thể tiến vào cùng với anh chị em trong tình yêu thương.
2. Mở đầu dụ ngôn, chúng ta thấy hai con người với hai hoàn cảnh hoàn toàn trái ngược xuất hiện. Một bên đại diện cho phú quí giầu sang, ngày ngày yến tiệc linh đình, còn bên kia là nghèo khổ, bệnh hoạn, dơ dáy bẩn thỉu. Một bên là thế giới của “lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình” và một bên là thế giới bệnh hoạn nghèo túng đến thảm thương, thế giới của “mụn nhọt ghẻ lở đầy mình” và là thế giới của những ước ao rất ư bình dị đáng thương “thèm được những thứ trên bàn ăn rơi xuống ăn cho no”. Cả hai thế giới ấy đều được khép lại với cái cửa là sự chết, nhưng cũng đồng thời mở ra một thế giới mới với hai số phận, hai cảnh đời hoàn toàn trái ngược nhau.
3. Người phú hộ trong dụ ngôn không làm điều gì gian ác, không lỗi đức công bằng, không ức hiếp ai, không phạm gì đến Lazarô cả, vậy tại sao ông ta lại bị sa vào hỏa ngục? Tội ông ở chỗ nào? Thực ra, ông không phạm một tội ác nào mà chỉ có tội “hững hờ, dửng dưng” trước đau khổ của người khác. Ông không phạm tội một cách tích cực mà phạm tội một cách tiêu cực, đó là “tội thiếu sót” như chúng ta đọc trong kinh Cáo mình. Ông chỉ biết hưởng thụ, yến tiệc linh đình, ca hát suốt ngày đêm mà không màng gì đến người nghèo khó Lazarô nằm ngay cổng nhà ông, muốn ăn những hạt cơm rơi trên bàn ăn của ông mà cũng không được.
4. Người ta thường nói: “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”: lành dữ đều có thưởng phạt, cao bay xa chạy cũng không thể thoát được. Cái chết đã phân chia hai người thành hai thế giới đối nghịch. Người phú hộ bị phạt, Lazarô được thưởng. Bài học Chúa dạy ta hôm nay là phải biết quản lý tài sản của Chúa “cho nên” vì chúng ta không phải là chủ mà chỉ là quản lý những gì Chúa đã thương ban. Phải có tinh thần liên đới và bác ái, phải biết chia sẻ với người đau khổ hầu kiếm được nhiều bạn hữu để “họ sẽ đón rước các con vào an nghỉ đời đời” Lc 16,9).
5. Chắc chắn cảnh giầu nghèo là điều không thể tránh được. Nhưng trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta cách giải quyết: người giầu luôn sẵn có kẻ nghèo bên cạnh để có dịp thực hành giới răn trọng nhất hầu được phần thưởng Chúa ban. Tiền của dư thừa là một nguy hiểm cho những ai không có lòng mến Chúa, nhưng người có lòng mến Chúa thật thì sẽ biết sử dụng tiền của Chúa ban để làm ích cho mình và cho người khác nữa. Chúng ta dễ hiểu tại sao người giầu bị Chúa phạt khổ cực, còn người nghèo lại được Chúa thương. Bởi vì tuy nghèo khổ, nhưng người nghèo vẫn một lòng tin tưởng phó thác nơi Chúa, trong khi đó người giầu có lại khép kín tâm hồn, không biết liên đới chia sẻ với người khác. Như thế, chúng ta thấy thái độ lãnh đạm dửng dưng trước đau khổ của người khác cũng là một trọng tội (Mỗi ngày một tin vui).
6. Tác giả tập sách Đường Hy vọng đã lưu ý những người con tinh thần của mình như sau:
“Của cải chôn vùi con, nếu con đội nó lên đầu. Của cải làm bệ chân con nếu con đứng trên nó. Không có của mà tham vẫn chưa phải là nghèo khó. Có của mà không dính bén vẫn có thể có lòng khó nghèo thật sự. Dùng của cải cách quảng đại, trọng của cải cách tế nhị, xa của cải cách anh hùng. Không phải là của con, nhưng là của Chúa trao cho con sử dụng. Để có tinh thần nghèo khó và nhất là sống tinh thần nghèo khó, cần có tràn đầy tình yêu Chúa. Con hãy về bán tất cả những gì con có, bố thí cho người nghèo, rồi đến đây theo Chúa. Chàng thanh niên giầu có không thể đáp lại lời mời gọi sống khó nghèo trên bước đường theo Chúa, nên đã buồn sầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của mà không có nhiều tình yêu Chúa”.
7. Truyện: Chúa đến thăm bà lão.
Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: “Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì”. Bà đuổi anh và đóng cửa lại.
Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ ông”. Rồi bà đóng sầm cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và ngủ qua đêm. “Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh”. Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói: “Hôm nay ta đến với con 3 lần và cả ba lần con đều đuổi Ta” (Góp nhặt).
Suy Niệm 10: Chỗ dựa vững chắc
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài trích sách Giêrêmia nói đến hai hạng người: hạng tin tưởng cậy dựa vào những giá trị đời này, và hạng đặt niềm cậy trông nơi Thiên Chúa. Giêrêmia nói khốn cho hạng thứ nhất và phục cho hạng thứ hai.
2. Trong bài trích Phúc Âm, người phú hộ thuộc hạng thứ nhất. Khi ông chết thì những chỗ ông cậy dựa cũng tiêu tan luôn cho nên ông rơi vào cảnh rất khốn khổ. Ladarô là đại biểu của hạng thứ hai nên sau khi chết đã được hưởng hạnh phúc trong vòng tay Thiên Chúa (qua hình ảnh tổ phụ Abraham).
Dụ ngôn này còn muốn gởi một lời nhắn nhủ đến hạng thứ nhất: họ nên sớm thấy sai lầm của họ khi đặt niềm cậy trông vào những giá trị trần thế, để kịp thời quay về trông cậy vào Chúa. Đừng chờ đến khi chết, thấy rõ đâu là chỗ dựa vững chắc rồi mới sám hối, vì tới lúc đó, mọi việc đều không thể đảo ngược được.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Đã biết tiền bạc, của cải và nói chung những giá trị thế gian là không bền, thế nhưng nhiều người vẫn cứ cậy dựa vào chúng. Đó chính là cái ngu dại của con người. Nếu nói theo từ ngữ của ngôn sứ Giêrêmia trong bài đọc 1, đó chính là cái “khốn nạn” của con người.
2. “Abraham nói lại: giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm”...: Thiên Chúa không tạo dựng thẳm ngăn cách Ngài với con người. Nhưng chính con người tự đào vực thẳm ấy, bằng nhiều cách:
- Bằng ích kỷ không giúp đỡ một người anh em đang cần giúp trong khi chúng ta có thể giúp (như ông nhà giàu đối với Ladarô).
- Bằng thái độ bỏ Chúa đề hoàn toàn cậy dựa vào những giá trị trần gian.
3. Lạy Thiên Chúa của Abraham, con đã hiểu rằng lòng thương xót kẻ khốn khổ sẽ đặt con bên cạnh Ladarô trong lòng Chúa, trái lại sự ích kỷ sẽ đẩy con xuống vực thẳm chung với người phú hộ. Chúa biết con muốn chọn phía nào rồi, nhưng xin giúp con.
4. “Dửng dưng trước đau khổ của người khác là một tội. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nêu bật qua hình ảnh người giàu có trong bài Phúc Âm hôm nay”. (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
5. Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: “Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì”. Bà đuổi anh và đóng cửa lại.
Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông”. Rồi bà đóng sầm cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. ”Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh”. Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói: ”Hôm nay Ta đã đến với con 3 lần và cả 3 lần con đều đuổi Ta”. (Góp nhặt).
Suy Niệm 11: Biết quan tâm tới mọi người
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Đã biết tiền bạc, của cải nói chung là những giá trị không bền, thế nhưng, nhiều người vẫn cứ cậy dựa vào chúng. Đó chính là cái ngu dại của con người.
Một ngày nọ, vua Salomon bỗng nảy ra ý muốn, muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình trước mặt mọi người. Vua nói:
- Này Benaiah, trong vòng 6 tháng, ta muốn khanh mang về cho ta một chiếc vòng để đeo trong ngày lễ hội.
Benaiah trả lời:
- Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, thì thưa đức vua, thần sẽ tìm thấy nó và mang về cho ngài nhưng chắc là chiếc vòng ấy phải có gì đặc biệt?
Nhà vua bảo:
- Nó phải có sức mạnh kỳ diệu. Nếu kẻ nào đang vui nhìn vào nó sẽ thấy buồn. Và nếu ai đang buồn, nhìn vào nó sẽ thấy vui.
Vua Salomon thừa biết sẽ chẳng đời nào có một chiếc vòng như thế tồn tại trên thế gian này, nhưng ông muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bàng.
Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn không thể tìm ra được một chiếc vòng nào như thế. Rồi chính vào đêm trước ngày lễ hội, ông lang thang đến một nơi nghèo nhất của Jêrusalem. Ông đi ngang qua chỗ người bán hàng lạc xoong với những món hàng đang được bày trên một tấm bạt tồi tàn. Benaiah dừng chân hỏi:
- Có bao giờ ông nghe nói về một chiếc vòng kỳ diệu làm cho người hạnh phúc đeo nó vào thì quên đi niềm vui sướng, và người đau khổ đeo nó vào thì quên đi nỗi buồn không?
Người bán hàng lấy từ trên tấm bạt cũ lên một chiếc vòng giản dị có khắc một dòng chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ, khuôn mặt ông rạng rỡ lên một nụ cười. Đêm đó toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mừng lễ hội. Vua hỏi:
- Nào ông bạn của ta, ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa?
Tất cả cận thần có mặt đều cười lớn và chính vua Salomon cũng cười. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc vòng ra và nói:
- Dạ nó đây, thưa đức vua!
Khi vua Salomon đọc xong dòng chữ, người ta thấy khuôn mặt của nhà vua biến sắc. Trên chiếc vòng đó người ta khắc dòng chữ này: “Mọi sự rốt cuộc rồi cũng qua đi”.
Chính giây phút ấy, vua Salomon nhận ra rằng: tất cả những sự khôn ngoan, vương giả, quyền uy và giàu có của ông rồi sẽ qua đi. Cả ông cũng thế. Ông cũng chỉ là một thứ phù du bởi vì một ngày nào đó, ông cũng sẽ phải trở về với cát bụi.
2. Tội của người nhà giàu ở chỗ ông thấy những đau khổ túng cực của người khác mà không một chút mảy may thương xót quan tâm.
Mẹ Têrêsa nói: “Người nào luôn sống lệ thuộc vào đồng tiền, lúc nào cũng cũng băn khoăn lo lắng về của cải của mình, thì người đó là người thực sự nghèo khó. Ngược lại, những người biết trao ban của cải để giúp đỡ người khác, người đó mới là người thực sự giàu có thực sự. Lòng tốt làm biến đổi con người nhiều hơn là những nghiên cứu khoa học và tài hùng biện. Một khi đã nhìn thấy hình ảnh của những người anh em trong nhau, bạn nghĩ rằng chúng ta có còn cần đến xe tăng và tướng lĩnh nữa không?”
Chúng ta hãy tập cho mình có thói quen biết quan tâm tới mọi người. Đó là con đường làm cho chúng ta được dễ trở nên giống Chúa Giêsu hơn.
Ở London, thủ đô nước Anh có một ngôi thánh đường rất nổi tiếng. Đó là nhà thờ Saint Paul. Nhà thờ này có một lối kiến trúc rất độc đáo làm cho những âm thanh vang đi rất xa. Nếu áp tai vào tường, người ta có thể nghe được một người nói từ phía bên kia mái vòm tròn, dầu chỉ là giọng nói thì thầm tâm sự.
Có một đôi thanh niên nam nữ đã mượn nơi nhà thờ này làm điểm hẹn hò: Chàng trai vốn là một người làm nghề thợ đóng giày than thở với người yêu rằng:
- Anh chưa thể tiến hành hôn lễ vì đang thất nghiệp, không có tiền để mua da và các vật liệu làm giày, thì đào đâu ra tiền để làm lễ cưới?
Nghe tin chẳng lành ấy, cô gái chỉ biết sụt sùi khóc và cầu nguyện:
- Lạy Chúa, xin giúp chúng con có tiền để làm lễ thành hôn!
Tình cờ, một người đi ngang qua hành lang phía bên kia nghe được câu chuyện và lời cầu nguyện của họ, ông ta quyết định giúp đỡ đôi thanh niên nam nữ này. Vì thế khi họ thất thểu ra về, ông khách cũng âm thầm theo sau để dò cho biết nhà chàng trai ở đâu, rồi lập tức ông cho người mang tặng anh ấy một số da và vật liệu để làm giày. Nhờ được giúp đỡ như vậy, nên người thanh niên bắt tay ngay vào việc và chẳng bao lâu anh trở nên phái đạt và anh sung sướng cử hành hôn lễ.
Mãi mấy năm sau, hai vợ chồng này mới biết được vị ân nhân của mình là ai khi ông trở thành vị thủ tướng nổi tiếng của nước Anh. Người đó chính là ngài William Ewart Gladstone (1809-1998).
28/02 Phục vụ đích thực
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Phục vụ đích thực.
Thứ Tư tuần 2 Mùa Chay.
“Họ đã lên án tử cho Người”.
Lời Chúa: Mt 20, 17-28
Khi ấy, Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, đem riêng mười hai môn đệ đi theo. Dọc đường, Người nói với họ: “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các vị thượng tế và luật sĩ. Người ta sẽ lên án tử cho Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại để chúng nhạo báng, đánh đòn, rồi treo Người lên thập giá, nhưng đến ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”.
Bấy giờ bà mẹ các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Người. Bà sấp mình xuống lạy Người, có ý xin Người điều chi đó. Người hỏi: “Bà muốn gì”. Bà ta thưa lại: “Xin Ngài hãy truyền cho hai con tôi đây được ngồi một đứa bên hữu, một đứa bên tả Ngài, trong Nước Ngài”. Chúa Giêsu đáp lại: “Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén mà ít nữa đây Ta sắp uống chăng?” Họ nói với Người: “Thưa được”. Người bảo họ: “Vậy các ngươi sẽ uống chén của Ta, còn việc ngồi bên hữu hay bên tả, thì không thuộc quyền Ta ban, nhưng Cha Ta đã chuẩn bị cho ai, thì người ấy mới được”.
Nghe vậy, mười người kia tỏ ra bất bình với hai anh em.
Chúa Giêsu gọi họ lại mà bảo: “Các con biết thủ lãnh của các dân tộc thì thống trị họ và những người làm lớn thì hành quyền trên họ. Giữa các con thì không được thế.
Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con.
Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Anh em không được như vậy
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Ghế tượng trưng cho chức vụ và chức vị.
Chính vì thế bình thường người ta ai cũng thích ghế.
Ghế trong tôn giáo cũng như ghế ngoài đời.
Tìm cách có ghế, giữ ghế hay tìm cách lên một ghế cao hơn,
đó vẫn là điều khiến nhiều người vất vả,
và đó cũng là điều khiến thế giới loạn lạc và xung đột.
Bài Tin Mừng kể cho chúng ta chuyện tranh cãi giữa nhóm Mười Hai.
Vẫn là chuyện những cái ghế.
Quan trọng nhất là hai ghế nằm hai bên tả hữu của Thầy
khi Thầy vào vinh quang trong Nước Thiên Chúa.
Chỉ tiếc là chuyện tranh cãi này lại xảy ra ngay sau khi
Thầy Giêsu tâm sự riêng với các môn đệ về cuộc Khổ Nạn của mình.
Chẳng rõ có phải Gioan và Giacôbê đã nhờ mẹ mình xin giùm không.
Từ chối lời xin ngây thơ của một người mẹ thương con là điều không dễ.
Thầy Giêsu có bực mình không khi phải chịu một áp lực như thế?
“Các người không biết các người xin gì!”
Điều các người xin xa lạ với con đường Thầy sắp đi.
Điều các người mơ ước lại là điều Thầy sắp phải quyết liệt từ bỏ:
quyền lực, tiếng tăm, vinh dự…
“Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?”
Như thế Thầy Giêsu thách đố nhóm Mười Hai
về khả năng chia sẻ cuộc Khổ Nạn với Ngài,
khả năng dám uống chung một chén đắng mà Ngài sắp uống.
Chỉ những ai dám cùng chịu đau khổ mới được chung phần vinh quang.
Chẳng rõ các môn đệ có lường được cái giá phải trả không,
nhưng họ đã vội trả lời là uống nổi.
Thầy Giêsu xác nhận chọn lựa của họ,
nhưng Ngài lại không hứa cho họ ngồi hai bên tả hữu của mình,
đơn giản là vì điều đó thuộc quyền của Cha.
Chuyện tranh cãi giữa các môn đệ là cơ hội để Thầy Giêsu vạch ra
cách hành xử cho những nhà lãnh đạo tương lai của Giáo Hội.
Chắc chắn nó khác với lối lãnh đạo ngoài đời,
khi người ta dùng quyền uy để thống trị và làm bá chủ (c. 25).
“Giữa anh em thì không được như vậy,” anh em không được theo thói đời.
Thầy Giêsu dạy các môn đệ điều ngược đời:
kẻ làm lớn, làm đầu phải làm đầy tớ phục vụ cho anh em mình (cc. 26-27).
Tấm gương lớn nhất là tấm gương Thầy phục vụ (c. 28).
Cuộc Khổ nạn sắp đến là việc phục vụ khiêm hạ nhất của Thầy.
Lần đầu tiên Đức Giêsu cho biết ý nghĩa cái chết sắp đến của mình,
cái chết như giá chuộc để cứu độ muôn người (c. 28).
Mười môn đệ khác có còn ghen tức hai anh em con ông Dêbêđê nữa không
nếu họ biết rằng ngồi ghế cao chính là để thấy rõ mà dễ phục vụ hơn?
Cầu nguyện:
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy không gọi chúng con là tôi tớ,
Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ.
Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy,
vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con
những điều riêng tư thầm kín nhất
trong tương quan giữa Thầy với Cha.
Hơn nữa, sau phục sinh,
Thầy đã gọi các môn đệ là anh em.
Mặc nhiên Thầy tự nhận mình là Anh Trưởng
đứng đầu một đoàn em đông đúc.
Xin cho chúng con
luôn thi hành ý muốn của Cha
để trở nên những người em
cùng huyết nhục với Thầy.
Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên
làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy.
Còn Thầy lại hạ mình xuống
phục vụ chúng con như người tôi tớ,
rửa chân cho chúng con như một nô lệ
và chết thay cho chúng con trên thập giá.
Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy
và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.
Suy Niệm 2: Tục hóa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thế gian chạy theo thế gian. Giá trị Nước Trời trở thành cản đường. Vì thế họ muốn tiêu diệt các tiên tri. Giê-rê-mi-a làm điều tốt lành cho họ. Nhưng họ vẫn muốn giết chết ngài. Họ muốn tẩy trừ tư tế, hiền nhân và tiên tri ra khỏi đời sống để hoàn toàn có thể theo đuổi trần gian.
Thói thế gian len lỏi cả vào hàng ngũ môn đệ thân tín của Chúa. Thật đáng buồn khi Thầy trò đồng sàng dị mộng. Chúa dậy các ông con đường Nước Trời là tự hạ để được nâng lên, quên mình để được tôn vinh, phục vụ để được lãnh đạo, chịu chết để được sống. Nhưng họ vẫn theo con đường trần gian.
Hai người đã cậy thế cậy thân vận động để được chức quyền. Thật là đem cả thói thế gian vào chính trung tâm của sự thánh thiện. Dám đem những lời nhơ uế làm bẩn lỗ tai thánh thiện. Buồn hơn nữa là các tông đồ tỏ ra bất bình. Tại sao? Vì cũng nặng lòng với thế gian. Cũng đang ngắm nghé chỗ cao chỗ thấp. Có cạnh tranh nên có bất bình. Nói ra hay không cũng đều giống nhau cả.
Một lần nữa Chúa phải nói rõ ràng về những khác biệt giữa thói thế gian và thái độ của Nước Trời. Đó là hai con đường ngược chiều. Thói thế gian muốn danh, lợi, thú. Muốn thống trị, ăn trên ngồi trước. Nhưng trong Nước Trời thì phải ngược lại. “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em”.
Chính Chúa đã mở ra con đường khiêm nhường phục vụ vì “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dân mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Phục vụ là quên mình. Quên mình đến hiến dâng mạng sống là phục vụ ở mức cao nhất. Là hoàn toàn coi mình là tầm thường, là tôi tớ, là không có giá trị gì. Coi anh em là tuyệt đối, là đáng quí, đáng trọng.
Tôi đang thao thức điều gì? Theo thói thế gian hay theo phong cách Nước Trời? Tôi đi vào con đường của Chúa hay của trần gian?
Suy Niệm 3: Phục vụ đích thực
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Alexandre Thompson năm nay 74 tuổi, hiện đang sống tại Thuỵ Sĩ. Mới đây ông đã viết thư cho toà đô chính Copenhagen để báo tin ông sẵn sàng tặng thành phố 40 triệu Mỹ kim để làm bất cứ dự án nào, với điều kiện tên tuổi ông phải được đặt cho một con đường ở thủ đô nơi ông đã sinh trưởng. Nhưng đề nghị của ông đã bị từ chối và dĩ nhiên số tiền ông hứa tặng vẫn còn giữ chặt trong tay ông.
Cho đi để được cho lại, đó là tính toán thường tình của con người. Người ta làm ơn làm phúc để được đền đáp, người ta hy sinh phục vụ đã tên tuổi của mình được nhắc đến. Tiền tài, quyền bính, danh vọng là ẩn số luôn ẩn núp sau những công việc mà con người gọi là phục vụ. Tựu trung, điều con người tìm kiếm trong mọi phục vụ vẫn là cái tôi của mình. Chúa Giêsu đã mang lại cho hai chữ “phục vụ” ý nghĩa đích thực của nó: phục vụ như Chúa Giêsu đã sống là sống như một người tôi tớ. Người tôi tớ trong thời phong kiến chỉ có một hiện hữu duy nhất, đó là sống cho và sống vì người khác. Như vậy, phục vụ đích thực chính là sống trọn vẹn cho tha nhân, vì tha nhân, chứ không vì bất cứ một tính toán lợi lộc nào. Phục vụ như thế cũng đồng nghĩa với quên mình và quên mình cho đến chết. Xét cho cùng, theo mẫu gương của Chúa Giêsu, phục vụ cũng đồng nghĩa với chết đi. Đó là bài học mà Chúa Giêsu đã muốn lặp lại khi cho chúng ta lắng nghe trong Tin mừng hôm nay.
Những dân chài Galilê đã bỏ mọi sự theo Chúa Giêsu, nhưng các ông từ bỏ mọi sự với một tính toán, đó là trở thành công hầu khanh tướng trong vương quốc tương lai của Ngài. Các ông cũng không thoát khỏi cái lý luận thường tình của con người: “Tôi cho đi để được lấy lại”, “tôi từ bỏ mọi sự để được giầu sang hơn”, “tôi phục vụ để được phục vụ lại”. Quyền bính, danh vọng vẫn luôn là cám dỗ đối với Giáo Hội qua mọi thới đại. Dưới lớp áo thâm chùng của từ bỏ vẫn còn ẩn núp nhưng tham sân si. Đội lốt tôn giáo, lời tố cáo ấy xem ra không phải là quá đáng, bất công đối với không biết bao nhiêu thành phần được gọi là người của Giáo hội.
Gồm những con người yếu hèn, tội lỗi, Giáo hội Chúa Kitô luôn cần được thanh luyện trong ý hướng, cũng như trong thể hiện của mình. Trong cuộc trở về chung của toàn Giáo Hội, mọi Kitô hữu đều được mời gọi để không ngừng hoán cải. Hoán cải là quay về với Chúa, là chỉ tìm kiếm và yêu mến một mình Ngài, là tham dự vào cuộc Tử nạn của Chúa Kitô bằng những hy sinh và từ bỏ chính mình mỗi ngày.
Ước gì cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá mà chúng ta Suy Niệm trong Mùa Chay này luôn nhắc nhở chúng ta về ơn gọi của người môn đệ, đó là phục vụ, quên mình, và ý thức mình chỉ là đầy tớ vô dụng, chỉ làm những gì phải làm mà thôi.
Suy Niệm 4: Tinh thần phục vụ
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Sau khi Chúa Giêsu tiên báo lần thứ ba về cuộc thương khó của Người, giữa nhóm mười hai đã xảy ra nhiều cuộc tranh luận. Càng gần tới thành Giêrusalem, cuộc tranh luận càng sôi nổi hơn. Họ bàn tán xôn xao: Thầy sắp thực hiện kế hoạch mà Thầy đã ôm ấp bấy lâu. Kế hoạch này xem ra khó hiểu đối với họ, nhưng thôi, đó là công việc của Thầy, hãy để Thầy lo liệu, và họ bàn luận với nhau về tương lai của họ sau khi Thầy được đăng quang. Họ phân chia nhau ngôi thứ, ai lớn ai nhỏ như thế nào đây. Ai là người có công nhiều, ai là người có công ít hơn. Và cuộc tranh luận này không chỉ gói gọn giữa nhóm Mười Hai, mà còn mở rộng ra đến cả người nhà của họ nữa. Hai ông Giacôbê và Gioan, con ông Dêbêđê, đưa mẹ đến xin Chúa Giêsu cho họ được ngồi bên tả bên hữu Chúa. Thấy mẹ con bà Dêbêđê hành xử như vậy, mười môn đệ kia tức tối ra mặt. Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu dạy cho các ông bài học về tinh thần phục vụ mà các môn sinh của Chúa phải có.
Khác với cách thức cai trị của vua quan trần thế là những người đã dùng uy quyền để ổn định dân nước, những người lãnh đạo trong Nước Trời phải dùng quyền hạn mà Thiên Chúa ủy thác cho để phục vụ lợi ích của tha nhân. Ðịa vị càng cao càng phải hạ mình để phục vụ người khác nhiều hơn: "Ai muốn làm đầu các con thì phải làm đầy tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người."
Lời dạy của Chúa Giêsu thức tỉnh chúng ta và mời gọi chúng ta xét mình. Chúng ta tự hào mình là người có công, là những người cộng tác vào công cuộc mở mang Nước Chúa ở trần gian. Ðôi lúc chúng ta cũng bỏ công sức, thời giờ, tiền của vào các việc tông đồ truyền giáo. Chúng ta có nhiệt tình, chúng ta lao tâm khổ tứ, chúng ta ăn ngủ không yên, nhưng thử hỏi, chúng ta dấn thân như vậy vì Chúa, vì phục vụ anh em hay vì một cái gì khác. Mỗi người chúng ta hạ cố tự vấn lương tâm mình trong mùa Chay này.
Lạy Chúa, con rất muốn hoạt động cho Danh Cha cả sáng, cho Nước Cha trị đến, cho Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Tuy nhiên, đôi lúc con cũng muốn mặc cả với Chúa, con làm cho Nước Chúa điều này thì xin Chúa hãy làm cho bản thân con điều nọ. Con phục vụ người khác và con cũng muốn mình được người ta phục vụ. Xin Chúa dạy con biết lột bỏ quan niệm trần tục này để mặc lấy tinh thần của người tôi tớ khiêm hạ mà tận tình phục vụ anh chị em vì lòng yêu mến Chúa.
Suy Niệm 5: Chỉ có một tham vọng là phục vụ
“Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải là người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải là đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt. 20, 26b-28)
1) Qua mẹ con ông Giê-bê-đê, Đức Giê-su nhắc nhở chúng ta về một điều đắt giá này: Nếu chúng ta muốn theo Chúa, thì đừng mơ ước vinh quang loài người, nhưng hãy chấp nhận chia sẻ cuộc tử nạn của Người để cứu độ thế giới. Không ai gần Đức Giê-su bằng Đức Mẹ, nhưng trước khi được muôn thế hệ ngợi khen Mẹ đầy diễm phúc, Mẹ đã là Mẹ của một người bị kết án tử hình.
2) Dù sao những người con của ông Giê-bê-đê cũng đáng thiện cảm. Lòng tham vọng phàm trần của các ông là dấu chỉ có lòng quảng đại, và chính vì đó mà đã được Đức Giê-su tuyển chọn. Chúa chỉ muốn mở rộng tấm lòng tham vọng của họ ra tới chân trời vô tận, nên Chúa hỏi: “Các anh có uống nổi chén Ta uống không?”. Họ đáp: “Thưa uống nổi”, nhưng Chúa chưa đòi các ông phải lăn xả ngay để chứng tỏ hết sức mình các ông đâu, các ông sẽ uống dần dần bằng việc phục vụ rất khiêm tốn trước đã, vì thế chưa nói phải uống chén đắng.
3) Không chỉ hầu hạ, mà còn “phải hiến mạng sống”. Lời của Thầy có thể vẫn là những chữ chết không có hiệu lực gì, nếu Thầy không cho họ một tấm gương sống động chứng tỏ rõ rệt và có sức thuyết phục đặc biệt, nếu những lời này không được thực hiện từng chữ, thì người ta sẽ nghĩ rằng những lời này chỉ là cách nói có ý phóng đại để gây ấn tượng và đánh động người nghe thôi. Giáo huấn của Đức Ki-tô không phải là thứ yêu sách không thể đạt được. Người ta có thể đọc được nó ngay trong đời sống của con người. Chính Đức Giê-su đã sống hoàn toàn đúng với luật đời sống này. Người bày tỏ đời sống mình làm mẫu cho Giáo hội. Người không đến để cai trị, nhưng đến để phục vụ. Toàn diện sứ mệnh của Người là phục vụ. Thiện chí lôi cuốn Người là ý chí phục vụ. Ơn kêu gọi của Người là phục vụ. Trong bữa tối sau hết, Người đã hoàn tất việc phục vụ dành riêng cho kẻ nô lệ bằng rửa chân cho mười hai môn đệ.
Môn đệ thấy trước mặt mẫu gương phục vụ này, sẽ không chỉ nói lý thuyết phục vụ, nhưng nuôi dưỡng nó như là luật sống của mình để sống phục vụ hết mình. Môn đệ phải đón nhận lấy mẫu gương mà chính Chúa đã ban cho mình, một mẫu gương nổi bật có sức làm phai mờ mọi phần tử khác. Chính bản thân mỗi môn đệ phải thực hiện giá trị cao cả đó: Ơn kêu gọi của tôi là thí mạng sống mình cho mọi người, cho thế giới, vì yêu thương.
Suy Niệm 6: Ơn cứu chuộc của chúng ta nơi Thánh Giá Chúa
Có nhiều người ngày nay, theo tâm lý tự nhiên, họ đều muốn có danh tiếng cá nhân, phần thưởng cá nhân, địa vị cá nhân và sự thành công cá nhân, nhưng ít ai nghĩ đến sự hi sinh cá nhân!
Thật thế, đây là cám dỗ nguy hiểm cho con người thời nay, bởi vì ai cũng chỉ nghĩ đến mình, họ luôn xây dựng cái tôi của mình thật lớn để rồi như một thành trì bảo vệ uy lực cho cá nhân mà không hề nghĩ đến người khác và bổn phận trách nhiệm của mình với cộng đồng.
Đây cũng chính là mối nguy hại cho các Tông đồ thời Đức Giêsu! Các ông theo Ngài, được Ngài mặc khải nhiều điều, và, nhất là hôm nay, Ngài loan báo cuộc khổ nạn, đồng thời mời gọi họ đi theo trên con đường khổ giá để cùng Ngài cứu chuộc nhân loại, thay vì ưng thuận, họ đã tỏ vẻ khó chịu, bởi vì các ông đã phỏng chiếu một Đức Giêsu uy quyền, lẫm liệt khi thể hiện quyền năng của mình để đánh đông dẹp bắc theo kiểu binh đao, nhưng đằng này, Đức Giêsu đã lật đổ những mơ ước hão huyền của các môn đệ, làm cho giấc mộng công hầu khanh tướng mà các ông đang theo đuổi tan thành mây khói khi loan báo cái chết sẽ đến với Ngài.
Cám dỗ về uy quyền, danh vọng, sung túc... mà các môn đệ thời Đức Giêsu mắc phải cũng chính là cám dỗ triền miên của mỗi chúng ta ngày nay!
Mùa Chay là mùa mời gọi chúng ta nhìn thẳng vào Thánh Giá Chúa để thấy được tình thương của Đức Giêsu, thấy được sứ vụ của cuộc đời chúng ta, khám phá ra ý nghĩa của ơn cứu độ ngang qua đau khổ, nhất là khám phá ra sự vĩ đại, sức mạnh phi thường và ơn giải thoát ở sự phục vụ trong yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết sống cho người khác như Chúa, luôn mong được phục vụ hơn là tìm sự phục vụ nơi người khác cho mình. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Phục vụ và phó mạng sống
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu tự nguyện trở nên đầy tớ phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc nhân loại. Chúa mời gọi ta noi gương Chúa sống khiêm tốn, phục vụ, và hiệp thông với lễ hy sinh của Chúa trên Thánh giá.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thế giới không mấy lúc được bình an. Chiến tranh nơi này chưa kết thúc, đã xảy ra chiến tranh nơi khác: vì có những dân tộc muốn thống trị toàn thế giới, vì có những cá nhân muốn áp đặt ý mình trên mọi người. Bao nhiêu người giành giật địa vị, tranh chấp quyền lực. Bao nhiêu người tìm mọi cách ngoi lên chiếm lấy một địa vị xã hội để khỏi bị chèn ép. Bản thân con cũng khó hạ mình xuống để chịu cho người khác hơn con. Không phải chỉ có các con ông Dê-bê-đê xin chỗ nhất, cũng chẳng phải chỉ có mười môn đệ kia tức tối, mà tất cả chúng con đều như vậy.
Lạy Chúa, để làm một cuộc cách mạng, Chúa đã bắt đầu từ bản thân Chúa. Chúa để lại cho chúng con gương mẫu khiêm tốn tuyệt vời. Cả cuộc đời, Chúa đã chẳng sống cho mình, nhưng hoàn toàn quên mình để phục vụ chúng con, và hy sinh mạng sống trên Thánh giá để trở nên hy lễ cứu độ chúng con. Thánh giá Chúa muôn đời vẫn còn đó như ngọn hải đăng giữa biển đời đầy bão táp biến động.
Lạy Chúa, xin giúp con nhìn lên Chúa và bắt chước Chúa. Xin Chúa cho các nhà lãnh đạo các quốc gia biết hy sinh tận tụy phục vụ dân tộc cách vô vụ lợi. Xin cho chúng con là bậc cha mẹ đứng đầu các gia đình biết phục vụ con cái trong tinh thần quên mình, hiền hòa, cảm thông, không gắt gỏng, khó tính hoặc cứng cỏi. Xin Chúa cho các vị lãnh đạo trong Hội Thánh biết sống tinh thần hiền lành và khiêm nhường như Chúa. Và xin cho chúng con không ngần ngại hầu hạ nhau như Chúa đã từng hầu hạ chúng con. Amen.
Ghi nhớ: “Họ đã lên án tử cho Người”.
Suy Niệm 8: Con Người đến để phục vụ
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một hôm Đức Hồng y Roncalli vừa trên xe bước xuống. Ngài mới đi xa về. Phái đoàn Tòa Giám mục ra đón. Mọi người ngạc nhiên trên vai áo Hồng y có vướng mấy cọng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng cười xòa vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện.
Chiếc xe của Đức Hồng y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vùng đồng ruộng. Giữa đường một chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc nhích. Đức Hồng y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.
Những cọng rơm trên vai Đức Hồng y đối với ngài chỉ cười xòa cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta thấy một Hồng y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.
Sau này khi lên ngôi Giáo hoàng - Đức Gioan XXIII vẫn tiếp tục nếp sống bình dị phục vụ.
Suy Niệm
Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó của Ngài lần thứ ba, các môn đệ vẫn chưa hiểu hết được mầu nhiệm thập giá, các ông vẫn hy vọng một triều đại Mêssia mà Thầy sắp sửa khai mạc với sự vinh quang của Thầy - Đấng Mêssia - Đấng Cứu Thế. Mẹ của hai anh em Giacôbê và Gioan nhanh chân xin trước hai chỗ danh dự trong nước Ngài: Cho ngồi bên tả và bên hữu Thầy khi vương quốc Mêssia khai mạc. Rõ ràng lời thỉnh cầu này bỏ qua mạc khải hành trình Giêrusalem, bỏ qua thập giá mà Thầy đang mạc khải.
Họ vẫn chưa hiểu gì cả về định mệnh đích thực của Chúa Giêsu. Bằng những câu hỏi: “Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén mà ít nữa đây Ta sắp uống chăng?”. Đức Giêsu cố gắng chuyển biến tư tưởng của họ từ “vinh quang của Đấng Mêssia” theo quan niệm con người sang “con đường dẫn đến vinh quang” là xuyên qua khổ giá qua hình ảnh chén đắng. Giacôbê và Gioan dù không hiểu điều các ông xin, nhưng vẫn thưa được. Giacôbê và Gioan đã được Chúa cải hóa tham dự vào chén đắng của Thầy khiến các ông như Thầy sau này đối diện tử nạn: Giacôbê bị vua Hêrôđê Agrippa giết năm 44 và là vị tông đồ tử đạo đầu tiên ở Giêrusalem (x. Cv 12,2) và Gioan sẽ phải chịu bắt bớ thời hoàng đế Nêrôn, đã bị bỏ vào vạc dầu sôi ở cửa Latinh. Ông thoát chết bị khổ sai tại đảo Patmos (x. Kh 1,9).
Trong ý nghĩa của mầu nhiệm thập giá qua hình ảnh chén đắng và phép rửa, Chúa Giêsu dẫn từ sự mộng mơ về quyền bính vinh quang mà các ông mong muốn đến sự hiệp thông đời sống với Ngài: “Ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con…” (Mt 20,26-27). Chúa Giêsu có quyền hạn đầy đủ của một vị Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không hành xử như một vị thống trị, mà trở nên như “một người đầy tớ”. Ngài đã không như “lãnh chúa” mà là “gia nhân” (x. Ga 13,13) bằng cách rửa chân cho các môn đệ vào chiều thứ Năm tuần thánh và dạy bài học phục vụ cho các môn đệ. Cho nên, người môn đệ Đức Giêsu được chọn để phục vụ anh em theo lời giảng dạy và mẫu gương của chính Thầy - Đức Giêsu. Ngài đã khẳng định bổn phận phục vụ dựa trên nền tảng là lối cư xử của Ngài: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).
Cuộc sống là hành trình thập giá, như hai môn đệ Gioan và Giacôbê, chúng ta được mời gọi uống chén đắng xuyên qua những đối diện mọi gian nan khốn khó của cuộc đời… Là gánh vác cuộc đời như Chúa Giêsu vác thập giá là chén đắng mà Chúa Cha trao, xuyên qua và trỗi dậy.
Ý lực sống: “Lạy Cha, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,40).
Suy Niệm 9: Tinh thần phục vụ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Gần tới lễ Vượt Qua, Đức Giêsu lên Giêrusalem để mừng lễ và đây là lần sau hết của đời Ngài. Trên đường đi, Chúa giáo huấn các ông, mặc dầu các ông không hiểu. Để giáo dục các ông, Ngài làm hai việc: một là loan báo cho các ông biết Ngài sẽ bị nộp vào tay kẻ thù để hiến thân chuộc tội cho loài người; hai là dạy họ bài học phục vụ: “Ai muốn làm đầu thì hãy làm đầy tớ...” và “Con Người đến không phải để được phục vụ, mà để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người”. Đức Giêsu cho chúng ta một mẫu gương là khiêm tốn phục vụ và hy sinh vì người khác.
2. “Nào chúng ta lên Giêrusalem...”.
Tâm lý của các môn đệ: mặc dầu đã đi theo Chúa gần ba năm, nhưng các môn đệ cũng chưa lĩnh hội giáo lý của Ngài được bao nhiêu. Ngay sau lần thứ ba Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ sự thương khó của Ngài: “Nào chúng ta lên Giêrusalem...Con người sẽ bị nộp cho các thượng tế. Họ sẽ lên án tử Người. Họ sẽ nhạo báng Người, sẽ khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết Người (10,32-34), các ông cũng không quan tâm lời loan báo ấy, có lẽ chẳng hiểu gì; hơn nữa đầu óc các ông còn đang mơ tưởng đến vương quốc Đức Giêsu sắp lập. Như vậy có nghĩa là vào lúc Đức Giêsu “chọn chỗ chót” thì các ông lại cố “đua nhau” chiếm chỗ tốt hơn: Họ vẫn còn mơ mộng về Đấng Cứu Thế vinh quang của dân tộc. Đấng Cứu Thế đối với họ đó là Đấng chiến thắng hiển hách, sẽ dùng quyền lực của mình điều khiển mọi sự.
3. “Con người đến không phải để được phục vụ...”
Câu Phúc âm này nói lên tất cả cuộc sống của Đức Giêsu: Ngài đã nhập thể làm người để phục vụ và phục vụ cho đến chết. Chẳng những Ngài đã hy sinh phục vụ, mà còn mời gọi những kẻ tin theo Ngài cũng noi gương sống phục vụ như Ngài.
Trong Tin mừng, đây là lần thứ ba Đức Giêsu nói đến con đường Thập giá mà Ngài sẽ trải qua. Nhưng cứ mỗi lần Ngài loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài, các Tông đồ đều phản ứng ngược lại: trong lần loan báo đầu tiên, Phêrô đã ngăn cản Ngài; lần thứ hai các ông tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất; và lần này thì Giacôbê và Gioan xin được chức tước cao nhất làm cớ cho những người khác trong nhóm Mười Hai phân bì ghen tị.
4. Cho đi để được lại...
Cho đi để được lại, đó là tính toán quá thường tình của con người. Người ta làm ơn làm phúc để được đền đáp, người ta hy sinh phục vụ để tên tuổi của mình được nhắc đến. Tiền tài, quyền bính, danh vọng là ẩn số luôn ẩn núp sau những công việc mà người ta gọi là phục vụ.
Các Tông đồ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, đã được Chúa dạy dỗ bằng lời nói và gương sáng của Ngài, thế mà các ông vẫn còn ích kỷ, vụ lợi, tham vọng; và điều đó cho thấy các ông đã từ bỏ với tính toán: cho đi để được cho lại, phục vụ để được phục vụ. Đó là tâm trạng chung của con người. Nhưng Đức Giêsu đã nêu gương phục vụ cho chúng ta, Ngài đã hoàn toàn phục vụ cách vô vị lợi. Ngài đã mang lại cho hai chữ “phục vụ” ý nghĩa đích thực của nó, đó là sống cho và sống vì người khác, sẵn sàng hy sinh quên mình vì lợi ích của người khác.
5. Chọn con đường phục vụ nào?
Con người chúng ta trong mọi hoàn cảnh, cứ bị dẫn đến những ngã ba đường: nghĩa là trước mắt ta luôn có hai ngả mà ta phải chọn một. Hai ngả đó thường dẫn đến hai chiều khác nhau: một hướng vị kỷ và một hướng vị tha.
- Hướng vị kỷ có một sức mạnh tự nhiên lôi cuốn ta vào, nó khiến ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, hạnh phúc hay đau khổ của mình, quyền lợi hay trách nhiệm của mình. Nói chung, nó thu hút ta vào chính bản thân ta. Hầu hết mọi người, trong hầu hết mọi trường hợp, đều bị lôi cuốn vào ngả này.
- Còn hướng vị tha rất ít khi lôi cuốn ta, nhưng lương tâm ta lại thúc đẩy ta, đôi khi còn ép buộc ta bước vào. Nó đòi hỏi ta phải quên bản thân, quên những gì liên quan tới bản thân để nghĩ đến người khác, đến đám đông bên ngoài ta, đến hạnh phúc hay đau khổ của họ.
Dù đi vào hướng nào, thì sau khi đi một đoạn đường nữa, ta sẽ lại đến một ngã ba khác, cũng với hai hướng vị kỷ và vị tha trước mặt. Mỗi lần gặp ngã ba đó là mỗi lần ta phải lựa chọn hướng đi cho mình.
6. Truyện: Một sự hy sinh tuyệt vời.
Có hai nhà doanh nghiệp du lịch vòng quanh thế giới. Họ xem được nhiều danh lam thắng cảnh, biết được nhiều lối sống của nhiều dân tộc, thấy được bao điều mới lạ. Nhưng họ nói tại Triều Tiên đã có một hình ảnh đánh động họ nhất, làm họ ghi nhớ mãi.
Một buổi sáng nọ, họ đi dạo trên đường làng, họ thấy cảnh một ông già đang kéo cầy thay trâu, đi sau cầy là một cậu bé. Họ đứng lại xem, bộ mặt ông già không có gì là buồn khổ cả. Họ xúc động, lấy máy ảnh chụp cảnh ấy. Sau đó họ đến thăm một nhà thờ và chìa bức ảnh trên cho cha sở xem. Sau khi nhìn bức ảnh cha nói:
- Vâng, đối với các ông đây là một chuyện lạ. Nhưng tôi biết rõ cha con ông ấy. Họ rất nghèo, và khi nhà thờ này khởi công xây dựng, họ muốn đóng góp vào việc xây cất. Nhưng họ không có tiền, không có lúa để bán, và mùa đông lại sắp tới họ bèn bán con bò duy nhất để lấy tiền giúp nhà thờ. Bây giờ hai cha con phải thay bò kéo cầy làm đất.
Hai người khách nhìn nhau một lát rồi một người nói:
- Thật là một sự hy sinh ngoài trí tưởng tượng! Sao cha cho phép họ làm thế?
Cha đáp:
- Họ xem đó là chuyện bình thường. Tôi đã can ngăn, nhưng họ xem việc hy sinh con bò là dâng một lễ vật cho Chúa.
Suy Niệm 10: Trường đào tạo người làm đầy tớ
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Bài đọc một là lời tâm sự của ngôn sứ Giêrêmia: làm ngôn sứ của Chúa, Giêrêmia chỉ muốn điều lành cho dân mình (rao giảng cho họ, chỉ bảo họ, cầu nguyện biện hộ cho họ) thế mà lại bị họ ghét, chống đối và tìm cách hãm hại. Giêrêmia phải than “Làm lành mà phải gặp dữ sao!”. Sứ mạng và thân phận của sứ giả Chúa là như thế.
2. Bài Tin Mừng cho thấy các tông đồ chưa hiểu đúng sứ mạng của mình: họ theo Chúa Giêsu nhưng để được vinh dự và địa vị (lời xin của 2 con ông Dêbêđê, sự khó chịu của các tông đồ kia). Để giáo dục họ, Chúa Giêsu làm hai việc: một là loan báo cho các ông biết Ngài sẽ bị nộp vào tay kẻ thù để hiến thân chuộc tội cho loài người; hai là dạy họ bài học phục vụ: “Ai muốn cầm đầu thì hãy làm đầy tớ...” “Con Người đến không phải để được phục vụ, mà để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người”
B.... nẩy mầm.
1. Hai người con của ông Dêbêđê là Gioan và Giacôbê. Họ là hai trong số những môn đệ đầu tiên đi theo Chúa Giêsu, thế mà họ cũng không thấm nhuần tinh thần phục vụ mà Chúa Giêsu dạy. Huống chi những môn đệ khác. Huống chi tôi... Phải chăng lâu nay tôi theo Chúa mà chỉ nghĩ đến quyền lợi, danh dự, ơn ích... Nói cách khác, tôi nghĩ đến nhận mà không nghĩ đến cho, tôi nghĩ đến được người ta phục vụ mà không nghĩ đến phục vụ người ta.
2. Chương trình đào tạo trong trường của Chúa Giêsu là “đào tạo những người làm đầy tớ”. Vào trường của Chúa bấy lâu nay, tôi đã học làm đầy tớ được đến mức nào rồi?
3. Người môn đệ Chúa còn phải chuẩn bị để sau này có thể uống “chén” mà Chúa đã uống. Tôi đã chuẩn bị việc này chưa?
4. Cha Maximilien Kolbe làm gương cho chúng ta về cung cách sống của người môn đệ Chúa: Một buổi sáng cuối tháng 7 năm 1941 tại trại tập trung Oswiccim của Đức quốc xã, có một người vượt ngục, 10 người khác bị xử thay vào. Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững, khiếp đảm, không dám kêu la, trừ một người kêu ré lên ”Ôi vợ và các con tôi”.
Hàng trăm dãy tù nhân xếp hàng dài im thin thít, hú hồn vì chưa phải tên mình, không một ai dám cựa quậy. Bỗng từ dãy tù nhân bên trái, một người gầy guộc rời hàng bước về phía viên trưởng trại. Mọi người nín thở: chuyện chưa từng có! Viên trưởng trại đặt tay lên súng:
- Anh muốn gì?
- Tôi muốn chết thay một người trong bọn họ.
Viên trưởng trại sửng sốt. Y tưởng mình nghe lầm. Nhưng không, người kia thực sự xin được chết thay cho kẻ có vợ và các con đang đợi ở nhà. Sau mấy câu gượng gạo, viên trưởng trại nhượng bộ, chấp nhận lời yêu cầu. Kẻ tình nguyện đó là Maximilien Kolbe, một linh mục công giáo. Cha đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong thánh ngày 10.10.1082 tại Rôma. (Trích ”Phúc”)
Suy Niệm 11: Phục vụ và hy sinh
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Qua bài Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy quan niệm của Chúa Giêsu và quan niệm của các môn đệ về cuộc sống có một khoảng cách thật xa.
Với Chúa Giêsu thì cuộc sống là phục vụ và hy sinh.
Còn với các môn đệ thì chưa được như thế.
1. Chúa bảo: “Ai muốn cầm đầu thì hãy làm đầy tớ và phục vụ mọi người”. (Mt 20,27)
Sống đối với Chúa là phục vụ. Chúa phục vụ đến quên mình, phục vụ như một người tôi tớ. “Con Người đến không phải để được phục vụ, mà để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).
Còn con người thì sao? Qua những gì được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy con người thường chỉ nghĩ đến quyền lợi, danh dự, ơn ích... Nói cách khác, chỉ nghĩ đến nhận mà không nghĩ đến cho, nghĩ đến việc được người ta phục vụ chứ chưa nghĩ đến việc phục vụ người khác.
Thánh Antôn, là giám mục của vùng Firenze nước Ý vào khoảng thế kỷ thứ 15, có kể lại một câu chuyện mà ngài đã tận mắt chứng kiến trong đời mục vụ tông đồ:
Một hôm, ngài đang đi trên đường thì Thiên Chúa cho ngài thấy có một thiên thần cứ bay lượn bên trên một ngôi nhà nghèo nàn lụp xụp. Ngài ghé vào hỏi thăm cha sở vùng này thì được biết, gia đình ấy tuy rất nghèo nhưng rất đạo đức và tốt bụng, luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Thánh Antôn động lòng thương, hiểu ra ý Chúa muốn soi sáng cho mình, ngài bèn trích quỹ từ thiện, kín đáo trợ cấp hàng tháng cho gia đình đó một số tiền vừa đủ để có vốn liếng mà chí thú làm ăn cho đỡ nghèo khổ.
Bẵng đi một thời gian, ngài lại có việc đi qua vùng ấy. Ngài chợt giật mình trông thấy một tên quỉ xấu xa đang bay lượn trên mái một ngôi nhà khang trang đẹp đẽ nhất vùng. Ngài lại ghé vào cha sở để hỏi thăm, thì hóa ra đó chính là ngôi nhà của gia đình mà ngài đã từng trợ cấp lâu nay. Ngài biết họ đã cố gắng ăn nên làm ra, nhưng dần dần, vì tham lam, họ đã học đòi những thủ đoạn mánh khóe bất lương để làm giàu nhanh chóng, đời sống họ hoàn toàn vô đạo đức, trở nên ích kỷ và độc ác. Hiện tại họ lại còn thói ăn chơi trụy lạc.
Vâng! Khi có tiền có bạc con người ta dễ sinh ra ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình chứ không để ý đến người khác.
Mẹ Têrêsa Calcutta có lần đã nói: “Thế giới thiếu vắng đức tin vì có quá nhiều ích kỷ, quá nhiều cái tôi. Để sống đức tin chân thật, lòng người phải quảng đại cho đi”.
2. Chúa đã phục vụ, phục vụ đến quên mình. “Con Người đến để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).
Có lần mẹ Têrêsa nói với các chị em trong dòng của mẹ “Tình yêu đòi hỏi hy sinh. Đừng sợ yêu thương đến độ phải hy sinh, tới mức phải nhức nhối”.
Vâng, hãy tập hy sinh để được nên giống Chúa.
Trong căn nhà nhỏ ở một vùng ngoại ô, có hai vợ chồng nọ đã luống tuổi. Họ từng trải qua những ngày tháng bên nhau đầy yêu thương và yên bình. Niềm vui chung của họ là cùng chăm sóc một vườn dưa chuột xanh tốt sau nhà. Ông cụ chăm sóc vườn dưa rất cẩn thận, hết dậy sớm tưới nước lại bỏ công bắt sâu, nhổ cỏ. Những trái dưa chuột ngon nhất sẽ được hái để bà cụ muối dưa - bởi đó là thói quen của bà từ rất lâu. Mùa đông tới, khi vụ thu hoạch dưa chuột đã hết, ông cụ lại nghiên cứu các bảng danh sách giới thiệu hạt giống để đặt mua loại tốt nhất. Xuân về, các con của ông bà sống gần đấy giúp họ xới đất, gieo hạt. Bà cụ lại tìm đọc các sách nấu ăn để học hỏi thêm những bí quyết làm dưa chuột muối. Trong mắt mọi người, ông bà là một cặp vợ chồng hạnh phúc. Họ sống thân thiện, gần gũi với những người chung quanh. Bất cứ vị khách nào đến chơi cũng được ông bà tặng một bình dưa chuột muối mang về.
Nhưng một ngày kia, ông cụ qua đời. Mùa xuân năm đó, tất cả con cái tụ họp bên mẹ mình và nói:
- Chúng con biết mẹ rất thích làm dưa chuột muối, nên chúng con sẽ thay cha tiếp tục đặt mua hạt giống, sẽ trồng và chăm sóc dưa chuột cho mẹ.
Người mẹ mỉm cười:
- Cảm ơn các con, các con không cần trồng dưa nữa đâu. Thật ra thì mẹ không thích ăn dưa muối nhưng vì bố các con thích trồng dưa chuột nên mẹ muối thôi.
Những người con ngỡ ngàng. Trước khi cha mất, ông từng kể với họ rằng ông không hề thích trồng dưa chuột. Ông làm điều đó chỉ vì bà thích trổ tài muối dưa mà thôi.
Vì muốn đẹp lòng người bạn đời của mình, họ chấp nhận làm những điều mình không hề thích. Họ sống vì người khác, đến mức quên cả sở thích riêng của mình.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã vì chúng con mà xuống thế làm người. Xin dạy chúng con biết yêu thương. Amen.
26/02 Hãy sống nhân từ
- Viết bởi Lc 6, 36-38
Hãy sống nhân từ.
Thứ Hai tuần 2 Mùa Chay.
“Hãy tha thứ thì các con sẽ được thứ tha”.
Lời Chúa: Lc 6, 36-38
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán thì các con khỏi bị xét đoán; đừng kết án thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho thì sẽ cho lại các con: Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con.
Vì các con đong bằng đấu nào, thì cũng được đong trả lại bằng đấu ấy!”
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hãy có lòng nhân
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Lòng nhân có chỗ đứng quan trọng trong Khổng giáo.
Sách Luận Ngữ coi lòng nhân là nét đặc trưng của con người.
Phật giáo cũng đề cao tinh thần từ bi hỷ xả.
Lấy ân báo oán, oán sẽ tiêu tan.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời các môn đệ
“Hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (c. 36).
Như thế nhân từ là nét đặc biệt nơi Thiên Chúa.
Nhân từ nằm ở nơi khuôn mặt và ngay nơi trái tim của Ngài.
Như tín đồ của các tôn giáo khác, Kitô hữu phải sống lòng nhân.
Nhưng hơn nữa, ở đây, Đức Giêsu mời gọi chúng ta
bắt chước lòng nhân từ của chính Thiên Chúa,
một lòng nhân từ không bị giới hạn bởi bất cứ ngăn cách nào.
Lòng nhân được diễn tả bằng bốn mệnh lệnh của Đức Giêsu,
hai mệnh lệnh tiêu cực và hai mệnh lệnh tích cực.
Các mệnh lệnh này đều ngắn gọn và nhịp nhàng.
Phần sau của mỗi mệnh lệnh đều ở thể thụ động,
nhằm nói lên hành động của Thiên Chúa.
“Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán, đừng kết án để khỏi bị kết án,
hãy tha thứ thì sẽ được tha thứ, hãy cho thì sẽ được cho lại.”
Xét đoán ở đây không có ý nói đến hành động xét xử của vị quan tòa.
Nó chỉ muốn nói đến khuynh hướng hay phê bình, chỉ trích người khác.
Cần để ý đến tam giác giữa Thiên Chúa, tha nhân và chúng ta.
Thái độ của ta đối với tha nhân thế nào,
ta sẽ bị Thiên Chúa đối xử lại như vậy.
Nói cách khác, ta muốn được Thiên Chúa đối xử với mình ra sao,
ta hãy đối xử với tha nhân như vậy.
Càng cho nhiều và tha thứ nhiều, càng bớt xét đoán hay kết án,
ta càng được hưởng lòng nhân từ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đong lại cho chúng ta bằng đấu của chúng ta,
không phải vì Ngài thiếu quảng đại hay rộng lượng.
Nhưng vì giống như người đi múc nước bằng một chiếc thùng nhỏ,
người ấy sẽ chỉ lấy được ít nước thôi.
Thiên Chúa muốn ban cho ta nhiều hết sức,
nhưng điều đó còn tùy vào sức chứa của ta.
Có khi chính ta lại tự giới hạn khả năng đón nhận của mình.
Mùa Chay là thời gian để ta sống lòng nhân của Thiên Chúa.
Hãy thay đổi cái đấu ta thường dùng để đong cho người khác,
chúng ta sẽ thấy mình giàu có hơn xưa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con. Amen.
Suy Niệm 2: Con Người là con đường
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa chay là mùa trở về với Chúa. Đa-ni-ên cho thấy con người thật xấu xa tội lỗi. Cần trở về với Chúa. Cần được Chúa xót thương tha thứ.
Nhưng muốn về với Chúa phải đi qua con đường. Hôm nay Chúa Giê-su cho biết con đường đó chính là con người. Thái độ của ta đối với đồng loại sẽ quyết định tương lai của ta. Con đường về với Chúa có bằng phẳng hay không là tùy mối quan hệ của ta với đồng loại có êm xuôi hay không.
Thiên Chúa là Cha nhân từ. Được đến với Chúa ta sẽ được hưởng lòng nhân từ của Chúa. Nhưng để đến được với Chúa ta cũng phải nhân từ như Chúa. Nhân từ vừa là kết quả của việc gặp gỡ kết hiệp với Chúa nhưng đồng thời cũng là điều kiện để được đến gặp gỡ Chúa.
Là kết quả. Ai đã gặp gỡ kết hiệp với Chúa sẽ trở nên giống Chúa, sẽ biết yêu thương đồng loại. Sẽ biết khoan dung, tha thứ, đối xử nhân từ độ lượng với đồng loại.
Là điều kiện. Ai muốn được Chúa nhân từ cũng phải nhân từ với anh em. Chúa cho ta tự do được lựa chọn quy luật xét xử. Nếu ta khắc nghiệt với anh em, Chúa cũng dùng sự khắc nghiệt đó để xét xử ta. Nếu ta khoan dung tha thứ đối xử rộng lượng với anh em, Chúa cũng khoan dung tha thứ, đối xử rộng lượng với ta.
Còn hơn thế nữa. Chúa không chịu thua lòng quảng đại của ta. Ta cho đi một thì Chúa trả lại gấp trăm ngàn lần.
Mùa Chay, phải tìm đường về với Chúa, chính vì thế phải tìm đường về với anh em. Vì con người chính là con đường Chúa muốn ta đi qua để đến với Chúa. Đường rộng hay hẹp, quanh co hay ngay thẳng, gồ ghề hay phẳng phiu là tùy ta quyết định. Ta tội lỗi xấu xa cần đến lòng thương xót của Chúa. Nhưng lòng thương xót ấy ta phải tự tạo khi ta tỏ lòng thương xót tha thứ cho anh em. Điều ta tìm kiếm ta sẽ gặp được. Ta được tha thứ khi chính trong ta có lòng tha thứ. Ta được thương xót khi lòng ta dâng lên mối cảm thương. Chính khi thương xót tha thứ cho anh em, ta được Chúa ở cùng ta. Ta mang tấm lòng Thiên Chúa. Đó chính là khởi điểm và cũng là đích điểm của mùa Chay. Tìm về với Chúa và đạt được chính Chúa. Xa mà gần biết bao.
Suy Niệm 3: Hãy sống nhân từ.
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Mahatma Ganhdi, một nhà ái quốc Ấn Độ, lúc còn trẻ, ông sang Anh quốc học nghề luật sư và nhờ đó có dịp tiếp xúc với Kitô giáo. Ông đọc Phúc âm thường xuyên và rất say mê Chúa Kitô, đặc biệt ông thán phục bản Hiến chương Tám Mối Phúc Thật và lấy đó làm nguồn cảm hứng cho đường lối bất bạo động của ông trong việc dành lại độc lập cho dân tộc mình. Tuy nhiên, có lần ông đã tâm sự với một người thân cận rằng: dù thán phục giáo lý của Chúa Kitô, nhưng ông không thể trở thành kẻ tin Chúa, vì ông thấy nhiều Kitô hữu không sống Tám Mối Phúc Thật của Chúa. Ông nói: “Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi ghét người Kitô hữu, vì họ không giống Chúa Kitô. Nếu họ giống Chúa Kitô thì dân Ấn Độ chúng tôi đã trở lại Công giáo cả rồi”.
Nhận xét của Mahatma Ganhdi trên đây phải cảnh tỉnh chúng ta về ơn gọi và trách nhiệm của chúng ta. Là người Kitô hữu, chúng ta phải sống như Chúa Kitô, phải có những tâm tình từ bi, nhân hậu, yêu thương như Ngài. Tin mừng hôm nay là một bản tóm lược giáo huấn yêu thương của Chúa. Ngài mạc khải cho chúng ta về một Thiên Chúa là Cha nhân từ, đồng thời bày tỏ cho chúng ta biết phải sống thế nào để xứng đáng là con cái Cha trên trời và cảm nhận được tình yêu của Ngài. Thế nhưng, Thiên Chúa là Đấng vô hình không ai đã thấy Ngài bao giờ ngoại trừ Con Một Ngài là Đức Giêsu Kitô. Chính Ngài đã tỏ cho chúng ta biết Thiên Chúa như thế nào, và chỉ qua Ngài, con người mới có thể thấy và cảm nhận được lòng nhân từ của Thiên Chúa. Do đó, khi mời gọi chúng ta hãy nên trọn lành như Cha trên trời, Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng Ngài là mẫu mực của sự trọn lành, chỉ có Ngài mới thể hiện trọn vẹn lòng nhân từ của Thiên Chúa. Cũng chính vì thế, Ngài đã tóm gọn cả cuộc sống người Kitô hữu bằng mệnh lệnh: “Hãy theo Ta”, nghĩa là hãy sống như Ngài, sống bằng chính sức sống của Ngài, để có thể nói được như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Nguyện cho sức sống Chúa Kitô mà chúng ta tiếp nhận qua Thánh Thể và các Bí tích làm chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, ngõ hầu lòng nhân từ của Thiên Chúa mà Ngài đã thể hiện cũng được tiếp tục tỏ bày qua cuộc sống của chúng ta.
Suy Niệm 4: Đừng xét đoán
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Xét đoán người khác cho đúng sự thật là một việc rất khó. Xét đoán hành vi bên ngoài đã khó rồi, xét đoán tâm trí bên trong lại càng khó khăn hơn nữa. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ đừng xét đoán người khác.
Chúng ta thường nghe nói: “dò sông dò biển dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người”. Thời xưa, câu nói ấy đã đúng, ngày nay nó lại càng đúng hơn nữa. Với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhân loại ngày nay đã có thể đo được một cách dễ dàng núi cao, biển rộng, sông dài. Còn hơn thế nữa, họ đã đo được những khoảng cách vời vợi trong vũ trụ mà đơn vị phải tính bằng triệu năm ánh sáng. Ngược lại, họ cũng đã đo được những khoảng cách cực nhỏ mà đơn vị càng ngày càng được thu hẹp. Ðó là về đo lường. Còn về phân tích và thống kê, nhờ phát minh ra máy vi tính cực mạnh, có thể tính được nhiều phép tính trong vòng một giây, người ta đã phân tích và thống kê được nhiều thứ. Gần đây, người ta đã hầu như hoàn thành được bản đồ gien của con người. Thật là những thành quả đáng kinh ngạc.
Tuy nhiên, trước những thành quả thâm sâu của lòng người, những phát minh và ứng dụng đó tỏ ra bất lực. Có máy móc nào cho biết đích xác hàm ý của một nụ hôn không? Ông Giuđa ngày xưa đã chẳng nộp Chúa với một nụ hôn chỉ điểm đó sao? Tâm hồn chúng ta là một cõi thẳm sâu mầu nhiệm. Có thể nói đó là một chốn mênh mông vô tận mà ngay cả bản thân chúng ta cũng không thể nào khám phá ra hết. Dù có thành tâm thiện chí đến đâu đi nữa, chúng ta cũng không tài nào nắm bắt được hết mọi ngõ ngách của lòng mình, chúng ta nghĩ rằng mình hiểu quá rõ chính mình, nhưng thực tế không phải như vậy, chỉ có Thiên Chúa là Ðấng toàn trí toàn năng mới hiểu rõ hết mọi ngọn nguồn của tâm hồn chúng ta, và mới có thể phán xét chúng ta một cách chính xác trăm phần trăm. Còn chúng ta, ngay cả việc xét đoán mình, chúng ta cũng hoàn toàn có nguy cơ rơi vào sai lầm. Xét đoán mình đã khó đến thế, nói chi đến việc xét đoán kẻ khác. Nhờ ý thức được giới hạn của mình, chúng ta sẽ không chủ quan khi nhận xét những người chung quanh. Chúng ta không xét đoán được chính xác thì làm sao chúng ta có thể lên án họ một cách hồ đồ được chứ. Và nếu chúng ta không lên án họ thì chúng ta sẽ làm gì đây? Xin thưa: chúng ta sẽ thông cảm bao dung với họ, sẽ nhìn họ với đôi mắt yêu thương và con tim nhân ái. Và dù họ có thực sự là con người băng hoại đi nữa, chúng ta cũng sẽ thực lòng tha thứ cho họ và cầu nguyện giúp họ cải tà qui chính. Chúng ta không xét đoán chính mình, chúng ta cũng không xét đoán anh chị em chung quanh, nhưng chúng ta hãy phó thác tất cả cho lòng nhân từ của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con tấm lòng nhân ái bao dung để con biết thực tình yêu thương kính trọng mọi người chung quanh. Xin Chúa dạy con biết cẩn thận trong phán đoán, khách quan khi nhận định và độ lượng khi phân xử. Xin Chúa nhắc con luôn nhớ rằng con đong bằng đấu nào thì Chúa sẽ đong lại cho con bằng đấu đó.
Suy Niệm 5: Vấn đề của con tim
“Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha.” (Lc. 6, 36-37)
Thánh Lu-ca biến đời sống Ki-tô hữu thành con tim, một con tim biết noi theo con tim của Thiên Chúa. Kẻ có lòng thương xót là kẻ có con tim. Kẻ rung cảm trước khổ đau của người khác thì chắc hẳn biết hành động cứu giúp. Có con tim là tốt, là nhân hậu. Những câu thành ngữ phổ biến như: Tấm lòng vàng, hết lòng, lòng nhân ái, tận tâm tận lực, trái lại là lòng chai cứng, ác tâm, nhẫn tâm, cứng lòng. Đức Giê-su bảo chúng ta: “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ”. “Hãy thương xót sẽ được xót thương” như Đức Giê-su Ki-tô đã thực hiện.
Chúng ta phải sống hoàn toàn nhân đạo, điều này dễ không? Tha thứ cho kẻ làm hại mình, tiếp đón kẻ xỉ nhục mình, dịu hiền với kẻ ngược đãi hành hạ mình, bình tĩnh với kẻ chống đối xỉ vả mình, giả điếc làm ngơ cho người ta đấm đá mình như bịch cát cho võ sĩ đấm đá …
Như thế, chẳng dễ chút nào! Ở thời chúng ta ngày nay, lòng thương xót và thương hại bị dư luận xấu khinh bỉ, bị coi là làm nhục người ta, làm hạ phẩm giá người ta. Người ta không muốn thương xót nữa. Tuy nhiên, lòng thương xót chân thành không thể làm cho người chịu ơn bị hèn kém hay bị nhục nhã mà trái lại họ còn được tôn trọng. Ngoài ra, về một vài phương diện nào đó lòng thương xót thực hiện một phần sự công bằng vì sự nghèo đói ngày nay là do xã hội bất công gây nên. Luật xã hội đòi buộc phải cung cấp cho những người nghèo sống xứng đáng nhân phẩm của mình.
Thánh Lu-ca đã nhấn mạnh nội dung của từ thương xót. Thương xót thì không xét đoán, không lên án. Không ai được tự đặt mình là quan xét anh em mình. Không ai được đánh giá và kết tội nặng nhẹ của người thân cận mình, cũng như bảo họ là kẻ xấu. Hoàn toàn phải loại bỏ những lối nhìn đánh giá người khác theo luân lý và tuyệt đối không được tuyên bố đương sự có tội. Phải hoàn toàn nên giống như Thiên Chúa, Ngài gớm ghét tội lỗi, nhưng luôn luôn cứu chữa kẻ tội lỗi. Lòng thương xót chính là tha thứ và giúp đỡ. Tha thứ xóa bỏ mọi rào cản giữa người với người, và giúp đỡ là xây dựng tình liên đới với nhau. Như thế người Ki-tô hữu mới được mời gọi xây dựng nước trời, xây dựng gia đình Thiên Chúa là Cha mọi người.
Thương người mới thực sự bắt chước Cha trên trời như ông Péguy nói: “Lối cư xử với chiên lạc của Chúa là luật ngàn đời cho chúng ta”.
Suy Niệm 6: Loan báo tin mừng bằng đời sống
Mahama Gandhi, một nhà ái quốc của Ấn Độ, đã dành lại độc lập cho đất nước ông bằng biện pháp bất bạo động. Nguyên nhân dẫn đến việc ông sử dụng đường lối không đổ máu để dành tự do là vì nguồn cảm hứng đến từ chính Tin Mừng, nhất là “Tám Mối Phúc” và cuộc đời của Đức Giêsu khi ông thường xuyên đọc Lời Chúa và có dịp tiếp xúc với người Anh tại Anh Quốc lúc còn trai trẻ thời tu học tại đây.
Tuy nhiên, khi tâm sự với bạn của ông, ông thốt lên: “Tôi rất yêu mến Đức Giêsu, nhưng tôi không thích người Công Giáo, vì họ không giống như Đức Giêsu. Nếu họ giống như Ngài, thì dân tộc Ấn Độ chúng tôi đã trở thành những Kitô hữu từ lâu rồi”. Chính vì lý do đó, ông đã không thể trở thành Kitô hữu!
Ôi sự thật xót xa! Tuy nhiên, chuyện tưởng chừng như xảy ra bên Ấn Độ hay Anh Quốc thời Mahama Gandhi, nhưng thực ra, nó đang thường trực qua lời nói, hành động và lối suy nghĩ của chúng ta nơi môi trường và cuộc sống hiện thời hôm nay.
Thật thế, bởi vì trong đời sống đạo của chúng ta hiện nay, nhiều khi chỉ có bề ngoài mà không có chiều sâu; chỉ có lượng mà không có phẩm; chỉ có nói mà không có hành động; chỉ có hô hoán yêu thương, nhưng khi gặp những chuyện cần phải giúp đỡ thì tìm cách lẩn tránh! Hay nhiều khi chúng ta ích kỷ và chia ô cuộc đời để tách biệt những điều trong Tin Mừng với cuộc sống!
Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta không được phép chia ô cuộc đời của mình như vậy. Không ai cho phép chúng ta tách biệt nhà thờ, thánh lễ, kinh nguyện ra khỏi cuộc sống nơi xóm làng, chợ búa, nhà ga, gia đình... Nhưng phải đưa Lời Chúa vào mọi ngõ ngách, chiều kích của cuộc sống.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy sống những tâm tình của Chúa, đó là: đừng xét đoán hay kết án. Hãy tha thứ, cho đi..., đây không chỉ là một khuyến khích, nhưng nếu chúng ta sống như vậy, hẳn sẽ được Thiên Chúa đối xử với chính mình như thế.
Mong sao, chúng ta có Chúa trong tâm hồn và sống giới luật yêu thương, khi không kết án, xét đoán, nhưng tha thứ và cho đi, để chính chúng ta được cứu độ và chia sẻ niềm vui cứu độ ấy cho mọi người, ngõ hầu họ nhận ra tình yêu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có lòng nhân từ, tha thứ như Chúa, để chúng con thuộc về Chúa và đem Chúa đến giới thiệu cho người khác bằng chính cung cách sống của chính mình. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Nhân từ và quảng đại
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Cha nhân từ và quảng đại với ta, Chúa Giêsu kêu gọi ta đối xử với nhau nhân từ và quảng đại như vậy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hằng ngày sống bên cạnh nhau, con nhận ra nhiều khuyết điểm nơi người khác. Con dễ kết án họ. Nhưng khi nhìn thấy khuyết điểm nơi những người con yêu mến thân thiện, con dễ dàng thông cảm, thậm chí có những lúc con còn bao che. Đối với những người con quý mến, con luôn cắt nghĩa điều tồi, điều xấu nơi họ thành điều tốt. Con thật là thiên vị trong cách xét đoán. Con còn thiên vị hơn nữa khi đối diện với biết bao tật xấu nơi con. Con vẫn dung túng cho chính mình. Con biết Chúa không hài lòng về thái độ của con. Xin Chúa tha thứ cho con.
Lạy Chúa, xin dạy con nhân từ với hết mọi người. Xin giúp con biết đừng bao giờ bao che cho chính mình hay bao che cho những người thân thiết. Xin giúp con sửa đổi con người con, cho con biết sám hối và đón nhận Tin Mừng.
Xin Chúa ban cho con trái tim bao dung của Chúa để con yêu như Chúa yêu. Giữa thế gian đầy căm thù và ghen tương, con muốn mãi mãi là người của Chúa. Xin giúp con biết tha thứ để con không bao giờ kết án ai, không bao giờ đem khuyết điểm của người khác ra nói hành nói xấu và chỉ trích nhau. Xin cho con biết sống quảng đại với nhau để con đáng hưởng lòng quảng đại của Chúa Cha. Xin cho con biết hy sinh vì người khác, nhất là xin cho con được hiến thân như lễ vật toàn thiêu vì những người tội lỗi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã quảng đại với con, xin giúp con luôn biết rộng lượng với mọi người. Amen.
Ghi nhớ: “Hãy tha thứ thì các con sẽ được thứ tha”.
Suy Niệm 8: Cha anh em là Đấng nhân từ
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Xénophon, nhà triết lý Hy Lạp sống vào giữa thế kỷ thứ V trước Công nguyên đã kể câu chuyện ngụ ngôn về xét đoán:
“Thượng Đế đặt trên vai con người hai cái bị (túi): Một cái đằng trước và một cái đằng sau. Cái bị đằng sau chứa đựng tất cả cái xấu của chính con người mình, còn cái bị đằng trước thì đầy rẫy những cái xấu của người khác. Do đó, con người khó mà thấy được những thiếu sót của mình, nhưng lại dễ dàng nhìn thấy những khuyết điểm của người khác”.
Suy Niệm
Đức Giêsu dạy bài học về lòng nhân từ và bác ái: Đừng xét đoán, đừng lên án. Vì chỉ một mình Thiên Chúa có quyền xét đoán. Hãy tha thứ, hãy cho đi.
Tha thứ là đỉnh cao của lòng vị tha Kitô giáo mà Chúa Giêsu đã đề nghị: Yêu kẻ ghét mình và làm ơn cho người hại mình. Chính Ngài trên thập giá đã sống đỉnh cao yêu thương này và làm gương cho chúng ta khi Ngài đối xử với những kẻ giết mình bằng lời cầu nguyện với Chúa Cha và cũng là di chúc cho chúng ta: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34).
Chúa Giêsu còn nhấn mạnh tha thứ là điều kiện để được thứ tha như Ngài đã dạy chúng ta cầu nguyện mỗi ngày: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12).
Hãy cho đi: Vì Thiên Chúa nhân từ, và giàu tình thương. Chúng ta càng biết mở lòng mình ra với Thiên Chúa, đến với tha nhân thì càng nhận được nhiều hồng ân hơn chúng ta mong đợi đến từ Thiên Chúa như Đức Giêsu khẳng định: “Hãy cho thì sẽ cho lại các con; Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào, thì cũng được đong trả lại bằng đấu ấy!” (Lc 6,38).
Xin Chúa tha thứ cho chúng con vì chưa thực hiện được lời Chúa dạy và giúp chúng con luôn sống nhân từ và quảng đại như Chúa: Quảng đại mở lòng mình ra mà chia sẻ chân thành.
Ý lực sống: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6,36).
Suy Niệm 9: Hãy sống nhân từ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu huấn dụ các môn đệ về tinh thần phải có trong cộng đoàn: có lòng nhân từ, đừng xét đoán và kết án, hãy tha thứ, biết cho đi. Đặc biệt Đức Giêsu nói rằng tùy cách chúng ta đối xử với người khác như thế nào mà ta sẽ đượcThiên Chúa đối xử như thế đó.
Hãy ở nhân từ như Cha các ngươi là Đấng nhân từ:
- Đừng xét đoán, đừng kết án thì khỏi bị kết án.
- Hãy tha thứ thì sẽ được tha thứ.
- Hãy cho đi thì sẽ được cho lại.
2. “Anh em hãy có lòng nhân từ...”.
Sau khi công bố Hiến chương Nước Trời, Đức Giêsu đưa ra những đòi hỏi cụ thể: chúng ta phải thương yêu nhau. Đây là lề luật phải giữ, phải thực hiện. Để đi xa hơn, Đức Giêsu còn đòi hỏi mỗi môn đệ phải yêu thương mọi người không trừ ai, kể cả kẻ thù của mình và bách hại mình. Chúng ta cũng được kêu gọi hãy tha thứ cho kẻ thù và đừng bao giờ lên án ai, đừng bao giờ dùng bạo lực, tốt nhất là làm cho tha nhân điều mà ta muốn tha nhân làm cho mình.
Lý do của tất cả cách cư xử trên vì Cha trên trời: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”. Cha chúng ta thế nào, chúng ta cũng phải sống như vậy, vì thế chúng ta hãy yêu thương, tha thứ, đừng xét đoán, biết cho đi.
3. “Anh em đừng xét đoán...”.
Đức Giêsu cấm không được xét đoán, vì một đàng, con người thì hữu hạn lại vô thập toàn, nên không thể xét đoán đúng và công bằng được; đàng khác, chỉ có Thiên Chúa là Đấng thấu suốt cả bên trong, mới có quyền xét đoán. Nhưng Chúa không cấm con người nhận định về nhau, để giúp nhau hoàn thiện và thăng tiến như sửa lỗi cho nhau, khuyên nhủ nhau...
Xénophon, nhà triết học Hy lạp sống vào giữa thế kỷ thứ V trước Công nguyên đã kể câu chuyện ngụ ngôn về xét đoán: “Thượng Đế đặt trên vai con người hai cái bị. Một cái đàng trước và một cái đàng sau. Cái bị đàng sau chứa đựng tất cả cái xấu của chính con người mình, còn cái bị đáng trước thì đầy dẫy những cái xấu của người khác. Do đó, con người khó mà thấy được những thiếu sót của mình, nhưng lại dễ dàng nhìn thấy những khuyết điểm của người khác”.
4. Như Cha trên trời là Đấng nhân từ.
Chúa dạy các môn đệ phải có tinh thần từ tâm với anh em. Đòi hỏi này gián tiếp chấp nhận sự thật là trong đời sống chúng có những rạn nứt, phiền hà gây đau khổ cho nhau. Nhưng để làm chứng cho tinh thần khoan dung của Chúa đối với tội nhân, Chúa đòi hỏi con cái Ngài, cũng phải có lòng từ tâm đối với nhau. Vì thế, Đức Giêsu đã giới thiệu lòng nhân từ của Thiên Chúa là Cha, như mẫu gương cho các môn đệ noi theo: như Cha anh em trên trời là Đấng nhân từ.
Mahatma Gandhi, một nhà ái quốc Ấn độ, lúc con nhỏ, ông sang Anh quốc học nghề luật sư và nhờ đó có dịp tiếp xúc với Kitô giáo. Ông đọc Phúc âm thường xuyên, đặc biệt ông thán phục bản Hiến chương tám mối phúc thật và lấy đó làm nguồn cảm hứng cho đường lối bất bạo động của ông trong việc dành lại độc lập cho dân tộc mình.Tuy nhiên, có lần ông đã tâm sự với người thân tín rằng dù thán phục Giáo lý của Chúa Kitô, nhưng ông không thể trở thành kẻ tin Chúa, vì ông thấy nhiều Kitô hữu không sống tám mối phúc thật của Chúa. Ông nói: “Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không thích người Kitô. Nếu họ giống như Chúa Kitô thì dân Ấn độ chúng tôi đã trở thành Công giáo cả rồi”.
Nhận xét của Mahatma Gandhi trên đây cảnh tỉnh chúng ta về ơn gọi và trách nhiệm của chúng ta. Là người Kitô hữu, chúng ta phải sống như Chúa Kitô, phải có những tâm tình từ bi, nhân hậu và yêu thương như Ngài.
5. “Anh em hãy cho...”
Vì Thiên Chúa nhân từ và giầu tình thương, chúng ta càng biết mở lòng mình ra với Thiên Chúa, đến với tha nhân được nhiều hồng ân hơn chúng ta mong đợi đến từ Thiên Chúa như Đức Giêsu khẳng định: “Hãy cho thì sẽ cho lại các con. Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn và đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào, thì cũng được đong trả lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38).
6. Truyện: Hãy biết cho đi.
Một người nọ thật giầu, muốn gì cũng có. Tuy vậy ông không thấy hạnh phúc vì ông chỉ nhận được những cái nhìn soi bói, coi thường và khinh miệt của người khác. Ông tìm đến hỏi một người nổi tiếng khôn ngoan:
- Tại sao người ta lại coi thường và khinh miệt tôi là kẻ keo kiệt bủn xỉn? Người ta đâu biết rằng sau khi chết, tôi sẽ hiến tất cả gia tài của tôi cho người nghèo và cho công việc từ thiện?
Để trả lời, nhà khôn ngoan kể cho ông một câu truyện nhỏ sau đây: Một chú heo than thở cùng chị bò cái:
- Tôi cũng như chị, chúng ta cống hiến thịt mình cho loài người. Thế mà tại sao họ thân thiện với chị mà xa lánh tôi?
Ngẫm nghĩ giây lát, chị bò trả lời:
- Thịt chúng ta chỉ công hiến cho loài người khi chúng ta chết. Còn bây giờ họ quí mến tôi hơn có lẽ tại tôi hiến cho họ sữa lúc tôi còn sống đấy chăng? (Món quà Giáng sinh).
Suy Niệm 10: Sống nhân từ, không xét đoán, tha thứ và cho đi
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc Cựu Ước trích sách Đaniel là một lời cầu nguyện sám hối. Sách Bài đọc Phụng vụ tóm lược ý nghĩa lời cầu nguyện này trong một câu: “Chúng con đã phạm tội và làm điều gian ác”.
2. Bài trích Phúc Âm ghi những điều Chúa dạy: Nhân từ, đừng xét đoán và kết án, tha thứ, biết cho đi. Đặc biệt Chúa Giêsu nói rằng tuỳ cách ta đối xử với người khác như thế nào mà ta sẽ được Thiên Chúa đối xử như thế đó
- Hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ
- Đừng xét đoán; đừng kết án thì các con khỏi bị kết án
- Hãy tha thứ thì các con sẽ được tha thứ
- Hãy cho thì sẽ cho lại các con
Các động từ ở vế thứ hai ở thể thụ động, hàm ý chính Thiên Chúa là Đấng tác nhân chủ động.
3. Đọc bài trích Phúc Âm chung với bài Cựu Ước, ta thấy Giáo Hội muốn dạy rằng: phương cách để chúng ta được Chúa tha thứ là hãy sống nhân từ, không xét đoán, tha thứ và cho đi.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Sám hối không phải chỉ là tâm tình hối hận vì những tội đã phạm, mà còn là làm việc lành để đền bù tội lỗi. Những việc lành đó được Chúa Giêsu chỉ rõ trong bài Phúc Âm này: Nhân từ, rộng lượng (không xét đoán và kết án), tha thứ, biết cho đi.
2. Trong những việc lành vừa kể, Chúa Giêsu nói nhiều hơn về việc cho đi, Ta biết cho thì Chúa sẽ cho lại. Chúa dùng hình ảnh cái đấu: nếu ta đong cho người ta bằng cái đấu nhỏ hoặc cái đấu thiếu thì Chúa sẽ đong lại cho ta bằng cái đấu nhỏ hoặc thiếu y như vậy. Ngược lại nếu ta đong cho người ta bằng đấu to thì Chúa sẽ đong lại cho ta bằng cái đấu to hơn gấp bội, lại còn dằn, còn lắc và đầy tràn nữa.
3. Một người nọ thật giàu muốn gì cũng có. Tuy vậy ông không thấy hạnh phúc vì ông chỉ nhận được những cái nhìn soi bói, coi thường và khinh miệt của người khác. Ông tìm đến hỏi một người nổi tiếng khôn ngoan: “Tại sao người ta lại coi thường và khinh miệt tôi cho tôi là kẻ keo kiệt bủn xỉn? Người ta đâu biết rằng sau khi chết, tôi sẽ hiến tất cả gia tài của tôi cho người nghèo và cho công việc từ thiện”. Để trả lời, nhà khôn ngoan kể cho ông một câu chuyện nhỏ như sau: một chú heo than thở cùng chị bò cái: “Tôi cũng như chị, chúng ta cống hiến thịt mình cho loài người. Thế mà tại sao họ thân thiện với chị mà xa lánh tôi?” Ngẫm nghĩ giây lát, chị bò cái trả lời: “Thịt chúng ta chỉ cống hiến cho loài người khi chúng ta chết. Còn bây giờ họ quý mến tôi hơn có lẽ tại tôi hiến cho họ sữa lúc tôi còn sống đấy chăng”. (Trích “Món quà giáng sinh”)
4. Thầy giáo: “Tâm, bây giờ thầy nói cho em ghi nhớ phương châm này: Cho có phúc hơn nhận”.
- Em đã biết điều đó, vì là phương châm trong nghề của Ba em.
- Ồ, thật tuyệt vời! Ông ấy làm nghề gì?
- Võ sĩ. (Góp nhặt)
5. Đang đi dạo, tôi ngạc nhiên nhìn thấy một người ngồi trên ghế mà cuốc vườn. Tôi nghĩ: “Quá lười biếng!”. Nhưng đột nhiên tôi thấy đôi nạng dựa ở ghế của anh. Thì ra anh vẫn làm việc dù bị tật nguyền.
Bài học tôi học được về sự phán đoán nông nổi vẫn khắc ghi trong tôi cho đến hôm nay: thánh giá của người khác đôi khi là do cái nhìn hạn hẹp của ta (Góp nhặt)
6. Tha thứ giống như cái gì? Giống như mùi hương mà bông hoa tỏa ra khi nó bị giẫm nát (Góp nhặt).
Suy Niệm 11: Biết cho đi
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa dạy chúng ta rất nhiều điều: Nhân từ, đừng xét đoán và kết án, hãy tha thứ và biết cho đi. Đặc biệt Chúa Giêsu nói rằng, tùy cách ta đối xử với người khác như thế nào thì ta sẽ được Thiên Chúa đối xử lại như vậy.
Trong những việc lành vừa kể trên, Chúa nhấn mạnh hơn về việc biết cho đi.
Mẹ Têrêsa kể: “Có người hỏi một người đàn ông Hindu: “Kitô hữu là gì ?” Ông trả lời: “Kitô hữu là người biết cho đi”.
Hãy mở lòng, để Thiên Chúa làm thấm nhuần tấm lòng bạn bằng tình yêu thương. Chúa yêu thương bạn với tình yêu dịu hiền. Những gì Chúa ban tặng không phải để bạn giữ lấy và khoá kỹ, nhưng để bạn cho đi.
Bạn càng dành dụm, bạn càng ít khả năng trao tặng, bạn càng có ít, càng biết rõ bạn phải cho đi bao nhiêu. Nếu có xin gì, chúng ta hãy xin Ngài giúp chúng ta sống quảng đại.
Tại Ấn Độ, nếu ai cho người nghèo một ít gạo, họ sẽ vui vẻ mãn nguyện khi nhận quà. Tại Âu Châu, người nghèo không nhận mình nghèo, nên với nhiều người, thái độ này đã làm nảy sinh nỗi thất vọng.
Chiều muộn (khoảng 10 giờ đêm), nghe chuông reo, tôi ra mở cửa và gặp một người đàn ông đang run rẩy vì lạnh.
“Thưa mẹ Têrêsa, con nghe mẹ vừa nhận một giải thưởng lớn. Khi hay tin này, con quyết định cũng tặng Mẹ món quà gì đó. Đây mẹ nhận đi. Đó là những gì con quyên được hôm nay”.
Chỉ là một chút thôi, nhưng trong hoàn cảnh của anh, đó là tất cả.
Tôi cảm động trước “giải thưởng” của anh hơn là lúc nhận giải Nobel.
Có ngày, một đôi vợ chồng trẻ đến nhà chúng tôi và xin gặp tôi.
Họ tặng tôi một món tiền lớn, tôi hỏi: “Các bạn kiếm được số tiền lớn này ở đâu ?”. Họ trả lời: “Chúng con mới cưới nhau hai ngày. Trước khi cưới, chúng con đã quyết định không tổ chức đám cưới, không sắm áo cưới, không làm tiệc cưới, chẳng đi trăng mật. Chúng con muốn tặng mẹ số tiền chúng con dành dụm được”.
Tôi hiểu hết ý nghĩa của quyết định đó, nhất là đối với một gia đình Hindu. Do đó tôi hỏi: “Các bạn nghĩ thế nào về chuyện đó ?”
“Chúng con yêu nhau nhiều, nên chúng con muốn chung chia niềm vui về tình yêu của chúng con với những người mẹ đang phục vụ.
Chia sẻ: hành động tốt đẹp biết bao!
Ta biết cho đi thì Chúa sẽ cho lại. Chúa dùng hình ảnh cái đấu để cắt nghĩa: nếu ta đong cho người ta bằng cái đấu nhỏ hoặc cái đấu thiếu thì Chúa sẽ đong lại cho ta bằng cái đấu nhỏ hoặc thiếu y như vậy. Ngược lại, nếu ta đong cho người ta bằng đấu to thì Chúa sẽ đong lại cho ta bằng cái đấu to hơn gấp bội, lại còn dằn, còn lắc và đầy tràn nữa.
2. Chúa cũng nói với chúng ta về việc cần phải sám hối.
Sám hối không phải chỉ là tâm tình hối hận vì những tội đã phạm, mà còn là làm việc lành phúc đức để đền bù tội lỗi. Một trong những việc làm đó là tha thứ. Ta sám hối để cầu Chúa tha thứ cho ta thì ta cũng phải biết tha thứ cho anh em ta.
Liền sau thế chiến thứ II chấm dứt, bà Koritainbun một con người còn mang đầy những vết sẹo trên thân thể. Đó là những tàn tích của những khổ hình mà bà phải chịu trong trại tập trung của Đức quốc xã. Bà đã đi khắp Âu Châu rao giảng về sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.
Thế nhưng, vào một Chúa Nhật nọ, sau khi kêu gọi mọi người tha thứ cho nhau trong nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài, bất ngờ bà phải đối diện với một gương mặt rất quen thuộc, đó là dung mạo của người lính đã hành hạ làm khổ bà cũng như hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung. Từ thâm tâm, bà cảm thấy những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn, và những tiếng kêu thét đòi trả thù nổi lên mạnh mẽ.
Ngay lúc đó, người đàn ông này tiến lại khiêm tốn đưa tay ra, vừa muốn bắt tay bà vừa muốn nói:
- Thưa bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của bà kêu gọi sự tha thứ, xin bà tha thứ cho tôi.
Bà Koritainbun như chết điếng người, vì trước đây bà đã cầu nguyện và nhất quyết tha thứ thật sự, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã từng tra tấn mình, bà đứng lặng im, tay không tài nào đưa ra để bắt tay người đến xin bà tha thứ.
Sau này vào năm 1971, khi kể lại biến cố trong tập sách “Nơi ẩn trốn”, bà đã cho biết: Trong những giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời cầu nguyện “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho con người đã làm khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để có thể tha thứ như Chúa”.
Và chính trong lúc đó, bà đã hiểu rằng, con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi họ được nhận tình thương yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa.
25/02 Con Ta rất yêu dấu
- Viết bởi Mc 9, 1-9
Con Ta rất yêu dấu.
CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY năm B.
"Ðây là Con Ta rất yêu dấu".
Lời Chúa: Mc 9, 1-9
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu.
Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ.
Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông.
Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY B
Lời Chúa: St 22,1-2.9a.10-13.15-18; Rm 8,31b-34; Mc 9,2-10
1. Được biến đổi hình dạng--‘Manna’
2. Rực rỡ trắng tinh--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
3. Biến hình--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Sống thân mật với Chúa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
5. “Lên núi”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
6. Muốn hạnh phúc phải vâng lời Người--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
7. Đức Giêsu- bảo chứng tình yêu--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
8. Thiên Chúa trên hết--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
9. Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho loài người--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
10. Thử thách trong cuộc sống--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
11. Đức tin trong đau khổ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
12. Hãy nghe lời Người--Lm. Đan Vinh
13. Biến đổi lòng tin, biến đổi cuộc đời!--Lm. Anmai, CSsR
14. Xin ơn biến đổi--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
15. Xin ơn biến đổi trong Mùa Chay Thánh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
16. “Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
17. Đường lối của Thiên Chúa và tư tưởng của con người--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
18. Đây là Con Ta yêu dấu--Lm. Trầm Phúc
19. Nhìn vào mặt tốt--Lm. Ignatiô Trần Ngà
20. Từ Tabor đến Golgotha--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
21. Hai khuôn mặt một tình yêu--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
22. Chữ tình?--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
23. Hãy tỏ mình là hình ảnh Chúa--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
24. Thế giới nào là ảo?--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
25. Thôi đừng đầy đọa nhau--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
26. Tuân phục--Trầm Thiên Thu
27. Đức Tin cột trói chúng ta--Peter Feldmeier--Văn Hào, SDB chuyển ngữ
28. Thay đổi--Lm. Vũ Đình Tường
29. Con yêu dấu--Lm. Vũ Đình Tường
30. Ngộ ra--Lm. Vũ Đình Tường
31. Ánh sáng của đức tin--Lm. Hà Ngọc Đoài
32. Ai hiểu được chữ tình?--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
33. Crux est lux-Thập Giá là vinh quang!--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
34. Lên núi--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
35. Người đã phó nộp Ngài vì hết thảy chúng ta--Lm. Stephanô Bùi Thượng Lưu
36. Cuối đường hầm hay trên đỉnh núi?--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
37. Tìm vinh quang Thiên Chúa ở đâu?--Lm. Trần Xuân Lãm
38. Đức Giêsu hiển dung--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
39. Con người phải lòng Thiên Chúa--Lm. Giuse Lê Danh Tường
40. Lên núi cầu nguyện--Tôma Nguyễn Xuân Hiệp
41. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Đức Ông James M. Reinert--Đan Quang Tâm dịch
42. Lên núi để được biến đổi--Lm. Minh Anh
43. Hai khuôn mặt một tình yêu--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
44. Vâng phục thánh ý Chúa: Đường trọn lành hoàn hảo--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
45. Hãy Nghe Lời Người--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
46. Biến hình trong đời thường--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
47. Một thoáng Thiên Đàng--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
48. Từ cõi chết sống lại, nghĩa là gì?--Lm Trần Bình Trọng
49. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--‘Tin Vui Xuân Lộc’
50. Đức Giêsu biến đổi hình dạng--Lm PX Vũ Phan Long
51. Tin vào Đức Giêsu Kitô--Lm. Fx. Vũ Phan Long
52. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
53. “Hãy nghe Lời Người”--Lm. Xuân Hy Vọng
54. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
55. Từ Tabor đến Golgotha--Thiên Phúc
56. Biến hình--tinmung.net
57. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Alfonso
58. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
59. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
60. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--AM Trần Bình An
61. Một thoáng Thiên Đàng--AM Trần Bình An
62. Hạnh phúc thiên đàng--Lm. Minh Vận, CRM
63. Sống trọn ơn gọi của mình--Lm. Tuấn Bình, CRM
64. Đệ tam nhãn--Lm. Vincent Travers
65. Suy Niệm của JKN
66. Tình yêu tận hiến--Lm. Anphong Trần Đức Phương
67. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Văn Phan
68. Hãy lắng nghe--Rolland Dionne
69. Điều quan trọng là biết nghe Chúa Giêsu--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
70. Chúa tỏ vinh quang Ngài--Noel Quesson
71. Cuộc biến hình--Jacques Hervieux
72. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Noel Quesson
73. Vinh quang trên đỉnh núi--William Barclay
74. Đức Giêsu hiển dung trên núi--Fiches Dominicales
75. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
76. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
77. Đức tin và đau khổ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang--Joshepus Quang Nguyễn
78. Abraham
79. Vinh quang
80. Đau khổ
81. Chúa Nhật 2 Mùa Chay
82. Thập Giá, Vinh Quang
83. Y phục Người trở nên rực rỡ
84. Đức Giêsu biến hình vinh quang
85. Chúa Nhật 2 Mùa Chay
86. Chúa Nhật 2 Mùa Chay
87. Con đường Chúa và tôi đi
88. Vinh quang thập giá
89. Tabor với Đức Giêsu
90. Đức tin và đau khổ
91. Chúa biến hình
92. Sống với Chúa
93. Biến hình
94. Giây phút tột đỉnh
95. Trên đỉnh Taborê
96. Thiên Chúa về phía
97. Sự hy sinh của Isaac
98. Tin để lên núi--Huệ Minh
1.Được biến đổi hình dạng--‘Manna’
Suy Niệm
Đức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ,
đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện.
Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Đức Giêsu:
núi của Bài Giảng về các mối phúc,
núi Tabo nơi Ngài biến hình,
núi Sọ và núi Ô-liu nơi Chúa thăng thiên.
Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh dấu.
Những ngọn núi đan vào nhau làm nên cuộc hành trình.
Ba môn đệ thân tính được Ngài đưa lên núi Tabo,
để củng cố niềm tin của họ,
trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha bỏ rơi
và bị mọi người khai trừ ruồng rẫy trên núi Sọ.
Nhưng vinh quang của núi Tabo
chỉ là một loé sáng bất ngờ và tạm thời,
báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về Thiên Quốc.
Biến hình là một hành động của Thiên Chúa Cha.
Sau khi gặp Cha, Đức Giêsu được Cha biến hình.
Sự biến đổi này ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt,
và đến cả y phục của Ngài.
Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người vốn bị che khuất,
nay được Cha hé mở cho các môn đệ.
Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp Đức Chúa
cũng đã phải che lại khuôn mặt chói lọi của mình.
Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình.
Đời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa
làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.
Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình,
như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá.
Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình:
tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa.
Từ khi chịu phép Thánh Tẩy,
chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục.
Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu
chúng ta sẽ được biến hình đổi dạng
và phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa (x. 2Cr 3,18).
Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là.
Đời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi
và xuống núi với Chúa Kitô mỗi ngày.
Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc
khi được chiêm ngắm Chúa Giêsu trên núi cao.
Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa
để đi đến nơi hiến mình, nơi phục vụ, đi cùng
và đi sau Chúa Giêsu đến với Vườn Dầu và Núi Sọ.
Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai góc đời thường
và nhìn mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ.
Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa
để rồi được sai xuống núi hành đạo.
Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Một số bạn trẻ bỏ rất nhiều tiền để sửa sang sắc đẹp và chạy theo mốt. Bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn con người?
Cầu nguyện có thể làm con người "biến hình". Bạn có tin điều đó không? Bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được
con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.
2.Rực rỡ trắng tinh--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm
Vào thế kỷ thứ 8 và thứ 9, các vị hoàng đế Byzantin
đã ra lệnh đập phá các ảnh tượng tôn giáo,
bởi họ tin rằng Kinh Thánh cấm không được tạc ảnh tượng.
Đầu thế kỷ thứ 8, thánh Gioan Đamascô đã chống lại chuyện này.
Ngài viết: “Vào thời xưa, Thiên Chúa không có hình có dạng,
nên không bao giờ có thể được vẽ ra.
Nhưng nay, khi Thiên Chúa đã mang xác thể,
trò chuyện với con người,
tôi sẽ vẽ một bức tranh theo Thiên Chúa mà tôi thấy.”
Nhờ khẳng định mạnh mẽ này của thánh nhân
mà ngày nay chúng ta có những ảnh tượng thánh.
Qua mầu nhiệm Nhập Thể, nơi con người Đức Giêsu,
Thiên Chúa vô hình đã có một khuôn mặt, một thân xác,
giống như bất cứ người nào trong chúng ta.
Các môn đệ đã rất quen với khuôn mặt ấy, thân xác ấy.
Họ đã có thời gian sống chung, trò chuyện và gặp gỡ
với người mà họ gọi là Thầy, là Rabbi !
Cách đây sáu ngày, tại vùng đất dân ngoại (Mc 8,27),
Thầy đã nói cho các môn đệ biết về tương lai của mình:
bị đau khổ, bị loại trừ, bị giết và sống lại.
Thầy cũng nói cho các môn đệ biết về tương lai của họ:
từ bỏ mình, vác thập giá, mất mạng sống để rồi tìm được lại.
Họ đã có dấu hiệu chùn bước khi nghe về tương lai u ám…
Chẳng ai để ý đến việc Thầy nói về phục sinh (Mc 8,31),
hay về việc Thầy sẽ đến trong vinh quang rực rỡ (Mc 8,38).
Hôm nay, Thầy dẫn ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao,
nơi Thầy quen gặp Cha, Đấng sai Thầy.
Chính nơi đây Thầy đã được Cha biến đổi hình dạng.
Không phải chỉ khuôn mặt, nhưng toàn bộ con người.
Cả con người Thầy rạng ngời ánh vinh quang thần linh.
Cả y phục của Thầy cũng mang sắc trắng của thiên giới.
Vị Thầy thân quen của họ như bước ra từ một thế giới khác.
Rồi có hai nhân vật đáng kính là Êlia và Môsê xuất hiện.
Các vị này trò chuyện với Thầy Giêsu.
Cảnh tượng linh thiêng này làm họ ngây ngất và hoảng sợ.
Đỉnh điểm của thị kiến này là tiếng nói phát ra từ đám mây.
Mây vừa che giấu, vừa tỏ bày sự hiện diện của Thiên Chúa.
Thiên Chúa trực tiếp nói với các môn đệ từ đám mây.
Ngài giới thiệu cho họ biết Thầy Giêsu của họ là ai.
Thầy không chỉ là Đấng Kitô như Phêrô tuyên xưng.
Thầy chính là Người Con yêu dấu của Thiên Chúa,
có tương quan thân thiết với Cha chẳng ai sánh bằng.
Hai ông Êlia và Môsê xuất hiện rồi lại biến đi.
Chỉ Thầy Giêsu còn ở lại, chỉ Thầy được gọi là Con yêu dấu.
Thiên Chúa Cha ra lệnh: Hãy lắng nghe Người (Mc 9,7).
Lắng nghe về định mệnh đang chờ đợi cả Thầy lẫn trò,
rồi chấp nhận và đi vào con đường Thiên Chúa dọn sẵn,
con đường hẹp, chẳng ai muốn đi,
nhưng lại dẫn đến sự sống, chứ không phải là ngõ cụt.
Cứ mỗi Chúa nhật 2 Mùa Chay ta lại đọc bài Chúa Biến hình.
Đây là một hy vọng xanh ngát ngay giữa màu tím của phụng vụ.
Rồi cũng đến lúc Thầy trò phải xuống núi hạnh phúc này
để lên núi Cây Dầu và núi Sọ.
Rồi có lúc ba môn đệ sẽ thấy khuôn mặt xao xuyến của Thầy,
khuôn mặt đầy máu và thương tích trong cuộc Khổ nạn.
Nhưng Phêrô sẽ không quên được kinh nghiệm này (2 Pr 16-18):
nghe tiếng của Thiên Chúa Cha phán từ trời trên núi thánh.
thấy Thầy Giêsu với vẻ lẫm liệt uy phong.
Biến hình là quà tặng của Thiên Chúa dành cho Đức Giêsu.
Khi Ngài đón lấy ý định nhiệm mầu của Cha,
thì thần tính vốn bị che giấu nay được Cha vén mở.
Mùa Chay là thời gian chúng ta lên núi để được biến hình,
nếu chúng ta chấp nhận lắng nghe và tuân giữ lời Con Chúa.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa,
xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hon
sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
3.Biến hình--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong đời, có những giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn gió thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu biến hình. Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn luyện họ. Cuộc biến hình của Người diễn tiến qua ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất: lên núi.
Theo quan niệm của người Do thái núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống thường ngày với những lo toan bận bịu cho bản thân, cho gia đình. Phải dành thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn đấu với bản thân khi leo lên độ cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái. Đức Giêsu chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình thân mật. Chúa muốn cùng ta thực hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày tỏ với Người tình yêu của ta.
Giai đoạn thứ hai: biến hình.
Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng. Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông. Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.
Giai đoạn ba: xuống núi.
Khi đã hưởng nếm hạnh phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phêrô, trong giây phút hạnh phúc tuyệt vời, đã xin Chúa cho dựng ba lều để ở lại vĩnh viễn trên núi. Nhưng giây phút hạnh phúc thật ngắn ngủi. Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng nề. Đức Giêsu phải chịu đau khổ, chịu vác thánh giá, chịu đóng đinh, chịu chết rồi mới phục sinh. Thánh Phêrô cùng các tông đồ còn phải phấn đấu với những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong việc rao giảng Tin Mừng, còn phải chịu đau khổ vì Thày chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước.
Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự thánh lễ, đọc kinh và nhất là những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi tĩnh tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để đến với Chúa và nhất là để kết hiệp với Chúa trong những giờ cầu nguyện, ta phải phấn đấu rất nhiều.
Trong thân mật, Chúa sẽ dạy bảo ta về đường lối của Chúa, sẽ uốn nắn ta theo chương trình của Người và sẽ biến đổi ta nên giống hình ảnh Người. Ta có thể cộng tác vào cuộc biến hình khi khao khát kết hiệp với Chúa, khi cố gắng thanh luyện bản thân, khi quên mình, ngoan ngoãn để mặc Chúa hướng dẫn bước đường.
Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những khó khăn gian khổ của đời sống. Núi thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước và sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Một số bạn trẻ tiêu tốn nhiều thời giờ và tiền bạc cho sắc đẹp bên ngoài. bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn?
2- Cầu nguyện có thể làm con người 'biến hình'. Bạn có tin điều đó không? bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc sống hạnh phúc với Chúa bao giờ chưa?
4- Mùa Chay này bạn có thực sự muốn 'biến hình' không? Bạn sẽ làm gì để thực hiện ước nguyện đó?
4.Sống thân mật với Chúa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ấy là một tình yêu sáng tạo không bao giờ ngừng nghỉ. Thiên Chúa vẫn từng phút từng giây đổ tràn tình yêu của Người vào đời sống ta. Tình yêu ấy là một tình yêu tha thứ. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu sẵn sàng tha thứ và đón nhận những đứa con hoang đàng trở về. Tình yêu ấy là một tình yêu mong đợi. Thiên Chúa mong đợi ta hiểu biết tình yêu của Người, đền đáp tình yêu của Người, đến sống thân mật với Người.
Niềm khao khát sống thân mật được tỏ bày qua việc Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao. Chỉ chọn riêng ba người vì sự thân mật không thể có giữa đám đông. Sự thân mật chỉ có trong một nhóm nhỏ, vì sự thân mật là mối tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn gặp gỡ riêng ta với Người, muốn có cuộc trò chuyện riêng tư với từng người. Đức Giêsu đưa họ lên núi cao. Núi cao là nơi yên tĩnh. Tình thân mật không thích những chỗ ồn ào. Tình thân mật được phát triển ngoài thiên nhiên, trong thanh vắng. Lên núi cao là bỏ lại sau lưng những phiền toái trần tục, để dành hết tâm tư, thời giờ cho cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, núi cao là nơi Chúa ngự. Lên núi cao có nghĩa là đến gặp Chúa. Trong gặp gỡ thân mật, Chúa sẽ mặc khải cho ta biết nhiều điều về Chúa và về bản thân ta.
Trước hết Chúa cho ta hiểu biết về Người. Chúa đưa ta vào đời sống thâm sâu của Người. Đó là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự sống của Ba Ngôi là tình yêu, một tình yêu không ngừng trao tặng và không ngừng nhận lãnh. Tình yêu đó là nguồn mạch sự sống và là nguồn mạch hạnh phúc. Sự sống và hạnh phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn những ai đến sống thân mật với Chúa. Ai đã một lần nếm cảm hạnh phúc ấy rồi, vĩnh viễn không thể tách rởi Thiên Chúa được nữa. Chính vì thế, sau khi ngắm nhìn dung nhan Đức Giêsu và sau khi nghe lời Chúa Cha nói: “Đây là Con Ta yêu dấu”, thánh Phêrô cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập tràn đến độ muốn ở lại mãi mãi trên núi, không muốn trở xuống nữa. Chúng ta nhớ lại hai môn đệ Gioan và Anrê, sau một buổi chiều sống với Đức Giêsu đã quyết định theo làm môn đệ của Người. Thánh Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ ba đã mạnh dạn nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Không, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).
Sau khi cho ta hiểu biết người, Chúa cho ta hiểu biết chương trình của Người. Chương trình của Chúa là chương trình của tình yêu. Tình yêu được minh chứng qua sự hy sinh quên mình. Chúa Cha, vì yêu thương ta, đã đành hy sinh Con Một yêu quý của Người. Tình yêu ấy được diễn tả qua hành động của Abraham mà ta nghe đọc trong bài đọc thứ nhất. Chúa Con, vì yêu thương ta, đã chấp nhận liều mạng sống như lời Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao bằng tình yêu người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. Chương trình tình yêu của Chúa để cứu chuộc ta được thực hiện qua sự đau khổ và cái chết trên thập giá của Đức Giêsu.
Sau cùng, trong thân mật với Chúa, Chúa cho ta hiểu biết về bản thân mình. Gần bên Chúa quyền năng, ta thấy mình chỉ là cát bụi. Sống trong trái tim dịu dàng của Chúa, ta thấy mình quá độc ác dữ tợn. Hưởng nếm tình yêu của Chúa rồi, ta thấy mình chỉ là phường bội nghĩa vong ân. Uống vào suối nguồn sự sống của Chúa, ta khám phá ra những mầm mống chết chóc mà ta ấp ủ trong mình. Tiếp cận với nguồn ánh sáng tinh tuyền của Chúa, ta thấy mình chỉ là bóng tối nhơ uế.
Hiểu biết những sự thực về Chúa và về bản thân, ta sẽ có một cái nhìn khác về con người và thế giới. Ta sẽ nhìn mọi người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như thể nó đã được biến hình trong Đức Giêsu. Ta sẽ nhìn thấy tình yêu Chúa dành cho mỗi người. Mỗi người đều là kết quả của tình yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng sẽ nhìn thấy con đường mình phải đi là con đường Thánh giá. Chính những đau khổ sẽ thanh luyện, giúp ta nên tinh tuyền để càng ngày càng gần gũi thân mật với Chúa hơn.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý
1) Bạn đã có kinh nghiệm về sống thân mật với Chúa chưa?
2) Sống thân mật với Chúa ta sẽ hiểu biết gì?
3) Trong mùa Chay này, bạn có dành thời giờ để sống thân mật với Chúa không?
5.“Lên núi”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Nếu Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, Phụng vụ muốn đưa chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu, thì Chúa nhật này, Phụng vụ lại mời chúng ta cùng lên núi với Người. Vào sa mạc để sống tinh thần khổ chế của chay tịnh; lên núi cao để được biến đổi, canh tân.
Trong truyền thống Thánh Kinh, núi cao thường được coi như nơi thuận tiện để con người được gặp gỡ Thiên Chúa. Ba tháng sau khi ra khỏi Ai Cập, các vị kỳ lão đại diện cho Dân Do Thái được ông Môisen dẫn lên đỉnh núi Sinai để gặp Chúa. Tại đây Chúa ban cho họ Luật Giao ước (x. Xh chương 19). Ngôn sứ Elia trong cuộc chạy trốn vua Akháp đã đi bốn mươi ngày đêm để đến núi Horeb. Ở đó, ông được gặp Chúa và tìm được sức mạnh để có thể đối diện với những khó khăn trong sứ mạng (x. 1V chương 19). Trong Tân ước, núi cao cũng là những địa điểm gắn liền với giáo huấn của Chúa Giêsu. Chính trên núi cao mà Người giảng tám mối phúc thật, được coi như Luật Mới của Tin Mừng. Cũng trên đỉnh núi, người biến hình đổi dạng trước mặt ba môn đệ. Và cuối cùng, trên núi cao, Đấng Phục sinh đã gặp gỡ các môn đệ và sai các ông đi khắp thế gian để tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng mà Người đã thực hiện khi còn tại thế.
Để lên được núi cao, con người phải buông bỏ những ràng buộc. Người nào mang quá nhiều hành trang sẽ khó có thể tới đỉnh núi. Lên núi thiêng liêng là bỏ bớt những tham lam ích kỷ, những toan tính nhỏ nhen để con người thanh thoát. Chỉ khi nào chấp nhận buông bỏ, chúng ta mới gặp được Chúa.
Có hai cuộc lên núi được đề cập trong Lời Chúa hôm nay, đó là Bài đọc I trích sách Sáng thế và Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô.
Ông Abraham sinh được một mụn con vào lúc đã một trăm tuổi và ông đặt tên là Isaac. Tên gọi này có nghĩa là “Thiên Chúa làm cho tôi cười”, như chính bà Sara vợ ông đã giải thích (x. St 21,1-7). Chẳng cần phải nói, chúng ta cũng biết hai ông bà yêu quý cậu con trai nối dõi tông đường này thế nào, vì đây là niềm hy vọng và là niềm vui duy nhất của ông ở tuổi xế chiều. Tuy vậy, Chúa muốn thử thách lòng trung thành của Abraham, và Ngài truyền cho ông sát tế con mình làm của lễ toàn thiêu trên một ngọn núi. Dưới ngòi bút của tác giả, Abraham được diễn tả như một người kiên định và hoàn toàn phó thác vào Chúa. Đối với ông, thánh ý Chúa là điều tối quan trọng, những điều khác chỉ là vô nghĩa, kể cả đứa con độc nhất của mình. Nếu Abraham đã trung thành với Chúa, thì Chúa không bỏ rơi ông. Chúa có cách can thiệp của Ngài. Chính Chúa sẽ tìm ra một giải pháp, một lối thoát cho hoàn cảnh này. “Chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ!” – lời nói của Abraham với con mình đã khẳng định sự xác tín của ông. Và, quả thật là Chúa sẽ liệu, như chúng ta thấy ở phần kết của câu chuyện. Ngọn núi từ đó được mang tên “Núi Đức Chúa sẽ liệu”. Qua vị sứ thần, Thiên Chúa đã ghi nhận lòng vâng lời, trung thành và tín thác của ông, khi ông không ngần ngại sát tế đứa con thừa tự của mình. Chính do lòng trung thành này mà Thiên Chúa hứa cho ông những điều tốt đẹp ở tương lai. Đó là một dòng dõi đông đảo và được chúc phúc.
Cuộc lên núi thứ hai được diễn tả như một cuộc thần hiện của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Tác giả Mác-cô cẩn thận ghi rõ chi tiết thời gian “sáu ngày sau” ở đầu trình thuật. Đó là sáu ngày sau khi Chúa Giêsu loan báo lần thứ nhất cuộc thương khó và phục sinh. Trước lời loan báo này, xem ra các ông không hiểu gì. Vậy nên ông Phêrô mới can gián Người và bị Người gọi là Satan (x. Mc 8,33). Chính trong bối cảnh ấy là Chúa dẫn ba môn đệ thân tín lên núi và Người biến hình đổi dạng trước mắt các ông. Ba môn đệ đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan đã được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình trên núi. Các ông ngỡ ngàng trước cảnh tượng mà các ông nhìn thấy. Nơi đây, các ông chứng kiến một cuộc “thần hiện” huy hoàng: Chúa Giêsu không còn dáng vẻ của một người thường như mọi ngày, nhưng Người đã tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa, vinh quang sáng ngời, quyền năng mạnh mẽ. Bóng mây bao phủ và tiếng nói từ trời là cách diễn tả Thiên Chúa Cha. Ngài giới thiệu cho mọi người biết sứ mạng Thiên Sai của Con Một Ngài. Hai nhân vật nổi bật của Cựu ước, ông Môisen tượng trưng cho Lề Luật, ông Elia tượng trưng cho truyền thống ngôn sứ, đều hiện ra cùng lúc để làm chứng về Chúa Giêsu. Đối với độc giả Do Thái, khi đọc những dòng trình thuật này, chắc chắn họ không thể thắc mắc gì về sứ mệnh thiên sai của Đức Giêsu. Người là Đấng được Lề Luật và các Ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa, nay đã đến để cứu độ con người. Ba môn đệ là những người được biến đổi trước hết. Nếu trước đó sáu ngày, ông Phêrô còn ngờ nghệch và nghi nan, thì hôm nay khi chứng kiến Chúa biến hình, ông lại choáng ngợp trước vẻ huy hoàng của cuộc biến hình. Ông đã ngỏ lời làm ba lều, một cho Chúa, một cho ông Môisen và một cho ông Elia. Tác giả Phúc âm không quên chú giải thêm: ông không biết mình nói gì, vì kinh hoàng. Khi chứng kiến cuộc “thần hiện” này, quan niệm về Đấng Thiên sai nơi ba tông đồ không còn mang những nét trần tục, nhưng hoàn toàn thần thiêng. Nhờ sự biến đổi này, các ông xác tín vào Thày mình, Đấng họ đã từ bỏ mọi sự mà tin theo.
Trong cuộc sống thường nhật, giữa bao nhiêu bon chen tính toán trần tục, chúng ta thường bị cám dỗ và có nguy cơ trở nên tầm thường, ti tiện trong ứng xử. Mùa Chay là mùa “lên núi” để tập sống tinh thần của Abraham, tín thác cậy trông vào Chúa. Mùa Chay cũng là mùa lên núi như các tông đồ để cảm nhận rõ hơn sứ mạng của Đấng Cứu thế, với xác tín Người đang hiện diện giữa chúng ta. Theo Chúa chính là một cuộc leo núi, kiên trì, liên lỉ. Trong cuộc leo núi, có nhiều người bỏ dở ngang đường vì không đủ can đảm trút bỏ những vướng víu ngăn cản tiến lên. Mùa Chay giúp ta nhìn lại chặng đường mình đã đi, nhiều khi không phải là lên cao nhưng trái lại, đang là những tụt dốc, làm chúng ta càng ngày càng trở nên xa Chúa và xa rời anh chị em mình. Sám hối ăn năn, giao hòa với Chúa và với anh em, từ bỏ lối mòn của quá khứ để dám lên đường khởi đầu một hành trình mới, đó chính là một cuộc “lên núi” thiết thực đối với chúng ta.
“Chúa không hứa ban cho chúng ta một cuộc hành trình êm ả, Người chỉ hứa giúp ta đến đích an toàn” (John Gower – Thi sĩ người Anh, thế kỷ 14).
6.Muốn hạnh phúc phải vâng lời Người--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
“Lạy Thầy, chúng con ở đây sướng quá, chúng con xin dựng ba nhà, một cho Thầy, một cho Môisen, và một cho Êlia”. Đây là tâm sự của Phêrô lúc được hưởng hạnh phúc Chúa biến hình rực rỡ vinh quang, một hạnh phúc thiên đàng vừa hé mở. Phêrô đã thuật lại rất sống động tâm sự này cho các tín hữu đang chịu thử thách cam go vì đạo, và được Marcô, con tinh thần của Phêrô viết lại.
Thánh Phêrô đã quả quyết có hạnh phúc đời đời để cho mọi người tin tưởng vững vàng sống theo lời Chúa, sẵn sàng hy sinh vì đức tin, họ sẽ được vinh quang nước trời. Một thứ hạnh phúc làm ngây ngất mãi mãi. Một thứ hạnh phúc sáng láng rực rỡ toát ra từ chính con người của Đức Giêsu, chứ không phải thứ ánh sáng bên ngoài bao phủ Người. Ánh sáng đó là chính ánh sáng Ngôi Lời Thiên Chúa. Gioan đã được cùng với Phêrô hưởng ánh sáng rực rỡ này nên khi mở đầu sách Tin mừng thứ bốn, Gioan đã viết: “Ngôi Lời là sự sáng đích thực, sáng soi cho mọi người” (Ga. 1, 9).
Trong lễ dâng Đức Giêsu vào đền thờ, tiên tri Simêon đã nhìn thấy “Người là ánh sáng muôn dân, là vinh quang của dân Chúa” (Lc. 2, 32). Chính Đức Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai tin Tôi sẽ không ở trong tăm tối” (Ga. 12, 46). Nhất là khi “Người sống lại sáng chói rực rỡ khiến quân dữ ngã lăn bất tỉnh” (Mt. 28, 3-4). Do đó, trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: “Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh sáng bởi Ánh sáng”. Và trong kinh cầu chúng ta tung hô: “Chúa Giêsu là mặt trời soi đường công chính”.
Ánh sáng đó làm cho những người công chính như Môisen, Êlia được vinh phúc tràn ngập đời đời, còn người phàm đã biết theo Chúa như Phêrô, Giacôbê, Gioan cũng được ngây ngất chút đỉnh rồi lịm đi vì chưa đủ sức chứa đựng ánh sáng huy hoàng của nước trời, còn kẻ dữ phải khiếp sợ chết xỉu đi.
Từ hạnh phúc biến hình núi Tabor, Đức Giêsu dẫn đưa các môn đệ vượt qua đau khổ núi Sọ để đến hạnh phúc vinh quang phục sinh muôn đời.
Hôm nay Giáo hội là mẹ nhân lành theo gương Chúa Giêsu, cũng muốn dẫn đưa con cái mình là chúng ta từ hạnh phúc núi Tabor vượt qua biển khổ trần gian đến hạnh phúc vinh quang phục sinh bất diệt.
Không một thứ hạnh phúc thế gian nào sánh được. Hạnh phúc thế gian luôn luôn chất chứa đắng cay, đau khổ như ma túy, rượu chè, cờ bạc, trai gái. Khi chưa được thì thèm khát, khi mắc vào thì chán ngán, thất vọng, càng sa bẫy, càng bị kìm kẹp trong đau khổ tuyệt vọng.
Thí dụ: Tôi biết có anh chị đậu cao học (Master), quen nhau, yêu nhau nồng nàn suốt hai năm trời. Lễ cưới chi phí đến 20.000 đô. Họ hàng bạn bè, ai cũng mừng cho đôi uyên ương hạnh phúc. Nhưng chỉ được một tuần, giận nhau, bỏ nhau, đoạn tuyệt. Cha mẹ khuyên can cực lòng đến sinh bệnh, con cũng chẳng nghe.
Đấy là những hạnh phúc của thế gian.
Còn hạnh phúc của Thiên Chúa ban thì chưa thấy một đấng thánh nào chán cả. Phêrô được hưởng rồi, đã ra sức cố gắng nghe lời Con Yêu Dấu đến nỗi phải hy sinh chịu đóng đanh chết trên thập giá, vẫn luôn luôn “sướng quá”. Phaolô khi té ngựa được thấy ánh sáng rực rỡ của Đức Giêsu, dù mắt mù đi, ông đã bỏ đạo Biệt phái, đạo tổ tiên mà ông đã hăng say học hỏi từ nhỏ và cuồng nhiệt chống đối, bắt bớ kẻ phản đạo đó, để trở về với ánh sáng Đức Kitô, làm tông đồ của Đức Giêsu, một tông đồ vĩ đại nhất, nhiệt thành truyền đạo Ánh sáng nhất, chịu nhiều cực hình đau khổ nhất. Biết bao nhiêu các thánh tử đạo chỉ được thấy ánh sáng đức tin, đã coi cực hình thân xác nhẹ như lông hồng.
Muốn được hạnh phúc như các ngài, ta phải đến với ánh sáng Đức Kitô, nghe lời Con yêu dấu Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Abraham đã triệt để nghe lời Người, đến nỗi sẵn sàng sát tế con mình để tỏ lòng trung thành kính mến Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hài lòng về tinh thần nghe lời Người của Abraham hơn là của lễ sát tế con ông. Vì: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần tế lễ” (Mt. 9, 13). Và nhờ đó “mọi dân trên mặt đất sẽ được chúc phúc, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta”.
Môisen đã nghe lời Người, dù kinh hoàng run sợ nghĩ đến phải trở về đối diện với vua Pharaon đang lùng bắt ông. Dù phải cực khổ vào sinh ra tử suốt bốn mươi năm trong sa mạc để dẫn đưa dân về đất Hứa.
Êlia đã nghe lời Người dù biết mình phải lao vào lưỡi gươm trả thù của hoàng hậu Giêzabel, để cứu thoát dân khỏi nô lệ tà thần. Và hàng triệu, hàng tỷ người đã nghe lời Con yêu dấu của Chúa Cha, vì biết rằng: “Thiên Chúa bênh đỡ ta, ban tất cả cho chúng ta, chí như chính Con mình, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc cho Con mình phải chết vì hết thảy chúng ta”, để “Con Người từ cõi chết sống lại” “sẽ cho chúng ta được sống lại vinh phúc với Người” (Rm. 8, 31-34).
Lạy Chúa, xin cho con lắng nghe lời Con yêu dấu Ngài, dù phải nhục nhã ê chề. Xin cho con trung kiên giữ trọn lời Người, dù phải chịu sát tế với Người, con vẫn một lòng thưa như tổ phụ Abraham: “Dạ con đây”.
7.Đức Giêsu- bảo chứng tình yêu--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Có nhiều tôn giáo tin nhận Thiên Chúa hiện hữu, nhưng Kitô giáo là tôn giáo đặc biệt nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương. Chính khi nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, đến độ dám cho Con Yêu Dấu của Ngài nhập thể làm người ở giữa con người.
I. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
Đức Giêsu đã cùng với ba môn đệ lên núi. Ngài đã biến hình, áo Ngài trở nên trắng như tuyết. Tin Mừng Mác-cô không nói gương mặt Đức Giêsu biến đổi như thế nào, chỉ dùng chữ “biến hình;” tuy nhiên, người ta nghĩ rằng nếu áo của Ngài như vậy, thì gương mặt và thân xác của Ngài cũng phải “ra khác” một cách rất đặc biệt. Cựu Ước cũng đề cập đến gương mặt của Môsê trở nên sáng láng sau khi ông gặp gỡ Thiên Chúa, nên ông phải che mặt khi gặp gỡ dân Do Thái (Xh.34, 29-35). Thánh Phaolô đã giải thích gương mặt của Môsê được biến đổi vì phản ánh vinh quang Thiên Chúa. Vậy khi Đức Giêsu biến hình, hàm chứa Ngài là người phản ánh Thiên Chúa một cách rất đặc biệt.
Tiếng từ trong đám mây nói với ba môn đệ: “Đây là Con Ta, Đấng rất được yêu. Hãy nghe Ngài.” Như vậy, Thiên Chúa nhận Đức Giêsu là Con của Ngài, và là Đấng được yêu đặc biệt. Thực ra, tước vị “con Thiên Chúa” cũng được dùng để chỉ nhiều người (G.38,7), dân Israel (Hos.11, 1), vị vua thiên sai (Tv.2, 7). Với Đức Giêsu, Ngài được Thiên Chúa gọi là người Con, được yêu đặc biệt; tuy nhiên, ngay lúc trên núi này, chắc ba môn đệ chưa thể nào nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa như các ngài đã nhận ra sau khi Đức Giêsu phục sinh và hiện ra cho các ông, tuy nhiên lúc này Đức Giêsu vẫn là một người rất đặc biệt.
Đức Giêsu nhận mình là Con Người. Đức Giêsu thật sự là người như tất cả mọi người. Một người cảm thấy gì thì Đức Giêsu cũng cảm thấy như vậy. Ngài cũng bị cám dỗ như bao người, dù là cám dỗ về miếng ăn, về danh vọng và về quyền hành (Mt.4, 1-11); và không chỉ vậy, Ngài còn bị cám dỗ về đức tin nữa: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc.15, 34). Đức Giêsu, nếu có điều gì khác chúng ta, thì đó là Ngài không phạm tội (Dt.4, 15). Ngài đã dùng tự do để vâng phục Thiên Chúa, còn chúng ta lại dùng tự do Thiên Chúa ban để phản lại Ngài.
II. Abraham đã sẵn sàng hiến tế con mình cho Thiên Chúa
Abram, tổ phụ dân Do Thái, là một con người rất đặc biệt. Thiên Chúa đã mời gọi ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho. Thiên Chúa hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, có đất làm cơ nghiệp, và trở thành một mối chúc lành cho nhiều người. Abram đã tin và đã đi theo lời mời của Thiên Chúa. Đặt mình vào hoàn cảnh của người thời đó, ta nhận ra Abram đã tin vào Thiên Chúa một cách rất đặc biệt. Thời đó người ta chưa có luật lệ như hiện tại, người ta phải dựa vào gia đình họ hàng để bảo vệ mình và tài sản khỏi bị người khác đánh cướp. Thế mà Abram dám rời bỏ gia đình, ra đi với tài sản và vợ là Saray. Nếu không tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì không ai dám làm điều đó vì rất nguy hiểm, người ta không chỉ mất tài sản nhưng còn mất cả mạng sống mình. Abram đã dám làm.
Thiên Chúa đã đổi tên Abram thành Abraham, Saray thành Sara; và đã cho ông bà có một người con tên là Isaac. Thiên Chúa cũng nói với Abraham rằng dòng giống ông sẽ nhờ Isaac mà có; thế mà giờ đây Thiên Chúa lại bảo ông đem người con duy nhất của mình đi hiến tế làm của lễ dâng Thiên Chúa. Tại sao Thiên Chúa lại “đổi ý” như vậy? Tại sao Thiên Chúa không “nhất quán” với chính Ngài: đã hứa cho dòng dõi của ông nhờ Isaac mà có, mà bây giờ lại đòi ông phải hiến tế Isaac? Làm sao có thể vâng lời Thiên Chúa được?
Một lần nữa, Abraham đã tin và phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn sao Abraham cũng làm, vì ông tin rằng Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm tất cả, ngay cả phục sinh Isaac. Chắc chắn Abraham đã có những suy nghĩ cám dỗ bất tuân, nhưng ông đã chiến thắng chính mình bằng niềm tin phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Qua hành vi này, ông trở thành cha tất cả những người tin (Rm.4, 18tt). Cả cuộc đời của Abrahm là một chuỗi những hành vi tin. Ngay cả khi vợ ông là bà Sara chết, ông vẫn chưa có đất để chôn (St.23), tuy vậy ông vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho ông điều Ngài đã hứa.
III. Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Ngài
Khi Đức Giêsu còn tại thế, chẳng ai biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, kể cả các tông đồ. Chỉ sau khi Ngài sống lại, và với ơn Thánh Thần soi sáng, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói và đã làm, nên mới nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa theo một nghĩa thật đặc biệt. Một khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng thật đặc biệt, là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu lại hiểu biết về Thiên Chúa và về con người một cách thâm sâu hơn.
Con người là ai mà được Thiên Chúa yêu thương đến như vậy! Sao Thiên Chúa lại trao phó Con của Ngài cho con người như thể “trao trứng cho ác” như vậy? Một người ít hiểu biết nhất cũng nhận ra con người gian ác sẽ giết Con của Ngài, như vậy tại sao Ngài vẫn trao gởi Người Con của Ngài cho con người? Tại sao Thiên Chúa tin con người đến độ như vậy? Cho đến cùng, Kitô hữu nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng: Thiên Chúa tin vào con người dù thật sự không thể tin được.
“Thiên Chúa không dung tha chính Con Ngài nhưng phó thác Con của Ngài vì tất cả chúng ta.” Nhìn Đức Giêsu chết trần trụi ô nhục thê thảm trên thập giá, người ta có cảm tưởng như thể Thiên Chúa yêu thương con người hơn cả Đức Giêsu. Thật ra không phải Thiên Chúa yêu thương con người hơn Con của Ngài; nhưng điều đó lại cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Theo thánh Phaolô, một khi Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho ta, thì Ngài không còn tiếc gì với ta nữa. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu là bảo chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng!
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Nơi Abraham có điều gì bạn kính phục?
2. Bạn có nhận thấy Thiên Chúa tin và phó thác vào con người khi cho Con Ngài nhập thể không? Tại sao?
3. Đức Giêsu có bị nghi ngờ về đức tin không? (chẳng hạn, không biết mình có sống lại thật không? nếu bạn nghĩ có, tại sao bạn nghĩ như vậy? xin đưa bằng chứng hoặc lý luận bảo vệ ý kiến của bạn.)
8.Thiên Chúa trên hết--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
1. Thiên Chúa có quyền đòi hỏi như vậy không?
Abraham không con, Thiên Chúa đã ban Isaac cho ông, và hôm nay chúng ta thấy Thiên Chúa đòi Abraham phải hiến tế con của mình trên một ngọn núi.
Isaac là người con duy nhất của Abraham với Sara. Thiên Chúa cũng hứa rằng chính từ nơi Isaac mà Abraham có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển!
Thiên Chúa ban Isaac cho Abraham, rồi bây giờ Thiên Chúa muốn đòi lại! Thiên Chúa hứa ban cho Abraham dòng giống đông đảo qua Isaac, nhưng bây giờ Thiên Chúa muốn Abraham hiến tế Isaac cho Ngài! Tại sao Thiên Chúa lại oái oăm như vậy? Giết Isaac, có khác nào Abraham giết mình!
Trong Kinh Thánh chúng ta còn thấy có nhiều đoạn văn cho thấy như thể Thiên Chúa coi thường mạng sống con người:
Thiên Chúa đã giết các con đầu lòng của người Aicập để giải phóng dân tộc Do thái;
Thiên Chúa đã ra lệnh thần tru "giết tất cả người và súc vật không chừa một mạng sống" trong một số thành mà dân Do thái đánh chiếm.
Tại sao Thiên Chúa lại đòi điều khủng khiếp như vậy nơi con người? Thiên Chúa có thể bắt con người phải giết người, và đặc biệt là giết con của mình, để hiến tế Ngài không? Thiên Chúa có quyền thử con người và đòi buộc con người như thế không?
Phải chăng là Thiên Chúa bất nhân?
2. Thiên Chúa đã hiến con của Ngài cho chúng ta
Thiên Chúa thử để cho thấy Abraham chọn Thiên Chúa trên hết, trên cả con mình, và trên cả chính mình. Tương tự vậy, Thiên Chúa đã cho Satan hành hạ Gióp, để người ta thấy rõ Gióp là người công chính và thánh thiện như thế nào!
Có thể chúng ta không dám hiến mạng con chúng ta cho Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã dám hiến mạng Con của Ngài cho chúng ta: "Thiên Chúa không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta; và như vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không ban mọi sự cho chúng ta cùng với Con của Ngài sao?" (Rm.8, 31-32).
Thiên Chúa không đòi, nhưng Thiên Chúa mời, và nếu chúng ta dám dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa, thì chắc Thiên Chúa không thua lòng quảng đại của chúng ta. Thiên Chúa mời gọi, để chúng ta được trổi trang hơn, được trổi vượt hơn.
Nếu chúng ta bất bình trước những đòi hỏi của Thiên Chúa đối với Abraham và đối với nhiều người, thì đáng lẽ chúng ta phải rung động sâu xa trước biến cố Thiên Chúa dám hiến Con của Ngài cho chúng ta! Thiên Chúa dám hy sinh Con của Ngài, và như vậy là hy sinh chính Ngài cho chúng ta.
Chúng ta dễ phản đối Thiên Chúa vì cho rằng Ngài đã đòi hỏi chúng ta, chứ dường như chúng ta chưa rung động trước tình yêu của Thiên Chúa qua việc Ngài hiến Con Ngài cho chúng ta! Và nếu vậy, chúng ta là loài phản loạn, yêu sách, đòi hỏi, và không khiêm tốn nhận biết mình thực sự: con người có là gì trước Thiên Chúa. "Nhân bản" thì không bằng "Chúa bản", vì lấy Chúa làm nền tảng thì hàm chứa luôn tôn trọng con người thực, giúp con người thực sự, làm con người hạnh phúc thật.
3. Đây là Con Ta rất yêu dấu
Các môn đệ không hiểu nhiều về biến cố này, vì các ông chưa biết Đức Yêsu là Thiên Chúa. Các ngài chỉ biết Đức Yêsu là người rất đặc biệt của Thiên Chúa. Biến cố "Chúa hiển dung" này soi sáng biến cố phục sinh, và giúp các tông đồ nhận ra Đức Yêsu là Thiên Chúa.
Đức Yêsu là Thiên Chúa. Nếu đúng như vậy, thì Thiên Chúa yêu con người biết bao, vì Ngài đã hiến Con của Ngài vì tất cả chúng ta! Ôi tình yêu Thiên Chúa thật thâm sâu, thật nhiệm mầu.
Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Ngài là tuyệt đối, Ngài có quyền đòi hỏi mọi sự, và trên nguyên tắc con người phải dâng hiến tất cả cho Ngài, dâng hiến Ngài những gì qúy nhất, và thậm chí cả con người của mình.
Con người phải tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, cho dù Ngài có đòi hỏi gì đi nữa:
những con đầu lòng của người Aicập vẫn được Thiên Chúa thương;
những em bé bị chết ở Bêlem dưới tay bạo chúa Hêrôdê được tôn kính "các thánh anh hài";
các thánh tử đạo được thưởng công xứng đáng.
Tin tưởng phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, là những nhân đức đối thần, tức là những hành vi căn bản và nền tảng mà con người phải có đối với Thiên Chúa. Không tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa được.
Con người phải bỏ mình để Thiên Chúa trở nên nhất nơi mình.
9.Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho loài người--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Cũng vì thương, Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho loài người. (Mc 9,7)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Trong Mùa Chay, Hội Thánh nhắc chúng ta nhớ những điều rất quan trọng. Chúa nhật vừa qua, Hội Thánh nhắc ta nhớ đến những ơn ban của Chúa. Hôm nay Hội Thánh nhắc ta nhớ đến một ơn quý giá nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, đó là Đức Giêsu, Người Con Một yêu quý của Ngài.
Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho chúng ta để Đức Giêsu sống với chúng ta và chúng ta sống với Ngài, sống theo Ngài và sống như Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy chú ý lắng nghe Lời Đức Giêsu và kết hợp thân thiết với Ngài.
II. Gợi ý sám hối
Chúa nhật vừa qua, Đức Giêsu đã kêu gọi chúng ta sám hối, nghĩa là bỏ con được cũ lầm lạc để quay về với Chúa. Chúng ta đã thực sự quay về chưa?
Đức Giêsu còn kêu gọi chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa. Chúng ta đã làm việc này chưa?
Đã qua một tuần Mùa Chay rồi, mỗi người chúng ta có dự định cụ thể nào chưa?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc 1: St 22,1-2.9a.10-13.15-18
Tường thuật chuyện Abraham tế sát Isaac.
Tế sát Isaac là một hy sinh rất lớn của Abraham, vì: a/ Isaac là đứa con duy nhất mà vợ chồng ông sinh được trong lúc tuổi già; b/ đứa con ấy lại là tất cả niềm hy vọng của ông về lới Chúa hứa sẽ cho ông một dòng dõi đông đúc; b/ bởi thế, Isaac là "đứa con một yêu dấu" của Abraham. Vậy mà ông đành giết nó để dâng cho Chúa.
Tuy nhiên tấm lòng của Abraham đối với Thiên Chúa còn to lớn hơn: a/ Chúa vừa gọi "Abraham" thì ông đáp lại ngay "Dạ, tôi đây"; b/ Chúa muốn ông làm một việc vừa ngược với tình cảm của ông, vừa xem ra cũng ngược với lời Ngài đã hứa (cho ông một dòng dõi đông đúc), ông cũng sẵn sàng làm.
Thiên Chúa coi trọng tấm lòng hơn lễ vật, coi trọng sự hy sinh trong tâm hồn Abraham hơn đứa con mà ông sắp dâng. Cho nên Chúa bảo ông dừng tay. Dù Abraham chưa giết con, nhưng Chúa kể ông đã dâng con cho Ngài.
2. Đáp ca: Tv 115
Tác giả đang ở trong một hoàn cảnh bi đát "Tấm thân tôi trăm phần khổ cực", hơn nữa đang chứng kiến "cái chết của những bậc thánh nhân", thế mà tác giả vẫn tin vào Thiên Chúa.
Đáp lại đức tin kiên vững ấy, Thiên Chúa đã "bẻ gãy xiềng xích" và cứu thoát tác giả. Ông vui mừng ca tụng Chúa và dâng lễ vật tạ ơn.
Những tâm tình này rất đúng với Abraham.
3. Tin Mừng: Mc 9,2-10
Bài tường thuật Đức Giêsu biến hình. Điểm đáng chúng ta lưu ý nhất là tiếng từ trời "Đây là con yêu dấu của Ta". Câu này là vang vọng của lời Thiên Chúa nói với Abraham về Isaac "Hãy đem Isaac đứa con rất yêu dấu của ngươi... dâng nó làm lễ toàn thiêu" (Bài đọc I)
Như thế, Isaac là hình bóng của Đức Giêsu. Cũng như Abraham đã hy sinh đứa con một yêu dấu của mình, thì Thiên Chúa cũng không tiếc khi ban Đức Giêsu, Người Con Một yêu dấu của Ngài, cho nhân loại để chịu chết cứu chuộc nhân loại.
4. Bài đọc II: Rm 8,31-34
Thánh Phaolô suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời Đức Giêsu và hiểu rằng tất cả đều vì lợi ích cho loài người chúng ta: Khi Đức Giêsu chịu chết là chịu chết "vì tất cả chúng ta"; và khi Ngài sống lại lên ngự bên hữu Chúa Cha thì cũng là để "biện hộ cho chúng ta".
Đức Giêsu chính là ơn ban tuyệt vời nhất mà Thiên Chúa ban cho loài người.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Món quà ngoài sức tưởng tượng
Các bài đọc hôm nay nói về những món quà vượt sức tưởng tượng.
Abraham là một người sẵn lòng với Thiên Chúa. Ngài bảo ông bỏ quê hương xứ sở mà ra đi đến một nơi vô định. Ông mau mắn làm theo. Thiên Chúa thấy lòng quảng đại của ông, Ngài bảo ông dâng Isaac cho Ngài. Món quà này chắc chắn Abraham không ngờ tới, vì đó không phải là một đồ vật hoặc một con vật mà là một con người. Con người ấy lại là đứa con duy nhất của ông. Hơn nữa nó còn là tất cả hy vọng của ông vì ông sinh ra nó trong lúc tuổi đã già, và ông nghĩ chỉ có nó mới thực hiện được mong ước của ông là có một dòng dõi. Dâng nó đi là dâng tất cả. Thế mà Abraham đã dâng. Một món quà ngoài sức tưởng tượng (bài đọc I).
Nhưng món quà mà Thiên Chúa ban cho loài người còn ngoài sức tưởng tượng hơn nữa. Đó là ban Đức Giêsu, Người Con độc nhất, Người Con thân yêu vô cùng. Hơn nữa, Thiên Chúa ban Người Con ấy để Người Con ấy chịu chết vì tội lỗi loài người, chết thay cho loài người (bài Tin Mừng). Thật chẳng có tấm lòng nào bằng như thế. Chẳng có tình yêu nào cao cả như thế (bài đọc II).
* 2. "Hãy vâng nghe lời Người"
Một hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi:
- Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?
- Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở.
- Ông hãy đẫp vỡ nó ra!
- Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể phung phá một báu vật như thế ạ!
Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.
Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, cũng hỏi:
- Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu?
- Bằng nửa vương quốc.
- Hãy đập vỡ nó ra!
- Đập vỡ viên ngọc này ư? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.
Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.
Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul:
- Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không?
- Muôn tâu, đẹp không thể nói được.
- Hãy đập nát nó đi.
Lập tức Abdul lấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul. Họ hỏi:
- Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ?
Abdul bình tỉnh đáp:
- Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.
Nhà vua khen ngợi thái độ của Abdul và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.
Câu chuyện giúp chúng ta hiểu tại sao khi Đức Giêsu biến hình, tiếng Chúa Cha từ trời đã phán: "Đây là Con Ta yêu dấu. Hãy vâng lời Ngài".
* 3. Con yêu dấu
Khi đọc bài Tin Mừng hôm nay về việc Đức Giêsu biến hình, tôi chẳng có chút cảm xúc nào cả. Đọc thêm bài đọc I về chuyện Abraham tế sát Isaac, tôi khám phá rằng Isaac là hình bóng của Đức Giêsu, và người cha già Abraham là hình bóng của Thiên Chúa. Và tôi rất xúc động vì tiếng gọi "Con yêu dấu".
Abraham yêu dấu Isaac biết chừng nào vì đó là đứa con duy nhất ông sinh ra được trong lúc tuổi đã già. Chúa Cha cũng yêu dấu Đức Giêsu biết chừng nào vì đó chẳng những là Người Con duy nhất mà còn là Người Con tuyệt hảo của Ngài.
Có người cha nào không tan nát cõi lòng khi đứa con yêu dấu duy nhất của mình phải chết? Chúa Cha hiểu được tâm trạng này nên Ngài chỉ thử lòng Abraham thôi chứ không nỡ để Isaac phải chết. Thế mà Chúa Cha lại cho Đức Giêsu Con Yếu Dấu của Ngài phải chết thật! Ôi tình Chúa Cha thương loài người chúng ta bao la và vĩ đại biết chừng nào!
Chúa Cha chỉ mong nơi loài người chúng ta một điều duy nhất là "Hãy vâng nghe Lời Đức Giêsu" thôi. Nếu điều duy nhất ấy mà chúng ta cũng không đáp ứng thì thật là phụ bạc biết chừng nào!
4. Thử thách và biến hình
Bài đọc I nói về thử thách (Thiên Chúa bảo Abraham tế sát Isaac), còn bài Tin Mừng nói về biến hình. Hai khía cạnh này liên kết với nhau và bổ sung cho nhau như hai mặt của một đồng tiền.
Khi Thiên Chúa mới gọi Abraham, Ngài đã thử thách ông: Ông phải từ bỏ quê hương xứ sở để đi đến một nơi vô định. Vì Abraham trung thành trong thử thách nên Thiên Chúa đã cho ông có con. Trước khi dẫn đời ông sang một biến đổi nữa, Thiên Chúa lại thử thách ông: đứa con duy nhất ấy, Ngài muốn ông giết đi để làm lễ tế cho Ngài. Một lần nữa Abraham đã vâng lời và một lần nữa ông được biến đổi: Isaac vẫn sống và sinh con cháu, nhờ đó Abraham thực sự có một dòng dõi.
Chúa nhật tuần trước, chúng ta thấy Đức Giêsu chịu thử thách trong sa mạc. Hôm nay chúng ta chứng kiến Ngài biến hình trên núi.
Học sinh cũng phải thường xuyên trải qua thử thách là các kỳ thi. Nhưng có như thế thì học sinh mới được chuyển cấp, càng ngày càng cao hơn, giỏi hơn...
5. Biến đổi là Quy luật
Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong nó có biết bao biến đổi: có những chiếc lá tháng trước nay không còn; nhiều chiếc lá mới mọc ra; và nhiều chiếc lá hiện nay tháng sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà là một khúc gỗ.
Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy quy luật biến đổi ấy: bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù cũng vẫn là một bầu trời.
Hãy nhìn xuống nước. Một triết gia đã nói "Không ai tắm hai lần trong một dòng sông".
Và nhìn vào bản thân: các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết, cái kia sinh ra. Sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào cũ của 7 năm trước nữa.
Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đối với cuộc sống thiêng liêng cũng như thế.
Bởi thế trong Mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ có nghĩa là chết.
6. Từ Tabor đến Golgotha
Một Linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng rất sâu sắc như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp "trai tài gái sắc". Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.
Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:
- Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh!
Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:
- Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?
Tất cả nguyên trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay "người đẹp" là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay "nàng già" là trái táo ăn thừa. Nên chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.
*
Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức Giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hoá giải chứ không gây mê.
Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Elia" (Mc.9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.
Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.
Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi. Chúa chỉ mặc "tấm áo trắng như tuyết" trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp. Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.
Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng thủy chung, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.
Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruỗi trên các đường phố Palestina rao giảng chữa bệnh và làm các phép lạ.
Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thấm đẫm mồ hôi trong vườn Giêtsêmani.
Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.
Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường tình yêu. Theo Thánh Têrêxa thành Lisieux: "Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê". Thánh Bernadette cầu nguyện: "Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau".
*
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục sinh sẽ bừng sáng. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã biến hình cho các môn đệ thấy vinh quang của Người, để củng cố đức tin cho các ông, và chuẩn bị các ông đón nhận cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
Trung thành với Đức Giêsu trong mọi hoàn cảnh là nguồn thách đố cho Hội thánh / chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh luôn tin tưởng bước theo đường lối Đức Giêsu / dù khi được vinh quang hay khi phải trải qua gian nan tử nạn.
Trung thành để phục vụ công lý và công ích cho xã hội là nguồn thách đố cho các nhà cầm quyền / Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người có trách nhiệm lãnh đạo trên thế giới luôn can đảm cương quyết / không nhượng bộ những gì vi phạm đến nhân phẩm và nhân quyền của người dân.
Nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp, chậm tiến... là những thách đố cho người Việt Nam hôm nay. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người Việt Nam biết can đảm kiên nhẫn / để đoàn kết với nhau và từng bước vượt qua mọi khó khăn.
Những khó khăn bên ngoài và bên trong mà Hội thánh ở Việt Nam đang trải qua cũng là những thách đố cho mỗi Kitô hữu Việt Nam /. Chúng ta hãy cầu xin cho các Kitô hữu Việt Nam luôn vững lòng tin cậy / và luôn tích cực phục vụ đồng bào nhất là những người nghèo khổ.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã tỏ vinh quang để củng cố đức tin cho các môn đệ khi họ gặp gian truân thử thách. Xin Chúa cũng nâng đỡ đức tin còn non yếu của chúng con để chúng con tin tưởng rằng: nếu cùng với Chúa vượt qua mọi khó khăn hôm nay thì cũng chắc chắn được chung phần vinh quang phục sinh với Chúa mai sau. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Chúa Cha rất yêu thương Ngài và vừa lòng về Ngài. Chúng ta được hạnh phúc thông chia quyền làm con của Đức Giêsu. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài dâng lên Chúa Cha những tâm tình hiếu thảo của chúng ta.
- Lúc chúc bình an: Chúng ta hãy chúc bình an cho nhau trong tâm tình mến yêu nhau thực sự; và cũng hãy nghĩ đến những người xích mích với chúng ta mà hiện không có mặt trong Thánh lễ này, với quyết tâm cũng muốn hòa giải với họ nữa.
VII. Giải tán
Chúa Cha đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban Người Con Yêu Dấu duy nhất của Ngài là Đức Giêsu cho chúng ta và chịu chết vì chúng ta. Chúa Cha chỉ mong mỏi mỗi một điều là chúng ta vâng nghe Lời Đức Giêsu thôi. Trong tuần này, chúng ta hãy luôn tâm niệm lời Chúa Cha nói: "Đây là Con Yêu Dấu của Ta. Hãy vâng nghe lời Người".
10.Thử thách trong cuộc sống--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Bài Tin Mừng Thánh lễ hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor trước mặt ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Việc biến hình này có ý nghĩa gì? Chắc chắn nhờ việc chứng kiến vẻ vinh quang tương lai của Chúa, Ngài muốn chuẩn bị cho các ông đối diện với biến cố khổ nạn của Ngài sẽ xẩy ra sau này.
Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải theo gương các môn đệ mà trèo lên núi, bất chấp khó khăn, can đảm dấn thân bước theo Đức Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài. Cuộc đời của chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn, nhiều gian nan thử thách và có hàng ngàn lý do khiến chúng ta bỡ ngỡ, bối rối trước những hoàn cảnh éo le. Chúng ta sẽ không hiểu tại sao lại có những thử thách ấy! Chúa không thương yêu chúng ta sao? Không thắc mắc, chúng ta hãy bắt chước ông Abraham hoàn toàn tin tưởng phó thác đời mình trong tay Chúa quan phòng, vâng theo thánh ý Chuá, Ngài sẽ lo liệu, và ta hãy tâm niệm rằng: “Khi Chúa đóng cửa chính thì Ngài sẽ mở những cửa sổ”. Ngài sẽ có cách giải quyết.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: St 22,1-2.9a,10-15
Theo nghiên cứu, người ta thấy dường như việc dùng trẻ con để tế lễ rất thịnh hành vào các thế kỷ thứ 8 và thứ 7 trước công nguyên. Cho nên khi nhắc nhở rằng mọi con đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa, lề luật liền nhấn mạnh đến việc buộc phải chuộc con đầu lòng bởi một của lễ thay thế. Câu chuyện tế lễ Isaac minh hoạ cho lề luật trên, đồng thời nhấn mạnh đến hành động đặc biệt của Abraham.
Thiên Chúa đã hứa với Abraham là ông sẽ trở thành tổ phụ của một dân lớn lao. Ông chỉ có một người con duy nhất là Isaac do bà Sara sinh ra. Thế mà Thiên Chúa đã truyền cho ông phải hiến tế người con yêu dấu của mình. Như thế làm sao có thể dung hòa được giữa việc hiến tế Isaac và lời hứa của Thiên Chúa cho ông có một dòng dõi đông đúc như sao trời cát biển?
Abraham tiến thoái lưỡng nan, không biết theo con đường nào. Tuy thế, ông đã phải trấn áp nỗi đau khổ của người cha, ông lấy nghị lực đức tin mà thưa“Xin vâng” với thánh ý Chúa. Ông đã làm một việc vượt trên cả mức độ anh hùng. Dù Abraham chưa giết con, nhưng Chúa kể ông đã dâng con cho Chúa.. Đức tin và lòng tuân phục của ông sẽ được phần thưởng liền sau đó.
+ Bài đọc 2: Rm 8,31-34
Có nhiều người còn nghi ngờ vào tình yêu của Thiên Chúa đến nỗi còn sợ sệt và tuyệt vọng. Thánh Phaolô với giọng điệu cảm kích sâu xa đã tuyên bố rằng không có gì phải thất vọng, bằng chứng là: Thiên Chúa đã không dung tha cho Con Một mình. Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô là bằng chứng hùng hồn của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người.
Việc Đức Giêsu bị chết trên thập giá đã khiến chúng ta không còn lý do nào phải hoài nghi và sợ sệt. Lỗi lầm lớn nhất chúng ta có thể vấp phải sẽ là hoài nghi, thiếu tin tưởng:”Nếu Thiên Chúa yểm trợ chúng ta, còn ai chống lại nổi chúng ta “Rm 8,31)?
+ Bài Tin mừng: Mc 9,2-10
Khi đi theo Đức Giêsu, các Tông đồ có cùng hoài bão của người Do thái là Đấng Cứu thế của họ sẽ là Đấng Cứu thế vinh thắng oai hùng tái lập vương quốc của Đavít và Salomon. Nhưng khác với cái nhìn trần tục của các ông, trong kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng Thiên sai sẽ là một “tôi tớ đau khổ và khiêm tốn đã được các tiên tri phác hoạ”.
Để củng cố niềm tin cho các môn đệ trước cuộc thương khó đầy xỉ nhục của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ lên núi Tabor, biến hình trước mặt các ông để các ông thấy khuôn mặt sáng ngời của Ngài hầu củng cố niềm tin cho các ông truớc những ngày đen tối sắp tới.
Theo gương các tông đồ, chúng ta cũng phải có một niềm tin như vậy trước gian nan thử thách trong cuộc sống của một Kitô hữu. Hẳn nhiên, cũng như các tông đồ, Chúa cũng dành cho chúng ta những giờ phút sáng tươi hoan hỉ nội tâm để giúp chúng ta đi tới tận cùng điểm dốc Calvê.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Từ Tabor đến Golgotha.
I. ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH.
1. Diễn tiến việc biến hình.
Thánh Marcô cho biết: sáu ngày sau khi thánh Phêrô truyên xưng Đức Giêsu tại Cêsarêa của vua Philippe, Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ yêu qúi là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao. Thánh sử không cho biết là núi nào: núi Tabor hay Hermon. Các nhà chú giải Thánh Kinh ngày nay nghiêng về núi Hermon, song cổ truyền cho biết chính Tabor đã được hồng ân ấy.
Vì đi đường mệt nhọc các ông lăn ra ngủ và khi thức giấc, các ông nhìn thấy cảnh lạ lùng: Chúa biến hình, “áo Ngài trắng như tuyết, không thể nào giặt được như vậy”. Có ông Maisen và Elia đàm đạo với Ngài để khuyến khích Ngài đi vào cuộc tử nạn và có tiếng phát ra trong đám mây:”Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài”. Sau đó, Đức Giêsu trở lại tình trạng bình thường. Việc biến hình này có ảnh hưởng sâu đậm đến ba ông.
2. Ý nghĩa việc Chúa biến hình
Đức Giêsu đã quyết định lên Giêrusalem, và quyết định ấy có nghĩa là chấp nhận thập giá. Ngài cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết định đúng trước khi tiếp tục dấn bước. Trên đỉnh núi Ngài đã chấp nhận đôi về quyết định của Ngài.
a) Sự hiện diện của Elia và Maisen
Maisen là đại diện cho pháp luật và Elia là tiên tri đầu tiên và vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Khi hai nhân vật lỗi lạc đó hội kiến với Đức Giêsu, có nghĩa là nhà tuyên bố pháp luật vĩ đại nhất và nhà tiên tri lỗi lạc nhất đã nói với Đức Giêsu rằng “Xin cứ tiến lên”. Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Đức Giêsu sự hoàn thành của tất cả những gì họ từng mơ ước trong quá khứ. Nó có nghĩa là họ thấy nơi Ngài tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tràn đầy. Dường như chính lúc đó Đức Giêsu được bảo đảm rằng Ngài đang đi đúng hướng vì cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.
b) Biến hình giúp môn đệ vững tin
Khi nghe Đức Giêsu báo cho họ biết là Ngài sẽ lên Giêrusalem để chịu chết, họ bàng hoàng, bối rối lo sợ vì bao điều mơ tưởng của họ sẽ bị tiêu tan, tương lai của họ trở nên bấp bênh, đen tối. Tuy thế, những gì đã xem thấy trên núi biến hình cho họ có cơ hội bám chặt lấy ngay khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe tiếng của Thiên Chúa xác nhận Đức Giêsu là Con Ngài.
Ngoài ra, việc Chúa biến hình trên núi khiến họ trở thành các chứng nhân cho sự vinh hiển của Chúa Cứu thế theo một ý nghĩa đặc biệt. Xác tín rằng mình là chứng nhân trước sự vinh hiển của Chúa Cứu Thế, sau này khi có dịp, họ đã có sẵn câu chuyện đang giấu kín trong lòng, sẽ kể lại cho mọi người nghe.
c) Lời mời gọi biến đổi
Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong đó có biết bao biến đổi: có những chiếc lá tháng trước nay không còn; nhiều chiếc lá mới mọc ra; và nhiều chiếc lá hiện nay sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà là một khúc gỗ.
Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy qui luật biến đổi ấy: bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù vẫn là một bầu trời.
Hãy nhìn xuống nước. Triết gia Héraclite đã nói:”Không ai tắm hai lần trong một dòng sông”.
Và nhìn vào bản thân: các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết cái kia sinh ra, sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào của 7 năm trước nữa.
Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đối với cuộc sống thiêng liêng thì cũng như vậy. Bởi thế trong mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ là chết (Carôlô, Sợi chỉ dỏ, năm B, tr 134-135).
Việc Chúa biến hình nhắc cho các môn đệ và chúng ta phải thay hình đổi dạng linh hồn mình. Thánh Phaolô cũng nhắc nhở chúng ta phải cởi bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện hơn:”Hãy lột bỏ con người cũ mặc lấy con người mới. Hãy để Thần Khí Thiên Chúa canh tân tận tâm linh anh em””(Ep 4,22).
Thánh Tông đồ còn khuyên nhủ chúng ta hãy làm một cuộc canh tân toàn diện để cho con người nội tâm của ta biết nghe theo luật của Chúa mà bỏ đường lối của xác thịt. Vì thế, trong thư gửi tín hữu Êphêsô Ngài đã viết:”Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xa xưa, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật”(Ep 4,22-24).
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta phải đổi mới toàn diện, phải đổi từ con người cũ sang hẳn con người mới tốt lành. Đổi mới toàn diện là phải đổi mới tận căn chứ không phải chỉ đổi mới nửa vời hoặc đổi mới hời hợt một số cái, hoặc chỉ đổi mới cái bên ngoài để rồi trở thành con người mà người đời gọi một cách mỉa mai: ”Nửa người ngửa ngợm nửa đười ươi”, đúng như người ta nói:
Thay quần thay áo thay hơi,
Thay dáng thay dấp mà người chẳng thay.
(Ca dao)
Truyện: Cách làm cho trắng da.
Người ta thuật rằng cả một khu đất kia chỉ có một gia đình người da đen ở. Gia đình đó gồm có một bà vợ, một người chồng và một đứa con trai 9 tuổi. Cậu bé đi học, nhưng giữa bọn trẻ da trắng, riêng mình đen thủi đen thui, nên lắm phen bị chê cười, chế nhạo. Cậu luôn luôn bị chọc ghẹo nên khó chịu, giống như một tấm lòng non nớt bị một vết thương sâu. Sau hết, cậu tự hỏi mình có thể thay đổi nước da chăng, rồi nhất định làm theo ý nghĩ đó.
Bữa nọ, thầy giáo thấy cậu vắng mặt, bèn hỏi đám học trò về cậu. Một trò thưa rằng thấy cậu đi đàng sau trường, giữa khu rừng nhỏ có rạch chảy qua. Thầy giáo ra công tìm kiếm và thấy cậu ở sát bờ rạch, đang dùng cát ướt kỳ cọ hai cánh tay đen. Thỉnh thoảng cậu dừng tay, rửa cát dính vào da, rồi nhìn xem mầu da mất chưa. Nhưng! Màu đen quá sậm, cậu mất công. Vài phút sau, thầy giáo gọi cậu:
- Này em làm gì đấy?
Cậu giật mình thưa:
- Con cố sức trừ bỏ màu da đen để nên người da trắng, song không sao được..
(Ms Lê văn Thái, Những tia sáng, tập 2, tr 94-95)
II. BIẾN ĐỔI VÀ THỬ THÁCH
1. Thử thách của tổ phụ Abraham
Bài đọc I hôm nay thuật lại việc Abraham sát tế Isaác con mình. Việc này cho chúng ta thấy cá tính và đức tin của ông. Lệnh truyền sát tế Isaác, người con duy nhất sinh ra trong tuổi già, thì vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không còn người con trai này? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống Isaác được dành lại.
2. Thử thách của chúng ta
Đường lối Thiên Chúa thật lạ lùng... nhiều khi đường lối Chúa lại chẳng xem ra đi ngược với mục đích đang tìm kiếm sao? Câu chuyện về hy tế của Abraham khá làm sáng tỏ những phương thức của Thiên Chúa. Quả thật, tất cả chỉ là thử thách trong cuộc đời. Nhưng một khi chân trời mây mù bưng bít, không trông đâu được sự giúp đỡ của loài người, mọi sự dường như mất hết, chúng ta không còn cân nhắc suy tính được nữa, và thất vọng tự hỏi:”Tại sao Thiên Chúa xử như vậy”?
Nhưng chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chuá luôn yêu thương chúng ta, Ngài đã phó nộp Con Một Ngài trên cây thánh giá vì phần rỗi chúng ta. Như vậy, khi Ngài để cho chúng ta nhờ đau khổ và thử thách kết hợp với sự thương khó của Chúa Kitô, chúng ta chắc chắn rằng, nhờ đó, Ngài cũng muốn liên kết chúng ta vào sự Phục sinh và vinh quang của Chúa Kitô. Do đó, thử thách cũng có ý nghĩa tích cực vủa nó. Không lạ gì khi thấy người ta nói: Có cứng mới đứng đầu gió (Tục ngữ)
Chính những đau khổ và gian nan thử thách sẽ làm cho chúng ta thêm giá trị trước mặt Chúa, nó thanh luyện chúng ta, nó làm cho chúng ta thể hiện lòng trung thành đối với Chúa. Lúc đó, đức tin của chúng ta mới có giá trị sau khi đã được thanh luyện như vàng ra khỏi quặng:
Có gió lung, mới biết tùng bá cứng,
Có lửa hừng, mới biết thức vàng cao.
(Tục ngữ)
Thánh Giacôbê Tông đồ nói về vấn đề này:”Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì khi thành công trong cơn thử thách như thế, người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Thiên Chúa đã hứa cho những ai yêu mến Ngài”(Gc 1,12).
Trong gian nan thử thách, hãy giữ vững niềm hy vọng và tin tưởng phó thác. Nhưng làm sao giữ được niềm hy vọng tâm hồn? Hãy noi gương Chúa Kitô! Tất cả cuộc đời Ngài chỉ là một chuỗi phó thác trong tay Chúa Cha. Trong lúc hấp hối Ngài than thở:”Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha”. Sự tín thác mến yêu này là nguồn ơn cứu độ cho hết mọi người và là nguyên nhân của Phục sinh khải hoàn. Chính trong việc chiêm niệm về Chúa Kitô tín thác cho Tình Yêu mà chúng ta múc lấy nghị lực để nói như Ngài:”Lạy Cha, đừng theo ý con, một theo ý Cha”.
3. Thử thách và đức tin
a) Đức tin cần được thử thách
Trong những lúc bị thử thách, chúng ta không biết bám víu vào đâu vì những người chung quanh đều bất lực không thể giúp chúng ta. Lúc đó, chúng ta chỉ còn biết dựa vào đức tin để phó thác cho Chúa, xin Ngài đến cứu giúp. Đức tin cũng cần phải được thử thách thì mới có gia trị. Nếu ở trên núi Tabor, ông Phêrô thưa với Chúa:”Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Elia và một cho Maisen”(Mc 9,5). Các ông muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor, ngủ yên trong hào quang rực rỡ, bỏ lại dưới núi bạn đồng môn, muốn hưởng thụ đầy đủ ánh hào quang của Chúa, thì các ông sẽ nói thế nào ở vườn Cây Dầu và ở đồi Golgotha?
Người đời cũng cảm nghiệm thấy giá trị và ích lợi của thử thách. Chính thử thách làm cho con người thêm giá trị. Con người chỉ được đánh giá đúng qua thử thách như thi sĩ Nguyễn công Trứ nói lại câu nói của cổ nhân:
Văn vô sơn thủy vô kỳ khí
Nhân bất phong sương vị lão tài.
Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta phải có đức tin vững mạnh. Tuy thế đức tin không phải lúc nào cũng ở đỉnh cao, đức tin có lúc lên cao, có lúc xuống thấp theo nhịp điệu vui buồn, sướng khổ, may mắn hay trắc trở.
Khi lên tinh thần, đức tin của chúng ta cũng vững mạnh và sán lạn như đức tin của các tông đồ trong bài Tin mừng hôm nay. Khi đức tin ở đỉnh cao, chúng ta thấy gần gũi Đức Giêsu đến độ chúng ta tưởng rằng có thể đụng rờ được Ngài. Chúng ta cảm thấy gần gũi Thiên Chúa Cha đến độ dường như đôi tay của Ngài đang bao bọc chung quanh ta, và Thánh Thần dường như đang nói với chúng ta. Trái lại, khi xuống điểm thấp, đức tin của chúng ta yếu ớt như muốn mất hẳn, giống như đức tin của các môn đệ ở vười Cây Dầu (Mark Link).
Áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng ta cảm thấy đức tin mình ở những điểm cao, lúc đo chúng ta yêu thương hết mọi người. Chúng ta thắm thiết với bạn bè, và chúng ta tha thứ cho tất cả mọi thù địch. Vào những ngày như thế, chúng ta không thể hiểu được chúng ta đã từng cho rằng cuộc đời là khó khăn. Nhưng khi ở những điểm thấp, không có gì là trôi chảy cả: “Chúng ta cảm thấy bị đè nén và đáng thương, bị hiểu lầm, chán nản, bị mất mát thiệt thòi. Đó là lúc chúng ta thấy mình có nhiều kẻ thù hơn là thực tế, và thấy người bạn nào của mình cũng đều có lỗi với mình cả. Vào những ngày như vậy, chúng ta khó mà biết được tại sao có những lúc chúng ta lại nghĩ rằng cuộc đời này là dễ dàng vui tươi” (Anthony Padovano).
b) Tin tưởng và phó thác
Những lúc gặp đau khổ hoặc gian nan thử thách chúng ta chỉ còn biết tin tưởng và phó thác cho Chúa. Ngài có thể làm được tất cả trong những cái loài người cho là không có thể, để quyền năng của Chúa được tỏ hiện nơi ta, như thánh Phaolô đã nói:”Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”(2Cr 12,10).
Có câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa:”Khi Thiên Chúa đóng của chính thì Ngài mở ra cửa sổ”. Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó, chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Thiên Chúa đóng cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới.
Truyện: Niềm đau tượng hình.
Du khách đến Roma thường đi thăm ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, vì phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt: bất cứ ai đến qùi trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả lòng thành đều được sức mạnh và an ủi thâm sâu.
Người ta kể rằng tác giả của thánh giá bằng tượng cẩm thạch này đã mất nhiều năm mới hoàn thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập bỏ, vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông muốn.
Khi ông bắt tay vào công trình lần thứ ba thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tị nên tìm cách hạ uy tín ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương.
Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc. Trái lại, ông càng miệt mài chú tâm vào công trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giêsu trên thập giá không còn là một phiến đá lạnh lùng, xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ muốn tháp nhập vào.
(Thiên Phúc, Chuyện hay đông tây, tập 1, tr 159)
Khi gặp những giây phút đen tối, chúng ta hãy bắt chước gương của Abraham trong bài đọc I hôm nay. Niềm tin của Abraham yếu ớt và dường như phai mờ khi ông nghĩ rằng Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy tế con trai của ông là Isaác. Điều đó làm cho ông khổ tâm và bối rối. Nhưng Abraham vẫn tin cậy vào Chúa, và Thiên Chúa không để ông thất vọng. Thiên Chúa đã chúc phúc và ban ơn cho ông hơn cả những ước mơ của ông.
Thiên Chúa cũng thử thách niềm tin của chúng ta như thế. Khi bị thử thách, tâm hồn chúng ta cũng đau khổ và bối rối. Nhưng nếu chúng ta tin cậy vào Thiên Chúa giống như Abraham, thì Thiên Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng. Và cuối cùng, Thiên Chúa cũng sẽ chúc phúc và ban ân huệ cho ta nhiều hơn những gì chúng ta mơ ước.
Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một: Ngài là Đức Giêsu sáng láng trên núi Tabor, cũng là Đức Giêsu mướt máu trong vườn Cây Dầu, và cũng là Đức Kitô đau khổ trên thập giá ở đồi Golgotha. Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường Tình Yêu. Theo thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu thì: ”Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Đức Giêsu ta trèo lên đồi Calvê”. Hiểu được đau khổ là con đường tình yêu, thì thánh nữ Bernadette đã cầu nguyện:”Con không xin cho mình khỏi đau khổ, nhưng chỉ xin Ngài đừng bỏ con trong đau khổ”.
11.Đức tin trong đau khổ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang. Đó là chủ đề mà lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta.
Chúng ta hãy lấy một thí dụ như trường hợp Áp-ra-ham trong bài đọc một. Khi gần trăm tuổi, ông được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con duy nhất của Áp-ra-ham với vợ chính là Sa-ra, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Điều này đã là một sự lạ lùng đối với Áp-ra-ham và Sa-ra, nhưng Thiên Chúa đã thực hiện. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin của Áp-ra-ham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên Áp-ra-ham rất đau lòng, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận "lòng tôn kính và tin yêu" của Áp-ra-ham, vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho ông. Chúng ta thấy đức tin đã đem lại cho con người một sức sống mãnh liệt biết bao.
Hơn thế, đức tin còn giúp con người vượt thắng mọi đau khổ thể xác và tinh thần, mọi bất lực theo khả năng tự nhiên của con người và khoa học. Trở lại câu chuyện của Áp-ra-ham, chúng ta thấy chính đức tin đã trấn an mối thương tâm của người cha phải cầm dao giết con mình, làm lễ tế cho Đấng mà ông hết lòng tin tưởng.
Như vậy, đức tin giúp con người sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của Nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.
Có một câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa, đó là "Khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ". Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa, Ngài sẽ mở cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Chẳng hạn, Thiên Chúa đóng kín cửa chính trong cuộc đời chúng ta, khi chúng ta trải qua cơn bệnh nặng, thì Ngài lại mở ra cửa sổ, cho chúng ta gặp được bác sĩ tận tình tài giỏi để chữa bệnh. Thiên Chúa đóng kín cửa chính khi chúng ta bị mất mát, thua thiệt, nhưng Ngài mở ra cửa sổ khi Ngài cho chúng ta gặp được những tâm hồn quảng đại sẵn sàng giúp chúng ta bắt đầu lại cuộc đời. Thiên Chúa đóng cửa chính khi chúng ta bất ngờ phải mang tang người thân, thì Ngài lại mở ra cửa sổ là trong gia đình được hòa thuận lại với nhau...
Thiên Chúa đóng cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới. Nhìn lại cuộc sống, có thể mỗi người chúng ta cũng đã cảm nghiệm được những giây phút Thiên Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới, tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta. Vì thế, khi gặp thử thách, đau khổ, chúng ta đừng bao giờ chán nản, thất vọng, nhưng hãy tin tưởng và cầu nguyện, càng phải cầu nguyện nhiều hơn bình thường, để xin thêm đức tin và kiên nhẫn. Tin tưởng và kiên nhẫn, vì khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, Ngài sẽ mở ra cửa sổ.
Chúng ta vẫn thường nói: "Chạy trời không khỏi nắng", nghĩa là ở đâu cuộc đời cũng có những khổ luỵ của nó, và ngày nào cũng có nỗi khổ của ngày ấy. Như vậy, đau khổ tự nó là một điều xấu, không ai ham, không ai muốn. Vậy đau khổ có giá trị không? Tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ. Vì thế, những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ phàn nàn, kêu trách Chúa, cũng đừng bao giờ rủa mình, than thân trách phận, chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tự cố gắng và hãy giúp đỡ nhau, nhất là hãy tin tưởng, cậy trông và gia tăng cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, vì Chúa đã nói: "Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Tôi, Tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho".
12.Hãy nghe lời Người--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Sau khi cho các môn đệ biết về việc Người sắp lên Giê-ru-sa-lem để chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại, Đức Giê-su muốn củng cố lòng tin của các ông đang bị giao động, bằng cách đưa 3 môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lên núi cao. Tại đây, Người biến hình trước mặt các ông, rồi có lời Chúa Cha xác nhận Người là Con yêu dấu. Có Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo về cuộc khổ nạn Người sắp trải qua. Như vậy, việc biến hình cho thấy cuộc khổ nạn của Đức Giê-su là do thánh ý của Chúa Cha và cũng nhằm khích lệ tinh thần của các môn đệ, giúp các ông kiên vững lòng tin khi phải chứng kiến cuộc khổ nạn của Người sau này.
CHÚ THÍCH:
- C 2-4: + Các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an: Đây là ba môn đệ được Chúa ưu ái. Người cho các ông nhìn thấy vinh quang Thiên tính của Người, như chuẩn bị tinh thần trước để các ông khỏi bị vấp ngã khi phải chứng kiến cảnh Người phải lo buồn sầu não trong vườn Cây Dầu trước giờ chịu khổ nạn (x. Mc 14,33). + Lên núi cao: Chưa xác định là núi nào trong hai ngọn núi là Tha-bo và Héc-mon. Núi cao thường được coi là nơi Đức Chúa ngự. Lên núi cao là để gặp gỡ Đức Chúa, như Mô-sê gặp Đức Chúa trên núi Khô-rếp trong vùng Si-nai để đón nhận mười điều răn được khắc trên hai tấm bia đá (x. Xh 24,12-18), còn Ê-li-a là vị ngôn sứ thời kỳ Các Vua, ông phải chạy trốn cuộc truy bắt của hoàng hậu I-de-ven bằng cách trớn lên “núi Thiên Chúa” (x. 1V 19,2.8). Trong Tin mừng hôm nay, ba môn đệ đã được Đức Giê-su cho leo lên núi cao để được Người mặc khải cho biết về Thiên tính của Người. + Người biến đổi hình dạng: Đức Giê-su tạm thời từ bỏ hình dạng bình thường của phàm nhân, để mang một hình dạng khác của Con Thiên Chúa. Y phục rực rỡ trắng tinh chiếu tỏa vinh quang thiên giới. Trong đoạn này, Mác-cô cho thấy: Đức Giê-su, Đấng Mê-si-a đang ẩn mình, người Tôi Trung đau khổ của Thiên Chúa, giờ đây đã tỏ bày ra trước kỳ hạn về vinh quang phục sinh sau này. + Ông Ê-li-a và ông Mô-sê: Hai vị này đều đã từng leo núi để tiếp nhận mặc khải của Đức Chúa. Hai vị đều là nhân vật của thời cánh chung. Cả hai đều bước vào thế giới bên kia cách bí nhiệm: Mô-sê thì bị chết ở miền đất Mô-áp trước khi dân vào chiếm Hứa Địa, nhưng không ai biết được mộ phần ông ở đâu (x. Đnl 34,6), còn Ê-li-a thì leo lên chiếc xe ngựa rực lửa bay về trời trong cơn gió lốc (x. 2V 2,11). Ở đoạn này, sự hiện diện của Mô-sê tượng trưng cho Lề Luật, và của Ê-li-a tượng trưng cho các Ngôn sứ. Điều này chứng minh có sự liên tục giữa Cựu Ước với Tân Ước. Nó cho thấy thời kỳ Cánh Chung và Cứu Độ đã khởi đầu. + Hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su: Mác-cô không nói đến nội dung cuộc đàm đạo, đang khi Lu-ca lại cho biết: “Và nói về cuộc xuất hành” (nghĩa là cuộc ra đi: chết, sống lại và lên trời của Đức Giê-su) - mà Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (x Lc 9,29).
- C 5-8: + Xin dựng ba cái lều: Lúc đó đang trong thời gian dân Ít-ra-en mừng Lễ Lều kéo dài 7 ngày. Trong các ngày này, họ phải đến ở tạm trong các lều trại làm bằng cành cây, để ôn lại công ơn Đức Chúa đã cứu Ít-ra-en khỏi cảnh nô lệ cho người Ai Cập và cha ông họ đã từng ở trong các lều trại nơi sa mạc (x. Lv 23,34.42-43). Ở đây, Phê-rô xin dựng 3 lều trại nhằm kéo dài cuộc thần hiện mà ông đang chứng kiến. + Có một đám mây bao phủ các ông: Đám mây diễn tả sự hiện diện của Đức Chúa, giống như trong thời kỳ xuất hành của dân Do Thái xưa (x. Xh 40,34-38) + Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người: Lời Chúa Cha công nhận Đức Giê-su là “Con” (x. Tv 2,7), giống như khi Người chịu phép Rửa tại sông Gio-đan (x. Mc 1,11). Đức Giê-su cũng được giới thiệu như một Ngôn Sứ mà mọi người phải nghe theo lời Người chỉ dạy (x. Mt 16,14; Cv 3,22-23).
- C 9-10: + Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy: Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi làm phép lạ chữa bệnh hay trừ quỉ, Đức Giê-su thường đòi người vừa được chữa lành phải giữ kín sự việc xảy ra, không được tiết lộ cho người khác biết là Đức Giê-su đã làm phép lạ ấy. Đòi hỏi giữ kín được gọi là “Bí Mật của Đấng Thiên Sai”. Sở dĩ Đức Giê-su không muốn cho người ta biết Người là Đấng Thiên Sai vì cần có thời gian để Người giảng dạy dân Do Thái hiểu đúng về sứ mệnh Thiên Sai theo Ý Thiên Chúa của Người. Nếu nói sớm sự thật này sẽ làm cho dân Do thái đang bị tinh thần ái quốc cực đoan tác động, đang mong đợi một Ông Vua Thiên Sai theo nghĩa trần tục, sẽ hiểu lầm về sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su và sẽ gây bạo loạn, gây cớ cho quân Rô-ma đem quân đến tiêu diệt dân Do Thái nhỏ bé, sẽ bất lợi cho sứ mệnh Thiên Sai về mặt thiêng liêng tinh thần của Đức Giê-su. Cuộc biến hình biểu lộ Thiên tính của Đức Giê-su sẽ được các môn đệ chính thức công bố sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su, nghĩa là sau khi Người từ cõi chết sống lại. + Các ông tuân lệnh đó: Ba môn đệ đã vâng lời Đức Giê-su. Các ông không nói gì về cuộc biến hình này, mãi đến khi Người trải qua mầu nhiệm chết và sống lại. Dù các ông không hiểu tại sao Người lại cấm như vậy. + Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Cũng như Phê-rô đã can trách Đức Giê-su đừng chấp nhận con đường cứu thế qua đau khổ thập giá theo ý Chúa Cha, còn các môn đệ khác đều không hiểu hay không muốn hiểu về con đường “Từ trong cõi chết sống lại” hoặc “Qua đau khổ vào vinh quang” đã được Đức Giê-su công bố trước cuộc biến hình (x Mc 8,31).
CÂU HỎI: 1) Tại sao Đức Giê-su lại hiển dung biến hình trước mặt ba môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an? 2) Chúa biến hình trên núi cao là núi gì? 3) Đức Giê-su hiển dung để mặc khải Người là ai? 4) Nội dung cuộc đàm đạo với Mô-sê và Ê-li-a là gì và nhắm mục đích gì? 5) Tại sao ông Phê-rô lại xin Thầy cho dựng 3 lều? 6) Đám mây diễn tả về điều gì? 7) Qua lời phán từ trong đám mây, Thiên Chúa muốn mặc khải Đức Giê-su là ai với 3 môn đệ của Người? 8) Bí mật Đấng Thiên Sai nghĩa là gì? Tại sao Đức Giê-su cấm ba môn đệ không được nói ra điều các ông vừa được chứng kiến? 9) Tại sao các môn đệ lại thắc mắc về ý nghĩa của câu “Từ trong cõi chết sống lại” do Đức Giê-su đã nói sau khi biến hình?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su đã biến đổi hình dạng trước mắt các ông” (Mc 9,2).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Thiên thần cũng có thể biến thành ác quỉ:
Một hôm, một họa sĩ người Ý khá nổi tiếng đang đi bách bộ để tìm hứng sáng tác. Khi đến một khúc cua, ông chợt thấy một bé trai có khuôn mặt hồn nhiên dễ mến. Tự nhiên ông muốn vẽ lại vẻ mặt thiên thần của em. Ông nói với cậu bé rằng: “Này em, em có muốn tôi vẽ chân dung của em không?” Cậu bé gật đầu đồng ý và theo họa sĩ về xưởng vẽ của ông. Mấy giờ sau, cậu ta rất ngạc nhiên và vui mừng nhìn thấy khuôn mặt của em rạng rỡ trong bức tranh. Họa sĩ đặt tên cho bức tranh này là: “Tuổi thơ trong trắng”. Ông treo nó nơi phòng khách, và mỗi khi gặp điều gì bực mình, ông lại nhìn lên bức tranh kia và lập tức lấy lại bình an. Một số người muốn mua bức tranh với giá cao, nhưng dù gặp khó khăn về tài chính mà họa sĩ vẫn không bán.
Hai mươi năm sau. Một hôm họa sĩ cũng đang đi dạo để tìm hứng vẽ tranh. Khi tới gần khu nhà ổ chuột, tình cờ ông nhìn thấy một gã ăn xin, áo quần lôi thôi rách nát và có khuôn mặt chai lì gian ác, trông như một tên quỉ sứ. Ông suy nghĩ: “Sao trên đời này lại có người mang bộ mặt gian ác xấu xa đến thế nhỉ? Phải chi ta vẽ được gương mặt quỉ sứ này để so sánh với gương mặt thiên thần trong bức “Tuổi thơ trong trắng” trong phòng khách nhà ta thì hay biết mấy!”
Bấy giờ gã ăn mày đã chìa tay xin bố thí. Họa sĩ yêu cầu gã làm người mẫu cho ông vẽ và hứa sẽ cho gã một số tiền khá. Gã ăn xin lập tức đồng ý. Khi bức tranh đã vẽ xong, gã nhận tiền và ra về. Nhưng khi đi ngang phòng khách, gã trông thấy bức tranh “Tuổi thơ trong trắng” đang treo trên tường, gã liền dừng lại nhìn một lúc, rồi hai dòng lệ từ từ lăn trên gò má. Sau đó gã chỉ lên bức tranh và nói với họa sĩ rằng: “Thưa ông, đây chính là khuôn mặt của tôi hồi còn bé mà tôi nhớ có lần đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ. Hôm nay ông lại vẽ khuôn mặt của tôi sau khi nó đã biến dạng!” Rồi gã thuật lại cuộc đời bất hạnh của gã như sau:
“Tôi vốn là một đứa con trai, lại là con một, nên được cha mẹ rất mực cưng chiều. Nhưng cũng vì thế mà tôi sinh ra hư hỏng. Khi cha mẹ tôi lần lượt qua đời, tôi đã bán tất cả gia sản và lao mình vào các thú vui trác táng... Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi đã phung phí hết tiền bạc của cha mẹ và phải nhập bọn với lũ bạn đi trộm cắp. Rồi tôi bị bắt và thụ án mười năm. Trong thời gian ở tù, tôi đã trải qua rất nhiều gian khổ tủi nhục: Bị đánh đập, ứng hiếp và bị bóc lột tàn nhẫn. Nhưng rồi tôi cũng quen dần với cuộc sống đó. Cuối cùng chính tôi lại trở thành kẻ bóc lột hành hạ các tù nhân mới nhập trại và các bạn tù khác nhỏ yếu hơn tôi. Bây giờ sau khi vừa mãn hạn tù, tôi đang trong tình trạng không một đồng xu dính túi, lại còn mang thêm bệnh lao phổi sang thời kỳ thứ ba. Tôi chẳng biết làm gì hơn là phải đi ăn xin như ông thấy đó”.
Trước tâm sự của một người đã phung phí trót cả tuổi thanh xuân của mình, họa sĩ rất xúc động. Nhưng ông cũng chỉ biết khuyên bảo gã ăn xin hãy cố ăn ở lương thiện. Ít lâu sau, ông được tin gã đã nằm chết cô đơn tại một góc phố. Họa sĩ đã treo bức tranh “Ác quỉ” mà ông mới vẽ bên cạnh bức “Tuổi thơ trong trắng”. Ông cũng thường giải thích cho bạn bè và những ai thắc mắc về hai bức tranh như sau: “Hai khuôn mặt trong hai bức tranh này thực ra chỉ là một con người. Và sự khác biệt giữa hai khuôn mặt thiên thần và ác quỉ chỉ cách nhau 20 năm phóng đãng mà thôi!”.
2) Vâng lời đáng quý hơn mọi báu vật:
Một hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng xem một viên ngọc trai vừa to vừa rất đẹp và hỏi rằng:
- Khanh hãy lượng định xem viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?
- Tâu Bệ Hạ, nó đáng giá hơn số lượng vàng khối mà 4 con lừa có thể chuyên chở.
Vua ra lệnh cho quan Tể tướng:
- Nhà ngươi hãy đập bể viên ngọc này đi!
Quan Tể Tướng liền nói:
- Tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể đập bể một báu vật rất quý giá như thế được ạ!
Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.
Kế đó vua lại đưa viên ngọc quý cho quan Thị Vệ trong cung và cũng hỏi:
- Theo khanh, viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?
- Bằng cả một tỉnh thành của Vương quốc.
- Khanh hãy đập bể nó ra!
- Đập vỡ viên ngọc này ư? Tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được công việc đó.
Nhà vua cũng thưởng cho quan Thị Vệ một chiếc áo danh dự và còn tăng lương cho ông.
Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul:
- Ngươi có thấy viên ngọc nào đẹp bằng viên ngọc to quý này không?
- Muôn tâu, thần chưa hề thấy viên ngọc nào quý giá như viên ngọc của Đức Vua.
- Nhà ngươi hãy đập nát nó đi.
Lập tức Abdul cầm một viên đá lớn đập nát viên ngọc quý kia thành bụi. Quần thần ai nấy đều thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul. Họ hỏi ông rằng:
- Sao nhà ngươi lại dám làm như thế?
Abdul bình tỉnh đáp lại:
-Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào.
Trước thái độ vâng phục tuyệt đối của Abdul, nhà vua đã khen ngợi chàng đã làm đúng nhiệm vụ của một bề tôi trung thành và đã ban thưởng bội hậu hơn hai vị quan kia.
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được Đức Giê-su chính là Con yêu dấu của Thiên Chúa vì luôn vâng lời Ngài, như Tin Mừng hôm nay đã ghi nhận: Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7b).
3. THẢO LUẬN: 1) Hãy cho biết nguyên nhân nào đã biến một em bé có khuôn mặt trong trắng của thiên thần lại biến thành khuôn mặt gian ác của quỉ dữ? 2) Bạn sẽ thực tập nhân đức nào để loại bỏ thói hư quan trọng bạn đang mắc phải trong Mùa Chay này?
4. SUY NIỆM:
1) Cuộc hiển dung của Đức Giê-su:
- Biến cố Đức Giêsu biến hình trên núi hé lộ cho ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi Thầy Giê-su của các ông: Từ khuôn mặt đến y phục bên ngoài của Đức Giêsu đều biến đổi nên sáng láng đẹp đẽ khiến ba môn đệ cảm thấy sung sướng ngất ngây.
- Bấy giờ đang là lễ Lều Trại, ông Phê-rô trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh đã nhìn thấy Thầy Giê-su trò chuyện với hai nhân vật rất nổi tiếng là ông Mô-sê, đại diện cho Lề Luật và ông Ê-li-a, đại diện cho Lời Chúa phán, nên đã xin Thầy cho được dựng ba cái lều: Một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a.
2) “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7):
Tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám mây chính thức xác nhận Đức Giêsu là “Con Yêu Dấu” và dạy các môn đệ “hãy vâng nghe lời Người”.
- Đức Giêsu là Con Một của Chúa Cha, mang nơi mình tất cả vinh quang và quyền năng của Chúa Cha, thể hiện qua việc biến đổi hình dạng và y phục: Khuôn mặt của Người trở nên sáng chói vinh quang của Thiên Chúa giống như ông Mô-sê sau khi được tiếp xúc với Đức Chúa. Áo Người đang mặc hóa nên “rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy”. Các môn đệ ngỡ ngàng và ngây ngất khi được chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giêsu.
- Tiếp đến tiếng Chúa Cha từ trong đám mây truyền cho các môn đệ “hãy vâng nghe lời Người”: Vâng lời Đức Giê-su là vâng lời Chúa Cha như Người đã nói: "Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy" (Lc 10,16). Vâng lời Đức Giêsu là làm theo lời Đức Ma-ri-a đã dạy gia nhân trong tiệc cưới Ca-na: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Cụ thể vâng lời Đức Giê-su còn là chấp nhận đi con đường “qua đau khổ là chấp nhận thập giá và cái chết để được vào trong vinh quang phục sinh”, điều mà ông Phê-rô đã không chấp nhận và còn lên tiếng can trách Đức Giê-su và đã bị Người mắng: “Xa-tan. Lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,33). Cuối cùng vâng nghe Đức Giêsu là không được nói với ai về những gì vừa chứng kiến, cho tới khi Con Người “từ cõi chết sống lại”.
3) “Từ trong cõi chết sống lại” (Mc 9,10) nhờ phương thế nào?:
Cuộc đời người tín hữu chính là họa lại cuộc sống của Đức Giê-su: Khi lãnh bí tích Rửa tội, chúng ta cũng được dìm mình trong dòng nước và trồi lên khỏi mặt nước giống như Đức Giê-su đã trải qua cuộc tử nạn và được an táng trong mồ, rồi ngày thứ ba đã từ cõi chết trỗi dậy. Các tông đồ các thánh tử đạo đã chấp nhận đi con đường này. Mỗi tín hữu chúng ta hôm nay cũng phải sẵn sàng chấp nhận sự thua thiệt, mất mát giữa đời thường. Chẳng hạn: vì đức tin và quyết tâm trung thành với Chúa không làm điều sai trái nên có thể mất việc làm, mất cả địa vị xã hội...
Thánh Phao-lô dạy: “Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí, là sự sống đời đời. Khi làm điều thiện chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa, chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng. Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin” (Gl 6,7-10). Trong những ngày Mùa Chay này, chúng ta cũng cần xét mình và quyết tâm sám hối bằng việc loại trừ các thói hư như: lười biếng việc đạo đức dự lễ, đọc kinh gia đình, không tham lam ích kỷ vô trách nhiệm, tránh nói hành nói xấu kẻ vắng mặt, biết nín nhịn để không gây gỗ với những kẻ mình không ưa… Nhờ việc tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, dọn mình xưng tội, tham dự các buổi học sống Lời Chúa hằng tuần, quyết tâm thi hành các công tác tông đồ bác ái và phục vụ cụ thể theo phân công của cấp trên… Nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ được biến đổi nên người mới và được sống lại thật về linh hồn trong Mùa Phục Sinh sắp tới.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu, hiện giờ chưa tới lúc chúng con được biến hình vinh quang, nhưng đang là lúc chúng con phải biến đổi nên tốt hơn nhờ sự ăn năn sám hối tội lỗi và ăn chay hãm mình đền tội. Nhờ đó, chúng con sẽ ngày một nên con hiếu thảo luôn làm đẹp lòng Chúa Cha hơn, nên môn đệ thực sự của Chúa nhờ chăm chỉ nghe và thực hành Lời Chúa. Xin cho chúng con biết cộng tác với ơn Thánh Thần để chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
13.Biến đổi lòng tin, biến đổi cuộc đời!--Lm. Anmai, C.Ss.R.
Ông bà ta vẫn thường nói “Ở trong chăn mới biết chăn có rận!” hay là “Đèn nhà ai nấy rạng”. Những câu nói ấy như muốn nói rằng khi và chỉ khi ở trong hoàn cảnh thì mới hiểu được chứ còn ở ngoài không thể nào hiểu được. Người ta cũng thường nói “có đau bệnh mới thương người ốm!”. Cũng như ý ở trên, ông bà ta muốn nói rằng khi mình đối diện với thực tại, đối diện với hoàn cảnh bi đát của cuộc đời người ta mới biết chứ còn chưa đối diện thì không thể nào biết được.
Nhớ lại thầy già trong nhà Dòng. Những ngày cuối đời, Thầy phải đối diện với những cơn đau đớn vật vã do chứng bệnh ung thư mang lại. Khi đến thăm Thầy, thầy thỏ thẻ với tôi: “Bây giờ có ai đến an ủi đi chăng nữa thì cũng không thể nào hiểu được cơn đau của tôi!”. Và cứ như vậy, Thầy cố gắng chịu đựng, dâng những cơn đau của thể xác lên cho Chúa như của lễ cuối đời của Thầy vậy. Câu nói của Thầy già làm tôi nhớ mãi. Chỉ có ai đau bệnh mới biết nỗi đau là gì chứ còn chỉ đến thăm, chỉ đến an ủi thì cũng chẳng thể nào hiểu được cơn đau đang hành hạ bệnh nhân.
Và rồi, một linh mục đàn anh cũng ra đi với căn bệnh ung thư quái ác. Những ngày cuối đời, cũng vào thăm anh nhưng tôi chỉ lặng lẽ nhìn anh chứ không dám nói gì vì có nói gì thì nói cũng chẳng thể nào xoa dịu được nỗi đau của anh. Đôi khi lời an ủi, lời nói nó trở thành phản cảm khi người bệnh vì lẽ chúng ta không hiểu, không mang tâm trạng đau đớn là gì. Phải có sự hy sinh và đặc biệt là có lòng tin con người mới có thể chịu đựng, vượt qua những cơn đau đớn mà thể xác bị hành do đau bệnh.
Mới đây, chiều mùng 1 Tết. Nhận được cuộc điện thoại của một Sơ báo tin một Sơ thân quen vừa được Chúa gọi về sáng mùng 1. Kể lại hành trình chuyển Sơ kia từ thành phố về Buôn Ma Thuột, Sơ bên kia điện thoại nhấn đi nhấn lại chuyện phải đấu tranh với ma quỷ trong những giờ phút cuối đời của bệnh nhân. Những cơn đau đớn hoành hành, những cơn vật vã do chứng bệnh ung thư đôi khi làm nhụt chí bệnh nhân, làm cho bệnh nhân nản lòng trông cậy. Sơ nói với tôi rằng, lúc ấy phải đọc kinh, cầu nguyện để giành giật lại với sức lôi kéo của ma quỷ.
Nhớ đến giờ khắc cuối cùng của Mẹ tôi cũng thế! Bà bị bệnh ung thư! Trước khi mời cha đến xức dầu, Mẹ cứ quay mặt vô tường không thèm nhìn ai, nói chuyện với ai dù lúc đó Mẹ rất tỉnh táo. Kể từ lúc lãnh bí tích xức dầu và được người đọc kin phó linh hồn, bỗng dưng bà quay ra nhìn mọi người lần cuối và vẻ mặt thanh thản hơn trước đó! Thế đấy! Giờ phút cuối, giờ phút chuẩn bị ra đi của con người, giờ phút phải đối diện với cái chết thật là căng thẳng. Chính giờ phút ấy con người phải đối diện với lòng tin vào Đấng Cứu Độ mà bao nhiêu lâu nay họ theo. Chính giờ phút ấy là giờ phút quyết định ơn cứu độ của con người và con người phải dứt khoát trước giờ phút ấy.
Câu chuyện về Abraham sát tế cục cưng của mình là Isaac chúng ta đã nghe quá nhiều lần. Nhiều đến độ chỉ cần nghe “Lời Chúa trong sách sáng thế …” rồi “Người gọi ông: "Áp-ra-ham! " Ông thưa: "Dạ, con đây! ". Cứ nghe như vậy là chúng ta biết về trình thuật về việc Thiên Chúa thử lòng tin của ông. Phải nói là Thiên Chúa quá cay nghiệt khi bắt Abraham đáp trả lòng tin bằng việc sát tế đứa con yêu của mình. Thử hỏi mỗi người chúng ta khi phải từ bỏ vật chất, từ bỏ một chút lợi lộc nào đó chúng ta chưa dám bỏ chứ huống hồ gì là đứa con độc nhất vô nhị của mình. Nghe nhiều, đọc nhiều thấy chẳng có gì cả vì chúng ta biết trước kết cục của câu chuyện là Abraham đã sẵn sàng sát tế con mình nhưng Thiên Chúa đã ra tay ngừng lại như đoạn sách mà chúng ta vừa nghe.
Biết câu chuyện, biết trình thuật, biết kết quả có lẽ không hay lắm khi ta phải đối diện với thử thách to lớn như Abraham. Nói thì ai nói cũng được và nói thì dễ nhưng làm thì quả là quá khó khăn, quá xa vời. Thử đặt mình vào hoàn cảnh thật của Abraham chúng ta sẽ thấy căng thẳng đến chừng nào khi đáp trả lời mời gọi của Chúa. Lòng tin lúc đó được thử thách một cách hết sức căng thẳng. Thử hỏi chúng ta có một đứa con duy nhất chúng ta có dám sát tế để dâng cho Chúa không? Trường hợp Abraham còn bi đát hơn khi ông và bà Sara vợ ông đã quá thời sinh nở. Có đứa con cầu con tự vậy mà Chúa lại bảo phải hiến dâng! Thật là cay nghiệt, thật là bi đát.
Sau khi thử thách lòng tin, Thiên Chúa đã ban cho ông ân huệ đúng như lời Thiên Chúa hứa là cho ông trở thành cha của nhiều dân tộc, là cha của dòng dõi những kẻ tin. Abraham đã được Thiên Chúa đổi tên và từ đó, cuộc đời của ông được ơn nghĩa với Thiên Chúa và ơn của Chúa ở với ông cho đến suốt đời.
Cũng như những người bệnh, chúng ta khi đối diện chúng ta mới biết được căng thẳng là dường nào. Chúng ta có đáp trả lại lòng tin trong thử thách đau đớn phút cuối đời để sau đó chúng ta được hưởng phúc vinh quang với Chúa là Đấng Cứu Độ chúng ta không?
Chúng ta chúc tụng, hoan hô, ca ngợi Abraham thì cũng bằng thừa vì lẽ chuyện đã xảy ra rồi. Phải nói là Abraham liều mạng, Abraham đã bỏ ngõ cuộc đời mình, bỏ ngõ tương lai của mình vào phán quyết của Thiên Chúa. Đứng vào vị thế của Abraham chúng ta sẽ trả lời với Chúa như thế nào? Câu trả lời ấy tuỳ thuộc vào mỗi người chúng ta, vào lòng tin của mỗi người chúng ta.
Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Maccô thuật lại cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu tỏ mình cho các môn đệ thân tín. Trong giây phút huy hoàng của cuộc đời, các ông nói với Thầy rằng: “chúng con ở đây thật là hay!”. Thế nhưng sau cái giây phút vinh quang ấy, trở về với đời thường, lòng tin của các ông cũng rất chênh vênh, cũng rất cheo leo. Đơn giản nhất mà chúng ta thấy đó là vào giây phút nghiệt ngã nhất của cuộc đời Chúa Giêsu, giây phút mà Chúa Giêsu lên Giêrusalem để chịu đau khổ ấy thì chúng ta thấy còn được mấy môn đệ theo Chúa? Lúc bấy giờ còn ai dám nói với Thầy Giêsu rằng “chúng con ở đây thật là hay” nữa. Chỉ còn mình Mẹ Maria và môn đệ yêu dấu là Gioan mà thôi.
Thật ra, chúng ta thấy các môn đệ được Chúa Giêsu tỏ mình và rồi các môn đệ đã một lần nữa xác tín cuộc đời của mình vào Thầy Chí Thánh. Dẫu cuộc đời có những lúc chênh vênh, có những lúc chuệch choạc như Phêrô chối Thầy nhưng cuối cùng Phêrô vẫn tin vào Thầy và được làm Đá Tảng của Hội Thánh.
Vâng! Chắc có lẽ cuộc đời của ta cũng giống như các môn đệ xưa thôi! Chúng ta vẫn đi theo Chúa, chúng ta vẫn được Chúa tỏ mình nhiều lần nhiều cách trong cuộc đời nhưng chúng ta không nhận ra chúng ta không tin để chúng ta biến đổi cuộc đời như các môn đệ xưa.
Chúng ta dừng lại đôi chút để nhìn lại cuộc đời mình. Chúa ban cho chúng ta quá nhiều ơn, Chúa đã tỏ mình cho chúng ta quá nhiều lần nhưng lòng chúng ta cứ chai lại, cứ cứng thêm.
Qua các ngôn sứ, qua sách Thánh chúng ta biết rõ rằng Đức Giêsu Kitô – Chúa chúng ta – đã đón nhận cái chết và chết nhục nhã trên thập giá để cứu độ chúng ta nhưng lòng chúng ta cứ hững hờ làm sao đó.
Một con người phải nói là cứng tin, quay lưng lại với Chúa nhưng rồi sau những biến cố của cuộc đời đã thay đổi cuộc đời, đã biến đổi lòng tin của mình. Người ấy chính là tác giả thư gửi tín hữu Rôma mà chúng ta vừa nghe đấy. Cuộc đời của Ngài có quá nhiều thử thách. Ngài sinh ra thuộc dòng dõi Bengiamin, là người Pharisêu chính hiệu, Ngài được học hành tử tế và giữ luật Do Thái một cách không ai trách khứ được như Ngài đã từng tâm sự. Ban đầu bắt Chúa đấy nhưng cuối cùng đã quay về với Chúa và quy phục trước Chúa. Trong đoạn thư ngắn hôm nay Ngài quả quyết với chúng ta: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?” (Rm 8,31b-34).
Để có lòng tin vào Chúa thánh Phaolô đã trải qua biết bao nhiêu thử thách về lòng tin, về sự từ bỏ những vinh quang lợi lộc trần gian. Qua những thử thách, qua những khó khăn Thánh Phaolô đã khẳng định, đã xác quyết với mỗi người chúng ta về Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa sau những trải nghiệm của đời Ngài. Ngài đã minh định lòng tin cho chúng ta để rồi lòng tin của chúng ta có nền tảng. Không chỉ mình Thánh Phaolô mà còn nhiều vị thánh Tông đồ và các thánh khác đã tuyên xưng lòng tin của mình trước bao nghịch cảnh của cuộc đời. Sau khi được biến đổi lòng tin, cuộc đời của các Ngài đã được biến đổi và được hưởng Nhan Thánh Chúa muôn đời.
Con đường của lòng tin, con đường của sự tín thác vào Thiên Chúa không đơn giản như một số người nghĩ. Lòng tin luôn bị thử thách và luôn luôn cần được đáp trả. Như Abraham xưa, chúng ta vẫn được Thiên Chúa mời gọi lời đáp trả về lòng tin.
Thiên Chúa ngày hôm nay có thử thách chúng ta thì Ngài không thử thách khắc nghiệt như thử thách Abraham hay Phaolô. Thiên Chúa không còn đòi buộc chúng ta phải sát tế đứa con thừa tự duy nhất của chúng ta như Abraham hay là Thiên Chúa không đòi buộc chúng ta phải từ bỏ tất cả những vinh hoa phú quý của cuộc đời như Phaolô. Thiên Chúa thử thách chúng ta qua những biến cố nho nhỏ trong cuộc đời: Chúa mời gọi chúng ta từ bỏ một chút đố kỵ trong lòng chúng ta, Chúa mời gọi chúng ta bỏ một chút lòng tự cao tự đại trong ta, Chúa mời gọi chúng ta bỏ một chút tính điêu ngoa chua chát trong lòng chúng ta …. Phần đáp trả chính là phần của chúng ta. Thiên Chúa luôn luôn ở lại với mỗi người chúng ta như Chúa đã từng ở với Abraham, với Phaolô.
Nguyện xin Chúa đến và ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta xác tín hơn lòng tin của chúng ta vào Chúa. Xin Chúa thương ban thêm lòng tin cho mỗi người chúng ta để chúng ta có thể đứng vững trước bao nhiêu sóng gió của cuộc đời.
Xin Chúa biến đổi lòng tin của chúng ta, xin Chúa biến đổi cuộc đời của chúng ta như xưa Chúa biến đổi cuộc đời Abraham, cuộc đời Thánh Phaolô và các thánh nam nữ của Thiên Chúa.
14.Xin ơn biến đổi--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm biến cố Chúa Giêsu biến hình, một mầu nhiệm vĩ đại. Lịch sử cho thấy ba Tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê là những tấm gương sám hối suốt Mùa Chay dẫn chúng ta tới Đại lễ Phục Sinh, khi chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của tinh thần trên thể xác, của ơn cứu chuộc trên tội lỗi.
Thánh sử Marcô nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa ba ông lên núi cao cầu nguyện, và đang khi cầu nguyện... bỗng có hai vị đàm đạo với Người, là Môsê và Êlia.... Một số câu hỏi được đặt ra chung quanh biến cố Chúa Biến Hình:
1. Tại sao Đức Giêsu Biến Hình?
2. Tại sao Môise và Êlia lại có mặt lúc Chúa Giêsu Biến Hình?
3. Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan được Đức Giêsu đưa lên núi?
Tại sao Đức Giêsu Biến Hình?
Chúng ta biết, trước khi Chúa Giêsu biến hình, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no (x. Mc 6, 30-44; 8, 1-10). Vẻ chưng hửng của các Tông đồ về tương lai tươi sáng, và sự mãn nguyện về vị Thiên sai của dân chúng. Khi thăm dò ý kiến chung, Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó lần thứ I (x. Mc 31, 33). Như thế, Người đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Người đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh vinh quang. Vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi sau khi chứng kiến Chúa biến hình (x. Mc 9, 5). Như thế, Phêrô đã muốn biến cái tạm thời trở thành cái vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với khổ đau và thập giá.
Trở lại câu hỏi tại sao Đức Giêsu lại chọn Phêrô, Giacôbê và Gioan, phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những người khác?
Theo Thánh Gioan Kim Khẩu, Phêrô được chọn, vì Phêrô đã từng tuyên xưng Đức Giêsu là “Ðức Kitô” (x. Mc 8, 29). Hơn nữa, cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa Giêsu Kitô nhiều hơn, “Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa!” (Ga 21, 17). Phần Gioan, vì đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là “người môn đệ Chúa yêu” (Ga 21, 20). Còn Thánh Giacôbê, là vì phản ứng của ông đã thực hiện cùng với anh trai mình: “Chúng tôi có thể uống chén của Thầy” (Mt 20, 22), ông giữ lời và đã đi đến cùng điều ông cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử trảm ông.
Tại sao không phải là một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môisen và Êlia?
Sứ vụ công khai của Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về Người. Có kẻ cho Người là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác cho là Êlia, Giêrêmia hay là một tiên tri (x. Mc 8,28).
Người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa Giêsu vi phạm luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang, mà theo họ, vinh quang đó là của Thiên Chúa, không thuộc về Người. Trong lúc biến hình đàm đạo với Môisen và Êlia, Người khẳng định mình còn hơn cả Môisen và Êlia nữa. Môisen là người đã trao ban lề luật cho dân chúng, nên những người Do Thái không thế nói rằng vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm lề luật. Còn Êlia xuất hiện cùng Chúa Giêsu, Người dạy chúng ta rằng Người là Chúa của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Người biến hình cùng với Êlia là người đã không chết.
Một điều rất thú vị là Môisen đã rẽ đôi nước biển để cho dân chúng đi ráo chân, Phêrô đã đi trên mặt nước, để rồi chữa lành tất cả bệnh hoạn tật nguyện cho dân chúng, xua trừ ma quỷ, đưa mọi người về với Đức Kitô. Êlia đã làm cho kẻ chết sống lại, các Tông đồ cũng đã làm cho kẻ chết được sống lại, khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Đó là những lý do Chúa Giêsu chọn Môisen và Êlia hiện ra đàm đạo với mình.
Đức Giêsu biến hình để cho chúng ta được chiêm ngưỡng:
Vinh quang Ba Ngôi
Vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi được biểu lộ trong biến cố Chúa biến hình. Chúa biến hình là hình ảnh loan báo trước cho biến cố Chúa Phục Sinh. Chúa mạc khải vinh quang mình cho các tông đồ với lời xác nhận của Thiên Chúa Cha: “Ðây là Con Ta Yêu Dấu!” (Mc 9, 7). Trong ánh sáng vinh quang, chúng ta nhìn thấy ánh sáng; và được Chúa Thánh Thần nâng lên, chúng ta chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi qua mọi muôn thế hệ.
Lắng nghe lời Đức Giêsu
Trong biến cố Chúa biến hình, chúng ta không những chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên Chúa mỗi ngày một sâu xa hơn vừa đi từ ánh sáng này sang ánh sáng khác, mà còn được mời gọi hãy lắng nghe Lời Chúa gửi đến. Ngoài Lề Luật nơi ông Môisen và lời tiên tri nơi sứ ngôn Êlia, lời Chúa Cha còn vang lên mời gọi chúng ta “vâng nghe lời Người” (Mc 9, 8).
Xin ơn biến đổi
Nhìn xem và lắng nghe, chiêm ngắm và vâng phục, là những con đường dẫn chúng ta lên Núi Thánh. Ở đó, Ba Ngôi Thiên Chúa được mạc khải trong vinh quang của Chúa Con.
Chúa biến hình, loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng cặp mắt, con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Người. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa gửi trao mới được theo Chúa là Đường là Sự Thật là Sự Sống để được hưởng vinh quang Phục sinh với Người.
Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta cũng biết biến đổi: biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; biến đổi từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; biến đổi từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của thập giá Chúa và ban ơn cho chúng con biết sống mầu nhiệm thập giá Chúa trong cuộc đời, để được sống lại vinh quang với Ngài. Amen.
15.Xin ơn biến đổi trong Mùa Chay Thánh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay Thánh, phụng vụ Giáo Hội trình bày cho chúng ta cảnh đẹp lộng lẫy biến hình của Chúa Giêsu, có Phêrô, Giacôbê và Gioan làm chứng. Tin Mừng mô tả: “Chúa Giêsu đã biến hình trước mặt các ông và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết” (Mc 9, 2-3).
Chúa Giêsu biến hình
Trước khi Chúa Giêsu biến hình, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no (x. Mc 6, 30-44; 8, 1-10). Vẻ chưng hửng của các Tông đồ về tương lai tươi sáng, và sự mãn nguyện về vị Thiên sai của dân chúng. Khi thăm dò ý kiến chung, Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó lần thứ I (x. Mc 31, 33). Như thế, Người đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Người đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh vinh quang. Vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi sau khi chứng kiến Chúa biến hình (x. Mc 9, 5). Như thế, Phêrô đã muốn biến cái tạm thời trở thành cái vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với khổ đau và thập giá.
Xin ơn biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần
Chúa biến hình, báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng con mắt cũng như trái tim để nhìn thấy Ánh Sáng nhiệm mầu của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Bốn thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Nếu như sau khi chịu phép rửa nơi sông Giordan “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với các dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người” (Mc 1,12-13), thì giờ đây chúng ta cũng phải xin Chúa Thánh Thần trợ giúp.
Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta biết biến đổi. Nhưng để biến đổi đâu có dễ, cần phải ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp. Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta từng bước trong Mùa Chay, đặc biệt là xin Ngài biến đổi.
Xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta từ con người khô khan biếng trễ xưng tội rước lễ, lười đi nhà thờ bỏ lễ Chúa nhật thành người đạo đức thánh thiện và siêng năng. Xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng; từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; từ con người kiêu căng tự mãn thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Chúa Thánh Thần đã biến đổi các giác quan của các tông đồ, họ mới có thể nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa của Chúa Giêsu. Cặp mắt được đổi mới, các ông mới nhìn rõ hơn những gì tỏa sáng, tai được biến đổi để nghe rõ hơn tiếng nói tuyệt vời và có thật: là tiếng nói của Thiên Chúa Cha, Đấng hài lòng về Con yêu dấu của Ngài. Chúng ta cũng thế, hãy để Chúa Thánh Thần tác động mới mong được biến đổi, giác quan của chúng ta mới có thể nhìn thấy và nghe được những điều kỳ diệu và vui mừng trong Thiên Chúa cùng với hàng ngũ các thánh đã được Chúa Giêsu phục sinh từ trong cõi chết.
Để được biến đổi
Hãy vâng nghe lời Chúa.
Nhờ vâng nghe và thực hành lời Chúa, tổ phụ Abraham đã lên đường. Chúa bảo đi là đi. Thế nên, Abraham đã trở nên tổ phụ của một dân tộc đông đảo như sao trời cát biển.
Trong lúc biến hình, Chúa Cha từ trong đám mây đã xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha, và dạy các môn đệ: “Hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Có vâng nghe lời Chúa Cha, Đức Giêsu mới trở nên người con chí ái đẹp lòng Cha mọi đàng. Nhờ vâng nghe Lời Chúa, chúng ta mới xứng đáng là người môn đệ của Đức Giêsu.
Cầu nguyện
Đang khi cầu nguyện, Chúa Giêsu biến đổi hình dạng trở nên sáng láng. Chúng ta cũng chỉ được biến đổi thân phận tội lỗi của mình bằng việc tha thiết cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp và thứ tha. Đây là Mùa Chay, mùa biến đổi, chúng ta cần đến với Chúa để được biến đổi trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Chẳng hạn như tham dự tĩnh tâm, giục lòng ăn năn sám hối tội lỗi, quyết tâm sửa đổi thói hư tật xấu bằng việc thực hành nhân đức mỗi ngày để đền tội.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin biến đổi con. Xin biến đổi con mắt, môi miệng và lỗ tai con, để con biết thấy cái hay cái đẹp của tha nhân, biết nói lời hay lẽ phải, biết nghe Lời Chúa, và nhất là thực hành Lời Chúa dạy. Amen.
16.“Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
1. Đi riêng ra một chỗ
Trên đường đi theo Đức Ki-tô, vào một lúc nào đó, các tông đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan được chọn để đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Trong Kinh Thánh, núi là nơi Thiên Chúa tỏ hiện và con người đi lên núi để gặp gỡ Ngài. Núi có ý nghĩa như thế, vì đó là hình ảnh diễn tả việc giữ khoảng cách với những vấn đề của cuộc sống, vốn hay trói buộc con người, để có thể hướng về trời cao và những gì thuộc về trời cao. Chính vì thế, Đức Giê-su hay lên núi cầu nguyện, giảng ở trên núi, chẳng hạn Bài Giảng Trên Núi trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu (Mt 5-7); và đặc biệt lần này, trên một ngọn núi cao, Ngài bày tỏ căn tính thần linh của Ngài trong tương quan với Thiên Chúa Cha và lịch sử cứu độ.
Trong đời sống đức tin của chúng ta, trong ơn gọi thánh hiến và cả trong ơn gọi gia đình nữa, chúng ta cũng được Chúa mời gọi, và phải nói mạnh hơn, được Chúa chọn, đi riêng ra một chỗ, tới “ngọn núi cao” biểu tượng, nghĩa là tới nơi Thiên Chúa tỏ hiện và ngỏ lời với chúng ta, để lắng nghe Lời của Ngài, để nhận ra ân huệ Ngài ban và cảm nếm được sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của chúng ta, qua đó, có thể ca tụng và tạ ơn Chúa, và cũng để xin Ngài chữa lành, soi sáng, thêm sức và tái tạo chúng ta, và có khi một cách đơn sơ, để ở với Ngài một cách nhưng không. Cuộc sống của chúng ta vốn đầy thách đố đủ loại, vì thế, chúng ta cần biết bao, cùng với Chúa, đi riêng ra một nơi, lên ngọn núi cao.
Thật ra, những lúc đi riêng ra một nơi với Chúa, vẫn được ban cho chúng ta đấy thôi, nhưng chúng ta lại thường không đón nhận cách quảng đại như một ơn huệ Chúa ban.
* Đó là thời gian cầu nguyện cá nhân hằng ngày.
* Đó là thời gian chúng ta dâng Thánh Lễ, đọc kinh Phụng Vụ, thời gian chúng ta cầu nguyện chung với nhau.
* Đó là thời gian tĩnh tâm, tĩnh tâm tháng, tĩnh tâm năm hay những lúc chúng ta khao khát cầu nguyện và sắp xếp được thời gian.
Ước gì trong những lúc “đi riêng ra một nơi” với Chúa, Chúa ban cho chúng ta có cùng kinh nghiệm thiêng liêng như các tông đồ, đó là cảm nếm căn tính chói ngời của Chúa, để có thể nói: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!”.
2. Dung nhan rạng ngời của Đức Giê-su
Ánh sáng chói lòa của Đức Giê-su trên đỉnh núi (Mc 9, 2-8) muốn nói cho chúng ta về kinh nghiệm niềm vui và hạnh phúc của lựa chọn cho đi sự sống của mình, đánh liều cuộc đời mình trong một ơn gọi, vì Đức Kitô và vì Tin Mừng, như chính Ngài đã nói trước đó:
Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
(Mc 8, 34-38)
Chính lúc Đức Giê-su biến đổi hình dạng, là lúc có sự hiện diện của ông Mô-sê và ông Elia, tượng trưng cho lịch sử cứu độ. Chúng ta hãy lắng nghe các ngài đàm đạo. Theo thánh sử Lu-ca, các vị đàm đạo về cuộc Xuất Hành Người sẽ hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (Lc 9, 31). Như thế, lịch sử cứu độ (Lề Luật và ngôn sứ) loan báo mầu nhiệm Vượt Qua và mầu nhiệm Vượt Qua hoàn tất lịch sử cứu độ. Mà lịch sử cứu độ là gì? Là lịch sử kể lại sự hiện diện, sự quan phòng và cách dẫn đưa của Thiên Chúa giầu lòng thương xót hành trình làm người của những cuộc đời, của một dân tộc, đầy thăng trầm và tội lỗi, bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ, không chỉ từ khởi đầu của dân tộc Israel, nhưng ngay từ khởi của loài người (x. St 3).
Chúng ta hãy chiêm ngắm Đức Giê-su trở nên chói lọi như mặt trời, như bản văn Tin Mừng tường thuật: “Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (c. 2-3); và theo lời kể của thánh Mát-thêu: “Dung nhan người chói lọi như mặt trời, và y phục người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17, 2). Như thế, chính khi lịch sử cứu độ được hoàn tất nơi ngôi vị của Đức Giê-su, dung nhan của Ngài trở nên Mặt Trời, Mặt Trời ban ánh sáng, sức nóng và sự sống: “Chẳng có chi tránh được ánh dương nồng” (Tv 19, 7).
Dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ được hiểu như trên, chúng ta được mời gọi đọc lại và nhận ra cuộc đời chúng ta cũng là một “lịch sử cứu độ”, như kinh nghiệm thiêng liêng của hai môn đệ trên đường Emmau (x. Lc 24, 13-35), tuy đầy thăng trầm, tội lỗi và bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ, nhưng hướng tới Mầu Nhiệm Vượt Qua và được Mầu Nhiệm Vượt Qua hoàn tất, như thánh sử Gioan mong ước: “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Ga 20, 31). Chính khi nhận ra hành trình làm người và hành trình ơn gọi của chúng ta, quá khứ, hiện tại và tương lai của cuộc đời chúng ta hướng tới và được hoàn tất nơi ngôi vị của Đức Ki-tô, đó sẽ là lúc chúng ta sẽ có được kinh nghiệm chiêm ngắm Dung Nhan chói ngời của Đức Ki-tô.
Vậy, trên hành trình đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình và nhất là trong đời sống dâng hiến, chúng ta hãy ước ao và xin Chúa ban cho chúng ta kinh nghiệm thiêng liêng nền tảng này: Đức Ki-tô trở nên chói ngời trong cuộc đời và ơn gọi của chúng ta ; và ước gì cuộc sống hằng ngày của chúng ta với những đòi hỏi của ơn gọi, là lời diễn tả tâm tình vui sướng: “Lạy Chúa, chúng con ở đây, thật là hay!”
3. “Chúng con ở đây thật là hay”
Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của các môn đệ để hiểu hết lời nói này của ông Phê-rô:
Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay!
Chúng con xin dựng ba cái lều…
Có người hiểu câu nói này của ông Phê-rô như sau: “Rất may, có chúng con ở đây để phục vụ các Ngài…”. Tuy nhiên, như Thánh Mác-cô thuật lại, thực ra ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. Vì thế, chúng ta phải hiểu đó đơn giản là lời diễn tả cảm xúc, diễn tả niềm hạnh phúc khôn tả được chiêm ngắm vĩnh cửu ; và ông Phê-rô muốn duy trì hạnh phúc này mãi mãi, bằng cách dựng lều cho các vị. Lều là biểu tượng của sự an nghỉ cánh chung. Và đối với ông Phê-rô, cánh chung là đây.
Chúng ta hãy ước ao có được kinh nghiệm này khi chiêm ngắm các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Giê-au, và nhất là Cuộc Thương Khó của Ngài, vì có một lúc nào đó, Ngài sẽ trở lên chói lọi đối với chúng ta. Và chính với kinh nghiệm chiêm ngắm Đức Ki-tô chói ngời trong các Tin Mừng và trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta có thể nhận ra Chúa chói ngời, ngay trong đời sống đi theo Người đầy thách đố của chúng ta.
Thật vậy, đó chính là điều Chúa Cha muốn, khi Ngài đáp lời Phê-rô. Bởi vì, khi ông còn đang nói, có đám mây sáng ngời bao phủ cách ông. Đám mây là hình ảnh của sự di động, không thể làm chủ hay nắm bắt được, thay vì cố định, dễ làm chủ và nắm bắt như căn lều ; và từ đám mây Thiên Chúa Cha lên tiếng:
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời người.
Như thế, chính khi chúng ta vâng nghe Đức Giê-su, và đi theo Ngài trên con đường Thập Giá, trong ơn gọi của chúng ta với tâm tình biết ơn và yêu mến, chúng ta sẽ có được niềm hạnh phúc thần linh của Thiên Chúa. Và khi đó, chúng ta có thể nói: “Lạy Chúa, chúng con ở đây thật là hay!”.
17.Đường lối của Thiên Chúa và tư tưởng của con người--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
Hôm nay, thánh sử Máccô trình thuật câu chuyện Đức Giêsu biến hình. Việc Đức Giêsu biến hình được diễn ra sau khi vị Tông đồ trưởng tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Tuy nhiên, ngay sau khi ông tuyên tín như vậy, Đức Giêsu đã tiên báo cho các ông biết trước về cuộc khổ nạn mà Ngài sẽ phải chịu. Thấy vậy, Phêrô đã can ngăn kịch liệt khi nhân danh Thiên Chúa để bảo vệ Thầy mình, ông nói: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!" (Mt 16,22).
Nhưng Đức Giêsu đã quở mắng cách nặng nề khi nói ông là “Xatan”. Ngài cũng nói thêm: Tư tưởng của Phêrô là tư tưởng của loài người, không phải là tư tưởng của Thiên Chúa.
Chính vì lý do trên, mà hôm nay, Đức Giêsu đã dẫn ba môn đệ thân tín với mình lên núi Tabor và biến hình trước mắt các ông, để qua đó, dần dần Ngài mặc khải và dẫn các ông vào đường lối cũng như tư tưởng của Thiên Chúa.
1. Lý do Đức Giêsu hiển dung
Các môn đệ là những người được Đức Giêsu đích thân tuyển chọn làm trợ tá cho Ngài, để rồi mai đây chính Ngài sẽ trao phó Giáo Hội cho các ông, ngõ hầu các ông sẽ tiếp bước đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa!
Tuy nhiên, không thể trao phó một công trình vĩ đại, quan trọng, mang tính trường tồn cho những người lơ mơ…, trao phó như thế thì chẳng khác gì “trao trứng cho ác”.
Thiếu hiểu biết và nhiều khi hiểu sai đường lối của Đức Giêsu nơi các môn đệ thật là rõ nét, vì đã có những lúc các ông phỏng chiếu một Đức Giêsu oai phong, quyền lực, chẳng khác gì các vị tướng lãnh chốn trần ai.
Thế nên, nơi các ông, nhiều lần họ đã đôi co với nhau xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời; có những người lại còn dẫn cả mẹ mình đến để năn nỉ kỳ nèo cho được ngồi bên tả và bên hữu trong Nước mà Đức Giêsu sẽ thiết lập; rồi cụ thể như Phêrô, chỉ cách đó có 6 ngày, ông đã đại diện cho anh em để tuyên xưng hùng hồn niềm tin của mình vào Thầy Giêsu, nhưng sau đó, khi nghe thấy Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn mà Ngài sẽ phải chịu, ngay lập tức, ông đã không chần trừ, mà đã khẳng khái lên tiếng can ngăn! Như vậy, các môn đệ là những người kề vai sát cánh bên Đức Giêsu, nhưng tư tưởng của các ông vẫn lè phè dưới đất, chưa vươn lên để hiểu được tâm tư của Thầy mình.
Chính vì những lý do này, nên các ông không thể chấp nhận một Vị Tôn Sư mà mình chọn làm người dẫn dắt, lại là một người thất bại qua cái chết đau thương và nhục nhã trên cây thập tự giá như một tử tội được!
Để giúp các môn đệ, nhất là ba môn đệ thân tín mà sau này chính các ông sẽ là các chứng nhân trong những chuyện đặc biệt, nên Đức Giêsu đã đưa các ông lên núi Tabor để biến hình trước mắt các ông, nhằm củng cố đức tin, ban hành sứ điệp và đưa các ông đi vào đường lối cứu chuộc của Thiên Chúa.
2. Qua đau khổ mới đến vinh quang
Câu chuyện biến hình được khởi đi từ việc Đức Giêsu dẫn ba môn đệ của mình lên núi, và đang khi Ngài cầu nguyện “rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy (x. Mc 9, 3).
Bên cạnh Ngài còn có Môsê là người đại diện cho lề luật Cựu Ước, và Elia là ngôn sứ vĩ đại nhất. Cả hai cùng hiện ra và đàm đạo với Đức Giêsu. Điều này cho thấy: toàn bộ lề luật và lời các ngôn sứ đều quy hướng về Đức Giêsu và về cuộc khổ nạn, phục sinh của Ngài như là trung tâm của công trình cứu chuộc mà Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi Đức Giêsu!
Khi thấy diện mạo Đức Giêsu biến đổi và khung cảnh thánh thiêng, huy hoàng tuyệt đẹp như vậy, tâm hồn các ông ngây ngất và lòng các ông hân hoan quá đỗi.
Chắc chắn trong cuộc đời của các ông chưa một lần nào được hạnh phúc như vậy! Vì thế, Phêrô đã thay lời cho Gioan và Giacôbê để thưa lên với Đức Giêsu, ông nói: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia" (Mc 9, 5).
Qua lời đề nghị này của Phêrô, lại một lần nữa, nơi ông toát lên tính hưởng thụ, thực dụng…! Ông muốn được ở lại trong vinh quang với Đức Giêsu mãi mãi và không chịu đối diện với thực tế mà ông và các bạn của ông sẽ còn phải tiếp tục…!!!
Thấy được điều đó, Đức Giêsu đã không để cho các ông rơi vào tình trạng bi đát của tư tưởng: “Thích sướng, ngại khổ”. Nên Ngài đã không những khước từ đề nghị của ông, mà còn mặc khải cho ông hiểu được quy luật tất yếu của Tin Mừng, đó là: “Phải qua đau khổ mới tới vinh quang.”
Sau khi cho các ông lạc vào thiên cung, cho các ông nếm trước vinh quang Thiên Quốc, Đức Giêsu đã mời gọi các ông phải xuống núi.
Xuống núi với anh em, với đồng loại, và với những công việc thường ngày.
Xuống núi để tiếp tục cuộc hành trình theo Thầy của mình. Xuống núi trong tâm tình cảm nghiệm rõ nét con đường mà Thầy đã, đang và sẽ đi, để mai đây chính mình sẽ tiếp bước.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Trong đời sống thực tế của nhiều người nơi cộng đoàn, đã có nhiều lần chúng ta cũng mang trong mình tư tưởng của các Tông đồ khi xưa, đó là: tham sân si; tranh gành địa vị; trọng hình thức mà quên đời sống nội tâm. Nhiều khi gây chia rẽ, lên mặt dạy đời, hay luôn chọn cho mình những công việc nhàn hạ, còn việc nặng nhọc để lại cho người khác. Rồi cũng không thiếu những người theo Chúa, tin Chúa, nhưng theo và tin kiểu công dân hạng hai, tức là lúc thuận tiện thì theo và tin…, nhưng khi gian nan thử thách đến là bỏ giữa chừng và sẵn sàng đi cầu ông nọ, khấn bà kia thay Chúa.
Đôi khi chúng ta cũng có tư tưởng thực dụng như: tìm mọi cách để níu kéo Thiên Chúa về với mình. Thiên Chúa là Đấng ta được hưởng độc quyền, còn người khác, chúng ta luôn muốn Chúa phải thẳng tay để đánh phạt họ….
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có tư tưởng của Thiên Chúa thay cho tư tưởng của loài người. Đó là: luôn đặt ý Chúa lên trên hết. Phải biết yêu thương nhau chân thành. Xây dựng tình huynh đệ, hiệp nhất và bình an. Sẵn sàng kề vai sát cánh bên nhau cả những công việc nhẹ nhàng lẫn công việc nặng nề.
Biết đón nhận những đau khổ, thử thách trong đời sống đạo với tâm tình: “Mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8,28). Và: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Sẵn sàng lột xác để biến đổi, để từ con người ích kỷ, thành bao dung; từ chỗ thực dụng thành vô vị lợi; từ chỗ chỉ biết nghĩ đến mình, thì giờ đây biết nghĩ đến người khác; từ chỗ muốn được hạnh phúc và sung sướng mà không chấp nhận đau khổ, thành một người mang trong mình tư tưởng của Thiên Chúa và đi vào đường lối của Đức Giêsu đã đi, đó là: “Qua đau khổ mới đến vinh quang”.
Muốn thực thi được những điều trên, quan trọng nhất, chúng ta phải biết lắng nghe lời Đức Giêsu, thi hành điều Ngài dạy và đi theo Ngài trên chính con đường mà Ngài đã đi khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, chắc chắn đã có nhiều lần chúng con như các môn đệ khi xưa, đó là: chỉ thích sung sướng, hạnh phúc mà không biết đón nhận khổ đau. Xin Chúa khai trí mở lòng chúng con, để chúng con hiểu được đường lối cũng như tư tưởng của Chúa, từ đó, biết đi theo Chúa trên chính con đường mà Ngài đã đi để được sống đời đời. Amen.
18.Đây là Con Ta yêu dấu--Lm. Trầm Phúc
Biến cố Chúa biến hình trên núi đã trở thành một câu chuyện quen thuộc đối với chúng ta và như thế, chúng ta không còn chú trọng đến nhiều mà chỉ xem như một câu chuyện thông thường. Nhưng nó vẫn là một biến cố không thường, đối với các môn đệ và cho cả chúng ta hôm nay.
Chúa biến hình như một khúc nhạc dạo đầu của một bi kịch độc nhất vô nhị trên trần gian sắp diễn ra trên thập tự.
Chúa Giêsu chỉ chọn ba môn đệ mà thôi. Những môn đệ sau nầy sẽ chứng kiến rõ rệt nhất cuộc khổ nạn của Ngài, những trụ cột quan trọng nhất của Giáo Hội. Ngài đã sống giữa các ông như các ông. Xem ra Ngài tầm thường như mọi người trừ những khi Ngài làm phép lạ. Nhưng hôm nay, trên đỉnh núi, Ngài trở nên như một người không còn thuộc về trần thế nầy nữa. Vinh quang của Ngài rực sáng qua y phục của Ngài và có sự hiện diện của hai nhân vật là tiên tri Êlia và ông Môsê đàm đạo với Ngài. Những việc xảy ra gần như vượt xa khỏi tầm hiểu của các môn đệ, vì thế Phêrô ngây ngất vì thấy vinh quang của Thầy, vừa thấy hai nhân chứng quan trọng nhất của Cựu Ước hiện ra.
Ông xin làm ba lều cho Thầy và cho hai nhân vật kia, để ở lại với các Ngài lâu dài. Thời điểm nầy, dân Do thái đang mừng lễ Lều, nhắc lại thời cha ông của họ lưu lạc trong sa mạc, sống dưới lều tạm. Nhưng ý của Phêrô lại khác, vinh quang của Thầy làm ông choáng ngợp và mong ước cất ba lều để kéo dài những giây phút ngất ngây đó. Thánh Maccô không nói rõ là hiện tượng ánh sáng đó kéo dài bao lâu, và cuộc đàm đạo đó ngắn hay dài. Đối với Phêrô và các môn đệ, đây là một kinh nghiệm không thể quên. Sau nầy Phêrô còn nhắc lại trong thư thứ hai của ngài: “chúng tôi đã thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Ngài”.
Phêrô, trong thư thứ hai cũng nhắc đến lều là thân xác với ý nghĩa là chúng ta chỉ sống tạm trong thân xác mà thôi: “Tôi thiết nghĩ: bao lâu còn ở trong cái lều nầy… vì biết rằng sắp đến thời tôi phải bỏ lều nầy…” Khi viết những giòng chữ nầy, chắc thánh nhân cũng nhớ đến ngày nào đó, ông đã xin dựng ba lều cho Chúa và hai vị khách thiên quốc trên đỉnh núi. Giờ đây, ông đã hiểu bài học Chúa Giêsu đã cho ông trên đỉnh núi kia là thân xác chúng ta, dù chỉ là tro bụi, cũng tàng trữ vinh quang mà Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta, khi chúng ta dám theo Ngài lên đỉnh núi vinh quang và theo Ngài cho đến đỉnh núi thống khổ Canvê.
Thánh Phêrô cũng nói đến thị kiến trên đỉnh núi: “Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang danh dự, khi có tiếng từ trời phán với Người: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quí mến”. Tiếng nói đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người. Lời chứng của Phêrô trùng hợp với lời tường thuật của thánh Maccô.
Chính Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Chí Ái của Người. Người Con đó, Chúa Cha đã ban cho chúng ta làm giá chuộc cho chúng ta như thánh Gioan cũng nói: “Thiên Chúa đã yêu thương trần gian đến nỗi ban Con Một cho trần gian”. Và hôm nay, Giáo Hội cũng nhắc đến ông Abraham được lệnh Chúa sát tế Isaac, đứa con duy nhất của ông. Một lệnh truyền rất khó thực hiện, nhưng Abraham đã vâng phục. Chúng ta hiểu thế nào là sự vâng phục tuyệt đối của ông. Ông dám vâng phục vì ông đã tin vô điều kiện. Nhưng mệnh lệnh đó đã kết thúc trong niềm vui. Phải chăng đây là hình ảnh của tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với chúng ta. Abraham dâng con một mình cho Thiên Chúa, Thiên Chúa lại trao ban cho chúng ta Con Một của Người. Hai hình ảnh quyện vào nhau để nói lên mối liên hệ thật sâu đậm giữa Thiên Chúa với chúng ta. Chúng ta hiến dâng cho Ngài cái gì quí nhất của chúng ta và ngược lại, chính Ngài lại ban cho chúng ta cái gì quí báu nhất của Ngài, là đứa con một yêu dấu của Ngài.
Chúa Giêsu được trao ban cho chúng ta, chính Chúa Cha đã xác nhận như thế: “Nầy là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Ngài là lời nói duy nhất của Chúa Cha. Nghe lời Ngài chính là nghe lời Chúa Cha. Nghe lời Ngài không phải chỉ nghe bằng lỗ tai, cũng không như một tiếng nói, một âm thanh, mà là chấp nhận chính bản thân Ngài vì Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa, vì thế Ngài là sự sống. Tin vào Ngài sẽ được sống. Chúng ta nhận được một quà tặng hết sức quí báu là chính Con Một Thiên Chúa. Ngài đã được trao tặng để sống với chúng ta, và chính Ngài lại gánh vác tội lỗi chúng ta, mang lại cho chúng ta ơn tha thứ và hạnh phúc thiên đàng. Ngài làm người để biến trần gian nầy thành thiên quốc. Nhưng chúng ta không bước theo Ngài, không mấy người tin vào Ngài, không sống như Ngài, làm sao biến trần gian nầy thành thiên quốc được? Nhiều người có thể xem điều nầy chỉ là mơ mộng viễn vông, nhưng chỉ vì họ không thể thực hiện được. Chúng ta có dám sống như Ngài không? Dám hy sinh cái gì quí nhất là bản thân mình để phục vụ Chúa không? Abraham, xưa đã dám liều, và hôm nay cũng có những kitô hữu cũng đang liều mình cho Chúa và anh em trên khắp thế giới. Những người đó mới thực sự là Kitô hữu, là những chứng nhân can đảm cho tình yêu Chúa.
Chúa Giêsu đến trong trần gian, mang thân con người, sống như con người để biến hóa mọi sự. Ngài làm cho trần gian nầy mang một ý nghĩa. Trước tiên, “Ngài sẽ chết cho chúng ta… sẽ biến đổi thân xác hư hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài”. Tất cả thực tại trần gian sẽ mang lấy ánh sáng của Ngài, sẽ được biến hình trong vinh quang như Ngài, chúng ta cũng sẽ được biến đổi như Ngài để thành con ánh sáng. Trần gian đang cần những con người mang ánh sáng vì càng ngày bóng tối của tội lỗi đang phủ lấp thế gian và con người càng lún sâu vào một cuộc sống vô nghĩa, không có ngày mai, không một ánh sáng hy vọng nào.
Hãy mang lấy ánh sáng của tình yêu, như Chúa Giêsu, Chúa chúng ta, Ngài đã đến thắp lên ngọn đèn hy vọng, chúng ta đừng để nó tắt đi.
Mùa Chay chính là lúc chúng ta nhìn về Chúa với tất cả lòng tin cậy, nhìn về tâm hồn chúng ta để hoán cải vì nhiều lúc chúng ta cũng trở thành bóng tối. Chúng ta đã được gọi từ bóng tối đến ánh sáng kỳ diệu của Chúa để thành con cái ánh sáng. Thánh Phaolô cũng nói: “Chúa Giêsu đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái…” Ngài cũng bảo chúng ta hãy mặc lấy khí giới của ánh sáng. Đó chính là ơn gọi của Kitô hữu. Giữa một thế giới mịt mù anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên trời, thánh Phêrô cũng căn dặn như thế.
Chúng ta chỉ có một chọn lựa là theo Chúa chúng ta trên con đường Ngài đã vạch ra cho chúng ta. Phải từ bỏ những hành vi ám muội và sống thánh thiện. Muốn như thế, chỉ có một con đường:đóng đinh con người cũ vào thập giá, đi vào cuộc tử nạn với Chúa.
Nói thì nghe rất dễ, nhưng thực tế không dễ. Chúng ta vẫn thích an nhàn, sống không có vấn đề. Đặt lại vấn đề đã là khó rồi, thực hiện càng cam go hơn. Con đường nên thánh không loại trừ hy sinh và can đảm. Chúa Giêsu bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã run lên sợ hãi đến nỗi mướt mô hôi máu, nhưng Ngài đã đi đến cùng, vâng phục đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá. Từ bỏ những tật xấu là một điều ai cũng muốn, nhưng dám can đảm đi đến cùng là một điều không dễ. Chúng ta ngại ngùng, điều đó là điều không thể tránh. Đó là cái giá phải trả. “Xác thịt thì nặng nề”. Chúa không bảo chúng ta ngồi bóng mát ăn bát vàng, mà ngược lại dấn thân quyết liệt vào con đường hoán cải, tín thác vào tình yêu. Chỉ có tình yêu mới đủ sức vực chúng ta dậy để bước tới mỗi ngày.
Chúa Giêsu đã đi đến cùng, đã dám đối mặt với mọi đau đớn nhục hình chỉ vì ngài đã yêu Chúa Cha và Ngài đã chứng minh tình yêu của Ngài bằng sự vâng phục triệt để như thế. Chúng ta không thể nên thánh nếu không biết yêu mến Chúa và yêu mến Chúa chính là giữ lời Người. Đó là điều Chúa Cha đã dạy chúng ta. Đó cũng chính là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến hạnh phúc Thiên đàng.
Hôm nay, trong giờ phút nầy, Chúa Giêsu có mặt bằng Tấm Bánh nhỏ, tấm bánh tình yêu. Chỉ vì yêu mà Ngài đã chấp nhận thân phận một chiếc bánh nhỏ. Và chính đó là dấu hiệu rõ rệt nhất của tình yêu vô biên của Ngài. Ngài không từ chối một điều gì để yêu mến chúng ta. Chúng ta từ chối Ngài chăng?
Trong mùa Chay thánh nầy, hãy đến với Ngài thường xuyên, ăn lấy Ngài để cùng với Ngài, trở nên ánh sáng cho trần gian như Ngài đã mong ước.
19.Nhìn vào mặt tốt--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu…
Khi Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết Người phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn!
Không lẽ cuộc đời của Thầy Giêsu lại kết thúc bi đát đến thế ư?
Đã bao lần họ mơ tưởng đến một tương lai huy hoàng khi được ngồi bên tả, bên hữu vua Giêsu trong vương quốc vinh hiển của Người; lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói? Nếu Chúa Giêsu mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ ra như thế nào đây?
Không chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phêrô kéo riêng Chúa Giêsu ra và lên tiếng trách móc, tìm cách can gián để Người đừng đón nhận sứ mạng đau thương ấy (Mc 8, 32).
Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, “sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông … tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu.”
Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn. “Ông Phêrô thưa với Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”
“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”
Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giêsu trong giờ phút vinh quang của Người trên núi cao, ít nữa có môn đệ Gioan vững bước theo Chúa Giêsu đến cùng trên đường khổ nạn.
* * *
Đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.
Cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giêsu bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mặt sáng của Người trên núi cao thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các vị đào tẩu hết, lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?
Vì thế, Chúa Giêsu cho các ông thấy mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho họ thấy Người là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm vườn Dầu sắp đến.
***
Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền hoành tráng của nó, người ta sẽ thất vọng vì nó.
Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ biết mặt trái sần sùi của tấm huy chương mà không để mắt đến mặt phải vinh hạnh của nó, thì người ta sẽ xem thường nó.
Hoa hồng rất đẹp và kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến sắc hương tuyệt vời của nó thì hoa hồng chẳng còn gì hấp dẫn.
Đối với người anh em chung quanh cũng thế. Mỗi người đều có mặt sáng và mặt tối, mặt tốt và mặt xấu. Không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mặt đen tối của một con người, mà quên đi mặt sáng của họ; nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm, thì chúng ta sẽ rất thất vọng về người đó.
Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm vườn Dầu và đêm khổ nạn, là bài học cho chúng ta trong tương quan với người khác.
Nhờ ngắm nhìn cụm hoa hồng rực rỡ kiêu sa và thưởng thức hương thơm dịu dàng của nó, người ta quên đi những gai nhọn đáng phàn nàn của nó.
Ước gì chúng ta cũng biết nhìn vào điểm sáng, điểm tốt, vào ưu điểm của người khác để dễ dàng cảm thông với những mặt trái, mặt xấu của họ.
Nhờ đó, chúng ta cảm thấy những người quanh dễ thương hơn; tương quan của ta với người khác được cải thiện tốt hơn và đời sống giữa chúng ta với nhau sẽ hạnh phúc hơn.
20.Từ Tabor đến Golgotha--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
Một linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng sâu sắc như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp “trai tài gái sắc”. Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.
Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:
- Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh!
Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:
- Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?
Tất cả nguyện trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay “người đẹp” là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay “nàng già” là trái táo ăn thừa. Nếu chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.
***
Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hóa giải chứ không gây mê.
Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Moi sê và một cho Elia” (Mc 9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.
Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.
Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi, Chúa chỉ mặc “tấm áo trắng như tuyết” trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục Sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp.Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.
Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng chung thủy, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.
Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruổi trên các đường phố Palestine rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ.
Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thắm đẫm mồ hôi trong vườn Giếtsimani.
Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.
Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường tình yêu. Theo Thánh Teresa thành Lisieux: “Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê”. Thánh Bernadette cầu nguyện: “Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau”.
***
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục Sinh sẽ bừng sáng. Amen.
21.Hai khuôn mặt một tình yêu--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Tại nước Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tuỳ sở thích và có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.
Một linh mục tên là Gaêtanô đang làm công tác xã hội để giúp nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi. Để có thêm tiền cho mục đích này, cha Gaêtanô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.
Với một thân mình to lớn, thông thạo võ thuật và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, cha Gaêtanô mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình. Ngài thường đấu với những đối thủ hung hãn nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, cha đều dành cho quĩ cứu trợ các trẻ em nghèo và mồi côi. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của cha Gaêtanô.
Thưa anh chị em,
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên võ đài cha Gaêtanô là một võ sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô nhi của cha, cha là một linh mục sống hoàn toàn cho người khác, phản ảnh tình yêu cuả Thiên Chúa, một tình yêu cho đi mà không tính toán, không so đo, không sợ thương tích.
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên núi Tabo, khuôn mặt Chúa Giêsu bừng sáng ánh hào quang của một Thiên Chúa. Ơ giữa loài người, Con Thiên Chúa vẫn mang khuôn mặt bình thường như chúng ta. Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm con người. Rồi đây, ba môn đệ này còn phải làm quen với khuôn mặt khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn mặt đẫm máu trên Thập giá của Thầy Giêsu. Biến hình chỉ là một hào quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác âý chịu lăng nhục vào đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.
Ở bài đọc 1 hôm nay, sách Sáng thế đã cho ta thấy: Thiên Chúa đã dung tha cho Abraham khỏi sát tế Isaac, người con duy nhất của lời Hứa. Nhưng Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một yêu quí của Ngài. Như lời Thánh Phaolô: “Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình, nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Ngài sao? (Rm 8,32). Nếu Thiên Chuá đã ban cho chúng ta Người Con duy nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Abraham là hình ảnh của Cha trên trời, không ngại dẫn con mình đến thật giá trên núi Sọ. Hơn nữa, hình ảnh của Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng để cho sát tế, cũng hướng chúng ta về cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập giá rồi tự biến mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha.
Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: “Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa”. Người con trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang đó để đi vào con đường vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá, để dẫn đưa nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá đến vinh quang phục sinh. Cảnh tượng huy hoàng của núi Tabo hôm nay sẽ củng cố lòng tin của chúng ta khi đứng trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha, đồng thời nhắn nhủ chúng ta phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết với Chúa để sống lại vinh quang với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Abraham, “người Cha của mọi kẻ có lòng tin” đã lấy chính cuộc đời mình làm sáng tỏ định luật căn bản đó. Và cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm chứng minh định luật tất yếu chết để sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.
Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu thương, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong sáng. Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ ó thể cảm nghiệm được phần nào, khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng, như khuôn mặt mang mặt nạ vàng của Cha Gaêtanô trên võ đài, tượng trưng tấm lòng vàng của Cha đối với các em nghèo và mồ côi.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu, “Người Con Một yêu quý của Cha, người đẹp lòng Cha”, đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu kín vinh quang Ngài vốn có từ thuở nơi Chúa Cha, để hoá thân làm người hầu cứu rỗi chúng ta, Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy sinh chính mạng sống mình theo ý Chúa Cha nữa. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài được Phục Sinh từ cõi chết.
Mầu nhiệm này đã được thực hiện trọn vẹn một lần trong lịch sử, nhưng hằng ngày, đặc biệt trong thánh lễ, mầu nhiệm ấy còn được tưởng niệm, tái hiện trên bàn thờ. Tham dự Thánh Thể, dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gằng đổi mới đời sống hằng ngày của chúng ta,góp phần làm cho thế giới này biến hình đổi dạng trở nên Trời Mới Đất Mới trong ngày Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.
22.Chữ tình?--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Tình yêu, hai tiếng thân quen mà rất khó diễn đạt. Chuyện cũng thường tình, vì nhiều thi nhân đã từng hỏi: đố ai biết chữ tình là chữ chi chi? Mùa chay là mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu hoán cải ăn năn. Ăn năn hoán cải, không nguyên chỉ vì thấy sự xấu xa của kiếp tội đòi mà còn vì cảm nhận mối tình bao la mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thấy sự xấu xa và bi đát của thân phận tội lỗi của bản thân, để rồi quay bước trở về là điều chính đáng và hợp lý, nhưng chưa hẳn là sâu xa và lâu bền. Một sự hoán cải, trở về dựa trên niềm xác tín vào tình yêu của Thiên Chúa mới thực sự là bền vững và sâu xa hơn nhiều. Giáo lý Công giáo đề cập đến hiện thực này khi phân biệt hai hình thức ăn năn tội đó là ăn năn tội vì Chúa và ăn năn tội vì mình, nói cách khác là ăn năn tội cách trọn và ăn năn tội cách chẳng trọn. Để góp phần giúp chúng ta trở về cách trọn hảo hơn, xin được chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa qua các bài đọc của Chúa Nhật II Mùa Chay B này.
Yêu mến ai thì không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách thế để hiến dâng điều tốt nhất của mình cho người mình yêu. “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho” (St 22, 2). Được hiểu như là lệnh truyền của Thiên Chúa, nhưng thật ra đó chính là tấm lòng của Abraham dành cho Đấng đã kêu gọi ông ra khỏi nơi quê cha đất tổ mà tiến về hứa địa. Dù băn khoăn, đau xót, nhưng Abraham vẫn muốn hiến dâng điều tốt nhất của mình là chính sự sống nối dài của mình, qua người con một.
Tình yêu thật diệu kỳ. Chính khi trao dâng là lúc lãnh nhận và lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn lần. Abraham đã không mất người con một yêu quý, mà đã trở thành cha của một đoàn con đông đảo “như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển”. Tình yêu thật diệu kỳ. Một lẽ như nhiên, vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Là Đấng phải được mọi vật mọi loài tôn thờ và chúc tụng, là Đấng đáng được mọi người thần phục mến yêu và hiến dâng tất cả, thì Thiên Chúa lại trao ban tất cả cho chúng ta. Thánh Tông đồ dân ngoại đã luận lý rằng: Một khi Thiên Chúa đã ban chính Con Một cho chúng ta thì lẽ nào Người lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? (x.Rm 8,32).
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê. Có Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Người. Nội dung đàm đạo là về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu sắp chịu tại Giêrusalem. Và đó chính là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Vì không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu (x.Ga 15,13). Đây không phải là một tình cảm nhất thời mang tính tự phát, nhưng là một ý đinh có từ ngàn đời qua một chương trình được chuẩn bị từ ngàn xưa, mà sự hiện diện của Môsê và Êlia, đại diện cho Lề luật và hàng Ngôn sứ là một minh chứng khả tín.
Nếu nói rằng Thiên Chúa trao ban chính Con Một, vì nhân loại bội phản, bất trung, sa ngã, phạm tội thì quả không sai. Nhưng nếu nói rằng Thiên Chúa hiến ban Con Một của Người cho nhân loại để mạc khải chính Người là Tình Yêu thì đúng hơn nhiều. “Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên giới”.
Thập giá Chúa mời gọi ta hoán cải. Mùa chay, mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Đấng cứu độ. Các khổ hình Chúa Kitô đã chịu và cái chết tủi nhục của người trên thập giá như một lời tố cáo tội ác của nhân loại chúng ta. Thấy được sự xấu xa của bản thân mình, hẳn nhiên ít nhiều, chúng ta cũng được thúc đẩy chê ghét tội lỗi và hoán cải ăn năn. Tuy nhiên chính tình yêu của Chúa mới làm chúng ta vươn lên, đổi mới, nên hoàn thiện và nhất là biết sống yêu thương cách quên mình.
Được chiêm ngắm dung nhan sáng láng của Thầy chí thánh, đúng hơn là nhờ được thông phần một cách nào đó “bản thể của Đấng là Tình Yêu”, thì Phêrô đã lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia”(Mc 9,5). Sao chỉ có ba cái lều mà không là bốn, năm hay là sáu? Dù đang kinh hoàng và không biết phải nói gì, nhưng Phêrô đã thay hai bạn đồng môn Gioan và Giacôbê nói lên tấm lòng của mình, một tấm lòng quên mình vì người khác.
“Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7). Ước gì chúng ta hằng luôn ghi khắc vào tâm khảm những lời từ miệng của Đấng Cứu Độ sau đây: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 14,24). “ Vậy, nếu Thầy là Thầy và là Chúa, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,12). “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
Ai hiểu được chữ tình? Có thể nói rằng đó là những ai biết ở lại trong tình yêu Đấng Cứu Độ, đồng thời, nhờ và với tình yêu của Người, đã biết yêu thương như Người yêu thương. Thấy tội ác của mình, người ta có cơ may hối hận, ăn năn. Nhưng nghiệm thấy được tình yêu cứu độ người ta sẽ biết đổi đời và vươn lên.
23.Hãy tỏ mình là hình ảnh Chúa--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người xưa có câu: "chọn mặt gửi vàng". Nghĩa là để tin tưởng một ai cũng cần xem mặt, xem hoàn cảnh, gia cảnh người đó để đánh giá về họ có đáng tin hay không? Thế mà, vẫn sai lầm. Vẫn chọn sai người. Vì "Sông sâu còn có kẻ dò - Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng".
Vâng, lòng người nham hiểm hơn núi sông, biết người còn khó hơn dự đoán thời tiết. Thời tiết còn có xuân hạ thu đông và sáng - trưa - chiều - tối, còn con người, giữa mảng tối và sáng thật khó phân biệt. Thời tiết còn có hiện tượng bên ngoài để suy đoán những điều sẽ xảy ra, còn lòng người vẫn cò thể đóng kịch đến mức độ "nói vậy mà không phải vậy". Có ai đó nói không ngoa rằng: con người là một diễn viên tài ba nhất, vì họ có thể đóng kịch để lừa dối nhau suốt cả đời mà vẫn không bại lộ. Thực vậy, có người bên ngoài ôn hậu hiền lành, trong lòng lại kiêu căng ngạo mạn, không có việc gì lợi mà không dám làm; có người bộ dạng như quân tử, thực ra là tiểu nhân; Có người bên ngoài nhu mì, nhưng nội tâm cương trực; Có người xem có vẻ kiên trinh, thực tế lại nhút nhát. Điều này cho thấy con người thật phức tạp, khó mà biệt được thực hư một người.
Có lẽ mỗi người trong chúng ta đều nghe biết về Chí Phèo trong truyện của Nam Cao. Chí Phèo là đứa con hoang, được mô tả là một người dị dạng, một tên lưu manh, nát rượu chuyên rạch mặt ăn vạ và sẵn sàng sinh sự với mọi người. Chí Phèo là kẻ trên không sợ Trời, dưới không sợ người. Người ta tránh Chí Phèo hơn tránh ôn dịch. Chí Phèo đem lòng yêu Thị Nở. Thị Nở là một cô gái xuất thân từ một nhà có mả hủi, tuổi đời ngoài 30, dở hơi, nghèo và rất xấu. Xấu ma chê quỷ hờn. Xấu đến nỗi người ta tránh thị như tránh một con vật rất ghê tởm.
Ấy vậy mà cả hai con người ấy vẫn nhận ra bản chất tốt đẹp của nhau. Thị Nở thấy Chí Phèo là một người hiền lành. Hiền như đất. Vẫn thường cho Thị xin lửa và có lần con cho Thị xin rượu về bóp chân. Ngược lại, Chí Phèo cũng thấy Thị Nở là một người có duyên. Thị Nở đã biết nấu cháo hành nóng cho Chí Phèo ăn, giúp cho Chí Phèo tỉnh cơn say và làm sống lại nơi Chí Phèo ý thức về sự lương thiện của bản thân mình.
Cuộc sống con người luôn phức tạp. Phức tạp đến nỗi khó lòng đánh giá nhau từ bên ngoài. Thực tế, vẫn có những người thân phận chẳng ra gì như Chí Phèo và Thị Nở, bị coi là cặn bã và thậm chí là quái thai của xã hội. Thế nhưng, ngay cả nơi những con người ấy bản chất tốt đẹp mà Thiên Chúa đã trao ban cho họ vẫn không hư đi, khả năng nhận ra những điều tốt đẹp nơi người khác của họ cũng không mất đi. Vì thế, không gì có thể khiến chúng ta tuyệt vọng về con người. Con người vốn là hình ảnh của Thiên Chúa. Là tinh hoa của trời đất. Là chóp đỉnh của quá trình sáng tạo vũ trụ và vạn vật. Con người dù tội lỗi mấy đi chăng nữa, cũng không thể xoá nhoà hình ảnh của Thiên Chúa nơi mình. Con người dù tha hoá mấy đi chăng nữa, cũng không thể huỷ hoại bản chất tốt đẹp của mình. Con người dù có bị dục vọng thống trị mấy đi chăng nữa, cũng vẫn không ngừng toả sáng bản chất của mình là "nhân linh ư vạn vật".
Vâng, con ngừơi chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Không ai xấu, vì khi tạo dựng, Thiên Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Bản tính giống hình ảnh Thiên Chúa vẫn còn nơi con người đó. Họ làm việc xấu chứ con người họ vẫn cao qúy, vẫn mang phẩm giá làm người, thế nên ta vẫn phải yêu thương và tôn trọng. Hãy yêu thương để giúp họ phục hồi phẩm gia cao đẹp của con người mà bấy lâu nay họ bị phủ lấp bằng tội lỗi và đam mê. Bên cạnh đó, có những người có thể rất xấu về diện mạo nhưng tâm hồn họ lại thanh cao. Họ có thể là những con người có "duyện lặn vào trong" dầu rằng bên ngoài chẳng có gì hay ho.
Như thế điều quan yếu là hãy biết nhận ra điều tốt nơi nhau. Cho dù họ có xấu đến đâu, mình vẫn có thể tìm ra điều tốt nơi họ. Hơn nữa, nhân vô thập toàn. Ai trong chúng ta mà không bị tội lỗi, tật xấu, đam mê mù quáng làm mất đi hình ảnh đẹp trong lòng anh em hay trước mắt mọi người. Mỗi người chúng ta đều cần người khác đánh giá tốt về mình thì chính chúng ta cũng hãy nói tốt và nghĩ tốt với tha nhân.
Khi Chúa hiển dung trong bản tính Thiên Chúa để củng cố niềm tin nơi các tông đồ. Ngài cũng nhắc nhở chúng ta cũng phải biết tỏ ra phẩm giá cao quý nơi mỗi người chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa qua cách đối như con cái sự sáng để tạo niềm tin nơi nhau. Đồng thời cũng phải biết tôn trọng nhau vì đều được tạo dựng giống hình ảnh Người. Chúa Giêsu Ngài hoà nhập vào đời nhưng Ngài không đồng hoá mình như bao tội nhân. Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Con người chúng ta không thể đồng hoá mình với con vật như thuyết Duy Vật đã nói, để rồi sống theo bản năng, chiều theo tính xác thịt nhưng luôn biết chế ngự tính xác thịt nơi bản năng con người. Chúa hiển dung là lời mời gọi chúng ta hãy toả sáng hình ảnh của Chúa trong đời sống của mình khi thống trị tật xấu và đam mê. Hãy chế ngự tính hư nết xấu trong con người cùa mình. Hãy để hình ảnh Chúa tỏ hiện nơi chúng ta qua đời sống thanh sạch, công bằng, bác ái và yêu thương. Con người không thể là con vật thuần tuý vì con người không chỉ có thể xác mà còn có hồn thiêng bất tử, nên không thể chiều theo thể xác mà đánh mất linh hồn, hay tự huỷ trong những đam mê tội lỗi. Con người phải hơn con vật khi biết chế ngự tính hư nết xấu, làm theo lẽ phải và hướng về sự thiện.
Ước gì hình ảnh Chúa đừng đánh mất nơi chúng ta. Ước gì hình ảnh Chúa luôn tỏ hiện qua đời sống thanh cao, luôn biết sống theo công lý và tình thương. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết gìn giữ phẩm giá cao đẹp của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Xin đừng để những đam mê mù quáng làm hoen ố hình ảnh tốt đẹp ấy nơi mỗi người chúng ta.
24.Thế giới nào là ảo?--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Hôm nay người ta nói nhiều về thế giới ảo. Thế giới của mạng Internet. Thế giới dấu mặt. Thế giới mà con người chỉ biết nhau trong những ảo ảnh wedcam hay do photoshop tạo ra. Thế giới mà người ta có thể đánh lừa nhau qua những phần mềm thông minh. Ở nơi đây chúng ta gặp thấy rất nhiều con người sống hai mặt. Ở trong thế giới ảo họ tha hồ tâng bấc về mình. Họ tha hồ vẽ ra khuôn mặt đáng thương của mình. Ở thế giới ảo rất khác xa với thế giới thật mà họ đang sống. Thế nên, rất nhiều người vỡ mộng. Rất nhiều người bị lừa. Rất nhiều người oan gia vì quá tin người.
Thế giới ảo và thế giới thật khác nhau. Con người ảo và con người thật cũng khác nhau. Nhưng phải chăng chỉ có ở thế giới mạng mới sống ảo, còn cuộc sống hiện thực thì chân thực? Khó mà có câu trả lời chính xác, vì “Sông sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm trùng khơi khôn dò”. Thế giới thật vẫn còn đó những người sống ảo. Họ cố gắng che đậy sự thật về mình. Họ sống hai mặt như đồng tiền hai mặt không bao giờ giống nhau. Thế giới thiện – ác. Chân thật-giả dối. Cuộc sống luôn có hai mặt. Con người lại là một diễn viên tài giỏi luôn che đậy những sự thật thầm kín bên trong.
Cuộc sống vốn thật thật giả giả khó phân biệt. Sự thật là thế. Nhưng người sống ảo sẽ không bao giờ hạnh phúc. Lương tâm luôn làm họ buồn bã, lo âu, sợ hãi. Chỉ có “sự thật mới giải thoát chúng ta”. Sống thật mới đem lại niềm vui nội tâm cho tâm hồn. Sống thiếu chân thật chỉ dày vò chúng ta trong bể khổ trần gian.
Cuộc sống của Chúa Giê-su dưới mắt người đời thì hoàn toàn là một người phàm. Vì Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Thế nhưng, Ngài luôn sống thật khi tỏ ra mình là Thiên Chúa. Ngài luôn tỏ mình là người nhưng còn mang bản tính Thiên Chúa. Ngài đã làm nhiều phép lạ phi thường để tỏ mình có quyền năng của Thiên Chúa. Ngài phục sinh kẻ chết. Ngài đe sóng gió biển cả phải im lặng. Đó là những việc ngoài khả năng của con người. Đó là việc của Thiên Chúa mới có thể thắng vượt sự dữ.
Hôm nay trên núi Tabor, Chúa còn tỏ rõ nét hơn về dung nhan của Ngài là Thiên Chúa. Một Thiên Chúa thánh thiện vô cùng. Một Thiên Chúa quyền năng. Một Thiên Chúa uy nguy đến độ các môn đệ say xưa chiêm ngắm Người. Phê-rô đã bộc trực nói lên suy nghĩ của mình. Ông ao ước được chiêm ngắm dung nhan Thầy như lúc này mãi mãi. Ông bảo rằng: “Ở đây thì tốt quá, xin cho con làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Mô-sê và một cho Ê-li-a”. Phúc âm bảo rằng, ông nói nhưng chẳng biết tại sao mình nói, vì ông quá ngất ngây trước dung nhan hiển linh của Thầy.
Cuộc sống người ky-tô hữu cũng đẹp biết bao khi chúng ta sống thật với căn tính của mình. Căn tính của người ky-tô hữu là yêu thương. Yêu thương không ngăn cách với mọi hạng người. Yêu thương không xa lánh bất kỳ ai, kể cả kẻ thù. Yêu thương để hòa nhập với mọi khổ đau, bất hạnh của anh em để cảm thông, liên đới và sẻ chia. Đó là cách sống mà Chúa bảo: “Người ta cứ dấu này nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.
Xin cho chúng ta luôn biết sống chân thật trước mặt Chúa và tha nhân. Sự chân thật giúp chúng ta sống đúng với căn tính của mình. Sự chân thật sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho chúng ta. Amen.
***
Qua hiện tượng đáng buồn của người Việt trong cái tết nguyên đán. Xin được chia sẻ thêm về hiện tương này với ước mong mang lời Chúa canh tân cách sống của con người hôm nay theo chủ để Lễ Chúa Hiển Dung.
Hình ảnh bất thường của người Việt
Một mùa xuân nữa đã qua đi. Mùa xuân qua đi thường để lại một lưu luyến nhớ xuân, một niềm vui trọn vẹn ngày xuân. Nhưng mùa xuân này để lại cho chúng ta một nỗi buồn về con người, về tình người đã mất, về phẩm chất người dân Việt hiền lành nay đang đánh mất.
Theo báo cáo của bộ Y tế cho biết, trong dịp Tết Nguyên đán vừa qua, đã có hơn 6.000 người phải vào viện do đánh nhau, và đã có 15 người tử vong. Chuyện lạ là năm nay mới có thêm tổng kết về nhập viện do đánh nhau. Đây thực sự là tai họa, vì do chính con người chủ động gây ra cho anh em mình. Nó là một báo động đỏ về tình trạng bạo lực leo thang trong xã hội. Ngay trong những ngày tết, là những ngày mà lẽ ra, người Việt mình phải cư xử với nhau một cách hài hòa nhất, thân thiện nhất. Ngày tết, gặp nhau là chúc vạn sự lành, trăm điều tốt đẹp trong năm mới. Nhiều mắc mớ, trắc trở, mâu thuẫn trong năm cũ cũng được mọi người chủ động dẹp bỏ, gác sang bên trong ba ngày tết. Nhưng xem ra điều này đã không còn đối với một bộ phận không nhỏ người Việt Nam.
Trước thực trạng trên, có người đã viết trên facebook: “Việt Nam phải vui Tết cách khác, không thể vui Tết mà chết, bị thương nhiều, kẹt xe, bị móc túi... nhiều như thế này. Xã hội bị tổn thất lớn về nhân lực, bị tổn thương về tâm lý và bệnh viện quá vất vả về những thương tật không đáng có”.
Bạo lực là xấu. Nhưng vì sao nó lại xảy ra quá nhiều trong ba ngày tết – thời gian dành cho sự tốt đẹp và an lành? Đó là điều chúng ta, từ người dân tới các cơ quan công quyền, cần suy nghĩ một cách nghiêm túc về những “hiện tượng lạ” ấy.
Đạo đức xã hội hôm nay đang ở mức đáng báo động. Báo động bởi những hành vi bạo lực về tinh thần, thể xác, tình dục cứ nhan nhản trên đường phố, trước cổng trường và trong từng gia đình. Chỉ cần một ánh mắt ngó thấy ghét, một câu nói nghe không lọt tai, một vụ va quệt nhỏ..., là người ta đã có thể rần rần kéo nhau đi chém giết, cướp đi sinh mạng của người khác dễ dàng như lấy một món đồ trong túi. Cha mẹ hành hạ con như kẻ thù; trò đánh thầy; Thầy lạm dụng trò, bảo mẫu tra tấn con trẻ, dán băng keo bịt mồm cho đến chết; đồng môn đồng lớp hở chút là lấy dao đâm...
Dường như con người hôm nay đang đối xử với nhau quá hung hãn, và tình người, lòng nhân ái đã trở thành một thứ hàng hiếm giữa thời buổi này? Những bài giáo dục công dân ở đâu hết rồi? Con người có còn nhớ mình là “hoạ ảnh của Thiên Chúa” hay đã quên đi căn tính thực của mình?
Nếu con người biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ nghĩ mình là con vật nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại.
Hôm nay, lễ Chúa Hiển Dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa được tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Và xin cho chúng ta biết sống đúng bản chất của hình ảnh Thiên Chúa là tình yêu và biết sống cho tình yêu. Amen.
25.Thôi đừng đầy đọa nhau--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.
Một lần kia nó nói với sư tử rằng:
- Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: “Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó”. Thằng cha này không coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận và bảo rằng: “Thế mày có nhắc đến tên tao không?”
- Thỏ trả lời: Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.
Sư tử càng tức điên người lên và hỏi: Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.
Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!
Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu...
Thất bại của sư tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.
Con người là hình ảnh Thiên Chúa, nhưng đáng tiếc là nhiều người đã không nhận ra điều đó. Họ không nhận ra hình ảnh mình nơi tha nhân để có thể yêu mến tha nhân như chính mình. Họ đòi được tôn vinh, được bá chủ nên sẵn sàng cắn xé chính đồng loại của mình.
Đạo đức xã hội hôm nay đang ở mức đáng báo động. Báo động bởi những hành vi bạo lực về tinh thần, thể xác, tình dục cứ nhan nhản trên đường phố, trước cổng trường và trong từng gia đình. Chỉ cần một ánh mắt ngó thấy ghét, một câu nói nghe không lọt tai, một vụ va quệt nhỏ..., là người ta đã có thể rần rần kéo nhau đi chém giết, cướp đi sinh mạng của người khác dễ dàng như lấy một món đồ trong túi. Cha mẹ hành hạ con như kẻ thù; trò đánh thầy; Thầy lạm dụng trò, bảo mẫu tra tấn con trẻ, dán băng keo bịt mồm cho đến chết; đồng môn đồng lớp hở chút là lấy dao đâm... Thậm chí trong hai tháng vừa qua có đến 3 vụ vào tận bệnh viện Thống Nhất để thanh toán cả những người đang nằm cấp cứu!
Dường như con người hôm nay đang đối xử với nhau quá hung hãn, và tình người, lòng nhân ái đã trở thành một thứ hàng hiếm giữa thời buổi này? Những bài giáo dục công dân ở đâu hết rồi? Con người có còn nhớ mình là “hoạ ảnh của Thiên Chúa” hay đã quên đi căn tính thực của mình?
Nếu con người của mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại.
Hôm nay, Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.
26.Tuân phục--Trầm Thiên Thu
Tuân phục là vâng lời, còn gọi là thanh tuân. Vâng lời là nhân đức quan trọng: “Vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ” (1 S 15:22). Vâng lời là một trong ba (hoặc bốn, hoặc năm, tùy dòng) lời khấn của các tu sĩ: Vâng lời, khó nghèo, khiết tịnh (thanh tuân, thanh bần, thanh tịnh). Con cái phải biết vâng lời cha mẹ, người nhỏ phải biết vâng lời người lớn, nhân viên phải biết vâng lời giám đốc,… Nếu không vâng lời thì mọi thứ sẽ đảo lộn. Tất nhiên vâng lời phải theo nghĩa tích cực, không thể vâng lời khi người trên dạy làm điều sai trái hoặc độc đoán.
VÂNG LỜI TUYỆT ĐỐI
Trình thuật St 22:1-2.9-13.15-18 kể chuyện về đức vâng lời của tổ phụ Ápraham.
Sau nhiều chuyện, Thiên Chúa lại thử lòng ông Ápraham. Người gọi ông: “Ápraham!”. Ông thưa: “Dạ, con đây!”. Người phán: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Ixaác, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho”.
Ông Ápraham chỉ có một đứa con trai yêu dấu, mà theo tục lệ Do Thái, “anh Hai” rất quan trọng vì là con thừa tự và có quyền trưởng nam, thế mà Chúa lại bảo dâng đứa con đó làm lễ toàn thiêu. Căng quá! Thế nhưng ông Ápraham không hề so đo, không hề thắc mắc, không hề nghi ngờ, không hề tiếc, mà ông còn mau mắn tuân phục lời Chúa dạy.
Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Ápraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Ixaác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Ápraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình. Gay cấn quá! Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông: “Ápraham! Ápraham!”. Ông thưa: “Dạ, con đây!”. Người nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!”.
Thật tuyệt vời! Ông Ápraham ngước mắt lên nhìn, ông thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Ápraham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình. Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Ápraham một lần nữa và nói: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính vì ngươi đã vâng lời Ta”.
Càng tin tưởng thì người ta càng có thể mau mắn vâng lời. Tác giả Thánh vịnh bộc bạch: “Tôi đã tin cả khi mình đã nói: “Ôi nhục nhã ê chề!” (Tv 116:10). Bị nhục nhã ê chề mà còn tin ư? Thật khó quá! Thật thế, thường thì chúng ta chỉ tạ ơn Chúa khi mình được ơn này, ơn nọ, vì thấy “hợp ý mình”, còn nếu “trái ý mình” thì chắc hẳn chúng ta không muốn tạ ơn Chúa, cho vậy là “phi lý”, thậm chí có người còn có thể trách Chúa! Tuy nhiên, nếu suy cho thấu đáo, chúng ta sẽ khả dĩ chân nhận tất cả đều là Hồng ân Thiên Chúa, vì “thân này là tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116:16). Do đó, chúng ta càng phải biết “dâng lễ tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Đức Chúa” (Tv 116:17). Vâng lời và tạ ơn Chúa không chỉ là bổn phận mà còn là niềm hãnh diện và hạnh phúc của chúng ta.
Trong Rm 8:31-34, thánh Phaolô đặt ra một loạt câu hỏi: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?”.
Những câu hỏi đó lại chính là những câu trả lời rạch ròi và chính xác. Đúng là không phải nói gì thêm!
HẠNH PHÚC MIÊN MAN
Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo tới một ngọn núi cao. Bỗng nhiên Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài mặc trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Các ông còn thấy có ông Êlia và ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu. Các ông được thấy “hiện tượng lạ” không chỉ là người “may mắn” mà còn là người có trọng trách nặng nề hơn. Tặng phẩm nào cũng gắn liền với trách nhiệm nào đó, như tục ngữ Việt Nam nói: “Cây càng cao, gió càng rung”.
Ông Phêrô thấy vậy, quá phấn khởi, nên ông thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mc 9:5). Vừa kinh hoàng vừa hạnh phúc tột đỉnh vì được “nếm thử” vinh quang Thiên đàng, ông Phêrô không còn nhớ đến hai anh bạn bên cạnh và quên cả chính mình, chỉ muốn dựng lều cho Chúa Giêsu, cho ông Môsê và ông Êlia mà thôi.
Bỗng có đám mây bao phủ các ông, và có tiếng nói vọng ra: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Chính Thiên Chúa truyền dạy chúng ta vâng lời Đức Kitô, vì Ngài vừa là Con “cưng” của Chúa Cha vừa tuyệt đối vâng lời. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa rất quý trọng đức vâng lời.
Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. Hẳn là các ông còn dư âm niềm hạnh phúc ấy và chắc là tiếc những giây phút kia lắm. Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó nên giữ bí mật riêng, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Con người thật yếu đuối, vừa thấy nhãn tiền vinh quang Nước Trời mà vẫn chưa đủ lòng tin!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống khiêm nhường và vâng lời, đồng thời xin thêm đức Tin, đức Cậy và đức Mến cho chúng con, để chúng con làm đẹp lòng Chúa là vui lòng tha nhân. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thánh Tử Yêu Dấu của Cha, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
27.Đức Tin cột trói chúng ta--Peter Feldmeier--Văn Hào, SDB chuyển ngữ
Này là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người (Mc 9,7)
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay dường như có vẻ thách đố chúng ta. Bài đọc thứ nhất kể lại câu truyện Chúa nói với Abraham hãy đem Isaac con của ông lên núi để sát tế. Abraham đã tuân theo chỉ lệnh của Chúa. Isaac chẳng nghi ngờ gì, đã cùng với cha bắt đầu cuộc hành trình. Hai cha con đi suốt ba ngày đường trèo lên núi cao. Đến nơi, Abraham cột trói Isaac lại, và đang dự định giết con để tế lễ. Khi ông toan tính làm như thế, một sứ thần đã hiện ra và cầm giữ tay ông lại. Thần sứ nói với ông rằng Thiên Chúa rất hài lòng vì ông đã vâng lời Ngài: “Vì ngươi đã vâng phục Ta, không tiếc đứa con trai thừa tự duy nhất mà ngươi rất quý mến, nên Ta sẽ chúc lành cho ngươi và hứa cho dòng giống ngươi trở nên đông đúc.”
Chúng ta phải đọc câu truyện trên đây dưới lăng kính truyền thống Do Thái giáo và cả truyền thống Kitô giáo. Có nhiều cách cắt nghĩa khác nhau, nhưng những diễn giải dường như vẫn chưa lột tả được trọn vẹn ý nghĩa sâu xa của bản văn. Một số nhà chú giải sánh ví Thiên Chúa như một vị thần chuyên thử thách. Họ còn đặt vấn đề xa hơn, liệu Thiên Chúa còn thử thách Abraham đến mức độ nào, khi truyền lệnh cho ông cầm dao giết đứa con ruột của mình? Một số khác lại đọc thoáng qua câu truyện và tự hỏi: Tại sao Thiên Chúa lại ra một lệnh truyền quái ác và nghịch thường như vậy, vì người Do Thái không bao giờ được phép giết con mình để tế thần, không giống như các dân ngoại vẫn thường làm. Triết gia Kieerkegard lại có một cái nhìn khác khi ông kết luận “Đức tin nếu chỉ khởi phát từ một ý thức thuần mang tính luân lý với sự vâng lời tối mặt, thì đó chỉ là đức tin mù quáng và xuẩn ngốc’’. Cả ba nhận định trên đây đều phiếm diện và không thấu triệt tường tận câu truyện mà Kinh thánh trình bày. Cách lý giải thứ nhất chỉ phác vẽ Thiên Chúa như một Đấng cao ngạo ở tít trên cao, thích thử thách con người, đến mức độ cách hành xử của Ngài giống hệt một cuộc tra tấn hay khủng bố. Về cách giải thích thứ hai, chúng ta cũng thấy không hơp lý chút nào. Câu truyện quả thực không hề muốn nêu lên sự tương phản giữa đức tin và luân lý. Tôi cũng muốn nói rằng, chúng ta đừng xem đức tin như một thái độ mù quáng và ngốc ngếch, vì đức tin và lý trí không hề đối kháng hay loại trừ nhau. Abraham đã không mù quáng khi thực thi điều Chúa muốn như nhiều người lầm tưởng. Ngày nay, nếu có ai ra lệnh cho chúng ta là phải dùng dao giết con, thì chắc chắn chúng ta sẽ gọi cảnh sát ngay lập tức. Thiên Chúa của chúng ta không độc ác như thế đâu.
Thế thì câu truyện trên muốn nói cho chúng ta điều gì? Chúng ta hãy đan nối với truyền thống Do Thái giáo để hiểu nội dung một cách sâu xa hơn. Vấn đề ở đây không phải là Abraham có ý định sát tế Isaac, nhưng ông chỉ muốn tuân hành ý Chúa cách triệt để. Ông cột trói Isaac và hiến dâng cho Chúa, không hề tiếc nuối và giữ lại cho mình. Đây là một thái độ vâng phục trọn vẹn trong đức tin. Qua hình tượng Isaac, tổ phụ Abraham đã trói buộc mình và dòng dõi của mình vào chính Thiên Chúa và vào lời hứa của Ngài. Hành động này không phải là nhằm giải quyết công việc trước mắt, cụ thể là việc giết đứa con đặt lên bàn để tế lễ. Nhưng động thái của tổ phụ Abraham mang chiều kích linh thánh, một hành vi biểu tỏ đức tin, và dẫn đưa đến một chân trời rộng mở hơn, đó là chân trời của lời hứa.
Bài học ở đây, là khi chúng ta biểu tỏ đức tin, chúng ta cột trói mình (như Abraham cột trói Isaac) vào với Thiên Chúa, tự nguyện “trao nộp”chính chúng ta trong bàn tay của Thiên Chúa, thì đáp lại, Thiên Chúa cũng sẽ trói buộc Ngài trong giao ước với chúng ta, và Ngài sẽ hiến trao tất cả cho chúng ta, vì Thiên Chúa luôn trung thành với giao ước mà Ngài đã cam kết.
Đây là sự cột trói song phương, giữa chúng ta và Thiên Chúa.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô cũng gợi mở cho chúng ta am tường về sự trói buộc lưỡng chiều này. Thánh nhân viết “ Nếu Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn có thể chống lại được chúng ta” (Rm 8, 31b). Tiếp nối suy tư này, Thánh Phaolô tiếp tục đưa dẫn chúng ta đến một bản hòa điệu song đối với những câu hỏi và những thách đố được gợi ra. Ngài viết: “Vì tôi thâm tín rằng, dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai hoặc bất cứ sức mạnh nào,… không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta (Rm 8,38-39). Đây là hình mẫu sự cột trói thâm sâu giữa chúng ta và tình yêu Thiên Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay dẫn mời chúng ta thông dự vào cuộc biến hình của Đức Giêsu. Ở trên núi cao, ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã mục kích vinh quang của Đức Giêsu khi Ngài đàm đạo với Môisê và Elia. Hai vị ấy là biểu thị cho lề luật và các ngôn sứ, như được nhắc đến trong lời kinh tổng nguyện của phụng vụ hôm nay. Tuy nhiên cả hai vị này đều có liên hệ đến những biến cố rất ý nghĩa trong cựu ước. Môise và Êlia đều đã tiếp cận trực tiếp Đức Chúa Giavê trên núi Sinai (Xh 24,1,19). Đồng thời, cả hai ông đều gợi nhắc về Đấng Messia, Đấng sẽ đến cứu chuộc dân người. Êlia được đặc cách để tiên báo về đấng Messia và ông cũng chính là người dọn tâm hồn cho dân chúng trước khi ngày của Đức Chúa khởi sự (Mal 3,23). Còn ông Môisê, vào thời của Chúa Giêsu, người ta vẫn có truyền thống xem ông, giống như vai trò của Êlia, người đã đạt đến sự viên toàn của sự đợi chờ Đấng Mesia ở trên nước trời. Vì thế, giây phút Chúa biến hình trên núi Tabor, cũng mang chở một chiều kích cánh chung, và tiên báo sự viên thành giao ước mà Chúa đã ký kết trên núi Sinai năm xưa.
Ba môn đệ đã nghe tiếng Chúa Cha từ trong đám mây “Đây là con yêu dấu của ta, hãy nghe lời Người”. Cả ba ông đã chứng kiến giây phút viên toàn của lịch sử, lúc Đức Giêsu vén mở vinh quang chiến thắng của Ngài. Đó là những khoảnh khắc các ông được thông dự trước vào sự tròn đầy của sự thực hiện lời Thiên Chúa hứa. Nhưng liền ngay sau đó, các ông phải trở về đối mặt với cuộc sống đời thường. Từ trên núi xuống, chỉ còn lại duy nhất một mình Đức Giêsu, một Thiên Chúa làm người, một Thiên Chúa đang sống kiếp tăm tối của thân phận con người như chúng ta, và vinh quang chói ngời trên núi Tabor vẫn còn đang bị che dấu. Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta hôm nay, chúng ta cũng phải cột trói và hiến dâng bản thân, để trao dâng cho Đức Giêsu, Đấng là Thiên Chúa nhưng mang trên vai những bầm dập và khổ đau trong phận người. Chúng ta cột trói vào Ngài, hiến dâng cho Ngài, có nghĩa là chúng ta phải cùng với Ngài đi lên Giêrusalem để được sát tế. Hơn nữa, như thánh Phaolô gợi nhắc, chúng ta phải cột trói vào Ngài giữa những cay đắng và bi thương trong cuộc sống hiện sinh hôm nay. Chúng ta diễn tả động thái đức tin, bằng cách trói buộc vào Đức Giêsu, bởi vì chính Ngài cũng đã tự trói buộc vào thân phận con người của chúng ta, đã tự nguyện tiến nhận cái chết để cho chúng ta được ơn giải cứu.
Cuộc biến hình của Đức Giêsu trên đỉnh núi Tabor vén mở để cho chúng ta cảm thấu được uy quyền, hiểu biết về sứ mạng và nhận ra bản tính đích thực của Đấng là Thiên Chúa – Người, là chính Đức Giêsu. Cuộc hành trình đức tin của chúng ta cũng sẽ khởi đầu và kết thúc cùng với Ngài, bởi vì trong cuộc lữ hành đó, chúng ta sẽ mãi mãi gắn kết và buộc trói chúng ta vào với Ngài.
28.Thay đổi--Lm. Vũ Đình Tường
Vũ trụ chúng ta sống luôn biến đổi. Người sống vùng sa mạc nhận biết biến đổi rõ nhất là trong sa mạc. Sau một cơn bão thung lũng cát biến thành núi cát. Sức mạnh đó vượt ngoài tưởng tượng của loài người. Các khoa học gia có thể giải thích, đo lường, tìm hiểu nhưng bất lực không thể ngăn cản. Người sống vùng đồng bằng nhận biết biến đổi qua nước chảy trên sông. Người ta nói nước chảy đá mòn. Thực tế dân sống vùng sông ngòi biết nước chảy vài ba năm sông bị cạn dần, bờ sông bị mòn, lòng sông đã không mòn mà còn bị phù sa bù lấp làm lòng sông nông cạn. Biến đổi trong vũ trụ là điều không thể tránh. Cuộc sống đời người cũng có nhiều biến đổi theo từng giai đoạn. Từ trẻ thơ biến thành thiếu niên rồi thanh niên rồi trưởng thành, thành người lớn trước khi phải nhờ đến cây gậy chống bước đi, cụ ông, cụ bà. Mỗi một giai đoạn đều có thay đổi về cả vóc dáng lẫn tinh thần.
Tương tự như thế cuộc sống tâm linh cũng có những giai đoạn phát triển, thay đổi. Mỗi một giai đoạn giúp chúng ta biến thành con người khác. Cũng vóc dáng đó, cũng con người đó nhưng trong tâm hồn có biến đổi, có giao động, có dấu chỉ của thành hình. Thành hình như thế nào tuỳ thuộc vào chọn lựa lối sống của mỗi cá nhân.
Mừng kính lễ Chúa biến hình giúp chúng ta nhận biết con người trung tín theo Chúa không biến hình nhưng thành hình. Thành hình như thế nào chúng ta không thể khẳng định rõ ràng. Chúng ta chỉ biết qua hình ảnh nhận được trên núi thánh chúng ta mường tượng ra cuộc sống tương lai của người trung thành theo Chúa sẽ tương tự như hình ảnh trên núi thánh. Nhìn vào hình dạng biến đổi của Thầy để có cảm nghiệm là sẽ trở nên giống Thầy. Toàn thân sẽ trắng như tuyết, mặt mày sáng tươi và tinh thần đầy hoan lạc. Điều này tự mình không thể hoàn thành nhưng nhờ vào ơn Thầy ban cho. Kẻ tin theo Chúa được khai mở chút ít về cuộc sống tương lai nhờ các môn đệ được Chúa cho cảm nhận trên núi thánh. Con người trở nên trong sáng nhờ ánh sáng của Thầy chiếu dọi. Như mặt trăng sáng nhờ mặt trời, các môn đệ trung tín trở nên trong sáng nhờ ánh sáng mặt trời công chính là Đức Kitô chiếu toả.
Môn đệ không dám so với Thầy thì ít ra hình ảnh các tổ phụ cho biết các ngài cũng biến đổi như thế. Các ngài không so với Thầy, các ngài có được sự sáng nhờ Thầy ban cho, nhờ sống trung tín trong niềm tin. Niềm tin đây chính là ai tin vào Thầy cũng sẽ cảm nhận được sự sống mới nơi Thầy ban cho. Sự sống đó biến đổi con người bất toàn của ta trở nên tốt hơn, đẹp hơn, cao quí hơn, hoàn toàn hơn và cuối cùng trong sáng như tuyết. Đây là một cảm nghiệm, niềm hạnh phúc tuyệt vời mà trần thế không thể nào diễn tả. Các môn đệ đi theo Thầy được Thầy ưu đãi cho cảm nghiệm sự sống tương lai. Các ngài được nhìn thấy tương lai đời mình hạnh phúc như hình ảnh trên núi thánh. Dù chỉ hé mở một chút đã khiến các ngài say mê, muốn buông bỏ mọi sự nơi trần thế, không còn quyến luyến chi. Trước khi thực sự bước vào cộc sống mới, cuộc sống thành hình đó các ngài phải xuống núi. Xuống núi không phải để tích trữ, thu góp. Xuống núi để chính thức từ bỏ, dứt khoát xa lìa những gì thuộc về trần thế. Mỗi một hành động tốt lành đều giúp ta trở nên trong sáng hơn, mỗi một cử chỉ bác ái, yêu thương đều biến ta trở nên tốt lành hơn. Chính những biến đổi hàng ngày trên thay hình đổi dạng cuộc sống của ta, giúp ta trở nên trong sáng hơn. Từ bỏ lối sống tự tạo để bước theo con đường Thầy đã đi qua, con đường Thầy dẫn đường, chỉ lối. Con đường từ bỏ dù chông gai, cay đắng cũng rất đáng từ bỏ, cố gắng, trung tín bước theo Thầy vì sau những vất vả, gian truân là ánh sáng ngập tràn. Sau những âu lo, phiền muộn là niềm vui vĩnh cửu. Sau những khổ đau là hạnh phúc tuyệt vời. Sau những xua đuổi, rượt bắt là tưng bừng chào đón, đàm đạo. Hình ảnh đám mây bao phủ chính là trở ngại ngăn cách lớn nhất cho những ai không thể dứt khoát từ bỏ. Chỉ khi nào vượt qua đám mây che phủ đó con người mới nhận biết chân giá trị của cuộc sống mai hậu đang đón chờ.
Chúng ta cầu xin tâm tình trong lòng luôn ấp ủ cảnh sống tươi sáng. Ước mong niềm hy vọng tươi sáng sẽ xoá tan mây mù, tăm tối.
29.Con yêu dấu--Lm. Vũ Đình Tường
Mỗi lần Chúa Cha nhắc đến tình yêu Cha Con dành nhau ta thấy tình yêu đó luôn thể hiện không phải bằng ngôn từ không mà luôn kèm theo sứ mạng của Tin Mừng. Sứ mạng đó được thể hiện qua hành động cụ thể. Sứ mạng Chúa Con tự nguyện lãnh nhận ngay sau khi Đức Kitô lãnh nhận phép thanh tẩy từ Joan đó là công khai rao giảng về nước trời.
Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con
Liền sau đó Đức Kitô tiến vào hoang địa và ở đó bốn mươi ngày ăn chay, cầu nguyện chuẩn bị cho chương trình rao giảng công khai về nước Thiên Chúa đã đến gần.
Ngày biến hình trên núi thánh có sự hiện diện của ba tông đồ Phêrô, Giacobê và Gioan. Cả ba đều chứng kiến cuộc đàm thoại giữa Đức Kitô và tổ phụ Môisen và tiên tri Elia. Cuộc đàm thoại bị gián đoạn khi các ông nghe tiếng Chúa Cha vang vọng như tiếng sấm phán
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài
Các tông đồ được chiêm ngắm ít nhiều về cuộc sống tương lai và các ông vui mừng muốn ở lại trên núi thánh nhưng Đức Kitô có chương trình Ngài cần thực hiện nên Thầy trò xuống núi. Sự hiện hữu của các tổ phụ trên núi thánh xác nhận một niềm tin. Niềm tin đó chính là có sự sống đời sau. Đối với nhân loại các tổ phụ đã chết nhiều năm trước, mộ các ngài còn nằm kia nhưng sao các ngài đang sống, hiện diện trên núi thánh xác nhận các ngài đang an vui sống gần Chúa. Nhắc đến tổ phụ Môisen là nhắc đến hành trình bốn mươi năm, vượt sa mạc dẫn dân Chúa chọn về Đất Hứa. Môisen dưới sự hướng dẫn, bảo bọc của Thiên Chúa đã vượt qua ngàn trùng gian khổ, dẫn dân Chúa chọn vượt Biển Đỏ, giải thoát họ khỏi ách nô lệ của Pharaô tiến vào Đất Hứa. Tiên Tri Elia cũng có sứ mạng vất vả không kém. Elia đặt trọn niềm tin vào lời Chúa làm tròn sứ mạng trong lo âu, sợ hãi cho sự sống còn của chính ông. Vua Ahab làm vua vùng phía bắc xứ Israel từ 874-853 BC. Ông nghe lời vợ là Jezebel thờ tà thần Baal. Thiên Chúa sai tiên tri Elia báo cho vua biết nếu không thống hối ông và toàn dân sẽ bị phạt. Vua Ahab đã không thống hối còn tìm các giết Elia. Nhà tiên tri phải trốn nơi hoang địa và Thiên Chúa cứu ông khỏi tai hoạ và giúp ông hoàn thành điều Thiên Chúa sai phán. (Muốn biết thêm chi tiết mời đọc số một, Sách các Vua chương 17-22).
Tiếng phán ra của Chúa Cha từ trong đám mây là bằng chứng rõ ràng khác cho thấy Thiên Chúa hằng sống luôn đồng hành với Đức Kitô. Những sáng sớm Đức Kitô tìm nơi thanh vắng cầu nguyện chính là Ngài đàm đạo cùng Chúa Cha.
Sứ mạng xuống núi của Đức Kitô là mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Một sứ mạng đầy đau thương, nhiều nước mắt và cuối cùng là chết trong cô đơn, trên thập giá, nơi đồi vắng. Một kiểu hoang địa mà khi nghe đến ai cũng cảm thấy chân tay run rẩy, toàn thân rùng rợn. Đức Kitô đi trọn con đường đó và sau ba ngày chôn trong mộ Ngài sống lại vinh quang.
Sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết người ta mới nhận ra sức mạnh vô song và vinh quang ngàn trùng của Thiên Chúa. Sức mạnh đó mạnh hơn sự chết và vinh quang đó sáng tỏ hơn mặt trời chiếu sáng. Điều này cho thấy có sự liên kết giữa biến hình và sự sống trường sinh. Để có sự sống trường sinh cần có biến hình. Để được biến hình lại cần hoàn thành sứ mạng trao phó. Để hoàn thành sứ mạng trao phó cần đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô. Đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô sẽ được vinh thăng sống muôn đời kề cận vinh quang Thiên Chúa, nhận cùng lời Chúa phán trên núi thánh.
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài.
30.Ngộ ra--Lm. Vũ Đình Tường
Ngộ ra là nhận thức bất ngờ biết được của sự vật đã từng coi qua, nhìnlại, xem đi, xem lại rất cẩn trọng hay của đoạn văn từng nghiền ngẫm nhiều lần, rồi bất thần nhận biết điều hay, ý tốt, hiện ra trong tâm trí làm cho tâm hồn hứng khởi, tâm trí vui, rạo rực điều vừa cảm nhận được. Ngộ ra là nguồn hứng khởi cho tâm trí, giúp tâm trí giầu mạnh, mở ra một chân trời mới, cánh cửa mới cho tâm hồn.
Đối với Kitô hữu ngộ ra điều mới mẻ về đức tin là một bước tiến nhảy vọt trong linh đạo, dẫn đến yêu mến Chúa nhiều hơn và phục vụ tha nhân tích cực và hăng say hơn. Ngộ ra thoả mãn điều con tim khao khát, mong đợi. Ngộ ra gây hứng khởi cho tâm hồn, làm cho tinh thần sảng khoái, sức mạnh nội tâm nhảy vọt. Ngộ ra điều mới mẻ về tình yêu Chúa, điều này không chỉ có lợi cho đức tin mà còn làm cho ta nhận ra giá trị thực và rõ hơn mục đích của cuộc lữ hành trần thế. Ngộ ra còn xác tín điều quan trọng khác là Thiên Chúa hiện thực và hiện diện trong cuộc lữ hành của ta. Ngộ ra còn thay đổi nhận thức về Thiên Chúa. Hình ảnh Thiên Chúa yêu thương, giầu bác ái, chậm phê bình và hay tha thứ là hình ảnh Thiên Chúa ta tôn thờ. Ngộ ra còn giúp nhận biết đau khổ trần thế, bệnh tật, già nua không phải do Chúa dựng nên nhưng đó là một phần của tiến trình sống. Cây cối, thú vật và mọi sinh vật khác đều trải qua chương trình lột xác để trưởng thành hơn. Riêng con người thì đó là tiến hoá để trở nên tốt hơn trước khi tiến vào cuộc sống vĩnh cửu.
Ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo Đức Kitô đã lâu. Các ngài chưa bao giờ nhận biết vinh quang thực của Đức Kitô mãi cho đến khi được chính mắt nhìn thấy trên núi thánh. Chính kinh nghiệm trên tỏ cho các ông biết rõ hơn về Đức Kitô, Đấng các ông đang tin theo. Con mắt đức tin mở ra, tâm trí các ông rộng mở, tinh thần cao vút và con tim nhảy mừng vì được diện kiến vinh quang Thiên Chúa. Trong giây phút mừng vui tột cùng các ông không biết nói gì. Phúc âm thuật lại lưỡi các ông hầu như co cứng, không phát lên lời.
Các ông không biết phải nói gì vì các ông kinh hoàng Mc. 9,6
Đứng trước cảnh huy hoàng, rực rỡ của Thiên Chúa, ngôn ngữ loài người bế tắc, ngôn ngữ trần gian chỉ đủ để diễn tả niềm vui trần thế mà không thể diễn ta nổi niềm vui đến từ trời cao. Nhớ lại ngày Chúa Giáng Sinh các thiên thần cũng không diễn tả niềm vui bừng lên như ánh sáng ban mai bằng lời nói nhưng cất tiếng hát vang vọng không trung để diễn tả niềm vui. Các tông đồ dù cảm thấy vui mừng nhưng không biết làm cách nào diễn tả nguồn vui trào dâng trong tâm hồn. Các ông không hát nhưng cúi gục mặt thầm thán phục và kinh hãi trước hào quang vượt quá sức nhìn của mắt thường. Tai các ông còn nghe được tiếng đối đáp của các tổ phụ và rồi Đức Kitô đã khuyến khích các ông. Khi tỉnh lại các ông nhận ra Đức Kitô còn các vị khác đã biến khỏi mắt các ông. Kinh nghiệm trên núi thánh bồi bổ đức tin các ông tin tưởng bước theo Đức Kitô. Đức tin trở nên vững vàng hơn, dấn thân tích cực hơn và hy sinh trọn vẹn hơn. Kinh nghiệm trên núi thánh ban cho các ông con mắt mới, quả tim mới, tâm hồn mới và cuộc sống mới. Cuộc sống đơn sơ nhưng đầy bình an, hy vọng. Điều các ông nghe được trên núi thánh
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài Mc 9,7
Đây chính là điều Chúa Cha mời gọi Kitô hữu trung thành đi theo Đức Kitô, theo Con yêu dấu Thiên Chúa để nhận tình yêu Chúa Cha dành cho. Trên đường xuống núi Đức Kitô dặn các tông đồ dấu kín những gì đã chứng kiến. Các ông ấp ủ điều đó trong lòng. Miệng không nói ra nhưng tâm hồn khắc ghi những gì đã chứng kiến và trong cuộc sống rao giảng Tin Mừng tâm trí các ông luôn quay lại khúc phim núi thánh. Dù đã nhìn thấy, nghe được nhưng các ông vẫn chưa hiểu rõ í nghĩa câu
Sống lại từ cõi chết có nghĩa gì Mc 9,11
Mãi cho đến khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết hai tông đồ trên đường Emaus đã chẳng xác nhận điều đó là gì khi các ông miệng nói ra:
Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao? (Luca 24,32)
31.Ánh sáng của đức tin--Lm. Hà Ngọc Đoài
"Người biến hình trước mặt các ông... và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người." (Mc 9:1,7) Có một vị đạo sĩ cao niên bị mù. Ai nhìn thấy ông đều tỏ ra thương tâm và tìm cách cứu chữa ông. Có người mời được một y sĩ lừng danh đến chữa trị cho đạo sĩ. Y sĩ rất tự tín, đến gặp đạo sĩ và khuyên rằng: "Ngài hãy an tâm và tin vào bài thuốc của tôi có thể giúp cho đôi mắt được sáng như xưa." Mọi người đứng chung quanh đều vui mừng và chờ đợi. Riêng đạo sĩ bình tĩnh trả lời: "Không dám phiền ông phải bận tâm cho sự mù lòa về phần xác của tôi. Hơn lúc nào hết, tâm hồn tôi thấy những gì mà trước đây tôi không thấy, và bây giờ tôi được thấy rõ hơn" Nhờ con mắt Đức Tin mà đạo sĩ có thể nhìn tới thế giới siêu linh. Đôi mắt phần xác bị mù lòa vì tuổi đời làm giới hạn bao nhiêu, thì con mắt tinh thần lại vượt không gian và thời gian để vươn tới sự gần gũi Thiên Chúa bấy nhiêu. Nhờ con mắt của Đức Tin mà linh hồn có thể nhìn thấy được mạc khải của thế giới linh thiêng. Nhờ vậy vị đạo sĩ có niềm vui trong tâm hồn. Khi Đức Giêsu báo tin cho các tông đồ biết là cuộc hành trình giảng đạo của Ngài đang đi về Giêrusalem. Tại đó, vì trung tín với Thiên Chúa Cha trong việc rao giảng mà Ngài phải chịu khổ hình cho đến chết. Rồi Ngài sẽ sống lại. Khi nghe tin đó thì các tông đồ lo sợ và khuyên can. Để giúp các tông đồ được siêu thoát, Đức Giêsu đem họ lên núi cao và tỏ bày vinh quang của Ngài qua sự biến hình. Trên đỉnh núi cao này Ngài chuẩn bị cho cuộc khổ nạn trên đỉnh núi Calvê. Khi bị treo trên thÿnh giá, người ngoại giáo binh sĩ Rôma, và tội nhân sẽ nhận ra Ngài là ai. Chính họ tuyên xưng 'Ngài là Con Thiên Chúa."
"Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh. " (TV 114:9) Chúng ta đang sống giữa một thế giới đa văn hóa, và nhiều tôn giáo. Những phép thuật của khoa học làm cho một số bị lung lạc đức tin! Là Kitô hữu, chúng ta nhìn vào Chúa Kitô là Ánh Sáng soi đường chỉ lối cho chúng ta vào cõi sống trường sinh.
32.Ai hiểu được chữ tình?--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Tình yêu, hai tiếng thân quen mà rất khó diễn đạt. Chuyện cũng thường tình vì nhiều thi nhân đã từng hỏi: đố ai biết chữ tình là chữ chi chi? Mùa chay là mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu hoán cải ăn năn. Ăn năn hoán cải, không nguyên chỉ vì thấy sự xấu xa của kiếp tội đòi mà còn vì cảm nhận mối tình bao la mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thấy sự xấu xa và bi đát của thân phận tội lỗi của bản thân, để rồi quay bước trở về là điều chính đáng và hợp lý, nhưng chưa hẳn là sâu xa và lâu bền. Một sự hoán cải, trở về dựa trên niềm xác tín vào tình yêu của Thiên Chúa mới thực sự là bền vững và sâu xa hơn nhiều. Giáo lý Công giáo đề cập đến hiện thực này khi phân biệt hai hình thức ăn năn tội đó là ăn năn tội vì Chúa và ăn năn tội vì mình, hay nói cách khác là ăn năn tội cách trọn và ăn năn tội cách chẳng trọn. Để góp phần giúp chúng ta trở về cách trọn hảo hơn, xin được chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa qua các bài đọc của Chúa Nhật II Mùa Chay B này.
Yêu mến ai thì không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách thế để hiến dâng điều tốt nhất của mình cho người mình yêu.. " Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho" ( St 22, 2 ). Được hiểu như là lệnh truyền của Thiên Chúa, nhưng đó chính là tấm lòng của Abraham dành cho Đấng đã kêu gọi ông ra khỏi nơi quê cha đất tổ mà tiến về hứa địa. Dù băn khoăn, đau xót, nhưng Abraham vẫn muốn hiến dâng điều tốt nhất của mình là chính sự sống nối dài của mình, qua người con một.
Tình yêu thật diệu kỳ. Chính khi trao dâng là lúc lãnh nhận và lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn lần. Abraham đã không mất người con một yêu quý, mà đã trở thành cha của một đoàn con đông đảo "như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển". Tình yêu thật diệu kỳ, vì Thiên Chúa là Tình Yêu ( 1Ga 4,8 ). Là Đấng phải được mọi vật mọi loài tôn thờ và chúc tụng, là Đấng đáng được mọi người thần phục mến yêu và hiến dâng tất cả, thì Thiên Chúa lại trao ban tất cả cho chúng ta. Thánh Tông đồ dân ngoại đã luận lý rằng: Một khi Thiên Chúa đã ban chính Con Một cho chúng ta thì lẽ nào Người lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? ( x. Rm 8,32 ).
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê. Có Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Người. Nội dung đàm đạo là về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu sắp chịu tại Giêrusalem. Và đó chính là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Vì không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu ( x. Ga 15,13 ). Đây không phải là một tình cảm nhất thời mang tính tự phát, nhưng là một ý đinh có từ ngàn đời qua một chương trình được chuẩn bị từ ngàn xưa, mà sự hiện diện của Môsê và Êlia, đại diện cho Lề luật và hàng Ngôn sứ là một minh chứng hiển nhiên.
Nếu nói rằng Thiên Chúa trao ban chính Con Một, vì nhân loại bội phản, bất trung, sa ngã, phạm tội thì quả không sai. Nhưng nếu nói rằng Thiên Chúa hiến ban Con Một của Người cho nhân loại để mạc khải chính Người là Tình Yêu thì đúng hơn nhiều. "Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên giới".
Thập giá Chúa mời gọi ta hoán cải. Mùa chay, mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Đấng cứu độ. Các khổ hình Chúa Kitô đã chịu và cái chết tủi nhục của người trên thập giá như một lời tố cáo tội ác của nhân loại chúng ta. Thấy được sự xấu xa của bản thân mình, hẳn nhiên ít nhiều, chúng ta cũng được thúc đẩy chê ghét tội lỗi và hoán cải ăn năn. Tuy nhiên chính tình yêu của Chúa mới làm chúng ta vươn lên, đổi mới, nên hoàn thiện và nhất là biết sống yêu thương cách quên mình.
Được chiêm ngắm dung nhan sáng láng của Thầy chí thánh, đúng hơn là nhờ được thông phần một cách nào đó "bản thể của Đấng là Tình Yêu", thì Phêrô đã lên tiếng: " Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia."( Mc 9,5 ) Sao chỉ có ba cái lều mà không là bốn, năm hay là sáu? Dù đang kinh hoàng và không biết phải nói gì, nhưng Phêrô đã thay hai bạn đồng môn Gioan và Giacôbê nói lên tấm lòng của mình, một tấm lòng quên mình vì người khác.
"Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người" ( Mc 9,7 ). Ước gì chúng ta hằng luôn ghi khắc vào tâm khảm những lời từ miệng của Đấng Cứu Độ sau đây: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" ( Ga 14,24 ). " Vậy, nếu Thầy là Thầy và là Chúa, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em" ( Ga 13,12 ). " Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó" ( Mt 7,12 ).
Ai hiểu được chữ tình? Có thể nói rằng đó là những ai biết ở lại trong tình yêu Đấng Cứu Độ, đồng thời, nhờ và với tình yêu của Người, đã biết yêu thương như Người yêu thương. Thấy tội ác của mình, người ta có cơ may hối hận, ăn năn. Nhưng nghiệm thấy được tình yêu cứu độ người ta sẽ biết đổi đời và vươn lên.
33.Crux est lux-Thập Giá là vinh quang!--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh cho là cảnh hiển dung trên núi Ta-bo là một trong những sự kiện quan trọng nhất của Tân Ước, vì tuy không phải là chóp đỉnh, biến cố này thật sự tóm tắt tất cả mạc khải cứu độ. Chúng ta thấy ở đây, Mô-sê và Ê-li-a, các phát ngôn viên của lề luật và ngôn sứ (tắt một lời là đại diện của Cựu Ước) giới thiệu đấng Kitô của Tin Mừng cho các môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Các môn đệ này sẽ là các nhân chứng được coi là ‘trụ cột’ của Giáo Hội (theo lối diễn tả của Phao-lô trong thư gửi tín hữu Ga-lát), những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo (Xem chú thích Mc 9:1tt trong ‘Lời Chúa Cho Mọi Người’). Nếu quả thật là như thế thì hiển dung đâu chỉ đơn thuần là một liệu pháp tâm lý đề vực dậy tinh thần suy sụp của các môn đệ trước cuộc khổ nạn đau thương Đức Giêsu sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem. Ý nghĩa của nó chắc hẳn phải lớn lao hơn nhiều…, và vì thế đáng để ta dành đôi chút thời giờ tìm hiểu thêm.
Vinh quang, hay diện mạo đích thực của Thiên Chúa là điều con người mọi thời đại và mọi tôn giáo đều muốn kiếm tìm. Mô-sê và Ê-li-a là hai nhân vật Cựu Ước được mô tả như đã có diễm phúc chớm thấy vinh quang đó tỏ lộ; Mô-sê trên định Si-nai khi lãnh tấm bia giới luật (xem sách Xuất Hành chương 19), và Ê-li-a trên đỉnh núi Khô-rếp trên đường trốn chạy khỏi sự truy đuổi của hoàng hậu I-dê-ven (xem 1 Vua chương 19). Tuy nhiên thứ vinh quang Đức Chúa mà hai ông được chứng kiến thực tế đã rất khác nhau; một đàng là ‘Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống, khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh… (Xh 19:18), đàng khác là ‘Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa là tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra đứng ở cửa hang… (1 V 19:12-13). Nếu thế vinh quang mà Đức Giêsu muốn hiển thị trong lần biến dạng trên núi Ta-bo có chi khác với những lần đó không? Trước hết đó hẳn phải là một thứ vinh quang đích thực, vì được hiển thị do chính Người Con duy nhất từ Thiên Chúa mà đến. Vinh quang đó không những phải vượt xa mọi thứ hào quang đôi mắt phàm tục có thể nhìn thấy, mà còn phải vượt xa những gì cả Mô-sê lẫn Ê-li-a đã được chứng kiến trong những lần thị kiến Đức Chúa thời Cựu Ước.
Tác giả Lu-ca cho biết ‘hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem’ (Lc 9:31), điều đó chứng tỏ cuộc xuất hành sắp tới mới biểu hiện vinh quang thật, khác với những gì các ông đã biết hoặc đang được chứng kiến lúc này. Thứ hào quang mà hai ông hiện đang được chứng kiến chưa hẳn là tột đỉnh; tột đỉnh vinh quang phải là cuộc xuất hành các ông đang được nghe đề cập tới. Đức Giêsu cũng hàm cùng một ý đó khi căn dặn ba môn đệ trên đường xuống núi: “không được kể lại cho ai nghe các điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Đúng vậy, cuộc tử nạn hay cuộc vượt qua Người sắp chịu mới chính là vinh quang đích thực, trong đó tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được tỏ hiện cách rực rỡ nhất. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì vinh quang chói lọi của Người không thể là điều gì khác hơn biểu hiện của tình yêu đầy từ nhân và xót thương thông qua hành động cứu chuộc. Sau này khi gần tới giờ ra đi chịu chết và khi cầu nguyện với Chúa Cha, chính Đức Giêsu đã không ngần ngại gọi giờ phút ‘tang thương’ đó là giờ Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang Ngài, giờ phút Thiên Chúa được tôn vinh cách tuyệt đối. “Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha… xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17:1.8).
Chính Mô-sê và Ê-li-a cũng hầu như còn đang mong đợi được chứng kiến thứ vinh quang đó, vinh quang của Thập Giá. Và Đức Giêsu thật sự mong muốn và khích lệ các môn đệ, đặc biệt ba môn đệ thâm tín nhất, loan truyền cho mọi người thứ vinh quang ‘xuất hành’ đó, hơn là chựng lại làm ba lều bên thứ vinh quang ‘giả tạo’ của diện mạo sáng láng và y phục trắng tinh. Phải chăng đây chính là cuộc chuyển biến quyết định nhất của mọi niền tin, từ Cựu Ước bước qua Tân Ước, từ vinh quang của quyền uy (lửa, động đất, loa vang dội…) qua vinh quang của tha thứ và cứu độ, từ quan niệm về một Đức Chúa quyền phép qua hình ảnh một Thiên Chúa là Cha của Đức Kitô Giêsu đầy xót thương nhân hậu? Đối với các môn đệ là những người Do Thái chính hiệu, sự chuyển tiếp này không thể không gây ngỡ ngàng và đặt ra nhiều vấn nạn. Các ông vẫn còn phải ‘bàn nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì’, và Đức Giêsu còn phải cất công giải thích nhiều lần hơn nữa. Điều này cũng sẽ mãi mãi, qua mọi thời đại, tiếp tục là vấn đề then chốt độc đáo của niềm tin Kitô hữu (so với các tôn giáo khác, nhất là Do Thái giáo và Hồi giáo) khi phải vẽ lên trong tâm linh các tín hữu hình ảnh về một Thiên Chúa… lòng lành, xót thương và cứu độ, những nét không tuân theo bất cứ thứ lô-gich hay lối suy nghĩ thông thường nào, nhưng chỉ dựa trên mạc khải duy nhất của Đức Kitô thập giá. Cách duy nhất họ có thể làm là để mình hoàn toàn bị khuất phục bởi mạc khải vinh quang thập giá, điều làm cho họ, trước mặt khôn ngoan của người đời, bị liệt vào hạng ngu đần và hèn nhất; do đó “Hãy vâng nghe lời Người!”
Mùa chay chính là thời gian để mỗi chúng ta vâng nghe và đón nhận thứ vinh quang cứu độ này của Thiên Chúa, vì thế đó là thời gian của thanh lọc và củng cố niềm tin Kitô.
Lạy Chúa là đấng Cứu Độ của con! Con xin được như Phêrô dựng lều, nhưng không phải để chiêm ngắm dung mạo hiển dung sáng láng, mà là để say mê vinh quang cứu độ Chúa dành cho con. Chính Chúa đã chủ động kêu mời con ở lại trong tình yêu xót thương của Người, không những chỉ trong mùa chay thánh mà còn trong suốt cuộc sống dương thế, và mãi mãi trong hạnh phúc Quê Trời mai sau. Amen.
34.Lên núi--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Chay năm B, Thánh Máccô thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu đưa ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đi riêng với Người lên ngọn núi Tabor. Đây là ba môn đệ thân tín của Chúa. Người yêu họ cách đặc biệt. Điều đó cho thấy, Chúa Giêsu khi xuống trần gian, Người cũng rất người. Người yêu mọi người nhưng vẫn có những tình cảm đặc biệt cho một số người. Người biến hình trước mặt ba môn đệ. Áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không một thợ giặt trên trần gian nào có thể giặt trắng đến thế. Đó là một khoảnh khắc kỳ diệu trong đời. Ba môn đệ đã ngơ ngẩn, ngẩn ngơ khi chứng kiến khoảng khắc đó. Phêrô đã thốt lên “chúng con ở đây thật là hay”. Ông nói mà không biết mình nói gì vì tất cả các ông đều hoảng sợ. Quả thực, không hay sao được khi được ở bên Chúa, được xem thấy Chúa. Nếu có một điều để ước, tôi cũng ước được ở đó cùng với ba môn đệ để chứng kiến khoảnh khắc Chúa biến hình. Chỉ một lần và chỉ một lần thôi, được thấy Chúa là mãn nguyện lắm rồi.
Nếu như Chúa Nhật I, Chúa mời tôi vào sa mạc, thì Chúa Nhật II hôm nay, Chúa mời tôi lên núi với Người. Sa mạc và núi cao đều là những nơi Chúa hẹn gặp con người. Giữa thiên nhiên tươi đẹp, Chúa ngỏ lời với con người. Để gặp được Chúa, tôi cũng phải ra khỏi bản thân để lên núi với Người.
Có một lần, tôi cùng với một nhóm Linh mục đi lên núi Yên Tử. Đây là ngọn núi cao 1068m so với mực nước biển, có ngôi Chùa Đồng nổi tiếng, nằm ở ranh giới của hai tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh. Dù đã có hệ thống cáp treo nhưng du khách vẫn phải tự leo lên một quãng đường khá dài. Trong nhóm của chúng tôi, một số cha lớn tuổi xin đầu hàng ngay từ đầu. Một số khác leo được giữa chừng thì bỏ cuộc vì bụng to quá. Chỉ có một nhóm nhỏ lên được tới đỉnh núi. Người lên đỉnh núi đầu tiên là một vị linh mục nhỏ nhất. Có lẽ ngài chỉ khoảng hơn 40 kg.
Quan sát vị linh mục chinh phục đỉnh núi đầu tiên, tôi rút ra được một bài học cho riêng mình. Để leo lên một ngọn núi cao, tôi cần phải có những hành trang cần thiết.
Thứ nhất đó là một niềm tin kiên vững không bỏ cuộc. Leo núi đòi tôi phải tốn nhiều sức lực. Có những đoạn đường nhiều chông gai không dễ đi. Tôi dễ dàng bỏ giữa chừng. Tôi cũng có thể thấy một cái gì đó trên đường lôi cuốn khiến tôi xao lãng. Tôi cần phải mạo hiểm, phải ra khỏi bản thân để có một cú nhảy của niềm tin, như niềm tin của cụ Abraham trong bài đọc 1 (St 22, 1-18 ). Thiên Chúa đòi Abraham phải hiến tế chính con một yêu dấu của mình là Isaac cho Ngài. Đây là điều vượt quá luân thường đạo lý. Không có một nền luân lý nào cho phép cha giết con. Đó là một tội ác không thể dung thứ. Vì thế mà hành động của Abraham chỉ có thể hiểu được trong viễn cảnh ông tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa. Ông tin Thiên Chúa có thể trả lại sự sống cho Isaac và ông vẫn sẽ là tổ phụ của một dân đông đảo. Trong tác phẩm “Kinh hãi và run sợ” (Crainte et Tremblement), Soren Kierkegaard đã viết những dòng vô cùng tuyệt vời để diễn tả niềm tin của Abraham “Tôi nghiêng mình bảy lần trước quý danh Ngài và tôi nghiêng mình bảy mươi lần trước hành động đó của Ngài”. Abraham đã trở thành cha của những người có niềm tin là thế.
Thứ hai, để lên núi, tôi cần buông bỏ. Tôi cần bỏ lại những hành trang cồng kềnh khiến con người tôi ra nặng nề. Bụng càng to càng khó leo núi. Biết bao thứ trong cuộc đời bủa vây tôi. Tham luyến, sân hận, si mê đó là những thứ như muốn kéo ghì tôi xuống. Tôi cần can đảm chặt đứt những thứ đó để có thể nhẹ nhàng thanh thoát. Càng nhẹ nhàng, tôi càng dễ dàng bay cao. Có những thói quen đã ăn sâu vào con người tôi. Muốn bỏ đi quả là điều không hề dễ dàng.
Lạy Chúa, xin biến đổi con mỗi ngày. Xin cho con một niềm tin kiên vững vào Chúa. Xin cho con biết thành tâm sám hối mỗi ngày để loại bỏ đi những Virus độc hại vẫn thường xâm chiếm linh hồn con. Xin cho con biết chạy đến với Chúa mỗi ngày bởi vì: “Trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề. Ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi” (Tv 16,11).
35.Người đã phó nộp Ngài vì hết thảy chúng ta--Lm. Stephanô Bùi Thượng Lưu
Buổi sáng tinh sương hôm đó, trên con đường dẫn tới vùng đất Moriyah (theo truyền thuyết, chính là ngọn đồi sau này đền thánh Giêrusalem sẽ được xây trên đó), cụ già Abraham tay "cầm lửa và dao phay", Isaac, đứa con duy nhất của cụ vác củi. Cả hai đang mải miết trèo núi để làm lễ tế kính tiến Thiên Chúa Giavê.
Câu chuyện xảy ra vượt sức tưởng tượng của con người! Khởi đầu là lệnh truyền của Thiên Chúa Giavê: "Ngươi hãy lấy con ngươi, con một ngươi, ngươi yêu dấu tức là Isaac mà đi tới đất Moriyah, và ở đó hãy dâng nó làm của lễ thượng hiến trên một quả núi ta sẽ tỏ cho ngươi" (St 22,2). Tiếp đó là việc thi hành thượng lệnh không sai một ly: "Abraham xây tế đàn rồi sắp củi, và trói Isaac con ông mà đặt lên tế đàn, trên đống củi, đoạn Abraham giơ tay cầm lấy dao phay để tế sát con mình" (St 22,9-10).
Hành động của Abraham là tột đỉnh của lòng tin: quả thực Abraham đã không từ chối Chúa một điều gì, ngay cả người con duy nhất của ông. Đức tin của Abraham đã trở nên khuôn vàng thước ngọc cho mọi lòng tin, không phải một đức tin mù quáng, phi lý, nhưng một đức tin dựa trên chính Thiên Chúa, Đấng hằng trung tín. Cuộc thử thách đức tin của Abraham thật khủng khiếp, nhưng "lòng kính sợ Thiên Chúa" là thành trì kiên cố bảo vệ đức tin kiên vững của ông trong cơn bão táp. Chính vì thế, Thiên Chúa Giavê đã ân thưởng ông bội hậu: "Vì ngươi đã không từ chối với ta con một ngươi thì ta sẽ ban phúc chúc lành cho ngươi, ta sẽ làm cho dòng giống ngươi thêm đông, nên nhiều như sao trên trời, như cát dưới biển... Mọi dân thiên hạ sẽ lấy dòng giống ngươi mà cầu phúc cho nhau, bởi vì ngươi đã vâng nghe tiếng Ta". (St 22,17-18). Dòng giống đông như "sao trời cát biển" đó chính là những cõi lòng tin Thiên Chúa, đó chính là hội thánh tại thế, đó chính là mỗi người chúng ta.
"Ngài là con chí ái Ta, các ngươi hãy nghe Ngài" (Mc 9,7)
Hiến tế của Abraham dâng hiến Isaac mới chính là hình bóng của một Hy lễ toàn hảo của chính Đức Giêsu Kitô, con một Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã quả quyết: "Người đã không tha cho chính con của Người, nhưng đã phó nộp Ngài vì chúng ta hết thảy" (Rm 8,32). Lòng mến của Thiên Chúa đối với con người thật khôn lường khôn tả. Chính tình yêu vô bờ bến ấy, thể hiện qua việc Đức Kitô chịu nạn chịu chết trên bàn thờ thập giá, đã khơi nguồn ân cứu độ, hoàn thành giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và con người.
Mùa chay thánh, mùa dọn lòng người tín hữu đón nhận tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa, chúng ta hãy cùng với ba môn đệ Phêrô, Giacobê và Gioan chiêm ngưỡng bản tính và vinh quang Thiên Chúa hiện tỏ nơi Đức Kitô con yêu dấu của Ngài. "Hãy nghe Ngài" vì Ngài là "Đường là sự thật và sự sống" dẫn đưa con người về với Thiên Chúa. Thái độ của người tín hữu trong mùa chay thánh là hãy lắng nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa, và đem ra thực hành Lời Chúa trong đời sống.
Hãy luôn ghi nhớ rằng, con đường đức tin Abraham xưa đã đi cũng như cuộc hành trình đức tin của chúng ta trong thế giới hôm nay, cả hai chỉ là một, sẽ đầy thử thách chông gai, và chóp đỉnh vẫn là: Vâng Phục và Kính Sợ Thiên Chúa.
36.Cuối đường hầm hay trên đỉnh núi?--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Với tốc độ 300.000 cây số một giây, ánh sáng có thể bay nhanh tới những miền xa thẳm trong chớp mắt. Không vật nào có thể di chuyển nhanh như thế. Nhờ ánh sáng Chúa biến hình hôm nay, ba môn đệ cũng phóng tầm nhìn rất xa, xa tới tận bản tính Thiên Chúa. Chính vì thế, các ông đã xác định được hướng sống và tìm được nền tảng của niềm hi vọng cho cuộc đời. Trong ánh sáng thần kỳ, Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về Người. Sứ mệnh Người hiện rõ từng nét. Chúng ta tìm về ánh sáng đó để cùng các môn đệ ngất ngây chiêm ngưỡng dung nhan tuyệt vời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và là Đấng cứu độ muôn dân.
ÁNH SÁNG THẦN KỲ
Nếu không được chứng kiến ánh sáng thần kỳ trên núi, các môn đệ mãi mãi sống trong giằng co bất tận giữa thực tế và mộng tưởng. Giấc mơ Thiên sai vẫn đẹp như ngày nào. Thiên sai phải là một anh hùng cái thế thực hiện tất cả những giấc mộng bá chủ của dân tộc Do thái. Thực tế Thày lại tiên báo về một Thiên sai đau khổ và bị những nhà lãnh đạo dân chúng tiêu diệt khỏi mặt đất (Mt 16:21; Lc 9:22; Mc 8:31). Lời Thày như dẫn các môn đệ vào con đường hầm dầy đặc bóng tối.
Nhưng đã đến lúc ánh sáng lóe lên ở cuối đường hầm. Đức Giêsu muốn lôi các môn đệ ra khỏi cảnh hoang mang đó. Người phải củng cố niềm tin các môn đệ. Nếu không, các ông sẽ mất hẳn chiếc phao và sẽ trôi dạt đến một chân trời vô định. Cả sự nghiệp Thày trò sẽ tan tành ra mây khói. Bởi vậy Thày quyết định dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên núi để tìm một điểm mốc cho tương lai.
Núi là nơi lý tưởng để Thày trò cầu nguyện. Nhưng lần này khác hẳn. “Núi là nơi thường chứng kiến những mạc khải siêu nhiên và những cuộc thần hiển” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:615). Sau khi đã leo tới đỉnh núi, “Người biến đổi hình dạng trươc mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.” (Mc 9:3) Đức Giêsu đã xuất hiện nguyên hình. Thân xác không cản nổi luồng sáng từ thiên tính Người. Niềm tin các môn đệ bừng dậy. Có lẽ trong niềm tin Phật tử, Đức Phật cũng tỏa ra một thứ hào quang tương tự khi chứng ngộ, thành đạo dưới gốc cây bồ đề (?). Bởi vậy nói theo kinh nhà Phật, trong cuộc biến hình hôm nay, Đức Giêsu cũng đã thành con đường dẫn các môn đệ thoát khỏi bến mê và trở về nhà Cha an toàn.
Trong ánh sáng biến hình, các môn đệ sẽ hiểu được lời Đức Giêsu hứa về “Triều Đại Thiên Chúa đầy uy lực” (Mc 9:1) và xác tín “Thày là Đức Kitô” (Mc 8:30). Nói cách khác, Thày tự mạc khải là Đấng quyền năng có sứ mạng cứu nhân độ thế. Trong địa vị và vai trò lớn lao đó, Thày xứng đáng là vị lãnh đạo muôn dân vào Đất Hứa. Thày xuất hiện để lời các tiên tri trở thành hiện thực. Chính vì thế hai ông Môsê và Eâlia đã xuất hiện để củng cố và chiếu sáng niềm tin các môn đệ vào sứ mạng của Thày. Đúng hơn, hai ông là cái nền đánh bóng dung nhan Đức Giêsu.
CHÂN TƯỚNG VỊ THIÊN SAI
Nhưng trên hết, chính lúc các ông ngây ngất về dung nhan Thày trổi vượt hơn các ông Môsê và Eâlia, thì “có một đám mây bao phủ các ông” (Mc 9:7). Mây là biểu tượng Thiên Chúa hiện diện. Phải được nhắc lên đám mây, các ông mới nghe được tiếng Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Lời trìu mến chừng nào! Tất cả cơ nghiệp Chúa Cha là Đức Giêsu! Nhưng cơ nghiệp ấy Chúa Cha đã không ngần ngại hi sinh cho hạnh phúc nhân loại. Hình ảnh Abraham sẵn sàng sát tế Isaac chỉ diễn tả phần nào tấm lòng hi sinh cao cả của Thiên Chúa đối với con người. Abraham chỉ bị thử thách, chứ không sát tế người con yêu quí. Trái lại, “đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8:32). Thiên Chúa Cha quí trọng mạng sống Con Cha tới mức nào. Vậy mà Người đã hi sinh mạng sống ấy cho chúng ta (Disciples in Mission [Homily Guide, Lent Cycle B] 1999:10). “Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em” (1 Cr 6:20).
“Tiếng trong đám mây làm liên tưởng tới vị tiên tri trong Đệ Nhị Luật (18:15) sẽ được lắng nghe vào những ngày sau hết” (Faley 1994:231). Đám mây và Lời Chúa Cha chứng minh rõ ràng tự bản tính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Còn ai xứng đáng cho các môn đệ nghe lời hơn không? Vậy mà từ xưa tới nay, các ông vẫn hoang mang vì dư luận! Bởi vậy từ nay, dù Thày có nói những điều trái tai gai mắt, các môn đệ cũng phải chấp nhận. Sự thật vẫn là sự thật. Thày không sợ sự thật. Thày muốn môn đệ cũng phải đối diện với sự thật. Vì “sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8:32).
Thấy cảnh Đức Giêsu biến hình, Phêrô cảm thấy lúng túng. “Ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (Mc 9:6). Một kinh nghiệm khó quên. Một cảm nghiệm thần bí tuyệt vời. Tuyệt vời đến nỗi ông muốn kéo dài mãi cảnh thần tiên đó. Đề nghị dựng ba lều chỉ là một cách nói lên điều ông không biết diễn tả làm sao nỗi vui sướng ngây ngất. Nhưng Đức Giêsu không muốn các môn đệ “ngủ quên trên chiến thắng”. Ngay trên núi, sau khi chứng kiến cảnh Thày biến hình, các ông đã bị trả về thực tế. “Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi” (Mc 9:8). Thực tế trơ ra đó. Nhưng thực tế không phải chỉ có thế. Các ông lại phải tiếp tục nghe những điều nhức nhối tâm can phát ra từ miệng Thày. Thày trò rủ nhau xuống núi. Thày tiếp tục quả quyết về số phận không thể tránh: “Người phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê.” (Mc 9:12) Lúc này có lẽ các ông đã sẵn sàng nghe Đức Giêsu hơn, vì ai có thể tẩy mờ hình ảnh Thày biến hình khỏi tâm trí các ông? Làm sao các ông quên được lời phán từ đám mây: “Hãy vâng nghe lời Người”. Nghe lời Người để tìm đến sự sống, chứ không phải cái chết. Đúng hơn, niềm hi vọng sẽ bừng dậy khi “Con Người từ cõi chết sống lại.” (Mc 9:9) Đó mới là điều ám ảnh tâm trí các ông suốt đời. Đức Giêsu Phục sinh sẽ là câu trả lời đích xác, dẹp yên mọi xôn xao trong lòng các ông từ trước tới nay. Từ đây giấc mộng Thiên sai bá chủ sẽ nhường bước cho niềm hi vọng Phục sinh lớn lao đó. Ánh sáng biến hình chỉ là bóng mờ so với ánh sáng Phục sinh. Nhưng không chứng kiến hay cảm nghiệm được ánh sáng biến hình, người ta có thể ngộ nhận về sứ mệnh thiên sai của Đức Giêsu. Đó là lý do tại sao “Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người từ cõi chết sống lại.” (Mc 9:9) Trong ánh sáng Phục sinh, các môn đệ mới nhận thấy rõ ràng “nơi Đức Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa đã can thiệp để cứu độ dân Người.” (Fisichella 1995:669) Người chính là vị Thiên sai đến thực hiện tất cả những lời Thiên Chúa hứa giải thoát nhân loại.
Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, nhân loại vẫn còn sống trong những đường hầm chật chội, tăm tối. Sự dữ và bất công còn hiện diện khắp nơi. Chính vì thế người Kitô hữu vẫn chưa thể nghỉ yên. “Sứ mệnh Thiên sai vẫn còn đó như mời gọi dân thiên sai thực hiện cuộc giải thoát toàn vẹn và sau cùng. Biến cố huyền nhiệm Phục sinh chắc chắn đã mang lại ơn cứu độ. Biến cố đó không chuẩn chước, nhưng đúng hơn thúc ép chúng ta phải trở nên khí cụ thực hiện công bình và từ bi ở bất cứ nơi đâu sự dữ còn hoành hành”(Fisichella 1995:669). Nhờ đó, hòa bình sẽ là dấu chỉ rõ nhất của Thiên Chúa tình yêu giữa một xã hội đầy bạo động và sa đọa này.
Hi vọng không phải lóe lên ở cuối đường hầm, nhưng chiếu toả mãnh liệt trên đỉnh núi. Hôm nay sau khi chiêm ngưỡng dung nhan Đức Giêsu, các môn đệ đã nhận thấy “sức mạnh duy nhất của Thiên Chúa là sức mạnh tình yêu, tình yêu toàn năng” (TGM Angelo Comastri: Zenit 12/3/2003) đang hoạt động mãnh liệt trong tâm hồn con người và toàn thể vũ trụ.
37.Tìm vinh quang Thiên Chúa ở đâu?--Lm. Trần Xuân Lãm
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống trần gian mang hình hài thể xác con người như ta, nhưng hôm nay Ngài tạm thời từ bỏ hình dạng bình thường của con người, để mặc lấy một hình dạng khác rất siêu phàm: "Y phục Ngài rực rỡ, trắng tinh, không thợ giặt nào ở trần gian giặt trắng như vậy". Sự sáng láng chiếu tỏa vinh quang của thiên giới.
Đức Ki-tô chính là Đấng Messiah ẩn mình, người tôi trung đau khổ của Thiên Chúa, hôm nay được tỏ bày trước kỳ hạn vinh quang, qua việc các đại diện của lề luật và ngôn sứ là Mô-sê và Ê-li-a, hiện ra và đàm đạo với Ngài. Đây là lần thứ hai có tiếng phán từ trời về Chúa Giê-su: "Này là Con Ta chí ái" (Mc 9:7)
Trong lúc còn thử thách ở cuộc đời trần gian, chúng ta được mời gọi tin phục hoàn toàn vào Thiên Chúa qua mọi biến cố trong cuộc đời. Thiên Chúa ẩn náu mình đi không muốn tỏ vinh quang và quyền phép uy nghi của Ngài ra, để ép buộc chúng ta nghe lời Ngài. Ngài đã ban cho chúng ta tự do và Ngài tôn trọng tự do đó. Hơn nữa, có tự do mới có công phúc.
Tuy nhiên những ai đọc và suy niệm lời Chúa, những ai có con mắt đức Tin trong sáng thì đã thấy và đã biết Thiên Chúa uy quyền và vinh quang ở đâu: ở trong Bí tích Thánh thể, trong các Bí tích, trong Phúc âm, trong mọi biến cố, hoàn cảnh cuộc đời. Chúa hiện ra ở đó còn uy quyền sáng láng hơn cả khi biến hình trên núi cao hôm nay.
Bài Phúc âm còn ngụ ý dạy chúng ta, nếu muốn được nhìn thấy Thiên Chúa vinh quang và uy nghi thì phải lên núi cao, vượt trên mọi thấp hèn của xác thịt. Bên cạnh đó, chúng ta cần sẵn sàng bước theo con đường thập giá của Đức Ki-tô, vì con đường ấy dẫn chúng ta đến vinh quang và phúc trường sinh muôn đời.
38.Đức Giêsu hiển dung--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
“Ngày nay, trong rất nhiều trường hợp, chúng ta cũng chẳng khác gì các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan: hiểu sai lời Đức Giêsu, hiểu sai những thực tại thần thiêng được ban cho trải nghiệm, cứ mãi chỉ mang tư tưởng nhân loại chứ không phải tư tưởng của Thiên Chúa...”
Có một mối liên hệ sâu xa giữa biến cố được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay (Mc 9,2-10) với lời tiên báo về số phận của Con Người trong Mc 8,31. Trước phản ứng rất mạnh mẽ của ông Phêrô (đại diện cho nhóm các đồ đệ) đối với lời tiên báo đó (8,32), Đức Giêsu, vốn đầy tình thương yêu nhân lành đối với các đồ đệ, đã muốn giúp các ông hiểu và đón nhận chương trình cứu độ của Thiên Chúa, bằng cách cho các ông được trải nghiệm một thực tại ngoại thường: biến cố hiển dung.
“Khi ấy, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao” (c.2). Tác giả Tin Mừng không nói rõ đó là ngọn núi nào. Có lẽ ông muốn ám chỉ núi Sinai, là ngọn núi mà ở đó, ông Môsê và ông Êlia (các nhân vật sẽ xuất hiện trong c.4) đã được chứng kiến các cuộc thần hiện của Thiên Chúa (x. Xh 34,1-8; 1V 19,8-18). Trước đây, các đồ đệ đã từng được biết rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia (8,30), nhưng các ông lại hiểu sai về tư cách và sứ mạng Mêsia của Người. Đức Giêsu đã cố gắng giúp họ không hiểu sai, bằng cách nói cho họ biết về số phận đang được dành sẵn cho Con Người (8,31), nhưng Người đã thất bại trong nỗ lực đó (8,32). Bây giờ Người đưa các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi riêng ra một nơi, để một lần nữa, giúp các ông điều chỉnh cái ý tưởng sai lầm của các ông về Đấng Mêsia và giúp các ông đón nhận những hệ luận của việc gắn bó với Người. Những gì các ông sắp trải nghiệm sẽ là một cuộc thần hiện, cho các ông thấy tình trạng vinh quang của Đức Giêsu sau khi Người chiến thắng sự chết. Người muốn cho các ông cảm nghiệm trước ánh vinh quang của Đấng sắp đi vào cuộc khổ nạn kinh hoàng.
“Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (cc.2c-3). Vinh quang của Đức Giêsu được trình bày qua các chi tiết về vẻ huy hoàng của y phục của Người. Theo quan niệm đương thời, y phục là cách diễn tả con người, và trong trình thuật này, nó có giá trị ám chỉ nhân tính của Đức Giêsu. Y phục đó bây giờ “trở nên rực rỡ, trắng tinh”. Sự rực rỡ và trắng tinh thuần khiết đó biểu tượng cho vinh quang thần linh thấm đẫm nhân tính của Người. Đó là vinh quang thực của Đấng bị trao nộp vào tay người đời vì sự sống thật của nhân loại. Sự chết mà Người sắp trải qua sẽ thất bại tận căn trước vinh quang thần linh này. Và vẻ huy hoàng thuần khiết đang được tỏ lộ nơi Đức Giêsu này có nguồn gốc thiên thai, chứ không phải là kết quả của nỗ lực nhân loại: “Không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy”.
“Và ba môn đệ thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu” (c.4). Sự xuất hiện của hai nhân vật vĩ đại của Cựu Ước là các ông Môsê và Êlia, đã đem vào trong những thực tại mà các đồ đệ đang trải nghiệm một đường nét và ý nghĩa mới: mối liên hệ của Cựu Ước với Đức Giêsu. Tác giả Mc đã không nói rằng ông Môsê và ông Êlia đến, mà là các ông “hiện ra”, như thể một thực tại đang còn ẩn giấu bây giờ được tỏ lộ ra. Đàng khác, ông Môsê và ông Êlia hiện ra là để cho các đồ đệ của Đức Giêsu thấy, và tác giả không hề nói gì về vẻ vinh quang của các vị ấy. Hai vị là đại diện của Cựu Ước (Lề Luật và các ngôn sứ) như đã được ban truyền cho dân. Và tuy hiện ra cho các đồ đệ thấy, nhưng ông Môsê và ông Êlia không nói gì với các ông mà chỉ đàm đạo với Đức Giêsu. Điều này có nghĩa là Cựu Ước chẳng truyền đạt cho các đồ đệ của Đức Giêsu sứ điệp nào nếu không qua Đức Giêsu. Ông Môsê và ông Êlia xuất hiện trong sự quy hướng về Đức Giêsu mà thôi. Chính Đức Giêsu mới là Đấng xác định giá trị của Cựu Ước. Môsê và Êlia, tức là Lề Luật và các ngôn sứ, không phải là những giá trị tuyệt đối, mà là những thực tại tùy thuộc vào thực tại Giêsu. Đức Giêsu và sứ điệp của Người siêu vượt hơn hẳn mọi thực tại cao quý nhất của mặc khải Cựu Ước. Những gì Đức Giêsu nói và thực hiện thì quan trọng hơn hẳn những gì ông Môsê và các ngôn sứ đã dạy.
“Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia" (c.5). Sự tiến triển của biến cố hiển dung bị đoạn tục bởi sự kiện ông Phêrô lên tiếng. Được trực tiếp chứng kiến những gì đang diễn ra, ông Phêrô hướng về Đức Giêsu (chứ không phải về ông Môsê hay ông Êlia) và thưa chuyện với Người.
Ông Phêrô đưa ra một đề nghị, nhân danh các bạn (“chúng con”) và hy vọng sẽ được Đức Giêsu đồng ý. Điểm chính yếu trong đề nghị là việc làm ba cái lều, một cho Đức Giêsu, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia. Có hai khía cạnh đáng chú ý, được diễn tả bằng danh từ “lều” và số từ “ba”. Hạn từ “lều” gợi ý về lễ Lều: ông Phêrô nối kết cuộc hiển dung của Đức Giêsu với sứ mạng Mêsia của Người, và ông hiểu đó là sứ mạng Mêsia theo hướng dân tộc chủ nghĩa. Với số từ “ba” và được phân chia rõ ràng là “một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”, ông Phêrô đang đặt cả ba vị trên cùng một bình diện, xóa mờ sự tùy thuộc của các ông Môsê và Êlia đối với Đức Giêsu và đặt các ông ấy trong tư thế độc lập. Thực tại đang xảy ra, như chúng ta đã nói trên kia, là ông Môsê và ông Êlia xuất hiện chung với nhau trong sự quy hướng về Đức Giêsu. Nhưng trong đề nghị của ông Phêrô, thì Đức Giêsu, ông Môsê và ông Êlia đồng hàng với nhau, và mỗi vị có vai trò riêng của mình, mỗi vị có “lều” riêng của mình. Đức Giêsu là Đấng Mêsia; ông Môsê: Lề Luật và các thiết chế; ông Êlia: nhà cải cách tôn giáo vĩ đại. Bằng cách đó, ông Phêrô cho thấy ý tưởng của ông về Đấng Mêsia (x. 8,29.33). Một cách gián tiếp, ông Phêrô phủ nhận sự mới mẻ của sứ điệp và vai trò của Đức Giêsu và Nước Thiên Chúa.
Rõ ràng ông Phêrô đã được nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, nhưng chưa hiểu. Đúng ra, cần phải nối kết vinh quang đang được hé lộ trong biến cố hiển dung này với thực tại phục sinh của Con Người sau cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, như Đức Giêsu đã từng nói trước (8,31), nhưng ông Phêrô chưa thực hiện được sự nối kết đó. Ông vẫn đang còn mang tư tưởng của loài người chứ chưa phải là tư tưởng của Thiên Chúa (8,33).
“Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (c.6). Tại sao các ông lại kinh hoàng đến độ không biết nói gì? Có yếu tố nào đe dọa các ông ở đây? Trong sự sợ hãi và cảm thấy bị đe dọa đó, ông Phêrô lại chỉ ngỏ lời với Đức Giêsu thôi, chứ không nói gì với các ông Môsê và Êlia, chứng tỏ ông cảm thấy kinh hoàng là vì một điều gì đó nơi Đức Giêsu. Quả thực, ông và các bạn đang được chứng kiến vinh quang thần linh tỏ lộ nơi Đức Giêsu. Các ông hiểu rằng nơi Người đang có mãnh lực thần linh của chính Thiên Chúa, vốn là mãnh lực có thể gây chết chóc cho người phàm một khi họ được chứng kiến. Và điều đó gây ra nỗi kinh hoàng tột độ cho các ông.
“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người" (c.7). Xuất hiện yếu tố thứ ba của cuộc thần hiện. Yếu tố thứ nhất là sự biến đổi hình dạng của Đức Giêsu, cho thấy tư cách và vị thế thần linh của Người. Yếu tố thứ hai là sự xuất hiện của các ông Môsê và Êlia, chứng tỏ Đức Giêsu là điểm đến, là đỉnh điểm, là điểm quy chiếu của tất cả Cựu Ước. Bây giờ xuất hiện yếu tố thứ ba: Đức Giêsu được công bố là Con Thiên Chúa, Đấng hiến dâng chính mạng sống mình, Đấng là Lời tối hậu của Thiên Chúa cho nhân loại.
Có thể nói sự xuất hiện của đám mây và tiếng phán từ đám mây chính là đỉnh điểm của cuộc thần hiện. Đám mây vừa mạc khải vừa che giấu sự hiện diện của Thiên Chúa. Và trong thực tế, đám mây đã thế chỗ của những chiếc lều mà ông Phêrô muốn làm. Nói chính xác hơn, sự xuất hiện của đám mây bao trùm đồng một trật Đức Giêsu, ông Môsê và ông Êlia, chính là sự từ chối, hoặc chí ít cũng là sự điều chỉnh, cái đề nghị vừa được phát biểu của ông Phêrô. Khi đề nghị làm ba cái lều “ở đây” là ông Phêrô đang muốn cầm giữ cả ba vị trong cõi đất này, với hy vọng rằng vương quốc Mêsia, nhờ các Ngài, sẽ được khai mở như là một thực tại thế tạm. Trái lại, Thiên Chúa cho thấy rằng vinh quang của Đức Giêsu và thực tại Người mang đến, tự bản chất, thuộc về cảnh vực thần linh chứ không phải là những thực tại thế tạm.
Cùng với đám mây và từ đám mây, có tiếng phán. Tiếng ấy không nói với Đức Giêsu nhưng là nói với các môn đệ và cung cấp cho các ông lời giải thích về những gì đang diễn ra. Phần thứ nhất của lời giải thích là một khẳng định: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Đại từ “đây” rõ ràng loại trừ ông Môsê và ông Êlia khỏi điều được công bố và đồng thời nhấn mạnh tính cách hơn hẳn của Đức Giêsu so với hai vị đó. Ngữ đoạn “là Con của Ta” cho thấy một cách tường minh rằng thực hữu của Đức Giêsu xuất phát từ chính Thiên Chúa, rằng hành động của Người là hành động của chính Thiên Chúa, rằng lời của Người là lời của chính Thiên Chúa. Định ngữ “yêu dấu” nhấn mạnh mối tương quan đặc biệt giữa Thiên Chúa và Đức Giêsu.
Phần thứ hai là một lời kêu gọi: “Hãy vâng nghe lời Người”. Đức Giêsu là Tôn Sư độc nhất, là Đấng công bố lời tối hậu của Thiên Chúa. Các môn đệ chỉ phải vâng nghe lời Người mà thôi. Cựu Ước (mà đại diện ở đây là các ông Môsê và Êlia) không có gì để nói trực tiếp với các môn đệ nữa nếu không phải là qua Đức Giêsu. Như thế, không hề có hai mặc khải song song hay tiếp nối (Cựu Ước và Đức Giêsu), mà chỉ có một mặc khải duy nhất nơi Đức Giêsu, Đấng thực hiện và hoàn tất những gì được nói trong Cựu Ước, Đấng quyết định giá trị và đem lại sự trường tồn cho những thực tại Cựu Ước.
Tác giả Tin Mừng không nói gì về phản ứng của các môn đệ đối với những gì vừa được công bố từ đám mây. Trong Kinh Thánh, một khi được ý thức, lời của Thiên Chúa sẽ gây nên nơi người nghe sự sợ hãi. Nhưng các môn đệ ở đây không phản ứng gì. Hình như tác giả Tin Mừng có ý ngầm cho biết rằng các ông đã chẳng hiểu đúng ý nghĩa của những thực tại đang diễn ra, y như trước đây các ông đã không hiểu đúng ý nghĩa lời tiên báo của Đức Giêsu (x. 8,31tt).
“Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi” (c.8). Trái với đề nghị của ông Phêrô, các ông Môsê và Êlia đã biến đi. Từ nay, họ không còn vai trò gì trong lịch sử nữa, chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, Đấng duy nhất mà các môn đệ phải vâng nghe lời, Đấng duy nhất là tôn sư và ngôn sứ. “Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”.
Sau đó, các Ngài rời cảnh vực thần linh và trở về với lịch sử trần trụi. Cho đến lúc này, như chúng ta đã hơn một lần nói ở trên, các môn đệ chưa hiểu đúng những thực tại mà các ông vừa được trải nghiệm. Vì thế, “ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại” (c.9). Chỉ khi vinh quang của Người được liên kết chặt chẽ với sự từ chối và cái chết mà Người đã từng nói cho các ông biết, thì các ông mới có thể nói lại cho người khác những gì các ông vừa được trải nghiệm trên núi. “Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩa là gì” (c.10).
Ngày nay, trong rất nhiều trường hợp, chúng ta cũng chẳng khác gì các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan: hiểu sai lời Đức Giêsu, hiểu sai những thực tại thần thiêng được ban cho trải nghiệm, cứ mãi chỉ mang tư tưởng nhân loại chứ không phải tư tưởng của Thiên Chúa... Nhưng đồng thời, ngay trong Mùa Chay thánh này, biết đâu Chúa vẫn đang hiển dung cho chúng ta một cách nhiệm mầu... Từng chi tiết của cuộc hiển dung trong bài Tin Mừng hôm nay đều đáng được suy niệm một cách nghiêm túc và đều có ý nghĩa sâu xa đối với đời sống đức tin của chúng ta....
39.Con người phải lòng Thiên Chúa--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Đứng trước Thiên Chúa, con người tự thấy mình hèn kém. Nó sợ hãi khi nghĩ đến sự công thẳng của Thiên Chúa giáng xuống những con người tội lỗi. Nhưng nhìn về tình yêu bao la của Chúa, con người lại e dè, xấu hổ. Nó tự thấy mình bất xứng với tình yêu mà Chúa Cả Trời Đất dành tặng cho nó. Thiên Chúa thì mải mê tìm kiếm và tỏ tình với con người. Rồi cũng đến lúc con người ngã vào lòng Thiên Chúa. Lịch sử cuộc tình ấy tiếp tục được trình bày trong Chúa nhật thứ II này.
Người đầu tiên thuận lòng theo Chúa
Sau khi đơn phương ký kết với ông Noe, Thiên Chúa không ngừng bày tỏ tình thương của Ngài với con người. Nhưng sau biến cố Đại Hồng thủy bi thương, dường như con người chẳng sợ hãi Thiên Chúa; Con người tiếp tục làm ngơ trước tình thương của Ngài. Câu chuyện tháp Babel như lặp lại cái tội kiêu ngạo của con người, tội đòi được bằng Trời. Tuổi thọ của các tổ phụ được mô tả dần dần bị giảm xuống cho thấy hậu quả của tội lỗi con người tiếp tục đè nặng trên đôi vai của nó.
Abraham, một người cụ thể phải lòng Chúa đã đột ngột bước vào lịch sử cuộc tình giữa Trời và người. Một con người chính thức gục ngã trước tình thương của Chúa. Ông đã không thể cưỡng lại được tình cảm yêu mến và sự chăm lo của Chúa dành cho Ông. Abraham đã thất thần phải lòng Thiên Chúa. Ông bước đi theo Ngài bất chấp mọi sự. Ra đi nhưng Ông không biết mình sẽ đi đâu. Chỉ đơn giản là Ông đi theo tiếng gọi của Ngài.
Bài đọc thứ nhất (St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18) trích lại phần cao trào thử thách mà Thiên Chúa dành cho Abraham. Chấp nhận đi theo Chúa rồi, nhưng những gì trải ra trước mắt Ông chỉ toàn là những trái ngang và mù mịt. Lời Chúa hứa ban cho Ông Bà một dòng dõi đông đúc luôn được Chúa nhắc lại. Nhưng điều quan trọng là tuổi Ông Bà đã già mà vẫn chưa có con thì nói gì đến dòng dõi. Thế rồi niềm hy vọng được khơi lên mạnh mẽ khi đứa con trai duy nhất của Ông Bà đến tuổi khôn. Nhưng chính lúc ấy thì Thiên Chúa kêu Ông hãy hiến tế con mình. Trái ngang và mịt mù làm vậy, nhưng Abraham vẫn nhanh nhẹn bước đi và thi hành theo Lời Chúa. Ông đã phải lòng Chúa thật rồi.
Tại sao Chúa lại cứ thử thách con người như thế? Người ta có thể than trách về Ngài cứ như là Chúa chỉ nói lời chứ không thực hiện. Nhưng lịch sử cho thấy Thiên Chúa đã dần thực hiện lời hứa của Ngài với tổ phụ Abraham về một dòng dõi đông đúc, một miền đất phì nhiêu và một lời chúc phúc. Ngược lại, lịch sử của con người lại phơi bày những yếu đuối, đổ vỡ, phản bội và bất trung với Chúa. Những thử thách trong tình yêu nhằm thanh tẩy con người ấy càng làm cho câu chuyện tình của Chúa và con người ngày càng trở nên mãnh liệt và đầy thi vị.
Cảm nếm cảnh xum vầy chan hòa hạnh phúc
Trong bài đọc thứ hai (Rm 8, 31b-34) trích từ thư Thánh Phaolo Tông đồ gửi tín hữu Roma, thánh nhân đã thốt lên: “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta”. Tình yêu mà Chúa dành cho con người quả thực không có biên giới. Thiên Chúa đã không để cho Tổ phụ Abraham dâng hiến đứa con một của mình cho Ngài. Nhưng đến lượt Ngài, thì Ngài đã trao ban chính Con Một của mình cho con người. Thiên Chúa không bao giờ để cho con người bị tận diệt; và để cứu con người khỏi cảnh hư vong, Thiên Chúa đã trao ban tất cả cho con người.
Nếu có giây phút nào đó khiến con người nghi ngờ tình yêu của Chúa, thì Ngài sẵn sàng cho con người hưởng kiến vinh quang ngày chiến thắng, ngày đoàn tụ trong hân hoan. Khung cảnh thần hiện của Chúa Giêsu trên núi Tabor được thuật lại trong bài Tin mừng Chúa nhật này (Mc 9, 1-9). Chúa Giêsu biến hình trở nên sáng láng cùng sự xuất hiện của Môsê và Êlia. Tất cả làm cho không gian trở nên lạ thường. Các môn đệ chứng kiến cảnh này đã bị choáng ngợp trước vẻ huy hoàng. Phêrô lên tiếng nhưng “Phêrô không rõ mình nói gì”. Các ông như không còn ý thức về thân phận mình nữa mà chỉ còn lại là sự thâm nhập của Chúa vào trong con người các ông.
Phêrô đã thốt lên: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm”. Được cảm nếm giây phút rạng ngời trong Chúa, các ông chẳng còn thiết tha gì ở thế gian này. Ông đã thốt lên một lời trong tâm trạng hoảng sợ. Đứng trước cảnh tượng mà người ta chỉ còn có thể ngây người, há miệng, trố mắt nhìn thì làm sao mà còn nghĩ được gì. Phêrô nói mà còn chẳng biết mình nói gì. Nhưng nó lại cho ta thấy khát vọng sâu xa của con người là được ở lại trong Chúa. Lời thốt lên ấy của Phêrô là tiếng vọng từ tận sâu thẳm của tâm hồn con người. Chứng kiến một tình yêu cao cả đến thế nơi Chúa thì con người cũng dần phải lòng hết thôi.
Ngẫm
Phải lòng Thiên Chúa là hạnh phúc cho con người. Tình yêu Chúa có sức thanh tẩy con người tội lỗi, tái tạo và biến đổi con người đổ vỡ trở nên thánh thiện tinh tuyền. Chỉ một lần bạn được cảm nếm sự dịu ngọt của Chúa, bạn sẽ thấy tâm hồn trở nên tươi mới. Và cũng chỉ một lần bạn được ngã vào vòng tay yêu thương của Chúa sẽ muôn đời bạn không thể quên Ngài. Những ngày tháng, hay chỉ là những phút giây bạn phải lòng Thiên Chúa, bạn bị Chúa chiếm hữu tâm hồn, thì bạn sẽ đủ nghị lực và niềm tin để vượt qua tất cả mọi chông gai thử thách trên đường đời.
Nếu không màng chi đến thời khắc lịch sử, thì Mùa Chay đến rồi lại đi. Chẳng còn gì đọng lại trong tôi, trong bạn. Mùa Chay là cơ hội, là dịp mà con người tự tạo ra cho nhau để mà cùng nhau cảm nếm Tình yêu Chúa. Trong tĩnh lặng hay trong hoảng loạn, trong không gian thiêng thánh hay giữa chốn phồn hoa, lời tỏ tình của Chúa vẫn không ngừng vang lên.
Hãy dừng lại một chút để cảm nếm bạn ạ. Hãy nuốt đi những miếng nhai nhồm nhoàm để hớp lấy giọt sương sa thanh khiết mát rượi; hãy bỏ xuống chiếc kính màu chắn nắng để diện kiến vinh quang rạng ngời của Tạo Hóa; hãy rút cái phone ra khỏi tai để bạn có thể nghe thấy âm thanh thực của cuộc sống, những âm thanh từ trời cao hay tiếng róc rách của con suối dưới chân đồi; hãy mở rộng tâm hồn để được cảm nhận tất cả những cung bậc của tình Trời và người đang rung lên từ những tế bào sống trong ta.
40.Lên núi cầu nguyện--Tôma Nguyễn Xuân Hiệp
Chuyện kể rằng: Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, rất hợp tính và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện. Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hằng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng, ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo. Mười năm sau, người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hợp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa. Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh ta. * Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua. * Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác. * Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi, có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa. Sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước. Vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế. Muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải biết từ bỏ những thói quen xấu, những cám dỗ đam mê và đồng thời biết nổ lực luyện tập những nhân đức tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết đứng, chứ không còn là một thân cây tươi tốt sống động vươn mỗi ngày. Sở dĩ người anh trở nên tầm thường, khô cằn vì suốt 10 năm qua anh ta luôn tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái xấu nào và cũng không nổ lực tập một nhân đức nào. Tức anh ta không chịu “lên núi” trong đời sống hằng ngày để cầu nguyện, để gặp Chúa, để được biến đổi.
Cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta theo Chúa Giêsu “lên núi cầu nguyện”. Bài đọc 1, sách Sáng Thế tường thuật lại biến cố “lên núi” của Tổ phụ Abraham đầy giân truân vất vả, cả sự dâng hiến mạng sống người con một yêu dấu theo thánh ý Thiên Chúa. Chính bởi đức tin mạnh mẽ và quả cảm vượt thắng tất cả mà ông được gặp gỡ Thiên Chúa và được chúc phúc. Bài đọc 2, thánh Phaolô mời gọi giáo đoàn Rôma: hãy tín thác vào Thiên Chúa Tình Yêu, cho dẫu hành trình đức tin như một cuộc “leo núi” đầy khó nguy. Chính Thiên Chúa đã đi bước trước và thể hiện tình yêu qua Người Con Một: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta”. Bài Tin Mừng, thánh sử Maccô đã tường thuật lại biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi trước mặt các môn đệ thân tín là: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Qua biến cố ấy, Chúa Giêsu muốn để lại cho các tông đồ và mỗi chúng ta bài học hữu ích trong hành trình đức tin của người kitô hữu là phải “lên núi” “Đức Giêsu lên núi cầu nguyện” (Mc 9, 28). Đây là bài học căn bản và nền tảng mà Chúa Giêsu muốn dạy mỗi người chúng ta: Phải cầu nguyện, kết hiệp và tìm thánh ý Chúa sau và trước những công việc làm. Để thực hiện điều ấy, “Đức Giêsu lên núi”, tức phải vứt bỏ những vướng bận lo toan thành công thất bại, phải dành thời giờ cho việc leo núi, vượt thắng những cám dỗ đam mê, phải nổ lực phấn đấu không ngừng với thân xác nặng nề để leo lên độ cao khó khăn vất vả trong đời sống tâm linh mới có thể sống tương giao với Thiên Chúa và để lắng nghe thánh ý của Người. Nếu thiếu vắng đời sống tương giao kết hiệp với Thiên Chúa trong thinh lặng, trong thẳm sâu tâm hồn để kín múc sức sống thần linh từ Thiên Chúa, thì xem chừng cách cầu nguyện ấy đã đi vào vết xe đổ của kiểu cầu nguyện đầy hình thức bên ngoài mà Chúa Giêsu đã từng lên án những người Biệt Phái. Đó là kiểu cầu nguyện kể lể, huênh hoang báo cáo kết quả cho cấp trên là Thiên Chúa. Hay kiểu cầu nguyện xem Thiên Chúa chỉ là chỗ dựa tinh thần tạm thời. Khi gặp thất bại, gian truân thì sốt sắng đến với Thiên Chúa như chiếc phao cứu sinh của đời sống tâm lý để giải tỏa những xung đột, những bế tắc, để vượt qua những bĩ cực thương đau. Sự sốt sắng cầu nguyện hy sinh ấy là vì con người, chỉ dừng lại ở nhu cầu ích lợi cá nhân chứ chưa đi vào mối tương giao kết hiệp với Thiên Chúa để tìm thánh ý Người. Nhà thần học Bonneffeur bảo: Đó là kiểu cầu nguyện ngoại giáo; một kiểu cầu cạnh tư lợi. Người không biết Chúa và cả những người vô thần cũng làm như thế. Một kiểu cầu an! Còn Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải vượt thoát những vướng bận lo toan của đời thường để kết hiệp với Chúa, để tìm thánh ý Chúa trong từng biến cố, từng phút giây. Phải kết hiệp với Thiên Chúa cách liên lỉ mọi lúc mọi nơi, mọi công việc. (x. Mc 18,1-8. 9-14) Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn mỗi người chúng ta biết “lên núi” mỗi ngày, biết từ bỏ những cám dỗ đam mê, những vướng bận đời thường, mà sống kết hiệp với Thiên Chúa qua Thánh lễ, kinh nguyện, xét mình, tĩnh tâm, lãnh bí tích Giao hòa …. Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor hôm nay là hình ảnh tiên trưng hành trình vác thập giá lên núi Canvê và phục sinh của Chúa Giêsu. Và đó cũng là hành trình đức tin của mỗi người tín hữu chúng ta. Mỗi người chúng ta phải “lên núi” mỗi ngày mới có thể “biến hình”, mới có thể phục sinh sáng láng như Đức Giêsu Kitô. Amen.
41.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Đức Ông James M. Reinert--Đan Quang Tâm dịch
MÙA CHAY, NHỚ LẠI VAI TRÒ VÀ SỨ MẠNG
CỦA TA TRONG GIÁO HỘI
Câu truyện Ápraham sẵn sàng hiến tế con trai mình là Ixaác đặt toàn bộ việc cử hành Mùa Chay vào trong một ánh sáng tuyệt hảo. Thánh Phaolô ám chỉ về câu truyện này trong Thư gửi tín hữu Rôma. Tuy nhiên, ông nhắc cộng đồng rằng Thiên Chúa không những chỉ sẵn sàng hiến tế Con của Người nhưng Người còn “đã trao nộp vì hết thảy chúng ta”.
Bởi vì hy tế đó, ta có can đảm và sự tự tin để biết rằng nếu ta trung thành, ta không có gì phải sợ. Thiên Chúa đã làm tất cả việc này cho chúng ta, Phaolô viết. Làm sao Người lại lên án chứ?
Tất cả điều này được tái củng cố trong câu truyện Hiển Dung khi Đức Giêsu khích lệ các tông đồ đừng mất đức tin trong ngày sắp đến. Trình thuật Hiển Dung trong Phúc âm Thánh Máccô thực tế chỉ là sự chép lại từng từ trong Phúc âm của Thánh Mátthêu và Thánh Luca. Ngay cả các biến cố dẫn đến sự kiện cũng y hệt.
Điều quan trọng là đặt bài Phúc âm ngày hôm nay vào trong ngữ cảnh. Theo Thánh Máccô, sự kiện xảy ra sáu ngày sau khi Đức Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thày là ai?” Câu trả lời mà Thánh Phêrô đưa ra cho Người, quen gọi là lời tuyên tín của Phêrô, “Thầy là Đức Kitô!”, đã đưa Đức Giêsu đến chỗ báo trước lần thứ nhất về cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Người và vạch ra các đòi hỏi cho các môn đệ. Một lần nữa, Đức Giêsu sắp nhắc nhở các môn đệ và tất cả chúng ta rằng đây là một bộ phận trong kế hoạch của Thiên Chúa và từ lúc này trở đi, trong khi tiếp tục cuộc hành trình lên Giêrusalem, Người sẽ nói về thập giá rất nhiều lần.
Nay, sáu ngày sau, Đức Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên đỉnh núi và Người hiển dung. Chắc chắn đây là một sự nếm trước về cuộc phục sinh. Hầu như chắc chắn là các môn đệ vẫn còn tìm cách để hiểu biết đầy đủ điều Đức Giêsu muốn nói khi bảo họ: “Người sẽ bị giết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Nay họ được giải thích rõ về lời nói đó. Họ xem thấy vinh quang của trời; họ thấy mối liên quan giữa “lề luật” trong Môsê và các “ngôn sứ” trong Êlia và sứ điệp mà Đức Giêsu đã và đang rao giảng.
Trong Chủ nhật thứ hai này của Mùa Chay, ta được nhắc đến các vai trò và trách nhiệm của ta trong Giáo hội. Tất cả điều này đến với ta bằng sự đoan chắc rằng đây là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa, ta có các nghĩa vụ với tư cách là môn đệ và ta có sự đoan chắc về Nước Thiên Chúa – mà ta vừa mới nhìn qua – trước hết trong câu truyện Hiển Dung và rồi trong sự phục sinh của Đức Giêsu vào sáng Chúa nhật Phục sinh.
“Toàn thể dân Chúa đều có một vai trò để thực hiện trong khi Giáo Hội hoàn thành sứ mạng của mình. Bằng các cách thức khác nhau và thông qua mỗi thành viên theo các năng khiếu và cách hành động thích hợp với ơn gọi của mỗi người, dân Chúa đáp lại bổn phận công bố và làm chứng cho Tin Mừng (x. 1 Cr 9,16), trong sự nhận thức rằng “hoạt động truyền giáo là một công việc của mọi Kitô hữu” (Thông điệp Redemptoris Missio, 2) (Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội Giáo hội Công giáo, 538).
“Đời sống cá nhân và xã hội, cũng như hành động con người trong thế giới, luôn luôn bị tội lỗi đe doạ. Tuy nhiên, “bằng cách chịu khổ vì chúng ta…, Đức Giêsu Kitô không những làm gương cho chúng ta để chúng ta bước theo Người, mà Người còn mở ra cho chúng ta một con đường. Nếu đi theo con đường ấy, cuộc sống và cái chết của chúng ta sẽ được thánh hoá và mặc một ý nghĩa mới” (Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 22). Trong đức tin và thông qua các bí tích, người môn đệ Đức Kitô gắn bó mật thiết với mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu để con người cũ của mình, cùng với những khuynh hướng xấu, chịu đóng đinh với Đức Kitô. Rồi khi trở thành thụ tạo mới, họ được ân sủng tăng sức để có thể “bước đi trong đời sống mới” (Rm 6,4). Điều này “không chỉ đúng với các Kitô hữu, mà còn đúng đối với mọi người thiện chí, vì ân sủng vẫn đang hoạt động một cách vô hình trong tâm hồn những người ấy. Vì Đức Kitô đã chết cho mọi người và vì ai ai cũng được mời gọi hưởng chung một định mệnh duy nhất, là định mệnh thần linh, ta phải tin rằng Đức Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng trở thành những người thông phần vào Mầu nhiệm Vượt Qua, bằng phương cách chỉ có Thiên Chúa biết” (Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 22) (sđd, 41).
42.Lên núi để được biến đổi--Lm. Minh Anh
“Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao”.
Kính thưa Anh Chị em,
Sẽ không bất ngờ khi nói, Mùa Chay là mùa cầu nguyện; nhưng sẽ khá bất ngờ khi bảo, Mùa Chay là ‘mùa lên núi’ và bất ngờ hơn khi cho rằng, Mùa Chay còn là mùa biến đổi. Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta ‘lên núi lòng mình’ để cầu nguyện; ở đó, như các môn đệ, chúng ta sẽ được đổi thay. Và như thế, Mùa Chay là mùa ‘lên núi để được biến đổi’.
Bài đọc Sáng Thế tường thuật cuộc lên núi nghiệt ngã của Abraham; ở đó, vị tổ phụ vâng lời Thiên Chúa, đã chấp nhận hiến tế Isaac con mình. Thế nhưng, ngọn núi này còn có tên là núi ‘Thiên Chúa sẽ liệu’, vì Abraham còn nhận ra khuôn mặt của một Ngôi Vị thần linh có trái tim thương xót vô bờ; Người là Thiên Chúa nhân hậu, đã tha chết cho con ông, cũng là Đấng đã đưa ông ‘lên núi để được biến đổi’. Lòng tin của ông vào Người càng tuyệt đối hơn, ông sẽ là “Cha các kẻ tin”.
Ngôi Vị thần linh có trái tim xót thương vô bờ đó, ‘đã liệu’ cho con của Abraham thoát chết, lại ‘không liệu’ cho Con Một của mình khỏi chết. Thánh Phaolô hẳn đã nhớ lại ngọn núi ân phúc ‘Thiên Chúa sẽ liệu’ cho Abraham ấy để nói đến cái chết cần thiết của Chúa Giêsu, một cái chết không thể thiếu cho ơn cứu độ nhân loại vốn cũng xảy ra trên một ngọn núi ‘Thiên Chúa sẽ liệu’ khác; Phaolô viết, “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con, vì tất cả chúng ta”.
Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy sự cần thiết việc các môn đệ ‘lên núi để được biến đổi’. Chúa Giêsu biết rõ những ai theo Ngài, cụ thể là các môn đệ, sẽ khó chấp nhận Ngài. Bởi lẽ, yêu kẻ thù, vác thập giá, hy sinh mạng sống và lời kêu gọi nên hoàn thiện, với họ, thật là cay nghiệt; và nhất là, họ sẽ trải qua những gì Ngài đã báo trước về cuộc thương khó và tử nạn của Ngài; cùng lúc, họ sẽ chịu bắt bớ và tan tác như chiên mất chủ. Vì những lý do đó, Chúa Giêsu đã đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan lên núi; ở đó, Ngài biến hình trước mặt họ, tỏ cho họ thoáng thấy Ngôi Vị thần linh cao cả của Ngài; đó là một mặc khải về Ngôi Vị thật của Con Thiên Chúa, Ngôi Vị Thiên Chúa. Việc chứng kiến sự vĩ đại và vinh quang của một vị Thiên Chúa nơi Thầy mình hẳn sẽ đọng lại trong họ và giúp họ mỗi khi bị cám dỗ dẫn đến nản lòng hay tuyệt vọng trước những quẩn bách hay những đòi hỏi thánh thiện Ngài đặt ra. Tắt một lời, cuộc hiển dung của Chúa Giêsu là sự ‘chuẩn bị gần’ trước khi họ đi vào thương khó của Thầy và trò; ‘lên núi để được biến đổi’ là thế!
Sau năm 373, muốn biết Chúa nhiều hơn, Thánh Gioan Kim Khẩu đã lên núi, một vùng cao gần Antioch. Mặc dù vì bệnh tật, thời gian cô tịch này không được nhiều năm, nhưng thánh nhân đã học được rằng, có Chúa ở bên, ngài có thể một mình chống lại bất cứ ai hoặc bất cứ điều gì. Sau đó, là giám mục Constantinople, ngài đã chống lại những sai lạc của hoàng đế Theodosius, người khiến ngài phải lưu đày. Gioan Kim Khẩu đã để lại những lời bất hủ, “Điều gì khiến tôi có thể sợ hãi? Cái chết ư? Các người biết rằng, Đức Kitô là sự sống của tôi, tôi sẽ có được nó nhờ cái chết! Hay là lưu đày? Trái đất và tất cả sự sung mãn của nó đều thuộc về Chúa! Nghèo khó ư? Tôi không sợ; vì tôi chẳng ước mơ giàu có! Và chết ư? Tôi chẳng chồn chân!”.
Anh Chị em,
Như Thánh Gioan Kim Khẩu, những ngày Mùa Chay, chúng ta được mời gọi ‘lên núi’ không ngừng để biết Chúa Giêsu, hiểu Ngài như các môn đệ hiểu. Một khi đã xác tín Đấng tôi đi theo là ai, chúng ta mới có thể dễ dàng noi gương Ngài, nghĩa là sẵn sàng hiến tế ‘Isaac đời mình’, hiến tế cái tôi của mình. Và đây đích thực là sự biến đổi tận căn mà Thiên Chúa đang chờ đợi mỗi người. Chúng ta ‘lên núi lòng mình’ bằng lời cầu nguyện thầm lặng của trái tim, ra sức tìm kiếm Thiên Chúa, hầu có thể nhìn vào nội tâm của mình, và nhất là để nhìn vào khuôn mặt của Chúa Giêsu và cho phép ánh sáng Ngài tràn ngập, chiếu sáng và biến đổi cuộc sống của chúng ta. Và như thế, thật ý nghĩa, Mùa Chay này, chúng ta đã ‘lên núi để được biến đổi’ vậy.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, tạ ơn Chúa đã cho con thấu hiểu và cảm nghiệm, con đang bước theo một Giêsu nhân từ và giàu lòng xót thương. Cho con không ngừng hiến tế ‘Isaac đời con’, vươn ra khỏi cái tôi ích kỷ; cho con biết yêu mến việc ‘lên núi để được biến đổi’ hầu nên giống Ngài ngày một hơn”, Amen.
43.Hai khuôn mặt một tình yêu--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
Tin mừng Mc 9: 2-10: Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: "Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa".
Tại nước Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tùy sở thích và có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.
Một linh mục tên là Ga-ê-ta-nô đang làm công tác xã hội để giúp nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi. Để có thêm tiền cho mục đích này, Cha Ga-ê-ta-nô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.
Với một thân hình to lớn, thông thạo võ thuật và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, Cha Ga-ê-ta-nô mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình. Ngài thường đấu với những đối thủ hung hãn nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, Cha đều dành cho quĩ cứu trợ các trẻ em nghèo và mồ côi. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của Cha Ga-ê-ta-nô.
Thưa anh chị em,
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên võ đài Cha Ga-ê-ta-nô là một võ sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô nhi của cha. Cha là một linh mục sống hoàn toàn cho người khác, phản ảnh tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu cho đi mà không tính toán, không so đo, không sợ thương tích.
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên núi Ta-bo, khuôn mặt Chúa Giêsu bừng sáng ánh hào quang của một Thiên Chúa. Ở giữa loài người, Con Thiên Chúa vẫn mang khuôn mặt bình thường như chúng ta. Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm của con người. Rồi đây, ba môn đệ này còn phải làm quen với khuôn mặt khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn mặt đẫm máu trên Thập giá của Thầy Giêsu. Biến hình chỉ là một hào quang lóe lên ngắn ngủi, bất ngờ, báo trước vinh quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu lăng nhục và đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.
Ở bài đọc 1 hôm nay, sách Sáng thế đã cho ta thấy: Thiên Chúa đã dung tha cho Abraham khỏi sát tế Isaac, người con duy nhất của Lời Hứa. Nhưng Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một yêu quí của Ngài. Như lời Thánh Phaolô: "Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình, nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Ngài sao?" (Rm 8,32). Nếu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Người Con duy nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Abraham là hình ảnh của Cha trên trời, không ngại dẫn Con mình đến Thập giá trên Núi Sọ. Hơn nữa, hình ảnh của Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng để cha sát tế, cũng hướng chúng ta về cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập giá rồi tự hiến mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha.
Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: "Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa". Người Con trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang đó để đi vào con đường vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá, để dẫn đưa nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá đến vinh quang Phục Sinh. Cảnh tượng huy hoàng của Núi Tabo hôm nay sẽ củng cố lòng tin của chúng ta khi đứng trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha, đồng thời nhắn nhủ chúng ta phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết. Chấp nhận mất tất cả để nhận lại tất cả, chấp nhận chết với Chúa để sống lại vinh quang với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Abraham, "người Cha của mọi kẻ có lòng tin" đã lấy chính cuộc đời mình để làm sáng tỏ cuộc định luật căn bản đó. Và cuộc biến hình trên Núi Tabo cũng nhằm chứng minh định luật tất yếu chết để sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.
Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu thương, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong sáng. Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ có thể cảm nghiệm được phần nào, khi thấy các kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng, như khuôn mặt mang mặt nạ vàng của Cha Ga-ê-ta-nô trên võ đài, tượng trưng tấm lòng vàng của Cha đối với các em nghèo và mồ côi.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu, "Người Con Một yêu quí của Cha, Người đẹp lòng Cha", đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu kín vinh quang Ngài vốn có từ muôn thuở nơi Chúa Cha, để hóa thân làm người hầu cứu rỗi chúng ta, Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy sinh chính mạng sống mình theo ý Chúa Cha nữa. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài được Phục Sinh từ cõi chết.
Mầu nhiệm này đã được thực hiện trọn vẹn một lần trong lịch sử, nhưng hằng ngày, đặc biệt trong thánh lễ, mầu nhiệm ấy còn được tưởng niệm, tái hiện trên bàn thờ. Tham dự Thánh Thể, dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa, nhờ Chúa Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gắng đổi mới đời sống hằng ngày của chúng ta, góp phần làm cho thế giới này biến hình đổi dạng trở nên Trời Mới Đất Mới trong ngày Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.
44.Vâng phục thánh ý Chúa: Đường trọn lành hoàn hảo--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Kính thưa quý anh chị em,
Thiên Chúa là Đấng thượng trí, khôn ngoan vô cùng, mọi phán quyết, dạy dỗ của Người đều là chân lý, là tình thương cứu độ: Thầy là đường, là sự thật và có lời ban sự sống đời đời (cf. Jn 14, 1 – 12), nghĩa là bản chất của lời làm nên sự sống trần gian.
Đầy dẫy chứng từ Kinh Thánh minh xác chân lý cứu độ phát xuất từ lời “tình yêu và sự sống” thần linh được đón nhận trong tự do của loài thụ tạo.
Abraham vâng lời Chúa ra đi, đạt tới đất hứa, được nên công chính bởi tin, trở thành tổ phụ của tất cả những ai bước đi trong đức tin này, nghĩa là được vào Nước Chúa, sở hữu sự sống muôn đời.
Đức Maria, bởi sự vâng phục tuyệt đối, trở nên Mẹ Thiên Chúa, nên dấu chỉ và niềm hy vọng cho dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian.
Trên tất cả, Chúa Giê-su, cuộc đời Ngài đồng hóa với sự “vâng phục”, như của ăn làm cho cơ thể sống, sự vâng phục ý Cha làm cho Giê-su luôn sống như một Adam mới, trở nên nguyên nhân phần rồi đời đời cho tất cả những ai tùng phục Người.
Những nhân chứng của niềm hy vọng lớn lao giúp chúng ta lắng nghe, vâng phục và thực thi ý Chúa, được cụ thể trong phụng vụ Lời Chúa, để được sống và sống dồi dào.
Chủ đề xuyên suốt các chúa nhật mùa chay: sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người được thiết lập qua dấu chỉ “Giao Ước”. Lắng nghe và thực thi ý Chúa là dấu chỉ đức tin, điều kiện cấu thành sự hiệp thông cứu độ, đem lại sự sống đời đời.
Trong chúa nhật I, hiệp thông giao ước làm theo cách thức Chúa chỉ: Noe lên núi, đóng tàu. Tình hiệp thông ghép các tấm ván thành con tàu cứu gia đình ông khỏi đại nạn hồng thủy.
Chúa Giê-su mời gọi con người hoán cải canh tân đón nhận Nước Trời. Trong con tàu Giê-su, mỗi người trở thành chi thể sống động, có Giê-su là đầu, để hễ đầu đi tới đâu, thì toàn thân được lôi kéo tới đó, đầu có sự sống bởi Cha, thì các chi thể, nhờ Ngài, cũng được sống như vậy.
Trong chúa nhật II mùa chay, tình hiệp thông giao ước còn được nâng lên mức độ cao hơn khi Thiên Chúa đòi hỏi sự hiến tế chính bản thân mình.
Abraham, trong bài đọc I, được ban tặng mọi phúc lành giao ước với điều kiện phải tuyệt đối vâng phục ý Chúa. Lệnh truyền sát tế I-xa-ác là một đòi hỏi rất nặng nề, nếu không muốn nói là quá sức chịu đựng. Giết con ruột, con một duy nhất, có khác gì giết chết chính bản thân mình. Giết chết con một duy nhất đồng hóa với tận diệt, tuyệt tự, điều mà người Do Thái không bao giờ dám nghĩ và dám làm, vì nó là sự chúc dữ tồi tệ, đáng nguyền rủa nhất.
Đặt mình vào tâm trạng Abraham lúc này, chúng ta thấy đức tin của ông thật mạnh mẽ, phi thường, đã dám nhảy liều trong niềm hy vọng. Nhờ tin vững vàng vào Thiên Chúa, ông đã vượt lên trên con người tự nhiên, mỏng giòn, yếu đuối. Sẵn sàng hiến tế I-xa-ác là hành vi đức tin của bậc anh hùng. Nhờ đó, ông được nên “công chính”, đón nhận mọi lời hứa giao ước.
Bài đọc thứ I cho cái kết có hậu: tất cả đều hoan hỷ, hạnh phúc:
Chúa vui, vì biết ông là người có lòng yêu mến, kính sợ Ngài. Chúa chúc phúc, ban thưởng tất cả mọi sự hơn những gì ông dám ước mơ: được đất hứa làm gia nghiệp muôn đời, được con cái đông như sao trời cát biển, được lôi kéo vào dòng dõi ông tất cả những kẻ bước đi trong đức tin của ông.
Abraham vui, vì sự sống của con ông được bảo tồn, được hưởng tất cả lời hứa và qua ông nhân loại cũng được chúc phúc.
Abraham thật có phúc, vì đã tin và vâng phục đức tin trong mọi sự ! Ông thật là bạn hữu, là con yêu dấu của Cha trên trời, xứng danh trung gian giữa Thiên Chúa và loài người.
Abraham chỉ là hình ảnh tiền trưng của Đấng phải đến, Đức Giê-su Kitô. Abraham là người bởi đất, được nên công chính bởi “tin”, Đức Giê-su là người của “Trời”, làm cho nhân loại nên công chính bởi “Nhập thể”. Bản tính thần linh đảm nhận lấy nhân tính và thần hóa nhân tính nên hàng thần thiêng.
Sự “hiển dung” là cách diễn tả nhân tính Giê-su được được đưa vào vinh quang sáng láng bất diệt. Trong trạng thái vinh hiển này, Giê-su hoàn tất mọi điều lề luật và các ngôn sứ chỉ về Ngài. Sự xuất hiện của Mô-sê và Ê-li-a là nhân chứng cho cả mạc khải rằng: Đấng phải đến đã đến rồi, nhân loại không còn phải chờ đợi đấng nào khác nữa.
Đặc biệt trong biến cố này là sự thần hiển Ba Ngôi: Giê-su biến đổi sáng láng tốt lành, Chúa Thánh Thần lấy hình đám mây bao phủ tất cả, Chúa Cha tuyên phán: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9, 7b).
Như vậy, trong tư cách Ngôi Lời nhập thể, Giê-su là người duy nhất vâng phục trọn vẹn thánh ý Cha, đã trở nên Con rất yêu dấu của Cha.
Giê-su, đã thay thế Adam bất trung, trọn niềm tin phó thác nơi Cha, trở nên nguyên nhân phần rỗi đời đời cho tất cả những ai tùng phục người.
Cuộc đời Giê-su kết thúc bằng: “mọi sự đã hoàn tất”, trở nên Con yêu dấu, Con hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo.
Trong sự phục sinh vinh hiển, lên trời, ngự bên hữu Cha, Giê-su là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người.
Phao-lô coi vai trò trung gian của Chúa Giê-su là sự bênh đỡ mạnh thế không ai có thể chống lại chúng ta.
Cũng vậy, vì một tình yêu luôn luôn lớn hơn, Cha trên trời đã thí bỏ Con Một yêu dấu vì tất cả chúng ta, lẽ nào Ngài lại ruồng rẫy, hất hủi, kết án chúng ta.
Giê-su, đã chết và đã sống lại, đang ngự bên hữu Cha, biện hộ và chuyển cầu, để chúng ta được sống và sống dồi dào.
Chúng ta cũng phải nghe lời Cha: đón nhận và thực hành giáo huấn của Chúa Giê-su, thì lời hứa giao ước mới được mãi mãi duy trì, tình yêu và sự sống thật mới đạt thấu chúng ta.
Hãy biết lắng nghe, thực hiện ý Cha trên trời, để trong Giê-su, chúng ta cũng trở nên con yêu quý của Cha, xứng đáng hưởng phúc lành là sự sống muôn đời. Amen.
45.Hãy Nghe Lời Người--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Đoạn 9,2-9 thuộc phần thứ hai của văn mạch 8,31-9,29. Trong phần thứ nhất (8,31-9,1), Chúa Giêsu loan báo công khai lần đầu tiên về cuộc thương khó, cái chết, và sự sống lại, và các môn đệ đã tỏ ra không hiểu (8,31-33). Người còn nói thêm những điều kiện xem ra khó thực hiện để làm môn đệ của Người và để cứu lấy mạng sống (8,34-9,1). Do đó, trong phần thứ hai, việc biến hình (9,2-9), đối thoại về Êlia (9,10-13) và biểu hiện quyền năng của Chúa Giêsu (9,14-29) là để mạc khải Chúa Giêsu cho các môn đệ và để kêu gọi các ông hãy tin và nghe lời Người.
Mọi chi tiết cuộc biến hình tập trung về Chúa Giêsu, mà cao điểm là tiếng nói từ đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người” (9,7). Chúa Cha thực hiện việc biến hình nầy. Cuộc biến hình diễn ra trong khung cảnh của thế giới Thiên Chúa. Phần chuẩn bị: chiếc áo rực rỡ và trắng tinh Chúa Giêsu đang mặc biểu thị tình trạng của Người sau khi sống lại (x.16,5), hai khuôn mặt lớn của Cựu Ước: Môsê đại diện cho Lề luật và giao ước (1,44; 7,10; 10,3; 12,26). Êlia tranh đấu để dân chúng trung thành với giao ước mà chuẩn bị cho Chúa đến (Mal 3,22.24; Dnl 18,15). Phần mạc khải: đám mây biểu thị sự hiện diện của Thiên Chúa (Xh 19,9.16; 20,21; 24,15-18; 34,5). Tiếng nói từ đám mây ngỏ với ba môn đệ là tiếng của Thiên Chúa (Xh 24,16). Lời ấy xác quyết với họ Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa (1,11, nói trực tiếp với Chúa Giêsu; 14,61; 15,39), và ra một mệnh lệnh là phải nghe lời Người.
“Hãy nghe lời Người” được ban ra như một giới răn. Như xưa, trong khung cảnh núi Sinai, đám mây, Thiên Chúa đã tỏ mình ra (Xh 20,2-17; Đnl 5,6-21) và đã ban Mười Giới Răn trên bia đá cho Môsê (Xh 34,28; Đnl 4,13; 5,22; 10,4), bây giờ, cũng trên núi cao và có đám mây, Thiên Chúa tỏ mình ra trong Chúa Giêsu và giới răn của Người là hãy nghe lời Con Yêu Dấu của Người. Giới răn nầy được đặt trước cả giới răn thứ nhất: “Hãy nghe, hỡi Israel” (12,29). Như thế, những khó khăn của các môn đệ đã được soi sáng. Chúa Giêsu mà Phêrô tuyên xưng là Đấng Kitô (8,29), cũng chính là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Cuộc khổ nạn và sự chết của Người (8,31) sẽ được vượt qua bằng sự sống lại bởi quyền năng của Thiên Chúa. Những đòi hỏi của Người về việc vác thánh giá và từ bỏ chính mình (8,34-38) là có thể thực hiện, vì điều ấy được bảo đảm bởi lời của Con Thiên Chúa.
Lời của Chúa Giêsu bây giờ đáng nghe hơn cả lề luật của Môsê và lời của Êlia. Hãy nghe lời của Chúa Giêsu cách tuyệt đối để được chia sẻ vinh quang của Người (x. 8,38).
46.Biến hình trong đời thường--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Mc 9: 2-10: Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm khổ nạn.
Chúng ta vừa nghe thánh Marcô thuật lại quang cảnh hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabor. Sự Biến Hình của Chúa Giêsu mang nhiều ý nghĩa:
1. Đây là một điều thật quí báu cho Chúa Giêsu
- Chúa Giêsu đã quyết định lên Giêrusalem và quyết định ấy có nghĩa là phải đối diện và chấp nhận thập giá. Người cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết định đúng trước khi tiếp tục dấn bước trên con đường khổ giá. Trên đỉnh núi, Người đã nhận ra quyết định của Người.
- Êlia và Môsê đã đến gặp Chúa Giêsu: Môsê là nhân vật tối cao đã ban bố Lề Luật cho dân Israel. Êlia là vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Khi hai nhân vật lỗi lạc đó hội kiến với Chúa Giêsu, có nghĩa là nhà ban bố lề luật vĩ đại nhất và vị ngôn sứ lỗi lạc nhất đã nói với Chúa Giêsu rằng “xin cứ tiến lên!” Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Chúa Giêsu hoàn thành tất cả những gì họ đã từng mong đợi. Nó cũng có nghĩa là họ thấy nơi Chúa Giêsu tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tròn đầy. Dường như chính lúc đó Chúa Giêsu được bảo đảm rằng Người đang đi đúng đường, vì cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.
2. Đây là một điều quí báu vô cùng cho các môn đệ của Chúa Giêsu
Các môn đệ đang bị tan nát cõi lòng khi nghe Chúa Giêsu khẳng định rằng Người sắp phải lên Giêrusalem để chịu chết. Điều này dường như đã thiêu hủy tất cả những gì họ được biết về Đấng Mêsia. Các môn đệ đang bối rối, ngẩn ngơ, kinh ngạc, chẳng hiểu sự việc thế nào. Những việc xảy ra chẳng những khiến họ rối trí mà còn khiến họ đau lòng.
Những gì đã thấy trên núi cao cho họ một cơ hội để bám lấy Chúa Giêsu ngay cả khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe chính tiếng nói của Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là "Người Con Yêu Dấu". Nó khiến các môn đệ trở thành các chứng nhân cho vinh quang của Chúa Giêsu vì chính họ đã được thấy vinh hiển của Người.
3. Biến Hình trên núi làm các ông hân hoan, không muốn xuống núi...
- Biến Hình trên núi làm các ông hân hoan, không muốn xuống núi, vì trên núi hạnh phúc hơn cuộc sống đời thường... nhưng phải xuống núi. Hiểu được điều đó nên Susanna Wesley đã có lời cầu nguyện “Lạy Chúa, xin giúp con nhớ rằng đạo không chỉ hạn hẹp trong nhà thờ hay trong cầu nguyện, suy ngẫm, mà là ở khắp mọi nơi trước nhan Chúa”.
Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ như sau: "vào một buổi sáng nọ, cô sửa soạn bữa sáng cho gia đình. Nhà bếp chan hòa ánh sáng, những đứa con của cô đang cười đùa vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa con út. Trong khi cô đang trét bơ trên bánh và rót nước cam, ngay lúc đó, cô cảm thấy tràn trề niềm vui sướng và yêu thương trong gia đình. Rưng rưng nước mắt, cô đã cảm động đến nỗi không thể nói lên lời." Maslow gọi lúc đó là "giây phút tột đỉnh".
"Giây phút tột đỉnh" là thời khắc ngắn ngủi quí báu làm chúng ta nhìn thấy những biến cố thông thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình đang nhìn thấy một thế giới khác. Ý tưởng về "giây phút tột đỉnh" giúp chúng ta hiểu được phần nào những gì mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm trong bài Phúc Âm hôm nay.
Các ngài đã cảm nghiệm được những "giây phút tột đỉnh"
Chỉ trong một mấy phút quí báu, các ngài đã thấy được Chúa Giêsu trong một hình thức hoàn toàn khác biệt. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy Thiên Chúa chiếu rọi qua con người bề ngoài của Chúa Giêsu. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã nhìn thấy một thế giới vượt trên thế giới này. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy từ ngoại diện của Chúa Giêsu đến những gì bên trong nội diện: Con Thiên Chúa sáng láng và vinh hiển. Đó chính là mục đích của việc Chúa Giêsu hiển dung trên núi cao. Tuy nhiên trong cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối.
- Mặt tối là đêm Vườn Cây Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt mặt u ám của đêm Vườn Cây Dầu, lúc Chúa Giêsu bộc lộ nhân tính của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mặt sáng láng của Người trên núi cao, thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các ông đã bỏ đi hết, thì lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng Cứu Độ? Vì thế, Chúa Giêsu cho các môn đệ thấy mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ngài thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho các ngài thấy Người là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm Vườn Cây Dầu sắp đến.
Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm khổ nạn.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ vinh quang trên núi cao để củng cố đức tin cho các môn đệ khi họ gặp gian truân thử thách. Xin Chúa cũng nâng đỡ đức tin non yếu của chúng con để chúng con tin tưởng rằng: nếu cùng với Chúa vượt qua mọi khó khăn hôm nay thì chắc chắn cũng được chung phần vinh quang phục sinh với Chúa. Amen.
47.Một thoáng Thiên Đàng--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn. Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26). Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho họ cảm nếm một chút Thiên Đàng trước Thiên Đàng.
[Một thoáng Thiên Đàng đã làm cho ông Phêrô ngây ngất và muốn ở lại đó luôn: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia”. Ông Môsê đại diện cho luật, ông Êlia đại diện cho các ngôn sứ. Hai ông đến chiêm ngắm dung nhan vinh hiển của Đấng mà hai ông đã loan báo và chờ đợi. Ông Môsê đã xin cho được thấy dung nhan Thiên Chúa mà không được (x.Xh 33,19-22). Ông Êlia là “ông Ba Lửa”, ba lần khiến lửa từ trời xuống, một lần để đốt của lễ trên núi Cat Minh (1V 18, 36-38), hai lần để đốt lính của vua (2V 1,9-12); ông không xin được thấy dung nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa tỏ cho ông thấy Người không ở trong gió bão, không ở trong cơn động đất, không ở trong lửa. “Sau lửa có tiếng gió hiu hiu.Vừa nghe tiếng đó, ông Êlia lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Bấy giờ có tiếng hỏi ông” (1V 19,11-13). Hôm nay cả hai ông được chiêm ngắm dung nhan vinh hiển của Đức Kitô.
Ông Phêrô ngây ngất không biết phải nói gì, “vì các ông kinh hoàng”. Đây không phải lần đầu các ông kinh hoàng. Nhưng hôm nay nỗi kinh hoàng lên tới cực độ khi đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người”. Đó là câu trả lời cho sự phản kháng của ông Phêrô. Hãy vâng nghe lời Người, kể cả lời về thập giá mà loài người không thể chấp nhận. Chỉ có Con Yêu Dấu của Thiên Chúa mới chấp nhận và cho ta sức mạnh để vác mà đi đàng sau Người, để có thể vào trong vinh quang với Người. Tại sao Thiên Đàng lại ở cuối con đường thập giá? Tại sao lại cần đến Con Yêu Dấu của Thiên Chúa để dẫn ta đi trên con đường ấy mà vào trong vinh quang?
Một thoáng Thiên Đàng trôi qua như gió thoảng, như mây bay: “Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”. Trên đường xuống núi, Đức Giêsu lại truyền cho các ông giữ bí mật: “Người truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”]. (x.Tĩnh tâm với sách Tin mừng Maccô; Lm Giuse Nguyễn Công Đoan. SJ).
Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Các môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh phúc ngập tràn ấy. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”. Các môn đệ muốn đăng ký thường trú trên núi Tabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Người chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Golgotha. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Đức Giêsu phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. “Cảm nghiệm sự kiện Hiển Dung đã giúp cho thánh Phêrô nhận thức trong lúc ngất trí, những thực tại được biểu trưng trong các nghi thức của ngày lễ đã được hoàn tất, biến cố Hiển Dung loan báo thời đại Messia đã bắt đầu. Mãi khi xuống núi, thánh Phêrô lại phải học hỏi một lần nữa, thời đại Messia trước tiên là thời đại của thập giá và việc Hiển Dung, Chúa biến dạng thành ánh sáng, sẽ bao trùm chúng ta trong ánh sáng của cuộc khổ nạn.” (x.Đức Giêsu thành Nazareth, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 269).
Ba môn đệ thân tín được Đức Giêsu dẫn lên núi Tabor. Ở đó cả ba nhìn thấy vinh quang của vương quốc Thiên Chúa chói sáng nơi Đức Giêsu. Trên núi, đám mây thánh thiện của Thiên Chúa bao phủ họ. Trên núi, trong cuộc đàm đạo của Đức Giêsu Hiển Dung với Lề luật và Tiên tri, họ hiểu rằng, giờ của ngày Lễ Lều đích thực đã đến. Trên núi, họ cảm nghiệm, Đức Giêsu chính là Tora sống động, là lời trọn vẹn của Thiên Chúa. Trên núi, họ thấy “quyền lực” của vương quốc đang đến trong Đức Kitô. Nhưng chính trong sự gặp gỡ đáng sợ với vinh quang của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, họ phải học biết điều thánh Phaolô nói trong lá thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô với các môn đệ thuộc mọi thời đại: “Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, Người là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cor,23-24). Sức mạnh của vương quốc tương lai xuất hiện nơi Đức Giêsu Hiển Dung, Đấng nói với các chứng nhân Cựu ước về sự cần thiết của cuộc khổ nạn như con đường tiến đến vinh quang (x. Lc 24,26-27). Như thế, họ được tiền dự vào ngày quang lâm; nhờ đó dần dần họ được dẫn vào mầu nhiệm sâu thẳm của Đức Giêsu.(x.sđd, trang 273).
Tin vào Đức Kitô là đi con đường Thập Giá cùng với Người. Muốn ở lại trong vinh quang của Đức Kitô, phải vác thập giá với Người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).Vác thập giá hằng ngày là chấp nhận những khổ đau theo thánh ý Chúa, là đối diện với những thách đố của cuộc đời với lòng thanh thản trong sự phó thác vào tình yêu Thiên Chúa, là biết từ bỏ và chọn lựa những gì cần thiết để nuôi dưỡng niềm tin vào Thiên Chúa. Cuộc lữ hành Đức Tin đầy hiểm nguy sóng gió. Satan “như sư tử gầm thét, ngày đêm rình mò chờ chực cắn xé” (1 Pr 5,8).Satan luôn rình rập chung quanh chúng ta, nó “chờ đợi thời cơ” (Lc 4,13) thuận tiện và khai thác tất cả mọi thứ trong cuộc sống để làm lung lay niềm tin của chúng ta. Nếu chúng ta“có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này ‘rời khỏi đây, qua bên kia !’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17,20-21). Sức mạnh đức tin thật lớn lao!
Bài đọc 1 kể về đức tin của Abraham. Nhờ “tin Đức Chúa” (St 15, 6), Abraham được “Đức Chúa lập giao ước” (St 15,18). Không những thế, ông còn trở thành tổ phụ của dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15,5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông được “Đức Chúa kể ông là người công chính” (St 15,6). Lòng tin đã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong đời Abraham. Đức tin đã khiến Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa. Đất hứa đó, ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất. Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh mẽ với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.
Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hơn Abraham nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, thành bạn hữu của Người để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa.
Gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô là một hành trình đức tin đi đến sự sống mới.Thánh Phaolô đã đi trọn hành trình ấy và ngài đúc kết kinh nghiệm về cuộc sống biến đổi trở nên giống Chúa Kitô. Tư tưởng “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Pl 3,10) bàng bạc trong các bức thư của ngài và đã trở thành nguyên lý căn bản đưa chúng ta đến ơn cứu rỗi. Cuộc biến đổi để trở nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn là một tiến trình kéo dài cả đời người. Mỗi ngày một chút, rũ bỏ con người cũ, loại dần lối sống tội lỗi để làm con người mới với lối sống mới theo Thánh Thần, chúng ta sẽ gắn bó và thuộc về Chúa Kitô, và Người sẽ “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Bài đọc 2).
Thiên Chúa yêu thương con người là một tình yêu không “môn đăng hộ đối”, hoàn toàn do sáng kiến và lòng xót thương của Ngài. Thiên Chúa đã đi bước đầu trong mối tương quan và thiết lập giao ước với Apraham.Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc và nguyên vẹn. Thiên Chúa cũng hứa thông qua ông, tất cả các dân tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc, bởi vì Đấng Messia sẽ đến từ dòng dõi của ông. Lời hứa ấy đã được nên trọn vẹn nơi Chúa Giêsu. Biến cố biến hình chính là một mạc khải về tình thương lạ lùng đó. Thiên Chúa hiến mình cho con người: Cha hiến ban Con và Con hiến ban chính bản thân mình chịu chết để vào Phục Sinh khai mở con đường dẫn tới sự sống. Tin vào tình thương Thiên Chúa, nên chúng ta học theo lối sống của Chúa Giêsu bằng cách đọc và suy gẫm Tin Mừng, đem Lời Chúa vào cuộc sống, để cho Lời Chúa thay đổi cách suy nghĩ, nói năng và hành động của chúng ta được trở nên giống với cung cách của Chúa Giêsu. Đó là được biến hình trong Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa như Thánh Phaolô đã từng cảm nghiệm: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2,10).
“Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong người đó…sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mỗi ngày nên giống Chúa trong lời nói việc làm, xin cho đời sống chúng con nên dấu chỉ yêu thương của Chúa giữa cuộc đời hôm nay. Amen.
48.Từ cõi chết sống lại, nghĩa là gì?--Lm Trần Bình Trọng
Chúa Giêsu nhận thức rằng cuộc khổ hình mà Người sắp phải chịu sẽ để lại một kinh nghiệm đau thương cho các tông đồ, nhất là cho Phêrô, Giacôbê và Gioan, là những người sẽ chứng kiến cảnh sầu khổ của Chúa trong vườn cây dầu. Vì thế Chúa đưa ba tông đồ lên đỉnh núi để biến hình cho họ thấy cảnh vinh quang của nước Chúa. Việc Chúa biến hình có mục đích là củng cố đức tin và đức cậy của các tông đồ, trong cái viễn tượng của cuộc khổ hình và thánh giá. Sau cảnh biến hình, Chúa ra lệnh cho các tông đồ không được thuật lại cho ai những điều họ vừa xem thấy, cho tới khi Con người từ cõi chết sống lại (Mc 9:9). Các tông đồ tuân giữ lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?
Trong Mùa Chay ta cùng với các tông đồ suy gẫm ý nghĩa của lời Chúa: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Các tông đồ bày tỏ nỗi buồn sầu khi Chúa Giêsu tiên báo, Con người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế và kinh sư loại bỏ, bị lên án tử hình, và ngày thứ ba sẽ sống lại (Mc 8:31). Các ông không thể nào quan niệm được rằng Thày mình sẽ phải chịu đau khổ. Các ông muốn Đức Kitô đi theo đường lối của loài ngưòi, nghĩa là tránh khổ hình thập giá. Vì thế Phêrô đại diện cho các tông đồ kéo riêng Người ra và trách Người (Mc 8:32).
Từ đó các tông đồ quan sát và suy niệm những cảnh: Thày mình bị bách hại trong vườn cây dầu, bị dân chúng lăng nhục, nhạo cười, bị quân lính tra tấn và đánh đòn, cuối cùng chịu đội mão gai, vác thánh giá và chịu chết trên thập giá. Những cảnh bách hại và lăng nhục Thày mình phải chịu làm các tông đồ nản lòng, khiếp sợ. Họ nản lòng vì cái chết của Thày mình đã làm tiêu tan những mối hi vọng của họ. Họ khiếp sợ vì bị người Do Thái truy nã, bách hại. Rồi khi được loan tin là Thày mình đã sống lại họ trở nên hoang mang, không biết đâu là thực hư. Chỉ sau khi đối diện với Chúa phục sinh họ mới trở nên xác tín. Và từ đó họ ra đi để làm chứng cho việc Chúa sống lại. Để chia sẻ cái niềm vui phục sinh của Thày mình, họ cũng đã phải trải qua những bách hại, chịu tù đày và chịu khổ hình trên thập giá. Đúng như lời Chúa phán: Đày tớ không trọng hơn chủ. Nếu người ta đã bách hại Thày, họ cũng bách hại các con (Ga 15:20). Và như vậy các tông đồ dần dần đã hiểu được từ cõi chết sống lại như thế nào? Các vị tử đạo trong đó có tiền nhân Việt Nam, 117 vị anh hùng tử đạo, cũng đã hiểu đuợc tư cõi chết sống lại là thế nào trước khi dám để cho lý hình hành xử.
Đối với ta, tư cõi chết sống lại nghĩa là gì trong đời sống mỗi người? Một biến cố rất quan trọng xẩy ra trong đời sống ta, mang lại sự sống thiêng liêng cho tâm hồn là Bí tích Rửa tội. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, ta cũng được sống lại từ cõi chết. Cái tội nguyên tổ bị hủy diệt, và ta được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Thế rồi từ đó trong cuộc sống hàng ngày, ta cũng trải qua những cuộc chết đi sống lại nho nhỏ, không phải như các tông đồ, cũng không phải như các vị tử đạo. Khi ta sẵn sàng chịu thua thiệt, mất mát ở đời này, như mất bạn bè, mất việc làm, mất dịa vị xã hội, chỉ vì tin yêu vào Chúa, và tuân giữ giới răn Chúa, tức là ta đã chết đi cho mình một phần, để được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Khi ta sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính ươn hèn, chết đi cho tính tham lam, ích kỷ, lười biếng, chết đi cho tính nói hành nói xấu, ta sẽ đuợc tham dự vào đời sống mới trong ơn nghĩa với Chúa. Đó chính là ý nghĩa của lời Chúa: Nếu hạt lúa miến rơi xuống đất mà không mục nát đi, nó sẽ trơ trọi một mình; còn nếu mục nát đi, nó sẽ sinh nhiều bông trái (Ga 12:24). Khi ta chịu cắt tỉa những tính mê nết xấu, ta sẽ được vươn lên về đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng. Bấy giờ ta mới cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: chết đi sống lại như thế nào.
49.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--‘Tin Vui Xuân Lộc’
Bài Tin Mừng về việc Chúa hiển dung còn gọi là Chúa Biến Hình hôm nay nằm trong phần đầu của phần III nói về Mầu Nhiệm Con Người. Sau khi loan báo về cuộc Thương khó và Phục Sinh lần thứ nhất, Chúa Giêsu dạy cho các tông đồ và các môn đệ, là những người đi theo Ngài về Thập Giá, về Từ bỏ. Sau đó Ngài liền củng cố ngay niềm tin cho các Tông đồ bằng biến cố hiển dung như một lời trấn an trước đau khổ, Thập giá và cái chết, hơn nữa như một lời khẳng định: chỉ có con đường Thập giá mới dẫn tới cuộc sông vinh quang Phục sinh. Giơ đây, chúng ta hãy cùng ba môn đệ lên núi, chiêm ngắm cuộc biến đổi kỳ lạ này để học được tâm tình của Chúa Giêsu.
“Sáu ngày sau....” ý nói về một khoảng cách gần sau khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó và sự chết của Ngài. Lần này, Chúa Giêsu chỉ dắt ba ông đi riêng ra, đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Chúng ta thấy đây là nhóm nòng cốt của tập đoàn 12 vị là. Ba vị này: một người là thủ lãnh, cầm đầu Giáo Hội sau này; một vị là Giám mục tiên khởi Jérusalem và một vị được mệnh danh là “Người được Chúa yêu”. Thánh sử Máccô ghi rõ “chỉ mính các ông thôi tới một ngọn núi cao”. “Núi cao” ý nói vinh quang Thiên Chúa sẽ được tỏ hiện trên đó và đúng thế “Người biến dổi hình dạng trước mắt các ông”. Đây chính là mục đích mà Chúa Giêsu dẫn ba ông đi riêng ra, tách biệt khối nhóm 12. Sự biến đổi của Ngài được miêu ta phủ đầy ánh sáng chói loà. Ánh sáng trắng ấy không có thợ nào ở trần gian làm được. Đây chính là vẻ huy hoàng từ nơi Thiên Chúa, ánh sáng chiếu dọi của Con Chiên trong sách Đaniel và sách Khải Huyền. Cùng lúc ấy, các ông thấy Môsê và Êlia xuất hiện, trò chuyện với Chúa Giêsu. Hai vị thuộc thế hệ Cựu Ước, đại diện cho lề luật và các Ngôn sứ, có ảnh hưởng rất lớn đối với người Do Thái. Hai vị đàm đạo với Chúa Giêsu về cuộc vượt qua của Ngài tại Giêrusalem (x. Lc 9,31) Ý nói toàn bộ lề luật và các Ngôn sứ; nói đúng hơn toàn bộ Kinh Thánh đều qui về Chúa Giêsu và làm chứng rằng Chúa Giêsu là người hoàn tất mọi lời hứa về Đấng Mêsia. Ngài là Người Tôi Tớ đau khổ trong Isaia, là Đấng Mêsia, Đấng Cứu độ nhân loại ẩn mình. Ngài chính là Thiên Chúa đến gánh tội trần gian (x. Ga 1,29), là Đấng Trung gian đưa Thiên Chúa đến với con người và qui tụ con người đem về cùng Thiên Chúa.
Lúc này, Phêrô theo cảm tính đã bày tỏ tâm tình muốn ở lại trong vinh quang này mãi. Ông thưa rằng: Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay. Ông không biết ý kiến của hai ông kia thế nào, nhưng ông cảm thấy ý của mình có lẽ là tốt nhất, tuyệt vời nhất. Nếu Chúa đồng ý, ông sẽ dựng ba cái lều cho ba vị, còn ông và các bạn không cần chốn nương thân. Thấy sự lúng túng và chỗ hổng này, Thánh Sử Maccô viết một câu như muốn biện minh cho câu nói thiếu hụt ấy: Ông không biết phải nói gì vì kinh hoàng. Qua câu này, chúng ta lại thấy rõ hơn vẻ huy hoàng chói lọi toát ra từ con người Giêsu, một con người cùng ăn cùng uống “ người trần mắt thịt” mà nay đột nhiên biến đổi kỳ diệu, đến nỗi người môn đệ cùng sống với Ngài đã thốt lên những lời vô nghĩa, còn hai ông kia không nói được gì cả.
Giờ đây là giờ Thiên Chúa hành động: một đám mây, có tiếng phán: và xác nhận Chúa Giêsu là Con Yêu Dấu của Chúa Cha, con người chỉ còn một bổn phận là VÂNG NGHE LỜI NGÀI mà thôi. Một mạc khải, một xác tín, một lệnh truyền. Chúa Cha mạc khải cho ba môn đệ biết: Chúa Giêsu là Con Yêu dấu của Ngài, chính Chúa Cha khẳng định với các ông điều này qua sự hiện diện và lời nói của Ngài trong đám mây. Ngài ra lệnh đòi buộc các ông: hãy nghe lời Con của Ngài. Đây là một mạc khải từ Thiên Chúa; Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu, người Nagiarét, cùng ăn cùng uống với các ông đây là Con Thiên Chúa. Ngài là Con Yêu Dấu của Chúa Cha vì luôn làm đẹp lòng Cha, luôn chọn Thánh Ý Cha làm lương thực nuôi sống mình (x, Ga 4,34). Bây giờ, Chúa Cha cũng muốn các môn đệ, những người đi theo Chúa Giêsu. Hãy bắt chước Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu đã tuân giữ ý Cha, thì các ông hãy vâng giữ lời Chúa Giêsu, chính là tuân hành Thánh Ý Chúa Cha vậy.
Cuộc hiển dung kết thúc sau khi tiếng phán chấm dứt, các ông nuối tiếc nhìn quanh, nhưng chỉ còn hiện tại: Chúa Giêsu và các ông mà thôi. Sau biến hình, mọi sự trở về bình thường, một Giêsu bằng xương bằng thịt... có dễ lôi cuốn các ông vào con đường Thập Giá, con đường Vượt Qua hay không?
Trong câu 9 và 10. Chúa Giêsu ra lệnh các ông phải giữ kín những điều mới xảy ra, mà chỉ được rao truyền sau khi Ngài sống lại. Chúa Giêsu muốn giữ kín bí mật Mêsia, bí mật Con Thiên Chúa khi Ngài còn đang sống trên trần gian này. Các ông vâng lời, nhưng vẫn thắc mắc “ từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì? Từ “sống lại”, từ “phục sinh” vượt xa tầm trí hiểu của các ông; các ông vẫn cho rằng: chết là hết. Các ông vẫn chưa hiểu và tin vào sự sống lại.
Ngày nay, mỗi người chúng ta được biến đổi hàng ngày. Chúng ta thường chú ý về những biến đổi về thể xác, về kiến thức, về địa vị, danh vọng... Có bao giờ chúng ta để ý chăm chút, nuôi dưỡng để biến đổi về tâm hồn, về đời sống tâm linh của chúng ta chưa?. Nếu chưa, chúng ta hãy mau đến với Bí Tích Thánh Thể, nơi đó chính Chúa Giêsu sẽ dạy chúng ta cách biến đổi theo ý Chúa Cha, biến đổi để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng vời Con Chí Ái của Người là Đức Giêsu Kitô khổ nạn và Phục Sinh. Amen.
50.Đức Giêsu biến đổi hình dạng--Lm PX Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Cuộc đời của Đức Giêsu là một hành trình, một chuyến đi đường. Điều này, tác giả Mc đã cho thấy dọc theo tác phẩm của ngài với từ ngữ “con đường” (hodos), đặc biệt trong phân đoạn 8,27–10,45: ở đây chúng ta thấy Đức Giêsu thường xuyên ở trên đường cùng với các môn đệ (8,27; 9,33.34; 10,32). Trên đường đi, Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại cách Người sống. Người tìm cách giải thích cho các môn đệ rằng, một bên, do chương trình mà Người sẽ thực hiện theo lệnh của Thiên Chúa, bên kia do kế hoạch của các đối thủ muốn khử trừ Người, Người phải chọn lựa giữa đánh liều mạng sống và phản bội sứ mạng. Vì đã chọn vâng lời Thiên Chúa, Người đi lên Giêrusalem.
Biến cố Đức Giêsu biến đổi hình dạng là cốt lõi của đoạn trung tâm 8,27–10,45 và được trực tiếp liên kết với phân đoạn Phêrô tuyên xưng đức tin và lời loan báo đầu tiên về Thương Khó (8,27–9,1).
Chúng ta có lý khi coi bài tường thuật về Hiển Dung như là cái trục của TM Mc. Điều này càng rõ khi người ta nhận thấy bài này có thể dễ dàng tách khỏi ngữ cảnh: chỉ việc nối câu nói của Đức Giêsu về Quang Lâm gần kề (9,1) với cuộc tranh luận về Êlia phải đến trước (9,11-13) thì thấy tư tưởng cũng như thể văn không bị cắt đứt gì cả (Với lại các yếu tố của các bài tường thuật chỉ được nối với nhau bằng các liên từ kai: 9,1: “Và Người nói”; 9,2: “Và Người lên núi…”; 9,11: “Và các ông hỏi …”).
Sau khi đã nói đến những gian khổ mà các môn đệ phải chấp nhận nếu muốn đi theo Người, Đức Giêsu thêm: “Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm cái chết trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực” (9,1). Theo tác giả, biến cố Triều Đại (Nước) Thiên Chúa đến là đối tượng của Tin Mừng (1,14-15). Còn “uy lực” của Thiên Chúa thì sẽ được biểu lộ vào ngày Quang Lâm. Đức Giêsu đã khẳng định như thế nhiều lần (x. 12,18-27; 13,24-27; 14,61-62).
Nếu tạm bỏ bài Hiển Dung sang một bên, ta thấy cuộc tranh luận sau đó bàn về việc Êlia trở lại (9,11-13). Đồng hoá Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu với Êlia và các ngôn sứ Israel ngày xưa là một đề tài được Mc thường xuyên đề cập đến, ở đây, cũng như ở trong 6,14-16 và 8,27-29. Cuộc tranh luận ấy trước tiên có tầm mức cánh chung, bởi vì ngôn sứ Malakhi đã loan báo Êlia sẽ trở lại làm vị tiền hô của Đấng Mêsia (x. Ml 3,23-24). Đức Giêsu đã nhìn nhận Gioan Tẩy Giả đóng vai trò này (Mc 1,2-8; x. Lc 1,17). Nói tóm, cuộc tranh luận về việc ngôn sứ Êlia trở lại, cho dù được coi là đã được thể hiện nơi Gioan Tẩy Giả, được ghép rất tự nhiên vào một lời của Đức Giêsu liên hệ đến biến cố Nước Thiên Chúa đến.
Vậy, bài tường thuật Hiển Dung đã được tháp vào đây là do nền thần học của tác giả và do cấu trúc ngài cung cấp cho tác phẩm của ngài, nhưng cũng là để làm một đoạn giải thích sự chậm trễ của Quang Lâm. Nếu như vậy, tác giả đã thực hiện được một sự hài hoà đáng phục bởi vì câu nói về Quang Lâm của Đức Giêsu được minh hoạ và báo trước trong biến cố Hiển Dung. Sự xuất hiện của Êlia được nhắc đến trong biến cố này, gợi ra câu hỏi về vai trò của Êlia sau đó. Khi đó, viễn cảnh Quang Lâm được lặp lại, càng thêm long trọng.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu đưa ba môn đệ đi (9,2a-b);
2) Đức Giêsu biến đổi hình dạng (9,2c-8);
3) Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những điều đã biết (9,9-10).
Một số nhà chú giải đã khám phá ra có một sự “đóng khung” vừa chính xác vừa tinh tế, ở cc. 2 và 8. Một đàng, Mc viết rằng “Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao”. Đàng khác, ông nói rằng “Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”: kiểu đóng khung này đã bỏ ra bên ngoài cc. 9-10 là hai câu chứa đựng hai chủ đề riêng của TM Mc, là bí mật thiên sai và sự không hiểu của các môn đệ, để nói về một mạc khải riêng cho ba môn đệ thân tín: Tác giả Mc cho hiểu rằng muốn khám phá ra chân tính của Đấng Mêsia, cần phải được dẫn nhập dần dần. Bài tường thuật Hiển Dung này như muốn là biểu tượng của cuộc dẫn nhập tiệm tiến vào mầu nhiệm Đấng Mêsia: thị kiến được dành riêng cho ba môn đệ được dẫn riêng lên một ngọn núi; lệnh truyền từ trời là hãy chỉ lắng nghe Người Con; cuối cùng, lệnh truyền giữ kín mạc khải này.
3.- Vài điểm chú giải
- sáu ngày sau (2): Toàn bài gợi tới Xh 24. Cũng như Môsê, Đức Giêsu lên núi với ba bạn đồng hành nêu rõ tên (Xh 24,1.9). Tới ngày thứ bảy, Thiên Chúa nói với Môsê; qua sáu ngày, Đức Giêsu lên núi và có tiếng Thiên Chúa phán. Tác giả Riesenfield nhấn mạnh tới chi tiết “sáu ngày sau” mà cho rằng đấy là biến cố Đức Giêsu tỏ mình ra là Đấng Mêsia (truyền thống dành ngày thứ bảy để tưởng niệm Thiên Chúa đăng quang làm vua). Đám mây, cũng giống như trong Xh 24,16t, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa.
- một ngọn núi cao: Ta không thể xác định đây là ngọn núi nào, nhưng nó có thể gợi tới núi Sinai (theo Xh 24). Ngọn núi là nơi có các cuộc thần hiển: Thiên Chúa nói với Môsê trên núi (Xh 24,15tt); Ngài tỏ mình ra với Êlia trên núi (1 V 19,8).
- Người biến đổi hình dạng: Không có kinh nghiệm nào trong quá khứ, dù là kinh nghiệm của Môsê ở trên núi Sinai, có thể giúp hình dung sự biến đổi hình dạng của Đức Giêsu ở đây. Điều đặc biệt là khi Người ở trong vinh quang thiên quốc, các môn đệ vẫn nhận ra Người. Đức Giêsu có “y phục rực rỡ, trắng tinh không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (c. 3). Thật ra đây là một “ánh sáng chói lọi”, là màu sắc của những thực tại thiên quốc và cánh chung. Cuộc Hiển Dung không phải là kết quả của một nỗ lực con người, nhưng là một biến cố được mô tả theo dạng thái bị động (c. 2: metemorphôthê, aorist passive) để cho thấy rằng Thiên Chúa là Đấng hành động một mình trong biến cố này.
- thấy ông Êlia cùng ông Môsê (4): Theo truyền thống, Môsê có vai trò rất quan trọng trong lịch sử dân Chúa. Thứ tự Êlia–Môsê của riêng tác giả Mc tương ứng với vị trí quan trọng hơn mà Êlia có trong TM II. Ngoài ra, ông còn là một dung mạo mang tính khải huyền và thiên sai hơn Môsê. Tuy nhiên, c. 5, với tên Môsê ở trước, ta nhận ra dấu vết của truyền thống mà Mc chưa xóa đi. Dù sao, sự xuất hiện của hai ông chứng tỏ “Nước Thiên Chúa đã đến gần”. Hai ông xuất hiện vừa cho thấy Đức Giêsu hiệp thông với thiên giới, vừa giới thiệu với tư cách và số phận của Người.
- đàm đạo với Đức Giêsu: Mc không cho biết đề tài cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu với Êlia và Môsê.
- chúng con xin dựng ba cái lều (5): Khi ba nhân vật thiên giới đàm đạo với nhau, ba tông đồ, những con người “phàm phu tục tử”, ở cách xa. Do đó, khi ngỏ lời với Đức Giêsu mà chỉ thưa Người là “Thầy” (rabbi) và đề nghị được dựng ba lều, Phêrô đã chứng tỏ sự ngỡ ngàng hụt hẫng của mình. Đề nghị của Phêrô là nhắm duy trì hoàn cảnh các ông đang trải nghiệm. Tuy nhiên, ta chỉ hiểu được đề nghị này nếu ta đặt nó vào trong khung cảnh lịch sử của Lễ Lều. Lễ này kéo dài kỷ niệm 40 năm dân Israel đã sống trong sa mạc, dưới lều, để phụng sự Đức Chúa (Yhwh), và được Ngài che chở (đám mây sáng). Nhân danh dân tộc mình, Môsê đã yêu cầu vua Pharaô để cho dân đi vào sa mạc để có thể cử hành lễ mừng Đức Chúa. Lễ này có thể trùng hợp với cuộc thần hiển tại núi Sinai, nhưng thật ra, nó bao trùm những năm dài trước khi vào Đất Hứa. Người Do-thái đã ghi giữ rồi nhớ nhung đời sống du mục này và đã kết tinh nó vào Lễ Lều, kéo dài một tuần, để kết thúc chu kỳ Lễ Vượt Qua và lễ Ngũ Tuần. Trong Do-thái giáo hậu lưu đày, Lễ này có chứa nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia.
Thật ra, vì mối bận tâm của Mc là cho thấy hành trình đức tin của các môn đệ, nên đề nghị này của Phêrô chứng tỏ ông không hiểu gì (tương tự ở 8,32t): Do muốn duy trì niềm hạnh phúc thiên giới, ông lại đang muốn tránh những đau khổ chắc chắn phải đi vào.
- kinh hoàng (6): Tác giả đã nhận định: “Thật ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (9,6; xem 14,40: tình trạng ngây dại ở vườn Ghếtsêmani). Sự kinh hoàng này (tương tự sự kinh hoàng của các phụ nữ khi sứ thần hiện ra tại mộ, x. 16,5-8) chứng tỏ các ông khó mà hiểu, thậm chí không thể hiểu, tầm mức thiên sai của những lời nói và hành vi của Đức Giêsu. Phêrô đã minh giải sai cuộc tỏ mình của Đấng Mêsia trên núi; tất cả những gì ông có thể nói ra đều mang vẻ ngờ nghệch vì ông kinh hãi trước sự đột nhập của thế giới thần thiêng. Và khi Mc ghi nhận ở c. 8 rằng “các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”, ta lại không nghe ra như một lời trách nhắm đến đến các tông đồ là đã không biết tiếp tục dựa vào lòng tin mà nhìn ra Đức Giêsu vẫn không ngừng sống cùng các thánh của Cựu Ước và sống trong tình thân thiết với Cha Người đó sao? Khi cũng những vị tông đồ này tự hỏi câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì, thì đây không phải hỏi về một vấn đề tín điều (bởi vì đây là một tín điều được mọi người, trừ phái Sađốc, chấp nhận), nhưng là băn khoăn về Đức Giêsu: Các ông đang vấp phạm vì cái chết mà Đức Giêsu sẽ phải đi qua. Chẳng phải là Đấng Mêsia sẽ được cất lên trời như Êlia, như Môsê sao? Chẳng lẽ Người lại phải xuống cõi chết trước khi sống lại? Mc đã nêu bật sự tăm tối của các tông đồ dọc theo tác phẩm của Người (x. 4,13.40-41; 6,50-52; 8,17-21; 9,32; 10,24.26.32.38).
- Từ đám mây (7): Đám mây là tấm phông trên đó Đức Giêsu biến đổi hình dạng, từ đó Êlia và Môsê đi ra để nói chuyện với Đức Giêsu và từ đó tiếng Chúa Cha phát ra; Êlia và Môsê lại biến mất vào đó, và cùng với đám mây, cũng biến mất vinh quang của Đức Giêsu. Như trong cuộc Xuất hành, đám mây tượng trưng sự hiện diện gần kề của Thiên Chúa. Đám mây này là tấm màn ngăn cách một thời gian nữa những thực tại trần thế với những thực tại biên giới. Đám mây này đã xé ra khi Đức Giêsu đến thế gian và nhận phép rửa. Đám mây này là nơi Đấng Phục Sinh biến mất vào hôm sau ngày sống lại và theo lời sấm Đanien; trên đám mây này, Đức Giêsu sẽ tái hiện vào thời tận thế để quy tụ những kẻ được tuyển chọn.
- Đây là con Ta yêu dấu (7): Sự xuất hiện của đám mây và tiếng nói của Thiên Chúa vừa giải nghĩa cuộc Hiển Dung vừa trả lời cho phản ứng của Phêrô.
So với Lời nói tại Phép Rửa (1,11), lời công bố này không thêm gì mới về Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và Đấng Mêsia, nhưng lời này đưa lại một điều chỉnh quan trọng cho lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (8,29). Vị tông đồ chỉ tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia; Trời Cao chứng thực Người là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Nếu thị kiến về Đức Giêsu hiển dung giới thiệu trước vinh quang của Đức Giêsu vào ngày Phục Sinh và ngày Quang Lâm, Tiếng Nói lại chứng thực Đức Giêsu là Con luôn sống thân thiết với Chúa Cha và gợi ý rằng Người đã có từ muôn đời (tiền hữu). Lời gửi gắm cuối cùng đã đẩy cuộc truyện trò của Êlia và Môsê vào hàng thứ yếu; kể từ nay chính Đức Giêsu là Đấng duy nhất mà các tín hữu phải lắng nghe; Người là Đấng trung gian duy nhất của Giao Ước Mới trong đó Êlia, Môsê và tất cả các ngôn sứ được tham dự vào.
- truyền cho các ông không được kể lại (9): Đây là lệnh im lặng cuối cùng trong Mc, lệnh này có một ý nghĩa căn bản cho cả các lệnh khác với cùng một giới hạn về thời gian. Bằng c. 9 này, tác giả hướng bài tường thuật Hiển Dung về Phục Sinh: bài tường thuật như thế nối kết số phận của Đức Kitô và lời loan báo về Triều Đại Thiên Chúa. Những gì ba môn đệ đã thấy trên núi làm cho các ông thành những người được nhận trước sự hoàn tất của lời hứa 9,1. Sau lệnh của Đức Giêsu, tác giả dừng lại với môn đệ. Các ông tuân giữ lệnh truyền (ton logon ekratêsan cũng có thể có nghĩa là là “ghi nhớ ký ức”, theo kiểu nói La-tinh [memoria] tenere), nhưng tranh luận xem “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì, chắc chắn theo nghĩa là “cuộc sống lại của Đức Giêsu”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu đưa ba môn đệ đi (2a-b)
Cuộc Hiển Dung lại là một truyện nữa trong đó Đức Giêsu đưa riêng ba môn đệ chọn lọc là Phêrô, Giacôbê và Gioan đi (x. chữa con gái Gia-ia, 5,35-43). Người chọn một quả núi cao, biểu tượng của tình trạng gần gũi với Thiên Chúa; Người chọn sự cô quạnh và biệt lập. Đức Giêsu đưa các môn đệ đi xa cuộc sống hằng ngày xô bồ náo nhiệt. Điều mà các môn đệ phải hiểu là một điều hoàn toàn lạ thường, nhưng không có gì là ngoạn mục hoặc gây cảm giác mạnh. Hoàn cảnh mà Người chọn và bố trí cho thấy rằng Người không muốn tạo ra một ấn tượng tức thời và hời hợt trên một đám đông, nhưng Người muốn biến đổi một vài người cách sâu xa và bền vững. Chỉ bằng cách để cho mình được dẫn vào nơi cô tịch và đến gần Thiên Chúa, ba môn đệ mới ở trong môi trường thuận lợi mà bước một bước quyết liệt đến chỗ hiểu biết mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu.
* Đức Giêsu biến đổi hình dạng (2c-8)
Đức Giêsu đã biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Những gì xảy ra trên núi là nhắm cho các ông, chứ không phải cho Người. Bây giờ các ông hiểu rằng phương diện quan thuộc của con người trần thế nơi Đức Giêsu không diễn tả hết thực tại của Người; họ cũng nhận thấy rằng Người không bị giam hãm trong các giới hạn của thực tại trần thế. Đàng sau phương diện nhân loại trần thế của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại thần linh siêu phàm của Người. Ở đây không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt qua, mà cả những ranh giới của thời gian cũng bị vượt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện Êlia và Môsê, hai gương mặt nổi bật trong lịch sử dân Israel. Các ngài tượng trưng cho sự ân cần của Thiên Chúa đối với dân (Môsê) và cuộc tranh đấu của Ngài cho dân (Êlia). Sứ mạng và nhiệm vụ của Đức Giêsu được ví với sứ mạng và nhiệm vụ của hai ngài. Hai ngài là những vị báo trước Đức Giêsu. Sự kiện Đức Giêsu ở giữa hai ngài và hai ngài thưa chuyện với Đức Giêsu cho ba môn đệ một bằng chứng nữa để có thể nhận biết Đức Giêsu là ai: Người thuộc về thế giới của Thiên Chúa. Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử của dân Israel được Thiên Chúa hướng dẫn. Người sẽ phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất. Tiếng Nói từ trời với các môn đệ xác nhận điều này. Ngoài lời tuyên xưng của Phêrô đã nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô (8,29), bây giờ các môn đệ còn hiểu Đức Giêsu có quan hệ thế nào với Thiên Chúa. Đồng thời, các ông cũng hiểu hậu quả của quan hệ này đối với các ông: vì Người là Con Thiên Chúa, các ông phải vâng nghe lời Người. Tương quan của Đức Giêsu với loài người tùy thuộc quan hệ của Người với Thiên Chúa.
Sau khi đã mạc khải rằng Đức Giêsu là Con yêu dấu, rằng Đức Giêsu không chỉ là tôi tớ, mà ở trong một tương quan về nguồn gốc và bình đẳng do bản chất, Thiên Chúa còn tuyên bố về tình yêu đối với Người. Đây là bí mật đích thực của Người mà bây giờ ba môn đệ được chính Thiên Chúa đưa vào. Đức Giêsu không chỉ biết Thiên Chúa xa xa là Chúa tể, như Môsê và Êlia biết, nhưng biết Thiên Chúa như là Cha, trong một tương quan gần gũi và thân tình nhất. Bởi vì chúng ta không thể trực tiếp có một tương quan gần gũi với Thiên Chúa hơn và cũng không thể có một sự hiểu biết cao sâu hơn về Thiên Chúa, Đức Giêsu Đấng giúp chúng ta có sự hiểu biết tối hậu và vĩnh viễn về Thiên Chúa (x. Ga 1,18; Mc 12,6). Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, bây giờ họ phải nghe lời Đức Giêsu.
Cuộc Hiển Dung là một đỉnh cao trong mạc khải về Đức Giêsu. Ở đây, Người tỏ mình ra cho các môn đệ trong thực tại siêu phàm của Người, trong quan hệ của Người với lịch sử Israel, trong tương quan của Người với Thiên Chúa. Các môn đệ đã nhận được mạc khải sâu xa nhất và quan trọng nhất về Đức Giêsu. Ta chỉ hiểu được sự vĩ đại và sâu thẳm của mạc khải này trong mức độ ta hiểu Thiên Chúa là ai: chỉ từ điểm này ta mới có thể hiểu nội dung của những điều sau đây: Thiên Chúa tự mạc khải ra như là Cha, đầy tình yêu, của Đức Giêsu; Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa; trong lời nói và hành động của Đức Giêsu, tình yêu từ phụ của Thiên Chúa được tỏ bày ra. Các môn đệ đã biết tất cả những điều đó trong cuộc Hiển Dung.
* Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những điều đã biết (9-10)
Sau mạc khải ấy, Đức Giêsu truyền các môn đệ giữ im lặng. Họ còn cần có thời gian và phải tham dự vào cuộc Thương Khó, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, trước khi có thể hiểu được bản chất đích thực và ý nghĩa của tư cách Con Thiên Chúa của Người. Khi đó, họ sẽ không được thinh lặng nữa, trái lại họ phải đi làm chứng công khai.
+ Kết luận
Nơi Đức Giêsu, các môn đệ được nghe lời của Con Thiên Chúa. Các ông sẽ ghi nhớ những lời Người nói về những đau khổ đưa đến vinh quang (8,31-9,1) và sẽ nghiền ngẫm những chặng đường mầu nhiệm của ơn cứu độ mà Đức Giêsu mạc khải cho các ông (9,9-13). Lời nói trong ánh sáng này lại không phải là dấu chỉ mà từ bao đời, dân tộc Do-thái và toàn thể nhân loại vẫn mong chờ, để đạt được cùng đích vận mệnh của mình sao?
5.- Gợi ý suy niệm
1. Những hoàn cảnh và điều kiện trong đó xảy ra mạc khải cho ba môn đệ cũng có một ý nghĩa cho việc chúng ta gặp gỡ riêng tư với Đức Giêsu và với Thiên Chúa: phải tách ra khỏi cuộc sống xô bồ, náo nhiệt, và phải để cho Đức Giêsu hướng dẫn. Khi đó, chúng ta lại được nghe Thiên Chúa giới thiệu Đức Giêsu: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Người không phải là Con Thiên Chúa theo bất cứ kiểu nào, nhưng là Người Con duy nhất có trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa là Cha Người.
2. Bên cạnh Đức Giêsu, có Môsê và Êlia. Xuyên qua sự hiện diện của hai nhân vật này, Đức Giêsu đi vào để thuộc về lịch sử cuộc quan hệ giữa Thiên Chúa Israel với dân Người. Đức Giêsu không chỉ là một nhà trừ quỷ hoặc một thầy chuyên làm phép lạ. Sự hiện diện của hai nhân vật đã tạo những hướng đi quan trọng trong lịch sử dân Israel nêu bật rằng Đức Giêsu đã đến nhân danh Thiên Chúa để tiếp tục công trình của hai ngài.
3. Cần phải suy nghĩ kỹ hơn về hậu quả giữa quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa và ý nghĩa của quan hệ này đối với chúng ta. Càng dành thì giờ thờ phượng, chúng ta càng hiểu sâu thêm về thực tại “Đức Giêsu là Con Thiên Chúa”, khi đó, chúng ta cũng nhận ra những hậu quả của thực tại này đối với chúng ta. Chúng ta phải “vâng nghe lời” Người và không được phép im lặng nữa. Chúng ta sẽ phải ra đi mà làm chứng.
4. Ma quỷ quả có hô to chân tính của Đức Giêsu, nhưng không rút ra được bất cứ hệ quả nào cho những người đang nghe chúng. Còn ở trên ngọn núi này, lời khẳng định và lệnh truyền của Chúa Cha đi đôi với nhau. Chỉ có ai vâng theo mệnh lệnh thì mới nhìn nhận thật sự lời khẳng định và mới bắt đầu ở trên đường đưa tới chỗ hiểu lời này trọn vẹn hơn. Lệnh Đức Giêsu cấm các môn đệ nói về điều vừa thấy (9,9) cho hiểu là mọi điều đó vẫn còn nguyên giá trị, nhưng nói ra bây giờ thì còn quá sớm. Từ đó, ta hiểu rằng các tiếng la của ma quỷ hoàn toàn sai chỗ và quá sớm, và chỉ có thể gây khó khăn thêm cho việc hiểu biết Đức Giêsu cách đích thực.
51.Tin vào Đức Giêsu Kitô--Lm. Fx. Vũ Phan Long
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đem 3 người Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao để tỏ mình ra cho các Ngài thấy. Trong cuộc tỏ mình này có Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu. Có thể khẳng định đây là một sự kiện hùng vĩ và vượt xa sức tưởng tượng của con người.
Theo cách diễn tả của các Tin mừng Nhất lãm, sau khi loan báo cuộc Thương khó sắp đến, Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên núi và biến đổi hình dạng trước mắt các ông.
Biến cố này có mục đích củng cố niềm tin cho các môn đệ, niềm tin mà mới đây Phêrô đã thay mặt anh em tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô” (8,29) và cung cấp trước cho các ông một điểm tựa để các ông khỏi chao đảo khi chứng kiến cuộc khổ nạn của Người.
Chúng ta cũng có thể theo truyền thống Đông phương coi đây là một mạc khải về thần tính của Đức Giêsu, khi liên kết ba cuộc “tỏ mình ra” của Đức Kitô trong các biến cố hiển linh, phép Rửa tại sông Giođan và cuộc hiển dung này.
I. KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP TIN MỪNG: Mc 9,2-10
* Đức Giêsu đưa ba môn đệ chọn lọc đi (2a-b).
Cuộc hiển dung lại là một truyện nữa trong đó Đức Giêsu đưa riêng Phêrô, Giacôbê và Gioan đi (x. chữa con gái Giaia, 5,35-43). Người chọn một quả núi cao, biểu tượng của tình trạng gần gũi với Thiên Chúa ; Người chọn sự cô quạnh và biệt lập. Đức Giêsu đưa các môn đệ đi xa cuộc sống hằng ngày xô bồ náo nhiệt. Điều mà các môn đệ phải hiểu là một điều hoàn toàn lạ thường, nhưng không có gì là ngoạn mục hoặc gây cảm giác mạnh. Hoàn cảnh mà Người chọn và bố trí cho thấy rằng Người không muốn tạo ra một ấn tượng tức thời và hời hợt trên một đám đông, nhưng Người muốn biến đổi một vài người cách sâu xa và bền vững. Chỉ bằng cách để cho mình được dẫn vào nơi cô tịch và đến gần Thiên Chúa, ba môn đệ mới ở trong môi trường thuận lợi mà bước một bước quyết liệt đến chỗ hiểu biết mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu.
* Đức Giêsu biến đổi hình dạng (2c-8).
Đức Giêsu đã biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Những gì xảy ra trên núi là nhắm cho các ông, chứ không phải cho Người. Bây giờ các ông hiểu rằng phương diện quen thuộc của con người trần thế nơi Đức Giêsu không diễn tả hết thực tại của Người ; họ cũng nhận thấy rằng Người không bị giam hãm trong các giới hạn của thực tại trần thế. Đàng sau phương diện nhân loại trần thế của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại thần linh siêu phàm của Người. Ở đây không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt qua, mà cả những ranh giới của thời gian cũng bị vượt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện Êlia và Môsê, hai gương mặt nổi bật trong lịch sử dân Israel. Các ngài tượng trưng cho sự ân cần của Thiên Chúa đối với dân (Môsê) và cuộc tranh đấu của Ngài cho dân (Êlia). Sứ mạng và nhiệm vụ của Đức Giêsu được ví với sứ mạng và nhiệm vụ của hai ngài. Hai ngài là những vị báo trước Đức Giêsu. Sự kiện Đức Giêsu ở giữa hai ngài và hai ngài thưa chuyện với Đức Giêsu, cho ba môn đệ một bằng chứng nữa để có thể nhận biết Đức Giêsu là ai: Người thuộc về lãnh vực của Thiên Chúa. Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử của dân Israel được Thiên Chúa hướng dẫn. Người sẽ phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất. Tiếng nói từ trời với các môn đệ xác nhận điều này. Ngoài lời tuyên xưng của Phêrô đã nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô (8,29), bây giờ các môn đệ còn hiểu Đức Giêsu có quan hệ thế nào với Thiên Chúa. Đồng thời, các ông cũng hiểu hậu quả của quan hệ này đối với các ông: vì Người là Con Thiên Chúa, các ông phải vâng nghe lời Người. Tương quan của Đức Giêsu với loài người tùy thuộc quan hệ của Người với Thiên Chúa.
Sau khi đã mạc khải rằng Đức Giêsu là Con yêu dấu, rằng Đức Giêsu không chỉ là tôi tớ, mà ở trong một tương quan về nguồn gốc và bình đẳng do bản chất, Thiên Chúa còn tuyên bố về tình yêu đối với Ngài. Đây là bí mật đích thực của Người mà bây giờ ba môn đệ được chính Thiên Chúa đưa vào. Đức Giêsu không chỉ biết Thiên Chúa xa xa là Chúa tể, như Môsê và Êlia biết, nhưng biết Thiên Chúa như là Cha, trong một tương quan gần gũi và thân tình nhất. Bởi vì chúng ta có thể có một tương quan gần gũi với Thiên Chúa hơn và cũng không thể có một sự hiểu biết cao sâu hơn về Thiên Chúa, Đức Giêsu chính là sự hiểu biết tối hậu và vĩnh viễn về Thiên Chúa (x. Ga 1,18 ; Mc 12,6). Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, bây giờ họ phải nghe lời Đức Giêsu.
Cuộc hiển dung là một đỉnh cao trong mạc khải về Đức Giêsu. Ở đây, Người tỏ mình ra cho các môn đệ trong thực tại siêu phàm của Người, trong quan hệ của Người với lịch sử Israel, trong tương quan của Người với Thiên Chúa. Các môn đệ đã nhận được mạc khải sâu xa nhất và quan trọng nhất về Đức Giêsu. Người ta chỉ hiểu được sự vĩ đại và sâu thẳm của mạc khải này trong mức độ người ta hiểu Thiên Chúa là ai: chỉ từ điểm này chúng ta mới có thể hiểu nội dung của những điều sau đây: Thiên Chúa tự mạc khải ra như là Cha, đầy tình yêu, của Đức Giêsu ; Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa ; trong lời nói và hành động của Đức Giêsu, tình yêu từ phụ của Thiên Chúa được tỏ bày ra. Các môn đệ đã biết tất cả những điều đó trong cuộc hiển dung.
* Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những điều đã biết (9-10).
Sau mạc khải ấy, Đức Giêsu truyền các môn đệ giữ im lặng. Họ còn cần có thời gian và phải tham dự vào cuộc thương khó, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, trước khi có thể hiểu được bản chất đích thực và ý nghĩa của tư cách Con Thiên Chúa của Người. Khi đó, họ sẽ không được thinh lặng nữa, trái lại họ phải đi làm chứng công khai.
II. CHIÊM NGẮM CHÚA GIÊSU:
Một số nhà chú giải đã khám phá ra có một sự "đóng khung" vừa chính xác vừa tinh tế, ở các câu 2 và 8. Một đàng, Maccô viết rằng: "Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao". Đàng khác, ông nói rằng: "Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi": kiểu đóng khung này đã bỏ ra bên ngoài các câu 9-10 là hai câu chứa đựng hai chủ đề riêng của Tin mừng Maccô, là bí mật Thiên sai và sự không hiểu của các môn đệ, để nói về một mạc khải riêng cho ba môn đệ thân tín: Tác giả Maccô cho hiểu rằng muốn khám phá ra chân tính của Đấng Messia, cần phải được dẫn nhập dần dần. Bài tường thuật hiển dung này như muốn là biểu tượng của cuộc dẫn nhập tiệm tiến vào mầu nhiệm Đấng Messia: thị kiến được dành riêng cho ba môn đệ được dẫn riêng lên một ngọn núi ; lệnh truyền từ trời là hãy chỉ lắng nghe Người Con ; cuối cùng, lệnh truyền giữ kín mạc khải này.
Nơi Đức Giêsu, các môn đệ được nghe lời của Con Thiên Chúa. Các ông sẽ ghi nhớ những lời Người nói về những đau khổ đưa đến vinh quang (8,31-9,1) và sẽ nghiền ngẫm những chặng đường mầu nhiệm của ơn cứu độ mà Đức Giêsu mạc khải cho các ông (9,9-13). Lời nói trong ánh sáng này lại không phải là dấu chỉ mà từ bao đời, dân tộc Do Thái và toàn thể nhân loại vẫn mong chờ, để đạt được cùng đích vận mệnh của mình sao?
III. GỢI Ý BÀI GIẢNG:
1. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng hoàn tất chương trình của Thiên Chúa.
Những hoàn cảnh và điều kiện trong đó xảy ra mạc khải cho ba môn đệ cũng có một ý nghĩa cho việc chúng ta gặp gỡ riêng tư với Đức Giêsu và với Thiên Chúa: phải tách ra khỏi cuộc sống xô bồ, náo nhiệt, và phải để cho Đức Giêsu hướng dẫn. Khi đó, chúng ta lại được nghe Thiên Chúa giới thiệu Đức Giêsu: "Đây là Con Ta yêu dấu". Người không phải là Con Thiên Chúa theo bất cứ kiểu nào, nhưng là Người Con duy nhất có trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa là Cha Người.
Bên cạnh Đức Giêsu, có Môsê và Êlia. Xuyên qua sự hiện diện của hai nhân vật này, Đức Giêsu đi vào mà thuộc về lịch sử cuộc quan hệ giữa Thiên Chúa Israel với dân Ngài. Đức Giêsu không chỉ là một nhà trừ quỷ hoặc một thầy chuyên làm phép lạ. Sự hiện diện của hai nhân vật đã tạo những hướng đi quan trọng trong lịch sử dân Israel nêu bật rằng Đức Giêsu đã đến nhân danh Thiên Chúa để tiếp tục công trình của hai vị.
Cần phải suy nghĩ kỹ hơn về hậu quả giữa quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa và ý nghĩa của quan hệ này đối với chúng ta. Càng dành thời giờ thờ phượng, chúng ta càng hiểu sâu thêm về thực tại "Đức Giêsu là Con Thiên Chúa" ; khi đó, chúng ta cũng nhận ra những hậu quả của thực tại này đối với chúng ta. Chúng ta phải "vâng nghe lời" Người và không được phép im lặng nữa. Chúng ta sẽ phải ra đi mà làm chứng.
2. Vâng theo giáo huấn của Đức Giêsu:
Ma quỷ quả có hô to chân tính của Đức Giêsu, nhưng không rút ra được bất cứ hệ quả nào cho những người đang nghe chúng. Còn ở trên ngọn núi này, lời khẳng định và lệnh truyền của Chúa Cha đi đôi với nhau. Chỉ có ai vâng theo mệnh lệnh thì mới nhìn nhận thật sự lời khẳng định và mới bắt đầu ở trên đường đưa tới chỗ hiểu lời này trọn vẹn hơn. Lệnh Đức Giêsu các môn đệ nói về điều vừa thấy (9,9) cho hiểu là mọi điều đó vẫn còn nguyên giá trị, nhưng nói ra bây giờ thì còn quá sớm. Từ đó, ta hiểu rằng các tiếng la của ma quỷ hoàn toàn sai chỗ và quá sớm, và chỉ có thể gây khó khăn thêm cho việc hiểu biết Đức Giêsu cách đích thực.
Đức Giêsu luôn nói lời Thiên Chúa và kêu mời môn đệ đón nhận để thuộc về gia đình thiêng liêng của Người: "Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em Tôi, là mẹ Tôi" (Mc 3,35). Hoặc: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy... Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy" (Ga 14,23-24).
Đi vào đường lối của Đức Giêsu không chỉ có nghĩa là "làm ba lều" rồi ở lại đó với Người. Chúng ta có xử sự như thế khi đi vào các giờ cầu nguyện thờ phượng trong nguyện đường. Nhưng chúng ta còn được mời bước theo Đức Giêsu, có những tâm tình như Người: "Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người" (Pl 2,6-9).
IV. LỜI CẦU CHUNG:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, hôm nay, do yêu thương các môn đệ, Đức Giêsu đưa ba đại diện môn đệ lên núi cao để chuẩn bị cho các ông đi vào cuộc thương khó với Người. Chính tại đây, Người đã được Chúa Cha giới thiẹu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Tin tưởng vào lòng yêu thương quan phòng của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:
1. "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người". Chúng ta cùng cầu nguyện cho toàn thể Họi thánh biết trân trọng lời Chúa Cha giới thiẹu Đức Giêsu hôm nay, mà luôn chăm chú lắng nghe giáo huấn của Người, tha thiết nghiền ngẫm để hiểu đúng đắn và trung thành thực hiện trong đời sống hằng ngày.
2. Ông Êlia và ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu, cho thấy Người chính là Đấng nối tiếp và làm trọn Cựu ước. Chúng ta cùng cầu nguyện để cho mọi dân tộc đang đi tìm Thiên Chúa, có thể tìm ra Đấng chân thật duy nhất, để tôn thờ cho phải đạo, và có thể đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu.
3. Đức Giêsu sẽ từ cõi chết sống lại. Người đã chết trên cây thập giá trên đồi Sọ xưa kia, nhưng cũng đã sống lại. Người tái diễn cuộc Tử nạn, Phục sinh hôm nay trên bàn thờ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các tín hữu đang gặp thử thách biết tin tưởng để cho Đức Giêsu dẫn dắt, hầu có thể làm chứng về quyền năng Phục sinh trong cuộc sống hằng ngày.
Lời kết: Lạy Chúa Cha cực thánh, xin giúp chúng con biết lắng nghe lời Con Cha dạy trong Kinh thánh và qua các giáo huấn của các mục tử, để chúng con bước đi vững vàng trên đường lối của Cha, làm chứng được trước mặt thế giới về nẻo đường cứu độ duy nhất và giúp nhau đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
52.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Chay năm B nhấn mạnh một chủ đề duy nhất: “Con Một”.
St 22: 1-2, 9a, 10-13, 15-18
Bài Đọc I kể cho chúng ta tổ phụ Áp-ra-ham đã sẵn sàng dâng hiến cho Thiên Chúa, I-xa-ác, “đứa con một” mà ông hết lòng yêu mến.
Rm 8: 31b-34
Bài Đọc II, trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma, gợi lên tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại quá lớn “đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta”.
Mc 9: 2-10
Tin Mừng Mác-cô kể cho chúng ta cuộc Biến Hình, trong đó Chúa Cha công bố: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Ấy vậy, cuộc Biến Hình xảy ra chỉ sau vài ngày trước lời loan báo đầu tiên của Đức Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, nghĩa là “Con Một” chịu chết vì hết thảy chúng ta.
BÀI ĐỌC I (St 22: 1-2, 9a, 10-13, 15-18)
Trong khuôn khổ hạn định của Phụng Vụ, chuyện tích nổi tiếng nầy không được trích dẫn toàn bộ vì độ dài của nó. Dù chuyện tích nầy nổi tiếng mấy đi nữa, nó cũng để lại cho chúng ta một ấn tượng bất ổn vì cách hành xử của Thiên Chúa làm chúng ta khó chịu. Làm thế nào một vị Thiên Chúa tốt lành, đầy lòng yêu thương, lại có thể thử thách một người công chính đến tận mức như vậy. Cho dù ngay từ đầu câu chuyện, người kể chuyện nói trước “đây chỉ là một cuộc thử thách”, nghĩa là sự việc không thực sự xảy ra, cũng không làm cho chúng ta khỏi hoang mang.
1. Lịch sử hình thành chuyện tích hiện nay:
Tuy nhiên, lịch sử hình thành câu chuyện soi sáng cho chúng ta ý nghĩa của câu chuyện và xua tan những xao xuyến của chúng ta. Các nhà chú giải mời gọi chúng ta phải phân biệt hai giai đoạn khác nhau trong việc hình thành chuyện tích nầy:
-Chuyện tích nguyên tác đã bị thất truyền, nhưng ý nghĩa của nó thì rõ ràng: ngay từ nguồn gốc, có một sự đối lập giữa tôn giáo của dân Do thái và tôn giáo của dân Ca-na-an về việc hiến tế con cái cho thần linh.
-Câu chuyện mà chúng ta đọc xuất hiện sau nầy, được soạn thảo mười một thế kỷ sau đó. Chuyện tích này được đưa vào trong tập truyện của vị tổ phụ Áp-ra-ham để bày tỏ một ý hướng khác với ý hướng của câu chuyện nguyên thủy: câu chuyện sau nầy là một thần học về sự thử thách, đồng thời loan báo một sứ điệp chan chứa hy vọng. Ở bên kia nhân vật I-xa-ác, ẩn hiện “dân Chúa chọn”, bị đe dọa diệt vong (nhất là vương quốc Ít-ra-en miền Bắc). Chính trong bối cảnh bi thảm đó, sứ điệp vang lên: phải đặt trọn vẹn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Ngài không thể khoanh tay đứng nhìn dân mà Ngài gọi “con đầu lòng của Ngài” (Xh 4: 22-23) phải bị họa diệt vong.
2. Tôn giáo của dân Ca-na-an:
Tổ phụ Áp-ra-ham đến đất Ca-na-an có lẽ vào khoảng 1850 trước Công Nguyên. Ông đến từ miền Lưỡng Hà Địa thuộc nền văn hóa Su-me. Thành Ua của người Can-đê, quê hương của ông, đã là một thành phố rực rỡ nền văn minh Su-me. Nhưng Áp-ra-ham không là người Su-me, nhưng là người Sê-mít. Ông di dân đến sống với những người Sê-mít, được gọi chung là người Ca-na-an. Ông khám phá nhiều dị biệt không chỉ về văn hóa nhưng cũng về phụng tự nữa: như việc dân Ca-na-an thực hành việc hiến tế gia súc cũng như con cái cho các thần linh mà dân Su-me lại không hề biết đến.
Ngay cả Kinh Thánh cũng cung cấp vài chứng liệu về việc hiến tế con cái của mình trong hai trường hợp: vào những hoàn cảnh đặc biệt như thiên tai, nguy hiểm, nguy cơ thất trận để xin thần linh cho tai qua nạn khỏi, hay vào lúc cử hành lễ đặt móng để xin thần linh cho công việc xây cất được hoàn thành. Trong trường hợp thứ nhất, nạn nhân được chọn phải là con người đắt giá nhất, thân thiết nhất như vua Mô-áp, khi thấy cuộc chiến ác liệt, không cầm cự nổi, “liền bắt con đầu lòng, là người có quyền lên ngôi kế vị, mà tế trên tường thành làm lễ vật toàn thiêu” (2V 3: 27). Vua A-khát cai trị miền Giu-đa, mất niềm tin vào Đức Chúa, trước hoàn cảnh tuyệt vọng vì bị quân thù công hãm Giê-ru-sa-lem, “làm lễ thiêu con trai mình” (2V 16: 3). Một thế kỷ sau đó, vua Mơ-na-se cũng làm tương tự (2V 21: 6). Trong trường hợp thứ hai, sách Các Vua quyển thứ nhất tường thuật: “Ông Khi-ên, người Bết Ên, xây cất lại Giê-ri-khô, nhưng ông đã phải mất người con đầu lòng là A-vi-ram, khi đặt nền, và mất đứa con út là Xơ-gúp, khi dựng cửa” (1V 16: 34).
Phải chăng khi có ý định hiến tế I-sa-ác, ông Áp-ra-ham muốn bày tỏ tấm lòng thành của mình đối với Thiên Chúa của mình chẳng thua kém gì dân Ca-na-an đối với các thần linh của họ?
3. Tôn giáo của dân Ít-ra-en:
Tuy nhiên, dù việc hiến tế các con trai đầu lòng của mình mang phẩm chất cao quý đến mấy đi nữa, tôn giáo Ít-ra-en luôn luôn ghê tởm những hành vi man rợ như thế. Luật Mô-sê nói rất rõ: “Ngươi phải nhường lại cho Đức Chúa mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về Thiên Chúa… Còn mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại” (Xh 13: 11-13).
Vào thế kỷ thứ mười và thứ tám trước Công Nguyên, những văn kiện và những truyền thống liên quan đến các tổ phụ được tập hợp lại và soạn thảo. Từ lâu, chuyện tích hiến tế I-xa-ác minh chứng quyết định của luật Mô-sê: I-xa-ác được chuộc lại bởi hy tế của “con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây” (St 22: 13). Trong câu chuyện nầy, chân dung của tổ phụ Áp-ra-ham được phát họa như một con người có tấm lòng quảng đại và một con người có niềm tin kiên vững.
A. Một con người có tấm lòng quảng đại:
Ông Áp-ra-ham thường hằng bày tỏ tấm lòng quảng đại. Ông Áp-ra-ham để ông Lót, cháu của mình, chọn những cánh đồng màu mở nhất. Ông Áp-ra-ham biếu ông Men-ki-xê-đê một phần mười tất cả chiến lợi phẩm của mình. Ông Áp-ra ham đã cứu giúp vua Sơ-đom, nhưng từ chối mọi quà tặng mà vua đề nghị ban cho ông: “Dù một sợi chỉ, dù một quai dép, bất cứ cái gì của ông, tôi cũng không lấy” (St 14: 23). Ông Áp-ra-ham cũng hành xử với Thiên Chúa cùng một cách như vậy. Khi chấp nhận hiến tế đứa con một của mình, ông Áp-ra-ham dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa của mình.
B. Một con người có niềm tin kiên vững:
Việc hiến tế I-xa-ác được định vị ở cuối một loạt những thử thách trong đó vị tổ phụ đã bày tỏ niềm tin của mình vào Thiên Chúa của mình rồi, bất chấp những vẻ bên ngoài khó mà tin được. Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc như sao trên trời như cát dưới biển; ấy vậy thực tế, ông và vợ mình càng ngày càng già yếu đi mà không có một người con nối dõi tông đường. Thiên Chúa hứa ban cho ông tất cả đất đai mà ông thấy trước mắt; ấy vậy, ông chỉ là một khách kiều cư, lang thang phiêu bạt nay đây mai đó. Vị tổ phụ cũng giữ một thái độ tràn đầy niềm tin như vậy khi ông dẫn đứa con trai duy nhất của mình lên núi để hiến tế theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Cho dù ông không lý giải được lệnh truyền này nhưng ông vẫn tin là Thiên Chúa có một giải pháp, vì Ngài không thể nào mâu thuẩn với chính mình. Như vậy ông Áp-ra-ham đưa ra một khuôn mẫu đức tin, một đức tin dựa trên “lời Thiên Chúa” chứ không trên lý lẽ của người đời. Vì thế, ông Áp-ra-ham được cả ba tôn giáo: Do thái giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo, gọi là “Cha của những kẻ tin”.
Khi nhấn mạnh đức vâng phục của vị tổ phụ, một cách nào đó người kể chuyện muốn đặt ông Áp-ra-ham đối nghịch với nguyên tổ A-đam. Ông A-đam vì bất phục tùng đã đem đến những lời nguyền của Thiên Chúa trên nhân loại. Trái lại, ông Áp-ra-ham vì vâng phục đã đem đến những lời chúc phúc của Thiên Chúa trên muôn thế hệ.
Đáp lại niềm tin và sự vâng phục đến mức anh hùng của vị tổ phụ, Thiên Chúa làm mới lại mọi lời hứa mà Ngài đã hứa với ông trước đó. Hơn nữa, Thiên Chúa còn cam kết: “Ta lấy chính danh Ta mà thề”. Một cách nào đó, ông Áp-ra-ham trở thành một người bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa, chứng nhân về lời thề của Thiên Chúa, vì lời thề thì chắc chắn hơn một lời hứa.
4. Thần học về sự thử thách:
Tác giả sống vào khoảng năm 750 trước Công Nguyên trong vương quốc Ít-ra-en miền Bắc. Chẳng bao lâu sau vương quốc nầy bị tấn công và trở thành chư hầu của đế quốc Át-sua và cuối cùng bị tiêu diệt (721 trước Công Nguyên).
Để soi sáng cho những biến cố mà tác giả đã trải qua, ông đọc lại những chứng liệu lịch sử. Chẳng có gì quá đáng khi nói rằng ông đã thấy ở nơi cuộc hiến tế I-xa-ác một dấu chỉ cho thấy cách thức Thiên Chúa hướng dẫn lịch sử thánh: những ý định của Ngài bên ngoài xem ra thất bại. Ông Áp-ra-ham luôn luôn hy vọng cho dù bên ngoài chẳng le lói một tia hy vọng nào. Ít-ra-en phải thấy ở nơi hành vi tròn đầy tin tưởng nầy nền tảng của việc mình được tuyển chọn và họ cũng phải thấy ở nơi việc Đức Chúa can thiệp để cứu I-xa-ác một sự đảm bảo rằng Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những người con của Lời Hứa.
Khi ghi lại chuyện tích hiến tế I-xa-ác, tác giả muốn trả lời cho những thử thách mà những người đương thời của ông đã trải qua trong suốt những khủng hoảng lớn của thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên.
5. Khía cạnh ngôn sứ:
Hình ảnh người cha hiến tế đứa con một của mình, đứa con rất mực dấu yêu của mình, và hình ảnh người con mang trên vai mình bó củi sẽ được dùng để hiến tế chính mình, thật sự gợi lên một tấm thảm kịch khác, trong đó chính Thiên Chúa đã ban Con Một của Ngài để cứu độ nhân loại.
Khi ám chỉ đến hy tế của I-xa-ác, thánh Gioan áp dụng tước hiệu “Con Một” vào Đức Giê-su: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3: 16), và thánh Phao-lô đã phải thốt lên: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8: 32). Ẩn hiện phía sau chuyện tích nầy, chúng ta đọc thấy cái vẻ thất bại bên ngoài của Thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng tình yêu Thiên Chúa đối với loài người được bày tỏ cách rực rỡ ở nơi cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su, Con Một của Ngài.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 31b-34)
Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Rô-ma vào mùa đông những năm 56-57; lúc đó thánh nhân hiện ở Cô-rin-tô. Những ngày lưu lại ở đây giúp thánh nhân khây khỏa trước những căng thẳng (các bài đọc của những Chúa Nhật vừa qua đã cho chúng ta những vang âm của những căng thẳng nầy). Cũng chính ở nơi đây mà ngài viết thư gởi các Ki-tô hữu Rô-ma mà ngài dự định sẽ viếng thăm họ. Như vậy, bức thư nầy chuẩn bị cuộc hành trình đến Rô-ma của ngài.
1. Bối cảnh:
Bài Đọc II được trích từ chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma, chương dâng trào cảm xúc bao la đến độ chúng ta như cảm thấy tâm tình tôn giáo nồng nàn của vị Tông Đồ. Thánh nhân miêu tả hoàn cảnh ưu tiên của người Ki tô hữu: được Thần Khí ngự trong lòng, được gọi là con cái của Thiên Chúa, được dành cho vinh quang bất diệt, được công chính hóa nhờ đức tin. Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu lớn lao đến như thế, nên chúng ta không có gì phải sợ ngoài một niềm hy vọng chan chứa niềm vui.
2. Người Ki-tô hữu chẳng có gì phải sợ cả:
Chương 8 nầy kết thúc với một bài thánh thi ca ngợi Tình Yêu Thiên Chúa bằng một cung giọng đắc thắng. Bài Đọc II là phần khởi đầu của bài thánh thi nầy. Không một quyền lực nào có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (8: 32). Còn sự đảm bảo nào có thể sánh ví với tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta và những ân huệ mà Ngài ban tặng cho chúng ta!
Thánh Phao-lô hình dung một phiên tòa ở đó những người Thiên Chúa chọn được điệu đến. Ai dám buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa vừa buộc tội họ vừa tuyên bố họ công chính? Hay chẳng lẽ Đức Ki-tô ngự bên hữu Chúa Cha lại buộc tội chúng ta? Ấy vậy, Đức Ki-tô là Đấng đã cứu chúng ta và cầu bầu cho chúng ta. Vì thế, người Ki tô hữu chẳng có gì phải lo sợ cả.
TIN MỪNG (Mc 9: 2-10)
Biến cố Biến Hình là một trong những biến cố chất nặng mầu nhiệm Tin Mừng nhất, nhưng cũng là một trong những biến cố phong phú nhất về giáo huấn.
Biến cố này được xác định vào thời điểm rất có ý nghĩa: “Sáu ngày sau”. Vài ngày trước đó, gần miền Xê-da-rê Phi-líp-phê, Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ của Ngài: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Phê-rô, đại diện các môn đệ, tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô” (Mc 8: 29). Đức Giê-su nghĩ rằng đây là dịp thuận tiện để mặc khải sứ mạng mà Ngài sẽ thực hiện, vì thế Ngài báo trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Phê-rô không đồng tình với lời loan báo nầy liền tìm cách ngăn cản Ngài. Ba sách Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt vào trong bối cảnh nầy biến cố Biến Hình, biến cố đem đến một câu trả lời.
Biến cố nầy phải được khảo sát dưới hai khía cạnh: biến cố nầy có ý nghĩa như thế nào đối với Đức Giê-su? và biến cố nầy có ý nghĩa như thế nào đối với ba nhân chứng: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan?
1. Biến cố Biến Hình đối với Đức Giê-su:
Biến cố Biến Hình đem lại một sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong khi Đức Giê-su đang hướng đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của mình, thì Chúa Cha đem đến cho Ngài một niềm an ủi đặc biệt. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã có trước khi nhập thể và lúc nầy đây Ngài được nhận lại trong chóc lát.
“Ông Ê-li-a và ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su”. Trên núi cao rực rỡ ánh vinh quang gợi lên núi Xi-nai, việc ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra không có gì phải ngạc nhiên. Cả hai nhân vật Cựu Ước nổi tiếng nầy đã gặp gỡ Thiên Chúa trong những hoàn cảnh tương tự. Ở đây, sự hiện diện của hai ông nêu bật rõ nét nhất tước vị Mê-si-a: sự hiện diện của hai ông chứng thực rằng Kinh Thánh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su. Chắc chắn, ông Mô-sê đại diện Lề Luật và ông Ê-li-a đại diện truyền thống Ngôn Sứ, nhưng ở bên kia hình tượng nầy, họ là “dấu chỉ”. Quả thật, họ là những người mà truyền thống liên kết thường nhất với triều đại Mê-si-a. Ông Mô-sê đã loan báo rằng một ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, những lời của đấng ấy cũng sẽ là lời của Thiên Chúa (Đnl 18: 18), trong khi ông Ê-li-a được truyền tụng là sẽ trở lại chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a ngự đến. Cuộc Biến Hình nhấn mạnh mối liên kết giữa Cựu Ước và Tân Ước.
Vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả, Chúa Cha đã công bố: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1: 11). Nay vào lúc Đức Giê-su biến hình, Chúa Cha công bố: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”, lời tuyên bố nầy một lần nữa khẳng định tử hệ thần linh của Đức Giê-su và trọn tình yêu của Chúa Cha dành cho Con của Ngài. Vì thế, lời nầy đem lại cho Đức Giê-su một niềm an ủi lớn lao mà Ngài đã nhận được vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, và được làm mới lại vào thời điểm Ngài khởi sự phần thứ hai, phần khó khăn nhất của sứ vụ của Ngài. Tuy nhiên, lời tuyên bố vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa nhấn mạnh trên sự hài lòng của Chúa Cha với Con Ngài, trong khi lời tuyên bố vào lúc Biến Hình lại nhấn mạnh trên sứ điệp: “Hãy vâng nghe lời Người”, bởi vì Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.
2. Biến cố Biến Hình đối với các môn đệ:
Chỉ có ba nhân chứng được diễm phúc chứng kiến cuộc Biến Hình nầy: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan. Đây là ba nhân chứng mà Đức Giê-su đã cho họ được chứng kiến việc Đức Giê-su cho con gái ông Gia-ia được sống lại (Mc 5: 37-42); cũng chính ba Tông Đồ nầy Đức Giê-su sẽ đem theo với Ngài vào vườn Ghết-sê-ma-ni ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài (Mc 14: 33). Vì thế, chúng ta có thể nói rằng qua biến cố Biến Hình này Đức Giê-su an ủi họ trước.
Việc thánh Phê-rô có mặt ở biến cố Biến Hình thật quan trọng: biến cố nầy củng cố những gì ông đã tuyên xưng từ trực giác của mình ở Xê-da-rê Phi-líp-phê và làm chứng rằng Đức Giê-su thật sự là Con Thiên Chúa hằng sống. Mặt khác, lời loan báo của Thầy mình về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ mà ông không thể nào chấp nhận được lại được thay thế một Đức Giê-su chói ngời vinh quang thần linh. Vị thủ lãnh của các Tông Đồ và người bạn đồng hành của Đức Giê-su sau nầy sẽ có nhiệm vụ rao giảng một Đức Ki-tô chịu đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút nầy được chiêm ngưỡng chính Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật danh tiếng nhất của lịch sử Ít-ra-en. Cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Can-vê.
Như vậy, đây là nền tảng niềm tin của Các Tông Đồ, mà trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội được thiết lập. Thánh Gioan, người môn đệ trung thành từ đầu cho đến cuối sẽ chiêm ngắm Thầy Mình chịu đóng đinh trên khổ giá cũng sẽ viết: “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Ngài, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sựu thật” (Ga 1: 14). Còn thánh Gia-cô-bê, ông sẽ là vị Tông Đồ đầu tiên chịu chết vì niềm tin của mình.
Thánh Phê-rô là người duy nhất tuyên xưng đức tin ở Xê-da-rê-phi-líp-phê và cũng chính ông phản kháng trước lời loan báo về cuộc Tử Nạn của Ngài. Ở đây, ông là người duy nhất phản ứng. Thánh nhân đầy phấn chấn. Ông muốn thời gian dừng lại và giữ chân ba nhân vật chính của cuộc Biến Hình. Ông đề nghị dựng ba cái lều: một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Trong tận cõi lòng mình, ông chứng thực rằng ông luôn luôn tin tưởng vào triều đại vinh quang của Đấng Mê-si-a.
“Thực ra, ông không biết mình nói gì, vì các ông sợ quá”. Đức Giê-su đột nhiên xuất hiện trước mặt các ông trong một mầu nhiệm cao cả đến nổi sự sợ hãi linh thánh xâm chiếm các ông.
“Bổng có một đám mây bay đến bao phủ các ông”. Trong Cựu Ước, “đám mây” tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Như vậy, Chúa Cha hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông vào trong mầu nhiệm của Ngài, trong sự bí mật của mặc khải mà họ không được kể cho ai “cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại” như Đức Giê-su đòi hỏi họ.
Vào lúc nầy, các Tông Đồ không hiểu được “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Sau nầy, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su cho các ông chứng kiến việc phục sinh của con gái của ông Gia-ia và biến cố Biến Hình của Ngài.
Sau này, các ông sẽ công bố mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình nầy. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng, diễn tả rõ ràng điều nầy: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là Con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3: 2). Thánh Phao-lô cũng viết như vậy: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3: 21).
53.“Hãy nghe Lời Người”--Lm. Xuân Hy Vọng
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ! Trong thời khắc dịch bệnh vẫn lan tràn, cướp đi tính mạng nhiều người trên toàn thế giới, Giáo hội vẫn tiếp tục sứ mạng trở nên chứng tá cho lòng nhân từ, xót thương và đầy yêu thương của Chúa qua mỗi ngày, đặc biệt Mẹ Giáo hội cùng với chúng ta nhận bụi tro trên đầu, ý thức thân phận yếu hèn, dễ sa ngã của bản thân. Hơn nữa, chúng ta được mời gọi bước vào thời kỳ ân sủng của Mùa Chay, hướng chúng ta trở về với Chúa, lắng nghe Lời Người và tái khám phá vị Thiên Chúa mà chúng ta hằng tin thờ, tôn kính.
Trước hết, Thiên Chúa - Đấng mãi giữ lời: Ab-ra-ham tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, mặc dù chưa biết đích đến là đâu. Ông vâng nghe và thực hiện ngay những gì Người phán truyền, thậm chí chịu hy sinh sát tế đứa con được ân ban. Nhờ vào niềm tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, mà Ab-ra-ham đã chẳng từ chối điều gì, và ông sẵn sàng làm theo thánh ý Chúa. “Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta” (St 22, 16-18). Xuyên suốt dòng lịch sử dân tộc Is-ra-el, chúng ta thấy rõ Thiên Chúa đã thực hiện tất cả những gì Người phán hứa. Thiên Chúa hằng trung thành, tín trung, giữ trọn lời của Người, không những dành cho dân Is-ra-el, mà còn trao ban dồi dào cho chúng ta qua Con Một yêu dấu của Người.
Thứ đến, Thiên Chúa - Đấng hằng bên đỡ: Thánh Phao-lô xác tín rằng: “Nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta?…Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng đang biện hộ cho chúng ta” (x. Rm 8, 31. 34). Thiên Chúa không chỉ giữ lời phán hứa, mà còn luôn nâng đỡ, chở che, bảo vệ chúng ta, dẫu ta chẳng xứng đáng với Người. Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn là: chúng ta cho rằng Thiên Chúa đương nhiên phải chăm nom, coi sóc ta; trong khi đó chúng ta vẫn mãi mê với tư lợi, với dự định cá nhân, mà chẳng đoái hoài đến lời kêu mời, thúc giục của Người mỗi ngày, hầu hân hoan thực thi Lời Người, và sống chính trực, yêu thương, tha thứ như Người giáo huấn chúng ta qua Giáo hội, qua các thừa tác viên có chức Thánh, qua mọi biến cố cuộc đời.
Sau cùng, Thiên Chúa - Đấng luôn hiển dung: Trước khi lên Giê-rê-sa-lem chịu tử nạn, Đức Giê-su đã biến hình, tỏ cho ít nhất ba môn đệ thân tín biết vinh quang của Người. Mặc dù là Thiên Chúa, nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận thấp hèn con người, mà vâng phục thực thi chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha qua cuộc khổ nạn, chịu chết nhục nhã trên Thập giá, nhưng từ cõi chết, Người phục sinh. Mầu nhiệm khổ nạn-chịu chết-phục sinh (thường được gọi là biến cố cuộc đời Đức Ki-tô - Christ-event) được tái diễn hằng ngày trong đời sống đức tin của chúng ta, nhất là: trong Thánh lễ, khi tham dự các Bí tích, khi sống Lời Chúa, khi chúng ta sống bác ái, tha thứ. Nhờ đó, Chúa hiển dung nơi cung lòng chúng ta, trong cộng đoàn, hội nhóm chúng ta, trong gia đình và mọi mối tương quan của chúng ta, giúp chúng ta biến đổi cung cách sống, lối sống, tất cả các phương diện con người chúng ta. Tuy nhiên, để cảm nghiệm trọn vẹn nó, tiên vàn, chúng ta phải ghi nhớ lời của Chúa Cha phán: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người” (x. Mc 9, 7). Chúng ta phải tháp nhập vào Đức Giê-su, phải nương náu, sống với Người, ở lại trong Người, ngõ hầu mọi lời nói, hành vi, tư tưởng,…của Đức Giê-su tỏ lộ rõ rệt nơi chúng ta.
Lạy Thiên Chúa - Đấng trung tín
Xin cho con luôn nhủ mình tín trung
Giữ trọn lời Chúa đến cùng
Sống trong hoan lạc thuỷ chung tinh tuyền.
Lạy Thiên Chúa - Đấng mãi liên
Hằng bên đỡ dù triền miên ngày tháng
Che chở con, tình chứa chan
Luôn chính trực, đời bình an thiết tha.
Lạy Thiên Chúa - Đấng ngợi ca
Mặc lấy xác phàm, bao la tin yêu
Chịu khổ hình Thập tự treo
Phục sinh vinh thắng, sống theo Cha hiền.
“Đây là Con Ta tinh tuyền,
Vâng nghe Người dạy, hằng luôn thi hành”. Amen!
54.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
Thưa ACE, trong hành trình Mùa Chay năm nay, không biết chúng ta đã có những quyết tâm và đã lựa chọn ra được những hướng đi, hành động như thế nào cho riêng mình? Liệu rằng những quyết tâm và hành động đó có làm cho Chúa yêu thích? Hay nói khác hơn, thái độ và cách sống của chúng ta trong Mùa Chay này có thực sự làm cho Chúa hài lòng, để rồi chính Chúa Cha Ngài sẽ vinh danh chúng ta là những người con mà Ngài yêu quý? Các bài đọc Lời Chúa hướng dẫn, đồng hành và soi sáng cho chúng ta, hầu giúp chúng ta đi đúng hướng để đạt đến mục đích tối hậu là được trở nên những người con sống đẹp lòng Chúa.
Chúa muốn chúng ta phải làm gì? Không biết đây có phải là mối quan tâm chính của chúng ta trong thời gian Mùa Chay này? Đối với Apraham, trên mỗi chặng đường của hành trình theo Chúa, ông luôn cố gắng để nhận ra thánh ý Chúa và mau mắn thi hành. Để sống đẹp lòng Chúa, ông đã từ bỏ quê hương để đến nơi mà Chúa hứa. Sau không biết bao nhiêu gian nan thử thách trên hành trình theo Chúa, cho đến khi về già thì Chúa mới cho ông sinh hạ được một “người con thừa tự Isaac”. Thế nhưng, để sống đẹp lòng Chúa, ông phải làm gì với “của lễ đầu lòng Isaac” mà Chúa ban tặng đây? Đứng trước những suy tính phải hành động thế nào, ông đã nghe được tiếng Chúa phán: “Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Nếu là chúng ta, chắc hẳn không ai trong chúng ta lại dám mạo hiểm để làm theo tiếng Chúa dạy. Nhưng với Apraham, trong mọi hoàn cảnh ông đều thưa với Chúa: “Dạ, con đây”. Đó chính là thái độ, cách sống hoàn toàn tín thác trong khiêm tốn. “Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình”. Một hành động mà không một người Cha nào lại nỡ lòng để làm cho một người con mà mình yêu quý. Thật vậy, Thiên Chúa đã thấy hành động của Apraham, hành động của một con người luôn kính sợ Thiên Chúa, hành động của một người con luôn hiếu thảo với Thiên Chúa đến nỗi không ngại để hy sinh bất cứ điều gì, ngay cả chính người con duy nhất là Isaac cho Chúa. Chúa đã hài lòng, Chúa đã chúc phúc cho Apraham và cho dòng dõi của Isaac. Thưa ACE, với mẫu gương tuyệt vời của Apraham, mỗi người chúng ta phải nên làm gì?
Chúa biết rõ những giới hạn và sức của chúng ta, Chúa biết chúng ta còn chần chừ, còn tính toán hơn thiệt, nên Chúa đã ban cho chúng ta một quà tặng cao quý gấp bội còn hơn “của lễ Isaac” mà Apraham đã dâng cho Chúa. Thánh Phaolo trong bài đọc hai đã chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm về ơn thánh Chúa. Vì yêu thương chúng ta, vì muốn ban ơn cho chúng ta, vì muốn nên mẫu gương cho chúng ta noi theo, Thiên Chúa “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta”. Người Con Chí Ái duy nhất là Chúa Giêsu, Thiên Chúa cũng không nỡ, nhưng đã hiến ban cho chúng ta, để qua đó, thấy lòng Chúa yêu thương chúng ta biết là dường nào.
Thật vậy, Tin mừng hôm nay minh chứng cho chúng ta thấy thái độ và cách sống tuyệt hảo của Chúa Giêsu, đó chính là vâng theo, thực thi thánh ý của Thiên Chúa Cha. Thánh ý của Thiên Chúa chính là để tỏ cho con người thấy chúng ta rất đặc biệt trước mặt Thiên Chúa, vì thế, Ngài muốn trao ban những ơn phúc tốt lành nhất cho chúng ta. Thật vậy, khi bước vào con đường khổ nạn thập giá, chấp nhận cái chết, Chúa Giêsu vừa làm đẹp lòng Chúa Cha, vừa trở nên mẫu gương tuyệt hảo mà Ngài muốn dành tặng riêng cho chúng ta noi theo: “Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Thái độ, hành động và cách sống của mỗi người chúng ta có đẹp lòng Thiên Chúa Cha hay không tùy thuộc vào việc chúng ta có nghe theo lời và làm theo mẫu gương mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta. Trong cuộc biến hình trước khi bước vào cuộc tử nạn, Chúa Giêsu biết được những giới hạn, yếu đuối của các môn đệ nên Ngài đã nâng đỡ, củng cố và đã tỏ vinh quang cùng ơn thánh, sức mạnh của Chúa cho các ông. Chính qua ơn thánh này, ai chấp nhận, tin và sống thì sẽ được ơn cứu rỗi và thánh hóa.
Ước mong rằng, trên hành trình Mùa Chay, dẫu có gặp phải những khó khăn, thử thách, nhưng đời sống đức tin của chúng ta luôn được Chúa củng cố, gia tăng và trao ban những ơn thánh qua Giáo hội, qua các bí tích ban ơn sủng. Lạy Chúa, được đồng hành với Chúa trên hành trình tử nạn là ơn phúc cho chúng con, xin cho chúng con được ở mãi và sống kết hiệp mật thiết với Ngài. Amen.
55.Từ Tabor đến Golgotha--Thiên Phúc
Một linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng sâu sắc như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp “trai tài gái sắc”.Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.
Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:
- Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh!
Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:
- Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?
Tất cả nguyện trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay “người đẹp” là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay “nàng già” là trái táo ăn thừa. Nếu chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.
Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức Giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hóa giải chứ không gây mê.
Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Moi sê và một cho Elia” (Mc 9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.
Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.
Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi, Chúa chỉ mặc “tấm áo trắng như tuyết” trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục Sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp.Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.
Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng chung thủy, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.
Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruổi trên các đường phố Palestine rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ.
Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thắm đẫm mồ hôi trong vườn Giếtsimani.
Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.
Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường tình yêu. Theo Thánh Teresa thành Lisieux: “Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê”. Thánh Bernadette cầu nguyện:“Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục Sinh sẽ bừng sáng. Amen.
56.Biến hình--tinmung.net
Trong Mùa Chay, Giáo Hội đặt trước mắt chúng ta những mầu nhiệm có vẻ rất tương phản nhau: một bên là Chúa Kitô đau khổ và chịu đóng đinh, một bên là Chúa Kitô vinh quang và Phục sinh, để chúng ta suy niệm và khám phá ra hai chân lý hay hai thực tại khác không kém phần tương phản, đó là tội lỗi trầm trọng của nhân loại và lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa, hiểu được hai thực tại này thì chúng ta sẽ hiểu được phần nào hai mầu nhiệm đau khổ và vinh quang. Cũng chính trong ý hướng đó Chúa Giêsu đã chuẩn bị tinh thần và củng cố niềm tin cho các môn đệ bằng việc Ngài tỏ lộ cho các ông thấy phần nào vinh quang của Ngài mà chúng ta gọi là Chúa biến hình.
Biến hình là thế nào? Có phải là một chuyện thần thoại không? Cách đây khá lâu, trên nhiều đài truyền hình, chúng ta rất thích thú được xem các trò biến hình của Tôn Ngộ Không, một kẻ có 72 phép thần thông biến hóa, chỉ cần một cái lắc mình, họ Tôn có thể biến thành một con vật, một cô thiếu nữ hay một trái bí… đó là những chuyện thần thoại, không có thực, còn việc Chúa Giêsu biến hình, không phải là một chuyện thần thoại mà là một chuyện có thực.
Biến hình, theo nghĩa thông thường người ta thường hiểu là thay đổi một hình dạng khác với hình dạng bình thường. Các môn đệ đã sống với Chúa Giêsu ba năm rồi, các ông thấy Chúa chỉ là một người có xương có thịt, có hình dạng như mọi người, dù các ông đã được nghe những lời giảng dạy hay ho, cao siêu của Chúa, dù các ông đã được chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhưng các ông chưa thấy chân tướng đích thực của Ngài, bây giờ Chúa biến hình cho các ông thấy, Ngài thay đổi hình dạng “con người” cho các ông thấy hình dạng “Thiên Chúa” của Ngài.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu biến hình là Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết thân thế đích thực của Ngài: Ngài chính là Con yêu dấu của Chúa Cha, Ngài là Đấng làm đẹp lòng Chúa Cha và là Đấng mà người ta phải nghe lời. Nhưng làm sao có thể nhận ra thần tính trên khuôn mặt nhân tính của Chúa? Đó là thắc mắc lớn của các môn đệ trên đường theo Chúa, và cũng là mối bận tâm của Chúa trong công cuộc giáo huấn của Ngài, thế nên mới có biến hình, đó cũng là mục đích của việc Chúa biến hình.
Ngoài mục đích bày tỏ, bộc lộ chân tướng đích thực là Con Thiên Chúa của mình, Chúa Giêsu còn nhằm một mục đích khác nữa, Ngài muốn khích lệ, động viên các môn đệ để các ông vững lòng trước mầu nhiệm thập giá, nghĩa là sau khi loan báo về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải qua, làm các ông khiếp sợ, Chúa lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có gì, đó là sự phục sinh vinh quang, giống như Ngài biến hình trước mắt các ông lúc này. Qua đó, Chúa cũng muốn nhắn nhủ các ông: cuộc đời của các ông cũng thế, sẽ phải trải qua đau khổ rồi mới bước vào chốn vinh quang, vì vậy, hãy tin tưởng, can đảm và kiên nhẫn chịu đựng, Chúa luôn ở bên để hỗ trợ các ông.
Có một câu chuyện kể rằng: một người đàn bà giàu có đang hấp hối trên giường bệnh, trong tờ chúc thư để lại, bà kể tên của tất cả mọi người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà, tuyệt nhiên bà không hề đá động đến cô gái nghèo và trung thành hầu hạ bà bấy lâu nay, quà tặng duy nhất mà bà để lại cho cô là một thánh giá làm bằng thạch cao. Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng đầy cay đắng buồn phiền, cô tự nghĩ: mình đã trung thành phục vụ, hầu hạ sớm hôm để rồi chỉ được một món quà không ra gì, không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy từng giọt đắng cay, cô đã kéo thập giá xuống khỏi tường và ném mạnh trên nền nhà, cây thập giá vỡ tung, và kìa, trước sự ngạc nhiên của cô, tất cả những mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là những viên kim cương óng ánh. Cô gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người chủ khi cô nhận ra giá trị của món quà. Lắm khi Thiên Chúa cũng gửi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá, sự sần sùi và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm chúng ta không thể hiểu được lòng tốt của Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta, Ngài không bao giờ muốn điều dữ cho chúng ta, bởi vì tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến hạnh phúc cao cả hơn.
Quả thực, ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có thập giá, đã mang tiếng khóc vào đời, con người tiến bước trong cuộc sống với tất cả gánh nặng của thập giá. Tại sao Thiên Chúa đã để cho con người phải đau khổ? Mãi mãi dường như con người sẽ không bao giờ tìm được câu giải đáp cho vấn đề đau khổ, Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề, trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá, và khi sống lại, Ngài cho chúng ta thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống. “Hãy vác lấy thập giá và theo Ta”, đó là lệnh truyền của Ngài. Mang lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và mến yêu, chúng ta sẽ thấy ánh sáng bừng lên trong cuộc sống, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự chết, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ chiến thắng được hận thù và thất vọng. Tóm lại, không chối bỏ thực tại của đau khổ, chết chóc, nhưng chúng ta luôn được mời gọi để không nhìn vào đó như tiếng nói cuối cùng, như ngõ cụt, bởi vì vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, cho nên hướng đi của lịch sử loài người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống, bên kia khổ đau, chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: đàng sau mọi gian nan thử thách, đàng sau mọi đau khổ của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ, và nếu chúng ta chẳng nhận được gì ở đời này, chúng ta vẫn tin rằng: Thiên Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau.
57.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Alfonso
Tin mừng Mc 9: 2-10: Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê, và Gioan được chứng kiến cuộc hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabor để đức tin của các ông được củng cố, trở nên như kiềng ba chân, mà sau này, chính các ông sẽ giúp cho các đồng môn thực thi lệnh truyền của Thầy mình, vác thập giá mình để theo Thầy.
SUY NIỆM
Khi xem các kênh truyền hình, có lúc chúng ta bắt gặp mục quảng cáo về một loại xà bông, một chất tẩy rửa, đánh bay mọi vết bẩn tới 99,9%, đem lại sự sáng bóng như mới v.v.. Thế nhưng để làm sáng tâm hồn một con người thì chất tẩy nào đây?
Bài đọc thứ I trích sách Sáng Thế kể cho chúng ta một thử thách mà Thiên Chúa đem đến cho Apraham thật chằng dễ chịu chút nào, và độc giả thính giả khó mà chấp nhận được lòng tin của vị tổ phụ như thế. Thiên Chúa hứa ban cho ông Apraham một dòng dõi đông đúc, trong khi thực tế, vợ chồng ông già yếu mà không có con cái nối dòng. Đã vậy, khi có được mụn con trai duy nhất, đứa con cầu con khẩn là Isaác mà ông hết lòng yêu mến, thì Ngài lại biểu đem lên núi để hiến tế. Apraham buồn lắm nhưng ông vẫn tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa sẽ có cách của Ngài, nên đã làm theo mà không do dự. Tâm hồn được khai sáng nhờ lòng tin không do dự của Ápraham vào Thiên Chúa giúp ông trở nên tổ phụ của mọi dân tộc, là Cha của những kẻ tin.
Đó cũng chính là hình ảnh tiên trưng cho Người Con Một mà Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng Ngài đã trao ban để làm của lễ đền tội cho hết thảy mọi người. Người Con yêu dấu của Thiên Chúa đã tin tưởng hoàn toàn vào chương trình cứu chuộc của Cha mình. Chương trình ấy được chứng thực bởi hai nhân vật vĩ đại trong Cựu ước là Môisen tượng trưng cho “Lề luật”, vàÊlia tượng trưng cho “các tiên tri” loan báo Lời Chúa mà dân Israel coi là hai cột trụ vững chắc, qua đó Thiên Chúa không thất tín bao giờ. Trên núi Tabor này, những môn đệ thân tín được chứng kiến cảnh tượng hai vị hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu, để minh chứng Người là Đấng phải đến.
Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê, và Gioan được chứng kiến cuộc hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabor để đức tin của các ông được củng cố, trở nên như kiềng ba chân, mà sau này, chính các ông sẽ giúp cho các đồng môn thực thi lệnh truyền của Thầy mình, vác thập giá mình để theo Thầy, có bước vào khổ nạn mới có thể tiến tới phục sinh. Có thể nói, ba môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu được coi là những người vào sanh ra tử với Người, là những người được khai sáng tâm hồn trước tiên để trong những giây phút quan trọng và quyết định, các ông vững tin và giúp cho các anh em khác cũng tin.
Câu chuyện về một vị vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi:
– Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?
– Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở.
– Ông hãy đẫp vỡ nó ra !
– Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể phung phá một báu vật như thế ạ !
Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.
Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, cũng hỏi:
– Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu?
– Bằng nửa vương quốc.
– Hãy đập vỡ nó ra !
– Đập vỡ viên ngọc này ư? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.
Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.
Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho một chàng lính:
– Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không?
– Muôn tâu, đẹp không thể nói được.
– Hãy đập nát nó đi.
Lập tức chàng lính ấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của chàng lính. Họ hỏi:
– Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ?
Chàng lính bình tỉnh đáp:
– Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.
Nhà vua khen ngợi thái độ của chàng lính và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.
Câu chuyện giúp chúng ta hiểu tại sao khi Đức Giêsu biến hình, tiếng Chúa Cha từ trời đã phán: “Đây là Con Ta yêu dấu. Hãy vâng lời Ngài”.
Lạy Chúa, trên đỉnh Tabor, các môn đệ được chứng kiến Thầy mình biến hình, để các ông vững tin mà vác thập giá theo Con Chúa lên đồi Golgotha. Xin cho mỗi người chúng con cũng được khai sáng tâm hồn, biết vâng nghe Lời Con của Chúa để trong mọi phút giây của cuộc đời, chúng con luôn vững tin đón nhận thập giá Chúa trao, nhờ đó Chúa biến thập giá ấy thành thánh giá cứu độ cho đời chúng con. Amen.
58.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
MÙA CHAY NHẮC TA NHỚ RẰNG CHÚNG TA KHÔNG ĐƠN ĐỘC TRONG HÀNH TRÌNH TÌM KIẾM SỰ HIỂU BIẾT
Bài đọc thứ nhất và bài Tin mừng Chúa Nhật II Mùa Chay hôm nay gây tác động mạnh mẽ và khó hiểu. Cả hai bài đọc đều là những trình thuật quan trọng nhưng chúng thường đưa đến nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời. Các bài đọc này nhắc nhở chúng ta phải đọc và suy niệm dựa trên Kinh Thánh, cầu xin sự sáng tỏ và bằng lòng với sự vô tri về một số vấn đề.
Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe câu chuyện ông Abraham sẵn sàng hiến tế người con trai của mình là Isaac, một hành động thường được hiểu là dấu chỉ của đức tin. Sau khi ban cho Abraham và Sara một người con trai là Isaac khi ông bà đã già, Thiên Chúa lại ra lệnh cho ông hiến tế người con của mình. Yêu cầu này có vẻ đi ngược lại với trình thuật Kinh Thánh vì Isaac là người con của giao ước.
Hơn nữa và thậm chí đáng báo động hơn, điều này ngược lại với trách nhiệm bảo vệ con cái của cha mẹ và cho thấy Thiên Chúa mong muốn sự hy sinh của con người. Thế nhưng, Abraham lại ưng thuận mà không hề chất vấn chương trình của Thiên Chúa. Điều này cho thấy sự cam kết của Abraham với Thiên Chúa và sự hiểu biết của ông rằng Isaac là ân huệ của Thiên Chúa, hoặc nó cũng có thể cho thấy sự thiếu quan tâm của ông về mạng sống của Isaac. Tương tự như vậy, điều này có vẻ giống như một thử thách đức tin vô lý mà Thiên Chúa dành cho Abraham. Khi Abraham chuẩn bị hiến tế Isaac, Thiên Chúa liền can thiệp và thay thế bằng một con cừu đực, một hành động thường được hiểu như là dấu chỉ của việc Thiên Chúa không chấp nhận hy lễ của con người. Nhiều cuộc tranh luận về tính chất phức tạp về mặt thần học và triết học đã kéo dài qua hàng thế kỷ và tiếp tục đặt ra nhiều thách thức. Mặc dù Abraham thể hiện một đức tin mạnh mẽ và sự tin cậy vững vàng nơi Thiên Chúa thế nhưng những hành động của ông chắc chắn không nên bắt chước. Trình thuật có thể cho thấy một yêu cầu đầy thử thách như thế để nhấn mạnh tầm quan trọng của sự dâng hiến và vâng phục. Thiên sứ khẳng định điều này khi tuyên bố: “Giờ đây ta biết ngươi hết lòng với Thiên Chúa vì ngươi đã không tiếc dâng hiến đứa con yêu dấu của ngươi cho Ta.”
Trình thuật cũng là một lời nhắc nhở hãy luôn rộng mở và chú ý đến Thiên Chúa. Trong ba lần, Abraham đều thưa “Hineni” (này con đây) khi trả lời Thiên Chúa, Isaac và thiên sứ. Điều này gợi nhớ lại câu chuyện về lời kêu gọi tiên tri với Samuel (được đọc vào Chúa nhật thứ hai Thường niên năm nay) và những lần cậu đáp trả “này con đây”. Có thể Abraham không phải là một hình mẫu về trách nhiệm làm cha mẹ nhưng ông là hình mẫu cho sự sẵn sàng và chấp nhận quyền năng Thiên Chúa. Câu chuyện đồng thời đưa ra những song đối đáng chú ý về việc Thiên Chúa hiến tế Chúa Giêsu, Người Con duy nhất của Ngài, hai biến cố đặt liền nhau đáng để cầu nguyện và suy niệm nhất là trong mùa Chay thánh.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta lắng nghe câu chuyện về cuộc biến hình, trong đó thân hình Chúa Giêsu được biến đổi cũng như mối liên hệ của Ngài với tiên tri Môsê và Êlia được xác nhận qua một thị kiến. Sự hiện ra của Êlia là đặt biệt quan trọng vì sự trở lại của ông được mong đợi để báo trước về Đấng Messia. Cũng vậy, theo truyền thống, Êlia đã không chết nhưng được đưa lên trời bằng một cơn lốc lửa (2V 2,1-12), một tham chiếu để giúp các môn đệ của Chúa Giêsu hiểu về sự phục sinh.
Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến cuộc hiển dung và đã sửng sốt, kinh hãi. Phêrô đề nghị xây ba cái lều, điều này cho thấy ông muốn ghi nhớ vị trí này với những đền thờ di chuyển được. Các môn đệ cũng nghe thấy lời tuyên bố từ trời rằng Chúa Giêsu chính là Người Con yêu dấu của Thiên Chúa, Đấng mà họ phải lắng nghe, một lời vang vọng từ biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa. Cuối cuộc hiển dung, Chúa Giêsu yêu cầu các ông không được tiết lộ sự kiện này cho đến sau cuộc phục sinh nhưng các môn đệ bối rối “tự hỏi việc sống lại từ cõi chết có nghĩa là gì.” Việc các môn đệ không biết chắc là điều thú vị vì những sự kiện mà các ông chứng kiến thì rất khó nà hiểu trọn vẹn được. Khi tiếp tục hành trình mùa Chay, các bài đọc có thể gợi hứng cho chúng ta, nhắc nhớ rằng chúng ta không đơn độc trong hành trình tìm kiếm hiểu biết và làm sáng tỏ, cũng như chúng ta nên dành thời gian nghiêm túc học hỏi và cầu nguyện.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/01/21/second-sunday-lent-gospel-reflection-catholic-scripture-239721
59.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Có hai thuyết về ngọn núi nơi Chúa Giêsu biến đổi hình dạng: có thể là núi Các-men ở miền bắc Ga-li-lê và gần Xê-da-rê Phi-líp-phê, nơi ông Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô; còn truyền thống quen thuộc thì cho đó là núi Ta-bô-rê ở phía nam Ga-li-lê giáp ranh với Sa-ma-ri và nằm trên đường xuống Giu-đê-a. Nếu ta coi hành trình của Chúa Giêsu lên Giê-ru-sa-lem như tột đỉnh sứ mệnh cứu thế của Đấng Kitô, thì Ta-bô-rê quả thực là bước quyết định để Chúa xác tín sứ mệnh ấy và nhất quyết đi Giê-ru-sa-lem để chịu đau khổ và chịu chết. Tuy nhiên, biến cố biến đổi hình dạng không chỉ có ý nghĩa đối với Chúa Giêsu, mà còn có ý nghĩa đối với các môn đệ, những kẻ muốn theo Chúa cũng phải “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
a) Để Chúa Giêsu xác tín sứ mệnh và quyết định đi Giê-ru-sa-lem
Sứ mệnh cứu thế của Chúa Giêsu mỗi ngày cần phải được củng cố thêm, sao cho đúng với kế hoạch Chúa Cha đã phác họa. Sau những ngày tháng thành công và nổi danh tại Ga-li-lê, Chúa Giêsu chắc chắn bị cám dỗ không muốn rời Ga-li-lê. Tại sao lại rời bỏ môi trường mình đang gặt hái được những kết quả tốt đẹp? Nhưng Chúa Giêsu đặt thánh ý Chúa Cha lên trên hết. Người cần phải quyết định rõ ràng, theo “tư tưởng của Thiên Chúa” hay theo “tư tưởng của loài người”, lên Giê-ru-sa-lem hay ở lại Ga-li-lê. Việc biến đổi hình dạng trên núi có thể coi như một tiến trình quyết định lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Vậy quyết định đi Giê-ru-sa-lem được củng cố như thế nào qua những gì xảy ra trên núi Ta-bô-rê?
Trước hết là qua sự xuất hiện của ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a bên cạnh Chúa Giêsu. Ông Mô-sê là người đem Lề Luật của Thiên Chúa cho Ít-ra-en. Còn Ê-li-a là vị ngôn sứ vĩ đại nhất. Chúa Giêsu đến để thực hiện tất cả những gì Lề Luật và các ngôn sứ nói. Do đó, sự hiện diện của hai vị bên cạnh Chúa Giêsu đã nói lên đầy đủ ý nghĩa sứ mệnh của Người, đồng thời là một khích lệ to lớn. Ta có cảm tưởng câu chuyện giữa Chúa Giêsu với Mô-sê và Ê-li-a xoay quanh đề tài về sứ mệnh của Chúa Giêsu mà thôi. Các ông nói với Chúa: “Ngài đã thi hành sứ mệnh cứu thế một cách tốt đẹp, xin Ngài cứ tiếp tục sứ mệnh ấy!” Các ông nhìn thấy nơi Chúa Giêsu thể hiện tất cả những gì Thiên Chúa đã dạy các ông nói trước đây.
Tiếp đến là qua lời xác nhận của chính Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Khi nói những lời này, Chúa Cha xác nhận tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm trong quá khứ đều làm đẹp lòng Người. Đồng thời những lời đó cũng ngầm hiểu: Con đã quyết định đi Giê-ru-sa-lem là đúng, vậy Con cứ tiếp tục làm như đã quyết định. Chúa Giêsu không chỉ thấy việc chấp nhận thập giá như một điều không thể tránh né, nhưng tích cực hơn như một lẽ sống của Người và của toàn thể nhân loại. Người mong Chúa Cha sẽ nói qua Người với nhân loại những lời “đây là con Ta yêu dấu”.
b) Biến cố Chúa Giêsu biến đổi hình dạng mang ý nghĩa đối với môn đệ Người
Các môn đệ nản lòng sau khi Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Ông Phêrô thì phổi bò nên “bắt đầu trách Người”. Ông đóng vai trò của Xa-tan cám dỗ Chúa Giêsu đừng làm theo những gì Người đã loan báo. Ông đã rời chỗ đứng của ông, thay vì bước đi theo sau Chúa thì ông lại bước lên trước làm chướng ngại con đường thập giá của Người. Mới đây ông đã thay mặt anh em môn đệ để tuyên xưng đức tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô thì bây giờ ông cũng thay mặt anh em để cản đường Chúa lên Giê-ru-sa-lem. Do đó, việc Chúa biến đổi hình dạng trên núi thật là cần thiết để ông và các bạn trở về chỗ đứng môn đệ của họ và lấy lại đức tin đã bị lung lạc do hình ảnh Thương Khó và cái chết của Chúa tại Giê-ru-sa-lem. Dù hiểu hay không hiểu sứ mệnh của Chúa Giêsu, thì ít ra lúc này các ông cũng được phục hồi niềm tin vào Người sau khi nghe những lời Chúa Cha nói với Người: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Ngoài ra biến cố trên núi hiển dung cũng chuẩn bị các ông trong sứ mệnh làm chứng cho Chúa Giêsu. Vinh hiển các ông được chứng kiến trên núi là những gì tiên báo cho vinh hiển của Chúa Kitô Phục Sinh mà các ông sẽ rao giảng cho muôn dân.
c) Chúa Giêsu biến đổi hình dạng trong cuộc sống Kitô hữu
Có khi nào ta nghĩ rằng cả cuộc đời Kitô hữu của ta là tiếp diễn cuộc biến đổi hình dạng của Chúa Giêsu theo một nghĩa nào đó không? Dĩ nhiên ta không dám hiểu đó là một cuộc biến đổi chiếu tỏa vinh quang, nhưng là một sự thay đổi con người của ta trở nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn. Thánh Lê-ô Cả Giáo hoàng đã nói trong bài giảng của ngài: “Thiên Chúa đã khôn ngoan dự liệu cho niềm hy vọng của Hội Thánh có nền tảng vững vàng: Người cho Hội Thánh biết toàn thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô sẽ được biến đổi ra sao. Người cũng dự liệu cho các chi thể tin chắc mình sẽ được thông phần vinh quang rực rỡ của Đầu là Đức Kitô” (Bài đọc 2, giờ Kinh Sách CN 2 mùa Chay).
Có lẽ thánh Phao-lô đã diễn tả cuộc biến đổi hình dạng của đời sống Kitô hữu một cách cụ thể nhất qua những lời ngài gửi cho các tín hữu Phi-líp-phê: “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3:10-11). Việc ta biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô quả thực tiếp tục cuộc hiển dung của Người trên núi Ta-bô-rê.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Thập giá nào trong cuộc sống có thể làm cho tôi mất đi đức tin vào Chúa Kitô? Tôi có nhận ra được ý nghĩa đích thực của thập giá đó không?
Phụng vụ Lời Chúa lấy câu truyện Chúa Giêsu biến đổi hình dạng làm chủ đề cho Chúa Nhật 2 mùa Chay có ý nghĩa gì đối với tôi? Tôi có nhận ra sứ điệp nào đặc biệt không? Và tôi đã đáp lại thế nào?
Ông Phêrô xin dựng cho Chúa một cái lều trên núi để ông được tiếp tục cảm nghiệm những giây phút đầy an ủi khích lệ. Tôi có muốn dựng một cái lều ngay trong đời sống của tôi để Chúa cư ngụ và biến đổi con người tôi không? Dựng lều như thế nào?
Cầu nguyện
“Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa,
con đâu còn nồng nhiệt hăng say.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tan,
cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
Xin ở lại với con
vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa
và không đòi phần thưởng nào khác
ngoài việc được yêu Chúa hơn”.
- Cha Pi-ô
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 16)
60.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--AM Trần Bình An
Cùng đăng sơn, cùng hạ sơn
Chúa Nhật 14.04.1985, Lễ Lòng Chúa Xót Thương, Lm. Jose Maniyangat đi dâng Thánh Lễ tại một nhà thờ thuộc điểm truyền giáo ở phía Bắc Kerala và bị một tai nạn chí tử. Ngài thuật lại sau này: Tôi đang lái xe gắn máy, thì bị đâm đầu vào một chiếc xe jeep do một người đàn ông say khướt sau một lễ hội Ấn giáo, điều khiển. Tôi được đưa gấp vào bệnh viện cách đó khoảng 35 dặm. Trên đường đi, linh hồn tôi lìa khỏi xác và tôi đã cảm nghiệm cái chết. Tức khắc, tôi gặp Thiên Thần Hộ Thủ của tôi. Tôi nhìn thấy thân thể mình và những người đến mang tôi vào bệnh viện. Tôi nghe họ khóc và cầu nguyện cho tôi. Vào lúc ấy thiên thần của tôi nói với tôi: ”Ta đến đem người vào thiên đàng, Chúa Giêsu muốn gặp người và nói chuyện với người”. Thiên thần cũng cho biết rằng dọc đường Ngài muốn chỉ cho tôi thấy Hoả Ngục và Luyện Ngục...
Kế đó, thiên thần của tôi hộ tống tôi tới Thiên Đàng đi qua một hầm màu trắng lớn sáng chói loà. Tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được sự an bình và niềm vui như thế nầy trong đời. Thiên Đàng lập tức mở ra và tôi nghe tiếng nhạc mê ly nhất mà tôi chưa từng được nghe trước đây. Các thiên thần ca hát và ngợi khen Thiên Chúa. Tôi nhìn thấy tất cả các thánh, đặc biệt là Mẹ Maria và Thánh Giuse,và rất nhiều giám mục và linh mục thánh thiện đang lấp lánh sáng như những vì sao. Và khi tôi xuất hiện trước Người, thì Chúa Giêsu nói với tôi: ”Ta muốn con về lại thế gian. Trong cuộc sống lần thứ hai của con, con sẽ nói bằng một ngôn ngữ nước ngoài. Mọi thứ đều có thể xảy đến cho con với ân sủng Ta ban..”. Sau những lời nầy, Đức Maria nói với tôi: ”Hãy làm bất cứ điều gì Người nói với con. Mẹ sẽ giúp con trong các thừa tác vụ của con.” Lời nói không thể diễn tả hết vẻ đẹp của Thiên Đàng. Ở đó chúng ta tìm thấy được an bình và hạnh phúc nhiều dường nào, vượt qúa một triệu lần trí tưởng tượng của chúng ta. Chúa Giêsu đẹp đẽ vượt xa hơn bất cứ hình ảnh nào có thể mô tả. Dung nhan Người rạng ngời và toả sáng và rực rỡ hơn ngàn vạn mặt trời đang mọc. Những bức hoạ chúng ta nhìn thấy trên thế giới chỉ là cái bóng vẻ lộng lẫy uy phong của Người. Đức Mẹ ở bên Chúa Giêsu, Mẹ rất tươi đẹp và rạng rỡ. Không một hình ảnh nào chúng ta gặp trên thế gian có thể sánh với vẻ đẹp thực sự của Mẹ. Thiên Đàng là nhà thực sự của chúng ta; tất cả chúng ta được kêu gọi phải đạt tới Thiên Đàng và được vui hưởng Thiên Chúa muôn đời. Sau đó, tôi cùng với Thiên Thần trở về thế gian... (Jn. M. Vũ Sơn Bảo dịch theo Ingodscompany)
Cảm nhận ngây ngất về Thiên Đàng của Lm Jose Maniyangat có lẽ tương đồng với niềm hân hoan, hạnh phúc của các Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan, khi được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor. Các ngài đã được Người mời gọi cùng lên núi, để được mặc khải về Ngôi Lời, Con Thiên Chúa. Rồi, lại cùng theo Người xuống núi, tiếp tục sứ mạng Đi Gieo và làm chứng nhân.
Đăng sơn
Xưa, ông Môsê lên núi Sinai để cầu nguyện và nhận lãnh 10 Điều Răn trên núi Sinai. Còn ngôn sứ Êlia trong tâm trạng chán nản, mệt mỏi vì bị binh lính của hòang hậu Idaven truy sát, đã nỗ lực vượt sa mạc trong 40 đêm ngày, leo lên núi Khôrép để được Thiên Chúa an ủi, ban sức mạnh lấy lại niềm tin, tiếp tục hăng say thi hành sứ vụ. Hôm nay, Đức Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi. Các ngài được vinh dự diện kiến Người, hội ngộ cùng ông Môsê và ngôn sứ Êlia, đại diện cho Lề luật và Ngôn sứ. Các ông ngây ngất trước ánh sáng Ngôi Lời chan hòa vinh hiển, cùng ao ước và khao khát được mãi mãi hạnh phúc sống bên Thiên Chúa Tình Yêu.
Đăng sơn là lên núi là từ bỏ mọi sự, xác thịt, của cải, ham muốn, chỉ duy nhất chọn Chúa mà thôi. Bỏ mọi sự, kể cả những vấn vương tình cảm thân bằng quyến thuộc, cũng như từ bỏ chính bản ngã tham sân si. Dấn thân leo lên núi Chúa có nghĩa chấp nhận gian lao thử thách, nguy hiểm, chịu khinh khi, thù ghét, bắt bớ, hành hạ, tù đầy và tử vong.
“Ai trong anh em, không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ Tôi được.” (Lc 14, 33) Đức Giêsu còn đòi hỏi từ bỏ quyết liệt, từ người thân đến chính bản thân mình. “Ai đến với Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Tôi được.”(Lc 14, 26). Hơn thế, Đức Giêsu còn thêm điều kiện chấp nhận những khó khăn cơ cực khi theo Người.“Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14, 27)
Khi xa lánh, dứt bỏ bụi trần, nâng hồn lên với Chúa, thì tâm hồn người Kitô hữu được hưởng niềm hoan lạc vô song, tuyệt vời. Vì thế, các tâm hồn các thánh luôn được nếm trải những giờ phút xuất thần, tràn ngập niềm vui, hạnh phúc bên Chúa.
Chẳng phải lúc nào ai cũng có thể leo 1 000 bậc thang lên đỉnh núi Tao Phùng ở Vũng Tàu, để chiêm ngưỡng tượng Chúa Kitô Vua, hoặc hiếm khi được leo 220 bậc thang lên tượng Chúa Cứu Thế ở Rio De Janeiro, Brasil, để được hạnh ngộ với Người. Nhưng hằng ngày, ai cũng có thể lên núi với Người qua sám hối, ăn chay và cầu nguyện, qua tĩnh tâm, kinh hạt, suy gẫm và nhất là qua Lời Chúa và Thánh Thể.
“Hãy sống bên Chúa, và con sẽ nên thánh. Thiên Đàng không gì khác là Thiên Chúa hiện diện.” (Đường Hy Vọng, số 242)
Hạ sơn
“Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” (Mc 9, 7) Thiên Chúa mặc khải cho các môn đệ, cho mọi tín hữu Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, phải tin cậy và vâng phục Người để được cứu rỗi.
Đức Giêsu dẫn ba môn đệ tâm huyết lên núi, Người biến hình rồi lại dẫn xuống núi nhập thế. Tin Mừng thánh Luca thuật lại: “Hôm sau, khi Đức Giêsu và ba môn để ở trên núi xuống, có đám người đông đảo tới đón Người.” (Lc 9, 37) Đăng sơn là chiều kích đầu tiên hướng lên trời với Thiên Chúa, hạ sơn chiều kích thứ hai hướng đến, thương yệu, phục vụ tha nhân, kể cả kẻ thù.
Hạ sơn là hạ mình xuống trước mặt tha nhân. Trở nên người phục vụ tình nguyện, noi gương Người. “Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người." (Mc 10, 45) Điều đầu tiên, Đức Giêsu mong đợi nơi những ai theo Người, là một tấm lòng đơn sơ, khiêm nhường, vâng phục và yêu thương.
Hạ sơn cũng là từ bỏ con người cũ, nặng tính xác thịt, vị kỷ, kiêu căng, tham lam, háo danh háo của, để mặc lấy con người mới, xả kỷ vị tha, canh tân, sống theo Tin Mừng.
“Phải canh tân bao lâu? Phải luôn luôn khởi sự lại. Phải luôn luôn tu chỉnh thêm. Con đừng an nghỉ, bao lâu hôm nay con chưa tiến hơn hôm qua một bước trong sự hiệp nhất với Chúa. Con phải đinh ninh rằng: dừng lại là khởi sự thụt lùi xuống dốc, khởi sự thoái hóa.” (Đường Hy Vọng, 640 & 641)
Lạy Chúa Giêsu, kính xin Chúa biến đổi cuộc đời chúng con, từ tình trạng hư thân mất nết, chiều theo tính xác thịt và thế gian, mà hướng lòng lên cùng Chúa, biết sám hối, canh tân theo Tin Mừng, để được Chúa thương xót, cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria, xin mẹ giúp chúng con hướng lòng về tha nhân, trở nên kẻ phục vụ trong tin yêu, cũng như nhìn thấy Chúa Giêsu trong mọi người, để mến yêu và phục vụ tha nhân. Amen.
61.Một thoáng Thiên Đàng--AM Trần Bình An
Ngày xưa ông Mô sê đã hai lần lên núi Sinai mây phủ trắng xóa, suốt 40 đêm ngày mỗi lần, để được Đức Chúa ban Giao ước (Xh 24, 15-18 & Xh34, 1-28).
Sau này, khi ngôn sứ Elia tế lễ Đức Chúa thành công, đánh bại 450 tư tế thần Baal, liền bị hoàng hậu Jezabel cho người truy sát. Trên đường chạy trốn, vì quá mệt mỏi, ông than thở với Chúa: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (1V 19, 4). Ông nằm vật ra, chờ chết. Nhưng thiên sứ của Đức Chúa đã nuôi dưỡng ông, rồi chỉ ông đi 40 đêm ngày, đến núi Khô rép để gặp Đức Chúa.
Đến thời Tân Ước, trên núi Tabor, Chúa Giêsu hiển dung trước mặt ba môn đệ, Phêrô, Gioan và Giacôbê. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. (Mt 17,2) Và kìa, có hai nhận vật đàm đạo với Người, đó là ông Elia và ông Mô sê. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (Lc 9, 30-31). Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giê su rằng” Thưa Thầy chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Elia.” Thật ra ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng.(Mc 9, 5-6)
Như thế, các ông Mô sê, Elia, và ba môn đệ đã được diễm phúc cảm nhận Thiên Chúa vinh hiển, tựa gần như được chạm đến cõi Thiên Đàng. Nơi mà ông Mô sê phải lấy khăn che mặt, không dám nhìn trực diện Đức Chúa, nơi mà ngôn sứ Elia phải lấy áo choàng che mặt trước Đức Chúa, và nơi các môn đệ kinh hoàng, không biết phải nói gì trước nhan thánh Chúa Giêsu vô cùng sáng lạn.
Các Thánh nhân sau này cũng có vị được chạm đến ngưỡng cửa Thiên Đàng, qua những lúc xuất thần. Như Thánh nữ Faustina tiết lộ thị kiến: “Hôm nay trong thần trí tôi được ở trên Thiên Đàng và nhìn thấy những điều mỹ diệu, cũng như hạnh phúc tuyết vời đang chờ đợi chúng ta sau khi qua đời…Giờ đây, tôi hiểu được câu nói của Thánh Phaolô tông đồ: “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe và lòng chưa từng nghiệm được những gì Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những kẻ yêu mến Ngài.” (NK 777 -80)
Như thế, Thiên Chúa đã phần nào tiết lộ nguồn hạnh phúc vô biên trên cõi Thiên Đàng, dành cho những linh hồn nào được Ngài đón nhận mai sau. Những linh hồn đã chiến thắng ngoạn mục cả ba kẻ thù: thế gian, thân xác và ma quỷ, để sống mật thiết trong tình yêu cứu độ của Chúa Cứu Thế.
Lạy Chúa Giêsu xin giúp con biết hối cải, hy sinh, dốc lòng theo Chúa, để được hưởng phúc trường sinh trên Thiên Đàng.
Lạy Mẹ từ bi nhân hậu, xin dẫn dắt con về đường ngay nẻo chính, xin giúp con tu thân, tích đức, xứng đáng hưởng Thánh Nhan Chúa muôn đời. Amen.
62.Hạnh phúc thiên đàng--Lm. Minh Vận, CRM
Một nhà đại phú hộ người Pháp, suốt đời chỉ lo hưởng thụ mọi vinh hoa phú quí, dinh thự nguy nga đồ sộ, đầy tớ tấp nập, ra vào hầu hạ, yến tiệc xa hoa với mọi lạc thú trần gian... Rồi bỗng nhiên, một hôm ông ngã bệnh nặng, hết bác sĩ này đến danh y khác được mời đến điều trị bệnh tật cho ông với lời hứa, nếu cứu ông khỏi chết sẽ được hậu tạ, dầu phải chấp nhận bất cứ điều kiện nào... Nhưng sau khi chẩn mạch, khám nghiệm và gắng sức chữa chạy, tất cả các bác sĩ, danh y đều bó tay vì bệnh trạng của ông đã đến hồi vô phương cứu chữa.
Khi biết mình không thể sống nổi, nhà đại phú hộ rất buồn bã thất vọng, gọi vợ con đến trăng trối: "Khi ta chết rồi, hãy khắc vào một bia đá đặt trên mộ ta lời rất bỡ ngỡ nhưng chân thật này: "Đây là mồ chôn một kẻ khờ dại!"
I. NÚI TABORÊ HUY HOÀNG
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật sự kiện Chúa Kitô biến hình, tỏ vinh quang Người cho ba Tông Đồ Pherô, Gioan và Giacobê, cho ba ông thưởng nếm một chút hạnh phúc Thiên Đàng, khiến các ông cảm nghiệm được niềm vui sướng và khoái lạc tràn đầy, đến nỗi Thánh Pherô đã phải sửng sốt kêu lên: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Maisen và một cho Elia".
Thế rồi, lúc còn đang ngây ngất bỡ ngỡ trước cảnh thiên thai, huy hoàng thần tiên đó, bỗng có một đám mây bao phủ các ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán ra: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài". Giây phút vui sướng thần tiên qua đi, các ông bừng tỉnh nhìn chung quanh, không còn thấy ai nữa, duy có một mình Chúa Giêsu và các ông.
Mục đích cho ba môn đệ thân tín nhất của Chúa, được hưởng sự vinh quang và hạnh phúc trong cuộc Chúa biến hình hôm nay, là để củng cố niềm tin tưởng của các ông và các môn đệ khác; khiến các ông thêm can đảm và kiên trì trong gian lao thử thách sẽ gặp, nhất là khỏi thất vọng trước cuộc khổ hình đau thương và cái chết tất tưởi đẫm máu của Thầy mình.
II. TIÊN BÁO VINH QUANG BẤT DIỆT
Niềm vui sướng hạnh phúc ba vị được nếm hưởng hôm nay, chỉ là hình bóng một chút vinh quang bất diệt, Chúa đã sắm sẵn cho các tôi trung con thảo của Chúa trên Quê Trời. Sau đời gian truân thử thách trần gian qua đi, những tôi trung con thảo của Chúa sẽ được vào nơi đầy ánh sáng huy hoàng tráng lệ, tận hưởng niềm vui sướng khoái lạc triền miên, hạnh phúc vô cùng vô tận. Thân xác sẽ được phục sinh vinh quang và trường tồn, y phục sẽ trở nên trắng hơn tuyết và sáng ngời như mặt trời... Chính Thánh Phaolô, sau khi được thưởng nếm những giây phút hạnh phúc Thiên Đàng này, trong cuộc thị kiến nơi tầng trời thứ ba, đã chỉ có thể thuật lại bằng một câu nói rất vắn gọn này: "Mắt chưa hề xem, tai chưa hề nghe, lòng chưa hề cảm nghiệm được hạnh phúc mà Chúa đã sắm sẵn cho các tôi trung con thảo được Chúa yêu thương".
Ngay khi còn sống nơi trần gian này, Chúa cũng đã cho một vài vị Thánh được tiên hưởng những khoái lạc phúc đức đó trong giây lát. Cũng có khi cho thân xác các ngài được tiên hưởng hình bóng sự không hư nát của thân xác vinh quang sau này trên Nơi Vĩnh Phúc.
Trong cuốn sách nhan đề "The Incorruptibles", tác giả Jean Carrol Cruz đã đề cập đến 102 vị Thánh, được chôn cất đã nhiều năm trong hầm mộ, mà thân xác các ngài vẫn còn tươi tốt như lúc còn sinh thời, chẳng hạn như các vị sau đây:
Thánh Gioan Maria Vianney, Cha Sở họ Ars nước Pháp, sau 45 năm chôn cất, lúc cải táng trong dịp điều tra tôn phong Hiển Thánh, người ta thấy xác ngài vẫn còn tươi tốt y nguyên.
Thánh Albertô Cả, từ trần năm 1280, sau hơn 200 năm được cải táng, xác ngài vẫn còn nguyên vẹn.
Thánh Nữ Agatha, từ giã trần gian năm 251, thế mà sau 11 thế kỷ, vẫn không hề tan rữa.
III. ĐỂ ĐƯỢC ĐỒNG HƯỞNG VINH QUANG
Để được đồng hưởng vinh quang hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa trên Quê Trời, chúng ta cũng cần phải chết với Chúa: Chết cho tội lỗi, chết cho tính mê nết xấu, chết cho những đam mê thú tính, chết cho tính tự ái kiêu căng... và vâng giữ các giáo huấn Chúa Kitô dạy, như lời Chúa Cha đã tuyên phán: "Các ngươi hãy vâng nghe và tuân giữ lời Ngài".
Trần gian không phải là nơi hưởng thụ như nhà đại phú hộ trên kia. Ông chỉ lo tận hưởng những khoái lạc trần gian, mà không màng chi tới hạnh phúc trường tồn trong đời sống mai hậu, nên cuối đời ông đã phải thất vọng trăng trối, đặt trên mồ ông tấm bia khắc ghi lời quả quyết thú nhận sự lầm lỡ của mình: "Đây là mồ chôn một kẻ khờ dại!"
Trái lại, trần gian chính là đường dẫn chúng ta, là những người lữ hành đang tiến về Quê Hương Vĩnh Cửu. Vì trần gian là chốn đền tội, là nơi lập công, là trường tập đức, đào tạo chúng ta nên những kẻ anh hùng chiến thắng, những công dân Nước Trời, những vị Thánh, những con ngoan thảo của Thiên Chúa, sẽ được khải hoàn vinh quang tiến về Quê Hương Chân Thật giữa muôn ngàn Thần Thánh.
Kết Luận
Thánh Phaolô Tông Đồ đã căn dặn chúng ta phải ghi tâm khắc cốt lời này: "Đây là thời thuận tiện, đây là ngày cứu độ". Bao lâu còn sống trên trần gian, chúng ta còn thời giờ để lập công đức, để khi giờ Chúa gọi ra đi, chúng ta khỏi hối tiếc thất vọng.
Nếu chúng ta biết: "Vâng nghe lời Con Chúa" truyền dạy, chắc chắn chúng ta sẽ đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban.
63.Sống trọn ơn gọi của mình--Lm. Tuấn Bình, CRM
Theo tường trình của các nhà tâm lý ở Hoa kỳ thì số người tìm đến để giúp trị liệu ngày càng gia tăng, đặc biệt là giới trẻ, vì một lý do rất đơn giản là họ không tìm được mục đích và ý nghĩa của cuộc sống. Điều khiến tôi ngạc nhiên hơn cả là trong số này cũng có rất nhiều người Công giáo. Nếu là người Công giáo tại sao không chịu mở sách Giáo lý ra mà tìm hiểu để khỏi phải mất công tốn của đi nhờ các nhà tâm lý. Vì chưng, sách Giáo lý Công giáo ngay từ những hàng đầu tiên đã khẳng định rằng: mục đích chúng ta sống ở đời này là để nhận biết và mến yêu Thiên Chúa, rồi từ đó phát sinh hiệu quả thương yêu mọi người như anh chị em và cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp... để sau cùng trở về với Thiên Chúa là Đấng đã gọi chúng ta ra đi cũng là Đấng mong ngóng chúng ta trở về. Đây chính là ơn gọi phổ quát mà mọi người sinh vào trần gian được kêu mời để đạt tới, vì nó bao trùm hết những ơn gọi khác mà chúng ta vẫn hằng đáp trả qua những tiếng xin vâng nối tiếp nhau trong cuộc sống.
Để đạt được mục đích tối hậu của cuộc sống con người, Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào những bậc sống khác nhau với quyền tự do chọn lựa: kẻ sống độc thân, người lập gia đình, và có một số rất ít chọn cuộc sống tu trì. Trong mỗi bậc sống đó, Thiên Chúa liên tục mời gọi chúng ta dưới nhiều hình thức để thăng tiến bậc sống mình đã chọn. Nói chung, dù ở bậc sống nào chăng nữa thì tất cả cũng chỉ là phương tiện để chúng ta tìm gặp Chúa mà thôi. Do đó, điều quan trọng không hệ tại bậc sống nhưng hệ tại việc chúng ta lợi dụng các phương tiện Chúa ban để sống trọn ơn gọi của mình.
Để gầy dựng một dân riêng, Giavê đã mời gọi Abram từ bỏ quê cha đất tổ, đi đến miền đất xa lạ mà ông chưa từng biết đến. Sau đó, lại truyền cho ông sát tế Isaac là người con duy nhất để làm của lễ toàn thiêu... Tuy ngập ngừng và khó hiểu nhưng ông vẫn vâng nghe và nhờ đó đã trở thành tổ phụ của một dân tộc hùng vĩ. Đang khi hăng say bắt bớ các Kitô hữu, thánh Phaolô được Chúa mời gọi để đem Tin Mừng cho dân ngoại. Dẫu sợ sệt và cảm thấy mâu thuẫn nhưng ông cũng can đảm vâng nghe và đã trở thành rường cột của Giáo hội. Ba thánh tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan trong bài Phúc âm hôm nay cũng được Chúa mời gọi lên núi để chiêm ngưỡng dung nhan vinh hiển của Ngài. Mặc dù các ông rất thích đến nỗi muốn dựng lều để được ở luôn trên đó, nhưng vì Chúa muốn cách khác nên các ngài lại xuống núi. Chính vì sự mau mắn vâng nghe đó mà sau này chẳng những các ông được chiêm ngưỡng, nhưng còn được dự phần vào vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu nữa.
Điều này tỏ cho chúng ta thấy rằng cuộc sống của mỗi người, dù có đi lên hay bước xuống, rẽ trái hay quẹo phải, tất cả đều có thể đạt được mục đích tối hậu là chiếm hữu được Chúa, nếu chúng ta bước theo tiếng gọi của Ngài. Nói theo kiểu bình dân thì cuộc đời dẫu lên voi hay xuống chó đều có thể gọi là một cuộc đời thành tựu nếu chúng ta biết chấp nhận giới hạn của mình và làm cho nó thăng tiến theo chiều hướng thích hợp với những giới hạn đó. Không ai hạnh phúc cho bằng người biết chấp nhận và vui với những gì có được trong tầm tay. Chúa không dựng nên bất cứ ai trong chúng ta chỉ để ăn hại, nhưng Ngài dựng nên mỗi người với một dụng ý riêng. Cũng mười ngón tay thon dài như nhau nhưng của người này thì Chúa muốn họ dùng để đánh đàn, viết sách, còn của kẻ khác thì Ngài mời gọi họ dùng để trồng cây hoặc đào mương, vét giếng... Chính vì vậy mà không ai có quyền tự hào cho rằng ơn gọi hay công việc của mình cao trọng hơn của người khác. Bởi lẽ, nếu để hoàn thành ơn gọi của mình theo ý Chúa mà làm công việc hèn mọn như làm đầy tớ cả đời thì cũng cao đẹp và công phúc như người có bổn phận xây nhà thờ cho Chúa vậy. Điều can hệ là chúng ta đã tận dụng các khả năng Chúa ban để nhận ra và đáp trả lời mời gọi của Ngài trong cuộc sống hay không mà thôi.
Xin Mẹ là Đấng đã mau mắn và tự tình thưa lời "Xin Vâng" với Chúa giúp chúng con biết lắng nghe và mau mắn thưa lời "Fiat" với ơn Chúa soi động trong cuộc sống thường ngày, để ngày sau được cùng Mẹ thông phần vào vinh quang rực rỡ của Chúa Kitô Phục Sinh. Amen.
64.Đệ tam nhãn--Lm. Vincent Travers
Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Tabôrê. Phêrô la lên: "Lạy Chúa, chúng ta ở đây thú vị biết bao!". Thật thế, các ông thấy được một khía cạnh nơi Chúa Giêsu mà các ông chưa bao giờ nhìn thấy trước đó. Điều nầy lưu lại một ấn tượng sâu xa giúp các ông đứng vững trong những ngày đen tối đầy thử thách đang trải dài trước mắt các ông. Từ đây trở đi, Chúa Giêsu không chỉ đơn thuần là một rabbi, con ông thợ mộc ở Nagiarét. Giờ đây Ngài là Đức Kitô, con yêu dấu của Thiên Chúa.
Đã thấy vinh quang
Dòng chữ đầy ý nghĩa nhất ở trong phần mở đầu của đoạn Phúc Âm nầy là: "Chúa Giêsu đã đem ông Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện." Chúng ta cũng có thể nhớ lại một dịp về sau khi Ngài đem riêng bộ ba đó theo Ngài. Đó là khi ở trong vườn Giếtsêmani. Ở trên núi Tabôrê họ đã thấy vinh quang của Chúa. Ở trong vườn cây dầu, họ đã chứng kiến cảnh hấp hối của Chúa. Đó là lúc trèo lên núi cao. Đó là lúc tụt xuống đất thấp. Ở trên cao họ đã được hỗ trợ cho khi phải xuống đất thấp. Kinh Tiền Tụng trong Thánh Lễ Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay đã ghi lại như sau: "Ngài đã mạc khải vinh quang của Ngài để tăng sức cho họ khi phải đối diện với sự nhục nhã của thập giá." Thật đúng như vậy, nhưng một câu hỏi đã được đặt ra: "Còn đối với chúng ta thì sao?".
Chúng ta có thể đối đầu với nhiều chống đối và bách hại, thử thách và áp lực, nếu chúng ta có được một dấu chỉ về sự hiện diện của Chúa cho thấy rồi ra cuối cùng mọi sự sẽ được êm xuôi, đâu vào đấy. Chúng ta có điều gì để bám víu vào, có mạc khải nào cho thấy chúng ta sẽ trải qua cơn khủng hoảng khi mất đi một người thân yêu, khi bị sa thải mất việc hoặc bị chối bỏ trong một sự tương giao... mà những điều đó xem ra là cả một vũ trụ đối với chúng ta? Câu trả lời là "có". Trong thực tế, chúng ta đã có những lúc được thấy Chúa biến hình khi Ngài tự mạc khải cho chúng ta. Chỉ cần chúng ta thấy - thấy và nhận thấy điều gì đang xảy ra đó. Sự nghịch lý lớn lao ở trong Thánh kinh là: "ai có đôi mắt thì bị mù, còn ai mù thì có thể thấy".
Thiên Chúa vô hình
Những nhà thần bí học đã đề cập đến đệ tam nhãn - con mắt thứ ba. Họ nói tới việc nhìn thấy với con mắt của tâm hồn. Họ nói cho chúng ta rằng nếu chúng ta nhìn xem bề ngoài thì chúng ta đánh mất điều cơ bản, cái thực tại ở bên trong. Có một câu đầy ý nghĩa trong sách "The Little Prince"(Vị Tiểu Hoàng Tử). Câu đó là: "Điều gì cơ bản thì con mắt không thể thấy được."
Một quyển sách khác - quyển "Reaching For The Invisible God"(Đạt Tới Thiên Chúa Vô Hình) - đã đặt câu hỏi: "Ở đâu chúng ta có thể trông mong gặp được Thiên Chúa Vô Hình?".Joseph Mary Plunket, thi sĩ người Ái-Nhĩ-Lan là với khả năng con người, đã nhìn thấy Thiên Chúa vô hình ở trong thiên nhiên. Ông đã cảm hứng viết ra bài thơ sau đây:
"Tôi đã thấy huyết Ngài trên đóa hoa hồng,
Và vẻ đẹp của đôi mắt Ngài trên những vì sao.
Thân thể Ngài chiếu sáng giữa màn tuyết trắng muôn thuở,
Những giọt lệ Ngài rơi lã chã từ bầu trời cao."
Thiên Nhiên đã cung ứng cho thi sĩ Plunket những dịp biến hình và ngạc nhiên thay, ông đã chiêm ngắm vinh quang Thượng Đế trong một đóa hoa tươi, một hạt mưa rơi và một cụm tuyết trắng.
Chúng ta cũng thế, chúng ta được diễm phúc nhìn thấy Thiên Chúa vô hình với khả năng con người chúng ta. Phải chăng đôi khi chúng ta đã không hỏi một người thân yêu hãy "nhận ra chúng ta" trong đám quần chúng đông đảo sao? Sự thật họ đã nhận ra và chúng ta vui sướng biết bao khi thấy họ nhận ra chúng ta trong đám đông đó. Chúng ta hãy nhận ra Thiên Chúa với con mắt của tâm hồn. Ngài đến với chúng ta không phải theo cung cách chúng ta nhưng theo cung cách của Ngài. Có thể chúng ta không nhận chân sự hiện diện của Ngài trừ khi chúng ta cố nhìn ra Ngài.
Thiên Chúa trong tô cháo gà
J.D. Salinger đã viết quyển sách "Fanny and Zooey" khiến người đọc phải choáng váng. Một cảnh gây nên ấn tượng lớn là khi Fanny từ trường cao đẳng về nhà, thần kinh bại hoại thê thảm. Cô đang nghiên cứu tỉ mỉ nền thần bí học về đạo giáo và cố gắng đó đã khiến cô căng thẳng tột độ. Thêm vào đó, mẹ cô cảm thấy lo lắng bồn chồn và để biểu lộ điều đó, bà đã dọn cho cô một tô cháo gà. Fanny rõ biết mẹ cô đang ra sức vỗ về cô nhưng sự trao tặng đó chọc giận cô khiến cô văng tục.
Em trai Fanny đang ngồi bàn ăn, nhảy nhổm lên và đối đầu với cô. Cậu thẳng thừng bảo cô là toàn bộ lối tiếp cận của cô đối với tôn giáo đều sai lầm hết: "Nếu tôn giáo là điều chị truy tầm, thì đây là lúc có người nói cho chị biết là chị đang đánh mất mỗi một tác động về tôn giáo đang xảy ra trong căn nhà nầy. Chị không có chút nhận thức khi thưởng thức một tô xúp đã được thánh hóa và đó là loại xúp duy nhất mà mẹ dọn ra trên bàn ăn nầy."
Cậu em đã thấy điều mà cô chị không thấy. Cậu đã nhìn thấy với đệ tam nhãn, sự mạc khải của tình yêu Thiên Chúa ở trong tô cháo gà của mẹ cậu. Fanny mù mắt. Cô có đôi mắt nhưng cô đã không thể thấy. Cô đã không thể thấy Đức Kitô ở trong cuộc sống tầm thường. Cô không thể thấy Ân sũng Thiên Chúa trong một tô cháo gà. Có thể cô đã ganh tị với Phêrô, Giacôbê và Gioan ở trên núi Tabôrê, nhưng cô cũng có một kinh nghiệm về biến hình và giả như cô đã quan sát, có thể cô đã được biến đổi và cô sẽ la lên: "Lạy Chúa, Con tạ ơn Chúa, thật thích thú được ở nơi đây, tại bàn ăn nầy."
Sự mạc khải có thể đã nuôi dưỡng cô, nâng đỡ cô khi xuống tinh thần và giúp đỡ cô qua cơn khủng hoảng.
Thiên Chúa ở đây
Đối với chúng ta thì sao? Chúng ta cũng có thể chứng kiến những cuộc biến hình trong đời sống chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta điều đó nhưng thường khi đôi mắt chúng ta mất cơ hội thấy Ngài trong cuộc sống thường nhật, khi chúng ta thưởng thức một tô xúp nóng, khi ngắm xem một buổi chiều tà hay một đóa hoa xinh, khi được trao tặng một nụ cười tươi, khi đón tiếp những người anh chị em bất hạnh nhất của chúng ta. Thánh kinh cho chúng ta rõ hoặc là chúng ta thấy Chúa khắp mọi nơi hoặc là chúng ta không thấy Ngài ở đâu hết. Mỗi một cuộc thăm viếng của Thiên Chúa vô hình là một lúc đầy ân sũng khiến chúng ta phải la lên: "Lạy Chúa, chúng con ở đây thật thích thú biết bao!"
Thích thú cho đến đỗi Phêrô, Giacôbê và Gioan đã muốn ở lại mãi trên đỉnh núi Tabôrê. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn dắt họ xuống núi. Không ai sống mãi trên một đỉnh núi. Thỉnh thoảng lên đó một lúc và rồi sau đó phải đi xuống thật xa để có những hoài vọng và cảm hứng mới. Chúng ta phải xuống núi. Sống là sống trong những thung lũng, làng mạc và thị thành. Chính ở đó có nhà cửa, trường ốc, bệnh xá, nhà tù, công sở, hảng xưởng và dinh thự...Đó là nơi người ta sinh hoạt, nơi có sự yêu thương và tha thứ, nơi có được miếng cơm manh áo, nơi vác thánh giá hằng ngày, nơi pha lẫn tiếng khóc và tiếng cười, đàn hát nhảy múa kể cả sinh hoạt cho phần rỗi linh hồn. Đó là nơi làm cho những mảnh đời chúng ta có ý nghĩa. Đó là nơi chúng ta đem thi thố những hoài bão và ước vọng. Chúng ta nên làm chiếu tỏa ánh sáng của núi Tabôrê trong đời sống chúng ta, ánh sáng mà qua đó bộ mặt nhân loại của chính Thiên Chúa được mạc khải.
65.Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Điều các tông đồ thấy nơi Đức Giêsu khi Ngài hiển dung trên núi khác với điều các ông thấy nơi Ngài hằng ngày ở chỗ nào? Trường hợp nào các ông thấy được bản chất của Ngài?
2. Chúng ta cần hành xử với mọi người đúng theo bản chất con người họ, hay theo những gì chúng ta thấy ở bên ngoài? Bản chất đích thực và sâu xa nhất của mỗi người là gì?
3. Bản chất đích thực của mọi người chung quanh ta – là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa – có hiện ra trước con mắt đức tin của ta không? Ta thường hành xử theo con mắt đức tin hay theo con mắt xác thịt?
Suy tư gợi ý:
1. Bản chất và hiện tượng
Khi cứu xét một sự vật, dù lớn hay nhỏ, tâm hay vật, trừu tượng hay cụ thể… bất cứ triết lý nào, đông phương cũng như tây phương, đều nói đến và phân biệt hai phạm trù căn bản này: bản chất và hiện tượng.
– Hiện tượng: là những gì hiện ra trước mắt mọi người, thấy được dễ dàng, và thường thay đổi, nay thế này mai thế khác. Chẳng hạn, đối với một người, thì hiện tượng là những gì liên quan đến hình dạng (khuôn mặt, chiều cao, vẻ đẹp, mầu da), khả năng (trình độ văn hóa, nghề nghiệp, chuyên môn, tài nghệ), tính nết (quan niệm, tư tưởng, thói quen, các khuynh hướng), sở hữu (sự giàu nghèo, của cải, nhà cửa), v.v…
– Bản chất: là cái sâu thẳm bên trong, khiến cho một vật là chính nó, chỉ thấy được bằng trí tuệ, và tương đối không thay đổi.
2. Khi Đức Giêsu hiển dung, các tông đồ thấy được bản chất của Ngài
Khi sống với Đức Giêsu, các tông đồ chỉ thấy được những hiện tượng bên ngoài của Thầy mình: thân xác, thói quen, lời nói, việc làm, với những lời giảng dạy, những phép lạ, v.v… Từ đó các ông dự đoán về bản chất của Thầy mình: trước hết Ngài là một Thầy Đạo vì Ngài dạy về đạo lý, tôn giáo; kế đến Ngài là người được Thiên Chúa sai đến, là người của Thiên Chúa, vì Ngài có thể nhân danh Thiên Chúa mà làm phép lạ, chữa bệnh, trừ quỉ… Sự hiểu biết của các ông về bản chất của Ngài chỉ là dự đoán, căn cứ trên những hiện tượng mà các ông thấy được, tuy đúng, nhưng chưa phải là bản chất đích thực và sâu xa của Ngài.
Nhưng vào thời điểm của bài Tin Mừng này, các ông được nhìn thấy nhãn tiền bản chất của Thầy mình qua những hình ảnh mang tính biểu tượng diễn ra trước mắt các ông. Ngài đứng giữa Môsê và Êlia, là hai nhân vật vĩ đại tiêu biểu cho Lề Luật và các ngôn sứ, là hai thực tại nền tảng của tôn giáo Do Thái. Đứng giữa hai ông, điều đó có nghĩa là Ngài lớn hơn hai ông. Toàn cảnh – với y phục rực rỡ, mây trắng bao phủ – biểu tượng cho sự vinh quang cùng tột của Ngài. Câu nói từ trong đám mây phán xuống cho các ông biết rõ bản chất đích thực của Ngài: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Vậy thì Ngài chính là Con Thiên Chúa. Điều các ông thấy bằng mắt, nghe bằng tai về Thầy mình hôm nay là bản chất đích thực của Ngài, khác với bình thường các ông chỉ thấy những hiện tượng bên ngoài của Ngài.
3. Chúng ta cần thấy được bản chất của mình và tha nhân
Trong đời sống, chúng ta chỉ nhìn thấy được những hiện tượng bên ngoài của sự vật, của người này người nọ. Và qua những hiện tượng ấy, tâm trí ta tìm kiếm, khám phá ra bản chất của sự vật, của con người. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào những hiện tượng bên ngoài, sự phán đoán của ta về bản chất của sự vật hay của con người có thể sai lầm. Thấy được bản chất đích thực của người, việc, vấn đề ta gặp trong cuộc đời là điều hết sức quan trọng để chúng ta hành xử đúng, thích hợp.
Trong đời sống, rất nhiều khi chúng ta đối xử với người khác, theo những hiện tượng mà ta thấy được nơi họ, chứ không theo bản chất đích thực của họ. Hiện tượng là cái có thể thay đổi, nay còn mai mất, nay thế này mai thế khác: như của cải, tài năng, quyền lực… Thật vậy, nhiều người hôm trước còn giàu nứt khố đổ vách, hôm sau biến thành trắng tay. Nhiều người khi gặp lại sau nhiều năm xa cách, ta không ngờ được tính tình của họ đã đổi trắng thay đen quá nhanh chóng và sâu xa… Nói cụ thể hơn, nhiều khi cách chúng ta đối xử với tha nhân tùy thuộc vào sự giàu nghèo, vào quyền lực, vào tính nết của họ… Chúng ta không nhìn vào bản chất đích thực của họ và đối xử theo bản chất ấy.
4. Bản chất đích thực của con người: là hình ảnh và là con cái của Thiên Chúa, được dựng nên giống như Ngài
Sự hiển dung của Đức Giêsu cho các tông đồ và cho cả chúng ta thấy bản chất đích thực của Ngài. Kinh Thánh, hay đức tin, cho ta biết bản chất đích thực và sâu xa nhất của ta và của những người mà ta gặp trong cuộc đời. Họ và ta đều được Thiên Chúa tạo dựng “theo hình ảnh của Ngài” (St 1,27; 9,6; Ep 4,24), “giống như Ngài” (St 1,26; 5,1), để trở thành “con cái Ngài” (Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10). Họ và ta đã được Thiên Chúa “ban tặng một điều rất quý báu và trọng đại” là “được thông phần bản tính của Ngài” (2Pr 1,4). Mà bản tính của Ngài là thần linh, nên khi “được thông phần bản tính của Ngài”, một cách nào đó, họ và ta cũng mang bản tính thần linh nơi bản chất mình (x. Tv 82,6; Ga 10,35). Đức tin Kitô giáo cho chúng ta thấy phẩm giá nội tại của con người thật hết sức cao cả. Nếu nhìn bằng con mắt đức tin, và thật sự hành xử đúng theo những gì đức tin đòi hỏi, chúng ta sẽ phải coi trọng chính bản thân mình và mọi người chung quanh ta biết bao!
Coi trọng bản thân đòi buộc ta phải sống thánh thiện, tốt lành, cao thượng xứng với bản chất cao quí của mình. Sống hèn hạ, tội lỗi không chỉ là tự khinh rẻ bản thân mình, mà còn giống như làm dơ bẩn hay chà đạp hình ảnh của Thiên Chúa. Một cách nào đó, đó là vũ nhục Thiên Chúa. Tương tự như con của một ông vua mà sống một cách hèn hạ, nhục nhã, mất phẩm giá, điều này làm mất mặt nhà vua, làm nhà vua phải xấu hổ trước mặt thần dân.
Coi trọng mọi người đòi buộc chúng ta phải cư xử với họ đúng với bản chất cao quí của họ. Bất cứ ai, hễ đã là người thì ta đều phải coi trọng, cho dù người đó hiện ra thế nào trong thế giới hiện tượng: nghèo nàn, dơ bẩn, hèn hạ, xấu xa, tội lỗi, hay có những hành vi bỉ ổi, đáng khinh… Dù họ thế nào, hễ đã là người, thì họ đáng kính trọng, chính vì bản chất của con người rất cao trọng. Luật pháp các nước nói chung đều cho việc cố ý giết người là một tội nặng, đáng chịu hình phạt nặng nhất, cho dù người bị giết là người có những hành vi hèn mạt hay tội lỗi đến đâu. Điều đó cho thấy luật pháp các nước đã nhìn nhận phẩm giá cao quí của con người, bất chấp con người thế nào.
Là người Kitô hữu, đúng ra ta phải luôn luôn thấy mọi người đều “hiển dung” trước con mắt đức tin của mình, nghĩa là ta phải thấy được bản chất đích thực rất cao quí của mọi người. Nếu ta thật sự tôn trọng và yêu mến Thiên Chúa, thì tất nhiên ta phải tôn trọng và yêu mến con cái của Ngài, hình ảnh của Ngài, là những con người cụ thể chung quanh ta. Thiên Chúa thì vô hình, nhưng hiện thân của Ngài thì rất hữu hình bên cạnh ta, chung quanh ta. Nếu ta không tôn trọng và yêu mến những hiện thân cụ thể ấy của Ngài, thì sự tôn trọng và yêu mến Ngài nơi ta chỉ là một ảo tưởng. Thánh Gioan nói: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).
Cầu nguyện
Lạy Cha, việc Đức Giêsu hiển dung trước mắt các tông đồ khiến các ông nhìn thấy bản chất đích thực và cao trọng của Ngài là Con Thiên Chúa. Nếu con mắt đức tin của con còn trong sáng, tinh nhuệ, ắt con cũng thấy mọi người chung quanh con “hiển dung” trước mắt con với bản chất rất cao trọng của họ: là hình ảnh và là con cái của Cha. Xin cho con biết biểu lộ lòng yêu mến và tôn trọng Cha một cách cụ thể qua việc yêu thương và quí mến những người đang sống chung quanh con, bất chấp họ là người thế nào.
66.Tình yêu tận hiến--Lm. Anphong Trần Đức Phương
Chúng ta đã bước sang Chúa Nhật II Mùa Chay. Trong Chúa Nhật II Mùa Chay, bài Phúc Âm cả ba chu kỳ năm A (Matthêu 17: 1-9), năm B (Matcô 9: 2-10), và năm C (Luca 9:28-36) đều nói đến việc Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao cầu nguyện và Ngài ‘biến hình’ trước mặt các ông. Tuy có một vài chi tiết nhỏ khác nhau, nhưng cả ba Thánh Sử đều ghi lại ‘dung nhan Chúa Giêsu biến đổi, sáng láng, áo Ngài trắng tinh tuyền…’; rồi các ông cảm thấy thật hạnh phúc và muốn ‘dựng lều’ để ở lại trên đó luôn. Đặc biệt cả ba Thánh Sử đều ghi lại lời Chúa Cha nói: “Này là Con ta yêu dấu!...” Đây cũng là lời Chúa Cha nói về Chúa Giêsu sau khi Chúa Giêsu chịu Phép rửa của Thánh Gioan Tẩy Giả (Matthêu 3:17). Lời này nhắc đến Thánh vịnh 2,7 “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con!” và lời tiên tri Isaia “Đây là tôi tớ Cha, Ta hài lòng về Người” (Isaia 42:1).
Bài Đọc I trong cả năm A, năm B và năm C đều nói về tổ phụ Abraham. Ông Abraham đã được coi như người Cha của những người có lòng tin nơi Chúa (The Father of Believers). Ông đã tin tưởng tuyệt đối nơi Chúa là Đấng đã gọi ông và ông đã vâng theo lời Chúa, từ bỏ quê hương của mình là đất Ur và ra đi đến nơi Chúa chỉ cho ông là đất Palestine (Năm A: Sáng Thế 12: 1-4). Thiên Chúa đã ký kết với ông một giao ước cho dòng dõi của ông tồn tại và phát triển và được hưởng phần đất Palestine làm gia nghiệp (Năm C: Sáng Thế 15: 5-12, 17-18). Abraham đã thấy rõ tình yêu thiên Chúa đối với ông. Ông luôn luôn tin tưởng nơi Chúa và chấp nhận mọi thử thách, gian nan trong cuộc sống theo Thánh ý Chúa. Cả khi Chúa thử thách ông và bảo ông hy sinh người con trai duy nhất của ông là Isaac cho Chúa, ông đã sẵn sàng ngay (Năm B: Sáng Thế 22: 1-2,9,10-13,15-18). Dù Isaac không bị giết, nhưng tấm lòng của Abraham đã chứng tỏ niềm tin và tình yêu tuyệt đối của ông đối với Chúa, sẵn sàng hy sinh tất cả để đáp trả tình yêu Chúa.
Bài Đọc II (Roma 8: 31-34) nhắc đến tình yêu muôn đời của Thiên Chúa đối với chúng ta; đã tạo dựng chúng ta “theo hình ảnh Chúa”, cho chúng ta vượt xa mọi loài thụ tạo, chúng ta có xác, và cũng có hồn thiêng, được chung hưởng cuộc sống đời đời với Chúa. Hơn nữa, cũng vì yêu thương chúng ta, ‘Thiên Chúa đã hy sinh chính Con một yêu dấu của Ngài để hy sinh đền vì tội lỗi chúng ta!”
“Tình yêu đáp trả tình yêu!”
Mùa Chay là thời gian ‘thuận tiện’ để chúng ta suy gẫm về tình yêu Chúa đối với nhân loại và mỗi người chúng ta. Chúng ta đã làm gì để đáp trả lại tình yêu của Chúa đối với chúng ta. Chúng ta có dám hy sinh tất cả DANH, LỢI, THÚ để sống trọn vẹn cho Chúa, để hoàn toàn tận hiến cho Chúa, dám cùng chết đi với Chúa theo tính xác thịt của chúng ta, từ bỏ tính hư nết xấu, chết đi thật cho tội lỗi để có thể sống lại thật với Chúa trong Mùa Phục Sinh.
Cuộc đời là một thử thách không ngừng qua các lỡ làng, đau khổ hàng ngày, mà bản tính con người lại thích an hưởng, thích ‘dừng lại’ và ‘dựng lều’; nhưng thử thách cứ luôn xảy ra, và mỗi người chúng ta đều “phải chịu nhiều gian khổ mới được vào nước Thiên Chúa!” (Công Vụ Tông Đồ 14,22). Chính Thánh Phêrô cũng muốn ‘dựng lều’ để hưởng hạnh phúc êm đềm khi Chúa ‘biến hình’; nhưng không được, Thày trò phải ‘xuống núi’, phải đối diện với thực tế, với bao gian truân vất vả trên đường truyền giáo, rồi cũng phải chịu khó khăn và chịu chết.
Xin cho chúng ta luôn biết nhìn lên Thập Giá của Chúa, để can đảm “bỏ mình đi, vác thánh giá hàng ngày theo chân Chúa” (Matcô 8, 34…) đến đỉnh núi Gôn-gô-ta, và chấp nhận thử thách cuối cùng là cái chết, ‘chịu táng trong mồ’, để có thể ‘được sống lại và lên trời vinh hiển’, hưởng hạnh phúc đời đời với Mẹ Maria, các Thiên Thần và các Thánh.
67.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Văn Phan
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một dịp nhìn lại cá tính và đức tin của Abraham. Lệnh truyền sát tế Isaac, người con duy nhất sinh ra trong lúc tuổi già, thì thật là vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không có người con Isaac này? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống của Isaac được dành lại.
Đức tin và lòng vâng phục của Abraham trở nên gương mẫu cho tất cả chúng ta noi theo. Ông luôn đón nhận lời Chúa và đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, ngay cả những khi đức tin của ông bị thử thách vượt qua mọi giới hạn. Như Abraham ngày xưa, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi lên đường đi đến một vùng đất chưa hề biết, đặc biệt nhiều khi hoàn cảnh chung quanh làm cho đức tin chúng ta trở nên không thể hiểu được, hầu như là vượt khỏi khả năng suy nghĩ của con người. Những lúc khủng hoảng, như cái chết của người thân yêu làm cho cuộc đời trở nên u ám, thì chúng ta lại càng cần tín thác vào Lời Chúa. Chúng ta đang đi nhờ ánh sáng đức tin chứ không phải bằng đôi mắt trần (2Cr 5,7). Một khi chúng ta tin tất cả những gì Chúa nói và Chúa làm, không phải vì chúng ta đã thấy, nhưng chỉ vì Lời Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa đang hiện diện trong lòng chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một biến cố đáng kinh ngạc trong cuộc đời Đức Chúa Giêsu: Biến Hình trên Núi. Các tông đồ đã hoàn toàn bị 'hớp hồn' khi được nhìn thấy vinh quang Đức Kitô trong phút giây, và nhất là khi được mạc khải cho biết Thầy của mình là ai: "Này là Con Ta yêu dấu. Hãy lắng nghe Lời Người."
Biến cố hồng phúc hôm nay sẽ giúp các ông chịu đựng đêm tối trong vườn Giệtsêmani, khi phải chứng kiến cơn hấp hối của Chúa Giêsu. Những giây phút vui vẻ khi mọi sự đều hòa hợp "đâu vào đấy" thì rất hiếm hoi và họa hoằn "năm thì mười họa". Không ai có ý bảo chúng ta phải ngồi đó mà trông chờ Chúa Biến Hình, nhưng chúng ta được kêu mời theo chân các tông đồ leo lên núi, tiếp tục suy tư sứ điệp ẩn tàng trong Lời Chúa và thực tâm sống sứ điệp ấy với lòng xác tín sâu xa. Chỉ qua khổ nạn và cái chết, Đức Kitô mới đi vào trong vinh quang phục sinh. Nếu Người biến đổi thân xác đầy thương tích của chúng ta và làm cho chúng ta rập khuông với thân xác vinh hiển của Người, thì con đường chúng ta đi chính là con đường thương khó của riêng Chúa thôi.
Biến cố Biến Hình hôm nay nói với chúng ta không chỉ về những giai đoạn thử thách và khổ đau của chúng ta mà còn về vinh quang tiềm tàng dành sẵn cho chúng ta, với điều kiện là chúnt ta luôn luôn đi theo con đường của Chúa với một niềm tin tưởng cậy trông, không bao giờ ngã lòng thất vọng.
Mùa Chay cho chúng ta một cơ hội quý báu để nhìn lại chính mình với những an toàn giả tạo mà chúng ta cứ khư khư ôm lấy không chịu vất bỏ trên con đường lữ hành. Mùa Chay nhắc nhở chúng ta rằng một cuộc sống mà không duyệt xét lại thì không đáng sống. Để cho Mùa Chay này tràn đầy ơn phúc, giúp chúng ta trở thành những người dễ thương, quảng đại và chân thực, chúng ta phải chết đi cho những lối sống của thế gian bằng cách hy sinh và từ bỏ chính mình. Có lẽ không ai trong chúng ta sẽ được kêu gọi hiến tế đứa con duy nhất như Abraham xưakia, nhưng phần đông chúng ta được kêu gọi quay lưng lại với tính ích kỷ của mình và tránh xa những lời nói việc làm gây bất an trong gia đình hay đầu độc cuộc sống cộng đồng. Để thắng vượt những yếu hèn tội lỗi và trở nên con người trưởng thành chín chắn, chúng ta cần kiên nhẫn và nỗ lực suốt đời người, vì không có gì đáng giá mà lại đơn giản và dễ chiếm đoạt.
68.Hãy lắng nghe--Rolland Dionne
Tha hồ lựa chọn.
“Hãy hoán cải, hãy tin vào Tin Mừng”. Lời mời gọi này, Chúa Giêsu còn nói với chúng ta hôm nay như Ngài đã nói với thính giả xứ Galilê vào lúc khai mạc công trình rao giảng. Phải chăng đó chỉ là tiếng kêu trong sa mạc? Chúng ta còn tin vào Tin Mừng của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta không?
Sự lựa chọn mà đức tin đòi hỏi không phải là điều dễ dàng. Sự lựa chọn này khó khăn bởi vì nó sẽ mang đến nhiều điều hệ lụy và đưa chúng ta vào những tình huống không thể thoái lui được. Có vô số những vị “giảng đạo” xuất hiện trước cửa nhà chúng ta và lui tới trong các khu xóm của chúng ta. Các giáo phái phát triển mỗi ngày một nhiều. Những kẻ tuyên truyền nói hay đến nỗi họ có thể hoán cải cả quỉ dữ nữa và nhất là khéo léo gieo nghi ngờ vào lòng những người xác tín nhất. Ta tự hỏi: Phải tin gì đây? Phải nghĩ gì đây? Ai là ngôn sứ thật? Ai có thể nói cho chúng ta biết điều này?
Tầm quan trọng của việc lắng nghe.
Một trong những nỗi bất ổn lớn nhất của thế giới chúng ta, đó là thiếu sự lắng nghe. Lắng nghe, hiện nay là cách điều trị tốt nhất đối với nhiều người. Trong mùa chay này, chúng ta được mời gọi lắng nghe: “Đây là Con chí ái của Ta, hãy lắng nghe lời Ngài”. Theo Thánh Kinh, lắng nghe không phải chỉ là nghe bằng tai nhưng là để cho mình được uốn nắn, giáo dục, hoán cải. Thiên Chúa nói về những người chống lại luật của Ngài: “Chúng không nghe lời Ta”.
Cũng như những kẻ được chứng kiến cuộc biến hình, chúng ta được mời gọi lắng nghe, được mời gọi đi vào sự biến hình của Chúa Kitô. Lắng nghe Chúa Kitô phải dẫn đưa chúng ta đến chỗ thay đổi sâu xa. Chúng ta được mời gọi chấp nhận cả một chương trình sống. Những đòi hỏi triệt để của phép rửa phải được thực hiện không thể còn chỗ cho sự tầm thường hoặc nguội lạnh nữa.
Kẻ lòng Ta ưu ái.
Một khẳng định không chút do dự, không chút giảm thiểu: “Đây là Con Một Ta ưu ái. Hãy lắng nghe lời Ngài”. Trong tất cả các ngôn sứ đây là vị ngôn sứ thật. Có lẽ đây không phải là Đấng mà các ngươi đã mơ ước, nhưng đó là ngôn sứ của Ta. Đó là ngôn sứ của Ta bởi vì Ngài đến để giải thoát và cứu độ. Chính Ngài mặc khải tư tưởng của Ta và có thể thông truyền sức sống của Ta. Chỉ mình Ngài đáng tin cậy, bởi vì Ngài là người duy nhất đã thể hiện dự tính của Ta về thế giới. Các ngươi hãy chọn Ngài.
Việc lựa chọn bao giờ cũng kéo theo những đòi hỏi. Trong mùa chay này chúng ta được mời gọi chiến đấu với sự dữ nơi chúng ta và xung quanh chúng ta. Con đường mà chúng ta phải theo là con đường giúp chúng ta tái sinh. Làm điều lành, thực thi bác ái huynh đệ và đặc biệt hơn nữa thương yêu những kẻ bé mọn, đó phải là những ưu tiên và phải dẫn đưa chúng ta vào đường hoán cải để làm cho chúng ta trở nên những kẻ “được ưu ái”.
Tin tưởng.
Chương trình dẫn chúng ta đi theo Chúa Giêsu là chương trình đòi hỏi nhất. Vài tuần lễ thật quá ngắn đối với chương trình của cả một đời người. Thiên Chúa của chúng ta có vẻ như là một Thiên Chúa khắt khe và nhỏ nhen. Thực ra nếu Ngài đòi hỏi, là bởi vì Ngài thương yêu chúng ta. Ngài đòi hỏi nhiều, nhưng Ngài cũng hứa cho chúng ta những điều tuyệt vời nữa.
Về phía Ngài, Ngài ban cho chúng ta mọi sự cả đến sự sống của Ngài nữa. Không những Ngài sẽ ban sự sống ấy cho chúng ta sau khi chúng ta chết đâu, nhưng ngay ở trần thế này. Việc tuyên xưng đức tin vào đêm vọng Phục Sinh giúp chúng ta tìm lại được sự sống ấy.
Chúng ta có sẵn sàng chết một cách nào đó để sống lại tốt hơn không? Chúng ta có sẵn sàng “lắng nghe” không? Có sẵn sàng để cho lời Chúa uốn nắn chúng ta và sống theo lời Ngài dù lời ấy có vẻ vô lý không? Hãy để Thiên Chúa thực hiện dự án của Ngài nơi mỗi người chúng ta và chúng ta sẽ có quyền được gọi là “Con yêu dấu”.
69.Điều quan trọng là biết nghe Chúa Giêsu--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Để có thể minh định vị trí cách xác đáng trong trí chúng ta đoạn Phúc Âm về sự Biến hình này của Chúa, chúng ta hãy nhớ lại, những tâm tư nào có thể có nơi các môn đệ là các Tông đồ tương lai khi Chúa Giêsu loan báo cho họ lần đầu cuộc khổ nạn của Người. Là người dân Do Thái tốt như họ, các môn đệ Chúa cũng chia sẻ niềm hy vọng chung của dân Israel. Họ hy vọng một Đấng Cứu Thế toàn thắng và vinh quang. Nhưng đến một lúc mà Chúa thách đố họ hãy có một hành động đức tin. Nhân danh họ, Phêrô nhìn nhận Người là Con Thiên Chúa. Nhưng sự tuyên xưng ấy chưa bao trùm được hết tất cả số mệnh của Chúa Giêsu. Phêrô tuyên xưng đức tin vào CON NGƯỜI của Chúa Giêsu, song Phêrô không tưởng tượng nổi là Thiên Chúa lại có thể trải qua thảm kịch cuộc Khổ nạn. Thành thử cần phải gợi lên dần dần trong trí óc các môn đệ sự mạc khải điều mà dưới con mắt họ, sẽ là một gương xấu khủng khiếp, một sự thử thách rất lớn lao cho đức tin của họ. Cũng cần phải củng cố đức tin họ trước. Giai thoại Biến hình tượng trưng một thời kỳ quan trọng trong việc giáo dục các môn đệ. Đây là những con người đang chờ đợi một Đấng Cứu Thế vinh quang. Vậy mà Chúa Giêsu lại mạc khải cho họ biết rằng Chúa Cứu Thế là người Tôi tớ đau khổ và bị hạ nhục. Làm cách nào giúp họ vượt lên được khỏi sự trái ý họ cảm thấy? Chúa Giêu muốn giúp họ điều này bằng cách cho họ thấy là Con Thiên Chúa, mặc dầu chịu đau khổ, sẽ được vinh quang. Và đó là việc Chúa Biến hình hôm nay.
Chúng ta ghi nhận rằng cho đến cùng các môn đệ vẫn còn vấp phải gương xấu của cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu. Cần phải có sự Sống lại và ngày lễ Ngũ tuần họ mới thực hiện được những gì mà Thiên Chúa muốn nơi Con Chí Ái của Người.
Chúng ta hãy lưu ý điều này:
1) Đây là Con Chí Ái của Ta.
Điều quan trọng là vào một lúc trang nghiêm Chúa Cha lên tiếng quả quyết rằng Chúa Giêsu là con người mà các môn đệ bắt đầu đi theo quả thật là Con của Ngài. Chúng ta đừng tưởng tượng rằng: vào giây phút đó, các môn đệ quan niệm tiếng ‘Con’ như chúng ta quan niệm ngày nay, vì ngày nay chúng ta đã được biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Họ nhận ra là qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình ra và hành động. Họ linh cảm thấy Chúa Giêsu có một nguồn gốc và số mệnh vượt xa các giới hạn loài người. Tiếng từ Trời phán: này là Con Ta yêu dấu, điều đó cũng có nghĩa là Con duy nhất. Họ nhận ra cách sâu sắc giữa Thiên Chúa và Chúa Giêsu có mối tương quan phụ tử thật là độc đáo. Họ ý thức rằng Chúa Giêsu tuỳ thuộc vào Thiên Chúa, đặc mệnh như một người Con. Tiếng lại phán thêm: Hãy nghe lời Người. Trong trí óc các môn đệ là những người đang mong đợi Đấng Cứu thế, mấy tiếng đó có nghĩa là: Hãy nghe lời Người như lời đáp lại sự chờ mong của các ngươi vào Đấng Cứu Thế, ở cả những ngày mà Người trải qua thảm kịch Khổ nạn.
2) Hãy nghe Lời Người.
Lời huấn dụ đó (hay mệnh lệnh đó) từ trời cao cũng ngỏ cùng chúng ta ngày hôm nay. Nhưng hiện giờ mỗi người trong chúng ta đều đã biết những phản kháng của bản tính con người chống lại lời mời gọi hãy theo Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Chúng ta đều biết rằng, qua Chúa Giêsu, số phận chúng ta là một số phận quang vinh, nhưng Thiên Chúa buộc phải giáo dục chúng ta như những người môn đệ và đưa chúng ta dần dần vượt qua chướng ngại vật của sự đau khổ và sự chết. Thỉnh thoảng Người trợ lực chúng ta trong công cuộc này, bằng cách ban cho chúng ta những giây phút hoan lạc nội tâm, nó có tác dụng biến đổi đức tin của chúng ta. Nói chung thì những giây phút ấy khá hoạ hiếm. Điều quan trọng là chúng ta biết ‘nghe’ Chúa Giêsu. Chúng ta có thực hiện được điều mà Người trả lời cho tất cả những thắc mắc, chờ mong, ước muốn sâu xa nhất của chúng ta không?
Sự Biến hình của Chúa được các Phúc âm trình bày như một giai đoạn trong tiến trình của Chúa tới Giêrusalem, nơi mà Chúa sẽ phải chết và sẽ Phục Sinh. Trong nhịp độ cuộc Khổ nạn và Vinh quang đánh dấu cho những bước đi của Chúa tiến tới đích, sự Biến hình là một âm điệu khải hoàn. Nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở đây. Người tiếp tục đến cùng con đường của Người. Trên đường đời mà dần dà mỗi ngày chúng ta một đi sâu vào, chúng ta cũng ý thức được cho chính chúng ta, nhịp điệu khổ nạn và vinh quang, thử thách và hy vọng. Gương mẫu nào, sức mạnh nào sẽ giúp chúng ta đi đến cùng? Chúng ta hãy “NGHE” Chúa Giêsu; Đấng đi trước chúng ta, dìu dắt chúng ta đến sự biến hình bất diệt của chúng ta.
70.Chúa tỏ vinh quang Ngài--Noel Quesson
“Đừng kể lại cho ai nghe… cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”.
Đức giám mục Curtis một lần tới thăm Đức hồng y Newman. Hai người đàm đạo lâu giờ về đủ thứ chuyện. Đức hồng y Newman cho Đức giám mục Curtis biết: Tòa Thánh đã cho ngài đặc ân được đặt Mình Thánh trong phòng. Không ngờ tin này làm Đức giám mục Curtis xúc động mạnh, đến nỗi khi Đức hồng y mời Đức giám mục Curtis ở lại ban đêm, ông trả lời: “Tôi không thể nào ngủ được khi biết Chúa của tôi đang ở với tôi chung một mái nhà”.
Đã hẳn bao giờ Thiên Chúa cũng ở bên ta vì Người là Thiên Chúa toàn năng hiện diện khắp nơi, nhưng một khi chúng ta ý thức điều đó, một khi có bằng chứng nhắc nhớ tới sự kiện đó, thì thường làm ta xúc động mãnh liệt. Ta biết điều này khi đọc thấy thái độ của các Tông đồ được chứng kiến Chúa tỏ vinh quang. Chúa là niềm vui tột đỉnh, là an ủi tràn đầy cho các tâm hồn. Và có thể định nghĩa thiên đàng là sự ý thức rõ ràng mình được sống bên sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng muốn thưởng thức niềm hân hoan đó, niềm hân hoan làm các Tông đồ hầu như ngất ngây đó, chúng ta phải có một số điều kiện.
Trước hết ta cần bắt chước các Tông đồ lên một đồi cao. Khi lên cao chúng ta dễ có ý thức siêu thoát hơn. Vì vậy hầu hết các cuộc xuất hiện quan trọng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh đều xảy ra trên núi cao. Không nhất thiết phải là một đỉnh núi, nhưng chắc chắn phải là sự vươn lên của tâm hồn, tránh được sự ám ảnh, vương vấn của cuộc đời trần tục. Cần có một đỉnh cao nội tâm, gắng đạt tới những chân trời xa rộng. Muốn vậy phải rời bỏ thung lũng thấp, cố gắng đi xa, chịu đựng gian khổ, ngột ngạt của độ cao… và tránh đám đông ồn ào gây nhiễu.
Chúa cho ba Tông đồ chứng kiến Chúa biến hình: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Đây không phải tình cờ. Khi làm phép lạ cho bé gái 12 tuổi đã chết được sống lại, Chúa cũng đưa ba Tông đồ này theo để các ông được chứng kiến (Mc 5,37). Cũng chính ba ông là những người gần gũi Chúa khi Chúa cầu nguyện và hấp hối trong vườn Cây Dầu (Mc 14,33). Chúa cho ba ông chứng kiến quyền uy Thiên Chúa của Người và cũng được thấy nỗi khổ đau của nhân tính Chúa, để các ông thành chứng nhân cho niềm tin của mình và của anh em.
Một điều kiện nữa để thành môn đệ gần gũi của Chúa đã được chính Thiên Chúa Ngôi Cha phán bảo: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Đây là lần thứ hai có tiếng từ trời phán xuống, nhưng lần này rõ ràng tiếng đó nói với chúng ta. Là môn đệ Chúa, thì phải nghe lời Chúa. Nghe lời Chúa trong Kinh Thánh, trong tìm tòi suy luận, nhưng nhất là trong Kinh Nguyện một mình riêng rẽ đối diện với Chúa nơi thanh vắng. Môn đệ của Chúa cần thiết phải được Chúa đích thân dạy dỗ, mặc khải cho.
Sự biến hình, bộc lộ đôi chút vinh quang Thiên Chúa, làm vui thỏa tâm hồn các môn đệ. Khi xuống núi, Chúa dặn các ông đừng kể lại với ai ‘cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại’. Vì Chúa biết rằng chỉ sau cái chết và Phục Sinh của Chúa, các ông mới hiểu rõ về Chúa. Khuôn mặt đích thực của Chúa Cứu Thế chỉ biểu lộ đầy đủ khi đã chết trên thập tự chứng tỏ tình yêu đối với nhân loại và sống lại khải hoàn do quyền lực Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin mở mắt lòng tin chúng con, cho chúng con được nhìn thấy Ngài luôn hiện diện trong cuộc sống chúng con.
71.Cuộc biến hình--Jacques Hervieux
Quang cảnh rực rỡ đang diễn ra đã tỏa lan trên bầu khí nặng nề ngự trị trong Phúc âm kể từ khi Chúa Giêsu loan báo về cái chết không thể nào tránh được của Ngài (8,31 và tiếp theo). Đây giống như một giai đoạn tạm nghỉ được dành cho Thầy trò trên bước đường dấn thân vào cái chết. Chúa Giêsu mang theo Ngài ba môn đệ được Ngài yêu chuộng nhất (c. 2). Chỉ ba người này được theo Ngài vào căn phòng em bé gái được Chúa Giêsu làm cho sống lại (5,37-43). Và cũng chỉ ba người này là những nhân chứng đặc biệt trước cơn hấp hối của Thầy (14,33-34). Sở dĩ Chúa Giêsu cho họ tham dự vào những cuộc mạc khải then chốt là vì họ được kêu gọi để trở nên cột trụ cho Giáo Hội Ngài. Việc tách các môn đệ này riêng ra để đến một chốn rất xa cho chúng ta đoán được ý định của Chúa Giêsu sẽ mạc khải cho họ một điều bí mật sâu xa nào đó. Truyền thống cho rằng Chúa Giêsu và ba môn đệ này đã leo lên ngọn núi Taborê, một ngọn núi nhỏ bé ở Galilê, không xa Nadaret bao nhiêu. Tuy nhiên cách xác định vị trí này mãi đến thế kỷ thứ ba mới thấy. Ngoài ra địa danh này không phù hợp với chuyến du hành mạn bắc vào ngay vùng dân ngoại (8,27). Chính vì thế theo các nhà chuyên môn, đúng hơn đây là núi Hermon, ngọn núi đồ sộ cao tới 2760 mét phủ đầy tuyết rất gần vùng Cêsarê Philipphê là nơi Chúa Giêsu được coi như đang có mặt.
Dù sao thì ở đây, Maccô cũng ít quan trọng đến địa lý hơn là thần học. Như người ta sẽ thấy, đối với Maccô, “ngọn núi cao” này nhắc nhở đến ngọn núi Sinai thời xuất hành là nơi Thiên Chúa đã gặp gỡ Môsê cách rất đỗi thân mật (x. Xh 24,12-18). Quả thực, trình thuật này đang dẫn chúng ta đến cuộc hiển linh của Chúa Giêsu (c. 2c). Trong một giây phút chói lòa, vị Sư Phụ đã biến hình trước mắt các đệ tử mình. Người ta chợt nghĩ ngay đến hiện tượng liên quan đến Môsê: “Da mặt ông tỏa sáng” sau khi được trực kiến Thiên Chúa trên núi Sinai (Xh 34,29-35).
Hoàn toàn tự nhiên khi Maccô nhờ đến các hình ảnh Thánh Kinh để mô tả biến cố xảy đến cho Chúa Giêsu (c. 3). Như chúng ta đã biết, nơi người Sêmit, y phục một người tượng trưng chính bản thân người đó. Y phục Ngài tỏa ra rõ nét trắng toát mà loài người không thể có. Y phục màu trắng báo hiệu ánh sáng quang vinh thần thánh nơi các thiên sứ (16,5) hay nơi những kẻ được chọn (x. Kh 3,5).
Đối với các môn đệ này, cuộc thị kiến đầy kinh ngạc về tình trạng “quang vinh” của Chúa Giêsu lại còn được bổ sung thêm bằng việc xuất hiện của Êlia và Môsê (c.4). Hai nhân vật lẫy lừng này đến đây làm gì? Môsê là cha đẻ của Lề Luật Do Thái. Chính trong sự hiện diện đầy uy nghi của Thiên Chúa trên núi Sinai mà Môsê đã tiếp nhận Lề Luật (x. Xh 19 và 20). Và bốn thế kỷ sau, Êlia cũng đã hành hương lên chính ngay núi thánh Sinai để gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống (x. IV 19,1-13). Những nhà lãnh đạo của dân riêng Chúa được truyền thống Do Thái xem như vẫn hiện đang sống trong VINH QUANG: Môsê thì với tư cách nhà làm luật vĩ đại của Israel, còn Êlia là khuôn mặt dẫn đầu trong số các tiên tri. Ở đây, cả hai hội tụ lại, họ tượng trưng cho Lề Luật và các tiên tri, điều này bao hàm ý nghĩ toàn bộ Kinh Thánh đều ủng hộ Chúa Giêsu. Đàm đạo với hai vị này, Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng nơi bản thân Ngài đã hoàn tất mọi lời hứa về Đấng Mêsia.
Mãi đến lúc này, bị quang cảnh khác thường đột nhiên xảy đến, các môn đệ đều ngậm câm. Giờ đây, nhân danh họ, Phêrô mới dám ngỏ lời với Chúa Giêsu (c.5). Ông gọi Chúa bằng “Thầy” (Rabbi) nghĩa là vị Thầy mà ông phải tuân theo mọi lời giáo huấn. Phêrô muốn nói cho Thầy mình niềm hạnh phúc mà ông và các bạn đang cảm nhận khi được tham dự vào lễ hội thiên quốc này. Tuy nhiên phải chăng phản xạ của Phêrô quá ư trần tục? Không phải là ông muốn lôi kéo dài giây phút hạnh phúc khôn lường này sao? Ở đây việc Phêrô đề nghị dựng lên ba lều cho Chúa Giêsu và hai vị khách thiên quốc có lẽ nhằm mục đích ám chỉ đến “lễ lều” của Do Thái. Vào mùa thu, tức mùa hái nho, người ta thường dùng các cành cây dựng lên trong vườn nho những chiếc chòi nhỏ với niềm hy vọng mãnh liệt sẽ được đón tiếp Đấng Mêsia ở đây (x. Lv 23,33-36). Tuy nhiên như thường thấy xảy ra trong các Phúc âm, ở đây Phêrô bị lầm. Ông ta không nắm bắt được ý nghĩa sâu xa của biến cố ông được trải qua. Vả lại bản văn cho thấy Phêrô hoàn toàn không ý thức gì về lời đề nghị của mình (c. 6). Maccô ghi nhận nỗi kinh hoàng của các môn đệ trong trường hợp quá khác thường này. Có vẻ như Phêrô đã thử “làm quen” với một hiện tượng thần linh vượt quá tầm hiểu biết của mình…
Chính lúc này một thị kiến bổ túc mới có thể hướng dẫn độc giả hiểu được toàn bộ sự cố (c. 7a). “Đám mây” được mượn trực tiếp từ sách Xuất hành (được Maccô cố ý khai thác trong toàn bộ đoạn này). Trong bước đường gian khổ nơi vùng hoang mạc, dân Chúa chọn đã được một cụm mây sáng lòa hướng dẫn (x. Xh 13,21 và tiếp theo). Đám mây thần thánh này được người xưa mượn từ hiện tượng phong nhiêu của bão tố để ám chỉ việc Thiên Chúa kề cận dân Ngài. Đây là một hình ảnh tuyệt hảo nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa với loài người, vừa ẩn khuất mà lại vừa hiển lộ. Đây là trường hợp Thiên Chúa trao ban một sứ điệp quan trọng: “Chính Ngài là con yêu quý của Ta” (c.7b). Thật thú vị khi ghi nhận rằng những lời này được Thiên Chúa ngỏ với các môn đệ. Với vài thay đổi nhỏ nhặt, những lời này lặp lại những lời đánh dấu cuộc tấn phong Chúa Giêsu vào lúc Ngài chịu phép rửa (x. 1,11). Vào lúc đó, Thiên Chúa Cha đã để cho Chúa Giêsu đăng quang trong sứ mệnh làm Đấng Mêsia. Giờ đây, sau khi đón nhận ra thân thế Mêsia của Thầy mình (8,29), Phêrô và các môn đệ còn phải đón nhận mầu nhiệm sâu thẳm hơn nữa về thân thế Ngài. Bởi vì Ngài là Đấng Mêsia nhưng đồng thời còn là “Người Con rất yêu dấu” của Chúa Cha nữa.
Như thế giọng nói từ trời khích lệ các môn đệ tiếp tục bước theo con đường họ đi trong đức tin để khám phá được trọn vẹn thân thế Chúa Giêsu. Đó là ý nghĩa sâu xa của biến cố mà họ vừa trải qua. Tuy nhiên phải thêm rằng trọng điểm của trình thuật này xem ra hệ tại nơi các từ ngữ sau: “Hãy nghe lời Ngài” (c.7c). Lời mời gọi ngắn gọn này nhắm tới điều mà Chúa Giêsu mới nói với các môn đệ Ngài (8,31-33). Như người ta đã thấy: Phêrô đã chống lại như một con quỷ dễ thương trước những viễn cảnh bi đát mà Thầy vừa mới hé lộ. Chắc chắn các môn đệ rất phiền não khi phải “nghe” Chúa Giêsu xác định điều này. Giờ đây một khi vừa được trông thấy –như một ánh chớp lòa- Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, đồng thời cuối cùng Ngài sẽ lãnh nhận được số phận quang vinh bên kia cái chết thì liệu họ có giữ được niềm hy vọng và tiếp tục bước theo Thầy mình trên con đường thập giá không?
Câu cuối cùng diễn tả tình trạng trở lại bình thường khá tê tái (c.8). Maccô cố ý nhấn mạnh: đối với những kẻ theo Ngài, cuộc biến hình của Chúa Giêsu sẽ chỉ là một phút hồng ân “ngắn ngủi” để nâng đỡ đức tin của họ trên bước đường gian truân. Rõ ràng biến cố trên đây đã được Maccô đọc lại dưới ánh sáng của cuộc Phục Sinh và của Kinh Thánh. Ông nhằm nâng đỡ lòng trông cậy của các Kitô hữu Rôma đang chịu khổ đau và chết chóc vì cơn bách hại.
72.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Noel Quesson
Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình
Maccô không nói phải dựa vào sự kiện nào để tính “sáu ngày" trên. Một lần nữa, sự thiếu chính xác này cho ta thấy, không nên đọc Tin Mừng theo cách thông thường. Đối với người Do Thái, đối với mọi người đã làm quen với Kinh thánh, thì "sáu ngày" trên chỉ là một kiểu nói thần học. Đó là thời gian cần thiết để con người thanh tẩy trước khi đến gần Thiên Chúa: "Sáu ngày sau, từ giữa đám mây, trên núi Sinai, Thiên Chúa mới gọi Môsê" (Xh 24,16). Chúng ta hãy lưu ý những từ: "sáu ngày"... "Môsê"... "đám mây"... "núi "... Trình thuật của Maccô cũng được dệt bằng những hình ảnh Kinh thánh như thế. Nhưng còn mang ý nghĩa hơn: Có phải là ngẫu nhiên mà “Lễ lều tạm" (Yom Sukkôt) tại Israel lại xảy ra sáu ngày sau "Lễ xá tội" (Yom Kippour) không? Vì thế Lễ lều tạm là lễ người ta dựng những lều bằng cành lá, làm nới trú ẩn mỏng manh trong thời gian lang thang nơi hoang địa, tượng trưng cho sự mỏng dòn của con người trên bước hành trình về Miền Đất Hứa. Sau này Phêrô cũng muốn dựng một nhà trú, một lều tạm.
Phêrô, Giacôbê và Gioan
Đức Giêsu không mời gọi tất cả các môn đệ, nhưng chỉ chọn có ba ông! Chi tiết đó cũng không phải là một ngẫu nhiên, mà nếu đọc qua ta có thể không để ý đến. Chính ba" môn đệ này đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm bồi sinh bé gái 12 tuổi (Mc 5,37), và chính ba ông này sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Người tại Ghét-sê-ma-ni (Mc 14,83).
Họ có phải là những con người được đặc ân không? Không phải vậy. Họ chỉ là ba con người sống những cảm nghiệm đặc biệt, để có khả năng nâng đỡ đức tin cho kẻ khác. Tại sao ta lại hay so bì và ghen tị? Mỗi người chúng ta cũng đều nhận được một ân riêng, độc nhất; ơn đó không chỉ dành riêng cho mình, nhưng để thông truyền cho kẻ khác.
Chỉ có ba ông, đi riêng với Người, lên một ngọn núi cao...
Đó là những điều kiện theo truyền thống Kinh thánh, để "gặp gỡ Thiên Chúa". Một đầu óc hiện đại có thể phản ứng lại. Thiên Chúa ở khắp nơi mà! Tại sao cứ phải bày vẽ ra như thế? Đúng vậy! Nhưng chúng ta là loài có thân xác nên không thể tránh bỏ một số những biểu tượng. Riêng tôi; tôi thấy hình ảnh đó thật đẹp và rất hùng hồn: Nào ta hãy tiến lên với "Thiên Chúa" (Xh 24,1-34,2; 1V 18,20-19,8-11). Bạn hãy đứng trên núi! Hãy tạo lập cho bạn một núi trong i.âm hồn, một đỉnh núi cô tịch và diện kề với Chúa. Hãy biết tận dụng những chân trời mở rộng! Bạn sẽ không khi nào nhìn thấy những chân trời đó, nếu không chấp nhận rời bỏ thung lũng, nương theo nhưng con đường mòn mà leo cao, nếu không chịu khổ nhọc lâu dài, thả dốc trên những đỉnh cao trước không khí loãng nhạt và gay gắt nếu không chịu tách xa đám động dân chúng.
Và Người biến đồi hình dạng trrớc mắt các ông
Khi con người cố diễn tả những tương quan giữa Thiên Chúa và thế gian, họ luôn bị dao động giữa hai do dự, hai quan niệm:
Một quan niệm "bi quan": Cần phải tiêu diệt thế gian để nhận thấy Thiên Chúa. Ta có thể gọi quan niệm đó là quan niệm của Thánh Au tinh, Luther và phái Tin lành phục hưng cách mạnh mẽ.
- Một quan niệm "lạc quan": Chính "thế gian này" là Nước Thiên Chúa. Người ta đề cao giá trị của con người và thế giới và làm giảm nhẹ ảnh hướng của Thiên Chúa. Đây có thể là cơn cám dỗ của người Công giáo, thường biến Giáo Hội trở nên một cái gì tuyệt đối, là Nước Trời đã đến.
- Nhưng cũng có một "quan niệm thứ ba biến dạng" Vâng, xác thịt là tốt và thân xác là do Thiên Chúa muốn tạo ra. Vâng, thế gian là tạo vật của Chúa, nhưng đó chỉ là "hình ảnh", là "họa ảnh" tương tự của Thiên Chúa. Để thực sự tốt hẳn, thế gian không cần bị "tiêu diệt", nhưng cần được "biến dạng". Trên núi, Đức Giêsu không để một ánh sáng từ ngoài rọi chiếu vào, nhưng chính Người, trong thân xác Người, đã là ánh sáng. Và tất cả những gì là xác thịt trong ta, cũng phải trở nên ánh sáng, trong suốt, tinh thần. Bên Phương Đông thuộc Chính thống giáo, lễ Biến Hình là đại “Lễ", Lễ tôn kính Hình tượng, Con người được Thiên Chúa xuyên qua. Trong thời kỳ tập sự, không chỉ nhắm học một "kỹ thuật", người họa sĩ hình tượng trước hết phải về một ảnh Đức Giêsu biến hình, để chứng tỏ anh ta có khả năng vẽ được một khuôn mặt người – hình ảnh - của Thiên Chúa hay không. Đó là cả một quan niệm về cuộc đời, về xã hội loài người, về Giáo Hội, về phụng vụ mà mục đích là giúp ta rập theo đúng khuôn Đức Giêsu. Nếu những cách nhìn này có vẻ làm chúng ta choáng váng, thì có lẽ chúng ta phải khám phá ra ý nghĩa đích thực của Phép rửa, bí tích đã "dìm" ta trong Đức Kitô, đã làm cho ta được "tham dự vào bản tính của Thiên Chúa" (2 Pr 1,4). Đúng ra, toàn diện đời sống Kitô hữu chúng ta chỉ là một sự thông phần, một biến hình trong Đức Kitô. Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương. Như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như cao bởi tác động của Chúa là Thần khí" (2 Cr 3,18).
Chắc chắn, ở dưới trần gian này, mầu nhiệm phi thường đó - nghĩa là sự biến đổi thực sự con người trong Thiên Chúa vẫn không thể thấy đọc. Tuy nhiên, sự biến hình của ta đã đạt được, dù còn bí ẩn, nhưng một ngày nào đó sẽ bùng tỏa ra: "Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang" (Cl 3,3-4).
Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.
Đừng coi thánh Phêrô và thánh Maccô, thư ký của ông, lại ngây ngô hơn ta. Đó là những con người rất thực tế những kẻ bình dân, không phải là các nhà trí thức. Các ông mới biết mở miệng, nhưng chưa biết phải nói thế nào về cảm nghiệm phi thường đã "xảy đến" cho mình. Như thế cả chúng ta nữa, ta cũng không nên dừng lại ở mức độ sơ đẳng là "giặt sạch nhất", "trắng nhất". Vấn đề không nằm ở yếu tố đó.
Một lần nữa, chúng ta đang nằm trong lĩnh vực ngôn ngữ Kinh Thánh biểu tượng: Màu trắng là màu của thế giới trên trời và không gì ở trần thế so sánh được. Đó là màu của thiên sứ hiện đến lúc Phục sinh (Mt 28,3), lúc Chúa lên trời (Cv l,10). Đó là màu của những kẻ chiến thắng (Kh 3,4.20). Ao trắng khi chịu phép rửa, lúc tuyên xưng đức tín, áo trắng của cô dâu, áo trắng của linh mục lúc dâng lễ đều lấy lại hình ảnh biểu tượng này. "Anh em được mặc lấy Đức Kitô" (Gl 3,27). "Cái thân sẽ chết này sẽ mặc lấy sự bất tử" (l Cr 15,53). "Anh em hãy cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới" (Cl 3,10).
Ông Êlia cùng Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu.
Môsê và Elia tượng trưng cho sự mong đợi của Israel được ghi trong "lề luật" và các "ngôn sứ". Chúng ta cũng! cần ghi nhận, họ không chỉ là những nhân vật đứng ra “làm vì". Đó là khuôn mặt tiêu biểu, đã chết trước đó nhiều thế kỷ mà lại hiện diện đồng thời với Đức Giêsu và đang nói chuyện với Người. Họ đang liên hệ sống động với Chúa. Đó là thứ ánh Sáng chiếu trên cuộc sống bên kia thế giới. Anh Sáng chiếu tỏa trên những người quá cố của chúng ta. Cái chết thay vì là kết điểm. Có phải là một "cửa ngõ" dẫn chúng ta vào thế giới của Thiên Chúa không?
Trong Cựu ước Môsê và Êlia là hai nhân vật vĩ đại đã được Thiên Chúa mạc khái cho "trên núi". Và truyền thống Do Thái vẫn mong đợi hai vị trở lại vào lúc kết thúc thời gian chuẩn bị cho Đấng Mêsia đến (Mt 3,22-24). Vả lại theo thánh Maccô, thì đó cũng là câu hỏi mà các môn đệ đã đặt ra cho Chúa Giêsu, ngay sau khi diễn ra quang cảnh trên (Mc 9,11-13).
Cùng với Đức Giêsu, thời cánh chung đã khởi sự.
Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều”. Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông sợ quá.
Một lần nữa, Phêrô lại đóng vai phát ngôn viên. Chính ông, trước đó vài hôm, lúc ở Xêdarê đã nhân danh cả nhóm 'tuyên xứng đức tin" (Mc 8,27-33). Chính ông đã đóng vai satan cám dỗ Đức Giêsu khước từ thập giá (Mc 8,33). Hôm nay, ông vẫn chưa hiểu hơn gì. Đó là một “người chứng" không vẽ vời điều gì thêm. Các biến cố xảy đến cho ông, đều mang tính cưỡng ép, trái với ý ông. Sau này, ông sẽ viết: Đó không phải là những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo; chính chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người (2 Pr 1,16-18). Chúng ta cũng nên đọc lại đời ông: Phêrô không phải là con người chiêm niệm huyền bí; đó chỉ là anh chàng làm nghề biển! Chúng ta có thể tin tưởng vào khiếu quan sát của ông. Ngoài ra, ông cũng nhận ra rằng, đó là điều không thể hiểu được. Nhưng điều đó buộc ông phải chấp nhận. Ông không biết phải nói gì.
Bỗng có một đám mây bay đến bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người".
Theo kiểu nói biểu tượng đám mây là "Sự hiện diện của Thiên Chúa" (Xh 16,10; 19,9; 24,15; Ds 14,10). Tiếng nói trên đây cũng chính là tiếng nói ngày Đức Giêsu chịu phép rửa (Mc 1,11). Nhưng lúc đó, tiếng nói đó chỉ dành cho Đức Giêsu. Còn hôm nay, tiếng phán này gửi cho các môn đệ.
Vậy Đức Giêsu là ai? Để đáp lại câu hỏi cơ bản này, ta không thể vận dụng "những suy luận" cá nhân, cũng không nhờ vào "những nghiên cứu Kinh Thánh", nhưng qua cách cầu nguyện "riêng một mình trên núi"; nếu ta biết lắng nghe! Căn tính đích thực của Đức Giêsu mà ta biết được chỉ nhờ Chúa Cha mạc khải. Đó là điều vượt khỏi khả năng nắm bắt của con người.
Ở trên núi xuống, Đức Giêsu cấm các ông không được kể lại cho ai nghe những điều đã thấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩ a là gì?
Cần phải có Thập giá và Phục sinh, để các môn đệ khám phá ra căn tính đích thực của Chúa Giêsu.
73.Vinh quang trên đỉnh núi--William Barclay
Ở đây chúng ta đang đối diện với một biến cố trong đời sống Chúa Giêsu vốn được phủ bằng một tấm màn bí mật. Chúng ta chỉ cố tìm xem đã có chuyện gì xảy ra. Maccô bảo rằng việc này xảy ra sáu ngày sau biến cố gần Xêdarê Philípphê, Luca thì nói tám ngày sau. Tuy nhiên, ở đây không hề có sự bất nhất. Cả hai vị đều muốn nói như ngày nay chúng ta nói là “độ chừng một tuần lễ sau”. Cả hai Giáo Hội Đông lẫn Tây phương đều kỷ niệm ngày Chúa Giêsu biến hình vào ngày 06 tháng 08 dương lịch. Vấn đề quan trọng không phải ngày đó đúng hay không, nhưng đó là thời điểm mà chúng ta nên tìm cách ghi nhớ. Truyền khẩu nói đến sự biến hình xảy ra trên đỉnh núi Tabor. Giáo Hội phương đông gọi lễ Chúa Biến Hình là lễ Taborion, có lẽ việc chọn núi Tabor được căn cứ vào câu đề cập đến núi Tabor trong Tv 89,12, nhưng đó là một lựa chọn đáng tiếc. Núi Tabor nằm về phía Nam xứ Galilê, còn Xêdarê Philípphê thì ở mãi tận phía bắc. Núi Tabor cao không hơn 300 mét và vào thời Chúa Giêsu có một đồn binh trên đó. Điều có lý hơn là sự việc đã xảy ra trên sườn núi Hermôn một ngọn núi phủ tuyết quanh năm, cao gần 3000 mét, gần Xêdarê Philípphê hơn và khung cảnh cũng yên tĩnh hơn nhiều.
Chúng ta không thể xác quyết đã có chuyện gì xảy ra. Chúng ta chỉ biết cúi đầu cung kính khi cố gắng tìm hiểu. Maccô bảo áo của Chúa Giêsu trở nên sáng rực. Từ ông dùng là chữ stibein, chữ được dùng chỉ sự sáng chói của đồng hoặc của vàng được nung chảy, hoặc của thép được đánh bóng hay ánh sáng chói chang vàng rực của mặt trời. Lúc biến cố ấy kết thúc, có một áng mây che phủ họ. Trong tư tưởng của người Do Thái, sự hiện diện Thiên Chúa luôn luôn được kết hợp với đám mây. Trong ngày khánh thành đền thờ sau khi được Salômôn xây cất, một đám mây đã bao trùm đền thờ. Dân Do Thái mơ ước khi Đấng Mêsia đến, đám mây hiện diện của Thiên Chúa cũng sẽ trở lại với đền thờ (Xh 16,10; 19,9; 33,9; 1V 8,10; 2Mcb 2,8). Việc đám mây kéo xuống là một cách nói rằng Đấng Mêsia đã đến, và bất kỳ người Do Thái nào cũng hiểu như vậy.
Sự biến hình có hai ý nghĩa:
1/ Đó là một điều thật quý báu cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cần quyết định một số sự việc, Ngài đã quyết định lên Giêrusalem và quyết định ấy có nghĩa là đối diện và chấp nhận thập giá. Ngài cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết định đúng trước khi tiếp tục dấn bước. Trên đỉnh núi, Ngài đã nhận được sự chấp thuận quyết định của Ngài.
(a) Êlia và Môsê đã đến gặp Ngài. Môsê là nhân vật tối cao đã ban bố luật cho dân Israel. Cả hai dân tộc đã chịu ơn ông về luật của Chúa. Êlia là vị ngôn sứ đầu tiên và vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Mọi người luôn luôn nhìn lại ông như một ngôn sứ mang chính lời Chúa đến cho con người. Khi hai nhân vật lỗi lạc nhất đó hội kiến với Chúa Giêsu, có nghĩa là nhà ban bố luật vĩ đại nhất và vị ngôn sứ lỗi lạc nhất đã nói với Chúa Giêsu rằng “Xin cứ tiến lên!”. Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Chúa Giêsu hoàn thành tất cả những gì họ từng mơ ước trong quá khứ. Nó có nghĩa là họ thấy nơi Ngài tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tràn đầy. Dường như chính lúc đó Chúa Giêsu được bảo đảm rằng Ngài đang đi đúng đường, và cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.
(b) Thiên Chúa Cha phán với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không bao giờ hành động theo ý riêng. Ngài luôn luôn đến với Thiên Chúa Cha và thưa rằng “Cha muốn con phải làm gì đây?” Ngài đặt mọi kế hoạch và dự kiến trước mặt Chúa Cha và Chúa Cha phán với Ngài “Con đang làm đúng điều chính Con yêu dấu Ta phải làm. Hãy tiếp tục đi”. Trên núi Biến Hình, Chúa Giêsu được bảo đảm Ngài không lầm đường. Ngài đã thấy thập giá không những là việc không tránh được và còn là điều vô cùng chính đáng.
2/ Đó là điều quý báu vô cùng cho các môn đệ của Chúa.
(a) Họ đang bị tan nát khi nghe Chúa Giêsu khẳng định rằng Ngài sắp lên Giêrusalem để chịu chết. Điều này dường như tiêu hủy, phủ nhận tất cả những gì họ đã được hiểu về Đấng Mêsia. Họ đang bối rối, ngẩn ngơ, kinh ngạc, chẳng hiểu sự việc thế nào. Những việc xảy ra chẳng những khiến họ rối trí mà còn khiến họ đau lòng. Những gì đã thấy trên núi Biến Hình cho họ một cơ hội để bám chặt lấy ngay khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe chính tiếng nói của Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Ngài.
(b) Nó khiến họ trở thành các chứng nhân cho sự vinh hiển của Chúa Kitô theo một ý nghĩa đặc biệt. Theo định nghĩa chứng nhân là người thấy, sau đó tỏ bày ra. Lần ấy, trên núi, họ đã được cho thấy vinh hiển của Chúa Kitô. Do đó, khi có cơ hội, họ đã có sẵn câu chuyện đang giấu kín trong lòng để lại kể cho mọi người nghe.
74.Đức Giêsu hiển dung trên núi--Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Sau khi loan báo cuộc khổ nạn
Đáp lại câu hỏi thúc ép của Đức Giêsu, Phêrô vừa mới tuyên bố Thầy là Đấng Messia”. Đức Giêsu liền dẫn các môn đệ vào con đường khổ nạn và chết mà Người sẽ phải đi để hoàn thành sứ mạng của Người. Maccô viết: "Rồi Người bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại”. Viễn tượng kinh hoàng như thế đi ngược với tư tưởng Người thời đó. Về Đấng Cứu thế. Nghĩ rằng Đấng Cứu thế mà cũng phải trải qua đau khổ và sự chết là điều không ai dám nghĩ, cả những người Do Thái thời đó cũng như các môn đệ của Đức Giêsu: Bởi đó Phêrô tức tốc phản ứng, ông liền kéo riêng người ra và bắt đầu trách Người”. Cử chỉ đó đã làm cho Phêrô bị một lời quở trách cực mạnh từ Đức Giêsu: "Satan, lui ra đàng sau thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Sau đó, Đức Giêsu nói tiếp: "Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Con đường mà Con Người đi cũng là con đường bắt buộc đối với các môn đệ Người.
2. Cuộc hiển dung của Đức Giêsu trên núi.
Maccô đã đặt tường thuật hiển dung của Chúa trong tương quan với việc công bố lần thứ nhất cuộc khổ nạn, việc này đã
vấp phải sự không hiểu nơi các môn đệ và khiến bọn họ kinh hoàng. Giống như Matthêu và Luca, tác giả Tin Mừng thứ hai diễn tả bằng một lối văn tượng trưng, mượn những yếu tố chính từ cuộc thần hiện (cuộc Thiên Chúa tỏ mình) ở núi Sinai ("Jésus, l'histoire vraie", Centurion, trang 330).
Ngày xưa, trong cuộc xuất hành qua hoang địa, Môsê đã công bố cho con cái Israel rằng: "Đức Chúa, Thiên Chúa của người, sẽ cho nổi lên giữa các người một vị ngôn sứ giống như Ta, các người hãy nghe lời Người”. Hôm nay Maccô đã bật mí: vị ấy đã đến rồi, đây là thời gian hoàn tất, một kỷ nguyên mới đã khai sinh.
Maccô viết: "Sáu ngày sau" mà lại không chỉ rõ sau cái gì, nhưng rất có thể là ông muốn nói về biến cố Xuất Hành.
+ Hoặc là nói về sáu ngày mà sau đó, theo Xh 24,1 6, "Thiên Chúa gọi ông Môsê từ giữa đám mây lên núi Sinai”. Nếu thế, theo Maccô, đó là một cách giới thiệu biến cố hiển dung như một Sinai mới và đồng thời giới thiệu Đức Giêsu như một Môsê mới.
+ Hoặc là nói về sáu ngày chuẩn bị cho đại lễ Lều Trại, lễ đó người ta dựng lều bằng cành cây (như người Do Thái còn làm ngày nay) để tưởng nhớ cuộc xuất hành, với hy vọng vào thời đại cứu thế mà Thiên Chúa sẽ đến cư ngụ mãi mãi ở giữa dân Người. Nếu thế, theo Maccô đó là một cách côgn bố thời đại mới đã khởi đầu.
Cũng như ngày xưa Môsê lên núi Sinai, thì Đức Giêsu cũng dẫn các bạn hữu của Người lên một ngọn núi cao. Nhưng ngọn núi nào? Từ ngữ này mang ý nghĩa thần học nhiều hơn là địa lý: núi ở trong Kinh Thánh là địa điểm đặc tuyển cho việc mặc phải thần linh. Ở đây nói về một Sinai mới, một cuộc mặc khải quyết định của Thiên Chúa.
- Cũng như Môsê, lúc lên núi nhận giao ước, chỉ đem theo Giousê, Đức Giêsu chỉ gọi riêng đi theo Người có "Phêrô, Giacôbê và Gioan”. Cũng ba người đó, những người bạn thân nhất được theo Chúa vào phòng bé gái chết mà được Người làm cho sống (5,37-43); ba người đã chứng kiến cuộc hấp hối của Người trong vườn cây dầu: Đức Giêsu đã liên kết họ với Người trong những thời điểm mạnh của mặc khải, để họ trở nên những trụ cột của Hội Thánh Người.
- Cũng như da mặt của Môsê ngời sáng, vì ông đã đàm đạo với Thiên Chúa và cũng như dân Israel xem thấy mặt ông chiếu sáng (Xh 34,29-35), Đức Giêsu "hiển dung" trước các môn đệ, vinh quang Thiên Chúa, cái vinh quang mà Đức Giêsu chiếu toả vào buổi sáng Phục sinh, lúc này đang xâm chiếm bao phủ Người.
Vào lúc đó ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Đó là hai vị có thần thế trong Cựu ước. Cả hại vị đều đã trèo lên núi: Môsê lên để lập giao ước, Êlia lên để nhận sứ mạng cải tổ giao ước. Hai vị tượng trưng cho toàn bộ Cựu ước: Lề Luật và các Ngôn sứ (Êlia) giờ đây được thực hiện: thời đại cứu thế đã khởi đầu.
Phêrô đề nghị "Chúng ta hãy làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Thực ra, ông không biết mình nói gì do quá kinh hoàng, Maccô giải thích. Phêrô đã lầm lẫn vì nghĩ rằng đã đến giờ mà Thiên Chúa cư ngụ vĩnh viễn ở giữa dân Người và họ có thể ở đó miên trường.
Sau cùng, cũng giống như khi lập giao ước ở núi Sinai, một đám mây, dấu chỉ hữu hình của sự hiện diện Thiên Chúa, đã bao phủ ngọn núi, thì ở đây một đám mây che phủ các ông. Rồi cũng giống như ở Sinai, có tiếng nói phát ra tử đám mây. Những lời này gần giống như tiếng vang của những lời đã phán lúc chịu phép rửa ở sông Giođan. Nhưng, lúc xưa tiếng đó nói với Đức Giêsu: "Con là Con Ta yê u dấu, Cha hài lòng về Con" (1,11), còn ngày nay tiếng đó nói với ba môn đệ: Tiếng đó soi sáng các môn đệ cho biết căn tính của Đấng mà Phêrô mới đây đã tuyên xưng là Đấng Thiên Sai (Mêsia): “Đây là Con yêu dấu của Ta”. Tiếng đó xác nhận giáo huấn của Đức Giêsu về cuộc khổ nạn - phục sinh của Con Người: "Các ngươi hãy vâng nghe lời Người".
J.Hervieux quảng giải: "Giờ đây dường như qua tia chớp loè sáng, họ đã thoáng thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa", và vượt qua khỏi sự chết, Người được Thiên Chúa dành cho một cuộc sống vinh quang. Lẽ nào họ không giữ niềm hy vọng và không tiếp tục theo Thầy trên con đường thập giá?" (L’evangile de Marc", Centurion p.125).
- Bỗng chốc, Maccô kết luận: "Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi ở trên núi xuống Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người đã từ cõi chết sống lại”. Chúng ta lại thấy ở đây một lần nữa "bí mật thiên sai”, mà Maccô rất quí trọng: điều mà ba môn đệ vừa thấy vượt quá sức tưởng tượng quá đỗi, nó làm xáo trộn tận cùng hình ảnh Đấng Thiên Sai của các ông, nên tốt hơn các ông nên giữ im lặng ít lâu. Sau này, dưới ánh sáng của Phục Sinh, các ông sẽ hiểu rõ ý nghĩa. Lúc đó, các ông sẽ có thể làm chứng.
BÀI ĐỌC THÊM
1. "Mọi sự chứng tỏ một khởi đầu mới”.
(Célébrer, tạp chí C.N.P.L. số 266, trang 26).
Cuộc hành trình này kêu mời chúng ta từ bỏ một số hình ảnh Thiên Chúa. Ông Apraham đã khám phá dung mạo của một Thiên Chúa, không chấp nhận máu của tế vật và không đòi hy lễ nào khác ngoài sự vâng phục toàn tâm con người. Người Kitô hữu còn có thể khám phá một Thiên Chúa không đòi hỏi hy sinh "vượt sức người" (siêu phàm), mà chỉ đòi tin tưởng và phó thác.
Phêrô, Giacôbê và Gioan, cả các ông cũng vậy, phải loại bỏ một thứ hình ảnh Thiên Chúa, để khám phá ra một hình ảnh khác nơi Đức Giêsu Kitô. Loại bỏ thứ quan hệ dựa trên sự sợ hãi, họ phải cảm nghiệm được một Thiên Chúa, Đấng đã không dung tha con ruột mình, và chấp nhận sự mạc khải đau đớn một Đấng Thiên Sai chịu khổ nạn, Đấng ấy sẽ lôi kéo họ đi theo Người.
Và còn hơn nữa, Người còn đề nghị ta khám phá rằng nhân loại là con đường tới Thiên Chúa. Mà không phải một Thiên Chúa không có thân xác, nhưng một Thiên Chúa trong xác thịt hẳn hòi. Một thân xác được mời gọi để biến đổi hình dạng. Đó là con đường do Đức Giêsu vạch ra.
Người Do Thái trông đợi sự biến dạng sẽ xảy ra vào ngày tận thế. Khi trình bày điều đó đã thực hiện nơi Đức Giêsu, Maccô muốn tuyên báo rằng ngày tận thế đã khai mào. Thực vậy, mọi sự chứng tỏ một khởi đầu mới: Một hy vọng đáng nể cho tất cả những gì đang rên xiết "chuyển dạ sinh ra”.
2. “Điều kinh ngạc trong Đức Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình rất phàm nhân”.
(Thư gởi các người Công giáo Pháp, Cerf, trang 49-50).
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Cả cuộc đời của Đức Giêsu, từ lúc sinh ra cho tới ngày chịu. chết và sống lại, luôn tỏ ra quy hướng về Chúa Cha; Người lãnh nhận tất cả mọi sự từ Chúa Cha, và dấn thân hoàn toàn vào công trình cửu độ theo mệnh lệnh của Chúa Cha.
Nhưng điều kinh ngạc không phải chỉ là việc nhập thể của Chúa Con, Đấng đến cư ngụ ở giữa chúng ta để bày tỏ tình thương của Chúa Cha.
Điều kinh ngạc còn là trong Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình ra quá phàm nhân. Trước hết, người phàm vì Người tỏ mình phàm hơn chính người trần: Chúa đi đến với những người lạc mất trong số người trần, kẻ bé nhỏ và kẻ bị loại trừ, kẻ đau yếu và kẻ tội lỗi. Người phàm, bởi vì Người chia sẻ hết mọi sự của bản tính nhân loại, đau khổ và bạo lực, bất công và chết chóc, chết trên cây thập tự. Hoàn toàn người phàm, đến độ ban tặng cho ta được thông công sự sống của Người. "Lạy Cha, Con muốn rằng, con ở đâu thì những người Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con " (Ga 17, 24).
Lòng tin vào Đức Giêsu, Chúa con bao gồm sự bạo dạn dám đón nhận sự sống của chính Thiên Chúa vào sự sống người phàm của ta. Nếu chúng ta trình bày Lời Chúa và các Bí tích cho người khác, ta làm cũng vì mục đích đó: là để chúng ta biết được niềm vui sống và yêu mến như con thảo của Thiên Chúa, theo bước chân của Chúa Con, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
75.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
SỨ ĐIỆP CỦA TRÌNH THUẬT
Các lời mời gọi bản văn Biến Hình đưa ra có vẻ như dành cho con người hiện đại, nhất là Maccô.
Biết bao ý thức hệ triết học, tôn giáo, chính trị, khoa học v.v. chất chứa trong những khát vọng của chúng nỗi chờ mong một lúc mà nhân loại sẽ vượt lên chính mình và đạt tới một tình trạng trong đó nó sẽ được siêu thăng hóa. Khi la lớn rằng chúng không được thỏa mãn, phải chăng một vài ý thức hệ đã không tuyên bố cùng những khát vọng trên?
Trên bình diện đức tin Kitô giáo, cuộc Biến hình là câu trả lời của Chúa Giêsu cho các khát vọng ấy: con người được tạo dựng để hưởng vinh quang, nghĩa là để được tỏ hiện trong chính mình, bên kia cái mình đã làm, một cuộc sống siêu phàm của hữu thể mình mà không là gì khác ngoài sự sống được chia sẻ với Thiên Chúa khì đảm nhận thân phận hay chết của mình. Định mệnh này có một tính cách khiến lý trí chưng hửng ngạc nhiên. Có thể kinh nghiệm về nó và không hẳn là biết phát biểu ra nó. Chính cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu được nghe và được đi theo khi Người chỉ cho thấy mặc khải sau cùng về con người, mới cho phép phát biểu và tin vào định mệnh như thế.
Mặc dầu cuộc Phục sinh đã xảy ra và mặc dầu bức màn che đã hoàn toàn bị cất khỏi bản tính và con người. Chúa Giêsu khai mở nhân loại mới ấy, Kitô hữu vẫn không thể sống trong ảo tưởng: các thực tại bi thương của cuộc sống không bị tiêu trừ; chúng vẫn còn phần lớn trong một hoàn cảnh gần như hoàn cảnh các sứ đồ lúc cuộc Biến hình xảy ra. Cuộc Phục sinh đã chẳng hủy tiêu các giáo huấn đưa ra trước đó, song chỉ củng cố chúng mà thôi. Các là thánh sử làm tỏ rõ hơn hết các hoàn cảnh mà trong đó người ta tưởng đã hiểu và tuy vậy, vẫn chẳng bao giờ thôi thấy rằng người ta đã chưa hoàn toàn hiểu thấu. Ông trình bày Kitô hữu như những người đã khám phá trong Chúa Giêsu một con người duy nhất đã cho họ một kinh nghiệm quyết định nhưng chẳng chấm dứt bao giờ.
Đời sống môn đồ của Chúa Giêsu được trình bày như thỉnh thoảng có một nhịp mạnh. Núi là biểu tượng của nơi mà, nhờ phép rửa, đã xảy ra cho người ấy cuộc gặp gỡ với hữu thể vinh quang là Chúa Giêsu. Một khi trèo lên trên nó, người ấy đi vào trong một thế giới khác xem ra vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, một thế giới biến đổi ý nghĩa đời họ. Nhưng tiếp đó họ phải trở về cuộc sống bình thường: phải tiếp tục trong cùng viễn tượng hấp dẫn của một sự sống vinh quang, nhưng không cùng trong một bầu khí, hoàn cảnh. Thành thử cuộc sống thường nhật này được đánh dấu bằng nhtĩng giai đoạn đưa kẻ ấy đến chỗ nghe con người Chúa Giêsu, những giai đoạn trở thành cho kẻ ấy những lúc "tách riêng" thật sự, vì chúng giúp họ đào sâu, một cách nội tâm hơn và thân tình hơn, lai lịch của Đấng là họ đang song hành với.
Hai yếu tố có tính cách quyết định đối với hiệu quả này. Một là sự rút lui thật sự khỏi cuộc sống thường ngày, dù có ý hay ngẫu nhiên. Bấy giờ là như thể một khung cảnh làm vỡ tung cái bình thường và chuẩn bị cho một cuộc bùng vỡ nội tâm. Đó chẳng phải là một sự rút lui kiểu ngoài giáo nhắm cắt đứt khỏi đời sống hoặc làm cho người ta trở về đó như về lại một cái gì không chịu nổi, nhưng là một kinh nghiệm thiêng liêng đích thực đưa người ta vào lại đời sống và giúp người ta trải qua cuộc sống bằng cách biến đổi cái thường nhật gần gũi. Hai là, trong đời riêng tư, phải kinh nghiệm sự đau khổ và ngay cả sự chết dưới bất cứ mọi hình thức, để đi vào sự hiểu biết mới mẻ ấy hơn.
Tuy nhiên, có một cám dỗ rình chờ Kitô hữu trên con đường ấy, đó là dừng lại ở một trong các giai đoạn, thôi bước và tuyệt đối hóa kinh nghiệm mình như thể nó đã có tính cách dứt khoát, phong thánh cho các viễn quan riêng mà, dầu có hảo ý, vẫn còn có tính cách nhân loại. Trên bất cứ điểm nào, Kitô hữu cũng phải là một con người đang hành trình chứ chẳng phải là một con người đã đến đích. Chỉ có con người Chúa Giêsu mà họ đi theo mới là tuyệt đối.
Sau cùng, bản văn kêu mời Kitô hữu phải hành động với cùng phương pháp sư phạm như Chúa Giêsu. Chẳng có gì lạ khi loài người chỉ khám phá được dần dần mầu nhiệm Người, khi đầu tiên họ lưu ý đến con người trong chính nó, rồi ngạc nhiên về cái ý thức mà Người cho thấy về một sự sống siêu nhiên đang ở trong Người mà Người gọi là Thiên Chúa. Cũng chẳng có gì lạ khi chờ đợi cho loài người đặt những câu hỏi trước lúc trả lời họ, khi một vài kẻ, để sẵn sàng hiểu hơn, đã kinh nghiệm trong cuộc đời họ thế nào là chết cho chính mình và kinh nghiệm được ước vọng vượt quá những giới hạn của họ.
Gilles Becquet, lecture d'evangiles,... année B. (p.186-200)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Việc Chúa Kitô chịu đau khổ và chịu chết là một mầu nhiệm khó chấp nhận, "là cớ vấp phạm cho người Do thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại" (Lc 1,23) Bởi đó Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi nhất là việc Thiên Chúa đòi tổ phụ Abraham sát tế con trai duy nhất, dâng làm của lễ toàn thiêu cho Ngài. Việc đòi hỏi ấy thật là mâu thuẫn với lời Chúa hứa cho ông. Nhưng Abraham không thắc mắc, không phản đối mà hoàn toàn tin tưởng. Kết quả: ông được kể là công chính và Isaac con ông vẫn được sống, chứ chẳng bị sát tế (Bài đọc 1)
Sự công bình và lòng thương yêu của Chúa đối với ta đã đòi hỏi Chúa làm một điều tương tự như Abraham là "không dung tha Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta" (Rm 8,32). Isaac không bị giết mà Abraham vẫn được kể là công chính (Gc 2,21), còn Chúa Kitô thì đã bị giết, đã chết thực sự, nhưng đã sống lại, ngự bên hữu Chúa Cha và đã trở thành Đấng "công chính hóa" nhân loại (Bài đọc 2).
Chính là để cho các môn đồ thân tín giữ vững niềm tín thác khi thấy mình đau khổ và chết mà Chúa Kitô đã tỏ phần nào vinh quang của Người trên núi Taborê.
2. Chúa Giêsu đã đem ba môn đồ thân yêu lên núi Biến hình và cũng sẽ đem họ vào vườn Cây Dầu trong cơn hấp hối của Người. Mọi cảnh ngộ dầu là dịp Chúa gởi đến để kêu mời ta tiến sâu trong tình thân ái với Người. Hãy biết đọc các "dấu chỉ thời đại" dưới ánh sáng đức tin, trong tình yêu Chúa nồng nàn.
3. Các môn đồ không thể hiểu ngay mọi ý nghĩa của biến cố Biến hình. Trong đời sống thường nhật, đứng trước những khó khăn, gian truân, vui buồn, được an ủi hay bị bỏ rơi ta thật khó quán triệt ý nghĩa cuộc đời, khó khám phá ra Thiên Chúa tình yêu và công bình. Nhưng hãy kiên tâm, bền chí trong kinh nguyện, trong suy niệm lời Chúa. Trong đời hoạt động và ta sẽ thấy Thiên Chúa lớn hơn con tim chúng ta.
4. Ngày nay biến cố Biến hình vẫn còn tiếp diễn trong thế giới: Chúa Kitô biến hình trong người nghèo đói, bệnh tật, tù đày bơ vơ không nhà cửa, trong các sứ giả Tin Mừng... "Ai tiếp đón các con là tiếp đón Ta, ai tiếp dón Ta là tiếp đón Đấng dã sai Ta". Mùa Chay giúp ta thay đổi cái nhìn, kiện toàn cách cư xử của ta với tha nhân.
76.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
Biến cố Biến hình của Đức Giêsu trên núi cao được Tin mừng Nhất lãm tường thuật lại và được đọc trong Chúa Nhật II Mùa Chay cả ba năm A,B,C. Chúa nhật II Mùa Chay, năm B, Giáo hội cho chúng ta đọc Tin mừng theo thánh Marcô. Với những gì Thánh Marcô ghi lại, chúng ta có thể rút ra một số điểm suy niệm sau đây:
Thứ nhất, biến cố biến hình giúp củng cố niềm tin nơi các Tông đồ: Thật vậy, biến cố biến hình xảy ra sau 6 ngày Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài. Trong 6 ngày đó, các Tông đồ sống trong cảnh sầu buồn vì các ông nghĩ rằng Đức Giêsu chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn đồng nghĩa với việc thất bại và như thế thì bao nhiêu ước mơ, hoài bảo của họ sẽ tan thành mây khói, chắc chắn các ông không khỏi thất vọng về Thầy. Sầu buồn, thất vọng vì trong tâm trí các ông còn mang tư tưởng trần tục, hy vọng theo Thầy để được làm ông nọ bà kia khi Thầy công thành danh toại. Cũng vì mang tư tưởng lệch lạc như thế nên trước đó Phêrô đã can ngăn Thầy bước vào cuộc khổ nạn và bị Đức Giêsu quở trách một cách nặng nề. Về phần Đức Giêsu, cho dù bị các môn đệ phản đối, Đức Giêsu vẫn giữ lập trường của mình, vì đó là sứ mạng của Ngài được Chúa Cha trao phó. Vì thế, để thuyết phục các ông, hôm nay Ngài đưa ba môn đệ thân tín lên núi cao và biến hình trước mặt các ông. Qua biến cố này, Ngài muốn nói với các tông đồ rằng: phải qua đau khổ mới tới vinh quang, qua khổ nạn mới bước vào phục sinh vinh hiển.
Thứ hai, biến cố biến hình mời gọi các tông đồ và chúng ta “phải vâng nghe Lời Người”: Trong cuộc sống hằng ngày, vâng lời là một đức tính nhân bản. Chúng ta được dạy phải vâng lời người trên như ông bà, cha mẹ, anh chị, thầy cô…Trong đời sống đức tin, chúng ta được dạy phải vâng lời Thiên Chúa và những người thay mặt Ngài. Chúng ta cũng được mời gọi vâng lời Đức Giêsu. Bởi vì, Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài được Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu độ trần gian. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Cha đã dạy chúng ta phải vâng nghe lời Đức Giêsu rằng: “Này là con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe Lời Người.” (Mc 14,9). Lời của Đức Giêsu được thể trong toàn bộ cuốn Tin mừng. Vì thế, thực hành theo Tin mừng là chúng ta vâng nghe lời Đức Giêsu. Và đó cũng là cách chúng ta thể hiện lòng yên mến Đức Giêsu. Vì, chính Đức Giêsu đã dạy: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy…”(x. Ga 14,21). Lời của Đức Giêsu được thể hiện qua Giáo huấn chính thức của Hội Thánh, qua Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục. Lời của Đức Giêsu được thể hiện qua những lời dạy bảo chính thức của các vị Bề trên, qua ông bà, cha mẹ, anh chị... Vậy chúng ta hãy biết vâng nghe Lời Người. Bài đọc I cho chúng ta tấm gương vâng lời của tổ phụ Abraham. Khi Thiên Chúa đòi ông sát tế Isaac, đứa con duy nhất của mình, để dâng kính Ngài. Mặc dầu, đây là một đòi hỏi phi lý theo cái nhìn của con người và rất mâu thuẫn với lời hứa của Thiên Chúa với ông, nhưng Abraham không hề thắc mắc hay phản đối, trái lại ông hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Điều đó, cho chúng ta thấy ông luôn tin tưởng vào Thiên Chúa và vâng lời Người. Kết quả cho thấy: Isaac được cứu sống và ông Abraham được gọi là kẻ công chính. Sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ cũng đã sống chết vì Lời của Đức Giêsu. Ước mong rằng, mỗi chúng ta cũng cần có tinh thần vâng phục như tổ phụ Abraham và như các Tông đồ xưa.
Thứ ba, biến cố biến hình đem lại niềm vui cho các Tông đồ: Sau khi chứng kiến cuộc biến hình của Đức Giêsu, ba môn đệ cảm thấy hạnh phúc. Bởi vì, biến cố biến hình diễn tả trong chốc lát hạnh phúc Thiên đàng. Vì thế, các môn đệ muốn được ở mãi với Ngài trên núi để tận hưởng hạnh phúc đó. Thánh Phêrô nói với Đức Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia.”(Mc 9,5). Nhưng Đức Giêsu mời gọi các ông phải xuống núi, nghĩa là phải chu toàn nhiệm vụ được giao phó, phải trải qua đau khổ mới có thể được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trên Thiên đàng. Ước mong của các tông đồ cũng là ước mong của mỗi người chúng ta hôm nay. Vì thế, trong đời sống đức tin, mỗi người chúng ta phải cố gắng để được ở với Chúa. Được ở với Chúa khi chúng ta sống trong ơn nghĩa với Ngài. Được ở với Chúa khi chúng ta cầu nguyện sốt sắng. Được ở với Chúa khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Được ở với Chúa khi chúng ta đọc và suy gẫm Lời Chúa. Nếu chúng ta cảm nghiệm được niềm vui trong những lúc như thế tức là chúng ta đang nếm trước hạnh phúc Thiên đàng, giống như ba môn đệ cảm nghiệm hạnh phúc trên núi Tabor. Nhưng để được hưởng hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu trên Thiên đàng chúng ta cũng cần phải xuống núi, tức là phải chu toàn bổn phận của mình, phải trải qua đau khổ thì mới tới vinh quang.
Thứ tư, biến cố biến hình nhắc nhở mọi người chúng ta phải biến hình mỗi ngày: Lâu nay, các môn đệ chỉ thấy Đức Giêsu với con người bình thường như những người khác. Nhưng qua cuộc biến hình, các Tông đồ đã thấy dung nhan Thiên Chúa của Đức Giêsu. Ngài không chỉ là con người bình thường nhưng Ngài chính là Thiên Chúa. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta không còn là người “bình thường” nữa mà chúng ta được gọi là kitô hữu, trở nên con cái Thiên Chúa. Kitô hữu tức là có Chúa trong mình. Chúng ta có Chúa trong mình, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nên phải sống như Chúa đã sống. Để qua cuộc sống của chúng ta, mọi người sẽ nhìn thấy Chúa. Chúng ta phải nói được như Thánh Phaolô rằng: “Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2, 20). Nếu lúc nào đó bản chất kitô hữu trong chúng ta bị biến dạng, hãy mạnh dạn biến đổi mình bằng sự sám hối và lãnh nhận bí tích Giao hòa để tiếp tục trở thành người kitô hữu đích thực.
Lạy Chúa Giêsu, xin củng cố đức tin cho chúng con như xưa Chúa đã củng cố đức tin cho các tông đồ để chúng con biết chấp nhận đau khổ trong cuộc sống, nhất là luôn biến đổi bản thân nên giống Đức Giêsu mỗi ngày. Amen.
77.Đức tin và đau khổ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang--Joshepus Quang Nguyễn
Giáo Lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng: “Tin trước hết là gắn bó bản thân con người với Thiên Chúa, đồng thời cũng là tự nguyện chấp nhận tất cả chân lý Thiên Chúa đã mặc khải: Nhờ bao gồm cả hai điều trên, đức tin Kitô giáo khác với việc tin tưởng một người phàm. Thật là chính đáng và phải đạo khi phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa và tin tuyệt đối điều Người dạy” (số 150). Như vậy, đức tin không phải là một mớ giáo lý mà ta đã học, cũng không phải là một sự chinh phục, mà là một ân ban nhưng không của Thiên Chúa. Nhờ ân ban ấy, con người có được một lối sống tin tưởng, phó thác và chủ động theo Chúa. Lối sống đó là soi mình dưới bóng Chúa, đặt hành vi luân thường đạo lý dưới Lời Chúa qua từng biến cố của cuộc đời. Nghĩa là biết đáp ứng bằng đức tin trong mọi tình huống bằng hành động cụ thể. Tóm lại, Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang.
Bài đọc 1, Sách Sáng Thế kể rằng khi gần trăm tuổi, ông Abraham được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con duy nhất của Abraham với vợ chính là Sara, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin nơi Abraham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên Abraham rất đau khổ, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận “lòng tôn kính và tin yêu” của Abraham, vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho ông. Rõ ràng đức tin của ông Abraham mạnh mẻ đến nỗi giúp ông sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn là đẹp lòng Chúa.
Đến bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài đó là đón lấy đau khổ, chiến đấu với đau sổ. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.
Chúa Giêsu nói “ngày nào cũng có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34). Như vậy, đau khổ tự nó không phải là xấu, và tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ: biết chấp nhận và sống với đau khổ. Vì thế, khi gặp đau khổ tinh thân thần cũng như thân xác, đừng tuyệt vọng, đừng than thân trách phận, cũng đừng để mất đức tin! Nhưng, trước hết phải sống Lời Chúa hằng ngày, nghĩa là xin vâng và thi hành Lời Chúa ở bất cứ hoàn cảnh nào hay dù đau khổ mấy đi chăng nữa. Anh chị em có công nhận với tôi rằng bệnh hoạn không phải là do Chúa phạt, càng không phải là do tội mình hay ông bà cha mẹ anh chị em mình gây ra nhưng mình bệnh hoạn như thể là một trật thông phần vào đau khổ của Chúa Giêsu một trật để quyền năng Chúa được tỏ hiện nơi ta. Qủa thế, Phúc Âm kể: “Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta? " Đức Giê-su trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9, 1-7).
Cho nên, ngay lúc này, Lời Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng đau khổ bên cạnh đó giúp chúng ta kiên trì giữ vững đức tin để rồi đến một lúc nào đó chắc chắn chúng ta sẽ nhìn thấy những điều kỳ diệu và những điều lớn lao mà chúng ta không tưởng tượng được! Đúng như Lời Chúa trong thư Do thái quả quyết “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1). Vì vậy, sống Lời Ngài từng giây trong đời giúp đức tin kiên cường hơn và bền đỗ hơn đồng thời phát huy tính hiệu quả của lòng tin. Cho nên, Thánh Giacôbê xác tín: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (Gc 1,2-4).
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy dâng những khó khăn, đau khổ lên cho Chúa trong các giờ kinh lễ của chúng ta hằng ngày. Vì khi cầu nguyện chúng ta chuyển những khó khăn đau khổ ấy cho Chúa. Lập tức ta có được sự trợ giúp của Chúa, có thêm những sức mạnh siêu nhiên giúp chúng ta chịu đựng đớn đau. Cầu nguyện với Chúa trong đau khổ sẽ tạo ra một sức mạnh làm thêm ơn thánh, giúp ta tin rằng khi biết chịu đựng đau khổ vì danh Thiên Chúa, nhất định Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi ơn lành. Vì Lời Chúa xác quyết: “Đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, hãy đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Chúa. Và… Chúa sẽ ban cho bình an vượt lên trên hết mọi hiểu biết. Và bình an ấy sẽ điều khiển cách suy nghĩ và cảm nhận của bạn” (Pl 4,6-7). Vì vậy, dù bất cứ nguyên nhân hay bất cứ điều gì xảy ra, chúng ta phải kiên trì và kiêm tốn cầu nguyện, chắc chắn Chúa làm mọi điều tốt đẹp cho cho chúng ta (Rm 8,28). Amen.
78.Abraham
Trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay, có một khuôn mặt nổi bật, đáng cho chúng ta suy nghĩ đó là khuôn mặt của Abraham.
Thực vậy, vâng lệnh Thiên Chúa, ông dẫn con lên núi để sát tế dâng kính Ngài. Ông chấp nhận hy sinh cả cái viễn tượng tương lai của lời hứa, không chút thắc mắc trước đòi hỏi xem ra tự mâu thuẫn với chính mình của Thiên Chúa, Đấng đã hứa cho ông một dòng dõi đông đúc như sao trời cát biển, nhưng lại đòi ông phải hy sinh người con duy nhất, giữa lúc ông và bạn ông đã già cả không còn hy vọng sinh nở được nữa. Abraham đã biểu lộ một niềm tin yêu tuyệt đối nơi Thiên Chúa.
Quả thực, cử chỉ của Abraham chỉ có thể hiểu nổi khi chúng ta thấy được rằng nơi Abraham còn có một sự lựa chọn quan trọng hơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy điều đòi hỏi nơi Abraham mới chỉ là một thử thách của Thiên Chúa đối với ông là người được Thiên Chúa yêu thương. Cử chỉ của Abraham mới chỉ là một hình ảnh để chuẩn bị đón nhận điều Thiên Chúa thực hiện nơi chính mình Ngài. Điều Abraham đã chỉ thực hiện trong ý chí, nghĩa là chấp nhận thực hiện, nhưng trong thực tế đã không thực hiện vì không cần thiết nơi Thiên Chúa, lại đã trở thành thực tế. Đức Kitô người sẽ bị đau khổ và chết trên thập giá, chính là người con yêu dấu của Thiên Chúa. Nói cách khác, Thiên Chúa là một người Cha đã yêu thương con người đến độ không dung tha chính con mình, nhưng lại phó thác con mình vì tất cả chúng ta. Đức Kitô đã thực hiện tất cả những gì mà Abraham và Isaac ngày xưa đã tượng trưng.
Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Nhìn vào đời sống đức tin, chúng ta thấy không phải lúc nào chúng ta cũng cảm thấy sốt sắng, không phải lúc nào chúng ta cũng cảm thấy được ủi an, không phải lúc nào chúng ta cũng cảm thấy Chúa thật gần gũi, trái lại nhiều khi đức tin của chúng ta cũng đã bị thử thách. Vì trung thành với lệnh truyền của Thiên Chúa mà Abraham đã xứng đáng trở thành cha của những người có đức tin. Vì vâng phục thánh ý Chúa Cha, chấp nhận cái chết trên thập giá, mà Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta nguồn suối ơn cứu độ. Với chúng ta cũng thế. Giữa những gian nguy thử thách gặp phải, noi gương bắt chước Abraham, chúng ta hãy vững tin nơi tình thương của Chúa. Đồng thời noi gương bắt chước Chúa Giêsu, chúng ta dám chấp nhận những hy sinh gian khổ vì đức tin. Bây giờ không còn phải là thời dám can đảm chịu chết vì đạo, mà là thời dám can đảm sống đạo, sống niềm tin của mình. Chính nhờ những hy sinh trong cuộc sống thường ngày, mà đức tin của chúng ta sẽ trở nên kiên vững, và hơn thế nữa, chúng ta sẽ góp được cái phần nhỏ bé của chúng ta vào thập giá Đức Kitô, để nhờ đó mà chúng ta sẽ lãnh nhận được ơn Chúa cứu độ.
79.Vinh quang
Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều đặt biến cố Chúa Giêsu biến hình vào giữa hai lần loan báo trước về cuộc khổ nạn. Điều này rất quan trọng, bởi vì nó cho chúng ta hiểu rằng: Cuộc biến hình này có liên quan trực tiếp tới biến cố vượt qua và như vậy có nghĩa là vinh quang mà ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan được chứng kiến trên đỉnh Taborê hôm nay, báo trước vinh quang phục sinh của Ngài mai sau.
Tuy nhiên, cuộc biến hình này, mới chỉ là sự thay đổi hình dạng bên ngoài, đặc biệt là sự thay đổi màu áo, mà theo thánh Macrô, trở nên trắng tinh, không có thợ giặt nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Còn trong mầu nhiệm phục sinh, Đức Kitô không phải chỉ thay hình đổi dạng, mà Ngài hoàn toàn đổi mới. Thân xác phục sinh của Ngài là thân xác “có thần khí”. Bởi đó mà Ngài có thể đi qua mọi cửa nhà đóng kín, hay có thể bất thần xuất hiện trên đường Emmau, rồi ngay sau đó lại xuất hiện tại Giêrusalem. Chính với thần khí đó, mà hôm nay Đức Kitô hiện diện trong Giáo Hội, trong thế giới và trong tâm hồn mỗi người tín hữu của Ngài.
Nhưng điều đáng cho chúng ta suy niệm, đó là không một sự biến hình nào mà lại không đòi hỏi một sự trả giá. Trong Tin Mừng theo thánh Luca, Ngài đã hai lần nhắc đến quy luật này: Đức Kitô phải chịu khổ hình rồi mới vào trong vinh quang của Ngài. Ở đây, với sự kiện biến hình, Ngài cũng nói với các môn đệ: Có lời chép về Con Người rằng Ngài phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê. Vậy thì đã rõ, mục đích của cuộc biến hình này chính là giáo dục đức tin cho các môn đệ. Cũng như Chúa đã báo trước cho các ông biết Ngài sẽ phải chịu đau khổ và chịu chết, thì bây giờ Ngài cũng cho các ông thấy trước vinh quang phục sinh của Ngài.
Thật vậy, khác với sự mong đợi của nhiều người và của chính các môn đệ, là Đức Kitô sẽ thiết lập một vương quốc trần gian, nối nghiệp vương đế của nhà Đavít, Ngài khẳng định rằng Nước của Ngài không thuộc về thế gian này và Ngài đến không phải để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Cái chết của Ngài là một sự dâng hiến, chứ không phải là một thất bại, đó là một sự hy sinh tự nguyện, để rồi chính Ngài có quyền phục hồi lại được. Đó là lý do tại sao Ngài đã ba lần báo trước về cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài.
Từ đó chúng ta đi đến kết luật đó là đừng bao giờ chờ đợi một cuộc chiến thắng mà không phải trả giá, chờ đợi một sự thành công mà không đòi đổ mồ hôi, nước mắt và gian khổ. Nhưng trái lại, cũng đừng bao giờ bi quan thất vọng mỗi khi gặp phải gian nan thử thách. Chúa mời gọi chúng ta hãy vác thánh giá mình mà đi theo Ngài, nhưng không phải với bộ mặt đưa đám hay với những rên xiết thở than, nhưng với bộ mặt cương quyết rắn rỏi, với thái độ hiên ngang vì tin tưởng vào lời Ngài đã nói: Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian.
80.Đau khổ.
Việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết, hay nói một cách khác, mầu nhiệm thập giá của Ngài mãi mãi vẫn là một điều khó chấp nhận, một cớ vấp phạm cho người Do Thái, một sự điên rồi đối với dân ngoại. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi nhất, đó là việc Thiên Chúa đòi tổ phụ Abraham sát tế người con duy nhất của mình là Isaac, để làm của lễ toàn thiêu dâng kính Ngài. Việc đòi hỏi này thật là mâu thuẫn với lời Chúa đã phán hứa với ông. Nhưng Abraham đã không thắc mắc, đã không phản đối, trái lại ông hoàn toàn tin tưởng, và thi hành đúng theo lệnh truyền của Chúa và kết quả: Ông được gọi là kẻ công chính, còn Isaac con ông thì được cứu sống, chứ chẳng bị sát tế.
Hình ảnh của Abraham là biểu tượng cho tình thương của Chúa đối với chúng ta. Thực vậy sự công bình và lòng thương yêu của Chúa đối với chúng ta đã đòi Chúa làm một việc tương tự như Abraham, đó là không dung tha con mình, nhưng phó thác con mình cho tất cả chúng ta. Ngày xưa, Isaac không bị giết, mà Abraham vẫn được kể là kẻ công chính. Còn bây giờ, Đức Kitô đã bị giết. Ngài đã chết thực sự, nhưng sau đó Ngài sống lại, ngự bên hữu Chúa Cha, hoàn tất công trình cứu độ nhân loại và đã trở thành Đấng công chính hoá loài người.
Tiếp đến là cuộc chuẩn bị gần, như chúng ta thấy qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chính vì muốn để cho các môn đệ thân yêu giữ vững niềm tin khi thấy mình bị đau khổ và chịu chết một cách nhục nhã trên thập giá, mà Chúa Giêsu đã tỏ lộ phần nào vinh quang của Ngài trên đỉnh Tabor. Nếu lưu ý một chút, chúng ta sẽ thấy ba môn đệ được Chúa đưa lên đỉnh Tabor hôm nay cũng chính là những môn đệ mà Ngài sẽ đưa vào vườn cây dầu trong cơn hấp hối. Qua đó chúng ta thấy, mọi biến cố, dù vui hay buồn, cũng đều là những dịp Chúa gửi đến để kêu mời chúng ta tiến sâu trong tình thân với Ngài.
Do đó, hãy biết đọc các dấu chỉ thời đại, hãy biết nhìn những sự kiện xảy ra dưới ánh sáng đức tin và trong yêu mến Chúa nồng nàn. Các môn đệ lúc đầu đã không thể hiểu ngay mọi ý nghĩa của việc Chúa biến hình. Trong đời sống thường ngày cũng vậy, đứng trước những khó khăn hay dễ dàng, gian khổ hay vui mừng, được an ủi hay bị bỏ rơi, chúng ta khó mà thấu hiểu được ý nghĩa của nó, khó mà khám phá ra được tình thương và sự công bình của Chúa. Thế nhưng, chúng ta hãy kiên tâm bền chí, trong kinh nguyện và trong suy niệm Lời Chúa, trong đời sống và trong hành động, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa lớn hơn con tim của chúng ta. Hãy biết tìm ra thánh ý Chúa được gởi gắm qua những sự kiện hằng ngày, nhất là nơi những đau thương, gian khổ và thập giá vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới phục sinh.
81.Chúa Nhật 2 Mùa Chay
Thưa Quý ông bà anh chị em! Năm nào cũng vậy, cứ đúng vào ngày Chúa nhật thứ hai Mùa chay, là Giáo hội cho chúng ta đọc lại câu chuyện Đức Giêsu biến hình trên núi Ta-bor. Sự kiện này xảy ra sau khi Đức Giêsu tiết lộ cho các môn đệ của mình biết về chương trình mà Đấng Kitô con Thiên Chúa, sẽ phải thực hiện để mang lại ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người. Sự kiện ấy được Thánh Marcô thuật lại như thế này: Cũng như mọi khi, Đức Giêsu vẫn thường lên núi cầu nguyện. Thế nhưng lần này, Người đem theo ba đồ đệ thân tín nhất của mình, đó là Phêrô, Gioan và Giacôbê. Đang khi cầu nguyện thì dung mạo của Người biến đổi khác thường: Khuôn mặt sáng chói như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết, trắng đến độ mà không có một thợ giặt nào trên trần gian này có thể làm được như thế. Đồng thời, bên cạnh Người còn có hai nhân vật nổi tiếng thời Cựu ước là Môisen và Elia. Hai vị này cũng sáng láng vinh hiển giống như vậy. Phêrô và hai môn đệ kia nhìn thấy cảnh tượng này thì lấy làm vui mừng sung sướng: "Lạy Thầy! Nếu chúng con được ở mãi tại nơi này thì tốt quá". Thế nhưng Đức Giêsu đã bác bỏ lời đề nghị ấy; Bởi vì Người còn phải trở xuống núi để hoàn tất con đường mà Người đã khởi sự từ lúc nhập thể đi vào cuộc đời này.
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Giêsu muốn thực hiện cuộc hiển dung có thể nói là đầy ngoạn mục như thế trước mặt các môn đệ của mình? Đọc lại những đoạn Phúc âm trước đó, chúng ta sẽ nhìn thấy dược hai lý do này. Trước hết là không chỉ riêng gì mười hai môn đệ, mà hầu hết những người Do thái lúc bấy giờ, đều không nhận ra, hay đúng hơn là không muốn nhận ra Đức Giêsu là Con thiên Chúa, là Thiên Chúa thật; Mặc dù họ đã nghe không biết là bao nhiêu những điều hay lẽ phải, đã chứng kiến rất nhiều những phép lạ mà Người đã làm. Chính vì thế mà hôm nay đây, qua sự kiện này, Chúa muốn cho họ, ít ra là những môn đệ của mình, nhìn thấy được sự thật về Người. Người chính là Thiên Chúa thật, đang muốn đưa tay cứu vớt mọi người, chứ không phải là Elia, Giêrêmia hay bất kỳ một vị tiên tri nào khác.
Lý do thứ hai là qua sự kiện này, chúa muốn củng cố niềm tin cho các đồ đệ của mình. Theo Chúa bấy lâu nay, dường như các ông muốn mình đạt được một cái gì đó để làm rạng rỡ gia đình dòng họ. Chính vì thế mà liền sau khi Đức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn mà Người sắp phải chịu, thì Phêrô như thể là thay mặt cho anh em nhóm mười hai của mình, ngăn cản Chúa Giêsu. Các ông hoàn toàn không muốn Thầy của mình phải bước vào con đường đó; Bởi vì đó là con đường của đau khổ, con đường của thất bại. Và nếu như Chúa Giêsu thất bại, thì cũng có nghĩa là những ước mơ, những hy vọng của họ bị tiêu tan. Hiểu được tâm trạng đó, Chúa Giêsu mang họ lên núi, tỏ cho họ thấy một chút vinh quang để cho họ hiểu được rằng: Muốn đạt tới vinh quang, thì phải đi trên con đường thập giá. Muốn có được hạnh phúc, thì phải bước qua con đường của sự đau khổ. Không muốn bước trên con đường thập giá, ngại ngùng đi trên đường đau khổ, thì Chúa Giêsu đã nói trước: "không thể làm môn đệ Ta được".
Thưa anh chị em! Sống trong kiếp làm người, ai ai cũng đã từng có những niềm vui, có những hạnh phúc bất ngờ; Nhưng rồi cũng không thiếu vắng những nỗi buồn đau xót, những gian nan khổ cực, những điều mà mình phải đón nhận bằng cay đắng xót xa, bằng tủi buồn nhục nhã. Nói khác đi là đau khổ gắn liền với thân phận của con người, nên người ta mới có câu: "Hữu sinh hữu khổ" là như thế. Chúa Giêsu đến trần gian này không phải là để cất đi những đau khổ đó. Và cũng vậy, việc chúng ta sống làm con cái Chúa, cũng chẳng phải là để miễn chuẩn cho mình thoát khỏi những vất vã nhọc nhằn trong cuộc sống hiện tại. Nếu như năm xưa, Chúa đã khích lệ Phêrô và các môn đệ của mình, hãy mạnh dạn bước trên con thập giá để trở thành nhân chứng phúc âm cho Người, thì hôm nay, Người cũng mở ra cho chúng ta một niềm tin vững mạnh, một niềm hy vọng sâu sắc khi chúng ta phải đối diện với những nghịch cảnh, với những gian nan trắc trở trong cuộc sống đời thường. Nghĩa là chúng ta cũng sẽ được vinh hiển sáng láng giống như Chúa khi mình sẵn sàng vác lấy thập giá của cuộc đời mình mà trung thành bước theo Chúa trong đời sống đạo hàng ngày.
Tất cả chúng ta đều biết rằng: Đau khổ tự nó là một điều xấu và không có giá trị gì cả. Tuy nhiên, điều làm cho những đau khổ trở thành ích lợi cho mình chính là cách thức mà chúng ta xử lý nó. Chúng ta chối bỏ trốn tránh nó, nó sẽ trở nên chua chát nặng nề hơn. Còn ngược lại, chúng ta đối diện với nó như thể nó là một phận của đời sống mình, thì nó sẽ trở nên nhẹ nhàng và làm cho mình khiêm tốn và khôn ngoan hơn. Ước mong rằng: Mỗi Thánh lễ mà chúng ta tham dự, đều thật sự là một cuộc lên núi với Chúa, để nhờ đó mà chúng ta có đủ sức mạnh sống trọn vẹn cuộc đời Kitô hữu của mình. Chúng ta nên nhớ rằng: Mỗi người một thập giá và mỗi ngày một thập giá, nhưng không có một thập giá nào nặng hơn đôi vai của chúng ta; Đó là điều mà Chúa đã trả lời với Phaolô khi ngài than vãn về những khốn khó trong cuộc đời của mình: "Ơn Ta đủ cho con". Và thưa anh chị em! Sẵn lòng đón nhận những đắng cay khổ nhọc trong cuộc đời như là một thập giá riêng của mình, đó chính là một trong những phương cách hữu hiệu để chúng ta sống tinh thần của Mùa chay thánh này.
82.Thập Giá, Vinh Quang
1. Biến cố hiển dung trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe, hé mở trước vinh quang thật của Chúa, về phương diện nào đó thiết nghĩ để củng cố niềm tin cho các Tông đồ. Bởi 6 ngày trước đây, theo Phúc Âm Mátthêu và Máccô (còn Lc thì 8 ngày), ĐG báo cho các ông biết rằng Người sắp dẫn các ông lên Giêrusalem, ở đó Người sẽ bị đánh đập và bị giết chết, và những ai muốn làm môn đệ Chúa thì cũng phải vác thập giá mình mà theo Chúa, điều này đang làm cho các ông hoang mang, lo sợ. Chính Phêrô ngăn cản Chúa đừng đi vào con đường đau khổ này.
2. Đang lúc các ông trong tâm trạng bất ổn đó, ĐG dẫn các ông lên núi cao, chính nơi đây trước mặt hai nhân vật nổi danh của Cựu Ước: Môisen và Êlia đại diện cho Lề Luật và các tiên tri. Việc này như báo rằng thời Cựu Ước đã hết, thời Đức Giêsu, thời Tân Ước bắt đầu. Chính Chúa Cha xác nhận ĐG là con yêu dấu, và bảo hãy vâng nghe lời Ngài. Trước cảnh vinh quang của Đức Giêsu, Phêrô và các Tông đồ xin được kéo dài điều ấy: Vì vậy, các ông xin làm ba lều (1 cho Chúa, 1 cho Môisen, và 1 cho Elia). Điều này có ý nghĩa gì? Thưa các ông muốn khai mạc thánh đô ngay tại đây, các ông muốn lưu lại trong lễ hội vinh quang, các ông không muốn xuống núi. Nhưng cảnh ấy chỉ được Chúa cho diễn ra cách ngắn ngủi. ĐG và các Tông đồ lại xuống núi, lại tiếp tục công việc vất vả loan truyền Nước Chúa.
3. Phải chăng, chúng ta hôm nay cũng như các Tông đồ xưa, bước theo Chúa để chỉ muốn được những điều thuận lợi, mà khước từ những khó khăn, những hy sinh? Ước vọng của các Tông đồ, hay ước vọng của chúng ta bước theo Chúa để tìm được hạnh phúc thật, đó là điều đúng, chính đáng. Nhưng chúng ta đừng quên rằng, Đức Kitô đã phải trải qua khổ nạn mới được phục sinh, mới được suy tôn trong vinh quang sao? Người Kitô hữu cũng được mời gọi đi theo con đường ấy, chính ĐG nói: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mc 9,34).
Khi nói tới vác thập giá của mình, ta thường nghĩ: Thầy Giêsu có những đau khổ, và mỗi người ai cũng có cái khổ riêng. Điều đó không sai, nhưng chúng ta nên hiểu đúng hơn, đó là khi bước theo Chúa thì phải chấp nhận những cái khó khăn do việc theo Chúa mang lại: như phải tuân giữ những điều Ngài dạy, nghĩa là chấp nhận những hy sinh, vất vã của việc giữ đạo, sống đạo, từ bỏ con người cũ... Đôi khi còn phải hy sinh cả mạng sống (như thời kỳ cấm cách). Đây là con đường hẹp, con đường thập giá, nhưng là con đường dẫn đến hạnh phúc thật.
4. Muốn đạt tới vinh quang, hẳn phải trải qua con đường thập giá đó cũng là điều dễ hiểu thôi. Chẳng hạn như các bạn trẻ muốn có một nghề nghiệp, một bằng cấp đại học, các bạn cũng biết rằng phải đầu tư, phải hy sinh cho việc học hành như thế nào? Các bậc gia trưởng, hiền mẫu nhìn lại xem, để có một cơ ngơi, một mái ấm gia đình như hôm nay hẳn quý ông bà phải hy sinh, vất vả để xây dựng như thế nào? v.v. Cũng vậy, để được phúc trường sinh, mọi người chúng ta cũng phải hy sinh, cũng phải chịu cực khổ để bước theo Chúa, nghĩa là phải sống đạo, chứ không phải khi lãnh nhận BT Rửa tội là đương nhiên sẽ được phúc Thiên Đàng.
5. Có thể nói thập giá là biểu tượng của Kitô giáo, ở đâu có Kitô hữu, ở đó có thập giá: trên nóc nhà thờ, trên cổng nhà, trên người, trên mộ, nhưng thập giá được trưng bày như thế không bao giờ quan trọng cho bằng thập giá trong cuộc sống hằng ngày: thập giá khi nỗ lực chu toàn bổn phận, khi quên mình đi để quan tâm tới người khác, khi nói tiếng "không" với những gì đi ngược lại với những giá trị Phúc Âm. Thập giá không là điểm kết của Đức Giêsu, mà qua thập giá Ngài mới đạt đến Phục Sinh vinh hiển. Vì thế những hy sinh, những cố gắng của chúng ta hôm nay làm vì danh Đức Giêsu, là thập giá, là chìa khoá để mở cửa vào Thiên Quốc ngày sau với Ngài.
6. Bầu khí mùa chay rất thuận lợi cho việc chúng ta bước vào con đường thập giá của ĐKT. Thế nhưng hơn 10 ngày của mùa chay năm nay đã qua, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại để xem mình đã bước theo Chúa được đến đâu? Mình giống Chúa được đến đâu? Chúng ta cũng nhớ rằng, chúng ta không chỉ bước theo Chúa trong mùa chay, mà còn bước theo Chúa trong suốt cuộc đời nữa.
7. Vinh quang mà Phêrô, Giacôbê và Gioan được cảm nếm trong khi Chúa biến hình, vinh quang của Đức Kitô Phục sinh cũng sẽ là vinh quang của chúng ta mai ngày, nếu chúng ta trung thành bước theo Chúa, và chấp nhận những khó khăn do việc bước theo Chúa mang lại. Nhưng liệu vinh quang ấy có đủ sức hấp dẫn để giúp chúng ta vượt qua mọi thử thách, mọi cám dỗ, mọi cạm bẫy trong cuộc đời để đi trọn con đường mà Chúa mời gọi chúng ta đi vào hay không?
83.Y phục Người trở nên rực rỡ
Sau khi tiên báo mình phải đi vào cuộc thương khó, phải chịu nạn chịu chết, Chúa Giêsu nhận thấy các môn đệ của Ngài băn khoăn không hiểu "tại sao Thầy mình lại phải như thế?" Để an ủi các môn đệ, Chúa Giêsu dẫn các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình lên núi và Ngài tỏ cho các ông thấy vinh quang của Ngài để củng cố niềm tin cho các ông. Ở đó Chúa Giêsu biến đổi hình dạng, y phục Người trở nên rực rỡ trắng tinh, làm cho các môn đệ phải một phen kinh hoàng vì sự lạ lùng đang diễn ra trước mắt. Nhưng sự lạ lùng này không làm cho các ông kinh hãi, sợ sệt; ngược lại làm cho các ông thích thú vô cùng và muốn được ở như thế mãi mãi nên thốt lên "Thưa Thầy chúng con ở đây thì thật là hay". Hơn thế nữa, các ông còn muốn định cư luôn ở đó để được chiêm ngắm Chúa mãi, không hề muốn rời xa tình trạng ấy, nên xin dựng ba lều một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Êlia.
Chúa Giêsu biến hình để trở về tình trạng Thiên Chúa của Người. Hình dạng đó làm cho các môn đệ không muốn lìa xa nữa, các ông không còn bận tâm điều gì nữa, chỉ muốn chiêm ngưỡng mãi mãi hình ảnh mà các ông đã thấy nơi Thầy của mình. Chúng ta có thế nói rằng các môn đệ này đã được "lên thiên đàng" khi các ông còn đang sống. Các ông hết sức sung sướng chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa, không muốn xa rời nữa. Điều này làm cho các ông hạnh phúc vô cùng không còn tha thiết với môt điều gì khác ngoài Chúa. Giờ đây mọi sự trong thế không còn ý nghĩa gì nữa đối với các ông.
Mỗi ngày các môn đệ đều ở với Chúa Giêsu, cùng ăn với Chúa Giêsu, cùng nghe Chúa Giêsu giảng dạy, cùng hoạt động với Chúa Giêsu, có lẻ những bận rộn ấy đã che mắt các ông làm cho các ông không thể nào nhận ra vinh quang của Chúa Giêsu. Hôm nay Chúa Giêsu tách các ông ra khỏi những bận rộn và lo toan của cuộc sống đời thường để tỏ cho các ông thấy vinh quang vốn có của Ngài. Điều này làm cho các ông hạnh phúc vô cùng. Đó là một thứ hạnh phúc lấp đầy mọi khao khát của con người. Đây cũng là dịp để chúng ta hiểu thêm về hạnh phúc thiên đàng mai sau. Ở đó chúng ta sẽ được hạnh phúc tràn đầy và không còn ước ao một điều gì khác nữa.
Trong cuộc sống thường ngày chúng ta có quá nhiều công việc phải lo, phải nghĩ, nào là cơm áo, gạo tiền, nào là danh vọng quyền thế, nào là những thú vui phù phiếm nhưng không kém phần hấp dẫn, nào là những thói hư tật xấu: bài bạc, rượu bia, quậy hoạn, du côn du đảng, phá làng phá xóm, nào là thói quen nói hành nói xấu người khác, # kiến chúng ta không còn nhớ tới Chúa, không còn giờ để gặp Chúa, không còn nhận ra tiếng nói của Chúa trong lương tâm mình nữa.
Mùa Chay là thời gian thích hợp để chúng ta quay về với Chúa, từ bỏ con người cũ tỗi lỗi xấu xa, để mặc lấy con người mới theo khuôn mẫu Chúa Kitô. Hãy gặp gỡ Chúa nhiều hơn qua các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể và Giải tội, hãy dành thời gian để Chầu Thánh Thể nhiều hơn, cũng như gia tăng các việc lành phúc đức.
Xin Chúa giúp chúng ta nhận thấy rỏ thực trạng con người của mình hơn để dấn thân theo Chúa hơn. Gặp gỡ Chúa nhiều hơn sẽ kiến lương tâm chúng ta nhạy bén hơn với tiếng nói của Chúa trong tâm hồn chúng ta. Nhờ đó mỗi ngày chúng ta nên giống Chúa hơn, để Chúa ở đâu chúng ta cũng được ở đó với Người.
84.Đức Giêsu biến hình vinh quang
Câu chuyện được viết sau khi Đức Giêsu Phục sinh vinh quang, đã đuợc tin vững vàng, đã được rao giảng rộng rãi và cũng để củng cố đức tin của các tín hữu.
Để hé mở cho biết từ từ về chính mình Đức Giêsu bắt đầu bằng câu hỏi: người ta nói Thầy là ai? Phêrô đã đáp đúng: Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa. Nhưng mọi người chưa hiểu đúng mặc dù Người đã giải thích bằng "loan báo sự thương khó". Đấng Kitô phải chịu đau khổ nhiều, bị giết chết, ngày thứ ba mới sống lại vinh quang, Nhưng người ta sợ sự thương khó nên sự sống lại vinh quang bị che khuất mắt họ. Đức Giêsu cho ba môn đệ thân tín nhất thấy trước trong chốc lát sự sống lại vinh quang mong các ông hiểu mà tin và giúp người khác tin: Người biến hình vinh quang.
Vài điểm CHÚ GIẢI
- Sáu ngày sau: không phải ngày thứ sáu mà là ngày trước ngày sa bát, là ngày cuối, ngày sống lại.
- Đức Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan di theo mình: Ba môn đệ thân tín nhất, sẽ có mặt trong giờ Đức Giêsu hấp hối. Thân tín, đi theo là điều kiện khởi đầu để thấy sự biến hình vinh quang.
- Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi: Điều kiện tiếp theo là "đi riêng ra một chổ, chỉ mình các ông thôi" với Đức Giêsu. Không còn với ai hết, tách riêng ra khỏi những người khác chưa đủ điều kiện để được thấy.
- Tới một ngọn núi cao: Núi nào? Chỉ một nơi riêng biệt dành cho những việc quan trọng nhất. Trong văn chương Do thái những điều trọng đại thì được xảy ra trên núi. Núi: quan trọng bậc nhất.
- Rồi Người biến hình trước mắt các ông: Thiên tính tiềm ẩn trong Đức Giêsu hiển lộ ra.
- Y phục người trở nên rực rỡ trắng tinh, không thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy: Chưa có ngôn ngử để diển tả đúng thực tế siêu nghiệm nầy, đành phải dùng những từ ngữ có sẳn dù không cân xứng. Con người được nhìn thấy qua y phục.
- Ông Êlia và ông Môsê hiện đến đàm đạo với người: Êlia trước Môsê vì đi ngược từ Đức Giêsu. Lịch sử được tính từ Đức Giêsu vế trước cũng như về sau. Êlia là các tiên tri, Môsê là lề luật. Cả hai là Cựu Ước. Bàn giao Cựu Ước cho Đức Giêsu để Người lập ra Tân Ước.
- Thưa Thầy được ở đây thì tốt lắm: ở đây là hiện tại vinh quang mà các ông thấy. Là cách diễn tả đơn sơ nhất về visio beatifica (phúc kiến) hạnh phúc thiên đàng cũng là chính xác nhất. Ở đây tốt lắm: không thể tốt hơn nữa nên cũng không muốn đi đâu nữa. Hoàn toàn thoả mãn rồi.
- Chúng con xin làm ba lều: Trong cuộc Xuất Ai Cập Hòm bia Thiên Chúa tượng trưng cho sự hiện diện của vinh quang Thiên Chúa ở trong lều.
- Bỗng có một đám mây bao phủ các ông: Đám mây và tiếng phán từ trong đám mây là văn chương do thái tả sự hiện diện của Thiên Chúa. Đáp lại lời của Phêrô: Thiên Chúa không ở trong lều mà ở trong đám mây: Thiên Chúa ở trên trời. Không cần làm lều.
- Và từ đám mây có tiếng phán: Thiên Chúa ở trên trời, hiện diện trong đám mây. Có tiếng phán mới nhận ra có Thiên Chúa.
- Đây là Con Ta yêu dấu: Đức Giêsu của phép rửa đã biến hình vinh quang. Lời tuyên bố "Con Thiên Chúa" được hiện thực. Con Thiên Chúa đồng bản tính thì cũng có vinh quang như Thiên Chúa. Con yêu dấu "đẹp ý Cha hoàn toàn". Vâng ý Cha trong moi sự.
- Hãy vâng nghe lời Người: Xứng đáng được vâng lời, nghe lời. Là điều kiện cuối cùng để chúng ta được "biến hình" hầu hưởng vinh quang như Đức Giêsu biến hình.
- Không thấy ai nữa chỉ con một mình Đức Giêsu: Môsê, Êlia thuộc thời kỳ quá độ đã bàn giao cho Đức Giêsu, Đấng được Thiên Chúa uỷ nhiệm làm Đấng cứu độ. Đức Giêsu mới cứu độ. Đi theo Người thì được cứu độ. Chỉ Đức Giêsu mà thôi. Ngoài Người không có ai khác.
Khi cho Con xuống thế làm người Thiên Chúa Cha dã vạch ra chương trình cuứ độ. Đức Giêsu phải hoàn thành mọi chi tiết thì mới được Thiên Chúa tôn phong là Đấng Cúư Độ và Chúa. Trên thập giá khi Đức Giêsu tuyên bố "đã hoàn tất" thì Người được Thiên Chúa cho sống lại vinh quang. Người đã mở ra con đường tới sự sống lại vinh quang cho loài người. Đó là con đường làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa không muốn đường thập giá mà muốn đường "làm con". Đức Giêsu làm con yêu dấu của Thiên Chúa thì cũng được thông phần vinh quang của Thiên Chúa. Và tiếng Chúa Cha đã căn dặn "hãy nghe lời Người". Là điều kiện Chúa Cha đã đặt ra.
Phương tiện để thực hiện tốt điều kiện của Chúa Cha là đi theo Đức Giêsu trên con đường của Người: Được Đức Giêsu đem đi "theo", đi riêng, lên núi cao, nhất là nghe lời Ngưòi, chỉ một mình Đức Giêsu (không còn Môsê và Êlia, cũng không còn tiếng phán từ đám mây). Tóm lại phải làm sao để nghe lời Đức Giêsu tốt nhất. Có các dòng tu chiêm niệm tập trung học hỏi Kinh Thánh và cầu nguyện. Ngày nay người ta quan tâm tới "thực hành" nhiều hơn nên có những dòng tu hoạt động xã hội nhưng trên căn bản của LỜI. Lời là ý của Thiên Chúa. Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết ý của Thiên Chúa để làm theo và được làm con như Người. Vâng ý Cha là làm con.
Lời Chúa mới biến hình chúng ta được. Lời được thực hành mới có kết quả.
Hãy thực hành Lời Chúa Cha "Hãy nghe Lời Người".
85.Chúa Nhật 2 Mùa Chay
Anh chị em thân mến.
Trong cuộc sống đời thường, ai cũng muốn cho mình được sung sướng, hạnh phúc. Thế mà anh chị em nhìn thấy hằng ngày, biết bao nhiêu người luôn tìm sự cực khổ, họ lam lủ suốt ngày, tay lắm chân bùn, vất vả với bao công việc nặng nhọc. Có người không có thì giờ nghĩ ngơi. Trong số đó có cả chúng ta, là những người đang ngồi trong nhà thờ đây. Như vậy tất cả mọi người không biết tìm hạnh phúc, không biết sống sung sướng sao? Hay mọi người bị một thế lực nào ép buộc phải làm như thế? - Thưa chính vì muốn tìm đời sống hạnh phúc, muốn tìm sự sung sướng mà con người phải tìm sự vất vả, cực nhọc như thế. Mới nhìn tưởng chừng như đó là một nghịch lý. Nhưng thực sự đó là một chân lý ngàn đời mà ai cũng đều biết. Muốn có được hạnh phúc thì phải biết chuẩn bị, chuẩn bị từ những đau khổ, từ những vất vả của cuộc sống. Nếu nằm không đó mà chờ thì hạnh phúc sẽ không bao giờ đến được.
Lạy Thầy chúng con được ở đây thì tốt lắm! Lời nói của Phêrô thốt lên cách vui sướng, nhưng ông không biết mình đã nói gì, vì Thiên Chúa đã cắt ngang tư tưởng của ông. Chúa Giêsu đã dẫn các ông từ dưới lên núi cao. Ngài cho các ông nhìn thấy và hưởng được một chút hạnh phúc của cuộc sống mai sau. Các ông muốn ở lại trong hạnh phúc đó, hạnh phúc mà các ông không cần phải chuẩn bị, không cần phải tìm kiếm, không cần phải vất vả. Các ông vui sướng, niềm vui sướng đó khiến các ông bật thành tiếng. Nhưng các ông không nói được hết lời, sự vui sướng cũng không còn nữa, các ông lặng thinh trong sự tiếc nuối. Chúa Giêsu lại dẫn các ông trở xuống, không cho ở trên cao nữa, trở về cuộc sống đời thường, cuộc sống của sự chuẩn bị cho chu đáo để đến hạnh phúc bất diệt, hạnh phúc chỉ để cho những người biết chuẩn bị.
Lạy Thầy chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nhiều lần trong đời sống chúng ta cũng đã thốt lên câu đó. Cũng nhiều lần niềm vui của chúng ta không được trọn vẹn, bị cắt ngang nữa chừng và chúng ta cũng không biết mình đang làm gì. Điều mình muốn , điều mình đang tận hưởng, điều mình đang hài lòng thì bổng nhiên không còn nữa. Hằng ngày lại xuất hiện toàn những nghịch lý của cuộc đời: những điều làm cho mình phải vất vã khó chịu, những điều làm cho thân xác phải khổ nhọc, những điều làm cho mình phải đau đớn. Chúng ta chỉ biết bực mình, than van trách phiền, đôi lúc chúng ta muốn trốn chạy để tìm sự sung sướng hơn. Có khi nào chúng ta tự nghĩ: đây là lúc chúng ta đang đi xuống núi, trở về cuộc sống đời thường, đây là lúc chúng ta đang chuẩn bị cho hạnh phúc của chính mình, niềm hạnh phúc mà không ai có thể lấy đi được. Hay chúng ta vẫn còn đang mơ ước ở trên núi cao, để rồi không biết mình đang nói gì. Vì chúng ta đang muốn chiếm lấy một điều không có thực, muốn chiếm lấy một điều không phải của chính mình, chúng ta muốn chiếm lấy một niềm hạnh phúc, một sự sung sướng mà không cần sự chuẩn bị nào hết. Cũng giống như Phêrô muốn dựng lều ở trên núi, muốn ở luôn lại nơi không phải của mình. Nhưng Thiên Chúa lại đem chúng ta trở về cuộc sống thực tại của con người, một cuộc sống đời thường. Chúng ta có mất mát gì đâu, tại sao lại buồn bực khó chịu, tại sao lại trách móc kêu ca. Nếu chúng ta không biết chuẩn bị, thì làm sao có thể đón nhận hạnh phúc khi Con Người từ cỏi chết sống lại. Chúng ta có chu toàn trách nhiệm mình một cách tốt đẹp, chúng ta có làm tròn bổn phận của mình đối với Chúa chưa? Mọi người nhìn vào đời sống của chúng ta, họ có thể bắt chước được một chút gương tốt nào nơi chúng ta không. Nều chúng ta làm được những điều trên, đó là chúng ta đã vâng lời, nắm tay Chúa Giêsu và đi xuống núi với Ngài để chuẩn bị hưởng hạnh phúc ngay từ những giây phút hiện tại này thật tốt đẹp.
Xin Chúa cho chúng con biết chấp nhận cuộc sống hiện tại với những vui buồn sướng khổ theo Thánh ý Chúa, để biết chuẩn bị cuộc sống mai sau cho xứng đáng.
86.Chúa Nhật 2 Mùa Chay
Khi nói biến hình, người ta nghĩ ngay đến việc thay đổi hình dạng từ trạng thái này sang trạng thái khác. Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại việc biến hình của Chúa Giêsu, nhưng Ngài không biến thành một người khác. Chúa Giêsu biến hình để củng cố niềm tin cho các tông đồ và đồng thời chuẩn bị cho các ông có thể đón nhận việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng biết nhân vật Tề Thiên Đại Thánh trong phim "Tây Du Ký" với 72 phép thần thông. Ngộ Không có thể thổi phù một cái là lập tức trở thành người khác. Điều này diễn tả quan niệm thông thường của con người: biến hình là trở thành một người khác hay ít ra cũng là mượn hình dạng của ai đó.
Nếu hiểu như thế thì chúng ta luôn biến hình đổi dạng trong từng giây từng phút mà chúng ta không biết. Trước tiên, chúng ta có khuynh hướng muốn biến hình thành người khác. Chẳng hạn, tôi muốn giống ngôi sao ca nhạc, điện ảnh HôngKông, Hàn Quốc, nên tôi ăn mặc y chang họ từ tóc tai, quần áo cho đến đồ trang sức của ngôi sao ấy sử dụng. Chính lúc này tôi không còn là tôi nữa mà là cái bóng của thần tượng đó. Chúa Giêsu mời gọi ta biến hình giống như Ngài, tức là làm cho hình ảnh của Thiên Chúa nơi tôi được sáng ngời, trở nên đẹp hơn, để người khác nhìn vào cuộc sống tôi sẽ thấy được Thiên Chúa.
Kế đến, biến hình là chúng ta làm cho mình xấu đi. Chẳng hạn, tôi đua đòi ăn chơi, xì ke ma túy, chạy theo thú vui xác thịt. Ai cũng có những ước mơ vươn tới một cái đẹp, cái tốt. Tại sao tôi lại biến mình xấu đi? Chúa Giêsu mong tôi biến đổi nên giống như Thiên Chúa: thánh thiện, đạo đức.
Vậy để biến đổi theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, thiết nghĩ chỉ có CẦU NGUYỆN, vì chính lúc ấy chúng ta gặp được Chúa và Ngài sẽ thay đổi chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện ở mọi nơi, mọi lúc, cố gắng biến đổi đời sống hằng ngày: ai rượu chè, cờ bạc, gain lận hãy dứt khoát với những tính xấu của mình, chăm chỉ làm ăn bằng sức lao động của hai bàn tay mình. Ai nguội lạnh, khô đạo hãy trở về với Chúa. Những ai giận hờn, xích mích nhau hãy làm hòa với nhau. Hãy biến ánh mắt ganh tỵ thành cảm thông, lời nói chua cay thành dịu dàng, lời nói phê bình thành lời xây dựng, con tim hận thù thành yêu thương.
Ước gì từng giây từng phút trong cuộc đời chúng ta là từng giây phút biến đổi theo hướng tốt hơn, trở về với con người thật của mình là hình ảnh Thiên Chúa, để hình ảnh ấy ngày càng rõ nét hơn. Thánh lễ hôm nay chúng ta cầu nguyện cho nhau, xin Chúa cho mỗi người đều được biến đổi thật sự trong Mùa Chay này, để khi tiếp xúc với ta, mọi người phải thốt lên rằng: "Thật là hạnh phúc cho tôi, vì tôi đã gặp được Chúa Kitô nơi anh, nơi chị".
CÂU HỎI GỢI Ý:
Một số bạn trẻ bỏ rất nhiều tiền để sửa sang sắc đẹp và chạy theo mốt. Bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp trong tâm hồn con người?
Cầu nguyện có thể làm con người "biến hình". Bạn có tin điều đó không? Bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
87.Con đường Chúa và tôi đi
Hôm nay, Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, chúng ta được thánh sử Maccô trình bày về cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Cuộc biến hình này mạc khải Thiên tính của Chúa Giêsu, đồng thời mạc khải con đường mà Chúa Giêsu phải đi. Đó cũng là con đường mà các môn đệ và tất cả chúng ta cũng phải đi qua.
Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã ở với Chúa Giêsu hằng ngày, họ đã nhìn thấy Ngài, lắng nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến những phép lạ Ngài làm, nhưng họ vẫn chưa thực sự nhận ra Ngài là ai, hôm nay họ mới nhìn thấy vinh quang của Con Thiên Chúa lần đầu tiên, và họ thật sự là hạnh phúc.
Thật thế, Thiên Chúa là tình yêu. Ngài vẫn từng phút từng giây đổ tràn tình yêu của Người vào đời sống chúng ta. Thánh Macco kể lại việc Chúa Giêsu cho ba môn đệ hôm nay lên núi cao để hiểu biết về Người hơn. Ngài đưa họ vào đời sống thâm sâu của Người. Đó là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự sống này là tình yêu không ngừng trao ban và nhận lãnh. Tình yêu đó là nguồn mạch sự sống và nguồn mạch hạnh phúc. Sự sống và hạnh phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn những ai đến sống thân mật với Chúa. Ai đã một lần nếm cảm hạnh phúc ấy rồi, vĩnh viễn không thể tách rời Thiên Chúa được nữa. Chính vì thế, sau khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu và sau khi nghe lời Chúa Cha nói: "Đây là Con Ta yêu dấu", Phêrô cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập tràn đến độ muốn ở lại mãi mãi trên núi, không muốn trở uống nữa. Hay hai môn đệ Gioan và Anrê, sau một buổi chiều sống với Đức Giêsu đã quyết định đi theo làm môn đệ của Người. Thánh Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ ba đã mạnh dạn nói: "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo...? Không, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta".
Trên núi Tabor, cuộc biến hình của Chúa Giêsu cho chúng ta thêm xác tín " Chúa Giêsu chính là con yêu quý của Thiên Chúa". Người Con này vinh quang rực rỡ nhưng đã chẳng những bằng lòng mà còn vui lòng đi vào con đường khổ nạn và thập giá để mang ơn cứu độ cho mọi người. Người Con này đã hoàn toàn vâng phục theo thánh ý Thiên Chúa, dù phải trải qua con đường đau thương và khổ giá. Ngài chấp nhận đi con đường khổ giá và vâng phục cho đến chết trên cây thập giá để dẫn đưa nhân loại đi qua con đường thập giá này mà đến bến bờ vinh quang mai ngày. Và ba ông đã thấy vinh quang của Chúa Giêsu, ba ông được biết chương trình của Thiên Chúa, chương trình của Chúa đó là chương trình của tình yêu. Tình yêu này được minh chứng qua sự hy sinh; Chúa Cha, vì yêu thương ta, đã đành hy sinh Con Một yêu quý của Người. Ngài đã không dung tha cho chính con yêu quý của người nên Thánh Phaolo đã diễn tả: "Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng at, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với con của Ngài sao" (Rm 8, 32). Nếu Thiên Chúa đã ban cho Người Con Duy Nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì chúng ta nữa. Còn phần Chúa Con, Ngài đã chấp nhận liều mạng sống như lời Người nói: "Không có tình yêu nào lớn lao bằng tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu". Chương trình tình yêu của Chúa để cứu chuộc ta được thực hiện qua sự đau khổ và cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu Kitô mặc dù là Thiên Chúa nhưng đã mặc lấy xác phàm, trở nên con người sống ở giữa loài người, chấp nhận hy sinh, chấp nhận từ bỏ tất cả để đi vào cuộc khổ nạn, nhằm mang ơn cứu rỗi chúng ta. Ngài đã hy sinh tất cả, hy sinh cả mạng sống mình để làm theo ý Chúa Cha. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài từ cõi chết sống lại.
Mầu nhiệm hy tế của Chúa Giêsu được thực hiện một lần cho đến muôn đời. Và hằng ngày hy tế thánh này vẫn được tái diễn nơi Thánh lễ mà linh mục cử hành. Khi tham dự Thánh Lễ là dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gắng sống đổi mới theo hướng tích cực hơn, góp phần làm cho thế giới này được biến đổi mang màu sắc và phẩm chất yêu thương, một tình yêu hiến mạng sống của Chúa Giêsu Kitô dành cho nhân loại.
Rồi đây ba môn đệ sẽ bước với Thầy Giêsu đi vào con đường đau khổ chết trên thập giá. Biến hình chỉ là một hào quang lóe lên ngắn ngủi, bất ngờ, báo trước vinh quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu đóng đinh vì yêu mến Chúa cha và yêu thương nhân loại tột đỉnh. Chúa Giêsu Kitô đã chấp nhận đi vào con đường đau khổ, bước vào cái chết và tiến đến phục sinh vinh hiển để ban ơn thánh hóa và cứu chuộc con người. Theo dấu chân Chúa Giêsu đã đi qua, Hội thánh vẫn luôn tiếp tục hành trình đó nhằm mang ân sủng cứu độ con người bằng Thánh Lễ và các Bí tích. Do đó, ý thức được tình thương mà Thiên Chúa dành cho, chúng ta hãy tri ân Thiên Chúa và siêng năng đến lãnh nhận ân sủng từ Thánh Lễ và các Bí tích. Để làm được điều này, đòi buộc chúng ta đón nhận bằng tình yêu. Chấp nhận hy sinh thời giờ, công việc, các thú vui, danh lợi...trong cuộc sống.
Tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi, chúng ta thấy Hội thánh và cụ thể là các vị Giáo sĩ, tu sĩ và những người có tâm hồn thành tâm thiện chí. Họ chấp nhận và bước theo Thầy Giêsu, đi con đường Ngài đi. Họ đã sống từ bỏ và đã hy sinh. Họ muốn làm theo ý Chúa và Hội Thánh. Con tim của họ tràn đầy yêu thương vì con tim này được tu luyện, bồi dưỡng bởi tình thương nhân từ của Thiên Chúa. Họ không quản ngại cho đi sức khỏe, thời gian, tuổi thanh xuân. Họ đã sống cho tình Chúa và cho tình người. Họ can đảm cho đi sứ mạng hữu hình và thiêng liêng. Dám sống quên mình cho đàn chiên vì sự sống và ơn cứu độ cho nhân loại. Hơn nữa, noi gương Chúa Giêsu, các vị kể trên đã yêu mến Thiên Chúa hết lòng, sẵn sàng bước theo Chúa Kitô, đi theo con đường Ngài đã đi, sống sứ mạng dấn thân cho sứ vụ. Dù gặp gian nan, thử thách, đau khổ và như con đường thập giá Chúa Giêsu đã đi qua, họ luôn tin vào Chúa Kitô, xác tín rằng mình cũng sẽ được phục sinh vinh hiển với Ngài. Như Chúa Giêsu, Chúa Cha là lẽ sống của Ngài thì chính Chúa Kitô cũng chính là lẽ sống của họ. Chính niềm tin phục sinh ấy giúp họ bắt đầu và bắt đầu lại, giúp họ tiếp tục rồi lại tiếp tục cuộc hành trình sống chúng nhân giữa đời trong sứ vụ của mình.Đồng thời chúng ta cũng nhận thấy họ cũng phải chiến đấu với ba thù. Chúng ta hãy biết ơn các vị Giáo sĩ và tu sĩ là những người mang đức tin và ơn cứu độ cho chúng ta. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn cho họ trung thành bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi với lòng tin, cậy và yêu mến Chúa mãnh liệt.
Mỗi người chúng ta cũng phải đi qua con đường khổ giá để bước vào vinh quang, bước đến tình yêu và sự sống đời đời mà Chúa sẽ ban tặng cho chúng ta.Vì thế, chúng ta hãy vui lòng đi trên con đường mà Chúa Giêsu và các bậc tiền nhân đã đi để được hưởng hạnh phúc với các ngài. Hơn nữa chúng ta tin rằng có Đấng ủng hộ chúng ta là Đấng đã đi trước mở đường cho chúng ta. Do đó, như Chúa Giêsu đã biến hình, chúng ta cũng sẽ được biến hình hằng ngày, biến đổi cả con người cũ kỹ, yêu hèn, tội lỗi của chúng ta nếu chúng ta dám từ bỏ lối sống ích kỷ, chấp nhận cuộc sống yêu thương tha nhân... Ngày nay có thể người ta không thấy Chúa biến hình nhưng họ sẽ cảm nghiệm phần nào khi thấy các người Công Giáo sống vui tươi, chan hòa tình người, tình yêu thương. Họ thấy được những người sống mãnh liệt vào niềm tin và hy vọng vào Chúa Kitô.
Là người Công giáo, chúng ta được tái sinh bởi Bí tích Rửa tội, nghĩa là chúng ta được chết cho con người cũ tội lỗi và sống cho con người phục sinh của Chúa Kitô. Người Công Giáo khi đó được gia nhập công đoàn Hội Thánh, được nuôi dưỡng Mình Máu Chúa và được tha thứ không ngừng để bước đi theo Chúa Giêsu trong Bí tích Giải tội. Mặt khác, chúng ta không ngừng nhận được các hồng ân khác hằng hằng ngày. Chúng ta hãy tri ân Chúa. Chúng ta hãy cám ơn Hội Thánh. Đồng thời chúng ta hãy mạnh dạn bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi, chúng ta chấp nhận vượt qua khó khăn vất vả trong cuộc sống, chúng ta chấp nhận hy sinh hằng ngày để làm sáng danh Chúa, để đi con đường Ngài đi. Chúng ta hãy sống thân mật và gắn bó với Chúa Giêsu. Chúng ta nhận ra con người chúng ta là hồng ân Thiên Chúa ban tặng.
Khi đã biết những sự thật về Chúa và về bản thân, chúng ta sẽ có một cái nhìn khác về con người và thế giới. Ta sẽ nhìn mọi người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như thể nó đã được biến hình trong Chúa Giêsu. Ta sẽ nhìn thấy tình yêu Chúa dành cho mỗi người. Mỗi người đều là kết quả của tình yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng sẽ nhìn thấy con đường mình phải đi là con đường thánh giá. Chính những đau khổ sẽ thanh luyện, giúp ta nên tinh tuyền để càng ngày càng gần gũi thân mật với Chúa hơn, để can đảm đi theo con đường đau khổ và phục sinh mà Chúa Kitô đã đi trong niềm tin và lòng mến chứa chan.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con nhận ra tình yêu thương mà Chúa dành cho chúng con. Đồng thời xin cho chúng con can đảm bước theo con đường mà Chúa đã đi với lòng tín thác thật sự và lòng yêu mến nồng nàn. Amen.
88.Vinh quang thập giá
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe chúng ta nhận thấy: những gì xảy ra trên đỉnh Taborê hoàn toàn trái ngược hẳn với những gì đã xảy ra trong sa mạc khi Ngài bị cám dỗ.
Cuộc dạo chơi của bốn thày trò hôm nay thật là thú vị, đến nỗi Phêrô đã phài thốt lên: Thưa Thày, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin dựng ba lều, một cho Thày, một cho Maisen và một cho Êlia. Từ đó chúng ta khám phá ra rằng: điều mà Satan nhọc hơi cám dỗ Ngài mà không được, thì hôm nay chính Ngài lại tỏ lộ cho ba môn đệ, đó là vinh quang của Con Thiên Chúa. Vinh quang ấy còn được làm chứng bởi hai nhân vật lịch sử của Cựu ước: Maisen và Êlia. Tại sao Ngài từ chối Satan nhưng lại bật mí cho các môn đệ. Tôi xin thưa, chìa khóa của vấn đề được tìm thấy trong chỉ thị của Ngài ngăn cấm các môn đệ không được tiết lộ điều mắt thấy tai nghe cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. Satan cám dỗ Ngài tỏ mình là Con Thiên Chúa bằng cách phô trương thanh thế, biểu dương quyền lực. Và Ngài đã từ chối, để rồi Ngài sẽ tỏ lộ ra trong mầu nhiệm khổ nạn và Phục sinh. Bởi vì chính thập giá mới là nơi Ngài tỏ cho nhân loại biết Ngài là Con Thiên Chúa.
Biến đá trở thành bánh hay nhảy từ trên cao xuống một cách an toàn thì rồi con người cũng có thể làm được. Nhưng sống lại từ cõi chết thì chỉ mình Thiên Chúa mới thực hiện được mà thôi. Bởi vì cho đến ngày hôm nay chưa một ai đã thoát khỏi cái chết, thế nhưng chỉ có cái chết của Con Thiên Chúa mới thắng nổi sự chết và đó mới là cuộc biểu dương đích thật quyền năng tuyệt đối của Con Thiên Chúa.
Đức Kitô không những đã chẳng màng đến của cải, danh vọng thậm chí cả đến quyền năng có sẵn Ngài cũng chẳng sử dụng và hơn thế nữa Ngài lại còn chấp nhận cho thiên hạ cười chê: là bạn với quân thu thuế và phường tội lỗi, là kẻ phạm thượng, điên khùng. Do đó mà Ngài đã bị kết án và chết như một phạm nhân giữa những tên trộm cướp. Chỉ nhờ hạ mình thẳm sâu như thế và quên mình tới mức thánh Phaolô đã coi như là một sự tự hủy, mà Ngài đã đạt được danh hiệu trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu, đó là Đức Kitô, Đấng Thánh của Thiên Chúa. Chính cái vinh quang mà Ngài sẽ chỉ đạt được trong mầu nhiệm thập giá thì hôm nay Ngài tỏ ra cho ba môn đệ được thấy với mục đích là để các ông đừng có ảo tưởng về một vinh quang trần thế, nghĩa là ước mơ rằng Ngài sẽ làm vua cai trị Israel và các ông sẽ được chia nhau mỗi người một địa vị. Đồng thời Ngài cũng chuẩn bị cho các ông khỏi chán nản và tuyệt vọng khi thấy Ngài bị bắt bị kết án và bị giết chết trên thập giá. Vì thế, biến cố Taborê gắn liền với biến cố Canvê. Sự biến hình gắn liền với thập giá. Cùng với cuộc khổ nạn và Phục sinh, thì sự biến hình hôm nay sẽ là một điềm báo trước cho vinh quang của Ngài, một khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Với chúng ta cũng vậy, nếu hôm nay chúng ta dám chấp nhận khổ đau, dám vác thập giá mà bước theo Ngài thì trong ngày sau hết chúng ta cũng sẽ được tham dự vào vinh quang Phục sinh với Ngài.
89.Tabor với Đức Giêsu
Bộ phim Một Người Chết Đang Bước Đi kể lại câu chuyện của một nữ tu (Sơ Helen Prejean), trong nhiều tháng, bà hộ tống một người đàn ông (Robert) đến chỗ bị hành hình ở Lousiana. Chúng ta hãy ghi chú cách Robert cố gắng thu phục được lòng tin của một trong những người giám sát, đó là một hình ảnh tử tế và nhân hậu của người cha, sơ Helen đã phản ánh lại hình ảnh này như sau:
Không bao giờ Robert thực sự có một người cha. (Trong số 53 năm tuổi đời của anh, cha anh đã sống 27 năm tại một nhà tù). Điều này làm cho tôi nghĩ đến cha tôi. Thật là một trong những cảm giác quí giá nhất trong cuộc đời, khi biết rằng cha bạn tự hào về bạn. Tôi là một môn sinh của cha tôi, là người lưu giữ cho ông cuốn nhật ký cuộc hành trình nghỉ mát của gia đình. Ông luôn luôn có một giọng nói đặc biệt, mỗi khi giới thiệu tôi với các bạn bè và đồng nghiệp của ông: “Đây là Helen, con gái nhỏ của tôi”. Trước sự hiện diện của những người xa lạ, tôi cứ im lặng, nép sát vào người ông, nắm chặt bàn tay ông. Sau đó, tôi sẽ siết chặt bàn tay của ông hơn bao giờ hết, và một lần nữa, có đầy rẫy những câu hỏi và ríu rít nói chuyện với ông. Một đứa trẻ có thể ngây ngất cảm giác an toàn bên một người cha.
Câu chuyện này có thể giúp chúng ta hiểu được một số nét nào đó về cảm nghiệm núi Tabor đối với Đức Giêsu. Trong cuộc đời của Người, có một thời điểm rất khó khăn, một thời điểm không biết chắc chắn và lo sợ về tương lai. Người đã tiến về Giêrusalem, tại đó, Người cảm nhận được rằng cùng một số phận giống như tất cả các ngôn sứ đang chờ đợi Người – một cái chết khủng khiếp. Tự nhiên, Người muốn thoái lui khỏi số phận đó. Để suy niệm và cầu nguyện, Người đã lên núi Tabor.
Chúng ta không biết chính xác điều gì xảy ra trên núi. Nhưng dường như Người có một cảm nghiệm sâu sắc về sự hiện diện của Thiên Chúa. Người nghe được những lời nói tuyệt vời “Đây là Con Cha yêu dấu”. Trên núi Tabor, Đức Giêsu đã được an ủi và xác nhận. Người biết rằng Cha Người hài lòng về Người, và sẽ ban cho Người sức mạnh để đương đầu với một tương lai tối tăm và đầy đe dọa. Với Thiên Chúa đứng về phía mình, Người có thể đương đầu với tất cả mọi sự.
Đôi khi, cuộc sống có thể trở nên tối tăm với tất cả chúng ta. Có rất nhiều tiếng nói đối với chúng ta “Chỉ khi nào thành công, hoặc nổi tiếng, thì bạn mới là một người tốt”. Nhưng vẫn có một giọng nói thì thầm trong tâm hồn chúng ta “Con là đứa con trai / con gái yêu dấu của Cha”. Chúng ta cần phải chú ý đến giọng nói này. Chúng ta phải nhận ra rằng mình là những người con yêu dấu của Thiên Chúa, và cố gắng sống cuộc đời của mình nhờ ánh sáng chân lý của Người.
Jean Vanier đã thiết lập nhiều cộng đoàn dành cho người bị bệnh tâm lý. Ông kể lại rằng ở một trong những cộng đoàn đó, có một người đàn ông tên là Pierre, bị mắc bệnh tâm lý. Ngày kia, có người hỏi Pierre “Anh có thích cầu nguyện không?”
Anh trả lời “Có chứ”.
Người kia hỏi “Anh làm gì mỗi khi anh cầu nguyện?”
Pierre trả lời “Tôi lắng nghe”.
“Và Thiên Chúa nói gì với anh?”
Người nói “Hỡi Pierre, con là con trai yêu dấu của Ta”.
90.Đức tin và đau khổ
Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang. Đó là chủ đề mà lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta.
Chúng ta hãy lấy một thí dụ như trường hợp Abraham trong bài đọc 1. Khi gần trăm tuổi, ông được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con duy nhất của Abraham với vợ chính là Sara, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Điều này đã là một sự lạ lùng đối với Abraham và Sara, nhưng Thiên Chúa đã thực hiện. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin nơi Abraham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên Abraham rất đau lòng, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận “lòng tôn kính và tin yêu” của Abraham, vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho ông. Chúng ta thấy đức tin đã đem lại cho con người một sức sống mãnh liệt biết bao.
Hơn thế, đức tin còn giúp con người vượt thắng mọi đau khổ thể xác và tinh thần, mọi bất lực theo khả năng tự nhiên của con người và khoa học. Trở lại câu chuyện của Abraham, chúng ta thấy chính đức tin đã trấn an mối thương tâm của một người cha phải cầm dao giết con mình, làm lễ tế cho Đấng mà ông hết lòng tin tưởng.
Như vậy, đức tin giúp con người sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.
Có một câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa, đó là “Khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ”. Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa, Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Chẳng hạn, Thiên Chúa đóng kín cửa chính trong cuộc đời chúng ta, khi chúng ta trải qua cơn bệnh nặng, thì Ngài lại mở ra cửa sổ, cho chúng ta gặp được bác sĩ tận tình tài giỏi để chữa lành. Thiên Chúa đóng kín cửa chính khi chúng ta bị mất mát, thua thiệt, nhưng ngài lại mở ra cửa sổ khi Ngài cho chúng ta gặp được những tâm hồn quảng đại sẵn sàng giúp chúng ta bắt đầu lại cuộc đời. Thiên Chúa đóng cửa chính khi chúng ta bất ngờ phải mang tang người thân, thì Ngài lại mở ra cửa sổ là trong gia đình được hòa thuận lại với nhau…
Thiên Chúa đóng kín cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới. Nhìn lại cuộc sống, có thể mỗi người chúng ta cũng đã cảm nghiệm được những giây phút Thiên Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới, tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta. Vì thế, khi gặp thử thách, đau khổ, chúng ta đừng bao giờ chán nản, thất vọng, nhưng hãy tin tưởng và cầu nguyện, càng phải cầu nguyện nhiều hơn bình thường, để xin thêm đức tin và kiên nhẫn. Tin tưởng và kiên nhẫn, vì khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, Ngài sẽ mở ra cửa sổ.
Chúng ta vẫn thường nói: “Chạy trời không khỏi nắng”, nghĩa là ở đâu cuộc đời cũng có những khổ lụy của nó, và ngày nào cũng có nỗi khổ của ngày ấy. Như vậy, đau khổ tự nó là một điều xấu, không ai ham, không ai muốn. Vậy đau khổ có giá trị gì không? Tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ. Vì thế, những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ phàn nàn, kêu trách Chúa, cũng đừng bao giờ rủa mình, than thân trách phận, chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tự cố gắng và hãy giúp đỡ nhau, nhất là hãy tin tưởng, cậy trông và gia tăng cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, vì Chúa đã nói: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Tôi, Tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.
91.Chúa biến hình
Tại sao ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lại được diễm phúc chứng kiến cảnh tượng Chúa biến hình trên đỉnh Taborê. Nhiều nhà chú giải cho rằng vì Chúa muốn củng cố niềm tin còn non yếu nơi các ông.
Thực vậy, mới mấy ngày trước đây khi Ngài loan báo về những đau khổ và cái chết Ngài phải chịu, thì Phêrô đã lên tiếng can ngăn: Lạy Thầy, không thể như thế được. Và Chúa Giêsu đã quở trách Phêrô: Hỡi Satan, hãy cút đi, con chỉ làm cản trở đường đi nước bước của Thầy, vì những tư tưởng của con không xuất phát từ Thiên Chúa, mà chỉ xuất phát từ con người.
Sau lời quở trách ấy, thì có lẽ giờ đây các ông đang cần một liều thuốc bồi bổ tinh thần. Từ đó chúng ta đi vào phạm vi đức tin và chúng ta có thể xác quyết: hành trình của đức tin giống như hành trình của một chiếc tàu đi biển. Có lúc được nâng lên cao, có lúc lại bị hạ xuống. Thường nó có những điểm cao và những điểm thấp của nó. Có lúc lên núi thì cũng phải có lúc xuống đồi. Có những lúc bùng sáng, thì cũng có lúc như muốn tàn lụi. Hãy nhìn vào ba vị tông đồ thân tín nhất của Đức Kitô và chúng ta sẽ thấy được như vậy.
Thực thế, đức tin của các ông hôm nay rực sáng như một ánh đuốc trong đêm tối, nhưng có những lúc ngọn lửa ấy như muốn tàn lụi. Đúng thế, chỉ một vài tháng sau, tại vườn cây dầu tại dinh thượng tế, tại đỉnh cao đồi Canvê, các ông người thì chối Chúa, kẻ thì bỏ Chúa mà chạy trốn. Đức tin của chúng ta cũng vậy, có những lúc lên cao và có những lúc xuống thấp… Khi lên cao, chúng ta cảm thấy gần gũi Chúa đến độ chúng ta tưởng rằng mình có thể đụng chạm tới Ngài, chúng ta thấy rằng ơn thánh của Ngài luôn ấp ủ bao bọc và nâng đỡ chúng ta. Trái lại khi xuống thấp, chúng ta cảm thấy như Chúa xa lìa chúng ta, không còn đón nhận những lời chúng ta kêu xin. Chúa không còn gần gũi chúng ta, mà chỉ là một nhân vật xa lạ, một ý niệm trừu tượng, chẳng ăn nhập gì với cuộc sống chúng ta. Vậy thì trong những lúc bị xuống thấp như thế chúng ta phải làm gì?
Tôi xin thưa, hãy noi gương bắt chước tổ phụ Abraham. Niềm tin của ông có phần yếu ớt và bị lu mờ khi Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy sinh đứa con duy nhất là Isaac, đem nó lên núi mà sát tế để dâng kính Ngài. Điều đó làm cho ông đau khổ và bối rối. Thế nhưng ông vẫn một lòng cậy trông và phó thác vào Chúa. Cuối cùng, Chúa đã không để cho ông phải thất vọng. Ngài đã chúc phúc và ban cho ông nhiều hồng ân hơn cả lòng ông mơ ước. Đôi khi Thiên Chúa cũng thử thách đức tin của chúng ta. Tâm hồn chúng ta thì chất đầy những đắng cay, bản thân chúng ta thì khổ đau buồn phiền, thế nhưng hãy tin tưởng và cậy trông vào Chúa như Abraham ngày xưa, bởi vì Ngài sẽ nâng đỡ và phù trợ chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy ghi nhớ tư tưởng sau đây của thánh Giacôbê tông đồ: Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Ngài đã hứa ban cho những kẻ yêu mến Ngài.
92.Sống với Chúa
Có những lúc chúng ta phải đương đầu với một tình huống mà khi ấy chúng ta không thể thốt lên lời được. Có lẽ không phải tất cả chúng ta đều đã trải qua kinh nghiệm về những khoảnh khắc như vậy một cách có ý thức. Tuy nhiên, tôi tin rằng nếu chúng ta thường xuyên phản tỉnh về cuộc sống của mình, chúng ta sẽ nhận ra có rất nhiều khoảnh khắc như thế trong cuộc đời của mình. Khả năng nhận ra những khoảnh khắc kinh ngạc và đáng sợ ấy phù thuộc vào tình trạng thanh tĩnh và thinh lặng của tâm hồn chúng ta.
Có những lúc trong cuộc đời, chúng ta sống và làm việc như cái máy, không có chút phản tỉnh nào về cuộc sống của mình. Chúng ta có quá nhiều việc phải làm. Vì thế, sự bận rộn liên lạc này dễ bị Satan lợi dụng để lôi kéo chúng ta ra xa ơn gọi căn bản của mình, là ơn gọi sống trong mối liên hệ gắn bó với Thiên Chúa. Hầu có thể sống gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, chúng ta cần dành thời giờ để phản tỉnh trong sự bình an và thinh lặng của tâm hồn. Sự bận rộn thái quá ngăn cản chúng ta thực hiện việc này.
Chúng ta xin Chúa Thánh Thần ban ơn soi sáng để nhận ra và xác tín chúng ta cần có những khoảng thời gian thoát ra khỏi sự bận rộn của đời sống thường ngày, và can đảm đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện và suy nghĩ. Các sách Tin Mừng cho chúng ta biết chính Chúa Giêsu cũng thường xuyên làm như vậy. Chúa Giêsu biết rõ việc cầu nguyện giúp mình giữ được sự sáng suốt và gắn bó với Chúa Cha. Chỉ khi nào chúng ta sống trong thinh lặng với Thiên Chúa và phản tỉnh về ý nghĩa sâu xa của cuộc đời mình, lúc đó những việc chúng ta làm trong thế giới này mới có giá trị. Nếu hành động của chúng ta không dựa trên việc chúng ta sống gắn bó với Thiên Chúa thì rồi cuộc đời của chúng ta có lẽ cũng chỉ như “Dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”.
Xã hội ngày hôm nay làm cho con người có nguy cơ đánh mất khả năng dừng lại để sống trong thinh lặng và suy nghĩ phản tỉnh. Đó là một nguy cơ làm cho sự liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa, là Đấng đã tạo dựng nên chúng ta, bị buông lỏng và dần dần bị cắt đứt hoàn toàn.
93.Biến hình
Trong Mùa Chay, Giáo Hội đặt trước mắt chúng ta những mầu nhiệm có vẻ rất tương phản nhau: một bên là Chúa Kitô đau khổ và chịu đóng đinh, một bên là Chúa Kitô vinh quang và Phục sinh, để chúng ta suy niệm và khám phá ra hai chân lý hay hai thực tại khác không kém phần tương phản, đó là tội lỗi trầm trọng của nhân loại và lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa, hiểu được hai thực tại này thì chúng ta sẽ hiểu được phần nào hai mầu nhiệm đau khổ và vinh quang. Cũng chính trong ý hướng đó Chúa Giêsu đã chuẩn bị tinh thần và củng cố niềm tin cho các môn đệ bằng việc Ngài tỏ lộ cho các ông thấy phần nào vinh quang của Ngài mà chúng ta gọi là Chúa biến hình.
Biến hình là thế nào? Có phải là một chuyện thần thoại không? Cách đây ít lâu, trên đài truyền hình thành phố, chúng ta rất thích thú được xem các trò biến hình của Tôn Ngộ Không, một kẻ có 72 phép thần thông biến hóa, chỉ cần một cái lắc mình, họ Tôn có thể biến thành một con vật, một cô thiếu nữ hay một trái bí… đó là những chuyện thần thoại, không có thực, còn việc Chúa Giêsu biến hình, không phải là một chuyện thần thoại mà là một chuyện có thực.
Biến hình, theo nghĩa thông thường người ta thường hiểu là thay đổi một hình dạng khác với hình dạng bình thường. Các môn đệ đã sống với Chúa Giêsu ba năm rồi, các ông thấy Chúa chỉ là một người có xương có thịt, có hình dạng như mọi người, dù các ông đã được nghe những lời giảng dạy hay ho, cao siêu của Chúa, dù các ông đã được chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhưng các ông chưa thấy chân tướng đích thực của Ngài, bây giờ Chúa biến hình cho các ông thấy, Ngài thay đổi hình dạng “con người” cho các ông thấy hình dạng “Thiên Chúa” của Ngài.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu biến hình là Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết thân thế đích thực của Ngài: Ngài chính là Con yêu dấu của Chúa Cha, Ngài là Đấng làm đẹp lòng Chúa Cha và là Đấng mà người ta phải nghe lời. Nhưng làm sao có thể nhận ra thần tính trên khuôn mặt nhân tính của Chúa? Đó là thắc mắc lớn của các môn đệ trên đường theo Chúa, và cũng là mối bận tâm của Chúa trong công cuộc giáo huấn của Ngài, thế nên mới có biến hình, đó cũng là mục đích của việc Chúa biến hình.
Ngoài mục đích bày tỏ, bộc lộ chân tướng đích thực là Con Thiên Chúa của mình, Chúa Giêsu còn nhằm một mục đích khác nữa, Ngài muốn khích lệ, động viên các môn đệ để các ông vững lòng trước mầu nhiệm thập giá, nghĩa là sau khi loan báo về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải qua, làm các ông khiếp sợ, Chúa lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có gì, đó là sự phục sinh vinh quang, giống như Ngài biến hình trước mắt các ông lúc này. Qua đó, Chúa cũng muốn nhắn nhủ các ông: cuộc đời của các ông cũng thế, sẽ phải trải qua đau khổ rồi mới bước vào chốn vinh quang, vì vậy, hãy tin tưởng, can đảm và kiên nhẫn chịu đựng, Chúa luôn ở bên để hỗ trợ các ông.
Có một câu chuyện kể rằng: một người đàn bà giàu có đang hấp hối trên giường bệnh, trong tờ chúc thư để lại, bà kể tên của tất cả mọi người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà, tuyệt nhiên bà không hề đá động đến cô gái nghèo và trung thành hầu hạ bà bấy lâu nay, quà tặng duy nhất mà bà để lại cho cô là một thánh giá làm bằng thạch cao. Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng đầy cay đắng buồn phiền, cô tự nghĩ: mình đã trung thành phục vụ, hầu hạ sớm hôm để rồi chỉ được một món quà không ra gì, không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy từng giọt đắng cay, cô đã kéo thập giá xuống khỏi tường và ném mạnh trên nền nhà, cây thập giá vỡ tung, và kìa, trước sự ngạc nhiên của cô, tất cả những mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là những viên kim cương óng ánh. Cô gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người chủ khi cô nhận ra giá trị của món quà. Lắm khi Thiên Chúa cũng gửi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá, sự sần sùi và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm chúng ta không thể hiểu được lòng tốt của Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta, Ngài không bao giờ muốn điều dữ cho chúng ta, bởi vì tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến hạnh phúc cao cả hơn.
Quả thực, ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có thập giá, đã mang tiếng khóc vào đời, con người tiến bước trong cuộc sống với tất cả gánh nặng của thập giá. Tại sao Thiên Chúa đã để cho con người phải đau khổ? Mãi mãi dường như con người sẽ không bao giờ tìm được câu giải đáp cho vấn đề đau khổ, Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề, trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá, và khi sống lại, Ngài cho chúng ta thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống. “Hãy vác lấy thập giá và theo Ta”, đó là lệnh truyền của Ngài. Mang lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và mến yêu, chúng ta sẽ thấy ánh sáng bừng lên trong cuộc sống, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự chết, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ chiến thắng được hận thù và thất vọng. Tóm lại, không chối bỏ thực tại của đau khổ, chết chóc, nhưng chúng ta luôn được mời gọi để không nhìn vào đó như tiếng nói cuối cùng, như ngõ cụt, bởi vì vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, cho nên hướng đi của lịch sử loài người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống, bên kia khổ đau, chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: đàng sau mọi gian nan thử thách, đàng sau mọi đau khổ của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ, và nếu chúng ta chẳng nhận được gì ở đời này, chúng ta vẫn tin rằng: Thiên Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau.
94.Giây phút tột đỉnh
Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ tuổi như sau: "Vào một buổi sáng nọ, cô sửa soạn bữa sáng cho gia đình của cô. Nhà bếp tràn đầy những ánh sáng, những đứa con của cô đang cười đùa và nói năng vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa con út. Trong khi cô đang trét bơ trên bánh mì và rót nước cam, ngay lúc đó, cô cảm thấy tràn trề niềm vui sướng và yêu thương trong gia đình của cô. Rưng rưng nước mắt, cô đã cảm động đến nỗi không thể nào nói được."
Maslow gọi lúc đó là giây phút tột đỉnh. Nó là những giây phút ngắn ngủi quí báu chúng ta nhìn thấy những biến cố thông thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình đang nhìn thấy một thế giới khác.
Ý tưởng về giây phút tột đỉnh giúp chúng ta thấu hiểu những gì mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm mà bài Phúc Âm hôm nay tả lại. Họ đã cảm nghiệm được những giây phút tột đỉnh.
Chỉ trong một vài phút quí báu, họ đã thấy được Chúa Giêsu trong một hình thức hoàn toàn khác biệt. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã thấy Thiên Chúa chiếu rọi qua con người bề ngoài của Chúa Giêsu. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã nhìn thấy một thế giới vượt trên thế giới này. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã thấy từ ngoại diện của Chúa Giêsu đến những gì bên trong nội diện: Con Thiên Chúa vinh hiển và tuyệt mỹ.
Điều đó đưa đến một câu hỏi. Tại sao câu truyện Phúc Âm về cuộc biến hình của Chúa Giêsu lại đặt giữa những bài đọc buồn tẻ ủ rũ của Mùa Chay? Tại sao nó không được đặt giữa những bài đọc vui mừng của Mùa Phục Sinh?
Câu trả lời nằm trong ý nghĩa việc biến hình xảy ra. Nó xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu nói cho các môn đệ biết Ngài phải đi lên Giêsusalem chịu đau khổ và chịu chết.
Khi Phêrô nghe Chúa Giêsu nói về việc này, ông đã kêu lên: "Xin Thiên Chúa thương! Những sự đó sẽ không xảy ra cho Ngài."
Chúa Giêsu liền nói với Phêrô: "Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, vì ý tưởng của ngươi không phải ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."
Phêrô, Giacôbê, và Gioan cần có mũi chích tinh thần sau khi cuộc mạc khải khiếp sợ của Chúa Giêsu.
Có thể đấy cũng chính là lý do mà Giáo Hội đặt bài đọc biến hình giữa những bài sầu buồn của Mùa Chay. Giáo Hội cũng muốn cho chúng ta mũi chính tinh thần này trước khi xoay sự chú ý của ta đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Giáo Hội muốn cho chúng ta một sự gì đó để nhìn vào trong những giờ đau khổ của cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và cái chết trên thập tự.
Trong mỗi một người chúng ta, cũng có một phần của Adong và một phần của Thiên Chúa.
Như Chúa Giêsu trên Núi Tabor, chúng ta cũng cảm nghiệm được những giây phút ngây ngất, khi Thiên Chúa chiếu sáng qua chúng ta gần như làm cho ta bị loà luôn. Trong những giây phút này, chúng ta cảm thấy thật là gần gũi với Thiên Chúa y như là chúng ta cảm thấy chúng ta có thể với tay chạm đến Thiên Chúa.
Và chúng ta cũng cảm nghiệm được những giây phút lo buồn, khi phần của Adong vùng vẫy mãnh liệt, đến nỗi phần của Thiên Chúa trong ta bị lung lay và gần chết đi. Chúng ta cảm thấy xa lìa Thiên Chúa, đến nỗi ta hỏi rằng không biết Thiên Chúa có hiện hữu hay không.
Trong những giây phút ngây ngất chúng ta sung sướng trong lời Thiên Chúa Cha phán với chúng ta những gì mà Thiên Chúa Cha đã phán với Chúa Giêsu: "Đây là Con Ta tuyển chọn." Những lúc lo buồn, chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm những gì Chúa Giêsu đã cảm nghiệm trong vườn cây dầu: cánh tay Thiên Chúa Cha sẽ nâng đỡ chúng ta.
95.Trên đỉnh Taborê
Sau khi nghe đọc đoạn Tin Mừng, chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi:
- Tại sao Chúa Giêsu lại tỏ lộ sự việc lạ lùng ấy cho ba môn đệ thân tín nhất.
Tôi xin trả lời:
- Đó là để soi sáng và củng cố đức tin cho các ông.
Đúng thế, các tông đồ, những người bạn nghĩa thiết của Chúa đã không muốn hiểu và không muốn chấp nhận những lời tiên báo của Chúa về cuộc tử nạn và cái chết của Ngài.
Cách đây mấy hôm, Chúa Giêsu cũng đã nói với các ông:
- Con Người sẽ phải lên Giêrusalem ở đó sẽ bị bắt bớ, bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại.
Phêrô đã kéo Ngài ra một chỗ và can ngăn, nhưng Chúa Giêsu đã khiển trách ông nặng lời:
- Hãy cút đi hỡi Satan, ngươi chẳng hiểu gì về những việc của Thiên Chúa, mà chỉ hiểu những công việc của người đời mà thôi.
Có thể những lời nói xa nói gần, nói bóng nói gió của Chúa về cuộc tử nạn đã làm cho niềm tin tưởng của các ông bị chao đảo và mối cậy trông của các ông bị tắt ngấm, để rồi sau cùng đứng trước nỗi thống khổ của thập giá, các ông sẽ trở nên những kẻ bị phá sản, không còn hy vọng, không còn can đảm, không còn nghị lực.
Bởi đó, khi tỏ lộ vinh quang của mình trên đỉnh Taborê, Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin tưởng và giúp các ông chiến thắng trong những giờ phút tăm tối. Cũng như chuẩn bị các ông sẵn sàng đón nhận những bắt bớ, những cấm cách sẽ xảy đến sau này.
Đúng thế, nếu đọc tiếp Phúc Am chúng ta sẽ thấy: liền sau đó trong cuộc tử nạn các ông, người thì chối bỏ, người thì chạy trốn. Sở dĩ như vậy là vì các ông chưa hiểu. Một mai, khi đã nghĩ lại và nhất là nhớ đến vinh quang Taborê, các ông sẽ can đảm trong mọi cơn gian nguy thử thách và sẽ hy sinh cho đến giọt máu cuối cùng vì tình yêu của Đấng đã bị đóng đinh vào thập giá.
Sự việc Chúa Giêsu biến hình đã tạo được một tiếng vang cho đến tận cùng bờ cõi trái đất, nó sẽ đem lại cho chúng ta một bài học, một niềm an ủi trong những giờ phút đen tối.
Thực vậy, khi gặp phải những khổ cực đớn đau, những đắng cay chua xót, chúng ta hãy nghĩ rằng: Nếu chúng ta trung thành với Chúa, chúng ta sẽ được nhìn thấy vinh quang Ngài trong cõi sống ngàn thu. Vinh quang ấy không phải chỉ kéo dài trong thoáng chốc của một kiếp phù du, nhưng sẽ kéo dài mãi mãi, kéo dài đời đời.
Sống trên trần gian, chúng ta giống như những kẻ bị lưu lạc nơi đất khách quê người, chúng ta không bao giờ nhìn thấy Thiên Chúa, hay như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Hiện tại chúng ta chỉ nhìn thấy một cách mơ hồ như trên một tấm gương, nhưng rồi chúng ta sẽ hiểu biết Ngài một cách trọn vẹn, sẽ yêu mến Ngài mãi mãi và trái tim nhỏ bé của chúng ta sẽ ngập tràn hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc vượt trên những điều chúng ta có thể nghĩ tưởng được.
Vì thế mà thánh Phaolô cũng bảo:
- Những đau khổ đời này thì nhỏ nhoi không thể nào sánh ví được với vinh quang mai hậu.
Nếu chúng ta trung thành yêu mến và phụng sự Chúa, thì phần thưởng bội hậu sẽ được dành để cho chúng ta. Lúc bấy giờ, thân xác của chúng ta, người bạn tâm phúc của linh hồn, cũng sẽ được dự phần vinh quang, cũng sẽ được chia sẻ niềm vui bất tận.
Vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới phục sinh.
96.Thiên Chúa về phía …
Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đứng về phía chúng ta. Do đó, gian truân, đau khổ, và cả sự chết cũng không thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu mà chúng ta nhận thấy nơi Đức Kitô.
Maya Angelu, một thi sĩ và tác giả người Mỹ, là một người phụ nữ khôn ngoan và cũng có đời sống thiêng liêng. Chị kể là vào một ngày kia, chị đã được thức tỉnh về mặt tôn giáo. Điều này xảy ra theo một cách thức rất đơn giản. Chị ngoài 20 tuổi, và vừa mới di chuyển đến San Francisco. Chị nói rằng lúc đó, chị là một người tích cực theo thuyết bất khả tri. Điều này không có nghĩa là chị không còn tin tưởng nơi Thiên Chúa nữa, mà chỉ là dường như Thiên Chúa không còn ở nơi những người sống chung quanh mà chị thường hay giao du với. Thế rồi có một giáo viên giới thiệu với chị một cuốn sách tựa đề là Những Bài Học về Chân Lý. Chị kể rằng vào một ngày kia, người giáo viên đó yêu cầu chị đọc cuốn sách đó cho ông ấy. Tôi lên 24 tuổi có học thức và cũng rất trần tục. Thầy giáo của tôi yêu cầu tôi đọc một phần trang sách chấm dứt bằng câu “Thiên Chúa yêu thương tôi”. Tôi đã đọc đến đây rồi gấp sách lại, nhưng thầy giáo bảo tôi “Cứ đọc lại đi”. Tôi mở sách ra, và đọc một cách mỉa mai “Thiên Chúa yêu thương tôi”. Ông bảo “Đọc nữa đi”. Sau đến 7 lần đọc đi đọc lại tôi bắt đầu cảm thấy rằng câu nói đó có thật, và có thể Thiên Chúa đã thực sự yêu thương tôi. Vâng, Người yêu thương tôi, Maya Angelu.
Đột nhiên, tôi bắt đầu khóc to. Tôi biết rằng nếu Thiên Chúa yêu thương tôi, thì tôi có thể làm được những điều kỳ diệu, tôi có thể làm được những điều vĩ đại, học hỏi, hoàn tất được bất cứ thứ gì. Bởi vì cái gì có thể chống lại tôi, nếu Thiên Chúa ở với tôi, bởi vì bất cứ người nào ở với Thiên Chúa, thì đều tạo được ưu thế.
Đối với Maya Angelu, mặc dù chị vẫn tin tưởng nơi Thiên Chúa, nhưng dường như Người quá xa vời và không có thật. Chỉ đến khi chị tin tưởng rằng Thiên Chúa yêu thương mình, thì Thiên Chúa mới có thật đối với chị. Thế rồi niềm tin đó đem lại năng lực cho chị. Đột nhiên, chị cảm thấy rằng mình có thể làm được tất cả mọi sự, đương đầu với bất cứ thứ gì, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chị và ở với chị. Đức Giêsu vừa mới bắt đầu cuộc hành trình lên Giêrusalem của Người. Cho đến thời điểm này, chủ yếu Người làm việc ở Galilê. Ngay cả ở đó, khu vực mà Người lớn lên. Người đã gặp nhiều sự chống đối từ phía các nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng khi lên Giêrusalem, Người cảm nhận được rằng một cái chết khủng khiếp chờ đợi Người tại đó. Tự nhiên, Người thoái lui trước số phận. Dường như Người phải suy niệm và cầu nguyện về điều này, và phải đi lên đỉnh núi Tabor.
Đức Giêsu có một kinh nghiệm tuyệt hảo trên ngọn núi đó. Người lắng nghe những lời nói tuyệt vời này “Con là Con Cha yêu dấu, Cha hài lòng về Con”. Nói cách khác, Người biết rằng Thiên Chúa yêu thương Người. Lời xác nhận này sẽ ban cho Người sức mạnh để đương đầu với tương lai, bất kể nó tiếp diễn ra sao. Vấn đề của chúng ta là ngay khi gặp rắc rối, lòng tin của chúng ta bị lung lay. Chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa bỏ rơi mình. Nhưng nếu cầu nguyện, chúng ta sẽ nhận ra rằng Thiên Chúa không hề bỏ rơi chúng ta, nhưng Người hằng ở với chúng ta trong khi chúng ta gặp gian khổ.
Trong tất cả mọi lúc, đặc biệt trong những lúc khó khăn, chúng ta nên ghi nhớ lời thánh Phaolô “Thiên Chúa đứng về phía chúng ta”. Và khi Thiên Chúa đứng về phía chúng ta, chúng ta có thể đương đầu với bất cứ điều gì.
Cách nhận biết rằng không gì có thể chia cách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, đó là sức mạnh trong những lúc yếu đuối, và niềm hy vọng của chúng ta những khi gặp nghịch cảnh. Khi gặp đau khổ, tất cả điều chúng ta phải làm là phó thác thân mình cho sự chăm sóc của Người. Giống như Đức Giêsu trên núi Tabor, chúng ta cũng có thể cảm nghiệm được những giây phút hiếm hoi của ánh sáng và niềm vui. Chúng ta được thoáng nhìn thấy đất hứa mà chúng ta đang tiến tới trong lòng tin. Trong tình yêu của Người đối với chúng ta, ngay trên trái đất này. Thiên Chúa cho phép chúng ta nếm được những niềm vui của thế giới sắp đến.
97.Sự hy sinh của Isaac
Câu chuyện Thiên Chúa yêu cầu Abraham hy sinh người con trai Isaac của ông là một câu chuyện lạ. Trên thực tế, đây là một câu chuyện gây sốc. Điều làm cho chúng ta cảm thấy rắc rối nhất là hình ảnh Thiên Chúa tình cờ bắt gặp.
Tuy nhiên, chúng ta phải cố gắng hiểu được ý nghĩa mà câu chuyện muốn chuyển tải. Câu chuyện này dạy cho chúng ta một điều gì đó rất quan trọng, và là một câu chuyện rất hay, đưa ra một hướng trái ngược với điều mà nó hy vọng để lại cho người nghe, bắt đầu bằng cách dường như muốn nói rằng Thiên Chúa chấp nhận sự hy sinh của con người, và thậm chí có khi Người còn đòi hỏi sự hy sinh đó nữa. Nhưng đối tượng của câu chuyện là nhằm chỉ ra một điều trái ngược hẳn lại. Đó là cố gắng chỉ ra cho chúng ta rằng trên thực tế, sự hy sinh của con người trái với ý muốn của Thiên Chúa.
Và câu chuyện đã kể lại về điều này một cách rất thú vị. Dường như yêu cầu của Thiên Chúa đối với Abraham là quá tàn bạo và bất công, đến nỗi làm cho chúng ta muốn kêu lên “Hãy ngưng lại đi! Điều này sai trái. Điều này khủng khiếp!”. Chúng ta phải suy xét lại ý tưởng ông già Abraham bị Thiên Chúa đòi hỏi phải hy sinh người con trai Isaac của ông. Cảm giác khiếp sợ của chúng ta được nâng lên, nhờ gánh nặng của niềm hy vọng đặc biệt mà Isaac đã được mang trên vai – làm trọn lời hứa rằng Abraham sẽ có vô số con cháu.
Mục đích của câu chuyện là khơi gợi lên nỗi khiếp sợ về ý tưởng rằng Thiên Chúa đòi hỏi con người phải hy sinh. Sống giữa những người Canaan vốn là những người thực hành hy tế theo kiểu nhân loại, nên bằng cách này hoặc cách khác, Abraham đã có ý nghĩ rằng Thiên Chúa đang đòi hỏi nơi ông hành động hy sinh này. Nhưng Thiên Chúa đã chỉ ra cho ông cách thế khác. Câu chuyện này có ý muốn đặt dấu chấm hết cho sự hy sinh của con người đối với Thiên Chúa.
Tại sao Thiên Chúa lại muốn thử Abraham? Để cho cả thế giới biết rằng nếu có người nào đó nói với chúng ta “ Nhân danh Thiên Chúa, tôi phạm tội giết người”, thì chúng ta sẽ biết rằng người đó nói dối. Đó là ý kiến nhất trí của truyền thống Do thái Chính thống. Thật đáng buồn, việc giết người nhân danh Thiên Chúa đã được thực hiện một cách phổ biến qua nhiều thời đại. Ngay cả trong thời đại của chúng ta, vẫn có những kẻ giết người vì niềm tin tôn giáo, và họ nghĩ rằng làm như thế là họ đang tôn vinh Thiên Chúa. Tháng 10 năm 1995, Yigal Amir, một tín đồ Do thái Chính thống, đã bắn chết Yitzhak Rabin. Thỉnh thoảng, những người Palestine mang bom tự sát đánh lại người Israel, giết chết đàn ông, phụ nữ, trẻ con vô tội, đều là những tín đồ Hồi giáo chính thống. Năm 1994, Paul Hill, kẻ đã giết chết một bác sĩ và người cận vệ của ông bên ngoài một dưỡng đường phụ sản, là một cựu linh mục thuộc Giáo hội Trưởng lão ở Scotland. Đây chỉ là một ví dụ. Thiên Chúa không muốn lấy điều ác đáp trả lại điều ác, lấy đau khổ đáp trả lại đau khổ, lấy mạng đền mạng. Các trang lịch sử nhuộm tràn đầy máu do những người tự cho mình là “kẻ báo thù của Thiên Chúa”. Những vua chúa và nguyên thủ các quốc gia đã giết chết người, đòi hỏi uy quyền và ân sủng của Thiên Chúa cho những hành động đen tối của họ.
Câu chuyện trên chứng tỏ rõ ràng về chiều sâu nơi lòng tin của Abraham.. Ông được chuẩn bị để hy sinh điều quí giá nhất của ông. Lòng tin ngoại hạng của ông đã được trọng thưởng một cách đặc biệt. Không có gì đáng thắc mắc, khi chúng ta gọi ông là “cha của những kẻ tin”.
Câu chuyện trên lên án tư tưởng tôn vinh Thiên Chúa bằng cách cướp đi một mạng sống. Nhưng Đức Giêsu đề cập đến một điều gì đó mang tính cách thách đố hơn nhiều: đó là tư tưởng tôn vinh Thiên Chúa bằng cách tự cống hiến chính cuộc đời của mình, để phục vụ Thiên Chúa và người khác. Người đã đưa ra một gương mẫu nơi chính bản thân Người. Thiên Chúa không hề đòi hỏi nơi Đức Giêsu mạng sống của Người. Nhưng Đức Giêsu đã tự hiến thân mình một cách tự do, trong việc phục vụ Thiên Chúa và người khác. “Cống hiến chính cuộc đời của mình” không nhất thiết là phải chịu chết. Điều này có nghĩa là sống vì người khác.
98.Tin để lên núi--Huệ Minh
Có thể nói câu chuyện về việc Abraham sát tế người con yêu của mình là một câu chuyện hấp dẫn. Không chỉ hấp dẫn mà còn gây cho người đọc cảm giác sợ hãi, hồi hộp.
Ta vừa nghe sách Sáng Thế kể lại câu chuyện lâm li đầy bi đát ấy.
Để thử lòng tin của Abraham, Đức Chúa bảo Abraham rằng ông hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ông, và đi đến đất Moria, ở đó ông sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Đức Chúa sẽ chỉ cho ông.
Nghe lời Đức Chúa, ông đã làm những gì Đức Chúa đã dặn.
Thế là hai cha con lên đường. Chuyện gì đến sẽ đến. Đến nơi Đức Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Đau lòng lắm nhưng Abaraham vẫn phải làm đó là giơ tay lấy sao sát tế con của mình để dâng cho Đức Chúa. Thế nhưng, ngay trong giây phút cay nghiệt đó, Đức Chúa đã nói với ông rằng "Ðừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta".
Bỗng lúc ấy, Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con của ông.
Và rồi, thiên thần Chúa gọi Abraham và nói rằng: "Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta".
Trên núi này, núi Moria là núi của niềm tin. Chính nơi đây, Abraham đã bày tỏ niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là Cha của ông.
Núi trong Thánh Kinh, ta thường thấy để biểu thị cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Ta thường thấy ông Môsê lên núi để gặp Thiên Chúa, nghe lời Thiên Chúa. Không những thế, núi chính là nơi để con người dâng lên Thiên Chúa của lễ hiến tế như trong trường hợp Abraham hiến tế đứa con yêu của mình. Bàn tiệc hiến tế thường được đặt trên núi. Của lễ toàn thiêu được đặt trên bàn thờ trên núi để hiến tế cho Thiên Chúa.
Núi mà Abraham sát tế con của mình cũng chính là hình ảnh bàn thờ thập tự mà Chúa Giêsu hiến thân mình cho Chúa Cha. Trên núi Sọ, Chúa Giêsu đã hiến dâng lên Thiên Chúa của lễ toàn thiêu chính là cuộc đời của Ngài.
Ngày hôm nay, ta được thấy Chúa Giêsu vén mở cho các môn đệ thân tín được thấy vinh quang của Ngài ở trên núi cao. Chính ở trên núi cao ấy, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ thấy được vinh quang mà Thiên Chúa Cha trao ban cho Ngài.
Và rồi khi xuống núi, Chúa Giêsu căn dặn các ông không nói cho ai biết vinh quang mà Thiên Chúa Cha ban cho Ngài. Ta thấy, chính các môn đệ khi đó cũng chưa hiểu được vinh quang ấy và cũng tự hỏi nhau "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?". Chỉ đến khi đón nhận vinh quang Phục Sinh của Chúa Giêsu thì khi ấy các ông mới hiểu và mới tin.
Thật sự để có niềm tin vào Chúa Phục Sinh như các môn đệ hay hoàn toàn tin tưởng phó thác cuộc đời mình vào tay Chúa như Abraham không phải là chuyện giản đơn. Ngày nay, khi ta đọc lại, ta nghe như thế ta thường hay nghĩ rằng chuyện nhỏ! Thế nhưng, thật sự chuyện không nhỏ chút nào khi ta phải đối diện với những thử thách trong cuộc đời nhất là những thử thách đòi hỏi ta phải từ bỏ một cách triệt để.
Để có một niềm tin như Abraham không phải là chuyện dễ. Nhìn lại cuộc đời ta, đôi khi Chúa gửi đến cho ta những thử thách nho nhỏ không đáng gì một chút so với những thử thách bi đát như Abraham nhưng liệu rằng ta đáp trả như thế nào?
Có một anh bạn hớt tóc thân quen. Hỏi thăm thì mới ba mươi ngoài nhưng anh có 4 cháu! Cuộc sống cơm áo gạo tiền của anh quả thật là chật vật, quả thật là khó khăn. Thế nhưng, khi nhìn đến nhiều mảng đời xung quanh còn có những mảng đời còn vất vả hơn anh nhiều. Khi chia sẻ điều đó, anh vui vẻ nói rằng anh chẳng bao giờ phàn nàn với Chúa cả bởi lẽ Chúa đã thương ban cho anh rất nhiều.
Nói thì dễ nhưng để cảm được tình yêu thương mà Thiên Chúa trao ban trên cuộc đời này không phải là chuyện dễ. Cũng dễ hiểu bởi lẽ ai ai cũng muốn cho cuộc đời mình sung sướng, may mắn và luôn đạt được những ước mơ của mình.
Cũng chẳng có gì để khó hiểu. Ngay cả các môn đệ ngày xưa cũng thế. Được chiêm ngưỡng vinh quang tận mắt, được sống với cái vinh quang đó nhưng rồi khi xuống núi, khi trở về với đời thường các ông cũng đã không tin, không cảm nhận một thầy Chí Thánh đang sống bên đời. Chỉ đến khi Thầy Phục Sinh thì lòng các ông mới bừng cháy ngọn lửa của niềm tin.
Và như thế, để có niềm tin vào Chúa Phục Sinh, có niềm tin vào Thiên Chúa trong đời ta, không có phương cách nào tốt hơn đó chính là đời sống cầu nguyện cũng như tín thác và từ bỏ. Như các môn đệ lên núi, như Abraham lên núi thì càng nhẹ hành trang thì mới có thể lên núi được. Và, của lễ hiến tế không gì tốt hơn đó chính là bản thân ta, cuộc đời ta như chính Isaac.
Nhìn lên núi Thánh, xin Chúa thêm ơn đức tin cho ta để ngày mỗi ngày giúp ta luôn hướng về núi Thánh và can đảm từ bỏ mọi sự bám víu ở đời để ta bước theo Chúa lên trên bàn thờ thập tự và dâng chính bản thân ta là của lễ dâng lên Thiên Chúa Cha.
24/02 Yêu mến thù địch
- Viết bởi Mt 5, 43-48
Yêu mến thù địch.
Thứ Bảy tuần 1 Mùa Chay.
"Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời".
Lời Chúa: Mt 5, 43-48
Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy: Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù. Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con; hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con, để như vậy các con nên con cái của Cha các con, Ðấng ngự trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương.
Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm như thế ư? Nếu các con chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người ngoại giáo không làm thế ư?
Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Ðấng hoàn hảo".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Yêu kẻ thù
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
“Tại sao anh lại bắn tôi khi cả hai chúng ta đều tin
vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa duy nhất.”
Đó là một câu trong lá thư Đức Thánh Cha Gioan Phaolô định gửi
cho anh Ali Agca, người đã ám sát ngài vào ngày 13-5-1981 tại Rôma.
Nhưng ngài đã đích thân thăm anh trong tù năm 1983, và đã tha thứ cho anh.
Vào Đại Năm Thánh 2000, ngài đã xin Tổng Thống Ý cho anh được ân xá.
Điều đáng nói là anh đã chẳng bao giờ công khai xin ngài tha lỗi.
“Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (c.43).
Thật ra Luật Môsê không dạy ghét kẻ thù,
nhưng ghét kẻ thù của Thiên Chúa là chuyện có trong các thánh vịnh.
“Lạy Chúa kẻ ghét Ngài làm sao con không ghét?...
Con ghét chúng, ghét cay ghét đắng,
chúng trở thành thù địch của chính con” (Tv 139, 21-22).
Đức Giêsu dạy các môn đệ yêu kẻ thù (c. 44),
Nhưng vào sau năm 70, kẻ thù của các môn đệ là ai?
Là quân xâm lược Rôma, là thế giới dân ngoại đang bắt đạo (Mt 10, 22).
Là những người đồng hương thuộc hội đường đang ngược đãi các Kitô hữu.
Là những ai không phải là anh em, nghĩa là những ai không tin Đức Giêsu.
Đức Giêsu mời ta vượt qua khuynh hướng tự nhiên là chỉ yêu kẻ yêu mình.
Tình yêu Kitô vươn đến cả những kẻ ghét và làm hại mình nữa.
Hãy yêu kẻ thù, nhưng yêu lại không phải là một tình cảm tự nhiên.
Yêu là một thái độ của lòng nhân được diễn tả bằng những hành động cụ thể.
Yêu là cầu nguyện cho kẻ bách hại, là chào hỏi và chúc bình an cho họ.
“Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi”,
Đức Gioan Phaolô II đã tuyên bố như thế sau khi hồi phục.
Yêu kẻ thù làm chúng ta được ơn trở nên con cái Cha trên trời (c. 45),
trở nên giống Cha là Đấng ban mặt trời và mưa cho kẻ bất chính.
Trở nên con cái Cha là tiến trình dài một đời,
xuyên qua những hành vi yêu thương vượt trên tự nhiên.
Cha yêu mọi người chẳng trừ ai bằng một tình yêu vô điều kiện.
Chúng ta được mời gọi trở nên hoàn thiện như Cha
nhờ yêu kẻ thù như Cha đã yêu họ (c. 48).
Kẻ thù cũng là anh em tôi, vì họ cũng là con được Cha yêu như tôi.
Chúng ta nên nghĩ đến những kẻ thù của mình, ở rất gần mình,
những người mình không muốn chào hỏi hay nhìn mặt, chỉ muốn nguyền rủa.
Tôi sẽ làm gì để bày tỏ tình yêu tha thứ đối với họ trong Mùa Chay này?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên lời Chúa nói:
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.” Amen. (Trích trong PRIER)
Suy Niệm 2: Hoàn thiện như Cha trên trời
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa yêu thương ta biết bao. Vì yêu thương nên Chúa muốn ta là của riêng Chúa. Là dân riêng của Chúa. Là con riêng của Chúa. Cũng vì yêu thương mà Chúa đòi hỏi ta hơn người khác. Ta phải “trổi vượt mọi dân tộc, xẻt về vinh dự, danh tiếng và vinh quang…” Và vì thế ta phải trổi vượt cả về đức độ. Vì ta phải hoàn thiện như Chúa là Cha chúng ta ở trên trời là đấng hoàn thiện. Đó là phải yêu như Chúa.
Ai cũng cảm thấy hạnh phúc khi được yêu thương. Ai cũng cảm thấy đau buồn khi bị ghét bỏ. Nhưng lòng ghen ghét vẫn tồn tại. Và tình yêu vẫn thiếu thốn. Đó là vì chúng ta yêu thương theo cảm tính, theo liên hệ bình thường. Yêu những người dễ yêu. Yêu những ai yêu mình. Đó là cảm tính. Đó là vụ lợi. Đó chưa phải là tình yêu. Vì tình yêu như thế không tùy thuộc vào ta nhưng tùy thuộc vào đối tượng. Đối tượng đó quyết định tình yêu của ta. Như thế chưa phải là tình yêu. Như thế là tình yêu có điều kiện.
Chúa Giêsu dạy ta biết thế nào là tình yêu thực sự. Tình yêu thực sự không phải là cảm tính nhưng là lý trí. Tình yêu thực sự phát xuất từ trái tim mình chứ không bị điều kiện hóa bởi đối tượng. Tôi yêu vì tôi yêu chứ không phải vì đối tượng dễ yêu hay vì đáp lại tình yêu của người khác. Tình yêu như thế cứ bừng nở, dàn trải, tỏa lan, bất chấp đối tượng có đón nhận hay không, có dễ thương hay không, có đáp lại hay không.
Yêu thương đến bao phủ mọi người trong tình yêu. Yêu thương đến hoán cải mọi người nên tình yêu. Vì thế không phân biệt kẻ thân người sơ. Vì thế cầu nguyện cho những ai chưa yêu để họ được biết yêu.
Yêu thương như thế là nên giống Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu cho mặt trời mọc lên soi sáng tất cả mọi người, cho mưa xuống trên tất cả mọi người. Tình yêu như thế sẽ lan tỏa khắp nơi. Ai lấy tay che được mặt trời. Ai có thể ngăn chặn không cho mưa rơi. Hãy là mặt trời bừng sáng bất chấp quanh ta có bóng tối hận thù. Hãy là cơn mưa tràn trề để không một loài cỏ cây hoa lá nào, không một miền nào dù đất thịt hay cát sỏi, cũng đều được mưa nhuần thấm đượm.
Yêu thương như thế là tiến đến con đường hoàn thiện. Là mang trái tim Thiên Chúa bao phủ ấp ủ cả thế giới. Yêu thương như thế là biến đổi thế giới. Vì chẳng có cái ác nào có thể ngăn chặn được tình yêu ấy. Chẳng có chia rẽ hận thù nào có thể cản trở trái tim ấy mở ra.
Suy Niệm 3: Yêu mến thù địch
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Đời nước Tề, có một người nằm mơ thấy có người đem gươm vào nhà ông mắng chửi rồi giận dữ bỏ đi. Ông ta giật mình tỉnh dậy nhưng không tài nào ngủ lại được. Sáng hôm sau, ông nói với người bạn: “Từ nhỏ đến giờ, tôi vốn là người trí dũng, đến nay đã 80 tuổi, tôi chưa hề bị ai hạ nhục, thế mà đêm qua có người đến làm nhục tôi, tôi cảm thấy bứt rứt và cố tìm gặp cho được người đó, nếu không tôi phải chết mất”.
Thế là ngay sáng hôm ấy, ông cùng với người bạn đi tìm kẻ thù. Năm năm trôi qua mà ông vẫn chưa thấy được kẻ thù. Tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, hậm hực vì không tìm được kẻ thù, ông ta về nhà mất ăn mất ngủ mà chết.
Cicéron đã nói: “Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”, vì con người tự tạo cho mình kẻ thù để rồi tự tiêu diệt chính mình.
Chúa Giêsu không đến để chối bỏ hận thù, nhưng để bày tỏ bộ mặt thật của nó và đánh bại nó. Thù hận là dấu chỉ sự thống trị của Satan theo đúng nghĩa nhất. Chính Satan gieo thù hận trong lòng con người, đặt con người vào thế chống đối và huỷ diệt nhau. Chúa Giêsu đã đánh bại kẻ thù ấy bằng cái chết yêu thương tha thứ của của Ngài.
Chỉ có yêu thương, tha thứ mới là khí giới tiêu diệt được kẻ thù. Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta khí giới ấy trong bài Tin mừng hôm nay, đó là: “Hãy yêu mến thù địch và làm ơn cho kẻ ghét ngươi”.
Mỗi người là kẻ thù của chính mình. Mỗi khi chúng ta cưu mang thù hận thì đó là lúc chúng ta tự tạo nên kẻ thù và tự tiêu diệt mình. Mỗi khi chúng ta khước từ tha thứ và không thi ân cho những kẻ thù ghét bách hại chúng ta, đó là lúc chúng ta tự giam hãm trong thù hận để tự huỷ hoại mình.
Kẻ thù khủng khiếp nhất, kẻ thù tiếp cận với con người nhất là cõi lòng tích chứa thù hận. Nếu loại bỏ thù hận ra khỏi lòng mình, chúng ta sẽ biến đổi kẻ thù thành bạn hữu, và lúc đó sự bình an và vui sống cũng được tái lập trong tâm hồn chúng ta.
Suy Niệm 4: Yêu thương kẻ thù
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Sau hơn 50 ngày bị bắt làm con tin và bị sút gần 20 ký vì sống trong thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần, một nhà truyền giáo nọ đã bình tĩnh trả lời câu hỏi của các phóng viên về những gì mình đang suy tính trong lòng: "Tôi vẫn yêu mến đất nước và dân tộc đó, như ngày tôi mới đến truyền giáo cách đây 40 năm. Tôi đã tha thứ cho những kẻ bắt giữ và hành hạ tôi. Tôi muốn nói với họ rằng tôi không có gì thù ghét họ, nhưng vẫn yêu thương và sẵn sàng trở lại đó làm việc mục vụ".
Những lời dạy của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, cũng không mập mờ, không nhượng bộ hay chiều theo khuynh hướng tự nhiên của con người muốn giới hạn tình yêu của mình đối với tha nhân.
"Hãy yêu mến anh em mình", mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi 19,18. Những "anh em" được nhắc đến ở đây chỉ những kẻ thân thuộc, đồng hương, thuộc về dân riêng của Chúa. Còn câu: "Hãy ghét kẻ thù địch" thì chúng ta không gặp thấy công thức nào tương tự như vậy trong Kinh Thánh. Những lời này có thể hiểu như một diễn tả tự nhiên của tâm lý thường tình nơi con người, một hậu quả của tình yêu thương có giới hạn trong khung cảnh những kẻ thân thuộc, những người thuộc về cùng một dân tộc, một xã hội. Theo tâm thức hạn hẹp của Cựu Ước, bất cứ ai không thuộc về Dân Chúa chọn, thì người đó là kẻ xa lạn, là kẻ thù địch, không được yêu thương.
Chúa Giêsu đã đến để mạc khải sứ điệp trọn hảo hơn, bẻ gẫy những giới hạn tự nhiên: "Còn Thầy, Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con". Chúng ta chú ý đến hai chi tiết trong lời dạy của Chúa Giêsu: thứ nhất: không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Chúa và sự phân chia con người ra làm hai loại: thân thuộc và thù địch không còn nữa. Thứ hai: Tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động cụ thể, và quan trọng nhất, đó là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ không tự nhiên được chúng ta yêu thương, và đây không còn là tình yêu thương theo tình cảm, mà là tình yêu thương thực sự hướng đến lợi ích của người khác.
Nhưng tại sao phải yêu thương như vậy? Bởi vì chính chúng ta là con cái của Thiên Chúa và do đó phải noi gương trọn lành của Ngài, Ðấng cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người lành.
Xin Chúa đổ tràn trên chúng ta tình thương của Chúa, để chúng ta được giải thoát khỏi tình yêu hạn hẹp, có tính toán, mà quảng đại yêu thương tất cả mọi người, ngay cả kẻ chống đối và có ác cảm với chúng ta.
Suy Niệm 5: Luân lý cởi mở
Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. (Mt. 5, 44)
Bài trích sách Đệ Nhị Luật hôm nay thiết lập bước đầu tiên đến một nền luân lý cởi mở. Thực vậy, sách này chứa đựng nhiều điều răn có tính tôn giáo, nó nhấn mạnh tới mối giây liên lạc giữa Thiên Chúa và dân Do thái: “Ngươi sẽ là dân Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa ngươi”. Điều quan trọng ở đây là hai bên liên kết với nhau được hoàn toàn tự do chọn lựa: một bên là Thiên Chúa và một bên là dân Do thái. Và những điều răn cũng do sự chọn lựa tự do này. Giới luật theo sau sự ban ơn cứu thoát và không qua một phương tiện nào khác, vì Thiên Chúa đã cứu thoát họ trước khi họ trung thành, sự trung thành của dân với lề luật cũng không phải là cách nhận biết ơn cứu độ đã có trước. Do đó, đây là nền tảng luân lý và đường lối sống đạo ăn rễ sâu vào kỷ niệm quá khứ: “Ngươi hãy nhớ” là câu nói then chốt của sách Đệ Nhị Luật. “Ngươi nhớ rằng ngươi đã làm nô lệ trong nước Ai cập và Gia-vê Thiên Chúa đã giải thoát ngươi ra khỏi đó”. Khi nhớ đến sự tự do và giao ước, Ít-ra-en sao quên được Đấng đã yêu thương và giải phóng mình? Những lúc họ lầm lạc, bất chính, áp bức, là những lúc họ quên kỷ niệm quá khứ.
Đức Giêsu trong Tin mừng, đã rao giảng một luân lý cởi mở. Còn đối với dân Do thái chỉ biết nên trọn lành ở sự giữ luật khắt khe, nên họ chống đối một kiểu nên trọn lành mới là kiểu của Cha trên trời. Đó là ân sủng, là tình yêu hậu đãi. Đức Kitô dùng hình ảnh mặt trời, mưa tưới. Thiên Chúa đã cho mặt trời mọc lên soi sáng cho muôn dân không phân biệt ai, đã làm cho mưa xuống làm phì nhiêu cho mọi loài trên trái đất. Thiên Chúa không thiên vị ai. Ngài săn sóc tất cả mọi người do lòng nhân hậu của Ngài ban cho người công chính cũng như kẻ bất lương. Theo gương Ngài mỗi người Kitô hữu không được phân biệt đối xử, cũng không được đặt rào cản lối với đức yêu người. Họ phải yêu cả kẻ thù mình, không được sống theo tình cảm tự nhiên, dù kẻ thù đó là người mắc nợ với mình. Luân lý cởi mở chính là tình yêu cho không điều kiện, hoàn toàn do ân huệ của Thiên Chúa. Chúng ta phải noi gương Ngài vì Ngài đã ban Con Một Ngài đến thương yêu chúng ta dù chúng ta là kẻ tội lỗi. Kitô hữu phải nhớ Đức Giêsu Kitô, nhớ hồng ân ban đầu của Thiên Chúa đã đoái thương mình để mình cố gắng nhờ ơn Chúa mà diễn tả lòng thương yêu đó trong đời sống mình.
J.G
Suy Niệm 6: Yêu cả kẻ thù
Có nhiều nghịch lý trong Tin Mừng! Một trong những nghịch lý ấy là lời dạy của Đức Giêsu hôm nay. Ngài dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”, có thế, anh em mới trở thành con của Cha trên trời.
Tại sao Đức Giêsu lại dạy như thế? Thưa! Vì chính Ngài đã sống như vậy. Hơn nữa, đây là đặc tính của Thiên Chúa Cha, vì “Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương”.
Khi Đức Giêsu mời gọi yêu kẻ thù và nên hoàn thiện như Cha trên trời, có nghĩa là Ngài muốn chúng ta phải hành động như Ngài và nên giống Thiên Chúa.
Tuy nhiên, có điều chúng ta phải cẩn trọng để không bị lầm lẫn trong chuyện yêu và thích. Yêu là làm ơn cho họ. Thích là phản ứng tự nhiên. Chính Đức Giêsu đã yêu kẻ thù, tội lỗi và làm ơn cho họ, nhưng Ngài không chấp nhận tội, vì thế, mỗi khi làm ơn, Ngài thường nói: “Hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Mẫu gương của thánh Phanxicô cho ta thấy hai yếu tố hoàn toàn khác nhau: ngài rất gớm người cùi, nhưng lại yêu thương người cùi cách đặc biệt. Lý do: họ là hình ảnh của Thiên Chúa, được dựng nên vì tình yêu.
Mong sao, lời mời gọi của Đức Giêsu: hãy yêu kẻ thù sẽ làm cho mỗi người chúng ta đón nhận và sống trong cuộc đời chứng tá của mình, để chúng ta được trở nên giống Thiên Chúa và hoàn thiện như lời Đức Giêsu mời gọi: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.
Lạy Chúa Giêsu, lời mời gọi của Chúa hôm nay khó quá! Nhưng xin Chúa ban cho chúng con noi gương Chúa để yêu bằng một tình yêu vô vị lợi và nhân từ. Xin Chúa biến đổi lòng chúng con và những kẻ thù đang tìm cách hại chúng con, để chúng con được nên một trong tình yêu. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Tình yêu đến cả kẻ thù
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tình yêu thương đích thực không được đóng khung trong gia đình, họ hàng bạn hữu thân thuộc, nhưng cần phải được mở rộng tới hết mọi người, kể cả thù địch làm hại ta. Đó là giáo lý mới của Chúa Kitô.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang dẫn con đến đỉnh cao đời sống Kitô giáo trong tình bác ái yêu thương. Chúa Cha trở thành mẫu mực duy nhất cho loài người chúng con: Ngài luôn quảng đại ban ơn một cách “phung phí”. Con cảm tạ hồng ân Chúa, vì con không bao giờ xứng đáng với ơn lành Chúa ban. Dù con bất xứng yếu hèn và tràn đầy khuyết điểm…, nhưng Chúa vẫn một lòng yêu thương.
Chúa mời gọi con vươn mình tới nguồn thánh thiện của Chúa. Chúa muốn con nên hoàn thiện bằng cách thoát ra khỏi chính mình, vượt ra ngoài tình thương mến hạn hẹp trong gia đình, họ hàng thân thuộc, bạn hữu, để đi đến với tất cả mọi người, để tôn trọng, quý mến và yêu thương họ.
Nhưng Chúa ơi, yêu mến những người thân là dĩ nhiên, nhưng yêu mến những người con không ưa thật là khó! Và quý mến những kẻ làm hại con là một hy sinh quá lớn lao. Xin Chúa giúp con nhận ra rằng Chúa vẫn yêu thương họ và Chúa muốn con cũng thực hiện điều ấy. Xin cho con một trái tim quảng đại, biết hướng mở tới mọi người. Xin cho con biết mở tung cánh cửa tâm hồn để sẵn sàng đón nhận tất cả mọi người. Nhờ đó hằng ngày con vui sướng đọc lời kinh Chúa dạy với đầy đủ ý nghĩa: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
Ghi nhớ: “Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời”.
Suy Niệm 8: Sống yêu thương tha thứ theo Tin Mừng
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Khi vua Louis XII được tấn phong ở Reims, ông truyền đem lại danh sách các kẻ thù nghịch của ông,. Khi đọc qua danh sách, ông đánh dấu thập đỏ bên cạnh một số tên, nhất là những người chống đối ông khi ông còn là công tước xứ Orléans. Những người vô phúc không được lòng sủng ái của vua đâm hoảng sợ khi biết rằng không sớm thì muộn họ cũng sẽ bị thanh trừng. Do đó, họ tìm cách lẩn tránh khỏi triều đình. Khi được báo cáo lý do rút lui của những người này, vua Louis XII cười rộ lên và truyền lệnh gọi tất cả họ lại. Cơn sợ hãi của họ càng tăng lên bội phần.
Nhưng nhà vua nói với họ: “Ta ngạc nhiên về sự rút lui bất chợt và về lý do của sự đào thoát này của các người. Ta không hề bao giờ có ý hại các người: Vị vua nước Pháp không can dự gì vào các tranh chấp của công tước xứ Orleans. Hơn nữa, dấu thập đỏ mà ta đánh dấu bên cạnh tên của các người thay vì kích thích ta trả thù các người, thì lại khuyến khích ta khoan dung. Đúng thế, ta phải tha thứ các lỗi lầm mà các người đã làm cho ta, như Đức Giêsu Kitô trên cây thập giá đã xin Cha Người tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Người”.
Suy Niệm
Để đạt tới đức ái tuyệt hảo thì Đức Kitô mời gọi chúng ta yêu thương trong mọi tương quan, với cả những người mình không thích, thậm chí với cả kẻ thù: “Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con; hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con, để như vậy các con nên con cái của Cha các con, Ðấng ngự trên trời”.
Có lẽ bài học khó nhất là bài học thể hiện lòng yêu thương trọn vẹn nhất trong cuộc đời: Tha thứ và yêu cả kẻ thù. Đó cũng là đỉnh cao của lòng bác ái Kitô giáo mà Chúa Giêsu đã đề nghị: Yêu kẻ ghét mình và làm ơn cho người hại mình. Chính Ngài trên thập giá đã sống đỉnh cao yêu thương này và làm gương cho chúng ta khi Ngài đối xử với những kẻ giết mình bằng lời cầu nguyện với Chúa Cha và cũng là di chúc cho chúng ta: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34). Lời di chúc này gợi trong lòng chúng ta: Yêu thương tha thứ như Chúa Giêsu, đến độ triệt để khai trừ mọi hành động trả thù và luôn luôn sẵn sàng đối thoại, lập lại sự giao hảo với người ghét mình, với kẻ hại mình. Sẵn sàng chia sẻ và quảng đại làm ơn: “Thi ân xóa bỏ thù hận”, cách hành xử của tôi và bạn tràn ngập yêu thương đó là luật vàng của lòng bác ái.
Như thế là sống theo lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Ðấng hoàn hảo” (Mt 5,48).
Xin Chúa giúp chúng ta canh tân đời sống yêu thương tha thứ theo Tin Mừng.
Ý lực sống: “Có nhiều cách thức để làm việc bố thí, để giúp ta lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, nhưng không có cách nào cao cả hơn là cách chúng ta tha thứ thật lòng cho người anh em đã xúc phạm đến ta” (Thánh Augustinô).
Suy Niệm 9: Hãy yêu thương kẻ thù
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Để sống hoàn thiện theo gương Thiên Chúa là Cha trên trời, Đức Giêsu dạy các môn đệ không những không được báo thù (Mt 5,38-42), mà còn phải yêu thương kẻ thù nữa.
Trong bài Tin Mừng Đức Giêsu dạy các môn đệ một cách sống cao hơn: “Các ngươi đã nghe dạy hãy yêu thương thân nhân và hãy thù ghét kẻ thù. Còn Ta, Ta bảo các ngươi hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho kẻ ghét các ngươi, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các ngươi”.
Lý do chúng ta phải yêu thương kẻ thù là: ”Các ngươi hãy nên hoàn hảo như Cha các ngươi ngự trên trời là Đấng hoàn hảo”.
2. Tác giả sách Đường Hy Vọng đã chia sẻ như sau: “Bác ái yêu thương là tu đức liên lỉ: tu miệng lưỡi, tu quả tim, tu lỗ tai, tu con mắt, tu lá gan. Tất cả con người của con cũng vậy, nhưng con phải yêu thương như Chúa Giêsu. Hãy lấy một tờ giấy và bình tĩnh viết lên đó đức tính của người mà con bất bình, con sẽ thấy rằng họ không hoàn toàn xấu như con nghĩ đâu. Con đừng muốn biết quá khứ của anh em, nhưng hãy chỉ muốn biết hiện tại của anh em để khuyến khích nâng đỡ nhau. Sống bổn phận hiện tại không phải là thụ động, nhưng là liên lỉ canh tân, là quyết định chọn hay chối Chúa, là tìm Nước Chúa, là tin vào tình yêu và vào Lời Chúa, là hành động với tất cả hăng say, là thể hiện mến Chúa yêu người ngay trong giây phút này”.
3. Mahatma Gandhi, vị cha già của dân tộc Ấn độ, người đã tranh đấu bất bạo động, đòi người Anh phải trao trả độc lập cho dân tộc ông, đã thực hiện đúng Lời Chúa: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ngược đãi anh em”, chính ông đã phát biểu: “Thế giới đã mệt mỏi vì sự giận ghét hận thù. Tôi cảm thấy không thể nào chất chứa trong lòng sự căm hờn thù ghét đối với bất cứ một tạo vật nào. Nhờ sự huấn luyện lâu năm trong việc tự chủ và cầu nguyện từ hơn 40 năm nay, tôi chấm dứt được sự giận ghét và oán thù đối với bất cứ người nào”.
3. Cicéron, nhà hùng biện nổi tiếng ngày xưa đã nói: “Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”, vì con người tự tạo cho mình kẻ thù để rồi tự tiêu diệt lấy chính mình.
Mỗi người là kẻ thù của chính mình. Mỗi khi chúng ta cưu mang thù hận thì đó là lúc chúng ta tự tạo nên kẻ thù tự tiêu diệt mình. Mỗi khi chúng ta khước từ tha thứ và không thi ân cho kẻ thù ghét bách hại chúng ta, đó là lúc chúng ta tự giam hãm trong thù hận để tự hủy hoại mình.
Kẻ thù khủng khiếp nhất, kẻ thù tiếp cận với con người nhất là cõi lòng tích chứa hận thù. Nếu loại bỏ thù hận ra khỏi lòng mình, ta sẽ biến đổi kẻ thù thành bạn hữu, và lúc đó sự bình an và vui sống cũng được tái lập trong tâm hồn chúng ta.
4. Trong đòi hỏi yêu thương kẻ thù, giai đoạn đầu tiên là yêu thương mọi người, không trừ ai. Giai đoạn thứ hai phát xuất từ giai đoạn một: một khi đã yêu thương mọi người không trừ ai, tất phải yêu thương cả kẻ thù nghịch là những người cố ý hay vô tình làm hại ta. Nếu làm được như thế là đã cố gắng trở thành toàn thiện như Cha trên trời toàn thiện.
Mức độ tình yêu đối với tha nhân:
- Yêu người như người yêu mình, là công bằng.
- Yêu người như Chúa yêu mình, là luật bác ái.
- Yêu người như Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương nhau đó là mẫu gương tình yêu hiệp nhất.
5. Thường tình ai cũng yêu những người gần gũi, thân thuộc với mình, còn kẻ thù thì không yêu được, như vậy là hợp lẽ phải và công bằng. Nhưng Thiên Chúa đòi chúng ta tiến xa hơn. Đức Giêsu đòi ta mở rộng tâm hồn, kéo dài tầm nhìn vượt qua phạm vi bạn hữu, gia đình, thân cận, phe nhóm của ta.
Chúa muốn dạy chúng ta không những phải sống theo lẽ phải mà còn vượt trên lẽ phải. Bình thường chúng ta yêu bạn ghét thù, nhưng Chúa dạy chúng ta yêu bạn yêu thù, tức là Chúa dạy chúng ta đối xử với mọi người không có điều kiện nào cả, dù người đó tốt hay xấu, bạn hay thù. Chúa đưa ra ví dụ mặt trời và mưa rơi làm sáng tỏ vấn đề này.
6. Truyện: Vua Louis XII tha thứ.
Khi Louis XII được tấn phong ở Reims, ông truyền đem lại danh sách của tất cả các kẻ thù nghịch ông, nhất là những kẻ chống đối ông khi ông còn là công tước xứ Orléans. Khi đọc qua danh sách, ông đánh dấu thập đỏ bên cạnh một số tên, nhất là tên của những kẻ mà chúng ta vừa nói ở trên. Những người vô phúc không được lòng sủng ái của vua đâm hoảng sợ khi biết rằng không sớm thì muộn họ cũng sẽ bị thanh trừng. Do đó, họ tìm cách lẩn tránh khỏi triều đình. Khi được báo cáo lý do rút lui của những người này, vua Louis XII cười rộ lên và truyền gọi tất cả họ lại. Cơn sợ hãi của họ càng tăng lên bội phần.
Nhưng nhà vua nói với họ: “Ta ngạc nhiên về sự rút lui bất chợt của sự đào thoát này của các ngươi. Ta không hề bao giờ có ý hại các ngươi: Vị Vua nước Pháp không can dự gì vào các tranh chấp của công tước xứ Orléans. Hơn nữa, dấu thập đỏ mà ta đánh dấu bên cạnh tên của các ngươi thay vì kích thích ta trả thù các ngươi, thì lại khuyến khích ta khoan dung. Đúng thế, ta phải tha thứ các lỗi lầm mà các ngươi đã làm cho ta, như Đức Giêsu Kitô trên cây thập giá đã xin Cha Người tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Người”.
Suy Niệm 10: Hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc Cựu Ước khuyên tín hữu tuân giữ lề luật và huấn lệnh Chúa. Lý do là: “Người sẽ làm cho ngươi được vinh quang, thanh danh và huy hoàng hơn mọi dân tộc Người đã tạo dựng, để ngươi trở thành dân thánh của Chúa là Thiên Chúa ngươi”
2. Bài Phúc Âm: Chúa dạy môn đệ phải biết sống một cách cao hơn: “Các con đã nghe dạy: Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù. Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con; hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con”.
Lý do cũng cao hơn: “các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo”
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Kitô hữu là con của Chúa Cha nên cũng phải cố gắng có tấm lòng yêu thương bao la như Chúa Cha. “Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương”. Biên giới của tình thương là không biên giới. Chính thiên nhiên cũng nhắc chúng ta cố gắng bắt chước tình thương không biên giới và không phân biệt của Cha trên trời.
2. Chúa Giêsu kể ra ba mức độ đối xử với kẻ không yêu thương mình:
1/ Yêu thương.
2/ Làm ơn.
3/ Cầu nguyện.
Nếu tôi chưa thể yêu thương thì hãy cố gắng lấy ơn để báo oán. Nếu vẫn chưa thể thì ít ra là cầu nguyện cho họ.
3. Người không tôn giáo chủ trương phân biệt rõ rệt bạn và thù và cư xử “ân oán phân minh”. Phật giáo đã nhận ra sự bế tắc của cách đối xử đó: Lấy oán báo oán, oán sẽ chất chồng. Chúa Giêsu dạy tích cực hơn nữa: hãy yêu thương kẻ thù địch. Chỉ có yêu thương tha thứ mới tiêu diệt được kẻ thù.
4. Con người là kẻ thù của chính mình. Đời nước Tề, có một người nằm mơ thấy có người đem gươm vào nhà ông mắng chửi rồi giận dữ bỏ đi. Ông ta giật mình tỉnh dậy. Nhưng không tài nào ngủ lại được nữa. Sáng hôm sau ông nói với một người bạn: Từ thuở nhỏ đến giờ tôi chưa hề bị ai làm nhục. Thế mà đêm hôm qua có người đến làm nhục tôi. Tôi cảm thấy bứt rứt và cố tìm gặp cho được người đó, bằng không thì tôi phải chết mất.
Thế là sáng hôm ấy, ông cùng người bạn đi tìm kẻ thù đã khiêu khích mình. 5 ngày trôi qua nhưng vẫn chưa tìm được kẻ thù. Tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, hậm hực vì không tìm được kẻ thù, ông ta về nhà mất ăn mất ngủ mà chết.
Cicéron diễn giả La Mã đã nói: “Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”. Đúng thế, con người tự tạo cho mình kẻ thù rồi tự tiêu diệt chính mình. (Trích món quà Giáng Sinh)
5. Ngày nọ, Đức Giám Mục John Selwyn thấy một cậu con trai người bản địa cư xử thô bạo với kẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị Giám Mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trân. Nhưng vị Giám Mục không cho họ làm gì. Rồi Ngài quay lưng bỏ đi.
Nhiều năm sau. một nhà truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp: “Xin đặt là John Selwyn vì chính ngài đã dạy cho tôi biết Đức Kitô là ai khi tôi đánh Ngài” (Góp Nhặt)
Suy Niệm 11: Phục vụ và yêu thương như Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Kitô hữu là con của Chúa Cha, nên cũng phải cố gắng có tấm lòng yêu thương bao la như Chúa Cha. “Ngài khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương” (Mt 5,45). Biên giới của tình thương là không có biên giới. Chính thiên nhiên cũng nhắc chúng ta cố gắng bắt chước tình thương không biên giới và không phân biệt của Cha trên trời.
Chúa Giêsu kể ra ba mức độ phải đối xử với kẻ không yêu thương mình:
a/ Yêu thương.
b/ Làm ơn.
c/ Cầu nguyện.
Nếu tôi chưa thể yêu thương thì hãy cố gắng lấy ơn để báo oán. Nếu vẫn chưa thể thì ít ra là cầu nguyện cho họ.
Người không tôn giáo chủ trương phân biệt rõ rệt bạn và thù và cư xử “ân oán phân minh”. Phật giáo đã nhận ra sự bế tắc của cách đối xử đó: Lấy oán báo oán, oán sẽ chất chồng.
Philipphê, vua nước Macedonia, khi đang đem quân vây thành Meton, có một tên cung thủ đại tài tên là Asthê đến xin vua cho hắn được sát nhập vào đội tinh binh của nhà vua. Người ấy khoe rằng, tài nghệ cung tên hay lắm, chim bay dầu lẹ đến mức nào, y cũng bắn không sai bao giờ. Vua mỉa mai bảo:
- Được, để bao giờ đánh trận với chim sẻ ta sẽ dùng đến tài ngươi.
Asthé nghe câu nói mỉa mai ấy, lấy làm căm tức vô cùng, liền chạy thẳng vào thành đang bị vây để chờ dịp trả thù.
Một hôm, Asthé đứng trên bờ thành, thấy vua Philipphê đang đi kinh lý các trại đóng binh ở ngoài thành. Asthé liền lấy một cây tên, viết vào mấy chữ: gửi cho con mắt bên phải của vua Philipphê rồi bắn xuống. Tên trúng giữa mắt phải của vua. Nhà vua tức giận vô cùng, truyền cho cận vệ ghi lên mũi tên ấy câu này: “Ta mà lấy được thành này, Asthé sẽ bị xử giảo”, rồi truyền cho quân sĩ bắn tên ấy vào thành.
Sau quả đã xảy ra đúng như vậy.
Vua Philipphê thật đã mua một giá rất đắt cái thú được nói một lời có ý mỉa mai. Nhưng mà Asthé lại mua đắt hơn cái thú trả được thù.
Lòng hiềm thù nhiều khi đưa con người đến chỗ bế tắc. Cái thói muốn châm chích người ta cũng nguy hiểm chẳng kém gì. Đành rằng, nói được những câu thâm trầm khiến cho người ta bị chạm và đau khổ nhiều khi cũng là một cái thú ở trên đời. Thế nhưng, đó không phải là điều mà lúc nào người ta cũng nên làm.
Thường thường người ta có thể tha thứ cho ta một tội ác dễ hơn là tha thứ cho ta một lời nói độc.
Chúng ta không thể quên Lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các con” (Mt 5,44) và “Hãy tha thứ để được Thiên Chúa tha cho” (Lc 6,37).
2. Hãy yêu thương kẻ thù địch. Chỉ có yêu thương tha thứ mới tiêu diệt được kẻ thù.
Hai người cùng bán hàng tại một khu phố. Vì tranh giành khách hàng nên hai người đã trở nên kình địch với nhau.
Một trong hai người này xin trở lại đạo Công Giáo. Một hôm người này đến hỏi cha xứ:
- Thưa Cha, con vẫn ghét kẻ thù địch của con, con không biết làm thế nào để có thể lướt thắng được điều này. Xin Cha giúp ý cho con.
Cha xứ hỏi:
- Kẻ thù của ông là ai?
Sau khi đã nghe biết đầu đuôi câu chuyện, cha xứ góp ý:
- Mỗi lần có khách hàng nào đến cửa tiệm của ông mà ông không có món hàng người đó muốn mua, ông hãy giới thiệu cho người khách đó qua cửa tiệm của người đang kình địch với ông. Ông hãy cứ thử làm như thế xem sao!
Người kia đã về làm như lời cha xứ dạy và kết quả là số khách hàng đến cửa hàng của người không Công giáo mỗi ngày một đông. Nhưng đồng thời người này cũng nhận ra rằng, hàng hóa của ông bán cũng chạy hơn kể từ ngày ông thực hiện lời khuyên của cha xứ.
Thành thực mà nói, ai trong chúng ta, ít nhiều gì cũng có kẻ thù và có lẽ lúc này đây chúng ta cũng đang mang một mối hận thù hay là một sự cay đắng nào đó đối với một người đã xúc phạm đến chúng ta.
Phương thuốc hay nhất để diệt kẻ thù là biến kẻ thù trở thành bạn. Khi đó chúng ta không mất người, nhưng lại còn được thêm bạn.
Tổng thống Abraham Lincoln của Hoa Kỳ có thói quen áp dụng phương pháp bất thường để kết bạn.
Một lần kia ông đã dùng lời hay ý đẹp để nói tốt về những chính trị gia đối lập với mình. Nghe biết thế, một phụ nữ thắc mắc:
- Tại sao ông lại ca ngợi những địch thù của mình như vậy, khi mà lẽ ra ông phải phê bình chỉ trích để làm hạ giá và hủy diệt họ?
Tổng thống Abraham Lincoln đã trả lời người đã hỏi ông về vấn đề này bằng một câu nói:
- Biến thù thành bạn, đó lại không phải là cách tôi tiêu diệt kẻ thù hay sao?
Lạy Chúa Giêsu,
Giữa một thế giới còn tràn ngập hận thù và chia rẽ.
Xin dạy con biết phục vụ và yêu thương như Chúa. Amen.